ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––––
NGUYỄN THỊ LAN
DU KÝ VỀ VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––––
NGUYỄN THỊ LAN
DU KÝ VỀ VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HỮU SƠN
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài Luận văn: “Du ký về vùng Tây Bắc Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu, kết
quả nghiên cứu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất kì công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Lan
Xác nhận của Khoa Ngữ văn Xác nhận của người hướng dẫn
PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn
i
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn
là PGS. TS Nguyễn Hữu Sơn - người đã tận tình hướng dẫn, động viên, tạo
điều kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ Văn, đặc
biệt là các thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy khoá 24, chuyên ngành Văn học Việt
Nam, các cán bộ khoa Sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã
dạy dỗ, tạo điều kiện cho em trong quá trình học tập.
Tôi vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính
là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, ngày 14 tháng 04 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Lan
ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ................................................ 8
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 8
4.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 8
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9
6. Đóng góp của Luận văn ................................................................................. 10
7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 10
Chương 1. THỂ TÀI DU KÝ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN THỂ TÀI DU KÝ VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU
THẾ KỶ XX ..................................................................................................... 11
1.1. Khái quát chung về du ký ........................................................................... 11
1.1.1. Một số quan niệm về du ký ..................................................................... 11
1.1.2. Du ký với tư cách là thể tài văn học ........................................................ 13
1.1.3. Thể tài du ký vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX ..................................... 16
1.2. Cơ sở văn hóa, xã hội của sự ra đời và phát triển du ký vùng Tây Bắc
nửa đầu thế kỷ XX ............................................................................................. 19
1.2.1. Văn hóa, xã hội và con người vùng Tây Bắc .......................................... 19
1.2.2. Ý thức sáng tác của nhà văn và nhu cầu thưởng thức của độc giả .......... 22
1.2.3. Tác giả, tác phẩm du ký về vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX ............... 25
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 26
iii
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA THỂ TÀI DU KÝ VỀ VÙNG
TÂY BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ......................................... 27
2.1. Vùng Tây Bắc Việt Nam với tư cách là một đối tượng phản ánh của du
ký nửa đầu thế kỷ XX ........................................................................................ 27
2.2. Những “điều trông thấy” từ các chuyến viễn du ........................................ 29
2.2.1. Cảnh sắc thiên nhiên vùng Tây Bắc ........................................................ 30
2.2.2. Văn hóa, phong tục tập quán ................................................................... 35
2.3. Trải nghiệm từ những “điều trông thấy” .................................................... 45
2.3.1. Cảm nhận về “những cái khác” ............................................................... 45
2.3.2. Sự chuyển mình của Tây Bắc .................................................................. 50
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 55
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA DU KÝ VỀ VÙNG TÂY
BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX .................................................. 56
3.1. Vai trò của người kể chuyện trong du ký viết về vùng Tây Bắc ................ 56
3.1.1. Điểm nhìn đa diện đối với hiện thực ....................................................... 56
3.1.2. Sự phối hợp nhiều điểm nhìn trần thuật .................................................. 59
3.2. Sự dung hợp các phong cách thể loại ......................................................... 66
3.2.1. Sử dụng yếu tố chính luận ....................................................................... 67
3.2.2. Giao thoa giữa các thể loại ...................................................................... 72
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 78
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 82
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam chuyển mình sang hướng hiện
đại hóa trên cơ sở chịu ảnh hưởng và tiếp thu văn học phương Tây, thì cùng với
thơ mới, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, kịch… các tác phẩm tùy bút, du ký
cũng rất phát triển. Sự hiện diện của thể tài du ký xét cả về số lượng và chất
lượng đã cùng với những thể loại khác làm nên diện mạo và thành tựu của nền
văn học trong buổi đầu canh tân - nửa đầu thế kỷ XX. Bản thân hai chữ du ký
đã có một nội hàm rất rộng, nhưng tựu trung lại: Du ký là loại ký có cốt truyện
ghi chép về vẻ kỳ thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời; những cảm nhận,
suy tưởng của con người trong những chuyến du ngoạn. Du ký phản ánh,
truyền đạt những nhận biết, những cảm tưởng, suy nghĩ mới mẻ của bản thân
người đi du lịch về những điều mắt thấy tai nghe ở những xứ sở xa lạ, nơi mọi
người ít có dịp đi đến, chứng kiến. Hình thức du ký bao gồm các ghi chép, ký
sự, hồi ký, thư tín... Tác giả của du ký thường bộc lộ niềm say mê khát khao
tìm kiếm, khám phá những điều mới lạ; đồng thời tác giả cũng cung cấp một
lượng thông tin phong phú từ nhiều lĩnh vực của đời sống, ở nhiều vùng đất xa
gần khác nhau khiến cho mỗi tác phẩm hiện lên sống động như một bộ phim tư
liệu được dàn dựng hết sức công phu.
1.2. Qua quá trình phát triển và hình thành thể loại, du ký Việt Nam nửa
đầu thế kỉ XX được biết đến với nhiều tác giả, tác phẩm đăng trên các báo và
tạp chí đương thời. Thể loại này đã thu hút nhiều nhà báo, nhà văn, học sinh, du
khách bởi sự mới mẻ và hấp dẫn của nó. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế đã tạo
nên những cơ hội và cũng là thách thức cho sự phát triển du lịch Việt Nam, do
đó mỗi một trang du ký viết về các vùng của đất nước, trong đó có du ký viết
về vùng Tây Bắc sẽ luôn là đề tài đầy cảm hứng cho mỗi tác giả. Từ một số đề
tài đã nghiên cứu về các vùng trên đất nước như du ký vùng Đông Bắc, vùng
Đông Nam bộ, vùng Tây Nam bộ… cho thấy du ký viết về các vùng này không
1
chỉ có giá trị về mặt văn học mà còn có giá trị trên nhiều phương diện khác như
khảo sát địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán, góp phần giúp độc giả và
khách du lịch có được cái nhìn rõ hơn về hiện trạng cảnh quan, đời sống người
dân nơi đây. Đối với du ký vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX, tuy đã có một số
tác giả tìm hiểu nhưng chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào phân
tích để phát hiện ra những đóng góp cả về nội dung lẫn nghệ thuật của du ký
Tây Bắc, chưa đem đến cho độc giả cái nhìn toàn cảnh về thiên nhiên, con
người, về chiều sâu nền văn hóa vùng cao Tây Bắc…
1.3. Với mong muốn từ những tìm hiểu về du ký vùng Tây Bắc (bao gồm
6 tỉnh: Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái), vùng đất
được coi là “miền đất của những núi cao và cao nguyên”, người viết chọn đề tài
Du ký về vùng Tây Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX để phân tích và nghiên
cứu. Hy vọng đề tài này sẽ góp phần giới thiệu toàn cảnh và chiều sâu nền văn
hóa vùng cao Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Du ký được coi là thể loại tiên phong, mở đường cho tiến trình hiện đại
hóa nền văn học dân tộc, vì nó đã khơi nguồn và đem đến cho công chúng một
nhu cầu mới, đó là nhu cầu thưởng thức các tác phẩm văn học. Ở nửa đầu thế kỉ
XX, khi du ký bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở nước ta, vấn đề thể loại của du ký
vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX –
những vấn đề lịch sử và lí luận do Phan Cự Đệ chủ biên, với quan niệm du ký
như là một thể của kí, khi nói về du ký Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, tác giả
nhận định: “Một số tác phẩm đã ghi lại được những tư tưởng và cảm xúc của
tác giả trước thiên nhiên, đất nước và vấn đề xã hội đương thời. Bên cạnh các
tác phẩm mang hơi hướng tùy bút, đậm chất trữ tình (các tác phẩm của Tương
Phố, Đông Hồ) là các tác phẩm nặng về chất khảo cứu, biên khảo, ghi chép
phong tục (các tác phẩm của Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác)” [11, tr.377].
Các nhà nghiên cứu này đã chưa thấy hết lịch sử và qui mô của du ký Việt Nam
2
nửa đầu thế kỉ XX, đó là du ký không phải dừng lại ở giai đoạn 1900 - 1930 mà
vẫn tiếp diễn trong cả giai đoạn sau đó (1930 - 1945), nhiều về số lượng tác
phẩm, đa dạng về nội dung và phong cách.
Khi bàn về vị trí của thể loại du ký trong quá trình hiện đại hóa văn học,
trong cuốn Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900-1945 nhà nghiên
cứu Mã Giang Lân cho rằng: “Thể loại văn học đầu tiên viết bằng chữ Quốc
ngữ phải kể đến du ký. Đây là một hình thức bút kí văn học được ghi lại
bằng văn xuôi, thuật lại những chuyến đi của tác giả đến những vùng đất
khác nhau. Nguồn gốc của du ký cần tìm trong những hình thức tùy bút, kí
sự truyền thống” [30, tr.44].
Trong cuốn Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối
thế kỉ XX, ở phần "Văn chương hiện kim", mục "Những bước đầu của tiểu
thuyết", Bùi Đức Tịnh vừa mang tính kế thừa vừa đưa ra quan điểm mới, coi
Du ký như những thiên kí sự kể những chuyện của chính tác giả "Được xem
như là một loại tiểu thuyết, chỉ tô điểm thêm đôi chút những sự thật mà tác
giả đã chứng kiến" [79, tr.363].
Ở cuốn giáo trình Lí luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên, Du ký được
xem là một thể loại đứng độc lập cùng với các thể loại khác (như ký sự, phóng sự,
nhật ký, hồi ký, bút ký, tùy bút, tản văn) và đã đưa ra khái niệm mang tính mô tả
"là thể loại ghi chép về vẻ kì thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời, những cảm
nhận suy tưởng của con người về những chuyến du ngoạn, du lịch..." [12, tr.382].
Khái niệm của Hà Minh Đức đưa ra giống với định nghĩa trong Từ điển
thuật ngữ văn học, do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng
chủ biên) coi “Du ký là thể loại văn học thuộc loại hình kí, biểu hiện với sự
đa dạng về hình thức miễn là mang lại những thông tin, tri thức và cảm xúc
mới lạ về phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến. Trong
cuốn từ điển này, còn nêu lên các dạng: dạng đặc biệt của du ký là phát huy
tính chất ghi chép... về các xứ sở tưởng tượng, có tính chất không tưởng hay
3
viễn tưởng khoa học; dạng ghi chép cảm tưởng, nhận xét về những nơi danh
lam thắng cảnh của đất nước” [14, tr.75].
Báo Văn hóa và thể thao, ra ngày 27-4-2007 có bài viết Du ký như một thể
tài của tác giả Linh Lê. Trong đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn khi trả lời
phỏng vấn của tác giả Linh Lê, đã khẳng định:“Du ký cần quan niệm như là một
thể tài. Thể tài du ký cần phải hiểu là nhấn về phía đề tài, nội dung và cảm hứng
nghệ thuật của người viết chứ không phải phía thể loại” [32, tr.75].
Bên cạnh quan điểm tiếp cận du ký trên phương diện thể tài còn có một số
cách tiếp cận khác trong nghiên cứu du ký Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ở Luận án
của Nguyễn Hữu Lễ (2015) là công trình mới nhất được triển khai theo quan
niệm: “Đã đến lúc du ký cần được làm sáng tỏ về mặt thể loại” [35, tr.16]. Tác
giả cho rằng đây là xu hướng nghiên cứu phù hợp trong tình hình hiện nay, một
khi du ký được định danh rõ ràng thì những “vấn đề về đặc điểm và cách tiếp
cận nghiên cứu trong du ký còn bị cản trở bởi sự giao thoa và các lằn ranh thể
loại cùng với quan niệm mơ hồ về du ký” [35, tr.7]. Hoặc tiếp cận trên phương
diện văn hóa, trong bài Giá trị văn hóa và văn học của du ký (khảo sát qua
sách Du ký Việt Nam), Nguyễn Thúy Hằng đã tập trung khảo sát các tác phẩm
trong bộ Du ký Việt Nam trên tạp chí Nam Phong ở ba phương diện: tác giả,
bối cảnh văn hóa - xã hội và thể tài để tìm ra những giá trị văn hóa và văn học
của du ký [16]. Dựa trên quan điểm coi du ký là tiểu loại của kí, tác giả đã phân
tích ngôn từ khoa học và ngôn từ nghệ thuật trong các tác phẩm du ký viết bằng
chữ Quốc ngữ ở cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, sau đó, đưa ra những nhận
định về các đặc điểm ngôn từ du ký giai đoạn này gồm ba vấn đề: hệ thống từ
Hán Việt và lối biểu đạt biền văn, hệ thống từ cổ và phong cách diễn đạt cũ kĩ,
lạc hậu, hệ thống từ ngữ và lối diễn đạt khúc chiết du nhập từ phương Tây. Từ
phương diện nội dung, Nguyễn Hữu Sơn đưa ra một số loại du ký như du ký
viễn du, là những chuyến du hành đến với các nước khác như du ký của người
Việt Nam viết về nước Pháp và mối quan hệ Việt - Pháp giai đoạn cuối thế kỷ
4
XIX - nửa đầu thế kỷ XX (Kỉ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3
“Việt Nam hội nhập quốc tế và phát triển” do Đại học Quốc gia Hà Nội và
Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức, 2008); hay du ký hướng tới khảo sát,
giới thiệu cả một vùng văn hoá rộng lớn như du ký của người Việt viết về các
nước và những đóng góp vào quá trình hiện đại hóa văn xuôi tiếng Việt giai
đoạn thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX (sách Văn học cận đại Đông Á từ góc nhìn so
sánh của Đoàn Lê Giang)… trên phương diện thể tài ông có hàng loạt bài viết
lớn nhỏ thể hiện cái nhìn từ bao quát đến cụ thể về du ký như Thể tài du ký trên
tạp chí Nam Phong (1917 -1934) (tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 4, 2007), Du
ký viết về Sài Gòn - Gia Định nửa đầu thế kỷ XX từ điểm nhìn những năm đầu
thế kỷ XXI (tạp chí Khoa học xã hội, số 11, 2008), Thể tài văn xuôi chữ Hán thế
kỷ XVIII - XIX và những đường biên thể loại (Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam, số 5, 2012)… và để giúp cho bạn đọc, giới nghiên cứu đến gần hơn với
du ký, Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, tuyển chọn ra mắt bộ sách có giá trị, đó là bộ
sách Du ký Việt Nam - tạp chí Nam Phong 1917 – 1934, gồm 3 tập với hơn
2000 trang du ký.
Cho đến nay, du ký bắt đầu được nhìn nhận như một đối tượng nghiên
cứu riêng biệt, phần nào tách mình ra khỏi địa hạt của những công trình về ký
và được chú ý hơn trên nhiều phương diện khác nhau. Xem du ký là một thể
tài không phải là duy nhất nhưng vẫn là quan điểm đóng vai trò chủ chốt,
chiếm đa số và có nhiều thành tựu hơn cả trong các nghiên cứu về du ký của
văn giới. Trong nền văn học Việt Nam cũng như các tạp chí cùng thời đã xuất
hiện các thành tựu đáng trân trọng, lưu giữ của du ký các vùng miền trên đất
nước Việt Nam, tiêu biểu như Nguyễn Đăng Hai tìm hiểu về Thiên nhiên và
con người đồng bằng sông Cửu Long qua một số tác phẩm du ký tiêu biểu giai
đoạn 1900 - 1945 (Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, số 6, 2012) qua các
tác phẩm Cảnh vật Hà Tiên, Thăm đảo Phú Quốc, Tôi ăn tết ở Côn Lôn.
Nguyễn Hữu Sơn tìm hiểu về các cùng địa lý - văn hóa với các địa danh, các
5
vùng của đất nước như Thể tài du ký về Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX (Văn nghệ
quân đội, số 10, 2000), Phác thảo du ký Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám
(Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 6, 2000), Du ký Ninh Bình nửa đầu thế
kỷ XX (Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình, số 6, 2004)… Qua các bài viết, Nguyễn
Hữu Sơn giúp người đọc thấy rõ hơn bức tranh đa dạng về du ký Việt Nam từ
các tác phẩm trung đại cho tới các du ký nửa đầu thế kỷ XX trên Nam Phong
tạp chí và tìm thấy ở mỗi du ký là một phác thảo độc đáo, tạo thành bức tranh
đa màu sắc về các vùng ở Việt Nam.
Những nghiên cứu về du ký Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX nói chung chưa
có góc nhìn đầy đủ, toàn diện. Đặc biệt, với tư cách là một đối tượng đề tài
trong hệ thống du ký những sáng tác viết về vùng Tây Bắc đã xuất hiện trong
một số bài viết của các nhà văn, ký giả báo chí khi đến thăm các tỉnh Lào Cai,
Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái sau đó đã kể lại, thuật chuyện
lại bằng nhãn quan của mình, như Lan Khai (Một buổi săn đêm. Loa, số 14,
tháng 5- 1934), Nhật Nham Trịnh Như Tấu (Sau tám năm trở lại thăm Laokay,
in hai kỳ trên Tạp chí Tri Tân, số 46 và 47, tháng 5-1942), Ngọc Ước (Miền
thượng du Bắc Kỳ in ba kỳ trên Nam Kỳ tuần báo, số 74, 75, 76-1944), Đi bên
Tàu chơi (Vân Nam - Yunnan-fou), Minh Châu (Lên Sơn La. Tràng An báo, số
419, ra ngày 12-5-1939), Nhị Lang (Tiếng cồng vang chốn rừng xanh. Trung
Bắc Tân văn, số 10, ra ngày 3-5-1940), Nguyễn Đức Thang (Tại rừng Lai Châu
có một thứ cây ban đêm sáng như con đom đóm dùng làm thước, ba toong, cán
bút, đẽo guốc độ vài đêm lại mất sáng. Tràng An báo, số 863, ra ngày 3-10-
1941), Đặng Trọng Khang (Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu. Hà Thành
ngọ báo, số 1961, ra ngày 20-3-1934), Bùi Xuân Học (Cuộc kinh lý của quan
Thống sứ Tholance tại Sơn La và Lai Châu, Hà Thành ngọ báo, số 1915-
1934), Đặng - v - Đàm (Khảo cứu về người Mường, Đông phương, số 21-
1929), Roi-Song (Đưa các bạn lên thăm đất "núi rừng", Hà Thành ngọ báo,
số 2021- 1934), Tam Lang - Việt Dân (Lạc trong giang sơn Đinh, Quách, Hà
6
Thành ngọ báo, từ số 2181 đến 2305, 1934-1935), Nguyễn Tụng (Hai ngày
dưới bóng núi Fan-Si-Pan, Tin mới, số 182, 1940)… Những bài viết này vừa
có ý nghĩa văn chương vừa là những tư liệu khảo sát, điền dã, ghi chép sinh
động về địa lý, lịch sử, phong tục tập quán, thực trạng đời sống kinh tế - văn
hoá, những bước phát triển đáng lưu ý dưới thời thực dân - phong kiến và vẻ
đẹp của thiên nhiên cũng như cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Bắc
những năm nửa đầu thế kỷ XX. Nguyễn Hữu Sơn từ những nghiên cứu về thể
tài du ký và du ký các vùng miền khác trên đất nước Việt Nam, với ý tưởng sẽ
xây dựng bộ toàn tập “Du ký vùng cao Tây Bắc thế kỉ XX”, gồm những trang
phóng sự - du ký, ghi chép, hồi ức, kỷ niệm in đậm dấu ấn lịch sử một thời
của biết bao những con người đã, đang gắn bó với miền quê non xanh nước
biếc và mong muốn giới thiệu tới nhiều người đọc về tiềm năng du lịch và
toàn cảnh chiều sâu nền văn hóa vùng Tây Bắc. Ý tưởng đó là một gợi ý thú
vị thôi thúc chúng tôi tiến hành đi sâu khảo sát và tìm hiểu Du ký viết về vùng
Tây Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Du ký là thể loại được tiếp nối từ truyền thống, nhưng có những cách tân
mới mẻ về chữ viết, cách hành văn, cách phản ánh những vấn đề thẩm mỹ do
thời đại đặt ra… nên càng tạo sức hấp dẫn, mọi vấn đề của cuộc sống đều có
thể đưa vào du ký. Đó là chiếc cầu nối để đưa văn học lại gần hơn với cuộc
sống. Do vậy, lựa chọn đối tượng là các tác phẩm thuộc thể tài du ký viết về vùng
Tây Bắc trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, đề tài đồng thuận quan điểm du ký là
một thể tài văn học của các nhà nghiên cứu, các tác giả đi trước, kết hợp với
việc đi sâu phân tích, làm rõ những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của các
tác phẩm du ký về vùng Tây Bắc. Đây cũng là cơ hội giúp người viết khai thác
thêm về những giá trị và bài học thiết thực mà chúng mang lại trên một phạm vi
rộng lớn hơn văn học, đó là các phương diện: văn hóa, du lịch…Với hàm lượng
kiến thức phong phú, chân thực, du ký Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX sẽ là một
pho tư liệu quý giá, hấp dẫn, góp phần truyền lại niềm cảm hứng sâu đậm cho
7
những sáng tác văn học về sau. Cùng với những công trình nghiên cứu trước
đó, chúng tôi mong muốn đây sẽ mảnh ghép góp phần phục dựng, hoàn thiện
bức tranh du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tác phẩm thuộc thể tài du ký
viết về vùng Tây Bắc được đăng trên các báo và tạp chí trong giai đoạn nửa
đầu thế kỷ XX: Một buổi săn đêm (Lan Khai); Sau tám năm trở lại thăm
Laokay (Nhật Nham Trịnh Như Tấu), Lên Sơn La (Minh Châu), Tiếng cồng
vang chốn rừng xanh (Nhị Lang), Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu
(Đặng Trọng Khang), Miền thượng du Bắc Kỳ (Ngọc Ước), Hai ngày dưới
chân núi Fan- si- Pan (Nguyễn Tụng), Khảo cứu về người Mường (Đặng- v -
Đàm), Đưa các bạn lên thăm đất "núi rừng" (Roi-Song), Cuộc kinh lý của
quan Thống sứ Tholance tại Sơn La và Lai Châu (Bùi Xuân Học) Lạc trong
giang sơn Đinh, Quách (Tam Lang, Việt Dân)…
Phạm vi nghiên cứu lý thuyết của luận văn là những vấn đề về khái niệm,
sự hình thành và phát triển của thể tài du ký; đặc trưng nội dung và nghệ thuật
của các tác phẩm du ký viết về vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX.
Phạm vi nghiên cứu tư liệu của luận văn bao gồm các tác giả và các tác
phẩm du ký viết về vùng Tây Bắc được đăng trên các báo, tạp chí nửa đầu thế
kỷ XX. Bên cạnh đó, luận văn cũng khảo sát một số tác phẩm du ký nằm ở
đường bên, ở những tỉnh lân cận thuộc vùng Đông Bắc để liên hệ và so sánh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Du ký là một thể loại văn học gần gũi với đời sống thực tế bởi phản ánh
một cách trực tiếp các đặc điểm chính trị, văn hóa, lịch sử, tự nhiên, con người
của mỗi vùng miền. Qua luận văn này, người viết mong muốn sẽ phân tích, làm
rõ một số đặc điểm nổi bật của đời sống tự nhiên, văn hóa, xã hội vùng Tây
Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
8
Làm rõ những đặc điểm riêng của du ký vùng Tây Bắc với các vùng
khác. Gồm những đặc điểm chung và riêng về nội dung phản ánh và nghệ
thuật sáng tác.
Là một nguồn tư liệu hữu ích cho những ai quan tâm đến thể tài du ký
cũng như muốn tìm hiểu về đời sống tự nhiên, văn hóa, xã hội vùng Tây Bắc
Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX dưới góc nhìn của một thể loại văn học.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Lược thuật các quan niệm đã có về du ký, lựa chọn và xác lập cách hiểu
về thể tài du ký; xác định những cơ sở của sự hình thành và phát triển của thể
tài du ký ở Việt Nam, trên cơ sở đó phác thảo dòng chảy du ký Tây Bắc nửa
đầu thế kỷ XX.
Xác định những đặc điểm cơ bản của các tác phẩm viết về vùng Tây Bắc
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX trên hai phương diện: nội dung và nghệ thuật để
thấy được những đóng góp của nó trong quá trình hiện đại hóa văn học và làm
phong phú diện mạo văn xuôi Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX.
5. Phương pháp nghiên cứu
Từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu đã được xác định, để đáp ứng yêu
cầu và đạt được mục đích của đề tài đặt ra, trong quá trình triển khai, nghiên
cứu hoàn thành luận văn, chúng tôi vận dụng những phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp sưu tầm, thống kê: tập hợp, tìm kiếm các tác phẩm thuộc
thể tài du ký viết về vùng Tây Bắc đăng tải trên một số báo, tạp chí nửa đầu
thế kỷ XX.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: dựa trên các phương diện, quan
điểm liên quan đến lý thuyết về thể tài du ký; tiến hành phân tích các tác
phẩm cụ thể để tổng hợp, khát quát những đặc điểm của du ký viết về vùng
Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Sử dụng thể tài du ký qua các thời kỳ;
các tác phẩm du ký nửa đầu thế kỷ XX viết về các đề tài khác nhau, các tác giả,
9
tác phẩm du ký cùng đề tài về vùng Tây Bắc để so sánh, đối chiếu qua đó thấy
được sự giống và khác nhau, sự tiếp biến, phát triển, làm rõ đặc trưng của đối
tượng nghiên cứu.
- Phương pháp liên ngành: Sử dụng thi pháp học, văn hóa học, văn bản
học… để làm sáng rõ các đặc trưng nội dung và nghệ thuật của các du ký viết
về Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX.
6. Đóng góp của Luận văn
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu và phát huy kết quả nghiên cứu trước đó,
Luận văn thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của mình và nhận thấy có những
đóng góp sau:
Luận văn với đề tài về du ký vùng Tây Bắc - là một trong những công
trình đầu tiên khảo sát, nghiên cứu có hệ thống về thể tài du ký vùng Tây Bắc,
góp phần làm rõ những thành quả mà thể tài đã đạt được, từ đó xác định vị trí
và những đóng góp của chúng.
Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu về phương diện nội dung và nghệ
thuật của du ký vùng Tây Bắc qua những tác phẩm tiêu biểu, từ đó phát hiện
được những nét riêng, điểm mới của thể tài.
Trong quá trình nghiên cứu vấn đề, chúng tôi đồng thời đi vào khảo sát
các tác phẩm, bài viết, ý kiến nhận định về Tây Bắc từ bình diện thể tài du ký,
nhằm góp thêm một góc nhìn mới soi sáng giá trị đa dạng của thể tài này.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
luận văn được triển khai theo 3 chương:
Chương 1: Thể tài du ký và cơ sở hình thành, phát triển của thể tài du ký
vùng Tây Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Chương 2: Đặc điểm nội dung của thể tài du ký viết về vùng Tây Bắc Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật của du ký viết về vùng Tây Bắc Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX.
10
NỘI DUNG
Chương 1
THỂ TÀI DU KÝ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN THỂ TÀI
DU KÝ VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Khái quát chung về du ký
1.1.1. Một số quan niệm về du ký
Du ký được coi là thể loại tiên phong, mở đường cho tiến trình hiện đại
hóa nền văn học dân tộc, vì nó đã khơi nguồn và đem đến cho công chúng một
nhu cầu mới, đó là nhu cầu thưởng thức các tác phẩm văn học. Ở những thập
niên đầu của thế kỷ XX, thể loại du ký thực sự phát triển và trở thành dòng
chảy liên tục. Ở Việt Nam thuật ngữ "du ký" xuất hiện lần đầu tiên vào đầu thế
kỉ XIX trong hai tác phẩm Tam Kiều nguyệt dạ du ký (1805) của Ngô Thị
Hoàng, Tam Ngô du ký của Nguyễn Văn Siêu. Mặc dầu vậy, phải đến đầu thế
kỷ XX, khi du ký xuất hiện nhiều trên các tạp chí như Nam Phong, Phụ Nữ Tân
văn,… đặc biệt với sự xuất hiện của những cây bút chuyên viết du ký như
Phạm Quỳnh, vấn đề khái niệm về du ký mới chính thức được đặt ra.
Phạm Quỳnh với tư cách là người viết du ký nhiều nhất trong những năm
đầu thế kỷ XX cho rằng bài văn được gọi là du ký phải gắn liền cuộc đi xa, dài
ngày: "Đi sang Tây, sang Tàu, đi Phú Xuân, đi Đồng Nai, gọi là cuộc "du lịch",
trở về viết bài "du ký", còn do khả; chớ đi tỉnh nọ sang tỉnh kia mà nói "du
lịch" với "du ký" thì tưởng cũng khí quá vậy" [61].
Sau Phạm Quỳnh, Vũ Ngọc Phan nhân nói về tác phẩm Chuyến đi Bắc
Kỳ năm Ất Hợi (1876) của Trương Vĩnh Ký, ông có một lần nữa nhắc đến du
ký: “Tập du ký này viết không có văn chương gì cả, nhưng tỏ ra ông là một
người có con mắt quan sát rất sành, vì cuộc du lịch của ông là cuộc du lịch
lần đầu, ông lại đi rất chóng. Tuy không có văn chương nhưng công nhận
ngòi bút của ông rất linh hoạt” [56, tr.29]. Như vậy Vũ Ngọc Phan có chỉ ra
11
được đặc điểm cơ bản là "bài ghi chép cuộc hành trình" tuy chưa nêu quan
điểm về thể loại của du ký.
Đến năm 1961, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân
biên, chương Truyện ký cho rằng "Thượng kinh kí sự là "một truyện dài Du
ký", tức là “loại Du ký nhằm ghi chép những điều tai nghe mắt thấy, bước chân
từng trải trong những dịp đi xa. Đối với nhà văn ta xưa, mỗi khi đi đâu xa,
hoặc đi công vụ, hoặc chỉ là phiếm du, nếu không có "túi thơ bầu rượu" trên vai
thì cũng có giấy bút tùy thân để dọc đường theo hứng mà kí sự” [48, tr.175]. Theo
quan niệm của tác giả thì tác phẩm ghi chép những điều mắt thấy tai nghe trên một
chặng hành trình, dù là hành trình công cán cũng thuộc về du ký.
Sang đến đầu thế kỷ XXI, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân khẳng định:
“Thể loại văn học đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ phải kể đến du ký. Đây
là một hình thức bút ký văn học được ghi lại bằng văn xuôi, thuật lại những
chuyến đi của tác giả đến những vùng đất khác nhau. Nguồn gốc của du ký
cần tìm trong những hình thức tùy bút, ký sự truyền thống” [30]. Là một tiểu
loại của ký, du ký mang những đặc trưng của ký mà trước hết là đặc trưng về
đối tượng phản ánh: người thật, việc thật. Theo các tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học thì du ký gắn
với hoạt động đặc thù là du lịch, thưởng ngoạn, là thể văn đa dạng về hình
thức: ghi chép, ký sự, nhật ký, thư tín, hồi tưởng… phong phú về nội dung:
thông tin, tri thức, cảm xúc… Nhóm tác giả này đưa ra định nghĩa: “Du ký,
một thể loại văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân
người đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của chính
mình tại những xứ sở xa lạ hay những nơi ít có người biết đến” [14, tr.108].
Nhóm tác giả Trần đình Sử, La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm trong cuốn Lí
luận văn học cũng chú ý đến đối tượng của du ký: “thể loại ghi chép về vẻ kỳ
thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời, những cảm nhận và suy tưởng của
con người trong những chuyến du ngoạn, du lịch” [73, tr.382]. Những quan
12
niệm về du ký đều chỉ rõ nội dung, đối tượng phản ánh đặc thù của du ký là
cảnh vật, con người, cuộc sống mà nhà văn đã trực tiếp quan sát, trải
nghiệm, cảm nhận qua những chuyến đi, khẳng định tính chất phi hư cấu
trong nội dung phản ánh của du ký.
Chỉ đến khi nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn - người có bề dày về nghiên
cứu du ký vào bậc nhất ở Việt Nam hiện thì vấn đề du ký đã được "duy danh"
và nhấn mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung và cảm hứng nghệ thuật nơi
người viết. Ông nhận định “Một tác phẩm du ký hay không đơn thuần chỉ là
một tác phẩm văn chương mà còn có dung chứa trong đó nhiều yếu tố lịch sử,
địa lý, giáo dục và đôi khi còn phản ánh cả phương diện chính trị xã hội nữa.
Nói cách khác, du ký cùng với bút ký, hồi ký, nhật ký, ký sự, phóng sự, tùy bút…
nằm ở phần giao nhau giữa văn học và ngoài văn học” [63, tr.5]. Giống như
tùy bút, phóng sự, hồi ký… du ký cũng là một thể tài thuộc thể loại ký. Và hiển
nhiên nó hội tụ đầy đủ những phẩm chất chung của thể loại này.
Như vậy, du ký theo chúng tôi quan niệm là một thể của ký với đặc trưng
là tính chân thực. Đó là những ghi chép của bản thân người viết qua các
chuyến đi về điều tai nghe mắt thấy ở xứ sở xa lạ hay nơi ít người biết đến
hoặc ít có dịp đi đến. Những thắng cảnh, phong vật, dân tình,…được quan sát,
cảm nhận và ký chép theo cuộc hành trình của ký giả. Nét đặc thù của thể tài
du ký là nhận thức của bản thân người viết qua các cuộc viễn du. Cái tôi trong
du ký là cái tôi khám phá, chứng nghiệm, trải nghiệm mang cảm hứng lữ hành
và có thể bộc lộ tình cảm, quan điểm, chính kiến, liên tưởng,…của mình. Về
hình thái, kiểu dạng của sáng tác du ký là đa dạng, không thuần nhất. Về các
yếu tố nghệ thuật, du ký có những đặc điểm riêng trong cái nhìn nghệ thuật,
cấu trúc tác phẩm, ngôn ngữ.
1.1.2. Du ký với tư cách là thể tài văn học
“Thể tài” là những đề tài, phạm vi đời sống được thể hiện bằng những
kiểu, dạng tác phẩm có hình thái giống nhau. Như vậy, “thể tài” là cách phân
13
loại dựa trên nhiều yếu tố như đối tượng phản ánh, phương thức thể hiện, hình
thái tác phẩm,… “Thể tài” mang ý nghĩa nhấn mạnh hơn góc độ đề tài, nội
dung phản ánh, cảm hứng nghệ thuật của người viết với hình thức thể hiện
tương ứng của tác phẩm văn học chứ không phải chỉ nhìn nhận duy nhất ở góc
độ thể loại và cũng có nhiều điểm khác với thể loại.
Du ký là một hình thức bút ký văn học thường được ghi lại bằng văn
xuôi, thuật lại những chuyến đi, ghi lại những cảm xúc, tình cảm và suy ngẫm
của tác giả khi đến những vùng đất khác nhau. Theo Từ điển thuật ngữ văn
học, các nhà lý luận nhận định: “Du ký - một thể loại văn học thuộc loại hình
ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân mình đi du lịch, ngoạn cảnh về
những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại những xứ sở xa lạ hay những
nơi ít có dịp đến. Hình thức của du ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự,
nhật ký, thư tín, hồi tưởng, miễn là mang lại những thông tin, tri thức và cảm
xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến”
[14, tr.108]. Du ký hấp dẫn người đọc bởi nội dung mới và lạ, ở đó câu
chuyện được phát triển theo lộ trình của tác giả. Cảm hứng bao trùm lên toàn
bộ tác phẩm là cảm hứng phiêu lưu, giang hồ. Mỗi cuộc hành trình là một
khám phá đầy bất ngờ, thú vị về phong cảnh thiên nhiên, văn hóa, phong tục
tập quán, tôn giáo… Tác giả của du ký thường bộc lộ niềm say mê khát khao
tìm kiếm, khám phá những điều mới lạ.
Bản chất du ký là ghi chép về sự đi, sự xê dịch, thưởng ngoạn cảnh quan
xứ lạ, thế nhưng nội hàm của khái niệm này thì lại khá phức tạp. Bằng chứng là
các nhà nghiên cứu không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau về điểm nhìn
nghiên cứu và cách định danh. Những năm 90 của thế kỉ XX, trên thế giới rộ
lên các công trình nghiên cứu và phê bình du ký cùng với sự ra đời của Hiệp
hội du ký Quốc tế (International Society for Travel Writing). Những vấn đề
xung quanh thể tài du ký đã được đưa ra tranh luận. Hiện nay, nhiều học giả
nghiên cứu du ký với tư cách là một bộ phận thuộc loại hình văn học du lịch
và có nhiều quan điểm khác nhau.
14
Ở Việt Nam, du ký đã được các học giả đề cập đến từ lâu. Những năm 60
của thế kỉ XX, các học giả nước ta xem du ký là tiểu loại của ký. Nhà nghiên cứu
Hoàng Ngọc Hiến lại định nghĩa: “Ký là một thuật ngữ dùng để gọi tên một thể
loại văn học bao trùm nhiều “thể” hoặc “tiểu loại”: Bút ký, du ký, ký chính
luận, phóng sự, tùy bút, tân văn, tạp văn, tiểu luận” [19, tr.14]. Tuy nhiên, cũng
có sự khác nhau khi đặt du ký vào các cấp độ trong cách phân chia tiểu loại.
Trong thập niên đầu của thế kỉ XXI, hướng nghiên cứu du ký trên phương diện
thể tài được Nguyễn Hữu Sơn đề xướng. Tác giả đưa ra quan điểm: “Khi nói đến
“thể tài du ký” cần được hiểu nhấn mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung và
cảm hứng nghệ thuật của người viết, chứ không phải ở phía thể loại. Thu hút
vào địa hạt du ký có các sáng tác bằng thơ, phú, tụng và các bài văn xuôi theo
phong cách ký, ký sự, ghi chép, hồi ức về các chuyến đi, cá điểm du lịch, các
điểm di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, thậm chí có thể liên quan tới nhiều
phương diện của xã hội học, dân tộc học khác nữa” [63, tr.22].
Bản thân hai chữ du ký đã có một nội hàm rất rộng. Trên Nam Phong tạp
chí, người đọc thấy có những bài du ký viết về thắng cảnh của một địa
phương mang tính chất địa lý, lịch sử như: Bài ký phong thổ tỉnh Tuyên
Quang của Nguyễn Văn Bân, loạt bài viết về phong cảnh Hà Tiên của Đông
Hồ, Mộng Tuyết... những bài viết về những chuyến đi vượt ra khỏi biên giới
Việt Nam lúc bấy giờ như Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh ghi
chép những điều tai nghe mắt thấy trong chuyến đi Pháp sáu tháng, Hạn mạn
du ký của Nguyễn Bá Trác lấy bối cảnh Thái Lan (Siam), Nhật Bản, Trung
Quốc, Ai Lao hành trình của Trần Quang Huyến thì miêu tả một chặng đường
dài từ Hà Nội lên Hải Phòng, đi tàu thủy vào Sài Gòn, sang Campuchia, lên
Lào... Có những bài du ký chỉ miêu tả một chuyến đi ngắn chừng một ngày,
vài ngày, có những bài du ký dài kỳ, miêu tả những chuyến đi dài từ vài tháng
đến vài năm. Có những bài du ký thuần chất văn học, mang nặng cảm hứng
nghệ sĩ, nhưng cũng có những bài du ký mang dáng dấp của một bài khảo cứu
văn hoá, phong tục tập quán...
15
Nguyễn Hữu Sơn nghiên cứu du ký từ trung đại đến nửa đầu thế kỷ XX,
từ phương diện chủ thể tác giả, đối tượng và phạm vi phản ánh của đối
tượng, không gian, thời gian… ông chia du ký thành các loại: du ký mang
tính chất quan phương, công vụ; du ký viễn du; du ký thiên về khảo cứu
danh nhân lịch sử, truyền thuyết và sự tích liên quan đến một địa điểm cụ
thể; du ký hướng tới khảo sát, giới thiệu một vùng văn hóa rộng lớn; du ký
mà yếu tố vị nghệ thuật chiếm phần quan trọng…
Đến ngày ngay, tiếp bước những giá trị truyền thống, thể tài du ký được
hồi sinh và trỗi dậy mạnh mẽ, góp thêm một sắc thái mới mẻ và trẻ trung cho
văn học đương đại.
1.1.3. Thể tài du ký vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX
Du ký Việt Nam có mầm mống và xuất hiện trong giai đoạn văn học
trung đại. Tuy nhiên, số lượng sáng tác du ký còn giữ được không nhiều, chủ
yếu tập trung trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX.
Trong giai đoạn này, du ký chủ yếu được viết bằng chữ Hán, tác giả thường
là các nhà nho. Một số tác phẩm tiêu biểu như Dục Thúy sơn, Dục thúy sơn
Linh tế tháp kí (Trương Hán Siêu), Quan Lang đạo trung (Phạm Sư Mạnh)
hay Nguyệt tịnh bộ Tiên Du sơn tùng kính (Chu Văn An),... những dòng thơ
mang tính chất của du ký.
Càng về sau, du ký càng độc lập và định hình được rõ ràng thể tài của
mình. Đó là bài ký động Nhị Thanh của Ngô Thì Sĩ. Hay là chuyến đi dài
ngày đến hơn nửa năm của danh y Lê Hữu Trác từ Hà Tĩnh ra Thăng Long
chữa bệnh cho Trịnh Cán với những cuộc du ngoạn trong lúc rảnh rỗi được
chép lại trong Thượng kinh ký sự. Có thể xem Thượng kinh ký sự đã hội tụ
đầy đủ những đặc điểm của du ký, đó là sự ghi chép lại một chuyến đi của
chính bản thân tác giả với những miêu tả, bình luận mang tính chất mắt thấy
tai nghe. Hoặc là một chuyến du ngoạn từ Thăng Long lên núi Sài Sơn vãn
cảnh chùa Phật Tích trong phạm vi ba ngày của Phạm Đình Hổ và bè bạn
16
còn ghi lại trong Tang thương ngẫu lục, Vũ trung tùy bút với rất nhiều cảm
xúc khác nhau. Bên cạnh du ký viết bằng chữ Hán, đã xuất hiện một số tác
phẩm Du ký viết bằng chữ Nôm như: Tây phù nhật kí của Tôn Thọ Tường
(1825 - 1877), Như Tây kí (1864) của Ngụy Khắc Đản (1817 - 1873), Hương
Sơn nhật trình của Chu Mạnh Trinh (1862 - 1905)... Xuất hiện vào cuối thế
kỷ XIX, Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1886) của Trương Vĩnh Ký, tác
phẩm du ký hiếm hoi được viết bằng chữ quốc ngữ, được coi là gạch nối
chuyển tiếp quan trọng trong hành trình phát triển của thể loại, từ hệ hình
trung đại sang hiện đại.
Bước sang thế kỉ XX, thể tài du ký có bước phát triển mạnh mẽ. Tác
phẩm du ký đầu tiên của thế kỷ XX là Hương Sơn hành trình của Nguyễn Văn
Vĩnh ghi chép lại chuyến hành trình về vùng đất Phật. Ở giai đoạn này, với
những điều kiện thuận lợi của lịch sử xã hội, giao thông, kinh tế phát triển và
luồng văn hóa phương Tây, việc du hành trở nên dễ dàng hơn, con người có
điều kiện giao lưu giữa các vùng miền hơn. Đặc biệt đến năm 1917, Nam
Phong tạp chí được xuất bản, du ký chiếm vị trí quan trọng nhất định trong
tạp chí và được đông đảo độc giả đón nhận một cách tích cực. Ngoài Nam
Phong tạp chí còn có nhiều tờ báo khác đăng tải du ký như Công luận báo,
Phụ nữ Tân văn, An Nam tạp chí, Tri tân, Hà Thành ngọ báo… với số lượng
không nhiều và rải rác. Nhà thư mục học Nguyễn Khắc Xuyên xác định du ký
là một trong 14 bộ môn và nêu nhận xét về thể tài du ký - còn được ông gọi là
du hành - trên Tạp chí Nam Phong: “Nhiều khi chúng ta tự cảm thấy, sống
trong đất nước với giang sơn gấm vóc mà không được biết tới những cảnh
gấm vóc giang sơn. Thì đây, theo tờ Nam Phong, chúng ta có thể một phần
nào làm lại cuộc hành trình qua những phong cảnh hùng vĩ nhất, đẹp đẽ nhất
của đất nước chúng ta từ Bắc chí Nam, từ Cao Bằng - Lạng Sơn đến đảo Phú
Quốc; từ núi Tiên Du đến cảnh Hà Tiên qua Ngũ Hành Sơn; từ Cổ Loa, Hạ
Long đến Huế thơ mộng... Với thời gian, hẳn những tài liệu này ngày càng trở
nên quý hóa đối với chúng ta” [92].
17
Tây Bắc là vùng núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam, có hệ thống núi
non trùng điệp với trên 20 tộc người sinh sống, đã làm nên văn hóa vùng Tây
Bắc đa dạng và độc đáo. Cùng với những đặc thù về địa lý, văn hóa và người,
vùng núi rừng Tây Bắc trở thành đối tượng khám phá, trải nghiệm của du ký.
Khảo sát các nguồn sách báo trước cách mạng tháng Tám 1945, chúng ta
thấy xuất hiện các trang du ký viết về miền núi phía Bắc hoặc trên đường lên
vùng cao phía Bắc với tên tuổi Nguyễn Văn Bân, Nhạc Anh Hoàng Văn Trung,
Phạm Quỳnh, Nguyễn Thế Xương, Thái Phong Vũ Khắc Tiệp, Nhật Nham
Trịnh Như Tấu, Lan Khai, Ngọc Ước, Nhị Lang, Tản Đà, Đặng Trọng Khang,
Bùi Xuân Học, Đặng- v- Đàm, Tam Lang, Việt Dân, Nguyễn Tụng, Roi-Song...
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn thì các tác giả này “hầu hết là quan lại
địa phương, nhà giáo hoặc ký giả báo chí qua thăm các tỉnh Cao Bằng - Bắc
Cạn - Lạng Sơn - Hà Giang - Tuyên Quang - Thái Nguyên - Phú Thọ - Hòa
Bình - Lai Châu (với tâm điểm là ba tỉnh Yên Bái – Lào Cai – Phú Thọ) và sau
đó thuật chuyện lại”. Và cũng theo tác giả những trang du ký này “vừa có ý
nghĩa văn chương vừa là những tư liệu khảo sát, điền dã, ghi chép sinh động về
địa lý, lịch sử, phong tục tập quán, góp phần giúp độc giả và khách du lịch thời
hiện đại chúng ta hiểu rõ hơn hiện trạng cảnh quan và đời sống người dân
vùng cao phía Bắc cách ngày nay xấp xỉ gần một thế kỷ” [68].
Du ký vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX được hình thành và phát triển
trong những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi. Có thể kể đến một số
tác phẩm tiêu biểu Sau tám năm trở lại thăm Laokay - Nhật Nham Trịnh Như Tấu
(in hai kỳ trên Tạp chí Tri Tân, số 46 và 47, tháng 5 - 1942), Miền thượng du Bắc
Kỳ - Ngọc Ước (in ba kỳ trên Nam Kỳ tuần báo, số 74, 75, 76 - 1944), Một sự đi
chơi Laokay - Tản Đà (Tạp chí An Nam, số 25), Tiếng cồng vang chốn rừng
xanh - Nhị Lang (Trung Bắc Tân văn, số 10- 1940), Cuộc hành trình từ Laokay
đi Lai châu - Đặng Trọng Khang (Hà Thành ngọ báo, 1934), Cuộc kinh lý của
quan Thống sứ Tholance tại Sơn La và Lai Châu - Bùi Xuân Học (Hà Thành
18
ngọ báo, số 1915- 1934), Khảo cứu về người Mường- Đặng -v- Đàm (Đông
Phương, số 21 - 1929), Đưa các bạn lên thăm đất "núi rừng" - Roi-Song (Hà
Thành ngọ báo, số 2021- 1934)… Tồn tại trong giai đoạn giao thời, du ký vùng
Tây Bắc nói riêng và du ký nói chung đóng góp một phần quan trọng trong việc
hoàn thiện gương mặt văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và tạo tiền đề cho
sự phát triển tiếp nối ở những giai đoạn kế tiếp.
Nhìn ở góc độ thể tài, du ký từ nửa sau thế kỷ XX đến nay vẫn tiếp bước
và thu được những thành công rực rỡ. Có thể nói thể tài này được hồi sinh sau
nhiều năm vắng bóng với những cây bút tiêu biểu như Phan Việt (Một mình ở
Châu Âu), Phương Mai (Tôi là một con lừa), Ngô Thị Giáng Uyên (Bánh mì
thơm, cà phê đắng), Tran Hung John (John đi tìm Hùng), Huyền Chíp (Xách ba
lô lên và đi), và mới đây nhất là Đinh Hằng với Quá trẻ để chết: Hành trình
nước Mỹ… Họ là những cây bút trẻ giàu năng lực, cả năng lực đi và viết, và ít
nhiều đã tạo nên cơn sốt trên thị trường sách hiện nay với những cuốn du ký
viết về những chuyến đi của bản thân họ. Nhìn lại cả tiến trình phát triển của du
ký thì đây là giai đoạn có bước phát triển rực rỡ nhất. Nếu như du ký thế kỷ XX
đã đạt được những thành công thì du ký thể kỷ XXI là sự hồi sinh vượt trội với
sức sống của tuổi trẻ tạo nên sắc hồng tươi tắn cho văn học đương đại, đưa lại
một luồng gió mới nhẹ nhàng cho văn học hiện nay.
1.2. Cơ sở văn hóa, xã hội của sự ra đời và phát triển du ký vùng Tây Bắc
nửa đầu thế kỳ XX
1.2.1. Văn hóa, xã hội và con người vùng Tây Bắc
Tây Bắc là vùng núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường
biên giới với Lào, Trung Quốc, bao gồm các tỉnh: Lai Châu, Điện Biên, Sơn
La, Hòa Bình, Yên Bái và Lào Cai.
Vùng văn hóa Tây Bắc là khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp
bên hữu ngạn song Hồng (lưu vực sông Đà) kéo dài tới bắc Thanh Nghệ. Ở đây
có trên 20 tộc người cư trú, văn hóa Tây Bắc đa dạng và độc đáo chính là sản
phẩm của sự kết hợp và đan xen các bản sắc riêng của hơn hai mươi dân tộc ấy,
19
trong đó các dân tộc Thái, H’mông, Dao có thể xem là những đại diện tiêu
biểu, góp phần quan trọng hơn cả trong việc hình thành văn hóa của khu vực.
Biểu tượng cho vùng văn hóa này là hệ thống mương phai dẫn nước vào đồng;
là nghệ thuật trang trí tinh tế trên chiếc khăn piêu Thái, chiếc cạp váy Mường,
bộ trang phục nữ H’Mông; là âm nhạc với các loại nhạc cụ bộ hơi (khèn,
sáo…) và những điệu múa xòe…
Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo
hướng Tây Bắc Đông Nam, trong đó có dãy Hoàng Liên Sơn dài đến 180
km, rộng 30 km, cao từ 1500m trở lên, các đỉnh cao nhất như Phanxipăng
3142m, Yam Phình 3096m, Pu Luông 2.983m. Dãy Hoàng Liên Sơn, được
người Thái gọi là "sừng trời" (Khau phạ), chính là bức tường thành phía
đông và vùng Tây Bắc.
Tuy cùng nằm trong vòng đai nhiệt đới gió mùa, nhưng do ở một độ cao
từ 800-3000m nên khí hậu Tây Bắc ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như
Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới. Mặt khác, do địa hình lại chia cắt bởi các dãy
núi, các dòng sông, khe suối, tạo nên những thung lũng, có nơi lớn thành lòng
chảo như vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên nên Tây Bắc còn là nơi có nhiều tiểu
vùng khí hậu. Trong lúc đó ở thung lũng Mường La, người ta mặc áo ngắn tay
giữa mùa đông thì ở Mộc Châu phải mặc áo bông dày mà không khỏi rét.
Nhưng chính vì vậy mà thiên nhiên Tây Bắc rất đa dạng, thổ nhưỡng nhiều
loại hình. Chính điều này cũng góp phần làm nên những nét đa dạng trong văn
hóa của các dân tộc vùng Tây Bắc.
Hoạt động kinh tế của Tây Bắc chủ yếu là nông nghiệp mà cụ thể là trồng
lúa nước ở vùng thung lũng, ruộng bậc thang ven sườn núi, các loại cây như ngô,
sắn, đậu tương ở nương, rẫy,…Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào
mương, dựng con, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực
chính, đặc biệt là lúa nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và
nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải,
20
một số nơi làm đồ gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với
những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp. Nguồn sống chính của đồng
bào H’Mông là làm nương rẫy du canh, trồng ngô, trồng lúa ở một vài nơi có
nương ruộng bậc thang. Cây lương thực chính là ngô và lúa nương, lúa mạch.
Ngoài ra còn trồng lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu. Chăn nuôi của
gia đình người Mông có trâu, bò, ngựa, chó, gà. Xưa kia người Mông quan niệm:
Chăn nuôi là việc của phụ nữ, kiếm thịt trong rừng là việc của đàn ông. Tây Bắc
là nơi sinh tụ lâu đời, ngàn năm của cư dân văn minh đồng thau với hơn 20 tộc
người cư trú xen kẽ, bao gồm các dân tộc: Thái, Dao, H’Mông, Bố Y, Giáy, Há
Nhì, Kháng, Máng, Khơ-mu, Sila, Tày, Xinh-mun, La-ha…
Vùng Tây Bắc có hai con sông lớn, đó là sông Đà (tên Thái là Nặm Tè)
và sông Thao (tức sông Hồng), thượng nguồn của sông Mã cũng nằm trên
vùng đất Tây Bắc, phía Tây tỉnh Sơn La. Các con sông này không chỉ là cơ
sở cho sự định cư của của các dân tộc nơi đây cũng như nền nông nghiệp
trong vùng mà còn là nguồn cảm hứng đã đi vào các tác phẩm văn học như
một chứng nhân, một cố nhân.
Tóm lại, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội gắn bó và hòa đồng với thiên
nhiên, các ngành nghề thủ công tinh xảo, phản ánh sáng tạo văn hóa của mỗi
tộc người. Kho tàng tri thức dân gian phong phú được đúc kết qua nhiều thế hệ
liên quan đến các hoạt động sản xuất, làm ăn, bảo vệ môi trường thực sự là tài
sản quý giá trong hành trang của mỗi tộc người, làm nên bản sắc tộc người. Sự
gắn bó của mỗi thành viên trong đời sống gia đình và cộng đồng đã tạo nên sự
cố kết đậm nét trong đời sống. Tính tự hào dân tộc, tính tự trọng cao; con người
trung thực, cầu thị, tin người, mến khách. Văn hóa dân gian phong phú đa
dạng, giàu bản sắc. Văn hóa mang đặc trưng vùng miền rõ nét; sự giao lưu văn
hóa giữa các tộc người diễn ra mạnh mẽ, tăng cường sự hiểu biết gắn bó giữa
các tộc người trong vùng và trong khu vực. Bằng những nét văn hóa rất riêng
ấy, Tây Bắc không chỉ góp phần làm nên sự đa dạng và phong phú của văn hóa
21
Việt Nam mà từ lâu đã trở thành cảm hứng sáng tác cho văn học nói chung và
thể tài du ký nói riêng.
1.2.2. Ý thức sáng tác của nhà văn và nhu cầu thưởng thức của độc giả
Trước thế kỷ XX, du ký là thể tài ít được quan tâm và phát triển. Cũng
chính vì thế mà số lượng du ký sáng tác ra không nhiều, đội ngũ tác giả ít.
Đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam chuyển mình sang hướng hiện đại hoá
trên cơ sở chịu ảnh hưởng và tiếp thu văn học phương Tây, thì cùng với thơ
mới, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, kịch... các tác phẩm tuỳ bút, du ký...
cũng rất phát triển. Trên những điều kiện xã hội thuận lợi như đội ngũ đông
đảo của những người cầm bút, sự nở rộ của báo chí, nhà in, nhà xuất bản...
việc xuất hiện những tác phẩm hay, có giá trị ở mọi thể loại là điều tất yếu và
dễ hiểu. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nhận xét: "Sáng tác văn học thể ký
thường thịnh hành ở các giai đoạn văn học sử ứng với các thời kỳ xã hội có
sự khủng hoảng của các quan hệ cũ, nảy sinh một nếp sống mới, làm tăng
cường chú ý đến sự miêu tả các thói tục" [3]. Chính những tác động của bối
cảnh xã hội tạo nên một nền văn học mới với đội ngũ tác giả mới, một lớp
công chúng với thị hiếu thẩm mĩ mới.
Vùng Tây Bắc có địa hình vùng núi và trung du với nhiều khối núi và dãy
núi đá vôi hoặc núi đất, tạo nên sự hiểm trở và hùng vĩ. Văn hóa các tộc người
vùng Tây Bắc khá phong phú và đa dạng, giàu bản sắc, gắn liền với quá trình tụ
cư lâu đời của cư dân từ nhiều nguồn và nhiều thời điểm khác nhau. Những đặc
trưng mang tính vùng miền cũng trở thành đối tượng, cảm hứng tìm hiểu khám
phá, chiêm nghiệm của văn học.
Những cây bút viết du ký đầu thế kỷ XX xuất hiện với nhiều tư cách khác
nhau. Họ có thể là nhà văn, nhà báo, là thầy giáo, cũng có thể là nhà buôn hay
những người khách du lịch… thích xê dịch và có hứng thú ghi chép lại những
gì mình trải nghiệm bằng văn chương. Trong bài Nghệ thuật rong chơi, ký giả
Thanh Châu có bàn về thú rong chơi, theo ký giả: "Đi chơi cho mình", đó mới
là phép đi chơi vậy. Các cụ ta xưa, thực là đủ tư cách đi dong chơi. Bất kể ngày
22
giờ, tự nhiên thấy một cái lá rụng trước sân nhà, một người bạn liền đi tìm một
người bạn. Rồi rượu quảy trên lưng, họ đi đến trốn non kỳ nước lạ. Một vách
đá bị san phẳng để đề thơ, một món thịt rừng làm thức nhắm, song rồi đánh
một cuộc cờ để chờ trăng sáng. Và hôm sau lại lên đường, không biết là đi đâu,
mà cũng quên nghĩ đến chuyện về" [5].
Họ ưa trải nghiệm, ưa khám phá, có cơ hội để đi và họ muốn sẻ chia,
muốn kể lại chuyến đi, câu chuyện của chính mình. Viết về quê hương mình,
đất nước mình, về những nơi xa lạ ít người có thể đặt chân đến như một sự
san sẻ những trải nghiệm và nhận thức cho đồng bào, để đồng bào hiểu rõ
thêm về đất nước mình, mở mang tri thức. Lòng yêu Tổ quốc, niềm tự hào
dân tộc cũng được bồi dưỡng từ đây.
Trong du ký Sau tám năm trở lại thăm Laokay, Nhật Nham tả cảnh nhìn
được khi đi xe lửa từ Hà Nội qua Việt Trì, đi Laokay: “Từ Hà Nội lên tới Việt
Trì, vẫn cảnh đồng bằng, hai bên ruộng lúa xanh rì. Rồi dần dần qua các đồi
chè núi cọ, bao la bát ngát. Khoảng đường từ Yên Bái đi Lao Kay, tầu khi
quanh co, khi leo dốc, như rồng uốn khúc, như rắn lượn bò, núi cao rừng rậm
một dòng sông Thao nước đục, hai bên lau lách rậm rì. Thỉnh thoảng vài ba
chú Thổ kiếm củi trên sườn non, xa xa hiện năm bảy túp lều gianh trong rừng
rậm, cảnh chiều hôm như giục người lữ khách ôn lại chuyện xưa” [51]. Dù trở
lại sau tám năm, nhưng điểm nhìn mới lạ về cảnh đẹp thiên Tây Bắc cho thấy
tấm lòng của những người con Việt Nam đối với quê hương đất nước.
Công chúng văn học đầu thế kỷ XX cũng như đội ngũ tác giả, có sự thay
đổi và mở rộng. Họ đến từ nhiều ngành nghề và nhiều giai tầng khác nhau. Là
lớp công chúng mới, họ có nhu cầu thưởng thức mới. Văn học viết ra phải
hướng tới công chúng, đặc biệt là khi văn học đã trở thành một thứ hàng hóa,
đăng trên báo chí thì không thể không chú ý đến nhu cầu của công chúng. Vì
vậy, văn học nói chung, du ký nói riêng phải thay đổi cho phù hợp.
23
Nắm bắt và thỏa mãn được nhu cầu này của độc giả, Tác giả Phạm Quỳnh
đã viết: “Song bà con mình ở giữa Hà Nội mà còn thích nghe tả cảnh Hồ Hoàn
Kiếm, thời tất cho đi chơi Lạng Sơn, Cao Bằng cũng là cuộc “du lịch”, và
muốn cho khách làng văn đã được một cuộc “du lịch”, và muốn cho khách
làng văn đã được thưởng cái thú “bầu rượu nắm nem” về cũng phải thuật cho
đồng nhân nghe” [61]. Không chỉ là muốn các "đồng nhân" cùng trải nghiệm
những điều tốt đẹp mà bản thân tác giả may mắn được thấy trong hành trình
"du lịch" của mình mà tác giả còn nắm rõ thị hiếu của người đọc khi muốn tìm
hiểu, khám phá những đặc trưng văn hóa ở các vùng miền khác nhau. Rõ ràng,
du ký đã cập nhật được tức thời những thông tin cần thiết để độc giả miền xuôi
muốn biết về vùng cao và ngược lại, độc giả trong nước muốn biết về nước
ngoài, đó cũng là cách để nâng cao được dân trí của độc giả.
Cuối thế kỷ XIX, nền văn hóa phương Tây du nhập và trở nên phổ biến hơn
bao giờ hết. Độc giả không còn ưa thích những áng văn khuôn khổ, cứng nhắc
nữa. Người đọc hiện đại cần một thứ văn chương cập nhật và gần gũi với đời
sống, những trang văn mang đậm hơi thở đời sống mà họ đang sống. Cùng với
đó là sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ và báo chí phát triển mạnh mẽ cũng là tiền
đề quan trọng thể tài du ký phát huy những lợi thế của mình. Với đặc trưng ở lối
văn đơn giản mà tương đối tự do, phóng khoáng và được đăng thường kỳ trên
các báo, tạp chí, du ký đã đến gần hơn và được đông đảo bạn đọc đương thời tiếp
nhận. Sức hấp dẫn của du ký còn bởi vì nó gắn với hoạt động du lịch, một lĩnh
vực mới mẻ và những gì được du ký viết ra thực sự giúp mở mang tri thức, thỏa
mãn trí tò mò và niềm ham thích của người đọc. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu
Sơn, trong cuốn Luận bình văn chương đưa ra ý kiến về giá trị của du ký:
“Những trang nhật ký này vừa có ý nghĩa văn chương vừa là những tư liệu khảo
sát, điền dã về địa lý, lịch sử, phong tục tập quán, góp phần nâng cao nhận thức
cho độc giả về thực tế miền sơn cước - nhất là trong điều kiện thông tin báo chí
24
hồi đầu thế kỷ còn rất hạn chế” [68]. Những nét đẹp về thiên nhiên, con người,
những đặc trưng văn hóa vùng Tây Bắc vẫn luôn được khám phá và tiếp nhận.
1.2.3. Tác giả, tác phẩm du ký về vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX
Các tác giả du ký viết về vùng núi Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX chủ yếu
xuất thân là những nhà trí thức chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa Đông và
Tây. Họ đều là nhà văn hoặc ký giả báo chí thích phiêu lưu, khám phá và có
cơ hội đi du lịch để viết du ký.
Khảo sát trên các sách báo, tạp chí thấy xuất hiện các trang du ký viết về vùng
núi Tây Bắc hoặc trên đường lên vùng cao Tây Bắc với tên tuổi Nhật Nham Trịnh
Như Tấu, Nguyễn Tụng, Đặng -v- Đàm, Tản Đà, Lan Khai, Ngọc Ước, Nhị Lang,
Nguyễn Đức Thang, Bùi Xuân Học, Roi-Song, Tam Lang,Việt Dân... Các tác giả
này đều là nhà văn, ký giả báo chí qua thăm các tỉnh Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên
- Lai Châu - Lào Cai - Yên Bái và sau đó thuật chuyện lại. Những chuyến đi ngược
miền Tây Bắc của những ký giả vừa là để thỏa mãn khát vọng được nhìn ngắm
thiên nhiên, con người vừa là những chuyến đi thực nghiệm của công việc viết văn,
rèn luyện một thể tài văn học hiện đại là du ký.
Đội ngũ tác giả viết du ký về Tây Bắc khá đông đảo. Dù là cùng một điểm đến
nhưng câu chuyện và cách kể của mỗi tác giả trong mỗi bài du ký đều mang nặng
dấu ấn của riêng. Điểm danh các tác phẩm du ký về vùng Tây Bắc có thể thấy nổi
bật lên những tác phẩm sau: Một buổi săn đêm - Lan Khai (Loa, số 14, tháng 5-
1934), Sau tám năm trở lại thăm Laokay - Nhật Nham Trịnh Như Tấu (in hai kỳ
trên Tạp chí Tri Tân, số 46 và 47, tháng 5-1942), Miền thượng du Bắc Kỳ - Ngọc
Ước (in ba kỳ trên Nam Kỳ tuần báo, số 74, 75, 76-1944), Một sự đi chơi Laokay-
Tản Đà (Tạp chí An Nam, số 25), Tiếng cồng vang chốn rừng xanh - Nhị Lang
(Trung Bắc Tân văn, số 10- 1940), Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu-
Đặng Trọng Khang (Hà Thành ngọ báo, số 20, tháng 3-1934), Cuộc kinh lý của
quan Thống sứ Tholance tại Sơn La và Lai Châu - Bùi Xuân Học (Hà Thành
ngọ báo, số 1915- 1934), Khảo cứu về người Mường- Đặng -v- Đàm (Đông
25
phương, số 21-1929), Đưa các bạn lên thăm đất "núi rừng"- Roi-Song (Hà
Thành ngọ báo, số 2021- 1934), Lạc trong giang sơn Đinh, Quách- Tam Lang,
Việt Dân (Hà Thành ngọ báo, từ số 2181 đến 2305, 1934-1935), Hai ngày dưới
bóng núi Fan-Si-Pan- Nguyễn Tụng (Tin mới, số 182, 1940)…
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy những trang du ký về miền quê vùng
cao và những thắng cảnh trên con đường ngược về xứ núi vừa có ý nghĩa văn
chương vừa là những tư liệu khảo sát, điền dã, ghi chép sinh động về địa lý,
lịch sử, phong tục tập quán, góp phần giúp độc giả và khách du lịch thời hiện
đại chúng ta hiểu rõ hơn hiện trạng cảnh quan và đời sống người dân vùng
cao Tây Bắc cách ngày nay xấp xỉ gần một thế kỷ.
Tiểu kết chương 1
Du ký có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, khởi nguồn từ văn học
trung đại và phát triển cho đến nay. Nửa đầu thế kỷ XX là giai đoạn phát triển
mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận của thể tài du ký. Sự phát
triển nở rộ của du ký xuất phát từ sự vận động nội tại của thể loại và những yếu
tố khách quan mang lại. Du ký giai đoạn này đã đóng góp một phần không nhỏ
vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.
Du ký viết về Tây Bắc đầu thế kỷ XX là một bộ phận quan trọng làm nên
diện mạo đa dạng của du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Vẻ đẹp của thiên
nhiên, cuộc sống bình dị; những nét đẹp trong văn hóa, phong tục tập quán
cũng như sự chuyển mình của Tây Bắc đều được các tác giả ghi chép trong
những trang du ký một cách tự nhiên và chân thật. Những nét đặc sắc về
phương diện nội dung và phương thức thể hiện của du ký Tây Bắc sẽ được
người viết làm rõ trong hai chương tiếp theo của luận văn.
26
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA THỂ TÀI DU KÝ VỀ VÙNG TÂY BẮC
VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1. Vùng Tây Bắc Việt Nam với tư cách là một đối tượng phản ánh của du
ký nửa đầu thế kỷ XX
Bước sang thế kỉ XX, kí mới thực sự chiếm được vị trí quan trọng trong
đời sống văn học, nhờ sự ra đời của báo chí, các nhà xuất bản, chữ quốc ngữ và
đặc biệt là nhờ điều kiện giao thông thuận lợi. Người có công đầu trong việc
thúc đẩy thể kí phát triển là Tản Đà (1889-1939). Ông là người sáng lập ra mục
“Việt Nam nhị thập kỉ - xã hội ba đào kí” trên An Nam tạp chí. Tiếp sau đó, với
mục Du ký trên Nam Phong tạp chí, Phạm Quỳnh đã tiếp bước Tản Đà, đã cho
đăng nhiều tác phẩm du ký: Mười ngày ở Huế, Pháp du hành trình nhật kí
(Phạm Quỳnh), Cuộc đi chơi năm tầng núi (Tùng Vân), Hương Sơn Du ký
(Minh Phượng)... Những tác phẩm kí thời kì này được viết bởi nhiều kiểu tác
giả, với lối viết mang tính trữ tình, in đậm dấu ấn cá nhân, bởi thế nó cũng đậm
tính văn học hơn. Như vậy, du ký nửa đầu thế kỷ XX phát triển rực rỡ với
những đề tài, nội dung phản ánh phong phú, đa dạng.
Vùng Tây Bắc Việt Nam với tư cách là đối tượng đề tài của du ký nửa
đầu thế kỷ XX. Đối tượng phản ánh bắt nguồn từ hiện thực khách quan, có
thể là sự vật, hiện tượng và được nhà văn hướng tới chiếm lĩnh, nhào nặn để
chuyển thành nội dung tác phẩm. Xuất phát từ đặc trưng là ghi chép về vẻ kỳ
thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống con người; những cảm nhận, suy
tưởng của con người trong những chuyến du ngoạn. Du ký phản ánh, truyền
đạt những nhận biết, những cảm tưởng, suy nghĩ mới mẻ của bản thân người
du lịch về những điều mắt thấy tai nghe ở những xứ sở xa lạ, nơi mọi người
ít có dịp đi đến, chứng kiến. Tác giả của du ký tường bộc lộ niềm say mê
khát khao tìm kiếm, khám phá những điều mới lạ. Bởi vậy, vùng Tây Bắc
27
với những vẻ đẹp đặc trưng đương nhiên cũng là đối tượng phản ánh của du
ký nửa đầu thế kỷ XX.
Vùng Tây Bắc gồm các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Lào
Cai, Yên Bái. Về mặt địa lý, có thể nói, Tây Bắc là vùng có quá trình kiến tạo
khá phức tạp và là vùng núi cao hiểm trở nhất Việt Nam. Nói một cách chung
nhất, đây là “miền đất của những núi cao và cao nguyên" (Lê Bá Thảo), là một
khối liền mạch núi sông kéo dài từ Vân Nam (Trung Quốc) được cấu tạo theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam song song với thung lũng sông Hồng. Từ Đông
sang Tây được đánh dấu bởi dãy núi cao Hoàng Liên Sơn dài 180 km có đỉnh
Phan Xi Păng cao nhất Việt Nam. Xen giữa dãy Hoàng Liên và dải cao nguyên
phía Tây là các vùng bồn địa. Nhật Nham có ghi trong Sau tám năm trở lại
thăm Laokay có ghi: “Theo số phỏng đoán của sở Địa dư thì quãng sông này
cao hơn mặt biển chừng 1.200 thước. Ruộng nương cầy cấy giữa lưng chừng
sườn núi; từng cao hơn nữa là đất bỏ hoang, không có cây cối mọc, chỉ có cỏ
non để nuôi súc mục. Trên đỉnh núi có rừng rậm, có nhiều thác và nhiều đá
mọc treo leo. Thác reo xuống qua các đồi núi rồi dần dần yếu sức mà hợp
thành suối mà chảy ra sông Mường Hòa. Nhờ có nước suối ấy, các ruộng lúa
trong vùng khỏi phải cái nạn khô khan" [51].
Ở bài ký Hai ngày dưới bóng núi Fan-Si-Pan, tác giả cho ta thấy "Một
cảnh rừng núi chấm phá, đẹp tuyệt trần" của núi rừng Tây Bắc: "Lao - kay,
Chapa cách nhau 38 cây số. Xe rời khỏi tỉnh lỵ, qua Cốc-lếu, đến Cốc-San.
Cảnh Cốc-san đã làm cho tôi hoa mắt lên khi trông thấy những cô Thỏ ngây
thơ và xinh tươi như các cô nàng đã về sòe tại Hanoi. Các bạn lên mà thưởng
thức cảnh sắc của Cốc - san (cách Cốc - lều có 9 cây số). Một cảnh rừng núi
chấm phá, đẹp tuyệt trần.
Từ đây xe cứ lên dốc mãi và lần lượt đem đến cho khách những mộng đẹp
êm đềm. Ô tô (bò) 38 cây số trong 2 tiếng đồng hồ đủ để khách thu cả những
cảnh cao cả, hoang vu vào hai gương mắt" [84].
28
Trong bức tranh chung về các tộc người vùng Tây Bắc, các sắc thái văn
hóa khá đa dạng. Có thể thấy rõ điều này trên các khía cạnh về nhà cửa, trang
phục, ẩm thực; các biểu hiện về quan hệ gia đình và cộng đồng; các hình thức
tổ chức xã hội: "Theo tục dân thượng du Bắc kỳ, nhà vùng này không hợp
thành làng, thỉnh thoảng lơ thơ vài cái ở dưới chân núi. Nếu tính số kiến ốc thì
vùng đó được độ ba mươi nóc nhà. Dân ở đây phần nhiều là người Mèo và lẫn
một ít Mán, Thổ, có kỳ mục, sèo phái, binh đầu, giáp trưởng trông nom dưới
quyền phó lý, lý trưởng và Bang tá (…)
Laokay giáp Trung Hoa có nhiều thứ thổ dân: nào Thổ, nào Nhắng, nào
Nùng, nào Xá, nào Tu Dí, nào Phá Dí, nào Phù Lao, nào Quý Châu, nào Lự,
nào Lào, nào Mèo, nào Mán, vân vân… Mà nhất là người Mán lại chia làm
nhiều thứ: Mán Thao (trắng đầu) và Mán Lam Điền (đỏ đầu) chiếm phần đông
hơn cả các thứ Mán khác, mà ở lan cả sang địa phận Vân Nam" [51].
Bàn về khía cạnh văn hóa, con người vùng Tây Bắc, tác giả Đặng- v- Đàm
có bài Khảo cứu về người Mường, các tác giả Tam Lang, Việt Dân với bài ký-
phóng sự dài kỳ Lạc trong giang sơn Đinh, Quách. Có thể thấy, các tác giả đã
khảo cứu những nét độc đáo về người Mường vùng Hòa Bình. Từ nguồn gốc
người Mường, cho đến cách phân chia, cách cai trị bởi bốn dòng họ Đinh -
Quách - Bạch - Hoàng. Đó đều là những tư liệu quý giá.
Tóm lại, sự đa dạng trong vẻ đẹp tự nhiên, văn hóa, con người vốn có của
vùng này chính là yếu tố tạo nên sự giàu có của các tác phẩm du ký. Tìm hiểu
các tác phẩm du ký về vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX người đọc nhìn thấy
bức tranh toàn cảnh nhưng cũng không kém phần chi tiết về đặc điểm tự nhiên,
kinh tế xã hội, văn hóa vùng Tây Bắc Việt Nam.
2.2. Những “điều trông thấy” từ các chuyến viễn du
Du ký là một hình thức bút ký văn học thường được ghi lại bằng văn
xuôi, thuật lại những chuyến đi, ghi lại những cảm xúc, tình cảm và suy ngẫm
của tác giả khi đến những vùng đất khác nhau. Du ký hấp dẫn người đọc bởi
29
nội dung mới và lạ, ở đó câu chuyện được phát triển theo lộ trình của tác giả.
Cảm hứng bao trùm lên toàn bộ tác phẩm là cảm hứng phiêu lưu, giang hồ. Mỗi
cuộc hành trình là một khám phá đầy bất ngờ, thú vị về phong cảnh thiên nhiên,
văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo… Nói tóm lại là các tác giả của chuyến
đi đã cung cấp một lượng thông tin phong phú từ nhiều lĩnh vực của đời sống, ở
nhiều vùng đất xa gần khác nhau khiến cho mỗi tác phẩm hiện lên sống động
như một bộ phim tư liệu được dàn dựng hết sức công phu.
2.2.1. Cảnh sắc thiên nhiên vùng Tây Bắc
Thiên nhiên xuất hiện trong du ký Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX chủ yếu là
khung cảnh núi rừng còn nhiều hoang sơ. Vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ của núi
rừng, thửa ruộng bậc thang, những con đèo như bất tận. Cùng khám phá những
Mộc Châu, Mai Châu, Chapa (Sapa), Laokay (Lào Cai)... Thiên nhiên vẫn thôi
thúc con người hăng hái đi và khám phá chúng, mang vào những nơi hoang sơ
nhất hơi thở của con người, dấu chân của kẻ hành du. Vùng núi Tây Bắc luôn
để lại ấn tượng khó phai nhạt với bất cứ ai.
Sapa - Lào Cai là một trong những điểm nghỉ mát nổi tiếng của Việt
Nam từ xưa, hiện đang được nhiều du khách trong nước và quốc tế tìm tới
khám phá, chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên ở vùng đất này. Là
người từng thân thuộc với miền đất Lào Cai - Tây Bắc, Nhật Nham Trịnh
Như Tấu trong du ký Sau tám năm trở lại thăm Laokay đã ghi lại nhiều trang
viết sinh động về cảnh sắc và quá trình hiện đại hóa nổi tiếng Sapa nói riêng
và vùng biên viễn Laokay nói chung giữa thời thực dân. Theo tác giả vẻ đẹp
Sapa thời xưa như: “Một cảnh tượng phì nhiêu đẹp đẽ của một vùng trời biên
viễn. Chapa ngày nay đã mở mang hơn trước bội phần. Nhiều túp gianh đã
nhường chỗ cho các nhà gạch đồ sộ nguy nga; nhiều bãi cỏ rậm đã thành
vườn rau xanh tốt; nhiều đường nhỏ hẹp nay đã mở rộng thênh thang và giải
rựa sạch sẽ" [51].
Vẻ đẹp huyền bí của rừng núi Sapa được Nhật Nham ví như "như rừng
Boulogne bên Pháp" (… ) Gần Chapa có một khu rừng, cây cối lơ thơ, (..) Hai
30
bên đường có suối chẩy róc rách. Đi trong rừng này, tưởng tượng như Lưu
Thần, Nguyễn Triệu lạc lối Đào nguyên. Cảnh trí tịch mịch, thông reo, nước
chẩy, “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”" [51]. Tiếp đến ta được chiêm ngưỡng
cảnh thác Bạc (Cascade d’argent): "Thác này cách Chapa non ba cây số, ở
ngay chân núi Fan-si-pan là một dẫy núi cao nhất Bắc kỳ (3.142m). Thác trên
cao đổ xuống tóe ra nghìn tấm bạc. Cảnh trí thiên nhiên cực kỳ xảo diệu" [51].
Thác Bạc từ lâu đã nổi tiếng là một thắng cảnh của đất Sapa. Ngọn thác này đổ
từ độ cao hơn 100m từ đỉnh núi xuống. Đứng dưới chân thác Bạc, nhìn ngắm
đất trời bao la và những rặng núi hoành tráng xa xa, ta bỗng có cảm giác mình
thật nhỏ bé trước sự kỳ vĩ của thiên nhiên.
Cầu Mây - cây cầu làm bằng mây vắt ngang qua dòng suối Mường Hoa
thơ mộng "Tôi trèo lên cầu, vịn lan can, đi lại rún rẩy, xem ra vững vàng, rồi
đứng giữa cầu, ngắm trông phong cảnh có bề thanh thanh; chung quanh một
vùng non nước bao la; thỉnh thoảng nghe tiếng vượn hót, chim kêu. Đối cảnh,
sinh ra mến cảnh, tôi ngẫu hứng ngâm rằng:
Đoái trông phong cảnh hữu tình,
Giang sơn có ý đợi mình điểm tô…
Và tác giả "tức cảnh sinh tình" đề thơ vịnh:
"Trên cây lơ lửng mấy đường dây,
Tục gọi Cầu Mây, chắc hẳn đây.
Mấy dịp gỗ ngang xen mắt cáo,
Đôi hàng song thẳng néo cành cây.
Ven sông cỏ mọc, màu xanh ngắt,
Mặt nước mây in, sắc trắng phây.
Khen chiếc cầu này ai khéo bắc,
Biết bao qua lại khách Đông, Tây!..." [51].
Kết thúc hành trình khám phá mà theo tác giả là "hứng vị", làm nên một
thiên du ký. Cảnh đẹp và tình người miền đất Lào Cai đã để lại ấn tượng sâu
31
sắc trong lòng Nhật Nham Trịnh Như Tấu qua lời kết khi tác giả tạm biệt miền
biên viễn: “Ngồi trên xe, nhìn hai bên rừng núi, trông xuống dòng sông Thao
tưởng nhớ đến những ai ở lại, có mấy câu lục bát ghi tình:
Đường về nhớ cảnh Lão Nhai,
Nhớ non Đỗ Lĩnh nhớ người hôm xưa!
Non sông còn đó chơ chơ,
Hỏi người non nước bây giờ nhớ chăng?
Cuộc đi chơi Laokay tuy ít ngày mà nhiều hứng vị" [51].
Cùng cảm nhận về vẻ đẹp của Sapa, tác giả Nguyễn Tụng trong bài ký
Hai ngày dưới bóng núi Fan-si-Pan. Theo tác giả đó là "một cuộc (du lịch)
bằng mộng", được sống như "cảnh tiên trong cõi tục": Chiều ấy là "một
chiều đầu tiên mà tôi được trông ngắm cảnh hùng vĩ của giải Fan-Si-Pan
xanh đen cao ngất. Núi rừng trùng điệp, những giòng nước trong như hổ
phách đang như rì rào nói chuyện với viên đá cuội rêu xanh.Trên sườn núi
cao bát ngát rải rác vài ba biệt thự âm thầm kín đáo, xinh đẹp như những
thiếu nữ đường rừng. Sau những làn sa - mù phớt mỏng như những giải
voan, mấy cành đào trĩu quả giám hồng, như những cặp má đào của mấy
thiếu nữ tươi xinh điểm qua một làn phấn mỏng" [84]. Thưởng thức vẻ đẹp
của Thác Bạc, "khách cao hứng có thể tưởng tượng được mình đang ở thác
Niagara bên Mỹ, hay suối Vichy của Pháp, và khi đi chơi Lô suối Tòng
khách sẽ tưởng mình là đang đi trong rừng Boulogne" [84].
Trong Một buổi săn đêm của tác giả Lan Khai, cảnh rừng núi buổi đêm
hiện lên mờ ảo, kỳ dị và mộng mị nhưng tuyệt đẹp. “Chừng sáu giờ rưỡi chiều,
mặt trời đã lặn. Trên khúc sông Lô vắng ngắt, một chiếc nan thủng thẳng
ngược giòng. (…) bơi thuyền ngược sông để đón ngọn gió mát chiều hôm. Mặt
sông bao la, phẳng lặng như mặt hồ. Mặt tay tả, xa xa một dải núi đồi thu bóng
nổi rõ trên nền trời vàng lạt. Sắc mây rạng rỡ bao nhiêu, vệt núi càng âm thầm
bấy nhiêu. Ngoảnh trông tay hữu thì rừng cây rậm rạp, theo lườn núi chạy hun
32
hút lên không. Trừ một vài chỗ còn sót ánh sáng, hết thảy đều um tùm, hiểm ác,
đầy những kẻ kinh hoàng của đêm tối. Tít tắp đằng phía tây, chỗ mà giòng sông
như nối liền mây, tà dương còn để lại một cảnh rực rỡ lạ thường, gồm đủ các
màu vàng già, đỏ sẫm, cánh sen, hạt lựu, bạch yến, tàn hương, phản chiếu
xuống nước thành những vệt ngũ sắc lung lay, chắp nối nhau, đan dạm nhau
như một con đường sà cừ biến chuyển, con đường nối cái hiện thực của cuộc
đời với cõi thơ, cõi mộng... ” [24]. Đây có thể coi là hình thức du lịch sinh thái
hay một chuyến du ngoạn giải trí thú vị. Cuộc đi săn đêm ấy tuy không được
con thú nào nhưng lời văn tả cảnh cho thấy con người hòa đồng với thế giới tự
nhiên và đầy tính hấp dẫn, ly kỳ, phiêu lãng.
Bài ký Tiếng cồng vang chốn rừng xanh của Nhị Lang, dù chỉ là du ngoạn
bằng phương tiện thô sơ - xe đạp, nhưng tác giả và những người bạn cũng cho
độc giả thấy những vẻ đẹp thiên nhiên và văn hóa theo dọc cung đường từ Hà
Đông lên Lương Sơn - Hòa Bình "lúc mặt trời đã xuống khuất dãy núi xanh rì
đằng chân trời, lúc lũ chim đã ríu rít kéo nhau về tổ, thì con đường lên lối
Lương - sơn vắng tanh, lạnh ngắt lúc nhá nhem tối nom như một cái giải trắng
giải xuyên thủng qua những đồn điền cà - phê bao la ở hai vệ đường" [28] và
những buổi tối thứ bảy "…con đường vắng vẻ ấy bỗng trở nên tấp nập, náo
nhiệt, mà cái không khí êm đềm lặng lẽ của chốn rừng xanh ở miền Lương-sơn
này cũng thấy xôn xao, tưng bừng" [28].
Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc không chỉ đẹp, kỳ bí, huyền ảo mà còn
hùng vĩ, dữ dội. Tây Bắc nổi tiếng những cung đường đèo vô cùng hiểm trở và
khó đi, tuy nhiên chúng lại có sức hút kỳ lạ với phong cảnh vừa hùng vĩ vừa
nên thơ. Đến đây bạn sẽ có được cảm giác hòa mình với thiên nhiên, sông suối,
rừng núi, những bản làng .... Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu của Đặng
Trọng Khang, dù đang thực thi nhiệm vụ dẫn giải các tù nhân đi từ Lao kay đến
Lai Châu nhưng tác giả cũng kịp ký họa những "điều trông thấy" trong chuyến
hành trình: "Từ đây tôi không còn được trông thấy những con đường to rải
33
nhựa nữa, không còn được nghe những tiếng dịu dàng người đồng bằng nữa,
mà chỉ thấy đường núi trập trùng, chỉ nghe những tiếng Mán, Thổ líu lô" [19].
Gác lại cuộc sống dưới đồng bằng với những điều kiện thuận lợi, tác giả đặc tả
vẻ đẹp hùng vĩ của Tây Bắc: "Hôm thứ bẩy, chúng tôi đi dốc Séo lèng, nghe nói
đây là con đường đáng ghê sợ nhất (…). Bỏ Phong - thổ đi được đi được độ ba
cây thì đến chân núi. Cố sức leo, leo được đến đâu lại thấy càng cao đến đấy,
lởm chởm một thứ đá nhọn tai mèo, đường gấp như thước thợ (…). Cố đi qua
quả núi này, lại tiếp luôn sang trái núi khác" [25].
Trong Miền thượng du Bắc Kỳ, Ngọc Ước trong chuyến du hành từ kinh
thành Hà Nội, qua Hà Đông, Lương Sơn, Hòa Bình ngược thẳng Chobo để đi
Lai Châu cho ta thấy thiên nhiên Tây Bắc qua những cung đường uốn lượn
"dốc lên khúc khủy, dốc thăm thẳm" vô cùng nguy hiểm: "Tôi có thể giới
thiệu với các bạn, con đường này là đường thông thương nguy hiểm nhất ở
miền thượng du phía Bắc, phần đường núi xiêng tạc chênh vênh, vừa nhỏ
hẹp vừa bằng đất thịt, lại thêm bao nhiêu dốc cao ngoắt ngoéo, quanh co.
Phần cầu quán còn nhiều cái bắc bằng tre, rải lên trên một lớp phên nứa
phủ qua một lớp đất sét mỏng. Nhất là về mùa mưa, nước trên núi tràn
xuống luôn luôn làm trôi phăng những quãng đường dài xuống vực sâu hàng
mấy trăm thước; có khi đất núi sụp đem theo cả những vừng cây cổ thụ nằm
trùm trên đường bịt cả lối đi" [90]. Tuy nhiên, khi đã vượt qua được những
cung đường như vậy thì vẻ đẹp vùng rừng núi Lai Châu lại hiện ra với diện
mạo và cảm xúc khác hẳn: "các bạn đã nhận thấy phong cảnh tịch mịch của
rừng núi, khoan khoái với làn không khí thanh thanh". Và cuộc sống của
người đồng bào nơi đây hiện ra thật thi vị "Dựa theo hai bên vệ sông, những
mái nhà sàn lợp lá, lộ ra thời cùng là thụt vào trong những rừng cây thưa
thớt, lưng dựa vào sườn non; ấy là những gia đình người Thổ đen ở rải rác
từng chòm một, mỗi chòm là một làng, gọi là bản” [90].
34
Cảnh sắc thiên nhiên vùng Tây Bắc với núi non hùng vĩ, những cung
đường uốn lượn, bản làng hiền hòa thơ mộng, ruộng bậc thang kỳ ảo, những
nụ cười rạng rỡ... làm nên một Tây Bắc vô cùng quyến rũ. Thôi thúc người
đọc muốn đi để được khám phá và trải nghiệm sự khó khăn, khắc nghiệt
nhưng nên thơ và trữ tình này.
Bên cạnh vẻ đẹp rừng núi vùng Tây Bắc, thiên nhiên vùng Đông Bắc được
các tác giả du ký tập trung ký họa gắn liền với các địa danh nổi tiếng. Hồ Ba Bể,
trong con mắt tưởng tượng của Nhật Nham thật đẹp đẽ và nên thơ. Cảnh sắc ấy
“Thực là một nơi đại thắng cảnh, không bút nào tả xiết, trong nước Việt Nam”
[52]. Cảnh vật thiên nhiên hiện lên đẹp như một viên ngọc giữa rừng xanh.
Chuyến đi đến Quảng Yên khiến Nhàn Vân Đình đầy hứng khởi khi khám phá
một mảnh đất với quang cảnh tươi đẹp đầy sức sống và giàu giá trị văn hóa. Nữ
thi sĩ Vân Đài đến với đảo Các Bà, Thuyết Hải với non nước Cao Bằng… Du ký
nửa đầu thế kỷ XX viết về biển đảo cũng được các tác giả khám phá, cảm nhận
như trong chuyến thăm Cảnh vật Hà Tiên của Đông Hồ và Nguyễn Văn Kiêm,
hòn đảo Phú Quốc xinh đẹp qua Chơi Phú Quốc của Mộng Tuyết,...
2.2.2. Văn hóa, phong tục tập quán
Vùng núi Tây Bắc không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ,
nên thơ mà nơi đây còn có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống với bản sắc văn
hóa độc đáo gắn liền với những phong tục tập quán. Trong du ký, không chỉ
có những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp mà các nhà du ký còn ghi lại những
lễ hội, phong tục tập quán, lối sống sinh hoạt của các dân tộc thiểu số khác
nhau trên lộ trình đi qua. Nó như là cuốn phim tư liệu sinh động và quý giá
về những đặc trưng văn hóa nơi đây. Những quan sát và ghi chép tỉ mỉ về
đời sống, phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số cho thấy các nhà du ký
đã thâm nhập sâu vào đời sống văn hóa, kịp thời đưa đến cho độc giả những
trang viết mang đậm hơi thở cuộc sống.
Chợ phiên - một nét đặc trưng trong văn hóa của người Việt Nam.
Không ai biết chính xác chợ đươc hình thành từ khi nào, có bao nhiêu cái
35
chợ và bao nhiêu loại chợ búa khác nhau ở Việt Nam. Theo Từ điển Tiếng
Việt "chợ là nơi công cộng để đông người đến mua bán vào những ngày
hoặc những buổi nhất định". Nhưng có một điều chắc chắn rằng chợ không
chỉ nằm trong phạm trù kinh tế đơn thuần mà còn biểu hiện văn hóa Việt
Nam một cách đậm nét. Việc đi chợ, ngoài việc thoả mãn sở thích mua sắm
còn là để tìm hiểu bản sắc văn hoá mỗi vùng miền. Mỗi vùng đất có một cái
chợ riêng cho mình và lưu giữ độc quyền một giá trị. Ở thành phố chợ đông
đến tận khuya. Ở đồng bằng, chợ miền quê, chợ duyên hải có khi là một buổi
mua bán ngắn ngủi vào bình minh hay chiều tối thường gọi là “chợ mai” hay
“chợ chiều”. Rồi chợ “phiên” miền núi lâu lâu mới họp một lần, theo từng
phiên cố định trong tháng, tuần.
Theo chân Nhị Lang với du ký Tiếng cồng vang chốn rừng xanh, để thấy
được những nét độc đáo trong một dịp, tác giả chứng kiến buổi khai trương
Chợ phiên Lương Sơn (Hòa Bình). Tác giả ghi lại thời khắc bắt đầu bằng âm
hưởng đậm chất văn hóa vùng Tây Bắc. Đó là tiếng Cồng (cồng chiêng) - một
loại nhạc cụ phổ biến của cộng đồng các dân tộc thiểu số.
"C…ồ…ồ…n…g…! C…ồ…ồ…n…g…!
Hội - hè quan gọi chúng ta,
Gặp nhau ta hát một vài câu vui!
Chợ - Phiên Lương - sơn!" [28].
Dù tác giả cho biết mục đích của buổi Chợ Phiên là "để lấy tiền giúp
quỹ Pháp - Việt Bác - Ái", nhưng chính tác giả cũng hoài nghi "tổ chức Chợ
- Phiên ở một nơi như thế, liệu kết quả có khá tốt tươi được chăng?", khi mà
nó được tổ chức "giữa một nơi quanh năm chỉ non xanh rừng thẳm". Tuy
nhiên, sau những tiếng "cồng" mời gọi của các cô gái Mán, cô gái Mường
đang quyến rũ khách về "tề tựu nơi châu lỵ tối nay" là một không khí tươi
vui, náo nhiệt: "Bao nhiêu "giai nhân" ở khắp trong châu tối nay đều đủ mặt
nơi châu-lỵ. Các cô Nàng ngây thơ, mặt tròn vành vạnh như mặt trăng, chiếc
36
khăn vuông trắng bao đầu, lộ đôi con mắt đen nháy, cặp răng cũng đen
nháy, chiếc yếm thêu căng lấy ngực, lòa xòa trong chiếc xiêm đen, hai tà áo
trắng dài rủ xuống quét đất, coi thực có cái "vị" khác những giai nhân tân -
thời chốn đô - thị dưới ta. Thực là lạ mắt! Thực là khác hẳn những cảnh mắt
thường ta thấy" [28]. Cái háo hức của người dân tộc vùng cao đến chợ phiên
như sự mong chờ của những đứa trẻ đến ngày Tết được xúng xính quần áo
mới. Những cô gái xuống chợ trong những bộ trang phục đẹp nhất, rực rỡ
nhất, họ đi chợ mà như là đi hội, làm cho sắc xanh của núi rừng như được
chấm phá, tô điểm bởi những sắc màu từ trang phục của họ từ nhiều nơi dồn
đến tại chợ phiên, làm nên một ngày hội của sắc màu.
Chợ phiên chính thức được khai mạc. Với người dân tộc vùng cao, đến
chợ phiên không chỉ để mua bán, trao đổi mà còn là dịp để gặp gỡ, giao lưu tâm
tình, uống với nhau vài chén rượu ngô, cùng chuyện trò… đôi khi lại là cuộc thi
sắc đẹp của các cô Nàng: "Mắt ta nhìn luôn cái nhan sắc và y phục tân thời dưới
miền kinh đã quen, đã nhàm, bữa nay được đổi "mơ - nuy" được thưởng thức các
bông hoa Rừng đang e lệ yểu điệu từng bước trên chiếc cầu tre dựng trước nhà
chào kia. Cô nàng xinh tươi Đinh thị-Nụ ái nữ bà châu Đinh - lệ - Chung ở Kệ sơn
và cô Hoàng - thị Liên người kinh vận y - phục Mường, thực xứng đáng giải nhất
Hoa - khôi" [28]. Không chỉ là vẻ đẹp nền nã, chất phác của các cô gái dân tộc,
các "Phái khỏe đường rừng" cũng được dịp phô diễn vẻ đẹp khỏe khoắn, cường
tráng trong môn thi tài bắn Nỏ: "các bạn trai, nước da ngăm ngăm, vẻ mặt chất
phác, bắp thịt tay nổi cuộn, bận những y phục đẹp nhất, sáng nhất để dành những
ngày đại hội mới dùng, đang cùng nhau đua tài bắn nỏ. Mỗi phát tên trúng hồng
tâm, lại một hồi vỗ tay hoan hô. Cái vẻ rắn rỏi mà chất phác của các con trai
Mường lại thẩy hửng lên, vui sướng!". Không chỉ là các cuộc thi sắp đẹp và thi tài,
Chợ Phiên Lương Sơn còn hội tụ "đủ mọi trò vui. Nào là đánh vật, uống rượu
cần! Nào cả … bán hoa, gắn insigne nữa. Chợ - Phiên mà!" [28].
37
Trong du ký Sau tám năm trở lại thăm Laokay, Nhật Nham cũng nhắc
đến văn hóa Chợ phiên và một cách tiếp thị độc đáo của người Mèo vùng
Tây Bắc "Bà Bang cho biết: cứ đến vụ, nhiều bạn ở xa viết thư về nhờ mua
nên người Mèo quen khách hàng, cứ đến phiên chợ lại thi nhau đem vải đến
tận nhà mời mua” [51].
Không gian phiên chợ không chỉ là không gian mua sắm mà còn là không
gian của ngày hội. Tới phiên chợ, người già quên thời gian, người trẻ đi ngược
lịch sử, các em bé tạo ra các câu chuyện khác về một thế giới ở giữa thực và ảo.
Người mua, kẻ bán, khách gần, khách xa, mua hồ hởi, bán phấn khởi, thăm
quan thích thú, ai cũng đạt được mục đích của mình, để rồi trở lại đời thực với
ấn tượng khác, dự định khác, cái nhìn khác… Quả thật đi chợ, cũng là lúc con
người ta chìm đắm trong một biểu cảm của một sắc thái Việt, một thứ văn hoá
sống động chứa chất đầy một tính duy cảm.
Với mỗi người dân Việt Nam, chợ phiên mãi là nét văn hoá của một thời
để nhớ. Chợ phiên chứa đựng trong sâu thẳm những kỷ niệm của quá khứ và
những nét văn hoá xưa không dễ gì quên được. Những phiên chợ đã trở thành
một phần trong đời sống văn hóa, đi vào tiềm thức của mỗi người với những
hình ảnh mộc mạc, thân quen và cũng rất tự nhiên như tâm hồn, bản tính người
Việt. Các phiên chợ chính là nơi lưu giữ những phong tục truyền thống, đặc
trưng của mỗi vùng miền khác nhau.
Trong không khí tưng bừng như ngày hội - văn hóa của Chợ Phiên Lương
Sơn, trong Tiếng cồng vang chốn rừng xanh, Nhị Lang còn cho bạn đọc thấy
một nét văn hóa độc đáo của cộng đồng người Mường. Đó là không gian diễn
xướng của tiếng Cồng chiêng: "Các cô Mường con nhà dân - giã, lòa xòa trong
các bộ áo màu trắng, kéo nhau đi trên chiếc cầu, vừa đi vừa đánh cồng. Một
cảnh lạ mắt cho các bạn đường xuôi…" [28]. Cồng chiêng là nhạc cụ mang giá
trị văn hóa quan trọng trong đời sống cộng đồng của đồng bào dân tộc Mường.
Cồng chiêng tham gia vào tất cả các hoạt động đời sống người Mường từ khi
38
sinh ra cho đến khi về với đất mẹ. Chính vì vậy, người Mường coi cồng chiêng
là báu vật trong ngôi nhà của mình và giữ gìn qua các thế hệ.
Không gian văn hóa cồng chiêng của đồng bào dân tộc Mường bắt nguồn
từ truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời và được khẳng định trong quá trình lao
động, sáng tạo nghệ thuật và được kế tục qua nhiều thế hệ. Văn hóa cồng
chiêng và không gian văn hóa cồng chiêng đã ăn sâu, bám rễ vào mọi mặt đời
sống của đồng bào dân tộc Mường. Cộng đồng người Mường quan niệm cồng
chiêng là biểu tượng của dân tộc và mang giá trị rất lớn.
Tác giả Đặng -v- Đàm trong bài ký Khảo cứu về người Mường, theo khảo
cứu của tác giả thì: "Nghĩa tiếng "Mường là gì? Mường nghĩa là làng, như
mường động (Vĩnh đồng) mường Cời (Kệ - sơn), mường lai để chỉ một khu vực
khá rộng hơn như mường Bi, mường Thàng (Thạch - bi, Cao phong) là những
mường gồm nhiều các mường nhỏ khác mà thành. Mường lại còn để chỉ một
chức quan, dòng con thứ nhà lang, cầm quyền cai trị một mường. Còn như
người Hòa Bình là mường thì chỉ có ta gọi thế thôi, chứ người mường họ gọi ta
là người ngoài (ngoài tỉnh hay ngoài chợ) mà tự gọi là người trong (trong làng
cũng như ta gọi là người đường ngoài (ngoài Bắc) với người đường trong
(trong Trung Nam Kỳ) vậy" [10]. Tiếp đó, tác giả lý giải về cội rễ người
Mường. Thuyết thứ nhất, gốc người Mường là do "đôi chim đẻ được trăm
chứng…", thuyết thứ hai là thuộc "dòng dõi họ nhà lang trên mường bây giờ,
xưa vốn là con cháu thứ đức vua Hùng". Đặc biệt ở bài ký này, độc giả được
biết đến cách lấy lửa của người Mường: "Chuyện lửa. Thủa ấy dân gian vẫn
phải ăn sống nuốt tươi (…) Khi ấy có một người bỗng tìm cách lấy lửa. Người
ấy tên là Tả - cạm - Cọt (người Mường kêu Tả cạm Cọt là hòn nhui). Cọt tìm
được cách lấy lửa, nhưng còn giữ kín, chưa đem dạy bảo ai. (…). Bây giờ Cọt
mới ngồi kéo lửa. Bẩy người ghé qua khe bồ xem Cọt. Khi lửa đã bùng lên rồi,
Cọt mới mở bồ ra. Bảy người đều múa tay deo hò, nhận lấy lửa rồi từ dã ra về,
dùng lửa ấy nấu nướng cho lang ăn. Rồi lại dậy cho mọi người biết cách lấy
39
lửa. Người Mường biết dùng lửa trước từ đấy. Cách lấy lửa của người Mường
như sau này: lấy hai sợ mây vắt chéo vào nhau mà kéo. Khi thấy nẩy khói thì
lấy mùi - dùi để vào cho lửa bén lên" [10]. Đây chính là kết quả khảo cứu mang
giá trị văn hóa sâu sắc, cần được lưu giữ như một minh chứng về sự hình thành
và phát triển của một bộ phận dân tộc thiếu số sống ở vùng núi rừng Tây Bắc.
Năm 1944, tác giả Ngọc Ước có phóng sự - du ký Miền thượng du Bắc
Kỳ, những trang ký, với cách quan sát tỉ mỉ của nữ nhà báo đã cho độc giả
thấy những nét độc đáo trong cung cách làm nhà và lối sống của người dân
vùng cao. Kiến trúc nhà của người dân vũng cao đơn sơ và thuận theo lẽ tự
nhiên: “Nhà nào cũng như nhà nấy, cách kiến trúc đơn sơ. Họ chặt cây trong
rừng về đẽo cho thẳng rồi cây nọ buộc vào cây kia bằng sợi mây chứ không
cần đến một lỗ đục, một con xẻ. Nhà chia làm hai từng, từng trên người ở, từng
dưới nuôi súc vật. Chung quanh là vườn, trồng hỗn tạp một vài thứ cây ăn quả.
Qua cầu thang gỗ đặt chân lên sàn nhà. Sàn làm bằng nứa (tre), thứ nứa to khổ
tách đôi, ken giáp lại với nhau và nhờ người qua lại cọ vào mình nứa trở nên
láng bóng như ngà. Giữa sàn ngăn một ô vuông hình chữ nhật, chắn bốn tấm
gỗ bốn bên, rộng chừng 2, 3 thước vuông để làm nhà bếp. Bếp không bao giờ
tắt ngọn lửa, không nấu nướng cũng chất củi để đó” [90]. Và theo khảo sát của
Đặng Trọng Khang trong Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu: "Ở đây lẫn
lộn vừa Mèo, vừa Thổ trong một cái xóm con. Nhà làm như kiểu nhà bè, thấp,
hẹp, hôi hám, vì ở dưới sàn là chỗ nuôi trâu, bò, ngựa, lợn" [25].
Có thể thấy, ngôi nhà truyền thống dân tộc với cách xây dựng, và khai
thác vật liệu hoàn toàn tự nhiên từ rừng hoặc vườn nhà. Nhà được xây dựng
hoàn toàn thủ công, dựa trên sự đoàn kết cộng đồng “Mỗi khi người dân
muốn làm nhà thì chỉ có việc trình với ông Bản; ông Bản họp làng cắt mỗi
nhà một hay hai người đến làm tiếp. Họ chia nhau mỗi người một việc, chỉ
trong vài hôm là nhà đã hoàn thành” [90]. Không gian thông thoáng, chiếu
sáng tự nhiên, công năng sử dụng cũng linh hoạt phù hợp với hoàn cảnh và
đặc trưng vùng miền.
40
Khi quan sát thực tế đời sống người dân, tác giả Nhật Nham ghi lại vài nét
khái quát về dân số và hình thức quản lý bản Mường Hòa: “Theo tục dân
thượng du Bắc Kỳ, nhà vùng này không họp thành làng, thỉnh thoảng lơ thơ vài
cái ở dưới chân núi. Nếu tính số kiến ốc thì vùng đó được độ 30 nóc nhà. Dân ở
đây phần nhiều là người Mèo và lẫn một ít Mán, Thổ, có kì mục, sèo phái, binh
dầu, giáp trưởng trông nom dưới quyền phó lý, lý trưởng và Bang tá” [51].
Xuất phát từ truyền thống, ngôi nhà của người dân tộc đã coi trọng bậc
nhất yếu tố hòa nhập hữu cơ với thiên nhiên. Do đó ngôi nhà thường được đặt
một cách khéo léo trên nền đất dốc tự nhiên, không san gạt, được xây dựng
thành các khuôn viên với hàng rào mềm gắn kết cộng đồng; hệ thống hạ tầng
được bố trí khéo léo bám theo địa hình; những khu vườn, rừng được chăm sóc;
ruộng nương được canh tác màu mỡ… Tất cả đã góp phần tôn tạo, gìn giữ sinh
thái tự nhiên ở các vùng cư trú của đồng bào, phát triển hài hòa bền vững trong
việc xây dựng và phát triển từng khu vực cũng như toàn cộng đồng.
Ở Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu, tác giả cho ta thấy tập quán
canh tác và thói quen sinh hoạt rất đặc thù người Thổ trắng ở Lai Châu:
"Dân Thổ đốt cây thành nương trên nhưng núi đất, có khi lại cày cấy ngay ở
bên đường. Tối cấu một bông thóc xem thì là bông lúa nếp, mà những hạt
gạo to gấp rưỡi những hạt gạo ở dưới ta. Họ không éo mạ như ta mà trồng
ngay bằng hạt thóc, gọi là lúa lốc. Khí hậu ở đây tốt, lúa bón bằng chất cây
cỏ mục nát nhiều màu hơn "phốt phát" của ta. Nhưng lúa một năm chỉ cấy
một vụ tháng mười thôi, tháng năm hay mưa, không lợi. Họ còn biết tìm hoa
màu khác nữa, nên trồng ngô, khoai, đỗ, rứa, cây bông. Họ không chăn tằm,
nhưng lấy bông giệt vải. Họ bảo cơm nếp no lâu, vải sợi mặc bền nên họ
trồng bông mà gạo tẻ thì bán cho ta " [25].
Những nét độc đáo trong cách ăn mặc của người Thổ trắng cũng được
khắc họa: "Đàn - ông thì mặc quần áo xoàng xĩnh, nhưng đàn bà ăn mặc câu
kỳ lắm. Họ rẽ tóc trần, búi tóc, răng đen có thể xánh với hạt huyền được,
41
phần nhiều hay mặc áo cộc trắng. Kiểu áo nịt, giữa ngực xẻ một đường bằng
vải hay nhiễu đen, có hàng com bướm chạm bạc, thay làm cúc. Áo chỉ che
vú, còn vẫn để hở lườn, rồi bịt thêm một miếng vải thâm rộng và dài từ chỗ
hở hở ấy xuống đến tận mắt cá. Miếng vải ấy tức là quần ngoài, nhưng phần
trên bao giờ cũng khâu thêm ba đoạn vải mùi giấu ở trong, phòng khi đến
chơi những chỗ lịch - sự, thì lộn trái ra mặc" [25].
Không chỉ độc đáo trong trang phục mà còn lạ và hấp dẫn ở chính cách
họ làm ra trang phục. Tác giả Nhật Nham trong Sau tám năm trở lại Lao
Kay, giới thiệu một thứ vải truyền thống: “Có mấy người vào mời bà Bang tá
mua vải Mèo. Nhân thế mà tôi biết được một thứ vải gai của họ tự chế ra
bằng gai lấy ở rừng. Vải này đã trắng, rất bóng và mịn mặt; nhiều người
mua may quần áo thay vải tussor (…). Xem thứ vải gai này mới biết người
Mèo cũng có óc tinh anh, có thể dùng các thứ của Hóa công đã dành riêng
cho họ ở miền rừng núi. Mỗi khi cần đến một thứ gì, họ lại nghĩ ra các
phương pháp mà ta cho là xảo diệu” [51].
Với người dân vùng đồng bào Tây Bắc, uống rượu không thể thiếu trong
sinh hoạt, lễ hội, cưới xin. Hòa trong rượu là tình người, tình yêu đôi lứa. Khách
đến nhà phải có mâm cơm, chén rượu; cúng lễ, cưới xin, lên nhà mới… là có rượu
nâng, rượu mời. Trong Miền thượng du Bắc Kỳ, mục Đi dự tiệc, Ngọc Ước kể chi
tiết thói quen, tập quán, tửu lượng và cung cách uống rượu của người dân xứ núi.
Cách khai vị tiệc rượu vô cùng độc đáo: “Trước khi nhập tiệc, những chén bạch
định nhỏ xíu trước mặt mỗi người được rót đầy rượu nếp đặt bằng men lá. Uống
vào thì dìu dịu, ngòn ngọt, không cay lắm. Mỗi quan khách được một cô gái Thổ
ngồi hầu rượu. Trước khi rót, cô gái hát một bản nghe rất vui tai để ngụ ý chúc
mừng quan khách xa xăm ký bước lãng du đến nơi sơn lâm cùng cốc này, ấy là
một sự vẻ vang cho cây cao bóng cả đất nước này. Hát xong bản hát, cô gái kéo
“đĩa” rượu lại gần mình, rót đầy hai chén, tay vừa rón rén cầm chén rượu không
được cho sóng sánh, từ từ dâng tận miệng mình. Lẽ tất nhiên mình uống một chén,
42
còn một chén mình phải tự cầm mời lại nàng uống. Cứ như thế, chén chú, chén
anh, chén tôi, chén bác, cho tới khi mình say ngả say nghiêng. Say cũng mặc,
nàng cứ hát, cứ rót rượu. Nếu mình không uống nữa thì cứ việc bỏ hai cắc vào
chén rượu là nàng thâu đĩa rượu về, rồi lại đến lượt khác, khác nữa… Ta phải
công nhận rằng “tửu lượng” của các cô này, hằng chai lớn cũng không say” [90].
Ký giả Bùi Xuân Học trong chuyến công du đưa quan Thống sứ lên dự
khánh thành con đường SUYUT- SONLA cũng ghi lại khung cảnh tiệc
rượu đậm chất văn hóa núi rừng: "Một đêm Sơn La. Cái đêm nó làm cho
hồn khác chập chờn như bay bổng tuyệt vời trên những đỉnh núi mơ màng,
như mờ, như tỏ… Mấy tiếng cồng đưa những hơi ngân vang lên như vọng
vào núi đá. Chiếc nón đồng tròn dưới bàn tay nõn nà và bà Chánh sứ cầm
nhịp cho hơn hai mươi thiếu nữ thổ, xem ý rực rỡ, nhởn nhơ theo những
tiếng khoan nhặt, mau thưa" [20].
Có thể nói, rượu làm cho núi rừng Tây Bắc thêm ấm áp, làm cho con
người gần gũi chan hoà với nhau hơn, góp phần xoá nhoà khoảng cách không
gian và thời gian. Trong tín ngưỡng - phong tục đó là nhu cầu, là chất xúc tác
không thể thiếu trong môi trường và không gian tiếp xúc với thần linh, với giới
vô hình lẫn hữu hình mà ta thường hay gọi là “vô tửu bất thành lễ”.
Sau phần khai vị là đến tiệc chính, rồi đến ăn cơm…, rồi lại rượu, nhưng
thứ rượu này khác cuộc rượu vừa qua. Đó là rượu cần.“Một chiếc hũ to có thể
chứa được một thùng nước. Miệng hũ cặm mươi cái cần trúc, khi hũ đã bưng
ra giữa sàn, chủ nhân với chiếc sừng trâu, vục nước trong chậu rót vào hũ mỗi
lần sáu sừng. Cứ một người đàn ông ngậm một cần thì lại một cô gái ngậm một
cần, từng cặp một. Ngậm chiếc cần trúc cho vào miệng hút mạnh, rượu trong
hũ theo cần vọt lên, khách, chủ cứ việc uống” [90].
Tiếp đến, tác giả miêu tả những nét tinh hoa trong chế biến rượu: "Rượu
cần cũng đặt bằng men lá. Họ trộn gạo nếp xay lật đã thổi thành cơm với men
lá, nhồi thật chặt trong hũ, trên miệng đậy nắp cho chặt, sau khi đã đổ một lượt
43
trấu để ủ cho kín hơi. Họ ủ chừng hai, ba tháng cho chất ngọt của gạo nếp gặp
men đủ sức phát triển. Khi uống cần phải đổ nước, nước ngấm vào rượu thành
một thứ rượu ngọt như nước cơm rượu của ta. Thoạt uống không say gì cho
lắm, ngọt miệng uống mãi, lúc rượu đã ngấm vào lục phủ ngũ tạng của ta rồi
thì coi chừng sức mạnh của nó, bị say một, hai ngày là ít” [90]. Rượu cần trở
thành sản vật quý của núi rừng được cả những người dân miền xuôi yêu thích.
Có lẽ không chỉ bởi mùi vị thơm nồng khó tả, rượu cần hấp dẫn lòng người còn
bởi những tinh hoa trong chế biến và thưởng thức.
Trong cuộc rượu không thể thiếu được âm nhạc, đó là đặc trưng khá
phổ biến trong sinh hoạt của cộng đồng người dân vùng Tây Bắc: "Vừa uống
rượu cần vừa nghe đàn hát của trai gái Thổ. Âm nhạc của các chàng trai
Thổ, phổ thông nhất có cây đàn, đàn làm bằng quả bầu khô, hai dây; và
chiếc kèn bằng những đốt cây lau dài ngắn chắp lại có khoét lỗ để mỗi khi
thổi, mười ngón tay bịt hay mở các lỗ nhỏ cho có nhạc điệu, như ống sáo
của ta” [90]. Chính âm nhạc làm cho con người xích lại gần nhau, không
phân biệt quan - khách, miền xuôi miền ngược. Họ hòa quyện cùng nhau
trong hơi men, âm nhạc và tình người: "Tiệc rượu gần tàn, hồi cồng (…) lại
đổ rồn mời các quan khách vào cuộc "múa xè" trước khi mãn tiệc. Chúng tôi
cùng với các thiếu nữ thổ không phân biệt đẳng cấp, cầm tay nhau vậy thành
hình tròn rộng rồi dịp dàng du bước theo những tiếng lanh lảnh của chiếc
cồng (…) tiếng cồng ngân đi là một tiếng vọng vào tận trái tim, như gợi cho
mình những nỗi mong sau, thương trước" [20].
Vùng Tây Bắc chứa vô vàn những sản vật ngon. Các sản vật này chủ
yếu có nguồn gốc từ thiên nhiên vì thế hầu hết các món ăn của Tây Bắc luôn
hấp dẫn, tác giả Nhật Nham giới thiệu món đặc sản cải soong của vùng Sa
Pa: “Về qua một dòng suối, trên bờ cải soong mọc xanh rì. Cải soong trộn
dầu giấm ăn với thịt bò rất ngon, thường dùng trong các bữa ăn của người
Âu. Ít lâu nay, người mình cũng rất ưa chuộng thứ rau ấy. Cải soong mọc ở
44
bờ suối, có nước chảy, đã xanh tốt lại sạch sẽ. Tôi muốn, khi về trung châu,
có chút quà tặng bà con, nghĩ không gì hơn một ít rau vì chẳng kém gì rau
sắng chùa Hương” [51]. Hay như món Nấm Chapa "là một thực phẩm rất
quý, trừ miền trên này được dùng ngay sau khi lấy ở rừng về, nên được tươi
tốt; còn muốn đem đi xa, phải phơi thật khô. Vì vậy, ở Trung châu ta, ít khi
được dùng nấm tươi Chapa" [51].
Từ những trang du ký về Tây Bắc, những nét đẹp văn hóa, phong tục tập
quán của người dân vùng rừng núi Tây Bắc đã được các ký giả lưu giữ trong
những trang văn thật sinh động. Người đọc có thể ngồi một chỗ để hiểu và
thêm yêu mến nét văn hóa đặc sắc của người dân tộc thiểu số vùng cao. Đó
thực sự là những trang tư liệu quý giá để mỗi chúng ta có thể hiểu thêm được
lối sống, sinh hoạt của người dân Tây Bắc một thời.
2.3. Trải nghiệm từ những “điều trông thấy”
Mỗi tác phẩm du ký như một cuốn phim quay chậm về hành trình đến
và đi mà nhân vật tôi đã trải lòng và cảm nhận. Những trang sách đó không
chỉ đơn giản là những chuyến hành trình địa lý mà còn là hành trình tinh
thần, văn hóa với những con người thật việc thật cùng sự vui buồn trong
hành trình tìm tòi và khám phá.
2.3.1. Cảm nhận về “những cái khác”
Đặc trưng của du ký là nói đến sự đi và trải nghiệm. Trong những chuyến
đi ấy, cái mới, cái lạ của phong vật, phong tục, con người nơi xứ khác luôn mời
gọi bước chân du khách. Sự mở rộng của không gian hành trình, sự kéo dài của
thời gian lãng du, khả năng bao quát, nhận thức thực tại chủ yếu phụ thuộc vào
ý thức khám phá của nhà du ký. Hơn nữa, văn du ký là loại văn tả cảnh thuật
việc. Cảm xúc của người viết cũng bám theo sự, theo việc, tuân theo logic của
thực tế. Do đó, sắc thái, cung bậc của cảm xúc là khá đa dạng.
Nguyễn Đức Thang trong Tại rừng Lai Châu có một thứ cây ban đêm
sáng như con đom đóm dùng làm thước, ba toong, cán bút, đẽo guốc độ vài
45
đêm lại mất sáng, tuy bài ký ngắn gọn, chỉ mấy trăm chữ cho thấy một hiện
tượng thiên nhiên lạ lùng, kỳ thú của rừng núi Tây Bắc: "Đó là một hình cao
đến mười thước tây, và to độ một người ôm: trông giống hệt như một cây có
gốc, thân, cành lá. Cả hình cây sáng ngời như kết bằng hàng vạn con đom
đóm. Trên ngọn cây có những chấm đen động đậy" [74]. Tác giả đem sự "lạ
lùng" đó hỏi người Thổ trong vùng thì họ trả lời rằng "ban đêm vào sâu trong
rừng, người ta còn thấy nhiều chỗ cả một đám cây sáng lên như thế" [74]. Hóa
ra thứ cây "phát sáng" ấy, lại là một loại gỗ đặc biệt chỉ có ở vùng rừng Lai
Châu và đặc biệt loại gỗ đó có thể làm được những vật dụng cho sinh hoạt hàng
ngày như làm thước, ba toong, cán bút, đẽo guốc.
Cái thú đi săn đêm được nhà văn Lan Khai nhấn mạnh trong bài ký "Một
buổi săn đêm" với đầy vẻ ly kỳ, hồi hộp, sát hợp tâm lý và hoàn cảnh: “Chúng
tôi yên lặng, tâm hồn phiêu phiêu… Quanh mình, cái tịch mịch của trời cao
sông rộng lúc ấy thực mông mênh không biết đâu là cùng. Tuy chốc chốc
vẫn có một vài tiếng chim sợ tối, tiếng vạc kêu sương và tiếng mái chèo dịp
dàng khuấy nước, những chính những tiếng động ấy càng làm cho vẻ hiu
quạnh thêm rõ ràng. Bóng tối từ từ buông xuống. Khí mát ngấm nghía khắp
linh hồn, vầng trăng thượng tuần thủng thỉnh tự đầu núi hiện ra giữa trời
như chiếc liềm vàng ai bỏ quên trên cánh đồng cỏ xanh. Trăng mọc, sự vật
chìm trong vực tối lại hiện ra, biến thành một cảnh hư ảo, lờ mờ, xa xôi, kỳ
dị. Cảnh sáng trăng thực có thể gọi là một cảnh mộng ma tuyệt đẹp (…)
[24]. Một thời, con người đã có cái thú sống chan hòa trong cảnh sắc thiên
nhiên đất trời, thuận với lẽ tự nhiên. Không khí chuyến đi săn đêm đã khơi
gợi cảm giác vừa náo nức, quyết đoán vừa rợn ngợp, đợi chờ, hy vọng. Cái
cảm giác săn đêm một thuở một thời ấy hình như đã xa rồi, xa mãi.
Bài ký Sau tám năm trở lại thăm Laokay, cũng là những cảm nhận sâu
sắc về miền đất nơi đây. Tác giả hồi tưởng lại: “Tôi còn nhớ năm 1930, cũng
trên con đường này, lần đầu từ Phủ Lý thuyên lên Laokay, đối cảnh non
46
sông này, tôi đã tự coi là cảnh trích hoạn (1930 - 1932). Vì thấy Laokay là
nơi biên viễn, lại khí hậu không tốt, cho nên khi ấy, tôi lưu gia quyến tại Bắc
Giang, một mình trên đường với một chiếc va li, mong chóng hết hạn 18
tháng ra về” [51]. Khi ở thăm trấn sở Lào Cai, tác giả kể chi tiết: “Sáng hôm
sau, cùng gia đệ lên thăm toà Sứ trên đỉnh núi, nơi mà tám năm về trước,
ngày hai buổi cắp ô đi, lại cắp về, khi câu nói, lúc tiếng cười, cùng các bạn
sống một cuộc đời tươi đẹp... Ngày nay, các bạn nhạn Nam, én Bắc, bao ngả
phân phi, cảnh vẫn cảnh cũ, nhưng vật nhiều thứ đổi dời: nhiều cây cổ thụ
không còn di tích; dinh thự hoặc trùng tu hoặc thay mới (...). Cuộc đời là
một giòng hoán cải vô biên (…). Lúc trở về qua cầu, đứng tựa lan can, nhìn
sang khúc đường xe lửa trên bờ sông Nam Thi bên kia đoái trông non nước
xa xa, bồi hồi cảm tưởng, lại nghĩ đến mới ngày nào cũng đứng đây, cũng
vẫn giang sơn này, mà tám năm như chớp mắt, tựa chim bay! Tháng ngày
lần lữa, cảnh vật đổi thay, mà riêng mình sự nghiệp chưa thành, nhân đó
lòng buồn man mác, càng sinh vô hạn cảm” [51].
Kết thúc chuyến đi đầy "hứng vị", sau tám năm trở lại vùng đất Lao
Kay để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Nhật Nham Trịnh Như Tấu qua lời
kết khi tác giả tạm biệt miền biên viễn: “Ngồi trên xe, nhìn hai bên rừng
núi, trông xuống dòng sông Thao tưởng nhớ đến những ai ở lại, có mấy câu
lục bát ghi tình:
Đường về nhớ cảnh Lão Nhai,
Nhớ non Đỗ Lĩnh nhớ người hôm xưa!
Non sông còn đó chơ chơ,
Hỏi người non nước bây giờ nhớ chăng?
Cuộc đi chơi Laokay tuy ít ngày mà nhiều hứng vị" [51].
Không chỉ là niềm say sưa, mê đắm trước vẻ đẹp của thiên nhiên vùng núi
rừng Tây Bắc mà còn là sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp chất phác, duyên dáng của con
người Tây Bắc, trước những nét văn hóa, phong tục độc đáo nơi đây. Trong chuyến
47
hành trình của Nhị Lang lên vùng Lương Sơn tỉnh Hòa Bình, chứng kiến buổi khai
trương Chợ phiên - nơi hội tụ nhiều nét văn hóa độc đáo "Bao nhiêu "giai nhân" ở
khắp trong châu tối nay đều đủ mặt nơi châu-lỵ", tác giả không khỏi ngỡ ngàng
trước những vẻ đẹp của những bông hoa rừng. Theo tác giả, do được chứng kiến
nhiều nhan sắc và y phục tân thời dưới miền xuôi trở thành "đã quen, đã nhàm",
hôm nay được đổi "mơ - nuy" được thưởng thức,chiêm ngưỡng "các bông hoa
Rừng đang e lệ yểu điệu" [28]. Không ngỡ ngàng sao được khi mà "Các cô Nàng
ngây thơ, mặt tròn vành vạnh như mặt trăng, chiếc khăn vuông trắng bao đầu, lộ
đôi con mắt đen nháy, cặp răng cũng đen nháy, chiếc yếm thêu căng lấy ngực,
lòa xòa trong chiếc xiêm đen, hai tà áo trắng dài rủ xuống quét đất, coi thực có
cái "vị" khác những giai nhân tân - thời chốn đô - thị dưới ta. Thực là lạ mắt!
Thực là khác hẳn những cảnh mắt thường ta thấy" [28].
Ký giả Nguyễn Tụng chỉ có Hai ngày dưới bóng chân núi Fan-Si-Pan
cũng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thiên nhiên, con người nơi đây: "Xe rời khỏi
tỉnh lỵ, qua Cốc - lếu, đến Cốc - San. Cảnh Cốc- san đã làm cho tôi hoa mắt
lên khi trông thấy những cô Thổ ngây thơ và xinh tươi như các cô nàng đã
về sòe tại Hanoi. Các bạn lên mà thưởng thức cảnh sắc của Cốc-san (cách
Cốc-lều có 9 cây số). Một cảnh rừng núi chấm phá, đẹp tuyệt trần. Từ đây xe
cứ lên dốc mãi và lần lượt đem đến cho khách những mộng đẹp êm đềm. Ô
tô (bò) 38 cây số trong 2 tiếng đồng hồ đủ để khách thu cả những cảnh cao
cả, hoang vu vào hai gương mắt [84].
Con gái Tây Bắc được rừng núi ban cho vẻ đẹp hoang sơ cuốn hút, với làn
da trắng hồng duyên dáng thân thể đẹp ví như ngọc ngà. Những thiếu nữ Tây
Bắc đẹp hút hồn là những bông hoa đẹp nhất của núi rừng. Họ được xem là
những “mỹ nhân núi rừng”. Vẻ đẹp ấy đã được khắc họa: “Người đẹp ra suối
tắm, cá tìm về xem chân/ Người đẹp đi lên nương, dâu, lúa tìm về xem tay/
Người đẹp đi lên rừng, hoa tìm về xem mặt/ Người đẹp hát trong rừng, chim
ngập ngừng lắng nghe/ Người đẹp bước chân xòe, trai Mường So ngây ngất…"
48
Có khi là nỗi man mác, u hoài của khách tha hương lữ thứ, cảm xúc bồi
hồi, nhớ tiếc trước những cái đã qua… Trong Cuộc hành trình từ Laokay đi
Lai châu, tác giả Đặng Trọng Khang có những phút thảnh thơi sau khi làm
xong nhiệm vụ: "Phong cảnh Lai- châu buồn vì tịch mịch (…) Lâu lắm khi
gặp buổi hoàng hôn thơ thẩn một mình bên góc rừng hiu quạnh, con mắt
đăm đắm trông về đường xưa lối cũ, thì tưởng chừng cũng không khỏi chút
trạnh lòng: thương tình li biệt, xót nỗi tha hương. Lại nghĩ đến công cuộc
mình làm, ngoài hai mươi năm gần đây nào tình, nào cảnh, trên cõi trần
tang hải, mấy thu rồi thân thế vẫn chưa yên…" [25].
Cảm nhận về sự khác lạ trong đời sống của người Mèo: "Ngày thứ tám
chúng tôi đi Mao-Xao- Phing (…) khí hậu mát, phong cảnh đẹp, (…). Thực
phẩm rẻ, hôm tôi đến, mua con gà ba hào, bằng sáu hào ở dưới xuôi ta. (…)
Người Mèo ở đấy thích tiêu tiền xu đồng, tiêu hào hay bạc đồng hơn là tiền
bạc giấy" [25]. Tác giả Tam Lang, Việt Dân trong bài Lạc trong giang sơn
Đinh, Quách cũng thấy những điều khác lạ trong bữa cơm và cách ngủ của
người Mường: "Bữa cơm "Mường đặc". Cũng đủ canh, rau, nem thịt, nhưng
món nào cũng lạ miệng, nhất là món rau nộm có những thứ lá rất đắng mà
tanh" (..) Có cái ngủ … trên này thì khác hẳn. Người Mường thức khuya
lắm. Canh ba, canh tư mới ngủ; giờ tỵ, giờ ngọ mới dậy; chúng tôi ít khi
được thấy mặt trời hé mọc, trừ khi nào có thức việc thâu đêm" [29].
Những chuyến đi của các ký giả với mục đích du ngoạn, du lịch đúng
nghĩa chưa nhiều mà phần lớn là vì công kia việc nọ, do đó tâm thế phiêu lưu,
du lãm chưa thật sự nổi trội, cái tôi du khách nhiều khi bị khuất hẳn đi sau cái
tôi nghĩa vụ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn gặp được những trang du ký thể hiện rõ
cái tôi của tác giả từ sự cảm nhận "những điều trông thấy". Trong khi du ký
hiện đại lại được sáng tác bởi những du khách lãng tử, tài tử nên việc đi đến
đâu, nhìn ngắm điều gì, nội dung ghi chép như thế nào,… tùy thuộc vào sở
thích cá nhân và ngẫu hứng hành trình.
49
2.3.2. Sự chuyển mình của Tây Bắc
Tây Bắc là vùng có điều kiện để giao thương kinh tế, văn hóa khá thuận
tiện. Địa giới hành chính đặc thù có tỉnh tiếp giáp với Kinh kỳ, kinh đô phát
triển về giao thương bấy giờ, nhiều tỉnh có đường biên giới giáp ranh Trung
Quốc. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố cả về khách quan lẫn chủ quan, đời sống
vùng núi rừng Tây Bắc còn nhiều khó khăn, hạn chế và chưa khai thác hết tiềm
năng sẵn có của mình. Sự chuyển mình của Tây Bắc về tình hình kinh tế, đời
sống được các tác giả du ký đưa vào tác phẩm của mình như một tư liệu quý
giá cần được đánh giá, tham khảo.
Trong du ký Sau tám năm trở lại thăm Laokay của Nhật Nham có nhiều
trang viết sinh động quá trình hiện đại hóa nơi nghỉ mát nổi tiếng Sa Pa giữa
thời thực dân: “Cách Chapa vài cây số, đã thấy có nhiều nhà gạch mới xây
và vườn trại của người Âu mới khai phá, trông có vẻ lạc quan". Theo tác giả
thì đó là "Một cảnh tượng phì nhiêu đẹp đẽ của một vùng trời biên viễn".
Tác giả so sánh cảnh tượng Sapa sau tám năm trở lại: “Chapa ngày nay đã
mở mang hơn trước bội phần. Nhiều túp gianh đã nhường chỗ cho các nhà
gạch đồ sộ nguy nga; nhiều bãi cỏ rậm đã thành vườn rau xanh tốt; nhiều
đường nhỏ hẹp nay đã mở rộng thênh thang và giải rựa sạch sẽ. (…). Chapa
cũng có sòng bạc. Tuy ông chủ sòng là người Nam, nhưng người làm công
đều là người Hoa Kiều, vì khách trú rất am hiểu việc trưng thầu đổ bác.
Sòng bạc này là sòng công khai, to thứ tư trong tỉnh, sau các sòng Laokay,
Cốc Lếu, Phố Mới. Vì có sòng bạc, nên cảnh tượng Chapa cũng đỡ buồn tẻ
đối với những người lữ thứ có máu mê đen đỏ” [51].
Vẻ đẹp hiện đại, cổ kính của Sapa được tác giả Nhật Nham đề cập
thông qua việc miêu tả khách sạn La Madeleine: “Lên cao 1000 thước, có
khách sạn “La Madeleine”, chung quanh giồng thông pờmu (bạch mộc),
cảnh trí thực là u nhã. Khách sạn này do ông Tocco người Ý Đại Lợi lập nên
vì lúc mới phát kiến được nơi khí hậu tốt này, tưởng chỉ đến đây là cao nhất,
50
sẽ trở nên một chỗ tấp nập sau này. Nhưng tới khi có Chapa thì nơi này có
một khách sạn La Madeleine thôi. Ngoài cửa có một cái máy nước hình đầu
người, miệng có nước chảy suốt ngày đêm. Nước này lấy ở suối vừa trong,
lại vừa đủ các chất tốt. Nhiều người ví nước suối này với nước Vichy bên
Pháp. Có nhiều khách nghỉ mát trên Chapa lúc về thường qua khách sạn La
Madeleine chơi ít lâu rồi mới về trung châu” [51].
Sapa là nơi có đời sống kinh tế, xã hội phát triển vào bậc nhất vùng Tây
Bắc. Cái tên Sapa có nguồn gốc từ tiếng Quan Thoại, phát âm là SaPả hay SaPá
nghĩa là "bãi cát" do trước khi có thị trấn Sapa thì nơi đây chỉ có một bãi cát mà
dân cư bản địa thường họp chợ. Từ hai chữ "Sa Pả", người phương Tây phát
âm không dấu, thành Sapa, và viết theo tiếng Pháp thành "Cha Pa". Từ Cha Pa
được dùng một thời gian dài trước khi được thống nhất đổi thành Sapa. Năm
1905, người Pháp đã thu thập được những thông tin đầu tiên về địa lý, khí hậu,
thảm thực vật... Sapa bắt đầu được biết tới với không khí mát mẻ, trong lành và
cảnh quan đẹp. Năm 1909, một khu điều dưỡng được xây dựng. Năm 1917,
một văn phòng du lịch được thành lập ở Sapa và một năm sau, người Pháp bắt
đầu xây dựng những biệt thự đầu tiên. Năm 1920, tuyến đường sắt Hà Nội -
Lào Cai hoàn thành, Sapa được xem như thủ đô mùa hè của Bắc Kỳ. Tổng
cộng, người Pháp đã xây dựng ở Sapa gần 300 biệt thự. Từ năm 1924 đến năm
1927, trị trấn nghỉ mát này được đầu tư xây dựng hệ thống cấp thoát nước sinh
hoạt; hệ thống điện chiếu sáng, sử dụng nguồn thuỷ điện sản xuất từ nhà máy
thuỷ điện trung tâm, cạnh thác Cát Cát hiện nay và nhà dây thép (bưu điện)
phục vụ các nhu cầu điện thoại, điện báo. Nhà thờ trung tâm thị trấn được
xây dựng năm 1934. Vào cuối của thập kỷ 30, Sapa phát triển đạt đến đỉnh
cao nhất của mình; vào mỗi mùa hè, Sapa đón đến hàng ngàn khách Âu sống
và làm việc ở Việt Nam bấy giờ lên đây nghỉ mát. Đến ngày nay, Sa Pa vẫn
là điểm thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế.
51
Sự phát triển của tỉnh lý Yên - bay (Yên Bái) so với mười lăm năm
trước được tác giả Roi-Song ghi chép trong bài ký Đưa các bạn lên thăm đất
"núi rừng". Nếu mười lăm năm trước, Yên Bái được biết đến như là một nơi
"tịch mịch thâm u, nơi lam sơn chướng khí" thì nay đã khác đi nhiều: "Yên -
bay về phương diện mỹ thuật đã khác xưa nhiều. (…). Yên - bay bây giờ từ
nhà cửa, đường sá, hết thẩy đều đổi thay và sáng sủa. Bước vào ga, cái bộ
mặt thực của Yên-bay đã phá tan hẳn mối hoài mà người ta xưa nay vẫn bảo
là một nơi "ma thiêng nước độc". (…). Những quả đồi rậm rạt khi xưa, nay
đã thành quang đãng và giồng cấy được. Những miếng đất phì nhiêu ngày
trước bỏ hoang bây giờ cũng thành những vườn rau xanh tốt. (…). Yên - bay
về mặt lý - tài, quả là một nơi hái ra tiền, là một tỉnh bao quanh những mỏ.
Mỏ phấn cách tỉnh lỵ chừng hơn cây số thuộc về con đường Yên bay - phủ
Yên bình. Hiện nay người ta đang khai và bảo rằng: Phấn ấy làm men bát
tốt nhất Bắc kỳ. Rồi đến mỏ chì, mỏ than, mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, mỏ
nước (eaux souffreuses) ở về vùng Trái - hút và Tú - lệ và ở ngay tỉnh nữa.
Vậy thì Yên - bay có lẽ lại là một nơi tiền rừng bạc bể" [62].
Ghi nhận sự quan tâm, phát triển về giáo dục của cộng đồng người
Mường ở tỉnh Hòa Bình, Tam Lang, Việt Dân có chép: "ông Quách Điêu đã
mở những lớp học riêng đón các thầy Kinh về dạy chữ Quốc ngữ cho con
dân trong khắp xóm (…). Hòa - bình có một ký túc học xá lập ngay ở tỉnh lỵ,
những đứa trẻ được lưu học ở đấy hầu hết chỉ là con em các nhà Lang. Muốn
khai hóa cho người Mường thì việc học chữ Quốc ngữ trước nhất cần phải
phổ thông trong dân - dan [29]. Có thể thấy, từ rất sớm người Mường đã chú
ý đến vấn đề giáo dục, đó cũng là cách để hội nhập và rút ngắn khoảng cách
về tri thức giữa các vùng miền và giữa các dân tộc trong cộng đồng.
Cảm nhận về sự chuyển mình của Lai Châu, Đặng Trọng Khang trong
bài ký Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu có đoạn quan sát và so sánh
tinh tế, thú vị. Khi tác giả đứng ở trên cao trông xuống thì thấy: "mặt tỉnh
52
thu lại hình tròn như cái đĩa. Núi xanh bao bọc một cái "thế giới nhỏ" (…)
Giãy phố Khách có chừng dăm chục nhà, trong số có có chín, mười cửa
hàng tạp hóa Annam (…). Ta cứ tưởng tượng một khu đất trước đây chỉ là
khu rừng rậm rạp, nay bỗng xan xát những lầu cao nhà rộng. Nào dinh quan
Châu, nhà Bưu điện, trường học, sở Thú y, nhà hộ sinh, trại lính khố xanh,
lính cơ, lính khố đỏ, đài Vô tuyến điện…" (…). Phong cảnh Lai Châu buồn
vì tịch mịch, nhưng người ở Lai Châu cũng được cái thú có thư - viện, 2
ngày đổi báo chí 1 lần. Lại còn sòng đánh bạc, đố chữ, sân múa vợt, bàn
đánh bi… Chợ cũng họp hàng ngày, việc buôn bán không được xầm uất
nhưng cũng đủ thực phẩm" [25]. Sử sách ghi lại, tỉnh Lai Châu được thành
lập năm 1909. Lúc đó tỉnh Lai Châu gồm các châu Lai, châu Quỳnh Nhai,
châu Điện Biên tách ra từ tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Lai Châu (nay là
thị xã Mường Lay thuộc tỉnh Điện Biên). Qua những nét phác họa của tác
giả, có thể thấy Lai Châu ngày đó cũng hội tụ đầy đủ các điều kiện để phát
triển giống như các vùng tỉnh lỵ khác. Nào là cơ quan làm việc, bưu điện,
trường học, bệnh xá, các khu vui chơi giải trí như sòng bài, quần vợt… Có
thể nói, đó là tiền đề kinh tế xã hội để Lai Châu phát triển như sau này.
Còn theo ghi nhận của ký giả Minh Châu trong bài ký Lên Sơn La có thể
thấy tác giả đã ghi chép, khảo sát tỉ mỉ quá trình phát triển của tỉnh Sơn La. Từ
những tập tục và tập quán canh tác của người dân nơi đây, đến những điều kiện
về phát triển giao thông huyết mạch gắn liền các vùng miền. Theo ghi chép của
tác giả thì: "Sơn la có bảy thứ người: Thái đen, Thái trắng, Mường, Mèo,
Xá, Hờ và Bòn. Trước khi thuế chưa phân từng hạng, thổ dân Sơn la chỉ
phải trả thuế có 6p/ một gia đình. Họ không cần buôn bán với người đường
xuôi vì họ có ruộng vườn cày cấy thừa ăn, con trâu, bò, gà, lợn nuôi chẳng
tốn kém gì, đến vụ thuế họ đem bán cũng đủ nộp thuế" [4]. Dù không giao
thương với người miền xuôi nhưng bằng cách tự canh tác theo kiểu kinh tế
tư nhân tự gắn liền với đặc thù riêng của mình cũng đủ để trang trải cuộc
53
sống và thể hiện trách nhiệm với nhà nước. Từ đó dẫn đến sự thay đổi căn
bản trong cấu trúc đô thị "Sơn la, hiện nay mới thêm có Thiên - văn và sở Vô
tuyến truyền điện để giao thông với Hanoi và các tỉnh thay cho giây thép"
[4]. Đặc biệt là con đường Saint Pouloff có sự biến đổi kỳ diệu sau 6 năm.
Tác giả ghi chép quá trình phát triển của con đường: "Con đường từ Suối dút
lên Sơn la, công trình trong sáu năm trời dài ba trăm cây số vừa khánh
thành năm 1933 (…). Hồi đó tỉnh Sơn la chưa có sở Lục lộ, quan Công sứ
Saint Pouloff hợp tác với dân bản xứ đã mất bao công trình mới đắp xong
con đường này (…). Năm năm về trước đường Saint Pouloff chỉ đi vừa một
cái xe ô-tô nhỏ 4 chỗ ngồi mà chệch tay lái quá hai mươi phân là xe nhào
xuống ruộng. Sau 6 năm, đường St Pouloff đã rộng hơn nhiều, ngót một trăm
cái cầu băng tre ngày nay đã thấy thay bằng xi mo cốt sắt" [4].
Khi quan sát thực tế đời sống người dân, Nhật Nham Trịnh Như Tấu ghi
lại vài nét khái quát về dân số và hình thức quản lý bản Mường Hòa: “Theo
tục dân thượng du Bắc Kỳ, nhà vùng này không họp thành làng, thỉnh
thoảng lơ thơ vài cái ở dưới chân núi. Nếu tính số kiến ốc thì vùng đó được
độ 30 nóc nhà. Dân ở đây phần nhiều là người Mèo và lẫn một ít Mán, Thổ,
có kì mục, sèo phái, binh dầu, giáp trưởng trông nom dưới quyền phó lý, lý
trưởng và Bang tá” [51]. Dù cách quản lý đơn giản nhưng cấu trúc làng xã
cũng được hình thành và ổn định. Tác giả cũng giới thiệu một thứ vải truyền
thống và cách kinh doanh, tiếp thị sản vật của họ: “Có mấy người vào mời bà
Bang tá mua vải Mèo. Nhân thế mà tôi biết được một thứ vải gai của họ tự
chế ra bằng gai lấy ở rừng. Vải này đã trắng, rất bóng và mịn mặt; nhiều
người mua may quần áo thay vải tussor. Bà Bang cho biết: cứ đến vụ, nhiều
bạn ở xa viết thư về nhờ mua nên người Mèo quen khách hàng, cứ đến phiên
chợ lại thi nhau đem vải đến tận nhà mời mua. Xem thứ vải gai này mới biết
người Mèo cũng có óc tinh anh, có thể dùng các thứ của Hóa công đã dành
riêng cho họ ở miền rừng núi. Mỗi khi cần đến một thứ gì, họ lại nghĩ ra các
phương pháp mà ta cho là xảo diệu” [51].
54
Đời sống kinh tế, xã hội vùng Tây Bắc nhìn chung vẫn còn nhiều khó
khăn và hạn chế, đi qua mỗi tỉnh, vùng đất khác nhau lại có những nền kinh tế
và chịu những sự chi phối khác nhau. Tuy nhiên, các tác giả du ký vẫn thể hiện
được sự lạc quan, tin tưởng về đời sống kinh tế, xã hội cho người dân vùng
rừng núi Tây Bắc ấm no, sung túc hơn trong tác phẩm của mình.
Tiểu kết chương 2
Du ký Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX có sự phong phú về mặt nội dung. Các
tác phẩm du ký đã khắc họa bức tranh thiên nhiên kì vĩ, huyền ảo của của vùng
núi rừng Tây Bắc. Những nét độc đáo về văn hóa, phong tục tập quán trong
cuộc sống của đồng bào Tây Bắc cũng được các tác giả du ký ghi chép chân
thực. Tây Bắc trong quá trình chuyển mình với những đặc thù riêng cũng hiện
lên rõ nét, sinh động theo sự vận động chung của đất nước.
Tóm lại, du ký về Tây Bắc là bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên và
cuộc sống của con người nơi đây. Tìm hiểu du ký viết về Tây Bắc, người
đọc có thể cảm nhận rõ tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc được các nhà du
ký gửi gắm trong đó.
55
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA DU KÝ VỀ VÙNG TÂY BẮC
VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
3.1. Vai trò của người kể chuyện trong du ký viết về vùng Tây Bắc
Tác phẩm tự sự thường hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện giàu kịch
tính, dòng tâm trạng nhiều sắc thái, khả năng hư cấu phong phú. Ở thể tài du
ký, do mang đặc trưng hướng đến yếu tố người thật việc thật, bởi vậy người
kể chuyện chính là linh hồn của tác phẩm. Theo Từ điển tác phẩm văn xuôi
Việt Nam: “Với du ký, bản thân tác giả phải là nhân vật thứ nhất, chủ thể
trực tiếp đi, xem, nghe, trải nghiệm và tường tả lại chuyến du hành theo
quan niệm và cách thức của mình” [2, tr.3]. Khảo sát các tác phẩm du ký
viết về vùng Tây Bắc, chúng tôi nhận thấy các tác giả du ký không hoàn toàn
toàn đứng ngoài sự kiện mà luôn theo sát sự kiện, tạo ra các sự kiện hoặc
làm xuất hiện các sự kiện bên cạnh các sự kiện diễn ra một cách khách quan.
Dù ở vai trò một du khách ngắm cảnh đơn thuần, hay một nhà nghiên cứu
lịch sử, một nhà khảo cứu văn hóa, một nhà báo, một văn nhân… thì tác giả
trong du ký không đứng ra ngoài nhân vật, tức là cảnh vật, con người, sự
kiện trong tác phẩm du ký được tái hiện thông qua chủ thể, là phương tiện
bộc lộ tư tưởng và khát vọng của tác giả.
3.1.1. Điểm nhìn đa diện đối với hiện thực
Các tác phẩm du ký về vùng Tây Bắc khá đa dạng và phong phú, mặc
dù mỗi tác phẩm có một cách thể hiện khác nhau, nhưng điểm nhìn trong các
tác phẩm này thường tạo ra cái nhìn đa diện đối với hiện thực về thiên nhiên
và con người Tây Bắc. Xuất phát điểm của tư tưởng hành trình trong tác
phẩm Miền thượng du Bắc Kỳ (Ngọc Ước) là “tạm biệt kinh thành Hà Nội”,
để được hòa mình vào thiên nhiên, khám phá văn hóa, đời sống con người
vùng Tây Bắc, nơi mà ở đó: “dân cư đang thung dung sống một cuộc đời
giản dị, bằng phẳng với non cao rừng rậm, không vướng mình vào ly tấc của
56
vật chất xa hoa”(…)“an phận trong cuộc sống cần lao, lấy sự làm việc bằng
thú vui duy nhất, bọn người đó hầu như lãng quên tất cả một xã hội bên
cạnh họ đương kèn cựa, vật lộn với cuộc sống” [90]. Với tư tưởng này, điểm
nhìn trần thuật của tác giả hướng vào những hình ảnh cuộc sống đơn sơ với
những nét độc đáo trong văn hóa, phong tục tập quán của người dân Tây
Bắc. Từ kiến trúc rất đơn sơ trong cách làm nhà, chủ yếu là khai thác từ
thiên nhiên, họ sống hòa hợp với thiên nhiên, thuận theo lẽ tự nhiên. Đến
những điều độc đáo trong văn hóa tiếp đãi của người Thổ: từ cách rót rượu,
hầu rượu của “bông hoa quý phái nơi sơn lâm” kết hợp với việc “vừa uống
rượu cần vừa nghe đàn hát của trai gái Thổ” đủ thấy được những giá trị văn
hóa ẩm thực tinh tế trong văn hóa bản địa.
Cùng điểm nhìn khai thác các giá trị văn hóa, nếu như ở bài ký Cuộc hành
trình từ Laokay đi Lai châu, tác giả Đặng Trọng Khang cho độc giả chiêm
ngưỡng nét đẹp trong trang phục của người Thổ vùng rừng núi Lai Châu: "Đàn
- ông thì mặc quần áo xoàng xĩnh, nhưng đàn bà ăn mặc cầu kỳ lắm. Họ rẽ tóc
trần, búi tóc, răng đen có thể xánh với hạt huyền được, phần nhiều hay mặc áo
cộc trắng. Kiểu áo nịt, giữa ngực xẻ một đường bằng vãi hay nhiễu đen, có
hàng com bướm chạm bạc, thay làm cúc" [25]; Thì tác giả Nhị Lang trong
Tiếng cồng vang chốn rừng xanh lại đặc tả cận cảnh vẻ đẹp ngây thơ, trong
sáng của các cô giá Mán, gái Mường vùng Lương Sơn - Hòa Bình: "mặt tròn
vành vạnh như mặt trăng, chiếc khăn vuông trắng bao đầu, lộ đôi con mắt đen
nháy, cặp răng cũng đen nháy, chiếc yếm thêu căng lấy ngực, lòa xòa trong
chiếc xiêm đen, hai tà áo trắng dài rủ xuống quét đất" [28].
Nhật Nham dù chỉ là “Hứng vị!(…)và một mình trên đường với một chiếc
va ly” nhưng "cuộc đi chơi Laokay đủ làm một thiên du ký vậy”. Dù đã từng
đến và giờ là trở lại sau tám năm nhưng những trang ký của tác giả mang lại
cho độc giả những kiến thức - hiểu biết về vị trí, địa tầng…, về văn hóa, và
những chuyển mình về đời sống kinh tế, xã hội nơi đây. Chẳng hạn đoạn ký
57
khảo sát mang giá trị dân tộc học: "Laokay giáp Trung Hoa có nhiều thứ thổ
dân: nào Thổ, nào Nhắng, nào Nùng, nào Xá, nào Tu Dí, nào Phá Dí, nào Phù
Lao, nào Quý Châu, nào Lự, nào Lào, nào Mèo, nào Mán, vân vân… Mà nhất
là người Mán lại chia làm nhiều thứ: Mán Thao (trắng đầu) và Mán Lam
Điền (đỏ đầu) chiếm phần đông hơn cả các thứ Mán khác, mà ở lan cả sang
địa phận Vân Nam" [51]. Về vị trí địa lý, địa tầng, khí hậu của Sapa: "Chapa
là một cái đồn ở phía Tây Nam Laokay, cách tỉnh lỵ 38 cây số và cao hơn
mặt bể 1.500 thước tây, khí hậu rất mát mẻ và trong sạch, dân cư khỏe
mạnh, ít ốm đau" và thác Bạc (Cascade d’argent), thác này cách "Chapa non
ba cây số, ở ngay chân núi Fan-si-pan là một dẫy núi cao nhất Bắc kỳ
(3.142m) [51]. Rồi đến sự chuyển mình của Sapa "Chapa ngày nay đã mở
mang hơn trước bội phần". Nhiều nhà gianh đã nhường chỗ cho các công
trình đồ sộ nguy nga; nhiều đường nhỏ hẹp nay đã mở rộng thênh thang và
hiện đại. Các điểm vui chơi giải trí như khách sạn, khu nghỉ dưỡng, có cả
sòng bài…đặc biệt là những sản vật nổi tiếng thời bấy giờ như Vải của người
Mèo, Nấm Sapa, Cải soong Sapa… cũng được tác giả khảo sát và đưa vào
bài ký. Đó có thể xem là những tư liệu quý giá, cần được tham khảo.
Đặng -v- Đàm trong bài Khảo cứu về người Mường có ghi chép tỉ mỉ:
"Tỉnh Hòa Bình có nhiều giống người ở như Thổ, Mán, Mèo, nhưng đông nhất
là người Mường. Người Thổ thì ở về châu Đà Bắc chia làm hai thứ; Thổ trắng
và Thổ đen (Tày khảo, Tầy đàm) nhưng đều nói một thứ tiếng. Tiếng nói giống
như tiếng người Lào, người Siêm. Có thứ chữ riêng gọi là chữ Thổ, viết rất
tiện. Người Thổ không mấy người là không biết. Phong tục gần giống người
Mường. Người Mán hay Giạo có 7 thứ: 1. Mán Caolan, 2. Mán Quần bộc hay
mán đất; 3. Mán quần trắng hay mán sơn tỉ trắng; 4. Mán tỉ đen; Sơn trang; 6.
Mán Đại - bản; 7. Mán Tiểu bản hay Mán đeo tiền. Các giống người Mán ở
khắp các ngọn núi cao có suối nước. Tiếng nói theo chữ Hán, gần giống tiếng
Tàu. Người Mèo tức là giống Cao - mên thủa trước, có 3 thứ Mèo trắng, Mèo
đen và Mèo đỏ, phân biệt bởi lối vận mặc, tiếng nói gần giống Tàu" [10].
58
Trong bài ký Lên Sơn La, Minh Châu cho thấy lịch sử của con đường
Saint Pouloff (đi từ Hòa Bình lên Sơn La). Nếu năm năm về trước đường
Saint Pouloff chỉ "đi vừa một cái xe ô-tô nhỏ 4 chỗ ngồi mà chệch tay lái
quá hai mươi phân là xe nhào xuống ruộng, thì sau sáu năm đường Saint
Pouloff đã "rộng hơn nhiều, ngót một trăm cái cầu băng tre ngày nay đã
thấy thay bằng xi mo cốt sắt". Tác giả ghi chép quá trình phát triển của con
đường: "Con đường từ Suối dút lên Sơn la, công trình trong sáu năm trời dài
ba trăm cây số vừa khánh thành năm 1933 (…). Hồi đó tỉnh Sơn la chưa có
sở Lục lộ, quan Công sứ Saint Pouloff hợp tác với dân bản xứ đã mất bao
công trình mới đắp xong con đường này (…)" [4].
Các tác phẩm du ký về vùng Tây Bắc không đơn thuần là câu chuyện
hành trình mà còn chứa đựng trong đó các nguồn tư liệu khác nhau như: văn
hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị, khoa học,…. Những bài ký tiêu biểu: Sau tám
năm trở lại Laokay, Khảo cứu về người Mường, Lạc trong giang sơn Đinh,
Quách, Đưa các bạn lên thăm đất "núi rừng", Tiếng cồng vang chốn rừng
xanh, Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu… là những tác phẩm đầy ắp
thông tin tư liệu về địa chí, văn hóa, lịch sử,… Tác giả không chỉ là người kể
chuyện của mình kiểu người thật, việc thật mà đứng ở nhiều góc độ của xã
hội để phản ánh hiện thực theo cách riêng của thể loại du ký. Qua các tác
phẩm du ký, các tác giả đã phác họa nên một bức tranh toàn diện và có chiều
sâu về cuộc sống và con người vùng núi rừng Tây Bắc.
3.1.2. Sự phối hợp nhiều điểm nhìn trần thuật
Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện
tượng trong tác phẩm. Điểm nhìn trần thuật là vấn đề cơ bản, then chốt của kết
cấu. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Điểm nhìn văn bản là phương thức phát
ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác
giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức đánh giá,
cảm thụ của chủ thể đối với thế giới” [73, tr.88]. Điểm nhìn trần thuật được
59
xem như một camera dẫn dắt người đọc vào khám phá nội dung văn bản. Khi
nghiên cứu điểm nhìn trần thuật, người ta chia điểm nhìn thành các loại như
điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời
gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn tư tưởng, điểm nhìn tu từ…
Điểm nhìn nghệ thuật trong du ký thường mang tính đơn nhất. Điểm nhìn
xuất phát và được quyết định từ một cá nhân duy nhất là tác giả, đồng thời kiêm
nhiệm vai trò của nhân vật chính. Tác giả có mặt ở khắp nơi trong văn bản, dường
như biết hết mọi việc, mọi hành động, tâm tư, tình cảm của các nhân vật.
Nữ ký giả Ngọc Ước trong chuyến hành trình Miền thượng du Bắc Kỳ
viết: "Tôi có thể giới thiệu với các bạn, con đường này là đường thông
thương nguy hiểm nhất ở miền thượng du phía Bắc, phần đường núi xiên tạc
chênh vênh, vừa nhỏ hẹp vừa bằng đất thịt, lại thêm bao nhiêu dốc cao
ngoắt ngoéo, quanh co. Phần cầu quán còn nhiều cái bắc bằng tre, rải lên
trên một lớp phên nứa phủ qua một lớp đất sét mỏng. Nhất là về mùa mưa,
nước trên núi tràn xuống luôn luôn làm trôi phăng những quãng đường dài
xuống vực sâu hàng mấy trăm thước; có khi đất núi sụp đem theo cả những
vừng cây cổ thụ nằm trùm trên đường bịt cả lối đi..." [90]. Hay ở bài ký Vượt
1200 thước cao qua đèo Tứ Lệ, sự việc cũng được trần thuật theo lối đơn nhất:
"Tỉnh Sơn la, từ khi thành lập đến giờ, lần này là lần đầu mới được cái hân –
hạnh đón rước hai vị thượng quan, thủ hiến cỡ Đông - dương và thủ - hiến xứ
Bắc - kỳ cùng các quan - chức lên thăm bữa thứ ba 4 Avril vừa rồi, nhân cuộc
khánh thành con đường ô tô Suyut - Sơn - la (…) Từ Suyut lên Sơn - la đường
đi toàn dựa mé núi. Có ngọn núi cao tới 1.200 thước ngọn núi cao ấy cách
Suyut 53 cây số. Ngoài quả núi cao nhất 1200 thước còn những núi cao từ
600 đến 1.080 thước. Ngọn núi thấp nhất thuộc về châu Yên cũng cao đến
250 thước. Núi cao đèo hiểm như thế mà đường đi lại rất hẹp không đủ chỗ
để hai xe tránh nhau, thật rất nguy hiểm" [13]. Có thể thấy các đoạn văn
trên, điểm nhìn duy nhất là của tác giả. Các sự việc, hiện tượng được trần
60
thuật hoàn toàn khách quan với đời sống. Đó là hệ quy chiếu cố định do
chính tác giả tạo nên với mọi đối tượng. Dựa trên những đặc điểm về tuổi
tác, giới tính, sở thích, tính cách, vốn hiểu biết của cá nhân tác giả mà sự vật
hiện tượng hiện lên với những chiều nông sâu khác nhau, với những cách
miểu tả bình giá khác nhau.
Xuất phát từ đặc trưng ghi chép "người thật, việc thật", du ký phổ biến
điểm nhìn bên ngoài. Điểm nhìn bên ngoài tức là tác giả đánh giá, nhìn nhận,
miêu tả đối tượng một cách khách quan, trung thực với những gì vốn có của nó.
Xét đoạn trích trong bài ký Sau tám năm trở lại thăm Laokay: "Sáng hôm sau,
điểm tâm xong, ngựa đã sắp sẵn, bốn người, bốn ngựa, giong ruổi trên đường,
thẳng tiến về vùng Mường Hòa, thăm cảnh cầu Mây. Ngựa lững thững bước
một, ra khỏi phố thì theo quanh ria núi, dần dần tiến lên. Trên cao trông xuống
thung lũng: ruộng lần lượt xếp thành hàng dọc, đường quanh co theo lối chữ
“chi”, rừng xanh trắng điểm thêm ít nhiều dòng nước, lại lơ thơ một vài nóc
nhà gianh, xen lẫn với cỏ non xanh biếc, khác chi một bức tranh sơn thủy mãn
hoa. Đường đi thực là hiểm trở, vừa hẹp, vừa khấp khểnh những đá cùng mô,
vả dưới tinh hang với hốc, trông sâu thăm thẳm. Đi qua mấy đồi cỏ, vòng
quanh mấy quả núi thì chúng tôi bắt đầu xuống dốc và một chốc đã trông
thấy Mường Hòa. Phát nguyên từ núi Fan-si-pan, sông này là một chi nhánh
sông Nhị Hà, có nhiều thác và chẩy qua hai cánh đồng. Về phía ấy là đông
nam Chapa, sông Mường Hòa chạy qua giữa hai dẫy núi rồi chạy xuống một
cánh đồng bằng rộng rãi, có nhiều ruộng nương xanh tốt. Thoạt nhìn đã biết
mùa màng vùng ấy họ trông nom rất cẩn thận và mất nhiều công phu lắm
mới được thế. Chung quanh ruộng lúa, trên các bãi có giồng ngô, đỗ…"
[51]. Điểm nhìn trần thuật của tác giả trong đoạn trích trên là điểm nhìn bên
ngoài. Ngòi bút, giọng văn của tác giả hoàn toàn sắc lạnh để tái hiện hiện
thực. Lối trần thuật hoàn toàn tự nhiên, khách quan chính xác. Điểm nhìn
bên ngoài giúp tác giả có khả năng thu nạp tất cả những gì mình quan sát
61
được, từ điểm nhìn này, tác giả đã tái hiện lại một bức tranh từ toàn cảnh đến
chi tiết về thiên nhiên và đời sống người dân vùng Tây Bắc.
Do tính năng động của chủ thể khiến điểm nhìn trần thuật có khả năng
chuyển dịch, tức là khi người viết nhập thân vào đối tượng để tả, để nhìn nhận
đánh giá vấn đề. Các tác giả du ký có thể xoay chuyển vị trí của mình để có thể
quan sát, nhìn nhận sự vật, hiện tượng ở nhiều góc độ khác nhau, mang lại tính
khách quan cho thể loại. Lấy ví dụ như trong Tiếng cồng vang trốn rừng xanh,
Nhị Lang thể hiện điểm nhìn trần thuật bên trong của mình: "Tiệc rượu của một
con quan lý đương nhiên phải khác nhiều. Cũng các món ăn ngon lành như của
người mình nhưng kém vẻ khéo léo, cũng đũa chén, ly tách. Trước khi nhập
tiệc, những chén bạch định nhỏ xíu trước mặt mỗi người được rót đầy rượu nếp
đặt bằng men lá. Uống vào thì dìu dịu, ngòn ngọt, không cay lắm. Mỗi quan
khách được một cô gái Thổ ngồi hầu rượu. Trước khi rót, cô gái hát một bản
nghe rất vui tai để ngụ ý chúc mừng quan khách xa xăm ký bước lãng du đến
nơi sơn lâm cùng cốc này, ấy là một sự vẻ vang cho cây cao bóng cả đất nước
này. Hát xong bản hát, cô gái kéo “đĩa” rượu lại gần mình, rót đầy hai chén,
tay vừa rón rén cầm chén rượu không được cho sóng sánh, từ từ dâng tận
miệng mình. Lẽ tất nhiên mình uống một chén, còn một chén mình phải tự cầm
mời lại nàng uống. Cứ như thế, chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác, cho tới
khi mình say ngả say nghiêng. Say cũng mặc, nàng cứ hát, cứ rót rượu. Nếu
mình không uống nữa thì cứ việc bỏ hai cắc vào chén rượu là nàng thâu đĩa
rượu về, rồi lại đến lượt khác, khác nữa… Ta phải công nhận rằng “tửu
lượng” của các cô này, hằng chai lớn cũng không say" [28]. Rõ ràng trong
đoạn văn trên tác có một sự đồng cảm thâm nhập sâu sắc vào đối tượng mới
có sự đồng cảm thấu hiểu sâu sắc với những nét văn hóa trong việc tiếp rượu
của các cô gái người Thổ. Nhà văn đứng vào vị trí của đối tượng để quan sát
đánh giá vấn đề "Ta phải công nhận rằng “tửu lượng” của các cô này, hằng
chai lớn cũng không say". Đó là điểm nhìn từ bên trong nhân vật.
62
Nghệ thuật chuyển dịch điểm nhìn giữa "tác giả - ký giả - nhân vật" cũng
được Nhật Nham sử dụng để thâm nhập vào cuộc sống, tìm hiểu phong tục, lối
sống ở Tây Bắc. Xét đoạn trích sau: "Trong bữa cơm này có vị nấm tươi rất
thơm ngon. Nấm Chapa là một thực phẩm rất quý, trừ miền trên này được dùng
ngay sau khi lấy ở rừng về, nên được tươi tốt; còn muốn đem đi xa, phải phơi
thật khô. Vì vậy, ở Trung châu ta, ít khi được dùng nấm tươi Chapa.
Ông Bang tá có cho chúng tôi biết đã thí nghiệm được cách ướp nấm tươi,
đóng chai, gắn si để hàng năm vẫn còn nguyên chất, đem đi xa đến đâu cũng
không hỏng.
Khi sắp ra về, ông Bang tá có nhã ý tặng tôi mấy chai nấm đem về Trung
châu làm quà. (Sau đó một năm, tôi giở ra ăn, vẫn còn hương vị).
Ăn xong một lúc thì tan chợ Chapa; thổ dân trước lũ lượt ra về. Có mấy
người vào mời bà Bang tá mua vải Mèo. Nhân thế mà tôi biết được một thứ vải
gai của họ tự chế ra bằng gai lấy ở rừng. Vải này đã trắng, rất bóng và mịn
mặt; nhiều người mua may quần áo thay vải tussor. Bà Bang cho biết: cứ đến
vụ, nhiều bạn ở xa viết thư về nhờ mua nên giống Mèo quen khách hàng, cứ
đến phiên chợ lại thi nhau đem vải đến tận nhà mời mua.
Xem thứ vải gai này mới biết người Mèo cũng có óc tinh anh, có thể dùng
các thứ của Hóa công đã dành riêng cho họ ở miền rừng núi. Mỗi khi cần đến một
thứ gì, họ lại nghĩ ra các phương pháp mà ta cho là xảo diệu" [51].
Ở đây ta thấy có sự dịch chuyển điểm nhìn rất rõ. Ban đầu là điểm nhìn
của tác giả - ký giả: "Nấm Chapa là một thực phẩm rất quý, trừ miền trên này
được dùng ngay sau khi lấy ở rừng về, nên được tươi tốt; còn muốn đem đi xa,
phải phơi thật khô". Hay "Nhân thế mà tôi biết được một thứ vải gai của họ tự
chế ra bằng gai lấy ở rừng. Vải này đã trắng, rất bóng và mị mặt; nhiều người
mua may quần áo thay vải tussor". Đó là cái nhìn hoàn toàn khách quan, tác giả
cho độc giả thấy được một trong những sản vật nổi tiếng của Sapa thời bấy giờ
là Nấm sapa và vải Mèo. Nhưng đến câu "Ông Bang tá có cho chúng tôi biết đã
63
thí nghiệm được cách ướp nấm tươi, đóng chai, gắn si để hàng năm vẫn còn
nguyên chất, đem đi xa đến đâu cũng không hỏng", và "Bà Bang cho biết: cứ
đến vụ, nhiều bạn ở xa viết thư về nhờ mua nên giống Mèo quen khách hàng,
cứ đến phiên chợ lại thi nhau đem vải đến tận nhà mời mua" thì điểm nhìn có
sự dịch chuyển. Lúc này không còn là điểm nhìn của tác giả nữa, hay nói cách
khác điểm nhìn của tác giả đã được dịch chuyển qua điểm nhìn của ông bà
Bang tá "Ông Bang tá có cho chúng tôi biết…", "Bà Bang cho biết…". Đến
đoạn văn cuối điểm nhìn lại được chuyển về phía tác giả "Xem thứ vải gai
này mới biết người Mèo cũng có óc tinh anh, có thể dùng các thứ của Hóa
công đã dành riêng cho họ ở miền rừng núi". Đó là cảm xúc của nhà văn khi
được chiêm ngưỡng những nét tinh tế, tài tình của người Mèo khi họ biết tận
dụng tự nhiên để làm ra sản vật độc đáo phục vụ cuộc sống. Rõ ràng sự dịch
chuyển điểm nhìn trần thuật mang lại lối trần thuật rất khách quan. Nhà văn
nhìn đối tượng ở nhiều góc độ khác nhau để có được những quan sát, mô tả
cũng như đánh giá, bình luận một cách toàn diện và sâu sắc.
Điểm nhìn không gian và thời gian cũng được quan tâm, chú trọng trong
thể tài du ký. Điểm nhìn không gian là nhìn xa, gần, trên, dưới, lệch, thẳng.
Điểm nhìn không gian trong các tác phẩm dy ký về vùng Tây Bắc có thể xem
từ vùng thành thị đến vùng rừng núi, hướng dọc theo cuộc hành trình của các
ký giả. Chẳng hạn, đoạn văn trong Sau tám năm trở lại thăm Laokay, tác giả
viết: "Từ Hà Nội lên tới Việt Trì, vẫn cảnh đồng bằng, hai bên ruộng lúa xanh
rì. Rồi dần dần qua các đồi chè, núi cọ bao la bát ngát. Khoảng đường từ Yên
Bái đi Laokay, tầu đi quanh co, khi leo dốc, như rồng uốn khúc, như rắn lượn
bò, núi cao rừng rậm, một giòng sông Thao nước đục, hai bên lau lách rậm rì.
Thỉnh thoảng vài ba chú thổ đẵn củi trên sườn non, xa xa hiện năm bảy túp lều
gianh trong rừng rậm, cảnh chiều hôm như giục người lữ khách ôn lại chuyện
xưa" [51]. Ở đây ta thấy, không gian có sự dịch chuyển từ vùng đồng bằng "hai
bên ruộng lúa xanh rì. Rồi dần dần qua các đồi chè, núi cọ bao la bát ngát"
64
đến không gian núi rừng kỳ vĩ, hiểm trở "tầu đi quanh co, khi leo dốc, như rồng
uốn khúc, như rắn lượn bò, núi cao rừng rậm". Trong Cuộc hành trình từ Lao
kay đi Lai Châu, Đặng Trọng Khang cũng cho thấy điểm nhìn không gian có
sự dịch chuyển giữa đồng bằng và rừng núi trập trùng, qua đó bày tỏ cảm
xúc với vẻ đẹp thiên nhiên núi rừng Tây Bắc mà bấy lâu nay, tác giả vẫn
nặng tình: "Từ đây tôi không còn được trông thấy những con đường to rải
nhựa nữa, không được nghe những tiếng dịu dàng của người đồng bằng nữa,
mà chỉ thấy đường núi trập trùng, chỉ nghe những tiếng Mán, Thổ líu lô.
Trên quãng đường nghìn dặm, nếu được bằng phẳng đã đành, còn xuống
dốc lên cao, ăn sương nằm gió, lội suối qua đèo, nhưng cũng chẳng quản
chi, vì thích cảnh thiên nhiên, bấy nay tôi vẫn nặng tình cùng non nước"
[25]. Sự dịch chuyển điểm nhìn không gian như vậy, gắn liền với cảm xúc
của tác giả và hơn hết, nó phù hợp với triết lý về "ĐI" trong du ký.
Điểm nhìn thời gian là hiện tại, quá khứ hay tương lai. Trong du ký viết về
vùng Tây Bắc, điểm nhìn thời gian chủ yếu được nhìn theo trục từ quá khứ -
hiện tại; hiện tại - quá khứ hoặc đan xen giữa các trục thời gian. Nhật Nham
viết Sau tám năm trở lại thăm Laokay đăng trên Tạp chí Tri Tân tạp chí, số 46,
số 47, tháng 5-1942. Ngay ở đầu bài ký, tác giả viết: "Tôi còn nhớ năm 1930,
cũng trên con đường này, lần đầu từ Phủ Lý thuyên lên Laokay, đối cảnh non
sông này, tôi đã tự coi là cảnh trích hoạn (1930-1932). Vì thấy Laokay là nơi
biên viễn, lại khí hậu không tốt, cho nên khi ấy, tôi lưu gia quyến tại Bắc
Giang, một mình trên đường với một chiếc va ly, mong chóng hết hạn 18
tháng ra về" [51]. Ta thấy, tác giả bắt đầu điểm nhìn từ trục thời gian quá
khứ "Tôi còn nhớ năm 1930" và ngay ở tiêu đề bài ký cũng thể hiện điều đó
"Sau tám năm trở lại…". Nhưng đến đoạn "1940! Hôm ấy, tôi tới Laokay hồi
bẩy giờ chiều. Gia đệ cùng mấy người bạn ra tận ga đón", tác giả lại đứng ở
65
trục thời gian hiện tại để dẫn dụ độc giả dõi theo câu chuyện trên hành trình
của mình.
Bài ký Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu, Cuộc hành trình diễn ra
trong mười ngày, được tác giả kể tỉ mỉ chi tiết theo trục thời thực tại: "(…) Hôm
thứ bảy, chúng tôi đi dốc Séo lèng (…. ) Ngày thứ tám chúng tôi đi Mao-Xao-
Phing (…) Tối hôm thứ chín, chúng tôi ngủ ở Chiên-chân (…) Sáng hôm thứ
mười, ở Chiên - chân ra đi, 3 giờ chiều thì đến tỉnh". Ở các bài ký khác, như
Miền thượng du Bắc Kỳ, Lên Sơn La, Pháo đài, Hai ngày dưới chân núi Fan-
si-Pan… ta cũng thấy có chung điểm nhìn thời gian như thế. Như vậy, bằng
việc lựa chọn linh hoạt các điểm nhìn thời gian, độc giả vẫn thấy các sự kiện,
câu chuyện vẫn mạch lạc và hấp dẫn.
Từ cái nhìn đa diện với hiện thực và vận dụng linh hoạt điểm nhìn trần
thuật, các tác phẩm du ký đã phác họa nên một bức tranh toàn diện về thiên
nhiên và cuộc sống, con người vùng Tây Bắc.
3.2. Sự dung hợp các phong cách thể loại
Du ký là một thể đặc biệt của văn học, bởi trong một tác phẩm du ký
thường có sự kết hợp của nhiều thể loại khác nhau. Không phải riêng thể du
ký mới mang đặc điểm nghệ thuật ấy, mà ngay trong những tác phẩm văn
học trung đại, người ta đã bắt gặp sự dung nạp của nhiều phong cách thể loại
trong các tác phẩm ký, hay truyền kỳ. Ở đó, các tác giả có thể cho phép cùng
lúc trong một tác phẩm văn xuôi tự sự, có sự xuất hiện của các thể văn khác
như: thơ trữ tình, câu đối, hát nói, khúc ngâm… Bước sang nửa đầu thế kỷ
XX, thể du ký từ một thể loại nằm ở vùng ngoại biên của nền văn học trung
đại, đã dần phát triển và trở thành một thể loại trung tâm của văn học. Và
bên cạnh những cách tân, du ký đầu thế kỷ vẫn tiếp tục mang những đặc
trưng nghệ thuật truyền thống.
66
3.2.1. Sử dụng yếu tố chính luận
Du ký là một thể loại có tính chất giao thoa với chính luận. Sự hiện diện
của chính luận cũng là một trong những yếu tố làm nên cái đặc sắc cho du ký.
Chính luận, theo Lại Nguyên Ân thì đó là “một thể loại văn học, một thể tài
báo chí; thường nêu các vấn đề có tính thời sự về chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa, văn học, tư tưởng, v.v... Mục tiêu của chính luận là: tác động đến dư
luận xã hội đương thời, đến lối sống, đến các quyền lợi xã hội hiện hành; đề
xuất việc củng cố hoặc thay đổi chúng cho phù hợp với quyền lợi giai cấp
hoặc với lí tưởng xã hội, đạo đức...” [3]. Giống như các thể tài khác thuộc thể
loại ký, du ký nói chung không chỉ biết dừng lại ở việc miêu tả hiện thực một
cách đơn thuần, du ký biết chọn lựa trong cái hiện thực hỗn độn những con
người, sự việc điển hình, tiêu biểu khiến cho tác phẩm trở nên sâu sắc hơn.
Hiện thực cuộc sống chính là nguyên cớ, là tác nhân để nhà văn trăn trở, suy
ngẫm, bày tỏ thái độ, thể hiện cảm xúc. Nếu như trong truyện ngắn và tiểu
thuyết, yếu tố chính luận, nếu có, thường được bộc lộ gián tiếp qua ngôn ngữ
nhân vật, thì trong du ký yếu tố ấy được bộc lộ trực tiếp qua ngôn ngữ của cái
tôi trần thuật. Sự xuất hiện của yếu tố chính luận là một biểu hiện của tâm thế
cái tôi cá nhân của con người hiện đại.
Chính luận trong du ký viết về vùng Tây Bắc thể hiện qua quan điểm, thái
độ, cách đánh giá trước những những vấn đề quan tâm của các tác giả.
Trăn trở về thời cuộc đang "kèn cựa, vật lộn với cuộc sống" của xã hội
Bắc Kỳ thời bấy giờ, tác giả Ngọc Ước viết: "Khi chúng ta đương khổ tâm lo
sống trong lúc hoàn cầu chiến tranh, tôi liền tưởng đến riêng một phương trời
mà ở đó dân cư đang thung dung sống một cuộc đời giản dị, bằng phẳng với
non cao rừng rậm, không vướng mình vào ly tấc của vật chất xa hoa.
Bằng một tâm hồn thơ ngây, an phận trong cuộc sống cần lao, lấy sự
làm việc bằng thú vui duy nhất, bọn người đó hầu như lãng quên tất cả một
xã hội bên cạnh họ đương kèn cựa, vật lộn với cuộc sống ngày nay, xã hội ấy
67
là đất Bắc Kỳ" [90]. Trong hoàn cảnh chiến tranh, những trí thức đương thời
không thể không bày tỏ quan điểm, thái độ của mình về sự tồn vong của dân
tộc, về những vấn đề chính trị, xã hội. Tác giả chọn du ký lên miền thượng
du Bắc Kỳ làm cuộc hành trình nhập thế. Không hẳn là sự trốn chạy thực tại
mà là tìm về nơi rừng núi Tây Bắc để khám phá những nét văn hóa độc đáo,
cuộc sống đời thường của người Thổ, đó cũng là một cách bày tỏ tình yêu
quê hương đất nước của tác giả.
Có khi là nỗi lòng u hoài của kẻ lữ thứ, khi sự nghiệp chưa thành, thân
thế vẫn chưa yên. Nhật Nham Trịnh Như Tấu, sau tám năm trở lại Lào Cai,
đứng trên bờ sông Nam Thi: "đoái trông non nước xa xa, bồi hồi cảm tưởng,
lại nghĩ đến mới ngày nào cũng đứng đây, cũng vẫn giang sơn này, mà tám
năm như chớp mắt, tựa chim bay! Tháng ngày lần nữa, cảnh vật đổi thay mà
riêng mình sự nghiệp chưa thành, nhân đó lòng buồn man mác, càng sinh vô
hạn cảm" [51]. Đặng Trọng Khang có những phút thảnh thơi sau khi làm
xong nhiệm vụ, gặp buổi hoàng hôn thơ thẩn một mình bên góc rừng hiu
quạnh vẫn hướng: "con mắt đăm đắm trông về đường xưa lối cũ, thì tưởng
chừng cũng không khỏi chút trạnh lòng: thương tình li biệt, xót nỗi tha
hương. Lại nghĩ đến công cuộc mình làm, ngoài hai mươi năm gần đây nào
tình, nào cảnh, trên cõi trần tang hải, mấy thu rồi thân thế vẫn chưa yên…"
[25]. Nguyễn Tụng cũng bày tỏ niềm tiếc nuối: "Hai ngày dạo chơi ở Chapa
rất chóng. Tôi chưa kịp nhớ tới đã được đi những đâu, và còn thiếu những
chỗ nào chưa đi được, và khi về đến Hanoi, tôi còn cố hỏi thăm các bạn đã
được lên Chapa vãn cảnh, cho biết những nơi nào tôi chưa được đặt dấu
chân. Ngày về đã định, tôi sắp sửa hành lý ra về mà lòng bồi hồi thổn thức
như sắp phải từ giã một người tình" [84]. Có thể thấy, dù có là cuộc đi du
ngoạn thưởng lãm, hay đang trong hành trình công vụ, thì các tác giả du ký
vẫn trăn trở về trách nhiệm đối với cuộc đời, trách nhiệm với giang sơn gấm
68
vóc. Đó cũng chính là lý tưởng sống của con người bao đời nay, nó không
thể mai một mà luôn được tiếp bước, duy trì và phát huy.
Ngoài việc miêu tả những điều mắt thấy tai nghe trên con đường du lãm,
các tác giả du ký còn dành nhiều tâm huyết để suy ngẫm, bàn luận về mọi khía
cạnh của đời sống của người dân vùng cao.
Bàn về những đặc điểm của dân tộc thiểu số sống ở vùng rừng núi Tây
Bắc, tác giả Nhật Nham bày tỏ quan điểm khi chứng kiến cuộc sống, sinh
hoạt của người Mèo "Trông xuống dưới, ruộng xếp từng hàng trên sườn núi,
nhà của người Mèo làm ngay bên cạnh để coi lúa". Hay khi được biết người
Mèo dùng vỏ cây rừng để tạo ra trang phục "Xem thứ vải gai này mới biết
người Mèo cũng có óc tinh anh, có thể dùng các thứ của Hóa công đã dành
riêng cho họ ở miền rừng núi. Mỗi khi cần đến một thứ gì, họ lại nghĩ ra các
phương pháp mà ta cho là xảo diệu". Họ còn biết cả vận dụng sức nước để
vận hành cối giã gạo "Cạnh nhà là suối, có cối giã gạo, dùng sức nước vận
động. Đó cũng là một cái trí thức tinh khôn của dân thượng du vậy". Tác giả
đánh giá, họ là một "giống người đủ nghị lực, kiên nhẫn, kinh nghiệm và
khéo léo" [51]. Ngày nay, trang phục quần áo của người Mèo chủ yếu may
bằng vải tự dệt. Trang phục của họ rất sặc sỡ, đa dạng, hội tụ đầy đủ những
nét tiêu biểu, đặc trưng của đồng bào và đậm đà tính cách tộc người trong
tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng.
Cùng quan điểm khi nhìn nhận về các giá trị văn hóa của người vùng
cao, Nhị Lang trong Tiếng cồng vang chốn rừng xanh cũng nhận thấy vẻ đẹp
mà theo tác giả là "bình dân" của các cô Mường vùng Lương Sơn - Hòa Bình
và cho đó là một cảnh tượng "lạ mắt": "Đây mới tới những cái đẹp "Bình dân"!
Các cô Mường con nhà dân giã, lòa xòa trong các bộ áo màu trắng, kéo nhau
đi trên chiếc cầu, vừa đi vừa đánh cồng. Một cảnh tưởng lạ mắt cho các bạn
đường xuôi vừa còng lưng đạp xe từ Hà Đông tới!" [28].
69
Vùng Tây Bắc có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, mỗi dân tộc lại có các
đặc trưng khác nhau, riêng ở Lào Cai, theo ghi chép của Nhật Nham đã có:
"nào Thổ, nào Nhắng, nào Nùng, nào Xá, nào Tu Dí, nào Phá Dí, nào Phù
Lao, nào Quý Châu, nào Lự, nào Lào, nào Mèo, nào Mán,..". Do giáp với
Trung Hoa, vậy nên người dân vùng này ảnh hưởng văn minh Trung Hoa. Tác
giả có cái nhìn khái quát, tổng kết những đặc trưng về cuộc sống, con người nơi
đây: "Có văn hóa, có võ công, có lễ nghi, có trật tự, biết sinh nhai một cách êm
đềm, biết chế tạo những khí mãnh và các thức ăn mặc, thích thú đoàn viên,
không ham danh lợi, ngày tháng chỉ bạn cùng non nước. Thực là một dân tộc
tự ta cho là trong cảnh Đào nguyên vậy" [51]. Theo ký giả Đặng -v- Đàm
trong bài Khảo cứu về người Mường ở tỉnh Hòa Bình thì: "có nhiều giống
người ở như Thổ, Mán, Mèo, nhưng đông nhất là người Mường. Người Thổ
thì ở về châu Đà Bắc chia làm hai thứ; Thổ trắng và Thổ đen (Tày khảo, Tầy
đàm) nhưng đều nói một thứ tiếng. Tiếng nói giống như tiếng người Lào,
người Siêm. Có thứ chữ riêng gọi là chữ Thổ, viết rất tiện. Người Thổ không
mấy người là không biết. Phong tục gần giống người Mường. Người Mán
hay Giạo có 7 thứ: 1. Mán Caolan, 2. Mán Quần bộc hay mán đất; 3. Mán
quần trắng hay mán sơn tỉ trắng; 4. Mán tỉ đen; Sơn trang; 6. Mán Đại-
bản; 7. Mán Tiểu bản hay Mán đeo tiền. Các giống người Mán ở khắp các
ngọn núi cao có suối nước. Tiếng nói theo chữ Hán, gần giống tiếng Tàu.
Người Mèo tức là giống Cao- mên thủa trước, có 3 thứ Mèo trắng, Mèo đen
và Mèo đỏ, phân biệt bởi lối vận mặc, tiếng nói gần giống Tàu" [10].
Để can dự trực tiếp vào tiến trình đời sống, người viết ký chẳng những
phải "nhập cuộc", mà nhiều khi còn phải “dấn thân” để chiếm lĩnh hiện thực.
Các tác giả du ký cũng không ngần ngại công khai bày tỏ quan điểm, cách nhìn
nhận của riêng mình về tất cả các vấn đề trong cuộc sống.
Trong du ký Sau tám năm trở lại thăm Laokay, Nhật Nham không ít lần
bày tỏ quan điểm khen, chê một cách thẳng thắn. Chứng kiến sự chuyển
70
mình của Lao Kay, tác giả không khỏi ngỡ ngàng khi chứng kiến con người
nơi đây biết vận dụng sức nước của Thác Bạc để tạo ra nguồn điện phục vụ
cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày: "Sở Công chính đã khéo lợi dụng sức nước
thác này để quay các động cơ, đặt máy điện ngay chân núi Fan-si-pan. Điện
đồn Chapa do sức ‘‘than trắng’’ ở thác Bạc sản ra, sức sáng không kém gì
điện các nơi. Thực là một sáng kiến rất lợi cho nền kinh tế miền này" [51].
Tuy nhiên, khi tới Chấn Phòng, cách Laokay một con sông, xưa kia kinh tế
rất phát triển nhưng sau tám năm trở lại, tác giả thẳng thắn nhận định "Chấn
Phòng nay bớt sự phồn thịnh, việc thương mại xem ra đình trệ, so với tám
năm về trước, rất là kém sút" [51].
Hành trình Đi bên Tàu chơi (Vân Nam- Yunnan-Fou) của tác giả X. Ở
trạm dừng chân tại Lao Kay, giáp ranh với nước Tàu, tác giả bày tỏ thẳng thắn
quan điểm của mình trước tệ nạn cờ bạc nơi đây: "Tới đây xe lửa đậu ngủ, còn
mình ngủ đã rồi bây giờ thức dậy đặng coi thành thị phố xá chơi. Xuống xe rồi
vô nhà hàng ăn cơm cho vững gối. Lúc nầy đã tối rồi mà trong thành lại sáng
vì các đường đều có thắp khí như Sài Gòn vậy. Chỗ này còn thuộc về nhà nước
Langsa, chưa tới Tàu; mà thành Lao Kay nầy đã giáp danh nước Tàu rồi. Ăn
cơm đoạn đi dạo coi thấy thiên hạ ăn uống, chơi bời, nhứt là cờ bạc. Nhập vô
đám nào cũng không đặng; ăn thì mình ăn rồi, cờ bạc thì không biết đánh lại
xứ lạ không dám đánh ai phần thì mình ít, nên thôi chịu dở, rút về nhà hàng
tạm nghỉ lấy sức sáng ra đi nữa" [91].
Với cách bày tỏ quan điểm hết sức rõ ràng như thế, tác giả du ký đã khẳng
định được cá tính độc lập của mình. Như vậy, ngoài việc miêu tả những điều mắt
thấy tai nghe trên hành trình du lãm, các tác giả du ký còn dành nhiều tâm huyết
để chiêm nghiệm, luận bàn về nhiều khía cạnh của đời sống thời bấy giờ. Có thể
nói, việc sử dụng yếu tố chính luận trong trần thuật giúp cho thể loại du ký có
được phương thức chiếm lĩnh đời sống linh hoạt và hiệu quả hơn.
71
3.2.2. Giao thoa giữa các thể loại
Ngoài sự hiện diện của yếu tố chính luận như đã trình bày ở trên, những
tác phẩm du ký viết về Tây Bắc còn có sự hỗn dung giữa các thể loại. Mỗi
tác phẩm có sự đan xen, dung nạp các thể loại là khác nhau: có khi mở rộng
biên độ hình thức với sự xuất hiện các câu thơ, bài thơ trữ tình (Sau tám năm
trở lại thăm Laokay, Tiếng cồng vang chốn rừng xanh..), có khi gia tăng
tiếng nói trữ tình ngoại đề, độc thoại nội tâm, hồi ức, kỉ niệm (Sau tám năm
trở lại thăm Laokay, Hai ngày dưới bóng núi Fan-Si-Pan..), có khi nhấn
mạnh lối viết khảo tả địa lý - hành chính, văn hóa (Khảo cứu về người
Mường, Lạc trong giang sơn Đinh, Quách, Sau tám năm trở lại thăm Lao
kay), có khi mở rộng dung lượng bằng hình thức nhật kí - hành trình (Cuộc
hành trình từ Laokay đi Lai châu, Vượt 1200 thước cao qua đèo Tứ Lệ, Cuộc
kinh lý của quan thống sứ Tholance tại Sonla và Laichau),…
Nếu như yêu tố chính luận mang lại tính trung thực, khách quan thì yếu
tố trữ tình giúp cho những trang du ký mềm mại hơn, mang lại chất thơ
mộng và khiến nó cuốn hút hơn đồng thời thể hiện nét tài hoa của các ký giả.
Yếu tố trữ tình có thể là những bài thơ do chính tác giả sáng tác, cũng có thể
là những bài thơ của các tác giả khác có mối liên hệ với đối tượng mà ký giả
đang quan sát, phản ánh hoặc những đoạn văn xuôi đậm chất trữ tình. Ngoài
ra, trong du ký còn có đan xen, điểm xuyết những thể loại trữ tình dân gian
như ca dao, câu đối…
Tác giả Nhật Nham, trong thiên du ký Sau tám năm trở lại thăm Laokay
[51] cũng vận dụng các yếu tố trữ tình để làm đẹp hơn, hấp dẫn hơn những
trang du ký của mình. Ngay từ đầu bài ký, tác giả đã thể hiện tình cảm của
mình với non sông đất nước
Nước non, non nước hữu tình,
Bao nhiêu du lãm, cảm tình bấy nhiêu !
72
Tác giả lấy cảm hứng "du lãm" làm trục cảm xúc chính cho thiên du ký
của mình. Trước vẻ đẹp của Cầu Mây - cây cầu bắc qua sông Mường Hòa, dài
hơn 50 thước tây, được làm bằng song và gỗ, trên có dây treo, một thắng cảnh
nổi tiếng của Sa Pa không chỉ thời bấy giờ mà cho tới tận ngày nay. Đứng trên
cầu ngắm cảnh, tác giả thấy:
Dưới sông cá nhẩy theo dòng nước,
Trên núi chim kêu tếch dặm mây.
Cảm xúc trào dâng, một vế đối hoàn hảo núi-sông, cá nhẩy - chim kêu,
dòng nước - dặm mây cho ta thấy được những nét tinh tế, tài hoa của nhà văn.
Tám năm về trước, cũng chính nơi đây, tác giả cũng có đề thơ rằng:
Trên cây lơ lửng mấy đường dây,
Tục gọi cầu Mây, chắc hẳn đây.
Mấy dịp gỗ ngang xen mắt cáo,
Đôi hàng song thẳng néo cành cây.
Ven sông, cỏ mọc, mầu xanh ngắt,
Mặt nước, mây in, sắc trắng phây.
Khen chiếc cầu nầy ai khéo bắc,
Biết bao qua lại khách Đông, Tây!...[51].
Có thể thấy cảm xúc của tác giả vẫn vẹn nguyên sau ngày trở lại, cảnh vẫn
đẹp như xưa, tấm lòng của tác giả cũng không phai. Trước cảnh đẹp đó, đứng
giữa cầu, "ngắm trông phong cảnh có bề thanh thanh; chung quanh một vùng
non nước bao la; thỉnh thoảng nghe tiếng vượn hót, chim kêu", ngẫu hứng mà
ngâm rằng:
Đoái trông phong cảnh hữu tình,
Giang sơn có ý đợi mình điểm tô…
Kết thúc một chuyến đi "hứng vị", trên chặng đường về, trước vẻ đẹp thiên
nhiên, con người vùng Tây Bắc, tác giả có mấy câu lục bát ghi tình:
73
Đường về nhớ cảnh Lão Nhai,
Nhớ non Đỗ Lĩnh nhớ người hôm xưa!
Non sông còn đó trơ trơ,
Hỏi người non nước bây giờ nhớ chăng?
Bài ký Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai châu, Đặng Trọng Khang bày tỏ
cảm xúc với vẻ đẹp thiên nhiên núi rừng Tây Bắc mà bấy lâu nay, tác giả vẫn
nặng tình: "Từ đây tôi không còn được trông thấy những con đường to rải nhựa
nữa, không được nghe những tiếng dịu dàng của người đồng bằng nữa, mà chỉ
thấy đường núi trập trùng, chỉ nghe những tiếng Mán, Thổ líu lô. Trên quãng
đường nghìn dặm, nếu được bằng phẳng đã đành, còn xuống dốc lên cao, ăn
sương nằm gió, lội suối qua đèo" [25]. Có thể xem đây là đoạn văn tự sự đậm
chất trữ tình. Bằng cách vận dụng thành ngữ "ăn sương nằm gió, lội suối qua
đèo" kết hợp các từ láy giàu giá trị tạo thanh, tạo hình "tiếng dịu dàng, trập
trùng, líu lô" làm cho đoạn văn mềm mại hơn và hơn hết vẻ đẹp thiên nhiên,
con người Tây Bắc cũng dung dị, hiền hòa hơn.
Trong bài ký Tiếng cồng vang trốn rừng xanh, chúng ta cũng thấy tác giả
điểm tô một vài yếu tố trữ tình. Có khi là ở âm thanh của tiếng Cồng và vần thơ
cổ động cho buổi khai trương Chợ phiên Lương Sơn:
C…ồ…ồ..n.. g …! C…ồ…ồ..n.. g …!
Hội hè quan gọi chúng ta,
Gặp nhau ta hát một vài câu vui! [28]
Có khi lạ là tiếng Cồng ngân dài, níu kéo, mời gọi trong đoạn văn xuôi
cuối bài: "Đoàn xe đạp kéo qua những đồn điền cà phê yên lặng, vắng vẻ,
bánh xe quay trên mặt sỏi dàn dạt, các bạn kinh hình như còn văng vẳng bên
tai tiếng C…ồ…ồ..n.. g buồn bã, ngân dài, đuổi theo anh em cố níu… mời ở
lại chơi thêm lát nữa !" [28]. Yếu tố trữ tình được xem là một đặc điểm thi
pháp của du ký. Nhờ yếu tố này mà những trang viết về những chuyến đi
thêm hấp dẫn, đậm chất trữ tình.
74
Du ký là thể loại trung gian, do vậy bản thân thể loại này có sự giao thoa
với các thể loại gần gũi khác. Trước hết du ký có nhiều điểm giao thoa với
phóng sự. Dù có nhiều nét tương đồng nhưng giữa chúng không phải không có
điểm khác. Người viết phóng sự luôn ở thế “xung kích”, luôn “theo sát các vấn
đề nóng hổi, cấp bách của hiện thực mang ý nghĩa xã hội rộng lớn”, luôn đối
mặt với thách thức để khám phá, bóc trần, luôn muốn thẩm định, giải đáp vấn
đề và thẳng thắn bày tỏ chính kiến, quan điểm của mình về những sự thật của
đời sống. Du ký cũng đề cập đến những sự việc đang diễn ra, nhưng những sự
việc ấy không nhất thiết phải “nóng hổi”, trực tiếp, cũng không nhất thiết là sự
việc “có vấn đề” đang làm xã hội quan tâm.
Xét ở góc độ này, ta thấy bài ký Tiếng cồng vang chốn rừng xanh của Nhị
Lang có sự giao thoa, tương đồng khá đậm nét. Sự kiện xuyêt suốt bài ký là
buổi khai mạc Chợ Phiên Lương sơn với mục đích "lấy tiền giúp quỹ Pháp Việt
Bác Ái". Tác giả cũng những người bạn đạp xe đạp từ Hà Đông lên để chứng
kiến sự kiện trên và ghi chép lại. Về tổng thể, có thể xem bài ký như một bài
báo - phóng sự mẫu mực. Về hình thức, bài ký có dung lượng vừa phải, từ tiêu
đề cho đến ảnh và các chú thích ảnh đều rất rõ ràng, góp phần làm cho câu
chuyện mà tác giả kể tăng thêm sức thuyết phục, trở nên đáng tin cậy hơn. Về
nội dung, dưới con mắt của ký giả, sự kiện khai mạc phiên chợ diễn ra với
nhiều hoạt động: có phần quan khách dự, có diễn kịch, có cuộc thi sắc đẹp của
các cô gái Mường và các hoạt động văn hóa thể thao như thi bắn Nỏ. Trên nền
sự kiện đó, tác giả khám phá và bày tỏ quan điểm về những nét đẹp, giá trị văn
hóa của cuộc sống và con người nơi đây: "Mắt ta nhìn luôn cái nhan sắc và y
phục tân thời dưới miền kinh đã quen, đã nhàm, bữa nay được đổi "mơ-nuy"
được thưởng thức các bông hoa Rừng đang e lệ yểu điệu từng bước trên chiếc
cầu tre dựng trước nhà chào kia. Cô nàng xinh tươi Đinh thị-Nụ ái nữ bà châu
Đinh - lệ - Chung ở Kệ sơn và cô Hoàng - thị Liên người kinh vận y - phục
Mường, thực xứng đáng giải nhất Hoa - khôi" [28].
75
Nếu phóng sự ít đề cập đến những sự việc đã diễn ra thì du ký thường hay
quay về với quá khứ. Hiện tại và quá khứ đan xen vào nhau xuyên suốt trong
câu chuyện của người du khách. Ký giả Nguyễn Tụng kể lại những cảm nhận
sâu sắc trong một chuyến thăm Sapa trong bài ký Hai ngày dưới bóng núi Fan-
Si-Pan: “Hai ngày dạo chơi ở Chapa rất chóng. Tôi chưa kịp nhớ tới đã được
đi những đâu, và còn thiếu những chỗ nào chưa đi được, và khi về đến Hanoi,
tôi còn cố hỏi thăm các bạn đã được lên Chapa vãn cảnh, cho biết những nơi
nào tôi chưa được đặt dấu chân.
Ngày về đã định, tôi sắp sửa hành lý ra về mà lòng bồi hồi thổn thức như
sắp phải từ giã một người tình.
Rồi tôi càng thấy như bâng khuâng khi nghĩ đến Thác bạc, Cầu mây với
những trái đào ửng hồng mà mình không biết lại đến ngày nào mới gặp.
Trên xe về, buổi bình minh tôi ngoảnh đầu lại nhìn qua làn sương mỏng.
Trong một khung trời mờ sáng, cả Chapa còn đang yên giấc dưới giải Fan-
Si-Pan cao ngất, mỗi lúc một mờ dần…” [84]. Cho dù chỉ có hai ngày rong chơi
dưới bóng núi, nhưng vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống con người Sa Pa cũng khiến
lòng tác giả “bồi hồi thổn thức như sắp phải từ giã một người tình”.
Du ký còn có sự tương tác với bút ký. Bút ký là một thể của ký, nằm trung
gian giữa kí sự và tùy bút. Đặc trưng của bút ký là người viết dùng bút ghi lại
những người, những việc, những cảm nhận, những suy nghĩ… mà anh ta đã
gặp, đã thấy, đã nghe, đã trải qua… với tư cách là một nhân chứng, sau một
chuyến thâm nhập thực tế cuộc sống. Nói cách khác, một bút ký phải có các
đặc trưng: người viết phải dựa vào một chuyến đi, phải trực tiếp nhìn, nghe,
cảm, nghĩ, phải làm nhân chứng bảo đảm những sự việc và hiện tượng.
Một số tác phẩm du ký viết về vùng Tây Bắc cũng có sự tương tác lẫn
nhau giữa du ký và bút ký. Chẳng hạn như Sau tám năm trở lại thăm Laokay,
Miền thượng du Bắc kỳ, Lên Sơn La, Đưa các bạn lên thăm đất "núi rừng",
Cuộc kinh lý của quan Thống sứ Tholance tại Sơn La và Lai châu, Lạc trong
giang sơn Đinh, Quách… Các tác giả đều dựa trên các chuyến đi để tái hiện lại
76
cuộc sống con người, cảnh vật thiên nhiên vùng Tây Bắc một cách phong phú
đa dạng, nhưng đằng sau đó chính là tình cảm của tác giả. Đó có thể là tình yêu
thiên nhiên, yêu những nét đẹp văn hóa, phong tục tập quán, yêu mến cuộc
sống những con người ngươi vùng cao Tây Bắc.
Không chỉ gần gũi với phóng sự và bút ký, du ký còn hết sức thân thiết với
nhật ký. Nhật ký là một thể loại ký mang tính chất riêng tư, đời thường nhiều
nhất.Giống như du ký, nhật ký ghi chép của cá nhân về sự kiện có thật đã, đang
và tiếp tục diễn ra theo thời gian, nhật ký thường bao gồm cả những đoạn trữ tình
ngoại đề và những suy nghĩ có tính chất chủ quan về sự kiện. Một nhật ký có
phẩm chất văn học khi nó thể hiện những cảm xúc chân thành, những suy nghĩ
sâu sắc của cái tôi trần thuật. Chính vì sự giống nhau này mà ta thấy có khá
nhiều tác phẩm du ký được ghi chép dưới dạng nhật ký như: Tây hành nhật ký
của Phạm Phú Thứ hay Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh…
Các tác phẩm du ký về Tây Bắc thì Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai
châu có tương tác, giao thoa với thể nhật ký rõ nhất. Cuộc hành trình diễn ra
trong 10 ngày, được tác giả ghi chép lại rất chi tiết những sự vật, hiện tượng
quan sát được, những cảm xúc trên đường đi. Bài ký được ghi chép theo trục
thời gian tuyến tính, gần gũi với nhật ký: " (…) Hôm thứ bảy, chúng tôi đi
dốc Séo lèng (…. ). Ngày thứ tám chúng tôi đi Mao-Xao- Phing (…). Tối
hôm thứ chín, chúng tôi ngủ ở Chiên-chân (…). Sáng hôm thứ mười, ở
Chiên- chân ra đi, 3 giờ chiều thì đến tỉnh" [25]. Qua những trang ký, độc
giả biết được những nét đẹp văn hóa trong trang phục của người phụ nữ Thổ:
"Đàn - ông thì mặc quần áo xoàng xĩnh, nhưng đàn bà ăn mặc cầu kỳ lắm.
Họ rẽ tóc trần, búi tóc, răng đen có thể xánh với hạt huyền được, phần nhiều
hay mặc áo cộc trắng. Kiểu áo nịt, giữa ngực xẻ một đường bằng vãi hay
nhiễu đen, có hàng com bướm chạm bạc, thay làm cúc" [25].
Tóm lại, du ký là thể loại có tính tổng hợp, dung hợp với nhiều thể loại
khác, đặc biệt gần gũi với phóng sự, nhật ký và bút kí. Đó là sự kết hợp hài hòa
giữa việc phản ánh hiện thực với việc thỏa mãn những tình cảm thẩm mỹ của
con người.
77
Tiểu kết chương 3
Đặc điểm nghệ thuật của du ký viết về miền Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX
thể hiện ở các phương diện sau: Điểm nhìn trần thuật đa diện với hiện thực, đặc
biệt là sự phối hợp nhiều điểm nhìn trần thuật khi cùng tái hiện một sự vật hiện
tượng. Bên cạnh đó là việc vận dụng yếu tố chính luận và sự giao thoa giữa các
thể loại làm cho việc miêu tả hiện thực đa chiều, khách quan hơn. Với những
đặc điểm nghệ thuật nói trên, du ký vùng Tây Bắc đã đóng góp những nét đổi
mới riêng vào công cuộc hiện đại hóa văn học.
78
KẾT LUẬN
1. Nửa đầu thế kỉ XX, những điều kiện về kinh tế, xã hội, khoa học kỹ
thuật, văn hóa,… đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt xã hội. Đô thị mọc lên, các
ngành công nghiệp xuất hiện biến một xã hội “tĩnh” và “khép” trở nên “động”
và “mở”. Sự phát triển mạnh mẽ của giao thông trở thành chiếc cầu nối thu hẹp
khoảng cách không gian địa lí giữa các vùng miền, mở đường cho các cuộc du
lịch, du hành, và đặc biệt báo chí trong nước phát triển mạnh mẽ, từ Bắc Kỳ,
Trung Kỳ tới Nam Kỳ, nhiều tờ báo lớn đã ra đời và trở thành món ăn tinh thần
không thể thiếu đối với người dân đó là các điều kiện thúc đẩy sự phát triển của
thể tài văn học du ký.
Hòa chung vào dòng chảy đó, du ký viết về vùng Tây Bắc Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX đã tạo được dấu ấn riêng. Các tác giả du ký phản ánh chân thực
và ấn tượng bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và con người vùng Tây Bắc - một
vùng lãnh thổ tươi đẹp, giàu truyền thống văn hóa phía Bắc của Việt Nam.
2. Báo chí là cầu nối để các tác phẩm du ký đến với đông đảo công chúng.
Theo chân các nhà du ký, người đọc có cơ hội được tìm hiểu những nét đặc sắc
và riêng biệt về thiên nhiên, cuộc sống và con người vùng núi rừng Tây Bắc.
Từ vẻ đẹp dịu dàng, huyền ảo đến vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ, của núi rừng nơi
đây… Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc đã bồi đắp cho con người tình yêu, sự
gắn bó với non sông, đất nước.
Đời sống văn hóa, phong tục tập quán của cộng đồng người đồng bào
vùng núi rừng Tây Bắc cũng được các tác giả du ký quan tâm, khắc họa một
cách chân thực. Cơ bản người dân vùng núi rừng Tây Bắc vẫn giữ được những
phong tục tập quán từ bao đời nay như thói quen sinh hoạt cộng đồng, những
nét văn hóa dân gian đặc trưng, các hoạt động vui chơi giải trí truyền thống,...
Cuộc sống của người đồng bào dân tộc thiểu số từ cách ở theo lối tự nhiên cho
đến cách ăn, cách mặc, cách canh tác rất riêng, thuận theo lẽ tự nhiên cũng
được tác giả lưu lại một cách chi tiết và đầy cảm hứng. Có thể thấy, những
79
trang du ký không chỉ giúp bảo tồn, phát huy những nét đẹp văn hóa truyền
thống của dân tộc, mở ra nhu cầu, khát vọng tìm hiểu, chiêm ngưỡng về thiên
nhiên, về văn hóa vùng Tây Bắc mà còn góp phần bồi đắp cho con người tình
yêu, sự gắn bó với quê hương, đất nước.
Trải nghiệm từ những "điều trông thấy", các tác giả du ký không chỉ bày
bày tỏ thái độ ngỡ ngàng, trân trọng và bảo tồn những nét đẹp về thiên nhiên,
cuộc sống con người mà còn ghi lại sự "chuyển mình" của Tây Bắc. Vùng Tây
Bắc cũng có những vận động nội tại để đổi thay cho phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại. Đời sống kinh tế, xã hội vùng Tây Bắc nhìn chung vẫn còn
nhiều khó khăn và hạn chế, đi qua mỗi tỉnh, vùng đất khác nhau lại có những
nền kinh tế và chịu những sự chi phối khác nhau. Tuy nhiên, các tác giả du ký
vẫn thể hiện được sự lạc quan, tin tưởng về đời sống kinh tế, xã hội cho người
dân vùng rừng núi Tây Bắc ấm no, sung túc hơn. Nhưng ghi chép đó như một
tư liệu quý giá cần được đánh giá, tham khảo.
Du ký viết về vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX đã vẽ lên bức tranh Tây
Bắc chân thực và trữ tình, đồng thời thể hiện lòng yêu nước, tinh thần tự hào
dân tộc. Điều đó được thể hiện trong tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống con
người, yêu những nét đẹp văn hóa,... Tình yêu ấy làm cho non sông, đất nước
trở nên tươi đẹp hơn, truyền nguồn cảm hứng nhập thế đến với độc giả.
3. Du ký viết về Tây Bắc nói riêng, du ký Việt Nam đầu thế kỷ XX nói
chung đã có những thử nghiệm hiện đại bước đầu trong lối viết. Dấu hiệu nổi
bật ở phương diện nghệ thuật của du ký là điểm nhìn đa diện với hiện thực, sự
phối hợp nhiều điểm nhìn trần thuật và sự dung hợp các phong cách thể loại.
Du ký sử dụng điểm nhìn trần thuật trực diện của cái tôi tác giả. Cái tôi ấy
hiện diện như là một con người vừa cụ thể, đơn nhất vừa đa dạng với nhiều vị
thế, tâm thế khác nhau. So với các thể loại tự sự khác thì điểm nhìn trần thuật
trong du ký khách quan, đơn chiều hơn. Các sự vật hiện tượng hiện lên qua
lăng kính của tác giả trên cơ sở chịu sự tác động của đặc điểm tâm lý, lứa tuổi,
80
giới tính, vốn hiểu biết... của chủ thể. Điểm nhìn trong du ký chủ yếu là điểm
nhìn bên ngoài và bước đầu đã có sự dịch chuyển điểm nhìn. Điều này đã tạo ra
khả năng phản ánh đa diện hiện thực của du ký.
Đường biên thể loại của du ký mở rộng tối đa để dung nạp các thể loại
khác nhau trong cùng một tác phẩm. Đặc điểm giao thoa thể loại thể hiện ở sự
đan xen yếu tố chính luận và yếu tố thơ trữ tình, ở tính tổng hợp, dung hợp với
nhiều thể loại khác, đặc biệt gần gũi với phóng sự, nhật ký và bút ký trên nền
tự sự của du ký. Sự dung hợp này đã làm nên sức hấp dẫn của du ký, giúp cho
thể loại du ký có được phương thức chiếm lĩnh đời sống linh hoạt và hiệu quả
hơn. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa việc phản ánh hiện thực với việc thỏa
mãn những tình cảm thẩm mỹ của con người.
4. Du ký viết về miền vùng Tây Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX thực sự
là những tác phẩm có giá trị trên nhiều lĩnh vực khoa học đời sống. Những
khảo cứu bước đầu về du ký Tây Bắc cho phép mở ra những nghiên cứu liên
ngành, dựa trên sự tương quan giữa văn học với văn hóa, du lịch, địa lý, lịch
sử. Với hàm lượng kiến thức phong phú, chân thực, du ký du ký Tây Bắc như
một pho tư liệu quý giá, hấp dẫn, góp phần truyền lại niềm cảm hứng sâu đậm
cho những sáng tác du ký đương đại.
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Anh (2007), “Đọc du kí Việt Nam, ngồi một chỗ mà thấy ngoài
muôn dặm”, báo Văn hóa, số ra ngày 30/3.
2. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (chủ biên) (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt
Nam (Từ cuối thế kỉ XIX đến 1945) (Tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân, Nguyễn Hữu Sơn (sưu tầm) (2002), Tạp chí Tri tân (1941 -
1945) - Truyện và ký, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
4. Minh Châu (1939), “Lên Sơn La”, Tràng An báo, (419), tr. 2 - 3.
5. Thanh Châu (1943), "Nghệ thuật rong chơi", Trung Bắc Tân Văn, (160), tr.
10 - 11.
6. Đức Dũng (1994), “Thử phân biệt ký văn học và ký báo chí”, Tạp chí Văn
học, (6), tr. 21 - 24.
7. Tầm Dương (1967), “Bàn về thể kí”, Tạp chí văn học, (2), tr. 36 - 39.
8. Tản Đà (1931), “Một sự đi chơi Laokay”, An Nam Tạp chí, (25).
9. Tản Đà (1931), “Mấy bước đường rừng”, An Nam Tạp chí, (32).
10. Đặng- v - Đàm (1929), "Khảo cứu về người Mường", Đông Phương, (20),
tr. 3, (21), tr. 3, (22), tr. 3.
11. T.Đ (1945), "Từ Hà Nội đến Sơn La", Vì Nước, (7), tr. 3.
12. Phạn Cự Đệ (chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - những vấn đề
lịch sử và lý luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. H (1933) "Vượt 1200 thước cao qua đèo Tứ Lệ", Hà Thành ngọ báo,
(1682), tr. 1.
14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2000), Từ
điển thuật ngữ văn học, Tái bản. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Thuyết Hải “Nước non Cao Bằng”, Thời vụ, (số 76), ra ngày 4-11-1938; (số
77), ra ngày 10-11-1938; (số 76), ra ngày 15-11-1938. Tuyển in trong Phóng
sự Việt Nam (1932-1945), Tập II (Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn
Hữu Sơn sưu tầm, biên soạn) (2000), Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 29 - 34.
82
16. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2009), “Giá trị văn hóa và văn học của loại văn du
ký (khảo sát qua sách Du ký Việt Nam)”, Tạp chí khoa học Đại học Quốc
gia Hà Nội, (25), tr. 63 - 71.
17. Nguyễn Thúy Hằng (2009), “Những đặc điểm của văn học du ký trung
đại”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, (30), tr. 75 - 83.
18. Nguyễn Thúy Hằng (2015), Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX và tiến trình hiện
đại hóa văn học, Luận án Tiến sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Hà Nội.
19. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Bùi Xuân Học (1933), "Một tiệc rượu xuông dưới ánh trăng mờ", Hà Thành ngọ
báo, (1687), tr. 1- 4.
21. Bùi Xuân Học (1933), "Dưới những ánh lửa đuốc của Sơn- Nhân", Hà
Thành ngọ báo, (1684), tr. 1.
22. Bùi Xuân Học (1934), "Cuộc kinh lý của quan Thống sứ Tholance tại Sơn La và
Lai Châu", Hà Thành ngọ báo, (1915), tr. 1 - 2.
23. Nguyễn Thị Thúy Hồng (2008), Thể du ký trong tiến trình hiện đại hóa văn
hóa Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
24. Lan Khai (1934), “Một buổi săn đêm”, Loa, (14), tr. 5.
25. Đặng Trọng Khang (1934), "Cuộc hành trình từ Laokay đi Lai Châu", Hà
Thành ngọ báo, (1961), tr. 1 - 5.
26. Nguyễn Xuân Kính (2004), Thi pháp ca dao, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
27. Thạch Lam (1937), “Phòng triển lãm 1937”, Ngày nay, (91), tr. 4 - 6.
28. Nhị Lang (1940), “Tiếng cồng vang chốn rừng xanh”, Trung Bắc Tân văn,
(10), tr. 18 – 19 - 25.
29. Tam Lang, Việt Dân (1934,1935), "Lạc trong giang sơn Đinh, Quách", Hà
Thành ngọ báo, (2181- 2305).
83
30. Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900 -
1945, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
31. Điêu Linh (1946), "Phụ nữ Mường", Cứu Quốc, (303), tr. 3.
32. Linh Lê (2007) “Du ký như một đề tài”, Thể thao và Văn hóa, (5), tr. 43.
33. Phong Lê (2007), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội. “Du ký trên tạp chí Nam Phong”, Người đại biểu nhân
dân, (91), tr. 4.
34. Phong Lê (2009), “Du ký Việt Nam trên chặng đường hiện đại hóa”, Nghiên
cứu văn học, (11), tr. 51- 59.
35. Nguyễn Hữu Lễ (2015), Đặc điểm du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Luận
án Tiến sĩ ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Trường Đại học Khoa học - Đại
học Huế.
36. Nguyễn Hữu Lễ (2014), “Một số vấn đề về phong cách thể loại của du ký”,
Ngôn ngữ và Đời sống, (6) tr. 224.
37. Trịnh Vĩnh Long (1996), Bước đầu tìm hiểu nội dung văn học trên tạp chí
Nam phong, Luận văn Thạc sĩ khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
38. Thiên Lương (2007), “Về bộ sách Du ký Việt Nam - Nam Phong tạp chí,
khát vọng chân thành của người trí thức”, An ninh thủ đô, (23).
39. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb. Giáo dục, HàNội.
40. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), “Tiến trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học, (5), tr. 16 -24.
41. Nguyễn Thị Ngọc Minh (2005), Ký - những vấn đề đặc trưng thể loại, Luận
văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
42. Nguyễn Thị Ngọc Minh (2013), Ký như một loại hình diễn ngôn, Luận án
Tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
43. Nam Mộc (1967), “Thể kí và vấn đề người thật việc thật”, Tạp chí Văn học,
(6), tr. 33 - 3.
44. Hà Thị Thanh Nga (2014), Thể tài du ký văn xuôi chữ Hán thế kỷ XVIII-
XIX, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội.
84
45. Triệu Thị Ngân (2017), "Du ký về vùng Đông Bắc Việt Nam nữa đầu thế kỷ
XX", Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Trường Đại học
Sư Phạm- Đại học Thái Nguyên.
46. Trần Viết Nghĩa (2011), “Phạm Quỳnh với vấn đề tiếp xúc văn hóa Đông
Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Nghiên cứu lịch sử, (12), tr. 16 -23.
47. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Nxb. Đồng
Tháp tái bản năm 1998, Tập III Văn học hiện đại (1862-1945), tr 175
48. Phạm Xuân Nguyên (2007), “Du ký như một thể tài”, Văn hóa và Thể thao
(26/4).
49. Phạm Xuân Nguyên (2007), “Đọc sách để đi chơi”, Tuổi trẻ, (23/3), tr. 1.
50. Mỹ Ngọc (1933), “Lược hành trình cuộc ngự giá Bắc Tuần”, Nam Phong
tạp chí, (190), tháng12.
51. Nhật Nham (1942), “Sau tám năm trở lại thăm Laokay”, Tri Tân Tạp chí,
(46), tr. 20; (47), tr. 18 - 20.
52. Nhật Nham (1942), “Từ Hà Nội đến hồ Ba Bể” (14 số), Tri tân Tạp chí,
(58), tr. 12 - 13; (59), tr. 12 - 13; (60), tr. 12 - 13; (61), tr. 10 - 11; (66), tr.
12-13 - 16; (67), tr. 10- 11-16; (68), tr. 12 - 13; (69), tr. 12-13-16; (70), tr.
12 - 13; (71), tr. 12 - 13; (72), tr. 12 - 13; (73), tr. 12 - 13; (74), tr. 12 - 13.
53. Trần Thị Tú Nhi (2001), “Nghệ thuật ngôn từ Du ký Quốc ngữ Việt Nam
giai đoạn giao thời”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Khoa Ngữ văn, Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh.
54. Niculin N.I (1999), “Những sáng tác về các chuyến viễn du” (Trần Hồng
Vân dịch), Những vấn đề của lịch sử và lí luận văn học, Viện Văn học xuất
bản, Hà Nội, tr. 82 - 104.
55. Niculin N.I (2010), "Dòng chảy văn hóa Việt Nam" (Hồ Sĩ Vịnh, Nguyễn
Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
56. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Tái bản Nxb. Văn hóa,
Hà Nội.
85
57. Phạm Văn Phúc (1983), Những vấn đề ngữ văn đặt ra trên Nam phong tạp
chí, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
58. Kiều Thanh Quế (2009), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam, (Nguyễn Hữu
Sơn, Phan Mạnh Hùng sưu tầm), Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
59. Phạm Quỳnh (1918), “Một tháng ở Nam Kỳ”, Nam phong Tạp chí, (17),
tháng 11. In lại trong Du ký Việt Nam-Tạp chí Nam phong (1917-1934), Tập
II (Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn, giới thiệu) (2007), Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh, tr.145-253.
60. Phạm Quỳnh (1922), “Pháp du hành trình nhật ký”, Nam Phong Tạp chí, (58).
61. Phạm Quỳnh (1925), “Chơi Lạng Sơn - Cao Bằng”, Nam Phong Tạp chí, (96).
62. Roi-Song (1943), "Đưa các bạn lên thăm đất "núi rừng", Hà thành ngọ báo,
(2021).
63. Nguyễn Hữu Sơn (2002), “Du ký Quảng Ninh nửa đầu thế kỷ XX”, Văn
nghệ Hạ Long, (số tết), tr.10.
64. Nguyễn Hữu Sơn (sưu tầm, giới thiệu) (2007), Du ký Việt Nam - Nam phong
tạp chí (1917-1934), Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
65. Nguyễn Hữu Sơn (2007), Thể tài du ký trên tạp chí Nam phong (1917-
1934). Nghiên cứu Văn học, (4), tr. 21 - 38.
66. Nguyễn Hữu Sơn (2012), “Luận bình văn chương”, Nxb Văn học, Hà Nội.
67. Nguyễn Hữu Sơn (2013), Thể tài văn xuôi du ký chữ Hán thế kỷ XVII- XIX và
những đường biên thể loại, Tạp chí Kiến thức ngày nay, (810), tr. 8 -11.
68. Nguyễn Hữu Sơn (2014), Du ký vùng Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XX, Ngôn ngữ
và Văn học vùng Tây Bắc, Nxb Đại học Sư phạm, HàNội.
69. Nguyễn Hữu Sơn (2014), “Vai trò chủ thể tác giả trong du ký về các vùng
biển đảo Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, Nghiên cứu Văn học, (8), tr. 3-18.
70. Nguyễn Hữu Sơn (2016), “Nhận diện du ký biển đảo Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX theo các vùng văn hóa”, Nghiên cứu Văn học, (6).
71. Nguyễn Hữu Sơn (2017), "Du ký Việt Nam cổ và kim", Tạp chí Xưa và nay,
(479), tr. 48 -53.
86
72. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
73. Trần Đình Sử (2011), Lí luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
74. Nguyễn Đức Thang (1941), “Tại rừng Lai Châu có một thứ cây ban đêm
sáng như con đom đóm dùng làm thước, ba toong, cán bút, đẽo guốc độ vài
đêm lại mất sáng”, Tràng An báo, (863), tr. 2.
75. Nguyễn Đức Thuận (2008), Văn trên Nam phong tạp chí - diện mạo và
thành tựu, Nxb Văn học, Hà Nội.
76. Yên Thúy (1934), "Câu chuyện tượng mọc ở Chấn phòng", Hà Thành ngọ
báo, (2107), tr. 3.
77. Đỗ Thị Thủy (2017), Du ký viết về miền Trung Việt Nam nữa đầu thế kỷ XX,
Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
78. Trần Thị Thương (2010), Du ký trên Nam phong tạp chí (1917 - 1934),
Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
79. Bùi Đức Tịnh (2005), Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến
cuối thế kỉ XX, Nxb Văn nghệ Tp. HCM.
80. Trần Thị Trâm (1994), “Vai trò của báo chí trong sự phát triển của văn học
dân tộc đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học, (6), tr. 6 -10.
81. Sơn Tùng (1961), “Các thể loại ký: Đặc tả, phóng sự, ký sự, tùy bút”,
Nghiên cứu văn học, (8), tr. 71 - 74.
82. Võ Thị Thanh Tùng (2013) “Tính cách người Nam Bộ - dấu ấn đặc sắc
trong Du ký Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Khoa học, Đại học sư
phạm TPHCM, (52).
83. Võ Thị Thanh Tùng (2013), “Một vài đặc điểm của thể loại du ký Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội, (4), tr. 37 - 43.
84. Nguyễn Tụng (1940), "Hai ngày dưới bóng núi Fan-Si-Pan", Tin mới, (182),
tr. 3.
85. Đội Tứ (1932), "Từ đồn Lai Châu đến làng Ma- Linh- Thàu", Hà Thành ngọ
báo, (1543), tr. 1- 4, (1549), tr. 1, (1550), tr. 1- 4.
87
86. Đội Tứ (1933), "Từ đồn Sơn La đến làng Hàn Đạo", Hà Thành ngọ báo,
(1835), tr. 1.
87. Đội Tứ (1933), "Chúng tôi đi bẫy Cọp ở Lai Châu", Hà Thành ngọ báo,
(1784), tr.1 - 4.
88. Đội Tứ (1933), "Trên đường Lai Châu- Mường Bun: Cảnh tết của nhà
binh", Hà Thành ngọ báo, (1621), tr.1 - 4.
89. Bắc Lâm Tử (1945), "Pháo đài", Vì Nước, (5), tr. 1; (6), tr. 1 - 4; (8), tr. 1;
(9), tr. 2.
90. Ngọc Ước, (1944), “Miền thượng du Bắc Kỳ”, Nam Kỳ tuần báo, (74, 75,
76)… In lại trong Phóng sự Việt Nam, 1932-1945, Tập II (Phan Trọng
Thưởng - Nguyễn Cừ - Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn, giới thiệu) (2000),
Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 1177 - 1186.
91. X. (1918) “Đi bên Tàu chơi (Vân Nam – Yunnan-fou)”, Nam Kỳ địa phận,
(479), tr. 233 – 364, (480), tr. 251 – 252, (481), tr. 267 – 268, (482), tr. 283
– 284, (483), tr. 296 – 397, (485), tr. 345 – 346, (487), tr. 362 -364.
92. Nguyễn Khắc Xuyên (1968), Mục lục phân tích Tạp chí Nam Phong, Trung
tâm học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn.
93. Chu Thị Hải Yến (2016), Du ký về biển đảo Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX,
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
88
PHỤ LỤC 1
Tác phẩm du ký về vùng Tây Bắc Việt Nam
nữa đầu thế kỷ XX (Xếp theo thời gian)
STT Tác giả Tác phẩm Số Năm
1 X. Đi chơi ngoài Bắc kỳ, Huế 461 1917 Báo, tạp chí Nam Kỳ
và bên Tàu địa phận
2 Đặng V Khảo cứu về người Mường Đông 21 1929
Đàm Phương
3 Tản Đà Một sự đi chơi Laokay An Nam 25 1931
tạp chí
4 Tản Đà Mấy bước đường rừng An Nam 30 1931
tạp chí
Từ đồn Lai Châu đến làng Ma- Hà Thành 1543,
5 Đội Tứ Linh- Thàu ngọ báo 1549, 1932
1550
6 Đội Tứ Từ đồn Sơn La đến làng Hàn Đạo Hà Thành 1835 1933
ngọ báo
7 H. Vượt 1200 thước cao qua đèo Hà Thành 1682 1933
Tứ Lệ ngọ báo
8 Đội Tứ Chúng tôi đi bẫy Cọp ở Lai Châu Hà Thành 1784 1933
ngọ báo
9 Bùi Xuân Một tiệc rượu xuông dưới ánh 1687 1933
Học trăng mờ Hà Thành
ngọ báo
Đội Tứ Trên đường Lai Châu- Mường Hà Thành
Bun: Cảnh tết của nhà binh ngọ báo 1621 1933 10
? Quan toàn quyền và quan thống sứ Hà Thành
đến Lai Châu một đêm gió bão ngọ báo 1701 1933 11
STT Tác giả Tác phẩm Số Năm
12 Bùi Xuân Dưới những ánh lửa đuốc Báo, tạp chí Hà Thành 1684 1933
Học của Sơn- Nhân ngọ báo
13 Đặng Cuộc hành trình từ Laokay Hà Thành 1961 1934
Trọng đi Lai châu ngọ báo
Khang
14 Lan Khai Một buổi săn đêm Loa 14 1934
15 Yên Thúy Câu chuyện tượng mọc Hà Thành 2107 1934
ở Chấn phòng ngọ báo
16 Roi- Song Đưa các bạn lên thăm đất Hà Thành 2021 1934
"núi rừng" ngọ báo
Cuộc kinh lý của quan Thống sứ Hà Thành 1915 1934
17 Bùi Xuân Tholance tại Sơn La và Lai Châu ngọ báo
Học
Tam Lang, Lạc trong giang sơn Đinh, Quách Hà Thành 2181 1934,
18 Việt Dân ngọ báo đến 1935
2305
19 Minh Châu Lên Sơn La Tràng An 419 1939
báo
20 Nguyễn Hai ngày dưới bóng núi Fan-Si-Pan Tin mới 182 1940
Tụng
21 Nhị Lang Tiếng cồng vang chốn rừng xanh Trung Bắc 10 1940
Tân văn
22 Nguyễn Tại rừng Lai Châu có một thứ cây Tràng An
Đức Thang ban đêm sáng như con đom đóm báo
dùng làm thước, ba toong, cán bút, 863 1941
đẽo guốc độ vài đêm lại mất sáng
STT Tác giả Tác phẩm Số Năm Báo, tạp chí
23 Nhật Nham Sau tám năm trở lại thăm Laokay Tri tân tạp 1942
chí 46
24 Thanh Nghệ thuật rong chơi Trung Bắc 160 1943
Tân văn Châu
25 Ngọc Ước Miền thượng du Bắc kỳ Nam Kỳ 74, 75,
tuần báo 76 1944
26 Bắc Lâm Pháo Đài Vì Nước 5,6,8,9 1945
Tử
27 T.Đ Từ Hà Nội đến Sơn La Vì Nước 7 1945
28 Điêu Linh Phụ nữ Mường Cứu Quốc 303 1946
PHỤ LỤC 2
Tác phẩm du ký về vùng Đông Bắc Việt Nam
nữa đầu thế kỷ XX (Xếp theo thời gian)
STT Tác giả Tác phẩm Số Năm
1 Nguyễn Văn Bân Báo, tạp chí Nam Phong 44 1921
2 Nhạc Anh Hoàng Nam Phong 44 1921 Bài ký phong thổ tỉnh Tuyên Quang Ba Bể du ký
3 4 Pháp du hành nhật ký Nam Phong Chơi vịnh Hạ Long Nam Phong 58 82 1922 1924
5 Văn Trung Phạm Quỳnh Nguyễn Hữu Tiến Phạm Quỳnh Nam Phong 96 1925
6 Nam Phong 105, 106 1926
Chơi Lạng Sơn - Cao Bằng Hành trình chơi núi An Tử
7 Mấy ngày chơi Thất Khê Nam Phong 122 1927
Kiếm Hồ Nguyễn Thế Hữu Nguyễn Thế Xương
Đội Tứ 145 168 1484 1929 1932 1932
Quảng Yên du ký Từ làng Hạ Lang đến đồn Bản Tín Thăm chùa Hồ Một cuộc hành du Non nước Cao Bằng Hội Đồ Sơn Hồ Ba Bể 15 125 76 121 25
8 Đặng Xuân Viện Định Hóa châu du ký Nam Phong Nam Phong 9 Nhàn Vân Đình Hà Thành 10 ngọ báo Ngày nay Kho Bé Khoa học BA B.J Thời vụ Thuyết Hải Ngày nay Trọng Lang Nhật Nham Tri Tân Nhật Nham Từ Hà Nội đến hồ Ba Bể Tri Tân Lê Thọ Xuân Đi viếng đền Hùng Đại Việt tạp 11 12 13 14 15 16 17 1935 1936 1938 1938 1941 58 đến 74 1942 1944 38
18 Vân Đài chí Tri Tân 1944
Bốn năm trên đảo Các Bà
149, 154, 156, 157, 158