BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Ngọc Chúc

ĐÔNG NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH

MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM

(THẾ KỈ XVII – XVIII)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Ngọc Chúc

ĐÔNG NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH

MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM

(THẾ KỈ XVII – XVIII)

Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam

Mã số

: 60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ HUỲNH HOA

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là của riêng tôi do TS. Lê Huỳnh Hoa hướng

dẫn. Những tư liệu, trích dẫn trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc.

TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng 9 năm 2014

Tác giả

Nguyễn Ngọc Chúc

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cám ơn Ban Giám Hiệu, Ban Chủ Nhiệm

Khoa Lịch Sử, phòng Sau Đại Học và quý Thầy, Cô trong khoa Lịch

Sử của trường Đại Học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ

và dạy dỗ em trong suốt quá trình học tập ở trường.

Để hoàn thành luận văn này em xin bày tỏ sự tri ân và lòng biết

ơn sâu sắc tới TS. Lê Huỳnh Hoa, người đã tận tình hướng dẫn cho em

trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới thư viện trường ĐHSP TP.

HCM, Thư viện Khoa Học Xã Hội, thư viện tỉnh Bình Dương, thư viện

tỉnh Đồng Nai đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm kiếm tư liệu để phục

vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài.

Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, những người

thân quen, bạn hữu, đồng nghiệp đã dành tình cảm, động viên và giúp

đỡ tôi trong những ngày học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn

này.

Với khả năng hiểu biết còn có hạn, chắc chắn nội dung của luận

văn khó tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết, kính mong nhận

được sự hướng dẫn, góp ý từ quý Thầy, Cô.

Xin trân trọng cảm ơn !

Nguyễn Ngọc Chúc

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ “ĐẤT VÀ NGƯỜI” ĐÔNG NAM BỘ

CHO ĐẾN THẾ KỈ XVII ............................................................. 13

1.1. Về địa danh và điều kiện địa lý – tự nhiên ................................................... 13

1.1.1. Về địa danh “Đông Nam Bộ” ......................................................... 13

1.1.2. Về điều kiện địa lý, tự nhiên ........................................................... 17

1.2. Về lịch sử - dân cư ....................................................................................... 21

1.2.1. Đông Nam Bộ trước công nguyên .................................................. 21

1.2.2. Đông Nam Bộ từ công nguyên đến trước thế kỉ XVII ................... 29

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 42

Chương 2. QUÁ TRÌNH MỞ ĐẤT ĐÔNG NAM BỘ TRONG THẾ

KỈ XVII - XVIII ............................................................................ 44

2.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................................ 44

2.1.1.Tình hình trong nước ....................................................................... 44

2.1.2. Tình hình khu vực ........................................................................... 56

2.2. Quá trình khai mở vùng đất Đông Nam Bộ ................................................. 65

2.2.1. Sự có mặt của người Việt trên vùng đất Nam Bộ ........................... 65

2.2.2. Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ ................................................... 78

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 96

Chương 3. VAI TRÒ CỦA ĐÔNG NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH

MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM ........................................................... 99

3.1. Đông Nam Bộ là nơi dừng chân đầu tiên của lưu dân, di dân người Việt ....... 99

3.2. Đông Nam Bộ là nơi trung chuyển di dân trên con đường khai phá

vùng đất Nam Bộ ...................................................................................... 106

3.3. Đông Nam Bộ, là điểm xuất phát của việc xác lập chủ quyền lãnh thổ

và lãnh hải của Đại Việt trên vùng đất phương Nam ................................ 108

3.4. Đông Nam Bộ là cửa ngõ thông thương của Đàng Trong với nước ngoài ...... 125

3.5. Đông Nam Bộ là nơi hội nhập của cộng đồng các dân tộc trên vùng

đất phương Nam ........................................................................................ 136

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 141

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 144

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 151

PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Đông Nam Bộ hiện nay là một trong những vùng kinh tế phát triển nhất của

nước ta, khu vực này nằm như gần trọn trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam,

trên hành lang kinh tế Đông – Tây, nối với Campuchia và các nước Đông Nam

Á, khá thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và giao lưu quốc tế. Khu

vực này có 5 tỉnh và 1 thành phố gồm: “Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh,

Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu” [144]. Đây là vùng có

tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm “GDP đạt hơn 10% mỗi

năm, đóng góp khoảng 40% sản lượng công nghiệp, hơn 30 % GDP và hơn 30

% ngân sách cả nước” [14, tr.8], đời sống vật chất và tinh thần của người dân

không ngừng được nâng cao.

Nói cách khác, Đông Nam Bộ hiện nay có vai trò hết sức quan trọng đối

với sự phát triển của đất nước. Còn trong quá khứ, đặc biệt trong buổi đầu khai

phá, mở cõi vùng đất phương Nam, khu vực Đông Nam Bộ đã giữ vai trò gì,

biểu hiện cụ thể ra sao?

Là một người được sinh ra và lớn lên ở Bình Dương, một trong sáu tỉnh

thành của Đông Nam Bộ, hiện tại là một giáo viên dạy Lịch Sử ở tỉnh nhà và là

một học viên cao học ngành Lịch Sử Việt Nam; tôi luôn muốn tìm lời giải cho

câu hỏi nêu trên của mình. Vì khi có câu trả lời, tôi có thể giảng những bài lịch

sử địa phương cũng như những bài có liên quan đến lịch sử Đông Nam Bộ cho

học sinh của mình một cách mạch lạc hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, giúp học

sinh hứng thú hơn khi học Lịch Sử, từ đó góp phần nâng cao chất lượng bộ môn

Lịch Sử ở nhà trường THPT.

Nghiên cứu Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất phương Nam vào các

thế kỷ XVII – XVIII, không chỉ nhằm phục dựng bức tranh của quá khứ mà còn

mở rộng hiểu biết, tạo cơ sở lịch sử để hiểu và lý giải những vấn đề của hiện tại

ở Đông Nam Bộ.

2

Ngoài ra, nghiên cứu lịch sử từng miền, từng khu vực, từng địa phương

còn có vai trò hết sức quan trọng, góp phần bổ sung sử liệu cho việc xây dựng

lịch sử của từng địa phương, từng khu vực và của cả miền Nam.

Chính vì những lí do trên nên tôi đã chọn đề tài “Đông Nam Bộ trong tiến

trình mở đất phương Nam (thế kỉ XVII – XVIII)” làm đề tài luận văn thạc sĩ

của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Liên quan đến chủ đề nghiên cứu của đề tài đã có các công trình sau đã

được công bố:

-Tác phẩm “Phủ Biên tạp lục” của Lê Quý Đôn là nguồn thư tịch viết vào

năm 1776. Thời điểm này rất gần cuộc khai khẩn, mở rộng vùng đất phía Nam

nên đã cung cấp những sử liệu quý về cảnh quan, môi trường thiên nhiên, về

diện tích canh tác, về thuế khóa…của xứ Đàng Trong, trong đó có vùng Đông

Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung.

- Tác phẩm “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức (1765 –

1825), được viết vào đầu thế kỉ XIX dưới triều Gia Long với những ghi chép tỉ

mỉ về quá trình khai phá, mở mang vùng đất cực nam của đất nước. Đây là

nguồn tư liệu quý đề cập nhiều đến quá trình mở đất phương Nam trong đó có

Đông Nam Bộ.

- Tác phẩm “Đại Nam thực lục” của quốc sử quán triều Nguyễn được

biên soạn vào năm 1821 dưới triều Minh Mạng. Sách ghi chép các sự kiện từ khi

Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa (1558) đến đời vua Khải Định

(1925). Phần đầu của Đại Nam thực lục gọi là Tiền biên (Đại Nam thực lục Tiền

biên), ghi chép các sự kiện lịch sử của 9 chúa Nguyễn ở Đàng Trong từ chúa

Nguyễn Hoàng đến chúa Nguyễn Phúc Thuần. Đại Nam thực lục chính biên là

phần thứ hai viết về triều đại của các vua Nguyễn, từ khi Nguyễn Ánh làm chúa

(1778) đến đời Đồng Khánh (1887) và sau này được viết thêm đến đời vua Khải

3

Định. Nội dung của sách, đặc biệt là phần tiền biên đã cung cấp nhiều tư liệu về

lịch sử khai phá vùng Đông Nam Bộ ngày nay.

- “Đại Nam nhất thống chí” là bộ sách địa lý - lịch sử được biên soạn vào

năm 1875, thời Tự Đức. Đây là bộ sách trình bày về vị trí địa lý, lịch sử, hành

chính, kinh tế, núi sông, thành trì, văn hóa…của nhiều tỉnh thành trong cả nước

trong đó có 2 tỉnh Biên Hòa, Gia Định xưa (nay thuộc Đông Nam Bộ)

- Tác giả Phan Khoang với công trình “Việt sử xứ Đàng Trong”, là một

công trình nghiên cứu lịch sử được xuất bản năm 1967, có tính chất là một bản

“lược đồ” vẽ lại đường đi của tiền nhân trong khoảng hơn 400 năm trước trong

công cuộc khẩn hoang lập ấp ở miền đất mới Đàng Trong. Tác giả đã dành khá

nhiều nội dung cho quá trình “Nam tiến của dân tộc”; đặc biệt đã đề cập đến

công cuộc mở đất ở vùng Biên Hòa, việc lập dinh Trấn Biên (Biên Hòa) và dinh

Phiên Trấn, thuộc phủ Gia Định nay là khu vực Đông Nam Bộ.

- Tác phẩm “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” của tác giả Sơn Nam đã

nghiên cứu tiến trình lịch sử của miền Nam trong việc mở mang đất đai canh

tác, củng cố chính quyền, xác định biên giới, xây dựng các cơ sở vật chất...Tác

giả đã cung cấp cho người đọc một cách khái quát quá trình thiên di, sinh cơ lập

nghiệp của lưu dân Việt trên vùng đất mới phía Nam gần ba thế kỷ qua trong đó

có vùng Đông Nam Bộ ngày nay, tác giả cũng đã khẳng định vùng Cù Lao Phố

là “nòng cốt” của Biên Hòa và Bến Nghé là “nòng cốt” của Gia Định.

- Tác phẩm “Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ” do phó giáo sư Huỳnh

Lứa chủ biên, Nhà xuất bản (Nxb) Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, đã trình

bày một cách công phu quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ trong các thế kỉ

XVII, XVIII, XIX. Năm 2000, Phó giáo sư tiếp tục công bố tập hợp các bài viết

của mình trong quyển: “Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ trong thế kỉ XVII,

XVIII, XIX”. Tác phẩm đã bổ sung một số tư liệu như: chính sách thúc đẩy

khẩn hoang của Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn ở vùng Đồng Nai – Gia

Định từ cuối thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XIX; sự ra đời của các đô thị ở Nam

4

Bộ; sự hình thành làng xã và vai trò của thôn ấp trong cuộc khẩn hoang, công

cuộc khai phá ở một số địa phương cụ thể như Bình Dương, Hà Tiên…Ngoài ra,

tác phẩm đã đưa ra nhận thức về vai trò của nhà nước và nhân dân trong công

cuộc khai phá Nam Bộ trong đó có vùng Đông Nam Bộ.

- Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền có công trình “Lễ Thành Hầu Nguyễn

Hữu Cảnh với công cuộc khai sáng miền nam nước Việt cuối thế kỉ XVII” đã

trình bày việc kinh lược và thiết lập tổ chức hành chính ở xứ Đồng Nai, lập ra

dinh Phiên Trấn và dinh Trấn Biên tương đương khu vực Đông Nam Bộ ngày

nay.

- Tác phẩm “Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam” do GS. TSKH Vũ

Minh Giang chủ biên, Nxb Thế Giới ấn hành vào năm 2008 đã trình bày khái

quát lịch sử phát triển của vùng đất Nam Bộ. Tác phẩm không chỉ trình bày các

mốc quan trọng trong việc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất

Nam Bộ (trong đó có vùng Đông Nam Bộ) mà còn dành một phần thích đáng

trình bày về cuộc sống cộng đồng dân cư Nam Bộ, về mối quan hệ đoàn kết,

giao thoa văn hóa mật thiết giữa các dân tộc Việt, Khơme, Hoa, Chăm, Mạ…

- Năm 2013, Tiến sĩ Đỗ Quỳnh Nga công bố luận văn tiến sĩ “Công cuộc

mở đất Tây Nam Bộ thời Chúa Nguyễn” do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia

phát hành. Luận án đã dành 8 trang nói về công cuộc mở đất Đông Nam Bộ.

Trước đó, tác giả cũng có bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử tháng 5

năm 2012 với tựa đề “Chúa Nguyễn với công cuộc mở đất Đông Nam Bộ thế kỉ

XVII” đề cập việc mở đất Đông Nam Bộ trong thế kỉ XVII.

- Trong kỷ yếu hội thảo khoa học “Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam

Bộ đến cuối thế kỉ XIX”, tại thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết về lịch

sử, về kinh tế, về văn hóa… của Nam Bộ (trong đó có vùng Đông Nam Bộ),

điển hình như:

+ Bài “Kinh tế hàng hóa và đô thị ở Nam Bộ (từ thế kỉ XVII đến thế kỉ

XIX)” của PGS. Lê Xuân Diệm. Tác giả trình bày những biểu hiện được coi là

5

đặc thù của nền kinh tế hàng hóa ở Nam Bộ, hoạt động thương mại ở vùng này

chủ yếu gắn với sản phẩm nông nghiệp do nông dân làm ra. Tác giả đã khẳng

định Nam Bộ có 4 đô thị nổi tiếng, trong đó Đông Nam Bộ có 2 đó là Nông Nại

Đại Phố và Bến Nghé – Sài Gòn.

+ PGS.TS Đỗ Bang có bài “Chính quyền Đàng Trong với công cuộc mở

mang lãnh thổ và phát triển kinh tế ở Nam Bộ thế kỉ XVII – XVIII”, tác giả đã

trình bày một số sự kiện chính của quá trình mở rộng lãnh thổ ở Nam Bộ và có

kết luận về vai trò của Đông Nam Bộ như sau: “…Đông Nam Bộ trở thành một

trung tâm kinh tế nông nghiệp và thương nghiệp của xứ Đàng Trong. Một miền

đất hấp dẫn không những đối với nông dân vùng Thuận Quảng mà cả đối với

người Hoa và nhiều thương khách nước ngoài khác” [42, tr.251].

Hoặc như bài “Các bước phát triển của công cuộc khai phá vùng đất

Nam Bộ từ thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX” của PGS.TS Trần Đức Cường đã

khẳng định với việc hoạch định vùng đất Sài Gòn – Gia Định thành các đơn vị

hành chính của Thống suất chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào năm 1698 thì

chính quyền chúa Nguyễn đã xác định vai trò quản lý mang tính nhà nước đối

với vùng đất này.

- Trong hội thảo “Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay”,

tác giả Đỗ Bang với bài “Mô Xoài trong tiến trình mở đất Đông Nam Bộ thời

chúa Nguyễn, những khoảng trống lịch sử cần được khám phá và những vấn đề

cần được xác minh” đã cung cấp những tư liệu làm rõ vị trí quan trọng của Mô

Xoài trong tiến trình lịch sử di dân, khẩn hoang của nhiều thế hệ lao động Việt

Nam, đây là điểm đầu mở đất Nam Bộ của chúa Nguyễn, có tác dụng to lớn

trong việc hình thành vùng đất (Đàng Trong) trù phú, giàu mạnh.

+ Tác giả Nguyễn Đình Thống với bài “Xứ Mô Xoài và hành trình khai

phá vùng đất Nam Bộ” đã trình bày về vị trí địa lý của Mô Xoài, về một số tên

gọi xưa ở vùng đất Mô Xoài cũng như việc bảo tồn các tên gọi này trong giai

đoạn hiện nay, tham luận cũng đưa ra nhận định về vai trò của Mô Xoài trong

6

quá trình mở đất phương Nam.

+ Tác giả Nguyễn Bạch Long với tham luận “Lý do người Việt chọn xứ

Mô Xoài làm nơi dừng chân đầu tiên trong tiến trình mở cõi phương Nam” đã

cho biết nguyên nhân lưu dân Việt chọn Mô Xoài làm điểm định cư đầu tiên là

vì nơi đây xưa kia vốn là vùng tranh chấp giữa Chân Lạp và Champa và cả hai

đều không kiểm soát được nên trở thành vùng đệm. Chính vì thế, vùng này trở

thành nơi lý tưởng cho những người dân đang muốn thoát khỏi sự kiểm soát,

ràng buộc của các chúa Nguyễn. Ngoài ra, do vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở

đây có những nét tương đồng với miền Trung nên họ quyết định chọn Mô Xoài

làm điểm dừng chân đầu tiên của mình.

Tác giả Nguyễn Hữu Hiếu với bài “Từ cuộc hôn nhân Ngọc Vạn – Chey

Chetta II đến sự kiện Mô Xoài” đã trình bày và phân tích cuộc hôn nhân mang

màu sắc chính trị giữa Ngọc Vạn – Chey Chetta II, từ đó tác giả khẳng định

công lao to lớn của chúa Nguyễn Phúc Nguyên và công chúa Ngọc Vạn trong

tiến trình khai phá vùng đất mới Nam Bộ.

Nhìn chung, 83 tham luận trong hội thảo đã thể hiện trên 4 nội dung: Mô

Xoài là vùng đất địa đầu của Nam Bộ; Mô Xoài những vấn đề hình thành, phát

triển dân cư, quân sự, kinh tế, văn hóa; Mô Xoài nguồn gốc địa danh, nhân vật

lịch sử; Mô Xoài những dấu tích khảo cổ, kiến trúc, di tích lịch sử văn hóa. Như

vậy, có thể nói, các tham luận trong kỷ yếu hội thảo đã thể hiện được một bức

tranh khá trọn vẹn về toàn cảnh vùng đất Mô Xoài gần 400 năm, giúp người đọc

biết được nguồn gốc điạ danh, nhân vật lịch sử của Mô Xoài, cũng như thấy

được vị trí, vai trò của vùng đất này trong tiến trình mở đất phương Nam.

- Ngoài ra, với 9 tập Nam Bộ Đất và Người, do PGS.TS Võ Văn Sen chủ

biên đã cung cấp những tư liệu quý giá về điều kiện tự nhiên, về lịch sử hình

thành và phát triển của vùng đất Nam Bộ chung cũng như Đông Nam Bộ nói

riêng. Các bài viết của nhiều tác giả đã cung cấp cho người đọc những hiểu biết

về lịch sử - dân cư của vùng; về thời gian, về nguyên nhân người Việt có mặt

7

trên vùng đất này theo cách nhìn mới; về tiểu sử, vai trò của một số cá nhân có

công lớn trong công cuộc mở đất Đông Nam Bộ như công chúa Ngọc Vạn, Trần

Thượng Xuyên, Nguyễn Hữu Cảnh…; về sự có mặt của người Hoa và vai trò

của họ trong việc mở mang và phát triển kinh tế của vùng…

- Hiện nay hầu hết các tỉnh Đông Nam Bộ đều đã tiến hành biên soạn điạ

chí cho tỉnh mình như:

+ Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh do cố giáo sư Trần Văn Giàu

chủ biên, xuất bản năm 1987 tại Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.

+ Địa chí tỉnh Tây Ninh do Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh, Sở văn hóa

thông tin Tây Ninh và viện Khoa Học Xã Hội Nhân văn TP Hồ Chí Minh thực

hiện, xuất bản vào năm 2006 tại Nxb Tây Ninh.

+ Địa chí tỉnh Bình Dương xuất bản năm 2010, do Ủy ban nhân dân tỉnh

Bình Dương chịu trách nhiệm và xuất bản tại Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

+ Địa chí tỉnh Đồng Nai gồm 5 tập, do Ban Thường Vụ tỉnh Ủy tỉnh Đồng

Nai chịu trách nhiệm chính, với sự chủ biên của các tác giả: Huỳnh Ngọc Trảng

(tập 1), Nguyễn Yên Tri (tập 2), Đỗ Bá Nghiệp (tập 3), Thái Doãn Mười (tập 4),

Huỳnh Văn Tới (tập 5), nhà xuất bản Tổng Hợp Đồng Nai xuất bản.

+ Địa chí tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do Nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội xuất

bản vào năm 2005, Thạch Phương - Nguyễn Trọng Ninh làm chủ biên.

Khu vực này chỉ còn tỉnh Bình Phước là chưa biên soạn địa chí, tuy nhiên

trước đây vào năm 1991, Địa chí tỉnh Sông Bé đã được biên soạn với sự chủ

biên của Trần Bạch Đằng, Nxb Tổng Hợp Sông Bé xuất bản. Nội dung bao gồm

cả tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước. Nhìn chung, trên đây là những công

trình khảo cứu công phu cung cấp những hiểu biết rất quý về lịch sử, tự nhiên,

văn hóa và con người ở mỗi tỉnh thành cụ thể trong khu vực Đông Nam Bộ.

Ngoài ra còn nhiều bài viết về Đông Nam Bộ trong các kỷ yếu hội thảo về

Nam Bộ, trong các tạp chí như Tạp chí Xưa Và Nay, Tạp chí Nghiên Cứu Lịch

Sử…. Ví dụ như:

8

+ Tạp chí Xưa và Nay số 52 năm 1998 có bài “Cù Lao Phố cảng biển đầu

tiên của Nam Bộ” của tác giả Sơn Nam. Bài viết đã trình bày khái quát về sự ra

đời, hoạt động cũng như nguyên nhân suy sụp của Cù Lao Phố; tác giả cũng

khẳng định: Cù Lao Phố là một cảng quan trọng và đầu tiên của Nam Bộ.

+ Tạp chí Xưa và Nay, số 473 năm 1998 có bài “Nguyễn Hữu Cảnh với

sự sắp đặt nền hành chính tại Đồng Nai - Gia Định” của Nguyễn Đình Tư.

Thông qua việc trình bày việc sắp đặt nền hành chính đầu tiên tại vùng đất Đồng

Nai – Gia Định của Nguyễn Hữu Cảnh, tác giả không những giúp người đọc biết

được vùng đất Đông Nam Bộ đã được chúa Nguyễn xác lập chủ quyền vào năm

1698, mà còn giúp cho hậu thế thấy được tài năng, đức độ, công lao của bậc khai

quốc công thần này.

+ Tác giả Trần Thị Bích Ngọc với bài “Vị trí chính trị - kinh tế của Sài

Gòn – Gia Định đối với Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới ở thế kỉ XVII –

XIX”, đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 6 năm 1985. Bài viết đã nêu lên

vị trí và vai trò về chính trị và kinh tế của Sài Gòn – Gia Định trong các thế kỉ kỉ

XVII – XIX.

Có thể nói, hầu hết các tác phẩm, các bài viết đều nói về quá trình khai

phá vùng đất Đông Nam Bộ, hoặc về lịch sử khai phá, hoặc về những nhân vật

có công trong quá trình khai phá, hoặc về vị trí, vai trò của một địa điểm nào đó

trong khu vực Đông Nam Bộ … nhưng chưa có tác phẩm nào đề cập một cách

tập trung, toàn diện và hệ thống về Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất

phương Nam. Vì vậy, việc chọn đề tài “Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất

phương Nam (thế kỉ XVII – XVIII)” để nghiên cứu, sẽ góp phần làm phong phú

thêm những đóng góp về quá trình mở đất, về vai trò của vùng đất đầu tiên khi

người Việt đến và định cư.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

9

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vùng đất Đông Nam Bộ trong quá

trình mở đất về phương Nam vào các thế kỉ XVII – XVIII

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Không gian nghiên cứu của đề tài là Đông Nam Bộ gồm các tỉnh thành:

thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây Ninh

và Bình Phước, ngoài ra còn có một phần của tỉnh Long An hiện nay.

Thời gian nghiên cứu của đề tài là: từ thế kỉ XVII cho đến nửa đầu thế kỉ

XVIII. Thế kỉ XVII là mốc người Việt có mặt ở Đông Nam Bộ tương đối nhiều

do cuộc hôn nhân ngoại giao của công chúa Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey

Chettha II (năm 1620). Thế kỉ XVIII, là mốc công cuộc mở đất phương Nam

hoàn tất với sự kiện Nặc Tôn hiến đất Tầm Phong Long (An Giang) cho chúa

Nguyễn (năm 1757).

Với phạm vi và thời gian đã xác định như trên, đề tài tập trung giải quyết

các vấn đề sau: tổng quan về “Đất và Người” Đông Nam Bộ, quá trình khai phá

Đông Nam Bộ trong thế kỉ XVII - XVIII và vai trò của Đông Nam Bộ trong tiến

trình mở đất phương Nam.

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tài liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu

- Nguồn tài liệu gốc bằng chữ Hán đã được dịch sang chữ quốc ngữ như

Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn,

Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài

Đức.

- Các công trình khoa học nghiên cứu về Đông Nam Bộ nói riêng và Nam

Bộ nói chung từ cổ trung đại đến hiện đại đã được các nhà xuất bản: như Nxb

Chính trị Quốc gia, Nxb Thời Đại, Nxb Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh…xuất bản

trên cả nước.

10

- Các khóa luận tốt nghiệp của sinh viên, luận văn thạc sĩ của học viên của

trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh và trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.

- Các tham luận trong kỷ yếu của các hội thảo khoa học về Nam Bộ và

Nam Trung Bộ.

- Bài giảng chuyên đề “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ” và đề tài khoa

học cấp bộ: Chuyên đề “Những vấn đề lịch sử cần bổ sung, cập nhật cho chuyên

đề “ Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ từ thế kỉ XVII đến trước Cách mạng

tháng Tám 1945” của TS. Lê Huỳnh Hoa.

- Các bài viết trên các tạp chí: Nghiên Cứu Lịch Sử, Lịch Sử Đảng, Khoa

Học Xã Hội, Nghiên cứu Đông Nam Á, Xưa và Nay…

- Ngoài ra còn có các bài viết để tham khảo từ các website: Lịch Sử Đảng,

Sử Gia, Sử học Bình Dương, Khoa Sử ĐHSP TP Hồ Chí Minh, Trường ĐH Xã

hội và Nhân văn….

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Từ đó vận dụng các phương pháp

nghiên cứu cơ bản của khoa học lịch sử, là phương pháp lịch sử kết hợp chặt

chẽ với phương pháp logic, thể hiện cụ thể ở các mặt sau đây:

- Thu thập, sưu tầm, nghiên cứu, xử lí các nguồn tài liệu thành văn để rút

ra các sự kiện, những tư liệu cần thiết cho đề tài.

- Trên cơ sở đó, khôi phục, miêu tả lại bức tranh tương đối đầy đủ, có hệ

thống về Đông Nam Bộ vào các thế kỷ XVII – XVIII, làm cơ sở nghiên cứu vai

trò của khu vực này trong tiến trình mở đất phương Nam.

Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng một số phương pháp khác như: phương

pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh...và đặc biệt là

phương pháp liên ngành, kế thừa thành tựu nghiên cứu khảo cổ học để từ đó có

cái nhìn toàn diện về vùng đất Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất về phương

11

Nam.

5. Đóng góp của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn bước đầu có những đóng góp sau:

- Phục dựng bức tranh tương đối đầy đủ và hệ thống về công cuộc khai

mở Đông Nam Bộ vào các thế kỷ XVII – XVIII; qua đó thấy được vị trí và vai

trò của khu vực này trong tiến trình mở đất về phương Nam.

- Tập hợp, hệ thống hoá các nguồn tư liệu viết về Đông Nam Bộ vào các

thế kỉ XVII – XVIII.

- Đề tài nghiên cứu theo hướng chuyên đề, nên có thể sử dụng làm nguồn

tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập phần lịch sử dân

tộc, lịch sử địa phương trong trường phổ thông trung học (nhất là lịch sử địa

phương các tỉnh Đông Nam Bộ) cũng như ở đại học.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn cơ

cấu làm 3 chương:

Chương 1. Tổng quan về “Đất và Người” Đông Nam Bộ

1.1. Về địa danh và điều kiện địa lý – tự nhiên

1.1.1. Về địa danh Đông Nam Bộ

1.1.2. Về điều kiện địa lý - tự nhiên

1.2. Về lịch sử - dân cư

1.2.1. Đông Nam Bộ trước công nguyên

1.2.2. Đông Nam Bộ từ công nguyên đến trước thế kỉ XVII

Chương 2. Quá trình mở đất Đông Nam Bộ trong thế kỉ XVII - XVIII

2.1. Bối cảnh lịch sử

2.1.1. Tình hình trong nước

2.1.1.1. Công cuộc mở đất về phía Nam trước thời chúa Nguyễn

2.1.1.2. Trịnh - Nguyễn phân tranh

2.1.1.3. Công cuộc mở đất Nam Trung Bộ thời chúa Nguyễn

12

2.1.2. Tình hình khu vực

2.1.2.1. Sự suy yếu của Chân Lạp và mối quan hệ giữa Xiêm La – Chân

Lạp – Đàng Trong của Đại Việt/

2.1.2.2. Ảnh hưởng từ luồng thương mại quốc tế biển Đông và chính

sách mở cửa của chúa Nguyễn ở Đàng Trong

2.2. Quá trình khai mở vùng đất Đông Nam Bộ

2.2.1. Sự có mặt của người Việt trên vùng đất Nam Bộ

2.2.2. Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ

2.2.2.1. Những cột mốc quan trọng từ 1620 đến năm 1698

2.2.2.2. Những cột mốc quan trọng từ 1698 đến năm 1757

Chương 3. Vai trò của Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất phương Nam

3.1. Đông Nam Bộ là nơi dừng chân đầu tiên của lưu dân, di dân người Việt.

3.2. Đông Nam Bộ là nơi trung chuyển di dân trên con đường khai phá vùng

đất Nam Bộ.

3.3. Đông Nam Bộ là điểm xuất phát của việc xác lập chủ quyền của Đại Việt

trên vùng đất phương Nam.

3.4. Đông Nam Bộ là cửa ngõ thông thương của Nam Bộ, của Đàng Trong

với nước ngoài.

3.5. Đông Nam Bộ là nơi nơi hội nhập của cộng đồng các dân tộc trên vùng

đất phương Nam.

13

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ “ĐẤT VÀ NGƯỜI” ĐÔNG NAM BỘ

CHO ĐẾN THẾ KỈ XVII

Thông thường khi tìm hiểu về vùng miền nào đó, nhà nghiên cứu thường

bắt đầu tìm hiểu về “đất và người” của vùng đất đó. Đối với vùng Đông Nam Bộ

trong tiến trình mở đất về phương Nam cũng vậy. Luận văn trước hết xin trình

bày về “đất và người” Đông Nam Bộ bao gồm các nội dung cơ bản như: địa

danh Đông Nam Bộ, điều kiện địa lý – tự nhiên và lịch sử - dân cư của vùng

Đông Nam Bộ.

1.1. Về địa danh và điều kiện địa lý – tự nhiên

1.1.1. Về địa danh “Đông Nam Bộ”

Tên gọi Đông Nam Bộ không xuất hiện cùng lúc với sự xuất lộ của vùng

đất này, tên gọi này xuất hiện trong lịch sử dân tộc ta đã mấy thế kỉ và cũng đã

có biết bao thay đổi về đơn vị hành chính và phạm vi lãnh thổ. Theo thư tịch cổ,

vào đầu thế kỉ XIX, ở Việt Nam xuất hiện tên đất Nam Kỳ với nghĩa là đất kỳ

phụ (gần kinh kỳ) ở phía Nam. Nó xuất hiện bằng văn tự khi nhà Nguyễn định lệ

treo cờ và bắn súng ở đài Trấn Hải, nằm ở phía bắc cửa biển Thuận An, xây năm

Gia Long thứ 12 “Các hạng thuyền ghe công sai vận tải tầm thường như Nam

Kỳ tự Quảng Nam đến Bình Thuận, Bắc Kỳ tự Quảng Trị đến Ninh Bình, bang

thuyền đi lại đều không phải treo cờ bắn súng” [80, tr.21]. Lúc đầu nhà Nguyễn

chia Nam Kỳ từ Quảng Nam đến Gia Định thành 12 tỉnh hạ. Đến năm Minh

Mạng thứ 13 (1832), Nam Kỳ gồm 6 tỉnh (Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Long,

Định Tường, An Giang, Hà Tiên) nên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh hay Lục Tỉnh.

[80, tr.393-394, 418-419]. Về sau thời Pháp thuộc, địa danh Nam Kỳ được

người Pháp quan niệm khác. Nam Kỳ bắt nguồn từ tiếng Pháp là Cochinchine,

tên này được giải thích theo nhiều nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, giả thuyết phổ

biến nhất là tên gọi Cochin hay Cocin gốc từ Coci là phiên âm của chữ Giao

14

Chỉ. Để tránh nhầm lẫn với thành phố cảng Cochi của Ấn Độ, người phương

Tây thêm hậu tố chine/china (Trung Hoa), ý nói Cochin gần Trung Hoa. Từ

Cochinchine (hoặc các biến thể Cocinchina, Cauchinchina, Cochinchina) ban

đầu dùng để gọi toàn bộ Việt Nam. Đến đầu thế kỉ XVII, khi Trịnh - Nguyễn

phân tranh, nước Việt Nam phân đôi thành Đàng Trong, Đàng Ngoài, thì

Cochinchine được dùng để chỉ Đàng Trong, còn Tokin chỉ Đàng Ngoài. Về sau

Cochinchine được dùng để chỉ Nam Kỳ, khi đó An Nam dùng để chỉ Trung Kỳ.

Tên Nam Kỳ được Pháp dùng lại khi thực hiện chính sách cai trị, chia cắt Việt

Nam thành ba miền và áp đặt bộ máy hành chính thuộc địa. Theo đó tên Đông

Nam Kỳ cũng xuất hiện dùng để chỉ vùng đất thuộc Nam Kỳ của Việt Nam, sau

Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tên gọi Nam Kỳ được thay thế bằng Nam Bộ

[14, tr.156].

Tên gọi Đông Nam Bộ lần lượt dùng để chỉ các vùng đất khác nhau, theo

sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1765 -1825) thì Gia Định

thuộc khu vực sao Khiên Ngưu, sao này có 6 ngôi, có lẽ vì thế mà triều Nguyễn

chia Nam Bộ làm 6 tỉnh và thường gọi là Nam Kỳ lục tỉnh. Trong quá trình Pháp

thực hiện cuộc xâm chiếm Việt Nam, Nam Bộ có 6 tỉnh: Biên Hòa, Gia Định,

Định Tường (Miền Đông), Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (Miền Tây). Sau khi

chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp đã xóa bỏ cách phân chia địa giới hành

chính cũ của triều Nguyễn, đặc biệt là sau khi xác lập sự thống trị hoàn toàn trên

phạm vi toàn cõi Việt Nam. Việc gọi Nam Kỳ (và Trung Kỳ, Bắc Kỳ) theo một

nghĩa hoàn toàn khác, gắn với việc Pháp thực thi chính sách thuộc địa đối với

Nam Kỳ và chế độ bảo hộ đối với Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Việc phân chia Nam Kỳ

thành Miền Đông, Miền Tây lúc này mới trở thành chính thức. Trong thời kỳ

Pháp thuộc, Biên Hòa được chia thành ba tỉnh là: Biên Hòa, Bà Rịa và Thủ Dầu

Một; Gia Định chia làm bốn tỉnh là: Gia Định, Chợ Lớn, Long An và Tây Ninh

[14, tr.158].

15

Thoạt đầu là miền Đông dùng để chỉ bốn tỉnh: Tây Ninh, Thủ Dầu Một,

Biên Hòa và Bà Rịa, khi Pháp đổi từ “hạt” hay “tiểu khu” thành “tỉnh” vào năm

1900. Năm 1951, Ủy ban Kháng chiến – Hành chính Nam Bộ (thuộc chính

quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) chia Liên khu Nam Bộ thành 2 phân liên

khu. Trong đó phân liên khu Miền Đông gồm 5 tỉnh: Gia Định Ninh (Gia Định

và Tây Ninh), Thủ Biên (Thủ Dầu Một và Biên Hòa), Bà - Chợ (Bà Rịa – Chợ

Lớn), Mỹ Tho và Châu Long Sa [14, tr.157]. “Năm 1954, liên tỉnh ủy Miền

Đông đã tiến hành tách lập các tỉnh trực thuộc gồm 7 tỉnh: Tân An, Chợ Lớn,

Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa, Tây Ninh và Gia Định” [61, tr.65]. Tháng 7

năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập Khu ủy Miền Đông Nam Bộ và

bộ chỉ huy lực lượng vũ trang giải phóng Đông Nam Bộ (quân khu Miền Đông

Nam Bộ), căn cứ khu ủy và sở chỉ huy quân khu đóng tại Suối Linh chiến khu Đ

[14, tr.157].

Năm 1957, khu vực này mang tên Miền Đông Nam phần, đại diện bởi

Tòa Đại biểu Chính phủ cho 13 tỉnh thành: Đô thành Sài Gòn, Gia Định, Tây

Ninh, Bình Dương, Bình Long, Phước Long, Phước Thành, Hậu Nghĩa, Biên

Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy và Long An. Khu vực này là một đơn

vị hành chánh của Việt Nam Cộng hòa [141].

Năm 1963, đơn vị Miền Đông Nam phần bị xóa bỏ tuy danh từ này vẫn

thông dụng, chỉ định khu vực địa lý.

Từ năm 1966 - 1975, Miền Đông Nam phần bao gồm 12 tỉnh thành: Đô

thành Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Long, Phước Long, Hậu

Nghĩa, Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy và Long An.

Năm 1975, miền Đông gồm 4 tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh (tỉnh Gia

Định, Đô thành Sài Gòn và 1 phần tỉnh Hậu Nghĩa), Sông Bé (gồm tỉnh Bình

Dương, Bình Long và Phước Long), Tây Ninh, Đồng Nai (gồm Biên Hòa, Long

Khánh và Phước Tuy). Tỉnh Bình Tuy cũ nhập vào tỉnh Thuận Hải thuộc miền

Trung, tỉnh Long An nhập vào Miền Tây Nam Bộ [141].

16

Năm 1991, miền Đông Nam Bộ gồm 5 tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh,

Tây Ninh, Sông Bé, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Đến năm 1997, miền

Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Bình Dương,

Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu [141].

Ngày nay, Đông Nam Bộ là một trong 8 vùng địa lý của Việt Nam, là một

trong hai phần của Nam Bộ. Vùng Đông Nam Bộ có 5 tỉnh và một thành phố:

“Bao gồm thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tây

Ninh, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu” [103, tr.176]. Đông Nam Bộ cận kề với

3 vùng Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long;

đây là vùng đầu mối giao thông thuận tiện về đường bộ, đường thủy, đường sắt

và đường hàng không với nội địa và nước ngoài. Cũng vì vị trí này, mà ông cha

ta xưa đã rất có lý khi chọn Đông Nam Bộ làm vùng đất đứng chân đầu tiên

trong quá trình Nam tiến.

Như vậy, việc xác định vùng Đông Nam Bộ kể trên có căn cứ lịch sử dựa

trên sự phân chia theo địa lý, hành chính. Vào cuối năm 1990, khi quy hoạch

tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ từ năm 1997 đến năm

2010, “có 3 tỉnh bổ sung vào vùng này là Lâm Đồng, Bình Thuận và Ninh

Thuận” [145]. Tuy nhiên đây chỉ là sự sắp xếp phục vụ cho việc quy hoạch phát

triển vùng kinh tế - xã hội, chính vì vậy, đôi lúc tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận

được xếp vào vùng Nam Trung Bộ, tỉnh Lâm Đồng được xếp vào vùng Tây

Nguyên [14, tr.159].

Theo tài liệu của tổng cục thống kê trước đây (và một số ít khác dựa theo

tài liệu của Tổng cục thống kê) xếp hai tỉnh thuộc Nam Trung Bộ này vào miền

Đông Nam Bộ. Nhiều người cho rằng sự sắp xếp này là thiếu thuyết phục cả về

mặt địa lý cũng như lịch sử. Xét về mặt địa lý, ranh giới giữa Nam Bộ và Trung

Bộ đi theo vệt hướng Bắc Nam là hợp lý, nếu ghép Bình Thuận, Ninh Thuận vào

Đông Nam Bộ thì sẽ có một vùng ăn sâu về phía Đông là không hợp lý. Xét về

mặt lịch sử, thì tỉnh Bình Thuận (bao gồm cả phủ Ninh Thuận) chỉ được xếp vào

17

Nam Bộ trong khoảng một năm (1883 -1884) sau đó trả về cho Trung Bộ cho tới

nay. Hiện tổng cục thống kê, trong mục đơn vị hành chính đã xếp Ninh Thuận,

Bình Thuận vào nhóm Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, tách biệt với

Đông Nam Bộ. Hiện nay đa số sách báo, trong đó có cả sách giáo khoa, từ điển

bách khoa Việt Nam, từ điển bách khoa quân sự Việt Nam đều xếp Bình Thuận

và Ninh Thuận vào vùng duyên hải Nam (hoặc cực nam) Trung Bộ [14, tr. 160].

1.1.2. Về điều kiện địa lý, tự nhiên

Về điều kiện địa lý, Đông Nam Bộ nằm phía Đông Bắc của Nam Bộ, phía

Bắc và phía Tây giáp Campuchia, phía Nam và Tây Nam giáp đồng bằng sông

Cửu Long. Phía Đông Bắc giáp với Tây Nguyên; phía Đông và Đông Nam giáp

với Nam Trung Bộ và biển Đông.

Về địa hình, vùng Đông Nam Bộ nằm ở tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông. Địa

hình Đông Nam Bộ là một dải đất cao hơi lượn sóng chuyển tiếp từ cao nguyên

Nam Trung Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long, đây là vùng đồng bằng đồi lượn

sóng thoải và đồi thấp bóc mòn (Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai) chuyển dần

lên cao nguyên badan dạng vòm (Lộc Ninh, Phước Long - Bình Phước). Địa

hình cao dần từ Tây Nam lên Đông Bắc, độ cao phổ biến giao động từ 5m đến

200m, bề mặt địa hình bị chia cắt yếu và nghiêng dần từ Đông Bắc đến Tây

Nam, ở miền này rải rác có một số ngọn núi đơn độc vươn cao trên đồng bằng,

các ngọn núi này cao dưới 1000m như: núi Chứa Chan cao 387 m, Gia Kiệm cao

831m (Đồng Nai), núi Bà Rá cao 736 m (Bình Phước), núi Bà Đen cao 986 m

(Tây Ninh), núi Ông cao 284,6 m, núi Cậu cao 155m (Bình Dương), núi Dinh

cao 504 m, núi Mây Táo cao 704 m (Bà Rịa – Vũng Tàu)…

Vùng Đông Nam Bộ trải dài từ 105049’ đến 107035’ kinh độ đông và từ 10020’ đến 12017’ vĩ độ bắc, diện tích toàn vùng là 23.563,5 km2, Đông Nam Bộ

chiếm khoảng 20.3% tổng diện tích đất Việt Nam. Đây là vùng tương đối bằng

phẳng, ít bị chia cắt và nhận bức xạ mặt trời ở mức cao nhất Việt Nam (hơn 130Kcal/cm3/ năm) nên đây là vùng thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Vì thế,

18

cư dân Việt khi đến đây vào cuối thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVII đã có thể chọn

đây làm địa điểm dừng chân, khai phá và tồn tại ở vùng đất mới này.

Vùng này có một hệ thống sông chính chảy qua là hệ thống sông Đồng

Nai. Ngoài ra, nơi đây còn có một mạng lưới kênh mương chằng chịt. Sông

Đồng Nai là con sông lớn thứ hai của miền Nam Việt Nam, diện tích lưu vực tới 40 nghìn km2, lưu lượng bình quân 982 m3/s, tổng lượng dòng chảy đạt tới 31 tỉ m3 [102, tr.326]. Sông Đồng Nai dài 850 km, bắt nguồn từ cao nguyên

Langbiang (Đà Lạt – Lâm Đồng) do hai nhánh Đa Dung và Đa Nhim hợp thành.

Sông Đồng Nai còn được tiếp nước từ một phụ lưu khác là sông La Ngà từ cao

nguyên đổ xuống nên có nhiều ghềnh thác. Ở đoạn uốn khúc giữa đồng bằng,

sông Đồng Nai tiếp nhận thêm nước của Sông Bé rồi hội lưu với sông Sài Gòn

tại Nhà Bè. Từ đây sông thông ra biển bằng nhiều nhánh (lớn nhất là sông Lòng

Tàu), chảy qua vùng rừng Sác rồi đổ ra biển ở vịnh Đồng Tranh và vịnh Rành

Gái.

Sông Đồng Nai chảy qua các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Bình Phước,

Đồng Nai, Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh. Các phụ lưu chính của sông

này gồm sông Đa Nhim, Sông Bé, Sông La Ngà, sông Sài Gòn, sông Đạ Hoai và

sông Vàm Cỏ. Sông Đồng Nai hợp lưu với sông Sài Gòn thành sông Nhà Bè,

cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 5km về phía Đông Nam. Sông

Nhà Bè chảy ra biển Đông qua 2 ngả chính: sông Soài Rạp và sông Lòng Tàu.

Sông Soài Rạp dài 59 km, rộng trung bình 2 km, lòng sông cạn, tốc độ dòng

chảy chậm, đổ vào vịnh Soài Rạp tại cửa Soài Rạp (rộng 2000 – 3000m, sâu 6-

8m) ở huyện Cần Giờ. Sông Lòng Tàu đổ ra vịnh Rành Gái, dài 56 km, bề rộng

trung bình 0,5 km, lòng sông sâu, trung bình 12m, có nơi tới 29m, sông có độ

sâu và chiều rộng lý tưởng cho những tàu bè có trọng tải hàng chục ngàn tấn lưu

thông từ biển vào cảng Sài Gòn. Các phân lưu của sông Đồng Nai không chỉ có

sông Lòng Tàu, Sông Ngã Bảy, sông Soài Rạp (sông Soi), sông Đồng Tranh,

sông Thị Vải…mà còn hệ thống sông Vàm Cỏ bao gồm Vàm Cỏ Đông và Vàm

19

Cỏ Tây. “Vàm Cỏ Đông chảy qua Phước Vinh, Gò Dầu Hạ (Tây Ninh) qua Trà

Cú, Bến Lức (Hậu Nghĩa – Long An), còn Vàm Cỏ Tây chảy qua giữa hai tỉnh

Đồng Tháp và Long An, qua Mộc Hóa, Tân An để sau đó hai dòng gặp nhau tại

Xóm Giềng (nằm giữa Tân Trụ và Cần Giuộc) thành Vàm Cỏ Lớn, đổ ra biển

cùng sông Đồng Nai (sông Nhà Bè) ở cửa Soài Rạp” [107, tr.58].

Một phần mạng lưới sông, suối trong vùng chịu ảnh hưởng chế độ bán

nhật triều, mỗi ngày, nước lên xuống hai lần, theo đó thủy triều xâm nhập sâu

vào các kênh rạch nhỏ, tác động không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp cũng như

giao thông. Khi triều lên dòng nước chảy ngược. Nhờ thủy triều mà dòng sông

sâu, thuyền lớn có thể ngược hai sông Vàm Cỏ đến biên giới Việt – Campuchia,

ngược sông Đồng Nai đến Biên Hòa, ngược sông Sài Gòn đến Bình Dương...

Nói chung, các con sông thuộc hệ thống sông Đồng Nai tạo thành mạng lưới

giao thông đường thủy của các tỉnh miền Đông Nam Bộ cũng như góp phần tạo

nên những vùng đất đai màu mỡ, trù phú có thể trồng cây ăn quả như Tân Triều,

Lái Thiêu…

Hệ thống sông Đồng Nai phù sa không nhiều lắm, do đó không đủ để bồi

đắp cho những cánh đồng hai bên sông Đồng Nai, Sài Gòn, Vàm Cỏ Đông, Vàm

Cỏ Tây. Tuy nhiên, cả 4 con sông lớn này đều đổ dồn về một hướng với tốc độ

chậm dần, tạo nên sự hội tụ phù sa ở các cửa sông, chúng được thủy triều bồi,

đắp cát thành những gờ cao ở ven biển, chặn phù sa các sông ngòi, luồng lạch

tạo thành vùng ngưng đọng sình lầy ở bên trong, tạo nên quá trình hình thành

vùng rừng Sác. Quá trình vận động của những con nước biển Đông diễn ra trong

điều kiện nóng ẩm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đó là điều kiện để

thảm thực vật đặc biệt nảy sinh ở vùng các cửa sông, với các loài cây nước mặn,

có bộ rễ phát triển như xú vẹt, mắm, đước…Đó là vương quốc của các loài cá

tôm và loài nhuyễn thể như trai ốc, sò, điệp…[107, tr.58]. Từ xa xưa chúng đã

phong phú, đa dạng trong vẻ hoang sơ thiên phú và lực lượng di dân người Việt

20

đã sớm nhận ra những điểm ưu việt của vùng đất này, nên đã chọn nơi đây làm

điểm dừng chân đầu tiên của mình trong quá trình mở đất phương Nam.

Vùng Đông Nam Bộ cũng có biển, bờ biển vùng Đông Nam Bộ thuộc các

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Biển Vũng Tàu

giáp Bà Rịa và huyện Long Điền, nằm trên bán đảo cùng tên và có cả đảo Long

Sơn. Nhìn theo hướng Bắc Nam, Vũng Tàu nằm ở khúc quanh đang đổi hướng

từ Nam sang Tây của phần dưới chữ S (bản đồ Việt Nam) và nhô hẳn ra khỏi đất

liền như một dải đất có chiều dài khoảng 14 km và chiều rộng khoảng 6 km. Lại

thêm biển Cần Giờ, giáp tỉnh Đồng Nai ở phía Bắc, giáp biển Đông ở phía Nam,

giáp tỉnh Tiền Giang và Long An ở phía Tây, và giáp với tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu ở phía Đông. Như vậy, vùng biển Đông Nam Bộ không chỉ là ngư trường

rộng, hải sản phong phú mà còn là đường giao thông kết nối với các tỉnh lân cận

và thế giới bên ngoài.

Về thời tiết khí hậu, thời tiết của vùng Đông Nam Bộ có đặc điểm chung

của khí hậu Nam Bộ là nhiệt độ cao đều trong năm và có hai mùa là mùa mưa và

mùa khô rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11, còn mùa khô từ tháng

12 tới tháng 4 năm sau nhưng do cận biển, nên khí hậu của vùng này mang tính hải dương, điều hòa, nhiệt độ trung bình hàng năm từ khoảng 26 - 270C, nóng nhất là vào tháng 4 (khoảng 280C), mát nhất là vào đầu tháng 5 và cuối năm (khoảng 250C).

Khác với trung du và miền núi phía bắc có một mùa đông lạnh, phân hóa

theo độ cao, khí hậu Đông Nam Bộ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu

mang tính chất cận xích đạo và ít bị thiên tai. Vì vậy, nơi đây trở thành nơi trú

chân lý tưởng cho lớp cư dân mới vào cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII.

Đông Nam Bộ chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây –

Tây Nam và Bắc Đông Bắc. Gió Tây – Tây Nam là từ Ấn Độ Dương thổi vào

tốc độ trung bình 3,6m/s vào mùa mưa, gió Bắc – Đông Bắc từ Biển Đông thổi

vào tốc độ trung bình 2,4m/s vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió tín phong theo

21

hướng Nam - Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, tốc độ trung bình

3,7m/s, có thể nói Đông Nam Bộ thuộc vùng không có gió bão. Cũng như lượng

mưa, độ ẩm không khí ở đây lên cao vào mùa mưa – 80%, và xuống thấp vào

mùa khô – 74,5%, trung bình độ ẩm không khí là 79,5%.

Với đặc điểm thời tiết khí hậu nêu trên nên miền đất Đông Nam Bộ có vô

số rừng với nhiều loại gỗ qúy như cẩm lai, mua, sao, sến… phân bố khắp các

tỉnh thành.

Tóm lại, Đông Nam Bộ có địa hình đa dạng, nổi bật với những núi thấp,

đồi cao, rừng thường xanh, bờ biển dài, dòng sông lớn …cùng với điều kiện tự

nhiên thuận lợi, mưa thuận gió hòa là vùng đất làm ăn lý tưởng đối với cư dân

nông nghiệp. Nhất là trong giai đoạn cuối thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVII, những

điều kiện này có sức hút mạnh mẽ đối với những lưu dân người Việt đang khao

khát tìm cho mình một vùng đất mới, một vùng đất đem lại cho họ một cuộc

sống no đủ hơn, khấm khá hơn.

1.2. Về lịch sử - dân cư

1.2.1. Đông Nam Bộ trước công nguyên

Các nhà khảo cổ học trong và ngoài nước từ trước và sau 1975 đến nay đã

phát hiện trên vùng đất Đông Nam Bộ nhiều di tích khảo cổ học và lưu vực sông

Đồng Nai là nơi tập trung nhiều di chỉ nhất. Một số phát hiện khảo cổ học còn

cho thấy sự tồn tại của văn hóa Sa Huỳnh với những nét riêng ở vùng Đông

Nam Bộ, đó là thời kỳ phát triển rực rỡ của nền văn minh thời đại kim khí ở phía

Nam. Từ đó, các nhà khoa học đã nhận định: trên địa bàn Đông Nam Bộ từ thời

tiền sử đã có con người sinh sống.

Theo tác phẩm Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long thì những

cư dân cổ đã mở rộng địa bàn hoạt động trên khắp vùng đất cao Đông Nam Bộ

và xâm nhập vào vùng châu thổ sông Cửu Long. “Đó là vùng đất đỏ bazan

Đồng Nai, vùng đất đỏ bazan Sông Bé, vùng đất phù sa ven hạ lưu sông Đồng

Nai và vùng đất xám ven triền sông Vàm Cỏ Đông” [8, tr.58].

22

Trên vùng đất đỏ bazan Đồng Nai có một số di chỉ tiêu biểu như sau:

Vào những năm 1968 – 1971, nhà địa chất học người pháp E. Saurin đã

công bố những phát hiện đá cũ của ông tại hai địa điểm Hàng Gòn 6 và Dầu

Giây 2. Tiếp đó cho đến nay, nhất là từ năm 1975 đến nay, các nhà khảo cổ học

Việt Nam đã phát hiện thêm đến 14 điểm có công cụ thuộc thời đại đá cũ, phần

lớn nằm trên 3 huyện Xuân Lộc, Thống Nhất, Tân Phú của tỉnh Đồng Nai,

nhưng nhiều nhất là huyện Xuân Lộc nên Xuân Lộc còn được coi là tên gọi

chung cho thời đại đá cũ ở Nam Bộ Việt Nam.

Vùng Phú Hòa, Dầu Giây – Xuân Lộc cũng là nơi có nhiều di tích mộ

chum, di chỉ đồ đá cũ do các nhà địa chất Pháp E. Saurin, H. Fontaine phát hiện

cho thấy sự lan tỏa của văn hóa Sa Huỳnh vào rất sâu vùng Đông Nam Bộ, các

di tích mộ chum Sa Huỳnh thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt.

Cuối năm 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện ra di chỉ Cầu

Sắt (Xuân Lộc). Di chỉ Suối Chồn gần di chỉ Cầu Sắt được phát hiện vào năm

1978, thuộc thời đại đồng thau. Năm 1984, nhân lúc đi làm rẫy người dân đã

phát hiện một “kho” vũ khí đồng (qua đồng), rìu đồng ở Long Giao (Xuân Lộc)

có mối liên hệ với văn hóa Đông Sơn, đây là điểm cao của văn hóa Đồng Nai

[14, tr.171].

Di chỉ Phước Tân, nằm ở phía Đông trên đường Biên Hòa – Vũng Tàu, tại

cây số 42, có nhiều công cụ đá (2596). Các di vật của di chỉ này có niên đại C14

từ 2.300 đến 3.100 năm (tính từ năm 1950).

Trong những năm 1886 – 1890, Holbe đã thu thập ở Biên Hòa nhiều hiện

vật tiền sử cùng với một số hiện vật ở 20 nơi khác trong vùng Đồng Nai, trong

đó có 10 rìu đồng.

Năm 1980, trong một lòng ao ở Vũng Tàu đã phát hiện một trống đồng

Đông Sơn có sao 12 cánh ở giữa mặt trống.

Ở Dầu Giây, Suối Đá (Xuân Lộc) và Phú Hòa, các nhà khảo cổ học đã

phát hiện có các hiện vật như: chuỗi thủy tinh, hoa tai đồng, các mộ chum mai

23

táng đặc trưng của nền văn hóa Sa Huỳnh, chứng tỏ văn hóa Sa Huỳnh đã phát

triển ở vùng Đông Nam Bộ trên địa bàn lưu vực sông Đồng Nai [14, tr.172].

Cũng tại vùng này, năm 1927 một di tích cự thạch độc đáo tình cờ được

phát hiện bởi Jean Bouchot- kỹ sư người Pháp- khi ông đang chủ trì công trình

mở đường từ Long Khánh, Xuân Lộc đi Bà Rịa trong địa phận của một đồn điền

cao su (hiện nay di tích này được gọi là di tích mộ cổ Cự Thạch Hàng Gòn,

thuộc xã Hàng Gòn, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai). Mộ cổ cự thạch cho

thấy con người lúc ấy đã nắm được kỹ thuật luyện sắt, các cộng đồng người ấy

đã liên minh lại, các quốc gia sơ khai hình thành trên cơ sở nền nông nghiệp

phát triển và các công trường thủ công đã có quy mô nhất định. [14, tr.166],

[54, tr.13].

Tại vùng đất đỏ bazan Sông Bé, vào những năm 50 của thế kỉ XX, trên

khu vực tỉnh Bình Phước và phía Đông Campuchia, L. Malleret phát hiện 18

công trình đất đắp hình tròn (6 vòng trên đất Campuchia, 12 vòng trên tỉnh Bình

Phước). Những công trình này có tính chất phòng ngự dạng tròn gồm 2 vòng

tường đất đắp đồng tâm cao khoảng 2m và đường kính trung bình 100 – 200m,

với hào sâu bao quanh. L. Malleret đã liên hệ với những di tích đồng dạng (với 1

hoặc nhiều vòng thành tròn) ở Madagasca, đông bắc Thái Lan, ở cánh đồng

Chum (Bắc Lào) và những loại thành đắp đất ở Trảng Bàng (Tây Ninh). L.

Malleret giả thiết rằng: chủ nhân của những di tích đồ sộ này có quan hệ huyết

tộc với người bản địa hoặc người Chàm cổ mà sự tồn tại của họ muộn nhất cũng

vào thời kỳ trước khi Angkor hình thành [54, tr.14].

Công cuộc khảo cứu di tích đất đắp hình tròn còn được J. Carbonnel tiếp

tục và năm 1962, B.P.Groslier khai quật trên vòng đất đáp hình tròn ở Mimot

(thuộc tỉnh Công Pông Chàm của Campuchia), ông đã cho rằng đây là di chỉ đá

mới quan trọng nhất Đông Nam Á có tuổi khoảng 4000 năm, tiêu biểu cho một

truyền thống văn hóa riêng biệt của khu vực “văn hóa Mimot” [127, tr.66].

24

Trong đợt khảo sát gần đây nhất, tháng 12 năm 1999, Nguyễn Trung Đỗ

đã phát hiện thêm 6 vòng đất hình tròn trên tỉnh Bình Phước, thuộc các huyện

Bình Long, Phước Long và Lộc Ninh [119, tr.426].

Trên vùng đất phù sa ven hạ lưu sông Đồng Nai có những di chỉ tiêu biểu:

Di chỉ Cầu Sắt – Suối Linh, đây được xem là biểu tượng về giai đoạn phát

triển sớm nhất của thời đại kim khí của vùng đất này. Di chỉ này có “niên đại

đoán là 2500 - 3000 năm trước công nguyên, được coi là biểu thị cho giai đoạn

sớm nhất trong truyền thống văn hóa Đồng Nai” [41, tr.129].

Di chỉ Bình Đa đã được Hamy E.T., J.Chesneaux, L.Malleret nói tới song

đến năm 1979 mới được khai quật. “Ở đây thu được 155 rìu tứ giác, 284 rìu vai,

2 đàn đá và hơn 200 mảnh đàn đá khác, có niên đại khoảng 1230 trước công

nguyên” [41, tr.129].

Di chỉ Cù Lao Rùa (khoảng thiên niên kỷ II trước công nguyên), thuộc xã

Thạnh Phước, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, nằm giữa dòng sông Đồng

Nai. Đây là một trong số các di tích khảo cổ tiền sử ở lưu vực sông Đồng Nai

được nhắc tới nhiều nhất. Thậm chí một số nhà nghiên cứu đề nghị gọi văn hóa

Cù Lao Rùa làm tên chung cho các di tích văn hóa khảo cổ thời tiền sử vùng

Đông Nam Bộ [14, tr.169 -170].

Di chỉ Dốc Chùa thuộc xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Di

tích này được phát hiện năm 1976, đã được khai quật khảo cổ học 3 đợt trong

các năm 1976 – 1979, đến năm 2009, di chỉ này được tiến hành khai quật lần thứ

4, các hiện vật tìm thấy ở di chỉ này rất đa dạng. Di chỉ này được xem: là một di

tích rất phong phú, tiêu biểu của văn hóa sông Đồng Nai, một trong những di

tích đồng thau phong phú nhất của nước ta với niên đại vào khoảng 3.000 –

2700 năm và có thể kéo dài muộn hơn đến khoảng 2.500 năm, thuộc giai đoạn

kim khí phát triển vào khoảng cuối thời đại đồng – đầu thời đại sắt [128, tr.

218]. Điều này chứng tỏ Đông Nam Bộ thực sự là một trung tâm văn hóa lớn

thời đại kim khí bên cạnh các trung tâm Đông Sơn ở miền Bắc Việt Nam, Sa

25

Huỳnh ở miền Trung. Trung tâm kim khí này có đặc trưng văn hóa riêng, có sức

mạnh phát triển nội tại mạnh mẽ theo một truyền thống riêng của cộng đồng cư

dân tiền sử Đông Nam Bộ.

Di chỉ khảo cổ học Mỹ Lộc (còn có tên khác là Gò Đá, Gò Chùa), ngày

nay thuộc địa phận xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Mỹ Lộc là di

tích thời đại đá mới được biết đến vào loại sớm nhất ở miền Đông Nam Bộ.

Năm 1889, T. V. Holbé đã phát hiện ra di tích, thu được 60 hiện vật đá [128,

tr.139]. Năm 2004, di tích Mỹ Lộc được khai quật, kết quả đã thu được hơn 60

nghìn mảnh gốm, nhiều công cụ đá như cuốc, rìu, đục, dao; công cụ chế biến; đồ

trang sức… đặc biệt là đã tìm thấy đàn đá [128, tr.160].

Như vậy, hiện vật bộ đàn đá ở Bình Đa (Đồng Nai) và Mỹ Lộc (Bình

Dương) chứng tỏ đàn đá không những có ở Tây Nguyên, mà còn có ở các làng

của các cư dân sống dọc sông Đồng Nai ở Đông Nam Bộ.

Gần đây trong vùng này, ở di tích Suối Cái (xã Phú Chánh, huyện Tân

Uyên, tỉnh Bình Dương) còn phát hiện được cả di chỉ cư trú và mộ táng: trong

đó có 4 trống đồng, có thể coi là trống đồng Đông Sơn, 1 gương đồng Tây Hán

và 7 ngôi mộ chum mà áo quan chum giống kiểu Sa Huỳnh được làm bằng gỗ

sao, bằng kỹ thuật khoét rỗng thân cây cổ thụ, nắp đậy bằng trống đồng, thực sự

là một phát hiện khoa học có giá trị quý hiếm [41, tr.129]. Giới khảo cổ học cho

rằng: Phú Chánh đóng góp tư liệu mới về táng thức của cộng đồng cư dân tiền

cổ và sơ sử [14, tr.172].

Ở thành phố Hồ Chí Minh, có di chỉ Bến Đò (Thủ Đức) có niên đại 3.040

±140 [14, tr.164]; ở Sài Gòn khi đào móng xây dựng nhà thờ lớn (Đức Bà) đã

phát hiện di cốt người trong các chum, vò gốm. Đây là phát hiện sớm nhất các

mộ chum, trước cả sự phát hiện mộ chum ở Sa Huỳnh ở miền Trung mà sau này

được gọi là văn hóa Sa Huỳnh [14, tr.172].

Vùng đất xám ven triền sông Vàm Cỏ Đông cũng là địa bàn cư trú của

người tiền sử. Các di chỉ - nơi cư trú ở vùng này thường nằm trên thế đất cao

26

ven sông, hình thành lối cư trú dọc theo tuyến sông, dài hàng chục cây số. “Trên

đất Tây Ninh có di chỉ Gò Ông Dinh, Gò Chùa Cao Sơn…Trên đất Long An có

di chỉ Lộc Chánh (cũng gọi là Lộc Giang), di chỉ An Sơn (cũng gọi là Núi Đất),

di chỉ Động Canh Nông…” [8, tr.68]. Đây là một kiểu xây dựng nơi cư trú độc

đáo của cư dân Đồng Nai vùng này.

Ngoài 4 vùng kinh tế - dân cư nói trên, thì cư dân cổ Đông Nam Bộ cũng

đã đến ngụ cư, sinh sống ở cùng ven biển và vùng ngập nước, sình lầy.

Tại vùng ven biển, theo phát hiện của khảo cổ học thì có 2 di chỉ là “Cái

Vạn (Long Thành – Đồng Nai ) và một ở Gò Cát (Thủ Đức – Thành phố Hồ Chí

Minh)” [8, tr.70].

Tại vùng đầm lầy có các di chỉ tiêu biểu như Bưng Bạc (Châu Thành –

Đồng Nai), ND11 (nông trường Lê Minh Xuân – Thành phố Hồ Chí Minh) và

Rạch Núi (Cần Giuộc – Long An).

Thông qua các di chỉ khảo cổ học, các nhà khoa học cho rằng: con người

xuất hiện trên vùng đất Đông Nam Bộ từ khá sớm, ước chừng 3000 – 4000 năm

trước. Vào thời điểm ấy, vùng này có nhiều nhóm dân cư cổ từng sinh sống và

hoạt động trong một môi trường văn hóa trải dài suốt từ thời kỳ đồ đá cho đến

thời kỳ kim loại (các nhà khoa học gọi họ là cư dân Đồng Nai), họ đã biết sản

xuất nông nghiệp và bắt đầu chuyển từ vùng đất cao tiến tới chinh phục vùng đất

thấp của vùng. Lúc bấy giờ con người ở đây có cuộc sống hết sức tự do, khoáng

đạt, không có lãnh thổ quốc gia, không có địa giới hành chính và cũng chưa có

khái niệm về vùng đất Đông Nam Bộ.

Hiện nay, các nhà khảo cổ cho rằng chủ nhân của các di tích trên là cư

dân thuộc dòng Austronesian Nam Đảo, tổ tiên của người Stiêng, Mạ,

Chơro…ngày nay [14, tr.173].

Người Stiêng có nhiều tên gọi như: Xêđiêng, Xa – tiêng, Satiêng Ray.

Tiếng nói của họ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme, có nhiều nét rất gần với

tiếng nói của người H’nông, người Cơ ho, người Chơ ro, người Mạ và người

27

Khơme láng giềng. Họ có nhân thể khỏe mạnh, nhanh nhẹn, thích săn bắn và

sinh hoạt vũ trang. Loại hình kinh tế truyền thống của người Stiêng ở miền

Đông Nam Bộ, là loại hình canh tác rẫy trên vùng cao nguyên và trong những

cánh rừng già nhiệt đới. Đây là một nền nông nghiệp quảng canh trên rẫy với

trình độ kĩ thuật canh tác thô sơ (phát rừng, đốt rẫy và chọc lỗ tỉa hạt giống).

[120, tr.420]. Trang phục của người Stiêng khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn

ông đóng khố…người Stiêng để tóc dài, búi đằng sau gáy, có xâu lỗ tai, đeo hoa

tai bằng gỗ hoặc ngà, xăm mặt, xăm mình với những nét hoa văn hình học đơn

giản, tục cà răng đã không còn nữa. Người Stiêng hiện nay sinh sống chủ yếu ở

các tỉnh như Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai và Bình Dương.

Người Mạ hay còn gọi là người Châu Mạ, Chê Mạ. Hiện nay họ sinh sống

chủ yếu ở các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai , Lâm Đồng, Đắk Lắk, trong đó ở

huyện Bảo Lộc (Lâm Đồng) là tập trung đông nhất. Tiếng nói của họ thuộc

nhóm Môn – Khơme nhưng cũng có một số nhà nghiên cứu lại cho là thuộc

nhóm Austronesia. Họ làm lúa rẫy, song cũng biết làm lúa nước, thạo nghề dệt

vải có hoa văn đẹp, biết làm nghề rèn sắt, làm thuyền độc mộc khéo, ở nhà sàn

dài, xưa cũng có tục cà răng và xâu lỗ tai lớn. [17, tr.150]

Theo địa chí tỉnh Bà Rịa ấn hành năm 1902, nhà đương cục nhận xét dân

tộc Mạ là dân tộc văn minh hơn các dân tộc thiểu số khác trong tỉnh Biên Hòa

và tỉnh Thủ Dầu Một. Họ ở rừng núi nhưng không quen săn bắn, thì có lẽ trước

kia họ sinh sống ở bình nguyên chứ không phải người bản địa ở núi rừng từ lâu

đời.

Theo một số tác giả dân tộc học như Bình Nguyên Lộc, Beurette…phỏng

đoán dân tộc Mạ ở đồng bằng Nam Bộ và đã có lúc thành lập vương quốc. Hình

như sau khi bị Phù Nam đô hộ và chịu ảnh hưởng khá đậm nét của Phù Nam,

người Mạ rút dần về vùng đồi núi, rừng rậm, đầm lầy nằm suốt từ bờ biển Bình

Thuận tới trung và thượng lưu sông Đồng Nai [17, tr.151].

28

Người Chơro hay còn gọi là Châu Ro, tên tự gọi là Chau Jro. Chau có

nghĩa là người và Jro là danh xưng cộng đồng của họ, thuộc nhóm ngôn ngữ

Môn-Khmer. Có nhiều tư liệu cho rằng, người Châu ro là một bộ phận của cộng

đồng người Mạ chịu ảnh hưởng của văn hóa Chăm và Raglai. Người Châu Ro

có tầm vóc nhỏ hơn người Stiêng, họ sinh sống và lao động chủ yếu ở vùng đồi

núi, thạo nghề đan lát mây tre, lá buông, lá cọ. Hiện nay, người Chơro cư trú chủ

yếu ở Đồng Nai, một số ít ở Bình Thuận, Bình Dương và Bình Phước [8, tr.196]

Theo địa chí tỉnh Sông Bé, khi lưu dân người Việt tới khai khẩn miền

Đông Nam Bộ, chưa phân biệt được các tộc người nên gọi chung các tộc người

này là Man (hay gọi nôm na là Mọi). Địa chí cũng cho biết thêm: có nhiều lý do

để nghĩ rằng các dân tộc nhỏ - mà người Việt Nam gọi chung là Mọi – đều là

những dân tộc bản địa bị đẩy lên rừng và đồi núi, trước bước tiến văn minh Việt

Nam…Nhận định đó hàm chứa ý kiến cho rằng các dân tộc nhỏ nói tiếng Môn

Khơme, đặc biệt là các dân tộc lai hoặc theo ít nhiều văn minh Khơme, xưa kia

đã sinh sống cả ở đồng bằng Nam Bộ lẫn Tây Nguyên, rồi lần hồi thiên cư hết

về hướng Tây Nguyên, kể từ khi người Việt đến khẩn hoang, lập ấp ở các vùng

đất thấp trước [17, tr.149].

Như vậy, từ năm 1886 đến nay, trên khắp miền Đông Nam Bộ rất nhiều di

chỉ được phát hiện. Các di chỉ này gắn liền với tên tuổi các nhà khảo cổ học

trong và ngoài nước. Qua những di vật khảo cổ đã tìm thấy tại các di chỉ, các

nhà nghiên cứu khẳng định: từ khoảng thiên niên kỉ thứ hai trước công nguyên,

con người đã có mặt tại vùng đất thuộc Đông Nam Bộ ngày nay. Các hiện vật

khảo cổ tuy chưa nhiều lắm, nhưng qua đó có thể hình dung vùng Đông Nam Bộ

xưa kia đã từng có dấu vết người sinh sống, biết săn bắt, đánh cá, làm nông

nghiệp, với công cụ sản xuất kim khí, biết làm đồ gốm…; tạo nên bộ mặt tinh

thần, nghệ thuật phong phú; xác lập quan niệm về sự sống và cái chết, về thế

giới bên kia, sự tích hợp của đời sống vật chất và tinh thần của người cổ Đông

Nam Bộ đã phản ánh một tổ chức xã hội mang tính nhân bản và văn hóa cao.

29

Hiện nay, các nhà khảo cổ học cho rằng chủ nhân của nhiều di chỉ đồ đá ở lưu

vực sông Đồng Nai là cư dân thuộc dòng Austronesian Nam Đảo, tổ tiên trực

tiếp của người Mạ, Chơro, Stiêng ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên ngày nay.

Những cư dân này đã làm nên một nền “Văn hóa tiền sử Đông Nam Bộ”, nền

văn hóa này đủ sức tiếp nhận và bản địa hóa các yếu tố văn hóa ngoại nhập ở

giai đoạn tiếp theo trong quá trình hình thành nền văn hóa Óc Eo [128, tr.218].

1.2.2. Đông Nam Bộ từ công nguyên đến trước thế kỉ XVII

Từ công nguyên cho tới trước khi chúa Nguyễn thiết lập quyền lực của

mình ở vùng Đông Nam Bộ, vùng đất này thuộc lãnh thổ của vương quốc Phù

Nam và sau đó thuộc về Chân Lạp.

Vương quốc Phù Nam ra đời từ đầu công nguyên, chủ nhân của vương

quốc Phù Nam là người Malayo – Polynesian (Mã Lai- Đa Đảo).

Cư dân Phù Nam được đánh giá là một cộng đồng cư dân đa chủng tộc, đa

ngôn ngữ và đa văn hóa, là kết quả của một quá trình hỗn chủng, hòa hợp về

văn hóa và ngôn ngữ và điều đó đã tạo nên tính bản địa của cư dân Phù Nam

trong lịch sử tồn tại (của mình). Loại hình Indonesian mà con cháu họ ngày nay

vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở Đông Dương thuộc các khu vực Trường Sơn –

Tây Nguyên. Những cư dân thuộc chủng Indonesian hẳn đã là chủ nhân ưu thế

của vương quốc Phù Nam và có liên hệ huyết thống khá chặt chẽ với tộc người

sinh sống ở khu vực hải đảo nam Thái Bình Dương, trong đó có các nhóm

Malayo – Polynesian [42, tr.63]. Đây là nhóm nổi trội và chiếm ưu thế. Đặc

điểm của cư dân này được xác định là tóc quăn, da đen và có những nét văn hóa

cơ bản như: ở trần, xăm mình, sử dụng gạch trong các kiến thức đền tháp và

chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ nhưng phát triển với sắc thái riêng của mình.

Họ là chủ nhân của nền văn hóa Óc Eo nổi tiếng.

Từ thế kỉ III đến thế kỉ VI, Phù Nam phát triển thành một đế chế lớn

mạnh, chinh phạt và thu phục được nhiều thuộc quốc, “chiếm hơn 10 nước, mở

rộng đất đai hơn 5, 6 ngàn hải lý”, lãnh thổ rộng lớn, bao gồm cả vùng Trung,

30

Nam Lào, Nam Bộ và một phần Trung Bộ của nước ta ngày nay. “Phía nam

(Phù Nam) giáp vịnh Thái Lan, phía bắc giới hạn bởi sông Mun (chảy qua vùng

Ubon – Thái Lan), phía đông giáp biển Đông, phía tây bao gồm hạ lưu sông Mê

Nam và một phần bán đảo Mã Lai” [72, tr.21], nhưng lãnh thổ cơ bản, địa bàn

ban đầu của vương quốc Phù Nam là miền tây sông Hậu và miền Nam Việt

Nam, “kinh đô đóng ở Angkor Borei” [68, tr.44], thuộc huyện Kirivông, tỉnh

Takeo, nay đổi thành tỉnh Kirivong của Campuchia, cách châu Đốc 30km.

Các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy văn hóa Óc Eo - nền văn hóa vật

chất của Phù Nam - có nguồn gốc bản địa, có quan hệ với văn hóa Sa Huỳnh và

chủ nhân là người Malayo – Polynesian (Mã Lai- Đa Đảo). Sự xây dựng nên

Phù Nam cũng do từ nhiều nguồn, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của

người cổ Nam Bộ. Vào những thế kỉ đầu công nguyên, người Đồng Nai trên cơ

sở kinh tế nông nghiệp, đã có một bộ phận tiến về phía nam để chinh phục vùng

châu thổ sình lầy sông Cửu Long. Đây cũng là thời kỳ một bộ phận cư dân Nam

Đảo tiến vào đất liền, chiếm cứ những dải đồng bằng ven biển, những cảng

biển, cảng sông hình thành những khu vực quần cư mới. Hai bộ phận dân cư

này đã tạo nên những khu cư dân trù phú trên nền tảng kinh tế nông nghiệp

truyền thống kết hợp mở mang nhiều ngành nghề thủ công, mở rộng hoạt động

thương mại, đặc biệt là nền thương nghiệp viễn dương [42, tr.65].

Cư dân Phù Nam thuộc văn minh nông nghiệp trồng lúa, các tư liệu của

cổ sử Trung Hoa đã nhiều lần nhắc đến nghề nông như một hoạt động kinh tế

chủ đạo của Phù Nam. Di chỉ khảo cổ học Óc Eo được L. Malleret khảo sát năm

1944 đã cho thấy có nhiều loại hình nông cụ, một hệ thống thủy lợi khá quy mô.

“Những cuộc khai quật khảo cổ học về sau này cũng góp phần làm sáng tỏ nông

nghiệp là hoạt động kinh tế hàng đầu của cư dân Phù Nam” [41, tr.314]. Kỹ

thuật canh tác lúa nước đã đạt trình độ khá cao, với hệ thống nông cụ, hệ thống

thủy lợi và các giống lúa, có giống lúa một lần gieo sau đó ba lần thu hoạch

đúng như cổ sử Trung Hoa đã ghi nhận: Tấn thư cho biết “ người đều đen đúa,

31

xấu xí, búi tóc, thân trần đi chân đất, tính chất phác, thẳng thắng, không trộm

cướp, theo nghề cày cấy trồng trọt, một năm trồng thu hoạch 3 năm” [68, tr.19].

Những thư tịch và khảo cổ học còn cho thấy hoạt động thủ công nghiệp

của vương quốc Phù Nam khá phát triển. Đó là các nghề chế tác gốm, kim hoàn,

mộc, chế tác đá, làm gạch, đóng thuyền…Những hiện vật tìm thấy trong di chỉ

Óc Eo và các cuộc khai quật khảo cổ học ở nhiều địa phương Nam Bộ đã thu

được một khối lượng lớn hiện vật là các sản phẩm thủ công hết sức phong phú,

từ các hiện vật gốm, gỗ, đá, cho đến kim loại như đồng, bạc vàng đã cho thấy

nghề thủ công của cư dân Phù Nam đã đạt đến một trình độ khá cao, họ đã làm

chủ được nhiều ngành kỹ thuật chế tác phức tạp.

Một bộ phận cư dân Phù Nam sống ở các đô thị, các khu vực ven biển lại

thiên về các hoạt động thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương. Óc Eo, theo các

nhà nghiên cứu là một trong những đô thị hải cảng lớn của Phù Nam, Óc Eo

từng là điểm dừng chân của các thuyền buôn ngoại quốc trên chặng đường Bắc -

Nam, Đông – Tây, nơi hội tụ các hoạt động thương mại trong và ngoài nước.

Những hàng hóa từ các nước châu Âu, Địa Trung Hải, từ Trung Hoa và các

nước Đông Nam Á như đồ thủy tinh, kim loại mỹ nghệ…được trao đổi với các

hàng thổ sản, các loại hương liệu, gia vị… của Phù Nam, thương mại đã góp

phần làm cho Phù Nam trở thành một cường quốc trong khu vực [41, tr.314].

Theo L. Malleret nhà khảo cổ học người Pháp, người đầu tiên khám phá

ra nền văn hóa này thì “Văn hóa Óc Eo có niên đại từ thế kỉ II đến thế kỉ VI; nó

đích thực là sản phẩm vật chất của nền văn minh của vương quốc Phù Nam và

hầu như là chỉ thuộc vương quốc đó” [8, tr.110].

Cho đến nay đã phát hiện nhiều di tích thuộc văn hóa Óc Eo. Nhìn vào

bản đồ di tích khảo cổ học có thể nhận ra địa bàn phân bố của văn hóa Óc Eo

khá rộng trên vùng đất Tây và Đông Nam Bộ nhưng tập trung chủ yếu ở miền

Tây sông Hậu, phân bố rất trù mật trên địa bàn các tỉnh Long An, Đồng Tháp,

An Giang, Kiên Giang và nhiều địa điểm khác thuộc đồng bằng Nam Bộ. Ở

32

miền Đông Nam Bộ, các di tích phân bố dọc sông Đồng Nai và các chi lưu của

nó. So với các tỉnh miền Tây Nam Bộ thì ở miền Đông Nam Bộ mật độ di tích

văn hóa Óc Eo có phần thưa hơn [5, tr.316].

Tại thành phố Hồ Chí Minh, khu di tích Cần Giờ được thiết lập ngay

trong vùng sình lầy nước lợ thuộc hai xã Cần Thạnh và Lý Nhân (thành phố Hồ

Chí Minh), nó gồm di chỉ của những quả gò đắp nổi bằng đất đỏ bazan, cao hơn mặt nước biển từ 1 – 3 mét, rộng trung bình 200 – 600m2, phân bố trên địa bàn

bao quát các cửa sông Ngã Bảy, Đồng Tranh, Soài Rạp và vịnh Gành Rái. Khu

di tích này dường như án ngữ lối đi vào nội địa theo các dòng sông Đồng Nai,

Sài Gòn, Vàm Cỏ…[8, tr.117]. Trên một số di chỉ như Giồng Am, Giồng Thị,

Giồng Cháy, Giồng Lá Buông Ông Hần, Giồng Bà Lưới… có những vật liệu

xây dựng (đất nung hình trụ tròn, trụ bốn cạnh, hình tháp); vật dụng sinh hoạt

gồm những mảnh gốm Óc Eo như ấm, hủ, ang, nồi, chai gốm, cà ràng…Những

hiện vật tìm được ở Giồng Am rất gần gũi với hiện vật tìm được ở Gò Đất (An

Giang), Cạnh Đền, Nền Chùa (Kiên Giang)…niên đại C14 của di tích Giồng

Am được xác định là 1665  40 năm cách ngày nay. “Có thể xem các di tích

loại hình Giồng Am ở Cần Giờ là một loại hình địa phương của văn hóa Óc Eo,

bản thân địa bàn cư trú, những loại hình gốm độc đáo được sản xuất tại chỗ đã

làm phong phú, đa dạng thêm cho nền văn hóa Óc Eo”[41, tr.169]. Ngoài ra, ở

những “Gò Nổi” này còn tìm thấy một số mảnh gốm thuộc truyền thống văn hóa

Đồng Nai, Sa Huỳnh…Đáng chú ý, ở đây chưa phát hiện những loại kiến trúc

kiểu nhà sàn, những kiến trúc bằng gạch đá hỗn hợp, những vật dụng đặc trưng

Óc Eo như đồ kim hoàn, đồ thiếc, đồ trang sức bằng đá quí, tượng tròn... “Khu

di tích Cần Giờ có thể là một cảng khẩu thời Óc Eo, nối liền với các điểm cư

dân khác ở vùng nội địa theo những đường sông rạch” [8, tr.117].

Trong nội thành thành phố Hồ Chí Minh, tại di tích chùa Phụng Sơn

(quận 11), các nhà nghiên cứu đã tìm thấy được những hiện vật của văn hóa Óc

33

Eo. Niên đại của di tích chùa Phụng Sơn được đoán định vào thế kỉ V sau công

nguyên [41, tr.169].

Trong khu vực hạ lưu sông Đồng Nai, các di tích, di vật văn hóa Óc Eo

phân bố rải rác trên địa bàn khá rộng. Tại ấp Đất Mới, xã Long Phước, huyện

Long Thành tỉnh Đồng Nai, có di tích Gò Chiêu Liêu, di tích Gò Ông Tùng. Đây

là những di tích thuộc loại hình kiến trúc gạch, dạng đền thờ đạo Hindu - Ấn Độ

giáo. Niên đại phóng xạ C14 của di tích là 1900 70 năm cách ngày nay (tức

vào khoảng thế kỉ I - II sau công nguyên).

Tại vùng hồ Trị An thuộc xã Cây Gáo, huyện Vĩnh Cửu có hai di tích kiến

trúc Cây Gáo I và II nằm cách nhau khoảng 60m theo hướng Bắc – Nam, bên tả

ngạn sông Đồng Nai. Hai di tích đều có bình đồ kiến trúc hình chữ nhật. Niên

đại phóng xạ cho kết quả 1700  45 năm cách ngày nay, tức vào khoảng thế kỉ

III sau công nguyên.

Những di tích kiến trúc ở Đồng Nai là những di tích dạng đền thờ của đạo

Hindu - Ấn Độ giáo, nó có niên đại khá sớm so với các di tích cùng thời ở Nam

Bộ. Kết cấu vật liệu xây dựng bằng gạch – gỗ (trong khi những ngôi đền đạo

Hindu ở Ấn Độ được xây dựng bằng đá hoặc xây bằng gạch mộc), có khả năng

là vết tích văn hóa Óc Eo mở đầu ở Nam Bộ trước khi hình thành cảng thị Óc

Eo. Theo cổ thư Ấn Độ, Trung Hoa thì hoạt động giao thương, trao đổi văn hóa

giữa cư dân thiên trúc Ấn Độ và cư dân vùng Đông Nam Á diễn ra khá sớm.

Khảo cổ học cũng phát hiện nhiều địa điểm nằm dọc theo duyên hải và cả trong

nội địa Đông Nam Á những sản phẩm giao thương có niên đại sớm nhất vào

khoảng thế kỉ IV – III trước công nguyên. Cảng thị Cần Giờ lúc ấy, là đầu cầu

giao lưu kinh tế - văn hóa quan trọng trong vùng Đồng Nai. Có lẽ kiến trúc dạng

đền thờ Hindu - Ấn Độ giáo được đầu tiên du nhập vào đây, sau đó chuyển về

miền tây Nam Bộ khi cảng thị Óc Eo hình thành. Vật liệu xây dựng kiến trúc

bằng gạch – gỗ là sản phẩm sáng tạo tại chỗ, kết hợp hai truyền thống bản địa và

ngoại nhập [65, tr.82].

34

Các di tích kiến trúc trong vùng Đồng Nai không phải là những công

trình sao chép nguyên bản của Ấn Độ mà nó được xây dựng bằng sự kết hợp hai

truyền thống văn hoá bản địa và văn hóa Hin-du. Trên thực tế chúng là những

ngôi đền Hindu giáo đã được bản địa hóa thích nghi với môi trường tự nhiên và

nhân văn trên đất Đồng Nai [65, tr.83].

Vùng đất phía Đông – Bắc đồng bằng Nam Bộ thuộc hạ lưu sông Đồng

Nai được xem là “Phù Nam nội địa”. Vào những năm 80 của thế kỉ XX, L.

Malleret phát hiện một địa điểm có tên là Bàu Thành hoặc Bàu Tượng thuộc tỉnh

Bà Rịa - Vũng Tàu, thu thập 2 con lăn bằng đá và nhiều mảnh gốm gần gũi với

gốm Óc Eo. Trên một quả đồi ở phía tây Bãi Dứa (Vũng Tàu), đã phát hiện một

kho đồ trang sức bằng vàng, bạc là những sản phẩm của văn hóa Óc Eo

[65, tr.81].

Di tích Bình Tả thuộc ấp Bình Tả, xã Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh

Long An được xem là một trong những di tích điển hình của nền văn hóa Óc Eo

ở Nam Bộ [41, tr.160].

Trong lúc Phù Nam phát triển thành một cường quốc về hàng hải của

Đông Nam Á và suy yếu dần vì các thay đổi về khí hậu và sự chuyển biến trong

các quan hệ bạn hàng trên con đường thương mại trên biển (trung tâm thương

mại trong vùng được chuyển từ Óc Eo qua vùng biển Malacca, ở phía nam bán

đảo Mã Lai từ thế kỉ thứ V), một tiểu quốc khác chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đã

củng cố quyền lực của mình ở vùng thung lũng trung du sông Mê Kông và đã

mạnh lên, phát triển thành một vương quốc độc lập, chinh phục các bộ lạc cổ

khác trên sông Sê Mun và tiến tới thôn tính luôn Phù Nam, đó là tiểu quốc Chân

Lạp – một thuộc quốc của Phù Nam. Năm 550, Bhavavarman I, vua Chân Lạp,

được em là Chitrasena giúp đỡ đã tiến chiếm kinh đô Đặc Mục (kinh đô Angkor

Borei), vua Phù Nam chạy xuống phía nam. Từ đó Bhavavarman I bắt đầu hợp

nhất từng phần lãnh thổ của Phù Nam với Chân Lạp. Năm 600, Chitrasena nối

ngôi anh tiếp tục mở rộng lãnh thổ. Năm 615, Isanavarman (con của Chitrasena)

35

lên làm vua. Khoảng năm 630, Isanavarman tiến chiếm Na Phật Na (đô thị cảng

Óc Eo), nước Phù Nam chấm dứt sự tồn tại từ thời điểm này.

Chủ nhân Chân Lạp là người Khơme, thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm Môn -

Khơ me, ở vùng lưu vực sông Sêmun chảy qua Ubon (Thái Lan), vùng nam Lào

và bắc Campuchia ngày nay. Bản thân họ không phải là người bản điạ của khu

vực đông nam quốc gia Phù Nam, họ đẩy dần người Phù Nam xuống phía nam

và đến thế kỉ thứ VII thì lãnh thổ của họ bao gồm toàn bộ lãnh thổ của vương

quốc Phù Nam cũ. Đây chính là sự thay đổi chủ quyền vùng đất này từ tay người

Malayo – Polynesian (Mã Lai – Đa Đảo) sang người Khơme (Nam Á).

Sau khi Phù Nam bị sụp đổ, vùng đất này được gọi là Thủy Chân Lạp.

Việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp hết sức khó khăn. Trước

hết, đây là vùng đồng bằng mới bồi đắp còn ngập nước và sình lầy, người

Khơme với dân số ít ỏi chưa thể tổ chức khai thác trên quy mô lớn. Hơn nữa,

việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp cũng còn đang đòi hỏi

nhiều thời gian và sức lực. Ngoài ra, vào nửa sau thế kỉ thứ VIII, quân đội của

người Java đã liên tục tấn công vào các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Kết

quả là Thủy Chân Lạp bị quân Java chiếm, cả vương quốc Chân Lạp gần như bị

lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi đến năm 802 mới kết thúc [42, tr.383].

Do thói quen sinh sống trên những vùng đất cao, cộng với những điều

kiện tự nhiên và lịch sử nêu trên, nên mặc dù sau khi Phù Nam sụp đổ, đã có

một bộ phân cư dân Chân Lạp di cư sang vùng châu thổ sông Cửu Long nhưng

số lượng không nhiều. Họ chỉ quần cư thành từng phum sóc trên các giồng đất

cao ven thềm các con sông cổ, ven biển hoặc ở xung quanh khu vực Bảy Núi.

Chủ nhân của vùng đất Đông Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung lúc bấy

giờ vẫn là lớp người sinh sống từ nhiều thế kỉ trên địa bàn này. “Không thể có sự

thay thế một cơ tầng cư dân bản địa bằng một lớp cư dân khác trên một vùng

đất rộng lớn có mật độ cao như vùng châu thổ sông Cửu Long sau một cuộc

chinh phục bằng quân sự. Hiện tượng thiên cư có những điều kiện sinh thái,

36

kinh tế và xã hội của nó”[29, tr.110]. Do đó, sau khi Phù Nam sụp đổ cũng như

các dân tộc khác trong vùng, những cư dân ở Đông Nam Bộ vẫn tiếp tục sinh

sống trên đất cũ của mình và chịu ảnh hưởng chính trị của Chân Lạp. Trung tâm

chính trị của Chân Lạp lúc bấy giờ là vùng Tonle Sap (Biển Hồ), nên có lẽ đời

sống xã hội của các dân tộc ở ở đây cũng không có những biến động nào sâu

đậm lắm. Phần lớn những lãnh chúa mới của họ, là những quý tộc có quan hệ

thân tộc với các vua Phù Nam cũ. Họ tiếp tục duy trì những truyền thống văn

hóa trong kỹ thuật thủy lợi, tôn giáo, nghệ thuật và tiếp thu những yếu tố mới

của Chân Lạp trong ngôn ngữ và định chế chính trị, đồng thời chịu ảnh hưởng

của Champa trong kiến trúc. Chính vì thế, họ tiếp tục là chủ nhân của các di tích

khảo cổ có niên đại từ thế kỉ VII đến thế kỉ IX trong khu vực Đông Nam Bộ,

thời kỳ văn hóa này được các nhà khảo cổ học gọi là thời kỳ “hậu Óc Eo”.

Trên khu vực Đông Nam Bộ những di tích và di vật thời kỳ này tương đối

phong phú, đặc biệt là các tỉnh Long An, Đồng Nai, Tây Ninh và thành phố Hồ

Chí Minh.

Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã tìm thấy các di tích: di tích chùa

Cây Mai, tại đây đã tìm thấy một tượng Visnu bốn tay tiền Angkor (thế kỉ VI-

VII đến cuối thế kỉ VIII) bằng sa thạch. Di tích rạch Lò Gốm: L.Malleret đã

quan sát được hai pho tượng bằng đá trong một nhà dân. Một trong hai hiện vật

là một tượng Lokesvara tiền Angkor, cao 0,68m không tính phần đế. Di tích

trường đua Phú Thọ: những ảnh chụp từ máy bay cho thấy dấu vết của một khu

cư trú cổ, gồm những đường thẳng đan chéo hình bàn cờ như những con đường

của một thành phố. L. Malleret đặt giả thuyết đó là một phần của thị trấn Prei

Nokor cổ [29, tr.94 - 96].

Trên địa bàn tỉnh Long An, có di tích Gò Rọc Chanh (xã Tân Thạnh,

huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An) còn gọi là Gò Ông Tà hoặc Gò Lớn. Cuộc

khai quật năm 1986 đã làm xuất lộ hai kiến trúc bằng gạch có dạng hình chữ

37

nhật gần vuông, niên đại được đoán định vào khoảng cuối thế kỉ VII đầu thế kỉ

VIII sau công nguyên.

Di tích Gò Năm Tước cũng gọi là Lò Gạch thuộc cụm di tích Bình Tả, xã

Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa. Di tích là một đền thờ chỉ còn lại phần móng,

thuộc loại kiến trúc gạch gỗ hỗn hợp. Niên đại kiến trúc được đoán định khoảng

thế kỉ VII – VIII sau công nguyên [127, tr.368].

Di tích Gò Sao (thế kỉ VII – VIII), thuộc xã Tân Phú, huyện Đức Hòa.

Cuộc khai quật năm 1987, đã làm xuất lộ một kiến trúc nhỏ xây bằng gạch. Di

tích này có niên đại đầu thế kỉ VIII sau công nguyên [127, tr.371].

Di tích Gò Trâm Quỳ, thuộc nhóm di tích Tho Mo, xã Hòa Khánh Nam,

huyện Đức Hòa. Cuộc khai quật năm 1987, đã làm xuất lộ một kiến trúc gạch

khá lớn. Những di vật tìm thấy bao gồm 1 linga – yoni nhỏ bằng thạch anh trong

suốt, một mảnh đầu tượng Ganesa, hạt chuỗi bằng đá quý, thủy tinh, 50 mảnh

vàng vụn, một công cụ bằng sắt nhiều viên cuội. Niên đại của di tích vào khoảng

thế kỉ VIII – IX [127, tr.372].

Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có di tích Đồng Bơ nằm trong cánh đồng

trũng thuộc xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu. Di tích Đồng Bơ thuộc loại kiến trúc

đền tháp, kết hợp giữa đá và gạch của Hin du giáo. Những di vật thu được có

đặc trưng của văn hóa Óc Eo – hậu Óc Eo, niên đại đoán định vào khỏang thế kỉ

VII – VIII sau công nguyên. Cùng niên đại với di tích Đồng Bơ còn có di tích

Bàu Sen (xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu), di tích Rạch Đông (xã Hố Nai 4,

huyện Thống Nhất), di tích Suối Ràng…Ngoài ra trên vùng thượng lưu sông

Đồng Nai còn có: di tích Nam Cát Tiên (xã Nam Cát Tiên, huyện Tân Phú), di

tích Đạ Lắk trong khu vực Vườn quốc gia Cát Tiên. Kiến trúc của hai di tích này

cơ bản giống nhau, mang đặc trưng của một kiến trúc hỗn hợp gạch đá, dạng

một đền tháp thuộc loại hình di chỉ khá phổ biến trong thời kỳ hậu Óc Eo vào

khoảng thế kỉ VII – VIII sau công nguyên [127, tr.369 - 370].

38

Theo những khám phá khảo cổ học, thì trong khoảng thế kỉ VII – VIII sau

công nguyên, trên đất cũ Tây Ninh có hàng trăm ngôi tháp bằng gạch mà ngày

nay chỉ còn thấy dưới dạng những phế tích được dân địa phương gọi là lò gạch

hoặc gò tháp mang tên Việt ngữ, Hán ngữ hoặc Khơme, Chăm… Di tích những

gò tháp này có diện phân bố khá rộng và thường quy tụ thành những quần thể có

số lượng từ vài ba gò đến hơn chục gò. Nhìn chung, các quần thể Gò Tháp đều

được dựng trên thềm đất xám phù sa cổ vững chắc, gần bờ sông Vàm Cỏ Đông

hoặc cạnh những con rạch, con sông nhỏ, có dòng chảy đổ ra sông lớn Vàm Cỏ

Đông…Những quần thể gò tháp ấy, vào thời bấy giờ, đều là những nơi thường

xuyên có các sinh hoạt thờ cúng của cư dân trong vùng, trong từng địa

phương…Ngày nay, phần lớn đều đã đổ nát, hoang phế, chỉ có hai địa điểm còn

lưu tồn kiến trúc tháp thờ tương đối vẹn toàn là tháp Chót Mạt có niên đại thế kỉ

VIII và tháp Bình Thạnh có niên đại vào khoảng thế kỉ VIII – IX sau công

nguyên [125, tr.80 - 81].

Từ thế kỉ IX đến cuối thế kỉ XII, Chân Lạp trở thành một quốc gia thống

nhất, cường thịnh, tạo dựng nên nền văn minh Angkor rực rỡ đồng thời mở rộng

lãnh thổ gồm cả một phần lãnh thổ của Chiêm Thành, các tỉnh Hạ và Trung của

Lào, các tỉnh phía Đông nước Xiêm, một phần đất Miến Điện và bán đảo Mã

Lai. Trong thời gian này, nhiều phong cách nghệ thuật trong điêu khắc và kiến

trúc đã hình thành và phát triển chuẩn bị cho những đại công trình Angkor Vat,

Angkor Thom, những đỉnh cao nghệ thuật của thời đại Angkor. Nhưng ở vùng

Đồng Nai – Gia Định, các di tích khảo cổ học, dấu tích của văn hóa Khơme và

văn minh Angkor trong giai đoạn này hết sức mờ nhạt [42, tr.384]. Những vết

tích văn hóa của thời kỳ này ở trên vùng đất Đông Nam Bộ không nhiều, chỉ rải

rác một số nơi như: di chỉ Gò Bường thuộc địa phận xã Long Phước, huyện

Long Thành, tỉnh Đồng Nai, có tên cũ là Nhà Mát hay Bàu Thành. Góc đường

Lê Hồng Phong (thành phố Hồ Chí Minh), di chỉ Ông Yệm, di chỉ Giồng Lớn

thuộc tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Chợ Lớn cũ.

39

Từ thế kỉ XII đến thế kỉ XIII, Chân Lạp lại rơi vào thời kỳ binh biến ở

phía đông, với những cuộc chiến triền miên giữa Chân Lạp và Champa. Tiếp

theo là các đợt xâm lăng của đế quốc Mông – Nguyên vào các nước Đông Nam

Á. Do đó ảnh hưởng chính trị và văn hóa của các triều đại Angkor ở Đông Nam

Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung là rất mờ nhạt.

Vào các thế kỉ XIV – XVII, do những mâu thuẫn giữa phong kiến Đại

Việt và Champa, giữa các vương quốc Thái và Chân Lạp đã đưa đến sự di cư

của một số cư dân Chăm đi xa hơn về phía nam, một số cư dân Khơme đi xa hơn

về phía đông, gây nên những tranh chấp mới giữa Champa và Chân Lạp. Vùng

hạ lưu sông Đồng Nai cũng là địa bàn tranh chấp giữa các tộc người bản địa với

người Chăm và người Chân Lạp. Vì thế, vùng Đông Nam Bộ trong giai đoạn

này về hình thức thì có thời nội thuộc Chiêm Thành, có thời nội thuộc Chân Lạp

– thuộc Thủy Chân Lạp. Nhưng dò theo danh mục 41 tỉnh hạng nhất, 7 tỉnh

hạng nhì, 5 tỉnh hạng ba, 3 tỉnh hạng tư của nước Chân Lạp những thưở đó,

không thấy ở đâu ghi rằng vùng Đồng Nai thuộc tỉnh nào. Nói rằng đây là đất

vô chủ thì không đúng hẳn; mà nói rằng đây là tỉnh huyện của Chân Lạp, Chiêm

Thành thì cũng không thật phải [29, tr.236].

Dưới thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, những cộng đồng người Việt đầu

tiên đến khai phá lập nghiệp ở vùng đất Đông Nam Bộ này và hoạt động khai

phá càng được đẩy mạnh vào cuối thế kỉ XVII. Song một tình trạng đáng ghi

nhận là khi người Việt đến thì nơi đây là một vùng hoang vu, hầu như không có

bóng người. Tình trạng hoang vu đầy rừng rậm của vùng đất này cho đến cuối

thế kỉ XVIII đã được Lê Quý Đôn mô tả trong Phủ Biên tạp lục như sau: “Phủ

Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển như Cần Giờ, Xoài Lạp, cửa Đại, cửa

Tiểu đi vào toàn là rừng rậm, rộng hơn ngàn dặm” [24, tr.255].

Cảnh quang này không khác mấy so với những mô tả của Chu Đạt Quan,

trong hồi ký Chân Lạp phong thổ ký sau chuyến đi sứ đến Chân Lạp vào năm

1296: Từ chỗ vào Chân Bồ trở đi, phần lớn là rừng thấp cây rậm, mây leo um

40

tùm, tiếng chim muông chen lẫn nhau ở đó. Đến nửa cảng mới thấy ruộng đồng

rộng rãi, tuyệt không có một tấc cây. Nhìn xa xa chỉ thấy cây lúa rờn rờn mà

thôi. Trâu rừng hợp thành từng đàn trăm ngàn con, tụ tập ở đấy. Lại có giồng

đất đầy tre dài dằng dặc mấy trăm dặm [75, tr.38].

Alexandre de Rhodes, một nhà truyền giáo phương Tây, đến vùng châu

thổ này vào thế kỉ XVI cũng đã nhận xét đây là một vùng đất “quạnh hiu, hoang

mạc và không có vật gì thuộc về sự sống” [42, tr. 366].

Sự hoang hóa của vùng đất Nam Bộ là do nhiều nguyên nhân, cả về điều

kiện tự nhiên lẫn xã hội. Một trong những nguyên nhân khá quan trọng, dẫn đến

sự hoang vắng gần như bỏ hoang ở khu vực này là xuất phát từ điều kiện khách

quan. Theo tác giả Đỗ Quỳnh Nga, trong “Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ thời

chúa Nguyễn” thì đó là đợt biển tiến quy mô cục bộ Holocene IV diễn ra vào

khoảng thế kỉ VI đến thế kỉ XII mà đỉnh cao là vào nửa đầu thế kỉ VII - một

trong những yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Phù Nam, tạo điều kiện cho Chân

Lạp chinh phục vương quốc này. Đây cũng là lý do khiến cho Chân Lạp tuy

chiếm được Phù Nam nhưng không thể khai thác phần trung tâm của vương

quốc này (Nam Bộ) vì phần đất này bị chìm trong biển nước. Đợt biển tiến đạt

đến độ cao 0,8m - 1m đã nhấn chìm trung tâm của Phù Nam là vùng đất Tây

Nam Bộ ngày nay. Chính vì thế sau đợt biển tiến, nơi đây chỉ còn những nhóm

người biệt lập sinh sống trên các cồn phù sa và giồng cát ven biển [64, tr.27].

Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học cho thấy sự thay đổi của tự nhiên đã

tác động rất lớn đến Phù Nam và tiếp theo là Chân Lạp. Sự suy yếu của Phù

Nam bắt nguồn từ sự hình thành các giồng cát ven biển và ven sông khiến các

vùng đồng bằng bị cô lập và ngập lụt. Bên cạnh đó, con đường giao thương

chuyển hướng đã khiến cho nền kinh tế Phù Nam ngày càng suy giảm. Sự thay

đổi chính thể giữa Phù Nam và Chân Lạp không gây ra những xáo trộn đột ngột

trong đời sống văn hóa xã hội, nhưng những thay đổi về điều kiện tự nhiên, kinh

tế và thương mại, hẳn đã góp phần khiến vùng đất Nam bộ bị phân liệt. Và đế

41

chế Khơme dù phát triển bành trướng sang nhiều vùng thuộc miền trung và

đông bắc Thái Lan, nam Lào thì chỉ có thể khống chế một số vùng của Nam Bộ

ở những thời điểm nhất định trong lịch sử mà thôi [42, tr.89].

Mặc dù vào đầu thế kỉ VIII, đã có chứng tích về sự hiện diện của người

Chân Lạp trên đồng bằng Nam Bộ nhưng người Khơme có thói quen sinh sống

trên vùng đất cao nên tình trạng chung của toàn vùng vốn có nhiều đầm lầy,

sông rạch của Phù Nam cũ, kể từ thời điểm đó đã bị bỏ thành hoang phế. Cũng

vào thời kỳ này, có lẽ đã diễn ra quá trình tan rã trong cơ cấu của nhiều cộng

đồng cư dân bản địa, do không thích nghi được với hoàn cảnh chính trị mới, do

sự hiện diện của tộc người Chân Lạp mới du nhập, do tình trạng chiến

tranh…các tộc người bản địa đã dần dần rời bỏ địa bàn sinh hoạt của họ, trở lại

vùng đất thưở xưa, tiếp tục với lối sống xưa của miền rừng núi mà hậu duệ của

họ hiện nay vẫn đang sống trên vùng đất nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ

như người Mạ, Châu Ro, Stiêng…Lúc này, ở vùng Đông Nam Bộ nói riêng và

Nam Bộ nói chung cây dại, cỏ hoang phát triển mạnh, cọp, voi, cá sấu cũng như

rắn rết, đĩa vắt, muỗi mòng sinh sôi nảy nở…

Ngoài ra, một nguyên nhân mang ý nghĩa quyết định đến sự hoang vắng

của Nam Bộ, chính là đặc thù của sự chuyển tiếp từ Phù Nam qua Chân Lạp đối

với vùng đất này.

Đều là những cư dân nông nghiệp nhưng phương thức sản xuất nông

nghiệp của Phù Nam và Chân Lạp hoàn toàn khác nhau. Người Phù Nam trồng

lúa nước đại trà, phải đương đầu với việc thoát thủy cho cả một vùng đất châu

thổ rộng lớn hơn là dẫn thủy nhập điền. Thương nghiệp đem lại một nguồn thu

nhập không kém phần quan trọng so với nông nghiệp. Người Chân Lạp trái lại,

quen khai thác đất đồi núi, lợi dụng nước thiên nhiên chảy theo sườn dốc. Họ

phải trữ nước mùa mưa để tưới ruộng vào mùa khô. Hai tập quán làm ruộng

khác nhau đó hiển nhiên đã tạo ra những dị biệt khá cơ bản trong lối sống của

hai dân tộc, đặc biệt về không gian sinh tồn và về tổ chức xã hội [42, tr.75].

42

Nếu như Phù Nam được biết đến như một “cường quốc thương nghiệp

viễn dương”, là một quốc gia chủ yếu mang bản sắc văn hóa Indonesian ở ven

biển và sống nhờ biển. Mở rộng vòng tay với một tầm nhìn quốc tế, Phù Nam

đón nhận mọi yếu tố văn hóa của các dân tộc từ đông sang tây, hội nhập vào thế

giới và trở thành một trung tâm văn hóa chung trong khu vực biển Đông thì

Chân Lạp là một quốc gia Khơme đơn thuần, khép kín trong vùng rừng núi cao

nguyên trung du sông Mê Kông, chưa từng biết đến biển cả, xa lạ với yếu tố

biển và sống nhờ vào nông nghiệp [64, tr.28].

Chính vì thế, dù đã chiếm được Phù Nam nhưng vì những biến động của

điều kiện tự nhiên tác động và do sự khác nhau về tập quán cư trú, phương thức

sinh hoạt kinh tế với Phù Nam nên người Chân Lạp không thể thích ứng với

vùng này. Ngoại trừ một số khu vực cao ráo nhỏ lẻ có số ít người Khơme sinh

sống thì phần lớn vùng Nam Bộ hầu như bị hoang phế.

Tiểu kết chương 1

Đông Nam Bộ là vùng đất tương đối bằng phẳng, màu mỡ, có nhiều sông

rạch, khí hậu ôn hòa, không có gió bão…nên từ xa xưa đã là nơi cư trú của các

cư dân cổ, họ là tổ tiên của các tộc người hiện đang sinh sống ở một số tỉnh ở

Đông Nam Bộ và Tây Nguyên như: Mạ, Stiêng, Mnông, Cơho…các tộc người

này đã xây dựng nên một nền văn hóa đầy bản sắc “văn hóa tiền sử Đông Nam

Bộ”. Từ đầu công nguyên, vùng đất này thuộc quyền cai quản của vương quốc

Phù Nam, chủ nhân của vương quốc này là cư dân Mã Lai - Đa Đảo kết hợp với

cư dân bản địa. Đến thế kỉ VII, do sự tiến chiếm của Chân Lạp nên vùng đất này

phụ thuộc Chân Lạp, chủ nhân là người Khơme. Người Khơme có thói quen

sống và làm ruộng trên những vùng đất cao, dân số ít, trung tâm chính trị của đất

nước họ lúc bấy giờ là ở Biển Hồ, trong khi vùng đất Nam Bộ nói chung và

Đông Nam Bộ nói riêng là vùng ngập nước nên số lượng người Khơme xuống

sinh sống trên vùng đất này rất ít, họ chỉ định cư rải rác trên một số vùng đất

cao. Từ thế kỉ VII đến thế kỉ XVII, do những chuyển biến trong cơ cấu dân cư;

43

do sự không thích ứng với điều kiện chính trị, kinh tế và văn hóa dưới thời Chân

Lạp; do tình trạng chiến tranh triền miên giữa Chân Lạp và Champa trên địa bàn

Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ; do những ảnh hưởng của các đợt tấn công của

đế quốc Mông Nguyên vào các nước Đông Nam Á vào thế kỉ XIII…nên vùng

đất Nam Bộ nói chung và Đông Nam Bộ nói riêng trở nên hoang hóa. Vùng đất

này, chỉ thay đổi hoàn toàn từ khi có mặt của lớp cư dân mới - di dân Việt vào

thế kỉ XVII. Từ chỗ là rừng rậm hoang vu, nơi đây dần dần trở thành những xóm

làng trù mật với những cánh đồng lúa xanh mát, những thị trấn, thị tứ sầm uất và

sau đó trở thành một bộ phận không thể tách rời của quốc gia Đại Việt.

44

Chương 2

QUÁ TRÌNH MỞ ĐẤT ĐÔNG NAM BỘ TRONG

THẾ KỈ XVII - XVIII

Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ trong thế kỉ XVII – XVIII, đã chịu sự chi

phối của nhiều yếu tố trong và ngoài nước. Trong nước chịu sự ảnh hưởng của

định hướng nhìn về phương Nam của các vương triều phong kiến Đại Việt, của

cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn và của công cuộc mở đất Nam Trung Bộ. Mặt

khác, những diễn biến trong khu vực cũng tạo ra những điều kiện khách quan vô

cùng thuận lợi để thúc đẩy việc mở mang Đông Nam Bộ. Cụ thể là sự suy yếu

của Chân Lạp cùng với những mâu thuẫn nội bộ và những biến động xung

quanh mối quan hệ giữa Xiêm La – Chân Lạp – Đàng Trong của Đại Việt.

Ngoài ra, ảnh hưởng của luồng thương mại quốc tế và chính sách mở cửa của

chúa Nguyễn ở Đàng Trong cũng tác động không nhỏ đến quá trình mở đất

Đông Nam Bộ.

2.1. Bối cảnh lịch sử

2.1.1.Tình hình trong nước

2.1.1.1. Công cuộc mở đất về phía Nam trước thời chúa Nguyễn

Nhìn về phía Nam là một định hướng phát triển mang tính chất truyền

thống của nhiều vương triều Đại Việt. Đó là một quá trình liên tục của nhiều

triều đại phong kiến trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, được bắt

đầu từ rất sớm. Nếu cuộc mở đất Nam Bộ thời chúa Nguyễn là khâu cuối cùng

để hoàn thiện công cuộc mở mang lãnh thổ Đại Việt, thì quá trình mở đất về

phía Nam trước chúa Nguyễn được xem là màn mở đầu.

Cương vực Đại Việt buổi lập quốc bao gồm miền Bắc và Bắc Trung Bộ

ngày nay, đất đai nhỏ hẹp lại luôn chịu sức ép từ Trung Hoa hùng mạnh từ phía

Bắc luôn lăm le xâm lược. Vì lý do sinh tồn nên các triều đại phong kiến Đại

Việt buộc phải tiến hành công cuộc mở mang lãnh thổ, phía đông nước ta là biển

45

cả, phía tây là núi rừng, giao thông hiểm trở nên chỉ còn một con đường duy

nhất là tiến về phía Nam. Mặt khác, Champa – chủ nhân vùng đất phía Nam - là

một vương quốc tuy không mạnh nhưng cũng thường hay chủ động đem quân

quấy nhiễu Đại Việt nên việc bình định, thu phục diễn ra cũng là điều thuận theo

quy luật lịch sử của chế độ phong kiến và mối quan hệ quốc tế lúc bấy giờ

“mạnh được yếu thua” trở thành nguyên tắc trong quan hệ giữa các nước.

Công cuộc mở đất về phương Nam của Đại Việt trước thời các chúa

Nguyễn diễn ra liên tục qua các triều đại, càng về sau quá trình ấy càng quyết

liệt và thể hiện rõ hơn bản chất của một nhà nước trong mục tiêu mở rộng lãnh

thổ.

Quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Nam được bắt đầu từ năm 1069 dưới

triều Lý (1010 -1225), khi vua Lý Thánh Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đi

đánh Chiêm Thành vì nước này không chịu triều cống. Kết quả, quân Champa

tan vỡ, tướng tử trận, vua bị bắt. Để được tha, “vua Chiêm Thành là Chế Củ đã

dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chánh để chuộc tội” [48, tr.197]. Châu Bố

Chính ngày nay thuộc tỉnh Quảng Bình, châu Địa Lý, Ma Linh thuộc tỉnh Quảng

Trị. Như vậy, đến thời Lý, lãnh thổ nước ta được kéo dài đến địa phận tỉnh

Quảng Trị ngày nay và phần đất được mở rộng ấy là phần lãnh thổ của nước

láng giềng ở phía nam - nước Champa.

Năm 1075, Lý Thường Kiệt cho đổi “châu Địa Lý làm châu Lâm Bình,

châu Ma Linh làm châu Minh Linh, chiêu mộ nhân dân đến ở đây” [48, tr. 201].

Năm 1104, Chiêm Thành đem quân chiếm lại 3 châu này nhưng ngay sau đó Lý

Thường Kiệt “đi đánh phá được, Chế Ma Na lại nộp đất ấy” [48, tr.207], Đại

Việt lại giành lại được 3 châu ấy.

Đến thời Trần, vào năm 1306, Đại Việt có thêm hai châu là châu Ô và

châu Lý (vùng đất từ Quảng Trị đến bắc sông Thu Bồn), do vua Chế Mân dâng

làm sính lễ trong cuộc hôn nhân ngoại giao với Huyền Trân công chúa. Sự kiện

này được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau: Trước đây vua Chiêm

46

Thành Chế Mân đem đất hai châu ấy làm lễ vật dẫn cưới, người các thôn La

Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo, vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý

của triều đình, chọn người trong bọn chúng bổ cho làm quan, lại cấp cho ruộng

đất, tha tô thuế cho 3 năm để vỗ về [48, tr.341].

Việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam cũng được tiếp tục dưới triều Hồ.

Năm 1402, Hồ Quý Ly cử đại binh chinh phạt Chiêm Thành và thắng trận,

Chiêm Thành phải dâng 2 châu Chiêm Động và Cổ Lũy (ngày nay Chiêm Động

thuộc nam Quảng Nam và Cổ Lũy thuộc bắc Quảng Ngãi) để cầu hòa. Hồ Quý

Ly lấy đất ấy lập ra 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và gộp làm lộ Thăng Hoa.

Điều này có nghĩa, đến thời Hồ lãnh thổ phía nam Đại Ngu được mở rộng đến

Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay. Nhưng khi nhà Minh cai trị thì khu vực

này bị Chiêm Thành chiếm lại, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi : Giáp Ngọ (1414)

(Minh Vĩnh Lạc thứ 12) “phủ Thăng Hoa tuy có đặt quan, nhưng Chiêm Thành

vẫn có trưởng lộ chiếm giữ, nên nhà Minh chỉ ghi tên không mà thôi”

[48, tr.471]. Tác giả Đào Duy Anh dựa vào Hoàng Minh thực lục và đưa ra bằng

chứng về điều này “năm Vĩnh Lạc thứ 13, tháng 11, vua nước Chiêm Thành là

Chiêm Ba Dịch Lai… lại xâm đoạt đất 4 châu 11 huyện thuộc phủ Thăng Hoa

đuổi cướp nhân dân”[2, tr.289]. Như vậy, nhà Minh đặt phủ Thăng Hoa từ năm

trước nhưng chưa kịp chiếm giữ thì Chiêm Thành đã chiếm lấy, đây cũng là lý

do về sau vua Lê Thánh Tông đích thân đem quân đi đánh Champa, để đòi lại

các vùng đất vốn đã thuộc về nước ta.

Đến thời Lê Sơ (thế kỉ XV), quá trình Nam tiến còn diễn ra quyết liệt hơn.

Năm 1470, để chấm dứt sự quấy phá của Champa (ngoài việc cướp lại Chiêm

Động và Cổ Lũy, Champa còn cầu viện quân Minh và xuất 10 vạn quân binh ra

cướp Hóa Châu), Lê Thánh Tông đem 26 vạn quân đánh Chiêm Thành. Năm

1471, Đại Việt đã lấy lại 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa bị mất trong thời gian

cai trị của nhà Minh. Ngoài ra, trong cuộc viễn chinh này, nhà vua đã lấy cả

vùng Vijaya – vùng kinh đô của Champa, nay là Bình Định- nhập vào Chiêm

47

Động và Cổ Lũy, lập ra một đạo mới gọi là đạo Quảng Nam. Như vậy, đến thời

điểm này lãnh thổ Đại Việt đã mở rộng đến Bình Định ngày nay.

Để dễ bề vỗ an dân chúng, nhà vua đã lấy người của nước Champa giữ

chức vụ cai quản, nhưng cũng nghiêm khắc trị những kẻ làm phản. "Hai châu

Đại Chiêm và Cổ Luỹ trước là đất của ta, đời gần đây bị mất vào đất Chiêm,

nay lấy lại được hết, đặc cách sai bọn các ngươi trấn giữ. Có kẻ nào không chịu

theo, cho giết trước rồi tâu sau" [48, tr.662].

Sau chiến thắng năm 1471, vua Lê Thánh Tông không rút hết quân về

nước như những lần trước đó, mà cho quân đóng tại Champa. Để phân tán sức

mạnh của Champa, vua Lê Thánh Tông đã chia nhỏ nước này thành 3 tiểu quốc

khác nhau: Champa (miền đất từ Đại Lãnh trở vào), Nam Bàn (sau trở thành 2

nước Thủy Xá, Hỏa Xá và ngày nay là vùng Tây Nguyên) và nước Hoa Anh

(vùng đất Phú Yên ngày nay) [64, tr.32].

Với mong muốn giữ yên bờ cõi nước nhà, nhất là vùng biên cương, tương

truyền rằng nhà vua đã cho khắc bia ở đỉnh núi cao nhất để phân định địa giới

giữa nước ta và Champa. "Chiêm Thành quá thử, binh bại, quốc vong. An Nam

quá thử, tướng tru, binh chiết" (Chiêm Thành qua đấy, quân thua nước mất, An

Nam qua đấy tướng chết quân tan) [30, tr.161].

Như vậy có thể khẳng định: đến triều vua Lê Thánh Tông, lãnh thổ nước

ta đã mở rộng vào phía nam đến núi Thạch Bi, đèo Cù Mông thuộc tỉnh Bình

Định ngày nay. Nhưng trên thực tế thì chính quyền của nhà Lê vẫn chưa được

thiết lập đến tận vùng đất này. Biểu hiện rõ nhất chính là việc vua Lê Thánh

Tông đã giao lại việc coi giữ các vùng đất này cho những tướng cũ của Champa.

Suốt khoảng thời gian dài sau đó, Đại Việt không mở rộng được lãnh thổ của

mình xuống phía nam trên phần lãnh thổ của Champa, mà duy trì mốc ranh giới

vua Lê Thánh Tông đã đặt ra. Điều này chứng tỏ rằng, vấn đề quan trọng với

chính quyền Đại Việt là bảo vệ biên cương, bờ cõi đất nước, còn vấn đề xâm

chiếm đất đai, mở rộng lãnh thổ chưa phải là vấn đề bức thiết và sống còn.

48

Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV, chính quyền Đại Việt đã mở rộng lãnh thổ

của mình xuống sâu vào lãnh thổ của Champa nhưng việc đưa dân đến khai

khẩn vùng đất này còn rất hạn chế, chưa được xúc tiến mạnh. Nhà nước chỉ để

các đạo binh đến đóng giữ, chiêu mộ một số ít dân khai khẩn, hàng năm thu thuế

và thúc giục dân bản xứ triều cống cho mình. Việc cai trị vùng đất này chủ yếu

giao cho người bản xứ đảm trách, chỉ đặt một viên quan biên trấn để trông coi

mọi việc và báo cáo tình hình về triều đình. Điều đó cho thấy Đại Việt không

phải vì mục đích di dân, chiếm đất của Champa mà vì chủ đích muốn thể hiện

cái uy của nước lớn, bắt các nước nhỏ bên cạnh mình phải thần phục và chịu

cống nạp cho Đại Việt, quan trọng hơn cả là việc giữ gìn biên cương, bảo vệ chủ

quyền, lãnh thổ của đất nước. Lúc đầu là tự vệ trước sự tấn công của Champa,

sau đó mới thừa thắng chiếm đất.

Sự thực chính sách di dân, chiếm đất của chính quyền Đại Việt chỉ bắt

đầu từ triều Hồ (1403- 1407), khi Hồ Hán Thương cho làm con đường thiên lý

từ Tây Đô (Thanh Hóa) chạy đến Hóa Châu. Sau đó lấy đất Chiêm Động, Cổ

Lũy phân ra bốn châu, đặt chức An phủ sứ và phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị vào

năm 1402. Đến năm 1403, Hán Thương “đem những người không có ruộng mà

có của đến miền các châu Thăng Hoa biên làm quân ngũ, các quan lộ, phủ,

châu, huyện phải chọn đất cho họ ở” [48, tr.438] và để những người này không

thể quay trở lại phía bắc khi gặp khó khăn, như vẫn thường xảy ra trong quá

khứ, nhà Hồ còn ra lệnh ai ở châu nào thì phải thích chữ tên châu ấy vào cánh

tay để làm dấu hiệu. Dù chỉ là một triều đại ngắn ngủi nhất trong lịch sử Việt

Nam, “nhà Hồ cũng đã đánh dấu một bước quyết định trong con đường Việt

Nam tiến về phía Nam, tạo một bầu không khí chung cho giai đoạn sau này”

[94, tr.28].

Như vậy, công cuộc mở mang lãnh thổ của các triều đại trước đã là tiền đề

và điều kiện thuận lợi cho các chúa Nguyễn trong việc tiếp tục mở đất về

phương Nam.

49

2.1.1.2. Trịnh - Nguyễn phân tranh

Ngay từ khi cuộc chiến Nam – Bắc triều còn đang tiếp diễn, trong nội bộ

Nam triều đã nảy sinh mầm móng chia rẽ. Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị

sát hại, vua Lê trao mọi quyền bính cho Trịnh Kiểm (con rể Nguyễn Kim), quan

hệ hai họ Trịnh – Nguyễn đến đây bị rạn nứt. Để thâu tóm mọi quyền lực, Trịnh

Kiểm tìm mọi cách loại bỏ ảnh hưởng của họ Nguyễn, mâu thuẫn giữa hai thế

lực đến độ gay gắt khi người con trai trưởng của Nguyễn Kim là tả tướng

Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm lập mưu giết hại. Em trai của Nguyễn Uông là

Nguyễn Hoàng, theo lời gợi ý của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đã nhờ chị gái là Ngọc

Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn thủ Thuận Hóa.

Cuối năm 1558, Nguyễn Hoàng đưa gia quyến, tùy tùng và họ hàng thân

thuộc ở huyện Tống Sơn vào Thuận Hóa. Năm sau, vùng Thanh Hóa, Nghệ An

bị lụt to, hàng trăm ngàn gia đình bị mất nhà cửa, mùa màng thất bát, nhân dân

đói khổ, nhiều người đã kéo nhau vào Thuận Hóa để tìm kế sinh nhai.

Khi Nguyễn Hoàng vào, đây còn là một vùng đất dân cư thưa thớt, kinh tế

kém phát triển, để lôi kéo nhiều người đến Thuận Hóa làm ăn sinh sống, Nguyễn

Hoàng và những người cộng sự của ông đã thực thi một chế độ cai trị khoan

hòa, khuyến khích sản xuất. Sách Đại Nam thực lục viết: “Chúa vỗ về quân dân,

thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, thường gọi là chúa

Tiên” [78, tr.28]. Hay “bấy giờ chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi,

nhân dân đều an cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền

buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn” [78, tr.31]. Chẳng

thế mà Lê Quý Đôn, một quan lại cao cấp của họ Trịnh, mặc dù lập trường đối

địch nhưng khi đánh giá về Nguyễn Hoàng cũng phải thừa nhận: “Nguyễn

Hoàng là người oai phong và mưu lược, xét việc thận trọng nên người ta không

thể lừa dối được. Hơn thế nữa (Nguyễn) Hoàng thi hành chính sự khoan dung

hòa nhã, tiết chế quân đội rất nghiêm minh và kính cẩn nên quân dân hai xứ đều

thân yêu tin phục ông” [23, tr.54-55].

50

Đối với triều Lê, Nguyễn Hoàng tỏ ra hết sức mềm dẻo, khiến cho họ

Trịnh không chút nghi ngờ. Sau 10 năm làm trấn thủ Thuận Hóa, năm 1570,

Nguyễn Hoàng được tin cậy giao cho kiêm lãnh trấn thủ cả xứ Quảng Nam (từ

đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông ngày nay).

Có trong tay quyền cai quản toàn bộ hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam,

nhưng Nguyễn Hoàng vẫn tiếp tục giữ vẻ bề ngoài hòa hiếu với chính quyền Lê

– Trịnh. Suốt nửa sau thế kỉ XVI, tổ chức chính quyền và khu vực hành chính

của Thuận - Quảng vẫn như cũ. Hằng năm, chúa Trịnh vẫn cử quan lại vào kiểm

tra, đo đạc lại ruộng đất, định ngạch thuế. Nguyễn Hoàng vẫn ra Thanh Hóa yết

kiến vua Lê, hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ. Thậm chí ông còn đưa quân

ra Thăng Long giúp vua Lê – chúa Trịnh đánh nhà Mạc vào năm 1593. Tuy là

thế nhưng ông cũng hết sức chú trọng phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực về

mọi mặt để thực hiện mục đích “cát cứ” của mình.

Khi cục diện Nam – Bắc triều kết thúc cũng là lúc mâu thuẫn giữa hai tập

đoàn Trịnh – Nguyễn đến ngày không thể dung hòa. Sau hơn 40 năm gây dựng

lực lượng, trước khi qua đời vào năm 1613, Nguyễn Hoàng đã nói rõ ý đồ của

mình với con cháu và thuộc hạ trong lời trăn trối: Đất Thuận Quảng phía bắc có

núi Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh Giang] hiểm trở, phía nam có núi

Hải Vân và núi Đá Bia [Thạch Bi sơn] vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá

muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để

chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời [78, tr.37]. Người

trực tiếp thực hiện lời di huấn ấy là Nguyễn Phúc Nguyên, con trai thứ sáu của

Nguyễn Hoàng.

Ngay sau khi thay cha làm trấn thủ vùng Thuận – Quảng, Phúc Nguyên đã

tích cực thực hiện lời di huấn của Nguyễn Hoàng. Ông cho sửa thành lũy, sắp

đặt lại hệ thống quan ải, cải tổ bộ máy cai trị và xưng quốc tính họ Nguyễn

Phúc. Năm 1614, 3 ty Đô, Thừa, Hiến theo thiết chế quân sự của hệ thống chính

quyền nhà Lê bị bãi bỏ, thay bằng ty Xá sai (coi việc văn án kiện tụng), ty

51

Tướng thần (coi việc trưng thu tiền thóc, phát lương cho quân các đạo) và ty

Lệnh sử (coi việc tế tự, lễ tiết và chi cấp lương hướng cho quân đội Chính dinh).

Năm sau (1615), quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các phủ, huyện

được ban hành. Năm 1618, chính quyền họ Nguyễn tiến hành đo đạc lại ruộng

đất hai xứ, làm cơ sở cho việc quản lý. Công khai hơn, là lấy cớ chúa Trịnh vô

cớ nổi binh (năm 1620, khi Trịnh Tráng sai đô đốc Nguyễn Khải đem 5000 quân

đến cửa biển Nhật Lệ để uy hiếp), Phúc Nguyên đã từ chối không nộp thuế cống

nữa [78, tr.38 - 40].

Khi Trịnh Tráng lên thay Trịnh Tùng, đã thi hành chính sách cứng rắn đối

với họ Nguyễn. Năm 1627, chiến tranh Trịnh – Nguyễn đã bùng nổ, chiến

trường chủ yếu diễn ra ở hai bên bờ sông Gianh, vùng Quảng Bình và Nghệ An,

Hà Tĩnh ngày nay. Trong vòng 45 năm, quân Trịnh đã 6 lần tấn công với quy

mô lớn vào Đàng Trong vào các năm 1627, 1633, 1643, 1648, 1661 và 1672.

“Nhìn toàn cục, lực lượng quân Trịnh mạnh hơn, có thời kỳ quân Trịnh đã huy

động tới 20 vạn quân thủy bộ với 600 chiến thuyền, 500 thuyền vận tải và 500

voi cho một trận đánh. Trong khi đó, quân đội thường trực của Đàng Trong chỉ

có khoảng 4 vạn bộ binh và 200 chiến thuyền” [66, tr.142]. Nhưng do phải điều

động quân đi xa và gặp rất nhiều khó khăn trước hệ thống lũy phòng ngự kiên cố

của quân Nguyễn nên quân Trịnh không lần nào giành được thắng lợi quyết

định. Năm 1655, quân Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài, cuộc chiến kéo dài 5 năm,

quân Nguyễn mới bị đẩy lùi khỏi đất Nghệ An. Sau 7 lần đánh nhau, có lúc đã

lôi kéo cả người nước ngoài vào cuộc mà kết cục không bên nào thắng bên nào.

Cả hai bên đều kiệt quệ về sức người, sức của nên cuối cùng phải chấp nhận

đình chiến (năm 1672), thỏa thuận lấy sông Gianh làm ranh giới tự nhiên của hai

miền. Vùng đất từ đèo Ngang trở ra bắc nằm dưới quyền cai trị của chính quyền

Lê – Trịnh gọi là Đàng Ngoài, vùng đất Thuận – Quảng được gọi là Đàng

Trong.

52

Nhìn bề ngoài thì đây là cuộc chiến tranh không phân thắng bại nhưng

nếu xét theo mục đích thì bên thất bại là chính quyền Lê – Trịnh. Họ Nguyễn đã

bước đầu thực hiện được ý đồ của mình trong việc tách Đàng Trong ra thành

một giang sơn riêng. Đây là điều kiện căn bản và khởi đầu cho công cuộc mở

đất tiếp tục ở vùng Nam Trung Bộ.

2.1.1.3. Công cuộc mở đất Nam Trung Bộ thời chúa Nguyễn

Từ thế kỉ XVI, việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam của Đại Việt mà trước

hết là của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong không chỉ vì bảo vệ chủ

quyền biên giới, chống lại các cuộc xâm lấn biên cương của Champa nữa, việc

mở rộng lãnh thổ đã trở thành một nhu cầu cấp thiết của Đàng Trong lúc bấy

giờ. Đến lúc này, ở phía nam, vương quốc Champa ngày càng suy yếu, trong khi

chúa Nguyễn muốn gây dựng một cơ đồ riêng vững chắc, đủ sức đối địch lại

chúa Trịnh ở Đàng Ngoài nên nhu cầu mở rộng lãnh thổ, xây dựng sức mạnh về

mọi mặt là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Trong bối cảnh phải có không gian

sinh tồn, quan niệm của vua Lê Thánh Tông thuở trước về giới hạn cương vực

đã không còn giá trị nữa. Chúa Nguyễn đã không chấp nhận viễn cảnh, vừa phải

chống đối với họ Trịnh ở Đàng Ngoài lại vừa phải lo đối phó với nước Champa

nhỏ yếu, đang trên đường suy vong nhưng không từ bỏ tham vọng giành lại

những vùng đất cũ đã mất. Nhất là khi họ xây thành trì ở phía nam nước Hoa

Anh và luôn muốn chiếm phần lãnh thổ của nước này. Chính vì thế Phú Yên

(vùng đất tiếp giáp với Thuận Quảng) trở thành điểm đến đầu tiên trong công

cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn.

Công cuộc khai phá vùng đất Phú Yên đã gắn liền với tên tuổi của Lương

Văn Chánh. Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh cầm quân

tiến vào Hoa Anh, vây đánh và hạ thành An Nghiệp - một trong những kinh

thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử của vương quốc Champa - đẩy họ về

biên giới cũ ở phía nam đèo Cả. Cuộc tấn công của Lương Văn Chánh và chính

quyền họ Nguyễn mới chỉ nhằm thiết lập lại trật tự cũ như đã có trước đó. Tuy

53

nhiên, Lương Văn Chánh đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào

khai khẩn vùng đất này, rãi rác từ hai phía nam đèo Cù Mông đến đồng bằng

sông Đà Diễn, vì dân cư ở đây thưa thớt. Biện pháp kinh tế này đã tạo sự ổn

định cho Hoa Anh, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để người Việt từ

Thuận Quảng vào vùng này ngày càng đông đúc. Trên cơ sở đó, vào năm 1597,

tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng có công văn lệnh cho Lương Văn Chánh

đem dân vào khai khẩn vùng đất Phú Yên. Công văn này thực chất là sự công

nhận thực tế “lưu dân đi trước nhà nước theo sau” – một quy luật trong quá trình

Nam tiến của người Việt [30, tr.174].

Năm 1611, nhân quân Champa sang cướp phá vùng biên giới và xâm

chiếm vùng đất Hoa Anh, Nguyễn Hoàng đã sai chủ sự Văn Phong đem quân đi

đánh dẹp, quân của Champa nhanh chóng bị đánh bại trước sức mạnh quân sự

của chính quyền chúa Nguyễn. Vua của Champa là Po Nit đã phải bỏ vùng đất

Hoa Anh rút quân về phía nam đèo Cả. Đến lúc này chúa Nguyễn mới chiếm

được hẳn vùng đất Hoa Anh (đất cũ của Champa), đặt làm hai huyện Đồng

Xuân và Tuy Hòa, hợp thành phủ Phú Yên, đóng quân để phòng giữ, do Văn

Phong làm lưu thủ. Đến đây, “Chúa Nguyễn đã có thêm một vùng lãnh thổ mới

và hoàn thành bước đi đầu tiên trong sự nghiệp Nam tiến của mình” [64, tr.46].

Năm 1653, đời chúa Nguyễn Phúc Tần, vua Chăm là Bà Tấm xâm lấn

vùng đất Phú Yên, Nguyễn Phúc Tần đã sai Cai cơ Hùng Lộc đem 3000 quân đi

đánh, đại phá quân Champa, sau đó thừa thắng đuổi Bà Tấm phải chạy dài và

chiếm được đất tới tận Phan Rang. Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân mang thư đến

xin hàng, chấp nhận địa giới mới là sông Phan Rang (sông Phan Lang), từ sông

Phan Rang trở ra thuộc chúa Nguyễn, từ sông Phan Rang trở vào thuộc Champa.

Nguyễn Phúc Tần đã đặt tên cho vùng đất mới là phủ Phú Khang và phủ Diên

Ninh, lại đặt Dinh Thái Khang (nay gồm tỉnh Khánh Hòa và một phần phía Bắc

tỉnh Ninh Thuận) giao cho Hùng Lộc trấn giữ và bắt vua Chăm hàng năm phải

cống nạp.

54

Sau sự kiện năm 1653, cương vực lãnh thổ của Champa chỉ còn từ sông

Phan Lang đến khoảng sông Dinh (Hàm Tân), tức đất đai của hai tỉnh Ninh

Thuận và Bình Thuận ngày nay. Theo Việt sử, người dân Chăm còn lại tập

trung sinh sống ở các vùng đồng bằng sông Phan Lang, sông Lòng Sông, sông

Phan Rí, sông Phú Hài, sông Phan Thiết và sông Phố Chiêm (Hàm Tân). Theo

giáo sư Lương Ninh trong tác phẩm Vương quốc Champa, thì từ lúc này

Champa đã thực sự suy yếu và “không còn là sự cản trở đường Nam tiến của

người Việt và của chúa Nguyễn nữa” [67, tr.244]. Chúa Nguyễn đã nhanh

chóng nắm lấy lưu vực sông Đồng Nai vốn từ lâu đời là đất sinh cơ lập nghiệp

của cư dân đồng tộc Chăm, rồi thuộc hẳn vào vương quốc Champa, nhưng nước

Chiêm Thành đã không còn có lực thực sự nắm được vùng này từ sau

năm 1471.

Thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), năm Nhâm Thân (1692), vua

Chăm là Bà Tranh đem quân đắp lũy, cướp giết nhân dân phủ Diên Ninh, quân

trấn thủ ở dinh Bình Khương báo lên chúa Nguyễn. Tháng 8, Chúa Hiển Tông

đã sai Cai cơ Lê Tài hầu Nguyễn Hữu Kính làm thống binh, Văn chức Nguyễn

Đình Quang làm tham mưu, đem quân Chánh dinh cùng quân Quảng Nam và

Bình Khương đi đánh. Tháng giêng năm sau (1693), quân Việt đánh bại được

quân của Champa, vua Bà Tranh bỏ chạy, quan quân chúa Nguyễn tiếp tục đuổi

bắt và đến tháng ba năm đó thì bắt được Bà Tranh cùng một viên quan là Tả Trà

Viên Kế Bá Tử và một người trong hoàng gia Chăm là Nàng Mi Bà Ân. Chúa

Nguyễn Phước Chu bèn sáp nhập nước Chăm vào bản đồ nước mình, đặt làm

một trấn, tên là Thuận Thành về sau đổi làm phủ Bình Thuận, cử một số quan

võ trấn giữ các điểm tụ cư của người dân Chăm, đồng thời cử một số người

trong hoàng tộc Champa làm quan cùng cai quản trấn Thuận Thành.

Sự kiện thất bại của vua Bà Tranh năm 1693 trong cuộc đối đầu với chính

quyền họ Nguyễn, đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong việc mở rộng

bờ cõi về phía Nam của chúa Nguyễn. Nước Champa sau 15 thế kỉ tồn tại và

55

phát triển đã không tồn tại với tư cách là một quốc gia riêng biệt mà trở thành

một phần lãnh thổ của chính quyền Đàng Trong, sau đó trở thành một tỉnh của

quốc gia Đại Việt. Một bộ phận đáng kể dân cư Chăm sinh sống hoà lẫn với

những di dân người Việt trên vùng đất của mình và dần trở thành một bộ phận

trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Có thể thấy mở đất về phía Nam là một xu thế vốn có của các triều đại

trước, bên cạnh đó sự ra đời của Đàng Trong cũng mang trong mình những đặc

thù riêng, chính những điều này đã dẫn đến yêu cầu mở mang lãnh thổ về phía

Nam của chúa Nguyễn trở nên thúc bách. Công cuộc mở đất Nam Trung Bộ

chính là hệ quả của việc đáp ứng những yêu cầu đó và là tiền đề quan trọng để

các chúa Nguyễn tiếp tục thực hiện mục tiêu “Nam tiến” ở vùng đất Đông Nam

Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung. Việc có được Nam Trung bộ đã tạo điều

kiện cho chúa Nguyễn có lực lượng hùng hậu và sẵn sàng, thuận tiện trong việc

mở đất Nam Bộ (điều binh sang can thiệp, giải quyết tranh chấp nội bộ giữa các

phe phái Chân Lạp hay các cuộc dẹp loạn của Đàng Trong đều huy động lực

lượng chính ở Nam Trung Bộ). Ngoài ra, việc có được Nam Trung Bộ đã để lại

bài học quý giá cho các chúa Nguyễn đời sau về việc sử dụng nguồn nhân lực

(nông dân nghèo, địa chủ, tù nhân, tù binh, binh lính…) trong cuộc mở đất

Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ sau này.

Như vậy, có thể hình dung công cuộc mở mang bờ cõi về phía Nam dưới

thời các chúa Nguyễn chia thành nhiều chặng: chặng 1 là mở mang vùng Nam

Trung Bộ (Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận), chặng 2 là mở

mang vùng Đông Nam Bộ và chặng cuối cùng là Tây Nam Bộ (Long An, Tiền

Giang, Bến Tre, An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên

Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau).

56

2.1.2. Tình hình khu vực

2.1.2.1. Sự suy yếu của Chân Lạp và mối quan hệ giữa Xiêm La – Chân

Lạp – Đàng Trong của Đại Việt

Sự suy yếu của Chân Lạp và những biến động xung quanh mối quan hệ

giữa Xiêm La – Chân Lạp – Đàng Trong của Đại Việt vào các thế kỉ XVII –

XVIII đã tạo ra thời cơ thuận lợi cho công cuộc mở đất Đông Nam Bộ.

Sau thời Angkor huy hoàng (802 – 1432), đến giữa thế kỉ XIV Chân Lạp

đã trở nên suy yếu. Nguyên nhân sâu xa của sự suy yếu này là do tiềm lực đất

nước bị vắt kiệt để xây dựng những công trình đồ sồ và tiến hành những cuộc

chiến tranh nhằm củng cố quyền lực và tranh giành lãnh thổ. Sự suy yếu này

càng trầm trọng hơn khi Chân Lạp phải thường xuyên đối phó với sự bành

trướng của Ayuthaya ở phía Tây, Ayuthaya là vương quốc của một bộ phận

người Thái, sống ở thượng nguồn sông Mêkông đã dần di chuyển xuống phía

nam và định cư ở sông Mê Nam. Năm 1349, vương quốc Ayuthaya đã đem

quân uy hiếp và bắt các quốc gia đồng tộc khác thần phục. Đến đây, Ayuthaya

trở thành một quốc gia thống nhất và bước vào thời kỳ phát triển thịnh vượng

của chế độ phong kiến Thái và đến năm 1767 thì đổi thành vương quốc Xiêm.

Xiêm là một trong những vương triều phong kiến mạnh ở khu vực, thực hiện

chính sách nước lớn. “Mở rộng lãnh thổ về phía Đông là một trong những mục

tiêu quan trọng của Xiêm lúc bấy giờ, vì vậy Xiêm đã trở thành mối đe dọa

thường trực đối với các nước trong khu vực, đặc biệt là Chân Lạp, Lạn Xạng

(Lào) và thậm chí cả Đại Việt” [71, tr.178].

Từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVI, Ayuthaya và Chân Lạp liên tiếp có những

cuộc chiến tranh với mức độ khốc liệt mà chủ yếu là những cuộc tiến công từ

phía Ayuthaya. Năm 1351, Ayuthaya chiếm kinh đô Angkor của Chân Lạp

nhưng sau đó Chân Lạp lấy lại được. Năm 1373, Ayuthaya lại gây chiến với

Chân Lạp, cuộc chiến kéo dài 50 năm, tình hình căng thẳng giữa Chân Lạp và

Ayuthaya tiếp diễn trong suốt thế kỉ XIV. Đến năm 1474, vương triều Chân Lạp

57

đầu tiên do Ayuthaya dựng nên và bảo hộ là Thomo Reachea đã thần phục

Ayuthaya và đồng ý nhượng hai tỉnh Korat và Chantaboun của Chân Lạp cho

Ayuthaya.

Ayuthaya có ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến vương triều Chân Lạp.

Dưới triều vua Soryopor (1603 – 1618), Chân Lạp thần phục Ayuthaya, “vua

buộc các đại thần ăn mặc áo dài màu vàng như người Tiêm (Xiêm La) và áp

dụng những nghi lễ như ở triều đình Ayuthaya” [46, tr.308]. Đến thế kỉ XVI,

lãnh thổ Chân Lạp bị thu hẹp dần, cư dân co cụm về vùng Biển Hồ để sinh sống.

Chính quyền Khơme bị mất dần các phần đất đai đã xâm chiếm trước đây và trở

thành nước bị người Thái tấn công, phải chạy loạn khắp nơi.

Sự thất bại của Chân Lạp trước phong kiến Xiêm xuất phát từ nội lực suy

yếu mà cụ thể trong giai đoạn này là nội bộ triều đình rối ren, các cuộc chiến

tranh quyền, đoạt vị xảy ra liên tục. Thế kỉ XVI đã có 13 đời vua thay đổi nhau

với khá nhiều biến động trong triều đình. Tình hình thế kỉ XVII còn xấu hơn

nữa, trong 17 đời vua thì có 7 người bị giết chết, 3 người bị lật đổ và trong 7

người còn lại “yên ổn” thì cũng phải chịu đương 4 cuộc bạo động chống đối lớn

của quý tộc. Bước sang thế kỉ XVIII, tình hình vẫn tiếp diễn, chỉ trong một thời

gian ngắn khoảng 100 năm (1675 – 1775), mà có đến 21 đời vua, “có những

ông vua chỉ tại vì trong thời gian 1 năm nhưng cũng có người tại vị tới 10 năm,

có những ông vua lên ngôi 2, 3 lần, thậm chí có ông vua như Chey Chettha III

lên ngôi đến 5 lần” [42, tr.144-145]. Có thể nói, “suốt thời kì hậu Angkor, chế

độ phong kiến nói chung và giai cấp phong kiến nói riêng của Chân Lạp đã bị

khủng hoảng trầm trọng, suy thoái nhanh chóng và không sao gượng dậy nổi”

[71, tr.178].

Chính tình hình trên đã tạo điều kiện cho các lực lượng bên ngoài, cụ thể

là hai thế lực Việt - Xiêm có điều kiện can thiệp ngày càng sâu vào chính trường

Chân Lạp.

58

Tác giả Đỗ Quỳnh Nga trong tác phẩm Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ

thời chúa Nguyễn đã cho biết: vào thế kỉ XVII, chúa Nguyễn ở Đàng Trong

cũng đã tạo dựng được tiếng vang cho mình. Trong khi đó, để giảm bớt sức ép

về phía Tây và để tìm đối trọng với Ayuthaya, Chân Lạp đã thi hành chính sách

hướng đông, tìm đến các chúa Nguyễn để làm chỗ dựa. Mối quan hệ giữa Đàng

Trong và Chân Lạp được thiết lập đầu tiên vào năm 1620, với cuộc hôn nhân

của Chey Chettha II và công nương Ngọc Vạn – con gái của chúa Nguyễn Phúc

Nguyên, kể từ đây mối quan hệ Xiêm La – Chân Lạp đã xuất hiện một nhân tố

mới là Đàng Trong của Đại Việt. Những chuyển biến lịch sử trong thế kỉ XVII –

XVIII ngày càng khẳng định dấu ấn đậm nét của nhân tố mới này, đóng vai trò

quan trong trong mối quan hệ bộ ba Xiêm La – Chân Lạp – Đàng Trong. Các

đời vua Chân Lạp đều có mối quan hệ với chúa Nguyễn, mối quan hệ này tùy

thời điểm lại có những diễn biến khác nhau, nhưng chủ yếu xoay quanh vấn đề

xung đột quyền lực và quyền lợi giữa các thế lực trong vương triều Chân Lạp.

Điều này tạo điều kiện cho chúa Nguyễn xâm nhập vào Chân Lạp dễ dàng hơn.

Một thực tế lịch sử diễn ra, nếu như trước thế kỉ XVII, Xiêm La là yếu tố bên

ngoài chủ đạo tác động đến chính trường Chân Lạp thì đến thế kỉ XVII – XVIII,

Đàng Trong đã từng bước dần thay thế vị trí đó của Xiêm La và đến đầu thế kỉ

XVIII, hầu hết các vương triều Chân Lạp đều có mối quan hệ thân thiết với

Đàng Trong, Đàng Trong trở thành lực lượng chính chi phối đến triều chính

Chân Lạp, bởi phần lớn những lần lên ngôi của các vua Chân Lạp đều cần đến

sự giúp sức của Đàng Trong [64, tr.61].

Trong quá trình thiết lập ảnh hưởng của mình đối với Chân Lạp, Đàng

Trong cũng phải vượt qua nhiều sự cản trở từ phía Xiêm La. Thế kỉ XVII –

XVIII, cũng là thế kỉ Xiêm La đẩy mạnh quá trình “đông tiến” về các nước phía

đông nhằm mục đích chiếm lấy các hải cảng – yếu tố vô cùng quan trọng trong

bối cảnh luồng thương mại mậu dịch quốc tế đang phát triển. Các thương cảng

chính là điểm thu hút rất lớn sự dừng chân của các đoàn thuyền buôn châu Á và

59

châu Âu. Nhật Bản, Trung Quốc, Mã Lai, Hà Lan, Anh, Bồ Đào Nha…là những

nước có thương thuyền đang hoạt động rất mạnh ở khu vực Đông Nam Á. Xiêm

vốn làm chủ vùng biển phía tây Chân Lạp (bờ đông vịnh Xiêm La), dùng đường

biển để khống chế Chân Lạp và phát triển ngoại thương với Trung Quốc, Nhật

Bản, Ấn Độ…nên quyết tâm của Xiêm trong việc bảo toàn vị trí độc tôn đối với

Chân Lạp rất cao.

Mặt khác, tham vọng của Xiêm không chỉ có Chân Lạp mà Đàng Trong

cũng đã trở thành điểm ngắm của Xiêm La trong giai đoạn này, nhằm phục vụ

cho mục đích bành trướng và mở rộng thương mại, làm chủ luồng mậu dịch

thương mại khu vực Biển Đông. Đàng Trong nằm trên trục chính của tuyến

đường thương mại đường biển Đông Nam Á nên thuyền buôn của Xiêm thường

ghé vào một số thương cảng để hoạt đông buôn bán và tránh bão, thăm dò tình

hình rồi từ đó tiến lên thị trường giàu có phía bắc (Nhật Bản, Trung Quốc). Vì

vậy, Xiêm nhận thức rất rõ tầm quan trọng của vịnh Xiêm và các hải cảng vùng

duyên hải Đông Nam của Đại Việt.

Được xem là cường quốc của Đông Nam Á, Xiêm muốn gây áp lực với

Đàng Trong nhưng vào thế kỉ XVII và nửa đầu thế kỉ XVIII, có thể do vấn đề

tương quan lực lượng giữa hai bên còn cân đối, Đàng Trong đang ở vị thế của

một vương quốc trẻ đang lên, trong khi Xiêm La cũng đang gặp phải một số vấn

đề vướng mắc ở trong nước nên Đàng Trong chưa thực sự phải hứng chịu một

trận quyết chiến thực sự nào từ Xiêm ngoài một vài trận đánh nhau mang tính

phối hợp, yểm trợ cho Chân Lạp. Sự cân bằng trong so sánh lực lượng với Xiêm

La là một trong những yếu tố đã giúp cho Đàng Trong từng bước đánh bật Xiêm

La ra khỏi mối quan hệ giữa Đàng Trong và Chân Lạp [64, tr.61 - 63].

Như vậy, sự suy yếu của Chân Lạp và sự thắng thế của Đàng Trong trong

mối quan hệ giữa Xiêm La – Chân Lạp – Đàng Trong đã trở thành yếu tố quan

trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho chúa Nguyễn tiến hành mở đất về phương

Nam.

60

2.1.2.2. Ảnh hưởng từ luồng thương mại quốc tế biển Đông và chính

sách mở cửa của chúa Nguyễn ở Đàng Trong

Thế kỉ XVII – XVIII, ở một số nước phương Tây, nền kinh tế tư bản chủ

nghĩa có những bước phát triển nhảy vọt, chế độ phong kiến với những quan hệ

lỗi thời đã trở thành lực cản của sự phát triển kinh tế hàng hóa. Giai cấp tư sản

ngày một lớn mạnh và giữ vai trò lãnh đạo trong cuộc đấu tranh chống phong

kiến.

Cách mạng tư sản nổ ra ở Hà Lan (1566), Anh (1640), Bắc Mỹ (1775),

Pháp (1789) đã từng bước xóa bỏ chế độ phong kiến, thiết lập hệ thống chính trị

tư sản, mở đường cho sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa và lan tỏa đến

nhiều quốc gia trên thế giới với những mức độ khác nhau.

Cách mạng tư sản cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tư

bản chủ nghĩa, của nền sản xuất hàng hóa trong các thế kỉ XVI – XVIII kéo theo

hàng loạt biến đổi về mặt xã hội. Đó là sự gia tăng dân số, sự phát triển của đô

thị, sự hình thành các trung tâm công nghiệp và thương nghiệp, đặc biệt là sự

xuất hiện những nhu cầu mới về thị trường, nhân công, nhiên liệu và nguyên

liệu.

Chủ nghĩa tư bản Âu – Mỹ hình thành và lớn mạnh trong các thế kỉ XVI –

XVIII gắn liền với các cuộc viễn du tìm kiếm thị trường, gắn liền với việc tìm

đất lập thương điếm, hình thành những công ty buôn bán, gắn liền với quá trình

thực dân hóa ở các châu lục chậm phát triển. Bang giao quốc tế được mở rộng

mà trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Mặt khác, giao thương Đông Tây đã trở

thành một trong những hoạt động có vai trò quan trọng trong lộ trình xâm chiếm

thuộc địa của các nước tư bản phương Tây trong buổi đầu thời cận đại.

Đây cũng là thời kỳ con đường đến phương Đông của các nước phương

Tây được mở ra. Tuyến đường thương mại của các châu: Âu, Á, Phi được hình

thành, tạo điều kiện cho phương Đông hội nhập vào hoạt động thương mại thế

61

giới. Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh…là những nước sớm có quan hệ

với phương Đông, trong đó có Đại Việt.

Đối với các nước châu Á trong khu vực như: Trung Quốc, Nhật Bản,

Xiêm La…là những nước có quan hệ thương mại khá sôi nổi với Đại Việt trong

thời gian này. Trong hơn 40 năm từ 1592 đến 1635, là thời kỳ Nhật Bản thực

hiện chính sách mở cửa, hàng trăm thương thuyền được Mạc phủ cấp “châu ấn”

(Shuin sen) để xuất bến buôn bán với nước ngoài góp phần tạo hoạt động

thương mại sôi động ở các nước Đông Nam Á trong đó có Hội An của Đàng

Trong.

Về phía Trung Quốc, sau hơn hai thế kỷ thực hiện chính sách “hải cấm”

để độc quyền ngoại thương thông qua con đường “thương mại - triều cống”

nhằm nâng cao vị thế chính trị đối với các nước trong khu vực, không những đã

không mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể mà nhà nước còn không kiểm soát

được thị trường vì nạn buôn lậu quốc tế và nạn cướp biển hoành hành khắp nơi.

Do vậy, nên đến năm 1567, nhà Minh buộc phải tháo gỡ bằng cách cấp giấy

phép cho các thương thuyền đến các vùng biển Đông Nam Á để buôn bán.

Từ sau năm 1644, nhà Mãn Thanh thắng nhà Minh, đã thực hiện một

chính sách thống trị và kỳ thị người Hán trên lãnh thổ Trung Quốc, nên rất nhiều

di thần nhà Minh và doanh nhân Trung Quốc đã xin nhập cư ở các nước Đông

Nam Á trong đó có Đàng Trong.

Ngay từ thế kỉ XVI, thương mại khu vực Đông Nam Á đã diễn ra sôi

động hẳn lên, ngoài cảng thị ở Xiêm, nhiều cảng thị khác đã ra đời ở nhiều

nước đóng vai trò quan trọng trong hệ thống thương mại khu vực. Ở Malaysia

có cảng thị Malacca- là cảng thị phát triển nhất Đông Nam Á, mua bán đủ các

mặt hàng trên thế giới, ở Philippin có cảng Luzon tấp nập thuyền bè ngoại quốc,

ở Campuchia có cảng thị Pinhalu, Phnompênh… [37, tr.69].

Nguyễn Hoàng vào vùng đất phương Nam từ năm 1558, năm 1570 được

vua Lê Anh Tông sắc phong làm Tổng trấn xứ Thuận - Quảng thay thế cho

62

Nguyễn Bá Quýnh. Trong 8 năm bị cầm chân ở Bắc Hà (1593 - 1600), Nguyễn

Hoàng đã nhận thức được: để đối kháng với Đàng Ngoài, dù xứ Thuận - Quảng

“đất tốt, dân đông, sản vật giàu có” nhưng nếu không có sự chuẩn bị vượt bậc,

họ Nguyễn khó tồn tại so với tiềm lực kinh tế - quốc phòng của Đàng Ngoài.

Đây chính là nguyên nhân sinh tồn của Nguyễn Hoàng và họ Nguyễn.

Để có được tiềm lực kinh tế một cách nhanh chóng, sau khi âm thầm dong

buồm vuợt cửa Đại An về thẳng đất Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã chọn hướng

đi có tính chiến lược: phát triển giao thương cả trong nội địa lẫn với bên ngoài,

trên cơ sở đó thúc đẩy sản xuất nội địa. Nhu cầu trao đổi nội địa và cao hơn hết

là nhu cầu trao đổi khu vực đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển hệ thống thương

nghiệp bằng đường thủy ở Nam Bộ. Mặc dù điều kiện phù sa bồi đắp kéo dài từ

Vũng Tàu cho tới mũi Cà Mau không cho phép thành lập nhiều thương cảng dọc

bờ biển Nam Bộ như các tỉnh miền Trung, song đây là địa bàn hoạt động ngoại

thương khá ổn định trên cơ sở thị trường nội địa, thậm chí còn là đầu mối xuất

cảng hàng hóa cho cả Cao Miên và Lào. Các thương cảng như Hà Tiên, Mỹ

Tho, Nông Nại, Ba Thắc và Bến Nghé đã từng là nơi tấp nập thuyền bè các nước

Đông Nam Á.

Mặt khác, miền đất Thuận - Quảng nguyên là một vùng đất đã được Ấn

Độ hóa, với một nền văn hóa và truyền thống khác với người Việt - văn hóa

Champa. Việc quản lý để sống trong bình yên đã là một việc khó chưa nói đến

khai thác để phát triển tiềm lực kinh tế - quốc phòng cho chủ nhân mới của vùng

đất Đàng Trong. Bên cạnh đó, trong thành phần dân cư ngoài cư dân bản địa còn

có các lưu dân người Việt. Chính với nền tảng xã hội như vậy, việc mở rộng,

khuyến khích hoạt động thương mại nội địa ngoài mục tiêu phát triển kinh tế

một cách nhanh chóng còn là một cách để yên dân nhằm tập trung vào nhiệm vụ

chiến lược: chuẩn bị nhân vật lực cho cuộc đối đầu với họ Trịnh.

Tác giả Li Tana, một chuyên gia nghiên cứu về Đàng Trong đã nêu yếu tố

thời cơ mà các chúa Nguyễn có được như sau: “Đàng Trong đã ra đời đúng thời

63

đúng buổi, trong một thời đại thương nghiệp” [94, tr.85], đây chính là nhân tố

bên ngoài, một “thiên cơ” có tác động rất lớn đến chính sách giao thương của

các chúa Nguyễn, nó xuất hiện đúng lúc các chúa Nguyễn cần có cơ hội, có môi

trường để mở rộng giao thương quốc tế nhằm đẩy nhanh tiềm lực kinh tế, quốc

phòng đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Theo tác giả Lê Huỳnh Hoa trong

bài “Chính sách giao thương của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, cơ sở hội nhập và

phát triển của Đại Việt thế kỉ 17-18” thì đất Đàng Trong giàu có về tài nguyên

thiên nhiên nhưng nếu không có nguồn tiêu thụ, trao đổi sẽ không thể có được

sự phát triển kinh tế. Do đó, chỉ có giao thương quốc tế mới giúp các chúa

Nguyễn tiêu thụ hết tài nguyên thiên nhiên được khai thác và sản phẩm sản xuất

trong nước với số lượng lớn, mang lại lợi nhuận nhanh, nhiều cho nền kinh tế

trên vùng đất mới. Yếu tố “thời cơ” nói trên còn thể hiện ở việc xuất hiện tuyến

thương mại “tam giác ba châu lục”: châu Âu – châu Phi - châu Á khi Đàng

Trong hình thành và đang có nhu cầu giao thương quốc tế. Đàng Trong sở hữu

đường biên giới ở phía Đông là một bờ biển dài nằm trên “tuyến đường tơ lụa

trên biển”, nằm ở đoạn giữa của tuyến thương mại trên biển từ Đông Nam Á đến

Trung Quốc, Nhật Bản. Với vị trí đó, Đàng Trong sẽ là điểm dừng chân của

nhiều đoàn thuyền buôn Đông Nam Á, đồng thời, sự phát triển của thương mại

khu vực cũng đã hấp dẫn thương thuyền của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Với vị

trí địa lý và điều kiện thiên nhiên ưu đãi có thể mở nhiều thương cảng ấy, đã

giúp các chúa Nguyễn có cơ hội tận dụng thời cơ vô cùng quý báu này để thực

thi một cách thành công chính sách giao thương quốc tế của mình.

Mặt khác, trong cuộc chiến sinh tồn với chúa Trịnh, tiềm lực kinh tế mạnh

là chưa đủ mà đi kèm với nền kinh tế ấy phải là một nền quốc phòng đủ mạnh,

nhu cầu này các chúa Nguyễn cũng chỉ có thể tìm được qua giao thương quốc tế.

Đặc biệt là với thương nhân phương Tây - đối tượng có thể cung cấp hàng hóa là

vũ khí và cả kỹ thuật sản xuất vũ khí: súng - loại vụ khí quan trọng nhất có tính

quyết định trong cuộc giao tranh Trịnh - Nguyễn. Điều này có thể thấy được một

64

cách rõ nét qua nhận xét của những người phương Tây về tâm trạng của các

chúa Nguyễn khi họ: “rất lo lắng làm sao để có được súng từ xưởng đúc súng

nổi tiếng của Bocarro ở Macao”. Xưởng đúc súng này được thiết lập đúng vào

thời gian xảy ra cuộc chiến Trịnh- Nguyễn phân tranh. Như vậy, nhu cầu cấp

bách của họ Nguyễn về khí giới đã trực tiếp kích thích nền ngoại thương của

Đàng Trong [35].

Chính vì những lý do trên, cùng với sự năng động, nhạy bén và tư tưởng

tự do của "người đi mở cõi" nên các chúa Nguyễn đã có quyết định táo bạo:

thực thi tư tưởng "trọng thương" - một điều không được chú trọng trong xã hội

phong kiến - và thực tế hóa tư tưởng đó bằng chính sách giao thương ; đặc biệt

là giao thương quốc tế cởi mở, thông thoáng (chủ động, mở cửa, mời gọi, đưa ra

nhiều chính sách hỗ trợ, ưu đãi, tạo mọi điều kiện để khuyến khích thương nhân

nước ngoài đến Đàng Trong buôn bán). Động thái này hoàn toàn khác với thái

độ "đóng cửa" của các triều đại phong kiến phương Đông lúc bấy giờ, những

người phương Tây khi đến Đàng trong đã nhận xét: "chúa Đàng Trong không

đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người

ngoại quốc" trái với nhận xét về vua Nhà Thanh: "ông này sợ tất cả" [9, tr.93].

Kết quả của việc chủ động "mở cửa" giao thương quốc tế của các chúa

Nguyễn, được thể hiện rõ nét qua nhận xét của của người nước ngoài về sự lớn

mạnh về quân sự và kinh tế của vùng đất Đàng Trong bấy giờ. Đó là một sự

phát triển vượt bậc: "số thương thuyền tới buôn bán với Đàng trong vào đầu thế

kỷ 17 đã vượt xa số thương thuyền tới buôn bán với Xiêm và Cao Miên. Vương

quốc của họ Nguyễn được đặt ở đầu danh sách các nước ở lục địa Đông Nam Á

có quan hệ với Nhật Bản" [94, tr.85].

Về kinh tế: "Đàng Trong của thế kỷ 17 đã tìm thấy nguồn tài nguyên và

khí lực để thực hiện một giai đoạn phát triển lớn  Đây là một thành tựu phi

thường, tự bản thân cũng như khi so sánh với lịch sử Việt Nam nói chung"

[94, tr.215].

65

Về quân sự: "Quân lính của vương quốc này hoàn hảo nhất trong cả

vùng,  Đó là lý do khiến họ luôn thắng thế trong các cuộc chiến liên miên với

vua Đàng Ngoài, mặc dù Đàng Ngoài vượt Đàng Trong về tất cả mọi lĩnh vực"

[36].

Để có thể phát triển chính sách giao thương, các chúa Nguyễn cũng trở

thành người tiên phong tiến về phương Nam để mở rộng bờ cõi. Kể từ sau khi

hình thành Đàng Trong như một thế lực tồn tại song song với Đàng Ngoài, bờ

cõi của Đại Việt được mở rộng về phương Nam theo thời gian phát triển vững

mạnh của Đàng Trong làm cơ sở hình thành "Vương quốc" sau này. Có thể nói,

chỉ đến thời các chúa Nguyễn, bờ cõi của Đại Việt mới được mở rộng về phương

Nam đến Hà Tiên, Côn Lôn, Phú Quốc và về phía Đông với Hoàng Sa, Trường

Sa. Việc mở rộng bờ cõi của các chúa Nguyễn trước mắt là để mở rộng vùng

khai thác, sản xuất hàng hóa phục vụ giao thương quốc tế nhưng cũng là để

thực hiện "xây nghiệp muôn đời" [36, tr.8].

Như vậy việc mở đất về phương Nam đã thực sự đem lại cho các chúa

Nguyễn nhiều thuận lợi cơ bản không chỉ trong nhiệm vụ chiến lược trước mắt

là chống Trịnh mà còn là cơ sở để hình thành một vương quốc riêng, đồng thời

cũng để mở rộng địa bàn sản xuất, khai thác sản vật, cung cấp nguồn hàng phục

vụ cho hoạt động giao thương quốc tế.

2.2. Quá trình khai mở vùng đất Đông Nam Bộ

2.2.1. Sự có mặt của người Việt trên vùng đất Nam Bộ

Thời điểm người Việt có mặt trên vùng đất mới

Câu hỏi người Việt đến vùng đất này từ bao giờ đã có nhiều công trình

viết về Nam Bộ đề cập đến, đa số các tác giả đều thống nhất là vào thời các chúa

Nguyễn, nhưng niên đại thì khác nhau.

Có ý kiến cho là trước thời điểm 1658 là năm xảy ra sự kiện “Mô Xoài”,

căn cứ vào đoạn văn: “khi ấy (1658), địa đầu Gia Định là Mô Xoài và Đồng

Nai đã có lưu dân nước ta đến ở chung lộn với người Cao Mên khai khẩn ruộng

66

đất…” và không được xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương”. Có ý kiến lại cho

là vua Chân Lạp Chetta II (1618 – 1626) đóng đô ở Oudong có cưới một công

chúa con chúa Nguyễn làm hoàng hậu. Nể tình vợ, ngài đã cho người Việt thành

lập một dinh đồn đầu tiên ở Mô Xoài”. Có tác giả viết: “Vùng quanh Sài Gòn

chỉ được khai phá và có dân định cư vào năm 1672”. Lại có tác giả cho là từ

năm 1698 dân ta đã đến Biên Hòa – Gia Định cùng với ý kiến của Lê Quý Đôn

và Phan Huy Chú. Có người thận trọng hơn lại bảo cuộc di cư của người Việt

diễn ra trong thế kỉ XVII, nghĩa là trong khoảng từ năm 1601 đến năm 1700.

Một tác giả khác thận trọng hơn, viết một cách dè dặt: “vậy người lưu dân đến

Mô Xoài rồi Đồng Nai từ bao giờ chúng ta chưa tìm ra niên đại. Nhưng tác giả

có dẫn một tài liệu trong tập hồi ký của Fernand Mendez xuất bản năm 1629,

cho biết từ năm 1535 đã có người Việt tới sinh sống tại miền duyên hải và trên

bờ sông Cambơia” [117, tr.84-85].

Về vấn đề này, tác giả Lê Huỳnh Hoa trong “Chuyên đề: Những vấn đề

lịch sử cần bổ sung, cập nhật cho chuyên đề Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ

từ thế kỉ XVII đến trước Cách mạng tháng Tám 1945” đã cho rằng “đầy đủ và

hệ thống hơn cả là những ghi chép từ Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí

Minh”. Theo tác giả Lê Huỳnh Hoa: trong tác phẩm này, các tác giả đã đưa ra

nhiều nguồn tư liệu để góp phần trả lời câu hỏi người Việt đã có mặt ở Nam Bộ

thời gian nào, các nguồn sử liệu này không chỉ của người Việt mà cả người nước

ngoài.

Nguồn sử liệu thứ nhất là tác phẩm Gia Định thành thông chí của Trịnh

Hoài Đức, theo nguồn sử liệu này thì mốc người Việt có mặt sớm nhất ở Nam

Bộ là năm 1558, kế đó là 1648 và trễ nhất là 1658.

Nguồn sử liệu thứ hai là của các tác giả phương Tây

Đầu tiên là bức thư viết năm 1665 của giáo sĩ Chevreuil, qua bức thư

chúng ta biết được rằng vào những năm 1665 - 1666, Chevreuil đã chứng kiến

hàng ngàn người Việt Nam đang định cư quanh vùng Nam Vang, “từ đó có thể

67

phỏng định lưu dân Việt Nam đã tới Nam Vang và vùng phụ cận từ mấy chục

năm trước đó; và như vậy vùng Đồng Nai, Sài Gòn chắc người Việt còn tới sớm

hơn và đông hơn” [35].

Thứ hai là một bản đồ vẽ năm 1687, của sứ thần Pháp là Loubère tới

Xiêm. Theo bản vẽ, kinh đô Ayuthia có những khu vực giành riêng cho người

nước ngoài trong đó có khu vực giành cho người Việt Nam. Từ ghi chép trên

cho thấy có thể lưu dân và cả thương nhân Việt Nam đã tới trú ngụ cạnh kinh đô

Xiêm từ giữa thế kỷ 16 hay đầu thế kỷ 17.

Một tư liệu khác của tác giả phương Tây là “Pinto du ký", đây là ký sự

của nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Fernand – Mendez Pinto, người đã tham quan

vùng Đông Nam Á nhiều lần trong tiền bán thế kỷ 16. Mặt khác, phụ tá của Ông

là Faria cũng đã thăm vùng này vào năm 1535 và đã gặp người Việt Nam tới

làm ăn sinh sống tại miền duyên hải và bên bờ sông “Camboia” (tức

Campuchia). Căn cứ vào những ghi nhận trên thì người Việt đến Nam Bộ phải

trước 1535 (tiền bán thế kỷ 16).

Nguồn sử liệu thứ ba là Sử Khmer, nguồn này được trích dịch thông qua 2

tác giả người Pháp là Maspéro và Moura trong sách Đế quốc Khmer. “Theo sử

Khmer, năm 1623 đã lập Sở thu thuế của người Việt ở Sài Gòn – Bến Nghé

chứng tỏ lưu dân Việt đã đến vùng đất này từ trước năm 1623” [35].

Sách Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã dẫn một nguồn đối

chiếu với sử Khmer, đó là một nhân chứng lịch sử đương thời, giáo sĩ người Ý

Christopho Borri, người đã có thời gian sống lâu ở Nước Mặn (Quy Nhơn). Từ

1618 – 1622, ông ở Đàng Trong, sau khi về nước, ông đã viết hồi ký, in thành

sách và xuất bản năm 1631, trong sách có đoạn: “Chúa Nguyễn phải luôn tập

lính và gửi những đạo quân đi giúp vua Cao Miên, tức chàng rễ chồng của cô

gái hoang con chúa. Chúa viện trợ cho vua cả tàu thuyền lẫn binh lính để chống

lại vua Xiêm” [35].

68

Qua những sử liệu trên tác giả Lê Huỳnh Hoa kết luận “Người Việt Nam

đã có mặt ở Cao Miên từ đầu thế kỷ 17, nếu không nói là từ cuối thế kỷ 16” [35].

Tuy nhiên, tác giả Lê Huỳnh Hoa cũng cho biết những năm gần đây đã

xuất hiện ý kiến khác, cho rằng người Việt có mặt ở vùng đất này sớm hơn cuối

thế kỷ 16, đó là ý kiến của Nguyễn Đình Tư trong bài viết “Lưu dân người Việt

trên đất Đồng Nai – Gia Định và việc thành lập các đơn vị hành chánh ở Nam

Bộ thời các chúa Nguyễn”. Tác giả Nguyễn Đình Tư cho rằng: Căn cứ vào niên

đại 1535 mà Fernand Mendez nói tới và căn cứ vào một sự kiện lịch sử quan

trọng của nước ta, tôi nghĩ rằng số người Việt đầu tiên chạy vào Đồng Nai –

Gia Định (vì đã biết vùng này còn hoang hóa như đã trình bày trên) một cách ồ

ạt đã diễn ra từ năm Quý tỵ (1413), sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh

của lực lượng nhà Hậu Trần thất bại trên đất Hóa Châu [35].

Tác giả Nguyễn Đình Tư đã giải thích cho ý kiến của mình bằng 2 dẫn

chứng từ Lam Sơn thực lục và Đại Việt Sử ký toàn thư và đi đến kết luận:

Lực lượng kháng chiến nhà Hậu Trần rút vào Hóa Châu là tuyệt lộ rồi.

Cuộc kháng chiến thất bại, vua và các tướng lãnh cao cấp như Nguyễn Cảnh

Chân, Đặng Dung bị bắt, nhưng số tướng tá cấp dưới và các nhà Nho mưu sĩ

trong quân chắc chắn là không chịu đầu hàng quân Minh, vì đầu hàng là chết,

cho nên ai thoát thân được thì đem cả gia đình chạy sang Lão Qua (Lào) và

Chiêm Thành. Số người này không thể băng qua biên giới để vào đất Chiêm

Thành được vì 2 lý do: thứ nhất Chiêm Thành đang có hận thù với ta vì nhà Hồ

vừa đánh chiếm vùng Chiêm Động và Cổ Lũy của họ.

Số người chạy sang Chiêm Thành là số người có sẵn thuyền bè, lương

thực, khí giới bèn căng buồm chạy xuống phía Nam đang lúc có gió mùa Đông

Bắc thổi mạnh, vì họ biết nơi đó là vùng đất trù phú, còn bỏ hoang, hầu như vô

chủ [35].

Tác giả Lê Huỳnh Hoa cũng cho biết thêm: trong Hội thảo khoa học “ Từ

xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay” tổ chức ngày 30/10/2012, một

69

số tác giả như: Dương Ái Dân với bài viết Mô Xoài – Bà Rịa vùng đất ghi dấu

bước chân của người Việt trên đường khai phá về phương Nam; Trần Thuận với

bài Công Chúa Ngọc Vạn với vùng đất Mô Xoài và tác giả Tuệ Khương trong

bài viết Từ xứ Mô Xoài – địa đầu mở cõi đến tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, quá trình

hình hình thành và phát triển. Các tác giả trên đều có ý kiến về mốc thời gian

người Việt có mặt ở vùng đất sớm hơn thế kỷ 16, 17 nhưng không ai trong số đó

kiến giải rõ ràng, cụ thể như tác giả Nguyễn Đình Tư [35].

Tóm lại, quan điểm của các tác giả về vấn đề niên đại người Việt có mặt

trên vùng đất Nam Bộ nói chung và Đông Nam Bộ nói riêng cho đến hiện nay là

chưa thống nhất. Bên cạnh những quan điểm mới rất đáng quan tâm của các tác

giả nêu trên, thì hầu hết các tác giả trong các công trình nghiên cứu về lịch sử

vùng đất Nam Bộ đều cho rằng người Việt đến vùng đất mới từ cuối thế kỷ 16

đầu thế kỷ 17. Điều này cũng mở ra sự lý giải lý do vì sao người Việt tìm đến

vùng đất mới.

Nguyên nhân người Việt có mặt trên vùng đất mới

Thế kỉ XVI - XVII, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng

khủng hoảng sâu sắc, các tập đoàn phong kiến do tranh giành quyền lực đã gây

nên những cuộc chiến tranh kéo dài và liên tiếp. Cuộc nội chiến Nam – Bắc triều

kéo dài gần 50 năm (1545 – 1592) chưa kết thúc hoàn toàn, thì cuộc phân tranh

Trịnh - Nguyễn khốc liệt (1627 – 1672) lại nổ ra, tiếp tục đẩy đất nước vào tình

trạng bị chia thành hai Đàng: Đàng Ngoài và Đàng Trong.

Để phục vụ cho cuộc chiến tranh tàn khốc này, các tập đoàn phong kiến

Trịnh - Nguyễn đều thi hành những chính sách bóc lột hết sức nặng nề đối với

quần chúng nhân dân, vơ vét cùng kiệt nhân lực và vật lực trong nhân dân tạo

nên cảnh đói khổ, lầm than của dân chúng phổ biến khắp từ Đàng Ngoài cho đến

Đàng Trong. Đối với chính sách vơ vét về nhân lực, một thủ đoạn mà cả hai tập

đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn đều thực hiện, đó là việc bắt lính.

70

Tuy việc tuyển chọn binh lính đã có quy chế riêng, nhưng việc bắt lính

thời bấy giờ cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài đều diễn ra một cách ráo riết, vì

thế việc bắt lính đã trở thành một tai họa chung cho tất cả mọi người nhất là

những người nông dân nghèo khổ. Thích Đại Sán - một nhà sư ở Quảng Đông –

đến Thuận Hóa vào những năm 1695 – 1696 đã miêu tả chế độ quân dịch ở

Đàng Trong như sau: Cứ mỗi năm vào khoảng tháng 3, tháng 4, quân nhơn đi ra

các làng bắt dân từ 16 tuổi trở lên, thể chất cường tráng, đóng gô lại bằng một

cái gông tre hình như cái thang nhưng hẹp hơn để giải về phủ sung quân, vào

quân đội rồi, mỗi người bắt chuyên học một nghề, kế phân phái theo các chiến

thuyền để luyện tập, có chiến tranh đem ra đánh giặc, lúc vô sự ở theo vương

phủ làm xâu; tuổi chưa đến 60 chẳng được về làng cùng cha mẹ vợ con đoàn tụ;

hằng năm thân thích đem áo quần, vật thực đến thăm mà thôi. Vì cớ ấy, những

người dân còn lại ở nhà toàn gầy yếu, tàn tật, chẳng có mấy người mạnh mẽ

[81, tr.43].

Cùng với việc bắt lính, chế độ phong kiến họ Nguyễn còn ra sức vơ vét tài

lực của nhân dân để cung cấp cho những nhu cầu của chiến tranh, cũng như để

phục vụ cho lối sống xa hoa, quý tộc của chúng. Trong Phủ Biên tạp lục Lê Quý

Đôn đã viết:“Quan viên lớn nhỏ, người nào cũng có nhà chạm trổ, thềm đá,

tường vách gạch đá. Màn trướng của họ đều bằng sa và đoạn. Vật dụng của họ

đều làm bằng đồng thau. Sập ngồi và ghế tựa của họ đều bằng gỗ đàn và gỗ

trắc. Họ có mâm sứ và chén hoa. Yên cương của họ đều được trang sức bằng

vàng bạc. Quần áo của họ đều may bằng gấm vóc. Họ có chiếu rộng lớn kết

bằng mây hoa. Họ sống phong lưu phú quý, đua nhau khoe khoang…. Coi vàng

bạc như cát, lúa thóc như bùn, xa xỉ thật là quá đáng” [24, tr.242-243].

Để có thể có được một cuộc sống xa hoa như vậy, các tập đoàn phong

kiến đều hướng tới một mục tiêu trước nhất, đó là ra sức bóp nghẹt, vơ vét thật

nhiều trong quần chúng nhân dân, bất chấp điều kiện sống của người dân nghèo

lúc bấy giờ ra sao. Họ đặt ra rất nhiều thứ thuế vô lý và hết sức nặng nề đối với

71

nhân dân. Như Lê Quý Đôn đã nhận xét: “Lệ thuế kể trên là rất nặng”

[24, tr.17], hoặc “Pháp lệnh thuế khóa ở Thuận Hoá rất phiền phức”

[23, tr.170].

Không chỉ phải chịu chế độ thuế khoá nặng nề của nhà nước, quần chúng

nhân dân còn phải chịu đựng sự nhũng nhiễu của đám quan lại, nha môn lợi

dụng việc thu thuế để tranh nhau bóp nặn cùng kiệt người dân, nhất là những

người nông dân nghèo. Trong Phủ Biên tạp lục Lê Quý Đôn đã ghi lại rất rõ tình

trạng này “Quảng Nam và Thuận Hoá chỉ là hai trấn, vậy mà họ Nguyễn đã cắt

đặt quan lại, các thuộc ty, hương trưởng đến cả ngàn người, nhũng lạm quá

lắm. Bổng lộc của quan lại đều nhất thiết phải lấy từ dân, vậy thì dân làm sao

chịu đựng cho nổi” [23, tr.186], hay “Pháp lệnh thuế khóa ở Thuận Hoá rất

phiền phức, nhân viên đốc thúc lại quá đông, dân nghèo thường khổ sở vì phải

nạp gấp bội, thế mà Lại Ti trong nội phủ cũng như ngoài các bản đường đều bớt

xén bừa bãi không thể tra xét được” [23, tr.170].

Tình trạng này đã được Nguyễn Cư Trinh dâng lên Chúa Nguyễn Phúc

Khoát năm 1751, nói về tình trạng thống khổ của dân chúng Quảng Nghĩa mà

cũng là tình trạng chung của các phủ Thuận Quảng xứ Đàng Trong: Dân Quảng

Nghĩa chịu thống thuộc nhiều nơi, đã chịu lệnh của nha trường sai dư, lại chịu

lệnh của nha trường điền tô, lại chịu lệnh các nha biệt tải, biệt nạp, lại chịu lệnh

các nha sai viên đầu nguồn, lại chịu lệnh bản phủ, lại chịu lệnh quan lại nha

môn, lại chịu lênh các sai nhân, lại chịu lệnh người đi săn ngang dọc, há chẳng

phải 10 con trâu đến 9 người chăn? Nghèo khổ, thất nghiệp thật là đáng thương

[51, tr.41].

Có thể nói rằng, chính sự vơ vét, bóc lột, bóp nặn của bọn phong kiến họ

Nguyễn, sự nhũng nhiễu ức hiếp của bọn quan lại lớn bé, sự cướp đoạt ruộng đất

và bóc lột tô tức nặng nề của bọn địa chủ đã đẩy dân chúng, đặc biệt là những

người nông dân nghèo khổ vào con đường khổ sở, điêu đứng.

72

Đây rõ ràng là một thực tế lịch sử diễn ra trong suốt hai thế kỷ XVII -

XVIII. Trong tác phẩm Hải Ngoại Kỷ Sự nhà sư Thích Đại Sán cũng đã ghi lại

rất rõ điều đó: Trong nước dân rất khổ, đất ruộng ít ỏi, lúa chẳng đủ ăn. Dân

thổ trước một dãi Thuận- hóa Hội – an đều sống nhờ lúa các hạt khác. Thổ âm

gọi “Phạn” là “Cơm”, kiếm đủ cơm ăn không phải là chuyện dễ; hoặc dùng cá

tôm rau quả ăn trừ cơm, hằng ngày bữa no, bữa đói thất thường…Ruộng cấy

lúa, hoa lợi phải nộp vào công khố chừng bảy tám phần mười, dân chỉ được

hưởng hai ba phần mà thôi”. Ngoài ra có người làm nghề đánh cá, hái củi đem

về nộp cho bọn Cai, Trưởng. Bọn này cấp hoàn cho bao nhiêu được nhờ bấy

nhiêu. Thế mà còn phải nạp thuế thân mỗi năm 12.000 đồng (hai quan) và các

thứ tre, gỗ, muối, gạo tuỳ theo thổ sản. Gặp nhà vua có công việc, cai xã bắt

dân phu ra ứng dịch, mọi người phải lo cơm đùm, gạo bới đi làm [81, tr.105].

Trong khi đó, xã hội xứ Đàng Trong ngày càng trở nên rối ren: chiến

tranh loạn lạc, nạn thiên tai mất mùa diễn ra liên miên, cuộc sống dân lành đói

khổ… thời Nguyễn Phúc Lan “Xứ Đàng Trong đại hạn và mất mùa, dân phải

trôi dạt và chết đói rất nhiều” [23, tr.61] và thời Nguyễn Phúc Thuần “Thuận

Hoá mấy năm mất mùa và đói kém, nạn bắt lính đi đánh trận cứ triền miên, lòng

dân li tán” [23, tr.90].

Như vậy, có thể kết luận rằng: nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự di cư của

cộng đồng người Việt vào những năm cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII chính

là cuộc chiến tranh phong kiến Trịnh - Nguyễn kéo dài hàng chục năm trời.

Cùng với đó là sự áp bức, bóc lột thái quá của bọn quan lại địa chủ, cộng thêm

nạn thiên tai, mất mùa, đói kém xảy ra liên miên làm cho cuộc sống của người

dân Đàng Ngoài và vùng Thuận Quảng ngày càng bị khổ sở, điêu đứng. Tình

hình đó, buộc họ phải phiêu tán đi tìm đất mới để dung thân, cho dù đó là vùng

đất xa xôi, hoang vu, chưa được khai phá nhưng họ vẫn nuôi hy vọng cuộc sống

của họ nơi đó sẽ dễ chịu hơn, khấm khá hơn.Vùng đất Đồng Nai – Gia Định lúc

bấy giờ, là vùng đất của những giấc mơ về một cuộc sống tốt đẹp, là một ngõ

73

thoát đối với những người dân Việt nghèo khổ thời bấy giờ. Chính vì thế, nên đã

có một làn sóng di cư ồ ạt vào vùng Đồng Nai – Gia Định (Đông Nam Bộ ngày

nay).

Vậy, những cư dân Việt có mặt sớm trên vùng đất Đồng Nai - Gia Định

này bao gồm những thành phần nào?

Thành phần thứ nhất và chủ yếu nhất là những người nông dân nghèo khổ

ở miền Trung và miền Bắc di cư vào. Trong bối cảnh lịch sử của đất nước ta như

đã trình bày trên đây thì rõ ràng nông dân chính là tầng lớp phải chịu nhiều gánh

nặng nhất. Họ là những người nghèo khổ, lâm vào bước đường cùng buộc phải

rời bỏ quê hương, làng mạc. Trong tác phẩm Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ,

tác giả Huỳnh Lứa đã nhấn mạnh “chính con số đông đảo những nông dân

nghèo khổ phải thất sở, xiêu tán đó là nguồn cung cấp cho làn sóng di cư vào

đất Đồng Nai – Gia Định (tên gọi chung đất Nam Bộ ngày nay), nơi họ nghe nói

có đất đai rộng lớn, phì nhiêu nhưng chưa được khai thác” [51, tr.42]. Tác giả

cũng khẳng định: tầng lớp nông dân nghèo chiếm số lượng đông đảo nhất và

cũng là lực lượng di cư chủ yếu trong thời kỳ đầu (thế kỷ XVII)”

[52, tr.116], sử cũ gọi những người nông dân nghèo khổ phải thất sở đi phiêu tán

này là những “lưu dân”.

Thành phần thứ hai: là những người bị tù tội phải đi lưu đày.

Tài liệu lịch sử còn lại không ghi cụ thể về vấn đề này, tuy nhiên, theo

nhà nghiên cứu Huỳnh Lứa thì lực lượng tù tội bị lưu đày này cũng chiếm một

số lượng khá lớn. Bởi theo ông thì lệ bắt buộc tù nhân bị kết án lưu đày phải di

cư vào Nam đã có từ thời Lê (Lê Thánh Tông) và các chúa Nguyễn trong thời kỳ

đầu xây dựng vương quốc riêng cũng noi theo cách thức này của nhà Lê. Điều

này thực tế cũng mang lại lợi ích rất lớn cho triều đình phong kiến là vừa có thể

đẩy xa những phần tử làm nguy hại đến vương triều của họ, mà lại còn có thêm

lực lượng để khai khẩn vùng đất mới mà họ chưa thể vươn bàn tay khai phá đến

được.

74

Thành phần thứ ba: là những người trốn tránh binh dịch.

Đặt trong hoàn cảnh của cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài gần hai

thế kỷ, đặc biệt là 45 năm tranh đấu quyết liệt với 7 trận đánh lớn (1627 - 1672)

như đã nhắc tới ở trên thì sự xuất hiện của những phần tử trốn tránh binh dịch ở

Nam Bộ là một điều không còn phải nghi ngờ gì nữa.

Khi chiến tranh xảy ra thì có thể nói nông dân là người phải gánh chịu

nhiều hậu quả nhất, tuy nhiên binh lính lại là người phải gánh chịu tai hoạ trực

tiếp. Họ có thể bị chết trên chiến trường nhưng cũng có thể bị giết khi luyện tập.

Trong Đại Nam thực lục, phần tiền biên có chép về Nguyễn Hữu Tiến, một vị

tướng vào buổi đầu thời các chúa Nguyễn. Vị tướng này thường tập luyện quân

sĩ vào ban đêm và nếu có một người lính tỏ ra không tuân lệnh thì người kỳ

trưởng (người cầm cờ trong đội), sẽ bị chặt đầu tức khắc. Tuy nhiên, bản thân vị

tướng này không hề bị trừng phạt vì cách làm này vì chúa Nguyễn Phúc Nguyên

đã tuyên bố: “Binh không đều thì giết có tội gì? Rồi dần thăng Hữu Tiến lên làm

cai đội. Từ đó sĩ tốt ai cũng sợ phục” [78, tr.48]. Chính vì thế, hiện tượng binh

lính đào ngũ hay bỏ trốn xảy ra là một điều hết sức tất yếu và sau khi bỏ trốn thì

nơi dung thân tốt nhất, yên ổn nhất là vùng Đồng Nai – Gia Định. Pierre Poivre

trong nhật ký của mình ngày 14 tháng 1 năm 1750 có lời nhận xét về quân đội

của chúa Nguyễn lúc này: “Nhà vua hiện chỉ có binh lính bằng cách sử dụng

bạo lực. Tất cả binh đội của ông ta đều đào ngũ và trốn vào Đồng Nai.”

[52, tr.13].

Tất cả những điều này cho thấy: số binh lính trốn tránh binh dịch, cũng

chiếm một tỉ lệ lớn trong thành phần di cư vào vùng Đông Nam Bộ.

Thành phần thứ tư là những người chống đối lại triều đình với những mức

độ khác nhau: “bất đắc chí vì thi cử hoặc vì có tài mà không được trọng dụng,

tố cáo tham quan ô lại, cường hào ác bá nên bị truy bức, cầm đầu hoặc tham dự

các cuộc nổi dậy to nhỏ, nhan nhản vào lúc ấy dưới chế độ Lê Trịnh”

[29, tr.427].

75

Thành phần thứ năm: là những tù binh, hàng binh và thường dân bị chúa

Nguyễn bắt trong cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Số cư dân này được chúa

Nguyễn tổ chức cho định cư ở những địa bàn nhất định theo yêu cầu phát triển

kinh tế, phân bố lực lượng. Theo tác phẩm Di dân của người Việt từ thế kỷ X

đến giữa thế kỷ XIX do Đặng Thu chủ biên thì: chúa Nguyễn cũng đã dùng lực

lượng này vào công cuộc khai hoang. Theo tác phẩm thì rất có thể chúa Nguyễn

đã đưa lực lượng này vào khẩn hoang, lập nghiệp ở các tỉnh phía Nam chứ

không phải chỉ là cho định cư ở Thăng Hoa, Điện Bàn cho đến Phú Yên như một

số lời kiến giải của những người khác.

Cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn tiếp tục đã cung cấp những nguồn lao

động quan trọng trong việc khai hoang, lập ấp ở Gia Định. Điều này chỉ chấm

dứt vào năm 1672, khi đôi bên đánh nhau (từ tháng 6 đến tháng 12) quyết liệt

nhưng bất phân thắng bại, cuối cùng Trịnh Tạc rút quân về Đông kinh, lấy sông

Gianh làm phân giới, từ đấy Nam - Bắc không đánh nhau nữa.

Ngoài những thành phần kể trên, có thể còn có thành phần khác, ví dụ như

những những tay “giang hồ tứ chiếng”, những thành phần bất hảo… Nói chung,

là tất cả những thành phần bất mãn, hay không vừa lòng với chế độ phong kiến

đương thời đều hướng đến vùng đất mới xa xôi ở phía Nam này, để mong tìm

được một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Trên đây là những thành phần khẩn hoang có mặt sớm ở vùng Đông Nam

Bộ trong buổi đầu khai phá, về sau khi chúa Nguyễn bắt đầu tổ chức lập chính

quyền ở vùng đất mới này thì còn xuất hiện thêm một lực lượng nữa, đó chính là

những người dân giàu có mà Lê Quý Đôn gọi là “dân có vật lực” từ miền Trung.

Những người này, được sự cho phép của chúa Nguyễn, đã đứng ra chiêu mộ

những người dân nghèo ở các nơi cùng vào vùng đất mới để khẩn hoang.

Sách Phủ Biên tạp lục ghi chép về lực lượng này như sau: Phủ Gia Định, đất

Đồng Nai… họ Nguyễn trước đánh nhau với Cao Miên mà chiếm được. Xong,

chiêu mộ dân có vật lực từ Quảng Nam, Điện Bàn, Quảng Ngãi và Quy Nhơn đi

76

vào ở đấy, khai phá và mở mang thành những vùng bằng phẳng, thủy thổ phì

nhiêu, cho dân tự chiếm, trồng cau và làm nhà cửa [24, tr.255]. Không chỉ chiêu

mộ dân nghèo vào vùng Gia Định khẩn hoang, các phú hào ở vùng Thuận -

Quảng còn chiêu tập dân lưu tán tại chỗ và mua con trai, con gái các dân tộc

thiểu số về cho làm gia nô. Có thể nói đây cũng là một thành phần chiếm số

lượng khá đông trong thời kỳ khai phá, càng về sau, số lượng họ càng đông lên

và cũng giàu có hơn nhiều“Người giàu có ở các địa phương hoặc bốn năm mươi

nhà hoặc hai ba mươi nhà, mỗi nhà điền nô hoặc năm sáu mươi người, trâu bò

hoặc ba bốn con, cày bừa, cấy gặt, bận rộn suốt ngày không lúc nào rỗi”

[24, tr.255-256].

Bước sang thế kỷ XVIII, xuất hiện thêm một thành phần mới, đó chính là

những tín đồ đạo Thiên Chúa. Họ di cư để tránh những sắc chỉ cấm đạo của chúa

Nguyễn và để giữ gìn tín ngưỡng của mình. Trong thời kỳ chưa lập phủ Gia

Định, giáo dân từ miền Trung vào Đồng Nai, Biên Hoà lập nghiệp và hành đạo,

khi chúa Nguyễn kiểm soát miền Đông thì họ đi xuống miền Tây [106, tr.121].

Như vậy, thành phần di dân người Việt đầu tiên vào vùng đất mới được

hầu như các nhà nghiên cứu thống nhất là: nông dân nghèo khổ, người đang bị

liên lụy đến chính quyền phong kiến, thầy lang, thầy đồ nghèo và một số người

giàu có muốn tìm đất mới để làm ăn. Tuy nhiên, trong chuyên đề “Những vấn đề

lịch sử cần bổ sung, cập nhật cho chuyên đề Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ

từ thế kỉ XVII đến trước Cách mạng tháng Tám 1945” của tiến sĩ Lê Huỳnh

Hoa, đã đưa ra một quan điểm mới, quan điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn

ĐìnhTư. Tác giả Nguyễn ĐìnhTư cho rằng: số người Việt đầu tiên vào Đồng

Nai – Gia Định chủ yếu là sau sự kiện năm Quý Tị (1413) khi cuộc kháng chiến

chống Minh của nhà Hậu Trần thất bại trên đất Hóa Châu, họ là “số tướng tá

cấp dưới và các nhà Nho mưu sĩ không chịu đầu hàng”,“chính họ chứ không

phải ai khác là nguồn gốc lưu truyền lại cho con cháu muôn đời sau truyền

thống yêu nước, tinh thần bất khuất trước kẻ thù để tạo nên cái mà ngày nay

77

người ta gọi là “hào khí Đồng Nai – Gia Định”. Theo tác giả Lê Huỳnh Hoa,

“Thậm chí, quan điểm này còn được nhấn mạnh khi nghiên cứu về nguồn gốc

truyền thống của hào khí đó phải “nghĩ đến những người này, chứ không thể từ

những người vào đây vì miếng cơm manh áo, cũng không thể từ những tù phạm

giết người cướp của, đâm thuê chém mướn, gian dâm bất hiếu bị đày vào đây”

[35].

Tóm lại, ta thấy rằng thành phần di cư vào vùng đất Đông Nam Bộ nói

riêng và Nam Bộ nói chung trong hai thế kỷ XVII - XVIII hết sức đa dạng với

nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Ngoài thành phần tướng tá, nho sĩ của nhà Hậu

Trần theo quan điểm mới của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư, thì một điểm

chung mà ta thấy ở những người dân di cư này là phần lớn họ đều trốn chạy khỏi

cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn hay là những chính sách cai trị hà khắc của

chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Có thể nói rằng công cuộc di cư và khẩn hoang của

những lưu dân người Việt là một yếu tố tích cực góp phần phát triển kinh tế địa

phương ở Đông Nam Bộ và là một mặt của cuộc đấu tranh của nông dân Việt

Nam chống áp bức bóc lột phong kiến.

Trên đây, là những thành phần di dân người Việt có mặt sớm trên vùng

đất Đồng Nai - Gia Định. Vậy những người dân di cư đầu tiên đó, đã đi vào đây

bằng cách nào và bằng phương tiện gì?

Thông thường những di dân người Việt đi vào đất Đông Nam Bộ nói

riêng và Nam Bộ nói chung bằng hai cách thức chủ yếu: thứ nhất là họ đi một

cách tự động và lẻ tẻ, hoặc cả gia đình, hoặc người khoẻ mạnh đi trước rồi đón

gia đình đến sau, hoặc mấy người, mấy gia đình kết lại thành nhóm cùng đi với

nhau. Cách thứ hai là họ tham gia vào các đợt di dân, khẩn hoang do Nhà nước

đứng ra tổ chức và bảo trợ. Tuy nhiên, hình thức di dân tự động vẫn chiếm số

lượng lớn hơn, bởi vì khi chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ

Đồng Nai - Gia Định thì ở đây đã có 40 vạn gia đình đang sinh sống.

78

Lúc bấy giờ việc di chuyển gặp rất nhiều khó khăn giữa các vùng do vị trí

địa lý, do phương tiện thô sơ, do núi non hiểm trở, rừng cây rậm rạp với nhiều

thú dữ như Thích Đại Sán nhận xét: “Đất nước Đại Việt chỉ là một dải núi dọc

theo mé biển, các đô ấp đều tựa núi day mặt ra biển, núi cao sông hiểm, cây

rừng rậm rạp, nhiều tê tượng hùm beo, các phủ không có đường lối thống nhau,

mỗi phủ đều do một cửa biển đi vào; muốn đi từ phủ này qua phủ khác tất do

đường biển” [81, tr.132]. Trong sách Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn cho biết:

“Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các biển Cần Giờ, Soài Lạp, cửa Đại, cửa

Tiểu là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm…Đất ấy nhiều khe rạch, đường thủy

chằng chịt, ngòi lạch, không tiện đi bộ” [24, tr.255-256]. Do vậy, trong quá

trình di dân vào vùng đất mới dù đi lẻ tẻ hay ồ ạt lưu dân người Việt đều phải đi

bằng đường biển là chủ yếu, phương tiện là thuyền buồm, ghe bầu, thuận theo

chiều gió họ men theo bờ biển tiến về phía Nam, cứ thế họ đổ bộ lên một miền

đất xa lạ, rừng rậm hoang vắng đầy bí ẩn. Tuy nhiên, họ hết sức hăm hở bởi trên

vùng đất mới này họ không hề bị hăm doạ, bị cưỡng chế bởi bất cứ một thế lực

nào, đây chính là điều mà họ khao khát hơn cả, cũng chính là động lực giúp họ

vượt qua tất cả mọi khó khăn trước mắt.

Ngoài phương tiện đi lại bằng đường thuỷ thì cũng có người trèo đèo vượt

núi đi theo đường bộ, “đi dần từng chặng một, đến một địa phương ở một thời

gian, thấy trụ được thì ở luôn, thấy không trụ lại được lại đi tới nữa, cứ thế lần

hồi rồi cũng vào tới nơi đây” [51, tr.42-43]. Tuy nhiên, số người chọn phương

thức di chuyển này chắc không nhiều, vì đi theo đường bộ hết sức gian nan,

nguy hiểm và mất nhiều thời gian.

2.2.2. Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ

2.2.2.1. Những cột mốc quan trọng từ 1620 đến năm 1698

Như trên đã nói, trước khi chúa Nguyễn thiết lập quan hệ với Chân Lạp,

đã có luồng di cư tự phát của các cư dân Việt vùng Thuận Quảng vào vùng đất

Đông Nam Bộ, cụ thể là vùng đất Mô Xoài, luồng di cư này có ý nghĩa như sự

79

thăm dò đầu tiên, cũng như sự tạo cơ sở cho chúa Nguyễn thực hiện ý đồ mở đất

của mình. Từ đời chúa Nguyễn Hoàng cho đến đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên,

nhiều người dân nghèo phía Nam sông Gianh đã rời bỏ quê hương, tìm đến đây

sinh sống.

Cho đến khi những người dân Việt di cư đến thì vùng Đông Nam Bộ lúc

đó vẫn là vùng đất hoang vu mà triều đình Chân Lạp chưa với tay cai quản

được. Vùng đất mới này, có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với những lưu dân người

Việt nghèo bởi những ưu đãi về điều kiện thiên nhiên. Do nằm trên trục đường

giao thông đường bộ từ Bình Thuận vào, lại giáp biển nên vùng Mô Xoài - Bà

Rịa là nơi người Việt đến sinh sống sớm nhất, ngay từ thế kỷ XVII và đông lên

rất nhiều nửa sau thế kỉ này.

Từ Mô Xoài – Bà Rịa, di dân người Việt tiến dần vào vùng Đồng Nai,

Biên Hòa định cư và khai khẩn. Các điểm định cư và khai khẩn sớm nhất của cư

dân Việt ở vùng này là Bàn Lân, Bến Gỗ, Bến Cá, Cù Lao Rùa, Tân Triều, cù

lao Tân Chánh, rạch Lá Buông…

Ở vùng Sài Côn (Bến Nghé), lưu dân người Việt cũng đến khai phá rất

sớm. Theo tác giả Huỳnh Lứa: từ đầu thế kỉ XVII, người Việt đã đến định cư và

khai phá vùng này. Các gò đất cao như khu vực từ Chợ Quán đến Gò Cây Mai,

Chùa Gò (Phụng Sơn tự), từ Tân Định, Bà Chiểu, Gò Vấp … đến Hóc Môn và

dọc theo trục lộ đi về phía Tây Ninh là những nơi mà người Việt đến khai phá,

chung sống cùng với người Khơme.

Như vậy, người Việt đã có mặt trên suốt cả một khu vực rộng lớn từ Mô

Xoài cho đến vùng Sài Côn (Bến Nghé) từ đầu thế kỉ XVII. Họ đã lập ra những

làng mạc của người Việt đầu tiên trên đất Chân Lạp (tuy chưa phải những đơn vị

hành chính chính thức của Đàng Trong), tạo tiền đề cho việc đón những đợt di

dân tiếp theo khi có chủ trương của chúa Nguyễn, dưới sự cho phép của vua

Chân Lạp sau này.

80

Sự kiện quan trọng có ý nghĩa mở đầu cho mối quan hệ chính thức giữa

Chân Lạp và Đàng Trong, cũng như đối với quá trình mở đất của chúa Nguyễn

chính là cuộc hôn nhân ngoại giao giữa vua Chân Lạp Chey Chettta II và công

chúa Ngọc Vạn vào năm 1620.

Đầu thế kỉ XVII, khi mà uy thế của chúa Nguyễn đã lan vào cả Chân Lạp

thì việc tìm đến chúa Nguyễn như một cứu cánh đã xuất hiện với vương triều

Chey Chettta (1618 - 1625) nhằm đối trọng với Ayuthaya.

Chey Chetta (Chetta II) – vốn là Hoàng tử Chân Lạp bị Ayuthaya bắt giữ

làm con tin, sau khi được thả về nước và lên ngôi vua lúc 34 tuổi, đã không công

nhận quyền bá chủ của Ayuthaya trên đất Chân Lạp. Ông thay đổi tất cả những

gì do Ayuthaya quy định để ràng buộc Chân Lạp, kể cả việc xưng thần và cống

nạp rồi dời đô về Udong (Long Úc), thuộc tỉnh Kongong Luông. Điều đó gây sự

phản ứng rất mạnh mẽ của Ayuthaya, đã hai lần Ayuthaya đem quân sang chinh

phạt Chân Lạp nhưng đều bị đẩy lùi. Để đương đầu với Ayuthaya lâu dài, Chey

Chettha II đã tìm đến Đàng Trong nhằm thiết lập chỗ dựa cho mình.

Theo tác giả Nguyễn Trọng Minh trong bài “Xứ Mô Xoài trong tiến trình

Nam tiến của Người Việt” đăng trong kỷ yếu Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa -

Vũng Tàu ngày nay. Do sự xuất hiện ngày càng đông đảo của lưu dân Việt vào

làm ăn sinh sống trên vùng đất Mô Xoài cũng như các khu vực lân cận, đã khiến

chúa Nguyễn phải tính đến việc tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề này. Cơ

hội đó đã đến, khi quốc vương Chân Lạp Chey Chettta II xin cầu hôn với một

công nữ họ Nguyễn, nhằm tìm kiếm sự hỗ trợ về chính trị và quân sự từ chúa

Nguyễn để đối phó với các cuộc xâm lược của quân Xiêm. Chúa Nguyễn Phúc

Nguyên đã chấp nhận lời cầu hôn của quốc vương Chân Lạp, đem công chúa

Ngọc Vạn gả cho Chey Chetta II vào năm 1620.

Với cuộc hôn nhân mang màu sắc ngoại giao giữa Chey Chetta II và công

chúa Ngọc Vạn, chúa Nguyễn đã thắt chặt thêm quan hệ và tăng cường được

ảnh hưởng của mình lên Chân Lạp. Cuộc hôn nhân này đã mở ra nhiều sự thay

81

đổi đối với vận mạng của Chân Lạp và đem lại cho Đàng Trong những bước tiến

kỳ diệu trên con đường mở mang bờ cõi. Đó là những điều kiện vô cùng thuận

lợi cho chúa Nguyễn thực hiện công cuộc mở đất ở Đông Nam Bộ nói riêng và

Nam Bộ nói chung.

Tiếp theo sau cuộc hôn nhân chính trị này là sự trợ giúp thường xuyên của

chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho Chân Lạp. Thậm chí chúa còn gửi cả quân đội

và chiến thuyền đến giúp Chân Lạp chống các hoạt động chiến tranh và gây sức

ép của quân Xiêm, khiến cho liên minh giữa Chân Lạp và Đàng Trong ngày

càng chặt chẽ hơn. Mặt khác, công chúa Ngọc Vạn giờ đã là hoàng hậu Chân

Lạp với tước hiệu là Sodach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey, thường

can thiệp với chồng để tạo điều kiện cho người Việt sang khai phá, sinh sống

không chỉ trên vùng đất Mô Xoài, Đồng Nai (vùng Biên Hòa – Bà Rịa) mà còn

cả ở Prey Nokor – Kas Krobei (vùng Sài Gòn, Bến Nghé sau này) mà không

phải đóng thuế. Bà chính là cầu nối của mối quan hệ giữa Chân Lạp và Đàng

Trong đồng thời là nhân tố quan trọng trong những ngày đầu mở đất về phía

Nam của chúa Nguyễn.

Sự có mặt ngày càng đông đảo của người Việt trên vùng đất mới, cùng

với những hoạt động sinh hoạt của họ: “đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúa

Nguyễn từng bước hợp pháp hóa sự kiểm soát của mình một cách êm thấm đối

với vùng đất đã được khai khẩn” [47].

Sự kiện thứ hai có ý nghĩa đối với quá trình xâm nhập vào lãnh thổ Chân

Lạp của các chúa Nguyễn, là việc mở trạm thu thuế ở Sài Gòn và đóng đồn trên

đất Chân Lạp vào năm 1623.

Sự liên minh Đàng Trong – Chân Lạp ngày càng gắn bó cùng với vai trò

cầu nối của Ngọc Vạn, đã khiến cho lưu dân người Việt có mặt và làm ăn sinh

sống ở hầu khắp miền Đông Nam Bộ (ngày nay); sự giao thương quanh vùng

Sài Gòn – Đồng Nai cũng rất phát triển.

82

Trong điều kiện thuận lợi ấy, năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cử

một đoàn sứ bộ đem theo thư cùng nhiều tặng phẩm tới kinh đô Oudong để tỏ

tình thân hữu và đảm bảo sự ủng hộ của chính quyền chúa Nguyễn. Trong quốc

thư chúa cũng đã đề nghị vua Chân Lạp cho lập đồn thu thuế ở Prey Kor (tức

vùng Sài Gòn) để thu thuế lưu dân Việt đang làm ăn sinh sống quanh vùng và

xin nhượng vùng đất Mô Xoài để lập khu dinh điền.

Về sự kiện này, tác giả người Pháp là Maspéro trong sách Đế quốc Khmer

đã trích dịch từ Biên niên sử chép tay của Chân Lạp ghi rõ: Nhà vua mới lên

ngôi Chey Chettha II liền xây một cung điện ở Oudong, nơi đây ông long trọng

cử hành lễ cưới một công chúa con vua An nam. Bà này rất đẹp, chẳng bao lâu

ảnh hưởng mạnh đến nhà vua. Nhờ Bà, một sứ đòan An Nam đã xin phép Chey

Chettha lập thương điếm trong miền Nam Cao Miên, ở phía chính nơi ngày nay

là Sài Gòn [29, tr.146].

Ngoài ra, dịch giả “Biên niên sử Khơme” người Pháp là Moura cũng đã

viết: Vào Phật lịch 2167, công nguyên là 1623, một sứ thần của vua An nam

đem quốc thư tới vua Cao Miên là Prea Chey Chessda, với nội dung vua An

nam ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor và Kas Krobey (Sài Gòn và Bến Nghé)

của Cao Miên để lập các trạm thuế thương chính. Sau khi tham khảo triều đình,

Chey Chessda thuận ý vua An nam và gửi cho vua này một quốc thư bằng lòng

như yêu cầu. Do đấy vua An nam lệnh cho quan chức thương chính đến trú đóng

tại Prei Nokor và Kas Krobey, và từ đó, thi hành việc thu các sắc thuế thương

chính [29, tr.147].

Tác giả Phan Khoang trong Việt Sử xứ Đàng Trong cho biết thêm: sau khi

được vua Chey Chetta II chấp thuận, chúa Nguyễn đã khuyến khích người Việt

di cư đến đây làm ăn, rồi lấy cớ để giúp chính quyền Chân Lạp giữ gìn trật tự,

chúa Nguyễn đã phái tướng lãnh đến đóng đồn ở Prey Kor.

Theo tác giả Lê Huỳnh Hoa: việc triều đình Oudong chấp thuận lời đề

nghị là “một cách mượn sức lao động” của di dân người Việt để khai phá vùng

83

đất Nam Bộ bấy giờ còn rất hoang vu. Mặt khác, khi di dân người Việt có mặt ở

đây, chính quyền Đàng Trong sẽ có trách nhiệm nhiều hơn trong việc giúp Chân

Lạp đối phó với Xiêm” [35].

Các sở thuế này được xem như là chỗ đứng chân thứ hai của người Việt,

như một đầu cầu vững chắc cho chương trình di dân người Việt vào đất Chân

Lạp. Khu dinh điền ở Mô Xoài được xem là khu dinh điền chính thức đầu tiên

của người Việt trên đất Chân Lạp. Nơi đây đã góp phần quan trọng tạo nên một

điểm tụ cư cho cư dân Việt trong quá trình Nam tiến.

Với danh nghĩa giúp chính quyền Chân Lạp giữ gìn trật tự, chúa Nguyễn

còn phái tướng lĩnh đem quân đến đóng đồn ở Prey Nokor, thực chất là nhằm

bảo vệ cho lưu dân khai khẩn làm ăn ở vùng đất mới từ Bà Rịa (Mô Xoài) đến

Sài Gòn cũng như “bảo vệ con đường giao thương giữa Đàng Trong với Chân

Lạp và Xiêm” [64, tr.50].

Theo tác giả Đỗ Quỳnh Nga “việc được lập sở thu thuế và đóng đồn trên

đất Chân Lạp ngoài việc có ý nghĩa như là “sự thu hoạch” đối với những thành

quả mà người Việt đạt được, còn mang tính chất như là một sự xác lập chủ

quyền nhất định của chúa Nguyễn ở một khu vực cục bộ của Chân Lạp”

[64, tr.51].

Sự hiện diện của hai trạm thu thuế và đồn binh, cộng với công nữ người

Việt đang là hoàng hậu của Chân Lạp chẳng những là một sự đảm bảo an toàn

cho những cư dân Việt tại đây, mà còn là nguồn động viên, cổ vũ lưu dân Việt

vào đây làm ăn sinh sống.

Sau khi vua Chetta II mất vào năm 1628, thì vùng đất từ Prey Nokor trở ra

phía Bắc đến biên giới Champa, bao gồm vùng thành phố Hồ Chí Minh, Biên

Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay đã có nhiều người Việt đến sinh sống. Ở Tây

Ninh, đã có những người Việt đến định cư khai khẩn đất đai đầu tiên từ Hóc

Môn lên đến Trảng Bàng rồi qua Gò Dầu lên tận núi Bà Đen.

84

Tiếp nối con đường mà chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã khai mở, chúa

Nguyễn Phúc Tần sau khi lên ngôi đã thúc đẩy hơn nữa công cuộc mở đất vào

Đông Nam Bộ. Hai sự kiện tiếp theo có vai trò quan trọng đối với quá trình mở

đất Đông Nam Bộ là hai cuộc can thiệp quân sự vào lãnh thổ Chân Lạp của chúa

Nguyễn, theo lời thỉnh cầu của Chân Lạp nhằm giải quyết các vụ tranh chấp

trong nội bộ Chân Lạp vào các năm 1658 và năm 1674. Với hai sự kiện này,

thanh thế, vai trò của Đàng Trong ngày càng lên cao và Chân Lạp thì trở thành

nước thần phục, phải triều cống hàng năm.

Theo tác giả Phan Khoang thì năm 1658, theo lời cầu cứu của một trong

số các phe phái của triều đình Chân Lạp là So và Ang Tan, chúa Nguyễn Phúc

Tần đã sai Phó tướng dinh Trấn Biên (dinh Phú Yên) là Nguyễn Phước Yến, Cai

đội Xuân Thắng, Tham mưu Minh Lộc (hai người đều không rõ họ đem 3.000

quân đến thành Hưng Phước (bấy giờ gọi là Mỗi Xuy, tức Bà Rịa), đánh phá

được, bắt Nặc Ông Chân bỏ vào cũi đem về Quảng Bình... Năm sau (1659) Nặc

Ông Chân chết, Chúa Nguyễn phong So làm vua Chân Lạp, hiệu là Batom

Reachea (1660 – 1672 [46, tr.311-312].

Về việc này, Đại Nam thực tiền biên đã xác nhận: Tháng 9, vua nước

Chân Lạp (vốn tên là Cao Miên) là Nặc Ông Chân xâm lấn biên thùy. Dinh

Trấn Biên báo lên. Chúa sai Phó tướng Trấn Biên là Tôn Thất Yến, Cai đội là

Xuân Thắng, Tham mưu là Minh Lộc (hai người đều không rõ họ) đem 3000

quân đến thành Hưng Phúc (bấy giờ gọi là Mỗi Xuy, nay thuộc huyện Phúc

Chính, tỉnh Biên Hòa) đánh phá được, bắt Nặc Ông Chân đưa về. Chúa tha tội

cho và sai hộ tống về nước, khiến làm phiên thần, hàng năm nộp cống

[78, tr.72].

Nhờ người Việt mới được làm vua, nên Batom Reachea “đã ký hòa ước,

nhận triều cống chúa Nguyễn hằng năm và cho người Việt định cư trong lãnh

thổ, được làm chủ phần đất khai hoang và hưởng quyền lợi ngang hàng với

người bản xứ” [33]. Như vậy, mối quan hệ giữa Chân Lạp và Đàng Trong dưới

85

thời chúa Nguyễn Phúc Tần có sự thay đổi quan trọng – từ bang giao bình đẳng

chuyển sang mối quan hệ thần phục. Điều này đã tạo điều kiện rất lớn cho quá

trình di dân của người Việt vào lãnh thổ Chân Lạp. Người dân Việt chuyển cư

đến vùng Gia Định, Mô Xoài, Đồng Nai ngày càng đông và dần dần chiếm

đa số.

Cuộc can thiệp quân sự lần thứ hai vào Chân Lạp của chúa Nguyễn cũng

diễn ra ở Mô Xoài vào năm 1674.

Sau khi vua Chân Lạp là Batom Reachea bị giết (1672), tình hình Chân

Lạp rối ren trở lại. Hoàng tộc bị chia thành nhiều nhóm phái, có phái muốn dựa

vào Xiêm, có phái muốn dựa vào Đàng Trong để giành lấy ngai vàng. Nặc Nộn

thỉnh cầu chúa Nguyễn, trong khi Nặc Ông Đài cầu cứu quân Xiêm để đối phó

với Đàng Trong.

Dĩ nhiên cũng như bao nhà nước phong kiến khác, sự hỗ trợ của chúa

Nguyễn đối với mỗi phe phái trong hoàng gia Chân Lạp đều gắn với ý đồ mở

đất, từng bước thúc đẩy quá trình xâm nhập vào Chân Lạp. Với sự can thiệp lần

này cũng vậy, năm 1674, chúa Nguyễn Phúc Tần sai cơ đạo dinh Thái Khang là

Nguyễn Dương Lâm đem quân sang Chân Lạp hỗ trợ Nặc Nộn với cớ: “Nặc

Nộn là phiên thần, có việc nguy cấp, không thể không cứu” [78, tr.89].

Sách Gia Định thành thông chí củaTrịnh Hoài Đức mô tả trận này như

sau: Ở phía đông trạm Hương Phước, ngay giữa đường cái quan. Trước đây

Chánh vương Cao Miên là Sô đóng ở thành Vũng Long, Phó vương là Non đóng

ở thành Sài Gòn. Con trưởng của Sô là Bô Tâm không được làm vua, bèn giết

cha tự lập làm vua, rồi sợ Non không phục sẽ cáo báo lên triều để xin binh hỏi

tội mình nên đắp đồn đất Gò Vách, Nam Vang, kết bè nổi, giăng dây sắt để tự

vệ, lại xin Xiêm La ứng viện, mưu đánh giết Non. Thế Non lúc bấy giờ rất nguy

phải chạy qua nương tựa dinh Thái Khang, Bô Tâm bèn chiếm cứ Sài Gòn, mà

quân Xiêm lại không đến như đã hứa, nên Bô Tâm đắp lũy đất ở vùng địa đầu

Mô Xoài. Phía ngoài trồng tre gai, tăng thêm quân và voi để phòng thủ, thế rất

86

vững. Trải hơn một năm thấy quân ta không hề động tĩnh quân lính, Bô Tâm trễ

nải việc phòng bị, quân lính tứ tán ra ngoài đồng xa làm ruộng. Tháng giêng

năm Giáp Dần (1674) đời Thái Tông thứ 27 (chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần),

Trấn thủ dinh Thái Khang là Nguyễn Triều Đắc đem việc trình lên, tháng 2 vua

sai tướng của dinh Thái Khang là Nguyễn Dương xuất chinh, cử thêm Nguyễn

Diên làm Cai cơ thống lãnh tiên phong và dụ rằng: dùng binh quý là thần tốc,

phải mau chóng đi suốt ngày đêm. Tháng 3, Diên Lộc hầu đến trước ở lũy Mô

Xoài, nhân khi chúng không phòng bị xông vào đánh úp, chiếm lấy, binh sĩ giáo

không hề vấy máu; qua ba ngày bọn chúng tụ họp lại vây đánh rất gắt, Diên Lộc

hầu đóng cửa lũy không đánh trả, rồi đại quân của Dương Lâm hầu đến mới

hiệp lực ra đánh, quân Cao Miên thua to, chết và bị thương rất đông. Nhân vậy

mới gọi là lũy Phước Tứ [25, tr.231].

Thắng trận, chúa Nguyễn Phúc Tần phong cho Nặc Thu (em Nặc Ông

Đài) làm chính vương, đóng ở thành Long Úc (Oudong), Nặc Nộn làm phó

vương đóng ở Sài Gòn, cùng coi việc nước và buộc cả hai hằng năm phải triều

cống.

Chúa Nguyễn dần dần đã trở thành lực lượng thiết lập trật tự ở Chân Lạp

mỗi khi có nội biến xảy ra, điều này đồng nghĩa với việc chúa Nguyễn có thể

can thiệp sâu sắc vào triều chính Chân Lạp, nhưng cho đến thời điểm này

(1674), điều đó vẫn không xảy ra. Điều mà chúa Nguyễn đòi hỏi chỉ đơn thuần

là Chân Lạp triều cống hằng năm và tạo điều kiện cho lưu dân người Việt vào

vùng đất này làm ăn sinh sống.

Quá trình xâm nhập vào vùng đất Đông Nam Bộ của các chúa Nguyễn từ

1620 cho đến năm 1674 đã có được kết quả khá tốt đẹp “vùng đất từ Prey Kor

trở ra cho đến biên giới Champa (bao gồm thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa,

Biên Hòa ngày) gần như đã trở thành lãnh địa riêng của chúa Nguyễn với rất

nhiều người Việt đến sinh sống, lập nghiệp” [63, tr.19].

87

Cùng với Gia Định, Mô Xoài, chúa Nguyễn đã có những bước xâm nhập

vào Biên Hòa, tạo điều kiện cho lưu dân người Việt đến đây sinh sống. Tuy vậy,

Biên Hòa chỉ thực sự được khai phá và phát triển vào nửa sau thế kỉ XVII, khi

có lực lượng người Hoa đến đây. Công cuộc mở mang vùng này không phải do

chúa Nguyễn tốn công sức thực hiện mà là do lực lượng người Hoa đảm nhiệm.

Chúa Nguyễn Phúc Tần đã rất khôn ngoan và táo báo khi sử dụng lực lượng này

để đem về cho mình một vùng đất trù phú giàu có [63, tr.19].

Sự xuất hiện của lực lượng người Hoa trên đất Biên Hòa được sử nhà

Nguyễn ghi lại như sau: Kỷ Mùi, năm thứ 31 [1679], mùa xuân, tháng giêng,

tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh Dương Ngạn Địch và và phó tướng

Hoàng Tiến, Cao Lôi Liêm, tổng binh Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần

An Bình đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung

và Đà Nẵng, tự trần là bô thần nhà Minh, nghĩa không chịu làm tôi thần nhà

Thanh, nên đến để xin làm tôi tớ [78, tr.91]. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã thu nhận

và sử dụng họ làm lực lượng khai phá đất ở Nam Bộ với suy tính khôn ngoan:

Phong tục tiếng nói của họ đều khác, khó bề sai dụng, nhưng họ bị thế cùng bức

bách đến đây thì không nỡ cự tuyệt. Nay đất Đông Phố (tên cổ của Gia Định)

nước Chân Lạp đồng ruộng phì nhiêu nghìn dặm, triều đình chưa rỗi mà kinh lý,

chi bằng nhân lấy sức của họ cho đến khai khẩn để ở, làm một việc mà lợi ba

điều [78, tr.91]. Chúa một mặt ban thưởng cho các tướng nhà Minh những chức

như cũ, phong thêm chức mới, một mặt gửi thư cho vua Chân Lạp yêu cầu chia

cấp đất đai cho họ.

Binh thuyền của Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến được bố trí đến định

cư và khai phá đất đai ở châu thổ bờ bắc sông Tiền, lập ra Mỹ Tho đại phố. Tuy

nhiên, chỉ 9 năm sau (1688) nội bộ lục đục dẫn đến việc Dương Ngạn Địch bị

Hoàng Tiến giết chết.

Đoàn di dân của Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình dẫn đầu vào cửa

Cần Giờ đến đóng ở Bàn Lân (Biên Hòa). Phần lớn những người Hoa di cư sang

88

nước ta đều xuất phát từ miền đông nam Trung Quốc – khu vực phát triển kinh

tế hàng hóa sớm nhất của Trung Quốc. Sở trường của họ là buôn bán và công

nghệ, ít người chuyên về nghề nông. Hơn nữa, trong số những người Hoa này,

ngoài tướng lĩnh quân đội còn có cả những tướng cướp khét tiếng trên biển

Đông, quan lại, thương gia giàu có từng có quan hệ giao thương với nhiều nước

Nam Á. Họ mang theo nhiều của cải, vàng bạc. Bằng tư duy thương nghiệp, tư

duy hàng hóa, tiền tệ, nhóm di dân Trần Thượng Xuyên sớm phát hiện và khai

thác thế mạnh của Cù Lao Phố. Cù Lao Phố “nằm giữa sông Hương Phước (một

đoạn của sông Đồng Nai), trải dài trên 7 dặm, bề ngang bằng 2/3 bề dài. Tuy

nằm cách xa biển nhưng là nơi sông sâu, nước chảy, có thể tiếp tục ngược lên

phía bắc khai thác nguồn lâm thổ sản, xuống tận phía nam ra cửa Cần Giờ và

có thể sang tận Cao Miên” [120, tr.390-391]. Do đó, phần lớn trong số họ đã

chuyển cư từ Bàn Lân về Cù Lao Phố phát hoang, dựng nhà, mở đường, xây phố

chợ. Sẵn có vốn liếng tiền bạc, với kinh nghiệm đã được tích lũy, họ liên lạc,

móc nối lại với các đường dây, khách hàng buôn bán cũ, họ khai thác các nguồn

lâm sản dồi dào và phong phú trong vùng lúc bấy giờ như: gỗ quý, trầm hương,

ngà voi, sừng tê, xương động vật, da thú, lông chim, dược liệu, tôm khô, cá khô

cùng những sản phẩm nông nghiệp khác… vì thế đã thu hút được nhiều thương

nhân nước ngoài và cả những thế hệ sau đến trao đổi buôn bán, làm ăn sinh

sống.

Chỉ trong vài ba thập niên, đến đầu thế kỉ XVIII, Cù Lao Phố đã trở thành

một thương cảng xuất nhập khẩu lớn thu hút thuyền buôn Nhật Bản, Trung Hoa

và các nước phương Tây, đây được xem là một trung tâm thương mại lớn ở Gia

Định. Biên Hòa lúc đó đã trở thành một trong hai trung tâm có cư dân đông đảo,

làm cơ sở cho cuộc khai phá miền Đông Nam Bộ của chúa Nguyễn sau này.

Tuy vậy, để bảo vệ được mảnh đất này được bình an cũng không phải là

một điều dễ dàng. Sự yên bình hay bất ổn của triều đình Chân Lạp đều ảnh

hưởng lớn đến những thành quả mà chúa Nguyễn đã dựng nên trên vùng đất

89

mới. Chúa Nguyễn, cũng phải tốn nhiều sức lực để dẹp loạn các cuộc tranh chấp

trong nội bộ Chân Lạp nhằm bảo vệ các thành quả của mình. Sự xung đột gay

gắt giữa Nặc Thu và Nặc Nôn (diễn ra từ 1679 và kết thúc vào năm 1690), được

sự can thiệp quyết liệt của quân chúa Nguyễn Phúc Trăn một mặt là nhằm thiết

lập lại trật tự ở Chân Lạp, mặt khác là tạo điều kiện cho người Việt đến sinh

sống ở vùng đất này càng ngày càng đông hơn.

Như vậy, cho đến cuối thế kỷ XVII, tuy đã khai phá trên một vùng đất khá

rộng lớn và có ảnh hưởng rất lớn đến triều chính Chân Lạp, nhưng các Chúa

Nguyễn, ngoại trừ chức quan thu thuế ở Sài Gòn (Sài Côn), vẫn chưa thiết lập

những tổ chức hành chính trên vùng đất này. Phải đến khi dinh Trấn Biên và

Phiên Trấn được lập ra (năm 1698), thì công cuộc mở đất Đông Nam Bộ mới

chính thức hoàn thành.

Sự ra đời của dinh Trấn Biên và Phiên Trấn có ý nghĩa vô cùng quan

trọng đối với việc xác định chủ quyền của chúa Nguyễn trên Chân Lạp. Không

phải ngẫu nhiên mà mãi đến năm 1698, chúa Nguyễn mới bắt tay vào thực hiện

việc thiết lập nên các tổ chức hành chính và các chức quan quản lý của mình

trên đất Chân Lạp. Có nhiều ghi chép khác nhau, cũng như nhiều ý kiến không

thống nhất về những nguyên cớ để đưa đến sự kiện này. Các bộ Chính sử của

Quốc sử quán triều Nguyễn như Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện

tiền biên, Đại Nam nhất thống chí cũng như Gia Định thành thông chí của Trịnh

Hoài Đức đều không thấy đề cập đến, trong khi Phủ Biên tạp lục của Lê Quý

Đôn lại ghi chép sự kiện này như là kết quả của một cuộc đánh chiếm: Mậu

Dần, năm thứ 19, sai Chưởng Cơ Thành Lễ Hầu đem tướng sĩ đi đánh Cao

Miên, lấy đất Đồng Nai phì nhiêu đặt làm phủ Gia Định, chia thành hai huyện

Phúc Long và Tân Bình, lập làm dinh Trấn Biên và dinh Phan Trấn (cũng đọc là

Phiên Trấn), mở thêm đất nước được nghìn dặm và dân hơn 4 vạn hộ [23, tr.77].

Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang cũng có đề cập tới vấn đề này: có viên

quan Chân Lạp tên Êm nổi loạn, nhờ chúa Nguyễn giúp quân lính và đã hứa sẽ

90

nhượng các tỉnh Prey Kôr (Sài Gòn), Kâmpeâp Srêkatrey (Biên Hòa), Bà Rịa để

đền đáp. Năm 1699, Êm đem quân Việt theo sông Mêkông tiến đến Kongpong

Chhnang, nhưng bị đẩy lui, trở về 3 tỉnh này, Êm bị giết. Nhưng nhân đó chúa

Hiển Tông đã công khai chiếm đất ấy, đặt quan cai trị [46, tr.321-322]. Ngoài

ra, trong tác phẩm Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp, ở

Nam kỳ lục tỉnh của tác giả Nguyễn Đình Đầu, vấn đề này cũng được được đề

cập một cách chi tiết: Khi ấy, quốc vương Cao Miên là Nặc Ông Thu bị một

quan đại thần là Am Noren âm mưu lật đổ, Am Noren sang Đồng Nai, xin chúa

Nguyễn giúp cho 20.000 quân về đánh Nặc Ông Thu. Đạo quân này chia làm

hai cánh theo Tiền Giang và Hậu Giang đánh lên kinh đô. Thu bị bắt ngờ, phải

chạy về Gò Sặt (Pursat), triệu tập cấp tốc được trên 40.000 quân, mãnh liệt

phản công lại Am Noren, Am Noren bị bắt và bị hành quyết, còn tàn quân thì

chạy về Đồng Nai. Sử Việt Nam không nói tới sự kiện trên, mà chỉ viện lý do tình

hình không ổn định ở Chân Lạp nên chúa Nguyễn Phúc Chu sai chưởng cơ Lễ

thành hầu Nguyễn Hữu Kính đem quân vào kinh lý [22, tr.43-44]. Tuy nhiên, cả

hai tài liệu trên đều không ghi xuất xứ nguồn sử liệu để thẩm định.

Dù thế, một sự thật hiển nhiên là sự kiện này có mối quan hệ ít nhiều đến

cái chết của phó vương Nặc Nộn của Chân Lạp vào năm 1691, từ lúc đó vùng

đất này không còn đại diện của vương triều Chân Lạp nữa. Phải chăng là lợi

dụng lúc triều chính Chân Lạp chưa ổn định, chúa Nguyễn Phúc Chu đã nhân cơ

hội này sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược đất Chân Lạp, thực hiện ý

định của mình? Hơn nữa, đây cũng là thời điểm mà lãnh thổ nước ta đã nối dài

thêm đến Bình Thuận (năm 1693), nên việc sáp nhập thêm một vùng đất mới

trong những điều kiện chín muồi hoàn toàn có khả năng diễn ra.

Mùa xuân năm 1698, chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh

(Kính) vào Nam kinh lược. Lúc bấy giờ, người Việt tuy khẩn hoang lập ấp còn

thưa nhưng họ cũng đã có mặt ở khắp vùng miền Đông, từ sông Tiền qua Vàm

Cỏ, qua Sài Gòn, Đồng Nai và Mô Xoài (Bà Rịa). Nguyễn Hữu Cảnh tiến hành

91

chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long (nay thăng làm

phủ) dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện

Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức dinh Gia Định ngày

nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy

bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất đai được nghìn dặm, được hơn 4 vạn

hộ, bèn chiêu mộ những người dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở

đông. Thiết lập xã thôn, phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương,

định lệ thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh buôn bán ở Trấn

Biên lập làm xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn, lập làm xã Minh Hương. Từ đó người

Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ (của ta) [78, tr.111].

Về sự việc này, sách Gia Định thành thông chí cho biết: Mùa xuân năm

thứ 8, Mậu Dần (1698) thời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (Quốc chúa Nguyễn

Phúc Chu), (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 19, Đại Thanh Khang Hy thứ

37), triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Hữu Cảnh)

sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập

đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là

thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận

sở nay gần Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị.

Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân binh thì có tinh binh cơ đội

thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ,

chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp,

phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch. Con

cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên

Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch [25, tr.112].

Đến đây, Trấn Biên và Phiên Trấn đã được phân định rõ ràng. “Địa danh

Trấn Biên bao gồm một vùng đất rộng lớn từ ranh giới Bình Thuận đến Nhà Bè;

Phiên Trấn là vùng đất từ Tân Bình đến Cần Giuộc, Cần Đước, Tân An”

[56, tr.33]. Điều đáng lưu ý là theo tổ chức hành chính dưới thời chúa Nguyễn

92

thì dinh chia ra nhiều phủ, phủ gồm nhiều huyện, huyện gồm nhiều tổng, tổng

gồm nhiều xã, nhưng đối với phủ Gia Định, dinh Trấn Biên và Phiên Trấn lại

khác. Phủ Gia Định thay vì trực thuộc Trấn Biên hay Phiên Trấn thì lại “quản”

cả hai dinh này. Thông qua việc lập nên phủ Gia Định với 2 dinh Trấn Biên,

Phiên Trấn và việc tổ chức các đơn vị hành chính, bộ máy chính quyền từ cấp

phủ, dinh, trấn cho đến tận các thôn xã; việc quản lý đất đai; hộ khẩu; thu thuế…

chúa Nguyễn đã xác lập quyền quản lý về mặt nhà nước đối với các xứ Đồng

Nai – Gia Định. Điều đó đồng nghĩa với việc công khai sáp nhập vùng đất Đông

Nam Bộ, một phần nhỏ Tây Nam Bộ (Long An) vào lãnh thổ Đàng Trong, Sài

Gòn – Gia Định từ đây đã trở thành một trung tâm hành chính và từng bước hình

thành nên một trung tâm kinh tế - văn hóa của vùng đất mới.

Chuyến kinh lược của Nguyễn Hữu Cảnh đã tạo nên một sự thay đổi hết

sức quan trọng: lưu dân từ thân phận kiều dân đã trở thành dân chính hộ, cộng

đồng kiều dân trở thành cộng đồng chủ nhân vùng đất mình đang sinh sống. Sự

thay đổi này, tạo nên ở người lưu dân ý thức làm chủ đối với vùng đất mà từ nay

đã thuộc về mình, từ đó họ thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong

công cuộc xây dựng, phát triển và bảo toàn vùng đất này. Điều này có ý nghĩa

rất lớn đối với tiến trình mở mang lãnh thổ về sau.

Công cuộc khai mở Đông Nam Bộ đến đây chính thức được hoàn tất và

sự kiện năm 1698 trở thành cột mốc quan trọng trong quá trình xác lập và thực

thi chủ quyền của Chúa Nguyễn đối với vùng đất Nam Bộ.

Việc lập nên đơn vị hành chính đầu tiên ở trên đất Chân Lạp của Đàng

Trong này, gắn liền với tên tuổi của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Ông được

xem là vị “khai canh” của nhiều làng Việt ở Đông Nam Bộ. Với những đóng

góp ý nghĩa của mình đối với quá trình khai phá đất Nam Bộ, ông được nhân

dân Nam Bộ, kể cả người Chân Lạp lập đền thờ ở nhiều nơi, từ Tây đến Đông

Nam Bộ.

93

2.2.2.2. Những cột mốc quan trọng từ 1698 đến năm 1757

Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ thành công đã tạo cơ sở vững chắc cho

chúa Nguyễn tiến xuống mở đất Tây Nam Bộ.

Tác phẩm Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam do Giáo sư. Tiến sĩ khoa

học Vũ Minh Giang chủ biên cho biết: khi nhóm cận thần nhà Minh, Dương

Ngạn Địch, Trần Thắng Tài được chúa Nguyễn phong chức tước và cho vào

định cư và khai khẩn vùng Mĩ Tho và Biên Hòa, thì Mạc Cửu là người xã Lôi

Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) cũng

vì việc nhà Minh mất mà để tóc chạy sang phương Nam, đến nước Chân Lạp

làm chức Ốc Nha, thấy phủ Sài Mạt ở nước ấy có nhiều người buôn bán các

nước tụ họp, bèn mở sòng gá bạc để thu thuế gọi là hoa chi, lại được hố bạc

chôn nên trở thành giàu. Nhân chiêu tập dân xiêu dạt đến các nơi Phú Quốc,

Cần Bột, Giá Khê, Lũng Kỳ, Hương Úc, Cà Mau (thuộc tỉnh Hà Tiên) lập thành

7 xã, thôn [78, tr.122]. Mạc Cửu đã biến toàn bộ vùng đất Hà Tiên – Long

Xuyên - Bạc Liêu – Cà Mau (được gọi chung là Hà Tiên) thành khu vực cát cứ

của dòng họ mình, không còn lệ thuộc vào chính quyền Chân Lạp nữa.

Sách Thanh triều văn hiến thông khảo gọi đây là nước Cảng Khấu (Cảng Khẩu

quốc): Nước này có nhiều núi cao, địa hạt khoảng 100 dặm vuông. Thành và các

cung thất làm bằng gỗ không khác Trung Quốc mấy. Chỗ vua ở xây bằng gạch

ngói. Chế độ trang phục phảng phất các Vua đời trước, búi tóc, đi võng, chít

khăn, đội mũ. Vua mặc áo bào vẽ trăn rắn, lưng thắt dải đai, giày dép bằng da.

Dân mặc áo vạt cổ rộng. Khi có tang thì mặc đồ màu trắng, bình thường thì áo

nhiều màu… Họ gặp nhau thì chắp hai tay chào theo lễ. Phong tục nước này

ham chuộng thơ văn, trong nước có dựng đền thờ Khổng Tử. Vua và dân đều

đến lễ… [28, tr.31].

Trước tình hình phát triển hết sức nhanh chóng của khu vực Gia Định

dưới quyền quản lý của chính quyền Chúa Nguyễn, Mạc Cửu càng ngày càng

nhận thấy không thể không dựa vào chính quyền Chúa Nguyễn nếu muốn tiếp

94

tục củng cố và mở rộng thế lực trên vùng đất này, nên đã đem toàn bộ vùng đất

đang cai quản về với Chúa Nguyễn. Sách Đại Nam thực lục chép sự kiện xảy ra

vào năm 1708 như sau: “Đến đây Cửu ủy cho người bộ thuộc là Trương Cầu và

Lý xã dâng thư xin làm Hà Tiên trưởng. Chúa nhận cho, trao cho chức Tổng

binh. Cửu xây dựng binh ngũ, đóng ở Phương Thành, nhân dân gày càng đến

đông” [78, tr.122]. Tháng 4 năm 1711, Tổng binh trấn Hà Tiên Mạc Cửu đã đến

cửa khuyết để tạ ơn và được Chúa Nguyễn Phúc Chu hậu thưởng.

Việc vùng đất Hà Tiên được sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong, là sự kiện

đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quá trình mở rộng chủ quyền của

Chúa Nguyễn trên vùng đất Nam Bộ. Đến đầu thế kỷ XVIII, chủ quyền Việt

Nam đã mở rộng đến tận Hà Tiên và mũi Cà Mau, bao gồm cả các hải đảo ngoài

Biển Đông và vịnh Thái Lan. Lúc này, bên cạnh đội Hoàng Sa trấn giữ các quần

đảo giữa Biển Đông, Chúa Nguyễn còn đặt ra đội Bắc Hải (dưới sự kiêm quản

của đội Hoàng Sa) có trách nhiệm khai thác hóa vật, kiểm tra, kiểm soát thực thi

chủ quyền của Việt Nam ở khu vực “các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo

ở Hà Tiên”.

Sau khi Mạc Cửu mất, Chúa Nguyễn tiếp tục phong cho con của Mạc Cửu

là Mạc Thiên Tứ làm Đô đốc trấn Hà Tiên và cho 3 thuyền long bài được miễn

thuế, sai xuất dương tìm mua các của quý báu để nộp. Lại sai mở cục đúc tiền

để tiện việc trao đổi. Thiên Tứ chia đặt nha thuộc, kén bổ quân ngũ, đắp thành

lũy, mở phố chợ, khách buôn các nước đến họp đông. Lại vời những người văn

học, mở Chiêu Anh các, ngày ngày cùng nhau giảng bàn và xướng họa, có 10

bài vịnh Hà Tiên (Hà Tiên thập vịnh) [78, tr.146]. Mạc Thiên Tứ không chỉ ra

sức xây dựng và phát triển Hà Tiên trở thành một trung tâm kinh tế phồn thịnh,

mà còn nêu cao ý thức bảo vệ chủ quyền với tư cách là người được giao trách

nhiệm bảo vệ vùng biên giới cực Nam đất nước. Sách Đại Nam thực lục cho biết

vào năm 1739: Nặc Bồn nước Chân Lạp lấn Hà Tiên… Thiên Tứ đem hết quân

bản bộ ra đánh, đuổi tới Sài Mạt, ngày đêm đánh hăng, lương thực không tiếp

95

kịp. Vợ là Nguyễn Thị đốc suất vợ lính vận lương đến nuôi quân, quân không bị

thiếu ăn, hăng hái cố đánh phá được quân Bồn. Tin thắng trận báo lên, Chúa cả

khen ngợi, đặc biệt cho Thiên Tứ chức Đô đốc tướng quân, ban cho áo bào đỏ

và mũ đai, phong Nguyễn Thị làm Phu nhân. Do đó Chân Lạp không dám nhòm

ngó Hà Tiên nữa [78, tr.148].

Năm 1744, Chúa Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vương, tổ chức bộ máy

hành chính thống nhất, chia toàn bộ đất Đàng Trong thành 12 dinh và 1 trấn phụ

thuộc. Các dinh đều đặt trấn thủ, cai bạ và ký lục để cai trị, đứng đầu trấn là

chức đô đốc. Riêng vùng đất Nam Bộ lúc ấy gồm 3 dinh là Trấn Biên, Phiên

Trấn, Long Hồ và trấn Hà Tiên.

Vào khoảng thời gian này, nội bộ vương triều Chân Lạp lâm vào tình

trạng mâu thuẫn, chia rẽ. Có thế lực muốn dựa hẳn vào Chúa Nguyễn, nhưng lại

có thế lực muốn chạy theo vua Xiêm, các lực lượng đối địch luôn tìm mọi cơ hội

để thôn tính lẫn nhau. Sách Đại Nam thực lục cho biết: vào năm Mậu Thìn

(1748) Nặc Tha (Satha II) nước Chân Lạp lên ngôi Vua. Nặc Thâm từ nước

Xiêm về, Tha không chịu nhận. Thâm cử binh đánh. Tha chạy sang Gia Định.

Thâm liền chiếm đất. Đến khi Thâm chết, con là Đôn, Hiên, Yếm tranh nhau làm

Vua…Mùa Hạ, tháng 6, Nặc Nguyên (Ang Tong) nước Chân Lạp (con thứ hai

Nặc Thâm) cùng Cao La Hâm và Ốc Đột Lục Man cầu viện quân Xiêm về đánh

Nạc Tha. Nạc Tha (Satha II) lại chạy sang Gia Định, rồi bị bệnh chết. Nặc

Nguyên (Ang Tong) làm vua nước ấy [78, tr.155].

Vùng đất Hà Tiên sau khi nhập vào lãnh thổ Đàng Trong, ngày một hưng

thịnh, trở thành nơi nhiều thế lực trong triều đình Chân Lạp tìm đến với hy vọng

được cưu mang và cậy nhờ. Cuối năm 1755, chính vua Chân Lạp là Nặc Nguyên

đã “chạy về Hà Tiên, nương tựa đô đốc Mạc Thiên Tứ” [78, tr.164].

Năm 1756, Nặc Nguyên xin hiến đất hai phủ Tầm Bồn, Lôi Lạp và nộp bù

lễ cống còn thiếu 3 năm về trước để chuộc tội”. Sau khi bàn tính kỹ, Chúa

Nguyễn đã chấp nhận việc “lấy đất hai phủ ấy, ủy cho thần xem xét hình thế, đặt

96

lũy đóng quân, chia cấp ruộng đất cho quân và dân, vạch rõ địa giới, cho đặt lệ

vào châu Định Viễn để thu lấy toàn khu [78, tr.166].

Năm sau (năm 1757), Nặc Nguyên qua đời, người chú họ là Nặc Nhuận

tạm trông coi việc nước, nhưng ngay sau đó triều đình Chân Lạp lại rối loạn,

đánh giết lẫn nhau. Người con của Nặc Nhuận (em họ của Nặc Nguyên) là Nặc

Tôn (Outey II) chạy sang Hà Tiên, Mạc Thiên Tứ đã cưu mang và giới thiệu

Nặc Tôn lên Chúa Nguyễn. Chúa bèn sắc tôn cho Nặc Tôn (Outey II) làm vua

nước Chân Lạp, sai Thiên Tứ cùng với tướng sĩ năm dinh hộ tống về nước. Nặc

Tôn (Outey II) bèn dâng đất Tầm Phong Long… Bấy giờ Nặc Tôn (Outey II) lại

cắt năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc

Thiên Tứ, Thiên Tứ hiến cho triều đình. Chúa cho lệ năm phủ ấy vào quản hạt

Hà Tiên, Thiên Tứ xin đặt Giá Khê làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long

Xuyên, đều đặt quan lại, chiêu dân cư, lập thôn ấp làm địa giới Hà Tiên ngày

càng thêm rộng [78, tr.166-167].

Như vậy, đến năm 1757, những phần đất còn lại ở miền Tây Nam Bộ mà

trên thực tế đã thuộc quyền cai quản của Chúa Nguyễn từ trước đó, chính thức

thuộc chủ quyền của Việt Nam. Sau đó, dưới thời Nhà Nguyễn (1802 – 1945),

tuy có một số địa điểm cụ thể vẫn còn được tiếp tục điều chỉnh, nhưng trên căn

bản khu vực biên giới Tây Nam Việt Nam đã được hoạch định từ năm 1757

[28].

Tiểu kết chương 2

Các lưu dân Việt đặt chân lên vùng đất Đông Nam Bộ này từ rất sớm, có

thể nói là từ cuối thế kỉ XVI đầu thế kỷ XVII. Có nhiều nguyên nhân khiến

người Việt di cư vào vùng đất mới này, nhưng nguyên nhân chủ đạo nhất chính

là sự tàn khốc của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài hàng mấy chục năm

trời. Thành phần cư dân có mặt sớm trên vùng đất mới này cũng hết sức đa

dạng, từ những người nông dân nghèo khổ cho đến những người trốn tránh binh

dịch, thuế khoá, chống đối triều đình và có cả những tay giang hồ tứ chiếng. Về

97

sau, thì có thêm những người giàu có, những người theo đạo Thiên Chúa. Tuy

thành phần xuất thân khác nhau, nhưng họ đến vùng đất mới này với một mục

đích chung là tìm kế mưu sinh, cho nên họ đã sớm tụ họp lại với nhau trên

những vùng đất thuận lợi nhất cho việc làm ăn sinh sống, và từ đó từng bước

khai khẩn vùng đất mới này.

Công cuộc khai mở vùng đất Đông Nam Bộ của chúa Nguyễn đã diễn ra

liên tiếp trong gần 100 năm, với hàng loạt các sự kiện. Mở đầu, là những cuộc di

cư tự phát của lưu dân Việt từ cuối thế kỉ XVI đầu thế kỷ XVII, kế đến là cuộc

hôn nhân giữa vua Chey Chettha II với công chúa Ngọc Vạn (1620). Năm 1623,

được sự chấp thuận của vua Chân Lạp, chúa Nguyễn thiết lập trạm thu thuế ở

Sài Côn (1623), sự kiện này đã tạo điều kiện, cơ sở pháp lý cho dân Việt vào

khai phá vùng Mô Xoài (Bà Rịa – Vũng Tàu) ngày một đông. Tiếp theo là sự

xâm nhập bằng đường biển của đoàn di thần nhà Minh vào khai thác vùng Biên

Hòa, Mỹ Tho (1679) với sự cho phép của chúa Nguyễn và cuối cùng là chuyến

“kinh lược” của Nguyễn Hữu Cảnh vào năm 1698 nhằm phân chia lại địa giới và

thiết lập cơ quan hành chính, xác định chủ quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất

Đồng Nai – Gia Định này.

Quá trình khai mở Đông Nam Bộ diễn ra trong bối cảnh khu vực có

những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp. Quá trình đó diễn ra tịnh tiến với

nhiều con đường khác nhau, có khi dùng sức mạnh quân sự để đánh đuổi kẻ thù

và phòng thủ từ xa, có khi bằng biện pháp ngoại giao khôn khéo, có khi tiếp

nhận đất đai do sự dâng hiến tự nguyện của các cuộc hôn nhân…Đó là một quá

trình giải quyết các mối quan hệ đan xen, chồng chéo rất phức tạp với các nước

láng giềng và bị chi phối bởi những hoàn cảnh khách quan. Trong bối cảnh đó,

quá trình thụ đắc Đông Nam Bộ thời chúa Nguyễn chủ yếu thông qua hai hình

thức chính là chiếm hữu (thông qua việc khai phá đất đai một cách hòa bình của

lưu dân) và chuyển nhượng. Đây là những nội dung quan trọng của phương thức

“tàm thực”, được thực hiện chủ yếu thông qua phương pháp ngoại giao và có sự

98

hỗ trợ nhất định của quân sự nhằm thụ đắc hợp pháp miền Đông và miền Tây

Nam Bộ một cách hợp tình, hợp lý.

Với sự bền bỉ và sách lược trường kỳ cùng với việc sử dụng hợp lý, tài

tình các phương thức mở đất vào cuối thế kỷ XVII, chúa Nguyễn đã xác lập

được quyền lực của mình tại vùng trung tâm của Nam Bộ, khẳng định chủ quyền

của người Việt trên vùng đất mà thực tế, chính quyền Chân Lạp chưa khi nào

thực sự thực thi một cách đầy đủ chủ quyền của mình. Kể từ đây, thời lưu dân tự

phát, tự quản của cư dân Việt đã chấm dứt. Họ đã trở thành dân chính hộ, đinh

hay điền đều phải ghi vào sổ bộ và phải đóng thuế theo quy định; xã thôn

phường ấp đều có ranh giới rõ ràng, đều có con triện và các sổ bộ riêng.

99

Chương 3

VAI TRÒ CỦA ĐÔNG NAM BỘ

TRONG TIẾN TRÌNH MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM

Trong tiến trình mở đất phương Nam, Đông Nam Bộ có vai trò hết sức

quan trọng. Nơi đây không chỉ là nơi dừng chân đầu tiên của lưu dân người Việt,

mà còn là nơi trung chuyển di dân trên con đường khai phá Nam Bộ. Bên cạnh

đó, Đông Nam Bộ là điểm xuất phát của việc xác lập chủ quyền trên lãnh thổ

cũng như lãnh hải của chính quyền Đại Việt trên vùng đất phương Nam. Trong

thế kỉ XVII – XVIII, Đông Nam Bộ còn có vai trò là cửa ngõ thông thương của

Nam Bộ, của Đàng Trong với nước ngoài và nơi đây cũng là nơi hội nhập của

cộng đồng các dân tộc trên vùng đất mới.

3.1. Đông Nam Bộ là nơi dừng chân đầu tiên của lưu dân, di dân người Việt

Như trên đã viết, cho đến đầu thế kỉ XVII, Nam Bộ ngày nay về cơ bản

vẫn là một vùng đất hoang vu, chưa được khai phá nhiều, dân cư còn thưa thớt.

Trước khi có những lớp cư dân mới xuất hiện, ở đây đã có cư dân sinh sống, họ

là các tộc người bản địa và người Khơme. Tuy nhiên, do dân số ít mà khả năng

chinh phục tự nhiên lại hạn chế, cho nên họ chỉ sống phân bố rải rác trên những

giồng đất cao ven sông Tiền, sông Hậu cũng như những vùng đất hình vòng

cung song song với duyên hải. Do đó, có thể nói rằng địa bàn dành cho lớp cư

dân mới đến cư trú và khai phá còn rất rộng rãi. Mặt khác, việc quản lý hành

chính đối với vùng đất Đồng Nai - Gia Định cho đến hết thế kỉ XVII còn khá

lỏng lẻo, vì vậy người dân di cư mới đến có thể tự do lựa chọn nơi ở, tự do khai

khẩn đất hoang làm ăn.

Trong buổi đầu mở đất phương Nam, Đông Nam Bộ đã được lưu dân Việt

chọn làm nơi dừng chân, cư trú và khai phá đầu tiên của mình. Sở dĩ như thế vì

nơi đây giao thông thuận tiện, đất đai màu mỡ: “đây là vùng đất đai màu mỡ,

địa lợi có đủ ruộng đồng, đầm phá, sông, biển, muối, lúa, đậu rất nhiều”

100

[25, tr.108-109]. Cùng với đó, khí hậu nơi đây ấm áp, điều hòa, mang nhiều đặc

trưng giống với kiểu khí hậu Nam Bộ: Khí hậu Gia Định thường ấm, cứ vào quý

xuân (tháng 3) mới bắt đầu mưa, mùa hạ là mùa mưa chính, mùa thu thì mưa

rào, mỗi khi mưa to chẳng khác nghiên vò mà đổ, nhưng chỉ trong một hai giờ

rồi tạnh nắng. Cũng có đôi khi mưa dầm dề 1, 2 ngày nhưng không có khi nào

khổ vì mưa cả tuần cả tháng.Tuy bốn mùa đều có mưa nhưng chỉ tiết Đông chí

mới hơi lạnh…Gia Định ở về phương Ly, âm ít mà dương nhiều, thường có

nhiều gió nam. Vì mặt trời ở phương Nam, mà gió cũng từ phương Nam đến,

nên có nhiều gió Nam thổi mạnh nhưng không lo có gió bão, bởi gió bão là gió

tập hợp đủ cả bốn phương lại…, cho nên Gia Định không có gió bão

[25, tr.18-19], thuận lợi cho cuộc sống định cư lâu dài.

Vùng đất ở Đông Nam Bộ mà người Việt dừng chân đầu tiên là xứ Mô

Xoài - Bà Rịa, đây là là vùng đất địa đầu mà người Việt vượt biển vào khai phá,

lập nghiệp sớm nhất. “Vùng này nằm giữa mũi Thùy Vân ở phía nam và mũi Bà

Két ở phía bắc, nằm về phía bắc của một vịnh biển mang tên Ô Trạm. Đây là

vùng rộng lớn từ làng Long Hương, Phước Lễ lên Đất Đỏ ngày nay” [51, tr.48].

Người Việt có mặt ở Mô Xoài từ rất sớm (trước thế kỉ XVII) nhưng làn

sóng di dân hợp pháp, mạnh mẽ của người Việt đến Mô Xoài thì phải từ sau

cuộc hôn nhân giữa công nương Ngọc Vạn và vua Chey Chetta vào năm 1620.

Từ năm 1623, vua Chân Lạp là Chey Chetta II đã chấp thuận cho người Việt vào

làm ăn ở Đồng Nai, Bến Nghé, chấp thuận cho chúa Nguyễn đặt trạm thu thuế

tại Prei Nokor (tức Sài Gòn) và lập khu dinh điền Mô Xoài (Bà Rịa). Sách Gia

Định thành thông chí cho biết: Lúc ấy địa đầu của Gia Định là Mô Xoài và

Đồng Nai (nay là trấn Biên Hòa) tại hai xứ ấy đã có dân của nước ta đến cùng

với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên rất khâm phục uy đức

của triều đình, họ đem nhượng đất ấy rồi kéo nhau tránh đi nơi khác, chẳng

dám tranh chấp điều gì [25, tr.109].

101

Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn cũng xác nhận rằng, trước khi mở đất

Đồng Nai người Việt đã có một thời gian sinh cơ lập nghiệp tại Mô Xoài: “Xưa

để lập phủ Gia Định thì trước lúc đó phải mở xứ Mai Xoi (Mô Xoài) rồi thứ đến

mới mở xứ Đồng Nai, làm cho quân dân tụ họp, xong mới bắt đầu mở xứ Sài

Côn, vậy là lấy ít đánh nhiều, lấn lướt dần dần như lối tằm ăn dâu” [23, tr.154].

Lý do để Mô Xoài trở thành điểm thu hút dân cư người Việt đầu tiên đến

lập nghiệp vì nơi đây nằm trên trục giao thông đường bộ từ Bình Thuận vào

Nam, lại giáp biển, nơi đây vừa là giao lộ đường thuỷ và đường bộ, vừa là nơi

tiện cho việc buôn bán lẫn làm ruộng và đánh cá của nhiều nhóm cư dân khác

nhau đến cùng sinh cơ lập nghiệp mà người Việt ngày càng chiếm ưu thế. Sách

Gia Định thành thông chí cho biết: “Đất này dựa lưng vào núi, mặt trông ra

biển, rừng rậm, tre dầy, trên có sở tuần để vẫy gọi dân man mọi đến đổi chác,

vùng dưới có trạm cửa bể để xem xét thuyền bè lúc đi ra biển, đường trạm thủy

bộ giao tiếp” [25, tr.39]. Chính vì lý do trên mà nơi đây đã trở thành nơi dừng

chân, định cư, lập nghiệp đầu tiên của người việt trên hành trình mở đất phương

Nam.

Không chỉ là điểm dừng chân đầu tiên của lưu dân, di dân người Việt, Mô

Xoài còn là điểm “trung chuyển” của lưu dân, di dân trên con đường khai phá

vùng đất Nam Bộ rộng lớn.

Từ Mô Xoài- Bà Rịa, các thế hệ di dân tự do người Việt với phương tiện

di chuyển chủ yếu là thuyền, ghe, xuồng đã theo thủy triều ngược dòng Đồng

Nai và cả đi bộ dọc theo sông tiến dần vào vùng Đồng Nai, Biên Hòa và Sài

Gòn vì điều kiện tự nhiên ở những nơi này không khác mấy với đất Mô Xoài.

Người Việt vào lập nghiệp ở phương Nam ngày càng đông, địa bàn khai phá

càng mở rộng, họ ngược sông Sài Gòn về phía Bình Dương, Củ Chi, Tây Ninh

và ven sông Vàm Cỏ, mở mang vùng Chợ Lớn, Tân An.

Khi đặt chân lên vùng đất mới, người dân di cư thường cư trú trước tiên ở

những giồng đất cao ven sông, là những nơi có điều kiện khai phá tương đối tiện

102

lợi, vừa có nước ngọt dùng cho sinh hoạt và trồng trọt, vừa thuận lợi trong việc

khai hoang thành ruộng vườn để trồng cây lương thực và cây ăn quả, lại cao ráo

nên có thể tránh được muỗi mòng, rắn rết, canh phòng thú dữ. Nói khác đi,

những nơi này đáp ứng được hoàn toàn những yêu cầu tồn tại khi mới đến khai

phá vùng đất lạ.

Trong Gia Định thành thông chí ở mục Sơn xuyên chí, Trịnh Hoài Đức đã

cho thấy hai bên bờ hay trên các cù lao của nhiều con sông thuộc hai trấn Biên

Hoà và Phiên An (Đông Nam Bộ ngày nay) đều có người ở và khai khẩn.

- Ở trấn Biên Hoà có: Hòn Rùa “Hòn dài 3 dặm, ở đó có dân cư cày cấy”

[25, tr.23], sông Phước Long: “tục gọi là sông Đồng Nai…thường đến tháng 8

hàng năm nước lụt đổ xuống, rửa sạch bao xú uế, lan tỏa khắp ruộng nương”

[25, tr.28], cù lao Tân Triều: “dân ở đây chuyên việc làm vườn, nhưng chủ yếu

trồng trầu vì trầu ở đây nhiều lá mà tốt, mùi vị lại thơm ngon” [25, tr.31], cù lao

Tân Chánh: “đất ở đây tốt, thích hợp với cây dâu và mía, nên ở đây sản xuất

nhiều đường cát” [25, tr.31], sông An Hòa: “trước kia đây là bến để gỗ, cho nên

còn gọi là Bến Gỗ” [25, tr.32], Cù lao Kính: “có ruộng nương nhà cửa của dân

ở đó” [25, tr.33], sông Lá Buông: “tục gọi là rạch Lá Buông, ở đấy có nhiều cư

dân sinh sống bằng cách lấy lá buông dệt buồm, đan tấm, đánh dây, chặt tàu

đem bán sinh nhai nên mới gọi như thế” [25, tr.33], ngoài ra người Việt còn

định cư ở vùng Giồng Ông Tố, Đất Đỏ…

- Ở trấn Phiên An có: sông Bến Nghé “những tàu buôn và ghe thuyền

sông biển trong và ngoài nước ra vào không ngớt, trông thấy đầu tàu nối liền,

đuôi cột buồm chi chít, đủ biết đó là nơi đô hội” [25, tr.41], bến Tầm Long: “có

nhiều thuộc Cao Miên (người Cao Miên ở thuộc hạt nước ta mà đóng thuế xong

thì gọi là thuộc) cùng người Việt ở lẫn lộn với nhau … những chỗ đã được khai

khẩn đều thành ra những cánh đồng trồng dâu, trồng mía” [25, tr.44], rạch Cát:

“Hai bên là ruộng nương, bờ ruộng chạy ngang dọc chằng chịt” [25, tr.45],

sông Tân Long (Sông Chợ Đệm): “dọc theo sông, phố xá trù mật, bán các thứ

103

như xuồng gỗ than, dầu rái, bao cà ròn và buồm chiếu…” [25, tr.46], sông

Quang Hóa: “có người nước ta, người Tàu và người Cao Miên ở chung với

nhau, có tuần ty coi việc thâu thuế cước và phòng giữ biên giới” [25, tr.49],

sông Khe Răng: “ở bờ phía bắc sông Quang Hóa… nhân dân khai thác nguồn

lợi từ núi sông ao chằm, đi về không dứt” [25, tr.49].

Ngoài các giồng đất cao ven sông thì các vùng đất ven núi cũng được các

cư dân người Việt lựa chọn làm nơi cư trú, vì nơi đây có điều kiện để khai thác

nguồn lợi lâm sản như khai thác gỗ, khai mỏ, săn bắt…Gia Định thành thông

chí cũng đã ghi chép rất rõ về điều này.

- Ở trấn Biên Hoà có: Núi Châu Thới “…ở bên núi có hang hố và khe

suối, dân núi ở ven quanh” [25, tr.24], núi Thiết Khâu: “Tục gọi là núi Lò

Thổi… người làm sắt tụ họp thành chợ, mở lò nung, cung nạp thuế sắt, quặng

sắt rất thịnh vượng” [25, tr.25], núi Ký: “tục gọi là núi Bà Ký… người bốn

phương kéo đến ở, họ chuyên nghề săn bắn và đẵn gỗ để sinh nhai” [25, tr.25],

núi Bà Vải (nay gọi là núi Thị Vải): “dân núi ở đó lấy khai thác thổ sản ở núi để

sinh sống, như cây gỗ, nhựa cây, than củi và muông thú” [25, tr.26], núi Sa

Trúc: “tục gọi là núi Nứa, cách phía đông trấn 185 dặm, trên núi có nứa, dưới

núi có chằm lớn, người tụ tập làm nghề đánh cá” [25, tr.27], núi Gành Rái “trên

núi có suối nước ngọt phun ra, dưới có dân chài sinh sống…” [25, tr.27].

- Ở trấn Phiên An có: núi Bà Đinh “có thôn xóm của người Thổ và người

Việt ở la liệt, nhân dân đều nhờ món lợi của núi rừng” [25, tr.41], rừng Quang

Hoá: “Ở đây có gỗ đóng ghe, đóng thuyền, nên thợ rừng, thợ mộc cất lều trại để

đốn gỗ, làm than củi, lấy dầu rái, mây cứng, mây nước (song) và săn bắn những

loài tê, voi, hươu, nai, ngựa rừng, trâu rừng, chim, muông để lấy nanh, sừng, lông thú, lông chim, phơi khô thịt và da rồi đem bán kiếm rất nhiều lợi”

[25, tr.49], Vườn Trầu: “dân cư ở đấy rất đông đúc tạo thành một chợ lớn ở

miền núi” [25,tr.49].

104

Ngoài ra, vùng cao ven biển nhất là những nơi có vũng hay cửa sông tốt,

cũng là một trong những nơi định cư khai phá đầu tiên của cư dân Việt, đây là

những nơi thuận lợi để người dân có thể sinh sống bằng các nghề làm ruộng

muối, nghề chài lưới, làm mắm và cả trồng trọt nữa. Gia Định thành thông

chí ghi lại rất rõ những vùng ven biển có dân cư tập trung đông đúc:

- Ở trấn Biên Hòa có: Dương Úc: “dân cư tụ tập, đồng mặn ngàn khoảnh,

đều là ruộng muối. Dân ở đây lấy việc phơi muối làm nghề chính” [25, tr.37],

Tắc Ký (Cửa Lấp hay Giếng Bọng): “dân miền biển nhóm đến đây làm nghề

chài lưới câu cá, là nơi sản xuất cá muối của trấn này” [25, tr.37].

- Ở trấn Phiên An có: Cửa Cần Giờ: “phố chợ đông đúc, dân ở đây đều

theo nghề đánh cá” [25, tr.42], hải cảng Đồng Tranh: “do nguồn lợi nghề đánh

bắt cá bằng lưới đáy, bằng nò rạo ngoài biển, nên dân ở đây đổ xô đến ở nhiều”

[25, tr.42], hải cảng Lôi Lạp (Soai Rạp): “cảng này bùn lầy, nước cạn, dân cư

làm nghề chài lưới, câu cá” [4, tr.42], đảo Côn Lôn: “Ở giữa biển đông…đảo

lớn 100 dặm, có ruộng núi trồng lúa, bắp, khoai đậu…Dân lính ở đấy …còn lại

thì đánh bắt hải sản như cá, tôm để sinh sống” [25, tr.50].

Bên cạnh các giồng đất cao ven sông, ven núi, ven biển thì những trung

tâm hành chính, những nơi đóng quân của quân đội cũng là những địa điểm định

cư đầu tiên của những lớp cư dân Việt.

Trong mục Thành trì chí, ở trấn Phiên An, Trịnh Hoài Đức viết: “… sai

tướng vào mở mang bờ cõi, chọn nơi đất bằng rộng rãi, tức chỗ chợ Điều Khiển

ngày nay, xây cất đồn dinh làm chỗ cho Thống suất tham mưu trú đóng… ngoài

ra thì cho dân trưng chiếm, chia lập ra làng xóm, chợ phố” [25, tr.216], chợ

Bến Thành “Phố, chợ, nhà cửa rất trù mật, họp chợ dọc ven sông. Ở đầu bến,

theo lệ tháng đầu xuân gặp nhằm ngày tế mã, có thao diễn thủy binh. Bến này

có đò ngang đón chở khách buôn tàu biển lên bờ...” [25, tr.224], chợ Điều

Khiển “khi xưa chợ hợp trước Nha Điều Khiển…chợ này quán xá trù mật”

[25, tr.225], chợ Tân Kiểng (tục gọi là Chợ Quán) “thường năm đến ngày

105

Nguyên Đán có tổ chức chơi đu tiên vân xa, đáng gọi là một chợ lớn. Từ trước,

đến cuối năm thường có chém tù ở đây... Đầu phía tây đường lớn có đồn bắt

trộm cướp đóng giữ” [25, tr.228], phố chợ Sài Gòn: phố xá liền mái nhau, người

Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong phố bày bán có:

gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở, tiệm thuốc, tiệm

trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc bến sông không gì là không có… thật là một

phố lớn nơi đô hội náo nhiệt [25, tr.229].

- Ở trấn Biên Hòa có: Lũy Phước Tứ: “Lũy ấy trải mấy đời đều thế và

dùng làm đồn trọng yếu cho đạo Mô Xoài. Nay loạn lạc đã yên, bốn bề không

còn thành lũy, tuy thành vách đã hóa ra ruộng vườn, mà bờ tre xưa vẫn xanh

tốt, còn nhìn ra được dấu tích của lũy xưa” [25, tr.231-232].

Phố lớn Nông Nại “lúc mới mở mang, Trần Thượng Xuyên chiêu tập

người thương buôn nước Trung Quốc đến lập ra phố xá, mái ngói tường vôi, lầu

quán cao ngất…kẻ buôn tụ tập, thuyền đi biển, đi sông đều đến cuốn buồm neo

đậu, đầu đuôi thuyền đậu kế tiếp nhau, thật là một chỗ đô hội” [25, tr.238], chợ

Ngư Tân (chợ Bến Cá) “khách buôn đông đúc, cả đường thủy và đường bộ đều

thông suốt tới bến, hàng nước ngoài, thổ sản địa phương, sơn hào, hải vị không

gì là không có, là một chợ miền núi rất đông đúc” [25, tr.239], chợ Thủy Vọt

“Ở tổng Bình Chánh, nhà cửa đông đúc, thuyền bè đến tận bến chợ, có nhiều

sản vật ở núi rừng” [25, tr.239], chợ Bà Rịa “nhà cửa liền nhau, đường thủy và

đường bộ đều giao nhau, là một chợ lớn nơi miền biển đầm” [25, tr.239], chợ

Bình Quới (Chợ Thủ Thiêm): “thuyền bè đường sông biển đậu nối đuôi nhau,

người ở đây sắm các loại ghe dài ngắn theo dòng nước đi bán cá thịt, đồ dưa

quả và đồ ăn” [25, tr.239], xóm Sửa Ghe: “Khi xưa thuyền bè ở Trung Quốc

đến buôn bán mà bị hư hỏng rò rỉ, cần phải sửa sang hoặc đóng thuyền mới đều

phải đến đây, tụ họp riết thành thôn xóm” [25, tr.239].

Theo đó, tiến trình định cư của cư dân Việt trên vùng đất mới có thể được

hiểu như sau: trước hết, người Việt đến khẩn hoang vùng Mô Xoài, tức Bà Lỵ

106

hay Bà Rịa sau này rồi đến vùng Đồng Nai, tiếp đó mới tới Gia Định (vùng Sài

Gòn, Bến Nghé). Đến cuối thế kỉ XVII, trên suốt cả một khu vực rộng lớn của

Đông Nam Bộ từ Mô Xoài đến vùng Sài Côn – Bến Nghé đã có người Việt đến

định cư. Khi đặt chân lên vùng đất mới, người lưu dân người Việt thường cư trú

trước tiên ở những giồng đất cao ven sông, ven núi, ven biển, những trung tâm

hành chính, những nơi đóng quân của quân đội vì những nơi này có những điều

kiện thuận lợi cho sinh hoạt của con người cũng như khai phá đất đai, khai thác

nguồn lâm, hải sản.

3.2. Đông Nam Bộ là nơi trung chuyển di dân trên con đường khai phá

vùng đất Nam Bộ

Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ của chúa Nguyễn đã đem đến cho Đàng

Trong một vùng lãnh thổ rộng lớn, không những thế nó còn là cơ sở vững chắc

để tiến xuống Tây Nam Bộ.

Theo địa chí tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, hành trình chinh phục khu vực mà

ngày nay có tên là Nam Bộ diễn ra trong quá khứ của những thế hệ lưu dân

người Việt, được bắt đầu từ phía Trấn Biên (sau đổi thành Biên Hòa), Phiên

Trấn (sau đổi thành Gia Định). Từ vùng đất phù sa cổ, họ vượt qua vùng sông

Vàm Cỏ, đi về hướng Định Tường, Long Hồ, Đông Khẩu (tức Mỹ Tho, Vĩnh

Long, Sa Đéc ngày nay) rồi vượt qua sông Tiền…Một hướng đi thứ hai quan

trọng không kém, là họ từ cửa sông bên phía biển Đông như cửa Soài Rạp, cửa

Đại, cửa Tiểu, cửa Cung Hầu, cửa Định An…rồi ngược dòng Cửu Long khai

phá những dải phù sa màu mỡ hai bên bờ sông, lên tới biên giới Campuchia,

xuống tận vịnh Xiêm La.

Chính đất đai màu mỡ, trù phú và sông rạch đầy tôm cá của vùng đồng

bằng sông Cửu Long có sức hút mạnh mẽ những lớp lưu dân đi về hướng đó. Về

mặt tâm lý, những người dám rời bỏ quê hương, bản quán, vượt cả ngàn kilômet

đường biển vào Nam cốt để tìm một sự đổi đời, hay chí ít là cuộc sống tốt đẹp

hơn, thì việc từ bỏ một nơi không thuận lợi để tìm đến một nơi có nhiều thuận

107

lợi hơn, ưu đãi hơn là chuyện bình thường. Đó cũng là cốt cách, là đặc điểm khá

rõ nét của những thế hệ lưu dân trên đường Nam tiến của dân tộc theo quy luật

“đất lành chim đậu”.

Xu thế đó trong đời sống cũng dễ tìm thấy ở lớp tiên dân định cư ở Bà

Rịa, khi họ nhận ra rằng ở phía Tân Trụ, Gò Công, Mỹ Tho…đất đai tốt hơn,

ruộng đồng rộng rãi hơn, viêc làm ra hạt thóc dễ dàng hơn so với nơi họ đang

sống. Từ đất Bà Rịa, có thể có hai hướng di chuyển: hoặc đi về phía đồng bằng

sông Cửu Long, hoặc ngược về phía sông Ngã Bảy đi về thượng nguồn sông Sài

Gòn và sông Đồng Nai, tiếp tục khai phá các vùng đất mới. Đến lượt Bà Rịa trở

thành nơi “trung chuyển” của những lưu dân, đây chính là lý do giải thích tại sao

dân số Bà Rịa tăng chậm.

Những cuộc điều tra, khảo sát hàng trăm gia phả của nhiều gia đình, dòng

họ ở đồng bằng sông Cửu Long trước đây, cho thấy có nhiều gia đình, mộ cha

mẹ, mộ ông nội chôn tại địa phương như Bến Tre, Vĩnh Long hay Sa Đéc nhưng

mộ ông cố, ông sơ lại nằm ở Gò Công, Tân An, hay Biên Hòa, Bà Rịa

[121, tr.213 - 214].

Không chỉ có Bà Rịa đóng vai trò là nơi “trung chuyển”, ở Đông Nam Bộ

còn nhiều địa phương cũng có vai trò như thế, ví dụ như Đồng Nai, thành phố

Hồ Chí Minh.

Đến những năm cuối thế kỉ XVII, khu vực rộng lớn từ Mô Xoài, Biên

Hòa cho đến Sài Côn – Bến Nghé với sự định cư của người Kinh, người Hoa,

người Khơme đã trở thành đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng, là nơi trung

chuyển của các đoàn dân di cư vào vùng đất mới trong việc đi ngược về phía bắc

là đi về phía Tây Ninh, có thể sang tận Campuchia, hoặc đi về phía nam là vào

vùng đồng bằng sông Cửu Long đến các vùng Mĩ Tho, Long Hồ…nơi đây trở

thành một tiền trạm, một đầu cầu cho các toán di dân mới đi vào. Các đoàn dân

di cư từ miền ngoài vào vùng đất mới thường dừng chân ở Bến Nghé nghỉ ngơi,

108

dò hỏi tình hình phía trước để chuẩn bị đi lên phía bắc hoặc xuôi xuống phía

nam tìm nơi cư trú làm ăn [51, tr.50-51].

Mặt khác, theo tác giả Đỗ Quỳnh Nga trong tác phẩm Công cuộc mở đất

Tây Nam Bộ thời chúa Nguyễn thì Đông Nam Bộ đã trở thành hậu phương vững

chắc của chúa Nguyễn để tiến hành khai mở Tây Nam Bộ. Đây chính là nơi

cung cấp nhân lực, vật lực cho sự nghiệp của chúa Nguyễn và bảo vệ chủ quyền

trên vùng đất mới ở Tây Nam Bộ. Để mở đất Tây Nam Bộ, đặc biệt là trong các

cuộc giao tranh hỗ trợ, hoặc phản công tự vệ, lực lượng chính của các chúa

Nguyễn sử dụng không đâu khác mà chính là các quan lại, các vị tướng giỏi và

đội quân tinh nhuệ của Gia Định. Có thể nói rằng Đông Nam Bộ đã góp phần

không nhỏ trong sự thành công của công cuộc mở đất Tây Nam Bộ, nơi đây trở

thành điểm chuyển cư của lưu dân Việt đến miền Tây Nam Bộ [64, tr.56].

3.3. Đông Nam Bộ, là điểm xuất phát của việc xác lập chủ quyền lãnh thổ và

lãnh hải của Đại Việt trên vùng đất phương Nam

Mặc dù trước thế kỉ XVII đã có nhiều người Việt đến Đông Nam Bộ khai

khẩn đất hoang, làm ăn sinh sống nhưng những hoạt động của họ chưa được

xem là hợp pháp. Mãi đến năm 1620, sau khi chúa Nguyễn gả công chúa Ngọc

Vạn cho vua Chey Chetta II, mở đầu cho kỷ nguyên mới trong mối bang giao

giữa hai nhà nước thì người Việt đến Đông Nam Bộ làm ăn sinh sống mới được

xem là “danh chính ngôn thuận”. Ý nghĩa của cuộc hôn nhân này như tấm “hộ

chiếu” để người Việt di dân hợp pháp vào vùng đất Đông Nam Bộ dưới vương

triều Chey Chetta II. Với lời xin của Ngọc Vạn, Chey Chetta II đồng ý cho

người Việt di cư sang khai hoang sinh sống ở Mô Xoài (Bà Rịa) và Nông Nại

(Đồng Nai). Tuy chưa có sự thỏa thuận để nhượng hẳn vùng đất này cho Phú

Xuân, nhưng trong thực tế, người Việt đã gần như làm chủ vùng đất này, và nó

trở thành bàn đạp để người Việt tiến dần xuống phía Nam vì cuộc mưu sinh, và

cũng là sự khởi đầu cho việc thực hiện những mong muốn của chúa Nguyễn

muốn mở mang lãnh thổ của mình về vùng đất phương Nam còn hoang vắng

109

này. Cuộc hôn nhân này, một mặt tạo hậu thuẫn để che chở và phát triển số lưu

dân người Việt đến sinh sống an toàn ở đất Chân Lạp ngày càng đông, mặt khác,

tạo cơ sở thuận lợi cho chúa Nguyễn từng bước hợp pháp hóa sự kiểm soát của

mình đối với những vùng đất đã được khai khẩn.

Thời gian từ năm 1623 đến năm 1698 có thể xem như là giai đoạn hình

thành chính quyền của người Việt ở đất Gia Định với những sự kiện chính

sau đây:

Thứ nhất là thiết lập trạm thu thuế

Năm 1623, sau hai chiến thắng vang dội của Chân Lạp (có sự giúp sức

của quân đội Đàng Trong của Đại Việt) trước quân Xiêm, chúa Sãi Nguyễn

Phúc Nguyên đã gửi một sứ bộ mang theo nhiều tặng phẩm đến Oudong để đảm

bảo với quốc vương Chân Lạp về sự ủng hộ và tình hữu nghị của triều đình Huế,

đồng thời dâng lên quốc vương Chân Lạp một bức thư trong đó chúa Đàng

Trong ngõ ý mượn xứ Prei Nokor (sau này là Sài Gòn) và Kas Krobei (sau này

là Bến Nghé) của Chân Lạp để lập các trạm thuế thương chính trong vòng 5

năm, vì hai nơi này có nhiều lưu dân người Việt đến làm ăn sinh sống và xin vua

Chey Chetta II nhượng vùng đất Mô Xoài để lập khu dinh điền. Nhờ sự vận

động của hoàng hậu Ngọc Vạn nên cả hai đề nghị của chúa Nguyễn đều được

vua Chân Lạp chấp thuận [62, tr.29-30]. Sau sự kiện này, triều đình Thuận Hóa

đã khuyến khích người Việt di cư đến đây làm ăn, rồi lấy cớ để giúp chính

quyền Chân Lạp giữ gìn trật tự, chúa Nguyễn đã phái tướng lãnh đến đóng đồn ở

Prey Kor.

Trạm thu thuế của chúa Nguyễn ở Sài Gòn hiện nay ở khu vực nào chưa

xác định được rõ ràng. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu trong địa chí văn

hóa thành phố Hồ Chí Minh phỏng đoán thì sở thuế tọa lạc trên đất Chợ Cầu

Kho ở quận 1, sát bên rạch Bến Nghé. Còn theo Nguyễn Đình Tư thì sở thu thuế

Kas Krobey nằm ở cột cờ Thủ Ngữ trên bến Bạch Đằng, còn Prey Nokor nằm ở

khu vực chợ Tân Kiểng trên bến Hàm Tử ngày nay.

110

Với sự kiện lập hai đồn quan thuế tại Sài Gòn – Bến Nghé, có thể nói

chúa Nguyễn đã tiến thêm một bước quan trọng trên con đường Nam tiến. Đây

được xem là chỗ đứng chân của người Việt, tạo ra một đầu cầu vững chắc cho

chương trình di dân của người Việt vào đất Chân Lạp ngày càng mạnh mẽ hơn.

Thứ hai là việc lập đồn binh

Năm 1679 (tức 56 năm sau khi lập đồn thu thuế và 5 năm sau khi Ong

Nộn đóng ở Sài Gòn), chúa Nguyễn cho lập đồn dinh Tân Mỹ. Theo Đại Nam

Nhất Thống Chí thì: “Đầu năm Kỷ Mùi (1679), Thái Tông Hiếu Triết Hoàng đế

triều ta sai tướng mở biên cảnh, lập đồn dinh Tân Mĩ” [79, tr.1666], theo nhà

nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, đồn binh này nằm ở gần ngã tư Cống Quỳnh –

Nguyễn Trãi ngày nay. Đồn binh này được lập vào đầu năm 1679 thì giữa năm

này một nhóm người Hoa "phản Thanh phục Minh" do Dương Ngạn Địch và

Trần Thắng Tài đứng đầu được đưa tới Mỹ Tho và Biên Hòa. Như vậy, việc lập

đồn binh – một hình thức căn cứ quân sự, một thứ chính quyền bán chính thức

của chúa Nguyễn được đặt ở Sài Gòn là một nhu cầu tất yếu và khá kịp thời.

Đồn binh ra đời lúc này vừa có thể hỗ trợ kịp thời cho phó vương Nặc Nộn đóng

ở đây, vừa bảo vệ tính mạng và tài sản cũng như mọi quyền lợi khác cho số lưu

dân người Việt đang sống rải rác khắp miền Đông Nam Bộ lúc bấy giờ và lại

vừa có thể hướng dẫn các nhóm người Hoa tỵ nạn mới tới đây làm ăn sinh sống.

Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã viết về việc lập đồn

binh này như sau: Trấn Gia Định xưa có nhiều ao đằm, rừng rú, buổi đầu thời

Thái Tông (Nguyễn Phước Tần 1648 - 1687) sai tướng vào mở mang bờ cõi,

chọn nơi đất bằng rộng rãi, tức chỗ chợ Điều Khiển ngày nay, xây cất đồn dinh

làm chỗ cho Thống suất tham mưu trú đóng, lại đặt dinh Phiên Trấn tại lân Tân

Thuận ngày nay, làm nha thự cho các quan Giám quân, Cai bộ và Ký lục ở,

được trại quân bảo vệ, có rào giậu ngăn cản hạn chế vào ra, ngoài ra thì cho

dân trưng chiếm, chia lập ra làng xóm, phố chợ [25, tr.216].

111

Theo Nguyễn Đình Đầu“vị trí của chợ Điều Khiển ở ngã ba đường

Nguyễn Trãi với đường Nam Quốc Cang. Lân Tân Thuận cũng ở trên đường

Nguyễn Trãi khoảng xóm Chợ Đũi” [29, tr.153].

Đến thời điểm năm 1697, sau khi phần đất cuối cùng của Chiêm Thành

(Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết) trở thành phủ Bình Thuận, thuộc lãnh thổ

nước ta thì ảnh hưởng của Đàng Trong đã tiến tới sát biên giới Chân Lạp. Vùng

đất giáp giới ấy chính là vùng Đông Nam Bộ, là địa bàn cư ngụ của cư dân đa số

là người Việt, người Hoa và một số ít người bản địa với một số định chế hành

chính bán chính thức của chúa Nguyễn lập ra trước đó hàng để thu thuế, giữ gìn

trật tự, trị an…[96, tr.159].

Trong điều kiện thực tế về lãnh thổ, dân cư và chính quyền bán chính thức

như vậy, mùa xuân năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn lệnh cho quan thống

suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, xem xét dân tình, hoạch định việc cai trị. Kết

quả chuyến công cán của Nguyễn Hữu Cảnh đã “lấy đất Nông Nại đặt làm phủ

Gia Định, lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên,

lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình lập dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh lập ra chức

Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị” [25, tr.112].

Chúng ta điều biết từ cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII đã có lưu dân

người Việt đến Mô Xoài (Bà Rịa) Đồng Nai (Biên Hòa) và nhiều địa phương

khác để tiến hành khai khẩn đất hoang, lập ra những làng Việt trên vùng đất

Đông Nam Bộ, nhưng những làng này chưa phải là những đơn vị hành chính

chính thức của chúa Nguyễn. Mãi đến khi Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất

Đồng Nai, lập nên phủ Gia Định thì chúa Nguyễn mới bắt đầu chính thức hợp

pháp hóa về mặt nhà nước đối với các xứ Đồng Nai (huyện Phúc Long) – Sài

Gòn (huyện Tân Bình), sáp nhập hẳn vào lãnh thổ Đàng Trong. Sự kiện lập

chính quyền vào năm 1698 được coi như là một tất yếu, một việc đã rồi, chính

thức hóa một sự thể “ dân làng mở đất trước nhà nước đến quản lí sau”.

112

Theo tác giả Nguyễn Đình Đầu trong Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí

Minh thì quy chế hành chính của Chúa Nguyễn thời đó như sau: dinh hay

doanh) là đơn vị hành chánh (như tỉnh ngày nay), dinh chia ra nhiều phủ, phủ

chia ra nhiều huyện, huyện chia ra nhiều tổng, tổng chia ra nhiều xã hay thôn.

Là đất mới lập, dân còn ít nên dinh Phiên Trấn chỉ bao gồm có một huyện Tân

Bình, cũng như dinh Trấn Biên chỉ có một huyện Phước Long. Trên hai huyện

đó, tức trong cả hai dinh mới có một phủ Gia Định [29, tr.156].

Tác giả Nguyễn Đình Tư trong bài Nguyễn Hữu Cảnh với sự sắp đặt nền

hành chính tại Đồng Nai - Gia Định thì cho rằng cách sắp đặt hành chính của

Nguyễn Hữu Cảnh trên đất Đồng Nai - Gia Định “có trái với thủ tục đã được áp

dụng trong phương pháp duyên cách ở miền ngoài. Đó là phủ cao hơn dinh”

[116, tr.16]. Theo tác giả: vào thời điểm 1698, vùng đất Nam bộ còn ít, công

cuộc khai khẩn mới bắt đầu nên các đơn vị hành chính hãy còn giản lược. Dinh

Phiên Trấn chỉ có huyện Tân Bình, còn dinh Trấn Biên chỉ có huyện Phước

Long và hai huyện này chỉ có mỗi phủ Gia Định. Huyện Phước Long có 4 tổng

là Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An, còn 4 tổng của huyện Tân

Bình là Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc và Thuận An, còn số thôn ấp thì

không rõ.

Các đơn vị hành chính cơ sở của Nam Bộ chỉ mới có thống kê đầy đủ từ

năm 1818 trong sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Các đơn vị

ấy bao gồm thôn, phường, lân, ấp. Có lẽ, lúc Nguyễn Hữu Cảnh sắp xếp các đơn

vị hành chính đầu tiên thì các đơn vị hành chính cơ sở cũng không ngoài những

danh xưng này, vì từ năm 1698 là năm Nguyễn Hữu cảnh thiết lập nền hành

chính ở Đồng Nai – Gia Định cho đến năm 1779 khi Nguyễn Ánh khôi phục lại

phần đất Nam Bộ không thấy có sự thay đổi nào về hành chính. Lúc bấy giờ

chưa có đơn vị xã, mặc dù ở Thuận Hóa, Quảng Nam đã có danh xưng này.

Điều đó chứng tỏ các đơn vị hành chính lúc ban đầu là đất rộng nhưng nhân

khẩu chưa nhiều. Vì vấn đề địa lý mà buộc lòng phải kết hợp một số hộ trong

113

khu vực riêng biệt thành một đơn vị tùy theo nhân khẩu mà gọi là thôn, phường,

lân, ấp [116, tr.15].

Vì không có bản kê danh sách thôn, phường mà Nguyễn Hữu Cảnh đã đặt

cho các đơn vị hành chính cơ sở lúc bấy giờ, nên chúng ta không thể biết chính

xác. Tuy nhiên cứ theo cách đặt tên thôn xã ở Đông Nam Bộ, chúng ta có thể

suy đoán một số thôn phường thời Gia Long đã có từ thời Nguyễn Hữu Cảnh.

Cách đặt tên đó như sau: một tên thôn có từ thời Nguyễn Hữu Cảnh, sau đó dân

số phát triển, ruộng đất khai phá thêm nhiều, quá mức một thôn được ấn định.

Do nguyện vọng của dân chúng và hào lý của thôn đó, chính quyền cấp trên bèn

chia thôn ấy ra làm hai, ba, hay bốn thôn khác. Khi đặt tên các thôn mới này,

người ta vẫn giữ tên khai sinh gốc chỉ thêm các chữ nhất, nhị, tam, tứ hay đông,

tây, nam, bắc vào sau thành tên thôn mới, chẳng hạn như thôn Tân Sơn sau chia

thành Tân Sơn Nhứt và Tân Sơn Nhì, Hanh Thông thành 2 thôn Hanh Thông và

Hanh Thông Tây, Bình Lý thành 2 thôn Bình Lý và Bình Lý Đông…

[116, tr.16].

Về cách đặt tên lúc ban đầu, chúng ta thấy Nguyễn Hữu Cảnh có dụng ý

khi chọn các mĩ từ. Trước hết là tên phủ Gia Định, chọn hai từ này, ý Nguyễn

Hữu Cảnh muốn nói lên rằng vùng đất này từ nay đã xếp đặt ổn định, tốt đẹp,

không còn thay đổi, xáo trộn nữa, dân chúng sẽ được an cư lạc nghiệp. Khi đặt

tên cho huyện Phước Long là huyện địa đầu của Đông Nam Bộ, ông mong muốn

cho dân chúng ở đây được hưởng phước đức đầy ùn, vĩnh viễn sống trong cảnh

sung túc. Ngoài cái ý ấy chúng ta còn thấy cái ý khác của ông là muốn tôn vinh

công ơn chúa Nguyễn đối với phần đất này thật là lớn lao, tròn đầy, vì chúng ta

biết chữ phước là chữ lót của họ Nguyễn từ Nguyễn Phước Nguyên trở đi

[116, tr.16].

Còn cái tên Tân Bình thì đã quá rõ ràng, đây là vùng đất mới bình định

xong, dân chúng từ nay được an cư lạc nghiệp dưới sự che chở của triều đình

chúa Nguyễn. Nhưng về mặt thầm kín, chúng ta thấy Nguyễn Hữu Cảnh muốn

114

lưu lại một địa danh mà mỗi lần nhắc đến, người ta nghĩ đến ông, vì Tân Bình là

quê hương thứ hai của ông, sau khi cha con ông từ giã huyện Tống Sơn theo

Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa đã định cư tại đây [116, tr.16].

Cũng trong ý nghĩa đó, khi chọn các mĩ từ đặt tên cho thôn, ông đã dùng

chữ Tân và chữ Bình đặt lên đầu như thôn Tân An, Tân Thạnh, Tân Hội, Tân

Mỹ…Bình Lý, Bình Quý, Bình Hòa, Bình An, Bình Phước…ngoài ra ông còn

dùng các mỹ từ khác để cầu sự tốt lành cho dân chúng như các chữ Hanh, An,

Vĩnh, Phước, Long, Phú, Thạnh… Bấy giờ Nguyễn Hữu Cảnh lấy sông Sài Gòn

làm ranh giới thiên nhiên cho hai huyện Phước Long và Tân Bình.

Nguyễn Hữu Cảnh, sau khi sắp xếp xong nền hành chính của phủ Gia

Định ông phải rút quân về dinh Bình Khang vì ông là trấn thủ ở đó. Do vậy ông

bổ nhiệm các quan đảm nhiệm các chức vụ cai trị ở phủ, dinh và các huyện.

Đứng đầu dinh Phiên Trấn có Giám quân, có viên cai bạ và viên ký lục phụ tá.

Còn tại huyện Tân Bình thuộc tỉnh thành Gia Định có quan trấn thủ, người ta gọi

đó là dinh Phiên Trấn, Dinh này có một viên kí lục, một viên cai án và một viên

tri bạ. Ty Tướng thần lại có một viên Câu Kê, hai viên lại ty, ba viên cai lại, bảy

viên thủ hợp và mười người thư lại [23, tr.185-186], tại huyện Phước Long cũng

vậy [116, tr.16].

Bên cạnh những việc làm trên, nhà nước còn tiến hành kiểm kê nhân

khẩu, đo đạc ruộng đất, lập sổ sách, trên cơ sở đó chuẩn định các loại thuế, đặc

biệt là thuế đinh và thuế điền. Chính nguồn thu thuế này đã đảm bảo cho bộ máy

hành chính các cấp hoạt động và cung cấp kinh phí cho quân đội thường trú.

Để khuyếch trương lưu thông hàng hóa và phát triển thương mại trong xứ,

Nguyễn Hữu Cảnh cho nạo vét, khai thông các con đường thủy ven các nhánh

sông, lấy khu chợ nổi Nhà Bè cổ (ở ngã ba sông Bình Dương) làm trung tâm

giao dịch. Từ đó tỏa về các ngã: Cù Lao Phố, Bến Nghé, Cần Giờ, Rạch Cát

Vũng Gù (Cần Giuộc) và Gò Vấp [126, tr.90].

115

Để có thể ngăn chặn các cuộc xâm lược từ bên ngoài, chúa Nguyễn đã

thống nhất việc chỉ huy quân đội ở phía Nam cho chức quan Điều Khiển và cho

xây dựng dinh thự Điều Khiển ở phía nam dinh Phiên Trấn. Ngoài ra, ông cho

bổ sung và hoàn thiện thêm các lực lượng như bộ binh, thủy binh, tinh binh. Với

lực lượng khá hùng hậu đó, ông cho đặt các cơ đội thường xuyên canh phòng để

bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên vùng đất mới [126, tr.90].

Để phát triển nông nghiệp ở vùng đất mới, và tạo cơ sở xã hội cho nền

hành chính chính thức của quốc gia vừa mới được thiết lập tại Đồng Nai – Gia

Định. Nguyễn Hữu Cảnh đã cho người đi khắp các địa phương từ Nam Bố

Chính trở vào nam, vận động, chiêu mộ những người dân có vật lực cũng như

những người dân nghèo khổ, xiêu tán di dân vào Sài Gòn, Đồng Nai, Gia Định

lập nghiệp, khai khẩn đất hoang. Điều này đã giúp cho vùng Đông Nam Bộ

nhanh chóng trở thành một vùng đất đầy sinh lực của quốc gia Đại Việt hồi bấy

giờ [126, tr.90].

Đối với di dân người Hoa, Nguyễn Hữu Cảnh chủ trương tập hợp họ lại

thành hai đơn vị hành chính đó là xã Thanh Hà tại Trấn Biên và xã Minh Hương

tại Phiên Trấn. Từ đó người Hoa trở thành dân hộ chính thức của nước ta tức là

công dân nước Đại Việt.

Như vậy, từ sau khi Nguyễn Hữu Cảnh vào nam kinh lược, thì chúa

Nguyễn đã xác lập được quyền quản lý về mặt nhà nước đối với xứ Đồng Nai -

Gia Định (Đông Nam Bộ ngày nay), sáp nhập hẳn vùng này vào lãnh thổ Đàng

Trong, tổ chức các đơn vị hành chính và bộ máy chính quyền từ cấp dinh trấn

cho đến cấp thôn xã, thực thi quyền lực nhà nước trong quản lý đất đai, hộ khẩu,

thu thuế và trưng thu các nguồn lợi tự nhiên và thu thuế qua việc trao đổi với

thương nhân nước ngoài. Đông Nam Bộ lúc này trở thành chỗ đứng chân, một

nơi tích trữ lương thực, xây dựng lực lượng quân sự, một địa điểm đầu cầu một

tiền tiêu, một căn cứ xuất phát mới để mở rộng đất đai. Sự kiện năm 1698 đã

116

đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quá trình xác lập và thực thi chủ quyền

của chúa Nguyễn đối với vùng đất Đông Nam Bộ.

Không chỉ xác lập chủ quyền trên đất liền, Đông Nam Bộ còn là nơi xác

lập chủ quyền trên biển đầu tiên trong quá trình mở đất phương Nam.

Với tư duy và ý thức hướng biển mạnh mẽ, các chúa Nguyễn đều đặc biệt

quan tâm đến việc khai thác nguồn sản vật và khẳng định chủ quyền của mình

trên các hòn đảo nhằm thực thi chính sách khuyến khích thương mại, tích cực

mở rộng quan hệ bang giao với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Với vị trí

địa lý thuận lợi, các hòn đảo trên biển luôn giữ vai trò quan trọng trong quá trình

mở đất của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.

Vùng biển ở Đông Nam Bộ được xác lập chủ quyền là vùng quần đảo

Côn Đảo (hiện nay thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) và cả quần đảo Trường Sa

(hiện nay thuộc tỉnh Khánh Hòa). Sở dĩ chúng tôi nói điều này vì “từ tháng 1

năm 1976 đến tháng 12 năm 1982 Trường Sa là một đơn vị hành chính trực

thuộc tỉnh Đồng Nai ” [16, tr.338].

Côn Đảo là quần đảo gồm 16 đảo lớn nhỏ với tổng diện tích hơn 77km2,

nằm cách Vũng Tàu 97 hải lý. Là một quần đảo giàu tiềm năng, lại nằm ở vị trí

thuận lợi, trên hải trình Âu – Á, Côn Đảo sớm được lưu dân Việt biết đến. Qua

tài liệu lưu trữ và sử sách ghi chép, thì đến thế kỉ XVII, đã có hoạt động khai

thác sản vật của cộng đồng cư dân Việt ở quần đảo này. Đó là cơ sở để các chúa

Nguyễn tiến hành xác lập chủ quyền của Đàng Trong đối với Côn Đảo.[26,

tr.63]. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã nhắc tới Côn Đảo

như một phần không thể tách rời khỏi Nam Bộ với những đặc điểm quan trọng

về quân sự và sự dồi dào về sản vật địa phương : Ở giữa biển Đông, từ cửa cảng

Cần Giờ chạy thuyền ra biển theo hướng đông mặt trời mọc 2 ngày mới đến.

Đảo lớn 100 dặm, có ruộng núi trồng lúa, bắp, khoai, đậu, nhưng cũng không

nhiều, nên thường phải mua gạo ở Gia Định mới đủ dùng. Thổ sản ở đây là

ngựa và trâu, núi không có cọp beo. Dân ở đảo tự kết lại làm binh sĩ, gọi Tiệp

117

Nhất, Tiệp Nhị, Tiệp Tam ba đội, trực thuộc đạo Cần Giờ, có đủ khí giới để giữ

gìn đất ấy phòng quân cướp hung dữ Đồ Bà, không cần kêu gọi chỗ khác đến

giúp. Dân lính ở đấy thường lấy yến sào, đồi mồi, vích, quế hương, mắm, ốc tai

tượng, rồi theo mùa mà dâng nộp; còn lại thì đánh bắt hải sản như cá, tôm để

sinh sống. Quả cau ở đây to, vỏ màu hồng, vị lại ngọt thơm, cứ đến đầu mùa

xuân, lúc cau ở Gia Định chưa kết quả, thì cau ở đây đã dùng được, người ta

chở vào bán với giá rất cao [25, tr.50].

Quần đảo Trường Sa nằm giữa Biển Đông về phía Đông Nam nước ta, “từ vĩ tuyến 6o50' đến 11o30'Bắc và kinh tuyến 111o30' đến 117o20' Đông, cách

cảng Cam Ranh (Khánh Hoà - Việt Nam) của Việt Nam 450km, cách đảo Hải

Nam (Trung Quốc) 110km” [16, tr.336]. Quần đảo Trường Sa (Spratleys) là một

tập hợp hơn 100 đảo lớn nhỏ, bãi đá ngầm hình thành từ san hô (nằm lập lờ hoặc

nhô lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống thấp), bãi cát ngầm, bãi ngầm. Toàn bộ quần đảo chiếm khoảng 160.000 km2 diện tích bề mặt đại dương, tương

đương 38% vùng nước của biển Đông. Ngoài các đảo và bãi đá nổi hoàn toàn thì

còn trên 200 đá san hô, rặng san hô, cồn cát và bãi đá ngầm. Hầu hết các đảo

đều nhỏ, bao phủ bề mặt đảo là cát và phân chim. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt

ở đây không phải là nơi con người có thể sống được vì khí hậu ẩm, có sương

mù; mùa khô nóng như sa mạc, mưa chỉ 2000mm/năm, khi đào giếng vẫn có thể

tìm thấy nước ngọt; động vật thì có đầy rẩy muỗi, chuột, chim, rùa. Các đảo bị

gió chà xát, thường xuyên có bão và bão làm cho nước biển tràn lên cuốn đi tất

cả những gì không được xây dựng chắc chắn trên đảo. Trường Sa có vị trí đặc

biệt, toàn bộ tuyến đường quá cảnh qua biển Đông đều đi qua khoảng giữa hai

quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuyến đường qua Biển Đông là con đường

hàng hải quốc tế quan trọng. Đây là con đường thuận tiện nhất không chỉ cho

các nước trong khu vực mà còn cho các nước ở châu lục khác như châu Âu và

châu Mĩ để vận chuyển hàng hải và giao dịch thương mại.

118

Với vị trí và nguồn tài nguyên dồi dào như vậy, nên ngay trong bước đầu

mở đất về phương Nam, việc khai thác tài nguyên ở Côn Đảo, cũng như ở

Hoàng Sa và Trường Sa đã được các chúa Nguyễn quan tâm, thực hiện một cách

có tổ chức và hệ thống. Ngoài việc tăng cường thêm nguồn hàng trao đổi ngoại

thương, điều quan trọng hơn là thông qua việc khai thác thường xuyên hàng năm

ở Côn Đảo, Trường Sa, các chúa Nguyễn nâng cao ý thức chủ quyền lãnh thổ

quốc gia trên biển đảo của triều thần và dân chúng.

Quốc sử quán triều Nguyễn chưa cho biết chính xác thời gian nhà

Nguyễn thiết lập chế độ hành chính đối với Côn Đảo và Trường Sa nhưng lại

ghi chép rất cụ thể về quá trình bảo vệ chủ quyền và hoạt động khai thác các

nguồn lợi biển tại Côn Đảo và Trường Sa ngay từ những thập niên đầu dựng

nghiệp của chúa Nguyễn.

Đối với việc xác lập và bảo vệ chủ quyền Côn Đảo, Đại Nam thực lục

cho biết: tháng Tám năm Mậu Ngọ, 1702, Chúa Nguyễn Phúc Chu được Trấn

thủ dinh Trấn Biên là Trương Phúc Phan báo Giặc biển là người Man An Liệt

(tức người Anh) có 8 chiếc thuyền đến đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn Tô

Thích Già Thi 5 người tự xưng là nhất ban, nhị ban, tam ban, tứ ban, ngũ ban

(mấy ban cũng như mấy bực, nguyên người Tây phương dùng những tên gọi ấy

để gọi bọn đầu mục của họ) cùng đồ đảng hơn 200 người, kết lập trại sách, của

cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác [78, tr.115]. Ngay lập tức “Chúa

sai Phúc Phan tìm cách trừ bọn ấy” [78, tr.115], để xác định chủ quyền của đất

nước, mặc dù lúc đó Côn Đảo chưa có người ở. Trương Phúc Phan lập tức cho

nghiên cứu phương án đánh đuổi quân Anh khỏi Côn Đảo. Tổng trấn Trương

mộ 15 lính người Ma-lai-xi-a, dùng kế trá hàng lọt được vào lính Anh chiếm

đóng trên đảo. Sau một thời gian chung sống với lính Anh, nghiên cứu cung

cách phòng vệ của họ và cuối cùng tháng 10 năm Quý Mùi, 1703 họ thống nhất

ra tay hành động, tiêu diệt được nhiều lính đánh thuê Anh và thu vô số chiến lợi

phẩm. Trong Đại Nam Thực lục, phần Tiền biên, có ghi vắn tắt sự kiện quan

119

trọng đó như sau: Mùa đông, tháng 10, dẹp yên đảng An liệt. Trước là Trấn thủ

Trấn Biên Trương Phúc Phan mộ 15 người Chà Và sai làm kế trá hàng đảng An

Liệt để thừa chúng sơ hở thì giết. Bọn An Liệt không biết. Ở Côn Lôn hơn một

năm không thấy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy làm đắc chí. Người Chà Và đang đêm

phóng lửa đốt trại, đâm chết nhất ban, nhị ban, bắt được ngũ ban trói lại, còn

tam ban, tứ ban thì theo đường biển trốn đi. Phúc Phan nghe tin báo, tức thì sai

binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải bắt được dâng nộp. Chúa trọng thưởng

người Chà Và và tướng sĩ theo thứ bực. Tên ngũ ban thì đóng gông giải đi, chết

ở dọc đường [78, tr.117]. Từ đó trở về sau, thực dân Anh mặc dù ở gần đó

(thống trị Malaysia), nhưng không dám bén mảng vì đất này đã có chủ.

Theo tác giả Phạm Thị Huệ và Nguyễn Xuân Hoài trong bài Quá trình xác

lập chủ quyền của Việt Nam đối với Côn Đảo trước 1862 thì: qua thống kê chưa

đầy đủ từ tài liệu lưu trữ, có thể khẳng định, các chúa Nguyễn đã xác lập chủ

quyền của Đại Việt đối với Côn Đảo muộn nhất là vào cuối thế kỉ XVII đầu thế

kỉ XVIII. Mặc dù xác lập chủ quyền từ rất sớm, nhưng trong điều kiện xảy ra

chiến tranh liên miên, lại nằm xa đất liền, nên đối với Côn Đảo, các chúa

Nguyễn chỉ chú trọng khai thác sản vật, mà chưa thể thiết lập thể chế hành chính

để cai quản sinh hoạt trên đảo. Theo các sử liệu tại trung tâm lưu trữ quốc gia II,

phải đến những thập niên cuối thế kỉ XVIII, chúa Nguyễn mới thiết lập được

những cơ sở hành chính đầu tiên đối với quần đảo này. Đó là vào năm 1773,

Nguyễn Ánh trên đường đào tẩu khỏi sự truy lùng của quân Tây Sơn, đã đưa

hoàng tộc cùng với 100 gia đình tùy tướng, gia nhân tới Côn Đảo lập ra 3 làng

An Hải, An Hội, Cỏ Ống và chính thức đặt tên cho quần đảo này là Côn Đảo,

Côn Lôn hay Côn Nôn, đặt dưới sự quảng hạt của tỉnh Hà Tiên [26, tr.65].

Đối với Trường Sa, cả người Việt và người nước ngoài lúc bấy giờ đều

chưa phân biệt rõ ràng Trường Sa và Hoàng Sa mà gọi chung cả hai quần đảo

này là Vạn Lý Trường Sa hay là bãi cát vàng (Hoàng Sa). Đây là nơi thường có

nhiều thuyền bị hư hại khi ngang qua vào mùa mưa bão vì thế các chúa Nguyễn

120

hay chu cấp cho các tàu thuyền bị nạn về nước, nên thuyền buôn các nước

thường bảo nhau tìm cách tạt vào bờ biển Việt Nam để nhờ cứu giúp khi gặp

nạn. Chính vì thế, Trường Sa từ rất sớm đã được người Việt biết tới và xác lập

chủ quyền của mình.

Cuốn sách đầu tiên ghi chép về Côn Đảo (Côn Lôn) cũng như quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong là quyển

Phủ Biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn. Lê Quý Đôn cho biết: Ở xã An Vĩnh

huyện Bình Sơn, Phủ Quảng Nghĩa ở gần biển. Ở hướng đông bắc ngoài biển có

nhiều đảo và núi linh tinh hơn 130 đỉnh. Từ khoảng núi ấy mà ra biển lớn cách

nhau có chỗ hoặc 1 ngày đường, hoặc mấy canh giờ. Trên đảo có bãi cát vàng,

dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng và rộng lớn, có suối nước ngọt, nước trong

veo nhìn thấu tận đáy…Thuyền lớn đi biển, hễ gặp gió, đều đến nương đậu ở

đảo này [23, tr.148].

Từ đầu thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn đã cho lập đội Hoàng Sa và Bắc

Hải để khai thác và thực thi chủ quyền trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo

Hoàng Sa, Trường Sa và Côn Đảo.

Lê Quý Đôn cho biết: Ngày trước, họ Nguyễn có thiết lập đội Hoàng Sa

gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào. Mỗi năm luân phiên nhau đi,cứ

tháng 2 thì nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi hàng năm bằng

thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo [23, tr.148]… Họ Nguyễn còn

thiết lập thêm đội Bắc Hải nhưng không định trước bao nhiêu suất, hoặc chọn

người thuộc thôn tứ chiếng ở phủ Bình Thuận, hoặc lấy người xã Cảnh Dương,

ai tình nguyện thì sung vào và cấp giấy sai đi, miễn nạp tiền sưu cùng các thứ

tiền lặt vặt như tiền tuần, tiền đò, sai họ đi thuyền câu nhỏ ra các xứ như cù lao

Côn Luân ở Bắc Hải, Cồn Tự ở Hà Tiên để tìm kiếm, lượm nhặt đồi mồi, hải ba,

đồn ngư, lực quý ngư, hải sâm. Việc này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản

nhưng bất quá họ chỉ lấy được những hải vật chứ vàng bạc và các của quý khác

thì ít khi tìm được [23, tr.149].

121

Trong sách Đại Nam thực lục, bộ chính sử quan trọng và lớn nhất của nhà

Nguyễn do quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, trong phần chính biên đệ nhất

kỷ có ghi :

Giáp Tuất, Thế tông Hiếu Vũ Hoàng đế năm thứ 16 (1754): Ở ngoài biển,

về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát, cách nhau

hoặc đi một ngày đường, hoặc một vài trống canh, kéo dài không biết mấy nghìn

dặm, tục gọi là “Vạn lý Trường Sa”, trên bãi biển có giếng nước ngọt. Sản vật

có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, baba …Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70

người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ

3 đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc

Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung

vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn, để tìm lượm hóa vật; đội

này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản [23, tr.164].

Như vậy, nhiệm vụ của đội Hoàng Sa và Bắc Hải là tìm nhặt hàng hóa

của các con tàu bị đắm dạt vào các đảo (gươm, súng, vàng bạc, đồ đồng, thiếc,

chì...) và đánh bắt hải sản (ốc, hải sâm, vỏ đồi mồi, vỏ hải ba...).

Tác phẩm Tổ Quốc nơi đảo xa do nhà xuất bản Văn Hóa - Văn Nghệ ấn

hành cho biết: về mặt tổ chức, phiên chế đội ngũ, đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải

là một tổ chức dân binh vừa mang tính dân sự vừa mang tính quân sự, vừa mang

tính chất tư nhân vừa mang tính nhà nước, vừa có chức năng kinh tế, vừa có

chức năng quản lý biển đảo. Thành viên đội Hoàng Sa là những dân địa phương

được tổ chức theo hình thức quân sự. Đứng đầu mỗi đội là một cai đội (thường

là vị quan lớn như cai đội Thuyên Đức Hầu - một người được phong tước

"hầu”), những thành viên trong đội được gọi là "quân nhân”: "năm Kiền Long

thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Vàng huyện Chương

Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam”. Cai đội Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc

Hải. Những quân nhân Hoàng Sa, Bắc Hải không được trả lương hàng tháng như

chính binh (tức lính chuyên nghiệp), chỉ được "miễn cho tiền sưu cùng các tiền

122

tuần đò”. Ngoài việc được miễn sưu thuế, về mặt quyền lợi, họ còn được hưởng

phần dư - phần còn lại ngoài số sản vật lượm được phải nộp cho Nhà nước theo

quy định: "đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem

bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm”.

Biên chế của đội Hoàng Sa: 70 suất, nguồn tuyển: người xã An Vĩnh trên

đảo Cù Lao Ré; biên chế của đội Bắc Hải: "không định bao nhiêu suất”, nguồn

tuyển: hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương.

Lịch hoạt động trong năm: tháng 2 lĩnh giấy sai đi, mất 3 ngày 3 đêm thì

đến nơi, ở lại trên đảo 6 tháng, tháng 8 thì về, vào thành Phú Xuân để nộp, rồi

lĩnh bằng trở về. Hoạt động của đội được chính quyền cho phép và giám sát chặt

chẽ: khi đi lĩnh giấy, khi về lĩnh bằng.

Địa bàn hoạt động: các cù lao, đảo trên Biển Đông. Vì địa bàn biển đảo

quá rộng nên đội Bắc Hải được lập thêm để phụ trách vùng biển đảo phía Nam,

từ Trường Sa đến Hà Tiên: xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên.

Phương tiện và trang bị: đi bằng thuyền câu nhỏ (5 chiếc), mang đủ lương

ăn 6 tháng, bắt thêm cá, chim để ăn.

Thu hoạch thất thường: "Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có

khi về người không”. Phần hải vật thường ổn định, còn hóa vật thì nhiều ít tùy

năm. "Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được”.

Với nhiệm vụ nặng nề, công việc nguy hiểm, biển khơi ẩn chứa nhiều tai

họa khó lường trong khi phương tiện thời đó lại khá thô sơ, những người lính

trong đội Hoàng Sa thời đó hầu như phải đối mặt với hy sinh, với cái chết.

Chính vì thế nên ngoài lương thực, nước uống, họ còn mang theo một đôi chiếu,

7 đòn tre, 7 sợi dây mây và một tấm thẻ bài có khắc họ tên, quê quán để phòng

nếu chẳng may hy sinh, đồng đội sẽ bó thi hài vào chiếu và thả xuống biển. Tại

Cù Lao Ré hiện nay vẫn còn Âm Linh Tự tức miếu Hoàng Sa, ở thôn Tây, xã Lý

Vĩnh, tức phường An Vĩnh xưa và Âm Linh Tự ngoài trời ở xã Lý Hải, tức

phường An Hải xưa. Cũng tại xã An Vĩnh và cả làng An Hải ( cả đất liền lẫn

123

ngoài đảo Cù Lao Ré) có tục tế đình và lễ khao quân tế sống hay còn được gọi là

“khao lễ thế lính Hoàng Sa” để tiễn lính đội Hoàng Sa lên đường làm nhiệm vụ

hàng năm vào ngày 20 tháng Hai âm lịch tại các đình làng (hiện nay chỉ còn

đình làng Lý Hải tổ chức).Trong buổi tế sống lính Hoàng Sa đó, dân làng làm

những hình nộm bằng khung tre và dán giấy ngũ sắc để giả hình người và đem

tế tại đình. Tế xong họ đốt đi, hoặc đóng thuyền bằng thân cây chuối đặt hình

nộm lên và thả trôi ra biển, với quan niệm các hình nộm kia sẽ gánh chịu mọi

nguy hiểm tai nạn trên biển thay cho đội Hoàng Sa và cầu mong cho người thân

của họ bình an trở về, đồng thời còn làm những “ngôi mộ gió” – mộ chôn những

hình nhân tượng trưng cho những người lính hy sinh vì Hoàng Sa [11].

Việc xác lập chủ quyền của các chúa Nguyễn đối với Vạn Lý Trường Sa

và sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên hai quần đảo cũng

được Thích Đại Sán khẳng định trong sách Hải Ngoại Ký Sự : Bởi vì có những

cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ đông bắc qua tây nam; động cao dựng

đứng nhu vách tường, bãi thấp cũng ngang mực nước biển; mặt cát khô rắn như

sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành; bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm

thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “Vạn Lý Trường Sa”, mù tít chẳng thấy

cỏ cây nhà cửa; nếu thuyển bị trái gió trái nước tất vào, dầu không tan nát,

cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quảng ấy cách Đại Việt

bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm. Thời quốc vương trước, hằng năm sai

thuyền đi đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư

tất vào. Mù thu nước dòng cạn, chảy rút về hướng đông, bị một ngọn sóng đưa

đi thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức gió chẳng mạnh, sợ có hiểm họa

Trường Sa [81, tr.125].

Phủ Biên tạp lục cũng chép rất rõ những hoạt động của đội Hoàng Sa ở

phía Bắc: năm thứ 18 (1753) niên hiệu Càn Long có 10 lính Hoàng Sa bị bão

trôi dạt vào cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Viên quan địa phương tra xét rõ

nguyên nhân xong liền cho thuyền áp chở những người lính Hoàng Sa trở về

124

nguyên quán. Điều này chứng tỏ từ xưa chính quyền Trung Quốc vẫn luôn tôn

trọng quyền hành xử chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Chính quyền phong

kiến Trung Quốc đã không hề có phản ứng nào về những hoạt động của đội

Hoàng Sa mà còn giúp đỡ những người lính Hoàng Sa khi họ gặp bão trôi dạt

vào đất Trung Quốc.

Hiện còn khá nhiều tài liệu về các hoạt động của đội Hoàng Sa còn lưu trữ

trong dân gian ở phường An Vĩnh, đảo Lý Sơn (tức Cù Lao Ré), tỉnh Quảng

Ngãi. Chẳng hạn như đơn của ông Hà Liễu, cai hợp phường Cù Lao Ré, xin

chính quyền Tây Sơn cho phép đội Hoàng Sa tiếp tục hoạt động và tờ Chỉ thị

ngày 14 tháng 2 Thái Đức năm thứ 9 (1786) của quan Thái Phó Tổng Lý Quân

Binh Dân Chư Vụ Thượng Tướng Công đốc suất công việc của đội Hoàng Sa.

Năm 1773, sau 2 năm khởi nghĩa, quân Tây Sơn đã làm chủ miền đất từ Quảng

Nam đến Bình Thuận, trong đó có Quảng Ngãi. Những hoạt động của đội Hoàng

Sa ở xã An Vĩnh được đặt dưới quyền kiểm soát của Tây Sơn. Với truyền thống

hoạt động hàng trăm năm, dân xã An Vĩnh vốn tự lập về phương tiện tàu thuyền

lại quen việc nên luôn là nòng cốt của đội Hoàng Sa dù ở dưới bất kỳ triều đại

nào, họ luôn chủ động kiểm soát vùng biển truyền thống lâu đời của cha ông

một cách tích cực nhất.

Tóm lại, các sự kiện trên đã chứng minh rõ việc xác lập chủ quyền, khai

thác sản vật và bảo vệ chủ quyền trên các đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Đảo

chậm nhất là vào thế kỉ XVII. Có thể nói: từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, sự

phát triển mạnh mẽ của hệ thống thương mại quốc tế đã ảnh hưởng tích cực tới

hoạt động ngoại thương của chính quyền chúa Nguyễn. Các chúa Nguyễn đã vận

dụng những kinh nghiệm đi biển của người Chăm, cùng các cộng đồng dân cư

khác đang sinh sống ven biển, nhằm khai thác triệt để tiềm năng vốn có của

vùng đất mình cai quản, đặc biệt là tiềm năng phong phú của các quần đảo

(trong đó có Côn Đảo và Trường Sa) nhằm mục đích phát triển kinh tế, thúc đẩy

quan hệ thương mại và giao lưu văn hóa trên biển. Trong bối cảnh ấy, chính

125

quyền chúa Nguyễn một mặt vẫn duy trì chính sách đối ngoại rộng mở, nhưng

đồng thời cũng luôn cảnh giác, kịp thời đưa ra những phương án hữu hiệu để

bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên biển đảo của quốc gia [26, tr.191-192].

3.4. Đông Nam Bộ là cửa ngõ thông thương của Đàng Trong với nước ngoài

Thế kỉ XVII – XVIII, Đông Nam Bộ trở thành cửa ngõ thông thương của

Nam Bộ, của Đàng Trong với thế giới thông qua thương cảng Cù Lao Phố hay

còn gọi là Nông Nại Đại Phố và cảng thị Sài Gòn – Gia Định.

Nông Nại đại phố xưa được xác định là vùng Cù Lao Phố hiện nay, thuộc

xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Đây là một cù lao giữa hai

nhánh sông với vị thế thuận lợi lớn về đường thủy. Xưa kia đây chính là điểm

trung gian giữa miệt hạ lưu và thượng lưu sông Đồng Nai trước gọi là Phước

Long giang.

Cù Lao Phố mang nhiều tên gọi khác nhau, ngoài tên Nông Nại Đại Phố,

còn có các tên: Đại Phố, Đông Phố, Giản Phố, Cù Châu, Bải Rồng. Trước năm

1698, Cù Lao Phố có 3 xóm (xóm Chợ Chiếu, xóm rạch Lò Gốm và xóm Chùa)

là những điểm cư trú và khai thác đầu tiên của người Việt chứ chưa phải là đơn

vị hành chính của chúa Nguyễn. Đến năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh kinh

lược đất Đông Phố, chia lập thôn ấp, lập bộ đinh, bộ điền thì Cù Lao Phố là xã

Bình Hoành nằm trong phạm vi xứ Đồng Nai, thuộc huyện Phước Long, dinh

Trấn Biên. Dần dần trên cơ sở thôn cũ, hình thành nên những xóm làng trù mật,

Cù Lao Phố phát triển thành 3 thôn: Nhất Hòa, Nhị Hòa và Tam Hòa [10, tr.82].

Cù Lao Phố, là địa bàn thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, thủ công

nghiệp và thương nghiệp. Nơi đây là một bãi phù sa nằm ở giữa sông Đồng Nai,

có hai rạch nhỏ là rạch Ông Án và rạch Lò Gốm, đưa nước sông Đồng Nai chảy

vào những cánh đồng trong lòng cù lao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng

trọt ở đây nhưng khu vực ven bờ cù lao lại không thích hợp cho việc sản xuất

nông nghiệp vì chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều xuất hiện với biên độ

lớn và thời gian xuất hiện nhanh. Dài theo mé sông ở Cù Lao Phố có nhiều đất

126

sét, rất thuận lợi cho nghề gốm phát triển. Ngòai ra, Cù Lao Phố có hệ thống

sông bao quanh thuận tiện cho giao thông đường thủy từ bắc xuống nam, lên

Cao Miên và xuống miền Tây Nam Bộ [10, tr.80].

Nhóm người Hoa của Trần Thượng Xuyên đầu tiên định cư trên vùng đất

Bến Gỗ, nhưng nhận thấy ưu điểm của Cù Lao Phố nên họ đã quyết định di

chuyển về đây. Sau khi về đây định cư, Trần Thượng Xuyên cùng với những

nhà hào phú, quý tộc đi theo ông đã xây dựng nên Nông Nại đại phố, một

thương cảng xuất nhập khẩu lớn nhất miền Đông Nam Bộ thời bấy giờ. Gia

Định thành thông chí cho biết: Phố lớn Nông Nại. Ở đầu phía tây của cù lao Đại

Phố, lúc mới mở mang, Trần Thượng Xuyên chiêu tập người thương buôn nước

Trung Quốc đến lập ra phố xá, mái ngói tường vôi, lầu quán cao ngất, dòng

sông rực rỡ, ánh nhật huy hoàng, liền nhau tới 5 dặm, chia làm 3 đường phố,

đường phố lớn lát đá trắng, đường phố ngang lát đá ong, đường phố nhỏ lót đá

xanh, toàn thể đường bằng phẳng như đá mài, kẻ buôn tụ tập, thuyền đi biển, đi

sông đều đến cuốn buồm neo đậu, đầu đuôi thuyền đậu kế tiếp nhau, thật là một

chỗ đô hội. Các nhà phú thương buôn bán to lớn chỉ ở đây là nhiều hơn

[25, tr.238].

Cù Lao Phố được như vậy là do việc thương mại ở đây được tổ chức khéo

léo, Trần Thượng Xuyên chiêu tập người buôn nước ngoài, nhất là người Tàu

đến kiến thiết, đây là những thương buôn chuyên nghiệp, có vốn to và giàu kinh

nghiệm. Một số theo Trần Thượng Xuyên đến trước, đã tạo lập cơ sở đầu tiên ở

Bến Gỗ, nhưng do thương mại ngày càng phát triển, nên đã tìm đến Cù Lao Phố

là nơi sông sâu, thuận tiện cho tàu biển ra vào.

Kiểu buôn bán ở Cù Lao Phố là dạng xuất nhập khẩu, có nhiều kho hàng

dự trữ hàng hóa nhập vào và dự trữ hàng hóa thu mua, với nhiều chân rết. Quang

cảnh buôn bán sầm uất ấy đã được Trịnh Hoài Đức mô tả: Từ trước thuyền buôn

đến đây thả neo xong thì lên bờ thuê phố ở, đến nhà chủ mua hàng kê khai toàn

bộ hàng hóa có trong thuyền trình sở thuế; chủ mua hàng định giá mua tất cả

127

hàng hóa xấu tốt không sót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về, gọi là hồi

Đường, nếu chủ thuyền muốn mua thứ gì thứ kê khai trước, người chủ vựa theo

đơn đặt hàng mua dùm, hai bên chủ khách đều tiện, thanh toán hóa đơn rõ ràng

rồi, khách cứ đàn hát vui chơi, đã được nước ngọt sạch sẽ, lại không có lo trùng

hà ăn thủng ván thuyền, chỉ đợi tới ngày lui thuyền, chở hàng đầy khoang mà về

xứ [25, tr.30].

Trong hoạt động thương mại, giao dịch của Cù Lao Phố đều do các

thương nhân Hoa kiều chiếm địa vị quan trọng. Họ đã nắm hầu hết các mặt hàng

xuất nhập khẩu, vì thế nơi ăn chốn nghỉ cho đến nơi vui chơi, giải trí cho khách

buôn và quan trọng hơn hết là chỗ tồn trữ hàng hóa và điạ bàn phân phối hàng

hóa được họ chuẩn bị rất kĩ. Ví dụ: Nông Nại đại phố có các dịch vụ như Phố

Lầu nơi đàn hát vui chơi giải trí, cung cấp nước ngọt cho khách buôn, Bến Gỗ là

nơi sửa chữa thuyền bè, cung cấp các phụ dụng cho thuyền buồm…phục vụ các

tàu buôn đi biển đường dài cho khách thương hồ viễn xứ. Như vậy có thể nói

Nông Nại đại phố là thương cảng phát triển với quy mô thương mại – dịch vụ

tương đối đầy đủ để phục vụ cho con người và lượng hàng hóa được luân

chuyển qua thương cảng này [6, tr.45].

Trong lịch sử phát triển, Cù Lao Phố được hình thành như một cảng sông

sâu trong nội địa nên đã có ưu thế tối ưu như một trung tâm thu mua hàng hóa

được từ nhiều nguồn, đa dạng và thương mại phát triển của một khu vực được

khai phá sớm. Ngay vùng Cù Lao Phố là nơi sớm tập trung các ngành nghề thủ

công: dệt chiếu, làm tơ lụa, làm gốm, mộc, đúc đồng, làm pháo hay chăn nuôi

tằm, trồng mía, nấu đường…Đặc biệt những sản phẩm của Cù Lao Phố được

xem là những hàng đặc sản được nhiều nơi đặt mua [10, tr.83].

Ngoài nguồn hàng cung cấp tại chỗ, thương cảng Cù Lao Phố còn tiếp

nhận các nguồn hàng hóa từ nơi khác đến trên vùng Đồng Nai thông qua những

đại lý hay còn gọi là “chân rết” người Hoa ở các chợ, các hàng xóm xa xôi.

Những người Hoa theo Trần Thượng Xuyên vào Biên Hòa, ngoài những binh

128

lính vẫn giữ nguyên đội ngũ “Long Môn” dưới quyền chỉ huy của ông, còn có

hàng loạt các quý tộc phong kiến và thương nhân giàu có cùng gia quyến quê ở

Quảng Đông, Hải Nam, Phước Kiến, Triều Châu, Hẹ. Ngoài một số sống tập

trung ở Bàn Lân (Bến Gỗ), Cù Lao Phố, còn có những người sống rải rác trong

phạm vi vùng Đồng Nai với tính cách là những đại lý thu mua nguyên vật liệu,

hàng hóa tại chỗ cung cấp về Cù Lao Phố như ở Tân Bản (lúa gạo), Mỹ Khánh,

Bình Long (hàng vàng bạc), Chợ Đồn (nằm trong làng Bình Long xuất lu, hũ,

cát, đá ong), Tân Mai, Vĩnh Thanh, Bình Trước, Bình Phước (lúa gạo), Đồng

Bản, Thủ Đồn Xứ (gỗ quý, thú rừng), Bình Sơn (đá rửa dùng tô nhà), Phú Hội

(xuất trà), An Lợi (sầu riêng), Long Tân (chuối), Phước An (cá Buôi, sò huyết),

Phước Khánh (lúa gạo thơm), Tam An (tôm càng), Hội Bài (cá), Long Phước

(chuối, xoài)…[66, tr.124].

Hàng hóa trao đổi, mua bán ở Cù Lao Phố rất đa dạng. Nguồn xuất khẩu

chính của Cù Lao Phố là lúa gạo, lúa gạo ở Đồng Nai rất nổi tiếng, rất nhiều và

rất rẻ: mỗi tiền (60 đồng) đong được 16 đấu thóc. Lường theo bát gạt ngang thì

cứ ba bát ấy ngang với ba chục quan bát (bát của nhà nước, nhỏ hơn bát của

dân buôn ở chợ). Mỗi quan mua được 300 quan bát làm bằng đồng. Giá cả rẻ

như vậy các nơi khác chưa từng có [23, tr.155-156]. Kế đến là nguồn gỗ quý

dùng để đóng tàu thuyền (vì giao thông đường thủy là chủ yếu) và xây dựng nhà

ở, đình chùa. “Phủ Gia Định có nhiều thứ gỗ tốt, xét sổ sách của Cai Bạ Nguyễn

Khoa Thuyên thì ở hai xứ là nguồn Đồng Môn và thủ Quang Hóa huyện Phước

Long có gỗ sao, gỗ trắc, gỗ dầu, gỗ giáng hương và gỗ gụ. Nguồn Ba Can thuộc

huyện Tân Bình có gỗ trắc và gỗ giáng hương” [24, tr.225], [65, tr.123].

Bên cạnh mặt hàng gạo, hàng lâm sản quý, Cù Lao Phố còn có các mặt

hàng thổ sản như: đường phèn, đường phổi, đường cát (huyện Phước Chánh,

trấn Biên Hòa) mỗi năm bán cho thuyền buôn nước ngoài trên 600.000 cân,

không kể mật và đường đen dùng trong xứ. Ở làng Bến Gỗ huyện Long Thành

có mỏ quặng sắt, dân mở lò đào nấu gang sắt, đúc các vật phẩm như lưỡi cày,

129

chảo, rèn cuốc liềm…để bán cho dân bản xứ và các tàu buôn. Trấn Biên Hòa có

nhiều mỏ đá ong, “người thợ mỏ đào ra, nhân khi đất còn ướt, tùy theo thước

tấc rộng dày thế nào, mà chặt ra thành khối, để dãi ra giữa gió và mặt trời, lâu

ngày đất ấy cứng lại, búa đẽo cũng không vô, dùng xây vách tường, sân thềm, kè

sông và xây mộ, cứng rắn không thua gì đá núi” [25, tr.197]. Muối trắng “sản

xuất ở vùng Vũng Dương thuộc huyện Phước An, giá rất rẻ, 100 cân (cân ta

bằng gần 0,5kg) giá là 1 tiền kẽm. Lãnh, là, vải, lụa thì nơi nào cũng có nhưng ở

huyện Phước An trấn Biên Hòa có thứ lãnh thâm mềm láng là tốt nhất trong cả

nước. Rượu thì ở Thạch Than ngon hơn nhiều nơi khác. Giấy bản ở huyện

Phước An, thuốc lào ở huyện Long Thành, lá buông ở huyện Phước Bình, vỏ gai

và đuốc nhựa trám ở huyện Long Khánh… [55, tr.211].

Bên cạnh các mặt hàng kể trên, Cù Lao Phố còn bán các loại nông sản

như hạt tiêu, hạt sen, chuối, xoài, trà, các loại hải sản như tôm càng, cá, sò

huyết, hải sâm, đồi mồi, vây cá, bóng cá, da rái cá …hàng lâm sản khai thác

được như: ngà voi, sừng tê giác, gạc nai, gân nai, da tê, da ngựa núi, huyền

phách, các loại dược thảo, sáp ong, mật ong là những mặt hàng xuất khẩu rất

được các chủ thuyền buôn ưa chuộng đặt hàng, các loại khoáng sản như sắt, đá

ong, cát…, các hàng mĩ nghệ thủ công như: nữ trang bằng vàng bạc, vật dụng

bằng đồi mồi, đóng thuyền, làm cột buồm bằng gỗ quý, đồ gốm, chiếu cũng là

những mặt hàng xuất khẩu ở Cù Lao Phố [10, tr.85].

Nguồn hàng nhập khẩu vào Cù Lao Phố, phổ biến nhất là là đồ sứ Trung

Quốc (đặc biệt là sứ nhà Thanh), tơ lụa, vải bố, thuốc bắc và các loại dược

phẩm, đồng để đúc chuông, gạch ngói dùng để trang trí, các loại vật liệu dùng để

xây dựng chùa, miếu và các loại khác như nhang đèn, giấy tiền vàng bạc…

[10, tr.85].

Sự phồn thịnh của thương cảng Cù Lao Phố, với tư cách là trung tâm

thương mại và giao dịch quốc tế, không chỉ riêng của Đông Nam Bộ mà còn của

cả đất Đàng Trong kéo dài đến năm 1776 thì chấm dứt. Nguyên nhân chủ yếu, là

130

khi công cuộc khai hoang tiến nhanh về miệt dưới (đồng bằng sông Cửu Long

ngày nay) thì vị trí trung tâm của đất phương Nam lúc này tất nhiên phải chuyển

xuống vùng Bến Nghé - Sài Gòn. Mặt khác, khi Cù Lao Phố đã trở thành “xứ đô

hội” của vùng đất mới, thì tự nó cũng trở thành nơi diễn ra những cuộc tranh

chấp về quyền lực chính trị. Trước hết năm 1747, bọn khách thương người

Phước Kiến do Lý Văn Quang cầm đầu tự xưng là “Giản Phố Đại Vương” tập

trung bè đảng, toan đánh úp lấy dinh Trấn Biên. Âm mưu bạo loạn bị dập tắt,

nhưng gây nhiều thiệt hại cho Cù Lao Phố. Kế đến trận chiến giữa Nguyễn Ánh

và Tây Sơn, nhất là biến cố năm 1776 đã tàn phá Cù Lao Phố, cộng đồng người

Hoa tại các nơi này đã xiêu tán, tìm các nơi khác sinh sống. Sau biến cố, dẫu có

một số người Hoa trở lại sinh sống nhưng Nông Nại đại phố đã không còn như

xưa: “Đất này trở thành vườn gò hoang. Sau khi Trung hưng tuy có người trở

về, nhưng chưa bằng một phần trăm (mười phần ngàn) lúc trước”

[25, tr.238], [65, tr.124].

Như vậy, Cù Lao Phố hình thành như một cảng sông sâu trong nội địa

(cách biển 100km), nhờ đặc điểm địa lý tối ưu của nó và do yêu cầu thực tế đòi

hỏi phải có một trung tâm thương mại của khu vực được khai phá sớm nên đã

nhanh chóng trở thành một trung tâm thương mại, một cửa ngõ thông thương và

giao dịch với nước ngoài của vùng Đông Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói

chung. Chính vì thế, mà nhà văn Sơn Nam đã khẳng định: Cù Lao Phố là “một

cảng quan trọng đầu tiên của Nam Bộ, đón nhận thương thuyền nước ngoài,

hưng thịnh suốt khoảng 90 năm” [59, tr.10].

Ngoài Nông Nại Đại phố, Đông Nam Bộ còn thông thương với thế giới

thông qua cảng thị Sài Gòn – Gia Định. Cảng thị Sài Gòn- Gia Định được khởi

đầu từ một điểm tụ cư của người Việt là Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey

(Bến Nghé). Năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên được sự đồng ý của vua

Chân Lạp đã đặt hai trạm thu thuế để quản lý việc buôn bán ở đây. Nhờ vậy, từ

những năm 20 của thế kỉ XVII, thị trấn Prei Nokor và Kas Krobey ngày càng trở

131

nên tấp nập, bởi hoạt động mở mang, khai khẩn ruộng đất và buôn bán của lưu

dân người Việt.

Theo một tư liệu của người Nhật nói về “quan hệ Nhật Bản – Việt Nam

trong thời kỳ Châu Âu” của Ogura Sadao, xuất bản năm 1987 tại Tokyo đã vạch

ra hải trình của thương thuyền Nhật Bản trong suốt những nhăm 1604 đến năm

1635: “đó là con đường từ Phố Hiến (Hưng Yên), Nghệ An – Tonkin, Annam

như Huế (Senoa), Cacciam (cù lao Chàm) - Hội An (Faifo), Champa, rồi Giao

Chỉ (Cauchinchina) - tức Sài Gòn xưa - sau đó tiếp tục đến Chân Lạp

(Cambodia), Xiêm (Siam), Patani, Luzon, Olucca, Brunei, Marica (thuộc

Malacca)…Tổng cộng trong suốt 32 năm này, nhiều thương thuyền Nhật Bản đã

đến 19 cảng của các nước Châu Á, trong đó có Prei Nokor và Kas Krobey.

Ogura Sadao còn cho biết thêm những hàng hóa được mang từ Nhật Bản

đến Tongkin, Annam (Hội An) và Cauchinchina, chủ yếu là hàng xa xỉ phẩm và

các mặt hàng quân nhu như vàng, bạc, đồng, tiền vàng, tiền bạc, tiền đồng, sắt,

tiền kẽm, giáo, mũ trụ, áo giáp, áo lụa cao cấp, tranh, tượng, dù, mùng, đồ gốm,

đồ sứ, đồ thủ công mỹ nghệ, đồ dùng trang sức gương soi…hoặc đồ gia dụng,

ấm đun nước, hay ngọc trai, thủy ngân, diêm sinh, gỗ thơm trừ sâu, bột mì…để

từ đó họ đổi lấy các đặc sản địa phương nước ta, như: tơ tằm, sa tanh, nhung,

the, sa kén, vải bông, trầm hương, kỳ nam, bạch đàn, gỗ quý, gỗ son (red sandal

wood), củ nâu (nguyên liệu nhuộm), da hươu, da cá mập, đồi mồi, ngà voi, sừng

trâu, san hô, tiêu, tổ yến, mật, mật mía (đường), đá quý, hổ phách, tinh thể (rock

crystal), đồ gốm, chì, kẽm, quế và các loại thuốc nam…[95, tr.33].

Tất nhiên, đây mới chỉ là bước đầu trong quan hệ buôn bán với thương

nhân nước ngoài, bởi lẽ khu vực định cư và số lưu dân người Việt ở đây còn ít

ỏi, nguồn hàng hóa chưa thật sự phong phú cho lắm. Cũng có thể thương thuyền

Nhật Bản cũng như tàu bè các nước khác chỉ dừng chân ở Prei Nokor và Kas

Krobey trong một thời gian ngắn, do vị trí thuận lợi của Sài Gòn, để rồi tiếp tục

cuộc hải trình về phía đông hoặc sang phía tây.

132

Như vậy, trên vùng đất Đông Nam Bộ này, Prei Nokor và Kas Krobey đã

sớm trở thành trung tâm thu hút lưu dân người Việt, để rồi sau đó nhanh chóng

biến thành Sài Gòn – Gia Định , một trung tâm thành thị, trung tâm kinh tế và là

điểm hội tụ văn hóa Đại Việt.

Trên cơ sở phát triển về kinh tế, xã hội, dân cư trên địa bàn Đồng Nai –

Gia Định. Năm 1698, chúa Nguyễn đã sai Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào

nam kinh lược, từ đây vùng này trở thành đơn vị hành chính của chính quyền

Đàng Trong. Sau sự kiện này, số lưu dân người Việt đến tụ cư quanh vùng Sài

Gòn – Bến Nghé ngày càng đông. Nhiều làng mạc, thôn xã được thành lập khá

sớm quanh vùng như Hanh Thông xã (1698), An Lộc (1716), An Phước, Tân

Sơn Nhất (1749)…Do đó những vùng đất hoang vu của khu vực Sài Gòn – Gia

Định đã dần dần biến thành những vùng sản xuất nông nghiệp và trung tâm buôn

bán phồn thịnh lúc bấy giờ.

Từ cuối thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII, ở vùng đất phương Nam này đã

hình thành nên 4 trung tâm buôn bán nổi tiếng đó là Cù Lao Phố, Mỹ Tho đại

phố, thương cảng Hà Tiên và trung tâm Sài Gòn – Gia Định. Mặc dù phải chen

vai cạnh tranh với ba trung tâm thương mãi nổi tiếng nhưng bằng tiềm lực kinh

tế vốn có, Sài Gòn – Gia Định đã nhanh chóng vươn mình trở thành một trung

tâm buôn bán phồn thịnh của xứ Đàng Trong và là nơi giao lưu kinh tế nổi tiếng

của nước ngoài.

Sở dĩ Sài Gòn – Gia Định sớm phồn thịnh vì trước hết nó có vị trí thuận

lợi: “ở trung tâm đi Singapore, Batavia (tức Djakarta của Indonesia), Manille,

Hồng Kông, Quảng Đông và chế độ gió mùa làm cho nó gần gũi với Trung Hoa

và Nhật Bản” [95, tr.39].

Hơn nữa, Sài Gòn còn là một thương cảng với vị trí địa lý tự nhiên vô

cùng thuận lợi. Sài Gòn xưa nằm trên vùng đồi cao thoai thoải hơn mặt sông từ

2 đến 10m, cách cửa biển cửa biển Cần Giờ 60km. Cần Giờ là một cửa biển vào

loại tốt trên thế giới, tàu thuyền lớn ra vô dễ dàng “trong cảng nưóc sâu và

133

rộng, rất yên lặng, thường ngày có thuyền buôn ra vào, là nơi hội tụ ghe thuyền

đông đúc của thành Gia Định, không đâu sánh bằng” [25, tr.42]. Từ biển lên

Sài Gòn có 3 cửa khẩu chính là Cần Giờ, Đồng Tranh, Soài Rạp nhưng Cần Giờ

là tốt nhất vì không có đá ngầm hay bãi cát cản lòng sông. Cả 3 cửa cùng dẫn tới

Nhà Bè, nơi hợp lưu của sông Đồng Nai và Tân Bình (sông Sài Gòn). Ngược

dòng Tân Bình, tục gọi là sông Bến Nghé, ta sẽ tới thành Gia Định, tức Sài Gòn,

tới cửa thành nhưng sông vẫn rộng và sâu, rất thuận tiện cho giao thông đúng

như Gia Định thành thông chí miêu tả: “sông Bến Nghé rộng 142 tầm, sâu 10

tầm, khi nước lên sâu 13 thước ta, sông này vừa rộng lớn vừa trong sâu, những

tàu buôn và ghe thuyền sông biển trong và ngoài nước ra vào không ngớt, trông

thấy đầu tàu nối liền, đuôi cột buồm chi chít, đủ biết đó là nơi đô hội”

[25, tr.41].

Mặt khác, cảng thị Sài Gòn nằm ở giữa miền Đông và miền Tây, vùng trù

phú nhất của Nam Bộ thời đó, Sài Gòn còn là cửa ngõ cả đường thủy lẫn đường

bộ sang Campuchia và Lào, có đường bộ nối liền với Biên Hòa, Bà Rịa và miền

Trung, lại nằm sát vùng trung tâm phì nhiêu nhất ở đồng bằng sông Cửu Long là

Mỹ Tho và Long Hồ (Vĩnh Long, Bến Tre), Sài Gòn – Bến Nghé thông thương

với sông Tiền, sông Hậu dễ dàng nhờ hệ thống kinh đào được mở mang như

kinh Bảo Định, kinh Ruột Ngựa, rạch mới sông Tranh, rạch Vàm Bến Nghé…

Các loại ghe thuyền từ Tiền Giang lên theo đường sông Rạch Cát – Chợ Đệm –

Bến Lức – Thủ Thừa – Vàm Cỏ Tây – Mỹ Tho. Nằm ở vị trí ưu việt như thế,

nên Sài Gòn đã nhanh chóng trở thành nơi buôn bán sầm uất, một trung tâm

buôn bán quan trọng nhất Nam Bộ từ đó về sau.

Ngoài ra, do sự phát triển của ngành hàng hải trên thế giới từ những năm

giữa thế kỉ XVIII trở đi, Sài Gòn là hải cảng chính ở vùng Đông Nam Bộ mà các

thương thuyền nước ngoài cập bến, đến đây Sài Gòn – Gia Định trở thành trung

tâm thương mãi sầm uất, là nơi tập trung hàng hải và ngoại thương.

134

Về mặt vị trí chiến lược thì Sài Gòn tương tự như Phố Hiến, Đà Nẵng, Cù

Lao Phố, Hà Tiên vốn là những thương cảng cửa sông. Nhưng Sài Gòn - Gia

Định không chỉ đơn thuần là thương cảng cửa sông – ven biển với những hoạt

động thương nghiệp đơn thuần, mà cái độc đáo của nó là “ luôn vươn mình nắm

lấy chức năng chủ yếu là ngoại thương, là nơi giao lưu kinh tế trong và ngoài

nước – một thương cảng ngoại thương” [95, tr.40].

Có thể nói rằng từ giữa thế kỉ XVIII, Sài Gòn – Gia Định đã có những

bước chuyển biến quan trọng, để rồi sau sự kiện Cù Lao Phố bị tàn phá, Sài Gòn

– Gia Định nghiễm nhiên trở thành một trung tâm thương mãi sầm uất.

Nhà cửa, phố xá, chùa chiền, chợ quán mọc lên liên tiếp, báo hiệu cuộc

sống của người dân thị tứ sớm được hình thành và phát triển ở vùng Sài Gòn –

Gia Định. Không đâu nhiều phố chợ như vùng Sài Gòn – Bến Nghé, các chợ lại

nằm không xa nhau. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cho biết

có rất nhiều chợ ở vùng này như: chợ Bến Thành, chợ Bến Nghé, chợ Cây Da

Còm, chợ Thị Nghè, chợ Điều Khiển, chợ Tân Kiểng, chợ Bình An, phố chợ Sài

Gòn (trung tâm Chợ Lớn ngày nay), chợ Bến Sỏi…

Phố chợ ở Sài Gòn - Gia Định, đã tụ tập người của mọi miền đất nước

cũng như thương nhân của nhiều nước trên thế giới. Trong bài phú cổ Gia Định

phong cảnh vịnh, cách đây hơn 200 năm có viết:

“Đồn tiếng Nam Châu thì đã phải

Ghe đen mũi, ghe vàng mũi vào ra coi là nước

Người phương Đông qua lại bán buôn

Tàu xanh mang, tàu đỏ mang, hàng hóa chất ngất trời” [137].

Thời bấy giờ, ghe các tỉnh, (mỗi tỉnh mũi ghe có màu sắc riêng), tàu bè

các nước Tây, Tàu, Nhật, Thái, Java đều tới Gia Định buôn bán. Ở Sài Gòn –

Bến Nghé lúc bấy giờ có đủ cả, nào là “trọ trẹ quân Huế kéo neo hò hụi…lũ tây

dương da trắng bạc…” cho đến “quân Ô Rồ (Java) mặt đen thui…” [137].

135

Ghe thuyền từ các dòng sông mang đến cho Sài Gòn – Gia Định đủ thứ

sản vật, nơi đây trở thành trung tâm thu hút hàng hóa từ các nơi đổ về, làm cho

nhịp độ buôn bán, trao đổi sản vật, hàng hóa trong nước tăng lên không ngừng.

Các mặt hàng như kì nam, trầm hương, nhục quế, ốc hương, cá mực, gỗ mun thì

ở các hạt chở đến, còn các mặt hàng khác thì ở đây cũng có, nơi khác đều có

cũng chuyển đến tấp nập, vì thế Trịnh Hoài Đức đã nhận xét “Gia Định là nơi

đô hội, tụ họp thương thuyền của các nước, cho nên trăm thứ hàng hóa đều đổ

dồn về đây” [25, tr.202]. Người ta còn tìm thấy ở chợ Sài Gòn và nhiều chợ

khác trên vùng đất Sài Gòn – Gia Định những mặt hàng bày bán như: gấm,

đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu, sách vở, thuốc thang, trà bột…những hàng hóa

ấy ở mọi miền đất nước, Nam lẫn Bắc đều theo đường sông, đường biển chở

vào, không món nào là không có.

Đặc biệt, lúa gạo là món hàng phổ biến và quan trọng ở Sài Gòn – Gia

Định. Lúa gạo ở Đồng Nai – Cửu Long chở về Sài Gòn bằng đường sông và từ

đây lúa gạo được bán ra Thuận Hóa, các vùng hải đảo xa xôi cũng như bán cho

thương nhân nước ngoài. Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn cho biết: “tại phủ

Gia Định lúa thóc không biết bao nhiêu mà kể, các khách buôn người Tàu

thường tới những nơi ấy mua bán đã quen thuộc, ai cũng tấm tắc khen ngợi”

[62, tr.71].

Ngoài lúa gạo thì đường cũng là mặt hàng được đưa về Sài Gòn và sau đó

nó được bán đi nơi khác, theo Gaudard thì đường ở Đồng Nai – Gia Định là mặt

hàng phong phú: “đường rất tốt, nhiều và rẻ, mà không có nơi nào ở vùng Ấn

Độ sánh bằng” [95, tr.42]. Vào cuối thế kỉ XVIII trở đi, tàu buôn phương Tây

đã tìm đến Sài Gòn để thu mua gạo, cau, trầu, thuốc lá, quế, lụa, vải…nhất là

đường, vì đường đem lại cho giới thương nhân nước ngoài một món lợi nhuận

cao.

Như vậy, trong hai thế kỉ XVII- XVIII thông qua hai cảng thị Cù Lao Phố

và Sài Gòn – Bến Nghé, Đông Nam Bộ đã trở thành một trong những nơi thông

136

thương của Đàng Trong với thế giới, nơi đây đã góp phần làm cho Đàng Trong

hội nhập vào con đường giao thương quốc tế thời bấy giờ. Vì thế chúng ta có thể

nói rằng: Đông Nam Bộ là là cửa ngõ thông thương của Nam Bộ, của Đàng

Trong với nước ngoài trong thế kỉ XVII – XVIII.

3.5. Đông Nam Bộ là nơi hội nhập của cộng đồng các dân tộc trên vùng đất

phương Nam

Do đặc điểm địa lý và thiên nhiên thuận lợi nên từ nhiều thế kỉ trước Đông

Nam Bộ được xem là mảnh đất lành, thu hút nhiều dân tộc đến cư trú. Ngay từ

những ngày đầu mới khai phá nơi đây đã là nơi tụ hội cư dân ở nhiều địa

phương trong cả nước, bao gồm nhiều tộc người, nhiều nhóm cư dân, nhiều tín

ngưỡng và tôn giáo khác nhau, nhiều sắc thái văn hóa…đến từ nhiều vùng miền

trong cả nước, thậm chí từ nhiều nước. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh

Hoài Đức viết: “Vùng Gia Định nước Việt ta đất rộng, thực vật phong phú,

không lo đói rét… do người từ bốn phương tụ lại nên mỗi nhà đều có riêng

phong tục” [25, tr.179-180]. Người đến vùng đất mới này trong buổi ban đầu ấy

gồm nhiều thành phần như: những người có vật lực, nông dân nghèo đói vì

chiến tranh, vì mất mùa, mất đất, thợ thủ công bị phá sản, thương nhân tìm nơi

buôn bán, binh lính đồn trú, binh lính đào ngũ, tội phạm trốn tránh truy nã, tù

nhân bị lưu đày, thành phần bất mãn với chế độ phong kiến và cả những kẻ du

đảng… Nói chung các “tứ chiếng” của Đông Nam Bộ có ngoại diên rất rộng

[14, tr.255-256].

Một tứ chiếng khác nữa của Đông Nam Bộ mà Trịnh Hoài Đức gọi là “ tứ

phương tạp xứ”, đó là không chỉ người Việt quy tụ mà còn có người từ nhiều

nước khác đến. Về mặt địa lý, “Đông Nam Bộ nằm trên một ngã tư quốc tế, các

con đường hàng hải thế giới đều không xa, nếu lấy bán kính khoảng 2500km, thì

Đông Nam Bộ trở thành trung tâm điểm của khu vực Đông Nam Á” [14, tr.256].

Trong Gia Định thành thông chí,Trịnh Hoài Đức cho biết: Gia Định ở về phía

nam nước Việt, khi mới khai thác, thì có lưu dân nước ta cùng người Đường (tục

137

gọi người nhà Đại Thanh là Đường nhân, cũng như người dân tộc tứ di gọi

người Trung Quốc là Hán nhân, người Hán đây không phải là Lưu Hán, người

Đường đây không phải là Lý Đường. Sách Quảng Đông tự nhận mình là người

Đường của đời Đường Ngu chẳng qua chỉ là lời quá khoa trương). Người Tây

Dương (các nước như Phú Lãng Sa, Hồng Mao, Mã Cao, đều gọi là Tây

Dương) Cao Miên, Đồ Bà (người Sơn man, ở núi đảo theo đạo Bái Nhật (lạy

mặt trời) ở trong 36 cửa bể Mãn Lạt Gia, đều gọi là Đồ Bà), những người các

nước ấy đến sinh sống chung nhau rất đông mà y phục đồ dùng đều theo kiểu

của dân tộc họ [25, tr.181]. Chính vì thế mà hai huyện Bình Dương, Tân Long

dân cư trù mật, chợ phố chen chúc liền nhau, rường nhà máy ngói liền nhau.

Nhiều người thạo tiếng nói Phước Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Nam Hải,

Tây Dương và Xiêm La. Tàu hải dương đến buôn bán qua lại cột buồm nối liền

nhau, hàng hóa tấp nập, trở thành nơi đô hội to lớn của Gia Định, cả nước

không đâu sánh bằng [14, tr.257], [25, tr.188].

Hơn nửa thế kỉ trước khi Gia Định hình thành, lưu dân người Việt đến đây

không phải sống đơn độc một mình mặc dù nơi đây là một vùng “toàn rừng rậm

mấy nghìn dặm”. Vùng rừng rậm hoang vu này, là địa bàn cư trú của nhiều

nhóm dân tộc thiểu số mà người Việt gọi chung là người “Man” theo tiếng Hán

Việt hay nôm na là người “Mọi.” Đó là các dân tộc thiểu số người Mạ, người

Stiêng, người Mnông, Người Cơho, người Churu…Trong các nhóm này, quan

trọng hơn hết là người Mạ ở vùng Mô Xoài - Bà Rịa, người Stiêng ở vùng Biên

Hòa, Bình Dương.

Như trên đã nói, người Khơme có mặt trên vùng đất Nam Bộ từ thế kỉ

VII, sau khi Chân Lạp tiến chiếm Phù Nam, nhưng số lượng không nhiều, chỉ là

những nhóm nhỏ. Đến thế kỉ XIII, mật độ dân cư Campuchia di cư xuống ngày

càng dày đặc do sự xâm lược của Xiêm La, họ sống từng nhóm nhỏ, rải rác trên

các giồng cao nhưng tập trung chủ yếu ở Tây Nam Bộ và một số ít ở Đông Nam

Bộ (vùng núi Bà Đen). Hoạt động kinh tế chủ yếu của họ là nông nghiệp, tôn

138

giáo chính là Phật giáo Theravada nhưng vẫn còn mang yếu tố tàn dư của Bà La

Môn giáo và lớp tín ngưỡng truyền thống [42, tr.106, 303].

Trong số những người nước ngoài đến Đông Nam Bộ sớm nhất và đông

nhất, phải kể đến người Trung Hoa mà con cháu của họ hôm nay đã hội nhập

vào cộng đồng người Việt, trở thành dân tộc Hoa và là công dân Việt Nam. Đó

là những người ở duyên hải phía nam Trung Hoa, họ bao gồm nông dân, thợ thủ

công, thương nhân, quan lại, binh lính…Họ đến Đông Nam Bộ với nhiều lý do,

mà chủ yếu là tìm đất sống, vì không chịu thuần phục chính quyền đương thời.

Những di dân người Hoa không chỉ góp phần tích cực cho sự hình thành và phát

triển Gia Định xưa mà còn góp phần vào việc định hình “người Đông Nam Bộ”

[14, tr.257]. Người Hoa mỗi khi tới đâu, theo thói quen thường lập thành những

bang khép kín như “những quốc gia trong một quốc gia” ở nước đến trú ngụ.

Song khi Nguyễn Hữu Cảnh đưa lưu dân Việt Nam vào khuôn khổ chung, thì

đồng thời cũng đặt cộng đồng người Hoa vào khung cảnh xã thôn của ta: “từ đó

con cháu người Tàu ở nơi trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn

thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch” [25, tr.112]. Ta biết rằng

ở bên Trung Quốc chỉ có lý chứ không có xã, và lý thì tổ chức khác xa với xã

thôn của người Việt. Người Hoa được ghép vào một xã, một cơ cấu đặc thù của

người Việt, rồi sống theo pháp chế của chính quyền người Việt, chỉ sang đến đời

thứ hai là đã trở thành dân Việt. Nhiều người Minh Hương (như Trịnh Hoài

Đức, Lê Quang Định hay Phan Thanh Giản) đã được học hành, thi cử, làm quan

tại triều mà không hề có sự phân biệt đối xử [22, tr.60].

Ngoài các cư dân trên, vùng Đông Nam Bộ còn có cư dân người Chăm.

Đây là một bộ phận cư dân tách ra từ cộng đồng tộc gốc của họ ở Ninh Thuận,

Bình Thuận do những biến động lịch sử của vương quốc Champa, một số người

đã di cư đến Campuchia. Theo tài liệu lịch sử thì vào giữa thế kỉ XVIII, Chân

Lạp với triều vua Nặc Nguyên (1750 – 1757) đã thông sứ với chúa Trịnh Doanh

để lập mưu đánh Đàng Trong, điều này khiến chúa Võ Vương phải cử binh sang

139

đánh. Quân chúa Nguyễn thắng lợi, Nguyễn Cư Trinh cho chiêu dụ người Chăm

ở Chân Lạp để thêm thanh thế, còn người Chăm thì sẵn căm phẫn vua Chân Lạp

ngược đãi nên đã theo về với chúa Nguyễn. Năm 1755 thống suất Thiện Chánh

đem quân về Mỹ Tho và cho nhóm người Chăm này về đóng ở Bình Thạnh. Dọc

đường quân Chăm bị quân Chân Lạp đánh úp phải xếp lại làm lũy để chống đỡ

và cấp báo, quân của Thiện Chánh do địa thế sình lầy, hiểm trở không tiếp ứng

kịp, Nguyễn Cư Trinh phải đem quân đến cứu, giải nguy cho hơn 5000 người

Chăm, sau đó đưa về đóng ở chân núi Bà Đen (Tây Ninh). Sự kiện này được Lê

Quý Đôn ghi lại như sau: Ất Dậu, năm thứ 16, Thiện Chính Hầu rút về Mỹ Tho

rồi sai lính Côn Man ở Thuận Thành đem xe cộ từ xứ Kha- Khâm (vùng Cà Tum

tỉnh Tây Ninh) xuống đóng ở Bình Thanh (tỉnh Long An). Đinh tráng hơn một

vạn người vừa đến xứ Vô tà ân thì bị cả vạn người Cao Miên đến đuổi. Bọn Côn

Man đi đường mỏi mệt, bèn đem hết xe cộ lại làm lũy để chống cự. Nguyễn Cư

Trinh tự đốc suất năm đội quân đi gấp rút đến cứu viện bọn Côn Man. Người

nước Cao Miên không dám đánh. (Nguyễn Cư Trinh) bèn đón hơn ba vạn trai

gái người Côn Man đến trú ngụ dưới chân núi Chiêng – bà – đinh (núi Bà Đen)

[23, tr.88].

Như vậy, trên vùng đất Đông Nam Bộ buổi đầu, các cư dân Việt đã cùng

chung sống xen kẽ với các dân tộc ít người, họ đã có sự hòa hợp, thân ái và chia

sẻ với nhau, họ đã cùng nhau chung lưng đấu cật, đẩy mạnh quá trình khai phá

vùng Đông Nam Bộ này. Mặc dù dân cư ở đây là dân tứ chiếng, nhưng chính

nhu cầu của cuộc sống tại vùng đất mới mà các cộng đồng người ở đây đã gắn

bó mật thiết với nhau, chấp nhận cả những dị biệt về văn hóa, từ đó xây dựng

một bản sắc văn hóa Đông Nam Bộ. Diễn biến ấy như một quá trình thích nghi

với môi trường, quá trình con người học hỏi, hình thành thói quen, xây dựng lối

sống hòa hợp với nhau [14, tr.251].

Trong quá trình đó, mỗi dân tộc có mặt ở Đông Nam Bộ đều có một sắc

thái văn hóa riêng, và đều cống hiến vào nền văn hóa chung phong phú và đa

140

dạng của khu vực. Sự hỗn hợp dân cư thuộc nhiều nguồn gốc địa phương, nhiều

tôn giáo, nhiều tín ngưỡng khác biệt, nhiều trình độ phát triển về mặt xã hội

trong nhiều thế kỉ đã không hề là yếu tố cản trở sự đoàn kết gắn bó giữa các tộc

người cùng chung sống trên địa bàn Đông Nam Bộ. Có thể nói, văn hóa vùng

Đông Nam Bộ là một pha trộn đặc biệt giữa nhiều nét văn hóa cổ xưa cùng với

văn hóa bản xứ của người Việt. Ngoài ảnh hưởng lớn nhất của văn hóa Trung

Hoa, một phần của Ấn Độ, văn hóa của người Việt, nơi đây còn chịu ảnh hưởng

của văn hóa riêng biệt của một bộ phận dân tộc thiểu số là người bản xứ.

Sự giao tiếp giữa các tộc người và sự tiếp cận những hệ thống văn hóa

khác nhau ở đây đã tạo nên những giao thoa về văn hóa và tiếng nói. Tiếng Việt

dần trở thành tiếng phổ thông của các dân tộc khác. Hiện tượng song ngữ hay đa

ngữ là bình thường ở những vùng cộng cư Việt – Khơme, Việt – Chăm, Việt –

Khơme – Hoa. Trong từ ngữ các dân tộc ít người, ngày càng chen nhiều từ tiếng

Việt. Ngược lại, tiếng Việt cũng ngày càng phong phú trước nhu cầu phản ánh

thiên nhiên và hoạt động thực tiễn mới mẻ, trước sự quy tụ nhiều dạng tiếng nói

của những người từ nhiều địa phương khác nhau tới và trước hiện tượng vay

mượn, đóng góp tiếng của dân tộc ít người vào tiếng Việt [8, tr.40]. Trong Gia

Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cũng có đề cập đến vấn đề này “Người ở

đây nói tiếng địa phương thường hay pha tiếng Tàu, tiếng Cao Miên, người

nghe tập quen lần rồi tự biết, mà không để ý phân biệt chỗ khác lạ được một

cách rõ ràng” [25, tr.186]. Trong ngôn ngữ ở miền Nam ngày nay, vẫn còn

nhiều từ có nguồn gốc từ tiếng Mạ như: cẩm lai, lòng tong (cá), đau xóc, chết

giấc, cà nanh, dầu long, qua, bậu... Địa danh Đồng Nai cũng bắt nguồn từ tiếng

Mạ “Đạ Đờng” (Sông Đồng) nơi gần nguồn từ cao nguyên Lâm Đồng chảy

xuống vùng đồng bằng với cánh đồng nhiều nai ở gần Biên Hòa (Hố Nai) [133]

hay một số từ vay mượn từ dân tộc Khơme, Hoa trong quá trình giao tiếp như

“cà rá, cà ràng, cà ròn, xà rong, lục, thốt nốt, len trâu, bò hóc, đi ênh…; chế,

hia, tía, số dách, chào quẩy, xập xám, bạc xỉu, miệt, mai, báo…” [110, tr.21]

141

“bò bía, ghe, há cảo, sủi cảo, hên xui, ké, lẩu, tiệm, thối, xào, xúi, xỉu, xuồng”

[69, tr.343 - 347].

Không chỉ có sự giao thoa, tiếp biến về ngôn ngữ, cư dân các dân tộc ở

đây còn có sự giao thoa về nông cụ, về trang phục, về tín ngưỡng…ví dụ như

người Việt đã tiếp thu và cải tiến những nông cụ của người Khơme như chiếc

“phảng”, chiếc nóp, cái cà ràng…; chiếc áo bà ba trở nên phổ biến đối với người

Việt và các dân tộc khác. Cả người Việt, người Hoa, người Khơme đều ăn tết

Nguyên Đán và tết Chol Chơnam – Thơmây. Truyện Thạch Sanh – Lý Thông

của người Việt và chuyện Chao Sanh – Chao Thông của người Khơme, chuyện

Tấm Cám của người Việt và chuyện Niêng Môrơnắc Mêđa của người Khơme

đều có cùng một nội dung. Những nhân vật Đơn Hùng Tín, La Thông, Tiết

Nhơn Quí trong các tuồng Tàu, truyện Tàu cũng là những nhân vật quen thuộc

trong các tuồng cải lương, nói thơ Nam Bộ …

Không kể hết sự giao lưu văn hóa Việt với văn hóa các dân tộc khác trong

vùng trên tất cả các lĩnh vực: cái ăn, cái làm, cái mặc, cái ở, việc đi lại, học

hành, vui chơi, giải trí, giữ gìn sức khỏe…Trong sự giao lưu đó, văn hóa Việt

trong vùng được mở rộng, kế thừa, chọn lọc và phát triển.

Tiểu kết chương 3

Trong buổi đầu mở đất phương Nam, do có vị trí địa lý và điều kiện tự

nhiên vô cùng thuận lợi nên Đông Nam Bộ đã trở thành nơi dừng chân đầu tiên

của lưu dân Việt. Để có thể tồn tại trên vùng đất hoang du đầy thú dữ này, các

lưu dân Việt thường chọn những vùng đất cao ven núi, ven sông, ven biển, các

nơi đóng quân, trung tâm hành chính để định cư, vì những nơi này đảm bảo

những điều kiện sinh hoạt cho con người cũng như thuận tiện cho việc khai phá.

Cư dân Việt vào Đông Nam Bộ ngày một đông, sau một thời gian định cư ở đây,

họ bắt đầu chuyển lên phía bắc hoặc xuống phía tây, khi thấy những nơi đó có

điều kiện làm ăn dễ dàng hơn. Như thế, có thể nói: Đông Nam Bộ lúc này không

142

chỉ là nơi dừng chân đầu tiên mà còn là nơi trung chuyển lưu dân trong quá trình

mở đất phương Nam.

Không chỉ biết khai khẩn đất hoang làm nông nghiệp, khai thác lâm hải

sản, làm các nghề thủ công…các cư dân trên vùng đất Đông Nam Bộ vào thế kỉ

XVII – XVIII còn biết buôn bán, làm thương nghiệp. Dân số ngày một đông thì

thương nghiệp cũng ngày càng phát triển, các chợ mọc lên rất nhiều ở cả Đồng

Nai lẫn Sài Gòn, nhưng quan trọng hơn cả là cảng thị Cù Lao Phố và Sài Gòn –

Gia Định. Những nơi này không chỉ buôn bán với các khách hàng trong nước,

mà còn là nơi trao đổi hàng hóa với thương nhân nước ngoài. Hàng hóa trong cả

khu vực tụ họp về hai nơi này, rồi sau đó được xuất đi các nước và ngược lại,

hàng hóa của các nước được nhập vào đây, sau đó được bán tại đây hoặc mang

đi bán ở các nơi trong nước. Như vậy, Đông Nam Bộ trong giai đoạn này còn có

vai trò là cửa ngõ thông thương của Nam Bộ và cả Đàng Trong đối với nước

ngoài.

Trong buổi đầu khai phá, các lưu dân Việt đã cùng với những người dân

bản địa, người Khơme, người Hoa và người Chăm sinh sống hòa hợp, thân ái,

chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau, dần dần hình thành một cộng đồng xã hội ổn định.

Trong quá sinh sống đó, các tộc người ở đây đã góp phần vào việc định hình

một nền văn hóa chung cho cả khu vực, cũng như tạo ra sự giao thoa về tiếng

nói và văn hóa, làm cho văn hóa Việt ngày càng phong phú và phát triển. Với sự

cần cù lao động, bằng mồ hôi và nước mắt của mình cộng đồng xã hội mới hình

thành ấy đã từng bước biến vùng đất hoang vu, đầy thú dữ thành những vùng

nông nghiệp trù phú, làng xóm, thị tứ, thị trấn sầm uất làm cơ sở để chúa

Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, lập nên phủ Gia

Định. Từ đó, chính thức xác lập và thực thi chủ quyền của chúa Nguyễn đối với

vùng đất Đông Nam Bộ cả trên lãnh thổ lẫn lãnh hải. Như vậy, chúng ta có thể

khẳng định: ngoài những vai trò như trên đã nêu, Đông Nam Bộ còn là nơi hội

143

nhập của cộng đồng các dân tộc và cũng là điểm xuất phát của việc xác lập chủ

quyền lãnh thổ và lãnh hải của Đại Việt trên vùng đất phương Nam.

144

KẾT LUẬN

Trong tiến trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân

tộc, người Việt Nam không những đã kiên cường bất khuất đấu tranh chống

ngoại xâm, giữ yên bờ cõi, anh dũng chống chọi với thiên tai, cần cù, thông

minh trong lao động sản xuất, xây dựng, phát triển đất nước mà còn hiên ngang

tiến về phương Nam, khai hoang, mở mang bờ cõi. Hơn 300 năm, người Việt đã

biến vùng đất Nam Bộ từ chỗ hoang vắng, sình lầy trở thành một vùng đất đai

giàu có, trù phú trong đó Đông Nam Bộ nổi lên là một vùng kinh tế phát triển

năng động, ưu trội.

Đông Nam Bộ là vùng đất có địa hình tương đối bằng phẳng với vùng đồi

núi có nhiều khoáng sản, lâm sản quý; vùng đồng bằng tương đối màu mỡ phù

sa với các con sông lớn như sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Bé, sông Vàm

Cỏ…; dải đất ven biển và vùng biển là một ngư trường rộng lớn với nhiều hải

sản phong phú. Hơn nữa, thời tiết khí hậu ở đây rất ôn hòa một năm có hai mùa

rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, vùng này lại nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa

nên khí hậu mang tính chất cận xích đạo, ít bị thiên tai. Tất cả những điều này là

những điều kiện hết sức thuận lợi cho cuộc sống của con người cũng sản xuất

nông nghiệp.

Vùng Đông Nam Bộ thời xa xưa đã từng có dấu vết con người sinh sống,

thông qua các di chỉ khảo cổ học các nhà khoa học cho rằng những cư dân bản

địa này là cư dân thuộc dòng Austronesian - Nam Đảo, họ là tổ tiên trực tiếp của

người Mạ, Chơro, Stiêng ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên ngày nay.

Từ đầu công nguyên, vùng đất Đông Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói

chung thuộc về vương quốc Phù Nam và sau đó là vương quốc Chân Lạp. Chủ

nhân Phù Nam là người Malayo – Polynesian (Mã Lai- Đa Đảo). Từ thế kỉ III

đến thế kỉ VI, vương quốc Phù Nam trở thành đế chế hùng mạnh tiến hành chinh

phục và thu phục được nhiều thuộc quốc. Nhưng sau đó, Phù Nam trở nên suy

yếu do sự thay đổi về khí hậu cũng như sự chuyển biến trong các quan hệ bạn

145

hàng trên con đường thương mại. Lúc đó, một thuộc quốc của Phù Nam là Chân

Lạp (chủ nhân của Chân Lạp là người Khơme thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm Môn

– Khơme) đã đem quân tiến đánh Phù Nam và đến năm 640, Chân Lạp chiếm

hoàn toàn lãnh thổ của vương quốc Phù Nam và sáp nhập vùng đất này vào lãnh

thổ của mình. Tuy nhiên, do tác động của đợt biển tiến quy mô cục bộ Holocene

IV; do người Chân Lạp có thói quen sinh sống trên vùng đất cao; do chính

quyền Chân Lạp chưa đủ sức để khai phá và quản lý vùng đất ngập nước của

Phù Nam cũ. Hơn nữa, người Chân Lạp không có thế mạnh phát triển thương

nghiệp, hướng về biển như Phù Nam, hoạt động kinh tế chủ yếu của những cư

dân này là làm nông nghiệp trên vùng đất cao…Tất cả những điều đó đã làm cho

vùng đất thuộc vương quốc Phù Nam trở nên hoang hóa. Khi những cư dân Việt

đầu tiên đến vùng đất này (cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII), thì dấu chân của

những người Khơme trên vùng đất Đông Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói

chung còn rất thưa thớt, chỉ có một số ít người Khơme sinh sống biệt lập một số

khu vực cao ráo, nhỏ lẻ; toàn vùng đất Nam Bộ lúc bấy giờ rất hoang vắng,

quạnh hiu, đầy rẫy thú dữ.

Quá trình mở đất Đông Nam Bộ vào thế kỉ XVII, dưới thời các chúa

Nguyễn diễn ra trong bối cảnh trong nước và khu vực có nhiều yếu tố thuận lợi

nhưng cũng có nhiều biến động phức tạp.

Nhìn về phía Nam là một định hướng phát triển mang tính chất truyền

thống của nhiều vương triều Đại Việt, đó là một qúa trình liên tục của nhiều

triều đại phong kiến. Tuy nhiên, đến thời chúa Nguyễn, do sức ép của chiến

tranh Trịnh – Nguyễn, nó đã trở thành một nhu cầu bức thiết, sống còn và các

chúa Nguyễn đã tích cực thực hiện công cuộc mở đất này trong suốt thời gian

tồn tại của mình.

Mặt khác, tình hình khu vực chuyển biến theo chiều hướng có lợi cho

công cuộc mở đất Đông Nam Bộ của chúa Nguyễn, đó là sự suy yếu của Chân

Lạp, sự chiếm ưu thế của Đàng Trong trong mối quan hệ giữa Đàng Trong –

146

Chân Lạp và Xiêm La, sự tác động của luồng mậu dịch thương mại Biển Đông

càng làm cho quá trình mở đất Đông Nam Bộ diễn ra nhanh chóng và có hiệu

quả hơn.

Cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII, lưu dân người Việt đã có mặt ở vùng

Đông Nam Bộ, họ đã lập ra những làng mạc của người Việt đầu tiên trên đất

Chân Lạp, tạo cơ sở để đón những đợt di dân tiếp theo.

Làn sóng di dân của người Việt vào Đông Nam Bộ càng mạnh mẽ, nhất là

sau cuộc hôn nhân của vua Chân Lạp Chey Chetta II và công nương Ngọc Vạn.

Cuộc hôn nhân này đã giúp cho chúa Nguyễn thắt chặt quan hệ và tăng cường

ảnh của mình lên Chân Lạp. Việc mở trạm thu thuế ở Sài Gòn và đóng đồn trên

đất Chân Lạp vào năm 1623, là sự kiện kế tiếp có ý nghĩa trong công cuộc mở

đất Đông Nam Bộ. Các sở thuế này như chỗ đứng chân thứ hai của người Việt

tạo nên đầu cầu vững chắc cho chương trình di dân người Việt vào vùng đất

Đông Nam Bộ. Hai cuộc cuộc thiệp quân sự của chúa Nguyễn vào đất Chân Lạp

trong những năm 1658 và 1674 là những sự kiện tiếp theo có vai trò quan trọng

đối với quá trình mở đất Đông Nam Bộ. Với hai sự kiện này, chúa Nguyễn đã

dần dần trở thành lực lượng thiết lập trật tự ở Chân Lạp mỗi khi có nội biến.

Điều này có nghĩa: chúa Nguyễn có thể can thiệp sâu sắc vào triều chính Chân

Lạp nhưng điều đó đã không xảy ra, chúa Nguyễn chỉ yêu cầu Chân Lạp triều

cống và tạo điều kiện cho lưu dân người Việt và sau này còn có lực lượng người

Hoa tị nạn vào làm ăn sinh sống ở vùng đất của Chân Lạp.

Mùa xuân năm 1698, trên cơ sở lưu dân Việt ngày càng đông đúc, họ có

mặt trên khắp vùng Đông Nam Bộ. Bên cạnh đó là hệ thống chính quyền bán

chính thức của chúa Nguyễn đã được thiết lập ở đây như 2 trạm thuế thương

chính, đồn binh Tân Mĩ. Chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào

kinh lược xứ Đồng Nai. Nguyễn Hữu Cảnh tiến hành chia đất Đông Phố, lấy xứ

Đồng Nai làm huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày

nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định

147

ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội

thuyền thủy. Như vậy, đến đây công cuộc mở đất Đông Nam Bộ đã được hoàn

thành, chúa Nguyễn đã chính thức xác lập chủ quyền của mình trên vùng đất

này.

Trong công cuộc khai mở vùng Đông Nam Bộ, công lao to lớn nhất thuộc

về các cư dân Việt, Hoa, Khơme và các tộc người bản địa, họ đóng vai trò chủ

đạo. Bên cạnh đó không thể không nói đến công trạng của những vị công thần

khai quốc như công chúa Ngọc Vạn, tổng binh Trần Thượng Xuyên, thống suất

Nguyễn Hữu Cảnh và đặc biệt là tầm nhìn chiến lược cũng như tài năng của các

chúa Nguyễn như: Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Tần,

Nguyễn Phúc Trăn, Nguyễn Phúc Khoát…trong việc đưa ra các biện pháp để

Đại Việt có được vùng đất Đông Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung một

cách hòa bình, hợp pháp.

Mặc dù, công cuộc mở đất Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ diễn ra đồng

thời trong cùng một thời gian, nhưng biện pháp thì hoàn toàn khác nhau. Quá

trình mở đất Nam Trung Bộ, chính quyền chúa Nguyễn chủ yếu dùng sức mạnh

quân sự. Sau những thắng lợi quân sự, các chúa Nguyễn chiếm được các vùng

đất của Champa, và sau đó tiến hành đưa dân vào sinh sống trên các vùng đất

vừa chiếm được. Trong khi đó, chính sách ngoại giao được các chúa Nguyễn

chú trọng thực hiện trong công cuộc mở đất Đông Nam Bộ. Bằng những chính

sách ngoại giao khôn khéo, mềm dẻo, chính quyền các chúa Nguyễn đã tìm cách

can thiệp sâu vào nội bộ chính quyền Chân Lạp, tạo mọi điều kiện để cư dân

người Việt được vào sinh sống, khai phá trên vùng đất Đông Nam Bộ một cách

hợp pháp, không phải gặp sự ngăn chặn, chống đối nào.

Trong tiến trình mở đất phương Nam (thế kỉ XVII – XVIII), vùng đất

Đông Nam Bộ có vai trò hết sức quan trọng. Do có vị trí địa lý và điều kiện tự

nhiên hết sức thuận lợi nên Đông Nam Bộ đã trở thành nơi dừng chân đầu tiên

của lưu dân người Việt. Vùng đất đầu tiên mà người Việt dừng chân là xứ Mô

148

Xoài (Bà Rịa – Vũng Tàu), từ đây lưu dân người Việt lại theo đường thủy và cả

đường bộ ngược sông Đồng Nai tiến vào Đồng Nai, Biên Hòa, Sài Gòn. Khi số

người Việt vào Nam ngày càng đông thì họ ngược sông Sài Gòn lên Bình

Dương, Củ Chi, Tây Ninh và men theo sông Vàm Cỏ mở mang vùng Chợ Lớn,

Tân An. Đến những năm cuối thế kỷ XVII, Đông Nam Bộ trở thành tiền trạm để

di dân miền ngoài vào nghỉ chân, dò hỏi tình hình để quyết định đi lên phía bắc

hoặc xuôi xuống miền tây... Như vậy, có thể nói: Đông Nam Bộ là nơi trung

chuyển di dân trên con đường khai phá vùng đất Nam Bộ.

Vào thế kỉ XVII – XVIII, Đông Nam Bộ còn là điểm xuất phát của việc

xác lập chủ quyền trên lãnh thổ và lãnh hải của Đại Việt trên vùng đất phương

Nam. Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ bắt đầu bằng các cuộc di dân nhỏ lẻ của

các lưu dân người Việt, làn sóng di dân vào vùng đất này ngày càng mạnh mẽ

nhất là sau cuộc hôn nhân của Chey Chetta II với công chúa Ngọc Vạn. Cuộc

hôn nhân này được xem như tấm “hộ chiếu” để người Việt di cư vào Đông Nam

Bộ một cách hợp pháp. Tiếp theo là việc lập hai trạm thu thuế thương chính ở

Prey Kor và đưa quân đến đóng ở đây để bảo vệ lưu dân người Việt cũng như hỗ

trợ chính quyền Chân Lạp. Đến đây, chúa Nguyễn xem như đã thiết lập được

một chính quyền bán chính thức của mình trên vùng đất Đông Nam Bộ. Với việc

sắp đặt nền hành chánh của Nguyễn Hữu Cảnh tại vùng đất Đông Nam Bộ vào

năm 1698, khi ông được lệnh của chúa Nguyễn vào nam kinh lược xứ Đồng Nai

đã chính thức đánh dấu cột mốc quan trọng trong quá trình xác lập và thực thi

chủ quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất Đông Nam Bộ. Chúa Nguyễn không

chỉ xác lập chủ quyền trên đất liền, mà còn xác lập chủ quyền trên biển, chủ yếu

là vùng quần đảo Côn Đảo và thậm chí là quần đảo Trường Sa (vì từ năm 1976

đến 1982 quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Đồng Nai).

Cuối thế kỉ XVII, trên vùng đất Đông Nam Bộ còn xuất hiện thêm một

lớp cư dân mới – cư dân người Hoa. Với tư duy thương nghiệp, những cư dân

người Hoa này đã xây dựng nên Cù Lao Phố và từng bước phát triển nơi đây

149

thành trung tâm kinh tế của vùng cũng như là cửa ngõ thông thương của cả

Đàng Trong với nước ngoài. Trên cơ sở hai trạm thu thuế thương chính từ năm

1623, cảng thị Sài Gòn – Gia Định cũng phát triển mạnh mẽ, cạnh tranh với các

cảng thị khác trong vùng và đặc biệt sau khi Cù Lao Phố sụp đổ thì Sài Gòn –

Gia Định trở thành trung tâm kinh tế duy nhất của Nam Bộ giao thương với

nước ngoài. Như vậy, trong thế kỉ XVII – XVIII, Đông Nam Bộ còn có vai trò là

cửa ngõ thông thương của Nam Bộ, của Đàng Trong với nước ngoài.

Trên vùng đất Đông Nam Bộ buổi đầu, các lưu dân người Việt đã chung

sống xen kẽ với các dân tộc ít người. Để có thể tồn tại trong một môi trường

thiên nhiên đầy nguy hiểm, các tộc người ở đây đã sống hòa hợp, chia sẻ kinh

nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau. Việc hòa hợp này đã đưa đến hình thành một cộng

đồng xã hội ổn định, bền vững, đủ sức chinh phục vùng đất hoang vu, đầy thú

dữ này.

Trong qúa trình hình thành cộng đồng xã hội ổn định đó, mỗi dân tộc ở

đây đều cống hiến những nét đặc sắc của dân tộc mình vào nền văn hóa chung

nơi đây tạo nên một nền văn hóa hết sức phong phú và đa dạng. Sự giao tiếp của

các tộc người đã tạo nên sự giao thoa về tiếng nói và văn hóa. Tiếng Việt đã trở

thành tiếng phổ thông của các dân tộc khác. Trong từ ngữ của các dân tộc ít

người ngày càng chen nhiều tiếng Việt, ngược lại, trong tiếng Việt ngày càng

thêm phong phú do sự vay mượn một số từ trong ngôn ngữ của các dân tộc khác

như Hoa, Mạ, Khơme…Không chỉ có sự giao thoa, tiếp biến trong ngôn ngữ mà

còn có sự giao thoa giữa các dân tộc về nông cụ, tín ngưỡng, trang phục, ẩm

thực…Tất cả những điều đó, làm cho văn hóa Việt ngày càng phong phú, đa

dạng và phát triển.

Hiện nay, Đông Nam Bộ là vùng kinh tế phát triển năng động nhất cả

nước, tốc độ tăng trưởng luôn cao liên tục trong nhiều năm, đời sống vật chất và

tinh thần của người dân trong vùng không ngừng được nâng lên. Có được điều

này, không chỉ là do sự năng động, sáng tạo của Đảng; của các cấp chính quyền

150

từ trung ương đến địa phương; của người dân Đông Nam Bộ trong tình hình

mới, mà còn do sự kế thừa từ trong lịch sử truyền thống năng động, nhạy bén,

sáng tạo của buổi đầu mở đất mà cụ thể là vai trò quan trọng của “Đông Nam Bộ

trong tiến trình mở đất phương Nam (thế kỉ XVII – XVIII)”./.

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2002), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX, Nxb

Văn Hóa Thông tin.

2. Đào Duy Anh (2006), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa,

Huế.

3. Nguyễn Thị Kim Ánh (2005), Lịch sử - văn hóa vùng đất Bình Dương từ

đấu thế kỉ XVII – giữa thế kỉ XIX, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Việt Nam,

Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh.

4. John Barrow (2011), Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792 – 1793)

(Nguyễn Thừa Hỷ dịch), Nxb Thế giới.

5. Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.

6. Mai Sông Bé (2009), Đồng Nai từ mở cõi đến mở cửa, Nxb Đồng Nai.

7. Phan Xuân Biên (2004), Miền Đông Nam Bộ con người và văn hóa, Nxb Đại

Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh.

8. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân

đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học Xã hội.

9. Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

10. Ban chỉ đạo lễ kỉ niệm 300 năm vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai (1998), Biên

Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nxb Đồng Nai.

11. Báo Đại Đoàn Kết (2014), Tổ Quốc Nơi Đảo Xa, Nxb Văn Hóa – Văn Nghệ.

12. Báo Thanh Niên, số 107(6690), ngày 17 tháng 4 năm 2014.

13. Nguyễn Quyết Chiến (2012), “Mô Xoài trong quá trình xác lập lãnh thổ

Đàng Trong”, “Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay”.

14. Doãn Chính (2013), Lối sống và tư duy của cộng đồng người Việt vùng

Đông Nam Bộ trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

152

15. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), Nxb Khoa

học Xã hội.

16. Hồ Sơn Đài, Hoàng Sa - Trường Sa biển đảo quê hương, Nxb Đồng Nai.

17. Trần Bạch Đằng (1991), Địa chí tỉnh Sông Bé, Nxb Tổng hợp Sông Bé.

18. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn tỉnh Biên Hòa,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

19. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn tỉnh Gia Định,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Nguyễn Đình Đầu (1994), Tổng kết Nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ Lục Tỉnh,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

21. Nguyễn Đình Đầu (2013), Việt Nam quốc hiệu và cương vực qua các thời

đại, Nxb Trẻ.

22. Nguyễn Đình Đầu (1999), Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn

hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh, (in lần thứ ba), Nxb Trẻ.

23. Lê Quý Đôn (2008), Lê Quý Đôn tuyển tập (tập 2), Phủ Biên tạp lục (phần

1), (Nguyễn Khắc Thuần dịch, hiệu đính và chú thích), Nxb Giáo dục.

24. Lê Quý Đôn (2008), Lê Quý Đôn tuyển tập (tập 3), Phủ Biên tạp lục (Phần

2), (Nguyễn Khắc Thuần dịch, hiệu đính và chú thích), Nxb Giáo dục.

25. Trịnh Hoài Đức (2006), Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và

chú giải, Huỳnh Văn Tới hiệu đính, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.

26. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường ĐH KHXH&NV –

UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2012), Côn Đảo 150 năm đấu tranh xây

dựng và phát triển (1862 – 2012), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Chính

trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

27. Đại học Quốc gia Tp. HCM, Trường Đại học KHXH &NV, Trần Thị Mai

(chủ nhiệm đề tài) (2008), Vai trò của cộng đồng người Việt trong công

cuộc khai phá đồng bằng sông Cửu Long (thế kỉ XVII – XIX).

153

28. Vũ Minh Giang (2008), Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

29. Trần Văn Giàu (1987), Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh (tập 1), Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.

30. Nguyễn Thị Hậu (2009), “Nguyễn Hoàng và bước đầu tiến vào vùng Nam

Trung Bộ”, Nam Bộ Đất và Người (tập VII), trang 159 – 179.

31. Như hiên Nguyễn Ngọc Hiền (1997), Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh với

công cuộc khai sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỉ XVII, Nxb Văn học.

32. Nguyễn Hữu Hiếu (2003), Các Chúa Nguyễn và các giai thoại mở đất

phương Nam, Nxb Trẻ.

33. Nguyễn Hữu Hiếu (2012), “Từ cuộc hôn nhân Ngọc Vạn – Chêy Chetta II

đến sự kiện Mô Xoài”, “Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa - Vũng Tàu ngày

nay”, Kỷ yếu hội thảo khoa học.

34. Lê Huỳnh Hoa, bài giảng chuyên đề: “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ”.

35. Lê Huỳnh Hoa (2013), đề tài khoa học cấp bộ: Chuyên đề “Những vấn đề

lịch sử cần bổ sung, cập nhật cho chuyên đề “Lịch sử khai phá vùng đất

Nam Bộ từ thế kỉ XVII đến trước Cách mạng tháng Tám 1945”.

36. Lê Huỳnh Hoa (2008), “Chính sách giao thương của chúa Nguyễn ở Đàng

Trong, cơ sở hội nhập và phát triển của Đại Việt thế kỉ 17 -18”, Tuyển tập

báo cáo khoa học “hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3 năm 2008”,

đĩa CD.

37. Nguyễn Thị Huê (2007), Giao thương Đàng Trong với các nước trên thế

giới (thế kỉ XVII – XVIII), Luận văn thạc sĩ Lịch sử Việt Nam, trường

ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh.

38. Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến (2006),

Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), Nxb Giáo dục.

39. Đoàn Thị Hương, Hồ Hữu Nhựt (1998), Lược sử 300 năm Sài Gòn – Thành

phố Hồ Chí Minh (1698 – 1998), Nxb Trẻ.

154

40. Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Đảng Bộ miền Đông Nam Bộ (2003),

Lịch sử Đảng Bộ miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống thực

dân Pháp và đế quốc Mĩ (1945 – 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

41. Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2008), Văn Hóa Óc Eo và vương quốc Phù

Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo

(1944 – 2004), Nxb Thế giới.

42. Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2009), Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam

Bộ đến cuối thế kỉ XIX, (Kỷ yếu hội thảo khoa học, Thành phố Hồ Chí

Minh ngày 4-5 tháng 4 năm 2006), Nxb Thế giới.

43. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2009), Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam

Bộ thời kì cận đại, (Kỷ yếu hội thảo khoa học, Cần Thơ ngày 4 tháng 3

năm 2008), Nxb Thế giới, Hà Nội.

44. Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam Sử Lược, Nxb Văn hóa Thông tin.

45. Nguyễn Văn Kim (2011), Việt Nam trong thế giới Đông Á – Một cách tiếp

cận liên ngành và khu vực học, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật,

Hà Nội.

46. Phan Khoang (2001), Việt Sử xứ Đàng Trong, Nxb Văn Học, Hà Nội.

47. Kỷ yếu Hội thảo (2012), “Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa - Vũng Tàu

ngày nay”.

48. Ngô Sĩ Liên (2011), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Thời Đại.

49. Vương Liêm (2005), Về vùng đất cổ miền Đông Nam Bộ, Nxb Lao động.

50. Nguyễn Việt Long (2013), Lẽ Phải - Luật quốc tế và chủ quyền trên hai

quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa, Nxb Trẻ.

51. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

52. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỉ XVII,

XVIII, XIX, Nxb Khoa học Xã hội.

155

53. Lương Văn Lựu (1972), Biên Hòa sử lược toàn biên (Quyển I), tác giả

xuất bản.

54. Phạm Đức Mạnh (1994), “Tiền sử Đông Nam Bộ, một thế kỉ khám phá và

thành quả”, Xưa và Nay, (6) trang 12 – 19.

55. Thái Doãn Mười (2001), Địa chí Đồng Nai (tập 4), Nxb Tổng hợp

Đồng Nai.

56. Sơn Nam (2007), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ.

57. Sơn Nam (1984), Đất Gia Định xưa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

58. Sơn Nam (1992), Bến Nghé xưa, Nxb Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

59. Sơn Nam (1998), “Cù Lao Phố cảng biển đầu tiên ở Nam Bộ”, Xưa và Nay

(52B), trang 10-11.

60. Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu, Lê Minh Nghĩa, Từ Đặng Minh Thu, Vũ

Quang Việt (2009), Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam, Nxb Trẻ.

61. Trịnh Nhu (2008), Lịch sử biên niên Xứ Ủy Nam Bộ và Trung Ương Cục

Miền Nam 1954 -1975, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

62. Trần Thị Nhung (2011), Lịch sử vùng đất Nam Bộ một số kết quả nghiên

cứu, Nxb Khoa học Xã hội.

63. Đỗ Quỳnh Nga (2011), “Chúa Nguyễn với công cuộc mở đất Đông Nam Bộ

thế kỉ XVII”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (5), trang 14 – 23.

64. Đỗ Quỳnh Nga (2013), Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ thời chúa Nguyễn,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

65. Đỗ Bá Nghiệp (2001), Địa chí Đồng Nai (tập 3), Nxb Tổng hợp Đồng Nai.

66. Nguyễn Quang Ngọc (2012), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục.

67. Lương Ninh (2006), Vương quốc Chămpa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

68. Lương Ninh (2009), Vương quốc Phù Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

69. Nhiều tác giả (2002), Nam Bộ xưa và nay, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,

Thành Phố Hồ Chí Minh.

156

70. Nhiều tác giả (2002), Miền Đông Nam Bộ lịch sử và phát triển, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

71. Ngô Minh Oanh (2008), “Nhìn lại hệ thống đối sách của các chúa Nguyễn

đối với Chân Lạp và Xiêm trong qúa trình khai phá, xác lập chủ quyền

của vùng đất Nam Bộ thế kỉ XVI – XVIII”, Kỷ yếu hội thảo “Chúa

Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam thế kỉ XVI – XIX”,

trang 176 - 182.

72. Ngô Minh Oanh (2011), “Góp thêm một hướng tiếp cận phương pháp luận

nghiên cứu vùng đất Nam Bộ”, Nam Bộ Đất và Người (tập VIII), trang

20 – 28.

73. Đinh Kim Phúc (2012), Hoàng Sa – Trường Sa: luận cứ và sự kiện, Nxb

Thời đại, Hà Nội.

74. Thạch Phương, Lưu Quang Tuyến (1989), Địa chí Long An, Nxb Long An –

Nxb Khoa Học Xã Hội.

75. Chu Đạt Quan (2011), Chân Lạp phong thổ ký, Nxb Thế giới.

76. Nguyễn Phan Quang (1998), Việt Nam cận đại những sử liệu mới (tập 2),

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

77. Trương Hữu Quýnh (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1), Nxb

Giáo dục.

78. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục (tập 1), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

79. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam nhất thống chí (tập 2), Nxb

Lao động.

80. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục (tập 3), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

81. Thích Đại Sán, (1963), Hải Ngoại kỷ sự, Viện đại học Huế.

82. Võ Văn Sen (2002). Nam Bộ Đất và Người (tập I), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh.

157

83. Võ Văn Sen (2004), Nam Bộ Đất và Người (tập II), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh.

84. Võ Văn Sen (2005), Nam Bộ Đất và Người (tập III), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh.

85. Võ Văn Sen (2006), Nam Bộ Đất và Người (tập IV), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh.

86. Võ Văn Sen (2007), Nam Bộ Đất và Người (tập V), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh.

87. Võ Văn Sen (2008), Nam Bộ Đất và Người (tập VI), Nxb Tổng hợp Thành

phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

88. Võ Văn Sen (2009), Nam Bộ Đất và Người (tập VII), Nxb Tổng hợp thành

phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

89. Võ Văn Sen (2011), Nam Bộ Đất và Người (tậpVIII), Nxb Đại học Quốc gia

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

90. Võ Văn Sen (2013), Nam Bộ Đất và Người (tập IX), Nxb Đại học Quốc gia

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

91. Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư, pdf.

92. Phạm Văn Sơn (1959), Việt Sử Tân Biên (Quyển III).

93. Sở Văn Hóa Thông tin –TDTT An Giang, Hội khoa học Lịch sử Tp. Hồ Chí

Minh (1994), Thân thế và sự nghiệp của chưởng cơ – Lễ thành Hầu

Nguyễn Hữu Cảnh, Kỷ yếu hội thảo khoa học.

94. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ

XVII và XVIII, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

95. Phan Thành Tài (2002), “Sự hình thành và phát triển của trung tâm Sài Gòn

– Gia Định”, Nam Bộ Đất và Người (tập 1), trang 29 – 45.

96. Phan Đăng Thanh (2002), “Vài khía cạnh hành chính – Pháp lý trong quá

trình thu nhận và quản lý bước đầu vùng đất Gia Định”, Nam Bộ và Nam

Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII – XIX, trang 148 – 164.

158

97. Cao Tự Thanh (2007), 100 câu hỏi đáp về lịch sử Gia Định - Sài Gòn trước

1802, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh - Nxb Văn hóa Sài Gòn.

98. Nguyễn Quý Thao, Nguyễn Trần Cầu, Tập bản đồ địa lý THCS, Nxb Giáo

dục Việt Nam, Công ty cổ phần bản đồ và tranh ảnh giáo dục.

99. Đinh Văn Thiên, Nguyễn Trung Minh, Hoàng Thế Long (2010), Đông Nam

Bộ vùng đất và con người, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

100. Trịnh Ngọc Thiện (2009), Chính quyền Đại Việt và quá trình mở rộng lãnh

thổ về phía Nam trong các thế kỉ XI – XVIII, khóa luận tốt nghiệp,

trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh.

101. Ca Văn Thỉnh (1983), Hào khí Đồng Nai, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

102. Lê Thông (2004), Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam (tập 5), Nxb

Giáo dục.

103. Lê Thông (2008), Sách Giáo Khoa Địa lý 12, Nxb Giáo dục.

104. Nguyễn Thông (2009), Việt sử thông giám cương mục khảo lược, Nxb Văn

hóa – Thông tin, Hà Nội.

105. Nguyễn Đình Thống (2005), Di tích lịch sử nhà tù Côn Đảo, nhà lao Phú

Quốc, Nxb Lao Động, Hà Nội.

106. Đặng Thu (1994), Di dân của người Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, Phụ san

tạp chí nghiên cứu lịch sử.

107. Đinh Xuân Thu (1987), “Miền đông địa lý và lịch sử”, Lịch Sử Quân Sự,

(13), trang 12 – 19.

108. Trần Thuận (2012), “Công Nữ Ngọc Vạn Với Vùng đất Mô Xoài”, Kỷ yếu

hội thảo Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay.

109. Trần Nam Tiến (2013), Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 3), Nxb Trẻ, Thành

phố Hồ Chí Minh.

110. Huỳnh Công Tín (2013), Đặc trưng văn hóa Nam Bộ qua phương ngữ,

Nxb Chính trị Quốc gia.

159

111. Huỳnh Văn Tới (2001), Địa chí Đồng Nai (tập 5), Nxb Tổng hợp

Đồng Nai.

112. Huỳnh Ngọc Trảng (2001), Địa chí Đồng Nai (tập 1), Nxb Tổng hợp

Đồng Nai.

113. Nguyễn Yên Tri (2001), Địa chí Đồng Nai (tập 2), Nxb Tổng hợp

Đồng Nai.

114. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần Người và đất Việt, Nxb Văn hóa

Thông tin.

115. Lê Anh Tuấn (2010), Lịch sử hình thành và phát triển Văn Miếu Trấn Biên

(Biên Hòa – Đồng Nai) từ 1715 đến nay, Luận văn thạc sĩ Khoa Học

Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

116. Nguyễn Đình Tư (1998), “Nguyễn Hữu Cảnh với sự sắp đặt nền hành chính

tại Đồng Nai – Gia Định”, Tạp chí Xưa và Nay, (473), trang 15 – 16.

117. Nguyễn Đình Tư (2008), “Lưu dân Việt trên đất Đồng Nai – Gia Định và

việc thành lập các đơn vị hành chánh ở Nam Bộ thời chúa Nguyễn”,

Nam Bộ đất và người (tập VI), trang 77 – 116.

118. Trung tâm KHXH&NV Quốc Gia, Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh,

Trung tâm nghiên cứu Khảo cổ học (1997), Một số vấn đề khảo cổ học ở

Miền Nam Việt Nam (tập 1), Nxb Khoa học Xã hội.

119. Trung tâm KHXH&NV Quốc Gia, Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh,

Trung tâm nghiên cứu Khảo cổ học (2004), Một số vấn đề khảo cổ học ở

Miền Nam Việt Nam (tập 2), Nxb Khoa học Xã hội.

120. Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh (2002), Nam Bộ và Nam Trung

Bộ những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII – XIX, Kỷ yếu hội thảo khoa.

121. Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Sở Văn Hóa – Công nghệ, Thạch

Phương, Nguyễn Trọng Ninh (2005), Địa chí tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

160

122. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2010), Địa chí tỉnh Bình Dương (tập

1), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

123. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2010), Địa chí tỉnh Bình Dương,(tập

2), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

124. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2008),

Kỷ yếu hội thảo: “Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử

Việt Nam thế kỉ XVI – XIX”, Nxb Thế giới, pdf.

125. Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh, Sở văn hóa thông tin Tây Ninh và viện

Khoa học Xã hội Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh thực hiện (2006), Địa chí

tỉnh Tây Ninh, Nxb Tây Ninh.

126. Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh, Bảo tàng lịch sử Việt Nam thành phố

Hồ Chí Minh, Bảo tàng Cách mạng Tp. Hồ Chí Minh (1998), Góp phần

tìm hiểu lịch sử văn hóa 300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh,

Nxb Trẻ.

127. Viện KHXH Việt Nam, Viện KHXH vùng Nam Bộ, Trung tâm nghiên cứu

Khảo cổ học (2008), Một số vấn đề khảo cổ học ở Miền Nam Việt

Nam,(tập 3), Nxb Khoa học Xã hội.

128. Viện KHXH Việt Nam, Viện phát triển Bền vững Vùng Nam Bộ (2011),

Một số vấn đề khảo cổ học ở Miền Nam Việt Nam (tập 4), Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

129. 300 năm Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh (1998), Nxb Chính trị

Quốc gia.

130. Trần Trí Hải, Vài nhận định về công lao của Nguyễn Cư Trinh đối với vùng

đất Nam Bộ và An Giang giữa thế kỉ XVIII, https://sites.google.com

131. Nguyễn Thị Hậu, Vài nét về văn hóa khảo cổ Đồng Nai,

http://vannghesongcuulong.org

161

132. Nguyễn Đức Hiệp, Một thoáng Đông Nam bộ - Địa chí và lịch sử,

© http://vietsciences.free.fr

và http://vietsciences.org và http://vietsciences.net

133. Nguyễn Đức Hiệp, Sài Gòn – Chợ Lớn và Nam Bộ : từ tiền sử đến Phù

Nam, đế quốc Khơme và vương quốc Champa (phần 1),

www.vanchuongviet.org

134. Trần Mai, Công cuộc khai hoang lập trấn vùng Đồng Nai-Gia Định,

www.baomoi.com

135. Trần Thị Mai, Vị trí và vị thế của Nam Bộ Thế kỉ XVII-XIX,

www.vanhoahoc.vn

136. Võ Thanh Liêm, Hai ngàn năm lịch sử hình thành của miền nam Việt Nam,

http://home.vicnet.net.au.

137. Đinh văn Liên, Văn minh sông rạch trong văn hóa của cư dân Sài Gòn –

Gia Định, gslhcm.org.vn.

138. Nguyễn Thanh Lợi, Cọp trong văn hóa dân gian Đông Nam,

www.vanhoahoc.vn

139. Trần Ngọc Thêm, Khu vực Nam Bộ và tình hình nghiên cứu KHXH &NV

Nam Bộ, www.vanhoahoc.vn

140. Bản đồ hành chánh vùng Đông Nam Bộ và địa bàn kinh tế trọng điểm phía

Nam, trancamlinh.blogspot.com.

141. Đông Nam Bộ, www.vi.wikipedia.org.vn,

142. Lịch sử Sài Gòn từ 1698 trở về trước, Theo website Tp. Hồ Chí Minh

143. Lịch sử Cù Lao Phố phần 2, http://quankhoasu3nambo.

144. Nghị định số 92/2006/NĐ – CP ngày 07 – 9 – 2006 của Chính phủ Về lập,

phê duyệt và quản lý Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội,

www2.vanban.chinhphu.vn/portal/page/.../hethongvanban

162

145. Quyết định số 910/1997/QĐ-TTg của Chính phủ Về việc phê duyệt Quy

hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ giai đoạn

từ nay đến năm 2010,

www.chinhphu.vn/portal/page/portal/.../hethongvanban

146. Tìm hiểu đặc điểm địa lý tự nhiên khu địa lí tự nhiên Đông Nam Bộ,

luanvan.net.vn.

147. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của Vùng Đông Nam Bộ - THÔNG TIN ...

ptit.edu.vn

148. www.vi.wikipedia.org.vn,

149. www.hcmup.edu.vn;

150. www.baotangbrvt.org.vn ,

151. www.Lichsuvietnam.org.vn;

152. hkhls.dongthap.gov.vn;

153. www.sugia.vn/n;

154. www.hoisuhoc.vn;

155. www.bienhoa.gov.vn,

156. dost-dongnai.gov.vn

Bản đồ Nam Bộ thời phủ Gia Định

Nguồn: [20, tr. 63]

PHỤ LỤC

Bản đồ Hành chánh Nam Kỳ Lục Tỉnh năm 1836

Nguồn: [20, tr. 64]

Bản đồ Hành chánh Nam Kỳ thời Pháp thuộc

Nguồn: [20, tr. 65]

Bản đồ Hành chánh Nam Bộ trước năm 1975

Nguồn: [20, tr. 66]

Bản đồ Hành chánh Nam Bộ đến năm 1994

Nguồn: [20, tr. 67]

Nguồn: trancamlinh.blogspot.com

Bản đồ vùng Đông Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long

Nguồn: [98, tr.77]

Chân dung Nguyễn Hữu Cảnh

Nguồn: vi.wikipedia.org

Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh (Còn gọi là Đình Bình Kính) ở Biên Hòa

Nguồn: http://www.bienhoa.gov.vn

Đền thờ Trần Thượng Xuyên hay còn gọi là đình Tân Lân ở thành phố Biên Hòa

Nguồn: https://dost-dongnai.gov.vn