BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐÀO THỊ LAN PHƢƠNG
ĐỔI MỚI CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐÀO THỊ LAN PHƢƠNG
ĐỔI MỚI CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN MINH TUẤN
HÀ NỘI – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính Quốc gia.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính Quốc gia
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Đào Thị Lan Phƣơng
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập tại trường, nhờ sự chỉ bảo tận tình của các thầy,
các cô giáo đến nay tôi đã hoàn thành Luận văn Luật Hiến pháp và Luật hành
chính với đề tài: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn hiện nay”
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Nguyễn Minh Tuấn là
giáo viên hướng dẫn trực tiếp và cảm ơn các thầy cô giáo đã giúp đỡ tôi trong
thời gian thực hiện Luận văn này.
Tác giả luận văn
Đào Thị Lan Phƣơng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
KSV Kiểm sát viên
VKS Viện kiểm sát
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
THQCT Thực hành quyền công tố
TTHS Tố tụng hình sự
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN ..................................................................................................... 7
1.1. Viện kiểm sát trong Bộ máy nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ....................................................................................................... 7
1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ....................................................... 7
1.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ........... 9
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát .................. 11
1.2. Các mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan công tố và Viện
kiểm sát một số nƣớc trên thế giới ........................................................... 19
1.2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền
thống pháp luật Common law ................................................................. 19
1.2.2. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền
thống pháp luật Civil law ......................................................................... 24
1.2.3. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền
thống pháp luật xã hội chủ nghĩa ........................................................... 32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ................... 36
2.1. Lịch sử tổ chức và hoạt động của Cơ quan công tố (1945-1960) và
Viện kiểm sát nhân dân (1960-2013) ........................................................ 36
2.1.1. Lịch sử tổ chức và hoạt động của Viện công tố từ 1945 đến 1960 ... 36
2.1.2. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát năm 1960 ........................................................................... 40
2.1.3. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 .......................................................... 43
2.1.4. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 .......................................................... 44
2.2. Hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân ................................. 48
2.3. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ............................................ 57
2.3.1. Những quy định về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ....... 57
2.3.1.1. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực hình sự ................................................................... 57
2.3.1.2. Hoạt động kiểm sát việc thi hành tạm giữ tạm giam và thi hành
án hình sự ............................................................................................... 60
2.3.1.3.Hoạt động của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc giải quyết vụ
án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động và những việc khác ............................................. 62
2.3.1.4.Hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo và kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp củaViện kiểm sát nhân dân . 65
2.3.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân ............................................................................................................. 66
2.4. Những điểm tích cực, hạn chế và những vấn đề đặt ra ................... 75
2.4.1. Những điểm tích cực trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát .............................................................................................................. 75
2.4.2. Những hạn chế tồn tại và nguyên nhân ....................................... 81
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ............ 84
3.1. Phƣơng hƣớng đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND
trong giai đoạn hiện nay ............................................................................ 84
3.2. Các giải pháp nhằm đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của
VKSND trong giai đoạn hiện nay ............................................................. 84
3.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật ...................................................... 84
3.2.2 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm
của ngành kiểm sát .................................................................................. 95
3.2.3 Đổi mới công tác giáo dục, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán
bộ Viện kiểm sát theo hướng chuyên sâu, chuyên môn hóa ................. 98
3.2.4. Đổi mới cơ chế giám sát của Đảng và cơ quan dân cử, tổ chức,
báo chí và nhân dân đối với hoạt động của Viện kiểm sát .................. 104
3.2.5. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt
động của Viện kiểm sát .......................................................................... 106
KẾT LUẬN .................................................................................................. 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 115
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) đánh dấu sự ra đời của một hệ thống
cơ quan Nhà nước với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Sự ra đời của ngành kiểm sát nhân dân nhằm góp
phần bảo đảm pháp chế XHCN, đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm
pháp luật và tội phạm. Trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, hoạt động của
VKSND đã góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức và công dân. Hiện nay, trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà
nước ta, VKSND là một trong bốn hệ thống cơ quan được quy định trong Hiến
pháp. Chức năng của VKSND được thể hiện như là một trong những hình thức
thực hiện quyền lực Nhà nước. Vì vậy, tổ chức và hoạt động của VKSND cần
phải được quan tâm nghiên cứu đầy đủ, nhằm đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của
công cuộc cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong quá trình
nghiên cứu để hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước, phục vụ cho việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của VKSND.
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản
Việt Nam cũng nêu rõ: “Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh
thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010. Cải cách tư pháp khẩn
trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ
chế công tố gắn với hoạt động điều tra” [11]. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 xác định nhiều nội dung về đổi mới tổ chức và hoạt
1
động của các cơ quan tư pháp, trong đó có các quy định về hoàn thiện về tổ
chức và hoạt động của VKSND. Tại Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010
của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, VKS và
Cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW thì chức năng của VKS trong
thời gian tới vẫn được tiếp tục xác định chắc chắn đó là: “VKSND có chức
năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát hoạt động tư pháp như
hiện nay” [4]. Theo đó, vấn đề cải cách tư pháp đã được quán triệt và trở
thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, nhằm tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức cũng như hành động, đồng thời phù hợp
với quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính.
Trong hơn 60 năm qua, tổ chức và hoạt động của VKSND ở nước ta đã
đạt được nhiều kết quả, góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, bảo vệ pháp chế XHCN, đồng thời tạo môi trường ổn định cho sự
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bên cạnh
những kết quả đạt được như đã nêu thì tổ chức và hoạt động VKSND đã bộc
lộ nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập như: chất lượng và hiệu quả trong công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm chưa cao, tình trạng bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội vẫn còn xảy ra nhiều, tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét
xử vẫn còn xảy ra… đòi hỏi phải nhanh chóng cải cách mạnh mẽ, toàn diện
về tổ chức và hoạt động của VKSND nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình
hình mới. Mặt khác, tuy Hiến pháp 2013 ban hành, có nhiều quy định cụ thể
về chế định VKSND tuy nhiên việc xác định rõ mô hình tổ chức của Viện
kiểm sát và các nhiệm vụ của VKS các cấp là vấn đề cần thiết phải tiếp tục
nghiên cứu để thực hiện đầy đủ và kịp thời chủ trương của Đảng về cải cách
các cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng.
2
Từ những sự phân tích trên học viên quyết định chọn vấn đề “Đổi mới
tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn
thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài
viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung về tổ chức và hoạt động của
VKSND như: Đề tài khoa học cấp Bộ "Nghiên cứu những cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của Viện Công tố ở
Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp" năm 2006, "Cải cách các cơ quan tư
pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực
xét xử của tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân"
năm 2006; Luận văn Thạc sĩ luật học: "VKSND trong điều kiện cải cách tư
pháp", của Phạm Thị Đào, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011,
Luận án Phó tiến sỹ Luật học: “Vị trí, vai trò của VKSND trong bộ máy nhà
nước CHXHCN Việt Nam” của Khuất Văn Nga, năm 1993; sách chuyên khảo:
"Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam",
của Đào Trí Úc, Nxb Tư pháp, 2006; "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy
nhà nước", của Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải, 2002; "Hệ thống
tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay",của tập thể các tác giả do
Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2002; “Cơ quan công tố một số
nước: Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Úc, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Indonesia, Thái Lan” của Lê Hữu Thể... Ngoài ra còn có các bài viết liên
quan đến chế định VKSND cũng như những nội dung đổi mới tổ chức và hoạt
động của VKSND được đăng trên các tạp chí như: "Cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", của Lê Cảm, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 4, 2002; "Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp", của
3
Nguyễn Mạnh Cường, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10, 2002; "Đổi mới tổ
chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng THQCT đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp", của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát, số 14, 2007; Tạp
chí kiểm sát số 13 (tháng 7/2012) số chuyên đề: tổng kết thi hành và nghiên
cứu và đề xuất sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đây đa số nghiên cứu về tổ
chức và hoạt động của VKSND trước khi ban hành Hiếp pháp 2013, Luật tổ
chức VKSND năm 2014 cũng như trước khi ban hành các văn bản luật quan
trọng về tư pháp như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS), Bộ
luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015...Do đó, việc học viên quyết
định chọn nghiên cứu đề tài nêu trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan
trọng trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Qua việc nghiên cứu, đánh giá những ưu điểm, hạn chế còn tồn tại về tổ
chức và hoạt động của VKSND từ năm 2013 đến nay, tác giả đưa ra một số
phương hướng và giải pháp nhằm đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của
VKSND.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Từ mục đích nghiên cứu trên đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu lý luận về tổ chức và hoạt động của VKSND, mô hình cơ
quan công tố, VKS ở một số quốc gia trên thế giới;
- Nghiên cứu thực tiễn tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai
đoạn từ năm 2013 đến hiện nay;
- Đưa ra một số phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới
tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai đoạn hiện nay.
4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới tổ
chức và hoạt động của VKSND trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn có phạm vi nghiên cứu là những vấn đề lý luận chung về
Viện kiểm sát, hệ thống cơ quan công tố và Viện kiểm sát một số nước trên
thế giới theo các mô hình truyền thống pháp luật, cơ cấu tổ chức và hoạt động
của VKSND theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Tập trung
nghiên cứu và đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức và hoạt động của
VKSND từ 2013 (sau khi ban hành Hiến pháp 2013) cho đến nay.
Về thực tiễn luận văn khảo sát từ ví dụ điển hình qua thực tiễn tổ chức
và hoạt động của VKSND trên địa bàn cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác – Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng về từng
bước hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của VKSND theo yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Luận
văn cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp, Luật tổ chức VKS
và các văn bản pháp luật khác quy định về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp kết
hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp
hệ thống; phương pháp luật học so sánh để làm sáng tỏ những nội dung cần
nghiên cứu của luận văn.
6. Những điểm mới của luận văn
Đóng góp của đề tài về mặt khoa học pháp lý (lý luận chung về Nhà
nước và pháp luật) là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm
5
vụ, vai trò, công tác của VKSND. Kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số
quy định của pháp luật có liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của
VKSND.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho sinh viên, học viên cao học và những người quan tâm trong việc
nghiên cứu các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về VKSND
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai
đoạn hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động
của VKSND
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Viện kiểm sát trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước kiểu mới, nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Với bản chất nhà nước XHCN,
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là quyền lực nhà nước là thống
nhất và tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Từ bản chất của nhà nước ta, tổ
chức theo nguyên tắc tập quyền, khác với nguyên tắc phân quyền trong nhà
nước tư bản. Do vậy, nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua cơ
quan đại diện cao nhất của nhân dân, do nhân dân bầu ra, do vậy Quốc hội là
cơ quan quyền lực cao nhất. Song, Quốc hội không thể nắm giữ và làm tất cả
các quyền lực đó mà có sự phân công, phân nhiệm rạch rồi giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tất
cả những vấn đề nêu trên đều được ghi nhận trong tất cả Hiến pháp, mà cụ thể
tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp[37].
7
Xuất phát từ bản chất và đặc điểm cơ bản nhất của nhà nước ta, phải
đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực, kết hợp với nguyên tắc
tập trung dân chủ để phân công, phân nhiệm cho từng cơ quan trong bộ máy
nhà nước nhằm đảm bảo tính tập trung nhưng cũng phát huy tính tự chủ để để
thực hiện tốt quyền lực của nhân dân. Như vậy, lập pháp, hành pháp và tư
pháp là ba phạm vi quyền lực thống nhất trong nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam. VKSND là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước ta, tổ
chức và hoạt động cũng chi phối bởi các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. VKSND là một trong bốn hệ
thống cơ quan nhà nước do Quốc hội bầu ra, thuộc hệ thống các cơ quan tư
pháp và là một thiết chế đặc thù trong tổ chức bộ máy nhà nước XHCN.
Kể từ khi thành lập đến nay, VKSND luôn khẳng định được vị trí của
mình trong bộ máy nhà nước ta. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước đến
Hiến pháp năm 1959, mặc dù tổ chức của VKS vẫn tồn tại trong hệ thống tòa
án nên chưa hình thành một hệ thống VKSND độc lập như ngày nay, song về
hoạt động luôn thể hiện tính độc lập. Sau khi hệ thống Viện công tố chuyển
thành hệ thống VKSND trong Hiến pháp năm 1959 đến nay, vị trí của
VKSND không hề thay đổi và luôn khẳng định vị trí độc lập trong bộ máy
nhà nước, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tổ chức của VKSND có
hai thuộc tính là tính thống nhất và tính độc lập:
Tính thống nhất của nó được thể hiện ở chỗ: Viện trưởng VKSND cấp
dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên; Viện trưởng các
VKS cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.
ính độc lập của nó thể hiện ở chỗ Viện trưởng VKSND tối cao người
đứng đầu hệ thống thống nhất đó chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội;
trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước y ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo công tác
8
của các Viện trưởng các Viện kiểm sát (VKS) khác do luật định. Theo quy
định của Luật tổ chức VKSND hiện hành thì ở các địa phương, Viện trưởng
VKSND chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả
lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức VKSND
năm 2014 thì địa vị pháp lý của VKSND là thiết chế Hiến định trong bộ máy
nhà nước, có chức năng THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND đã làm rõ vị trí, vai trò của
VKSND trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà
nước theo tư tưởng Hiến pháp năm 2013. Với chức năng THQCT, kiểm sát
hoạt động tư pháp, VKSND được xác định là thiết chế kiểm sát hoạt động tư
pháp, có trách nhiệm phối hợp, đồng thời, kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên
đối với cơ quan điều tra, toà án, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác
trong việc thực hiện hoạt động tư pháp. Mặt khác, Luật cũng quy định rõ các
cơ chế giám sát hoạt động của VKSND thông qua các thiết chế dân chủ đại diện
(như Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân), thông qua dân chủ
trực tiếp và các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời, quy định cơ chế kiểm soát
trở lại của cơ quan điều tra, toà án, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác có
thẩm quyền trong hoạt động tư pháp đối với việc thực hiện chức năng THQCT,
kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Với tính chất, vị trí vai trò như trên, vậy cơ cấu tổ chức của VKSND
thực chất được quy định như thế nào? Trước hết cần hiểu cơ cấu tổ chức là gì:
“Cơ cấu tổ chức của một bộ máy là tổng hợp các bộ phận có mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hóa, có những nhiệm vụ, quyền hạn,
9
trách nhiệm nhất định, được bố trí theo từng cấp, hoặc những khâu công tác
khác nhau nhằm thực hiện các hoạt động của tổ chức và tiến tới những mục
tiêu đã định sẵn”. Như vậy, cơ cấu tổ chức của VKSND gồm nhiều bộ phận,
được phân cấp từ trung ương đến địa phương.
Với chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKSND hoạt
động theo nguyên tắc nào? Ngoài việc là một phần hợp thành hệ thống các cơ
quan nhà nước, VKSND là một tổ chức đặc biệt, có cơ cấu tổ chức và hoạt động
chặt chẽ. Theo quy định tại Điều 109 Hiến pháp 2013 quy định:
1. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm
sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân[37].
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 2013, VKSND hoạt động theo
02 nguyên tắc:
Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành: Viện kiểm
sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp dưới sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp trên. VKSND các cấp từ trên xuống dưới tạo thành một hệ thống
thống nhất. Mọi hoạt động của VKSND, dù ở cấp nào, đều đặt dưới sự lãnh đạo
của Viện trưởng. Viện trưởng VKSND phải chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ
hoạt động của đơn vị do mình lãnh đạo trước Viện trưởng VKSND cấp trên và
Viện trưởng VKSNDTC. Viện trưởng VKSNDTC chịu trách nhiệm cá nhân về
10
hoạt động của toàn ngành trước Quốc hội, y ban Thường vụ Quốc Hội, Chủ
Tịch nước.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung và thống nhất lãnh đạo trong ngành
Kiểm sát đảm bảo cho các cấp hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát. Mặt khác, nhấn mạnh nguyên tắc này
nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân của Viện trưởng VKSND.
Nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật và không phụ thuộc vào cơ quan
nhà nước nào ở địa phương: Các Viện kiểm sát nhân dân trực thuộc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập và không chịu sự chi
phối bởi các cơ quan nhà nước ở địa phương, chỉ chịu sự lãnh đạo thống nhất
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện
kiểm sát nhân dân chỉ phụ thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và
các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, y ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Có nghĩa là các cơ quan nhà nước ở địa phương không có
quyền can thiệp vào hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Về mặt cơ cấu tổ
chức, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định bộ máy và biên
chế của Viện kiểm sát nhân dân các cấp, không chịu sự tác động của các cơ
quan khác.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà
nước. Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013, VKSND thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Cụ thể hóa Điều 107 Hiến pháp năm 2013,
Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: VKSND là cơ quan
THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
VKSND là cơ quan THQCT
Ở nước ta, thuật ngữ “quyền công tố” và “THQCT” lần đầu tiên chính
thức được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và kế đến là Điều 23 Bộ Luật
11
TTHS năm 1988. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn tồn tại rất nhiều quan điểm quan
điểm khác nhau về khái niệm, đối tượng, phạm vi của quyền công tố, THQCT.
Khái niệm quyền công tố không phải là vấn đề mới, nhưng hiện nay ở
nước ta có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Nhìn chung các quan
điểm ít nhiều đều có những nội dung hợp lý, có những điểm tương đồng. Song
nếu xét một cách toàn diện, ở nhiều góc độ thì nước ta nổi lên một số quan
điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, tất cả các hoạt động của kiểm sát việc
tuân theo pháp luật là THQCT [29]. Chúng tôi cho rằng quan điểm này đã
đánh đồng chức năng THQCT với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Viện kiểm sát, đồng thời không xem chức năng công tố là một chức
năng độc lập của VKS mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoàn toàn không đúng. Bởi vì,
VKS có 02 chức năng (chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp).
Thật vậy, Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1, Điều 3 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 thì VKS có hai chức năng là THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp. Tuy nhiên, tùy theo từng đoạn nào thì chức năng công tố và
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là hoàn toàn độc lập và song song tồn
tại; hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do vậy, không
phải mọi hoạt động của KSV lúc nào cũng thực hiện hai chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật và THQCT. Mặt khác, xuất phát từ quan điểm xem
tất cả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là THQCT và THQCT
giống nhau. Theo chúng tôi, nếu hiểu quyền công tố như trên là quá rộng và
chưa chính xác. Bởi vì đối tượng và phạm vi của kiểm sát việc tuân theo pháp
luật hầu hết tất cả các lĩnh vực nên rất rộng, trong khi đó đối tượng, phạm vi
của quyền công tố chỉ thực hiện trong lĩnh vực hình sự.
12
Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước
giao cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội tại
phiên tòa sơ thẩm [43, tr.75-76]. Quan điểm này cho rằng chỉ có VKS mới có
quyền này và chỉ diễn ra trong TTHS (cũng chỉ có ở một giai đoạn xét xử sơ
thẩm). Quan điểm này còn đồng nhất quyền công tố với quyền buộc tội của
VKS tại phiên tòa sơ thẩm. Theo chúng tôi, truy tố và buộc tội chỉ là một
trong số quyền năng của VKS khi THQCT chứ không nói lên được bản chất
của quyền này. Buộc tội và sự bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa chỉ là những
hoạt động cụ thể trong hệ thống các hoạt động của VKS khi THQCT. Mặt
khác, chúng ta biết rằng quyền công tố là quyền của nhà nước không chỉ giao
cho VKS trong giai đoạn truy tố mà ngay khi khởi tố vụ án. Do vậy, nếu hiểu
quyền công tố quan điểm này dẫn đến phạm vi của quyền công tố quá hẹp,
đồng thời tạo nên nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT.
Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà
nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, bảo vệ lợi ích chung, bảo vệ lợi ích cá nhân [14, tr.62-67].
Quan điểm này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp
luật được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực TTHS, song cùng với sự phát triển
của thời gian và xã hội cho nên quyền công tố mở rộng sang các lĩnh vực
khác như tố tụng dân sự, tố tụng lao động, tố tụng hành chính... Mặt khác,
không phải bất cứ vụ án hành chính, dân sự, lao động nào cũng bắt buộc VKS
tham gia phiên tòa với tư cách là chủ thể quyền lực công để sử dụng quyền
công tố. Theo chúng tôi, quyền công tố được xác định là quyền của nhà nước,
nhằm truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Do vậy, đối tượng quyền công
tố là tội phạm và người phạm tội cho nên quyền công tố chỉ có trong TTHS
mà không có trong các lĩnh vực khác như: tố tụng dân sự, hành chính, lao
động…
13
Qua xem xét các quan điểm trên, chúng ta nhận thấy nguyên nhân khác
nhau về quyền công tố của các quan điểm trên là do chưa xác định đúng đối
tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố. Cụ thể:
+ Xem quyền công tố là quyền năng, hình thức thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoặc đánh đồng quyền công tố với kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, từ đó mở rộng phạm vi quyền công tố không chỉ trong
TTHS mà còn sang các lĩnh vực khác..
+ Chỉ xem quyền công tố là quyền truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án để xét xử
và bảo vệ buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm. Điều đó cho thấy, quyền công tố chỉ có
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm mà không có trong giai đoạn điều tra cũng như
trong giai đoạn xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Xuất phát từ các căn của khoa học, các quy định pháp luật, thực tiễn
hoạt động và bản chất Nhà nước chúng tôi cho rằng: Quyền công tố ở Việt
Nam là quyền của Nhà nước mà VKS nhân danh công quyền nhằm thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc tội) đối với người phạm tội và bảo vệ
việc buộc tội trước phiên tòa nhằm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội
và đúng quy định pháp luật.
Việc quy định cơ quan THQCT ở mỗi nước khác nhau, tùy thuộc vào
bản chất nhà nước, điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia. Ở nước ta,
THQCT được nhà nước giao cho VKS thực hiện chức năng này, cho nên chỉ
có VKS mới có chức năng THQCT mà không cơ quan nào có được. Thực tế
cho thấy, có rất nhiều người nhầm lẫn hoặc nhận thức sai lầm giữa quyền
công tố và THQCT, giữa thẩm quyền của VKS với các quyền năng pháp lý để
thực hiện thẩm quyền đó, hay hành vi nào là THQCT hay hành vi nào là thực
hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Như vậy, vấn đề đặt ra là các
Cơ quan điều tra và Tòa án cũng có quyền khởi tố vụ án hình sự hoặc bắt
người phạm tội để điều tra, thu thập chứng cứ, thì các cơ quan này có phải là
14
THQCT hay không? [24, tr.75-80]. Chúng tôi cho rằng, các Cơ quan điều tra,
Tòa án hay một số cơ quan khác có chức năng khởi tố vụ án, điều tra, thu thập
chứng cứ nhưng không nhân danh công quyền truy tố người phạm tội ra trước
Tòa án để xét xử và bảo vệ việc truy tố trước Tòa cho nên các cơ quan nay
không có chức năng THQCT. Mặt khác, phạm vi quyền công tố là từ khi tội
phạm xảy ra và kết thúc bản án có hiệu lực pháp luật. Để đảm bảo việc thực hiện
quyền đó, nhà nước quy định các quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm quyền
đưa vụ án ra tòa để xét xử và bảo vệ buộc tội đó gọi là cơ quan THQCT.
Như vậy, từ lý luận cũng như thực tiễn có thể khẳng định rằng, chỉ có
VKS mới có chức năng THQCT. Chúng tôi cho rằng, THQCT là: Việc cơ
quan VKS sử dụng tổng hợp các biện pháp do luật định để truy cứu trách
nhiệm hình sự (buộc tội) đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy
tố và xét xử.
Từ đó có thể thấy, chức năng THQCT của VKSND có nghĩ là VKSND
là cơ quan được giao thực hiện chức năng thực hành quyền đưa người phạm
tội ra truy tố trước pháp luật, thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội. Hoạt động THQCT của VKSND được thực hiện ngay từ khi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để phát hiện người
phạm tội, thực hiện việc xem xét quyết định khởi tố và được diễn ra trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Mục đích của
hoạt động THQCT là phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,
nghiêm minh mọi tội phạm và người phạm tội không làm oan người vô tội,
không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
Để thực hiện quyền tư pháp, các nhà nước đều không ngừng xây dựng
và hoàn thiện cơ quan tư pháp để thực hiện quyền tư pháp. Ở nước ta, khi đề
15
cập đến cơ quan tư pháp cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Có quan điểm
cho rằng cơ quan tư pháp chỉ là những cơ quan tài phán; có quan điểm cho
rằng cơ quan tư pháp bao gồm cơ quan tài phán và cơ quan công tố; quan
điểm khác cho rằng cơ quan tư pháp là bao gồm tất cả các cơ quan bảo vệ
pháp luật như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Thanh tra, các cơ
quan bổ trợ tư pháp như: Luật sư, giám định, công chứng. Theo Hiến pháp
năm 2013 và quan điểm của Đảng thể hiện trong Nghị quyết 49/NQ-TW thì
hệ thống cơ quan tư pháp gồm có: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra,
Cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức hỗ trợ cho hoạt động xét xử như:
Tổ chức luật sư, tổ chức giám định tư pháp, cơ quan công chứng; trong các cơ
quan tư pháp nói trên thì Tòa án là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp.
Mặt khác, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng
đến nay, vấn đề cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp
(công tác tư pháp và cơ quan tư pháp) nói riêng rất được quan tâm. Đặc biệt,
các Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba và lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII; Chỉ thị 53 - CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị
“Về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong
năm 2000”; Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị
quyết 49 - NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Như vậy, qua thực tiễn hoạt động cũng như nghiên cứu
các văn bản pháp luật của Nhà nước và văn kiện, nghị quyết của Đảng nhận thấy
thuật ngữ cơ quan tư pháp ở nước ta đã xuất hiện từ lâu và cơ quan tư pháp được
hiểu theo nghĩa rộng gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi
hành án. Do vậy, cơ quan tư pháp có 04 dấu hiệu đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, cơ
quan tư pháp là tổ chức quyền lực nhà nước trong bộ máy công quyền; Thứ hai,
cơ quan tư pháp tạo thành hệ thống các cơ quan độc lập có thẩm quyền riêng biệt
16
do luật định để giải quyết sự xung đột các mối quan hệ xã hội; Thứ ba, cơ quan
tư pháp chuyên thực hiện quyền xét xử bằng hoạt động tố tụng tư pháp (tài
phán); Thứ tư, hoạt động cơ quan tư pháp nhằm mục đích bảo vệ chế độ hiến
định, nhân thân, các quyền tự do của con người và công dân [5, tr.35-36].
Tuy nhiên, qua nhận thức về tư pháp của các cơ quan tư pháp, hoạt
động thực tiễn và các quy định của pháp luật thì hoạt động tư pháp như sau:
Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia
vào việc giải quyết các tranh chấp pháp lý, các vi phạm pháp luật thuộc thẩm
quyền phán quyết của Tòa án và thi hành các phán quyết đó theo thủ tục tố
tụng mà pháp luật quy định.
Như vậy, các hoạt động tư pháp là đối tượng của hoạt động kiểm sát
của VKSND bao gồm hoạt động TTHS, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và
hoạt động thi hành án hình sự, dân sự, hành chính. Hoạt động kiểm sát hoạt
động tư pháp của VKSND là hoạt động kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra, Tòa án, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền
của các cơ quan trên trong việc giải quyết thông tin về tội phạm, khởi tố, điều
tra, xét xử, thi hành án và các hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác có liên quan đến các hoạt động giải quyết thông tin về tội phạm, khởi tố,
điều tra, xét xử, thi hành án.
Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND được thực hiện
ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, thi
hành án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án dân sự,
thi hành án hành chính, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
17
Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND nhằm bảo đảm hoạt
động của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra, Tòa án, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các cơ quan
trên, hoạt động của cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền thi hành án và
các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác liên quan đến các hoạt động giải quyết
thông tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người, quyền công dân
không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; mọi vi phạm pháp luật
trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Để bảo đảm cho VKSND thực hiện chức năng THQCT, Luật tổ chức
VKSND năm 2014 đã xác định VKSND có vai trò, trách nhiệm trong việc
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; phê chuẩn, không phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can; quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi các biện
pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân; hủy bỏ quyết định khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án, các quyết định tố tụng khác, các biện pháp hạn chế
quyền con người, quyền công dân trái pháp luật trong việc giải quyết thông
tin về tội phạm, khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra thực hiện; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ
quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội; điều tra các tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong
hoạt động tư pháp theo quy định của luật; quyết định việc truy tố, buộc tội bị
cáo tại phiên tòa; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp
VKSND phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội...
Để bảo đảm cho VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã xác định VKSND có vai trò, trách
nhiệm trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư
18
pháp, tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông
báo kết quả cho VKSND; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp hồ sơ,
tài liệu để VKSND kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong
hoạt động tư pháp. Đồng thời, VKSND có trách nhiệm trực tiếp kiểm sát; xác
minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động tư pháp; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động
tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng
ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa
án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm
pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan,
người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp; kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo
thuộc thẩm quyền...
Trong quá trình THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án, Thi hành án, Thanh tra, Kiểm
toán, các cơ quan nhà nước khác, y ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên của Mặt trận để phòng, chống tội phạm có hiệu quả; xử lý kịp
thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư
pháp; phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng;
nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp luật.
1.2. Các mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan công tố và Viện kiểm
sát một số nước trên thế giới
1.2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền thống
pháp luật Common law
* Viện công tố Hoàng gia Anh
Công tố Hoàng gia Anh là cơ quan độc lập, thuộc nhánh hành pháp. Sự
ra đời của cơ quan công tố bắt nguồn từ ý tưởng phân định chức năng điều tra
19
tội phạm với chức năng truy tố tội phạm vốn trước đây đều thuộc chức năng
của cảnh sát. Đứng đầu cơ quan công tố Hoàng gia Anh là Tổng công tố.
Tổng công tố do Tổng lý Chưởng bổ nhiệm và thực hiện chức năng của mình
dưới sự giám sát của Tổng Chưởng lý. Tổng Chưởng lý là người chịu trách
nhiệm trước Nghị viện về các vấn đề pháp lý, về hoạt động của một số cơ
quan như cơ quan công tố, cơ quan Công tố Hải quan và Công tố Thuế, cơ
quan giải quyết các vụ án gian lận nghiêm trọng và bộ phận Luật sư của
Chính phủ…Tổng Chưởng lý do Chính phủ bổ nhiệm, mang hàm Bộ trưởng
và thường là thành viên của Nghị viện, là cố vấn pháp lý của Chính phủ, đại
diện cho Nhà nước và Chính phủ trước Tòa án và trong các thủ tục tố tụng tư
pháp liên quan đến lợi ích công. Tuy vậy, Tổng Chưởng lý độc lập với Chính
phủ trong việc quyết định các vấn đề liên quan thực hiện chức năng công tố.
Tương tự như vậy, mặc dù Tổng Công tố do Tổng chưởng lý bổ nhiệm, chịu
sự giám sát của Tổng Chưởng lý nhưng Tổng Công tố cũng độc lập trong
công tác của mình.
- Chức năng, nhiệm vụ: Cơ quan Công tố Hoàng gia Anh thực hiện
chức năng truy tố tội phạm. Về cơ bản, hoạt động điều tra tội phạm hoàn toàn
do Cảnh sát đảm nhiệm. Tuy nhiên, trong suốt quá trình điều tra, Cảnh sát
luôn luôn có thể nhận được sự tư vấn từ phía cơ quan công tố. Trên cơ sở kết
quả điều tra của Cảnh sát, cơ quan công tố có trách nhiệm (và có quyền) quyết
định việc truy tố hay không truy tố. Tại Vương quốc Anh, cơ quan công tố
không có chức năng giám sát tư pháp và không tham gia vào việc giải quyết
các vụ án dân sự. Chỉ khi nào Chính phủ bị kiện, cơ quan công tố có thể được
yêu cầu đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhà nước, nhưng với tư cách là luật sư
Nhà nước (luật sư công) chứ không phải với tư cách cơ quan công tố.
- Tổ chức bộ máy: Hệ thống cơ quan công tố Hoàng gia Anh bao gồm:
Cơ quan công tố trung ương; Cơ quan công tố khu vực và các chi nhánh.
20
Hiện nay, hệ thống cơ quan công tố có trụ sở chính tại London, York và
Birmingham và 42 cơ quan công tố khu vực trên địa giới hành chính của nước
Anh và xứ Wales. Cơ cấu này tương ứng với hệ thống 43 cơ quan cảnh sát
trên lãnh thổ Anh và xứ Wales, trong đó cơ quan Công tố khu vực London
phụ trách hoạt động của khu vực thành phố London và lực lượng cảnh sát thủ
đô. Dưới mỗi văn phòng Công tố khu vực có chi nhánh công tố. Chi nhánh công
tố này do một Công tố viên phụ trách gồm một số cán bộ làm án và luật sư. Chi
nhánh công tố có liên hệ chặt chẽ với cảnh sát địa phương và các cơ quan bảo vệ
pháp luật khác trên địa bàn.
- Cán bộ Viện công tố: Nhân sự của Viện Công tố trung ương bao gồm:
Tổng công tố, Tổng giám đốc điều hành, giám đốc các bộ phận làm án, giám đốc
các bộ phận chính sách, luật sư – công tố viên, cán bộ làm án và nhân viên hành
chính. Nhân sự của Viện Công tố khu vực bao gồm Công tố trưởng, giám đốc
điều hành, các luật sư của công tố (còn được gọi là Công tố viên Hoàng gia) và
các bộ làm án. Tổng Công tố lãnh đạo ngành công tố thông qua việc bổ nhiệm
các chức danh công tố, ban hành các quy định hướng dẫn nghiệp vụ áp dụng cho
toàn ngành. Tổng Công tố trực tiếp tham gia vào các vụ án khó khăn, phức
tạp và là người quyết định việc truy tố một số tội phạm cụ thể.
* Viện Công tố Hoa Kỳ
Hoa kỳ là quốc gia áp dụng học thuyết tam quyền phân lập một cách rõ
nét nhất, triệt để nhất trong các Nhà nước tư sản với sự phân chia rõ ràng giữa
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lập pháp do Quốc hội với hai
Nghị viện (Thượng nghị viện và Hạ nghị viện) nắm giữ. Quyền hành pháp
đứng đầu là Tổng thống do nhân dân bầu ra thông qua các đại cử tri. Quyền tư
pháp là do Tòa án nắm giữ, đứng đầu là Tòa án tối cao liên bang với 9 Thẩm
phán. Các nhánh quyền lực này hoạt động độc lập, tách rời nhau theo cơ chế
kiềm chế, đối trọng: nhánh quyền lực này bị hạn chế và kiểm sát bởi các
nhánh quyền lực khác.
21
- Vị trí của cơ quan công tố: Cơ quan công tố Hoa Kỳ được phân chia
theo cấp độ Liên bang và các tiểu bang. Ở cấp bang, do pháp luật mỗi bang
khác nhau nên tổ chức cơ quan công tố, nhiệm vụ và quyền hạn của Công tố
viên ở từng bang cũng khác nhau. Điểm chung nhất của cơ quan công tố ở cả
liên bang và các bang đều trực thuộc chính quyền hành pháp Hoa Kỳ và có
thẩm quyền truy tố tội phạm ra trước Tòa án các cấp. Văn phòng công tố Liên
bang trực thuộc Bộ tư pháp Liên bang (Bộ Tư pháp Liên bang bao gồm các
đơn vị như: Văn phòng công tố Liên bang, cơ quan điều tra Liên bang (FBI),
cơ quan Liên bang điều tra các tội ma túy (DEA), lực lượng thi hành án và rất
nhiều các đơn vị khác giống như Bộ Tư pháp ở nhiều quốc gia. Cơ quan công
tố ở cấp Bang trực thuộc Bộ tư pháp cấp Bang.
Tổng Chưởng lý Liên bang là người đứng đầu Bộ Tư pháp Liên bang.
Tổng Chưởng lý được coi là nhân vật cao nhất của chính quyền hành pháp
chịu trách nhiệm về toàn bộ các vấn đề thực thi pháp luật, đại diện cho chính
quyền hành pháp trong các vụ án hình sự và các vụ kiện mà Nhà nước Hoa kỳ
là một bên tranh chấp. Tổng Chưởng lý là thành viên Nội các Hoa kỳ.
- Chức năng - nhiệm vụ:
Trong lĩnh vực hình sự, Văn phòng công tố Liên bang có trách nhiệm
truy tố các tội phạm liên bang do các Cơ quan điều tra Liên bang chuyển tới.
Ở Hoa kỳ, cơ quan công tố không chỉ đạo điều tra. Cơ quan điều tra tiến hành
điều tra tội phạm và khi đã đủ chứng cứ thì chuyển cho cơ quan công tố. Cơ
quan công tố nếu thấy hồ sơ chứng cứ đủ thì truy tố ra Tòa, nếu chưa đủ
chứng cứ thì trả lại Cơ quan điều tra, yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp thêm
hồ sơ hoặc đình chỉ vụ án.
Tuy các Công tố viên không giám sát điều tra nhưng giữa cơ quan điều
tra và Cơ quan công tố có quan hệ phối hợp chặt chẽ. Công tố viên có vai trò
như “luật sư” cho cảnh sát: hướng dẫn việc tìm kiểm bằng chứng, hướng dẫn
22
thủ tục bắt giam, đảm bảo việc thu thập chứng cứ theo đúng thủ tục pháp luật
để chứng cứ có giá trị sử dụng tại phiên tòa sau này. Ở một số thành phố lớn,
các Văn phòng công tố cũng có những thanh tra cảnh sát riêng của mình để
tiến hành điều tra.
Trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm
giam, điều tra viên sẽ phải đề nghị, đề xuất với công tố viên. Công tố viên
cũng có thể từ chối đề nghị của cảnh sát về việc bắt hay tạm giam nếu thấy
không có cơ sở. Nếu có cơ sở, công tố viên đề nghị với Tòa án để Tòa án
quyết định. Việc quyết định có bắt hay tạm giam hay không sẽ được tiến hành
tại Tòa án và diễn ra dưới hình thức một phiên xét xử giữa một bên là Công tố
viên và một bên là luật sư của người bị tình nghi hoặc bị can. Thẩm phán ra
phán quyết về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Các lệnh cưỡng chế tố tụng
khác liên quan đến đời tư và tự do của công dân như nghe trộm điện thoại,
khám xét nhà riêng…cũng đều được Tòa án quyết định trên cơ sở đề nghị của
Điều tra viên và Công tố viên.
Cơ quan công tố còn có một đặc quyền đó là quyền “tùy nghi truy tố”
kể cả khi chứng cứ vụ án đã đầy đủ nhưng Công tố viên vẫn có thể đình chỉ,
không truy tố tội phạm. Quyết định không truy tố không bị bất kỳ một sự
kiểm soát nào, kể cả từ phái Tòa án. Đây là một đặc quyền duy nhất chỉ có cơ
quan công tố mới được thực thi căn cứ vào lợi ích của công chúng để quyết
định truy tố hay không truy tố một vụ việc. Do có hệ thống pháp luật khác
nhau, quyền truy tố tùy nghi ở cấp liên bang do Tổng chưởng lý liên bang đặt
ra, ở cấp bang do cấp bang và các cấp công tố cơ sở tự xác định về đường lối
truy tố. Tuy nhiên, co quan công tố phải hoàn toàn chịu trách về quyết định đó
và phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng cho công
luận biết về quyết định không truy tố vụ việc. Do hệ thống pháp luật khác
nhau, quyền truy tố tùy nghi ở cấp liên bang do Tổng chưởng lý liên bang đặt
ra, ở cấp bang do cấp bang và các cấp công tố cơ sở tự xác định về đường lối
23
truy tố. Tuy nhiên, cơ quan công tố phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết
định đó và phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng
cho công luận biết về quyết định không truy tố vụ việc.
Trong lĩnh vực dân sự: Văn phòng công tố Liên bang có trách nhiệm
tham gia các vụ kiện nếu Nhà nước Hoa kỳ là một bên trong tranh chấp. Khi
đại diện cho Nhà nước Liên bang trong tranh chấp đó, các Công tố viên tham
gia vào việc xử lý vụ việc như một bên đương sự. Tùy theo tính chất của vụ
việc, các Công tố viên sẽ phải phối hợp và cần sự trợ giúp của các cơ quan
khác của chính phủ để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
- Tổ chức bộ máy: Ngoài Văn phòng Công tố Liên bang ở Bộ Tư pháp,
có tổng cộng 93 Văn phòng công tố Liên bang được đặt ở 93 quận hay hạt
(districts) thuộc thẩm quyền tài phán của Liên bang. Người đứng đầu các văn
phòng này đều do Tổng thống Hoa Kỳ bổ nhiệm. Các Văn phòng công tố
Liên bang đều dưới sự lãnh đạo của Tổng Chưởng lý Liên bang. Tất cả 93
Văn phòng công tố liên bang trên toàn quốc không được coi là cấp dưới của
Văn phòng công tố liên bang nằm ở Bộ Tư pháp mà hoạt động độc lập, người
đứng đầu các Văn phòng công tố đều do Tổng thống Liên bang bổ nhiệm.
Tuy nhiên, trong hoạt động, họ chịu sự chỉ đạo trực tiếp về đường lối truy tố
từ Tổng Chưởng lý Liên bang - Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Tổng Chưởng lý Liên bang của Hoa Kỳ do Tổng thống bổ nhiệm và có
sự phê chuẩn của Quốc hội Hoa kỳ. Tổng Chưởng lý Liên bang không phải
chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Mọi hoạt động của các Văn phòng công tố
Liên bang đều dưới thẩm quyền của Tổng Chưởng lý Liên bang.
1.2.2. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền thống
pháp luật Civil law
* Viện Công tố Pháp
- Mô hình tổ chức:
Tại Pháp, Thẩm phán công tác tại hai ngạch là ngạch xét xử (Thẩm
24
phán xét xử làm việc tại cơ quan Toà án phụ trách cả việc thẩm tra tư pháp lẫn
việc xét xử) và ngạch công tố (bao gồm các Uỷ viên công tố). Hệ thống công
tố bao gồm đội ngũ Công tố viên đặt bên cạnh các Toà án thuộc ngành tư
pháp (không có ngạch công tố bên cạnh Toà hành chính). Sứ mệnh cao cả của
các Công tố viên là bảo vệ lợi ích chung của xã hội đồng thời bảo vệ quyền tự do
của cá nhân. Hiến pháp năm 1958 đã nêu, tất cả các Thẩm phán (cả Thẩm phán
xét xử và Công tố viên) đều độc lập, dưới sự đảm bảo của Tổng thống. Tính độc
lập của các Thẩm phán xét xử dựa trên quyền không thể bãi miễn của mình. Còn
tính độc lập của các Công tố viên chủ yếu dựa trên quyền không thể bãi miễn
của mình. Còn tính độc lập của các Công tố viên chủ yếu dựa trên quyền tự do
luận tội của mình, độc lập với Toà án và các bên khiếu kiện.
Cho đến nay, về mặt hình thức Viện Công tố Pháp được đặt trong hệ
thống Toà án, nhưng không lệ thuộc vào Toà án. Hệ thống cơ quan Công tố
Pháp gồm có: Viện công tố nằm trong các Toà án sơ thẩm thẩm quyền rộng;
Viện Công tố tại Toà phúc thẩm; Viện công tố bên cạnh Toà án phá án. Về
mặt nhân sự và quản lý hành chính Viện công tố trực thuộc Bộ tư pháp và
Viện công tố không phải là mối quan hệ chỉ đạo trực tiếp mà là thông qua
giám sát hoạt động của Viện công tố. Các công tố viên là viên chức nhà nước
nhưng không phụ thuộc vào cơ quan hành pháp. Điều đó có nghĩa là quan
chức Chính phủ không có quyền chỉ thị họ đối với các yêu cầu pháp lý. Các
công tố viên hoạt động dưới sự kiểm tra của Bộ trưởng Bộ tư pháp vàc có thể
nhận các hướng dẫn chung hoặc chỉ thị chung từ về chính sách hình sự từ Bộ
trưởng Bộ Tư pháp và có thể nhận các hướng dẫn chung hoặc chỉ thị chung về
chính sách hình sự từ Bộ trưởng Bộ tư pháp. Quyền hạn của Công tố viên Pháp
tương đối rộng rãi: khởi tố các vụ án hình sự và một số vụ án dân sự, chỉ đạo
hoạt động của Cảnh sát tư pháp, thực hiện việc buộc tội trước Toà (thẩm quyền
chỉ riêng của Viện Công tố) và bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Toà án.
25
Ngoài ra, khác với Thẩm phán và Hội thẩm, Công tố viên không bắt buộc phải
"hồi tỵ" khi tham gia phiên toà.
- Về cán bộ Công tố viên
a. Những quy định chung ở Pháp, cũng giống như ở mộtsố nước khác
như Bỉ và Italia, nguyên tắc thống nhất Giới thẩm phán được áp dụng, có
nghĩa: Giới thẩm phán bao gồm cả Thẩm phán và các Công tố viên. Các
Thẩm phán có thể được thuyên chuyển sang làm Công tố viên và ngược lại.
Ðiều đó cũng có nghĩa các quy định chung cho giới Thẩm phán sẽ được
áp dụng đối với cảThẩm phán và Công tố viên. Tuy nhiên cũng có các quy
định đặc thù đối với Thẩm phán và Công tố viên do tính chất nghề nghiệp của
Công tố viên là đưa mộtviệc phạm tội ra Toà và có quyền quyết định mộtsự
truy tố có cần thiết hay không cần thiết, thích hợp hay không thích hợp.
Những quy định về việc đào tạo nghề nghiệp ban đầu do đó được áp
dụng chung cho cả Công tố viên và Thẩm phán. Nãm 1958 Trường đào tạo
Thẩm phán được thành lập theo sáng kiến của Thủ tướng lúc đó (Michel
Debre). Trường này là một phiên bản của Trường Hành chính quốc gia
chuyên đào tạo đội ngũ cán bộ cho bộ máy hành chính của Pháp. Trường đào
tạo Thẩm phán có hai nhiệm vụ: đào tạo đầu vào cho đội ngũ Thẩm phán và
Công tố viên tương lai, bồi dưỡng, đào tạo bổ sung cho những Thẩm phán,
Công tố viên đương nhiệm.
Tiêu chuẩn để tuyển chọn Công tố viên hay Thẩm phán là ưu tiên tuyển
chọn những sinh viên đã tốt nghiệp đại học với tuổi đời chưa quá 27. Họ phải
trải qua cuộc thi đầu vào tổ chức trên phạm vi quốc gia, sau đó sẽ được tham
gia khóa học 31 tháng tại Trường đào tạo Thẩm phán. Một hình thức tuyển
chọn thứ hai để được đào tạo tại Trường đào tạo Thẩm phán dành cho những
những cán bộ làm trong các công sở của Nhà nước, có độ tuổi dưới 40 tuy
không có bằng đại học nhưng phải có kinh nghiệm làm việc ít nhất 4 nămvà
26
những người này cũng phải thi đầu vào tại trường. Tuy nhiên, số lượng tuyển
theo cách thức này rất ít so với cách thức tuyển chọn thứ nhất.
Việc tuyển chọn qua thi tuyển là mộtcơ chế để đảm bảo thực hiện
nguyên tắc hiến định: đó là nguyên tắc bình đẳng về cơ hội được tham gia các
chức vụ trong chính quyền, trong đó có các cơ quan tư pháp. Điều đó có nghĩa
là tất cả các chức vụ trong hệ thống tư pháp sẽ được tuyển chọn dựa trên tiêu
chuẩn về trình độ và năng lực, không phân biệt thiên kiến chính trị hay tôn
giáo... Cơ quan chủ trì điều hành kỳ thị này là một Hội đồng do Bộ trưởng Bộ
Tư pháp thành lập theo đề nghị của Ban giám hiệu của Trường đào tạo Thẩm
phán. Sau khi được thành lập, Hội đồng hoạt động hoàn toàn độc lập. Tất cả
những người đã được tuyển chọn vào học tại Trường đào tạo Thẩm phán sau
này sẽ được bổ nhiệm tại các Toà án, Viện công tố Bộ trưởng Bộ Tư pháp
không có quyền phản đối hay từ chối không bổ nhiệm những người này. Một
kỳ thi mới để tuyển chọn những thí sinh vào học tại trường đào tạo Thẩm
phán quốc gia chỉ có thể thực hiện sau khi tất cả những thí sinh cũ đã được
tiếp nhận vào các vị trí trong các cơ quan tư pháp.
- Chức năng nhiệm vụ của Viện công tố Pháp
Viện công tố đóng vai trò quan trọng trong TTHS với tư cách là cơ
quan thực hiện quyền công tố, trong tố tụng dân sự không chỉ tham gia với tư
cách đương sự chính trong một số vụ việc mà còn với tư cách là cơ quan kiểm
sát việc tuân thủ pháp luật. Quyền công tố khác quyền yêu cầu khởi kiện của
người bị hại ở chỗ quyền công tố thì bảo vệ lợi ích công còn quyền kiện của
đương sự nhằm bảo vệ lợi ích riêng của người bị hại.Xã hội giao cho viện
công tố thực hiện quyền công tố và thực hiện các quyền hạn khác do pháp luật
quy định là nhân danh nền Cộng hoà chứ không phải nhân danh Chính phủ,
có nghĩa là đại diện cho quốc gia, cho xã hội chứ không phải là những người
đại diện cho hành pháp. Các Công tố viên không phải là các viên chức hành
27
pháp, vì họ không phát biểu nhân danh hành pháp và không bảo vệ lợi ích
riêng của hành pháp, mặc dù về mặt tổ chức, các Viện công tố trực thuộc Bộ
Tư pháp là cơ quan bổ nhiệm và quyết định lương bổng cho họ. Viện công tố
là cơ quan bảo vệ và áp dụng pháp luật, chính vì lý do đó Viện công tố gồm
có các Công tố viên chứ không gồm các viên chức và đây là nhân tố cần thiết
trong việc thực hiện chính sách hình sự của nền Cộng hoà.
Với tư cách là một bộ phận trong hệ thống tài phán hình sự, Viện công
tố phải có mặt tại trong các cuộc tranh tụng tại Toà và bản án hình sự chỉ có
hiệu lực khi có mặt Viện công tố khi tuyên án.
Quyền công tố là một tổng thể các quyền, bao gồm không chỉ quyền
khởi tố, truy tố mà còn là nghĩa vụ bảo vệ sự buộc tội của mình trước Toà
(đọc cáo trạng, giải thích tại sao lại truy tố với ý nghĩa buộc tội và đề nghị với
Toà mức hình phạt). Quyền công tố còn được thực hiện cả trong lĩnh vực thi
hành án hình sự vì Việncông tố truy tố yêu cầu xét xử thì phải có trách nhiệm
theo dõi việc thi hành án hình sự.
* Viện công tố Liên bang Đức
- Vị trí pháp lý của Viện công tố trong tổ chức bộ máy nhà nước Đức
Vấn đề vị trí pháp lý của Viện công tố cũng được thảo luận rất nhiều kể
từ trước và sau khi nó được thành lập. Cho đến nay, vị trí pháp lý của nó đã
được khẳng định một cách rõ ràng trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Trước hết phải khẳng định rằng, hệ thống ngành công tố thuộc nhóm
những cơ quan bảo vệ pháp luật. Theo quan niệm của Đức thì nhóm cơ quan
bảo vệ pháp luật. Theo quan niệm của Đức thì nhóm cơ quan bảo vệ pháp luật
gồm có toà án và Viện công tố, Luật sư bào chữa, hội thẩm, tuy họ hoạt động
với tư cách cá nhân, không nhân danh cơ quan nhà nước nào, nhưng họ cũng
được xếp vào nhóm cơ quan bảo vệ pháp luật mà thuộc cơ quan hành pháp.
Tuy nhiên cảnh sát chỉ mang tính chất cơ quan bảo vệ pháp luật khi nó thực
hiện hoạt động điều tra.
28
Xét theo góc độ tổ chức cơ quan nhà nước nói chung thì ngành công tố
thuộc nhóm quyền lực thứ tư. Xét theo góc độ chức và nguyên tắc lãnh đạo,
chỉ đạo thì Viện công tố mang tính chất của một cơ quan hành pháp. Xét theo
quyền của Viện công tố trong lĩnh vực TTHS, ví dụ như Viện công tố có
quyền tự quyết định xử lý vụ án ngay ở trong giai đoạn truy tố, mà không cần
phải đưa vụ án ra truy tố trước Toà - quyền đình chỉ vụ án thì dường như Viện
công tố có quyền tư pháp xét xử nhưng không hẳn thuộc hệ thống cơ quan xét
xử. Do đó, dù hệ thống cơ quan công tố thuộc ai đi chăng nữa, trực thuộc cơ
quan lập pháp, trực thuộc Chính phủ hay trực thuộc Bộ trưởng Bộ tư pháp thì
vị trí pháp lý của nó cũng không thay đổi.
- Tổ chức và hoạt động của Viện Công tố Đức
Hệ thống công tố được tổ chức không theo địa giới hành chính như tổ
chức của các cơ quan chấp hành, mà được tổ chức theo từng vùng và khu vực.
Một vùng có thể bao gồm một tỉnh hoặc nhiều tỉnh, một khu vực có thể bao
gồm một huyện hoặc nhiều huyện (quận). Tuỳ theo số lượng công việc cụ thể
của từng nơi mà Bộ trưởng Tư pháp bố trí Viện công tố cho phù hợp. Ví dụ, ở
những nơi có ít tội phạm xảy ra thì có thể tổ chức một Viện công tố khu vực
có thẩm quyền quản hạt rộng hơn các Viện công tố khu vực có ít nhiều tội
phạm xảy ra hoặc không tổ chức Viện công tố khu vực ở đó. Khi có tội phạm
xảy ra thì Công tố viên cấp vùng đó THQCT ở khu vực đó, nếu ở khu vực đó
có Toà án khu vực. Đây là cách thức tổ chức rất linh hoạt của Đức nhằm giảm
thiểu gánh nặng về tài chính cho nhà nước, vì một khu vực một năm chỉ có
một vài vụ án xảy ra mà cùng tổ chức một Viện công tố ở đó thì thật là lãng
phí. Toà án thì lại hoàn toàn khác với Viện công tố, vì ngoài án hình sự ra,
Toà án còn phải giải quyết rất nhiều những loại án khác nữa như án dân sự,
kinh tế, lao động,… Do đó, tuy luật tổ chức quy định, Viện công tố được tổ
chức song song với Toà án, ở đâu có Toà án thì ở đó có Viện công tố được tổ
chức không thống nhất ở cấp bang.
29
Ngành công tố được tổ chức theo ngành dọc, độc lập với cơ quan chính
quyền và nguyên tắc hoạt động của nó là tập trung thống nhất, Công tố viên
cấp trên và thống nhất chịu sự lãnh đạo của Tổng công tố bang.
Viện công tố là cơ quan thuộc hệ cơ quan quyên lực nhà nước
(Stastgewalt), song nó lại không phải là cơ quan thi hành quyền lực nhà nước.
Tôn chỉ, mục đích hoạt động của Viện công tố là chỉ tuân theo pháp luật và
tôn trọng sự thật khách quan. Do đó, Viện công tố là cơ quan bảo vệ quyền lợi
của nhà nước và là người đại diện cho lợi ích công (Allgemeine interegge).
Do đó, Viện công tố chỉ hoạt động khi có hành vi xâm phạm lợi ích của nhà
nước, xâm phạm lợi ích công. Đây là một điểm căn bản để phân biệt giữa
công tố trong luật tố tụng của Đức.
Trong quá trình điều tra, truy tố và THQCT trước Toà, Viện công tố
không chỉ tiến hành điều tra một chiều, không chỉ thu thập chứng cứ vô tội
của người bị tình nghi phạm tội. Và nếu trong quá trình điều tra, truy tố, nếu
Viện công tố thấy hành vi phạm tội không còn ý nghĩa đối với lợi ích công
nữa thì có thể kết thúc tố tụng bằng một quyết định đình chỉ vụ án.
Xuất phát từ lý do trên, các nhà khoa học pháp lý và những nhà làm
luật đã bác bỏ quan điểm cho rằng, tại phiên toà Công tố viên là một bên tham
gia tố tụng với tư cách là người buộc tội, bên kia là luật sư bào chữa hoặc bị
cáo với tư cách là một bên gỡ tội. Viện công tố không phải chỉ đơn thuần là
bên tham gia xét xử với tư cách là người buộc tội, vì với vị thế của người đại
diện cho lợi ích công thì Công tố viên có trách nhiệm không chỉ đưa ra những
chứng cứ buộc tội, mà còn đưa ra những chứng cứ vô tội ra trước Toà cả. Lợi
ích công không bao giờ truy cứu trách nhiệm một người vô tội. Trong khi đó
luật sư bào chữa với tư cách là một bên tham gia tố tụng, chỉ có quyền và
trách nhiệm đưa ra những chứng cứ làm giảm nhẹ tội hoặc những chứng cứ
làm giảm nhẹ tội trạng của bị cáo.
30
Đây là điều căn bản nói lên vị thế khác nhau giữa Công tố viên và luật
sư bào chữa và cũng là điểm quan trọng để xác định đúng vị trí của Công tố
viên trong TTHS Đức.
- Chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố Đức
Giai đoạn điều tra: Theo qui định của luật TTHS, thì cơ quan có thẩm
quyền điều tra gồm: Viện công tố, cảnh sát, thuế quan, thuế vụ. Lực lượng
cảnh sát có 2 loại, lực lượng cảnh sát hình sự và lực lượng cảnh sát khác. Lực
lượng cảnh sát hình sự điều tra những vụ án lớn, phức tạp, rất nghiêm trọng,
còn lực lượng cảnh sát khác điều tra những vụ án ít nghiêm trọng hoặc
nghiêm trọng. Cơ quan thuế quan hoặc thuế vụ tiến hành điều tra những vụ án
thuộc lĩnh vực chuyên môn mà mình phụ trách. Còn Viện công tố thì có
quyền điều tra tất cả các loại tội phạm.
Giai đoạn truy tố: Khi nhận được bản cáo trạng và hồ sơ vụ án Viện công
tố chuyển sang, Toà án tiến hành việc nghiên cứu hồ sơ và mở phiên toà trù bị.
Ở giai đoạn này Toà án có thể đưa ra một trong những quyết định sau đây:
+ Không chấp nhận quyết định truy tố của Viện công tố.
+ Tạm đình chỉ vụ án
+ Đình chỉ vụ án
+ Đưa vụ án ra xét xử công khai.
Quyết định truy tố của Viện công tố xác định ranh giới xét xử của Toà
án. Toà án chỉ xét xử những hành vi và bị cáo khi được Viện công tố truy tố.
Toà án không được xét xử những hành vi, những người mà Viện công tố
không truy tố.
Giai đoạn xét xử: Phiên toà được tiến hành theo thủ tục thẩm vấn.
Nguyên tắc xét xử công khai, trực tiếp. Toà án chỉ có thể đưa ra những quyết
định dựa trên kết quả thẩm vấn công khai tại phiên toà.
31
Tại phiên toà, Thẩm phán là người điều khiển phiên toà, là người thẩm
vấn chính. Luật tố tụng Đức vẫn giữ mô hình tố tụng thẩm vấn, mà không áp
dụng mô hình tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên trong quá trình xét xử có đan xen
một số yếu tố tranh tụng. Tố tụng Đức vẫn coi trách nhiệm hình sự của Thẩm
phán và coi giai đoạn xét xử là giai đoạn điều tra công khai mà Thẩm phán
giữ vai trò chủ đạo. Công tố viên là người thay mặt nhà nước, là người đại
diện cho lợi ích công khai tại phiên toà. Do đó, vị trí của Công tố viên không
hẳn giữ vai trò của người buộc tội, không hẳn phải nhất thiết bảo vệ quan
điểm truy tố của mình. Công tố viên cũng không phải là một bên "đối tụng"
với luật sư bào chữa, với bị cáo, vì công tố viên không chỉ có nghĩa vụ đưa ra
những chứng cứ để buộc tội bị cáo, mà còn trách nhiệm đưa ra những chứng
cứ vô tội của bị cáo, mà còn trách nhiệm đưa ra những chứng cứ vô tội của bị
cáo. Nếu coi Công tố viên là một bên " đối tụng", là một bên buộc tội, thì
công tố viên sẽ không còn có trách nhiệm đưa ra những chứng cứ vô tội của
bị cáo hoặc những chứng cứ vô tội của bị cáo hoặc những chứng cứ giảm nhẹ
tội trạng của bị cáo.
1.2.3. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa
* VKS Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia tổ chức bộ máy nhà nước dựa trên nguyên tắc
tập trung quyền lực. Toàn bộ quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà đại
diện là Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc và Đại hội đại biểu nhân dân địa
phương. Trong bộ máy nhà nước, Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước
cao nhất, Tòa án là cơ quan xét xử, VKS là cơ quan giám sát pháp luật.
- Vị trí của Viện kiểm sát: VKS Trung Quốc là một hệ thống cơ quan
độc lập, được xác định là cơ quan tư pháp, không thuộc hệ thống cơ quan
hành pháp. Viện trưởng VKSND tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn
32
quốc bầu ra và chịu trách nhiệm trước cơ quan này. Các VKS địa phương
không thuộc hệ thống các cơ quan hành chính ở địa phương nhưng lại chịu sự
giám sát của Đại hội đại biểu nhân dân địa phương.
- Chức năng, nhiệm vụ: Theo Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, “VKSND Trung Hoa là cơ quan giám sát pháp luật của Nhà
nước”. VKSND có chức năng, quyền hạn cụ thể như sau:
Thực hiện quyền kiểm sát đối với các vụ án phản quốc, chia rẽ đất nước
và các vụ án phạm tội to lớn, phá hoại nghiêm trọng việc thực hiện thống nhất
chính sách, pháp luật, pháp lệnh, quy chế hành chính của Nhà nước.
Tiến hành điều tra đối với các vụ án hình sự được trực tiếp thụ lý.
Kiểm sát việc điều tra vụ án hình sự do cơ quan công an tiến hành;
quyết định việc bắt giữ, truy tố hoặc miễn tố đối với các vụ án do cơ quan
công an điều tra; giám sát hoạt động điều tra của cơ quan công an.
Khởi tố và hỗ trợ truy tố đối với các vụ án hình sự; giám sát hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân. 5. Giám sát việc chấp hành phán quyết và quyết
định của các vụ án hình sự, hoạt động của trại giam, nơi tạm giam và cơ quan
cải tạo lao động.
Ngoài ra, VKSND còn có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc bảo vệ quyền tố cáo của công dân đối với các nhân viên Nhà nước
vi phạm pháp luật, truy cứu trách nhiệm pháp luật đối với những người xâm
phạm quyền thân thể, quyền dân chủ và các quyền khác của công dân.
- Cơ cấu tổ chức của VKSND: Theo Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND
Trung Hoa, hệ thống tổ chức VKSND Trung Hoa bao gồm VKSND tối cao,
VKSND địa phương các cấp, VKS quân sự và các VKS chuyên ngành khác.
* VKS Liên bang Nga
- Vị trí của Viện kiểm sát: VKS Liên bang Nga có vị trí độc lập với các
cơ quan hành pháp và tư pháp, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
33
trung thống nhất, trên cơ sở các KSV cấp dưới phải phục tùng các KSV cấp
trên và tất cả đều phục tùng Tổng Kiểm sát trưởng Liên bang Nga, hoàn toàn
độc lập với các cơ quan, tổ chức, công dân. Các cơ quan VKS thực hiện các
thẩm quyền của mình một cách độc lập với các cơ quan quyền lực của liên
bang, của các chủ thể liên bang, của các chính quyền địa phương và các tổ
chức xã hội. Để đảm bảo tính độc lập cho các cơ quan Viện kiểm sát, Luật
liên bang quy định không cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp
vòa việc thực hiện công tác kiểm sát.
- Chức năng, nhiệm vụ: VKS Liên bang Nga có chức năng THQCT và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Theo quy định của pháp luật, VKS vẫn thực
hiện chức năng kiểm sát chung, tuy nhiên, phạm vi của chức năng kiểm sát
chung đã bị thu hẹp hơn so với trước (VKS không thực hiện kiểm sát việc
tuân theo pháp luật đối với Chính phủ Liên bang Nga, các tổ chức xã hội,
đảng phái chính trị, công dân). Ở Liên bang Nga, VKS không kiểm sát hoạt
động xét xử của Tòa án và những người tham gia tố tụng trong tố tụng dân sự
và TTHS.
- Tổ chức bộ máy: Hệ thống VKS Liên bang Nga được tổ chức theo
đơn vị hành chính, bao gồm: VKS Trung ương Liên bang Nga; VKS các chủ
thể thuộc Liên bang Nga và cấp tương đương; VKS các thành phố, quận,
huyện và cấp tương đương; các VKS chuyên trách (như: VKS trong lĩnh vực
giao thông, VKS bảo vệ môi trường…); Các Viện nghiên cứu khoa học, các
Trường đào tạo cán bộ kiểm sát; Hệ thống VKS quân sự các cấp.
Tóm lại, mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố, VKS của
các nước theo các truyền thống pháp luật common law, civil law và pháp luật
xã hội chủ nghĩa có nhiều điểm khác nhau. Tuy nhiên, vận dụng mô hình nào
để nghiên cứu, áp dụng vào đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân ở nước ta là việc làm hết sức cần thiết và phải nghiên cứu
34
kỹ lưỡng. Việc nghiên cứu, vận dụng những điểm phù hợp áp dụng vào tình
hình thực tế ở nước ta có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng, đổi mới cơ cấu
tổ chức của VKSND.
Như vậy, việc nghiên cứu về lý luận chung về VKSND là tiền đề tiên
quyết cho việc nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của VKSND trong
giai đoạn hiện nay cũng như đưa ra những phương hướng, giải pháp đổi mới
cơ cấu tổ chức vào hoạt động của ngành VKSND.
35
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Lịch sử tổ chức và hoạt động của Cơ quan công tố (1945-1960) và
Viện kiểm sát nhân dân (1960-2013)
2.1.1. Lịch sử tổ chức và hoạt động của Viện công tố từ 1945 đến 1960
Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ra đời (02/9/1945), ngày 13/9/1945 Chính phủ lâm
thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã ban hành Sắc lệnh số 32 bãi bỏ
quan chức hai ngạch hành chính và tư pháp của chính quyền thực dân phong
kiến, đồng thời ban hành một loạt các sắc lệnh để thiết lập ngay các cơ quan
tư pháp, trong đó có cơ quan Công tố nhằm đấu tranh một cách kịp thời và có
hiệu quả với các hành vi phạm tội, bảo đảm cho việc củng cố chính quyền
cách mạng và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Khác với Toà án được thiết lập
ngay từ Sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945, các cơ quan Công tố được thiết lập
muộn hơn. Hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Công
tố được quy định chi tiết tại các Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, Sắc lệnh
số 51/SL ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946.v.v.
Ngày 09/11/1946, Quốc hội thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam dân chủ Cộng hoà, trong đó Chương VI (từ Điều 63 đến Điều 69)
quy định các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp.
Điều 63 Hiến pháp năm 1946 quy định các cơ quan tư pháp gồm: Toà án tối
cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và các Toà án sơ cấp.
Nhưng vì điều kiện chiến tranh nên Hiến pháp không được ban bố thi hành,
Quốc hội giao cho Chính phủ cùng với Ban Thường vụ Quốc hội căn cứ vào
các nguyên tắc của Hiến pháp ban hành các văn bản pháp luật. Vì vậy, Toà án
và cơ quan Công tố được tổ chức theo các Sắc lệnh của Chính phủ.
36
Về tổ chức các cơ quan Công tố:
Theo các Sắc lệnh nói trên, cơ quan Công tố nằm trong cơ cấu tổ chức
của Toà án, do Bộ Tư pháp quản lý. Hệ thống Toà án được tổ chức ở ba cấp:
Toà án sơ cấp (ở các quận, huyện, châu), Toà án đệ nhị cấp (ở các tỉnh, thành
phố) và Toà thượng thẩm được tổ chức ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ (Điều
7, Điều 12 và Điều 35 Sắc lệnh số 13).
Ở Toà án sơ cấp, “Thẩm phán xét xử một mình” làm cả việc Công tố
(Điều 10 Sắc lệnh số 13). ở Toà án đệ nhị cấp, có hai loại Thẩm phán là Thẩm
phán xử án và Thẩm phán buộc tội - Công tố viên (gọi là Biện lý hoặc Phó
Biện lý của các Toà án đệ nhị cấp).
Ở Toà thượng thẩm có Công tố viện do Chưởng lý đứng đầu, ngoài ra
còn có Phó Chưởng lý và Thẩm lý Toà Thượng thẩm. Công tố viện đặt dưới
sự quản lý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền ra
lệnh cho Chưởng lý nhưng không có quyền trực tiếp làm thay quyền công tố
(Điều 51 Sắc lệnh số 13/SL).
Về thẩm quyền của cơ quan Công tố:
Theo Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, các Công tố viên có các nhóm
thẩm quyền chủ yếu như: - Thẩm quyền tư pháp cảnh sát (điều khiển công
việc và giám sát công tác điều tra của tư pháp cảnh sát); - THQCT (là người
buộc tội nhân danh Nhà nước); - Tham gia các phiên toà hộ (dân sự): Có
quyền yêu cầu Toà án thi hành mọi phương sách cần thiết để chứng tỏ sự thật,
có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của các vị thành niên, của các pháp nhân hành
chính; - Có nhiệm vụ thi hành những bản án đã có hiệu lực, quản trị Toà án,
điều khiển và kiểm soát công việc của tất cả các nhân viên trong Toà án, trừ
các Thẩm phán xử án; - Kiểm soát công việc quản trị lao tù, khám xét sổ sách
cùng ngân quỹ của các phòng công lại và khám xét các sổ hộ tịch trong quản
hạt; - Có quyền kháng cáo bản án hình sự đã tuyên.v.v. (các Điều 21, 22, 29,
37
28, 30, 31, 32 Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946). Riêng người đứng đầu
Viện công tố của Toà thượng thẩm (Chưởng lý) còn có cả nhiệm vụ giám sát
việc thi hành các đạo luật, sắc lệnh và quy tắc hiện hành trong quản hạt của
mình (Điều 40 Sắc lệnh số 51/SL) [47, tr.88].
Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950, Thông tư số 21/TTg ngày
07/6/1950 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên bộ số 18/BKT-TP ngày
08/6/1950 của Bộ Kinh tế và Bộ Tư pháp đánh dấu sự thay đổi lớn tổ chức
các cơ quan tư pháp nói chung, các cơ quan Công tố nói riêng. Theo các văn
bản này, Toà án sơ cấp nay gọi là Toà án nhân dân huyện, Toà án đệ nhị cấp
gọi là Toà án nhân dân tỉnh, Hội đồng phúc án gọi là Toà phúc thẩm. Do điều
kiện chiến tranh của nước ta lúc bấy giờ, nên chính quyền thời kỳ này duy trì
và hoạt động chủ yếu là Chính phủ, là Uỷ ban hành chính kháng chiến các
cấp. Vì vậy, các cơ quan Công tố được đặt dưới sự điều khiển của Uỷ ban
hành chính kháng chiến trên cùng địa hạt cả về đường lối công tố chung, cả
mệnh lệnh riêng về từng vụ việc.
Khác với Sắc lệnh số 13/SL trước đây, Công tố viên chỉ có quyền
kháng cáo về việc hình, Điều 15 Sắc lệnh số 85/SL năm 1950 quy định:
“Công tố viên có quyền kháng cáo về việc hộ cũng như về việc hình”, đánh
dấu sự mở rộng thẩm quyền kiểm sát của các cơ quan Công tố ở nước ta đối
với hoạt động xét xử.
Sau ngày hoà bình lập lại, miền Bắc được giải phóng, Đảng và Nhà
nước ta đã chủ trương kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến
các địa phương, trong đó có các cơ quan tư pháp, đặc biệt là các cơ quan
Công tố. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá I (từ ngày 16/4/1958 đến ngày
29/4/1958), Quốc hội quyết định lập Toà án tối cao và hệ thống Toà án và hệ
thống Công tố, cả hai tách khỏi Bộ Tư pháp, trực thuộc Hội đồng Chính phủ.
Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị
38
định số 256/TTg ngày 01/7/1959 quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ và tổ
chức của Viện công tố, Nghị định số 321/TTg ngày 02/7/1959 về thành lập
các Viện công tố phúc thẩm. Theo quy định của các văn bản pháp luật này hệ
thống các cơ quan Công tố được thành lập từ Trung ương đến cấp huyện, trở
thành hệ thống các cơ quan Nhà nước độc lập, không còn trực thuộc Bộ Tư
pháp, không còn chịu sự chỉ đạo cụ thể và trực tiếp của Uỷ ban hành chính cùng
cấp ở địa phương. Theo đó, hệ thống cơ quan Công tố gồm: - Viện công tố
Trung ương (trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có địa vị pháp lý ngang với Bộ). -
Viện công tố phúc thẩm đặt ở Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Khu tự trị Việt bắc,
Khu tự trị Thái - Mèo. - Viện công tố thành phố Hà Nội, Hải Phòng. - Viện công
tố khu Hồng Quảng. - Viện công tố các tỉnh và khu vực Vĩnh Linh. - Viện công
tố huyện và các đơn vị hành chính tương đương [47, tr.109].
Các Viện công tố có các nhiệm vụ: Một là, điều tra và truy tố trước Toà
án những kẻ phạm pháp về hình sự. Hai là, giám sát việc chấp hành pháp luật
trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra. Ba là, giám sát việc chấp hành
pháp luật trong việc xét xử của các Toà án. Bốn là, giám sát việc chấp hành
pháp luật trong việc thi hành các bản án về hình sự, dân sự và trong hoạt động
của các cơ quan giam, giữ và cải tạo. Năm là, khởi tố và tham gia tố tụng
trong những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước
và của nhân dân. Những quy định này của pháp luật đã xác định tương đối cụ
thể và rõ ràng vị trí, vai trò, chức năng, thẩm quyền của Viện công tố trong bộ
máy Nhà nước ta. Cùng với các quy định về tổ chức hệ thống Toà án nhân
dân các cấp, hệ thống các cơ quan Công tố được thiết lập từ Trung ương đến
cấp tỉnh, cấp huyện là bước phát triển mới của các cơ quan Công tố và cũng là
bước chuẩn bị cho việc chuyển các cơ quan Công tố thành hệ thống VKSND
vào năm 1960.
39
Như vậy có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
- Sau khi nước Nhà giành được độc lập, bằng các sắc lệnh đầu tiên của
Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã từng bước thiết lập
và kiện toàn các cơ quan tư pháp (Toà án và Công tố) của Nhà nước kiểu mới
của nhân dân.
- Khi xây dựng các cơ quan tư pháp của chính quyền nhân dân, trong
đó có cơ quan Công tố, Nhà nước ta không hoàn toàn đoạn tuyệt và phủ nhận
mà đã tiếp nhận, kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm thực tiễn tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Công tố đã từng
được thiết lập và duy trì ở nước ta.
- Ngay từ lúc ban đầu mới được hình thành và nhất là những năm sau
này vào cuối những năm 1950, cơ quan Công tố đã thể hiện rõ xu hướng độc
lập cả về tổ chức, độc lập và mở rộng thẩm quyền về hoạt động.
Vì tuy nằm trong cơ cấu Toà án nhưng Chánh án không có quyền điều
khiển và kiểm soát các Công tố viên; Viện công tố chịu sự quản lý của Bộ Tư
pháp nhưng Bộ trưởng Tư pháp không có quyền trực tiếp làm nhiệm vụ công
tố; và cuối cùng là thành lập hệ thống các cơ quan Công tố tách ra khỏi cả
Toà án, cả Bộ Tư pháp để trở thành một hệ thống độc lập. Chức năng, thẩm
quyền của cơ quan Công tố không chỉ giới hạn ở THQCT, không chỉ điều
khiển, giám sát hoạt động điều tra mà còn trực tiếp tiến hành điều tra và thực
hiện cả sự giám sát đối với các hoạt động tư pháp và tham gia hoạt động tố
tụng dân sự, có quyền kháng cáo cả bản án hình sự và bản án dân sự.
2.1.2. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức Viện
kiểm sát năm 1960
Theo Hiến pháp năm 1959 và các luật về tổ chức bộ máy Nhà nước
được ban hành trên cơ sở Hiến pháp này, trong đó có Luật tổ chức VKSND
năm 1960, bộ máy Nhà nước của ta nói chung, đặc biệt là các cơ quan Công
tố đã có sự thay đổi một cách cơ bản.
40
Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm
1960, hệ thống các cơ quan Công tố trực thuộc Chính phủ đã được chuyển
thành hệ thống VKSND các cấp hoàn toàn độc lập với Chính phủ, tổ chức
theo những nguyên tắc hoàn toàn mới, chức năng, thẩm quyền của các cơ
quan kiểm sát các cấp được mở rộng hơn nhiều so với các cơ quan Công tố
trước đó ở nước ta, cũng như so với Viện công tố của các nước hiện nay. Đây
là hệ thống cơ quan Nhà nước hoàn toàn mới cả về vị trí, vai trò, chức năng,
thẩm quyền và nguyên tắc tổ chức - hoạt động trong cơ cấu tổ chức bộ máy
Nhà nước của ta. Cụ thể là:
Về tổ chức, hệ thống VKSND bao gồm: VKSND tối cao; VKSND các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương;
VKSND các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc đơn vị hành chính
tương đương; VKS quân sự các cấp (Điều 105 và Điều 4 Luật tổ chức
VKSND năm 1960).
Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động, VKSND là một hệ thống độc lập, tập
trung thống nhất trong toàn ngành, đứng đầu là Viện trưởng VKSND tối cao.
Nguyên tắc này thể hiện:
- Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu, chỉ chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi
Quốc hội không họp.
- VKSND các địa phương do Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm,
chỉ chịu sự lãnh đạo của VKSND cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của
VKSND tối cao.
- VKSND các địa phương làm nhiệm vụ của mình một cách độc lập,
các cơ quan Nhà nước khác không được can thiệp (Điều 106, 107, 108 Hiến
pháp 1959; Điều 5, 6, 23, 24 Luật tổ chức VKSND năm 1960).
41
Về chức năng, thẩm quyền của VKSND, khác với Viện công tố, theo
quy định Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960, VKSND không
chỉ thực hiện chức năng công tố mà còn thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và lĩnh vực
hoạt động tư pháp.
Vấn đề đặt ra là tại sao chúng ta lại thay hệ thống Viện công tố trực
thuộc Chính phủ, chỉ thực hiện chức năng công tố vừa mới được thiết lập
trước đó bằng một hệ thống cơ quan Nhà nước mới là VKSND? VKSND do
Viện trưởng VKSND tối cao đứng đầu, có địa vị pháp lý hoàn độc lập và
tương ứng với các cơ quan Nhà nước then chốt ở Trung ương (VKSND tối
cao - Chính phủ - Toà án nhân dân tối cao), tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung thống nhất toàn ngành, VKSND không chỉ tiếp tục thực hiện
chức năng công tố mà còn thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật (kiểm sát chung) đối với các văn bản của các cơ quan Nhà nước từ
Trung ương đến địa phương (trừ Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
Chủ tịch Nước, Chính phủ).
Sự thay đổi này không vội vã và cũng không sao chép một cách máy
móc mô hình tổ chức của VKS Liên Xô được thành lập năm 1922 theo
nguyên lý tổ chức và chức năng, thẩm quyền mà V.I. Lênin đã đề ra trong tác
phẩm “Về chế độ song trùng trực thuộc và pháp chế” mà xuất phát từ “nhu
cầu của cuộc cách mạng XHCN đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành một
cách nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về mục đích và hành
động trong nhân dân, giữa nhân dân và Nhà nước, cũng như giữa các ngành
hoạt động Nhà nước với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong
việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp
nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra VKSND để kiểm sát việc tuân
theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho pháp luật
42
được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất” (Tờ trình về Luật tổ
chức VKSND năm 1960).
Lý do chuyển Viện công tố thành VKS là nhằm thiết lập một hệ thống
cơ quan Nhà nước mới có chức năng chuyên kiểm sát (giám sát) việc tuân
theo pháp luật nhằm bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được thực hiện
nghiêm chỉnh và thống nhất, ngăn ngừa tình trạng cục bộ địa phương, cục bộ
bản vị của các ngành, các cấp. Để thực hiện được chức năng mới này, hệ
thống VKSND phải được tổ chức theo nguyên tắc đặc thù khác hẳn các cơ
quan Nhà nước khác: Nguyên tắc độc lập, tập trung thống nhất trong toàn
ngành đứng đầu là Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao
chỉ chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước Quốc hội và cơ quan thường trực
của Quốc hội khi Quốc hội không họp. Các Viện trưởng VKSND địa phương
các cấp do Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, chỉ chịu sự Lãnh đạo của
VKSND cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.
2.1.3. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1981
Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức VKSND năm 1981 quy định về vị
trí, chức năng, thẩm quyền, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND các
cấp về cơ bản kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức
VKSND năm 1960. Điểm khác biệt rõ nhất là Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ
chức VKSND năm 1981 là không những ghi rõ chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của cơ quan Nhà nước từ cấp Bộ trở xuống, các tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà nước và công dân, mà còn nhấn
mạnh chức năng THQCT của VKSND (Điều 138 Hiến pháp 1980, Điều 1
Luật tổ chức VKSND năm 1981).
Để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, THQCT, bảo
đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, trong Báo
43
cáo của Ựỷ ban Dự thảo Hiến pháp năm 1980 tại kỳ họp thứ bảy Quốc hội
khoá VI ngày 12/12/1980 đã khẳng định lại nguyên tắc cốt lõi có tính đặc thù
của VKSND như sau: “Ngành Kiểm sát nhân dân tổ chức theo chế độ thủ
trưởng và tập trung, thống nhất lãnh đạo trong Ngành. Viện trưởng và KSV
tỉnh, thành, huyện và cấp tương đương do Viện trưởng VKSND tối cao bổ
nhiệm... Chế độ Thủ trưởng và sự lãnh đạo tập trung, thống nhất trong toàn
ngành Kiểm sát bảo đảm cho VKSND không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan Nhà
nước nào ở địa phương, bảo đảm hành động nhất trí, hoạt động nhạy bén, phát
hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các việc làm vi phạm pháp luật của các cơ
quan Nhà nước và công dân”.
Ngày 30/6/1989, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá VIII, Quốc hội đã
thông qua Nghị quyết sửa đổi 7 điều của Hiến pháp năm 1980, nhưng những
sửa đổi này chỉ liên quan đến quyền ứng cử của công dân và việc thành lập cơ
quan Thường trực Hội đồng nhân dân từ cấp huyện trở lên. Trên cơ sở sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp, Quốc đã thảo luận và thông qua Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1989 (sửa đổi). Nhưng khi thảo luận
Dự thảo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, do đề cao một
cách quá mức Hội đồng nhân dân nên đã có ý kiến của một số đại biểu Quốc
hội đề nghị phải quy định Hội đồng nhân dân có quyền giám sát hoạt động
của VKSND cùng cấp, Viện trưởng VKSND địa phương phải báo cáo Hội
đồng nhân dân về hoạt động công tác của VKSND. Lý do là ở địa phương của
đại biểu Quốc hội này có một vụ án, có đơn thư khiếu nại, phản ánh về sự bê
trễ, tiêu cực liên quan đến Viện kiểm sát. Chính quyền địa phương mời Viện
trưởng VKSND đến họp trao đổi giải quyết, nhưng vị này không đến dự.
2.1.4. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1992
Trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1992 có một số đề án đề nghị
chuyển VKSND thành Viện công tố trực thuộc Chính phủ, VKSND chỉ nên
44
tập trung vào chức năng công tố, bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội. Vì chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKSND trùng lắp với chức năng kiểm tra, thanh tra
của các cơ quan hành chính Nhà nước (Chính phủ, các cơ quan thanh tra của
Chính phủ, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp), chức năng giám sát
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.v.v.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VII) ngày 04/12/1991 về chỉ đạo xây dựng Hiến pháp năm 1992 đã kết
luận VKSND vẫn giữ hai chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chức
năng công tố. Kết luận này đã được thể hiện trong Điều 137 Hiến pháp năm
1992 và Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 1992. Song Hiến pháp năm 1992
và Luật tổ chức VKSND 1992 đã có những quy định khác Hiến pháp năm
1959, Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức VKSND năm 1960, Luật tổ chức
VKSND năm 1981 liên quan đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
VKSND: - Uỷ ban kiểm sát VKSND tối cao và Uỷ ban kiểm sát VKSND các
địa phương không còn là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng nữa mà có quyền
thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng. Luật quy định 4
loại vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định theo đa số của Uỷ ban kiểm sát
VKSND tối cao và 3 loại vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định theo đa số của
Uỷ ban kiểm sát VKSND các địa phương (Điều 138 Hiến pháp 1992, khoản 2
Điều 28 và khoản 2 Điều 30 Luật tổ chức VKSND năm 1992).
- Viện trưởng VKSND địa phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân
dân cùng cấp; chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình
thi hành pháp luật ở địa phương, về công tác của VKS ở địa phương; trả lời
chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 140 Hiến pháp năm 1992,
Điều 7 Luật tổ chức VKSND năm 1992). Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội lần
45
thứ IX của Đảng về việc tổ chức nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp năm 1992, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá X, Quốc hội đã quyết
định thành lập Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
năm 1992.
Năm 2001, trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp năm 1992 có rất nhiều ý kiến khác nhau về chức năng của
VKSND. Trong Tờ trình số 06/UB ngày 19/11/2001, Ựỷ ban dự thảo sửa đổi,
bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 đề nghị: “VKSND chỉ THQCT
và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Theo Uỷ ban này, đây là hai lĩnh vực rất
bức xúc, nhưng đang còn nhiều hạn chế. Mặt khác, việc không giao chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho VKSND cũng là để khắc phục
những trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ trong tổ chức bộ máy của Nhà nước:
Chức năng giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; chức năng
kiểm tra, thanh tra của hệ thống hành chính, Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các
cấp đối với hoạt động của cơ quan hành chính cấp dưới.v.v.
Cũng theo quan điểm của Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992,
cùng với việc bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND
cần sửa đổi Điều 140 Hiến pháp về chế độ báo cáo công tác của Viện trưởng
VKSND địa phương trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu
Hội đồng nhân dân cho phù hợp.
Mặc dù khi đó có nhiều ý kiến không đồng ý bỏ chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của VKSND vì tính chất, chức năng, thẩm quyền
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND khác với tính chất, chức năng,
thẩm quyền giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và càng khác
hẳn tính chất, chức năng, thẩm quyền kiểm tra, thanh tra của hệ thống hành
chính, của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp đối với hoạt động của cơ
quan hành chính cấp dưới. Nhưng ngày 25/12/2001, Quốc hội vẫn thông qua
46
Nghị quyết số 51/2001/NQ sửa đổi, bổ sung 23 điều của Hiến pháp năm 1992,
trong đó có Điều 137 quy định việc giao cho VKSND thực hiện chức năng,
nhiệm vụ THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp và Điều 140 quy định
“Viện trưởng các VKSND địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước
Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân”. Ngày
02/4/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật tổ chức
VKSND mới, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm
2001), bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (chức năng kiểm sát
chung) của VKSND, VKSND không còn có vai trò “bảo đảm” mà chỉ là “góp
phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Tuy Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND quy định: “Viện trưởng, các
Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên (KSV)VKSND địa phương... do Viện
trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức”, nhưng Pháp lệnh
về Kiểm sát viên VKSND của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 04/10/2002
lại quy định: Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm KSVVKSND cấp tỉnh,
cấp huyện theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn KSVVKSND cấp tỉnh, cấp
huyện. Pháp lệnh quy định: Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn KSVVKSND địa
phương là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (thường là
Phó Bí thư hoặc Uỷ viên Thường vụ của Tỉnh uỷ, Thành uỷ), một trong
những thành viên của Hội đồng tuyển chọn này là lãnh đạo Ban Tổ chức
chính quyền (nay là Sở Nội vụ) - là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh.
Như vậy, đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức
VKSND năm 2002, chúng ta gần như đã đồng nhất mối quan hệ giữa Viện
trưởng VKSND tối cao với Quốc hội và mối quan hệ giữa Viện trưởng
VKSND địa phương với Hội đồng nhân dân cùng cấp, đã chính thức xa rời
nguyên tắc tập trung thống nhất trong tổ chức và hoạt động của hệ thống
47
VKSND. VKSND địa phương đã bị chuyển dần sang chế độ “song trùng”
trực thuộc cả về tổ chức, cả về hoạt động trong mối quan hệ với chính quyền
địa phương, điều mà Lê-nin đã kiên quyết phản đối khi chuyển Viện công tố
thành VKS ở nước Nga năm 1922. Còn hệ thống VKS đã không chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật mà chính vì chức năng này nên khi xây
dựng Hiến pháp năm 1959 chúng ta đã quyết định chuyển Viện công tố thành
VKS nhằm bảo đảm (chứ không phải là “góp phần bảo đảm”) cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
2.2. Hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống
nhất, mọi quyền lực nhà nước tập trung và Quốc hội – cơ quan đại biểu cao
nhất nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam. Tuy nhiên, Quốc hội không thể là tất cả mà có sự phân
công, phân nhiệm giữa Quốc hội các cơ quan trong bộ máy nhà nước để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ. VKS là một trong bốn hệ thống cơ quan nhà nước
được quy định trong Hiến pháp; là cơ quan quan trọng trong hệ thống cơ quan
tư pháp cho nên cũng được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc chung của
bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, do vị trí, chức năng và nhiệm vụ của VKS có
một số đặc thù, nên hệ thống VKS cũng được tổ chức có phần đặc thù riêng.
Hệ thống VKS được tổ chức thành một hệ thống độc lập, thống nhất và được
tổ chức theo đơn vị hành chính gồm 4 cấp, bao gồm: VKSND tối cao,
VKSND cấp cao, VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; VKSND
quận, huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh. VKS được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành, không lệ thuộc vào
bất cứ cơ quan nào ở địa phương. Theo đó, VKS do Viện trưởng lãnh đạo,
Viện trưởng VKS cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKS cấp trên;
Viện trưởng VKSND địa phương, Viện trưởng VKS quân sự các cấp chịu sự
lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.
48
Trước hết cần xác định được các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
VKSND.
- Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành là nguyên tắc
đặc thù trong tổ chức và hoạt động của VKSND. Theo nguyên tắc này,
VKSND do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự
lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của
Viện trưởng VKSND tối cao. VKSND cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, xử lý
nghiêm minh vi phạm pháp luật của VKSND cấp dưới. Viện trưởng VKSND
cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ quyết định trái pháp luật của Viện
trưởng VKSND cấp dưới (khoản 1 Điều 7).
- Nguyên tắc kết hợp vai trò lãnh đạo của Viện trưởng với vai trò thảo
luận, quyết định một số vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của y
ban kiểm sát. VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKS
quân sự Trung ương, VKS quân sự quân khu và tương đương đều thành lập
y ban kiểm sát. Thành viên các ủy ban kiểm sát bao gồm Viện trưởng, các
Phó Viện trưởng và một số KSV. y ban kiểm sát các cấp hoạt động thông
qua các kỳ họp do Viện trưởng chủ trì để thảo luận và quyết định những vấn
đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát. Khi quyết định
những vấn đề quan trọng được quy định trong Luật (theo các điều 43, 45, 47,
53 và Điều 55), y ban kiểm sát các cấp ban hành Nghị quyết trên cơ sở biểu
quyết của các thành viên y ban kiểm sát. Nghị quyết của y ban kiểm sát
phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu
quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Theo đề
nghị của Viện trưởng, y ban kiểm sát các cấp thảo luận, cho ý kiến về các
vụ án phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.
- Nguyên tắc khi THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp, KSV tuân theo
pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND (khoản 1 Điều 83).
49
KSV phải căn cứ các quy định của luật để THQCT, kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các chủ thể tiến hành, tham gia các hoạt động tư pháp, bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Khi thực hiện
nhiệm vụ, KSV có quyền ra quyết định, kết luận, yêu cầu, kiến nghị theo quy
định của pháp luật. KSV phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi,
quyết định của mình trong việc THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp.
KSV không chỉ tuân theo pháp luật, mà còn chịu sự chỉ đạo của Viện
trưởng VKSND.Theo các quy định của pháp luật TTHS, tố tụng dân sự, Viện
trưởng VKSND trực tiếp tổ chức và chỉ đạo hoạt động THQCT và kiểm sát
hoạt động tư pháp của KSV; quyết định phân công hoặc thay đổi KSV; kiểm
tra hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp của KSV. Viện trưởng
VKSND có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với vi phạm pháp
luật của KSV khi thực hiện nhiệm vụ được giao; có quyền rút, đình chỉ hoặc
hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của KSV. Khi THQCT, kiểm sát hoạt
động tư pháp, KSV phải chấp hành quyết định của Viện trưởng VKSND. Khi
có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì KSV có quyền từ chối
nhiệm vụ được giao và phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng;
trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và
KSV phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc
thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng VKSND cấp trên có thẩm quyền.
Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết
định của mình (khoản 1 Điều 83).
VKSND tối cao có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, các KSV, các
Điều tra viên. Viện trưởng VKSND tối cao là người lãnh đạo thống nhất toàn
bộ hệ thống Viện kiểm sát. Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước; chịu sự giám sát của
Quốc hội. Nhiệm kỳ của Viện trưởng VKSND tối cao theo nhiệm kỳ của
50
Quốc hội. Viện trưởng VKSND tối cao có trách nhiệm báo cáo công tác trước
Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước y ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Các Phó Viện
trưởng giúp Viện trưởng thực thi nhiệm vụ. Các Phó Viện trưởng và các
KSVVKSND tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo
đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao.
Hiện nay, VKSND tối cao có y ban kiểm sát VKSND tối cao, VKS
quân sự trung ương và các đơn vị trực thuộc gồm: Văn phòng; Vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra án an ninh (vụ 1); Vụ thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra án trật tự xã hội (vụ 2); Vụ thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra án kinh tế (vụ 3); Vụ thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra án ma túy (vụ 4); Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
án tham nhũng, chức vụ (vụ 5); Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt
động tư pháp (vụ 6); Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự
(vụ 7); Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự (vụ 8); Vụ
kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình (vụ 9); Vụ
kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh, thương
mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (vụ 10); Vụ
kiểm sát thi hành án dân sự (vụ 11); Vụ kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp (vụ 12); Vụ hợp tác quốc tế và tương trợ tư
pháp về hình sự (vụ 13); Vụ pháp chế và quản lý khoa học (vụ 14); Vụ tổ
chức cán bộ (vụ 15); Vụ thi đua - khen thưởng (vụ 16); Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (cục 1); Cục thống kê tội phạm và công nghệ thông
tin (cục 2); Cục kế hoạch - tài chính (cục 3); Thanh tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (T1); Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (T2); Trường đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh (T3); Tạp chí Kiểm sát
(T4); Báo Bảo vệ pháp luật (T5).
51
VKSND cấp cao được thành lập theo Luật tổ chức VKSND năm 2014,
gồm: VKSND cấp cao 1 tại Hà Nội; VKSND cấp cao 2 tại Đà Nẵng và
VKSND cấp cao 3 tại TP. Hồ Chí Minh.
VKSND địa phương bao gồm: VKS nhân dan tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (hiện nay cả nước có 63VKS cấp tỉnh); VKS huyện, quận,
thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã (hiện nay cả nước có 678 VKS cấp huyện).
Về cơ cấu tổ chức, VKS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Viện
trưởng, các phó Viện trưởng, các Kiểm sát viên đều do Viện trưởng VKSND
tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức.Viện trưởng VKS tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương phải chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp,
chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân. VKSND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có y ban kiểm sát, các phòng nghiệp vụ
tương ứng với VKSND tối cao. Đối với VKS cấp huyện được tổ chức đơn
giản, không có y ban kiểm sát và các phòng nghiệp vụ, chỉ có các bộ phận
công tác và bộ máy giúp việc. VKS cấp huyện có Viện trưởng, các phó Viện
trưởng, các KSV do Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và
cách chức. Cũng như Viện trưởng VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, Viện trưởng VKS cấp huyện chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước
Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Trong cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của VKS theo Hiến pháp
năm 2013 có mộ số nội dung cần quan tâm như sau:
Thứ nhất, y ban kiểm sát VKS theo Hiến pháp năm 2013 không còn
là tổ chức tư vấn cho Viện trưởng VKS, mà có quyền thảo luận và quyết định
theo đa số những vấn đề quan trọng. Hoạt động của y ban kiểm sát theo
nguyên tắc tập thể, các nghị quyết của y ban kiểm sát phải quá nửa tổng số
thành viên biểu quyết tán thành. Trong trường hợp các thành viên biểu quyết
ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Trường hợp
52
Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên y ban kiểm sát,
thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo lên cấp trên.
Đối với VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao báo cáo y ban thường
vụ quốc hội hoặc Chủ tịch nước; đối với VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương báo cáo Viện trưởng VKSND tối cao.
Thứ hai, Viện trưởng VKS địa phương không báo cáo tình hình thực thi
pháp luật trước Hội đồng nhân dân địa phương mà Viện trưởng VKS địa
phương chỉ chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về công tác và
trả lời chất vấn của Hội đồng nhân dân.
VKS quân sự thuộc hệ thống VKSND, được tổ chức trong quân đội.
VKS quân sự chia ba cấp gồm có VKS quân sự trung ương, VKS quân sự
quân khu và tương đương (16 Viện kiểm sát), VKS quân sự khu vực (34 Viện
kiểm sát). Viện trưởng VKS quân sự trung ương đồng thời là Phó Viện trưởng
VKSND tối cao, lãnh đạo hoạt động của VKS quân sự các cấp, chịu trách
nhiệm báo cáo công tác trước Viện trưởng VKSND tối cao. VKS quân sự có
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như các nguyên tắc tổ chức hoạt động
theo quy định chung của Luật tổ chức VKSND năm 2014.
Về địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, tiêu chuẩn, chế độ tuyển chọn,
bổ nhiệm, miễn nhiệm của KSV trước đây được quy định trong Pháp lệnh
KSV nhưng hiện nay đã được nhập chung vào quy định trong Luật tổ chức
VKSND. Tiêu chuẩn KSV, Điều tra viên của Luật tổ chức VKND so với
trước đã được nâng lên. Ngoài quy định về tiêu chuẩn chung, Luật tổ chức
VKSND 2014 có một số tiêu chuẩn, quy định mới như: phải có trình độ cử
nhân luật, đã qua khóa đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, có thời gian công tác thực
tế tương ứng với mỗi loại KSV… ; và đây là lần đầu tiên quy định nhiệm kỳ
là 5 năm, hết nhiệm kỳ đó, Hội đồng sẽ xem xét có đề nghị bổ nhiệm lại hay
không bổ nhiệm lại KSV phụ thuộc vào đạo đức, năng lực, trình độ và tinh
53
thần trách nhiệm của KSV. Đồng thời quy định 4 ngạch KSV gồm: KSV
VKSND tối cao có số lượng không quá 19 người; KSV cao cấp, KSV trung
cấp và KSV sơ cấp. Việc tuyển chọn KSV thông qua kỳ thi chính thức do
VKSNDTC tổ chức, ra đề thi và chấm điểm, lấy điểm từ cao xuống thấp cho
đủ chỉ tiêu của ngành theo từng năm.
Hiện nay, tổng biên chế ngành Kiểm sát nhân dân được giao theo Nghị
quyết số 522e/NQ-UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội khóa 13 là 15.860 người, trong đó: Viện kiểm sát nhân dân tối cao: 920
người (chiếm 5,81%); Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh : 4.353 người (chiếm
27,44%); Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện: 10.587 người (chiếm 66,75%).
Tuy nhiên, thực hiện chiến lược tinh giản biên chế nhà nước giai đoạn 2015-
2020 Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao ban hành Kế hoạch 111/KH-
VKSTC thực hiện tinh giản biên chế trong ngành kiểm sát nhân dân từ năm
2018 – 2021. Theo đó, số biên chế ngành Kiểm sát cần giảm 10%: 1.586
người, dự kiến số biên chế đến năm 2021: 14.274 người.
Tính đến tháng 11/2018, đã thực hiện biên chế: 13.525 người. Số biên chế
còn thiếu chủ yếu ở VKSND cấp huyện thuộc một số tỉnh vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ, do yêu cầu về tuyển dụng công chức ngành Kiểm sát
nhân dân là ứng viên phải có bằng tốt nghiệp đại học luật hệ chính quy, nhưng
những nơi này thiếu nguồn tuyển dụng; chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức ngành Kiểm sát nhân dân chưa đủ hấp dẫn để thu hút nhân lực.
So với nhu cầu nhân lực để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, nhất là việc bổ sung các nhiệm vụ theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung), Luật Tố tụng hành chính, Luật thi
hành án hình sự, Luật thi hành án dân sự...thì nhân lực ngành Kiểm sát nhân
dân còn thiếu rất nhiều. Hiện nay, bình quân mỗi VKSND cấp huyện có 10
54
biên chế, trong đó 7-8 biên chế làm nghiệp vụ kiểm sát, trong khi đó VKSND
cấp huyện phải thực hiện rất nhiều khâu công tác nghiệp vụ (thực hành quyền
công tố và kiểm sát giải quyết án hình sự; kiểm sát giải quyết án dân sự; kiểm
sát giải quyết án hành chính; kiểm sát công tác tạm giữ, tạm giam; kiểm sát
thi hành án hình sự, dân sự; kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác văn
phòng, tổng hơp, thống kê tội phạm), như vậy bình quân mỗi khâu công tác
chỉ có 1 người thực hiện. Qua khảo sát còn cho thấy, có đơn vị VKSND cấp
huyện hiện nay bình quân mỗi năm thụ lý thực hành quyền công tố và kiểm
sát giải quyết các loại án hình sự, dân sự đến 4.502 vụ, việc, nhưng chỉ có 24
người, bình quân mỗi người phải đảm nhận 187,5 vụ, việc/năm là quá tải
(VKSND Quận Gò Vấp- Thành phố Hồ Chí Minh). Tình trạng trên xảy ra ở
nhiều đơn vị VKSND cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố lớn. Nhiều đơn vị
cấp phòng thuộc VKSND cấp tỉnh, VKSND tối cao chỉ có 2-3 người, thiếu rất
nhiều so với nhu cầu công tác [57].
Nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013 Quốc hội khóa XII
đã thông qua Luật Tổ chức VKSND 2014. Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm
2014 đã quy định chức năng, nhiệm vụ.
Về chức năng viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự.
Viểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để
kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải
55
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án,
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư
pháp khác theo quy định của pháp luật.
So sánh về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS theo Hiến
pháp 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014 với Hiến pháp năm 1992 và
Luật tổ chức VKSND năm 2002 có thay đổi nhưng không lớn.
Đối với điều tra tội phạm cũng có một số thay đổi đó là thẩm quyền
nhiệm vụ của VKS theo Luật Tổ chức VKSND năm 2014 trong điều tra tội
phạm cũng được mở rộng hơn so với Luật tổ chức VKSND 2002 cụ thể, theo
Luật tổ chức VKSND 2002 VKSND chỉ điều tra một số loại tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư
pháp còn theo Luật tổ chức VKSND 2014 VKSND thì Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương
điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức
vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội
là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân,
cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
Ngoài ra, theo tinh thần cải cách tư pháp và quy định Luật Tổ chức
VKSND năm 2014, VKS là cơ quan có trách nhiệm rất lớn trong công tác
phòng, chống tội phạm. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của VKS
trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, giam, giữ, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt do các cơ quan tư pháp tổ chức thực hiện. Như vậy, có thể kết luận
rằng đây là lần thay đổi về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của VKS lớn nhất kể từ khi thành lập cho đến nay đồng thời cũng là lần đầu tiên
phân biệt rõ ràng, cụ thể công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
56
2.3. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
2.3.1. Những quy định về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Điều 107 Hiến pháp năm năm 2013 quy định chức năng VKSND:
“VKSND thực hành tối cao THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp” [37].
Như vậy, so với quy định của Hiến pháp năm 1980 thì chức năng của
VKS có sự điều chỉnh theo hướng xác định chức năng THQCT là trọng tâm
đồng thời thu hẹp phạm vi chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Theo
quy định, VKSND không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội nữa mà tập trung kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Hiến pháp năm 2013 cũng không quy định cụ thể nhiệm
vụ của VKSND tối cao và VKSND các địa phương như quy định trong Hiến
pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001.
Trong giai đoạn đất nước thực hiện đổi mới, cùng với bộ máy nhà nước
nói chung thì VKS cũng phải nhanh chóng hoàn thiện tổ chức bộ máy, chức
năng nhiệm vụ để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Điều 107 Hiến pháp
năm 2013 quy định ba nhiệm vụ chung của VKSND: “VKSND có nhiệm vụ
bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất” [37]. Hiến pháp với tư cách là đạo luật tối cao, đạo luật gốc nên không
quy định những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của VKS khi thực hiện chức
năng của mình. Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định cụ thể nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS và được thể hiện như sau:
2.3.1.1. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực hình sự
Theo quy định Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Bộ luật TTHS năm
2015, trong giai đoạn điều tra, VKS có trách nhiệm THQCT và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự:
57
VKS THQCT trong TTHS:
Theo khoản 1 Điều 23 BLTTHS quy định: “VKS THQCT trong TTHS,
quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án” [39]. Theo đó, trong
quá trình tiến hành tố tụng vụ án hình sự VKS căn cứ theo quy định của pháp
luật để ban hành các quyết định thể hiện tính quyền lực của nhà nước như:
Quyết định phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; Quyết định trả tự do; Quyết định
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; Quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam
(bắt bị can tạm giam); Quyết định truy tố (Cáo trạng); Quyết định thay đổi
biện pháp ngăn chặn; Quyết định kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm; Kiến nghị….nhằm mục đích truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để
xét xử theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở đó, BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của KSV- VKSND: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và
việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; Đề ra yêu cầu điều tra; Triệu tập và
hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án; Kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam; Tham gia phiên toà; đọc cáo
trạng, quyết định của VKS liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra
chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ
án, tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà; Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những người tham
gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án; Kiểm sát việc thi
hành bản án, quyết định của Toà án… nhằm xử lý tội phạm kịp thời, đúng
người ,đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS:
Theo khoản 2 Điều 23 BLTTHS quy định: “VKS kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong TTHS có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp
58
luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc
vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này”[39]. Theo đó, trong
quá trình tiến hành tố tụng VKS còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm
sát hoạt động tư pháp) đối với Cơ quan tiến hành tố tụng; Người tiến hành tố
tụng; Người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành
thống nhất, không để cơ quan, cá nhân nào làm trái quy định của pháp luật,
gây oan sai cho người vô tội.
Theo khoản 3 Điều 23 BLTTHS quy định: “VKS THQCT và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTHS nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều
phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội”[39]. Theo đó, VKS THQCT phải gắn với
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS nhằm bảo đảm từ việc tiếp nhận
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Như vậy, theo khoản 3 Điều 23 BLTTHS VKS ngoài kiểm sát việc
tuân theo pháp luật đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng còn có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong lĩnh vực thi hành án.
Theo đó, trong quá trình tiến hành TTHS, VKS không thể tách rời hoạt
động THQCT với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ một cách độc lập mà hai chức năng đó phải thực hiện
song trùng và có sự tác động tương hỗ lẫn nhau. Chẳng hạn, Viện trưởng
VKSND quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn lệnh bắt
tạm giam đối với Nguyễn Văn A; phạm tội Giết người đúng người, đúng tội,
59
đúng pháp luật là kết quả KSV C THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc khởi tố, bắt tạm giam, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc
lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra một cách chặt chẽ, tuân thủ đúng pháp
luật. Nhờ đó, mọi hành vi phạm tội của A đã được phát hiện, xử lý kịp thời,
VKS phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn lệnh bắt tạm giam… đối
với A bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2.3.1.2. Hoạt động kiểm sát việc thi hành tạm giữ tạm giam và thi hành án
hình sự
Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự là một trong
những công tác quan trọng, thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
của VKS theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm: Việc tạm giữ, tạm giam,
thi hành án hình sự; chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục phạm
nhân; trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp hành, giảm
thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp
xử lý hành chính còn lại của Tòa án; quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi,
quyết định trái pháp luật trong tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự được
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật; Quyền con người và các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người chấp hành án
không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; Mọi vi phạm pháp
luật trong hoạt động tư pháp thuộc phạm vi điều chỉnh quy định của Luật tổ chức
VKSND phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Đối tượng của công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án
hình sự là việc tuân theo pháp luật của Tòa án; cơ quan quản lý tạm giữ, tạm
giam; cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam; cơ quan quản lý thi hành án hình
sự; cơ quan thi hành án hình sự; cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ
thi hành án hình sự; người có thẩm quyền và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan trong hoạt động tư pháp.
60
Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của VKSND bắt đầu từ khi
có việc đưa người bị tạm giữ, người bị tạm giam vào cơ sở giam giữ và kết
thúc khi chấm dứt việc tạm giữ, tạm giam.Công tác kiểm sát thi hành án hình
sự bắt đầu từ khi bản án, quyết định được thi hànhvà kết thúc khi chấm dứt
việc thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật.
Công tác kiểm sát việc xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp hành,
giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện
pháp xử lý hành chính còn lại của Tòa án bắt đầu từ khi VKS nhận được
thông báo thụ lý hồ sơ đề nghị và kết thúc khi quyết định hoãn, miễn, giảm,
tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý
hành chính còn lại của Tòa án có hiệu lực mà không có việc hủy bỏ quyết
định hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý
hành chính; đồng thời kiểm sát việc Tòa án gửi quyết định đó.
Khi thực hiện Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam VKSNDcó nhiệm vụ
quyền hạn sau: Trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam; hỏi người bị
tạm giữ, tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam; Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm
giam; Yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam tự kiểm tra việc
tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ, tài liệu
có liên quan đến việc tạm giữ, tạm giam; thông báo tình hình tạm giữ, tạm
giam; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong
việc tạm giữ, tạm giam; Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm
giam không có căn cứ và trái pháp luật; Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ
quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam đình chỉ việc thi
hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ,
tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi
phạm pháp luật; Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự
khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong tạm giữ, tạm giam theo quy
61
định của pháp luật;Giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn khác trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật.
Khi thực hiện kiểm sát việc thi hành án hình sự, VKSND có nhiệm vụ,
quyền hạn như sau: Yêu cầu Tòa án ra quyết định thi hành án hình sự; yêu cầu
Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm
vụ thi hành án hình sự tự kiểm tra việc thi hành án hình sự và thông báo kết
quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án
hình sự; Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án hình sự; kiểm sát hồ sơ thi hành
án hình sự. VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp kiểm sát
việc thi hành án phạt tù của trại giam đóng tại địa phương; Quyết định trả tự
do ngay cho người đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái pháp
luật; Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án; tham gia việc
xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án, chấp hành biện pháp tư pháp, rút ngắn
thời gian thử thách; Kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của
cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành án hình sự; Kiến nghị, yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp luật trong
thi hành án hình sự; xử lý nghiêm minh người vi phạm; Khởi tố hoặc yêu cầu
Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội
phạm trong thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật;Thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát thi hành án hình sự theo quy định của pháp
luật về thi hành án hình sự.
2.3.1.3.Hoạt động của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc giải quyết vụ án hành
chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động và những việc khác
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND; nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc
62
khác theo quy định của pháp luật được quy định tại Điều 4 và Điều 27
của Luật tổ chức VKSND năm 2014. Theo quy định của pháp luật hiện hành,
VKSND không THQCT, không khởi tố vụ án dân sự, không chủ trì thực hiện
bất kỳ một giai đoạn tố tụng dân sự nào như TAND (cụ thể: thụ lý vụ án,
lập hồ sơ vụ án, thu thập chứng cứ, hòa giải, ra các quyết định tạm đình chỉ,
đình chỉ việc giải quyết vụ án, trưng cầu giám định…), mà chỉ kiểm sát hoạt
động tư pháp trong tố tụng dân sự, thể hiện rõ được cơ chế phân công, phối
hợp, kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp năm 2013 giữa TAND và VKSND.
Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về vị trí, vai trò của VKS
trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự như sau:
- VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm
bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
- VKS tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên
tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc
đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất,
nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của
Bộ luật này.
- VKS tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
- VKSND tối cao chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn thi hành Điều này.
Cụ thể, vai trò của VKSND được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự
2015 bao gồm:
- Việc tham gia phiên tòa, phiên họp: VKS tham gia các phiên họp sơ
thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa
63
án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi
ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
- Việc phát biểu ý kiến của VKSND tại phiên tòa, phiên họp sơ
thẩm: Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp
xong, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm
phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Trong phiên họp giải quyết việc dân sự, điểm g) Khoản 1 Điều 369 Bộ
luật tố tụng dân sự 2015 cũng quy định rõ “KSV phát biểu ý kiến của VKS về
việc giải quyết việc dân sự”[40].
Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, phiên họp, KSV phải gửi bản phát
biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ việc.
-Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát: KSV có
nhiệm vụ, quyền hạn “nghiên cứu hồ sơ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh,
thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của
Bộ luật này; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của
Bộ luật này”[40];
VKS thu thập tài liệu, chứng cứ để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trong quá trình giải quyết đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, người có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (trong đó có Viện trưởng
VKSND tối cao và viện trưởng VKSND cấp cao) có quyền yêu cầu người có
đơn bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình kiểm tra, xác minh tài liệu, chứng
cứ cần thiết.
64
- Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện trưởng
VKSND.
Viện trưởng VKSND tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân
dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét
thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán tòa án
nhân dân tối cao.
Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
2.3.1.4.Hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu
nại tố cáo trong hoạt động tư pháp củaViện kiểm sát nhân dân
Trong TTHS, VKS có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra, Tòa án cùng
cấp hoặc cấp dưới, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra:
+ Ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định tại Chương này;
+ Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình và cấp dưới;
thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát;
+ Cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo cho Viện kiểm sát.
VKS trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Cơ quan
điều tra, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát
biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật VKS có quyền yêu cầu,
65
kiến nghị đối với Tòa án cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân
có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng
pháp luật.
2.3.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
* Trong công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh
vực hình sự
Theo quy định của Luật tổ chức VKSND và Bộ luật TTHS năm 2015,
trong lĩnh vực hình sự thì VKS có trách nhiệm THQCT và kiểm sát điều tra, kiểm
sát xét xử các vụ án hình sự . Đối tượng của hoạt động kiểm sát trong giai đoạn
này chính là việc tuân theo pháp luật trong điều tra của các Cơ quan điều tra và
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng
như việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử.
Với trách nhiệm đã được giao, VKS các cấp phải luôn luôn đảm bảo
cho việc điều tra, truy tố nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, không bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Trong giai đoạn điều tra, để thực hiện tốt chức năng của mình thì VKS
đã luôn giữ vai trò chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan ngay từ đầu
và trong suốt quá trình điều tra nhằm đạt hiệu quả cao nhất. VKS các cấp cử
người trực tiếp hoặc mở hòm thư tin báo, tố giác tội phạm; thực hiện nghiêm
túc việc mở sổ theo dõi và thực hiện nghiêm chế độ báo cáo. Ngoài việc đổi
mới công tác tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm,
VKS các cấp đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong
việc quản lý và xử lý tin báo, tố giác tội phạm nhằm đảm bảo chống bỏ lọt tội
phạm ngay từ khâu tiếp nhận, phân loại và xử lý tin báo tố giác. Đặc biệt theo
Nghị quyết 32 của Quốc hội, VKS đã kiểm sát 100% tin báo, tố giác tội phạm
của Cơ quan điều tra tiếp nhận và các nơi khác gửi đến, phân công KSV kiểm
sát ngay từ đầu. Thông qua công tác này, hàng năm ngành kiểm sát đã trực
66
tiếp khởi tố và yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố điều tra nhiều vụ án. Theo số
liệu của ngành Kiểm sát, từ năm 2013 đến năm 2018 toàn ngành yêu cầu Cơ
quan điều tra khởi tố 1.451 vụ án; trực tiếp khởi tố yêu cầu Cơ quan điều tra
điều tra 151 vụ án; hủy bỏ 259 quyết định khởi tố vụ án của cơ quan điều tra
không có căn cứ [62].
Trong những năm qua, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật tiếp tục
diễn biến phức tạp, số lượng các vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của VKS
liên tục gia tăng. Trong quá trình THQCT, kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự, VKS các cấp chủ động kiểm sát việc khởi tố và kiểm sát quá trình điều tra
vụ án nên chất lượng được nâng lên. Theo Báo cáo 5 năm thực hiện Luật tổ
chức VKSND năm 2014, VKS các cấp đã quyết định hủy bỏ 278 quyết định
khởi tố vụ án, 78 quyết định không khởi tố vụ án không đúng của Cơ quan
điều tra [65].
VKS các cấp THQCT và kiểm sát xét xử đối với 76.772 vụ án theo thủ
tục sơ thẩm(tăng 2,2%), 17.585 vụ án theo thủ tục phúc thẩm(tăng 5,85%),
299 vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Qua công tác THQCT và
kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, VKS các cấp đã ban hành 1.142 kháng nghị
bản án theo thủ tục phúc thẩm, số bị cáo VKS kháng nghị phúc thẩm được
Tòa án chấp nhận, đạt 71,9%& tăng 2,8%. Ban bành 362 kiến nghị yêu cầu
khắc phục vi phạm trong hoạt động xét xử hình sự, 71 kiến nghị phòng ngừa
vi phạm và tội phạm; tổng hợp, ban hành 495 thông báo rút kinh nghiệm về
nghiệp vụ [62].
Tuy nhiên, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song phải nghiêm túc nhìn
nhận để thấy rằng trong TTHS, tình trạng bỏ lọt tội phạm trong các lĩnh vực
đang diễn ra khá phổ biến; thời hạn giải quyết nhiều vụ án còn kéo dài.
Việc quản lý và xử lý tin báo còn có hạn chế. VKS các cấp chưa nắm
đầy đủ, kịp thời số lượng các tin báo, tố giác tội phạm của Cơ quan điều tra
67
dẫn đến chưa phản ánh được thực trạng của tình hình tội phạm cả về số lượng
và cơ cấu. VKSND các cấp chưa thực hiện đầy đủ thẩm quyền, trách nhiệm
của mình trong hoạt động điều tra tội phạm của Cơ quan điều tra. Hiệu quả
hoạt động điều tra tội phạm của Cơ quan điều tra thuộc VKSND tối cao chưa
tương xứng với thực trạng tội phạm xảy ra.
Công tác kiểm sát điều tra ngay từ đầu chưa được các KSV chú trọng
dẫn đến chưa bám sát được quá trình điều tra, Tình trạng trả hồ sơ để điều tra
bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tuy có giảm nhưng vẫn còn nhiều,
nhất là ở cấp Trung ương, trong đó có trách nhiệm của Viện kiểm sát
Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, hành
chính, thi hành án dân sự, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
một thời gian dài có phần bị xem nhẹ, tuy những năm qua VKSND các cấp có
tăng cường hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác quản lý, chỉ đạo,
điều hành của lãnh đạo VKSND ở một số địa phương, đơn vị vẫn còn theo lối
cũ, thiếu sự nhạy bén, không kịp thời.
Những tồn tại trên do nhiều nguyên nhân, trước hết là do ý thức trách
nhiệm của một bộ phận cán bộ, KSV chưa cao; năng lực, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu, công tác phối hợp giữa VKS các cấp
với các cơ quan tiến hành tố tụng ở nhiều nơi chưa chặt chẽ. Mặt khác, do có
những thay đổi về chính sách kinh tế và cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị
trường, hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện, các văn bản hướng dẫn áp dụng
pháp luật liên quan đến các hoạt động tư pháp chưa được rà soát để sửa đổi,
bổ sung và ban hành mới kịp thời; cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện
làm việc và phục vụ yêu cầu công tác của nhiều VKS địa phương chưa đáp
ứng yêu cầu của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao… Điều này đã
hạn chế đến chất lượng và hiệu quả công tác của Viện kiểm sát. Thực trạng
hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của VKSND so với mục tiêu cải
68
cách tư pháp mà các Nghị quyết của Đảng cũng như quy định của các văn bản
pháp luật mới ban hành đòi hỏi chúng ta phải có sự đổi mới sâu sắc, toàn diện
về nhận thức cũng như cách thức tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ
trong giai đoạn tới.
* Trong công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục
người chấp hành án phạt tù.
Trong những năm qua, công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản
lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù đã thực hiện khá tốt, đảm bảo đúng
quy định của pháp luật về chế độ, chính sách. VKS các cấp quan tâm và chủ
động tăng cường công tác kiểm sát ngay từ đầu, nên có nhiều chuyển biến tích
cực. Tình trạng lạm dụng việc bắt khẩn cấp, khởi tố rồi sau đó đình chủ vụ án
và giam giữ quá hạn đã giảm rõ rệt; việc giam giữ trái pháp luật được giải
quyết kịp thời, thường xuyên; VKS các cấp đã phát huy quyền hạn của mình
trong việc ra quyết định trả tự do cho những người bị tạm giữ trái pháp luật và
không có căn cứ. VKS các cấp tăng cường kiểm sát thường kỳ và bất thường
tại nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam nên đã kịp thời phát hiện nhiều vi
phạm pháp luật. Chỉ tính riêng trong 6 năm (2013 – 2018) toàn ngành đã tiến
hành kiểm sát 20.027 lần nhà tạm giữ, 1.427 lần trại tạm giam, trại giam.
Theo đó, năm 2018VKS các cấp đã ban hành 2.991 kháng nghị, kiến nghị yêu
cầu cơ quan quản lý nhà tạm giữ, trại tạm giam khắc phục vi phạm pháp luật
trong công tác này và quyết định trả tự do cho 43 người có mức án tù bằng
thời hạn tạm giam [62].
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn xảy ra tình trạng vi phạm
pháp luật trong việc bắt, tạm giữ hình sự; việc tạm giam kéo dài quá hạn luật
định. Việc tạm giam, tạm giữ sau đó phải trả tự do có giảm nhưng vẫn chưa
nhiều.Chất lượng phê chuẩn tạm giữ, tạm giam còn nhiều hạn chế, dẫn đến
nhiều trường hợp không cần thiết tạm giam cũng tạm giam, sau đó phải đình
chỉ điều tra, tạm giam nhưng Tòa án không phạt tù giam.
69
* Trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, các vụ án
hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật
- Kiểm sát việc giải quyết các vụ việc về dân sự, hôn nhân và gia đình:
Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS
năm 2011 thì VKSND được bổ sung thẩm quyền trực tiếp tham gia phiên tòa
trong các vụ án dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động và hôn nhân gia
đình trong 04 trường hợp. Quy định này tiếp tục được BLTTHS 2015 ghi
nhận. Do đó, kết quả giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao
động và hôn nhân gia đình của VKSND các cấp đã đạt kết quả tốt. Qua hoạt
động kiểm sát đã phát hiện nhiều vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết
vụ việc của Toà án. Trong năm 2018 tổng hợp kết quả từ các báo cáo công tác
kháng nghị phúc thẩm các bản án, quyết định vụ án hành chính, vụ việc dân
sự và hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, phá sản và xem
xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân của
Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã ban hành tổng số kháng nghị Viện kiểm
sát đã ban hành theo thủ tục phúc thẩm: 914 kháng nghị (dân sự: 747; hành
chính: 67; kinh tế: 91; lao động: 0), trong đó: Số kháng nghị của Viện kiểm
sát cùng cấp đã ban hành theo thủ tục phúc thẩm: 510 kháng nghị, chiếm
55,80%; Số kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp đã ban hành theo
thủ tục phúc thẩm: 404 kháng nghị, chiếm 44,20%; Tổng số kháng nghị của
Viện kiểm sát theo thủ tục phúc thẩm được chấp nhận: 537/686 kháng nghị đã
được xét xử (đạt tỷ lệ 78,28%); Số kháng nghị đã được xét xử này bao gồm cả
kháng nghị cũ, trong đó: Số kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp theo thủ
tục phúc thẩm được chấp nhận: 291/359 kháng nghị đã được xét xử (đạt tỷ lệ
81,06%). Số kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp theo thủ tục phúc
thẩm được chấp nhận: 246/327 kháng nghị đã được xét xử (đạt tỷ lệ 75,23%).
Số kháng nghị của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận sửa án là
364/1.259 bản án, quyết định của Tòa án bị Hội đồng xét xử sửa án (chiếm tỷ
70
lệ 28,91%). Số kháng nghị của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp
nhận hủy án 172/541 bản án, quyết định của Tòa án bị Hội đồng xét xử hủy
án (chiếm tỷ lệ 31,79%) [66].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn tồn tại một số
hạn chế như: tình trạng thụ lý sai của Tòa án nhiều địa phương vẫn chưa được
phát hiện kịp thời, phải qua nhiều cấp mới phát hiện được; tình trạng vi phạm
pháp luật của Thẩm phán vẫn còn nhiều như vi phạm về trình tự, thủ tục hòa
giải, tỷ lệ án sửa, hủy còn nhiều dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân chưa được bảo đảm.
Đội ngũ Kiểm sát viên, Kiểm tra viên được phân công thực hiện nhiệm
vụ công tác này còn thiếu, đa số chưa có kinh nghiệm và phải kiêm nhiệm
nhiều công tác. Vẫn còn có Viện kiểm sát chưa bố trí đủ Kiểm sát viên để
tham gia phiên tòa, phiên họp theo quy định của pháp luật. Một số Kiểm sát
viên yếu về năng lực, trình độ nghiệp vụ dẫn đến việc nghiên cứu các vụ án
chưa sâu, khi tham gia phiên tòa và kiểm sát bản án, quyết định thiếu chặt
chẽ, chưa kịp thời phát hiện vi phạm của Tòa án để kiến nghị, ban hành kháng
nghị hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp có thẩm quyền kháng nghị. Do đó, còn
tình trạng án hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan của cấp sơ thẩm và có trách
nhiệm của Viện kiểm sát; số lượng kháng nghị so với số bản án, quyết định
mà Tòa án cấp phúc thẩm xử hủy, sửa án chiếm tỷ lệ thấp.
Việc Tòa án vi phạm thời hạn gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát
cùng cấp khá phổ biến ở các địa phương, đồng thời một số Viện kiểm sát cấp
dưới gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát cấp trên còn chậm nên ảnh
hưởng đến việc phát hiện vi phạm và thực hiện quyền kháng nghị.
Hiện nay, việc bố trí vị trí chỗ ngồi của Kiểm sát viên tại Tòa không
đảm bảo an toàn cho Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa giải quyết các vụ
án hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động.
Điều này xuất phát từ các nguyên nhân sau đây:
71
- Về tổ chức, bộ máy trong toàn ngành của khâu công tác kiểm sát giải
quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động
và những việc khác theo quy định của pháp luật hiện vẫn còn phòng ghép ở
một số Viện kiểm sát địa phương (phòng 9 và phòng 10) nên thiếu tính
chuyên sâu.
Việc bố trí Kiểm sát viên, Kiểm tra viên cho khâu công tác này chưa
đảm bảo về số lượng (do thường xuyên bị luân chuyển, không ổn định) và
chất lượng (vì phần lớn là Kiểm sát viên mới được bổ nhiệm, thiếu kinh
nghiệm và kỹ năng kiểm sát). Một số Kiểm sát viên, Kiểm tra viên chưa tích
cực học tập, đầu tư thời gian nghiên cứu để tích lũy kinh nghiệm.
Các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao
động… ngày càng tăng với tính chất phức tạp. Trong khi đó hệ thống văn bản
pháp luật liên quan đến công tác này rất nhiều, thường xuyên thay đổi. Một số
quy định chồng chéo, mẫu thuẫn, chậm sửa đổi, bổ sung dẫn tới nhận thức và
vận dụng không thống nhất.
Các quy định của pháp luật tố tụng hành chính và tố tụng dân sự chưa
cụ thể hóa chế tài bảo đảm để Viện kiểm sát thực hiện các quyền như: Viện
kiểm sát không được tiếp cận tài liệu, hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử;
Việc kháng nghị của Viện kiểm sát chủ yếu dựa vào công tác kiểm sát bản án,
quyết định, trong khi đó do Tòa án vi phạm thời hạn gửi bản án, quyết định
cho Viện kiểm sát dẫn đến khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án thì
đã hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm; Thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm là quá ngắn, nhất là đối với những vụ án theo quy định Viện kiểm sát
không tham gia phiên tòa, Viện kiểm sát không đủ thời gian để xác minh, thu
thập chứng cứ; Việc kiểm sát biên bản tại phiên tòa là cần thiết nhưng việc
thực hiện còn mang tính hình thức và khó khăn, một số vụ án Kiểm sát viên
phát hiện vi phạm khi tham gia phiên tòa, sau đó Viện kiểm sát thực hiện
72
quyền kháng nghị, tuy nhiên biên bản phiên tòa lại không thể hiện nội dung vi
phạm đó; Nhiều trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có dấu hiệu vi phạm, yêu
cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án nhưng Tòa án không thực hiện hay thực hiện
chậm trễ; Hoặc đối với Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân mặc dù phát hiện vi phạm dẫn đến
hủy quyết định nhưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh không có thẩm quyền
kháng nghị. Do đó, Viện kiểm sát không thể thực hiện quyền kháng nghị,
không bảo vệ được kháng nghị.
* Về công tác kiểm sát việc thi hành án
VKS các cấp đã tăng cường kiểm sát việc tổ chức thi hành bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án trên cả lĩnh vực thi hành án hình
sự và thi hành án dân sự.
VKSND tối cao phối hợp với các ngành đề ra kế hoạch rà soát, phân
loại và kiến nghị giải pháp khắc phục một cách cơ bản các bản án, quyết định
về hình sự đã có hiệu lực, nhưng chưa được thi hành; chỉ đạo các cơ quan tư
pháp địa phương tiến hành nắm chắc số bị án bị phạt tù, án đã có hiệu lực,
nhất là số trốn, có biện pháp bắt để thi hành án kịp thời. VKS các cấp đã ban
hành nhiều kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu Toà án kịp thời ra quyết định thi
hành án; từ năm 2013 đến năm 2018VKS các cấp đã kháng nghị, kiến nghị
4.740 trường hợp; VKS các cấp yêu cầu Tòa án ra 1087 quyết định thi hành
án, yêu cầu cơ quan công an ra 279 quyết định truy nã và yêu cầu áp giải 1861
bị án. VKS các cấp đã ban hành 3.633 kiến nghị, kháng nghị yêu cầu các cơ
quan có liên quan khắc phục vi phạm nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi
hành án hình sự.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, trực tiếp kiểm sát tại 3.448 Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn trong việc thi hành án dân sự đối với loại vụ
việc không quá 500.000 đồng. Kết quả công tác kiểm sát thi hành án dân sự
73
đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành án, giảm đáng kể số
lượng án dân sự tồn đọng chưa được thi hành. So sánh kết quả năm 2017 với
năm 2018 cho thấy, năm 2012 số lượng án đã được thi hành chỉ đạt tỷ lệ
54,3% so với số lượng án phải thi hành, thì đến năm 2018 số lượng án đã
được thi hành đã tăng đạt tỷ lệ 58 % so với số lượng án phải thi hành. Từ năm
2013 đến năm 2018, VKS các cấp đã kiểm sát 2.993.639 số vụ việc thi hành
án dân sự; đã ban hành 2.241 kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục vi
phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự [62].
* Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp
Từ năm 2013 đến năm 2018, VKSND các cấp đã tiếp nhận và giải
quyết 74.326 vụ việc. Chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo của VKS ngày
càng được nâng cao, có nhiều vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài đã được giải
quyết. Tất cả các đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến cán
bộ kiểm sát đều được xem xét, xác minh, kết luận, xử lý theo đúng quy định
của pháp luật.
Từ năm 2013 đến năm 2018, VKS các cấp đã trực tiếp kiểm sát lượt tại
các cơ quan tư pháp, qua đó đã ban hành 1.160 kiến nghị, kháng nghị yêu cầu
các cơ quan có liên quan khắc phục vi phạm; đã kiểm sát việc giải quyết
6.846 vụ việc cụ thể của các cơ quan tư pháp. Qua công tác kiểm sát, VKS đã
phát hiện những vi phạm, tồn tại trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về
hoạt động tư pháp của một số cơ quan tư pháp như: việc phân loại đơn không
chính xác dẫn đến giải quyết sai thẩm quyền; sổ sách thụ lý không bảo đảm
theo đúng quy định của pháp luật; một số cơ quan không bố trí nơi tiếp công
dân độc lập; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo không lập hồ sơ; thời hạn giải
quyết đơn kéo dài so với quy định của pháp luật… VKS các cấp đã kiến nghị,
kháng nghị yêu cầu các cơ quan liên quan khắc phục vi phạm và cũng đã tiến
74
hành phúc tra việc thực hiện kháng nghị, kiến nghị mà VKS đã ban hành.
Bên cạnh đó thì công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền
của VKS và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp
của các cơ quan tư pháp còn có mặt hạn chế. Một số vụ khiếu nại phức tạp,
kéo dài, chậm được giải quyết dứt điểm. Công tác quản lý, rèn luyện cán bộ
có nơi, có lúc chưa tốt dẫn đến một số cán bộ mắc sai phạm phải bị xử lý.
2.4. Những điểm tích cực, hạn chế và những vấn đề đặt ra
2.4.1. Những điểm tích cực trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
Thứ nhất, hệ thống VKSND được sửa đổi phù hợp với chủ trương cải
cách tư pháp
Hiến pháp năm 2013 quy định hệ thống VKS gồm: "VKSND tối
cao, VKSND địa phương, các VKS quân sự”. Quy định này là nhằm xác định
hệ thống VKS được tổ chức theo địa giới hành chính từ Trung ương xuống
địa phương. Như vậy, ở Trung ương có VKSND tối cao, VKSND cấp cao; ở
địa phương tương ứng với đơn vị hành chính cấp huyện hoặc cấp tỉnh thì có
VKS cấp huyện hoặc VKS cấp tỉnh. Bên cạnh đó, còn có các VKS quân sự
cũng được tổ chức thành ba cấp gồm VKS quân sự Trung ương, VKS quân sự
quân khu và VKS quân sự khu vực. Việc tổ chức hệ thống VKSND theo địa
giới hành chính ra đời từ khi luật Tổ chức VKSND năm 1960 được ban hành.
Hiến pháp năm 2013 quy định tại Khoản 2 Điều 107 "VKSND gồm
VKSND tối cao và các VKS khác do Luật định”[37]. Quy định này có ý
nghĩamở đường thực hiện chủ trương tổ chức lại hệ thống VKS tương ứng hệ
thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực), không tương ứng với
chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm nguyên tắc độc lập
của Tòa án. Đây là quy định "mở” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho VKSND
thực hiện việc kiện toàn bộ máy tổ chức và hoạt động, đặc biệt khi mô hình tổ
chức bộ máy đang được xây dựng trong giai đoạn hiện nay. Như vậy, quy
75
định này mang tính tùy nghi thuận tiện cho xây dựng mô hình hệ thống
VKSND, việc kiện toàn hệ thống VKSND sẽ được cụ thể hóa trong Luật Tổ
chức VKSND sửa đổi, bổ sung sắp tới, trên cơ sở định hướng của Đảng và
Nhà nước về cải cách tư pháp. Định hướng đó được cụ thể hóa tại Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 và Kết Luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ
Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, VKS và Cơ quan
Điều tra theo Nghị quyết 49, đã xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét
xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, đồng thời VKS được tổ chức phù
hợp với hệ thống tổ chức Tòa án.
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì hệ thống VKS
được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án theo cấp xét xử không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Do đó, Luật Tổ chức VKSND sẽ được sửa
đổi theo hướng quy định về tổ chức VKS theo bốn cấp tương ứng với bốn cấp
của Tòa án, cụ thể là:
- VKSND cấp huyện;
- VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- VKSND cấp cao;
- VKSND tối cao.
Như vậy, tổ chức VKS theo bốn cấp nêu trên thì chỉ có VKSND cấp
tỉnh và huyện là gắn với đơn vị hành chính cấp tỉnh và huyện, còn VKSND
cấp cao không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Theo đó, đây cũng là những
yếu tố để đảm bảo cho tính khả thi của nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật và nguyên tắc khi THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp, KSV tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND.
Thứ hai,về nhiệm vụ của VKSND được quy định đầy đủ hơn, phạm vi
rộng hơn.
76
Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ của VKSND tối cao tại Điều
107: Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.Tuy nhiên, xuất phát từ
cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của VKSND khi thực hiện chức
năng, nhiệm vụ cho thấy ngoài nhiệm vụ như đã quy định trong Hiến pháp
2013, thì VKSND còn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân. Bởi lẽ, cụ thể hóa chức năng cơ bản của VKSND
thành những nhiệm vụ qua từng công tác kiểm sát nhằm mục đích giám sát
hoạt động tư pháp chính là hoạt động bảo vệ pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất; qua đó bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong lĩnh vực tư pháp tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm và của cơ quan nhà
nước khác; đồng thời bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân khi họ bị xâm hại.
Trên cơ sở đó,Hiến pháp năm 2013 đã quy định một cách đầy đủ và
hoàn thiện nhiệm vụ của VKSND cụ thể như sau: "VKSND có nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật,bảo vệquyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất” (Khoản 3 Điều 107) [37]. Như vậy, bên cạnh những nhiệm vụ đã quy
định, Hiến pháp năm 2013 đã có quy định mới về nhiệm vụ của VKSND đó là
bảo vệ pháp luật, bảo vệquyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
VKSND thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật thông qua các hoạt động
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực chất chức năng THQCT và
77
kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là bảo vệ pháp luật, bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm cho mọi tội
phạm và vi phạm pháp luật đều được phát hiện, xử lý kịp thời, không để lọt
tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm việc giải
quyết các vụ án đúng pháp luật, nghiêm minh, đồng thời bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trên cơ sở
cụ thể hóa chức năng thành các nhiệm vụ, Hiến pháp năm 2013 đã quy định
VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đây là
một trong những nhiệm vụ quan trọng chứng minh sự tồn tại của cơ quan
VKSND trong bộ máy nhà nước là đúng đắn.
Bên cạnh đó, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân được
đặt ra là hết sức cần thiết. Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mới về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đặc biệt trong lĩnh
vực tư pháp Hiến pháp đã có những điều chỉnh quan trọng nhằm bảo đảm một
cách tối đa quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực này, cụ thể như:
- Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quyền con người, quyền công dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng”(Khoản 2 Điều 14) [37]. Hiến pháp năm 2013 quy định
rõ mọi biện pháp tố tụng có tính chất hạn chế quyền con người, quyền công
dân trong lĩnh vực tư pháp như: bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại,
điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác (Điều 21),
khám xét chỗ ở (Điều 22)… phải do luật định mà không quy định như Hiến
pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 (Điều 73) là theo quy định của
pháp luật. Đây là những quy định thể hiện sâu sắc tư tưởng pháp quyền, dân
chủ, ngăn ngừa sự cắt xén, xâm phạm quyền con người, quyền công dân từ
phía các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
78
- Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định ngay trong Hiến pháp,
tại Khoản 1 Điều 31 "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật” [37]. Khẳng định rõ tính công bằng, nhân đạo của pháp
luật XHCN. Bên cạnh đó, bổ sung quy định "Quyền được Tòa án xét xử kịp
thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai” (Khoản 2 Điều 31) [37].
Đây là yêu cầu hết sức cơ bản của nền tư pháp dân chủ, đòi hỏi việc sửa đổi
các luật tố tụng trong thời gian tới phải quy định cụ thể, minh bạch các thủ tục
nhằm tránh sự tùy tiện, lạm dụng để đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Đồng
thời, Hiến pháp mở rộng đối tượng được hưởng quyền bào chữa không chỉ
gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như hiện nay mà còn cả người bị bắt
(Khoản 4 Điều 31), quy định mới này sẽ tạo cơ sở để người bị bắt được đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp từ giai đoạn đầu của quá trình tố tụng
- Bổ sung nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 103).
Nguyên tắc này đòi hỏi có sự điều chỉnh cơ bản về quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể, chế định chứng cứ cũng như các thủ tục tố tụng để bảo đảm cho tranh
tụng được tiến hành có hiệu quả trên thực tiễn. Đặc biệt, qua đó bảo đảm một
cách toàn diện nhất về quyền của bị can, bị cáo, từ đó bị can, bị cáo và người
bào chữa có cơ sở pháp lý rõ ràng nhất để thực hiện quyền đưa ra chứng cứ
gỡ tội. Khi đó, tranh tụng phải trở thành quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia, mọi chứng cứ đưa ra phải có căn cứ pháp luật và phán quyết của Tòa phải
căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và những chứng cứ được kiểm
chứng tại phiên tòa. Vì vậy, có làm được điều đó mới bảo đảm được chất
lượng phiên tòa, bảo đảm chất lượng việc giải quyết vụ án, từ đó bảo đảm
được công lý, công minh của pháp luật, đồng thời cũng là bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp tố tụng.
79
Như vậy, nhiệm vụ của VKSND trong bảo vệ quyền con người, quyền
công dânphù hợp với chức năng được giao đảm nhiệm. Bởi lẽ, khi tiến hành
tố tụng, VKS không chỉ đóng vai trò của một bên (bên công tố, buộc tội) như
pháp luật một số nước, mà còn được giao trách nhiệm bảo đảm không bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô tội; không để người nào
bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, hạn chế các quyền công dân, bị xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm một cách trái
pháp luật.
Thứ ba, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND đã được hoàn
thiện hơn
Trên cơ sở tiếp tục khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS là THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
khẳng định nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, đồng thời
bổ sung nguyên tắc "khi THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, KSV tuân
theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND”. (Khoản 2 Điều
109) [37]. Đây là lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 ghi nhận nguyên tắc này
như một nguyên tắc hiến định đối với tổ chức và hoạt động của VKSND, bởi
nó có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của VKSND. Nguyên tắc này một mặt khẳng định nhằm đáp ứng yêu cầu
tăng tính độc lập, thẩm quyền cho KSV, ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật
của cá nhân, tổ chức vào hoạt động nghiệp vụ của KSV, đồng thời phù hợp
với nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát, bảo đảm
sự lãnh đạo của Viện trưởng VKS mỗi cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung
thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Để cụ thể nguyên tắc này mới
được quy định trong Hiến pháp năm 2013, ngành kiểm sát cần nhanh chóng
triển khai và thực hiện cơ chế phân cấp thẩm quyền tố tụng nhằm tăng sự chủ
động và đề cao trách nhiệm cho KSV khi thực thi công vụ, góp phần đẩy
nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Đặc biệt, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để
80
thực hiện việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức VKSND và Bộ luật TTHS sẽ
được ban hành trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành
theo Hiến pháp năm 2013 không quy định về y ban kiểm sát. Điều này
không có nghĩa là y ban kiểm sát không còn nữa, mà cơ chế của y ban
kiểm sát vẫn được xây dựng và quy định trong Luật tổ chức VKSND được
sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới. Tuy nhiên, sẽ có sự thay đổi cơ bản về
nhiệm vụ, quyền hạn của y ban kiểm sát trong hệ thống VKSND. Hiến pháp
năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã quy định " y ban kiểm sát có quyền
thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng”. Như vậy, Hiến
pháp năm 2013 đã không quy định về y ban kiểm sát, nhằm đề cao chế độ
thủ trưởng chế của hệ thống VKSND, khi đó y ban kiểm sát sẽ sửa đổi từ
chế độ làm việc tập thể và quyết định theo đa số sang chế độ tư vấn, giúp việc
cho Viện trưởng trong một số vấn đề quan trọng để đề cao nguyên tắc tập
trung thống nhất lãnh đạo trong ngành.
2.4.2. Những hạn chế tồn tại và nguyên nhân
- Theo quy định của pháp luật, VKSND có trách nhiệm tiếp nhận, quản
lý, kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố. Tuy nhiên, công tác quản lý, kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSNDcác cấp còn thụ động nên nguồn
tố giác, tin báo do VKS nắm được chủ yếu là do Cơ quan Cảnh sát điều tra
cung cấp, mà chưa có cơ chế tiếp nhận, quản lý tin báo, tố giác tội phạm ở các
cơ quan Nhà nước khác nên có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS không quản
lý được. Tình trạng xử lý các tố giác, tin báo tội phạm còn để kéo dài, không
xử lý dứt điểm, quá thời gian quy định.
- Về công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, một số KSV chưa
theo sát được tiến độ điều tra, chưa đề ra được yêu cầu điều tra một cách
thuyết phục, không phát hiện được các vi phạm của Điều tra viên trong các
81
hoạt động tố tụng để kiến nghị, yêu cầu khắc phục, sửa chữa vi phạm. Do
không theo sát tiến độ điều tra nên khi hồ sơ chuyển sang VKS truy tố mới phát
hiện thiếu sót, dẫn đến việc phải trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung. Một số
trường hợp, Cơ quan điều tra chậm ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can để
tiến hành điều tra dẫn đến việc đối tượng gây án bỏ trốn nên sau đó phải tạm
đình chỉ điều tra do hết thời hạn điều tra mà không bắt được bị can.
- Về công tác THQCT và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự: Kỹ năng
xây dựng bản cáo trạng, luận tội của KSV tại phiên tòa sơ thẩm; bài phát biểu
của VKS tại phiên tòa phúc thẩm còn thấp. Chưa chuẩn bị chu đáo đề cương
xét hỏi nên tại phiên tòa các câu hỏi của KSV không đi vào trọng tâm vụ án,
lan man, dài dòng, trùng lặp với Hội đồng xét xử. Khả năng tranh luận tại
phiên toà của đa số KSV chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư
pháp. Chất lượng công tác kiểm sát việc xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp
chưa cao nên không phát hiện được nhiều vi phạm để kiến nghị yêu cầu Tòa
án khắc phục, sữa chữa.
Kháng nghị phúc thẩm án hình sự là một trong những hoạt động thực
hiện chức năng THQCT của VKSND. Thực trạng xét xử sơ thẩm án hình sự
vẫn còn nhiều thiếu sót, tồn tại, vi phạm pháp luật cần phải được khắc phục
sửa chữa kịp thời, đảm bảo việc xét xử hình sự đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Tuy nhiên hiện nay chất lượng kháng nghị phúc thẩm của VKSND
hai cấp tỉnh Thừa Thiên Huế còn thấp, số lượng án bị kháng nghị chưa nhiều,
cá biệt có đơn vị trong thời gian khảo sát chưa kháng nghị được vụ nào.
- Về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao
động và những việc khác theo quy định của pháp luật: Nhìn chung, chất lượng
và hiệu quả của khâu công tác này là khá thấp, thông thường chỉ phát hiện
được các vi phạm về mặt hình thức của bản án và quyết định của Tòa án, còn
nội dung vụ án thì không phát hiện được để ban hành kiến nghị, kháng nghị.
82
- Về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục
người chấp hành án phạt tù, công tác kiểm sát thi hành án: Một số bộ phận
KSV chưa thường xuyên theo sát việc ra quyết định của các cơ quan Tòa án,
thi hành án nên chậm phát hiện các vi phạm để kịp thời kiến nghị, kháng nghị
nên chất lượng và hiệu quả của khâu công tác này chưa được nâng cao. Cá
biệt có VKSND cấp huyện còn có tình trạng nể nang, né tránh không đưa vào
kết luận kiểm sát những vi phạm đã được phát hiện để kháng nghị.
Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, tuy nhiên có thể kể đến
một số nguyên nhân chính như sau:
- Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện: Hiến pháp 2013 và các văn bản quy
phạm pháp luật khác về cơ bản đã quy định tương đối đầy đủ chức năng, nhiệm
vụ đảm bảo cho hoạt động của ngành Kiểm sát. Tuy nhiên, còn một số vấn đề về
vị trí, tính độc lập của VKS đối với Tòa án, về cơ cấu tổ chức và hoạt động của
VKS và chế định Kiểm sát viên vẫn còn chưa được quy định cụ thể.
- Chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên, nhất là Kiểm sát viên cấp huyện do
còn phải kiêm nhiệm nhiều công tác nên chất lượng kiểm sát chưa được cao.
- Dù VKSND có tính độc lập, tuy nhiên theo quy định về việc giám sát
của Đảng và các cơ quan dân cử, các cơ quan này vẫn có ảnh hưởng đến
VKSND nên trong quá trình hoạt động vẫn còn nhiều hạn chế.
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động của ngành Kiểm sát
còn hạn chế, chưa được đầy đủ nên ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt
động của ngành chưa đáp ứng nhu cầu so với tình hình mới.
Từ thực trạng cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND như đã phân
tích, để thực hiện đúng chủ trương của Đảng trong việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính tiến tới hoàn thiện bộ máy
nhà nước, cần thiết phải có những phương hướng và giải pháp để đổi mới cơ
cấu tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai đoạn hiện nay và các năm
tiếp theo.
83
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
3.1. Phương hướng đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND trong
giai đoạn hiện nay
Việc đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND phải dựa trên
các quan điểm, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước
pháp quyền, nhất là sự phân công, kiểm soát quyền lực trong hoạt động tư
pháp. Đảm bảo cho VKSND thực hiện đúng, đầu đủ và có chất lượng chức
năng, nhiệm vụ.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đúc rút những bài học kinh nghiệm, kế
thừa những kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại hạn chế, từng bước
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ Đảng và Nhà nước đã giao.
Việc đổi mới nhằm hoàn thiện về tổ chức, chuyên môn hóa từng khâu
công tác, thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của ngành, xây dựng ngành Kiểm
sát trong sạch, vững mạnh, là công cụ bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ
pháp chế XHCN.
Việc đổi mới phải đảm bảo từng lộ trình hợp lý phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của đất nước nói chung và ngành Kiểm sát nói riêng, ngày càng
khẳng định vị thế của ngành Kiểm sát trong hệ thống bộ máy nhà nước.
3.2. Các giải pháp nhằm đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND
trong giai đoạn hiện nay
3.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Thứ nhất, sửa đổi quy định của Điều 107 Hiến pháp về Viện kiểm sát
Quy định VKSNDTHQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp tại Hiến pháp
2013 cơ bản đã phản ánh đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Tuy vậy,
84
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2, Kết luận Hội nghị lần thứ năm, Ban
Chấp hành T.Ư Ðảng khóa XI "Những vấn đề về vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan nhà nước cần quy định rõ trong Hiến pháp" [12]
thì cũng còn một số nhiệm vụ chưa được quy định. Theo Luật Tổ chức
VKSND năm 2014, Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, Luật Tương trợ tư pháp
và một số đạo luật khác, VKSND được giao thực hiện những nhiệm vụ như:
làm đầu mối tương trợ tư pháp về hình sự; dẫn độ; chuyển giao người đang
chấp hành hình phạt tù; thống kê tội phạm liên ngành, v.v. Những nhiệm vụ
này không thuộc phạm vi chức năng THQCT, cũng không thuộc chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp nhưng do VKS là cơ quan tiến hành tố tụng
duy nhất tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng (từ khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án), có điều kiện tốt nhất để thực hiện các nhiệm vụ này nên
Quốc hội quyết định giao cho VKS thực hiện. Nhằm thể chế hóa đầy đủ yêu
cầu của Nghị quyết Trung ương 2, Kết luận Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp
hành T.Ư 2 Ðảng khóa XI và phù hợp các nhiệm vụ VKSND đang được Quốc
hội giao đảm nhiệm, đề nghị sửa đổi quy định của Điều 107 Hiến pháp 2013
như sau: "VKSNDTHQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hiện những
nhiệm vụ khác do luật định"[37]. Việc bổ sung quy định nêu trên chính là
nhằm bảo đảm tính hợp hiến của các đạo luật do Quốc hội ban hành liên quan
đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND, đồng thời, tránh những
nhận thức thiếu thống nhất trong quá trình xây dựng các dự án luật thuộc lĩnh
vực tư pháp thời gian tới.
Nghiên cứu về lâu dài sửa đổi quy định về VKSND trong Hiến pháp
năm 2013. Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, Hiến pháp bao giờ
cũng được xem là đạo luật gốc. Luật hiến pháp xác lập những nguyên tắc cơ
bản làm cơ sở để xây dựng các ngành luật khác.Ví dụ: Luật hiến pháp quy
định cơ cấu tổ chức, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan
85
hành chính nhà nước, xác định mối quan hệ cơ bản giữa công dân và các cơ
quan nhà nước... Luật Hiến pháp quy định cả trình tự thông qua, sửa đổi, bãi
bỏ quy phạm của các ngành luật khác. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
ngành luật Hiến pháp giữ vị trí chủ đạo. Vị trí chủ đạo của ngành luật Hiến
pháp được xác định bởi đối tượng đặc biệt nằm dưới sự tác động của quy
phạm luật hiến pháp. Vì đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp là
những quan hệ xã hội cơ bản tạo thành cơ sở của chế độ xã hội và Nhà nước
mà các mối quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của các ngành luật khác đều bắt
nguồn từ cơ sở của chế độ xã hội và nhà nước đó. Do vậy, ngành luật Hiến
pháp còn đóng vai trò trung tâm liên kết các ngành luật khác. Chính từ vị trí
trung tâm của ngành luật Hiến pháp mà hệ thống pháp luật Việt Nam được
xây dựng thành một hệ thống pháp luật thống nhất và hoàn chỉnh.
VKSND là một cơ quan Hiến định có chức năng THQCT, kiểm sát
hoạt động tư pháp. Hiến pháp cần khẳng định vị trí của VKSND trong bộ máy
nhà nước là cơ quan “Tư pháp”. Bởi đây là tính đặc thù của Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân.
Việc xác định VKSND là một cơ quan tư pháp trước hết xuất phát từ
quan điểm thống nhất của Đảng và Nhà nước ta trong cac Nghị quyết, văn
bản quy pháp pháp luật. Theo Nghị quyêt 49/2005/NQ-TW ngày 2/6/2005
theo đó mục 2 của Nghị quyết trên xác định chiến lược cải cách tư pháp đó là
cần “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ
máy các cơ quan tư pháp” [10] trong đó có cải cách cơ quan tư pháp là
VKSND theo hướng: “Trước mắt, viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức
năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Viện Kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của tòa
án” [10]. Như vậy có thể thấy, VKSND chính là cơ quan nằm trong hệ thống
các cơ quan tư pháp ở Việt Nam.
86
Hai là, việc xác định VKSND là cơ quan tư pháp xuất phát từ quan
điểm hiểu tư pháp theo nghĩa rộng đã và đang tồn tại ở Việt Nam hiện nay.
Khi Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp có ý kiến cho rằng chỉ duy nhất TAND là chủ thể thực hiện
“quyền tư pháp”. Tuy nhiên, theo chúng tôi, Điều 102 Hiến pháp năm 2013
quy định Tòa án thực hiện quyền tư pháp nhưng điều đó không có nghĩa Tòa
án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp. Theo nguyên tắc Nhà nước
thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, thì ở Việt
Nam, không có cơ quan nào là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp.
Quy định về việc Tòa án thực hiện quyền tư pháp thực chất là quy định chức
năng xem xét, phán quyết của Tòa án khi thực hiện việc xét xử các vụ việc
được đưa đến Tòa án sau khi có quyết định truy tố, khởi kiện... ra Tòa án về
các lĩnh vực thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án. Việc quyết định hoặc phê
chuẩn quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự như bắt,
tạm giữ, tạm giam, gia hạn tạm giam... trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử
được coi là các biện pháp thực hiện quyền tư pháp. Ở Việt Nam, theo quy
định của Hiến pháp và BLTTHS, trong giai đoạn điều tra, truy tố, các biện
pháp này đã được giao cho Viện kiểm sát xem xét quyết định hoặc phê chuẩn
quyết định. Việc nêu vấn đề Tòa án cần được quyết định những biện pháp
cưỡng chế tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra, truy tố là trái với các quy
định của Hiến pháp và không phù hợp với thực tế hoạt động tố tụng ở Việt
Nam hiện nay [15]. Như vậy, ở nghĩa rộng, VKSND là cơ quan tư pháp và
được quyền tiến hành, thực hiện một số hoạt động tư pháp trong Nhà nước
pháp quyền.
Như vậy, từ sự phân tích trên chúng ta có thể thấy, VKSND vốn dĩ và
sẽ phải được coi là một cơ quan tư pháp trong Nhà nước pháp quyền. Việc
87
xác định VKSND là cơ quan tư pháp và thực hiện một số quyền tư pháp sẽ
góp phần ghi nhận, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND để từ
đó nâng cao được chất lượng hoạt động của VKSND trong thời gian tới.
Việc gộp chung VKSND và Toà án nhân dân vào một chương trong Hiến
pháp là chưa thể hiện rõ vai trò, vị trí và chức năng “bảo vệ pháp chế” của
VKSND. Bên cạnh đó, nội dung các quy định của Hiến pháp đối với VKS còn
thiếu quy định về cơ chế bảo đảm cho việc tuân thủ một cách nghiêm minh, kịp
thời các yêu cầu, quyết định của VKSND từ phía các chủ thể khác khi tham gia
quan hệ pháp luật mà VKSND giữ vai trò đại diện Nhà nước THQCT.
Nhìn rộng ra, chúng ta thấy một sự đa dạng trong các quy định về vị trí,
chức năng của VKSND hoặc các thiết chế tương tự ở các nước trên thế giới.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu có thể thấy rằng, nếu chỉ xét trên bình diện “chỗ
đứng” về mặt tổ chức của các cơ quan như VKSND hoặc Cơ quan công tố ở
nhiều nước và nhiều khu vực khác nhau thì vẫn chưa rõ cơ quan này thuộc
“nhánh” quyền lực nhà nước nào trong cơ chế phân quyền: lập pháp, hành
pháp hay tư pháp. Nhưng một điều có thể dễ nhìn thấy là, dù sự hiện diện ở
“nhánh” quyền lực nào thì tính độc lập về chức năng của loại cơ quan đó luôn
luôn được bảo đảm. Song song với việc khẳng định tính chất độc lập của VKS
hay Cơ quan công tố với tính cách là một thiết chế nhà nước, Hiến pháp và
pháp luật của nhiều nước, kể cả những nước mà cơ quan đó nằm trong cơ cấu
của ngành hành pháp còn quy định về vị trí độc lập của các KSV, Công tố
viên. Ví dụ như Bộ luật TTHS của Cộng hòa Pháp quy định tại Điều 669 về vị
trí hoàn toàn độc lập của công tố; Cũng theo Bộ luật này, các chức danh như
Thẩm phánvà thành viên Bồi thẩm đoàn có thể bị thay đổi, nhưng Công tố
viên thì không bị thay đổi bởi những lý do tương tự đối với các chức danh đó.
Bên cạnh đó, qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước cho thấy vị trí của Cơ
quan kiểm sát hay Công tố còn có thể xác định bởi mức độ điều chỉnh pháp lý
88
của nó. Ở một số nước tổ chức và hoạt động của thiết chế này được quy định
trong Hiến pháp, một số nước quy định bởi các đạo luật. Vì vậy, trên cơ sở
chủ trương của Đảng là xây dựng một nền công tố mạnh, bảo đảm cho
VKSND thực hiện tốt nhiệm vụ “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, về lâu dài cần tiếp tục nghiên cứu để sửa
đổi, bổ sung chế định VKSND trong Hiến pháp ở thời điểm thích hợp.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về cơ cấu tổ chức ngành Kiểm sát.
Luật tổ chức VKSND có hiệu lực năm 2014 đã được xây dựng lại một
cách rõ ràng, hợp lý, cụ thể các khâu công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của VKSND gồm: THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT và kiểm sát điều tra vụ án hình sự;
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố; THQCT và
kiểm sát xét xử vụ án hình sự; Công tác điều tra của Cơ quan điều tra
VKSND tối cao; Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; Kiểm
sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp
luật; Kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; Giải quyết khiếu
nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp; THQCT và kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp. Luật quy định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong từng khâu công tác; Bổ sung quy
định và phân biệt rõ các công tác hỗ trợ để thực hiện chức năng gồm thống kê
tội phạm; nghiên cứu khoa học; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng; hợp
tác quốc tế; phổ biến, giáo dục pháp luật.
Về cơ cấu tổ chức bộ máy, Luật năm 2014 quy định, VKS gồm 04 cấp
(VKSND Tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện),
89
trong đó VKSND cấp cao là cấp kiểm sát mới, có nhiệm vụ THQCT, kiểm sát
hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân cấp cao. Về cơ chế tuyển chọn KSV, Luật năm 2014 quy
định: Áp dụng hình thức thi tuyển vào các ngạch KSV sơ cấp, trung cấp, cao
cấp. Hội đồng thi được tổ chức ở VKSND Tối cao, do Viện trưởng VKSND
Tối cao làm Chủ tịch, các ủy viên gồm đại diện lãnh đạo nhiều cơ quan. Về
Kiểm tra viên, Luật năm 2014 bổ sung quy định Kiểm tra viên là chức danh tư
pháp, được bổ nhiệm để giúp KSVTHQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp và
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng.
Luật năm 2014 quy định cơ chế kiểm soát trở lại của cơ quan điều tra, tòa án,
cơ quan thi hành án và các cơ quan khác có thẩm quyền trong hoạt động tư
pháp đối với việc thực hiện chức năng THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp
của VKSND. Đây là việc thể chế hóa tư tưởng kiểm soát quyền lực trong
Hiến pháp năm 2013; quy định rõ các thiết chế giám sát bằng hình thức dân
chủ đại diện gồm có Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Như vậy với quy định mới rõ hơn, chặt chẽ hơn, xác định trách nhiệm
sát với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan trong bộ máy nhà nước trong Hiến
pháp năm 2013 và các bộ luật, luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp, là cơ sở
pháp lý quan trọng để bảo đảm việc bảo vệ quyền công dân thiết thực, hiệu
quả nhất.
Thứ ba, hoàn thiện cơ cấu hệ thống ngành Kiểm sát.
Hiến pháp năm 2013 không quy định cụ thể tổ chức của VKS cũng như
chế định y ban kiểm sát với tư cách là cơ quan quyết định tập thể các vấn đề
của VKS mà chỉ quy định chung hệ thống VKS bao gồm VKSND tối cao và
các VKS khác do luật định. Điều này là phù hợp với tình hình hiện nay và
trên cơ sở đó để Luật tổ chức VKSND đang được sửa đổi, bổ sung quy định
chi tiết và cụ thể.
90
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã nêu rõ:
VKSND được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. Để triển khai
thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 28/7/2010, Bộ Chính trị đã có Kết
luận số 79-KL/TW xác định rõ quan điểm, phương hướng đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tóa án, VKS và cơ quan điều tra, theo đó VKS được tổ chức
phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ
thuộc vào đơn vị hành chính.Tuy nhiên các Nghị quyết của Đảng còn nhấn
mạnh phải “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra” [4]. Do đó, hệ thống tổ chức của VKSND
không những phải phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án mà còn phải được
tổ chức bảo đảm thực hiện hiệu quả trách nhiệm của VKSND trong giai đoạn
điều tra.
Thể chế hóa các chủ trương của Đảng nêu trên, cần nghiên cứu, sửa
đổi, bổ sung Điều 107 của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm
2002 theo hướng đảm bảo đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống VKSND theo
bốn cấp, tương ứng với tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử,
không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; xử lý các vấn đề về nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của VKSND các cấp, vấn đề giám sát của các cơ quan dân
cử đối với VKSND theo tinh thần cải cách tư pháp, nhưng phải đảm bảo gần
dân, phục vụ nhân dân tốt hơn, đồng thời, bảo đảm tạo cơ chế thuận lợi để
VKSND thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao. Theo đó, hệ
thống các VKSND được tổ chức tập trung và thống nhất từ dưới các địa
phương và Trung ương tương ứng với hệ thống các Tòa án án nhân dân.
Thứ tư, hoàn thiện nhiệm vụ quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân
sự và tố tụng hành chính.
Một điểm quan trọng trong BLTTDS năm 2015 kế thừa Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 đó là quy định phạm vi các
91
trường hợp VKS phải tham gia các phiên tòa, phiên họp giải quyết các vụ,
việc dân sự. Cụ thể là, VKS tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc
dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu
thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng,
quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Khi kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự, VKS thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng
nghị nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp
luật. Mặc dù mở rộng phạm vi các trường hợp VKS tham gia các phiên tòa,
phiên họp giải quyết các vụ việc dân sự. Tuy nhiên, tại phiên tòa, phiên họp
sơ thẩm thì KSV chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành
pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến
trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Tương tự như vậy, đối với công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án
hành chính, Luật tố tụng hành chính 2010 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2011)
cũng quy định KSV chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp
hành pháp luật của người tham gia tố tụng hành chính ở phiên tòa sơ thẩm.
Qua thực tiễn hoạt động chúng tôi thấy rằng do KSV chỉ phát biểu ý
kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng mà không phát biểu quan điểm của
VKS về việc giải quyết toàn bộ vụ án (tức không phát biểu quan điểm về nội
dung vụ án) nên KSV chỉ nghiên cứu về mặt pháp luật tố tụng mà không
nghiên cứu về mặt pháp luật nội dung của vụ án nên không thể ban hành
kháng nghị về mặt nội dung của vụ án được. Vì vậy, chất lượng và hiệu quả
của công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh tế, hành chính còn khá thấp.
92
Để góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các
vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những
việc khác theo quy định của pháp luật, chúng tôi cho rằng cần sửa đổi các quy
định của pháp luật theo hướng tại các phiên tòa, phiên họp sơ thẩm các vụ án
dân sự, hành chính KSV phải phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, có
như vậy VKS mới có thể ban hành được các kiến nghị, kháng nghị, cùng Tòa
án giải quyết các loại án này một cách kịp thời, đúng quy định của pháp luật.
Thứ năm, hoàn thiện nội dung các quy định pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong THQCT vụ án hình sự.
Bộ luật TTHS năm 2015 được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 10
thông qua ngày 27/11/2015 là một bước tiến dài trong việc hoàn thiện pháp
luật về TTHS, theo nhiệm vụ của Đảng ta đặt ra trong Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020. BLTTHS năm 2015, đã quy định cụ thể hơn quyền hạn,
nhiệm vụ và trách nhiệm của KSVVKSND trong THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp. Tuy nhiên, theo đánh giá của chúng tôi, BLTTHS 2015 vẫn còn
tồn tại một số bất cập trong việc tổ chức và thực hiện quyền công tố của
VKSND nói chung, của Kiểm sát nói riêng trên cơ sở các yêu cầu cải cách tư
pháp đã đặt ra.
Theo chúng tôi cần tiếp tục tăng thẩm quyền cho KSV VKSND trong
THQCT trên cơ sở chuyển hoá một số quyền năng pháp lý chung của VKS và
cụ thể hoá nội dung tại điểm p, khoản 1, Điều 42 BLTTHS 2015 “Thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của VKS theo sự phân
công của Viện trưởng VKS theo quy định của Bộ luật này” [39].
Điều 109, Hiến pháp 2013 quy định “Khi THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp, KSV tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng
VKSND” [34]; Điều 74, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định “KSV là
người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng
93
THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp”; khoản 2 Điều 42 BLTTHS 2015 quy
định “KSV phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện
kiểm sát, Phó Viện trưởng VKS về hành vi, quyết định của mình” [39]. Trên
đây là những căn cứ pháp lý quan trọng khẳng định chức năng, nhiệm vụ
cũng như trách nhiệm của KSV trong quá trình THQCT, kiểm sát hoạt động
tư pháp.
Đối chiếu vào các quy định của BLTTHS năm 2015 cho thấy các quy
định pháp luật vẫn chưa bảo đảm được sự chủ động của KSV trong việc thực
hiện hai chức năng này. Vì vậy cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi một
số nội dung cụ thể như sau:
Chuyển nội dung “Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện” từ khoản 2, Điều
159 sang khoản 1, điều 42; Bỏ cụm từ “Khi cần thiết”. Giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là một giai đoạn tố tụng quan trọng bởi lẽ,
nó quyết định việc xác định, phân loại có hay không có sự việc tội phạm,
người phạm tội. Là tiền đề cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Theo
BLTTHS thì VKSNDTHQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp ngay từ khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, và chủ thể thực hiện việc
tiếp giải quyết và lập hồ sơ giải quyết là KSV. Mặt khác, “yêu cầu xác minh;
yêu cầu điều tra” là một văn bản tố tụng thể hiện sự gắn kết, chỉ đạo của Công
tố đối với hoạt động Điều tra, vì vậy không nên sử dụng cụm từ “khi cần
thiết” để xác định đây là hoạt động THQCT bắt buộc. Và việc đề ra yêu cầu
điều tra, yêu cầu xác minh của KSV là một hoạt động tố tụng mang tính bắt
buộc mà KSV phải thực hiện sau khi có quyết định phân công của Viện
trưởng. Và yêu cầu của KSVVKSND trong THQCT phải có tính pháp lý là
“nghĩa vụ” buộc các chủ thể tiến hành tố tụng, các chủ thể tham gia tố tụng,
các chủ thể có liên quan khác cơ quan. Việc bổ sung các quy định này là cần
thiết bởi lẽ đây là bảo đảm pháp lý đối với vị trí pháp lý Hiến định của KSV.
94
Mặt khác, đây cũng là sự cụ thể hoá quan điểm cải cách tư pháp của Đảng
“tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế
công tố gắn với điều tra”.
Cần luật hoá các hoạt động THQCT của KSV đang tồn tại dưới các
hình thức tham mưu, đề xuất cho Viện trưởng trong quá trình quyết định
“đóng mở vụ án” và quyết định áp dụng các biện pháp “hạn chế quyền con
người, quyền công dân” thành những nhiệm vụ của KSV.
3.2.2 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm của
ngành kiểm sát
Việc tăng cường đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS phải gắn liền
với công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết rút kinh nghiệm của ngành Kiểm
sát. Trong những năm qua, cải cách tư pháp được tăng cường mạnh mẽ. Đảng
ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị quan trọng đối với công tác tư pháp,
đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020”. Các Nghị quyết của Đảng đã đặt nhiệm vụ cho công
tác nghiên cứu khoa học phải luận giải một cách thấu đáo, sâu sắc nhiều vấn
đề về tư pháp. Đối với tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, các Nghị
quyết đề ra nhiều yêu cầu, đòi hỏi phải tổ chức nghiên cứu, luận giải thật đầy
đủ, như: việc tổ chức VKS phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án; Nghiên
cứu việc có chuyển VKS thành Viện công tố không; vấn đề tăng cường trách
nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với
điều tra v.v…
VKSND tối cao cần xác định, việc thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ đề
ra trong các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp là nhiệm vụ chính trị
quan trọng hiện nay và trong những năm tới. Trên cơ sở đó, đã phê duyệt
những định hướng nghiên cứu lớn và các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể trong
từng năm và từng giai đoạn.
95
Thứ nhất, cần nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống lý luận về vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của VKS trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Trên cơ sở đó, chúng ta đã báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền của Đảng
và Nhà nước về sự cần thiết khách quan phải tiếp tục duy trì mô hình VKS
với hai chức năng: THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Để thực hiện
hiệu quả hai chức năng này, VKS phải được tổ chức thành hệ thống cơ quan
độc lập trong bộ máy nhà nước, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, do
Quốc hội lập ra như quy định của Hiến pháp hiện hành. Các kết quả nghiên
cứu đã chứng minh rằng, trong các cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực
tư pháp hiện nay, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS là cơ chế kiểm soát rất
có hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc khắc phục sự lạm quyền của các cơ
quan tiến hành tố tụng, bảo vệ các quyền dân chủ của công dân, bảo đảm sự
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Các kiến nghị của VKSND tối cao đã được
ghi nhận tại các văn bản quan trọng của Đảng. Kết luận 79-KL/TW của Bộ
Chính trị nêu rõ: “VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động
tư pháp như hiện nay”, Văn kiện Đại hội XI tiếp tục khẳng định “VKS được
tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Toà án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện
để VKSND thực hiện hiệu quả chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động
tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra”.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục tập trung cho công tác nghiên cứu lý
luận cơ bản, luận giải, làm rõ những yêu cầu, đặc điểm của Nhà nước pháp
quyền Việt Nam XHCN; đặc điểm của hệ thống chính trị; hiện trạng nền tư
pháp nước nhà và sự cần thiết phải duy trì hệ thống cơ quan VKS với hai
chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, có vị trí độc lập như
quy định của Hiến pháp hiện hành.
96
Thứ hai, cần tổ chức các hoạt động nghiên cứu phục vụ việc đổi mới hệ
thống tổ chức Viện kiểm sát. Công tác khoa học trong thời gian tới phải tập
trung nghiên cứu, luận giải những vấn đề quan trọng liên quan đến tổ chức
mô hình VKS ví dụ như: nghiên cứu về các biện pháp để tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra,
bảo đảm chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô
tội trong điều kiện hệ thống cơ quan điều tra vẫn được tổ chức như hiện nay;
Về mối quan hệ giữa các cấp kiểm sát, đặc biệt là mối quan hệ giữa VKSND
cấp cao với VKSND tỉnh, VKSND huyện; Vấn đề đổi mới, kiện toàn VKSND
tối cao để VKSND tối cao thực sự là trung tâm đầu não của Ngành, có trách
nhiệm xác định phương hướng, mục tiêu, nội dung hoạt động của toàn Ngành
trong từng thời gian, từng giai đoạn; Vấn đề biên chế, cơ cấu cán bộ,
KSVVKS từng cấp; Làm rõ tính đặc thù của hoạt động công tố và kiểm sát tư
pháp để đề xuất với Đảng và Nhà nước về chế độ đãi ngộ cho cán bộ, KSV
cũng như các điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm hoạt động của
VKS các cấp v.v.
Thứ ba, cần tổ chức các hoạt động nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra
các giải pháp nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong hoạt động nghiệp vụ của
các đơn vị, VKS địa phương. Đây vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu mà công
tác nghiên cứu khoa học của Ngành phải hướng tới. Trong thời gian tới, thủ
trưởng các đơn vị nghiệp vụ, Viện trưởng VKS các địa phương cần đề cao
trách nhiệm trong việc tổng kết nghiệp vụ, nắm bắt những khó khăn, vướng
mắc phát sinh từ thực tiễn để đề xuất với Lãnh đạo VKSND tối cao chỉ đạo
nghiên cứu, tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thực hiện chức năng,
nhiệm vụ. Đồng thời đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu về tình hình,
nguyên nhân, diễn biễn của tội phạm làm cơ sở dự báo xu hướng tội phạm và
97
kiến nghị với Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ Ngành hữu quan áp dụng
các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Từ những sự phân tích trên chúng tôi kiến nghị, trong thời gian tới
ngành kiểm sát cần thực hiện những hoạt động sau nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học về vị trí, vai trò, chức năng của
VKSND:
- Cần giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của ngành kiểm sát về cho
đầu mối là Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội. Việc này sẽ tạo ra sự tinh gọn,
hiệu quả trong công tác nghiên cứu khoa học, tận dụng tối đa nguồn chuyên
gia, nhà khoa học chất lượng cao trong cả công tác giảng dạy và nghiên cứu.
- Cần có chiến lược lâu dài trong đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học
của ngành kiểm sát. Theo đó, cần cử một số chuyên gia đi đào tạo, nghiên cứu
chuyên sâu tại nước ngoài.
- Cần phối hợp với Bộ khoa học công nghệ, Chủ nhiệm các chương
trình khoa học quốc gia phân bổ ngân sách làm một số đề tài khoa học cấp
ngành/bộ nghiên cứu về chiến lược đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành
kiểm sát nhân dân trong thời gian tới. Kinh phí của các chương trình này cần
phải đầy đủ, thời gian nghiên cứu kéo dài, tuyển chọn những nhà khoa học uy
tín nhất, tổ chức hội thảo, tham vấn, góp ý rộng rãi để đưa ra chiến lược thống
nhất trong tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát.
3.2.3 Đổi mới công tác giáo dục, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ
Viện kiểm sát theo hướng chuyên sâu, chuyên môn hóa
Đảng ta luôn xác định “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng…”. Chính vì vậy, các Nghị quyết của Đảng đều dành sự
98
quan tâm thích đáng cho việc đánh giá, chỉ đạo công tác cán bộ nói chung và
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ luôn được xác định là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm công tác của Ngành Kiểm sát.
Từ năm 2014 đến nay, cùng với việc từng bước hoàn thiện các cơ chế
pháp lý bảo đảm cho KSV thực hành quyền công thì các quy định pháp luật
về lĩnh vực công tác, cán bộ đối với chủ thể KSV cũng từng bước được kiện
toàn trên các mặt cụ thể như trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị và phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp…, những quy định này cũng góp phần nâng cao
chất lượng công tác THQCT của KSV. Thực tiễn thời gian qua, đội ngũ cán
bộ kiểm sát nói chung, KSV nói riêng đã từng bước được củng cố, phát triển
để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, góp phần bảo vệ pháp luật và pháp chế
XHCN, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Số lượng,
chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát ngày càng nâng cao. Để đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp. Biên chế cán bộ của nghành đã được tăng về số lượng, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, KSV đã nâng lên so với thời gian
trước đây, (Năm 2011, toàn Ngành có 8.378 KSV (170 số KSVVKSND tối
cao; 2.457 KSV trung cấp; 5.751 KSV sơ cấp); Đến năm 2012 được y ban
Thường vụ Quốc hội giao chỉ tiêu 10.424 KSV (170 KSVVKSND tối cao;
4.039 KSV trung cấp; 6.215 KSV sơ cấp). Năm 2013, tổng số KSV ở
VKSND tối cao có 290 người, trong đó có 170 KSVVKSND tối cao, 58 KSV
tối cao, 62 KSV sơ cấp; KSVVKSND cấp tỉnh có 2.217 KSV trung cấp và
770 KSV sơ cấp, KSVVKSND cấp huyện có 4,935 KSV gồm 755 KSV trung
cấp và 4,180 KSV sơ cấp. Về trình độ cán bộ, trước tháng 10/2002, tỷ lệ KSV
đạt trình độ cử nhân luật còn thấp (ở VKSND tối cao đạt tỷ lệ 59%; ở VKS
cấp tỉnh đạt tỷ lệ 54,4%; ở VKS cấp huyện đạt tỷ lệ 38,3%; ở VKS Quân sự
99
các cấp đạt tỷ lệ 86,7%. Số còn lại khoảng 50% chỉ có trình độ cao đẳng kiểm
sát hoặc trung cấp pháp lý). Đến nay, 100% KSV đã có trình độ Cử nhân luật
trở lên; toàn Ngành có 25 Tiến sĩ, 511 Thạc sĩ; có 2547 người có trình độ cử
nhân hoặc trình độ cao cấp lý luận chính trị; có 4.667 người có trình độ trung
cấp lý luận chính trị). Biên chế toàn ngành từ 13,269 người năm 2011 lên
14,547 người 2013 (tăng 1,278 người, chiếm 11%), với cơ cấu KSV, cán bộ
hợp lý. Hiện nay, tổng biên chế toàn ngành kiểm sát là 14,220 người, trong đó
VKSND tối cao là 988; VKSND cấp tỉnh và cấp huyện là 13,232 người. Tổng
số KSV ở VKSND tối cao có 290 người. Trong đó, 170 KSV cao cấp; 58
KSV trung cấp; 62 KSV sơ cấp; Điều tra viên có 66 người (17 Điều tra viên
cao cấp); Kiểm tra viên có 282 người, còn tại là công chức và nhân viên khác.
Biên chế cán bộ làm việc ở VKSND cấp tỉnh là 4.463 người (trong đó có
2.217 KSV trung cấp; 770 KSV sơ cấp; 373 Kiểm tra viên các cấp, còn lại là
công chức, nhân viên khác); Biên chế làm việc tại các VKSND cấp huyện là
8,869 người, trong đó có 4,935 KSV (755 KSV trung cấp; 4,180 KSV sơ cấp;
808 Kiểm tra viên, còn lại 3,126 công chức, nhân viên khác) [64].
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã
được chú trọng. Hàng năm, VKS các cấp đã cử hàng trăm cán bộ tham gia các
lớp học chính trị sơ, trung, cao cấp hoặc tại chức, bảo đảm các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng được quán triệt kịp thời trong toàn ngành. Tăng cường KSV
cho những bộ phận trực tiếp thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt
động tư pháp; bổ sung kịp thời cán bộ lãnh đạo chủ chốt cho các đơn vị kiểm
sát các cấp. Hàng năm, ngành kiểm sát đều tổng rà soát, phân loại, đánh giá đội
ngũ cán bộ, KSV và luân chuyển cán bộ theo chủ trương của Đảng. Tuy nhiên,
bên cạnh kết quả đạt được, công tác cán bộ của VKSND vẫn còn nhiều bất cập,
tồn tại sau đây: công tác xây dựng cán bộ kiểm sát cũng như cán bộ tư pháp nói
chung chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
100
Trong điều kiện cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, một bộ phận cán
bộ, KSV chậm đổi mới, tiếp cận, học hỏi nâng cao năng lực, nhận thức toàn
diện để đáp ứng yêu cầu công việc, nhất là kiến thức về pháp luật kinh tế quốc
tế, về ngoại ngữ, tin học. Ngoại ngữ mới chỉ tập trung chủ yếu vào tiếng Anh
(trước đây là tiếng Nga), trong khi tiếng Trung Quốc, tiếng các nước trong
khu vực, tiếng dân tộc ít được quan tâm đào tạo.
Đội ngũ KSV các cấp cũng còn yếu về năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ. Các KSV trong khối hình sự chưa có đủ những kiến thức cần thiết về điều
tra tội phạm, kỹ năng tranh luận, đối đáp tại phiên tòa còn yếu. Phần lớn các
KSV mới chỉ được trang bị thuần túy về kiến thức pháp lý, các tri thức
chuyên ngành khác cần thiết cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, ít được
quan tâm trang bị đúng mức (kiến thức về môi trường đối với các tội phạm về
môi trường, kiến thức tài chính, kế toán đối với các tội phạm kinh tế, tham
nhũng; tin học trong các tội phạm máy vi tính, bưu chính viễn thông, tội phạm
mạng internet; tội phạm chứng khoán; pháp luật quốc tế trong các vụ việc
tương trợ tư pháp).
Vì vậy, để đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp, bên cạnh việc hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung,
pháp luật về KSVVKSND trong THQCT nói riêng thì cần phải tiếp tục có các
giải pháp xây dựng đội ngũ KSV trong sạch, vững mạnh, giỏi nghiệp vụ. Một
đội ngũ KSV trong sạch, vững mạnh, giỏi nghiệp vụ sẽ bảo đảm tính hiệu
quả, nâng cao hiệu lực của pháp luật về KSVVKSND trong THQCT.
Theo đó, trong thời gian tới, VKSND tối cao cần chỉ đạo VKSND các
cấp tiến hành các giải pháp cụ thể như sau:
Một là, nâng cao nhận thức về xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát, KSV.
Cán bộ kiểm sát, KSVVKS các cấp là những người được giao thực hiện chức
năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Do đó, cần quan tâm tuyển
101
chọn, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng... những người có đủ phẩm chất, năng lực,
trình độ đáp ứng yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Hai là, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các văn bản về
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ. Theo định hướng cải cách tư pháp, căn cứ
Luật tổ chức VKSND 2014, hệ thống tổ chức VKSND gồm 4 cấp phù hợp với
hệ thống tổ chức của Tòa án. theo đó các quy định về tiêu chuẩn, bổ nhiệm,
tuyển chọn KSV được áp dụng căn cứ vào kết quả thi tuyển, căn cứ vào các
tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực thực hiện nhiệm vụ mà
không phụ thuộc vào cấp hành chính. Đồng thời với việc sửa đổi Luật Tổ
chức VKSND, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các quy chế
về công tác cán bộ như: Quy chế phân cấp, quản lý cán bộ; Quy chế tuyển
dụng cán bộ; Quy chế bổ nhiệm và bổ nhiệm lại KSV các cấp; Quy chế về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ... tạo cơ sở pháp lý thực hiện tốt công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ kiểm sát, KSV trong sạch, vững mạnh, giỏi về nghiệp vụ.
Ba là, đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ. Tuyển dụng cán bộ là bước
khởi đầu quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ. Có tuyển dụng được đội ngũ
cán bộ tốt, có trình độ mới xây dựng được đội ngũ cán bộ mạnh. Căn cứ Luật
tổ chức VKSND năm 2014, VKSND tối cao cần tổ chức hướng dẫn VKSND
các địa phương tổ chức thi tuyển công chức. Nghiên cứu việc tổ chức thi tuyển
công chức ngành kiểm sát tập trung trên địa bàn cả nước hoặc phạm vi từng khu
vực (miền Bắc, miền Trung, miền Nam) vào cùng một thời điểm (có thể 1 hoặc
2 lần trong một năm). Đối với các tỉnh ở cấp huyện có đông người dân tộc ít
người sinh sống thì cần có hướng dẫn cụ thể về việc thay thi tuyển môn ngoại
ngữ bằng việc kiểm tra trình độ tiếng dân tộc. Đối với những sinh viên tốt nghiệp
loại giỏi, tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành luật ở nước ngoài cần nghiên
cứu chế độ ưu tiên tuyển dụng đặc biệt để thực hiện thống nhất.
102
Bốn là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Để có được đội
ngũ cán bộ kiểm sát thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao thì
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải được quan tâm đặc biệt. Trước hết
phải xây dựng đội ngũ giảng viên có chất lượng cao, đổi mới chương trình,
giáo trình, tài liệu, phương pháp giảng dạy - học tập. Bổ sung các tài liệu
tham khảo, hồ sơ tình huống theo hướng tăng cường trang bị kỹ năng nghề
nghiệp, sát với yêu cầu thực tiễn. Đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất và trang
thiết bị giảng dạy - học tập của nhà trường. Hoàn thiện và hiện đại hoá công
nghệ thông tin, thư viện của nhà trường.
Năm là, tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán
bộ. Để quản lý tốt đội ngũ cán bộ cần tiến hành đổi mới việc phân công, phân
cấp quản lý cán bộ nhằm xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp
quản lý, theo hướng phân cấp mạnh hơn cho các VKS địa phương, bảo đảm
nguyên tắc và trách nhiệm của lãnh đạo VKS địa phương trong việc quản lý
đội ngũ cán bộ. Việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình
độ chính trị và nghiệp vụ, thực hiện đúng lương tâm và trách nhiệm của người
cán bộ kiểm sát là yêu cầu có tính thường xuyên, liên tục, mỗi cán bộ kiểm sát
phải tự rèn luyện nâng cao ý thức chính trị, đạo đức, lối sống, chấp hành
nghiêm kỷ luật của ngành. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", thực hiện tốt 5 đức tính mà Bác Hồ
đã dạy đối với người cán bộ Kiểm sát: "Công minh, Chính trực, Khách quan,
Thận trọng, Khiêm tốn", coi đây là nội dung quan trọng của việc xây dựng đội
ngũ cán bộ kiểm sát trong sạch, vững mạnh.
Sáu là, nâng cao vị thế, vai trò của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
với tính chất là cơ quan đào tạo chất lượng cao cho ngành kiểm sát trong công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trường kiểm sát cần đẩy mạnh đổi mới hơn
nữa chất lượng đạo tạo, chương trình, giáo trình để từ đó có chất lượng đạo
tạo tốt nhất cho cán bộ của ngành.
103
3.2.4. Đổi mới cơ chế giám sát của Đảng và cơ quan dân cử, tổ chức, báo
chí và nhân dân đối với hoạt động của Viện kiểm sát
Nhằm đảm bảo sự lãnh đạo thường xuyên, sát sao đối với công tác cải
cách tư pháp, trong đó có công tác và hoạt động của VKSND; Bộ Chính trị đã
quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương và Ban Nội
chính Trung ương để tham mưu giúp Bộ Chính trị triển khai thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng về công tác cải cách tư pháp và công tác nội
chính, đồng thời chỉ đạo thành lập Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp và Ban Nội
chính ở các địa phương; Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cơ quan của Đảng
cũng như các cấp ủy địa phương luôn quan tâm, theo dõi, chỉ đạo, làm việc
với Ban cán sự, lãnh đạo VKSND; tăng cường lãnh đạo công tác và hoạt động
của VKSND qua phổ biến, quán triệt, chỉ đạo thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết;
kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, chỉ đạo giải quyết
những vụ việc quan trọng, phức tạp; xây dựng và chỉ đạo thực hiện cơ chế
phối hợp và làm việc giữa các tổ chức Đảng với các cơ quan tư pháp và các
cơ quan hữu quan, trong đó có VKSND. Tăng cường công tác xây dựng
Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức Đảng và Đảng
viên ngành Kiểm sát; chăm lo công tác giáo dục, đào tạo, tuyển chọn, bố trí
cán bộ cho ngành Kiểm sát; Đặc biệt là vừa qua việc thành lập Trường Đại
học Kiểm sát thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đến chiến
lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho VKSND.
Cùng với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư pháp; hoạt động
của VKSND thường xuyên được sự quan tâm giám sát của các cơ quan dân
cử; Thông qua việc nắm bắt tình hình cơ sở, ý kiến, kiến nghị của cử tri; đồng
thời, rà soát kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, công tác giám sát đối với
hoạt động tư pháp và hoạt động của VKSND của Quốc hội, Đoàn đại biểu
104
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức dân cử
đã có nhiều đổi mới cả về nội dung và phương thức giám sát, mang lại hiệu
quả thiết thực; tham gia tích cực vào hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp
luật liên quan đến hoạt động tư pháp.
Công tác giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đã được tiến
hành bằng nhiều hình thức, có nhiều đổi mới; Từ việc chất vấn giữa hai kỳ
họp đến chất vấn Viện trưởng VKS tại các kỳ họp; thẩm định báo cáo trước
kỳ họp và xem xét báo cáo của của Viện trưởng VKSND tại kỳ họp đến giám
sát thường xuyên bằng hoạt động của y ban Thường vụ Quốc hội, y ban tư
pháp. y ban pháp luật, Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân; Trong đó đã chú
trọng nhiều hơn trong giám sát việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử và thi hành
án. Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên đã chủ động phối hợp
giám sát các hoạt động tố tụng, phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong
hoạt động tư pháp, qua đó kiến nghị với các cơ quan tư pháp khắc phục, sửa
chữa. Từ đó góp phần tăng cường vai trò của VKSND trong Kiểm sát hoạt
động tư pháp; đồng thời trực tiếp giám sát hoạt động của VKSND, tham gia
tuyển chọn KSV; qua đó giúp VKSND thực hiện ngày càng có hiệu quả chức
năng, nhiệm vụ.
Theo chúng tôi để tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp; đồng thời tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng và hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với hoạt động của
VKSND, xin kiến nghị một số ý kiến sau:
Một là, nên tổ chức hệ thống cơ quan Đảng ngành dọc trong ngành
Kiểm sát nhân dân. Theo đó, chi bộ VKSND cấp huyện trực thuộc Đảng bộ
VKSND cấp tỉnh. Đảng bộ VKSND cấp tỉnh trực thuộc cấp ủy cấp tỉnh và
Ban cán sự Đảng VKSND tối cao. Đảng bộ VKSND tối cao trực thuộc Đảng
bộ các cơ quan nội chính Trung ương;
105
Hai là, ở từng giai đoạn, căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ ở Trung ương và
cấp ủy cấp tỉnh nên có nghị quyết chuyên đề về công tác kiểm sát nhằm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực công tác công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp.
Ba là, nhằm không ngừng tăng cường pháp chế thống nhất; nâng cao
hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, nên quy định để VKSND giúp
Quốc hội tiến hành kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Kiểm
sát việc xử lý vi phạm hành chính để chống bỏ lọt tội phạm, trực tiếp điều tra
án tham nhũng; Qua đó tích cực bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân.
Bốn là, tiếp tục đổi mới phương thức, nội dung giám sát của các cơ
quan dân cử, giảm bớt các hoạt động giám sát chồng chéo, hình thức phát huy
sức mạnh tổng hợp tạo điều kiện thuận lợi nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực
công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp.
3.2.5. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động
của Viện kiểm sát
Thứ nhất, Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành kiểm sát.
Trong giai đoạn hiện nay, công nghệ thông tin là yếu tố thiết yếu phục
vụ công tác quản lý, hoạt động nghiệp vụ của hệ thống cơ quan nhà nước
trong đó có VKSND. Trong những năm qua, ngành kiểm sát nhân dân đã
được tăng cường đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin; xây dựng được Trung
tâm tích hợp dữ liệu với mạng LAN (mới được xây dựng kết nối ở VKSND
tối cao và VKSND cấp tỉnh) và một số phần mềm được triển khai trên phạm
vi toàn quốc (phần mềm thống kê tổng hợp; phần mềm Quản lý án hình sự;
phần mềm kế toán tài chính).
Tuy nhiên, theo đánh giá chung cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin trong
ngành Kiểm sát còn lạc hậu như, mạng LAN mới chỉ xây dựng ở VKSND tối
cao và VKSND cấp tỉnh (từ năm 2004, 2005 đến nay) nên đã xuống cấp;
106
VKSND cấp tỉnh chỉ có một máy chủ cấu hình thấp với hệ thống mạng 24 nút
đã hết hạn sử dụng chưa được thanh lý, thay thế; một số VKSND cấp tỉnh và
hầu hết VKSND cấp huyện chưa có đường truyền tốc độ cao; việc bảo mật
đường truyền, bảo mật dữ liệu chưa được triển khai; nhiều phần mềm ứng
dựng khác triển khai chậm.
VKSND tối cao đã phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin
trong ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm
2020 (Quyết định số 48/2009/QĐ-TTg ngày 31/3/2009 của Thủ tướng Chính
phủ “v/v phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
của cơ quan nhà nước giai đoạn 2009-2010”; Quyết định số 1605/QĐ-TTg
ngày 27/8/2010 về “Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015”) với Tổng mức
đầu tư dự kiến 411 tỷ đồng, hiện nay đang được triển khai thực hiện.
Để bảo đảm cho ngành Kiểm sát thực hiện tốt chức năng THQCT, cần
phải tiếp tục “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin theo yêu cầu cải tư
pháp”. Cần phải xây dựng các giải pháp về phát triển công nghệ thông tin, thư
viện bao gồm: Đầu tư nâng cấp thư viện điện tử hiện có bảo đảm đáp ứng tốt
nhu cầu trao đổi và sử dụng thông tin cho đội ngũ cán bộ kiểm sát, KSV; tăng
cường đầu tư và đưa vào ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại để
khai thác có hiệu quả thư viện điện tử; In ấn, xây dựng và phát triển nguồn tài
liệu điện tử. Xây dựng, nâng cấp trang thông tin điện tử của nghành Kiểm sát
thành một cơ sở dữ liệu luật, diễn đàn trao đổi nghiệp vụ kiểm sát đáng tin cậy.
Xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông, Internet hiện đại. Ứng dụng triệt để công
nghệ thông tin vào quản lý, giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và sinh hoạt
nghiệp vụ của các đơn vị kiểm sát từ Trung ương đến cấp huyện. Hợp tác, liên
kết và chia sẻ nguồn thông tin với các cơ quan thông tin, thư viện và các cơ sở
nghiên cứu, đào tạo, thực hành pháp luật trong nước và trên thế giới.
107
Thứ hai, về cơ sở vật chất trang thiết bị cho hoạt động của VKS các cấp.
Báo cáo công tác của Viện trưởng VKSNDTC tại kỳ họp thứ hai, Quốc
hội khóa XIV, năm 2016 đã chỉ rõ:
- Đối với VKSND cấp tỉnh: Số đơn vị có trụ sở ổn định, cơ bản đáp
ứng được yêu cầu làm việc tạm thời (đầu tư từ năm 2005, diện tích làm việc
bình quân 8-12m2/01 người) có 49 đơn vị, chiếm 77%. Số đơn vị có trụ sở
xây đã lâu, nay đã xuống cấp, thiếu diện tích làm việc, cần đầu tư, sửa chữa
cải tạo mở rộng (xây dựng trước năm 2005) có 7 đơn vị, chiếm 11,1%. Số
đơn vị cần đầu tư xây dựng mới toàn bộ (xây dựng từ trước năm 2000, hiện
nay đã hư hỏng, xuống cấp, diện tích làm việc bình quân 3-4m2/01 người) có
7 đơn vị, chiếm 12,7%.
- Đối với VKSND cấp huyện: Tổng số đơn vị được đầu tư từ 2005-
2015, cơ bản đáp ứng được yêu cầu làm việc tạm thời (diện tích làm việc bình
quân 8-10m2/01 người) có 276 đơn vị chiếm 38,8%. Tổng số đơn vị xây dựng
năm 2000-2005, nay đã xuống cấp, thiếu diện tích làm việc, cần đầu tư sửa
chữa, cải tạo mở rộng có 274 đơn vị, chiếm 38,6%. Tổng số đơn vị cần đầu tư
xây dựng mới toàn bộ (xây dựng từ trước năm 2000, diện tích làm việc bình
quân 3-4m2/01 người) đã hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng, không bảo đảm
an toàn trong quá trình sử dụng có 137 đơn vị, chiếm 19,3%. Tổng số đơn vị
đang phải đi thuê trụ sở làm việc có 23 đơn vị, chiếm 3,2% [63].
Trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới,
Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu nhiệm vụ: Tăng cường đầu tư
cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành
nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp. Tăng cường đầu
tư cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin, từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư pháp. Phấn đấu đến năm 2005
xây dựng đủ trụ sở và cơ sở làm việc của các cơ quan tư pháp từ Trung ương đến
108
cấp huyện; xây dựng, cải tạo, sửa chữa các nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam
bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Có chính sách tiền lương, phụ cấp và
chính sách đãi ngộ phù hợp cho cán bộ tư pháp [8].
Như vậy, việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác
tư pháp nói chung và công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp nói
riêng đã trở thành yêu cầu khách quan.
Hiện nay thực trạng cơ sở vật chất của các cơ quan tư pháp nói chung,
VKS các cấp nói riêng đang còn thiếu; cơ sở vật chất, điều kiện và phương
tiện làm việc phần lớn ở các địa phương còn thô sơ, lạc hậu. Khả năng ngân
sách nhà nước còn hạn hẹp, chưa bố trí đủ theo yêu cầu thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của ngành. Đáng chú ý là khi phân bổ ngân sách, cũng như khi quy
định tiêu chuẩn, định mức diện tích trụ sở làm việc, trang thiết bị phương tiện
làm việc, định mức chi tiêu ngân sách, Nhà nước vẫn coi ngành kiểm sát như
các ngành hành chính sự nghiệp khác. Theo số liệu quyết toán hàng năm thì
mức chi cho cán bộ, KSV còn rất thấp, mức chi cho công tác nghiệp vụ, mua
sắm, sửa chữa trụ sở... không đáp ứng nhu cầu. Trong khi đó khối lượng công
việc ngày càng tăng, nhất là trong lĩnh vực giải quyết án hình sự. Thực tế cho
thấy hoạt động phạm tội ở nước ta hiện nay diễn biến rất phức tạp trên nhiều
lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội; bọn tội phạm có xu hướng hoạt động
theo ổ nhóm, theo đường dây, hoạt động lưu động trên nhiều địa phương, tội
phạm xuyên quốc gia, tội phạm liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp... Trong
điều kiện phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật và công nghệ thông tin, bọn phạm
tội ngày càng sử dụng sâu rộng những thành tựu đó vào quá trình phạm tội
nên việc đấu tranh chống tội phạm cũng ngày càng trở nên khó khăn, phức tạp
hơn nhiều. Đặc biệt đáng lưu ý là tình trạng gia tăng của các loại tội phạm dẫn
đến quá tải trong việc giải quyết án do lực lượng biên chế còn mỏng đã hạn
chế hiệu quả công tác kiểm sát điều tra từ đầu.
109
Để khắc phục tình trạng yếu kém trong việc tổ chức thực hiện quyền
công tố trong TTHS cần phải nâng cao năng lực cho các cơ quan tư pháp về
nhiều mặt. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ:
"Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ
điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối với các
cán bộ tư pháp" [8]. Quán triệt tinh thần Nghị quyết này, Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 đã có nhiều quy định mới để bảo đảm hoạt động của Viện
Kiểm sát. Nếu như trước đây, kinh phí hoạt động của ngành Kiểm sát nhân
dân do Chính phủ lập dự toán, thì nay Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã
quy định cho VKSND tối cao chủ động lập dự toán kinh phí hoạt động của
ngành; một trong những điểm đổi mới quan trọng là Luật mới còn quy định rõ
việc Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển công nghệ thông tin và các phương
tiện khác để đảm bảo cho ngành kiểm kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình (Điều 49 Luật Tổ chức VKSND). Trên tinh thần
đó,VKSND tối cao cần chủ động đánh giá, thống kê rõ nhu cầu của việc cấp
kinh phí, trang thiết bị... cho các khâu công tác ở VKS mỗi cấp và của toàn
ngành nói chung để đề xuất với Chính phủ trình Quốc hội xem xét quyết định.
Theo chúng tôi, trước hết là chú trọng nâng cao năng lực về cơ sở vật chất và
phương tiện làm việc. VKS các cấp cần được trang bị máy vi tính để cập nhật,
lưu giữ và khai thác thông tin tội phạm, thực hiện tốt chế độ thông tin báo
cáo. Ngoài ra, các phương tiện thông tin liên lạc, phương tiện giao thông cũng
cần được sớm tăng cường, nhất là ở các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Đồng thời cần có chế độ, chính sách hợp lý cho đội ngũ cán bộ, KSV, nhất là
ở cấp huyện, khen thưởng xứng đáng đối với những cán bộ có thành tích,
chiến công trong đấu tranh, phòng chống tội phạm bảo vệ công lý.
110
Cải cách một bước cơ bản chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ,
KSV nhằm từng bước khắc phục sự bất cập về đời sống của cán bộ ngành
kiểm sát với các thành phần xã hội khác trong điều kiện cơ chế thị trường ở
nước ta hiện nay. Thực hiện có hiệu quả các biện pháp tăng cường nhân lực
và vật lực cho ngành kiểm sát là những bảo đảm hết sức quan trọng để VKS
các cấp THQCT có chất lượng trong ngành tình hình mới. Bên cạnh việc đầu
tư cơ sở vật chất, trang bị để bảo đảm nhu cầu cho hoạt động, ngành cần quan
tâm đầu tư các trang thiết bị khoa học công nghệ cao như các máy vi tính,
thiết bị phần mềm máy tính, thuê đường truyền ưu tiên... để bảo đảm hoạt
động quản lý trong nội bộ VKS các cấp cũng như để bảo đảm sự chỉ đạo
thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.
Các giải pháp đã nêu trên cần thực hiện đồng bộ, toàn diện và thống
nhất trong ngành Kiểm sát để đảm bảo cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
Kiểm sát viên “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật,
công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”, góp phần hoàn thiện cơ cấu
tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát nhân dân, nâng cao vi thế của
VKSND trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam.
111
KẾT LUẬN
Viện kiểm sát nhân dân có vị trí, vai trò rất quan trọng trong bộ máy
nhà nước ta. Các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp nhất là Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến 2020; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020 đã chỉ rõ nhiều nội dung cụ thể về cải cách
tư pháp đòi hỏi phải được thể chế hoá, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát. Quá trình tổng kết thực tiễn cho thấy
những quy định về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát đã bộc lộ những hạn
chế, bất cập cần phải được cải cách mạnh mẽ, toàn diện để đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình mới.
Trong thời gian qua, cơ quan Viện kiểm sát đã góp phần to lớn trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện
gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong lý luận và thực tiễn làm ảnh hưởng
đến chất lượng và tổ chức hoạt động như do có nhiều quan điểm khác nhau về
quyền công tố, thực hành quyền công tố, tư pháp, cơ quan tư pháp, hoạt động
tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp; việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá
về quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát trên thế giới cũng như
ở Việt Nam chưa toàn diện và có hệ thống; thực hiện cải cách tư pháp diễn ra
chưa đồng bộ, còn chậm nên chất lượng và hiệu quả chưa cao...
Để khắc phục tình trạng trên, luận văn đã kết hợp hài hòa các phương
pháp nghiên cứu và tiếp thu những thành tựu khoa học của người đi trước,
phân tích, đánh giá các vấn đề lý luận và thực tiễn còn vướng mắc, còn nhiều
quan điểm khác nhau để làm luận cứ khoa học; nghiên cứu quá trình hình
thành và phát triển của các cơ quan Viện kiểm sát; thực trạng thi hành các quy
112
định của Hiến pháp năm 2013 về Viện kiểm sát từ đó đề ra phương hướng, đề
xuất hoàn thiện các quy định về Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt
Nam, cụ thể:
- Nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong Hiến pháp; nghiên cứu quá trình
hình thành và phát triển, tổ chức và hoạt động của cơ quan Viện kiểm sát ở
một số nước trên thế giới, ở Việt Nam nhằm đúc kết bài học kinh nghiệm, vận
dụng trong việc hoàn thiện chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp
Việt Nam
- Thông qua việc phân tích, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng
tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân từ Hiến pháp 2013 đặc biệt
là từ năm 2014 đến nay, chỉ ra những mặt đạt được, những tồn tại, thiếu sót và
nguyên nhân của nó.
- Trên những cơ sở lý luận, những kinh nghiệm rút ra của các nước trên
thế giới cũng như ở Việt Nam; những đánh giá về thực trạng của Viện kiểm
sát trong những năm qua; những yêu cầu đổi mới, những chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp để từ đó hình thành nên những quan
điểm, xây dựng phương hướng và giải pháp thực hiện việc hoàn thiện tổ chức
và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam.
Trong phạm vi luận văn tác giả đã cố gắng nêu lên quá trình hình thành
và phát triển của Viện kiểm sát, làm sáng tỏ về mặt lý luận những vấn đề cơ
bản về vị trí, chức năng, của Viện kiểm sát kể từ khi thành lập trên cơ sở phân
tích, đối chiếu, so sánh những quy định về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát
một số nước trên thế giới qua đó chỉ rõ những hạn chế, bất cập của những quy
định về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, đưa ra những kiến nghị, đề
xuất về mặt lập pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
theo yêu cầu cải cách tư pháp. Việc thực hiện những đề xuất, kiến nghị này là
113
kết quả tất yếu từ những tác động của chính yêu cầu của đời sống hiện thực ở
nước ta cũng như những tác động phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế
và khu vực hiện nay.
Do phạm vi đề tài nghiên cứu rộng lớn và phức tạp, do thời gian nghiên
cứu chưa nhiều nội dung luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết và
thiếu sót. Mặc dù vậy tác giả hy vọng được trao đổi những suy ngẫm, phân
tích của mình cũng như những đề xuất, kiến nghị với mong muốn góp phần
nhỏ vào việc xây dựng mô hình tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp.
114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hòa Bình (2012), “Cơ sở lý luận, thực tiễn của việc sửa đổi, bổ
sung chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp 1992”, Tạp chí
Kiểm sát, Hà Nội.
2. Nguyễn Hòa Bình (2014), Viện kiểm sát nhân dân trong nhà nước pháp
quyền, Nxb. Tư pháp, Hà Nội
3. Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý, Từ điển luật học (2006), Nxb Từ
điển Bách khoa- Nxb Tư pháp.
4. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79/KL-TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính
trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, VKS và Cơ quan
điều tra theo Nghị quyết 49 - NQ/TW, Hà Nội
5. Lê Cảm (1999), Một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống tư pháp hình sự
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Thuộc các chuyên đề lý
luận chuyên sâu về tư pháp hình sự, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà nội.tr.35-36
6. Lê Cảm (2005), "Bàn về tổ chức quyền tư pháp - nội dung cơ bản của
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Kiểm sát, (23).
7. Lê Cảm (2015), “Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền”, Tòa án
nhân dân (19), Hà Nội
8. Nguyễn Đăng Dung (2002), Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy nhà
nước, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
9. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08/2002/NQ-TW về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong tình hình mới, Hà Nội
10. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49/2005/TW ngày 2-6-2005
về chiến lược cải cách tư pháp đến nam 2020, Hà Nội.
115
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đảng lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết Trung ương 2 của Ban chấp
hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Hà Nội
13. Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách
tư pháp ở nước ta hiện nay", Nghiên cứu lập pháp., Hà Nội.
14. Lê Thị Tuyết Hoa (2001), “Bàn về quyền công tố”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, (10), tr.62 – 67
15. Phạm Mạnh Hùng (2015), “Vấn đề kiểm soát việc thực hiện quyền tư
pháp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa
học Kiểm sát, số 3/2015.
16. Phạm Mạnh Hùng (2016), “Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014”, Bản tin Thông tin Khoa
học lập pháp, Số 02(25) năm 2016, Hà Nội
17. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận chung
về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà
nước, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
19. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Hiến pháp,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
20. Hoàng Thế Liên (Chủ biên) (2005), Về đổi mới tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
21. Hoàng Thế Liên (Chủ biên) (2014), Bình luận khoa học Hiến pháp hiện
hành (năm 2013), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
22. Uông Chu Lưu (Chủ nhiệm đề tài) (2006), Cải cách các cơ quan tư pháp,
hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực
xét xử của tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Hà Nội.
116
23. Hoàng Nghĩa Mai (2012), "Quan điểm chỉ đạo và phương hướng đổi mới
tổ chức, hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chíKiểm sát,.
24. Nguyễn Đức Mai (1999), Một số ý kiến về quyền công tố, Kỷ yếu đề tài
khoa học cấp bộ “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức
thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, VKSND tối
cao, Hà nội tr.75-80
25. Nguyễn Đức Mai (2007), "Tổ chức và hoạt động của Viện Công tố ở Việt
Nam trong giai đoạn cải cách tư pháp", Tạp chíNhà nước và pháp luật (8).
26. Khuất Văn Nga (2008), Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân
sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
27. Nguyễn Khánh Ngọc (2005), "Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam - những yêu cầu, thách thức đối với các cơ quan tư pháp và bảo vệ
pháp luật", Tạp chíTòa án nhân dân.
28. Trần Đình Nhã (2013), “Một số vấn đề về quyền tư pháp, hoạt động tư
pháp, cơ quan tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp
29. Võ Quang Nhạn (1984), “Bàn về quyền công tố”, Tạp chí kiểm sát, Hà
Nội
30. Đỗ Ngọc Quang (2002), "Bàn về các cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà
nước", Trong sách: Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ
XXI, Tập thể tác giả do Lê Cảm chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
31. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội
32. Quốc hội (1992), Bộ luật hình sự, Hà Nội
33. Quốc hội (2001), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội
34. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội
35. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội
117
36. Quốc hội (2011), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng
dân sự, Hà Nội
37. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội
38. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội
39. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội
40. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội
41. Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (2008), Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Nguyễn Đình Quyền, Nguyễn Tất Viễn (2018), Quyền tư pháp trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ lý luận đến thực tiễn, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội
43. Nguyễn Thái Phúc (2007), VKS hay Viện công tố, Kỷ yếu đề tài khoa học
cấp bộ, Nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng
mô hình tổ chức và hoạt động Viện công tố ở Việt Nam theo yêu cầu cải
cách tư pháp, VKSND tối cao, Viện khoa học kiểm sát, Hà nội.tr.75-76
44. Thái Vĩnh Thắng (2006), Thể chế chính trị các nước Châu Âu, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
45. Thái Vĩnh Thắng (2008), "Viện Công tố thay thế Viện kiểm sát nhân dân
sẽ được tổ chức và hoạt động như thế nào", Tạp chíLuật học.
46. Lê Hữu Thể (chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội
47. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tuyển tập văn bản về hình sự, NXB. Sự
thật, Hà Nội
48. Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Đào Trí Úc (2006), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
118
50. Đào Trí Úc (2009), “Vị trí, vai trò, đặc trưng và các nguyên tắc của hoạt
động tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (2).
51. Đào Trí Úc (2012), “Chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp
Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát (11).
52. Viện hàn lâm khoa học xã hội Vịệt Nam (2013), Từ điển tiếng Việt, Nxb
từ điển bách khoa, Hà Nội.
53. Viện khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Chuyên
đề về cơ quan công tố một số nước, Thông tin khoa học kiểm sát, Hà Nội.
54. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Nghiên cứu những cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của Viện Công
tố ở Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà
Nội.
55. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Công tố Việt Nam và một số nước
trên thế giới, Thông tin khoa học kiểm sát.
56. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Lịch sử Viện kiểm sát nhân dân
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
57. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Quy hoạch phát triển nhân lực
ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011 – 2020, Hà Nội
58. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Báo cáo tổng kết công tác của
ngành kiểm sát nhân dân năm 2014, Hà Nội
59. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết công tác của
ngành kiểm sát nhân dân năm 2015, Hà Nội
60. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Báo cáo tổng kết công tác của
ngành kiểm sát nhân dân năm 2016, Hà Nội
61. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Báo cáo tổng kết công tác của
ngành kiểm sát nhân dân năm 2017, Hà Nội
119
62. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết công tác của
ngành kiểm sát nhân dân năm 2018, Hà Nội
63. VKSND tối cao (2016), Báo cáo công tác của Viện trưởng VKSND tối
cao tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khóa 14, Hà Nội
64. VKSND tối cao (2017), Báo cáo về tình hình biên chế và tổ chức cán bộ
ngành kiểm sát trình Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa 14, Hà Nội
65. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết 05 năm thi hành
Luật tổ chức VKSND 2014, Hà Nội
66. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018),Thông báo số529/TB-VKSTC của
VKSND tối cao ngày 7/11/2018 về Thông báoKinh nghiệm và rút kinh
nghiệm về công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối
với bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo
quy định của pháp luật, Hà Nội
67. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1992), Tập Sắc lệnh do
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký về Nhà nước và pháp luật, Tờ trình dự án Sắc
lệnh cải cách bộ máy tư pháp và Luật tố tụng, Hà Nội.
68. Nguyễn Văn Yểu - Lê Hữu Nghĩa (2006), Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
120