BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ….o0o…. PHẠM VĂN SỸ
ĐỘNG CƠ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH PHẠM VĂN SỸ
ĐỘNG CƠ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA
HỌC
TS. LÊ XUÂN HỒNG
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2012
LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chương trình cao học và luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến: - Quý Thầy Cô giảng dạy chương trình Cao học Tâm lý học – Khoa Tâm lý
Giáo dục trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tận tình hướng dẫn và truyền đạt tri thức cùng những kinh nghiệm quý báu trong nghiên cứu khoa học thời gian qua. - Ban giám hiệu nhà Trường cùng Quý Thầy Cô phòng Sau đại học trường
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt khóa học.
Đặc biệt xin gửi lời tri ân sâu sắc đến TS. Lê Xuân Hồng – người đã luôn đồng hành và tận tình hướng dẫn, góp ý xây dựng trong từng bước nghiên cứu và thực hiện đề tài. Xin cảm ơn tất cả những người thân và bạn bè đã quan tâm, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua. Trân trọng!
Phạm Văn Sỹ
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Tất cả các kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Phạm Văn Sỹ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Khái quát khách thể nghiên cứu ......................................................... 39 Bảng 2.2: Mức độ quan tâm của sinh viên về mục đích học tập ........................ 41 Bảng 2.3: Lý do quyết định học đại học ............................................................. 42 Bảng 2.4: So sánh lý do học đại học của sinh viên năm thứ nhất và sinh viên năm thứ tư ........................................................................................................... 45 Bảng 2.5: Lý do sinh viên chọn trường ĐH KHXH&NV ................................... 46 Bảng 2.6: Lý do chọn trường ĐH KHXH&NV của sinh viên năm thứ nhất và thứ tư kết hợp với nguyện vọng xét tuyển .......................................................... 49 Bảng 2.7: Động cơ học tập của sinh viên thể hiện qua mục đích học tập ........... 50 Bảng 2.8: Thái độ học tập của sinh viên khi đã hình thành mục đích học tập..... 57 Bảng 2.9: Hành vi học tập của sinh viên ............................................................. 60 Bảng 2.10: Yếu tố ảnh hưởng tới động cơ học tập ............................................. 67 Bảng 2.11: So sánh sự ảnh hưởng tới động cơ học tập của yếu tố gia đình với địa bàn cư trú ................................................................................................. 69 Bảng 2.12: Sinh viên tự đánh giá về động cơ học tập của bản thân .................... 72 Bảng 2.13: Biện pháp khuyến khích sinh trong quá trình học tập ....................... 75
MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 8
CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................................................... 12
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 12
1.1.1. Quan điểm phi Mác-xít về động cơ ................................................................... 12
1.1.2. Quan niệm của Tâm lý học Mác-xít về động cơ ................................................ 14
1.1.3. Một số công trình nghiên cứu về động cơ học tập ............................................. 17
1.2. Động cơ ..................................................................................................................... 20
1.2.1. Một số khái niệm về động cơ ............................................................................. 20
1.2.2. Một số thuyết về động cơ ................................................................................... 21
1.2.3. Phân loại động cơ ............................................................................................... 24
1.2.4. Mối quan hệ giữa động cơ với nhu cầu và ý thức .............................................. 25
1.3. Hoạt động học tập và động cơ học tập của sinh viên ................................................ 26
1.3.1. Hoạt động học tập của sinh viên ........................................................................ 26
1.3.1.1. Khái niệm hoạt động ................................................................................... 26
1.3.1.2. Cấu trúc của hoạt động ............................................................................... 28
1.3.1.3. Phân loại hoạt động ..................................................................................... 29
1.3.1.4. Hoạt động học tập ....................................................................................... 29
1.3.2. Động cơ học tập của sinh viên ........................................................................... 31
1.3.2.1. Khái niệm và phân loại ............................................................................... 32
1.3.2.2. Biểu hiện của động cơ học tập .................................................................... 33
1.3.2.3. Mối quan hệ giữa động cơ học tập và hoạt động học tập ........................... 33
1.3.2.4. Sự hình thành động cơ học tập ................................................................... 34
1.3.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới động cơ học tập ................................................. 35
1.3.2.6. Giáo dục động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên ..................................... 35
Chương 2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ........................................................... 40
2.1. Vài nét về trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.HCM............................... 40
2.2. Cách tổ chức nghiên cứu thực trạng động cơ học tập của sinh viên ......................... 43
2.1.1. Giai đoạn khảo sát thăm dò ................................................................................ 43
2.1.2. Giai đoạn khảo sát chính thức ............................................................................ 43
2.3. Khái quát về khách thể nghiên cứu ........................................................................... 45
2.4. Kết quả nghiên cứu về động cơ học tập của sinh viên .............................................. 48
2.4.1. Mức độ quan tâm của sinh viên về việc học ...................................................... 48
2.4.2. Động cơ học tập của sinh viên trường ĐHKHXH&NV .................................... 57
2.4.2.1. Động cơ học tập thể hiện qua mục đích học tập ......................................... 57
2.4.2.2. Động cơ học tập thể hiện qua thái độ học tập ............................................. 64
2.4.2.3. Động cơ học tập thể hiện qua hành vi học tập ............................................ 66
Trao đổi học thuật, du học dưới nhiều hình thức khác nhau ........................................... 67
2.4.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới động cơ học tập của sinh viên ............................. 73
2.4.4. Kết luận chung về động cơ học tập của sinh viên .............................................. 78
2.4.5. Biện pháp khuyến khích sinh viên trong quá trình học tập ............................... 81
2.4.6. Một số biện pháp giáo dục động cơ học tập cho sinh viên ................................ 83
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................................. 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 92
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Môi trường giáo dục cạnh tranh và mang tính toàn cầu đem đến cho sinh viên
những điều kiện thuận lợi để tiếp cận, lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và nhiều cơ
hội để khẳng định năng lực của bản thân. Sinh viên có thể tiếp cận với môi trường
giáo dục quốc tế, được học tập thông qua những công nghệ hiện đại, có được công
việc tốt với mức thu nhập cao… Tuy nhiên, để hoạt động nhận thức đạt hiệu quả,
ngoài việc biết nắm bắt, chuyển hóa tốt những cơ hội, sinh viên cần phải xác định rõ
ràng động cơ học tập cho bản thân. Động cơ học tập sẽ chi phối hoạt động nhận
thức và ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động ấy.
Động cơ học tập là một trong những thành tố quan trọng trong cấu trúc nhân
cách nói chung và trong hoạt động học tập của sinh viên nói riêng. Nó không chỉ tác
động tới kết qủa học tập của sinh viên mà còn ảnh hưởng tới chiều hướng phát triển
nhân cách của mỗi cá nhân. Do vậy, khi nghiên cứu động cơ học tập của sinh viên
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM sẽ góp phần làm sáng tỏ
những cơ sở lý luận về động cơ và động cơ học tập, đồng thời làm cơ sở khoa học
để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, đào tạo cho
sinh viên tại trường.
Qua tìm hiểu thực tiễn hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn TP.HCM tôi nhận thấy có một bộ phận sinh viên chưa tích
cực trong việc học tập và nghiên cứu khoa học, chưa nhận thức được vai trò quan
trọng của hoạt động học tập để rồi xây dựng cho mình những động cơ học tập phù
hợp. Điều này dẫn đến một thực trạng đáng buồn là sinh viên không tự giác, không
tích cực trong học tập, không say mê nghiên cứu khoa học, thậm chí học đối phó,
chán học, bỏ học… Do vậy, việc nghiên cứu động cơ học tập của sinh viên trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM sẽ tìm được câu trả lời đâu là động
cơ học tập của sinh viên để có những tác động giáo dục phù hợp nhằm đem lại hiệu
quả cao cho công tác giáo dục.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Động cơ học
tập của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ
Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu động cơ học tập và các nhân tố tác động tới động cơ học tập của sinh
viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM. Trên cơ sở đó đề xuất một
số giải pháp nhằm giáo dục, định hướng động cơ học tập của sinh viên, góp phần
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục và đào tạo ở trường ĐH Khoa học Xã hội và
Nhân văn TP.HCM.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Động cơ học tập của sinh viên.
3.2 Khách thể nghiên cứu:
Sinh viên năm thứ nhất (tương đương từ 1 đến 2 học kỳ) và sinh viên năm thứ
4 (tương đương từ 7 đến 8 học kỳ) hệ chính quy trường ĐH Khoa học Xã hội và
Nhân văn TP.HCM, bao gồm các ngành: Địa lý, Tâm lý học, Báo chí, Ngữ văn
Anh, Ngữ văn Trung và Hàn Quốc học.
Giảng viên và cán bộ trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
4. Giả thuyết khoa học
4.1. Hoạt động học tập của sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn
được thúc đẩy bởi nhiều loại động cơ khác nhau, trong đó nổi bật nhất là động cơ
hoàn thiện tri thức và yếu nhất là động cơ xã hội.
4.2. Động cơ học tập của sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn
chịu sự chi phối, tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau như hứng thú với ngành học,
thái độ học tập, môi trường học tập, môi trường xã hội…
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xác định cơ sở lí luận của đề tài.
5.2. Nghiên cứu động cơ học tập và các yếu tố tác động tới động cơ học tập
của sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
5.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm giáo dục, định hướng động cơ học tập của
sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu động cơ học tập và các yếu tố tác động tới
động cơ học tập của sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
7.2.1. Phương pháp quan sát, dự giờ.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò ý kiến.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu.
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số
liệu.
Các thông số được sử dụng để nghiên cứu thực trạng gồm: trung bình (mean),
độ lệch chuẩn, các kiểm nghiệm T, F cho giá trị trung bình, Chi-square cho tỷ lệ
phần trăm.
8. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu về động cơ, động cơ học tập và các yếu tố tác động tới
động cơ học tập của sinh viên góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về động
cơ học tập, đồng thời giáo dục động cơ học tập của sinh viên trường ĐH Khoa học
Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn bao gồm 03 phần
chính là phần mở đầu, kết quả nghiên cứu, kết luận và kiến nghị.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khi bàn về vấn đề động cơ, mỗi trường phái thường xuất phát từ những quan
điểm, nguyên tắc phương pháp luận khác nhau. Do vậy, trong các tài liệu Tâm lý
học, trên bình diện nghiên cứu lý luận, có rất nhiều quan điểm khác nhau về động
cơ.
1.1.1. Quan điểm phi Mác-xít về động cơ
S.Freud (1915) - người tiêu biểu cho thuyết bản năng cho rằng: những bản
năng là nguồn gốc năng lượng, là động lực chủ yếu thúc đẩy mọi hoạt động của con
người. Những người theo học thuyết này nhìn nhận con người như một “tồn tại”
sinh học và có “hệ động cơ” như là những năng lượng sinh học đặc biệt. Năng
lượng này được tạo ra bởi những bản năng của con người, trong đó quan trọng nhất
là bản năng về tình dục (Libido). Freud cho rằng “phần lớn các bản năng tác động
một cách vô thức, song chúng lại ảnh hưởng đến các suy nghĩ, tình cảm cũng như
hành động có ý thức của ta, đôi khi ta lại ở trong thế xung đột với các đòi hỏi của
xã hội”. [10; 367]
Clark Hull (1952) là người phát triển đầy đủ nhất của thuyết xung năng cho
rằng: động cơ là cần thiết trong quá trình học tập và học tập là điều cốt lõi cho sự
thích nghi có hiệu quả với môi trường. Tương tự như Freud, Clark Hull nhấn mạnh
vai trò sự căng thẳng trong động cơ, ông cho rằng giảm căng thẳng có ý nghĩa củng
cố. Theo quan điểm này, các xung năng sơ cấp có cơ sở sinh học được khơi dậy khi
sinh vật bị tước đoạt. Những xung năng này hoạt hóa sinh vật, khi được thỏa mãn
hoặc giảm thiểu thì sinh vật ngừng hoạt động. Thuyết giảm xung năng mang ý
nghĩa cân bằng nội tại là vì nó cho rằng một sinh vật bị khơi dậy xung năng là để
duy trì thế cân bằng nội tại, một thế cân bằng bên trong các hệ và các quá trình của
cơ thể. Thuyết giảm xung năng cân bằng nội tại này của động cơ và học tập đã có
ảnh hưởng cho tới giữa nhưng năm 1950 khi nó bị thách thức bởi các dữ kiện mới.
[10; 368]
Đại diện mới của thuyết Phân tâm Atler cho rằng: ý chí đối với quyền lực là
động lực của những động cơ quyền lực và hành vi của con người, về thực chất, ý
chí quyền lực cũng là sức mạnh của bản năng nhưng tồn tại dưới hình thức khác.
Trong khi đó C.Hull, S.Koch lại quan niệm động cơ như là sự đói khát, nghỉ ngơi,
tranh đấu, sinh dục… Các nhà Tâm lý học hành vi (Skiner, Watson) giải thích
nguồn gốc của năng lực hành vi là những lực trừu tượng khó nhận biết, là bản năng
vô thức của con người. Họ quan niệm hành vi của con người chính là tổng hợp
những phản ứng đáp lại các kích thích.
Abraham Maslow (1970) đại diện cho thuyết Nhân văn về động cơ của con
người đã cắt nghĩa cả những hành động làm giảm căng thẳng lẫn những hành động
làm tăng căng thẳng. Maslow đối lập khái niệm động cơ do thiếu hụt, trong đó con
người tìm kiếm để phục hồi thế cân bằng sinh lý hoặc tâm lý, với khái niệm động cơ
muốn thăng tiến, trong đó con người làm nhiều hơn so với điều chỉ để làm giảm
thiếu hụt là vì con người tìm kiếm nhằm thể hiện đầy đủ nhất tiềm năng của mình.
Ngoài có động cơ muốn thăng tiến, có thể chấp nhận sự bấp bênh, sự căng thẳng và
thậm chí là sự đau đớn nếu họ nhìn thấy nó là một cách thể hiện đầy đủ tiềm năng
của mình và là một cách hoàn thành mục tiêu.[10; 372]
Các tác giả K.Levin, Zei-garmik, K.Lissner… cho rằng: động cơ chỉ là sự tác
động qua lại giữa những nội lực ở bên trong với trường lực ở bên ngoài. Các tác giả
này đều phủ nhận và trò của ý thức đối với hành vi của con người và mới chỉ đề cập
đến khía cạnh nội dung của động cơ, tức là chưa chú ý đến vai trò của chủ thể hoạt
động trong mối quan hệ xã hội phong phú, đa dạng. Do vậy, họ đều không tìm thấy
bản chất thực sự của động cơ hành vi con người.
Theo A.N.Leontiev khi nghiên cứu về động cơ Tâm lý người, các nhà Tâm lý
học phương Tây đã coi hệ động cơ như là những kích thích tích cực của con người,
mà những kích thích đó mang tính chất bản năng sinh học và được tạo ra một cách
bẩm sinh [11]. Mặt khác, họ lại chủ quan coi động cơ được quyết định bởi các yếu
tố thuộc hoàn cảnh bên ngoài. Cách hiểu như vậy dẫn đến sự lẫn lộn giữa các hiện
tượng hoàn toàn khác loại và những mức độ hoàn toàn khác biệt điều chỉnh hoạt
động của con người.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên đây của các nhà Tâm lý học phương
Tây xuất phát từ sai lầm về phương pháp luận trong nghiên cứu Tâm lý con người
nói chung và nghiến cứu về động cơ nói riêng. Họ nghiên cứu Tâm lý con người ở
trạng thái siêu hình (con người là một thực thể sinh học) tách rời khỏi hoạt động,
tách rời khỏi các mối quan hệ xã hội mà con người đang sống.
1.1.2. Quan niệm của Tâm lý học Mác-xít về động cơ
Dòng phái Tâm lý học Mác-xít với những đại diện tiêu biểu như
L.X.Vưgotsky, A.N.Leontiev, X.L.Bubinstein… cho rằng: con người không phải là
“con người sinh vật” thuần túy, không phải là “con người cá nhân” đối lập với xã
hội mà con người là “con người xã hội” với tất cả những mối quan hệ, những hoạt
động có ý thức của nó. Ý thức – Tâm lý con người được sinh ra bởi hoạt động của
chủ thể nhằm lĩnh hội và tạo lập các mối quan hệ xã hội, tạo ra sản phẩm vật chất và
tinh thần để cải tạo và xây dựng xã hội, khẳng định bản thân, từ đó hình thành nên
bộ mặt tâm lý của mỗi con người [12]. Vì vậy, muốn hiểu được tâm lý người, trước
hết phải đi từ cuộc sống thực của con người thông qua những hoạt động và các mối
quan hệ xã hội của con người [5].
Trong “Hoạt động – Ý thức – Nhân cách”, Leontiev cho rằng: động cơ hoạt
động của con người cực kỳ đa dạng được nảy sinh từ những nhu cầu, hứng thú khác
nhau. Một hoạt động có thể xuất phát từ nhiều động cơ thúc đẩy và trong cấu trúc
của hoạt động, những động cơ này được sắp xếp theo một hệ thống có thứ bậc [11].
Theo A.N. Leontiev, động cơ là đặc trưng chủ yếu trong tâm lý con người, nó
thúc đẩy và điều khiển mọi hoạt động của con người. Ý thức và quá trình nhận thức
của con người đã được phát triển trong quá trình hình thành động cơ của họ. “Động
cơ là một cái khách quan mà trong đó nhu cầu tìm kiếm bản thân mình trong những
điều kiện nhất định, cái khách quan ấy làm cho hoạt động thành hoạt động có đối
tượng, và là cái hướng hoạt động vào một kết quả nhất định”. [7; 273]
Lý luận của Tâm lý học nhân cách chỉ ra rằng, động cơ có cấu trúc hết sức
phức tạp, có nhiều hệ thống và tùy thuộc vào hoạt động chủ đạo của từng lứa tuổi
trong những giai đoạn phát triển mà loại động cơ nào trở nên chiếm ưu thế trong
cấu trúc thứ bậc đó. Theo A.N.Leontiev, “Động cơ là một hiện tượng tâm lý sâu kín
nhất. Ngay cả với những nhân cách đã trưởng thành không phải bao giờ cũng ý
thức đầy đủ động cơ hoạt động của mình. Các động cơ chỉ lộ ra trước ý thức một
cách khách quan bằng cách phân tích hoạt động. Còn trong lĩnh vực chủ quan thì
các động cơ chỉ thể hiện dưới các dạng gián tiếp của nó, tức là dưới hình thức
những trải nghiệm, những mong ước, ý muốn, nguyện vọng đạt tới mục đích”. [11;
239]
A.N.Leontiev là người đại diện tiêu biểu cho dòng phái Tâm lý học Mác-xít đã
có những nghiên cứu đầy đủ và rõ ràng về lý luận động cơ của con người. Những
kết quả nghiên cứu của ông đã được nhiều nhà Tâm lý học trên thế giới vận dụng và
phát triển để làm cơ sở khi nghiên cứu về động cơ của con người.
Các nhà tâm lý học Việt Nam đã có sự thống nhất cao với các nhà tâm lý học
Xô Viết, nhất là ý kiến của A.N. Leontiev và B.Ph.Lomov… khi bàn về khái niệm
động cơ. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu cho rằng: những đối tượng đáp ứng nhu
cầu này hay nhu cầu khác nằm trong hiện thực khách quan, một khi chúng bộc lộ ra,
được chủ thể nhận biết sẽ thúc đẩy, hướng dẫn con người hoạt động. Khi ấy, nó sẽ trở
thành động cơ của hoạt động.
Trong từ điển Tâm lý do Nguyễn Khắc Viện chủ biên đã nêu rằng: động cơ là
những gì thôi thúc con người có những hành vi ứng xử nhất định. Động cơ thường
gắn liền với nhu cầu, nhu cầu chưa được thoả mãn tạo ra tình trạng căng thẳng, thôi
thúc hoạt động cho đến khi thoả mãn.
Tác giả Hồ Ngọc Đại khi nghiên cứu về động cơ đã kết luận: chiếm được cái cụ
thể hoá nhu cầu của họ đó là động cơ hoạt động của họ. Đối tượng là động cơ đích
thực của hoạt động. “Động cơ có hai nơi ở bên ngoài và bên trong tâm lý. Khi nó ở
bên ngoài thì hoạt động lên đối tượng này gọi là hoạt động ở hình thái bên ngoài,
nếu nó ở bên trong thì hoạt động tác động lên nó là hoạt động bên trong. Trong cả
hai trường hợp bao giờ cũng là sự gặp gỡ giữa chủ thể và đối tượng của hoạt động”.
Cũng theo tác giả, mục đích học tập là một biểu hiện cụ thể của một khâu trong
chuỗi logic của đối tượng học tập. Như vậy, quá trình đạt mục đích học tập cũng là
quá trình hình thành động cơ trong điều kiện cụ thể xác định của tiến trình hoạt
động (học tập), cho nên không thể có một động cơ nào khác bên ngoài hoạt động áp
đặt vào cho nó nghĩa là không thể có một quá trình riêng rẽ hình thành động cơ học
tập bên ngoài việc thực hiện những nhiệm vụ học tập. Trong thực tiễn giáo dục,
động cơ học tập phải được cụ thể hóa thành hệ thống mục đích, do đó việc chiếm
lĩnh đối tượng được thực hiện một cách hiện thực bởi chủ thể dưới hình thức thực
hiện các nhiệm vụ học tập. [5, 217]
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, động cơ là các đối tượng bên ngoài chứa đựng
trong bản thân chúng khả năng thỏa mãn nhu cầu. [7; 273]
Như vậy, những cái trở thành yếu tố tâm lý hướng dẫn, thúc đẩy chủ thể hoạt
động đều là biểu hiện cụ thể của động cơ. Động cơ là hiện tượng tinh thần với tư cách
là động lực tâm lý. Qua tiếp thu những thành tựu của tâm lý học Mác-xít và trên cơ sở
phân tích các công trình nghiên cứu trong nước, chúng tôi có thể đưa ra khái niệm về
động cơ như sau: Động cơ là những cái được chủ thể phản ánh, trở thành yếu tố tâm
lý thúc đẩy và kích thích con người hoạt động nhằm đạt được mục đích và thoả mãn
các nhu cầu của cá nhân.
1.1.3. Một số công trình nghiên cứu về động cơ học tập
Trong tâm lý học, động cơ là một vấn đề được các nhà khoa học rất quan tâm
và khái niệm động cơ thường được dùng như một khái niệm trung tâm để lý giải về
hành vi của con người.
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu về động cơ học tập
nhưng chủ yếu là ở lứa tuổi học sinh, còn ở lứa tuổi sinh viên thì không nhiều.
Tác giả Nhâm – Văn – Chăn – Con trong luận văn thạc sĩ “Tìm hiểu động cơ
học tập của học sinh cấp 2” đã kết luận rằng: động cơ nhận thức tạo nên sự say mê,
ý thức tự giác của chủ thể học sinh trong học tập và dẫn đến những kết quả cụ thể
của hoạt động học tập. Vì vậy, động cơ nhận thức là một trong những yếu tố trực
tiếp quyết định hiệu quả giáo dục. Cũng theo tác giả, để hình thành và phát triển
động cơ học tập cần phải phát huy tính tích cực nhận thức của người học, xóa bỏ lối
dạy học nhồi nhét và cần phải có những thay đổi, cải tiến về nội dung, phương pháp
dạy học. [2]
Tác giả Khăm – Phăn – Khăm – On trong luận án tiến sĩ: “Động cơ học tập và
quan hệ của nó với nguyện vọng chọn nghề của học sinh Lào” đã đưa ra kết luận:
động cơ học tập chi phối trực tiếp đến kết quả học tập của học sinh. Những hành
động biểu hiện động cơ học tập rõ nét và mạnh mẽ trong quá trình học tập đặc biệt
là loại học sinh có kết quả học tập khá và giỏi. Chính những kết quả học tập là điều
kiện quan trọng để đáp ứng những nhu cầu, khát vọng tiếp thu tri thức, ý thức trách
nhiệm của họ đối với đất nước. [15; 108]
Tác giả Trịnh Quốc Thái trong luận án tiến sĩ: “Nghiên cứu động cơ học tập
của học sinh lớp một dưới ảnh hưởng của phương pháp nhà trường” đã đưa ra kết
luận: hoạt động học tập của các nhóm học sinh lớp một đều được thúc đẩy bởi một
hệ thống những động cơ có nội dung phong phú và đa dạng. Những động cơ này
không tồn tại một cách độc lập, riêng rẽ, rời rạc mà chúng được sắp xếp theo một
thứ bậc nhất định: có động cơ chiếm ưu thế, có những động cơ giữ vai trò thứ yếu
tạo thành một cấu trúc động cơ học tập từ khi các em bắt đầu tiến hành hoạt động
học tập. Cấu trúc đó được sắp xếp lại và sẽ được phát triển trong quá trình cả năm
học. [20; 110]
Tác giả Lý Minh Tiên trong luận văn thạc sĩ: “Bước đầu xác định một số đặc
điểm động cơ quá trình giải bài tập của học sinh lớp 10 và 11 ở một số trường phổ
thông trung học nội thành thành phố Hồ Chí Minh” cho rằng: ngoài hai nhóm động
cơ là động cơ bên ngoài, động cơ bên trong thì còn có một nhóm nữa là động cơ
trung gian. [21]
Tác giả Trần Nguyễn Hương Giang trong luận văn thạc sĩ: “Những yếu tố ảnh
hưởng đến động cơ học tập của học sinh trung học phổ thông Marie Curie, quận 3,
thành phố Hồ Chí Minh” đã đưa ra kết luận: trong quá trình tiến hành hoạt động
học tập, động cơ học tập sẽ được hình thành theo hai hướng là động cơ xuất phát từ
hoạt động học tập và từ mối quan hệ của chủ thể với môi trường xung quanh. Mặt
khác, động cơ học tập của học sinh được thúc đẩy bởi một hệ thống động cơ, trong
đó có những động cơ đóng vai trò chủ yếu và có những động cơ đóng vai trò là thứ
yếu. Nhóm động cơ lĩnh hội tri thức luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình
học tập của học sinh. [6; 83]
Những công trình trên khi nghiên cứu về động cơ học tập của học sinh đều chỉ
ra rằng: hoạt động học tập được thúc đẩy bởi một hệ thống động cơ khác nhau
nhưng những động cơ này có sự liên quan, chi phối, tác động qua lại với nhau mà
trong đó, có những động cơ giữ vị trí cơ bản, có những động cơ giữ vị trí thứ yếu.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về động cơ học tập của tuổi học sinh
còn có một số công trình nghiên cứu về động cơ học tập của lứa tuổi sinh viên.
Tác giả Dương Thị Kim Oanh trong đề tài nghiên cứu “Động cơ học tập của
sinh viên trường đại học Bách Khoa” đã cho rằng: động cơ học tập của sinh viên rất
đa dạng (bao gồm động cơ nhận thức khoa học, động cơ xã hội, động cơ nghề
nghiệp và động cơ tự khẳng định) và những động cơ này bị chi phối bởi nhiều yếu
tố chủ quan và khách quan như niềm tin vào bản thân, tinh thần trách nhiệm, hứng
thú học tập hay các mối quan hệ như gia đình, bạn bè… [14]
Tác giả Lê Nguyễn Minh Loan trong đề tài nghiên cứu “Động cơ học tập của
sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn” đã đề cập đến khía cạnh
nội dung và lực của động cơ. Kết quả nghiên cứu cho thấy nội dung của động cơ
học tập (khía cạnh nhận thức) được hình thành đậm nét ở sinh viên, và những động
cơ này muốn có “lực” thì phải được thể hiện ở việc vượt qua những hành động cụ
thể. [13]
Tác giả Đặng Quốc Thành trong đề tài nghiên cứu “Động cơ học tập của học
viên ở các nhà trường quân sự” cho rằng hoạt động học tập của học viên ở các nhà
trường quân sự được thúc đẩy bởi những động cơ chủ yếu như: động cơ chính trị xã
hội, động cơ nhận thức khoa học, động cơ nghề nghiệp và động cơ tư lợi riêng. [17]
Tác giả Phạm Thị Hồng Thái trong luận văn thạc sĩ “Động cơ học tập của
sinh viên ngành Tâm lý học trường đại học Văn Hiến” đã chỉ ra rằng có sự tồn tại
song song giữa những động cơ học tập đúng đắn với những động cơ không đúng
đắn ở sinh viên, do đó cần phải có những biện pháp giáo dục động cơ để sinh viên
hoàn thiện động cơ học tập của mình. [19; 52]
Nhìn chung, những tác giả này khi nghiên cứu về động cơ học tập của sinh
viên đều có chung nhận định: động cơ học tập của sinh viên rất đa dạng và bị chi
phối bởi nhiều yếu tốt khác nhau.
1.2. Động cơ
1.2.1. Một số khái niệm về động cơ
Khi nghiên cứu về hành vi con người, các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng: động
cơ có một vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của họ. Động cơ chính là “lực”
thúc đẩy con người hành động nhằm đạt được mục đích của mình.
Động cơ trong tiếng Latin là Motif – có nghĩa là nguyên nhân thúc đẩy con
người hành động. Nguyên nhân này nằm bên trong chủ thể có thể xuất phát từ nhu
cầu sinh lý hay tâm lý (vì đói khát mà con người đi tìm thức ăn, nước uống; vì yêu
quý thầy cô mà trẻ học hành…).
Khi nghiên cứu về động cơ, một số nhà Tâm lý học phương Tây đưa ra định
nghĩa: “động cơ là những nhu cầu hoặc ước muốn mà nó phục vụ cho tính tích cực
của hành vi và hướng trực tiếp tới mục tiêu [4; 396]. Cũng có tác giả cho rằng:
“động cơ liên quan đến những câu hỏi tại sao người ta lại hành xử, nghĩ và cảm thấy
cách mà họ làm. Động cơ của hành vi có năng lực, có hướng và được duy trì liên
tục. [3; 368]
A.N.Leontiev định nghĩa: “Động cơ là đối tượng đáp ứng nhu cầu này hay nhu
cầu khác, nó thúc đẩy hay điều khiển hành động của con người”, hay “cái gì khi
được phản ánh trong đầu con người, thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn
một nhu cầu nhất định thì gọi là động cơ của hoạt động ấy. [23; 14]
Theo A.V. Petrovski: “Động cơ là đối tượng kích thích hoạt động liên quan tới
sự thỏa mãn một nhu cầu nào đó”. [15; 153]
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn khi nghiên cứu về động cơ thì cho rằng: động cơ
là cái thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu, nảy sinh tính tích cực
và quy định xu hướng của hướng tích cực đó. Động cơ là động lực kích thích trực
tiếp, là nguyên nhân trực tiếp của hành vi. [24; 206]
Theo Bùi Ngọc Oánh, động cơ học tập là “sức thúc đẩy hoạt động học, là cái
mà vì nó học sinh thực hiện hoạt động học, tức là học để làm gì”. [1]
Theo Nguyễn Thạc, “động cơ là cái thúc đẩy con người hoạt động nhằm đạt
mục đích nhất định”. [18; 123]
Tác giả Dương Thị Kim Oanh khi nghiên cứu về động cơ học tập của sinh
viên đã nêu ra khái niệm như sau: động cơ là yếu tố tâm lý phản ánh đối tượng có
khả năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể, nó định hướng, thúc đẩy và duy trì hoạt
động của chủ thể nhằm chiếm lĩnh đối tượng đó. [14]
Tóm lại, trong tâm lý học có rất nhiều định nghĩa khác nhau khi nghiên cứu về
động cơ hoạt động của con người. Mỗi tác giả có cách nhìn nhận khác nhau nhưng
giữa họ vẫn tồn tại điểm chung khi cho rằng: động cơ là yếu tố tâm lý thúc đẩy, quy
định sự lựa chọn và hướng của hành vi con người. Động cơ là cái được phản ánh
vào trong đầu con người, thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu
cầu nhất định.
1.2.2. Một số thuyết về động cơ
• Thuyết bản năng (William Dougall, 1908)
Những người theo thuyết này cho rằng, bản năng là những xu hướng bẩm sinh
hoặc những lực sinh học quyết định hành vi.
Nhà tâm lý học William Dougall, đại diện tiêu biểu của thuyết bản năng nhận
định: động cơ thúc đẩy con người hành động là những bản năng. Bản năng là những
thiên hướng mang tính di truyền gồm ba thành tố: một phương diện tạo thành năng
lượng chung, một phương diện hành động và một phương diện nhắm vào mục đích.
Một quan điểm khác về thuyết bản năng là của Sigmund Freud, ông cho rằng
các bản năng của con người, trong đó có bản năng sống (như là tình dục) và bản
năng chết là những bản năng không có chủ tâm, không có ý thức cũng chẳng có
chiều hướng tiền định, và con người đòi hỏi được tồn tại nhằm thỏa mãn các nhu
cầu thể xác, và những nhu cầu này tạo ra năng lượng tâm thần. Sự căng thẳng trong
đời sống điều khiển chúng ta đi tới các hoạt động hoặc các đối tượng, nhờ hoạt
động làm giảm căng thẳng. Theo Freud, phần lớn các bản năng tác động một cách
vô thức, song chúng lại ảnh hưởng đến suy nghĩ, tình cảm cũng như hành động có ý
thức của ta, đôi khi ta ở trong thế xung đột với các đòi hỏi của xã hội.
• Thuyết xung năng
Trong những năm 40 và 50 của thế kỷ XX các nhà tâm lý học đã đưa ra khái
niệm nhu cầu và xung năng để giải thích động cơ bằng thuyết xung năng – giải tỏa.
Theo nhà tâm lý học Robert Woodworth, động cơ là một xung năng thầm kín
quyết định ứng xử. Xung năng được xem là năng lượng giải phóng từ kho dự trữ
của sinh vật, nó là năng lượng không đặc hiệu, không phương hướng. Xung năng là
nhiên liệu của hành động, được khơi dậy do có kích thích và sẵn sàng được chuyển
tới các hoạt động nhắm vào mục tiêu.
Lý thuyết về xung năng sau này được Clark Hull phát triển một cách đầy đủ
khi cho rằng động cơ là cần thiết cho quá trình học tập và học tập là điều kiện cốt
lõi để thích nghi với môi trường. Clark Hull nhấn mạnh vai trò của căng thẳng trong
động cơ, giảm căng thẳng có ý nghĩa củng cố động cơ.
Thuyết xung năng – giải tỏa chỉ giải thích được động cơ của những hành động
thỏa mãn nhu cầu sinh học của cơ thể nhưng không giải thích được những hành
động thỏa mãn những nhu cầu xã hội, tinh thần, trong đó có những nhu cầu mà để
thỏa mãn nó con người cần phải chấp nhận sự căng thẳng.
• Thuyết khích lệ
Khích lệ là những nhân tố thuộc môi trường đang khuyến khích, động viên, lôi
kéo chúng ta làm những việc gì đó, tham gia vào những hoạt động nào đó, cho dù
phải trải qua nhiều khó khăn, vất vả, nguy hiểm để đạt được điều khích lệ. Khác với
những xung năng bên trong cơ thể thúc đẩy ta hành động, các kích thích lệ thuộc về
môi trường xung quanh bên ngoài để thu hút, lôi kéo chúng ta hành động.
Thuyết khích lệ là thuyết giải thích rằng: sở dĩ chúng ta chấp nhận làm những
việc căng thẳng, khó khăn, nguy hiểm là do chúng ta bị thu hút, lôi kéo bởi những
cái khích lệ chúng ta như sự ca ngợi, sự công nhận, sự tặng thưởng của xã hội đối
với chúng ta.
• Thuyết nhận thức
Thuyết nhận thức cho rằng, có hai loại động cơ khác nhau là động cơ ngoại lai
và động cơ nội tại. Động cơ ngoại lai là động cơ của những hành động nhằm mục
đích chiếm lĩnh những đối tượng đang có trong môi trường để thỏa mãn những nhu
cầu sinh học hoặc để có được những sự khích lệ, những tặng thưởng đến với mình
từ môi trường. Trong khi đó, động cơ nội tại là động cơ của những hành động mà
bản thân hành động và hoạt động này là sự tặng thưởng cho cá nhân chủ thể, hoặc là
sự thực hiện niềm tin, những sự mong đợi của chủ thể.
Thuyết nhận thức về động cơ là thuyết cho rằng con người hành động, hoạt
động là do nhận thức được hành động ấy, hoạt động ấy là sự tặng thưởng cho mình,
là niềm tin và mong đợi của mình, là sự thực hiện động cơ nội tại của mình.
• Thuyết nhân văn
Lý thuyết về động cơ của con người được nhà tâm lý học theo thuyết Nhân
văn Abraham Maslow cắt nghĩa là cả những hành động làm giảm căng thẳng lẫn
hành động làm tăng căng thẳng. Maslow đối lập với khái niệm động cơ do thiếu hụt,
trong đó con người tìm kiếm nhằm phục hồi thế cân bằng sinh lý hoặc tâm lý mà ở
đó con người làm nhiều hơn so với điều kiện chỉ để làm giảm sự thiếu hụt là vì con
người tìm kiếm nhằm để thực hiện đầy đủ tiềm năng của mình.
Theo lý thuyết này, người có động cơ muốn thăng tiến có thể chấp nhận sự
bấp bênh, sự căng thẳng thậm chí sự đau đớn nếu họ cho rằng đó là cách thể hiện
tiềm năng của mình và là một cách hoàn thành mục tiêu. Những mục tiêu có ý nghĩa
và những giá trị nhân cách là xứng đáng với sự hy sinh và đau khổ ấy.
Tóm lại, qua các lý thuyết trên đây ta thấy rằng mỗi lý thuyết được các nhà
nghiên cứu nhìn nhận, tiếp cận ở mỗi phương diện, mỗi góc độ khác nhau, do đó
khái niệm về động cơ cũng được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Chính vì vậy
mỗi lý thuyết cũng đều có những mặt tích cực và những hạn chế riêng của nó.
1.2.3. Phân loại động cơ
Tác giả A.A.Xmiêc-nôp chia động cơ thành hai nhóm: động cơ tiềm tàng và
động cơ có hiệu lực thực; động cơ lớn, lâu dài và động cơ nhỏ, trước mắt. [23]
Các nhà Tâm lý học hoạt động cho rằng: hoạt động của con người bị chi phối
bởi nhiều động cơ khác nhau, trong đó có những động cơ giữ vai trò chủ đạo và
những động cơ có vai trò thứ yếu. Những động cơ này có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau và trong từng hoàn cảnh cụ thể, chúng tạo thành một hệ thống gọi là thứ bậc
các động cơ.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, động cơ có hai loại là động cơ gần và động cơ
xa. Trong đó, động cơ xa là mục đích chung của hoạt động, động cơ gần là mục
đích bộ phận – mục đích của từng hành động. [7]
Trong khi đó, tác giả Nguyễn Quang Uẩn chia động cơ ra làm sáu loại, bao
gồm: động cơ ham thích và động cơ nghĩa vụ; động cơ quá trình và động cơ kết
quả; động cơ gần và động cơ xa; động cơ cá nhân; động cơ xã hội và động cơ công
việc; động cơ bên trong và động cơ bên ngoài; động cơ tạo ý và động cơ kích thích.
Các loại động cơ và các thành phần trong hệ thống động cơ có quan hệ chi
phối lẫn nhau. Tùy theo sự khác nhau về nội dung, tính chất cũng như vị trí của
chúng trong cấu trúc mà tác động thúc đẩy của chúng đối với hoạt động của chủ thể
là khác nhau và dẫn đến những kết quả hoạt động khác nhau. [24]
Về mặt đạo đức, người ta còn phân biệt giữa động cơ tốt và động cơ xấu, trong
đó, động cơ tốt là động cơ thúc đẩy con người hoạt động vì lợi ích chính đáng của
cá nhân mình và không gây hại cho lợi ích của người khác và lợi ích của xã hội
hoặc tốt hơn nữa là chỉ vì lợi ích của xã hội; còn động cơ xấu là động cơ thúc đẩy
con người hoạt động vì lợi ích bất chính của mình, gây hại cho lợi ích của người
khác và lợi ích của xã hội.
Một số nhà tâm lý – giáo dục Việt Nam còn chia động cơ thành hai loại là
động cơ đúng đắn và động cơ chưa đúng đắn, theo đó, động cơ đúng đắn là những
yếu tố tâm lý thúc đẩy cá nhân hoạt động nhằm thỏa mãn một nhu cầu chính đáng
của bản thân và phù hợp với đạo lý, pháp lý của xã hội; động cơ chưa đúng đắn là
những yếu tố tâm lý thúc đẩy cá nhân hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân
nhưng không phù hợp với đạo lý và pháp lý xã hội.
1.2.4. Mối quan hệ giữa động cơ với nhu cầu và ý thức
Động cơ là cái thúc đẩy hành động, nó gắn liền với việc thỏa mãn những nhu
cầu của chủ thể, là toàn bộ những điều kiện bên trong và bên ngoài có khả năng
khơi dậy tính tích cực của chủ thể và xác định xu hướng của nó. Điều đó nói lên
mối tương quan giữa động cơ với nhu cầu và ý thức của chủ thể.
• Mỗi quan hệ giữa động cơ với nhu cầu
Theo quan điểm Tâm lý học Mác-xít, nhu cầu là động lực đầu tiên thúc đẩy
hoạt động của con người, là nguồn gốc của tính tích cực hoạt động. Không có nhu
cầu của con người thì không có bất kỳ hoạt động nào của nó và sự tồn tại, phát triển
của mỗi cá nhân trong thế giới khách quan luôn gắn liền với các nhu cầu. Do vậy,
nhu cầu và động cơ có mối quan hệ với nhau: nếu như nhu cầu là động lực đầu tiên
kích thích con người hoạt động, là cơ sở của động cơ thì động cơ hướng dẫn, kích
thích và thúc đẩy hoạt động nhằm đạt được đối tượng thỏa mãn nhu cầu của con
người. [14]
Bàn về mối quan hệ giữa nhu cầu và động cơ, tác giả B.Ph. Lomov cho rằng:
không thể tách biệt nhu cầu và động cơ. Nhu cầu có quan hệ mật thiết với động cơ
vì động cơ là sự biểu hiện chủ quan của nhu cầu và ngược lại, nhu cầu là cơ sở của
động cơ.
• Mối quan hệ giữa động cơ và ý thức
Về thực chất, mối quan hệ giữa động cơ và ý thức thể hiện ở chỗ: động cơ
không phải là một hiện tượng tâm lý mà ý thức không thể với tới. Động cơ hoạt
động của con người không tách rời khỏi ý thức song chúng có thể được phản ánh ở
nhiều mức độ khác nhau. Về mặt chủ quan, động cơ hoạt động được phản ánh gián
tiếp thông qua cảm nhận của chủ thể về các trạng thái xúc cảm có liên quan tới động
cơ. Về mặt khách quan, chúng có thể được chủ thể ý thức nhờ việc phân tích hoạt
động. Mối quan hệ giữa động cơ học tập của con người (trong đó có động cơ học
tập) và ý thức còn cho thấy con người còn có thể biểu đạt một cách có ý thức về
động cơ hoạt động của bản thân bằng nhiều cách khác nhau (ngôn ngữ, hành động
có chủ đích). [22]
1.3. Hoạt động học tập và động cơ học tập của sinh viên
1.3.1. Hoạt động học tập của sinh viên
1.3.1.1. Khái niệm hoạt động
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, hoạt động là quá trình con người thực hiện các
mối quan hệ giữa mình và thế giới bên ngoài – thế giới tự nhiên và thế giới xã hội,
giữa mình và người khác, giữa mình và bản thân. Trong quá trình đó con người bộc
lộ tâm lý (năng lực, ý chí, mong muốn…) ra bên ngoài. [7; 56]
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn coi “hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại
giữa con người và thế giới để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới và cả về phía con
người”. [24; 55]
Chính vì vây, hoạt động có các đặc điểm cơ bản sau:
o Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng. Trong quá trình hoạt động, con người phải xác định rõ ràng đối tượng hoạt động của mình. Đối tượng
hoạt động có thể là các yếu tố thuộc về tự nhiên như đất đai, cây cối…, cũng có thể
thuộc về xã hội như con người, pháp luật, văn hóa…
o Hoạt động bao giờ cũng do chủ thể tiến hành. Bất cứ hoạt động nào cũng phải do chủ thể xác định thực hiện. Chủ thể của hoạt động có thể là một cá nhân và
cũng có thể là một tập thể.
o Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp. Trong hoạt động lao động, con người sử dụng công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên, tác động vào đối
tượng lao động. Công cụ lao động giữ vai trò trung gian giữa chủ thể và đối tượng
lao động, tạo ra tính gián tiếp cho hoạt động lao động.
o Hoạt động bao giờ cũng có mục đích nhất định. Trước khi hoạt động để tạo ra một sản phẩm nào đó thì con người đã có những biểu tượng về sản phẩm ở trong
não bộ. Những biểu tượng đó sẽ là kim chỉ nam để con người tiến hành hoạt động
và cũng là công cụ để kiểm tra kết quả cuối cùng của hoạt động. Do vậy, không có
một hoạt động nào mà lại không có kế hoạch từ trước. Tuy nhiên trong quá trình
hoạt động thì những mục đích ban đầu có thể thay đổi, điều chỉnh hay nhường chỗ
cho một mục đích khác. [24]
Một hoạt động càng mạnh bao nhiêu thì càng có nhiều mục đích bấy nhiêu,
cho nên khi hoạt động tức là đang thực hiện một hay nhiều hành động. Ví dụ hoạt
động học tập là một hoạt động chung bao gồm nhiều hành động như đọc sách báo,
tham khảo tài liệu, nghe giảng, đi thực tế, làm đồ án… do vậy động cơ của hoạt
động là động cơ của từng hành động. Phải có động cơ hoạt động trước mới đi vào
động cơ của từng hành động và khi hành động để đạt mục đích sẽ đạt được động cơ
của hoạt động đó.
1.3.1.2. Cấu trúc của hoạt động
Leontiev khi nói về cấu trúc của hoạt động đã đưa ra sáu thành tố cơ bản bao
gồm: hoạt động – động cơ; hành động – mục đích; thao tác – phương tiện. Trong đó
động cơ, mục đích, phương tiện là mặt đối tượng của hoạt động; còn hoạt động,
hành động, thao tác là mặt chủ thể của hành động. Mối liên hệ giữa sáu thành tố
trong cấu trúc của hoạt động được thể hiện qua sơ đồ sau. [24; 60]
Hoạt động
Động cơ
Hành động
Mục đích
Phương tiện
Thao tác
Những thành tố trên là đơn vị phân tử chứ không phải đơn vị hợp thành. Đây
là cấu trúc chức năng, mỗi thành tố có khả năng trở thành một hoạt động độc lập,
điều đó có nghĩa là một đối tượng nào đó mà chủ thể hướng tới để thỏa mãn nhu
cầu thì đó là động cơ, nhưng nếu nó là phương tiện để thỏa mãn nhu cầu khác thì nó
lại là mục đích.
Một động cơ có thể được cụ thể hóa trong nhiều mục đích và ngược lại, một
mục đích có thể được thể hiện bởi nhiều động cơ khác nhau. Do đó, một hoạt động
được thực hiện bởi nhiều hành động khác nhau và một hành động có thể tham gia
trong nhiều hoạt động khác nhau.
Một hoạt động sau khi đã thực hiện được động cơ thì trở thành một hành động
cho hoạt động khác.
Để đạt được mục đích, ta cần phải thực hiện một hành động. Mục đích đó có
thể phát triển theo hai hướng: trở thành động cơ (lúc này hành động biến thành hoạt
động) hoặc trở thành phương tiện (lúc này hành động trở thành thao tác và có thể
tham gia vào nhiều hành động khác). Ví dụ, khi một sinh viên học để thỏa mãn nhu
cầu về mặt tri thức thì tri thức chính là động cơ học tập của sinh viên, ngược lại, nếu
sinh viên học tập để có được địa vị trong xã hội thì lúc này tri thức trở thành
phương tiện của mục đích học tập.
Trong vô số các hoạt động của con người thì hoạt động dạy – học là hai hoạt
động chủ yếu của quá trình giáo dục. Khuynh hướng dạy học ngày nay là dần
chuyển trọng tâm của quá trình dạy học từ thầy sang trò. Thầy chỉ là người hướng
dẫn, tổ chức, điều khiển còn hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của trò sẽ quyết
định thành quả cũng như chất lượng của quá trình giáo dục.
Như vậy, hoạt động là phương thức để con người thỏa mãn nhu cầu của mình.
1.3.1.3. Phân loại hoạt động
Hoạt động của con người rất đa dạng và phong phú. Cuộc sống con người là
một chuỗi các hoạt động được diễn ra liên tiếp. Chính thông qua các hoạt động mà
con người được trưởng thành. Thông qua hoạt động, con người sẽ tiếp thu và lĩnh
hội được những giá trị văn hóa, tinh thần của những thế hệ đi trước đã được kết tinh
lại trong những sản phẩm họ làm ra để phát triển về mặt tâm lý, ý thức của cá nhân.
Xét về phương diện phát triển cá thể, trong đời người có ba loại hình hoạt
động kế tiếp nhau đó là các hoạt động vui chơi, học tập và lao động.
1.3.1.4. Hoạt động học tập
Theo D.B. Encônin, “hoạt động học trước hết là hoạt động mà nhờ nó diễn ra
sự thay đổi trong bản thân học sinh. Đó là hoạt động nhằm tự biến đổi mà sản phẩm
của nó là những biến đổi diễn ra trong chính bản thân của chủ thể trong quá trình
thực hiện nó”. Theo ông, hoạt động học tập có mục đích bao gồm ba thành phần là:
các động cơ học tập, các nhiệm vụ học tập và các hành động học tập. [7; 198]
Theo tác giả Lê Văn Hồng, hoạt động học tập là một hoạt động đặc thù của
con người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo mới, những giá trị, nhưng hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất
định. [9]
Mỗi định nghĩa thường nhấn mạnh một khía cạnh nào đó theo quan điểm của
tác giả, nhưng có một điểm chung của hoạt động học tập là có mục đích tự giác, có
ý thức về động cơ và trong đó diễn ra các quá trình nhận thức, đặc biệt là quá trình
tư duy.
Trong cuộc sống, con người luôn tiếp thu, tích lũy những kinh nghiệm sống để
trên cơ sở đó, con người tiếp thu những kiến thức khoa học trong nhà trường. Trên
thực tế, chỉ có những phương thức học tập đặc thù là phương thức học tập trong nhà
trường mới có khả năng giúp cá nhân học được những tri thức khoa học để có năng
lực mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Do vậy, hoạt động học tập là hoạt động
có mục đích chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của xã hội; là hoạt động có mục
đích hướng vào làm thay đổi chính chủ thể hoạt động.
Hoạt động học tập ở bậc đại học mang tính chất chuyên ngành, phạm vi hẹp
nhưng sâu hơn, nhằm đào tạo ra những chuyên gia, những tri thức cho đất nước.
Hoạt động này được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Trong quá
trình đó, việc nắm vững nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể
tiến hành được hoạt động nghề nghiệp trong tương lai. [18; 118]
Hoạt động học tập ở đại học là một loại hoạt động tâm lý được tổ chức một
cách độc đáo của sinh viên nhằm mục đích có ý thức là chuẩn bị trở thành người
chuyên gia phát triển toàn diện sáng tạo và có trình độ nghiệp vụ cao. Những nét
đặc trưng cho hoạt động này là sự căng thẳng mạnh mẽ về trí tuệ, trong đó bao gồm
các quá trình tâm lý cao (tư duy, xúc cảm, ý chí), các hoạt động khác nhau và nhân
cách người sinh viên nói chung. [18; 119]
Cốt lõi của hoạt động học tập của sinh viên là sự tự ý thức về học tập của họ.
Tự ý thức về động cơ mục đích, biện pháp học tập, hiểu sâu sắc mình chính là chủ
thể của hoạt động nên bản thân phải là người tổ chức, định hướng, cụ thể hóa quá
trình học tập. Chỉ những sinh viên nào biết cụ thể hóa quá trình học tập của mình và
chủ động thực hiện các nhiệm vụ học tập mới mong đạt kết quả cao.
Trong số các hoạt động chủ yếu của sinh viên ở trường đại học như hoạt động
học tập, hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạt động xã hội, hoạt động rèn luyện
nghiệp vụ… thì hoạt động học tập giữ vai trò chủ đạo. Hoạt động này có ảnh hưởng
sâu sắc nhất đến sự phát triển các quá trình và các thuộc tính tâm lý của sinh viên,
đến sự lĩnh hội tri thức khoa học, các thông tin, các kỹ năng và kỹ xảo nghề nghiệp
quan trọng của họ. Hoạt động này cũng bao gồm cả hoạt động trên lớp lẫn ngoài lớp
và nó phụ thuộc rất nhiều vào ý thức tự giác cũng như việc chủ động trong khâu tổ
chức, lên chương trình cho kế hoạch học tập.
Hoạt động học tập của sinh viên thực sự là loại lao động trí óc căng thẳng.
Cường độ hoạt động phụ thuộc vào nội dung và tính chất phức tạp của các nhiệm
vụ, vào trình độ tri thức, vào các kỹ năng kỹ xảo trí óc, vào động cơ và tâm thế
chung của nhân cách người sinh viên. Vì vậy cần có sự động viên một cách có mục
đích đối với sinh viên trong quá trình giảng dạy và phải có sự chỉ dẫn cần thiết
nhưng không áp đặt đối với sinh viên.
1.3.2. Động cơ học tập của sinh viên
Hoạt động học tập của sinh viên là loại hoạt động có mục đích tự giác, có hệ
thống động cơ thúc đẩy và có sự tham gia của quá trình nhận thức từ việc tri giác
các thông tin đến các quá trình tư duy phức tạp nhất.
Động cơ là cái thúc đẩy con người hoạt động nhằm đạt mục đích nhất định.
Động cơ học tập là những hiện tượng, sự vật trở thành cái kích thích người sinh
viên đạt kết quả nhận thức và hình thành, phát triển nhân cách.
Đối tượng của nhu cầu học tập được sinh viên ý thức trở thành động cơ thúc
đẩy hoạt động học tập. Động cơ học tập đúng đắn và chưa đúng của sinh viên được
thể hiện qua mục đích học tập mà sinh viên cần đạt tới. Theo A.K. Marcova, động
cơ học tập là sự phản ánh đối tượng hoạt động học tập nhằm thỏa mãn nhu cầu học
tập. Do đó, nhu cầu và động cơ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chính động cơ
học tập đã chuyển hóa nhu cầu học tập làm nảy sinh tính tích cực, sáng tạo trong
hoạt động học. Ngược lại, động cơ học tập thể hiện ở chính nhu cầu học tập. Nhu
cầu học tập là bước đầu quan trọng của động cơ học tập.
1.3.2.1. Khái niệm và phân loại
• Định nghĩa động cơ học tập
Theo A.N.Leonchiev, động cơ học tập là sự định hướng của các em đối với
việc lĩnh hội tri thức, với việc dành điểm tốt và sự khen ngợi của cha mẹ, giáo
viên…
Tác giả Nguyễn Thạc cho rằng, động cơ học tập là những hiện tượng, sự vật
trở thành cái kích thích người sinh viên đạt kết quả nhận thức và hình thành, phát
triển nhân cách. [18; 123]
Như vậy, động cơ học tập là nhu cầu thúc đẩy chủ thể của hoạt động học nhằm
thỏa mãn những nhu cầu nhất định của bản thân.
• Phân loại động cơ học tập
Động cơ học tập không phải là động cơ thuộc về sinh học mà thuộc về động cơ
xã hội hay theo A.Maslow, đó là động cơ thành đạt, là động cơ mà con người muốn
vươn lên để tự khẳng định mình.
Tác giả A.V.Petrovski chia động cơ học tập thành hai loại là động cơ bên
trong và động cơ bên ngoài. Động cơ bên trong là động cơ do những yếu tố kích
thích xuất phát từ mục đích học tập. Động cơ bên ngoài là động cơ do những yếu tố
kích thích bên ngoài đối với mục đích học tập. [16]
Tác giả Lê Văn Hồng chia động cơ học tập làm hai loại là những động cơ hoàn
thiện tri thức và những động cơ quan hệ xã hội. [8]
Dựa vào mục đích học tập, nhiều nhà Tâm lý học khi nghiên cứu về động cơ
học tập đã phân chia thành 5 loại động cơ chủ yếu: động cơ xã hội, động cơ nhận
thức khoa học, động cơ nghề nghiệp, động cơ tự khẳng định mình và động cơ vụ
lợi. [18; 124]
Các nhóm động cơ trên đều có tác dụng thúc đẩy hoạt động học tập của sinh
viên nhưng không phải đồng đều mà sẽ gây nên tình trạng thứ bậc các động cơ ưu
thế.
Căn cứ vào đặc điểm hoạt động học tập của sinh viên, trong đề tài này, chúng
tôi xem xét 4 loại động cơ chủ yếu là: động cơ nhận thức khoa học, động cơ xã hội,
động cơ nghề nghiệp và động cơ tự khẳng định.
1.3.2.2. Biểu hiện của động cơ học tập
Động cơ học tập là yếu tố tâm lý bên trong thúc đẩy con người hoạt động. Có
thể đánh giá động cơ học tập của sinh viên qua các biểu hiện như: nhận thức về hoạt
động học tập (nhận thức đúng đắn hay chưa đúng đắn), thái độ và cảm xúc của sinh
viên đối với hoạt động học tập, tính tích cực (hay không tích cực) trong việc thực
hiện các hành động học tập. Ngoài những tiêu chí trên, kết quả học tập cũng có thể
được sử dụng như một công cụ để đánh giá động cơ học tập của sinh viên.
1.3.2.3. Mối quan hệ giữa động cơ học tập và hoạt động học tập
Động cơ học tập và hoạt động học tập có mối quan hệ biện chứng, qua lại lẫn
nhau. Động cơ học tập chi phối hoạt động học tập nói chung và từng hành động học
tập cụ thể nói riêng và ngược lại, hoạt động học tập nói chung và từng hành động
học tập nói riêng thực hiện động cơ và mục đích học tập.
Cũng như động cơ các loại hình hoạt động khác, các động cơ học tập có thể
được chú ý và không được ý thức. Trong hoạt động học, ngay cả trường hợp sinh
viên không ý thức được động cơ thúc đẩy hoạt động học tập của mình thì động cơ
ấy vẫn cứ kích thích nó muốn hoặc không muốn làm điều gì đó trong học tập và gây
ở sinh viên những tình cảm nhất định. Vì vậy, trong hoạt động học tập của sinh viên
được thúc đẩy không phải bởi một động cơ mà bởi nhiều động cơ khác nhau, bổ
sung cho nhau nhưng không phải mọi động cơ đều ảnh hưởng như nhau đối với
hoạt động học mà có một số động cơ ảnh hưởng chủ yếu còn một số khác có ảnh
hưởng thứ yếu.
Động cơ học tập có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hoạt động học tập đạt
được. Theo A.N.Leonchiev và L.I.Bojovic, động cơ học tập có ý nghĩa hàng đầu đối
với kết quả học tập và việc nâng cao hiệu quả học tập phụ thuộc phần lớn vào việc
xây dựng động cơ học tập đúng đắn. Chính vì lẽ đó, việc xây dựng động cơ học tập
đúng đắn cho sinh viên là một việc làm hết sức quan trọng.
1.3.2.4. Sự hình thành động cơ học tập
Theo A.N.Ghebơxơ, việc hình thành động cơ học tập của sinh viên phụ thuộc
vào một số yếu tố sau:
Ý thức về mục đích gần và mục đích xa của hoạt động học tập.
Hiểu rõ về ý nghĩa lý luận và thực tiễn của các tri thức được lĩnh hội.
Hình thức xúc cảm của các thông tin khoa học được trình bày.
Sự mở rộng nội dung và cái mới của tài liệu.
Xu hướng nghề nghiệp của hoạt động học tập.
Việc chọn được những bài tập phù hợp tạo ra những mâu thuẫn về mặt nhận
thức thông tin trong chính bản thân cấu trúc của hoạt động học tập.
Duy trì được tính ham hiểu biết và “không khí tâm lý nhận thức” trong nhóm
học tập”.
1.3.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới động cơ học tập
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của sinh viên như nội dung
bài học, các mối quan hệ qua lại trong tập thể, trong nhóm sinh viên, các kết quả đã
đạt được, không khí thi đua trong lớp… Sức mạnh và tính chất của động cơ học tập
phụ thuộc vào ý nghĩa và mục đích đề ra cho hoạt động học tập, vào ý nghĩa cá
nhân trong đó.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đề cập tới hai nhóm yếu tố tác động tới động
cơ học tập của sinh viên là nhân tố chủ quan (niềm tin vào bản thân, hứng thú đối
với ngành học, tinh thần trách nhiệm, khả năng kiểm soát bản thân, định hướng giá
trị) và nhân tố khách quan (gia đình, bạn bè, môi trường học tập, xã hội).
Động cơ học tập của sinh viên chịu sự ảnh hưởng, tác động bởi nhiều yếu tố
khác nhau nhưng quan trọng hơn vẫn là những yếu tố bên ngoài chi phối. Bởi vì từ
chính những yếu tố khách quan bên ngoài đã tác động vào sinh viên và trở thành
yếu tố chủ quan trong chính sinh viên đó. Cho nên, chính yếu tố ảnh hưởng từ bên
trong (yếu tố chủ quan) lại bị ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài.
1.3.2.6. Giáo dục động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên
Tìm hiểu động cơ học tập của sinh viên đã khó nhưng vấn đề giáo dục động cơ
học tập cho sinh viên lại càng khó khăn hơn. Như chúng ta đã thấy, chất lượng giáo
dục giảm sút như hiện nay có một phần nguyên nhân khá quan trọng là do thái độ
học tập của người học. Đã đến lúc cần đặt vấn đề giáo dục động cơ, thái độ học tập
cho người học bởi có động cơ học tập tốt mới có thể tích cực học tập và đạt kết quả
tốt được. Tuy nhiên, đó là việc làm khó khăn đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ từ phía
nhà trường, gia đình và cả xã hội.
Động cơ học tập là vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm vì nó gắn liền với nhu
cầu đa dạng của con người. Đã gắn với nhu cầu thì động cơ có thể đúng, có thể sai.
Tuy nhiên, nếu không thận trọng, khách quan nhà giáo dục rất dễ quy chụp theo
định kiến và làm triệt tiêu động lực học tập của sinh viên. Do vậy, nhà trường, gia
đình và xã hội cần phải tôn trọng những nhu cầu học tập chính đáng của học sinh và
sinh viên để từ đó xây dựng những động cơ học tập đúng đắn cho họ.
Có một cách nhìn chung nhất, hợp lý, hiện đại về động cơ học tập mới có thể
hướng sinh viên vào những cột trụ giáo dục đúng hướng: học để biết – học để làm –
học để hòa nhập – học để khẳng định mình. Giải quyết như thế không rơi vào khiên
cưỡng, giáo điều, lý tưởng hóa quá mức trong giáo dục động cơ, thái độ học tập.
Về mặt quản lý, tổ chức, chúng ta cần tạo môi trường học tập hướng vào
người học, đề cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Hoạt động học
tập của sinh viên cần phải gắn liền với thực tế. Trong quá trình học tập phải tạo điều
kiện cho sinh viên đi tham quan, kiến tập nhiều hơn để họ ứng dụng các lý thuyết đã
học ở trường vào thực tế nghề nghiệp. Có làm được như vậy thì việc giáo dục động
cơ học tập cho sinh viên mới có thể đạt hiệu quả.
Về mặt tinh thần, nhà quản lý giáo dục cần phải tạo điều kiện cho họ phát huy
khả năng của mình qua một số loại hình vui chơi gắn liền với học tập như: câu lạc
bộ đội nhóm, viết bài nghiên cứu khoa học, tổ chức các buổi hội thảo, nói chuyện
chuyên đề về chuyên ngành họ đang theo học để hình thành nhu cầu học tập cũng
như động cơ học tập đúng đắn… Đây là một việc làm gián tiếp nhưng lại vô cùng
hiệu quả trong việc giáo dục động cơ học tập cho sinh viên.
Về mặt xã hội, ngành giáo dục cần phải đề cao tầm quan trọng của ngành nghề
mà sinh viên được đào tạo để họ thấy được giá trị, ý nghĩa của ngành học với cuộc
sống, với công việc sau này. Chính điều này là nguồn động lực rất lớn đề hình
thành, phát triển và thay đổi động cơ học tập của sinh viên.
Như vậy, muốn giáo dục động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên chúng ta
phải gắn việc giáo dục động cơ học tập với việc đổi mới sự nghiệp giáo dục đại học
và đổi mới xã hội.
Tóm lại, khi nghiên cứu về động cơ học tập của sinh viên, cần lưu ý đến
những vấn đề cơ bản sau:
• Động cơ là yếu tố tâm lý thúc đẩy, quy định sự lựa chọn và định hướng hành vi
của con người. Động cơ là cái được phản ánh vào trong đầu con người, thúc đẩy
con người hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định.
• Cấu trúc của mỗi hoạt động bao gồm sáu thành tố cơ bản bao gồm: hoạt động –
động cơ; hành động – mục đích; thao tác – phương tiện. Trong đó động cơ, mục
đích, phương tiện là mặt đối tượng của hoạt động; còn hoạt động, hành động,
thao tác là mặt chủ thể của hành động.
• Hoạt động học tập là một hoạt động đặc thù của con người, được điều khiển bởi
mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những giá trị,
những hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định. Hoạt động học tập
của sinh viên là loại hoạt động có mục đích tự giác, có hệ thống động cơ thúc
đẩy và có sự tham gia của quá trình nhận thức từ việc tri giác các thông tin đến
các quá trình tư duy phức tạp nhất.
• Động cơ học tập là những hiện tượng, sự vật trở thành cái kích thích sinh viên
đạt kết quả nhận thức và hình thành, phát triển nhân cách. Nói cách khác, động
cơ học tập là nhu cầu thúc đẩy chủ thể hoạt động học nhằm thỏa mãn những nhu
cầu nhất định của bản thân.
• Động cơ học tập của sinh viên được chia ra nhiều loại khác nhau và chúng có tác
dụng thúc đẩy hoạt động học tập của sinh viên. Trong đề tài này, bốn loại động
cơ chủ yếu được xem xét tới là: động cơ nhận thức khoa học, động cơ xã hội,
động cơ nghề nghiệp và động cơ tự khẳng định.
• Động cơ học tập và hoạt động học tập có mối quan hệ biện chứng, qua lại lẫn
nhau. Động cơ học tập chi phối hoạt động học tập nói chung và từng hành động
học tập cụ thể nói riêng và ngược lại, hoạt động học tập nói chung và từng hành
động học tập nói riêng thực hiện động cơ và mục đích học tập.
• Hoạt động học tập của sinh viên luôn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác
nhau. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đề cập tới hai nhóm các yếu tố tác động
tới động cơ học tập của sinh viên là nhân tố chủ quan (niềm tin vào bản thân,
hứng thú đối với ngành học, tinh thần trách nhiệm, khả năng kiểm soát bản thân,
định hướng giá trị) và nhân tố khách quan (gia đình, bạn bè, môi trường xã hội,
môi trường học tập).
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Động cơ là những cái được chủ thể phản ánh, trở thành yếu tố tâm lý thúc đẩy
và kích thích con người hoạt động nhằm đạt được mục đích và thoả mãn các nhu cầu
của cá nhân.
Động cơ học tập là đối tượng học tập được người học phản ánh, trở thành yếu
tố tâm lý hướng dẫn và thúc đẩy họ tích cực lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm
phát triển trí tuệ, hình thành và phát triển nhân cách.
Động cơ học tập rất phong phú, đa dạng, sự phân chia động cơ học tập thành các
động cơ khác nhau chỉ mang tính tương đối. Cấu trúc tâm lý của động cơ học tập gồm
các thành phần: nhu cầu học tập, hứng thú học tập, mục đích học tập, đối tượng học
tập. Đây cũng là những yếu tố tác động tới động cơ học tập của sinh viên.
------------------------------------
Chương 2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
2.1. Vài nét về trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.HCM
• Lịch sử hình thành và phát triển
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM (ĐHKHXH&NV) có
lịch sử trên 50 năm với tiền thân là Trường Đại học Văn Khoa, thuộc Viện Đại học
Sài Gòn, thành lập năm 1957.
Sau ngày thống nhất đất nước, tháng 10/1975, Trường Đại học Văn Khoa có
nhiều thay đổi về mục tiêu, chương trình và nội dung đào tạo.
Tháng 4/1977 Trường Đại học Văn Khoa hợp nhất với Trường Đại học Khoa
học thành Trường Đại học Tổng hợp TP.HCM. Ngày 30/3/1996, Trường ĐH
KHXH&NV được thành lập trên cơ sở tách ra từ Trường Đại học Tổng hợp
TP.HCM và là một trong những trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia
TP.HCM.
Trường ĐHKHXH&NV có vai trò quan trọng trong nền giáo dục đại học của
Việt Nam, là trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học có chất lượng cao ở địa bàn
các tỉnh phía Nam.
• Quy mô đào tạo
Trường có hơn 31.000 sinh viên và học viên sau đại học thuộc các loại hình
đào tạo khác nhau; trong đó có 11.000 sinh viên chính quy (với hơn 200 sinh viên
nước ngoài), hơn 1.700 nghiên cứu sinh, học viên cao học.
Hàng năm, trường còn thu hút hàng nghìn lượt học viên người nước ngoài đến
theo học tiếng Việt và văn hoá, lịch sử… Việt Nam hình thức chính quy bậc đại học
(ngành Việt Nam học, Quan hệ quốc tế, Ngữ văn Anh, Ngữ văn Pháp...) và sau đại
học (chuyên ngành Việt Nam học, Ngôn ngữ học, Lịch sử...), là trường có số lượng
sinh viên, học viên người nước ngoài đông nhất tại Việt Nam hiện nay.
Với 53 chương trình giáo dục thuộc 28 ngành đào tạo bậc đại học, 33 chương
trình sau đại học và trên 10 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, trường
đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu đa dạng của người học, cung cấp nguồn nhân
lực chất lượng cao cho TP.HCM, các tỉnh, thành phía Nam trong công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
• Tầm nhìn và sứ mạng
Là một thành viên của Đại học Quốc gia TP.HCM, Trường ĐHKHXH&NV
có vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, nâng cao
chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng.
Để hoàn thành trọng trách đó, Trường ĐHKHXH&NV tuyên bố Tầm nhìn, Sứ
mạng và Mục tiêu như sau:
Tầm nhìn: Trường ĐHKHXH&NV là trường đại học định hướng nghiên cứu,
từng bước tiến đến đại học nghiên cứu theo mô hình hiện đại của đại học thế giới,
đóng vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục đại học về các ngành KHXH&NV
của Việt Nam và tại khu vực châu Á.
Sứ mạng: Trường ĐHKHXH&NV là trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học
chất lượng cao; cung ứng nguồn nhân lực trình độ cao và có bản sắc riêng trong lĩnh
vực khoa học xã hội và nhân văn; cung cấp các sản phẩm khoa học làm cơ sở cho
việc hoạch định chính sách xã hội; góp phần tạo dựng vị thế của KHXH&NV Việt
Nam trong khu vực.
Mục tiêu: Giai đoạn 2011-2015, Trường ĐHKHXH&NV có những bước đột
phá về quản trị đại học, đào tạo, nghiên cứu khoa học để trở thành cơ sở hàng đầu
về đào tạo, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng của Việt Nam trong các lĩnh
vực KHXH&NV; cung cấp các dịch vụ khoa học và giáo dục chất lượng cao cho
nền kinh tế quốc dân; khẳng định vị thế của một trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa
học quan trọng ở Đông Nam Á.
• Đời sống sinh viên
Học tập và nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sinh
viên Trường ĐHKHXH&NV. Sinh viên các hệ đào tạo của Trường được học tập
thông qua nhiều hình thức khác nhau như: nghe giảng, thảo luận chuyên đề
(seminar) trên lớp; đọc sách, nghiên cứu tại các thư viện; tham dự các buổi thuyết
trình chuyên đề (ngoại khoá); tham gia các câu lạc bộ sinh hoạt học thuật, học theo
nhóm; đi du khảo, khảo sát thực tế, thu nhập tư liệu viết báo cáo; tham gia các hội
thảo khoa học, các chương trình nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên hoặc các
chương trình nghiên cứu khoa học (NCKH) do Trường hoặc các cơ quan khoa học
trong nước hoặc quốc tế tổ chức tại Việt Nam hoặc nước ngoài; trao đổi học thuật,
du học theo hình thức học bổng toàn phần, bán phần hoặc theo các chương trình
trao đổi sinh viên, giao lưu…
Ngoài học tập, nghiên cứu khoa học, các sinh viên của Trường còn tham gia
các hoạt động văn – thể – mỹ và hoạt động xã hội, cộng đồng nhằm phát huy các
khả năng của mình cũng như tăng cường những kiến thức về xã hội, kỹ năng giao
tiếp, làm việc theo nhóm và tương trợ cộng đồng. Sinh viên của Trường thường
xuyên tổ chức các hoạt động như: hội diễn văn nghệ, hội thao sinh viên, lễ hội văn
hoá, công tác xã hội như: phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thăm hỏi các
thương bệnh binh nặng tại các trung tâm điều dưỡng, giúp đỡ người nghèo, trẻ em
tàn tật, neo đơn, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, tham gia các chiến dịch:
“Mùa hè xanh”, “Mùa xuân tình nguyện”, “Hiến máu nhân đạo”...
2.2. Cách tổ chức nghiên cứu thực trạng động cơ học tập của sinh viên
Mục đích của việc nghiên cứu thực trạng động cơ học tập của sinh viên trường
ĐHKHXH&NV TP.HCM nhằm tìm hiểu sinh viên học tập với mục đích, động cơ
gì; đâu là những yếu tố tác động và ảnh hưởng tới động cơ học tập của sinh viên
trường Nhân Văn để từ đó đưa ra một số biện pháp giáo dục động cơ đúng đắn cho
sinh viên.
Để có được số liệu điều tra về động cơ học tập của sinh viên, người nghiên
cứu tiến hành hai giai đoạn khảo sát đó là giai đoạn khảo sát thăm dò và giai đoạn
khảo sát chính thức.
2.1.1. Giai đoạn khảo sát thăm dò
Trên cơ sở những câu hỏi mở trong phiếu thăm dò ý kiến, giai đoạn khảo sát
này được thực hiện với mục đích thu thập thông tin một cách sơ bộ nhằm tính toán
độ tin cậy, giá trị của bảng hỏi, tiến hành chỉnh sửa bảng hỏi và xác định thời gian
cho việc trả lời một bảng hỏi.
Khách thể nghiên cứu của giai đoạn khảo sát thăm dò gồm 50 sinh viên thuộc
các ngành Địa Lý, Tâm lý học, Báo chí, Hàn Quốc học, Ngữ văn Trung và Ngữ văn
Anh trường ĐHKHXH&NV. Phương pháp nghiên cứu là sử dụng bảng hỏi đã được
thiết kế và dùng phương pháp thống kê toán học để tính toán độ tin cậy và giá trị
của thang đo.
2.1.2. Giai đoạn khảo sát chính thức
Kết quả giai đoạn khảo sát thăm dò thu được rất nhiều ý kiến khác nhau về
động cơ học tập cũng như các yếu tố tác động đến động cơ học tập của sinh viên.
Dựa vào kết quả khảo sát, người nghiên cứu đã tiến hành giai đoạn khảo sát chính
thức bằng việc soạn thảo công cụ đo chính thức là phiếu thăm dò ý kiến kết hợp với
nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau.
• Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi
Phiếu thăm dò ý kiến bao gồm 02 phần: Phần 01 gồm những thông tin cá nhân
của khách thể nghiên cứu; phần 2 là nội dung bảng hỏi.
Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi được thực hiện với mục đích tìm hiểu
thực trạng động cơ học tập và các yếu tố tác động tới động cơ học tập của sinh viên
trường ĐHKHXH&NV TP.HCM. Khách thể khảo sát bao gồm sinh viên, giảng
viên và cán bộ trường ĐHKHXH&NV TP.HCM.
Hiện nay trường ĐHKHXH&NV bao gồm 28 Khoa và Bộ môn với tổng số
sinh viên hệ chính quy khoảng 11.000 sinh viên. Đây là lượng sinh viên rất lớn nên
người nghiên cứu đã tiến hành chọn mẫu nghiên cứu đại diện với số lượng là 450
sinh viên của 06 khoa.
Quá trình nghiên cứu được tiến hành bằng việc cá nhân hoàn thành bảng hỏi
theo nguyên tắc: mỗi khách thể tham gia trả lời bảng hỏi một cách độc lập, theo suy
nghĩ riêng của từng người, không được phép trao đổi, bàn bạc với những người
xung quanh. Nội dung khảo sát được thống nhất theo nội dung bảng hỏi đã được
hoàn thiện sau khi khảo sát thử, bao gồm các thông tin: những biểu hiện của động
cơ học tập; những yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành, phát triển và thay đổi mục
đích học tập của sinh viên; những biện pháp cụ thể để nhà Trường giúp sinh viên có
được động cơ học tập đúng đắn nhằm đạt kết quả cao.
Để đảm bảo tính trung thực của các câu trả lời trong phiếu thăm dò ý kiến,
trong phần thu thập số liệu người nghiên cứu thông báo cho sinh viên biết mục đích
của cuộc nghiên cứu không nhằm mục đích nghiên cứu từng cá nhân riêng lẻ, cũng
như không đánh giá trên một cá nhân qua kết quả nghiên cứu mà chỉ quan tâm đến
kết quả chung của cuộc nghiên cứu.
Với tất cả những số liệu thu thập được, người nghiên cứu sử dụng phần mềm
SPSS để tính tần số, tỉ lệ phần trăm, mức độ tương quan của các vấn đề nghiên cứu.
• Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện với mục đích thu thập, bổ sung và
làm rõ những thông tin đã thu được qua khảo sát bằng bảng hỏi. Khách thể khảo sát
của phương pháp này là 30 sinh viên chia đều cho 6 Khoa.
Quá trình nghiên cứu được tiến hành bằng cách phỏng vấn trực tiếp từng cá
nhân theo nguyên tắc: phỏng vấn những vấn đề liên quan đến giới hạn nghiên cứu
của đề tài và giữ bí mật về người được phỏng vấn cũng như những những thông tin
người phỏng vấn cung cấp. Nội dung phỏng vấn bao gồm những thông tin về cá
nhân, tìm hiểu động cơ học tập và những nhân tố ảnh hưởng tới động cơ học tập của
sinh viên, lý giải nguyên nhân và đề xuất những giải pháp nhằm có biện pháp giáo
dục động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên để việc học thực sự đem lại hiệu quả.
Bên cạnh phương pháp nghiên cứu bằng phiếu thăm dò ý kiến và phỏng vấn
sâu, người nghiên cứu còn sử dụng biện pháp quan sát nhằm đánh giá độ trung thực
của khách thể khi tham gia trả lời bảng hỏi và những câu hỏi phỏng vấn sâu. Nội
dung quan sát bao gồm hoạt động học tập của sinh viên ở trên lớp, trong thư viện,
thái độ, hứng thú của sinh viên trước, trong và sau giờ học. Ngoài ra, phương pháp
phân tích sản phẩm hoạt động cũng được người nghiên cứu sử dụng để hỗ trợ và
làm sáng tỏ hơn kết quả nghiên cứu từ những phương pháp nghiên cứu trên. Nội
dung nghiên cứu của phương pháp này bao gồm việc xem xét kết quả học tập của
sinh viên, sản phẩm quá trình sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học và việc tham
gia các hoạt động ngoại khóa do Khoa và nhà Trường tổ chức.
2.3. Khái quát về khách thể nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, người nghiên cứu đã biên
soạn công cụ khảo sát tìm hiểu về động cơ học tập và các yếu tố ảnh hưởng tới động
cơ học tập của sinh viên trường ĐHKHXH&NV. Sau quá trình thu thập và xử lý số
liệu, kết quả thu được về khách thể nghiên cứu như sau:
Khái quát về mẫu nghiên cứu
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)
Nam 76 19.0 Giới tính Nữ 324 81.0
Thành phố 232 58.1
Thị xã, thị trấn 71 17.8 Địa bàn cư trú
Nông thôn 96 24.1
Nguyện vọng 1 394 98.5
Nguyên vọng 2 6 1.5 Nguyện vọng xét tuyển
Nguyện vọng 3 0 0.0
Năm thứ nhất 204 51.0 Năm đang theo học Năm thứ tư 196 49.0
Địa lý 68 17.0
Tâm lý học 60 15.0
Báo chí 72 18.0 Sinh viên khoa Hàn Quốc học 76 19.0
Ngữ văn Trung 53 13.3
Ngữ văn Anh 71 17.8
Xuất sắc 2 0.5
Giỏi 44 11.2
Khá 233 59.1 Kết quả học tập
Trung bình 115 29.2
Yếu 0 0.0
Bảng 2.1: Khái quát khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu gồm 450 sinh viên thuộc 6 khoa Địa lý (17%), Tâm lý
học (15%), Báo chí (18%), Hàn Quốc học (19%), Ngữ văn Trung (13.3%) và Ngữ
văn Anh (17.8%).
Trong tổng số mẫu nghiên cứu, sinh viên đang theo học năm thứ nhất chiếm
51.0%, sinh viên năm thứ tư chiếm 49.0%. Như vậy, tỉ lệ mẫu nghiên cứu giữa năm
thứ nhất và năm thứ tư xấp xỉ bằng nhau. Lý do mẫu nghiên cứu chỉ bao gồm sinh
viên năm nhất và năm tư là vì người nghiên cứu muốn có sự so sánh để tìm hiểu
liệu có nét khác biệt giữa động cơ học tập của sinh viên năm nhất (đối tượng mới
tiếp xúc với môi trường đại học) và sinh viên năm thứ tư (đối tượng đã trải qua
khoảng thời gian khá dài trên giảng đường đại học và đang chuẩn bị hoạt động lao
động để lập nghiệp).
Trong tổng số mẫu 450 sinh viên, có tới 394 sinh viên được xét tuyển vào
trường theo nguyện vọng một (chiếm tỉ lệ 98.4%), số sinh viên xét tuyển theo
nguyện vọng hai chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ (1.5%), còn lại không có sinh viên xét
tuyển theo nguyện vọng ba. Sở dĩ xấp xỉ 100% mẫu nghiên cứu đều xét tuyển vào
trường theo nguyện vọng một là vì ĐHKHXH&NV là trường công lập thuộc hệ
thống ĐH Quốc gia tổ chức thi tuyển nên số lượng sinh viên đăng ký thi tuyển bằng
nguyện vọng một là rất cao. Bên cạnh đó, con số 98.4% sinh viên đang theo học tại
trường bằng nguyện vọng một bước đầu cho thấy hầu hết sinh viên đều có ý thức
trong việc lựa chọn trường và ngành học cho mình.
Về địa bàn cư trú của sinh viên theo học tại trường có sự chênh lệch khá lớn
giữa khu vực thành thị với khu vực thị xã, thị trấn và nông thôn. Có tới 58.1% số
sinh viên ở thành phố đang theo học tại trường (chiến hơn một nửa tổng số mẫu
nghiên cứu), số còn lại là ở thì xã, thị trấn (17.8%), và ở nông thôn (24.1%).
Cũng như địa bàn cư trú, đặc điểm về giới tính của khách thể nghiên cứu cũng
có sự chênh lệch rất lớn, trong đó sinh viên nam chỉ chiếm 19.0% còn sinh viên nữ
chiếm tỉ lệ lên tới 81.0%. Có sự chênh lệch về giới tính là do trường ĐH
KHXH&NV là trường có các ngành học hầu hết thuộc chuyên ngành xã hội nên
dường như thích hợp với nữ giới nhiều hơn. Tổng số sinh viên nam trong trường và
trong từng khoa cũng chỉ chiếm khoảng 20%, do vậy sự chênh lệch này sẽ không
ảnh hưởng đến tính khách quan cũng như độ xác thực của kết quả nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy xấp xỉ 60% sinh viên có kết quả học tập đạt
loại khá, số sinh viên đạt loại xuất sắc và giỏi chiếm tỉ lệ cao (khoảng 12%), số sinh
viên có kết quả học tập trung bình chiếm 29%, không có sinh viên yếu kém.
2.4. Kết quả nghiên cứu về động cơ học tập của sinh viên
2.4.1. Mức độ quan tâm của sinh viên về việc học
Khi khảo sát sinh viên về mức độ quan tâm tới mục đích học tập, chúng tôi thu
được kết quả như sau:
Trăn trở về mục đích học tập
Mức độ Tần số Tỉ lệ (%)
Rất thường xuyên 193 48.4
Thường xuyên 186 46.6
Hiếm khi, thậm chí không bao giờ
Tổng 20 399 5.0 100%
Bảng 2.2: Mức độ quan tâm của sinh viên về mục đích học tập
Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết sinh viên đang theo học tại trường ĐH
KHXH&NV đều có những thắc mắc, trăn trở về việc học của mình. Có tới 48.4%
và 46.0% tổng số sinh viên khi được hỏi đều trả lời rất thường xuyên hoặc thường
xuyên nghĩ tới việc mình đi học để làm gì, điều đó chứng tỏ sinh viên rất quan tâm
và thực sự ý thức được tầm quan trọng của việc học. “Học để làm gì” có lẽ là câu
hỏi thôi thúc sinh viên trong suốt quá trình tìm tòi và lĩnh hội những tri thức, tạo
cho họ động lực để vượt qua những khó khăn, thách thức của việc học, vun đắp nơi
họ những ước mơ, hoài bão khi quyết định đăng ký vào một trường hay một ngành
học mình yêu thích. Ý thức được tầm quan trọng của việc học và xác định được
những mục đích học tập rõ ràng sẽ giúp quá trình học tập của sinh viên được thuận
lợi hơn.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có khoảng 5.0% trong tổng số mẫu nghiên
cứu có câu trả lời “hiếm khi hoặc thậm chí không bao giờ nghĩ tới” mục đích của
việc học. Đây là con số khiêm tốn trong mẫu nghiên cứu tuy nhiên nó cũng chỉ ra
rằng vẫn còn đó những sinh viên đi học nhưng không biết mình học vì lý do gì.
Điều này cũng hoàn toàn tương ứng với việc hàng năm có khoảng 5.0% sinh viên
không được tốt nghiệp vì nhiều lý do khác nhau mà ở đó chủ yếu là việc không xác
định được mục đích học tập và xây dựng cho mình ý thức học tập đúng đắn. Những
sinh viên này thường bỏ học giữa chừng, bị nhà trường buộc thôi học hoặc đi học
theo kiểu chống đối, học cho qua…
Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết sinh viên đều thường xuyên trăn trở về
mục đích học tập của mình, do vậy sinh viên luôn xác định được cho mình mục
đích, thái độ và hành vi học tập đúng đắn. Do đa phần (tới 98.5%) sinh viên đang
học tại trường được xét tuyển bằng nguyện vọng một nên sinh viên đã có sự chủ
động trong việc chọn trường, chọn ngành cũng như tìm hiểu những thông tin liên
quan đến ngành học và công việc sau khi ra trường. Sự liên quan này càng có cở sở
để khẳng định khi kết quả kiểm nghiệm Pearson Chi-Square của SPSS cho thấy, có
sự tương quan giữa nguyện vọng xét tuyển với kết quả học tập của sinh viên (Sig =
0.03 < 0.05)
• Lý do sinh viên học đại học
Tần số Tỉ lệ (%) Lý do sinh viên chọn học đại học
252 63.0
Bằng đại học có giá trị hơn bằng trung cấp, cao đẳng Gia đình muốn mình học đại học 102 25.5
Bằng đại học dễ kiếm việc làm hơn 213 53.3
137 34.3
Để sau này có điều kiện học tập và nghiên cứu cao hơn Lý do khác 80 20.0
Bảng 2.3: Lý do quyết định học đại học
Trong quá trình học Phổ thông trung học, đa số học sinh đã có những dự định
cho tương lai của mình là học trung cấp, cao đẳng hoặc đại học. Những hoạt động
học tập, hướng nghiệp ở bậc Phổ thông trung học đã giúp học sinh ý thức được việc
lựa chọn bậc học, ngành học của mình sau này. Trong số những lý do mà người
nghiên cứu đưa ra về lý do học đại học, có tới 63.0% số sinh viên cho rằng họ học
đại học vì bằng đại học có giá trị hơn so với bằng trung cấp hay cao đẳng. Điều này
cho thấy sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của việc học đại học cũng như ý
thức được quyết định lựa chọn bậc học của mình. Tuy nhiên, cần phải phân định rõ
giữa ý thức giá trị của việc học đại học với giá trị của bằng đại học vì trong thực tế
không phải cứ có bằng đại học là có giá trị. Thực tế chứng minh nhiều sinh viên tuy
có bằng đại học trong tay nhưng quá trình xin việc làm lại khó hơn rất nhiều những
học sinh chỉ có bằng trung cấp hay cao đẳng.
Với suy nghĩ bằng đại học có giá trị hơn so với bằng trung cấp, cao đẳng nên
số người được nghiên cứu lựa chọn lý do học đại học là do bằng đại học dễ kiếm
việc làm hơn chiếm tỉ lệ khá cao (53.3% trên tổng số mẫu nghiên cứu). Điều này
cho thấy nhiều sinh viên còn nghĩ rằng học cao đẳng hay trung cấp là rất khó để có
được công việc ổn định, có thu nhập tốt để nuôi sống cho bản thân và gia đình. Suy
nghĩ này một phần do bản thân sinh viên, phần khác là do sự tác động của xã hội mà
cụ thể là của những nhà tuyển dụng khi chỉ để ý đến và luôn coi trọng những người
có bằng đại học. Chính điều này đã tạo nên áp lực cho sinh viên khi lựa chọn ngành
học phù hợp với năng lực bản thân cũng như điều kiện kinh tế của gia đình.
Kết quả khảo sát còn cho thấy, có khoảng 25% số người nghiên cứu cho rằng:
học đại học là do gia đình mong muốn, còn bản thân thì không hứng thú với việc
học đại học. Đây là con số khá lớn vì chiếm tới ¼ tổng số mẫu nghiên cứu. Những
sinh viên này mặc dù không thích thú với việc học đại học nhưng vì gia đình mong
muốn, thậm chí bắt phải đi học nên đã quyết định học đại học. Đi học với lý do vì
gia đình nên những sinh viên này không có được mục đích học tập đúng đắn, không
ý thức và quan tâm đến việc học của mình. Với họ “đi học như một nghĩa vụ bắt
buộc mà em phải thực hiện hàng ngày, còn bản thân thì không có một chút hứng thú
gì cả” (sinh viên Nguyễn Trường Huy). Số sinh viên này cần có sự định hướng và
giáo dục lại động cơ học tập để việc học thực sự là niềm đam mê và hứng thú đối
với họ.
Bên cạnh những lý do ấy, cũng có tới 34.3% số sinh viên cho rằng, học đại
học để sau này có điều kiện học tập và nghiên cứu cao hơn. Điều này cho thấy rất
nhiều sinh viên không chỉ ý thức được việc học tập của mình ngay từ khi học đại
học mà còn có những định hướng rất cụ thể cho tương lai cũng như sự nghiệp của
mình. Họ cũng thấy được sự cần thiết của việc học đại học để có một nền tảng kiến
thức nhất định, sau đó mới có thể học tập và nghiên cứu cao hơn trong thời đại toàn
cầu hóa – thời đại của tri thức, văn minh rất cần đến những người tài giỏi, am hiểu
sâu rộng kiến thức chuyên môn…
So sánh lý do học đại học của năm thứ nhất và năm thứ tư, kết quả cho thấy có
sự tương đồng về lý do chọn học đại học của hai nhóm đối tượng này. Mặc dù vậy,
vẫn có sự khác biệt (tuy không đáng kể) về những lựa chọn khi hầu hết những ý
kiến của sinh viên năm tư đều thấp hơn so với sinh viên năm nhất (trừ lý do gia đình
muốn mình đi). Có thể giải thích về sự khác biệt này như sau: do sinh viên năm tư
sau một thời gian dài học tập trên giảng đường đại học với nhiều sự tác động của
môi trường học tập, môi trường xã hội… thì nhận thức của họ về giá trị của bằng
cấp, cách thức để có được một việc làm tốt và ngay cả việc nghiên cứu sau này đều
giảm.
Như vậy, với những lý do lựa chọn học đại học, hầu hết sinh viên đều ý thức
được học để có một nghề nghiệp và công việc ổn định sau này cũng như cần phải
học tập để mở rộng kiến thức để đáp ứng với nhu cầu và sự phát triển của thời đại.
Kết quả về lý do chọn học đại học giữa sinh viên năm nhất và sinh viên năm
tư được thể hiện cụ thể qua bảng phân bố và biểu đồ sau:
Sinh viên năm
Lý do học đại học Năm thứ nhất Năm thứ tư
Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%)
129 51.2% 123 48.8%
Bằng đại học có giá trị hơn bằng trung cấp, cao đẳng Gia đình muốn mình học đại học 41 40.2% 61 59.8%
Bằng đại học dễ kiếm việc làm hơn 119 55.9% 94 44.1%
71 51.8% 66 48.2% Để sau này có điều kiện học tập và nghiên cứu cao hơn
44 55.0% 36 45.0% Lý do khác
Bảng 2.4: Lý do học đại học của sinh viên năm thứ nhất và sinh viên năm thứ tư
59.80%
55.90%
0.6
55.00%
51.20%
48.80%
48.20%
0.5
44.10%
40.20%
0.4
0.3
năm thứ nhất
năm thứ tư
0.2
0.1
0
bằng đại học giá trị hơn
gia đình bắt học đại học
bằng đại học dễ xin việc hơn
học đại học để có điều kiện học cao hơn
Biểu đồ so sánh lý do học đại học của sinh viên năm thứ nhất
và sinh viên năm thứ tư trường ĐHKHXH&NV
• Lý do sinh viên chọn học tại trường ĐHKHXH&NV
Để tìm hiểu động cơ học tập của sinh viên trường ĐHKHXH&NV, sau khi tìm
hiểu lý do học đại học của sinh viên, người nghiên cứu đã tìm hiểu lý do vì sao sinh
viên lại chọn trường ĐHKHXH&NV để theo học mà không phải là một trường đại
học khác. Kết quả khảo sát thu được cụ thể như sau:
Lý do sinh viên chọn trường ĐHKHXH&NV
Tỉ lệ Lý do Tần số (%)
Điểm chuẩn của trường phù hợp (1) 27.8% 111
Không đủ điểm vào các trường khác (2) 4.8% 19
Là trường có ngành học mình yêu thích (3) 272 68.0%
Là trường được chuẩn hóa và có tiếng hơn trường khác (4) 27.5% 110
Do gia đình lựa chọn và bạn bè tác động (5) 8.3% 33
Lý do khác (6) 6.3% 28
Bảng 2.5: Lý do sinh viên chọn trường ĐH KHXH&NV
Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc sinh viên chọn trường ĐHKHXH&NV theo
học với lý do gia đình lựa chọn và bạn bè tác động hoặc học trường này vì không đủ
điểm vào các trường khác chiếm tỉ lệ rất ít (lần lượt là 8.3% và 4.8%). Điều này
chứng tỏ việc quyết định học tập tại trường ĐHKHXH&NV là do sinh viên hoàn
toàn quyết định chứ không phải do gia đình hay bạn bè tác động. Đây là một trong
những yếu tố quan trọng giúp sinh viên hình thành được động cơ học tập đúng đắn
vì khi sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của việc học tại Trường đối với bản
thân thì điều đó sẽ giúp sinh viên tạo nên những động lực tích cực nhằm hoàn thành
tốt quá trình học tập của mình.
Một trong những lý do được nhiều sinh viên lựa chọn nhất khi được hỏi đã cho
rằng: bản thân quyết định theo học trường Nhân Văn là do trường có ngành học
mình yêu thích, lựa chọn này chiếm tới 68.0% trong tổng số mẫu nghiên cứu. Con
số này cho thấy việc chọn trường, chọn ngành của sinh viên không phải do những
yếu tố bên ngoài tác động mà hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức, mong muốn, nguyện
vọng của sinh viên. Sinh viên Quỳnh Thy (Hàn Quốc học) đã “rất không đồng tình
với nhiều ý kiến cho rằng: những ai không đủ điểm đậu các trường khác hoặc
không còn sự lựa chọn nào khác mới vào trường này mà thôi”. Cũng theo Quỳnh
Thy, “trường Nhân Văn là một trường có nhiều ngành đào tạo chuyên sâu mà
những trường khác không có, do vậy rất nhiều sinh viên mong muốn được học tại
ngôi trường này”. Đa phần sinh viên chọn lý do quyết định học tại trường
ĐHKHXH&NV là vì trường có ngành mình yêu thích và đây là một trong những
biểu hiện cho việc hình thành động cơ học tập đúng đắn của sinh viên.
Lý do quyết định theo học tại trường Nhân Văn là do điểm chuẩn của trường
phù hợp chiếm tỉ lệ 27.8% tổng số mẫu nghiên cứu. Điều này cho thấy trước khi lựa
chọn ngành học và trường học, sinh viên đã có sự tìm hiểu kỹ lưỡng về chỉ tiêu
cũng như điểm chuẩn của trường; bên cạnh đó cũng chứng tỏ sinh viên cũng căn cứ
vào năng lực, khả năng của mình để chọn trường phù hợp. Trong các kỳ tuyển sinh
đại học, điểm chuẩn nguyện vọng một của trường luôn ở mức rất cao, do vậy việc
căn cứ vào năng lực bản thân cũng như tìm hiểu kỹ chỉ tiêu tuyển sinh của trường sẽ
giúp sinh viên tránh những sai lầm trong thi tuyển cũng như giúp bản thân có ý
thức, trách nhiệm với những lựa chọn và quyết định của mình.
Bên cạnh đó, cũng có 27.5% số sinh viên khi được hỏi đã trả lời việc chọn
trường Nhân Văn là do trường có tiếng hơn so với nhiều trường khác. Sinh viên
Bình Tâm (ngành Tâm lý học) khẳng định: “mọi học sinh ở quê khi nghe trường
Nhân Văn thuộc hệ thống trường Đại học Quốc gia đều rất thích và cảm thấy tự
hào. Các bậc phụ huynh cũng có chung suy nghĩ như vậy nên rất tự hào khi con
mình được học trong trường này”. Đây là một trong những yếu tố tác động đến việc
chọn trường và việc hình thành động cơ học tập của sinh viên vì nếu sinh viên có
được sự tự hào về Trường, Khoa hay Bộ môn của mình thì điều đó sẽ giúp sinh viên
luôn có được sự tích cực cần thiết trong quá trình học tập tại trường.
Biểu đồ dưới đây cho thấy rõ hơn quyết định lựa chọn trường của sinh viên
trường ĐHKHXH &NV:
Lý do sinh viên quyết định chọn trường ĐH KHXH & NV
68.00%
70.00%
60.00%
50.00%
40.00%
27.80%
27.50%
30.00%
20.00%
8.30%
4.80%
6.30%
10.00%
0.00%
1
2
3
4
5
6
Qua việc tìm hiểu lý do chọn trường của sinh viên năm thứ nhất với năm thứ
tư, người nghiên cứu nhận thấy không có sự khác biệt giữa lý do chọn trường của
hai đối tượng này. Đa phần sinh viên năm nhất và năm tư đều có chung nhận định:
chọn trường là do có ngành học mình yêu thích (76.8% đối với năm nhất với xấp xỉ
60% của sinh viên năm tư). Cũng vậy, đa phần sinh viên được xét tuyển theo
nguyện vọng một và nguyện vọng hai đều cho rằng chọn trường Nhân Văn là do
ngành yêu thích chứ không phải do sự tác động của yếu tố khách quan (68.6%). Kết
quả trên cũng cho thấy mức độ ổn định trong quyết định lựa chọn trường và ngành
học của sinh viên trường Nhân Văn nói chung và đặc biệt với sinh viên năm tư nói
riêng sau một thời gian dài học tập tại trường.
Kết quả tìm hiểu về lý do chọn trường của sinh viên năm nhất, sinh viên năm
tư và nguyện vọng xét tuyển được mô tả chi tiết qua bảng dưới đây:
Sinh viên năm
Lý do chọn trường nhân văn Năm thứ nhất Năm thứ tư
Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%)
56 27.6% 55 28.2%
8 3.9% 11 5.6%
156 76.8% 116 59.5%
60 29.6% 50 25.6%
10 4.9% 23 11.8%
Là trường có điểm chuẩn xét tuyển phù hợp Không đủ điểm vào các trường khác Là trường có ngành học mình yêu thích Là trường được chuẩn hóa và có tiếng hơn trường khác Do gia đình lựa chọn và bạn bè tác động Lý do khác 12 5.9% 13 6.7%
Nguyện vọng xét tuyển
Lý do chọn trường nhân văn Nguyện vọng 1 Nguyện vọng 2
Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%)
109 27.8% 2 33.3%
17 4.3% 2 33.3%
269 68.6% 3 50.0%
110 28.1%
33 8.4%
Là trường có điểm chuẩn xét tuyển phù hợp Không đủ điểm vào các trường khác Là trường có ngành học mình yêu thích Là trường được chuẩn hóa và có tiếng hơn trường khác Do gia đình lựa chọn và bạn bè tác động Lý do khác 6.4%
25 Bảng 2.6: Lý do chọn trường ĐH KHXH&NV của sinh viên năm thứ nhất và thứ tư kết hợp với nguyện vọng xét tuyển
Như vậy, ngoài số ít sinh viên chọn trường do gia đình, bạn bè tác động và do
không đủ điểm để vào các trường khác thì đa phần sinh viên quyết định học tại
trường Nhân Văn là do trường có ngành học mình yêu thích hoặc do điểm chuẩn
của trường phù hợp với năng lực bản thân.
2.4.2. Động cơ học tập của sinh viên trường ĐHKHXH&NV
2.4.2.1. Động cơ học tập thể hiện qua mục đích học tập
Một động cơ có thể được cụ thể hóa trong nhiều mục đích và ngược lại, một
mục đích có thể được thể hiện bởi nhiều động cơ khác nhau, do đó động cơ học tập
của sinh viên cũng được cụ thể hóa trong nhiều mục đích khác nhau. Sự đa dạng về
mục đích học tập cũng như động cơ học tập của sinh viên được thể hiện cụ thể qua
bảng sau:
Đồng ý Không đồng ý Mục đích chọn ngành học Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%)
1. Vì niềm đam mê sở thích 334 46 12.1 87.9
2. Là ngành dễ xin việc làm 226 65.7 118 34.3
52 15.9 274 83.5
342 29 7.8 92.2
194 57.1 146 42.9
236 69.2 105 30.8
335 34 9.2 90.8
237 68.7 108 31.3 3. Đề làm hài lòng bố mẹ và để không thua kém bạn bè 4. Để nâng cao trình độ, mở rộng sự hiểu biết 5. Là ngành có công việc ổn định, lương cao 6. Xã hội đang thiếu nhân lực chất lượng cao 7. Để giao tiếp tốt hơn, tự tin hơn trong cuộc sống 8. Để góp phần xây dựng, bảo vệ đất nước
Bảng 2.7: Động cơ học tập của sinh viên thể hiện qua mục đích học tập
Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy, việc chọn ngành học của sinh viên trường
ĐHKHXH&NV bị chi phối bởi rất nhiều mục đích khác nhau trong đó học để nâng
cao trình độ, mở rộng sự hiểu biết các lĩnh vực khoa học về đời sống xã hội (động
cơ nhận thức khoa học) là một mục đích được đề cao nhất (chiểm tỉ lệ 92.2% trong
tổng số mẫu nghiên cứu). Tiếp đó là động cơ học tập với mục đích để giao tiếp tốt
hơn, tự tin hơn trong cuộc sống, để khẳng định bản thân chiếm tỉ lệ 90.8% (động cơ
tự khẳng định). Trong khi đó, động cơ nghề nghiệp (học để có công việc ổn định,
lương cao; học vì xã hội đang thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao) lần lượt chiếm
tỉ lệ là 57.1% và 69.2%. Cũng theo kết quả nghiên cứu trên, số sinh viên học với
mục đích để xây dựng và bảo vệ đất nước chiếm tới 68.7%. Điều đó cho thấy đa
phần sinh viên trường ĐHKHXH&NV đều có những động cơ học tập tích cực được
thể hiện qua việc lựa chọn ngành học của sinh viên.
Một kết quả rất đáng chú ý khác từ động cơ học tập của sinh viên trường Nhân
Văn đó là: có tới 83.5% số sinh viên đều không đồng ý khi cho rằng đi học là để
làm hài lòng bố mẹ và để không thua kém bạn bè, còn bản thân thì không có hứng
thú.
Theo tác giả Lê Văn Hồng, hoạt động học tập là một hoạt động đặc thù của
con người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo mới, những giá trị, nhưng hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất
định [22]. Đây là yếu tố được bộc lộ một cách rõ ràng, cụ thể bởi mục đích học tập
của sinh viên trường Nhân Văn khi có tới trên 90% sinh viên xác định động cơ học
tập là để nâng cao trình độ hiểu biết, mở rộng các kiến thức chuyên ngành khoa học
xã hội.
Với đặc thù là một trường gồm những chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn
và có vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, nâng
cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng, do vậy nhiệm vụ
chính của sinh viên trường là học tập và nghiên cứu khoa học. Để thực hiện được
những công việc trên, sinh viên phải tích cực, chủ động trong quá trình học cũng
như việc tìm tòi, nắm bắt các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo để trở thành những chuyên
gia, những tri thức cho đất nước. Đây là mục đích mà hầu hết sinh viên luôn muốn
hướng đến trong quá trình học tập của mình bởi vì các kiến thức về khoa học xã hội
vô cùng phong phú và hấp dẫn với mọi người để họ có thể tích lũy làm vốn sống
cho bản thân.
Gắn liền với mục đích này là học tập để có thể giao tiếp tốt hơn, để tự tin hơn
và để khẳng định bản thân chiếm 90.8%. Đây là mục đích học tập được hầu hết sinh
viên lựa chọn vì với những sinh viên thuộc khối ngành khoa học xã hội và nhân văn
thì việc giao tiếp luôn là một điều vô cùng quan trọng trong cuộc sống vì công việc
tương lai của họ là thường xuyên tiếp xúc với con người, làm việc với con người.
Sinh viên Hà Trúc (Tâm lý học) chia sẻ: “Ngành Tâm lý học giúp ích cho bản
thân rất nhiều trong việc đối nhân xử thế cũng như giúp bản thân khám phá và hiểu
tính cách của con người và các mối tương quan trong đời sống xã hội”. Cũng theo
Hà Trúc, khi mình nhận được sự tôn trọng từ người khác qua giao tiếp hàng ngày,
bản thân sẽ tự tin hơn rất nhiều và khi đó mình luôn muốn được người khác tôn
trọng và mong muốn được thể hiện, được khẳng định bản thân mình nhiều hơn. Có
cùng quan điểm trên là sinh viên Minh Thư (Ngữ văn Anh) khi đưa ra nhận xét mục
đích học tiếng Anh là để giao tiếp tốt hơn, tự tin hơn khi tiếp xúc với người nước
ngoài, đồng thời để kiếm một việc làm phù hợp với năng lực bản thân.
Bên cạnh đó, sinh viên trường ĐHKHXH&NV cũng xác định học các khối
ngành xã hội và nhân văn là vì niềm đam mê, sở thích. Có tới 87.9% số sinh viên
khi được hỏi đã bày tỏ quan điểm đồng ý với mục đích này vì theo họ trong quá
trình học, người học phải có niềm đam mê, sở thích, có sẵn những năng lực, khả
năng phù hợp với chuyên ngành thì mới có thể tích cực trong quá trình tìm tòi khám
phá tri thức cũng như yêu thích ngành học và công việc liên quan sau khi ra trường.
Sinh viên Diễm Chi (Địa lý chuyên ngành Du lịch) cho biết bản thân rất thích
học ngành mà mình đam mê nên đã cố gắng tìm mọi cách đi học với mục đích có
được bằng đại học về ngành mình yêu thích để sau này có cơ hội thỏa mãn niềm
đam mê là đi khám phá nhiều vùng đất mới lạ trên thế giới mặc dù bị cha mẹ ngăn
cản. Còn sinh viên Kiều Thư (Ngữ văn Anh năm nhất) thì cho rằng nếu đi học mà
không vì niềm đam mê sở thích thì quả thật rất áp lực và việc học sẽ không đem lại
kết quả. Sở dĩ Kiều Thư có quan điểm như vậy là do “bản thân không thích học
ngành Ngữ văn Anh nhưng gia đình bắt phải học để sau này có thể xin vào làm việc
trong đại sứ quán”. Kết quả là sau nửa học kỳ của năm học đầu tiên, Kiều Thư đã
cảm thấy đuối sức vì không thể theo kịp nội dung liên quan đến ngành học.
Một kết quả rất đáng chú ý đó là có tới 83.5% sinh viên không đồng ý khi cho
rằng mình đi học là để làm vui lòng cha mẹ và để không thua kém bạn bè, còn bản
thân thì chẳng có hứng thú với việc đi học (số sinh viên đi học với mục đích này chỉ
chiếm tỉ lệ nhỏ là 15.9%). Điều này cho thấy sinh viên đi học không phải để làm hài
lòng cha mẹ, đua ganh với bạn bè mà học để có năng lực, đạo đức, có nghề nghiệp
chuyên môn cao, đảm bảo vững chắc cho tương lai của mình sau khi ra trường.
Khi không đồng ý với mục đích này, hầu hết sinh viên đều ý thức được cốt lõi
của việc học là sự tự ý thức về hoạt động học tập, về động cơ, biện pháp và cách
thức tiếp nhận tri thức. Bên cạnh đó, sinh viên cũng nhận thức được mình chính là
người quyết định và chịu trách nhiệm chính về việc học của mình để từ đó bản thân
phải là người tự tổ chức, định hướng, cụ thể hóa quá trình học tập chứ không phải là
cha mẹ hay một yếu tố khách quan nào khác. Khi kiểm nghiệm mối tương quan
giữa kết quả học tập và mục đích học để làm vui lòng cha mẹ và để không thua kém
bạn bè, còn bản thân thì chẳng có hứng thú với việc đi học của sinh viên, người
nghiên cứu nhận thấy không có mối tương quan giữa hai yếu tố này (Sig = .013 >
0.05). Điều đó càng cho thấy mục đích học tập của sinh viên là đúng đắn và chỉ có
những sinh viên nào biết cụ thể hóa quá trình học tập của mình và chủ động thực
hiện các nhiệm vụ học tập mới mong đạt kết quả cao.
Kết quả nghiên cứu tại bảng 2.7 còn cho thấy, có khoảng 57.1% sinh viên cho
rằng mục đích học tập của mình là có công việc ổn định, lương cao sau khi ra
trường. Những sinh viên đồng ý với mục đích này đa phần thuộc các khối ngành
ngoại ngữ như Hàn Quốc, Ngữ văn Anh và Ngữ văn Trung… (chiếm tỉ lệ 64.4%) vì
với việc học ngoại ngữ, sinh viên sẽ có nhiều cơ hội việc làm tốt hơn so với những
sinh viên thuộc các nhóm ngành khác khi vừa có kiến thức chuyên ngành vừa có
công cụ làm thế mạnh đó là ngoại ngữ. Chính vì lý do đó nên có tới 42.9% sinh viên
không đồng ý với nhận định ngành học của mình dễ xin việc làm, có công việc ổn
định và lương cao sau khi ra trường. Thực tế cho thấy, những sinh viên học nhóm
ngành như Lịch sử, Địa Lý, Giáo dục, Thư viện, Xã hội học, Nhân chủng học… rất
khó để xin được một việc làm đúng chuyên ngành, ổn định, có thu nhập cao sau khi
ra trường. Sự chênh lệch này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có
nhu cầu, đòi hỏi của xã hội, năng lực bản thân sinh viên cũng như một số yếu tố
khác.
Biểu đồ dưới đây cho thấy rõ sự đánh giá khác nhau giữa việc chọn ngành có
công việc ổn định, lương cao của hai nhóm ngành này. Theo đó, có sự tỉ lệ nghịch
giữa lựa chọn đồng ý và không đồng ý của hai nhóm ngành này khi cho rằng ngành
64.40%
63.70%
70.00%
60.00%
50.00%
36.30%
35.60%
40.00%
nhóm ngành không thuộc khối ngoại ngữ
30.00%
nhóm ngành thuộc khối ngoại ngữ
20.00%
10.00%
0.00%
đồng ý
không đồng ý
mình học là ngành có công việc ổn định, lương cao sau khi ra trường.
Về mục đích nghề nghiệp, có 69.2% số sinh viên cho rằng việc chọn ngành
học của bản thân có liên quan tới nhu cầu của xã hội. Theo đó, xã hội đang thiếu
nhân lực chất lượng cao thuộc những nhóm ngành sinh viên đang học. Tuy nhiên,
bên cạnh đó cũng có tới hơn 30% sinh viên không đồng ý với nhận định như vậy vì
theo họ, việc đào tạo tại trường mà cụ thể là tại ngành đang theo học mới chỉ dừng
lại ở bề rộng chứ chưa giúp sinh viên đi vào chiều sâu của kiến thức. Những kiến
thức chuyên ngành mang tính chất chung chung như vậy thật khó để giúp sinh viên
nhắm tới mục tiêu là đáp ứng cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao. Sinh viên
Quỳnh Anh (Tâm lý học) cho rằng “việc phải học quá nhiều môn đại cương cùng
những môn chuyên ngành thiếu ứng dụng nên rất khó cho sinh viên trong việc đào
sâu và nắm bắt những tri thức”. Đây cũng là tâm sự của đa phần sinh viên đang
theo học tập tại trường khi cho rằng mình phải học quá nhiều môn đại cương và
nhiều môn không gần với chuyên ngành và công việc sau khi ra trường.
Cũng theo kết quả khảo sát, mục đích học tập để góp phần xây dựng và bảo vệ
đất nước chiếm tới 68.7% (con số không đồng ý với mục đích học tập này là
31.3%). Điều này cho thấy, ngoài những mục đích học tập mang tính cá nhân như
lĩnh hội tri thức, động cơ nghề nghiệp, khẳng định bản thân hay phát triển nhân
cách… sinh viên còn học tập với mục đích hướng đến những lợi ích chung của quốc
gia, của dân tộc. Hơn ai hết, sinh viên đều nhận thức được mình là đội ngũ tri thức
trẻ, là tầng lớp kế cận, là lực lượng lao động chính của đất nước, do đó hầu hết sinh
viên hiểu được vai trò và trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước. Chính vì lẽ đó, khi sinh viên được trang bị những tri thức, có điều kiện
bồi dưỡng phẩm chất nhân cách để có nghề nghiệp chuyên môn cao giúp họ có điều
kiện đảm bảo cuộc sống cá nhân thì họ càng có khả năng cống hiến cho xã hội
nhiều hơn.
Ý thức học tập vì mục đích góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước của sinh
viên cũng chứng tỏ việc giáo dục đạo đức, lối sống, lý tưởng sống cho sinh viên tại
trường rất được chú trọng nhằm giúp sinh viên ý thức được quyền lợi cũng như
nghĩa vụ của mình trong công cuộc đổi mới của đất nước, qua đó biết hòa hợp giữa
lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội và góp phần đắc lực trong công cuộc xây dựng
nước Việt Nam thành một nước CNH – HĐH vào năm 2020.
Như vậy, qua tìm hiểu về mục đích học tập của sinh viên, người nghiên cứu
nhận thấy động cơ học tập của sinh viên được thể hiện một cách rất phong phú và
đa dạng. Nói cách khác, hoạt động học tập của sinh viên được chi phối bởi nhiều
loại động cơ khác nhau (như động cơ hoàn thiện tri thức, động cơ xã hội, động cơ
nghề, động cơ tự khẳng định…) trong đó động cơ giữ vai trò chủ đạo, nổi bật nhất
là động cơ hoàn thiện tri thức. Biểu đồ dưới đây mô tả rõ hơn tính đa dạng trong
động cơ học tập của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
100
92.2
90.8
87.9
90
83.5
80
69.2
68.7
65.7
70
57.1
60
Đồng ý
50
42.9
Không đồng ý
40
34.3
30.8
31.3
30
15.9
20
12.1
9.2
7.8
10
0
1
2
3
4
5
6
7
8
TP.HCM.
1. Vì niềm đam mê, sở thích 2. Là ngành dễ xin việc làm sau khi ra trường 3. Đề làm hài lòng bố mẹ và để không thua kém bạn bè, còn bản thân thì không có hứng thú 4. Để nâng cao trình độ, mở rộng sự hiểu biết các lĩnh vực khoa học về đời sống xã hội 5. Là ngành có công việc ổn định, lương cao 6. Xã hội đang thiếu nhân lực chất lượng cao 7. Để giao tiếp tốt hơn, tự tin hơn trong cuộc sống 8. Để góp phần xây dựng, bảo vệ đất nước
2.4.2.2. Động cơ học tập thể hiện qua thái độ học tập
Trong hoạt động học tập của sinh viên, một trong những yếu tố có sự tác động,
ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập của sinh viên đó là thái độ học tập. Việc sinh
viên trang bị cho mình thái độ học tập nghiêm túc, đúng đắn sẽ là tiền đề cho việc
tiếp nhận tri thức được thuận lợi hơn. Và qua khảo sát về thái độ học tập của sinh
viên trường ĐHKHXH&NV, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Thái độ học tập của sinh viên Tần số Tỉ lệ (%)
206 51.5
75 18.8
204 51.0
57 14.3
189 47.3
10 2.5 Tích cực, chủ động, sáng tạo để học tập, tiếp nhận kiến thức. Dễ chán nản khi gặp khó khăn trong học tập, có suy nghĩ “học tới đâu hay tới đó”. Học tập nghiêm túc, lắng nghe và trao đổi với giảng viên, bạn bè trong lớp. Không tích cực, thụ động trong khi tiếp nhận kiến thức. Khắc phục mọi khó khăn để học tập đạt kết quả tốt. Không nghiêm túc, không lắng nghe và không trao đổi với giảng viên.
Bảng 2.8: Thái độ học tập của sinh viên khi đã hình thành mục đích học tập
Qua kết quả ở bảng 2.8 ta thấy, thái độ học tập của sinh viên thể hiện cũng khá
tích cực tuy ở mức độ chưa cao, cụ thể như sau:
Trong số những thái độ học tập được người nghiên cứu đem ra khảo sát thì
thái độ tích cực, chủ động, sáng tạo để học tập tiếp nhận kiến thức được sinh viên
coi trọng nhất (chiếm hơn 50% tổng số mẫu nghiên cứu). Đây là xu hướng học tập
phù hợp với quan điểm của ngành giáo dục hiện nay nhằm giúp sinh viên phát huy
tính tích cực, chủ động và sáng tạo của mình trong quá trình học. Trái ngược với
thái độ học tập này là không tích cực, thụ động trong tiếp nhận kiến thức chỉ chiếm
14.3%. Điều này chứng tỏ rằng, đa số sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của
thái độ học tập tới kết quả học tập của mình, từ đó xây dựng cho mình động cơ cũng
như thái độ học tập đúng đắn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn một bộ phận sinh viên chưa có được thái độ
học tập tích cực và phải chăng những sinh viên này chưa quen với phương pháp học
tập ở bậc đại học hay có những mục đích, động cơ học tập chưa đúng đắn? Trong
tổng số mẫu nghiên cứu, chỉ có hơn 50% số sinh viên xác định được thái độ học tập
đúng đắn là một con số khá khiêm tốn. Điều đó đòi hỏi nhà Trường, các Khoa và
Bộ môn cũng như các thầy cô giáo cần có những tác động phù hợp, kịp thời nhằm
giúp sinh viên của mình xây dựng được thái độ học tập tích cực.
Bên cạnh đó, thái độ học tập nghiêm túc, lắng nghe và trao đổi với giảng viên,
bạn bè trong lớp cũng được sinh viên chú ý chiếm 51.0% trong tổng số mẫu nghiên
cứu. Điều này cho thấy cả giáo viên và sinh viên đã và đang rất tích cực trong việc
đổi mới phương pháp dạy và học, hướng tới việc lấy người học làm trung tâm trong
quá trình dạy học. Mọi hoạt động của người dạy đều hướng vào người học nhằm
mục đích tránh tình trạng sinh viên chỉ tiếp nhận kiến thức theo phương pháp truyền
thống một chiều thầy đọc trò chép, đồng thời giúp sinh viên tiếp nhận kiến thức từ
nhiều nguồn thông tin khác nhau dưới sự điều khiển, tổ chức và hướng dẫn của
giảng viên. Đây là thái độ học tập lý tưởng giúp sinh viên và giảng viên gần gũi
nhau hơn, trao đổi với nhau được nhiều hơn và qua đó, quá trình phản hồi thông tin
sẽ giúp giáo viên có những điều chỉnh theo hướng tích cực để hoạt động dạy của
mình hướng đúng đối tượng cũng như đáp ứng được nhu cầu của người học.
Tuy 50% số sinh viên học tập với thái độ nghiêm túc, thể hiện sự tích cực lắng
nghe và trao đổi với giảng viên, bạn bè trên lớp là một tỉ lệ chưa cao nhưng cũng
thật đáng mừng chỉ có một tỉ lệ rất nhỏ sinh viên học tập với thái độ không nghiêm
túc, không lắng nghe và không trao đổi với giảng viên (chỉ chiếm 2.5%). Điều đó
cho thấy đa phần sinh viên đều xác định được thái độ học tập tích cực và chủ động
là cần thiết tuy nhiên để xây dựng được thái độ ấy còn phụ thuộc nhiều vào các yếu
tố khác như cách thức truyền đạt của giảng viên hay tính hấp dẫn, mới lạ của môn
học…
Ngoài ra, thái độ khắc phục mọi khó khăn để việc học tập đạt kết quả tốt cũng
được sinh viên khá coi trọng (chiếm tỉ lệ xấp xỉ 50%). Đây là thái độ học tập rất cần
thiết đối với sinh viên, đặc biệt là sinh viên thuộc khu vực nông thôn do điều kiện
kinh tế còn khó khăn.
So sánh thái độ học tập này với địa bàn cư trú kết quả cho thấy đa phần sinh
viên thuộc địa bàn cư trú ở thị xã và nông thôn (chiếm tỉ lệ gần 70%) đều cho rằng
mình sẽ khắc phục mọi khó khăn trong học tập; ngược lại có tới gần 60% sinh viên
cư trú ở thành phố có thái độ dễ chán nản khi gặp khó khăn trong học tập và có suy
nghĩ “học tới đâu hay tới đó”. Vậy phải chăng khi điều kiện sống, điều kiện kinh tế
càng khó khăn thì ý chí và động lực học tập của sinh viên càng mạnh mẽ và ngược
lại, khi sinh viên có điều kiện sống đầy đủ thì lại dễ chán nản và có thái độ buông
xuôi trong học tập? Đây là bộ phận sinh viên chưa xác định được động cơ học tập
đúng đắn nên dễ lơ là, bỏ bê việc học, thậm chí là bỏ học, do vậy cần sự quan tâm
giúp đỡ của giáo viên để những sinh viên này ý thức được tầm quan trọng của việc
học, qua đó xác định cho mình ý thức học tập tốt hơn.
Như vậy, kết quả kháo sát cho thấy đa phần sinh viên đều xác định cho mình
thái độ học tập đúng đắn, tích cực. Sinh viên khẳng định cần phải có thái độ tích
cực, chủ động, sáng tạo trong việc học cũng như cần nghiêm túc trong quá trình học
tập, tích cực trao đổi với giảng viên và phải khắc phục được mọi khó khăn trong học
tập.
2.4.2.3. Động cơ học tập thể hiện qua hành vi học tập
Qua việc khảo sát hành vi học tập của sinh viên, chúng tôi thu thập được kết
quả về động cơ học tập của sinh viên thể hiện khá rõ qua hành vi học tập. Kết quả
nghiên cứu được thể hiện cụ thể qua bảng số liệu dưới đây:
Động cơ học tập của sinh viên thể hiện qua hành vi học tập
Mức độ
Hiếm khi Hành vi
Tần số Tần số Tần số Thường xuyên Thỉnh thoảng Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%)
156 39.5 216 54.7 23 5.8
Tìm đọc, mua hay mượn sách, giáo trình của ngành học Thường xuyên đi thư viện 68 17.4 192 49.2 130 33.3
174 44.4 174 44.4 44 11.2
101 25.6 188 47.6 106 26.8
135 34.8 189 48.7 63 16.2
160 41.1 176 45.2 53 13.6
19 4.8 254 64.8 119 30.4
49 12.6 145 37.2 196 50.3
11.5 142 37.1 197 51.4 44
19.1 155 40.5 155 40.5 73
110 252 66.5 17 4.5 29.0
129 33.4 187 48.4 70 18.1
21.1 157 41.3 143 37.6 80
10.8 98 24.5 233 62.8 40 Sưu tầm các tài liệu, bài viết liên quan đến ngành học Tham dự các buổi nói chuyện chuyên đề, hội thảo Tìm hiểu và quan tâm đến nhu cầu của xã hội. Theo dõi thông tin về ngành học trên tivi, đài phát thanh… Suy nghĩ về bản thân để nỗ lực hơn nữa trong học tập Xây dựng kế hoạch học tập hợp lý Đến các hội chợ việc làm để thử sức, tìm tòi cơ hội Tham gia sinh hoạt các câu lạc bộ đội nhóm Tham gia nghiên cứu khoa học, viết bài nội san Thực hành ứng dụng kiến thức vào trong đời sống thực tế Đi kiến tập, thực tập tại cơ sở để áp dụng lý thuyết đã học Trao đổi học thuật, du học dưới nhiều hình thức khác nhau
Bảng 2.9: Hành vi học tập của sinh viên
Qua bảng phân tích số liệu về hành vi học tập của sinh viên ta thấy hành vi
học tập của sinh viên trường ĐHKHXH&NV là rất đa dạng, sinh viên đã tự ý thức
tham gia nhiều hoạt động khác nhau nhằm hỗ trợ cho quá trình học của mình. Số
sinh viên hiếm khi hoặc thậm chí không bao giờ tham gia các hoạt động chung của
nhà Trường, Khoa hoặc các tổ chức đoàn thể chiếm tỉ lệ rất thấp.
Việc sinh viên thường xuyên suy nghĩ về bản thân để nỗ lực hơn nữa trong
học tập được sinh viên quan tâm nhiều nhất, chiếm tỉ lệ 95.2% (thỉnh thoảng,
thường xuyên nghĩ tới). Điều này cho thấy sinh viên luôn có những trăn trở suy
nghĩ về bản thân, về việc học hiện tại cũng như những mục đích, dự định trong
tương lai. Qua đó giúp sinh viên điều chỉnh những hành vi chưa phù hợp, những suy
nghĩ chưa đúng đắn để từ đó nỗ lực hơn nữa trong việc học tập cũng như rèn luyện
nhân cách để trở thành người tài – đức cho xã hội.
Sinh viên Mạnh Hùng (Tâm lý học) cho rằng “là một sinh viên, đặc biệt là
sinh viên Tâm lý, điều quan trọng nhất là cần phải thường xuyên nhìn nhận lại bản
thân để kiểm soát và nắm bắt những diễn biến tâm lý của mình với các mối quan hệ
xung quanh, qua đó điều chỉnh hành vi giao tiếp ứng xử cho phù hợp”. Cùng với
quan điểm trên sinh viên Tuyết Nhung (Ngữ văn Anh) cũng thừa nhận việc thường
xuyên suy nghĩ, nhìn nhận về bản thân là rất cần thiết, nó giúp mình biết so sánh
bản thân của hiện tại với quá khứ, để từ đó không ngừng học hỏi, nâng cao năng lực
cũng như khả năng chuyên môn của mình.
Kế đến, có tới 87.5% sinh viên cho rằng mình rất chú trọng đến việc xây dựng
kế hoạch học tập hợp lý (37.2% thường xuyên và 50.3% thỉnh thoảng). Điều này
cho thấy khi sinh viên đã có những suy nghĩ, nhận định về việc học của bản thân thì
chính họ phải là người đưa ra những kế hoạch học tập sao cho phù hợp với điều
kiện cũng như năng lực của bản thân. Việc xây dựng kế hoạch học tập giúp sinh
viên tận dụng tối đa thời gian cũng như công sức trong thời gian học đại học, đồng
thời giúp sinh viên tự tìm tòi và khám phá cho mình những phương pháp học tập
thích hợp. Quá trình học đại học hoàn toàn khác so với quá trình học phổ thông từ
cách thức, phương pháp cũng như nội dung môn học, do vậy việc sinh viên xây
dựng một kế hoạch học tập hợp lý sẽ giúp sinh viên thích ứng tốt hơn với môi
trường đại học, đặc biệt là với những sinh viên năm thứ nhất.
Một trong những hoạt động nổi bật, đặc trưng của trường Nhân Văn đó là hoạt
động nghiên cứu khoa học. Ngoài việc được trang bị những kiến thức chuyên môn,
sinh viên trường ĐHKHXH&NV còn được đào tạo rất bài bản và chuyên sâu về
lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, chỉ có một tỉ lệ
rất ít (4.5%) sinh viên thường xuyên tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học,
29.0% sinh viên thỉnh thoảng tham gia hoạt động này và còn lại có tới 66.5% sinh
viên hiếm khi hoặc không bao giờ tham gia nghiên cứu khoa học, viết báo cáo khoa
học. Điều đó cho thấy đa phần sinh viên còn rất lơ là với hoạt động này mặc dù
hàng năm trường đều tổ chức phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học cấp Khoa,
cấp Trường. Đây là hoạt động rất quan trọng và có ý nghĩa vô cùng lớn đối với sinh
viên trường Nhân Văn vì thông qua hoạt động này, sinh viên sẽ được bộc lộ những
phẩm chất và năng lực của mình, bước đầu được tiếp cận với con đường nghiên cứu
khoa học để trở thành những nhà khoa học tương lai cho đất nước.
Sinh viên Bích Liên (Ngữ văn Anh) đạt giải nhất sinh viên nghiên cứu khoa
học cấp Trường đã chia sẻ “việc tham gia nghiên cứu khoa học đã giúp em học tập
được rất nhiều những kiến thức từ thực tế cuộc sống cũng như cách thức, phương
pháp học tập và làm việc để sau này có thể trở thành một nhà khoa học thực thụ.
Qua hoạt động này bản thân nhận thấy cần phải tự nỗ lực và trau dồi nhiều hơn
nữa để có sự am hiểu sâu và rộng các lĩnh vực khoa học xã hội”.
Như vậy, để sinh viên nhận thức rõ ràng và sâu sắc được tầm quan trọng của
hoạt động nghiên cứu khoa học đối với quá trình học tập của sinh viên, nhà Trường
cũng như Khoa và Bộ môn cần tạo điều kiện hơn nữa cho sinh viên tiếp cận với
hoạt động này; đồng thời cũng có những chính sách động viên khen thưởng kịp thời
để sinh viên coi đây là một trong những hoạt động không thể thiếu của đời sống
sinh viên, đặc biệt là đối với sinh viên trường Nhân Văn.
Gắn liền với hoạt động nghiên cứu khoa học thì việc tham dự các buổi hội
thảo, nói chuyện chuyên đề cũng là một hoạt động rất thiết thực đối với sinh viên vì
khi tham gia những hoạt động này, sinh viên sẽ được tiếp cận và đón nhận những tri
thức mới ngoài những kiến thức mà họ nhận được trong sách vở và trên lớp học.
Đồng thời cũng qua hoạt động này, sinh viên sẽ thấy mình tự tin hơn, trưởng thành
hơn và học hỏi được nhiều điều thú vị hơn từ kinh nghiệm của những người đi
trước. Tuy nhiên, số sinh viên tích cực trong hoạt động này lại chiếm tỉ lệ rất ít
(25.6%), còn lại hầu như sinh viên rất thờ ơ với các buổi hội thảo và nói chuyện
chuyên đề. Nguyên nhân của thực trang trên xuất phát từ việc thiếu thông tin cũng
như nội dung các hội thảo, chuyên đề còn chưa đáp ứng nhu cầu của sinh viên, do
đó ít nhận được sự chú ý quan tâm của đối tượng này.
Nhằm hỗ trợ cho việc học tập cũng như nghiên cứu khoa học của sinh viên
thực sự đạt hiệu quả thì hoạt động đi thư viện, tìm mua sách báo, giáo trình hoặc
sưu tầm bài viết liên quan đến ngành học cũng là việc làm không thể thiếu của đời
sống sinh viên. Tuy nhiên, kết quả khảo sát lại cho thấy chỉ có khoảng 17% sinh
viên cho rằng họ thường xuyên đi thư viện; 49.2 % thừa nhận thỉnh thoảng mới đi thư viện để tìm đọc tài liệu. Trong khi đó, có tới 33.3% (chiếm gần 1/3 tổng số mẫu
nghiên cứu) cho rằng mình hiếm khi hoặc thậm chí không bao giờ đi thư viện. Đây
là một thực trạng đáng buồn phản ánh thái độ học tập chưa tích cực của sinh viên
đặc biệt trong bối cảnh nhà trường đang đẩy mạnh tinh thần tự giác và ý thức tự học
của sinh viên.
Với việc học đại học, thời lượng trên lớp là không đủ để giảng viên có thể
truyền tài đầy đủ tri thức cho sinh viên, do vậy, việc tìm đọc tài liệu trong thư viện
là rất quan trọng giúp sinh viên bổ sung những kiến thức còn thiếu cũng như có điều
kiện đào sâu kho tàng tri thức của nhân loại đã được đúc kết. Tuy vậy, sinh viên lại
không coi trọng việc đi thư viện bằng việc sưu tầm, tìm đọc các bài viết liên quan
đến ngành học qua các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là qua internet. Có
tới 44.4% sinh viên thỉnh thoảng và 44.4% thường xuyên sử dụng cách này để tìm
kiếm tri thức cho mình. Đây có thể là một lợi thế, là mặt mạnh của thời đại công
nghệ số vì bất cứ thứ gì sinh viên cũng có thể tìm thấy chỉ bằng một cái “click
chuột”. Tuy vậy mặt hạn chế của nó là tính không chính thống trong các tư liệu cho
nên sinh viên cần phải có khả năng chắt lọc và phân biệt để tránh tình trạng hiểu
không đúng thậm chí là hiểu sai hoàn toàn kiến thức được học trong nhà trường.
Để giúp sinh viên tích cực hơn nữa trong hoạt động tự học tập và nghiên cứu
tại thư viện, nhà trường và thầy cô nên trang bị cho sinh viên kỹ năng đọc sách cũng
như phương pháp tự nghiên cứu. Điều này sẽ giúp sinh viên yêu thích hoạt động
này cũng như biết tận dụng thời gian, xây dựng kế hoạch học tập hợp lý. Bên cạnh
đó, một số sinh viên cho rằng để sinh viên đến gần thư viện hơn thì cơ chế quản lý
hoạt động đọc, mượn và trả sách của thư viện cũng nên thay đổi; đồng thời thư viện
cũng cần cập nhật thêm nhiều đầu sách mới, phù hợp với chuyên ngành để sinh viên
có điều kiện tiếp cận và tìm đọc.
Ngoài thời gian học tập tại trường, sinh viên các Khoa và Bộ môn còn tham
gia hoạt động thực tập tại cơ sở để có điều kiện áp dụng những kiến thức được học
trên giảng đường vào thực tế. Tuy đây là hoạt động mang tính chất bắt buộc đối với
sinh viên nhưng với thực trạng chung là trong suốt thời gian học đại học, đa số sinh
viên chỉ được đi thực tập duy nhất một lần với khoảng thời gian rất ngắn, do vậy
sinh viên cũng không có nhiều cơ hội để thực hành và cọ sát thực tế. Do vậy, ngoài
lần đi thực tập bắt buộc theo quy định chung của trường thì chỉ có 21.1% sinh viên
thường xuyên tìm những cơ hội để đi kiến tập và để áp dụng những kiến thức đã
học vào thực tế đời sống (33.4%). Trong khi đó, chỉ có 41.3% sinh viên thỉnh
thoảng mới đi thực tế tại cơ sở và có tới 37.6% sinh viên hiếm khi đi kiến tập hay
thực tập. Chính vì thế, nhà Trường, Khoa và các Bộ môn cần tạo điều kiện nhiều
hơn nữa cũng như lắng nghe ý kiến của sinh viên về vấn đề này để hoạt động thực
tập thực sự mang lại hiệu quả cho sinh viên.
Để thực hiện mục đích học tập của mình, bên cạnh những việc làm kể trên
sinh viên trường Nhân Văn còn tích cực tìm hiểu và quan tâm đến nhu cầu của xã
hội (gần 80% sinh viên thỉnh thoảng và thường xuyên tham gia hoạt động này),
đồng thời theo dõi những thông tin về ngành nghề và công việc liên quan trên các
phương tiện truyền thông đại chúng. Đây là hoạt động thể hiện tính tích cực trong
học tập cũng như tinh thần ý thức trách nhiệm của sinh viên đối với hoạt động nghề
nghiệp sau này trong cuộc sống. Qua hoạt động này, sinh viên có dịp đánh giá năng
lực của bản thân cũng như điều chỉnh mình theo hướng tích cực để đáp ứng với
những nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Bên cạnh đó, hoạt động này cũng
giúp sinh viên có dịp để ôn lại những kiến thức của mình và bổ sung những kiến
thức mới để làm giàu kho tàng kiến thức văn hóa xã hội cho bản thân.
Tuy số sinh viên thường xuyên quan tâm đến nhu cầu xã hội cao nhưng số liệu
khảo sát lại cho thấy chỉ có 11.5% sinh viên thường xuyên đến với các hội chợ việc
làm để tìm tòi cơ hội và để thử năng lực của bản thân. 37.1% trong số họ quan tâm
hời hợt đến hoạt động này khi thỉnh thoảng mới tới các hội chợ việc làm. Trong khi
đó, có tới hơn 50% sinh viên hiếm khi hoặc không bao giờ quan tâm tham gia các
hoạt động này. Đây là hoạt động rất có ý nghĩa nhằm giúp sinh viên tiếp cận dần với
hoạt động nghề nghiệp sau này cũng như có dịp để áp dụng những gì mình đã được
học vào quá trình phỏng vấn tuyển dụng. Sinh viên Quốc Anh – người đã tìm được
việc làm rất phù hợp với chuyên ngành và năng lực bản thân khi còn là sinh viên
năm 3 chia sẻ: “hội chợ việc làm là nơi để sinh viên ‘phô diễn’ những gì mình đã
tiếp nhận trên giảng đường đồng thời là dịp thử sức mình cũng như chứng tỏ bản
thân trước nhà tuyển dụng”. Tuy nhiên, đa phần sinh viên chưa quan tâm đến hoạt
động này phần vì bản thân sinh viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của nó,
phần vì Khoa và nhà Trường thiếu những buổi cho sinh viên trực tiếp giao lưu với
doanh nghiệp để hai bên nắm bắt nguyện vọng và mong muốn của nhau để sinh
viên có những điều chỉnh cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp ngay
khi còn học tập trên giảng đường.
Ngoài những hoạt động kể trên, sinh viên trường Nhân Văn còn tham gia sinh
hoạt trong các câu lạc bộ đội nhóm để học hỏi, chia sẻ kiến thức cũng như phát triển
những kỹ năng của mình. Tuy rất nhiều sinh viên mong muốn có môi trường để học
tập lẫn nhau nhưng thực tế lại cho thấy, chỉ có khoảng 19.1% số sinh viên thường
xuyên quan tâm và tham gia các hoạt động này. Số còn lại thì thỉnh thoảng mới
tham gia (40.5%) hoặc không để ý và tham gia các hoạt động đội nhóm. Điều đó
cũng cho thấy mức độ hấp dẫn và thiết thực của những câu lạc bộ này còn hạn chế,
chưa đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của sinh viên khi gia nhập nhóm. Đây
cũng chính là nguyên nhân dẫn tới thực trạng việc thành lập các nhóm học tập, các
câu lạc bộ rất dễ dàng, nhưng việc duy trì nó đã gặp vô vàn những khó khăn và
thông thường thời gian tồn tại của các câu lạc bộ này cũng không được lâu.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu về hành vi học tập của sinh viên cho thấy sinh
viên trường ĐHKHXH&NV đã tham gia rất nhiều hình thức học tập cũng như hoạt
động khác nhau để hỗ trợ cho việc học của mình tuy còn ở mức chưa cao. Điều đó
chứng tỏ sinh viên trường Nhân Văn đã rất tích cực và có ý thức cao trong học tập.
Tuy nhiên, để hoạt động trên thực sự đem lại hiệu quả và lôi cuốn được nhiều sinh
viên tham gia hơn nữa nhà trường cần có sự đổi mới trong việc tổ chức các hoạt
động mang tính thiết thực và gắn liền với nhu cầu, nguyện vọng của sinh viên hơn.
2.4.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới động cơ học tập của sinh viên
Động cơ học tập là một trong những yếu tố có ý nghĩa hàng đầu đối với kết quả
học tập và việc nâng cao hiệu quả học tập phụ thuộc phần lớn vào việc sinh viên có
xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn hay không.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra hoạt động học tập của sinh viên trường
ĐHKHXH&NV được thúc đẩy bởi nhiều loại động cơ khác nhau và những động cơ
ấy được thể hiện cụ thể qua mục đích, thái độ và hành vi học tập. Bên cạnh đó, qua
việc khảo sát những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến động cơ học tập của sinh viên
cho thấy, động cơ học tập của sinh viên bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau.
Kết quả nghiên cứu được thể hiện cụ thể qua bảng sau:
Yếu tố ảnh hưởng tới động cơ học tập
Yếu tố Tần số Tỉ lệ (%)
1. Gia đình 243 60.8%
2. Bạn bè 114 28.5%
3. Môi trường xã hội 180 45.0%
4. Môi trường học tập 175 43.8%
5. Bản thân sinh viên 218 54.5%
253 63.3%
116 29.0% 6. Niềm đam mê, hứng thú với ngành học 7. Các phương tiện thông tin đại chúng
0.7
63.30%
60.80%
0.6
54.50%
0.5
45.00% 43.80%
0.4
28.50%
29.00%
0.3
0.2
0.1
0
Bảng 2.10: Yếu tố ảnh hưởng tới động cơ học tập
Căn cứ vào bảng 2.10 ta thấy, động cơ học tập của sinh viên chịu sự chi phối
bởi nhiều yếu tố khác nhau, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đều ở mức
trung bình. Riêng yếu tố bạn bè và các phương tiện thông tin đại chúng có mức độ
ảnh hưởng, tác động yếu tới động cơ học tập của sinh viên.
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất tới động cơ học tập của
sinh viên là niềm đam mê, hứng thú với ngành học (chiếm 63.3%). Kết quả này cho
thấy đa phần sinh viên đều cho rằng việc mình thích hay không thích, đam mê hay
không đam mê với ngành học sẽ ảnh hưởng tới động cơ học tập mà cụ thể là kết quả
học tập. Nếu một sinh viên có niềm đam mê hứng thú với ngành học thì sẽ xác định
cho mình mục đích, động cơ học tập đúng đắn cũng như có thái độ hành vi hợp lý
để việc học thực sự đem lại hiệu quả. Ngược lại, việc học sẽ trở thành áp lực và
gánh nặng nếu sinh viên học với suy nghĩ bị ép buộc hoặc vì một lý do nào khác mà
bản thân không nhận thấy việc học đem lại cho mình điều gì. Bên cạnh đó, sinh viên
cũng nhận thấy kết quả học tập sẽ phụ thuộc phần nhiều vào bản thân mà yếu tố đầu
tiên là niềm đam mê với ngành học, tin tưởng vào bản thân cũng như có tinh thần
trách nhiệm trong học tập. Đây là một trong những nhân tố chủ quan ảnh hưởng tới
động cơ học tập của sinh viên mà người nghiên cứu muốn đề cập đến.
Liên quan tới nhóm nhân tố chủ quan ảnh hưởng tới động cơ học tập của sinh
viên là bản thân sinh viên. Có 54.5% sinh viên cho rằng động cơ học tập bị chi phối
phần nhiều là do chính bản thân mình. Phải chăng do sự thay đổi môi trường học
tập buộc sinh viên phải có ý thức tự lập, tinh thần trách nhiệm về việc học của mình
nên yếu tố này ảnh hưởng nhiều đến việc hình thành, phát triển và thay đổi động cơ
học tập của họ? Và phải chăng do cuộc sống sinh viên xa nhà có phần tự do hơn,
nhiều thách thức cũng như những đòi hỏi và cám dỗ… nên sinh viên cần phải tôi
rèn cho mình bản lĩnh để những yếu tố tác động bên ngoài xã hội không ảnh hưởng
đến động cơ học tập của mình? Do đó, chính niềm đam mê hứng thú với việc học kể
trên cộng với niềm tin tưởng mạnh mẽ vào bản thân, vào định hướng lý tưởng sống,
vào tâm thế lựa chọn hướng đi của cuộc đời sẽ tác động rất nhiều đến việc hình
thành, thay đổi và phát triển động cơ học tập của sinh viên.
Yếu tố ảnh hưởng thứ hai tới động cơ học tập của sinh viên là gia đình, chiếm tỉ
lệ xấp xỉ 61%. Đây là yếu tố chiếm tỉ lệ cao nhất trong nhóm những nhân tố khách
quan có ảnh hưởng tới động cơ học tập. Điều đáng lưu ý là phần đông sinh viên cư
trú ở thành phố (chiếm 55.4%) cho rằng yếu tố gia đình có ảnh hưởng nhiều đến
động cơ học tập, trong khi đó, chỉ có 17.4% sinh viên ở thị xã, thị trấn và 27.3%
sinh viên ở nông thôn đồng ý với quan điểm này. Kết quả này cho thấy sinh viên
thành phố chịu sự tác động ảnh hưởng của gia đình nhiều hơn so với sinh viên thuộc
các tỉnh lẻ. Kết quả ấy được mô tả cụ thể qua bảng số liệu sau:
Địa bàn cư trú Ảnh hưởng của Thành phố Thị xã, thị trấn Nông thôn yếu tố gia đình Tỉ lệ Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần số Tần số đến động cơ học (%) (%) số (%) tập của sinh viên 134 55.4% 42 17.4% 66 27.3%
Bảng 2.11: So sánh sự ảnh hưởng tới động cơ học tập của yếu tố gia đình với địa bàn cư trú
Một trong những nhân tố khách quan khác ảnh hưởng tới động cơ học tập của
sinh viên là môi trường xã hội (chiếm 45.0%). Hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa
cũng như việc hội nhập và giao lưu giữa các nền văn hóa đòi hỏi thế hệ trẻ, đặc biệt
là thanh niên sinh viên phải không ngừng mở rộng và nâng cao tầm hiểu biết để
thích ứng và bắt kịp với sự phát triển của thời đại. Xu hướng ấy còn giúp sinh viên
được sống và học tập trong một môi trường đa văn hóa, do vậy sẽ có những tác
động nhất định đến cách nhìn nhận và đánh giá của sinh viên, đặc biệt là đối với
sinh viên trường Nhân Văn khi môi trường học tập bao gồm nhiều sinh viên đến từ
những dân tộc, quốc gia khác nhau. Do vậy, môi trường xã hội mở sẽ vừa là cơ hội
nhưng đồng thời cũng là thách thức đối với sinh viên.
Bên cạnh đó, môi trường học tập cũng là yếu tố có mức độ ảnh hưởng không
nhỏ tới động cơ học tập của sinh viên khi chiếm tới 43.8%. Môi trường học tập ở
đây bao gồm những yếu tố có mối tương quan với sinh viên như nhà Trường,
Khoa/Bộ môn, đặc biệt là phẩm chất đạo đức, nhân cách, năng lực cũng như
phương pháp giảng dạy của thầy cô… Kết quả này cho thấy, bên cạnh yếu tố thuộc
về bản thân sinh viên và niềm đam mê hứng thú với ngành học thì môi trường học
tập cũng góp phần tác động tới động cơ học tập của sinh viên. Đa phần sinh viên
đều có chung nhận xét nếu được học với những thầy cô giàu kinh nghiệm, nhiệt tâm
với nghề, có phương pháp truyền đạt hấp dẫn… thì niềm đam mê và hứng thú với
việc học sẽ tăng lên, qua đó sẽ có những tác động tích cực tới động cơ học tập. Và
ngược lại, nếu thầy cô chỉ thiên về lý thuyết cũng như cách truyền thụ không hấp
dẫn, kết hợp với tình trạng thiếu thốn về cơ sở vật chất phục vụ cho việc học… thì
hứng thú với môn học sẽ giảm và từ đó không xây dựng cho mình những động cơ
học tập đúng đắn.
Ngoài những yếu tố trên, động cơ học tập của sinh viên còn bị chi phối bởi các
phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, tivi... (chiếm 29.0%) và một bộ phận
sinh viên bị ảnh hưởng bởi yếu tố bạn bè (28.5%). Đây là hai yếu tố có mức độ tác
động thấp nhất trong những nhân tố khách quan bởi vì sinh viên là người đã hình
thành năng lực phán đoán và tư duy cao nên với họ những yếu tố đó chỉ mang tính
chất định hướng, tham khảo cho việc học cũng như lựa chọn nghề nghiệp tương lai
của mình.
Như vậy, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của sinh viên trong
đó có hai nhóm nhân tố chính là nhân tố chủ quan (niềm tin vào bản thân, hứng thú
với ngành học cũng như tinh thần trách nhiệm, khả năng kiểm soát bản thân, định
hướng giá trị sống) và nhân tố khách quan (gia đình, bạn bè, môi trường xã hội, môi
trường học tập). Trong những yếu tố ấy thì niềm đam mê hứng thú với ngành học
cộng với bản thân sinh viên là những yếu tố chủ quan, thuộc về bản thân người học
có sự tác động và ảnh hưởng nhiều đến động cơ học tập của sinh viên; bên cạnh đó
yếu tố gia đình, môi trường xã hội và môi trường học tập thuộc nhóm những nhân tố
khách quan cũng có ảnh hưởng nhất định đến mục đích học tập của sinh viên qua
thực tiễn nghiên cứu.
2.4.4. Kết luận chung về động cơ học tập của sinh viên
Với mục đích giúp sinh viên tự đánh giá về động cơ học tập của mình, người
nghiên cứu đã đưa ra 11 tiêu chí đánh giá về động cơ của tác giả Germaine Ducloc
để sinh viên tự lượng định và lựa chọn. Nếu ở 11 tiêu chí kể trên sinh viên đa số
chọn “Có” thì điều đó có nghĩa động cơ học tập của sinh viên là rất tốt; ngược lại
nếu sinh viên chọn “Không” ở hầu hết các tiêu chí thì sinh viên đang gặp những khó
khăn trong động cơ cũng như hứng thú học tập.
Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết sinh viên đều chọn “Có” ở các tiêu chí
đánh giá, cụ thể ở tiêu chí ham học hỏi, tìm hiểu, nắm bắt các tri thức có tới 78.7%;
thích liên kết các thông tin lại với nhau chiếm 77.9%; học hỏi những kỹ năng khác
để bổ trợ cho ngành học chiếm xấp xỉ 80%; ý thức tầm quan trọng của việc học và
xây dựng kế hoạch học tập hợp lý chiếm 75.2%; tự hào về Trường/Khoa/ Bộ môn
chiếm 74.5%. Một số tiêu chí khác cũng được sinh viên tự đánh giá ở mức khá cao
như thích trao đổi với cha mẹ, bạn bè những vấn đề trong học tập chiếm 67.2%; có
mối quan hệ tốt đẹp với thầy cô chiếm 66.7%... Và dựa vào kết quả trên có thể rút
ra kết luận: đa phần động cơ học tập của sinh viên trường ĐHKHXH&NV là rất tốt.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra còn một bộ phận sinh viên chưa ý
thức trong học tập mà cụ thể là trong việc xác định mục đích, thái độ và hành vi học
tập. Có tới 44.0% sinh viên cho rằng bản thân chưa tìm thấy niềm đam mê, hứng
thú trong quá trình học tập; 40.5% sinh viên chưa biết phát huy tối đa khả năng tìm
tòi, sáng tạo trong việc nắm bắt tri thức trong học tập; 33.3% xác định chưa có mối
quan hệ tốt đẹp với thầy cô; đặc biệt có tới 74.4% sinh viên chưa hài lòng về kết
quả học tập của mình… Kết quả trên cho thấy một bộ phận không nhỏ sinh viên
đang gặp những khó khăn trong học tập, đặc biệt là việc xác định động cơ và hứng
thú học tập. Những sinh viên này cần phải tìm ra lý do khiến bản thân chưa xây
dựng được động cơ học tập đúng đắn để qua đó ý thức và trách nhiệm hơn về việc
học của mình nhằm đạt kết quả tốt hơn cũng như đánh giá đúng mức về năng lực
của bản thân.
Dưới đây là bảng mô tả chi tiết kết quả sinh viên tự đánh giá về động cơ học
tập của bản thân:
Sinh viên tự đánh giá động cơ học tập
Có Không Nội dung đánh giá Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%)
298 78.7 81 21.3
299 77.9 85 22.1
287 74.5 96 25.0
256 66.7 128 33.3
256 67.2 125 32.8
214 56.0 168 44.0
291 75.2 96 24.8
308 79.6 79 20.4
275 71.8 108 28.2
220 59.5 150 40.5
95 25.8 276 74.4 Ham học hỏi, tìm hiểu, nắm bắt các tri thức. Thích liên kết các thông tin lại với nhau. Tự hào về Trường/Khoa/Bộ môn của mình Có mối quan hệ tốt đẹp với Thầy Cô Thích trao đổi với cha mẹ/ bạn bè về những vấn đề trong học tập Luôn tìm thấy hứng thú trong quá trình học tập Ý thức tầm quan trọng của việc học và xây dựng kế hoạch học tập Học thêm những kỹ năng khác để bổ trợ cho ngành học Có thái độ học tập nghiêm túc và phương pháp học tập đúng đắn Bản thân luôn thích tìm tòi và phát huy các sáng kiến trong học tập Hài lòng về kết quả học tập của mình
Bảng 2.12: Sinh viên tự đánh giá về động cơ học tập của bản thân
Như vậy, kết quả khảo sát về động cơ học tập của sinh viên trường ĐH
KHXH&NV cho thấy hoạt động học tập của sinh viên trường được chi phối bởi
nhiều loại động cơ khác nhau như động cơ tự khẳng định, động cơ nghề, động cơ xã
hội và động cơ hoàn thiện tri thức. Tuy bị chi phối bởi nhiều loại động cơ nhưng đa
phần sinh viên trường Nhân Văn đã có động cơ học tập đúng đắn thể hiện qua mục
đích, thái độ và hành vi trong quá trình học tập. Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận
sinh viên chưa xác định được mục đích học tập do đó trong việc tự nhận định và
đánh giá bản thân, số sinh viên này còn gặp nhiều khó khăn trong học tập cũng như
chưa có được niềm đam mê hứng thú với việc học.
Kết quả khảo sát cho thấy đa phần sinh viên đều xác định rõ ràng mục đích
học tập của mình như: học vì niềm đam mê sở thích (chiếm 87.9%), học để nâng
cao trình độ, mở rộng sự hiểu biết (chiếm 92.2%), học để tự tin hơn, giao tiếp tốt
hơn (chiếm 90.8%), học để góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước (chiếm 68.7%),
học vì xã hội đang thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao (69.2%), học không phải để
làm hài lòng bố mẹ, để không thua kém bạn bè, còn bản thân thì chẳng có hứng thú
gì (chiếm 83.5%)… Như vậy, động cơ thúc đẩy sinh viên học tập cao nhất là động
cơ hoàn thiện tri thức và ở mức thấp hơn là các động cơ xã hội.
Bên cạnh đó, động cơ học tập của sinh viên trường Nhân Văn chịu sự chi phối,
tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau như hứng thú với ngành học, thái độ học tập,
môi trường học tập, môi trường xã hội… Cụ thể là các yếu tố: niềm đam mê hứng
thú với ngành học (63.3%), bản thân sinh viên (54.5%), gia đình (60.8%), môi
trường học tập (43.8%), môi trường xã hội (45.0%), các phương tiện thông tin đại
chúng (29.0%) và yếu tố bạn bè (28.5%). Có thể dễ dàng nhận thấy những yếu tố
chi phối, tác động đến động cơ học tập của sinh viên bao gồm hai nhóm nhân tố là
yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy đa phần
sinh viên đều cho rằng để việc học thực sự đạt hiệu quả thì bản thân sinh viên phải
là người quyết định, trong đó niềm đam mê, hứng thú với ngành học là điều thiết
yếu nhất.
Ngoài ra, động cơ học tập của sinh viên cũng được thể hiện rất cụ thể qua thái
độ học tập và hành vi của sinh viên trong quá trình lĩnh hội tri thức.
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa phần sinh viên đều xác định cho mình thái độ
học tập đúng đắn khi cho rằng cần phải có thái độ tích cực, chủ động, sáng tạo trong
việc học cũng như cần nghiêm túc trong quá trình học tập, tích cực trao đổi với
giảng viên, bạn bè trong lớp và phải khắc phục được mọi khó khăn trong học tập.
Kết quả nghiên cứu về hành vi học tập của sinh viên cho thấy sinh viên trường
ĐHKHXH&NV đã tham gia rất nhiều hình thức học tập cũng như hoạt động khác
nhau, điều đó chứng tỏ sinh viên đã rất tích cực và có ý thức cao trong quá trình học
tập. Cụ thể các hoạt động sinh viên tích cực tham gia như: suy nghĩ nghiêm túc về
bản thân để nỗ lực hơn nữa trong học tập chiếm 95.2% (thường xuyên, thỉnh
thoảng), xây dựng kế hoạch học tập hợp lý chiếm 87.5%, sưu tầm tài liệu liên quan
đến ngành học (88.8%), đi thư viện chiếm 66.6%... Bên cạnh đó, một số hoạt động
lại chưa nhận được sự tham gia tích cực của sinh viên như: tham gia nghiên cứu
khoa học, viết bài cho nội san, tạp chí hay kỷ yếu của trường, tham gia sinh hoạt
trong các câu lạc bộ đội nhóm, đến các hội chợ việc làm, giao lưu tiếp xúc với
doanh nghiệp…. Do vậy, để hoạt động học tập của sinh viên thực sự đem lại hiệu
quả và lôi cuốn được nhiều sinh viên tham gia hơn nữa nhà trường cần có sự đổi
mới trong việc tổ chức các hoạt động mang tính thiết thực và gắn liền với nhu cầu,
nguyện vọng của sinh viên.
Cũng qua khảo sát một số biện pháp của nhà Trường cũng như các Khoa và
Bộ môn dành cho sinh viên thì hoạt động tham quan thực tế, học ngoại khóa, đi
thực tập là những hoạt động được sinh viên tham gia nhiều nhất. Nghiên cứu khoa
học, viết bài cho nội san, tạp chí và tham dự các hội thảo khoa học là những hoạt
động có lượng sinh viên tham gia ít nhất.
2.4.5. Biện pháp khuyến khích sinh viên trong quá trình học tập
Với mục đích khuyến khích sinh viên tham gia nhiều hoạt động trong quá
trình học tập, nhà Trường, các Khoa và Bộ môn đã có nhiều biện pháp nhằm giúp
sinh viên có được sự say mê, hứng thú trong học tập giúp việc học thực sự đạt hiệu
quả. Kết quả khảo sát những hoạt động sinh viên đã tham gia để có kết quả học tập
như hiện nay cho thấy sinh viên trường Nhân Văn tham gia vào rất nhiều hoạt động,
cụ thể như sau:
Biện pháp khuyến khích sinh viên trong quá trình học tập
Mức độ
Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ Hoạt động Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tần số Tần số Tần số (%) (%) (%)
55.8 217 22.6 21.6 84 Đi tham quan thực tế 88
54.7 210 16.7 28.6 110 Học thực hành, ngoại khóa 64
37.4 141 18.8 43.8 165 Đi thực tập 71
102 255 19 27.1 5.1 67.8
38.9 149 13.6 182 Nghiên cứu khoa học, viết bài cho nội san, tạp chí, kỷ yếu Tham gia sinh hoạt câu lạc bộ 52 47.5
54.1 211 16.4 29.5 115 Dự hội thảo khoa học 64
142 37.1 212 29 7.6 55.4 Hội chợ việc làm, tiếp xúc với doanh nghiệp
Bảng 2.13. Biện pháp khuyến khích sinh viên trong quá trình học tập
Kết quả ở bảng 2.13 cho thấy, biện pháp sinh viên thường xuyên tham gia nhất
là đi tham quan thực tế tại cơ sở chiếm 22.6%. Điều này cũng phù hợp với thực tế
đào tạo của trường là sinh viên phải đi tham quan thực tế trong quá trình học tập tại
trường nên tỉ lệ sinh viên tham gia hoạt động này tới 78.4% (thường xuyên, thỉnh
thoảng).
Biện pháp mà sinh viên thường xuyên tham gia chiếm tỉ lệ ít nhất là tham gia
nghiên cứu khoa học, viết bài cho nội san, tạp chí hay kỷ yếu của Trường, Khoa
(chỉ chiếm 5.1%). Điều này một lần nữa khẳng định sinh viên chưa thực sự quan
tâm tới hoạt động này cũng như chưa nhận thức được vai trò và mức độ ảnh hưởng
của hoạt động nghiên cứu khoa học tới việc học hỏi và tiếp nhận tri thức. Kết quả
nghiên cứu cho thấy bên cạnh số sinh viên ít ỏi thường xuyên tham gia hoạt động
này thì có tới 67.8% sinh viên không bao giờ nghiên cứu khoa học trong suốt quá
trình học tập tại trường. Do vậy, nhà trường cần có những phương hướng thay đổi
theo hướng tích cực nhằm giúp đa số sinh viên nhận thức rõ hơn những lợi ích thực
tiễn của hoạt động này để hoạt động nghiên cứu khoa học thực sự trở thành thế
mạnh của trường cũng như của sinh viên ĐHKHXH&NV.
Hoạt động sinh viên ít tham gia thứ hai là tham gia hội chợ việc làm và tiếp
xúc gặp gỡ với doanh nghiệp (chỉ chiếm 7.6%). Đây là hoạt động thực tiễn rất có ý
nghĩa nhằm giúp sinh viên bước đầu tiếp cận với lĩnh vực nghề nghiệp cũng như
nắm bắt nhu cầu thực tế của xã hội, qua đó sinh viên có thể lượng định và đánh giá
lại năng lực bản thân để tích lũy thêm kiến thức và kỹ năng nhằm đáp ứng được đòi
hỏi của thị trường việc làm. Tuy vậy, có tới hơn 50% số sinh viên lại không bao giờ
tham gia hoạt động này cho dù lợi ích của nó với hoạt động học tập của sinh viên là
rất lớn.
Như vậy, trong số những biện pháp mà nhà Trường cũng như các Khoa và Bộ
môn đưa ra cho sinh viên để giúp họ xây dựng mục đích học tập đúng đắn hơn thì
đa phần sinh viên tham gia các hoạt động ấy một cách khá tích cực. Riêng các hoạt
động như tham gia nghiên cứu khoa học, viết bài cho tạp chí, kỷ yếu Trường; gặp
gỡ nhà tuyển dụng và đến với các hội chợ việc làm; tham gia sinh hoạt các câu lạc
bộ đội nhóm có tỉ lệ sinh viên tham gia ít nhất.
2.4.6. Một số biện pháp giáo dục động cơ học tập cho sinh viên
Qua tìm hiểu động cơ học tập của sinh viên trường Nhân Văn, người nghiên
cứu nhận thấy động cơ học tập là vấn đề khá phức tạp, nhạy cảm nên gặp nhiều khó
khăn trong quá trình nghiên cứu, do vậy thiết nghĩ việc đưa ra những biện pháp để
giáo dục động cơ cho sinh viên lại càng khó khăn hơn.
Chất lượng giáo dục nói chung và kết quả học tập của sinh viên nói riêng một
phần lớn chịu sự tác động bởi thái độ học tập của người học mà cụ thể là sinh viên.
Tuy nhiên, để sinh viên có được động cơ học tập đúng đắn thì nhà trường, gia đình
và xã hội cần phải tôn trọng những nhu cầu học tập chính đáng của sinh viên để từ
đó có những định hướng cũng như xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho họ.
Để giúp sinh viên tích cực hơn nữa trong quá trình học tập của mình, nhà
Trường, các Khoa và Bộ môn có thể giáo dục động cơ cho sinh viên thông qua một
số biện pháp sau:
• Giáo dục động cơ học tập thông qua ý thức học tập, tinh thần trách nhiệm và
kết quả học tập
Đa phần sinh viên đều cho rằng bản thân là người có sự tác động mạnh mẽ
nhất tới kết quả học tập. Do vậy, việc giúp sinh viên thấy rõ ý thức, tinh thần trách
nhiệm bản thân trong học tập là việc làm rất cần thiết. Để làm được việc này, nhà
Trường, mà cụ thể là các Khoa và Bộ môn trực tiếp quản lý sinh viên cần đi sâu sát
vào thực tế đời sống sinh viên, qua đó nắm bắt được những nhu cầu, nguyện vọng
của người học để từ đó có những biện pháp giáo dục phù hợp và thiết thực nhất.
• Giáo dục động cơ thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là hoạt động rất thiết thực nhằm giúp sinh viên tích lũy
thêm kinh nghiệm, kỹ năng cũng như những kiến thức trong thực tế. Tuy nhiên, đa
phần sinh viên lại chưa nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này với đời
sống học tập của họ. Chính vì thế, nhà trường cần phải có thêm nhiều biện pháp
khuyến khích sinh viên hơn nữa như tạo điều kiện về kinh phí để sinh viên mạnh
dạn nghiên cứu, tổ chức những buổi hội thảo hướng dẫn cách thức nghiên cứu khoa
học… Qua hình thức nghiên cứu khoa học, sẽ có nhiều sinh viên được thể hiện ước
mơ, hoài bão, năng lực và khát vọng của mình, đồng thời đánh thức niềm đam mê
nghiên cứu khoa học trong sinh viên.
Trong các kỳ hội thảo khoa học của sinh viên, đa phần những nghiên cứu của
sinh viên được nhà trường đánh giá rất cao về tâm sức cũng như khả năng nghiên
cứu. Và trong số các đề tài nghiên cứu ấy, có những đề tài đạt giải cấp Trường, cấp
Thành hay cấp Bộ… Đây là niềm tự hào vô cùng lớn lao của người tham gia công
tác nghiên cứu khoa học và đặc biệt là đối với sinh viên, đó là nguồn động viên,
khuyến khích rất có ý nghĩa để họ ý thức hơn về việc học, khám phá năng lực của
bản thân để kết quả học tập không ngừng được cải thiện.
Vì những lợi ích thiết thực ấy, hoạt động nghiên cứu khoa học sẽ là một trong
những biện pháp giáo dục động cơ học tập hết sức cần thiết và ý nghĩa cho sinh viên
để họ có những nghiên cứu sâu sắc hơn về lĩnh vực chuyên môn, qua đó giúp sinh
viên làm chủ được kiến thức cũng như áp dụng những gì đã được học vào đời sống
thực tế.
Song song với biện pháp này, Khoa và các Bộ môn cũng có thể giáo dục động
cơ học tập cho sinh viên qua các buổi tổ chức bảo vệ khóa luận tốt nghiệp. Qua
những buổi này, sinh viên các năm khác, đặc biệt là sinh viên năm nhất sẽ thấy
được ý nghĩa của việc được làm khóa luận tốt nghiệp đối với một sinh viên. Khi
tham dự các buổi này, sinh viên một phần sẽ học hỏi được những kiến thức, kỹ năng
cũng như kinh nghiệm thực tế, mặt khác bản thân sinh viên nhận thấy cần phải nỗ
lực thật nhiều trong quá trình học nếu muốn trở thành một trong những sinh viên
xuất sắc của khoa. Chính vì vậy, đây là nguồn động lực rất lớn để sinh viên phấn
đấu học tập và xây dựng cho mình động cơ, thái độ học tập đúng đắn.
• Giáo dục động cơ học tập thông qua hoạt động học ngoại khóa, tham quan
thực tế và đi thực tập
Trong quá trình học đại học, việc cân bằng giữa lý thuyết và thực hành là điều
vô cùng quan trọng, nó giúp sinh viên có cơ hội, điều kiện áp dụng những kiến thức
đã học vào đời sống thực tế để họ có những điều chỉnh theo hướng tích cực nhằm
thay đổi bản thân, nâng cao kết quả học tập.
Tuy là một hoạt động vô cùng quan trọng nhưng trong thực tế thì sinh viên lại
rất ít có điều kiện tham gia những hoạt động này. Sinh viên Hải Dương (Ngữ văn
Trung) cho biết quá trình thực tập giúp ích cho bản thân rất nhiều trong việc va
chạm với đời sống thực tế cũng như trong việc định hướng nghề nghiệp sau khi ra
trường. Có được môi trường để thực tập ngoại ngữ với người bản xứ là dịp vô cùng
tốt để bản thân học hỏi, chỉ tiếc rằng thời gian thực tập là không đủ để sinh viên có
thể nâng cao mọi kỹ năng của mình.
Chính vì vậy, nhà Trường, Khoa và Bộ môn cần tạo điều kiện cũng như giúp
đỡ và khuyến khích sinh viên nhiều hơn nữa trong việc tham gia đi thực tế và học
ngoại khóa. Giới thiệu cho sinh viên những địa chỉ đáng tin cậy để họ có môi
trường học tập tốt để áp dụng lý thuyết với thực tế cuộc sống. Đây cũng là một
trong những hoạt động được sinh viên kiến nghị nhiều nhất với từng Khoa và Bộ
môn với mục đích có nhiều hơn nữa những buổi học ngoại khóa, tham quan thực tế
và thực tập tại cơ sở.
• Giáo dục động cơ học tập qua các buổi sinh hoạt Câu lạc bộ
Khảo sát thực tế động cơ học tập của sinh viên trường Nhân Văn cho thấy đa
phần sinh viên chưa tích cực tham gia hoạt động của các câu lạc bộ. Nguyên nhân
của thực trạng trên một phần do bản thân sinh viên chưa ý thức được tầm quan
trọng của hoạt động, phần khác do các câu lạc bộ này chưa mang tính thực tế, đáp
ứng đúng nhu cầu, nguyện vọng của sinh viên hoặc quá trình sinh hoạt ở các câu lạc
bộ thiếu sự hướng dẫn và định hướng của giáo viên. Đó cũng là một trong những lý
do mà việc lập ra một câu lạc bộ rất dễ dàng, tuy nhiên việc duy trì hoạt động lại
gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có những câu lạc bộ vừa mới ra đời chỉ sau một
thời gian ngắn hoạt động đã phải chấm dứt.
Sinh viên Mạnh Hùng cho biết, lúc đầu nghe tên câu lạc bộ “Nhà doanh
nghiệp trẻ” và “Câu lạc bộ học thuật” bản thân cảm thấy rất hứng thú. Tuy nhiên,
khi tham gia sinh hoạt, nội dung của các buổi chia sẻ lại không đánh trúng nhu cầu
của sinh viên cũng như không có sự hướng dẫn, đúc kết của người có uy tín, bên
cạnh đó, quá trình tổ chức quá hời hợt, không có sự đầu tư nên bản thân Hùng và rất
nhiều sinh viên khác đã âm thầm rút khỏi câu lạc bộ.
Thực tế cho thấy, hoạt động của các câu lạc bộ là rất bổ ích giúp sinh viên tự
học, tự trau dồi và rèn luyện những kỹ năng hỗ trợ cho việc học. Vấn đề đặt ra là
nhà Trường, các Khoa và Bộ môn cần phải có định hướng rõ ràng và cụ thể cho
việc thành lập và duy trì hoạt động cho những câu lạc bộ này. Cần có những chính
sách hỗ trợ cụ thể trong việc xây dựng các câu lạc bộ tại trường để sinh viên nhận
thức được tầm quan trọng của nó. Qua hoạt động này, sinh viên sẽ có cơ hội để va
chạm thực tế, nhận thức và đánh giá lại bản thân để có những điều chỉnh phù hợp
với mục đích học tập của mình.
• Giáo dục động cơ học tập thông qua những tấm gương tiêu biểu
Một trong những việc làm mang ý nghĩa thiết thực giúp sinh viên xây dựng
động cơ học tập đúng đắn mà Khoa và Bộ môn có thể thực hiện là tổ chức các buổi
giao lưu, gặp gỡ và chia sẻ với những cựu sinh viên tiêu biểu gặt hái được nhiều
thành công trong quá trình học tập và lập nghiệp. Đây là biện pháp mang ý nghĩa
thực tiễn cao vì thông qua đó, sinh viên một phần được tiếp thêm động lực từ lớp
đàn anh, đàn chị đi trước, phần khác, giúp sinh viên học hỏi được những kinh
nghiệm từ thực tế cuộc sống của chính những gương mặt này.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Dựa trên việc nghiên cứu lý luận về động cơ học tập cũng như quá trình khảo
sát thực tiễn động cơ học tập, các yếu tổ ảnh hưởng đến động cơ học tập của sinh
viên trường ĐHKHXH&NV, chúng tôi đã thực hiện được các nhiệm vụ nghiên cứu
và chứng minh được các giả thuyết của đề tài, qua đó chúng tôi rút ra một vài kết
luận như sau:
Đề tài đã khái quát được một cách có hệ thống những vấn đề cơ sở lý luận liên
quan đến đề tài nghiên cứu như: khái quát về lịch sử nghiên cứu động cơ, động cơ
học tập của sinh viên; hệ thống khái niệm làm công cụ cho quá trình nghiên cứu;
các tiêu chí đánh giá động cơ học tập qua mục đích, thái độ và hành vi học tập của
sinh viên trường ĐHKHXH&NV.
Động cơ học tập là vấn đề được nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu.
Tuy nhiên, nghiên cứu về động cơ học tập của sinh viên trường ĐHKHXH&NV
vẫn chưa được quan tâm và nghiên cứu một cách thỏa đáng.
Qua nghiên cứu thực tiễn, đề tài đã tìm hiểu, đánh giá được thực trạng về động
cơ học tập của sinh viên trường ĐHKHXH&NV, theo đó hoạt động học tập của
sinh viên trường Nhân Văn được thúc đẩy bởi nhiều loại động cơ khác nhau, trong
đó nổi bật nhất là động cơ hoàn thiện tri thức và yếu nhất là động cơ xã hội. Đa số
sinh viên đều có động cơ học tập đúng đắn thể hiện qua mục đích, thái độ và hành
vi trong học tập.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng cho thấy, hoạt động học tập của sinh viên
chịu sự chi phối, tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm các yếu tố thuộc
nhóm nhân tố chủ quan (như bản thân sinh viên, mục đích, thái độ hay niềm đam
mê hứng thú với ngành học) và các nhân tố khách quan như gia đình, bạn bè, môi
trường xã hội, môi trường học tập…
Bên cạnh đó, đề tài cũng đã đề cập khái quát một số biện pháp để giúp sinh
viên có động cơ học tập đúng đắn hơn như giáo đục động cơ thông qua chính ý thức
học tập của sinh viên, qua hoạt động nghiên cứu khoa học, việc sinh hoạt các câu
lạc bộ đội nhóm, gặp gỡ và giới thiệu các gương mặt xuất sắc, tiêu biểu của Khoa
và Bộ môn.
Đề tài nghiên cứu tuy có những kết quả nhất định về động cơ học tập và các
yếu tố tác động tới động cơ học tập của sinh viên trường ĐHKHXH&NV, song do
những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan nên đề tài còn một vài thiếu sót
như công cụ khảo sát và phần xử lý số liệu còn đơn giản; chưa có sự kết hợp nhuần
nhuyễn và đa dạng giữa các phương pháp nghiên cứu lý luận với thực tiễn; phần
bình luận kết quả nghiên cứu chưa thực sự sâu sắc và hoàn thiện, đặc biệt là chưa
tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về biện pháp đề xuất các giải pháp…
2. Kiến nghị
Từ những kết luận nghiên cứu đã phân tích ở trên, chúng tôi đề xuất một số
kiến nghị nhằm tạo cơ sở để thực hiện những giải pháp giáo dục động cơ học tập
cho sinh viên trường ĐHKHXH&NV:
Thứ nhất, trường ĐHKHXH&NV cần xây dựng chương trình đào tạo, lịch học
rõ ràng, hợp lý. Đây cũng là kiến nghị của đa số sinh viên với nhà trường nhằm giúp
việc học tập của sinh viên đạt kết quả hơn. Theo đó, trường Nhân Văn đang trong
giai đoạn hoàn thiện chương trình đào tạo theo quy chế tín chỉ, do vậy việc sinh
viên đăng ký môn học, cập nhật thời khóa biểu học tập đôi khi còn nhiều bất cập,
yếu tố đó ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động học tập của sinh viên. Bên cạnh đó, nhà
trường cần phải đầu tư trong việc xây dựng, nâng cao cơ sở vật chất, tăng cường
trang thiết bị, đồ dùng hỗ trợ học tập để sinh viên có điều kiện học tập tốt hơn.
Ngoài ra, nhà trường cần có sự kết hợp chặt chẽ với từng Khoa và Bộ môn để tìm
kiếm đối tác, kết hợp giữa nhà trường, Khoa và doanh nghiệp được hiệu quả nhằm
đem lại những lợi ích thiết thực cho sinh viên.
Để sinh viên tích cực hơn nữa trong việc học của mình, nhà trường cũng cần
có những chính sách khuyến khích sinh viên như cấp học bổng hay hỗ trợ việc làm
sinh viên sau khi ra trường thông qua hoạt động của các ban ngành đoàn thể như
Hội sinh viên, Ban chấp hành Đoàn Trường…
Thứ hai, Khoa và Bộ môn cần quan tâm đến công tác giáo dục động cơ học tập
cho sinh viên thông qua nhiều đối tượng và hình thức khác nhau, cụ thể:
Thầy cô cần có sự quan tâm hơn nữa đến đời sống học tập của sinh viên vì qua
thực tiễn nghiên cứu, đa phần sinh viên đều mong muốn thầy cô quan tâm tới sinh
viên cũng như việc học tập của họ. Một số thầy cô chưa quan tâm tới việc định
hướng và giáo dục động cơ học tập cho sinh viên do đó trong quá trình học nhiều
sinh viên không có hứng thú ở một số môn học, vì vậy kết quả học tập sẽ bị ảnh
hưởng. Do đó, trong quá trình giảng dạy, thầy cô nên tìm hiểu tâm tư, tình cảm và
đặc biệt là tìm hiểu nhu cầu học tập của sinh viên để có hướng nghiên cứu, giảng
dạy và điều chỉnh phù hợp. Bên cạnh đó, đa phần sinh viên cũng có kiến nghị giảng
viên nên có những phương pháp giảng dạy thu hút để việc tiếp thu bài học được
thuận lợi hơn.
Khoa và Bộ môn cần tạo điều kiện hơn nữa cho sinh viên trong việc học thực
hành, ngoại khóa, đi thực tế cũng như thực tập tại cơ sở. Đây là mong muốn của hầu
hết sinh viên vì qua những hoạt động này sinh viên được cọ sát với thực tế ngành
học và nghề nghiệp trong tương lai, từ đó xây dựng cho mình động cơ học tập đúng
đắn. Bên cạnh đó, Khoa và Bộ môn cần làm cầu nối để sinh viên lại gần doanh
nghiệp qua việc tổ chức các buổi giao lưu với doanh nghiệp, nhà tuyển dụng để sinh
viên có dịp nắm bắt nhu cầu cũng như đòi hỏi của ngành nghề, từ đó nỗ lực hơn nữa
trong việc học tập của mình. Thêm vào đó, Khoa và Bộ môn cũng cần tạo điều kiện
để sinh viên có dịp tham dự các buổi hội thảo khoa học, báo cáo chuyên đề, chia sẻ
về phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học… để sinh viên có nhiều môi trường
hơn nữa trong việc tiếp nhận và mở mang tri thức cho bản thân.
Ngoài ra, đa phần sinh viên cũng kiến nghị Khoa và Bộ môn nên có những
định hướng cụ thể cho sinh viên trong quá trình học tập như việc lựa chọn chuyên
ngành, định hướng các lĩnh vực nghề nghiệp mà sinh viên có thể tham gia sau khi
tốt nghiệp… Khoa và Bộ môn cũng cần có những điều chỉnh cần thiết về nội dung
các môn học theo hướng thực tế, có tính ứng dụng cao và phù hợp với xu thế của xã
hội để sinh viên dễ tiếp thu và có được niềm đam mê hứng thú nhất định với ngành
học.
Song song với công việc trên, Khoa và Bộ môn cũng nên chú trọng hơn nữa
công tác chủ nhiệm của giáo viên vì qua giáo viên chủ nhiệm, Khoa và Bộ môn có
thể nắm bắt cụ thể tình hình học tập cũng như đời sống của sinh viên để có những
hỗ trợ thiết thực và kịp thời nhất.
Thứ ba, bản thân sinh viên cần nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc
học đối với bản thân để từ đó xây dựng động cơ học tập phù hợp cũng như có ý
thức, trách nhiệm trong quá trình học tập. Sinh viên cần ý thức rằng việc học không
chỉ đem lại lợi ích cho bản thân mà còn đem lại ích lợi rất nhiều cho gia đình, làng
xóm, quê hương và đất nước. Nếu bản thân sinh viên không nỗ lực và tích cực trong
học tập thì sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội cũng trở nên vô nghĩa. Do
vậy niềm đam mê hứng thú trong học tập cùng với động cơ, thái độ học tập tích
cực, phương pháp học tập đúng đắn sẽ giúp sinh viên rút bớt thời gian tiếp nhận tri
thức và sẽ làm chủ được kho tàng tri thức rộng lớn của nhân loại.
---------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Huy Ánh (2004), Tâm lý sư phạm, Nxb. Đại học Quốc Gia Tp.HCM.
2. Nhâm – Văn – Chăn – Con (1992), luận văn thạc sĩ Tìm hiểu động cơ học tập
của học sinh cấp 2, Hà Nội.
3. Cruchetxki V.A. (1981), Những cơ sở của Tâm lý học sư phạm, tập 2, Nxb. Giáo
dục.
4. Vũ Dũng (chủ biên) (2008), Từ điển Tâm lý học, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà
Nội.
5. Hồ Ngọc Đại (1983), Tâm lý học dạy học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
6. Trần Nguyễn Hương Giang (2008), luận văn thạc sĩ Những yếu tố ảnh hưởng
đến động cơ học tập của học sinh trung học phổ thông Marie Curie, quận 3,
thành phố Hồ Chí Minh.
7. Phạm Minh Hạc (2002), Tuyển tập Tâm Lý học, Nxb. Giáo Dục.
8. Lê Văn Hồng (1995), Tâm lý học sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Lê Văn Hồng (chủ biên) (1998), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Đặng Phương Kiệt (2001), Cơ sở tâm lý học ứng dụng, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội.
11. Leontiev. A.N. (1989), Hoạt động – Ý thức – Nhân cách, Nxb. Giáo dục, Hà nội.
(bản dịch)
12. Leontiev. A.N. Sự phát triển tâm lý trẻ em, Trường Sư phạm mẫu giáo Trung
ương 3, Tp.HCM.
13. Lê Nguyễn Minh Loan, luận án tiến sĩ Động cơ học tập của sinh viên trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
14. Dương Thị Kim Oanh (2009), luận án tiến sĩ Động cơ học tập của sinh viên
trường đại học Bách Khoa, Hà nội.
15. Khăm – Phăn – Khăm – On (1994), luận án Tiến sĩ Động cơ học tập và quan hệ
của nó với nguyện vọng chọn nghề của học sinh Lào, Hà Nội.
16. Petrovski A.V. (1982), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nxb. Giáo
dục.
17. Tạp chí tâm lý học số 8/2008.
18. Nguyễn Thạc (chủ biên), Phạm Thành Nghị (2007), Tâm lý học sư phạm đại
học, Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội.
19. Phạm Thị Hồng Thái (2010), tuận văn thạc sĩ Động cơ học tập của sinh viên
ngành Tâm lý học trường đại học Văn Hiến, Tp. HCM.
20. Trịnh Quốc Thái (1996), luận án tiến sĩ Nghiên cứu động cơ học tập của học
sinh lớp một dưới ảnh hưởng của phương pháp nhà trường.
21. Lý Minh Tiên (1981), luận văn thạc sĩ Bước đầu xác định một số đặc điểm động
cơ quá trình giải bài tập của học sinh lớp 10 và 11 ở một số trường phổ thông
trung học nội thành thành phố Hồ Chí Minh.
22. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nguyễn Hào Khê, Phan Thị Hạnh Mai, Tâm lý
học, Nxb. Giáo dục.
23. Nguyễn Quang Uẩn (2007), Tâm lý học đại cương, Nxb. Đại học Sư phạm.
24. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nguyễn Văn Lũy, Đinh Văn Lang (2003), Giáo
trình tâm lý học đại cương, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN (LẦN 1)
Các Anh/Chị sinh viên thân mến! Tôi đang tìm hiểu về “động cơ học tập của sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn”, Tôi rất mong nhận được sự cộng tác nhiệt tình của Anh/Chị trong việc trả lời một số câu hỏi này. Những đóng góp của Anh/Chị sẽ góp phần rất lớn trong việc hoàn thiện đề tài nghiên cứu này. Xin cảm ơn! Câu 1: Vì sao Anh/ Chị quyết định học đại học mà không học cao đẳng hay trung cấp chuyên nghiệp? .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. Câu 2: Vì sao anh chị chọn học tại trường ĐHKHXH&NV mà không phải là một trường khác? .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. Câu 3: Anh/ Chị đi học với mục đích gì? .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. Câu 4: Khi đã có mục đích học tập, thái độ học tập của Anh/ Chị như thế nào? .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. Câu 5: Để thực hiện mục đích học tập của mình, Anh/ Chị đã có những cách học như thế nào trong thời gian vừa qua? .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. Câu 6: Anh/ Chị đã tham gia những hoạt động giáo dục và đào tạo nào của Trường/ Khoa và Bộ môn trong quá trình học tập? .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. Câu 7: Trong quá trình học tập, Anh/ Chị nhận thấy đâu là những yếu tố ảnh hưởng tới việc học cũng như kết quả học tập của mình? .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. Câu 8: Theo Anh/ Chị, nhà Trường/ Khoa và Bộ môn cần có những hoạt động gì để giúp Anh/ Chị học tập tốt hơn? .................................................................................................................................. ..................................................................................................................................
PHỤ LỤC 2: PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN (LẦN 2)
Các Anh/Chị sinh viên thân mến!! Tôi đang tìm hiểu về “động cơ học tập của sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn”, Tôi rất mong nhận được sự cộng tác nhiệt tình của Anh/Chị trong việc trả lời một số câu hỏi này. Những đóng góp của Anh/Chị sẽ góp phần rất lớn trong việc hoàn thiện đề tài nghiên cứu này. Xin cảm ơn!
Anh/Chị vui lòng đánh dấu (X) hoặc khoanh tròn (O) vào những lựa chọn thích hợp.Vui lòng không ghi tên. Phần 1: Anh/Chị vui lòng cho biết một số thông tin của bản thân:
1. Giới tính
b. Nữ a. Nam
2. Địa bàn cư trú
b. Thị trấn, thị xã c. Nông thôn a. Thành phố
3. Anh/Chị được xét tuyển vào trường theo nguyện vọng nào?
b. Nguyện vọng 2 c. Nguyện vọng 3 a. Nguyện vọng 1
4. Anh chị đang là sinh viên năm thứ mấy?
b. Năm thứ tư a. Năm thứ nhất
5. Anh/Chị đang theo học tại Khoa nào?
b. Giáo dục c. Ngữ văn Báo chí a. Địa lý
d. Hàn Quốc học e. Ngữ văn Trung f. Ngữ văn Anh
6. Kết quả học tập vừa qua của Anh/Chị như thế nào?
b. Từ 8.0 – 9.0 c. Trên 7.0 – dưới 8.0 a. Từ 9.0 trở lên
d. Từ 5.0 – 7.0 e. Dưới 5.0
Phần 2: Câu hỏi Câu 1: Anh /Chị có khi nào trăn trở về mục đích của việc học? (chỉ chọn một đáp
án)
1. Rất thường xuyên
2. Thỉnh thoảng
3. Ít khi, thậm chí không nghĩ tới
Câu 2: Lý do nào Anh /Chị quyết định học đại học mà không phải là trung cấp hay
cao đẳng?(có thể chọn nhiều đáp án)
1. Bằng đại học có giá trị hơn so với bằng trung cấp, cao đẳng.
2. Gia đình muốn mình phải học đại học.
3. Bằng đại học dễ kiếm việc làm hơn.
4. Học đại học để sau này có thể học lên thạc sĩ, tiến sĩ
5. Lý do khác: ………………………………………………………………
………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………..
Câu 3:Lý do nào Anh /Chị quyết định chọn trường Nhân văn mà không chọn một
trường nào khác?(có thể chọn nhiều đáp án)
1. Điểm chuẩn của Trường phù hợp.
2. Không đủ điểm vào các trường khác.
3. Là trường có ngành học mình yêu thích.
4. Là trường được chuẩn hóa và có tiếng hơn so với các trường khác.
5. Do gia đình lựa chọn và bạn bè tác động.
6. Lý do khác: ………………………………………………………………
……………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………….
Câu 4: Anh /Chị chọn ngành mình đang học với mục đích gì? Mục đích STT Đồng ý Không đồng ý
1 Vì niềm đam mê, sở thích
2 Là ngành dễ xin việc làm sau khi ra trường
Đề làm hài lòng bố mẹ và để không thua kém 3 bạn bè, còn bản thân thì không có hứng thú
Để nâng cao trình độ, mở rộng sự hiểu biết 4 các lĩnh vực khoa học về đời sống xã hội
5 Là ngành có công việc ổn định, lương cao
6 Xã hội đang thiếu nhân lực chất lượng cao
Để giao tiếp tốt hơn, tự tin hơn trong cuộc 7 sống
8 Để góp phần xây dựng, bảo vệ đất nước
Câu 5: Thái độ của Anh /Chị như nào khi đã hình thành mục đích học tập?(Có thể lựa chọn nhiều đáp án)
1. Tích cực, chủ động, sáng tạo để học tập, tiếp nhận kiến thức. 2. Dễ chán nản khi gặp khó khăn trong học tập, có suy nghĩ “học tới đâu hay tới
đó”.
3. Học tập nghiêm túc, lắng nghe và trao đổi với giảng viên, bạn bè trong lớp. 4. Không tích cực, thụ động trong khi tiếp nhận kiến thức. 5. Khắc phục mọi khó khăn để học tập đạt kết quả tốt. 6. Không nghiêm túc, không lắng nghe và không trao đổi với giảng viên.
Câu 6: Những yếu tố nào có ảnh hưởng đến mục đích học tập của Anh /Chị?
1. Gia đình 2. Bạn bè 3. Môi trường xã hội 4. Môi trường học tập 5. Bản thân sinh viên 6. Niềm đam mê, hứng thú với ngành học 7. Các phương tiện thông tin đại chúng (truyền thanh, truyền hình, sách báo,
phim ảnh…)
Câu 7: Để thực hiện mục đích học tập của mình, Anh /Chị đã có những hành động nào sau đây?
STT Hành động Hiếm khi Thường xuyên Thỉnh thoảng
1
2
3
4
5
6 Tìm đọc, mua sách, giáo trình, báo có nội dung liên quan đến ngành học. Thường xuyên đi thư viện Sưu tầm các tài liệu, bài viết liên quan đến ngành học trên internet… Mượn các tài liệu liên quan đến chuyên ngành để photocopy. Tham dự các buổi nói chuyện chuyên đề hoặc các buổi hội thảo của Trường, Khoa, Bộ Môn. Tìm hiểu và quan tâm đến nhu cầu của xã hội.
7
8 Theo dõi các tin tức, tiết mục liên quan đến ngành học trên tivi, đài phát thanh… Suy nghĩ về bản thân để nỗ lực hơn nữa trong học tập
9 Xây dựng kế hoạch học tập hợp lý.
10
11
12
13
14
15
Đến các hội chợ việc làm để thử sức, tìm tòi cơ hội Tham gia sinh hoạt các câu lạc bộ đội nhóm Tham gia nghiên cứu khoa học, viết bài nội san về chuyên ngành của mình. Thực hành ứng dụng những kiến thức mình học vào trong đời sống thực tế Đi kiến tập, thực tập tại cơ sở để áp dụng lý thuyết đã học Trao đổi học thuật, du học theo hình thức học bổng toàn phần, bán phần hoặc theo các chương trình trao đổi sinh viên, giao lưu…
Câu 8: Trong quá trình học tập Anh/ Chị nhận thấy mình:
Không đồng STT Điều bản thân nhận thấy trong quá trình học Đồng ý ý
1 Ham học hỏi, tìm hiểu, nắm bắt các tri thức.
Thích liên kết các thông tin lại với nhau. 2
Tự hào về Trường/Khoa/Bộ môn của mình 3
4 Có mối quan hệ tốt với Thầy Cô
Thích trao đổi với cha mẹ/ bạn bè về những vấn 5 đề trong học tập tại trường
Luôn tìm thấy hứng thú trong quá trình học tập 6
Ý thức được việc quan trọng của việc học và lên
7 kế hoạch học tập, thực hiện một cách nghiêm
túc
Học thêm những kỹ năng khác để bổ trợ cho 8 ngành học
Có thái độ học tập nghiêm túc và phương pháp 9 học tập đúng đắn
Bản thân luôn thích tìm tòi và phát huy các sáng 10 kiến trong học tập
11 Hài lòng về kết quả học tập của mình
Câu 9: Anh /Chị đã tham gia những hoạt động giáo dục và đào tạo nào của Khoa/ Bộ môn để việc học tập đạt kết quả như hiện nay?
Mức độ STT Hoạt động Thường xuyên Thỉnh thoảng Hiếm khi
1
thực hành, ngoại 2
Tham quan thực tế Học khóa 3 Đi thực tập
4
5
6
7 Nghiên cứu khoa học và viết bài cho nội san, kỷ yếu, tạp chí… Sinh hoạt câu lạc bộ đội nhóm Tham dự các hội thảo khoa học, nói chuyện chuyên đề Hội chợ việc làm, tiếp xúc với doanh nghiệp
Câu 10: Để giúp việc học tập của mình đạt hiệu quả cao hơn, Anh/Chị có ý kiến đóng góp hoặc kiến nghị gì cho Khoa/ Bộ môn? .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. Xin chân thành cảm ơn!