BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐÀO THỊ LAN PHƢƠNG

ĐỔI MỚI CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐÀO THỊ LAN PHƢƠNG

ĐỔI MỚI CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN MINH TUẤN

HÀ NỘI – 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực.

Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa

vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính Quốc gia.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính Quốc gia

xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Đào Thị Lan Phƣơng

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập tại trường, nhờ sự chỉ bảo tận tình của các thầy,

các cô giáo đến nay tôi đã hoàn thành Luận văn Luật Hiến pháp và Luật hành

chính với đề tài: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

trong giai đoạn hiện nay”

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Nguyễn Minh Tuấn là

giáo viên hướng dẫn trực tiếp và cảm ơn các thầy cô giáo đã giúp đỡ tôi trong

thời gian thực hiện Luận văn này.

Tác giả luận văn

Đào Thị Lan Phƣơng

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

KSV Kiểm sát viên

VKS Viện kiểm sát

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

THQCT Thực hành quyền công tố

TTHS Tố tụng hình sự

XHCN Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT

NHÂN DÂN ..................................................................................................... 7

1.1. Viện kiểm sát trong Bộ máy nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam ....................................................................................................... 7

1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ....................................................... 7

1.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ........... 9

1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát .................. 11

1.2. Các mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan công tố và Viện

kiểm sát một số nƣớc trên thế giới ........................................................... 19

1.2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền

thống pháp luật Common law ................................................................. 19

1.2.2. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền

thống pháp luật Civil law ......................................................................... 24

1.2.3. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền

thống pháp luật xã hội chủ nghĩa ........................................................... 32

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ................... 36

2.1. Lịch sử tổ chức và hoạt động của Cơ quan công tố (1945-1960) và

Viện kiểm sát nhân dân (1960-2013) ........................................................ 36

2.1.1. Lịch sử tổ chức và hoạt động của Viện công tố từ 1945 đến 1960 ... 36

2.1.2. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức

Viện kiểm sát năm 1960 ........................................................................... 40

2.1.3. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 .......................................................... 43

2.1.4. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 .......................................................... 44

2.2. Hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân ................................. 48

2.3. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ............................................ 57

2.3.1. Những quy định về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ....... 57

2.3.1.1. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư

pháp trong lĩnh vực hình sự ................................................................... 57

2.3.1.2. Hoạt động kiểm sát việc thi hành tạm giữ tạm giam và thi hành

án hình sự ............................................................................................... 60

2.3.1.3.Hoạt động của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc giải quyết vụ

án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,

thương mại, lao động và những việc khác ............................................. 62

2.3.1.4.Hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo và kiểm sát việc giải quyết

khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp củaViện kiểm sát nhân dân . 65

2.3.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân

dân ............................................................................................................. 66

2.4. Những điểm tích cực, hạn chế và những vấn đề đặt ra ................... 75

2.4.1. Những điểm tích cực trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm

sát .............................................................................................................. 75

2.4.2. Những hạn chế tồn tại và nguyên nhân ....................................... 81

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ

CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ............ 84

3.1. Phƣơng hƣớng đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND

trong giai đoạn hiện nay ............................................................................ 84

3.2. Các giải pháp nhằm đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của

VKSND trong giai đoạn hiện nay ............................................................. 84

3.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật ...................................................... 84

3.2.2 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm

của ngành kiểm sát .................................................................................. 95

3.2.3 Đổi mới công tác giáo dục, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán

bộ Viện kiểm sát theo hướng chuyên sâu, chuyên môn hóa ................. 98

3.2.4. Đổi mới cơ chế giám sát của Đảng và cơ quan dân cử, tổ chức,

báo chí và nhân dân đối với hoạt động của Viện kiểm sát .................. 104

3.2.5. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt

động của Viện kiểm sát .......................................................................... 106

KẾT LUẬN .................................................................................................. 112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 115

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận văn

Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) đánh dấu sự ra đời của một hệ thống

cơ quan Nhà nước với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo

cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ và phát huy

quyền làm chủ của nhân dân. Sự ra đời của ngành kiểm sát nhân dân nhằm góp

phần bảo đảm pháp chế XHCN, đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm

pháp luật và tội phạm. Trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, hoạt động của

VKSND đã góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà

nước, tổ chức và công dân. Hiện nay, trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà

nước ta, VKSND là một trong bốn hệ thống cơ quan được quy định trong Hiến

pháp. Chức năng của VKSND được thể hiện như là một trong những hình thức

thực hiện quyền lực Nhà nước. Vì vậy, tổ chức và hoạt động của VKSND cần

phải được quan tâm nghiên cứu đầy đủ, nhằm đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của

công cuộc cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong quá trình

nghiên cứu để hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước, phục vụ cho việc đổi mới

tổ chức và hoạt động của VKSND.

Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản

Việt Nam cũng nêu rõ: “Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững

mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh

thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010. Cải cách tư pháp khẩn

trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ

chế công tố gắn với hoạt động điều tra” [11]. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020 xác định nhiều nội dung về đổi mới tổ chức và hoạt

1

động của các cơ quan tư pháp, trong đó có các quy định về hoàn thiện về tổ

chức và hoạt động của VKSND. Tại Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010

của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, VKS và

Cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW thì chức năng của VKS trong

thời gian tới vẫn được tiếp tục xác định chắc chắn đó là: “VKSND có chức

năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát hoạt động tư pháp như

hiện nay” [4]. Theo đó, vấn đề cải cách tư pháp đã được quán triệt và trở

thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, nhằm tạo sự

chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức cũng như hành động, đồng thời phù hợp

với quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính.

Trong hơn 60 năm qua, tổ chức và hoạt động của VKSND ở nước ta đã

đạt được nhiều kết quả, góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân, bảo vệ pháp chế XHCN, đồng thời tạo môi trường ổn định cho sự

phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bên cạnh

những kết quả đạt được như đã nêu thì tổ chức và hoạt động VKSND đã bộc

lộ nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập như: chất lượng và hiệu quả trong công tác

đấu tranh phòng chống tội phạm chưa cao, tình trạng bỏ lọt tội phạm và người

phạm tội vẫn còn xảy ra nhiều, tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét

xử vẫn còn xảy ra… đòi hỏi phải nhanh chóng cải cách mạnh mẽ, toàn diện

về tổ chức và hoạt động của VKSND nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình

hình mới. Mặt khác, tuy Hiến pháp 2013 ban hành, có nhiều quy định cụ thể

về chế định VKSND tuy nhiên việc xác định rõ mô hình tổ chức của Viện

kiểm sát và các nhiệm vụ của VKS các cấp là vấn đề cần thiết phải tiếp tục

nghiên cứu để thực hiện đầy đủ và kịp thời chủ trương của Đảng về cải cách

các cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng.

2

Từ những sự phân tích trên học viên quyết định chọn vấn đề “Đổi mới

tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn

thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài

viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung về tổ chức và hoạt động của

VKSND như: Đề tài khoa học cấp Bộ "Nghiên cứu những cơ sở lý luận và

thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của Viện Công tố ở

Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp" năm 2006, "Cải cách các cơ quan tư

pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực

xét xử của tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân"

năm 2006; Luận văn Thạc sĩ luật học: "VKSND trong điều kiện cải cách tư

pháp", của Phạm Thị Đào, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011,

Luận án Phó tiến sỹ Luật học: “Vị trí, vai trò của VKSND trong bộ máy nhà

nước CHXHCN Việt Nam” của Khuất Văn Nga, năm 1993; sách chuyên khảo:

"Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam",

của Đào Trí Úc, Nxb Tư pháp, 2006; "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy

nhà nước", của Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải, 2002; "Hệ thống

tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay",của tập thể các tác giả do

Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2002; “Cơ quan công tố một số

nước: Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Úc, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,

Indonesia, Thái Lan” của Lê Hữu Thể... Ngoài ra còn có các bài viết liên

quan đến chế định VKSND cũng như những nội dung đổi mới tổ chức và hoạt

động của VKSND được đăng trên các tạp chí như: "Cải cách tư pháp ở Việt

Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", của Lê Cảm, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 4, 2002; "Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp

quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp", của

3

Nguyễn Mạnh Cường, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10, 2002; "Đổi mới tổ

chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng THQCT đáp ứng yêu cầu

cải cách tư pháp", của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát, số 14, 2007; Tạp

chí kiểm sát số 13 (tháng 7/2012) số chuyên đề: tổng kết thi hành và nghiên

cứu và đề xuất sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992...

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đây đa số nghiên cứu về tổ

chức và hoạt động của VKSND trước khi ban hành Hiếp pháp 2013, Luật tổ

chức VKSND năm 2014 cũng như trước khi ban hành các văn bản luật quan

trọng về tư pháp như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS), Bộ

luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015...Do đó, việc học viên quyết

định chọn nghiên cứu đề tài nêu trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan

trọng trong giai đoạn hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích của luận văn

Qua việc nghiên cứu, đánh giá những ưu điểm, hạn chế còn tồn tại về tổ

chức và hoạt động của VKSND từ năm 2013 đến nay, tác giả đưa ra một số

phương hướng và giải pháp nhằm đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của

VKSND.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

Từ mục đích nghiên cứu trên đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

- Nghiên cứu lý luận về tổ chức và hoạt động của VKSND, mô hình cơ

quan công tố, VKS ở một số quốc gia trên thế giới;

- Nghiên cứu thực tiễn tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai

đoạn từ năm 2013 đến hiện nay;

- Đưa ra một số phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới

tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai đoạn hiện nay.

4

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới tổ

chức và hoạt động của VKSND trong giai đoạn hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn có phạm vi nghiên cứu là những vấn đề lý luận chung về

Viện kiểm sát, hệ thống cơ quan công tố và Viện kiểm sát một số nước trên

thế giới theo các mô hình truyền thống pháp luật, cơ cấu tổ chức và hoạt động

của VKSND theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Tập trung

nghiên cứu và đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức và hoạt động của

VKSND từ 2013 (sau khi ban hành Hiến pháp 2013) cho đến nay.

Về thực tiễn luận văn khảo sát từ ví dụ điển hình qua thực tiễn tổ chức

và hoạt động của VKSND trên địa bàn cả nước.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác – Lê nin và tư tưởng

Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng về từng

bước hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của VKSND theo yêu cầu xây dựng

nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Luận

văn cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp, Luật tổ chức VKS

và các văn bản pháp luật khác quy định về tổ chức và hoạt động của Viện

kiểm sát.

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp kết

hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp

hệ thống; phương pháp luật học so sánh để làm sáng tỏ những nội dung cần

nghiên cứu của luận văn.

6. Những điểm mới của luận văn

Đóng góp của đề tài về mặt khoa học pháp lý (lý luận chung về Nhà

nước và pháp luật) là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm

5

vụ, vai trò, công tác của VKSND. Kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số

quy định của pháp luật có liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của

VKSND.

Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham

khảo cho sinh viên, học viên cao học và những người quan tâm trong việc

nghiên cứu các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài

được kết cấu thành 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về VKSND

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai

đoạn hiện nay

Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động

của VKSND

6

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. Viện kiểm sát trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam

1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước kiểu mới, nhà nước

của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Với bản chất nhà nước XHCN,

nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là quyền lực nhà nước là thống

nhất và tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Từ bản chất của nhà nước ta, tổ

chức theo nguyên tắc tập quyền, khác với nguyên tắc phân quyền trong nhà

nước tư bản. Do vậy, nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua cơ

quan đại diện cao nhất của nhân dân, do nhân dân bầu ra, do vậy Quốc hội là

cơ quan quyền lực cao nhất. Song, Quốc hội không thể nắm giữ và làm tất cả

các quyền lực đó mà có sự phân công, phân nhiệm rạch rồi giữa các cơ quan

nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tất

cả những vấn đề nêu trên đều được ghi nhận trong tất cả Hiến pháp, mà cụ thể

tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:

1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất

cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai

cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm

soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp[37].

7

Xuất phát từ bản chất và đặc điểm cơ bản nhất của nhà nước ta, phải

đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực, kết hợp với nguyên tắc

tập trung dân chủ để phân công, phân nhiệm cho từng cơ quan trong bộ máy

nhà nước nhằm đảm bảo tính tập trung nhưng cũng phát huy tính tự chủ để để

thực hiện tốt quyền lực của nhân dân. Như vậy, lập pháp, hành pháp và tư

pháp là ba phạm vi quyền lực thống nhất trong nhà nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam. VKSND là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước ta, tổ

chức và hoạt động cũng chi phối bởi các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của

bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. VKSND là một trong bốn hệ

thống cơ quan nhà nước do Quốc hội bầu ra, thuộc hệ thống các cơ quan tư

pháp và là một thiết chế đặc thù trong tổ chức bộ máy nhà nước XHCN.

Kể từ khi thành lập đến nay, VKSND luôn khẳng định được vị trí của

mình trong bộ máy nhà nước ta. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước đến

Hiến pháp năm 1959, mặc dù tổ chức của VKS vẫn tồn tại trong hệ thống tòa

án nên chưa hình thành một hệ thống VKSND độc lập như ngày nay, song về

hoạt động luôn thể hiện tính độc lập. Sau khi hệ thống Viện công tố chuyển

thành hệ thống VKSND trong Hiến pháp năm 1959 đến nay, vị trí của

VKSND không hề thay đổi và luôn khẳng định vị trí độc lập trong bộ máy

nhà nước, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tổ chức của VKSND có

hai thuộc tính là tính thống nhất và tính độc lập:

Tính thống nhất của nó được thể hiện ở chỗ: Viện trưởng VKSND cấp

dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên; Viện trưởng các

VKS cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.

ính độc lập của nó thể hiện ở chỗ Viện trưởng VKSND tối cao người

đứng đầu hệ thống thống nhất đó chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội;

trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác

trước y ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo công tác

8

của các Viện trưởng các Viện kiểm sát (VKS) khác do luật định. Theo quy

định của Luật tổ chức VKSND hiện hành thì ở các địa phương, Viện trưởng

VKSND chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả

lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân.

Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức VKSND

năm 2014 thì địa vị pháp lý của VKSND là thiết chế Hiến định trong bộ máy

nhà nước, có chức năng THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ

bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND đã làm rõ vị trí, vai trò của

VKSND trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà

nước theo tư tưởng Hiến pháp năm 2013. Với chức năng THQCT, kiểm sát

hoạt động tư pháp, VKSND được xác định là thiết chế kiểm sát hoạt động tư

pháp, có trách nhiệm phối hợp, đồng thời, kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên

đối với cơ quan điều tra, toà án, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác

trong việc thực hiện hoạt động tư pháp. Mặt khác, Luật cũng quy định rõ các

cơ chế giám sát hoạt động của VKSND thông qua các thiết chế dân chủ đại diện

(như Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu

Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân), thông qua dân chủ

trực tiếp và các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời, quy định cơ chế kiểm soát

trở lại của cơ quan điều tra, toà án, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác có

thẩm quyền trong hoạt động tư pháp đối với việc thực hiện chức năng THQCT,

kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND.

1.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

Với tính chất, vị trí vai trò như trên, vậy cơ cấu tổ chức của VKSND

thực chất được quy định như thế nào? Trước hết cần hiểu cơ cấu tổ chức là gì:

“Cơ cấu tổ chức của một bộ máy là tổng hợp các bộ phận có mối quan hệ

phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hóa, có những nhiệm vụ, quyền hạn,

9

trách nhiệm nhất định, được bố trí theo từng cấp, hoặc những khâu công tác

khác nhau nhằm thực hiện các hoạt động của tổ chức và tiến tới những mục

tiêu đã định sẵn”. Như vậy, cơ cấu tổ chức của VKSND gồm nhiều bộ phận,

được phân cấp từ trung ương đến địa phương.

Với chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKSND hoạt

động theo nguyên tắc nào? Ngoài việc là một phần hợp thành hệ thống các cơ

quan nhà nước, VKSND là một tổ chức đặc biệt, có cơ cấu tổ chức và hoạt động

chặt chẽ. Theo quy định tại Điều 109 Hiến pháp 2013 quy định:

1. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện

kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo

thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm

sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân[37].

Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 2013, VKSND hoạt động theo

02 nguyên tắc:

Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành: Viện kiểm

sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp dưới sự lãnh đạo

thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện

kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân cấp trên. VKSND các cấp từ trên xuống dưới tạo thành một hệ thống

thống nhất. Mọi hoạt động của VKSND, dù ở cấp nào, đều đặt dưới sự lãnh đạo

của Viện trưởng. Viện trưởng VKSND phải chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ

hoạt động của đơn vị do mình lãnh đạo trước Viện trưởng VKSND cấp trên và

Viện trưởng VKSNDTC. Viện trưởng VKSNDTC chịu trách nhiệm cá nhân về

10

hoạt động của toàn ngành trước Quốc hội, y ban Thường vụ Quốc Hội, Chủ

Tịch nước.

Việc thực hiện nguyên tắc tập trung và thống nhất lãnh đạo trong ngành

Kiểm sát đảm bảo cho các cấp hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện

nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát. Mặt khác, nhấn mạnh nguyên tắc này

nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân của Viện trưởng VKSND.

Nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật và không phụ thuộc vào cơ quan

nhà nước nào ở địa phương: Các Viện kiểm sát nhân dân trực thuộc thực

hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập và không chịu sự chi

phối bởi các cơ quan nhà nước ở địa phương, chỉ chịu sự lãnh đạo thống nhất

của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện

kiểm sát nhân dân chỉ phụ thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và

các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, y ban thường vụ Quốc hội,

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân tối cao. Có nghĩa là các cơ quan nhà nước ở địa phương không có

quyền can thiệp vào hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Về mặt cơ cấu tổ

chức, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định bộ máy và biên

chế của Viện kiểm sát nhân dân các cấp, không chịu sự tác động của các cơ

quan khác.

1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát

Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà

nước. Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013, VKSND thực hành quyền công

tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Cụ thể hóa Điều 107 Hiến pháp năm 2013,

Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: VKSND là cơ quan

THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

VKSND là cơ quan THQCT

Ở nước ta, thuật ngữ “quyền công tố” và “THQCT” lần đầu tiên chính

thức được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và kế đến là Điều 23 Bộ Luật

11

TTHS năm 1988. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn tồn tại rất nhiều quan điểm quan

điểm khác nhau về khái niệm, đối tượng, phạm vi của quyền công tố, THQCT.

Khái niệm quyền công tố không phải là vấn đề mới, nhưng hiện nay ở

nước ta có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Nhìn chung các quan

điểm ít nhiều đều có những nội dung hợp lý, có những điểm tương đồng. Song

nếu xét một cách toàn diện, ở nhiều góc độ thì nước ta nổi lên một số quan

điểm sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, tất cả các hoạt động của kiểm sát việc

tuân theo pháp luật là THQCT [29]. Chúng tôi cho rằng quan điểm này đã

đánh đồng chức năng THQCT với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp

luật của Viện kiểm sát, đồng thời không xem chức năng công tố là một chức

năng độc lập của VKS mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện

chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoàn toàn không đúng. Bởi vì,

VKS có 02 chức năng (chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp).

Thật vậy, Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1, Điều 3 Luật Tổ chức

VKSND năm 2014 thì VKS có hai chức năng là THQCT và kiểm sát hoạt

động tư pháp. Tuy nhiên, tùy theo từng đoạn nào thì chức năng công tố và

chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là hoàn toàn độc lập và song song tồn

tại; hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do vậy, không

phải mọi hoạt động của KSV lúc nào cũng thực hiện hai chức năng kiểm sát

việc tuân theo pháp luật và THQCT. Mặt khác, xuất phát từ quan điểm xem

tất cả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là THQCT và THQCT

giống nhau. Theo chúng tôi, nếu hiểu quyền công tố như trên là quá rộng và

chưa chính xác. Bởi vì đối tượng và phạm vi của kiểm sát việc tuân theo pháp

luật hầu hết tất cả các lĩnh vực nên rất rộng, trong khi đó đối tượng, phạm vi

của quyền công tố chỉ thực hiện trong lĩnh vực hình sự.

12

Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước

giao cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội tại

phiên tòa sơ thẩm [43, tr.75-76]. Quan điểm này cho rằng chỉ có VKS mới có

quyền này và chỉ diễn ra trong TTHS (cũng chỉ có ở một giai đoạn xét xử sơ

thẩm). Quan điểm này còn đồng nhất quyền công tố với quyền buộc tội của

VKS tại phiên tòa sơ thẩm. Theo chúng tôi, truy tố và buộc tội chỉ là một

trong số quyền năng của VKS khi THQCT chứ không nói lên được bản chất

của quyền này. Buộc tội và sự bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa chỉ là những

hoạt động cụ thể trong hệ thống các hoạt động của VKS khi THQCT. Mặt

khác, chúng ta biết rằng quyền công tố là quyền của nhà nước không chỉ giao

cho VKS trong giai đoạn truy tố mà ngay khi khởi tố vụ án. Do vậy, nếu hiểu

quyền công tố quan điểm này dẫn đến phạm vi của quyền công tố quá hẹp,

đồng thời tạo nên nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT.

Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà

nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, bảo vệ lợi ích chung, bảo vệ lợi ích cá nhân [14, tr.62-67].

Quan điểm này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp

luật được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực TTHS, song cùng với sự phát triển

của thời gian và xã hội cho nên quyền công tố mở rộng sang các lĩnh vực

khác như tố tụng dân sự, tố tụng lao động, tố tụng hành chính... Mặt khác,

không phải bất cứ vụ án hành chính, dân sự, lao động nào cũng bắt buộc VKS

tham gia phiên tòa với tư cách là chủ thể quyền lực công để sử dụng quyền

công tố. Theo chúng tôi, quyền công tố được xác định là quyền của nhà nước,

nhằm truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Do vậy, đối tượng quyền công

tố là tội phạm và người phạm tội cho nên quyền công tố chỉ có trong TTHS

mà không có trong các lĩnh vực khác như: tố tụng dân sự, hành chính, lao

động…

13

Qua xem xét các quan điểm trên, chúng ta nhận thấy nguyên nhân khác

nhau về quyền công tố của các quan điểm trên là do chưa xác định đúng đối

tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố. Cụ thể:

+ Xem quyền công tố là quyền năng, hình thức thực hiện chức năng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoặc đánh đồng quyền công tố với kiểm sát

việc tuân theo pháp luật, từ đó mở rộng phạm vi quyền công tố không chỉ trong

TTHS mà còn sang các lĩnh vực khác..

+ Chỉ xem quyền công tố là quyền truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án để xét xử

và bảo vệ buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm. Điều đó cho thấy, quyền công tố chỉ có

trong giai đoạn xét xử sơ thẩm mà không có trong giai đoạn điều tra cũng như

trong giai đoạn xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.

Xuất phát từ các căn của khoa học, các quy định pháp luật, thực tiễn

hoạt động và bản chất Nhà nước chúng tôi cho rằng: Quyền công tố ở Việt

Nam là quyền của Nhà nước mà VKS nhân danh công quyền nhằm thực hiện

việc truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc tội) đối với người phạm tội và bảo vệ

việc buộc tội trước phiên tòa nhằm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội

và đúng quy định pháp luật.

Việc quy định cơ quan THQCT ở mỗi nước khác nhau, tùy thuộc vào

bản chất nhà nước, điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia. Ở nước ta,

THQCT được nhà nước giao cho VKS thực hiện chức năng này, cho nên chỉ

có VKS mới có chức năng THQCT mà không cơ quan nào có được. Thực tế

cho thấy, có rất nhiều người nhầm lẫn hoặc nhận thức sai lầm giữa quyền

công tố và THQCT, giữa thẩm quyền của VKS với các quyền năng pháp lý để

thực hiện thẩm quyền đó, hay hành vi nào là THQCT hay hành vi nào là thực

hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Như vậy, vấn đề đặt ra là các

Cơ quan điều tra và Tòa án cũng có quyền khởi tố vụ án hình sự hoặc bắt

người phạm tội để điều tra, thu thập chứng cứ, thì các cơ quan này có phải là

14

THQCT hay không? [24, tr.75-80]. Chúng tôi cho rằng, các Cơ quan điều tra,

Tòa án hay một số cơ quan khác có chức năng khởi tố vụ án, điều tra, thu thập

chứng cứ nhưng không nhân danh công quyền truy tố người phạm tội ra trước

Tòa án để xét xử và bảo vệ việc truy tố trước Tòa cho nên các cơ quan nay

không có chức năng THQCT. Mặt khác, phạm vi quyền công tố là từ khi tội

phạm xảy ra và kết thúc bản án có hiệu lực pháp luật. Để đảm bảo việc thực hiện

quyền đó, nhà nước quy định các quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm quyền

đưa vụ án ra tòa để xét xử và bảo vệ buộc tội đó gọi là cơ quan THQCT.

Như vậy, từ lý luận cũng như thực tiễn có thể khẳng định rằng, chỉ có

VKS mới có chức năng THQCT. Chúng tôi cho rằng, THQCT là: Việc cơ

quan VKS sử dụng tổng hợp các biện pháp do luật định để truy cứu trách

nhiệm hình sự (buộc tội) đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy

tố và xét xử.

Từ đó có thể thấy, chức năng THQCT của VKSND có nghĩ là VKSND

là cơ quan được giao thực hiện chức năng thực hành quyền đưa người phạm

tội ra truy tố trước pháp luật, thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với

người phạm tội. Hoạt động THQCT của VKSND được thực hiện ngay từ khi

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để phát hiện người

phạm tội, thực hiện việc xem xét quyết định khởi tố và được diễn ra trong

suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Mục đích của

hoạt động THQCT là phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,

nghiêm minh mọi tội phạm và người phạm tội không làm oan người vô tội,

không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bị

bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.

Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp

Để thực hiện quyền tư pháp, các nhà nước đều không ngừng xây dựng

và hoàn thiện cơ quan tư pháp để thực hiện quyền tư pháp. Ở nước ta, khi đề

15

cập đến cơ quan tư pháp cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Có quan điểm

cho rằng cơ quan tư pháp chỉ là những cơ quan tài phán; có quan điểm cho

rằng cơ quan tư pháp bao gồm cơ quan tài phán và cơ quan công tố; quan

điểm khác cho rằng cơ quan tư pháp là bao gồm tất cả các cơ quan bảo vệ

pháp luật như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Thanh tra, các cơ

quan bổ trợ tư pháp như: Luật sư, giám định, công chứng. Theo Hiến pháp

năm 2013 và quan điểm của Đảng thể hiện trong Nghị quyết 49/NQ-TW thì

hệ thống cơ quan tư pháp gồm có: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra,

Cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức hỗ trợ cho hoạt động xét xử như:

Tổ chức luật sư, tổ chức giám định tư pháp, cơ quan công chứng; trong các cơ

quan tư pháp nói trên thì Tòa án là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp.

Mặt khác, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng

đến nay, vấn đề cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp

(công tác tư pháp và cơ quan tư pháp) nói riêng rất được quan tâm. Đặc biệt,

các Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba và lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa VIII; Chỉ thị 53 - CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị

“Về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong

năm 2000”; Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị

“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị

quyết 49 - NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020. Như vậy, qua thực tiễn hoạt động cũng như nghiên cứu

các văn bản pháp luật của Nhà nước và văn kiện, nghị quyết của Đảng nhận thấy

thuật ngữ cơ quan tư pháp ở nước ta đã xuất hiện từ lâu và cơ quan tư pháp được

hiểu theo nghĩa rộng gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi

hành án. Do vậy, cơ quan tư pháp có 04 dấu hiệu đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, cơ

quan tư pháp là tổ chức quyền lực nhà nước trong bộ máy công quyền; Thứ hai,

cơ quan tư pháp tạo thành hệ thống các cơ quan độc lập có thẩm quyền riêng biệt

16

do luật định để giải quyết sự xung đột các mối quan hệ xã hội; Thứ ba, cơ quan

tư pháp chuyên thực hiện quyền xét xử bằng hoạt động tố tụng tư pháp (tài

phán); Thứ tư, hoạt động cơ quan tư pháp nhằm mục đích bảo vệ chế độ hiến

định, nhân thân, các quyền tự do của con người và công dân [5, tr.35-36].

Tuy nhiên, qua nhận thức về tư pháp của các cơ quan tư pháp, hoạt

động thực tiễn và các quy định của pháp luật thì hoạt động tư pháp như sau:

Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia

vào việc giải quyết các tranh chấp pháp lý, các vi phạm pháp luật thuộc thẩm

quyền phán quyết của Tòa án và thi hành các phán quyết đó theo thủ tục tố

tụng mà pháp luật quy định.

Như vậy, các hoạt động tư pháp là đối tượng của hoạt động kiểm sát

của VKSND bao gồm hoạt động TTHS, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và

hoạt động thi hành án hình sự, dân sự, hành chính. Hoạt động kiểm sát hoạt

động tư pháp của VKSND là hoạt động kiểm sát tính hợp pháp của các hành

vi, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra, Tòa án, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền

của các cơ quan trên trong việc giải quyết thông tin về tội phạm, khởi tố, điều

tra, xét xử, thi hành án và các hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân

khác có liên quan đến các hoạt động giải quyết thông tin về tội phạm, khởi tố,

điều tra, xét xử, thi hành án.

Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND được thực hiện

ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi

tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, thi

hành án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án dân sự,

thi hành án hành chính, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư

pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

17

Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND nhằm bảo đảm hoạt

động của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra, Tòa án, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các cơ quan

trên, hoạt động của cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền thi hành án và

các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác liên quan đến các hoạt động giải quyết

thông tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thực

hiện theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người, quyền công dân

không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; mọi vi phạm pháp luật

trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.

Để bảo đảm cho VKSND thực hiện chức năng THQCT, Luật tổ chức

VKSND năm 2014 đã xác định VKSND có vai trò, trách nhiệm trong việc

quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; phê chuẩn, không phê chuẩn quyết

định khởi tố bị can; quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi các biện

pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân; hủy bỏ quyết định khởi tố

hoặc không khởi tố vụ án, các quyết định tố tụng khác, các biện pháp hạn chế

quyền con người, quyền công dân trái pháp luật trong việc giải quyết thông

tin về tội phạm, khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu

Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra thực hiện; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ

quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội; điều tra các tội phạm xâm

phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong

hoạt động tư pháp theo quy định của luật; quyết định việc truy tố, buộc tội bị

cáo tại phiên tòa; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp

VKSND phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội...

Để bảo đảm cho VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư

pháp, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã xác định VKSND có vai trò, trách

nhiệm trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư

18

pháp, tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông

báo kết quả cho VKSND; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp hồ sơ,

tài liệu để VKSND kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong

hoạt động tư pháp. Đồng thời, VKSND có trách nhiệm trực tiếp kiểm sát; xác

minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá

nhân trong hoạt động tư pháp; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có

thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động

tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng

ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa

án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm

pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan,

người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp; kiểm sát việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo

thuộc thẩm quyền...

Trong quá trình THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND có trách

nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án, Thi hành án, Thanh tra, Kiểm

toán, các cơ quan nhà nước khác, y ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ

chức thành viên của Mặt trận để phòng, chống tội phạm có hiệu quả; xử lý kịp

thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư

pháp; phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng;

nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp luật.

1.2. Các mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan công tố và Viện kiểm

sát một số nước trên thế giới

1.2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền thống

pháp luật Common law

* Viện công tố Hoàng gia Anh

Công tố Hoàng gia Anh là cơ quan độc lập, thuộc nhánh hành pháp. Sự

ra đời của cơ quan công tố bắt nguồn từ ý tưởng phân định chức năng điều tra

19

tội phạm với chức năng truy tố tội phạm vốn trước đây đều thuộc chức năng

của cảnh sát. Đứng đầu cơ quan công tố Hoàng gia Anh là Tổng công tố.

Tổng công tố do Tổng lý Chưởng bổ nhiệm và thực hiện chức năng của mình

dưới sự giám sát của Tổng Chưởng lý. Tổng Chưởng lý là người chịu trách

nhiệm trước Nghị viện về các vấn đề pháp lý, về hoạt động của một số cơ

quan như cơ quan công tố, cơ quan Công tố Hải quan và Công tố Thuế, cơ

quan giải quyết các vụ án gian lận nghiêm trọng và bộ phận Luật sư của

Chính phủ…Tổng Chưởng lý do Chính phủ bổ nhiệm, mang hàm Bộ trưởng

và thường là thành viên của Nghị viện, là cố vấn pháp lý của Chính phủ, đại

diện cho Nhà nước và Chính phủ trước Tòa án và trong các thủ tục tố tụng tư

pháp liên quan đến lợi ích công. Tuy vậy, Tổng Chưởng lý độc lập với Chính

phủ trong việc quyết định các vấn đề liên quan thực hiện chức năng công tố.

Tương tự như vậy, mặc dù Tổng Công tố do Tổng chưởng lý bổ nhiệm, chịu

sự giám sát của Tổng Chưởng lý nhưng Tổng Công tố cũng độc lập trong

công tác của mình.

- Chức năng, nhiệm vụ: Cơ quan Công tố Hoàng gia Anh thực hiện

chức năng truy tố tội phạm. Về cơ bản, hoạt động điều tra tội phạm hoàn toàn

do Cảnh sát đảm nhiệm. Tuy nhiên, trong suốt quá trình điều tra, Cảnh sát

luôn luôn có thể nhận được sự tư vấn từ phía cơ quan công tố. Trên cơ sở kết

quả điều tra của Cảnh sát, cơ quan công tố có trách nhiệm (và có quyền) quyết

định việc truy tố hay không truy tố. Tại Vương quốc Anh, cơ quan công tố

không có chức năng giám sát tư pháp và không tham gia vào việc giải quyết

các vụ án dân sự. Chỉ khi nào Chính phủ bị kiện, cơ quan công tố có thể được

yêu cầu đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhà nước, nhưng với tư cách là luật sư

Nhà nước (luật sư công) chứ không phải với tư cách cơ quan công tố.

- Tổ chức bộ máy: Hệ thống cơ quan công tố Hoàng gia Anh bao gồm:

Cơ quan công tố trung ương; Cơ quan công tố khu vực và các chi nhánh.

20

Hiện nay, hệ thống cơ quan công tố có trụ sở chính tại London, York và

Birmingham và 42 cơ quan công tố khu vực trên địa giới hành chính của nước

Anh và xứ Wales. Cơ cấu này tương ứng với hệ thống 43 cơ quan cảnh sát

trên lãnh thổ Anh và xứ Wales, trong đó cơ quan Công tố khu vực London

phụ trách hoạt động của khu vực thành phố London và lực lượng cảnh sát thủ

đô. Dưới mỗi văn phòng Công tố khu vực có chi nhánh công tố. Chi nhánh công

tố này do một Công tố viên phụ trách gồm một số cán bộ làm án và luật sư. Chi

nhánh công tố có liên hệ chặt chẽ với cảnh sát địa phương và các cơ quan bảo vệ

pháp luật khác trên địa bàn.

- Cán bộ Viện công tố: Nhân sự của Viện Công tố trung ương bao gồm:

Tổng công tố, Tổng giám đốc điều hành, giám đốc các bộ phận làm án, giám đốc

các bộ phận chính sách, luật sư – công tố viên, cán bộ làm án và nhân viên hành

chính. Nhân sự của Viện Công tố khu vực bao gồm Công tố trưởng, giám đốc

điều hành, các luật sư của công tố (còn được gọi là Công tố viên Hoàng gia) và

các bộ làm án. Tổng Công tố lãnh đạo ngành công tố thông qua việc bổ nhiệm

các chức danh công tố, ban hành các quy định hướng dẫn nghiệp vụ áp dụng cho

toàn ngành. Tổng Công tố trực tiếp tham gia vào các vụ án khó khăn, phức

tạp và là người quyết định việc truy tố một số tội phạm cụ thể.

* Viện Công tố Hoa Kỳ

Hoa kỳ là quốc gia áp dụng học thuyết tam quyền phân lập một cách rõ

nét nhất, triệt để nhất trong các Nhà nước tư sản với sự phân chia rõ ràng giữa

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lập pháp do Quốc hội với hai

Nghị viện (Thượng nghị viện và Hạ nghị viện) nắm giữ. Quyền hành pháp

đứng đầu là Tổng thống do nhân dân bầu ra thông qua các đại cử tri. Quyền tư

pháp là do Tòa án nắm giữ, đứng đầu là Tòa án tối cao liên bang với 9 Thẩm

phán. Các nhánh quyền lực này hoạt động độc lập, tách rời nhau theo cơ chế

kiềm chế, đối trọng: nhánh quyền lực này bị hạn chế và kiểm sát bởi các

nhánh quyền lực khác.

21

- Vị trí của cơ quan công tố: Cơ quan công tố Hoa Kỳ được phân chia

theo cấp độ Liên bang và các tiểu bang. Ở cấp bang, do pháp luật mỗi bang

khác nhau nên tổ chức cơ quan công tố, nhiệm vụ và quyền hạn của Công tố

viên ở từng bang cũng khác nhau. Điểm chung nhất của cơ quan công tố ở cả

liên bang và các bang đều trực thuộc chính quyền hành pháp Hoa Kỳ và có

thẩm quyền truy tố tội phạm ra trước Tòa án các cấp. Văn phòng công tố Liên

bang trực thuộc Bộ tư pháp Liên bang (Bộ Tư pháp Liên bang bao gồm các

đơn vị như: Văn phòng công tố Liên bang, cơ quan điều tra Liên bang (FBI),

cơ quan Liên bang điều tra các tội ma túy (DEA), lực lượng thi hành án và rất

nhiều các đơn vị khác giống như Bộ Tư pháp ở nhiều quốc gia. Cơ quan công

tố ở cấp Bang trực thuộc Bộ tư pháp cấp Bang.

Tổng Chưởng lý Liên bang là người đứng đầu Bộ Tư pháp Liên bang.

Tổng Chưởng lý được coi là nhân vật cao nhất của chính quyền hành pháp

chịu trách nhiệm về toàn bộ các vấn đề thực thi pháp luật, đại diện cho chính

quyền hành pháp trong các vụ án hình sự và các vụ kiện mà Nhà nước Hoa kỳ

là một bên tranh chấp. Tổng Chưởng lý là thành viên Nội các Hoa kỳ.

- Chức năng - nhiệm vụ:

Trong lĩnh vực hình sự, Văn phòng công tố Liên bang có trách nhiệm

truy tố các tội phạm liên bang do các Cơ quan điều tra Liên bang chuyển tới.

Ở Hoa kỳ, cơ quan công tố không chỉ đạo điều tra. Cơ quan điều tra tiến hành

điều tra tội phạm và khi đã đủ chứng cứ thì chuyển cho cơ quan công tố. Cơ

quan công tố nếu thấy hồ sơ chứng cứ đủ thì truy tố ra Tòa, nếu chưa đủ

chứng cứ thì trả lại Cơ quan điều tra, yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp thêm

hồ sơ hoặc đình chỉ vụ án.

Tuy các Công tố viên không giám sát điều tra nhưng giữa cơ quan điều

tra và Cơ quan công tố có quan hệ phối hợp chặt chẽ. Công tố viên có vai trò

như “luật sư” cho cảnh sát: hướng dẫn việc tìm kiểm bằng chứng, hướng dẫn

22

thủ tục bắt giam, đảm bảo việc thu thập chứng cứ theo đúng thủ tục pháp luật

để chứng cứ có giá trị sử dụng tại phiên tòa sau này. Ở một số thành phố lớn,

các Văn phòng công tố cũng có những thanh tra cảnh sát riêng của mình để

tiến hành điều tra.

Trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm

giam, điều tra viên sẽ phải đề nghị, đề xuất với công tố viên. Công tố viên

cũng có thể từ chối đề nghị của cảnh sát về việc bắt hay tạm giam nếu thấy

không có cơ sở. Nếu có cơ sở, công tố viên đề nghị với Tòa án để Tòa án

quyết định. Việc quyết định có bắt hay tạm giam hay không sẽ được tiến hành

tại Tòa án và diễn ra dưới hình thức một phiên xét xử giữa một bên là Công tố

viên và một bên là luật sư của người bị tình nghi hoặc bị can. Thẩm phán ra

phán quyết về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Các lệnh cưỡng chế tố tụng

khác liên quan đến đời tư và tự do của công dân như nghe trộm điện thoại,

khám xét nhà riêng…cũng đều được Tòa án quyết định trên cơ sở đề nghị của

Điều tra viên và Công tố viên.

Cơ quan công tố còn có một đặc quyền đó là quyền “tùy nghi truy tố”

kể cả khi chứng cứ vụ án đã đầy đủ nhưng Công tố viên vẫn có thể đình chỉ,

không truy tố tội phạm. Quyết định không truy tố không bị bất kỳ một sự

kiểm soát nào, kể cả từ phái Tòa án. Đây là một đặc quyền duy nhất chỉ có cơ

quan công tố mới được thực thi căn cứ vào lợi ích của công chúng để quyết

định truy tố hay không truy tố một vụ việc. Do có hệ thống pháp luật khác

nhau, quyền truy tố tùy nghi ở cấp liên bang do Tổng chưởng lý liên bang đặt

ra, ở cấp bang do cấp bang và các cấp công tố cơ sở tự xác định về đường lối

truy tố. Tuy nhiên, co quan công tố phải hoàn toàn chịu trách về quyết định đó

và phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng cho công

luận biết về quyết định không truy tố vụ việc. Do hệ thống pháp luật khác

nhau, quyền truy tố tùy nghi ở cấp liên bang do Tổng chưởng lý liên bang đặt

ra, ở cấp bang do cấp bang và các cấp công tố cơ sở tự xác định về đường lối

23

truy tố. Tuy nhiên, cơ quan công tố phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết

định đó và phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng

cho công luận biết về quyết định không truy tố vụ việc.

Trong lĩnh vực dân sự: Văn phòng công tố Liên bang có trách nhiệm

tham gia các vụ kiện nếu Nhà nước Hoa kỳ là một bên trong tranh chấp. Khi

đại diện cho Nhà nước Liên bang trong tranh chấp đó, các Công tố viên tham

gia vào việc xử lý vụ việc như một bên đương sự. Tùy theo tính chất của vụ

việc, các Công tố viên sẽ phải phối hợp và cần sự trợ giúp của các cơ quan

khác của chính phủ để hoàn thành nhiệm vụ của mình.

- Tổ chức bộ máy: Ngoài Văn phòng Công tố Liên bang ở Bộ Tư pháp,

có tổng cộng 93 Văn phòng công tố Liên bang được đặt ở 93 quận hay hạt

(districts) thuộc thẩm quyền tài phán của Liên bang. Người đứng đầu các văn

phòng này đều do Tổng thống Hoa Kỳ bổ nhiệm. Các Văn phòng công tố

Liên bang đều dưới sự lãnh đạo của Tổng Chưởng lý Liên bang. Tất cả 93

Văn phòng công tố liên bang trên toàn quốc không được coi là cấp dưới của

Văn phòng công tố liên bang nằm ở Bộ Tư pháp mà hoạt động độc lập, người

đứng đầu các Văn phòng công tố đều do Tổng thống Liên bang bổ nhiệm.

Tuy nhiên, trong hoạt động, họ chịu sự chỉ đạo trực tiếp về đường lối truy tố

từ Tổng Chưởng lý Liên bang - Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Tổng Chưởng lý Liên bang của Hoa Kỳ do Tổng thống bổ nhiệm và có

sự phê chuẩn của Quốc hội Hoa kỳ. Tổng Chưởng lý Liên bang không phải

chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Mọi hoạt động của các Văn phòng công tố

Liên bang đều dưới thẩm quyền của Tổng Chưởng lý Liên bang.

1.2.2. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền thống

pháp luật Civil law

* Viện Công tố Pháp

- Mô hình tổ chức:

Tại Pháp, Thẩm phán công tác tại hai ngạch là ngạch xét xử (Thẩm

24

phán xét xử làm việc tại cơ quan Toà án phụ trách cả việc thẩm tra tư pháp lẫn

việc xét xử) và ngạch công tố (bao gồm các Uỷ viên công tố). Hệ thống công

tố bao gồm đội ngũ Công tố viên đặt bên cạnh các Toà án thuộc ngành tư

pháp (không có ngạch công tố bên cạnh Toà hành chính). Sứ mệnh cao cả của

các Công tố viên là bảo vệ lợi ích chung của xã hội đồng thời bảo vệ quyền tự do

của cá nhân. Hiến pháp năm 1958 đã nêu, tất cả các Thẩm phán (cả Thẩm phán

xét xử và Công tố viên) đều độc lập, dưới sự đảm bảo của Tổng thống. Tính độc

lập của các Thẩm phán xét xử dựa trên quyền không thể bãi miễn của mình. Còn

tính độc lập của các Công tố viên chủ yếu dựa trên quyền không thể bãi miễn

của mình. Còn tính độc lập của các Công tố viên chủ yếu dựa trên quyền tự do

luận tội của mình, độc lập với Toà án và các bên khiếu kiện.

Cho đến nay, về mặt hình thức Viện Công tố Pháp được đặt trong hệ

thống Toà án, nhưng không lệ thuộc vào Toà án. Hệ thống cơ quan Công tố

Pháp gồm có: Viện công tố nằm trong các Toà án sơ thẩm thẩm quyền rộng;

Viện Công tố tại Toà phúc thẩm; Viện công tố bên cạnh Toà án phá án. Về

mặt nhân sự và quản lý hành chính Viện công tố trực thuộc Bộ tư pháp và

Viện công tố không phải là mối quan hệ chỉ đạo trực tiếp mà là thông qua

giám sát hoạt động của Viện công tố. Các công tố viên là viên chức nhà nước

nhưng không phụ thuộc vào cơ quan hành pháp. Điều đó có nghĩa là quan

chức Chính phủ không có quyền chỉ thị họ đối với các yêu cầu pháp lý. Các

công tố viên hoạt động dưới sự kiểm tra của Bộ trưởng Bộ tư pháp vàc có thể

nhận các hướng dẫn chung hoặc chỉ thị chung từ về chính sách hình sự từ Bộ

trưởng Bộ Tư pháp và có thể nhận các hướng dẫn chung hoặc chỉ thị chung về

chính sách hình sự từ Bộ trưởng Bộ tư pháp. Quyền hạn của Công tố viên Pháp

tương đối rộng rãi: khởi tố các vụ án hình sự và một số vụ án dân sự, chỉ đạo

hoạt động của Cảnh sát tư pháp, thực hiện việc buộc tội trước Toà (thẩm quyền

chỉ riêng của Viện Công tố) và bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Toà án.

25

Ngoài ra, khác với Thẩm phán và Hội thẩm, Công tố viên không bắt buộc phải

"hồi tỵ" khi tham gia phiên toà.

- Về cán bộ Công tố viên

a. Những quy định chung ở Pháp, cũng giống như ở mộtsố nước khác

như Bỉ và Italia, nguyên tắc thống nhất Giới thẩm phán được áp dụng, có

nghĩa: Giới thẩm phán bao gồm cả Thẩm phán và các Công tố viên. Các

Thẩm phán có thể được thuyên chuyển sang làm Công tố viên và ngược lại.

Ðiều đó cũng có nghĩa các quy định chung cho giới Thẩm phán sẽ được

áp dụng đối với cảThẩm phán và Công tố viên. Tuy nhiên cũng có các quy

định đặc thù đối với Thẩm phán và Công tố viên do tính chất nghề nghiệp của

Công tố viên là đưa mộtviệc phạm tội ra Toà và có quyền quyết định mộtsự

truy tố có cần thiết hay không cần thiết, thích hợp hay không thích hợp.

Những quy định về việc đào tạo nghề nghiệp ban đầu do đó được áp

dụng chung cho cả Công tố viên và Thẩm phán. Nãm 1958 Trường đào tạo

Thẩm phán được thành lập theo sáng kiến của Thủ tướng lúc đó (Michel

Debre). Trường này là một phiên bản của Trường Hành chính quốc gia

chuyên đào tạo đội ngũ cán bộ cho bộ máy hành chính của Pháp. Trường đào

tạo Thẩm phán có hai nhiệm vụ: đào tạo đầu vào cho đội ngũ Thẩm phán và

Công tố viên tương lai, bồi dưỡng, đào tạo bổ sung cho những Thẩm phán,

Công tố viên đương nhiệm.

Tiêu chuẩn để tuyển chọn Công tố viên hay Thẩm phán là ưu tiên tuyển

chọn những sinh viên đã tốt nghiệp đại học với tuổi đời chưa quá 27. Họ phải

trải qua cuộc thi đầu vào tổ chức trên phạm vi quốc gia, sau đó sẽ được tham

gia khóa học 31 tháng tại Trường đào tạo Thẩm phán. Một hình thức tuyển

chọn thứ hai để được đào tạo tại Trường đào tạo Thẩm phán dành cho những

những cán bộ làm trong các công sở của Nhà nước, có độ tuổi dưới 40 tuy

không có bằng đại học nhưng phải có kinh nghiệm làm việc ít nhất 4 nămvà

26

những người này cũng phải thi đầu vào tại trường. Tuy nhiên, số lượng tuyển

theo cách thức này rất ít so với cách thức tuyển chọn thứ nhất.

Việc tuyển chọn qua thi tuyển là mộtcơ chế để đảm bảo thực hiện

nguyên tắc hiến định: đó là nguyên tắc bình đẳng về cơ hội được tham gia các

chức vụ trong chính quyền, trong đó có các cơ quan tư pháp. Điều đó có nghĩa

là tất cả các chức vụ trong hệ thống tư pháp sẽ được tuyển chọn dựa trên tiêu

chuẩn về trình độ và năng lực, không phân biệt thiên kiến chính trị hay tôn

giáo... Cơ quan chủ trì điều hành kỳ thị này là một Hội đồng do Bộ trưởng Bộ

Tư pháp thành lập theo đề nghị của Ban giám hiệu của Trường đào tạo Thẩm

phán. Sau khi được thành lập, Hội đồng hoạt động hoàn toàn độc lập. Tất cả

những người đã được tuyển chọn vào học tại Trường đào tạo Thẩm phán sau

này sẽ được bổ nhiệm tại các Toà án, Viện công tố Bộ trưởng Bộ Tư pháp

không có quyền phản đối hay từ chối không bổ nhiệm những người này. Một

kỳ thi mới để tuyển chọn những thí sinh vào học tại trường đào tạo Thẩm

phán quốc gia chỉ có thể thực hiện sau khi tất cả những thí sinh cũ đã được

tiếp nhận vào các vị trí trong các cơ quan tư pháp.

- Chức năng nhiệm vụ của Viện công tố Pháp

Viện công tố đóng vai trò quan trọng trong TTHS với tư cách là cơ

quan thực hiện quyền công tố, trong tố tụng dân sự không chỉ tham gia với tư

cách đương sự chính trong một số vụ việc mà còn với tư cách là cơ quan kiểm

sát việc tuân thủ pháp luật. Quyền công tố khác quyền yêu cầu khởi kiện của

người bị hại ở chỗ quyền công tố thì bảo vệ lợi ích công còn quyền kiện của

đương sự nhằm bảo vệ lợi ích riêng của người bị hại.Xã hội giao cho viện

công tố thực hiện quyền công tố và thực hiện các quyền hạn khác do pháp luật

quy định là nhân danh nền Cộng hoà chứ không phải nhân danh Chính phủ,

có nghĩa là đại diện cho quốc gia, cho xã hội chứ không phải là những người

đại diện cho hành pháp. Các Công tố viên không phải là các viên chức hành

27

pháp, vì họ không phát biểu nhân danh hành pháp và không bảo vệ lợi ích

riêng của hành pháp, mặc dù về mặt tổ chức, các Viện công tố trực thuộc Bộ

Tư pháp là cơ quan bổ nhiệm và quyết định lương bổng cho họ. Viện công tố

là cơ quan bảo vệ và áp dụng pháp luật, chính vì lý do đó Viện công tố gồm

có các Công tố viên chứ không gồm các viên chức và đây là nhân tố cần thiết

trong việc thực hiện chính sách hình sự của nền Cộng hoà.

Với tư cách là một bộ phận trong hệ thống tài phán hình sự, Viện công

tố phải có mặt tại trong các cuộc tranh tụng tại Toà và bản án hình sự chỉ có

hiệu lực khi có mặt Viện công tố khi tuyên án.

Quyền công tố là một tổng thể các quyền, bao gồm không chỉ quyền

khởi tố, truy tố mà còn là nghĩa vụ bảo vệ sự buộc tội của mình trước Toà

(đọc cáo trạng, giải thích tại sao lại truy tố với ý nghĩa buộc tội và đề nghị với

Toà mức hình phạt). Quyền công tố còn được thực hiện cả trong lĩnh vực thi

hành án hình sự vì Việncông tố truy tố yêu cầu xét xử thì phải có trách nhiệm

theo dõi việc thi hành án hình sự.

* Viện công tố Liên bang Đức

- Vị trí pháp lý của Viện công tố trong tổ chức bộ máy nhà nước Đức

Vấn đề vị trí pháp lý của Viện công tố cũng được thảo luận rất nhiều kể

từ trước và sau khi nó được thành lập. Cho đến nay, vị trí pháp lý của nó đã

được khẳng định một cách rõ ràng trong tổ chức bộ máy nhà nước.

Trước hết phải khẳng định rằng, hệ thống ngành công tố thuộc nhóm

những cơ quan bảo vệ pháp luật. Theo quan niệm của Đức thì nhóm cơ quan

bảo vệ pháp luật. Theo quan niệm của Đức thì nhóm cơ quan bảo vệ pháp luật

gồm có toà án và Viện công tố, Luật sư bào chữa, hội thẩm, tuy họ hoạt động

với tư cách cá nhân, không nhân danh cơ quan nhà nước nào, nhưng họ cũng

được xếp vào nhóm cơ quan bảo vệ pháp luật mà thuộc cơ quan hành pháp.

Tuy nhiên cảnh sát chỉ mang tính chất cơ quan bảo vệ pháp luật khi nó thực

hiện hoạt động điều tra.

28

Xét theo góc độ tổ chức cơ quan nhà nước nói chung thì ngành công tố

thuộc nhóm quyền lực thứ tư. Xét theo góc độ chức và nguyên tắc lãnh đạo,

chỉ đạo thì Viện công tố mang tính chất của một cơ quan hành pháp. Xét theo

quyền của Viện công tố trong lĩnh vực TTHS, ví dụ như Viện công tố có

quyền tự quyết định xử lý vụ án ngay ở trong giai đoạn truy tố, mà không cần

phải đưa vụ án ra truy tố trước Toà - quyền đình chỉ vụ án thì dường như Viện

công tố có quyền tư pháp xét xử nhưng không hẳn thuộc hệ thống cơ quan xét

xử. Do đó, dù hệ thống cơ quan công tố thuộc ai đi chăng nữa, trực thuộc cơ

quan lập pháp, trực thuộc Chính phủ hay trực thuộc Bộ trưởng Bộ tư pháp thì

vị trí pháp lý của nó cũng không thay đổi.

- Tổ chức và hoạt động của Viện Công tố Đức

Hệ thống công tố được tổ chức không theo địa giới hành chính như tổ

chức của các cơ quan chấp hành, mà được tổ chức theo từng vùng và khu vực.

Một vùng có thể bao gồm một tỉnh hoặc nhiều tỉnh, một khu vực có thể bao

gồm một huyện hoặc nhiều huyện (quận). Tuỳ theo số lượng công việc cụ thể

của từng nơi mà Bộ trưởng Tư pháp bố trí Viện công tố cho phù hợp. Ví dụ, ở

những nơi có ít tội phạm xảy ra thì có thể tổ chức một Viện công tố khu vực

có thẩm quyền quản hạt rộng hơn các Viện công tố khu vực có ít nhiều tội

phạm xảy ra hoặc không tổ chức Viện công tố khu vực ở đó. Khi có tội phạm

xảy ra thì Công tố viên cấp vùng đó THQCT ở khu vực đó, nếu ở khu vực đó

có Toà án khu vực. Đây là cách thức tổ chức rất linh hoạt của Đức nhằm giảm

thiểu gánh nặng về tài chính cho nhà nước, vì một khu vực một năm chỉ có

một vài vụ án xảy ra mà cùng tổ chức một Viện công tố ở đó thì thật là lãng

phí. Toà án thì lại hoàn toàn khác với Viện công tố, vì ngoài án hình sự ra,

Toà án còn phải giải quyết rất nhiều những loại án khác nữa như án dân sự,

kinh tế, lao động,… Do đó, tuy luật tổ chức quy định, Viện công tố được tổ

chức song song với Toà án, ở đâu có Toà án thì ở đó có Viện công tố được tổ

chức không thống nhất ở cấp bang.

29

Ngành công tố được tổ chức theo ngành dọc, độc lập với cơ quan chính

quyền và nguyên tắc hoạt động của nó là tập trung thống nhất, Công tố viên

cấp trên và thống nhất chịu sự lãnh đạo của Tổng công tố bang.

Viện công tố là cơ quan thuộc hệ cơ quan quyên lực nhà nước

(Stastgewalt), song nó lại không phải là cơ quan thi hành quyền lực nhà nước.

Tôn chỉ, mục đích hoạt động của Viện công tố là chỉ tuân theo pháp luật và

tôn trọng sự thật khách quan. Do đó, Viện công tố là cơ quan bảo vệ quyền lợi

của nhà nước và là người đại diện cho lợi ích công (Allgemeine interegge).

Do đó, Viện công tố chỉ hoạt động khi có hành vi xâm phạm lợi ích của nhà

nước, xâm phạm lợi ích công. Đây là một điểm căn bản để phân biệt giữa

công tố trong luật tố tụng của Đức.

Trong quá trình điều tra, truy tố và THQCT trước Toà, Viện công tố

không chỉ tiến hành điều tra một chiều, không chỉ thu thập chứng cứ vô tội

của người bị tình nghi phạm tội. Và nếu trong quá trình điều tra, truy tố, nếu

Viện công tố thấy hành vi phạm tội không còn ý nghĩa đối với lợi ích công

nữa thì có thể kết thúc tố tụng bằng một quyết định đình chỉ vụ án.

Xuất phát từ lý do trên, các nhà khoa học pháp lý và những nhà làm

luật đã bác bỏ quan điểm cho rằng, tại phiên toà Công tố viên là một bên tham

gia tố tụng với tư cách là người buộc tội, bên kia là luật sư bào chữa hoặc bị

cáo với tư cách là một bên gỡ tội. Viện công tố không phải chỉ đơn thuần là

bên tham gia xét xử với tư cách là người buộc tội, vì với vị thế của người đại

diện cho lợi ích công thì Công tố viên có trách nhiệm không chỉ đưa ra những

chứng cứ buộc tội, mà còn đưa ra những chứng cứ vô tội ra trước Toà cả. Lợi

ích công không bao giờ truy cứu trách nhiệm một người vô tội. Trong khi đó

luật sư bào chữa với tư cách là một bên tham gia tố tụng, chỉ có quyền và

trách nhiệm đưa ra những chứng cứ làm giảm nhẹ tội hoặc những chứng cứ

làm giảm nhẹ tội trạng của bị cáo.

30

Đây là điều căn bản nói lên vị thế khác nhau giữa Công tố viên và luật

sư bào chữa và cũng là điểm quan trọng để xác định đúng vị trí của Công tố

viên trong TTHS Đức.

- Chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố Đức

Giai đoạn điều tra: Theo qui định của luật TTHS, thì cơ quan có thẩm

quyền điều tra gồm: Viện công tố, cảnh sát, thuế quan, thuế vụ. Lực lượng

cảnh sát có 2 loại, lực lượng cảnh sát hình sự và lực lượng cảnh sát khác. Lực

lượng cảnh sát hình sự điều tra những vụ án lớn, phức tạp, rất nghiêm trọng,

còn lực lượng cảnh sát khác điều tra những vụ án ít nghiêm trọng hoặc

nghiêm trọng. Cơ quan thuế quan hoặc thuế vụ tiến hành điều tra những vụ án

thuộc lĩnh vực chuyên môn mà mình phụ trách. Còn Viện công tố thì có

quyền điều tra tất cả các loại tội phạm.

Giai đoạn truy tố: Khi nhận được bản cáo trạng và hồ sơ vụ án Viện công

tố chuyển sang, Toà án tiến hành việc nghiên cứu hồ sơ và mở phiên toà trù bị.

Ở giai đoạn này Toà án có thể đưa ra một trong những quyết định sau đây:

+ Không chấp nhận quyết định truy tố của Viện công tố.

+ Tạm đình chỉ vụ án

+ Đình chỉ vụ án

+ Đưa vụ án ra xét xử công khai.

Quyết định truy tố của Viện công tố xác định ranh giới xét xử của Toà

án. Toà án chỉ xét xử những hành vi và bị cáo khi được Viện công tố truy tố.

Toà án không được xét xử những hành vi, những người mà Viện công tố

không truy tố.

Giai đoạn xét xử: Phiên toà được tiến hành theo thủ tục thẩm vấn.

Nguyên tắc xét xử công khai, trực tiếp. Toà án chỉ có thể đưa ra những quyết

định dựa trên kết quả thẩm vấn công khai tại phiên toà.

31

Tại phiên toà, Thẩm phán là người điều khiển phiên toà, là người thẩm

vấn chính. Luật tố tụng Đức vẫn giữ mô hình tố tụng thẩm vấn, mà không áp

dụng mô hình tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên trong quá trình xét xử có đan xen

một số yếu tố tranh tụng. Tố tụng Đức vẫn coi trách nhiệm hình sự của Thẩm

phán và coi giai đoạn xét xử là giai đoạn điều tra công khai mà Thẩm phán

giữ vai trò chủ đạo. Công tố viên là người thay mặt nhà nước, là người đại

diện cho lợi ích công khai tại phiên toà. Do đó, vị trí của Công tố viên không

hẳn giữ vai trò của người buộc tội, không hẳn phải nhất thiết bảo vệ quan

điểm truy tố của mình. Công tố viên cũng không phải là một bên "đối tụng"

với luật sư bào chữa, với bị cáo, vì công tố viên không chỉ có nghĩa vụ đưa ra

những chứng cứ để buộc tội bị cáo, mà còn trách nhiệm đưa ra những chứng

cứ vô tội của bị cáo, mà còn trách nhiệm đưa ra những chứng cứ vô tội của bị

cáo. Nếu coi Công tố viên là một bên " đối tụng", là một bên buộc tội, thì

công tố viên sẽ không còn có trách nhiệm đưa ra những chứng cứ vô tội của

bị cáo hoặc những chứng cứ vô tội của bị cáo hoặc những chứng cứ giảm nhẹ

tội trạng của bị cáo.

1.2.3. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền thống

pháp luật xã hội chủ nghĩa

* VKS Trung Quốc

Trung Quốc là quốc gia tổ chức bộ máy nhà nước dựa trên nguyên tắc

tập trung quyền lực. Toàn bộ quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà đại

diện là Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc và Đại hội đại biểu nhân dân địa

phương. Trong bộ máy nhà nước, Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước

cao nhất, Tòa án là cơ quan xét xử, VKS là cơ quan giám sát pháp luật.

- Vị trí của Viện kiểm sát: VKS Trung Quốc là một hệ thống cơ quan

độc lập, được xác định là cơ quan tư pháp, không thuộc hệ thống cơ quan

hành pháp. Viện trưởng VKSND tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn

32

quốc bầu ra và chịu trách nhiệm trước cơ quan này. Các VKS địa phương

không thuộc hệ thống các cơ quan hành chính ở địa phương nhưng lại chịu sự

giám sát của Đại hội đại biểu nhân dân địa phương.

- Chức năng, nhiệm vụ: Theo Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân

Trung Hoa, “VKSND Trung Hoa là cơ quan giám sát pháp luật của Nhà

nước”. VKSND có chức năng, quyền hạn cụ thể như sau:

Thực hiện quyền kiểm sát đối với các vụ án phản quốc, chia rẽ đất nước

và các vụ án phạm tội to lớn, phá hoại nghiêm trọng việc thực hiện thống nhất

chính sách, pháp luật, pháp lệnh, quy chế hành chính của Nhà nước.

Tiến hành điều tra đối với các vụ án hình sự được trực tiếp thụ lý.

Kiểm sát việc điều tra vụ án hình sự do cơ quan công an tiến hành;

quyết định việc bắt giữ, truy tố hoặc miễn tố đối với các vụ án do cơ quan

công an điều tra; giám sát hoạt động điều tra của cơ quan công an.

Khởi tố và hỗ trợ truy tố đối với các vụ án hình sự; giám sát hoạt động

xét xử của Tòa án nhân dân. 5. Giám sát việc chấp hành phán quyết và quyết

định của các vụ án hình sự, hoạt động của trại giam, nơi tạm giam và cơ quan

cải tạo lao động.

Ngoài ra, VKSND còn có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật

trong việc bảo vệ quyền tố cáo của công dân đối với các nhân viên Nhà nước

vi phạm pháp luật, truy cứu trách nhiệm pháp luật đối với những người xâm

phạm quyền thân thể, quyền dân chủ và các quyền khác của công dân.

- Cơ cấu tổ chức của VKSND: Theo Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND

Trung Hoa, hệ thống tổ chức VKSND Trung Hoa bao gồm VKSND tối cao,

VKSND địa phương các cấp, VKS quân sự và các VKS chuyên ngành khác.

* VKS Liên bang Nga

- Vị trí của Viện kiểm sát: VKS Liên bang Nga có vị trí độc lập với các

cơ quan hành pháp và tư pháp, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập

33

trung thống nhất, trên cơ sở các KSV cấp dưới phải phục tùng các KSV cấp

trên và tất cả đều phục tùng Tổng Kiểm sát trưởng Liên bang Nga, hoàn toàn

độc lập với các cơ quan, tổ chức, công dân. Các cơ quan VKS thực hiện các

thẩm quyền của mình một cách độc lập với các cơ quan quyền lực của liên

bang, của các chủ thể liên bang, của các chính quyền địa phương và các tổ

chức xã hội. Để đảm bảo tính độc lập cho các cơ quan Viện kiểm sát, Luật

liên bang quy định không cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp

vòa việc thực hiện công tác kiểm sát.

- Chức năng, nhiệm vụ: VKS Liên bang Nga có chức năng THQCT và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Theo quy định của pháp luật, VKS vẫn thực

hiện chức năng kiểm sát chung, tuy nhiên, phạm vi của chức năng kiểm sát

chung đã bị thu hẹp hơn so với trước (VKS không thực hiện kiểm sát việc

tuân theo pháp luật đối với Chính phủ Liên bang Nga, các tổ chức xã hội,

đảng phái chính trị, công dân). Ở Liên bang Nga, VKS không kiểm sát hoạt

động xét xử của Tòa án và những người tham gia tố tụng trong tố tụng dân sự

và TTHS.

- Tổ chức bộ máy: Hệ thống VKS Liên bang Nga được tổ chức theo

đơn vị hành chính, bao gồm: VKS Trung ương Liên bang Nga; VKS các chủ

thể thuộc Liên bang Nga và cấp tương đương; VKS các thành phố, quận,

huyện và cấp tương đương; các VKS chuyên trách (như: VKS trong lĩnh vực

giao thông, VKS bảo vệ môi trường…); Các Viện nghiên cứu khoa học, các

Trường đào tạo cán bộ kiểm sát; Hệ thống VKS quân sự các cấp.

Tóm lại, mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố, VKS của

các nước theo các truyền thống pháp luật common law, civil law và pháp luật

xã hội chủ nghĩa có nhiều điểm khác nhau. Tuy nhiên, vận dụng mô hình nào

để nghiên cứu, áp dụng vào đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện

kiểm sát nhân dân ở nước ta là việc làm hết sức cần thiết và phải nghiên cứu

34

kỹ lưỡng. Việc nghiên cứu, vận dụng những điểm phù hợp áp dụng vào tình

hình thực tế ở nước ta có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng, đổi mới cơ cấu

tổ chức của VKSND.

Như vậy, việc nghiên cứu về lý luận chung về VKSND là tiền đề tiên

quyết cho việc nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của VKSND trong

giai đoạn hiện nay cũng như đưa ra những phương hướng, giải pháp đổi mới

cơ cấu tổ chức vào hoạt động của ngành VKSND.

35

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT

NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. Lịch sử tổ chức và hoạt động của Cơ quan công tố (1945-1960) và

Viện kiểm sát nhân dân (1960-2013)

2.1.1. Lịch sử tổ chức và hoạt động của Viện công tố từ 1945 đến 1960

Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt

Nam dân chủ cộng hoà ra đời (02/9/1945), ngày 13/9/1945 Chính phủ lâm

thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã ban hành Sắc lệnh số 32 bãi bỏ

quan chức hai ngạch hành chính và tư pháp của chính quyền thực dân phong

kiến, đồng thời ban hành một loạt các sắc lệnh để thiết lập ngay các cơ quan

tư pháp, trong đó có cơ quan Công tố nhằm đấu tranh một cách kịp thời và có

hiệu quả với các hành vi phạm tội, bảo đảm cho việc củng cố chính quyền

cách mạng và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Khác với Toà án được thiết lập

ngay từ Sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945, các cơ quan Công tố được thiết lập

muộn hơn. Hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Công

tố được quy định chi tiết tại các Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, Sắc lệnh

số 51/SL ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946.v.v.

Ngày 09/11/1946, Quốc hội thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước

Việt Nam dân chủ Cộng hoà, trong đó Chương VI (từ Điều 63 đến Điều 69)

quy định các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp.

Điều 63 Hiến pháp năm 1946 quy định các cơ quan tư pháp gồm: Toà án tối

cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và các Toà án sơ cấp.

Nhưng vì điều kiện chiến tranh nên Hiến pháp không được ban bố thi hành,

Quốc hội giao cho Chính phủ cùng với Ban Thường vụ Quốc hội căn cứ vào

các nguyên tắc của Hiến pháp ban hành các văn bản pháp luật. Vì vậy, Toà án

và cơ quan Công tố được tổ chức theo các Sắc lệnh của Chính phủ.

36

Về tổ chức các cơ quan Công tố:

Theo các Sắc lệnh nói trên, cơ quan Công tố nằm trong cơ cấu tổ chức

của Toà án, do Bộ Tư pháp quản lý. Hệ thống Toà án được tổ chức ở ba cấp:

Toà án sơ cấp (ở các quận, huyện, châu), Toà án đệ nhị cấp (ở các tỉnh, thành

phố) và Toà thượng thẩm được tổ chức ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ (Điều

7, Điều 12 và Điều 35 Sắc lệnh số 13).

Ở Toà án sơ cấp, “Thẩm phán xét xử một mình” làm cả việc Công tố

(Điều 10 Sắc lệnh số 13). ở Toà án đệ nhị cấp, có hai loại Thẩm phán là Thẩm

phán xử án và Thẩm phán buộc tội - Công tố viên (gọi là Biện lý hoặc Phó

Biện lý của các Toà án đệ nhị cấp).

Ở Toà thượng thẩm có Công tố viện do Chưởng lý đứng đầu, ngoài ra

còn có Phó Chưởng lý và Thẩm lý Toà Thượng thẩm. Công tố viện đặt dưới

sự quản lý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền ra

lệnh cho Chưởng lý nhưng không có quyền trực tiếp làm thay quyền công tố

(Điều 51 Sắc lệnh số 13/SL).

Về thẩm quyền của cơ quan Công tố:

Theo Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, các Công tố viên có các nhóm

thẩm quyền chủ yếu như: - Thẩm quyền tư pháp cảnh sát (điều khiển công

việc và giám sát công tác điều tra của tư pháp cảnh sát); - THQCT (là người

buộc tội nhân danh Nhà nước); - Tham gia các phiên toà hộ (dân sự): Có

quyền yêu cầu Toà án thi hành mọi phương sách cần thiết để chứng tỏ sự thật,

có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của các vị thành niên, của các pháp nhân hành

chính; - Có nhiệm vụ thi hành những bản án đã có hiệu lực, quản trị Toà án,

điều khiển và kiểm soát công việc của tất cả các nhân viên trong Toà án, trừ

các Thẩm phán xử án; - Kiểm soát công việc quản trị lao tù, khám xét sổ sách

cùng ngân quỹ của các phòng công lại và khám xét các sổ hộ tịch trong quản

hạt; - Có quyền kháng cáo bản án hình sự đã tuyên.v.v. (các Điều 21, 22, 29,

37

28, 30, 31, 32 Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946). Riêng người đứng đầu

Viện công tố của Toà thượng thẩm (Chưởng lý) còn có cả nhiệm vụ giám sát

việc thi hành các đạo luật, sắc lệnh và quy tắc hiện hành trong quản hạt của

mình (Điều 40 Sắc lệnh số 51/SL) [47, tr.88].

Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950, Thông tư số 21/TTg ngày

07/6/1950 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên bộ số 18/BKT-TP ngày

08/6/1950 của Bộ Kinh tế và Bộ Tư pháp đánh dấu sự thay đổi lớn tổ chức

các cơ quan tư pháp nói chung, các cơ quan Công tố nói riêng. Theo các văn

bản này, Toà án sơ cấp nay gọi là Toà án nhân dân huyện, Toà án đệ nhị cấp

gọi là Toà án nhân dân tỉnh, Hội đồng phúc án gọi là Toà phúc thẩm. Do điều

kiện chiến tranh của nước ta lúc bấy giờ, nên chính quyền thời kỳ này duy trì

và hoạt động chủ yếu là Chính phủ, là Uỷ ban hành chính kháng chiến các

cấp. Vì vậy, các cơ quan Công tố được đặt dưới sự điều khiển của Uỷ ban

hành chính kháng chiến trên cùng địa hạt cả về đường lối công tố chung, cả

mệnh lệnh riêng về từng vụ việc.

Khác với Sắc lệnh số 13/SL trước đây, Công tố viên chỉ có quyền

kháng cáo về việc hình, Điều 15 Sắc lệnh số 85/SL năm 1950 quy định:

“Công tố viên có quyền kháng cáo về việc hộ cũng như về việc hình”, đánh

dấu sự mở rộng thẩm quyền kiểm sát của các cơ quan Công tố ở nước ta đối

với hoạt động xét xử.

Sau ngày hoà bình lập lại, miền Bắc được giải phóng, Đảng và Nhà

nước ta đã chủ trương kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến

các địa phương, trong đó có các cơ quan tư pháp, đặc biệt là các cơ quan

Công tố. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá I (từ ngày 16/4/1958 đến ngày

29/4/1958), Quốc hội quyết định lập Toà án tối cao và hệ thống Toà án và hệ

thống Công tố, cả hai tách khỏi Bộ Tư pháp, trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị

38

định số 256/TTg ngày 01/7/1959 quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ và tổ

chức của Viện công tố, Nghị định số 321/TTg ngày 02/7/1959 về thành lập

các Viện công tố phúc thẩm. Theo quy định của các văn bản pháp luật này hệ

thống các cơ quan Công tố được thành lập từ Trung ương đến cấp huyện, trở

thành hệ thống các cơ quan Nhà nước độc lập, không còn trực thuộc Bộ Tư

pháp, không còn chịu sự chỉ đạo cụ thể và trực tiếp của Uỷ ban hành chính cùng

cấp ở địa phương. Theo đó, hệ thống cơ quan Công tố gồm: - Viện công tố

Trung ương (trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có địa vị pháp lý ngang với Bộ). -

Viện công tố phúc thẩm đặt ở Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Khu tự trị Việt bắc,

Khu tự trị Thái - Mèo. - Viện công tố thành phố Hà Nội, Hải Phòng. - Viện công

tố khu Hồng Quảng. - Viện công tố các tỉnh và khu vực Vĩnh Linh. - Viện công

tố huyện và các đơn vị hành chính tương đương [47, tr.109].

Các Viện công tố có các nhiệm vụ: Một là, điều tra và truy tố trước Toà

án những kẻ phạm pháp về hình sự. Hai là, giám sát việc chấp hành pháp luật

trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra. Ba là, giám sát việc chấp hành

pháp luật trong việc xét xử của các Toà án. Bốn là, giám sát việc chấp hành

pháp luật trong việc thi hành các bản án về hình sự, dân sự và trong hoạt động

của các cơ quan giam, giữ và cải tạo. Năm là, khởi tố và tham gia tố tụng

trong những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước

và của nhân dân. Những quy định này của pháp luật đã xác định tương đối cụ

thể và rõ ràng vị trí, vai trò, chức năng, thẩm quyền của Viện công tố trong bộ

máy Nhà nước ta. Cùng với các quy định về tổ chức hệ thống Toà án nhân

dân các cấp, hệ thống các cơ quan Công tố được thiết lập từ Trung ương đến

cấp tỉnh, cấp huyện là bước phát triển mới của các cơ quan Công tố và cũng là

bước chuẩn bị cho việc chuyển các cơ quan Công tố thành hệ thống VKSND

vào năm 1960.

39

Như vậy có thể rút ra một số nhận xét sau đây:

- Sau khi nước Nhà giành được độc lập, bằng các sắc lệnh đầu tiên của

Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã từng bước thiết lập

và kiện toàn các cơ quan tư pháp (Toà án và Công tố) của Nhà nước kiểu mới

của nhân dân.

- Khi xây dựng các cơ quan tư pháp của chính quyền nhân dân, trong

đó có cơ quan Công tố, Nhà nước ta không hoàn toàn đoạn tuyệt và phủ nhận

mà đã tiếp nhận, kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm thực tiễn tổ chức

và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Công tố đã từng

được thiết lập và duy trì ở nước ta.

- Ngay từ lúc ban đầu mới được hình thành và nhất là những năm sau

này vào cuối những năm 1950, cơ quan Công tố đã thể hiện rõ xu hướng độc

lập cả về tổ chức, độc lập và mở rộng thẩm quyền về hoạt động.

Vì tuy nằm trong cơ cấu Toà án nhưng Chánh án không có quyền điều

khiển và kiểm soát các Công tố viên; Viện công tố chịu sự quản lý của Bộ Tư

pháp nhưng Bộ trưởng Tư pháp không có quyền trực tiếp làm nhiệm vụ công

tố; và cuối cùng là thành lập hệ thống các cơ quan Công tố tách ra khỏi cả

Toà án, cả Bộ Tư pháp để trở thành một hệ thống độc lập. Chức năng, thẩm

quyền của cơ quan Công tố không chỉ giới hạn ở THQCT, không chỉ điều

khiển, giám sát hoạt động điều tra mà còn trực tiếp tiến hành điều tra và thực

hiện cả sự giám sát đối với các hoạt động tư pháp và tham gia hoạt động tố

tụng dân sự, có quyền kháng cáo cả bản án hình sự và bản án dân sự.

2.1.2. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức Viện

kiểm sát năm 1960

Theo Hiến pháp năm 1959 và các luật về tổ chức bộ máy Nhà nước

được ban hành trên cơ sở Hiến pháp này, trong đó có Luật tổ chức VKSND

năm 1960, bộ máy Nhà nước của ta nói chung, đặc biệt là các cơ quan Công

tố đã có sự thay đổi một cách cơ bản.

40

Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm

1960, hệ thống các cơ quan Công tố trực thuộc Chính phủ đã được chuyển

thành hệ thống VKSND các cấp hoàn toàn độc lập với Chính phủ, tổ chức

theo những nguyên tắc hoàn toàn mới, chức năng, thẩm quyền của các cơ

quan kiểm sát các cấp được mở rộng hơn nhiều so với các cơ quan Công tố

trước đó ở nước ta, cũng như so với Viện công tố của các nước hiện nay. Đây

là hệ thống cơ quan Nhà nước hoàn toàn mới cả về vị trí, vai trò, chức năng,

thẩm quyền và nguyên tắc tổ chức - hoạt động trong cơ cấu tổ chức bộ máy

Nhà nước của ta. Cụ thể là:

Về tổ chức, hệ thống VKSND bao gồm: VKSND tối cao; VKSND các

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương;

VKSND các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc đơn vị hành chính

tương đương; VKS quân sự các cấp (Điều 105 và Điều 4 Luật tổ chức

VKSND năm 1960).

Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động, VKSND là một hệ thống độc lập, tập

trung thống nhất trong toàn ngành, đứng đầu là Viện trưởng VKSND tối cao.

Nguyên tắc này thể hiện:

- Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu, chỉ chịu trách nhiệm

và báo cáo công tác trước Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi

Quốc hội không họp.

- VKSND các địa phương do Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm,

chỉ chịu sự lãnh đạo của VKSND cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của

VKSND tối cao.

- VKSND các địa phương làm nhiệm vụ của mình một cách độc lập,

các cơ quan Nhà nước khác không được can thiệp (Điều 106, 107, 108 Hiến

pháp 1959; Điều 5, 6, 23, 24 Luật tổ chức VKSND năm 1960).

41

Về chức năng, thẩm quyền của VKSND, khác với Viện công tố, theo

quy định Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960, VKSND không

chỉ thực hiện chức năng công tố mà còn thực hiện chức năng kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và lĩnh vực

hoạt động tư pháp.

Vấn đề đặt ra là tại sao chúng ta lại thay hệ thống Viện công tố trực

thuộc Chính phủ, chỉ thực hiện chức năng công tố vừa mới được thiết lập

trước đó bằng một hệ thống cơ quan Nhà nước mới là VKSND? VKSND do

Viện trưởng VKSND tối cao đứng đầu, có địa vị pháp lý hoàn độc lập và

tương ứng với các cơ quan Nhà nước then chốt ở Trung ương (VKSND tối

cao - Chính phủ - Toà án nhân dân tối cao), tổ chức và hoạt động theo nguyên

tắc tập trung thống nhất toàn ngành, VKSND không chỉ tiếp tục thực hiện

chức năng công tố mà còn thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật (kiểm sát chung) đối với các văn bản của các cơ quan Nhà nước từ

Trung ương đến địa phương (trừ Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,

Chủ tịch Nước, Chính phủ).

Sự thay đổi này không vội vã và cũng không sao chép một cách máy

móc mô hình tổ chức của VKS Liên Xô được thành lập năm 1922 theo

nguyên lý tổ chức và chức năng, thẩm quyền mà V.I. Lênin đã đề ra trong tác

phẩm “Về chế độ song trùng trực thuộc và pháp chế” mà xuất phát từ “nhu

cầu của cuộc cách mạng XHCN đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành một

cách nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về mục đích và hành

động trong nhân dân, giữa nhân dân và Nhà nước, cũng như giữa các ngành

hoạt động Nhà nước với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong

việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp

nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra VKSND để kiểm sát việc tuân

theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho pháp luật

42

được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất” (Tờ trình về Luật tổ

chức VKSND năm 1960).

Lý do chuyển Viện công tố thành VKS là nhằm thiết lập một hệ thống

cơ quan Nhà nước mới có chức năng chuyên kiểm sát (giám sát) việc tuân

theo pháp luật nhằm bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được thực hiện

nghiêm chỉnh và thống nhất, ngăn ngừa tình trạng cục bộ địa phương, cục bộ

bản vị của các ngành, các cấp. Để thực hiện được chức năng mới này, hệ

thống VKSND phải được tổ chức theo nguyên tắc đặc thù khác hẳn các cơ

quan Nhà nước khác: Nguyên tắc độc lập, tập trung thống nhất trong toàn

ngành đứng đầu là Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao

chỉ chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước Quốc hội và cơ quan thường trực

của Quốc hội khi Quốc hội không họp. Các Viện trưởng VKSND địa phương

các cấp do Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, chỉ chịu sự Lãnh đạo của

VKSND cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.

2.1.3. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức Viện

kiểm sát nhân dân năm 1981

Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức VKSND năm 1981 quy định về vị

trí, chức năng, thẩm quyền, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND các

cấp về cơ bản kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức

VKSND năm 1960. Điểm khác biệt rõ nhất là Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ

chức VKSND năm 1981 là không những ghi rõ chức năng kiểm sát việc tuân

theo pháp luật của cơ quan Nhà nước từ cấp Bộ trở xuống, các tổ chức xã hội,

đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà nước và công dân, mà còn nhấn

mạnh chức năng THQCT của VKSND (Điều 138 Hiến pháp 1980, Điều 1

Luật tổ chức VKSND năm 1981).

Để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, THQCT, bảo

đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, trong Báo

43

cáo của Ựỷ ban Dự thảo Hiến pháp năm 1980 tại kỳ họp thứ bảy Quốc hội

khoá VI ngày 12/12/1980 đã khẳng định lại nguyên tắc cốt lõi có tính đặc thù

của VKSND như sau: “Ngành Kiểm sát nhân dân tổ chức theo chế độ thủ

trưởng và tập trung, thống nhất lãnh đạo trong Ngành. Viện trưởng và KSV

tỉnh, thành, huyện và cấp tương đương do Viện trưởng VKSND tối cao bổ

nhiệm... Chế độ Thủ trưởng và sự lãnh đạo tập trung, thống nhất trong toàn

ngành Kiểm sát bảo đảm cho VKSND không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan Nhà

nước nào ở địa phương, bảo đảm hành động nhất trí, hoạt động nhạy bén, phát

hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các việc làm vi phạm pháp luật của các cơ

quan Nhà nước và công dân”.

Ngày 30/6/1989, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá VIII, Quốc hội đã

thông qua Nghị quyết sửa đổi 7 điều của Hiến pháp năm 1980, nhưng những

sửa đổi này chỉ liên quan đến quyền ứng cử của công dân và việc thành lập cơ

quan Thường trực Hội đồng nhân dân từ cấp huyện trở lên. Trên cơ sở sửa

đổi, bổ sung Hiến pháp, Quốc đã thảo luận và thông qua Luật tổ chức Hội

đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1989 (sửa đổi). Nhưng khi thảo luận

Dự thảo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, do đề cao một

cách quá mức Hội đồng nhân dân nên đã có ý kiến của một số đại biểu Quốc

hội đề nghị phải quy định Hội đồng nhân dân có quyền giám sát hoạt động

của VKSND cùng cấp, Viện trưởng VKSND địa phương phải báo cáo Hội

đồng nhân dân về hoạt động công tác của VKSND. Lý do là ở địa phương của

đại biểu Quốc hội này có một vụ án, có đơn thư khiếu nại, phản ánh về sự bê

trễ, tiêu cực liên quan đến Viện kiểm sát. Chính quyền địa phương mời Viện

trưởng VKSND đến họp trao đổi giải quyết, nhưng vị này không đến dự.

2.1.4. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Viện

kiểm sát nhân dân năm 1992

Trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1992 có một số đề án đề nghị

chuyển VKSND thành Viện công tố trực thuộc Chính phủ, VKSND chỉ nên

44

tập trung vào chức năng công tố, bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội. Vì chức năng kiểm sát việc

tuân theo pháp luật của VKSND trùng lắp với chức năng kiểm tra, thanh tra

của các cơ quan hành chính Nhà nước (Chính phủ, các cơ quan thanh tra của

Chính phủ, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp), chức năng giám sát

của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.v.v.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng

(khoá VII) ngày 04/12/1991 về chỉ đạo xây dựng Hiến pháp năm 1992 đã kết

luận VKSND vẫn giữ hai chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chức

năng công tố. Kết luận này đã được thể hiện trong Điều 137 Hiến pháp năm

1992 và Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 1992. Song Hiến pháp năm 1992

và Luật tổ chức VKSND 1992 đã có những quy định khác Hiến pháp năm

1959, Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức VKSND năm 1960, Luật tổ chức

VKSND năm 1981 liên quan đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động của

VKSND: - Uỷ ban kiểm sát VKSND tối cao và Uỷ ban kiểm sát VKSND các

địa phương không còn là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng nữa mà có quyền

thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng. Luật quy định 4

loại vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định theo đa số của Uỷ ban kiểm sát

VKSND tối cao và 3 loại vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định theo đa số của

Uỷ ban kiểm sát VKSND các địa phương (Điều 138 Hiến pháp 1992, khoản 2

Điều 28 và khoản 2 Điều 30 Luật tổ chức VKSND năm 1992).

- Viện trưởng VKSND địa phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân

dân cùng cấp; chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình

thi hành pháp luật ở địa phương, về công tác của VKS ở địa phương; trả lời

chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 140 Hiến pháp năm 1992,

Điều 7 Luật tổ chức VKSND năm 1992). Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần

thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội lần

45

thứ IX của Đảng về việc tổ chức nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của

Hiến pháp năm 1992, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá X, Quốc hội đã quyết

định thành lập Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp

năm 1992.

Năm 2001, trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của

Hiến pháp năm 1992 có rất nhiều ý kiến khác nhau về chức năng của

VKSND. Trong Tờ trình số 06/UB ngày 19/11/2001, Ựỷ ban dự thảo sửa đổi,

bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 đề nghị: “VKSND chỉ THQCT

và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Theo Uỷ ban này, đây là hai lĩnh vực rất

bức xúc, nhưng đang còn nhiều hạn chế. Mặt khác, việc không giao chức

năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho VKSND cũng là để khắc phục

những trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ trong tổ chức bộ máy của Nhà nước:

Chức năng giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; chức năng

kiểm tra, thanh tra của hệ thống hành chính, Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các

cấp đối với hoạt động của cơ quan hành chính cấp dưới.v.v.

Cũng theo quan điểm của Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992,

cùng với việc bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND

cần sửa đổi Điều 140 Hiến pháp về chế độ báo cáo công tác của Viện trưởng

VKSND địa phương trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu

Hội đồng nhân dân cho phù hợp.

Mặc dù khi đó có nhiều ý kiến không đồng ý bỏ chức năng kiểm sát

việc tuân theo pháp luật của VKSND vì tính chất, chức năng, thẩm quyền

kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND khác với tính chất, chức năng,

thẩm quyền giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và càng khác

hẳn tính chất, chức năng, thẩm quyền kiểm tra, thanh tra của hệ thống hành

chính, của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp đối với hoạt động của cơ

quan hành chính cấp dưới. Nhưng ngày 25/12/2001, Quốc hội vẫn thông qua

46

Nghị quyết số 51/2001/NQ sửa đổi, bổ sung 23 điều của Hiến pháp năm 1992,

trong đó có Điều 137 quy định việc giao cho VKSND thực hiện chức năng,

nhiệm vụ THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp và Điều 140 quy định

“Viện trưởng các VKSND địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước

Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân”. Ngày

02/4/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật tổ chức

VKSND mới, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm

2001), bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (chức năng kiểm sát

chung) của VKSND, VKSND không còn có vai trò “bảo đảm” mà chỉ là “góp

phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.

Tuy Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND quy định: “Viện trưởng, các

Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên (KSV)VKSND địa phương... do Viện

trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức”, nhưng Pháp lệnh

về Kiểm sát viên VKSND của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 04/10/2002

lại quy định: Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm KSVVKSND cấp tỉnh,

cấp huyện theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn KSVVKSND cấp tỉnh, cấp

huyện. Pháp lệnh quy định: Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn KSVVKSND địa

phương là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (thường là

Phó Bí thư hoặc Uỷ viên Thường vụ của Tỉnh uỷ, Thành uỷ), một trong

những thành viên của Hội đồng tuyển chọn này là lãnh đạo Ban Tổ chức

chính quyền (nay là Sở Nội vụ) - là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân

dân cấp tỉnh.

Như vậy, đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức

VKSND năm 2002, chúng ta gần như đã đồng nhất mối quan hệ giữa Viện

trưởng VKSND tối cao với Quốc hội và mối quan hệ giữa Viện trưởng

VKSND địa phương với Hội đồng nhân dân cùng cấp, đã chính thức xa rời

nguyên tắc tập trung thống nhất trong tổ chức và hoạt động của hệ thống

47

VKSND. VKSND địa phương đã bị chuyển dần sang chế độ “song trùng”

trực thuộc cả về tổ chức, cả về hoạt động trong mối quan hệ với chính quyền

địa phương, điều mà Lê-nin đã kiên quyết phản đối khi chuyển Viện công tố

thành VKS ở nước Nga năm 1922. Còn hệ thống VKS đã không chức năng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật mà chính vì chức năng này nên khi xây

dựng Hiến pháp năm 1959 chúng ta đã quyết định chuyển Viện công tố thành

VKS nhằm bảo đảm (chứ không phải là “góp phần bảo đảm”) cho pháp luật

được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

2.2. Hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân

Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống

nhất, mọi quyền lực nhà nước tập trung và Quốc hội – cơ quan đại biểu cao

nhất nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa

XHCN Việt Nam. Tuy nhiên, Quốc hội không thể là tất cả mà có sự phân

công, phân nhiệm giữa Quốc hội các cơ quan trong bộ máy nhà nước để thực

hiện chức năng, nhiệm vụ. VKS là một trong bốn hệ thống cơ quan nhà nước

được quy định trong Hiến pháp; là cơ quan quan trọng trong hệ thống cơ quan

tư pháp cho nên cũng được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc chung của

bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, do vị trí, chức năng và nhiệm vụ của VKS có

một số đặc thù, nên hệ thống VKS cũng được tổ chức có phần đặc thù riêng.

Hệ thống VKS được tổ chức thành một hệ thống độc lập, thống nhất và được

tổ chức theo đơn vị hành chính gồm 4 cấp, bao gồm: VKSND tối cao,

VKSND cấp cao, VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; VKSND

quận, huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh. VKS được tổ chức và hoạt

động theo nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành, không lệ thuộc vào

bất cứ cơ quan nào ở địa phương. Theo đó, VKS do Viện trưởng lãnh đạo,

Viện trưởng VKS cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKS cấp trên;

Viện trưởng VKSND địa phương, Viện trưởng VKS quân sự các cấp chịu sự

lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.

48

Trước hết cần xác định được các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của

VKSND.

- Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành là nguyên tắc

đặc thù trong tổ chức và hoạt động của VKSND. Theo nguyên tắc này,

VKSND do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự

lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của

Viện trưởng VKSND tối cao. VKSND cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, xử lý

nghiêm minh vi phạm pháp luật của VKSND cấp dưới. Viện trưởng VKSND

cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ quyết định trái pháp luật của Viện

trưởng VKSND cấp dưới (khoản 1 Điều 7).

- Nguyên tắc kết hợp vai trò lãnh đạo của Viện trưởng với vai trò thảo

luận, quyết định một số vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của y

ban kiểm sát. VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKS

quân sự Trung ương, VKS quân sự quân khu và tương đương đều thành lập

y ban kiểm sát. Thành viên các ủy ban kiểm sát bao gồm Viện trưởng, các

Phó Viện trưởng và một số KSV. y ban kiểm sát các cấp hoạt động thông

qua các kỳ họp do Viện trưởng chủ trì để thảo luận và quyết định những vấn

đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát. Khi quyết định

những vấn đề quan trọng được quy định trong Luật (theo các điều 43, 45, 47,

53 và Điều 55), y ban kiểm sát các cấp ban hành Nghị quyết trên cơ sở biểu

quyết của các thành viên y ban kiểm sát. Nghị quyết của y ban kiểm sát

phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu

quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Theo đề

nghị của Viện trưởng, y ban kiểm sát các cấp thảo luận, cho ý kiến về các

vụ án phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.

- Nguyên tắc khi THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp, KSV tuân theo

pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND (khoản 1 Điều 83).

49

KSV phải căn cứ các quy định của luật để THQCT, kiểm sát việc tuân theo

pháp luật của các chủ thể tiến hành, tham gia các hoạt động tư pháp, bảo đảm

cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Khi thực hiện

nhiệm vụ, KSV có quyền ra quyết định, kết luận, yêu cầu, kiến nghị theo quy

định của pháp luật. KSV phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi,

quyết định của mình trong việc THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp.

KSV không chỉ tuân theo pháp luật, mà còn chịu sự chỉ đạo của Viện

trưởng VKSND.Theo các quy định của pháp luật TTHS, tố tụng dân sự, Viện

trưởng VKSND trực tiếp tổ chức và chỉ đạo hoạt động THQCT và kiểm sát

hoạt động tư pháp của KSV; quyết định phân công hoặc thay đổi KSV; kiểm

tra hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp của KSV. Viện trưởng

VKSND có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với vi phạm pháp

luật của KSV khi thực hiện nhiệm vụ được giao; có quyền rút, đình chỉ hoặc

hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của KSV. Khi THQCT, kiểm sát hoạt

động tư pháp, KSV phải chấp hành quyết định của Viện trưởng VKSND. Khi

có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì KSV có quyền từ chối

nhiệm vụ được giao và phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng;

trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và

KSV phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc

thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng VKSND cấp trên có thẩm quyền.

Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết

định của mình (khoản 1 Điều 83).

VKSND tối cao có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, các KSV, các

Điều tra viên. Viện trưởng VKSND tối cao là người lãnh đạo thống nhất toàn

bộ hệ thống Viện kiểm sát. Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu,

miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước; chịu sự giám sát của

Quốc hội. Nhiệm kỳ của Viện trưởng VKSND tối cao theo nhiệm kỳ của

50

Quốc hội. Viện trưởng VKSND tối cao có trách nhiệm báo cáo công tác trước

Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo

công tác trước y ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Các Phó Viện

trưởng giúp Viện trưởng thực thi nhiệm vụ. Các Phó Viện trưởng và các

KSVVKSND tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo

đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao.

Hiện nay, VKSND tối cao có y ban kiểm sát VKSND tối cao, VKS

quân sự trung ương và các đơn vị trực thuộc gồm: Văn phòng; Vụ thực hành

quyền công tố và kiểm sát điều tra án an ninh (vụ 1); Vụ thực hành quyền

công tố và kiểm sát điều tra án trật tự xã hội (vụ 2); Vụ thực hành quyền công

tố và kiểm sát điều tra án kinh tế (vụ 3); Vụ thực hành quyền công tố và kiểm

sát điều tra án ma túy (vụ 4); Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra

án tham nhũng, chức vụ (vụ 5); Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều

tra án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt

động tư pháp (vụ 6); Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự

(vụ 7); Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự (vụ 8); Vụ

kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình (vụ 9); Vụ

kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh, thương

mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (vụ 10); Vụ

kiểm sát thi hành án dân sự (vụ 11); Vụ kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại,

tố cáo trong hoạt động tư pháp (vụ 12); Vụ hợp tác quốc tế và tương trợ tư

pháp về hình sự (vụ 13); Vụ pháp chế và quản lý khoa học (vụ 14); Vụ tổ

chức cán bộ (vụ 15); Vụ thi đua - khen thưởng (vụ 16); Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát nhân dân tối cao (cục 1); Cục thống kê tội phạm và công nghệ thông

tin (cục 2); Cục kế hoạch - tài chính (cục 3); Thanh tra Viện kiểm sát nhân

dân tối cao (T1); Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (T2); Trường đào tạo, bồi

dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh (T3); Tạp chí Kiểm sát

(T4); Báo Bảo vệ pháp luật (T5).

51

VKSND cấp cao được thành lập theo Luật tổ chức VKSND năm 2014,

gồm: VKSND cấp cao 1 tại Hà Nội; VKSND cấp cao 2 tại Đà Nẵng và

VKSND cấp cao 3 tại TP. Hồ Chí Minh.

VKSND địa phương bao gồm: VKS nhân dan tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương (hiện nay cả nước có 63VKS cấp tỉnh); VKS huyện, quận,

thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã (hiện nay cả nước có 678 VKS cấp huyện).

Về cơ cấu tổ chức, VKS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Viện

trưởng, các phó Viện trưởng, các Kiểm sát viên đều do Viện trưởng VKSND

tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức.Viện trưởng VKS tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương phải chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp,

chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân. VKSND tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương có y ban kiểm sát, các phòng nghiệp vụ

tương ứng với VKSND tối cao. Đối với VKS cấp huyện được tổ chức đơn

giản, không có y ban kiểm sát và các phòng nghiệp vụ, chỉ có các bộ phận

công tác và bộ máy giúp việc. VKS cấp huyện có Viện trưởng, các phó Viện

trưởng, các KSV do Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và

cách chức. Cũng như Viện trưởng VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương, Viện trưởng VKS cấp huyện chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước

Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Trong cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của VKS theo Hiến pháp

năm 2013 có mộ số nội dung cần quan tâm như sau:

Thứ nhất, y ban kiểm sát VKS theo Hiến pháp năm 2013 không còn

là tổ chức tư vấn cho Viện trưởng VKS, mà có quyền thảo luận và quyết định

theo đa số những vấn đề quan trọng. Hoạt động của y ban kiểm sát theo

nguyên tắc tập thể, các nghị quyết của y ban kiểm sát phải quá nửa tổng số

thành viên biểu quyết tán thành. Trong trường hợp các thành viên biểu quyết

ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Trường hợp

52

Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên y ban kiểm sát,

thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo lên cấp trên.

Đối với VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao báo cáo y ban thường

vụ quốc hội hoặc Chủ tịch nước; đối với VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương báo cáo Viện trưởng VKSND tối cao.

Thứ hai, Viện trưởng VKS địa phương không báo cáo tình hình thực thi

pháp luật trước Hội đồng nhân dân địa phương mà Viện trưởng VKS địa

phương chỉ chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về công tác và

trả lời chất vấn của Hội đồng nhân dân.

VKS quân sự thuộc hệ thống VKSND, được tổ chức trong quân đội.

VKS quân sự chia ba cấp gồm có VKS quân sự trung ương, VKS quân sự

quân khu và tương đương (16 Viện kiểm sát), VKS quân sự khu vực (34 Viện

kiểm sát). Viện trưởng VKS quân sự trung ương đồng thời là Phó Viện trưởng

VKSND tối cao, lãnh đạo hoạt động của VKS quân sự các cấp, chịu trách

nhiệm báo cáo công tác trước Viện trưởng VKSND tối cao. VKS quân sự có

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như các nguyên tắc tổ chức hoạt động

theo quy định chung của Luật tổ chức VKSND năm 2014.

Về địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, tiêu chuẩn, chế độ tuyển chọn,

bổ nhiệm, miễn nhiệm của KSV trước đây được quy định trong Pháp lệnh

KSV nhưng hiện nay đã được nhập chung vào quy định trong Luật tổ chức

VKSND. Tiêu chuẩn KSV, Điều tra viên của Luật tổ chức VKND so với

trước đã được nâng lên. Ngoài quy định về tiêu chuẩn chung, Luật tổ chức

VKSND 2014 có một số tiêu chuẩn, quy định mới như: phải có trình độ cử

nhân luật, đã qua khóa đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, có thời gian công tác thực

tế tương ứng với mỗi loại KSV… ; và đây là lần đầu tiên quy định nhiệm kỳ

là 5 năm, hết nhiệm kỳ đó, Hội đồng sẽ xem xét có đề nghị bổ nhiệm lại hay

không bổ nhiệm lại KSV phụ thuộc vào đạo đức, năng lực, trình độ và tinh

53

thần trách nhiệm của KSV. Đồng thời quy định 4 ngạch KSV gồm: KSV

VKSND tối cao có số lượng không quá 19 người; KSV cao cấp, KSV trung

cấp và KSV sơ cấp. Việc tuyển chọn KSV thông qua kỳ thi chính thức do

VKSNDTC tổ chức, ra đề thi và chấm điểm, lấy điểm từ cao xuống thấp cho

đủ chỉ tiêu của ngành theo từng năm.

Hiện nay, tổng biên chế ngành Kiểm sát nhân dân được giao theo Nghị

quyết số 522e/NQ-UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Uỷ ban Thường vụ Quốc

hội khóa 13 là 15.860 người, trong đó: Viện kiểm sát nhân dân tối cao: 920

người (chiếm 5,81%); Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh : 4.353 người (chiếm

27,44%); Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện: 10.587 người (chiếm 66,75%).

Tuy nhiên, thực hiện chiến lược tinh giản biên chế nhà nước giai đoạn 2015-

2020 Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao ban hành Kế hoạch 111/KH-

VKSTC thực hiện tinh giản biên chế trong ngành kiểm sát nhân dân từ năm

2018 – 2021. Theo đó, số biên chế ngành Kiểm sát cần giảm 10%: 1.586

người, dự kiến số biên chế đến năm 2021: 14.274 người.

Tính đến tháng 11/2018, đã thực hiện biên chế: 13.525 người. Số biên chế

còn thiếu chủ yếu ở VKSND cấp huyện thuộc một số tỉnh vùng Tây Bắc, Tây

Nguyên và Tây Nam Bộ, do yêu cầu về tuyển dụng công chức ngành Kiểm sát

nhân dân là ứng viên phải có bằng tốt nghiệp đại học luật hệ chính quy, nhưng

những nơi này thiếu nguồn tuyển dụng; chế độ, chính sách đối với cán bộ, công

chức ngành Kiểm sát nhân dân chưa đủ hấp dẫn để thu hút nhân lực.

So với nhu cầu nhân lực để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, nhất là việc bổ sung các nhiệm vụ theo quy định của Bộ

luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung), Luật Tố tụng hành chính, Luật thi

hành án hình sự, Luật thi hành án dân sự...thì nhân lực ngành Kiểm sát nhân

dân còn thiếu rất nhiều. Hiện nay, bình quân mỗi VKSND cấp huyện có 10

54

biên chế, trong đó 7-8 biên chế làm nghiệp vụ kiểm sát, trong khi đó VKSND

cấp huyện phải thực hiện rất nhiều khâu công tác nghiệp vụ (thực hành quyền

công tố và kiểm sát giải quyết án hình sự; kiểm sát giải quyết án dân sự; kiểm

sát giải quyết án hành chính; kiểm sát công tác tạm giữ, tạm giam; kiểm sát

thi hành án hình sự, dân sự; kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác văn

phòng, tổng hơp, thống kê tội phạm), như vậy bình quân mỗi khâu công tác

chỉ có 1 người thực hiện. Qua khảo sát còn cho thấy, có đơn vị VKSND cấp

huyện hiện nay bình quân mỗi năm thụ lý thực hành quyền công tố và kiểm

sát giải quyết các loại án hình sự, dân sự đến 4.502 vụ, việc, nhưng chỉ có 24

người, bình quân mỗi người phải đảm nhận 187,5 vụ, việc/năm là quá tải

(VKSND Quận Gò Vấp- Thành phố Hồ Chí Minh). Tình trạng trên xảy ra ở

nhiều đơn vị VKSND cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố lớn. Nhiều đơn vị

cấp phòng thuộc VKSND cấp tỉnh, VKSND tối cao chỉ có 2-3 người, thiếu rất

nhiều so với nhu cầu công tác [57].

Nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013 Quốc hội khóa XII

đã thông qua Luật Tổ chức VKSND 2014. Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm

2014 đã quy định chức năng, nhiệm vụ.

Về chức năng viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố,

kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Việc thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người

phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án

hình sự.

Viểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để

kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá

nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải

55

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình

giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân

sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án,

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư

pháp khác theo quy định của pháp luật.

So sánh về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS theo Hiến

pháp 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014 với Hiến pháp năm 1992 và

Luật tổ chức VKSND năm 2002 có thay đổi nhưng không lớn.

Đối với điều tra tội phạm cũng có một số thay đổi đó là thẩm quyền

nhiệm vụ của VKS theo Luật Tổ chức VKSND năm 2014 trong điều tra tội

phạm cũng được mở rộng hơn so với Luật tổ chức VKSND 2002 cụ thể, theo

Luật tổ chức VKSND 2002 VKSND chỉ điều tra một số loại tội phạm xâm

phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư

pháp còn theo Luật tổ chức VKSND 2014 VKSND thì Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương

điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức

vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội

là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân,

cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

Ngoài ra, theo tinh thần cải cách tư pháp và quy định Luật Tổ chức

VKSND năm 2014, VKS là cơ quan có trách nhiệm rất lớn trong công tác

phòng, chống tội phạm. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của VKS

trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, giam, giữ, quản lý và giáo dục người chấp

hành án phạt do các cơ quan tư pháp tổ chức thực hiện. Như vậy, có thể kết luận

rằng đây là lần thay đổi về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn

của VKS lớn nhất kể từ khi thành lập cho đến nay đồng thời cũng là lần đầu tiên

phân biệt rõ ràng, cụ thể công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

56

2.3. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

2.3.1. Những quy định về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

Điều 107 Hiến pháp năm năm 2013 quy định chức năng VKSND:

“VKSND thực hành tối cao THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp” [37].

Như vậy, so với quy định của Hiến pháp năm 1980 thì chức năng của

VKS có sự điều chỉnh theo hướng xác định chức năng THQCT là trọng tâm

đồng thời thu hẹp phạm vi chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Theo

quy định, VKSND không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội nữa mà tập trung kiểm sát các

hoạt động tư pháp. Hiến pháp năm 2013 cũng không quy định cụ thể nhiệm

vụ của VKSND tối cao và VKSND các địa phương như quy định trong Hiến

pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001.

Trong giai đoạn đất nước thực hiện đổi mới, cùng với bộ máy nhà nước

nói chung thì VKS cũng phải nhanh chóng hoàn thiện tổ chức bộ máy, chức

năng nhiệm vụ để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Điều 107 Hiến pháp

năm 2013 quy định ba nhiệm vụ chung của VKSND: “VKSND có nhiệm vụ

bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ

XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,

cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống

nhất” [37]. Hiến pháp với tư cách là đạo luật tối cao, đạo luật gốc nên không

quy định những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của VKS khi thực hiện chức

năng của mình. Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định cụ thể nhiệm vụ,

quyền hạn của VKS và được thể hiện như sau:

2.3.1.1. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp

trong lĩnh vực hình sự

Theo quy định Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Bộ luật TTHS năm

2015, trong giai đoạn điều tra, VKS có trách nhiệm THQCT và kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự:

57

VKS THQCT trong TTHS:

Theo khoản 1 Điều 23 BLTTHS quy định: “VKS THQCT trong TTHS,

quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án” [39]. Theo đó, trong

quá trình tiến hành tố tụng vụ án hình sự VKS căn cứ theo quy định của pháp

luật để ban hành các quyết định thể hiện tính quyền lực của nhà nước như:

Quyết định phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; Quyết định trả tự do; Quyết định

phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; Quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam

(bắt bị can tạm giam); Quyết định truy tố (Cáo trạng); Quyết định thay đổi

biện pháp ngăn chặn; Quyết định kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái

thẩm; Kiến nghị….nhằm mục đích truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để

xét xử theo quy định của pháp luật.

Trên cơ sở đó, BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm

của KSV- VKSND: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và

việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; Đề ra yêu cầu điều tra; Triệu tập và

hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại,

nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến

vụ án; Kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam; Tham gia phiên toà; đọc cáo

trạng, quyết định của VKS liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra

chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ

án, tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà; Kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những người tham

gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án; Kiểm sát việc thi

hành bản án, quyết định của Toà án… nhằm xử lý tội phạm kịp thời, đúng

người ,đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS:

Theo khoản 2 Điều 23 BLTTHS quy định: “VKS kiểm sát việc tuân

theo pháp luật trong TTHS có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp

58

luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham

gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc

vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này”[39]. Theo đó, trong

quá trình tiến hành tố tụng VKS còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm

sát hoạt động tư pháp) đối với Cơ quan tiến hành tố tụng; Người tiến hành tố

tụng; Người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành

thống nhất, không để cơ quan, cá nhân nào làm trái quy định của pháp luật,

gây oan sai cho người vô tội.

Theo khoản 3 Điều 23 BLTTHS quy định: “VKS THQCT và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong TTHS nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều

phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm

tội, không làm oan người vô tội”[39]. Theo đó, VKS THQCT phải gắn với

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS nhằm bảo đảm từ việc tiếp nhận

tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến việc khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử và thi hành án bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Như vậy, theo khoản 3 Điều 23 BLTTHS VKS ngoài kiểm sát việc

tuân theo pháp luật đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,

người tham gia tố tụng còn có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật

trong lĩnh vực thi hành án.

Theo đó, trong quá trình tiến hành TTHS, VKS không thể tách rời hoạt

động THQCT với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật để thực hiện

chức năng, nhiệm vụ một cách độc lập mà hai chức năng đó phải thực hiện

song trùng và có sự tác động tương hỗ lẫn nhau. Chẳng hạn, Viện trưởng

VKSND quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn lệnh bắt

tạm giam đối với Nguyễn Văn A; phạm tội Giết người đúng người, đúng tội,

59

đúng pháp luật là kết quả KSV C THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong việc khởi tố, bắt tạm giam, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc

lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra một cách chặt chẽ, tuân thủ đúng pháp

luật. Nhờ đó, mọi hành vi phạm tội của A đã được phát hiện, xử lý kịp thời,

VKS phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn lệnh bắt tạm giam… đối

với A bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

2.3.1.2. Hoạt động kiểm sát việc thi hành tạm giữ tạm giam và thi hành án

hình sự

Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự là một trong

những công tác quan trọng, thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp

của VKS theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm: Việc tạm giữ, tạm giam,

thi hành án hình sự; chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục phạm

nhân; trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp hành, giảm

thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp

xử lý hành chính còn lại của Tòa án; quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi,

quyết định trái pháp luật trong tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự được

thực hiện theo đúng quy định của pháp luật; Quyền con người và các quyền, lợi

ích hợp pháp khác của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người chấp hành án

không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; bản án, quyết định của Tòa

án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; Mọi vi phạm pháp

luật trong hoạt động tư pháp thuộc phạm vi điều chỉnh quy định của Luật tổ chức

VKSND phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.

Đối tượng của công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án

hình sự là việc tuân theo pháp luật của Tòa án; cơ quan quản lý tạm giữ, tạm

giam; cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam; cơ quan quản lý thi hành án hình

sự; cơ quan thi hành án hình sự; cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ

thi hành án hình sự; người có thẩm quyền và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên

quan trong hoạt động tư pháp.

60

Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của VKSND bắt đầu từ khi

có việc đưa người bị tạm giữ, người bị tạm giam vào cơ sở giam giữ và kết

thúc khi chấm dứt việc tạm giữ, tạm giam.Công tác kiểm sát thi hành án hình

sự bắt đầu từ khi bản án, quyết định được thi hànhvà kết thúc khi chấm dứt

việc thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật.

Công tác kiểm sát việc xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp hành,

giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện

pháp xử lý hành chính còn lại của Tòa án bắt đầu từ khi VKS nhận được

thông báo thụ lý hồ sơ đề nghị và kết thúc khi quyết định hoãn, miễn, giảm,

tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý

hành chính còn lại của Tòa án có hiệu lực mà không có việc hủy bỏ quyết

định hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý

hành chính; đồng thời kiểm sát việc Tòa án gửi quyết định đó.

Khi thực hiện Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam VKSNDcó nhiệm vụ

quyền hạn sau: Trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam; hỏi người bị

tạm giữ, tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam; Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm

giam; Yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam tự kiểm tra việc

tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ, tài liệu

có liên quan đến việc tạm giữ, tạm giam; thông báo tình hình tạm giữ, tạm

giam; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong

việc tạm giữ, tạm giam; Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm

giam không có căn cứ và trái pháp luật; Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ

quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam đình chỉ việc thi

hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ,

tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi

phạm pháp luật; Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự

khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong tạm giữ, tạm giam theo quy

61

định của pháp luật;Giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn khác trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật.

Khi thực hiện kiểm sát việc thi hành án hình sự, VKSND có nhiệm vụ,

quyền hạn như sau: Yêu cầu Tòa án ra quyết định thi hành án hình sự; yêu cầu

Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm

vụ thi hành án hình sự tự kiểm tra việc thi hành án hình sự và thông báo kết

quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án

hình sự; Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án hình sự; kiểm sát hồ sơ thi hành

án hình sự. VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp kiểm sát

việc thi hành án phạt tù của trại giam đóng tại địa phương; Quyết định trả tự

do ngay cho người đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái pháp

luật; Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án; tham gia việc

xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án, chấp hành biện pháp tư pháp, rút ngắn

thời gian thử thách; Kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của

cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành án hình sự; Kiến nghị, yêu

cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp luật trong

thi hành án hình sự; xử lý nghiêm minh người vi phạm; Khởi tố hoặc yêu cầu

Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội

phạm trong thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật;Thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát thi hành án hình sự theo quy định của pháp

luật về thi hành án hình sự.

2.3.1.3.Hoạt động của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc giải quyết vụ án hành

chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động và những việc khác

Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND; nhiệm vụ, quyền

hạn của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân

sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc

62

khác theo quy định của pháp luật được quy định tại Điều 4 và Điều 27

của Luật tổ chức VKSND năm 2014. Theo quy định của pháp luật hiện hành,

VKSND không THQCT, không khởi tố vụ án dân sự, không chủ trì thực hiện

bất kỳ một giai đoạn tố tụng dân sự nào như TAND (cụ thể: thụ lý vụ án,

lập hồ sơ vụ án, thu thập chứng cứ, hòa giải, ra các quyết định tạm đình chỉ,

đình chỉ việc giải quyết vụ án, trưng cầu giám định…), mà chỉ kiểm sát hoạt

động tư pháp trong tố tụng dân sự, thể hiện rõ được cơ chế phân công, phối

hợp, kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp năm 2013 giữa TAND và VKSND.

Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về vị trí, vai trò của VKS

trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự như sau:

- VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện

các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm

bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.

- VKS tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên

tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc

đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất,

nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi

dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong

nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của

Bộ luật này.

- VKS tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

- VKSND tối cao chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao hướng

dẫn thi hành Điều này.

Cụ thể, vai trò của VKSND được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự

2015 bao gồm:

- Việc tham gia phiên tòa, phiên họp: VKS tham gia các phiên họp sơ

thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa

63

án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi

ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa

thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực

hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

- Việc phát biểu ý kiến của VKSND tại phiên tòa, phiên họp sơ

thẩm: Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp

xong, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm

phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng

trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội

đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Trong phiên họp giải quyết việc dân sự, điểm g) Khoản 1 Điều 369 Bộ

luật tố tụng dân sự 2015 cũng quy định rõ “KSV phát biểu ý kiến của VKS về

việc giải quyết việc dân sự”[40].

Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, phiên họp, KSV phải gửi bản phát

biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ việc.

-Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát: KSV có

nhiệm vụ, quyền hạn “nghiên cứu hồ sơ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh,

thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của

Bộ luật này; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của

Bộ luật này”[40];

VKS thu thập tài liệu, chứng cứ để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm

quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

Trong quá trình giải quyết đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, người có thẩm

quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (trong đó có Viện trưởng

VKSND tối cao và viện trưởng VKSND cấp cao) có quyền yêu cầu người có

đơn bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình kiểm tra, xác minh tài liệu, chứng

cứ cần thiết.

64

- Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện trưởng

VKSND.

Viện trưởng VKSND tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân

dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét

thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán tòa án

nhân dân tối cao.

Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

2.3.1.4.Hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu

nại tố cáo trong hoạt động tư pháp củaViện kiểm sát nhân dân

Trong TTHS, VKS có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra, Tòa án cùng

cấp hoặc cấp dưới, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh

sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra:

+ Ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định tại Chương này;

+ Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình và cấp dưới;

thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát;

+ Cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố

cáo cho Viện kiểm sát.

VKS trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Cơ quan

điều tra, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát

biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố

cáo trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật VKS có quyền yêu cầu,

65

kiến nghị đối với Tòa án cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân

có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng

pháp luật.

2.3.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân

* Trong công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh

vực hình sự

Theo quy định của Luật tổ chức VKSND và Bộ luật TTHS năm 2015,

trong lĩnh vực hình sự thì VKS có trách nhiệm THQCT và kiểm sát điều tra, kiểm

sát xét xử các vụ án hình sự . Đối tượng của hoạt động kiểm sát trong giai đoạn

này chính là việc tuân theo pháp luật trong điều tra của các Cơ quan điều tra và

các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng

như việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử.

Với trách nhiệm đã được giao, VKS các cấp phải luôn luôn đảm bảo

cho việc điều tra, truy tố nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, không bỏ lọt

tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Trong giai đoạn điều tra, để thực hiện tốt chức năng của mình thì VKS

đã luôn giữ vai trò chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan ngay từ đầu

và trong suốt quá trình điều tra nhằm đạt hiệu quả cao nhất. VKS các cấp cử

người trực tiếp hoặc mở hòm thư tin báo, tố giác tội phạm; thực hiện nghiêm

túc việc mở sổ theo dõi và thực hiện nghiêm chế độ báo cáo. Ngoài việc đổi

mới công tác tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm,

VKS các cấp đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong

việc quản lý và xử lý tin báo, tố giác tội phạm nhằm đảm bảo chống bỏ lọt tội

phạm ngay từ khâu tiếp nhận, phân loại và xử lý tin báo tố giác. Đặc biệt theo

Nghị quyết 32 của Quốc hội, VKS đã kiểm sát 100% tin báo, tố giác tội phạm

của Cơ quan điều tra tiếp nhận và các nơi khác gửi đến, phân công KSV kiểm

sát ngay từ đầu. Thông qua công tác này, hàng năm ngành kiểm sát đã trực

66

tiếp khởi tố và yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố điều tra nhiều vụ án. Theo số

liệu của ngành Kiểm sát, từ năm 2013 đến năm 2018 toàn ngành yêu cầu Cơ

quan điều tra khởi tố 1.451 vụ án; trực tiếp khởi tố yêu cầu Cơ quan điều tra

điều tra 151 vụ án; hủy bỏ 259 quyết định khởi tố vụ án của cơ quan điều tra

không có căn cứ [62].

Trong những năm qua, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật tiếp tục

diễn biến phức tạp, số lượng các vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của VKS

liên tục gia tăng. Trong quá trình THQCT, kiểm sát điều tra các vụ án hình

sự, VKS các cấp chủ động kiểm sát việc khởi tố và kiểm sát quá trình điều tra

vụ án nên chất lượng được nâng lên. Theo Báo cáo 5 năm thực hiện Luật tổ

chức VKSND năm 2014, VKS các cấp đã quyết định hủy bỏ 278 quyết định

khởi tố vụ án, 78 quyết định không khởi tố vụ án không đúng của Cơ quan

điều tra [65].

VKS các cấp THQCT và kiểm sát xét xử đối với 76.772 vụ án theo thủ

tục sơ thẩm(tăng 2,2%), 17.585 vụ án theo thủ tục phúc thẩm(tăng 5,85%),

299 vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Qua công tác THQCT và

kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, VKS các cấp đã ban hành 1.142 kháng nghị

bản án theo thủ tục phúc thẩm, số bị cáo VKS kháng nghị phúc thẩm được

Tòa án chấp nhận, đạt 71,9%& tăng 2,8%. Ban bành 362 kiến nghị yêu cầu

khắc phục vi phạm trong hoạt động xét xử hình sự, 71 kiến nghị phòng ngừa

vi phạm và tội phạm; tổng hợp, ban hành 495 thông báo rút kinh nghiệm về

nghiệp vụ [62].

Tuy nhiên, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song phải nghiêm túc nhìn

nhận để thấy rằng trong TTHS, tình trạng bỏ lọt tội phạm trong các lĩnh vực

đang diễn ra khá phổ biến; thời hạn giải quyết nhiều vụ án còn kéo dài.

Việc quản lý và xử lý tin báo còn có hạn chế. VKS các cấp chưa nắm

đầy đủ, kịp thời số lượng các tin báo, tố giác tội phạm của Cơ quan điều tra

67

dẫn đến chưa phản ánh được thực trạng của tình hình tội phạm cả về số lượng

và cơ cấu. VKSND các cấp chưa thực hiện đầy đủ thẩm quyền, trách nhiệm

của mình trong hoạt động điều tra tội phạm của Cơ quan điều tra. Hiệu quả

hoạt động điều tra tội phạm của Cơ quan điều tra thuộc VKSND tối cao chưa

tương xứng với thực trạng tội phạm xảy ra.

Công tác kiểm sát điều tra ngay từ đầu chưa được các KSV chú trọng

dẫn đến chưa bám sát được quá trình điều tra, Tình trạng trả hồ sơ để điều tra

bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tuy có giảm nhưng vẫn còn nhiều,

nhất là ở cấp Trung ương, trong đó có trách nhiệm của Viện kiểm sát

Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, hành

chính, thi hành án dân sự, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp

một thời gian dài có phần bị xem nhẹ, tuy những năm qua VKSND các cấp có

tăng cường hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác quản lý, chỉ đạo,

điều hành của lãnh đạo VKSND ở một số địa phương, đơn vị vẫn còn theo lối

cũ, thiếu sự nhạy bén, không kịp thời.

Những tồn tại trên do nhiều nguyên nhân, trước hết là do ý thức trách

nhiệm của một bộ phận cán bộ, KSV chưa cao; năng lực, trình độ chuyên môn

nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu, công tác phối hợp giữa VKS các cấp

với các cơ quan tiến hành tố tụng ở nhiều nơi chưa chặt chẽ. Mặt khác, do có

những thay đổi về chính sách kinh tế và cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị

trường, hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện, các văn bản hướng dẫn áp dụng

pháp luật liên quan đến các hoạt động tư pháp chưa được rà soát để sửa đổi,

bổ sung và ban hành mới kịp thời; cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện

làm việc và phục vụ yêu cầu công tác của nhiều VKS địa phương chưa đáp

ứng yêu cầu của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao… Điều này đã

hạn chế đến chất lượng và hiệu quả công tác của Viện kiểm sát. Thực trạng

hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của VKSND so với mục tiêu cải

68

cách tư pháp mà các Nghị quyết của Đảng cũng như quy định của các văn bản

pháp luật mới ban hành đòi hỏi chúng ta phải có sự đổi mới sâu sắc, toàn diện

về nhận thức cũng như cách thức tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ

trong giai đoạn tới.

* Trong công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục

người chấp hành án phạt tù.

Trong những năm qua, công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản

lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù đã thực hiện khá tốt, đảm bảo đúng

quy định của pháp luật về chế độ, chính sách. VKS các cấp quan tâm và chủ

động tăng cường công tác kiểm sát ngay từ đầu, nên có nhiều chuyển biến tích

cực. Tình trạng lạm dụng việc bắt khẩn cấp, khởi tố rồi sau đó đình chủ vụ án

và giam giữ quá hạn đã giảm rõ rệt; việc giam giữ trái pháp luật được giải

quyết kịp thời, thường xuyên; VKS các cấp đã phát huy quyền hạn của mình

trong việc ra quyết định trả tự do cho những người bị tạm giữ trái pháp luật và

không có căn cứ. VKS các cấp tăng cường kiểm sát thường kỳ và bất thường

tại nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam nên đã kịp thời phát hiện nhiều vi

phạm pháp luật. Chỉ tính riêng trong 6 năm (2013 – 2018) toàn ngành đã tiến

hành kiểm sát 20.027 lần nhà tạm giữ, 1.427 lần trại tạm giam, trại giam.

Theo đó, năm 2018VKS các cấp đã ban hành 2.991 kháng nghị, kiến nghị yêu

cầu cơ quan quản lý nhà tạm giữ, trại tạm giam khắc phục vi phạm pháp luật

trong công tác này và quyết định trả tự do cho 43 người có mức án tù bằng

thời hạn tạm giam [62].

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn xảy ra tình trạng vi phạm

pháp luật trong việc bắt, tạm giữ hình sự; việc tạm giam kéo dài quá hạn luật

định. Việc tạm giam, tạm giữ sau đó phải trả tự do có giảm nhưng vẫn chưa

nhiều.Chất lượng phê chuẩn tạm giữ, tạm giam còn nhiều hạn chế, dẫn đến

nhiều trường hợp không cần thiết tạm giam cũng tạm giam, sau đó phải đình

chỉ điều tra, tạm giam nhưng Tòa án không phạt tù giam.

69

* Trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, các vụ án

hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật

- Kiểm sát việc giải quyết các vụ việc về dân sự, hôn nhân và gia đình:

Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS

năm 2011 thì VKSND được bổ sung thẩm quyền trực tiếp tham gia phiên tòa

trong các vụ án dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động và hôn nhân gia

đình trong 04 trường hợp. Quy định này tiếp tục được BLTTHS 2015 ghi

nhận. Do đó, kết quả giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao

động và hôn nhân gia đình của VKSND các cấp đã đạt kết quả tốt. Qua hoạt

động kiểm sát đã phát hiện nhiều vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết

vụ việc của Toà án. Trong năm 2018 tổng hợp kết quả từ các báo cáo công tác

kháng nghị phúc thẩm các bản án, quyết định vụ án hành chính, vụ việc dân

sự và hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, phá sản và xem

xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân của

Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã ban hành tổng số kháng nghị Viện kiểm

sát đã ban hành theo thủ tục phúc thẩm: 914 kháng nghị (dân sự: 747; hành

chính: 67; kinh tế: 91; lao động: 0), trong đó: Số kháng nghị của Viện kiểm

sát cùng cấp đã ban hành theo thủ tục phúc thẩm: 510 kháng nghị, chiếm

55,80%; Số kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp đã ban hành theo

thủ tục phúc thẩm: 404 kháng nghị, chiếm 44,20%; Tổng số kháng nghị của

Viện kiểm sát theo thủ tục phúc thẩm được chấp nhận: 537/686 kháng nghị đã

được xét xử (đạt tỷ lệ 78,28%); Số kháng nghị đã được xét xử này bao gồm cả

kháng nghị cũ, trong đó: Số kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp theo thủ

tục phúc thẩm được chấp nhận: 291/359 kháng nghị đã được xét xử (đạt tỷ lệ

81,06%). Số kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp theo thủ tục phúc

thẩm được chấp nhận: 246/327 kháng nghị đã được xét xử (đạt tỷ lệ 75,23%).

Số kháng nghị của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận sửa án là

364/1.259 bản án, quyết định của Tòa án bị Hội đồng xét xử sửa án (chiếm tỷ

70

lệ 28,91%). Số kháng nghị của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp

nhận hủy án 172/541 bản án, quyết định của Tòa án bị Hội đồng xét xử hủy

án (chiếm tỷ lệ 31,79%) [66].

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn tồn tại một số

hạn chế như: tình trạng thụ lý sai của Tòa án nhiều địa phương vẫn chưa được

phát hiện kịp thời, phải qua nhiều cấp mới phát hiện được; tình trạng vi phạm

pháp luật của Thẩm phán vẫn còn nhiều như vi phạm về trình tự, thủ tục hòa

giải, tỷ lệ án sửa, hủy còn nhiều dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người

dân chưa được bảo đảm.

Đội ngũ Kiểm sát viên, Kiểm tra viên được phân công thực hiện nhiệm

vụ công tác này còn thiếu, đa số chưa có kinh nghiệm và phải kiêm nhiệm

nhiều công tác. Vẫn còn có Viện kiểm sát chưa bố trí đủ Kiểm sát viên để

tham gia phiên tòa, phiên họp theo quy định của pháp luật. Một số Kiểm sát

viên yếu về năng lực, trình độ nghiệp vụ dẫn đến việc nghiên cứu các vụ án

chưa sâu, khi tham gia phiên tòa và kiểm sát bản án, quyết định thiếu chặt

chẽ, chưa kịp thời phát hiện vi phạm của Tòa án để kiến nghị, ban hành kháng

nghị hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp có thẩm quyền kháng nghị. Do đó, còn

tình trạng án hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan của cấp sơ thẩm và có trách

nhiệm của Viện kiểm sát; số lượng kháng nghị so với số bản án, quyết định

mà Tòa án cấp phúc thẩm xử hủy, sửa án chiếm tỷ lệ thấp.

Việc Tòa án vi phạm thời hạn gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát

cùng cấp khá phổ biến ở các địa phương, đồng thời một số Viện kiểm sát cấp

dưới gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát cấp trên còn chậm nên ảnh

hưởng đến việc phát hiện vi phạm và thực hiện quyền kháng nghị.

Hiện nay, việc bố trí vị trí chỗ ngồi của Kiểm sát viên tại Tòa không

đảm bảo an toàn cho Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa giải quyết các vụ

án hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động.

Điều này xuất phát từ các nguyên nhân sau đây:

71

- Về tổ chức, bộ máy trong toàn ngành của khâu công tác kiểm sát giải

quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động

và những việc khác theo quy định của pháp luật hiện vẫn còn phòng ghép ở

một số Viện kiểm sát địa phương (phòng 9 và phòng 10) nên thiếu tính

chuyên sâu.

Việc bố trí Kiểm sát viên, Kiểm tra viên cho khâu công tác này chưa

đảm bảo về số lượng (do thường xuyên bị luân chuyển, không ổn định) và

chất lượng (vì phần lớn là Kiểm sát viên mới được bổ nhiệm, thiếu kinh

nghiệm và kỹ năng kiểm sát). Một số Kiểm sát viên, Kiểm tra viên chưa tích

cực học tập, đầu tư thời gian nghiên cứu để tích lũy kinh nghiệm.

Các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao

động… ngày càng tăng với tính chất phức tạp. Trong khi đó hệ thống văn bản

pháp luật liên quan đến công tác này rất nhiều, thường xuyên thay đổi. Một số

quy định chồng chéo, mẫu thuẫn, chậm sửa đổi, bổ sung dẫn tới nhận thức và

vận dụng không thống nhất.

Các quy định của pháp luật tố tụng hành chính và tố tụng dân sự chưa

cụ thể hóa chế tài bảo đảm để Viện kiểm sát thực hiện các quyền như: Viện

kiểm sát không được tiếp cận tài liệu, hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử;

Việc kháng nghị của Viện kiểm sát chủ yếu dựa vào công tác kiểm sát bản án,

quyết định, trong khi đó do Tòa án vi phạm thời hạn gửi bản án, quyết định

cho Viện kiểm sát dẫn đến khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án thì

đã hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm; Thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc

thẩm là quá ngắn, nhất là đối với những vụ án theo quy định Viện kiểm sát

không tham gia phiên tòa, Viện kiểm sát không đủ thời gian để xác minh, thu

thập chứng cứ; Việc kiểm sát biên bản tại phiên tòa là cần thiết nhưng việc

thực hiện còn mang tính hình thức và khó khăn, một số vụ án Kiểm sát viên

phát hiện vi phạm khi tham gia phiên tòa, sau đó Viện kiểm sát thực hiện

72

quyền kháng nghị, tuy nhiên biên bản phiên tòa lại không thể hiện nội dung vi

phạm đó; Nhiều trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có dấu hiệu vi phạm, yêu

cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án nhưng Tòa án không thực hiện hay thực hiện

chậm trễ; Hoặc đối với Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, áp dụng các biện

pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân mặc dù phát hiện vi phạm dẫn đến

hủy quyết định nhưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh không có thẩm quyền

kháng nghị. Do đó, Viện kiểm sát không thể thực hiện quyền kháng nghị,

không bảo vệ được kháng nghị.

* Về công tác kiểm sát việc thi hành án

VKS các cấp đã tăng cường kiểm sát việc tổ chức thi hành bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án trên cả lĩnh vực thi hành án hình

sự và thi hành án dân sự.

VKSND tối cao phối hợp với các ngành đề ra kế hoạch rà soát, phân

loại và kiến nghị giải pháp khắc phục một cách cơ bản các bản án, quyết định

về hình sự đã có hiệu lực, nhưng chưa được thi hành; chỉ đạo các cơ quan tư

pháp địa phương tiến hành nắm chắc số bị án bị phạt tù, án đã có hiệu lực,

nhất là số trốn, có biện pháp bắt để thi hành án kịp thời. VKS các cấp đã ban

hành nhiều kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu Toà án kịp thời ra quyết định thi

hành án; từ năm 2013 đến năm 2018VKS các cấp đã kháng nghị, kiến nghị

4.740 trường hợp; VKS các cấp yêu cầu Tòa án ra 1087 quyết định thi hành

án, yêu cầu cơ quan công an ra 279 quyết định truy nã và yêu cầu áp giải 1861

bị án. VKS các cấp đã ban hành 3.633 kiến nghị, kháng nghị yêu cầu các cơ

quan có liên quan khắc phục vi phạm nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi

hành án hình sự.

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, trực tiếp kiểm sát tại 3.448 Uỷ ban

nhân dân xã, phường, thị trấn trong việc thi hành án dân sự đối với loại vụ

việc không quá 500.000 đồng. Kết quả công tác kiểm sát thi hành án dân sự

73

đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành án, giảm đáng kể số

lượng án dân sự tồn đọng chưa được thi hành. So sánh kết quả năm 2017 với

năm 2018 cho thấy, năm 2012 số lượng án đã được thi hành chỉ đạt tỷ lệ

54,3% so với số lượng án phải thi hành, thì đến năm 2018 số lượng án đã

được thi hành đã tăng đạt tỷ lệ 58 % so với số lượng án phải thi hành. Từ năm

2013 đến năm 2018, VKS các cấp đã kiểm sát 2.993.639 số vụ việc thi hành

án dân sự; đã ban hành 2.241 kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục vi

phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự [62].

* Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết

khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp

Từ năm 2013 đến năm 2018, VKSND các cấp đã tiếp nhận và giải

quyết 74.326 vụ việc. Chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo của VKS ngày

càng được nâng cao, có nhiều vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài đã được giải

quyết. Tất cả các đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến cán

bộ kiểm sát đều được xem xét, xác minh, kết luận, xử lý theo đúng quy định

của pháp luật.

Từ năm 2013 đến năm 2018, VKS các cấp đã trực tiếp kiểm sát lượt tại

các cơ quan tư pháp, qua đó đã ban hành 1.160 kiến nghị, kháng nghị yêu cầu

các cơ quan có liên quan khắc phục vi phạm; đã kiểm sát việc giải quyết

6.846 vụ việc cụ thể của các cơ quan tư pháp. Qua công tác kiểm sát, VKS đã

phát hiện những vi phạm, tồn tại trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về

hoạt động tư pháp của một số cơ quan tư pháp như: việc phân loại đơn không

chính xác dẫn đến giải quyết sai thẩm quyền; sổ sách thụ lý không bảo đảm

theo đúng quy định của pháp luật; một số cơ quan không bố trí nơi tiếp công

dân độc lập; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo không lập hồ sơ; thời hạn giải

quyết đơn kéo dài so với quy định của pháp luật… VKS các cấp đã kiến nghị,

kháng nghị yêu cầu các cơ quan liên quan khắc phục vi phạm và cũng đã tiến

74

hành phúc tra việc thực hiện kháng nghị, kiến nghị mà VKS đã ban hành.

Bên cạnh đó thì công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền

của VKS và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp

của các cơ quan tư pháp còn có mặt hạn chế. Một số vụ khiếu nại phức tạp,

kéo dài, chậm được giải quyết dứt điểm. Công tác quản lý, rèn luyện cán bộ

có nơi, có lúc chưa tốt dẫn đến một số cán bộ mắc sai phạm phải bị xử lý.

2.4. Những điểm tích cực, hạn chế và những vấn đề đặt ra

2.4.1. Những điểm tích cực trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát

Thứ nhất, hệ thống VKSND được sửa đổi phù hợp với chủ trương cải

cách tư pháp

Hiến pháp năm 2013 quy định hệ thống VKS gồm: "VKSND tối

cao, VKSND địa phương, các VKS quân sự”. Quy định này là nhằm xác định

hệ thống VKS được tổ chức theo địa giới hành chính từ Trung ương xuống

địa phương. Như vậy, ở Trung ương có VKSND tối cao, VKSND cấp cao; ở

địa phương tương ứng với đơn vị hành chính cấp huyện hoặc cấp tỉnh thì có

VKS cấp huyện hoặc VKS cấp tỉnh. Bên cạnh đó, còn có các VKS quân sự

cũng được tổ chức thành ba cấp gồm VKS quân sự Trung ương, VKS quân sự

quân khu và VKS quân sự khu vực. Việc tổ chức hệ thống VKSND theo địa

giới hành chính ra đời từ khi luật Tổ chức VKSND năm 1960 được ban hành.

Hiến pháp năm 2013 quy định tại Khoản 2 Điều 107 "VKSND gồm

VKSND tối cao và các VKS khác do Luật định”[37]. Quy định này có ý

nghĩamở đường thực hiện chủ trương tổ chức lại hệ thống VKS tương ứng hệ

thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực), không tương ứng với

chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm nguyên tắc độc lập

của Tòa án. Đây là quy định "mở” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho VKSND

thực hiện việc kiện toàn bộ máy tổ chức và hoạt động, đặc biệt khi mô hình tổ

chức bộ máy đang được xây dựng trong giai đoạn hiện nay. Như vậy, quy

75

định này mang tính tùy nghi thuận tiện cho xây dựng mô hình hệ thống

VKSND, việc kiện toàn hệ thống VKSND sẽ được cụ thể hóa trong Luật Tổ

chức VKSND sửa đổi, bổ sung sắp tới, trên cơ sở định hướng của Đảng và

Nhà nước về cải cách tư pháp. Định hướng đó được cụ thể hóa tại Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020 và Kết Luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ

Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, VKS và Cơ quan

Điều tra theo Nghị quyết 49, đã xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét

xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, đồng thời VKS được tổ chức phù

hợp với hệ thống tổ chức Tòa án.

Như vậy, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì hệ thống VKS

được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án theo cấp xét xử không

phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Do đó, Luật Tổ chức VKSND sẽ được sửa

đổi theo hướng quy định về tổ chức VKS theo bốn cấp tương ứng với bốn cấp

của Tòa án, cụ thể là:

- VKSND cấp huyện;

- VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

- VKSND cấp cao;

- VKSND tối cao.

Như vậy, tổ chức VKS theo bốn cấp nêu trên thì chỉ có VKSND cấp

tỉnh và huyện là gắn với đơn vị hành chính cấp tỉnh và huyện, còn VKSND

cấp cao không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Theo đó, đây cũng là những

yếu tố để đảm bảo cho tính khả thi của nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật và nguyên tắc khi THQCT và kiểm sát hoạt động tư

pháp, KSV tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND.

Thứ hai,về nhiệm vụ của VKSND được quy định đầy đủ hơn, phạm vi

rộng hơn.

76

Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ của VKSND tối cao tại Điều

107: Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm

pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.Tuy nhiên, xuất phát từ

cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của VKSND khi thực hiện chức

năng, nhiệm vụ cho thấy ngoài nhiệm vụ như đã quy định trong Hiến pháp

2013, thì VKSND còn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân. Bởi lẽ, cụ thể hóa chức năng cơ bản của VKSND

thành những nhiệm vụ qua từng công tác kiểm sát nhằm mục đích giám sát

hoạt động tư pháp chính là hoạt động bảo vệ pháp luật được chấp hành

nghiêm chỉnh và thống nhất; qua đó bảo vệ quyền con người, quyền công dân

trong lĩnh vực tư pháp tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm và của cơ quan nhà

nước khác; đồng thời bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của tổ chức, cá nhân khi họ bị xâm hại.

Trên cơ sở đó,Hiến pháp năm 2013 đã quy định một cách đầy đủ và

hoàn thiện nhiệm vụ của VKSND cụ thể như sau: "VKSND có nhiệm vụ bảo

vệ pháp luật,bảo vệquyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN,

bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân

góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống

nhất” (Khoản 3 Điều 107) [37]. Như vậy, bên cạnh những nhiệm vụ đã quy

định, Hiến pháp năm 2013 đã có quy định mới về nhiệm vụ của VKSND đó là

bảo vệ pháp luật, bảo vệquyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

VKSND thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật thông qua các hoạt động

THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực chất chức năng THQCT và

77

kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là bảo vệ pháp luật, bảo đảm cho

pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm cho mọi tội

phạm và vi phạm pháp luật đều được phát hiện, xử lý kịp thời, không để lọt

tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm việc giải

quyết các vụ án đúng pháp luật, nghiêm minh, đồng thời bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trên cơ sở

cụ thể hóa chức năng thành các nhiệm vụ, Hiến pháp năm 2013 đã quy định

VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích

của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đây là

một trong những nhiệm vụ quan trọng chứng minh sự tồn tại của cơ quan

VKSND trong bộ máy nhà nước là đúng đắn.

Bên cạnh đó, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân được

đặt ra là hết sức cần thiết. Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mới về

quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đặc biệt trong lĩnh

vực tư pháp Hiến pháp đã có những điều chỉnh quan trọng nhằm bảo đảm một

cách tối đa quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực này, cụ thể như:

- Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quyền con người, quyền công dân

chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý

do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức

khỏe của cộng đồng”(Khoản 2 Điều 14) [37]. Hiến pháp năm 2013 quy định

rõ mọi biện pháp tố tụng có tính chất hạn chế quyền con người, quyền công

dân trong lĩnh vực tư pháp như: bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại,

điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác (Điều 21),

khám xét chỗ ở (Điều 22)… phải do luật định mà không quy định như Hiến

pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 (Điều 73) là theo quy định của

pháp luật. Đây là những quy định thể hiện sâu sắc tư tưởng pháp quyền, dân

chủ, ngăn ngừa sự cắt xén, xâm phạm quyền con người, quyền công dân từ

phía các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

78

- Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định ngay trong Hiến pháp,

tại Khoản 1 Điều 31 "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi

được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật” [37]. Khẳng định rõ tính công bằng, nhân đạo của pháp

luật XHCN. Bên cạnh đó, bổ sung quy định "Quyền được Tòa án xét xử kịp

thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai” (Khoản 2 Điều 31) [37].

Đây là yêu cầu hết sức cơ bản của nền tư pháp dân chủ, đòi hỏi việc sửa đổi

các luật tố tụng trong thời gian tới phải quy định cụ thể, minh bạch các thủ tục

nhằm tránh sự tùy tiện, lạm dụng để đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Đồng

thời, Hiến pháp mở rộng đối tượng được hưởng quyền bào chữa không chỉ

gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như hiện nay mà còn cả người bị bắt

(Khoản 4 Điều 31), quy định mới này sẽ tạo cơ sở để người bị bắt được đảm

bảo quyền và lợi ích hợp pháp từ giai đoạn đầu của quá trình tố tụng

- Bổ sung nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 103).

Nguyên tắc này đòi hỏi có sự điều chỉnh cơ bản về quyền và nghĩa vụ của các

chủ thể, chế định chứng cứ cũng như các thủ tục tố tụng để bảo đảm cho tranh

tụng được tiến hành có hiệu quả trên thực tiễn. Đặc biệt, qua đó bảo đảm một

cách toàn diện nhất về quyền của bị can, bị cáo, từ đó bị can, bị cáo và người

bào chữa có cơ sở pháp lý rõ ràng nhất để thực hiện quyền đưa ra chứng cứ

gỡ tội. Khi đó, tranh tụng phải trở thành quyền và nghĩa vụ của các bên tham

gia, mọi chứng cứ đưa ra phải có căn cứ pháp luật và phán quyết của Tòa phải

căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và những chứng cứ được kiểm

chứng tại phiên tòa. Vì vậy, có làm được điều đó mới bảo đảm được chất

lượng phiên tòa, bảo đảm chất lượng việc giải quyết vụ án, từ đó bảo đảm

được công lý, công minh của pháp luật, đồng thời cũng là bảo đảm quyền con

người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp tố tụng.

79

Như vậy, nhiệm vụ của VKSND trong bảo vệ quyền con người, quyền

công dânphù hợp với chức năng được giao đảm nhiệm. Bởi lẽ, khi tiến hành

tố tụng, VKS không chỉ đóng vai trò của một bên (bên công tố, buộc tội) như

pháp luật một số nước, mà còn được giao trách nhiệm bảo đảm không bỏ lọt

tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô tội; không để người nào

bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, hạn chế các quyền công dân, bị xâm

phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm một cách trái

pháp luật.

Thứ ba, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND đã được hoàn

thiện hơn

Trên cơ sở tiếp tục khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

VKS là THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục

khẳng định nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, đồng thời

bổ sung nguyên tắc "khi THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, KSV tuân

theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND”. (Khoản 2 Điều

109) [37]. Đây là lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 ghi nhận nguyên tắc này

như một nguyên tắc hiến định đối với tổ chức và hoạt động của VKSND, bởi

nó có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ

của VKSND. Nguyên tắc này một mặt khẳng định nhằm đáp ứng yêu cầu

tăng tính độc lập, thẩm quyền cho KSV, ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật

của cá nhân, tổ chức vào hoạt động nghiệp vụ của KSV, đồng thời phù hợp

với nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát, bảo đảm

sự lãnh đạo của Viện trưởng VKS mỗi cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung

thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Để cụ thể nguyên tắc này mới

được quy định trong Hiến pháp năm 2013, ngành kiểm sát cần nhanh chóng

triển khai và thực hiện cơ chế phân cấp thẩm quyền tố tụng nhằm tăng sự chủ

động và đề cao trách nhiệm cho KSV khi thực thi công vụ, góp phần đẩy

nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Đặc biệt, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để

80

thực hiện việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức VKSND và Bộ luật TTHS sẽ

được ban hành trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành

theo Hiến pháp năm 2013 không quy định về y ban kiểm sát. Điều này

không có nghĩa là y ban kiểm sát không còn nữa, mà cơ chế của y ban

kiểm sát vẫn được xây dựng và quy định trong Luật tổ chức VKSND được

sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới. Tuy nhiên, sẽ có sự thay đổi cơ bản về

nhiệm vụ, quyền hạn của y ban kiểm sát trong hệ thống VKSND. Hiến pháp

năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã quy định " y ban kiểm sát có quyền

thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng”. Như vậy, Hiến

pháp năm 2013 đã không quy định về y ban kiểm sát, nhằm đề cao chế độ

thủ trưởng chế của hệ thống VKSND, khi đó y ban kiểm sát sẽ sửa đổi từ

chế độ làm việc tập thể và quyết định theo đa số sang chế độ tư vấn, giúp việc

cho Viện trưởng trong một số vấn đề quan trọng để đề cao nguyên tắc tập

trung thống nhất lãnh đạo trong ngành.

2.4.2. Những hạn chế tồn tại và nguyên nhân

- Theo quy định của pháp luật, VKSND có trách nhiệm tiếp nhận, quản

lý, kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi

tố. Tuy nhiên, công tác quản lý, kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSNDcác cấp còn thụ động nên nguồn

tố giác, tin báo do VKS nắm được chủ yếu là do Cơ quan Cảnh sát điều tra

cung cấp, mà chưa có cơ chế tiếp nhận, quản lý tin báo, tố giác tội phạm ở các

cơ quan Nhà nước khác nên có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS không quản

lý được. Tình trạng xử lý các tố giác, tin báo tội phạm còn để kéo dài, không

xử lý dứt điểm, quá thời gian quy định.

- Về công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, một số KSV chưa

theo sát được tiến độ điều tra, chưa đề ra được yêu cầu điều tra một cách

thuyết phục, không phát hiện được các vi phạm của Điều tra viên trong các

81

hoạt động tố tụng để kiến nghị, yêu cầu khắc phục, sửa chữa vi phạm. Do

không theo sát tiến độ điều tra nên khi hồ sơ chuyển sang VKS truy tố mới phát

hiện thiếu sót, dẫn đến việc phải trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung. Một số

trường hợp, Cơ quan điều tra chậm ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can để

tiến hành điều tra dẫn đến việc đối tượng gây án bỏ trốn nên sau đó phải tạm

đình chỉ điều tra do hết thời hạn điều tra mà không bắt được bị can.

- Về công tác THQCT và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự: Kỹ năng

xây dựng bản cáo trạng, luận tội của KSV tại phiên tòa sơ thẩm; bài phát biểu

của VKS tại phiên tòa phúc thẩm còn thấp. Chưa chuẩn bị chu đáo đề cương

xét hỏi nên tại phiên tòa các câu hỏi của KSV không đi vào trọng tâm vụ án,

lan man, dài dòng, trùng lặp với Hội đồng xét xử. Khả năng tranh luận tại

phiên toà của đa số KSV chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư

pháp. Chất lượng công tác kiểm sát việc xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp

chưa cao nên không phát hiện được nhiều vi phạm để kiến nghị yêu cầu Tòa

án khắc phục, sữa chữa.

Kháng nghị phúc thẩm án hình sự là một trong những hoạt động thực

hiện chức năng THQCT của VKSND. Thực trạng xét xử sơ thẩm án hình sự

vẫn còn nhiều thiếu sót, tồn tại, vi phạm pháp luật cần phải được khắc phục

sửa chữa kịp thời, đảm bảo việc xét xử hình sự đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật. Tuy nhiên hiện nay chất lượng kháng nghị phúc thẩm của VKSND

hai cấp tỉnh Thừa Thiên Huế còn thấp, số lượng án bị kháng nghị chưa nhiều,

cá biệt có đơn vị trong thời gian khảo sát chưa kháng nghị được vụ nào.

- Về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao

động và những việc khác theo quy định của pháp luật: Nhìn chung, chất lượng

và hiệu quả của khâu công tác này là khá thấp, thông thường chỉ phát hiện

được các vi phạm về mặt hình thức của bản án và quyết định của Tòa án, còn

nội dung vụ án thì không phát hiện được để ban hành kiến nghị, kháng nghị.

82

- Về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục

người chấp hành án phạt tù, công tác kiểm sát thi hành án: Một số bộ phận

KSV chưa thường xuyên theo sát việc ra quyết định của các cơ quan Tòa án,

thi hành án nên chậm phát hiện các vi phạm để kịp thời kiến nghị, kháng nghị

nên chất lượng và hiệu quả của khâu công tác này chưa được nâng cao. Cá

biệt có VKSND cấp huyện còn có tình trạng nể nang, né tránh không đưa vào

kết luận kiểm sát những vi phạm đã được phát hiện để kháng nghị.

Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, tuy nhiên có thể kể đến

một số nguyên nhân chính như sau:

- Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện: Hiến pháp 2013 và các văn bản quy

phạm pháp luật khác về cơ bản đã quy định tương đối đầy đủ chức năng, nhiệm

vụ đảm bảo cho hoạt động của ngành Kiểm sát. Tuy nhiên, còn một số vấn đề về

vị trí, tính độc lập của VKS đối với Tòa án, về cơ cấu tổ chức và hoạt động của

VKS và chế định Kiểm sát viên vẫn còn chưa được quy định cụ thể.

- Chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên, nhất là Kiểm sát viên cấp huyện do

còn phải kiêm nhiệm nhiều công tác nên chất lượng kiểm sát chưa được cao.

- Dù VKSND có tính độc lập, tuy nhiên theo quy định về việc giám sát

của Đảng và các cơ quan dân cử, các cơ quan này vẫn có ảnh hưởng đến

VKSND nên trong quá trình hoạt động vẫn còn nhiều hạn chế.

- Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động của ngành Kiểm sát

còn hạn chế, chưa được đầy đủ nên ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt

động của ngành chưa đáp ứng nhu cầu so với tình hình mới.

Từ thực trạng cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND như đã phân

tích, để thực hiện đúng chủ trương của Đảng trong việc xây dựng Nhà nước

pháp quyền, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính tiến tới hoàn thiện bộ máy

nhà nước, cần thiết phải có những phương hướng và giải pháp để đổi mới cơ

cấu tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai đoạn hiện nay và các năm

tiếp theo.

83

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ

HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

3.1. Phương hướng đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND trong

giai đoạn hiện nay

Việc đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND phải dựa trên

các quan điểm, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước

pháp quyền, nhất là sự phân công, kiểm soát quyền lực trong hoạt động tư

pháp. Đảm bảo cho VKSND thực hiện đúng, đầu đủ và có chất lượng chức

năng, nhiệm vụ.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đúc rút những bài học kinh nghiệm, kế

thừa những kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại hạn chế, từng bước

thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ Đảng và Nhà nước đã giao.

Việc đổi mới nhằm hoàn thiện về tổ chức, chuyên môn hóa từng khâu

công tác, thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của ngành, xây dựng ngành Kiểm

sát trong sạch, vững mạnh, là công cụ bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ

pháp chế XHCN.

Việc đổi mới phải đảm bảo từng lộ trình hợp lý phù hợp với điều kiện,

hoàn cảnh của đất nước nói chung và ngành Kiểm sát nói riêng, ngày càng

khẳng định vị thế của ngành Kiểm sát trong hệ thống bộ máy nhà nước.

3.2. Các giải pháp nhằm đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND

trong giai đoạn hiện nay

3.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật

Thứ nhất, sửa đổi quy định của Điều 107 Hiến pháp về Viện kiểm sát

Quy định VKSNDTHQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp tại Hiến pháp

2013 cơ bản đã phản ánh đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Tuy vậy,

84

theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2, Kết luận Hội nghị lần thứ năm, Ban

Chấp hành T.Ư Ðảng khóa XI "Những vấn đề về vị trí, chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của các cơ quan nhà nước cần quy định rõ trong Hiến pháp" [12]

thì cũng còn một số nhiệm vụ chưa được quy định. Theo Luật Tổ chức

VKSND năm 2014, Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, Luật Tương trợ tư pháp

và một số đạo luật khác, VKSND được giao thực hiện những nhiệm vụ như:

làm đầu mối tương trợ tư pháp về hình sự; dẫn độ; chuyển giao người đang

chấp hành hình phạt tù; thống kê tội phạm liên ngành, v.v. Những nhiệm vụ

này không thuộc phạm vi chức năng THQCT, cũng không thuộc chức năng

kiểm sát các hoạt động tư pháp nhưng do VKS là cơ quan tiến hành tố tụng

duy nhất tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng (từ khởi tố, điều tra, truy tố,

xét xử, thi hành án), có điều kiện tốt nhất để thực hiện các nhiệm vụ này nên

Quốc hội quyết định giao cho VKS thực hiện. Nhằm thể chế hóa đầy đủ yêu

cầu của Nghị quyết Trung ương 2, Kết luận Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp

hành T.Ư 2 Ðảng khóa XI và phù hợp các nhiệm vụ VKSND đang được Quốc

hội giao đảm nhiệm, đề nghị sửa đổi quy định của Điều 107 Hiến pháp 2013

như sau: "VKSNDTHQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hiện những

nhiệm vụ khác do luật định"[37]. Việc bổ sung quy định nêu trên chính là

nhằm bảo đảm tính hợp hiến của các đạo luật do Quốc hội ban hành liên quan

đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND, đồng thời, tránh những

nhận thức thiếu thống nhất trong quá trình xây dựng các dự án luật thuộc lĩnh

vực tư pháp thời gian tới.

Nghiên cứu về lâu dài sửa đổi quy định về VKSND trong Hiến pháp

năm 2013. Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, Hiến pháp bao giờ

cũng được xem là đạo luật gốc. Luật hiến pháp xác lập những nguyên tắc cơ

bản làm cơ sở để xây dựng các ngành luật khác.Ví dụ: Luật hiến pháp quy

định cơ cấu tổ chức, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan

85

hành chính nhà nước, xác định mối quan hệ cơ bản giữa công dân và các cơ

quan nhà nước... Luật Hiến pháp quy định cả trình tự thông qua, sửa đổi, bãi

bỏ quy phạm của các ngành luật khác. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam,

ngành luật Hiến pháp giữ vị trí chủ đạo. Vị trí chủ đạo của ngành luật Hiến

pháp được xác định bởi đối tượng đặc biệt nằm dưới sự tác động của quy

phạm luật hiến pháp. Vì đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp là

những quan hệ xã hội cơ bản tạo thành cơ sở của chế độ xã hội và Nhà nước

mà các mối quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của các ngành luật khác đều bắt

nguồn từ cơ sở của chế độ xã hội và nhà nước đó. Do vậy, ngành luật Hiến

pháp còn đóng vai trò trung tâm liên kết các ngành luật khác. Chính từ vị trí

trung tâm của ngành luật Hiến pháp mà hệ thống pháp luật Việt Nam được

xây dựng thành một hệ thống pháp luật thống nhất và hoàn chỉnh.

VKSND là một cơ quan Hiến định có chức năng THQCT, kiểm sát

hoạt động tư pháp. Hiến pháp cần khẳng định vị trí của VKSND trong bộ máy

nhà nước là cơ quan “Tư pháp”. Bởi đây là tính đặc thù của Nhà nước Cộng

hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân

dân, vì Nhân dân.

Việc xác định VKSND là một cơ quan tư pháp trước hết xuất phát từ

quan điểm thống nhất của Đảng và Nhà nước ta trong cac Nghị quyết, văn

bản quy pháp pháp luật. Theo Nghị quyêt 49/2005/NQ-TW ngày 2/6/2005

theo đó mục 2 của Nghị quyết trên xác định chiến lược cải cách tư pháp đó là

cần “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ

máy các cơ quan tư pháp” [10] trong đó có cải cách cơ quan tư pháp là

VKSND theo hướng: “Trước mắt, viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức

năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Viện Kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của tòa

án” [10]. Như vậy có thể thấy, VKSND chính là cơ quan nằm trong hệ thống

các cơ quan tư pháp ở Việt Nam.

86

Hai là, việc xác định VKSND là cơ quan tư pháp xuất phát từ quan

điểm hiểu tư pháp theo nghĩa rộng đã và đang tồn tại ở Việt Nam hiện nay.

Khi Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện

quyền tư pháp có ý kiến cho rằng chỉ duy nhất TAND là chủ thể thực hiện

“quyền tư pháp”. Tuy nhiên, theo chúng tôi, Điều 102 Hiến pháp năm 2013

quy định Tòa án thực hiện quyền tư pháp nhưng điều đó không có nghĩa Tòa

án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp. Theo nguyên tắc Nhà nước

thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ

quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, thì ở Việt

Nam, không có cơ quan nào là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp.

Quy định về việc Tòa án thực hiện quyền tư pháp thực chất là quy định chức

năng xem xét, phán quyết của Tòa án khi thực hiện việc xét xử các vụ việc

được đưa đến Tòa án sau khi có quyết định truy tố, khởi kiện... ra Tòa án về

các lĩnh vực thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án. Việc quyết định hoặc phê

chuẩn quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự như bắt,

tạm giữ, tạm giam, gia hạn tạm giam... trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử

được coi là các biện pháp thực hiện quyền tư pháp. Ở Việt Nam, theo quy

định của Hiến pháp và BLTTHS, trong giai đoạn điều tra, truy tố, các biện

pháp này đã được giao cho Viện kiểm sát xem xét quyết định hoặc phê chuẩn

quyết định. Việc nêu vấn đề Tòa án cần được quyết định những biện pháp

cưỡng chế tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra, truy tố là trái với các quy

định của Hiến pháp và không phù hợp với thực tế hoạt động tố tụng ở Việt

Nam hiện nay [15]. Như vậy, ở nghĩa rộng, VKSND là cơ quan tư pháp và

được quyền tiến hành, thực hiện một số hoạt động tư pháp trong Nhà nước

pháp quyền.

Như vậy, từ sự phân tích trên chúng ta có thể thấy, VKSND vốn dĩ và

sẽ phải được coi là một cơ quan tư pháp trong Nhà nước pháp quyền. Việc

87

xác định VKSND là cơ quan tư pháp và thực hiện một số quyền tư pháp sẽ

góp phần ghi nhận, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND để từ

đó nâng cao được chất lượng hoạt động của VKSND trong thời gian tới.

Việc gộp chung VKSND và Toà án nhân dân vào một chương trong Hiến

pháp là chưa thể hiện rõ vai trò, vị trí và chức năng “bảo vệ pháp chế” của

VKSND. Bên cạnh đó, nội dung các quy định của Hiến pháp đối với VKS còn

thiếu quy định về cơ chế bảo đảm cho việc tuân thủ một cách nghiêm minh, kịp

thời các yêu cầu, quyết định của VKSND từ phía các chủ thể khác khi tham gia

quan hệ pháp luật mà VKSND giữ vai trò đại diện Nhà nước THQCT.

Nhìn rộng ra, chúng ta thấy một sự đa dạng trong các quy định về vị trí,

chức năng của VKSND hoặc các thiết chế tương tự ở các nước trên thế giới.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu có thể thấy rằng, nếu chỉ xét trên bình diện “chỗ

đứng” về mặt tổ chức của các cơ quan như VKSND hoặc Cơ quan công tố ở

nhiều nước và nhiều khu vực khác nhau thì vẫn chưa rõ cơ quan này thuộc

“nhánh” quyền lực nhà nước nào trong cơ chế phân quyền: lập pháp, hành

pháp hay tư pháp. Nhưng một điều có thể dễ nhìn thấy là, dù sự hiện diện ở

“nhánh” quyền lực nào thì tính độc lập về chức năng của loại cơ quan đó luôn

luôn được bảo đảm. Song song với việc khẳng định tính chất độc lập của VKS

hay Cơ quan công tố với tính cách là một thiết chế nhà nước, Hiến pháp và

pháp luật của nhiều nước, kể cả những nước mà cơ quan đó nằm trong cơ cấu

của ngành hành pháp còn quy định về vị trí độc lập của các KSV, Công tố

viên. Ví dụ như Bộ luật TTHS của Cộng hòa Pháp quy định tại Điều 669 về vị

trí hoàn toàn độc lập của công tố; Cũng theo Bộ luật này, các chức danh như

Thẩm phánvà thành viên Bồi thẩm đoàn có thể bị thay đổi, nhưng Công tố

viên thì không bị thay đổi bởi những lý do tương tự đối với các chức danh đó.

Bên cạnh đó, qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước cho thấy vị trí của Cơ

quan kiểm sát hay Công tố còn có thể xác định bởi mức độ điều chỉnh pháp lý

88

của nó. Ở một số nước tổ chức và hoạt động của thiết chế này được quy định

trong Hiến pháp, một số nước quy định bởi các đạo luật. Vì vậy, trên cơ sở

chủ trương của Đảng là xây dựng một nền công tố mạnh, bảo đảm cho

VKSND thực hiện tốt nhiệm vụ “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp

hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, về lâu dài cần tiếp tục nghiên cứu để sửa

đổi, bổ sung chế định VKSND trong Hiến pháp ở thời điểm thích hợp.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về cơ cấu tổ chức ngành Kiểm sát.

Luật tổ chức VKSND có hiệu lực năm 2014 đã được xây dựng lại một

cách rõ ràng, hợp lý, cụ thể các khâu công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ

của VKSND gồm: THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT và kiểm sát điều tra vụ án hình sự;

THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố; THQCT và

kiểm sát xét xử vụ án hình sự; Công tác điều tra của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao; Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; Kiểm

sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,

kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp

luật; Kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; Giải quyết khiếu

nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư

pháp; THQCT và kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp. Luật quy định rõ

nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong từng khâu công tác; Bổ sung quy

định và phân biệt rõ các công tác hỗ trợ để thực hiện chức năng gồm thống kê

tội phạm; nghiên cứu khoa học; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng; hợp

tác quốc tế; phổ biến, giáo dục pháp luật.

Về cơ cấu tổ chức bộ máy, Luật năm 2014 quy định, VKS gồm 04 cấp

(VKSND Tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện),

89

trong đó VKSND cấp cao là cấp kiểm sát mới, có nhiệm vụ THQCT, kiểm sát

hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của

Tòa án nhân dân cấp cao. Về cơ chế tuyển chọn KSV, Luật năm 2014 quy

định: Áp dụng hình thức thi tuyển vào các ngạch KSV sơ cấp, trung cấp, cao

cấp. Hội đồng thi được tổ chức ở VKSND Tối cao, do Viện trưởng VKSND

Tối cao làm Chủ tịch, các ủy viên gồm đại diện lãnh đạo nhiều cơ quan. Về

Kiểm tra viên, Luật năm 2014 bổ sung quy định Kiểm tra viên là chức danh tư

pháp, được bổ nhiệm để giúp KSVTHQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp và

thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng.

Luật năm 2014 quy định cơ chế kiểm soát trở lại của cơ quan điều tra, tòa án,

cơ quan thi hành án và các cơ quan khác có thẩm quyền trong hoạt động tư

pháp đối với việc thực hiện chức năng THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp

của VKSND. Đây là việc thể chế hóa tư tưởng kiểm soát quyền lực trong

Hiến pháp năm 2013; quy định rõ các thiết chế giám sát bằng hình thức dân

chủ đại diện gồm có Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội,

Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân.

Như vậy với quy định mới rõ hơn, chặt chẽ hơn, xác định trách nhiệm

sát với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan trong bộ máy nhà nước trong Hiến

pháp năm 2013 và các bộ luật, luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp, là cơ sở

pháp lý quan trọng để bảo đảm việc bảo vệ quyền công dân thiết thực, hiệu

quả nhất.

Thứ ba, hoàn thiện cơ cấu hệ thống ngành Kiểm sát.

Hiến pháp năm 2013 không quy định cụ thể tổ chức của VKS cũng như

chế định y ban kiểm sát với tư cách là cơ quan quyết định tập thể các vấn đề

của VKS mà chỉ quy định chung hệ thống VKS bao gồm VKSND tối cao và

các VKS khác do luật định. Điều này là phù hợp với tình hình hiện nay và

trên cơ sở đó để Luật tổ chức VKSND đang được sửa đổi, bổ sung quy định

chi tiết và cụ thể.

90

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã nêu rõ:

VKSND được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. Để triển khai

thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 28/7/2010, Bộ Chính trị đã có Kết

luận số 79-KL/TW xác định rõ quan điểm, phương hướng đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tóa án, VKS và cơ quan điều tra, theo đó VKS được tổ chức

phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ

thuộc vào đơn vị hành chính.Tuy nhiên các Nghị quyết của Đảng còn nhấn

mạnh phải “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn

công tố với hoạt động điều tra” [4]. Do đó, hệ thống tổ chức của VKSND

không những phải phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án mà còn phải được

tổ chức bảo đảm thực hiện hiệu quả trách nhiệm của VKSND trong giai đoạn

điều tra.

Thể chế hóa các chủ trương của Đảng nêu trên, cần nghiên cứu, sửa

đổi, bổ sung Điều 107 của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm

2002 theo hướng đảm bảo đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống VKSND theo

bốn cấp, tương ứng với tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử,

không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; xử lý các vấn đề về nguyên tắc tổ

chức và hoạt động của VKSND các cấp, vấn đề giám sát của các cơ quan dân

cử đối với VKSND theo tinh thần cải cách tư pháp, nhưng phải đảm bảo gần

dân, phục vụ nhân dân tốt hơn, đồng thời, bảo đảm tạo cơ chế thuận lợi để

VKSND thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao. Theo đó, hệ

thống các VKSND được tổ chức tập trung và thống nhất từ dưới các địa

phương và Trung ương tương ứng với hệ thống các Tòa án án nhân dân.

Thứ tư, hoàn thiện nhiệm vụ quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân

sự và tố tụng hành chính.

Một điểm quan trọng trong BLTTDS năm 2015 kế thừa Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 đó là quy định phạm vi các

91

trường hợp VKS phải tham gia các phiên tòa, phiên họp giải quyết các vụ,

việc dân sự. Cụ thể là, VKS tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc

dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu

thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng,

quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên,

người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Khi kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong tố tụng dân sự, VKS thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng

nghị nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp

luật. Mặc dù mở rộng phạm vi các trường hợp VKS tham gia các phiên tòa,

phiên họp giải quyết các vụ việc dân sự. Tuy nhiên, tại phiên tòa, phiên họp

sơ thẩm thì KSV chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong

quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành

pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến

trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Tương tự như vậy, đối với công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án

hành chính, Luật tố tụng hành chính 2010 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2011)

cũng quy định KSV chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng

trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp

hành pháp luật của người tham gia tố tụng hành chính ở phiên tòa sơ thẩm.

Qua thực tiễn hoạt động chúng tôi thấy rằng do KSV chỉ phát biểu ý

kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng mà không phát biểu quan điểm của

VKS về việc giải quyết toàn bộ vụ án (tức không phát biểu quan điểm về nội

dung vụ án) nên KSV chỉ nghiên cứu về mặt pháp luật tố tụng mà không

nghiên cứu về mặt pháp luật nội dung của vụ án nên không thể ban hành

kháng nghị về mặt nội dung của vụ án được. Vì vậy, chất lượng và hiệu quả

của công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình,

kinh tế, hành chính còn khá thấp.

92

Để góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các

vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những

việc khác theo quy định của pháp luật, chúng tôi cho rằng cần sửa đổi các quy

định của pháp luật theo hướng tại các phiên tòa, phiên họp sơ thẩm các vụ án

dân sự, hành chính KSV phải phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, có

như vậy VKS mới có thể ban hành được các kiến nghị, kháng nghị, cùng Tòa

án giải quyết các loại án này một cách kịp thời, đúng quy định của pháp luật.

Thứ năm, hoàn thiện nội dung các quy định pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong THQCT vụ án hình sự.

Bộ luật TTHS năm 2015 được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 10

thông qua ngày 27/11/2015 là một bước tiến dài trong việc hoàn thiện pháp

luật về TTHS, theo nhiệm vụ của Đảng ta đặt ra trong Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020. BLTTHS năm 2015, đã quy định cụ thể hơn quyền hạn,

nhiệm vụ và trách nhiệm của KSVVKSND trong THQCT và kiểm sát hoạt

động tư pháp. Tuy nhiên, theo đánh giá của chúng tôi, BLTTHS 2015 vẫn còn

tồn tại một số bất cập trong việc tổ chức và thực hiện quyền công tố của

VKSND nói chung, của Kiểm sát nói riêng trên cơ sở các yêu cầu cải cách tư

pháp đã đặt ra.

Theo chúng tôi cần tiếp tục tăng thẩm quyền cho KSV VKSND trong

THQCT trên cơ sở chuyển hoá một số quyền năng pháp lý chung của VKS và

cụ thể hoá nội dung tại điểm p, khoản 1, Điều 42 BLTTHS 2015 “Thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của VKS theo sự phân

công của Viện trưởng VKS theo quy định của Bộ luật này” [39].

Điều 109, Hiến pháp 2013 quy định “Khi THQCT và kiểm sát hoạt

động tư pháp, KSV tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng

VKSND” [34]; Điều 74, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định “KSV là

người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng

93

THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp”; khoản 2 Điều 42 BLTTHS 2015 quy

định “KSV phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện

kiểm sát, Phó Viện trưởng VKS về hành vi, quyết định của mình” [39]. Trên

đây là những căn cứ pháp lý quan trọng khẳng định chức năng, nhiệm vụ

cũng như trách nhiệm của KSV trong quá trình THQCT, kiểm sát hoạt động

tư pháp.

Đối chiếu vào các quy định của BLTTHS năm 2015 cho thấy các quy

định pháp luật vẫn chưa bảo đảm được sự chủ động của KSV trong việc thực

hiện hai chức năng này. Vì vậy cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi một

số nội dung cụ thể như sau:

Chuyển nội dung “Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan

có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện” từ khoản 2, Điều

159 sang khoản 1, điều 42; Bỏ cụm từ “Khi cần thiết”. Giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là một giai đoạn tố tụng quan trọng bởi lẽ,

nó quyết định việc xác định, phân loại có hay không có sự việc tội phạm,

người phạm tội. Là tiền đề cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Theo

BLTTHS thì VKSNDTHQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp ngay từ khi giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, và chủ thể thực hiện việc

tiếp giải quyết và lập hồ sơ giải quyết là KSV. Mặt khác, “yêu cầu xác minh;

yêu cầu điều tra” là một văn bản tố tụng thể hiện sự gắn kết, chỉ đạo của Công

tố đối với hoạt động Điều tra, vì vậy không nên sử dụng cụm từ “khi cần

thiết” để xác định đây là hoạt động THQCT bắt buộc. Và việc đề ra yêu cầu

điều tra, yêu cầu xác minh của KSV là một hoạt động tố tụng mang tính bắt

buộc mà KSV phải thực hiện sau khi có quyết định phân công của Viện

trưởng. Và yêu cầu của KSVVKSND trong THQCT phải có tính pháp lý là

“nghĩa vụ” buộc các chủ thể tiến hành tố tụng, các chủ thể tham gia tố tụng,

các chủ thể có liên quan khác cơ quan. Việc bổ sung các quy định này là cần

thiết bởi lẽ đây là bảo đảm pháp lý đối với vị trí pháp lý Hiến định của KSV.

94

Mặt khác, đây cũng là sự cụ thể hoá quan điểm cải cách tư pháp của Đảng

“tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế

công tố gắn với điều tra”.

Cần luật hoá các hoạt động THQCT của KSV đang tồn tại dưới các

hình thức tham mưu, đề xuất cho Viện trưởng trong quá trình quyết định

“đóng mở vụ án” và quyết định áp dụng các biện pháp “hạn chế quyền con

người, quyền công dân” thành những nhiệm vụ của KSV.

3.2.2 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm của

ngành kiểm sát

Việc tăng cường đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS phải gắn liền

với công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết rút kinh nghiệm của ngành Kiểm

sát. Trong những năm qua, cải cách tư pháp được tăng cường mạnh mẽ. Đảng

ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị quan trọng đối với công tác tư pháp,

đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020”. Các Nghị quyết của Đảng đã đặt nhiệm vụ cho công

tác nghiên cứu khoa học phải luận giải một cách thấu đáo, sâu sắc nhiều vấn

đề về tư pháp. Đối với tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, các Nghị

quyết đề ra nhiều yêu cầu, đòi hỏi phải tổ chức nghiên cứu, luận giải thật đầy

đủ, như: việc tổ chức VKS phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án; Nghiên

cứu việc có chuyển VKS thành Viện công tố không; vấn đề tăng cường trách

nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với

điều tra v.v…

VKSND tối cao cần xác định, việc thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ đề

ra trong các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp là nhiệm vụ chính trị

quan trọng hiện nay và trong những năm tới. Trên cơ sở đó, đã phê duyệt

những định hướng nghiên cứu lớn và các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể trong

từng năm và từng giai đoạn.

95

Thứ nhất, cần nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống lý luận về vị trí, vai trò,

chức năng, nhiệm vụ của VKS trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

Trên cơ sở đó, chúng ta đã báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền của Đảng

và Nhà nước về sự cần thiết khách quan phải tiếp tục duy trì mô hình VKS

với hai chức năng: THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Để thực hiện

hiệu quả hai chức năng này, VKS phải được tổ chức thành hệ thống cơ quan

độc lập trong bộ máy nhà nước, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, do

Quốc hội lập ra như quy định của Hiến pháp hiện hành. Các kết quả nghiên

cứu đã chứng minh rằng, trong các cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực

tư pháp hiện nay, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS là cơ chế kiểm soát rất

có hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc khắc phục sự lạm quyền của các cơ

quan tiến hành tố tụng, bảo vệ các quyền dân chủ của công dân, bảo đảm sự

tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Các kiến nghị của VKSND tối cao đã được

ghi nhận tại các văn bản quan trọng của Đảng. Kết luận 79-KL/TW của Bộ

Chính trị nêu rõ: “VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động

tư pháp như hiện nay”, Văn kiện Đại hội XI tiếp tục khẳng định “VKS được

tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Toà án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện

để VKSND thực hiện hiệu quả chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động

tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong điều tra, gắn công tố với hoạt

động điều tra”.

Trong thời gian tới, cần tiếp tục tập trung cho công tác nghiên cứu lý

luận cơ bản, luận giải, làm rõ những yêu cầu, đặc điểm của Nhà nước pháp

quyền Việt Nam XHCN; đặc điểm của hệ thống chính trị; hiện trạng nền tư

pháp nước nhà và sự cần thiết phải duy trì hệ thống cơ quan VKS với hai

chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, có vị trí độc lập như

quy định của Hiến pháp hiện hành.

96

Thứ hai, cần tổ chức các hoạt động nghiên cứu phục vụ việc đổi mới hệ

thống tổ chức Viện kiểm sát. Công tác khoa học trong thời gian tới phải tập

trung nghiên cứu, luận giải những vấn đề quan trọng liên quan đến tổ chức

mô hình VKS ví dụ như: nghiên cứu về các biện pháp để tăng cường trách

nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra,

bảo đảm chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô

tội trong điều kiện hệ thống cơ quan điều tra vẫn được tổ chức như hiện nay;

Về mối quan hệ giữa các cấp kiểm sát, đặc biệt là mối quan hệ giữa VKSND

cấp cao với VKSND tỉnh, VKSND huyện; Vấn đề đổi mới, kiện toàn VKSND

tối cao để VKSND tối cao thực sự là trung tâm đầu não của Ngành, có trách

nhiệm xác định phương hướng, mục tiêu, nội dung hoạt động của toàn Ngành

trong từng thời gian, từng giai đoạn; Vấn đề biên chế, cơ cấu cán bộ,

KSVVKS từng cấp; Làm rõ tính đặc thù của hoạt động công tố và kiểm sát tư

pháp để đề xuất với Đảng và Nhà nước về chế độ đãi ngộ cho cán bộ, KSV

cũng như các điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm hoạt động của

VKS các cấp v.v.

Thứ ba, cần tổ chức các hoạt động nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra

các giải pháp nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp,

tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong hoạt động nghiệp vụ của

các đơn vị, VKS địa phương. Đây vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu mà công

tác nghiên cứu khoa học của Ngành phải hướng tới. Trong thời gian tới, thủ

trưởng các đơn vị nghiệp vụ, Viện trưởng VKS các địa phương cần đề cao

trách nhiệm trong việc tổng kết nghiệp vụ, nắm bắt những khó khăn, vướng

mắc phát sinh từ thực tiễn để đề xuất với Lãnh đạo VKSND tối cao chỉ đạo

nghiên cứu, tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thực hiện chức năng,

nhiệm vụ. Đồng thời đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu về tình hình,

nguyên nhân, diễn biễn của tội phạm làm cơ sở dự báo xu hướng tội phạm và

97

kiến nghị với Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ Ngành hữu quan áp dụng

các biện pháp phòng ngừa tội phạm.

Từ những sự phân tích trên chúng tôi kiến nghị, trong thời gian tới

ngành kiểm sát cần thực hiện những hoạt động sau nhằm nâng cao chất lượng,

hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học về vị trí, vai trò, chức năng của

VKSND:

- Cần giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của ngành kiểm sát về cho

đầu mối là Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội. Việc này sẽ tạo ra sự tinh gọn,

hiệu quả trong công tác nghiên cứu khoa học, tận dụng tối đa nguồn chuyên

gia, nhà khoa học chất lượng cao trong cả công tác giảng dạy và nghiên cứu.

- Cần có chiến lược lâu dài trong đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học

của ngành kiểm sát. Theo đó, cần cử một số chuyên gia đi đào tạo, nghiên cứu

chuyên sâu tại nước ngoài.

- Cần phối hợp với Bộ khoa học công nghệ, Chủ nhiệm các chương

trình khoa học quốc gia phân bổ ngân sách làm một số đề tài khoa học cấp

ngành/bộ nghiên cứu về chiến lược đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành

kiểm sát nhân dân trong thời gian tới. Kinh phí của các chương trình này cần

phải đầy đủ, thời gian nghiên cứu kéo dài, tuyển chọn những nhà khoa học uy

tín nhất, tổ chức hội thảo, tham vấn, góp ý rộng rãi để đưa ra chiến lược thống

nhất trong tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát.

3.2.3 Đổi mới công tác giáo dục, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ

Viện kiểm sát theo hướng chuyên sâu, chuyên môn hóa

Đảng ta luôn xác định “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của

cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu

then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây

dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức

lãnh đạo của Đảng…”. Chính vì vậy, các Nghị quyết của Đảng đều dành sự

98

quan tâm thích đáng cho việc đánh giá, chỉ đạo công tác cán bộ nói chung và

công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ luôn được xác định là một trong

những nhiệm vụ trọng tâm công tác của Ngành Kiểm sát.

Từ năm 2014 đến nay, cùng với việc từng bước hoàn thiện các cơ chế

pháp lý bảo đảm cho KSV thực hành quyền công thì các quy định pháp luật

về lĩnh vực công tác, cán bộ đối với chủ thể KSV cũng từng bước được kiện

toàn trên các mặt cụ thể như trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị và phẩm

chất đạo đức nghề nghiệp…, những quy định này cũng góp phần nâng cao

chất lượng công tác THQCT của KSV. Thực tiễn thời gian qua, đội ngũ cán

bộ kiểm sát nói chung, KSV nói riêng đã từng bước được củng cố, phát triển

để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, góp phần bảo vệ pháp luật và pháp chế

XHCN, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã

hội, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Số lượng,

chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát ngày càng nâng cao. Để đáp ứng yêu cầu

cải cách tư pháp. Biên chế cán bộ của nghành đã được tăng về số lượng, trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, KSV đã nâng lên so với thời gian

trước đây, (Năm 2011, toàn Ngành có 8.378 KSV (170 số KSVVKSND tối

cao; 2.457 KSV trung cấp; 5.751 KSV sơ cấp); Đến năm 2012 được y ban

Thường vụ Quốc hội giao chỉ tiêu 10.424 KSV (170 KSVVKSND tối cao;

4.039 KSV trung cấp; 6.215 KSV sơ cấp). Năm 2013, tổng số KSV ở

VKSND tối cao có 290 người, trong đó có 170 KSVVKSND tối cao, 58 KSV

tối cao, 62 KSV sơ cấp; KSVVKSND cấp tỉnh có 2.217 KSV trung cấp và

770 KSV sơ cấp, KSVVKSND cấp huyện có 4,935 KSV gồm 755 KSV trung

cấp và 4,180 KSV sơ cấp. Về trình độ cán bộ, trước tháng 10/2002, tỷ lệ KSV

đạt trình độ cử nhân luật còn thấp (ở VKSND tối cao đạt tỷ lệ 59%; ở VKS

cấp tỉnh đạt tỷ lệ 54,4%; ở VKS cấp huyện đạt tỷ lệ 38,3%; ở VKS Quân sự

99

các cấp đạt tỷ lệ 86,7%. Số còn lại khoảng 50% chỉ có trình độ cao đẳng kiểm

sát hoặc trung cấp pháp lý). Đến nay, 100% KSV đã có trình độ Cử nhân luật

trở lên; toàn Ngành có 25 Tiến sĩ, 511 Thạc sĩ; có 2547 người có trình độ cử

nhân hoặc trình độ cao cấp lý luận chính trị; có 4.667 người có trình độ trung

cấp lý luận chính trị). Biên chế toàn ngành từ 13,269 người năm 2011 lên

14,547 người 2013 (tăng 1,278 người, chiếm 11%), với cơ cấu KSV, cán bộ

hợp lý. Hiện nay, tổng biên chế toàn ngành kiểm sát là 14,220 người, trong đó

VKSND tối cao là 988; VKSND cấp tỉnh và cấp huyện là 13,232 người. Tổng

số KSV ở VKSND tối cao có 290 người. Trong đó, 170 KSV cao cấp; 58

KSV trung cấp; 62 KSV sơ cấp; Điều tra viên có 66 người (17 Điều tra viên

cao cấp); Kiểm tra viên có 282 người, còn tại là công chức và nhân viên khác.

Biên chế cán bộ làm việc ở VKSND cấp tỉnh là 4.463 người (trong đó có

2.217 KSV trung cấp; 770 KSV sơ cấp; 373 Kiểm tra viên các cấp, còn lại là

công chức, nhân viên khác); Biên chế làm việc tại các VKSND cấp huyện là

8,869 người, trong đó có 4,935 KSV (755 KSV trung cấp; 4,180 KSV sơ cấp;

808 Kiểm tra viên, còn lại 3,126 công chức, nhân viên khác) [64].

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã

được chú trọng. Hàng năm, VKS các cấp đã cử hàng trăm cán bộ tham gia các

lớp học chính trị sơ, trung, cao cấp hoặc tại chức, bảo đảm các chỉ thị, nghị

quyết của Đảng được quán triệt kịp thời trong toàn ngành. Tăng cường KSV

cho những bộ phận trực tiếp thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt

động tư pháp; bổ sung kịp thời cán bộ lãnh đạo chủ chốt cho các đơn vị kiểm

sát các cấp. Hàng năm, ngành kiểm sát đều tổng rà soát, phân loại, đánh giá đội

ngũ cán bộ, KSV và luân chuyển cán bộ theo chủ trương của Đảng. Tuy nhiên,

bên cạnh kết quả đạt được, công tác cán bộ của VKSND vẫn còn nhiều bất cập,

tồn tại sau đây: công tác xây dựng cán bộ kiểm sát cũng như cán bộ tư pháp nói

chung chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

100

Trong điều kiện cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, một bộ phận cán

bộ, KSV chậm đổi mới, tiếp cận, học hỏi nâng cao năng lực, nhận thức toàn

diện để đáp ứng yêu cầu công việc, nhất là kiến thức về pháp luật kinh tế quốc

tế, về ngoại ngữ, tin học. Ngoại ngữ mới chỉ tập trung chủ yếu vào tiếng Anh

(trước đây là tiếng Nga), trong khi tiếng Trung Quốc, tiếng các nước trong

khu vực, tiếng dân tộc ít được quan tâm đào tạo.

Đội ngũ KSV các cấp cũng còn yếu về năng lực chuyên môn, nghiệp

vụ. Các KSV trong khối hình sự chưa có đủ những kiến thức cần thiết về điều

tra tội phạm, kỹ năng tranh luận, đối đáp tại phiên tòa còn yếu. Phần lớn các

KSV mới chỉ được trang bị thuần túy về kiến thức pháp lý, các tri thức

chuyên ngành khác cần thiết cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, ít được

quan tâm trang bị đúng mức (kiến thức về môi trường đối với các tội phạm về

môi trường, kiến thức tài chính, kế toán đối với các tội phạm kinh tế, tham

nhũng; tin học trong các tội phạm máy vi tính, bưu chính viễn thông, tội phạm

mạng internet; tội phạm chứng khoán; pháp luật quốc tế trong các vụ việc

tương trợ tư pháp).

Vì vậy, để đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp, bên cạnh việc hoàn

thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung,

pháp luật về KSVVKSND trong THQCT nói riêng thì cần phải tiếp tục có các

giải pháp xây dựng đội ngũ KSV trong sạch, vững mạnh, giỏi nghiệp vụ. Một

đội ngũ KSV trong sạch, vững mạnh, giỏi nghiệp vụ sẽ bảo đảm tính hiệu

quả, nâng cao hiệu lực của pháp luật về KSVVKSND trong THQCT.

Theo đó, trong thời gian tới, VKSND tối cao cần chỉ đạo VKSND các

cấp tiến hành các giải pháp cụ thể như sau:

Một là, nâng cao nhận thức về xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát, KSV.

Cán bộ kiểm sát, KSVVKS các cấp là những người được giao thực hiện chức

năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Do đó, cần quan tâm tuyển

101

chọn, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng... những người có đủ phẩm chất, năng lực,

trình độ đáp ứng yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Hai là, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các văn bản về

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ. Theo định hướng cải cách tư pháp, căn cứ

Luật tổ chức VKSND 2014, hệ thống tổ chức VKSND gồm 4 cấp phù hợp với

hệ thống tổ chức của Tòa án. theo đó các quy định về tiêu chuẩn, bổ nhiệm,

tuyển chọn KSV được áp dụng căn cứ vào kết quả thi tuyển, căn cứ vào các

tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực thực hiện nhiệm vụ mà

không phụ thuộc vào cấp hành chính. Đồng thời với việc sửa đổi Luật Tổ

chức VKSND, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các quy chế

về công tác cán bộ như: Quy chế phân cấp, quản lý cán bộ; Quy chế tuyển

dụng cán bộ; Quy chế bổ nhiệm và bổ nhiệm lại KSV các cấp; Quy chế về

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ... tạo cơ sở pháp lý thực hiện tốt công tác xây dựng

đội ngũ cán bộ kiểm sát, KSV trong sạch, vững mạnh, giỏi về nghiệp vụ.

Ba là, đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ. Tuyển dụng cán bộ là bước

khởi đầu quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ. Có tuyển dụng được đội ngũ

cán bộ tốt, có trình độ mới xây dựng được đội ngũ cán bộ mạnh. Căn cứ Luật

tổ chức VKSND năm 2014, VKSND tối cao cần tổ chức hướng dẫn VKSND

các địa phương tổ chức thi tuyển công chức. Nghiên cứu việc tổ chức thi tuyển

công chức ngành kiểm sát tập trung trên địa bàn cả nước hoặc phạm vi từng khu

vực (miền Bắc, miền Trung, miền Nam) vào cùng một thời điểm (có thể 1 hoặc

2 lần trong một năm). Đối với các tỉnh ở cấp huyện có đông người dân tộc ít

người sinh sống thì cần có hướng dẫn cụ thể về việc thay thi tuyển môn ngoại

ngữ bằng việc kiểm tra trình độ tiếng dân tộc. Đối với những sinh viên tốt nghiệp

loại giỏi, tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành luật ở nước ngoài cần nghiên

cứu chế độ ưu tiên tuyển dụng đặc biệt để thực hiện thống nhất.

102

Bốn là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Để có được đội

ngũ cán bộ kiểm sát thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao thì

công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải được quan tâm đặc biệt. Trước hết

phải xây dựng đội ngũ giảng viên có chất lượng cao, đổi mới chương trình,

giáo trình, tài liệu, phương pháp giảng dạy - học tập. Bổ sung các tài liệu

tham khảo, hồ sơ tình huống theo hướng tăng cường trang bị kỹ năng nghề

nghiệp, sát với yêu cầu thực tiễn. Đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất và trang

thiết bị giảng dạy - học tập của nhà trường. Hoàn thiện và hiện đại hoá công

nghệ thông tin, thư viện của nhà trường.

Năm là, tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán

bộ. Để quản lý tốt đội ngũ cán bộ cần tiến hành đổi mới việc phân công, phân

cấp quản lý cán bộ nhằm xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp

quản lý, theo hướng phân cấp mạnh hơn cho các VKS địa phương, bảo đảm

nguyên tắc và trách nhiệm của lãnh đạo VKS địa phương trong việc quản lý

đội ngũ cán bộ. Việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình

độ chính trị và nghiệp vụ, thực hiện đúng lương tâm và trách nhiệm của người

cán bộ kiểm sát là yêu cầu có tính thường xuyên, liên tục, mỗi cán bộ kiểm sát

phải tự rèn luyện nâng cao ý thức chính trị, đạo đức, lối sống, chấp hành

nghiêm kỷ luật của ngành. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", thực hiện tốt 5 đức tính mà Bác Hồ

đã dạy đối với người cán bộ Kiểm sát: "Công minh, Chính trực, Khách quan,

Thận trọng, Khiêm tốn", coi đây là nội dung quan trọng của việc xây dựng đội

ngũ cán bộ kiểm sát trong sạch, vững mạnh.

Sáu là, nâng cao vị thế, vai trò của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội

với tính chất là cơ quan đào tạo chất lượng cao cho ngành kiểm sát trong công

tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trường kiểm sát cần đẩy mạnh đổi mới hơn

nữa chất lượng đạo tạo, chương trình, giáo trình để từ đó có chất lượng đạo

tạo tốt nhất cho cán bộ của ngành.

103

3.2.4. Đổi mới cơ chế giám sát của Đảng và cơ quan dân cử, tổ chức, báo

chí và nhân dân đối với hoạt động của Viện kiểm sát

Nhằm đảm bảo sự lãnh đạo thường xuyên, sát sao đối với công tác cải

cách tư pháp, trong đó có công tác và hoạt động của VKSND; Bộ Chính trị đã

quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương và Ban Nội

chính Trung ương để tham mưu giúp Bộ Chính trị triển khai thực hiện chủ

trương, đường lối của Đảng về công tác cải cách tư pháp và công tác nội

chính, đồng thời chỉ đạo thành lập Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp và Ban Nội

chính ở các địa phương; Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cơ quan của Đảng

cũng như các cấp ủy địa phương luôn quan tâm, theo dõi, chỉ đạo, làm việc

với Ban cán sự, lãnh đạo VKSND; tăng cường lãnh đạo công tác và hoạt động

của VKSND qua phổ biến, quán triệt, chỉ đạo thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết;

kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, chỉ đạo giải quyết

những vụ việc quan trọng, phức tạp; xây dựng và chỉ đạo thực hiện cơ chế

phối hợp và làm việc giữa các tổ chức Đảng với các cơ quan tư pháp và các

cơ quan hữu quan, trong đó có VKSND. Tăng cường công tác xây dựng

Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức Đảng và Đảng

viên ngành Kiểm sát; chăm lo công tác giáo dục, đào tạo, tuyển chọn, bố trí

cán bộ cho ngành Kiểm sát; Đặc biệt là vừa qua việc thành lập Trường Đại

học Kiểm sát thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đến chiến

lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho VKSND.

Cùng với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nhằm phát huy sức

mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư pháp; hoạt động

của VKSND thường xuyên được sự quan tâm giám sát của các cơ quan dân

cử; Thông qua việc nắm bắt tình hình cơ sở, ý kiến, kiến nghị của cử tri; đồng

thời, rà soát kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, công tác giám sát đối với

hoạt động tư pháp và hoạt động của VKSND của Quốc hội, Đoàn đại biểu

104

Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức dân cử

đã có nhiều đổi mới cả về nội dung và phương thức giám sát, mang lại hiệu

quả thiết thực; tham gia tích cực vào hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp

luật liên quan đến hoạt động tư pháp.

Công tác giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đã được tiến

hành bằng nhiều hình thức, có nhiều đổi mới; Từ việc chất vấn giữa hai kỳ

họp đến chất vấn Viện trưởng VKS tại các kỳ họp; thẩm định báo cáo trước

kỳ họp và xem xét báo cáo của của Viện trưởng VKSND tại kỳ họp đến giám

sát thường xuyên bằng hoạt động của y ban Thường vụ Quốc hội, y ban tư

pháp. y ban pháp luật, Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân; Trong đó đã chú

trọng nhiều hơn trong giám sát việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử và thi hành

án. Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên đã chủ động phối hợp

giám sát các hoạt động tố tụng, phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong

hoạt động tư pháp, qua đó kiến nghị với các cơ quan tư pháp khắc phục, sửa

chữa. Từ đó góp phần tăng cường vai trò của VKSND trong Kiểm sát hoạt

động tư pháp; đồng thời trực tiếp giám sát hoạt động của VKSND, tham gia

tuyển chọn KSV; qua đó giúp VKSND thực hiện ngày càng có hiệu quả chức

năng, nhiệm vụ.

Theo chúng tôi để tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp; đồng thời tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng và hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với hoạt động của

VKSND, xin kiến nghị một số ý kiến sau:

Một là, nên tổ chức hệ thống cơ quan Đảng ngành dọc trong ngành

Kiểm sát nhân dân. Theo đó, chi bộ VKSND cấp huyện trực thuộc Đảng bộ

VKSND cấp tỉnh. Đảng bộ VKSND cấp tỉnh trực thuộc cấp ủy cấp tỉnh và

Ban cán sự Đảng VKSND tối cao. Đảng bộ VKSND tối cao trực thuộc Đảng

bộ các cơ quan nội chính Trung ương;

105

Hai là, ở từng giai đoạn, căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ ở Trung ương và

cấp ủy cấp tỉnh nên có nghị quyết chuyên đề về công tác kiểm sát nhằm tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực công tác công tố và kiểm sát

hoạt động tư pháp.

Ba là, nhằm không ngừng tăng cường pháp chế thống nhất; nâng cao

hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, nên quy định để VKSND giúp

Quốc hội tiến hành kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Kiểm

sát việc xử lý vi phạm hành chính để chống bỏ lọt tội phạm, trực tiếp điều tra

án tham nhũng; Qua đó tích cực bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân.

Bốn là, tiếp tục đổi mới phương thức, nội dung giám sát của các cơ

quan dân cử, giảm bớt các hoạt động giám sát chồng chéo, hình thức phát huy

sức mạnh tổng hợp tạo điều kiện thuận lợi nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực

công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp.

3.2.5. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động

của Viện kiểm sát

Thứ nhất, Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành kiểm sát.

Trong giai đoạn hiện nay, công nghệ thông tin là yếu tố thiết yếu phục

vụ công tác quản lý, hoạt động nghiệp vụ của hệ thống cơ quan nhà nước

trong đó có VKSND. Trong những năm qua, ngành kiểm sát nhân dân đã

được tăng cường đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin; xây dựng được Trung

tâm tích hợp dữ liệu với mạng LAN (mới được xây dựng kết nối ở VKSND

tối cao và VKSND cấp tỉnh) và một số phần mềm được triển khai trên phạm

vi toàn quốc (phần mềm thống kê tổng hợp; phần mềm Quản lý án hình sự;

phần mềm kế toán tài chính).

Tuy nhiên, theo đánh giá chung cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin trong

ngành Kiểm sát còn lạc hậu như, mạng LAN mới chỉ xây dựng ở VKSND tối

cao và VKSND cấp tỉnh (từ năm 2004, 2005 đến nay) nên đã xuống cấp;

106

VKSND cấp tỉnh chỉ có một máy chủ cấu hình thấp với hệ thống mạng 24 nút

đã hết hạn sử dụng chưa được thanh lý, thay thế; một số VKSND cấp tỉnh và

hầu hết VKSND cấp huyện chưa có đường truyền tốc độ cao; việc bảo mật

đường truyền, bảo mật dữ liệu chưa được triển khai; nhiều phần mềm ứng

dựng khác triển khai chậm.

VKSND tối cao đã phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin

trong ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm

2020 (Quyết định số 48/2009/QĐ-TTg ngày 31/3/2009 của Thủ tướng Chính

phủ “v/v phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động

của cơ quan nhà nước giai đoạn 2009-2010”; Quyết định số 1605/QĐ-TTg

ngày 27/8/2010 về “Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin

trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015”) với Tổng mức

đầu tư dự kiến 411 tỷ đồng, hiện nay đang được triển khai thực hiện.

Để bảo đảm cho ngành Kiểm sát thực hiện tốt chức năng THQCT, cần

phải tiếp tục “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin theo yêu cầu cải tư

pháp”. Cần phải xây dựng các giải pháp về phát triển công nghệ thông tin, thư

viện bao gồm: Đầu tư nâng cấp thư viện điện tử hiện có bảo đảm đáp ứng tốt

nhu cầu trao đổi và sử dụng thông tin cho đội ngũ cán bộ kiểm sát, KSV; tăng

cường đầu tư và đưa vào ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại để

khai thác có hiệu quả thư viện điện tử; In ấn, xây dựng và phát triển nguồn tài

liệu điện tử. Xây dựng, nâng cấp trang thông tin điện tử của nghành Kiểm sát

thành một cơ sở dữ liệu luật, diễn đàn trao đổi nghiệp vụ kiểm sát đáng tin cậy.

Xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông, Internet hiện đại. Ứng dụng triệt để công

nghệ thông tin vào quản lý, giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và sinh hoạt

nghiệp vụ của các đơn vị kiểm sát từ Trung ương đến cấp huyện. Hợp tác, liên

kết và chia sẻ nguồn thông tin với các cơ quan thông tin, thư viện và các cơ sở

nghiên cứu, đào tạo, thực hành pháp luật trong nước và trên thế giới.

107

Thứ hai, về cơ sở vật chất trang thiết bị cho hoạt động của VKS các cấp.

Báo cáo công tác của Viện trưởng VKSNDTC tại kỳ họp thứ hai, Quốc

hội khóa XIV, năm 2016 đã chỉ rõ:

- Đối với VKSND cấp tỉnh: Số đơn vị có trụ sở ổn định, cơ bản đáp

ứng được yêu cầu làm việc tạm thời (đầu tư từ năm 2005, diện tích làm việc

bình quân 8-12m2/01 người) có 49 đơn vị, chiếm 77%. Số đơn vị có trụ sở

xây đã lâu, nay đã xuống cấp, thiếu diện tích làm việc, cần đầu tư, sửa chữa

cải tạo mở rộng (xây dựng trước năm 2005) có 7 đơn vị, chiếm 11,1%. Số

đơn vị cần đầu tư xây dựng mới toàn bộ (xây dựng từ trước năm 2000, hiện

nay đã hư hỏng, xuống cấp, diện tích làm việc bình quân 3-4m2/01 người) có

7 đơn vị, chiếm 12,7%.

- Đối với VKSND cấp huyện: Tổng số đơn vị được đầu tư từ 2005-

2015, cơ bản đáp ứng được yêu cầu làm việc tạm thời (diện tích làm việc bình

quân 8-10m2/01 người) có 276 đơn vị chiếm 38,8%. Tổng số đơn vị xây dựng

năm 2000-2005, nay đã xuống cấp, thiếu diện tích làm việc, cần đầu tư sửa

chữa, cải tạo mở rộng có 274 đơn vị, chiếm 38,6%. Tổng số đơn vị cần đầu tư

xây dựng mới toàn bộ (xây dựng từ trước năm 2000, diện tích làm việc bình

quân 3-4m2/01 người) đã hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng, không bảo đảm

an toàn trong quá trình sử dụng có 137 đơn vị, chiếm 19,3%. Tổng số đơn vị

đang phải đi thuê trụ sở làm việc có 23 đơn vị, chiếm 3,2% [63].

Trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới,

Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu nhiệm vụ: Tăng cường đầu tư

cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành

nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp. Tăng cường đầu

tư cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ

thông tin, từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư pháp. Phấn đấu đến năm 2005

xây dựng đủ trụ sở và cơ sở làm việc của các cơ quan tư pháp từ Trung ương đến

108

cấp huyện; xây dựng, cải tạo, sửa chữa các nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam

bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Có chính sách tiền lương, phụ cấp và

chính sách đãi ngộ phù hợp cho cán bộ tư pháp [8].

Như vậy, việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác

tư pháp nói chung và công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp nói

riêng đã trở thành yêu cầu khách quan.

Hiện nay thực trạng cơ sở vật chất của các cơ quan tư pháp nói chung,

VKS các cấp nói riêng đang còn thiếu; cơ sở vật chất, điều kiện và phương

tiện làm việc phần lớn ở các địa phương còn thô sơ, lạc hậu. Khả năng ngân

sách nhà nước còn hạn hẹp, chưa bố trí đủ theo yêu cầu thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của ngành. Đáng chú ý là khi phân bổ ngân sách, cũng như khi quy

định tiêu chuẩn, định mức diện tích trụ sở làm việc, trang thiết bị phương tiện

làm việc, định mức chi tiêu ngân sách, Nhà nước vẫn coi ngành kiểm sát như

các ngành hành chính sự nghiệp khác. Theo số liệu quyết toán hàng năm thì

mức chi cho cán bộ, KSV còn rất thấp, mức chi cho công tác nghiệp vụ, mua

sắm, sửa chữa trụ sở... không đáp ứng nhu cầu. Trong khi đó khối lượng công

việc ngày càng tăng, nhất là trong lĩnh vực giải quyết án hình sự. Thực tế cho

thấy hoạt động phạm tội ở nước ta hiện nay diễn biến rất phức tạp trên nhiều

lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội; bọn tội phạm có xu hướng hoạt động

theo ổ nhóm, theo đường dây, hoạt động lưu động trên nhiều địa phương, tội

phạm xuyên quốc gia, tội phạm liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp... Trong

điều kiện phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật và công nghệ thông tin, bọn phạm

tội ngày càng sử dụng sâu rộng những thành tựu đó vào quá trình phạm tội

nên việc đấu tranh chống tội phạm cũng ngày càng trở nên khó khăn, phức tạp

hơn nhiều. Đặc biệt đáng lưu ý là tình trạng gia tăng của các loại tội phạm dẫn

đến quá tải trong việc giải quyết án do lực lượng biên chế còn mỏng đã hạn

chế hiệu quả công tác kiểm sát điều tra từ đầu.

109

Để khắc phục tình trạng yếu kém trong việc tổ chức thực hiện quyền

công tố trong TTHS cần phải nâng cao năng lực cho các cơ quan tư pháp về

nhiều mặt. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về

một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ:

"Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ

điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối với các

cán bộ tư pháp" [8]. Quán triệt tinh thần Nghị quyết này, Luật Tổ chức

VKSND năm 2014 đã có nhiều quy định mới để bảo đảm hoạt động của Viện

Kiểm sát. Nếu như trước đây, kinh phí hoạt động của ngành Kiểm sát nhân

dân do Chính phủ lập dự toán, thì nay Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã

quy định cho VKSND tối cao chủ động lập dự toán kinh phí hoạt động của

ngành; một trong những điểm đổi mới quan trọng là Luật mới còn quy định rõ

việc Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển công nghệ thông tin và các phương

tiện khác để đảm bảo cho ngành kiểm kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức

năng, nhiệm vụ của mình (Điều 49 Luật Tổ chức VKSND). Trên tinh thần

đó,VKSND tối cao cần chủ động đánh giá, thống kê rõ nhu cầu của việc cấp

kinh phí, trang thiết bị... cho các khâu công tác ở VKS mỗi cấp và của toàn

ngành nói chung để đề xuất với Chính phủ trình Quốc hội xem xét quyết định.

Theo chúng tôi, trước hết là chú trọng nâng cao năng lực về cơ sở vật chất và

phương tiện làm việc. VKS các cấp cần được trang bị máy vi tính để cập nhật,

lưu giữ và khai thác thông tin tội phạm, thực hiện tốt chế độ thông tin báo

cáo. Ngoài ra, các phương tiện thông tin liên lạc, phương tiện giao thông cũng

cần được sớm tăng cường, nhất là ở các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Đồng thời cần có chế độ, chính sách hợp lý cho đội ngũ cán bộ, KSV, nhất là

ở cấp huyện, khen thưởng xứng đáng đối với những cán bộ có thành tích,

chiến công trong đấu tranh, phòng chống tội phạm bảo vệ công lý.

110

Cải cách một bước cơ bản chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ,

KSV nhằm từng bước khắc phục sự bất cập về đời sống của cán bộ ngành

kiểm sát với các thành phần xã hội khác trong điều kiện cơ chế thị trường ở

nước ta hiện nay. Thực hiện có hiệu quả các biện pháp tăng cường nhân lực

và vật lực cho ngành kiểm sát là những bảo đảm hết sức quan trọng để VKS

các cấp THQCT có chất lượng trong ngành tình hình mới. Bên cạnh việc đầu

tư cơ sở vật chất, trang bị để bảo đảm nhu cầu cho hoạt động, ngành cần quan

tâm đầu tư các trang thiết bị khoa học công nghệ cao như các máy vi tính,

thiết bị phần mềm máy tính, thuê đường truyền ưu tiên... để bảo đảm hoạt

động quản lý trong nội bộ VKS các cấp cũng như để bảo đảm sự chỉ đạo

thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.

Các giải pháp đã nêu trên cần thực hiện đồng bộ, toàn diện và thống

nhất trong ngành Kiểm sát để đảm bảo cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ,

Kiểm sát viên “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật,

công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”, góp phần hoàn thiện cơ cấu

tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát nhân dân, nâng cao vi thế của

VKSND trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam.

111

KẾT LUẬN

Viện kiểm sát nhân dân có vị trí, vai trò rất quan trọng trong bộ máy

nhà nước ta. Các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp nhất là Nghị quyết

số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp

đến 2020; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về

Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020 đã chỉ rõ nhiều nội dung cụ thể về cải cách

tư pháp đòi hỏi phải được thể chế hoá, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ

chức và hoạt động của Viện kiểm sát. Quá trình tổng kết thực tiễn cho thấy

những quy định về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát đã bộc lộ những hạn

chế, bất cập cần phải được cải cách mạnh mẽ, toàn diện để đáp ứng yêu cầu đấu

tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình mới.

Trong thời gian qua, cơ quan Viện kiểm sát đã góp phần to lớn trong

công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện

gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong lý luận và thực tiễn làm ảnh hưởng

đến chất lượng và tổ chức hoạt động như do có nhiều quan điểm khác nhau về

quyền công tố, thực hành quyền công tố, tư pháp, cơ quan tư pháp, hoạt động

tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp; việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá

về quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát trên thế giới cũng như

ở Việt Nam chưa toàn diện và có hệ thống; thực hiện cải cách tư pháp diễn ra

chưa đồng bộ, còn chậm nên chất lượng và hiệu quả chưa cao...

Để khắc phục tình trạng trên, luận văn đã kết hợp hài hòa các phương

pháp nghiên cứu và tiếp thu những thành tựu khoa học của người đi trước,

phân tích, đánh giá các vấn đề lý luận và thực tiễn còn vướng mắc, còn nhiều

quan điểm khác nhau để làm luận cứ khoa học; nghiên cứu quá trình hình

thành và phát triển của các cơ quan Viện kiểm sát; thực trạng thi hành các quy

112

định của Hiến pháp năm 2013 về Viện kiểm sát từ đó đề ra phương hướng, đề

xuất hoàn thiện các quy định về Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt

Nam, cụ thể:

- Nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm

vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong Hiến pháp; nghiên cứu quá trình

hình thành và phát triển, tổ chức và hoạt động của cơ quan Viện kiểm sát ở

một số nước trên thế giới, ở Việt Nam nhằm đúc kết bài học kinh nghiệm, vận

dụng trong việc hoàn thiện chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp

Việt Nam

- Thông qua việc phân tích, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng

tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân từ Hiến pháp 2013 đặc biệt

là từ năm 2014 đến nay, chỉ ra những mặt đạt được, những tồn tại, thiếu sót và

nguyên nhân của nó.

- Trên những cơ sở lý luận, những kinh nghiệm rút ra của các nước trên

thế giới cũng như ở Việt Nam; những đánh giá về thực trạng của Viện kiểm

sát trong những năm qua; những yêu cầu đổi mới, những chủ trương của

Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp để từ đó hình thành nên những quan

điểm, xây dựng phương hướng và giải pháp thực hiện việc hoàn thiện tổ chức

và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam.

Trong phạm vi luận văn tác giả đã cố gắng nêu lên quá trình hình thành

và phát triển của Viện kiểm sát, làm sáng tỏ về mặt lý luận những vấn đề cơ

bản về vị trí, chức năng, của Viện kiểm sát kể từ khi thành lập trên cơ sở phân

tích, đối chiếu, so sánh những quy định về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát

một số nước trên thế giới qua đó chỉ rõ những hạn chế, bất cập của những quy

định về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, đưa ra những kiến nghị, đề

xuất về mặt lập pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát

theo yêu cầu cải cách tư pháp. Việc thực hiện những đề xuất, kiến nghị này là

113

kết quả tất yếu từ những tác động của chính yêu cầu của đời sống hiện thực ở

nước ta cũng như những tác động phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế

và khu vực hiện nay.

Do phạm vi đề tài nghiên cứu rộng lớn và phức tạp, do thời gian nghiên

cứu chưa nhiều nội dung luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết và

thiếu sót. Mặc dù vậy tác giả hy vọng được trao đổi những suy ngẫm, phân

tích của mình cũng như những đề xuất, kiến nghị với mong muốn góp phần

nhỏ vào việc xây dựng mô hình tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của

Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp.

114

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hòa Bình (2012), “Cơ sở lý luận, thực tiễn của việc sửa đổi, bổ

sung chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp 1992”, Tạp chí

Kiểm sát, Hà Nội.

2. Nguyễn Hòa Bình (2014), Viện kiểm sát nhân dân trong nhà nước pháp

quyền, Nxb. Tư pháp, Hà Nội

3. Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý, Từ điển luật học (2006), Nxb Từ

điển Bách khoa- Nxb Tư pháp.

4. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79/KL-TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính

trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, VKS và Cơ quan

điều tra theo Nghị quyết 49 - NQ/TW, Hà Nội

5. Lê Cảm (1999), Một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống tư pháp hình sự

trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Thuộc các chuyên đề lý

luận chuyên sâu về tư pháp hình sự, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội,

Hà nội.tr.35-36

6. Lê Cảm (2005), "Bàn về tổ chức quyền tư pháp - nội dung cơ bản của

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Kiểm sát, (23).

7. Lê Cảm (2015), “Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền”, Tòa án

nhân dân (19), Hà Nội

8. Nguyễn Đăng Dung (2002), Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy nhà

nước, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.

9. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08/2002/NQ-TW về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong tình hình mới, Hà Nội

10. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49/2005/TW ngày 2-6-2005

về chiến lược cải cách tư pháp đến nam 2020, Hà Nội.

115

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đảng lần thứ X, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết Trung ương 2 của Ban chấp

hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Hà Nội

13. Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách

tư pháp ở nước ta hiện nay", Nghiên cứu lập pháp., Hà Nội.

14. Lê Thị Tuyết Hoa (2001), “Bàn về quyền công tố”, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, (10), tr.62 – 67

15. Phạm Mạnh Hùng (2015), “Vấn đề kiểm soát việc thực hiện quyền tư

pháp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa

học Kiểm sát, số 3/2015.

16. Phạm Mạnh Hùng (2016), “Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014”, Bản tin Thông tin Khoa

học lập pháp, Số 02(25) năm 2016, Hà Nội

17. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận chung

về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

18. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà

nước, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

19. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Hiến pháp,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

20. Hoàng Thế Liên (Chủ biên) (2005), Về đổi mới tổ chức và hoạt động của

các cơ quan tư pháp ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

21. Hoàng Thế Liên (Chủ biên) (2014), Bình luận khoa học Hiến pháp hiện

hành (năm 2013), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

22. Uông Chu Lưu (Chủ nhiệm đề tài) (2006), Cải cách các cơ quan tư pháp,

hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực

xét xử của tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,

do dân, vì dân, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Hà Nội.

116

23. Hoàng Nghĩa Mai (2012), "Quan điểm chỉ đạo và phương hướng đổi mới

tổ chức, hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chíKiểm sát,.

24. Nguyễn Đức Mai (1999), Một số ý kiến về quyền công tố, Kỷ yếu đề tài

khoa học cấp bộ “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức

thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, VKSND tối

cao, Hà nội tr.75-80

25. Nguyễn Đức Mai (2007), "Tổ chức và hoạt động của Viện Công tố ở Việt

Nam trong giai đoạn cải cách tư pháp", Tạp chíNhà nước và pháp luật (8).

26. Khuất Văn Nga (2008), Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân

sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

27. Nguyễn Khánh Ngọc (2005), "Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt

Nam - những yêu cầu, thách thức đối với các cơ quan tư pháp và bảo vệ

pháp luật", Tạp chíTòa án nhân dân.

28. Trần Đình Nhã (2013), “Một số vấn đề về quyền tư pháp, hoạt động tư

pháp, cơ quan tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu

lập pháp

29. Võ Quang Nhạn (1984), “Bàn về quyền công tố”, Tạp chí kiểm sát, Hà

Nội

30. Đỗ Ngọc Quang (2002), "Bàn về các cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà

nước", Trong sách: Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ

XXI, Tập thể tác giả do Lê Cảm chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

31. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội

32. Quốc hội (1992), Bộ luật hình sự, Hà Nội

33. Quốc hội (2001), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội

34. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội

35. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội

117

36. Quốc hội (2011), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng

dân sự, Hà Nội

37. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội

38. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội

39. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội

40. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội

41. Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (2008), Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Nguyễn Đình Quyền, Nguyễn Tất Viễn (2018), Quyền tư pháp trong nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ lý luận đến thực tiễn, Nxb.

Tư pháp, Hà Nội

43. Nguyễn Thái Phúc (2007), VKS hay Viện công tố, Kỷ yếu đề tài khoa học

cấp bộ, Nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng

mô hình tổ chức và hoạt động Viện công tố ở Việt Nam theo yêu cầu cải

cách tư pháp, VKSND tối cao, Viện khoa học kiểm sát, Hà nội.tr.75-76

44. Thái Vĩnh Thắng (2006), Thể chế chính trị các nước Châu Âu, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

45. Thái Vĩnh Thắng (2008), "Viện Công tố thay thế Viện kiểm sát nhân dân

sẽ được tổ chức và hoạt động như thế nào", Tạp chíLuật học.

46. Lê Hữu Thể (chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt

động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội

47. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tuyển tập văn bản về hình sự, NXB. Sự

thật, Hà Nội

48. Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam

hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Đào Trí Úc (2006), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

118

50. Đào Trí Úc (2009), “Vị trí, vai trò, đặc trưng và các nguyên tắc của hoạt

động tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (2).

51. Đào Trí Úc (2012), “Chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp

Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát (11).

52. Viện hàn lâm khoa học xã hội Vịệt Nam (2013), Từ điển tiếng Việt, Nxb

từ điển bách khoa, Hà Nội.

53. Viện khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Chuyên

đề về cơ quan công tố một số nước, Thông tin khoa học kiểm sát, Hà Nội.

54. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Nghiên cứu những cơ sở lý luận và

thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của Viện Công

tố ở Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà

Nội.

55. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Công tố Việt Nam và một số nước

trên thế giới, Thông tin khoa học kiểm sát.

56. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Lịch sử Viện kiểm sát nhân dân

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

57. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Quy hoạch phát triển nhân lực

ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011 – 2020, Hà Nội

58. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Báo cáo tổng kết công tác của

ngành kiểm sát nhân dân năm 2014, Hà Nội

59. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết công tác của

ngành kiểm sát nhân dân năm 2015, Hà Nội

60. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Báo cáo tổng kết công tác của

ngành kiểm sát nhân dân năm 2016, Hà Nội

61. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Báo cáo tổng kết công tác của

ngành kiểm sát nhân dân năm 2017, Hà Nội

119

62. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết công tác của

ngành kiểm sát nhân dân năm 2018, Hà Nội

63. VKSND tối cao (2016), Báo cáo công tác của Viện trưởng VKSND tối

cao tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khóa 14, Hà Nội

64. VKSND tối cao (2017), Báo cáo về tình hình biên chế và tổ chức cán bộ

ngành kiểm sát trình Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa 14, Hà Nội

65. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết 05 năm thi hành

Luật tổ chức VKSND 2014, Hà Nội

66. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018),Thông báo số529/TB-VKSTC của

VKSND tối cao ngày 7/11/2018 về Thông báoKinh nghiệm và rút kinh

nghiệm về công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối

với bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn

nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo

quy định của pháp luật, Hà Nội

67. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1992), Tập Sắc lệnh do

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký về Nhà nước và pháp luật, Tờ trình dự án Sắc

lệnh cải cách bộ máy tư pháp và Luật tố tụng, Hà Nội.

68. Nguyễn Văn Yểu - Lê Hữu Nghĩa (2006), Xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

120