ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRẦN THÚY HƯƠNG
ĐỜI SỐNG KINH TẾ VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN
PHƯỜNG TRÀ CỔ THÀNH PHỐ MÓNG CÁI
TỈNH QUẢNG NINH
(1998 - 2018)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRẦN THÚY HƯƠNG
ĐỜI SỐNG KINH TẾ VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN
PHƯỜNG TRÀ CỔ THÀNH PHỐ MÓNG CÁI
TỈNH QUẢNG NINH
(1998 - 2018)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 8.22.90.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Quế Loan
THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn
đầy đủ theo đúng quy định.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn
Trần Thúy Hương
Xác nhận của Xác nhận của
Khoa chuyên môn người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Hà Thị Thu Thủy PGS.TS Nguyễn Thị Quế Loan
i
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong khoa
Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, những người đã giảng dạy và giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thiện đề tài. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Quế Loan - người đã trực tiếp hướng dẫn, định hướng
chuyên môn, quan tâm giúp đỡ tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong
quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, các vị lãnh đạo và
bà con nhân dân của phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái đã cung cấp tư liệu, tạo điều
kiện cho tôi hoàn thành luận văn.
Xin bày tỏ lòng biết ơn Ban Giám hiệu Trường THPT Quảng Hà - nơi tôi đang
công tác, các đồng nghiệp, bạn bè và những người thân yêu trong gia đình đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Luận văn này là kết quả bước đầu của quá trình nghiên cứu khoa học, song do
điều kiện năng lực và thời gian còn hạn chế, đề tài không tránh khỏi những sơ suất,
thiếu sót. Tác giả mong được sự đóng góp, bổ sung của các thầy cô và các bạn để công
trình thêm hoàn thiện.
Tác giả luận văn
Trần Thúy Hương
ii
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan ................................................................................................................. i
Lời cảm ơn ................................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
Danh mục các chữ viết tắt ............................................................................................. v
Danh mục các bảng ...................................................................................................... vi
Danh mục các biểu đồ ................................................................................................. vii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 8
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 9
6. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 10
7. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 10
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ PHƯỜNG TRÀ CỔ, THÀNH PHỐ MÓNG CÁI,
TỈNH QUẢNG NINH ..................................................................................... 12
1.1. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành ................................................................. 12
1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ................................................. 15
1.3. Dân cư và truyền thống cách mạng............................................................... 19
1.4. Đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân phường Trà Cổ trước năm 1998 ............ 22
Chương 2. ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA CƯ DÂN PHƯỜNG TRÀ CỔ (1998 - 2018) .. 29
2.1. Kinh tế ngư nghiệp ..................................................................................... 30
2.1.1. Hoạt động khai thác thủy hải sản ............................................................... 30
2.1.2. Hoạt động nuôi trồng thủy hải sản ............................................................. 35
2.2. Kinh tế du lịch - dịch vụ .............................................................................. 38
2.3. Kinh tế nông nghiệp ................................................................................... 49
iii
Chương 3. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN PHƯỜNG TRÀ CỔ (1998 - 2018) . 55
3.1. Văn hóa vật chất ......................................................................................... 55
3.2. Văn hóa tinh thần ....................................................................................... 60
3.2.1. Phong tục, tập quán .................................................................................. 60
3.2.2. Lễ hội ..................................................................................................... 68
3.2.3. Tín ngưỡng, tôn giáo ................................................................................ 79
3.3. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ............................... 82
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 91
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 95
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Những chữ viết tắt Diễn giải
BCH : Ban chấp hành
BQL : Ban quản lý
CSHT : Cơ sở hạ tầng
ĐVT : Đơn vị tính
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
GTVT : Giao thông vận tải
HĐND : Hội đồng nhân dân
Ha : Hecta
Nxb : Nhà xuất bản
Tr : Trang
UBND : Ủy ban nhân dân
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Sản lượng và bình quân lương thực đầu người ở Trà Cổ ........................ 27
Bảng 2.1. Thống kê số liệu khai thác thủy sản tại phường Trà Cổ (1998 - 2018) ..... 31
Bảng 2.2. Những ngư cụ chủ yếu của ngư dân Trà Cổ hiện nay ............................. 33
Bảng 2.3. Số lượng khách và doanh thu từ du lịch của phường Trà Cổ từ năm 1998
đến năm 2018 .................................................................................................. 39
Bảng 2.4. Thu nhập của 20 hộ gia đình kinh doanh dịch vụ du lịch tại Trà Cổ ........ 44
Bảng 2.5. Giá trị sản xuất nông nghiệp của Trà Cổ (2009 - 2015) .......................... 50
Bảng 2.6. Phương tiện phục vụ đời sống trong gia đình ở Trà Cổ (2018) ................ 53
Bảng 3.1. Những lễ hội chính được tổ chức tại phường Trà Cổ ............................. 68
vi
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 1.1. Diện tích các loại đất của phường Trà Cổ ......................................... 16
Biểu đồ 1.2. Dân số phường Trà Cổ các năm 1998, 2008, 2018 ............................. 19
Biểu đồ 2.1. Số hộ gia đình chuyên canh nuôi trồng thủy sản ở Trà Cổ .................. 36
Biểu đồ 2.2. Diện tích và sản lượng nuôi trồng thủy sản ở Trà Cổ ......................... 36
Biểu đồ 2.3. Thị phần khách du lịch chia theo quốc tịch đến Trà Cổ ...................... 44
Biểu đồ 2.4. Sản lượng lương thực bình quân đầu người của phường Trà Cổ .......... 51
vii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi viết về chủ nghĩa duy vật biện chứng, Ph.Ăngghen đã nhận định: “Con
người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa
học, nghệ thuật, tôn giáo…” [6, tr.499 - 450]. Luận điểm này thực sự có giá trị lý luận
khoa học cho sự phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và mỗi quốc gia nói riêng.
Đó chính là quy luật phát triển của tất yếu của loài người: Cơ sở vật chất của đời sống
xã hội sẽ quyết định đặc thù của thượng tầng kiến trúc. Đó cũng là một lôgíc đơn giản
có ý nghĩa biện chứng giữa vật chất và ý thức nói chung cũng như mối quan hệ giữa
kinh tế và văn hóa nói riêng. Chính vì lẽ đó mà các thể chế nhà nước, các quan điểm
pháp quyền đã cố gắng thúc đẩy quan hệ giữa kinh tế và văn hóa nhằm đáp ứng các
nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng cao của con người. Vấn đề kinh tế, văn hóa vì
thế mà thu hút được quan tâm của nhiều nhà khoa học trên thế giới.
Trong đời sống của các cộng đồng cư dân, kinh tế và văn hóa là lĩnh vực hoạt
động mang tính thiết yếu, gắn liền với nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Ở
mỗi giai đoạn, hoạt động kinh tế và văn hóa thường có tác động qua lại và ảnh hưởng
lẫn nhau. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, mục tiêu nâng cao các giá trị văn hóa
cũng được đặt ra. Do vậy, nghiên cứu kinh tế, văn hóa của các cộng đồng cư dân từng
khu vực cụ thể là một việc làm cần thiết nhằm đem lại những hiểu biết chính xác và
toàn diện hơn về lịch sử địa phương cũng như lịch sử dân tộc. Bởi lẽ, lịch sử địa phương
ngoài những đặc điểm chung mang tính quy luật của lịch sử dân tộc còn có những nét
đặc thù. Đó là một thực tế khách quan phản ánh điều kiện môi trường lịch sử cụ thể với
những mối quan hệ cụ thể trên một lãnh thổ cụ thể.
Những thập niên gần đây, một trong những đặc trưng và xu thế của các quan hệ
kinh tế quốc tế có liên quan đến phát triển các vùng ven biển. Vì lẽ đó, trong công cuộc
xây dựng đất nước, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc phát triển kinh tế,
văn hóa ở các địa phương duyên hải, bởi việc xây dựng và triển khai chính sách đối
với vùng ven biển và hải đảo có ý nghĩa chiến lược đối với việc bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia. Tuy vậy, cho đến nay chúng ta vẫn chưa tận dụng và phát huy hết các lợi
thế về khai thác các nguồn lợi tài nguyên của mình. Việc nghiên cứu địa hình, khí hậu,
môi trường sinh thái, đời sống kinh tế, phong tục, tập quán...của cư dân ven biển không
chỉ giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế, văn hóa và bảo vệ môi trường,
1
giữa phát triển kinh tế và chủ quyền, an ninh quốc gia mà còn tạo điều kiện cho kinh
tế phát triển từ đất liền vươn ra ngoài khơi.
Nằm ở vị trí tiền tiêu vùng Đông Bắc của Tổ quốc, có chung đường biên giới
trên biển với Trung Quốc, phường Trà Cổ là một bán đảo có vị trí địa - chiến lược quan
trọng. Trải qua bao thăng trầm cùng dân tộc, nơi đây điểm đầu Sa Vĩ vẫn hiên ngang
như một minh chứng trường tồn trước thời gian:
“Hùng vĩ thay toàn thân đất nước,
Tựa Trường Sơn vươn tới Trường Sa.
Từ Trà Cổ rừng dương tới Cà Mau rừng đước,
Đỏ bình minh mặt sóng khơi xa...” [40; tr.132]
Với vị trí đó, Trà Cổ cần phải được tạo điều kiện phát triển mạnh về kinh tế, giữ
vững bản sắc về văn hóa. Nhận thức được tầm quan trọng đó, ngày 20/7/1998, Chính
phủ đã thành lập phường Trà Cổ, trực thuộc thành phố Móng Cái. Trải qua 20 năm
phát triển (1998 - 2018), kinh tế và văn hóa của Trà Cổ đã có những chuyển biến, góp
phần làm thay đổi bộ mặt địa phương và cuộc sống của nhân dân. Từ một làng vạn chài
nghèo, sống nhờ vào nguồn hải sản tự nhiên đánh bắt ở biển, đến nay Trà Cổ đã xây
dựng được nền kinh tế phát triển với cơ cấu: Du lịch - dịch vụ, ngư nghiệp, nông - lâm
nghiệp, trong đó du lịch - dịch vụ là ngành kinh tế mũi nhọn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, địa phương cũng còn bộc lộ
những tồn tại, bất cập cần phải được giải quyết. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay làm
thế nào để vừa thúc đẩy sự phát triển toàn diện của kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân, đồng thời giữ được những nét đặc trưng độc đáo về
văn hoá của cư dân vùng Trà Cổ trước xu thế bị phá vỡ, nguy cơ đánh mất bản sắc,
đánh mất truyền thống, ảnh hưởng văn hoá ngoại lai, xa rời văn hoá truyền thống? Điều
này một phần có sự đóng góp của công tác nghiên cứu, điều tra, đánh giá tổng hợp kinh
tế, văn hóa của địa phương nhằm xây dựng cơ sở khoa học cho việc đề xuất những giải
pháp, mô hình phát triển bền vững về kinh tế, mang bản sắc văn hóa đặc trưng cho
phường Trà Cổ.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Đời sống kinh tế, văn hóa của cư
dân phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh (1998 - 2018)” làm luận
văn thạc sĩ với hy vọng việc nghiên cứu đề tài không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, mà
còn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn của phường Trà Cổ.
2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trà Cổ là vùng đất mang những đặc trưng riêng về địa lý, tự nhiên, văn hóa. Thế
nhưng, những nghiên cứu về Trà Cổ giai đoạn 1998 - 2018 còn là một khoảng trống.
Để thực hiện luận văn, tác giả đã kế thừa kết quả nghiên cứu liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp đến đề tài, cụ thể như sau:
Năm 1983, tác giả Lê Ngọc Thắng, Đào Bá Dậu trong nghiên cứu “Đôi nét về
làng biển ở nước ta” đã khái quát những nét tiêu biểu nhất của cư dân một số làng ven
biển Việt Nam về đặc điểm kinh tế, phong tục, tập quán, tín ngưỡng [13].
Trong bài “Vài nét về đời sống của ngư dân vùng biển Đông Bắc Việt Nam”
(năm 1985), tác giả Diệp Trung Bình đã nghiên cứu về sinh hoạt sinh kế và đời sống
văn hóa, xã hội của ngư dân ở khu vực vùng Đông Bắc Việt Nam. Tác giả đã chỉ ra
mối quan hệ về gia đình, dòng họ và ảnh hưởng trực tiếp của các mối quan hệ này đến
đời sống ngư dân ở vùng Đông Bắc Việt Nam [5].
Tác giả Nguyễn Khắc Sử đã chỉ rõ vai trò, vị trí của biển với cư dân tiền sử vùng
Đông Bắc Việt Nam trong nghiên cứu “Biển với cư dân tiền sử vùng Đông Bắc” (năm
1995). Ông nhận định: Có thể xem vùng biển Đông Bắc Việt Nam là vùng văn hóa
biển đậm nét nhất trong các nền văn hóa tiền sử nước ta [36].
Công trình “Biển với người Việt cổ” (năm 1996) [14] của Viện nghiên cứu Đông
Nam Á, nghiên cứu về người Việt cổ với việc khai thác tài nguyên sinh vật biển. Những
kết quả nghiên cứu của công trình đã cung cấp cái nhìn lịch đại để nhận thấy người
Việt thời tiền, sơ sử cho đến thời kỳ độc lập tự chủ và kể cả ngày nay luôn có mối quan
hệ khăng khít không tách rời biển. Vì vậy, mối quan hệ giữa người Việt với biển được
xem như là một tất yếu, khi mà đất nước Việt Nam có chiều dài bờ biển lên tới 3.260km,
các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ trong
đất liền, lại nằm trên trục đường giao thông của ngã ba Đông Nam Á, thuộc khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương, một vị trí chiến lược quan trọng cho sự phát triển kinh tế
- chính trị - quân sự - văn hoá - xã hội.
Công trình “Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam” (2002) của tác giả Nguyễn Duy
Thiệu đã nghiên cứu tương đối toàn diện và sâu các mặt đời sống của cộng đồng ngư
dân, về cơ cấu tổ chức xã hội và các phương thức, ngư cụ đánh bắt truyền thống. Tác
giả đã giới thiệu ba tín ngưỡng có tính đại diện của ngư dân: thờ cá Ông, thờ Mẫu và
3
thờ Thánh. Công trình là tư liệu tham khảo quan trọng để chúng tôi tiếp cận đời sống
tín ngưỡng của cư dân Trà Cổ [37].
Tác giả Lê Hồng Lý có bài “Đôi nét về văn hoá dân gian ven biển trong nền
kinh tế thị trường” [28]. Trong bài viết của mình, tác giả đã khẳng định: Biển luôn ở
cạnh người Việt, nhưng hình như nó không được người Việt chú ý đến và việc khai
thác biển của người Việt chủ yếu là khai thác ven bờ và vùng nước lợ. Tác giả đã giới
thiệu một số sinh hoạt văn hóa tiêu biểu của các cộng đồng cư dân ven biển nước ta
như: lễ hội cá Ông, lễ hội thờ Thành Hoàng làng, tín ngưỡng thờ tổ tiên, phong tục
thuyền mới. Đặc biệt, tác giả đề cập đến những tác động của kinh tế thị trường, làm
cho bộ mặt đời sống và nhiều yếu tố văn hóa của cư dân ven biển có nhiều thay đổi.
Năm 2010, tác giả Nguyễn Thị Hải Lê trong bài nghiên cứu “Đặc trưng văn hóa
biển của người Việt” đã phân tích khá rõ đặc trưng cơ bản về văn hóa biển của người
Việt là: Yếu tố biển xen lẫn yếu tố nông nghiệp - đồng bằng và luôn tồn tại những cặp
đối lập, song hành; Truyền thống biển trong văn hóa của người Việt là truyền thống
biển cận duyên; Xét theo trục không gian, chất biển từ nhạt ở miền Bắc, đậm hơn ở
miền Trung và lại ít đi khi vào Nam Bộ, theo trục thời gian, chất biển ngày càng đậm
đặc theo tiến trình lịch sử; Đã tiếp thu truyền thống biển của các dân tộc khác trong
quá trình tiếp xúc và giao lưu. Những luận điểm này của Nguyễn Thị Hải Lê là tư liệu
tham khảo quan trọng để chúng tôi xem xét yếu tố môi trường tác động đến đời sống
kinh tế, văn hóa cư dân Trà Cổ [27].
Tác giả Trần Thị Mai An viết bài “Phác thảo yếu tố biển trong văn hóa Việt
Nam” (2010) [1], bên cạnh hệ thống hóa các vấn đề về văn hóa biển, nguồn gốc của
văn hóa biển, phân tích các yếu tố biển trong tri thức dân gian người Việt, tác giả cũng
đi sâu vào làm rõ các hoạt động kinh tế sơ khai trên biển.
Năm 2012, Lê Thanh Tùng hoàn thành luận án tiến sĩ “Lễ hội cổ truyền của cư
dân ven biển Hải Phòng và sự biến đổi trong giai đoạn hiện nay”. Trong luận án, tác
giả đã nghiên cứu về đặc điểm lễ hội truyền thống của cư dân ven biển Hải Phòng,
đồng thời so sánh để thấy những biến đổi trong giai đoạn hiện nay. Những nhận định
trong nghiên cứu của Lê Thanh Tùng là tài liệu quan trọng để tác giả luận văn có cơ sở
khi xem xét về nguồn gốc của cư dân Trà Cổ khi đối sánh những nét tiêu biểu trong
văn hóa biển ở Hải Phòng với vùng ven biển Trà Cổ [43].
4
Những công trình nghiên cứu về tỉnh Quảng Ninh liên quan đến luận văn mà
tác giả đã tiếp thu được như:
Năm 1996, tác giả Điền Nam - Trần Nhuận Minh có bài “Những lễ hội độc đáo
ở tỉnh Quảng Ninh” đăng trên Tạp chí Văn hoá dân gian đã giới thiệu khá chi tiết về 3
lễ hội truyền thống của Quảng Ninh: Lễ hội làng Quan Lạn (Vân Đồn), lễ hội Tiên
Công thuộc 7 xã vùng nam sông Bạch Đằng, hội hái hoa trong lễ cưới. Bài viết đi sâu
giới thiệu những nét độc đáo, màu sắc riêng biệt của các lễ hội kể trên [29].
Năm 1998, Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Quảng Ninh cho xuất bản cuốn “Quảng
Ninh đất và người”. Công trình đã cung cấp một cái nhìn mang tính hệ thống về lịch
sử, văn hóa đất và người Quảng Ninh, cũng như nhận định rõ hơn những tiềm năng,
triển vọng trong đầu tư, phát triển kinh tế tại tỉnh Quảng Ninh [3].
Công trình “Văn hóa dân gian làng Vân” (2002) trên đảo Quan Lạn, huyện Vân
Đồn của tác giả Nguyễn Quang Vinh đã nghiên cứu về lịch sử, vị thế và cư dân vùng
văn hóa làng Vân - một làng quê lâu đời trên đảo. Cuốn sách đề cập đến cuộc sống lao
động, các ngành nghề, một số phong tục, tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, đình chùa,
nghè, miếu và lễ hội thơ ca, hò vè ở làng Vân [45].
Năm 2003, Sở văn hóa và thông tin tỉnh Quảng Ninh đã cho xuất bản cuốn “Lý
lịch di tích kiến trúc nghệ thuật đình Trà Cổ”. Bên cạnh làm rõ quá trình hình thành
của đình Trà Cổ, tài liệu cũng đã cung cấp cho người đọc những nét đặc trưng về kiến
trúc mang đậm nét văn hoá cổ truyền của người Việt. Ngoài ra, tài liệu cũng giới thiệu
khái quát về nét độc đáo của lễ rước thần trên biển và hội thi “Ông voi” [34].
Năm 2003, Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh xuất bản bộ sách “Địa
chí Quảng Ninh” gồm 3 tập đã cung cấp một cách tổng hợp, khái quát về vị trí địa lý -
lịch sử, kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội của tỉnh Quảng Ninh. Bộ sách sách làm rõ
những nét cơ bản về đất đai, địa hình, sông núi, khí hậu, con người, truyền thống lịch
sử, quá trình phát triển kinh tế, văn hoá, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, luật
lệ, hệ thống chính trị, an ninh, quốc phòng…và các mối liên hệ gắn bó giữa các lĩnh
vực đó trên nền địa lý tỉnh Quảng Ninh. Bộ sách cung cấp những tư liệu khái quát về
địa phương mà mình nghiên cứu [40 - 42].
Kỷ niệm 40 năm ngày thành lập tỉnh Quảng Ninh (30/10/1963-30/10/2003), Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ninh cho xuất bản cuốn “Quảng Ninh 40 năm xây dựng và
5
phát triển”. Cuốn sách giới thiệu khái quát về đặc điểm địa lý, kinh tế, tiềm năng và
truyền thống cách mạng của xứ mỏ. Công trình đã nhìn lại quá trình 40 năm xây dựng
và phát triển, cùng cả nước thực hiện đổi mới, vượt qua không ít khó khăn, thách thức
để đạt được những thành tựu to lớn. Trong dòng chảy lịch sử ấy, nhiều kinh nghiệm
quý giá về xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội được đúc kết. Công trình là tư liệu quan
trọng để tác giả luận văn tham khảo khi viết về những chuyển biến về kinh tế của cư
dân phường Trà Cổ đặt trong bối cảnh chung của tỉnh Quảng Ninh [4].
Tác giả Nguyễn Quang Vinh trong công trình “Văn hóa ẩm thực Quảng Ninh”
(2006) đã nghiên cứu về những món ăn truyền thống, phong phú của tỉnh Quảng Ninh.
Mặc dù có điểm tương đồng trong nguồn nguyên liệu, tên gọi món ăn với các cư dân
vùng ven biển khác, song trong cách chế biến của cư dân Quảng Ninh có nét riêng biệt,
mang đặc trưng của vùng mình. Vì vậy, nên những món ăn này rất cần được khai khác,
phát triển để góp phần thúc đẩy du lịch và tạo dựng thương hiệu cho Quảng Ninh [46].
Tác giả Đàm Thị Uyên, Nguyễn Thanh Thủy có bài “Tục thờ cúng trong đời
sống tâm linh của ngư dân đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh” (2009)
đăng trên tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á [39]. Các tác giả đã nghiên cứu phong tục
thờ cúng khá phong phú của cư dân đảo Quan Lạn vào các dịp lễ hội trong năm. Bài
viết là tư liệu để tác giả tham khảo so sánh viết về tục thờ cúng ở Trà Cổ.
Năm 2011, BCH Đảng bộ phường Trà Cổ xuất bản cuốn “Lịch sử cách mạng
của Đảng bộ và nhân dân phường Trà Cổ (1958 - 2008)”. Công trình đã ghi lại truyền
thống lịch sử quý báu của địa phương, những sự kiện lịch sử, những thành tựu nổi bật
và những hạn chế trong quá trình chỉ đạo của Đảng bộ trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, trong lao động sản xuất ở Trà Cổ giai đoạn 1958 - 2008 [2].
Luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Văn Vinh về “Xây dựng đời sống văn hóa
ở huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh” (2013). Bên cạnh việc khái quát những vấn đề
cơ bản về văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa và đặc điểm của địa phương, tác giả đã
phân tích sâu về thực trạng, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân trong việc xây dựng
đời sống văn hóa trên toàn địa bàn huyện [47]. Cùng với lĩnh vực nghiên cứu về đời
sống văn hóa còn có luận văn của tác giả Phạm Thị Thúy Nga về “Xây dựng đời sống
văn hóa tại xã Vạn Ninh, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh” (2014). Luận văn đã
khái quát những vấn đề cơ bản về xây dựng đời sống văn hóa và thiết chế văn hóa ở cơ
6
sở. Tác giả cũng phân tích thực trạng và đưa ra một số nhóm giải pháp về xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở tại xã Vạn Ninh, thành phố Móng Cái [30].
Tác giả Nguyễn Thị Phương Thảo (2016) với công trình “Văn hóa vùng biển
đảo Quảng Ninh qua các lễ hội truyền thống” đã nghiên cứu khá tỉ mỉ về hệ thống
các di tích lịch sử - văn hóa trên đảo Quan Lạn và lễ hội đua thuyền tại Vân Đồn.
Tác giả đã nêu ra được một số đặc trưng cơ bản của người dân vùng biển nơi đây,
đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa.
Bên cạnh các công trình và bài viết kể trên, một số công trình nghiên cứu,
tập san, bài viết, báo cáo của các phòng, ban cũng đề cập đến hoạt động kinh tế, văn
hóa trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh như: Tác giả Hồng Hải với công trình “Quảng
Ninh tiềm năng và triển vọng” (1991); “Báo cáo kết quả dự án sưu tầm lễ hội đình
Trà Cổ” (2005) do Sở Văn hóa Thông tin Quảng Ninh phát hành; Vũ Trọng Hoàng
với công trình “Quảng Ninh trên đường hội nhập” (2011); Từ Thị Loan với công
trình “Ca dao, dân ca vùng mỏ và vùng biển Quảng Ninh” (2013). Tác giả Nguyễn
Thị Phương Thảo với một loạt bài nghiên cứu về lễ hội tại Quảng Ninh như “Mối
tương quan giữa các lễ hội ven biển quảng ninh với các lễ hội vùng duyên hải bắc
bộ” (2014), “Những đặc trưng của lễ hội truyền thống ven biển Quảng Ninh”
(2014), “Nhận diện lễ hội truyền thống ven biển Quảng Ninh” (2014) đã đề cập đến
những phương diện về đời sống vật chất và văn hóa của cư dân vùng biển Quảng
Ninh nói chung, trong đó có liên quan đến mức độ nhất định đến địa danh Trà Cổ
nói riêng.
Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về cư dân ở biển đảo
nói chung, về kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh Quảng Ninh hoặc các hoạt động
kinh tế và một số nét sinh hoạt phong tục, tập quán, lễ hội của cư dân ven biển
Quảng Ninh song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về kinh
tế, văn hóa phường Trà Cổ từ năm 1998 đến năm 2018. Do đó, việc nghiên cứu có
hệ thống đời sống kinh tế, văn hoá của cư dân Trà Cổ trong 20 năm (1998 - 2018),
nhận diện được những nét đặc trưng, xu hướng biến đổi là những vấn đề cấp thiết,
có ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
7
Luận văn tập trung nghiên cứu về đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân phường
Trà Cổ, thành phố Móng Cái (1998 - 2018).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 1998 đến năm
2018. Sở dĩ lấy thời gian từ năm 1998 là do sự kiện ngày 20/07/1998, Chính phủ ban
hành Nghị định 52/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh
(trên cơ sở diện tích, dân sô huyện Hải Ninh) và thành lập các phường, xã thuộc thị xã.
Theo đó, xã Trà Cổ được đổi thành phường Trà Cổ và chính thức hoạt động theo đơn
vị hành chính mới, từ đây mở ra một thời kì mới với những chuyển biến mạnh mẽ về
kinh tế - xã hội trong lịch sử phát triển của địa phương.
- Về không gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu hoạt động kinh tế, văn hóa của cư
dân ở phường Trà Cổ. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ đề cập đến một
số địa phương để tìm ra những nét tương đồng và khác biệt với đời sống kinh tế, văn
hóa của cư dân Trà Cổ.
- Về nội dung nghiên cứu: Tác giả tập trung nghiên cứu về hoạt động du lịch -
dịch vụ, ngư nghiệp, nông nghiệp của cư dân phường Trà Cổ. Về đời sống văn hóa, tác
giả nghiên cứu về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân Trà Cổ.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tổng thể về kinh tế, văn hóa phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái
trong 20 năm (1998 - 2018). Trên cơ sở đó đề xuất kiến nghị nhằm thúc đẩy hơn nữa
phát triển kinh tế - xã hội của Trà Cổ nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích trên, tác giả sẽ thực hiện nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, khái quát về phường Trà Cổ.
Thứ hai, nghiên cứu các hoạt động kinh tế, văn hóa của cư dân phường Trà Cổ
trong giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2018
Thứ ba, từ kết quả nghiên cứu, đề tài rút ra đặc điểm riêng về tình hình kinh tế,
văn hóa của cư dân phường Trà Cổ trong giai đoạn 1998 - 2018. Trên cơ sở đó, đề tài
8
đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế, văn hóa của Phường phát triển bền
vững hơn nữa trong giai đoạn.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của các cấp
ủy Đảng, Nhà nước, báo cáo của UBND phường Trà Cổ về phát triển kinh tế, văn hóa
cho nhân dân địa phương trong khoảng thời gian mà luận văn đề cập. Những số liệu
thống kê của các sở, ban, ngành như niên giám thống kê của tỉnh Quảng Ninh, Chi cục
Thống kê thành phố Móng Cái, báo cáo của Ban Quản lý các di tích, cũng được chúng
tôi tập hợp, xử lý.
Tác giả luận văn tham khảo các cuốn lịch sử địa phương, công trình nghiên cứu
của các học giả đã công bố thành sách, các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, luận
án tiến sĩ, các báo cáo trong các hội thảo, chuyên đề có đề cập đến khía cạnh tiếp cận
của đề tài.
Cùng với các nguồn tài liệu thành văn nói trên, tác giả luận văn còn sử dụng một
số tài liệu thu thập được qua các đợt điền dã thực tế tại phường Trà Cổ thông qua quan
sát địa hình, cảnh quan, đời sống, văn hóa, xã hội…của nhân dân địa phương; sử dụng
phiếu điều tra thu thập thông tin; chụp ảnh tư liệu... để có sự nhìn nhận thực tế, đánh giá
khách quan những kết quả đạt được và chưa đạt được về kinh tế, văn hóa tại địa phương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nguồn tư liệu đã được sưu tầm, chọn lọc và xác minh, chúng tôi sử
dụng hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Với
phương pháp lịch sử, chúng tôi cố gắng khôi phục lại bức tranh chân thực, sinh động
theo đúng trình tự thời gian với những sự kiện, những con số cụ thể phản ánh trung
thực về đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân phường Trà Cổ từ 1998 đến 2018.
Phương pháp lôgic được sử dụng để phân tích, đánh giá, khái quát, rút ra đặc trưng về
những nội dung đề tài nghiên cứu.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp điền dã dân tộc học để quan
sát, khảo tả một cách chân thực bức tranh kinh đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân
Trà Cổ. Bên cạnh đó, việc quan sát phỏng vấn, trao đổi ý kiến để thu thập thông tin về
những vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân trên bán đảo cũng
9
được thực hiện. Phương pháp phân tích tổng hợp được dùng để nhận thức sâu đối tượng
nghiên cứu. Phương pháp so sánh để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa kinh tế,
văn hóa của Trà Cổ với các địa phương khác.
6. Đóng góp của đề tài
Về khoa học: Đề tài là công trình nghiên cứu toàn diện, giúp người đọc có cái
nhìn tổng thể về tình hình kinh tế - văn hóa phường Trà Cổ giai đoạn 1998 - 2018. Từ
thực tiễn nghiên cứu, tác giả luận văn chỉ ra những điểm mạnh, khó khăn, bất cập trong
quá trình phát triển kinh tế - văn hóa ở một địa phương ven biển.
Về thực tiễn: Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả tập hợp, xử lý nguồn
tư liệu có liên quan đến đề tài. Hy vọng đây sẽ là một đóng góp nhỏ về mặt tư liệu phục
vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy về lịch sử địa phương, về văn hóa vùng hoặc địa chí
văn hóa. Kết quả của luận văn có thể gợi mở cho các cơ quan quản lý có cách nhìn thấu
đáo về chuyển biến kinh tế, văn hóa tại địa phương để có những điều chỉnh chính sách
phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng đời sống cho nhân dân.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
luận văn được trình bày trong 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát về phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
Chương 2: Đời sống kinh tế của cư dân phường Trà Cổ (1998 - 2018).
Chương 3: Đời sống văn hóa của cư dân phường Trà Cổ (1998 - 2018).
10
Hình: Bản đồ các đơn vị hành chính của thành phố Móng Cái (Nguồn: https://mongcai.gov.vn)
11
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ PHƯỜNG TRÀ CỔ
THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH
1.1. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành
Phường Trà Cổ là điểm cực Đông Bắc của Tổ quốc (mũi Gót hay mũi Sa Vĩ), là
nơi đặt nét vẽ đầu tiên về đất liền trên bản đồ Việt Nam. Phía Bắc của phường Trà Cổ
giáp phường Hải Hòa; phía Nam giáp biển Đông; phía Tây giáp phường Bình Ngọc;
phía Đông giáp Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, phân định biên giới Việt Nam - Trung
Quốc bằng cột mốc 1377, 1378. Đây là một phường biên giới, có đường biên giới biển
giáp với Trung Quốc dài 7,5km. Vị trí của phường khoảng 21°25’ Bắc, 108°00’ Đông.
Phường nằm về phía Đông Nam của thành phố Móng Cái, cách trung tâm thành phố
8km, cách Hà Nội 334km, từ Hạ Long ra Trà Cổ khoảng 132 km.
Mặc dù có một phần không gian địa lý tự nhiên gắn với “đất liền” nhưng nhìn
một cách tổng quan, Trà Cổ là một bán đảo mà bao quanh là bờ biển dài, được bồi tụ
do sóng và dòng biển ven bờ tạo nên, có nước thủy triều lên xuống. Trước kia từ Móng
Cái ra Trà Cổ phải vượt qua một đầm lầy như một eo biển nhỏ, tục gọi là sông Trà Cổ
nên địa thế khu vực gần như một hải đảo. Một con đê được đắp nối Trà Cổ vào đất liền
và quãng đầm cũ ngăn cách Trà Cổ và Móng Cái đã bị lấp dần vào thế kỷ 20. Hình thế
của Trà Cổ là một dải đất dài chạy theo hướng đông bắc - tây nam. Mặt đông nam nhìn
ra Vịnh Bắc Bộ, hướng tây bắc trông vào đất liền. Góc đông bắc nhìn sang Trung Quốc
là mũi Gót. Góc tây nam là mũi Ngọc hướng về đảo Vĩnh Thực.
Như vậy, Trà Cổ là một bán đảo nằm ở vị trí tiền tiêu, có vị trí chiến lược đặc
biệt quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, đảm bảo an ninh quốc phòng. Về an
ninh: Đây là một điểm chốt quan trọng, không thể đánh chiếm, thuận lợi trong việc
kiểm soát diễn biến trên nhiều hướng: Trên biển khơi, trên các đảo và cả phần lục địa
ven biển. Trà Cổ hợp thành một vòng cung thoải quay phần lõm về phía biển khơi đã
hình thành nên một lá chắn lớn cho đất liền. Đồng thời, do nằm ở vị trí cửa khẩu trên
biển, kiểm soát một vùng biển rộng lớn nên vai trò của Trà Cổ càng được tăng cường.
Nằm ở vị trí “cửa ngõ” trong giao lưu kinh tế với đất liền và với nhiều khu kinh tế lớn
mạnh của Trung Quốc, Trà Cổ lại được bao bọc bởi một vùng biển rộng lớn, nằm ngay
cạnh ngư trường lớn Đông Bắc với nguồn lợi hải sản phong phú. Chính những điều
12
kiện đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển đồng thời cũng là điều
kiện cho phát triển các ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, lâm nghiệp. Trà
Cổ cũng có mối liên hệ mật thiết với các điểm, tuyến du lịch trong đất liền do có đặc
điểm và chế độ hải văn thích hợp để phát triển nhiều loại hình du lịch biển. Nằm trong
khu vực rìa của Biển Đông, Trà Cổ có điều kiện thuận lợi trong giao lưu kinh tế với
các nước trên thế giới, đặc biệt là khu vực châu Á - Thái Bình Dương, khu vực phát
triển kinh tế năng động của thế giới. Vì vậy, Trà Cổ có vị trí quan trọng trong trung
chuyển hàng hóa.
Với vị trí địa lý, vị thế và tiềm năng như trên, chắc chắn Trà Cổ sẽ có những
đóng góp tích cực, hiệu quả cho phát triển chung của tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên,
trong những năm qua, kinh tế biển của Phường mặc dù đã có những kết quả khả quan
nhưng nhìn chung quy mô phát triển còn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có.
Những cư dân đặt chân đến vùng đất Trà Cổ “khai sơn lập thạch” vốn có gốc
gác từ Đồ Sơn. Chính vì vậy, người Trà Cổ qua bao đời nay vẫn lưu truyền câu ca
“Người Trà Cổ - Tổ Đồ Sơn” để con cháu luôn nhớ về nguồn cội gốc gác xa xưa của
mình. Theo truyền thuyết của nhân dân địa phương, vào thế kỷ XV, cuộc chiến tranh
Trịnh-Mạc đã khiến nhân dân vùng Đông Bắc, nhất là quê hương của nhà Mạc ở Nghi
Dương, Kiến Thuỵ (Hải Phòng) điêu đứng, nhiều gia đình phải tha hương tìm vùng đất
mới sinh sống. Trong số đó có 12 gia đình dân chài quê ở Đồ Sơn đã lên thuyền đi về
phía đông bắc. Trong một lần sóng to gió lớn, 12 gia đình đã trôi dạt vào một bán đảo
hoang vu chỉ có sú vẹt. Sau khi đặt chân lên đảo, 6 gia đình khi nhìn thấy cảnh nơi đây
hoang vu và buồn chán nói rằng:
“Ở đây ăn bổng lộc gì
Lộc sung thì chát, lộc si thì già” [2; tr.9]
Và thế là 6 gia đình tìm cách trở về với quê hương cũ, 6 gia đình còn lại nhìn
thấy phong cảnh hữu tình, tiềm năng đầy hứa hẹn của vùng đất mới, có thể sống bằng
nghề đánh bắt nên đã ở lại sinh sống và lập làng. Họ nói rằng:
“Ở đây vui thú non tiên,
Tháng ngày ngày lọc nước lấy tiền nuôi nhau” [2; tr.9]
Các gia đình cùng nhau khai phá vùng đất mới, ngày ngày vừa đánh cá vừa khai
hoang, sau một thời gian họ đã tạo lập được một làng nhỏ. Trải qua thời gian, ngôi làng
13
dần trù phú, con cháu đông đúc. Họ đã lập lên một làng mới nhưng họ không quên
hướng về quê hương cũ nên đã lấy tên làng Trà Phương và Cổ Trai ở Đồ Sơn (Hải
Phòng) ghép thành tên làng “Trà Cổ” để đặt cho làng mới của mình, với ý nghĩa luôn
nhớ về quê hương Đồ Sơn. Cuối thời hậu Lê, xóm làng ấy đã phát triển thành một vùng
quê với một tổ chức xã hội ổn định. Như nhiều làng quê khác trên đất nước Việt Nam,
ngôi đình làng đã được nhân dân góp công, góp của xây dựng lên, đó chính là đình Trà
Cổ. Theo lời kể của nhân dân địa phương thì sau khi xây dựng, các cụ tiên công ở đây
đã về quê cũ tại Đồ Sơn xin chân hương để rước các vị thành hoàng ở đó là Khổng Lộ,
Giác Hải, Nhân Minh, Huyền Quốc, Quảng Trạch. Đồng thời tôn hai vị thần là Ngọc
Sơn (Thần Núi) và Bạch Điểm Tước (Thần Chim) lên làm thành hoàng của làng. Về
sau, từ ngôi làng nhỏ đã mở rộng thêm các thôn Đông Thịnh, Tràng Lộ, Tràng Sa, Sa
Vĩ, Ngọc Sơn và Bình La [34; tr.28].
Từ khi lập làng đến nay, Trà Cổ đã trải qua nhiều lần sáp nhập, chia tách với
nhiều đơn vị hành chính khác nhau. Thời nhà Nguyễn trở về trước là vạn Trà Cổ thuộc
tổng Hải Ninh, châu Vạn Ninh, trấn An Quảng. Dưới thời Tự Đức là xã Trà cổ thuộc
châu Vạn Ninh. Thời Đồng Khánh là xã Trà Cổ thuộc Tổng Ninh Hải, Châu Vạn Ninh
[33; tr.427]. Thời Thành Thái xã Trà Cổ thuộc châu Hà Cối, phủ Hải Ninh. Thời Duy
Tân, năm 1910, xã Trà Cổ được chia thành hai xã: Trà Cổ ở phía bắc và Bình Ngọc ở
phía nam, cả hai thuộc tổng Hải Ninh, châu Móng Cái. Bình Ngọc gồm hai thôn Ngọc
Sơn và Bình La. Trà Cổ bao gồm những thôn còn lại.
Hòa bình lập lại, ngày 2/7/1964, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số
106/CP đổi thị xã Móng Cái thành thị trấn Móng Cái thuộc huyện Móng Cái. Lúc này,
huyện Móng Cái bao gồm 21 xã và thị trấn là Trà Cổ, Bình Ngọc, Vạn Ninh, Vĩnh
Trung, Vĩnh Thực, Cái Chiên, Xuân Hòa, Xuân Hải, Lục Lầm, Xuân Lan, Xuân Ninh,
Vạn Xuân, Ninh Dương, Đoan Tinh, Quất Động, Quất Đoài, Thán Phún, Pò Hèn, Lục
Phủ, Tràng Vinh và thị trấn Móng Cái.
Thực hiện Quyết định số 354 - QĐ/UBND ngày 30/8/1990 của UBND tỉnh
Quảng Ninh về việc chuyển dân cư, chính quyền thị trấn Hải Ninh và các cơ quan thuộc
huyện Hải Ninh từ nơi sơ tán về địa điểm cũ. Được sự đồng ý của huyện, 5 năm 1991-
1995 Trà Cổ đã đón nhận 524 hộ với 2800 khẩu ở nơi sơ tán về nơi ở cũ, thành lập lại
2 thôn Tràng Lộ và Tràng Vĩ [2; tr.113].
14
Tiếp đó, ngày 20/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 52/1998/NĐ-
CP tái lập thị xã Móng Cái (trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hải Ninh
cũ) trực thuộc tỉnh, bao gồm 5 phường: Hòa Lạc, Trần Phú, Ka Long (trên cơ sở các
khu của thị trấn Móng Cái cũ), Ninh Dương (từ xã Ninh Dương), Trà Cổ (từ xã Trà
Cổ) và 11 xã: Quảng Nghĩa, Hải Tiến, Hải Đông, Hải Yên, Hải Hòa, Hải Xuân, Vạn
Ninh, Hải Sơn, Bình Ngọc, Vĩnh Trung và Vĩnh Thực. Như thế, phường Trà Cổ đã
được thành lập trên cơ sở 13,69 km² và 2.631 người của xã Trà Cổ.
Đến ngày 24/9/2008, Chính phủ ra Nghị định số 03/NĐ-CP về việc thành lập
thành phố Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh, bao gồm 17 đơn vị hành chính, trong đó
có 7 phường: Hòa Lạc, Trần Phú, Ka Long, Ninh Dương, Trà Cổ, Hải Yên, Hải Hòa
và các xã Quảng Nghĩa, Hải Tiến, Hải Đông, Vạn Ninh, Hải Xuân, Vĩnh Thực, Vĩnh
Trung, Bắc Sơn, Hài Sơn, Bình Ngọc.
Trải qua 20 năm phát triển, với những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực,
ngày 19/9/2018, thành phố Móng Cái được công nhận là đô thị loại II. Trà Cổ thời
điểm này là một trong 17 đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Móng Cái.
1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Địa hình của Trà Cổ thuộc dạng đồi núi thấp, bị chia cắt mạnh, sườn dốc, không
đối xứng. Đỉnh cao nhất cũng không vượt quá 200m. Do đặc điểm hình thành bán đảo
nên dạng địa hình đồng bằng nguồn gốc lục địa ít. Trong khi đó các dạng đồng bằng
nguồn gốc biển chưa phát triển. Các dạng địa hình tích tụ đã tạo nên những bãi tương
đối bằng phẳng, được tạo thành bởi cát trung và thô, rất thuận lợi để phát triển hoạt
động du lịch. Một số quả đồi ăn lan ra sát mép biển, bị mài mòn mạnh mẽ, tạo ra những
vách dốc đứng, có thể tận dụng để phát triển loại hình du lịch mạo hiểm kết hợp với
nghỉ dưỡng trên bãi biển.
Trà Cổ có diện tích đất tự nhiên là 1301,07 ha (chiếm 3% diện tích của thành
phố Móng Cái), trong đó đất nông nghiệp 394,33ha (30,3%); đất phi nông nghiệp
501,18ha (38,52%); đất chưa sử dụng 405,06ha (31,18%) [2; tr.6].
15
38.52
31.18
30
Đất nông nghiệp Đất phi nông nghiệp Đất chưa sử dụng
(Nguồn: Tác giả xây dựng)
Biểu đồ 1.1. Diện tích các loại đất của phường Trà Cổ (ĐVT: %)
Đặc điểm nổi bật nhất của lớp thổ nhưỡng tại Trà Cổ là quá trình feralit và laterit
xảy ra mạnh mẽ. Quá trình phong hóa rất sâu sắc khiến cho quá trình khoáng hóa diễn
ra nhanh, tầng đất mỏng và độ mùn thấp. Biên độ triều khá cao, tạo thành những lạch
triều ăn sâu vào đất liền gây ra hiện tượng mặn hóa nên đất ngập mặn theo chu kỳ trên
các bãi có nguồn gốc tích tụ biển, bao gồm đất mặn sú vẹt, đất chua mặn [15; tr.20].
Hiện nay, tại địa phương diện tích loại đất này không lớn, song có khả năng lan tỏa ở
các vùng đất thấp đang canh tác. Vào mùa khô, xảy ra quá trình thổi mòn của gió khiến
cho các đụn cát di động phủ và lấn chìm cả các vùng đất deluvi và đất feralit.
Nhóm đất đỏ vàng chiếm diện tích lớn nhất tại Trà Cổ. Đa số các loại đất này
có tầng mỏng hoặc dày trung bình. Hàm lượng chất dinh dưỡng thấp, độ phì thấp, đất
dốc và tầng mỏng nên thích hợp dành cho trồng rừng, khôi phục rừng tự nhiên, xây
dựng khu bảo tồn quốc gia, khu du lịch sinh thái; Nhóm đất dốc tụ có diện tích giới
hạn. Hàm lượng mùn và các chất dinh dưỡng thuộc loại trung bình. Tuy diện tích đất
nhỏ hẹp nhưng lại có giá trị sử dụng làm vườn, đất thổ cư, đất canh tác nông nghiệp;
Nhóm đất cát phủ lên các bề mặt thềm tích tụ có địa hình bằng phẳng hoặc lượn sóng,
nghiêng thoải nên có giá trị sử dụng nhiều mặt: Các đất cát xen lẫn đất dốc tụ hiện đang
được sử dụng trồng lúa nước hoặc hoa màu; Đất cát trắng chiếm tỷ lệ đáng kể trong
nhóm đất cát. Loại đất này gồm chủ yếu là đất cát mịn, hạt trung hoặc đất cát pha. Hàm
lượng mùn và các chất dinh dưỡng thấp. Đất có khả năng sử dụng trồng rừng phi lao,
keo lá chàm và các loại cây cải tạo đất khác. Ngoài ra, có thể dùng làm đất thổ cư, đất
16
vườn, đất trồng lúa và hoa màu; Đất bãi cát ngập triều chu kì chiếm diện tích lớn nhất
trong nhóm đất cát. Loại đất này thích hợp làm đầm nuôi hải sản.
Mạng lưới thủy văn ở Trà Cổ khá nghèo nàn. Do diện tích phường nhỏ, địa hình
chia cắt đơn giản, thêm vào đó, mặt đệm dưới thảm rừng cũng như lớp thổ nhưỡng đã
bị phá hủy, bào mòn sâu sắc, do đó không có giá trị giữ, tích trữ nước và điều tiết dòng
chảy trên mặt nên hầu hết chỉ là dòng chảy tạm thời vào mùa mưa.
Biển ở Trà Cổ có chế độ nhật triều, biên độ dao động trên 3m. Do biên độ dao
động của thủy triều cao và sóng lớn về mùa mưa bão sẽ gây nhiễm mặn nước dưới đất
ở những nơi địa hình thấp.
Trà Cổ nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, từ tháng 3 đến tháng 8 gió
Đông Nam đem theo hơi biển thổi vào đất liền nhưng từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau,
khi gió mùa Đông Bắc tràn về, vùng đất Trà Cổ có khí hậu tương đối lạnh, nhiều sương
mù. Nhiệt không khí biến thiên rất mạnh trong năm, mưa vừa và phân hóa ra thành hai
mùa mưa, khô phù hợp với hai mùa gió. Nhiệt độ trung bình trong năm ở Trà Cổ
23,4oC, nhiệt độ tối đa không quá 35oC, thấp nhất trung bình cũng không dưới 14oC.
Tổng lượng nhiệt 8000 - 8400oC. Lượng mưa bình quân là 2.568,3mm/năm, mùa mưa
tập trung từ tháng 4 đến tháng 9, chiếm 92% tổng lượng mưa cả năm. Tháng có lượng
mưa lớn nhất là tháng 6 đạt 632,7 mm. Độ ẩm không khí thông thường 83 - 84%, thấp
nhất là vào thời kì nửa đầu mùa đông - khoảng 76 - 78%. Nắng ở Trà Cổ khá dồi dào.
Tổng số giờ nắng trung bình 1800 - 1820 giờ/năm [15; 23]. Chính vì những điều kiện
khí hậu trên mà Trà Cổ rất thích hợp với loại hình du lịch nghỉ ngơi, tắm biển, thể thao
dưới nước kết hợp với tham quan.
Trên địa bàn Phường có 230,44 ha đất có rừng bao gồm rừng phòng hộ 216,63
ha; rừng sản xuất 13,81 ha. Rừng ở Trà Cổ chủ yếu là rừng phòng hộ ven biển gồm phi
lao và rừng ngập mặn sú vẹt [2; tr.11]. Sát bờ biển Trà Cổ là các dải rừng phi lao vừa
có tác dụng chắn cát vừa tạo thành cảnh quan hấp dẫn. Đây là thành quả lao động của
người dân đã trồng và chăm sóc.
Thực vật ở Trà Cổ được chia thành các nhóm sau: Nhóm cây gỗ có 33 loài, phần
lớn là gỗ tạp, thiếu cây gỗ quý. Nhóm cây lương thực, thực phẩm có 59 loài bao gồm
cây lương thực truyền thống như lúa, ngô, khoai lang và các cây có củ khác [15; tr.23].
Cây thực phẩm đa dạng nhưng sản lượng thấp chủ yếu là các cây trồng như các loại
17
đậu, lạc, vừng. Cây cho quả gồm nhiều loại nhưng sản lượng tập trung vào các cây
trồng như vải, nhãn, xoài.
Quần xã sinh vật thủy sinh khá đa dạng, có rất nhiều loài quý hiếm, có giá trị
kinh tế. Khu hệ thực vật phù du với 292 loài vi tảo. Khu hệ động vật phù du gồm 112
loài. Khu hệ động vật đáy gồm 207 loài. Khu hệ cá có hơn 120 loài cá, trong đó khoảng
13 loài cá có giá trị kinh tế [15; tr.23]. Hàng năm dân cư ở đây đánh bắt được một
lượng hải sản lớn có giá trị dinh dưỡng như: cua bể, tôm he, mực, sứa, sò huyết, sá
sùng, ghẹ…ngoài ra còn một lượng cá rất phong phú về chủng loại. Trữ lượng hải sản
có thể khai thác hàng năm ờ vùng biển Trà cổ khoảng 900 - 1000 tấn [2; tr.12]. Trữ
lượng này không chỉ đủ cung cấp cho nhân dân mà còn đủ cung cấp cho khách du lịch
và xuất khẩu.
Tài nguyên biển ở Trà Cổ được nhìn nhận với góc độ du lịch nằm trong quần
thể du lịch Hạ Long - Móng Cái. Bãi biển Trà Cổ được mệnh danh là “trữ tình nhất
Việt Nam” – một vẻ đẹp còn nguyên vẹn hài hòa, bình dị với bãi cát trắng mịn màng,
trải dài 17 km từ mũi Gót ở phía Bắc đến mũi Ngọc ở phía Nam, phẳng lặng trong nền
nước biển xanh biếc bốn mùa. Ở đây, có rừng phi lao chạy dọc theo bờ biển, không khí
quanh năm mát mẻ, trong lành là điều kiện thuận lợi dể phát triển du lịch. Nơi đây có
tiềm năng rất lớn trong việc tổ chức các tour du lịch quốc tế theo đường bộ và đường
biển từ Đông Hưng - Móng Cái - Hạ Long đi vào sâu nội địa Việt Nam và ngược lại từ
Việt Nam đi vào các địa phương của Trung Quốc và các nước ASEAN.
Tài nguyên khoáng sản của Trà Cổ khá nghèo nàn, chủ yếu gồm các khoáng sản
phi kim như cát xây dựng, sét cao lanh. Khoáng sản kim loại đen chủ yếu là khoáng
sản sắt thuộc loại limonit, có nguồn gốc phong hóa thấm đọng. Chất lượng của quặng
được đánh giá là không cao vì hàm lượng lưu huỳnh lớn hơn chỉ tiêu công nghiệp mặc
dù tổng hàm lượng sắt cao hơn do đó có ít triển vọng.
Với những lợi thế riêng về vị trí địa lý, vùng biển, tài nguyên, vùng đất Trà Cổ
đã hội tụ nhiều thế mạnh so với các địa phương khác để phát triển một nền kinh tế với
cơ cấu du lịch - dịch vụ - ngư nghiệp - nông nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận
lợi, điều kiện tự nhiên tại Trà Cổ cũng có những hạn chế nhất định: Ảnh hưởng của
bão, dông, áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào khá nhiều và với cường độ mạnh. Sự thay đổi
của khí hậu rất rõ theo mùa cộng thêm với số lượng lớn các hiện tượng thời tiết cực
18
đoan như sương mù, mưa phùn, khô hạn, xảy ra khá nhiều đã có ảnh hưởng lớn đến
hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản, du lịch và đặc biệt ảnh hưởng bất lợi cho
sinh hoạt, đời sống, sức khỏe của cư dân.
1.3. Dân cư và truyền thống cách mạng
Từ khi thành lập Phường đến năm 1998, dân số phường Trà Cổ luôn có sự biến
động. Nếu như năm 1998, dân số Phường là 2631 người, năm 2008 là 3550 người, thì
6000
năm 2018 tăng lên 5370 người (xem biểu đồ 1.2).
5370
5000
4000
3550
3000
2631
2000
1000
0
2008
2018
1998
(Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu dựa trên báo cáo Đảng ủy phường Trà Cổ cung cấp)
Biểu đồ 1.2. Dân số phường Trà Cổ các năm 1998, 2008, 2018 (ĐVT: người)
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, Trà Cổ trở thành điểm hội tụ dân cư các tộc
người. Trong đó chiếm đa số là dân tộc Kinh với 5274 người (98,2%), các dân tộc thiểu
số như Tày, Dao, Sán Chay, Hoa có 96 người (1,8%) [26].
Chủ nhân của vùng đất Trà Cổ có nguồn gốc chủ yếu là người Kinh từ Đồ Sơn
(Hải Phòng) đến khai phá và định cư trên vùng đất mà họ gọi tên làng là Trà Cổ, ngày
nay thuộc địa bàn hai phường Trà Cổ và Bình Ngọc. Nguyên nhân di cư một phần là
do chiến tranh loạn lạc, mặt khác là do triều đình phong kiến khuyến khích dân cư tìm
đất hoang, đất bãi để khai khẩn mở rộng đất canh tác nên những cư dân từ Đồ Sơn đã
tìm đến mảnh đất này lập nghiệp. Trong đình Trà Cổ hiện nay, ngay gian chính giữa
còn đó đôi câu đối: “Đồ Sơn ngật nhĩ kinh hương địa/Trà Cổ nguy nhiên kỷ niệm từ”,
(nghĩa là Đồ Sơn là đất cố hương, người Trà Cổ làm đình tưởng nhớ). Theo cụ Nguyễn
Văn Hữu [phụ lục 1.2; 5] tên gọi Trà Cổ là ghép của hai làng Trà Phương và Cổ Trai
19
nổi tiếng của đất Nghi Dương xưa (nay thuộc Kiến Thụy, Hải Phòng). Vùng đất này,
vốn là đất phát tích của nhà Mạc đầu thế kỷ XVI. Vì vậy, trong lễ hội đình Trà Cổ xưa
không thể thiếu nghi lễ một đoàn rước từ Trà Cổ về quê tổ Đồ Sơn vào ngày 25/5 và
đến 30/5 thì thuyền từ Đồ Sơn quay về đến Trà Cổ. Trong đình cũng thờ các vị thành
hoàng của quê Đồ Sơn.
Những cư dân di cư từ Đồ Sơn đến Trà Cổ xuất thân chủ yếu là làm nông nghiệp,
đến Trà cổ, để thích nghi với môi trường sống, họ sống chủ yếu bằng nghề chài lưới
đánh bắt thủy sản và buôn bán, các hoạt động nông nghiệp chiếm vị trí không đáng kể.
Sách Lịch triều Hiến chương loại chí về viết xã Trà Cổ: “Dân chúng đều theo nghề
buôn bán kiếm lợi, rất ít kẻ theo nghiệp nông tang” [7; tr. 306]. Hoạt động kinh tế của
địa phương rất khác biệt:
Ngư diêm như thổ dân xu lợi
Hòa đạo vô điền thuế bạc chinh
(Đất nhiều cá muối dân sung túc
Ruộng ít hoa màu thuế giảm khinh)
[7, tr. 307]
Ý nói cá muối nhiều như đất nên dân xô vào kiếm lợi, lúa má không ruộng nên
đánh thuế nhẹ.
Sau này, trong quá trình phát triển, dân cư ngày càng đông đúc, song trong các
sinh hoạt văn hóa tinh thần của cư dân Trà Cổ vẫn thể hiện sự đan xen của cư dân nông
nghiệp và cư dân ngư nghiệp. Ví như cầu mùa là ước nguyện không chỉ của cư dân
nông nghiệp mà còn là của cư dân ngư nghiệp. Hay trong lễ hội, lễ vật dâng cúng vẫn
chủ yếu là sản vật nông nghiệp. Nguyên nhân của hiện tượng này là về phương thức
sinh sống, cư dân Trà Cổ vốn nguồn gốc từ những người làm nông nghiệp đồng thời
họ linh hoạt, dễ thích nghi với điều kiện sống, do đó đã tạo ra phương thức sản xuất đa
dạng. Họ không chỉ đơn thuần đánh bắt cá, chế biến hải sản, làm muối mà còn trồng
trọt, chăn nuôi, buôn bán…
Trải qua các thời kì lịch sử, nhân dân các dân tộc cư trú tại vùng đất biên giới,
trên địa bàn Trà Cổ sống hòa đồng, có truyền thống đoàn kết, gắn bó với nhau trong
lao động sản xuất, phấn đấu xây dựng phát triển kinh tế - xã hội. Với vị trí là cửa ngõ
tuyến biên giới trên biển giữa Việt Nam - Trung Quốc, Trà Cổ là một trong những địa
20
phương của thành phố Móng Cái đã từng ghi dấu nhiều chiến công chống giặc ngoại
xâm, giữ gìn bờ cõi biên cương của Tổ quốc. Thê kỷ XI, Lý Thường Kiệt từ Móng Cái
chủ động tiến công diệt giặc Tống ở châu Khâm, châu Liêm, người dân Trà Cổ cùng
với nhân dân các dân tộc Móng Cái đã anh dũng đứng lên theo tiếng gọi của tướng
quân Lý Thường Kiệt tham gia vào diệt giặc Tống. Trong cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông, dưới sự chỉ huy của tướng Trần Hoán, quân ta đã thắng trận đầu ở vùng
Mũi Ngọc - Vạn Ninh cuối năm 1287, bắt nhiều thuyền và tù binh địch. Cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX, Móng Cái là nơi liên tiếp bị quân Thanh và các toán giặc bên
Trung Quốc tràn qua biên giới đất liền hoặc từ cửa biển Trà Cổ vào cướp phá, nhân
dân Trà Cổ cùng với nhân dân các địa phương của Móng Cái và các quan quân nhà
Nguyễn đánh giặc quyết liệt, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.
Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, ngay từ những ngày đầu, nhân dân
Trà Cổ cùng với nhân dân các dân tộc Móng Cái đã anh dũng đứng lên đánh Pháp. Trà
Cổ còn là cửa ngõ ra nước ngoài tìm đường cứu nước của nhiều nhà yêu nước, chiến
sĩ cách mạng. Cụ Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền (1904 - 1909) trên đường xuất
dương sang Trung Quốc đã ở lại Trà Cổ hàng chục ngày, được nhân dân Trà cổ che
chở, đùm bọc. Cụ Phan Bội Châu đã để lại một bài thơ cách mạng và một câu đối tặng
chùa Nam Thọ (Vạn Linh Khánh). Năm 1926, một đoàn xuất dương đi Quảng Châu
của Hội Hưng Nam, trong đó có đồng chí Trần Phú đã qua xã Trà Cổ trên đường sang
Trung Quốc thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Năm 1928, hàng chục học sinh trường
Tiểu học Trà Cổ đã bí mật rời quê hương sang Trung Quốc làm cách mạng, để giải
phóng quê hương, đất nước. Phát huy truyền thống yêu nước của quê hương, cán bộ,
đảng viên và nhân dân các dân tộc Trà Cổ tiếp tục đứng lên đánh đổ đế quốc, phong
kiến giành độc lập dân tộc.
Với những đóng góp của nhân dân Trà Cổ, ngày 8 và 9/5/1961, trong chuyến đi
thăm vùng biển - đảo Đông Bắc của Tổ quốc, Hồ Chủ Tịch đã ra thăm Trà Cổ. Trong
buổi gặp gỡ, nói chuyện với cán bộ, nhân dân Trà Cổ; cán bộ nhân dân Móng Cái, Bác
ân cần hỏi thăm tình hình sản xuất và đời sống của nhân dân. Với cán bộ, Bác yêu cầu
phải gương mẫu trong lao động và công tác, gương mẫu trong việc đoàn kết Việt - Hoa,
đoàn kết lương giáo. Sau đó Bác thăm và nói chuyện với xã viên hợp tác xã đánh cá
Ba Thu. Bác ân cần hỏi thăm cuộc sống và công việc sản xuất của các ngư dân. Đồng
21
thời, Hồ Chí Minh nhở ngư dân phải hăng hái tham gia sản xuất, bảo vệ vùng biển nơi
địa đầu của Tổ quốc. Những lời dạy bảo, căn dặn của Người không chỉ thể hiện sự quan
tâm sâu sắc của Bác Hồ cũng như của Trung ương Đảng và Chính phủ đối với cán bộ,
nhân dân Trà Cổ nói riêng, Móng Cái nói chung, mà còn thể hiện sự quan tâm của Bác,
của Chính phủ đối với biển đảo, cương vực lãnh hải biên cương Đông Bắc Tổ quốc.
Sự kiện ngày 8/5/1961 là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, góp
phần cổ vũ, động viên cán bộ, nhân dân tỉnh Hải Ninh và huyện Móng Cái nói chung,
cán bộ và nhân dân xã Trà Cổ nói riêng ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu chung của
toàn dân tộc là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà
ở miền Nam. Tiếp đó, nhân dân Trà Cổ đã góp phần đánh bại cuộc chiến tranh biên
giới bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Trà Cổ đoàn kết,
sáng tạo, nỗ lực phấn dấu vượt qua khó khăn, thách thức giành được nhiều thành tựu
quan trọng về kinh tế - xã hội, giữ vững biên cương của Tổ quốc.
1.4. Đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân phường Trà Cổ trước năm 1998
Sau khi thống nhất đất nước, trong những năm 1976 -1985, tình hình kinh tế -
xã hội của Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp
đã cản trở sự phát triển mọi mặt của xã hội. Trong bối cảnh chung của cả nước, kinh tế
- xã hội của Trà Cổ chậm phát triển. Cơ sở vật chất bị xuống cấp. Khó khăn lớn nhất
là thiếu lao động. Nhà nước phải tổ chức di chuyển một số hộ dân ra Trà Cổ nhưng chỉ
tập trung vào sản xuất nông nghiệp, không phát triển nghề cá. Kinh tế mang nặng tự
cấp, tự túc, cơ sở hạ tầng thấp kém, đặc biệt là hệ thống giao thông kết nối với trung
tâm tỉnh lỵ. Nguồn ngân sách mất cân đối, phần lớn mọi hoạt động của địa phương phụ
thuộc vào sự bao cấp từ ngân sách Nhà nước. Thu nhập của nhân dân và trình độ dân
trí thấp, văn hóa xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, số hộ đói nghèo
chiếm tỉ lệ cao (trên 60%). Trong bối cảnh đó, trên cơ sở đánh giá khách quan những
thành tích và hạn chế của địa phương, chính quyền và nhân dân Trà Cổ xác định phương
hướng, nhiệm vụ 3 năm 1986 - 1989 là: Thực sự coi nông nghiệp là mật trận hàng đầu.
Phát triển nông nghiệp trên cả ba mặt: Diện tích, năng suất và sản lượng. Củng cố, phát
triển các phương tiện đánh bắt thủy hải sản, mở rộng diện tích nuôi trồng hải sản.
22
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới,
chủ yếu là đổi mới tư duy kinh tế với 3 chương trình kinh tế lớn: Lương thực - Thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Thấm nhuần tư tưởng đổi mới của Đảng,
nhân dân Trà Cổ chủ động, sáng tạo, vận dụng vào thực tiễn địa phương. Nhờ đó, cơ
cấu kinh tế từng bước được chuyển dịch, phường đã từng bước bố trí lại cơ cấu đầu tư,
giải quyết được những khó khăn gay gắt.
Trong sản xuất nông nghiệp tuy phụ thuộc nhiều vào thời tiết, Trà Cổ chú trọng
chỉ đạo hợp tác xã nông nghiệp tăng cường đưa giống lúa mới năng suất cao vào sản
xuất như CR203 qua đó năng suất lúa tăng hơn trước. Tuy nhiên, quá trình thực hiện
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư đã bộc lộ những hạn chế, không phù hợp với cơ chế thị
trường. Để khắc phục những hạn chế của Chỉ thị 100, ngày 5/4/1988 Bộ Chính trị ra
Nghị quyết số 10 (gọi là khoán 10). Nội dung Nghị quyết 10 là sắp xếp lại sản xuất
nông nghiệp, củng cố và mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng đúng đắn
thành phần kinh tế, trong đó quy định hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị kinh tế tự quản.
Dựa vào định hướng này, chính quyền và nhân dân Trà Cổ tiếp tục đề ra phương hướng
nhiệm vụ 3 năm 1989 - 1991 với những nhiệm vụ chủ yếu: Thực hiện khoán sản phẩm
cuối cùng đến hộ nông dân. Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển ngành thủy sản
toàn diện, vững chắc. Chăm lo phát triển giáo dục, văn hóa, xã hội và làm tốt công tác
dân số kế hoạch hóa gia đình [2; tr.109]. Thực hiện chương trình lương thực, thực
phẩm, trong 2 năm 1989 - 1990, Trà Cổ tiến hành nhiều chủ trương, biện pháp đảm
bảo diện tích gieo trồng, thâm canh tăng năng suất cây trồng, củng cố hệ thống thủy
lợi. Nhờ giao đất lâu dài cho nông dân, năng suất lúa đạt trên 10 tạ/ha. Đàn gia súc, gia
cầm và đàn lợn tăng dần. Ngành thủy sản bước đầu thích ứng và ổn định sản xuất.
Phong trào nuôi cua xuất khẩu bước đầu có hiệu quả. Đặc biệt, năm 1989 Nhà nước
miễn thuế nông nghiệp cho nông dân một năm, qua đó kích thích nhân dân hăng hái
sản xuất [2; tr.109].
Thực hiện Thông báo số 118 của Ban Bí thư và Chỉ thị số 08 của Hội đồng Bộ
trưởng về chủ trương mở cửa biên giới cho nhân dân các xã biên giới hai nước Việt -
Trung. Được sự giúp đỡ của huyện, Trà Cổ đầu tư xây dựng một số khách sạn lớn, đầu
tư nâng cấp trường học, trạm xá và một số công trình hạ tầng. Qua đó, nhân dân hai
23
nước đã qua lại thăm thân, trao đồi hàng hóa thiết yếu phục vụ đời sống, nhờ đó hoạt
động thương mại - du lịch Trà Cổ phát triển, nguồn thu ngân sách tăng lên.
Đời sống văn hóa của cư dân Trà Cổ có sự khác nhau rất rõ rệt trước và sau
khoán 10. Trước khoán 10, phong trào văn hóa ở Trà Cổ phát triển khá sôi nổi. Đây là
thời kỳ cơ chế bao cấp vẫn ảnh hưởng ở mức độ nhất định trên cả nước nói chung và ở
Trà Cổ nói riêng. Nhà nước đã đầu tư kinh phí, xây dựng thiết chế văn hóa cho phường
với 1 nhà truyền thống, 1 nhà văn hóa, 2 đội thông tin xã, 4 đội nghệ thuật quần chúng
[2; tr. 107]. Các đơn vị văn hóa lưu động của tỉnh cho đội chiếu bóng, thông tin cổ
động, tuyên truyền văn nghệ, nghệ thuật quần chúng hoạt động sôi nổi. Chương trình
văn nghệ thường là tạp diễn nhưng cũng có lúc chuyên diến về kịch, tuồng, chèo, ca
múa nhạc. Hoạt động văn hóa tập trung vào các nội dung thiết thực, thường gắn với
nhiệm vụ chính trị, động viên nhân dân địa phương thực hiện tốt đường lối đổi mới của
Đảng. Bên cạnh đó, công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân dược làm thường xuyên.
Công tác vệ sinh phòng bệnh, tiêm chủng mở rộng được thực hiện nghiêm túc.
Vào những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn biến
phức tạp. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lâm vào khủng hoảng và sụp
đổ, một số người tỏ ra hoài nghi về sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản khởi xướng,
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực hiện Chỉ thị 59 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng, tháng 7/1991, Đại hội Chi bộ Trà Cổ lần thứ XVIII được tổ chức và
đề ra phương hướng: Cán bộ, đảng viên và nhân dân Trà Cổ đoàn kết một lòng tiếp tục
thực hiện Đường lối đổi mới. Tập trung phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng,
giữ vững an ninh, xây dựng quê hương giàu mạnh [2; tr.110].
Trong những năm 1991-1995, kinh tế Trà Cổ đã đạt dược nhiều thành tựu quan
trọng. Ngành thủy sản có nhiều tiến bộ và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính
quyết định đến sự phát triển kinh tế của địa phương. Năm 1991-1995, ngư dân Trà Cổ
đã chuyển từ lao động thô sơ sang đầu tư cơ giới vào đánh bắt, chế biến hải sản, nâng
cao năng suất và sản lượng. Trong 2 năm 1994 - 1995, sản lượng khai thác hải sản các
loại đạt 400-500 tấn/năm, giá trị ngành thuỷ sản đạt hàng tỷ đồng [2; tr.111]. Bên cạnh
đó, ngành nuôi trồng thuỷ sản cũng được khai thác và phát triển, các hộ nuôi trồng thủy
sản đã đầu tư hàng trăm triệu đồng đề đào ao, đầm nuôi tôm, cua xuất khẩu. Đến năm
1995, Trà Cổ đã có hàng chục ha ao, đầm nuôi trồng thuỷ sản góp phần tạo công ăn
24
việc làm, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, ngành thủy sàn còn nhiều hạn chế:
Chưa đầu tư đánh bắt xa bờ, cơ sở vật chất còn manh mún, chưa được đầu tư đúng với
tiềm năng, thế mạnh của địa phương.
Trong sản xuất nông nghiệp, việc giao đất lâu dài cho người dân đã tạo điều
kiện thuận lợi cho nhân dân yên tâm đầu tư sản xuất. Diện tích cấy một vụ là 15,5ha,
năng suất 17 tạ/ha. Cùng với trồng trọt, ngành chăn nuôi tiếp tục được ổn định, phát
triển. Đàn lợn năm 1994 có 400 con, năm 1995 tăng lên 500 con, đạt trên 30 tấn lợn
hơi. Ngoài ra còn phát triển đàn gà, vịt, dê, bò là thực phẩm tươi sống phục vụ du lịch
và đời sống nhân dân [2; tr.111]. Trong 2 năm 1994 - 1995, Trà Cổ đã trồng và bảo vệ
120 ha rừng xanh tốt. Ngoài ra còn trồng hàng ngàn cây bóng mát và cây ăn quả.
Ngành dịch vụ - du lịch dược quan tâm, phát triển. Chính quyền và nhân dân
Trà Cổ xác dịnh: du lịch là ngành lợi thế của địa phương, cần khai thác, phát huy để
nâng cao đời sống kinh tế của nhân dân. Chính quyền tạo điều kiện cho nhân dân xây
khách sạn, nhà nghỉ hiện đại. Phối hợp với Ban quản lý du lịch huyện chấn chỉnh lại
các lều, quán ven biển đảm bảo sạch sẽ, văn minh và hoạt động có nề nếp. Sắp xếp lại
các quán ăn, nhà hàng đảm bảo chất lượng tốt, giá thành hạ thu hút đông khách du lịch.
Qua đó, ngành dịch vụ - du lịch đã tạo việc làm cho hàng trăm người lao động, nguồn
thu đạt hàng tỷ đồng.
Những năm đầu với “khoán 10” và với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện, đi cùng với đó các
hoạt động văn hóa đã có những chuyển biến. Cơ sở vật chất thì vẫn còn nhưng tổ chức
thiết chế văn hóa cũ dưới thời bao cấp bị phá vỡ và thay thế bằng hình thức tổ chức
theo truyền thống cổ truyền trong điều kiện mới: Nhà văn hóa của xã hoạt động cầm
chừng, số tổ đội chiếu bóng phải tự hạch toán kinh doanh nên cũng ít lưu động về các
thôn chiếu phim cho dân xem. Phong trào văn nghệ quần chúng chỉ hoạt động vào
những ngày hội. Những hủ tục và tệ mê tín dị đoan trong đời sống văn hóa của nhân
dân đã một thời gian khá dài bị đẩy lùi thì nay lại có nguy cơ tái phát.
Trong tình hình đó, việc giải quyết các vấn đề văn hóa - xã hội đã được Chi bộ
quan tâm và dần dần đạt được kêt quả tích cực. Sự nghiệp giáo dục ổn định, số học
sinh trong độ tuổi đến trường, tỷ lệ học sinh giỏi, học sinh khá ngày một tăng. Đặc biệt
là xã đã mở 2 lớp xóa mù chữ cho 50 học sinh vùng công giáo. Năm 1995, Trà Cổ là
25
một trong 5 đơn vị của Móng Cái hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học. Công tác y tế
- dân số kế hoạch hóa gia đình có chuyển biến tích cực. Công tác tiêm chủng mở rộng,
phòng, chống các dịch bệnh cho trẻ em; chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu cho
nhân dân được coi trọng. Làm tốt công tác phòng, khám chữa bệnh cho nhân dân; phát
động nhân dân đào hàng trăm giếng nước sạch, 70 hố xí tự hoại, góp phần làm tốt công
tác vệ sinh môi trường của địa phương. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình có
nhiều tiến bộ. Tỷ lệ phát triển dân số giảm từ 27% năm 1994 xuống còn 10,5% năm
1995 [2; tr.113].
Trong những năm 1991-1995, sau khi đón nhân dân sơ tán về quê lập 2 thôn
Tràng Lộ và Tràng Vĩ, chính quyền xã đã triển khai công tác quy hoạch, cấp đất làm
nhà ở cho nhân dân trở về, ổn dịnh nơi ăn chốn ở, tích cực khai hoang phục hoá, đẩy
mạnh phát triển sản xuất, nhờ đó đời sống nhân dân ổn định và từng bước được cải
thiện, số hộ giàu và hộ khá tăng lên, số hộ nghèo giảm đi (còn hơn 20%), cả xã không
còn hộ đói. Trên địa bàn đã có 20 chiếc bè máy, trên 200 xe máy các loại, trên 50% gia
đình có tivi, 40 gia đình có máy phát điện và 4 gia đình đã có ô tô. Đời sống tinh thần
ngày được cải thiện [2; tr.114].
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới 1986 - 1995, chính quyền và nhân dân
các dân tộc xã Trà Cổ đã kiên trì phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, vững bước tiến
lên. Kinh tế - xã hội có nhiều khởi sắc, quốc phòng - an ninh không ngừng được tăng
cường, giữ vững, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Ngày 20/9/1995, Đại hội Đảng bộ xã Trà Cổ lần thứ
XX (nhiệm kỳ 1996 - 2000), được tổ chức. Từ thực tiễn và yêu cầu của thời kỳ đổi
mới, Đại hội xác định phải đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng: Du lịch
- dịch vụ, nông lâm ngư nghiệp, trong đó du lịch phấn đấu trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường lần thứ XX, nhân dân Trà Cổ
tập trung khai thác mọi nguồn lực, thế mạnh, tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp có nhiều
tiến bộ. Mặc dù trong cơ cấu kinh tế của địa phương, sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm
tỷ trọng 10%, song nhân dân vẫn đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất. Diện tích cây
trồng chính là lúa và khoai lang luôn đạt chỉ tiêu đề ra. Năng suất lúa tăng từ 21 tạ/ha
26
(1996) lên 23 tạ/ha (1998). Tổng sản lượng lương thực quy thóc tăng bình quân 2,25%
[2; tr.119]. Về cơ bản, phường đã tự cân đối được lương thực trong khu vực nông thôn,
góp phần điều hoà lương thực, thực phẩm trên địa bàn.
Bảng 1.1. Sản lượng và bình quân lương thực đầu người ở Trà Cổ
Bình quân lương thực Năm Tổng sản lượng lương thực (tấn) đầu người (kg)
1986 278 171
1990 315 168
1995 410 182
(Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu trong Lịch sử cách mạng của Đảng bộ
và nhân dân phường Trà Cổ (1958 - 2008))
1998 507 193
Tuy nhiên, kết quả đạt được không đều, dịch vụ nông nghiệp chậm đổi mới,
ngành nghề trong nông thôn kém phát triển. Chuyển biến về thâm canh, đổi mới về cơ
cấu giống và mùa vụ, đầu tư khoa học kỹ thuật cho nông nghiệp còn chậm, còn ít.
Nhiều vấn đề cho quản lý xã hội ở nông thôn chưa được giải quyết tốt.
Nhằm chuyển chăn nuôi sang sản xuất hàng hóa, các hộ gia đình đã mở rộng
chăn nuôi theo hướng bán công nghiệp như: sử dụng nguồn thức ăn tổng hợp, đẩy mạnh
tỷ lệ giống lợn lai, đưa giống lợn hướng nạc vào sản xuất; tiếp nhận các giống gia cầm
siêu trứng, siêu thịt vào chăn nuôi trong kinh tế hộ gia đình. Đàn lợn năm 1998 là 800
con, đạt 133% kế hoạch đề ra. Phong trào trồng cây phân tán, cây ăn quả phát triển.
Đến năm 1998, Trà Cổ trồng và bảo vệ có hiệu quả 183,4 ha rừng, trong đó đã hình
thành khu vừng ven biển phục vụ du lịch.
Trên cơ sở xác định ngành ngư nghiệp là ngành sản xuất chính của địa phương
(60% sổ hộ của địa phương tham gia đánh bắt và nuôi trồng thủy sản), phường Trà Cổ
tập trung đầu tư chỉ đạo, đẩy mạnh phát triển nghề cá nhân dân; đầu tư các loại phương
tiện và ngư cụ để đánh bắt hải sản. Bè máy tăng từ 20 chiếc năm 1996 lên 150 chiếc
vào năm 1998. Sản lượng hải sản khai thác ngày một tăng. Sáu tháng đầu năm 1998
sản lượng hải sản đạt 200 tấn. Riêng sản lượng sứa khai thác 3000 tấn/vụ. Phong trào
nuôi trồng thủy sản phát triển khá, đến tháng 9/1998 Trà Cổ đã có 24,25ha hồ đầm nuôi
27
tôm, 3ha bãi bồi khoanh nuôi ngao, sò. Doanh thu từ khai thác hải sản đạt gần 4 tỷ
đồng. Đến tháng 6/1998, Trà Cổ có 150 hộ khai thác sứa và cá có thu nhập từ 15 đến
20 triệu đồng/hộ. Qua đó, đời sống của ngư dân ổn định, số hộ nghèo giảm, nhiều hộ
đã trở lên giàu có [2; tr.120].
Trong giai đoạn này, cơ cấu kinh tế ở Trà Cổ có sự chuyển dịch theo hướng tăng
dần tỷ trọng du lịch - dịch vụ. Với sự nỗ lực phấn đấu của địa phương, đến tháng
9/1998, Trà Cổ có 18 nhà hàng, khách sạn và 75 quán dịch vụ ven biển. Năm 1996 -
1998, Trà Cổ đã có 39.509 lượt khách du lịch đến tham quan, nghỉ mát, tắm biển. Trong
đó, có nhiều khách mang quốc tịch Châu Âu, Mỹ và Trung Quốc. Doanh thu ngành du
lịch - dịch vụ đạt trên 5 tỷ đồng/năm [2; tr.120]. Trên cơ sở kinh tế phát triển, năm
1996 -1998, xây dựng cơ bản có bước tiển vượt bậc về quy mô, đã xây mới 10 công
trình: Bia tưởng niệm, Trường Trung học cơ sở cao tầng, nhà làm việc của Đảng ủy,
ủy ban nhân dân phường, đường dạo ven biển, với tổng mức đầu tư hơn 5 tỷ đồng.
Trong 5 năm Trà Cổ đã có 500 hộ xây nhà dân dụng, trong đó có 30% hộ xây nhà kiên
cố, cao tầng, tổng giá trị lên tới hàng chục tỷ đồng [2; tr.121].
Đi đôi với phát triển kinh tế, sự nghiệp văn hóa phục vụ nhân dân được đẩy
mạnh. Hoạt động văn hóa, văn nghệ có nhiều cố gắng, nội dung đã bám sát vào yêu
cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương. Duy trì tốt hoạt động của các cụm truyền thanh,
các hình thức biểu diễn, giao lưu văn nghệ từng bước đáp ứng yêu cầu thưởng thức văn
hóa của nhân dân. Đặc biệt thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW, ngày 12/1/1998 của Bộ
Chính trị về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng
thọ, kỷ niệm ngày truyền thống, nhân dân Trà Cổ đã từng bước hình thành nếp sống
văn minh, hiện đại.
Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ, trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện Đảng
bộ và nhân dân Trà Cổ vẫn còn bộc lộ những hạn chế: Chưa khai thác hết tiềm năng,
thế mạnh của địa phương về du lịch - dịch vụ, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản. Công tác
quy hoạch và quản lý ngành du lịch còn hạn chế. Công tác ứng dụng khoa học kỹ thuật
nhìn chung phát triển còn chậm, chưa có định hướng cụ thể để phát huy tiềm năng thế
mạnh kinh tế địa phương; chưa tạo được sự chuyển biến về năng suất, chất lượng, hiệu
quả, chưa đáp ứng được những yêu cầu bức xúc của công cuôc đổi mới. Đầu tư cho
khoa học, công nghệ còn bị hạn chế. So với trước, đời sống của một bộ phận nhân dân
28
có một số mặt được cải thiện như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt gia
đình…nhưng nhìn chung còn khó khăn. Một bộ phận nhân dân còn sống dưới mức tối
thiểu. Tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp.
Tiểu kết chương 1
Trà Cổ là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng với ba mặt giáp biển và có
đường biên giới biển giáp với Trung Quốc dài 7,5km. Đến năm 1998, dân số Trà Cổ
có 2631 người, bao gồm 5 dân tộc: Kinh, Tày, Dao, Sán Chay, Hoa. Trong đó dân tộc
Kinh chiếm đa số với 98,2%. Trước năm 1998, hoạt động kinh tế chủ yếu mang lại thu
nhập chủ yếu cho cư dân Trà Cổ là ngư nghiệp. Kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng
nhỏ và mang tính tự cung tự cấp. Kinh tế du lịch mặc dù đã được xác định là ngành
cần chú trọng nhưng chưa phát triển. Trà Cổ vẫn còn là một địa phương nghèo. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm. Sự phát huy nội lực tiềm năng của địa phương còn nhiều
hạn chế. Đời sống của người dân vì thế mà còn nhiều khó khăn.
Cùng với những chuyển biến về kinh tế, đời sống văn hóa của cư dân Trà Cổ
cũng có nhiều đổi thay. Trước thời kì đổi mới và cơ chế khoán 10, hoạt động văn hóa
của cư dân vẫn được “bao cấp” nên hoạt động sôi nổi. Tuy nhiên, những năm đầu khi
cơ chế bao cấp không còn, hoạt động văn hóa của người dân Trà Cổ có sự hẫng hụt,
thậm chí thụt lùi. Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, đời sống văn hóa
của người dân đã dần khởi sắc theo hướng hình thành nếp sống văn minh, hiện đại.
Tuy nhiên, khách quan mà nói, nhìn lại chặng đường đã qua, mặc dù vẫn còn
hạn chế song những thành quả mà nhân dân Trà Cổ đạt được trong thời kỳ này là rất
đáng ghi nhận, đã tạo nên những cơ sở cần thiết và quan trọng để Trà Cổ tiếp tục phát
triển ở những giai đoạn tiếp theo.
Chương 2
ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA CƯ DÂN PHƯỜNG TRÀ CỔ (1998 - 2018)
Ngày 20/7/1998, khi Chính phủ ban hành Nghị định 52/NĐ-CP về việc thành
lập Thị xã Móng Cái, theo đó, phường Trà Cổ được thành lập trực thuộc thị xã Móng
Cái. Đảng bộ phường Trà Cổ đã nhanh chóng đề ra chủ trương nhằm mục đích ổn định,
phát triển kinh tế, xã hội. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát là: phát huy tiềm
năng thế mạnh của địa phương, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, quốc
29
phòng, an ninh, với cơ cấu kinh tế là: Dịch vụ - du lịch, ngư nghiệp, nông - lâm nghiệp.
Nhờ sự linh hoạt, chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo điều hành của các cấp ủy Đảng,
chính quyền phường Trà Cổ, sự đồng thuận của nhân dân mà hoạt động kinh tế của
phường từ năm 1998 đến năm 2018 đã phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực.
2.1. Kinh tế ngư nghiệp
Trà Cổ có lợi thế về biển. Biển Trà Cổ tương đối sâu và kín, thuận lợi cho tàu
thuyền ra khơi vào lộng, tiến hành các hoạt động giao thương, khai thác hải sản. Biển
Trà Cổ lại có cá song, cá chim, thu, nụ, sá sùng, tôm hùm, bào ngư, ốc hương, cua
bể…Do vậy, việc khai thác, nuôi trồng thủy sản thực sự là một ngành mang lại nguồn
thu nhập đáng kể cho cư dân địa phương.
2.1.1. Hoạt động khai thác thủy hải sản
Sau khi phường được thành lập, mặc dù được tăng cường lực lượng lao động từ
các địa phương khác trong tỉnh sơ tán về Trà Cổ, nghề khai thác thủy hải sản có nhân
lực để phát triển nhưng do thiếu sự chuẩn bị nên nghề cá phải mất một thời gian sau
mới dần khởi sắc.
Trước đây, các làng cá ở Trà Cổ được tổ chức đi biển theo đội với hình thức du
thủy của tập hợp dòng họ hay có quan hệ thông gia cùng đánh trên một ngư trường.
Những làng cá nghiệp dư này thường đi đánh với các trang bị thủ công thô sơ. Do ít
kinh nghiệm khai thác, đi biển và lợi ích trước mắt, họ dùng nhiều ngư cụ bất hợp pháp
huỷ diệt môi trường. Một hình thức tổ chức khác trong cộng đồng cư dân đánh bắt thủy
hải sản chính là hợp tác xã. Tuy nhiên, hiện nay còn rất ít hợp tác xã tồn tại theo đúng
thể thức của nó, tuy tàu thuyền mang danh nghĩa là tài sản chung của hợp tác xã nhưng
đã khoán cho các đội hoạt động. Mỗi thuyền thường là tài sản chung của một nhóm
góp vốn đầu tư, họ cùng chịu trách nhiệm, cùng hưởng lợi và chịu lỗ. Thông thường
thuyền trưởng và máy trưởng do chủ thuyền đảm nhận. Trên thuyền thường có 4 -10
thợ bạn đi ghép. Với những thuyền lớn, sản phẩm làm ra được bán và thường chia tứ
lục: 6 phần cho tài sản và 4 phần cho công lao động đánh cá, với những thuyền nhỏ
thường chia ngũ - ngũ, tức là 5 phần cho tài sản và 5 phần cho công lao động đánh cá.
Vài năm gần đây, một số địa phương đã tổ chức các chi hội nghề cá, tập hợp
những ngư dân trong 1 hội. Chi hội làm nhiệm vụ tập hợp ngư dân, giới thiệu kinh
nghiệm sản xuất tiên tiến, giải hoà các mâu thuẫn nội bộ và thông tin thị trường. Ngoài
30
ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và Hội đồng nhân dân, Phường lập Ban Hải sản do
một uỷ viên phụ trách. Ban này chịu trách nhiệm chung về tình hình sản xuất như đăng
ký, thống kê sản xuất và nắm nhu cầu của ngư dân để phản ánh với chính quyền. Ban
Hải sản còn tham gia với tổ tư pháp của uỷ ban xã giải quyết các mâu thuẫn xảy ra
trong nội bộ ngư dân.
Những năm đầu sau khi thành lập Phường, sản lượng thủy hải sản chủ yếu là do
đóng góp của nghề lộng ven bờ như lưới rê ba lớp, giã thủ công. Sản lượng khai thác
năm 1998 chỉ đạt 378 tấn với 62 hộ ngư dân tham gia (bảng 2.1). Do vậy, để phục hồi
và phát triển nghề đánh bắt thủy hải sản, trong những năm qua lãnh đạo địa phương đã
có những chủ trương tăng cường đầu tư cho ngành đánh bắt cá ngoài khơi. Đại hội
Đảng bộ Trà Cổ lần thứ XXI (2000) đã đề ra chỉ tiêu sản lượng khai thác hải sản đạt
600 - 700 tấn/năm [2; tr.130], đồng thời khuyến khích nhân dân đầu tư phát triển ngành
nghề, mạnh dạn vay vốn mua sắm phương tiện, ngư cụ đánh bắt tuyến khơi, gắn đánh
bắt hải sản với việc giữ gìn an ninh trên biển và lãnh hải của Tổ quốc.
Bảng 2.1. Thống kê số liệu khai thác thủy sản tại phường Trà Cổ (1998 - 2018)
Chỉ tiêu ĐVT 1998 2000 2005 2010 2015 2018
Sản lượng Tấn 378 450 550 1300 2580 3251
(Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu dựa trên báo cáo hằng năm của Đảng ủy Phường)
Số hộ tham gia đánh bắt Hộ 62 78 145 269 468 613
Nhờ sự quan tâm kịp thời của chính quyền địa phương nên ngư nghiệp được
duy trì và bước đầu mang lại thành quả. Từ năm 2000 đến năm 2005, sản lượng đánh
bắt hải sản hàng năm thu hoạch đạt từ 450 - 550 tấn. Nhưng do ảnh hưởng của cơ chế
thị trường, giá cả không ổn định, phương tiện đánh bắt gần bờ là chủ yếu và phụ thuộc
vào sức mua của ngư dân Trung Quốc, vì vậy sản lượng đánh bắt có chiều hướng chững
lại [2; tr.134]. Để khắc phục tình trạng này, Đại hội Đảng bộ Phường lần thứ XXII
(2005 - 2010) đã đặt ra chỉ tiêu ngư nghiệp phải tăng 5-10% trong nhiệm kỳ [2; tr.146].
Nhờ sự chỉ đạo kịp thời nên ngay trong năm 2005, số hộ có phương tiện đánh bắt là
145 hộ, sản lượng đánh bắt đạt 550 tấn tăng 30 tấn so với năm 2004 [17]. Nhưng sang
năm 2006, do thời tiết không thuận lợi, ngư trường đánh bắt hải sản gặp nhiều khó
khăn, đã ảnh hưởng đến nguồn lợi đánh bắt hải sản. Sản lượng chỉ đạt 450 tấn [18].
Tuy nhiên, bước sang năm 2008, ngành ngư nghiệp lại phát triển với 262 hộ đánh bắt
31
khai thác hải sản bằng bè máy và hơn 150 hộ khai thác hải sản bãi bồi chiếm 31,74%
số hộ trong phường. Phương tiện đánh bắt cá hiện đại được nhiều hộ gia đình đầu tư.
Năm 2002 chỉ có 150 chiếc bè máy, thì đến năm 2008 tăng lên 262 chiếc [2; tr.151].
Đến năm 2009, tổng số hộ làm nghề ngư là 404 hộ, trong đó 269 hộ đánh bắt hải sản
bằng thuyền bè có gắn máy động cơ, 135 hộ làm nghề khai thác bãi bồi. Tổng sản lượng
đánh bắt hải sản các loại đạt 1800 tấn, bao gồm: Ghẹ, sứa, tôm, cá, ngao, sò, giá trị sản
lượng đạt trên 20 tỷ đồng [19]. Năm 2010, toàn phường có 269 hộ đánh bắt hải sản bằng
thuyền bè có gắn động cơ, cùng với hơn 185 hộ làm nghề khai thác bãi bồi. Sản lượng
đánh bắt đạt 1300 tấn [20]. Ngành đánh bắt hải sản thường xuyên đem lại nguồn thu nhập
cho hơn hai trăm hộ [21].
Năm 2011, hoạt động khai thác hải sản được duy trì đều đặn. Tổng số hộ làm
nghề ngư là 433 hộ, giảm 21 hộ so với năm 2010 (nguyên nhân do các hộ đánh bắt
bằng bè máy đã chuyển đổi nghề) trong đó: 253 hộ khai thác, đánh bắt hải sản bằng
phương tiện bè máy, 180 hộ làm nghề khai thác bãi bồi. Sản lượng đánh bắt hải sản đạt
250 tấn, với giá trị đạt 31 tỷ đồng [22]. Bước sang năm 2013, các hộ đánh bắt hải sản
cơ bản ổn định. Tổng sản lượng đánh bắt các loại hải sản bằng 132% so với năm 2012
với giá trị đánh bắt đạt 35 tỷ đồng [23]. Năm 2014, sản lượng đánh bắt thủy sản bằng
110% kế hoạch, tăng 2% so với năm 2013, giá trị đạt 43,5 tỷ đồng [24].
Năm 2015, ngành đánh bắt và nuôi trồng hải sản thường xuyên đem lại nguồn
thu nhập cho trên 8 trăm hộ của địa phương, trong đó, làm nghề đánh bắt, khai thác hải
sản 468 hộ, khai thác bãi bồi 356 hộ [25]. Đến năm 2018, tổng sản lượng đánh bắt và
khai thác thủy hải sản tại địa phương đạt kết quả khả quan với 3.251 tấn với 613 hộ gia
đình tham gia đánh bắt (37% số hộ gia đình tại địa phương) [26].
Về phương tiện đánh bắt, ngư cụ truyền thống của cư dân Trà Cổ phục vụ cho
khai thác thủy hải sản có nhiều loại, song căn cứ vào nguyên lý đánh bắt chủ động hoặc
thụ động có thể chia ra thành 6 họ nghề: lưới kéo, lưới vây, lưới rê, lưới vó, nghề đáy
và nghề câu. Họ lưới kéo còn gọi là nghề giã hoặc nghề cào, đánh bắt chủ động nhưng
tốn nhiên liệu. Đối tượng đánh bắt chủ yếu là các loại cá đáy như cá phèn, cá lượng, cá
mối, cá hồng, cá nục, tôm...Họ lưới vây (lưới bao hay lưới rút), đánh bắt chủ động, đối
tượng đánh bắt chủ yếu là: mực, các loại cá cơm, cá lầm, cá trích, cá ngừ, cá bạc
má...Họ lưới rê là nghề đánh bắt thụ động, lưới trôi theo dòng chảy, cá đi vướng vào
32
mắt lưới. Họ lưới vó gồm các nghề vó, mành, rớ, đáng chú ý là nghề vó kết hợp ánh
sáng có năng suất khá cao, đối tượng đánh bắt chủ yếu là cá trích, cá nục, cá cơm, cá
bạc má...Họ nghề đáy gồm đáy hàng rạo, đáy song cầu, đáy sáu, đáy hàng khơi. Họ
nghề câu gồm những dạng câu giàn, dạng câu đơn, dạng câu giăng, câu chùm…là nghề
có chi phí sản xuất ít, năng suất cao, đối tượng đánh bắt chủ yếu là cá thu, cá ngừ, cá
hồng, cá dưa, cá trích, cá mập, mực. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi vào tháng
2/2019, ở Trà Cổ, phân chia theo quá trình phát triển nghề và chức năng đánh bắt hải
sản, có những loại ngư cụ chủ yếu sau:
Bảng 2.2. Những ngư cụ chủ yếu của ngư dân Trà Cổ hiện nay
STT Tên ngư cụ Phương tiện để hoạt động
1 Rẻo đôi
2 Lưới chân Đòn bổ (1 ống tre để gánh lưới)
3 Lưới bén Bè tre
4 Lưới nghẹo Thuyền nghẹo
5 Rùng đón Xuồng
6 Lưới mòi Bè tre
7 Rê Thu Bè tre
8 Rê Chim Bè tre
9 Bóng Mực Thuyền mủng (thúng)
10 Câu (các loại) Bè tre
11 Tưng cần Tạo rừng giả cho cá ẩn nấp để đánh bắt
12 Tưng Rút Tạo rừng giả cho cá ẩn nấp để đánh bắt
(Nguồn: Tác giả khảo sát tại địa phương, tháng 2/2019)
13 Te xúc tép
Các công cụ (bao gồm cả lưới và thuyền, bè) đề cập ở trên cho thấy ở vùng biển
Trà Cổ, người dân chỉ khai thác, đánh bắt cá biển ở các khu vực gần bờ. Nếu so sánh
với các vùng biển khác từ miền Trung trở vào thì nghề đánh cá biển ở Trà Cổ ít phát
triển hơn.
Ngoài ra, hầu hết các làng nghề cá đều có cơ sở đóng thuyền vỏ gỗ phù hợp
với ngư dân trong làng. Theo nhu cầu tăng lên, các cơ sở đóng vỏ tàu gỗ cũng phát
triển rất mạnh. Công việc sửa chữa ngư cụ, ghép lưới, sửa chữa máy tàu nhỏ đều do
ngư dân và gia đình họ tự đảm nhận. Các thành viên trong gia đình ngư dân từ 5-7
33
tuổi đến 70-80 tuổi đều tinh thông và tham gia đan lưới, vá lưới, ghép lưới. Chỉ các
công việc đóng vỏ các tàu lớn trên 100CV, sửa chữa trung tu và đại tu máy, lên đà…
ngư dân mới phải đưa tàu thuyền của họ đến các cơ sở chuyên môn để sửa chữa.
Nhìn chung, thời gian qua nghề khai thác hải sản của dải ven bờ ở vùng đất Trà
Cổ đã khai thác được nhiều sản phẩm có giá trị, mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho
nhân dân địa phương góp phần cải thiện đời sống của ngư dân. Các công trình giao
thông thôn làng đang được bê tông hoá, phong trào cải tạo giếng nước và nhà tắm, nhà
vệ sinh được chính quyền quan tâm tới từng cộng đồng dân cư ven biển, làm cho cuộc
sống của cư dân bớt phần lạc hậu đi nhiều.
Song, từ kết quả điều tra thực tế đời sống của nhiều ngư dân tại Trà Cổ, chúng
tôi nhận thấy bối cảnh phát triển kinh tế biển ở Trà Cổ đang nảy sinh một số vấn đề
đáng quan tâm về sự phát triển bền vững của nghề biển, liên quan đến các khía cạnh
kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Tại khu Đông Thịnh, những ngư dân được hỏi
đều cho chúng tôi biết họ gặp nhiều khó khăn trong việc khai thác nghề biển: 57,4% số
hộ cho rằng thời tiết không thuận tiện; 42,6% số hộ thừa nhận do nguồn tài nguyên dần
cạn kiệt ít ra từ 2-3 lần so với cách đây 20 năm; 41,2% cho rằng do thiếu vốn [105].
Tựu chung lại, chúng tôi cho rằng nhưng thách thức đó là:
Thứ nhất, cơ cấu nghề nghiệp có qui mô nhỏ vẫn chiếm khoảng 65% số đơn vị
thuyền nghề. Chính vì thế nên khai thác thủy hải sản ở Trà Cổ hiện nay chỉ tập trung
chủ yếu ở tuyến gần bờ, các phương tiện hiện đại, đảm bảo an toàn để khai thác ở tuyến
khơi còn thiếu đồng bộ, chủ yếu vẫn là tàu công suất nhỏ.
Thứ hai, do người dân từ lâu đã quen khai thác tự phát với quan niệm “chim trời
cá nước”, không có khái niệm “trách nhiệm” với biển nên nhiều thuyền đánh bắt t
không có chọn lọc đã làm cạn kiệt tài nguyên biển. Nhiều ngư dân dùng phương tiện
đánh bắt có tính huỷ diệt như xung điện, chất nổ, dùng các loại lưới có cỡ mắt nhỏ để
đánh bắt thủy hải sản. Công tác bảo vệ hệ sinh thái và nguồn lợi hải sản chưa được
quan tâm thường xuyên. Nhiều loại cá quý ở Trà Cổ như cá dìa, cá mòi, cá cánh diều,
cá song lớn…hầu như cạn kiệt.
Thứ ba, vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu, mực nước biển dâng cao ngày càng
diễn biến phức tạp. Đặc biệt nhiệt độ tăng làm cho nguồn lợi thủy hải sản bị phân tán,
các loài cá nhiệt đới kém giá trị kinh tế tăng lên, các loài cá cận nhiệt đới có giá trị kinh
34
tế cao bị giảm đi hoặc mất hẳn và cá ở các rạn san hô đa phần bị tiêu diệt, từ đó làm
thu hẹp ngư trường đánh bắt và sản lượng đánh bắt.
Nhiều ngư dân đánh cá ven bờ ở khu Đông Thịnh do kinh tế khó khăn nên trang
bị ngư cụ đánh bắt hải sản còn thô sơ như lưới cào, lưới bén, te xiệp… nên sản lượng
thu được ít. Để mưu sinh, họ kết hợp làm nông nghiệp hoặc làm thuê, làm mướn. Nhiều
người có vốn và sức lực thì đóng thuyền lớn ra khơi xa
Như vậy, để hoạt động khai thác thủy hải sản bền vững, ngư dân ở Trà Cổ cần
có ý thức bảo vệ tài nguyên biển, không nên chỉ dừng lại ở con số sản lượng khai thác
được mà còn phải nhìn vào cách khai thác trong bao lâu sẽ cạn kiệt tài nguyên. Do đó,
một chiến lược biển để thành công, hiệu quả, đạt được sự phát triển bền vững cần được
các cấp chính quyền, đoàn thể, tổ chức ở Trà Cổ nói riêng và cả nước nói chung quyết
tâm thực hiện, có tính giao truyền, kế thừa đồng bộ. Đã đến lúc những cư dân ven biển
như ở Trà Cổ cần nhìn nhận lại vấn đề biển một cách toàn diện mới có thể đưa Việt
Nam trở thành quốc gia “giàu từ biển, mạnh lên từ biển”.
2.1.2. Hoạt động nuôi trồng thủy hải sản
Phát huy những lợi thế của địa hình, bên cạnh đánh bắt thủy hải sản tự nhiên,
nhiều cư dân kết hợp trồng lúa nước và khoanh vùng nuôi thủy sản. Ao, hồ, đầm phá
không chỉ nuôi và cung cấp nguồn thức ăn cá tôm cho họ mà còn phục vụ cho thị
trường. Việc nuôi thủy sản đã đem lại nguồn lợi lớn cho cư dân và các doanh nghiệp ở
Trà Cổ. Bởi vậy, nhiều khi họ vẫn đưa lên vị trí hàng đầu“nhất canh trì, nhì canh viên,
ba canh điền”. Một số dạng nuôi trồng tồn tại ở địa phương như nghề nuôi nhuyễn thể
đem lại hiệu quả kinh tế cao như nuôi nghêu, nuôi ốc, tu hài, nuôi trai nhân tạo, nuôi
cá lồng, cá bè.
Ngay từ những năm 1990, ở Trà Cổ đã có một số hộ gia đình nuôi tôm sú xuất
khẩu và thu được lợi nhuận cao. Đại hội Đảng bộ phường Trà Cổ lần thứ XXI (9/2000)
đã đề ra nhiệm vụ quy hoạch bãi bồi và chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp
thuận lợi sang nuôi trồng hải sản, chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng thủy hải sản theo
hướng kinh tế thị trường [2; tr.130]. Đến năm 2003, Trà Cổ đã có dự án do tỉnh đầu tư
nuôi cá lồng bè, nuôi tôm sau đó chuyển sang nuôi tôm hùm. Tuy nhiên trong dự án
này chỉ có hơn 10 hộ tham gia (đối tượng nuôi là cá hồng, cá song, tôm hùm).
35
40
34
35
31
31
30
29
28
30
27
26
26
25
23
25
21
20
16
15
15
10
8
10
5
0
1998 2003 2004 2005 2006 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
(Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên các báo cáo hàng năm của địa phương)
Biểu đồ 2.1. Số hộ gia đình chuyên canh nuôi trồng thủy sản ở Trà Cổ
Năm 2004, thực hiện Kết luận số 09-TB/TU về một số chủ trương, biện pháp
phát triển nuôi trồng thủy sản của Thị ủy, Đảng bộ phường Trà Cổ có nhiều chủ trương
khuyến khích nhân dân đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản. Do đó, phong trào nuôi trồng
thủy sản tăng nhanh (15 hộ), nhiều hộ đầu tư nuôi tôm, sò, vạng...với tổng diện tích
50
120
45ha, sản lượng đạt 34 tấn/năm, mang lại giá trị kinh tế cao [2; tr.134].
47.46
45
46.71
100
100
40
87
94
35
76
80
34.8
33.13
32.82
30
28.6
25
60
65
20
21.34
40
42
15
35
10
20
5
0
0
1998
2000
2005
2008
2010
2015
2018
Diện tích nuôi trồng (ha)
Sản lượng (tấn)
(Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên báo cáo hàng năm của Đảng bộ phường Trà Cổ)
Biểu đồ 2.2. Diện tích và sản lượng nuôi trồng thủy sản ở Trà Cổ
36
Sau khi Chính phủ ban hành Quyết định số 126/2005/QĐ-TTg về chính sách
phát triển nuôi trồng thủy hải sản trên biển và hải đảo, các hộ gia đình ở Trà Cổ đã đẩy
mạnh hoạt động nuôi trồng thủy sản. Tính hết năm 2005, diện tích nuôi trồng thuỷ sản
là 47,46ha với tổng sản lượng 2 vụ đạt trên 65 tấn [17]. Tuy nhiên bước sang năm 2006,
do thời tiết không thuận lợi, dịch bệnh tôm phát triển, lây lan khiến cho 80% số hộ bị
thua lỗ. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm này chỉ đạt 39,5ha với 23 hộ nuôi, sản lượng
đạt 58 tấn, giá trị sản lượng đạt khoảng 2 tỷ đồng, giảm so với năm 2005 [18]. Khủng
hoảng kinh tế năm 2008 đã khiến cho đầu ra ngành thủy sản gặp khó khăn, do vậy trong
năm này chỉ có 21 hộ tham gia nuôi trồng với diện tích là 33,13ha nhưng sản lượng lại
tăng, đạt 87 tấn [2; tr.151]. Năm 2009, tổng số hộ nuôi trồng là 31 hộ, tăng so với năm
2008 là 10 hộ. Diện tích 34,8ha tăng 1,67ha so với năm 2008. Các hộ nuôi trồng chủ
yếu là nuôi giống tôm trắng. Sản lượng đạt được 100 tấn, giá trị nuôi trồng thủy sản là
trên 3 tỷ đồng [19]. Quy mô nuôi trồng này vẫn được duy trì trong năm 2010. Nhưng
năm 2011, số hộ nuôi trồng hải sản giảm xuống còn 26 hộ, nguyên nhân là do một số
hộ có diện tích đầm nằm trong dự án Khu nghỉ dưỡng cao cấp của công ty than Đông
Bắc. Diện tích nuôi trồng đạt 45,5ha, sản lượng thu hoạch đạt 60 tấn, giảm so với năm
2009 và 2010 [22]. Năm 2013, diện tích nuôi trồng thuỷ sản mặc dù tăng 47,1ha nhưng
sản lượng chỉ đạt 55 tấn [23]. Năm 2014, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản là 26,1ha
và sản lượng đạt 135 tấn [24]. Đến năm 2018, số hộ gia đình tham gia nuôi trồng thủy
sản đã tăng lên 34 gia đình, diện tích nuôi trồng là 46,71ha và sản lượng đạt 94 tấn.
Từ kết quả trên, có thể thấy hoạt động nuôi trồng thủy hải sản ở Trà Cổ trong
thời gian qua đã có sự khởi sắc, mang lại nguồn thu đáng kể cho các gia đình, thể hiện
sự sáng tạo, cần cù lao động của cư dân địa phương trong điều kiện môi trường tự nhiên
ở Trà Cổ. Một điểm đáng chú ý là trong khi diện tích nuôi trồng tăng chậm thì sản
lượng và giá trị lại tăng nhanh. Điều đó cho thấy các hộ nuôi trồng đã tăng cường áp
dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất. Thực tiễn cho thấy ở một số địa phương, hình
thức nuôi quảng canh, xen canh đã, đang dần thay thế bằng hình thức chuyên canh, bán
công nghiệp hay công nghiệp. Cư dân vùng Trà Cổ đã thể nghiệm, lao động cật lực
trong việc nuôi trồng thủy sản để cung cấp cho nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên,
khách quan mà nói, hầu hết hoạt động nuôi trồng vẫn ở quy mô nhỏ và mang tính không
ổn định. So với các địa phương ven biển khác ở Quảng Ninh, hoạt động nuôi trồng
37
thủy sản ở Trà Cổ giá trị chưa cao, chưa tận dụng được tiềm năng, cơ sở để nuôi trồng
nên hiệu quả còn thấp, phụ thuộc vào thiên nhiên.
Để khai thác tốt tiềm năng kinh tế ngư nghiệp tại Trà Cổ, chúng tôi cho rằng
biện pháp cần thiết đó là phải thành lập các hội nghề để hỗ trợ cho người dân những
hiểu biết cần thiết về kinh tế ngư nghiệp, như xây dựng các tổ, nhóm học tập kinh
nghiệm, tri thức bản địa và tri thức khoa học cho người dân với sự tham gia của những
người già trong làng am hiểu tri thức dân gian và các nhà khoa học để phổ cập cho
cộng đồng ngư dân những hiểu biết cần thiết về nghề cá, về biển đảo.
2.2. Kinh tế du lịch - dịch vụ
Với địa thế thuận lợi cho phát triển du lịch, ngay tại Đại hội Đảng bộ xã Trà Cổ
lần thứ XX (20/9/1995), đã xác định phải đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế của xã
theo hướng: Du lịch - dịch vụ, nông lâm ngư nghiệp, trong đó kinh tế du lịch phấn đấu
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Kể từ đây, kinh tế du lịch của địa phương được chú
trọng đầu tư phát triển.
So với các vùng khác, Trà Cổ có những thuận lợi nhất định để có thể phát triển
du lịch. Tạo hóa đã ban tặng cho Trà Cổ một hình thể thật đẹp, một bán đảo ba mặt là
nước biển, ngày ngày sóng biển vỗ về những dải cát mịn vàng óng ánh. Bãi biển Trà
Cổ trải dài 17km, không khí trong lành, khí hậu mát mẻ. Đặc biệt, bãi biển Trà Cổ -
Bình Ngọc, đảo Vĩnh Trung - Vĩnh Thực nối liền vịnh Hạ Long hình thành một tiềm
năng du lịch rộng lớn. Đặc sản của bãi biển Trà cổ rất phong phú, đa dạng về chủng
loại như tôm, cá, mực, cua, ghẹ, ngao, sò, bàn mai, đặc biệt là ghẹ. Những con ghẹ
được đánh bắt ở vùng biển Trà Cổ khi luộc chín thịt trắng, ăn có vị thơm và đậm đà.
Trà Cổ không chỉ đẹp bởi vẻ đẹp tự nhiên mà còn đẹp bởi những nét văn hóa
truyền thống, một mảnh đất giàu tính nhân văn và mang đậm truyền thống dân tộc. Ở
đây có một hệ thống các di tích có giá trị và có lịch sử văn hoá lâu đời như: Đình Trà
Cổ, nhà thờ Trà Cổ, chùa Vạn Linh Khánh, đền Thiên Hậu Thánh Mẫu. Ngoài ra còn
có các thắng cảnh đẹp như biểu tượng ngã ba Trà Cổ - Bình Ngọc, sân golf Vĩnh Thuận,
Cụm Thông tin cổ động biên giới Sa Vĩ.
Trà Cổ cách trung tâm thương mại cửa khẩu Móng Cái 8km, nơi đáp ứng được
nhu cầu mua sắm của khách du lịch. Trà Cổ lại giáp Trung Quốc, nên có thể kết hợp
cùng tour du lịch quốc tế qua thăm Trà Cổ rồi sang thăm Trung Quốc.
38
Với tiềm năng về du lịch như đã đề cập ở trên, Trà Cổ là một trong những địa
điểm thu hút, hấp dẫn khách du lịch với các loại hình du lịch nghỉ ngơi, tắm biển, thể
thao dưới nước kết hợp tham quan di tích và lễ hội. Thế nhưng hiện nay, do chưa được
khai thác hợp lý và qui mô nên lượng khách đến với Trà Cổ còn rất ít và chưa tạo ra
được nguồn thu lớn cho địa phương.
Bảng 2.3. Số lượng khách và doanh thu từ du lịch của phường Trà Cổ
từ năm 1998 đến năm 2018
Năm
1998
2000
2002
2004
2006
2008
2010
2012
2014
2016
2018
11.420
33.281
34.623
52.000
30.982
27.662
19.214
27.200
27.253
34.553
37.148
Lượng khách
742
951
1.028
1.825
1.028
1.124
1.359
1.426
1.781
2.041
3.012
Doanh thu (triệu đồng)
(Nguồn: Ban quản lý khu du lịch Trà Cổ)
Năm 1998 - 1999, trong xu thế thực hiện đổi mới kinh tế đất nước, đời sống
nhân dân còn khó khăn nên chưa chú trọng đến du lịch. Đồng thời do tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính - kinh tế ở Đông Nam Á và Chính phủ có thay đổi một số chính
sách trong du lịch vùng biên nên số lượng khách đến Trà Cổ chỉ đạt 11.420 lượt và
doanh thu cũng khiêm tốn ở 742 triệu đồng. Căn cứ vào tiềm năng và tình hình thực tế
của địa phương, Đại hội lần thứ XXI của Đảng bộ phường Trà Cổ họp ngày 11/9/2000
đã đề ra chỉ tiêu lượng khách du lịch tăng 10%/năm. Để đạt được mục tiêu này, Đại
hội đề ra nhiệm vụ và giải pháp: Tập trung thu hút nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng và các khu vui chơi giải trí tập trung. Quy hoạch cho dân xây dựng ki-ốt làm
dịch vụ khu vực ven biển. Nâng cao chất lượng phục vụ. Phấn đấu tỷ trọng kinh tế du
lịch chiếm 50 - 55% GDP [2; tr.130].
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường lần thứ XXI, Đảng ủy tập trung
lãnh đạo chỉ đạo, kịp thời đề ra chủ trương và biện pháp phát triển dịch vụ du lịch trên
địa bàn. Tính đến hết năm 2000, khách du lịch đến Trà Cổ là 33.281 đem lại doanh thu
951 triệu cho địa phương.
Thực hiện thông báo Kết luận số 10-TB/TƯ về một số chủ trương phát triển
thương mại - du lịch - dịch vụ năm 2001 và những năm tiếp theo của Thị ủy; hưởng
ứng chương trình du lịch quốc gia “Việt Nam điểm đến thiên niên kỷ mới” do Bộ Văn
hóa - Thông tin và Tổng cục du lịch phát động, Đảng bộ xác định dịch vụ - du lịch là
ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương. Do vậy, ngành du lịch - dịch vụ có sự chuyển
39
biến tích cực về quy mô và hình thức tổ chức. Với phương châm “Nhà nước và nhân
dân cùng làm” từ năm 2001 đến hết năm 2003, Trà Cổ đã đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng gần 40 tỷ đồng. Trong đó, nâng cấp Quốc lộ 18A, giá trị 19 tỷ đồng; xây dựng
khu Trung tâm du lịch Trà Cổ trên 7 tỷ đồng; làm hệ thống đường dạo ven biển, hệ
thống điện chiếu sáng trên 10 tỷ đồng. Nhân dân tập trung, đầu tư xây dựng 22 nhà
nghỉ và 26 ki ốt bán hàng ven biển giá trị hàng chục tỷ đồng, nâng số nhà nghỉ toàn
phường lên 40 nhà, với 468 phòng. Số lượng khách đến tham quan du lịch tăng từ
36.700 lượt khách năm 2001 lên 52.000 lượt khách vào năm 2004. Phường đã phối hợp
với Công ty Du lịch, Ban Quản lý du lịch tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân nâng cao
trách nhiệm, hình thức đón tiếp khách chu đáo, an toàn. Đồng thời, mở rộng các lễ hội
truyền thống, khai thác các di tích văn hóa của địa phương như đình, chùa, nhà thờ để
thu hút khách du lịch. Doanh thu ngành Du lịch các năm đều tăng, hết năm 2004, ngành
Du lịch đã mang lại cho phường 1,825 tỷ đồng [2; tr.133].
Ngày 24/7/2005, tại Đại hội Đảng bộ phường Trà cổ lần thứ XXII (nhiệm kỳ
2005-2010) đã nhận định trong 5 năm 2001-2005, kinh tế tiếp tục tăng trưởng, hoạt
động dịch vụ - du lịch phát triển mạnh, tạo nguồn thu chủ yếu cho ngân sách địa
phương, số thu đạt cao và ổn định, năm sau cao hơn năm trước, đóng góp một phần
đáng kể cho ngân sách thị xã [2; tr.143]. Đại hội đã chỉ rõ những yếu kém, đó là chưa
tổ chức khai thác triệt để những tiềm năng, thế mạnh về du lịch, dịch vụ và đánh bắt,
nuôi trồng thủy sản trên địa bàn. Công tác quy hoạch phát triển du lịch còn chậm. Xuất
phát từ đặc điểm tình hình thực tế của địa phương, Đại hội xác định cơ cấu kinh tế của
phường là: Du lịch - dịch vụ - ngư nghiệp - nông nghiệp:“... phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của địa phương, phát
triển mạnh du lịch - dịch vụ, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong những năm tới.
Tỷ trọng du lịch trong GDP duy trì từ 70% trở lên [2; tr.146]. Để thực hiện thắng lợi
mục tiêu trên, Đại hội đề ra một số giải pháp cơ bản: Đẩy mạnh phát triển du lịch, dịch
vụ; phối hợp với các ban ngành của thị xã và với các Công ty du lịch ngoài địa bàn,
duy trì nguồn khách du lịch lâu dài.
Thực hiện Nghị quyết trên, Đảng bộ đã cụ thể hóa bằng các chương trình cụ thể.
Tuy nhiên, hoạt động du lịch năm 2005 bị ảnh hưởng mạnh do cơ sở hạ tầng chưa được
đầu tư đồng bộ, lượng khách du lịch đến Trà Cổ giảm đáng kể. Trong năm 2005 đã
40
phục vụ 33.538 lượt khách. Hệ thống ki-ốt, nhà hàng ven biển vẫn hoạt động nhưng
lượng khách thăm quan tắm biển giảm và chủ yếu tập trung ăn nghỉ ở doanh nghiệp tư
nhân nên nguồn thu của nhân dân giảm, doanh thu từ du lịch đạt 1 tỷ 450 triệu đồng,
giảm 375 triệu so với năm 2004 [17].
Bước sang năm 2006, cơ sở vật chất trang thiết bị được nâng cấp hơn. Toàn
Phường có 42 nhà nghỉ, 540 phòng, tăng 1 nhà nghỉ và 40 phòng so với năm 2005.
Năm 2006, lượng khách thăm quan, du lịch có 30.982 lượt khách, giảm 2556 lượt so
với năm 2005 (33.538). Nguồn thu từ dịch vụ du lịch giảm 500 - 600 triệu. Hệ thống
kiốt, cơ sở hạ tầng, cảnh quan môi trường ven biển luôn được quan tâm, quản lý, hoạt
động theo đúng quy định. Tuy nhiên vấn đề vệ sinh môi trường, nước thải chưa được
xử lý tốt, ảnh hưởng xấu đến môi trường khu du lịch [18].
Năm 2007 là năm toàn Đảng toàn dân tham gia cuộc bầu cử Quốc Hội khoá XII,
năm đầu tiên nước ta thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sau khi ra nhập tổ
chức Thương mại thế giới (WTO). Nền kinh tế cả nước đạt mức tăng trưởng cao nhất
trong vòng 10 năm qua (8,5%). Sự kiện Việt Nam được bầu làm Uỷ viên không thường
trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đã góp phần nâng cao vị thế của đất nước trên
trường quốc tế, chính trị, xã hội tiếp tục ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ
vững.Việt Nam vẫn được đánh giá là điểm đến an toàn, thân thiện và hấp dẫn. Đó là
những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và cho ngành du lịch nói
riêng. Trong bối cảnh chung đó, hoạt động du lịch tại Trà Cổ cũng khởi sắc. Đến hết
năm 2007 đã có 31.026 lượt khách đến tham quan du lịch [2; tr.149]. Tuy nhiên, lượng
khách đến Trà Cổ không ổn định. Do tình hình kinh tế thế giới và trong nước có những
yếu tố bất ổn, lạm phát leo thang, dịch bệnh, cùng với những thay đổi trong chính sách
du lịch của phía Trung Quốc khiến cho lượng khách đến Trà Cổ vẫn ở mức khiêm tốn.
Năm 2008 là năm diễn ra cuộc khủng hoàng tài chính toàn cầu đã tác động mạnh
mẽ cho nền kinh tế các nước, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ
phường Trà Cổ đã tập trung chỉ đạo tuyên truyền vận động nhân dân đầu tư xây dựng,
nâng cấp cơ sở hạ tầng, nhà hàng, khách sạn. Tổ chức tốt các lễ hội lịch sử văn hóa tại
địa phương để quảng bá thu hút khách du lịch. Đến năm 2008, Trà Cổ có 44 khách sạn,
nhà nghỉ với 544 phòng, tăng 86 phòng so với năm 2004. Một số khách sạn có chất
lượng tốt như Kim Hoàng, Hải Yến. Lượng khách đến Trà Cổ trong năm là 27.662
41
người, tính riêng doanh thu từ hoạt động tham quan du lịch đạt 1,124 tỷ đồng. Tổng
doanh thu các hoạt động dịch vụ - du lịch năm 2008 đạt 6 tỷ đồng. Tạo công ăn việc
làm cho hàng trăm lao động, góp phần tích cực vào công tác xóa đói giảm nghèo, phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương [2; tr.149].
Năm 2009 lượng khách đến Trà Cổ là 19.647 lượt khách, so với năm 2008 giảm
8.015 lượt khách, mức thu bình quân của mỗi hộ từ 55 - 60 triệu đồng. Tổng doanh thu
từ ngành dịch vụ-du lịch đạt 5,5 tỷ đồng, giảm từ 500 triệu đồng so với năm 2005 [19].
Bước sang năm 2010, hệ thống nhà nghỉ khách sạn được đầu tư mạnh, nhiều khách sạn
đạt tiêu chuẩn 1 sao, 2 sao. Trên địa bàn hiện có 45 khách sạn, nhà nghỉ, với 596 phòng
đang hoạt động tăng 5 nhà nghỉ với gần 100 phòng so với năm 2004. Tổng số cơ sở
kinh doanh hàng ăn uống giải khát và các dịch vụ du lịch khác là 51 cơ sở [21]. Trong
năm 2010 đã có 19.214 lượt khách. Tuy nhiên, phần lớn khách đến địa bàn là khách
nghỉ điều dưỡng và một phần còn lại nghỉ tại các nhà nghỉ doanh nghiệp, nên các nhà
nghỉ tư nhân giảm lượng khách đến lưu trú qua đêm. Doanh thu từ du lịch là 1,359 tỷ
đồng. Tổng doanh thu từ ngành dịch vụ - du lịch đạt 9 tỷ đồng [20].
Năm 2011, hoạt động du lịch sôi động hơn so với năm 2010. Lượng khách đến
thăm quan Trà Cổ đạt 25.540 lượt khách, tăng 6.326 lượt khách so với năm 2010. Tổng
doanh thu từ ngành dịch vụ du lịch đạt trên 16,5 tỷ đồng [22]. Tốc độ tăng trưởng này
vẫn được duy trì trong năm 2012 với 27.200 lượt khách và doanh thu đạt 1,426 tỷ USD.
Để thúc đẩy hơn nữa hoạt động du lịch, năm 2013 tỉnh Quảng Ninh đã ban hành nhiều
văn bản liên quan như Quyết định số 1279/QĐ-UBND ngày 20/5/2013 của UBND tỉnh
Quảng Ninh về việc phê duyệt nhiệm vụ Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng
Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 25/5/2013
của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh,
giai đoạn 2013-2020, tầm nhìn 2030. Tại địa phương, chính quyền phường Trà Cổ đã
tập trung chỉ đạo việc tuyên truyền cho các nhà hàng, khách sạn, tổ chức tốt việc đưa
đón khách đến tham quan du lịch. Tuy nhiên, đến hết năm 2013 chỉ đạt 23.937 lượt
khách, giảm 3.263 lượt khách so với năm 2012. Nguyên nhân là do tiếp tục bị ảnh
hưởng của suy thái toàn cầu, chính sách biên mậu từ phía Trung quốc, kết cấu hạ tầng
khu du lịch chưa được đầu tư đồng bộ, nên lượng khách du lịch giảm [23].
42
Đầu năm 2014, tỉnh Quảng Ninh đã phê duyệt các tuyến du lịch thành phố Móng
Cái gồm 3 tuyến du lịch với 12 điểm, trong đó riêng tuyến du lịch Trà Cổ có 6 điểm,
điều này tạo điều kiện để nghành du lịch địa phương phát triển. Đảng ủy đã tập trung
chỉ đạo triển khai công tác du lịch - dịch vụ, đón khách đến tham quan du lịch bảo đảm
an toàn, văn minh, lịch sự. Tính đến hết tháng 12/2014 lượng khách đến thăm quan du
lịch nghỉ lưu trú qua đêm đạt đạt 27.000 lượt. Tổng doanh thu từ dịch vụ - du lịch đạt
29,5 tỷ đồng [24]. Do tình hình căng thẳng trên Biển Đông, tình hình kinh tế thế giới
và trong nước còn gặp nhiều khó khăn, việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho du lịch - dịch vụ
chưa được đồng bộ, nên đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Do vậy, lượng khách đến du lịch năm 2015 lại giảm 25.145 lượt và tổng doanh thu từ
các khoản dịch vụ du lịch là 28,5 tỷ đồng [25].
Từ năm 2016 đến năm 2018, tình hình quốc tế và trong nước diễn biến phức tạp,
biến đổi bất thường của thời tiết, đặc biệt là dịch cúm H1N1, H5N1; sự thay đổi chính
sách của Trung Quốc nhất là vấn đề cấp thẻ du lịch cho khách du lịch Trung Quốc,
chính sách biên mậu; việc thay đổi một số cơ chế, chính sách của Nhà nước ta đã ảnh
hưởng tới hoạt động dịch vụ du lịch tại địa phương. Tuy nhiên, trong thời gian này hệ
thống đường biên giới, đường vành đai biên giới được đầu tư hoàn thiện, đặc biệt là
tuyến đường: Lục Lầm - Tục Lãm - Núi Tổ Chim - Sa Vĩ tạo điều kiện đi lại thuận tiện
hơn. Do đó lượng khách du lịch đã tăng từ 34.553 lượt khách (2016) lên 37.148 lượt
(2018). Tính riêng doanh thu từ tham quan, du lịch đã tăng từ 2,041 tỷ đồng (2016) lên
3,012 tỷ đồng (2018) [26].
Thành phần khách du lịch
Năm 2018
Năm 2000
60.1
58.6
16.5
14.6
8.1
9.3
15.3
17.5
Châu Âu, Bắc Mỹ và Úc
Trung Quốc
Những quốc gia châu Á khác
Khách nội địa
(Nguồn: Ban quản lý khu du lịch Trà Cổ)
43
Biểu đồ 2.3. Thị phần khách du lịch chia theo quốc tịch đến Trà Cổ (ĐVT: %)
Qua biểu đồ 2.3, chúng ta thấy Châu Âu, Bắc Mỹ và Úc chiếm từ 15 đến 16%
lượng khách du lịch. Hầu hết khách du lịch đến từ những vùng này là những khách du
lịch tiết kiệm hoặc những người trung tuổi khá giả đi du lịch một mình hoặc theo tour,
thích được ở trên tàu thuyền, du lịch sinh thái với tự nhiên và trải nghiệm văn hóa tại
địa phương. Họ thường du lịch vào thời gian giữa tháng 10 và tháng 4.
Khách Trung Quốc chiếm 9-15% tổng lượng khách du lịch và đang tăng trưởng
nhanh chóng. Hầu hết khách du lịch là những người khá giả trong những tour du lịch
theo nhóm, là những người thích ở những nơi bình dân trên đất liền với những hoạt
động mua sắm và thường đi du lịch vào thời gian giữa tháng 10 và tháng 4.
Những quốc gia Châu Á khác chiếm từ khoảng 8 đến 18% tổng lượng khách du
lịch. Khách du lịch từ những quốc gia này khá tương đồng với khách du lịch đến từ
Trung Quốc ngoại trừ việc họ thích những nơi ăn nghỉ tầm trung.
Thị trường nội địa Việt Nam chiếm từ 58 - 60% tổng lượng khách du lịch. Họ
có thể đi du lịch một mình hoặc theo nhóm và thường đi du lịch vào mùa hè và những
kỳ nghỉ lễ, đặc biệt là vào mùa xuân.
Như vậy, với nguồn tài nguyên du lịch phong phú, hấp dẫn, hoạt động du lịch
của Trà Cổ trong hai mươi năm qua đã có sự phát triển, đem lại doanh thu không nhỏ
cho địa phương và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Trên cơ sở khảo sát
thu nhập một năm của 20 hộ gia đình kinh doanh các hoạt động liên quan đến dịch vụ
du lịch tại địa phương, chúng tôi có kết quả sau (số liệu năm 2000 là ước tính của các
hộ gia đình):
Bảng 2.4. Thu nhập của 20 hộ gia đình kinh doanh dịch vụ du lịch tại Trà Cổ
STT Mức thu nhập 2018 Ghi chú 2000
30 - 50 triệu 11 hộ - 1
50 - 70 triệu 6 hộ - 2
70 - 100 triệu 2 hộ 9 hộ 3
100 - 120 triệu 1 hộ 8 hộ 4
>120 triệu - 3 hộ 5
(Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả, tháng 12/2018)
Tổng số hộ 20 hộ 20 hộ 6
44
Trừ đi các yếu tố lạm phát, trung bình số hộ gia đình có thu nhập trên 70
triệu/năm đã tăng 50%. Mặc dù số liệu trên không phản ánh toàn bộ về hoạt động kinh
doanh du lịch của tất cả các hộ gia đình tại Trà Cổ nhưng nó đã phản ánh xu thế phát
triển đi lên của thành phần kinh tế mũi nhọn tại địa phương này. Một thành quả khác
mà ngành du lịch đem lại đó chính là hệ thống cơ sở hạ tầng tại Trà Cổ trong 20 năm
qua đã có sự đầu tư nhất định, tạo ra cảnh quan đô thị và bộ mặt mới trong đời sống cư
dân nơi đây. Một số tuyến đường giao thông quan trọng của địa phương đã được đầu
tư nâng cấp, mở rộng như tuyến Nam Thọ - Sa Vĩ dài 7,5 km, tuyến đường liên xã Trà
Cổ- Bình ngọc dài 1,5 km, 3 tuyến nội khu (Khu Nam Thọ, Khu Đông Thịnh dài trên
(800m) với kinh phí đầu tư hàng chục tỷ đồng; các phương tiện giao thông đa dạng,
hiện đại đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa, phát triển du
lịch- dịch vụ trên địa bàn [25]. Các công trình trọng điểm khác như hạ tầng khu du lịch,
trụ sở phường, điểm bưu điện văn hoá, nhà bia tưởng niệm, nhà ghi dấu Bác Hồ về
thăm Trà Cổ, xây dựng, sửa chữa các công trình văn hoá, tín ngưỡng và hàng trăm ngôi
nhà cao tầng, nhà hàng khách sạn của nhân dân được xây dựng mới, làm cho bộ mặt
của phường thay đổi nhanh chóng, từ một phường thuần nông đã nhanh chóng hình
thành vóc dáng của một phường đô thị phát triển theo hướng dịch vụ - du lịch và thực
hiện nểp sống văn minh đô thị, hiện đại.
Tuy nhiên, khách quan mà nói hoạt động kinh tế du lịch của Trà Cổ chưa mang
tính ổn định và cũng chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh vốn có của địa
phương. Lượng khách và doanh thu thất thường qua các năm là minh chứng rõ nhất
cho điều này. Có nhiều lý do dẫn đến thực trạng này, chúng tôi cho rằng có những
nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, công tác quản lý chưa có sự quan tâm đồng bộ để khai thác hết các
tiềm năng vốn có tại địa phương. Ví dụ như di tích lịch sử là một yếu tố vô cùng quan
trọng để hình thành nên các tour tuyến du lịch. Di tích lịch sử là một tài nguyên có thể khai
thác quanh năm và không bị ảnh hưởng của tính mùa vụ. Và tại Trà cổ, các di tích cũng
đã được đưa vào khai thác phục vụ cho du lịch, nhưng nó chưa phải là điểm đến chính mà
chỉ là kết hợp với du lịch tắm biển. Thậm chí có nhiều tour du lịch, khách chỉ đi tắm biển
chứ không đi thăm các di tích kể trên. Đồng thời mỗi di tích đều gắn liền với một lễ hội
truyền thống như đã giới thiệu ở trên nhưng khách du lịch chưa biết đến nhiều và chưa
45
tham gia vào lễ hội. Có thể do sự không thuận lợi về địa lý và giao thông nên đây vẫn chưa
là lựa chọn đầu tiên của khách du lịch. Như vậy địa phương cũng chưa có chính sách khai
thác triệt để những di tích này cho hoạt động du lịch.
Thứ hai, hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, chưa
đáp ứng được đầy đủ nhu cầu ăn, nghỉ và vui chơi giải trí của khách du lịch: Bãi tắm
Trà Cổ là bãi tự nhiên, chưa có sự can thiệp của bàn tay con người. Sự hoang sơ của
bãi biển cũng là một nét hấp dẫn du khách. Tuy nhiên, khảo sát tại địa phương chúng
tôi nhận thấy Trà Cổ mới chỉ đáp ứng được nhu cầu tắm biển của khách chứ các dịch
vụ khác chưa được khai thác hợp lý để đáp ứng nhu cầu của khách khi đến du lịch. Có
quá ít các quán hàng giải khát, ô che nắng và bàn ghế cho khách nghỉ ngơi, ngắm biển.
Cũng rất ít cửa hàng bán đồ lưu niệm, hàng tiêu dùng, dịch vụ giải trí để đáp ứng nhu
cầu của khách hàng. Điều đó làm hạn chế số ngày lưu trú của khách ở Trà Cổ. Do vậy,
để phát triển du lịch bền vững đòi hỏi các ngành, các cấp ở Trà Cổ phải có chiến lược
quy hoạch vừa đảm bảo giữ nguyên vẻ đẹp hoang sơ thiên nhiên đã ban tặng cho Trà
Cổ, vừa khai thác mở rộng các dịch vụ du lịch, hàng hóa để thu hút được khách ở lại
lâu hơn và kích thích nhu cầu tiêu dùng của khách, mang lại doanh thu cho người dân
và địa phương.
Các khách sạn, nhà nghỉ có quy mô nhỏ nên chưa chú ý đến công tác xúc tiến,
quảng bá, tiếp thị, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bán toàn cầu nên khả
năng thu hút khách quốc tế còn hạn chế. Đối với những khách hạng sang, họ ra Trà Cổ
và muốn nghi ngơi qua đêm ở Trà Cổ để hưởng không khí trong lành vào ban đêm ở
nhưng các phòng nghỉ ở đây chưa đáp ứng được nhu cầu của họ nên họ thường vào
Móng Cái ăn nghỉ. Theo như một số khách sạn ở đây cho biết, đến thời điểm khoảng
tháng 4 thì hầu như các khách sạn lớn ở đây đã được đặt trước hết phòng. Những khách
du lịch đến sau đều phải vào Móng Cái đặt phòng.
Trà Cổ đã có đường điện lưới Quốc Gia 2KV và 100% dân cư được sử dụng
điện. Tuy nhiên hệ thống điện công cộng chưa được đầu tư nhiều và còn hạn chế. Là
một khu du lịch nhưng qua thực tế hiện nay cho thấy điện thắp sáng ngoài đường lớn
và dưới bãi biển thiếu ổn định, hay gặp sự cố. Việc không có điện trên đường phố cũng
như trên bãi biển ảnh hưởng lớn đến mỹ quan của Trà Cổ. Trên bờ biển cũng chưa có
hệ thống các thùng đựng rác và các bảng chỉ dẫn khách. Đây là một hạn chế rất lớn
46
trong việc quy hoạch tổ chức khai thác bãi biển. Hiện nay ở đây mới có hệ thống nước
ngầm phục vụ cho đời sống sinh hoạt của người dân cũng như sinh hoạt của khách du
lịch chứ chưa có hệ thống nước máy sạch. Ở Trà Cổ cũng chưa có hệ thống thoát nước,
xử lý nước thải và rác. Đây có thể là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến cảnh quan trong
một tương lai gần nếu như không có kế hoạch cụ thể.
Thông thường khách du lịch đến Trà Cổ chủ yếu bằng đường bộ vì có thể ghé
qua nhiều nơi khác của Quảng Ninh như Vịnh Hạ Long, đền Cửa Ông. Mặc dù quốc lộ 18
đã được đầu tư nâng cấp nhưng hiện nay con đường này đang được sửa chữa lớn, đặc biệt
là đoạn Mông Dương - Móng cái để tạo thành tuyến đường cao tốc Nội Bài – Móng Cái.
Trước mắt gặp một số khó khăn hơn do đường hẹp, dễ gây tắc đường, vào ngày mưa thì
rất trơn, còn nắng thì có nhiều đoạn rất bụi. Nếu đi vào trời mưa thì rất nguy hiểm vì 2 bên
đường có rất nhiều vực sâu. Và đây cũng là lý do chủ yếu làm giảm đi sự hấp dẫn của Trà
Cổ và chưa phải là lựa chọn ưa thích của du khách.
Thứ ba, nguồn nhân lực phục vụ hoạt động du lịch còn hạn chế: Đội ngũ kinh
doanh và cán bộ quản lý ở cơ sở kinh doanh này hầu hết chưa được đào tạo bài bản
chuyên nghiệp. Nhân viên tại các nhà hàng và khách sạn có kỹ năng phục vụ và khả
năng giao tiếp ngoại ngữ còn thiếu và yếu. Điều này thật sự gây bất lợi cho khách du
lịch. Tại các di tích lịch sử, văn hóa tình trạng cũng tương tự, qua khảo sát chúng tôi
nhận thấy do quy mô còn nhỏ nên không có hướng dẫn viên. Nếu đoàn khách nào có
hướng dẫn viên đi kèm thì cũng chỉ hiểu được sơ qua lược sử và kiến trúc của công
trình chứ chưa thực sự thấy được ý nghĩa cũng như giá trị thực của di tích. Điều này
làm cho khách chỉ đến thăm cho biết chứ ít người muốn quay lại vào những lần sau.
Sự hiểu biết về di tích không phải ai cũng nắm được chính xác vì di tích ra đời đã lâu.
Chỉ có những người già trong làng biết được, ngay đến cán bộ tại phường Trà Cổ cũng
không hiểu rõ và chưa nhận thức đúng đắn vai trò của di tích đối với phát triển du lịch.
Thứ tư, các dịch vụ giải trí phục vụ khách du lịch thiếu. Ở Trà Cổ có khu nghỉ
dưỡng cao cấp tại Tràng Vỹ và sân golf quốc tế 18 lỗ dành cho người nước ngoài và
những khách du lịch hạng sang đã đi vào hoạt động khá hiệu quả trong thời gian đầu.
Tuy nhiên, ngoài hệ thống vui chơi giải trí này thì hầu như chưa có khu vui chơi, giải
trí nào khác. Khách du lịch muốn giải trí và mua hàng hóa phải vào Móng Cái.
Để du lịch Trà Cổ phát triển bền vững, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi
47
thế, du lịch Trà Cổ cần đẩy mạnh thực hiện tốt một số giải pháp chung sau: Thứ nhất,
cần xác định được vị trí, vai trò của du lịch Trà Cổ trong sự phát triển kinh tế của thành
phố nói riêng và tỉnh nói chung. Trên cơ sở đó cần xây dựng Trà Cổ thành một điểm
quan trọng nằm trong chương trình du lịch: Du thị (Móng Cái) du ngoại (Trung Quốc)
- du hải (biển Trà Cổ và Bình Ngọc) - du sơn (du lịch sinh thái). Thứ hai, từ thực tiễn
phát triển du lịch hiện nay, đi sâu nghiên cứu, đánh giá các loại sản phẩm du lịch, mô
hình phát triển du lịch hoạt động hiệu quả, phù hợp ở Trà Cổ để từ đó không ngừng
hoàn thiện nâng cao chất lượng, luôn luôn tạo ra nét mới, tạo sức hấp dẫn đối với khách
du lịch. Thứ ba, phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, vui chơi, giải trí, thể thao phù
hợp với điều kiện lợi thế tự nhiên của địa Trà Cổ. Thứ tư, tạo môi trường thật sự thông
thoáng, thuận lợi thu hút đầu tư đồng bộ, kết cấu hạ tầng giao thông, điện nước gắn
với phát triển cây xanh, thực hiện tốt chính sách ưu đãi đầu tư. Thứ năm, đẩy mạnh
công tác giáo dục bồi dưỡng ý thức phát triển du lịch, nâng cao trình độ dân trí, năng
lực giao tiếp, ứng xử của nhân dân, trước hết là ở các khu dân cư trong vùng du lịch và
những lĩnh vực thường xuyên quan hệ với du khách.
Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh, mạnh, bền vững. Từ
1 nhà cung cấp dịch vụ năm 2005 đến năm 2008 đã có 3 đơn vị cung cấp dịch vụ viễn
thông (Vinaphone, Mobifone, Viettel). Cơ sở hạ tầng bưu chính viễn thông được đầu
tư có hệ thống cáp quang dung lượng lớn bảo đảm cung cấp đủ nhu cầu của nhân dân,
thông tin liên lạc luôn được thông suốt. Hiện nay trên địa bàn đã lắp đặt 6 trạm thu phát
sóng viễn thông, đảm bảo sóng di động phủ khắp địa bàn. Năm 2005, điện thoại cố
định mới đạt 40 máy/100 hộ dân, đến 2008 có 1192 thuê bao đạt 98 máy/100 hộ dân.
Điện thoại di động hầu như gia đình nào cũng có [2; tr.15].
Dịch vụ tài chính ngân hàng có bước phát triển mạnh. Năm 2005 chỉ có 1 chi
nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hoạt động nhận gửi tiền tiết kiệm
và cho nhân dân vay vốn. Đến năm 2009 có 2 chi nhánh ngân hàng hoạt động trên địa
bàn phường là: Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Chính
sách xã hội. Các nguồn vốn của ngân hàng cho nhân dân vay được quản lý tốt, cho vay
đúng đối tượng, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Đóng góp tích cực cho sự phát
triên kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo của địa phương [21].
48
2.3. Kinh tế nông nghiệp
Trồng trọt
Mặc dù nông nghiệp chiếm tỷ trọng không cao trong cơ cấu kinh tế nhưng luôn
được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phường Trà Cổ đã được tỉnh đầu tư
nguồn vốn để xây dựng, sửa chữa, kiên cố hóa kênh mương, đảm bảo nguồn nước tưới
cho sản xuất nông nghiệp, cung cấp đầy đủ giống mới có năng suất cao. Ngay từ năm
2000, Đại hội lần thứ XXI của Đảng bộ phường Trà Cổ đã đề ra chỉ tiêu sản lượng lương
thực quy thóc 130 - 140 tấn/năm. Đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo
hướng sản xuất hàng hóa phục vụ du lịch. Trồng và nuôi các loại cây, con có giá trị kinh
tế cao. Phấn đấu diện tích gieo trồng hàng năm đạt 55ha [2; tr.130].
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng khoá IX về
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 và
Nghị quyết số 01-NQ/TU về việc tổ chức triển khai các mô hình đã thành công vào sản
xuất đại trà, thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ trong nông nghiệp
của Thị uỷ, Đảng bộ phường tập trung chỉ đạo nhân dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
cơ cấu mùa vụ, tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tổng diện tích gieo
trồng từ 65,6ha năm 2001 tăng lên 69,6ha vào năm 2004. Năng suất lúa tăng từ 25 tạ/ha
năm 2001 lên 45 tạ/ha năm 2004. Sản lượng lương thực tăng từ 50 tấn năm 2001 lên 80
tấn năm 2004. Với chính sách “dồn điền, đổi thừa” nhiều nông dân đã phát triển kinh tế
trang trại đạt hiệu quả kinh tế cao [2; tr.134].
Đến Đại hội Đảng bộ phường Trà Cổ lần thứ XXII (2005) lại xác định trong
nhiệm kỳ tới giá trị nông nghiệp phải tăng 5%/năm. Đại hội quyết định chuyển dịch cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển nông nghiệp toàn diện, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nông dân. Do đó, sản xuất nông nghiệp tiếp tục được quan tâm, đầu
tư. Các cấp chính quyền tăng cường công tác khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật, đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, triển khai Đề án cánh đồng 30 triệu
đồng/ha/năm. Diện tích trồng lúa năm 2005 đạt 18,65ha, diện tích rau màu đạt 20ha,
sản phẩm chủ yếu phục vụ tiêu dùng địa phương [17]. Tuy nhiên, quy mô trồng trọt
này đã không được duy trì trong năm 2006, diện tích gieo trồng năm này chỉ đạt 24ha,
sản lượng lương thực quy thóc đạt 64 tấn. Việc triển khai thí điểm cánh đồng 30 triệu
49
đồng/ha/năm chưa đem lại hiệu quả kinh tế, do chưa có hệ thống thuỷ lợi tưới tiêu [18].
Đến năm 2007 giá trị sản lượng cánh đồng 30 triệu đồng/ha/năm đạt gần 30 triệu
đồng/ha. Tuy nhiên, việc mở rộng diện tích cánh đồng 30 triệu đồng/ha/năm gặp nhiều
khó khăn do diện tích đất nông nghiệp của phường không có hệ thống thuỷ lợi, không
chủ động được nguồn nước tưới tiêu, do đó chỉ canh tác ở những vùng đất thấp và chỉ
canh tác được 2 vụ/năm [2; tr.151].
Năm 2009, diện tích gieo trồng cả năm đã tăng lên đáng kể, đạt 68,9 ha, trong
đó lúa chiếm 32,2 ha. Bình quân năng suất 3,5 tấn/ha. Tổng sản lượng là 112,7 tấn với
giá trị là 676 triệu đồng. Diện tích khoai lang là 6,7ha, tổng sản lượng đạt 53,6 tấn với
giá trị là 134 triệu đồng. Diện tích trồng lạc là 5 ha, năng suất bình quân là 6 tạ/ha với
giá trị 18 triệu đồng. Diện tích trồng rau các loại là 14ha, năng suất bình quân 8 tạ/ha,
tổng sản lượng đạt 1,1 tấn với giá trị là 55 triệu đồng. Diện tích trồng dưa hấu 11ha,
năng suất là 10 tấn/ha, giá trị là 220 triệu đồng. Tổng giá trị thu nhập của các hộ nông
nghiệp đến năm 2009 là 1,1 tỷ đồng [19]. Kể từ đây, sản lượng và giá trị sản xuất ngành
nông nghiệp của Trà Cổ đã duy trì mức tăng ổn định.
ĐVT: Tỷ đồng
Bảng 2.5. Giá trị sản xuất nông nghiệp của Trà Cổ (2009 - 2015)
1,076
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Năm
(Nguồn: Báo cáo hàng năm của Đảng ủy phường Trà Cổ)
1,1 2,5 3,1 3,6 3,8 3,93 4,03 4,2 4,37 Giá trị
Năm 2010, Đảng ủy chỉ đạo đẩy mạnh chuyến dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi,
nhằm tận dụng và sử dụng hiệu quả tối đa diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn. Diện
tích gieo trồng cả năm thực hiện 36,2ha. Tổng giá trị ngành nông nghiệp đạt 1 tỷ 076
triệu đồng, giảm 24 triệu so với năm 2009. Việc triển khai đề án cánh đồng 30 triệu
đồng/ha/năm bước đầu đã đem lại hiệu quả kinh tế. Năm 2011, tổng diện tích gieo
trồng trong năm là 39,76 ha, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt trên 2,5 tỷ đồng, tăng 1,5
tỷ đồng so với năm 2010 [22]. Năm 2012, giá trị sản xuất nông nghiệp có bước nhảy
vọt khi đạt 3,1 tỷ. Năm 2013, tổng diện tích gieo trồng tăng lên đạt 54,5ha, và giá trị
ngành nông nghiệp đạt 3,6 tỷ đồng [23]. Từ năm 2015 đến năm 2018, hàng năm, gieo
trồng đạt trung bình 54 ha, sản lượng lương thực quy thóc bình quân đạt 104 tấn/năm.
Nhiều năm qua, mặc dù rất chú trọng sản xuất lương thực nhưng do điều kiện tự nhiên,
50
khí hậu, đất đai còn nhiều hạn chế nên sản lượng lương thực bình quân đầu người của
170.3
180
145.6
160
135.9
131.2
127.8
127.6
125.7
140
120
100
80
60
40
20
0
1998
2000
2005
2008
2010
2015
2018
Sản lượng (kg)
phường tăng không đáng kể.
(Nguồn: Số liệu báo cáo hàng năm UBND phường Trà Cổ)
Biểu đồ 2.4. Sản lượng lương thực bình quân đầu người của phường Trà Cổ
Qua biểu đồ có thể thấy sản lượng lương thực bình quân đầu người của phường
Trà Cổ tăng chậm và không ổn định qua các giai đoạn. Có thể nói rằng kinh tế trồng
trọt ở Trà Cổ trong thời gian qua mặc dù có sự chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung
vẫn là một lĩnh vực kinh tế nhỏ bé, chỉ đơn thuần phục vụ cho nhu cầu tự túc của nhân
dân địa phương. Chúng tôi cho rằng nguyên nhân chính là do cơ cấu chưa phù hợp,
còn quá coi trọng sản xuất lúa trong khi thế mạnh của Trà Cổ là cây thực phẩm các
loại. Người dân chưa mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chưa tích cực đưa giống
mới vào sản xuất. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp còn thiếu, trình độ
thâm canh chưa cao, sản xuất nông nghiệp còn bấp bênh phụ thuộc vào thời tiết, khí
hậu nên thu nhập thấp, đời sống khó khăn. Do vậy, chúng tôi cho rằng trong sinh kế
của người dân Trà Cổ, bên cạnh phát triển các loại cây trồng truyền thống, cần chọn
lựa các loại cây trồng chịu được khô hạn trên vùng cát nhưng có giá trị kinh tế như
hành, tỏi, chanh không hạt.
Chăn nuôi: Cùng với áp dụng khoa học kỹ thuật, địa phương cũng đã lựa chọn
giống gia súc, gia cầm, chất lượng cao đưa vào chăn nuôi. Năm 2004 đàn lợn có 1500
con, đàn trâu bò có 208 con, đàn gia cầm 3.326 con [2; tr.134]. Năm 2006, công tác
tiêm phòng vắc xin, phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm tiếp tục được quan
51
tâm chỉ đạo, đảm bảo duy trì số lượng đàn gia súc, gia cầm. Đàn trâu, bò là 128 con,
đàn lợn là 1015 con, đàn gia cầm là1370 con [17].
Năm 2009, hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm tăng trưởng khá. Tổng đàn gia
súc, gia cầm trên địa bàn là 2170 con, so với cùng kỳ năm 2008 tăng 329 con. Tuy
nhiên do đặc thù của địa phương không có diện tích chăn thả do đó chủ yếu là chăn
nuôi nhỏ lẻ, không có mô hình tập trung, quy mô lớn [19]. Năm 2010, tổng đàn gia súc,
gia cầm hiện có trên địa bàn là 2350 con. Năm 2011, tổng số đàn gia súc, gia cầm là
2993 con, trong đó: đàn trâu là 48 con, đàn bò là 119 con, đàn lợn là 805 con, gia cầm
là 2021 con. Trong năm đã tổ chức tiêm phòng vác xin cho đàn gia súc được 162 con,
gia cầm 1300 con, 162 liều vacxin [22]. Năm 2013, tổng đàn gia súc, gia cầm là 4745
con, trong đó đàn gia súc là 642 con, gia cầm 4100, thực hiện tốt quy trình an toàn vệ
sinh thú y, đảm bảo cung ứng nguồn thực phẩm an toàn phục vụ nhu cầu tiêu dùng của
nhân dân [23]. Năm 2014, tổng đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn 6650 con (chủ yếu
tăng số lượng đàn gia cầm) [24]. Tuy nhiên, hoạt động chăn nuôi có xu hướng giảm
dần vì số lượng và diện tích đất đồng cỏ phục vụ chăn nuôi bị giảm do làm sân golf
Vĩnh Thuận. Tổng số gia súc, gia cầm trên địa bàn năm 2018 giảm xuống chỉ còn 3.998
con.
Bên cạnh các hoạt động kinh tế kể trên, tại Trà Cổ cũng có một số hoạt động
kinh tế khác, là các tiểu thương buôn bán nhỏ, thợ hồ, thợ xây, công nhân viên
chức…nhưng chỉ chiếm số lượng ít trong dân cư (khoảng 0,3% dân số). Ngoài ra nhiều
hộ gia đình chuyên về khai thác thủy hải sản thường gắn với các hoạt động dịch vụ như
đóng và sửa chữa tàu thuyền, sản xuất và cung cấp nước đá, cung cấp vật tư phục vụ
cho sản xuất thuỷ sản như dầu nhớt, phụ tùng máy, hàng tạp hoá. Nhưng chỉ dừng lại
ở việc phục vụ nhu cầu tối thiểu của người dân địa phương.
Tóm lại, phân tích hoạt động kinh tế của cư dân phường Trà Cổ giai đoạn 1998
- 2018, chúng ta nhận thấy trong quá trình thích nghi với môi trường, để sinh tồn, người
dân nơi đây đã phát triển nhiều ngành kinh tế khác nhau. Mỗi lĩnh vực kinh tế không
chỉ mang những giá trị đặc trưng, tạo nên nét riêng trong sản xuất và đời sống hằng
ngày của cư dân vùng biên đảo nơi đây mà quan trọng hơn đã tạo bước chuyển biến
mạnh mẽ về chất lượng cuộc sống của nhân dân. Qua khảo sát 50 hộ gia đình dân cư
52
tại địa phương, 100% số hộ gia đình cho rằng so với 10 - 20 năm trước đây, mức thu
và chi của gia đình đã tăng lên rất nhiều, số liệu cụ thể như trong bảng:
Bảng 2.6. Phương tiện phục vụ đời sống trong gia đình ở Trà Cổ (2018)
Tên phương tiện Tivi Dàn âm thanh Máy tính Bếp ga Bếp điện Điện thoại di động Tỷ lệ Tên phương tiện Tủ lạnh 98 44 Bình nóng lạnh 31 Xe máy 67 Máy giặt 25 Oto 100 Máy móc sản xuất
ĐVT: % Tỷ lệ 72 23 96 11 3 67
(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, tháng 12/2018)
Khảo sát cho thấy 80% số hộ gia đình điều tra có tivi, bếp ga, điện thoại di động,
tủ lạnh, xe máy, máy móc sản xuất. Những phương tiện hiện đại như máy tính, bếp
điện, máy giặt, ô-tô chiếm tỷ lệ ít nhưng đã xuất hiện trong đời sống cư dân nơi đây.
Đó là minh chứng cho thấy đời sống vật chất cư dân phường Trà Cổ đã có sự chuyển
biến rõ rệt so với giai đoạn trước.
Tiểu kết chương 2
Từ năm 1998 đến năm 2018 đời sống kinh tế của cư dân Trà Cổ có sự khởi sắc.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, cùng với sự phát triển của kinh
tế ngư nghiệp và nông nghiệp, kinh tế du lịch - dịch vụ được xác định là ngành kinh tế
mũi nhọn được chú trọng phát triển. Do sự phát triển về kinh tế, đời sống của nhân dân
không ngừng được cải thiện, số hộ khá, giàu tăng nhanh; số hộ nghèo, đói giảm. Từ
một xã vào những năm 60 có đến gần 30-40% số hộ nghèo thì đến nay trên địa bàn
phường chỉ còn 1,1% hộ nghèo [2; tr.16]. Sự phát triển kinh tế ở Trà Cổ đã phần nào
phát huy được lợi thế của địa phương, từng bước đem lại khởi sắc theo hướng đô thị
hóa cho Trà Cổ với hàng loạt các công trình được xây dựng như hạ tầng khu du lịch,
trụ sở phường, điểm bưu điện văn hóa, nhà ghi dấu Bác Hồ về thăm Trà Cổ, trường
học, điện thắp sáng, các dự án của các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh trên địa bàn,
các công trình phúc lợi công cộng và hàng trăm ngôi nhà cao tầng, hệ thống nhà hàng
khách sạn của nhân dân dược xây dựng mới. Bộ mặt của Phường thay đổi nhanh chóng,
hình thành vóc dáng của một phường đô thị.
53
Bên cạnh những thành tựu của quá trình phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
cho nhân dân Trà Cổ giai đoạn 1998 - 2018 diễn ra cơ bản đúng hướng và có nhiều
chuyển biến tích cực, song còn tồn tại một số hạn chế: Sự phát triển chưa phát huy hết
tiềm năng của địa phương, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành và thành phần kinh tế
diễn ra theo xu hướng tích cực nhưng chưa thể hiện tính ổn định, bền vững. Mặc dù
vậy, chúng tôi cho rằng những thành tựu vẫn là cơ bản và mang tính nền tảng. Chính
những chuyển biến trong đời sống kinh tế ở Trà Cổ trong 20 năm qua đã có tác động
lớn đến đời sống văn hóa của địa phương.
54
Chương 3
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN PHƯỜNG TRÀ CỔ (1998 - 2018)
Ở nước ta thuật ngữ “Đời sống văn hóa” được đề xướng từ Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ V của Đảng cộng sản Việt Nam (1981). Văn kiện của Đại hội đưa ra
chủ trương xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở: “Một nhiện vụ của cách mạng tư tưởng
và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đặc
biệt chú ý xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, bảo đảm cho mỗi nhà máy, công trường,
nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ
quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường, ấp, đều có đời
sống văn hóa” [16; tr.101]. Từ năm 1981 đến nay, thuật ngữ đời sống văn hóa được sử
dụng khá phổ biến trong các sách báo, trong đời sống thực tiễn, song chưa có một quan
niệm thống nhất. Đời sống văn hoá là một phạm trù rộng và có nhiều cách tiếp cận
khác nhau về thuật ngữ này, do vậy trong khuôn khổ một luận văn cao học, chúng tôi
chủ yếu khảo sát đời sống văn hóa của cư dân Trà Cổ bao gồm những hoạt động văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần cơ bản nhất và mang tính đặc trưng của vùng, miền.
3.1. Văn hóa vật chất
Ăn uống là nhu cầu thiết yếu nhằm duy trì sự sống cho con người. Nhưng ăn
uống không đơn thuần để thỏa mãn nhu cầu đói và khát, mà còn là biểu hiện của văn
hóa - văn hóa ẩm thực. Trong các yếu tố cấu thành, tạo nên văn hóa của một dân tộc,
văn hóa ẩm thực là một thành tố quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa vùng miền. Mỗi
vùng đất với những chủ nhân khác nhau sẽ có phương pháp chế biến và tổ chức bữa ăn
khác nhau và từ đó tạo nên những sắc thái văn hóa khác nhau.
Là một địa phương ven biển nên những món ăn trong văn hoá ẩm thực của cư
dân Trà Cổ mang đậm dấu ấn và hơi thở của vùng biển Đông Bắc Việt Nam. Trước
đây về cơ cấu bữa ăn, người dân Trà Cổ chỉ có hai bữa: trưa và tối. Do cuộc sống nương
nhờ biển khơi, đời sống của người dân dựa vào con thuyền, tấm lưới; biển lặng thì
“cơm đầy rá, cá đầy nồi”, biển động thì “ngừng chèo treo niêu”; công việc làm ăn đều
tuỳ thuộc vào con nước, trời bể, do đó cái ăn luôn bị thiếu thốn, khó khăn. Sống trong
hoàn cảnh cực kỳ ngặt nghèo, con người ở đây đêm lo ngày làm, vừa phải nỗ lực lao
động, vừa phải thắt bụng tính toán trong từng việc chi tiêu, ăn uống. Quan điểm ăn
uống đơn giản “có gì ăn nấy”, không cầu kỳ trong chế biến và thưởng thức cũng từ đây
55
được hình thành. Bữa ăn ngày thường chủ yếu là khoai lang hoặc cơm với mắm, rau
muống và cá tạp. Đàn ông đi biển ăn cơm nắm hoặc cơm trộn khoai với mắm, cá khô.
Tập tục dân miền biển ăn mặn “dưa cà mắm mặn”, mỗi bếp thường xuyên có một bồ
con đựng muối, một vại cà nén, một lọ mẻ chua. [42; tr.304].
Từ cơ cấu bữa ăn truyền thống gồm chủ yếu là cá - khoai lang độn cơm, uống
rượu trắng, hút thuốc lào; thì ngày nay những chuyển biến tích cực của nền kinh tế đã
dẫn đến những thay đổi nhanh chóng trong đời sống của nhân dân. Cơ cấu bữa ăn của
người dân biến đổi theo nhu cầu của đời sống hiện đại thể hiện sự no đủ gồm: Cơm -
thịt - cá, ngoài ra còn có thêm đồ uống rượu, bia, nước ngọt và thuốc lào, thuốc lá để
thưởng thức. Thành phần không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của người dân Trà
Cổ là cơm nấu từ gạo tẻ, các món mặn, các món xào và canh. Món mặn thường là thịt
kho, thịt rang, cá rán, tôm rang, trong đó thực phẩm phổ biến trong bữa cơm của gia
đình cư dân Trà Cổ là cá. Mặc dù, cuộc sống hiện đại, giao thương mở rộng, các nguồn
thực phẩm trở nên dồi dào, dễ kiếm nhưng thói quen, khẩu vị ăn cá và các thực phẩm
thủy hải sản của người dân vùng ven biển Trà Cổ vẫn được duy trì cho đến ngày nay.
Ngay cả các món canh rau trong bữa ăn của cư dân Trà Cổ thường được nấu cùng với
các vị hải sản như tôm, hà vừa tăng thêm vị ngọt vừa cung cấp chất đạm cho bữa ăn.
Ở vùng đất Trà Cổ, có hai món là đặc sản của địa phương, đó là ghẹ càng xanh và sam
biển. Nếu như ghẹ càng xanh Trà Cổ luôn dẫn đầu trong danh sách những loài hải sản
được dân sành ăn săn lùng nhiều nhất bởi độ thơm, ngọt, giàu chất dinh dưỡng thì sam
đủ món lại nổi tiếng bởi ngon, độc, lạ. Chúng không chỉ tạo nên tính đa dạng trong văn
hóa ẩm thực ở Trà Cổ mà còn góp phần tạo bản sắc văn hóa riêng. Cùng với đó, những
món ăn cổ truyền vẫn được người dân đặc biệt ưa thích như mắm tép, còng rang lá lốt,
cá khô…đặc biệt, do vị trí địa lí và các biến động lịch sử, cư dân Trà Cổ cũng có thói
quen ăn cháo giống người Trung Quốc.
Trước kia, gia vị được dùng trong chế biến món ăn của người dân ven biển nói
chung và ở Trà Cổ nói riêng chủ yếu là mắm và muối trắng. Trong đó, nước mắm là
một thành phần cấu trúc nên mâm cơm của người dân. Cho dù mâm cơm có dư thừa
các thành phần lương thực, thực phẩm, rau quả... nhưng nếu thiếu nước mắm (hoặc các
món chấm tương thích) thì mâm cơm sẽ mất ngon.
56
Không giống như nền kinh tế tự cung tự cấp khép kín truyền thống, chuyển sang
kinh tế hàng hóa, các loại gia vị công nghiệp luôn có sẵn, tiện lợi mà giá thành lại
không quá đắt đã làm thay đổi nhu cầu sử dụng của người dân. Đời sống hiện đại cũng
đã tác động xu hướng biến đổi khẩu vị ăn uống của người dân Trà Cổ. Trước đây dân
miền biển thường ăn rất mặn nên họ tự chế biến các loại mắm chắt, mắm cốt để ăn
uống. Nhưng ngày nay, tỉ lệ gia đình chế biến nước mắm rất ít. Các gia đình cũng sử
dụng gia vị công nghiệp như là: bột canh, tương ớt, dầu ăn, hạt nêm…
Trước đây, ở Trà Cổ cũng như bao nơi khác còn có tục ăn trầu, đàn ông vùng
biển này hút thuốc lào, uống nước chè, nước vối, rượu. Nhưng hiện nay một số phong
tục như ăn trầu còn rất ít người già tại địa phương duy trì. Về đồ uống, trước đây đàn
ông thường dùng rượu trắng trong bữa cơm và mang lên tàu trong các chuyến đi đánh
cá. Loại đồ uống đặc sản nơi đây đó là rượu ngán, khi uống ta thấy nó vừa thơm, vừa
mát. Nay các loại đồ uống còn được bổ sung thêm bia và các đồ uống có ga khác. Tuy
không thực sự thường xuyên, nhưng sự có mặt của các loại đồ uống mới này đã bắt đầu
phản ánh sự gia tăng nhu cầu hưởng thụ của người dân.
Cùng với sự thay đổi về cơ cấu bữa ăn, quan niệm và tập tục ăn uống cũng có
những biến động. Trước đây, quan niệm về ăn uống của người dân Trà Cổ từ xa xưa
vốn rất đơn giản “có gì ăn nấy” không cầu kỳ. Và quan niệm “ăn cho chắc, mặc cho
bền” đã ăn sâu bám rễ vào tư duy ẩm thực của người dân nơi đây. Cuộc sống hiện đại
có nhiều thay đổi, trong tâm thức của người dân về “ăn chắc mặc bền” đã có xu hướng
dịch chuyển sang “ăn no, mặc ấm”, thậm chí là được “ăn ngon, mặc đẹp”.
Về phương thức chế biến thực phẩm, trước đây, đời sống kinh tế xã hội còn
nhiều khó khăn, người dân tại Trà Cổ đã tận thu những sản phẩm của sản xuất nông
nghiệp trồng trọt (vỏ cây, rơm rạ, trấu, củi khô…) làm nguyên liệu để đun nấu. Khi đời
sống cải thiện hơn, nhiều gia đình cư dân dùng loại bếp dầu, bếp than tổ ong. Từ năm
2008 trở lại đây, nền kinh tế hội nhập với sự phát triển vượt trội của công nghệ hiện
đại, bùng bổ các thiết bị dân dụng phục vụ đời sống người dân. Do vậy, một số gia đình
thay đổi chuyển sang sử dụng 2 thiết bị quan trọng là nồi cơm điện và bếp ga. Từ năm
2010, các gia đình sử dụng bếp củi, bếp rơm không đáng kể, chủ yếu với mục tiêu kết
hợp, giảm chi phí tiền ga và tiền điện cho gia đình.
57
Tóm lại, món ăn, thức uống của mỗi tộc người, mỗi vùng miền là sáng tạo độc
đáo, trở thành văn hóa truyền thống chứng minh cách ứng xử linh hoạt, sự thích nghi
của con người với tự nhiên và xã hội, phản ánh trình độ phát triển sản xuất, trình độ kỹ
thuật của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và đô thị hóa, văn hóa ẩm thực của cư dân Trà Cổ vừa giữ được nét riêng, đặc
sắc mang dấu ấn và hương vị truyền thống vừa biến đổi theo hướng ngày càng nâng
cao về chất lượng bữa ăn, hiện đại hóa phương thức chế biến, nâng cao nhu cầu hưởng
thụ của người dân về mục đích ăn uống. Biến đổi là cần thiết, nhưng trong quá trình
biến đổi cần chú ý việc giữ gìn những giá trị tinh hoa, hồn cốt của văn hóa trong đời
sống ẩm thực của người dân, để không chỉ đơn thuần là bảo lưu và trao truyền mà hơn
hết còn đưa văn hóa ẩm thực của cư dân Trà Cổ trở thành sản phẩm du lịch độc đáo.
Nhu cầu về mặc nằm trong nhóm nhu cầu bảo đảm sự sinh tồn của con người
và xã hội con người bởi vì mặc trước hết cũng là thành tựu văn hóa đối phó với môi
trường tự nhiên, tránh những bất lợi môi trường tác động đến sức khỏe con người. Sau
đó cùng với quá trình phát triển của xã hội, trang phục còn đóng vai trò tín hiệu của
nhiều thông điệp: Về địa vị xã hội, về đẳng cấp, về nghề nghiệp, về chức tước, về điều
kiện kinh tế, về tôn giáo, về loại sự kiện (như lễ hội, đám cưới, tang ma). Trên phương
diện giao lưu văn hóa, trang phục là tín hiệu đại diện cho tộc người nên nó cũng ảnh
hưởng và nhận ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác. Nó bị chi phối để thích hợp với
những điều kiện khí hậu khác nhau của từng mùa, khu vực và cũng phải thích hợp với
thị hiếu của từng giai đoạn lịch sử.
Trước đây trang phục phổ biến của người dân Trà Cổ vẫn mặc là áo cánh, quần
dài. Phụ nữ thường mặc áo nâu, xẻ tà hai bên, cổ tròn hoặc cổ thìa, dưới vạt áo có hai
túi nhỏ. Áo cánh của nam giới to và rộng hơn, có thêm túi ngực ở bên trái. Những trang
phục gọi là truyền thống của người dân Trà Cổ hiện chỉ còn thấy ở một số người có
tuổi hay trong các nghi lễ. Ngày nay, áo cánh thường được các cụ cao tuổi sử dụng
nhưng với màu sắc và hoa văn phong phú hơn. Các cụ bà mặc áo bà ba quần ta bằng
vải phíp đen hoặc sa tanh. Cư dân Trà Cổ cũng như nhiều cư dân người Việt ở những
nơi khác, mặc theo lối âu hóa, tân thời. Giới trẻ thường mặc quần âu, áo sơ mi, mặc
váy, mặc vest trong các dịp lễ tế.
58
Trước những năm 90 của thế kỉ XX, cư dân Trà Cổ phần đông là ngư dân nên
nhiều hộ thường không có mảnh đất ở trên bờ, lấy một vũng, bến được che chắn làm
nơi trú ngụ, quê hương. Sau đó họ trụ lại ở những bãi cát ven biển một cách tự phát.
Họ thường cắm thuyền ở đâu làm lều ở tạm rồi làm nhà ở đó. Do đó nhà của phần đông
ngư dân ở ngay bến bãi mép nước, nhiều khi tạm bợ. Một số cư dân không gần biển,
họ làm những căn nhà tre, cũng có nhà gỗ nhưng không nhiều. Phần lớn các nhà gỗ ở
Trà Cổ đều kiến trúc theo kiểu tứ trụ. Nhà có ba gian hoặc bốn, năm gian, mái nhà có
thiết kế hai mặt nghiêng, cũng có nơi thì bốn mặt nghiêng. Tuy thuộc khu vực cửa
khẩu, nhưng dường như Trà Cổ luôn đứng ngoài sự náo nhiệt, sôi động của không khí
buôn bán diễn ra hằng ngày bên cây cầu Bắc Luân bắc qua dòng sông Ka Long. Nơi
đây có những ngôi nhà nhỏ, thấp, các ngôi nhà được xây dựng theo hướng đông nam
để tránh nóng và tránh rét, các ngôi nhà nằm liền kề nhau, không có các ngõ xóm ngoài
một số con đường dẫn ra biển. Một đặc điểm về nhà ở của người dân Trà Cổ thường
được dựng rất thấp, chỉ cao khoảng 2,4 - 2,6m. Nền nhà cũng rất thấp, chỉ cao hơn mặt
bằng của của đất ở từ 10 - 20cm. Theo cách lý giải của người dân địa phương, họ xây
nhà theo kiểu cách đó để chống chọi với bão, gió.
Hiện nay, nhà ở của cư dân Trà Cổ thay đổi hoàn toàn về dáng vẻ, hình thức,
nội dung và chất liệu xây dựng. Do điều kiện kinh tế khá dần lên, trong những năm
1998 đến năm 2018 nhà ở của cư dân Trà Cổ ít làm bằng gỗ như trước đây, thay vào
đó họ có thể xây dựng nhà cửa khang trang hơn với sự phổ biến của những ngôi nhà
xây bằng bê tông cốt thép mọc lên. Từ năm 2008 đến nay, sự phát triển nhanh của kinh
tế, đặc biệt là ngành dịch vụ - du lịch đã tác động đến cơ sở vật chất của địa phương.
Trên toàn địa bàn số nhà cấp 4 còn rất ít, còn lại tuyệt đối là các nhà cao tầng, biệt thự
kiên cố với đầy đủ trang thiết bị hiện đại.
Trước năm 1998, phương tiện đi lại trên đường bộ của cư dân chủ yếu là xe đạp.
Để đi biển, bằng kinh nghiệm của bao đời tiếp xúc cùng biển cả, ngư dân đã thiết kế con
thuyền của mình theo cách thích nghi tốt nhất với các điều kiện sinh thái tại địa phương.
Ngoài ra, bè cũng được sử dụng. Hiện nay, phương tiện đi lại ngày càng hiện đại hơ, đáp
ứng đầy đủ nhu cầu đi lại và vận chuyển của người dân. Phương tiện đi lại trên bộ chủ
yếu là xe máy, ngoài ra còn có ô tô và xe điện phục vụ ở khu du lịch.
59
3.2. Văn hóa tinh thần
3.2.1. Phong tục, tập quán
Phong tục thường được hiểu đó là những thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã
hội từ lâu đời, được đại đa số mọi người thừa nhận và làm theo. Với cách hiểu đó,
phong tục của cư dân Trà Cổ rất phong phú, đa dạng. Trong luận văn này chỉ đề cập
đến ba phong tục trong chu kỳ vòng đời người và một số phong tục trong mưu sinh của
cư dân vùng biển Trà Cổ.
Trước đây khi tư tưởng Nho giáo tác động sâu sắc tới suy nghĩ, quan niệm của
người dân cũng như do tình hình chung, nghề đi biển mang tính chất cha truyền con
nối nên tâm lý cố đẻ nhiều con trai ngự trị ở các xóm ngư phủ. Chỉ đàn ông mới thích
nghi với nghề biển nên đã sống bằng nghề đi biển là phải sinh được nhiều con trai.
Chính tâm lý đó, trong hoàn cảnh giáo dục chưa phát triển mạnh mẽ, công nghiệp hoá
còn yếu ớt chưa đủ sức lôi cuốn thanh niên ngư dân chuyển đổi nghề nghiệp thì sinh
đẻ không theo kế hoạch và tỷ lệ sinh đẻ cao là điều khó tránh được. Hiện nay, do cư
dân có thể phát triển nhiều ngành nghề khác nhau, không đơn thuần chỉ là đi biển nên
tâm lý sinh nhiều con trai cũng không quá khắt khe.
Theo phong tục từ xưa, sau khi sinh thì “con so về nhà mạ, con rạ về nhà chồng” có
nghĩa là người phụ nữ sinh con đầu lòng thì về ở với nhà mẹ ruột mình để mẹ chăm sóc,
còn sinh những đứa con sau thì về ở bên nhà chồng. Sau thời gian ở cữ 28 ngày thì mẹ và
đứa trẻ sẽ đi chợ để “bán phong long”. Cư dân Trà Cổ có tục lệ khi gia đình có người sinh
đẻ thì , ở trước cổng nhà thường treo lên đó một cây dứa (trà dứa). Theo cụ Nguyễn Thanh
Nhẫn (80 tuổi) cho biết với cư dân làm nghề biển, họ có tục treo cây dứa trước cổng, là
tục lệ khá phổ biến của cư dân vùng ven biển trước đây [phụ lục 1.2; 7]. Tục này gắn với
kiêng kỵ của cư dân làm nghề đánh bắt, lênh đênh trên biển chịu nhiều rủi ro. Cư dân ở
vùng này quan niệm: người phụ nữ sinh đẻ đang trong thời gian ở cữ là xú uế, vì vậy những
người đi đánh cá thường tránh không gặp phụ nữ mới sinh trong thời gian này, cho rằng
nếu gặp sẽ xúi quẩy, mắc phải “phong long”. Xuất phát từ quan niệm đó, những gia đình
có người sinh chưa đầy tháng thường treo cây dứa trước cổng để mọi người trong làng biết
mà tránh, tục này ngày nay còn lại rất ít trong cư dân. Nghĩa thứ hai của tục treo cây dứa
với mục đích để giữ cho đứa trẻ, để mọi người biết có trẻ mới sinh mà tránh không mang
“hơi hám” vào nhà ảnh hưởng đến đứa trẻ.
60
Khi đứa trẻ được một tháng, người ta tổ chức lễ cúng đầy tháng, tính đúng thì
con gái sau 28 ngày, con trai sau 29 ngày - “gái sụt hai, trai sụt một”. Ngoài việc cúng
gia tiên, đây vừa là lễ tạ ơn 12 bà Mụ đã có công nặn ra hình hài thai nhi, phù hộ nâng
đỡ, chăm sóc,che chở, dạy dỗ cho đứa trẻ sau khi lọt lòng mẹ:“Dẫu cho bác mẹ có
sinh, Mụ Bà không vắt biết mình là ai”.
Khi trẻ tròn một năm tuổi, người ta làm lễ Thôi nôi. Lễ này được xem như một
nghi thức báo cáo với các vị thần và ông bà tổ tiên để công nhận trẻ như là một cá thể
tồn tại và phát triển độc lập trong cộng đồng. Vào ngày mồng 5/5 (tết Đoan Dương), ở
làng biển Trà Cổ còn có tục cho trẻ thay phù. Phù là một vòng cổ gồm các hạt long
não, cườm luồn vào sợi chỉ ngũ sắc. Vào khoảng 9 giờ sáng ngày tết Đoan Dương, trẻ
phải ra biển tắm trong vòng một giờ đồng hồ, rồi thả phù cũ xuống biển, về nhà đeo
phù mới. Họ quan niệm, làm như vậy trẻ sẽ không bị quỷ thần quấy quả [42; tr.367].
Trên thực tế, bước sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa một số phong tục
tập quán truyền thống của cư dân Trà Cổ mất đi, một số phong tục tập quán tiếp tục
tồn tại nhưng mang thêm hơi thở, màu sắc mới của thời đại. Các phong tục, nghi lễ
được cư dân thực hành nhiều hiện nay và có xu hướng tăng so với xưa là lễ đầy tháng
và lễ đầy năm. Thực trạng này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, khi
điều kiện kinh tế, đời sống vật chất ngày càng được nâng cao, người ta quan tâm đến
sức khoẻ, quan tâm đến những thời khắc quan trọng đánh dấu quá trình lớn lên của đứa
trẻ. Ngược lại, những phong tục sinh đẻ khác trong cư dân có xu hướng giảm so với xưa,
đó là tục treo cây dứa dại trước cổng. Bác Nguyễn Thị Chiêm cho biết một số phong tục
đã mai một, không còn được thực hiện trong cư dân Trà Cổ hiện nay là: Tục nhúng đứa
trẻ xuống biển ngay sau khi đứa trẻ mới được sinh ra [phụ lục 1.2; 1]. Đây là những
phong tục gắn với cuộc sống trên thuyền, chứa đựng ý nghĩa và quan niệm sống của cư
dân ven biển Trà Cổ trước đây.
Phong tục cưới xin của cư dân Trà Cổ thực hiện đầy đủ bốn nghi lễ truyền thống,
đó là: lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt.
Lễ dạm ngõ: mang tính chất hai gia đình gặp mặt nhau được cư dân vùng Trà
Cổ coi trọng và thực hiện phổ biến. Trước đây, có lễ vấn danh là lễ nhà trai đến nhà gái
để hỏi tên, tuổi cô gái. Ngày nay, gọi là lễ chạm ngõ hay lễ dạm (có nơi kiêm cả lễ dạm
và hỏi cùng một lúc, gọi là lễ dạm hỏi). Theo phong tục, cha mẹ ướm trước cho con
61
trai một cô gái trong làng, sau đó nhờ ông (bà) mối đến nhà cô gái. Bà mối có thể là
một người trong họ, trong nội tộc nhưng nhất định phải có vợ chồng song toàn, con
cháu đề huề, gia đình hạnh phúc. Lần đầu sang nhà gái, bà mối chỉ đi người không, bởi
lần sang chơi này chỉ nói chuyện bâng quơ chứ chưa đề cập đến chuyện của đôi trẻ.
Khi về, bà mối thuật lại toàn bộ sự việc cho bố mẹ chàng trai biết. Nếu ổn thì họ mới
hỏi ý kiến con trai. Nếu chàng trai đồng ý, bố mẹ lại nhờ bà mối sang nhà cô gái dạm
hỏi ý tứ nhà gái. Lần này đại diện nhà trai cùng người mối đem cau ngon đến nhà gái,
chính thức ngỏ lời. Hiện nay, nghi lễ nhờ bà mối đã không còn phổ biến, đó là một biến
đổi phù hợp với thực tế xã hội hiện nay.
Lễ ăn hỏi: Sau khi nhà gái nhận lời, nhà trai chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ
ăn hỏi. Vào ngày ăn hỏi, sẽ có ông chú (bác) đại diện cho nhà trai. Trước khi đi ăn hỏi,
nhiều gia đình thường làm cơm cúng tổ tiên, những mong công việc thuận lợi, gặp
nhiều may mắn. Theo tục lệ, khi đi ăn hỏi, đại diện nhà trai đem theo đồ lễ gồm: 1
buồng cau, 1 cây thuốc, 5 lạng chè, 1 đấu gạo nếp, 1 con gà, 10 - 20 lít rượu. Hiện nay,
tục thách cưới không còn và gộp luôn cả lễ nạp tài (dẫn cưới), nên trong lễ ăn hỏi ngày
nay ở một số gia đình khá giả thường có cả sính lễ cho cô dâu (ngày xưa ở lễ nạp tài mới
có sính lễ này). Sự giản lược này cho thấy tính thích nghi của văn hoá truyền thống
trong xã hội đương đại, nhằm mục đích tiết kiệm về mặt thời gian.
Về khoảng thời gian diễn ra lễ ăn hỏi và lễ cưới ngày nay gần hơn nhiều so với
trước, thông thường chỉ hôm trước và hôm sau. Tức nếu ngày hôm sau tổ chức lễ cưới
(lễ rước dâu), thì buổi sáng hoặc trưa ngày trước đó nhà trai mang lễ vật ăn hỏi đến nhà
gái. Trừ trường hợp nhà trai quá xa nhà gái, thời gian lễ ăn hỏi mới cách xa lễ cưới,
nhưng thông thường cũng chỉ độ 20 - 30 ngày.
Lễ cưới: chính là lễ đón dâu, đây là nghi lê quan trọng, đánh dấu sự hợp thành
của đôi nam nữ trước sự chứng kiến của tổ tiên, gia đình và bạn bè hai bên. Lễ cưới
xưa và nay bao giờ cũng có đồ dẫn cưới, do những thanh niên chưa lập gia đình đảm
nhiệm. Tùy hoàn cảnh mà đồ dẫn cưới khác nhau, ngoài các vật phẩm sắp đồ dẫn cưới
ngày nay còn có thêm một khoản tiền mang tính chất tượng chưng. Khi nhà trai mang
lễ đến, đại diện nhà gái (không nhất thiết là bố cô dâu) sẽ nhận và đặt lễ lên bàn thờ
thắp hương để báo với tổ tiên. Phần lễ này sau khi hoàn thành các thủ tục trước ông bà
tổ tiên sẽ được chia làm hai phần, một phần gửi lại nhà trai mang về, còn một phần
62
được đem ra mời những người có mặt lúc đó của cả hai họ. Theo tục lệ xưa đoàn đón
dâu của nhà trai thường gồm ông bà, chú bác nội ngoại của chú rể, ông mối và các anh
em bạn bè của chú rể, ngày nay do tư tưởng văn minh hiện đại hơn, đoàn đón dâu của
nhà trai thường do bố mẹ chú rể trực tiếp làm trưởng đoàn. Trước đây, khi đoàn nhà
trai đến trước cổng nhà gái sẽ đốt pháo mừng, nhưng từ năm 1998 đã không còn thói
quen này do thực hiện quy định cấm pháo của nhà nước, lúc này người dân thay bằng
sử dụng pháo giấy. Sau khi nhà gái nhận lễ dâng bàn thờ gia tiên, hai họ sẽ ngồi xuống
có đôi lời với nhau. Khi nào người lớn bên nhà gái cho phép, chú rể mới được vào đón
cô dâu để làm lễ trước bàn thờ gia tiên (theo quan niệm của người Trà Cổ là để tổ tiên
nhận cháu rể, nhận thông gia) để cầu mong gia tiên phù hộ tình duyên hạnh phúc. Khi
mọi thủ tục bên nhà gái đã hoàn tất, đại diện họ nhà trai xin phép được đưa cô dâu về
nhà chồng. Lúc ra khỏi nhà, cô dâu sẽ được một người anh hoặc em trai ruột cõng ra
(nếu có) và không được phép quay đầu lại. Nhà gái cũng sẽ có những người đại diện
để đưa con cháu mình về nhà chồng. Trên đường đưa dâu về nhà chồng, một số nơi
đoàn còn gặp dây chăng ngang đường và thừờng qua các cây cầu cô dâu sẽ phải bỏ lại
một chút tiền lẻ để cầu mong cuộc hôn nhân của mình suôn sẻ, không đứt gẫy. Theo
lệ, người đầu tiên cô dâu gặp khi bước vào nhà chồng là mẹ chồng. Nhưng nếu mẹ
chồng và con dâu không hợp tuổi thì khi dâu vào cửa, mẹ chồng sẽ phải lánh đi.
Phong tục cưới ở Trà Cổ hầu như thay đổi nhiều, có chăng là làm gọn các bước
hơn. Về đến nhà chồng, cô dâu chú rể phải vào làm lễ trước bàn thờ gia tiên, đến đây
nhà gái mới hoàn thành nhiệm vụ của mình. Sau khi lễ xong, có lệ “góp vốn” (cho tiền)
của họ hàng hai bên để đôi vợ chồng mới có vốn ban đầu ra ở riêng, khích lệ sự tự lập,
hậu sinh của tục lệ phân chia của cải. Khi xong, cô dâu chú rể sẽ được đưa vào buồng
tân hôn. Theo tục lệ cũ và ngày nay vẫn duy trì, phòng tân hôn của cô dâu chú rể, đặc
biệt là chải chiếu giường cưới sẽ do người có uy tín, sức khỏe, con cái “đủ nếp, đủ tẻ”
đảm nhiệm để cầu mong cuộc sống hôn nhân suôn sẻ, may mắn. Sau đó chú rể dẫn cô
dâu đi mời trầu, mời thuốc và giới thiệu các cụ bên nhà trai. Trước khi dỡ rạp, gia đình
nhà trai phải làm cơm để cảm tạ tổ tiên, trời đất.
Trong lễ cưới ngày nay đã lược bỏ và đơn giản hoá một số tục lệ rườm rà của lễ
cưới truyền thống. Riêng lễ cưới của những người theo Thiên chúa giáo còn có một
bước nữa là làm lễ trong nhà thờ, trước sự chứng kiến của cha sứ, gia đình và các con
63
chiên khác. Còn các bước khác vẫn thực hiện theo phong tục vì ở Trà Cổ, dân đạo vẫn
lập bàn thờ tổ tiên trong gia đình mình.
Lễ lại mặt: Sau khi cưới 3 ngày, vợ chồng về thăm bố mẹ vợ, gọi là tục lại mặt.
Ngày nay, lễ lại mặt không còn áp đặt như trước, tùy điều kiện hoàn cảnh và khoảng
cách mà định ngày lại mặt. Ngày lại mặt, vợ chồng trẻ mang lễ vật để tạ gia tiên, ông
bà cha mẹ. Thành phần trong lễ lại mặt rất hạn hẹp, chỉ gói gọn trọng phạm vi gia đình
ruột thịt của cô dâu. Tuy nhiên, về cơ bản, lễ lại mặt vẫn được duy trì vì nó mang nhiều
ý nghĩa tốt đẹp.
Ngoài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, Trà Cổ là địa bàn có sự sinh sống của các
tôn giáo lớn, đặc biệt là thiên chúa giáo và phật giáo, nên phong tục ma chay của địa
phương cũng có nhiều nét độc đáo.
Đám tang của cư dân Trà Cổ được tiến hành theo nghi thức truyền thống với
nghi lễ Thọ mai gia lễ: Khi người thân tắt thở, trước tiên con cháu phải báo tổ tiên trước
bàn thờ gia tiên, sau đó lấy nước lá thơm (nấu bằng lá bưởi hoặc chanh) lau rửa cho
người quá cố. Theo tục xưa thì cha do con trai tắm, mẹ do cn gái tắm, nhưng ngày nay
không còn sự phân biệt như vậy nữa, bất cứ ai trong gia đình cúng có thể tắm cho người
chết. Chải đầu, cắt tóc gọn gàng, chọ bộ quần áo mới và đẹp nhất mặc cho người chết
rồi cho người chết rồi cho nhập thổ (để người chết xuống đất, không để nằm trên giường
nữa). Sau đó người ta sẽ cắt hết móng tay và móng chân của người chết, đeo tất tay, tất
chân cho người chết, lấy một nhúm gạo, muối và đồng tiền đặt vào miệng người chết
rồi vuốt cho kín miệng, vuốt mắt cho khép kín và che mặt người chết. Sau đó lấy chỉ
trắng buộc hai ngón tay và hai ngón chân cái với nhau, rồi phủ tấm chăn thường ngày
người quá cố vẫn dùng lên thi thể, cuối cùng căng màn ba góc để đợi thầy đến xem giờ
tốt mới tiến hành khâm liệm.
Để khăm liệm, thầy phải xem ngày giờ, ngày nhập quan. Khi thầy cúng đến sẽ
cho khiêng thi hài đặt lên đồ niệm, khi làm lễ nhập quan con cháu phải có mặt đầy đủ
(trừ những trường hợp khắc tuổi buộc phải lánh xa chỗ khác). Nhiều gia đình thường
cho vào quan tài thêm cỗ bài tổ tôm, dưới cùng bỏ rất nhiều chè khô để làm khô thi hài.
Sau khi đậy nắp quan tài người ta chưa chốt mộng mà để con cháu đi xa về nhìn mặt
ngừi thân lần cuối. Linh cữu đặt ở gian giữa, trên hai chân niễng. Trường hợp người
chết còn người trên (cha/mẹ) thì quan tài đặt ở gian bên. Trên nắp quan tài đặt một
64
khúc thân chuối non để cắm hương và một bát cơm tẻ úp đôi, trên có quả trứng luộc
đặt giữa hai chiếc đũa bông (cắm vào bát cơm). Từ khi người thân mất đến lúc nhập
quan, luôn có con cháu túc trực bên linh cữu, vừa để tỏ lòng thành kính, thương tiếc,
vừa canh giữ khong cho mèo nhảy qua, sợ thi hài bị quỷ nhập tràng.
Sau lễ nhập quan, còn có lễ thiết linh (thiết lập linh vị, đặt bàn thờ), lễ phát tang.
Theo tục lệ, các con trai đều mang khăn, áo xô trắng, đầu đội rế được bện bằng mây và
chống gậy trong khi túc trực bên linh cữu và khi đưa đám, các cháu chít khăn màu
trắng, thế hệ thứ ba chít khăn vàng, thế hệ thứ tư chít khăn đỏ, áo xô trắng mặc trong
tang phục (chỉ các con mặc) đều xổ gấu và phải mặc trái để tỏ lòng tiếc thương người
quá cố, các cháu, chắt, chít thì mặc áo đen. Sau khi phát tang, họ hàng, làng xóm tới
chia buồn, bày tỏ nỗi xót thương người quá cố và xin được làm lễ viếng.
Trong đám tang, đi đầu là đám rước cờ, trống (gồm một lá cờ vuông màu đen
trắng, trống cái, minh tinh - dải vải hay giấy đề tên tuổi, chức tước người chết), phường
nhạc và người mũ gậy (con trai trưởng hoặc cháu đích tôn), tiếp đến là linh cữu, thân
nhân và làng xóm. Theo đám tang còn có một số người phục dịch: gánh nước uống, rắc
vàng, bưng trầu, thuốc mời mọi người suốt dọc đường. Trường hợp người mất là người
đi quy (tức là quy y đầu Phật) theo Hội các già đi chùa, thì khi đưa tang, Hội quy làm
cầu bát nhã đi sau linh cữu. Khi hạ huyệt, mỗi người nhà và bè bạn thân thích lần lượt
ném một nắm đất xuống huyệt, biểu lộ sự vĩnh biệt.
Sau khi chôn cất, có tục cúng mộ tiền, 3 ngày, 49 ngày và 100 ngày. Sau 100
ngày, gia đình làm lễ bỏ bàn thờ phụ, đồng thời khấn cáo tổ tiên rằng từ nay nhà có ma
mới, xin đồng hưởng lễ vật với các bậc tiền bối. Năm sau, đúng ngày người thân qua
đời, gia đình làm giỗ đầu. Sau ba năm cải táng, con cháu đưa hài cốt vào tiểu sành rồi
tiếp tục chôn cất ở nơi cao ráo. Riêng người dân theo thiên chúa giáo không có lệ cải
táng, họ “đào sau chôn chặt” người đã khuất, không bao giò đào lên nữa. Hết ba năm
cũng là lúc mãn tang, chấm dứt mọi kiêng cữ. Theo tục truyền, con cháu phải cúng giỗ
hằng năm cho đủ ba đời đã khuất - lấy thế hệ vợ chồng người chủ nhà làm mốc. Ba đời
đó là cha mẹ, ông bà, cụ ông cụ bà. Từ đời trên cụ thì không phải làm giỗ nữa mà cúng
chung vào ngày giỗ họ - giỗ ông thủy tổ của dòng họ.
Phong tục ma chay của cư dân Trà Cổ cũng được biến đổi theo hướng tái cấu
65
trúc các phong tục ma chay truyền thống, đó là đơn giản hoá nghi thức, nghi lễ tế tự
rườm rà trong từng lễ tục ma chay truyền thống. Chẳng hạn phần nhạc hiếu và các nghi
lễ tế tụng ngày xưa thường diễn ra liên tục trong ba ngày liền (hết lễ ba ngày mới thôi),
nhưng ngày nay nhạc hiếu chỉ diễn ra trong lúc điếu viếng, đưa tang, và trong lễ tế ba
ngày, không còn tục lệ thăm viếng mộ ngày hai lần (sáng sớm và chiều tối) cho đến
hết ba ngày, và hàng tuần cho đến hết năm mươi ngày như trước.
Những kiêng kỵ trong sinh hoạt hàng ngày và đặc biệt liên quan đến nghề nghiệp
được cộng đồng cư dân Trà Cổ coi trọng. Hầu hết cư dân ven biển Trà Cổ trước đây và
một bộ phận chủ yếu làm nghề đánh bắt hiện nay, quanh năm sống cùng biển khơi, do
đó có những kiêng kỵ và phong tục liên quan đến nghề đánh bắt. Trước đây cư dân
quan niệm kiêng gặp phụ nữ trên đường đi đánh cá, kiêng để phụ nữ lạ lên tàu đánh cá,
kiêng nói các từ “lật”, “úp”, không bước qua mũi thuyền, không đánh cá vào ngày cá
vượt vũ môn (8/4), người có tang ma chưa qua khỏi 100 ngày thì không được đi biển.
Trước khi đi biển thì người đàn ông không được gần vợ, không ăn cơm khê, cấm phụ
nữ không được bước qua tay lái thuyền và ngồi trên mũi thuyền. Khi đi biển cũng như
trước khi tiến hành một công việc trọng đại, người Việt luôn có ý thức chọn ngày tốt.
Họ tránh ngày “tam nương” và “sát chủ”. Trong ăn uống, cư dân đi biển kiêng lật mình
cá khi đã ăn hết phần bên kia bởi họ quan niệm lật thuyền cũng như việc kiêng úp
nhũng đồ dùng sinh hoạt hằng ngày như rổ, rá, thúng, nón.... Tuy nhiên, nếu so với
những kiêng kỵ của cư dân ven biển khác, người dân Trà Cổ lại không tuân thủ một
cách nghiêm ngặt tục kiêng kị này, vì phần lớn những người làm nghề đánh bắt cá ở
đây chỉ đánh bắt gần bờ, đi về trong ngày nên những kiêng kị có phần đơn gian hơn
dân vùng biển nói chung.
Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện đại đã làm giảm
thiểu và hạn chế những rủi ro, tai nạn nghề nghiệp mà cư dân đánh bắt vùng ven biển
Trà Cổ thường gặp trong xã hội truyền thống. Vì vậy, những kiêng kỵ nghề nghiệp
trong cư dân ngày nay cũng ít hơn, chỉ còn những kiêng kỵ như: không bước qua mũi
thuyền, không đánh cá vào ngày cá vượt vũ môn (8/4), không đi biển khi nhà có người
mới mất hoặc vợ bị sảy thai, con chết yểu.
Những kiêng kỵ của cư dân Trà Cổ cũng như người dân vùng biển khác, nó
phản ánh tâm thức, quan niệm của ngư dân trong việc hành nghề, thái độ ứng xử với
66
các nhóm, giới trong cộng đồng. Đằng sau những điều tưởng như mê tín đó là mong
muốn sự may mắn, cụ thể là đánh bắt được nhiều cá tôm, an toàn trước những phong
ba bão táp của đại dương. Tìm hiểu những kiêng kỵ của ngư dân có thể cắt nghĩa được
tâm thế ứng xử của ngư dân và rộng hơn là của cả một dân tộc trước biển cả.
Về nghi lễ, đối với ngư dân, chiếc thuyền vừa là ngôi nhà vừa là công cụ đánh
bắt kiếm sống trên biển, trước đây khi đóng một con thuyền, ngư dân có ba nghi lễ
chính là: lễ phạt mộc, lễ làm mui và lễ hạ thuỷ, trong đó lễ hạ thuỷ được coi trọng hơn
cả. Cư dân vùng ven biển Trà Cổ ngày nay còn lưu giữ rất ít nghi lễ có liên quan đến
nghề đánh bắt truyền thống, nghi lễ phổ biến hiện nay là cúng thuyền mới (lễ hạ thuỷ).
Vì ngày nay thuyền chủ yếu được mua sẵn. Lễ hạ thuỷ hoàn toàn tuỳ thuộc vào từng
gia đình mà việc sắm sửa lễ vật có khác nhau, nhà bình thường cũng phải có chõ xôi,
con gà, hương vàng, trầu rượu để mừng con thuyền chạm nước. Nhà khá giả thì sau khi
cúng có mâm cao cỗ đầy mời bà con họ mạc, có nhà còn làm cả thuyền bằng giấy để
cúng rồi đốt thế mạng cho thuyền nhà mình.
Bên cạnh những mặt đạt được là sự tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, đời sống
vật chất của cư dân ngày càng được nâng lên, đời sống tinh thần của cư dân ngày càng
được quan tâm, thì nguy cơ mai một những giá trị văn hóa truyền thống gắn với nghề
đánh bắt thủ công của cư dân Trà Cổ cũng đồng thời sẽ diễn ra. Đó là sự mai một các
tri thức dân gian được đúc rút bằng kinh nghiệm của cư dân nhiều thế hệ, như: những
tri thức dân gian về địa đồ từng vùng đánh bắt, về nhận biết sự thay đổi của thời tiết
qua nước biển, những hiểu biết về các loài cá theo mùa, theo lịch con nước. Do sự phát
triển của kĩ thuật, khoa học công nghệ hiện đại, cư dân quen dần với việc sử dụng các
thiết bị hiện đại như máy định vị, máy dò cá, nghe dự báo thời tiết trên ti vi và các thiết
bị hiện đại khác nên những kinh nghiệm mà cha, ông các thế hệ đi trước truyền lại ít
có cơ hội được sử dụng trong xã hội hiện đại.
Ngoài các phong tục, nghi lễ liên quan đến nghề đánh bắt, hiện nay ở Trà Cổ cũng
xuất hiện một số nghi lễ, tục lễ mới, phản ánh những phương thức ngành nghề mưu sinh
mới của cư dân nơi đây, như: lễ khởi công, khánh thành, khai trương các cơ sở kinh doanh,
các dịch vụ, khu du lịch, các cửa hàng, quán ăn, nhà nghỉ, khách sạn…
67
3.2.2. Lễ hội
Từ bao đời, trong quá trình lao động sản xuất thường gặp những hiện tượng thời
tiết bất thường, người dân tin rằng có một lực lượng siêu nhiên che chở. Vì thế, nhiều
lễ hội ra đời, mục đích cầu mong mưa thuận gió hòa, có được mùa bội thu, biết ơn đến
vị thần đã che chở cho cư dân hoạt động trên biển, mùa lễ hội là khoảng thời gian người
dân được nghỉ ngơi sau những ngày tháng lao động mệt nhọc. Có thể phân lễ hội của
cư dân Trà Cổ hiện nay thành lễ hội dân gian và lễ hội tôn giáo.
Bảng 3.1. Những lễ hội chính được tổ chức tại phường Trà Cổ
Tên lễ hội
Thời gian
Tết Nguyên đán
Địa điểm 01- 15/01 ÂL Đền Thánh Mẫu
Loại hình lễ hội Truyền thống
Chùa Vạn Linh Khánh Đình Trà Cổ
Tôn giáo
Nhà Thờ Tràng Lộ Nhà Thờ Tràng Lộ
21-23/03 ÂL Đền Thánh Mẫu 14-16/4 ÂL Chùa Vạn Linh Khánh Truyền thống 8/4 DL 25/5 DL 01-03/06 ÂL Đình Trà Cổ 01-03/06 ÂL Đình Đông Thịnh 01-03/06 ÂL Đình Tràng Vỹ
Tôn giáo Tôn giáo Truyền thống Truyền thống Truyền thống Tôn giáo
Nhà Thờ Tràng Lộ
Lễ Đền Thánh Mẫu Lễ Phật Đản Lễ Phục Sinh Lễ Chúa Jesu lên trời Lễ hội Đình Trà Cổ Lễ hội Đình Đông Thịnh Lễ hội Đình Tràng Vỹ Lễ chúa thánh thần hiện xuống 04/6 ÂL Lễ Vu Lan báo hiêu Lễ Đức mẹ lên trời Đại tế Thần Hoàng Lễ Kính các thánh Lễ Giáng Sinh
Tháng 7 ÂL Chùa Vạn Linh Khánh Truyền thống 15/8 DL 10/8 ÂL 01/11 DL 24-25 DL
Nhà Thờ Tràng Lộ Đình Trà Cổ Nhà Thờ Tràng Lộ Nhà Thờ Tràng Lộ
Tôn giáo Truyền thống Tôn giáo Tôn giáo
(Nguồn: Tác giả luận văn khảo sát tại địa phương, tháng 2/2019)
Lễ hội đình Trà cổ (Khu Nam Thọ)
Đình Trà cổ là một công trình kiến trúc và điêu khắc tiêu biểu cho nghệ thuật
thời Hậu Lê. Đình thờ Thành hoàng làng là 6 vị Tiên Công có công lập làng: Không
Lộ thiền sư, Giác Hải thiền sư, Nhân Minh linh phù đại vương, Huyền Quốc đại vương,
Quảng Trạch đại vương. Đình ở phía Đông Nam phường Trà Cổ, giữa một khu dân cư
đông đúc sống bằng nghề chài lưới, cách bờ biển khoảng 150m. Phía Nam đình là biển
cả, phía bắc là biên giới Việt-Trung cách chừng 8km theo đường chim bay, phía đông
và tây là các thôn Đông Thịnh, Nam Thọ, Tràng Vĩ và cách Móng Cái 8km.
68
Đây là một ngôi đình hoàn toàn mang dấu ấn nền văn hóa Việt Nam, được xây
dựng vào thời Hậu Lê, khoảng năm Quang Thuận thứ ba (1462). Đình quay theo hướng
Nam, dài 29,8m, rộng 18,5m, kiến trúc kiểu chữ đinh, gồm 5 gian, hai chái bái đường
và 3 gian hậu cung. Mái đình hình thang rộng 134m2 lợp ngói mũi hài thời Nguyễn.
Trên bờ nóc đắp nổi lưỡng long chầu nguyệt. Toàn bộ kiến trúc tuy đồ sộ, bề thế nhưng
các đầu đao, con guột uốn cong hình rồng đã tạo cho đình những nét uyển chuyển,
mềm mại. Tòa bái đường có 4 mái, hai mặt trái chính lớn rộng, hợp với nhau nơi bờ
nóc; hai mặt mái bên nhỏ hơn, có nhiệm vụ che kín hai bên gian hồi. Bái đường dài
28,55m, rộng 12m, có 32 cột gỗ lim kê trên các tảng đá, trong đó có 14 cột cái cao
4,65m; đường kính 65cm và 18 cây cột quân đường kính 45cm, tất cả được sơn son
thiếp vàng lộng lẫy. Hệ thống vì, kèo, cột gỗ lim theo kiểu giá chiêng trồng rường,
chạm chỗ mềm mại, ghép mộng chắc chắn. Điều đặc biệt là Đình Trà cổ còn nguyên
vẹn hệ thống sàn gỗ. Sàn gỗ được lát trong lòng đình và ở cả ngoài hiên, cách mặt đất
0,5m. Sàn có ba lớp, thấp dần từ gian ngoài vào gian giữa, mỗi lớp cách nhau 20 cm. Độ
cao thấp của sàn ở từng gian đình là chỗ phân biệt ngôi thứ trong làng xã mỗi khi đình
có hội hè, tế lễ. Theo các nhà sử học, sàn đình Trà Cổ mô phỏng loại hình nhà sàn của
người Việt cổ cũng như của người Trà Cổ đầu tiên đến cư trú [34; tr.5]
Một điều đặc sắc nữa của Đình Trà Cổ là các mảng điêu khắc gỗ được chạm trổ
công phu, tinh tế, sống động. Hình tượng được ta chiêm ngưỡng đầu tiên khi bước vào
đình là đầu rồng chạm kênh trên sáu đầu bẩy. Đầu rồng được gối lên cột hiên, miệng
ngậm đường xà đỡ mái, dao mác khỏe mập, trên các dao mác là những con rồng con
quấn quýt múa lượn, đầu hướng về phía trước. Những bức cốn cũng được chạm trổ
hình tượng rồng, phượng, mây, lửa uốn lượn mềm mại, khỏe khoắn. Trên hai bức cốn
ở hai bên có đường nét duyên dáng, uyển chuyển. Bức cốn ở phía trái cửa ra vào chạm
hình nàng tiên cưỡi rồng bay trong mây. Năm bức cửa võng nối với các cột cái theo
chiều dài của ngôi đình, mỗi bức là một tác phẩm nghệ thuật được chạm trổ tỉ mỉ, sắc
nét, hài hòa, đẹp mắt. Hình tượng mô tả trên các bức cửa võng đều giống nhau, đó là
hình tượng tiên cưỡi rồng bay trong mây vượt qua biển cả có sóng nhấp nhô. Ở vị trí
chính giữa phía trên cửa võng chạm nổi hình lưỡng long chầu nguyệt, đường nét chau
chuốt bóng bẩy. Dọc hai bên lối đi từ cửa chính vào là hai hàng lan can nối các sàn với
nhau, mỗi lan can chạm hình một con rồng đầu ngẩng cao, miệng há rộng, mắt chầu
69
vào miệng, thân và đuôi uốn lượn mềm mại trong khung cảnh mây trời, hoa lá cách
điệu. Hai đầu ngôi đình nổi bật là hai bức hoành phi sơn son thiếp vàng đối diện nhau
với hai dòng chữ: “Nam Sơn tịnh thọ” (Nước Nam bền vững) và “Địa cửu thiên
trường” (Lâu bền cùng trời đất), là khẳng định sự trường tồn, tính bền vững của giang
sơn, bờ cõi của Tổ quốc và lòng tự hào của người Trà Cổ đã góp sức xây dựng nên quê
hương, đất nước. Hai bức đại tự đặt dật ở gian tiền đường thêm một bằng chứng nói
lên tấm lòng của người Trà Cổ với quê hương, bản quán:
“Đồ Sơn ngật nhĩ kinh hương địa
Trà Cổ nguy nhiên kỷ niệm từ”
Hậu cung đình rộng 72m2, trên bệ thờ đặt long ngai bài vị thờ 6 vị tổ tiên lập
làng. Bức cuốn ở hậu cung cũng dược chạm trổ kỳ công. Hình tượng bông sen nở đặt
chính giữa giả hoa văn ô vuông phía dưới bức xà, gợi hình ảnh phật giáo trong ngôi
đình làng Trà Cổ. Hậu cung thờ nhiều đồ thờ có giá trị, niên đại từ thời Lê đến thời
Nguyễn như: một bộ kiệu bát cống, 8 long ngai, 02 hạc rùa, một bộ bát biếu, 01 bộ thất
sự bằng đồng, 05 bức đại tự, 05 cửa võng, đỉnh hương đồng đều được chạm khắc công
phu hình tiên nữ cưỡi rồng bay trong mây, dưới là sóng biển nhấp nhô, phần trên là
hình rồng chầu mặt trời, sơn son thiếp vàng [34; tr.7].
Mặc dù nằm sát biên giới Việt - Trung nhưng những mảnh chạm, ghép ở đây
được nghệ nhân trạm trổ công phu và tỉ mỉ sắc nét, hoàn toàn mang phong cách kiến
trúc Việt Nam, mang đậm chất văn hóa của người Việt, không hề lai căng pha tạp đồng
hóa với kiến trúc Trung Hoa, điều này càng khẳng định rằng cha ông ta ngày xưa đã
rất coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc. Nội dung hoành phi câu đối trong đình tràn đầy
hào khí tự chủ, tự cường dân tộc, như là một cột mốc văn hóa ngời sáng bản sắc dân
tộc ở vùng biên cương Đông Bắc của Tổ quốc. Có thể nói rằng đình Trà Cổ là công
trình kiến trúc cổ, có quy mô lớn và đồ sộ bậc nhất Quảng Ninh và là một di tích đặc
biệt quan trọng của Việt Nam đã được Bộ văn hóa thông tin cấp bằng công nhận là di
tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 15/ VH-QĐ ngày 13/3/1974.
Cùng với sự tồn tại của ngôi đình là những giá trị văn hoá phi vật thể vô cùng
quí báu luôn được các thế hệ người Trà Cổ nâng niu, gìn giữ. Cũng giống như nhiều
làng quê trên đất nước ta, bao giờ đình làng cũng gắn liền với lễ hội làng. Lễ hội lớn
nhất ở đây là lễ hội đình Trà Cổ được tổ chức từ ngày 30/5 đến mồng 3/6 âm lịch hàng
70
năm theo tục “nhất niên nhất lệ”, to nhỏ tùy theo mùa màng và sự sung túc ổn định của
dân làng. Nội dung của hội đình bao gồm phần tế lễ, chấm thi ông Voi (nuôi lợn), thi
nấu cỗ và các trò chơi dân gian tại đình làng và miếu Đôi.
Theo tục lệ của làng từ xưa tới nay, hàng năm dân làng Trà Cổ bầu chọn ra 12
ông Đám được gọi là ông “Cai Đám” từ cách đó một năm để lo toan hội làng. 12 Cai
Đám là những người đàn ông bước vào tuổi 30, khỏe mạnh, có phẩm chất đạo đức tốt,
được ghi trong sổ đinh của làng. Những người này chịu trách nhiệm tham gia tổ chức
đóng góp trong ngày hội và những cuộc tế lễ của làng trong suốt một năm. Khi đã được
chọn làm ông Cai Đám trong thời gian này các ông Cai Đám phải kiêng kị không được
nói bậy, kiêng sát sinh. Trọng trách lớn lao này mỗi người chỉ được làm một lần trong
đời, cũng vì lẽ đó mà những người được chọn làm ông Cai Đám đều rất vui vẻ và tự
hào, trong họ luôn tâm niệm rằng, họ chính là những người đại diện cho những vị Tiên
Công khai sinh ra đất Trà Cổ, được thần linh che chở bảo vệ, gia đình nào làm tốt công
việc Cai Đám thì sẽ được hưởng phúc, lộc, gia đình thuận hòa.
Cụ Hoàng Văn Minh (79 tuổi) kể lại rằng, xưa kia lễ hội diễn ra với rất nhiều
nghi thức. Trước khi mở hội, vào ngày 25/5 âm lịch, làng lại cắt cử các bô lão, trai
tráng đại diện đi thuyền rước bài vị tiên công từ Trà Cổ về quê tổ Đồ Sơn (Hải Phòng),
sau đó quay về Trà Cổ. Nghi lễ này tượng trưng cho con đường ra lập nghiệp ở Trà Cổ
của tiền nhân xưa. Ngày nay, nghi lễ trên đã lược bỏ do việc tổ chức đi lại vừa tốn kém,
vừa vất vả, sóng gió nguy hiểm nhưng vẫn đầy đủ các phép tắc, nghi lễ.
Trong suốt thời gian những ngày diễn ra lễ hội, các ông Cai Đám luôn phải túc
trực ở đình, cùng ban tổ chức sắm sửa, dọn dẹp, lo các việc cúng lễ, đèn nhang cho đến
khi hết hội. Trước những ngày diễn ra lễ hội, người dân trong làng, ông Cai Đám, cùng
các bậc cao niên, chức sắc trong làng tất bật chuẩn bị ngày hội. Các bậc bô lão cùng
các ông Đám họp bàn sắp xếp công việc, người mua sắm đồ tế lễ, cắt cử người thay
phiên nhau trực ngoài đình.
Đúng ngày 30/5 âm lịch, tất cả mọi người trong ban hành lễ cùng 12 ông Cai Đám
có mặt tại đình, tập trung báo cáo vị thần, tiên tổ, làm lễ “Mục Dục” trong đình. Nghi lễ
này bao gồm việc lau rửa tất cả các đồ vật trong đình, một loại nước thơm được chuẩn
bị sẵn dùng để lau kiệu, ngai, các đồ phục vụ nghi lễ tế thần, bên trong bên ngoài đình
được quét đọn sạch sẽ. Sau đó cây đèn thần và mâm hoa quả được rước từ nhà văn hóa
71
về đến Đình [35; tr.9]. Ở nhà các ông Cai Đám, người ta tắm nước lá thơm và trang điểm
cho ông Voi bằng phẩm và vải đỏ để khiêng cũi ông voi ra đình.
Đúng 8 giờ ngày mồng 1/6 (âm lịch) là ngày chính hội, nghi lễ nghinh thần bắt
đầu. Đám rước có đủ cờ, kiệu, phường bát âm đi từ đình ra Miếu Đôi để lễ Thành
Hoàng làng, mời Thành Hoàng làng về đình dự lễ và xin chân nhang ở Miếu Đôi về
cắm vào bát nhang ở bàn thờ trong đình. 12 ông cai Đám mới được bầu cho lễ hội năm
sau được đảm nhiệm việc khiêng Kiệu Thần, Kiệu Thần có cờ, lọng che hai bên, phía
sau là cụ mo, ông chủ tế cùng 12 ông Cai Đám cũ. Trong lễ tế thần ở đình và miếu Đôi,
bao giờ chủ tế cũng cầu xin Thành Hoàng phù hộ cho dân làng: Ai đi buôn thì thông
thương mãn (đầy) tải - ý nói thuyền đầy hàng hoá; ai làm ruộng thì mưa thuận, gió hoà;
ai đánh cá thì cá tôm vào chật đất, đầy bãi. Theo ông Nguyễn Văn Vĩnh đó là ba nghề
chính của người Trà Cổ xưa, gồm đi buôn, làm ruộng, đánh cá. Sau khi rước thần từ
miếu Đôi trở về đình là khoảng thời gian mà ban tế lễ cùng cụ Mo làm lễ an vị.
Buổi tối 1/6 các vị chức sắc, ban tế lễ, cùng 12 ông Cai Đám thực hiện nghi lễ
“ đóng cây cai đám”. Trước đây, lễ đóng cây cai đám được tổ chức từ chiều 30 tháng
5 âm lịch nhưng hiện nay được tiến hành vào khoảng 20 giờ ngày 1/6. Lễ vật dâng
thánh là chè đỗ xanh. Cây cai đám được làm từ gỗ hoặc tre có đường kính từ 15 đến
20cm sơn đỏ, vẽ hoa văn, dài 3,5m bằng khoảng cách hai cột chính ở cửa phía bên
trong đình. Lễ do ông mo và 12 ông Cai Đám thực hiện, 12 ông Cai Đám cùng nhau
nâng cây cai đám” lên vai. Cụ Mo là người điều hành, tay cầm ngọn đèn dẫn 12 ông
Cai Đám đến trước cửa đình vừa đi vừa gọi thánh, mời các vị thần về dự hội và phù hộ
cho dân làng mùa màng tốt tươi. Cây cai đám được đặt vào hai cái hèm đã đóng sẵn
trên hai cột đình. Độ cao của cây cách mặt đất 1,5m. Từ khi cai đám được đóng xuống
cũng tức là lúc “nội nghiêm trang”, “ngoại nghiêm trang”, không ai được để xảy ra bất
cứ điều gì làm mất an ninh, trật tự. Mọi người bước vào trong đình lễ bái và dự lễ đều
phải cúi đầu chui qua cây đám thể hiện lòng thành kính với thần linh. Từ lúc này hương
đèn trên ban thờ của đình phải được thay phiên nhau trông, không được để tắt. Việc
đóng “Cây cai đám” mang ý nghĩa thông báo ngày hội chính thức bắt đầu và đây cũng
mang một ẩn ý đối với những người vào dâng hương, tế lễ trong đình. Các ông Cai
Đám khi thực hiện các nghi lễ xong, họ không được phép trở về nhà mà 12 ông Đám
sẽ cắt cử nhau trông coi đình trong những ngày lễ hội diễn ra, mỗi giờ sang canh, một
72
ông Đám sẽ đánh một hồi trống báo hiệu, cho đến sáng ngày hôm sau họ mới được trở
về nhà, đó là trách nhiệm mà mỗi ông Cai Đám phải thực hiện [35; tr.12].
Sang đến ngày mùng 2, gia đình 12 ông Cai Đám cũ phân công nhau làm cỗ, các
mâm cỗ được đặt tại nhà ông Đám Trưởng. Những phần cỗ này đều có đoàn rước đưa về
đình làm lễ tế thần, đội hình rước cũng rất nghiêm trang, 12 mâm cỗ được trai tráng, khỏe
mạnh trong vùng đảm nhiệm, vợ chồng ông Cai Đám đi hai bên, đám rước đi đến đâu
không khí náo nhiệt đến đó, trống chiêng, phường bát âm rộn rã đông vui. Tới Đình làng
12 mâm cỗ được dâng lên tế thần, các mâm cỗ được sắp xếp cẩn thận, đặt trong hậu cung,
phần cỗ chay, cỗ mặn sau khi tế lễ xong được thụ lộc ngay tại Đình.
Buổi tối mồng 2/6 nghi lễ “cất cây cai đám” và “gọi sổ bìa xanh” được long
trọng thực hiện. Cụ mo cùng 12 ông cai đám tiến hành lễ cất cây cai đám, cây cai đám
sẽ được đưa từ trong đình ra trước cổng đình, từng bước chậm rãi đoàn người rước cây
cai đám đặt tại cổng đình vừa đi vừa cầu mong mọi việc tốt lành, dân làng cuộc sống
vui vẻ, phúc lộc đầy nhà. Sau nghi lễ đóng cây cai đám là đến tục gọi sổ bìa xanh.
Thành phần là dân đinh trên địa bàn với mục đích là kiểm tra lại đinh cũ, bổ sung dân
đinh mới. Sổ bìa xanh ghi tên nam giới trong làng từ 15 tuổi trở lên. Sổ này là căn cứ
phân bổ việc làng và cắt cử nhiệm vụ cho 12 ông Cai Đám mới cho dịp lễ hội năm sau.
Trong lễ hội, việc bầu ông Đám gắn với tục nuôi và thi ông Voi. Tháng 12 âm
lịch hàng năm, 12 Cai Đám sẽ bốc thăm để nhận nuôi một con lợn. Sau khi mua về
nhà, chú lợn này được gọi là “ông Voi”. Lợn được chọn nuôi phải là lợn đực, tai to,
mông nở, mình dài và phải có nước ăn tốt. Khi được giao nuôi dưỡng các “ông voi”, ai
cũng luôn cố gắng hoàn thành tốt, bởi người dân Trà Cổ tâm niệm, nuôi lợn chầu thần
tượng trưng cho các vị Thành Hoàng cưỡi voi đi đánh giặc. Phải nuôi sao cho ông voi
thật khoẻ mạnh mới giúp được tướng lĩnh chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đây là việc làm
có ý nghĩa không chỉ về mặt tâm linh mà còn có ý nghĩa trong việc khuyến khích chăn
nuôi phát triển của cư dân nông nghiệp.
Chiều 30/5 âm lịch, 12 “ông Voi” được các ông Cai Đám rước về đình. Sau lễ
rước hoa quả, Đám Trưởng sẽ làm lễ trầu cau, xin phép Thành hoàng cho các cai đám
trang trí ông Voi đem ra đình làm lễ chầu thần. Các Cai Đám sẽ dùng cũi sơn đỏ, có
mái rèm che bằng vải đẹp lộng lẫy để che nắng, mưa cho “ông Voi”. 12 “ông Voi”
được các cai Đám tắm rửa sạch sẽ rồi rước ra sân đình xếp thành hai hàng để chầu thần.
73
Đội hình rước gồm: Cồng, trống tiền quân, cờ hàng, bát âm nhị huyền, cờ ngũ hành,
bát biểu, đội trống hội, trung quân, sau đến các “ông Voi”, tiếp là ban tế và gia đình
của 12 ông Đám. Tại sân đình, các ông Voi được xếp thành hai hàng chẵn lẻ theo thứ
tự nhất đông, nhị nam nghĩa là ông Voi của cai đám trưởng xếp đầu tiên ở phía đông,
sau đó là các ông Voi của các cai đám khác theo thứ tự chẵn, lẻ. Ông Đám trưởng cắt
một dúm lông ở gáy các ông Voi bỏ vào đĩa, đặt lên bàn thờ để khấn thần. Lễ xong,
các cụ được bầu trong ban kiểm tra bắt đầu chấm các ông Voi. Cách chấm dựa trên các
tiêu chí tướng mạo, da dẻ, vòng ức, chiều dài của ông Voi để chấm giải. Có 3 loại giải:
Đệ nhất đại trư, thưởng tam mao, lục tiên (3 hào, 6 xu); Đệ nhị đại trư, thưởng nhị mao,
tứ tiên (2 hào, 4 xu); đệ tam đại trư, thưởng nhất mao, nhị tiên (1 hào, 2 xu). Ngày nay
giải thưởng từ 100.000đ đến 300.000đ. Việc bàn xét, khen thưởng, ban lộc (trao giải
nhất, nhì, ba) gọi là lễ “thỉnh sinh”. Ngay sau phần chấm giải, các “ông Voi” trở lại là
những chú lợn bình thường, gia đình Cai Đám có thể bán luôn cho thương lái ngay tại
cổng đình hoặc đưa về nhà giết thịt khao họ hàng. Riêng “ông Voi” đoạt giải nhất được
giữ lại để đến sáng ngày mùng 1/6 làm lễ “tiến sinh”, mổ tế thần. Vinh dự cho ông
Đám nào nuôi ông Voi được chọn làm lễ tế thần. Họ tin rằng năm đó có nhiều điều
may mắn, phúc lộc đến với gia đình, hơn thế nữa đó còn là niềm tự hào vẻ vang cho cả
dòng họ. Trong mâm lễ tế, ngoài thủ lợn không thể thiếu túm lông vai của “ông Voi”.
Cúng xong, túm lông vai này được đưa ra đặt ở gốc đa cạnh sân đình. Đây là một nghi
thức rất thiêng liêng, quan trọng trong lễ hội đình Trà Cổ.
Trong lễ hội Trà Cổ cũng có một trò chơi không thể thiếu đó là bịt mắt chém cá
chình. Trò chơi thể hiện mong ước của ngư dân Trà Cổ là đánh bắt được nhiều tôm cá.
Để chuẩn bị trò chơi, cần có một cây nêu cao khoảng 5m, 1 con dao làm bằng giấy
hoặc gỗ, 1 sợi dây đầu trên buộc vào cây nêu, đầu dưới treo 1 vòng tròn (tượng trưng
cho trái đất), 2 chiếc khánh vàng biểu thị sự may mắn và cuối cùng buộc 1 con cá được
làm bằng giấy, trên mỗi con cá dán một tờ giấy ghi tên phần thưởng. Con cá buộc cách
mặt đất khoảng 1,5m, người chơi bị bịt mắt bằng băng đỏ, đứng cách con cá khoảng
5m, tay cầm dao đi thẳng về phía trước (phía có con cá). Người chơi phải ước lượng
được khoảng cách, khi đến gần con cá thì dùng dao chém, nếu trúng thì được nhận giải
thưởng, nếu 3 lần chém không trung thì không được chơi nữa.
Trò chơi bịt mắt chém cá chình của cư dân Trà Cổ khiến chúng ta liên tưởng
74
đến các trò chơi dân gian quen thuộc, phổ biến của cư dân lúa nước vùng châu thổ Bắc
Bộ như bịt mắt đập niêu, bắt chạch trong chum…cá chình là loại cá biển có hình dáng
gần giống con chạch, con lươn ở nội đồng. Phải chăng những cư dân nông nghiệp khi
đến vùng biển này đã kế thừa và phát huy trên cơ sở những trò chơi dân gian của vùng
đất cũ để sáng tạo ra một trò chơi mới của cư dân sống ven biển.
Ngày mùng 3 cũng là ngày giã Hội, nghi lễ “tống đăng” có nghĩa là tiễn đưa cây
đèn thần, báo hiệu kết thúc lễ hội. Nghi lễ tống đăng mang ẩn ý sâu sắc, thể hiện cho
sức sống trường tồn cùng thời gian, khi cây đèn được đưa từ trong Đình ra ngoài, cũng
kèm theo đó là sự thông báo cho Lễ hội đã kết thúc. Khi kết thúc lễ hội, ông chủ tế,
đoàn rước mã long trọng tổ chức lễ hóa mã và giã hội. Vào buổi chiều giã đám, ông
chủ tế ra hiệu lệnh, đội nhạc nổi lên 3 hồi trống, chiêng. Đội tế tiến vào cung rước mã.
Mã là chiếc thuyền lớn được làm bằng giấy màu do 4 thanh niên mặc áo nâu đỏ khiêng.
Đoàn rước mã chỉ gồm một số người trong ban tổ chức, đội tế và dân làng. Thuyền mã
được rước ra cầu tạm thả xuống nước và đốt. Thuyền mã từ từ trôi, bốc cháy và lụi dần.
Lễ hội chỉ thực sự kết thúc khi lễ hạ cờ hội được tiến hành.
Được khôi phục từ năm 1993, lễ hội đình Trà Cổ là dịp để người dân tưởng nhớ
công ơn và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến các vị thần linh, những người đã
có công lập làng. Lễ hội cũng là dịp để cầu mạnh khỏe, bình an và yên ấm, giúp thắt
chặt tình làng nghĩa xóm, mở rộng giao lưu giữa các vùng miền với nhau, trao đổi kinh
nghiệm làm ăn, củng cố tính cộng đồng. Kể từ năm 2014, lễ hội đình Trà Cổ được
thành phố Móng Cái nâng cấp thành lễ hội quy mô cấp thành phố, nhằm tạo ra một sản
phẩm du lịch văn hoá tâm linh đặc sắc thu hút du khách thập phương.
Lễ hội chùa Vạn Linh Khánh (chùa Ông hay chùa Nam Thọ): Nếu như đình
Trà Cổ nằm “ưỡn ngực” khoe mình trước phong ba bão táp, đón những cơn gió mát
lành của biển cả thổi về thì chùa Nam Thọ lại khiêm tốn nép mình dưới bóng cây chay
đại thụ, ngân lên những hồi chuông trong tĩnh lặng. Chùa Nam Thọ được tọa lạc trên
mảnh đất đầu làng, thuộc thôn Nam Thọ nên được gọi với cái tên quen thuộc là chùa
Nam Thọ hay chùa Trà Cổ và có tên chữ là Linh Khánh tự. Chùa được xây dựng vào
năm 1775 (đời vua Lê Cảnh Hưng), tọa lạc trên một khuôn viên rộng trên 5.000m2.
Chùa có tam quan, gác chuông với chuông đồng được đúc vào năm Thiệu Trị thứ ba
(1843). Các công trình xây dựng gồm: Tam quan (hướng bắc), chùa chính, gác chuông,
75
gác trống, nhà tổ, nhà mẫu, nhà sắp lễ, nhà chay, nhà mặn, nhà bếp, cổng phụ được
quây lại với nhau thành một hình gần vuông theo kiểu chữ “ Hồi”. Chùa chính gồm 4
tòa nhà cũng được quây lại với nhau thành một hình gần vuông. Đây là một kiểu kiến
trúc độc đáo và hiếm thấy trong kiến trúc cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Ngoài nét
độc đáo về kiến trúc, chùa Nam Thọ còn lưu giữ được 53 pho tượng cổ quý giá và
nhiều đồ thờ tự khác có giá trị thẩm mĩ cao, được làm bổ sung bởi nhiều thời trùng tu
khác nhau không những của chùa mà còn của những nơi khác chuyển tới. Các tác phẩm
điêu khắc ở đây đã được nghệ nhân trạm trổ công phu, tinh xảo tạc lên những pho
tượng mang đầy đủ hình dạng khác nhau, thể hiện nội tâm khác nhau. Đó là nét trầm
tĩnh, đầy lòng tin và ẩn dấu trong một nụ cười kín đáo (tượng Tam thế - thế kỷ XVI),
hoặc sự đôn hậu thuần khiết (tượng Quan Âm tọa sơn - thế kỷ XVI), hoặc sự ngộ
nghĩnh đầy vẻ tự nhiên và bi hài về các hình khối không cân xứng (tượng Thích Ca sơ
sinh - thế kỷ XVI), hoặc quý tướng thể hiện trí thông minh của đức phật (tượng Adida
- thế kỷ XVII), hoặc khuôn mặt lạc quan hỉ xả (tượng Di Lặc - thế kỷ XVIII), hoặc sự
nhẫn nhục (Quan Âm Tống Từ - thế kỷ XVIII), sự trang nghiêm tôn kính (tượng Ngọc
Hoàng - thế kỷ XIX). Chùa đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia ngày 26/01/1999.
Cùng với không khí tưng bừng của lễ hội đình Trà Cổ, hàng năm nhân dân địa
phương cùng phật tử khắp nơi lại nô nức niềm vui cho ngày hội chùa. Những ngày lễ
chính theo âm lịch là ngày 01/01: Lễ Mẫu, ngày 09/01: Lễ Ngọc Hoàng Thượng Đế,
ngày 09/02: Lễ Đức Phật Quan Âm, ngày 15/04: Ngày phật đản, ngày 19/09: Lễ Đức
Phật Quan Âm, ngày 17/11: Lễ Phật A Di Đà. Trong đó lễ hội chính đó là ngày mồng
8/4 âm lịch (lễ phật Thích ca). Lễ Phật Đản được tổ chức lớn, thành phần tham dự có
đủ đại diện chính quyền, cơ quan quản lý Nhà nước về dự và phát biểu. Sau phần
nghi lễ được tổ chức tại nhà chùa, là phần rước lễ - diễu hành với đoàn rước khá
đông. Những lần lễ hội Phật giáo diễn ra, các tín đồ Phật tử - là những cư dân đi theo
cửa Phật, tuy không phải là những nhà tu hành, nhưng các tín đồ Phật tử thường đến
chùa để lễ Phật, ăn cơm chay mỗi ngày, lực lượng này chiếm số lượng khá đông ở
các địa phương thuộc vùng ven biển Trà Cổ những năm gần đây, chủ yếu là các cụ bà
nhiều tuổi tập trung kín cả nhà chùa để hành lễ, cầu nguyện Đức Phật cứu khổ, cứu
nạn, phổ độ chúng sinh, mang lại an lành cho gia đình.
76
Lễ hội đình Tràng Vỹ (khu Tràng Vỹ) diễn ra ngày 1 đến 3/6 âm lịch. Đình
được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh theo quyết định số 2821/QĐ-UBND ngày
06/09/2011. Đình thờ 6 vị Thành Hoàng là: Huyền Quốc Lã Thái Úy đại vương, Không
Lộ Đô Hải đại vương, Ngọc Sơn Trấn Hải đại vương, Bạch Điểm Tước đại vương,
Thành Quốc công linh ứng đại vương, Quảng Trạch linh ứng đại vương.
Lễ hội đền Thiên Hậu Thánh Mẫu (khu Đông Thịnh) diễn ra ngày 21- 23/3
âm lịch. Đây là ngôi đền cổ, xuất hiện cùng với đình Trà Cổ. Đền thờ bà Thiên Hậu
Thánh Mẫu, tương truyền đó là một pho tượng trôi từ biển vào, nhân dân trong vùng
vớt lên, thấy kì lạ nên đã lập đền thờ. Ngoài ra, đền còn lập thêm ban thờ tứ mẫu. Lúc
đầu, đền chỉ là một lán nhỏ trong rừng chay, dần dần đền đã được tu bổ trở nên khang
trang và tọa lạc trên một khu đất rộng như ngày nay. Trong đền có một cây chay cổ thụ
có tuổi ước chừng khoảng 700 năm, cạnh đền có một cái giếng tiên có nước ngọt và rất
mát. Đền có tiếng là linh thiêng, bởi vậy hàng năm lễ hội đền rất đông người từ nhiều
vùng đến tham dự. Lễ hội chính là vào ngày 23/3 âm lịch, thường bắt đầu từ ngày 19,
20 và kéo dài trong 3 ngày. Đây là ngày sinh của bà Thiên Hậu Thánh Mẫu. Hội được
rước đi theo đường lớn rồi vòng xuống đường biển rồi mới quay lại chùa. Đây là dịp
để mọi người cầu sức khoẻ, cầu trời yên biển lặng, mùa màng bội thu, đi biển an toàn
và thu được nhiều kết quả.
Lễ hội Miếu Đôi (khu Nam Thọ), diễn ra ngày 30/5. Miếu thờ Quận He Nguyễn
Hữu Cầu cùng các vị thần. Theo các cụ già truyền lại thì khi Nguyễn Hữu Cầu thất cơ
đã về Trà Cổ ở ẩn. Nay trong miếu còn đôi câu đối: Trà loan hải đảo cam tuyền hữu/Cổ
độ cơ tâm võng nguyệt cầu. Cái khéo của đôi câu đối là dóng hai chữ đầu và hai chữ
cuối sẽ được “Trà Cổ” và “Hữu Cầu”. Ngoài ra, miếu cũng thờ vị nhân thần khác đó là
tướng quân Hoàng Cần (người Hải Lạng, Tiên Yên) đã đánh đuổi đội quân “răng trắng,
miệng vàng” cướp bóc cư dân vùng Đông Bắc: “Tương truyền đời Trần có giặc rang
trắng mỏ vàng, lấn cướp bóc dân bãi biển, có Hoàng Cần người xã Hải Lãng tự đem
thủ hạ đuổi đánh, tay cầm cọc tre đánh tan được giặc, đuổi đến xã Vô Ngại, cắm cọc
tre làm mốc giới, đến nay đốt tre đều mọc ngược. Sau khi chết được tặng Khâm sai
Đông đạo tiết chế, người địa phương lập đền thờ. Thuyền bè qua lại cầu đảo thường
được linh ứng” [32; tr.47]. Miếu nằm ngay trên bờ biển Trà Cổ. Hàng năm vào ngày
hội đình thì có lễ rước từ miếu về đình.
77
Lễ hội Công giáo
Ở vùng ven biển Trà Cổ hiện nay, tiêu biểu có lễ hội Công giáo được tổ chức
tại nhà thờ Tràng Lộ thuộc Khu Tràng Vỹ. Nhà thờ Trà cổ với tháp chuông cao 36 mét
và giáo đường có khuôn viên rộng gần 2 ha, được xây dựng vào năm 1911 và là một
di tích lịch sử tôn giáo đẹp. Nhà thờ Trà Cổ nằm cạnh bãi biển Trà cổ, mũi Sa Vĩ và
sân gôn Trà Cổ, tạo thành quần thể du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài
nước mỗi khi đến nơi này. Giáo xứ Trà Cổ ngoài giáo dân thuộc địa phận Trà cổ còn
có giáo dân ở nhà thờ Xuân Ninh, Ninh Dương, Hòa Lạc, Hải Yên.
Lễ hội lớn nhất hiện nay của Công giáo là lễ Chúa giáng sinh diễn ra ở nhà thờ
và trong các gia đình cư dân theo Công giáo. Vào ngày lễ hội Công giáo (lễ Noel) diễn
ra (ngày 24/12 dương lịch), ở những gia đình theo Công giáo thường tổ chức ăn uống
linh đình suốt mấy ngày liền trước đó, các gia đình này còn chuẩn bị cả “cây thông
Noel”, ở cổng các gia đình Công giáo có các hang “Chúa ra đời” rất đẹp, lung linh.
Không khí lễ hội Công giáo lan ra toàn xã hội, kéo theo cả thành phần cư dân không
theo Công giáo cũng tham gia “hội”. Từ quan sát thực tế, lễ Noel ở vùng ven biển Trà
Cổ hiện nay có sức lan toả lớn trong xã hội, với sự tham gia hưởng ứng nhiệt tình của
những nam nữ thanh niên không theo tôn giáo, đây là dịp để tuổi trẻ được cùng bạn bè
ra đường xem “hội”, được thoả mãn nhu cầu giao lưu, hiểu biết của tuổi trẻ, mà hoàn
toàn không có mục đích hoặc nhu cầu về tôn giáo.
Tóm lại, lễ hội không thuần túy là một hình thức sinh hoạt nhằm để vui chơi,
giải trí cho hàng vạn người mà còn là một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh với
những ước vọng hết sức nhân văn của người xưa. Ở lễ hội truyền thống, các nghi thức,
nghi lễ cúng tế khá phức tạp, việc kế thừa và phát triển lễ hội truyền thống hiện nay ở
vùng ven biển Trà Cổ, cơ bản bảo lưu và thực hiện nghiêm các nghi thức, nghi lễ cúng
tế xưa. Tuy nhiên, trong lễ hội truyền thống ven biển Trà Cổ hiện nay có nhiều biến
đổi so với truyền thống: trong lễ hội ngày nay đã sử dụng các thiết bị hiện đại, có phần
khánh tiết và nghi lễ dâng hương của cấp chính quyền quản lý và các đoàn thể chính
trị; lễ vật trong lễ hội ngày càng phong phú, đa dạng; thành phần cư dân tham dự lễ hội
mở rộng cả về phạm vi không gian và nghề nghiệp. Có thể nói lễ hội hiện nay ở vùng
ven biển Trà Cổ vừa mang nét văn hoá truyền thống vừa mang nét văn hoá hiện đại.
Nhưng cũng có một số nghi thức mang bản sắc văn hóa đã không được duy trì. Ông Lê
78
Mạnh Hà (62 tuổi) cho biết: Ở hội đình tại Tràng Vỹ và đình Trà Cổ hiện nay đã không
còn tiết mục hát múa cửa đình như xưa nữa. Những nghệ nhân hiểu nghề, những bậc
cao niên có thể hát được thì cũng nối nhau qua đời. Vì vậy môn nghệ thuật biểu diễn
này hiện nay đã không còn tồn tại ở Trà Cổ [phụ lục 1.2; 2]. Do vậy, công tác quản lý
cần làm tròn trách nhiệm định hướng, cổ vũ và tạo điều kiện để cư dân được tiếp cận
với các giá trị văn hoá lành mạnh và để cho các hoạt động văn hoá trong cư dân có điều
kiện được thể hiện, phô bày, trình diễn, đừng đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc trong
quá trình hội nhập phát triển, toàn cầu hoá.
3.2.3. Tín ngưỡng, tôn giáo
Niềm tin là yếu tố cốt lõi để tạo nên tâm thức tín ngưỡng và được biểu hiện qua
các hành vi thờ cúng. Niềm tin tín ngưỡng hay niềm tin tôn giáo là “một dạng nhận
thức đặc biệt, dựa trên trực giác, tạo cho con người một niềm tin có tính thiêng liêng,
giúp ta có thể nhìn nhận được những sự vật mà người thường không thấy được, cho ta
một sức mạnh “thăng hoa” để tác động đến cuộc sống trần tục” [44; tr.86]. Còn thực hành
tín ngưỡng là những hành vi, hành động thờ cúng của con người có liên quan đến niềm
tin, nội dung tín ngưỡng, nhằm mục đích cầu xin điều tốt lành hay ngăn cản điều xấu xa,
mà bản thân con người mong muốn ở thực thể siêu linh [44; tr.105]. Sự kết hợp giữa yếu
tố nông nghiệp trong cội nguồn và ngư nghiệp nơi vùng đất mới trong sinh hoạt và lao
động sản xuất đã dẫn đến sự đa dạng trong tâm thức thờ thần của Trà Cổ. Ở cư dân Trà
Cổ, niềm tin và thực hành tín ngưỡng được thể hiện như sau:
Tín ngưỡng chung của cộng đồng: Tín ngưỡng chung của cộng đồng cư dân
vùng ven biển Trà Cổ hiện nay rất phong phú, đa dạng, bao gồm:
Tín ngưỡng thờ thần biển: Tín ngưỡng thờ thần biển là tín ngưỡng phụng thờ
các linh vật, nhiên thần, nhân thần có thần tích, thần phả, truyền thuyết…mang những
yếu tố liên quan đến biển, phát huy vai trò, sự linh ứng ở môi trường biển, bao gồm:
Tín ngưỡng thờ Mẫu: Một số làng vùng Trà Cổ đều có đền thờ Mẫu. Các đền
thờ Mẫu ở vùng ven biển Trà Cổ, ngoài Thánh Mẫu Liễu Hạnh và các thiên thần, có cả
các Nhân thần. Tục thờ Mẫu và các yếu tố tính Nữ đã xuất hiện từ rất sớm trong đời
sống tâm linh người Việt. Sự hình thành của tín ngưỡng thờ Nữ thần/Mẫu thần ở Việt
Nam nói chung, vùng đất Trà Cổ nói riêng trước hết được lý giải từ quyền năng sáng
tạo sinh sôi của người phụ nữ, đáp ứng khát vọng đủ đầy của con người ở thuở ban
79
đầu. Với cư dân Trà Cổ, niềm tin với các Mẫu xuất hiện là lẽ đương nhiên để đáp ứng
những nhu cầu của đời sống vật chất và tinh thần khi phải đối mặt với những cản trở
của tự nhiên trong khi khả năng có giới hạn của mình chưa thể vượt qua.
Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng: Thành Hoàng làng là vị thần rất quen thuộc
đối với cư dân các làng xã, hay phố nghề (nơi đô thị) ở nước ta, được cư dân xem là vị
thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù
hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh và thường được thờ ở đình làng. Từ năm
1802 đến năm 1945, nhà Nguyễn cho xây dựng miếu Thành hoàng ở các tỉnh, trong đó
có tỉnh Quảng Ninh. Tại Quảng Ninh, miếu Thành hoàng được xây dựng năm Thiệu
Trị thứ hai (1842) khi tỉnh còn mang tên Quảng Yên. Tại các địa phương ven biển ở
Quảng Ninh, trong đó có Trà Cổ, Thành hoàng được tôn làm thần chủ và có vị trí quan
trọng đối với ngư dân ven biển nơi đây. Nổi bật là trong đình Trà Cổ phối thờ nhiều vị
Thành hoàng. Trong đình Trà Cổ hiện còn 20 sắc phong với các nội dung sau: 4 sắc
phong thời Thiệu Trị đều phong cho Bạch điểm tước chi thần, 2 sắc phong cho Không
Lộ Giác Hải và Bạch Điểm tước tôn thần, 4 sắc phong cho Thuyền Quốc Lữ, Quảng
Trạch Đại Vương, Không Lộ Giác Hải và Bạch Điểm Tước tôn thần. 4 sắc phong ngày
18/11/1880 (năm Tự Đức thứ 33) phong cho Không Lộ Giác Hải và Bạch Điểm Tước
tôn thần; 2 sắc phong ngày 20/5/1922 (năm Khải Định thứ 7) cho Bạch Điểm Tước
Tôn thần; 4 sắc phong ngày 25/7/1924 (năm Khải Định thứ 9) cho Thuyền Quốc Lữ
thái úy tôn thần, Quảng Trạch đại vương, Không Lộ Giác Hải và Bạch Điểm Tước tôn
thần. Trà Cổ là nơi dân Đồ Sơn đến định cư, khởi nguồn từ 6 vị Tiên công. Họ được
phối thờ nhưng không có cứ liệu nào khẳng định là được phong thần.
Ở đây duy có thần Bạch Điểm Tước là mới nhưng không lạ vì vốn từ Đồ Sơn
được đưa ra đây và được coi là vị thần chủ của vùng đất này. Sách Đại Nam nhất thống
chí có ghi về đền thờ thủy thần Đồ Sơn với tục chọi trâu hàng năm vì: “Tương truyền
có người bản thổ, đêm đi qua dưới đền, thấy hai con trâu chọi nhau nên hàng năm đến
ngày 10 tháng 8 có tục chọi trâu để tế thần. Lịch triều phong tặng là Điểm tước đại
vương” [31; tr.424 - 425]. Cư dân gốc Trà Cổ là những người di cư từ Đồ Sơn nên họ
đã mang tín ngưỡng từ địa phương đến.
Tục thờ Không Lộ (Khổng Lộ Giác Hải Đại Vương): Đây là vị thần cũng được
thờ ở nhiều nơi ven biển vùng duyên hải Bắc Bộ trong các di tích và lễ hội. Thánh
80
Không Lộ có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của cư dân các địa phương ở duyên
hải Bắc Bộ, trong đó có Trà Cổ. Cuộc đời của Không Lộ còn truyền thuyết hóa qua
những câu chuyện về chinh phục tự nhiên (quai đê lấn biển), chinh phục thú dữ (chém
đầu ngư công, diệt trừ thủy quái), về đời sống kinh tế như dạy dân đơm đó, trồng lúa,
dạy dân nghề đúc đồng hay chữa bệnh cho vua, phù giúp vua chống giặc ngoại xâm.
Tại Trà Cổ, việc thờ Không Lộ là vị thần phối hưởng và có vị trí quan trọng trong đời
sống cư dân.
Tín ngưỡng trong gia đình
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Từ lâu, thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục
truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam
nói chung, là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hoá Việt. Ở nước ta, thờ cúng
tổ tiên là tín ngưỡng phổ biến của nhiều vùng, miền, dân tộc.
Trong các gia đình cư dân Trà Cổ, xưa cũng như nay, gia đình nào cũng có bàn
thờ tổ tiên, bàn thờ tổ tiên được bố trí ở nơi trang trọng nhất trong nhà (hoặc thuyền
trước đây). Trên bàn thờ tổ tiên, ngoài ngũ sự, một số gia đình thờ ảnh của ông bà, cha
mẹ (những người quá cố), thường là ảnh của thế hệ trước đặt ở vị trí cao hơn thế hệ
sau. Ngoài thờ cúng tổ tiên, bàn thờ gia tiên còn là nơi thờ gia thần, trong đó vị thần
quen thuộc nhất là Táo quân (thần bếp) (cũng có khi đồng nhất thần bếp với thổ công).
Cùng với thờ gia tiên, cư dân Trà Cổ còn có nhà thờ họ. Hiện nay, cư dân rất quan tâm
đến việc trùng tu, xây dựng nhà thờ họ.
Thờ thần tài: Đối với những gia đình cư dân làm nghề buôn bán, thường có một
khám thờ nhỏ đặt ở góc nhà, sát với mặt đất, mặt khám thờ hướng ra cửa chính để thờ
thần tài (hoặc ông địa). Mục đích thờ Thần Tài, nhằm cầu mong tài lộc đến với gia đình
ngày càng nhiều. Tín ngưỡng thờ Thần Tài chỉ mới xuất hiện ở Trà Cổ, khi mà các
nghề dịch vụ xuất hiện và phát triển mạnh ở đây.
Bên cạnh các tín ngưỡng thờ cúng trên đây. Những năm qua, do xuất phát từ
lòng ngưỡng mộ, biết ơn sâu sắc tới công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các gia đình
đã lập ban thờ Bác Hồ trong gia đình. Ban thờ Bác Hồ được các gia đình thiết lập riêng
và đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.
Ngoài những tín ngưỡng trên, tại Trà Cổ còn có hai tôn giáo chính trong đời
sống cư dân, đó là Phật Giáo và Công giáo, trong đó, đồng bào Công giáo có 228
81
hộ/1.058 giáo dân, bằng 21,3% dân số toàn phường, tập trung chủ yếu ở khu Tràng Vĩ
[25]. Các Phật tử chủ yếu là các cụ bà cao tuổi, nhàn rỗi, hàng ngày các cụ thường đến
chùa thắp hương và ăn chay vào ngày rằm, mồng một hàng tháng để cầu phúc cho con
cháu. Còn đối với những gia đình cư dân theo đạo Công giáo trong nhà thường có thờ
ảnh chúa Giêsu.
Hiện nay, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở Trà Cổ đã có những điểm mới. Việc
coi trọng hoạt động tín ngưỡng của cư dân Trà Cổ được thể hiện ở mức độ thực hành
tín ngưỡng trong cộng đồng có xu hướng tăng lên. Khác với trước đây, sinh hoạt tín
ngưỡng của cư dân tại gia đình hay ở các cơ sở thờ cúng cộng đồng chỉ diễn ra vào các
dịp lễ, tết. Nhưng hiện nay, cư dân Trà Cổ thực hành sinh hoạt tín ngưỡng tại cơ sở
thờ cúng công cộng, cũng như tại gia đình có tính thường xuyên được thêm vào các
ngày Sóc vọng (rằm, mồng một) hàng tháng, và cả những ngày gia đình có việc quan
trọng (con cháu thi cử, mua xe, mở cửa hàng, lễ chẵn tháng, lễ chẵn năm. Sự gia tăng
thực hành tín ngưỡng của cư dân còn được thể hiện ở phạm vi không gian thực hành
có xu hướng vươn rộng ra ngoài làng. Đó là vào dịp đầu xuân, cư dân có nhu cầu đến
các ngôi đền miếu có tiếng linh thiêng hoặc có phong cảnh đẹp trong vùng, hoặc của
tỉnh khác để tham quan và dâng hương lễ bái. Thực trạng này nói lên cư dân đang rất
quan tâm đến đời sống tín ngưỡng, đồng thời cũng thể hiện đời sống kinh tế của cư dân
đang ngày một khá giả.
Có thể nói, cũng như cư dân các vùng ven biển khác vùng Đông Bắc, cư dân
Trà Cổ “đã thiết lập và xây dựng cho mình một hệ thống niềm tin, nhằm hỗ trợ đắc lực
cho công cuộc mưu sinh. Niềm tin tín ngưỡng của người dân Trà Cổ được hình thành
từ nhiều nguyên nhân. Niềm tin đó, trước hết xuất phát từ quan niệm “có thờ, có thiêng,
có kiêng, có lành”. Nhất là đối với cộng đồng cư dân sinh sống bằng nghề biển, nhiều
rủi ro lắm hiểm nguy, thì quan niệm này lại càng ăn sâu vào trong tâm thức của họ với
mục đich nhớ về cội nguồn, tưởng nhớ công ơn, sau là để cầu xin sự phù hộ để được
yên ổn, no ấm.
3.3. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là cuộc vận động
được kế thừa từ thành tựu, kết quả từ các phong trào: “Đời sống mới” (năm 1961), xây
dựng “gia đình văn hóa”, “làng văn hóa” (năm 1991), phong trào “Toàn dân đoàn kết
82
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” (năm 1995). Đây là một trong 4 nhóm giải
pháp lớn nhằm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gồm 7 phong trào cụ thể: Phong trào xây dựng
người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến; Phong tào xây dựng gia đình văn hóa; Phong
trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; Phong trào xây dựng
làng, thôn, bản, ấp, tổ dân phố văn hóa; Phong trào xây dựng cơ quan, đơn vị lực lượng
vũ trang, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; Phong trào toàn dân rèn luyện thân thể theo
gương Bác Hồ vĩ đại; Phong trào học tập lao động sáng tạo.
Ngay từ năm 1998, để bảo đảm cho phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa phát triển sâu rộng trên toàn quốc, Bộ Chính trị ra Chỉ thị 27-CT/TW
(1998) mở cuộc vận động sâu rộng trong toàn dân đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn
minh - gia đình văn hóa. Tiếp đó, ngày 12/4/2000, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin ra
Quyết định số 01/2000/QĐ-BVHTT về việc ban hành Kế hoạch triển khai phong trào
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa.
Để đáp ứng yêu cầu trong công cuộc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, việc
nâng cao hiệu quả hoạt động các thiết chế văn hóa, đổi mới cơ chế quản lý hệ thống
thiết chế này là điều vô cùng cần thiết. Xuất phát từ vai trò quan trọng của các thiết chế
văn hóa tại địa phương, năm 2000, phường Trà Cổ đã đầu tư xây dựng các thiết chế
văn hóa, đã có 2/4 khu xây dựng nhà văn hóa. Đây là nơi tổ chức các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, tập luyện thể dục thể thao, thu hút được đông đảo các tổ chức và nhân
dân trên địa bàn, 100% hộ dân trên địa bàn được dùng điện thắp sáng. Phong trào văn
hóa văn nghệ quần chúng ngày càng phát triển, đáp ứng nhu cầu tinh thần của người
dân. Số người tham gia rèn luyện thể dục, thể thao ngày một nhiều. Năm 2002, phường
Trà Cổ đạt giải nhì, năm 2003 đạt giải ba văn nghệ của thị xã.
Đến năm 2004, phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa ở Trà Cổ
phát triển sâu rộng với trên 70% gia đình đạt gia đình văn hóa. Công tác y tế - dân số -
gia đình và trẻ em thực hiện có hiệu quả. Tỷ lệ tăng dân số giảm dần. Tỷ suất sinh năm
2001 là 20,81% giảm xuống còn 8,73% năm 2004. Tỷ lệ người sinh con thứ 3 năm
2001 là 5% giảm xuống còn 2,77% năm 2004. Số trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
còn 13,5% năm 2004. Xây dựng Quỹ bảo trợ trẻ em hàng năm từ 5 đến 7 triệu đồng.
83
Công tác xóa đói giảm nghèo thường xuyên được quan tâm chỉ đạo. Số hộ nghèo giảm
từ 24 hộ năm 2001 còn 8 hộ năm 2004 [2; tr.137 - 138]. Năm 2005, Phường đã xây
dựng được 1 nhà văn hoá khu Tràng Vĩ trị giá 232 triệu đồng, thời điểm này đã có 3/4
khu có nhà văn hoá. Lắp đặt 1 cụm truyền thanh trị giá 42 triệu đồng. Số hộ đạt danh
hiệu gia đình văn hoá đạt tỷ lệ 80% [17].
Nhằm đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa đời sống cho nhân dân địa phương, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ phường lần thứ XXI xác định: Đẩy mạnh phong trào xây dựng
gia đình văn hóa, làng văn hóa. Thực hiện tốt chính sách dân số, kế hoạch hóa gia
đình, chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em. Thực hiện tốt chính sách đối với thương
binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, quan tâm cải thiện đời sống cho
người nghèo [2; tr.147]. Tiếp đó, Ban thường vụ Thị ủy đã ra Nghị quyết sổ 07 NQ/TU,
ngày 25/9/2006 về “Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác văn hóa thông tin, thế dục,
thể thao giai đoạn 2006 - 2010”. Do đó phong trào văn hoá có nhiều đổi mới, tiến bộ.
Riêng trong năm 2006, phường tổ chức 4 - 5 đợt giao lưu văn hóa, văn nghệ nhân các
ngày lễ của dân tộc. Hệ thống truyền thanh được đầu tư, nâng cấp và phủ kín địa bàn
dân cư. Tổ chức bình xét gia đình văn hoá tại 4/4 khu dân cư với số hộ được công nhận
đạt 87%, vận động nhân dân và các tổ chức cá nhân hảo tâm ủng hộ xây dựng, tu bổ,
cải tạo đình Đông Thịnh, đình Tràng Vĩ, nhà văn hoá Tràng Lộ, chùa Nam Thọ [18].
Đến năm 2008, phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng
gia đình văn hóa, khu phố văn hóa, xây dựng xứ họ tiên tiến, nhà chùa văn minh được
đông đảo nhân dân hưởng ứng. Năm 2008 có 82,8% gia đình đạt gia đình văn hoá, 3
khu được công nhận khu phố văn hóa cấp thị xã. Đời sống nhân dân tiếp tục nâng cao,
số hộ nghèo giảm còn 1,1%. Hết năm 2008, 100% số hộ có phương tiện nghe nhìn,
100% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia; 58,4% số hộ có nhà kiên cố, còn lại là
nhà cấp 4, phường không còn nhà tạm, tranh tre, nứa lá. Công tác khám, chữa bệnh,
chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Phòng khám đa khoa khu vực Trà Cổ đi
vào hoạt động và Trạm y tế phường thực hiện tốt chức năng khám, chữa bệnh cho nhân
dân. Năm 2008, Trạm y tế phường được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế. Tỷ suất
sinh năm 2007, đạt 14,11%, tỷ lệ sinh con thứ 3 là 6,66% [2; tr.154]. Phường hoàn
thành khu vui chơi cho thanh thiếu nhi và xây thêm 2 nhà văn hóa, cả 4/4 khu đều có
nhà văn hoá. Công tác quản lý quy hoạch và nếp sống đô thị đi vào nề nếp [2; tr.152].
84
Đến năm 2009, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư, xây dựng gia đình văn hoá vẫn được duy trì với hai khu phố được công nhận
khu phố văn hoá, 88,4% số hộ đạt gia đình văn hoá. Duy trì và đảm bảo phát thanh theo
quy định 365 buổi [19].
Năm 2010, phong trào xây dựng đời sông văn hoá được đẩy mạnh, góp phần
tích cực vào vấn đề đảm bảo an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội, xây dựng nếp
sống văn minh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của phường. Đã có 4/4 khu
phố triển khai xây dựng, phát huy tốt hoạt động của nhà văn hoá; 3/4 khu được công
nhận khu phố văn hoá. Tỷ lệ gia đình văn hoá đạt 90%, phong trào văn hoá, văn nghệ,
thể dục thể thao phát triển mạnh đã thu hút trên 30% dân số phường tham gia. Tại
phường đã hình thành và phát huy tốt tác dụng các Câu lạc bộ Thơ, Câu lạc bộ dưỡng
sinh của người cao tuổi (Nam Thọ, Tràng Lộ, Tràng Vĩ). Công tác truyền thanh truyền
hình luôn được đảm bảo, 95% hộ gia đình có máy thu hình [20].
Năm 2011 phường tiếp tục tập trung chỉ đạo phát động toàn dân thi đua phát
triển kinh tế, xây dựng gia đình văn hóa, khu phố văn hóa. Toàn phường đạt 92% gia
đình văn hóa. Tuy nhiên, không có khu phố nào đạt khu phố văn hóa, lý do là cả 04
khu đều có trường hợp sinh con thứ 3 và có trường hợp vi phạm pháp luật [21].
Đến năm 2014, tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 92,5%; 04/04 khu phố không đạt danh
hiệu khu phố văn hóa (do một số chỉ tiêu cứng không đạt tiêu chí). Tổ chức 04 đêm
văn nghệ, 02 giải thể thao mừng Đảng, mừng xuân. Tổ chức tuyên truyền được 20 cuộc
họp dân, phát tin được 135 lượt trên hệ thống loa truyền thanh. Đã nâng cấp, sữa chữa
và đưa vào hoạt động hệ thống loa truyền thanh của phường và 4 khu dân cư với kinh
phí trên 30 triệu đồng. Vận động nhân dân khu Tràng Vỹ được trên 57 triệu đồng để
sữa chữa, nâng cấp nhà văn hóa khu Tràng Vỹ [24].
Năm 2015, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư” được đẩy mạnh. Tỷ lệ gia đình văn hoá đạt trên 90%. 4/4 khu phố đã triển
khai xây dựng, phát huy tốt hoạt động nhà văn hoá; 4/4 khu được công nhận khu phố
văn hoá. Tuy nhiên, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư không đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra; nguyên nhân, hàng năm các khu phố không
giữ vững danh hiệu khu phố văn hoá [25].
85
Kể từ năm 2016, Đảng ủy, UBND phường Trà Cổ đã quán triệt tới cán bộ, công
chức người lao động và các khu phố thực hiện nghiêm túc nếp sống văn hóa, kỷ cương
pháp luật, kỷ cương hành chính. Việc cưới, việc tang, lễ hội được tổ chức thực hiện
theo Quyết định số 215/QĐ-UBND ngày 17 tháng 01 năm 2016 của UBND thành phố
Móng Cái về quy định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội
trên địa bàn thành phố. Trên cơ sở quy định của thành phố, các khu đã gắn các quy
định về việc cưới vào Quy ước của Khu để tổ chức thực hiện. Hầu hết các đám cưới
được tổ chức theo hình thức tiệc cưới trang trọng, phù hợp với phong tục tập quán của
dân tộc. Thủ tục tiến hành các bước dạm ngõ, lễ hỏi, xin dâu đơn giản, gọn nhẹ, tiết
kiệm. Đối với các lễ tang được tổ chức chu đáo, trang nghiêm, tiết kiệm, phù hợp với
tập quán truyền thống văn hóa dân tộc và hoàn cảnh gia đình người qua đời. Khuyến
khích thực hiện hỏa táng, thực hiện vòng hoa viếng luân chuyển, nhạc tang không mở
to và không quá 22 giờ đêm và trước 5 giờ sáng. Mai táng đúng nơi quy định, đảm bảo
không gây ô nhiễm môi trường. Lễ cúng 49 ngày, 100 ngày thực hiện theo xu thế tiến
bộ, không tổ chức rườm rà.
Như vậy, với những hoạt động trên, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” đã thực sự đi vào cuộc sống, lan tỏa vào từng lĩnh vực trong xã hội,
khơi dậy tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm
giàu hợp pháp, xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh, góp phần thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tiểu kết chương 3
Là những cư dân có gốc gác là những người làm nông nghiệp di cư từ Đồ Sơn
(Hải Phòng) đến định cư ở Trà Cổ, trong văn hóa vật thể cũng như phi vật thể của cư
dân phường Trà Cổ thể hiện rõ sự tiếp nối những giá trị văn hóa truyền thống (nghi lễ
trong đám cưới, đám ma, thờ thành hoàng, thờ mẫu…) đồng thời có sự tiếp nối giao
thoa phù hợp với điều kiện tự nhiên, hoạt động kinh tế của cư dân ven biển (kiêng kỵ
và phong tục liên quan đến nghề đánh bắt thủy hải sản; thờ thần tài…). Thực hiện
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, Trà Cổ đã có những biến
đổi nhất định trong đời sống văn hóa. Cư dân nơi đây thực hiện nếp sống văn minh
86
trong cưới xin, tang ma, lễ hội; giúp nhau phát triển kinh tế; chấp hành đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, xây dựng gia đình văn hóa.
Bên cạnh những thành tựu đạt được một số yếu tố văn hóa phản giá trị len lỏi
vào đời sống của cư dân, chưa qua sự khơi trong, gạn lọc. Vì vậy cần phải có những
định hướng kịp thời của các cơ quan quản lý Nhà nước trong vấn đề tiếp thu, tiếp nhận
và kế thừa các giá trị văn hóa, để các giá trị văn hóa đương đại thực sự có tính bổ ích
cho các sinh hoạt văn hóa tinh thần trong cuộc sống hàng ngày của cư dân.
87
KẾT LUẬN
Là vùng đất địa đầu Tổ quốc, được phân bố ở vị trí tiền tiêu, phường Trà Cổ có
vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng và trong
quan hệ giao lưu quốc tế. Trước năm 1998, nền kinh tế chủ yếu của cư dân trên địa bàn
Trà Cổ là ngư nghiệp và nông nghiệp mang tính chất tự cấp, tự túc. Các ngành kinh tế
du lịch - dịch vụ chưa trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nền kinh
tế và đời sống xã hội.
Từ năm 1998 đến năm 2018 dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền
địa phương, sự nỗ lực vươn lên không ngừng của nhân dân Trà Cổ, phường đã vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức và đạt được nhiều thành tựu kinh tế có ý nghĩa quan trọng. Cơ
cấu kinh tế của phường chuyển dịch tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa, trong đó du
lịch - dịch vụ được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn và phát huy được lợi thế. Việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đem lại những kết quả khả quan, mức sống của nhân dân
được cải thiện và nâng cao rõ rệt. Nghề khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, dịch vụ có sự
phát triển đem lại thu nhập bền vững cho cư dân ven biển Trà Cổ.
Là cư dân ven biển, văn hóa của người dân phường Trà Cổ mang những đặc
điểm riêng biệt bên cạnh những đặc điểm chung. Về văn hóa vật chất, là sự kết hợp
giữa văn hóa biển với văn hóa của cư dân vốn gốc gác từ những người làm nông nghiệp.
Đặc biệt trong đời sống tôn giáo, do cư dân Trà Cổ theo đạo Phật và đạo Thiên chúa
nên người dân nơi đây đã sáng tạo ra nhiều công trình kiến trúc như Đình Trà Cổ, chùa
Vạn Linh Khánh, nhà thờ Trà Cổ…không kỳ vĩ nhưng sắc sảo, tinh tế. Trong khi đó
hoạt động tín ngưỡng vừa mang đậm dấu ấn của cư dân ven biển vùng Đông Bắc (tín
ngưỡng thờ mẫu, thần biển, các vị thành hoàng làng đặc trưng) vừa mang những nét
truyền thống của đất nước (như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên).
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong 20 năm (1998 - 2018), đời sống
kinh tế - văn hóa của cư dân phường Trà Cổ vẫn còn tồn tại những hạn chế cần được
khắc phục. Nền kinh tế của phường phát triển chưa tương xứng với tiềm năng vốn có.
Các tiềm năng về đất đai, điều kiện thiên nhiên, khí hậu, lợi thế vị trí địa lý, cơ sở hạ
tầng... chưa được khai thác có hiệu quả. Giá trị sản xuất du lịch - dịch vụ tuy tăng hằng
năm nhưng chưa ổn định và còn nặng về những hoạt động truyền thống mang lại giá
trị thấp. Hoạt động văn hoá còn một số mặt hạn chế yếu kém. Trong rất nhiều khía cạnh
88
của đời sống tâm lý xã hội cổ truyền, còn bảo lưu một số phong tục lạc hậu (như nghi
lễ tang ma còn rườm rà). Mặt khác, có những khía cạnh văn hóa bị mai một (những tri
thức dân gian về đánh bắt thủy sản, làn điệu hát đúm đã không còn được duy trì). Cùng
với sự phát triển của hoạt động dịch vụ, tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm có chiều
hướng gia tăng ảnh hưởng đến trật tự xã hội và đời sống của nhân dân.
Để đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân Trà Cổ phát triển bền vững, khắc phục hạn
chế, khai thác có hiệu quả tiềm năng, Trà Cổ cần đẩy mạnh một số giải pháp sau:
Ngư nghiệp: Quy hoạch chi tiết các làng nghề ven biển, xây dựng kế hoạch phát
triển cụ thể cho từng lĩnh vực phù hợp với điều kiện trình độ nhân lực và kinh tế địa
phương. Đặc biệt, chính quyền cần có các chính sách khuyến khích để người dân mạnh
dạn trong việc đầu tư nuôi trồng thủy hải sản. Vì đặc điểm ngư nghiệp của Trà Cổ là
đánh bắt gần bờ là chủ yếu, nên việc nuôi trồng thủy hải sản đem lại hiệu quả kinh tế
cao hơn so việc đánh bắt. Trong khi đó, về mặt quản lý nhà nước cũng như cơ quan
chủ quản cần có những chính sách và biện pháp quản lý tài nguyên biển để đảm bảo
cho sự tái tạo của môi trường, đảm bảo môi trường sinh sống bền vững cho con người.
Chính quyền cần quan tâm hơn nữa các vấn đề sinh kế của cộng đồng nghề cá, chống
đánh bắt hải sản bất hợp pháp, bảo tồn đa dạng sinh học.
Du lịch, dịch vụ: Trà Cổ cần xác định phát triển du lịch bền vững theo hướng
chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm để du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP của địa phương.
Theo đó cần đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật cho ngành du
lịch một cách đồng bộ chuyên nghiệp. Đặc biệt, cần nhanh chóng hoàn thiện việc nâng
cấp sửa chữa lại tuyến đường bộ từ trung tâm thành phố Móng Cái ra Trà Cổ. Để thúc
đẩy phát triển cần thiết là phải tạo ra môi trường kinh doanh du lịch bình đẳng, cơ chế
chính sách đồng bộ, thông thoáng, có tính đột phá, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, chính
sách huy động nguồn lực xã hội, cụ thể hóa bằng ưu đãi về thuế, tín dụng để huy động
vào đầu tư và du lịch. Ngoài hệ thống nhà nghỉ, khách sạn hiện có, cần đầu tư, liên kết
với các doanh nghiệp trong và ngài nước xây dựng các khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi,
ẩm thực cao cấp. Cần có sự quy hoạch hợp lí các công trình, dịch vụ du lịch để đảm
bảo tính mĩ quan và bảo vệ môi trường. Phát triển du lịch đi đôi với bảo tồn, phát huy
tối đa các lợi thế tự nhiên, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá địa phương. Nâng cao
89
ý thức của người dân địa phương cũng như du khách trong việc giữ gìn môi trường tự
nhiên. Cơ quan chức năng cần quản lí chặt chẽ việc triển khai các dịch vụ, tránh các
hiện tượng bắt nạt khách du lịch. Chính quyền phường cần thiết lập một Cơ quan tiếp
thị điểm đến Trà Cổ để xây dựng chiến lược marketing và triển khai các công cụ kỹ
thuật số mới cung cấp cho khách du lịch cổng thông tin một cửa về du lịch Trà Cổ.
Nông nghiệp: Hiện nay kinh tế nông nghiệp trên địa bàn không chiếm tỉ trọng
cao. Phần đất cho sản xuất nông nghiệp không còn nhiều, người dân chỉ trồng một số
loại cây ăn quả và một số loại rau củ mang tính chất hộ gia đình. Do vậy, bên cạnh phát
triển các loại cây trông truyền thống...cần chọn lựa các loại cây trồng thích hợp trên
đất cát nhưng có giá trị kinh tế như cây hành, tỏi và đặc biệt cây chanh không hạt có
thể cung cấp cho thị trường và dùng làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu.
Về văn hóa: Chính quyền phường cần quán triệt tinh thần đời sống văn hóa là
một bộ phận của đời sống xã hội. Muốn văn hóa phát triển tương xứng với vai trò của
nó, ngang tầm với kinh tế, chính trị, cần xây dựng và phát triển văn hóa vững chắc từ
cơ sở. Do đó, phải chú ý công tác tuyên truyền, vận động để nhân dân thực hiện tốt các
chủ trương chính sách của Đảng, phát luật nhà nước về văn hóa, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa địa phương nhằm giúp họ nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí, tầm quan
trọng của sự nghiệp văn hóa đối với sự phát triển của đất nước, quê hương.
Như vậy, những ưu điểm và hạn chế, những thành công và chưa thành công
trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa ở Trà Cổ (1998 - 2008) để lại những kinh
nghiệm thực tiễn quý báu. Nghiên cứu về kinh tế, văn hóa nói chung và những chuyển
biến trên lĩnh vực này tại các địa phương ven biển nói riêng đòi hỏi một cách tiếp cận
khoa học và sáng tạo, vừa phải tôn trọng những quy luật chung của lịch sử đất nước,
vừa phải tính tới đặc thù của vùng biên giới hải đảo vốn có vị trí địa - chính trị vô cùng
quan trọng. Bởi lẽ, quá trình chuyển biến kinh tế- văn hóa chịu sự ảnh hưởng của nhiều
yếu tố khác, mà điển hình là tác động của điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội của từng
giai đoạn lịch sử cụ thể. Việc nghiên cứu đặc điểm phổ biến và đặc thù của vùng ven
biển do vậy mà còn có nhiều vấn đề còn cần nghiên cứu, lý giải và do đó hứa hẹn sẽ
đem lại sự tiến triển đột phá trong nghiên cứu lịch sử địa phương thời gian tới.
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Mai An (2010), “Phác thảo yếu tố biển trong văn hóa Việt Nam”, Thông
tin Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 40, tr.70 - 78.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ phường Trà Cổ (2011), Lịch sử cách mạng của Đảng bộ
và nhân dân phường Trà cổ (1958 - 2008), Nxb Thông tin và truyền thông.
3. Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Quảng Ninh (1998), Quảng Ninh đất và người, Nxb Lao
động xã hội, Hà Nội.
4. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Quảng Ninh (2003), Quảng Ninh 40 năm xây dựng và phát
triển, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
5. Diệp Trung Bình (1985), “Vài nét về đời sống của ngư dân vùng biển Đông Bắc
Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.15 - 20.
6. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995), tập 19, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Phan Huy Chú (1972), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1 (Dư địa chí), Quyển
thứ ba, bản dịch của Nguyễn Thọ Dực, Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hóa, Sài
Gòn.
8. Cục Thống kê tỉnh Quảng Ninh (2004), Niên giám Thống kê thị xã Móng Cái, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
9. Cục Thống kê tỉnh Quảng Ninh (2008), Niên giám Thống kê thị xã Móng Cái, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
10. Cục Thống kê tỉnh Quảng Ninh (2010), Niên giám Thống kê Thành phố Móng Cái
2009, Nxb Thống kê, Hà Nội.
11. Cục Thống kê Quảng Ninh (2012), Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh năm 1955
– 2011, Quảng Ninh.
12. Cục Thống kê tỉnh Quảng Ninh (2014), Niên giám Thống kê thành phố Móng Cái,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
13. Lê Ngọc Thắng, Đào Bá Dậu (1983), “Đôi nét về làng biển ở nước ta”, Tạp chí
Dân tộc học, số 2, tr.39 - 44.
14. Phạm Đức Dương (Chủ nhiệm), Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Phổ (chủ biên)
(1996), Biển với người Việt cổ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
15. Đảng bộ thị xã Móng Cái (2008), Lịch sử Đảng bộ thị xã Móng Cái (1946 - 2006),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
91
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V
(năm 1981), Nxb Sự Thật, Hà Nội.
17. Đảng ủy phường Trà Cổ (2006), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2005,
mục tiêu cơ bản và những giải pháp, biện pháp trọng tâm triển khai thực hiện
nhiệm vụ năm 2006, Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Đảng ủy phường.
18. Đảng ủy phường Trà Cổ (2006), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2006,
phương hướng nhiệm vụ năm 2007, Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Đảng ủy phường.
19. Đảng ủy phường Trà Cổ (2009), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2009,
phương hướng nhiệm vụ năm 2010, Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Đảng ủy phường.
20. Đảng ủy phường Trà Cổ (2010), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2010,
phương hướng nhiệm vụ năm 2011, Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Đảng ủy phường.
21. Đảng ủy phường Trà Cổ (2010), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành đảng bộ
phường Trà cổ khoá XXII trình Đại hội đảng bộ phường khoá XXIII (Nhiệm kỳ
2010 -2015), Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Đảng ủy phường.
22. Đảng ủy phường Trà Cổ (2011), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2011,
phương hướng nhiệm vụ năm 2012, Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Đảng ủy phường.
23. Đảng ủy phường Trà Cổ (2013), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2013,
phương hướng nhiệm vụ năm 2014, Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Đảng ủy phường.
24. Đảng ủy phường Trà Cổ (2014), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2014,
phương hướng nhiệm vụ năm 2015, Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Đảng ủy phường.
25. Đảng ủy phường Trà Cổ (2015), Báo cáo chính trị Của Ban chấp hành đảng bộ
phường Trà Cổ khoá XXIII trình tại đại hội Đảng bộ phường lần thứ XXIV nhiệm kỳ 2015-
2020, “ Đại hội của trí tuệ, đổi mới và phát triển bền vững”, Tài liệu lưu trữ tại văn
phòng Đảng ủy phường.
26. Đảng ủy phường Trà Cổ (2018), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2018,
phương hướng nhiệm vụ năm 2019, Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Đảng ủy phường.
27. Nguyễn Thị Hải Lê (2010), “Đặc trưng văn hóa biển của người Việt”, Tạp chí Văn
hóa nghệ thuật, số 315, tr 90 - 97.
28. Lê Hồng Lý (2002), “Đôi nét về văn hoá dân gian ven biển trong nền kinh tế thị
trường”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3, tr.38 - 49.
92
29. Điền Nam, Trần Nhuận Minh (1996), “Những lễ hội độc đáo ở tỉnh Quảng Ninh”,
Tạp chí Văn hoá dân gian, (3), tr.27 - 29.
30. Phạm Thị Thúy Nga (2014), Xây dựng đời sống văn hóa tại xã Vạn Ninh, thành
phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn Trường Đại học Sư phạm nghệ thuật
Trung ương.
31. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Phạm Trọng
Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Thuận Hóa, Huế.
32. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, tập 4, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
33. Quốc sử quán triều Nguyễn (Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin
dịch) (2003), Đồng Khánh địa dư chí, Nxb Thế giới, Hà Nội.
34. Sở Văn hóa Thông tin Quảng Ninh (2003), Lý lịch di tích kiến trúc nghệ thuật đình
Trà Cổ, Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Sở.
35. Sở Văn hóa Thông tin Quảng Ninh (2005), Báo cáo kết quả Dự án Sưu tầm lễ hội
đình Trà Cổ, Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Sở.
36. Nguyễn Khắc Sử (1995), “Biển với cư dân tiền sử vùng Đông Bắc”, Tạp chí Khảo
cổ học, số 4, tr.6 - 14.
37. Nguyễn Duy Thiệu (2002), Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
38. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2000), Văn hóa dân gian làng ven biển, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
39. Đàm Thị Uyên, Nguyễn Thanh Thủy (2009), “Tục thờ cúng trong đời sống tâm
linh của ngư dân đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh”, Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11, tr.49 - 55.
40. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ninh (2001), Địa chí Quảng Ninh, tập 1, Nxb Thế giới
mới, Hà Nội.
41. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ninh (2002), Địa chí Quảng Ninh, tập 2, Nxb Thế giới
mới, Hà Nội.
42. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ninh (2003), Địa chí Quảng Ninh, tập 3, Nxb Thế giới
mới, Hà Nội.
93
43. Lê Thanh Tùng (2012), Lễ hội cổ truyền cư dân ven biển Hải Phòng và sự biến đổi
trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa nghệ thuật
Việt Nam.
44. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb CTQG, Hà Nội.
45. Nguyễn Quang Vinh (2002), Văn hóa dân gian làng Vân, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
46. Nguyễn Quang Vinh (2006), Văn hóa ẩm thực Quảng Ninh, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
47. Hoàng Văn Vinh (2013), Xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Đông Triều, tỉnh
Quảng Ninh, Trường Đại học Sư phạm nghệ thuật Trung ương.
94
PHỤ LỤC
Nữ
Phụ lục 1.1: MẪU PHIẾU KHẢO SÁT Phụ lục 1.1.1. Phiếu khảo sát về hoạt động kinh tế tại phường Trà Cổ
Kính thưa ông (bà)! Để tìm hiểu và đánh giá khách quan về thực trạng “Đời sống kinh tế của cư dân phường Trà Cổ từ năm 1998 đến năm 2018”, rất mong ông (bà) cho biết ý kiến của mình thông qua việc trả lời các câu hỏi dưới đây. Ông (bà) nhất trí với ý kiến nào xin đánh dấu (v) vào các ô vuông cùng dòng, nếu không nhất trí xin để trống. Những câu hỏi có dấu chấm (….), đề nghị ông (bà) vui lòng cho biết ý kiến ngắn ngọn. I. Những thông tin chung - Giới tính: Nam Tuổi:…………………………………… - Dân tộc: ................................................................. Tôn giáo:……………………................. - Trình độ học vấn: .................................................. Nghề nghiệp: ………………………….. - Chỗ ở hiện nay: ........................................................................................................................ II. Thông tin khảo sát:
Câu 1: Ông/bà là người địa phương hay ở nơi khác đến ?
- Người địa phương - Người từ nơi khác đến Từ đâu đến: …...……………………………… Năm đến:……………………
Câu 2: Ông/ bà cho biết nghề mang lại thu nhập chính cho gia đình trước đây?
- Nông nghiệp - Cán bộ viên chức - Nghề khác:…………………..
- Đánh bắt thủy hải sản - Nuôi trồng hải sản - Du lịch - dịch vụ
Câu 3: Ông/ bà cho biết nghề mang lại thu nhập chính cho gia đình hiện nay?
- Nghề biển - Nuôi trồng hải sản - Kinh doanh hàng ăn - Kinh doanh khách sạn - Dịch vụ tắm biển
- Chuyên chở khách du lịch - Nghề tự do - Nông nghiệp - Cán bộ viên chức nhà nước - Nghề khác:..................................
Câu 4: Gia đình ông/bà có kinh doanh các dịch vụ phục vụ không?
*. Nếu có xin cho biết kinh doanh gì:…………………………………………… Câu 5: Tình hình sản xuất, kinh doanh của gia đình Ông bà năm 2018 (tùy theo nghề
nghiệp của gia đình ở câu 3 để điền những nội dung phù hợp)
- Ngư nghiệp Khai thác thủy sản Mùa đánh bắt
Đối tượng
Số chuyến/thắng
Phương tiện (công suất)
Thu nhập (triệu đồng/năm)
Từ tháng:….đến tháng…. Từ tháng:….đến tháng…. Nuôi trồng thủy sản Đối tượng
Quy mô (m2)
Số vụ/năm
Thu nhập (triệu đồng/năm)
95
Câu 6: Ông/bà cho biết mức độ đầu tư và áp dụng công nghệ hiện đại vào nghề
đánh bắt ở địa phương mình hiện nay?
Phương tiện và ngư cụ
Được trang bị hiện đại Chưa được trang bị hiện đại
1. Tàu, thuyền đánh cá 2. Các ngư cụ đánh bắt 3. Các thiết bị khác
Câu 7: Ông/bà cho biết các ngư cụ và phương thức đánh bắt chủ yếu ở địa phương
Có Không Ngư cụ và phương thức Có Không
9. Rê thu 10. Rê chim 11. Đăng 12. Đáy 13.Tưng cần 14. Tưng rút 15. Te xúc tép 16. Khác……………..
hiện nay? Ngư cụ và phương thức 1. Rẻo đôi 2. Lưới mòi 3. Lưới xăm 4. Lưới rê 5. Lưới chân 6. Lưới bén 7. Rùng đón 8. Nghề câu Câu 8: Ông/bà cho biết thành phần chủ yếu tham gia đánh bắt ở địa phương hiện nay? - Nam giới (nói chung) có sức khỏe
- -
- Kinh tế du lịch
Câu 9: Việc phát triển du lịch ở địa phương mang lại lợi ích gì cho gia đình ông/bà?
- Góp phần xóa đói giảm nghèo
cho người dân
- Dễ kiếm việc làm hơn - Thu nhập tốt hơn - Kinh doanh buôn bán dễ hơn
- Không mang lại lợi ích gì
Câu 10: Ông/bà cho biết phát triển du lịch có ảnh hưởng gì đến nghề biển truyền
thống như thế nào?
- Nguồn hải sản gần bờ trở nên khan hiếm - Nghề biển khó làm ăn hơn - Người làm nghề biển ít hơn
- Số người làm nghề biển vẫn như trước - Nghề biển chuyển sang nuôi trồng là chủ yếu
Câu 11: Ông/bà cho biết phát triển du lịch tác động đến các yếu tố văn hóa truyền
thống nào dưới đây?
- Lễ hội truyền thống - Di tích lịch sử văn hóa
- Tín ngưỡng - Phong tục - Kinh tế nông nghiệp Lĩnh vực
Số vụ/năm
nhập
(triệu
Trồng trọt
Chăn nuôi
Loại cây trồng, vật nuôi
Quy mô (sào hoặc con)
Thu đồng/năm
96
Thu nhập:
tự
TT Nguồn
Ước tính thu nhập của hộ năm 2018: Tổng:______________triệu, trong đó: TT Nguồn
tự
Thứ nguồn thu
Nuôi trồng thủy hải sản Khai thác thủy hải sản Nông nghiệp Du lịch
Tự kinh doanh Làm thuê Viên chức
5 6 7 8
Thứ nguồn thu 1 2 3 4 - So với 20 năm trước đây, mức thu nhập của gia đình có thay đổi không?
Giảm nhiều
Giảm ít
Không thay đổi
Tăng ít
Tăng nhiều
Nguyên nhân:
Ăn, uống Giáo dục Xây mới, sửa chữa nhà Đóng góp xã hội
Chăm sóc sức khỏe Mua sắm tài sản tiêu dùng Đầu tư phát triển kinh tế Khác (ghi rõ)….
TT Mục 5 6 7 8
Thứ tự chi
Ước tính chi tiêu của hộ năm 2018: Tổng:______________ triệu, trong đó: Thứ tự chi TT Mục 1 2 3 4 - So với 10 năm trước đây, mức chi tiêu của gia đình có thay đổi không?
Giảm nhiều
Giảm ít
Không thay đổi
Tăng ít
Tăng nhiều
Thiếu kiên cố
Bán kiên cố
Kiên cố
Điều kiện sống: - Nhà cửa: + Diện tích nhà:____________ m2 + Loại nhà: Đơn sơ - Các tài sản trong gia đình
TV Bếp ga Xe máy Ô tô
Máy tính Điện thoại cố định/di động Bình nóng lạnh Tàu/thuyền
Internet Tủ lạnh Xe đạp
Radio/Dàn âm thanh Bếp điện Máy giặt Máy móc sản xuất - Nguồn nước gia đình đang sử dụng:
Nước máy
Nước mưa
Nước giếng khoan
Nước giếng đào
- Tình trạng nhà vệ sinh của gia đình
Tự hoại
Đơn giản
Không có
20 năm trước đây
Tình trạng kinh tế: Ông bà tự đánh giá như thế nào về tình trạng kinh tế của gia đình mình: Hiện nay Mức độ Khá/giàu - đáp ứng được các nhu cầu của gia đình có đầu tư cho sản xuất, có thể có tích lũy Tạm được/Trung bình - đáp ứng được các nhu cầu của gia đình nhưng không có tiết kiệm Khó khăn/nghèo - cố đáp ứng nhu cầu của gia đình nhưng làm suy kiệt tư liệu sản xuất và có nhận sự hỗ trợ của cộng đồng và chính phủ
Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà ! (Mẫu phiếu được tác giả luận văn tự xây dựng trên cơ sở các nội dung mà luận văn tập trung nghiên cứu)
97
Nữ
Tuổi:…………………………………… Tôn giáo:………………………………. Nghề nghiệp: …………………………..
Phụ lục 1.1.2. Phiếu khảo sát về hoạt động văn hóa tại phường Trà Cổ Kính thưa ông (bà)! Để tìm hiểu và đánh giá khách quan về thực trạng Đời sống văn hóa của cư dân phường Trà Cổ từ năm 1998 đến năm 2018, rất mong ông (bà) cho biết ý kiến của mình thông qua việc trả lời các câu hỏi dưới đây. Ông (bà) nhất trí với ý kiến nào xin đánh dấu (v) vào các ô vuông cùng dòng, nếu không nhất trí xin để trống. Những câu hỏi có dấu chấm (….), đề nghị ông (bà) vui lòng cho biết ý kiến ngắn ngọn. I. Những thông tin chung - Giới tính: Nam - Dân tộc:……………………. - Trình độ học vấn:……. II. Thông tin khảo sát:
Câu 1: Ông/bà cho biết CNH, HĐH đánh bắt có tác động đến các yếu tố văn hóa truyền thống nào dưới đây?
- Tín ngưỡng - Phong tục
- Lễ hội truyền thống - Di tích lịch sử văn hóa
Câu 2: Ông/bà cho biết các phong tục sau sinh xưa và nay ở địa phương mình?
Các phong tục
4. Bán phồng long 5. Lễ chẵn tháng 6. Lễ chẵn năm
Xưa Nay
Xưa Nay Các phong tục 1.Treo cây dứa dại trước cổng nhà 2. Treo cành gai nhọn trước cửa 3. Nhúng đứa trẻ xuống nước Phong tục và nghi lễ khác (nếu có):........................................................................................
Câu 3: Ông/bà cho biết phong tục cưới xin xưa và nay ở địa phương mình? Các nghi lễ
Các nghi lễ
1. Lễ dạm ngõ
5. Lễ cưới Tại gia đình
Xưa Nay
Xưa Nay
Tại nơi khác (Nhà hàng,khách sạn…
6. Lễ lại mặt
2. Lễ vấn danh 3. Lễ ăn hỏi 4. Lễ nộp cheo cho làng Phong tục và nghi lễ khác (nếu có):...................................................................................... Câu 4: Ông/bà cho biết phong tục ma chay xưa và nay ở địa phương mình?
Các phong tục
Xưa Nay
Các phong tục
Xưa Nay
1. Che mặt người chết
9. Cúng tuần
2. Khâm liệm
10. Cúng 49 ngày
3. Nhạc hiếu
11. Lên chùa
4. Thầy cúng làm lễ
12. Cúng 100 ngày
5. Xem giờ phát tang
13. Giỗ đầu
6. Xem giờ hạ huyệt
14. Giỗ hết
7. Tang phục
15. Sang cát (Bốc mộ)
8.Cúng 03 ngày
Phong tục và nghi lễ khác (nếu có):.........................................................................................
98
Câu 5: Ông/bà cho biết những nghi lễ, phong tục trong nghề đánh bắt xưa và nay ở địa phương mình ? Các nghi lễ và phong tục
Xưa Nay Các nghi lễ và phong tục Xưa Nay
1. Cúng lưới mới
6. Kiêng đếm lưới
2. Cúng thuyền ra khơi
7. Chọn ngày đi biển
3.Cúng thuyền mới (lễ hạ thuyền)
8. Kiêng bước qua mũi thuyền
4. Tục phóng sinh cá (ở mẻ cá đầu của thuyền mới, lưới mới)
9.Kiêng gặp phụ nữ trên đường đi đánh cá
5. Kiêng đánh cá vào ngày cá vượt Vũ môn (ngày 8/4)
10.Kiêng để phụ nữ lạ lên thuyền đánh cá
Câu 6: Ông/bà cho biết các tín ngưỡng xưa và nay ở địa phương ?
Các tín ngưỡng, tôn giáo
Xưa Nay Các tín ngưỡng, tôn giáo Xưa Nay
1.Thờ cúng tổ tiên
5. Thờ tổ nghề
2.Thờ Cá Ông
6. Thờ thần tài
3. Thờ Thành Hoàng
7. Thờ Bác Hồ
4. Thờ người có công
8. Thờ các thần linh khác
Câu 7: Ông/bà cho biết các lễ hội xưa và nay ở địa phương?
Các lễ hội
Xưa Nay
Các lễ hội
Xưa Nay
1. Lễ cầu Ngư
4. Lễ hội thờ tổ nghề
2. Hội đua thuyền
5. Nghi lễ Phật giáo
6. Nghi lễ Công giáo
3. Lễ hội tưởng niệm anh hùng dân tộc (nhân vật lịch sử)
Lễ hội khác (ghi rõ tên lễ hội và nơi diễn ra lễ hội):.............................................................. Câu 8: Ông/bà cho biết mức độ đi lễ của gia đình ở các đền, đình chùa,
miếu,… tại địa phương ? Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Chưa bao giờ
Câu 9: Ông/bà cho biết thành phần tham dự lễ hội ở địa phương hiện nay ?
- Người kinh doanh - Người làm nghề biển - Người làm nông nghiệp
- Người làm công nhân khu công nghiệp - Người trí thức - Cán bộ, nhân viên nhà nước
- Các thành phần nơi khác đến:………………………………………………….........
Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà ! (Mẫu phiếu được tác giả luận văn tự xây dựng trên cơ sở các nội dung mà luận văn tập trung nghiên cứu)
99
Phụ lục 1.2. DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN PHỎNG VẤN Ngày phỏng vấn
Địa chỉ
Giới tính
Họ và tên
Tuổi
TT
1 Nguyễn Thị Chiêm
78
Nữ
Khu Tràng Lộ, Phường Trà Cổ
5/4/2019
2 Lê Mạnh Hà
72
Nam Khu Đông Thịnh, Phường Trà Cổ 18/04/2019
3 Nguyễn Thị Hòe
55
Nam Khu Nam Thọ, Phường Trà Cổ
5/03/2019
4 Nguyễn Văn Hữu
85
Nam Khu Nam Thọ, Phường Trà Cổ
18/4/2019
5 Nguyễn Văn Kiên
62
Nam Khu Nam Thọ, Phường Trà Cổ
6/03/2019
6 Hoàng Minh
79
Nam Khu Tràng Lộ, Phường Trà Cổ
10/04/2019
7 Nguyễn Thanh Nhẫn
80
Nam Khu Đông Thịnh, Phường Trà Cổ 12/05/2019
8 Hoàng Văn Phin
45
Nam Khu Tràng Vỹ, Phường Trà Cổ
12/03/2019
9 Trần Thị Sợi
38
Nữ
Khu Tràng Vỹ, Phường Trà Cổ
10/03/2019
10 Lê Quyết Tiến
40
Nam Khu Tràng Vỹ, Phường Trà Cổ
10/03/2019
11 Hoàng Thanh Vĩnh
52
Nam Khu Đông Thịnh, Phường Trà Cổ 16/04/2019
Phụ lục 1.3. Một số kết quả kinh tế, văn hóa của phường Trà Cổ (2005 - 2015)
TT
Nội dung
2005 - 2010
2010 - 2015
Đơn vị tính
I Phát triển kinh tế xã hội
1 Tỷ trọng thu từ dịch vụ - du lịch
>70
>70
%
5
>5
2 Tăng giá trị sản xuất nông nghiệp/năm %
3 Tàng giá trị sản xuất ngư nghiệp /năm
8 đến 10
5 đến 10
%
95,1
106
2 Thu nộp ngân sách
%
II Văn hoá xã hội
67
85 (45% hộ giàu)
1 Tỷ lệ hộ khá giàu
%
Xoá được 27 hộ Xoá đươc 8 hộ/14 hộ
2 Xoá đói giảm nghèo
Hộ
86,1
90
3 Xây đựng gia đình văn hoá
%
4
4 Xây dựng khu phố văn hoá
3
Khu (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành đảng bộ phường Trà cổ khoá XXI, XXII)
100
Phụ lục 1.4. Một số văn bản có liên quan đến phường Trà Cổ
CHÍNH PHỦ ********
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 52/1998/NĐ-CP Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 1998
NGHỊ ĐỊNH Về việc thành lập thị xã Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh và thành lập các phường, xã thuộc thị xã CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Xét đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Bộ trưởng, Trưởng
ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. Nay thành lập thị xã Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh và thành lập các
phường, xã thuộc thị xã như sau:
a. Thành lập thị xã Móng Cái trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện
Hải Ninh.
Thị xã Móng Cái có 52.000 ha diện tích tự nhiên và 57.838 nhân khẩu, gồm 5
phường và 11 xã.
Địa giới hành chính thị xã Móng Cái: Đông giáp Vịnh Bắc Bộ, Tây giáp huyện
Quảng Hà, Nam giáp huyện Cô Tô, Bắc giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
b. Thành lập các phường và xã thuộc thị xã Móng Cái như sau:
1. Thành lập phường Ka Long trên cơ sở khu Ka Long của thị trấn Móng Cái cũ
với 152,8 ha diện tích tự nhiên và 6.068 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Ka Long: Đông giáp phường Hoà Lạc; Tây giáp xã Hải Yên; Nam giáp phường Ninh Dương; Bắc giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
2. Thành lập phường Trần Phú trên cơ sở khu Trần Phú của thị trấn Móng Cái cũ
với 97,2 ha diện tích và 6.147 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Trần Phú: Đông giáp xã Hải Hoà; Tây giáp phường
Ka Long; Nam giáp phường Hoà Lạc; Bắc giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
3. Thành lập phường Hoà Lạc trên cơ sở khu Hoà Lạc và khu Thọ Xuân của thị
trấn Móng Cái cũ với 71,7 ha diện tích và 4.495 nhân khẩu.
101
Địa giới hành chính phường Hoà Lạc: Đông và Nam giáp xã Hải Xuân; Tây giáp
phường Ka Long; Bắc giáp phường Trần Phú.
4. Thành lập phường Ninh Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã
Ninh Dương với 1.258,8 ha và 3.719 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Ninh Dương: Đông giáp phường Hoà Lạc và xã Hải Xuân; Tây giáp xã Hải Yên; Nam giáp xã Vạn Ninh; Bắc giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
5. Thành lập phường Trà Cổ trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Trà Cổ
với 1.369 ha và 2.631 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Trà Cổ: Đông giáp Vịnh Bắc Bộ; Tây giáp xã Hải Hoà và xã Vạn Xuân; Nam giáp xã Bình Ngọc và xã Vĩnh Thực; Bắc giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
6. Thành lập xã Hải Sơn trên cơ sở thị trấn lâm trường Hải Sơn với 14. 924,2 ha
diện tích và 680 nhân khẩu.
Địa giới hành chính xã Hải Sơn: Đông giáp xã Hải Yên; Tây giáp huyện Quảng
Hà; Nam giáp xã Quảng Nghĩa; Bắc giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Các xã còn lại: Hải Yên, Hải Xuân, Hải Hoà, Bình Ngọc, Quảng Nghĩa, Hải Tiến, Vạn Ninh, Hải Đông, Vĩnh Thực và Vĩnh Trung thuộc thị xã Móng Cái giữ nguyên diện tích và dân số.
Điều 2: Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ban hành. Mọi
quy định trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ.
Điều 3: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và thủ trưởng các cơ quan có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
THỦ TƯỚNG (Đã ký) Phan Văn Khải
102
103
104
Phụ lục 1.5. Một số hình ảnh về kinh tế, văn hóa phường Trà Cổ
Hình 1: Một số phương tiện đánh bắt và bè nuôi Hàu của cư dân Trà Cổ hiện nay (Nguồn: Tác giả luận văn chụp, tháng 2/2019)
Hình 2: Bến đậu thuyền của ngư dân Trà Cổ (Nguồn: www.dulichvietnam.com.vn)
105
Hình 3: Đầm nuôi tôm của cư dân Trà Cổ (Nguồn: Tác giả luận văn chụp, tháng 2/2019)
Hình 4: Chợ buôn bán hải sản Trà Cổ (Nguồn: Tác giả luận văn chụp, tháng 2/2019)
106
Hình 5: Bãi biển Trà Cổ mùa du lịch (www.dulichvietnam.com.vn)
Hình 6: Cụm thông tin cổ động biên giới Sa Vĩ (Nguồn: http://www.qtv.vn)
107
Hình 7: Sân golf Vĩnh Thuận (Nguồn: www.quangninh.gov.vn)
Hình 8: Khu nghỉ dưỡng cao cấp Đông Bắc (Nguồn: Tác giả luận văn chụp, tháng 2/2019)
108
Hình 9: Nhà hàng Trà Cổ (Nguồn: www.halongtravelguide.com)
Hình 10: Ghẹ xanh – đặc sản ẩm thực của Trà Cổ (Nguồn: www.vntrip.vn)
109
Hình 11: Đình Trà Cổ (Nguồn: mongcai.gov.vn)
Hinh 12: Lễ nghinh thần trong lễ hội Trà Cổ (Nguồn: mongcai.gov.vn)
110
Hình 13: Tục thi “ông Voi” trong lễ hội đình Trà Cổ (Nguồn: mongcai.gov.vn)
Hình 14: Chùa Vạn Linh Khánh (Nguồn: mongcai.gov.vn)
111
Hình 15: Nhà thờ Trà Cổ cũ (Nguồn: http://quangninh.tintuc.vn)
Hình 16: Tác giả trong chuyến điền dã tại địa phương (tháng 2/2019) (Nguồn: Tác giả chụp)
112