BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Ngọc Chúc
ĐÔNG NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH
MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM
(THẾ KỈ XVII – XVIII)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Ngọc Chúc
ĐÔNG NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH
MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM
(THẾ KỈ XVII – XVIII)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số
: 60 22 03 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ HUỲNH HOA
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là của riêng tôi do TS. Lê Huỳnh Hoa hướng
dẫn. Những tư liệu, trích dẫn trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc.
TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng 9 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Ngọc Chúc
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cám ơn Ban Giám Hiệu, Ban Chủ Nhiệm
Khoa Lịch Sử, phòng Sau Đại Học và quý Thầy, Cô trong khoa Lịch
Sử của trường Đại Học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ
và dạy dỗ em trong suốt quá trình học tập ở trường.
Để hoàn thành luận văn này em xin bày tỏ sự tri ân và lòng biết
ơn sâu sắc tới TS. Lê Huỳnh Hoa, người đã tận tình hướng dẫn cho em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới thư viện trường ĐHSP TP.
HCM, Thư viện Khoa Học Xã Hội, thư viện tỉnh Bình Dương, thư viện
tỉnh Đồng Nai đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm kiếm tư liệu để phục
vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, những người
thân quen, bạn hữu, đồng nghiệp đã dành tình cảm, động viên và giúp
đỡ tôi trong những ngày học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn
này.
Với khả năng hiểu biết còn có hạn, chắc chắn nội dung của luận
văn khó tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết, kính mong nhận
được sự hướng dẫn, góp ý từ quý Thầy, Cô.
Xin trân trọng cảm ơn !
Nguyễn Ngọc Chúc
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ “ĐẤT VÀ NGƯỜI” ĐÔNG NAM BỘ
CHO ĐẾN THẾ KỈ XVII ............................................................. 13
1.1. Về địa danh và điều kiện địa lý – tự nhiên ................................................... 13
1.1.1. Về địa danh “Đông Nam Bộ” ......................................................... 13
1.1.2. Về điều kiện địa lý, tự nhiên ........................................................... 17
1.2. Về lịch sử - dân cư ....................................................................................... 21
1.2.1. Đông Nam Bộ trước công nguyên .................................................. 21
1.2.2. Đông Nam Bộ từ công nguyên đến trước thế kỉ XVII ................... 29
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 42
Chương 2. QUÁ TRÌNH MỞ ĐẤT ĐÔNG NAM BỘ TRONG THẾ
KỈ XVII - XVIII ............................................................................ 44
2.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................................ 44
2.1.1.Tình hình trong nước ....................................................................... 44
2.1.2. Tình hình khu vực ........................................................................... 56
2.2. Quá trình khai mở vùng đất Đông Nam Bộ ................................................. 65
2.2.1. Sự có mặt của người Việt trên vùng đất Nam Bộ ........................... 65
2.2.2. Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ ................................................... 78
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 96
Chương 3. VAI TRÒ CỦA ĐÔNG NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH
MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM ........................................................... 99
3.1. Đông Nam Bộ là nơi dừng chân đầu tiên của lưu dân, di dân người Việt ....... 99
3.2. Đông Nam Bộ là nơi trung chuyển di dân trên con đường khai phá
vùng đất Nam Bộ ...................................................................................... 106
3.3. Đông Nam Bộ, là điểm xuất phát của việc xác lập chủ quyền lãnh thổ
và lãnh hải của Đại Việt trên vùng đất phương Nam ................................ 108
3.4. Đông Nam Bộ là cửa ngõ thông thương của Đàng Trong với nước ngoài ...... 125
3.5. Đông Nam Bộ là nơi hội nhập của cộng đồng các dân tộc trên vùng
đất phương Nam ........................................................................................ 136
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 141
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 151
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đông Nam Bộ hiện nay là một trong những vùng kinh tế phát triển nhất của
nước ta, khu vực này nằm như gần trọn trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam,
trên hành lang kinh tế Đông – Tây, nối với Campuchia và các nước Đông Nam
Á, khá thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và giao lưu quốc tế. Khu
vực này có 5 tỉnh và 1 thành phố gồm: “Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh,
Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu” [144]. Đây là vùng có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm “GDP đạt hơn 10% mỗi
năm, đóng góp khoảng 40% sản lượng công nghiệp, hơn 30 % GDP và hơn 30
% ngân sách cả nước” [14, tr.8], đời sống vật chất và tinh thần của người dân
không ngừng được nâng cao.
Nói cách khác, Đông Nam Bộ hiện nay có vai trò hết sức quan trọng đối
với sự phát triển của đất nước. Còn trong quá khứ, đặc biệt trong buổi đầu khai
phá, mở cõi vùng đất phương Nam, khu vực Đông Nam Bộ đã giữ vai trò gì,
biểu hiện cụ thể ra sao?
Là một người được sinh ra và lớn lên ở Bình Dương, một trong sáu tỉnh
thành của Đông Nam Bộ, hiện tại là một giáo viên dạy Lịch Sử ở tỉnh nhà và là
một học viên cao học ngành Lịch Sử Việt Nam; tôi luôn muốn tìm lời giải cho
câu hỏi nêu trên của mình. Vì khi có câu trả lời, tôi có thể giảng những bài lịch
sử địa phương cũng như những bài có liên quan đến lịch sử Đông Nam Bộ cho
học sinh của mình một cách mạch lạc hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, giúp học
sinh hứng thú hơn khi học Lịch Sử, từ đó góp phần nâng cao chất lượng bộ môn
Lịch Sử ở nhà trường THPT.
Nghiên cứu Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất phương Nam vào các
thế kỷ XVII – XVIII, không chỉ nhằm phục dựng bức tranh của quá khứ mà còn
mở rộng hiểu biết, tạo cơ sở lịch sử để hiểu và lý giải những vấn đề của hiện tại
ở Đông Nam Bộ.
2
Ngoài ra, nghiên cứu lịch sử từng miền, từng khu vực, từng địa phương
còn có vai trò hết sức quan trọng, góp phần bổ sung sử liệu cho việc xây dựng
lịch sử của từng địa phương, từng khu vực và của cả miền Nam.
Chính vì những lí do trên nên tôi đã chọn đề tài “Đông Nam Bộ trong tiến
trình mở đất phương Nam (thế kỉ XVII – XVIII)” làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến chủ đề nghiên cứu của đề tài đã có các công trình sau đã
được công bố:
-Tác phẩm “Phủ Biên tạp lục” của Lê Quý Đôn là nguồn thư tịch viết vào
năm 1776. Thời điểm này rất gần cuộc khai khẩn, mở rộng vùng đất phía Nam
nên đã cung cấp những sử liệu quý về cảnh quan, môi trường thiên nhiên, về
diện tích canh tác, về thuế khóa…của xứ Đàng Trong, trong đó có vùng Đông
Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung.
- Tác phẩm “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức (1765 –
1825), được viết vào đầu thế kỉ XIX dưới triều Gia Long với những ghi chép tỉ
mỉ về quá trình khai phá, mở mang vùng đất cực nam của đất nước. Đây là
nguồn tư liệu quý đề cập nhiều đến quá trình mở đất phương Nam trong đó có
Đông Nam Bộ.
- Tác phẩm “Đại Nam thực lục” của quốc sử quán triều Nguyễn được
biên soạn vào năm 1821 dưới triều Minh Mạng. Sách ghi chép các sự kiện từ khi
Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa (1558) đến đời vua Khải Định
(1925). Phần đầu của Đại Nam thực lục gọi là Tiền biên (Đại Nam thực lục Tiền
biên), ghi chép các sự kiện lịch sử của 9 chúa Nguyễn ở Đàng Trong từ chúa
Nguyễn Hoàng đến chúa Nguyễn Phúc Thuần. Đại Nam thực lục chính biên là
phần thứ hai viết về triều đại của các vua Nguyễn, từ khi Nguyễn Ánh làm chúa
(1778) đến đời Đồng Khánh (1887) và sau này được viết thêm đến đời vua Khải
3
Định. Nội dung của sách, đặc biệt là phần tiền biên đã cung cấp nhiều tư liệu về
lịch sử khai phá vùng Đông Nam Bộ ngày nay.
- “Đại Nam nhất thống chí” là bộ sách địa lý - lịch sử được biên soạn vào
năm 1875, thời Tự Đức. Đây là bộ sách trình bày về vị trí địa lý, lịch sử, hành
chính, kinh tế, núi sông, thành trì, văn hóa…của nhiều tỉnh thành trong cả nước
trong đó có 2 tỉnh Biên Hòa, Gia Định xưa (nay thuộc Đông Nam Bộ)
- Tác giả Phan Khoang với công trình “Việt sử xứ Đàng Trong”, là một
công trình nghiên cứu lịch sử được xuất bản năm 1967, có tính chất là một bản
“lược đồ” vẽ lại đường đi của tiền nhân trong khoảng hơn 400 năm trước trong
công cuộc khẩn hoang lập ấp ở miền đất mới Đàng Trong. Tác giả đã dành khá
nhiều nội dung cho quá trình “Nam tiến của dân tộc”; đặc biệt đã đề cập đến
công cuộc mở đất ở vùng Biên Hòa, việc lập dinh Trấn Biên (Biên Hòa) và dinh
Phiên Trấn, thuộc phủ Gia Định nay là khu vực Đông Nam Bộ.
- Tác phẩm “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” của tác giả Sơn Nam đã
nghiên cứu tiến trình lịch sử của miền Nam trong việc mở mang đất đai canh
tác, củng cố chính quyền, xác định biên giới, xây dựng các cơ sở vật chất...Tác
giả đã cung cấp cho người đọc một cách khái quát quá trình thiên di, sinh cơ lập
nghiệp của lưu dân Việt trên vùng đất mới phía Nam gần ba thế kỷ qua trong đó
có vùng Đông Nam Bộ ngày nay, tác giả cũng đã khẳng định vùng Cù Lao Phố
là “nòng cốt” của Biên Hòa và Bến Nghé là “nòng cốt” của Gia Định.
- Tác phẩm “Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ” do phó giáo sư Huỳnh
Lứa chủ biên, Nhà xuất bản (Nxb) Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, đã trình
bày một cách công phu quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ trong các thế kỉ
XVII, XVIII, XIX. Năm 2000, Phó giáo sư tiếp tục công bố tập hợp các bài viết
của mình trong quyển: “Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ trong thế kỉ XVII,
XVIII, XIX”. Tác phẩm đã bổ sung một số tư liệu như: chính sách thúc đẩy
khẩn hoang của Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn ở vùng Đồng Nai – Gia
Định từ cuối thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XIX; sự ra đời của các đô thị ở Nam
4
Bộ; sự hình thành làng xã và vai trò của thôn ấp trong cuộc khẩn hoang, công
cuộc khai phá ở một số địa phương cụ thể như Bình Dương, Hà Tiên…Ngoài ra,
tác phẩm đã đưa ra nhận thức về vai trò của nhà nước và nhân dân trong công
cuộc khai phá Nam Bộ trong đó có vùng Đông Nam Bộ.
- Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền có công trình “Lễ Thành Hầu Nguyễn
Hữu Cảnh với công cuộc khai sáng miền nam nước Việt cuối thế kỉ XVII” đã
trình bày việc kinh lược và thiết lập tổ chức hành chính ở xứ Đồng Nai, lập ra
dinh Phiên Trấn và dinh Trấn Biên tương đương khu vực Đông Nam Bộ ngày
nay.
- Tác phẩm “Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam” do GS. TSKH Vũ
Minh Giang chủ biên, Nxb Thế Giới ấn hành vào năm 2008 đã trình bày khái
quát lịch sử phát triển của vùng đất Nam Bộ. Tác phẩm không chỉ trình bày các
mốc quan trọng trong việc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất
Nam Bộ (trong đó có vùng Đông Nam Bộ) mà còn dành một phần thích đáng
trình bày về cuộc sống cộng đồng dân cư Nam Bộ, về mối quan hệ đoàn kết,
giao thoa văn hóa mật thiết giữa các dân tộc Việt, Khơme, Hoa, Chăm, Mạ…
- Năm 2013, Tiến sĩ Đỗ Quỳnh Nga công bố luận văn tiến sĩ “Công cuộc
mở đất Tây Nam Bộ thời Chúa Nguyễn” do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia
phát hành. Luận án đã dành 8 trang nói về công cuộc mở đất Đông Nam Bộ.
Trước đó, tác giả cũng có bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử tháng 5
năm 2012 với tựa đề “Chúa Nguyễn với công cuộc mở đất Đông Nam Bộ thế kỉ
XVII” đề cập việc mở đất Đông Nam Bộ trong thế kỉ XVII.
- Trong kỷ yếu hội thảo khoa học “Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam
Bộ đến cuối thế kỉ XIX”, tại thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết về lịch
sử, về kinh tế, về văn hóa… của Nam Bộ (trong đó có vùng Đông Nam Bộ),
điển hình như:
+ Bài “Kinh tế hàng hóa và đô thị ở Nam Bộ (từ thế kỉ XVII đến thế kỉ
XIX)” của PGS. Lê Xuân Diệm. Tác giả trình bày những biểu hiện được coi là
5
đặc thù của nền kinh tế hàng hóa ở Nam Bộ, hoạt động thương mại ở vùng này
chủ yếu gắn với sản phẩm nông nghiệp do nông dân làm ra. Tác giả đã khẳng
định Nam Bộ có 4 đô thị nổi tiếng, trong đó Đông Nam Bộ có 2 đó là Nông Nại
Đại Phố và Bến Nghé – Sài Gòn.
+ PGS.TS Đỗ Bang có bài “Chính quyền Đàng Trong với công cuộc mở
mang lãnh thổ và phát triển kinh tế ở Nam Bộ thế kỉ XVII – XVIII”, tác giả đã
trình bày một số sự kiện chính của quá trình mở rộng lãnh thổ ở Nam Bộ và có
kết luận về vai trò của Đông Nam Bộ như sau: “…Đông Nam Bộ trở thành một
trung tâm kinh tế nông nghiệp và thương nghiệp của xứ Đàng Trong. Một miền
đất hấp dẫn không những đối với nông dân vùng Thuận Quảng mà cả đối với
người Hoa và nhiều thương khách nước ngoài khác” [42, tr.251].
Hoặc như bài “Các bước phát triển của công cuộc khai phá vùng đất
Nam Bộ từ thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX” của PGS.TS Trần Đức Cường đã
khẳng định với việc hoạch định vùng đất Sài Gòn – Gia Định thành các đơn vị
hành chính của Thống suất chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào năm 1698 thì
chính quyền chúa Nguyễn đã xác định vai trò quản lý mang tính nhà nước đối
với vùng đất này.
- Trong hội thảo “Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay”,
tác giả Đỗ Bang với bài “Mô Xoài trong tiến trình mở đất Đông Nam Bộ thời
chúa Nguyễn, những khoảng trống lịch sử cần được khám phá và những vấn đề
cần được xác minh” đã cung cấp những tư liệu làm rõ vị trí quan trọng của Mô
Xoài trong tiến trình lịch sử di dân, khẩn hoang của nhiều thế hệ lao động Việt
Nam, đây là điểm đầu mở đất Nam Bộ của chúa Nguyễn, có tác dụng to lớn
trong việc hình thành vùng đất (Đàng Trong) trù phú, giàu mạnh.
+ Tác giả Nguyễn Đình Thống với bài “Xứ Mô Xoài và hành trình khai
phá vùng đất Nam Bộ” đã trình bày về vị trí địa lý của Mô Xoài, về một số tên
gọi xưa ở vùng đất Mô Xoài cũng như việc bảo tồn các tên gọi này trong giai
đoạn hiện nay, tham luận cũng đưa ra nhận định về vai trò của Mô Xoài trong
6
quá trình mở đất phương Nam.
+ Tác giả Nguyễn Bạch Long với tham luận “Lý do người Việt chọn xứ
Mô Xoài làm nơi dừng chân đầu tiên trong tiến trình mở cõi phương Nam” đã
cho biết nguyên nhân lưu dân Việt chọn Mô Xoài làm điểm định cư đầu tiên là
vì nơi đây xưa kia vốn là vùng tranh chấp giữa Chân Lạp và Champa và cả hai
đều không kiểm soát được nên trở thành vùng đệm. Chính vì thế, vùng này trở
thành nơi lý tưởng cho những người dân đang muốn thoát khỏi sự kiểm soát,
ràng buộc của các chúa Nguyễn. Ngoài ra, do vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở
đây có những nét tương đồng với miền Trung nên họ quyết định chọn Mô Xoài
làm điểm dừng chân đầu tiên của mình.
Tác giả Nguyễn Hữu Hiếu với bài “Từ cuộc hôn nhân Ngọc Vạn – Chey
Chetta II đến sự kiện Mô Xoài” đã trình bày và phân tích cuộc hôn nhân mang
màu sắc chính trị giữa Ngọc Vạn – Chey Chetta II, từ đó tác giả khẳng định
công lao to lớn của chúa Nguyễn Phúc Nguyên và công chúa Ngọc Vạn trong
tiến trình khai phá vùng đất mới Nam Bộ.
Nhìn chung, 83 tham luận trong hội thảo đã thể hiện trên 4 nội dung: Mô
Xoài là vùng đất địa đầu của Nam Bộ; Mô Xoài những vấn đề hình thành, phát
triển dân cư, quân sự, kinh tế, văn hóa; Mô Xoài nguồn gốc địa danh, nhân vật
lịch sử; Mô Xoài những dấu tích khảo cổ, kiến trúc, di tích lịch sử văn hóa. Như
vậy, có thể nói, các tham luận trong kỷ yếu hội thảo đã thể hiện được một bức
tranh khá trọn vẹn về toàn cảnh vùng đất Mô Xoài gần 400 năm, giúp người đọc
biết được nguồn gốc điạ danh, nhân vật lịch sử của Mô Xoài, cũng như thấy
được vị trí, vai trò của vùng đất này trong tiến trình mở đất phương Nam.
- Ngoài ra, với 9 tập Nam Bộ Đất và Người, do PGS.TS Võ Văn Sen chủ
biên đã cung cấp những tư liệu quý giá về điều kiện tự nhiên, về lịch sử hình
thành và phát triển của vùng đất Nam Bộ chung cũng như Đông Nam Bộ nói
riêng. Các bài viết của nhiều tác giả đã cung cấp cho người đọc những hiểu biết
về lịch sử - dân cư của vùng; về thời gian, về nguyên nhân người Việt có mặt
7
trên vùng đất này theo cách nhìn mới; về tiểu sử, vai trò của một số cá nhân có
công lớn trong công cuộc mở đất Đông Nam Bộ như công chúa Ngọc Vạn, Trần
Thượng Xuyên, Nguyễn Hữu Cảnh…; về sự có mặt của người Hoa và vai trò
của họ trong việc mở mang và phát triển kinh tế của vùng…
- Hiện nay hầu hết các tỉnh Đông Nam Bộ đều đã tiến hành biên soạn điạ
chí cho tỉnh mình như:
+ Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh do cố giáo sư Trần Văn Giàu
chủ biên, xuất bản năm 1987 tại Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.
+ Địa chí tỉnh Tây Ninh do Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh, Sở văn hóa
thông tin Tây Ninh và viện Khoa Học Xã Hội Nhân văn TP Hồ Chí Minh thực
hiện, xuất bản vào năm 2006 tại Nxb Tây Ninh.
+ Địa chí tỉnh Bình Dương xuất bản năm 2010, do Ủy ban nhân dân tỉnh
Bình Dương chịu trách nhiệm và xuất bản tại Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
+ Địa chí tỉnh Đồng Nai gồm 5 tập, do Ban Thường Vụ tỉnh Ủy tỉnh Đồng
Nai chịu trách nhiệm chính, với sự chủ biên của các tác giả: Huỳnh Ngọc Trảng
(tập 1), Nguyễn Yên Tri (tập 2), Đỗ Bá Nghiệp (tập 3), Thái Doãn Mười (tập 4),
Huỳnh Văn Tới (tập 5), nhà xuất bản Tổng Hợp Đồng Nai xuất bản.
+ Địa chí tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do Nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội xuất
bản vào năm 2005, Thạch Phương - Nguyễn Trọng Ninh làm chủ biên.
Khu vực này chỉ còn tỉnh Bình Phước là chưa biên soạn địa chí, tuy nhiên
trước đây vào năm 1991, Địa chí tỉnh Sông Bé đã được biên soạn với sự chủ
biên của Trần Bạch Đằng, Nxb Tổng Hợp Sông Bé xuất bản. Nội dung bao gồm
cả tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước. Nhìn chung, trên đây là những công
trình khảo cứu công phu cung cấp những hiểu biết rất quý về lịch sử, tự nhiên,
văn hóa và con người ở mỗi tỉnh thành cụ thể trong khu vực Đông Nam Bộ.
Ngoài ra còn nhiều bài viết về Đông Nam Bộ trong các kỷ yếu hội thảo về
Nam Bộ, trong các tạp chí như Tạp chí Xưa Và Nay, Tạp chí Nghiên Cứu Lịch
Sử…. Ví dụ như:
8
+ Tạp chí Xưa và Nay số 52 năm 1998 có bài “Cù Lao Phố cảng biển đầu
tiên của Nam Bộ” của tác giả Sơn Nam. Bài viết đã trình bày khái quát về sự ra
đời, hoạt động cũng như nguyên nhân suy sụp của Cù Lao Phố; tác giả cũng
khẳng định: Cù Lao Phố là một cảng quan trọng và đầu tiên của Nam Bộ.
+ Tạp chí Xưa và Nay, số 473 năm 1998 có bài “Nguyễn Hữu Cảnh với
sự sắp đặt nền hành chính tại Đồng Nai - Gia Định” của Nguyễn Đình Tư.
Thông qua việc trình bày việc sắp đặt nền hành chính đầu tiên tại vùng đất Đồng
Nai – Gia Định của Nguyễn Hữu Cảnh, tác giả không những giúp người đọc biết
được vùng đất Đông Nam Bộ đã được chúa Nguyễn xác lập chủ quyền vào năm
1698, mà còn giúp cho hậu thế thấy được tài năng, đức độ, công lao của bậc khai
quốc công thần này.
+ Tác giả Trần Thị Bích Ngọc với bài “Vị trí chính trị - kinh tế của Sài
Gòn – Gia Định đối với Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới ở thế kỉ XVII –
XIX”, đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 6 năm 1985. Bài viết đã nêu lên
vị trí và vai trò về chính trị và kinh tế của Sài Gòn – Gia Định trong các thế kỉ kỉ
XVII – XIX.
Có thể nói, hầu hết các tác phẩm, các bài viết đều nói về quá trình khai
phá vùng đất Đông Nam Bộ, hoặc về lịch sử khai phá, hoặc về những nhân vật
có công trong quá trình khai phá, hoặc về vị trí, vai trò của một địa điểm nào đó
trong khu vực Đông Nam Bộ … nhưng chưa có tác phẩm nào đề cập một cách
tập trung, toàn diện và hệ thống về Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất
phương Nam. Vì vậy, việc chọn đề tài “Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất
phương Nam (thế kỉ XVII – XVIII)” để nghiên cứu, sẽ góp phần làm phong phú
thêm những đóng góp về quá trình mở đất, về vai trò của vùng đất đầu tiên khi
người Việt đến và định cư.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
9
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vùng đất Đông Nam Bộ trong quá
trình mở đất về phương Nam vào các thế kỉ XVII – XVIII
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu của đề tài là Đông Nam Bộ gồm các tỉnh thành:
thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây Ninh
và Bình Phước, ngoài ra còn có một phần của tỉnh Long An hiện nay.
Thời gian nghiên cứu của đề tài là: từ thế kỉ XVII cho đến nửa đầu thế kỉ
XVIII. Thế kỉ XVII là mốc người Việt có mặt ở Đông Nam Bộ tương đối nhiều
do cuộc hôn nhân ngoại giao của công chúa Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey
Chettha II (năm 1620). Thế kỉ XVIII, là mốc công cuộc mở đất phương Nam
hoàn tất với sự kiện Nặc Tôn hiến đất Tầm Phong Long (An Giang) cho chúa
Nguyễn (năm 1757).
Với phạm vi và thời gian đã xác định như trên, đề tài tập trung giải quyết
các vấn đề sau: tổng quan về “Đất và Người” Đông Nam Bộ, quá trình khai phá
Đông Nam Bộ trong thế kỉ XVII - XVIII và vai trò của Đông Nam Bộ trong tiến
trình mở đất phương Nam.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu
- Nguồn tài liệu gốc bằng chữ Hán đã được dịch sang chữ quốc ngữ như
Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn,
Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài
Đức.
- Các công trình khoa học nghiên cứu về Đông Nam Bộ nói riêng và Nam
Bộ nói chung từ cổ trung đại đến hiện đại đã được các nhà xuất bản: như Nxb
Chính trị Quốc gia, Nxb Thời Đại, Nxb Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh…xuất bản
trên cả nước.
10
- Các khóa luận tốt nghiệp của sinh viên, luận văn thạc sĩ của học viên của
trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh và trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Các tham luận trong kỷ yếu của các hội thảo khoa học về Nam Bộ và
Nam Trung Bộ.
- Bài giảng chuyên đề “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ” và đề tài khoa
học cấp bộ: Chuyên đề “Những vấn đề lịch sử cần bổ sung, cập nhật cho chuyên
đề “ Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ từ thế kỉ XVII đến trước Cách mạng
tháng Tám 1945” của TS. Lê Huỳnh Hoa.
- Các bài viết trên các tạp chí: Nghiên Cứu Lịch Sử, Lịch Sử Đảng, Khoa
Học Xã Hội, Nghiên cứu Đông Nam Á, Xưa và Nay…
- Ngoài ra còn có các bài viết để tham khảo từ các website: Lịch Sử Đảng,
Sử Gia, Sử học Bình Dương, Khoa Sử ĐHSP TP Hồ Chí Minh, Trường ĐH Xã
hội và Nhân văn….
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Từ đó vận dụng các phương pháp
nghiên cứu cơ bản của khoa học lịch sử, là phương pháp lịch sử kết hợp chặt
chẽ với phương pháp logic, thể hiện cụ thể ở các mặt sau đây:
- Thu thập, sưu tầm, nghiên cứu, xử lí các nguồn tài liệu thành văn để rút
ra các sự kiện, những tư liệu cần thiết cho đề tài.
- Trên cơ sở đó, khôi phục, miêu tả lại bức tranh tương đối đầy đủ, có hệ
thống về Đông Nam Bộ vào các thế kỷ XVII – XVIII, làm cơ sở nghiên cứu vai
trò của khu vực này trong tiến trình mở đất phương Nam.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng một số phương pháp khác như: phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh...và đặc biệt là
phương pháp liên ngành, kế thừa thành tựu nghiên cứu khảo cổ học để từ đó có
cái nhìn toàn diện về vùng đất Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất về phương
11
Nam.
5. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn bước đầu có những đóng góp sau:
- Phục dựng bức tranh tương đối đầy đủ và hệ thống về công cuộc khai
mở Đông Nam Bộ vào các thế kỷ XVII – XVIII; qua đó thấy được vị trí và vai
trò của khu vực này trong tiến trình mở đất về phương Nam.
- Tập hợp, hệ thống hoá các nguồn tư liệu viết về Đông Nam Bộ vào các
thế kỉ XVII – XVIII.
- Đề tài nghiên cứu theo hướng chuyên đề, nên có thể sử dụng làm nguồn
tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập phần lịch sử dân
tộc, lịch sử địa phương trong trường phổ thông trung học (nhất là lịch sử địa
phương các tỉnh Đông Nam Bộ) cũng như ở đại học.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn cơ
cấu làm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về “Đất và Người” Đông Nam Bộ
1.1. Về địa danh và điều kiện địa lý – tự nhiên
1.1.1. Về địa danh Đông Nam Bộ
1.1.2. Về điều kiện địa lý - tự nhiên
1.2. Về lịch sử - dân cư
1.2.1. Đông Nam Bộ trước công nguyên
1.2.2. Đông Nam Bộ từ công nguyên đến trước thế kỉ XVII
Chương 2. Quá trình mở đất Đông Nam Bộ trong thế kỉ XVII - XVIII
2.1. Bối cảnh lịch sử
2.1.1. Tình hình trong nước
2.1.1.1. Công cuộc mở đất về phía Nam trước thời chúa Nguyễn
2.1.1.2. Trịnh - Nguyễn phân tranh
2.1.1.3. Công cuộc mở đất Nam Trung Bộ thời chúa Nguyễn
12
2.1.2. Tình hình khu vực
2.1.2.1. Sự suy yếu của Chân Lạp và mối quan hệ giữa Xiêm La – Chân
Lạp – Đàng Trong của Đại Việt/
2.1.2.2. Ảnh hưởng từ luồng thương mại quốc tế biển Đông và chính
sách mở cửa của chúa Nguyễn ở Đàng Trong
2.2. Quá trình khai mở vùng đất Đông Nam Bộ
2.2.1. Sự có mặt của người Việt trên vùng đất Nam Bộ
2.2.2. Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ
2.2.2.1. Những cột mốc quan trọng từ 1620 đến năm 1698
2.2.2.2. Những cột mốc quan trọng từ 1698 đến năm 1757
Chương 3. Vai trò của Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất phương Nam
3.1. Đông Nam Bộ là nơi dừng chân đầu tiên của lưu dân, di dân người Việt.
3.2. Đông Nam Bộ là nơi trung chuyển di dân trên con đường khai phá vùng
đất Nam Bộ.
3.3. Đông Nam Bộ là điểm xuất phát của việc xác lập chủ quyền của Đại Việt
trên vùng đất phương Nam.
3.4. Đông Nam Bộ là cửa ngõ thông thương của Nam Bộ, của Đàng Trong
với nước ngoài.
3.5. Đông Nam Bộ là nơi nơi hội nhập của cộng đồng các dân tộc trên vùng
đất phương Nam.
13
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ “ĐẤT VÀ NGƯỜI” ĐÔNG NAM BỘ
CHO ĐẾN THẾ KỈ XVII
Thông thường khi tìm hiểu về vùng miền nào đó, nhà nghiên cứu thường
bắt đầu tìm hiểu về “đất và người” của vùng đất đó. Đối với vùng Đông Nam Bộ
trong tiến trình mở đất về phương Nam cũng vậy. Luận văn trước hết xin trình
bày về “đất và người” Đông Nam Bộ bao gồm các nội dung cơ bản như: địa
danh Đông Nam Bộ, điều kiện địa lý – tự nhiên và lịch sử - dân cư của vùng
Đông Nam Bộ.
1.1. Về địa danh và điều kiện địa lý – tự nhiên
1.1.1. Về địa danh “Đông Nam Bộ”
Tên gọi Đông Nam Bộ không xuất hiện cùng lúc với sự xuất lộ của vùng
đất này, tên gọi này xuất hiện trong lịch sử dân tộc ta đã mấy thế kỉ và cũng đã
có biết bao thay đổi về đơn vị hành chính và phạm vi lãnh thổ. Theo thư tịch cổ,
vào đầu thế kỉ XIX, ở Việt Nam xuất hiện tên đất Nam Kỳ với nghĩa là đất kỳ
phụ (gần kinh kỳ) ở phía Nam. Nó xuất hiện bằng văn tự khi nhà Nguyễn định lệ
treo cờ và bắn súng ở đài Trấn Hải, nằm ở phía bắc cửa biển Thuận An, xây năm
Gia Long thứ 12 “Các hạng thuyền ghe công sai vận tải tầm thường như Nam
Kỳ tự Quảng Nam đến Bình Thuận, Bắc Kỳ tự Quảng Trị đến Ninh Bình, bang
thuyền đi lại đều không phải treo cờ bắn súng” [80, tr.21]. Lúc đầu nhà Nguyễn
chia Nam Kỳ từ Quảng Nam đến Gia Định thành 12 tỉnh hạ. Đến năm Minh
Mạng thứ 13 (1832), Nam Kỳ gồm 6 tỉnh (Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Long,
Định Tường, An Giang, Hà Tiên) nên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh hay Lục Tỉnh.
[80, tr.393-394, 418-419]. Về sau thời Pháp thuộc, địa danh Nam Kỳ được
người Pháp quan niệm khác. Nam Kỳ bắt nguồn từ tiếng Pháp là Cochinchine,
tên này được giải thích theo nhiều nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, giả thuyết phổ
biến nhất là tên gọi Cochin hay Cocin gốc từ Coci là phiên âm của chữ Giao
14
Chỉ. Để tránh nhầm lẫn với thành phố cảng Cochi của Ấn Độ, người phương
Tây thêm hậu tố chine/china (Trung Hoa), ý nói Cochin gần Trung Hoa. Từ
Cochinchine (hoặc các biến thể Cocinchina, Cauchinchina, Cochinchina) ban
đầu dùng để gọi toàn bộ Việt Nam. Đến đầu thế kỉ XVII, khi Trịnh - Nguyễn
phân tranh, nước Việt Nam phân đôi thành Đàng Trong, Đàng Ngoài, thì
Cochinchine được dùng để chỉ Đàng Trong, còn Tokin chỉ Đàng Ngoài. Về sau
Cochinchine được dùng để chỉ Nam Kỳ, khi đó An Nam dùng để chỉ Trung Kỳ.
Tên Nam Kỳ được Pháp dùng lại khi thực hiện chính sách cai trị, chia cắt Việt
Nam thành ba miền và áp đặt bộ máy hành chính thuộc địa. Theo đó tên Đông
Nam Kỳ cũng xuất hiện dùng để chỉ vùng đất thuộc Nam Kỳ của Việt Nam, sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tên gọi Nam Kỳ được thay thế bằng Nam Bộ
[14, tr.156].
Tên gọi Đông Nam Bộ lần lượt dùng để chỉ các vùng đất khác nhau, theo
sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1765 -1825) thì Gia Định
thuộc khu vực sao Khiên Ngưu, sao này có 6 ngôi, có lẽ vì thế mà triều Nguyễn
chia Nam Bộ làm 6 tỉnh và thường gọi là Nam Kỳ lục tỉnh. Trong quá trình Pháp
thực hiện cuộc xâm chiếm Việt Nam, Nam Bộ có 6 tỉnh: Biên Hòa, Gia Định,
Định Tường (Miền Đông), Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (Miền Tây). Sau khi
chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp đã xóa bỏ cách phân chia địa giới hành
chính cũ của triều Nguyễn, đặc biệt là sau khi xác lập sự thống trị hoàn toàn trên
phạm vi toàn cõi Việt Nam. Việc gọi Nam Kỳ (và Trung Kỳ, Bắc Kỳ) theo một
nghĩa hoàn toàn khác, gắn với việc Pháp thực thi chính sách thuộc địa đối với
Nam Kỳ và chế độ bảo hộ đối với Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Việc phân chia Nam Kỳ
thành Miền Đông, Miền Tây lúc này mới trở thành chính thức. Trong thời kỳ
Pháp thuộc, Biên Hòa được chia thành ba tỉnh là: Biên Hòa, Bà Rịa và Thủ Dầu
Một; Gia Định chia làm bốn tỉnh là: Gia Định, Chợ Lớn, Long An và Tây Ninh
[14, tr.158].
15
Thoạt đầu là miền Đông dùng để chỉ bốn tỉnh: Tây Ninh, Thủ Dầu Một,
Biên Hòa và Bà Rịa, khi Pháp đổi từ “hạt” hay “tiểu khu” thành “tỉnh” vào năm
1900. Năm 1951, Ủy ban Kháng chiến – Hành chính Nam Bộ (thuộc chính
quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) chia Liên khu Nam Bộ thành 2 phân liên
khu. Trong đó phân liên khu Miền Đông gồm 5 tỉnh: Gia Định Ninh (Gia Định
và Tây Ninh), Thủ Biên (Thủ Dầu Một và Biên Hòa), Bà - Chợ (Bà Rịa – Chợ
Lớn), Mỹ Tho và Châu Long Sa [14, tr.157]. “Năm 1954, liên tỉnh ủy Miền
Đông đã tiến hành tách lập các tỉnh trực thuộc gồm 7 tỉnh: Tân An, Chợ Lớn,
Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa, Tây Ninh và Gia Định” [61, tr.65]. Tháng 7
năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập Khu ủy Miền Đông Nam Bộ và
bộ chỉ huy lực lượng vũ trang giải phóng Đông Nam Bộ (quân khu Miền Đông
Nam Bộ), căn cứ khu ủy và sở chỉ huy quân khu đóng tại Suối Linh chiến khu Đ
[14, tr.157].
Năm 1957, khu vực này mang tên Miền Đông Nam phần, đại diện bởi
Tòa Đại biểu Chính phủ cho 13 tỉnh thành: Đô thành Sài Gòn, Gia Định, Tây
Ninh, Bình Dương, Bình Long, Phước Long, Phước Thành, Hậu Nghĩa, Biên
Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy và Long An. Khu vực này là một đơn
vị hành chánh của Việt Nam Cộng hòa [141].
Năm 1963, đơn vị Miền Đông Nam phần bị xóa bỏ tuy danh từ này vẫn
thông dụng, chỉ định khu vực địa lý.
Từ năm 1966 - 1975, Miền Đông Nam phần bao gồm 12 tỉnh thành: Đô
thành Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Long, Phước Long, Hậu
Nghĩa, Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy và Long An.
Năm 1975, miền Đông gồm 4 tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh (tỉnh Gia
Định, Đô thành Sài Gòn và 1 phần tỉnh Hậu Nghĩa), Sông Bé (gồm tỉnh Bình
Dương, Bình Long và Phước Long), Tây Ninh, Đồng Nai (gồm Biên Hòa, Long
Khánh và Phước Tuy). Tỉnh Bình Tuy cũ nhập vào tỉnh Thuận Hải thuộc miền
Trung, tỉnh Long An nhập vào Miền Tây Nam Bộ [141].
16
Năm 1991, miền Đông Nam Bộ gồm 5 tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh,
Tây Ninh, Sông Bé, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Đến năm 1997, miền
Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Bình Dương,
Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu [141].
Ngày nay, Đông Nam Bộ là một trong 8 vùng địa lý của Việt Nam, là một
trong hai phần của Nam Bộ. Vùng Đông Nam Bộ có 5 tỉnh và một thành phố:
“Bao gồm thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tây
Ninh, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu” [103, tr.176]. Đông Nam Bộ cận kề với
3 vùng Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long;
đây là vùng đầu mối giao thông thuận tiện về đường bộ, đường thủy, đường sắt
và đường hàng không với nội địa và nước ngoài. Cũng vì vị trí này, mà ông cha
ta xưa đã rất có lý khi chọn Đông Nam Bộ làm vùng đất đứng chân đầu tiên
trong quá trình Nam tiến.
Như vậy, việc xác định vùng Đông Nam Bộ kể trên có căn cứ lịch sử dựa
trên sự phân chia theo địa lý, hành chính. Vào cuối năm 1990, khi quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ từ năm 1997 đến năm
2010, “có 3 tỉnh bổ sung vào vùng này là Lâm Đồng, Bình Thuận và Ninh
Thuận” [145]. Tuy nhiên đây chỉ là sự sắp xếp phục vụ cho việc quy hoạch phát
triển vùng kinh tế - xã hội, chính vì vậy, đôi lúc tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận
được xếp vào vùng Nam Trung Bộ, tỉnh Lâm Đồng được xếp vào vùng Tây
Nguyên [14, tr.159].
Theo tài liệu của tổng cục thống kê trước đây (và một số ít khác dựa theo
tài liệu của Tổng cục thống kê) xếp hai tỉnh thuộc Nam Trung Bộ này vào miền
Đông Nam Bộ. Nhiều người cho rằng sự sắp xếp này là thiếu thuyết phục cả về
mặt địa lý cũng như lịch sử. Xét về mặt địa lý, ranh giới giữa Nam Bộ và Trung
Bộ đi theo vệt hướng Bắc Nam là hợp lý, nếu ghép Bình Thuận, Ninh Thuận vào
Đông Nam Bộ thì sẽ có một vùng ăn sâu về phía Đông là không hợp lý. Xét về
mặt lịch sử, thì tỉnh Bình Thuận (bao gồm cả phủ Ninh Thuận) chỉ được xếp vào
17
Nam Bộ trong khoảng một năm (1883 -1884) sau đó trả về cho Trung Bộ cho tới
nay. Hiện tổng cục thống kê, trong mục đơn vị hành chính đã xếp Ninh Thuận,
Bình Thuận vào nhóm Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, tách biệt với
Đông Nam Bộ. Hiện nay đa số sách báo, trong đó có cả sách giáo khoa, từ điển
bách khoa Việt Nam, từ điển bách khoa quân sự Việt Nam đều xếp Bình Thuận
và Ninh Thuận vào vùng duyên hải Nam (hoặc cực nam) Trung Bộ [14, tr. 160].
1.1.2. Về điều kiện địa lý, tự nhiên
Về điều kiện địa lý, Đông Nam Bộ nằm phía Đông Bắc của Nam Bộ, phía
Bắc và phía Tây giáp Campuchia, phía Nam và Tây Nam giáp đồng bằng sông
Cửu Long. Phía Đông Bắc giáp với Tây Nguyên; phía Đông và Đông Nam giáp
với Nam Trung Bộ và biển Đông.
Về địa hình, vùng Đông Nam Bộ nằm ở tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông. Địa
hình Đông Nam Bộ là một dải đất cao hơi lượn sóng chuyển tiếp từ cao nguyên
Nam Trung Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long, đây là vùng đồng bằng đồi lượn
sóng thoải và đồi thấp bóc mòn (Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai) chuyển dần
lên cao nguyên badan dạng vòm (Lộc Ninh, Phước Long - Bình Phước). Địa
hình cao dần từ Tây Nam lên Đông Bắc, độ cao phổ biến giao động từ 5m đến
200m, bề mặt địa hình bị chia cắt yếu và nghiêng dần từ Đông Bắc đến Tây
Nam, ở miền này rải rác có một số ngọn núi đơn độc vươn cao trên đồng bằng,
các ngọn núi này cao dưới 1000m như: núi Chứa Chan cao 387 m, Gia Kiệm cao
831m (Đồng Nai), núi Bà Rá cao 736 m (Bình Phước), núi Bà Đen cao 986 m
(Tây Ninh), núi Ông cao 284,6 m, núi Cậu cao 155m (Bình Dương), núi Dinh
cao 504 m, núi Mây Táo cao 704 m (Bà Rịa – Vũng Tàu)…
Vùng Đông Nam Bộ trải dài từ 105049’ đến 107035’ kinh độ đông và từ 10020’ đến 12017’ vĩ độ bắc, diện tích toàn vùng là 23.563,5 km2, Đông Nam Bộ
chiếm khoảng 20.3% tổng diện tích đất Việt Nam. Đây là vùng tương đối bằng
phẳng, ít bị chia cắt và nhận bức xạ mặt trời ở mức cao nhất Việt Nam (hơn 130Kcal/cm3/ năm) nên đây là vùng thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Vì thế,
18
cư dân Việt khi đến đây vào cuối thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVII đã có thể chọn
đây làm địa điểm dừng chân, khai phá và tồn tại ở vùng đất mới này.
Vùng này có một hệ thống sông chính chảy qua là hệ thống sông Đồng
Nai. Ngoài ra, nơi đây còn có một mạng lưới kênh mương chằng chịt. Sông
Đồng Nai là con sông lớn thứ hai của miền Nam Việt Nam, diện tích lưu vực tới 40 nghìn km2, lưu lượng bình quân 982 m3/s, tổng lượng dòng chảy đạt tới 31 tỉ m3 [102, tr.326]. Sông Đồng Nai dài 850 km, bắt nguồn từ cao nguyên
Langbiang (Đà Lạt – Lâm Đồng) do hai nhánh Đa Dung và Đa Nhim hợp thành.
Sông Đồng Nai còn được tiếp nước từ một phụ lưu khác là sông La Ngà từ cao
nguyên đổ xuống nên có nhiều ghềnh thác. Ở đoạn uốn khúc giữa đồng bằng,
sông Đồng Nai tiếp nhận thêm nước của Sông Bé rồi hội lưu với sông Sài Gòn
tại Nhà Bè. Từ đây sông thông ra biển bằng nhiều nhánh (lớn nhất là sông Lòng
Tàu), chảy qua vùng rừng Sác rồi đổ ra biển ở vịnh Đồng Tranh và vịnh Rành
Gái.
Sông Đồng Nai chảy qua các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Bình Phước,
Đồng Nai, Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh. Các phụ lưu chính của sông
này gồm sông Đa Nhim, Sông Bé, Sông La Ngà, sông Sài Gòn, sông Đạ Hoai và
sông Vàm Cỏ. Sông Đồng Nai hợp lưu với sông Sài Gòn thành sông Nhà Bè,
cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 5km về phía Đông Nam. Sông
Nhà Bè chảy ra biển Đông qua 2 ngả chính: sông Soài Rạp và sông Lòng Tàu.
Sông Soài Rạp dài 59 km, rộng trung bình 2 km, lòng sông cạn, tốc độ dòng
chảy chậm, đổ vào vịnh Soài Rạp tại cửa Soài Rạp (rộng 2000 – 3000m, sâu 6-
8m) ở huyện Cần Giờ. Sông Lòng Tàu đổ ra vịnh Rành Gái, dài 56 km, bề rộng
trung bình 0,5 km, lòng sông sâu, trung bình 12m, có nơi tới 29m, sông có độ
sâu và chiều rộng lý tưởng cho những tàu bè có trọng tải hàng chục ngàn tấn lưu
thông từ biển vào cảng Sài Gòn. Các phân lưu của sông Đồng Nai không chỉ có
sông Lòng Tàu, Sông Ngã Bảy, sông Soài Rạp (sông Soi), sông Đồng Tranh,
sông Thị Vải…mà còn hệ thống sông Vàm Cỏ bao gồm Vàm Cỏ Đông và Vàm
19
Cỏ Tây. “Vàm Cỏ Đông chảy qua Phước Vinh, Gò Dầu Hạ (Tây Ninh) qua Trà
Cú, Bến Lức (Hậu Nghĩa – Long An), còn Vàm Cỏ Tây chảy qua giữa hai tỉnh
Đồng Tháp và Long An, qua Mộc Hóa, Tân An để sau đó hai dòng gặp nhau tại
Xóm Giềng (nằm giữa Tân Trụ và Cần Giuộc) thành Vàm Cỏ Lớn, đổ ra biển
cùng sông Đồng Nai (sông Nhà Bè) ở cửa Soài Rạp” [107, tr.58].
Một phần mạng lưới sông, suối trong vùng chịu ảnh hưởng chế độ bán
nhật triều, mỗi ngày, nước lên xuống hai lần, theo đó thủy triều xâm nhập sâu
vào các kênh rạch nhỏ, tác động không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp cũng như
giao thông. Khi triều lên dòng nước chảy ngược. Nhờ thủy triều mà dòng sông
sâu, thuyền lớn có thể ngược hai sông Vàm Cỏ đến biên giới Việt – Campuchia,
ngược sông Đồng Nai đến Biên Hòa, ngược sông Sài Gòn đến Bình Dương...
Nói chung, các con sông thuộc hệ thống sông Đồng Nai tạo thành mạng lưới
giao thông đường thủy của các tỉnh miền Đông Nam Bộ cũng như góp phần tạo
nên những vùng đất đai màu mỡ, trù phú có thể trồng cây ăn quả như Tân Triều,
Lái Thiêu…
Hệ thống sông Đồng Nai phù sa không nhiều lắm, do đó không đủ để bồi
đắp cho những cánh đồng hai bên sông Đồng Nai, Sài Gòn, Vàm Cỏ Đông, Vàm
Cỏ Tây. Tuy nhiên, cả 4 con sông lớn này đều đổ dồn về một hướng với tốc độ
chậm dần, tạo nên sự hội tụ phù sa ở các cửa sông, chúng được thủy triều bồi,
đắp cát thành những gờ cao ở ven biển, chặn phù sa các sông ngòi, luồng lạch
tạo thành vùng ngưng đọng sình lầy ở bên trong, tạo nên quá trình hình thành
vùng rừng Sác. Quá trình vận động của những con nước biển Đông diễn ra trong
điều kiện nóng ẩm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đó là điều kiện để
thảm thực vật đặc biệt nảy sinh ở vùng các cửa sông, với các loài cây nước mặn,
có bộ rễ phát triển như xú vẹt, mắm, đước…Đó là vương quốc của các loài cá
tôm và loài nhuyễn thể như trai ốc, sò, điệp…[107, tr.58]. Từ xa xưa chúng đã
phong phú, đa dạng trong vẻ hoang sơ thiên phú và lực lượng di dân người Việt
20
đã sớm nhận ra những điểm ưu việt của vùng đất này, nên đã chọn nơi đây làm
điểm dừng chân đầu tiên của mình trong quá trình mở đất phương Nam.
Vùng Đông Nam Bộ cũng có biển, bờ biển vùng Đông Nam Bộ thuộc các
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Biển Vũng Tàu
giáp Bà Rịa và huyện Long Điền, nằm trên bán đảo cùng tên và có cả đảo Long
Sơn. Nhìn theo hướng Bắc Nam, Vũng Tàu nằm ở khúc quanh đang đổi hướng
từ Nam sang Tây của phần dưới chữ S (bản đồ Việt Nam) và nhô hẳn ra khỏi đất
liền như một dải đất có chiều dài khoảng 14 km và chiều rộng khoảng 6 km. Lại
thêm biển Cần Giờ, giáp tỉnh Đồng Nai ở phía Bắc, giáp biển Đông ở phía Nam,
giáp tỉnh Tiền Giang và Long An ở phía Tây, và giáp với tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu ở phía Đông. Như vậy, vùng biển Đông Nam Bộ không chỉ là ngư trường
rộng, hải sản phong phú mà còn là đường giao thông kết nối với các tỉnh lân cận
và thế giới bên ngoài.
Về thời tiết khí hậu, thời tiết của vùng Đông Nam Bộ có đặc điểm chung
của khí hậu Nam Bộ là nhiệt độ cao đều trong năm và có hai mùa là mùa mưa và
mùa khô rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11, còn mùa khô từ tháng
12 tới tháng 4 năm sau nhưng do cận biển, nên khí hậu của vùng này mang tính hải dương, điều hòa, nhiệt độ trung bình hàng năm từ khoảng 26 - 270C, nóng nhất là vào tháng 4 (khoảng 280C), mát nhất là vào đầu tháng 5 và cuối năm (khoảng 250C).
Khác với trung du và miền núi phía bắc có một mùa đông lạnh, phân hóa
theo độ cao, khí hậu Đông Nam Bộ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu
mang tính chất cận xích đạo và ít bị thiên tai. Vì vậy, nơi đây trở thành nơi trú
chân lý tưởng cho lớp cư dân mới vào cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII.
Đông Nam Bộ chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây –
Tây Nam và Bắc Đông Bắc. Gió Tây – Tây Nam là từ Ấn Độ Dương thổi vào
tốc độ trung bình 3,6m/s vào mùa mưa, gió Bắc – Đông Bắc từ Biển Đông thổi
vào tốc độ trung bình 2,4m/s vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió tín phong theo
21
hướng Nam - Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, tốc độ trung bình
3,7m/s, có thể nói Đông Nam Bộ thuộc vùng không có gió bão. Cũng như lượng
mưa, độ ẩm không khí ở đây lên cao vào mùa mưa – 80%, và xuống thấp vào
mùa khô – 74,5%, trung bình độ ẩm không khí là 79,5%.
Với đặc điểm thời tiết khí hậu nêu trên nên miền đất Đông Nam Bộ có vô
số rừng với nhiều loại gỗ qúy như cẩm lai, mua, sao, sến… phân bố khắp các
tỉnh thành.
Tóm lại, Đông Nam Bộ có địa hình đa dạng, nổi bật với những núi thấp,
đồi cao, rừng thường xanh, bờ biển dài, dòng sông lớn …cùng với điều kiện tự
nhiên thuận lợi, mưa thuận gió hòa là vùng đất làm ăn lý tưởng đối với cư dân
nông nghiệp. Nhất là trong giai đoạn cuối thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVII, những
điều kiện này có sức hút mạnh mẽ đối với những lưu dân người Việt đang khao
khát tìm cho mình một vùng đất mới, một vùng đất đem lại cho họ một cuộc
sống no đủ hơn, khấm khá hơn.
1.2. Về lịch sử - dân cư
1.2.1. Đông Nam Bộ trước công nguyên
Các nhà khảo cổ học trong và ngoài nước từ trước và sau 1975 đến nay đã
phát hiện trên vùng đất Đông Nam Bộ nhiều di tích khảo cổ học và lưu vực sông
Đồng Nai là nơi tập trung nhiều di chỉ nhất. Một số phát hiện khảo cổ học còn
cho thấy sự tồn tại của văn hóa Sa Huỳnh với những nét riêng ở vùng Đông
Nam Bộ, đó là thời kỳ phát triển rực rỡ của nền văn minh thời đại kim khí ở phía
Nam. Từ đó, các nhà khoa học đã nhận định: trên địa bàn Đông Nam Bộ từ thời
tiền sử đã có con người sinh sống.
Theo tác phẩm Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long thì những
cư dân cổ đã mở rộng địa bàn hoạt động trên khắp vùng đất cao Đông Nam Bộ
và xâm nhập vào vùng châu thổ sông Cửu Long. “Đó là vùng đất đỏ bazan
Đồng Nai, vùng đất đỏ bazan Sông Bé, vùng đất phù sa ven hạ lưu sông Đồng
Nai và vùng đất xám ven triền sông Vàm Cỏ Đông” [8, tr.58].
22
Trên vùng đất đỏ bazan Đồng Nai có một số di chỉ tiêu biểu như sau:
Vào những năm 1968 – 1971, nhà địa chất học người pháp E. Saurin đã
công bố những phát hiện đá cũ của ông tại hai địa điểm Hàng Gòn 6 và Dầu
Giây 2. Tiếp đó cho đến nay, nhất là từ năm 1975 đến nay, các nhà khảo cổ học
Việt Nam đã phát hiện thêm đến 14 điểm có công cụ thuộc thời đại đá cũ, phần
lớn nằm trên 3 huyện Xuân Lộc, Thống Nhất, Tân Phú của tỉnh Đồng Nai,
nhưng nhiều nhất là huyện Xuân Lộc nên Xuân Lộc còn được coi là tên gọi
chung cho thời đại đá cũ ở Nam Bộ Việt Nam.
Vùng Phú Hòa, Dầu Giây – Xuân Lộc cũng là nơi có nhiều di tích mộ
chum, di chỉ đồ đá cũ do các nhà địa chất Pháp E. Saurin, H. Fontaine phát hiện
cho thấy sự lan tỏa của văn hóa Sa Huỳnh vào rất sâu vùng Đông Nam Bộ, các
di tích mộ chum Sa Huỳnh thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt.
Cuối năm 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện ra di chỉ Cầu
Sắt (Xuân Lộc). Di chỉ Suối Chồn gần di chỉ Cầu Sắt được phát hiện vào năm
1978, thuộc thời đại đồng thau. Năm 1984, nhân lúc đi làm rẫy người dân đã
phát hiện một “kho” vũ khí đồng (qua đồng), rìu đồng ở Long Giao (Xuân Lộc)
có mối liên hệ với văn hóa Đông Sơn, đây là điểm cao của văn hóa Đồng Nai
[14, tr.171].
Di chỉ Phước Tân, nằm ở phía Đông trên đường Biên Hòa – Vũng Tàu, tại
cây số 42, có nhiều công cụ đá (2596). Các di vật của di chỉ này có niên đại C14
từ 2.300 đến 3.100 năm (tính từ năm 1950).
Trong những năm 1886 – 1890, Holbe đã thu thập ở Biên Hòa nhiều hiện
vật tiền sử cùng với một số hiện vật ở 20 nơi khác trong vùng Đồng Nai, trong
đó có 10 rìu đồng.
Năm 1980, trong một lòng ao ở Vũng Tàu đã phát hiện một trống đồng
Đông Sơn có sao 12 cánh ở giữa mặt trống.
Ở Dầu Giây, Suối Đá (Xuân Lộc) và Phú Hòa, các nhà khảo cổ học đã
phát hiện có các hiện vật như: chuỗi thủy tinh, hoa tai đồng, các mộ chum mai
23
táng đặc trưng của nền văn hóa Sa Huỳnh, chứng tỏ văn hóa Sa Huỳnh đã phát
triển ở vùng Đông Nam Bộ trên địa bàn lưu vực sông Đồng Nai [14, tr.172].
Cũng tại vùng này, năm 1927 một di tích cự thạch độc đáo tình cờ được
phát hiện bởi Jean Bouchot- kỹ sư người Pháp- khi ông đang chủ trì công trình
mở đường từ Long Khánh, Xuân Lộc đi Bà Rịa trong địa phận của một đồn điền
cao su (hiện nay di tích này được gọi là di tích mộ cổ Cự Thạch Hàng Gòn,
thuộc xã Hàng Gòn, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai). Mộ cổ cự thạch cho
thấy con người lúc ấy đã nắm được kỹ thuật luyện sắt, các cộng đồng người ấy
đã liên minh lại, các quốc gia sơ khai hình thành trên cơ sở nền nông nghiệp
phát triển và các công trường thủ công đã có quy mô nhất định. [14, tr.166],
[54, tr.13].
Tại vùng đất đỏ bazan Sông Bé, vào những năm 50 của thế kỉ XX, trên
khu vực tỉnh Bình Phước và phía Đông Campuchia, L. Malleret phát hiện 18
công trình đất đắp hình tròn (6 vòng trên đất Campuchia, 12 vòng trên tỉnh Bình
Phước). Những công trình này có tính chất phòng ngự dạng tròn gồm 2 vòng
tường đất đắp đồng tâm cao khoảng 2m và đường kính trung bình 100 – 200m,
với hào sâu bao quanh. L. Malleret đã liên hệ với những di tích đồng dạng (với 1
hoặc nhiều vòng thành tròn) ở Madagasca, đông bắc Thái Lan, ở cánh đồng
Chum (Bắc Lào) và những loại thành đắp đất ở Trảng Bàng (Tây Ninh). L.
Malleret giả thiết rằng: chủ nhân của những di tích đồ sộ này có quan hệ huyết
tộc với người bản địa hoặc người Chàm cổ mà sự tồn tại của họ muộn nhất cũng
vào thời kỳ trước khi Angkor hình thành [54, tr.14].
Công cuộc khảo cứu di tích đất đắp hình tròn còn được J. Carbonnel tiếp
tục và năm 1962, B.P.Groslier khai quật trên vòng đất đáp hình tròn ở Mimot
(thuộc tỉnh Công Pông Chàm của Campuchia), ông đã cho rằng đây là di chỉ đá
mới quan trọng nhất Đông Nam Á có tuổi khoảng 4000 năm, tiêu biểu cho một
truyền thống văn hóa riêng biệt của khu vực “văn hóa Mimot” [127, tr.66].
24
Trong đợt khảo sát gần đây nhất, tháng 12 năm 1999, Nguyễn Trung Đỗ
đã phát hiện thêm 6 vòng đất hình tròn trên tỉnh Bình Phước, thuộc các huyện
Bình Long, Phước Long và Lộc Ninh [119, tr.426].
Trên vùng đất phù sa ven hạ lưu sông Đồng Nai có những di chỉ tiêu biểu:
Di chỉ Cầu Sắt – Suối Linh, đây được xem là biểu tượng về giai đoạn phát
triển sớm nhất của thời đại kim khí của vùng đất này. Di chỉ này có “niên đại
đoán là 2500 - 3000 năm trước công nguyên, được coi là biểu thị cho giai đoạn
sớm nhất trong truyền thống văn hóa Đồng Nai” [41, tr.129].
Di chỉ Bình Đa đã được Hamy E.T., J.Chesneaux, L.Malleret nói tới song
đến năm 1979 mới được khai quật. “Ở đây thu được 155 rìu tứ giác, 284 rìu vai,
2 đàn đá và hơn 200 mảnh đàn đá khác, có niên đại khoảng 1230 trước công
nguyên” [41, tr.129].
Di chỉ Cù Lao Rùa (khoảng thiên niên kỷ II trước công nguyên), thuộc xã
Thạnh Phước, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, nằm giữa dòng sông Đồng
Nai. Đây là một trong số các di tích khảo cổ tiền sử ở lưu vực sông Đồng Nai
được nhắc tới nhiều nhất. Thậm chí một số nhà nghiên cứu đề nghị gọi văn hóa
Cù Lao Rùa làm tên chung cho các di tích văn hóa khảo cổ thời tiền sử vùng
Đông Nam Bộ [14, tr.169 -170].
Di chỉ Dốc Chùa thuộc xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Di
tích này được phát hiện năm 1976, đã được khai quật khảo cổ học 3 đợt trong
các năm 1976 – 1979, đến năm 2009, di chỉ này được tiến hành khai quật lần thứ
4, các hiện vật tìm thấy ở di chỉ này rất đa dạng. Di chỉ này được xem: là một di
tích rất phong phú, tiêu biểu của văn hóa sông Đồng Nai, một trong những di
tích đồng thau phong phú nhất của nước ta với niên đại vào khoảng 3.000 –
2700 năm và có thể kéo dài muộn hơn đến khoảng 2.500 năm, thuộc giai đoạn
kim khí phát triển vào khoảng cuối thời đại đồng – đầu thời đại sắt [128, tr.
218]. Điều này chứng tỏ Đông Nam Bộ thực sự là một trung tâm văn hóa lớn
thời đại kim khí bên cạnh các trung tâm Đông Sơn ở miền Bắc Việt Nam, Sa
25
Huỳnh ở miền Trung. Trung tâm kim khí này có đặc trưng văn hóa riêng, có sức
mạnh phát triển nội tại mạnh mẽ theo một truyền thống riêng của cộng đồng cư
dân tiền sử Đông Nam Bộ.
Di chỉ khảo cổ học Mỹ Lộc (còn có tên khác là Gò Đá, Gò Chùa), ngày
nay thuộc địa phận xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Mỹ Lộc là di
tích thời đại đá mới được biết đến vào loại sớm nhất ở miền Đông Nam Bộ.
Năm 1889, T. V. Holbé đã phát hiện ra di tích, thu được 60 hiện vật đá [128,
tr.139]. Năm 2004, di tích Mỹ Lộc được khai quật, kết quả đã thu được hơn 60
nghìn mảnh gốm, nhiều công cụ đá như cuốc, rìu, đục, dao; công cụ chế biến; đồ
trang sức… đặc biệt là đã tìm thấy đàn đá [128, tr.160].
Như vậy, hiện vật bộ đàn đá ở Bình Đa (Đồng Nai) và Mỹ Lộc (Bình
Dương) chứng tỏ đàn đá không những có ở Tây Nguyên, mà còn có ở các làng
của các cư dân sống dọc sông Đồng Nai ở Đông Nam Bộ.
Gần đây trong vùng này, ở di tích Suối Cái (xã Phú Chánh, huyện Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương) còn phát hiện được cả di chỉ cư trú và mộ táng: trong
đó có 4 trống đồng, có thể coi là trống đồng Đông Sơn, 1 gương đồng Tây Hán
và 7 ngôi mộ chum mà áo quan chum giống kiểu Sa Huỳnh được làm bằng gỗ
sao, bằng kỹ thuật khoét rỗng thân cây cổ thụ, nắp đậy bằng trống đồng, thực sự
là một phát hiện khoa học có giá trị quý hiếm [41, tr.129]. Giới khảo cổ học cho
rằng: Phú Chánh đóng góp tư liệu mới về táng thức của cộng đồng cư dân tiền
cổ và sơ sử [14, tr.172].
Ở thành phố Hồ Chí Minh, có di chỉ Bến Đò (Thủ Đức) có niên đại 3.040
±140 [14, tr.164]; ở Sài Gòn khi đào móng xây dựng nhà thờ lớn (Đức Bà) đã
phát hiện di cốt người trong các chum, vò gốm. Đây là phát hiện sớm nhất các
mộ chum, trước cả sự phát hiện mộ chum ở Sa Huỳnh ở miền Trung mà sau này
được gọi là văn hóa Sa Huỳnh [14, tr.172].
Vùng đất xám ven triền sông Vàm Cỏ Đông cũng là địa bàn cư trú của
người tiền sử. Các di chỉ - nơi cư trú ở vùng này thường nằm trên thế đất cao
26
ven sông, hình thành lối cư trú dọc theo tuyến sông, dài hàng chục cây số. “Trên
đất Tây Ninh có di chỉ Gò Ông Dinh, Gò Chùa Cao Sơn…Trên đất Long An có
di chỉ Lộc Chánh (cũng gọi là Lộc Giang), di chỉ An Sơn (cũng gọi là Núi Đất),
di chỉ Động Canh Nông…” [8, tr.68]. Đây là một kiểu xây dựng nơi cư trú độc
đáo của cư dân Đồng Nai vùng này.
Ngoài 4 vùng kinh tế - dân cư nói trên, thì cư dân cổ Đông Nam Bộ cũng
đã đến ngụ cư, sinh sống ở cùng ven biển và vùng ngập nước, sình lầy.
Tại vùng ven biển, theo phát hiện của khảo cổ học thì có 2 di chỉ là “Cái
Vạn (Long Thành – Đồng Nai ) và một ở Gò Cát (Thủ Đức – Thành phố Hồ Chí
Minh)” [8, tr.70].
Tại vùng đầm lầy có các di chỉ tiêu biểu như Bưng Bạc (Châu Thành –
Đồng Nai), ND11 (nông trường Lê Minh Xuân – Thành phố Hồ Chí Minh) và
Rạch Núi (Cần Giuộc – Long An).
Thông qua các di chỉ khảo cổ học, các nhà khoa học cho rằng: con người
xuất hiện trên vùng đất Đông Nam Bộ từ khá sớm, ước chừng 3000 – 4000 năm
trước. Vào thời điểm ấy, vùng này có nhiều nhóm dân cư cổ từng sinh sống và
hoạt động trong một môi trường văn hóa trải dài suốt từ thời kỳ đồ đá cho đến
thời kỳ kim loại (các nhà khoa học gọi họ là cư dân Đồng Nai), họ đã biết sản
xuất nông nghiệp và bắt đầu chuyển từ vùng đất cao tiến tới chinh phục vùng đất
thấp của vùng. Lúc bấy giờ con người ở đây có cuộc sống hết sức tự do, khoáng
đạt, không có lãnh thổ quốc gia, không có địa giới hành chính và cũng chưa có
khái niệm về vùng đất Đông Nam Bộ.
Hiện nay, các nhà khảo cổ cho rằng chủ nhân của các di tích trên là cư
dân thuộc dòng Austronesian Nam Đảo, tổ tiên của người Stiêng, Mạ,
Chơro…ngày nay [14, tr.173].
Người Stiêng có nhiều tên gọi như: Xêđiêng, Xa – tiêng, Satiêng Ray.
Tiếng nói của họ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme, có nhiều nét rất gần với
tiếng nói của người H’nông, người Cơ ho, người Chơ ro, người Mạ và người
27
Khơme láng giềng. Họ có nhân thể khỏe mạnh, nhanh nhẹn, thích săn bắn và
sinh hoạt vũ trang. Loại hình kinh tế truyền thống của người Stiêng ở miền
Đông Nam Bộ, là loại hình canh tác rẫy trên vùng cao nguyên và trong những
cánh rừng già nhiệt đới. Đây là một nền nông nghiệp quảng canh trên rẫy với
trình độ kĩ thuật canh tác thô sơ (phát rừng, đốt rẫy và chọc lỗ tỉa hạt giống).
[120, tr.420]. Trang phục của người Stiêng khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn
ông đóng khố…người Stiêng để tóc dài, búi đằng sau gáy, có xâu lỗ tai, đeo hoa
tai bằng gỗ hoặc ngà, xăm mặt, xăm mình với những nét hoa văn hình học đơn
giản, tục cà răng đã không còn nữa. Người Stiêng hiện nay sinh sống chủ yếu ở
các tỉnh như Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai và Bình Dương.
Người Mạ hay còn gọi là người Châu Mạ, Chê Mạ. Hiện nay họ sinh sống
chủ yếu ở các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai , Lâm Đồng, Đắk Lắk, trong đó ở
huyện Bảo Lộc (Lâm Đồng) là tập trung đông nhất. Tiếng nói của họ thuộc
nhóm Môn – Khơme nhưng cũng có một số nhà nghiên cứu lại cho là thuộc
nhóm Austronesia. Họ làm lúa rẫy, song cũng biết làm lúa nước, thạo nghề dệt
vải có hoa văn đẹp, biết làm nghề rèn sắt, làm thuyền độc mộc khéo, ở nhà sàn
dài, xưa cũng có tục cà răng và xâu lỗ tai lớn. [17, tr.150]
Theo địa chí tỉnh Bà Rịa ấn hành năm 1902, nhà đương cục nhận xét dân
tộc Mạ là dân tộc văn minh hơn các dân tộc thiểu số khác trong tỉnh Biên Hòa
và tỉnh Thủ Dầu Một. Họ ở rừng núi nhưng không quen săn bắn, thì có lẽ trước
kia họ sinh sống ở bình nguyên chứ không phải người bản địa ở núi rừng từ lâu
đời.
Theo một số tác giả dân tộc học như Bình Nguyên Lộc, Beurette…phỏng
đoán dân tộc Mạ ở đồng bằng Nam Bộ và đã có lúc thành lập vương quốc. Hình
như sau khi bị Phù Nam đô hộ và chịu ảnh hưởng khá đậm nét của Phù Nam,
người Mạ rút dần về vùng đồi núi, rừng rậm, đầm lầy nằm suốt từ bờ biển Bình
Thuận tới trung và thượng lưu sông Đồng Nai [17, tr.151].
28
Người Chơro hay còn gọi là Châu Ro, tên tự gọi là Chau Jro. Chau có
nghĩa là người và Jro là danh xưng cộng đồng của họ, thuộc nhóm ngôn ngữ
Môn-Khmer. Có nhiều tư liệu cho rằng, người Châu ro là một bộ phận của cộng
đồng người Mạ chịu ảnh hưởng của văn hóa Chăm và Raglai. Người Châu Ro
có tầm vóc nhỏ hơn người Stiêng, họ sinh sống và lao động chủ yếu ở vùng đồi
núi, thạo nghề đan lát mây tre, lá buông, lá cọ. Hiện nay, người Chơro cư trú chủ
yếu ở Đồng Nai, một số ít ở Bình Thuận, Bình Dương và Bình Phước [8, tr.196]
Theo địa chí tỉnh Sông Bé, khi lưu dân người Việt tới khai khẩn miền
Đông Nam Bộ, chưa phân biệt được các tộc người nên gọi chung các tộc người
này là Man (hay gọi nôm na là Mọi). Địa chí cũng cho biết thêm: có nhiều lý do
để nghĩ rằng các dân tộc nhỏ - mà người Việt Nam gọi chung là Mọi – đều là
những dân tộc bản địa bị đẩy lên rừng và đồi núi, trước bước tiến văn minh Việt
Nam…Nhận định đó hàm chứa ý kiến cho rằng các dân tộc nhỏ nói tiếng Môn
Khơme, đặc biệt là các dân tộc lai hoặc theo ít nhiều văn minh Khơme, xưa kia
đã sinh sống cả ở đồng bằng Nam Bộ lẫn Tây Nguyên, rồi lần hồi thiên cư hết
về hướng Tây Nguyên, kể từ khi người Việt đến khẩn hoang, lập ấp ở các vùng
đất thấp trước [17, tr.149].
Như vậy, từ năm 1886 đến nay, trên khắp miền Đông Nam Bộ rất nhiều di
chỉ được phát hiện. Các di chỉ này gắn liền với tên tuổi các nhà khảo cổ học
trong và ngoài nước. Qua những di vật khảo cổ đã tìm thấy tại các di chỉ, các
nhà nghiên cứu khẳng định: từ khoảng thiên niên kỉ thứ hai trước công nguyên,
con người đã có mặt tại vùng đất thuộc Đông Nam Bộ ngày nay. Các hiện vật
khảo cổ tuy chưa nhiều lắm, nhưng qua đó có thể hình dung vùng Đông Nam Bộ
xưa kia đã từng có dấu vết người sinh sống, biết săn bắt, đánh cá, làm nông
nghiệp, với công cụ sản xuất kim khí, biết làm đồ gốm…; tạo nên bộ mặt tinh
thần, nghệ thuật phong phú; xác lập quan niệm về sự sống và cái chết, về thế
giới bên kia, sự tích hợp của đời sống vật chất và tinh thần của người cổ Đông
Nam Bộ đã phản ánh một tổ chức xã hội mang tính nhân bản và văn hóa cao.
29
Hiện nay, các nhà khảo cổ học cho rằng chủ nhân của nhiều di chỉ đồ đá ở lưu
vực sông Đồng Nai là cư dân thuộc dòng Austronesian Nam Đảo, tổ tiên trực
tiếp của người Mạ, Chơro, Stiêng ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên ngày nay.
Những cư dân này đã làm nên một nền “Văn hóa tiền sử Đông Nam Bộ”, nền
văn hóa này đủ sức tiếp nhận và bản địa hóa các yếu tố văn hóa ngoại nhập ở
giai đoạn tiếp theo trong quá trình hình thành nền văn hóa Óc Eo [128, tr.218].
1.2.2. Đông Nam Bộ từ công nguyên đến trước thế kỉ XVII
Từ công nguyên cho tới trước khi chúa Nguyễn thiết lập quyền lực của
mình ở vùng Đông Nam Bộ, vùng đất này thuộc lãnh thổ của vương quốc Phù
Nam và sau đó thuộc về Chân Lạp.
Vương quốc Phù Nam ra đời từ đầu công nguyên, chủ nhân của vương
quốc Phù Nam là người Malayo – Polynesian (Mã Lai- Đa Đảo).
Cư dân Phù Nam được đánh giá là một cộng đồng cư dân đa chủng tộc, đa
ngôn ngữ và đa văn hóa, là kết quả của một quá trình hỗn chủng, hòa hợp về
văn hóa và ngôn ngữ và điều đó đã tạo nên tính bản địa của cư dân Phù Nam
trong lịch sử tồn tại (của mình). Loại hình Indonesian mà con cháu họ ngày nay
vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở Đông Dương thuộc các khu vực Trường Sơn –
Tây Nguyên. Những cư dân thuộc chủng Indonesian hẳn đã là chủ nhân ưu thế
của vương quốc Phù Nam và có liên hệ huyết thống khá chặt chẽ với tộc người
sinh sống ở khu vực hải đảo nam Thái Bình Dương, trong đó có các nhóm
Malayo – Polynesian [42, tr.63]. Đây là nhóm nổi trội và chiếm ưu thế. Đặc
điểm của cư dân này được xác định là tóc quăn, da đen và có những nét văn hóa
cơ bản như: ở trần, xăm mình, sử dụng gạch trong các kiến thức đền tháp và
chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ nhưng phát triển với sắc thái riêng của mình.
Họ là chủ nhân của nền văn hóa Óc Eo nổi tiếng.
Từ thế kỉ III đến thế kỉ VI, Phù Nam phát triển thành một đế chế lớn
mạnh, chinh phạt và thu phục được nhiều thuộc quốc, “chiếm hơn 10 nước, mở
rộng đất đai hơn 5, 6 ngàn hải lý”, lãnh thổ rộng lớn, bao gồm cả vùng Trung,
30
Nam Lào, Nam Bộ và một phần Trung Bộ của nước ta ngày nay. “Phía nam
(Phù Nam) giáp vịnh Thái Lan, phía bắc giới hạn bởi sông Mun (chảy qua vùng
Ubon – Thái Lan), phía đông giáp biển Đông, phía tây bao gồm hạ lưu sông Mê
Nam và một phần bán đảo Mã Lai” [72, tr.21], nhưng lãnh thổ cơ bản, địa bàn
ban đầu của vương quốc Phù Nam là miền tây sông Hậu và miền Nam Việt
Nam, “kinh đô đóng ở Angkor Borei” [68, tr.44], thuộc huyện Kirivông, tỉnh
Takeo, nay đổi thành tỉnh Kirivong của Campuchia, cách châu Đốc 30km.
Các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy văn hóa Óc Eo - nền văn hóa vật
chất của Phù Nam - có nguồn gốc bản địa, có quan hệ với văn hóa Sa Huỳnh và
chủ nhân là người Malayo – Polynesian (Mã Lai- Đa Đảo). Sự xây dựng nên
Phù Nam cũng do từ nhiều nguồn, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của
người cổ Nam Bộ. Vào những thế kỉ đầu công nguyên, người Đồng Nai trên cơ
sở kinh tế nông nghiệp, đã có một bộ phận tiến về phía nam để chinh phục vùng
châu thổ sình lầy sông Cửu Long. Đây cũng là thời kỳ một bộ phận cư dân Nam
Đảo tiến vào đất liền, chiếm cứ những dải đồng bằng ven biển, những cảng
biển, cảng sông hình thành những khu vực quần cư mới. Hai bộ phận dân cư
này đã tạo nên những khu cư dân trù phú trên nền tảng kinh tế nông nghiệp
truyền thống kết hợp mở mang nhiều ngành nghề thủ công, mở rộng hoạt động
thương mại, đặc biệt là nền thương nghiệp viễn dương [42, tr.65].
Cư dân Phù Nam thuộc văn minh nông nghiệp trồng lúa, các tư liệu của
cổ sử Trung Hoa đã nhiều lần nhắc đến nghề nông như một hoạt động kinh tế
chủ đạo của Phù Nam. Di chỉ khảo cổ học Óc Eo được L. Malleret khảo sát năm
1944 đã cho thấy có nhiều loại hình nông cụ, một hệ thống thủy lợi khá quy mô.
“Những cuộc khai quật khảo cổ học về sau này cũng góp phần làm sáng tỏ nông
nghiệp là hoạt động kinh tế hàng đầu của cư dân Phù Nam” [41, tr.314]. Kỹ
thuật canh tác lúa nước đã đạt trình độ khá cao, với hệ thống nông cụ, hệ thống
thủy lợi và các giống lúa, có giống lúa một lần gieo sau đó ba lần thu hoạch
đúng như cổ sử Trung Hoa đã ghi nhận: Tấn thư cho biết “ người đều đen đúa,
31
xấu xí, búi tóc, thân trần đi chân đất, tính chất phác, thẳng thắng, không trộm
cướp, theo nghề cày cấy trồng trọt, một năm trồng thu hoạch 3 năm” [68, tr.19].
Những thư tịch và khảo cổ học còn cho thấy hoạt động thủ công nghiệp
của vương quốc Phù Nam khá phát triển. Đó là các nghề chế tác gốm, kim hoàn,
mộc, chế tác đá, làm gạch, đóng thuyền…Những hiện vật tìm thấy trong di chỉ
Óc Eo và các cuộc khai quật khảo cổ học ở nhiều địa phương Nam Bộ đã thu
được một khối lượng lớn hiện vật là các sản phẩm thủ công hết sức phong phú,
từ các hiện vật gốm, gỗ, đá, cho đến kim loại như đồng, bạc vàng đã cho thấy
nghề thủ công của cư dân Phù Nam đã đạt đến một trình độ khá cao, họ đã làm
chủ được nhiều ngành kỹ thuật chế tác phức tạp.
Một bộ phận cư dân Phù Nam sống ở các đô thị, các khu vực ven biển lại
thiên về các hoạt động thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương. Óc Eo, theo các
nhà nghiên cứu là một trong những đô thị hải cảng lớn của Phù Nam, Óc Eo
từng là điểm dừng chân của các thuyền buôn ngoại quốc trên chặng đường Bắc -
Nam, Đông – Tây, nơi hội tụ các hoạt động thương mại trong và ngoài nước.
Những hàng hóa từ các nước châu Âu, Địa Trung Hải, từ Trung Hoa và các
nước Đông Nam Á như đồ thủy tinh, kim loại mỹ nghệ…được trao đổi với các
hàng thổ sản, các loại hương liệu, gia vị… của Phù Nam, thương mại đã góp
phần làm cho Phù Nam trở thành một cường quốc trong khu vực [41, tr.314].
Theo L. Malleret nhà khảo cổ học người Pháp, người đầu tiên khám phá
ra nền văn hóa này thì “Văn hóa Óc Eo có niên đại từ thế kỉ II đến thế kỉ VI; nó
đích thực là sản phẩm vật chất của nền văn minh của vương quốc Phù Nam và
hầu như là chỉ thuộc vương quốc đó” [8, tr.110].
Cho đến nay đã phát hiện nhiều di tích thuộc văn hóa Óc Eo. Nhìn vào
bản đồ di tích khảo cổ học có thể nhận ra địa bàn phân bố của văn hóa Óc Eo
khá rộng trên vùng đất Tây và Đông Nam Bộ nhưng tập trung chủ yếu ở miền
Tây sông Hậu, phân bố rất trù mật trên địa bàn các tỉnh Long An, Đồng Tháp,
An Giang, Kiên Giang và nhiều địa điểm khác thuộc đồng bằng Nam Bộ. Ở
32
miền Đông Nam Bộ, các di tích phân bố dọc sông Đồng Nai và các chi lưu của
nó. So với các tỉnh miền Tây Nam Bộ thì ở miền Đông Nam Bộ mật độ di tích
văn hóa Óc Eo có phần thưa hơn [5, tr.316].
Tại thành phố Hồ Chí Minh, khu di tích Cần Giờ được thiết lập ngay
trong vùng sình lầy nước lợ thuộc hai xã Cần Thạnh và Lý Nhân (thành phố Hồ
Chí Minh), nó gồm di chỉ của những quả gò đắp nổi bằng đất đỏ bazan, cao hơn mặt nước biển từ 1 – 3 mét, rộng trung bình 200 – 600m2, phân bố trên địa bàn
bao quát các cửa sông Ngã Bảy, Đồng Tranh, Soài Rạp và vịnh Gành Rái. Khu
di tích này dường như án ngữ lối đi vào nội địa theo các dòng sông Đồng Nai,
Sài Gòn, Vàm Cỏ…[8, tr.117]. Trên một số di chỉ như Giồng Am, Giồng Thị,
Giồng Cháy, Giồng Lá Buông Ông Hần, Giồng Bà Lưới… có những vật liệu
xây dựng (đất nung hình trụ tròn, trụ bốn cạnh, hình tháp); vật dụng sinh hoạt
gồm những mảnh gốm Óc Eo như ấm, hủ, ang, nồi, chai gốm, cà ràng…Những
hiện vật tìm được ở Giồng Am rất gần gũi với hiện vật tìm được ở Gò Đất (An
Giang), Cạnh Đền, Nền Chùa (Kiên Giang)…niên đại C14 của di tích Giồng
Am được xác định là 1665 40 năm cách ngày nay. “Có thể xem các di tích
loại hình Giồng Am ở Cần Giờ là một loại hình địa phương của văn hóa Óc Eo,
bản thân địa bàn cư trú, những loại hình gốm độc đáo được sản xuất tại chỗ đã
làm phong phú, đa dạng thêm cho nền văn hóa Óc Eo”[41, tr.169]. Ngoài ra, ở
những “Gò Nổi” này còn tìm thấy một số mảnh gốm thuộc truyền thống văn hóa
Đồng Nai, Sa Huỳnh…Đáng chú ý, ở đây chưa phát hiện những loại kiến trúc
kiểu nhà sàn, những kiến trúc bằng gạch đá hỗn hợp, những vật dụng đặc trưng
Óc Eo như đồ kim hoàn, đồ thiếc, đồ trang sức bằng đá quí, tượng tròn... “Khu
di tích Cần Giờ có thể là một cảng khẩu thời Óc Eo, nối liền với các điểm cư
dân khác ở vùng nội địa theo những đường sông rạch” [8, tr.117].
Trong nội thành thành phố Hồ Chí Minh, tại di tích chùa Phụng Sơn
(quận 11), các nhà nghiên cứu đã tìm thấy được những hiện vật của văn hóa Óc
33
Eo. Niên đại của di tích chùa Phụng Sơn được đoán định vào thế kỉ V sau công
nguyên [41, tr.169].
Trong khu vực hạ lưu sông Đồng Nai, các di tích, di vật văn hóa Óc Eo
phân bố rải rác trên địa bàn khá rộng. Tại ấp Đất Mới, xã Long Phước, huyện
Long Thành tỉnh Đồng Nai, có di tích Gò Chiêu Liêu, di tích Gò Ông Tùng. Đây
là những di tích thuộc loại hình kiến trúc gạch, dạng đền thờ đạo Hindu - Ấn Độ
giáo. Niên đại phóng xạ C14 của di tích là 1900 70 năm cách ngày nay (tức
vào khoảng thế kỉ I - II sau công nguyên).
Tại vùng hồ Trị An thuộc xã Cây Gáo, huyện Vĩnh Cửu có hai di tích kiến
trúc Cây Gáo I và II nằm cách nhau khoảng 60m theo hướng Bắc – Nam, bên tả
ngạn sông Đồng Nai. Hai di tích đều có bình đồ kiến trúc hình chữ nhật. Niên
đại phóng xạ cho kết quả 1700 45 năm cách ngày nay, tức vào khoảng thế kỉ
III sau công nguyên.
Những di tích kiến trúc ở Đồng Nai là những di tích dạng đền thờ của đạo
Hindu - Ấn Độ giáo, nó có niên đại khá sớm so với các di tích cùng thời ở Nam
Bộ. Kết cấu vật liệu xây dựng bằng gạch – gỗ (trong khi những ngôi đền đạo
Hindu ở Ấn Độ được xây dựng bằng đá hoặc xây bằng gạch mộc), có khả năng
là vết tích văn hóa Óc Eo mở đầu ở Nam Bộ trước khi hình thành cảng thị Óc
Eo. Theo cổ thư Ấn Độ, Trung Hoa thì hoạt động giao thương, trao đổi văn hóa
giữa cư dân thiên trúc Ấn Độ và cư dân vùng Đông Nam Á diễn ra khá sớm.
Khảo cổ học cũng phát hiện nhiều địa điểm nằm dọc theo duyên hải và cả trong
nội địa Đông Nam Á những sản phẩm giao thương có niên đại sớm nhất vào
khoảng thế kỉ IV – III trước công nguyên. Cảng thị Cần Giờ lúc ấy, là đầu cầu
giao lưu kinh tế - văn hóa quan trọng trong vùng Đồng Nai. Có lẽ kiến trúc dạng
đền thờ Hindu - Ấn Độ giáo được đầu tiên du nhập vào đây, sau đó chuyển về
miền tây Nam Bộ khi cảng thị Óc Eo hình thành. Vật liệu xây dựng kiến trúc
bằng gạch – gỗ là sản phẩm sáng tạo tại chỗ, kết hợp hai truyền thống bản địa và
ngoại nhập [65, tr.82].
34
Các di tích kiến trúc trong vùng Đồng Nai không phải là những công
trình sao chép nguyên bản của Ấn Độ mà nó được xây dựng bằng sự kết hợp hai
truyền thống văn hoá bản địa và văn hóa Hin-du. Trên thực tế chúng là những
ngôi đền Hindu giáo đã được bản địa hóa thích nghi với môi trường tự nhiên và
nhân văn trên đất Đồng Nai [65, tr.83].
Vùng đất phía Đông – Bắc đồng bằng Nam Bộ thuộc hạ lưu sông Đồng
Nai được xem là “Phù Nam nội địa”. Vào những năm 80 của thế kỉ XX, L.
Malleret phát hiện một địa điểm có tên là Bàu Thành hoặc Bàu Tượng thuộc tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu, thu thập 2 con lăn bằng đá và nhiều mảnh gốm gần gũi với
gốm Óc Eo. Trên một quả đồi ở phía tây Bãi Dứa (Vũng Tàu), đã phát hiện một
kho đồ trang sức bằng vàng, bạc là những sản phẩm của văn hóa Óc Eo
[65, tr.81].
Di tích Bình Tả thuộc ấp Bình Tả, xã Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh
Long An được xem là một trong những di tích điển hình của nền văn hóa Óc Eo
ở Nam Bộ [41, tr.160].
Trong lúc Phù Nam phát triển thành một cường quốc về hàng hải của
Đông Nam Á và suy yếu dần vì các thay đổi về khí hậu và sự chuyển biến trong
các quan hệ bạn hàng trên con đường thương mại trên biển (trung tâm thương
mại trong vùng được chuyển từ Óc Eo qua vùng biển Malacca, ở phía nam bán
đảo Mã Lai từ thế kỉ thứ V), một tiểu quốc khác chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đã
củng cố quyền lực của mình ở vùng thung lũng trung du sông Mê Kông và đã
mạnh lên, phát triển thành một vương quốc độc lập, chinh phục các bộ lạc cổ
khác trên sông Sê Mun và tiến tới thôn tính luôn Phù Nam, đó là tiểu quốc Chân
Lạp – một thuộc quốc của Phù Nam. Năm 550, Bhavavarman I, vua Chân Lạp,
được em là Chitrasena giúp đỡ đã tiến chiếm kinh đô Đặc Mục (kinh đô Angkor
Borei), vua Phù Nam chạy xuống phía nam. Từ đó Bhavavarman I bắt đầu hợp
nhất từng phần lãnh thổ của Phù Nam với Chân Lạp. Năm 600, Chitrasena nối
ngôi anh tiếp tục mở rộng lãnh thổ. Năm 615, Isanavarman (con của Chitrasena)
35
lên làm vua. Khoảng năm 630, Isanavarman tiến chiếm Na Phật Na (đô thị cảng
Óc Eo), nước Phù Nam chấm dứt sự tồn tại từ thời điểm này.
Chủ nhân Chân Lạp là người Khơme, thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm Môn -
Khơ me, ở vùng lưu vực sông Sêmun chảy qua Ubon (Thái Lan), vùng nam Lào
và bắc Campuchia ngày nay. Bản thân họ không phải là người bản điạ của khu
vực đông nam quốc gia Phù Nam, họ đẩy dần người Phù Nam xuống phía nam
và đến thế kỉ thứ VII thì lãnh thổ của họ bao gồm toàn bộ lãnh thổ của vương
quốc Phù Nam cũ. Đây chính là sự thay đổi chủ quyền vùng đất này từ tay người
Malayo – Polynesian (Mã Lai – Đa Đảo) sang người Khơme (Nam Á).
Sau khi Phù Nam bị sụp đổ, vùng đất này được gọi là Thủy Chân Lạp.
Việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp hết sức khó khăn. Trước
hết, đây là vùng đồng bằng mới bồi đắp còn ngập nước và sình lầy, người
Khơme với dân số ít ỏi chưa thể tổ chức khai thác trên quy mô lớn. Hơn nữa,
việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp cũng còn đang đòi hỏi
nhiều thời gian và sức lực. Ngoài ra, vào nửa sau thế kỉ thứ VIII, quân đội của
người Java đã liên tục tấn công vào các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Kết
quả là Thủy Chân Lạp bị quân Java chiếm, cả vương quốc Chân Lạp gần như bị
lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi đến năm 802 mới kết thúc [42, tr.383].
Do thói quen sinh sống trên những vùng đất cao, cộng với những điều
kiện tự nhiên và lịch sử nêu trên, nên mặc dù sau khi Phù Nam sụp đổ, đã có
một bộ phân cư dân Chân Lạp di cư sang vùng châu thổ sông Cửu Long nhưng
số lượng không nhiều. Họ chỉ quần cư thành từng phum sóc trên các giồng đất
cao ven thềm các con sông cổ, ven biển hoặc ở xung quanh khu vực Bảy Núi.
Chủ nhân của vùng đất Đông Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung lúc bấy
giờ vẫn là lớp người sinh sống từ nhiều thế kỉ trên địa bàn này. “Không thể có sự
thay thế một cơ tầng cư dân bản địa bằng một lớp cư dân khác trên một vùng
đất rộng lớn có mật độ cao như vùng châu thổ sông Cửu Long sau một cuộc
chinh phục bằng quân sự. Hiện tượng thiên cư có những điều kiện sinh thái,
36
kinh tế và xã hội của nó”[29, tr.110]. Do đó, sau khi Phù Nam sụp đổ cũng như
các dân tộc khác trong vùng, những cư dân ở Đông Nam Bộ vẫn tiếp tục sinh
sống trên đất cũ của mình và chịu ảnh hưởng chính trị của Chân Lạp. Trung tâm
chính trị của Chân Lạp lúc bấy giờ là vùng Tonle Sap (Biển Hồ), nên có lẽ đời
sống xã hội của các dân tộc ở ở đây cũng không có những biến động nào sâu
đậm lắm. Phần lớn những lãnh chúa mới của họ, là những quý tộc có quan hệ
thân tộc với các vua Phù Nam cũ. Họ tiếp tục duy trì những truyền thống văn
hóa trong kỹ thuật thủy lợi, tôn giáo, nghệ thuật và tiếp thu những yếu tố mới
của Chân Lạp trong ngôn ngữ và định chế chính trị, đồng thời chịu ảnh hưởng
của Champa trong kiến trúc. Chính vì thế, họ tiếp tục là chủ nhân của các di tích
khảo cổ có niên đại từ thế kỉ VII đến thế kỉ IX trong khu vực Đông Nam Bộ,
thời kỳ văn hóa này được các nhà khảo cổ học gọi là thời kỳ “hậu Óc Eo”.
Trên khu vực Đông Nam Bộ những di tích và di vật thời kỳ này tương đối
phong phú, đặc biệt là các tỉnh Long An, Đồng Nai, Tây Ninh và thành phố Hồ
Chí Minh.
Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã tìm thấy các di tích: di tích chùa
Cây Mai, tại đây đã tìm thấy một tượng Visnu bốn tay tiền Angkor (thế kỉ VI-
VII đến cuối thế kỉ VIII) bằng sa thạch. Di tích rạch Lò Gốm: L.Malleret đã
quan sát được hai pho tượng bằng đá trong một nhà dân. Một trong hai hiện vật
là một tượng Lokesvara tiền Angkor, cao 0,68m không tính phần đế. Di tích
trường đua Phú Thọ: những ảnh chụp từ máy bay cho thấy dấu vết của một khu
cư trú cổ, gồm những đường thẳng đan chéo hình bàn cờ như những con đường
của một thành phố. L. Malleret đặt giả thuyết đó là một phần của thị trấn Prei
Nokor cổ [29, tr.94 - 96].
Trên địa bàn tỉnh Long An, có di tích Gò Rọc Chanh (xã Tân Thạnh,
huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An) còn gọi là Gò Ông Tà hoặc Gò Lớn. Cuộc
khai quật năm 1986 đã làm xuất lộ hai kiến trúc bằng gạch có dạng hình chữ
37
nhật gần vuông, niên đại được đoán định vào khoảng cuối thế kỉ VII đầu thế kỉ
VIII sau công nguyên.
Di tích Gò Năm Tước cũng gọi là Lò Gạch thuộc cụm di tích Bình Tả, xã
Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa. Di tích là một đền thờ chỉ còn lại phần móng,
thuộc loại kiến trúc gạch gỗ hỗn hợp. Niên đại kiến trúc được đoán định khoảng
thế kỉ VII – VIII sau công nguyên [127, tr.368].
Di tích Gò Sao (thế kỉ VII – VIII), thuộc xã Tân Phú, huyện Đức Hòa.
Cuộc khai quật năm 1987, đã làm xuất lộ một kiến trúc nhỏ xây bằng gạch. Di
tích này có niên đại đầu thế kỉ VIII sau công nguyên [127, tr.371].
Di tích Gò Trâm Quỳ, thuộc nhóm di tích Tho Mo, xã Hòa Khánh Nam,
huyện Đức Hòa. Cuộc khai quật năm 1987, đã làm xuất lộ một kiến trúc gạch
khá lớn. Những di vật tìm thấy bao gồm 1 linga – yoni nhỏ bằng thạch anh trong
suốt, một mảnh đầu tượng Ganesa, hạt chuỗi bằng đá quý, thủy tinh, 50 mảnh
vàng vụn, một công cụ bằng sắt nhiều viên cuội. Niên đại của di tích vào khoảng
thế kỉ VIII – IX [127, tr.372].
Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có di tích Đồng Bơ nằm trong cánh đồng
trũng thuộc xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu. Di tích Đồng Bơ thuộc loại kiến trúc
đền tháp, kết hợp giữa đá và gạch của Hin du giáo. Những di vật thu được có
đặc trưng của văn hóa Óc Eo – hậu Óc Eo, niên đại đoán định vào khỏang thế kỉ
VII – VIII sau công nguyên. Cùng niên đại với di tích Đồng Bơ còn có di tích
Bàu Sen (xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu), di tích Rạch Đông (xã Hố Nai 4,
huyện Thống Nhất), di tích Suối Ràng…Ngoài ra trên vùng thượng lưu sông
Đồng Nai còn có: di tích Nam Cát Tiên (xã Nam Cát Tiên, huyện Tân Phú), di
tích Đạ Lắk trong khu vực Vườn quốc gia Cát Tiên. Kiến trúc của hai di tích này
cơ bản giống nhau, mang đặc trưng của một kiến trúc hỗn hợp gạch đá, dạng
một đền tháp thuộc loại hình di chỉ khá phổ biến trong thời kỳ hậu Óc Eo vào
khoảng thế kỉ VII – VIII sau công nguyên [127, tr.369 - 370].
38
Theo những khám phá khảo cổ học, thì trong khoảng thế kỉ VII – VIII sau
công nguyên, trên đất cũ Tây Ninh có hàng trăm ngôi tháp bằng gạch mà ngày
nay chỉ còn thấy dưới dạng những phế tích được dân địa phương gọi là lò gạch
hoặc gò tháp mang tên Việt ngữ, Hán ngữ hoặc Khơme, Chăm… Di tích những
gò tháp này có diện phân bố khá rộng và thường quy tụ thành những quần thể có
số lượng từ vài ba gò đến hơn chục gò. Nhìn chung, các quần thể Gò Tháp đều
được dựng trên thềm đất xám phù sa cổ vững chắc, gần bờ sông Vàm Cỏ Đông
hoặc cạnh những con rạch, con sông nhỏ, có dòng chảy đổ ra sông lớn Vàm Cỏ
Đông…Những quần thể gò tháp ấy, vào thời bấy giờ, đều là những nơi thường
xuyên có các sinh hoạt thờ cúng của cư dân trong vùng, trong từng địa
phương…Ngày nay, phần lớn đều đã đổ nát, hoang phế, chỉ có hai địa điểm còn
lưu tồn kiến trúc tháp thờ tương đối vẹn toàn là tháp Chót Mạt có niên đại thế kỉ
VIII và tháp Bình Thạnh có niên đại vào khoảng thế kỉ VIII – IX sau công
nguyên [125, tr.80 - 81].
Từ thế kỉ IX đến cuối thế kỉ XII, Chân Lạp trở thành một quốc gia thống
nhất, cường thịnh, tạo dựng nên nền văn minh Angkor rực rỡ đồng thời mở rộng
lãnh thổ gồm cả một phần lãnh thổ của Chiêm Thành, các tỉnh Hạ và Trung của
Lào, các tỉnh phía Đông nước Xiêm, một phần đất Miến Điện và bán đảo Mã
Lai. Trong thời gian này, nhiều phong cách nghệ thuật trong điêu khắc và kiến
trúc đã hình thành và phát triển chuẩn bị cho những đại công trình Angkor Vat,
Angkor Thom, những đỉnh cao nghệ thuật của thời đại Angkor. Nhưng ở vùng
Đồng Nai – Gia Định, các di tích khảo cổ học, dấu tích của văn hóa Khơme và
văn minh Angkor trong giai đoạn này hết sức mờ nhạt [42, tr.384]. Những vết
tích văn hóa của thời kỳ này ở trên vùng đất Đông Nam Bộ không nhiều, chỉ rải
rác một số nơi như: di chỉ Gò Bường thuộc địa phận xã Long Phước, huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai, có tên cũ là Nhà Mát hay Bàu Thành. Góc đường
Lê Hồng Phong (thành phố Hồ Chí Minh), di chỉ Ông Yệm, di chỉ Giồng Lớn
thuộc tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Chợ Lớn cũ.
39
Từ thế kỉ XII đến thế kỉ XIII, Chân Lạp lại rơi vào thời kỳ binh biến ở
phía đông, với những cuộc chiến triền miên giữa Chân Lạp và Champa. Tiếp
theo là các đợt xâm lăng của đế quốc Mông – Nguyên vào các nước Đông Nam
Á. Do đó ảnh hưởng chính trị và văn hóa của các triều đại Angkor ở Đông Nam
Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung là rất mờ nhạt.
Vào các thế kỉ XIV – XVII, do những mâu thuẫn giữa phong kiến Đại
Việt và Champa, giữa các vương quốc Thái và Chân Lạp đã đưa đến sự di cư
của một số cư dân Chăm đi xa hơn về phía nam, một số cư dân Khơme đi xa hơn
về phía đông, gây nên những tranh chấp mới giữa Champa và Chân Lạp. Vùng
hạ lưu sông Đồng Nai cũng là địa bàn tranh chấp giữa các tộc người bản địa với
người Chăm và người Chân Lạp. Vì thế, vùng Đông Nam Bộ trong giai đoạn
này về hình thức thì có thời nội thuộc Chiêm Thành, có thời nội thuộc Chân Lạp
– thuộc Thủy Chân Lạp. Nhưng dò theo danh mục 41 tỉnh hạng nhất, 7 tỉnh
hạng nhì, 5 tỉnh hạng ba, 3 tỉnh hạng tư của nước Chân Lạp những thưở đó,
không thấy ở đâu ghi rằng vùng Đồng Nai thuộc tỉnh nào. Nói rằng đây là đất
vô chủ thì không đúng hẳn; mà nói rằng đây là tỉnh huyện của Chân Lạp, Chiêm
Thành thì cũng không thật phải [29, tr.236].
Dưới thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, những cộng đồng người Việt đầu
tiên đến khai phá lập nghiệp ở vùng đất Đông Nam Bộ này và hoạt động khai
phá càng được đẩy mạnh vào cuối thế kỉ XVII. Song một tình trạng đáng ghi
nhận là khi người Việt đến thì nơi đây là một vùng hoang vu, hầu như không có
bóng người. Tình trạng hoang vu đầy rừng rậm của vùng đất này cho đến cuối
thế kỉ XVIII đã được Lê Quý Đôn mô tả trong Phủ Biên tạp lục như sau: “Phủ
Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển như Cần Giờ, Xoài Lạp, cửa Đại, cửa
Tiểu đi vào toàn là rừng rậm, rộng hơn ngàn dặm” [24, tr.255].
Cảnh quang này không khác mấy so với những mô tả của Chu Đạt Quan,
trong hồi ký Chân Lạp phong thổ ký sau chuyến đi sứ đến Chân Lạp vào năm
1296: Từ chỗ vào Chân Bồ trở đi, phần lớn là rừng thấp cây rậm, mây leo um
40
tùm, tiếng chim muông chen lẫn nhau ở đó. Đến nửa cảng mới thấy ruộng đồng
rộng rãi, tuyệt không có một tấc cây. Nhìn xa xa chỉ thấy cây lúa rờn rờn mà
thôi. Trâu rừng hợp thành từng đàn trăm ngàn con, tụ tập ở đấy. Lại có giồng
đất đầy tre dài dằng dặc mấy trăm dặm [75, tr.38].
Alexandre de Rhodes, một nhà truyền giáo phương Tây, đến vùng châu
thổ này vào thế kỉ XVI cũng đã nhận xét đây là một vùng đất “quạnh hiu, hoang
mạc và không có vật gì thuộc về sự sống” [42, tr. 366].
Sự hoang hóa của vùng đất Nam Bộ là do nhiều nguyên nhân, cả về điều
kiện tự nhiên lẫn xã hội. Một trong những nguyên nhân khá quan trọng, dẫn đến
sự hoang vắng gần như bỏ hoang ở khu vực này là xuất phát từ điều kiện khách
quan. Theo tác giả Đỗ Quỳnh Nga, trong “Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ thời
chúa Nguyễn” thì đó là đợt biển tiến quy mô cục bộ Holocene IV diễn ra vào
khoảng thế kỉ VI đến thế kỉ XII mà đỉnh cao là vào nửa đầu thế kỉ VII - một
trong những yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Phù Nam, tạo điều kiện cho Chân
Lạp chinh phục vương quốc này. Đây cũng là lý do khiến cho Chân Lạp tuy
chiếm được Phù Nam nhưng không thể khai thác phần trung tâm của vương
quốc này (Nam Bộ) vì phần đất này bị chìm trong biển nước. Đợt biển tiến đạt
đến độ cao 0,8m - 1m đã nhấn chìm trung tâm của Phù Nam là vùng đất Tây
Nam Bộ ngày nay. Chính vì thế sau đợt biển tiến, nơi đây chỉ còn những nhóm
người biệt lập sinh sống trên các cồn phù sa và giồng cát ven biển [64, tr.27].
Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học cho thấy sự thay đổi của tự nhiên đã
tác động rất lớn đến Phù Nam và tiếp theo là Chân Lạp. Sự suy yếu của Phù
Nam bắt nguồn từ sự hình thành các giồng cát ven biển và ven sông khiến các
vùng đồng bằng bị cô lập và ngập lụt. Bên cạnh đó, con đường giao thương
chuyển hướng đã khiến cho nền kinh tế Phù Nam ngày càng suy giảm. Sự thay
đổi chính thể giữa Phù Nam và Chân Lạp không gây ra những xáo trộn đột ngột
trong đời sống văn hóa xã hội, nhưng những thay đổi về điều kiện tự nhiên, kinh
tế và thương mại, hẳn đã góp phần khiến vùng đất Nam bộ bị phân liệt. Và đế
41
chế Khơme dù phát triển bành trướng sang nhiều vùng thuộc miền trung và
đông bắc Thái Lan, nam Lào thì chỉ có thể khống chế một số vùng của Nam Bộ
ở những thời điểm nhất định trong lịch sử mà thôi [42, tr.89].
Mặc dù vào đầu thế kỉ VIII, đã có chứng tích về sự hiện diện của người
Chân Lạp trên đồng bằng Nam Bộ nhưng người Khơme có thói quen sinh sống
trên vùng đất cao nên tình trạng chung của toàn vùng vốn có nhiều đầm lầy,
sông rạch của Phù Nam cũ, kể từ thời điểm đó đã bị bỏ thành hoang phế. Cũng
vào thời kỳ này, có lẽ đã diễn ra quá trình tan rã trong cơ cấu của nhiều cộng
đồng cư dân bản địa, do không thích nghi được với hoàn cảnh chính trị mới, do
sự hiện diện của tộc người Chân Lạp mới du nhập, do tình trạng chiến
tranh…các tộc người bản địa đã dần dần rời bỏ địa bàn sinh hoạt của họ, trở lại
vùng đất thưở xưa, tiếp tục với lối sống xưa của miền rừng núi mà hậu duệ của
họ hiện nay vẫn đang sống trên vùng đất nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ
như người Mạ, Châu Ro, Stiêng…Lúc này, ở vùng Đông Nam Bộ nói riêng và
Nam Bộ nói chung cây dại, cỏ hoang phát triển mạnh, cọp, voi, cá sấu cũng như
rắn rết, đĩa vắt, muỗi mòng sinh sôi nảy nở…
Ngoài ra, một nguyên nhân mang ý nghĩa quyết định đến sự hoang vắng
của Nam Bộ, chính là đặc thù của sự chuyển tiếp từ Phù Nam qua Chân Lạp đối
với vùng đất này.
Đều là những cư dân nông nghiệp nhưng phương thức sản xuất nông
nghiệp của Phù Nam và Chân Lạp hoàn toàn khác nhau. Người Phù Nam trồng
lúa nước đại trà, phải đương đầu với việc thoát thủy cho cả một vùng đất châu
thổ rộng lớn hơn là dẫn thủy nhập điền. Thương nghiệp đem lại một nguồn thu
nhập không kém phần quan trọng so với nông nghiệp. Người Chân Lạp trái lại,
quen khai thác đất đồi núi, lợi dụng nước thiên nhiên chảy theo sườn dốc. Họ
phải trữ nước mùa mưa để tưới ruộng vào mùa khô. Hai tập quán làm ruộng
khác nhau đó hiển nhiên đã tạo ra những dị biệt khá cơ bản trong lối sống của
hai dân tộc, đặc biệt về không gian sinh tồn và về tổ chức xã hội [42, tr.75].
42
Nếu như Phù Nam được biết đến như một “cường quốc thương nghiệp
viễn dương”, là một quốc gia chủ yếu mang bản sắc văn hóa Indonesian ở ven
biển và sống nhờ biển. Mở rộng vòng tay với một tầm nhìn quốc tế, Phù Nam
đón nhận mọi yếu tố văn hóa của các dân tộc từ đông sang tây, hội nhập vào thế
giới và trở thành một trung tâm văn hóa chung trong khu vực biển Đông thì
Chân Lạp là một quốc gia Khơme đơn thuần, khép kín trong vùng rừng núi cao
nguyên trung du sông Mê Kông, chưa từng biết đến biển cả, xa lạ với yếu tố
biển và sống nhờ vào nông nghiệp [64, tr.28].
Chính vì thế, dù đã chiếm được Phù Nam nhưng vì những biến động của
điều kiện tự nhiên tác động và do sự khác nhau về tập quán cư trú, phương thức
sinh hoạt kinh tế với Phù Nam nên người Chân Lạp không thể thích ứng với
vùng này. Ngoại trừ một số khu vực cao ráo nhỏ lẻ có số ít người Khơme sinh
sống thì phần lớn vùng Nam Bộ hầu như bị hoang phế.
Tiểu kết chương 1
Đông Nam Bộ là vùng đất tương đối bằng phẳng, màu mỡ, có nhiều sông
rạch, khí hậu ôn hòa, không có gió bão…nên từ xa xưa đã là nơi cư trú của các
cư dân cổ, họ là tổ tiên của các tộc người hiện đang sinh sống ở một số tỉnh ở
Đông Nam Bộ và Tây Nguyên như: Mạ, Stiêng, Mnông, Cơho…các tộc người
này đã xây dựng nên một nền văn hóa đầy bản sắc “văn hóa tiền sử Đông Nam
Bộ”. Từ đầu công nguyên, vùng đất này thuộc quyền cai quản của vương quốc
Phù Nam, chủ nhân của vương quốc này là cư dân Mã Lai - Đa Đảo kết hợp với
cư dân bản địa. Đến thế kỉ VII, do sự tiến chiếm của Chân Lạp nên vùng đất này
phụ thuộc Chân Lạp, chủ nhân là người Khơme. Người Khơme có thói quen
sống và làm ruộng trên những vùng đất cao, dân số ít, trung tâm chính trị của đất
nước họ lúc bấy giờ là ở Biển Hồ, trong khi vùng đất Nam Bộ nói chung và
Đông Nam Bộ nói riêng là vùng ngập nước nên số lượng người Khơme xuống
sinh sống trên vùng đất này rất ít, họ chỉ định cư rải rác trên một số vùng đất
cao. Từ thế kỉ VII đến thế kỉ XVII, do những chuyển biến trong cơ cấu dân cư;
43
do sự không thích ứng với điều kiện chính trị, kinh tế và văn hóa dưới thời Chân
Lạp; do tình trạng chiến tranh triền miên giữa Chân Lạp và Champa trên địa bàn
Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ; do những ảnh hưởng của các đợt tấn công của
đế quốc Mông Nguyên vào các nước Đông Nam Á vào thế kỉ XIII…nên vùng
đất Nam Bộ nói chung và Đông Nam Bộ nói riêng trở nên hoang hóa. Vùng đất
này, chỉ thay đổi hoàn toàn từ khi có mặt của lớp cư dân mới - di dân Việt vào
thế kỉ XVII. Từ chỗ là rừng rậm hoang vu, nơi đây dần dần trở thành những xóm
làng trù mật với những cánh đồng lúa xanh mát, những thị trấn, thị tứ sầm uất và
sau đó trở thành một bộ phận không thể tách rời của quốc gia Đại Việt.
44
Chương 2
QUÁ TRÌNH MỞ ĐẤT ĐÔNG NAM BỘ TRONG
THẾ KỈ XVII - XVIII
Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ trong thế kỉ XVII – XVIII, đã chịu sự chi
phối của nhiều yếu tố trong và ngoài nước. Trong nước chịu sự ảnh hưởng của
định hướng nhìn về phương Nam của các vương triều phong kiến Đại Việt, của
cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn và của công cuộc mở đất Nam Trung Bộ. Mặt
khác, những diễn biến trong khu vực cũng tạo ra những điều kiện khách quan vô
cùng thuận lợi để thúc đẩy việc mở mang Đông Nam Bộ. Cụ thể là sự suy yếu
của Chân Lạp cùng với những mâu thuẫn nội bộ và những biến động xung
quanh mối quan hệ giữa Xiêm La – Chân Lạp – Đàng Trong của Đại Việt.
Ngoài ra, ảnh hưởng của luồng thương mại quốc tế và chính sách mở cửa của
chúa Nguyễn ở Đàng Trong cũng tác động không nhỏ đến quá trình mở đất
Đông Nam Bộ.
2.1. Bối cảnh lịch sử
2.1.1.Tình hình trong nước
2.1.1.1. Công cuộc mở đất về phía Nam trước thời chúa Nguyễn
Nhìn về phía Nam là một định hướng phát triển mang tính chất truyền
thống của nhiều vương triều Đại Việt. Đó là một quá trình liên tục của nhiều
triều đại phong kiến trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, được bắt
đầu từ rất sớm. Nếu cuộc mở đất Nam Bộ thời chúa Nguyễn là khâu cuối cùng
để hoàn thiện công cuộc mở mang lãnh thổ Đại Việt, thì quá trình mở đất về
phía Nam trước chúa Nguyễn được xem là màn mở đầu.
Cương vực Đại Việt buổi lập quốc bao gồm miền Bắc và Bắc Trung Bộ
ngày nay, đất đai nhỏ hẹp lại luôn chịu sức ép từ Trung Hoa hùng mạnh từ phía
Bắc luôn lăm le xâm lược. Vì lý do sinh tồn nên các triều đại phong kiến Đại
Việt buộc phải tiến hành công cuộc mở mang lãnh thổ, phía đông nước ta là biển
45
cả, phía tây là núi rừng, giao thông hiểm trở nên chỉ còn một con đường duy
nhất là tiến về phía Nam. Mặt khác, Champa – chủ nhân vùng đất phía Nam - là
một vương quốc tuy không mạnh nhưng cũng thường hay chủ động đem quân
quấy nhiễu Đại Việt nên việc bình định, thu phục diễn ra cũng là điều thuận theo
quy luật lịch sử của chế độ phong kiến và mối quan hệ quốc tế lúc bấy giờ
“mạnh được yếu thua” trở thành nguyên tắc trong quan hệ giữa các nước.
Công cuộc mở đất về phương Nam của Đại Việt trước thời các chúa
Nguyễn diễn ra liên tục qua các triều đại, càng về sau quá trình ấy càng quyết
liệt và thể hiện rõ hơn bản chất của một nhà nước trong mục tiêu mở rộng lãnh
thổ.
Quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Nam được bắt đầu từ năm 1069 dưới
triều Lý (1010 -1225), khi vua Lý Thánh Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đi
đánh Chiêm Thành vì nước này không chịu triều cống. Kết quả, quân Champa
tan vỡ, tướng tử trận, vua bị bắt. Để được tha, “vua Chiêm Thành là Chế Củ đã
dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chánh để chuộc tội” [48, tr.197]. Châu Bố
Chính ngày nay thuộc tỉnh Quảng Bình, châu Địa Lý, Ma Linh thuộc tỉnh Quảng
Trị. Như vậy, đến thời Lý, lãnh thổ nước ta được kéo dài đến địa phận tỉnh
Quảng Trị ngày nay và phần đất được mở rộng ấy là phần lãnh thổ của nước
láng giềng ở phía nam - nước Champa.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt cho đổi “châu Địa Lý làm châu Lâm Bình,
châu Ma Linh làm châu Minh Linh, chiêu mộ nhân dân đến ở đây” [48, tr. 201].
Năm 1104, Chiêm Thành đem quân chiếm lại 3 châu này nhưng ngay sau đó Lý
Thường Kiệt “đi đánh phá được, Chế Ma Na lại nộp đất ấy” [48, tr.207], Đại
Việt lại giành lại được 3 châu ấy.
Đến thời Trần, vào năm 1306, Đại Việt có thêm hai châu là châu Ô và
châu Lý (vùng đất từ Quảng Trị đến bắc sông Thu Bồn), do vua Chế Mân dâng
làm sính lễ trong cuộc hôn nhân ngoại giao với Huyền Trân công chúa. Sự kiện
này được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau: Trước đây vua Chiêm
46
Thành Chế Mân đem đất hai châu ấy làm lễ vật dẫn cưới, người các thôn La
Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo, vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý
của triều đình, chọn người trong bọn chúng bổ cho làm quan, lại cấp cho ruộng
đất, tha tô thuế cho 3 năm để vỗ về [48, tr.341].
Việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam cũng được tiếp tục dưới triều Hồ.
Năm 1402, Hồ Quý Ly cử đại binh chinh phạt Chiêm Thành và thắng trận,
Chiêm Thành phải dâng 2 châu Chiêm Động và Cổ Lũy (ngày nay Chiêm Động
thuộc nam Quảng Nam và Cổ Lũy thuộc bắc Quảng Ngãi) để cầu hòa. Hồ Quý
Ly lấy đất ấy lập ra 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và gộp làm lộ Thăng Hoa.
Điều này có nghĩa, đến thời Hồ lãnh thổ phía nam Đại Ngu được mở rộng đến
Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay. Nhưng khi nhà Minh cai trị thì khu vực
này bị Chiêm Thành chiếm lại, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi : Giáp Ngọ (1414)
(Minh Vĩnh Lạc thứ 12) “phủ Thăng Hoa tuy có đặt quan, nhưng Chiêm Thành
vẫn có trưởng lộ chiếm giữ, nên nhà Minh chỉ ghi tên không mà thôi”
[48, tr.471]. Tác giả Đào Duy Anh dựa vào Hoàng Minh thực lục và đưa ra bằng
chứng về điều này “năm Vĩnh Lạc thứ 13, tháng 11, vua nước Chiêm Thành là
Chiêm Ba Dịch Lai… lại xâm đoạt đất 4 châu 11 huyện thuộc phủ Thăng Hoa
đuổi cướp nhân dân”[2, tr.289]. Như vậy, nhà Minh đặt phủ Thăng Hoa từ năm
trước nhưng chưa kịp chiếm giữ thì Chiêm Thành đã chiếm lấy, đây cũng là lý
do về sau vua Lê Thánh Tông đích thân đem quân đi đánh Champa, để đòi lại
các vùng đất vốn đã thuộc về nước ta.
Đến thời Lê Sơ (thế kỉ XV), quá trình Nam tiến còn diễn ra quyết liệt hơn.
Năm 1470, để chấm dứt sự quấy phá của Champa (ngoài việc cướp lại Chiêm
Động và Cổ Lũy, Champa còn cầu viện quân Minh và xuất 10 vạn quân binh ra
cướp Hóa Châu), Lê Thánh Tông đem 26 vạn quân đánh Chiêm Thành. Năm
1471, Đại Việt đã lấy lại 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa bị mất trong thời gian
cai trị của nhà Minh. Ngoài ra, trong cuộc viễn chinh này, nhà vua đã lấy cả
vùng Vijaya – vùng kinh đô của Champa, nay là Bình Định- nhập vào Chiêm
47
Động và Cổ Lũy, lập ra một đạo mới gọi là đạo Quảng Nam. Như vậy, đến thời
điểm này lãnh thổ Đại Việt đã mở rộng đến Bình Định ngày nay.
Để dễ bề vỗ an dân chúng, nhà vua đã lấy người của nước Champa giữ
chức vụ cai quản, nhưng cũng nghiêm khắc trị những kẻ làm phản. "Hai châu
Đại Chiêm và Cổ Luỹ trước là đất của ta, đời gần đây bị mất vào đất Chiêm,
nay lấy lại được hết, đặc cách sai bọn các ngươi trấn giữ. Có kẻ nào không chịu
theo, cho giết trước rồi tâu sau" [48, tr.662].
Sau chiến thắng năm 1471, vua Lê Thánh Tông không rút hết quân về
nước như những lần trước đó, mà cho quân đóng tại Champa. Để phân tán sức
mạnh của Champa, vua Lê Thánh Tông đã chia nhỏ nước này thành 3 tiểu quốc
khác nhau: Champa (miền đất từ Đại Lãnh trở vào), Nam Bàn (sau trở thành 2
nước Thủy Xá, Hỏa Xá và ngày nay là vùng Tây Nguyên) và nước Hoa Anh
(vùng đất Phú Yên ngày nay) [64, tr.32].
Với mong muốn giữ yên bờ cõi nước nhà, nhất là vùng biên cương, tương
truyền rằng nhà vua đã cho khắc bia ở đỉnh núi cao nhất để phân định địa giới
giữa nước ta và Champa. "Chiêm Thành quá thử, binh bại, quốc vong. An Nam
quá thử, tướng tru, binh chiết" (Chiêm Thành qua đấy, quân thua nước mất, An
Nam qua đấy tướng chết quân tan) [30, tr.161].
Như vậy có thể khẳng định: đến triều vua Lê Thánh Tông, lãnh thổ nước
ta đã mở rộng vào phía nam đến núi Thạch Bi, đèo Cù Mông thuộc tỉnh Bình
Định ngày nay. Nhưng trên thực tế thì chính quyền của nhà Lê vẫn chưa được
thiết lập đến tận vùng đất này. Biểu hiện rõ nhất chính là việc vua Lê Thánh
Tông đã giao lại việc coi giữ các vùng đất này cho những tướng cũ của Champa.
Suốt khoảng thời gian dài sau đó, Đại Việt không mở rộng được lãnh thổ của
mình xuống phía nam trên phần lãnh thổ của Champa, mà duy trì mốc ranh giới
vua Lê Thánh Tông đã đặt ra. Điều này chứng tỏ rằng, vấn đề quan trọng với
chính quyền Đại Việt là bảo vệ biên cương, bờ cõi đất nước, còn vấn đề xâm
chiếm đất đai, mở rộng lãnh thổ chưa phải là vấn đề bức thiết và sống còn.
48
Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV, chính quyền Đại Việt đã mở rộng lãnh thổ
của mình xuống sâu vào lãnh thổ của Champa nhưng việc đưa dân đến khai
khẩn vùng đất này còn rất hạn chế, chưa được xúc tiến mạnh. Nhà nước chỉ để
các đạo binh đến đóng giữ, chiêu mộ một số ít dân khai khẩn, hàng năm thu thuế
và thúc giục dân bản xứ triều cống cho mình. Việc cai trị vùng đất này chủ yếu
giao cho người bản xứ đảm trách, chỉ đặt một viên quan biên trấn để trông coi
mọi việc và báo cáo tình hình về triều đình. Điều đó cho thấy Đại Việt không
phải vì mục đích di dân, chiếm đất của Champa mà vì chủ đích muốn thể hiện
cái uy của nước lớn, bắt các nước nhỏ bên cạnh mình phải thần phục và chịu
cống nạp cho Đại Việt, quan trọng hơn cả là việc giữ gìn biên cương, bảo vệ chủ
quyền, lãnh thổ của đất nước. Lúc đầu là tự vệ trước sự tấn công của Champa,
sau đó mới thừa thắng chiếm đất.
Sự thực chính sách di dân, chiếm đất của chính quyền Đại Việt chỉ bắt
đầu từ triều Hồ (1403- 1407), khi Hồ Hán Thương cho làm con đường thiên lý
từ Tây Đô (Thanh Hóa) chạy đến Hóa Châu. Sau đó lấy đất Chiêm Động, Cổ
Lũy phân ra bốn châu, đặt chức An phủ sứ và phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị vào
năm 1402. Đến năm 1403, Hán Thương “đem những người không có ruộng mà
có của đến miền các châu Thăng Hoa biên làm quân ngũ, các quan lộ, phủ,
châu, huyện phải chọn đất cho họ ở” [48, tr.438] và để những người này không
thể quay trở lại phía bắc khi gặp khó khăn, như vẫn thường xảy ra trong quá
khứ, nhà Hồ còn ra lệnh ai ở châu nào thì phải thích chữ tên châu ấy vào cánh
tay để làm dấu hiệu. Dù chỉ là một triều đại ngắn ngủi nhất trong lịch sử Việt
Nam, “nhà Hồ cũng đã đánh dấu một bước quyết định trong con đường Việt
Nam tiến về phía Nam, tạo một bầu không khí chung cho giai đoạn sau này”
[94, tr.28].
Như vậy, công cuộc mở mang lãnh thổ của các triều đại trước đã là tiền đề
và điều kiện thuận lợi cho các chúa Nguyễn trong việc tiếp tục mở đất về
phương Nam.
49
2.1.1.2. Trịnh - Nguyễn phân tranh
Ngay từ khi cuộc chiến Nam – Bắc triều còn đang tiếp diễn, trong nội bộ
Nam triều đã nảy sinh mầm móng chia rẽ. Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị
sát hại, vua Lê trao mọi quyền bính cho Trịnh Kiểm (con rể Nguyễn Kim), quan
hệ hai họ Trịnh – Nguyễn đến đây bị rạn nứt. Để thâu tóm mọi quyền lực, Trịnh
Kiểm tìm mọi cách loại bỏ ảnh hưởng của họ Nguyễn, mâu thuẫn giữa hai thế
lực đến độ gay gắt khi người con trai trưởng của Nguyễn Kim là tả tướng
Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm lập mưu giết hại. Em trai của Nguyễn Uông là
Nguyễn Hoàng, theo lời gợi ý của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đã nhờ chị gái là Ngọc
Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn thủ Thuận Hóa.
Cuối năm 1558, Nguyễn Hoàng đưa gia quyến, tùy tùng và họ hàng thân
thuộc ở huyện Tống Sơn vào Thuận Hóa. Năm sau, vùng Thanh Hóa, Nghệ An
bị lụt to, hàng trăm ngàn gia đình bị mất nhà cửa, mùa màng thất bát, nhân dân
đói khổ, nhiều người đã kéo nhau vào Thuận Hóa để tìm kế sinh nhai.
Khi Nguyễn Hoàng vào, đây còn là một vùng đất dân cư thưa thớt, kinh tế
kém phát triển, để lôi kéo nhiều người đến Thuận Hóa làm ăn sinh sống, Nguyễn
Hoàng và những người cộng sự của ông đã thực thi một chế độ cai trị khoan
hòa, khuyến khích sản xuất. Sách Đại Nam thực lục viết: “Chúa vỗ về quân dân,
thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, thường gọi là chúa
Tiên” [78, tr.28]. Hay “bấy giờ chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi,
nhân dân đều an cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền
buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn” [78, tr.31]. Chẳng
thế mà Lê Quý Đôn, một quan lại cao cấp của họ Trịnh, mặc dù lập trường đối
địch nhưng khi đánh giá về Nguyễn Hoàng cũng phải thừa nhận: “Nguyễn
Hoàng là người oai phong và mưu lược, xét việc thận trọng nên người ta không
thể lừa dối được. Hơn thế nữa (Nguyễn) Hoàng thi hành chính sự khoan dung
hòa nhã, tiết chế quân đội rất nghiêm minh và kính cẩn nên quân dân hai xứ đều
thân yêu tin phục ông” [23, tr.54-55].
50
Đối với triều Lê, Nguyễn Hoàng tỏ ra hết sức mềm dẻo, khiến cho họ
Trịnh không chút nghi ngờ. Sau 10 năm làm trấn thủ Thuận Hóa, năm 1570,
Nguyễn Hoàng được tin cậy giao cho kiêm lãnh trấn thủ cả xứ Quảng Nam (từ
đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông ngày nay).
Có trong tay quyền cai quản toàn bộ hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam,
nhưng Nguyễn Hoàng vẫn tiếp tục giữ vẻ bề ngoài hòa hiếu với chính quyền Lê
– Trịnh. Suốt nửa sau thế kỉ XVI, tổ chức chính quyền và khu vực hành chính
của Thuận - Quảng vẫn như cũ. Hằng năm, chúa Trịnh vẫn cử quan lại vào kiểm
tra, đo đạc lại ruộng đất, định ngạch thuế. Nguyễn Hoàng vẫn ra Thanh Hóa yết
kiến vua Lê, hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ. Thậm chí ông còn đưa quân
ra Thăng Long giúp vua Lê – chúa Trịnh đánh nhà Mạc vào năm 1593. Tuy là
thế nhưng ông cũng hết sức chú trọng phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực về
mọi mặt để thực hiện mục đích “cát cứ” của mình.
Khi cục diện Nam – Bắc triều kết thúc cũng là lúc mâu thuẫn giữa hai tập
đoàn Trịnh – Nguyễn đến ngày không thể dung hòa. Sau hơn 40 năm gây dựng
lực lượng, trước khi qua đời vào năm 1613, Nguyễn Hoàng đã nói rõ ý đồ của
mình với con cháu và thuộc hạ trong lời trăn trối: Đất Thuận Quảng phía bắc có
núi Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh Giang] hiểm trở, phía nam có núi
Hải Vân và núi Đá Bia [Thạch Bi sơn] vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá
muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để
chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời [78, tr.37]. Người
trực tiếp thực hiện lời di huấn ấy là Nguyễn Phúc Nguyên, con trai thứ sáu của
Nguyễn Hoàng.
Ngay sau khi thay cha làm trấn thủ vùng Thuận – Quảng, Phúc Nguyên đã
tích cực thực hiện lời di huấn của Nguyễn Hoàng. Ông cho sửa thành lũy, sắp
đặt lại hệ thống quan ải, cải tổ bộ máy cai trị và xưng quốc tính họ Nguyễn
Phúc. Năm 1614, 3 ty Đô, Thừa, Hiến theo thiết chế quân sự của hệ thống chính
quyền nhà Lê bị bãi bỏ, thay bằng ty Xá sai (coi việc văn án kiện tụng), ty
51
Tướng thần (coi việc trưng thu tiền thóc, phát lương cho quân các đạo) và ty
Lệnh sử (coi việc tế tự, lễ tiết và chi cấp lương hướng cho quân đội Chính dinh).
Năm sau (1615), quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các phủ, huyện
được ban hành. Năm 1618, chính quyền họ Nguyễn tiến hành đo đạc lại ruộng
đất hai xứ, làm cơ sở cho việc quản lý. Công khai hơn, là lấy cớ chúa Trịnh vô
cớ nổi binh (năm 1620, khi Trịnh Tráng sai đô đốc Nguyễn Khải đem 5000 quân
đến cửa biển Nhật Lệ để uy hiếp), Phúc Nguyên đã từ chối không nộp thuế cống
nữa [78, tr.38 - 40].
Khi Trịnh Tráng lên thay Trịnh Tùng, đã thi hành chính sách cứng rắn đối
với họ Nguyễn. Năm 1627, chiến tranh Trịnh – Nguyễn đã bùng nổ, chiến
trường chủ yếu diễn ra ở hai bên bờ sông Gianh, vùng Quảng Bình và Nghệ An,
Hà Tĩnh ngày nay. Trong vòng 45 năm, quân Trịnh đã 6 lần tấn công với quy
mô lớn vào Đàng Trong vào các năm 1627, 1633, 1643, 1648, 1661 và 1672.
“Nhìn toàn cục, lực lượng quân Trịnh mạnh hơn, có thời kỳ quân Trịnh đã huy
động tới 20 vạn quân thủy bộ với 600 chiến thuyền, 500 thuyền vận tải và 500
voi cho một trận đánh. Trong khi đó, quân đội thường trực của Đàng Trong chỉ
có khoảng 4 vạn bộ binh và 200 chiến thuyền” [66, tr.142]. Nhưng do phải điều
động quân đi xa và gặp rất nhiều khó khăn trước hệ thống lũy phòng ngự kiên cố
của quân Nguyễn nên quân Trịnh không lần nào giành được thắng lợi quyết
định. Năm 1655, quân Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài, cuộc chiến kéo dài 5 năm,
quân Nguyễn mới bị đẩy lùi khỏi đất Nghệ An. Sau 7 lần đánh nhau, có lúc đã
lôi kéo cả người nước ngoài vào cuộc mà kết cục không bên nào thắng bên nào.
Cả hai bên đều kiệt quệ về sức người, sức của nên cuối cùng phải chấp nhận
đình chiến (năm 1672), thỏa thuận lấy sông Gianh làm ranh giới tự nhiên của hai
miền. Vùng đất từ đèo Ngang trở ra bắc nằm dưới quyền cai trị của chính quyền
Lê – Trịnh gọi là Đàng Ngoài, vùng đất Thuận – Quảng được gọi là Đàng
Trong.
52
Nhìn bề ngoài thì đây là cuộc chiến tranh không phân thắng bại nhưng
nếu xét theo mục đích thì bên thất bại là chính quyền Lê – Trịnh. Họ Nguyễn đã
bước đầu thực hiện được ý đồ của mình trong việc tách Đàng Trong ra thành
một giang sơn riêng. Đây là điều kiện căn bản và khởi đầu cho công cuộc mở
đất tiếp tục ở vùng Nam Trung Bộ.
2.1.1.3. Công cuộc mở đất Nam Trung Bộ thời chúa Nguyễn
Từ thế kỉ XVI, việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam của Đại Việt mà trước
hết là của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong không chỉ vì bảo vệ chủ
quyền biên giới, chống lại các cuộc xâm lấn biên cương của Champa nữa, việc
mở rộng lãnh thổ đã trở thành một nhu cầu cấp thiết của Đàng Trong lúc bấy
giờ. Đến lúc này, ở phía nam, vương quốc Champa ngày càng suy yếu, trong khi
chúa Nguyễn muốn gây dựng một cơ đồ riêng vững chắc, đủ sức đối địch lại
chúa Trịnh ở Đàng Ngoài nên nhu cầu mở rộng lãnh thổ, xây dựng sức mạnh về
mọi mặt là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Trong bối cảnh phải có không gian
sinh tồn, quan niệm của vua Lê Thánh Tông thuở trước về giới hạn cương vực
đã không còn giá trị nữa. Chúa Nguyễn đã không chấp nhận viễn cảnh, vừa phải
chống đối với họ Trịnh ở Đàng Ngoài lại vừa phải lo đối phó với nước Champa
nhỏ yếu, đang trên đường suy vong nhưng không từ bỏ tham vọng giành lại
những vùng đất cũ đã mất. Nhất là khi họ xây thành trì ở phía nam nước Hoa
Anh và luôn muốn chiếm phần lãnh thổ của nước này. Chính vì thế Phú Yên
(vùng đất tiếp giáp với Thuận Quảng) trở thành điểm đến đầu tiên trong công
cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn.
Công cuộc khai phá vùng đất Phú Yên đã gắn liền với tên tuổi của Lương
Văn Chánh. Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh cầm quân
tiến vào Hoa Anh, vây đánh và hạ thành An Nghiệp - một trong những kinh
thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử của vương quốc Champa - đẩy họ về
biên giới cũ ở phía nam đèo Cả. Cuộc tấn công của Lương Văn Chánh và chính
quyền họ Nguyễn mới chỉ nhằm thiết lập lại trật tự cũ như đã có trước đó. Tuy
53
nhiên, Lương Văn Chánh đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào
khai khẩn vùng đất này, rãi rác từ hai phía nam đèo Cù Mông đến đồng bằng
sông Đà Diễn, vì dân cư ở đây thưa thớt. Biện pháp kinh tế này đã tạo sự ổn
định cho Hoa Anh, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để người Việt từ
Thuận Quảng vào vùng này ngày càng đông đúc. Trên cơ sở đó, vào năm 1597,
tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng có công văn lệnh cho Lương Văn Chánh
đem dân vào khai khẩn vùng đất Phú Yên. Công văn này thực chất là sự công
nhận thực tế “lưu dân đi trước nhà nước theo sau” – một quy luật trong quá trình
Nam tiến của người Việt [30, tr.174].
Năm 1611, nhân quân Champa sang cướp phá vùng biên giới và xâm
chiếm vùng đất Hoa Anh, Nguyễn Hoàng đã sai chủ sự Văn Phong đem quân đi
đánh dẹp, quân của Champa nhanh chóng bị đánh bại trước sức mạnh quân sự
của chính quyền chúa Nguyễn. Vua của Champa là Po Nit đã phải bỏ vùng đất
Hoa Anh rút quân về phía nam đèo Cả. Đến lúc này chúa Nguyễn mới chiếm
được hẳn vùng đất Hoa Anh (đất cũ của Champa), đặt làm hai huyện Đồng
Xuân và Tuy Hòa, hợp thành phủ Phú Yên, đóng quân để phòng giữ, do Văn
Phong làm lưu thủ. Đến đây, “Chúa Nguyễn đã có thêm một vùng lãnh thổ mới
và hoàn thành bước đi đầu tiên trong sự nghiệp Nam tiến của mình” [64, tr.46].
Năm 1653, đời chúa Nguyễn Phúc Tần, vua Chăm là Bà Tấm xâm lấn
vùng đất Phú Yên, Nguyễn Phúc Tần đã sai Cai cơ Hùng Lộc đem 3000 quân đi
đánh, đại phá quân Champa, sau đó thừa thắng đuổi Bà Tấm phải chạy dài và
chiếm được đất tới tận Phan Rang. Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân mang thư đến
xin hàng, chấp nhận địa giới mới là sông Phan Rang (sông Phan Lang), từ sông
Phan Rang trở ra thuộc chúa Nguyễn, từ sông Phan Rang trở vào thuộc Champa.
Nguyễn Phúc Tần đã đặt tên cho vùng đất mới là phủ Phú Khang và phủ Diên
Ninh, lại đặt Dinh Thái Khang (nay gồm tỉnh Khánh Hòa và một phần phía Bắc
tỉnh Ninh Thuận) giao cho Hùng Lộc trấn giữ và bắt vua Chăm hàng năm phải
cống nạp.
54
Sau sự kiện năm 1653, cương vực lãnh thổ của Champa chỉ còn từ sông
Phan Lang đến khoảng sông Dinh (Hàm Tân), tức đất đai của hai tỉnh Ninh
Thuận và Bình Thuận ngày nay. Theo Việt sử, người dân Chăm còn lại tập
trung sinh sống ở các vùng đồng bằng sông Phan Lang, sông Lòng Sông, sông
Phan Rí, sông Phú Hài, sông Phan Thiết và sông Phố Chiêm (Hàm Tân). Theo
giáo sư Lương Ninh trong tác phẩm Vương quốc Champa, thì từ lúc này
Champa đã thực sự suy yếu và “không còn là sự cản trở đường Nam tiến của
người Việt và của chúa Nguyễn nữa” [67, tr.244]. Chúa Nguyễn đã nhanh
chóng nắm lấy lưu vực sông Đồng Nai vốn từ lâu đời là đất sinh cơ lập nghiệp
của cư dân đồng tộc Chăm, rồi thuộc hẳn vào vương quốc Champa, nhưng nước
Chiêm Thành đã không còn có lực thực sự nắm được vùng này từ sau
năm 1471.
Thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), năm Nhâm Thân (1692), vua
Chăm là Bà Tranh đem quân đắp lũy, cướp giết nhân dân phủ Diên Ninh, quân
trấn thủ ở dinh Bình Khương báo lên chúa Nguyễn. Tháng 8, Chúa Hiển Tông
đã sai Cai cơ Lê Tài hầu Nguyễn Hữu Kính làm thống binh, Văn chức Nguyễn
Đình Quang làm tham mưu, đem quân Chánh dinh cùng quân Quảng Nam và
Bình Khương đi đánh. Tháng giêng năm sau (1693), quân Việt đánh bại được
quân của Champa, vua Bà Tranh bỏ chạy, quan quân chúa Nguyễn tiếp tục đuổi
bắt và đến tháng ba năm đó thì bắt được Bà Tranh cùng một viên quan là Tả Trà
Viên Kế Bá Tử và một người trong hoàng gia Chăm là Nàng Mi Bà Ân. Chúa
Nguyễn Phước Chu bèn sáp nhập nước Chăm vào bản đồ nước mình, đặt làm
một trấn, tên là Thuận Thành về sau đổi làm phủ Bình Thuận, cử một số quan
võ trấn giữ các điểm tụ cư của người dân Chăm, đồng thời cử một số người
trong hoàng tộc Champa làm quan cùng cai quản trấn Thuận Thành.
Sự kiện thất bại của vua Bà Tranh năm 1693 trong cuộc đối đầu với chính
quyền họ Nguyễn, đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong việc mở rộng
bờ cõi về phía Nam của chúa Nguyễn. Nước Champa sau 15 thế kỉ tồn tại và
55
phát triển đã không tồn tại với tư cách là một quốc gia riêng biệt mà trở thành
một phần lãnh thổ của chính quyền Đàng Trong, sau đó trở thành một tỉnh của
quốc gia Đại Việt. Một bộ phận đáng kể dân cư Chăm sinh sống hoà lẫn với
những di dân người Việt trên vùng đất của mình và dần trở thành một bộ phận
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Có thể thấy mở đất về phía Nam là một xu thế vốn có của các triều đại
trước, bên cạnh đó sự ra đời của Đàng Trong cũng mang trong mình những đặc
thù riêng, chính những điều này đã dẫn đến yêu cầu mở mang lãnh thổ về phía
Nam của chúa Nguyễn trở nên thúc bách. Công cuộc mở đất Nam Trung Bộ
chính là hệ quả của việc đáp ứng những yêu cầu đó và là tiền đề quan trọng để
các chúa Nguyễn tiếp tục thực hiện mục tiêu “Nam tiến” ở vùng đất Đông Nam
Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung. Việc có được Nam Trung bộ đã tạo điều
kiện cho chúa Nguyễn có lực lượng hùng hậu và sẵn sàng, thuận tiện trong việc
mở đất Nam Bộ (điều binh sang can thiệp, giải quyết tranh chấp nội bộ giữa các
phe phái Chân Lạp hay các cuộc dẹp loạn của Đàng Trong đều huy động lực
lượng chính ở Nam Trung Bộ). Ngoài ra, việc có được Nam Trung Bộ đã để lại
bài học quý giá cho các chúa Nguyễn đời sau về việc sử dụng nguồn nhân lực
(nông dân nghèo, địa chủ, tù nhân, tù binh, binh lính…) trong cuộc mở đất
Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ sau này.
Như vậy, có thể hình dung công cuộc mở mang bờ cõi về phía Nam dưới
thời các chúa Nguyễn chia thành nhiều chặng: chặng 1 là mở mang vùng Nam
Trung Bộ (Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận), chặng 2 là mở
mang vùng Đông Nam Bộ và chặng cuối cùng là Tây Nam Bộ (Long An, Tiền
Giang, Bến Tre, An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên
Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau).
56
2.1.2. Tình hình khu vực
2.1.2.1. Sự suy yếu của Chân Lạp và mối quan hệ giữa Xiêm La – Chân
Lạp – Đàng Trong của Đại Việt
Sự suy yếu của Chân Lạp và những biến động xung quanh mối quan hệ
giữa Xiêm La – Chân Lạp – Đàng Trong của Đại Việt vào các thế kỉ XVII –
XVIII đã tạo ra thời cơ thuận lợi cho công cuộc mở đất Đông Nam Bộ.
Sau thời Angkor huy hoàng (802 – 1432), đến giữa thế kỉ XIV Chân Lạp
đã trở nên suy yếu. Nguyên nhân sâu xa của sự suy yếu này là do tiềm lực đất
nước bị vắt kiệt để xây dựng những công trình đồ sồ và tiến hành những cuộc
chiến tranh nhằm củng cố quyền lực và tranh giành lãnh thổ. Sự suy yếu này
càng trầm trọng hơn khi Chân Lạp phải thường xuyên đối phó với sự bành
trướng của Ayuthaya ở phía Tây, Ayuthaya là vương quốc của một bộ phận
người Thái, sống ở thượng nguồn sông Mêkông đã dần di chuyển xuống phía
nam và định cư ở sông Mê Nam. Năm 1349, vương quốc Ayuthaya đã đem
quân uy hiếp và bắt các quốc gia đồng tộc khác thần phục. Đến đây, Ayuthaya
trở thành một quốc gia thống nhất và bước vào thời kỳ phát triển thịnh vượng
của chế độ phong kiến Thái và đến năm 1767 thì đổi thành vương quốc Xiêm.
Xiêm là một trong những vương triều phong kiến mạnh ở khu vực, thực hiện
chính sách nước lớn. “Mở rộng lãnh thổ về phía Đông là một trong những mục
tiêu quan trọng của Xiêm lúc bấy giờ, vì vậy Xiêm đã trở thành mối đe dọa
thường trực đối với các nước trong khu vực, đặc biệt là Chân Lạp, Lạn Xạng
(Lào) và thậm chí cả Đại Việt” [71, tr.178].
Từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVI, Ayuthaya và Chân Lạp liên tiếp có những
cuộc chiến tranh với mức độ khốc liệt mà chủ yếu là những cuộc tiến công từ
phía Ayuthaya. Năm 1351, Ayuthaya chiếm kinh đô Angkor của Chân Lạp
nhưng sau đó Chân Lạp lấy lại được. Năm 1373, Ayuthaya lại gây chiến với
Chân Lạp, cuộc chiến kéo dài 50 năm, tình hình căng thẳng giữa Chân Lạp và
Ayuthaya tiếp diễn trong suốt thế kỉ XIV. Đến năm 1474, vương triều Chân Lạp
57
đầu tiên do Ayuthaya dựng nên và bảo hộ là Thomo Reachea đã thần phục
Ayuthaya và đồng ý nhượng hai tỉnh Korat và Chantaboun của Chân Lạp cho
Ayuthaya.
Ayuthaya có ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến vương triều Chân Lạp.
Dưới triều vua Soryopor (1603 – 1618), Chân Lạp thần phục Ayuthaya, “vua
buộc các đại thần ăn mặc áo dài màu vàng như người Tiêm (Xiêm La) và áp
dụng những nghi lễ như ở triều đình Ayuthaya” [46, tr.308]. Đến thế kỉ XVI,
lãnh thổ Chân Lạp bị thu hẹp dần, cư dân co cụm về vùng Biển Hồ để sinh sống.
Chính quyền Khơme bị mất dần các phần đất đai đã xâm chiếm trước đây và trở
thành nước bị người Thái tấn công, phải chạy loạn khắp nơi.
Sự thất bại của Chân Lạp trước phong kiến Xiêm xuất phát từ nội lực suy
yếu mà cụ thể trong giai đoạn này là nội bộ triều đình rối ren, các cuộc chiến
tranh quyền, đoạt vị xảy ra liên tục. Thế kỉ XVI đã có 13 đời vua thay đổi nhau
với khá nhiều biến động trong triều đình. Tình hình thế kỉ XVII còn xấu hơn
nữa, trong 17 đời vua thì có 7 người bị giết chết, 3 người bị lật đổ và trong 7
người còn lại “yên ổn” thì cũng phải chịu đương 4 cuộc bạo động chống đối lớn
của quý tộc. Bước sang thế kỉ XVIII, tình hình vẫn tiếp diễn, chỉ trong một thời
gian ngắn khoảng 100 năm (1675 – 1775), mà có đến 21 đời vua, “có những
ông vua chỉ tại vì trong thời gian 1 năm nhưng cũng có người tại vị tới 10 năm,
có những ông vua lên ngôi 2, 3 lần, thậm chí có ông vua như Chey Chettha III
lên ngôi đến 5 lần” [42, tr.144-145]. Có thể nói, “suốt thời kì hậu Angkor, chế
độ phong kiến nói chung và giai cấp phong kiến nói riêng của Chân Lạp đã bị
khủng hoảng trầm trọng, suy thoái nhanh chóng và không sao gượng dậy nổi”
[71, tr.178].
Chính tình hình trên đã tạo điều kiện cho các lực lượng bên ngoài, cụ thể
là hai thế lực Việt - Xiêm có điều kiện can thiệp ngày càng sâu vào chính trường
Chân Lạp.
58
Tác giả Đỗ Quỳnh Nga trong tác phẩm Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ
thời chúa Nguyễn đã cho biết: vào thế kỉ XVII, chúa Nguyễn ở Đàng Trong
cũng đã tạo dựng được tiếng vang cho mình. Trong khi đó, để giảm bớt sức ép
về phía Tây và để tìm đối trọng với Ayuthaya, Chân Lạp đã thi hành chính sách
hướng đông, tìm đến các chúa Nguyễn để làm chỗ dựa. Mối quan hệ giữa Đàng
Trong và Chân Lạp được thiết lập đầu tiên vào năm 1620, với cuộc hôn nhân
của Chey Chettha II và công nương Ngọc Vạn – con gái của chúa Nguyễn Phúc
Nguyên, kể từ đây mối quan hệ Xiêm La – Chân Lạp đã xuất hiện một nhân tố
mới là Đàng Trong của Đại Việt. Những chuyển biến lịch sử trong thế kỉ XVII –
XVIII ngày càng khẳng định dấu ấn đậm nét của nhân tố mới này, đóng vai trò
quan trong trong mối quan hệ bộ ba Xiêm La – Chân Lạp – Đàng Trong. Các
đời vua Chân Lạp đều có mối quan hệ với chúa Nguyễn, mối quan hệ này tùy
thời điểm lại có những diễn biến khác nhau, nhưng chủ yếu xoay quanh vấn đề
xung đột quyền lực và quyền lợi giữa các thế lực trong vương triều Chân Lạp.
Điều này tạo điều kiện cho chúa Nguyễn xâm nhập vào Chân Lạp dễ dàng hơn.
Một thực tế lịch sử diễn ra, nếu như trước thế kỉ XVII, Xiêm La là yếu tố bên
ngoài chủ đạo tác động đến chính trường Chân Lạp thì đến thế kỉ XVII – XVIII,
Đàng Trong đã từng bước dần thay thế vị trí đó của Xiêm La và đến đầu thế kỉ
XVIII, hầu hết các vương triều Chân Lạp đều có mối quan hệ thân thiết với
Đàng Trong, Đàng Trong trở thành lực lượng chính chi phối đến triều chính
Chân Lạp, bởi phần lớn những lần lên ngôi của các vua Chân Lạp đều cần đến
sự giúp sức của Đàng Trong [64, tr.61].
Trong quá trình thiết lập ảnh hưởng của mình đối với Chân Lạp, Đàng
Trong cũng phải vượt qua nhiều sự cản trở từ phía Xiêm La. Thế kỉ XVII –
XVIII, cũng là thế kỉ Xiêm La đẩy mạnh quá trình “đông tiến” về các nước phía
đông nhằm mục đích chiếm lấy các hải cảng – yếu tố vô cùng quan trọng trong
bối cảnh luồng thương mại mậu dịch quốc tế đang phát triển. Các thương cảng
chính là điểm thu hút rất lớn sự dừng chân của các đoàn thuyền buôn châu Á và
59
châu Âu. Nhật Bản, Trung Quốc, Mã Lai, Hà Lan, Anh, Bồ Đào Nha…là những
nước có thương thuyền đang hoạt động rất mạnh ở khu vực Đông Nam Á. Xiêm
vốn làm chủ vùng biển phía tây Chân Lạp (bờ đông vịnh Xiêm La), dùng đường
biển để khống chế Chân Lạp và phát triển ngoại thương với Trung Quốc, Nhật
Bản, Ấn Độ…nên quyết tâm của Xiêm trong việc bảo toàn vị trí độc tôn đối với
Chân Lạp rất cao.
Mặt khác, tham vọng của Xiêm không chỉ có Chân Lạp mà Đàng Trong
cũng đã trở thành điểm ngắm của Xiêm La trong giai đoạn này, nhằm phục vụ
cho mục đích bành trướng và mở rộng thương mại, làm chủ luồng mậu dịch
thương mại khu vực Biển Đông. Đàng Trong nằm trên trục chính của tuyến
đường thương mại đường biển Đông Nam Á nên thuyền buôn của Xiêm thường
ghé vào một số thương cảng để hoạt đông buôn bán và tránh bão, thăm dò tình
hình rồi từ đó tiến lên thị trường giàu có phía bắc (Nhật Bản, Trung Quốc). Vì
vậy, Xiêm nhận thức rất rõ tầm quan trọng của vịnh Xiêm và các hải cảng vùng
duyên hải Đông Nam của Đại Việt.
Được xem là cường quốc của Đông Nam Á, Xiêm muốn gây áp lực với
Đàng Trong nhưng vào thế kỉ XVII và nửa đầu thế kỉ XVIII, có thể do vấn đề
tương quan lực lượng giữa hai bên còn cân đối, Đàng Trong đang ở vị thế của
một vương quốc trẻ đang lên, trong khi Xiêm La cũng đang gặp phải một số vấn
đề vướng mắc ở trong nước nên Đàng Trong chưa thực sự phải hứng chịu một
trận quyết chiến thực sự nào từ Xiêm ngoài một vài trận đánh nhau mang tính
phối hợp, yểm trợ cho Chân Lạp. Sự cân bằng trong so sánh lực lượng với Xiêm
La là một trong những yếu tố đã giúp cho Đàng Trong từng bước đánh bật Xiêm
La ra khỏi mối quan hệ giữa Đàng Trong và Chân Lạp [64, tr.61 - 63].
Như vậy, sự suy yếu của Chân Lạp và sự thắng thế của Đàng Trong trong
mối quan hệ giữa Xiêm La – Chân Lạp – Đàng Trong đã trở thành yếu tố quan
trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho chúa Nguyễn tiến hành mở đất về phương
Nam.
60
2.1.2.2. Ảnh hưởng từ luồng thương mại quốc tế biển Đông và chính
sách mở cửa của chúa Nguyễn ở Đàng Trong
Thế kỉ XVII – XVIII, ở một số nước phương Tây, nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa có những bước phát triển nhảy vọt, chế độ phong kiến với những quan hệ
lỗi thời đã trở thành lực cản của sự phát triển kinh tế hàng hóa. Giai cấp tư sản
ngày một lớn mạnh và giữ vai trò lãnh đạo trong cuộc đấu tranh chống phong
kiến.
Cách mạng tư sản nổ ra ở Hà Lan (1566), Anh (1640), Bắc Mỹ (1775),
Pháp (1789) đã từng bước xóa bỏ chế độ phong kiến, thiết lập hệ thống chính trị
tư sản, mở đường cho sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa và lan tỏa đến
nhiều quốc gia trên thế giới với những mức độ khác nhau.
Cách mạng tư sản cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa, của nền sản xuất hàng hóa trong các thế kỉ XVI – XVIII kéo theo
hàng loạt biến đổi về mặt xã hội. Đó là sự gia tăng dân số, sự phát triển của đô
thị, sự hình thành các trung tâm công nghiệp và thương nghiệp, đặc biệt là sự
xuất hiện những nhu cầu mới về thị trường, nhân công, nhiên liệu và nguyên
liệu.
Chủ nghĩa tư bản Âu – Mỹ hình thành và lớn mạnh trong các thế kỉ XVI –
XVIII gắn liền với các cuộc viễn du tìm kiếm thị trường, gắn liền với việc tìm
đất lập thương điếm, hình thành những công ty buôn bán, gắn liền với quá trình
thực dân hóa ở các châu lục chậm phát triển. Bang giao quốc tế được mở rộng
mà trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Mặt khác, giao thương Đông Tây đã trở
thành một trong những hoạt động có vai trò quan trọng trong lộ trình xâm chiếm
thuộc địa của các nước tư bản phương Tây trong buổi đầu thời cận đại.
Đây cũng là thời kỳ con đường đến phương Đông của các nước phương
Tây được mở ra. Tuyến đường thương mại của các châu: Âu, Á, Phi được hình
thành, tạo điều kiện cho phương Đông hội nhập vào hoạt động thương mại thế
61
giới. Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh…là những nước sớm có quan hệ
với phương Đông, trong đó có Đại Việt.
Đối với các nước châu Á trong khu vực như: Trung Quốc, Nhật Bản,
Xiêm La…là những nước có quan hệ thương mại khá sôi nổi với Đại Việt trong
thời gian này. Trong hơn 40 năm từ 1592 đến 1635, là thời kỳ Nhật Bản thực
hiện chính sách mở cửa, hàng trăm thương thuyền được Mạc phủ cấp “châu ấn”
(Shuin sen) để xuất bến buôn bán với nước ngoài góp phần tạo hoạt động
thương mại sôi động ở các nước Đông Nam Á trong đó có Hội An của Đàng
Trong.
Về phía Trung Quốc, sau hơn hai thế kỷ thực hiện chính sách “hải cấm”
để độc quyền ngoại thương thông qua con đường “thương mại - triều cống”
nhằm nâng cao vị thế chính trị đối với các nước trong khu vực, không những đã
không mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể mà nhà nước còn không kiểm soát
được thị trường vì nạn buôn lậu quốc tế và nạn cướp biển hoành hành khắp nơi.
Do vậy, nên đến năm 1567, nhà Minh buộc phải tháo gỡ bằng cách cấp giấy
phép cho các thương thuyền đến các vùng biển Đông Nam Á để buôn bán.
Từ sau năm 1644, nhà Mãn Thanh thắng nhà Minh, đã thực hiện một
chính sách thống trị và kỳ thị người Hán trên lãnh thổ Trung Quốc, nên rất nhiều
di thần nhà Minh và doanh nhân Trung Quốc đã xin nhập cư ở các nước Đông
Nam Á trong đó có Đàng Trong.
Ngay từ thế kỉ XVI, thương mại khu vực Đông Nam Á đã diễn ra sôi
động hẳn lên, ngoài cảng thị ở Xiêm, nhiều cảng thị khác đã ra đời ở nhiều
nước đóng vai trò quan trọng trong hệ thống thương mại khu vực. Ở Malaysia
có cảng thị Malacca- là cảng thị phát triển nhất Đông Nam Á, mua bán đủ các
mặt hàng trên thế giới, ở Philippin có cảng Luzon tấp nập thuyền bè ngoại quốc,
ở Campuchia có cảng thị Pinhalu, Phnompênh… [37, tr.69].
Nguyễn Hoàng vào vùng đất phương Nam từ năm 1558, năm 1570 được
vua Lê Anh Tông sắc phong làm Tổng trấn xứ Thuận - Quảng thay thế cho
62
Nguyễn Bá Quýnh. Trong 8 năm bị cầm chân ở Bắc Hà (1593 - 1600), Nguyễn
Hoàng đã nhận thức được: để đối kháng với Đàng Ngoài, dù xứ Thuận - Quảng
“đất tốt, dân đông, sản vật giàu có” nhưng nếu không có sự chuẩn bị vượt bậc,
họ Nguyễn khó tồn tại so với tiềm lực kinh tế - quốc phòng của Đàng Ngoài.
Đây chính là nguyên nhân sinh tồn của Nguyễn Hoàng và họ Nguyễn.
Để có được tiềm lực kinh tế một cách nhanh chóng, sau khi âm thầm dong
buồm vuợt cửa Đại An về thẳng đất Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã chọn hướng
đi có tính chiến lược: phát triển giao thương cả trong nội địa lẫn với bên ngoài,
trên cơ sở đó thúc đẩy sản xuất nội địa. Nhu cầu trao đổi nội địa và cao hơn hết
là nhu cầu trao đổi khu vực đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển hệ thống thương
nghiệp bằng đường thủy ở Nam Bộ. Mặc dù điều kiện phù sa bồi đắp kéo dài từ
Vũng Tàu cho tới mũi Cà Mau không cho phép thành lập nhiều thương cảng dọc
bờ biển Nam Bộ như các tỉnh miền Trung, song đây là địa bàn hoạt động ngoại
thương khá ổn định trên cơ sở thị trường nội địa, thậm chí còn là đầu mối xuất
cảng hàng hóa cho cả Cao Miên và Lào. Các thương cảng như Hà Tiên, Mỹ
Tho, Nông Nại, Ba Thắc và Bến Nghé đã từng là nơi tấp nập thuyền bè các nước
Đông Nam Á.
Mặt khác, miền đất Thuận - Quảng nguyên là một vùng đất đã được Ấn
Độ hóa, với một nền văn hóa và truyền thống khác với người Việt - văn hóa
Champa. Việc quản lý để sống trong bình yên đã là một việc khó chưa nói đến
khai thác để phát triển tiềm lực kinh tế - quốc phòng cho chủ nhân mới của vùng
đất Đàng Trong. Bên cạnh đó, trong thành phần dân cư ngoài cư dân bản địa còn
có các lưu dân người Việt. Chính với nền tảng xã hội như vậy, việc mở rộng,
khuyến khích hoạt động thương mại nội địa ngoài mục tiêu phát triển kinh tế
một cách nhanh chóng còn là một cách để yên dân nhằm tập trung vào nhiệm vụ
chiến lược: chuẩn bị nhân vật lực cho cuộc đối đầu với họ Trịnh.
Tác giả Li Tana, một chuyên gia nghiên cứu về Đàng Trong đã nêu yếu tố
thời cơ mà các chúa Nguyễn có được như sau: “Đàng Trong đã ra đời đúng thời
63
đúng buổi, trong một thời đại thương nghiệp” [94, tr.85], đây chính là nhân tố
bên ngoài, một “thiên cơ” có tác động rất lớn đến chính sách giao thương của
các chúa Nguyễn, nó xuất hiện đúng lúc các chúa Nguyễn cần có cơ hội, có môi
trường để mở rộng giao thương quốc tế nhằm đẩy nhanh tiềm lực kinh tế, quốc
phòng đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Theo tác giả Lê Huỳnh Hoa trong
bài “Chính sách giao thương của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, cơ sở hội nhập và
phát triển của Đại Việt thế kỉ 17-18” thì đất Đàng Trong giàu có về tài nguyên
thiên nhiên nhưng nếu không có nguồn tiêu thụ, trao đổi sẽ không thể có được
sự phát triển kinh tế. Do đó, chỉ có giao thương quốc tế mới giúp các chúa
Nguyễn tiêu thụ hết tài nguyên thiên nhiên được khai thác và sản phẩm sản xuất
trong nước với số lượng lớn, mang lại lợi nhuận nhanh, nhiều cho nền kinh tế
trên vùng đất mới. Yếu tố “thời cơ” nói trên còn thể hiện ở việc xuất hiện tuyến
thương mại “tam giác ba châu lục”: châu Âu – châu Phi - châu Á khi Đàng
Trong hình thành và đang có nhu cầu giao thương quốc tế. Đàng Trong sở hữu
đường biên giới ở phía Đông là một bờ biển dài nằm trên “tuyến đường tơ lụa
trên biển”, nằm ở đoạn giữa của tuyến thương mại trên biển từ Đông Nam Á đến
Trung Quốc, Nhật Bản. Với vị trí đó, Đàng Trong sẽ là điểm dừng chân của
nhiều đoàn thuyền buôn Đông Nam Á, đồng thời, sự phát triển của thương mại
khu vực cũng đã hấp dẫn thương thuyền của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Với vị
trí địa lý và điều kiện thiên nhiên ưu đãi có thể mở nhiều thương cảng ấy, đã
giúp các chúa Nguyễn có cơ hội tận dụng thời cơ vô cùng quý báu này để thực
thi một cách thành công chính sách giao thương quốc tế của mình.
Mặt khác, trong cuộc chiến sinh tồn với chúa Trịnh, tiềm lực kinh tế mạnh
là chưa đủ mà đi kèm với nền kinh tế ấy phải là một nền quốc phòng đủ mạnh,
nhu cầu này các chúa Nguyễn cũng chỉ có thể tìm được qua giao thương quốc tế.
Đặc biệt là với thương nhân phương Tây - đối tượng có thể cung cấp hàng hóa là
vũ khí và cả kỹ thuật sản xuất vũ khí: súng - loại vụ khí quan trọng nhất có tính
quyết định trong cuộc giao tranh Trịnh - Nguyễn. Điều này có thể thấy được một
64
cách rõ nét qua nhận xét của những người phương Tây về tâm trạng của các
chúa Nguyễn khi họ: “rất lo lắng làm sao để có được súng từ xưởng đúc súng
nổi tiếng của Bocarro ở Macao”. Xưởng đúc súng này được thiết lập đúng vào
thời gian xảy ra cuộc chiến Trịnh- Nguyễn phân tranh. Như vậy, nhu cầu cấp
bách của họ Nguyễn về khí giới đã trực tiếp kích thích nền ngoại thương của
Đàng Trong [35].
Chính vì những lý do trên, cùng với sự năng động, nhạy bén và tư tưởng
tự do của "người đi mở cõi" nên các chúa Nguyễn đã có quyết định táo bạo:
thực thi tư tưởng "trọng thương" - một điều không được chú trọng trong xã hội
phong kiến - và thực tế hóa tư tưởng đó bằng chính sách giao thương ; đặc biệt
là giao thương quốc tế cởi mở, thông thoáng (chủ động, mở cửa, mời gọi, đưa ra
nhiều chính sách hỗ trợ, ưu đãi, tạo mọi điều kiện để khuyến khích thương nhân
nước ngoài đến Đàng Trong buôn bán). Động thái này hoàn toàn khác với thái
độ "đóng cửa" của các triều đại phong kiến phương Đông lúc bấy giờ, những
người phương Tây khi đến Đàng trong đã nhận xét: "chúa Đàng Trong không
đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người
ngoại quốc" trái với nhận xét về vua Nhà Thanh: "ông này sợ tất cả" [9, tr.93].
Kết quả của việc chủ động "mở cửa" giao thương quốc tế của các chúa
Nguyễn, được thể hiện rõ nét qua nhận xét của của người nước ngoài về sự lớn
mạnh về quân sự và kinh tế của vùng đất Đàng Trong bấy giờ. Đó là một sự
phát triển vượt bậc: "số thương thuyền tới buôn bán với Đàng trong vào đầu thế
kỷ 17 đã vượt xa số thương thuyền tới buôn bán với Xiêm và Cao Miên. Vương
quốc của họ Nguyễn được đặt ở đầu danh sách các nước ở lục địa Đông Nam Á
có quan hệ với Nhật Bản" [94, tr.85].
Về kinh tế: "Đàng Trong của thế kỷ 17 đã tìm thấy nguồn tài nguyên và
khí lực để thực hiện một giai đoạn phát triển lớn Đây là một thành tựu phi
thường, tự bản thân cũng như khi so sánh với lịch sử Việt Nam nói chung"
[94, tr.215].
65
Về quân sự: "Quân lính của vương quốc này hoàn hảo nhất trong cả
vùng, Đó là lý do khiến họ luôn thắng thế trong các cuộc chiến liên miên với
vua Đàng Ngoài, mặc dù Đàng Ngoài vượt Đàng Trong về tất cả mọi lĩnh vực"
[36].
Để có thể phát triển chính sách giao thương, các chúa Nguyễn cũng trở
thành người tiên phong tiến về phương Nam để mở rộng bờ cõi. Kể từ sau khi
hình thành Đàng Trong như một thế lực tồn tại song song với Đàng Ngoài, bờ
cõi của Đại Việt được mở rộng về phương Nam theo thời gian phát triển vững
mạnh của Đàng Trong làm cơ sở hình thành "Vương quốc" sau này. Có thể nói,
chỉ đến thời các chúa Nguyễn, bờ cõi của Đại Việt mới được mở rộng về phương
Nam đến Hà Tiên, Côn Lôn, Phú Quốc và về phía Đông với Hoàng Sa, Trường
Sa. Việc mở rộng bờ cõi của các chúa Nguyễn trước mắt là để mở rộng vùng
khai thác, sản xuất hàng hóa phục vụ giao thương quốc tế nhưng cũng là để
thực hiện "xây nghiệp muôn đời" [36, tr.8].
Như vậy việc mở đất về phương Nam đã thực sự đem lại cho các chúa
Nguyễn nhiều thuận lợi cơ bản không chỉ trong nhiệm vụ chiến lược trước mắt
là chống Trịnh mà còn là cơ sở để hình thành một vương quốc riêng, đồng thời
cũng để mở rộng địa bàn sản xuất, khai thác sản vật, cung cấp nguồn hàng phục
vụ cho hoạt động giao thương quốc tế.
2.2. Quá trình khai mở vùng đất Đông Nam Bộ
2.2.1. Sự có mặt của người Việt trên vùng đất Nam Bộ
Thời điểm người Việt có mặt trên vùng đất mới
Câu hỏi người Việt đến vùng đất này từ bao giờ đã có nhiều công trình
viết về Nam Bộ đề cập đến, đa số các tác giả đều thống nhất là vào thời các chúa
Nguyễn, nhưng niên đại thì khác nhau.
Có ý kiến cho là trước thời điểm 1658 là năm xảy ra sự kiện “Mô Xoài”,
căn cứ vào đoạn văn: “khi ấy (1658), địa đầu Gia Định là Mô Xoài và Đồng
Nai đã có lưu dân nước ta đến ở chung lộn với người Cao Mên khai khẩn ruộng
66
đất…” và không được xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương”. Có ý kiến lại cho
là vua Chân Lạp Chetta II (1618 – 1626) đóng đô ở Oudong có cưới một công
chúa con chúa Nguyễn làm hoàng hậu. Nể tình vợ, ngài đã cho người Việt thành
lập một dinh đồn đầu tiên ở Mô Xoài”. Có tác giả viết: “Vùng quanh Sài Gòn
chỉ được khai phá và có dân định cư vào năm 1672”. Lại có tác giả cho là từ
năm 1698 dân ta đã đến Biên Hòa – Gia Định cùng với ý kiến của Lê Quý Đôn
và Phan Huy Chú. Có người thận trọng hơn lại bảo cuộc di cư của người Việt
diễn ra trong thế kỉ XVII, nghĩa là trong khoảng từ năm 1601 đến năm 1700.
Một tác giả khác thận trọng hơn, viết một cách dè dặt: “vậy người lưu dân đến
Mô Xoài rồi Đồng Nai từ bao giờ chúng ta chưa tìm ra niên đại. Nhưng tác giả
có dẫn một tài liệu trong tập hồi ký của Fernand Mendez xuất bản năm 1629,
cho biết từ năm 1535 đã có người Việt tới sinh sống tại miền duyên hải và trên
bờ sông Cambơia” [117, tr.84-85].
Về vấn đề này, tác giả Lê Huỳnh Hoa trong “Chuyên đề: Những vấn đề
lịch sử cần bổ sung, cập nhật cho chuyên đề Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ
từ thế kỉ XVII đến trước Cách mạng tháng Tám 1945” đã cho rằng “đầy đủ và
hệ thống hơn cả là những ghi chép từ Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí
Minh”. Theo tác giả Lê Huỳnh Hoa: trong tác phẩm này, các tác giả đã đưa ra
nhiều nguồn tư liệu để góp phần trả lời câu hỏi người Việt đã có mặt ở Nam Bộ
thời gian nào, các nguồn sử liệu này không chỉ của người Việt mà cả người nước
ngoài.
Nguồn sử liệu thứ nhất là tác phẩm Gia Định thành thông chí của Trịnh
Hoài Đức, theo nguồn sử liệu này thì mốc người Việt có mặt sớm nhất ở Nam
Bộ là năm 1558, kế đó là 1648 và trễ nhất là 1658.
Nguồn sử liệu thứ hai là của các tác giả phương Tây
Đầu tiên là bức thư viết năm 1665 của giáo sĩ Chevreuil, qua bức thư
chúng ta biết được rằng vào những năm 1665 - 1666, Chevreuil đã chứng kiến
hàng ngàn người Việt Nam đang định cư quanh vùng Nam Vang, “từ đó có thể
67
phỏng định lưu dân Việt Nam đã tới Nam Vang và vùng phụ cận từ mấy chục
năm trước đó; và như vậy vùng Đồng Nai, Sài Gòn chắc người Việt còn tới sớm
hơn và đông hơn” [35].
Thứ hai là một bản đồ vẽ năm 1687, của sứ thần Pháp là Loubère tới
Xiêm. Theo bản vẽ, kinh đô Ayuthia có những khu vực giành riêng cho người
nước ngoài trong đó có khu vực giành cho người Việt Nam. Từ ghi chép trên
cho thấy có thể lưu dân và cả thương nhân Việt Nam đã tới trú ngụ cạnh kinh đô
Xiêm từ giữa thế kỷ 16 hay đầu thế kỷ 17.
Một tư liệu khác của tác giả phương Tây là “Pinto du ký", đây là ký sự
của nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Fernand – Mendez Pinto, người đã tham quan
vùng Đông Nam Á nhiều lần trong tiền bán thế kỷ 16. Mặt khác, phụ tá của Ông
là Faria cũng đã thăm vùng này vào năm 1535 và đã gặp người Việt Nam tới
làm ăn sinh sống tại miền duyên hải và bên bờ sông “Camboia” (tức
Campuchia). Căn cứ vào những ghi nhận trên thì người Việt đến Nam Bộ phải
trước 1535 (tiền bán thế kỷ 16).
Nguồn sử liệu thứ ba là Sử Khmer, nguồn này được trích dịch thông qua 2
tác giả người Pháp là Maspéro và Moura trong sách Đế quốc Khmer. “Theo sử
Khmer, năm 1623 đã lập Sở thu thuế của người Việt ở Sài Gòn – Bến Nghé
chứng tỏ lưu dân Việt đã đến vùng đất này từ trước năm 1623” [35].
Sách Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã dẫn một nguồn đối
chiếu với sử Khmer, đó là một nhân chứng lịch sử đương thời, giáo sĩ người Ý
Christopho Borri, người đã có thời gian sống lâu ở Nước Mặn (Quy Nhơn). Từ
1618 – 1622, ông ở Đàng Trong, sau khi về nước, ông đã viết hồi ký, in thành
sách và xuất bản năm 1631, trong sách có đoạn: “Chúa Nguyễn phải luôn tập
lính và gửi những đạo quân đi giúp vua Cao Miên, tức chàng rễ chồng của cô
gái hoang con chúa. Chúa viện trợ cho vua cả tàu thuyền lẫn binh lính để chống
lại vua Xiêm” [35].
68
Qua những sử liệu trên tác giả Lê Huỳnh Hoa kết luận “Người Việt Nam
đã có mặt ở Cao Miên từ đầu thế kỷ 17, nếu không nói là từ cuối thế kỷ 16” [35].
Tuy nhiên, tác giả Lê Huỳnh Hoa cũng cho biết những năm gần đây đã
xuất hiện ý kiến khác, cho rằng người Việt có mặt ở vùng đất này sớm hơn cuối
thế kỷ 16, đó là ý kiến của Nguyễn Đình Tư trong bài viết “Lưu dân người Việt
trên đất Đồng Nai – Gia Định và việc thành lập các đơn vị hành chánh ở Nam
Bộ thời các chúa Nguyễn”. Tác giả Nguyễn Đình Tư cho rằng: Căn cứ vào niên
đại 1535 mà Fernand Mendez nói tới và căn cứ vào một sự kiện lịch sử quan
trọng của nước ta, tôi nghĩ rằng số người Việt đầu tiên chạy vào Đồng Nai –
Gia Định (vì đã biết vùng này còn hoang hóa như đã trình bày trên) một cách ồ
ạt đã diễn ra từ năm Quý tỵ (1413), sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh
của lực lượng nhà Hậu Trần thất bại trên đất Hóa Châu [35].
Tác giả Nguyễn Đình Tư đã giải thích cho ý kiến của mình bằng 2 dẫn
chứng từ Lam Sơn thực lục và Đại Việt Sử ký toàn thư và đi đến kết luận:
Lực lượng kháng chiến nhà Hậu Trần rút vào Hóa Châu là tuyệt lộ rồi.
Cuộc kháng chiến thất bại, vua và các tướng lãnh cao cấp như Nguyễn Cảnh
Chân, Đặng Dung bị bắt, nhưng số tướng tá cấp dưới và các nhà Nho mưu sĩ
trong quân chắc chắn là không chịu đầu hàng quân Minh, vì đầu hàng là chết,
cho nên ai thoát thân được thì đem cả gia đình chạy sang Lão Qua (Lào) và
Chiêm Thành. Số người này không thể băng qua biên giới để vào đất Chiêm
Thành được vì 2 lý do: thứ nhất Chiêm Thành đang có hận thù với ta vì nhà Hồ
vừa đánh chiếm vùng Chiêm Động và Cổ Lũy của họ.
Số người chạy sang Chiêm Thành là số người có sẵn thuyền bè, lương
thực, khí giới bèn căng buồm chạy xuống phía Nam đang lúc có gió mùa Đông
Bắc thổi mạnh, vì họ biết nơi đó là vùng đất trù phú, còn bỏ hoang, hầu như vô
chủ [35].
Tác giả Lê Huỳnh Hoa cũng cho biết thêm: trong Hội thảo khoa học “ Từ
xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay” tổ chức ngày 30/10/2012, một
69
số tác giả như: Dương Ái Dân với bài viết Mô Xoài – Bà Rịa vùng đất ghi dấu
bước chân của người Việt trên đường khai phá về phương Nam; Trần Thuận với
bài Công Chúa Ngọc Vạn với vùng đất Mô Xoài và tác giả Tuệ Khương trong
bài viết Từ xứ Mô Xoài – địa đầu mở cõi đến tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, quá trình
hình hình thành và phát triển. Các tác giả trên đều có ý kiến về mốc thời gian
người Việt có mặt ở vùng đất sớm hơn thế kỷ 16, 17 nhưng không ai trong số đó
kiến giải rõ ràng, cụ thể như tác giả Nguyễn Đình Tư [35].
Tóm lại, quan điểm của các tác giả về vấn đề niên đại người Việt có mặt
trên vùng đất Nam Bộ nói chung và Đông Nam Bộ nói riêng cho đến hiện nay là
chưa thống nhất. Bên cạnh những quan điểm mới rất đáng quan tâm của các tác
giả nêu trên, thì hầu hết các tác giả trong các công trình nghiên cứu về lịch sử
vùng đất Nam Bộ đều cho rằng người Việt đến vùng đất mới từ cuối thế kỷ 16
đầu thế kỷ 17. Điều này cũng mở ra sự lý giải lý do vì sao người Việt tìm đến
vùng đất mới.
Nguyên nhân người Việt có mặt trên vùng đất mới
Thế kỉ XVI - XVII, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng
khủng hoảng sâu sắc, các tập đoàn phong kiến do tranh giành quyền lực đã gây
nên những cuộc chiến tranh kéo dài và liên tiếp. Cuộc nội chiến Nam – Bắc triều
kéo dài gần 50 năm (1545 – 1592) chưa kết thúc hoàn toàn, thì cuộc phân tranh
Trịnh - Nguyễn khốc liệt (1627 – 1672) lại nổ ra, tiếp tục đẩy đất nước vào tình
trạng bị chia thành hai Đàng: Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Để phục vụ cho cuộc chiến tranh tàn khốc này, các tập đoàn phong kiến
Trịnh - Nguyễn đều thi hành những chính sách bóc lột hết sức nặng nề đối với
quần chúng nhân dân, vơ vét cùng kiệt nhân lực và vật lực trong nhân dân tạo
nên cảnh đói khổ, lầm than của dân chúng phổ biến khắp từ Đàng Ngoài cho đến
Đàng Trong. Đối với chính sách vơ vét về nhân lực, một thủ đoạn mà cả hai tập
đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn đều thực hiện, đó là việc bắt lính.
70
Tuy việc tuyển chọn binh lính đã có quy chế riêng, nhưng việc bắt lính
thời bấy giờ cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài đều diễn ra một cách ráo riết, vì
thế việc bắt lính đã trở thành một tai họa chung cho tất cả mọi người nhất là
những người nông dân nghèo khổ. Thích Đại Sán - một nhà sư ở Quảng Đông –
đến Thuận Hóa vào những năm 1695 – 1696 đã miêu tả chế độ quân dịch ở
Đàng Trong như sau: Cứ mỗi năm vào khoảng tháng 3, tháng 4, quân nhơn đi ra
các làng bắt dân từ 16 tuổi trở lên, thể chất cường tráng, đóng gô lại bằng một
cái gông tre hình như cái thang nhưng hẹp hơn để giải về phủ sung quân, vào
quân đội rồi, mỗi người bắt chuyên học một nghề, kế phân phái theo các chiến
thuyền để luyện tập, có chiến tranh đem ra đánh giặc, lúc vô sự ở theo vương
phủ làm xâu; tuổi chưa đến 60 chẳng được về làng cùng cha mẹ vợ con đoàn tụ;
hằng năm thân thích đem áo quần, vật thực đến thăm mà thôi. Vì cớ ấy, những
người dân còn lại ở nhà toàn gầy yếu, tàn tật, chẳng có mấy người mạnh mẽ
[81, tr.43].
Cùng với việc bắt lính, chế độ phong kiến họ Nguyễn còn ra sức vơ vét tài
lực của nhân dân để cung cấp cho những nhu cầu của chiến tranh, cũng như để
phục vụ cho lối sống xa hoa, quý tộc của chúng. Trong Phủ Biên tạp lục Lê Quý
Đôn đã viết:“Quan viên lớn nhỏ, người nào cũng có nhà chạm trổ, thềm đá,
tường vách gạch đá. Màn trướng của họ đều bằng sa và đoạn. Vật dụng của họ
đều làm bằng đồng thau. Sập ngồi và ghế tựa của họ đều bằng gỗ đàn và gỗ
trắc. Họ có mâm sứ và chén hoa. Yên cương của họ đều được trang sức bằng
vàng bạc. Quần áo của họ đều may bằng gấm vóc. Họ có chiếu rộng lớn kết
bằng mây hoa. Họ sống phong lưu phú quý, đua nhau khoe khoang…. Coi vàng
bạc như cát, lúa thóc như bùn, xa xỉ thật là quá đáng” [24, tr.242-243].
Để có thể có được một cuộc sống xa hoa như vậy, các tập đoàn phong
kiến đều hướng tới một mục tiêu trước nhất, đó là ra sức bóp nghẹt, vơ vét thật
nhiều trong quần chúng nhân dân, bất chấp điều kiện sống của người dân nghèo
lúc bấy giờ ra sao. Họ đặt ra rất nhiều thứ thuế vô lý và hết sức nặng nề đối với
71
nhân dân. Như Lê Quý Đôn đã nhận xét: “Lệ thuế kể trên là rất nặng”
[24, tr.17], hoặc “Pháp lệnh thuế khóa ở Thuận Hoá rất phiền phức”
[23, tr.170].
Không chỉ phải chịu chế độ thuế khoá nặng nề của nhà nước, quần chúng
nhân dân còn phải chịu đựng sự nhũng nhiễu của đám quan lại, nha môn lợi
dụng việc thu thuế để tranh nhau bóp nặn cùng kiệt người dân, nhất là những
người nông dân nghèo. Trong Phủ Biên tạp lục Lê Quý Đôn đã ghi lại rất rõ tình
trạng này “Quảng Nam và Thuận Hoá chỉ là hai trấn, vậy mà họ Nguyễn đã cắt
đặt quan lại, các thuộc ty, hương trưởng đến cả ngàn người, nhũng lạm quá
lắm. Bổng lộc của quan lại đều nhất thiết phải lấy từ dân, vậy thì dân làm sao
chịu đựng cho nổi” [23, tr.186], hay “Pháp lệnh thuế khóa ở Thuận Hoá rất
phiền phức, nhân viên đốc thúc lại quá đông, dân nghèo thường khổ sở vì phải
nạp gấp bội, thế mà Lại Ti trong nội phủ cũng như ngoài các bản đường đều bớt
xén bừa bãi không thể tra xét được” [23, tr.170].
Tình trạng này đã được Nguyễn Cư Trinh dâng lên Chúa Nguyễn Phúc
Khoát năm 1751, nói về tình trạng thống khổ của dân chúng Quảng Nghĩa mà
cũng là tình trạng chung của các phủ Thuận Quảng xứ Đàng Trong: Dân Quảng
Nghĩa chịu thống thuộc nhiều nơi, đã chịu lệnh của nha trường sai dư, lại chịu
lệnh của nha trường điền tô, lại chịu lệnh các nha biệt tải, biệt nạp, lại chịu lệnh
các nha sai viên đầu nguồn, lại chịu lệnh bản phủ, lại chịu lệnh quan lại nha
môn, lại chịu lênh các sai nhân, lại chịu lệnh người đi săn ngang dọc, há chẳng
phải 10 con trâu đến 9 người chăn? Nghèo khổ, thất nghiệp thật là đáng thương
[51, tr.41].
Có thể nói rằng, chính sự vơ vét, bóc lột, bóp nặn của bọn phong kiến họ
Nguyễn, sự nhũng nhiễu ức hiếp của bọn quan lại lớn bé, sự cướp đoạt ruộng đất
và bóc lột tô tức nặng nề của bọn địa chủ đã đẩy dân chúng, đặc biệt là những
người nông dân nghèo khổ vào con đường khổ sở, điêu đứng.
72
Đây rõ ràng là một thực tế lịch sử diễn ra trong suốt hai thế kỷ XVII -
XVIII. Trong tác phẩm Hải Ngoại Kỷ Sự nhà sư Thích Đại Sán cũng đã ghi lại
rất rõ điều đó: Trong nước dân rất khổ, đất ruộng ít ỏi, lúa chẳng đủ ăn. Dân
thổ trước một dãi Thuận- hóa Hội – an đều sống nhờ lúa các hạt khác. Thổ âm
gọi “Phạn” là “Cơm”, kiếm đủ cơm ăn không phải là chuyện dễ; hoặc dùng cá
tôm rau quả ăn trừ cơm, hằng ngày bữa no, bữa đói thất thường…Ruộng cấy
lúa, hoa lợi phải nộp vào công khố chừng bảy tám phần mười, dân chỉ được
hưởng hai ba phần mà thôi”. Ngoài ra có người làm nghề đánh cá, hái củi đem
về nộp cho bọn Cai, Trưởng. Bọn này cấp hoàn cho bao nhiêu được nhờ bấy
nhiêu. Thế mà còn phải nạp thuế thân mỗi năm 12.000 đồng (hai quan) và các
thứ tre, gỗ, muối, gạo tuỳ theo thổ sản. Gặp nhà vua có công việc, cai xã bắt
dân phu ra ứng dịch, mọi người phải lo cơm đùm, gạo bới đi làm [81, tr.105].
Trong khi đó, xã hội xứ Đàng Trong ngày càng trở nên rối ren: chiến
tranh loạn lạc, nạn thiên tai mất mùa diễn ra liên miên, cuộc sống dân lành đói
khổ… thời Nguyễn Phúc Lan “Xứ Đàng Trong đại hạn và mất mùa, dân phải
trôi dạt và chết đói rất nhiều” [23, tr.61] và thời Nguyễn Phúc Thuần “Thuận
Hoá mấy năm mất mùa và đói kém, nạn bắt lính đi đánh trận cứ triền miên, lòng
dân li tán” [23, tr.90].
Như vậy, có thể kết luận rằng: nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự di cư của
cộng đồng người Việt vào những năm cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII chính
là cuộc chiến tranh phong kiến Trịnh - Nguyễn kéo dài hàng chục năm trời.
Cùng với đó là sự áp bức, bóc lột thái quá của bọn quan lại địa chủ, cộng thêm
nạn thiên tai, mất mùa, đói kém xảy ra liên miên làm cho cuộc sống của người
dân Đàng Ngoài và vùng Thuận Quảng ngày càng bị khổ sở, điêu đứng. Tình
hình đó, buộc họ phải phiêu tán đi tìm đất mới để dung thân, cho dù đó là vùng
đất xa xôi, hoang vu, chưa được khai phá nhưng họ vẫn nuôi hy vọng cuộc sống
của họ nơi đó sẽ dễ chịu hơn, khấm khá hơn.Vùng đất Đồng Nai – Gia Định lúc
bấy giờ, là vùng đất của những giấc mơ về một cuộc sống tốt đẹp, là một ngõ
73
thoát đối với những người dân Việt nghèo khổ thời bấy giờ. Chính vì thế, nên đã
có một làn sóng di cư ồ ạt vào vùng Đồng Nai – Gia Định (Đông Nam Bộ ngày
nay).
Vậy, những cư dân Việt có mặt sớm trên vùng đất Đồng Nai - Gia Định
này bao gồm những thành phần nào?
Thành phần thứ nhất và chủ yếu nhất là những người nông dân nghèo khổ
ở miền Trung và miền Bắc di cư vào. Trong bối cảnh lịch sử của đất nước ta như
đã trình bày trên đây thì rõ ràng nông dân chính là tầng lớp phải chịu nhiều gánh
nặng nhất. Họ là những người nghèo khổ, lâm vào bước đường cùng buộc phải
rời bỏ quê hương, làng mạc. Trong tác phẩm Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ,
tác giả Huỳnh Lứa đã nhấn mạnh “chính con số đông đảo những nông dân
nghèo khổ phải thất sở, xiêu tán đó là nguồn cung cấp cho làn sóng di cư vào
đất Đồng Nai – Gia Định (tên gọi chung đất Nam Bộ ngày nay), nơi họ nghe nói
có đất đai rộng lớn, phì nhiêu nhưng chưa được khai thác” [51, tr.42]. Tác giả
cũng khẳng định: tầng lớp nông dân nghèo chiếm số lượng đông đảo nhất và
cũng là lực lượng di cư chủ yếu trong thời kỳ đầu (thế kỷ XVII)”
[52, tr.116], sử cũ gọi những người nông dân nghèo khổ phải thất sở đi phiêu tán
này là những “lưu dân”.
Thành phần thứ hai: là những người bị tù tội phải đi lưu đày.
Tài liệu lịch sử còn lại không ghi cụ thể về vấn đề này, tuy nhiên, theo
nhà nghiên cứu Huỳnh Lứa thì lực lượng tù tội bị lưu đày này cũng chiếm một
số lượng khá lớn. Bởi theo ông thì lệ bắt buộc tù nhân bị kết án lưu đày phải di
cư vào Nam đã có từ thời Lê (Lê Thánh Tông) và các chúa Nguyễn trong thời kỳ
đầu xây dựng vương quốc riêng cũng noi theo cách thức này của nhà Lê. Điều
này thực tế cũng mang lại lợi ích rất lớn cho triều đình phong kiến là vừa có thể
đẩy xa những phần tử làm nguy hại đến vương triều của họ, mà lại còn có thêm
lực lượng để khai khẩn vùng đất mới mà họ chưa thể vươn bàn tay khai phá đến
được.
74
Thành phần thứ ba: là những người trốn tránh binh dịch.
Đặt trong hoàn cảnh của cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài gần hai
thế kỷ, đặc biệt là 45 năm tranh đấu quyết liệt với 7 trận đánh lớn (1627 - 1672)
như đã nhắc tới ở trên thì sự xuất hiện của những phần tử trốn tránh binh dịch ở
Nam Bộ là một điều không còn phải nghi ngờ gì nữa.
Khi chiến tranh xảy ra thì có thể nói nông dân là người phải gánh chịu
nhiều hậu quả nhất, tuy nhiên binh lính lại là người phải gánh chịu tai hoạ trực
tiếp. Họ có thể bị chết trên chiến trường nhưng cũng có thể bị giết khi luyện tập.
Trong Đại Nam thực lục, phần tiền biên có chép về Nguyễn Hữu Tiến, một vị
tướng vào buổi đầu thời các chúa Nguyễn. Vị tướng này thường tập luyện quân
sĩ vào ban đêm và nếu có một người lính tỏ ra không tuân lệnh thì người kỳ
trưởng (người cầm cờ trong đội), sẽ bị chặt đầu tức khắc. Tuy nhiên, bản thân vị
tướng này không hề bị trừng phạt vì cách làm này vì chúa Nguyễn Phúc Nguyên
đã tuyên bố: “Binh không đều thì giết có tội gì? Rồi dần thăng Hữu Tiến lên làm
cai đội. Từ đó sĩ tốt ai cũng sợ phục” [78, tr.48]. Chính vì thế, hiện tượng binh
lính đào ngũ hay bỏ trốn xảy ra là một điều hết sức tất yếu và sau khi bỏ trốn thì
nơi dung thân tốt nhất, yên ổn nhất là vùng Đồng Nai – Gia Định. Pierre Poivre
trong nhật ký của mình ngày 14 tháng 1 năm 1750 có lời nhận xét về quân đội
của chúa Nguyễn lúc này: “Nhà vua hiện chỉ có binh lính bằng cách sử dụng
bạo lực. Tất cả binh đội của ông ta đều đào ngũ và trốn vào Đồng Nai.”
[52, tr.13].
Tất cả những điều này cho thấy: số binh lính trốn tránh binh dịch, cũng
chiếm một tỉ lệ lớn trong thành phần di cư vào vùng Đông Nam Bộ.
Thành phần thứ tư là những người chống đối lại triều đình với những mức
độ khác nhau: “bất đắc chí vì thi cử hoặc vì có tài mà không được trọng dụng,
tố cáo tham quan ô lại, cường hào ác bá nên bị truy bức, cầm đầu hoặc tham dự
các cuộc nổi dậy to nhỏ, nhan nhản vào lúc ấy dưới chế độ Lê Trịnh”
[29, tr.427].
75
Thành phần thứ năm: là những tù binh, hàng binh và thường dân bị chúa
Nguyễn bắt trong cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Số cư dân này được chúa
Nguyễn tổ chức cho định cư ở những địa bàn nhất định theo yêu cầu phát triển
kinh tế, phân bố lực lượng. Theo tác phẩm Di dân của người Việt từ thế kỷ X
đến giữa thế kỷ XIX do Đặng Thu chủ biên thì: chúa Nguyễn cũng đã dùng lực
lượng này vào công cuộc khai hoang. Theo tác phẩm thì rất có thể chúa Nguyễn
đã đưa lực lượng này vào khẩn hoang, lập nghiệp ở các tỉnh phía Nam chứ
không phải chỉ là cho định cư ở Thăng Hoa, Điện Bàn cho đến Phú Yên như một
số lời kiến giải của những người khác.
Cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn tiếp tục đã cung cấp những nguồn lao
động quan trọng trong việc khai hoang, lập ấp ở Gia Định. Điều này chỉ chấm
dứt vào năm 1672, khi đôi bên đánh nhau (từ tháng 6 đến tháng 12) quyết liệt
nhưng bất phân thắng bại, cuối cùng Trịnh Tạc rút quân về Đông kinh, lấy sông
Gianh làm phân giới, từ đấy Nam - Bắc không đánh nhau nữa.
Ngoài những thành phần kể trên, có thể còn có thành phần khác, ví dụ như
những những tay “giang hồ tứ chiếng”, những thành phần bất hảo… Nói chung,
là tất cả những thành phần bất mãn, hay không vừa lòng với chế độ phong kiến
đương thời đều hướng đến vùng đất mới xa xôi ở phía Nam này, để mong tìm
được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Trên đây là những thành phần khẩn hoang có mặt sớm ở vùng Đông Nam
Bộ trong buổi đầu khai phá, về sau khi chúa Nguyễn bắt đầu tổ chức lập chính
quyền ở vùng đất mới này thì còn xuất hiện thêm một lực lượng nữa, đó chính là
những người dân giàu có mà Lê Quý Đôn gọi là “dân có vật lực” từ miền Trung.
Những người này, được sự cho phép của chúa Nguyễn, đã đứng ra chiêu mộ
những người dân nghèo ở các nơi cùng vào vùng đất mới để khẩn hoang.
Sách Phủ Biên tạp lục ghi chép về lực lượng này như sau: Phủ Gia Định, đất
Đồng Nai… họ Nguyễn trước đánh nhau với Cao Miên mà chiếm được. Xong,
chiêu mộ dân có vật lực từ Quảng Nam, Điện Bàn, Quảng Ngãi và Quy Nhơn đi
76
vào ở đấy, khai phá và mở mang thành những vùng bằng phẳng, thủy thổ phì
nhiêu, cho dân tự chiếm, trồng cau và làm nhà cửa [24, tr.255]. Không chỉ chiêu
mộ dân nghèo vào vùng Gia Định khẩn hoang, các phú hào ở vùng Thuận -
Quảng còn chiêu tập dân lưu tán tại chỗ và mua con trai, con gái các dân tộc
thiểu số về cho làm gia nô. Có thể nói đây cũng là một thành phần chiếm số
lượng khá đông trong thời kỳ khai phá, càng về sau, số lượng họ càng đông lên
và cũng giàu có hơn nhiều“Người giàu có ở các địa phương hoặc bốn năm mươi
nhà hoặc hai ba mươi nhà, mỗi nhà điền nô hoặc năm sáu mươi người, trâu bò
hoặc ba bốn con, cày bừa, cấy gặt, bận rộn suốt ngày không lúc nào rỗi”
[24, tr.255-256].
Bước sang thế kỷ XVIII, xuất hiện thêm một thành phần mới, đó chính là
những tín đồ đạo Thiên Chúa. Họ di cư để tránh những sắc chỉ cấm đạo của chúa
Nguyễn và để giữ gìn tín ngưỡng của mình. Trong thời kỳ chưa lập phủ Gia
Định, giáo dân từ miền Trung vào Đồng Nai, Biên Hoà lập nghiệp và hành đạo,
khi chúa Nguyễn kiểm soát miền Đông thì họ đi xuống miền Tây [106, tr.121].
Như vậy, thành phần di dân người Việt đầu tiên vào vùng đất mới được
hầu như các nhà nghiên cứu thống nhất là: nông dân nghèo khổ, người đang bị
liên lụy đến chính quyền phong kiến, thầy lang, thầy đồ nghèo và một số người
giàu có muốn tìm đất mới để làm ăn. Tuy nhiên, trong chuyên đề “Những vấn đề
lịch sử cần bổ sung, cập nhật cho chuyên đề Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ
từ thế kỉ XVII đến trước Cách mạng tháng Tám 1945” của tiến sĩ Lê Huỳnh
Hoa, đã đưa ra một quan điểm mới, quan điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn
ĐìnhTư. Tác giả Nguyễn ĐìnhTư cho rằng: số người Việt đầu tiên vào Đồng
Nai – Gia Định chủ yếu là sau sự kiện năm Quý Tị (1413) khi cuộc kháng chiến
chống Minh của nhà Hậu Trần thất bại trên đất Hóa Châu, họ là “số tướng tá
cấp dưới và các nhà Nho mưu sĩ không chịu đầu hàng”,“chính họ chứ không
phải ai khác là nguồn gốc lưu truyền lại cho con cháu muôn đời sau truyền
thống yêu nước, tinh thần bất khuất trước kẻ thù để tạo nên cái mà ngày nay
77
người ta gọi là “hào khí Đồng Nai – Gia Định”. Theo tác giả Lê Huỳnh Hoa,
“Thậm chí, quan điểm này còn được nhấn mạnh khi nghiên cứu về nguồn gốc
truyền thống của hào khí đó phải “nghĩ đến những người này, chứ không thể từ
những người vào đây vì miếng cơm manh áo, cũng không thể từ những tù phạm
giết người cướp của, đâm thuê chém mướn, gian dâm bất hiếu bị đày vào đây”
[35].
Tóm lại, ta thấy rằng thành phần di cư vào vùng đất Đông Nam Bộ nói
riêng và Nam Bộ nói chung trong hai thế kỷ XVII - XVIII hết sức đa dạng với
nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Ngoài thành phần tướng tá, nho sĩ của nhà Hậu
Trần theo quan điểm mới của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư, thì một điểm
chung mà ta thấy ở những người dân di cư này là phần lớn họ đều trốn chạy khỏi
cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn hay là những chính sách cai trị hà khắc của
chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Có thể nói rằng công cuộc di cư và khẩn hoang của
những lưu dân người Việt là một yếu tố tích cực góp phần phát triển kinh tế địa
phương ở Đông Nam Bộ và là một mặt của cuộc đấu tranh của nông dân Việt
Nam chống áp bức bóc lột phong kiến.
Trên đây, là những thành phần di dân người Việt có mặt sớm trên vùng
đất Đồng Nai - Gia Định. Vậy những người dân di cư đầu tiên đó, đã đi vào đây
bằng cách nào và bằng phương tiện gì?
Thông thường những di dân người Việt đi vào đất Đông Nam Bộ nói
riêng và Nam Bộ nói chung bằng hai cách thức chủ yếu: thứ nhất là họ đi một
cách tự động và lẻ tẻ, hoặc cả gia đình, hoặc người khoẻ mạnh đi trước rồi đón
gia đình đến sau, hoặc mấy người, mấy gia đình kết lại thành nhóm cùng đi với
nhau. Cách thứ hai là họ tham gia vào các đợt di dân, khẩn hoang do Nhà nước
đứng ra tổ chức và bảo trợ. Tuy nhiên, hình thức di dân tự động vẫn chiếm số
lượng lớn hơn, bởi vì khi chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ
Đồng Nai - Gia Định thì ở đây đã có 40 vạn gia đình đang sinh sống.
78
Lúc bấy giờ việc di chuyển gặp rất nhiều khó khăn giữa các vùng do vị trí
địa lý, do phương tiện thô sơ, do núi non hiểm trở, rừng cây rậm rạp với nhiều
thú dữ như Thích Đại Sán nhận xét: “Đất nước Đại Việt chỉ là một dải núi dọc
theo mé biển, các đô ấp đều tựa núi day mặt ra biển, núi cao sông hiểm, cây
rừng rậm rạp, nhiều tê tượng hùm beo, các phủ không có đường lối thống nhau,
mỗi phủ đều do một cửa biển đi vào; muốn đi từ phủ này qua phủ khác tất do
đường biển” [81, tr.132]. Trong sách Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn cho biết:
“Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các biển Cần Giờ, Soài Lạp, cửa Đại, cửa
Tiểu là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm…Đất ấy nhiều khe rạch, đường thủy
chằng chịt, ngòi lạch, không tiện đi bộ” [24, tr.255-256]. Do vậy, trong quá
trình di dân vào vùng đất mới dù đi lẻ tẻ hay ồ ạt lưu dân người Việt đều phải đi
bằng đường biển là chủ yếu, phương tiện là thuyền buồm, ghe bầu, thuận theo
chiều gió họ men theo bờ biển tiến về phía Nam, cứ thế họ đổ bộ lên một miền
đất xa lạ, rừng rậm hoang vắng đầy bí ẩn. Tuy nhiên, họ hết sức hăm hở bởi trên
vùng đất mới này họ không hề bị hăm doạ, bị cưỡng chế bởi bất cứ một thế lực
nào, đây chính là điều mà họ khao khát hơn cả, cũng chính là động lực giúp họ
vượt qua tất cả mọi khó khăn trước mắt.
Ngoài phương tiện đi lại bằng đường thuỷ thì cũng có người trèo đèo vượt
núi đi theo đường bộ, “đi dần từng chặng một, đến một địa phương ở một thời
gian, thấy trụ được thì ở luôn, thấy không trụ lại được lại đi tới nữa, cứ thế lần
hồi rồi cũng vào tới nơi đây” [51, tr.42-43]. Tuy nhiên, số người chọn phương
thức di chuyển này chắc không nhiều, vì đi theo đường bộ hết sức gian nan,
nguy hiểm và mất nhiều thời gian.
2.2.2. Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ
2.2.2.1. Những cột mốc quan trọng từ 1620 đến năm 1698
Như trên đã nói, trước khi chúa Nguyễn thiết lập quan hệ với Chân Lạp,
đã có luồng di cư tự phát của các cư dân Việt vùng Thuận Quảng vào vùng đất
Đông Nam Bộ, cụ thể là vùng đất Mô Xoài, luồng di cư này có ý nghĩa như sự
79
thăm dò đầu tiên, cũng như sự tạo cơ sở cho chúa Nguyễn thực hiện ý đồ mở đất
của mình. Từ đời chúa Nguyễn Hoàng cho đến đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên,
nhiều người dân nghèo phía Nam sông Gianh đã rời bỏ quê hương, tìm đến đây
sinh sống.
Cho đến khi những người dân Việt di cư đến thì vùng Đông Nam Bộ lúc
đó vẫn là vùng đất hoang vu mà triều đình Chân Lạp chưa với tay cai quản
được. Vùng đất mới này, có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với những lưu dân người
Việt nghèo bởi những ưu đãi về điều kiện thiên nhiên. Do nằm trên trục đường
giao thông đường bộ từ Bình Thuận vào, lại giáp biển nên vùng Mô Xoài - Bà
Rịa là nơi người Việt đến sinh sống sớm nhất, ngay từ thế kỷ XVII và đông lên
rất nhiều nửa sau thế kỉ này.
Từ Mô Xoài – Bà Rịa, di dân người Việt tiến dần vào vùng Đồng Nai,
Biên Hòa định cư và khai khẩn. Các điểm định cư và khai khẩn sớm nhất của cư
dân Việt ở vùng này là Bàn Lân, Bến Gỗ, Bến Cá, Cù Lao Rùa, Tân Triều, cù
lao Tân Chánh, rạch Lá Buông…
Ở vùng Sài Côn (Bến Nghé), lưu dân người Việt cũng đến khai phá rất
sớm. Theo tác giả Huỳnh Lứa: từ đầu thế kỉ XVII, người Việt đã đến định cư và
khai phá vùng này. Các gò đất cao như khu vực từ Chợ Quán đến Gò Cây Mai,
Chùa Gò (Phụng Sơn tự), từ Tân Định, Bà Chiểu, Gò Vấp … đến Hóc Môn và
dọc theo trục lộ đi về phía Tây Ninh là những nơi mà người Việt đến khai phá,
chung sống cùng với người Khơme.
Như vậy, người Việt đã có mặt trên suốt cả một khu vực rộng lớn từ Mô
Xoài cho đến vùng Sài Côn (Bến Nghé) từ đầu thế kỉ XVII. Họ đã lập ra những
làng mạc của người Việt đầu tiên trên đất Chân Lạp (tuy chưa phải những đơn vị
hành chính chính thức của Đàng Trong), tạo tiền đề cho việc đón những đợt di
dân tiếp theo khi có chủ trương của chúa Nguyễn, dưới sự cho phép của vua
Chân Lạp sau này.
80
Sự kiện quan trọng có ý nghĩa mở đầu cho mối quan hệ chính thức giữa
Chân Lạp và Đàng Trong, cũng như đối với quá trình mở đất của chúa Nguyễn
chính là cuộc hôn nhân ngoại giao giữa vua Chân Lạp Chey Chettta II và công
chúa Ngọc Vạn vào năm 1620.
Đầu thế kỉ XVII, khi mà uy thế của chúa Nguyễn đã lan vào cả Chân Lạp
thì việc tìm đến chúa Nguyễn như một cứu cánh đã xuất hiện với vương triều
Chey Chettta (1618 - 1625) nhằm đối trọng với Ayuthaya.
Chey Chetta (Chetta II) – vốn là Hoàng tử Chân Lạp bị Ayuthaya bắt giữ
làm con tin, sau khi được thả về nước và lên ngôi vua lúc 34 tuổi, đã không công
nhận quyền bá chủ của Ayuthaya trên đất Chân Lạp. Ông thay đổi tất cả những
gì do Ayuthaya quy định để ràng buộc Chân Lạp, kể cả việc xưng thần và cống
nạp rồi dời đô về Udong (Long Úc), thuộc tỉnh Kongong Luông. Điều đó gây sự
phản ứng rất mạnh mẽ của Ayuthaya, đã hai lần Ayuthaya đem quân sang chinh
phạt Chân Lạp nhưng đều bị đẩy lùi. Để đương đầu với Ayuthaya lâu dài, Chey
Chettha II đã tìm đến Đàng Trong nhằm thiết lập chỗ dựa cho mình.
Theo tác giả Nguyễn Trọng Minh trong bài “Xứ Mô Xoài trong tiến trình
Nam tiến của Người Việt” đăng trong kỷ yếu Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa -
Vũng Tàu ngày nay. Do sự xuất hiện ngày càng đông đảo của lưu dân Việt vào
làm ăn sinh sống trên vùng đất Mô Xoài cũng như các khu vực lân cận, đã khiến
chúa Nguyễn phải tính đến việc tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề này. Cơ
hội đó đã đến, khi quốc vương Chân Lạp Chey Chettta II xin cầu hôn với một
công nữ họ Nguyễn, nhằm tìm kiếm sự hỗ trợ về chính trị và quân sự từ chúa
Nguyễn để đối phó với các cuộc xâm lược của quân Xiêm. Chúa Nguyễn Phúc
Nguyên đã chấp nhận lời cầu hôn của quốc vương Chân Lạp, đem công chúa
Ngọc Vạn gả cho Chey Chetta II vào năm 1620.
Với cuộc hôn nhân mang màu sắc ngoại giao giữa Chey Chetta II và công
chúa Ngọc Vạn, chúa Nguyễn đã thắt chặt thêm quan hệ và tăng cường được
ảnh hưởng của mình lên Chân Lạp. Cuộc hôn nhân này đã mở ra nhiều sự thay
81
đổi đối với vận mạng của Chân Lạp và đem lại cho Đàng Trong những bước tiến
kỳ diệu trên con đường mở mang bờ cõi. Đó là những điều kiện vô cùng thuận
lợi cho chúa Nguyễn thực hiện công cuộc mở đất ở Đông Nam Bộ nói riêng và
Nam Bộ nói chung.
Tiếp theo sau cuộc hôn nhân chính trị này là sự trợ giúp thường xuyên của
chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho Chân Lạp. Thậm chí chúa còn gửi cả quân đội
và chiến thuyền đến giúp Chân Lạp chống các hoạt động chiến tranh và gây sức
ép của quân Xiêm, khiến cho liên minh giữa Chân Lạp và Đàng Trong ngày
càng chặt chẽ hơn. Mặt khác, công chúa Ngọc Vạn giờ đã là hoàng hậu Chân
Lạp với tước hiệu là Sodach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey, thường
can thiệp với chồng để tạo điều kiện cho người Việt sang khai phá, sinh sống
không chỉ trên vùng đất Mô Xoài, Đồng Nai (vùng Biên Hòa – Bà Rịa) mà còn
cả ở Prey Nokor – Kas Krobei (vùng Sài Gòn, Bến Nghé sau này) mà không
phải đóng thuế. Bà chính là cầu nối của mối quan hệ giữa Chân Lạp và Đàng
Trong đồng thời là nhân tố quan trọng trong những ngày đầu mở đất về phía
Nam của chúa Nguyễn.
Sự có mặt ngày càng đông đảo của người Việt trên vùng đất mới, cùng
với những hoạt động sinh hoạt của họ: “đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúa
Nguyễn từng bước hợp pháp hóa sự kiểm soát của mình một cách êm thấm đối
với vùng đất đã được khai khẩn” [47].
Sự kiện thứ hai có ý nghĩa đối với quá trình xâm nhập vào lãnh thổ Chân
Lạp của các chúa Nguyễn, là việc mở trạm thu thuế ở Sài Gòn và đóng đồn trên
đất Chân Lạp vào năm 1623.
Sự liên minh Đàng Trong – Chân Lạp ngày càng gắn bó cùng với vai trò
cầu nối của Ngọc Vạn, đã khiến cho lưu dân người Việt có mặt và làm ăn sinh
sống ở hầu khắp miền Đông Nam Bộ (ngày nay); sự giao thương quanh vùng
Sài Gòn – Đồng Nai cũng rất phát triển.
82
Trong điều kiện thuận lợi ấy, năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cử
một đoàn sứ bộ đem theo thư cùng nhiều tặng phẩm tới kinh đô Oudong để tỏ
tình thân hữu và đảm bảo sự ủng hộ của chính quyền chúa Nguyễn. Trong quốc
thư chúa cũng đã đề nghị vua Chân Lạp cho lập đồn thu thuế ở Prey Kor (tức
vùng Sài Gòn) để thu thuế lưu dân Việt đang làm ăn sinh sống quanh vùng và
xin nhượng vùng đất Mô Xoài để lập khu dinh điền.
Về sự kiện này, tác giả người Pháp là Maspéro trong sách Đế quốc Khmer
đã trích dịch từ Biên niên sử chép tay của Chân Lạp ghi rõ: Nhà vua mới lên
ngôi Chey Chettha II liền xây một cung điện ở Oudong, nơi đây ông long trọng
cử hành lễ cưới một công chúa con vua An nam. Bà này rất đẹp, chẳng bao lâu
ảnh hưởng mạnh đến nhà vua. Nhờ Bà, một sứ đòan An Nam đã xin phép Chey
Chettha lập thương điếm trong miền Nam Cao Miên, ở phía chính nơi ngày nay
là Sài Gòn [29, tr.146].
Ngoài ra, dịch giả “Biên niên sử Khơme” người Pháp là Moura cũng đã
viết: Vào Phật lịch 2167, công nguyên là 1623, một sứ thần của vua An nam
đem quốc thư tới vua Cao Miên là Prea Chey Chessda, với nội dung vua An
nam ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor và Kas Krobey (Sài Gòn và Bến Nghé)
của Cao Miên để lập các trạm thuế thương chính. Sau khi tham khảo triều đình,
Chey Chessda thuận ý vua An nam và gửi cho vua này một quốc thư bằng lòng
như yêu cầu. Do đấy vua An nam lệnh cho quan chức thương chính đến trú đóng
tại Prei Nokor và Kas Krobey, và từ đó, thi hành việc thu các sắc thuế thương
chính [29, tr.147].
Tác giả Phan Khoang trong Việt Sử xứ Đàng Trong cho biết thêm: sau khi
được vua Chey Chetta II chấp thuận, chúa Nguyễn đã khuyến khích người Việt
di cư đến đây làm ăn, rồi lấy cớ để giúp chính quyền Chân Lạp giữ gìn trật tự,
chúa Nguyễn đã phái tướng lãnh đến đóng đồn ở Prey Kor.
Theo tác giả Lê Huỳnh Hoa: việc triều đình Oudong chấp thuận lời đề
nghị là “một cách mượn sức lao động” của di dân người Việt để khai phá vùng
83
đất Nam Bộ bấy giờ còn rất hoang vu. Mặt khác, khi di dân người Việt có mặt ở
đây, chính quyền Đàng Trong sẽ có trách nhiệm nhiều hơn trong việc giúp Chân
Lạp đối phó với Xiêm” [35].
Các sở thuế này được xem như là chỗ đứng chân thứ hai của người Việt,
như một đầu cầu vững chắc cho chương trình di dân người Việt vào đất Chân
Lạp. Khu dinh điền ở Mô Xoài được xem là khu dinh điền chính thức đầu tiên
của người Việt trên đất Chân Lạp. Nơi đây đã góp phần quan trọng tạo nên một
điểm tụ cư cho cư dân Việt trong quá trình Nam tiến.
Với danh nghĩa giúp chính quyền Chân Lạp giữ gìn trật tự, chúa Nguyễn
còn phái tướng lĩnh đem quân đến đóng đồn ở Prey Nokor, thực chất là nhằm
bảo vệ cho lưu dân khai khẩn làm ăn ở vùng đất mới từ Bà Rịa (Mô Xoài) đến
Sài Gòn cũng như “bảo vệ con đường giao thương giữa Đàng Trong với Chân
Lạp và Xiêm” [64, tr.50].
Theo tác giả Đỗ Quỳnh Nga “việc được lập sở thu thuế và đóng đồn trên
đất Chân Lạp ngoài việc có ý nghĩa như là “sự thu hoạch” đối với những thành
quả mà người Việt đạt được, còn mang tính chất như là một sự xác lập chủ
quyền nhất định của chúa Nguyễn ở một khu vực cục bộ của Chân Lạp”
[64, tr.51].
Sự hiện diện của hai trạm thu thuế và đồn binh, cộng với công nữ người
Việt đang là hoàng hậu của Chân Lạp chẳng những là một sự đảm bảo an toàn
cho những cư dân Việt tại đây, mà còn là nguồn động viên, cổ vũ lưu dân Việt
vào đây làm ăn sinh sống.
Sau khi vua Chetta II mất vào năm 1628, thì vùng đất từ Prey Nokor trở ra
phía Bắc đến biên giới Champa, bao gồm vùng thành phố Hồ Chí Minh, Biên
Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay đã có nhiều người Việt đến sinh sống. Ở Tây
Ninh, đã có những người Việt đến định cư khai khẩn đất đai đầu tiên từ Hóc
Môn lên đến Trảng Bàng rồi qua Gò Dầu lên tận núi Bà Đen.
84
Tiếp nối con đường mà chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã khai mở, chúa
Nguyễn Phúc Tần sau khi lên ngôi đã thúc đẩy hơn nữa công cuộc mở đất vào
Đông Nam Bộ. Hai sự kiện tiếp theo có vai trò quan trọng đối với quá trình mở
đất Đông Nam Bộ là hai cuộc can thiệp quân sự vào lãnh thổ Chân Lạp của chúa
Nguyễn, theo lời thỉnh cầu của Chân Lạp nhằm giải quyết các vụ tranh chấp
trong nội bộ Chân Lạp vào các năm 1658 và năm 1674. Với hai sự kiện này,
thanh thế, vai trò của Đàng Trong ngày càng lên cao và Chân Lạp thì trở thành
nước thần phục, phải triều cống hàng năm.
Theo tác giả Phan Khoang thì năm 1658, theo lời cầu cứu của một trong
số các phe phái của triều đình Chân Lạp là So và Ang Tan, chúa Nguyễn Phúc
Tần đã sai Phó tướng dinh Trấn Biên (dinh Phú Yên) là Nguyễn Phước Yến, Cai
đội Xuân Thắng, Tham mưu Minh Lộc (hai người đều không rõ họ đem 3.000
quân đến thành Hưng Phước (bấy giờ gọi là Mỗi Xuy, tức Bà Rịa), đánh phá
được, bắt Nặc Ông Chân bỏ vào cũi đem về Quảng Bình... Năm sau (1659) Nặc
Ông Chân chết, Chúa Nguyễn phong So làm vua Chân Lạp, hiệu là Batom
Reachea (1660 – 1672 [46, tr.311-312].
Về việc này, Đại Nam thực tiền biên đã xác nhận: Tháng 9, vua nước
Chân Lạp (vốn tên là Cao Miên) là Nặc Ông Chân xâm lấn biên thùy. Dinh
Trấn Biên báo lên. Chúa sai Phó tướng Trấn Biên là Tôn Thất Yến, Cai đội là
Xuân Thắng, Tham mưu là Minh Lộc (hai người đều không rõ họ) đem 3000
quân đến thành Hưng Phúc (bấy giờ gọi là Mỗi Xuy, nay thuộc huyện Phúc
Chính, tỉnh Biên Hòa) đánh phá được, bắt Nặc Ông Chân đưa về. Chúa tha tội
cho và sai hộ tống về nước, khiến làm phiên thần, hàng năm nộp cống
[78, tr.72].
Nhờ người Việt mới được làm vua, nên Batom Reachea “đã ký hòa ước,
nhận triều cống chúa Nguyễn hằng năm và cho người Việt định cư trong lãnh
thổ, được làm chủ phần đất khai hoang và hưởng quyền lợi ngang hàng với
người bản xứ” [33]. Như vậy, mối quan hệ giữa Chân Lạp và Đàng Trong dưới
85
thời chúa Nguyễn Phúc Tần có sự thay đổi quan trọng – từ bang giao bình đẳng
chuyển sang mối quan hệ thần phục. Điều này đã tạo điều kiện rất lớn cho quá
trình di dân của người Việt vào lãnh thổ Chân Lạp. Người dân Việt chuyển cư
đến vùng Gia Định, Mô Xoài, Đồng Nai ngày càng đông và dần dần chiếm
đa số.
Cuộc can thiệp quân sự lần thứ hai vào Chân Lạp của chúa Nguyễn cũng
diễn ra ở Mô Xoài vào năm 1674.
Sau khi vua Chân Lạp là Batom Reachea bị giết (1672), tình hình Chân
Lạp rối ren trở lại. Hoàng tộc bị chia thành nhiều nhóm phái, có phái muốn dựa
vào Xiêm, có phái muốn dựa vào Đàng Trong để giành lấy ngai vàng. Nặc Nộn
thỉnh cầu chúa Nguyễn, trong khi Nặc Ông Đài cầu cứu quân Xiêm để đối phó
với Đàng Trong.
Dĩ nhiên cũng như bao nhà nước phong kiến khác, sự hỗ trợ của chúa
Nguyễn đối với mỗi phe phái trong hoàng gia Chân Lạp đều gắn với ý đồ mở
đất, từng bước thúc đẩy quá trình xâm nhập vào Chân Lạp. Với sự can thiệp lần
này cũng vậy, năm 1674, chúa Nguyễn Phúc Tần sai cơ đạo dinh Thái Khang là
Nguyễn Dương Lâm đem quân sang Chân Lạp hỗ trợ Nặc Nộn với cớ: “Nặc
Nộn là phiên thần, có việc nguy cấp, không thể không cứu” [78, tr.89].
Sách Gia Định thành thông chí củaTrịnh Hoài Đức mô tả trận này như
sau: Ở phía đông trạm Hương Phước, ngay giữa đường cái quan. Trước đây
Chánh vương Cao Miên là Sô đóng ở thành Vũng Long, Phó vương là Non đóng
ở thành Sài Gòn. Con trưởng của Sô là Bô Tâm không được làm vua, bèn giết
cha tự lập làm vua, rồi sợ Non không phục sẽ cáo báo lên triều để xin binh hỏi
tội mình nên đắp đồn đất Gò Vách, Nam Vang, kết bè nổi, giăng dây sắt để tự
vệ, lại xin Xiêm La ứng viện, mưu đánh giết Non. Thế Non lúc bấy giờ rất nguy
phải chạy qua nương tựa dinh Thái Khang, Bô Tâm bèn chiếm cứ Sài Gòn, mà
quân Xiêm lại không đến như đã hứa, nên Bô Tâm đắp lũy đất ở vùng địa đầu
Mô Xoài. Phía ngoài trồng tre gai, tăng thêm quân và voi để phòng thủ, thế rất
86
vững. Trải hơn một năm thấy quân ta không hề động tĩnh quân lính, Bô Tâm trễ
nải việc phòng bị, quân lính tứ tán ra ngoài đồng xa làm ruộng. Tháng giêng
năm Giáp Dần (1674) đời Thái Tông thứ 27 (chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần),
Trấn thủ dinh Thái Khang là Nguyễn Triều Đắc đem việc trình lên, tháng 2 vua
sai tướng của dinh Thái Khang là Nguyễn Dương xuất chinh, cử thêm Nguyễn
Diên làm Cai cơ thống lãnh tiên phong và dụ rằng: dùng binh quý là thần tốc,
phải mau chóng đi suốt ngày đêm. Tháng 3, Diên Lộc hầu đến trước ở lũy Mô
Xoài, nhân khi chúng không phòng bị xông vào đánh úp, chiếm lấy, binh sĩ giáo
không hề vấy máu; qua ba ngày bọn chúng tụ họp lại vây đánh rất gắt, Diên Lộc
hầu đóng cửa lũy không đánh trả, rồi đại quân của Dương Lâm hầu đến mới
hiệp lực ra đánh, quân Cao Miên thua to, chết và bị thương rất đông. Nhân vậy
mới gọi là lũy Phước Tứ [25, tr.231].
Thắng trận, chúa Nguyễn Phúc Tần phong cho Nặc Thu (em Nặc Ông
Đài) làm chính vương, đóng ở thành Long Úc (Oudong), Nặc Nộn làm phó
vương đóng ở Sài Gòn, cùng coi việc nước và buộc cả hai hằng năm phải triều
cống.
Chúa Nguyễn dần dần đã trở thành lực lượng thiết lập trật tự ở Chân Lạp
mỗi khi có nội biến xảy ra, điều này đồng nghĩa với việc chúa Nguyễn có thể
can thiệp sâu sắc vào triều chính Chân Lạp, nhưng cho đến thời điểm này
(1674), điều đó vẫn không xảy ra. Điều mà chúa Nguyễn đòi hỏi chỉ đơn thuần
là Chân Lạp triều cống hằng năm và tạo điều kiện cho lưu dân người Việt vào
vùng đất này làm ăn sinh sống.
Quá trình xâm nhập vào vùng đất Đông Nam Bộ của các chúa Nguyễn từ
1620 cho đến năm 1674 đã có được kết quả khá tốt đẹp “vùng đất từ Prey Kor
trở ra cho đến biên giới Champa (bao gồm thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa,
Biên Hòa ngày) gần như đã trở thành lãnh địa riêng của chúa Nguyễn với rất
nhiều người Việt đến sinh sống, lập nghiệp” [63, tr.19].
87
Cùng với Gia Định, Mô Xoài, chúa Nguyễn đã có những bước xâm nhập
vào Biên Hòa, tạo điều kiện cho lưu dân người Việt đến đây sinh sống. Tuy vậy,
Biên Hòa chỉ thực sự được khai phá và phát triển vào nửa sau thế kỉ XVII, khi
có lực lượng người Hoa đến đây. Công cuộc mở mang vùng này không phải do
chúa Nguyễn tốn công sức thực hiện mà là do lực lượng người Hoa đảm nhiệm.
Chúa Nguyễn Phúc Tần đã rất khôn ngoan và táo báo khi sử dụng lực lượng này
để đem về cho mình một vùng đất trù phú giàu có [63, tr.19].
Sự xuất hiện của lực lượng người Hoa trên đất Biên Hòa được sử nhà
Nguyễn ghi lại như sau: Kỷ Mùi, năm thứ 31 [1679], mùa xuân, tháng giêng,
tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh Dương Ngạn Địch và và phó tướng
Hoàng Tiến, Cao Lôi Liêm, tổng binh Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần
An Bình đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung
và Đà Nẵng, tự trần là bô thần nhà Minh, nghĩa không chịu làm tôi thần nhà
Thanh, nên đến để xin làm tôi tớ [78, tr.91]. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã thu nhận
và sử dụng họ làm lực lượng khai phá đất ở Nam Bộ với suy tính khôn ngoan:
Phong tục tiếng nói của họ đều khác, khó bề sai dụng, nhưng họ bị thế cùng bức
bách đến đây thì không nỡ cự tuyệt. Nay đất Đông Phố (tên cổ của Gia Định)
nước Chân Lạp đồng ruộng phì nhiêu nghìn dặm, triều đình chưa rỗi mà kinh lý,
chi bằng nhân lấy sức của họ cho đến khai khẩn để ở, làm một việc mà lợi ba
điều [78, tr.91]. Chúa một mặt ban thưởng cho các tướng nhà Minh những chức
như cũ, phong thêm chức mới, một mặt gửi thư cho vua Chân Lạp yêu cầu chia
cấp đất đai cho họ.
Binh thuyền của Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến được bố trí đến định
cư và khai phá đất đai ở châu thổ bờ bắc sông Tiền, lập ra Mỹ Tho đại phố. Tuy
nhiên, chỉ 9 năm sau (1688) nội bộ lục đục dẫn đến việc Dương Ngạn Địch bị
Hoàng Tiến giết chết.
Đoàn di dân của Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình dẫn đầu vào cửa
Cần Giờ đến đóng ở Bàn Lân (Biên Hòa). Phần lớn những người Hoa di cư sang
88
nước ta đều xuất phát từ miền đông nam Trung Quốc – khu vực phát triển kinh
tế hàng hóa sớm nhất của Trung Quốc. Sở trường của họ là buôn bán và công
nghệ, ít người chuyên về nghề nông. Hơn nữa, trong số những người Hoa này,
ngoài tướng lĩnh quân đội còn có cả những tướng cướp khét tiếng trên biển
Đông, quan lại, thương gia giàu có từng có quan hệ giao thương với nhiều nước
Nam Á. Họ mang theo nhiều của cải, vàng bạc. Bằng tư duy thương nghiệp, tư
duy hàng hóa, tiền tệ, nhóm di dân Trần Thượng Xuyên sớm phát hiện và khai
thác thế mạnh của Cù Lao Phố. Cù Lao Phố “nằm giữa sông Hương Phước (một
đoạn của sông Đồng Nai), trải dài trên 7 dặm, bề ngang bằng 2/3 bề dài. Tuy
nằm cách xa biển nhưng là nơi sông sâu, nước chảy, có thể tiếp tục ngược lên
phía bắc khai thác nguồn lâm thổ sản, xuống tận phía nam ra cửa Cần Giờ và
có thể sang tận Cao Miên” [120, tr.390-391]. Do đó, phần lớn trong số họ đã
chuyển cư từ Bàn Lân về Cù Lao Phố phát hoang, dựng nhà, mở đường, xây phố
chợ. Sẵn có vốn liếng tiền bạc, với kinh nghiệm đã được tích lũy, họ liên lạc,
móc nối lại với các đường dây, khách hàng buôn bán cũ, họ khai thác các nguồn
lâm sản dồi dào và phong phú trong vùng lúc bấy giờ như: gỗ quý, trầm hương,
ngà voi, sừng tê, xương động vật, da thú, lông chim, dược liệu, tôm khô, cá khô
cùng những sản phẩm nông nghiệp khác… vì thế đã thu hút được nhiều thương
nhân nước ngoài và cả những thế hệ sau đến trao đổi buôn bán, làm ăn sinh
sống.
Chỉ trong vài ba thập niên, đến đầu thế kỉ XVIII, Cù Lao Phố đã trở thành
một thương cảng xuất nhập khẩu lớn thu hút thuyền buôn Nhật Bản, Trung Hoa
và các nước phương Tây, đây được xem là một trung tâm thương mại lớn ở Gia
Định. Biên Hòa lúc đó đã trở thành một trong hai trung tâm có cư dân đông đảo,
làm cơ sở cho cuộc khai phá miền Đông Nam Bộ của chúa Nguyễn sau này.
Tuy vậy, để bảo vệ được mảnh đất này được bình an cũng không phải là
một điều dễ dàng. Sự yên bình hay bất ổn của triều đình Chân Lạp đều ảnh
hưởng lớn đến những thành quả mà chúa Nguyễn đã dựng nên trên vùng đất
89
mới. Chúa Nguyễn, cũng phải tốn nhiều sức lực để dẹp loạn các cuộc tranh chấp
trong nội bộ Chân Lạp nhằm bảo vệ các thành quả của mình. Sự xung đột gay
gắt giữa Nặc Thu và Nặc Nôn (diễn ra từ 1679 và kết thúc vào năm 1690), được
sự can thiệp quyết liệt của quân chúa Nguyễn Phúc Trăn một mặt là nhằm thiết
lập lại trật tự ở Chân Lạp, mặt khác là tạo điều kiện cho người Việt đến sinh
sống ở vùng đất này càng ngày càng đông hơn.
Như vậy, cho đến cuối thế kỷ XVII, tuy đã khai phá trên một vùng đất khá
rộng lớn và có ảnh hưởng rất lớn đến triều chính Chân Lạp, nhưng các Chúa
Nguyễn, ngoại trừ chức quan thu thuế ở Sài Gòn (Sài Côn), vẫn chưa thiết lập
những tổ chức hành chính trên vùng đất này. Phải đến khi dinh Trấn Biên và
Phiên Trấn được lập ra (năm 1698), thì công cuộc mở đất Đông Nam Bộ mới
chính thức hoàn thành.
Sự ra đời của dinh Trấn Biên và Phiên Trấn có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với việc xác định chủ quyền của chúa Nguyễn trên Chân Lạp. Không
phải ngẫu nhiên mà mãi đến năm 1698, chúa Nguyễn mới bắt tay vào thực hiện
việc thiết lập nên các tổ chức hành chính và các chức quan quản lý của mình
trên đất Chân Lạp. Có nhiều ghi chép khác nhau, cũng như nhiều ý kiến không
thống nhất về những nguyên cớ để đưa đến sự kiện này. Các bộ Chính sử của
Quốc sử quán triều Nguyễn như Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện
tiền biên, Đại Nam nhất thống chí cũng như Gia Định thành thông chí của Trịnh
Hoài Đức đều không thấy đề cập đến, trong khi Phủ Biên tạp lục của Lê Quý
Đôn lại ghi chép sự kiện này như là kết quả của một cuộc đánh chiếm: Mậu
Dần, năm thứ 19, sai Chưởng Cơ Thành Lễ Hầu đem tướng sĩ đi đánh Cao
Miên, lấy đất Đồng Nai phì nhiêu đặt làm phủ Gia Định, chia thành hai huyện
Phúc Long và Tân Bình, lập làm dinh Trấn Biên và dinh Phan Trấn (cũng đọc là
Phiên Trấn), mở thêm đất nước được nghìn dặm và dân hơn 4 vạn hộ [23, tr.77].
Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang cũng có đề cập tới vấn đề này: có viên
quan Chân Lạp tên Êm nổi loạn, nhờ chúa Nguyễn giúp quân lính và đã hứa sẽ
90
nhượng các tỉnh Prey Kôr (Sài Gòn), Kâmpeâp Srêkatrey (Biên Hòa), Bà Rịa để
đền đáp. Năm 1699, Êm đem quân Việt theo sông Mêkông tiến đến Kongpong
Chhnang, nhưng bị đẩy lui, trở về 3 tỉnh này, Êm bị giết. Nhưng nhân đó chúa
Hiển Tông đã công khai chiếm đất ấy, đặt quan cai trị [46, tr.321-322]. Ngoài
ra, trong tác phẩm Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp, ở
Nam kỳ lục tỉnh của tác giả Nguyễn Đình Đầu, vấn đề này cũng được được đề
cập một cách chi tiết: Khi ấy, quốc vương Cao Miên là Nặc Ông Thu bị một
quan đại thần là Am Noren âm mưu lật đổ, Am Noren sang Đồng Nai, xin chúa
Nguyễn giúp cho 20.000 quân về đánh Nặc Ông Thu. Đạo quân này chia làm
hai cánh theo Tiền Giang và Hậu Giang đánh lên kinh đô. Thu bị bắt ngờ, phải
chạy về Gò Sặt (Pursat), triệu tập cấp tốc được trên 40.000 quân, mãnh liệt
phản công lại Am Noren, Am Noren bị bắt và bị hành quyết, còn tàn quân thì
chạy về Đồng Nai. Sử Việt Nam không nói tới sự kiện trên, mà chỉ viện lý do tình
hình không ổn định ở Chân Lạp nên chúa Nguyễn Phúc Chu sai chưởng cơ Lễ
thành hầu Nguyễn Hữu Kính đem quân vào kinh lý [22, tr.43-44]. Tuy nhiên, cả
hai tài liệu trên đều không ghi xuất xứ nguồn sử liệu để thẩm định.
Dù thế, một sự thật hiển nhiên là sự kiện này có mối quan hệ ít nhiều đến
cái chết của phó vương Nặc Nộn của Chân Lạp vào năm 1691, từ lúc đó vùng
đất này không còn đại diện của vương triều Chân Lạp nữa. Phải chăng là lợi
dụng lúc triều chính Chân Lạp chưa ổn định, chúa Nguyễn Phúc Chu đã nhân cơ
hội này sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược đất Chân Lạp, thực hiện ý
định của mình? Hơn nữa, đây cũng là thời điểm mà lãnh thổ nước ta đã nối dài
thêm đến Bình Thuận (năm 1693), nên việc sáp nhập thêm một vùng đất mới
trong những điều kiện chín muồi hoàn toàn có khả năng diễn ra.
Mùa xuân năm 1698, chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh
(Kính) vào Nam kinh lược. Lúc bấy giờ, người Việt tuy khẩn hoang lập ấp còn
thưa nhưng họ cũng đã có mặt ở khắp vùng miền Đông, từ sông Tiền qua Vàm
Cỏ, qua Sài Gòn, Đồng Nai và Mô Xoài (Bà Rịa). Nguyễn Hữu Cảnh tiến hành
91
chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long (nay thăng làm
phủ) dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện
Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức dinh Gia Định ngày
nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy
bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất đai được nghìn dặm, được hơn 4 vạn
hộ, bèn chiêu mộ những người dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở
đông. Thiết lập xã thôn, phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương,
định lệ thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh buôn bán ở Trấn
Biên lập làm xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn, lập làm xã Minh Hương. Từ đó người
Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ (của ta) [78, tr.111].
Về sự việc này, sách Gia Định thành thông chí cho biết: Mùa xuân năm
thứ 8, Mậu Dần (1698) thời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (Quốc chúa Nguyễn
Phúc Chu), (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 19, Đại Thanh Khang Hy thứ
37), triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Hữu Cảnh)
sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập
đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là
thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận
sở nay gần Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị.
Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân binh thì có tinh binh cơ đội
thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ,
chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp,
phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch. Con
cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên
Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch [25, tr.112].
Đến đây, Trấn Biên và Phiên Trấn đã được phân định rõ ràng. “Địa danh
Trấn Biên bao gồm một vùng đất rộng lớn từ ranh giới Bình Thuận đến Nhà Bè;
Phiên Trấn là vùng đất từ Tân Bình đến Cần Giuộc, Cần Đước, Tân An”
[56, tr.33]. Điều đáng lưu ý là theo tổ chức hành chính dưới thời chúa Nguyễn
92
thì dinh chia ra nhiều phủ, phủ gồm nhiều huyện, huyện gồm nhiều tổng, tổng
gồm nhiều xã, nhưng đối với phủ Gia Định, dinh Trấn Biên và Phiên Trấn lại
khác. Phủ Gia Định thay vì trực thuộc Trấn Biên hay Phiên Trấn thì lại “quản”
cả hai dinh này. Thông qua việc lập nên phủ Gia Định với 2 dinh Trấn Biên,
Phiên Trấn và việc tổ chức các đơn vị hành chính, bộ máy chính quyền từ cấp
phủ, dinh, trấn cho đến tận các thôn xã; việc quản lý đất đai; hộ khẩu; thu thuế…
chúa Nguyễn đã xác lập quyền quản lý về mặt nhà nước đối với các xứ Đồng
Nai – Gia Định. Điều đó đồng nghĩa với việc công khai sáp nhập vùng đất Đông
Nam Bộ, một phần nhỏ Tây Nam Bộ (Long An) vào lãnh thổ Đàng Trong, Sài
Gòn – Gia Định từ đây đã trở thành một trung tâm hành chính và từng bước hình
thành nên một trung tâm kinh tế - văn hóa của vùng đất mới.
Chuyến kinh lược của Nguyễn Hữu Cảnh đã tạo nên một sự thay đổi hết
sức quan trọng: lưu dân từ thân phận kiều dân đã trở thành dân chính hộ, cộng
đồng kiều dân trở thành cộng đồng chủ nhân vùng đất mình đang sinh sống. Sự
thay đổi này, tạo nên ở người lưu dân ý thức làm chủ đối với vùng đất mà từ nay
đã thuộc về mình, từ đó họ thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong
công cuộc xây dựng, phát triển và bảo toàn vùng đất này. Điều này có ý nghĩa
rất lớn đối với tiến trình mở mang lãnh thổ về sau.
Công cuộc khai mở Đông Nam Bộ đến đây chính thức được hoàn tất và
sự kiện năm 1698 trở thành cột mốc quan trọng trong quá trình xác lập và thực
thi chủ quyền của Chúa Nguyễn đối với vùng đất Nam Bộ.
Việc lập nên đơn vị hành chính đầu tiên ở trên đất Chân Lạp của Đàng
Trong này, gắn liền với tên tuổi của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Ông được
xem là vị “khai canh” của nhiều làng Việt ở Đông Nam Bộ. Với những đóng
góp ý nghĩa của mình đối với quá trình khai phá đất Nam Bộ, ông được nhân
dân Nam Bộ, kể cả người Chân Lạp lập đền thờ ở nhiều nơi, từ Tây đến Đông
Nam Bộ.
93
2.2.2.2. Những cột mốc quan trọng từ 1698 đến năm 1757
Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ thành công đã tạo cơ sở vững chắc cho
chúa Nguyễn tiến xuống mở đất Tây Nam Bộ.
Tác phẩm Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam do Giáo sư. Tiến sĩ khoa
học Vũ Minh Giang chủ biên cho biết: khi nhóm cận thần nhà Minh, Dương
Ngạn Địch, Trần Thắng Tài được chúa Nguyễn phong chức tước và cho vào
định cư và khai khẩn vùng Mĩ Tho và Biên Hòa, thì Mạc Cửu là người xã Lôi
Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) cũng
vì việc nhà Minh mất mà để tóc chạy sang phương Nam, đến nước Chân Lạp
làm chức Ốc Nha, thấy phủ Sài Mạt ở nước ấy có nhiều người buôn bán các
nước tụ họp, bèn mở sòng gá bạc để thu thuế gọi là hoa chi, lại được hố bạc
chôn nên trở thành giàu. Nhân chiêu tập dân xiêu dạt đến các nơi Phú Quốc,
Cần Bột, Giá Khê, Lũng Kỳ, Hương Úc, Cà Mau (thuộc tỉnh Hà Tiên) lập thành
7 xã, thôn [78, tr.122]. Mạc Cửu đã biến toàn bộ vùng đất Hà Tiên – Long
Xuyên - Bạc Liêu – Cà Mau (được gọi chung là Hà Tiên) thành khu vực cát cứ
của dòng họ mình, không còn lệ thuộc vào chính quyền Chân Lạp nữa.
Sách Thanh triều văn hiến thông khảo gọi đây là nước Cảng Khấu (Cảng Khẩu
quốc): Nước này có nhiều núi cao, địa hạt khoảng 100 dặm vuông. Thành và các
cung thất làm bằng gỗ không khác Trung Quốc mấy. Chỗ vua ở xây bằng gạch
ngói. Chế độ trang phục phảng phất các Vua đời trước, búi tóc, đi võng, chít
khăn, đội mũ. Vua mặc áo bào vẽ trăn rắn, lưng thắt dải đai, giày dép bằng da.
Dân mặc áo vạt cổ rộng. Khi có tang thì mặc đồ màu trắng, bình thường thì áo
nhiều màu… Họ gặp nhau thì chắp hai tay chào theo lễ. Phong tục nước này
ham chuộng thơ văn, trong nước có dựng đền thờ Khổng Tử. Vua và dân đều
đến lễ… [28, tr.31].
Trước tình hình phát triển hết sức nhanh chóng của khu vực Gia Định
dưới quyền quản lý của chính quyền Chúa Nguyễn, Mạc Cửu càng ngày càng
nhận thấy không thể không dựa vào chính quyền Chúa Nguyễn nếu muốn tiếp
94
tục củng cố và mở rộng thế lực trên vùng đất này, nên đã đem toàn bộ vùng đất
đang cai quản về với Chúa Nguyễn. Sách Đại Nam thực lục chép sự kiện xảy ra
vào năm 1708 như sau: “Đến đây Cửu ủy cho người bộ thuộc là Trương Cầu và
Lý xã dâng thư xin làm Hà Tiên trưởng. Chúa nhận cho, trao cho chức Tổng
binh. Cửu xây dựng binh ngũ, đóng ở Phương Thành, nhân dân gày càng đến
đông” [78, tr.122]. Tháng 4 năm 1711, Tổng binh trấn Hà Tiên Mạc Cửu đã đến
cửa khuyết để tạ ơn và được Chúa Nguyễn Phúc Chu hậu thưởng.
Việc vùng đất Hà Tiên được sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong, là sự kiện
đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quá trình mở rộng chủ quyền của
Chúa Nguyễn trên vùng đất Nam Bộ. Đến đầu thế kỷ XVIII, chủ quyền Việt
Nam đã mở rộng đến tận Hà Tiên và mũi Cà Mau, bao gồm cả các hải đảo ngoài
Biển Đông và vịnh Thái Lan. Lúc này, bên cạnh đội Hoàng Sa trấn giữ các quần
đảo giữa Biển Đông, Chúa Nguyễn còn đặt ra đội Bắc Hải (dưới sự kiêm quản
của đội Hoàng Sa) có trách nhiệm khai thác hóa vật, kiểm tra, kiểm soát thực thi
chủ quyền của Việt Nam ở khu vực “các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo
ở Hà Tiên”.
Sau khi Mạc Cửu mất, Chúa Nguyễn tiếp tục phong cho con của Mạc Cửu
là Mạc Thiên Tứ làm Đô đốc trấn Hà Tiên và cho 3 thuyền long bài được miễn
thuế, sai xuất dương tìm mua các của quý báu để nộp. Lại sai mở cục đúc tiền
để tiện việc trao đổi. Thiên Tứ chia đặt nha thuộc, kén bổ quân ngũ, đắp thành
lũy, mở phố chợ, khách buôn các nước đến họp đông. Lại vời những người văn
học, mở Chiêu Anh các, ngày ngày cùng nhau giảng bàn và xướng họa, có 10
bài vịnh Hà Tiên (Hà Tiên thập vịnh) [78, tr.146]. Mạc Thiên Tứ không chỉ ra
sức xây dựng và phát triển Hà Tiên trở thành một trung tâm kinh tế phồn thịnh,
mà còn nêu cao ý thức bảo vệ chủ quyền với tư cách là người được giao trách
nhiệm bảo vệ vùng biên giới cực Nam đất nước. Sách Đại Nam thực lục cho biết
vào năm 1739: Nặc Bồn nước Chân Lạp lấn Hà Tiên… Thiên Tứ đem hết quân
bản bộ ra đánh, đuổi tới Sài Mạt, ngày đêm đánh hăng, lương thực không tiếp
95
kịp. Vợ là Nguyễn Thị đốc suất vợ lính vận lương đến nuôi quân, quân không bị
thiếu ăn, hăng hái cố đánh phá được quân Bồn. Tin thắng trận báo lên, Chúa cả
khen ngợi, đặc biệt cho Thiên Tứ chức Đô đốc tướng quân, ban cho áo bào đỏ
và mũ đai, phong Nguyễn Thị làm Phu nhân. Do đó Chân Lạp không dám nhòm
ngó Hà Tiên nữa [78, tr.148].
Năm 1744, Chúa Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vương, tổ chức bộ máy
hành chính thống nhất, chia toàn bộ đất Đàng Trong thành 12 dinh và 1 trấn phụ
thuộc. Các dinh đều đặt trấn thủ, cai bạ và ký lục để cai trị, đứng đầu trấn là
chức đô đốc. Riêng vùng đất Nam Bộ lúc ấy gồm 3 dinh là Trấn Biên, Phiên
Trấn, Long Hồ và trấn Hà Tiên.
Vào khoảng thời gian này, nội bộ vương triều Chân Lạp lâm vào tình
trạng mâu thuẫn, chia rẽ. Có thế lực muốn dựa hẳn vào Chúa Nguyễn, nhưng lại
có thế lực muốn chạy theo vua Xiêm, các lực lượng đối địch luôn tìm mọi cơ hội
để thôn tính lẫn nhau. Sách Đại Nam thực lục cho biết: vào năm Mậu Thìn
(1748) Nặc Tha (Satha II) nước Chân Lạp lên ngôi Vua. Nặc Thâm từ nước
Xiêm về, Tha không chịu nhận. Thâm cử binh đánh. Tha chạy sang Gia Định.
Thâm liền chiếm đất. Đến khi Thâm chết, con là Đôn, Hiên, Yếm tranh nhau làm
Vua…Mùa Hạ, tháng 6, Nặc Nguyên (Ang Tong) nước Chân Lạp (con thứ hai
Nặc Thâm) cùng Cao La Hâm và Ốc Đột Lục Man cầu viện quân Xiêm về đánh
Nạc Tha. Nạc Tha (Satha II) lại chạy sang Gia Định, rồi bị bệnh chết. Nặc
Nguyên (Ang Tong) làm vua nước ấy [78, tr.155].
Vùng đất Hà Tiên sau khi nhập vào lãnh thổ Đàng Trong, ngày một hưng
thịnh, trở thành nơi nhiều thế lực trong triều đình Chân Lạp tìm đến với hy vọng
được cưu mang và cậy nhờ. Cuối năm 1755, chính vua Chân Lạp là Nặc Nguyên
đã “chạy về Hà Tiên, nương tựa đô đốc Mạc Thiên Tứ” [78, tr.164].
Năm 1756, Nặc Nguyên xin hiến đất hai phủ Tầm Bồn, Lôi Lạp và nộp bù
lễ cống còn thiếu 3 năm về trước để chuộc tội”. Sau khi bàn tính kỹ, Chúa
Nguyễn đã chấp nhận việc “lấy đất hai phủ ấy, ủy cho thần xem xét hình thế, đặt
96
lũy đóng quân, chia cấp ruộng đất cho quân và dân, vạch rõ địa giới, cho đặt lệ
vào châu Định Viễn để thu lấy toàn khu [78, tr.166].
Năm sau (năm 1757), Nặc Nguyên qua đời, người chú họ là Nặc Nhuận
tạm trông coi việc nước, nhưng ngay sau đó triều đình Chân Lạp lại rối loạn,
đánh giết lẫn nhau. Người con của Nặc Nhuận (em họ của Nặc Nguyên) là Nặc
Tôn (Outey II) chạy sang Hà Tiên, Mạc Thiên Tứ đã cưu mang và giới thiệu
Nặc Tôn lên Chúa Nguyễn. Chúa bèn sắc tôn cho Nặc Tôn (Outey II) làm vua
nước Chân Lạp, sai Thiên Tứ cùng với tướng sĩ năm dinh hộ tống về nước. Nặc
Tôn (Outey II) bèn dâng đất Tầm Phong Long… Bấy giờ Nặc Tôn (Outey II) lại
cắt năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc
Thiên Tứ, Thiên Tứ hiến cho triều đình. Chúa cho lệ năm phủ ấy vào quản hạt
Hà Tiên, Thiên Tứ xin đặt Giá Khê làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long
Xuyên, đều đặt quan lại, chiêu dân cư, lập thôn ấp làm địa giới Hà Tiên ngày
càng thêm rộng [78, tr.166-167].
Như vậy, đến năm 1757, những phần đất còn lại ở miền Tây Nam Bộ mà
trên thực tế đã thuộc quyền cai quản của Chúa Nguyễn từ trước đó, chính thức
thuộc chủ quyền của Việt Nam. Sau đó, dưới thời Nhà Nguyễn (1802 – 1945),
tuy có một số địa điểm cụ thể vẫn còn được tiếp tục điều chỉnh, nhưng trên căn
bản khu vực biên giới Tây Nam Việt Nam đã được hoạch định từ năm 1757
[28].
Tiểu kết chương 2
Các lưu dân Việt đặt chân lên vùng đất Đông Nam Bộ này từ rất sớm, có
thể nói là từ cuối thế kỉ XVI đầu thế kỷ XVII. Có nhiều nguyên nhân khiến
người Việt di cư vào vùng đất mới này, nhưng nguyên nhân chủ đạo nhất chính
là sự tàn khốc của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài hàng mấy chục năm
trời. Thành phần cư dân có mặt sớm trên vùng đất mới này cũng hết sức đa
dạng, từ những người nông dân nghèo khổ cho đến những người trốn tránh binh
dịch, thuế khoá, chống đối triều đình và có cả những tay giang hồ tứ chiếng. Về
97
sau, thì có thêm những người giàu có, những người theo đạo Thiên Chúa. Tuy
thành phần xuất thân khác nhau, nhưng họ đến vùng đất mới này với một mục
đích chung là tìm kế mưu sinh, cho nên họ đã sớm tụ họp lại với nhau trên
những vùng đất thuận lợi nhất cho việc làm ăn sinh sống, và từ đó từng bước
khai khẩn vùng đất mới này.
Công cuộc khai mở vùng đất Đông Nam Bộ của chúa Nguyễn đã diễn ra
liên tiếp trong gần 100 năm, với hàng loạt các sự kiện. Mở đầu, là những cuộc di
cư tự phát của lưu dân Việt từ cuối thế kỉ XVI đầu thế kỷ XVII, kế đến là cuộc
hôn nhân giữa vua Chey Chettha II với công chúa Ngọc Vạn (1620). Năm 1623,
được sự chấp thuận của vua Chân Lạp, chúa Nguyễn thiết lập trạm thu thuế ở
Sài Côn (1623), sự kiện này đã tạo điều kiện, cơ sở pháp lý cho dân Việt vào
khai phá vùng Mô Xoài (Bà Rịa – Vũng Tàu) ngày một đông. Tiếp theo là sự
xâm nhập bằng đường biển của đoàn di thần nhà Minh vào khai thác vùng Biên
Hòa, Mỹ Tho (1679) với sự cho phép của chúa Nguyễn và cuối cùng là chuyến
“kinh lược” của Nguyễn Hữu Cảnh vào năm 1698 nhằm phân chia lại địa giới và
thiết lập cơ quan hành chính, xác định chủ quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất
Đồng Nai – Gia Định này.
Quá trình khai mở Đông Nam Bộ diễn ra trong bối cảnh khu vực có
những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp. Quá trình đó diễn ra tịnh tiến với
nhiều con đường khác nhau, có khi dùng sức mạnh quân sự để đánh đuổi kẻ thù
và phòng thủ từ xa, có khi bằng biện pháp ngoại giao khôn khéo, có khi tiếp
nhận đất đai do sự dâng hiến tự nguyện của các cuộc hôn nhân…Đó là một quá
trình giải quyết các mối quan hệ đan xen, chồng chéo rất phức tạp với các nước
láng giềng và bị chi phối bởi những hoàn cảnh khách quan. Trong bối cảnh đó,
quá trình thụ đắc Đông Nam Bộ thời chúa Nguyễn chủ yếu thông qua hai hình
thức chính là chiếm hữu (thông qua việc khai phá đất đai một cách hòa bình của
lưu dân) và chuyển nhượng. Đây là những nội dung quan trọng của phương thức
“tàm thực”, được thực hiện chủ yếu thông qua phương pháp ngoại giao và có sự
98
hỗ trợ nhất định của quân sự nhằm thụ đắc hợp pháp miền Đông và miền Tây
Nam Bộ một cách hợp tình, hợp lý.
Với sự bền bỉ và sách lược trường kỳ cùng với việc sử dụng hợp lý, tài
tình các phương thức mở đất vào cuối thế kỷ XVII, chúa Nguyễn đã xác lập
được quyền lực của mình tại vùng trung tâm của Nam Bộ, khẳng định chủ quyền
của người Việt trên vùng đất mà thực tế, chính quyền Chân Lạp chưa khi nào
thực sự thực thi một cách đầy đủ chủ quyền của mình. Kể từ đây, thời lưu dân tự
phát, tự quản của cư dân Việt đã chấm dứt. Họ đã trở thành dân chính hộ, đinh
hay điền đều phải ghi vào sổ bộ và phải đóng thuế theo quy định; xã thôn
phường ấp đều có ranh giới rõ ràng, đều có con triện và các sổ bộ riêng.
99
Chương 3
VAI TRÒ CỦA ĐÔNG NAM BỘ
TRONG TIẾN TRÌNH MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM
Trong tiến trình mở đất phương Nam, Đông Nam Bộ có vai trò hết sức
quan trọng. Nơi đây không chỉ là nơi dừng chân đầu tiên của lưu dân người Việt,
mà còn là nơi trung chuyển di dân trên con đường khai phá Nam Bộ. Bên cạnh
đó, Đông Nam Bộ là điểm xuất phát của việc xác lập chủ quyền trên lãnh thổ
cũng như lãnh hải của chính quyền Đại Việt trên vùng đất phương Nam. Trong
thế kỉ XVII – XVIII, Đông Nam Bộ còn có vai trò là cửa ngõ thông thương của
Nam Bộ, của Đàng Trong với nước ngoài và nơi đây cũng là nơi hội nhập của
cộng đồng các dân tộc trên vùng đất mới.
3.1. Đông Nam Bộ là nơi dừng chân đầu tiên của lưu dân, di dân người Việt
Như trên đã viết, cho đến đầu thế kỉ XVII, Nam Bộ ngày nay về cơ bản
vẫn là một vùng đất hoang vu, chưa được khai phá nhiều, dân cư còn thưa thớt.
Trước khi có những lớp cư dân mới xuất hiện, ở đây đã có cư dân sinh sống, họ
là các tộc người bản địa và người Khơme. Tuy nhiên, do dân số ít mà khả năng
chinh phục tự nhiên lại hạn chế, cho nên họ chỉ sống phân bố rải rác trên những
giồng đất cao ven sông Tiền, sông Hậu cũng như những vùng đất hình vòng
cung song song với duyên hải. Do đó, có thể nói rằng địa bàn dành cho lớp cư
dân mới đến cư trú và khai phá còn rất rộng rãi. Mặt khác, việc quản lý hành
chính đối với vùng đất Đồng Nai - Gia Định cho đến hết thế kỉ XVII còn khá
lỏng lẻo, vì vậy người dân di cư mới đến có thể tự do lựa chọn nơi ở, tự do khai
khẩn đất hoang làm ăn.
Trong buổi đầu mở đất phương Nam, Đông Nam Bộ đã được lưu dân Việt
chọn làm nơi dừng chân, cư trú và khai phá đầu tiên của mình. Sở dĩ như thế vì
nơi đây giao thông thuận tiện, đất đai màu mỡ: “đây là vùng đất đai màu mỡ,
địa lợi có đủ ruộng đồng, đầm phá, sông, biển, muối, lúa, đậu rất nhiều”
100
[25, tr.108-109]. Cùng với đó, khí hậu nơi đây ấm áp, điều hòa, mang nhiều đặc
trưng giống với kiểu khí hậu Nam Bộ: Khí hậu Gia Định thường ấm, cứ vào quý
xuân (tháng 3) mới bắt đầu mưa, mùa hạ là mùa mưa chính, mùa thu thì mưa
rào, mỗi khi mưa to chẳng khác nghiên vò mà đổ, nhưng chỉ trong một hai giờ
rồi tạnh nắng. Cũng có đôi khi mưa dầm dề 1, 2 ngày nhưng không có khi nào
khổ vì mưa cả tuần cả tháng.Tuy bốn mùa đều có mưa nhưng chỉ tiết Đông chí
mới hơi lạnh…Gia Định ở về phương Ly, âm ít mà dương nhiều, thường có
nhiều gió nam. Vì mặt trời ở phương Nam, mà gió cũng từ phương Nam đến,
nên có nhiều gió Nam thổi mạnh nhưng không lo có gió bão, bởi gió bão là gió
tập hợp đủ cả bốn phương lại…, cho nên Gia Định không có gió bão
[25, tr.18-19], thuận lợi cho cuộc sống định cư lâu dài.
Vùng đất ở Đông Nam Bộ mà người Việt dừng chân đầu tiên là xứ Mô
Xoài - Bà Rịa, đây là là vùng đất địa đầu mà người Việt vượt biển vào khai phá,
lập nghiệp sớm nhất. “Vùng này nằm giữa mũi Thùy Vân ở phía nam và mũi Bà
Két ở phía bắc, nằm về phía bắc của một vịnh biển mang tên Ô Trạm. Đây là
vùng rộng lớn từ làng Long Hương, Phước Lễ lên Đất Đỏ ngày nay” [51, tr.48].
Người Việt có mặt ở Mô Xoài từ rất sớm (trước thế kỉ XVII) nhưng làn
sóng di dân hợp pháp, mạnh mẽ của người Việt đến Mô Xoài thì phải từ sau
cuộc hôn nhân giữa công nương Ngọc Vạn và vua Chey Chetta vào năm 1620.
Từ năm 1623, vua Chân Lạp là Chey Chetta II đã chấp thuận cho người Việt vào
làm ăn ở Đồng Nai, Bến Nghé, chấp thuận cho chúa Nguyễn đặt trạm thu thuế
tại Prei Nokor (tức Sài Gòn) và lập khu dinh điền Mô Xoài (Bà Rịa). Sách Gia
Định thành thông chí cho biết: Lúc ấy địa đầu của Gia Định là Mô Xoài và
Đồng Nai (nay là trấn Biên Hòa) tại hai xứ ấy đã có dân của nước ta đến cùng
với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên rất khâm phục uy đức
của triều đình, họ đem nhượng đất ấy rồi kéo nhau tránh đi nơi khác, chẳng
dám tranh chấp điều gì [25, tr.109].
101
Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn cũng xác nhận rằng, trước khi mở đất
Đồng Nai người Việt đã có một thời gian sinh cơ lập nghiệp tại Mô Xoài: “Xưa
để lập phủ Gia Định thì trước lúc đó phải mở xứ Mai Xoi (Mô Xoài) rồi thứ đến
mới mở xứ Đồng Nai, làm cho quân dân tụ họp, xong mới bắt đầu mở xứ Sài
Côn, vậy là lấy ít đánh nhiều, lấn lướt dần dần như lối tằm ăn dâu” [23, tr.154].
Lý do để Mô Xoài trở thành điểm thu hút dân cư người Việt đầu tiên đến
lập nghiệp vì nơi đây nằm trên trục giao thông đường bộ từ Bình Thuận vào
Nam, lại giáp biển, nơi đây vừa là giao lộ đường thuỷ và đường bộ, vừa là nơi
tiện cho việc buôn bán lẫn làm ruộng và đánh cá của nhiều nhóm cư dân khác
nhau đến cùng sinh cơ lập nghiệp mà người Việt ngày càng chiếm ưu thế. Sách
Gia Định thành thông chí cho biết: “Đất này dựa lưng vào núi, mặt trông ra
biển, rừng rậm, tre dầy, trên có sở tuần để vẫy gọi dân man mọi đến đổi chác,
vùng dưới có trạm cửa bể để xem xét thuyền bè lúc đi ra biển, đường trạm thủy
bộ giao tiếp” [25, tr.39]. Chính vì lý do trên mà nơi đây đã trở thành nơi dừng
chân, định cư, lập nghiệp đầu tiên của người việt trên hành trình mở đất phương
Nam.
Không chỉ là điểm dừng chân đầu tiên của lưu dân, di dân người Việt, Mô
Xoài còn là điểm “trung chuyển” của lưu dân, di dân trên con đường khai phá
vùng đất Nam Bộ rộng lớn.
Từ Mô Xoài- Bà Rịa, các thế hệ di dân tự do người Việt với phương tiện
di chuyển chủ yếu là thuyền, ghe, xuồng đã theo thủy triều ngược dòng Đồng
Nai và cả đi bộ dọc theo sông tiến dần vào vùng Đồng Nai, Biên Hòa và Sài
Gòn vì điều kiện tự nhiên ở những nơi này không khác mấy với đất Mô Xoài.
Người Việt vào lập nghiệp ở phương Nam ngày càng đông, địa bàn khai phá
càng mở rộng, họ ngược sông Sài Gòn về phía Bình Dương, Củ Chi, Tây Ninh
và ven sông Vàm Cỏ, mở mang vùng Chợ Lớn, Tân An.
Khi đặt chân lên vùng đất mới, người dân di cư thường cư trú trước tiên ở
những giồng đất cao ven sông, là những nơi có điều kiện khai phá tương đối tiện
102
lợi, vừa có nước ngọt dùng cho sinh hoạt và trồng trọt, vừa thuận lợi trong việc
khai hoang thành ruộng vườn để trồng cây lương thực và cây ăn quả, lại cao ráo
nên có thể tránh được muỗi mòng, rắn rết, canh phòng thú dữ. Nói khác đi,
những nơi này đáp ứng được hoàn toàn những yêu cầu tồn tại khi mới đến khai
phá vùng đất lạ.
Trong Gia Định thành thông chí ở mục Sơn xuyên chí, Trịnh Hoài Đức đã
cho thấy hai bên bờ hay trên các cù lao của nhiều con sông thuộc hai trấn Biên
Hoà và Phiên An (Đông Nam Bộ ngày nay) đều có người ở và khai khẩn.
- Ở trấn Biên Hoà có: Hòn Rùa “Hòn dài 3 dặm, ở đó có dân cư cày cấy”
[25, tr.23], sông Phước Long: “tục gọi là sông Đồng Nai…thường đến tháng 8
hàng năm nước lụt đổ xuống, rửa sạch bao xú uế, lan tỏa khắp ruộng nương”
[25, tr.28], cù lao Tân Triều: “dân ở đây chuyên việc làm vườn, nhưng chủ yếu
trồng trầu vì trầu ở đây nhiều lá mà tốt, mùi vị lại thơm ngon” [25, tr.31], cù lao
Tân Chánh: “đất ở đây tốt, thích hợp với cây dâu và mía, nên ở đây sản xuất
nhiều đường cát” [25, tr.31], sông An Hòa: “trước kia đây là bến để gỗ, cho nên
còn gọi là Bến Gỗ” [25, tr.32], Cù lao Kính: “có ruộng nương nhà cửa của dân
ở đó” [25, tr.33], sông Lá Buông: “tục gọi là rạch Lá Buông, ở đấy có nhiều cư
dân sinh sống bằng cách lấy lá buông dệt buồm, đan tấm, đánh dây, chặt tàu
đem bán sinh nhai nên mới gọi như thế” [25, tr.33], ngoài ra người Việt còn
định cư ở vùng Giồng Ông Tố, Đất Đỏ…
- Ở trấn Phiên An có: sông Bến Nghé “những tàu buôn và ghe thuyền
sông biển trong và ngoài nước ra vào không ngớt, trông thấy đầu tàu nối liền,
đuôi cột buồm chi chít, đủ biết đó là nơi đô hội” [25, tr.41], bến Tầm Long: “có
nhiều thuộc Cao Miên (người Cao Miên ở thuộc hạt nước ta mà đóng thuế xong
thì gọi là thuộc) cùng người Việt ở lẫn lộn với nhau … những chỗ đã được khai
khẩn đều thành ra những cánh đồng trồng dâu, trồng mía” [25, tr.44], rạch Cát:
“Hai bên là ruộng nương, bờ ruộng chạy ngang dọc chằng chịt” [25, tr.45],
sông Tân Long (Sông Chợ Đệm): “dọc theo sông, phố xá trù mật, bán các thứ
103
như xuồng gỗ than, dầu rái, bao cà ròn và buồm chiếu…” [25, tr.46], sông
Quang Hóa: “có người nước ta, người Tàu và người Cao Miên ở chung với
nhau, có tuần ty coi việc thâu thuế cước và phòng giữ biên giới” [25, tr.49],
sông Khe Răng: “ở bờ phía bắc sông Quang Hóa… nhân dân khai thác nguồn
lợi từ núi sông ao chằm, đi về không dứt” [25, tr.49].
Ngoài các giồng đất cao ven sông thì các vùng đất ven núi cũng được các
cư dân người Việt lựa chọn làm nơi cư trú, vì nơi đây có điều kiện để khai thác
nguồn lợi lâm sản như khai thác gỗ, khai mỏ, săn bắt…Gia Định thành thông
chí cũng đã ghi chép rất rõ về điều này.
- Ở trấn Biên Hoà có: Núi Châu Thới “…ở bên núi có hang hố và khe
suối, dân núi ở ven quanh” [25, tr.24], núi Thiết Khâu: “Tục gọi là núi Lò
Thổi… người làm sắt tụ họp thành chợ, mở lò nung, cung nạp thuế sắt, quặng
sắt rất thịnh vượng” [25, tr.25], núi Ký: “tục gọi là núi Bà Ký… người bốn
phương kéo đến ở, họ chuyên nghề săn bắn và đẵn gỗ để sinh nhai” [25, tr.25],
núi Bà Vải (nay gọi là núi Thị Vải): “dân núi ở đó lấy khai thác thổ sản ở núi để
sinh sống, như cây gỗ, nhựa cây, than củi và muông thú” [25, tr.26], núi Sa
Trúc: “tục gọi là núi Nứa, cách phía đông trấn 185 dặm, trên núi có nứa, dưới
núi có chằm lớn, người tụ tập làm nghề đánh cá” [25, tr.27], núi Gành Rái “trên
núi có suối nước ngọt phun ra, dưới có dân chài sinh sống…” [25, tr.27].
- Ở trấn Phiên An có: núi Bà Đinh “có thôn xóm của người Thổ và người
Việt ở la liệt, nhân dân đều nhờ món lợi của núi rừng” [25, tr.41], rừng Quang
Hoá: “Ở đây có gỗ đóng ghe, đóng thuyền, nên thợ rừng, thợ mộc cất lều trại để
đốn gỗ, làm than củi, lấy dầu rái, mây cứng, mây nước (song) và săn bắn những
loài tê, voi, hươu, nai, ngựa rừng, trâu rừng, chim, muông để lấy nanh, sừng, lông thú, lông chim, phơi khô thịt và da rồi đem bán kiếm rất nhiều lợi”
[25, tr.49], Vườn Trầu: “dân cư ở đấy rất đông đúc tạo thành một chợ lớn ở
miền núi” [25,tr.49].
104
Ngoài ra, vùng cao ven biển nhất là những nơi có vũng hay cửa sông tốt,
cũng là một trong những nơi định cư khai phá đầu tiên của cư dân Việt, đây là
những nơi thuận lợi để người dân có thể sinh sống bằng các nghề làm ruộng
muối, nghề chài lưới, làm mắm và cả trồng trọt nữa. Gia Định thành thông
chí ghi lại rất rõ những vùng ven biển có dân cư tập trung đông đúc:
- Ở trấn Biên Hòa có: Dương Úc: “dân cư tụ tập, đồng mặn ngàn khoảnh,
đều là ruộng muối. Dân ở đây lấy việc phơi muối làm nghề chính” [25, tr.37],
Tắc Ký (Cửa Lấp hay Giếng Bọng): “dân miền biển nhóm đến đây làm nghề
chài lưới câu cá, là nơi sản xuất cá muối của trấn này” [25, tr.37].
- Ở trấn Phiên An có: Cửa Cần Giờ: “phố chợ đông đúc, dân ở đây đều
theo nghề đánh cá” [25, tr.42], hải cảng Đồng Tranh: “do nguồn lợi nghề đánh
bắt cá bằng lưới đáy, bằng nò rạo ngoài biển, nên dân ở đây đổ xô đến ở nhiều”
[25, tr.42], hải cảng Lôi Lạp (Soai Rạp): “cảng này bùn lầy, nước cạn, dân cư
làm nghề chài lưới, câu cá” [4, tr.42], đảo Côn Lôn: “Ở giữa biển đông…đảo
lớn 100 dặm, có ruộng núi trồng lúa, bắp, khoai đậu…Dân lính ở đấy …còn lại
thì đánh bắt hải sản như cá, tôm để sinh sống” [25, tr.50].
Bên cạnh các giồng đất cao ven sông, ven núi, ven biển thì những trung
tâm hành chính, những nơi đóng quân của quân đội cũng là những địa điểm định
cư đầu tiên của những lớp cư dân Việt.
Trong mục Thành trì chí, ở trấn Phiên An, Trịnh Hoài Đức viết: “… sai
tướng vào mở mang bờ cõi, chọn nơi đất bằng rộng rãi, tức chỗ chợ Điều Khiển
ngày nay, xây cất đồn dinh làm chỗ cho Thống suất tham mưu trú đóng… ngoài
ra thì cho dân trưng chiếm, chia lập ra làng xóm, chợ phố” [25, tr.216], chợ
Bến Thành “Phố, chợ, nhà cửa rất trù mật, họp chợ dọc ven sông. Ở đầu bến,
theo lệ tháng đầu xuân gặp nhằm ngày tế mã, có thao diễn thủy binh. Bến này
có đò ngang đón chở khách buôn tàu biển lên bờ...” [25, tr.224], chợ Điều
Khiển “khi xưa chợ hợp trước Nha Điều Khiển…chợ này quán xá trù mật”
[25, tr.225], chợ Tân Kiểng (tục gọi là Chợ Quán) “thường năm đến ngày
105
Nguyên Đán có tổ chức chơi đu tiên vân xa, đáng gọi là một chợ lớn. Từ trước,
đến cuối năm thường có chém tù ở đây... Đầu phía tây đường lớn có đồn bắt
trộm cướp đóng giữ” [25, tr.228], phố chợ Sài Gòn: phố xá liền mái nhau, người
Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong phố bày bán có:
gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở, tiệm thuốc, tiệm
trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc bến sông không gì là không có… thật là một
phố lớn nơi đô hội náo nhiệt [25, tr.229].
- Ở trấn Biên Hòa có: Lũy Phước Tứ: “Lũy ấy trải mấy đời đều thế và
dùng làm đồn trọng yếu cho đạo Mô Xoài. Nay loạn lạc đã yên, bốn bề không
còn thành lũy, tuy thành vách đã hóa ra ruộng vườn, mà bờ tre xưa vẫn xanh
tốt, còn nhìn ra được dấu tích của lũy xưa” [25, tr.231-232].
Phố lớn Nông Nại “lúc mới mở mang, Trần Thượng Xuyên chiêu tập
người thương buôn nước Trung Quốc đến lập ra phố xá, mái ngói tường vôi, lầu
quán cao ngất…kẻ buôn tụ tập, thuyền đi biển, đi sông đều đến cuốn buồm neo
đậu, đầu đuôi thuyền đậu kế tiếp nhau, thật là một chỗ đô hội” [25, tr.238], chợ
Ngư Tân (chợ Bến Cá) “khách buôn đông đúc, cả đường thủy và đường bộ đều
thông suốt tới bến, hàng nước ngoài, thổ sản địa phương, sơn hào, hải vị không
gì là không có, là một chợ miền núi rất đông đúc” [25, tr.239], chợ Thủy Vọt
“Ở tổng Bình Chánh, nhà cửa đông đúc, thuyền bè đến tận bến chợ, có nhiều
sản vật ở núi rừng” [25, tr.239], chợ Bà Rịa “nhà cửa liền nhau, đường thủy và
đường bộ đều giao nhau, là một chợ lớn nơi miền biển đầm” [25, tr.239], chợ
Bình Quới (Chợ Thủ Thiêm): “thuyền bè đường sông biển đậu nối đuôi nhau,
người ở đây sắm các loại ghe dài ngắn theo dòng nước đi bán cá thịt, đồ dưa
quả và đồ ăn” [25, tr.239], xóm Sửa Ghe: “Khi xưa thuyền bè ở Trung Quốc
đến buôn bán mà bị hư hỏng rò rỉ, cần phải sửa sang hoặc đóng thuyền mới đều
phải đến đây, tụ họp riết thành thôn xóm” [25, tr.239].
Theo đó, tiến trình định cư của cư dân Việt trên vùng đất mới có thể được
hiểu như sau: trước hết, người Việt đến khẩn hoang vùng Mô Xoài, tức Bà Lỵ
106
hay Bà Rịa sau này rồi đến vùng Đồng Nai, tiếp đó mới tới Gia Định (vùng Sài
Gòn, Bến Nghé). Đến cuối thế kỉ XVII, trên suốt cả một khu vực rộng lớn của
Đông Nam Bộ từ Mô Xoài đến vùng Sài Côn – Bến Nghé đã có người Việt đến
định cư. Khi đặt chân lên vùng đất mới, người lưu dân người Việt thường cư trú
trước tiên ở những giồng đất cao ven sông, ven núi, ven biển, những trung tâm
hành chính, những nơi đóng quân của quân đội vì những nơi này có những điều
kiện thuận lợi cho sinh hoạt của con người cũng như khai phá đất đai, khai thác
nguồn lâm, hải sản.
3.2. Đông Nam Bộ là nơi trung chuyển di dân trên con đường khai phá
vùng đất Nam Bộ
Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ của chúa Nguyễn đã đem đến cho Đàng
Trong một vùng lãnh thổ rộng lớn, không những thế nó còn là cơ sở vững chắc
để tiến xuống Tây Nam Bộ.
Theo địa chí tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, hành trình chinh phục khu vực mà
ngày nay có tên là Nam Bộ diễn ra trong quá khứ của những thế hệ lưu dân
người Việt, được bắt đầu từ phía Trấn Biên (sau đổi thành Biên Hòa), Phiên
Trấn (sau đổi thành Gia Định). Từ vùng đất phù sa cổ, họ vượt qua vùng sông
Vàm Cỏ, đi về hướng Định Tường, Long Hồ, Đông Khẩu (tức Mỹ Tho, Vĩnh
Long, Sa Đéc ngày nay) rồi vượt qua sông Tiền…Một hướng đi thứ hai quan
trọng không kém, là họ từ cửa sông bên phía biển Đông như cửa Soài Rạp, cửa
Đại, cửa Tiểu, cửa Cung Hầu, cửa Định An…rồi ngược dòng Cửu Long khai
phá những dải phù sa màu mỡ hai bên bờ sông, lên tới biên giới Campuchia,
xuống tận vịnh Xiêm La.
Chính đất đai màu mỡ, trù phú và sông rạch đầy tôm cá của vùng đồng
bằng sông Cửu Long có sức hút mạnh mẽ những lớp lưu dân đi về hướng đó. Về
mặt tâm lý, những người dám rời bỏ quê hương, bản quán, vượt cả ngàn kilômet
đường biển vào Nam cốt để tìm một sự đổi đời, hay chí ít là cuộc sống tốt đẹp
hơn, thì việc từ bỏ một nơi không thuận lợi để tìm đến một nơi có nhiều thuận
107
lợi hơn, ưu đãi hơn là chuyện bình thường. Đó cũng là cốt cách, là đặc điểm khá
rõ nét của những thế hệ lưu dân trên đường Nam tiến của dân tộc theo quy luật
“đất lành chim đậu”.
Xu thế đó trong đời sống cũng dễ tìm thấy ở lớp tiên dân định cư ở Bà
Rịa, khi họ nhận ra rằng ở phía Tân Trụ, Gò Công, Mỹ Tho…đất đai tốt hơn,
ruộng đồng rộng rãi hơn, viêc làm ra hạt thóc dễ dàng hơn so với nơi họ đang
sống. Từ đất Bà Rịa, có thể có hai hướng di chuyển: hoặc đi về phía đồng bằng
sông Cửu Long, hoặc ngược về phía sông Ngã Bảy đi về thượng nguồn sông Sài
Gòn và sông Đồng Nai, tiếp tục khai phá các vùng đất mới. Đến lượt Bà Rịa trở
thành nơi “trung chuyển” của những lưu dân, đây chính là lý do giải thích tại sao
dân số Bà Rịa tăng chậm.
Những cuộc điều tra, khảo sát hàng trăm gia phả của nhiều gia đình, dòng
họ ở đồng bằng sông Cửu Long trước đây, cho thấy có nhiều gia đình, mộ cha
mẹ, mộ ông nội chôn tại địa phương như Bến Tre, Vĩnh Long hay Sa Đéc nhưng
mộ ông cố, ông sơ lại nằm ở Gò Công, Tân An, hay Biên Hòa, Bà Rịa
[121, tr.213 - 214].
Không chỉ có Bà Rịa đóng vai trò là nơi “trung chuyển”, ở Đông Nam Bộ
còn nhiều địa phương cũng có vai trò như thế, ví dụ như Đồng Nai, thành phố
Hồ Chí Minh.
Đến những năm cuối thế kỉ XVII, khu vực rộng lớn từ Mô Xoài, Biên
Hòa cho đến Sài Côn – Bến Nghé với sự định cư của người Kinh, người Hoa,
người Khơme đã trở thành đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng, là nơi trung
chuyển của các đoàn dân di cư vào vùng đất mới trong việc đi ngược về phía bắc
là đi về phía Tây Ninh, có thể sang tận Campuchia, hoặc đi về phía nam là vào
vùng đồng bằng sông Cửu Long đến các vùng Mĩ Tho, Long Hồ…nơi đây trở
thành một tiền trạm, một đầu cầu cho các toán di dân mới đi vào. Các đoàn dân
di cư từ miền ngoài vào vùng đất mới thường dừng chân ở Bến Nghé nghỉ ngơi,
108
dò hỏi tình hình phía trước để chuẩn bị đi lên phía bắc hoặc xuôi xuống phía
nam tìm nơi cư trú làm ăn [51, tr.50-51].
Mặt khác, theo tác giả Đỗ Quỳnh Nga trong tác phẩm Công cuộc mở đất
Tây Nam Bộ thời chúa Nguyễn thì Đông Nam Bộ đã trở thành hậu phương vững
chắc của chúa Nguyễn để tiến hành khai mở Tây Nam Bộ. Đây chính là nơi
cung cấp nhân lực, vật lực cho sự nghiệp của chúa Nguyễn và bảo vệ chủ quyền
trên vùng đất mới ở Tây Nam Bộ. Để mở đất Tây Nam Bộ, đặc biệt là trong các
cuộc giao tranh hỗ trợ, hoặc phản công tự vệ, lực lượng chính của các chúa
Nguyễn sử dụng không đâu khác mà chính là các quan lại, các vị tướng giỏi và
đội quân tinh nhuệ của Gia Định. Có thể nói rằng Đông Nam Bộ đã góp phần
không nhỏ trong sự thành công của công cuộc mở đất Tây Nam Bộ, nơi đây trở
thành điểm chuyển cư của lưu dân Việt đến miền Tây Nam Bộ [64, tr.56].
3.3. Đông Nam Bộ, là điểm xuất phát của việc xác lập chủ quyền lãnh thổ và
lãnh hải của Đại Việt trên vùng đất phương Nam
Mặc dù trước thế kỉ XVII đã có nhiều người Việt đến Đông Nam Bộ khai
khẩn đất hoang, làm ăn sinh sống nhưng những hoạt động của họ chưa được
xem là hợp pháp. Mãi đến năm 1620, sau khi chúa Nguyễn gả công chúa Ngọc
Vạn cho vua Chey Chetta II, mở đầu cho kỷ nguyên mới trong mối bang giao
giữa hai nhà nước thì người Việt đến Đông Nam Bộ làm ăn sinh sống mới được
xem là “danh chính ngôn thuận”. Ý nghĩa của cuộc hôn nhân này như tấm “hộ
chiếu” để người Việt di dân hợp pháp vào vùng đất Đông Nam Bộ dưới vương
triều Chey Chetta II. Với lời xin của Ngọc Vạn, Chey Chetta II đồng ý cho
người Việt di cư sang khai hoang sinh sống ở Mô Xoài (Bà Rịa) và Nông Nại
(Đồng Nai). Tuy chưa có sự thỏa thuận để nhượng hẳn vùng đất này cho Phú
Xuân, nhưng trong thực tế, người Việt đã gần như làm chủ vùng đất này, và nó
trở thành bàn đạp để người Việt tiến dần xuống phía Nam vì cuộc mưu sinh, và
cũng là sự khởi đầu cho việc thực hiện những mong muốn của chúa Nguyễn
muốn mở mang lãnh thổ của mình về vùng đất phương Nam còn hoang vắng
109
này. Cuộc hôn nhân này, một mặt tạo hậu thuẫn để che chở và phát triển số lưu
dân người Việt đến sinh sống an toàn ở đất Chân Lạp ngày càng đông, mặt khác,
tạo cơ sở thuận lợi cho chúa Nguyễn từng bước hợp pháp hóa sự kiểm soát của
mình đối với những vùng đất đã được khai khẩn.
Thời gian từ năm 1623 đến năm 1698 có thể xem như là giai đoạn hình
thành chính quyền của người Việt ở đất Gia Định với những sự kiện chính
sau đây:
Thứ nhất là thiết lập trạm thu thuế
Năm 1623, sau hai chiến thắng vang dội của Chân Lạp (có sự giúp sức
của quân đội Đàng Trong của Đại Việt) trước quân Xiêm, chúa Sãi Nguyễn
Phúc Nguyên đã gửi một sứ bộ mang theo nhiều tặng phẩm đến Oudong để đảm
bảo với quốc vương Chân Lạp về sự ủng hộ và tình hữu nghị của triều đình Huế,
đồng thời dâng lên quốc vương Chân Lạp một bức thư trong đó chúa Đàng
Trong ngõ ý mượn xứ Prei Nokor (sau này là Sài Gòn) và Kas Krobei (sau này
là Bến Nghé) của Chân Lạp để lập các trạm thuế thương chính trong vòng 5
năm, vì hai nơi này có nhiều lưu dân người Việt đến làm ăn sinh sống và xin vua
Chey Chetta II nhượng vùng đất Mô Xoài để lập khu dinh điền. Nhờ sự vận
động của hoàng hậu Ngọc Vạn nên cả hai đề nghị của chúa Nguyễn đều được
vua Chân Lạp chấp thuận [62, tr.29-30]. Sau sự kiện này, triều đình Thuận Hóa
đã khuyến khích người Việt di cư đến đây làm ăn, rồi lấy cớ để giúp chính
quyền Chân Lạp giữ gìn trật tự, chúa Nguyễn đã phái tướng lãnh đến đóng đồn ở
Prey Kor.
Trạm thu thuế của chúa Nguyễn ở Sài Gòn hiện nay ở khu vực nào chưa
xác định được rõ ràng. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu trong địa chí văn
hóa thành phố Hồ Chí Minh phỏng đoán thì sở thuế tọa lạc trên đất Chợ Cầu
Kho ở quận 1, sát bên rạch Bến Nghé. Còn theo Nguyễn Đình Tư thì sở thu thuế
Kas Krobey nằm ở cột cờ Thủ Ngữ trên bến Bạch Đằng, còn Prey Nokor nằm ở
khu vực chợ Tân Kiểng trên bến Hàm Tử ngày nay.
110
Với sự kiện lập hai đồn quan thuế tại Sài Gòn – Bến Nghé, có thể nói
chúa Nguyễn đã tiến thêm một bước quan trọng trên con đường Nam tiến. Đây
được xem là chỗ đứng chân của người Việt, tạo ra một đầu cầu vững chắc cho
chương trình di dân của người Việt vào đất Chân Lạp ngày càng mạnh mẽ hơn.
Thứ hai là việc lập đồn binh
Năm 1679 (tức 56 năm sau khi lập đồn thu thuế và 5 năm sau khi Ong
Nộn đóng ở Sài Gòn), chúa Nguyễn cho lập đồn dinh Tân Mỹ. Theo Đại Nam
Nhất Thống Chí thì: “Đầu năm Kỷ Mùi (1679), Thái Tông Hiếu Triết Hoàng đế
triều ta sai tướng mở biên cảnh, lập đồn dinh Tân Mĩ” [79, tr.1666], theo nhà
nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, đồn binh này nằm ở gần ngã tư Cống Quỳnh –
Nguyễn Trãi ngày nay. Đồn binh này được lập vào đầu năm 1679 thì giữa năm
này một nhóm người Hoa "phản Thanh phục Minh" do Dương Ngạn Địch và
Trần Thắng Tài đứng đầu được đưa tới Mỹ Tho và Biên Hòa. Như vậy, việc lập
đồn binh – một hình thức căn cứ quân sự, một thứ chính quyền bán chính thức
của chúa Nguyễn được đặt ở Sài Gòn là một nhu cầu tất yếu và khá kịp thời.
Đồn binh ra đời lúc này vừa có thể hỗ trợ kịp thời cho phó vương Nặc Nộn đóng
ở đây, vừa bảo vệ tính mạng và tài sản cũng như mọi quyền lợi khác cho số lưu
dân người Việt đang sống rải rác khắp miền Đông Nam Bộ lúc bấy giờ và lại
vừa có thể hướng dẫn các nhóm người Hoa tỵ nạn mới tới đây làm ăn sinh sống.
Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã viết về việc lập đồn
binh này như sau: Trấn Gia Định xưa có nhiều ao đằm, rừng rú, buổi đầu thời
Thái Tông (Nguyễn Phước Tần 1648 - 1687) sai tướng vào mở mang bờ cõi,
chọn nơi đất bằng rộng rãi, tức chỗ chợ Điều Khiển ngày nay, xây cất đồn dinh
làm chỗ cho Thống suất tham mưu trú đóng, lại đặt dinh Phiên Trấn tại lân Tân
Thuận ngày nay, làm nha thự cho các quan Giám quân, Cai bộ và Ký lục ở,
được trại quân bảo vệ, có rào giậu ngăn cản hạn chế vào ra, ngoài ra thì cho
dân trưng chiếm, chia lập ra làng xóm, phố chợ [25, tr.216].
111
Theo Nguyễn Đình Đầu“vị trí của chợ Điều Khiển ở ngã ba đường
Nguyễn Trãi với đường Nam Quốc Cang. Lân Tân Thuận cũng ở trên đường
Nguyễn Trãi khoảng xóm Chợ Đũi” [29, tr.153].
Đến thời điểm năm 1697, sau khi phần đất cuối cùng của Chiêm Thành
(Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết) trở thành phủ Bình Thuận, thuộc lãnh thổ
nước ta thì ảnh hưởng của Đàng Trong đã tiến tới sát biên giới Chân Lạp. Vùng
đất giáp giới ấy chính là vùng Đông Nam Bộ, là địa bàn cư ngụ của cư dân đa số
là người Việt, người Hoa và một số ít người bản địa với một số định chế hành
chính bán chính thức của chúa Nguyễn lập ra trước đó hàng để thu thuế, giữ gìn
trật tự, trị an…[96, tr.159].
Trong điều kiện thực tế về lãnh thổ, dân cư và chính quyền bán chính thức
như vậy, mùa xuân năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn lệnh cho quan thống
suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, xem xét dân tình, hoạch định việc cai trị. Kết
quả chuyến công cán của Nguyễn Hữu Cảnh đã “lấy đất Nông Nại đặt làm phủ
Gia Định, lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên,
lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình lập dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh lập ra chức
Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị” [25, tr.112].
Chúng ta điều biết từ cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII đã có lưu dân
người Việt đến Mô Xoài (Bà Rịa) Đồng Nai (Biên Hòa) và nhiều địa phương
khác để tiến hành khai khẩn đất hoang, lập ra những làng Việt trên vùng đất
Đông Nam Bộ, nhưng những làng này chưa phải là những đơn vị hành chính
chính thức của chúa Nguyễn. Mãi đến khi Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất
Đồng Nai, lập nên phủ Gia Định thì chúa Nguyễn mới bắt đầu chính thức hợp
pháp hóa về mặt nhà nước đối với các xứ Đồng Nai (huyện Phúc Long) – Sài
Gòn (huyện Tân Bình), sáp nhập hẳn vào lãnh thổ Đàng Trong. Sự kiện lập
chính quyền vào năm 1698 được coi như là một tất yếu, một việc đã rồi, chính
thức hóa một sự thể “ dân làng mở đất trước nhà nước đến quản lí sau”.
112
Theo tác giả Nguyễn Đình Đầu trong Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí
Minh thì quy chế hành chính của Chúa Nguyễn thời đó như sau: dinh hay
doanh) là đơn vị hành chánh (như tỉnh ngày nay), dinh chia ra nhiều phủ, phủ
chia ra nhiều huyện, huyện chia ra nhiều tổng, tổng chia ra nhiều xã hay thôn.
Là đất mới lập, dân còn ít nên dinh Phiên Trấn chỉ bao gồm có một huyện Tân
Bình, cũng như dinh Trấn Biên chỉ có một huyện Phước Long. Trên hai huyện
đó, tức trong cả hai dinh mới có một phủ Gia Định [29, tr.156].
Tác giả Nguyễn Đình Tư trong bài Nguyễn Hữu Cảnh với sự sắp đặt nền
hành chính tại Đồng Nai - Gia Định thì cho rằng cách sắp đặt hành chính của
Nguyễn Hữu Cảnh trên đất Đồng Nai - Gia Định “có trái với thủ tục đã được áp
dụng trong phương pháp duyên cách ở miền ngoài. Đó là phủ cao hơn dinh”
[116, tr.16]. Theo tác giả: vào thời điểm 1698, vùng đất Nam bộ còn ít, công
cuộc khai khẩn mới bắt đầu nên các đơn vị hành chính hãy còn giản lược. Dinh
Phiên Trấn chỉ có huyện Tân Bình, còn dinh Trấn Biên chỉ có huyện Phước
Long và hai huyện này chỉ có mỗi phủ Gia Định. Huyện Phước Long có 4 tổng
là Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An, còn 4 tổng của huyện Tân
Bình là Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc và Thuận An, còn số thôn ấp thì
không rõ.
Các đơn vị hành chính cơ sở của Nam Bộ chỉ mới có thống kê đầy đủ từ
năm 1818 trong sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Các đơn vị
ấy bao gồm thôn, phường, lân, ấp. Có lẽ, lúc Nguyễn Hữu Cảnh sắp xếp các đơn
vị hành chính đầu tiên thì các đơn vị hành chính cơ sở cũng không ngoài những
danh xưng này, vì từ năm 1698 là năm Nguyễn Hữu cảnh thiết lập nền hành
chính ở Đồng Nai – Gia Định cho đến năm 1779 khi Nguyễn Ánh khôi phục lại
phần đất Nam Bộ không thấy có sự thay đổi nào về hành chính. Lúc bấy giờ
chưa có đơn vị xã, mặc dù ở Thuận Hóa, Quảng Nam đã có danh xưng này.
Điều đó chứng tỏ các đơn vị hành chính lúc ban đầu là đất rộng nhưng nhân
khẩu chưa nhiều. Vì vấn đề địa lý mà buộc lòng phải kết hợp một số hộ trong
113
khu vực riêng biệt thành một đơn vị tùy theo nhân khẩu mà gọi là thôn, phường,
lân, ấp [116, tr.15].
Vì không có bản kê danh sách thôn, phường mà Nguyễn Hữu Cảnh đã đặt
cho các đơn vị hành chính cơ sở lúc bấy giờ, nên chúng ta không thể biết chính
xác. Tuy nhiên cứ theo cách đặt tên thôn xã ở Đông Nam Bộ, chúng ta có thể
suy đoán một số thôn phường thời Gia Long đã có từ thời Nguyễn Hữu Cảnh.
Cách đặt tên đó như sau: một tên thôn có từ thời Nguyễn Hữu Cảnh, sau đó dân
số phát triển, ruộng đất khai phá thêm nhiều, quá mức một thôn được ấn định.
Do nguyện vọng của dân chúng và hào lý của thôn đó, chính quyền cấp trên bèn
chia thôn ấy ra làm hai, ba, hay bốn thôn khác. Khi đặt tên các thôn mới này,
người ta vẫn giữ tên khai sinh gốc chỉ thêm các chữ nhất, nhị, tam, tứ hay đông,
tây, nam, bắc vào sau thành tên thôn mới, chẳng hạn như thôn Tân Sơn sau chia
thành Tân Sơn Nhứt và Tân Sơn Nhì, Hanh Thông thành 2 thôn Hanh Thông và
Hanh Thông Tây, Bình Lý thành 2 thôn Bình Lý và Bình Lý Đông…
[116, tr.16].
Về cách đặt tên lúc ban đầu, chúng ta thấy Nguyễn Hữu Cảnh có dụng ý
khi chọn các mĩ từ. Trước hết là tên phủ Gia Định, chọn hai từ này, ý Nguyễn
Hữu Cảnh muốn nói lên rằng vùng đất này từ nay đã xếp đặt ổn định, tốt đẹp,
không còn thay đổi, xáo trộn nữa, dân chúng sẽ được an cư lạc nghiệp. Khi đặt
tên cho huyện Phước Long là huyện địa đầu của Đông Nam Bộ, ông mong muốn
cho dân chúng ở đây được hưởng phước đức đầy ùn, vĩnh viễn sống trong cảnh
sung túc. Ngoài cái ý ấy chúng ta còn thấy cái ý khác của ông là muốn tôn vinh
công ơn chúa Nguyễn đối với phần đất này thật là lớn lao, tròn đầy, vì chúng ta
biết chữ phước là chữ lót của họ Nguyễn từ Nguyễn Phước Nguyên trở đi
[116, tr.16].
Còn cái tên Tân Bình thì đã quá rõ ràng, đây là vùng đất mới bình định
xong, dân chúng từ nay được an cư lạc nghiệp dưới sự che chở của triều đình
chúa Nguyễn. Nhưng về mặt thầm kín, chúng ta thấy Nguyễn Hữu Cảnh muốn
114
lưu lại một địa danh mà mỗi lần nhắc đến, người ta nghĩ đến ông, vì Tân Bình là
quê hương thứ hai của ông, sau khi cha con ông từ giã huyện Tống Sơn theo
Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa đã định cư tại đây [116, tr.16].
Cũng trong ý nghĩa đó, khi chọn các mĩ từ đặt tên cho thôn, ông đã dùng
chữ Tân và chữ Bình đặt lên đầu như thôn Tân An, Tân Thạnh, Tân Hội, Tân
Mỹ…Bình Lý, Bình Quý, Bình Hòa, Bình An, Bình Phước…ngoài ra ông còn
dùng các mỹ từ khác để cầu sự tốt lành cho dân chúng như các chữ Hanh, An,
Vĩnh, Phước, Long, Phú, Thạnh… Bấy giờ Nguyễn Hữu Cảnh lấy sông Sài Gòn
làm ranh giới thiên nhiên cho hai huyện Phước Long và Tân Bình.
Nguyễn Hữu Cảnh, sau khi sắp xếp xong nền hành chính của phủ Gia
Định ông phải rút quân về dinh Bình Khang vì ông là trấn thủ ở đó. Do vậy ông
bổ nhiệm các quan đảm nhiệm các chức vụ cai trị ở phủ, dinh và các huyện.
Đứng đầu dinh Phiên Trấn có Giám quân, có viên cai bạ và viên ký lục phụ tá.
Còn tại huyện Tân Bình thuộc tỉnh thành Gia Định có quan trấn thủ, người ta gọi
đó là dinh Phiên Trấn, Dinh này có một viên kí lục, một viên cai án và một viên
tri bạ. Ty Tướng thần lại có một viên Câu Kê, hai viên lại ty, ba viên cai lại, bảy
viên thủ hợp và mười người thư lại [23, tr.185-186], tại huyện Phước Long cũng
vậy [116, tr.16].
Bên cạnh những việc làm trên, nhà nước còn tiến hành kiểm kê nhân
khẩu, đo đạc ruộng đất, lập sổ sách, trên cơ sở đó chuẩn định các loại thuế, đặc
biệt là thuế đinh và thuế điền. Chính nguồn thu thuế này đã đảm bảo cho bộ máy
hành chính các cấp hoạt động và cung cấp kinh phí cho quân đội thường trú.
Để khuyếch trương lưu thông hàng hóa và phát triển thương mại trong xứ,
Nguyễn Hữu Cảnh cho nạo vét, khai thông các con đường thủy ven các nhánh
sông, lấy khu chợ nổi Nhà Bè cổ (ở ngã ba sông Bình Dương) làm trung tâm
giao dịch. Từ đó tỏa về các ngã: Cù Lao Phố, Bến Nghé, Cần Giờ, Rạch Cát
Vũng Gù (Cần Giuộc) và Gò Vấp [126, tr.90].
115
Để có thể ngăn chặn các cuộc xâm lược từ bên ngoài, chúa Nguyễn đã
thống nhất việc chỉ huy quân đội ở phía Nam cho chức quan Điều Khiển và cho
xây dựng dinh thự Điều Khiển ở phía nam dinh Phiên Trấn. Ngoài ra, ông cho
bổ sung và hoàn thiện thêm các lực lượng như bộ binh, thủy binh, tinh binh. Với
lực lượng khá hùng hậu đó, ông cho đặt các cơ đội thường xuyên canh phòng để
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên vùng đất mới [126, tr.90].
Để phát triển nông nghiệp ở vùng đất mới, và tạo cơ sở xã hội cho nền
hành chính chính thức của quốc gia vừa mới được thiết lập tại Đồng Nai – Gia
Định. Nguyễn Hữu Cảnh đã cho người đi khắp các địa phương từ Nam Bố
Chính trở vào nam, vận động, chiêu mộ những người dân có vật lực cũng như
những người dân nghèo khổ, xiêu tán di dân vào Sài Gòn, Đồng Nai, Gia Định
lập nghiệp, khai khẩn đất hoang. Điều này đã giúp cho vùng Đông Nam Bộ
nhanh chóng trở thành một vùng đất đầy sinh lực của quốc gia Đại Việt hồi bấy
giờ [126, tr.90].
Đối với di dân người Hoa, Nguyễn Hữu Cảnh chủ trương tập hợp họ lại
thành hai đơn vị hành chính đó là xã Thanh Hà tại Trấn Biên và xã Minh Hương
tại Phiên Trấn. Từ đó người Hoa trở thành dân hộ chính thức của nước ta tức là
công dân nước Đại Việt.
Như vậy, từ sau khi Nguyễn Hữu Cảnh vào nam kinh lược, thì chúa
Nguyễn đã xác lập được quyền quản lý về mặt nhà nước đối với xứ Đồng Nai -
Gia Định (Đông Nam Bộ ngày nay), sáp nhập hẳn vùng này vào lãnh thổ Đàng
Trong, tổ chức các đơn vị hành chính và bộ máy chính quyền từ cấp dinh trấn
cho đến cấp thôn xã, thực thi quyền lực nhà nước trong quản lý đất đai, hộ khẩu,
thu thuế và trưng thu các nguồn lợi tự nhiên và thu thuế qua việc trao đổi với
thương nhân nước ngoài. Đông Nam Bộ lúc này trở thành chỗ đứng chân, một
nơi tích trữ lương thực, xây dựng lực lượng quân sự, một địa điểm đầu cầu một
tiền tiêu, một căn cứ xuất phát mới để mở rộng đất đai. Sự kiện năm 1698 đã
116
đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quá trình xác lập và thực thi chủ quyền
của chúa Nguyễn đối với vùng đất Đông Nam Bộ.
Không chỉ xác lập chủ quyền trên đất liền, Đông Nam Bộ còn là nơi xác
lập chủ quyền trên biển đầu tiên trong quá trình mở đất phương Nam.
Với tư duy và ý thức hướng biển mạnh mẽ, các chúa Nguyễn đều đặc biệt
quan tâm đến việc khai thác nguồn sản vật và khẳng định chủ quyền của mình
trên các hòn đảo nhằm thực thi chính sách khuyến khích thương mại, tích cực
mở rộng quan hệ bang giao với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Với vị trí
địa lý thuận lợi, các hòn đảo trên biển luôn giữ vai trò quan trọng trong quá trình
mở đất của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.
Vùng biển ở Đông Nam Bộ được xác lập chủ quyền là vùng quần đảo
Côn Đảo (hiện nay thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) và cả quần đảo Trường Sa
(hiện nay thuộc tỉnh Khánh Hòa). Sở dĩ chúng tôi nói điều này vì “từ tháng 1
năm 1976 đến tháng 12 năm 1982 Trường Sa là một đơn vị hành chính trực
thuộc tỉnh Đồng Nai ” [16, tr.338].
Côn Đảo là quần đảo gồm 16 đảo lớn nhỏ với tổng diện tích hơn 77km2,
nằm cách Vũng Tàu 97 hải lý. Là một quần đảo giàu tiềm năng, lại nằm ở vị trí
thuận lợi, trên hải trình Âu – Á, Côn Đảo sớm được lưu dân Việt biết đến. Qua
tài liệu lưu trữ và sử sách ghi chép, thì đến thế kỉ XVII, đã có hoạt động khai
thác sản vật của cộng đồng cư dân Việt ở quần đảo này. Đó là cơ sở để các chúa
Nguyễn tiến hành xác lập chủ quyền của Đàng Trong đối với Côn Đảo.[26,
tr.63]. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã nhắc tới Côn Đảo
như một phần không thể tách rời khỏi Nam Bộ với những đặc điểm quan trọng
về quân sự và sự dồi dào về sản vật địa phương : Ở giữa biển Đông, từ cửa cảng
Cần Giờ chạy thuyền ra biển theo hướng đông mặt trời mọc 2 ngày mới đến.
Đảo lớn 100 dặm, có ruộng núi trồng lúa, bắp, khoai, đậu, nhưng cũng không
nhiều, nên thường phải mua gạo ở Gia Định mới đủ dùng. Thổ sản ở đây là
ngựa và trâu, núi không có cọp beo. Dân ở đảo tự kết lại làm binh sĩ, gọi Tiệp
117
Nhất, Tiệp Nhị, Tiệp Tam ba đội, trực thuộc đạo Cần Giờ, có đủ khí giới để giữ
gìn đất ấy phòng quân cướp hung dữ Đồ Bà, không cần kêu gọi chỗ khác đến
giúp. Dân lính ở đấy thường lấy yến sào, đồi mồi, vích, quế hương, mắm, ốc tai
tượng, rồi theo mùa mà dâng nộp; còn lại thì đánh bắt hải sản như cá, tôm để
sinh sống. Quả cau ở đây to, vỏ màu hồng, vị lại ngọt thơm, cứ đến đầu mùa
xuân, lúc cau ở Gia Định chưa kết quả, thì cau ở đây đã dùng được, người ta
chở vào bán với giá rất cao [25, tr.50].
Quần đảo Trường Sa nằm giữa Biển Đông về phía Đông Nam nước ta, “từ vĩ tuyến 6o50' đến 11o30'Bắc và kinh tuyến 111o30' đến 117o20' Đông, cách
cảng Cam Ranh (Khánh Hoà - Việt Nam) của Việt Nam 450km, cách đảo Hải
Nam (Trung Quốc) 110km” [16, tr.336]. Quần đảo Trường Sa (Spratleys) là một
tập hợp hơn 100 đảo lớn nhỏ, bãi đá ngầm hình thành từ san hô (nằm lập lờ hoặc
nhô lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống thấp), bãi cát ngầm, bãi ngầm. Toàn bộ quần đảo chiếm khoảng 160.000 km2 diện tích bề mặt đại dương, tương
đương 38% vùng nước của biển Đông. Ngoài các đảo và bãi đá nổi hoàn toàn thì
còn trên 200 đá san hô, rặng san hô, cồn cát và bãi đá ngầm. Hầu hết các đảo
đều nhỏ, bao phủ bề mặt đảo là cát và phân chim. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt
ở đây không phải là nơi con người có thể sống được vì khí hậu ẩm, có sương
mù; mùa khô nóng như sa mạc, mưa chỉ 2000mm/năm, khi đào giếng vẫn có thể
tìm thấy nước ngọt; động vật thì có đầy rẩy muỗi, chuột, chim, rùa. Các đảo bị
gió chà xát, thường xuyên có bão và bão làm cho nước biển tràn lên cuốn đi tất
cả những gì không được xây dựng chắc chắn trên đảo. Trường Sa có vị trí đặc
biệt, toàn bộ tuyến đường quá cảnh qua biển Đông đều đi qua khoảng giữa hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuyến đường qua Biển Đông là con đường
hàng hải quốc tế quan trọng. Đây là con đường thuận tiện nhất không chỉ cho
các nước trong khu vực mà còn cho các nước ở châu lục khác như châu Âu và
châu Mĩ để vận chuyển hàng hải và giao dịch thương mại.
118
Với vị trí và nguồn tài nguyên dồi dào như vậy, nên ngay trong bước đầu
mở đất về phương Nam, việc khai thác tài nguyên ở Côn Đảo, cũng như ở
Hoàng Sa và Trường Sa đã được các chúa Nguyễn quan tâm, thực hiện một cách
có tổ chức và hệ thống. Ngoài việc tăng cường thêm nguồn hàng trao đổi ngoại
thương, điều quan trọng hơn là thông qua việc khai thác thường xuyên hàng năm
ở Côn Đảo, Trường Sa, các chúa Nguyễn nâng cao ý thức chủ quyền lãnh thổ
quốc gia trên biển đảo của triều thần và dân chúng.
Quốc sử quán triều Nguyễn chưa cho biết chính xác thời gian nhà
Nguyễn thiết lập chế độ hành chính đối với Côn Đảo và Trường Sa nhưng lại
ghi chép rất cụ thể về quá trình bảo vệ chủ quyền và hoạt động khai thác các
nguồn lợi biển tại Côn Đảo và Trường Sa ngay từ những thập niên đầu dựng
nghiệp của chúa Nguyễn.
Đối với việc xác lập và bảo vệ chủ quyền Côn Đảo, Đại Nam thực lục
cho biết: tháng Tám năm Mậu Ngọ, 1702, Chúa Nguyễn Phúc Chu được Trấn
thủ dinh Trấn Biên là Trương Phúc Phan báo Giặc biển là người Man An Liệt
(tức người Anh) có 8 chiếc thuyền đến đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn Tô
Thích Già Thi 5 người tự xưng là nhất ban, nhị ban, tam ban, tứ ban, ngũ ban
(mấy ban cũng như mấy bực, nguyên người Tây phương dùng những tên gọi ấy
để gọi bọn đầu mục của họ) cùng đồ đảng hơn 200 người, kết lập trại sách, của
cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác [78, tr.115]. Ngay lập tức “Chúa
sai Phúc Phan tìm cách trừ bọn ấy” [78, tr.115], để xác định chủ quyền của đất
nước, mặc dù lúc đó Côn Đảo chưa có người ở. Trương Phúc Phan lập tức cho
nghiên cứu phương án đánh đuổi quân Anh khỏi Côn Đảo. Tổng trấn Trương
mộ 15 lính người Ma-lai-xi-a, dùng kế trá hàng lọt được vào lính Anh chiếm
đóng trên đảo. Sau một thời gian chung sống với lính Anh, nghiên cứu cung
cách phòng vệ của họ và cuối cùng tháng 10 năm Quý Mùi, 1703 họ thống nhất
ra tay hành động, tiêu diệt được nhiều lính đánh thuê Anh và thu vô số chiến lợi
phẩm. Trong Đại Nam Thực lục, phần Tiền biên, có ghi vắn tắt sự kiện quan
119
trọng đó như sau: Mùa đông, tháng 10, dẹp yên đảng An liệt. Trước là Trấn thủ
Trấn Biên Trương Phúc Phan mộ 15 người Chà Và sai làm kế trá hàng đảng An
Liệt để thừa chúng sơ hở thì giết. Bọn An Liệt không biết. Ở Côn Lôn hơn một
năm không thấy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy làm đắc chí. Người Chà Và đang đêm
phóng lửa đốt trại, đâm chết nhất ban, nhị ban, bắt được ngũ ban trói lại, còn
tam ban, tứ ban thì theo đường biển trốn đi. Phúc Phan nghe tin báo, tức thì sai
binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải bắt được dâng nộp. Chúa trọng thưởng
người Chà Và và tướng sĩ theo thứ bực. Tên ngũ ban thì đóng gông giải đi, chết
ở dọc đường [78, tr.117]. Từ đó trở về sau, thực dân Anh mặc dù ở gần đó
(thống trị Malaysia), nhưng không dám bén mảng vì đất này đã có chủ.
Theo tác giả Phạm Thị Huệ và Nguyễn Xuân Hoài trong bài Quá trình xác
lập chủ quyền của Việt Nam đối với Côn Đảo trước 1862 thì: qua thống kê chưa
đầy đủ từ tài liệu lưu trữ, có thể khẳng định, các chúa Nguyễn đã xác lập chủ
quyền của Đại Việt đối với Côn Đảo muộn nhất là vào cuối thế kỉ XVII đầu thế
kỉ XVIII. Mặc dù xác lập chủ quyền từ rất sớm, nhưng trong điều kiện xảy ra
chiến tranh liên miên, lại nằm xa đất liền, nên đối với Côn Đảo, các chúa
Nguyễn chỉ chú trọng khai thác sản vật, mà chưa thể thiết lập thể chế hành chính
để cai quản sinh hoạt trên đảo. Theo các sử liệu tại trung tâm lưu trữ quốc gia II,
phải đến những thập niên cuối thế kỉ XVIII, chúa Nguyễn mới thiết lập được
những cơ sở hành chính đầu tiên đối với quần đảo này. Đó là vào năm 1773,
Nguyễn Ánh trên đường đào tẩu khỏi sự truy lùng của quân Tây Sơn, đã đưa
hoàng tộc cùng với 100 gia đình tùy tướng, gia nhân tới Côn Đảo lập ra 3 làng
An Hải, An Hội, Cỏ Ống và chính thức đặt tên cho quần đảo này là Côn Đảo,
Côn Lôn hay Côn Nôn, đặt dưới sự quảng hạt của tỉnh Hà Tiên [26, tr.65].
Đối với Trường Sa, cả người Việt và người nước ngoài lúc bấy giờ đều
chưa phân biệt rõ ràng Trường Sa và Hoàng Sa mà gọi chung cả hai quần đảo
này là Vạn Lý Trường Sa hay là bãi cát vàng (Hoàng Sa). Đây là nơi thường có
nhiều thuyền bị hư hại khi ngang qua vào mùa mưa bão vì thế các chúa Nguyễn
120
hay chu cấp cho các tàu thuyền bị nạn về nước, nên thuyền buôn các nước
thường bảo nhau tìm cách tạt vào bờ biển Việt Nam để nhờ cứu giúp khi gặp
nạn. Chính vì thế, Trường Sa từ rất sớm đã được người Việt biết tới và xác lập
chủ quyền của mình.
Cuốn sách đầu tiên ghi chép về Côn Đảo (Côn Lôn) cũng như quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong là quyển
Phủ Biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn. Lê Quý Đôn cho biết: Ở xã An Vĩnh
huyện Bình Sơn, Phủ Quảng Nghĩa ở gần biển. Ở hướng đông bắc ngoài biển có
nhiều đảo và núi linh tinh hơn 130 đỉnh. Từ khoảng núi ấy mà ra biển lớn cách
nhau có chỗ hoặc 1 ngày đường, hoặc mấy canh giờ. Trên đảo có bãi cát vàng,
dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng và rộng lớn, có suối nước ngọt, nước trong
veo nhìn thấu tận đáy…Thuyền lớn đi biển, hễ gặp gió, đều đến nương đậu ở
đảo này [23, tr.148].
Từ đầu thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn đã cho lập đội Hoàng Sa và Bắc
Hải để khai thác và thực thi chủ quyền trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và Côn Đảo.
Lê Quý Đôn cho biết: Ngày trước, họ Nguyễn có thiết lập đội Hoàng Sa
gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào. Mỗi năm luân phiên nhau đi,cứ
tháng 2 thì nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi hàng năm bằng
thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo [23, tr.148]… Họ Nguyễn còn
thiết lập thêm đội Bắc Hải nhưng không định trước bao nhiêu suất, hoặc chọn
người thuộc thôn tứ chiếng ở phủ Bình Thuận, hoặc lấy người xã Cảnh Dương,
ai tình nguyện thì sung vào và cấp giấy sai đi, miễn nạp tiền sưu cùng các thứ
tiền lặt vặt như tiền tuần, tiền đò, sai họ đi thuyền câu nhỏ ra các xứ như cù lao
Côn Luân ở Bắc Hải, Cồn Tự ở Hà Tiên để tìm kiếm, lượm nhặt đồi mồi, hải ba,
đồn ngư, lực quý ngư, hải sâm. Việc này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản
nhưng bất quá họ chỉ lấy được những hải vật chứ vàng bạc và các của quý khác
thì ít khi tìm được [23, tr.149].
121
Trong sách Đại Nam thực lục, bộ chính sử quan trọng và lớn nhất của nhà
Nguyễn do quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, trong phần chính biên đệ nhất
kỷ có ghi :
Giáp Tuất, Thế tông Hiếu Vũ Hoàng đế năm thứ 16 (1754): Ở ngoài biển,
về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát, cách nhau
hoặc đi một ngày đường, hoặc một vài trống canh, kéo dài không biết mấy nghìn
dặm, tục gọi là “Vạn lý Trường Sa”, trên bãi biển có giếng nước ngọt. Sản vật
có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, baba …Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70
người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ
3 đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc
Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung
vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn, để tìm lượm hóa vật; đội
này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản [23, tr.164].
Như vậy, nhiệm vụ của đội Hoàng Sa và Bắc Hải là tìm nhặt hàng hóa
của các con tàu bị đắm dạt vào các đảo (gươm, súng, vàng bạc, đồ đồng, thiếc,
chì...) và đánh bắt hải sản (ốc, hải sâm, vỏ đồi mồi, vỏ hải ba...).
Tác phẩm Tổ Quốc nơi đảo xa do nhà xuất bản Văn Hóa - Văn Nghệ ấn
hành cho biết: về mặt tổ chức, phiên chế đội ngũ, đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải
là một tổ chức dân binh vừa mang tính dân sự vừa mang tính quân sự, vừa mang
tính chất tư nhân vừa mang tính nhà nước, vừa có chức năng kinh tế, vừa có
chức năng quản lý biển đảo. Thành viên đội Hoàng Sa là những dân địa phương
được tổ chức theo hình thức quân sự. Đứng đầu mỗi đội là một cai đội (thường
là vị quan lớn như cai đội Thuyên Đức Hầu - một người được phong tước
"hầu”), những thành viên trong đội được gọi là "quân nhân”: "năm Kiền Long
thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Vàng huyện Chương
Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam”. Cai đội Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc
Hải. Những quân nhân Hoàng Sa, Bắc Hải không được trả lương hàng tháng như
chính binh (tức lính chuyên nghiệp), chỉ được "miễn cho tiền sưu cùng các tiền
122
tuần đò”. Ngoài việc được miễn sưu thuế, về mặt quyền lợi, họ còn được hưởng
phần dư - phần còn lại ngoài số sản vật lượm được phải nộp cho Nhà nước theo
quy định: "đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem
bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm”.
Biên chế của đội Hoàng Sa: 70 suất, nguồn tuyển: người xã An Vĩnh trên
đảo Cù Lao Ré; biên chế của đội Bắc Hải: "không định bao nhiêu suất”, nguồn
tuyển: hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương.
Lịch hoạt động trong năm: tháng 2 lĩnh giấy sai đi, mất 3 ngày 3 đêm thì
đến nơi, ở lại trên đảo 6 tháng, tháng 8 thì về, vào thành Phú Xuân để nộp, rồi
lĩnh bằng trở về. Hoạt động của đội được chính quyền cho phép và giám sát chặt
chẽ: khi đi lĩnh giấy, khi về lĩnh bằng.
Địa bàn hoạt động: các cù lao, đảo trên Biển Đông. Vì địa bàn biển đảo
quá rộng nên đội Bắc Hải được lập thêm để phụ trách vùng biển đảo phía Nam,
từ Trường Sa đến Hà Tiên: xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên.
Phương tiện và trang bị: đi bằng thuyền câu nhỏ (5 chiếc), mang đủ lương
ăn 6 tháng, bắt thêm cá, chim để ăn.
Thu hoạch thất thường: "Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có
khi về người không”. Phần hải vật thường ổn định, còn hóa vật thì nhiều ít tùy
năm. "Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được”.
Với nhiệm vụ nặng nề, công việc nguy hiểm, biển khơi ẩn chứa nhiều tai
họa khó lường trong khi phương tiện thời đó lại khá thô sơ, những người lính
trong đội Hoàng Sa thời đó hầu như phải đối mặt với hy sinh, với cái chết.
Chính vì thế nên ngoài lương thực, nước uống, họ còn mang theo một đôi chiếu,
7 đòn tre, 7 sợi dây mây và một tấm thẻ bài có khắc họ tên, quê quán để phòng
nếu chẳng may hy sinh, đồng đội sẽ bó thi hài vào chiếu và thả xuống biển. Tại
Cù Lao Ré hiện nay vẫn còn Âm Linh Tự tức miếu Hoàng Sa, ở thôn Tây, xã Lý
Vĩnh, tức phường An Vĩnh xưa và Âm Linh Tự ngoài trời ở xã Lý Hải, tức
phường An Hải xưa. Cũng tại xã An Vĩnh và cả làng An Hải ( cả đất liền lẫn
123
ngoài đảo Cù Lao Ré) có tục tế đình và lễ khao quân tế sống hay còn được gọi là
“khao lễ thế lính Hoàng Sa” để tiễn lính đội Hoàng Sa lên đường làm nhiệm vụ
hàng năm vào ngày 20 tháng Hai âm lịch tại các đình làng (hiện nay chỉ còn
đình làng Lý Hải tổ chức).Trong buổi tế sống lính Hoàng Sa đó, dân làng làm
những hình nộm bằng khung tre và dán giấy ngũ sắc để giả hình người và đem
tế tại đình. Tế xong họ đốt đi, hoặc đóng thuyền bằng thân cây chuối đặt hình
nộm lên và thả trôi ra biển, với quan niệm các hình nộm kia sẽ gánh chịu mọi
nguy hiểm tai nạn trên biển thay cho đội Hoàng Sa và cầu mong cho người thân
của họ bình an trở về, đồng thời còn làm những “ngôi mộ gió” – mộ chôn những
hình nhân tượng trưng cho những người lính hy sinh vì Hoàng Sa [11].
Việc xác lập chủ quyền của các chúa Nguyễn đối với Vạn Lý Trường Sa
và sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên hai quần đảo cũng
được Thích Đại Sán khẳng định trong sách Hải Ngoại Ký Sự : Bởi vì có những
cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ đông bắc qua tây nam; động cao dựng
đứng nhu vách tường, bãi thấp cũng ngang mực nước biển; mặt cát khô rắn như
sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành; bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm
thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “Vạn Lý Trường Sa”, mù tít chẳng thấy
cỏ cây nhà cửa; nếu thuyển bị trái gió trái nước tất vào, dầu không tan nát,
cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quảng ấy cách Đại Việt
bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm. Thời quốc vương trước, hằng năm sai
thuyền đi đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư
tất vào. Mù thu nước dòng cạn, chảy rút về hướng đông, bị một ngọn sóng đưa
đi thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức gió chẳng mạnh, sợ có hiểm họa
Trường Sa [81, tr.125].
Phủ Biên tạp lục cũng chép rất rõ những hoạt động của đội Hoàng Sa ở
phía Bắc: năm thứ 18 (1753) niên hiệu Càn Long có 10 lính Hoàng Sa bị bão
trôi dạt vào cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Viên quan địa phương tra xét rõ
nguyên nhân xong liền cho thuyền áp chở những người lính Hoàng Sa trở về
124
nguyên quán. Điều này chứng tỏ từ xưa chính quyền Trung Quốc vẫn luôn tôn
trọng quyền hành xử chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Chính quyền phong
kiến Trung Quốc đã không hề có phản ứng nào về những hoạt động của đội
Hoàng Sa mà còn giúp đỡ những người lính Hoàng Sa khi họ gặp bão trôi dạt
vào đất Trung Quốc.
Hiện còn khá nhiều tài liệu về các hoạt động của đội Hoàng Sa còn lưu trữ
trong dân gian ở phường An Vĩnh, đảo Lý Sơn (tức Cù Lao Ré), tỉnh Quảng
Ngãi. Chẳng hạn như đơn của ông Hà Liễu, cai hợp phường Cù Lao Ré, xin
chính quyền Tây Sơn cho phép đội Hoàng Sa tiếp tục hoạt động và tờ Chỉ thị
ngày 14 tháng 2 Thái Đức năm thứ 9 (1786) của quan Thái Phó Tổng Lý Quân
Binh Dân Chư Vụ Thượng Tướng Công đốc suất công việc của đội Hoàng Sa.
Năm 1773, sau 2 năm khởi nghĩa, quân Tây Sơn đã làm chủ miền đất từ Quảng
Nam đến Bình Thuận, trong đó có Quảng Ngãi. Những hoạt động của đội Hoàng
Sa ở xã An Vĩnh được đặt dưới quyền kiểm soát của Tây Sơn. Với truyền thống
hoạt động hàng trăm năm, dân xã An Vĩnh vốn tự lập về phương tiện tàu thuyền
lại quen việc nên luôn là nòng cốt của đội Hoàng Sa dù ở dưới bất kỳ triều đại
nào, họ luôn chủ động kiểm soát vùng biển truyền thống lâu đời của cha ông
một cách tích cực nhất.
Tóm lại, các sự kiện trên đã chứng minh rõ việc xác lập chủ quyền, khai
thác sản vật và bảo vệ chủ quyền trên các đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Đảo
chậm nhất là vào thế kỉ XVII. Có thể nói: từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, sự
phát triển mạnh mẽ của hệ thống thương mại quốc tế đã ảnh hưởng tích cực tới
hoạt động ngoại thương của chính quyền chúa Nguyễn. Các chúa Nguyễn đã vận
dụng những kinh nghiệm đi biển của người Chăm, cùng các cộng đồng dân cư
khác đang sinh sống ven biển, nhằm khai thác triệt để tiềm năng vốn có của
vùng đất mình cai quản, đặc biệt là tiềm năng phong phú của các quần đảo
(trong đó có Côn Đảo và Trường Sa) nhằm mục đích phát triển kinh tế, thúc đẩy
quan hệ thương mại và giao lưu văn hóa trên biển. Trong bối cảnh ấy, chính
125
quyền chúa Nguyễn một mặt vẫn duy trì chính sách đối ngoại rộng mở, nhưng
đồng thời cũng luôn cảnh giác, kịp thời đưa ra những phương án hữu hiệu để
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên biển đảo của quốc gia [26, tr.191-192].
3.4. Đông Nam Bộ là cửa ngõ thông thương của Đàng Trong với nước ngoài
Thế kỉ XVII – XVIII, Đông Nam Bộ trở thành cửa ngõ thông thương của
Nam Bộ, của Đàng Trong với thế giới thông qua thương cảng Cù Lao Phố hay
còn gọi là Nông Nại Đại Phố và cảng thị Sài Gòn – Gia Định.
Nông Nại đại phố xưa được xác định là vùng Cù Lao Phố hiện nay, thuộc
xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Đây là một cù lao giữa hai
nhánh sông với vị thế thuận lợi lớn về đường thủy. Xưa kia đây chính là điểm
trung gian giữa miệt hạ lưu và thượng lưu sông Đồng Nai trước gọi là Phước
Long giang.
Cù Lao Phố mang nhiều tên gọi khác nhau, ngoài tên Nông Nại Đại Phố,
còn có các tên: Đại Phố, Đông Phố, Giản Phố, Cù Châu, Bải Rồng. Trước năm
1698, Cù Lao Phố có 3 xóm (xóm Chợ Chiếu, xóm rạch Lò Gốm và xóm Chùa)
là những điểm cư trú và khai thác đầu tiên của người Việt chứ chưa phải là đơn
vị hành chính của chúa Nguyễn. Đến năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh kinh
lược đất Đông Phố, chia lập thôn ấp, lập bộ đinh, bộ điền thì Cù Lao Phố là xã
Bình Hoành nằm trong phạm vi xứ Đồng Nai, thuộc huyện Phước Long, dinh
Trấn Biên. Dần dần trên cơ sở thôn cũ, hình thành nên những xóm làng trù mật,
Cù Lao Phố phát triển thành 3 thôn: Nhất Hòa, Nhị Hòa và Tam Hòa [10, tr.82].
Cù Lao Phố, là địa bàn thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, thủ công
nghiệp và thương nghiệp. Nơi đây là một bãi phù sa nằm ở giữa sông Đồng Nai,
có hai rạch nhỏ là rạch Ông Án và rạch Lò Gốm, đưa nước sông Đồng Nai chảy
vào những cánh đồng trong lòng cù lao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng
trọt ở đây nhưng khu vực ven bờ cù lao lại không thích hợp cho việc sản xuất
nông nghiệp vì chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều xuất hiện với biên độ
lớn và thời gian xuất hiện nhanh. Dài theo mé sông ở Cù Lao Phố có nhiều đất
126
sét, rất thuận lợi cho nghề gốm phát triển. Ngòai ra, Cù Lao Phố có hệ thống
sông bao quanh thuận tiện cho giao thông đường thủy từ bắc xuống nam, lên
Cao Miên và xuống miền Tây Nam Bộ [10, tr.80].
Nhóm người Hoa của Trần Thượng Xuyên đầu tiên định cư trên vùng đất
Bến Gỗ, nhưng nhận thấy ưu điểm của Cù Lao Phố nên họ đã quyết định di
chuyển về đây. Sau khi về đây định cư, Trần Thượng Xuyên cùng với những
nhà hào phú, quý tộc đi theo ông đã xây dựng nên Nông Nại đại phố, một
thương cảng xuất nhập khẩu lớn nhất miền Đông Nam Bộ thời bấy giờ. Gia
Định thành thông chí cho biết: Phố lớn Nông Nại. Ở đầu phía tây của cù lao Đại
Phố, lúc mới mở mang, Trần Thượng Xuyên chiêu tập người thương buôn nước
Trung Quốc đến lập ra phố xá, mái ngói tường vôi, lầu quán cao ngất, dòng
sông rực rỡ, ánh nhật huy hoàng, liền nhau tới 5 dặm, chia làm 3 đường phố,
đường phố lớn lát đá trắng, đường phố ngang lát đá ong, đường phố nhỏ lót đá
xanh, toàn thể đường bằng phẳng như đá mài, kẻ buôn tụ tập, thuyền đi biển, đi
sông đều đến cuốn buồm neo đậu, đầu đuôi thuyền đậu kế tiếp nhau, thật là một
chỗ đô hội. Các nhà phú thương buôn bán to lớn chỉ ở đây là nhiều hơn
[25, tr.238].
Cù Lao Phố được như vậy là do việc thương mại ở đây được tổ chức khéo
léo, Trần Thượng Xuyên chiêu tập người buôn nước ngoài, nhất là người Tàu
đến kiến thiết, đây là những thương buôn chuyên nghiệp, có vốn to và giàu kinh
nghiệm. Một số theo Trần Thượng Xuyên đến trước, đã tạo lập cơ sở đầu tiên ở
Bến Gỗ, nhưng do thương mại ngày càng phát triển, nên đã tìm đến Cù Lao Phố
là nơi sông sâu, thuận tiện cho tàu biển ra vào.
Kiểu buôn bán ở Cù Lao Phố là dạng xuất nhập khẩu, có nhiều kho hàng
dự trữ hàng hóa nhập vào và dự trữ hàng hóa thu mua, với nhiều chân rết. Quang
cảnh buôn bán sầm uất ấy đã được Trịnh Hoài Đức mô tả: Từ trước thuyền buôn
đến đây thả neo xong thì lên bờ thuê phố ở, đến nhà chủ mua hàng kê khai toàn
bộ hàng hóa có trong thuyền trình sở thuế; chủ mua hàng định giá mua tất cả
127
hàng hóa xấu tốt không sót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về, gọi là hồi
Đường, nếu chủ thuyền muốn mua thứ gì thứ kê khai trước, người chủ vựa theo
đơn đặt hàng mua dùm, hai bên chủ khách đều tiện, thanh toán hóa đơn rõ ràng
rồi, khách cứ đàn hát vui chơi, đã được nước ngọt sạch sẽ, lại không có lo trùng
hà ăn thủng ván thuyền, chỉ đợi tới ngày lui thuyền, chở hàng đầy khoang mà về
xứ [25, tr.30].
Trong hoạt động thương mại, giao dịch của Cù Lao Phố đều do các
thương nhân Hoa kiều chiếm địa vị quan trọng. Họ đã nắm hầu hết các mặt hàng
xuất nhập khẩu, vì thế nơi ăn chốn nghỉ cho đến nơi vui chơi, giải trí cho khách
buôn và quan trọng hơn hết là chỗ tồn trữ hàng hóa và điạ bàn phân phối hàng
hóa được họ chuẩn bị rất kĩ. Ví dụ: Nông Nại đại phố có các dịch vụ như Phố
Lầu nơi đàn hát vui chơi giải trí, cung cấp nước ngọt cho khách buôn, Bến Gỗ là
nơi sửa chữa thuyền bè, cung cấp các phụ dụng cho thuyền buồm…phục vụ các
tàu buôn đi biển đường dài cho khách thương hồ viễn xứ. Như vậy có thể nói
Nông Nại đại phố là thương cảng phát triển với quy mô thương mại – dịch vụ
tương đối đầy đủ để phục vụ cho con người và lượng hàng hóa được luân
chuyển qua thương cảng này [6, tr.45].
Trong lịch sử phát triển, Cù Lao Phố được hình thành như một cảng sông
sâu trong nội địa nên đã có ưu thế tối ưu như một trung tâm thu mua hàng hóa
được từ nhiều nguồn, đa dạng và thương mại phát triển của một khu vực được
khai phá sớm. Ngay vùng Cù Lao Phố là nơi sớm tập trung các ngành nghề thủ
công: dệt chiếu, làm tơ lụa, làm gốm, mộc, đúc đồng, làm pháo hay chăn nuôi
tằm, trồng mía, nấu đường…Đặc biệt những sản phẩm của Cù Lao Phố được
xem là những hàng đặc sản được nhiều nơi đặt mua [10, tr.83].
Ngoài nguồn hàng cung cấp tại chỗ, thương cảng Cù Lao Phố còn tiếp
nhận các nguồn hàng hóa từ nơi khác đến trên vùng Đồng Nai thông qua những
đại lý hay còn gọi là “chân rết” người Hoa ở các chợ, các hàng xóm xa xôi.
Những người Hoa theo Trần Thượng Xuyên vào Biên Hòa, ngoài những binh
128
lính vẫn giữ nguyên đội ngũ “Long Môn” dưới quyền chỉ huy của ông, còn có
hàng loạt các quý tộc phong kiến và thương nhân giàu có cùng gia quyến quê ở
Quảng Đông, Hải Nam, Phước Kiến, Triều Châu, Hẹ. Ngoài một số sống tập
trung ở Bàn Lân (Bến Gỗ), Cù Lao Phố, còn có những người sống rải rác trong
phạm vi vùng Đồng Nai với tính cách là những đại lý thu mua nguyên vật liệu,
hàng hóa tại chỗ cung cấp về Cù Lao Phố như ở Tân Bản (lúa gạo), Mỹ Khánh,
Bình Long (hàng vàng bạc), Chợ Đồn (nằm trong làng Bình Long xuất lu, hũ,
cát, đá ong), Tân Mai, Vĩnh Thanh, Bình Trước, Bình Phước (lúa gạo), Đồng
Bản, Thủ Đồn Xứ (gỗ quý, thú rừng), Bình Sơn (đá rửa dùng tô nhà), Phú Hội
(xuất trà), An Lợi (sầu riêng), Long Tân (chuối), Phước An (cá Buôi, sò huyết),
Phước Khánh (lúa gạo thơm), Tam An (tôm càng), Hội Bài (cá), Long Phước
(chuối, xoài)…[66, tr.124].
Hàng hóa trao đổi, mua bán ở Cù Lao Phố rất đa dạng. Nguồn xuất khẩu
chính của Cù Lao Phố là lúa gạo, lúa gạo ở Đồng Nai rất nổi tiếng, rất nhiều và
rất rẻ: mỗi tiền (60 đồng) đong được 16 đấu thóc. Lường theo bát gạt ngang thì
cứ ba bát ấy ngang với ba chục quan bát (bát của nhà nước, nhỏ hơn bát của
dân buôn ở chợ). Mỗi quan mua được 300 quan bát làm bằng đồng. Giá cả rẻ
như vậy các nơi khác chưa từng có [23, tr.155-156]. Kế đến là nguồn gỗ quý
dùng để đóng tàu thuyền (vì giao thông đường thủy là chủ yếu) và xây dựng nhà
ở, đình chùa. “Phủ Gia Định có nhiều thứ gỗ tốt, xét sổ sách của Cai Bạ Nguyễn
Khoa Thuyên thì ở hai xứ là nguồn Đồng Môn và thủ Quang Hóa huyện Phước
Long có gỗ sao, gỗ trắc, gỗ dầu, gỗ giáng hương và gỗ gụ. Nguồn Ba Can thuộc
huyện Tân Bình có gỗ trắc và gỗ giáng hương” [24, tr.225], [65, tr.123].
Bên cạnh mặt hàng gạo, hàng lâm sản quý, Cù Lao Phố còn có các mặt
hàng thổ sản như: đường phèn, đường phổi, đường cát (huyện Phước Chánh,
trấn Biên Hòa) mỗi năm bán cho thuyền buôn nước ngoài trên 600.000 cân,
không kể mật và đường đen dùng trong xứ. Ở làng Bến Gỗ huyện Long Thành
có mỏ quặng sắt, dân mở lò đào nấu gang sắt, đúc các vật phẩm như lưỡi cày,
129
chảo, rèn cuốc liềm…để bán cho dân bản xứ và các tàu buôn. Trấn Biên Hòa có
nhiều mỏ đá ong, “người thợ mỏ đào ra, nhân khi đất còn ướt, tùy theo thước
tấc rộng dày thế nào, mà chặt ra thành khối, để dãi ra giữa gió và mặt trời, lâu
ngày đất ấy cứng lại, búa đẽo cũng không vô, dùng xây vách tường, sân thềm, kè
sông và xây mộ, cứng rắn không thua gì đá núi” [25, tr.197]. Muối trắng “sản
xuất ở vùng Vũng Dương thuộc huyện Phước An, giá rất rẻ, 100 cân (cân ta
bằng gần 0,5kg) giá là 1 tiền kẽm. Lãnh, là, vải, lụa thì nơi nào cũng có nhưng ở
huyện Phước An trấn Biên Hòa có thứ lãnh thâm mềm láng là tốt nhất trong cả
nước. Rượu thì ở Thạch Than ngon hơn nhiều nơi khác. Giấy bản ở huyện
Phước An, thuốc lào ở huyện Long Thành, lá buông ở huyện Phước Bình, vỏ gai
và đuốc nhựa trám ở huyện Long Khánh… [55, tr.211].
Bên cạnh các mặt hàng kể trên, Cù Lao Phố còn bán các loại nông sản
như hạt tiêu, hạt sen, chuối, xoài, trà, các loại hải sản như tôm càng, cá, sò
huyết, hải sâm, đồi mồi, vây cá, bóng cá, da rái cá …hàng lâm sản khai thác
được như: ngà voi, sừng tê giác, gạc nai, gân nai, da tê, da ngựa núi, huyền
phách, các loại dược thảo, sáp ong, mật ong là những mặt hàng xuất khẩu rất
được các chủ thuyền buôn ưa chuộng đặt hàng, các loại khoáng sản như sắt, đá
ong, cát…, các hàng mĩ nghệ thủ công như: nữ trang bằng vàng bạc, vật dụng
bằng đồi mồi, đóng thuyền, làm cột buồm bằng gỗ quý, đồ gốm, chiếu cũng là
những mặt hàng xuất khẩu ở Cù Lao Phố [10, tr.85].
Nguồn hàng nhập khẩu vào Cù Lao Phố, phổ biến nhất là là đồ sứ Trung
Quốc (đặc biệt là sứ nhà Thanh), tơ lụa, vải bố, thuốc bắc và các loại dược
phẩm, đồng để đúc chuông, gạch ngói dùng để trang trí, các loại vật liệu dùng để
xây dựng chùa, miếu và các loại khác như nhang đèn, giấy tiền vàng bạc…
[10, tr.85].
Sự phồn thịnh của thương cảng Cù Lao Phố, với tư cách là trung tâm
thương mại và giao dịch quốc tế, không chỉ riêng của Đông Nam Bộ mà còn của
cả đất Đàng Trong kéo dài đến năm 1776 thì chấm dứt. Nguyên nhân chủ yếu, là
130
khi công cuộc khai hoang tiến nhanh về miệt dưới (đồng bằng sông Cửu Long
ngày nay) thì vị trí trung tâm của đất phương Nam lúc này tất nhiên phải chuyển
xuống vùng Bến Nghé - Sài Gòn. Mặt khác, khi Cù Lao Phố đã trở thành “xứ đô
hội” của vùng đất mới, thì tự nó cũng trở thành nơi diễn ra những cuộc tranh
chấp về quyền lực chính trị. Trước hết năm 1747, bọn khách thương người
Phước Kiến do Lý Văn Quang cầm đầu tự xưng là “Giản Phố Đại Vương” tập
trung bè đảng, toan đánh úp lấy dinh Trấn Biên. Âm mưu bạo loạn bị dập tắt,
nhưng gây nhiều thiệt hại cho Cù Lao Phố. Kế đến trận chiến giữa Nguyễn Ánh
và Tây Sơn, nhất là biến cố năm 1776 đã tàn phá Cù Lao Phố, cộng đồng người
Hoa tại các nơi này đã xiêu tán, tìm các nơi khác sinh sống. Sau biến cố, dẫu có
một số người Hoa trở lại sinh sống nhưng Nông Nại đại phố đã không còn như
xưa: “Đất này trở thành vườn gò hoang. Sau khi Trung hưng tuy có người trở
về, nhưng chưa bằng một phần trăm (mười phần ngàn) lúc trước”
[25, tr.238], [65, tr.124].
Như vậy, Cù Lao Phố hình thành như một cảng sông sâu trong nội địa
(cách biển 100km), nhờ đặc điểm địa lý tối ưu của nó và do yêu cầu thực tế đòi
hỏi phải có một trung tâm thương mại của khu vực được khai phá sớm nên đã
nhanh chóng trở thành một trung tâm thương mại, một cửa ngõ thông thương và
giao dịch với nước ngoài của vùng Đông Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói
chung. Chính vì thế, mà nhà văn Sơn Nam đã khẳng định: Cù Lao Phố là “một
cảng quan trọng đầu tiên của Nam Bộ, đón nhận thương thuyền nước ngoài,
hưng thịnh suốt khoảng 90 năm” [59, tr.10].
Ngoài Nông Nại Đại phố, Đông Nam Bộ còn thông thương với thế giới
thông qua cảng thị Sài Gòn – Gia Định. Cảng thị Sài Gòn- Gia Định được khởi
đầu từ một điểm tụ cư của người Việt là Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey
(Bến Nghé). Năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên được sự đồng ý của vua
Chân Lạp đã đặt hai trạm thu thuế để quản lý việc buôn bán ở đây. Nhờ vậy, từ
những năm 20 của thế kỉ XVII, thị trấn Prei Nokor và Kas Krobey ngày càng trở
131
nên tấp nập, bởi hoạt động mở mang, khai khẩn ruộng đất và buôn bán của lưu
dân người Việt.
Theo một tư liệu của người Nhật nói về “quan hệ Nhật Bản – Việt Nam
trong thời kỳ Châu Âu” của Ogura Sadao, xuất bản năm 1987 tại Tokyo đã vạch
ra hải trình của thương thuyền Nhật Bản trong suốt những nhăm 1604 đến năm
1635: “đó là con đường từ Phố Hiến (Hưng Yên), Nghệ An – Tonkin, Annam
như Huế (Senoa), Cacciam (cù lao Chàm) - Hội An (Faifo), Champa, rồi Giao
Chỉ (Cauchinchina) - tức Sài Gòn xưa - sau đó tiếp tục đến Chân Lạp
(Cambodia), Xiêm (Siam), Patani, Luzon, Olucca, Brunei, Marica (thuộc
Malacca)…Tổng cộng trong suốt 32 năm này, nhiều thương thuyền Nhật Bản đã
đến 19 cảng của các nước Châu Á, trong đó có Prei Nokor và Kas Krobey.
Ogura Sadao còn cho biết thêm những hàng hóa được mang từ Nhật Bản
đến Tongkin, Annam (Hội An) và Cauchinchina, chủ yếu là hàng xa xỉ phẩm và
các mặt hàng quân nhu như vàng, bạc, đồng, tiền vàng, tiền bạc, tiền đồng, sắt,
tiền kẽm, giáo, mũ trụ, áo giáp, áo lụa cao cấp, tranh, tượng, dù, mùng, đồ gốm,
đồ sứ, đồ thủ công mỹ nghệ, đồ dùng trang sức gương soi…hoặc đồ gia dụng,
ấm đun nước, hay ngọc trai, thủy ngân, diêm sinh, gỗ thơm trừ sâu, bột mì…để
từ đó họ đổi lấy các đặc sản địa phương nước ta, như: tơ tằm, sa tanh, nhung,
the, sa kén, vải bông, trầm hương, kỳ nam, bạch đàn, gỗ quý, gỗ son (red sandal
wood), củ nâu (nguyên liệu nhuộm), da hươu, da cá mập, đồi mồi, ngà voi, sừng
trâu, san hô, tiêu, tổ yến, mật, mật mía (đường), đá quý, hổ phách, tinh thể (rock
crystal), đồ gốm, chì, kẽm, quế và các loại thuốc nam…[95, tr.33].
Tất nhiên, đây mới chỉ là bước đầu trong quan hệ buôn bán với thương
nhân nước ngoài, bởi lẽ khu vực định cư và số lưu dân người Việt ở đây còn ít
ỏi, nguồn hàng hóa chưa thật sự phong phú cho lắm. Cũng có thể thương thuyền
Nhật Bản cũng như tàu bè các nước khác chỉ dừng chân ở Prei Nokor và Kas
Krobey trong một thời gian ngắn, do vị trí thuận lợi của Sài Gòn, để rồi tiếp tục
cuộc hải trình về phía đông hoặc sang phía tây.
132
Như vậy, trên vùng đất Đông Nam Bộ này, Prei Nokor và Kas Krobey đã
sớm trở thành trung tâm thu hút lưu dân người Việt, để rồi sau đó nhanh chóng
biến thành Sài Gòn – Gia Định , một trung tâm thành thị, trung tâm kinh tế và là
điểm hội tụ văn hóa Đại Việt.
Trên cơ sở phát triển về kinh tế, xã hội, dân cư trên địa bàn Đồng Nai –
Gia Định. Năm 1698, chúa Nguyễn đã sai Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào
nam kinh lược, từ đây vùng này trở thành đơn vị hành chính của chính quyền
Đàng Trong. Sau sự kiện này, số lưu dân người Việt đến tụ cư quanh vùng Sài
Gòn – Bến Nghé ngày càng đông. Nhiều làng mạc, thôn xã được thành lập khá
sớm quanh vùng như Hanh Thông xã (1698), An Lộc (1716), An Phước, Tân
Sơn Nhất (1749)…Do đó những vùng đất hoang vu của khu vực Sài Gòn – Gia
Định đã dần dần biến thành những vùng sản xuất nông nghiệp và trung tâm buôn
bán phồn thịnh lúc bấy giờ.
Từ cuối thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII, ở vùng đất phương Nam này đã
hình thành nên 4 trung tâm buôn bán nổi tiếng đó là Cù Lao Phố, Mỹ Tho đại
phố, thương cảng Hà Tiên và trung tâm Sài Gòn – Gia Định. Mặc dù phải chen
vai cạnh tranh với ba trung tâm thương mãi nổi tiếng nhưng bằng tiềm lực kinh
tế vốn có, Sài Gòn – Gia Định đã nhanh chóng vươn mình trở thành một trung
tâm buôn bán phồn thịnh của xứ Đàng Trong và là nơi giao lưu kinh tế nổi tiếng
của nước ngoài.
Sở dĩ Sài Gòn – Gia Định sớm phồn thịnh vì trước hết nó có vị trí thuận
lợi: “ở trung tâm đi Singapore, Batavia (tức Djakarta của Indonesia), Manille,
Hồng Kông, Quảng Đông và chế độ gió mùa làm cho nó gần gũi với Trung Hoa
và Nhật Bản” [95, tr.39].
Hơn nữa, Sài Gòn còn là một thương cảng với vị trí địa lý tự nhiên vô
cùng thuận lợi. Sài Gòn xưa nằm trên vùng đồi cao thoai thoải hơn mặt sông từ
2 đến 10m, cách cửa biển cửa biển Cần Giờ 60km. Cần Giờ là một cửa biển vào
loại tốt trên thế giới, tàu thuyền lớn ra vô dễ dàng “trong cảng nưóc sâu và
133
rộng, rất yên lặng, thường ngày có thuyền buôn ra vào, là nơi hội tụ ghe thuyền
đông đúc của thành Gia Định, không đâu sánh bằng” [25, tr.42]. Từ biển lên
Sài Gòn có 3 cửa khẩu chính là Cần Giờ, Đồng Tranh, Soài Rạp nhưng Cần Giờ
là tốt nhất vì không có đá ngầm hay bãi cát cản lòng sông. Cả 3 cửa cùng dẫn tới
Nhà Bè, nơi hợp lưu của sông Đồng Nai và Tân Bình (sông Sài Gòn). Ngược
dòng Tân Bình, tục gọi là sông Bến Nghé, ta sẽ tới thành Gia Định, tức Sài Gòn,
tới cửa thành nhưng sông vẫn rộng và sâu, rất thuận tiện cho giao thông đúng
như Gia Định thành thông chí miêu tả: “sông Bến Nghé rộng 142 tầm, sâu 10
tầm, khi nước lên sâu 13 thước ta, sông này vừa rộng lớn vừa trong sâu, những
tàu buôn và ghe thuyền sông biển trong và ngoài nước ra vào không ngớt, trông
thấy đầu tàu nối liền, đuôi cột buồm chi chít, đủ biết đó là nơi đô hội”
[25, tr.41].
Mặt khác, cảng thị Sài Gòn nằm ở giữa miền Đông và miền Tây, vùng trù
phú nhất của Nam Bộ thời đó, Sài Gòn còn là cửa ngõ cả đường thủy lẫn đường
bộ sang Campuchia và Lào, có đường bộ nối liền với Biên Hòa, Bà Rịa và miền
Trung, lại nằm sát vùng trung tâm phì nhiêu nhất ở đồng bằng sông Cửu Long là
Mỹ Tho và Long Hồ (Vĩnh Long, Bến Tre), Sài Gòn – Bến Nghé thông thương
với sông Tiền, sông Hậu dễ dàng nhờ hệ thống kinh đào được mở mang như
kinh Bảo Định, kinh Ruột Ngựa, rạch mới sông Tranh, rạch Vàm Bến Nghé…
Các loại ghe thuyền từ Tiền Giang lên theo đường sông Rạch Cát – Chợ Đệm –
Bến Lức – Thủ Thừa – Vàm Cỏ Tây – Mỹ Tho. Nằm ở vị trí ưu việt như thế,
nên Sài Gòn đã nhanh chóng trở thành nơi buôn bán sầm uất, một trung tâm
buôn bán quan trọng nhất Nam Bộ từ đó về sau.
Ngoài ra, do sự phát triển của ngành hàng hải trên thế giới từ những năm
giữa thế kỉ XVIII trở đi, Sài Gòn là hải cảng chính ở vùng Đông Nam Bộ mà các
thương thuyền nước ngoài cập bến, đến đây Sài Gòn – Gia Định trở thành trung
tâm thương mãi sầm uất, là nơi tập trung hàng hải và ngoại thương.
134
Về mặt vị trí chiến lược thì Sài Gòn tương tự như Phố Hiến, Đà Nẵng, Cù
Lao Phố, Hà Tiên vốn là những thương cảng cửa sông. Nhưng Sài Gòn - Gia
Định không chỉ đơn thuần là thương cảng cửa sông – ven biển với những hoạt
động thương nghiệp đơn thuần, mà cái độc đáo của nó là “ luôn vươn mình nắm
lấy chức năng chủ yếu là ngoại thương, là nơi giao lưu kinh tế trong và ngoài
nước – một thương cảng ngoại thương” [95, tr.40].
Có thể nói rằng từ giữa thế kỉ XVIII, Sài Gòn – Gia Định đã có những
bước chuyển biến quan trọng, để rồi sau sự kiện Cù Lao Phố bị tàn phá, Sài Gòn
– Gia Định nghiễm nhiên trở thành một trung tâm thương mãi sầm uất.
Nhà cửa, phố xá, chùa chiền, chợ quán mọc lên liên tiếp, báo hiệu cuộc
sống của người dân thị tứ sớm được hình thành và phát triển ở vùng Sài Gòn –
Gia Định. Không đâu nhiều phố chợ như vùng Sài Gòn – Bến Nghé, các chợ lại
nằm không xa nhau. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cho biết
có rất nhiều chợ ở vùng này như: chợ Bến Thành, chợ Bến Nghé, chợ Cây Da
Còm, chợ Thị Nghè, chợ Điều Khiển, chợ Tân Kiểng, chợ Bình An, phố chợ Sài
Gòn (trung tâm Chợ Lớn ngày nay), chợ Bến Sỏi…
Phố chợ ở Sài Gòn - Gia Định, đã tụ tập người của mọi miền đất nước
cũng như thương nhân của nhiều nước trên thế giới. Trong bài phú cổ Gia Định
phong cảnh vịnh, cách đây hơn 200 năm có viết:
“Đồn tiếng Nam Châu thì đã phải
Ghe đen mũi, ghe vàng mũi vào ra coi là nước
Người phương Đông qua lại bán buôn
Tàu xanh mang, tàu đỏ mang, hàng hóa chất ngất trời” [137].
Thời bấy giờ, ghe các tỉnh, (mỗi tỉnh mũi ghe có màu sắc riêng), tàu bè
các nước Tây, Tàu, Nhật, Thái, Java đều tới Gia Định buôn bán. Ở Sài Gòn –
Bến Nghé lúc bấy giờ có đủ cả, nào là “trọ trẹ quân Huế kéo neo hò hụi…lũ tây
dương da trắng bạc…” cho đến “quân Ô Rồ (Java) mặt đen thui…” [137].
135
Ghe thuyền từ các dòng sông mang đến cho Sài Gòn – Gia Định đủ thứ
sản vật, nơi đây trở thành trung tâm thu hút hàng hóa từ các nơi đổ về, làm cho
nhịp độ buôn bán, trao đổi sản vật, hàng hóa trong nước tăng lên không ngừng.
Các mặt hàng như kì nam, trầm hương, nhục quế, ốc hương, cá mực, gỗ mun thì
ở các hạt chở đến, còn các mặt hàng khác thì ở đây cũng có, nơi khác đều có
cũng chuyển đến tấp nập, vì thế Trịnh Hoài Đức đã nhận xét “Gia Định là nơi
đô hội, tụ họp thương thuyền của các nước, cho nên trăm thứ hàng hóa đều đổ
dồn về đây” [25, tr.202]. Người ta còn tìm thấy ở chợ Sài Gòn và nhiều chợ
khác trên vùng đất Sài Gòn – Gia Định những mặt hàng bày bán như: gấm,
đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu, sách vở, thuốc thang, trà bột…những hàng hóa
ấy ở mọi miền đất nước, Nam lẫn Bắc đều theo đường sông, đường biển chở
vào, không món nào là không có.
Đặc biệt, lúa gạo là món hàng phổ biến và quan trọng ở Sài Gòn – Gia
Định. Lúa gạo ở Đồng Nai – Cửu Long chở về Sài Gòn bằng đường sông và từ
đây lúa gạo được bán ra Thuận Hóa, các vùng hải đảo xa xôi cũng như bán cho
thương nhân nước ngoài. Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn cho biết: “tại phủ
Gia Định lúa thóc không biết bao nhiêu mà kể, các khách buôn người Tàu
thường tới những nơi ấy mua bán đã quen thuộc, ai cũng tấm tắc khen ngợi”
[62, tr.71].
Ngoài lúa gạo thì đường cũng là mặt hàng được đưa về Sài Gòn và sau đó
nó được bán đi nơi khác, theo Gaudard thì đường ở Đồng Nai – Gia Định là mặt
hàng phong phú: “đường rất tốt, nhiều và rẻ, mà không có nơi nào ở vùng Ấn
Độ sánh bằng” [95, tr.42]. Vào cuối thế kỉ XVIII trở đi, tàu buôn phương Tây
đã tìm đến Sài Gòn để thu mua gạo, cau, trầu, thuốc lá, quế, lụa, vải…nhất là
đường, vì đường đem lại cho giới thương nhân nước ngoài một món lợi nhuận
cao.
Như vậy, trong hai thế kỉ XVII- XVIII thông qua hai cảng thị Cù Lao Phố
và Sài Gòn – Bến Nghé, Đông Nam Bộ đã trở thành một trong những nơi thông
136
thương của Đàng Trong với thế giới, nơi đây đã góp phần làm cho Đàng Trong
hội nhập vào con đường giao thương quốc tế thời bấy giờ. Vì thế chúng ta có thể
nói rằng: Đông Nam Bộ là là cửa ngõ thông thương của Nam Bộ, của Đàng
Trong với nước ngoài trong thế kỉ XVII – XVIII.
3.5. Đông Nam Bộ là nơi hội nhập của cộng đồng các dân tộc trên vùng đất
phương Nam
Do đặc điểm địa lý và thiên nhiên thuận lợi nên từ nhiều thế kỉ trước Đông
Nam Bộ được xem là mảnh đất lành, thu hút nhiều dân tộc đến cư trú. Ngay từ
những ngày đầu mới khai phá nơi đây đã là nơi tụ hội cư dân ở nhiều địa
phương trong cả nước, bao gồm nhiều tộc người, nhiều nhóm cư dân, nhiều tín
ngưỡng và tôn giáo khác nhau, nhiều sắc thái văn hóa…đến từ nhiều vùng miền
trong cả nước, thậm chí từ nhiều nước. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh
Hoài Đức viết: “Vùng Gia Định nước Việt ta đất rộng, thực vật phong phú,
không lo đói rét… do người từ bốn phương tụ lại nên mỗi nhà đều có riêng
phong tục” [25, tr.179-180]. Người đến vùng đất mới này trong buổi ban đầu ấy
gồm nhiều thành phần như: những người có vật lực, nông dân nghèo đói vì
chiến tranh, vì mất mùa, mất đất, thợ thủ công bị phá sản, thương nhân tìm nơi
buôn bán, binh lính đồn trú, binh lính đào ngũ, tội phạm trốn tránh truy nã, tù
nhân bị lưu đày, thành phần bất mãn với chế độ phong kiến và cả những kẻ du
đảng… Nói chung các “tứ chiếng” của Đông Nam Bộ có ngoại diên rất rộng
[14, tr.255-256].
Một tứ chiếng khác nữa của Đông Nam Bộ mà Trịnh Hoài Đức gọi là “ tứ
phương tạp xứ”, đó là không chỉ người Việt quy tụ mà còn có người từ nhiều
nước khác đến. Về mặt địa lý, “Đông Nam Bộ nằm trên một ngã tư quốc tế, các
con đường hàng hải thế giới đều không xa, nếu lấy bán kính khoảng 2500km, thì
Đông Nam Bộ trở thành trung tâm điểm của khu vực Đông Nam Á” [14, tr.256].
Trong Gia Định thành thông chí,Trịnh Hoài Đức cho biết: Gia Định ở về phía
nam nước Việt, khi mới khai thác, thì có lưu dân nước ta cùng người Đường (tục
137
gọi người nhà Đại Thanh là Đường nhân, cũng như người dân tộc tứ di gọi
người Trung Quốc là Hán nhân, người Hán đây không phải là Lưu Hán, người
Đường đây không phải là Lý Đường. Sách Quảng Đông tự nhận mình là người
Đường của đời Đường Ngu chẳng qua chỉ là lời quá khoa trương). Người Tây
Dương (các nước như Phú Lãng Sa, Hồng Mao, Mã Cao, đều gọi là Tây
Dương) Cao Miên, Đồ Bà (người Sơn man, ở núi đảo theo đạo Bái Nhật (lạy
mặt trời) ở trong 36 cửa bể Mãn Lạt Gia, đều gọi là Đồ Bà), những người các
nước ấy đến sinh sống chung nhau rất đông mà y phục đồ dùng đều theo kiểu
của dân tộc họ [25, tr.181]. Chính vì thế mà hai huyện Bình Dương, Tân Long
dân cư trù mật, chợ phố chen chúc liền nhau, rường nhà máy ngói liền nhau.
Nhiều người thạo tiếng nói Phước Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Nam Hải,
Tây Dương và Xiêm La. Tàu hải dương đến buôn bán qua lại cột buồm nối liền
nhau, hàng hóa tấp nập, trở thành nơi đô hội to lớn của Gia Định, cả nước
không đâu sánh bằng [14, tr.257], [25, tr.188].
Hơn nửa thế kỉ trước khi Gia Định hình thành, lưu dân người Việt đến đây
không phải sống đơn độc một mình mặc dù nơi đây là một vùng “toàn rừng rậm
mấy nghìn dặm”. Vùng rừng rậm hoang vu này, là địa bàn cư trú của nhiều
nhóm dân tộc thiểu số mà người Việt gọi chung là người “Man” theo tiếng Hán
Việt hay nôm na là người “Mọi.” Đó là các dân tộc thiểu số người Mạ, người
Stiêng, người Mnông, Người Cơho, người Churu…Trong các nhóm này, quan
trọng hơn hết là người Mạ ở vùng Mô Xoài - Bà Rịa, người Stiêng ở vùng Biên
Hòa, Bình Dương.
Như trên đã nói, người Khơme có mặt trên vùng đất Nam Bộ từ thế kỉ
VII, sau khi Chân Lạp tiến chiếm Phù Nam, nhưng số lượng không nhiều, chỉ là
những nhóm nhỏ. Đến thế kỉ XIII, mật độ dân cư Campuchia di cư xuống ngày
càng dày đặc do sự xâm lược của Xiêm La, họ sống từng nhóm nhỏ, rải rác trên
các giồng cao nhưng tập trung chủ yếu ở Tây Nam Bộ và một số ít ở Đông Nam
Bộ (vùng núi Bà Đen). Hoạt động kinh tế chủ yếu của họ là nông nghiệp, tôn
138
giáo chính là Phật giáo Theravada nhưng vẫn còn mang yếu tố tàn dư của Bà La
Môn giáo và lớp tín ngưỡng truyền thống [42, tr.106, 303].
Trong số những người nước ngoài đến Đông Nam Bộ sớm nhất và đông
nhất, phải kể đến người Trung Hoa mà con cháu của họ hôm nay đã hội nhập
vào cộng đồng người Việt, trở thành dân tộc Hoa và là công dân Việt Nam. Đó
là những người ở duyên hải phía nam Trung Hoa, họ bao gồm nông dân, thợ thủ
công, thương nhân, quan lại, binh lính…Họ đến Đông Nam Bộ với nhiều lý do,
mà chủ yếu là tìm đất sống, vì không chịu thuần phục chính quyền đương thời.
Những di dân người Hoa không chỉ góp phần tích cực cho sự hình thành và phát
triển Gia Định xưa mà còn góp phần vào việc định hình “người Đông Nam Bộ”
[14, tr.257]. Người Hoa mỗi khi tới đâu, theo thói quen thường lập thành những
bang khép kín như “những quốc gia trong một quốc gia” ở nước đến trú ngụ.
Song khi Nguyễn Hữu Cảnh đưa lưu dân Việt Nam vào khuôn khổ chung, thì
đồng thời cũng đặt cộng đồng người Hoa vào khung cảnh xã thôn của ta: “từ đó
con cháu người Tàu ở nơi trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn
thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch” [25, tr.112]. Ta biết rằng
ở bên Trung Quốc chỉ có lý chứ không có xã, và lý thì tổ chức khác xa với xã
thôn của người Việt. Người Hoa được ghép vào một xã, một cơ cấu đặc thù của
người Việt, rồi sống theo pháp chế của chính quyền người Việt, chỉ sang đến đời
thứ hai là đã trở thành dân Việt. Nhiều người Minh Hương (như Trịnh Hoài
Đức, Lê Quang Định hay Phan Thanh Giản) đã được học hành, thi cử, làm quan
tại triều mà không hề có sự phân biệt đối xử [22, tr.60].
Ngoài các cư dân trên, vùng Đông Nam Bộ còn có cư dân người Chăm.
Đây là một bộ phận cư dân tách ra từ cộng đồng tộc gốc của họ ở Ninh Thuận,
Bình Thuận do những biến động lịch sử của vương quốc Champa, một số người
đã di cư đến Campuchia. Theo tài liệu lịch sử thì vào giữa thế kỉ XVIII, Chân
Lạp với triều vua Nặc Nguyên (1750 – 1757) đã thông sứ với chúa Trịnh Doanh
để lập mưu đánh Đàng Trong, điều này khiến chúa Võ Vương phải cử binh sang
139
đánh. Quân chúa Nguyễn thắng lợi, Nguyễn Cư Trinh cho chiêu dụ người Chăm
ở Chân Lạp để thêm thanh thế, còn người Chăm thì sẵn căm phẫn vua Chân Lạp
ngược đãi nên đã theo về với chúa Nguyễn. Năm 1755 thống suất Thiện Chánh
đem quân về Mỹ Tho và cho nhóm người Chăm này về đóng ở Bình Thạnh. Dọc
đường quân Chăm bị quân Chân Lạp đánh úp phải xếp lại làm lũy để chống đỡ
và cấp báo, quân của Thiện Chánh do địa thế sình lầy, hiểm trở không tiếp ứng
kịp, Nguyễn Cư Trinh phải đem quân đến cứu, giải nguy cho hơn 5000 người
Chăm, sau đó đưa về đóng ở chân núi Bà Đen (Tây Ninh). Sự kiện này được Lê
Quý Đôn ghi lại như sau: Ất Dậu, năm thứ 16, Thiện Chính Hầu rút về Mỹ Tho
rồi sai lính Côn Man ở Thuận Thành đem xe cộ từ xứ Kha- Khâm (vùng Cà Tum
tỉnh Tây Ninh) xuống đóng ở Bình Thanh (tỉnh Long An). Đinh tráng hơn một
vạn người vừa đến xứ Vô tà ân thì bị cả vạn người Cao Miên đến đuổi. Bọn Côn
Man đi đường mỏi mệt, bèn đem hết xe cộ lại làm lũy để chống cự. Nguyễn Cư
Trinh tự đốc suất năm đội quân đi gấp rút đến cứu viện bọn Côn Man. Người
nước Cao Miên không dám đánh. (Nguyễn Cư Trinh) bèn đón hơn ba vạn trai
gái người Côn Man đến trú ngụ dưới chân núi Chiêng – bà – đinh (núi Bà Đen)
[23, tr.88].
Như vậy, trên vùng đất Đông Nam Bộ buổi đầu, các cư dân Việt đã cùng
chung sống xen kẽ với các dân tộc ít người, họ đã có sự hòa hợp, thân ái và chia
sẻ với nhau, họ đã cùng nhau chung lưng đấu cật, đẩy mạnh quá trình khai phá
vùng Đông Nam Bộ này. Mặc dù dân cư ở đây là dân tứ chiếng, nhưng chính
nhu cầu của cuộc sống tại vùng đất mới mà các cộng đồng người ở đây đã gắn
bó mật thiết với nhau, chấp nhận cả những dị biệt về văn hóa, từ đó xây dựng
một bản sắc văn hóa Đông Nam Bộ. Diễn biến ấy như một quá trình thích nghi
với môi trường, quá trình con người học hỏi, hình thành thói quen, xây dựng lối
sống hòa hợp với nhau [14, tr.251].
Trong quá trình đó, mỗi dân tộc có mặt ở Đông Nam Bộ đều có một sắc
thái văn hóa riêng, và đều cống hiến vào nền văn hóa chung phong phú và đa
140
dạng của khu vực. Sự hỗn hợp dân cư thuộc nhiều nguồn gốc địa phương, nhiều
tôn giáo, nhiều tín ngưỡng khác biệt, nhiều trình độ phát triển về mặt xã hội
trong nhiều thế kỉ đã không hề là yếu tố cản trở sự đoàn kết gắn bó giữa các tộc
người cùng chung sống trên địa bàn Đông Nam Bộ. Có thể nói, văn hóa vùng
Đông Nam Bộ là một pha trộn đặc biệt giữa nhiều nét văn hóa cổ xưa cùng với
văn hóa bản xứ của người Việt. Ngoài ảnh hưởng lớn nhất của văn hóa Trung
Hoa, một phần của Ấn Độ, văn hóa của người Việt, nơi đây còn chịu ảnh hưởng
của văn hóa riêng biệt của một bộ phận dân tộc thiểu số là người bản xứ.
Sự giao tiếp giữa các tộc người và sự tiếp cận những hệ thống văn hóa
khác nhau ở đây đã tạo nên những giao thoa về văn hóa và tiếng nói. Tiếng Việt
dần trở thành tiếng phổ thông của các dân tộc khác. Hiện tượng song ngữ hay đa
ngữ là bình thường ở những vùng cộng cư Việt – Khơme, Việt – Chăm, Việt –
Khơme – Hoa. Trong từ ngữ các dân tộc ít người, ngày càng chen nhiều từ tiếng
Việt. Ngược lại, tiếng Việt cũng ngày càng phong phú trước nhu cầu phản ánh
thiên nhiên và hoạt động thực tiễn mới mẻ, trước sự quy tụ nhiều dạng tiếng nói
của những người từ nhiều địa phương khác nhau tới và trước hiện tượng vay
mượn, đóng góp tiếng của dân tộc ít người vào tiếng Việt [8, tr.40]. Trong Gia
Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cũng có đề cập đến vấn đề này “Người ở
đây nói tiếng địa phương thường hay pha tiếng Tàu, tiếng Cao Miên, người
nghe tập quen lần rồi tự biết, mà không để ý phân biệt chỗ khác lạ được một
cách rõ ràng” [25, tr.186]. Trong ngôn ngữ ở miền Nam ngày nay, vẫn còn
nhiều từ có nguồn gốc từ tiếng Mạ như: cẩm lai, lòng tong (cá), đau xóc, chết
giấc, cà nanh, dầu long, qua, bậu... Địa danh Đồng Nai cũng bắt nguồn từ tiếng
Mạ “Đạ Đờng” (Sông Đồng) nơi gần nguồn từ cao nguyên Lâm Đồng chảy
xuống vùng đồng bằng với cánh đồng nhiều nai ở gần Biên Hòa (Hố Nai) [133]
hay một số từ vay mượn từ dân tộc Khơme, Hoa trong quá trình giao tiếp như
“cà rá, cà ràng, cà ròn, xà rong, lục, thốt nốt, len trâu, bò hóc, đi ênh…; chế,
hia, tía, số dách, chào quẩy, xập xám, bạc xỉu, miệt, mai, báo…” [110, tr.21]
141
“bò bía, ghe, há cảo, sủi cảo, hên xui, ké, lẩu, tiệm, thối, xào, xúi, xỉu, xuồng”
[69, tr.343 - 347].
Không chỉ có sự giao thoa, tiếp biến về ngôn ngữ, cư dân các dân tộc ở
đây còn có sự giao thoa về nông cụ, về trang phục, về tín ngưỡng…ví dụ như
người Việt đã tiếp thu và cải tiến những nông cụ của người Khơme như chiếc
“phảng”, chiếc nóp, cái cà ràng…; chiếc áo bà ba trở nên phổ biến đối với người
Việt và các dân tộc khác. Cả người Việt, người Hoa, người Khơme đều ăn tết
Nguyên Đán và tết Chol Chơnam – Thơmây. Truyện Thạch Sanh – Lý Thông
của người Việt và chuyện Chao Sanh – Chao Thông của người Khơme, chuyện
Tấm Cám của người Việt và chuyện Niêng Môrơnắc Mêđa của người Khơme
đều có cùng một nội dung. Những nhân vật Đơn Hùng Tín, La Thông, Tiết
Nhơn Quí trong các tuồng Tàu, truyện Tàu cũng là những nhân vật quen thuộc
trong các tuồng cải lương, nói thơ Nam Bộ …
Không kể hết sự giao lưu văn hóa Việt với văn hóa các dân tộc khác trong
vùng trên tất cả các lĩnh vực: cái ăn, cái làm, cái mặc, cái ở, việc đi lại, học
hành, vui chơi, giải trí, giữ gìn sức khỏe…Trong sự giao lưu đó, văn hóa Việt
trong vùng được mở rộng, kế thừa, chọn lọc và phát triển.
Tiểu kết chương 3
Trong buổi đầu mở đất phương Nam, do có vị trí địa lý và điều kiện tự
nhiên vô cùng thuận lợi nên Đông Nam Bộ đã trở thành nơi dừng chân đầu tiên
của lưu dân Việt. Để có thể tồn tại trên vùng đất hoang du đầy thú dữ này, các
lưu dân Việt thường chọn những vùng đất cao ven núi, ven sông, ven biển, các
nơi đóng quân, trung tâm hành chính để định cư, vì những nơi này đảm bảo
những điều kiện sinh hoạt cho con người cũng như thuận tiện cho việc khai phá.
Cư dân Việt vào Đông Nam Bộ ngày một đông, sau một thời gian định cư ở đây,
họ bắt đầu chuyển lên phía bắc hoặc xuống phía tây, khi thấy những nơi đó có
điều kiện làm ăn dễ dàng hơn. Như thế, có thể nói: Đông Nam Bộ lúc này không
142
chỉ là nơi dừng chân đầu tiên mà còn là nơi trung chuyển lưu dân trong quá trình
mở đất phương Nam.
Không chỉ biết khai khẩn đất hoang làm nông nghiệp, khai thác lâm hải
sản, làm các nghề thủ công…các cư dân trên vùng đất Đông Nam Bộ vào thế kỉ
XVII – XVIII còn biết buôn bán, làm thương nghiệp. Dân số ngày một đông thì
thương nghiệp cũng ngày càng phát triển, các chợ mọc lên rất nhiều ở cả Đồng
Nai lẫn Sài Gòn, nhưng quan trọng hơn cả là cảng thị Cù Lao Phố và Sài Gòn –
Gia Định. Những nơi này không chỉ buôn bán với các khách hàng trong nước,
mà còn là nơi trao đổi hàng hóa với thương nhân nước ngoài. Hàng hóa trong cả
khu vực tụ họp về hai nơi này, rồi sau đó được xuất đi các nước và ngược lại,
hàng hóa của các nước được nhập vào đây, sau đó được bán tại đây hoặc mang
đi bán ở các nơi trong nước. Như vậy, Đông Nam Bộ trong giai đoạn này còn có
vai trò là cửa ngõ thông thương của Nam Bộ và cả Đàng Trong đối với nước
ngoài.
Trong buổi đầu khai phá, các lưu dân Việt đã cùng với những người dân
bản địa, người Khơme, người Hoa và người Chăm sinh sống hòa hợp, thân ái,
chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau, dần dần hình thành một cộng đồng xã hội ổn định.
Trong quá sinh sống đó, các tộc người ở đây đã góp phần vào việc định hình
một nền văn hóa chung cho cả khu vực, cũng như tạo ra sự giao thoa về tiếng
nói và văn hóa, làm cho văn hóa Việt ngày càng phong phú và phát triển. Với sự
cần cù lao động, bằng mồ hôi và nước mắt của mình cộng đồng xã hội mới hình
thành ấy đã từng bước biến vùng đất hoang vu, đầy thú dữ thành những vùng
nông nghiệp trù phú, làng xóm, thị tứ, thị trấn sầm uất làm cơ sở để chúa
Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, lập nên phủ Gia
Định. Từ đó, chính thức xác lập và thực thi chủ quyền của chúa Nguyễn đối với
vùng đất Đông Nam Bộ cả trên lãnh thổ lẫn lãnh hải. Như vậy, chúng ta có thể
khẳng định: ngoài những vai trò như trên đã nêu, Đông Nam Bộ còn là nơi hội
143
nhập của cộng đồng các dân tộc và cũng là điểm xuất phát của việc xác lập chủ
quyền lãnh thổ và lãnh hải của Đại Việt trên vùng đất phương Nam.
144
KẾT LUẬN
Trong tiến trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc, người Việt Nam không những đã kiên cường bất khuất đấu tranh chống
ngoại xâm, giữ yên bờ cõi, anh dũng chống chọi với thiên tai, cần cù, thông
minh trong lao động sản xuất, xây dựng, phát triển đất nước mà còn hiên ngang
tiến về phương Nam, khai hoang, mở mang bờ cõi. Hơn 300 năm, người Việt đã
biến vùng đất Nam Bộ từ chỗ hoang vắng, sình lầy trở thành một vùng đất đai
giàu có, trù phú trong đó Đông Nam Bộ nổi lên là một vùng kinh tế phát triển
năng động, ưu trội.
Đông Nam Bộ là vùng đất có địa hình tương đối bằng phẳng với vùng đồi
núi có nhiều khoáng sản, lâm sản quý; vùng đồng bằng tương đối màu mỡ phù
sa với các con sông lớn như sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Bé, sông Vàm
Cỏ…; dải đất ven biển và vùng biển là một ngư trường rộng lớn với nhiều hải
sản phong phú. Hơn nữa, thời tiết khí hậu ở đây rất ôn hòa một năm có hai mùa
rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, vùng này lại nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa
nên khí hậu mang tính chất cận xích đạo, ít bị thiên tai. Tất cả những điều này là
những điều kiện hết sức thuận lợi cho cuộc sống của con người cũng sản xuất
nông nghiệp.
Vùng Đông Nam Bộ thời xa xưa đã từng có dấu vết con người sinh sống,
thông qua các di chỉ khảo cổ học các nhà khoa học cho rằng những cư dân bản
địa này là cư dân thuộc dòng Austronesian - Nam Đảo, họ là tổ tiên trực tiếp của
người Mạ, Chơro, Stiêng ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên ngày nay.
Từ đầu công nguyên, vùng đất Đông Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói
chung thuộc về vương quốc Phù Nam và sau đó là vương quốc Chân Lạp. Chủ
nhân Phù Nam là người Malayo – Polynesian (Mã Lai- Đa Đảo). Từ thế kỉ III
đến thế kỉ VI, vương quốc Phù Nam trở thành đế chế hùng mạnh tiến hành chinh
phục và thu phục được nhiều thuộc quốc. Nhưng sau đó, Phù Nam trở nên suy
yếu do sự thay đổi về khí hậu cũng như sự chuyển biến trong các quan hệ bạn
145
hàng trên con đường thương mại. Lúc đó, một thuộc quốc của Phù Nam là Chân
Lạp (chủ nhân của Chân Lạp là người Khơme thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm Môn
– Khơme) đã đem quân tiến đánh Phù Nam và đến năm 640, Chân Lạp chiếm
hoàn toàn lãnh thổ của vương quốc Phù Nam và sáp nhập vùng đất này vào lãnh
thổ của mình. Tuy nhiên, do tác động của đợt biển tiến quy mô cục bộ Holocene
IV; do người Chân Lạp có thói quen sinh sống trên vùng đất cao; do chính
quyền Chân Lạp chưa đủ sức để khai phá và quản lý vùng đất ngập nước của
Phù Nam cũ. Hơn nữa, người Chân Lạp không có thế mạnh phát triển thương
nghiệp, hướng về biển như Phù Nam, hoạt động kinh tế chủ yếu của những cư
dân này là làm nông nghiệp trên vùng đất cao…Tất cả những điều đó đã làm cho
vùng đất thuộc vương quốc Phù Nam trở nên hoang hóa. Khi những cư dân Việt
đầu tiên đến vùng đất này (cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII), thì dấu chân của
những người Khơme trên vùng đất Đông Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói
chung còn rất thưa thớt, chỉ có một số ít người Khơme sinh sống biệt lập một số
khu vực cao ráo, nhỏ lẻ; toàn vùng đất Nam Bộ lúc bấy giờ rất hoang vắng,
quạnh hiu, đầy rẫy thú dữ.
Quá trình mở đất Đông Nam Bộ vào thế kỉ XVII, dưới thời các chúa
Nguyễn diễn ra trong bối cảnh trong nước và khu vực có nhiều yếu tố thuận lợi
nhưng cũng có nhiều biến động phức tạp.
Nhìn về phía Nam là một định hướng phát triển mang tính chất truyền
thống của nhiều vương triều Đại Việt, đó là một qúa trình liên tục của nhiều
triều đại phong kiến. Tuy nhiên, đến thời chúa Nguyễn, do sức ép của chiến
tranh Trịnh – Nguyễn, nó đã trở thành một nhu cầu bức thiết, sống còn và các
chúa Nguyễn đã tích cực thực hiện công cuộc mở đất này trong suốt thời gian
tồn tại của mình.
Mặt khác, tình hình khu vực chuyển biến theo chiều hướng có lợi cho
công cuộc mở đất Đông Nam Bộ của chúa Nguyễn, đó là sự suy yếu của Chân
Lạp, sự chiếm ưu thế của Đàng Trong trong mối quan hệ giữa Đàng Trong –
146
Chân Lạp và Xiêm La, sự tác động của luồng mậu dịch thương mại Biển Đông
càng làm cho quá trình mở đất Đông Nam Bộ diễn ra nhanh chóng và có hiệu
quả hơn.
Cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII, lưu dân người Việt đã có mặt ở vùng
Đông Nam Bộ, họ đã lập ra những làng mạc của người Việt đầu tiên trên đất
Chân Lạp, tạo cơ sở để đón những đợt di dân tiếp theo.
Làn sóng di dân của người Việt vào Đông Nam Bộ càng mạnh mẽ, nhất là
sau cuộc hôn nhân của vua Chân Lạp Chey Chetta II và công nương Ngọc Vạn.
Cuộc hôn nhân này đã giúp cho chúa Nguyễn thắt chặt quan hệ và tăng cường
ảnh của mình lên Chân Lạp. Việc mở trạm thu thuế ở Sài Gòn và đóng đồn trên
đất Chân Lạp vào năm 1623, là sự kiện kế tiếp có ý nghĩa trong công cuộc mở
đất Đông Nam Bộ. Các sở thuế này như chỗ đứng chân thứ hai của người Việt
tạo nên đầu cầu vững chắc cho chương trình di dân người Việt vào vùng đất
Đông Nam Bộ. Hai cuộc cuộc thiệp quân sự của chúa Nguyễn vào đất Chân Lạp
trong những năm 1658 và 1674 là những sự kiện tiếp theo có vai trò quan trọng
đối với quá trình mở đất Đông Nam Bộ. Với hai sự kiện này, chúa Nguyễn đã
dần dần trở thành lực lượng thiết lập trật tự ở Chân Lạp mỗi khi có nội biến.
Điều này có nghĩa: chúa Nguyễn có thể can thiệp sâu sắc vào triều chính Chân
Lạp nhưng điều đó đã không xảy ra, chúa Nguyễn chỉ yêu cầu Chân Lạp triều
cống và tạo điều kiện cho lưu dân người Việt và sau này còn có lực lượng người
Hoa tị nạn vào làm ăn sinh sống ở vùng đất của Chân Lạp.
Mùa xuân năm 1698, trên cơ sở lưu dân Việt ngày càng đông đúc, họ có
mặt trên khắp vùng Đông Nam Bộ. Bên cạnh đó là hệ thống chính quyền bán
chính thức của chúa Nguyễn đã được thiết lập ở đây như 2 trạm thuế thương
chính, đồn binh Tân Mĩ. Chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào
kinh lược xứ Đồng Nai. Nguyễn Hữu Cảnh tiến hành chia đất Đông Phố, lấy xứ
Đồng Nai làm huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày
nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định
147
ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội
thuyền thủy. Như vậy, đến đây công cuộc mở đất Đông Nam Bộ đã được hoàn
thành, chúa Nguyễn đã chính thức xác lập chủ quyền của mình trên vùng đất
này.
Trong công cuộc khai mở vùng Đông Nam Bộ, công lao to lớn nhất thuộc
về các cư dân Việt, Hoa, Khơme và các tộc người bản địa, họ đóng vai trò chủ
đạo. Bên cạnh đó không thể không nói đến công trạng của những vị công thần
khai quốc như công chúa Ngọc Vạn, tổng binh Trần Thượng Xuyên, thống suất
Nguyễn Hữu Cảnh và đặc biệt là tầm nhìn chiến lược cũng như tài năng của các
chúa Nguyễn như: Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Tần,
Nguyễn Phúc Trăn, Nguyễn Phúc Khoát…trong việc đưa ra các biện pháp để
Đại Việt có được vùng đất Đông Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung một
cách hòa bình, hợp pháp.
Mặc dù, công cuộc mở đất Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ diễn ra đồng
thời trong cùng một thời gian, nhưng biện pháp thì hoàn toàn khác nhau. Quá
trình mở đất Nam Trung Bộ, chính quyền chúa Nguyễn chủ yếu dùng sức mạnh
quân sự. Sau những thắng lợi quân sự, các chúa Nguyễn chiếm được các vùng
đất của Champa, và sau đó tiến hành đưa dân vào sinh sống trên các vùng đất
vừa chiếm được. Trong khi đó, chính sách ngoại giao được các chúa Nguyễn
chú trọng thực hiện trong công cuộc mở đất Đông Nam Bộ. Bằng những chính
sách ngoại giao khôn khéo, mềm dẻo, chính quyền các chúa Nguyễn đã tìm cách
can thiệp sâu vào nội bộ chính quyền Chân Lạp, tạo mọi điều kiện để cư dân
người Việt được vào sinh sống, khai phá trên vùng đất Đông Nam Bộ một cách
hợp pháp, không phải gặp sự ngăn chặn, chống đối nào.
Trong tiến trình mở đất phương Nam (thế kỉ XVII – XVIII), vùng đất
Đông Nam Bộ có vai trò hết sức quan trọng. Do có vị trí địa lý và điều kiện tự
nhiên hết sức thuận lợi nên Đông Nam Bộ đã trở thành nơi dừng chân đầu tiên
của lưu dân người Việt. Vùng đất đầu tiên mà người Việt dừng chân là xứ Mô
148
Xoài (Bà Rịa – Vũng Tàu), từ đây lưu dân người Việt lại theo đường thủy và cả
đường bộ ngược sông Đồng Nai tiến vào Đồng Nai, Biên Hòa, Sài Gòn. Khi số
người Việt vào Nam ngày càng đông thì họ ngược sông Sài Gòn lên Bình
Dương, Củ Chi, Tây Ninh và men theo sông Vàm Cỏ mở mang vùng Chợ Lớn,
Tân An. Đến những năm cuối thế kỷ XVII, Đông Nam Bộ trở thành tiền trạm để
di dân miền ngoài vào nghỉ chân, dò hỏi tình hình để quyết định đi lên phía bắc
hoặc xuôi xuống miền tây... Như vậy, có thể nói: Đông Nam Bộ là nơi trung
chuyển di dân trên con đường khai phá vùng đất Nam Bộ.
Vào thế kỉ XVII – XVIII, Đông Nam Bộ còn là điểm xuất phát của việc
xác lập chủ quyền trên lãnh thổ và lãnh hải của Đại Việt trên vùng đất phương
Nam. Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ bắt đầu bằng các cuộc di dân nhỏ lẻ của
các lưu dân người Việt, làn sóng di dân vào vùng đất này ngày càng mạnh mẽ
nhất là sau cuộc hôn nhân của Chey Chetta II với công chúa Ngọc Vạn. Cuộc
hôn nhân này được xem như tấm “hộ chiếu” để người Việt di cư vào Đông Nam
Bộ một cách hợp pháp. Tiếp theo là việc lập hai trạm thu thuế thương chính ở
Prey Kor và đưa quân đến đóng ở đây để bảo vệ lưu dân người Việt cũng như hỗ
trợ chính quyền Chân Lạp. Đến đây, chúa Nguyễn xem như đã thiết lập được
một chính quyền bán chính thức của mình trên vùng đất Đông Nam Bộ. Với việc
sắp đặt nền hành chánh của Nguyễn Hữu Cảnh tại vùng đất Đông Nam Bộ vào
năm 1698, khi ông được lệnh của chúa Nguyễn vào nam kinh lược xứ Đồng Nai
đã chính thức đánh dấu cột mốc quan trọng trong quá trình xác lập và thực thi
chủ quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất Đông Nam Bộ. Chúa Nguyễn không
chỉ xác lập chủ quyền trên đất liền, mà còn xác lập chủ quyền trên biển, chủ yếu
là vùng quần đảo Côn Đảo và thậm chí là quần đảo Trường Sa (vì từ năm 1976
đến 1982 quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Đồng Nai).
Cuối thế kỉ XVII, trên vùng đất Đông Nam Bộ còn xuất hiện thêm một
lớp cư dân mới – cư dân người Hoa. Với tư duy thương nghiệp, những cư dân
người Hoa này đã xây dựng nên Cù Lao Phố và từng bước phát triển nơi đây
149
thành trung tâm kinh tế của vùng cũng như là cửa ngõ thông thương của cả
Đàng Trong với nước ngoài. Trên cơ sở hai trạm thu thuế thương chính từ năm
1623, cảng thị Sài Gòn – Gia Định cũng phát triển mạnh mẽ, cạnh tranh với các
cảng thị khác trong vùng và đặc biệt sau khi Cù Lao Phố sụp đổ thì Sài Gòn –
Gia Định trở thành trung tâm kinh tế duy nhất của Nam Bộ giao thương với
nước ngoài. Như vậy, trong thế kỉ XVII – XVIII, Đông Nam Bộ còn có vai trò là
cửa ngõ thông thương của Nam Bộ, của Đàng Trong với nước ngoài.
Trên vùng đất Đông Nam Bộ buổi đầu, các lưu dân người Việt đã chung
sống xen kẽ với các dân tộc ít người. Để có thể tồn tại trong một môi trường
thiên nhiên đầy nguy hiểm, các tộc người ở đây đã sống hòa hợp, chia sẻ kinh
nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau. Việc hòa hợp này đã đưa đến hình thành một cộng
đồng xã hội ổn định, bền vững, đủ sức chinh phục vùng đất hoang vu, đầy thú
dữ này.
Trong qúa trình hình thành cộng đồng xã hội ổn định đó, mỗi dân tộc ở
đây đều cống hiến những nét đặc sắc của dân tộc mình vào nền văn hóa chung
nơi đây tạo nên một nền văn hóa hết sức phong phú và đa dạng. Sự giao tiếp của
các tộc người đã tạo nên sự giao thoa về tiếng nói và văn hóa. Tiếng Việt đã trở
thành tiếng phổ thông của các dân tộc khác. Trong từ ngữ của các dân tộc ít
người ngày càng chen nhiều tiếng Việt, ngược lại, trong tiếng Việt ngày càng
thêm phong phú do sự vay mượn một số từ trong ngôn ngữ của các dân tộc khác
như Hoa, Mạ, Khơme…Không chỉ có sự giao thoa, tiếp biến trong ngôn ngữ mà
còn có sự giao thoa giữa các dân tộc về nông cụ, tín ngưỡng, trang phục, ẩm
thực…Tất cả những điều đó, làm cho văn hóa Việt ngày càng phong phú, đa
dạng và phát triển.
Hiện nay, Đông Nam Bộ là vùng kinh tế phát triển năng động nhất cả
nước, tốc độ tăng trưởng luôn cao liên tục trong nhiều năm, đời sống vật chất và
tinh thần của người dân trong vùng không ngừng được nâng lên. Có được điều
này, không chỉ là do sự năng động, sáng tạo của Đảng; của các cấp chính quyền
150
từ trung ương đến địa phương; của người dân Đông Nam Bộ trong tình hình
mới, mà còn do sự kế thừa từ trong lịch sử truyền thống năng động, nhạy bén,
sáng tạo của buổi đầu mở đất mà cụ thể là vai trò quan trọng của “Đông Nam Bộ
trong tiến trình mở đất phương Nam (thế kỉ XVII – XVIII)”./.
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2002), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX, Nxb
Văn Hóa Thông tin.
2. Đào Duy Anh (2006), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
3. Nguyễn Thị Kim Ánh (2005), Lịch sử - văn hóa vùng đất Bình Dương từ
đấu thế kỉ XVII – giữa thế kỉ XIX, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Việt Nam,
Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh.
4. John Barrow (2011), Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792 – 1793)
(Nguyễn Thừa Hỷ dịch), Nxb Thế giới.
5. Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.
6. Mai Sông Bé (2009), Đồng Nai từ mở cõi đến mở cửa, Nxb Đồng Nai.
7. Phan Xuân Biên (2004), Miền Đông Nam Bộ con người và văn hóa, Nxb Đại
Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân
đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học Xã hội.
9. Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
10. Ban chỉ đạo lễ kỉ niệm 300 năm vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai (1998), Biên
Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nxb Đồng Nai.
11. Báo Đại Đoàn Kết (2014), Tổ Quốc Nơi Đảo Xa, Nxb Văn Hóa – Văn Nghệ.
12. Báo Thanh Niên, số 107(6690), ngày 17 tháng 4 năm 2014.
13. Nguyễn Quyết Chiến (2012), “Mô Xoài trong quá trình xác lập lãnh thổ
Đàng Trong”, “Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay”.
14. Doãn Chính (2013), Lối sống và tư duy của cộng đồng người Việt vùng
Đông Nam Bộ trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
152
15. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), Nxb Khoa
học Xã hội.
16. Hồ Sơn Đài, Hoàng Sa - Trường Sa biển đảo quê hương, Nxb Đồng Nai.
17. Trần Bạch Đằng (1991), Địa chí tỉnh Sông Bé, Nxb Tổng hợp Sông Bé.
18. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn tỉnh Biên Hòa,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
19. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn tỉnh Gia Định,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Nguyễn Đình Đầu (1994), Tổng kết Nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ Lục Tỉnh,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Đình Đầu (2013), Việt Nam quốc hiệu và cương vực qua các thời
đại, Nxb Trẻ.
22. Nguyễn Đình Đầu (1999), Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn
hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh, (in lần thứ ba), Nxb Trẻ.
23. Lê Quý Đôn (2008), Lê Quý Đôn tuyển tập (tập 2), Phủ Biên tạp lục (phần
1), (Nguyễn Khắc Thuần dịch, hiệu đính và chú thích), Nxb Giáo dục.
24. Lê Quý Đôn (2008), Lê Quý Đôn tuyển tập (tập 3), Phủ Biên tạp lục (Phần
2), (Nguyễn Khắc Thuần dịch, hiệu đính và chú thích), Nxb Giáo dục.
25. Trịnh Hoài Đức (2006), Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và
chú giải, Huỳnh Văn Tới hiệu đính, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
26. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường ĐH KHXH&NV –
UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2012), Côn Đảo 150 năm đấu tranh xây
dựng và phát triển (1862 – 2012), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Chính
trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
27. Đại học Quốc gia Tp. HCM, Trường Đại học KHXH &NV, Trần Thị Mai
(chủ nhiệm đề tài) (2008), Vai trò của cộng đồng người Việt trong công
cuộc khai phá đồng bằng sông Cửu Long (thế kỉ XVII – XIX).
153
28. Vũ Minh Giang (2008), Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
29. Trần Văn Giàu (1987), Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh (tập 1), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
30. Nguyễn Thị Hậu (2009), “Nguyễn Hoàng và bước đầu tiến vào vùng Nam
Trung Bộ”, Nam Bộ Đất và Người (tập VII), trang 159 – 179.
31. Như hiên Nguyễn Ngọc Hiền (1997), Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh với
công cuộc khai sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỉ XVII, Nxb Văn học.
32. Nguyễn Hữu Hiếu (2003), Các Chúa Nguyễn và các giai thoại mở đất
phương Nam, Nxb Trẻ.
33. Nguyễn Hữu Hiếu (2012), “Từ cuộc hôn nhân Ngọc Vạn – Chêy Chetta II
đến sự kiện Mô Xoài”, “Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa - Vũng Tàu ngày
nay”, Kỷ yếu hội thảo khoa học.
34. Lê Huỳnh Hoa, bài giảng chuyên đề: “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ”.
35. Lê Huỳnh Hoa (2013), đề tài khoa học cấp bộ: Chuyên đề “Những vấn đề
lịch sử cần bổ sung, cập nhật cho chuyên đề “Lịch sử khai phá vùng đất
Nam Bộ từ thế kỉ XVII đến trước Cách mạng tháng Tám 1945”.
36. Lê Huỳnh Hoa (2008), “Chính sách giao thương của chúa Nguyễn ở Đàng
Trong, cơ sở hội nhập và phát triển của Đại Việt thế kỉ 17 -18”, Tuyển tập
báo cáo khoa học “hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3 năm 2008”,
đĩa CD.
37. Nguyễn Thị Huê (2007), Giao thương Đàng Trong với các nước trên thế
giới (thế kỉ XVII – XVIII), Luận văn thạc sĩ Lịch sử Việt Nam, trường
ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh.
38. Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến (2006),
Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), Nxb Giáo dục.
39. Đoàn Thị Hương, Hồ Hữu Nhựt (1998), Lược sử 300 năm Sài Gòn – Thành
phố Hồ Chí Minh (1698 – 1998), Nxb Trẻ.
154
40. Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Đảng Bộ miền Đông Nam Bộ (2003),
Lịch sử Đảng Bộ miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mĩ (1945 – 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
41. Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2008), Văn Hóa Óc Eo và vương quốc Phù
Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo
(1944 – 2004), Nxb Thế giới.
42. Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2009), Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam
Bộ đến cuối thế kỉ XIX, (Kỷ yếu hội thảo khoa học, Thành phố Hồ Chí
Minh ngày 4-5 tháng 4 năm 2006), Nxb Thế giới.
43. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2009), Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam
Bộ thời kì cận đại, (Kỷ yếu hội thảo khoa học, Cần Thơ ngày 4 tháng 3
năm 2008), Nxb Thế giới, Hà Nội.
44. Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam Sử Lược, Nxb Văn hóa Thông tin.
45. Nguyễn Văn Kim (2011), Việt Nam trong thế giới Đông Á – Một cách tiếp
cận liên ngành và khu vực học, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật,
Hà Nội.
46. Phan Khoang (2001), Việt Sử xứ Đàng Trong, Nxb Văn Học, Hà Nội.
47. Kỷ yếu Hội thảo (2012), “Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa - Vũng Tàu
ngày nay”.
48. Ngô Sĩ Liên (2011), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Thời Đại.
49. Vương Liêm (2005), Về vùng đất cổ miền Đông Nam Bộ, Nxb Lao động.
50. Nguyễn Việt Long (2013), Lẽ Phải - Luật quốc tế và chủ quyền trên hai
quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa, Nxb Trẻ.
51. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
52. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỉ XVII,
XVIII, XIX, Nxb Khoa học Xã hội.
155
53. Lương Văn Lựu (1972), Biên Hòa sử lược toàn biên (Quyển I), tác giả
xuất bản.
54. Phạm Đức Mạnh (1994), “Tiền sử Đông Nam Bộ, một thế kỉ khám phá và
thành quả”, Xưa và Nay, (6) trang 12 – 19.
55. Thái Doãn Mười (2001), Địa chí Đồng Nai (tập 4), Nxb Tổng hợp
Đồng Nai.
56. Sơn Nam (2007), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ.
57. Sơn Nam (1984), Đất Gia Định xưa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
58. Sơn Nam (1992), Bến Nghé xưa, Nxb Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
59. Sơn Nam (1998), “Cù Lao Phố cảng biển đầu tiên ở Nam Bộ”, Xưa và Nay
(52B), trang 10-11.
60. Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu, Lê Minh Nghĩa, Từ Đặng Minh Thu, Vũ
Quang Việt (2009), Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam, Nxb Trẻ.
61. Trịnh Nhu (2008), Lịch sử biên niên Xứ Ủy Nam Bộ và Trung Ương Cục
Miền Nam 1954 -1975, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
62. Trần Thị Nhung (2011), Lịch sử vùng đất Nam Bộ một số kết quả nghiên
cứu, Nxb Khoa học Xã hội.
63. Đỗ Quỳnh Nga (2011), “Chúa Nguyễn với công cuộc mở đất Đông Nam Bộ
thế kỉ XVII”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (5), trang 14 – 23.
64. Đỗ Quỳnh Nga (2013), Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ thời chúa Nguyễn,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. Đỗ Bá Nghiệp (2001), Địa chí Đồng Nai (tập 3), Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
66. Nguyễn Quang Ngọc (2012), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục.
67. Lương Ninh (2006), Vương quốc Chămpa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
68. Lương Ninh (2009), Vương quốc Phù Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
69. Nhiều tác giả (2002), Nam Bộ xưa và nay, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành Phố Hồ Chí Minh.
156
70. Nhiều tác giả (2002), Miền Đông Nam Bộ lịch sử và phát triển, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
71. Ngô Minh Oanh (2008), “Nhìn lại hệ thống đối sách của các chúa Nguyễn
đối với Chân Lạp và Xiêm trong qúa trình khai phá, xác lập chủ quyền
của vùng đất Nam Bộ thế kỉ XVI – XVIII”, Kỷ yếu hội thảo “Chúa
Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam thế kỉ XVI – XIX”,
trang 176 - 182.
72. Ngô Minh Oanh (2011), “Góp thêm một hướng tiếp cận phương pháp luận
nghiên cứu vùng đất Nam Bộ”, Nam Bộ Đất và Người (tập VIII), trang
20 – 28.
73. Đinh Kim Phúc (2012), Hoàng Sa – Trường Sa: luận cứ và sự kiện, Nxb
Thời đại, Hà Nội.
74. Thạch Phương, Lưu Quang Tuyến (1989), Địa chí Long An, Nxb Long An –
Nxb Khoa Học Xã Hội.
75. Chu Đạt Quan (2011), Chân Lạp phong thổ ký, Nxb Thế giới.
76. Nguyễn Phan Quang (1998), Việt Nam cận đại những sử liệu mới (tập 2),
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
77. Trương Hữu Quýnh (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1), Nxb
Giáo dục.
78. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục (tập 1), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
79. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam nhất thống chí (tập 2), Nxb
Lao động.
80. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục (tập 3), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
81. Thích Đại Sán, (1963), Hải Ngoại kỷ sự, Viện đại học Huế.
82. Võ Văn Sen (2002). Nam Bộ Đất và Người (tập I), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
157
83. Võ Văn Sen (2004), Nam Bộ Đất và Người (tập II), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
84. Võ Văn Sen (2005), Nam Bộ Đất và Người (tập III), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
85. Võ Văn Sen (2006), Nam Bộ Đất và Người (tập IV), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
86. Võ Văn Sen (2007), Nam Bộ Đất và Người (tập V), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
87. Võ Văn Sen (2008), Nam Bộ Đất và Người (tập VI), Nxb Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
88. Võ Văn Sen (2009), Nam Bộ Đất và Người (tập VII), Nxb Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
89. Võ Văn Sen (2011), Nam Bộ Đất và Người (tậpVIII), Nxb Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
90. Võ Văn Sen (2013), Nam Bộ Đất và Người (tập IX), Nxb Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
91. Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư, pdf.
92. Phạm Văn Sơn (1959), Việt Sử Tân Biên (Quyển III).
93. Sở Văn Hóa Thông tin –TDTT An Giang, Hội khoa học Lịch sử Tp. Hồ Chí
Minh (1994), Thân thế và sự nghiệp của chưởng cơ – Lễ thành Hầu
Nguyễn Hữu Cảnh, Kỷ yếu hội thảo khoa học.
94. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ
XVII và XVIII, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
95. Phan Thành Tài (2002), “Sự hình thành và phát triển của trung tâm Sài Gòn
– Gia Định”, Nam Bộ Đất và Người (tập 1), trang 29 – 45.
96. Phan Đăng Thanh (2002), “Vài khía cạnh hành chính – Pháp lý trong quá
trình thu nhận và quản lý bước đầu vùng đất Gia Định”, Nam Bộ và Nam
Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII – XIX, trang 148 – 164.
158
97. Cao Tự Thanh (2007), 100 câu hỏi đáp về lịch sử Gia Định - Sài Gòn trước
1802, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh - Nxb Văn hóa Sài Gòn.
98. Nguyễn Quý Thao, Nguyễn Trần Cầu, Tập bản đồ địa lý THCS, Nxb Giáo
dục Việt Nam, Công ty cổ phần bản đồ và tranh ảnh giáo dục.
99. Đinh Văn Thiên, Nguyễn Trung Minh, Hoàng Thế Long (2010), Đông Nam
Bộ vùng đất và con người, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
100. Trịnh Ngọc Thiện (2009), Chính quyền Đại Việt và quá trình mở rộng lãnh
thổ về phía Nam trong các thế kỉ XI – XVIII, khóa luận tốt nghiệp,
trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh.
101. Ca Văn Thỉnh (1983), Hào khí Đồng Nai, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
102. Lê Thông (2004), Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam (tập 5), Nxb
Giáo dục.
103. Lê Thông (2008), Sách Giáo Khoa Địa lý 12, Nxb Giáo dục.
104. Nguyễn Thông (2009), Việt sử thông giám cương mục khảo lược, Nxb Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội.
105. Nguyễn Đình Thống (2005), Di tích lịch sử nhà tù Côn Đảo, nhà lao Phú
Quốc, Nxb Lao Động, Hà Nội.
106. Đặng Thu (1994), Di dân của người Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, Phụ san
tạp chí nghiên cứu lịch sử.
107. Đinh Xuân Thu (1987), “Miền đông địa lý và lịch sử”, Lịch Sử Quân Sự,
(13), trang 12 – 19.
108. Trần Thuận (2012), “Công Nữ Ngọc Vạn Với Vùng đất Mô Xoài”, Kỷ yếu
hội thảo Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay.
109. Trần Nam Tiến (2013), Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 3), Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
110. Huỳnh Công Tín (2013), Đặc trưng văn hóa Nam Bộ qua phương ngữ,
Nxb Chính trị Quốc gia.
159
111. Huỳnh Văn Tới (2001), Địa chí Đồng Nai (tập 5), Nxb Tổng hợp
Đồng Nai.
112. Huỳnh Ngọc Trảng (2001), Địa chí Đồng Nai (tập 1), Nxb Tổng hợp
Đồng Nai.
113. Nguyễn Yên Tri (2001), Địa chí Đồng Nai (tập 2), Nxb Tổng hợp
Đồng Nai.
114. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần Người và đất Việt, Nxb Văn hóa
Thông tin.
115. Lê Anh Tuấn (2010), Lịch sử hình thành và phát triển Văn Miếu Trấn Biên
(Biên Hòa – Đồng Nai) từ 1715 đến nay, Luận văn thạc sĩ Khoa Học
Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
116. Nguyễn Đình Tư (1998), “Nguyễn Hữu Cảnh với sự sắp đặt nền hành chính
tại Đồng Nai – Gia Định”, Tạp chí Xưa và Nay, (473), trang 15 – 16.
117. Nguyễn Đình Tư (2008), “Lưu dân Việt trên đất Đồng Nai – Gia Định và
việc thành lập các đơn vị hành chánh ở Nam Bộ thời chúa Nguyễn”,
Nam Bộ đất và người (tập VI), trang 77 – 116.
118. Trung tâm KHXH&NV Quốc Gia, Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh,
Trung tâm nghiên cứu Khảo cổ học (1997), Một số vấn đề khảo cổ học ở
Miền Nam Việt Nam (tập 1), Nxb Khoa học Xã hội.
119. Trung tâm KHXH&NV Quốc Gia, Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh,
Trung tâm nghiên cứu Khảo cổ học (2004), Một số vấn đề khảo cổ học ở
Miền Nam Việt Nam (tập 2), Nxb Khoa học Xã hội.
120. Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh (2002), Nam Bộ và Nam Trung
Bộ những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII – XIX, Kỷ yếu hội thảo khoa.
121. Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Sở Văn Hóa – Công nghệ, Thạch
Phương, Nguyễn Trọng Ninh (2005), Địa chí tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
160
122. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2010), Địa chí tỉnh Bình Dương (tập
1), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
123. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2010), Địa chí tỉnh Bình Dương,(tập
2), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
124. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2008),
Kỷ yếu hội thảo: “Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử
Việt Nam thế kỉ XVI – XIX”, Nxb Thế giới, pdf.
125. Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh, Sở văn hóa thông tin Tây Ninh và viện
Khoa học Xã hội Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh thực hiện (2006), Địa chí
tỉnh Tây Ninh, Nxb Tây Ninh.
126. Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh, Bảo tàng lịch sử Việt Nam thành phố
Hồ Chí Minh, Bảo tàng Cách mạng Tp. Hồ Chí Minh (1998), Góp phần
tìm hiểu lịch sử văn hóa 300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh,
Nxb Trẻ.
127. Viện KHXH Việt Nam, Viện KHXH vùng Nam Bộ, Trung tâm nghiên cứu
Khảo cổ học (2008), Một số vấn đề khảo cổ học ở Miền Nam Việt
Nam,(tập 3), Nxb Khoa học Xã hội.
128. Viện KHXH Việt Nam, Viện phát triển Bền vững Vùng Nam Bộ (2011),
Một số vấn đề khảo cổ học ở Miền Nam Việt Nam (tập 4), Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
129. 300 năm Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh (1998), Nxb Chính trị
Quốc gia.
130. Trần Trí Hải, Vài nhận định về công lao của Nguyễn Cư Trinh đối với vùng
đất Nam Bộ và An Giang giữa thế kỉ XVIII, https://sites.google.com
131. Nguyễn Thị Hậu, Vài nét về văn hóa khảo cổ Đồng Nai,
http://vannghesongcuulong.org
161
132. Nguyễn Đức Hiệp, Một thoáng Đông Nam bộ - Địa chí và lịch sử,
© http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org và http://vietsciences.net
133. Nguyễn Đức Hiệp, Sài Gòn – Chợ Lớn và Nam Bộ : từ tiền sử đến Phù
Nam, đế quốc Khơme và vương quốc Champa (phần 1),
www.vanchuongviet.org
134. Trần Mai, Công cuộc khai hoang lập trấn vùng Đồng Nai-Gia Định,
www.baomoi.com
135. Trần Thị Mai, Vị trí và vị thế của Nam Bộ Thế kỉ XVII-XIX,
www.vanhoahoc.vn
136. Võ Thanh Liêm, Hai ngàn năm lịch sử hình thành của miền nam Việt Nam,
http://home.vicnet.net.au.
137. Đinh văn Liên, Văn minh sông rạch trong văn hóa của cư dân Sài Gòn –
Gia Định, gslhcm.org.vn.
138. Nguyễn Thanh Lợi, Cọp trong văn hóa dân gian Đông Nam,
www.vanhoahoc.vn
139. Trần Ngọc Thêm, Khu vực Nam Bộ và tình hình nghiên cứu KHXH &NV
Nam Bộ, www.vanhoahoc.vn
140. Bản đồ hành chánh vùng Đông Nam Bộ và địa bàn kinh tế trọng điểm phía
Nam, trancamlinh.blogspot.com.
141. Đông Nam Bộ, www.vi.wikipedia.org.vn,
142. Lịch sử Sài Gòn từ 1698 trở về trước, Theo website Tp. Hồ Chí Minh
143. Lịch sử Cù Lao Phố phần 2, http://quankhoasu3nambo.
144. Nghị định số 92/2006/NĐ – CP ngày 07 – 9 – 2006 của Chính phủ Về lập,
phê duyệt và quản lý Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội,
www2.vanban.chinhphu.vn/portal/page/.../hethongvanban
162
145. Quyết định số 910/1997/QĐ-TTg của Chính phủ Về việc phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ giai đoạn
từ nay đến năm 2010,
www.chinhphu.vn/portal/page/portal/.../hethongvanban
146. Tìm hiểu đặc điểm địa lý tự nhiên khu địa lí tự nhiên Đông Nam Bộ,
luanvan.net.vn.
147. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của Vùng Đông Nam Bộ - THÔNG TIN ...
ptit.edu.vn
148. www.vi.wikipedia.org.vn,
149. www.hcmup.edu.vn;
150. www.baotangbrvt.org.vn ,
151. www.Lichsuvietnam.org.vn;
152. hkhls.dongthap.gov.vn;
153. www.sugia.vn/n;
154. www.hoisuhoc.vn;
155. www.bienhoa.gov.vn,
156. dost-dongnai.gov.vn
Bản đồ Nam Bộ thời phủ Gia Định
Nguồn: [20, tr. 63]
PHỤ LỤC
Bản đồ Hành chánh Nam Kỳ Lục Tỉnh năm 1836
Nguồn: [20, tr. 64]
Bản đồ Hành chánh Nam Kỳ thời Pháp thuộc
Nguồn: [20, tr. 65]
Bản đồ Hành chánh Nam Bộ trước năm 1975
Nguồn: [20, tr. 66]
Bản đồ Hành chánh Nam Bộ đến năm 1994
Nguồn: [20, tr. 67]
Nguồn: trancamlinh.blogspot.com
Bản đồ vùng Đông Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nguồn: [98, tr.77]
Chân dung Nguyễn Hữu Cảnh
Nguồn: vi.wikipedia.org
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh (Còn gọi là Đình Bình Kính) ở Biên Hòa
Nguồn: http://www.bienhoa.gov.vn
Đền thờ Trần Thượng Xuyên hay còn gọi là đình Tân Lân ở thành phố Biên Hòa
Nguồn: https://dost-dongnai.gov.vn