ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRỊNH THỊ MÙA DU KÝ VỀ BIỂN ĐẢO PHÍA BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRỊNH THỊ MÙA DU KÝ VỀ BIỂN ĐẢO PHÍA BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 822.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HỮU SƠN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trịnh Thị Mùa
i
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn
là PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn - Người đã tận tình hướng dẫn, động viên và tạo
mọi điều kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ Văn, đặc
biệt là các thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy khóa 25 chuyên ngành Văn học Việt
Nam, các cán bộ khoa Sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã dạy
dỗ, tạo điều kiện cho em trong quá trình học tập.
Tôi vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính
là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên ngày 15 tháng 04 năm 2019
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trịnh Thị Mùa
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ................................................ 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 9
7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 10
NỘI DUNG ....................................................................................................... 11
Chương 1. THỂ TÀI DU KÝ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH DU KÝ VỀ
BIỂN ĐẢO PHÍA BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ........ 11
1.1. Lý thuyết về thể tài du ký và vấn đề du ký vùng biển đảo phía Bắc
nửa đầu thế kỷ XX ................................................................................... 11
1.1.1. Khái niệm về du ký .................................................................................. 11
1.1.2. Đặc điểm du ký nửa đầu thế kỷ XX ........................................................ 14
1.1.3. Khái lược về du ký vùng biển đảo phía Bắc nửa đầu thế kỷ XX ............ 18
1.2. Cơ sở văn hóa xã hội về sự ra đời và phát triển của du ký viết về biển
đảo phía Bắc nửa đầu thế kỷ XX ............................................................. 21
1.2.1. Ý thức sáng tác của nhà văn và nhu cầu thưởng thức của độc giả .......... 21
1.2.2. Điều kiện giao thông và du lịch ............................................................... 24
1.2.3. Sự phát triển văn học chữ quốc ngữ và báo chí, xuất bản ....................... 28
1.2.4. Giao lưu văn hóa Đông - Tây .................................................................. 31
1.3. Đội ngũ sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu viết về biển đảo phía Bắc .... 33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 35
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA DU KÝ VỀ BIỂN ĐẢO
PHÍA BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ............................. 36
2.1. Nhu cầu khám phá cái mới của chủ thể du ký......................................... 36
2.2. Hiện thực đời sống xã hội của con người vùng biển đảo phía Bắc ......... 38
2.2.1. Cảnh quan và môi trường sinh thái trong du ký ...................................... 38
2.2.2. Đời sống của những con người lao động vùng biển đảo phía Bắc ......... 42
2.3. Những dấu ấn lịch sử văn hóa vùng biển đảo phía Bắc .......................... 45
2.3.1. Con người vùng biển đảo phía Bắc ......................................................... 45
2.3.2. Văn hóa, phong tục tập quán của cư dân vùng biển đảo phía Bắc .......... 49
2.4. Ý thức về chủ quyền biển đảo và sự đối kháng Trung Hoa .................... 53
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 57
Chương 3. CÁC PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT CỦA DU KÝ VỀ
BIỂN ĐẢO PHÍA BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ........ 58
3.1. Điểm nhìn của chủ thể tác giả trong du ký về biển đảo phía Bắc ........... 58
3.2. Đặc điểm về thời gian và không gian nghệ thuật .................................... 62
3.2.1. Thời gian nghệ thuật ................................................................................ 62
3.2.2. Không gian nghệ thuật............................................................................. 67
3.3. Đặc điểm trong bút pháp nghệ thuật ....................................................... 71
3.3.1. Giọng điệu của tác giả ............................................................................. 71
3.3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................... 74
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 79
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nửa đầu thế kỷ XX nền văn học Việt Nam có sự chuyển mình sang hướng
hiện đại hóa. Sự hiện diện của thể tài du ký góp phần quan trọng làm nên diện
mạo và thành tựu của nền văn học dân tộc. Trong giai đoạn này du ký đã có
những đóng góp đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Qua một thời gian dài ít
được chú ý, trong những thập niên gần đây thể tài du ký nửa đầu thế kỷ XX đã
bắt đầu thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, học giả Việt Nam. Khảo
cứu các tác phẩm du ký nửa đầu thế kỷ XX là công việc đi tìm hiểu, đánh giá
một cách chính xác, toàn diện chặng đường đổi mới của nền văn học Việt Nam
và mong muốn đem đến cho người đọc những nhận thức mới về mảng đề tài biển
đảo, góp phần phục vụ cho đời sống hiện đại.
Biển đảo Việt Nam là một phần của lãnh thổ Việt Nam và là một đề tài
quan trọng của du ký nửa đầu thế kỷ XX. Đặt trong tương quan Bắc - Nam, vùng
biển đảo phía Bắc Việt Nam bao gồm 11 tỉnh: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái
Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên - Huế. Với những đặc điểm về địa lý, văn hóa độc đáo nơi đây
đã trở thành điểm đến lý tưởng của các tác giả du ký, từ đó tạo nên một vùng văn
học viết về biển đảo phía Bắc ngay từ đầu thế kỷ XX.
Tình hình biển đảo Việt Nam hiện nay đang có những diễn biến phức tạp,
đe dọa trực tiếp đến chủ quyền lãnh thổ dân tộc. Nghiên cứu các tác phẩm du ký
viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX góp phần làm rõ thêm
diện mạo và đặc điểm du ký Việt Nam. Bên cạnh đó còn góp phần quan trọng
trong việc khẳng định chủ quyền biển đảo, hiểu được văn hóa, lịch sử, kinh tế,
xã hội Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX và có thể so sánh, đối chiếu
với văn hóa, lịch sử, kinh tế, xã hội Việt Nam trong thời kỳ hiện đại hóa với xu
hướng hội nhập toàn cầu.
Những tác phẩm du ký viết về vùng biển đảo phía Bắc không chỉ có giá trị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
văn học mà nó còn có tầm ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực khác: Lịch sử, địa lý,
giáo dục, an ninh, du lịch... Vì vậy mỗi trang du ký sẽ là đối tượng thu hút đối
với các nhà nghiên cứu và là tiềm năng có thể đưa các tác phẩm vào giảng dạy ở
trường phổ thông bởi những giá trị, ý nghĩa thiết thực mà nó mang lại. Đó là lý
do người viết chọn đề tài Du ký về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX. Với hy vọng đem lại cái nhìn cụ thể, cũng như thấy được bức tranh danh
lam thắng cảnh với những cảm xúc chân thành của người viết về quê hương đất
nước, về cuộc sống, những phong tục tập quán, những truyền thống văn hóa lịch
sử của dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Thể loại du ký Việt Nam được ra đời từ khá sớm. Mặc dù đã có nhiều
hướng tìm tòi khác nhau nhưng lịch sử nghiên cứu về du ký chưa được dày dặn,
chưa thực sự tương xứng với dòng chảy và giá trị của nó trong đời sống văn học
nước nhà.
Trong các công trình nghiên cứu như Năm bài giảng về thể loại của Hoàng
Ngọc Hiến (1992), Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2000), cuốn 150 thuật ngữ văn học của Lại
Nguyên Ân (2004), Giáo trình lí luận văn học do Trần Đình Sử chủ biên
(2009),... Nhìn chung đã bước đầu đưa ra định nghĩa cho thể tài du ký, trong đó
phải kể đến định nghĩa tương đối hoàn chỉnh của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Du ký - một
thể loại văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân mình
đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại những
xứ sở xa lạ hay những nơi ít người có dịp đến” [20, tr.75].
Tác giả Phạm Xuân Nguyên cũng đã đưa ra ý kiến đánh giá của mình về du
ký, trên báo Tuổi trẻ ra ngày 23.03.2007, có bài Đọc sách để đi chơi, trong đó có
nhận xét: “Đọc du ký, để hiểu biết, có thêm thông tin tri thức là một lẽ. Đọc những
tác phẩm du ký này còn để hiểu thêm suy nghĩ, cảm xúc của những con người đứng
ở buổi đầu nền văn học hiện đại, muốn truyền tải và gửi gắm tới quốc dân trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
một nước đang tìm cách thoát lạc hậu đến văn minh” [45, tr.1]. Đồng thời Phạm
Xuân Nguyên còn là tác giả của Du ký như một thể tài (báo Văn hóa và Thể thao,
2007). Ông cho rằng du ký là sản phẩm của “Đi, và Thấy cảnh và người, sự và
việc, rồi Viết ra cảnh ấy người ấy, sự ấy việc ấy, kèm theo nghĩ suy, cảm xúc của
mình, có khi còn là phân tích, khảo cứu” [44]. Ông xem xét du ký trên 3 thành
tố: không gian đi, thời gian đi, thành phần người đi, và soi chiếu quan điểm của
mình trong sáng tác của Phạm Quỳnh.
Trong công trình nghiên cứu nổi tiếng Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan
(1942), khi nói tới nhóm nhà văn trong Nam Phong tạp chí, tác giả đã nói sơ lược
về thể tài du ký đồng thời điểm danh một số tác phẩm tác giả, trong đó có Chuyến
đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký. Cùng nghiên cứu về du ký của
Trương Vĩnh Ký, hai tác giả Bích Thu và Vũ Tuấn Anh có khẳng định: “Du ký
Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi của P.J.P Trương Vĩnh Ký là tác phẩm văn xuôi
ra đời sớm nhất” [4].
Cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 1 của Phạm Thế Ngũ,
trong chương IV - “truyện ký”, Phạm Thế Ngũ gọi Thượng kinh kí sự là “một
truyện dài du ký” - là loại văn nhằm ghi chép những điều tai nghe mắt thấy sau
những bước chân từng trải trong những dịp đi xa. Trong tập 3 của cuốn sách này,
Phạm Thế Ngũ bàn tới thể tài du ký dựa trên những sáng tác của Phạm Quỳnh -
chủ bút Nam phong tạp chí. Tác giả ghi nhận Phạm Quỳnh chính là người mở
đầu cho lối văn du hành trên Nam phong.
Năm 1967, Tạp chí Văn học số 02 cho đăng bài Về thể ký của tác giả Tầm
Dương. Ở bài viết này, du ký được quan niệm là một phần của ký sự, du ký đứng
song song với các tiểu loại khác như: hồi ký, truyện ký, ghi chép… Trên Tạp chí
Văn học số 06, Nam Mộc cũng có bài Thể ký và vấn đề viết về người thật việc
thật phân chia ký thành các tiểu loại: phóng sự, ký sự, tùy bút, bút ký. Và du ký
đã được nhà nghiên cứu xếp vào một tiểu loại của bút ký, cùng với nhật ký, hồi
ký, tạp văn và tiểu phẩm.
Coi du ký là một thể tài văn học trong nhóm thể loại ký, Võ Thị Thanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tùng trên tạp chí Khoa học xã hội, số 4 năm 2013 có bài viết điểm qua “Một vài
đặc điểm của thể loại du ký Việt Nam”. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến tính
chất phức hợp, giao thoa thể loại có trong du ký. Cho rằng du ký là trung gian
giữa báo chí và văn học, du ký có sự giao thoa với chính luận, tác giả đánh giá:
“Từ khi ra đời đến nay, du ký cùng với phóng sự, tùy bút… đã gia nhập vào đời
sống văn học sôi động trên cả nước, làm nên một khởi đầu ngoạn mục cho việc
đưa văn xuôi tiến dần vào vị trí trung tâm, đóng góp tích cực vào tiến trình phát
triển chung của nền văn học hiện đại Việt Nam” [66, tr.43].
Ở những công trình này, du ký hầu như được “điểm danh” và được gợi ra
từ các trường hợp tác phẩm, tác giả cụ thể. Các tác giả không quên khẳng định vị
trí của du ký trên hàng ghế danh dự của những thể tài, thể loại văn học đi đầu trong
công cuộc hiện đại hóa văn học. Nói như Vũ Tuấn Anh trong bài viết Đọc du ký
Việt Nam trên Nam Phong tạp chí và cuộc du ngoạn ngược thời gian: Du ký giống
như “một mũi khoan khai phá sự chinh phục thể loại văn xuôi”.
Trong nền văn học Việt Nam cũng như các tạp chí, đã xuất hiện các nghiên
cứu về du ký nhưng phải kể đến những nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hữu Sơn
trên phương diện thể tài, ông là tác giả của hàng loạt bài viết lớn nhỏ thể hiện cái
nhìn từ bao quát đến cụ thể về du ký: Phác thảo du ký Hà Nội trước Cách mạng
tháng Tám (báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 6, 2000), Du ký Ninh Bình
nửa đầu thể kỷ XX (tạp chí Văn nghệ Ninh Bình, số 6, 2004), Thể tài du ký trên
tạp chí Nam phong (1917 - 1934) (tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 4, 2007), Đạm
Phương nữ sĩ và những trang du ký viết về xứ Huế (tạp chí Kiến thức ngày nay,
số 751, 2011), Thể tài văn xuôi chữ Hán thế kỷ XVIII - XIX và những đường biên
thể loại (tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 5, 2012)… Các nghiên cứu của
Nguyễn Hữu Sơn thể hiện sự thống nhất: “Khi nói đến “thể tài du ký” cần được
hiểu nhấn mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung và cảm hứng nghệ thuật nơi
người viết, chứ không phải ở phía thể loại” [50, tr.13]. Xuất phát từ phương diện
nội dung, ông chỉ ra các loại du ký đặc trưng: “du ký mang tính quan phương,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
công vụ; du ký viễn du - những chuyến du hành đến với các nước khác; du ký
thiên về khảo cứu danh nhân lịch sử, truyền thuyết và sự tích liên quan tới một
địa điểm cụ thể; du ký hướng tới khảo sát, giới thiệu cả một vùng văn hoá rộng
lớn; du ký mà yếu tố “vị nghệ thuật” chiếm phần quan trọng, ở đó người viết
chấm phá một vài nét phong cảnh thiên nhiên, cuộc sống đời thường bình dị hay
thoáng qua niềm vui liên quan đến hoạt động văn hoá, tôn giáo, phong tục, truyền
thống lễ hội, lễ nghi, lễ nhạc…”. Có thể thấy, nghiên cứu của Nguyễn Hữu Sơn
đã khơi gợi hướng nghiên cứu du ký về các vùng địa lý - văn hóa và ở đó người
đọc nhìn thấy một bức tranh phong phú đa dạng về du ký Việt Nam từ các tác
phẩm trung đại cho tới các du ký nửa đầu thế kỷ XX.
Bên cạnh đó có các nghiên cứu đã đi sâu vào tìm hiểu du ký viết về một
khu vực lãnh thổ trên đất nước Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX như: Năm 2016,
luận văn Du ký về biển đảo Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX của tác giả Chu Thị
Yến; Năm 2017, luận văn Du ký về vùng Đông Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
của Triệu Thị Ngân và luận văn Du ký viết về miền Trung Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX của Đỗ Thị Thủy; Năm 2018, là luận văn Du ký về vùng Tây Bắc Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX của Nguyễn Thị Lan… Những nghiên cứu đó đã mang đến
cho chúng ta góc nhìn nhận mới về từng vùng lãnh thổ của Việt Nam qua các
trang du ký.
Bằng việc tập hợp các tác phẩm tiêu biểu viết về từng vùng riêng biệt,
Nguyễn Hữu Sơn khi nghiên cứu các tác phẩm du ký viết về biển đảo Việt Nam
đã tìm thấy ở mỗi du ký là một phác thảo độc đáo riêng và tạo nên bức tranh đa
màu sắc: “Ngày nay đọc lại những trang ghi chép này chúng ta có thể hình dung
về cuộc sống người dân nơi đảo xa cách nay đã quá nửa thế kỷ. Song ngay từ
đương thời người viết du ký không chỉ sao chép phong cảnh thiên nhiên, tả cái
vẻ hấp dẫn mới lạ của vùng quê đảo biển mà còn truyền vào đó chất thẩm mĩ và
nâng cấp thành đạo lý ứng xử sống hòa hợp với tự nhiên” [51, tr.10]. Đặc biệt
Nguyễn Hữu Sơn đã chú trọng nghiên cứu các tác phẩm du ký viết về vùng biển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và được thể hiện thông qua một loạt
bài viết trên các tạp chí, các bài báo: Du kí Quảng Ninh nửa đầu thế kỷ XX (báo
Văn nghệ Hạ Long, số tết, 2002), Du ký Hải Phòng nửa đầu thế kỷ XX (tạp chí
Văn hóa và du lịch, số 24, tháng 7-2015), Du ký về biển đảo Quảng Ninh - Hà
Tĩnh nửa đầu thế kỷ XX (báo Người Hà Nội, tháng 10-2017), Du ký về biển đảo
Quảng Bình - Bình Định nửa đầu thế kỷ XX (báo Người Hà Nội, số 44, tháng 11-
2017)... Qua các nghiên cứu, Nguyễn Hữu Sơn đã đem đến những cách quan sát,
sự cảm nhận sinh động, phong phú, mới lạ cùng với dấu ấn văn hóa vùng biển
đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX: “Đọc tác phẩm du ký tức là “ngồi
một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm”, hơn nữa lại là du ký hồi đầu thế kỷ XX, chắc
chắn sẽ giúp độc giả hôm nay hiểu hơn vẻ đẹp cũng như các vấn đề lịch sử - văn
hóa vùng duyên hải và biển đảo Đông Bắc Tổ quốc một thời chưa xa” (Nguyễn
Hữu Sơn (2017) Du ký về biển đảo Quảng Ninh - Hà Tĩnh nửa đầu thế kỷ XX,
báo Người Hà Nội).
Nguyễn Hữu Sơn trong bài viết Nhận diện du ký biển đảo Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX theo các vùng văn hóa, đã rất chú trọng đến việc tìm hiểu về du
ký vùng, miền. Đặc biệt, ông đã chú ý đến việc nghiên cứu vùng duyên hải và
biển đảo Việt Nam, ông nhận định: “Việc khảo sát, nghiên cứu, nhận diện chuyên
biệt từng vùng miền và từng tiểu vùng văn hóa nói riêng đặt trong tổng thể, toàn
cảnh nền văn hóa duyên hải và biển đảo có một ý nghĩa quan trọng. Trên cơ sở
sưu tập các văn bản thuộc thể tài văn học du ký - du hành giai đoạn nửa đầu thế
kỷ XX có thể nhận ra tâm thế ký giả - người du hành, xu thế hội nhập, phát triển,
hiện đại hóa của ngành du lịch và đối tượng, sắc thái địa - văn hóa, môi trường
sinh thái duyên hải và biển đảo phong phú, trải rộng ra Biển Đông và trải dài từ
Bắc vào Nam. Từ sự so sánh và đối sánh các tác phẩm du ký có thể nhận thức
đầy đủ mối quan tâm, diện mạo, đặc điểm, vị thế cũng như bài học kinh nghiệm,
khả năng ứng phó, dự báo xã hội mang tính cụ thể, đặc thù, sinh động ở từng
vùng miền trong tổng thành nền văn hóa biển đảo Việt Nam” [60, tr.12]. Dựa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trên nhận định đó, nghiên cứu du ký về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX cho phép người viết có thể đào sâu, làm rõ hơn những đặc sắc về nội
dung, nghệ thuật của du ký viết về biển đảo phía Bắc nói riêng và đồng thời
khẳng định vị thế của thể tài du ký nửa đầu thế kỷ XX trong tiến trình văn học
Việt Nam trên hành trình hiện đại hóa văn học.
Tựu chung lại, các tác phẩm du ký về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX đã xuất hiện trong một số bài báo, luận văn, luận án nhưng lẻ tẻ
và tản mác. Duy nhất trong những bài viết của tác giả Nguyễn Hữu Sơn đã có ý
thức về việc coi trọng và xem những du ký viết về biển đảo Việt Nam như một
đối tượng nghiên cứu riêng biệt. Ông đã phân chia nhỏ hơn những sáng tác du
ký theo các vùng biển đảo tiêu biểu và cụ thể. Các bài viết của tác giả chính là
những gợi ý thú vị thôi thúc người viết tiến hành khảo sát và tìm hiểu Du ký về
biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tác phẩm thuộc thể tài du ký viết
về biển đảo Việt Nam, đặc biệt chú trọng đến các tác phẩm viết về biển đảo phía
Bắc Việt nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX được đăng trên các báo và tạp
chí cùng thời: Nam Kỳ địa phận, Nam phong tạp chí, Phụ nữ tân văn, Phong hóa,
Ngày nay, Tiểu thuyết thứ bảy, Tràng An báo, Khoa học, Tri tân,… Hay những
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hữu Sơn đăng trên các báo và tạp chí: Khoa học
xã hội Việt Nam, Nghiên cứu Văn học, Văn hóa và du lịch, Kiến thức ngày nay,
Người Hà Nội, Văn nghệ Hạ Long,...
3.2. Phạm vi lý thuyết của luận văn là những vấn đề về khái niệm, sự hình thành
và phát triển của thể tài du ký; đặc trưng nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm
du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Phạm vi nghiên cứu tư liệu của luận văn bao gồm các tác giả và các tác
phẩm du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Đặc biệt,
luận văn sưu tầm và khảo sát trên các du ký có chung đối tượng là vùng biển đảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phía Bắc Việt Nam đã đăng trên các báo và tạp chí hồi đầu thế kỷ XX như: Đi
chơi ngoài Bắc Kỳ, Huế và bên Tàu (báo Nam Kỳ địa phận); Pháp du hành nhật
ký, Sự du lịch đất Hải Ninh, Chơi Vịnh Hạ Long, Các nơi cổ tích đất Nghệ Tĩnh,
Quảng Xương danh thắng, Thụy Anh du ký,…(tạp chí Nam Phong); Một cuộc
hành du (tạp chí Khoa học); Đi vịnh Hạ Long, Hội Đồ Sơn (báo Ngày nay), Kỷ
niệm Sầm Sơn, Bốn năm trên đảo Các Bà (tạp chí Tri Tân),… Du ký Việt Nam
giai đoạn này khá phong phú, đa dạng. Một trong những biểu hiện của điều này
là du ký viết về nhiều vùng đất, vùng địa lý - văn hóa khác nhau trên mọi miền
Tổ quốc.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Người viết muốn nhấn mạnh đặc điểm của du ký viết về biển đảo phía Bắc
Việt Nam ở các vấn đề: nội dung cảm hứng, vai trò của chủ thể tác giả trong việc
tổ chức vai trần thuật và điểm nhìn trần thuật, ngôn từ nghệ thuật, sự giao thoa
thể loại, từ đó phác thảo lại dòng chảy du ký từ văn học trung đại, qua văn học
hiện đại thế kỷ XX đến thế kỷ XXI.
Làm rõ những đặc điểm riêng của du ký về biển đảo phía Bắc với các vùng
khác. Bao gồm những đặc điểm chung và riêng về nội dung phản ánh và nghệ
thuật sáng tác.
Đề tài khẳng định vai trò của du ký trong giai đoạn hiện đại hóa nền văn
học dân tộc. Góp thêm tiếng nói vào việc nghiên cứu thể tài, thể loại trong bối
cảnh hiện nay.
Là nguồn tư liệu hữu ích cho những ai quan tâm đến thể tài du ký, cũng
như muốn tìm hiểu về đời sống tự nhiên, văn hóa, xã hội vùng biển đảo phía Bắc
nửa đầu thế kỷ XX dưới góc nhìn thể loại văn học.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định những đặc điểm cơ bản của các tác phẩm viết về biển đảo phía
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX trên hai phương diện: nội dung và nghệ thuật
để thấy được những đóng góp của nó trong quá trình hiện đại hóa văn học và làm
phong phú diện mạo văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
- Nhấn mạnh giá trị của các tác phẩm du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt
Nam đối với việc nêu cao ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia trong bối
cảnh nửa đầu thế kỷ XX cũng như hiện tại.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp sưu tầm, thống kê: Tìm kiếm, tập hợp những tác phẩm
thuộc thể tài du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX được
đăng tải trên các báo, tạp chí. Thống kê và lấy số liệu một số nội dung phục vụ
cho quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Làm rõ những đặc điểm chính về nội
dung và hình thức của du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX, nhất là việc xử lý các dẫn chứng làm cơ sở để đưa ra các nhận định, kết luận
thuyết phục và có ý nghĩa khoa học.
- Phương pháp so sánh: So sánh các sáng tác văn học thuộc nhiều vùng miền;
giữa các tác giả, tác phẩm và thể loại văn học khác nhau, giữa các giai đoạn văn học
khác nhau... để có những kết luận cần thiết.
- Phương pháp liên ngành: Sử dụng tri thức của các ngành khoa học khác
nhau như văn hóa học, xã hội học, triết học, tâm lý, sử học, địa lý,... để vận dụng
vào lí giải làm rõ các vấn đề văn học phản ánh trong du ký Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở khảo sát, tiếp thu và phát huy những nghiên cứu trước đó, luận
văn thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu của mình và nhận thấy có những đóng
góp sau:
Luận văn với đề tài: Du ký về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX. Là công trình nghiên cứu, khảo sát đầu tiên nghiên cứu về một vùng biển đảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
riêng biệt, góp phần làm rõ những thành quả mà thể tài đã đạt được và xác định
vai trò, vị trí của nó. Luận văn tập trung nghiên cứu các phương diện về nội dung
và nghệ thuật của du ký viết về biển đảo phía Bắc qua những tác phẩm tiêu biểu,
từ đó phát hiện được những nét riêng, những điểm mới của thể tài.
Trong quá trình khảo sát nghiên cứu, người viết đi sâu vào các tác phẩm,
bài viết, ý kiến, nhận định về biển đảo phía Bắc Việt Nam nhìn từ bình diện thể
tài du ký, nhằm đóng góp những góc nhìn mới và hiểu rõ hơn về giá trị của thể
tài du ký.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được triển khai theo 3 chương:
Chương 1: Thể tài du ký và cơ sở hình thành du ký về biển đảo phía Bắc
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Chương 2: Đặc điểm nội dung của du ký về biển đảo phía Bắc Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX.
Chương 3: Các phương diện nghệ thuật của du ký về biển đảo phía Bắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
NỘI DUNG
Chương 1
THỂ TÀI DU KÝ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH DU KÝ
VỀ BIỂN ĐẢO PHÍA BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Lý thuyết về thể tài du ký và vấn đề du ký vùng biển đảo phía Bắc nửa
đầu thế kỷ XX
1.1.1. Khái niệm về du ký
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX sự chuyển biến của xã hội Việt Nam đã
làm cho giới văn học nước ta cũng bị cuốn vào vòng quay của thế giới hiện đại.
Con người dần thấy có nhu cầu đi, đi rồi thì lại thấy cần phải viết ra những điều
mắt thấy tai nghe. Trước là để chia sẻ những điều mình được chứng kiến cùng
những cảm giác cảm xúc của cá nhân. Sau là để hối thúc mọi người hãy mạnh
dạn đi đến những chốn lạ, những miền xa và thử đặt mình vào hoàn cảnh địa dư
khác, để từ đó mà năng động mình, có hiểu biết mới, dám nghĩ dám làm hơn, và
đặc biệt là có tình yêu với quê hương đất nước và xứ sở mình hơn. Chính điều
đó, đã góp phần cho nền văn học Việt Nam hình thành nên một thể loại đứng
giữa ranh giới văn học và báo chí - ký.
Ký là một thể loại nằm trong loại hình tự sự, với những đặc trưng riêng về
mặt thi pháp, nó đứng giữa ranh giới của văn học và báo chí. Tầm Dương trong
bài Bàn về thể kí tác giả coi: “Du ký là “ký” lại các sự (những điều mắt thấy tai
nghe) trong lúc “du”” [13]. Hay Nam Mộc cũng cho rằng “Có thứ bút ký phản
ánh người, việc và cảm nghĩ diễn biến trong không gian theo bước đi của nhà
văn đó là du ký” [43]. Đồng quan điểm với Nam Mộc, Mã Giang Lân khẳng
định: “Thể loại văn học đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ phải kể đến du ký. Đây
là một hình thức bút ký văn học được ghi lại bằng văn xuôi, thuật lại những
chuyến đi của tác giả đến những vùng đất khác nhau. Nguồn gốc của du ký cần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tìm trong những hình thức tùy bút, ký sự truyền thống” [30]. Như vậy, qua khảo
sát các tác giả khi nghiên cứu về thể tài du ký đã chỉ ra du ký chính là một tiểu
loại của ký, với đặc trưng là phản ánh người thật, việc thật trên một chặng hành
trình.
Cho rằng du ký gắn với hoạt động đặc thù là du lịch, thưởng ngoạn, có sự
đa dạng về hình thức như ghi chép, hồi tưởng, ký sự, nhật ký... và phong phú về
nội dung như tri thức, cảm xúc, thông tin... Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra định nghĩa: “Du
ký - một thể loại văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân
mình đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại
những xứ sở xa lạ hay những nơi ít người có dịp đi đến” [20, tr.108].
Quan tâm đến đối tượng của du ký, trong cuốn Lí luận văn học của các tác
giả Trần Đình Sử, La khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm đưa ra nhận định về du kí:
“thể loại ghi chép về vẻ kì thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời, những cảm
nhận, suy tưởng của con người trong những chuyến du ngoạn, du lịch” [62,
tr.382]. Các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ đối tượng đặc thù của du ký là cảnh vật,
con người, cuộc sống, những cảm xúc cá nhân,... được nhà văn trực tiếp ghi lại
qua những chuyến đi.
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, có đề cập đến hoàn
cảnh ra đời và khẳng định tính chân thực của du ký: “ghi lại những điều người viết
chứng kiến trong chuyến đi chơi xa”. Còn trong cuốn sách Các thể văn chữ Hán
Việt Nam do Trần Thị Kim Anh và Hoàng Hồng Cẩm biên soạn, đã đưa ra định
nghĩa tương đối đầy đủ về du ký: “Văn du ký là loại văn được viết ra trong những
chuyến đi, vừa để ghi lại hành trình, vừa để bày tỏ cảm xúc về những điều mắt
thấy tai nghe. Đặc điểm của du ký là chuyên lấy việc mô tả thắng cảnh núi sông,
phong vật làm đề tài, cách viết đa dạng, có thể miêu tả, có thể trữ tình, có thể nghị
luận, và phải là chính tác giả ghi chép về chính chuyến đi của mình, miêu tả lại
cảm thụ của bản thân trước non sông phong vật.” [3, tr.113]. Theo định nghĩa thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
du ký được thể hiện trên các bình diện: Hoàn cảnh, đề tài, hình thức trình bày, và
đặc biệt trong du ký bản thân tác giả - Nhân vật “tôi” là người trực tiếp tham gia
vào hành trình của mình nên người đọc dễ dàng bắt gặp được cảm xúc thực sự của
chính tác giả trong mỗi trang du ký.
Cùng với nghiên cứu trên, khi bàn về thể tài du ký nhà nghiên cứu Nguyễn
Hữu Sơn đã có nhận định khá toàn diện về thể tài du ký: “Khi nói đến “thể tài
du ký” cần nhấn mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung và cảm hứng nghệ thuật
người viết, chứ không phải ở phía thể loại. Thu hút vào địa hạt du ký có các sáng
tác chủ yếu bằng bài văn xuôi theo phong cách ký, ký sự, ghi chép, hồi ức về các
chuyến du ngoạn, các điểm du lịch, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và còn
liên quan tới nhiều phương diện văn hóa học, xã hội học, dân tộc học khác nữa...”
[59]. Nhà nghiên cứu còn chỉ ra sự khác biệt của thể tài du ký với thể loại văn
học khác: “Du ký thường gắn với nhu cầu xê dịch Đi và Xem, gắn với các chuyến
du ngoạn, du lịch và nghiêng hẳn về phía vị nghệ thuật, góp phần thỏa mãn nhu
cầu giải trí, ham hiểu biết, ham vui của những người thuộc tầng lớp trên, nói
chung là có của ăn của để” [59, tr.98]. Như vậy nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu
Sơn đã làm rõ hơn vấn đề của du ký trên phương diện đề tài, nội dung và cảm
hứng nghệ thuật của người viết du ký.
Trên đây là các định nghĩa về du ký mà các nhà nghiên cứu trong quá trình
tìm hiểu đã đưa ra. Mỗi định nghĩa được đưa ra từ những góc nhìn riêng, và khái
quát từ thực tiễn văn học mà nhà nghiên cứu đó quan tâm nghiên cứu, nên khó
có thể lấy một tiêu chí nào để phê phán, đánh giá đúng sai. Trong nghiên cứu
này, người viết cũng mạnh dạn đưa ra quan điểm của mình về du ký. Du ký là
một thể của ký, nên hình thức của du ký có thể là ghi chép, ký sự, nhật ký, thư
tín, hồi tưởng… Và cơ bản có tính xác thực do dựa trên sự ghi chép chân thực
của bản thân tác giả, nhưng cũng có khả năng xen kẽ hư cấu và các tri thức thiên
về khảo cứu sách vở. Các tác giả của du ký thường bộc lộ niềm say mê và khát
khao tìm kiếm, khám phá những điều mới lạ ở những địa danh mà họ đặt chân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đến.
Trong du ký, các nhà du ký khi thì thể hiện cách tư duy bay bổng, lãng
mạn của người lãng tử ưa phiêu lưu mạo hiểm, khi thì họ lại đưa người đọc được
khám phá ra vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống, khi thì họ lại trăn trở, suy tư đầy
trách nhiệm của người công dân trước số phận con người, trước vận mệnh dân
tộc. Vì vậy, một tác phẩm du ký “không đơn thuần chỉ là một tác phẩm văn
chương mà còn có dung chứa trong đó nhiều yếu tố lịch sử, địa lý, giáo dục, hay
cả các phương diện như chính trị xã hội”.
Các tác phẩm du ký đã mang đến những tri thức xác thực về những vùng
đất văn hóa mà họ đã đi qua. Đó có thể là vùng Tây Bắc với những hệ thống núi
non trùng điệp bên hữu ngạn sông Hồng và một nền văn hóa đa dạng, độc đáo
của hơn hai mươi dân tộc ở nơi đây. Đó cũng có thể là vùng Đông Bắc với sự trù
phú nhộn nhịp nơi biển đảo Quảng Ninh, Hải Phòng cùng cuộc sống của những
con người quanh năm bám biển “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”. Hay đó còn
là những trang du ký viết về Biển đảo Việt Nam với ý thức về chủ quyền biển
đảo sâu sắc.
1.1.2. Đặc điểm du ký nửa đầu thế kỷ XX
Du ký Việt Nam xuất hiện khá sớm, từ khoảng thế kỷ XVIII nhưng phải
bước sang thế kỷ XX thì du ký mới thực sự phát triển và trở thành dòng chảy liên
tục. Là thể loại được hình thành trong những chuyến đi nên mỗi tác phẩm du ký
như mở ra cho người đọc nhiều điều bất ngờ, thú vị về những khía cạnh khác
nhau: Phong cảnh thiên nhiên, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo,… Với kiến
thức sâu rộng người viết du ký đã có những đóng góp tích cực vào việc mở mang
tri thức, thỏa mãn cơn khát hiểu biết của những người yêu văn chương. Chính vì
vậy mà du ký góp vai trò quan trọng vào quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt
Nam.
Người có công đầu trong việc thúc đẩy thể tài du ký phát triển đó là Phạm
Quỳnh, với một loạt các tác phẩm: Một tháng ở Nam Kỳ, Mười ngày ở Huế, Pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
du hành nhật ký,... Bên cạnh đó còn một số tác phẩm cũng đăng trên Nam Phong
Tạp chí: Chơi vịnh Hạ Long (Đông Châu), Các nơi cổ tích đất Nghệ Tĩnh
(Nguyễn Đức Tánh), Quảng Xương danh thắng (Thiện Đình), Thụy Anh du ký
(Đặng Xuân Viện), Quảng Yên du ký (Nhàn Vân Đình), Lược thuật hành trình
cuộc ngự giá Bắc tuần (Mỹ Ngọc),... Nhìn chung các tác phẩm du ký thời kỳ này
không đơn thuần là những tác phẩm ghi chép, phản ánh hiện thực mà nó còn là
những tác phẩm mang đậm chất trữ tình, và dấu ấn cá nhân sâu sắc. Chính điều
đó đã làm cho du ký mang đậm tính văn học hơn.
Khi nghiên cứu về đặc điểm của thể loại du ký, Võ Thị Thanh Tùng trong
Du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - Một vài đặc điểm về thể loại cũng đã đưa
ra quan điểm của mình về đặc điểm của thể loại du ký. Nhà nghiên cứu chỉ ra
đặc điểm của thể loại du ký với hai đặc điểm: Thứ nhất, du ký là một thể loại có
tính chất giao thoa với ghi chép tư liệu; và thứ hai, du ký là thể loại hợp nhất giữa
truyện và nghiên cứu. Đặc điểm thứ nhất, nhà nghiên cứu có đưa ra quan điểm
của mình về tính chất giao thoa giữa du ký với ghi chép tư liệu: “Rõ ràng trong
khi ghi chép, nhà viết kí phải huy động vốn sống của cả đời người để những gì
được viết ra sẽ trở thành nguồn kiến thức đáng tin cậy. Vốn sống, tài năng cũng
như tư tưởng tình cảm của người viết sẽ được bộc lộ trực tiếp qua lời văn.” [67,
tr.196]. Và với đặc điểm thứ hai nhà nghiên cứu cũng có khẳng định: “Những
câu chuyện mới lạ được nghe, được thấy trên con đường hành hương sẽ nhanh
chóng biến thành những thỏi nam châm thu hút người đọc. (…) Chất truyện trong
du ký hiện diện bằng những hình ảnh giàu sức sống, những nhân vật có thật,
những câu chuyện sinh động… tất cả hợp lại làm cho câu chuyện của hiện thực
cuộc sống hiện lên với tất cả dáng vẻ vốn có của nó nên không bao giờ nhàm
chán.” [67, tr.198]. Như vậy, theo Võ Thị Thanh Tùng khi khám phá các tác
phẩm du ký, người đọc có được cả một kho tư liệu dồi dào về nhiều lĩnh vực,
đồng thời chất chứa trong đó là những câu chuyện sinh động hấp dẫn về người
thật, việc thật.
Trên khía cạnh khác ta thấy du ký là thể loại có tính chất giao thoa với báo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chí. Nếu tính chất của báo chí là luôn luôn phải đảm bảo tính chân thực của mình,
tức là đối tượng mà báo chí hướng tới phải luôn là cuộc sống thực tại. Thì du ký
là thể loại được hình thành trong quá trình tiếp xúc với người thật, việc thật của
nhà văn nên toàn bộ những hình ảnh của cuộc sống sẽ thu hút vào lăng kính của
nhà du ký và như vậy đối tượng mà du ký hướng tới cũng là cuộc sống thực tại.
Vì vậy mà du ký và báo chí có sự tác động qua lại, bổ trợ cho nhau trong những
trường hợp nhất định. Trong du ký có tính chất “báo chí” được thể hiện ở những
số liệu, chi tiết, hành động một cách chính xác gần như tuyệt đối. Đặc biệt là
những tác phẩm mang tính quan phương công vụ như trong Lược thuật hành
trình cuộc ngự giá Bắc tuần của N.P. đã ghi chép lại toàn bộ những số liệu, sự
kiện, một cách tỉ mỉ và chính xác nhất nhằm phản ánh lại thực trạng của xã hội
Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, với kiểu hoạt động của ông vua Hoàng Đế
dưới sự bảo hộ trên danh nghĩa của nhà toàn quyền Đông Dương. Tuy nhiên, do
tính chất đặc thù của du ký mà những con người và sự việc được miêu tả trong
du ký nhìn chung không thật sự rõ nét như trong báo chí. Vì vậy mà du ký được
coi là thể loại phi cốt truyện tức là trong du ký bóng dáng con người hầu như
không thực sự sắc nét mà chỉ được miêu tả lướt qua, hay những sự việc được kể
thì tản mạn, chắp nối, không có cốt truyện hoàn chỉnh như trong truyện hay tiểu
thuyết. Du ký đã được nhiều nhà nghiên cứu xếp vào thể loại ký sự, nên đôi khi
du ký còn được gọi là ký sự mà theo Vũ Ngọc Phan, ký sự là “anh em đồng bào
song sinh” với phóng sự. Cả ký và phóng sự cùng viết về người thật việc thật,
nhưng phóng sự thường đề cập đến những vấn đề cấp thiết, nóng hổi đang diễn
ra gây nhức nhối trong đời sống: “Tác phẩm phóng sự thường xuất hiện trong
những hoàn cảnh có vấn đề, ở những thời điểm cuộc sống đang có những chuyển
biến mạnh mẽ với những mâu thuẫn gay gắt đang đặt ra” [12, tr.24]. Người viết
phóng sự luôn ở thế sẵn sàng “theo sát các vấn đề nóng hổi, cấp bách của hiện
thực mang ý nghĩa xã hội rộng lớn” [62, tr.361]. Sự việc cấp thiết, nóng hổi là
điều mà phóng sự quan tâm hàng đầu, còn trong du ký sự việc không nhất thiết
phải “nóng hổi”, trực tiếp hay cũng không nhất thiết là sự việc có vấn đề đang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
được xã hội quan tâm. Nhiều khi trong du ký các tác giả du ký thường đưa người
đọc được trở về với quá khứ, chứng kiến những không gian lịch sử xảy ra hàng
ngàn năm trước đó, tức là trong du ký có thời gian quá khứ. Giữa hiện tại và quá
khứ đan xen vào nhau xuyên suốt trong câu chuyện của người du khách. Nhưng
cả du ký và phóng sự đều có điểm tương đồng là việc khắc họa chân dung con
người không thật sự được rõ nét. So với phóng sự, con người trong du ký có hình
thù rõ ràng hơn vì ngoài những con người mà nhà du ký quen biết và có hẹn
trước còn có những người mà tác giả tình cờ được gặp trong chuyến đi của mình,
điều đó góp phần làm cho cuộc hành trình thêm hấp dẫn và sinh động hơn.
Du ký còn là thể loại giao thoa với tùy bút. Cả hai thể loại ngoài việc kể
và tả, các nhà văn còn bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình nhằm tạo nên chất trữ
tình. Đồng thời đều phản ánh hiện thực nhưng hiện thực trong tùy bút chỉ là điểm
tựa, là cái cớ để nhà văn thể hiện cảm xúc. Còn trong du ký, hiện thực là đối
tượng chính, cảm xúc góp phần làm cho bức tranh hiện thực có chiều sâu hơn.
Ngoài ra du ký còn có tính chất giao thoa với nhật ký. Cả du ký và nhật ký đều
mang suy nghĩ sâu sắc của cái “tôi” trần thuật, ghi chép lại sự việc bằng những
cảm xúc chân thành theo diễn biến thời gian một cách cặn kẽ, chính xác và đặc
biệt cả hai thể loại đều không chịu sự bó buộc của khuôn khổ, bố cục hay dung
lượng.
Du ký còn là thể loại giao thoa với chính luận. Để tạo nên cảm xúc thẩm
mỹ cho người đọc, ký không chỉ thông tin sự thật mà còn phải biết khái quát sự
thật thành hình tượng thông qua phương pháp chính luận nghệ thuật. Sự hiện
diện của yếu tố chính luận cũng là một trong những yếu tố làm nên đặc sắc cho
du ký. Để làm cho tác phẩm trở nên sâu sắc hơn thì các nhà du ký khi phản ánh
hiện thực đã biết cách chọn lựa những con người, sự việc điển hình, tiêu biểu.
Miêu tả những điều mắt thấy tai nghe bằng cả tâm huyết để người đọc có thể soi
chiếu qua đó mà suy ngẫm, bàn luận về mọi khía cạnh của đời sống. Du ký tuy
không gay gắt như chính luận nhưng cũng đủ để lại suy ngẫm cho người đọc.
Trong du ký có sự kết hợp hài hòa giữa phản ánh hiện thực với việc thỏa mãn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
những tình cảm thẩm mỹ của con người nên du ký có vai trò “góp phần làm giàu
cho nhận thức và tạo nên nhiều giao cảm giữa người viết và bạn đọc. Nó rất có
ý nghĩa để góp phần đáp ứng nhu cầu của con người trong thời đại mà nhu cầu
hiểu biết, thông tin đã phát triển rất rộng rãi” [19, tr.225-226].
Có thể thấy rằng du ký là thể loại có tính tổng hợp, giao thoa với nhiều thể
loại khác như phóng sự, nhật ký, tùy bút, chính luận... Chính điều này đã giúp
tác phẩm du ký chiếm lĩnh được mọi mặt của đời sống, đồng thời giúp người đọc
có thể thấy được những giá trị nhân sinh, nhân văn sâu sắc. Ngoài ra, du ký do
được hình thành ở giai đoạn giao thời có tính chuyển tiếp, nên thể loại có những
cách tân mới mẻ về mọi mặt: Chữ viết, cách hành văn, cách phản ánh những vấn
đề thẩm mỹ nên càng hấp dẫn người đọc. Và du ký còn được ví như “một pho tư
liệu” quý giá mang đến cho người đọc các kiến thức về nhiều lĩnh vực: lịch sử,
địa lý, giáo dục, chính trị… góp phần đưa văn học gần hơn với cuộc sống.
1.1.3. Khái lược về du ký vùng biển đảo phía Bắc nửa đầu thế kỷ XX
Trong khoảng từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX thể tài du ký chủ yếu
do các nhà nho sáng tác và được viết bằng chữ Hán. Xuất hiện vào nửa cuối thế
kỷ XIX, Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký - là tác phẩm du ký
được viết bằng chữ quốc ngữ, có ý nghĩa nối tiếp truyền thống du ký Việt Nam
với sự tiếp nhận du ký của thời đại. Nó vẫn mang một số đặc điểm của du ký
trung đại, nhưng đã mang dáng dấp của tác phẩm du ký hiện đại, thể hiện trên
kết cấu của tác phẩm theo cấu trúc hành trình về những nơi tác giả đi qua có danh
lam và thắng tích, sự quan sát tinh tế với vốn tri thức phong phú để miêu tả đối
tượng.
Sang giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, du ký Việt Nam phát triển trong bối
cảnh lịch sử và văn học có những chuyển biến mạnh mẽ. Tác phẩm du ký đầu
tiên xuất hiện và được viết bằng tiếng Pháp đó là Hương Sơn hành trình của
Nguyễn Văn Vĩnh được đăng trên Đông Dương tạp chí ở các số 41, 42, 43, 44,
45, ghi chép lại chuyến hành trình về vùng đất Phật. Ở giai đoạn này do ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hưởng chính sách khai thác thuộc địa của người Pháp ở Đông Dương, trong đó
có việc mở mang đô thị, phát triển giao thông và dịch vụ đã tạo điều kiện cho
việc du hành trở nên dễ dàng hơn. Những cuộc du hành của các tầng lớp trí thức
có tác dụng làm sống dậy các giá trị của dân tộc. Nhiều tác phẩm du ký chữ Hán
và chữ Pháp được dịch và đăng trên các tạp trí, tiêu biểu như Nam Phong hay
một số tạp chí, tờ báo khác như Phụ nữ Tân văn, Tri tân, Công luận báo, Hà
Thành ngọ báo, An Nam tạp chí,...
Biển đảo là một phần của lãnh thổ Việt Nam, đặt trong tương quan Bắc -
Nam vùng biển đảo phía Bắc Việt Nam bao gồm 11 tỉnh: Quảng Ninh, Hải
Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. Vùng biển đảo phía Bắc là khu vực bao gồm
cả phần đảo và phần đất liền, vùng đồng bằng và miền núi. Ở đó có sự đa dạng
về địa lý, văn hóa và con người góp phần làm cho du ký vùng biển đảo phía Bắc
phong phú, đa dạng trong sự kết hợp của 11 tỉnh.
Khi nghiên cứu về vùng biển đảo Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu
Sơn đã có bài nghiên cứu “Nhận diện du ký biển đảo Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX theo các vùng văn hóa”. Trong nghiên cứu ông đã chỉ ra: “Việt Nam có vùng
biên giới biển đảo rộng dài nên đã hình thành cả một tuyến văn hóa duyên hải
và biển đảo (gọi chung là vùng văn hóa biển đảo) tiếp nối liên tục từ Quảng Ninh
đến Kiên Giang. Nói riêng bờ biển có trên 3.260 km trải dài từ Bắc tới Nam,
đứng thứ 27 trong số 157 đảo quốc và quốc gia ven biển trên thế giới. Trên thực
tế, vùng văn hóa biển đảo có nhiều nét đặc thù, có thể được đặt trong nhiều hệ
qui chiếu và tương quan khác nhau trong tổng thể bảng màu văn hóa Việt
Nam…” [60]. Như vậy, với những đặc thù riêng về vị trí địa lý ở nước ta, đường
bờ biển trải dài từ Bắc chí Nam, và khoảng hơn 4000 hòn đảo lớn nhỏ chạy dọc
theo đường bờ biển, đã hình thành nên vùng văn hóa biển đảo vô cùng phong
phú và đa dạng. Khi nghiên cứu về vùng biển đảo phía Bắc, nhà nghiên cứu
Nguyễn Hữu Sơn đã chỉ ra rằng: “Vào nửa đầu thế kỷ XX, các tác phẩm du ký
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
viết về vùng duyên hải và biển đảo Bắc Bộ thiên về phong cách ký sự, ghi chép,
gia tăng bình luận ngoại đề, tiếng nói chính luận, mở rộng phản biện các vấn đề
chính trị, kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán liên quan đến quốc kế dân sinh”
[60]. Theo nhận định của nhà nghiên cứu thì du ký viết về vùng biển đảo phía
Bắc đã có sự manh nha và phát triển đáng kể, mang phong cách mới, nó không
đơn thuần là những tác phẩm ghi chép bình thường mà ở mỗi một tác phẩm du
ký lại có sự dung lạp của các yếu tố như bình luận, chính luận hay phản biện các
vấn đề.
Du ký về vùng biển đảo phía Bắc nửa đầu thế kỷ XX được hình thành
trong những điều kiện khách quan và thuận lợi. Có thể kể đến các tác phẩm du
ký bề thế: Sự du lịch đất Hải Ninh của Trần Trọng Kim (Nam phong Tạp chí,
1923), Chơi vịnh Hạ Long của Nguyễn Hữu Tiến (Nam phong tạp chí, 1924),
Thụy Anh du ký của Đặng Xuân Viện (Nam phong Tạp chí, 1931), Quảng Yên
du ký của Nhàn Vân Đình (Nam phong Tạp chí, 1932), Một cuộc hành du của
BAB.J. (Khoa học, 1936), Hội Đồ Sơn của Trọng Lang (Ngày nay, 1938), Bốn
năm trên đảo Các Bà của Vân Đài (Tri tân Tạp chí, 1944),… Du ký vùng biển
đảo phía Bắc nói riêng và du ký nói chung đã góp phần quan trọng trong sự phát
triển du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Như vậy, du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
thực sự là những trang sử bằng ngôn từ nghệ thuật, ở đó tái hiện chân thực danh
lam thắng tích, cảnh vật, biển trời và hình ảnh cuộc sống, con người vùng biển
đảo phía Bắc Việt Nam một thuở một thời. Như trong tác phẩm du ký Bốn năm
trên đảo Các Bà của nữ sĩ Vân Đài, tác giả đã miêu tả một cách chân thực những
danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và cuộc sống người dân trên đảo Các Bà -
đảo Các Bà trước đây thuộc Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh, ngày nay Các Bà thuộc
địa phận tỉnh Hải Phòng. Đặc biệt trong tác phẩm nữ sĩ đã thực sự quan tâm đến
vấn đề thế lực Khách trú cầm quyền “thao túng”, xâm phạm đến chủ quyền, an
ninh, trật tự xã hội và cả đời sống kinh tế, văn hóa. Tóm lại, những tác phẩm du
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX không chỉ đơn thuần
tái hiện những danh lam thắng tích mà thông qua đó những nhà du ký còn đưa ra
sự cảnh tỉnh, cảnh báo mạnh mẽ việc người Tàu tìm cách lách luật, lợi dụng khai
thác nguồn tài nguyên thủy sản vô giá của ta, làm giàu trên vùng biển của ta,
ngay trên xứ ta với đủ các chiêu trò. Đó cũng là lý do mà người viết chọn nghiên
cứu đi sâu tìm hiểu về du ký vùng biển đảo phía Bắc Việt Nam.
1.2. Cơ sở văn hóa xã hội về sự ra đời và phát triển của du ký viết về biển
đảo phía Bắc nửa đầu thế kỷ XX
1.2.1. Ý thức sáng tác của nhà văn và nhu cầu thưởng thức của độc giả
Đầu thế kỷ XX nền văn học Việt Nam có sự chuyển mình theo hướng hiện
đại hóa trên cơ sở chịu ảnh hưởng và tiếp thu văn học phương Tây. Cũng chính
vì thế mà số lượng du ký được sáng tác ra và số lượng đội ngũ tác giả đã tăng
đáng kể. Các tác giả du ký trong thời kỳ này với lối viết, tư tưởng có sự lai ghép
giữa truyền thống và hiện đại, giữa phương Đông và phương Tây. Ở đó có lối
viết đầy tự do, phóng khoáng như trong văn học phương Tây. Nhà nghiên cứu
Lại Nguyên Ân nhận xét: “Sáng tác văn học thể ký thường thịnh hành ở các giai
đoạn văn học sử ứng với các thời kỳ xã hội có sự khủng hoảng của các quan hệ
cũ, nảy sinh một nếp sống mới, làm tăng cường chú ý đến sự miêu tả các thói
tục” [5]. Như vậy trong bối cảnh xã hội nước ta đang có nhiều biến động, đặc
biệt là sự xâm chiếm của thực dân Pháp trong giai đoạn này đã tạo nên nền văn
học với đội ngũ tác giả mới, đội ngũ quần chúng với thị hiếu thẩm mĩ mới.
Bối cảnh xã hội Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, đã tác động
mạnh đến đội ngũ sáng tác cả về tư tưởng cũng như thành phần các tác giả du
ký. Các nhà du ký họ viết lên câu chuyện của chính mình mà chẳng cần gò bó
trong một khuôn khổ nào. Đội ngũ tác giả được xuất hiện với nhiều tư cách khác
nhau. Đó có thể là nhà giáo, nhà báo, nhà văn, học sinh, hay cũng có thể là các
vị quan, nhà chính trị, nhà phê bình, đặc biệt đó còn là các nhà buôn, hoặc một
khách du lịch bình thường khác... Họ là những người ham thích du lịch, ưa khám
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phá, trải nghiệm. Họ có cơ hội để đi và muốn chia sẻ, kể lại câu chuyện của mình
qua những chuyến đi nhằm mang đến cho người đọc những cảm hứng muốn
“xách ba lô lên và đi”. Trong bài Nghệ thuật rong chơi, ký giả Thanh Châu có
bàn về thú rong chơi, theo ký giả: “Đi chơi cho mình, đó mới là phép đi chơi vậy.
Các cụ ta xưa, thực là đủ tư cách đi dong chơi. Bất kể ngày giờ, tự nhiên thấy
một cái lá rụng trước sân nhà, một người bạn liền đi tìm một người bạn. Rồi
rượu quảy trên lưng, họ đi đến trốn non kỳ nước lạ. Một vách đá bị san phẳng
để đề thơ, một món thịt rừng làm thức nhắm, song rồi đánh một cuộc cờ để chờ
trăng sáng. Và hôm sau lại lên đường, không biết là đi đâu, mà cũng quên nghĩ
đến chuyện về” [10]. Đi, xem và viết về quê hương, đất nước mình, đồng bào
mình để mọi người được cùng nhau hiểu rõ hơn về quê hương, làng bản mình.
Hay đó còn là cảm nhận về cảnh sắc thiên nhiên, những phong tục tập quán, đặc
sản vùng miền của từng địa danh mà các nhà du ký từng đặt chân đến. Viết du
ký như một sự san sẻ những trải nghiệm và nhận thức cho đồng bào, mở mang
dân trí, mang cảm hứng tới độc giả. Đồng thời thông qua những trang du ký đã
khích lệ được lòng yêu tổ quốc, niềm tự hào dân tộc, và khẳng định chủ quyền
đất nước. Vùng biển đảo phía Bắc nước ta có vị trí chiến lược quan trọng, đặc
biệt thế lực Trung Hoa luôn luôn rình rập tranh chấp biển đảo với ta. Nên việc
nghiên cứu các tác phẩm du ký về biển đảo phía Bắc là công việc vô cùng quan
trọng trong việc khẳng định chủ quyền và vạch trần âm mưu thôn tính biển đảo
nước ta của các thế lực thù địch.
Trong cuốn Luận bình văn chương, tác giả Nguyễn Hữu Sơn đưa ra ý kiến
về giá trị của du ký: “Những trang nhật ký này vừa có ý nghĩa văn chương vừa
là những tư liệu khảo sát, điền dã về địa lý, lịch sử, phong tục tập quán, góp
phần nâng cao nhận thức cho độc giả về thực tế miền sơn cước - nhất là trong
điều kiện thông tin báo chí hồi đầu thế kỷ còn rất hạn chế” [56, tr.48]. Mỗi tác
giả, khi đi và viết lên những trang du ký đều mang một mục đích và ý nghĩa tốt
đẹp. Vì trong mỗi chuyến đi, họ không chỉ nhằm mục đích đi để viết ra những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
điều mà họ nhìn thấy, nghe thấy. Mà đó còn là những xúc cảm của bản thân trước
cảnh sắc thiên nhiên, trước những phong tục, tập quán, sự đổi thay của đất nước,
cuộc sống con người mà bản thân các nhà du ký họ muốn giãi bày, sẻ chia tới
các độc giả.
Nửa đầu thế kỷ XX, sự chuyển mình của xã hội Việt Nam từ một nước
phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến đã xuất hiện thêm nhiều tầng
lớp mới: Tư sản, tiểu tư sản... Họ là những người được học chữ quốc ngữ, được
tiếp xúc với văn hóa phương Tây, nên có những tư tưởng, lối sống mang dáng
dấp phương Tây. Họ là nhân tố mới của xã hội, hứng đón những thay đổi của
thời cuộc, và cũng là lực lượng sáng tác mới trong xã hội hiện đại. Đó cũng chính
là hệ quả của trào lưu văn học phương Tây ảnh hưởng tới xã hội Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX. Trong xã hội hiện đại, họ có nhu cầu cần được giải trí, được
hiểu biết, được thưởng thức, họ không còn là những độc giả thụ động lắng nghe,
và những trang văn mang tính chất tải đạo, khuôn mẫu nữa. Trong xã hội này,
họ cần thứ văn cập nhật, gần gũi với đời sống, những trang văn sinh động như
chính xã hội họ đang sống. Du ký trong giai đoạn này, được viết bằng thứ chữ
dễ đọc, dễ viết, dễ cảm thụ đó là chữ quốc ngữ. Sự phát triển của chữ quốc ngữ
cùng với báo chí, dịch thuật đã đưa thể loại du ký đến gần gũi hơn với bạn đọc.
Với lối viết văn đơn giản, không cầu kỳ hay trau chuốt mà tương đối phóng
khoáng, tự do nên du ký hiện đại đã thật sự là thể văn phù hợp với mọi loại hình
độc giả giai đoạn giao thời.
Ngoài ra, giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX do có sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa ý thức sáng tác của nhà văn và nhu cầu của người đọc nên đã thôi thúc mạnh
mẽ các tác phẩm du ký ra đời trong đó có những tác phẩm du ký viết về biển đảo
phía Bắc. Đó là những trang du ký phản ánh chân thực bức tranh phong cảnh
cũng như cuộc sống của những người dân vùng biển đảo phía Bắc nói riêng và
của toàn thể người dân trên khắp cả nước nói chung. Sự chân thực của du ký
không chỉ mang đến cho độc giả bức tranh về biển trời, sóng nước nơi biển đảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mà qua đó còn nêu nên ý thức cảnh giác, bài học kinh nghiệm về chủ quyền biển
đảo, hay các vấn đề kinh tế, văn hóa xã hội của vùng biển đảo phía Bắc Việt
Nam.
1.2.2. Điều kiện giao thông và du lịch
Bước sang thế kỷ XX, giao thông Việt Nam có nhiều thay đổi, thực dân
Pháp đã hoàn tất cuộc xâm lược nước ta, chúng đã bước đầu bắt tay vào công
cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam nói riêng và toàn Đông Dương nói chung.
Nhằm đẩy mạnh công cuộc khai thác, thực dân Pháp đã cho xây dựng hệ thống
cơ sở vật chất, giao thông liên lạc hiện đại. Trong đó người Pháp đã tập trung
xây dựng hạ tầng giao thông vận tải ở Việt Nam: Hệ thống các bến cảng, đường
sắt, đường bộ, sân bay... Giao thông được xây dựng, mở mang khiến cho hoạt
động đi đây đi đó, du lịch trở nên thuận tiện và dễ dàng chưa từng có. Giao thông
thuận lợi là tiền đề thúc đẩy sự phát triển thể du ký trong giai đoạn văn học nửa
đầu thế kỷ XX. Nó mang lại cho con người cơ hội thực hiện những chuyến đi
nhanh và xa hơn, thoát khỏi không gian tù túng, chật hẹp nơi lũy tre làng khép
kín hàng thế kỷ phong kiến trước đó. Nhờ đó mà các nhà du ký đã thực hiện được
hàng trăm các chuyến đi lớn nhỏ đến với khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam. Từ
miền xuôi lên miền ngược, từ miền núi xuống đồng bằng, đến các ven biển và
hải đảo xa xôi. Hay đó còn là các chuyến đi được kéo dài từ Nam ra Bắc và
ngược lại. Điều đó làm cho số lượng các tác phẩm du ký đã tăng một cách đáng
kể.
Nhờ sự thay đổi về cơ sở hạ tầng đường giao thông mà các nhà du ký đã
có điều kiện thâm nhập sâu vào đời sống vùng miền, có thể dấn thân đến nhiều
nơi trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Do vậy, các tác giả du ký không
chỉ tập trung miêu tả những danh lam thắng cảnh đẹp, hay những truyền thống
lịch sử, con người nơi họ đến. Mà trên những cuộc hành trình của mình các tác
giả du ký hiện đại đã không quên miêu tả tỉ mỉ những con đường nơi họ đã đi
qua. Tác giả Khuông Việt trong Con đường thiên lý đã chú ý đến con đường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trong chuyến hành trình của mình: “Có ai lặng ngắm bản đồ Đông Dương, sẽ
không khỏi chú ý tới một đường đỏ, dọc từ trên xuống dưới, quanh co theo bãi
biển và rẽ ra những nét xiên hay là ngang. Rồi nẩy cái ý vui vui coi nó là mạch
máu của con Rồng vàng đang vẫy vùng trên Trung Quốc hải. Ấy là con đường
thiên lý” [6, tr.677]. Và hệ thống giao thông hiện đại còn được miêu tả khá cụ
thể: “Rồi lần lần, con đường thiên lý biến thành con đường thuộc địa số 1 dài
2.528 km chạy từ Nam Quan ngăn đôi hai tỉnh Quảng Tây và Tàu Lạng Sơn của
Việt, cho tới ga Aranya, biên giới giữa hai nước Thái Lan và Cao Mên. Đoạn
chánh thuộc đường thiên lý cũ là đoạn nối ba thư đồ Sài Gòn, Huế, Hà Nội dài
1375.
Thêm vào đó 1738 km đường xe lửa làm trong 34 năm từ 1897, lúc quan
cố Toàn quyền Paul Doumer đề xướng đến ngày 2 tháng 9 năm 1936 là ngày
khánh thành con đường sắt xuyên Đông Dương” [6, tr.683]. Như vậy, theo tác
giả Khuông Việt bên cạnh công cuộc khai thác của thực dân Pháp thì hệ thống
giao thông của nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX đã được chú trọng đầu
tư và tương đối phát triển. Với hệ thống giao thông hiện đại chưa từng có trong
lịch sử nước ta, tuyến đường sắt xuyên Đông Dương không chỉ là cầu nối kết nối
từ Bắc chí Nam mà còn là tuyến đường giao thông huyết mạch để kết nối nước
ta với các nước Đông Dương. Đó chính là điều kiện thuận lợi cho các nhà du dý
có thể bứt phá mạnh mẽ ra khỏi không gian tù túng, chật hẹp hay những mối
quan hệ nhỏ hẹp để kết nối với không gian bên ngoài, mở mang tầm nhìn, mang
lại những hiểu biết sâu rộng về đất nước con người Việt Nam và trên thế giới.
Giao thông chính là chiếc cầu kết nối con người trên khắp mọi miền tổ quốc với
nhau, đưa các nhà du ký đến những miền đất mới nhanh và kịp với thời đại hơn.
Trong chuyến Đi chơi ngoài Bắc Kỳ, Huế và bên Tàu của ký giả X, ký giả
đã trải nghiệm trong chuyến đi chơi này với phương tiện giao thông hết sức hiện
đại, đó là xe lửa. Theo ký giả thì xe lửa là phương tiện giao thông hết sức phổ
biến và ưa chuộng lúc bấy giờ: “Xe lửa đi gần tới Hà Nội thì ghé nhà giấy Gia
Lâm là nơi các xe lửa hàng nằm đêm và nơi sửa máy móc các xe lửa, vì tại nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giấy Hà Nội thì không xe lửa nào nằm hết, sợ chật chội. Phần nhiều xe lửa đi
các ngõ, phía nào cũng phải chạy ngang qua ghé nhà giấy Gia Lâm này là giáp
đường. Xe lửa Hà Nội kể được lối năm mối đường đi tứ phía, mỗi mối một ngày
chạy vài ba lần, thật là hẳn hoi hơn Nam Kỳ quá” [79]. Theo ký giả, không chỉ
là phương tiện giao thông hiện đại, mà hệ thống đường xá cũng chằng chịt, điều
đó cho thấy giao thông nước ta phát triển. Sự phát triển của giao thông đã tạo
điều kiện cho ngành du lịch cũng có bước tiến mới.
Đi và viết về những gì mình từng trải qua, đã truyền cảm hứng đến những
con người trên lãnh thổ Việt Nam niềm yêu mến quê hương đất nước mình hơn.
Nếu trước đó lối sống, văn hóa Nho giáo ăn sâu vào tiềm thức người Việt, con
người ưa lối sống ổn định, họ ngại đi trong thời gian dài, xa gia đình, xa làng xóm
quê hương. Thì khi phương tiện giao thông thuận lợi cùng với luồng tư tưởng
phương Tây đã thôi thúc con người lên những chuyến xe, chuyến tàu để khám phá
tìm hiểu những vùng đất mới. Các nhà du ký với tâm trạng háo hức đã lên đường
đi tìm những gì thuộc về giá trị của non sông đất nước: “Thế thì chúng ta ngần
ngại gì mà không lợi dụng những sự thuận tiện ấy để đạp đổ bao nhiêu khó khăn,
để đi đến chỗ hoàn hiểu biết nhau, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, sống chết có
nhau, hầu gây lại cho non sông cái mầu tươi sáng...” [6, tr.685].
Vùng biển đảo phía Bắc Việt Nam là nơi có địa hình tương đối phức tạp,
hiểm trở. Nhưng nơi đây đã thu hút được hàng trăm hàng nghìn du khách đến
thăm thú mỗi năm bởi những giá trị của thiên nhiên ban tặng như Vịnh Hạ Long
là điểm đến lý tưởng của những người ham thích du lịch, ham thích khám phá
những điều mới lạ của tự nhiên. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là một
trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới mang giá trị tinh thần rất lớn đối với đời
sống con người. Tác giả Nguyễn Hữu Tiến có bài Chơi Vịnh Hạ Long đã đưa
người đọc đến với Hạ Long để chiêm nghiệm những phong cảnh, cuộc sống của
con người nơi đây, đặc biệt thông qua đó người đọc hiểu được lịch sử của dân
tộc nhằm khẳng định chủ quyền biển đảo của đất nước. Hay nữ sĩ Vân Đài có bài
Bốn năm trên đảo Các Bà, theo bà “Các Bà là một nơi có rất nhiều ngọn núi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quanh quất, có thể cho thuyền ẩn tránh những ngày gió bão” [14, tr.612]. Sự
hiểm trở do tạo hóa thiên nhiên đã mang đến lợi ích cho con người, với vị trí của
Các Bà: “Các Bà là con đường gần hơn hết trong các ngả đường từ Nam sang
Tàu: Rất tiện cho sự giao thông và chở các thứ hàng lậu thuế” [14, tr.612]. Để
thỏa mãn sự tò mò của bản thân, đồng thời kiểm chứng những điều đã được phản
ánh trong du ký đã thôi thúc những nhà du ký đi để khám phá và viết về nơi đây.
Phương tiện và giao thông thuận lợi đã tạo điều kiện cho nhiều nhà du ký những
cơ hội được đi và khám phá, và vùng biển đảo phía Bắc luôn là nơi lý tưởng để
họ có thể đến đó du lịch và thưởng ngoạn những cảnh sắc thiên nhiên tuyệt vời.
Trong giai đoạn hiện nay du lịch là ngành kinh tế mang tính liên ngành, liên
vùng. Du lịch có sự phát triển vượt bậc nhờ sự đóng góp quan trọng của ngành
giao thông vận tải như hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, nhà ga, bến
tàu, các tuyến bay hàng không được tăng cường, mở rộng. Hay hệ thống mạng
lưới và phương tiện vận tải đường biển, đường sông không ngừng được đầu tư, để
phục vụ cho việc đi lại, vận chuyển của hành khách. Sự phát triển cả về du lịch
lẫn giao thông vận tải là điều kiện, là tiền đề cho các tác phẩm du ký ra đời mang
nhiều màu sắc mới. Các tác phẩm du ký đầu thế kỷ XX đã có ý thức trong việc
nhấn mạnh vai trò của du lịch, tiêu biểu Quảng Yên du ký của Nhàn Vân Đình.
Tác giả đã có những cảm nhận rất tinh tế về cảnh sắc thiên nhiên của đất nước và
thông qua đó nhà du ký muốn khẳng định vai trò của du lịch đối với mỗi con
người: “Non xanh bể biếc là sự tự nhiên của tạo hóa an bài, không đợi ai phải đắp
mà rồi non kia mới cao, phải xẻ phải đào mà bể kia mới sâu. Thế thì non cao vật
sâu là vật thế bảo của vũ trụ phơi bày như gấm dệt như hoa thêu, ông cha ta biết
lợi dụng lấy mà thu vào một mảnh dư đồ rộng rãi, rực rỡ. Nếu người đời không
đưa chân mà du lịch tới, không buông mắt mà thưởng thức tới, không những đối
với vũ trụ là một con người vô tình, mà cả đối với tổ quốc, đối với ông cha cũng
là một hạng nhân vật lãnh đạm” [17, tr.81].
Giao thông và du lịch phát triển, làm cho du ký cũng phát triển. Điều đó
giúp cho những độc giả có cơ hội được chiêm nghiệm những trang du ký nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
màu sắc hơn.
1.2.3. Sự phát triển văn học chữ quốc ngữ và báo chí, xuất bản
Ở giai đoạn đầu thế kỉ XX, do tiếp thu ảnh hưởng của văn học phương Tây
nên nền văn học được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm đã dần được thay thế bằng
một nền văn học mới đó là văn học được viết bằng chữ quốc ngữ. Suốt nhiều thế
kỷ, nền văn hóa Hán đã tồn tại và ngự trị văn hóa Việt Nam nên các tác phẩm ra
đời mang những quy định nghiêm ngặt, cách gieo chữ, gieo vần hay đối tượng
được dập theo khuôn mẫu của văn học Hán. Bên cạnh đó, nhiều điển cố, điển
tích, đã được sử dụng trong lời ăn tiếng nói của nhân dân và trong sáng tác văn
học. Tuy nhiên, chữ Hán là một văn tự ngoại lai nên không thể nào đáp ứng được
những yêu cầu của người Việt trong việc ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói
cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm. Chính vì vậy người Việt cần có một thứ chữ
riêng của mình để đáp ứng những yêu cầu trên nên tất yếu chữ Nôm đã ra đời để
bù đắp vào chỗ mà chữ Hán không đáp ứng được. Chữ Nôm là một loại văn tự
xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố và phương thức cấu tạo của chữ Hán để
ghi chép từ Việt và tiếng Việt. Ðến thế kỷ XVIII - XIX chữ Nôm đã phát triển
tới mức cao, át cả địa vị chữ Hán. Các tác phẩm như Hịch Tây Sơn, Khoa thi
hương dưới thời Quang Trung (1789) đã có bài thi làm bằng chữ Nôm. Truyện
Kiều của Nguyễn Du cũng được viết bằng chữ Nôm, hay trong du ký có Tây
hành nhật ký của Phạm Phú Thứ.
Bước sang giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, nền văn học nói chung và du ký
nói riêng đã có những bước tiến quan trọng. Sự phát triển của văn học có sự đóng
góp quan trọng của các nhân tố: Quốc ngữ, báo chí và xuất bản. Ba nhân tố này
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, làm tiền đề vững chắc cho sự phát triển của
nền văn học trong các giai đoạn sau.
Chữ quốc ngữ xuất hiện ở nước ta khá sớm vào khoảng cuối thế kỷ XVII
một số giáo sĩ phương Tây học tiếng Việt để truyền đạo Thiên Chúa. Họ dùng
chữ cái La-tinh ghi âm tiếng Việt. Nên trong khoảng một thời gian dài, chữ quốc
ngữ chỉ lưu hành trong giới truyền đạo. Đây là thứ chữ viết tiện lợi, khoa học, dễ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phổ biến. Sang đầu thế kỷ XX, chữ quốc ngữ đã được thừa nhận và được lan
rộng qua các phong trào cổ động cho việc lựa chọn chữ quốc ngữ thay cho chữ
Hán và chữ Nôm diễn ra trong khắp cả nước do các sĩ phu, trí thức hưởng ứng.
Ưu điểm lớn của chữ quốc ngữ là dễ đọc, dễ viết, có khả năng ghi chép, hay phản
ánh những vấn đề của xã hội nên nó nhanh chóng trở thành thứ chữ được mọi
người chấp nhận. Các tên tuổi có đóng góp cho sự phát triển của chữ quốc ngữ
như Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Châu Trinh…
Nguyễn Văn Vĩnh khuyến khích mọi người đề cao việc học chữ quốc ngữ đã nói:
“Chữ quốc ngữ là hồn của nước”, “nước ta sau này hay dở đều ở chữ quốc ngữ”.
Chữ quốc ngữ như một luồng gió mới từ phương Tây thổi vào Việt Nam. Trong
giai đoạn này du ký quốc ngữ phát triển sôi nổi như một thể tài tiên phong mang
nhiệm vụ chuyển tiếp nền văn học. Mở đầu là những tác phẩm với quy mô, tầm
vóc lớn như Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký đến hai du ký
bằng thơ trường thiên của Trương Minh Ký là Như Tây nhựt trình và Chư quấc
thại hội, du ký đã chứng minh được sự tiếp nối vững chắc của nền văn chương
mới. Như vậy nhiệm vụ chuyển tiếp nền văn học được trao cho du ký một cách
ngẫu nhiên. Như một mạch ngầm chảy suốt từ mười thế kỷ văn học đến đầu thế
kỷ XX, bắt gặp tinh thần khai phóng của phương Tây, chất lý tưởng của hiện
thực khách quan, du ký nối tiếp ra đời tạo thành một hiện tượng văn học ở giai
đoạn giao thời. Du ký như một chất xúc tác, một thiết bị truyền dẫn trung gian
quan trọng để văn học đổi mới. Du ký quốc ngữ phát triển phong phú ở cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX là yêu cầu tất yếu của cuộc chuyển giao nhiệm vụ giữa
nền văn học mang tính khu vực và nền văn học mang tính toàn cầu. Trên phương
diện nội dung, du ký quốc ngữ đã phá bỏ sự hạn hẹp trong không gian phản ánh
của văn chương nhà Nho để hướng cái nhìn mở rộng ra toàn thế giới. Du ký thực
hiện sứ mệnh trung gian của hai phạm trù văn học, kết lại phạm trù văn học cũ
và mở ra phạm trù văn học mới. Với vai trò của “con chim báo bão” du ký xung
phong mở đường bằng những sáng tác đầu tiên trong lịch sử văn học quốc ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và lịch sử văn xuôi tiếng Việt.
Nửa đầu thế kỷ XX, cùng với quá trình thực dân hóa của đế quốc Pháp ở
Việt Nam, báo chí đã phát triển nhanh chóng từ vị trí là công cụ của chính quyền
thực dân sang vai trò của một kênh thông tin truyền bá văn hóa, điều đó đã tạo cho
người dân có không gian để thảo luận về các vấn đề của đất nước. Nên các tờ báo
ra đời bước đầu phản ánh quyền lợi của giới kinh doanh công thương nghiệp cũng
như phản ánh những chuyển biến trong tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và văn
hoá của Việt Nam lúc bấy giờ. Báo chí nửa đầu thế kỷ XX được phát triển đồng
hành với văn học. Phần đông các sáng tác văn học khi ra đời đều thông qua xuất
bản báo chí để đến với công chúng, những tờ báo, tạp chí như Nam phong, Tri tân,
Tiểu thuyết thứ bảy, Nam kỳ tuần báo, Đông Dương tạp chí,… tạo ra một đội ngũ
tác giả đông đảo, chuyên nghiệp, trong đó có phần lớn các tác giả du ký: Phạm
Quỳnh, Vân Đài, Trúc khê, Nguyễn Trọng Thuật…
Nhìn chung, cùng với sự chuyển biến của xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX, báo chí ra đời đã chuyển dần từ vai trò là công cụ cai trị
của chính quyền thực dân, sang vai trò mới là một kênh truyền bá tư tưởng học
thuật, tạo nên một không gian văn hóa tư tưởng để mọi người dân có thể thảo
luận các vấn đề như văn hóa, lối sống, phê phán những hủ tục, đặc biệt giúp
người dân được tiếp cận với chữ quốc ngữ. Báo chí đã giúp người dân Việt Nam
hiểu biết về một thế giới rộng lớn, giúp họ tiếp cận với các tư tưởng mới, các nền
văn hóa mới, các thành tựu văn hóa, khoa học kỹ thuật của nhân loại. Và báo chí
cũng là nơi giúp người dân Việt Nam được nói lên tâm tư nguyện vọng của mình
trước các vấn đề của cuộc sống như quyền được học tập, được lao động, quyền
bầu cử, quyền tự định đoạt số phận mình... Thông qua báo chí, du ký cũng đã
nhanh chóng đến được với độc giả một cách nhanh chóng và mau lẹ. Bạn đọc
chỉ cần ngồi một chỗ, cầm tờ báo là có thể thu vào tầm mắt mình muôn vàn cảnh
đẹp, hiểu được thêm nhiều những phong tục tập quán, lối sống của những đồng
bào khác nhau trên đất nước Việt Nam hay trên toàn thế giới. Sự phát triển của
báo chí và chữ quốc ngữ đã thúc đẩy mạnh mẽ nền văn học phát triển trong đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
có du ký.
1.2.4. Giao lưu văn hóa Đông - Tây
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những chuyển biến về văn hóa xã hội đã
tạo nên tiền đề cho sự chuyển mình của văn học Việt Nam. Từ loại văn thơ cổ
có niêm luật rõ ràng sang văn thơ mới có phong cách tự do theo trào lưu tiếp
nhận từ phương Tây. Theo Hoài Thanh, Hoài Chân trong cuốn Thi nhân Việt
Nam có nhận định: “Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch
sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ” [69]. Đúng như vậy, nền văn minh phương
Đông và phương Tây vốn đã có độ chênh lớn trên nhiều phương diện, nên sự gặp
gỡ giao thoa giữa hai nền văn minh này đúng là một “cuộc biến thiên” trong lịch
sử văn học nói chung và trong du ký nói riêng. Du ký có vai trò vô cùng quan
trọng trên bước đường tìm đến với văn học thế giới của văn học dân tộc. Du ký
tìm đường, mở ra không gian phản ánh mới cho văn chương. Sự tìm tòi đó mang
tính lịch sử bởi nội dung và phương pháp phản ánh của du ký đã khác hẳn so với
thi pháp văn học trung đại, nó mang tinh thần khai phóng phương Tây trong tư
duy phương Đông của những chủ thể tiếp thụ cả hai nền văn hóa.
Nền văn học mới là nền văn học gắn liền với các tên tuổi và các sản phẩm
tinh thần mới. Sự chuyên môn hóa của văn chương biểu hiện rõ nét bằng việc
các thể loại, thể tài văn học khác xa với văn chương cổ điển ra đời. Bên cạnh văn
học nhà nho tồn tại lay lắt với những tên tuổi rời rạc là nền văn học mới khởi
nguồn bằng các tác phẩm văn học dịch: Dịch từ kho tàng văn học Hán Nôm sang
chữ quốc ngữ, dịch từ nền văn chương Pháp sang chữ quốc ngữ. Đáng chú ý có
mảng dịch thuật văn chương gắn liền với ý thức hướng ngoại, tiêu biểu cho
khuynh hướng này là tác phẩm Quy - li - ve du ký của tác giả Jonathan Swift đã
được tác giả Nguyễn Văn Vĩnh đưa đến với con người Việt Nam một luồng gió
phiêu lưu mới mẻ. Tác phẩm kể về cuộc phiêu lưu của nhân vật Quy - li - ve đến
với đất nước người tí hon, đất nước của những người khổng lồ, qua Nhật Bản và
đất nước Ngựa người. Hành trình đi qua những vùng đất khác nhau của nhân vật
Quy - li - ve đã chinh phục được nhiều bạn đọc, đặc biệt đã thổi một luồng tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tưởng mới vào những tác giả và độc giả du ký với những khát khao cháy bỏng
được phiêu lưu, được mạo hiểm. Du ký đã có cơ hội được vươn xa hơn không
chỉ đến với các nước trong khu vực mà còn đến với các nước trên thế giới.
Song song tồn tại với những tác phẩm dịch thuật, phóng tác là những tác
phẩm du ký quốc ngữ như Sách sổ sang chép các việc (1822) của Philipphê
Bỉnh, Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876) của Trương Vĩnh Ký và hai du ký
trường thiên bằng thơ song thất lục bát của Trương Minh Ký là Như Tây nhựt
trình và Chư quấc thại hội. Sự kết hợp Đông - Tây trong du ký quốc ngữ của
Trương Minh Ký thể hiện ở cái nhìn của nhà văn về các nước phương Tây. Tâm
hồn nhà thơ hoà chung cảnh vật, con người như không còn ngăn trở bởi rào cản
văn hóa. Trong quan niệm của Trương Minh Ký không có sự phân biệt về chủng
tộc, giống loài, không có sự so sánh thấp cao giữa các nền văn minh mà chỉ có
cái tiến bộ cần tiếp thu và những nhược điểm cần chối bỏ. Trương Minh Ký là
một trí thức được đào tạo ở các trường dòng của Pháp, sau này ông lại làm nhiều
công việc phục vụ cho chính quyền Pháp với niềm tin “quá trình tiếp thụ văn hóa
Pháp sẽ giúp Việt Nam đạt được văn minh và độc lập”. Vì thế, tình cảm quốc tế
Trương Minh Ký đối với người Pháp, đối với nước Pháp có được một cách tự
nhiên. Tình cảm nhân đạo xóa mờ ranh giới giữa các dân tộc, các màu da là việc
làm mà con người mọi thời đại đều hướng đến. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên
cứu, có thể đó là suy nghĩ ngây thơ về chính trị nhưng lại là suy nghĩ đi trước thời
đại nếu xét ở ý nghĩa tích cực của nó.
Những giá trị của thời thuộc địa đồ sộ gắn liền với nền văn minh phương
Tây bắt nguồn từ những mục tiêu thực dân phản động nhưng khách quan mà nói,
công cuộc khai thác thuộc địa đã mang lại cho Việt Nam những thay đổi vô cùng
quan trọng tạo những tiền đề cơ bản để nước Việt Nam thoát dần những ảnh
hưởng của phương Bắc và tiếp nhận những thành tựu của phương Tây. Đó cũng
là cội nguồn để Việt Nam tiếp cận với thế giới hiện đại. Người Việt đã nhận ra
được nhiều chân lý mới “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” nên khát khao
ra đi, khát khao tìm hiểu những chân trời mới đã cuốn hút họ, và mong muốn bứt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phá thoát ra khỏi cái ao làng tù đọng bao lâu nay. Sự xâm nhập nền văn học
phương Tây vào nền văn học Việt Nam là cơ hội để cho các nhà văn, nhà du ký
có thể bứt phá lối mòn cũ, tìm cho mình con đường, chân trời mới. Giao lưu văn
hóa Đông - Tây đã tạo ra cho nền văn học nói chung và du ký nói riêng một diện
mạo mới có sự hòa quyện giữa truyền thống và hiện đại mà vẫn không làm mất
đi bản sắc vốn có của nền văn học dân tộc.
1.3. Đội ngũ sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu viết về biển đảo phía Bắc
Du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã thu hút
được đông đảo các tác giả. Nhìn chung họ đều là những trí thức, thuộc tầng lớp
tiên tiến trong xã hội đương thời. Phần lớn được xuất thân trong môi trường Nho
học, được nuôi dưỡng và ảnh hưởng của luồng văn hóa, tri thức phương Tây. Họ
có nhu cầu đi để tìm hiểu, cải tiến đất nước. Đi không chỉ có xem, biết mà còn
có cả những xúc cảm thẩm mỹ từ cái nhìn vọng ngoại để hướng nội. Xuất phát
từ nhiệm vụ chính trị cụ thể được đặt ra trong bối cảnh đất nước cần cải tiến, duy
tân mà những du ký xuất dương, gắn liền những chuyến vượt biển dài ngày ra
đời. Tiêu biểu là chuyến đi của nhà văn nữ Phạm Vân Anh được phản ánh trong
tác phẩm Sang Tây - Mười tháng ở Pháp, những ghi chép của Phạm Vân Anh đã
cho thấy phần nào diện mạo đời sống xã hội nước Pháp và khả năng áp bức, chi
phối, bóc lột của tư bản Pháp với người dân lao động cả ở chính quốc cũng như
nước thuộc địa. Ngoài ra, còn hàng loạt các tác giả du ký là những trí thức, thuộc
tầng lớp tiên tiến trong xã hội đương thời như: Mộng Tuyết, Bạch Liên, Trần Cư,
hay nhà nghiên cứu văn học, sử học, tôn giáo Trần Trọng Kim, nhà thơ Trần Thế
Xương…
Đội ngũ các tác giả, tác phẩm du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX nhìn chung khá đông đảo và phong phú. Với các tác giả, tác
phẩm như: Nữ sĩ Vân Đài (Bốn năm trên đảo Các Bà), Đông Châu (Chơi vịnh
Hạ Long), Trọng Lang (Hội Đồ Sơn, Đi vịnh Hạ Long), hay Phạm Quỳnh (Mười
ngày ở Huế, Pháp du hành nhật ký), Tùng Hiệp (Sầm Sơn đầy ánh sáng), Hát
Ch. Đê (Sầm Sơn với những ngày chưa ai đến nghỉ mát), Phạm Mạnh Phan (Kỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
niệm Sầm Sơn), Trúc Khê (Chơi Cửa Bạn), Nguyễn Đức Tánh (Các nơi cổ tích
đất Nghệ Tĩnh)… Các tác phẩm du ký nhìn chung đều mang những dấu ấn riêng
của từng tác giả, cho dù họ có chung một điểm đến nhưng những câu chuyện và
cách kể của họ lại hoàn toàn khác nhau nên mang đến cho độc giả những cách
nhìn nhận đa chiều.
Bên cạnh đông đảo các tác giả, tác phẩm du ký viết về vùng Đông Bắc hay
Tây Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Các tác giả, tác phẩm du ký viết về biển
đảo phía Bắc cũng vẽ lên bức tranh muôn màu, muôn vẻ về non sông gấm vóc
Việt Nam. Họ đã cùng nhau tạo nên những thước phim sinh động về thiên nhiên,
con người vùng biển đảo phía Bắc nói riêng và thiên nhiên con người Việt Nam
nói chung. Qua các trang du ký đã phần nào bồi đắp cho mỗi con người chúng ta
lòng yêu quê hương, tổ quốc, sống có trách nhiệm hơn với quê hương, đất nước
mình. Vô hình chung, du ký được lựa chọn một cách tự nhiên, phù hợp với yếu tố
chủ quan và khách quan hiện thời. Nó phục vụ cho nhu cầu ghi chép lại những
điều tai nghe, mắt thấy từ thế giới bên ngoài, và vừa tái hiện chân thực cuộc sống,
vừa bộc lộ những xúc cảm tinh tế trong tâm hồn người cầm bút. Nên du ký trong
giai đoạn này có một đội ngũ sáng tác cùng với số lượng các tác phẩm vô cùng
phong phú và đa dạng, điều này đã làm cho du ký có một chỗ đứng nhất định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Tiểu kết chương 1
Trên con đường phát triển của mình, du ký nửa đầu thế kỷ XX đã có những
đóng góp đáng kể vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Ở giai đoạn này
du ký vừa mang tính chất giao thời, vừa mang tính chất cổ điển của nền văn học
trung đại, đồng thời được đổi mới theo hình thức văn học phương Tây. Những
điều kiện thuận lợi khách quan của văn hóa xã hội Việt Nam giai đoạn này như
giao thông, du lịch, báo chí, giao lưu tiếp xúc Đông - Tây… đã góp phần làm
cho du ký đạt được những thành tựu phát triển rực rỡ.
Du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã góp phần
hòa chung vào dòng chảy của du ký Việt Nam. Các nhà du ký khi vết về biển
đảo phía Bắc đã ghi chép một cách chân thực về vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây,
ở đó có những con người bình dị, chân thành, cùng cuộc sống mang đặc trưng
của miền biển. Để hiểu được rõ hơn về vùng đất, con người biển đảo phía Bắc
Việt Nam qua các trang du ký, đồng thời hiểu được những giá trị nghệ thuật trong
các trang du ký đó, người viết sẽ làm rõ hơn ở hai chương tiếp theo của luận văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA DU KÝ VỀ BIỂN ĐẢO PHÍA BẮC
VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1. Nhu cầu khám phá cái mới của chủ thể du ký
“Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”
Khao khát được đi để mở mang tầm nhìn hiểu biết, để thấy được những
điều “mắt thấy tai nghe” đó là mong ước của nhiều người qua nhiều thế hệ. Và
du ký là một thể loại bút ký đặc biệt ghi lại những cảm hứng của người đi khám
phá những vùng đất lạ, cảm xúc về những lộ trình mới và ghi lại hình ảnh về
những chuyến đi đặc biệt. Mỗi tác phẩm du ký như một cuốn phim quay chậm
về hành trình đến và đi mà chủ thể đã trải lòng và cảm nhận. Văn học Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự nở rộ của thể tài du ký, trong đó du ký viết
về biển đảo phía Bắc được quan tâm khá nhiều. Với các tác giả tiêu biểu như:
Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Đông Châu, Nguyễn Đức Tánh, Nhàn Vân
Đình... Mỗi cây bút lại có sự quan tâm, hứng thú, đi sâu khám phá những vùng
địa lý, văn hóa riêng như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Huế, Thanh Hóa... Nhưng
nhìn chung, các tác phẩm du ký đều phản ánh, truyền đạt những nhận biết, những
cảm tưởng, nhận thức mới mẻ của bản thân mình về những gì mắt thấy, tai nghe
với một niềm say mê, khát khao tìm kiếm, khám phá điều mới lạ.
Những nhà du ký khi đến và viết về biển đảo phía Bắc với khát khao, mong
muốn khám phá cái mới và lạ. Đó có thể là nơi đã từng in lại rất nhiều những dấu
chân của các nhà du ký hay đó là nơi mà chưa hề có bất kỳ nhà du ký nào đặt
chân đến. Nhưng dù là vùng đất nào đi chăng nữa thì những nhà du ký vẫn luôn
mang trong mình những khát khao được đi để khám phá những điều mới mẻ nhất
mà các nhà du ký trước chưa nhìn nhận ra.
Sầm Sơn là khu du lịch nổi tiếng được khai thác từ cuối thế kỷ XIX với
hơn 100 năm hình thành và phát triển. Phong cảnh sơn thủy hữu tình nơi đây thì
thật hiếm có: Với bãi cát dài và đẹp, nắng vàng biển xanh chan hòa, các con sóng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khá lớn đã khiến cho Sầm Sơn trở thành một nơi thu hút rất nhiều khách du lịch
đến với vùng đất này, trong đó có dấu chân của các nhà du ký. Nhiều nhà du ký
đến với Sầm Sơn và viết về nơi đây như: Tùng Hiệp (Sầm Sơn đầy ánh sáng),
Hát Ch. Đê (Sầm Sơn với những ngày chưa ai đến nghỉ mát), Hội Thống (Sầm
Sơn 1929), Phạm Mạnh Phan (Kỷ niệm Sầm Sơn)… Đến với Sầm Sơn và viết
về nơi đây nhiều, nhưng Phạm Mạnh Phan trong Kỷ niệm Sầm Sơn vẫn luôn thể
hiện khát khao tìm một điều gì khác lạ và mong muốn đem đến những luồng
gió mới cho cuộc sống: “Tôi đã mong có một cuộc đổi gió để đem những luồng
không khí trong trẻo cho dòng huyết quản của tuổi thiếu thời đang sục sạo như
cần đòi hỏi một cái gì” [47, tr.5]. Và để đem được luồng gió mới lạ đó chỉ bằng
cách là phải ra đi: “Tôi ra đi để tìm một cái gì xa lạ, để tầm con mắt trông rộng
nhìn xa, khỏi bị giam hãm trong khuôn khổ chật hẹp của phố phường đầy cát
bụi” [47, tr.5]. Dù biết rằng, Sầm Sơn là nơi đã có rất nhiều nhà du ký đến và
viết về nó nên hầu như những cái hay, cái đẹp nơi đây họ đã nói hết cả rồi.
Nhưng Phạm Mạnh Phan vẫn luôn ấp ủ trong lòng khát khao, mong muốn khám
phá những điều mà chưa ai nói tới. Vì vậy đến với Sầm Sơn, Phạm Mạnh Phan
đã mang một tâm trạng đầy háo hức: “Với một tâm hồn sốt sắng đầy ước mong
được gặp cảnh trời xa lạ, đầy chí hăng hái được đùa rỡn với sóng cồn bể cả thì
đường dẫu xa cũng hóa nên gần.” [47, tr.5].
Du ký là một hình thức để các nhà văn có thể thuật lại, bộc lộ những cảm
xúc, suy ngẫm của mình qua những chuyến đi. Cùng với những chuyến đi là
những cảm nhận khác nhau về cùng một địa điểm hay không cùng một địa điểm.
Nhưng dù viết về các khía cạnh khác nhau thì mỗi nhà du ký ra đi đều mang
trong mình khát khao được khám phá những chân trời mới, cùng những hoài bão,
ước mong trong chính bản thân của nhà du ký. Ở trong họ luôn tràn đầy nhựa
sống, mang đến cho độc giả cảm giác được phiêu lưu, được khám phá. Mỗi cuộc
hành du là một khám phá đầy bất ngờ và thú vị của chủ thể du ký về phong cảnh
thiên nhiên, văn hóa hay phong tục tập quán… Như vậy du ký nói chung và du
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ký viết về biển đảo phía Bắc nửa đầu thế kỷ XX nói riêng đã thể hiện được khát
khao, nhu cầu khám phá cái mới của chủ thể du ký, điều đó đã cuốn hút được
người đọc tham gia vào cuộc viễn du cùng các nhà du ký.
2.2. Hiện thực đời sống xã hội của con người vùng biển đảo phía Bắc
2.2.1. Cảnh quan và môi trường sinh thái trong du ký
Thể tài du ký được hình thành từ những chuyến đi, các nhà du ký đã đem
đến cho người đọc được chiêm nghiệm những cảnh sắc thiên nhiên tuyệt vời,
cùng với môi trường sinh thái nơi mà họ đã từng đặt chân đến. Qua ngòi bút của
các nhà du ký, những vùng đất nổi tiếng, hay những nơi xa xôi hẻo lánh đã được
tái hiện lên một cách sinh động. Biển đảo phía Bắc Việt Nam bao gồm cả phần
đất liền và phần hải đảo, trong các tác phẩm du ký có những trang du ký tái hiện
nên cảnh sắc thiên nhiên với núi non trùng điệp như trong Quảng Yên du ký
(Nhàn Vân Đình), nhưng phần nhiều các tác phẩm du ký tập trung tái hiện cảnh
quan thiên nhiên biển trời, sóng nước như Bốn năm trên đảo Các Bà (Vân Đài),
Một cuộc hành du (BA B.J), Kỷ niệm Sầm Sơn (Phạm Mạnh Phan),… Dù là cảnh
sắc núi non trùng điệp hay biển trời, sóng nước thì mỗi tác phẩm du ký đều mang
những vẻ đẹp riêng của nó, đặc biệt trong đó còn chứa đựng tấm lòng yêu quê
hương, đất nước của những nhà du ký.
Thừa Thiên Huế là một vùng văn hóa độc đáo, đa dạng và phong phú, góp
phần làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với các giá
trị văn hóa phi vật thể như phong tục tập quán, lễ hội, làng nghề hay nghề truyền
thống… mà còn là nơi chứa đựng rất nhiều những giá trị văn hóa vật thể như các
di tích lịch sử, bảo tàng, và đặc biệt là các danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp nơi
đây. Trong chuyến Đi chơi ngoài Bắc Kỳ, Huế và bên Tàu của ký giả X, khi đến
với vùng đất Huế ký giả đã ghi lại cảnh quan có một không hai nơi đây: “Trong
xe ngó ra coi địa cảnh tốt quá, ở trên thì sum sê cây lá tươi xanh, ở dưới thì biển
tông vào chân núi ào ào bọt bèo trắng phếu” [79]. Một cảnh quan thiên nhiên
tuyệt đẹp, hội tụ đầy đủ cả cảnh sắc của miền đồi núi và miền biển, mà theo ký
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giả thì ở “Nam Kỳ không thấy được sự đẹp như vậy”. Hay khi đi qua khu vực
Đèo Hải Vân (tên gọi khác là Ải Vân) ký giả X cũng có cảm nhận về cảnh sắc
hùng vĩ nơi đây: “là nơi núi cao lắm, thường thường có mây trên núi, đứng dưới
ngó lên không thấy trời, đứng trên ngó xuống không thấy đất, vì mây ám.” [79].
Đèo Hải Vân qua con mắt của ký giả đã cho thấy nơi đây quả thực xứng danh
với tên gọi “Đệ nhất hùng quan” - tức là cảnh đẹp hùng vĩ nhất trong thiên hạ
không nơi nào có thể sánh bằng.
Vừa thuộc khu vực Đông Bắc Việt Nam, Quảng Ninh là vùng đất có lịch
sử lâu đời. Nơi đây được ví như một Việt Nam thu nhỏ, vì có cả biển, đảo, đồng
bằng, trung du, đồi núi và biên giới. Thời Hùng Vương vùng đất Quảng Ninh
nay là bộ Lục Hải, một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang và Quảng Yên. Nhàn
Vân Đình trong Quảng Yên du ký đã phác họa lại dư đồ của vùng đất này: “Đời
Hùng Vương được gọi là một bộ Hải Ninh, đông giáp bể Thái Bình, tây giáp tỉnh
Hải Dương, bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, còn nam thì giáp châu Kiến Thụy.” [17,
tr.81]. Với vị trí địa lý như vậy Quảng Yên là một nơi có thể trông ra bốn bể mà
cảm nhận cảnh quan thiên nhiên. Đến với Quảng Yên, Nhàn Vân Đình đã không
tiếc những lời khen ngợi của mình về cảnh sắc nơi đây: “Từ đây trở đi, tàu chen
núi, núi chen bể, bể khoe bể sâu, núi khoe núi cao, núi có bể thêm đẹp, bể có núi
thêm tình, dẫu không tiên mà vẫn nổi danh, không long lanh mà vẫn linh dị, bậc
nhân giả, bậc trí giả, vui sướng biết bao.” [17, tr.85]. Nhà du ký đã vẽ lên một
bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, ngoài ra người đọc còn được cảm nhận
môi trường sống của những con người nơi đây khi theo chân tác giả tới Mông
Dương: “Xứ Mông Dương khí hậu lạnh rét, xem vào hàn thử biểu rét nặng hơn
bức, mùa hạ quạt ít, mùa đông đôi khi tuyết xuống thành khối. Ma thì thiêng,
nước thì độc, người trung châu tới làm phu số nhiều là da bủng tóc đứng. Mỗi
khi lấy nước uống thuê chiếc thuyền con vượt qua suối, tắt vào khe núi bên kia,
đã có một cái mạch thiên nhiên chảy ra nước ngọt. Ngoài ra chó lội trút lông,
dùng kính hiển vi mà coi, độc chất vân vẩn khá sợ.” [17, tr.125]. Môi trường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sống mang đậm màu sắc tự nhiên, và quả thực đây là chốn “rừng thiêng nước
độc”, với thời tiết khắc nghiệt theo mùa làm cho điều kiện sinh sống và làm ăn
của con người khó khăn hơn bao giờ hết, mà theo tác giả thì nơi đây thực là xứ
“Ma thì thiêng, nước thì độc”. Điều đó cho thấy người dân nơi đây họ đã phải
gồng mình lên mà chống chọi với sự khắc nghiệt của tạo hóa thiên nhiên.
Trong Một cuộc hành du của BA B.J nhà du ký đã có cảm nhận riêng của
mình về những thứ hết sức dung dị, bình thường, nhưng không kém phần sống
động, tạo nên một bức tranh hài hòa sống động về vùng sóng nước, đó là hình
ảnh về những con sóng, về những bãi sú mênh mông xanh mướt: “Bên trái chúng
tôi là bể, sóng đang cuồn cuộn xô vào bãi rồi lại lùi ra; cái khác ở ngoài tiến
vào, hai cái gặp nhau xô nhau ầm ầm, ngọn sóng xàn lên trắng xóa. Cái sóng
ngoài mạnh hơn cái trong ra, nên nó chọi nhau với hai ba cái rồi mà tiến vào rất
mạnh. Hình như những cậu Sóng tranh nhau để hôn cô Bãi cát; cậu nào cũng
giàn giàn lên bãi rồi ra. Bên phải chúng tôi là bãi sú mênh mông đến hết tầm
con mắt” [7, tr.8]. Cũng trên cuộc hành trình của mình, khi đến làng Đôn Lương
thuộc huyện Cát Hải, ký giả đã được chứng kiến một quang cảnh thiên nhiên
hoang tàn và một môi trường ô nhiễm, uế tạp nơi đây. Đó chính là kết quả của
những trận bão dâng nước lên mà những người dân vùng biển họ phải gánh chịu,
ký giả đã tái hiện lên bức tranh hết sức chân thực với những hình ảnh nhà cửa,
cây cối, động thực vật: “Nhà cửa toàn lợp bằng lá gồi và che bằng liếp chứ không
có tường vách. Vài bụi tre chết khô trơ gốc ra. Một cái vườn đầy cành con và lá
khô có dăm ba cây con mọc khẳng khiu. Hai bên đường, mỗi quãng ngăn lại có
một cái chuôm, có chỗ hai ba cái giáp nhau, nước đen mà bẩn, trong có năm sáu
cây khá to đã chết khô. Cành lá không có vẫn đứng ngâm gốc. Có cây đổ chổng
kềnh, vẫn nằm như người tiêm thuốc phiện. Vài cái gốc lù lù như người ngồi
xổm. Vài đàn vịt độ chục con xuống những cái chuôm ấy đùa, không biết chúng
nó mò lấy gì ở đấy. Mèo, chó, gà, ngỗng, lợn khoang nhiều nhất, chạy nhông
nhông khắp cả” [7, tr.10]. Cùng chứng kiến quang cảnh nơi đây, người đọc có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thể hiểu được phần nào ý đồ của nhà du ký với mong muốn đem đến cho độc giả
thấy được môi trường sinh thái vùng biển khi bị ảnh hưởng của tạo hóa thiên
nhiên thì sẽ biến đổi như thế nào? bên cạnh những cảnh quan khi nhìn bề ngoài
thì đẹp lung linh huyền ảo, nhưng khi đi sâu vào bên trong nó thì lại hoàn toàn
khác biệt.
Phạm Mạnh Phan khi đến với Sầm Sơn đã choáng ngợp với sự nguy nga
và lộng lẫy của cảnh sắc nơi đây: “núi Sầm Sơn với những biệt thự nguy nga, với
những cây phi lao nhởn nhơ trước gió, đã đứng nghiêm trang một cách kiêu kỳ
và lộng lẫy” [47]. Sự kết hợp của tạo hóa thiên nhiên cùng với tạo hóa do con
người làm nên, nơi đây đã quyến rũ bao khách phương xa tới để được chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của một “Sầm Sơn với non nghìn biệt thự xây rải rác ở các nơi
theo một kiến trúc đặc biệt tối tân (…) Sầm Sơn với trái núi đá quanh co khấp
khuỷu, với chùa Độc Cước, với hòn Trống Mái, với bãi biển rộng rãi bao la (…)
Sầm Sơn với rừng thông xa tít, với rặng phi lao rào rạt, đã chứng kiến biết bao
cuộc gặp gỡ nên thơ, đã được nghe biết bao lời ân ái trong khoảng đêm trường
tĩnh mịch” [47]. Tất cả đã tạo nên một Sầm Sơn đầy huyền ảo, không chỉ đẹp về
cảnh sắc thiên nhiên, mà còn rất đẹp và mộng mơ khi nơi đây đã chứng kiến “biết
bao cuộc gặp gỡ nên thơ”. Con người khi đến với nơi đây như say với cảnh sắc,
ra đây rồi thì lòng họ chẳng muốn về, bởi khi đến Sầm Sơn thì họ cảm thấy nhẹ
nhàng và thanh thản, thấy tâm hồn khoan khoái và trong trẻo mà không phải nơi
nào cũng mang lại cảm xúc đó. Khi xa rồi thì người ta lại mong một ngày được
trở lại vì “Người ta nhớ tới một khoảng trời êm dịu ấy để ngắm cảnh bể rộng
mênh mông, phương trời xa thẳm với những con thuyền của ngư phủ rập rình
đầu ngọn sóng!” [47].
Biển trời, sóng nước nơi biển đảo luôn mang lại nhiều cung bậc cảm xúc
cho con người. Du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã
phản ánh được điều đó. Các tác giả du ký khi đến với nơi đây, họ mang trong
mình những khát khao được đi, được nhìn thấy, được cảm nhận cảnh sắc và môi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trường sinh thái nơi họ đặt chân đến. Một bức tranh muôn màu vạn vẻ trong các
trang du ký đã được hiện lên thật sống động, chân thực, và đầy huyền ảo. Tìm
hiểu các tác phẩm du ký viết về biển đảo phía Bắc đã giúp người đọc nhìn thấy
được bức tranh mang đầy đủ màu sắc cùng với môi trường sinh thái mà con người
ở nơi đây đang sinh sống.
2.2.2. Đời sống của những con người lao động vùng biển đảo phía Bắc
Biển đảo đã thu hút biết bao lữ khách bởi cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp
nơi đây. Nhưng có lẽ thu hút nhất vẫn là vẻ đẹp bình dị trong cuộc sống của
những làng chài, những con người hồn hậu chất phác vùng biển đảo. Hình ảnh
những đoàn thuyền đánh cá nối đuôi nhau ra khơi, trở thành hình ảnh đẹp của
người dân chài ven biển. Du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam đã phản ánh
một cách chân thực đời sống của những con người nơi đây.
Cuộc sống của con người miền biển có khi được thu nhỏ bằng một phiên
chợ. Trong cuộc hành trình của mình, BA B.J. đã được tận mắt chứng kiến hình
ảnh phiên chợ ở bến Hải Phòng. Đó là nơi tụ hội của những con thuyền từ Các
Bà về Hải Phòng để họp chợ: “Những thuyền ấy mang về bán tôm, cá, cua, ốc,
hến, sò, cá khô, vân vân, toàn là hải sản cả! Có nhiều thứ người ta mang về tận
Hà Nội bán như he, cá mực, cá song, cua bể,…” [7, tr.5]. Tác giả còn được chứng
kiến hình ảnh phiên chợ khác, đó là hình ảnh nhốn nháo, ngổn ngang của phiên
chợ Sắt sắp tan: “Chợ Sắt đang nhộn nhạo sắp tan. Bên ngoài chỗ bến thuyền
chúng tôi đỗ, hàng quà, hàng nước, hàng phở, v.v… đầy rẫy; người đi lại tấp
nập, xe pháo ngổn ngang. Những phu thuyền quần quật mang hàng xuống thuyền
mình. Họ mang nhiều nhất là gạo. Đội những bao nặng chĩu cổ, họ đi lại như
không trên những tấm cầu ẽo ợt bắc từ thuyền vào bờ” [7, tr.6]. Qua phiên chợ
người đọc thấy được hình ảnh cuộc sống xô bồ, vất vả của người dân nơi đây.
Bên cạnh đó, những chiếc thuyền cũng phải vất vả vượt qua hàng nghìn con sóng
ngoài đại dương bao la để mang về đây những mẻ hải sản tươi ngon. Chân thực
hơn là hình ảnh những phu thuyền mang, vác những món hàng xuống thuyền và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đi trên những tấm cầu ẽo ợt. Phải chăng cuộc đời của họ mỏng manh như những
chiếc cầu này, đó là tất cả những gì con người nơi đây đang phải gồng mình lên
để chống chọi với thiên nhiên, với bão táp.
Đặng Xuân Viện trong “Thụy Anh du ký” khi nhớ lại những ngày tháng đi
chơi ở Thụy Anh, đã đem đến cho người đọc được cùng chứng kiến sự thuận tiện
của vùng đất Thái Bình: “Trên bến dưới thuyền lại có sở Thương chính đóng ở
đấy, có đò chở khách cùng các hàng hóa, lên tỉnh Thái Bình và dò ra Kiến An
rất là tiện lợi” [18]. Bên cạnh sự thuận tiện đó, cuộc sống vất vả của những người
nông dân đã được tác giả chú ý và phản ánh chân thực. Họ phải bám trụ vào rất
nhiều nghề như nghề đan vó, đan siếc, đan lưới, dệt vải sợi... Tuy nhiên theo như
tác giả thì nghề mang lại mối lợi to nhất vẫn là nghề làm thuốc lào, nghề làm
muối, và nghề đánh cá bể. Đối với nghề làm thuốc lào, đây là nghề mang đậm
chất của một người nông dân. Người dân họ phải kỳ công từ việc cày đất, đập
đất, bón phân cho đất, làm luống, cách chọn con giống,… rồi cho đến công đoạn
cuối cùng là đóng thành bánh để đem đi bán. Mặc dù vất vả như vậy nhưng cuộc
sống của họ đâu mấy dễ dàng, khi đem thuốc đi bán họ còn phải: “đem ra sở
Thương chính, cân được bao nhiêu, đánh thuế xong, phát cho cái vé, rồi mới
được đem bán các nơi, tự năm sáu bánh trở nên cũng phải tính thuế, mỗi bánh
tính ra chịu thuế hết năm xu, mà nhân công tính ra làm một bánh thuốc phí mất
sáu xu” [18]. Những người nông dân đã rất vất vả trong việc làm ra sản phẩm
của mình, thế nhưng kinh tế họ có được thì vô cùng thấp vì phí thuế quá cao, họ
chi phí mất sáu xu mà chịu thuế hết những năm xu. Cuộc sống của họ đã gặp
phải muôn vàn khó nhọc, quanh năm vất vả mà vẫn không đủ ăn, đủ mặc. Một
nghề khác, mang tính đặc trưng hơn của con người vùng biển, đó là nghề làm
muối và nghề đánh cá biển. Do họ không thể trồng cấy được vì đất đã ngấm vị
mặn của biển, nên người dân miền biển đã tiến hành sửa sang lại những mảnh
ruộng của mình biến nó thành những ruộng muối. Người làm muối phải tiến hành
rất nhiều công đoạn như rắc cát, bừa, đắp bờ, tát nước, tháo nước, lọc nước,…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và quan trọng hơn cả là thời tiết phải có nắng thì muối mới thành: “Nghề làm
muối hễ gặp được nắng thì mới phát đạt, nếu phải độ nào mưa dầm thời dân làm
muối lại phế nghiệp” [18]. Tuy nhiên khi đã thành muối thì họ lại bị kìm kẹp bởi
sở Thương Chính “Khi nấu ra thành muối đem nộp sở Thương chính, mỗi một tạ
tây thì chỉ cho công làm một đồng năm hào, mà giá bán ở ngoài mỗi một tạ tây
bốn đồng năm hào. Ai bán lậu, sở Đoan bắt được thì phải phạt” [18]. Sản phẩm
do mình làm ra nhưng lại không được toàn quyền sở hữu và sử dụng, cuộc sống
của người dân cũng không mấy được cải thiện với nghề làm muối. Nỗi vất vả,
nhọc nhằn của người dân miền biển được thể hiện rõ nhất trong nghề đánh cá
biển. Nghề đánh cá biển được hoạt động theo mùa “Nghề đánh cá bể tự tháng
giêng An Nam cho đến tháng năm, vì những tháng ấy êm trời lặng gió, mới có
thể ra bể được”. Chiếc thuyền là tài sản có giá trị to nhất của những người làm
nghề này, nên một người không thể có nổi chiếc thuyền là điều tất nhiên, họ phải
chung nhau để có được chiếc thuyền và đồ đạc để ra khơi, khi thành quả thu được
thì “Người nghèo chỉ lấy công làm lãi, được cá bao nhiêu chia làm ba, người có
đồ làm lấy hai phần, người có công đi đánh cá lấy một phần”. Khi ra khơi, họ
không chỉ gồng mình lên để chống chọi với những đầu sóng, ngọn gió mà khi
đánh bắt họ còn phải biết né tránh những con cá dữ như là cá ông voi, vì “thứ cá
ấy dữ nhất, nó nuốt được cả thuyền”. Nhìn chung, nghề làm cá cũng như nghề
làm muối họ phải phụ thuộc vào thiên nhiên phần nhiều. Và việc dựa phần nhiều
vào yếu tố tự nhiên, cho thấy đời sống của những ngư dân vùng biển khá là bấp
bênh, không ổn định và việc họ bị kiểm soát và chi phối nhiều bởi các cơ quan
hành chính đã làm cho đời sống của họ gặp nhiều vất vả, khó khăn.
Đời sống của những con người miền biển nói chung và những con người
thuộc biển đảo phía Bắc nói riêng còn bị chi phối bởi sự thâm nhập của những
kẻ “Khách” trú. Trong Bốn năm trên đảo Các Bà nữ sĩ Vân đài bên cạnh việc
mô tả những hoạt động nhộn nhịp của những hoạt động đánh bắt, khai thác và
buôn bán thủy hải sản nơi đây. Thì nữ sĩ đã cho chúng ta thấy sự tất bật, nhộn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhịp đó chủ yếu là do những “Khách” trú mang lại: “Tất cả thuyền cá của người
Tàu từ Bắc Hải, Long Châu, Hà Cối và các cửa bể gần miền duyên hải Bắc Kỳ,
một phần rất đông, lấy Các Bà làm nơi căn cứ.” [14, tr.612]. Các Bà là nơi rất
giàu có tài nguyên biển, đặc biệt nơi đây là nơi tụ hội của rất nhiều hải vị quí như
mực Bắc Hải, hải sâm, vây cá, bào ngư, long tu,… Những hải vị quý như vậy
mang lại lợi ích kinh tế rất cao, nhưng người Nam chúng ta do sự nghèo nàn về
nhận thức cũng như cơ sở vật chất đã dễ dàng để cho những người Tàu họ đến
để vơ vét những sản vật quý hiếm của thiên nhiên. Lợi ích mà người Tàu thu
được sau mỗi mùa đánh bắt là rất lớn, hầu như họ độc chiếm được vùng biển đảo
nước ta. Sống trên mảnh đất của ta, nhưng chúng ta đã để người Tàu họ làm chủ
trên mảnh đất của mình, đó là số phận chung của những người dân vùng biển
đảo, họ chỉ có thể ra khơi với những mẻ đánh cá nhỏ lẻ, hay chỉ có thể sống leo
lắt với nghề đi lấy củi, lấy cỏ, số còn lại có sức khỏe thì vác muối và làm thuê
cho bọn “Khách” trú.
Như vậy, các tác giả du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam khi đến
thăm nơi đây, trải nghiệm với cuộc sống nơi biển đảo, họ đã vẽ lên hình ảnh cuộc
sống của những người dân. Cuộc sống vẫn nối tiếp dù khó khăn vất vả, và người
dân lao động phải vượt qua mọi khó khăn để sống, và vươn lên. Với cuộc sống
mưu sinh, vồn vã, tấp nập của những con người vùng biển, ta vẫn thấy trong họ
có cái tình nồng hậu, cái ý chí kiên cường mang dòng máu của một dân tộc anh
hùng. Vị mặn của mồ hôi hòa lẫn vào vị mặn của biển đã thổi bừng lên sức sống
cho một ngày dài bận rộn. Bởi thế mà đất nước ta đẹp không chỉ bởi những hình
ảnh của thiên nhiên mây núi, bởi ruộng bậc thang vàng lúa chín, bởi những mênh
mang lòng biển dập dềnh khơi xa mà bởi chính vẻ đẹp của những con người đã
tạo nên thiên nhiên, họ đã thổi hồn vào thiên nhiên ấy, để bức tranh thiên nhiên
và cuộc sống trở nên lắng đọng, có sức sống hơn.
2.3. Những dấu ấn lịch sử văn hóa vùng biển đảo phía Bắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2.3.1. Con người vùng biển đảo phía Bắc
Biển đảo phía Bắc Việt Nam là nơi đã thu hút rất nhiều bước chân của các
nhà du ký bởi cảnh sắc thơ mộng của thiên nhiên và bởi cuộc sống nhộn nhịp của
những người dân nơi đây, qua đó hình ảnh con người miền biển đảo cũng được
hiện lên. Họ được hiện lên một cách tự nhiên, giản dị, ngay chính trong câu
chuyện, trong cuộc sống mưu sinh nơi biển đảo… Khác với các thể loại văn học
khác, con người có khi bị hư cấu, hay được hiện lên trong sự tưởng tượng của
nhà văn, thì trong các tác phẩm du ký đó là những con người đã được nhà du ký
gặp gỡ, trò chuyện, tiếp xúc nên tất nhiên con người ở đây là những con người
thật, họ chính là sự phản ánh, ghi chép chân thực và có chọn lọc của nhà văn.
Trong cuộc hành du của mình BA B.J. đã tiếp xúc với đầy đủ các hạng
người từ mụ lái, những anh phu thuyền, những khách di cư, đến những người
dân sống nơi đây. Nhưng tất cả họ hiện lên đều chân chất, giản dị, chân thành
cùng những nét hồn nhiên của con người miền biển: “Trong khoang lái cái
thuyền chúng tôi, mấy người đàn bà, và đàn ông rủ nhau đánh bài. Họ nô đùa
rồi quay ra vật nhau, cắn, cấu nhau, kêu í oái và đấm nhau thì thụp. Một lúc sau,
một anh phụ thuyền mình trần trùng trục, tay lẳn quần cười rũ rượi, từ trong
khoang bước ra ngoài rồi nhẩy sang cái thuyền khác.” [7, tr.6]. Con người nơi
đây được hiện lên không màu mè, không hư cấu, mà họ hiện lên với những nét
chân thật, hồn nhiên, vô tư, tinh nghịch. Mỗi khi rảnh rỗi, họ nô đùa, cắn, cấu
nhau, kêu í oái, đấm nhau thì thụp, trông họ lúc này không khác những đứa trẻ
con là mấy. Hay đó còn là hình ảnh rất đẹp của anh phu thuyền “mình trần trùng
trục”, do tính chất công việc của mình cùng với nắng và gió nơi biển đảo mà
trông anh giống như một “pho tượng đồng đúc”. Con người lao động khỏe khoắn,
vạm vỡ, rắn chắc là vậy mà tâm hồn anh vẫn hết sức hồn nhiên với điệu cười rũ
rượi.
Trong cuộc hành du của mình về các nơi cổ tích đất Nghệ Tĩnh, khi đến
với biển Cửa Lò, được tận hưởng bầu không khí trong lành, khoan khoái, nhẹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhành của biển mang lại, Nguyễn Đức Tánh cũng nhận ra hình ảnh con người
miền biển với sức vóc lực lưỡng khỏe khoắn, màu da ngăm ngăm đen mang đặc
trưng của con người miền biển: “Nhờ ở biển có không khí trong sạch, mà không
khí trong sạch là rất cần cho sức khỏe, cho nên mấy người kẻ ở biển tuy họ dầm
mưa dãi nắng lắm thì màu da ngăm ngăm đen, nhưng trông ra ai nấy đều sức
vóc lực lưỡng, khí sắc hào hùng” [18].
Trong du ký, con người hiện lên hầu hết không có một cái tên hay tuổi rõ
ràng, họ có thể là những người phu thuyền, người đàn bà, người đàn ông, đứa bé,
con bé, cô hàng, mụ lái… Những cách gọi về con người chung chung đó đã mang
đến cho người đọc cơ hội được trổ tài về trí tưởng tượng, có thể hình dung họ
khoảng bao nhiêu tuổi, họ cao lớn hay gầy gò ốm yếu… Khi đặt chân lên Cát
Hải, BA B.J. đã được tận mắt chứng kiến những người dân nơi đây khi đi qua
một cái chợ mà cả chợ có khoảng hai chục người, hàng hóa thì không có gì chỉ
có ít hoa quả như chuối, bòng bưởi, củ, tôm, tép… nhưng trong cái chợ đó có:
“Ba đứa trẻ con đang cạo cát bán hàng với nhau. Ngoài đường vài đứa đang
đuổi ngỗng, đuổi lợn. Hai đứa khác khênh một cây chuối qua rặng đá để mang
xuống bãi. (…) Cô hàng lại có thêm vài phong bánh khảo đỏ hay vàng. Một con
bé ít khoai và lạc luộc.” [18]. Con người được hiện lên với cuộc sống nghèo khó
nơi biển đảo, sự tan tác, xơ xác nơi đây đã khiến người đọc không khỏi xót xa về
số phận, về những kiếp người nhỏ bé, cùng cuộc sống mưu sinh vất vả của con
người nơi đây. Nhưng dù cuộc sống có nghèo đói, vất vả thì họ vẫn giữ được tính
nhân văn của con người với lòng hiếu khách, khi đối đãi một người khách mà họ
chưa từng quen biết. Đó là lời nói ân cần, lễ phép của người chồng mụ lái khi
tiếp đón khách: “Mời hai ông với bà ở lại chơi nhà chíu, đợi đến mai tứ bẩy giờ
không có thiền nào cả. Tốc nửa chíu sẽ đi hỏi thuyền để mai các ông đi” [18].
Một giọng nói địa phương hơi khó nghe khi người khách lần đầu tiếp xúc, nhưng
hàm xúc trong đó là cả một tấm chân tình của người miền biển dành cho những
vị khách lạ, với lời nói lịch thiệp, cung kính, tôn trọng. Người miền biển đã thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hiện được nét đẹp trong văn hóa đối nhân xử thế với con người. Trên hành trình
của mình, tác giả còn được người cung văn tiếp đãi tử tế: “Người cung văn tiếp
chúng tôi rất tử tế, hắn mời chúng tôi vào nhà tổ và têm giầu, pha nước đãi chúng
tôi”. Tiếp đó là sự ân cần tiếp khách của một người chủ nhà trên đường đi: “Người
chủ nhà mời chúng tôi vào trong nhà rót nước nóng ra đãi và lấy cái điếu sành
ở gầm bàn lên”. Ngoài ra, trong chuyến hành trình của mình, ký giả đã được
chứng kiến, gặp và tiếp xúc với nhiều người khác như “người đàn ông trạc ba
mươi tuổi, người gầy gò, mặt có vẻ hiền lành, tử tế, mình mặc áo trắng. Hắn mời
chúng tôi vào nhà”… Như vậy, qua việc tiếp xúc và gặp gỡ của ký giả, người
đọc như được thấy bản chất của con người miền biển. Họ có tình yêu thương và
giúp đỡ lẫn nhau mà không đòi hỏi bất cứ một quyền lợi gì, dù vất vả, khó khăn
nhưng tình yêu thương giữa con người với con người trong họ luôn được đặt lên
trên. Họ có thể giúp đỡ người khác bất cứ lúc nào, không kể trời mưa hay trời
nắng, không kể phải trèo đèo lội suối để giúp đỡ những vị khách xa lạ một cách
nhiệt tình, cùng với tấm lòng chân thành.
Đến với hai làng Tân Châu và Xuân Đám trong du ký Bốn năm trên đảo
Các Bà của nữ sĩ Vân Đài, người đọc không thể không ngưỡng mộ những con
người nơi đây, với vẻ đẹp: “Họ không bao giờ có sự gian dối với nhau, không
tham của nhau con gà, cái trứng, không bao giờ kiện nhau, và nếu thỉnh thoảng
họ không ra bến Các Bà mua muối, có lẽ ngoài “thế giới” riêng của họ ra, họ
không cần có ai nữa” [14, tr.620].
Trong chuyến đi của ký giả X, khi ở biển Cửa Lò ngoài việc chứng kiến
cảnh lao động mệt nhọc của những con người nơi đây, ký giả còn cảm nhận được
sự hồn nhiên, chân chất quê mùa, giản dị của họ: “Người quê mùa thật thà vậy
là dễ thương quá. Kêu lại biểu đứng ngay ngắn tử tế, người thì nhăn răng cười
hoài không hiểu chi, người thì đứng tự nhiên phình bụng phơi rốn, người thì
đang đứng xong xả rồi lại tính làm sao không hiểu, bộ ưa làm tốt làm sao, nên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lại bỏ đó chạy xuống mé biển rửa chân tay cho sạch được chụp hình. Thiệt là tức
cười quá, biểu đứng đó thì hay đứng đó chớ cũng không hỏi làm chi. Quê như
vậy cũng thật là có phước” [79].
Con người biển đảo được hiện lên sinh động, ngoài những nét đẹp về hình
thể do đặc điểm môi trường mang lại, họ còn hiện lên với nét đẹp trong tâm hồn.
Có lúc họ được hiện lên với vẻ mưu mô xảo quyệt (mụ lái), có lúc lại cảm thấy
họ tội nghiệp, đáng thương với công việc nặng nhọc họ phải gánh vác trên đầu,
trên vai. Và đặc biệt có lúc ta lại cảm thấy họ đẹp thực sự với văn hóa đối nhân
xử thế, tiếp đãi những vị khách xa lạ không mời mà đến. Họ ân cần, chu đáo,
hiếu khách, thẳng thắn trong cách nói chuyện. Tất cả cho thấy, con người là nơi
hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp, trong dáng đi của họ ta thấy được công việc vất vả,
nặng nhọc và trong quá trình tiếp xúc, nói chuyện ta thấy được nét đẹp trong tâm
hồn họ.
2.3.2. Văn hóa, phong tục tập quán của cư dân vùng biển đảo phía Bắc
Cuộc hành trình của các nhà du ký về với vùng biển đảo phía Bắc, những
nét văn hóa, phong tục tập quán của những người dân nơi đây đã được họ lưu
giữ lại trong những trang văn thật sinh động. Bằng sự quan sát và trải nghiệm
thực tế, các nhà du ký đã có những trang văn ghi chép tỉ mỉ về văn hóa cũng như
phong tục tập quán nơi đây. Những trang du ký giống như những thước phim
quay chậm, đưa người đọc đến với những vùng văn hóa, phong tục tập quán nơi
đây. Những người đã đi hay chưa từng đặt chân đến đều có thể ngồi một chỗ mà
thưởng thức, quan sát, chiêm nghiệm qua từng trang văn một cách dễ dàng nhất.
Từ đó có thể so sánh văn hóa vùng này với vùng kia, nó giống và khác nhau như
thế nào, có những điểm nào tích cực cần phát huy, những điểm nào là hủ tục cần
phải bài trừ… Ngồi một chỗ mà có thể ngao du khắp mọi nơi, đó là những gì mà
du ký mang đến cho độc giả chúng ta.
Đọc du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam, người đọc như được chứng
kiến cả một bầu trời cảnh sắc thiên nhiên, với hàng ngàn các di tích lịch sử, và đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
biệt là được đi sâu tìm hiểu về bức tranh cuộc sống của con người. Song song với
các di tích lịch sử, cảnh sắc thiên nhiên, người đọc còn thấy được đời sống văn
hóa, phong tục tập quán của những người dân. Ai đã từng đến với vùng biển Sầm
Sơn, thì sẽ bắt gặp những ngôi đền, thờ thần Độc Cước. Đây là một tâm thức của
người dân miền biển với cội nguồn văn hóa. Có thể thấy rõ nhất trong truyện cổ
Sự tích đền Độc Cước của người dân Sầm Sơn - Thanh Hóa. Với biểu tượng vị
thần kỳ lạ, có thể phân thành hai, một nửa cùng nông dân trồng trọt canh tác trên
ruộng đồng và một nửa cùng ngư dân đi đánh cá ngoài khơi, trở thành linh thần
bảo vệ biển đảo. Trong Quảng Xương danh thắng của Thiện Đình, tác giả cũng
đã đi sâu vào việc tìm hiểu sự tích đền Độc Cước, và lịch sử của việc đền thờ
ông Độc Cước ở vùng núi Sầm Sơn. Tất cả những ngọn núi nằm trong núi Sầm
Sơn, đều có đền thờ ông Độc Cước, và thần Độc Cước chính là một hình tượng
nghệ thuật thuần Việt và độc đáo. Trong nghiên cứu của Lê Như Bình về Sự tích
đền Độc Cước cũng đã nêu ra quan điểm: “Rõ ràng thần Độc Cước là biểu tượng
về con người Việt Nam với nét đặc thù “một hòa hai”, “hai trong một”: vừa là
ngư dân vừa là nông dân; đồng thời là biểu tượng về môi trường sống cũng như
nghề nghiệp từ bao đời nay của người dân Việt: trồng cây lương thực trên đất
liền và đánh bắt hải sản trên sông biển” [8, tr.136]. Tác giả đã chỉ ra rất rõ biểu
tượng thờ thần Độc Cước của người dân miền biển, ở đó ta thấy người Việt “vừa
là nông dân vừa là ngư dân”. Nhà nghiên cứu đã khẳng định cội nguồn văn hóa
trong tâm thức thờ thần Độc Cước: “Sự tích đền Độc Cước đã nhắc nhở mọi
người về khái niệm lãnh thổ đất nước đã được nhận thức từ xa xưa không phải
chỉ phần đất liền mà cả phần lãnh hải thiêng liêng nữa. Và biển đảo không chỉ
là nguồn sống mà còn là cội nguồn văn hóa của tộc Việt” [8, tr.137].
Trong Thụy Anh du ký, Đặng Xuân Viện cũng đã chỉ ra được nét đẹp của
người dân trong việc thờ cúng, tế lễ thần ở vùng biển Thái Bình: “Việc lễ thần
cũng có làng lễ trâu bò nhưng không có vào hội vào đám hai ba tuần lễ như các
nơi, chỉ trong ba ngày là xong việc. Đền ở làng Linh Cù thờ đức Triệu Úy Đà
cũng linh như đền Đồng Sâm (thuộc phủ Trực Định), nhưng đền nhỏ chứ không
được nguy nga tráng lệ như đền Đồng Sâm” [18]. Ngoài ra phong tục, tập quán
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cũng được nhà du ký phản ánh trong phong tục về cưới xin, ma chay: “Phong
tục ở đây còn giữ thuần phác. Lễ cưới thời không thấy bày giở những đồ xa hoa,
có nơi cô dâu về nhà chồng cử một người chị em làm bạn dâu đến ở nhà trai ba
ngày rồi mới về; có nơi khi cô dâu hồi môn đem một thúng gai dứa đến nhà trai
treo chỗ cửa buồng, đó là buổi mới cô dâu treo cái vật ấy để khỏi vía độc vậy.
Còn như lễ tơ hồng, lễ hợp cẩn thì cũng không mấy nơi dùng đến. Lễ tang vẫn
theo tục cổ, nhưng không có bày ra tế lễ quá phiền, ăn uống xa xỉ bao giờ. Đưa
ma thời thấy có một người cầm đuốc đi trước, đó là thủ nghĩa trừ hung thần và
các ma quỉ” [18]. Đó là những phong tục mang tính truyền thống cổ xưa của dân
tộc. Hiện nay, khi những luồng văn hóa của phương Tây xâm nhập vào nước ta
thì việc giữ gìn những truyền thống văn hóa cổ xưa mang một ý nghĩa hết sức
quan trọng. Đó là tất cả những gì mà cha ông ta đã tạo dựng, nên mỗi người dân
Việt Nam cần có ý thức trong việc giữ gìn và phát huy những truyền thống của
dân tộc, tiếp thu những luồng văn hóa mới một cách chọn lọc nhất “hòa nhập
nhưng không hòa tan”.
Những làng nghề truyền thống là không gian lưu giữ và bảo tồn văn hóa
của người dân miền biển, các nhà du ký đã tái hiện một cách sinh động các ngành
nghề truyền thống nơi đây. Đặng Xuân Viện tái hiện hình ảnh cuộc sống của
những người dân vùng biển Thái Bình, họ mưu sinh với nghề làm thuốc lào, nghề
làm muối, hay nghề đánh cá biển… Tất cả những nghề đó đều mang tính truyền
thống, được truyền từ đời này sang đời khác nhằm duy trì cuộc sống của những
người dân, đồng thời hiện lên hình ảnh con người với vẻ đẹp cần cù, chịu thương
chịu khó.
Trong du ký Bốn năm trên đảo Các Bà của nữ sĩ Vân Đài cũng đề cập
đến nghề chài lưới, nhưng chủ yếu do người Tàu họ hoạt động. Đến với Các Bà,
chúng ta còn được biết nơi đây có lẽ là nơi duy nhất còn gìn giữ được những thứ
căn bản của người Việt, với một thế hệ cũ, một vẻ đẹp mộc mạc thời xưa được
nữ sĩ Vân Đài tái hiện khi được chứng kiến hai làng Tân Châu và Xuân Đám. Nơi
đây như một bức tranh thu nhỏ về văn hóa làng mạc của Việt Nam với sự giản dị,
mộc mạc. Và đây còn là nơi bảo tồn những tục lệ cổ xưa: “Tục lệ hương thôn của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
họ rất giản dị, họ làm gì có những đám khao to, vọng lớn như dưới kia. Cả làng
có ai đi học, may ra được ít người biết quốc ngữ, biết cũng không làm gì! Nơi cả
năm không một tờ báo lạc tới và cả đời không ai gởi một lá thư thăm ai!” [14,
tr.620]. Những đám khao không cầu kì, màu mè “họ làm gì có những đám khao
to, vọng lớn như dưới kia” đó là một truyền thống đẹp của dân tộc ta xưa. Nhưng
có sự hạn chế của lối sống khép kín khiến họ hầu như không có trình độ học vấn,
không biết đến chữ quốc ngữ. Từ đó nhà nước ta cần quan tâm tới những ngôi làng
sống khép kín và có những biện pháp để nhằm bảo tồn những giá trị văn hóa lâu
đời mà họ gìn giữ được.
Không ngần ngại phản ánh mặt trái của lối sống Tây, Tàu, Ta lẫn lộn,
Trọng Lang trong Hội Đồ Sơn đã ghi lại những gì được chứng kiến khi đến với
vùng đất Hải Phòng. Đến với “Hội Đồ - Sơn của người Annam” tác giả đã tường
thuật lại khung cảnh ngày hội với sự dung dị và pha chút hài hước của các trò
mua vui như nhảy đầm, các cuộc thi khúc côn cầu, bơi lội, thi lái xe đạp khéo,
đạp xe đạp nhanh, thi ăn vận đẹp… Người đọc, nhìn thấy trong lễ hội ấy sự lố
lăng bởi những con người bị ảnh hưởng của lối sống Ta, Tàu, Tây. Không có nét
độc đáo của một lễ hội dân gian ở vùng Hải Phòng như lễ hội trọi trâu, hay leo
cột mỡ… mà thay vào đó là những thứ văn hóa dễ dãi, trụy lạc đã làm cho nét
văn hóa của người Việt bị méo mó, xuyên tạc.
Nửa đầu thế kỷ XX, các trang du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam
đã mang lại cho độc giả cái nhìn về một miền biển đảo với những nét văn hóa
độc đáo như phong tục cưới xin, ma chay cùng với tâm linh thờ thần nơi vùng
biển. Ở đây còn có hình ảnh của một Việt Nam xưa được thu nhỏ khi chúng ta
được khám phá hai làng Tân Châu và Xuân Đám ở Các Bà, nét đẹp của con người
Việt không chỉ được thể hiện trong những phong tục tập quán mà còn được thể
hiện ngay chính trong tâm hồn, con người của họ. Ngoài ra các nhà du ký đã
mang đến cho độc giả cái nhìn chân thực về xã hội Việt Nam những năm đầu thế
kỷ XX, khi mà văn hóa của Pháp đã xâm nhập vào văn hóa Việt làm cho nền văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hóa có sự lai tạp, làm mất đi những giá trị truyền thống của văn hóa người Việt,
qua đó người đọc có cái nhìn đúng đắn hơn trong việc tiếp thu nền văn hóa ngoại
lai.
2.4. Ý thức về chủ quyền biển đảo và sự đối kháng Trung Hoa
“…Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình
Đảo có lính cát non thành Tổ quốc
Đảo nhỏ quá nói một câu là hết
Có gì đâu chỉ cát với chim thôi
Cát và chim và thêm nữa chúng tôi
Chúng tôi lên với áo quần ướt át
Với nắng nôi muối xát thân tàu
Đảo hiện ra thử thách bạc màu
Bàn chân lính đánh vần trên đất đai Tổ quốc”
(Trường ca biển - Hữu Thỉnh)
Những lời ca được cất lên như muốn nhắc nhở mỗi người dân đang sống
trên dải đất hình chữ S này phải biết yêu quý biển vì đó là máu thịt của thế hệ
cha anh đã phải chiến đấu để gìn giữ chủ quyền biển đảo. Biết bao người lính đã
phải hy sinh quên cả tuổi thanh xuân, quên đi cả mạng sống của mình để gìn giữ
biển đảo quê hương.
Biển đảo nước ta có vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt về kinh tế, chính
trị, an ninh quốc phòng. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, biển đảo trở thành một
trong những khu vực tồn tại nhiều tranh chấp phức tạp nhất, nếu xử lý không
thích hợp, dễ dẫn đến nguy cơ xung đột quân sự, thậm chí chiến tranh, tác động
tiêu cực đến ổn định, hòa bình, phát triển của khu vực và thế giới. Biển đảo phía
Bắc Việt Nam là một trong những khu vực nhạy cảm, với vị trí tiếp giáp cùng
với âm mưu thôn tính biển Đông của Trung Hoa đã làm cho vùng biển phía Bắc
luôn phải đối mặt với vấn đề an ninh trên biển cũng như an ninh trên đất liền.
Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, người dân Việt Nam đã có những ý
thức về chủ quyền biển đảo, điều đó được thể hiện rõ trong những trang du ký
do chính các nhà du ký ghi nhận được. Khi tìm hiểu về chủ quyền biển đảo, nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nghiên cứu Lê Như Bình đã có bài nghiên cứu về Bài học bảo vệ biển đảo qua
truyện cổ “Sự tích đền Độc Cước”, tìm về với tâm thức dân gian, nhà nghiên
cứu thấy được ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo thông qua những câu chuyện
dân gian, và khẳng định: “trong Sự tích đền Độc Cước, lại thêm một sự khẳng
định, một nhận định và một tâm thức dân gian: biển đảo luôn là một phần máu
thịt không thể tách rời của người dân Việt” [8, tr.137]. Từ đó có cái nhìn toàn
diện hơn về lãnh thổ đất nước qua câu chuyện cổ tích: “Sự tích đền Độc Cước đã
nhắc nhở mọi người về khái niệm lãnh thổ đất nước đã được nhận thức từ xa xưa
không phải chỉ phần đất liền mà cả phần lãnh hải thiêng liêng nữa. Và biển đảo
không chỉ là nguồn sống mà còn là cội nguồn văn hóa của tộc Việt” [8, tr.137].
Nửa đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều tác phẩm du ký, ghi chép, điều tra
về vùng duyên hải và biển đảo phía Bắc Việt Nam. Các nhà du ký đã đặc biệt
chú ý tới vùng Đông Bắc Quảng Ninh - Hải Phòng. Đây là nơi tiếp giáp với
Trung Quốc nên ý thức cảnh giác, bài học kinh nghiệm về chủ quyền biển đảo
cũng như các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội luôn được đề cao. Trong chuyến đi
của mình về vùng đất Hải Ninh, tác giả Trần Trọng Kim đã phản ánh người Việt
trong mối quan hệ với người Tàu. Nhà văn đã nhấn mạnh sự xâm nhập, bành
trướng, lấn át của dân “Khách” trú với đủ mọi mưu lược, mánh khóe, cách thức,
phạm vi, mức độ như buôn bán, lối cạnh tranh triệt phá nhau. Thông qua đó ta
thấy sự đối lập giữa người Việt với người Tàu từ cung cách làm ăn, cho đến
phong tục tập quán. Học giả đã chỉ rõ người Tàu họ khác với người Nam của
chúng ta đó là họ coi trọng chữ “tài” là của: “Người quen kẻ thuộc gặp nhau
ngoài đường phố hỏi nhau, mở miệng ra là hỏi có phát tài không. Vào nhà nào,
bất kỳ sang hèn cũng thấy chữ phát tài, tiến tài, hoặc để thờ hai bên cửa hoặc để
thờ trong nhà. Cũng có nhà mua cái tranh ông thần Tài để thờ ngay chính giữa
nhà. Đến đám chay, đám tế lễ, những hình nhân bày trước sân cũng làm tay cầm
lá cờ đề bốn chữ: nhất kiến phát tài.
Chữ tài xem như là cái cực điểm của người Khách, hình như họ cho nhất
sinh của người đời chỉ đem tâm chí vào sự làm giàu là hết, chứ không cần phải
tư tưởng cao xa thâm viễn làm gì” [27, tr.32]. Việc coi trọng cái tài đã làm cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người Tàu có cái tính rất kiên nhẫn, cần kiệm và đoàn kết. Họ ở đâu là không ai
có thể cướp được quyền lợi của họ, mà họ còn đi lấn át quyền lợi của người ta.
Trong buôn bán giữa ta và “Khách” thì chỉ người ta mua hàng hiệu ở “Khách”
chứ “Khách” không chịu mua hàng gì ở ta bao giờ. Và khi cạnh tranh buôn bán
với “Khách” thì ta lúc nào cũng là người thua, vì phần mình không sành nghề
buôn bán, lưng vốn lại ít, phần thì bảo nhau không được nên không thể cạnh
tranh với “Khách” được.
Người “Khách” họ có cái tài, cái tính tốt nhưng cái phong tục của họ thì quá
tồi tệ đó là tục giết con gái và bán vợ, vì một tâm lý ăn sâu vào trong tiềm thức
của họ là khi họ đẻ con gái phải sắm sửa mọi thứ, bởi vậy cho nên họ sợ đẻ con
gái và thường có người “đẻ ra là họ bóp chết”. Vì một chút lợi mà họ nhẫn tâm
mang con đi giết, và chính điều đó mà tác giả muốn lý giải cho người đọc biết
“vì hiếm đàn bà thế cho nên họ cứ hay đi mua những con gái của ta bọn mẹ mìn
bắt được đem sang bán ở bên ấy”. Nếu người Việt chúng ta gọi là cưới vợ thì
người Tàu họ gọi là mua vợ, nên khi ăn ở với nhau nếu phát đạt thì không sao,
nhưng hễ xảy ra khó khăn thì người chồng họ lại mang bán dù có con cái rồi.
Trần Trọng Kim còn thể hiện thái độ thẳng thắn khi nhận xét, đánh giá
người Việt: “người mình khờ dại ngu hèn, chỉ biết ganh đua cái danh giá hão ở
chỗ xó làng, chỉ ý quyền ỷ thế bắt nạt lẫn nhau, chứ ra ngoài thì ai khinh bỉ thế
nào cũng phải chịu” [27, tr.42]. Trong khi người Tàu họ sang nước ta ăn nhờ ở
đậu mà họ vẫn tỏ thái độ khinh bạc. Trong thế đối sánh với người Tàu, thì người
Việt chúng ta thua kém về mọi mặt làm ăn: “Nghề nghiệp thì chỉ có nghề chài
lưới để kiếm ăn lần hồi. Mà đánh được cá cũng không biết làm gì để sinh lợi,
lại đem bán buôn cho người Khách, người ta đem muối đi, đến lúc mình dùng
đến lại đi mua, đắt gấp mấy cái giá mình đã bán. Thậm chí cái rau, củ khoai
của mình trồng ra được cũng đem bán cho Khách, rồi sau lại sang mua lại mà
ăn. Thành ra mình chỉ làm khó nhọc mà bao nhiêu cái lợi là người ta hưởng
hết cả. Hỏi làm sao ta cứ đem bán cho Khách như thế, mà lại không bán cho
người mình? Là vì cả cái vùng Hải Ninh có ai là người buôn bán ra trò đâu”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
[27, tr.42]. Người mình chỉ nhìn thấy cái đồng tiền trước mắt, có thứ gì bán
được thì bán cho bằng sạch để mau lấy đồng tiền về, ngoài ra, mình còn kém
trong việc ganh đua, buôn bán với người “Khách”. Do vốn liếng ít, không sành
trong buôn bán, và giá cả đắt hơn của người “Khách” nên người mình không
đứng vững được trong buôn bán - một nghề mang lại mối lợi cao trong kinh tế.
Về đường công nghệ, đến làm ruộng của ta cũng thua kém hẳn người Tàu.
Như vậy, các cây bút du ký viết về vùng biển đảo phía Bắc đã ý thức được
chủ quyền đất nước trong việc cho người đọc thấy được thế lực “Khách” trú cầm
quyền “thao túng”, xâm phạm đến chủ quyền, an ninh, trật tự xã hội và cả đời
sống kinh tế, văn hóa của người dân Việt Nam. Biển đảo là một bộ phận cấu
thành lãnh thổ quốc gia Việt Nam, không gian sinh tồn và là điều kiện vật chất
để xây dựng, phát triển đất nước. Hiện nay, tình hình quản lý, thực thi và bảo vệ
chủ quyền biển đảo của nước ta khá phức tạp, hàm chứa nhiều nhân tố bất ổn, đó
là tranh chấp ở Biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp, tác động và ảnh hưởng
đến an ninh, hòa bình và phát triển của đất nước. Nên việc nghiên cứu các tác
phẩm du ký viết về biển đảo Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
giúp cho người dân có cái nhìn đúng đắn hơn về lối sống, cách làm ăn của người
Việt, để từ đó hình thành nên những tư tưởng trong việc bảo vệ chủ quyền trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
biển.
Tiểu kết chương 2
Du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về mặt nội
dung tương đối phong phú và đa dạng. Thông qua các tác phẩm du ký, độc giả
có thể thấy được nhu cầu, khát khao khám phá chinh phục những điều mới lạ của
chủ thể du ký, đồng thời người đọc thông qua đó có thể ngồi một chỗ mà chiêm
nghiệm được cảnh sắc thiên nhiên biển trời, sóng nước nơi biển đảo. Trong bức
tranh lung linh huyền ảo của miền biển đảo người đọc còn được thâm nhập vào
đời sống của những con người nơi đây, để từ đó có thể đối sánh sự giống và khác
nhau giữa cuộc sống con người miền biển với con người ở các vùng khác. Biển
đảo phía Bắc còn là nơi chứa đựng những nét đẹp trong phong tục tập quán, và
con người. Đặc biệt, các tác phẩm du ký cùng với sự tinh tế của các tác giả đã
mang đến cho chúng ta cách nhìn nhận về người Việt nơi biên cương hải đảo,
trong thể đối sánh với người “Khách” ở vùng giáp biên cương, từ đó người Việt
có ý thức về chủ quyền đất nước, và có sự cảnh tỉnh hơn đối với những thế lực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
“Khách” trú trên đất nước ta.
Chương 3
CÁC PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT CỦA DU KÝ VỀ BIỂN ĐẢO
PHÍA BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
3.1. Điểm nhìn của chủ thể tác giả trong du ký về biển đảo phía Bắc
Trong nghiên cứu của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn đã đưa ra
nhận định về vai trò của chủ thể tác giả: “Tuân theo đặc điểm thể tài du ký, vai trò
chủ thể tác giả “tôi” được đặt ở vị trí thứ nhất, vừa là người dẫn truyện và tạo
dựng cốt truyện theo một định hướng thống nhất.” [57]. Và hầu hết các tác giả du
ký lựa chọn vị trí của mình là người kể chuyện, thuật lại toàn bộ diễn biến câu
chuyện, cho nên phương thức được các nhà du ký lựa chọn để thuật lại đó là
phương thức tự sự, và có thể hiểu: “Điểm nhìn nghệ thuật là vị trí từ đó người trần
thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Không thể có nghệ thuật nếu không
có điểm nhìn, bởi nó thể hiện sự chú ý, quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong
việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không
nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc sống. Sự
đổi thay của nghệ thuật bắt đầu từ đổi thay điểm nhìn.” [16].
Nếu trong các tác phẩm văn học như truyện ngắn, tiểu thuyết,… điểm nhìn
của chủ thể tác giả thường trao cho một nhân vật cụ thể trong câu chuyện, hay
có khi tác giả hóa thân vào ngôi kể thứ ba để kể lại câu chuyện của mình. Thì
trong du ký, chính tác giả là người thể hiện lăng kính chủ quan của mình bằng
việc sử dụng ngôi kể là “tôi” hoặc “chúng tôi”. Cái tôi chủ quan của tác giả được
thể hiện thông qua các quan điểm, thái độ thẩm định đối với hiện thực trước mọi
vấn đề của cuộc sống. Chủ thể tác giả trong các tác phẩm du ký, họ không ngần
ngại công khai bày tỏ quan điểm, cách nhìn nhận của riêng mình về tất cả các
vấn đề trong cuộc sống nhằm tạo nên cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc, mang lại
thông tin sự thật và khái quát sự thật. Trong các tác phẩm du ký chủ thể rất đa
dạng, khi họ đóng vai trò là một ký giả, ghi chép lại toàn bộ những điều mắt thấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tai nghe trong những chuyến đi của mình. Khi họ lại đóng vai trò là một công
dân, hòa mình vào chính những người dân nơi họ đặt chân đến, để cảm nhận về
cái hay cái đẹp một cách khách quan nhất. Và cũng có khi họ lại xuất hiện với tư
cách là một người nghệ sĩ, ở đó có sự nhiệt huyết, lòng say mê và những khát
khao được đặt chân tới những vùng đất mà chưa ai đặt chân đến, cùng với nhãn
quan của người nghệ sĩ đã mang đến những sắc màu cảm xúc đa chiều cho độc
giả để họ có thể ngồi một chỗ mà chiêm nghiệm, cảm nhận.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn trong bài nghiên cứu về Vai trò chủ thể
tác giả trong du ký về các vùng biển đảo Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã chỉ ra
rằng: “Với sáng tác tác văn học, vai trò chủ thể tác giả bao giờ cũng giữ một vị
trí đặc biệt quan trọng và điều này càng sắc nét hơn ở thể tài du ký. Bởi lẽ với
du ký, bản thân tác giả phải là nhân vật thứ nhất, chủ thể trực tiếp đi, xem, nghe,
trải nghiệm và tường tả lại chuyến du hành theo quan niệm và cách thức của
mình. (…) Chủ thể tác phẩm du ký đa phần là các ký giả nhà văn, trí thức, quan
chức và tầng lớp trên nên có điều kiện đi xa thăm thú, tìm hiểu, khám phá các
vùng đất mới. Nói khác đi, đây là thể tài cơ bản gắn với tầng lớp trên, tầng lớp
hữu sản và nhiều phần hướng đến mục đích “vị nghệ thuật”, những cuộc thăm
viếng, du hành, du lịch và mở mang kiến thức.
Nói riêng về bộ phận du ký viết về các vùng biển đảo Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX có thể nhấn mạnh vai trò, dấu ấn chủ thể tác giả trên ba phương diện
chính yếu: Ý thức về chủ quyền biển đảo, nhập cuộc đời sống người dân và cảm
nhận về vẻ đẹp vùng biển đảo” [60, tr.3]. Nhà nghiên cứu đã chỉ ra điểm khác
biệt giữa vai trò của chủ thể tác giả trong du ký khác với các sáng tác văn học
khác. Tác giả du ký là người trực tiếp đi, xem, nghe, trải nghiệm và tường tả lại
nên họ thể hiện được quan niệm, cách thức của mình mang đến cho độc giả những
điều chân thật nhất. Nhà nghiên cứu còn nhấn mạnh, đối với thể tài du ký, các
chủ thể tác giả phải là những người có điều kiện đi xa thăm thú, tìm hiểu, khám
phá, nên phần lớn họ là những tầng lớp trên, tầng lớp hữu sản. Và đặc biệt, trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
du ký viết về biển đảo Việt Nam trong đó có các du ký viết về biển đảo phía Bắc
thì vai trò dấu ấn của chủ thể tác giả được nhà nghiên cứu nêu rõ, và thể hiện trên
ba phương diện chính “Ý thức về chủ quyền biển đảo, nhập cuộc đời sống người
dân và cảm nhận về vẻ đẹp vùng biển đảo”.
Các tác phẩm du ký chủ yếu là sản phẩm ghi chép lại thực tế theo quan
niệm và cách thức của các nhà du ký trong các cuộc công viễn, thăm thú. Nên ý
thức về chủ quyền biển đảo cũng được thể hiện khác nhau trong cách cảm nhận
và cách thức khác nhau: “Sự ý thức về chủ quyền biển đảo trong tác phẩm du ký
không phải là những lời rao giảng, tuyên truyền nhận thức chung chung mà
thường thấm sâu trong lối cảm, lối nghĩ và văn mạch của người viết.” [60, tr.3].
Trong Pháp du hành trình nhật ký, chủ thể tác giả xuất hiện trong tác phẩm
với tư cách là người kể chuyện, là nhân vật trong tác phẩm. Chủ thể tác giả trực
tiếp xưng “tôi” và xưng “chúng tôi”, trong câu chuyện tác giả còn tự biểu hiện
tình cảm, cảm xúc của mình. Với tư cách là người thay mặt cho Hội Khai Trí
Tiến Đức để dự cuộc đấu xảo Marseille và sang diễn thuyết tại mấy trường lớn
tại Pari, tác giả - tôi đã kể lại cụ thể chuyến đi của mình một cách tường tận nhất.
Với thời gian cụ thể trong chuyến đi của mình gồm những ai, và tác giả tập trung
vào việc tường thuật cách thức về thủ tục để một đoàn phái viên nhà nước có thể
tham dự một cuộc thi đấu xảo Marseille. Hành trình đi đến Pháp như thế nào?
với các thủ tục cần thiết, đã được nhân vật “Tôi” tường thuật khá đầy đủ và chi
tiết.
Với vai trò là một học giả, đại diện cho tầng lớp trí thức, Trần Trọng Kim
trong Sự du lịch đất Hải Ninh đã thể hiện quan điểm, cách đánh giá, nhận xét của
cá nhân mình về vùng đất Hải Ninh. Đây là vùng đất nổi tiếng với nhiều truyền
thống lịch sử của ông cha ta, tiêu biểu đó là dòng sông Bạch Đằng với chiến công
hiển hách của Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán, đó là chiến công của Trần
Hưng Đạo đánh đuổi quân Mông Cổ. Gợi nhắc lại lịch sử không chỉ nhằm mục
đích là ca ngợi những chiến công của ông cha ta đã đạt được, mà thông qua đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người dân vùng đất Hải Ninh nói riêng và người dân Việt Nam nói chung có thể
lấy đó làm tấm gương để phấn đấu, để gìn giữ, phát triển non sông đất nước. Học
giả đau đớn khi chứng kiến cảnh các công ty tư bản đến để vơ vét nguồn lợi tài
nguyên thiên nhiên về làm giàu cho chính quốc của họ, với cảm xúc xót xa tác
giả đã cho người đọc thấy được lịch sử về bức tranh công nghiệp nơi đây: “Hòn
Gai là đất tư của công ti lấy than. Trước đây là đất bỏ hoang, mà bây giờ thành
ra một nơi rất phồn thịnh, phố xá cũng nhiều, người làm ăn, phu phen đi lại thật
là đông. Xe lửa chở than chạy đi chạy lại cả ngày cả đêm. Ở dưới bến tàu thì các
nước đến lấy than, tàu nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật, ngày nào cũng có vài ba
chiếc trực sẵn ở đấy. (…) Hiện bây giờ công ti lấy than ở Hòn Gai và công ti làm
ciment ở Hải Phòng thịnh vượng nhất cả xứ Đông pháp ta, mà có lẽ cả Viễn
Đông này cũng chưa có đâu hơn được” [27, tr.27-28]. Và đặc biệt là thái độ,
cách đánh giá thẳng thắn của tác giả trước thế lực “Khách” trú, luôn luôn có ý
định rình rập và đầy mưu mô thủ đoạn trong việc thôn tính Việt Nam ta. Đó là
cách mà tác giả thể hiện lòng yêu nước của mình qua việc nhìn nhận vấn đề, thức
tỉnh mọi người và thức tỉnh chính bản thân mình.
Nữ sĩ Vân Đài trong Bốn năm trên đảo Các Bà, khoảng thời gian bốn năm
ở Các Bà không phải là dài nhưng đủ để bà có thể cảm nhận và thâm nhập vào
cuộc sống của những con người nơi đây. Nhập cuộc với cuộc sống trên đảo Các
Bà, nữ sĩ như một người dân ở đây lí giải cho mọi người hiểu về lịch sử tên gọi
“Các Bà xưa kia vẫn có một tên mà người Khách gọi là Appovan và người Nam
gọi là Các Bà, do lấy tên một ngôi mộ của hai bà nữ thần không tên, chết ở đâu,
trôi về và hiển linh tại đấy. Ngôi mộ ấy gọi là ngôi mộ của Các Bà, người ta lập
miếu thờ và người ta muốn biểu dương các uy linh của các bà, nên lấy tên Các
Bà đặt cho hòn đảo.” [14, tr.611]. Và hơn hết nữ sĩ đã cho chúng ta thấy cần phải
bảo vệ chủ quyền nơi biển đảo và đặc biệt phải cảnh tỉnh hơn với thế lực Trung
Hoa lớn mạnh.
Trong Kỷ niệm Sầm Sơn của Phạm Mạnh Phan, với tư cách là một vị khách
viễn du, tác giả đã có cảm nghĩ, nhận xét của riêng mình khi được chứng kiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
những con người trên chuyến tàu về với xứ Thanh: “Cả hình ảnh cuộc đời đều
thu nhỏ trên toa xe lửa; đủ hạng người với những khẩu khiếu đặc biệt, với những
mánh lới xảo quyệt gian trá để hất cẳng nhau mà hòng tranh giành lấy sự sống”
[47, tr.346]. Tiếp đó là sự cảm nhận về một Sầm Sơn lung linh, huyền ảo, với
cảnh sắc tuyệt đẹp: “Sầm Sơn! Cả một bài thơ đẹp và mơ mộng! Sầm Sơn với
non nghìn biệt thự xây rải rác ở các nơi theo một kiến trúc đặc biệt tối tân đã
quyến rũ bao khách phương xa tấp nập. Sầm Sơn với trái núi đá quanh co khấp
khuỷu, với chùa Độc Cước, với hòn Trống Mái, với bãi biển rộng rãi bao la đã
là nơi tụ họp của biết bao trai tài gái sắc, đã là chỗ hẹn hò của biết bao trái tim
đa cảm!...” [47, tr.350].
Như vậy, trong du ký điểm nhìn của chủ thể tác giả bị chi phối bởi nhiều
yếu tố như các yếu tố chủ quan: Thái độ, quan điểm, lập trường, định kiến của
nhà văn; hay các yếu tố khách quan: Môi trường, cảnh quan, cuộc sống, con
người… Điểm nhìn của chủ thể tác giả trong du ký viết về biển đảo phía Bắc,
nhìn chung tương đối đa dạng, có khi điểm nhìn tác giả được xuất hiện với tư
cách là một ký giả, có khi lại đóng vai trò là một công dân, và có khi lại đóng vai
trò là một người nghệ sĩ. Dù điểm nhìn của tác giả được nhìn dưới con mắt nào
thì điểm nhìn đó đều được thể hiện dưới cái “tôi” tác giả.
3.2. Đặc điểm về thời gian và không gian nghệ thuật
3.2.1. Thời gian nghệ thuật
Trong văn học nói chung và trong du ký nói riêng, thời gian nghệ thuật đã
được rất nhiều các nhà nghiên cứu đưa ra bàn luận. Nhà nghiên cứu Bùi Mạnh
Nhị đã chỉ ra vai trò quan trọng của thời gian nghệ thuật trong việc tổ chức nên
nội dung và nghệ thuật trong mỗi tác phẩm văn học: “Có vai trò to lớn trong việc
tái tạo thực tại nghệ thuật, tổ chức nên nội dung và hình thức tác phẩm để khám
phá thế giới và con người”. Còn giáo sư Trần Đình Sử thì đưa ra khái niệm về
thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học tương đối hoàn chỉnh: “Thời gian
nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật
với độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều dài thời gian là hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tại, quá khứ hay tương lai.” [61, tr.62]. Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm
dường như không mang tính khách quan, mà mang tính chủ quan gắn với cảm
xúc, cảm nhận của con người, ta nhận thấy ngay cả khi tác phẩm được kể với
thời gian một chiều, thì quy trình vận hành của nó không trùng với thời gian tự
nhiên.
Trong tác phẩm du ký, cùng với không gian thì thời gian chính là một
trong những hình thức mang đến sự tồn tại của thế giới nghệ thuật. Thời gian
luôn là yếu tố được các nhà du ký chú trọng, bởi đặc trưng của du ký là ghi chép
lại những điều mắt thấy, tai nghe trên những chuyến đi của mình, nên đòi hỏi
thời gian phải mang tính cụ thể, chính xác nhất. Trong du ký, người đọc thường
rất ít gặp hoặc không gặp thời gian phiếm định, hay hư cấu giống như các thể
loại văn học khác mà chúng ta thường thấy một thời gian rất cụ thể, rất chính xác
từ ngày, tháng, năm… Điều này mang đến cho người đọc độ tin cậy cao khi tiếp
cận tác phẩm. Đó là đặc trưng rất riêng mà du ký mang lại cho độc giả. Khi tiếp
cận mỗi tác phẩm du ký người đọc như được cùng với tác giả cảm nhận sự trôi
chảy của thời gian, nhanh hay chậm để từ đó giữa tác giả với người đọc có sự
đồng điệu với nhau.
Trong các tác phẩm du ký viết về biển đảo Phía Bắc, các nhà du ký đã rất
chú ý đến thời gian. Những chuyến đi, những cuộc hành trình được các nhà du
ký ghi chép lại một cách tỉ mỉ với thời gian ngày, giờ cụ thể. Trong du ký Qua
chơi mấy nơi cổ tích đất Ninh Bình của Đông Châu, ngay phần mở đầu bài du
ký, tác giả đã thông báo cho người đọc thời gian của câu chuyện: “Trời xuân
quang đãng, gió xuân phơi phới, tiếng còi xe hỏa rúc tu tu, ấy là chuyến xe tự ga
Hà Nội chạy Ninh Bình buổi sáng sớm 6 giờ hôm 20 tháng 3 năm Ất Sửu (tức là
ngày lễ Phục sinh 12 tháng 4 năm 1925)” [51, tr.115]. Thời gian mang tính chất
thông báo tới độc giả để phân định rõ các chặng của chuyến đi, và là mắt xích để
xâu chuỗi các sự kiện, dẫn dắt diễn biến của câu chuyện. Người đọc bắt gặp
những mốc thời gian cụ thể, rõ ràng tiếp nối thời gian bắt đầu cuộc hành trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của tác giả: “12 giờ hôm ấy mới cùng nhau đi ô tô đến bến Giản Khẩu (ta thường
gọi là bến Gián). Kể từ tỉnh lỵ ra đi độ 10 ki lô met, 20 phút đồng hồ thì đến bến
Gián, (…) Mặt trời xế chiều, anh em lại tự Định Lộng đi ô tô trở về bến Gián,
rồi theo con sông Hoàng Giang đi thuyền đến Tràng An. (…) Thuyền đi ước độ
hai giờ đồng hồ thì đến bến Tràng An chừng vào hồi bốn giờ chiều. (…) Đi độ
chừng vài ba mươi phút đồng hồ mới đến miếu vua Đinh…” [51, tr.117-122]. Ta
thấy, trong cuộc hành trình của tác giả, thời gian hành trình trùng khít với thời
gian trần thuật. Người đọc đã được bám sát theo từng bước chân của nhà du ký,
có thể cùng thăm thú những nơi mà tác giả đã đi theo hành trình thời gian.
Ngoài ra, ở những tác phẩm du ký mang tính chất quan phương công vụ,
người đọc được đi theo bước chân của những nhà chính trị, được chứng kiến toàn
bộ những sự kiện diễn ra trong một ngày mà không bỏ sót một chi tiết nào. Tiêu
biểu là trong Lược thuật hành trình cuộc ngự giá Bắc tuần của N.P. đã thuật lại
một cách chi tiết, đầy đủ chuyến hoạt động chính trị - xã hội của kiểu nhân vật
Hoàng đế dưới chế độ xã hội thực dân nửa phong kiến, bắt đầu từ ngày 28 tháng
11 năm 1993, cho đến ngày kết thúc là ngày 13 tháng 12. Tất cả những sự kiện
đã được N.P. ghi chép lại một cách tỷ mỉ, chi tiết sau khi trải qua 16 ngày trong
cuộc hành trình. Cuộc hành trình của Hoàng đế cùng các quan Khâm sứ trung kỳ
và các quan hộ giá trong suốt thời gian 16 ngày đã cho độc giả thấy được bộ mặt
của đất nước Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Với những mốc thời
gian chính xác, ghi chép một cách tỉ mỉ, tác phẩm không đơn thuần là ghi chép
lại những chi tiết, những sự kiện, mà còn là nhân chứng lịch sử phản ánh lại bối
cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Nhàn Vân Đình trong Quảng Yên du ký, đã tường thuật cuộc hành trình bắt
đầu với mốc thời gian cụ thể, chính xác tuân theo quy luật tuyến tính: “Quần
Phương Thượng, ngày mồng 4 tháng 11 năm Kỷ Tị, vua Bảo Đại năm thứ tư,
xem vào lịch Tây thì là tháng 12 năm 1929, mà ngày cũng chung là mồng 4. Khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đó nhà quê bắt đầu gặt lúa mùa đông, ta đương coi sóc việc đồng, chuông máy
vừa 9 giờ sáng, bỗng bắt được thư tín của nghiệp sư ta là Dục Tăng tiên sinh ở
xã Quần Phương Trung tìm đi Hải Phòng.
10 giờ khởi hành từ phương đông bắc, đi bộ từ nhà lên Lạc Quần, từ giã
con sông Ninh Cơ, bước lên ô tô, 4 giờ chiều vừa tới Nam Định” [17]. Kết thúc
cuộc hành trình cũng với mốc thời gian cụ thể: “12 giờ 10 ngày 14, đáp hỏa xa
ở Hải Phòng đi Hải Dương. 3 giờ tới nơi, vào qua xem xong hai phố Đông Kiều
và Tây Thị rồi về Hà Nội vào thăm ông chủ báo Nam phong” [17]. Chuyến đi
của nhà du ký đã kết thúc trước đó, nhưng thời gian hành trình luôn ở thì hiện
tại, điều đó cùng với các sự kiện, cảnh vật đã khiến cho người đọc cảm nhận cuộc
hành trình như đang được diễn ra. Tất cả các sự việc được tác giả trình bày theo
thứ tự trước sau của thời gian tuyến tính, thời gian mang tính chính xác, chân
thực.
Tốc độ thời gian trong du ký có sự khác nhau, lúc nhanh, lúc chậm tương
ứng với những mốc thời gian lúc tỉ mỉ, lúc lại sơ sài. Điều này cho thấy, thời gian
trong du ký phụ thuộc mạnh mẽ vào chủ thể và mang tính chủ quan. Khi yêu mến
một cảnh vật, sự kiện, hay một vùng đất nào đó, nhà du ký có thể dừng chân ở
đó hồi lâu, miêu tả nó một cách tỉ mỉ cùng với tình cảm chân thành nhất. Ngược
lại khi qua những vùng đất, sự kiện, cảnh vật không để lại dấu ấn với tác giả, ta
thấy nó không còn được tỉ mỉ, cặn kẽ nữa mà ta cảm nhận ngòi bút của tác giả
như lướt qua một cách nhanh chóng. Thời gian nghệ thuật trong du ký giống như
trong các tác phẩm văn học khác cũng đều có tính cảm xúc và ý nghĩa nhân sinh,
quan niệm nhân văn, và mang tính chủ quan. Như vậy, thời gian nghệ thuật trong
du ký là thước đo đời sống, tâm tư, tình cảm, kể cả tư tưởng của con người trong
tác phẩm.
Qua khảo sát các tác phẩm du ký, ta thấy thời gian trong du ký phổ biến là
kiểu thời gian vật lý tức là sự việc gì xảy ra trước kể trước, sự việc gì xảy ra sau
kể sau theo một trình tự nhất định, đó có thể hiểu là thời gian thực tại. Nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xen lẫn vào kiểu thời gian đó là thời gian tâm tưởng, tức là trước sự trôi chảy của
thời gian theo tuyến tính thì tác giả khi đứng trước một di tích lịch sử văn hóa có
thể quay ngược từ hiện tại mà trở về quá khứ. Với trí nhớ và tầm hiểu biết sâu
rộng của nhà du ký, họ tái hiện lại những câu chuyện của hàng ngàn thế kỷ trước
làm cho nó hiện lên thật sống động. Cùng Đông Châu Qua chơi mấy nơi cổ tích
đất Ninh Bình, tác giả đã đưa người đọc được quay trở lại với những sự kiện đã
được xảy ra hàng ngàn năm trước. Đó là lịch sử của những hang, động trên núi
Địch Lộng, lịch sử tên gọi “Nam thiên đệ tam đỗng”, lịch sử của những bậc đá
để đi lên đỗng. Thời gian quá khứ được xác định là khoảng thời gian năm 1821
khi vua Minh Mệnh ngự giá qua chơi đây nên những bậc đá, tên đỗng được ra
đời trong khoảng thời gian đó. Như vậy, du ký không chỉ phản ánh thời gian thực
tại mà du ký còn như một cuốn sách lịch sử biên và ghi chép lại toàn bộ những
gì đã xảy ra trong quá khứ, nhờ trí nhớ, sự hiểu biết sâu rộng của các nhà du ký.
Như trong Quảng Xương danh thắng của Nhàn Vân Đình, tác giả đi tìm hiểu về
lịch sử đền thờ Độc Cước ở vùng núi Sầm Sơn đã đưa người đọc được quay trở
lại với khoảng thời gian trong quá khứ - thời gian lịch sử để tìm hiểu sự ra đời
của phong tục đền thờ Độc Cước. Qua đó thấy được tình yêu của tác giả dành
cho quê hương, đất nước, và bồi đắp cho mỗi con người Việt Nam biết tìm về
với cội nguồn của dân tộc.
Tóm lại, thời gian trong du ký có những nhịp điệu, sắc độ riêng để phản
ánh hiện thực. Thời gian có thể trôi nhanh hay chậm, yên ả, đều đều hay thay đổi
đột ngột, gấp gáp, đầy biến động, và có thể có những liên hệ giữa quá khứ, hiện
tại, tương lai. Thời gian có thể được trần thuật cùng chiều với thời gian tự nhiên,
nhưng cũng có thể đi ngược từ hiện tại trở về quá khứ bằng hồi tưởng. Các lớp
thời gian có khi được đan bện, xoắn xít với nhau và cùng đồng hiện trong một
thời điểm. Tức là, quá khứ, hiện tại và cả tương lai hiện lên cùng lúc qua dòng
cảm nghĩ của chủ thể tác giả. Và nhìn chung thời gian trong du ký, có sự tương
đồng nhất định với thời gian trong tác phẩm văn học nhưng trong du ký chủ yếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
là thời gian trần thuật, và đan xen thời gian quá khứ.
3.2.2. Không gian nghệ thuật
Cùng với thời gian nghệ thuật, thì không gian nghệ thuật cũng có vai trò
quan trọng trong tác phẩm văn học nói chung và trong du ký nói riêng. Theo từ
điển thuật ngữ văn học: “không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc
nội tại của tác phẩm mà còn cho thấy quan niệm về thế giới. Nó cung cấp cơ sở
khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như loại hình của hình tượng văn
học” [20]. Trong du ký, có thể chia ra thành nhiều loại không gian: Không gian
lộ trình, không gian cảnh quan, không gian sinh hoạt, không gian lịch sử - văn
hóa. Không gian trong các tác phẩm du ký viết về biển đảo phía Bắc được các
nhà du ký chú trọng, đó chính là tất cả những hình ảnh được lọt vào ống kính
trực quan của các nhà du ký: dòng sông, cánh đồng, ngọn núi, đèo xa, biển cả,
chùa chiền, đền đài, cây cối... Và không gian còn là nơi nhà du ký có thể triển
khai sự kiện, biến cố, thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình.
Không gian lộ trình, miêu tả toàn bộ quá trình di chuyển của tác giả, từ khi
bắt đầu xuất phát cho đến khi kết thúc cuộc hành trình. Các phương tiện mà các
nhà du ký dùng để thực hiện di chuyển có thể là ô tô, tàu thuyền, xe lửa, và cũng
có khi nhà du ký lựa chọn việc đi bộ để có thể hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên,
cảm nhận bước chân một cách từ từ nhất. Cùng với sự trôi chảy của thời gian, thì
không gian cũng có sự dịch chuyển theo thời gian. Nữ sĩ Vân Đài di chuyển đến
Các Bà trên một con thuyền và không gian đã được mở rộng ra theo chiều cao
“một sáng hè, vòm trời xanh đậm màu lơ và khí trời đã bắt đầu oi ả”. Mở rộng
ra theo chiều rộng: “nước sông đã pha màu nước biển, sắc nước trở nên hơi trong
trong, thuyền đã bắt đầu lao đao bởi những con sóng nước” [14, tr.607]. Và
chiều dài không gian đã được trải ra: “Xa xa một bãi cây xanh và rất thấp, một
thứ cây riêng mọc dưới nước mặn mà quanh năm vẫn xanh, vẫn sống nhưng vẫn
lè tè, có thế thôi!” [14, tr.607-608]. Không gian càng mở ra thì tác giả như được
mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết, có thể tích trữ được lượng kiến thức phong phú
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và dồi dào. Ngoài con thuyền là phương tiện giúp tác giả mở rộng không gian,
thì sóng nước cũng chính là con đường giúp nhà du ký có thể tiến ra với biển,
với những hòn đảo. Con sóng như là biểu tượng để con người có thể vượt qua
những trở ngại, những thử thách trên con đường chinh phục những ước mơ, khát
vọng đến với những vùng đất mới: “Những đợt sóng “lừng” đã khởi sự nao lên,
có ý hiến cho du khách nếm một trận vật lộn êm đềm, những lao đao đến cực
điểm. Ai là người đã đi bể nhiều, chắc chắn đã biết qua một cơn hành hạ của
Thần Sóng, mà nhất là những sóng “lừng”, cái tên đủ làm cho khách hàng hải
phải cau mặt” [14, tr.609]. Con người khi phải đối mặt với những khó khăn, nguy
hiểm càng thể hiện được ý chí, sự dũng cảm và trưởng thành trong những bước
đi của mình.
Không gian cảnh quan trong du ký viết về biển đảo phía Bắc, được khá
nhiều các tác giả du ký quan tâm: Bốn năm trên đảo Các Bà (Vân Đài), Kỷ niệm
Sầm Sơn (Phạm Mạnh Phan), Chơi vịnh Hạ Long (Đông Châu), Một cuộc hành
du (BA B.J.), Quảng Yên du ký (Nhàn Vân Đình)… Cảnh quan trong các tác
phẩm du ký viết về biển đảo phía Bắc không chỉ là những hình ảnh biển trời,
sóng nước, mà rộng hơn nó còn là những công trình kiến trúc, những không gian
sinh hoạt văn hóa, những di tích lịch sử…
Trong Quảng Yên du ký Nhàn Vân Đình đã có dịp được cảm nhận sự trong
trẻo, mới mẻ, tinh khôi của cảnh sắc thiên nhiên vào một buổi sáng sớm:
“Hồng nhật thủy trung xuất,
Thanh vân sơn thượng phù.
Hồ thiên tân cảnh sắc,
Tặng ngã thử nhàn du.”
(Mặt trời đỏ mới mọc trong nước ra,
Áng mây xanh vừa bốc trên non về.
Cái cảnh sắc của bầu trời mới mẻ đó,
Chính là món quà thiên nhiên tặng cho ta trong lúc chơi này.)
Một không gian tiếp tục được miêu tả trong sự vận động của nó: “Từ đây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trở đi, tàu chen núi, núi chen bể, bể khoe bể sâu, núi khoe núi cao, núi có bể thêm
đẹp, bể có núi thêm tình, dẫu không tiên mà vẫn nổi danh, không long mà vẫn
linh dị, bậc nhân giả, bậc trí giả, vui sướng biết bao” [17]. Không gian còn được
mở rộng ra khi nhà du ký đặt chân đến vùng đất phía đông tỉnh Quảng Yên và
không gian đó như được gói trọn trong bài thơ:
Bài thơ tả cảnh
Cẩm Phả Min rồi Cẩm Phả Bo,
Nào trai tứ chiếng, gái giang hồ;
Buồn trăng lác đác thuyền trên bể,
Lửa điện linh tinh phố giữa gò;
Mổ bõm rừng xanh đuôi cá vẫy,
Lội ùa nước biếc cánh chim co;
Ở đây phong cảnh nhà ai thế,
Giáp mặt Cai than cố hỏi mò.
Tất cả những hình ảnh trăng, thuyền, buồm, lửa, điện, rừng cây, cá, chim,
nước và con người đã tạo nên một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp. Và bức tranh
ấy đẹp không chỉ bởi có phong cảnh mà còn đẹp bởi sự góp mặt của những con
người “Nào trai tứ chiếng, gái giang hồ”.
Du ký viết về biển đảo phía Bắc không chỉ là những trang văn ghi chép lại
bức tranh phong cảnh về biển đảo, mà còn phản ánh mọi mặt của đời sống con
người. Như vậy, khi phản ánh bức tranh đời sống của con người, tức là nhà du
ký đã mở ra cho người đọc một không gian mới đó là không gian sinh hoạt. Các
nhà du ký đã lột tả được bức tranh hiện thực của những người dân nơi đây. Trong
Thụy Anh du ký của Đặng Xuân Viện, người đọc đã được chứng kiến không gian
sinh hoạt rộn ràng, phong phú, thịnh vượng của những người nông dân: “trông
xuống cánh đồng chỗ đang gặt lúa, chỗ đang cắt rạ, chỗ lúa đã vàng vàng, gần
được thu hoạch, không đến nỗi như hạt bể đông. Khi đến huyện lỵ, nom chung
quanh dân cư thấy làm ăn vui vẻ, nhà gianh vách đất, như là mới sửa sang lại”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
[17]. Đó còn là không gian nhộn nhịp của những người dân sống bằng nghề buôn
bán, thương lái nơi bến Hộ: “thấy hai bên nhà cửa đã thành ra phố sá, và có hiệu
khách buôn vải sợi và tạp hóa không thiếu đồ chi, dưới bến thì có thuyền bè cũng
lắm người đi lại buôn bán, thành ra một chỗ đô hội nho nhỏ, so với mấy năm
trước thì lại có phần thịnh vượng hơn. Gần đấy lại có chợ, có cả đồn lính đóng,
canh phòng rất là nghiêm cẩn. Bóng trời đã xế tà lại phóng bộ ra chơi bể, đi ra
ngoài bãi cát chỉ có một ta, bao nhiêu những không khí của trời chan chứa chung
quanh mình, tưởng là cái thân thể của ta đã thoát vòng khổ ải mà tới nơi lạc
quốc vậy” [17]. Tất cả sự vật được thu vào tầm mắt của nhà du ký, với hình ảnh
phố sá, hoạt động buôn bán tấp nập trên bến dưới thuyền đã vẽ lên một không
gian mang đầy màu sắc. Và không gian đó cũng có sự dịch chuyển theo thời gian
và tâm trạng của nhà du ký.
Đến với vùng biển đảo phía Bắc, nhà du ký đã không quên tái hiện lại
không gian lịch sử - văn hóa nơi đây. Không gian lịch sử - văn hóa có nghĩa là
không gian ghi lại những dấu tích lịch sử, những nét văn hóa truyền thống của
những người dân mà tác giả đi qua, hướng con người tìm về với cội nguồn, với
những truyền thống của dân tộc. Không gian lịch sử - văn hóa biển đảo có vai trò
quan trọng trong việc xác định các giá trị văn hóa truyền thống và chủ quyền
thiêng liêng của đất nước. Các di tích lịch sử gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc trên biển đảo còn lưu lại tên đất, tên người trong
các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Nhân chuyến đi Chơi vịnh Hạ Long
của Nguyễn Hữu Tiến, nhà du ký đã tái hiện lại không gian lịch sử khi đi qua
con sông Bạch Đằng: “Nhân chuyến đi chơi này mà chúng tôi lại được đi qua
con sông Bạch Đằng, một con sông lớn đã từng có danh trong lịch sử, là một
con đường thủy đạo, người Tàu qua đó mới vào hết đất được nước Nam ta. Thế
mà đã một lần Ngô Vương Quyền đánh giết Hoằng Thao là thái tử nhà Nam Hán
ở đó; lại một lần Trần Hưng Đạo bắt được Ô Mã Nhi là tướng Nguyên xâm
chiếm nước Nam ta cũng ở đó” [9].
Như vậy, các nhà du ký đến với vùng biển đảo phía Bắc với những ý nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và mục đích khác nhau. Đó có thể là cuộc trải nghiệm vui chơi, nhưng cũng có
thể là một cuộc hành trình tìm về với cuội nguồn văn hóa - lịch sử. Thông qua
những cuộc trải nghiệm, con người có thể tìm thấy những khát khao tìm tòi cái
mới mẻ về tình yêu, về tự do, về cái đẹp… Cùng với đó là sự luân chuyển liên
tục của không gian, thêm một không gian là thêm một trải nghiệm mới, mỗi điểm
dừng chân của tác giả là một không gian mới và không gian như được mở ra theo
nhiều chiều hướng. Không gian trong du ký vừa là hình ảnh của không gian vật
lý, vừa là sự hiện diện của không gian tâm tưởng, không gian quan niệm. Qua hệ
thống không gian ấy, nhà du ký có thể biểu hiện tư tưởng, tình cảm, thẩm mĩ,
cảm xúc của bản thân mình.
3.3. Đặc điểm trong bút pháp nghệ thuật
3.3.1. Giọng điệu của tác giả
Theo M.B.Khrapchencô cho rằng một nhà văn tài năng bao giờ cũng tạo ra
cho mình một giọng điệu riêng, độc đáo và “đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được
thể hiện trong một môi trường và giọng điệu nhất định đối với đối tượng sáng
tác… Hiệu suất cảm xúc của lối kể chuyện, của hành động kịch, của lời lẽ trữ tình
trước hết thể hiện ở giọng điệu chủ yếu vốn là đặc trưng của tác phẩm văn học
với tư cách là một thể thống nhất hoàn chỉnh.” [40]. Khi trần thuật, tác giả tạo ra
những sắc thái giọng điệu khác nhau hay còn gọi đó là hiện tượng “tính đa thanh
trong giọng điệu”. Khi nghiên cứu giọng điệu của tác giả, tức là người đọc được
tìm hiểu ngôn ngữ của chủ thể, cách nói của chủ thể về vấn đề được nói đến và
đối tượng mà nhà văn muốn nhắm đến. Phẩm giá của một tác phẩm văn học bao
gồm những yếu tố như bút pháp, giọng điệu, cảm xúc. Trong đó giọng điệu tạo
nên nét riêng cho tác phẩm, thể hiện được “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng,
đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy
định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân
sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm,…” [20, tr.134].
Giọng điệu trong tác phẩm văn học phụ thuộc chủ yếu vào cảm hứng chủ
đạo của nhà văn, nên khi đọc tác phẩm của các nhà văn khác nhau người đọc có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thể nhìn ra các giọng điệu khác nhau mang phong cách riêng của nhà văn đó. Và
trong du ký, các tác giả du ký là người trực tiếp tham gia vào cuộc hành trình của
mình, thuật lại những điều mắt thấy, tai nghe, nên ta bắt gặp trong đó chủ yếu là
lối kể trần thuật của tác giả du ký. Mục đích của các nhà du ký khi đến với vùng
biển đảo phía Bắc là được đi đây đi đó, muốn được chiêm nghiệm những thắng
cảnh nơi biển đảo, những di tích lịch sử cùng với cuộc sống nơi đây, nên giọng
điệu ngợi ca là giọng điệu chủ đạo trong hầu hết các tác phẩm.
Trúc Khê trước khi đến Chơi Cửa Bạn, nhà du ký đã mường tượng ra cảnh
vật nơi đây, với những vần thơ được viết trong trí tượng tượng nhưng quả thực
là rất đúng:
Cảnh vật nơi con ở,
Non cao bể mênh mông.
Đầu giường vang sóng réo,
Trước cửa rợp mây lồng.
Được đặt chân đến nơi đây, nhà du ký như minh chứng với mọi người rằng
những gì trong tưởng tượng của mình là hoàn toàn chính xác. Điều đó được thể
hiện rất rõ qua giọng điệu hồ hởi, hứng khởi, ca ngợi nơi đây của nhà du ký:
“Mấy câu tả cảnh ấy, tôi chỉ bằng ở tưởng tượng mà tả ra nhưng khi vào đây
mới biết tuy rằng tưởng tượng mà thực đã tả được rất đúng. Cái nhà tôi đến
thăm, ở ngay bên con đường chính và phồn thịnh nhất của làng; đàng sau nhà
tiếp vào chân núi; phía sau và bên sườn núi là bể; phía trước nhà là sông, tức
cái lạch bể, bề mặt rộng bằng mặt sông Hương khúc chẩy qua kinh thành; bên
kia sông, xa xa mấy rặng núi xanh mờ, đó là các núi ở cuối huyện Ngọc Sơn -
tỉnh Thanh và đầu huyện Quỳnh Lưu - tỉnh Nghệ. Đêm nằm trong nhà, nghe rào
rào những tiếng sóng bể xô dồn vào phía đông và phía nam núi, tự như những
điệu nhạc ngàn đời không bao giờ dứt. Ngày ra đứng cửa, trông thấy những núi
gần núi xa la liệt, mập mờ ẩn hiện dưới những đợt mây mờ. Trào dâng hôm sớm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mây lồng trước sau, thật đúng là cảnh này vậy” [26].
Giọng điệu ngợi ca trong du ký còn được thể hiện rất rõ khi nhà du ký
đứng trước một di tích lịch sử, văn hóa. Đông Châu qua chuyến Chơi Vịnh Hạ
Long khi qua con sông Bạch Đằng đã tái hiện lên lịch sử của nước nhà trên dòng
sông lịch sử với giọng điệu hào hùng, ngợi ca: “Đến nay mới đi thăm qua cái nơi
chiến trường trên dòng sông bãi cát này, thì còn biết đâu là nơi cắm chông sắt,
nơi phục binh thuyền, chỉ thấy ngọn nước thủy trào sớm hôm lên xuống ào ào,
cuộc tang thương đã thay đổi mấy đời triều, ai còn nhớ đến những đoạn lịch sử
vẻ vang ở trên dòng sông nước chảy này nữa. Song những người hữu tâm với
giang sơn tổ quốc qua đây mà sực nhớ đến câu Đằng giang tự cổ huyết do hồng
藤江自古血猶紅 thì cũng tưởng tượng như trông thấy Ngô vương Quyền, Trần
Hưng Đạo, đương hò hét quân sĩ ở trên ngọn trào lớp sóng; vẻ vang thay! hùng
tráng thay!” [9].
Chứng kiến bức tranh về cuộc sống của những người dân nơi biển đảo, các
nhà du ký họ không khỏi xót xa cho số phận, cuộc sống hiện thực của những cư
dân nơi biển đảo. Giọng điệu cảm thông, xót xa đã được nữ sĩ Vân Đài thể hiện
trong du ký Bốn năm trên đảo Các Bà khi được chứng kiến cuộc sống của những
người dân trên đảo Các Bà, đặc biệt những người dân sống ở hai làng Tân Châu
và Xuân Đám: “…phần đông lại là người nghèo khổ. Nghề nghiệp của họ không
có gì khác hơn là nghề lấy củi, lấy cỏ và vác muối thuê cho Khách trú. Giữa nơi
tiền rừng bạc bể, thế mà một số người ở chính đất nước nhà vẫn cam tâm đứng
bên cạnh sự sung sướng của kẻ khác, nhìn họ kiếm tiền một cách dễ dàng” [14,
tr.617].
Xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX là xã hội thực dân nửa phong
kiến, bên cạnh những tác phẩm văn học phản ánh hiện thực của xã hội Việt Nam
lúc bấy giờ, thì du ký cũng tái hiện bức tranh cuộc sống hết sức sinh động. Nhiều
nhà du ký đã ghi lại bức tranh đó với giọng điệu hài hước pha chút châm biếm.
N.P. trong Lược thuật hành trình cuộc ngự giá bắc tuần, tác giả không đơn thuần
là ghi chép lại cuộc hành trình của vị Hoàng Đế cùng các quan Khâm sứ, mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thông qua đó N.P. muốn đem đến cái nhìn hiện thực về xã hội Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX với bộ máy chính trị của nhà nước phong kiến dưới sự bảo
hộ của chính phủ Pháp. Và giọng điệu mỉa mai, châm biếm đã thể hiện rất rõ
trong việc tác giả ghi chép lại cuộc hành trình này, một mô típ dập khuôn khi vị
Hoàng Đế đi đến đâu cũng có một nghi lễ là chào mừng, đọc chúc từ, giới thiệu
đại biểu, tặng hoa, gắn bội tinh…
Trong tác phẩm văn học, ngôn từ không chỉ bao gồm từ, mỹ từ mà ngôn
từ còn phải có hồn. Tức là câu văn phải có giọng điệu, ngữ điệu, mới truyền tải
được nội dung mà nhà văn muốn biểu đạt. Và giống như các tác phẩm văn học,
mỗi tác giả du ký lại có một cách thể hiện khác nhau, do vậy họ đã làm cho bức
tranh hiện thực trở nên sinh động, giàu màu sắc và thể hiện những phong cách
khác nhau của những nhà du ký. Ngay trong mỗi tác phẩm du ký, giọng điệu
cũng hết sức đa dạng, nhiều sắc thái nên người đọc khi tiếp cận tác phẩm không
cảm thấy sự đơn điệu và nhàm chán. Để tạo ra giọng điệu phong phú, các tác giả
du ký đã phải sử dụng bút pháp nghệ thuật thật linh hoạt. Khi thì miêu tả, khi thì
trần thuật, khi thì so sánh, khi thì bình luận, khi thì liên tưởng. Nhìn chung các
nhà du ký sử dụng lối viết giàu hình ảnh để khắc họa thật rõ nét những khía cạnh
của đời sống tinh thần, của bức tranh xã hội. Tất cả những yếu tố đó đều chi phối
mạnh mẽ đến giọng điệu của tác giả.
3.3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật
“Văn học là nghệ thuật ngôn từ” và mỗi nhà văn lớn đều là những nghệ sĩ
bậc thầy về tiếng nói. Khác với ngôn ngữ trong văn học, ngôn ngữ trong du ký
vừa thực hiện chức năng công cụ vừa thực hiện chức năng làm phương tiện để
thông tin, truyền đạt một điều gì đó chính xác của nhà du ký đến độc giả. Với
việc sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện, du ký đã đưa hiện thực khách quan và
thế giới hiện thực vào trong văn học góp phần tạo ra những yếu tố mới cho văn
học và văn hóa. Do vậy, ngôn ngữ trong du ký bên cạnh mang phong cách của
thể loại còn mang đậm tính lịch sử.
Hiện thực xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, chịu sự đô hộ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chính quyền bảo hộ thực dân Pháp và chính quyền phong kiến bù nhìn, điều đó
đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của nhân dân ta, trong đó có một bộ phận
trí thức tiểu tư sản như: Nhà văn, nhà báo, ông quan, những học giả, học sinh,
sinh viên… Trong giai đoạn có tính chất giao thời như vậy, chữ Hán vẫn còn
được một số các nhà nho sử dụng cùng với sự phát triển mau lẹ của chữ quốc
ngữ, thể loại du ký ra đời như một bước đầu tập dượt để ngôn ngữ quốc ngữ có
thể được sử dụng làm chất liệu chính trong các sáng tác của các nhà văn. Ngôn
ngữ trong các tác phẩm du ký có sự đan xen, vay mượn các ngôn ngữ khác: chữ
Hán, chữ Pháp, tiếng Anh…
Qua khảo sát các tác phẩm du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX, người viết nhận thấy văn tự Hán vẫn còn tồn tại rất nhiều. Lý do
tồn tại của văn tự Hán là do lực lượng sáng tác và độc giả trong giai đoạn này
chiếm phần đông vẫn là những nhà trí thức Hán học, họ biết chữ Hán, họ muốn
chống lại sự xâm lược của văn hóa phương Tây. Trong du ký, văn tự Hán được
tồn tại trong tính đa chức năng: chức năng thông tin, chức năng giáo dục, chức
năng thẩm mĩ… Ngoài ra, với lịch sử phát triển của dân tộc, đa số các di tích lịch
sử của nước ta được lưu giữ lại bằng văn tự Hán, nên ngôn ngữ Hán trong các
tác phẩm du ký như đóng vai trò bảo tồn di tích, truyền thống của dân tộc. Đông
Châu trong du ký Chơi vịnh Hạ Long đã ghi lại tên của những di tích bằng chữ
Hán và dịch ra phiên âm Hán Việt: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng 藤江自古
血猶紅”; “Lục Hải Khẩu 綠 海 口”; “Xà Đầu Dự 蛇 頭 嶼”; “Trần Khánh Dư
陳 慶 餘”; “Truyền Đăng 傳 燈”; ngoài ra, chữ Hán trong du ký còn dùng để ghi
lại nguyên trạng những bài thơ, những câu đối được khắc trên bia đá, văn bia,
hay một khu di tích lịch sử nào đó. Trên núi Đề Thơ, nhà du ký đã dịch được
mấy câu: “Quang Thuận cửu niên, xuân nhị nguyệt” 光 順 九 年 春 二 月 và câu
kết rằng: Thiên Nam vạn cổ sơn hà tại,/ Chính thị tu văn yển vũ niên 天南萬古
山河在, 正是修文偃武年” [9]. Và sau khi tra lục được, thì nhà du ký đã ghi lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
toàn bộ văn tự Hán:
“光 順 九 年 春 二 月, 余 親 率 六 軍 ,試 武 于 白 滕 江 上. 是 日 風 和 景麗
, 海 不 揚 波, 乃 泛 黃 海 巡 安 邦,駐 師 于 傳 登 山 下 , 磨 石 題 一 律 云:
巨浪 汪汪潮百川,
亂山碁布碧連天。
壯心初感咸三股,
信手遙提巽二權。
宸北摳機森虎旅,
海東烽燧息 狼煙。
南天萬古山河在,
正是修文偃武年。
南天洞主題”
(Nam Phong, số 82)
Nhàn Vân Đình, khi đi qua xứ Quảng Yên, đã soạn ra bài thơ chữ Hán, bắt
chước người xưa để cảm tác trước cảnh vật nơi đây:
吟 瞻 遙 策 海 天 東,
笑 我 遊 人 迹 轉 蓬.
半 棹 波 濤 新 耳 目,
一 杯 湖 海 晚 秋 冬.
燈 光 散 水 痕 俱 碧,
日 影 吞 山 色 自 紅.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
此 地 繁 華 今 幾 度,
低 頭 輾 轉 問 漁 翁.
Ngâm chiên dao sách hải thiên đông,
Tiếu ngã du nhân tích chuyển bồng;
Bán trạo ba đào tân nhĩ mục,
Nhất bôi hồ hải vãn thu đông;
Đăng quang tán thủy ngân câu bích,
Nhật ảnh thôn sơn sắc tự hồng ;
Thử địa phồn hoa kim kỷ độ,
Đê đầu triển chuyển vấn ngư ông.
(Nam Phong, số 168)
Các nhà du ký không chỉ bắt chước người xưa làm thơ chữ Hán mà họ còn
sử dụng chữ Hán để miêu tả cảnh vật của non sông đất nước tươi đẹp của mình.
Đứng trước một khung cảnh tuyệt đẹp vào một buổi sáng từ Ninh Giang nhìn ra
chung quanh, nhìn ra Phủ Liễn - Kiến An, tác giả Nhàn Vân Đình không khỏi
thổn thức về cảnh sắc nơi đây, và có làm một bài thơ:
紅 日 水 中 出,
青 雲 山 上 浮.
壺 天 新 景 色,
贈 我 此 閒 遊.
Hồng nhật thủy trung xuất,
Thanh vân sơn thượng phù.
Hồ thiên tân cảnh sắc,
Tặng ngã thử nhàn du.
(Nam Phong, số 168)
Nhìn chung, các tác phẩm du ký mang yếu tố Hán thường gắn liền với các
cuộc hành trình của tác giả trở về với các di tích lịch sử, văn hóa, hay đứng trước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
danh lam thắng cảnh tôn nghiêm. Văn tự Hán có khi được giữ nguyên hiện trạng,
có khi lại được Việt hóa. Điều đó mang đến cho du ký một sự trang trọng, cổ
kính, và góp phần làm phong phú từ Hán Việt trong văn chương.
Bên cạnh ngôn ngữ Hán được các nhà du ký sử dụng, thì tiếng Pháp được
sử dụng trong du ký như một thủ pháp nghệ thuật. Người đọc dễ dàng nhận ra sự
hỗn dung của tiếng Pháp trong các tác phẩm du ký. Tiếng Pháp được sử dụng
trong du ký thường để chỉ thời gian ở đơn vị tháng, gọi tên địa danh, sự vật, hay
một vài phát ngôn ngắn của người nước ngoài mà nhà du ký nghe được. Trọng
Lang trong Hội Đồ Sơn, nhà du ký đã ghi lại những câu tiếng Pháp của những
ông Tây trong lễ hội Tây – Tàu – Ta, khi nhảy: “Cái vui đã đến tột bực, khi một
ông hô mấy câu tiếng Pháp như... con bỏ i-pha-nho: “Haltez-vous...” và “Sơ me
sừ là, ga nhê!” họ đã thi nhảy có quay số lấy đồ!” [28]. Hay khi chứng kiến cuộc
đối thoại giữa một bà khách Tây và một bà khách Tàu trên đường về Hà Hội, nhà
du ký cũng ghi được những câu nói tiếng Pháp của người khách Tây đối đáp với
người khách Tàu trước sự chứng kiến của những người Annam: “Một bà khách
Tàu chất vấn một bà khách Tây về cái nghịch cảnh đó. Bà Tây chợn mắt lên mà
nói vắn tắt cho bà Tàu hiểu:
“Ici, pas en Chine! Ici Francais”
(Đây, không phải ở bên Tàu, đây là người Pháp)
Thấy người Annam nhìn bà, bà vội nói thêm hai tiếng:
-“et Annamites”
Không ai cười cả, nhất là người Annam.
Riêng có mấy ông Tàu già ngồi gần đó” [28]
Như vậy, ngôn ngữ trong du ký nửa đầu thế kỷ XX nói chung và du ký
viết về biển đảo nói riêng đã có bước chuyển mình, có những sáng tạo nhất định.
Một mặt nhằm bảo tồn những giá trị truyền thống của dân tộc khi ghi lại những
dấu tích lịch sử, văn hóa bằng chữ Hán, một mặt phản ánh sự dung hợp của các
ngôn ngữ vào Việt Nam lúc bấy giờ. Đặc biệt sự xuất hiện tiếng Pháp trong các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tác phẩm du ký như một sự đả kích, châm biếm chính quyền phong kiến và chính
quyền bảo hộ của Pháp. Du ký giai đoạn này là tiền đề, là bước đệm cho ngôn
ngữ chữ quốc ngữ được phát triển hoàn chỉnh hơn ở những giai đoạn sau.
Tiểu kết chương 3
Trên phương diện nghệ thuật, du ký viết về biển đảo phía Bắc Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX đã được người viết làm rõ trên các khía cạnh: Điểm nhìn của
chủ thể tác giả du ký; Thời gian và không gian nghệ thuật; Giọng điệu và ngôn
ngữ nghệ thuật của tác phẩm du ký. Trong điểm nhìn của chủ thể tác giả, vai trò
của chủ thể tác giả đã được thể hiện dưới các vai trò, khi thì đóng vai trò là một
ký giả, khi thì đóng vai trò là một công dân, và khi thì đóng vai trò là một người
nghệ sĩ. Và tất cả các vai trò đó như có sự luân chuyển cho nhau trong cái nhìn
tổng quát, đều thể hiện điểm nhìn trần thuật. Đặc biệt ngôn ngữ được các nhà du
ký phản ánh trong giai đoạn giao thời với sự dung hợp của nhiều ngôn ngữ như:
tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Hán. Nhìn chung trên phương diện nghệ thuật,
các tác phẩm du ký viết về biển đảo phía Bắc nửa đầu thế kỷ XX đã góp phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vào việc đổi mới và hiện đại hóa văn học.
KẾT LUẬN
1. Du ký Việt Nam trải qua quá trình hình thành và phát triển tương đối
dài, đến nửa đầu thế kỷ XX khi các điều kiện về sự đi, phương tiện đi lại, báo
chí, dịch thuật phát triển thì du ký cũng phát triển một cách nhanh chóng và mau
lẹ cả về số lượng tác phẩm cũng như đội ngũ tác giả.
Du ký viết về biển đảo phía Bắc nửa đầu thế kỷ XX đã tạo được những
dấu ấn sâu đậm, phản ánh chân thực cảnh vật và con người nơi đây. Với những
điều kiện thuận lợi cả về kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn học,…
giúp cho du ký viết về biển đảo phía Bắc có những đóng góp đáng kể vào dòng
chảy của nền văn học nước nhà.
2. Vùng biển đảo phía Bắc Việt Nam bao gồm 11 tỉnh, mỗi một tỉnh lại có
những đặc điểm riêng. Nhà du ký đã mang đến cho độc giả những bức tranh thiên
nhiên đa dạng với nhiều màu sắc, đường nét khác nhau. Qua đó người đọc có thể
ngồi một chỗ mà chiêm nghiệm những vẻ đẹp kỳ diệu của cảnh sắc thiên nhiên,
hiểu hơn về cuộc sống cũng như con người nơi biển đảo phía Bắc.
Nửa đầu thế kỷ XX, sự phát triển của báo chí đã đưa các tác phẩm du ký
được gần hơn với các bạn đọc, giúp cho tất cả mọi người trên lãnh thổ Việt Nam
có cơ hội được tìm hiểu về vùng biển đảo phía Bắc, hiểu được giá trị và ý nghĩa
của biển đảo, từ đó có những hành động trong việc bảo vệ chủ quyền của dân
tộc, và ý thức cảnh giác hơn đối với các thế lực luôn rình rập xâm chiếm chủ
quyền trên biển cũng như trên đất liền. Các nhà du ký viết về biển đảo phía Bắc
đã có những khảo cứu sâu rộng về lịch sử và văn hóa của những vùng đất, địa
danh nơi mình đặt chân đến. Mỗi vùng biển đều mang trong mình một câu chuyện
huyền thoại hay truyền thuyết vẻ vang riêng. Để qua đó chúng ta hiểu được
những danh lam thắng cảnh, những công trình kiến trúc đền đài, chùa chiền…
đều nhờ vào sự gây dựng của thế hệ cha anh ta ngày trước. Như vậy, lịch sử hình
thành và tồn tại của vùng biển đảo phía Bắc nói riêng đã trải qua những biến
động, những thăng trầm của lịch sử dân tộc, nó là minh chứng cho công cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khẳng định chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Không gian văn hóa, phong tục tập quán của cư dân biển đảo phía Bắc
cũng được các nhà du ký khai thác, đi sâu tìm hiểu. Việc thờ cúng, tế lễ thần linh
của những cư dân miền biển cho thấy tâm thức biển đảo luôn gắn trong mỗi con
người nơi đây. Các nhà du ký đã đi sâu tìm hiểu những thế tục, miêu tả cặn kẽ
lối sống sinh hoạt của những người dân biển đảo như phong tục cưới xin, ma
chay,… của một số làng ven biển vẫn được lưu giữ lại được những nét văn hóa
cổ xưa. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XX, lối sống, văn hóa của người dân Việt Nam đã có sự lai tạp, dung lạp của
kiểu sống Ta - Tàu - Tây. Các nhà du ký đã thẳng thắn trình bày những quan
điểm, lập trường và lo ngại trước nguy cơ nền văn hóa Việt bị lai tạp những lối
sống tiêu cực, sự xâm lấn của những xô bồ, hỗn loạn của người Tàu và xã hội
hiện đại lố lăng mà người Pháp mang tới. Trước thực trạng đó thì văn hóa nơi
biển đảo phía Bắc cần được trân trọng, gìn giữ những giá trị truyền thống của
ông cha ta ngày xưa, đồng thời cần phải có thái độ quyết liệt đấu tranh chống lại
hủ tục lạc hậu, những thứ văn hóa lố lăng để nhằm bảo tồn và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Hiện thực đời sống xã hội của những con người vùng biển đảo phía Bắc
cũng được các nhà du ký khá quan tâm. Bằng những quan sát tỉ mỉ và sự nhạy
bén, họ đã đưa người đọc được chứng kiến đời sống kinh tế - xã hội của những
cư dân miền biển với các nghề truyền thống như: Làm muối, đánh cá biển, đan
vó, đan lưới,… và các hoạt động thương nghiệp trên biển. Qua đó thấy được cuộc
sống vất vả, lam lũ của người dân miền biển, vì miếng cơm manh áo mà họ phải
rời xa gia đình để đi buôn bán, đi đánh cá cả tháng trời, hay hàng mấy tháng trời
mới trở về với gia đình. Ngoài ra, các nhà du ký, đã mạnh dạn chỉ ra sự đối sánh
giữa Ta và Tàu, một phần nhận ra sự yếu kém của người Việt, mặt khác cho
chúng ta thấy những nguồn lợi của biển đều bị người Tàu vơ vét hết ngay trên
vùng biển của ta. Bài học kinh nghiệm, cảnh giác trước thế lực “Khách” trú được
tác giả du ký đặt ra, người dân cần thay đổi ý thức, hành động trước chủ quyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trên biển cũng như trên đất liền.
3. Du ký viết về biển đảo phía Bắc không chỉ phong phú về mặt nội dung
mà các nhà du ký còn phát huy và sáng tạo những đặc trưng nghệ thuật đặc sắc
của thể tài du ký. Vai trò của chủ thể tác giả “tôi” được đặt ở vị trí thứ nhất, đóng
vai trò vừa là người dẫn truyện và tạo dựng nên cốt truyện làm cho câu chuyện
được diễn ra theo mạch cảm xúc chủ quan của tác giả. Khi đóng vai trò khác
nhau thì chủ thể tác giả bộc lộ những quan điểm khác nhau, tác giả đóng vai trò
là một ký giả khác một công dân hay một nhà báo, một ông quan. Chủ thể tác giả
chi phối đến ngôn ngữ, gọng văn, cảm xúc… của nhà văn. Bằng các phương tiện
ngôn ngữ, vận dụng các thủ pháp nghệ thuật mà nhà văn mang đến cái nhìn đa
chiều, bức tranh phong cảnh, phong tục tập quán đa dạng đến cho độc giả. Thời
gian và không gian trong du ký là thời gian thực, có khả năng xâu chuỗi, liên kết
các sự kiện một cách chính xác về thời gian đi, đến, nơi chốn, địa điểm dừng
chân… Người đọc có thể dừng lại hồi lâu hay lướt qua cảnh vật, sự kiện tùy vào
cảm xúc chủ quan của tác giả du ký, hay từ hiện tại có thể quay ngược về quá
khứ thông qua dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi”.
Trong du ký viết về biển đảo phía Bắc, các cuộc du ngoạn, thăm thú của
tác giả du ký thường trở về với các di tích lịch sử, hay các danh lam thắng tích
một thủa một thời của cha ông ta, nên giọng điệu chủ đạo của tác giả du ký là
giọng điệu ngợi ca. Nhằm mang đến cảm hứng hào hùng về một thời đã qua của
dân tộc. Cùng với đó là các di tích lịch sử được các nhà du ký tái hiện bằng việc
đứng trước nó để tưởng nhớ hay ghi chép lại những dấu tích còn sót lại trên vách
đá những bài thơ, những bài đề tựa. Và chữ Hán là chữ viết được các nhà nho,
trí thức khi đến với vùng đất nơi đây đã khắc ghi lại. Các nhà du ký với nhiệm
vụ là phỏng đoán, tìm kiếm lại trong ghi chép của người xưa để mang đến cái
nhìn hoàn chỉnh về lịch sử của dân tộc. Ngoài ra, do ảnh hưởng của xã hội, thứ
ngôn ngữ ngoại lai tiếng Pháp cũng xuất hiện trong các trang du ký. Tiếng Pháp
dùng để ghi lại đơn vị thời gian ngày tháng, hay các cuộc trò chuyện mà nhà du
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ký đã nghe được. Nhìn chung ngôn ngữ trong du ký viết về biển đảo phía Bắc đã
có sự hỗn tạp của nhiều thứ ngôn ngữ, trong đó quan trọng hơn cả là các tác phẩm
du ký ra đời đã đặt nền móng khởi đầu cho ngôn ngữ quốc ngữ phát triển hoàn
chỉnh hơn.
4. Du ký về biển đảo phía Bắc Việt Nam như một pho tư liệu bao gồm
nhiều lĩnh vực, không chỉ riêng văn học mà còn có lịch sử, địa lý, văn hóa, du
lịch… Điều đó cho phép mở ra những nghiên cứu khoa học liên ngành. Đồng
thời thông qua những trang du ký, người đọc hôm nay có thêm những tri thức về
các vùng biển đảo phía Bắc, và hình dung được chiều dài lịch sử của đất nước và
dân tộc ta trong quá khứ. Người đọc hôm nay còn tìm thấy trong đó tiếng nói của
lòng yêu nước, ý thức về chủ quyền lãnh thổ, những bài học quý báu trong bảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vệ chủ quyền đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị An (2016), “Truyền thuyết dân gian với việc kết nối các dạng thức
không gian biển Việt Nam”, Nghiên cứu Văn học, số 6.
2. Nguyễn Anh (2007), “Đọc du kí Việt Nam, ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn
dặm”, báo Văn hóa, số ra ngày 30/3.
3. Trần Thị Kim Anh, Hoàng Hồng Cẩm (2010), Các thể văn chữ Hán, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (chủ biên) (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt
Nam (Từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945) (Tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Tái bản. Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Lại Nguyên Ân, Nguyễn Hữu Sơn (sưu tầm) (2002), Tạp chí Tri Tân (1941
- 1945) - Truyện và ký, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
7. BA B.J. (1936 - 1937), “Một cuộc hành du”, Khoa học Tạp chí, số 125 - 147.
8. Lê Như Bình (2016), “Bài học bảo vệ biển đảo qua truyện cổ Sự tích đền Độc
Cước”, Nghiên cứu Văn học, số 6.
9. Đông Châu (1924), “Chơi vịnh Hạ Long”, Nam phong Tạp chí, số 82.
10. Thanh Châu (1943), “Nghệ thuật rong chơi”, Trung Bắc Tân Văn, (160), tr. 10 - 11.
11. Đức Dũng (1994), “Thử phân biệt ký văn học và ký báo chí”, Tạp chí Văn học,
(6), tr. 21-24.
12. Đức Dũng (2004), “Phóng sự báo chí hiện đại”, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
13. Tầm Dương (1967), “Bàn về thể ký”, Tạp chí Văn học, (2), tr. 36-39.
14. Vân Đài (1944), “Bốn năm trên đảo Các Bà”, Tri tân Tạp chí, số 149, 154,
156, 157 - 158.
15. Hát Ch. Đê (1940), “Sầm Sơn với những ngày chưa ai đến nghỉ mát”, Trung
Bắc Chủ nhật, số 17.
16. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX- những vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lịch sử và lý luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Nhàn Vân Đình, “Quảng Yên du ký”, Nam phong Tạp chí, số 168, tháng 1-
1932, tr.81-191.
18. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ XX: tạp văn và
các thể ký Việt Nam 1900- 1945, Nxb Văn học, Hà Nội.
19. Hà Minh Đức (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2000), Từ điển
thuật ngữ văn học, Tái bản. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2009), “Những đặc điểm của văn học du ký trung
đại”, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, (30), tr. 75 - 83.
22. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2009), “Giá trị văn hóa và văn học của loại văn du
ký (khảo sát qua sách Du ký Việt Nam)”, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia
Hà Nội, (25), tr. 63 - 71.
23. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Thúy Hồng (2008), Thể du ký trong tiến trình hiện đại hóa văn
hóa Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
25. Nguyễn Duy Dũng, Dương Văn Huy (2016), “Văn hóa biển đảo Việt Nam
trong cái nhìn tham chiếu với khu vực Đông Nam Á”, Nghiên cứu Văn học,
số 6.
26. Trúc Khê (1944), “Chơi Cửa Bạn”, Tiểu thuyết thứ Bảy, số 5, tr.78-85.
27. Trần Trọng Kim (1923), “Sự du lịch đất Hải Ninh”, Nam phong Tạp chí, số 71.
28. Trọng Lang (1938), “Hội Đồ Sơn”, Ngày nay, số 121, tr.17-18.
29. Trọng Lang (1938), “Đi vịnh Hạ Long”, Ngày nay, số 108.
30. Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900 - 1945,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
31. Phong Lê (2007), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
32. Phong Lê (2008), Viết từ đầu thế kỷ, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
33. Phong Lê (2009), “Du ký Việt Nam trên chặng đường hiện đại hóa”, Nghiên
cứu Văn học, (11), tr. 51-59.
34. Nguyễn Hữu Lễ (2015), Đặc điểm du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Luận
án Tiến sĩ ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Trường Đại học Khoa học - Đại
học Huế.
35. Nguyễn Hữu Lễ (2016), “Biển đảo Việt Nam trong ghi chép của người
phương Tây”, Nghiên cứu Văn học, số 6.
36. Nhị Linh (1937), “Hội chợ Hải Phòng năm 1937”, Ngày nay, số 91, tr.91.
37. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển trung), Tái
bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
38. Trịnh Vĩnh Long (1996), Bước đầu tìm hiểu nội dung văn học trên tạp chí
Nam Phong, Luận văn Thạc sĩ khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
39. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. M.B.Khrapchencô (1978), “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học”, Nxb. Tác phẩm mới (Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch), Hà Nội, tr167-
168.
41. Nguyễn Thị Ngọc Minh (2005), Ký - những vấn đề đặc trưng thể loại, Luận
văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
42. Nguyễn Thị Ngọc Minh (2013), Ký như một loại hình diễn ngôn, Luận án
Tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
43. Nam Mộc (1967), “Thể kí và vấn đề người thật việc thật”, Tạp chí Văn học,
(6), tr. 33 - 36.
44. Phạm Xuân Nguyên (2007), “Du ký như một thể tài”, báo Văn hóa và Thể
thao (26/4).
45. Phạm Xuân Nguyên (2007), “Đọc sách để đi chơi”, báo Tuổi trẻ (23/3).
46. Phạm Thế Ngũ (1998), Việt Nam văn học sử - giản ước tân biên, (Tập III
Văn học hiện đại (1862-1945)), Tái bản. Nxb Đồng Tháp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
47. Phạm Mạnh Phan (1942), “Kỷ niệm Sầm Sơn”, Tri tân Tạp chí, số 68.
48. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Tái bản. Nxb Văn hóa,
Hà Nội.
49. Phạm Văn Phúc (1983), Những vấn đề ngữ văn đặt ra trên Nam phong tạp
chí, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội.
50. Nguyễn Hữu Sơn (2002), “Du ký Quảng Ninh nửa đầu thế kỷ XX”, Văn nghệ
Hạ Long, (số tết), tr. 10.
51. Nguyễn Hữu Sơn (2007), Du ký Việt Nam - Tạp chí Nam phong 1917- 1934
(Tập 1, 2, 3), Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
52. Nguyễn Hữu Sơn (2007), “Thể tài du ký trên tạp chí Nam phong (1917 -
1934)”, Nghiên cứu văn học, (4), tr. 21-38.
53. Nguyễn Hữu Sơn (2007), “Ký Việt Nam từ đầu thế kỷ đến 1945”, Nghiên
cứu văn học, (8), tr. 17-28.
54. Nguyễn Hữu Sơn (2008), “Du ký của người Việt Nam viết về nước Pháp và mối
quan hệ Việt - Pháp giai đoạn cuối thế kỷ XIX- nửa đầu thế kỷ XX”, in trong
Tuyển tập Báo cáo tóm tắt Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba Việt Nam
hội nhập và phát triển (Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức), tr. 328-329.
55. Nguyễn Hữu Sơn (2011), “Đạm Phương nữ sĩ và những trang du ký viết về
xứ Huế”, Tạp chí Kiến thức ngày nay, (751), tr. 9-13.
56. Nguyễn Hữu Sơn (2012), Luận bình văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội.
57. Nguyễn Hữu Sơn (2013), “Thể tài văn xuôi du ký chữ Hán thế kỷ XVIII- XIX
và những đường biên thể loại”, Tạp chí Kiến thức ngày nay, (810), tr. 8-11.
58. Nguyễn Hữu Sơn (2006), “Thể tài du ký và các tác gia Nam Bộ từ nửa cuối thế
kỷ XIX đến 1945”, Tạp chí Kiến thức ngày nay, (570), tr 12-15, 120-122.
59. Nguyễn Hữu Sơn (2013) Thể tài du ký nửa đầu thế kỷ XX và đôi điều về bài
học quản lý, kinh doanh. Tạp chí Văn hóa và du lịch (8), tr. 98-112.
60. Nguyễn Hữu Sơn (2016), “Nhận diện du ký biển đảo Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX theo các vùng văn hóa”, Nghiên cứu Văn học, số 6.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
61. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Trần Đình Sử (Chủ biên), Phan Huy Dũng, La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm,
Lê Lưu Oanh (2009), Giáo trình Lí luận văn học (Tập 2) - Tác phẩm và thể
loại văn học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
63. Trần Đình Sử (2011), Lí luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
64. Nguyễn Hữu Tiến (1924), “Chơi vịnh Hạ Long”, Nam phong Tạp chí, số 82,
tr.322-327.
65. Sơn Tùng (1961), “Các thể loại ký: Đặc tả, phóng sự, ký sự, tùy bút”, Nghiên
cứu văn học, (8), tr. 71-74, 98.
66. Võ Thị Thanh Tùng (2013), “Tính cách người Nam Bộ- dấu ấn đặc sắc trong
du ký Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh, (44), tr. 138-146.
67. Võ Thị Thanh Tùng (2013), “Một vài đặc điểm của thể loại du ký Việt Nam”,
Tạp chí Khoa học xã hội, (4), tr. 37-43.
68. Anh Lãng Tử (1934), “Đi thăm vịnh Hạ Long (Ba kỳ)”, Hà thành ngọ báo,
số 2017, 2019, 2023.
69. Hoài Thanh - Hoài Chân (1942), Thi nhân Việt Nam, Tái bản. Nxb. Văn học,
Hà Nội.
70. Trần Thị Băng Thanh (2016), “Cảm quan về biển trong thi ca người xưa”,
Nghiên cứu Văn học, số 6.
71. Vũ Thanh (2016), “Tâm thức biển đảo trong văn xuôi tự sự Việt Nam trung
đại”, Nghiên cứu Văn học, số 6.
72. Nguyễn Đức Thuận (2008), Văn trên Nam phong tạp chí - diện mạo và thành
tựu, Nxb Văn học, Hà Nội.
73. Lê Hương Thủy (2016), “Văn xuôi Việt Nam hiện đại viết về biển đảo”,
Nghiên cứu Văn học, số 6.
74. Trần Thị Thương (2010), Du ký trên Nam phong tạp chí (1917 - 1934), Luận
văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
75. Trần Thị Trâm (1994), “Vai trò của báo chí trong sự phát triển văn học dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tộc đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học, (6), tr. 6-10.
76. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2010), Các thể
văn chữ Hán Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
77. V.N. Voloshinov (2015), Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ, (Ngô Tự
Lập dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
78. Nguyễn Khắc Xuyên (1968), Mục lục phân tích tạp chí Nam phong, Trung
tâm học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn.
79. X. (1917-1918), “Đi chơi ngoài Bắc Kỳ, Huế và bên Tàu”, Nam Kỳ địa phận, số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
461 - 476.
PHỤ LỤC
Tác phẩm du ký viết về biển đảo phía Bắc nửa đầu thế kỷ XX
(Xếp theo thời gian)