BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Hoàng Thị Thùy Dương
GIẢI MÃ THẾ GIỚI ẢO TRONG
LIÊU TRAI CHÍ DỊ DƯỚI GÓC NHÌN CỦA
HUYỀN THOẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 60 22 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ từ những tấm lòng mà tôi trân trọng tri ân:
Tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. Trần Xuân Đề, giảng viên trường Đại học sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh, người hướng dẫn luận văn.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô khoa ngữ văn trường Đại học sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh, phòng Khoa học công nghệ và Sau đại học đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện và động viên tôi trong thời gian vừa qua.
Người viết luận văn
Hoàng Thị Thùy Dương
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Hiếu kỳ dường như là nét tính cách có ở mọi con người trên thế giới rộng lớn này.
Không dừng lại ở đó, con người còn có hứng thú đặc biệt với những gì được xem là ảo – giống
như thật nhưng không hề có thật. Cho dù đến ngày hôm nay khi khoa học đã rất phát triển,
chúng ta vẫn chưa bao giờ thỏa mãn với tất cả những gì khoa học đã soi sáng, bằng chứng là
những điều hư ảo, mộng ảo… luôn được tìm kiếm, đón nhận và thưởng thức với thái độ vô
cùng thích thú. Trong mỗi con người hôm nay, dù đã cách xa thời nguyên thủy – thời của thần
thoại với khoảng cách thời gian được tính bằng đơn vị nghìn năm thì trong tư duy, dù đã phôi
phai theo thời gian vẫn in rõ dấu vết của sự tưởng tượng và niềm tin về sự kỳ diệu của thế giới.
Mối liên hệ về tư duy của loài người từ thuở ấu thơ đến mãi về sau tuy không có hình hài cụ thể
nhưng vô cùng chặt chẽ, hơn nữa cái ảo bản thân nó tuy không có thật nhưng xét cho cùng
những đặc điểm riêng biệt của nó thì không phải hoàn toàn hư ảo cho nên con người luôn luôn
có hứng thú đặc biệt với đối tượng này, ngay cả trong thời hiện đại.
Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của các nhà nghiên cứu Jean Chevalier, Alain
Gheerbrant đã xác định: “Nếu phương Đông thường được đối lập với phương Tây như là tính
duy tinh thần đối lập với chủ nghĩa vật chất, đức hiền minh với sự huyên náo, cuộc sống chiêm
nghiệm với cuộc sống hoạt động, siêu hình học với tâm lý học – hoặc với logic học – thì đó là
do những khuynh hướng sâu sắc và rất hiện thực…” [13, tr.310]. Như vậy, mặc cho “việc Tây
hóa từng bước của các giới thượng lưu phương Đông” [13, tr.310], con người phương Đông
nói chung vẫn giữ đặc trưng riêng của mình bằng tính hướng nội – hướng vào bên trong, vào
thế giới tinh thần của bản thân mình. Chính vì thế, con người phương Đông cũng tìm kiếm, đón
nhận và am hiểu những gì ảo diệu trong cuộc sống này không chỉ bằng trí tuệ mà còn bằng cả
trái tim.
Trung Hoa là một đất nước có lịch sử lâu đời nhất không chỉ ở phương Đông mà còn là
một trong những cái nôi của văn hóa thế giới. Tiêu biểu cho tinh thần của thế giới, đặc biệt là
tinh thần phương Đông, từ xưa cho đến tận ngày hôm nay, đất nước này luôn hiếu sử, hiếu sự
trên cơ sở sử và sự phải có yếu tố ảo dù ít dù nhiều để thỏa mãn sự hiếu kỳ. Các yếu tố ảo đã trở
thành một phạm trù thẩm mỹ của văn hóa Trung Hoa. Văn học dù chỉ là bộ phận của văn hóa
nhưng là một trong những nơi lưu giữ nhiều và tập trung nhất các yếu tố ảo qua lăng kính nhìn
nhận của con người cho nên sự kỳ ảo từ xưa đến nay đã làm nên một sắc thái độc đáo của văn
học Trung Quốc. Mặc dù đặc trưng đời sống dân tộc và sự tồn tại của đạo Nho khiến cho kho
tàng thần thoại của đất nước này thu thập rất ít nhưng bù đắp lại cái ảo đã tạo nên một dòng
chảy bền bỉ, lâu dài xuyên suốt lịch sử văn học Trung Hoa.
Ở Trung Hoa, văn học có sử dụng các yếu tố ảo ra đời từ rất sớm, thành một dòng riêng
khơi nguồn từ những tình cảm lãng mạn trong các câu chuyện thần thoại thời thượng cổ, được
bồi đắp bởi truyền kỳ Đường, thoại bản thời Tống – Nguyên, đặc biệt là dòng văn học mộng ảo
đời Minh – Thanh… và hiện những năm gần đây xuất hiện hàng loạt những tác phẩm kỳ ảo gây
tiếng vang trên cả thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, dù Trung Hoa có cả kho tàng tác phẩm văn
học có yếu tố ảo thì nhắc đến thế giới kỳ ảo của văn chương vẫn gợi lên trong lòng người đọc
ấn tượng sâu sắc nhất với tiểu thuyết Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh thuộc văn học Minh –
Thanh “Các tác giả truyện thần quái Trung Quốc kể có đến hàng trăm người nhưng miêu tả
sâu sắc đến chỗ vi diệu, truyện hay, sống động thì chỉ có một họ Bồ mà thôi” [24, tr.10]. Các
yếu tố ảo trong tiểu thuyết Liêu trai chí dị đã để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc cho người đọc
“chuyện hồ quỷ chiếm quá nửa, minh bạch là câu chuyện bịa đặt, mà cái hay cứ hay” [45, tr.6].
Có điều Liêu trai chí dị luôn khiến người đọc say mê nhưng không phải là dễ hiểu khi tiếp cận
những yếu tố kỳ bí trong một tác phẩm văn học cổ điển. Giải mã thế giới ảo của tác phẩm này
tìm ra cái ma lực hấp dẫn người đọc luôn là thách thức đối với những ai tâm đắc.
Nghiên cứu văn học trong mấy chục năm qua đã chứng kiến sự lớn mạnh của huyền thoại
học – ngành khoa học nghiên cứu về huyền thoại đặc biệt là huyền thoại trong các tác phẩm văn
học. Điều này đã đáp ứng nhu cầu bức thiết của việc nghiên cứu tác phẩm văn học bởi vì văn
học và huyền thoại vừa có quan hệ nguồn gốc lại vừa có quan hệ qua lại với nhau. Tác phẩm
văn học sử dụng, sáng tạo rất nhiều yếu tố ảo và xét cho cùng chúng có nguồn gốc từ tư duy
huyền thoại từ thời nguyên thủy – một kiểu tư duy vẫn tồn tại cùng lịch sử phát triển của loài
người. Giờ đây, các tác phẩm có bàn tay gia công, sáng tạo của nhà văn còn sử dụng các yếu tố
ảo của huyền thoại nhằm mục đích nâng cao hiệu quả nghệ thuật. Lý thuyết của huyền thoại
học không chỉ tìm hiểu các dạng thức huyền thoại trong văn học mà còn chỉ ra nguồn gốc cũng
như mục đích sử dụng của nó.
Một tác phẩm văn học có giá trị luôn đòi hỏi sự tìm hiểu dưới nhiều góc độ để nó luôn
bộc lộ những ý nghĩa mới mẻ. Liêu trai chí dị xưa nay thường được nghiên cứu dưới góc độ xã
hội học, thi pháp học… Thử giải mã tuyệt tác văn học này dưới góc nhìn của khoa học về
huyền thoại sẽ thấy cái hay của tác phẩm hiện lên với nhiều chiều kích. Thế giới ảo được tạo
nên từ sự kế thừa tư duy huyền thoại – tài sản chung của cả nhân loại, từ đặc tính dân tộc nhưng
cũng từ bàn tay, khối óc nhào nặn, sáng tạo của nhà văn Bồ Tùng Linh vì những mục tiêu nghệ
thuật của mình. Đó là lí do người viết chọn đề tài “Giải mã thế giới ảo trong Liêu trai chí dị
dưới góc nhìn của huyền thoại học”.
2. Lịch sử vấn đề
Liêu trai chí dị thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trước kia, các nhà Nho
chính thống cho rằng Liêu trai chí dị chủ yếu viết về hồ ly, những chuyện quỷ quái hoang
đường và nói nhiều về tình yêu trai gái nên họ xếp tác phẩm vào loại sách hoang đường và dâm
loạn. Tuy nhiên, các ý kiến không ủng hộ tác phẩm chiếm một tỉ lệ vô cùng ít ỏi. Càng về sau,
các nhà nghiên cứu có cái nhìn xác đáng hơn rất nhiều đối với Liêu trai.
Về tiểu thuyết Liêu trai chí dị của nhà văn Bồ Tùng Linh cho đến nay vẫn chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách chi tiết toàn bộ giá trị của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu
thường đặt sự đánh giá về Liêu trai chí dị bên cạnh sự đánh giá về các tác phẩm khác của Trung
Hoa trong khuôn khổ một giáo trình hoặc chỉ tìm hiểu một khía cạnh, một vấn đề của tác phẩm
trong khuôn khổ một bài báo, một bài viết thuộc tập hợp các bài nghiên cứu của cùng một tác
giả. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là tuy phạm vi đánh giá của các nhà nghiên cứu đối với
Liêu trai như thế nào thì sự đánh giá đó hết sức sâu sắc và xác đáng, các ý kiến hầu như chỉ để
bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Đặc biệt, các nhà nghiên cứu đều khẳng định giá trị của tác phẩm là
xây dựng được nhiều yếu tố ảo phát huy được hết sức mạnh của mình. Nhà nghiên cứu Trần
Xuân Đề trong cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc khẳng định Bồ Tùng Linh có “một phong
cách nghệ thuật huyền ảo” [21, tr.210]. Giá trị của Liêu trai được tạo nên nhờ tác giả đã xây
dựng được một bức tranh vừa thực vừa ảo: “Trong văn học Trung Hoa nửa cuối thế kỷ XVII –
nửa đầu thế kỷ XVIII, Bồ Tùng Linh (1640 – 1715) là một cây bút đoản thiên văn xuôi vĩ đại.
Với gần 500 truyện ngắn truyền kỳ xen lẫn chí quái tập hợp trong bộ Liêu trai chí dị, ông đã
dựng lên cả một thế giới nghệ thuật kỳ ảo muôn hình muôn vẻ, làm say mê biết bao thế hệ bạn
đọc trong hơn 300 năm qua, bắt người ta phải nghiền ngẫm khám phá không biết chán bức
tranh thực - ảo đầy bí ẩn của ông…” [14, tr.28]. Nhiều người bình đã thể hiện ấn tượng sâu sắc
với Bồ Tùng Linh – người đã đưa rất nhiều yếu tố ma mị vào tác phẩm của mình “tài không
được như Can Bảo, thường thích việc sưu thần, tính giống như Hàng Châu, ưa nghe nói chuyện
quỷ” [58, tr.272 ]. Số lượng các truyện ngắn tập hợp trong tiểu thuyết Liêu trai chí dị chính xác
là 431, 445, 491, 505… thì vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy số lượng truyện ngắn rất
nhiều nhưng sợi dây duy nhất liên kết chúng thành một tiểu thuyết lại dễ dàng được mọi người
đồng tình: “Toàn bộ gồm 431 truyện ngắn, đại đa số là chuyện hồ ma, quỷ mị” [39, tr.245].
Theo hai dịch giả Nguyễn Chí Viễn và Trần Văn Từ, Liêu trai “Phần lớn là truyện kể những
cuộc tình duyên kỳ ngộ giữa người và hồ ly hoặc ma quỷ” [44, tr.7], có một số truyện không có
nội dung trên thì cũng kể về các sự việc huyền bí như chuyện hiển linh của thần thánh, Phật,
tiên hoặc tục lạ của loài thú, phép thuật của cao tăng, mánh khóe gian manh của cường đạo, các
vật lạ trên đời như đá quý, cỏ lạ, hoa yêu… Cũng không ngoài mục đích khẳng định sự tồn tại
một cách vô cùng hấp dẫn của rất nhiều yếu tố ảo trong tiểu thuyết Liêu trai chí dị, nhà nghiên
cứu Lê Nguyên Cẩn nhận định “Với Liêu trai chí dị, Bồ Tùng Linh trở thành đại diện tiêu biểu
của văn học kỳ ảo Trung Hoa và thế giới” [11, tr.232]. Tất cả các nhận dịnh trên đây đều khẳng
định sự tồn tại của thế giới ảo trong Liêu trai chí dị và tạo một tiền đề cơ bản để người viết triển
khai các ý kiến của mình.
Sau khi nhận định chung về tiểu thuyết Liêu trai chí dị, thông thường các nhà nghiên cứu
đi sâu tìm hiểu từng khía cạnh của tác phẩm và dĩ nhiên, các yếu tố ảo luôn được chú ý đặc biệt.
Thông thường, tác phẩm sẽ được đánh giá theo quan điểm xã hội học. Đây là một hướng nghiên
cứu tồn tại khá lâu trong lịch sử nghiên cứu văn học nói chung và Liêu trai chí dị nói riêng. Các
công trình, bài viết chủ yếu được tiến hành theo quan điểm giai cấp, quan điểm xã hội để đánh
giá nội dung tư tưởng, ý nghĩa xã hội của tác phẩm. Đối với tiểu thuyết Liêu trai chí dị, các yếu
tố ảo được xem xét kết hợp với cái thực để làm nổi bật chức năng xã hội của tác phẩm. Tản Đà
khi dịch Liêu trai đã có những cảm nhận riêng của mình bày tỏ sự hứng thú đối với tác phẩm
nói chung và dành nhiều câu chữ trong lời bình ngắn gọn để bày tỏ sự đánh giá cao Liêu trai ở
khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống:“Cái hay của Liêu trai chí dị là nghìn vạn cảnh trạng ở
nhân gian đều thu vào phiến ảnh rất nhỏ bé, mà cảnh nào tình ấy, nhận cho kỹ sẽ thấy rất rõ
ràng” [45, tr. 5]. Lời giới thiệu của một bản dịch Liêu trai chí dị cho rằng hai câu thơ trong
truyện Khảo thành hoàng gói gọn triết lý của cả bộ tiểu thuyết Liêu trai. Hai câu thơ đó như
sau: “Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng / Vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt” [44, tr.8]. Và dĩ
nhiên, theo các dịch giả này, các yếu tố ảo đã làm nên giá trị to lớn của tác phẩm bởi vì “tác
giả mượn chuyện ma quỷ, hồ ly để gián tiếp lên án các hành vi bỉ ổi của người đời và luôn thể
răn đe người đọc phải tránh tà tâm mới khỏi mắc phải” [44, tr.8]. Bên cạnh các dịch giả, các
nhà nghiên cứu dường như cũng rất chú trọng mặt nội dung tư tưởng, ý nghĩa xã hội của tác
phẩm. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi đã tìm hiểu sâu sắc về nhà văn Bồ Tùng Linh, đặc biệt
là tư tưởng. Ông cho rằng tư tưởng của tác giả này là cả một khối phức tạp chứ không thuần
nhất, vừa có trong mình nhân tố phi Nho, lại vừa là một đại biểu trung thành của Nho giáo, vừa
biết nhập cuộc khẳng định cuộc sống trần thế, lại vừa rất tin vào thuyết luân hồi nhà Phật, cũng
không ít cảm tình với phép thuật trường sinh của giới đạo sĩ. Từ nhận định Bồ Tùng Linh đã thể
hiện sự mâu thuẫn tư tưởng trong tác phẩm, nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi đã khẳng định
giá trị của Liêu trai chí dị như sau: “Sức mạnh của Liêu trai chí dị chủ yếu là ở chỗ, nó là sản
phẩm của trí tưởng tượng của Bồ Tùng Linh nhưng lại không tách rời nền tảng hiện thực của
thời đại tác giả” [14, tr.32]. Nội dung của Liêu trai chí dị thường được chia làm ba chủ đề
chính: thứ nhất, “vạch trần chế độ chính trị đen tối tham quan ô lại, đả kích các tham quan ô
lại, cường hào ác bá, bênh vực những người lương thiện bị oan ức, bị chà đạp, bị bức hại” [62,
tr.212]; thứ hai, “đề cập đến tệ hại của chế độ khoa cử, nó đã đầu độc không biết bao nhiêu
người, làm cho họ vì công danh mà mê muội, mất hết cả sự phán đoán sáng suốt” [62, tr.214];
thứ ba là “đề tài tình yêu và hôn nhân”, “coi tình yêu say đắm là chính đáng, tác giả nhiệt tình
ca ngợi những người đang yêu, dựng dậy những hình tượng rạng rỡ, mạnh mẽ và trong sáng
của nam nữ thanh niên trong đời sống yêu đương” [62, tr.218]. Nhà nghiên cứu Trần Xuân Đề
trong cuốn sách Lịch sử văn học Trung Quốc cũng nhấn mạnh giá trị nội dung của Liêu trai,
cho rằng bộ tiểu thuyết này có ba nội dung chính: tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, ca ngợi
phẩm chất của những người bị áp bức đặc biệt là những người phụ nữ và không chỉ là sự đấu
tranh cho tình yêu lứa đôi, cuối cùng là nội dung tố cáo chế độ khoa cử. Cuốn sách Lịch sử văn
học Trung Quốc (Nhà xuất bản Giáo dục, 1997) của Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện khoa
học xã hội Trung Quốc bên cạnh sự đánh giá ngắn gọn về một vài đặc điểm nghệ thuật đã tập
trung đánh giá về ba nội dung chính của Liêu trai chí dị và chứng minh một cách vô cùng
thuyết phục rằng các nội dung của bộ tiểu thuyết này đều phản ánh một cách vô cùng chân thực
thực trạng xã hội đương thời. Có nhà nghiên cứu khác đã nhận định khái quát “những tác phẩm
chiếm địa vị chủ đạo trong bộ Liêu trai chí dị là phê phán xã hội hiện thực và ảo tưởng về một
cuộc sống tốt đẹp. Đó là điều làm cho mọi người yêu thích bộ sách này” [34, tr.60] và đã viết
về cuộc đời, tư tưởng phức tạp của Bồ Tùng Linh, phân tích tường tận các nội dung chính của
tác phẩm trước khi điểm qua một vài đặc sắc nghệ thuật về ngôn ngữ kể chuyện, về sự kế thừa
chí quái và truyền kỳ… Một số dẫn chứng trên đây đã cho thấy các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu
Liêu trai chí dị thường chú ý nội dung hơn là nghệ thuật, thường đánh giá cái ảo bằng thước đo
chức năng xã hội.
Tất nhiên, nhận xét trên chỉ là tương đối, tất cả các bài viết, công trình nghiên cứu, các
cuốn sách có phân tích về Liêu trai chí dị không ít thì nhiều cũng đề cập và có khi phân tích giá
trị nghệ thuật của bộ tiểu thuyết này. Bởi vì nghệ thuật của Liêu trai rất thống nhất, độc đáo và
có hiệu quả rất cao, là kiểu mẫu, có sự định hướng đối với các tác phẩm văn học Trung Hoa sau
này và cả đối với văn học nước khác. Nhà nghiên cứu Trần Lê Bảo trên tạp chí Văn hóa dân
gian (số 1 năm 2000) đã gọi các tác phẩm Trung Hoa thuộc trào lưu quay về với quá khứ, quay
về cội nguồn thần thoại là Liêu trai hiện đại, kể cả một số tác phẩm của văn học đương đại
Việt Nam. Nhà văn Lỗ Tấn đã nhận định về sự kế thừa một cách đầy sáng tạo mới lạ của Bồ
Tùng Linh đối với dòng văn học sử dụng các yếu tố ảo vốn xuyên suốt lịch sử văn học Trung
Quốc: “dùng phương pháp truyền kỳ để viết theo lối chí quái, tình tiết biến ảo như bày ra trước
mắt thật. Lại có khi đổi điệu thay dây, thuật hành vi lạ, tả người đặc kỳ hiếm thấy, ra cõi mộng
ảo, vào thế gian tình cờ có thuật chuyện vặt thì cũng giản dị trong sáng, cho nên tai mắt độc
giả cũng thấy mới và hay” [58, tr.273], “các sách chí quái cuối đời Minh đại để đều sơ lược lại
lắm điều hoang đường quái đản, không ra tình người. Chỉ một mình Liêu trai chí dị là tường
tận mà lại bình thường, khiến cho yêu hoa tinh cáo đều giống người ta, hiền hòa, giản dị dễ
thân, quên mình là giống khác” [58, tr.273]. Tuy nhiên, dường như càng về sau, đặc biệt đến
những năm gần đây, các nhà nghiên cứu mới tiếp cận Liêu trai chí dị từ chính những yếu tố cấu
thành đặc trưng nghệ thuật của tiểu thuyết này, cũng như lý giải phần nào sức hấp dẫn ma mị
của tác phẩm. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi đã xác định điểm quy chiếu của tiểu thuyết này
là nhân vật thư sinh trong hệ thống nhân vật đa dạng của tác phẩm, phân tích ba điểm trong sự
tổ chức về nghệ thuật của tiểu thuyết này: nghệ thuật dựng truyện, miêu tả tâm lý, nghệ thuật
xây dựng tính cách nhân vật, trong đó “đóng góp có ý nghĩa sáng tạo của Bồ Tùng Linh vào
quá trình phát triển của tư duy tiểu thuyết là việc xây dựng tâm lý nhân vật” [14, tr.34]. Một
thời gian sau, có nhà nghiên cứu khác lại khẳng định và chứng minh nhân vật mỹ nữ (hầu hết
là nhân vật ảo) là điểm quy chiếu mới của hệ thống nhân vật trong Liêu trai chí dị. Ông không
nhìn nhận nhân vật mỹ nữ trong quan hệ với thư sinh mà nhìn nhận mỹ nữ như một phương tiện
nghệ thuật, một biểu tượng nhân dục đời thường. Con đường tiếp cận này rất phù hợp với Liêu
trai chí dị vì tác phẩm này có đặc trưng nghệ thuật là sử dụng yếu tố kỳ ảo như một phương tiện
nghệ thuật trong xây dựng nhân vật nói riêng và xây dựng tác phẩm nói chung “Xét hệ quy
chiếu này không theo cấu trúc tầng bậc của hệ quy chiếu thư sinh. Mỹ nữ được xem như một
biểu tượng của nhân dục, điều này phù hợp với đặc trưng nghệ thuật của Liêu trai: Sử dụng cái
kỳ ảo như một phương tiện nghệ thuật tạo “nét nhòe” trong xây dựng nhân vật” [32, tr.51],
“nói chuyện Liêu trai trước hết là người đọc nghĩ chuyện gái trai, chuyện mỹ nữ, hồ ly. Đó là
tác động khách quan ban đầu khó phủ nhận” [32, tr.51]. Trong thế giới kỳ ảo của Liêu trai, có
lẽ các nhân vật ma, hồ ly được nhà văn xây dựng thành công nhất. Ma là “dạng yếu tố kỳ ảo
mang tính phổ quát toàn nhân loại” [11, tr.232] mà cái kỳ ảo là “một phạm trù tư duy nghệ
thuật – nó còn là một cách nhận diện con người và cuộc đời” [11, tr.232]. Như vậy, nghệ thuật
xây dựng nhân vật mà ở đây nhân vật kỳ ảo giữ vai trò quan trọng nhất đã quyết định nghệ
thuật xây dựng truyện theo hình tượng kỳ ảo. Nhìn chung ý kiến bàn về nghệ thuật của Liêu trai
chí dị chủ yếu xoay quanh nghệ thuật xây dựng cốt truyện và nhân vật. Bên cạnh đó, có một vài
ý kiến bàn về các thành tố khác của nghệ thuật như không gian, thời gian… dù rằng rất ít ỏi.
Không gian ảo trong Liêu trai chí dị là một sáng tạo của Bồ Tùng Linh “ông đã dùng thế giới
quỷ như một tấm gương ảo để mọi người, với mọi trình độ khác nhau, quan niệm sống khác
nhau, tư duy thẩm mỹ không đồng nhất đều có thể tìm thấy hình bóng, tiếng vang chân thực của
thế giới hiện thực gần gũi với mình” [14, tr.20]. Nhà nghiên cứu Lê Nguyên Cẩn trong bài viết
bàn về ma trong Liêu trai cũng dành vài dòng ngắn gọn cho không gian nghệ thuật, thời gian
nghệ thuật của tác phẩm này. Theo ông, không gian của tiểu thuyết này “Làm ra vẻ giống thật
mà lại hoàn toàn là ảo, làm ra vẻ có địa điểm cụ thể mà lại không cụ thể chính là thủ pháp
căng rộng kích thước không gian, đẩy nó tới mức phi không gian theo kiểu thi pháp cổ tích”
[11, tr.235]. Đối với thời gian trong Liêu trai, nhà nghiên cứu này cho rằng “Thời gian nghệ
thuật, ở đây được tạo ra nhờ có thủ pháp cô đúc hãm chậm, đẩy nhanh và đảo ngược thời
gian” [11, tr.236]. Nói chung, sự nghiên cứu về nghệ thuật của Liêu trai chí dị trong các bài
viết, các cuốn sách còn rất chung chung hoặc riêng lẻ từng mặt không được sự ưu ái như nội
dung của tác phẩm, dù rằng sự phân biệt nội dung và nghệ thuật là điều hết sức khó khăn và chỉ
mang tính tương đối. Tuy nhiên, những năm gần đây đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu
xoáy sâu vào thế giới nghệ thuật của Liêu trai chí dị như luận văn Cái kỳ trong Liêu trai chí dị
của Bồ Tùng Linh, luận án Thế giới nghệ thuật trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh của tác
giả Trần Văn Trọng. Có điều, các công trình này dù có cái nhìn bao quát về cái kỳ, về thế giới
nghệ thuật bao gồm cả cái kỳ lẫn cái bất kỳ đi nữa thì cũng chưa tìm đến một cách tương đối
đầy đủ cội nguồn của các yếu tố ảo cũng như nghệ thuật sử dụng nó – những yếu tố bắt nguồn
từ huyền thoại – đầy mới mẻ, sắc sảo trong Liêu trai.
Trên hành trình đi tìm nguồn gốc của các yếu tố ảo trong Liêu trai chí dị cũng như cách
thức chuyển hóa huyền thoại vào trong tiểu thuyết này, chúng tôi bắt gặp không ít ý kiến khẳng
định các yếu tố ảo trong Liêu trai có nguồn gốc lâu đời và là sự kế thừa qua các thời kỳ văn
học. Tuy nhiên, việc xác định nguồn gốc sâu xa như thế nào và nhà văn Bồ Tùng Linh đã phải
sáng tạo ra sao để gia tài các yếu tố huyền thoại ấy có tính thời sự sâu sắc thì vẫn chưa có ý
kiến lý giải một cách đầy đủ. Hầu hết các nhà nghiên cứu khẳng định Liêu trai chí dị ra đời từ
sự kế thừa các tác phẩm văn học trước đó, kể cả thần thoại và nhận định nhà văn Bồ Tùng Linh
sử dụng các yếu tố ảo để phản ánh hiện thực xã hội, tránh búa rìu của lễ giáo đối với nhân vật,
tác phẩm và chính bản thân mình. Lỗ Tấn đã đặt Liêu trai chí dị trong hệ thống tiểu thuyết chí
quái, chí dị mô phỏng thời Tấn Đường của đời Thanh để khảo sát và phân tích diễn biến của thể
loại để cuối cùng rút ra nhận định tuy Liêu trai có sự kế thừa sâu sắc nhưng đã có sự vượt trội
so với các tác phẩm cùng loại hình trước đó: “Liêu trai chí dị tuy cũng có sách cùng loại đương
thời, không ngoài những chuyện đời xưa nói về thần tiên, ma quái, yêu tinh song mô tả cũng
khác, thứ lớp rõ ràng, dùng phương pháp truyền kỳ mà viết theo lối chí quái, tình tiết biến ảo
như bày ra trước mắt thật” [58, tr.273]. Các tác giả của Lịch sử văn học Trung Quốc cũng
nhận định: “Bộ Liêu trai chí dị rõ ràng chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chí quái đời Ngụy Tấn
và chuyện truyền kỳ đời Đường nhưng cách viết thì lại có nhiều chỗ phát triển và sáng tạo”
[57, tr.609]. Riêng đối với nhân vật hồ ly – loại nhân vật ảo chiếm tỉ lệ cao trong hệ thống nhân
vật của Liêu trai chí dị, có nhà nghiên cứu đã viết đôi dòng hé lộ nguồn gốc: “Những câu
chuyện về hồ tinh, có nguồn gốc từ lâu trong tiểu thuyết cổ của Trung Quốc nhưng riêng Bồ
Tùng Linh đặc biệt có chú ý và có sở trường về loại này” [34, tr.608], “chỉ khi nào người phụ
nữ đó được miêu tả là một loại “hồ tinh” do thoát ra ngoài kết cấu cố hữu của xã hội mới
không thể dùng chuẩn mực của lễ giáo để đánh giá họ” [34, tr.608]. Ở Việt Nam, cách đây khá
lâu nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Khánh khẳng định Liêu trai chí dị là thành quả của sự kế thừa
và sáng tạo “tác giả đã để đến hai mươi bốn năm sưu tập trong dân gian, trong các sách chí
quái đời Lục triều, truyền kỳ đời Đường, Tống rồi viết lại và đẽo gọt rất công phu mới hoàn
thành” [39, tr.245]. Tuy nhiên, điều đáng chú ý nhất là nhà nghiên cứu này giải thích một phần
thế giới ảo trong Liêu trai dưới góc nhìn phân tâm học “Thực ra Liêu trai chẳng có sức mạnh
huyền bí gì cả nhưng Liêu trai đã nói lên được vấn đề mà mọi người thường – dù nam hay nữ -
đều phải nghĩ tới: vấn đề sinh lý” [39, tr.247]. Ông cho rằng Liêu trai chí dị đấu tranh chống lại
quan niệm trọng nam khinh nữ - một biểu hiện của lễ giáo phong kiến vô cùng giả dối, bất
công, Liêu trai là tiếng nói khẳng định bản năng sinh lý của mọi người đều phải được phát triển
công bằng và tình yêu phải tự do, chân thành, không phân biệt đẳng cấp và nên dẫn tới hôn
nhân. Cho dù trong bài viết về Liêu trai chí dị, nhà nghiên cứu này dùng lối viết hết sức dân dã,
tự nhiên nhưng ông đã có những nhận định rất sắc sảo mà chắc hẳn sẽ có rất nhiều người đồng
tình: “Nếu để ý đọc kỹ những truyện của Bồ Tùng Linh, chúng ta thấy tác giả viết Liêu trai chí
dị không phải vì mục đích khêu gợi dục tính. Tác giả có những dụng ý rất trong sạch mặc dù đã
viết về những vấn đề bị coi là không trong sạch” [39, tr.251]. Nói chung, nguồn gốc xa xưa của
Liêu trai chí dị được nhiều nhà nghiên cứu đồng tình “Do tiếp thu truyền thống của chí quái và
truyền kỳ, Liêu trai khai thác toàn bộ chuyện lạ (chí dị) đặc biệt là chuyện chung sống giữa
người và hồ ly. Sự tưởng tượng huyền diệu của tác giả tạo nên màu sắc kỳ ảo của Liêu trai”
[60, tr.221]. Sự biến hóa thực - ảo, ảo mà lại gần gũi thân thiết trong tiểu thuyết này “bắt nguồn
từ việc quan sát cuộc sống, nhận thức hiện thực sâu sắc và thấu đáo của tác giả. Mặt khác còn
do khuynh hướng lãng mạn tích cực của tác phẩm. Cũng giống như thần thoại, yêu quái ở đây
đã giúp con người chiến thắng thiên tai nhân họa” [60, tr.221]. Qua đây, có thể thấy rằng sự
tìm hiểu về thế giới ảo trong tác phẩm văn học về nguồn gốc cũng như về sự sáng tạo của nhà
văn Bồ Tùng Linh khi chuyển hóa huyền thoại để xây dựng một thế giới ảo trong tác phẩm mới
chỉ được các nhà nghiên cứu hé lộ đôi chút.
Như vậy, thế giới ảo trong Liêu trai chí dị vẫn còn là một khoảng trống rất lớn đối với
huyền thoại học – một ngành nghiên cứu dành cho những tác phẩm văn học mang màu sắc
huyền thoại như Liêu trai. Huyền thoại học không chỉ nghiên cứu sự hiện hữu của thế giới
ảo trong tác phẩm mà còn tìm hiểu nguồn gốc sinh thành của nó, không chỉ nghiên cứu về
giá trị nghệ thuật của thế giới ảo mà còn khám phá cả giá trị nội dung, để từ đó có thể
hiểu Liêu trai chí dị một cách sâu sắc hơn.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thế giới ảo trong Liêu trai chí dị nên đối tượng nghiên cứu của luận
văn là tất cả các yếu tố thuộc về “Thế giới ảo trong Liêu trai chí dị”.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Một tác phẩm văn học hiện lên như một chỉnh thể với vô số các yếu tố đan kết chặt chẽ
với nhau. Người viết chỉ tìm hiểu các yếu tố ảo trong Liêu trai chí dị được thể hiện ở các bình
diện chính trong tác phẩm là cốt truyện, nhân vật, không gian và thời gian.
Huyền thoại như một kiểu nói mơ hồ, đa nghĩa mà nghĩa nào cũng có mặt lâu đời trong
văn chương. Ở đây, chúng tôi xác định cách hiểu về huyền thoại theo quan niệm của nhà
nghiên cứu người Nga Meletinsky được nhiều nhà nghiên cứu đồng tình. Trước hết, huyền
thoại (myth) là “những truyện kể thiêng liêng, giải thích thế giới và con người đã hình thành và
có được dạng tồn tại hiện nay như thế nào” [40, tr.3]. Bên cạnh đó, “huyền thoại (mythology)
còn được dùng để chỉ tổng thể các câu chuyện như thế, đồng thời cũng được dùng để chỉ hệ
thống quan niệm hoang đường về thế giới” [40, tr.4].
Hiện nay có rất nhiều tuyển tập Liêu trai chí dị được dịch và xuất bản. Năm 1949, tuyển
tập Liêu trai chí dị do Nguyễn Văn Thi dịch và xuất bản ở Hà Nội. Năm 1989, tuyển tập Liêu
trai chí dị xuất bản với lời giới thiệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi. Năm 1995, Liêu trai
chí dị xuất bản với lời bình của Tản Đà và lời bạt của Chu Văn. Năm 1996, Liêu trai chí dị
được hai dịch giả Nguyễn Chí Viễn và Trần Văn Từ xem là dịch trọn bộ với 445 truyện. Văn
bản chính mà người viết khảo sát là tiểu thuyết Liêu trai chí dị trọn bộ ba tập do dịch giả
Nguyễn Chí Viễn và Trần Văn Từ dịch (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2007).
4. Phương pháp nghiên cứu
-Phê bình huyền thoại là phương pháp chủ đạo. Cơ sở phương pháp luận của phê bình
huyền thoại là quan niệm cho rằng huyền thoại là nhân tố quyết định để hiểu toàn bộ các tác
phẩm nghệ thuật của nhân loại “Việc nhấn mạnh tính phổ quát của huyền thoại trong toàn bộ
hoạt động sáng tạo văn chương là một đặc điểm khu biệt cơ bản của phê bình huyền thoại” [15,
tr.67]. Phương pháp này sử dụng các lý thuyết của huyền thoại học để phân tích yếu tố huyền
thoại trong tác phẩm văn học, từ đó có sự đánh giá, định hướng cho sự sử dụng, sáng tạo huyền
thoại. Hiện nay, phê bình huyền thoại là một phương pháp nghiên cứu khá mới mẻ trên thế giới,
đang từng bước xác lập nội hàm khái niệm. Tuy mới mẻ nhưng ngành nghiên cứu này đã tỏ ra
rất hữu hiệu khi đưa các yếu tố ảo trong tác phẩm văn học về với cội nguồn của nó là huyền
thoại.
-Phương pháp so sánh: so sánh giữa các yếu tố ảo trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng
Linh và các yếu tố ảo trong thần thoại Trung Hoa nói riêng, thần thoại thế giới nói chung cũng
như một số tác phẩm được gọi là huyền thoại hiện đại trên thế giới để thấy sự tương đồng và
khác biệt.
-Phương pháp lịch sử, văn hóa học : đặt tác phẩm nói chung, các yếu tố của thế giới ảo
nói riêng vào trong bối cảnh ra đời của Liêu trai chí dị.
Ngoài ra, người viết còn sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp phân tích:
phân tích các yếu tố ảo có trong tác phẩm; phương pháp tổng hợp: đưa ra cái nhìn tổng thể về
các yếu tố ảo; phương pháp thống kê: khảo sát một số yếu tố ảo chiếm số lượng như thế nào
trong tác phẩm.
5. Đóng góp của luận văn
Huyền thoại là một phương pháp sáng tác hiện đại. Ở châu Mỹ La Tinh, ở châu Âu thế
kỷ XX, độc giả đã chứng kiến một loạt hiện tượng văn chương kỳ ảo.
Ở Trung Hoa, văn học kỳ ảo đã có từ rất sớm, đã trở thành một dòng chảy xuyên suốt
lịch sử văn học đất nước này. Tuy nhiên, yếu tố huyền thoại luôn có tính tượng trưng như
những ký hiệu đã được mã hóa. Chính vì vậy, mục đích của luận văn là giải mã những yếu tố ảo
trong Liêu trai chí dị, chỉ ra nguồn gốc hình thành của chúng bằng cách khảo sát những yếu tố
ảo trong tác phẩm, xác định hình thái và chức năng của yếu tố ảo khi còn ở thi pháp huyền
thoại, phân tích sự chuyển đổi, chức năng của yếu tố thi pháp huyền thoại thành yếu tố thi pháp
tác phẩm văn học. Từ các bước trên có thể thiết lập mối quan hệ của tác phẩm với tư duy huyền
thoại thể hiện điển hình trong thần thoại của Trung Hoa và của cả nhân loại cũng như sự sáng
tạo của tác giả khi sử dụng các yếu tố huyền thoại.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài hai phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được sắp xếp thành ba chương.
CHƯƠNG 1: THẾ GIỚI ẢO – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA HUYỀN THOẠI
HỌC
1.1 Huyền thoại học
1.2 Thế giới ảo
1.3 Thế giới ảo trong tác phẩm văn học
CHƯƠNG 2: THẾ GIỚI ẢO THỂ HIỆN QUA CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT
TRONG LIÊU TRAI CHÍ DỊ
2.1 Thế giới ảo thể hiện qua cốt truyện trong Liêu trai chí dị
2.1.1 Truyện bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu linh trong tư duy huyền thoại
2.1.2 Truyện là chuỗi các sự kiện kỳ ảo
2.2 Thế giới ảo thể hiện qua nhân vật trong Liêu trai chí dị
2.2.1 Hệ thống nhân vật kỳ ảo
2.2.2 Quan hệ kỳ ảo giữa các nhân vật
CHƯƠNG 3: THẾ GIỚI ẢO THỂ HIỆN QUA KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
TRONG LIÊU TRAI CHÍ DỊ
3.1 Thế giới ảo thể hiện qua không gian trong Liêu trai chí dị
3.1.1 Âm phủ
3.1.2 Những cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian
3.2 Thế giới ảo thể hiện qua thời gian trong Liêu trai chí dị
3.2.1 Đêm
3.2.2 Thời gian luân hồi nghiệp báo
7.Chỉ dẫn chú thích
-Khi chú thích, số trước là số ký hiệu tác phẩm trích dẫn, số sau là số trang trích dẫn.
Ví dụ: [45, tr.30]
Số 45: là số ký hiệu tác phẩm trích dẫn: Bồ Tùng Linh (2008), Liêu trai
chí dị, Nhà xuất bản Văn học
Số 30: là số trang trích dẫn.
-CD (chuyển dẫn) là ký hiệu trích dẫn lại từ một tài liệu khác.
Ví dụ: [CD,1, tr.30]
-Đối với các tài liệu mạng sử dụng trong luận văn này, chỉ có một số duy nhất là số ký
hiệu tài liệu trích dẫn.
Ví dụ: [73]
CHƯƠNG 1: THẾ GIỚI ẢO - ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU CỦA HUYỀN THOẠI HỌC
Mỗi ngành khoa học đều có những đối tượng nghiên cứu riêng. Đối với huyền thoại học,
đối tượng nghiên cứu là thế giới ảo bởi vì thế giới ảo bao gồm các yếu tố của huyền thoại hoặc
sinh ra từ huyền thoại. Huyền thoại và văn học có nhiều sự tương đồng nên chúng không chỉ có
quan hệ nguồn gốc mà còn có quan hệ qua lại với nhau. Đối với tác phẩm văn học có sử dụng
yếu tố ảo, góc nhìn của huyền thoại học sẽ soi chiếu cả sự hiện hữu của các yếu tố ảo lẫn cội
nguồn của nó, sẽ lý giải cái hay của tác phẩm không chỉ ở bề rộng mà còn ở bề sâu. Huyền
thoại học luôn tỏ rõ ưu thế của mình đối với những tác phẩm văn học mà cái hay của chúng tạo
nên ít nhiều bởi sự đóng góp của các yếu tố ảo.
1.1 Huyền thoại học
Xung quanh thuật ngữ huyền thoại có rất nhiều quan niệm khác nhau. “M.I.Sakhnôvich –
nhà nghiên cứu người Nga từng tổng kết có đến hơn 500 định nghĩa, giới thuyết về huyền thoại
(1971)” [43, tr.34]. Ngày nay đối với những gì được khâm phục, sùng bái thậm chí đối với
những gì không thể tin được… người ta cũng gọi là huyền thoại. Dĩ nhiên nghiên cứu khoa học
không dung nạp nghĩa hàng ngày của thuật ngữ này. Trong nghiên cứu về huyền thoại hiện nay,
người ta sử dụng cả hai thuật ngữ thần thoại và huyền thoại có khi chỉ cùng một đối tượng. Tuy
nhiên, nếu xem xét kỹ hai thuật ngữ này sẽ xác định được sự phân biệt khá rõ ràng.
Thần thoại là “truyện kể dân gian về các vị thần và các nhân vật anh hùng thần hóa,
phản ánh quan niệm ngây thơ của người thời cổ về các hiện tượng tự nhiên và khát vọng của
con người về một cuộc sống tốt đẹp” [70, tr.925]. Như vậy, thần thoại là một thuật ngữ chỉ tất
cả các câu chuyện xoay quanh một hình tượng là các vị thần mà các vị thần này sinh ra từ sự
nhân cách hóa chính bản thân con người. Tuy nhiên, trong các câu chuyện mà chúng ta xác
định là thần thoại không phải bao giờ cũng có thần, có khi đó chỉ là những câu chuyện giải
thích nguồn gốc các yếu tố tự nhiên và văn hóa không hề có sự xuất hiện của thần linh. Thuật
ngữ huyền thoại ra đời sau thuật ngữ thần thoại đã dung chứa nghĩa rộng lớn hơn. Huyền thoại
là thần thoại và còn bao quát cả những câu chuyện kỳ lạ, huyền hoặc nói chung. Huyền thoại là
“câu chuyện huyền hoặc, kỳ lạ, hoàn toàn do tưởng tượng; thần thoại” [70, tr.471].
Bên cạnh đó, sản phẩm tinh thần của con người thời nguyên thủy không phải lúc nào
cũng được tập trung trong các câu chuyện gọi là thần thoại, nó còn tồn tại bằng các quan niệm
hoang đường về thế giới rải rác trong tôn giáo, tín ngưỡng, ma thuật, các tác phẩm văn học…
đòi hỏi một thuật ngữ có khả năng bao quát hơn. Hơn nữa, các sản phẩm tinh thần của con
người nguyên thủy thường sinh ra từ một dạng tư duy đặc biệt: tư duy huyền thoại. Tuy thời kỳ
hoàng kim của dạng tư duy này không còn nữa nhưng sự sống của nó vẫn còn kéo dài đến tận
ngày hôm nay. Thế kỷ XIX trên thế giới diễn ra sự giải huyền thoại với sự tham gia mạnh mẽ
của khoa học thì đến thế kỷ XX lại xuất hiện sự tái huyền thoại hóa – quay về với huyền thoại.
Huyền thoại hóa đã sử dụng các hình tượng và cốt truyện của huyền thoại cổ xưa, sáng tạo nên
những huyền thoại hiện đại mang đậm dấu ấn cá nhân… Dĩ nhiên, đối với những sản phẩm tinh
thần hiện đại này chỉ có thể được gọi tên là huyền thoại chứ không thể là thần thoại. Nhà nghiên
cứu Meletinsky đã định nghĩa huyền thoại như sau: “Huyền thoại là một hiện tượng trung tâm
trong lịch sử văn hóa, đồng thời là một phương tiện cổ xưa để nhận thức thực tại, là mô hình
của mọi hệ tư tưởng, là cái nôi nguyên hợp của các loại hình văn hóa khác nhau - văn học,
nghệ thuật, tôn giáo và ở mức độ nào đó, cả triết học, thậm chí cả khoa học” [49, tr.XIV]. Như
vậy, thuật ngữ huyền thoại bao quát hơn, là một phương tiện cổ xưa để nhận thức thực tại nên
dần dần thường được sử dụng thay thế cho thuật ngữ thần thoại.
Huyền thoại trước hết là những truyện kể giải thích nguồn gốc của thế giới bao gồm cả
sự hình thành thiên nhiên, con người và văn hóa. Dĩ nhiên huyền thoại còn bao gồm cả các
quan niệm hoang đường về thế giới nằm rải rác trong văn hóa của các tộc người bởi vì huyền
thoại ra đời từ thời nguyên thủy, huyền thoại có sự pha trộn các yếu tố của tôn giáo, triết học,
khoa học, nghệ thuật, cho tới hiện nay các quan niệm hoang đường của huyền thoại không phải
lúc nào cũng tập trung trong các truyện kể mà nhiều khi tồn tại riêng lẻ, rải rác trong quan niệm
của nhân dân, trong tôn giáo, văn học nghệ thuật… Điều đáng nói ở đây là huyền thoại ra đời từ
thời nguyên thủy, khi con người vô cùng sợ hãi trước tự nhiên, đã dựa vào bản thân mình để
giải thích tự nhiên và thế giới. Họ đã tạo ra những yếu tố không có thật bằng sự tưởng tượng vô
cùng phong phú và niềm tin tuyệt đối chân thành. Sau này, khi khoa học đã phát triển, sự tưởng
tượng của con người trong huyền thoại nguyên thủy sẽ theo loài người trên suốt cuộc hành trình
của mình để giữ gìn, sáng tạo ra huyền thoại, tất nhiên không phải lúc nào cũng chứa đựng
niềm tin thơ ngây, hồn nhiên như thuở ấu thơ của nhân loại.
Huyền thoại học (mythology) là ngành khoa học nghiên cứu về huyền thoại. Huyền thoại
học có cội nguồn từ sự tìm hiểu của khoa dân tộc học đối với những tài liệu huyền thoại của các
dân tộc trên thế giới. Từ đó, trường phái nhân loại học ra đời vào nửa sau thế kỷ XIX đã có
những đóng góp sâu sắc đối với việc nghiên cứu huyền thoại mà tiêu biểu là công trình Văn hóa
nguyên thủy của Tylor. Sang thế kỷ XX, khoa nhân loại học ra đời với đại diện tiêu biểu là nhà
nghiên cứu người Nga Meletinsky đã cùng với các khoa học xã hội và nhân văn khác cùng
nghiên cứu huyền thoại đã tạo nên sự bùng nổ các trường phái và lý thuyết: trường phái nghi lễ
và trường phái chức năng, trường phái xã hội học Pháp, lý thuyết biểu trưng về huyền thoại, lý
thuyết phân tâm học, lý thuyết cấu trúc…
Trải qua quá trình phát triển bền bỉ, huyền thoại học đã có những đóng góp lớn lao cho
hiểu biết của con người về huyền thoại. Các nhà nghiên cứu về huyền thoại đã tìm hiểu văn hóa
các dân tộc phát triển và cả những cộng đồng người còn lạc hậu để tìm bản chất của huyền
thoại. Giữa huyền thoại và văn học có mối liên quan đặc biệt vì đều “tái hiện những quan niệm
chung nhất trong một hình thức cụ thể - cảm tính” [40, tr.5] nên huyền thoại và văn học không
chỉ có quan hệ nguồn gốc mà còn có quan hệ qua lại với nhau trong các giai đoạn phát triển sau
này. Nhà nghiên cứu người Canada N.Frye đã có khuynh hướng đem văn học và huyền thoại
hòa quyện với nhau: “Ông hướng việc tìm kiếm căn rễ của sáng tác văn học vào các mô hình
nghi lễ - huyền thoại, hơn nữa ông cho rằng văn học không chỉ có cái căn rễ mà còn có cái bản
chất bên trong, cái cơ sở của trí tưởng tượng nghệ thuật trong nghi lễ - huyền thoại” [40, tr.14].
Trong huyền thoại học có một bộ phận vô cùng quan trọng là phê bình huyền thoại với đặc
điểm khu biệt là “nhấn mạnh tính phổ quát của huyền thoại trong toàn bộ hoạt động sáng tạo
văn chương” [15, tr.67]. Phê bình huyền thoại vốn được xem là gồm hai nhánh: phê bình nghi
lễ xuất phát từ tài liệu nghiên cứu của nhà dân tộc học người Anh Frazer và phê bình cổ mẫu
bắt nguồn từ những công trình nghiên cứu của nhà tâm lý học Thụy Sĩ C.Jung nhưng nhìn
chung vẫn là “sự hội tụ của nhiều phương pháp và hình thức tra cứu về những mối quan hệ
phức tạp giữa văn học với huyền thoại” [15, tr.66]. Phê bình huyền thoại dù mới mẻ đã có đóng
góp sâu sắc trong việc tìm hiểu các tác phẩm có sử dụng huyền thoại.
Thông thường, các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu huyền thoại trong tác phẩm văn học
thường phân tích sự chuyển hóa của huyền thoại trong tác phẩm, đôi khi nằm ở bề sâu rất khó
nhận thấy. Vì huyền thoại sinh ra từ trí tưởng tượng của con người thời nguyên thủy nên đối
tượng nghiên cứu của khoa học về huyền thoại là các yếu tố ảo. Huyền thoại học sẽ đưa các yếu
tố này về với cội nguồn tư duy nguyên thủy của nó đồng thời tìm hiểu ý nghĩa sự chuyển hóa
của nó trong tác phẩm văn học. Đối với các tác phẩm văn học có sử dụng các yếu tố huyền
thoại, huyền thoại học đã thể hiện ưu thế đặc biệt khi tìm hiểu các yếu tố huyền thoại trong tác
phẩm so với các ngành khoa học khác như xã hội học, thi pháp học… vì nó quan tâm đến cả hai
bình diện giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của các yếu tố ảo này nói riêng, tác phẩm văn
học nói chung, tìm về với cội nguồn cái nhìn huyền thoại của nhà văn để có thể tìm hiểu tác
phẩm ở bề sâu của nó.
Các nhà huyền thoại học không chỉ dựa vào các tác phẩm nổi tiếng toàn thế giới như sử
thi I-li-at và Ô-đi-xê của Hi Lạp, sử thi Ma-ha-bha-ra-ta và Ra-ma-ya-na của Ấn Độ… tìm ra
huyền thoại mà còn đến nhiều vùng đất được xem là hoang dã trên thế giới để tìm hiểu văn hóa
của người bản địa mong tìm được những huyền thoại còn lưu giữ từ thời nguyên thủy xa xôi.
Tuy nhiên, cho dù tìm hiểu bằng cách nào, các nhà nghiên cứu chỉ đến được với huyền thoại
thông qua cái ảo. Các yếu tố ảo có từ thời nguyên thủy tất nhiên là huyền thoại nhưng các yếu
tố ảo ra đời sau này cũng xuất phát từ sự kế thừa tư duy huyền thoại của người nguyên thủy và
cũng từ sự tưởng tượng, hư cấu có thể có sự tự giác hoặc không. Tìm hiểu các yếu tố ảo ra đời
sau thời nguyên thủy vẫn sẽ tìm thấy cốt lõi huyền thoại bên trong và còn thấy được sự khác
biệt, sáng tạo của người thời sau trong sự kế thừa của mình. Các yếu tố ảo là đối tượng nghiên
cứu một cách trực tiếp của huyền thoại học.
1.2 Thế giới ảo
Ảo theo Từ điển tiếng Việt có nghĩa “Giống như thật nhưng không có thật” [70, tr.8].
Như vậy, ảo là phạm trù đối lập với thực. Vì thực có nghĩa là “có thật, có thể nhận biết trực
tiếp bằng các giác quan” [70, tr.973] nên có thể định nghĩa ảo không phải là những gì tồn tại
một cách khách quan, không thể thông qua các tác động có tính vật chất để kiểm chứng sự tồn
tại của nó. Bản thân định nghĩa về ảo, thực đã cho thấy không thể coi phạm trù ảo, thực tồn tại
độc lập riêng biệt mà phải luôn dùng cái này mới xác định được bản chất của cái kia. Ảo là ảo
trong mối quan hệ với thực và thực là thực trong sự đối sánh với ảo. Bản chất của thế giới hoàn
toàn không phải đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu mà trái lại rất phức tạp, đa dạng, nhiều chiều luôn có
sự chuyển hóa thách thức khả năng nhận thức, lĩnh hội của con người mọi thời đại. Hơn nữa,
thực - ảo không phải là cái gì tồn tại khách quan mà nó được phân biệt trên cơ sở nhận thức
mang đầy dấu ấn chủ quan của con người. Vì thế, sự xác định ranh giới giữa thực và ảo là một
việc làm cực kì khó khăn và không có tính chất tuyệt đối hoàn toàn.
Khi đặt phạm trù ảo trong thế đối lập với phạm trù thực người ta thường có xu hướng
đơn giản hóa cái ảo, chỉ cho rằng ảo có nét nghĩa không có thật, không thực. Vì thế, nhiều khi
ảo được đồng nhất với hư nghĩa là “không có, là giả, trái với thực” [70, tr.472]. Thật ra, nghĩa
của ảo và hư không hoàn toàn trùng khít nhau bởi chúng tuy cùng chỉ các yếu tố giống như thật,
là giả, không có thật nhưng nét nghĩa đầu tiên phải nói đến của hư là không có rồi mới đến là
giả chứ không như ảo với nét nghĩa đầu tiên khẳng định sự tồn tại của chúng là giống như thật
nhưng không phải thật. So với hư, ảo gần gũi hơn với thực. Có thể mượn hai tiểu thuyết của
văn học Trung Quốc để minh chứng cho sự khác nhau của hai khái niệm hư, ảo. Trong tiểu
thuyết Hồng lâu mộng, tư tưởng quan trọng nhất mà tác giả dày công hun đúc để chuyển tới độc
giả gói gọn trong bốn chữ nhân sinh như mộng, chỉ ra cái quy luật cuộc đời mà rất ít con người
trần tục dễ dàng thấy được: cái có là cái từ không mà ra rồi sau đó lại trở về không (hữu hoàn
vô). Đó là điều không một ai có thể cưỡng lại được, người ta chỉ khác nhau ở chỗ có nhận thức
được nó hay không mà thôi. Tác giả muốn gửi đến người đọc quan niệm về cái hư của cuộc đời
nên các nhà nghiên cứu luôn cất công tìm hiểu yếu tố hư trong trục thực - hư của Hồng lâu
mộng. Trong khi đó, tiểu thuyết Liêu trai chí dị chủ yếu được nghiên cứu theo trục thực - ảo
bởi vì mặc dù tác giả sử dụng rất nhiều yếu tố ảo nhưng trong một yếu tố ảo lại chứa đựng
không ít đặc tính của yếu tố thực, dùng cái ảo giống như thật để kín đáo bày tỏ suy nghĩ, thái
độ, tình cảm với cái thực.
Không chỉ bộc lộ sự khu biệt trong so sánh với cái hư, cái ảo còn luôn giữ vững nét nghĩa
giống như thật nhưng không có thật trong sự kết hợp với nhiều từ khác nó. Ảo kết hợp với các
từ có nét nghĩa tương đối cụ thể như thuật thành ảo thuật: “thuật dựa vào động tác nhanh và
khéo léo làm biến hóa các đồ vật, các hiện tượng, khiến người xem tưởng như có phép lạ” [70,
tr.8], như ảnh tạo thành ảo ảnh: “hình ảnh giống như thật nhưng không có thật” [70, tr.8]. Nhờ
nét nghĩa của các từ kết hợp với ảo như trên, nghĩa của các từ mới thể hiện mối quan hệ gần gũi
với cái thực. Bên cạnh đó, khi kết hợp với các từ có nét nghĩa trừu tượng hơn các từ trên như
kỳ, huyền, mộng, hóa, tưởng, hư tạo nên các từ mới nghiêng về nét nghĩa không có thật mà chỉ
có trong sự tưởng tượng của con người như kỳ tạo thành từ kỳ ảo: “kỳ lạ, tựa như không có thật
mà chỉ có trong tưởng tượng” [70, tr.518], như huyền tạo thành huyền ảo: “có vẻ vừa như thực
vừa như hư, thường tạo vẻ đẹp kì lạ và bí ẩn” [70, tr.470], như mộng ảo (ảo mộng): “điều ước
viển vông, không thực tế” [70, tr.8], ảo hóa: “làm biến hóa có thành không, không thành có,
làm cho trở thành hư ảo, không thật” [70, tr.8], ảo tưởng : “ý nghĩ hoặc điều mơ tưởng viển
vông, không thực tế, không thực hiện được” [70, tr.8], ảo vọng: “hi vọng, mong ước viển vông,
không thực tế”, hư ảo: “chỉ có trong tưởng tượng, hoàn toàn không có thật” [70, tr.8]… Như
vậy cho dù ảo có thể kết hợp với rất nhiều từ khác nhau thì từ ngữ mới vẫn giữ được một cách
tương đối các nét nghĩa cơ bản của ảo. Vì thế, các từ ngữ trên được xem như là sự thể hiện rõ
hơn của cái ảo chứ không có sự khác biệt với ảo. Những gì được gọi là kì ảo, mộng ảo, ảo hóa,
ảo tưởng, ảo vọng, ảo thuật, ảo ảnh, huyền ảo, hư ảo… thì trước tiên đều là những yếu tố ảo.
Những từ ngữ chứa ảo như trên còn gợi cho chúng ta liên tưởng đến những từ có chữ
huyền. Huyền vốn có nghĩa như sau: “I.Than đá màu đen nhánh, do than cây biến thành, dùng
làm đồ trang sức. II.Có màu đen như hạt huyền” [70, tr.470]. Tuy nhiên, khi kết hợp với các từ
khác, dường như huyền được đẩy về nét nghĩa mờ tối nên các từ như huyền bí, huyền diệu,
huyền hoặc… đều chỉ những yếu tố bí ẩn, khó có thể hiểu biết và giải thích một cách thấu đáo.
Huyền bí: “có vẻ vừa như thực vừa như hư, thường tạo nên vẻ đẹp kì lạ và bí ẩn” [70, tr.470],
huyền diệu: “có cái gì đó kỳ lạ, cao sâu, tác động mạnh đến tâm hồn mà con người không hiểu
biết hết được” [70, tr.470], huyền hoặc: “I.Có tính chất không có thật, mang vẻ huyền bí.
II.Làm cho tin một cách mê muội vào những điều không có thật” [70, tr.470,471]. Như vậy,
các từ trên đều chỉ những yếu tố không tồn tại một cách khách quan, không thể thông qua các
tác động vật chất để kiểm chứng sự tồn tại của nó, vượt qua sự hiểu biết của con người. Và như
thế, các từ trên cũng chính là sự thể hiện của cái ảo. Ngoài ra còn có một số từ ngữ khác như
huyễn hoặc: “Làm cho mất sáng suốt, lầm lẫn, tin vào những điều không có thật hoặc có tính
chất mê tín” [70, tr.471], huyễn tưởng: “Tưởng tượng ra và tin vào những điều không có thật
hoặc không có cơ sở thực tế” [70, tr.471] cũng đều có thể xếp vào quỹ đạo của cái ảo.
Như vậy, có thể nói rằng ảo là một phạm trù có sức bao quát khá rộng lớn. Ảo chỉ tất cả
các yếu tố không có thật và chỉ có thể được sinh ra do sự tưởng tượng của con người xuất phát
từ những nhu cầu khác nhau. Ảo là tất cả các yếu tố thuộc huyền thoại, là những yếu tố thuộc
các câu chuyện kể về các vị thần, các nhân vật được sùng bái tham gia vào quá trình tạo lập các
nhân tố của thế giới, là những quan niệm hoang đường về thế giới nằm rải rác trong văn hóa.
Ảo còn bao gồm tất cả các yếu tố là sản phẩm của cái nhìn huyền thoại của con người về thế
giới như sự sáng tạo những yếu tố hoang đường, sự sắp xếp những yếu tố hiện thực theo một tổ
chức vượt ra ngoài sự chân thực của lịch sử. Các yếu tố ảo có từ thời nguyên thủy tất nhiên là
huyền thoại nhưng các yếu tố ảo ra đời sau này cũng xuất phát từ sự kế thừa tư duy huyền thoại
của người nguyên thủy và cũng từ sự tưởng tượng, hư cấu có thể có sự tự giác hoặc không. Tìm
hiểu các yếu tố ảo ra đời sau thời nguyên thủy vẫn sẽ tìm thấy cốt lõi huyền thoại bên trong và
còn thấy được sự sáng tạo, sự khác biệt của người thời sau trong sự kế thừa của mình. Nhà
nghiên cứu Phùng Văn Tửu nhận định: “Tính chất thơ ca sâu sắc khiến huyền thoại cổ đại trở
thành chất liệu quý giá cho văn học, nghệ thuật từ bao đời. Không ít các văn nhân, nghệ sĩ trên
thế giới xưa nay đã khai thác đề tài từ kho tàng hầu như không bao giờ cạn kiệt ấy. Tính chất
thơ ca của thần thoại còn là nguyên nhân khiến về sau nhiều văn nghệ sĩ đã sáng tác theo dáng
dấp huyền thoại xưa, với những yếu tố hoang đường kỳ ảo, tuy hoàn cảnh lịch sử sản sinh ra nó
đã lùi xa vào dĩ vãng” [9, tr.375]. Vì các yếu tố ảo chính là huyền thoại hoặc sinh ra từ di sản
huyền thoại nên chúng là đối tượng nghiên cứu của huyền thoại học.
Từ thế giới có nhiều cách hiểu nhưng ở đây chúng tôi chọn cách hiểu như sau: “Khu vực,
lĩnh vực của đời sống, của các sự vật, hiện tượng có những đặc trưng chung nào đó, phân biệt
với các khu vực, lĩnh vực khác” [70, tr.934]. Thế giới ảo là tập hợp các yếu tố ảo tức là tập hợp
các yếu tố giống như thật nhưng không có thật, sinh ra từ sự tưởng tượng của con người. Trong
thế giới ảo rộng lớn này có vô số thế giới ảo với phạm vi nhỏ hơn, có thể trong một tác phẩm
văn học, trong một nghi lễ, trong một tôn giáo… Và dĩ nhiên, thế giới ảo luôn luôn là đối tượng
nghiên cứu của khoa học về huyền thoại.
2.3 Thế giới ảo trong tác phẩm văn học
Thời kì nguyên thủy (man dã) đã trôi qua rất lâu, thời kì thịnh vượng nhất của huyền
thoại không còn nữa nhưng huyền thoại vẫn có thể được bảo tồn lâu dài trong nhận thức của
nhân dân và các hình thái ý thức xã hội khác như triết học, khoa học… đặc biệt là tôn giáo và
văn học nghệ thuật. Vì sao như vậy?
Sở dĩ đặc trưng của tư duy huyền thoại thể hiện mạnh mẽ trong tôn giáo vì huyền thoại là
tôn giáo đầu tiên của nhân loại - tôn giáo là hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa
trên cơ sở niềm tin và sự sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên định đoạt tất cả, con người
phải phục tùng và tôn thờ. Sau này, tôn giáo có nhiều thay đổi nhưng vẫn được hình thành dựa
trên yếu tố quan trọng nhất là niềm tin “Tôn giáo là hệ thống những quan niệm tín ngưỡng một
hay những vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy” [70,
tr.1011]. Tôn giáo dần trở thành đạo – những tổ chức tôn giáo.
Văn học và huyền thoại mặc dù có khác nhau nhưng cũng có không ít sự tương đồng.
Các nhà nghiên cứu đã xác định “Điều làm cho huyền thoại và văn học nghệ thuật có mối quan
hệ đặc biệt khăng khít không phải chỉ có trong cội nguồn mà cả trong các giai đoạn phát triển
sau này là ở chỗ huyền thoại có một thuộc tính quan trọng là sự tái hiện những quan niệm
chung nhất trong một hình thức cụ thể - cảm tính. Thuộc tính đó của huyền thoại cũng chính là
bản thân thuộc tính của văn học nghệ thuật tức là cái mà ta vẫn gọi là tính hình tượng đặc
trưng cho nghệ thuật và cái được nghệ thuật kế thừa từ chính huyền thoại” [40, tr.5]. Chính vì
vậy, các yếu tố ảo trong tác phẩm văn học là đối tượng nghiên cứu nhận được nhiều sự quan
tâm của huyền thoại học.
Vì văn học và huyền thoại không chỉ có quan hệ nguồn gốc mà còn có nhiều sự tương
đồng, huyền thoại thâm nhập rất mạnh mẽ vào các tác phẩm văn học cho nên khái niệm thi
pháp mà nghiên cứu văn học vẫn dùng để nói về những thủ pháp nghệ thuật, những phương
tiện diễn đạt, phong cách… cũng có thể được dùng để nói về những vấn đề tương tự trong
nghiên cứu về huyền thoại. Tuy nhiên, việc xác định và miêu tả các yếu tố thi pháp huyền thoại
không thể rập khuôn theo việc xác định và miêu tả các yếu tố của thi pháp văn học. Nhà nghiên
cứu Meletinsky đã xác định thi pháp huyền thoại rất hiệu quả được nhiều người đồng tình “đề
tài - cốt truyện huyền thoại (các chủ đề suy nguyên luận, các đề tài về sự sáng tạo văn hóa và
các kiểu dạng mô hình hóa thế giới, về lịch tiết và các mô hình lặp lại nguyên mẫu…), việc xác
định và miêu tả nhân vật (các nhân vật bậc tiên tổ, đấng sáng tạo, anh hùng văn hóa, các hình
tượng nhân vật sinh đôi, nhân vật bịp bợm - khôn ranh…), việc xác định và miêu tả thời gian
(thời gian của giấc mơ, thời gian khởi nguyên, quan hệ giữa thời gian thiêng liêng và thời gian
phàm tục…)” [40, tr.13].
Mọi yếu tố ảo đều có nguồn gốc từ huyền thoại. Muốn tìm hiểu huyền thoại trong văn
học phải tìm hiểu thế giới ảo - tập hợp tất cả các yếu tố ảo trong các tác phẩm văn học. Hệ
thống tác phẩm văn học vô cùng đồ sộ mà cái ảo trong tác phẩm không phải lúc nào cũng dễ
hiểu - chúng luôn đòi hỏi sự giải mã của tất cả những ai đam mê. Vì thế, thông thường người ta
chọn lựa đối tượng nghiên cứu là thế giới ảo trong từng tác phẩm văn học hoặc thậm chí chỉ tìm
hiểu một phần của thế giới ảo đó như tìm hiểu về cốt truyện, nhân vật hay không gian, thời
gian… của tác phẩm.
Thế giới ảo trong tác phẩm văn học thể hiện rất phong phú, đa dạng không chỉ ở từng tác
phẩm mà còn ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Xung quanh khái niệm văn học kỳ ảo có
nhiều ý kiến không đồng nhất. Có người xem nó là một khuynh hướng văn học ra đời vào thế kỉ
XVIII và kết thúc vào thế kỉ XIX. Có người xem nó là một thể loại tập hợp các tác phẩm có lẽ
chỉ có trong văn học viết, với ý thức của nhà văn muốn xây dựng cái kì ảo, muốn người đọc
phải lựa chọn một trong hai “hoặc đây chỉ là ảo ảnh của giác quan, một sản phẩm của trí tưởng
tượng và những quy luật của thế giới này vẫn vậy, hoặc quả thật sự kiện đã diễn ra, nó là bộ
phận của toàn bộ thực tế nhưng bây giờ thực tế ấy lại được điều hành bởi những quy luật mà
chúng ta không biết. Hoặc yêu quái là một ảo tưởng, một sinh thể tưởng tượng, hoặc nó tồn tại
thực sự, như một sinh thể sống khác: với hạn chế là hiếm khi gặp nó. Cái kì ảo chiếm lĩnh thời
gian của sự mơ hồ ấy: tới khi chọn lấy một trong hai giải đáp, ta đã rời bỏ cái kì ảo để đi vào
một thể loại cận kề, cái lạ hoặc cái thần tiên” [63, tr.34]. Tuy nhiên, xác định cái kỳ ảo trong
tác phẩm văn học để xác định tác phẩm có thuộc văn học kỳ ảo hay không theo cách làm trên
của nhà nghiên cứu Todorov là một điều vô cùng khó khăn, đầy tính chủ quan. Chúng tôi đồng
ý với quan niệm văn học kỳ ảo là một khái niệm để chỉ tất cả các sáng tác văn học có yếu tố ảo
chi phối cả nội dung và nghệ thuật. Và dĩ nhiên, nhắc đến văn học sử dụng yếu tố ảo thì phải kể
đến các tác phẩm thuộc thể loại văn học dân gian khi trình độ hiểu biết khoa học của con người
còn hạn chế và văn học thế kỉ XX với con người sau bao nhiêu thành tựu khoa học lại quay về
với huyền thoại vô cùng mạnh mẽ với những tên tuổi nhà văn như Kafka, Jame Joyce,
Th.Mann… và các nhà văn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo mà ông vua của chủ nghĩa này là
Marquez.
Thế giới ảo thể hiện nhiều nhất là trong một số thể loại văn học dân gian như thần thoại,
sử thi, truyện cổ tích, truyền thuyết.
Thần thoại là “truyện kể dân gian về các vị thần và các nhân vật anh hùng thần hóa,
phản ánh quan niệm ngây thơ của người thời cổ về các hiện tượng tự nhiên và khát vọng của
con người về một đời sống tốt đẹp” [70, tr.925]. Thần thoại rõ ràng ra đời từ thời nguyên thủy,
con người cảm thấy sợ hãi trước tự nhiên và cho rằng có các lực lượng siêu nhiên chi phối cả
thế giới. Họ dùng hiểu biết về bản thân mình để gán cho tự nhiên và cả các lực lượng siêu
nhiên. Người nguyên thủy sáng tạo ra thần thoại bằng nghệ thuật không tự giác, bằng niềm tin
tuyệt đối vào các lực lượng siêu nhiên và sự tưởng tượng không bến bờ.
Sử thi là “tác phẩm lớn thuộc loại văn tự sự, miêu tả sự nghiệp của những người anh
hùng và các sự kiện lịch sử lớn” [70, tr.877]. Sử thi không nói về sự sáng lập thế giới như thần
thoại mà nói về buổi bình minh của lịch sử dân tộc, về sự xây dựng các tổ chức nhà nước cổ đại
nhưng sử thi vẫn lộng lẫy hào quang của tưởng tượng dành để xây dựng các nhân vật chính, các
sự kiện… Tuy nhiên, thế giới ảo trong sử thi không phải lúc nào cũng được xem là hư cấu như
truyện cổ tích. Sử thi gần gũi với thần thoại ở đặc điểm thế giới ảo giành được niềm tin của con
người thậm chí là sự ngưỡng mộ đến sùng kính của con người dành cho các nhân vật chính.
Khác với sử thi, truyện cổ tích là “Truyện cổ dân gian phản ánh cuộc đấu tranh trong xã
hội, thể hiện tình cảm, đạo đức, mơ ước của nhân dân, về hình thức thường mang nhiều yếu tố
thần kỳ, tượng trưng và ước lệ” [70, tr.1054]. Truyện cổ tích ra đi từ thần thoại đó là điều chắc
chắn nhưng thế giới ảo trong truyện cổ tích không phải chịu sự thống trị của vũ trụ thời khai
thiên lập địa như thần thoại mà chịu sự thống trị của xã hội. Truyện cổ tích nói chung vẫn có
cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian của thần thoại nhưng nằm ở bề sâu. Tìm hiểu truyện
cổ tích, người đọc cảm nhận tác giả dân gian của thể loại này đã suy giảm lòng tin vào tính
chân thực của các lực lượng trong thần thoại, đã thay thế các nhân vật thần bằng những con
người bình thường… Truyện cổ tích cũng thể hiện sự tưởng tượng phong phú của con người
khi kế thừa thần thoại và sáng tạo thế giới ảo cho riêng mình nhưng ở đây là sự tưởng tượng có
ý thức cho nên truyện cổ tích được xem có tính chất văn học nghệ thuật nhiều hơn.
Truyền thuyết là “truyện dân gian truyền miệng về các nhân vật và sự kiện có liên quan
đến lịch sử, thường mang nhiều yếu tố thần kỳ” [70, tr.1053]. Truyền thuyết đã phản ánh lịch sử
một cách vô cùng độc đáo, không giống với các văn bản lịch sử, đó là kể về các sự kiện, nhân
vật lịch sử theo xu hướng lý tưởng hóa, nhuốm màu sắc thần kỳ.
Thần thoại, truyện cổ tích, sử thi, truyền thuyết là các thể loại của văn học dân gian thể
hiện nhiều nhất các yếu tố ảo. Có thể khái quát thế giới ảo trong các thể loại này thể hiện ở nội
dung kỳ ảo được phản ánh nhiều trong tác phẩm văn học mà khoa học đã chứng minh chúng
không thể xảy ra hay tồn tại. Điều này có nguyên nhân từ trình độ nhận thức còn hạn chế của
con người cổ xưa. Sau này, văn học nghệ thuật vẫn mãi mãi kế thừa tư duy huyền thoại và còn
sử dụng, tái tạo, sáng tạo dựa vào những hình tượng, mô tip trong văn học truyền thống để qua
cái ảo diễn đạt cái thực, qua cái phi thường thể hiện cái bình thường… để văn học chứa đựng sự
đa nghĩa, tầm khái quát. Huyền thoại trở thành một phương thức nghệ thuật hữu hiệu trong sáng
tác văn học.
Văn học viết tùy từng thời kỳ lịch sử, tùy đặc tính từng dân tộc mà có thái độ, sự kế thừa
và sáng tạo khác nhau đối với cái ảo đã có từ thời kỳ nguyên thủy của lịch sử loài người.
Bên cạnh thời kỳ nguyên thủy được xem là thời kỳ hoàng kim của huyền thoại thì thế kỷ
XX cũng được các nhà huyền thoại học quan tâm không kém vì huyền thoại hóa là xu thế quan
trọng nhất của văn học thế kỷ XX. Sự chú ý đến thần thoại trong toàn bộ văn học thế kỷ XX
bộc lộ ở ba dạng cơ bản: “Một là sự tăng cường sử dụng các hình tượng và cốt truyện của thần
thoại, do vậy mà xuất hiện rất nhiều những sự cách điệu hóa, dị bản hóa trên các đề tài đã từng
có trong các thiên thần thoại, các nghi lễ và nghệ thuật cổ đại. Sự xuất hiện trên diễn đàn văn
hóa thế giới của các nền nghệ thuật các dân tộc ngoài châu Âu đã mở rộng đáng kể phạm vi
các hệ thần thoại được các nghệ sĩ châu Âu quan tâm. Hai là xuất hiện tâm thế sáng tạo nên
những huyền thoại in đậm dấu ấn tác giả. Các đại diện thời đầu của nghệ thuật huyền thoại
hóa, ví dụ các nhà tượng trưng chủ nghĩa, đã tìm đặc trưng của cái nhìn nghệ thuật ở tính
huyền thoại cố ý của nó, ở sự từ bỏ kinh nghiệm đời thường, từ bỏ tính xác định về thời gian và
địa lý. Khách thể bề sâu của sự huyền thoại hóa không chỉ là những “đề tài vĩnh cửu” (tình
yêu, cái chết, cái tôi cô đơn…) mà còn là những xung đột của chính thực tại đương thời: thế
giới đô thị hóa xa lạ với cá nhân và môi trường đồ vật và máy móc bao quanh nó hoặc vương
quốc trì đọng tỉnh lẻ mãi mãi bất động”, “Ba là sáng tác những tác phẩm tiêu biểu như tiểu
thuyết – huyền thoại (roman-mythe) và các loại tương tự: “kịch – huyền thoại”, “trường ca –
huyền thoại…” [3, tr.159,160]
Các đại diện lớn nhất của tiểu thuyết huyền thoại thế kỷ XX được nhiều nhà nghiên cứu
cùng đồng tình đề cập là Kafka, Yoyce, Th.Mann. Honoré de Balzac – bậc thầy của chủ nghĩa
hiện thực đã từng tuyên bố muốn là người thư ký trung thành của thời đại thế nhưng trong bộ
Tấn trò đời đồ sộ của mình, để phản ánh bản chất hiện thực xã hội sâu sắc hơn, Balzac đã
không ngần ngại sử dụng yếu tố kỳ ảo, hoang đường. Yếu tố kỳ ảo ở tác phẩm của Balzac
không phải là ít và trong chừng mực nào đó nó cũng có khả năng tạo nên những huyền thoại về
xã hội mà trong đó đồng tiền ngự trị trên tất cả. Nếu ở Balzac, huyền thoại được tạo dựng chủ
yếu từ những yếu tố kỳ ảo dưới dạng những mô tip văn học truyền thống thì đến các nhà văn
như Joyce, Kafka, Mann… những phương thức tạo dựng huyền thoại đã trở nên vô cùng phong
phú nên hàm nghĩa của các hình tượng nghệ thuật càng lớn, đủ khả năng diễn tả những biến hóa
khôn lường.
Đối với Kafka, nhà văn Tiệp Khắc có rất nhiều tác phẩm sử dụng yếu tố kỳ ảo. Thế giới
ảo được xây dựng trước hết là bằng những yếu tố siêu thực, phi lý. Đó có thể là những sự vật
kỳ ảo, hoang đường, có thể là không gian, thời gian hiện thực nhưng lại có vẻ rất quái dị, ngột
ngạt. Thế giới ảo trong tác phẩm của Kafka còn được xây dựng từ những mô tip, những biểu
tượng trong văn học truyền thống. Ngoài ra, trong tác phẩm của Kafka, người ta còn tìm thấy
một số phương thức khác để xây dựng thế giới ảo như sử dụng hình tượng ngụ ngôn, nhại
truyền thuyết, thần thoại… Nhà văn Joyce trong tác phẩm của mình đã sử dụng nhiều mô tip
sinh ra từ thần thoại cổ và cũng sáng tạo nhiều huyền thoại từ cuộc sống đời thường. Tác phẩm
chính của Th.Mann lại có cốt truyện thường được rút từ Kinh Thánh và được đưa ra như một
thần thoại được lịch sử hóa hoặc một truyền thuyết lịch sử được huyền thoại hóa. Ý định của
Th.Mann muốn cân bằng, hóa giải huyền thoại và lịch sử.
Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magic realism) là một hình thức diễn đạt độc đáo gắn liền
với văn học Mỹ Latinh giữa và sau thế kỉ XX, kết hợp những sự kiện thực tế với những bối
cảnh giống như mơ hoặc tưởng tượng. Sau thời kì cực thịnh của văn chương Mỹ Latinh, nhiều
kiệt tác văn chương huyền ảo ra đời bên ngoài châu Mỹ Latinh cho thấy chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo đã trở thành một phong trào quốc tế và nhà văn ở bất cứ nơi nào cũng có thể ứng dụng
và khai triển những đặc điểm mỹ học và kĩ thuật của nó vào tác phẩm của mình. Marquez sử
dụng huyền ảo như một thứ tôn chỉ sáng tác, tạo thành đặc trưng phong cách, góp phần tạo nên
một phong cách trong văn học.
Năm 1982, Marquez được trao giải thưởng Nôben văn chương với tác phẩm Trăm năm
cô đơn. Tác phẩm này được coi là kinh điển của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, vì tác phẩm này
không chỉ tái hiện lịch sử hơn 100 năm của làng Macondo, từ những góc độ khác nhau phản
ánh hiện thực xã hội và diễn biến lịch sử của Columbia và toàn bộ châu Mỹ Latinh, tính hiện
thực rất cao nhưng bộ tiểu thuyết này còn vận dụng thủ pháp của chủ nghĩa huyền ảo làm cho
tác phẩm có nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Một chủ nghĩa trong văn học phải có nhiều người sáng tác (đội ngũ sáng tác đông đảo),
có tuyên ngôn riêng. Văn học kỳ ảo ở phương Đông chưa bao giờ hình thành nên chủ nghĩa
nhưng tác phẩm văn học phương Đông có rất nhiều yếu tố ảo không chỉ xuất phát từ phương
thức sáng tác mà còn xuất phát từ tư duy nghệ thuật vì người phương Đông luôn có đặc trưng
hướng nội, luôn muốn tìm về với thế giới tinh thần của mình. Người phương Đông không phân
biệt một thể loại kỳ ảo hiểu theo kiểu chặt chẽ như phương Tây.
Người phương Đông vốn có mối liên hệ chặt chẽ với những yếu tố kỳ ảo “Trong ba nền
văn hóa lớn của phương Đông, nếu Ấn Độ được coi là duy linh, Trung Quốc duy lý thì Nhật
Bản lại rất duy mỹ, duy tình” [30, tr.6]. Thật vậy, Ấn Độ - quê hương của nhiều tôn giáo lớn
trên thế giới nên họ rất coi trọng đời sống tâm linh, luôn muốn đưa tâm hồn con người vào thế
giới trừu tượng mênh mông vô hạn. Ở Nhật Bản, Thần đạo được coi là quốc giáo mà tôn giáo
này coi thuyết vạn vật hữu linh là tinh thần cơ bản. Năm 1968, Kawabata được trao giải thưởng
Noben văn chương với lời nhận định của Viện hàn lâm Thụy Điển “Ông là người tôn vinh cái
đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn của hiện hữu trong đời sống” [74]. Văn học Nhật Bản với những
thần thoại dân gian, với ảo mộng của Murasaki, Kawabata… đã được kế thừa trong tác phẩm
của Murakami. Nhà văn này đã xóa nhòa không gian, thời gian, sử dụng mô tip của huyền thoại
như mô tip phân thân, giấc mơ, hóa thân, đội lốt… với sự kế thừa cả văn học kỳ ảo phương Tây
trong đó Murakami đã nói “Franz Kafka là một trong những nhà văn yêu thích nhất của tôi”
[75].
Đối với người Trung Hoa, dù chịu sự kiềm tỏa của hiển giáo vốn quan niệm “quỷ thần
kính nhi viễn chi” vẫn luôn nổi tiếng hiếu sử, hiếu sự trên cơ sở hiếu kỳ. Thế giới ảo trong tác
phẩm văn học là sản phẩm của lối tư duy độc đáo của phương Đông đồng thời cũng là phương
tiện khái quát nghệ thuật. Ở Trung Quốc, tiêu biểu cho loại văn học kỳ ảo là tiểu thuyết truyền
kỳ ra đời vào đời Đường chứa đựng nhiều tình tiết ly kỳ quái dị. Chữ kỳ trong tiểu thuyết truyền
kỳ không chỉ nói về tính chất khác thường của sự việc mà còn là kỹ xảo văn chương: phải viết
làm sao cho ly kỳ, hấp dẫn. Truyền kỳ trải qua nhiều giai đoạn phát triển đến đời Thanh thì đạt
đến đỉnh cao với tiểu thuyết Liêu trai chí dị.
Liêu trai chí dị do nhà văn Bồ Tùng Linh (1640 – 1715) khởi bút viết từ những năm 20
tuổi và sau đó không ngừng được tác giả thêm thắt bổ sung, là tác phẩm lớn bao gồm trong nó
445 truyện ngắn phản ánh muôn mặt của đời sống gắn liền với các yếu tố ảo. Cốt truyện của các
truyện ngắn này được xây dựng theo hình tượng nhân vật kỳ ảo. Nhân vật ảo rất phong phú, đa
dạng từ thần tiên đến ma quỷ, tinh động vật, thực vật và cả linh hồn của những vật tưởng chừng
vô tri vô giác với quan hệ rất kỳ ảo. Không gian, thời gian của truyện cũng được đẩy về phía ảo,
chỉ có thể sinh ra từ trí tưởng tượng phong phú của con người. Thế giới ảo trong Liêu trai chí dị
rất phong phú và thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau đã đưa tác phẩm trở thành đại diện
xuất sắc của văn học kỳ ảo Trung Hoa và thế giới. Liêu trai chí dị dùng thế giới ảo để phản ánh
rõ hơn thế giới thực giúp nhà văn, người đọc thoát khỏi sự buộc tội của chính quyền phong kiến
đồng thời làm cho tác phẩm thêm lung linh, đa nghĩa. Liêu trai chí dị thực sự là một tác phẩm
manh nha của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo ở phương Đông.
Bên cạnh Liêu trai chí dị, tính chất kỳ ảo còn góp phần quan trọng tạo nên sự hấp dẫn
của những bộ tiểu thuyết như Tây du ký, Thủy hử, Tam quốc chí, Hồng lâu mộng…
Từ năm 1977 đến nay, những yếu tố hoang đường kỳ ảo lại quay về với văn học tạo
thành những “Liêu trai hiện đại của nền văn học Trung Quốc đương đại” với các sáng tác tiêu
biểu của Giả Bình Ao, Tô Đồng, Lý Quán Thông… Liêu trai chí dị luôn xứng đáng với ngôi vị
đại diện hàng đầu của văn học kỳ ảo do văn nhân sáng tác vì nó luôn thể hiện sự định hướng
của mình.
Như vậy, tác phẩm văn học ở cả phương Đông lẫn phương Tây đều là nơi dung chứa
huyền thoại suốt chiều dài lịch sử từ cổ chí kim. Các thể loại văn học dân gian như sử thi,
truyện cổ tích, truyền thuyết sử dụng rất nhiều yếu tố của huyền thoại, đặc biệt thần thoại chính
là một nội dung quan trọng của huyền thoại. Vì trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, vì đặc
trưng tính cách con người nên văn học viết phương Tây có đôi lúc được đánh giá là nghiêng về
nghệ thuật khi sử dụng huyền thoại trong khi phương Đông thiên về tư duy. Tuy nhiên, có vô số
các tác phẩm văn học viết sử dụng các yếu tố ảo là huyền thoại từ thời nguyên thủy hoặc huyền
thoại mới do văn nhân sáng tác – tất cả đều xuất phát từ cái nhìn huyền thoại của nhà văn về thế
giới.
Tác phẩm văn học dân gian, văn học viết nếu dung chứa trong nó các yếu tố ảo luôn
được sự quan tâm của huyền thoại học. Huyền thoại học sẽ xác định các yếu tố ảo trong tác
phẩm, đưa chúng về với cội nguồn huyền thoại, tìm hiểu chức năng – có thể là mới mẻ - của
chúng trong tác phẩm.
Huyền thoại học là khoa học về huyền thoại nên đối tượng nghiên cứu của nó sẽ là thế
giới của các yếu tố ảo. Văn học là một trong những nơi chứa đựng nhiều yếu tố ảo nhất nên các
tác phẩm văn học có sử dụng huyền thoại ngoài sự quan tâm của xã hội học, thi pháp học…
như các tác phẩm văn học khác còn cần được nhìn dưới góc nhìn của huyền thoại học để khai
thác cái hay của tác phẩm không chỉ ở bề rộng mà còn ở bề sâu. Tiểu thuyết Liêu trai chí dị của
Trung Hoa – một điển hình của văn chương kỳ ảo – sẽ thể hiện sự dung chứa và chuyển hóa
huyền thoại ở cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian nếu tìm hiểu dưới góc nhìn của huyền
thoại học.
CHƯƠNG 2: THẾ GIỚI ẢO THỂ HIỆN QUA CỐT
TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TRONG
LIÊU TRAI CHÍ DỊ
Thế giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học bao gồm nhiều yếu tố trong đó cốt truyện
và nhân vật giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Cốt truyện là yếu tố đầu tiên đóng vai trò như một
bộ khung giúp nhà văn triển khai các ý tưởng của mình. Bên cạnh đó, nhà văn phải mượn nhân
vật để qua đó miêu tả, tái hiện cuộc sống một cách hình tượng trong tác phẩm. Đối với cốt
truyện và nhân vật của Liêu trai chí dị, nhà văn Bồ Tùng Linh đã sử dụng hàng loạt các yếu tố
ảo vì cái nhìn huyền thoại đối với thế giới, vì những mục tiêu nghệ thuật của mình.
2.1 Thế giới ảo thể hiện qua cốt truyện trong Liêu trai chí dị
Xung quanh khái niệm truyện và cốt truyện có nhiều ý kiến khác nhau. Theo nhà nghiên
cứu Trần Đình Sử, “truyện là chuỗi sự kiện xảy ra liên tiếp trong không gian và thời gian cho
nhân vật và có ý nghĩa đối với tác giả, có mở đầu, có phát triển và có kết thúc, thể hiện những
quan hệ, mâu thuẫn và quá trình nhất định của cuộc sống. Có truyện khái quát cả một phong
trào, một thời đại hay một đời người” [48, tr.302]. Cũng theo nhà nghiên cứu này, cốt truyện là
hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện. Bất cứ truyện lớn, truyện nhỏ, cốt truyện nói chung
bao gồm các thành phần chính: thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút. Ngoài các thành phần trên,
cốt truyện còn có thể bao gồm phần trình bày và vĩ thanh. Tuy nhiên, cốt truyện không nhất
thiết khi nào cũng bao hàm đầy đủ, tách bạch các phần nói trên.
Như vậy, cốt truyện thực chất là cái lõi diễn biến của truyện từ lúc xảy ra cho đến khi kết
thúc. Trong đó, nhân vật là đối tượng trung tâm phản ánh các quan hệ, xung đột xã hội. Tuy
nhiên, mỗi nhà văn đều có quyền lựa chọn nhân vật làm nòng cốt cho câu chuyện, để tạo lập và
xây dựng cốt truyện. Đối với nhà văn Bồ Tùng Linh, ông đã lựa chọn các nhân vật sinh ra từ
quan niệm vạn vật hữu linh trong tư duy huyền thoại, nếu không có quan niệm vạn vật hữu linh
thì sẽ không có nhân vật trong Liêu trai và sẽ không có cốt truyện của tác phẩm này.
Trong cái lõi diễn biến của truyện từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc, nhà văn sử dụng
hàng loạt các sự kiện kỳ ảo. Các sự kiện này còn được gọi là các mô tip được chuyển hóa từ các
mô tip trong thần thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết một cách vô cùng nhuần nhuyễn tạo nên
sự hài hòa với các yếu tố khác của tác phẩm, vừa thể hiện cái nhìn huyền thoại về thế giới vừa
thực hiện những nhiệm vụ nghệ thuật mới mẻ mà nhà văn đã giao phó.
2.1.1 Truyện bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu linh trong tư duy huyền thoại
Một tác phẩm truyện nói chung thường được hình thành nên từ các sự kiện xâu chuỗi với
nhau. Các sự việc có ý nghĩa này xảy ra có tác dụng làm cho nhân vật bộc lộ mình, kể cả cái
bản chất sâu kín của nó. Truyện diễn biến và kết thúc chỉ có thể trên cơ sở các sự kiện gắn liền
với các nhân vật. Điều này phù hợp với bản chất văn học là quan hệ chặt chẽ với đời sống, tái
hiện đời sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò như những tấm gương của cuộc đời.
Nhà văn Bồ Tùng Linh đã lựa chọn hình tượng kỳ ảo làm trung tâm để xây dựng cốt truyện tiểu
thuyết Liêu trai chí dị.
Hình tượng kỳ ảo trong Liêu trai chí dị chính là những nhân vật ảo như ma, hồ ly, tinh
các động vật khác, tinh thực vật và cả các vật thể, thần, Phật, tiên… Sở dĩ có thể xác định nhà
văn đã lấy hình tượng kỳ ảo để xây dựng cốt truyện là vì rất nhiều lý do. Thứ nhất, nếu đánh giá
dựa trên sự ảnh hưởng đối với các nhân vật khác, hình tượng kỳ ảo tồn tại không hề đứng yên
mà luôn có sự tác động sâu sắc tới hình tượng trần thực một cách vô cùng chủ động. Các nhân
vật ảo ùa vào cuộc sống trần thế, mang theo một hơi thở mới vô cùng phấn chấn, trẻ trung làm
thay đổi cuộc sống tinh thần của tất cả các nhân vật khác. Rất nhiều mối tình say đắm, nồng
nhiệt đã đến với các chàng thư sinh tưởng chừng quanh năm chỉ biết đèn sách, khi gặp gỡ
những mỹ nhân là ma, là hồ ly… Trong truyện Liên Hoa công chúa, chàng thư sinh Giao Châu
Đậu Húc đang nằm ngủ trưa chiêm bao thấy mình được đưa đi gặp một nàng công chúa là Liên
Hoa, vì mải ngắm nàng công chúa xinh đẹp nên được vua đề nghị gả công chúa cho mà không
biết, về đến nhà có người kể lại thì “Chàng giậm chân ăn năn, mỗi bước chân là một bước than
tiếc, thế rồi về đến nơi thì mặt trời đã lặn, ngồi thừ mặt ra mà tưởng cảnh đẹp người tiên như
còn phảng phất trước mắt. Tối đến, chàng ở nhà học một mình, tắt đèn đi ngủ sớm, trong ý
mong đợi giấc chiêm bao cũ lại tìm đến mình” [45, tr.240]. Dường như, cốt cách nho sĩ trong
chàng học trò Giao Châu biến đâu mất, chỉ còn lại một chàng trai vô cùng si tình sau khi gặp
một nàng công chúa xinh đẹp vốn là tinh loài ong. Bên cạnh tình yêu lứa đôi, các nhân vật ảo
còn giúp đỡ về vật chất, công danh, cũng có lúc phải răn đe, trừng phạt các nhân vật thực để họ
thay đổi chính bản thân và cuộc sống của mình. Trong truyện Thư sĩ, thư sinh Lang Ngọc Trụ
suốt ngày suốt đêm chỉ biết đến việc đọc sách, không lo nhà nghèo khó, cũng chẳng thiết gì tìm
vợ nhưng thi hoài không đỗ. Nàng tiên Nhan Như Ngọc xuống trần, bắt chàng phải chơi cờ,
giao du với bạn bè, tuyệt giao với sách vở. Vì si mê nhan sắc tuyệt thế của Như Ngọc mà Lang
phải nghe lời nàng, sự cân bằng trong cuộc sống đã giúp cho Lang thi đậu cử nhân, tiến sĩ. Như
vậy, các nhân vật ảo đều có sự tác động mạnh mẽ đến các nhân vật trần thực. Bên cạnh đó, nếu
đánh giá dựa trên vai trò đối với truyện thì đa số các hình tượng kỳ ảo xuất hiện nhiều, giữ vị trí
then chốt của cốt truyện, giữ vai trò là nhân vật chính của tác phẩm. Đó là con người có mặt
trong những sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài của mình. Thậm
chí, hình tượng kỳ ảo còn là những nhân vật trung tâm của tác phẩm – những nhân vật xuyên
suốt từ đầu đến cuối về mặt ý nghĩa, là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể
hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm. Các nhân vật ảo có mặt trong tất cả các thành phần của cốt
truyện: mở đầu, phát triển, cao trào (đỉnh điểm), mở nút. Trong truyện Cáp dị, chàng công tử
Trương Công Lượng – vốn rất yêu chim câu – một đêm đang ngồi ở thư phòng thì có một thiếu
niên mặc áo trắng – là tinh của chim câu – tìm đến. Sự gặp gỡ này là điểm khởi đầu cho một
quan hệ, tạo nên bước ngoặt cho cuộc đời nhân vật thực: thiếu niên mặc áo trắng đã gửi đôi
chim câu đồng loại của mình cho Trương nuôi với tất cả niềm tin tưởng. Khi công tử Trương
Công Lượng vì nể sợ ông Mỗ là bậc quan sang nên đem hai con chim quý của thiếu niên gửi
tặng mình để cho quan, hi vọng ông ta cũng sẽ yêu thương chăm chút nó như mình. Nào ngờ,
ông Mỗ chỉ biết đem hai con chim cực quý đó mổ thịt ăn mất. Kết thúc của truyện này cũng
tương đồng với nhiều truyện ngắn của Liêu trai thường diễn ra cùng sự chia tay của nhân vật ảo
và nhân vật thực. Chàng thiếu niên do tinh chim câu hóa thành khi biết được sự thật đã báo
mộng trách cứ Trương Công Lượng, hóa thành chim câu đưa tất cả chim câu trắng bay đi mất.
Trương công tử cũng ân hận khôn nguôi đem tất cả chim câu nuôi được từ trước tặng cho bạn
bè. Nói chung, nhân vật kỳ ảo trong Liêu trai chí dị là các nhân vật dẫn dắt cho cốt truyện phát
triển. Chính vì vậy mà trong tiểu thuyết Liêu trai chí dị, xung quanh vấn đề nhân vật chính là
loại nhân vật nào vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng chắc chắn đặc trưng nghệ thuật của
Liêu trai là “Sử dụng cái kỳ ảo như một phương tiện nghệ thuật trong xây dựng nhân vật” [32,
tr.51]. Nhà nghiên cứu Lê Nguyên Cẩn nhìn nhận “ma là phản vật chất của con người” [11,
tr.232], nó có thể có nguồn gốc từ con người, thực vật, vật thể, từ các loài thú… nhưng đều giữ
vai trò quan trọng “Thế giới ma tạo nên bộ khung của thế giới nghệ thuật Bồ Tùng Linh và là
mối liên hệ, móc xích ngầm, liên kết tất cả các truyện lại với nhau. Do đó vẫn có thể phân tích
từng truyện như những đơn vị nghệ thuật riêng lẻ, mặt khác có thể xem Liêu trai chí dị như là
một chỉnh thể nghệ thuật nguyên vẹn mà các truyện là các chương, các phần của chỉnh thể đó”
[11, tr.234,235]. Như vậy, rõ ràng nhà văn Bồ Tùng Linh đã lấy hình tượng kỳ ảo để xây dựng
cốt truyện Liêu trai chí dị. Nếu tước đi các yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm của Balzac thì tác phẩm
của ông vẫn đứng vững nhưng nếu gạt bỏ nhân vật ảo trong Liêu trai chí dị thì sẽ không có tiểu
thuyết này. Bởi vì nếu thiếu đi cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của mình thì sẽ không có
cốt truyện, không có tác phẩm nghệ thuật.
Như vậy, sự bắt nguồn của truyện được giải thích bằng chính sự bắt nguồn của các nhân
vật ảo. Vậy hệ thống nhân vật ảo vô cùng đa dạng của Liêu trai chí dị từ đâu mà có?
Tất cả các nhân vật kỳ ảo trong Liêu trai chí dị được sinh ra từ quan niệm vạn vật hữu
linh trong tư duy huyền thoại vốn xuất hiện từ thời nguyên thủy. Tư duy huyền thoại còn được
gọi là tư duy nguyên thủy, tư duy man dã chỉ hệ thống quan niệm hoang đường về thế giới, là
cái nhìn huyền thoại về thế giới. Trong tư duy nguyên thủy, con người chưa tách mình ra khỏi
tự nhiên nên thường gán cho các khách thể tự nhiên những thuộc tính của mình. Con người
nguyên thủy quan niệm bản thân mình gồm có hai phần linh hồn và thể xác, từ đó cũng tin rằng
vạn vật dường như đều có linh hồn, cũng là một cơ thể sống giống như con người. Con người
có thể biến thành con vật và ngược lại. Nhà nghiên cứu E.B.Tylor – người đầu tiên đưa ra quan
niệm vạn vật hữu linh đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của nó: “Nguyên nhân đầu tiên
và chủ yếu của việc biến những sự kiện thuộc kinh nghiệm hằng ngày thành huyền thoại là lòng
tin vào sinh khí của toàn bộ tự nhiên – lòng tin này đã đạt tới điểm cao nhất ở sự nhân cách
hóa nó” [66, tr.384]. Như vậy, quan niệm vạn vật hữu linh đóng vai trò quan trọng nhất trong tư
duy huyền thoại, là nguyên nhân chủ yếu tạo ra các huyền thoại.
Quan niệm vạn vật hữu linh còn nằm trong tâm thức con người cho đến tận ngày hôm
nay, đặc biệt là người phương Đông với tư duy hướng nội. Vì thế, quan niệm vạn vật hữu linh
là tài sản tinh thần của người Trung Hoa nói riêng, con người trên cả thế giới này nói chung.
Cái nhìn vạn vật hữu linh đã góp phần quan trọng nhất hình thành nên Liêu trai chí dị với các
nhân vật ảo như ma là linh hồn người đã chết; các động vật như hồ ly, hổ, ba ba, ễnh ương,
chuột…; các thực vật như mẫu đơn, liễu, cúc… thậm chí cả những hòn đá, vật thể bằng đất
tưởng chừng như vô tri cũng đều có linh tính, có khả năng biến hóa và sống cuộc sống như con
người. Trong truyện Tửu bằng, thư sinh Cố Xa uống rượu say rồi ngủ quên bên bàn rượu, tỉnh
dậy đã thấy một con chồn cũng say quá nằm ngủ ngay bên cạnh. Cố Xa thương tình lấy áo đắp
lên cho khỏi lạnh, một lúc sau con chồn tỉnh dậy cựa mình hóa ngay thành một chàng trai
phong nhã, hằng đêm vẫn đến làm bạn tri kỷ của chủ nhân. Trong chuyện Thạch Thanh hư, hòn
đá cũng có thể biến thành một người đàn ông nói lời cảm tạ với người đã hết sức yêu mến, bảo
vệ mình. Thậm chí đối với các nhân vật được xem là nhân vật trần thực, quan niệm con người
gồm cả hai phần linh hồn và thể xác cũng giúp cho phần hồn của một số nhân vật có thể chu du
khắp nơi trong giấc mơ, có thể xuống tận âm phủ làm những việc lúc trước hoàn toàn không có
khả năng thực hiện, rồi lại trở về sáp nhập với thể xác giúp nhân vật sống lại. Lý Bá Ngôn là
người nghĩa khí, cương trực được mời xuống âm phủ làm Diêm Vương trong vòng ba ngày.
Sau khi làm xong nhiệm vụ của mình, ông ta lại ngồi xe ngựa trở về nhà sống lại (truyện Lý Bá
Ngôn). Nếu không có quan niệm vạn vật hữu linh chắc chắn sẽ không có thế giới nhân vật ảo
phong phú, đa dạng làm nên đặc trưng của Liêu trai và cũng sẽ thiếu vắng rất nhiều nhân vật
vốn được xem là trần thực.
Hiện tượng xây dựng tác phẩm văn học bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu linh đã xuất
hiện trong thần thoại, từ các thể loại văn học dân gian và đi suốt các giai đoạn của văn học viết
sau này. Cho dù thần thoại của bất cứ dân tộc nào trên thế giới thì hình tượng trung tâm vẫn là
các nhân vật kỳ ảo. Bắt nguồn từ quan niệm vạn vật đều có linh hồn, có sự sống giống như con
người trong tư duy huyền thoại, nhiều nhân vật ảo trong văn học đã được sinh ra. Từ quan
niệm này đã sinh ra những vị thần năng lực siêu phàm trong thần thoại có tính chất pha tạp giữa
con người và con vật. Sau này, tính chất pha tạp đặc điểm người và vật xuất hiện dưới một dạng
khác là đội lốt xuất hiện rất nhiều trong truyện cổ tích. Trong thần thoại Trung Hoa, câu
chuyện thần thoại đầu tiên xoay quanh vị thần đầu tiên là Bàn Cổ có mình người, đầu chó vốn
biến hóa từ loài chó mà thành. Câu chuyện về thần Phục Hy cai quản phương Đông xác định
thần này có mặt người mình rắn, thần Sét – Lôi thần lại có đầu người mình rồng. Viêm đế -
thần Nông cai quản phương Nam được thần thoại xác định là có đầu trâu, mình người. Con gái
của Viêm đế là nàng Dao Cơ đến tuổi lấy chồng nhưng không xuất giá, rồi chết non. Linh hồn
của người con gái này bay đến núi Cô, biến thành một thứ cỏ gọi là cỏ dao. Cỏ dao mọc rậm
rạp, xanh rì, nở hoa vàng, kết thành quả nhỏ, ai ăn vào thì được người ta yêu say mê. Trong
thần thoại Trung Hoa dễ dàng tìm thấy những dẫn chứng tương tự minh chứng cho quan niệm
vạn vật hữu linh là nguồn gốc của rất nhiều truyện thần thoại.
Đối với văn học Trung Hoa, kho tàng văn hóa cổ đại rất phong phú nhưng lại ở trong tình
trạng bề bộn, vụn vặt và rời rạc, không được đúc kết, sắp xếp lại trong những bộ sử thi hoành
tráng như một vài nước khác trên thế giới. Trong tác phẩm Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, nhà
văn Lỗ Tấn đã nêu ba nguyên nhân của tình trạng ấy như sau: “Một là vì tổ tiên của dân tộc
Trung Hoa sống tại lưu vực sông Hoàng Hà, ân tứ của giới tự nhiên không được phong phú, từ
rất sớm đã lấy việc cày ruộng làm sinh nghiệp. Cuộc sống cần cù vất vả cho nên họ coi trọng
thực tế, coi khinh huyễn tưởng và do đó không thể đem truyền thuyết đời trước tập hợp lại và
đúc kết thành những áng văn chương rộng lớn được”, “Hai là thêm vào đó lại có việc ra đời
của Khổng Tử, con người chuyên giảng cứu một hệ thống những điều giáo huấn có tính chất
thực dụng về tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Các truyền thuyết thần quái hoang đường
thời thượng cổ, Khổng Tử và các học trò của ông không hề nói đến. Do đó mà về sau, ở nước
Trung Quốc đã coi tư tưởng Nho gia là chính thống, thì thần thoại dần dần chuyển hóa thành
lịch sử, không những chưa từng được làm rạng rỡ lên mà trái lại còn bị tan rã đi nữa”, “Ba là
sự không phân biệt thần và quỷ. Thiên thần, địa kỳ, nhân quỷ thời cổ xem ra thì có phân biệt
đấy nhưng trên thực tế thì nhân quỷ (tức hồn ma người chết) có thể hóa thành thiên thần và địa
kỳ. Người và thần lẫn lộn với nhau” [CD, 38, tr.5,6]. Tuy nhiên, khi kho tàng thần thoại một
nước không được sắp xếp một cách tập trung, mạch lạc và ổn định như trong sử thi thì nó lại
tạo điều kiện thuận lợi cho những sự kết hợp khác, chẳng hạn đối với thần thoại Trung Hoa “Vì
không được đúc kết theo nội dung và hình thức xác định và ổn định cho nên chúng dễ biến chất
đi và dễ bị pha tạp và đồng hóa vào các truyền thuyết của đời sau. Hơn nữa, cũng vì thế mà
chúng dễ thu hút các yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục và các quan niệm chính trị, xã hội,
triết học của các đời sau” [38, tr.8]. Như vậy, việc thần thoại Trung Hoa tồn tại rải rác, lẻ tẻ
cũng không phải hoàn toàn bất lợi. Thần thoại Trung Hoa không tồn tại một cách tập trung thì
sẽ tản mác trong văn hóa của dân tộc, tồn tại ở nhiều tác phẩm khác nhau. Liêu trai chí dị ra đời
cũng là một minh chứng cho sức sống của huyền thoại trong nhân dân - tương truyền rằng Bồ
Tùng Linh thường biện trà thuốc, trải chiếu ven đường đợi lúc nông dân đi làm về cùng trò
chuyện để sưu tầm chuyện lạ dân gian, Liêu trai hình thành từ đó.
Không chỉ kế thừa việc xây dựng truyện bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu linh trong
thần thoại thế giới nói chung, thần thoại Trung Hoa nói riêng, nhà văn Bồ Tùng Linh còn có sự
kế thừa sâu sắc các tác phẩm khác. Nếu dùng khái niệm huyền thoại bao hàm những câu
chuyện kể về thời kỳ khởi nguyên của thế giới cùng những quan niệm hoang đường về thế giới,
bao gồm cả huyền thoại xưa lẫn huyền thoại nay thì có lẽ văn học Trung Quốc là một trong
những nền văn học có huyền thoại phong phú nhất. Bên cạnh truyện thần thoại, cổ tích, truyền
thuyết, văn học có hàng loạt các tác phẩm xuyên suốt lịch sử văn học. Đó là nhờ thần thoại đã
cung cấp nguồn đề tài phong phú và phương pháp sáng tác một cách không tự giác cho rất
nhiều các tác phẩm về sau, nhất là khi người Trung Quốc xưa nay vẫn luôn có truyền thống
hiếu sử, hiếu sự trên cơ sở của hiếu kỳ. Có thể kể ra một số dấu ấn đậm nét của văn học có sử
dụng yếu tố kỳ ảo của Trung Hoa như sau: từ cuối đời Hán đến đời Tùy, các thuyết thần tiên
thịnh hành, hai tôn giáo Phật và Đạo được truyền bá rộng rãi tạo nên những câu chuyện quỷ
thần ma quái, do đó xuất hiện nhiều tiểu thuyết chí quái. Đến đời Đông Tấn xuất hiện Sưu thần
ký của Can Bảo là tác phẩm mở đầu của tiểu thuyết Trung Hoa không chỉ tập hợp đầy đủ các
truyện thần quái cổ kim từ thượng cổ đến Tây Tấn mà còn được sáng tạo khiến cho nhiều câu
chuyện trở nên khúc chiết, cảm động. Đến đời Đường, những truyện truyền kỳ tràn đầy màu sắc
thần quái nhưng tình tiết đã uyển chuyển hơn. Đời Minh có tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của
Cù Hựu tập hợp 21 truyện kể về ma quỷ, tinh động vật (trăn, khỉ…), thần tiên. Đặc biệt, Liêu
trai chí dị của đời Thanh là tập đại thành của dòng văn học sử dụng yếu tố kỳ ảo. Liêu trai đã
có sức lan tỏa mạnh mẽ vào cuộc sống đời thường khi trở thành thuật ngữ chỉ quang cảnh
hoang vắng, rùng rợn. Nhà văn Bồ Tùng Linh không chỉ có cái nhìn vạn vật hữu linh của tư duy
huyền thoại mà còn kế thừa sâu sắc việc xây dựng truyện từ các nhân vật sinh ra từ quan niệm
vạn vật hữu linh vốn đã được sử dụng trong các tác phẩm văn học dân gian,
Các nhân vật ảo sinh ra từ quan niệm vạn vật hữu linh rõ ràng thuộc về huyền thoại. Điều
cần phải nói ở đây là văn học và huyền thoại không chỉ có quan hệ nguồn gốc thuở ban đầu mà
còn có quan hệ qua lại với nhau. Đối với một tác phẩm văn học có sự gia công, sáng tạo rất lớn
của tác giả như Liêu trai chí dị, sự sử dụng các nhân vật ảo từ thần thoại và trong các tác phẩm
văn học viết trước Liêu trai có những biến đổi nhất định phục vụ cho yêu cầu nghệ thuật của
nhà văn. Liêu trai chí dị không phải hoàn toàn là sự kế thừa của quan niệm vạn vật hữu linh
trong tư duy huyền thoại hay từ các tác phẩm văn học trước đó, mà nhà văn Bồ Tùng Linh đã
sáng tác tác phẩm này dựa trên những yêu cầu bức thiết của thời đại Minh – Thanh.
Lật từng trang lịch sử thời Minh – Thanh, người đọc luôn có ấn tượng sâu sắc với những
biến động dữ dội. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lật đổ nền thống trị Mông Nguyên, xây
dựng lại chính quyền thống nhất của Hán tộc. Ban đầu, nhà Minh đã thi hành nhiều chính sách
có lợi cho dân chúng nhưng từ giữa đời Minh về sau xã hội luôn rối loạn, bọn hoạn quan
chuyên quyền nhũng nhiễu nhân dân, thiên tai liên tiếp xảy ra nên nhiều cuộc khởi nghĩa nông
dân bùng nổ. Thời Thanh (1644 – 1911) là triều đại ngoại tộc do người Mãn Thanh cai trị liên
tiếp diễn ra các cuộc khởi nghĩa giải quyết mâu thuẫn dân tộc. Giai cấp thống trị đã ra sức đàn
áp làm cho tình hình chính trị vô cùng bất ổn suốt một thời gian dài.
Bên cạnh sự rối ren, đẫm máu về chính trị, thời Minh – Thanh còn có sự tàn bạo về văn
hóa. Nếu ai làm sách trái ý giai cấp thống trị thì sẽ bị trừng phạt nặng, bị chém… Chính quyền
tập trung người tài để buộc họ tra cứu sách cũ, soạn sách mới để quên đi thời cuộc. Chính
quyền còn chủ trương dùng “bát cổ văn” để thi cử nhằm cấm tự do tư tưởng. Sự phẫn uất của
nhân dân dưới sự thống trị tàn bạo của nhà Minh, nhà Thanh đã sinh ra hàng loạt các tác phẩm
văn học thấm đẫm tinh thần thời đại: chống lại tư tưởng Nho gia truyền thống, chống phong
kiến bằng cách thể hiện tư tưởng, tình cảm của nhân dân bằng nội dung độc đáo, nghệ thuật
khác lạ là sử dụng các yếu tố kỳ ảo mà Liêu trai chí dị là một điển hình. Cách viết này giúp nhà
văn đạt được mục đích thể hiện một cách không giới hạn nhận thức, tư tưởng, tình cảm của
mình đối với xã hội mà vẫn tránh được sự đánh giá, trừng phạt khắc nghiệt của lễ giáo và chính
quyền phong kiến.
Chính lý do trên đã buộc nhà văn Bồ Tùng Linh khi kế thừa di sản văn hóa dân gian đã
phải có sự sáng tạo riêng. Sáng tạo đó là sự đan cài hai yếu tố thực - ảo trong cốt truyện. Trong
thần thoại, các yếu tố thực được nhiều người công nhận nhất là cái thực đằng sau tác phẩm, cái
thực của những người đã sáng tác một cách không tự giác. Đó là sự sợ hãi, lo âu của người
nguyên thủy trước tự nhiên và niềm tin vô cùng thiêng liêng của họ đối với các lực lượng siêu
nhiên. Chí quái, chí nhân ở Trung Hoa thực hiện đúng nhiệm vụ của truyền kỳ là “Truyền đi
một sự lạ”. Cho đến truyền kỳ đời Đường, cái kỳ còn được hiểu là nghệ thuật kể chuyện của tác
phẩm được nâng lên một bước: phải kể cho ly kỳ, hấp dẫn. Như vậy, các tác phẩm trước Liêu
trai chí dị đề cập cái ảo chỉ để nói tới cái hoang đường. Liêu trai chí dị cũng đề cập nhiều đến
cái ảo nhưng không phải với mục đích như vậy. Nhà văn viết về cái ảo trong tiểu thuyết của
mình không phải để cổ vũ cho hiểu biết, niềm tin của con người thời nguyên thủy để lại cho
người đời sau. Ông cũng không hề muốn giải thích về con người nguyên sơ và tự nhiên, thế
giới xung quanh mà chỉ muốn phản ánh hiện thực thời đại mình. Nhà văn Bồ Tùng Linh đã
dùng nghệ thuật mới lạ để biểu hiện chân thực cuộc sống bằng cách cho cái thực và cái ảo đan
cài, gắn bó khăng khít với nhau không thể tách rời. Truyện ngắn của Liêu trai chí dị được nhận
định: “Dù nó xuất xứ từ đâu đi nữa thì các truyện này đều phản ánh các khía cạnh khác nhau
của muôn mặt đời thường. Thế giới kỳ ảo được tạo ra ngay trong lòng bản thân thế giới hiện
thực, hòa quyện một cách hữu cơ với thế giới hiện thực, đến mức nếu tách bỏ thế giới kỳ ảo
khoác áo ma quái này đi thì các truyện không tồn tại như là những chỉnh thể nghệ thuật được
nữa” [11, tr.234].
Liêu trai được xây dựng theo hình tượng nhân vật kỳ ảo nhưng các hình tượng nhân vật
kỳ ảo này lại là sự tổng hợp của hai mặt thực - ảo. Có như thế, truyện mới phản ánh được hiện
thực cuộc sống một cách chân thực. Các nhân vật ảo và nhân vật thực trong Liêu trai chí dị
cũng có ranh giới nhất định: các nhân vật ảo có nguồn gốc là ma, là tinh động vật, thực vật và
các vật thể cho nên có khả năng phi thường, tính cách cũng khác thường so với các nhân vật
thực. Nàng công chúa Vân La từ trên trời chủ động xuống trần kết duyên với An Đại Nghiệp,
thỉnh thoảng vẫn bay về trời. Một lần xuống trần nghe chồng báo tin đã thi đỗ kỳ thi hương,
nàng đã bộc lộ thái độ chán ghét với công danh, thi cử “Cái thứ ở đâu dính vào. Có chi đáng kể,
chỉ làm giảm thọ thôi. Ba ngày không gặp, lại nặng thêm tục chướng một tầng nữa rồi” [44,
tr.1038] (truyện Vân La công chúa). Các nhân vật ảo cũng chia đôi cùng nhân vật thực thời gian
tối / sáng, chẳng hạn thời gian ở chốn âm phủ được một nàng ma miêu tả “Thành phủ ở dưới
âm cũng ngang như trần gian vậy nhưng không ở chỗ này, cách đây tới ba, bốn dặm nhưng lấy
đêm làm ngày” [44, tr.949] (truyện Ngũ Thu Nguyệt). Tuy nhiên, các nhân vật ảo vẫn trà trộn
được vào thế giới con người để hưởng cuộc sống trần gian đầy tục lụy. Đêm đêm, các nhân vật
ảo mà chủ yếu là các mỹ nhân lại tìm đến với thư phòng của các thư sinh để tìm kiếm người tri
kỷ. Thế giới nhân vật ảo cũng có tổ chức cao thấp, thiện – ác như cõi người. Tiêu biểu là âm
phủ với người đứng đầu là Diêm Vương, thấp hơn là hàng loạt quan lại, lính lệ cai quản vô số
các linh hồn. Trong mỗi nhân vật ảo cũng chứa không ít tư tưởng, tình cảm như con người. Các
nàng ma, hồ ly, tinh các động vật khác, tinh thực vật và các vật thể… đều chủ động trong tình
yêu, rất chuộng chính nghĩa. Có chứng kiến các nhân vật ảo là nữ tự đi tìm tình yêu cho mình,
tả xung hữu đột để bảo vệ tình yêu, bảo vệ người tri kỷ thì mới thấy hình tượng nhân vật kỳ ảo
trong Liêu trai chí dị mặc dù sinh ra từ quan niệm vạn vật hữu linh nhưng đã hoàn toàn lột xác
so với thần thoại. Đó là những tấm gương để con người soi vào nhìn thấy chính bản thân mình
nếu không bị các lễ giáo khắt khe ràng buộc, khi chưa bị tiền tài che phủ mất lương tâm. Độc
giả bị hấp dẫn bởi tính chất hoang đường nhưng không hề kinh sợ vì các hình tượng kỳ ảo vô
cùng gần gũi.
Nếu Liêu trai chí dị chỉ đề cập cái thực, tác phẩm sẽ không có sự lung linh huyền ảo mà
qua đó con người nhận thức chính mình sâu sắc hơn nhưng nếu nhà văn đề cập quá nhiều đến
cái ảo thì tác phẩm sẽ trở nên hoang đường không có chiều sâu. Ở đây, tác giả đã đan cài một
cách cân bằng mật độ xuất hiện của nhân vật thực và ảo, yếu tố ảo và thực trong hình tượng
nhân vật kỳ ảo, kéo theo sự cân bằng thực - ảo trong cốt truyện tạo nên một giá trị đặc biệt cho
tác phẩm. Việc làm này của tác giả đã mang đến cho văn học một hình thức mới để phản ánh
thoát khỏi những hình thức đơn điệu và giúp nhà văn triển khai một cách không giới hạn tư
tưởng của mình mà vẫn thoát khỏi sự đánh giá khắc nghiệt của lễ giáo, của chính quyền phong
kiến. Dụng ý này của tác giả cũng thể hiện ở sự xây dựng các sự kiện kỳ ảo trong tác phẩm.
2.1.2 Truyện là chuỗi các sự kiện kỳ ảo
Sự kiện là những biến đổi, tác động, sự cố có ý nghĩa quan trọng đối với nhân vật, làm
cho nhân vật và quan hệ của chúng không giữ nguyên hiện trạng mà phải biến đổi theo. Truyện
là chuỗi các sự kiện xảy ra liên tiếp trong không gian và thời gian được tác giả sáng tạo, sắp xếp
để chúng bộc lộ những ý nghĩa nhất định. Nhà văn Bồ Tùng Linh đã xây dựng Liêu trai chí dị
bằng chuỗi các sự kiện kỳ ảo. Sự kiện xuất hiện nhiều nhất trong Liêu trai là sự kiện biến hình,
trong một truyện ngắn thông thường nhân vật phải biến hình nhiều lần, mỗi lần biến hình lại
đóng góp cho sự thúc đẩy diễn biến câu chuyện. Sự kiện biến hình trong Liêu trai có tính chất
liên tục và bền vững, có thể chia thành hai mô tip là vật biến thành người và người biến thành
vật.
Mô tip phiên âm từ tiếng Pháp là motif, tiếng Đức là motive đều bắt nguồn từ tiếng
Latinh moveo – chuyển động, học thuật Trung Hoa dịch là mẫu đề. Mô tip lúc ra đời là một
thuật ngữ gắn với âm nhạc, được ghi trong Từ điển âm nhạc (1703) của S.de Brossare, sau được
Goethe đưa vào văn học. Đầu thế kỷ XX, mô tip được các nhà nghiên cứu xem như “yếu tố
không thể phân chia nhỏ hơn của văn bản, ngôn bản; đó là những sự vật, hình ảnh, là đơn vị
nhỏ nhất của cốt truyện dân gian” [3, tr.209], “thành tố bền vững, vừa mang tính hình thức
vừa mang tính nội dung của văn bản văn học; mô tip có thể được phân xuất ra từ một hoặc một
số tác phẩm văn học, của một nhà văn, hoặc trong văn cảnh toàn bộ sáng tác của nhà văn ấy,
hoặc trong văn cảnh một khuynh hướng văn học, một thời đại văn học nào đó” [3, tr.208].
Trong Liêu trai chí dị, mô tip xuất hiện nhiều nhất là mô tip vật biến thành người và mô tip
người biến thành vật. Mô tip này đã hình thành nên nhân vật kỳ ảo cho Liêu trai chí dị từ đó
dẫn tới một chuỗi hàng loạt các sự kiện kỳ ảo xảy ra liên tiếp trong tác phẩm bởi vì các sự kiện
này đều không có thật, không được khoa học chứng minh nó có thể xảy ra. Dưới đây là kết quả
thống kê sự biến hình từ vật thành người và từ người thành vật trong Liêu trai chí dị.
Bảng 2.1: Kết quả thống kê dạng biến hình từ vật thành người trong Liêu trai chí dị.
Loại Truyện Số thứ tự Nguồn gốc biến hình
1 Chồn 71 truyện
2 Cua Tam tiên
3 Rắn Tam tiên, Hoa Cô Tử, Hải công tử Động vật
4 Ễnh ương Tam tiên
5 Hổ Triệu Thành Hổ, Miêu sinh, Nhị Ban
6 Chuột A Tiêm
7 Ngựa Ngũ Thông thần
8 Heo Ngũ Thông thần
9 Chim Ngũ Thông thần
Chim bồ câu Cáp dị
Chim anh vũ A Anh
Quạ Trúc Thanh
10 Rùa Thân thị
11 Khỉ Tề Thiên đại thánh
12 Chẫu chàng Thanh Oa thần, Quyên tiền xây đền
13 Cá Tây Hồ chủ, Bạch Thu Luyện, Uông Sĩ Tú
14 Ba ba Bát đại vương
Tây Hồ chủ 15 Rồng
Liên Hoa công chúa, Lục y nữ 16 Ong
Sơn thần 17 Thằn lằn
Phùng Mộc Tượng 18 Gà
Câu cóc 19 Sáo
Liễu tú tài 20 Hoàng trùng
Lê thị 21 Lang
Phóng điệp 22 Bươm bướm
Tố Thu 23 Mọt sách
24 Mẫu đơn Cát Cân, Hương Ngọc
25 Nại đông Cát Cân
26 Cúc Hoàng Anh Thực vật
27 Sen Hà hoa Tam nương tử
28 Liễu Liễu tú tài
Đất 29 Nê thư sinh
Vật thể Tóc 30 Tiểu kê
Đá 31 Thạch Thanh hư
Bảng 2.2: Kết quả thống kê dạng biến hình từ người thành vật trong Liêu trai chí dị.
Loại Kết quả biến hình Truyện Số thứ tự
A Bảo Vẹt 1
Trúc Thanh Quạ 2
Hướng Kiểu Hổ 3
Bành Hải Thu Ngựa 4
Đỗ Tiểu Lôi Lợn 5 Động vật
Tạo súc Dê 6
Tạo súc Lừa 7
Tên Ất ở Kim Lăng Chồn 8
Bác Hưng nữ Rồng 9
10 Vật thể Đá La Tổ
Các mô tip vật biến thành người và người biến thành vật có nguồn gốc sâu xa từ trong
thần thoại. Con người nguyên thủy lấy hiểu biết về mình gán cho tất cả các sự vật xung quanh,
chưa phân biệt được người và vật nên thần thoại tồn tại rất nhiều nhân vật có hình dạng là sự
pha trộn giữa người và thú. Trong thần thoại Trung Quốc có bốn vị thần cai quản bốn phương:
Phục Hy (phương Đông), Thiếu Hạo (phương Tây), Thần Nông (phương Nam), Chuyên Húc
(phương Bắc) thì Phục Hy là vị thần đầu người mình rồng hoặc có khi lại truyền rằng mặt
người mình rắn, Thần Nông có mình người, đầu trâu, Chuyên Húc là cháu của Thiếu Hạo lúc
sống có mặt người, mình kỳ lân, chân lợn, đến khi chết hoá thành một vật nửa người nửa cá…
Việt Nam cũng có những câu chuyện kể về thuỷ tổ của dân tộc từ loài vật như rồng (Lạc Long
Quân) và tiên (Âu Cơ) trong đó tiên sinh ra từ sự quan sát, tưởng tượng của con người đối với
loài chim vì thế hình tượng chim thường có cánh và có thể bay trên không thoải mái, tự do. Có
khi thần thoại còn để con người biến thành thực vật như nàng Dao Cơ - con gái Viêm đế trong
thần thoại Trung Hoa, khi chết đi linh hồn biến thành cỏ dao. Nói chung, thần thoại là nơi lưu
trữ tất cả những ký ức của tuổi thơ loài người chưa phân biệt người và vật.
Khi con người bước vào xã hội có giai cấp, truyện cổ tích, truyền thuyết ra đời không còn
kể những câu chuyện mà các vị thần là trung tâm nữa mà kể nhiều về những con người mang
lốt của con vật. Vua nước Thục sau khi chết đã biến thành chim đỗ quyên, hay còn gọi là chim
cuốc vì uất hận chuyện riêng nên đời đời kêu thảm thiết, kêu cho đến lúc miệng thổ ra huyết.
Sự đội lốt của nhân vật thể hiện ước mơ tái sinh của con người trong thế giới xa xưa để thực
hiện cho đến cùng ước muốn của mình. Đôi khi, mô tip người biến thành vật còn có ý nghĩa
như một sự trừng phạt. Nhân vật Lý Thông tâm địa độc ác đã bị trừng phạt biến thành con bọ
hung trong truyện cổ tích Thạch Sanh của Việt Nam là một minh chứng tiêu biểu. Sự thay đổi
hình dạng của nhân vật thường phải dựa vào sự trợ giúp của thần, Phật và các lực lượng siêu
nhiên. Bên cạnh mô tip người biến thành vật thì mô tip vật biến thành người cũng rất phổ biến
trong văn học dân gian. Tiêu biểu nhất là quan niệm của người Trung Hoa cho rằng cáo có thể
biến hóa thành người. Họ cho rằng trong loài vật, cáo là loài có thể nói là thông minh nhất sau
con người. Hồ ly thường là cáo cái khi hóa thành người thường rất xinh đẹp, thông minh, có
sức quyến rũ kỳ lạ. Mỗi khi ra khỏi hang động chúng đều thay đổi hình dạng, chỉ khi chết
chúng mới trở lại nguyên hình là con cáo. Đát Kỷ - mỹ nhân đã mê hoặc Trụ Vương từng có
nhiều người tin rằng đó là một hồ cung thủ – thủ lĩnh tối cao của hồ ly. Xuất phát từ niềm tin
vạn vật đều có sự sống, có linh hồn như con người, quan niệm dân gian cho rằng con người có
thể biến thành vật và dĩ nhiên mọi động vật, thực vật thậm chí là cả các vật thể nếu có linh tính
đều có thể mượn lốt con người.
Sự kiện biến hình trong Liêu trai chí dị vừa giống thần thoại lại vừa giống truyện cổ tích.
Trong thần thoại, các thần cũng có thể biến hoá theo ý thích của bản thân mình. Nhiều nhân vật
trong Liêu trai cũng có khả năng đó chứ không phải nhờ đến sự giúp đỡ của các lực lượng siêu
nhiên. Trong truyện Tửu bằng, Cố Xa vốn nghiện rượu, một đêm thức dậy đã thấy một vật
mướt mượt như con mèo nhưng lớn hơn cũng đang say. Con chồn đó cựa mình tỉnh dậy biến
ngay thành thư sinh vẫn hằng đêm đội lốt người đến uống rượu. Trong truyện Hà hoa Tam
nương tử, sĩ nhân Tống Dương Nhược người Hồ Châu chèo thuyền đuổi theo cô gái vốn là tinh
hoa sen hóa thành. Cô gái có bím tóc buông rũ, áo lụa trắng như băng, tươi đẹp tuyệt trần khi bị
đuổi gấp đã biến thành một bông hoa sen cuống ngắn. Chàng trai họ Tống đem bông hoa ấy về
hơ qua ngọn nến buộc cô gái phải biến hình thành mỹ nhân. Trong truyện A Bảo, chàng trai
Tôn Tử Sở si tình bỗng nhiên biến thành chim vẹt bay đến gặp người yêu. Sự kiện biến hình
thường diễn ra rất nhanh chóng chỉ trong chớp mắt.
Trong Liêu trai chí dị, cuộc gặp gỡ giữa nhân vật ảo và thực cứ hợp rồi lại tan bởi rất
nhiều nhân vật ảo dù biến hình thành người, dù biến thành vật thì một ngày nào đó không lâu
cũng sẽ quay về với nguồn gốc, với đồng loại của mình. Điều này rất giống truyện cổ tích với
các nàng tiên sẽ có một ngày xa trần thế trở về với bầu trời. Hầu hết các nhân vật biến hình có
một ngày rời xa cộng đồng mà lúc biến hình mình đã từng chung sống. Sự rời xa này có thể có
cái cớ là sự nghi ngờ của những người xung quanh về nguồn gốc bất thường của nhân vật ảo,
các nhân vật ảo không thể sống trong nghi ngờ, phân biệt nên đành cất bước ra đi. Trong truyện
Cát Cân, hai mỹ nhân vốn là tinh hoa mẫu đơn đã biến mất khi bị gia đình chồng nghi ngờ
nguồn gốc là tinh hoa, không phải là người bình thường. Tuy nhiên, nhiều lúc sự biến mất của
nhân vật ảo hoàn toàn không rõ lý do, có thể là do nhân vật thực là tri kỷ của các nhân vật ảo
không tránh được quy luật sống – chết của con người nên sắp phải chết, có thể là do nhân vật ảo
sau một thời gian bôn ba ở cõi trần đã nếm đủ hương vị buồn vui nên trở về với kiếp sống thực
của mình. Trong truyện Hồ thiếp, hồ ly là vợ của Lưu Động Cửu sống chung với chàng được
mấy năm rồi bỏ đi mất, để lại cho họ Lưu những đồ dùng trong đám tang, chỉ vài ngày sau đó,
người chồng chết. Sự kiện biến hình trong Liêu trai dù xảy ra liên tục vì mỗi khi nhân vật ảo
xuất hiện giữa thế giới con người thì thường đã mang cái lốt của người nhưng nó không phải là
vĩnh viễn.
Trong Liêu trai chí dị, các dạng thức biến hình chủ yếu là biến hình từ vật thành người và
biến hình từ người thành vật. Mỗi dạng biến hình đều có ý nghĩa khác nhau. Mô tip vật biến
thành người, người biến thành vật được nhà văn Bồ Tùng Linh sử dụng không chỉ trên cơ sở kế
thừa mà còn là một thủ pháp nghệ thuật chuyển tải những thông điệp sâu sắc.
Vật biến thành người trong Liêu trai chí dị xuất hiện nhiều hơn và mang những ý nghĩa
vô cùng sâu sắc. Trong Liêu trai chí dị có 23 loài động vật, 5 loài thực vật và 3 vật thể có khả
năng biến hóa thành người. Trong bảng thống kê 2.1 chỉ có duy nhất con sáo trong truyện Câu
cóc biết trò chuyện, suy tính, có tình cảm như con người còn tất cả các nhân vật ảo khác đều
mượn một thân xác con người toàn vẹn. Trong đó chỉ riêng loài chồn đã có thể biến hình trong
71 truyện, các loài khác có thể biến hóa trong khoảng từ một đến ba truyện và sự xuất hiện của
các nhân vật ảo có nguồn gốc từ động vật, thực vật, vật thể này nhiều khi kéo theo gia đình,
làng xóm thậm chí là cả một vương quốc nhân vật kỳ ảo cho nên sự biến hình thường diễn ra
với mật độ dày đặc trong Liêu trai. Mô tip biến hình giúp các nhân vật ảo quá đam mê cuộc
sống trần gian có được một lớp vỏ bọc là người, có hình dạng người để giao du, xen lẫn vào thế
giới của con người. Các nhân vật ảo này thường hiện ra trong lốt của những người con gái xinh
đẹp, tươi trẻ và thường đi tìm kiếm tình yêu lứa đôi. Hồ ly Liên Hương xinh đẹp đêm đêm tìm
đến gặp gỡ Tang sinh, cho đến khi bị bệnh chết vẫn hẹn 10 năm sau sẽ đầu thai thành người để
tiếp nối mối duyên còn dang dở (truyện Liên Hương). Cô gái áo xanh trong truyện Lục y nhân
đến làm quen cùng Vu Cảnh, thời gian sau đó hai người thường xuyên gặp nhau. Đến một hôm,
cô gái từ biệt ra về không ngờ bị vướng vào lưới nhện, hiện nguyên hình là một con ong đã bất
chấp hiểm nguy, đêm đêm đến tình tự cùng người tri kỷ. Mô tip vật biến hình thành người chủ
yếu thể hiện cái nhìn về chốn trần gian đầy hạnh phúc của nhân vật, của tác giả và luôn được
người đọc đồng tình. Đôi khi, các nhân vật ảo biến hình còn để thực hiện những âm mưu đen
tối. Trong truyện Đổng sinh, hồ ly nữ có kim đan hại Đổng sinh rồi suýt nữa hại chết luôn bạn
của Đổng là Vương Cửu Tư. Nghê thị là một hồ ly nữ chuyên hút khí huyết của người để thành
tiên (truyện Lưu Hải Thạch). Rất nhiều tinh động vật khác biến hình thành người đàn ông trêu
ghẹo những cô gái nhà giàu xinh đẹp. Truyện Thân thị kể về một con rùa trêu ghẹo đàn bà con
gái, mỗi lúc nửa đêm hắn lại hóa thành đàn ông vượt tường vào nhà, không ai ngăn cản được. Ở
một truyện khác, tác giả kể về nạn Ngũ Thông ở miền Nam do tinh của năm con vật tác oai tác
quái, trong đó có tinh của ngựa, heo, chim chuyên biến thành đàn ông hằng đêm đến chiếm đoạt
những người phụ nữ xinh đẹp (truyện Ngũ Thông thần). Sự biến hình từ vật thành người ở đây
mang tính chất khuyến thiện trừng ác.
Dạng biến hình thứ hai của Liêu trai chí dị là người biến thành vật mang những ý nghĩa
khác so với mô tip vật biến thành người. Chỉ với 10 truyện miêu tả sự biến hình người thành vật
nhưng đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Truyện A Bảo có chàng Tôn Tử Sở vì
quá thương nhớ nàng A Bảo nên đã hoá thành vẹt vỗ cánh bay thẳng đến buồng nàng. Điều này
không khỏi làm người đọc liên tưởng đến thần tình yêu của Hy Lạp tên là Eros rất đẹp đúng với
tư cách là một thiên thần có cánh, tay luôn cầm cung tên để tác hợp cho mọi lứa đôi. Ở Trung
Hoa, từ tác phẩm Hán thư, tin nhạn - tin tức do chim nhạn mang tới đã được đề cập. Hán Chiêu
Đế bày ra chuyện đi săn, phao tin rằng có bắt được một con chim nhạn có buộc thư của Tô Vũ
dưới chân để chứng minh Tô Vũ sau 19 năm bị đày đi chăn dê ở Bắc Hải vẫn một lòng muốn về
với nhà Hán. Về sau, tin nhạn luôn được dùng để chỉ những tin tức tốt lành được một người nào
đó trông đợi. A Bảo biến thành chim để trực tiếp đi gửi thông điệp tình yêu si mê của chính
mình cũng là điều dễ hiểu. Truyện Trúc Thanh có chàng Ngư Dung yết kiến Ngô Vương trong
lúc đói khát rồi được biến thành quạ bay đi kiếm ăn thỏa thích. Đàn quạ đã gả cho Ngư Dung
một con quạ mái tên là Trúc Thanh sống vô cùng hạnh phúc vì cả hai đều rất chung tình. Được
biến thành chim, chàng học trò đã được thỏa mãn giấc mộng áo cơm, tình yêu tri kỷ. Tuy nhiên,
miêu tả con người biến thành chim, Bồ Tùng Linh chủ yếu muốn bày tỏ tư tưởng tình yêu tự
do, vượt qua mọi rào cản của lễ giáo phong kiến. Việc nhân vật là người biến hình thành hổ lại
mang một ý nghĩa khác. Trong truyện Hướng Kiểu, chàng trai Hướng Kiểu có anh bị công tử họ
Trang giết để cướp đoạt người con gái là Ba Tư. Vì họ Trang vừa giàu có, quyền lực lại vừa
xảo quyệt, gian ngoan nên Hướng Kiểu thương anh mà đi kiện không thành, đi trả thù cũng
không được. Cuối cùng chàng được đạo sĩ cho tấm áo vải bố mặc vào hoá thành hổ giết được
công tử Trang xảo quyệt. Khác với sự biến hình thành thú dữ để trả thù cho anh, cô gái trẻ trong
truyện Bác Hưng nữ đã biến thành rồng trả thù cho chính mình. Đó là một cô gái vừa tròn 15
tuổi bị một tên phú hộ mê nhan sắc bắt cóc, cô chống trả quyết liệt nên bị giết, thả xác xuống
vực sâu. Trời bỗng nhiên nổi mưa gió, sấm sét, cô gái biến thành rồng sà xuống mặt đất, quặp
lấy đầu tên nhà giàu lôi tuột đi. Người ta đến vớt xác cô gái vẫn thấy bàn tay cô túm chặt đầu
hắn ta chưa chịu buông rời. Miêu tả con người biến thành loài thú dữ như Hướng Kiểu hóa hổ,
cô gái ở Bác Hưng biến thành rồng, tác giả bày tỏ khát vọng lập lại công bằng trong xã hội.
Nhà văn sử dụng mô tip người biến thành vật chủ yếu để giúp nhân vật thực hiện những điều
muốn làm, nên làm nhưng lại không thể làm nổi với thân xác con người trần tục.
Có lúc, nhà văn cho nhân vật biến thành con vật để bộc lộ rõ hơn tính cách của mình, từ
đó sẽ bị trừng trị thích đáng. Truyện Tên Ất ở Kim Lăng có tên Ất bán rượu vì muốn bán được
nhiều rượu nên mỗi lúc nấu rượu xong đều cho thuốc độc vào, người giỏi uống đến mấy cũng
dễ say. Tên Ất trở nên có tiếng là nấu rượu giỏi, rất giàu có, lại thèm khát con dâu của người họ
Tôn, nài nỉ hồ ly giúp chiếm đoạt được nàng. Hồ ly cho Ất mượn chiếc áo xám của mình nhưng
Ất chưa kịp quấy nhiễu người khác đã bị vị tăng lập đàn tràng trừ hồ ly sai rồng đi bắt. Ất ngã
vật xuống biến thành một con chồn, dù được vị tăng cho vợ con dắt về nhưng chỉ vài ngày sau
thì chết. Mô tip người biến thành vật còn được sử dụng như một sự trừng phạt: vợ Đỗ Tiểu Lôi
bất hiếu với mẹ nên bị biến thành con lợn (truyện Đỗ Tiểu Lôi), kẻ sĩ Khâu sinh tính nết xấu xa
bị biến thành con ngựa (truyện Bành Hải Thu). Ngoài ra, mô tip này cũng được dùng miêu tả
những kẻ độc ác có phép thuật sẵn sàng biến người thành dê, lừa (truyện Tạo súc).
Có một dạng biến hình không thuộc hai dạng trên là ma đội lốt người. Quan niệm vạn vật
hữu linh cho rằng con người cũng như vạn vật đều có linh hồn và thể xác. Khi chết rồi, linh hồn
vẫn còn tồn tại tiếp tục cuộc sống của mình. Trong Liêu trai chí dị, rất nhiều hồn ma thậm chí
đã chết hàng trăm năm vẫn mượn lại nhan sắc tươi thắm của mình lúc còn ở chốn trần gian để
một lần nữa trà trộn vào chốn trần tục. Tất cả chỉ vì đam mê cuộc sống trần thế như nàng ma họ
Lý trong truyện Liên Hương đã nói rằng “Hai con ma gặp nhau tịnh không có chi vui sướng.
Nếu được vui sướng thì dưới suối vàng há phải thiếu hạng trai tráng ư?” [45, tr.418], cho nên
nàng cung nữ Lâm Tứ Nương vô cùng xinh đẹp chết đã 17 năm vẫn tìm đến với Trần Bảo
Thược cho thỏa giấc mộng yêu đương, thi ca lúc sống không thành (Truyện Lâm Tứ Nương).
Nàng ma Chương A Đoan trong truyện cùng tên chết đã hơn 20 năm vẫn hiện lên trêu chọc,
yêu đương chàng trai Thích sinh gan dạ. Đáng lẽ một người chết đi lập tức phải xuống âm phủ
trình diện nhưng nàng đã trốn Diêm Vương suốt hơn 20 năm vì quá lưu luyến với cuộc sống
trần thế. Đến khi nàng bị người chồng cũ kiện vì tội thất tiết, nàng phải chết lần nữa thì tất cả
chỉ còn là bộ xương trắng. Nàng ma Liên Tỏa trong truyện ngắn cùng tên cũng phải chờ đợi
suốt 20 năm mới gặp được tri kỷ là Dương Tử Úy để được hồi sinh làm vợ của chàng. Đặc biệt,
Hoạn Nương đã chết hơn 100 năm vẫn trà trộn vào cuộc sống trần tục (truyện Hoạn Nương).
Khác với quan niệm dân gian cho rằng ma hầu hết đều hại người, nhà văn Bồ Tùng Linh khi
xây dựng hình tượng này đã đem lại cho người đọc một cảm giác vô cùng ấm áp của tình yêu
cuộc sống mà không phải bất cứ con người trần gian nào cũng có được và giữ được trọn vẹn
như thế trong suốt cuộc đời mình. Dạng biến hình từ vô hình sang hữu hình này gần gũi với mô
tip vật biến thành người bởi tình yêu cuộc sống đã thôi thúc các nhân vật mượn thân xác con
người để hưởng trọn vẹn cuộc sống như con người trần thế.
Cho dù mô tip biến hình ở đây đa dạng như thế nào, từ người biến thành vật, vật biến
thành người, ma đội lốt người thì sự biến hình cũng diễn ra hết sức nhanh chóng chỉ trong chớp
mắt, hầu như không cần sự trợ giúp của các lực lượng siêu nhiên khác, hơn nữa các nhân vật
biến hình đều vì những lý do hết sức trần tục đã làm cho các yếu tố ảo – thực trong truyện đan
xen vào nhau. Trong truyện Tửu bằng, một thư sinh uống rượu say ngủ thiếp đi, tỉnh dậy đã
thấy một con chồn nằm ngay bên cạnh. Một lát sau chồn tỉnh dậy, hoá ngay thành một chàng
thư sinh nho nhã. Trong truyện Đổng Sinh, anh chàng Đổng Sinh bước vào phòng mình thấy
một cô gái tuyệt đẹp đang nằm ngủ. Chàng mừng rỡ rờ xuống hạ thể thấy có đuôi liền sợ hãi
xanh mặt, định chạy trốn. Cô gái tỉnh dậy cười bảo Sinh rờ lại lần nữa thì thấy cái đuôi đã biến
mất. Tên nô bộc của thiên hộ Hàn Quang Lộc đêm nằm còn trông thấy rõ ràng trên lầu có ánh
đèn như ngôi sao sáng một lát lập lòe rơi xuống đất, hóa thành con chó, vừa tới trong vườn, nó
lại hóa ngay thành một người con gái cúi xuống lay gọi hắn ta (truyện Khuyển đăng). Sự biến
hoá nhanh nhạy của nhân vật ảo đã tạo nên không khí hư hư thực thực, thoắt ẩn thoắt hiện của
truyện Liêu trai. Điều này khác với trong thần thoại, các sự kiện siêu nhiên thống trị mạch
truyện, khác với truyện cổ tích xây dựng các yếu tố ảo – thực phân biệt rạch ròi.
Tác giả của Liêu trai chí dị muốn dùng mô tip vật biến thành người làm phương tiện
chuyển tải tư tưởng của mình: vừa khẳng định cuộc sống trần gian là hạnh phúc vừa phủ định
nó khi để cho một số nhân vật là người phải biến thành vật để thực hiện ước mơ của mình trong
xã hội bấy giờ. Về nghệ thuật, mô tip người biến thành vật và vật biến thành người được miêu
tả rất nhanh gọn, gói trọn trong những khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi mà lại diễn ra rất nhiều
lần tạo cho tác phẩm cái không khí hư hư thực thực, thoắt ẩn thoắt hiện làm cho câu chuyện
thêm bí ẩn và hấp dẫn. Đó là sự sáng tạo của nhà văn khi kế thừa những mô tip đặc sắc nhất từ
trong thần thoại.
Như vậy, nhà văn Bồ Tùng Linh đã xây dựng cốt truyện Liêu trai chí dị theo hình tượng
nhân vật kỳ ảo sinh ra từ quan niệm vạn vật hữu linh trong tư duy huyền thoại. Đồng thời, ông
cũng xây dựng truyện bằng hàng loạt các sự kiện biến hình rất kỳ ảo. Mặc dù kế thừa sâu sắc tư
duy huyền thoại, các tác phẩm thần thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết… nhưng tác giả của
Liêu trai đã có sự sáng tạo lớn khi làm cho truyện dù được xây dựng theo hình tượng nhân vật
kỳ ảo vẫn có sự đan xen thực - ảo chứ không phải là sự thống trị hoàn toàn của cái ảo, dù là
chuỗi các sự kiện kỳ ảo nhưng lại ngầm thể hiện quan niệm về xã hội. Sự kế thừa và sáng tạo
khi nhà văn sử dụng huyền thoại còn được thể hiện rất rõ trong thế giới nhân vật và quan hệ
giữa các nhân vật.
2.2 Thế giới ảo thể hiện qua nhân vật trong Liêu trai chí dị
Nhân vật văn học là con người được miêu tả, thể hiện trong các tác phẩm văn học. Văn
học không thể thiếu được các nhân vật bởi vì đó là hình thức cơ bản để miêu tả thế giới một
cách hình tượng. Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống con người,
thể hiện những hiểu biết, những ước ao và kỳ vọng của con người. Nhà văn sáng tạo nhân vật là
để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan niệm về các cá nhân đó. Bản chất văn học
là quan hệ đối với đời sống, nó chỉ tái hiện đời sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò
như những tấm gương của cuộc đời.
Nhà văn Bồ Tùng Linh đã tạo ra thế giới các nhân vật ảo trong Liêu trai chí dị với nguồn
gốc, ngoại hình, khả năng, tính cách thật là kỳ ảo. Quan hệ giữa các nhân vật này cũng rất hư ảo
giàu màu sắc tưởng tượng. Đó là kết quả của sự kế thừa một cách sâu sắc thần thoại, quan niệm
dân gian đã có từ cổ xưa và sự sáng tạo trong cách bộc lộ thái độ, tình cảm thế sự một cách vô
cùng ẩn ý.
2.2.1 Hệ thống nhân vật kỳ ảo
Liêu trai chí dị tồn tại với số lượng rất nhiều các nhân vật ảo. Đó là ma, là hồ ly, tinh của
vô số loài động vật khác, tinh thực vật và các vật thể, ngoài ra còn có thần, Phật, tiên, đạo sĩ,
quỷ, yêu quái… Các nhân vật này được xác định là nhân vật ảo chủ yếu là từ nguồn gốc xuất
thân của nhân vật. Nguồn gốc khác thường này sẽ lý giải những khả năng, tính cách khác
thường của các nhân vật ảo.
Dạng nhân vật ảo phổ biến nhất trong Liêu trai chí dị là ma và hồ ly. Khi trà trộn vào thế
giới của người sống, ma có thể mượn lại hình dạng của mình lúc còn sống, đội lốt chính mình.
Trong Liêu trai chí dị, rất nhiều nhân vật thân xác đã chết, nhiều khi chỉ còn lại bộ xương trắng
hằng trăm năm, chỉ còn lại linh hồn quanh quẩn bên cái xác của mình hoặc thơ thẩn chốn trần
gian nhưng vẫn trở về trong hình dạng con người như Vương Lục Lang (truyện Vương Lục
Lang), Chương A Đoan (truyện Chương A Đoan), Lý (truyện Liên Hương), Liên Toả (truyện
Liên Tỏa)… Các nhân vật này hiện ra trước mắt các chàng thư sinh với vóc dáng vô cùng xinh
đẹp, yểu điệu. Cũng như các nhân vật ảo là ma, hồ ly có thể có hồ ly đực như trong truyện Tửu
bằng, Hiệp nữ… nhưng đa số là các hồ ly cái hiện lên trong vóc dáng vô cùng yểu điệu, xinh
đẹp. Đó là Kiều Na (truyện Kiều Na), người vợ bé (truyện Hồ thiếp), Liên Hương (truyện Liên
Hương), cô Tân (truyện Tân Thập Tứ nương), Phong Tam Nương (truyện Phong Tam
Nương)… và rất nhiều nhân vật hồ ly khác không tên.
Trong tác phẩm này còn tìm thấy tinh các loài động vật khác như chim câu (truyện Cáp
dị), thuồng luồng, cá (truyện Tây Hồ chúa), ba ba (truyện Bát đại vương), quạ (truyện Trúc
Thanh), chim anh vũ (truyện A Anh), ong (truyện Liên Hoa công chúa)… cũng có thể biến hoá
thành người. Trong Cáp dị, chim câu trắng hóa thành chàng thư sinh. Trong truyện Tây Hồ
chúa thì bà chúa Tây Hồ vô cùng lộng lẫy thực ra là thuồng luồng, thị nữ theo hầu là con cá nhỏ
luôn ngậm đuôi thuồng luồng lúc chủ gặp nạn. Trong truyện Liên Hoa công chúa, công chúa
Liên Hoa cùng vua quan, binh lính thực ra là cả một đại gia đình nhà ong… Các nhân vật vốn
là thực vật tuy xuất hiện không nhiều bằng các loài động vật nhưng cũng không kém phần ấn
tượng. Đó là hai chị em Cát Cân, Ngọc Bản nhà mẫu đơn (truyện Cát Cân), hai chị em Hoàng
Anh, Đào nhà họ cúc (truyện Hoàng Anh)… Rất độc đáo là sự xuất hiện của của những vật thể
vốn được xem là vô tri cũng trở nên có linh tính, có thể mượn hình dạng người sống tạm cõi
trần như những sợi tóc đã biến thành rất nhiều những người tí hon chỉ cao hơn một thước
(truyện Tiểu kê), một thanh niên nho nhã bị đánh hiện nguyên hình chỉ toàn là đất (truyện Nê
thư sinh). Các nhân vật này không khỏi làm cho người đọc không liên tưởng tới hai nhân vật
chính trong một tiểu thuyết khác cũng xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh của tư duy
huyền thoại. Tiểu thuyết Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần cũng có chàng Bảo Ngọc xuất thân
từ hòn đá biết xốn xang với cuộc sống phàm trần nên quyết xin xuống trần thế, có nàng Đại
Ngọc vốn là cây Giáng Châu chịu ơn của Thần Anh mà xuống trần quyết lấy nước mắt đền ơn
chăm tưới của ân nhân.
Liêu trai chí dị còn phổ biến dạng nhân vật là tiên: cha con Thanh Nga thành tiên trong
động sâu (truyện Thanh Nga), nàng tiên Phiên Phiên cùng các chị em, bạn bè của mình ở chốn
núi sâu (truyện Phiên Phiên), các vị tiên ở đảo đầy hoa thơm cỏ lạ (truyện Phấn Điệp)… Bên
cạnh đó còn có các nhân vật là đạo sĩ có nhiều phép thuật sống ung dung giữa trời đất. Rất
nhiều thần linh sống ở trên trời, giữa trần thế, dưới âm phủ, thủy cung. Trong Liêu trai chí dị,
ngoài Phật còn có Diêm Vương trông coi cõi âm, Thượng đế trông coi cả ba cõi (Truyện Thủy
mãng thảo, Lôi Tào…).
Về hình dạng, các nhân vật ảo hầu hết phải mượn của con người, chủ yếu hiện ra trong
vóc dáng của các mỹ nhân vô cùng xinh đẹp hơn hẳn người thường. Tất nhiên, vì đội lốt nên
đôi khi hình dạng các nhân vật không khỏi có chỗ kỳ quặc như hồ ly trong truyện Đổng Sinh
mặt mày rất xinh đẹp nhưng lại có cái đuôi chồn, nàng ma họ Lý trong Chồn quỷ tranh chồng
thân hình nhẹ bổng… Thừa hưởng sự tưởng tượng vô cùng phong phú của tư duy huyền thoại
như bất kỳ con người nào trên thế gian này, Bồ Tùng Linh còn xây dựng những nhân vật có
hình dạng vô cùng kỳ quặc cho đến bây giờ có lẽ khoa học vẫn chưa thể chứng minh thế gian
lại có những sự vật bằng xương bằng thịt như thế.
Dân gian vẫn quan niệm rằng hình dạng kỳ lạ là một dấu hiệu bề ngoài báo hiệu nhân vật
chắc chắn có năng lực kỳ lạ, nói lên rằng trong nhân vật tiềm ẩn hoặc là những sức mạnh tự
phát của tự nhiên, hoặc là sức mạnh công phu tu luyện tự giác lâu ngày. Tất nhiên, năng lực kỳ
lạ hoàn toàn không phải chỉ có ở những nhân vật có ngoại hình kỳ lạ.
Thật vậy, hầu hết các nhân vật ảo trong Liêu trai chí dị đều có năng lực kỳ lạ. Trong
truyện cổ tích, các nhân vật khó có thể biến hóa nếu không có sự trợ giúp của các lực lượng
siêu nhiên nhưng trong Liêu trai chí dị các nhân vật có thể tự mình biến hóa chỉ trong tích tắc
như trong thần thoại, các vị thần có khả năng biến hóa phi phàm. Đầu tiên, điều ấy thể hiện ở
khả năng biến đổi hình dạng của mình, chim anh vũ phút chốc hóa thành cô gái đẹp, con chồn
tỉnh ngủ cựa mình biến thành thư sinh nho nhã… Các nhân vật ảo còn có thể biến hóa các sự
vật khác, có thể phân thân (truyện A Anh), có thể lấy vật mình cần bất chấp không gian cách trở
(truyện Hồ thiếp), có thể tiên đoán cho dù hiện tại, tương lai hay ở cả cõi khác. Trong truyện
Bát đại vương, Phượng Tiên có thể thổi một đống giày biến mất trong tích tắc… Nhân vật ảo
còn có tính cách kỳ lạ dám làm và làm được những việc không ai dám làm và cũng không thể
nào làm được, đặc biệt là có tình yêu lứa đôi vô cùng say đắm, mãnh liệt. Xét về mặt tính cách,
trong hệ thống nhân vật thực cũng có nhiều yếu tố ảo. Đó là thái độ vô cùng kỳ lạ đối với các
lực lượng siêu nhiên của các chàng thư sinh, khi gặp những mỹ nhân xinh đẹp thì lập tức quên
phắt nguồn gốc quái dị của các nàng.
Hệ thống các nhân vật ảo trong Liêu trai chí dị hình thành từ tư duy huyền thoại. Tư duy
huyền thoại còn được gọi là tư duy nguyên thủy, tư duy man dã chỉ hệ thống quan niệm hoang
đường về thế giới, là cái nhìn huyền thoại về thế giới. Trong thời nguyên thủy, con người chưa
có hiểu biết đáng kể về tự nhiên, cảm thấy vô cùng lo sợ trước tự nhiên đầy bí ẩn mà lại chưa
phân biệt mình với tự nhiên nên đã đem những hiểu biết về bản thân mình gán cho tất cả những
sự vật, hiện tượng xung quanh và tin rằng cả vũ trụ được điều khiển bởi các lực lượng siêu
nhiên có quyền hành vô hạn. Mưa, gió, biển… cũng trở thành các vị thần: thần mưa, thần gió,
thần biển… Các vị thần này kiểm soát, chi phối tất cả các sự vật, hiện tượng trên mặt đất bằng
sức mạnh vô biên, bằng phép thuật cao cường. Thần thoại Trung Quốc cũng quan niệm dưới
vua Vàng là vị vua tổng quản có bốn vị thần cai quản bốn phương: Chuyên Húc, Thiếu Hạo,
Thần Nông, Phục Hy. Xuất phát từ tư duy huyền thoại, dần dần các tôn giáo bồi đắp thêm cho
quan niệm có các vị thần cai quản mặt đất, sinh ra Bụt gắn liền với Phật giáo, tiên gắn liền với
đạo giáo, Chúa trời gắn liền với Thiên Chúa giáo… Bên cạnh đó, người nguyên thủy quan niệm
con người và con vật đều có chung nguồn gốc nên có rất nhiều vị thần có hình dáng là sự kết
hợp của người và thú. Trong thần thoại Trung Quốc cũng có thần Bàn Cổ mình người mặt gấu,
thần Nhị Phụ mặt người mình rắn… Sau này, những nhân vật như vậy ít dần vì con người đã
dần dần phân biệt rõ người và vật. Tuy nhiên, trong dân gian vẫn còn quan niệm động vật, thực
vật và cả những vật tưởng chừng như vô tri đều có thể biến hóa thành người. Trong tư duy
huyền thoại còn có quan niệm vạn vật hữu linh hay còn gọi là thuyết vật linh là quan niệm tất
cả các vật trên thế gian này, từ con người, các động vật khác, thực vật và các vật vô tri vô giác
đều có linh hồn, quan niệm này chi phối mạnh mẽ đến cách nhìn thế giới của người đời sau.
Nhà nghiên cứu E.B.Tylor – người đầu tiên đưa ra quan niệm vạn vật hữu linh đã khẳng định
vai trò vô cùng quan trọng của nó: “Nguyên nhân đầu tiên và chủ yếu của việc biến những sự
kiện thuộc kinh nghiệm hằng ngày thành huyền thoại là lòng tin vào sinh khí của toàn bộ tự
nhiên – lòng tin này đã đạt tới điểm cao nhất ở sự nhân cách hóa nó” [66, tr.384]. Như vậy,
quan niệm vạn vật hữu linh đóng vai trò quan trọng nhất trong tư duy huyền thoại, là nguyên
nhân chủ yếu tạo ra các huyền thoại. Dĩ nhiên quan niệm này khởi đầu cho rằng con người có
hai phần linh hồn và thể xác cho nên khi một người chết đi, người thân của họ có thể gặp lại
người đã chết trong những giấc mơ. Vì người nguyên thủy hiểu biết về tự nhiên, về thế giới
xung quanh còn hạn chế nên gán cho tự nhiên tất cả những thuộc tính của chính bản thân con
người, cho rằng vạn vật đều có linh hồn và sự sống như chính bản thân họ. Linh hồn là một
hình ảnh phi vật chất của con người, về bản chất nó giống như hơi, không khí hay bóng đen.
Nhà nghiên cứu E.B. Tylor nhận định về linh hồn như sau: “Nó là nguyên nhân của sự sống và
của ý tưởng về một thực thể được nó đem lại sự sống. Nó hoàn toàn và độc lập chi phối ý thức
và ý chí cá nhân của con người có thân thể trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Nó có thể
rời bỏ thân thể và nhanh chóng đi từ nơi này sang nơi khác” [66, tr.514]. Người nguyên thủy
tin rằng linh hồn có ở tất cả mọi đối tượng, linh hồn luôn tồn tại trong mỗi con người và trạng
thái ngủ, bệnh tật, chết… là do linh hồn đi vắng. Người ta rất sợ đánh thức đột ngột một người
đang ngủ vì lo lắng linh hồn vắng mặt sẽ khó tìm được lối về. Quan niệm vạn vật hữu linh đã
sinh ra một yếu tố đặc biệt, đó là ma – linh hồn của con người sau khi con người đã chết. Linh
hồn này mặc dù không được thể xác chứa đựng nữa nhưng vẫn giữ được dáng dấp của thể xác
“trong triết học vật linh của người hoang dã cũng như các cư dân văn minh, đã dứt khoát thừa
nhận rằng linh hồn khi đã thoát ra khỏi thân thể có thể được nhận ra vì sự giống nhau mà linh
hồn vẫn còn giữ được với thân thể” [66, tr.537]. Nó cũng có thể ở lại trong mộ người chết, đi
phiêu diêu trên mặt đất, bay trên không hay tới nơi cư trú thật sự của nó ở chốn âm phủ…
Người nguyên thủy cũng tin rằng linh hồn có thể di chuyển đến mọi thân xác khác nhau của
con người cũng như các loài khác. Khi con người đã ra khỏi thời nguyên thủy và cho đến cả xã
hội văn mình ngày nay, quan niệm về ma quỷ vẫn tồn tại không phải là ít trong quan niệm của
nhân dân mặc dù khoa học đã không ít lần phủ nhận. Nhà nghiên cứu Meletinsky chủ trương
cần nghiên cứu huyền thoại ở cả góc độ đồng đại chứ không chỉ là lịch đại vì sức sống của
huyền thoại vô cùng mãnh liệt. Ông luôn khẳng định sự tồn tại bất chấp thời gian của quan
niệm về cái chết nói riêng và huyền thoại nói chung “Tư tưởng của huyền thoại tập trung vào
những vấn đề “siêu hình” như bí ẩn của sự sống và cái chết, số phận… mà rõ ràng là ngoại vi
đối với khoa học và cách giải thích thuần logic về những vấn đề đó không phải lúc nào cũng
làm con người thỏa mãn, thậm chí cả trong xã hội hiện đại” [49, tr.219].
Trong tư duy nguyên thủy, con người chưa tách mình ra khỏi tự nhiên nên thường gán
cho các khách thể tự nhiên những thuộc tính của mình. Vạn vật dường như đều có linh hồn,
cũng là một cơ thể sống giống như con người. Bên cạnh đó, người nguyên thủy còn cho rằng
con người và con vật còn có chung một ông tổ. Con người có thể biến thành con vật và ngược
lại. Ngay cả cây cối vì cũng có những hiện tượng giống với động vật như sống và chết, khỏe
mạnh và bệnh tật nên người nguyên thủy cũng gán cho chúng một loại linh hồn như một điều tự
nhiên. Đặc biệt, với niềm tin vững chắc và cực kỳ nghiêm túc, người nguyên thủy coi các vật
thể - mà chúng ta tưởng chừng chúng vô tri vô giác - là sự sống có hồn như chính con người.
Từ đó, quan niệm này dẫn đến bái vật giáo – học thuyết về những linh hồn hiện thân ở các vật
thể hoặc có liên hệ với chúng, tác động thông qua chúng và quan niệm này “âm thầm chuyển
thành sự thờ cúng ngẫu tượng” [66, tr.720].
Xuất phát từ quan niệm vạn vật đều có linh khí, người Trung Quốc cổ cho rằng muôn
loài trong thế giới nếu sống lâu hoặc do biết cách tu luyện sẽ có linh tính nhiều hơn các vật
khác, thường được gọi là tinh. Theo quan niệm của người Trung Hoa cổ, hồ ly là một loài động
vật rất khôn ngoan, có linh tính, sống gần gũi với thế giới con người. Nó có thói quen chào đón
mặt trời mỗi khi bình minh đến bằng cách cất tiếng rú. Theo truyền thuyết thì loài hồ ly có thể
tu luyện thành tinh nên được gọi là hồ ly tinh. Khi thành tinh chúng có nhiều phép biến hóa và
làm được nhiều việc tốt giúp con người, vì vậy nó còn được gọi là hồ tiên. Đó là những con
chồn tu luyện lâu năm có nhiều phép thuật và có thể biến hoá thành người. Có thể nói rằng, nếu
không có quan niệm vạn vật hữu linh của tư duy huyền thoại thì chắc chắn sẽ không có các
nhân vật ảo trong Liêu trai chí dị bởi quá trình tìm hiểu các nhân vật này đã cho thấy chúng
được sinh ra từ sự kế thừa sâu sắc. Người nguyên thủy quan niệm tất cả sự vật đều có linh hồn,
có sự sống giống như con người đã giải thích vì sao các nhân vật ảo sinh ra từ quan niệm vạn
vật hữu linh có hành động, tư tưởng, tình cảm giống như con người. Bên cạnh đó, người
nguyên thủy cũng chưa có sự phân biệt một cách rõ ràng giữa thần và ma “gần như không thể
nào vạch ra được một ranh giới dứt khoát… giữa những ma chỉ đem lại điều lợi hay điều hại
cho con người với những ma có chức năng đặc biệt là cai quản các hiện tượng tự nhiên” [66,
tr.764] cho nên có thể thấy linh hồn vạn vật như ma, tinh động vật, tinh thực vật và các vật
thể… đều có khả năng phi thường, đặc biệt là khả năng biến hóa.
Cũng từ quan niệm vạn vật hữu linh, trong cái nhìn của người xưa còn có hình tượng
tiên. Đây là hình tượng nảy sinh từ sự tưởng tượng xuất phát từ quá trình con người quan sát
đặc tính của loài chim có thể bay trên không trung và sống gần gũi với bầu trời hơn tất cả
những sự vật khác. Điều đó giải thích tại sao các tiên nữ trong truyện cổ tích, trong quan niệm
của dân gian thường có cánh và nhất thiết phải biết bay. Sau này ở Trung Quốc, Đạo giáo đã
bồi đắp cho quan niệm này khi cho rằng con người nếu biết cách tu luyện thì cũng có thể thành
tiên. Bên cạnh các nhân vật sinh ra từ quan niệm vạn vật hữu linh trong tư duy huyền thoại,
trong Liêu trai chí dị còn có một số nhân vật khác như thần, Phật… cũng kế thừa từ tư duy
huyền thoại. Ngoài ra, Liêu trai có nhân vật đạo sĩ luôn gợi người đọc nhớ đến các phù thủy
trong truyện thần thoại, cổ tích. Thần thoại thế giới quan niệm rằng trời và đất có một thời lẫn
lộn rồi mới tách ra. Thần thoại Trung Quốc cũng không phải là ngoại lệ khi kể rằng sau khi có
một vị thần bắt ép dân một vùng theo mình đánh đổ ngôi vua Vàng nhưng thất bại, vua Vàng đã
cắt đứt đường lên trời của trần gian. Nhà nghiên cứu Eliade nói rằng: “Các thầy phù thủy sẽ
đóng vai trò trung gian giữa đất và các chủ nhân của bầu trời và có khả năng bay lượn trên
trời nhờ một cây cao hay một sợi dây ma thuật” [49, tr.236]. Trong Liêu trai chí dị, các đạo sĩ
không có cuộc sống khổ hạnh như các đạo sĩ trong sử thi Ấn Độ nhưng cũng luôn làm cho
người đọc tò mò bởi hành tung bí ẩn, khả năng đi mây về gió của họ. Và các đạo sĩ luôn sống
ung dung tự tại giữa đất trời vì sự thông hiểu quy luật của trời đất.
Tất cả các nhân vật ảo trong Liêu trai chí dị đều có cội nguồn từ tư duy huyền thoại mà
đặc biệt là quan niệm vạn vật hữu linh. Khi muốn bộc lộ thân phận thật sự của các nhân vật ảo,
nhà văn Bồ Tùng Linh có rất nhiều cách thể hiện: để cho nhân vật thực đoán định, để cho nhân
vật ảo thú nhận… trong đó có cách để cho nhân vật vì sơ ý hoặc buộc phải để lộ thân phận
mình làm người đọc cũng nhận ra thân phận của các nhân vật ảo trong một ấn tượng sâu sắc.
Chẳng hạn như nhà văn đã để hồ ly nữ trong truyện Đổng Sinh biến hóa cơ thể thành một cô gái
vô cùng xinh đẹp, chỉ sót lại cái đuôi chồn, để cho Đào vốn là tinh hoa cúc say quá hóa thành
cây cúc trong truyện Hoàng Anh, để cho nàng ma họ Lý nhìn thấy hồ ly Liên Hương chui tọt
vào hang sâu (truyện Liên Hương), để cho bà già độc ác trong truyện Nha Đầu phải chết để đền
tội trong cái xác một con chồn... Có lúc nhà văn chỉ miêu tả một mình nhân vật ảo trong lốt mỹ
nữ đến làm bạn thư sinh nhưng cũng có lúc miêu tả những cuộc kết duyên lâu dài và cả gia đình
nhân vật ảo xuất hiện vô cùng đông đúc. Đó là gia đình ba thế hệ của hồ ly trong Kiều Na,
trong Nha Đầu, gia đình chim câu trong truyện Cáp dị… Nói chung các nhân vật ảo của Liêu
trai chí dị xét về nguồn gốc xuất thân cho thấy số lượng và thành phần rất đông đảo.
Tất cả những điều đã nói ở trên cũng chỉ nhằm khẳng định rằng nhà văn Bồ Tùng Linh
đã sáng tác Liêu trai chí dị dựa trên sự ảnh hưởng vô cùng sâu sắc quan niệm vạn vật hữu linh
trong tư duy huyền thoại. Dĩ nhiên, quan niệm vạn vật hữu linh không phải được Bồ Tùng Linh
kế thừa một cách trực tiếp từ tư duy huyền thoại của thời nguyên thuỷ. Sáng tác văn học bao
giờ cũng bắt nguồn từ truyền thống. Các hình tượng nhân vật kỳ ảo đã đi từ tiểu thuyết chí quái,
qua truyền kỳ đời Đường rồi mới kết tinh thành tập đại thành là Liêu trai chí dị. Quan niệm vạn
vật hữu linh còn nằm trong tâm thức con người, đặc biệt là người phương Đông với tư duy
hướng nội. Tương truyền rằng Bồ Tùng Linh thường biện trà thuốc, trải chiếu ven đường đợi
lúc nông dân đi làm về cùng trò chuyện để sưu tầm chuyện lạ dân gian. Vì thế, quan niệm vạn
vật hữu linh là tài sản tinh thần của người Trung Hoa nói riêng, con người trên thế gian này nói
chung.
Các nhân vật ảo sinh ra từ quan niệm vạn vật hữu linh rõ ràng thuộc về huyền thoại. Điều
cần phải nói ở đây là văn học và huyền thoại không chỉ có quan hệ nguồn gốc thuở ban đầu mà
còn có quan hệ qua lại với nhau. Đối với một tác phẩm văn học có sự gia công, sáng tạo rất lớn
của tác giả như Liêu trai chí dị, sự sử dụng các nhân vật ảo trên có những biến đổi nhất định
phục vụ cho yêu cầu nghệ thuật của nhà văn.
Đầu tiên phải khẳng định rằng các nhân vật trong Liêu trai chí dị đều có sự đan xen của
hai yếu tố thực và ảo, không hề là thế giới quyền lực vạn năng của các thần trong thần thoại.
Đối với các nhân vật ảo, họ có đời sống tư tưởng, tình cảm, hành động bản chất giống con
người. Nhân vật là ma, hồ ly, tinh động vật khác, tinh thực vật, thần … hầu hết đến với cõi trần
vì đam mê cuộc sống cõi trần gian đầy tục lụy. Các nàng ma, hồ ly, tinh các động vật khác, tinh
thực vật và các vật thể… đều chủ động trong tình yêu, rất chuộng chính nghĩa. Các nhân vật ảo
đã sống cho thỏa niềm đam mê của mình, không hề bị ràng buộc bởi những giáo lí khắt khe của
con người trần gian nhất là trong xã hội phong kiến. Bồ Tùng Linh đã xây dựng cho nhân vật
của mình một lớp vỏ bọc vô cùng huyền ảo để nhân vật thoải mái vẫy vùng ở chốn trần thế
trong ánh mắt ngưỡng mộ và khát khao của con người mà không bị bất cứ một thế lực nào có
thể kết tội được. Nếu nguồn gốc của các nhân vật ảo cho nhân vật một vỏ bọc an toàn thì hình
dáng, khả năng, tính cách của nhân vật ảo giúp cho họ thực hiện được những gì họ muốn vượt
qua những trở ngại của xã hội, những giới hạn của bản thân con người. Đó là những tấm gương
để con người soi vào nhìn thấy chính bản thân mình nếu không bị các lễ giáo khắt khe ràng
buộc, khi chưa bị tiền tài che phủ mất lương tâm. Nhà văn Bồ Tùng Linh đã dựa vào niềm tin
vạn vật hữu linh để nhìn nhận vạn vật trong vũ trụ đều là cơ thể sống, có cuộc sống giống như
con người nhưng nhà văn viết điều đó trong tiểu thuyết của mình không phải để cổ vũ cho hiểu
biết, niềm tin của con người thời nguyên thủy để lại cho người đời sau. Ông cũng không hề
muốn giải thích về con người nguyên sơ và tự nhiên, thế giới xung quanh mà chỉ muốn thể hiện
những gì thuộc cuộc sống con người thời đại mình. Nhà văn miêu tả các nhân vật ảo luôn phải
tả xung hữu đột đấu tranh vì tình yêu tự do, vì chính nghĩa trong một thế giới đầy rẫy cái xấu,
cái ác là để gián tiếp phản ánh cuộc sống thời bấy giờ vô cùng bất công. Rõ ràng người đọc
nhận thấy trong Liêu trai chí dị sự sợ hãi, sùng bái đối với các lực lượng siêu nhiên rất ít thể
hiện. Đối với các nhân vật thực, yếu tố ảo thể hiện dễ thấy nhất là họ không hề sợ hãi trước các
lực lượng siêu nhiên, đôi khi cũng có thể biến hóa hoặc được giúp cho biến hóa để làm được
những điều mình muốn. Các thư sinh không hề có thái độ sợ sệt trước các nhân vật ảo như bất
cứ con người nào trên thế giới này, thậm chí quên hẳn lời dạy của Khổng Tử “quỷ thần kính nhi
viễn chi”, gặp các mỹ nhân xinh đẹp, hiền hòa liền quên phắt nguồn gốc quái dị của các nàng.
Dường như đối với các thư sinh thì các mỹ nhân là nhân vật ảo thì mới có khả năng hiểu họ
hơn ai hết, là người tri âm tri kỷ giúp cho họ thăng bằng trong cuộc sống này. Quả thật nếu các
nhân vật ảo là ảo mà thực thì các nhân vật thực lại thực mà ảo.
Huyền thoại trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh thực chất là phản huyền thoại. Từ
việc xây dựng nhân vật ảo ảo mà thực và xây dựng nhân vật thực thực mà ảo của nhà văn Bồ
Tùng Linh đã cho thấy: từ sự cô đơn của con người thời nguyên thủy trước tự nhiên đã sinh ra
sự nhân cách hóa các đối tượng xung quanh trong huyền thoại đã đến lúc con người cảm thấy
cô đơn trong chính xã hội loài người, sợ hãi với đồng loại của mình. Bởi vì Liêu trai chí dị cho
thấy một xã hội quá bất công, người trần khó có thể lay chuyển được bộ máy thống trị của xã
hội cho dù có bất bình đến mấy, chỉ có các lực lượng siêu nhiên mới có đủ khả năng lập lại trật
tự xã hội. Các chàng thư sinh chỉ chọn lựa được các nhân vật ảo là tri âm tri kỷ hiếm hoi giữa
cuộc đời này.
Ngoài việc để cho yếu tố ảo chi phối nội dung tác phẩm như các tác phẩm văn học
phương Đông nói chung, nhà văn đã sử dụng các yếu tố ảo vì mục đích nghệ thuật của mình.
Tác giả muốn mượn huyền thoại là một tấm màn lung linh, huyền bí bao phủ toàn bộ hiện thực
cuộc sống trong tác phẩm để hiện thực hiện lên trước mắt người đọc rõ nét hơn. Việc làm này
của tác giả đã mang đến cho văn học một hình thức mới để phản ánh thoát khỏi những hình
thức đơn điệu và giúp nhà văn triển khai một cách không giới hạn tư tưởng của mình mà vẫn
thoát khỏi sự đánh giá khắc nghiệt của lễ giáo, của chính quyền phong kiến.
Sự kế thừa và sáng tạo huyền thoại trong xây dựng nhân vật của Bồ Tùng Linh còn thể
hiện ở quan hệ kỳ ảo giữa các nhân vật.
2.2.2 Quan hệ kỳ ảo giữa các nhân vật
Quan hệ kỳ ảo của các nhân vật trong tiểu thuyết Liêu trai chí dị chính là quan hệ tình ái.
Quan hệ là sự gắn liền về mặt nào đó giữa hai hoặc nhiều sự vật khác nhau, khiến sự vật này có
biến đổi, thay đổi thì cũng tác động đến sự vật kia. Tình ái chính là tình yêu nam nữ. Như vậy,
quan hệ tình ái chính là sự gắn liền về mặt tình cảm giữa các đối tượng nam và nữ. Bản thân
mối quan hệ này được đánh giá là kỳ ảo dưới nhiều góc độ. Đầu tiên, quan hệ tình cảm này là
kỳ ảo vì nó diễn ra giữa các nhân vật ảo và các nhân vật thực mà chủ yếu là hôn nhân giữa
người và vật. Nhân vật đã là ảo thì tình cảm này sao có thể xem là thực. Bên cạnh đó, đặt tác
phẩm vào hoàn cảnh lịch sử mà nó ra đời cho thấy quan hệ tình ái tự do đến táo bạo chỉ là giấc
mơ đẹp trong một xã hội phong kiến tàn bạo như nhà Minh, nhà Thanh. Tuy nhiên, mặc cho
người thời nay nhận định sự kỳ ảo của nó ở mức độ nào đi chăng nữa thì quan hệ này không
phải ra đời từ hư vô mà có có nguồn gốc sâu xa từ huyền thoại.
Hôn nhân người và vật xuất hiện rất nhiều trong Liêu trai chí dị. Các thư sinh đều có thể
có mối duyên tình ái với các nàng hồ ly, tinh thực vật, động vật không khác gì giữa người và
người với nhau, cho nên “nói chuyện Liêu trai trước hết là người đọc nghĩ chuyện gái trai,
chuyện ma mãnh, hồ ly. Đó là tác động khách quan ban đầu khó phủ nhận” [32, tr.51]. Sự kết
hợp này cũng có thể sinh ra những đứa con nửa thực nửa ảo để duy trì nòi giống như những
cuộc tình duyên cõi trần tục.
Quan hệ tình ái giữa người và vật đã có nguồn gốc sâu xa trong tư duy huyền thoại của
người nguyên thủy. Khi quan niệm tất cả các vật đều có linh hồn, con người đã xem các sự vật
đều có vị trí ngang bằng với mình, có mối quan hệ mật thiết với mình trong xã hội. Hơn nữa,
con người từ xa xưa đã lấy nông nghiệp làm phương thức sản xuất chủ yếu, phụ thuộc rất nhiều
vào các yếu tố của tự nhiên. Vì thế, con người càng có thêm niềm tin rằng bản thân mình có thể
kết hợp, giao hòa với vạn vật. Các nhà nghiên cứu cho rằng: “Chế độ ngoại hôn thường được
thể hiện dưới hình thức kết hôn với động vật, có nghĩa là với giống tô tem khác” [49, tr.265].
Thần thoại Trung Quốc có kể về những người cá ở biển nhan sắc hồng hào như hoa đào, người
ta có thể đưa người cá về nuôi, lấy làm chồng vợ. Nàng Giản Địch nuốt quả trứng chim yến mà
có mang sinh ra Tiết là tổ tiên nhà Thương. Nàng Khương Cơ ướm thử chân vào một dấu chân
khổng lồ in trên mặt đất (tương truyền dấu chân này là của Đế Cốc vốn là thần linh trên trời),
sinh ra một đứa trẻ hết sức xinh đẹp chính là Hậu Tắc… Như vậy, huyền thoại có không ít
những câu chuyện kể về sự kết hợp của con người với loài vật, với thần linh… để sinh ra sự
sống.
Quan hệ tình ái giữa người và vật trong tiểu thuyết Liêu trai chí dị không hề giải thích
nguồn gốc các tộc người hay một cá nhân đã được vinh danh. Điều nhà văn muốn hướng tới là
khắc họa quan hệ tình ái đúng nghĩa của nó. Thực ra “Hôn nhân tượng trưng cho nguồn gốc
của sự sống, còn sự chung sống vợ chồng chỉ là nơi tập hợp, là những công cụ và những kênh
dẫn chuyển tiếp” [13, tr.448]. Thật vậy, quan hệ tình ái giữa người và vật trong Liêu trai không
cần tới những nghi thức xã hội thì mới chính là sự kết hợp giữa các yếu tố nam – nữ duy trì và
phát triển nòi giống. Nhiều nhân vật trong Liêu trai đã sinh con – những đứa con nửa thực nửa
ảo được sinh ra và có khi còn lớn lên trong tình yêu của những người sinh thành. Điều đáng nói
nữa là các nhân vật thực và ảo trong Liêu trai có quan hệ tình cảm đúng nghĩa của nó. Họ
không hề để cho các nghi thức xã hội đòi hỏi phải kết hôn, phải sống chung một nhà chi phối
quá nhiều đến hạnh phúc của họ. Sự ràng buộc duy nhất giữa các nhân vật chủ yếu là tình yêu,
là tri kỷ.
Trong Liêu trai chí dị còn có những mối tình của các nhân vật ảo nhưng cho dù miêu tả
quan hệ tình ái giữa các tinh của vật với nhau hoặc giữa người và tinh của vật, nhà văn Bồ Tùng
Linh muốn mượn những nhân vật ảo để nói chuyện con người, cấp cho quan hệ tình ái giữa
người và vật một ý nghĩa mới. Trong truyện Hương Ngọc, nhà văn kể về mối tình của tinh hoa
mẫu đơn là nàng Hương Ngọc và tinh hoa nại đông là nàng Giáng Tuyết với chàng trai Hoàng
sinh. Cây mẫu đơn bị người họ Lam ưng ý dời đi nơi khác, “Sinh lại hận, làm năm mươi bài
thơ khóc hoa, ngày ngày đến viếng chỗ hố đào, nước mắt chảy tuôn đầm đìa” [44, tr.332]. Còn
cây mẫu đơn bị chuyển đi đến nơi ở mới cũng thương nhớ chàng khôn nguôi, càng ngày càng
héo. Cho đến khi thần hoa cảm động vì tình yêu chân thành của Hoàng sinh nên cho Hương
Ngọc lại xuống ở chỗ cũ. Sau này chàng thư sinh này mất đi cũng biến thành một cái mầm mọc
dưới cây mẫu đơn. Trong xã hội phong kiến, quan niệm khô khan của Nho giáo: “Nam nữ thụ
thụ bất thân”, “Chết đói là việc nhỏ, thất tiết mới là việc lớn” có một sức nặng đặc biệt chèn ép,
che khuất những tình cảm nhân bản nhất của con người. Mối quan hệ tình ái giữa người và vật
không phải để sinh ra những nhân vật phi thường như trong thần thoại, truyền thuyết mà chỉ để
thỏa mãn tình cảm vốn có ở con người. Nhà văn miêu tả quan hệ tình ái giữa người – vật để
bênh vực cho tình yêu lứa đôi đang bị cấm đoán bởi giáo điều phong kiến khắt khe.
Khía cạnh kỳ ảo thứ hai của quan hệ tình ái của các nhân vật trong Liêu trai chí dị chính
là quan niệm tình yêu vô cùng tự do, phóng túng vốn chỉ có trong giấc mơ của con người sống
dưới chế độ phong kiến trong giai đoạn vô cùng khắt khe, tàn bạo. Nhà văn Bồ Tùng Linh quan
niệm rằng trong quan hệ tình ái thì phải lấy cái tình làm chính, không hề đặt nặng dâm và dục
nhưng lại coi dục là cơ sở của một tình yêu tự do và tự nguyện. Cho đến tận ngày hôm nay,
nhiều người vẫn sửng sốt trước tình yêu táo bạo mà tác phẩm đã bênh vực cho dù tác giả đã phủ
một lớp màn che khi cho các nhân vật thực kết hôn với nhân vật ảo. Trong truyện ngắn của Liêu
trai sau phút đầu gặp gỡ của các nhân vật thường có cụm từ bèn cùng nhau giao hoan, bèn dắt
nhau lên giường rất là thân mật, rồi lại ân ái với nhau… Chàng trai Tang sinh trong truyện
Liên Hương đã nói lên quan niệm táo bạo của thư sinh nói chung “Là trang nam nhi sợ gì ma
quỷ? Giống đực đến thì tôi có kiếm sắc, giống cái đến thì tôi sẽ mở cửa mời vào” [44, tr.195].
Tuy nhiên, quan niệm tưởng chừng quá táo bạo của của nhà văn Bồ Tùng Linh khi bênh vực, cổ
vũ cho tình yêu tự do, phóng túng lại rất gần với quan niệm về tình ái trong huyền thoại.
Trên thế giới, vị thần tình yêu Eros vô cùng quen thuộc bởi con người sống luôn cần tình
yêu. Khoa học đã chứng minh tình yêu “là xung lực cơ bản của sinh tồn, là cái libido dục năng
thúc đẩy mọi sinh thể tự thể hiện qua hành động”, “thực tại hóa những tiềm năng của bản
thân” [13, tr.927]. Sự chuyển thành thực tại ấy chỉ có thể tiến hành được thông qua sự tiếp xúc
với người khác. Cái tôi cá thể tuân theo một quá trình tiến hóa tương tự như tiến trình của vũ
trụ: tình yêu là sự tìm kiếm một trung tâm hòa hợp cho phép thực hiện sự tổng hợp đầy năng
động những tiềm lực của nó.
Tình ái gắn liền với tình dục bởi từ xưa, người ta đã xác định rằng “Khắp mọi nơi hành vi
tính giao đều được coi như là sự lặp lại cuộc giao phối đầu tiên giữa trời và đất, từ đó muôn
loài được sinh ra” [13, tr.929], “Trong kinh dịch nói: trong cuộc xâm nhập lẫn nhau ấy, trời và
đất đã giao hòa và mọi sinh linh đã ra đời” [13, tr.929]. Như vậy, tình dục là sự liên kết các
mặt đối lập, có khả năng sinh sản. Vì thế, ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt ở các nước phương
Đông, tín ngưỡng phồn thực đôi khi được thần thánh hóa và tôn giáo hóa. Các biểu tượng sinh
thực khí đôi khi được đưa lên bệ thờ với sự sùng kính thiêng liêng.
Một điều thú vị là trong sự kết hợp nam - nữ, đực – cái trong văn hóa của người nguyên
thủy, các nhân tố giữ vai trò bình đẳng với nhau thậm chí nữ giới còn có phần chiếm ưu thế
hơn. K.Marx đã nhận định rằng “Vị trí của các nữ thần trong thần thoại đã biểu thị một thời kỳ
xa xưa hơn, khi mà người đàn bà còn có địa vị tự do hơn, được tôn trọng hơn nhưng đến thời
đại anh hùng, chúng ta thấy người đàn bà bị rẻ rúng do sự thống trị của người đàn ông và do
sự cạnh tranh của nữ nô lệ” [CD, 31, tr.58]. Trong thần thoại Trung Hoa, Nữ Oa là vị thần thứ
hai có mặt trên mặt đất sau Bàn Cổ, thậm chí bà còn có mặt trước cả Phục Hy. Quan hệ của
Phục Hy và Nữ Oa có nhiều quan niệm khác nhau nhưng đều nghiêng về quan hệ vợ chồng. Nữ
Oa là vị thần vô cùng quan trọng, thậm chí là quan trọng bậc nhất vì bà đã lấy đất vàng nặn ra
những con người đầu tiên. Bà cũng là người đặt ra phép hôn nhân nên được loài người tôn làm
thần Cao Môi (tức là bà mối). Thần thoại Việt cũng có truyện Nữ Oa Tứ Tượng với Nữ Oa là
nữ thần, Tứ Tượng là nam thần. Truyện Nữ Oa ở Trung Hoa và truyện Nữ Oa Tứ Tượng ở Việt
Nam tuy có nhiều tình tiết khác nhau nhưng đều phản ánh nhận thức của người xưa về quan hệ
nam nữ, về sự bảo tồn và phát triển nòi giống bằng sự phối hợp đực cái.
Trong tiểu thuyết Liêu trai chí dị có tất cả những biểu hiện trên. Tình yêu trong Liêu trai
là mối quan hệ rất phổ biến, rất tự do, táo bạo và điều đáng nói là nó luôn gắn liền với tình dục,
với sự chủ động trong tình yêu của người phụ nữ. Có nhà nghiên cứu đã nhận xét “Thực ra,
Liêu trai chẳng có sức mạnh huyền bí gì cả. Nhưng Liêu trai đã nói lên được vấn đề mà mọi
người – dù nam hay nữ - đều phải nghĩ tới: vấn đề sinh lý” [39, tr.247]. Nhận định của nhà
nghiên cứu này khá cực đoan nhưng không phải là không có lý. Trong Liêu trai chí dị, các mỹ
nhân là ma, là hồ thường gặp các thư sinh trong phòng học vào lúc đêm khuya. Các thư sinh mê
mẩn trước nhan sắc tuyệt đẹp của các mỹ nhân, quên luôn cả nguồn gốc quái dị của các nàng,
chỉ biết tình yêu đang ở ngay trước mắt cho dù chỉ mới là lần gặp mặt đầu tiên. Mỗi lần gặp gỡ
giữa trai tài gái sắc trong Liêu trai thường ẩn chứa tình yêu sét đánh “Các cuộc gặp gỡ trai gái
ở Liêu trai… thường là hồ và chàng thư sinh, là sự kiện nghệ thuật mang tính chất bùng nổ, từ
đó tác giả dần dần triển khai hàng loạt các sự kiện khác” [11, tr.236,237]. Những người con
gái trong Liêu trai rất xinh đẹp, thường chủ động bước ra từ bóng đêm, đến với thư sinh nơi
buồng học rồi lại chủ động biến mất cho nên nhiều truyện ngắn trong Liêu trai chí dị là lát cắt
của cuộc sống miêu tả khoảng thời gian gặp gỡ của nhân vật ảo và nhân vật thực. Tuy nhiên,
những người con gái ấy dù ở lần xuất hiện nào cũng luôn tràn đầy sức sống, tràn đầy sinh lực,
khát khao yêu đương đến mãnh liệt, luôn tìm mọi cách để hưởng thụ tình yêu, dù có phải lén
lút, dù có phải mượn lốt… cho nên chắc chắn sẽ có nhiều người đồng tình rằng “sự hấp dẫn, ấn
tượng trong trẻo, cái nhìn trẻ trung, phấn chấn đối với cuộc sống lưu lại rất lâu ở độc giả. Ấn
tượng này rõ ràng không phải toát lên từ hình tượng của kẻ sĩ – thư sinh, cũng không phải hiện
lên qua mắt nhìn của kẻ sĩ. Ấn tượng này gây nên và đọng lại trong lòng người đọc từ hình
tượng nhân vật mỹ nữ” [32, tr.51]. Như vậy không một tác phẩm văn học nào có thể ra đời từ
hư vô. Sự mới mẻ của Liêu trai khi miêu tả những cuộc tình tự do, táo bạo mà nữ giới đóng vai
trò chủ động hóa ra là sự trở về với những thời kỳ đầu tiên của lịch sử loài người.
Liêu trai chí dị phản ánh xã hội phong kiến khi hôn nhân của trai gái, đặc biệt là của
những người con gái đều do cha mẹ định đoạt, vai trò chủ động nếu có thì dành cho con trai và
khi đã là vợ chồng quan hệ giữa họ là quan hệ sở hữu của đàn ông đối với phụ nữ. Trong khi
đó, tình yêu là nguồn lực của sự đi lên, chỉ khi nào nó đúng là một sự hòa hợp, chứ không chỉ là
sự chiếm hữu. Sự suy đồi của tình yêu biểu hiện ở mọi sự triệt hạ giá trị của người khác hòng
bắt họ làm nô lệ cho mình một cách ích kỷ, thay vì cho sự làm giàu cho người khác và cho bản
thân bằng sự cho nhau hào phóng và vô tư, chỉ sự cho nhau như thế mới làm cho mỗi người to
lớn hơn chính mình. Liêu trai chí dị muốn khắc phục quan niệm trong sáng, thánh thiện của con
người đối với tình yêu sau bao nhiêu năm bị những định kiến khắt khe vùi lấp. Cũng chính vì
thế mà nhân vật nữ đóng vai trò chủ động trong tình yêu lại hầu hết là những những nhân vật ảo
là ma, là hồ ly, là tinh động vật, tinh thực vật, là tiên… bởi vì nhà văn không thể đưa những
nhân vật thực là nữ đảm đương được vai trò ấy. Nhân vật nữ là ảo thì mới có thể tránh được sự
đánh giá, trừng phạt khắc nghiệt của lễ giáo đối với nhân vật, tác phẩm và với chính tác giả.
Như vậy, quan hệ kỳ ảo giữa các nhân vật là quan hệ tình ái. Khi miêu tả quan hệ này của
các nhân vật, nhà văn Bồ Tùng Linh đã thể hiện sự kế thừa khi chú ý đến hôn nhân giữa người
và vật cũng như đề cập tình yêu gắn liền với tình dục rất táo bạo. Bên cạnh đó, tác giả của Liêu
trai cũng có sự sáng tạo sâu sắc khi để quan hệ tình ái chở thông điệp đầy tính thời sự đến với
độc giả: muốn con người vượt qua rào cản của định kiến xã hội, đưa quan hệ tình ái về với bản
chất trong sáng nguyên sơ của nó.
Hệ thống nhân vật kỳ ảo vô cùng phong phú và đa dạng cùng với quan hệ tình ái cũng vô
cùng kỳ ảo giữa chúng với các nhân vật trần tục đã tạo nên một sức sống vô cùng tươi trẻ được
bao phủ bởi một tấm màn lung linh, huyền ảo. Nhà văn Bồ Tùng Linh đã lựa chọn các nhân vật
kỳ ảo này để xây dựng nên cốt truyện. Các nhân vật ảo vốn sinh ra từ quan niệm vạn vật hữu
linh trong tư duy huyền thoại nên sự kiện xuất hiện nhiều nhất trong Liêu trai chính là sự kiện
biến hình – mỗi nhân vật kỳ ảo khi bước vào thế giới trần tục đều phải mượn lốt người. Cốt
truyện, sự kiện và nhân vật của tác phẩm dĩ nhiên đều rất quen thuộc vì nhà văn vay mượn rất
nhiều từ trong kho tàng thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích… nhưng ông đã chuyển hóa để
những gì kế thừa mang trên mình những nhiệm vụ nghệ thuật mới mẻ. Sự chuyển hóa của
huyền thoại khi nó nằm trong một tác phẩm văn học còn được thể hiện ở không gian và thời
gian của tiểu thuyết Liêu trai chí dị.
CHƯƠNG 3: THẾ GIỚI ẢO THỂ HIỆN QUA KHÔNG
GIAN VÀ THỜI GIAN TRONG LIÊU TRAI CHÍ DỊ
Thế giới nghệ thuật của Liêu trai chí dị là nơi cái thực và cái ảo đan xen tạo nên cái thế
giới hư hư thực thực. Bên cạnh việc xây dựng cốt truyện và nhân vật, tiểu thuyết này còn chứa
đựng nhiều phương thức nghệ thuật khác. Ở đây chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu hai phương
thức tổ chức thế giới nghệ thuật tiêu biểu là sự tổ chức không gian, thời gian nghệ thuật.
Không gian và thời gian là các hình thức tồn tại cơ bản của vật chất. Trong cái nhìn của
người nguyên thủy, không gian và thời gian kéo dài vô tận, gợi ra bao nhiêu nỗi sợ hãi trước sự
không cùng của vũ trụ và sự hữu hạn của con người. Trong không gian và thời gian lại có
những bộ phận không gian, thời gian đặc biệt có thể sinh ra do trí tưởng tượng của con người
hoặc do con người gắn cho nó những phép lạ làm cho nó trở nên được kính sợ hơn hết. Đó là
những không gian, thời gian kỳ ảo. Nhà văn Bồ Tùng Linh đã xây dựng, sử dụng các dạng
không gian, thời gian này để dung chứa các nhân vật kỳ ảo của mình, cùng với các nhân vật thể
hiện quan niệm đối với con người và cuộc sống.
3.1 Thế giới ảo thể hiện qua không gian trong Liêu trai chí dị
Không một sự vật nào có thể tồn tại ngoài không gian cho nên không gian là một đối
tượng rất quen thuộc với mọi vật chất trên thế gian này. Tuy nhiên, từ xưa đến nay có rất nhiều
dạng không gian có những sức mạnh đặc biệt làm cho con người phải kinh sợ. Không gian thần
thoại đặc trưng bởi núi cao, rừng sâu đầy huyền bí làm cho thuở ấu thơ của loài người e sợ đã
đành nhưng cho đến khi không gian đã biến đổi nhiều, khoa học kỹ thuật phát triển thì nỗi e sợ
của con người hoàn toàn không mất đi: “Khoa chiêm tinh, dù với danh hiệu khoa học hay
không, vẫn dựa trên ý nghĩa của những thế liên kết bí ẩn trong không gian, giữa các hành tinh,
các tinh tú và các thiên hà. Bản thân khoa học chiêm tinh chặt chẽ nhất cũng không khỏi gây ra
cho con người một nỗi sững sờ pha lẫn khiếp sợ trước cái không gian vượt khỏi mọi phép tính
toán ấy, cái không gian không bao giờ dừng lại ở một giới hạn nào” [13, tr.486,487].
Trong Liêu trai chí dị, không gian ảo không phải là vũ trụ thời khởi nguyên với những
con người hay vị thần đầu tiên như trong thần thoại. Tuy nhiên, dáng dấp của thần thoại vẫn
còn đó trong sức tưởng tượng kỳ vĩ của con người khi sáng tạo ra những dạng không gian ảo
hoặc phú cho những dạng không gian trần thế các sức mạnh đặc biệt để tạo nên một không khí
thật huyền bí, hoang đường. Không gian ảo trong Liêu trai chí dị có rất nhiều dạng. Đó có thể
là không gian tâm linh tôn giáo với cõi trời và chốn tiên cảnh, thủy cung, cõi âm phủ…; có thể
là không gian mộng với mọi sự vật biến đổi trong tích tắc… Theo chúng tôi, dạng không gian
ảo xuất hiện nhiều nhất trong Liêu trai chí dị là không gian âm phủ và một số nơi chốn của
không gian trần thế được gán cho những sức mạnh và sự bí ẩn đặc biệt.
3.1.1 Âm phủ
Âm phủ vốn được hiểu là cõi âm, là thế giới của linh hồn người chết. Trong tiểu thuyết
Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, không gian ảo sinh ra từ sự tưởng tượng của con người gồm
không gian âm phủ, chốn tiên cảnh và cõi Phật, cõi trời được miêu tả trong 51/445 truyện, trong
đó chốn âm phủ đã được miêu tả ở 31 truyện trong số đó. Điều đó chứng tỏ cõi âm phủ giữ một
vị trí đặc biệt trong không gian của Liêu trai, hơn bất kỳ một không gian ảo nào khác.
Trong Liêu trai chí dị, không phải bất cứ linh hồn người chết nào cũng phải xuống âm
phủ nhưng số lượng các linh hồn được lên tiên cảnh, lên cõi trời chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ, âm phủ
vẫn là không gian của linh hồn người chết. Không gian âm phủ dù xuất hiện ở rất nhiều truyện
ngắn trong Liêu trai chí dị thì vẫn có điểm chung là ở dưới đất, vận hành theo nguyên tắc lấy
đêm làm ngày. Trong truyện Mai nữ, nhân vật Phong Vân Đình tìm mãi không thấy người con
gái họ Mai thắt cổ chết đã 10 năm trước, đến khi gặp lại liền trách móc thì nàng bảo rằng “Ma
quỷ không ở nhất định, luôn luôn ở dưới đất”, “Ma quỷ không thấy vướng đất, cũng như cá
không thấy vướng nước” [44, tr.849]. Không gian âm phủ là nơi ma quỷ tụ họp cũng có thành
phủ là nơi có nhiều quan lại, tập hợp khá đông đúc ma cũ, ma mới. Trong truyện Ngũ Thu
Nguyệt, chàng thư sinh Vương Đỉnh cũng như bao con người sống trên dương thế tò mò không
biết dưới âm có thành quách không, nàng ma Ngũ Thu Nguyệt đã trả lời “Thành phủ ở dưới âm
cũng ngang như trần gian vậy, nhưng không ở chỗ này, cách đây tới ba bốn dặm, song lấy đêm
làm ngày” [44, tr.949]. Thành quách ở cõi âm cũng được miêu tả trong truyện Trương Thành
với “ma cũ ma mới đi lại rầm rập” [44, tr.227]. Tuy nhiên, không gian âm phủ chủ yếu không
hề có sự sống, vô cùng vắng vẻ hoang tàn luôn làm cho con người kinh sợ bởi những hình phạt
vô cùng tàn khốc dành cho kẻ có tội. Đứng đầu chốn âm phủ là Diêm Vương, bên cạnh đó còn
có quan lại, lính lệ cai quản chốn âm phủ. Trong truyện Tục hoàng lương, ông cử họ Tăng trong
giấc mơ được làm tể tướng tới 25 năm, tích góp quá nhiều tội lỗi nên bị đày xuống âm phủ.
Diêm Vương được miêu tả có tướng mạo cổ quái ngồi tựa ghế phán quyết, hỏi tội đã quyết định
ném họ Tăng vào vạc dầu, bắt đầu sự trừng phạt đối với một kẻ chuyên hại dân hại nước. Bên
dưới, bọn quỷ sứ dạ ran, lập tức làm theo đúng lệnh của Diêm Vương. Sau đó, ông cử họ Tăng
còn bị ném xuống núi đao cho mũi dao nhọn phanh thây, bị bắt phải nuốt hết toàn bộ tiền bạc
lúc sống đã chiếm đoạt của người khác rồi cuối cùng bị thác sinh làm con gái nhà ăn mày, bị vợ
cả của chồng vu oan đến chết. Đôi khi, chốn âm phủ còn có các vị thần nhân ghé thăm, hầu hết
là để giúp cho các linh hồn nơi đây được minh oan trở về dương thế hay thoát khỏi phiền não.
Tề Thiên đại thánh trong truyện ngắn cùng tên đã cất công xuống âm phủ cứu người anh trai
của Hứa Thịnh bị em chữa bệnh nhầm thuốc nên chết oan. Truyện Trương Thành cũng miêu tả
cảnh Bồ Tát mấy ngàn năm mới xuống chốn âm phủ một lần, dùng cành dương liễu rảy nước
cam lồ trong ánh hào quang bừng khắp cả một vùng, giải thoát cho ma cũ, ma mới khỏi mọi
khổ não. Không gian âm phủ trong Liêu trai chí dị được đề cập, miêu tả trong nhiều truyện
ngắn khác nhau nhưng đều có những đặc điểm chung thống nhất. Điều đó chứng tỏ nhà văn Bồ
Tùng Linh đã có cái nhìn rất nhất quán khi viết về dạng không gian ảo này.
Thực ra, không gian âm phủ đã xuất hiện và tồn tại trong thế giới tâm linh con người từ
rất lâu, ngay từ thời nguyên thủy. Chúng ta thường không phân biệt giữa âm phủ và âm ty
nhưng trong thần thoại Hi Lạp thì có sự phân biệt. Âm phủ (enfer, hadès) là thế giới trong lòng
đất, là địa ngục, vương quốc của những người chết với sự cai quản của vị thần vô hình là
Hadès. Trong thần thoại Hi Lạp, chthnos (âm ty) là tên được đặt cho trái đất, mẹ của các thần
Titans và là nơi cư trú của những người đã chết và những người đang sống. Âm ty là hạ giới,
đối lập với thượng giới, là đất.
Người nguyên thủy sớm nhận thấy rằng khi đã lìa khỏi thân xác con người, khi không
còn nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không còn được hưởng bất kỳ phúc lộc nào trên thế gian này
được nữa thì linh hồn đã rơi vào trạng thái bất hạnh đến mức tuyệt đối và vĩnh viễn, vô phương
cứu chữa của cả một đời người. Kẻ đã sa vào địa ngục sẽ vĩnh viễn chịu khổ đau trong một thế
giới huyền bí vô tận, không ai có thể trở về để kể lể cho người đang sống. Cho nên, người cổ
xưa đã tưởng tượng và tin rằng âm phủ là nơi không hề có sự sống, nơi diễn ra những hình phạt
khốc liệt dành cho mọi linh hồn con người. Người Hi Lạp cổ xưa cho rằng sau khi các thần núi
Olimpe đã chiến thắng lũ Titan, vũ trụ được chia cho ba anh em trai là con của Cronos và Rhéa:
trời thuộc về thần Zeus, biển thuộc về thần Poséidon, còn âm phủ thuộc về thần Hadès. Đây là
một vị thần vô cùng tàn ác và là kẻ vô hình. Vì sợ thần nổi giận, không ai dám đọc tên của thần
nên vị thần này còn được đặt một biệt danh là Pluton. Miền địa ngục được cho rằng “Miền này
cũng mang khắp nơi những nét như nhau: chốn đó không ai nhìn thấy, vĩnh viễn không có lối
ra (trừ đối với những ai tin vào sự hóa kiếp), chìm trong tối tăm lạnh lẽo, đầy ma quỷ, quái vật
hành hạ những người chết” [13, tr.34]. Ở Ai Cập, trong lăng mộ của vua Ramsès VI ở kinh
thành Thèbes, âm phủ được tượng trưng bằng những hang động chứa đầy những kẻ bị đày
xuống đó. Tuy nhiên, người châu Âu cổ xưa cũng tin rằng không phải ai cũng có thể bị đày
xuống âm phủ. “Những người được ân sủng đặc biệt, các vị anh hùng, hiền giả, những ai đắc
đạo sẽ không xuống âm phủ tăm tối mà được tới những nơi khác như: quần đảo chân phúc,
điền trang Elysée, ở đó tràn đầy ánh sáng và hạnh phúc” [13, tr.43]. Các nhà nghiên cứu cũng
tìm thấy trong vũ trụ luận của người Aztèque, miền âm phủ ở phương Bắc, là xứ sở của đêm tối
và có tên gọi là xứ sở của chín đồng bằng hay chín miền âm phủ. Hầu hết loài người đều từ âm
phủ mà lên cõi sống rồi quay trở về âm phủ, được dẫn đường bởi một con chó dẫn linh hồn. Sau
khi đi qua tám âm phủ, họ sẽ đi tới âm phủ thứ chín và tan biến vào hư vô. Âm phủ ở đây cũng
là một thế giới được con người tưởng tượng lấy cơ sở từ chính xã hội loài người.
Không gian âm phủ trong Liêu trai chí dị là sự thể hiện của tư duy huyền thoại còn thấm
đẫm trong tinh thần của con người phương Đông, cũng sinh ra từ sự tưởng tượng của con người
về một thế giới của các linh hồn mà không một người nào có thể đến đó rồi quay trở về trần thế
được nữa, đành lấy cơ sở từ chính thế giới mà con người đang sống để xây dựng nên thế giới
huyền bí, vô tận ấy.
Tuy nhiên, không gian âm phủ trong một tuyệt tác văn học ra đời vào thời kỳ cận đại còn
mang những đặc điểm khác. Không gian âm phủ nơi đây gần gũi hơn với không gian trần thế,
là một hình thức tồn tại khác của hiện thực giúp con người thoải mái bày tỏ tư tưởng, tình cảm
của mình. Không gian âm phủ trong Liêu trai chí dị thực hiện hai nhiệm vụ: thứ nhất, không
gian âm phủ là sự tái hiện sự bất công, thối nát của xã hội hiện thực; thứ hai, không gian âm
phủ là nơi con người thực hiện bằng được khát vọng công lý, công bằng vốn không có trong
trần thế.
Thật vậy, trong Liêu trai chí dị, không gian âm phủ vô cùng giống với chốn trần gian.
Điều này có thể giải thích tư duy huyền thoại là mạch ngầm chảy từ thời kỳ này qua thời kỳ
khác của lịch sử, âm phủ là sản phẩm tưởng tượng của con người trên cơ sở hiện thực. Tuy
nhiên, Liêu trai chí dị miêu tả không gian cõi âm không chỉ giống cõi người ở bộ máy điều
hành, ở sự phức tạp của người tốt kẻ xấu mà còn ở sự bất công, phi lý luôn khiến nhân vật, tác
giả và cả người đọc có ấn tượng sâu sắc. Toàn bộ thiết chế âm phủ từ Diêm Vương, Thành
Hoàng, lính lệ… cùng những hình phạt khốc liệt ở cõi âm chính là thiết chế trần gian đã được
mã hóa qua lăng kính kỳ ảo. Trong thế giới âm phủ cũng có tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị.
Tầng lớp thống trị là Diêm Vương, là quan, lính ở cõi âm. Tầng lớp bị trị là linh hồn những kẻ
đã chết đa số là người nhưng cũng có cả tinh động vật, thực vật, quỷ, mị… Tất nhiên, khi
không gian âm phủ đã chia thành hai tầng lớp như vậy thì cũng tồn tại đầy rẫy các tệ nạn: thiên
vị, đút lót, áp bức, cậy quyền… Trong truyện Liên Tỏa, nàng ma Liên Tỏa bị một tên lính lệ
đến bắt ép nàng phải làm hầu thiếp của hắn. Nàng quá sợ hãi phải nhờ Vương sinh đến đánh tên
lính lệ cứu nàng. Cõi âm trong Ngũ Thu Nguyệt có tên quan sẵn sàng bắt người vô tội, lính lệ
thì luôn sách nhiễu tiền bạc, chọc ghẹo phụ nữ. Trong truyện Tịch Phương Bình, cha của Tịch
Phương Bình hiềm khích với một nhà phú hộ trong làng, bị họ đút lót sứ giả dưới âm đánh cho
đến chết. Tịch Phương Bình xuống cõi âm thấy cha bị giam trong ngục liền nộp đơn ở nha
Thành Hoàng nhưng không được xử. Chàng kiện ở quận nhưng bị đánh một trận rồi giữ nguyên
án, không thay đổi. Tịch Phương Bình kiện lên Diêm Vương. Kẻ đứng đầu cõi âm cũng đã
nhận hối lộ như Thành Hoàng và quan quận nên Tịch bị hành hạ đủ điều rồi bị ném trở lại
dương thế, đầu thai thành đứa trẻ sơ sinh nhưng quá phẫn uất nên không bú rồi chết. Hồn Tịch
Phương Bình lại lang thang phiêu dạt tìm cách kêu oan cho cha, cuối cùng gặp được những
người có tâm hồn ngay thẳng là Cửu Vương và Nhị Lang Thần, cứu được cha sống lại. Trong
truyện này có lẽ kẻ gian ác, xảo quyệt nhất là Diêm Vương luôn giở thủ đoạn mềm nắn rắn
buông, lừa gạt người lương thiện. Diêm Vương phớt lờ lời kêu oan của Tịch, đánh chàng 20 roi,
bắt phải lăn trên giường lửa cháy xém cả xương thịt rồi sai lính cưa thân chàng làm hai. Khi
thấy không thể khuất phục được Tịch Phương Bình, y lại ngọt ngào nói: “Ngươi thực là người
chí hiếu, những nỗi oan của cha ngươi ta đã rửa cho rồi, nay đã đi đầu thai ở nhà giàu sang,
ngươi còn kêu ca gì nữa. Nay đưa ngươi về, cho sản nghiệp ngàn vàng, sống gần trăm tuổi,
ngươi đã bằng lòng chưa?” [44, tr.1185,1186] rồi đưa sổ cho Tịch xem tận mắt nhưng sau đó
đã sai lính đưa Tịch về trần gian làm đứa trẻ sơ sinh. Trong khi Diêm Vương, quan lại, sứ giả
câu kết với nhau dùng mọi thủ đoạn để ức hiếp dân lành thì ngay cả bọn quỷ cũng có sự e ngại,
khâm phục tính cách dũng cảm và kiên trì của Tịch Phương Bình. Khi Tịch phải chịu cực hình,
một tên quỷ đã thốt lên “Con người cứng cỏi thay” [44, tr.1184], khi cưa thân chàng làm đôi
theo lệnh Diêm Vương, bọn quỷ đã bàn nhau “Người này có hiếu lắm, không có tội gì! Nên cưa
chéo một chút, đừng động đến tim anh ta” [44, tr.1184] sau đó một tên quỷ lại tặng chàng một
thắt lưng tơ “Tặng anh vật này để tỏ lòng đối với người có hiếu” [44, tr.1185]. Như vậy, xét cho
cùng ở âm phủ bọn quỷ sứ còn có lương tâm hơn cả vua, quan, sứ giả. Bên cạnh truyện Tịch
Phương Bình tập trung tố cáo bộ máy quan lại cõi âm từ trên xuống dưới còn có rất nhiều
truyện khác cũng đề cập những nội dung tương tự. Truyện Khảo tệ ti tái hiện một phần không
gian âm phủ với Hư Đỗ quỷ vương đứng đầu luôn bắt những người đến tiếp kiến phải đưa tiền
vàng nộp cho hắn ta, nếu không phải chịu cắt đi một miếng thịt mới được gặp hắn. Không gian
âm phủ cũng là nơi đồng tiền ngự trị, chi phối tất cả, nơi tầng lớp bị trị oằn mình dưới sự bóc
lột, đày đọa của tầng lớp thống trị khiến người đọc không thể không liên tưởng tới ông cử họ
Tăng trong truyện Tục hoàng lương vừa mới nghe tin đỗ tiến sĩ, trong giấc mơ đã thấy mình
thành tể tướng, ở trong dinh thự lộng lẫy, ngoài cổng bao nhiêu người chầu chực để biếu xén,
đã quyết thiên vị người này, thẳng tay trừ khử người khác chỉ vì lí do cá nhân. Bên cạnh đó,
không ít kẻ thống trị ở cõi âm có thói háo sắc cũng làm cho người đọc liên tưởng tới những kẻ
như ông cử họ Tăng ở cõi trần mơ làm tể tướng được tặng một phường nữ nhạc mười người
đều là gái mỹ miều son trẻ. Một ngày kia, tể tướng họ Tăng nhớ lại cô gái đẹp mà trước kia
mình từng ao ước nhưng vì nghèo quá không lấy được nàng, nên sau đó lập tức sai lính đến bắt
nàng bằng được. Nàng ma Nhiếp Tiểu Thiến trong truyện ngắn cùng tên có một khoảng thời
gian bị quỷ bắt ép phải dùng vàng và sắc đẹp của nàng mê hoặc rồi giết chết những người đến
trọ ở chùa. Nàng đã nhận xét “hai thứ gái đẹp và vàng là sở hiếu của người đời vậy” [44,
tr.146]. Tuy nhiên, xét cho cùng, những sở hiếu này không chỉ đúng với cõi trần mà còn đúng
với cõi âm trong Liêu trai chí dị. Không gian âm phủ mà Bồ Tùng Linh xây dựng trong tác
phẩm của mình chẳng khác gì nơi trần thế, từ vua, quan đến nha lại đều là một phường tham
lam, độc ác, háo sắc như nhau. Cái thế giới ảo ấy còn thực hơn, sống động hơn cả hiện thực bởi
tác giả với thế giới ảo là âm phủ đã tự do thể hiện tất cả tư tưởng, tình cảm của mình đối với
hiện thực cuộc sống mà không e sợ sự trừng phạt của bất cứ thế lực nào trong xã hội phong
kiến. Tạo nên không gian âm phủ cũng là cách khắc họa rõ hơn các cảnh địa ngục trần gian mà
con người phải chịu đựng, là cách để người đọc nhận diện rõ hơn thế giới thực của mình.
Có nhà nghiên cứu từng nhận xét rất xác đáng: “Cổ nhân cầu mong đến cõi tiên là để
cảm thán cho kiếp sống ngắn ngủi, nhân sinh như mộng, hi vọng được giải thoát khỏi kiếp
người lầm than, đau khổ” [72, tr.42] còn âm phủ là thế giới địa ngục “vốn chịu ảnh hưởng của
Phật giáo (bị Phật giáo hóa) trong các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, là nơi tổng kết, đánh
giá những hành động vốn có của con người lúc còn sống” [72, tr.46]. Nhà văn Bồ Tùng Linh
bên cạnh việc tổ chức thế giới ảo thể hiện bản chất của hiện thực cuộc sống đương thời còn thể
hiện rằng cõi âm phủ khác trần gian ở chỗ đó là nơi lý tưởng để thực thi công lý. Con người
sống như thế nào ở cõi trần đều được ghi lại ở cõi âm, cho dù chỉ một việc thiện hay ác nhỏ
nhoi cũng không hề bỏ sót. Khi kết thúc một kiếp sống, con người thường phải trở về cõi âm để
hưởng hoặc chịu những gì mình đã làm ở dương thế. Cho nên “Trong Liêu trai chí dị, thế giới
âm phủ là thế giới của hình phạt. Thế giới âm phủ dựa vào biểu hiện của con người lúc còn
sống để xác định địa vị, thọ yểu. Các vị quan liêm chính có thể luân hồi đến kiếp sau để định số
(đầu thai, xác định số kiếp mới), cũng có khi ở lại địa ngục âm phủ đảm nhiệm chức vụ”, “Bị
đày vào chốn âm phủ với các ngục hình, những kẻ sát sinh bị biến thành những con phù du sớm
sinh tối tử, những người dâm dật bị biến thành cầm thú, còn bị những người mặt ngựa mình
người (đầu trâu mặt ngựa) dùng đinh ba bằng sắt xiên qua, nướng trên lửa, dùng “hỏa sơn
kiếm” trừng phạt những tên ác nhân” [72, tr.46]. Niềm tin vào sự thưởng phạt nghiêm minh nơi
âm phủ chứng tỏ trong lòng nhân dân luôn tiềm ẩn sự tin tưởng vào công lý và chính nghĩa.
Bởi vậy, luật pháp ở cõi âm rất nghiêm và không phải người nào của giai cấp thống trị
cõi âm đều thanh liêm, chính trực ngay cả đối với người đứng đầu là Diêm Vương nhưng chiến
thắng luôn đến với công lý, chính nghĩa. Ở cõi âm, tất cả những người nắm quyền thường
xuyên phải tham gia kỳ thi Liên quan một cách đều đặn để Thượng đế đánh giá “Bất luận là
quan lại tầm thường đều phải khảo thí, người thông văn tự được dùng làm nội liệm, người bất
thông thì không được dự. Thực ra ở dưới âm có chư thần, cũng như dương thế có quan thú,
quan lệnh. Các ông đắc chí rồi, mắt không ngó đến sách vở nữa, chẳng qua như lúc còn là
thiếu niên cầm viên gạch đi gõ cửa để săn đuổi công danh. Cửa đã mở rồi thì vứt gạch đi, lại
mười mấy năm giữ về sổ sách, dù cho bậc văn sĩ liệu trong bụng còn có chữ nào chăng? Trên
dương thế sở dĩ có những kẻ hèn kém may mắn được tiến thân mà kẻ anh hùng lại thất chí, là vì
thiếu cuộc khảo thí đó vậy” [44, tr.1303,1304]. Đặc biệt, họ Tống là ma trong truyện Tư Văn
Lang đã nhận xét “Dưới âm trọng về đức hạnh còn hơn là văn học vậy” [44, tr.1416]. Nếu quan
lại, lính lệ có thối nát, làm càn thì đã có Diêm Vương quang minh chính đại phân xử nghiêm
minh. Hư Đỗ quỷ vương trong truyện Khảo tệ ti bắt mỗi người diện kiến phải bị cắt một miếng
thịt đùi, muốn thoát được nạn này chỉ có cách duy nhất là đút lót thật nhiều tiền. Khi Diêm
Vương biết tin đã sai quỷ sứ bắt quỷ vương đến phạt đánh đập, rút gân, vĩnh viễn phải ở lại âm
phủ. Cho nên ngôi vị Diêm Vương được chọn rất kỹ lưỡng, đôi khi phải mượn cả những con
người có học, ngay thẳng ở hạ giới để đảm bảo sự công bằng như Lý Bá Ngôn trong truyện
ngắn cùng tên, Lý Trung Chi, Trương sinh trong truyện Diêm La thường xuyên được mời
xuống âm phủ xử án. Nếu có một vị Diêm Vương nào đó bị lợi lộc che khuất cả lương tâm thì
đã có những người như Cửu Vương, Nhị Lang thần đấu tranh đến cùng như trong truyện Tịch
Phương Bình. Cửu Vương, Nhị Lang thần biết hai cha con Tịch Phương Bình chết oan đã triệu
tập Diêm Vương, quận ty, Thành Hoàng nêu rõ tội nhận hối lộ và tội bẻ cong công lý, phạt cả
ba phải chịu chặt hết chân tay, rút rời gân cốt, quẳng vào vạc dầu. Đôi khi chốn âm phủ còn có
thần linh xuống giúp đỡ cho những người oan khuất như Hoàn Hầu Dực Đức ba mươi năm một
lần xuống tuần hành cõi âm, có lần đã xé tan bảng ghi tên những người bất tài thi đậu kỳ thi
Liên quan, thay vào đó là bảng mới ghi tên những con người vừa có tài, vừa có đức (truyện Vu
Khứ Ác). Ngoài ra còn có Bồ Tát, Cửu Vương, Nhị Lang thần, Tề Thiên đại thánh… cũng
thường xuyên xuống cõi âm dẹp tan sự bất bình. Ở âm phủ, cả sự vật tưởng chừng vô tri vô giác
như nóc điện nơi Diêm Vương ngồi cũng giúp ông xử án cho phân minh. Trong truyện Lý Bá
Ngôn, nhân vật chính Lý Bá Ngôn cương trực, can đảm nên được mời xuống thế vào ngôi Diêm
La đang bị khuyết để xử kiện. Khi gặp thông gia, vị Diêm Vương này vừa có ý định thiên vị
một chút thì đột nhiên lửa trên điện bốc cháy xém cả rui nhà. Nha lại phải nhắc nhở Lý “Dưới
âm tào khác hẳn dương thế, một mảy may tư ý cũng không thể dung được, phải bỏ ý niệm tư
riêng thì lửa tự khắc tắt” [44, tr.582]. Sau khi Lý Bá Ngôn định thần tĩnh tâm, hiểu ra mọi
chuyện thì ngọn lửa tắt ngấm ngay lập tức. Điều này cho thấy thói quen ở chốn dương gian đã
nhiễm sâu trong tiềm thức người trần, hễ có chút quyền là lập tức sinh ra tư ý. Tuy nhiên, luật
pháp ở cõi âm công bằng hơn nên cuối cuộc xử án là hình phạt nghiêm minh dành cho kẻ có
tội, bất kể đó là ai. Cho nên từ bao đời nay sự trừng phạt ở cõi âm dành cho những kẻ có tội
được không ít người dù đang sống trên trần thế vẫn hết sức tin tưởng, lấy đó để tự răn mình.
Không gian âm phủ trở thành đối tượng khuyến thiện trừng ác cũng bắt nguồn từ hoàn
cảnh xã hội chuyên chế, độc đoán với chính sách bạo tàn mà nhà Minh, nhà Thanh áp dụng để
cai trị nhân dân đã gây ra sự bất bình sâu sắc mà Bồ Tùng Linh cuối cùng đã phải mượn không
gian âm phủ để tái hiện không gian trần thế, để kín đáo bộc lộ tư tưởng, tình cảm của mình. Rõ
ràng, không gian âm phủ được nhà văn miêu tả để thể hiện ước mơ của con người trần thế về
một xã hội công minh. Điều này còn được thể hiện ở những nhân vật như Tịch Phương Bình
trong tác phẩm cùng tên đã phiêu bạt khắp nơi ở cõi âm quyết tâm cứu cha bằng được dù có
phải chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần. Nhân vật thực khi lăn lộn vào không gian âm
phủ đã thực hiện được những điều con người ở trần thế không làm được. Mượn chuyện quái dị,
kỳ ảo để phản ánh đời sống chính trị, xã hội không chỉ là dụng ý của nhà văn khi xây dựng
không gian âm phủ trong Liêu trai chí dị mà còn là dụng ý của nhà văn khi viết cả bộ tiểu
thuyết này.
Ngoài không gian âm phủ, nhà văn Bồ Tùng Linh còn thể hiện rõ cái nhìn huyền thoại về
thế giới khi đề cập hàng loạt những cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian.
3.1.2 Những cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian
Trong Liêu trai chí dị có hàng loạt những cảnh giới chốn trần gian có những sức mạnh
đặc biệt. Đó là chùa hoang, miếu cổ, nhà hoang, mồ mả, núi sâu, phòng học, đường sá… là nơi
các nhân vật ảo là ma, hồ ly, thần linh, tiên… thường xuyên xuất hiện và cũng là nơi con người
rất dễ lạc vào các thế giới khác ngoài thế giới thực. Trong đó, chùa hoang, miếu cổ thường là
nơi ở của thần linh hoặc những nhân vật được thờ phụng, những lực lượng siêu nhiên khác
cũng thường mượn những ngôi chùa cổ để trú ngụ. Trong truyện Bạc thần, tại đền thờ thần mưa
đá Lý Tả Xa, đền thờ đức Quan Thánh, quan thái sử đã thấy được oai linh của thần hiển hiện.
Không chỉ thần linh mà các nhân vật kỳ ảo khác nhiều khi cũng mượn nơi chùa chiền, miếu
mạo làm chỗ dung thân. Phùng sinh trên đường trở về nhà, thấy một thiếu nữ đi ra từ ngôi chùa
cổ, thấy chàng liền quay gót trở vào. Phùng sinh theo chân cô gái vào chùa gặp được cả gia
đình hồ ly đang trú ngụ (truyện Tân thập tứ nương). Trong Liêu trai chí dị còn xuất hiện nhiều
không gian nhà hoang vắng vẻ nơi các nhân vật ảo thường xuyên có mặt. Nhà hoang là nơi
Khổng Tuyết Lạp gặp nàng hồ Kiều Na và người vợ hồ là A Tùng cùng cả gia đình hồ ly vô
cùng đông đúc (truyện Kiều Na). Nhà hoang cũng là nơi Vệ Huy Thích gặp nàng ma A Đoan
tốt bụng cất công xuống âm phủ nhiều lần để đưa vợ của Vệ đoàn tụ với chồng một thời gian
(truyện Chương A Đoan). Thư sinh Đào Vọng Tam gặp hai nàng ma Thu Dung, Tiểu Tạ từ chỗ
vô hình trở thành hữu hình trước mắt Đào, từ chỗ quấy phá trở nên thân thiết thành ân nhân rồi
vợ chồng (truyện Tiểu Tạ). Những ngôi mộ dù nằm riêng lẻ hay tập trung trong một nghĩa địa
đều là nơi các linh hồn có thể bước ra bắt đầu cho cuộc hành trình trên mặt đất. Trong truyện
Liên Tỏa, Dương Tử Úy di cư đến bãi sông Tứ, nhà giáp cánh đồng, ngoài tường có nhiều ngôi
mộ cổ, ban đêm thường nghe tiếng ngâm thơ buồn bã, nhỏ nhẹ của một hồn ma chính là nàng
Liên Tỏa. Đặc biệt, các cảnh giới trên không chỉ là nơi các lực lượng siêu nhiên thường xuyên
trú ngụ và xuất hiện trước mắt người trần mà còn được các lực lượng siêu nhiên biến hóa thành
không gian cõi khác. Truyện Tiêu Thất Nương kể chuyện chàng trai Từ Kế Trường đi qua ngôi
mộ của nhà họ Vu lúc trời tối trông thấy cả một tòa lâu đài tráng lệ chưa bao giờ thấy, lại có
một ông già đứng canh cổng mời vào. Trong chùa chiền, vườn hoang nói chung thường có
những tòa lâu đài lộng lẫy để các lực lượng siêu nhiên dung thân nhưng không phải con người
trần tục nào cũng có thể trông thấy và được tiếp đón. Có khi các thư sinh tìm về nơi lần đầu gặp
gỡ nhưng thường bị mất dấu vết. Từ Kế Trường trong truyện Tiêu Thất Nương sau này đến lúc
từ giã ngoảnh lại thấy lâu đài biến mất, vẫn chỉ là ngôi mộ nhà họ Vu. Phùng sinh trong truyện
Tân Thập Tứ nương sau khi gặp người con gái áo đỏ trong chùa đã si mê nhưng sau này tìm lại
thì toàn bộ viện lạc sau chùa đã không còn dấu vết, chỉ còn lại gạch đá hoang tàn như một ngôi
chùa hoang vắng từ lâu chưa từng có ai trú ngụ. Tiểu thuyết Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh
kế thừa sâu sắc tư duy huyền thoại trong việc xây dựng những cảnh giới thường có sự đột nhập
của lực lượng siêu nhiên vào trần thế hoặc có sự biến ảo trong chớp mắt thành không gian cõi
khác.
Nói cái ảo của những dạng không gian này không phải xuất phát từ tên gọi của chúng, từ
sự tồn tại của chúng trong trần gian mà xuất phát từ sức mạnh tiềm ẩn trong nó theo quan niệm
của dân gian, nó là cái thiêng vì thiêng” có nghĩa là “cao quý, đáng coi trọng hơn hết” (thiêng
liêng) [70, tr.942] nhưng có thể hiểu một cách khác là “có phép lạ làm được những điều khiến
người ta phải kính sợ” [70, tr.942].
Nhà nghiên cứu Eliade cho rằng huyền thoại là kinh nghiệm sống của con người, là niềm
tin của con người nguyên thủy và cội nguồn của huyền thoại chính là cái thiêng. Sau này nhiều
tôn giáo ra đời cũng từ cội nguồn cái thiêng này. “Huyền thoại không phải là ảo ảnh hay dối trá
mà là sự thật. Có điều là sự thật đó đã được thời gian lịch sử mã hóa nên cần phải có chìa khóa
tức các phương thức khoa học, để giải mã. Huyền thoại hóa ra là kinh nghiệm tồn tại của con
người cổ xưa, nhờ đó mà con người “tìm thấy lại mình và tự hiểu được mình”. Hiện thực mà
huyền thoại nói lên là loại hiện thực thiêng liêng có khả năng nắm bắt được sự tồn tại và nguồn
gốc của những ý nghĩa ở chiều sâu của chúng… Sự tồn tại của huyền thoại ở tầm sâu bản thể là
cái thiêng và chính cái thiêng là nguồn gốc của mọi tôn giáo” [25, tr.186]. Rõ ràng cái thiêng
được phân biệt trong sự đối lập với cái phàm. Cái thiêng và cái phàm là hai phương diện tồn tại
của con người trong chiều dài lịch sử. Không gian thiêng là nơi có sự linh hiển của các lực
lượng siêu nhiên. Sở dĩ có điều này vì không gian hoàn toàn không phải là đồng nhất. Nó có
những chỗ đứt vỡ nghĩa là có những phần không gian khác biệt về chất so với các phần còn lại.
Chính nhờ sự linh hiển hay sự đột nhập của các lực lượng siêu nhiên đã tách nhiều phần không
gian này ra khỏi các phần không gian xung quanh, làm cho nó khác biệt về chất. Chẳng hạn,
đền thờ là sự mở ra ở phía trên cao và bảo đảm việc giao lưu với thần thánh. Chùa cũng mang ý
nghĩa tương tự vì đó là công trình được xây cất lên dùng làm nơi thờ Phật. Ngoài ra, từ lâu con
người quan niệm rằng mộ giữ hồn người chết, là nơi ở của người chết và cũng quan trọng như
nhà đối với người sống. Không gian mộ nói riêng, nghĩa địa – khu đất chung dùng làm nơi chôn
người chết – là nơi ma quỷ có thể bước ra từ những ngôi mộ của mình, bảo đảm cho sự liên
thông giữa trần thế và âm phủ. Như vậy, với cái nhìn huyền thoại về thế giới, từ xa xưa con
người đã quan niệm đền thờ, chùa chiền, miếu mạo, nghĩa địa… là những nơi các lực lượng
siêu nhiên dễ dàng xuất hiện, con người trên trần thế cũng không khó để giao lưu với các cõi
khác nhau.
Những không gian ảo có sự linh hiển của các lực lượng siêu nhiên vô cùng cần thiết đối
với con người, đặc biệt là con người thời nguyên thủy. Huyền thoại đã kể lại giai đoạn đầu tiên
và quan trọng nhất của lịch sử loài người là biến hỗn mang thành vũ trụ. Tất nhiên, để hình
thành được vũ trụ phải có những con người đầu tiên và lực lượng siêu nhiên sẽ tạo ra, điều
hành, chi phối cả vũ trụ. Con người luôn luôn tự hào về quá trình biến hỗn mang thành vũ trụ
của mình cũng có nghĩa là luôn muốn sống với các vị thần, muốn sống trong một thế giới có tổ
chức là vũ trụ chứ không hề muốn sống trong hỗn mang. Chính vì thế, từ xa xưa đến nay trên
trần thế luôn có những địa điểm có khả năng mở ra về phía trên là thế giới thần thánh hoặc về
phía dưới là thế giới của những người chết nghĩa là phải làm sao để các cõi có thể giao lưu
được với nhau. Cuộc sống hiện nay của con người đang được thế tục hóa, được phàm hóa rất
nhanh nhưng không bao giờ mọi không gian bị giải thiêng đến hết. Bởi vì con người trong xã
hội hiện đại trước sự phát triển như vũ bão của khoa học lại có những mối lo âu không phải về
thế giới tự nhiên huyền bí xung quanh mà chính là về con người. Bên cạnh sự e ngại chính
đồng loại của mình, cảm thấy cô đơn giữa xã hội, con người hiện đại vẫn còn chưa thoát được
sự hữu hạn của kiếp người… nên con người vẫn di chuyển hợp lý giữa hai cực thiêng – phàm.
Con người cận đại, hiện đại vẫn kế thừa niềm tin rằng có những khoảng không gian nơi các lực
lượng siêu nhiên vẫn đột nhập vào chốn trần thế để giao lưu, để trợ giúp và điều hành thế giới.
Tuy nhiên, sự khác biệt của không gian thiêng trong Liêu trai chí dị so với trong tư duy
huyền thoại là cho dù không gian có mở lên trên hay xuống thấp thì mục đích quan trọng nhất
là để người đọc nhận thức rõ hơn về hiện thực cuộc sống.
Những cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian trong Liêu trai chí dị không đóng khung trong
những cảnh giới thiêng được quan niệm dân gian, tôn giáo định sẵn như chùa, miếu, nghĩa
địa… vốn được con người từ xa xưa xem là nơi giao lưu giữa con người với các lực lượng siêu
nhiên đến từ các cõi khác nhau. Nhà văn còn xây dựng trong tác phẩm những cảnh giới khác
mà tên gọi của nó không thể làm cho con người kính sợ, tiêu biểu nhất là phòng học của các thư
sinh. Thậm chí thư phòng còn là nơi rất nhiều nhân vật ảo chủ động tìm đến chứ không phải là
nơi các nhân vật thực chủ động tìm kiếm hoặc tình cờ bắt gặp các nhân vật ảo như các không
gian ảo khác. Trong truyện Vũ tiền, một vị tú tài ở Tân Châu đang đọc sách trong thư phòng thì
có một ông già tóc bạc phơ, hình mạo rất cổ kính tự xưng rằng “Tôi là Dưỡng Chân, họ hồ,
chính thực là hồ tiên, vì mến cao nghĩa của các hạ nên mong sớm được gần gũi nhau” [44,
tr.1699]. Ông già hồ tiên này có tài nhả ngọc phun châu, kiến thức rất uyên bác nên hàng ngày
cùng vị tú tài bàn chuyện cổ kim rất tâm đầu ý hợp. Chỉ đến khi vị tú tài tỏ ra quá tham lam tiền
bạc, hồ ly quá thất vọng mới phủi áo ra đi. Cũng với tình bạn chân thành, Lục phán quan ở cõi
âm sau khi được Chu Nhĩ Đán đưa bức tượng của mình từ chùa về mời rượu thì sau này hầu
như đêm nào cũng đến nhà họ Chu cùng trò chuyện, uống rượu (truyện Lục phán quan). Tuy
nhiên, các nhân vật ảo xuất hiện nhiều nhất trong thư phòng của các thư sinh chính là các mỹ
nhân là hồ ly, là ma, tinh động vật, tinh thực vật. Đổng Sinh trong truyện ngắn cùng tên về đến
phòng mình đã thấy hồ ly nằm trong giường tự lúc nào. Hồ ly đã biến hình thành một cô gái
mặt hoa da phấn đẹp như tiên nhưng vẫn còn sót lại cái đuôi. Cô gái nhoẻn cười, cái đuôi biến
mất. Trong truyện Liên Hương, nàng hồ ly Liên Hương cùng nàng ma họ Lý hằng đêm đều đến
thư phòng gặp gỡ người yêu. Nàng ma họ Lý bị bệnh chết, hồn lại tìm cách nhập vào xác của
Yến Nhi – con gái nhà giàu họ Chương nối tiếp tình duyên với Tang sinh. Liên Hương sau khi
chết cũng đầu thai làm con gái nhà họ Vi tìm đến với Tang sinh sau 15 năm như lời đính ước
trước khi mất. Quả thật, thư phòng của các thư sinh luôn là nơi các nhân vật ảo mà chủ yếu là
các mỹ nhân đến tìm người tri kỷ.
Có nhà nghiên cứu đã nhận định: “Trong tiểu thuyết cổ điển, tiên giới tồn tại cùng thiên
giới, tồn tại cùng long cung dưới đáy biển, tồn tại cùng thâm sơn cùng cốc (những động tiên,
động phủ trong núi sâu) và đó là một thế giới thiên đường nơi không có cái chết, sự già nua”
[72, tr.42]. Khác với thư phòng là nơi các nhân vật ảo thường xuyên chủ động tìm đến, động
phủ mà tiên thường trú ngụ là nơi rừng sâu, suối sâu, là hải đảo xa xôi người thường vào đó rất
dễ lạc vào nơi tiên cảnh của các nam tiên, nữ tiên. Nơi hiểm trở vách đá vực sâu là nơi Lương
Hữu Tài được Vân Thúy Tiên dẫn về nhà gặp cả gia đình. Khi về thì thấy nhà cửa lộng lẫy
ngang dọc, bao nhiêu người hầu hạ nhưng sau khi bị đuổi đi chỉ thấy vách đá, phía dưới là vực
sâu (truyện Vân Thúy Tiên). Trong truyện Cầm Sắt, chàng thư sinh họ Vương ở Hán Thủy bị
gia đình vợ khinh rẻ nên bỏ nhà ra đi vào núi, đến khi sao mọc đầy trời, vách núi bỗng hóa
thành nhà cao. Vương đi vào gặp nữ tì, gặp nàng tiên Cầm Sắt. Có khi người tiên còn ở ngoài
hải đảo xa xôi nơi chỉ có gió bão mới có thể đưa con người trần tục tới. Chàng trai Dương Viết
Đán – sĩ nhân ở đất Quỳnh Châu cũng nhờ cơn bão biển làm đắm thuyền mới trôi dạt vào hòn
đảo của tiên. Nơi ấy nhà cửa san sát, bóng trúc tùng ẩn hiện dưới sương mờ, trời mùa đông mà
hoa cứ nở chúm chím đầy cành (truyện Phấn Điệp). Nơi tiên cảnh ở núi sâu, hải đảo xa xôi,
hiểm trở là nơi con người trần tục mơ ước nhưng không dễ gì có thể tiếp cận. Con người với
sức tưởng tượng kỳ vĩ vẫn luôn tin rằng nó vẫn ngự trị trên cõi đời này.
Không chỉ thư phòng, núi sâu, hải đảo thành nơi gặp gỡ của nhân vật trần tục và nhân
vật kỳ ảo, tiểu thuyết Liêu trai chí dị còn miêu tả những không gian khác vô cùng độc đáo.
Những không gian như nhà hoang, kỹ viện, ruộng đồng, đường sá… tưởng chừng như chỉ là
không gian sinh hoạt của con người trần tục thì trong Liêu trai đó là nơi các nhân vật ảo có
cuộc sống như chính con người. Nhà hoang vốn là nơi hoang vắng, lạnh lẽo là nơi Khổng Tuyết
Lạp được mai mối rồi sinh ra si mê cuối cùng cưới được người vợ là A Tùng “Bèn sửa soạn
một căn phòng để sinh làm lễ thành hôn. Đêm ấy kèn trống vang lừng, sinh chợt như bay khỏi
trần, cùng người tiên sum họp. Bèn ngờ rằng cung tiên Quảng Hàn vị tất ở trên trời mới có”
[44, tr.54] (truyện Kiều Na), Vệ Huy Thích gặp nàng ma A Đoan tốt bụng (truyện Chương A
Đoan), Đào Vọng Tam gặp hai nàng ma Thu Dung, Tiểu Tạ (truyện Tiểu Tạ)… Đó là một kỹ
viện trong truyện Nha Đầu có mụ chủ cùng các cô gái đều là hồ ly, khi tiếp khách làng chơi
cũng dùng đủ mọi kế sách để có thể moi tiền của khách khiến cho Triệu Đông Lâu hay lui tới
lại cả tin nên mất hết gia sản. Chàng trai Vương sinh si tình Nha Đầu – cô gái duy nhất trong kỹ
viện còn giữ được sự trong sạch mặc cho mẹ và chị ép buộc bằng bất cứ cách nào – phải cùng
với con trai phá tan cả kỹ viện thì vợ chồng mới chung sống được với nhau. Không gian đồng
ruộng cũng thú vị không kém khi có những người có mối lương duyên gặp được mỹ nhân.
Nông phu Mã Thiên Vinh đang ở ngoài đồng bỗng thấy một thiếu phụ phục sức chỉnh tề, đi tắt
qua ruộng lúa, mặt đỏ bừng nhìn rất phong lưu. Người thiếu phụ đó chính là hồ ly, sau này giúp
Mã lấy được vợ (truyện Mao hồ). Trong truyện Khuyển đăng, cô gái là hồ ly đưa tên nô bộc của
Hàn Quang Lộc vào ruộng lúa, ruộng bỗng biến thành một tòa nhà lớn bên trong sảnh đường
rượu nhắm đã bày la liệt với rất nhiều tì nữ nhưng lạ thay, khi quay bước ra về chàng trai chỉ
thấy đồng ruộng đang tươi tốt, không hề còn bóng dáng lâu đài cùng người yêu cũ. Trong Liêu
trai, con người cũng dễ dàng bắt gặp các nhân vật kỳ ảo bằng sự kỳ ngộ trên con đường đi.
Trong truyện Tiểu Mai, Vương Mộng Trinh đi chơi miền Triết Giang gặp một bà lão hồ ly ngồi
khóc bên đường xin Vương cứu con trai của chồng, sau này đem con gái của mình làm vợ của
Vương để trả ơn. Tuy tồn tại nhiều cảnh giới kỳ ảo khác nhau ở chốn trần gian nhưng trong
Liêu trai chí dị, không gian bộc lộ sự sáng tạo nhiều nhất của tác giả là không gian tay áo của
đạo sĩ họ Củng có thể chứa được cả mái nhà cho Vương sinh và Huệ Kha gặp nhau tình tứ, có
thể chứa được cả bầu trời khi đạo sĩ có thể đưa từ trong tay áo một phường nữ nhạc đều là tiên
để múa hát mừng thọ Lỗ vương. Đầu tiên, đạo sĩ đưa ra một nữ tiên diễn vở kịch Yến Dao Trì,
rồi đưa cả Tây Vương Mẫu, Đổng Song Thành, Hứa Phi Quỳnh và cuối cùng là Chức Nữ xuất
hiện cùng với một bộ tiên y ánh vàng lấp lánh sáng rực cả nhà, bộ tiên y này không hề có
đường khâu, cõi trần không ai có thể may được. Không gian tay áo cùng một số không gian
khác như thư phòng, núi sâu, hải đảo, nhà hoang, kỹ viện, ruộng đồng, đường sá… đều là nơi
lực lượng siêu nhiên và con người có thể tiếp xúc với nhau bên cạnh những không gian tôn giáo
vô cùng quen thuộc của trần gian là đền, chùa, nghĩa địa chứng minh sự phong phú và sự mở
rộng những cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian trong Liêu trai chí dị. Dĩ nhiên, sự mở rộng này
được sinh ra từ cái nhìn huyền thoại về thế giới và sức tưởng tượng vô bờ bến của nhà văn Bồ
Tùng Linh, của dân gian.
Bên cạnh việc mở rộng thì sự chuyển hóa không gian kỳ ảo chốn trần gian trong Liêu trai
chí dị còn thể hiện ở sự trần tục hóa các loại không gian này. Trong tư duy huyền thoại, các
cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian được con người sùng kính vì đó là nơi các lực lượng siêu nhiên
có thể hiện ra và sáng tạo. Tuy nhiên, trong Liêu trai chí dị, các cảnh giới này nhiều khi dung
chứa những thế lực siêu nhiên hắc ám đày đọa những người nào vô tình bước tới. Phải trải qua
một sự thanh lọc đôi khi được tiến hành bởi thần linh, bởi những con người trần tục thì các cảnh
giới này mới trong sạch trở lại. Tuy nhiên, sự trần tục hóa các cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian
chủ yếu mang ý nghĩa tích cực. Đề tài chủ yếu mà Bồ Tùng Linh chọn lựa trong tiểu thuyết này
là tình yêu với quan niệm của tác giả là tình yêu gắn liền với tình dục. Các cảnh giới kỳ ảo chốn
trần gian là nơi các chàng thư sinh tuổi trẻ vốn bị ràng buộc một cách chặt chẽ bởi các giáo lý
đạo Nho đã tìm được và sống vô cùng hạnh phúc trong tình yêu với các nàng ma, hồ ly, tinh
động vật, tinh thực vật và cả các nàng tiên.
Tiêu biểu nhất cho sự trần tục hóa các cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian theo hướng tiêu cực
là không gian chùa chiền bị ma quỷ, bị kẻ cướp giả làm tăng lấy làm chỗ nương thân. Trong
truyện Nhiếp Tiểu Thiến, thư sinh Ninh Thái Thần ở trọ tại một ngôi chùa trên đất Kim Hoa,
ban đêm quỷ bắt nàng ma Nhiếp Tiểu Thiến đến mê hoặc chàng để giết chết. Sau đó, quỷ bị
kiếm thần đánh bị thương, Nhiếp Tiểu Thiến cảm mến chàng nên theo về nhà. Trong truyện
Sơn tiêu, chùa Liễu Câu trên núi Nam Sơn có quỷ vào bắt người, bị mọi người phát hiện được
nên nó chạy trốn mất. Ở một truyện khác, người lái buôn vải đến miền Thanh Chiêu ngẫu nhiên
vào một ngôi chùa hoang, thấy thiền viện đổ nát, tự nguyện nhận trách nhiệm tu bổ lại chùa. Vị
tăng tỏ vẻ cảm kích nhưng sau đó trở mặt muốn giết người lái buôn để cướp đoạt hết tiền. Thần,
Phật đã hóa thành một cô gái xiêm y màu hồng lộng lẫy đi vào phòng của tăng làm cho quan
Phòng Hải tướng quân đi ngang ngoài chùa sinh nghi, vào cứu vị khách, giết tăng để trừng trị
(truyện Bố thương). Truyện Đổ phù kể chuyện một người được đạo sĩ cho bùa đánh bạc bảo
đảm đánh ván nào cũng thắng. Người đó đến chùa Thiên Phật, đánh với một vị tăng mới đến
chùa, chuyên đánh sư bồ - một lối đánh bạc xưa - và thắng rất lớn, lấy được tiền vừa vặn với số
tiền đã bị thua trước đó thì bùa biến mất. Như vậy, không gian tôn giáo trong Liêu trai cũng
mang tính chất phức tạp khiến người đọc luôn cảm thấy bất ngờ, thú vị. Nhà văn Bồ Tùng Linh
dường như đã kéo các không gian vốn là nơi con người người ngước lên để giao lưu với thần
linh – xuống bay là là trên mặt đất, để người đọc hiểu rõ hơn một xã hội trần thế đầy rẫy các tệ
nạn.
Chiếm số lượng áp đảo các truyện trên là những truyện miêu tả cảnh giới kỳ ảo chốn trần
gian vốn là nơi thần linh hiện ra và sáng tạo đã trở thành nơi gặp gỡ, kết duyên đôi lứa của các
cặp trai tài gái sắc. Chốn hạ giới vốn chịu ảnh hưởng mạnh của đạo Nho không dành chút tình
cảm nào đối với tình yêu trai gái tự do, táo bạo. Trong Liêu trai, các cảnh giới kỳ ảo là nơi che
chở cho tình yêu lứa đôi bù đắp lại sự khắt khe ngoài xã hội dành cho tình cảm cao đẹp này.
Chùa hoang là nơi Quảng Bình Phùng gặp vợ là hồ ly đem lòng si mê (truyện Tân thập tứ
nương). Trong truyện Lục y nữ, Vu Cảnh trọ học tại chùa Lễ Tuyên một đêm vừa mở sách đọc
đã có thấy một thiếu nữ ở ngoài cửa sổ. Nàng mặc áo màu lục quần dài, yểu điệu tuyệt vời. Hai
người đã mến nhau từ phút đầu gặp gỡ, liền cùng chung chăn gối đến khi trời gần sáng nàng
mới phiêu diêu bước đi. Về sau đêm nào nàng cũng tìm tới gặp gỡ Vu Cảnh. Chỉ đến khi nàng
bị nhện bắt, chàng mới phát hiện nàng là tinh ong chứ không phải người. Trong truyện Họa
bích, Mạch Long Đàm cũng đi tới một ngôi chùa, được sư mời vào chơi, nhìn lên tường đã thấy
bức tranh vẽ Tán Hoa Tiên Nữ “trong bức vẽ có một cô gái tóc rũ trái đào, cầm hoa mỉm cười,
cặp môi anh đào như muốn động đậy, sóng mắt đưa đẩy” [44, tr.28]. Chàng bỗng thấy thân thể
nhẹ bổng, có thể đi vào trong tường, gặp gỡ, ân ái cùng cô gái trong tranh, bên nhau suốt hai
ngày liền. Khi bạn cùng đi với Mạch không thấy chàng đâu liền thắc mắc, nhà sư bèn lấy ngón
tay gõ vào tường gọi Mạch trở về. Chốn mồ mả trong truyện Công Tôn Cửu Nương cũng là nơi
rất đặc biệt. Có một chàng trai được bạn mình dẫn đi làm chủ hôn lễ ở cõi âm, tình cờ cũng tìm
thấy hạnh phúc của mình khi gặp nàng ma Cửu Nương “miệng nhoẻn cười tươi như ánh sáng
trăng thu, má thẹn ửng hồng đẹp như ráng chiều ban sớm, thực là người tiên vậy” [44, tr.773].
Hai người cảm mến nhau nên kết duyên với nhau, tình ái rất mặn nồng nhưng vì người trần
không thể ở chốn âm u được lâu nên chàng phải trở về trần thế. Nửa năm sau chàng tìm về chốn
cũ “chỉ thấy mồ mả chi chít, cây cối lan man, ma trơi lập lòe, cầy cáo rúc rích, nhìn thấy ghê
hồn” [44, tr.778]. Chàng thư sinh ngoái lại thấy người con gái đi một mình trong mộ địa nhưng
rồi nàng biến mất. Trong truyện Xảo Nương, Liêm sinh ban đêm một mình đi vào vùng hẻo
lánh, không tìm thấy một quán trọ nào, thấy bên đường có một ngôi mộ, muốn dừng lại nhưng
lại sợ hùm beo, cuối cùng quyết định leo lên cây ngồi. Giữa tiếng thông reo vi vút, giun dế nỉ
non, trong lòng rất sợ hãi, hoang mang thì càng trông thấy rõ ràng bên dưới mộ đã biến thành
nhà cửa, còn có cả mỹ nhân ngồi trên phiến đá, hai nàng hầu hai bên. Liêm sinh bị phát hiện,
rồi được mời vào nhà, được Hoa Cô trị hết bệnh thái giám, hưởng hạnh phúc chăn gối với cả
hai mỹ nhân là nàng ma Xảo Nương và hồ ly Tam Nương. Về sau, cả hai nàng đều theo Liêm
sinh về nhà làm vợ. Như vậy, các cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian trong Liêu trai nhiều khi đã
thuộc hoàn toàn về cuộc sống cõi trần, không ít người sẽ đánh giá đó là những cõi đời trên mặt
đất, coi là vật chất, tầm thường, không có gì thanh cao. Tuy nhiên, từ sự đánh giá đó lại nổi bật
quan niệm rất tiến bộ của Bồ Tùng Linh khi ông luôn bênh vực cho tình yêu lứa đôi tự do, táo
bạo và phải đặt trong một không gian kỳ ảo, với nhân vật nữ kỳ ảo như trên thì ông mới bảo vệ
được tình yêu của nhân vật trước sự đánh giá khắt khe của định kiến trong xã hội.
Không gian phòng học vốn có vai trò rất quan trọng đối với các thư sinh cũng như bất cứ
ai có ảnh hưởng của đạo Nho. Thư phòng vốn là nơi chỉ dành cho các thư sinh thu nhận, nghiền
ngẫm kiến thức, sáng tác thơ văn, trò chuyện với bạn bè cùng chung nghiệp đèn sách. Trong
Liêu trai chí dị, nhà văn Bồ Tùng Linh không chỉ mở rộng những cảnh giới kỳ ảo chốn trần
gian bằng cách đưa vào đó cả loại không gian thư phòng mà còn biến nơi đây trở thành nơi gặp
gỡ, ân ái của rất nhiều cặp trai tài gái sắc. Rất nhiều mỹ nhân là ma, là hồ ly, là tinh động vật,
thực vật… đến tận phòng học gặp gỡ và yêu đương chỉ với một mình thư sinh, lấy tình yêu trai
gái xua đi tất cả giáo điều khắt khe vốn cho rằng “quỷ thần kính nhi viễn chi”. Trong truyện
Hương Ngọc, chàng trai Hoàng sinh làm nhà giữa một đám hoa để lấy chỗ đọc sách. Chàng gặp
gỡ và yêu mến hai cô gái là tinh của hoa nại đông và mẫu đơn. Chốn thư phòng trở thành nơi
chứng kiến tình yêu của chàng cùng hai mỹ nhân dịu dàng, xinh đẹp. Sau này, cả Hoàng sinh
chết đi cũng biến thành một mầm cây ở dưới cây mẫu đơn muốn sống cạnh bên các nàng mãi
mãi. Trong truyện Hồ Tứ Thư có chàng Thượng sinh người ở Thái Sơn đang ngồi một mình ở
nhà học giữa đêm thu ngân hà một giải, trăng rọi giữa trời chợt thấy một cô gái trèo qua tường
vào hỏi “Cậu tú mải suy nghĩ gì vậy?” [44, tr.175] rồi hai người hẹn thề yêu nhau vĩnh viễn.
Sau này lại có một hồ ly nữa là Hồ Tứ Thư đêm đêm đến tâm tình với Thượng sinh. Nhờ không
gian phòng học, kẻ sĩ gặp được những hồng nhan tri âm tri kỷ vốn chỉ có trong mơ ước ngày
đêm của mình. Nhà văn Bồ Tùng Linh với cốt cách nhà nho có không ít lần hướng nhân vật vào
những cuộc tình trong sáng, không đặt nặng niềm vui xác thịt làm mục đích tối thượng cho
hạnh phúc bền lâu nhưng nhiều khi ông ca ngợi tình yêu nhục cảm một cách mạnh mẽ bằng
cách cổ vũ các nhân vật đến với tình yêu một cách vô cùng tự do, táo bạo nhất. Các cảnh giới
kỳ ảo chốn trần gian vì thế cũng được trần tục hóa, các lực lượng siêu nhiên trà trộn vào thế
giới trần tục nhiều khi chỉ để thỏa mãn những khát khao bản năng nhất của con người, của
chính bản thân mình.
Những cảnh giới kỳ ảo trong Liêu trai chí dị vốn xuất phát từ tư duy huyền thoại. Từ thời
nguyên thủy, con người đã tin rằng thế giới này là do thần linh hiện ra và sáng tạo. Huyền thoại
luôn có chức năng thực hành, luôn gắn liền với nghi lễ để duy trì trật tự trong xã hội. Trong đó,
việc tạo mối dây liên thông giữa các lực lượng siêu nhiên và con người là điều không thể thiếu.
Liêu trai chí dị cũng có nhiều địa điểm thiêng kết nối các cõi với nhau. Tuy nhiên, nhà văn Bồ
Tùng Linh cũng như tác giả dân gian vẫn trên cơ sở cái nhìn huyền thoại về thế giới nhưng đã
mở rộng các cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian không chỉ dừng lại ở đền, chùa, mộ chí… mà còn
có thư phòng, vườn hoang, đường sá, ruộng đồng… bộc lộ sự tưởng tượng kỳ vĩ của người sáng
tạo. Bên cạnh đó, các cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian trong Liêu trai còn được trần tục hóa,
không chỉ thỏa mãn nhu cầu tinh thần mà còn cả nhu cầu vật chất của con người, thể hiện cái
nhìn đầy nhân bản đối với cuộc sống.
Như vậy, cả không gian âm phủ và những cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian trong Liêu trai
chí dị đều thể hiện sự kế thừa và sáng tạo của nhà văn Bồ Tùng Linh khi sử dụng các yếu tố của
huyền thoại. Ông cũng xử lý thời gian ảo trong tác phẩm theo cách này để tạo nên một dạng
thời gian vừa quen vừa lạ, mang lại hiệu quả nghệ thuật cao.
3.2 Thế giới ảo thể hiện qua thời gian trong Liêu trai chí dị
Thời gian ảo đặc trưng nhất của huyền thoại chắc chắn phải là thời gian khởi nguyên. Đó
là khoảng thời gian đầu tiên của lịch sử loài người theo quan niệm của người nguyên thủy. Thời
gian của huyền thoại là thời gian khởi nguyên, thời gian hình thành mọi yếu tố con người, tự
nhiên và văn hóa, là thời gian các thần hiện ra và sáng tạo. Trong thời gian này một hoặc nhiều
vị thần đã biến hỗn mang thành vũ trụ, hình thành những yếu tố đầu tiên cả về tự nhiên và văn
hóa. Chính vì thế, khoảng thời gian này mang tính chất vô cùng thiêng liêng trong tâm thức của
con người, chứa đầy sức mạnh của siêu nhiên.
Trong Liêu trai chí dị, thời gian dĩ nhiên không được nhà văn Bồ Tùng Linh dùng để kể
lại sự sáng tạo các yếu tố của tự nhiên và văn hóa nhưng thời gian ảo trong tác phẩm vẫn
nhuốm màu huyền thoại. Con người đã tiến đến thời hiện đại nhưng các quan niệm về thời gian
có sự xuất hiện của lực lượng siêu nhiên hoặc thời gian có năng lực vận hành các kiếp người
vẫn làm cho con người không khỏi lo sợ. Người đọc có thể cảm nhận rõ nhất ở thời gian đêm
huyền bí như buổi hồng hoang bí ẩn của vũ trụ, ở thời gian luân hồi nghiệp báo thể hiện sự
không phân biệt các phạm trù khởi đầu – nguyên nhân đúng như trong tư duy huyền thoại.
3.2.1 Đêm
Nhà văn Bồ Tùng Linh quan niệm đêm có những tính chất, sức mạnh khác hẳn các dạng
thời gian khác khi xây dựng thời gian nghệ thuật cho tiểu thuyết Liêu trai chí dị. Tác phẩm này
có rất nhiều truyện ngắn trong đó miêu tả cuộc gặp gỡ giữa người và các nhân vật ảo vào lúc
chập tối, đêm khuya, tảng sáng… Nói chung, cứ về đêm, các lực lượng siêu nhiên lại xuất hiện
trà trộn vào thế giới của loài người. Có thể hiểu rằng trong quan niệm dân gian, con người và
các lực lượng siêu nhiên có một ranh giới ngăn cách. Ban ngày là thời gian con người làm việc,
sinh hoạt cùng cộng đồng loài người còn ban đêm là khoảng thời gian của các nhân vật ảo. Dĩ
nhiên, tất cả đều xuất phát từ tâm lý lo sợ của con người khi đối diện với đêm tối mênh mông
huyền bí.
Thật vậy, đêm là khoảng thời gian các nhân vật ảo xâm nhập thế giới trần tục. Trong đó,
nửa đêm là khoảng thời gian các lực lượng siêu nhiên xuất hiện nhiều nhất. Nhân vật ảo ở đây
có thể là ma như nàng Ngũ Thu Nguyệt chết đã hơn 30 năm nửa đêm tìm tới nơi Vương Đỉnh ở
vì cha là người giỏi bói toán trước khi chết đã tiên đoán rằng 30 năm sau nàng sẽ lấy Vương.
Sau này quả đúng như vậy, mặc dù trải qua nhiều thử thách cuối cùng Thu Nguyệt đã hồi sinh
làm vợ Vương Đỉnh (truyện Ngũ Thu Nguyệt). Nửa đêm cũng là lúc nàng hồ ly không tên tìm
tới nhà danh sĩ Tống Trương Nhược sau lần gặp đầu tiên ngoài ruộng lúa (truyện Hà Hoa Tam
nương tử). Trời nhá nhem tối trong ngôi nhà bỏ hoang của quan bộ lang, Đào Vọng Tam đã bị
hai nàng ma Tiểu Tạ, Thu Dung trêu chọc. Sau này cả hai nàng giúp Đào qua cơn hoạn nạn, tìm
cách tái sinh để làm vợ họ Đào (truyện Tiểu Tạ). Có khi, các nhân vật ảo còn xuất hiện lúc tảng
sáng, dĩ nhiên đây là khoảng thời gian ranh giới giữa ngày và đêm nên tần số xuất hiện không
nhiều bằng khoảng thời gian nửa đêm. Trong truyện Tân Thập Tứ nương, Quảng Bình Phùng
“tảng sáng đi chơi tha thẩn, gặp một thiếu nữ trùm vạt áo màu đỏ, nhan sắc cực xinh, có thằng
nhỏ theo hầu, xăng xái dầm sương ướt cả giày tất; chàng trông thấy động lòng, thầm mơ trộm
ước” [45, tr.284]. Thiếu nữ đó chính là hồ ly, sau này làm vợ Quảng Bình Phùng. Như vậy, mọi
thời gian trong đêm từ lúc nhá nhem tối, nửa đêm đến tảng sáng đều là khoảng thời gian lực
lượng siêu nhiên thường xuyên xuất hiện khác hẳn với sự vắng bóng lúc ban ngày.
Đêm còn là khoảng thời gian con người luôn chìm trong sự lo âu, sợ hãi. Trong truyện
Xảo Nương, chàng trai Liêm sinh đi lạc đến phía bắc thành Quỳnh Châu trong đêm tối với tâm
trạng vô cùng sợ hãi “Đi về phía bắc bốn năm dặm, trời đã mọc trăng sao, cỏ xanh vút mắt
không có một quán trọ nào, tình cảnh rất khốn quẫn. Thấy bên đường có một ngôi mộ nhưng
lại rất sợ hùm beo. Bèn leo lên cây ngồi, nghe tiếng thông reo vi vút, giun dế nỉ non, trong lòng
rất hoang mang. Nghĩ lại thì hối quá” [44, tr.234] và khi nghe tiếng nói ở bên dưới thì “Liêm
cho là ma, tóc tai dựng đứng, nín hơi không dám thở” [44, tr.234]. Sự sợ hãi của Liêm sinh
cũng là tâm trạng của không ít nhân vật đi lạc khi màn đêm đã buông xuống. Trong mắt các
nhân vật trần tục, màn đêm luôn bí ẩn và luôn có sự đột nhập đầy bất ngờ của lực lượng siêu
nhiên.
Nhà nghiên cứu Eliade từng nói rằng “Huyền thoại mô tả những sự đột nhập khác nhau
và đôi khi đầy tính kịch của cái thiêng vào thế giới” [26, tr.213] và thời gian trong huyền thoại
được xác định “Thời gian thiêng là thời gian trong đó thần thánh hiện ra và sáng tạo” [26,
tr.205]. Có thể thấy rằng thời gian thiêng này tồn tại trong tác phẩm văn học, trong tín ngưỡng
dân gian và tôn giáo cho đến tận ngày hôm nay.
Tuy nhiên, dạng thời gian thiêng xuất hiện sớm nhất, có tính chất nền tảng chính là thời
gian khởi nguyên trong huyền thoại. Dạng thời gian này được nhận định “Đặc điểm quan trọng
nhất của huyền thoại, đặc biệt là của huyền thoại nguyên thủy, nằm trong việc quy bản chất
của sự vật vào khởi nguồn của chúng: giải thích kết cấu của sự vật cũng có nghĩa là kể xem sự
vật được tạo ra như thế nào; mô tả thế giới xung quanh cũng chính là nói về lịch sử sáng tạo
ban đầu của nó” [49, tr.224], “Việc miêu tả các sự kiện trong huyền thoại thì có sự tham gia
của các sinh vật siêu nhiên hành động ở những thời kỳ rất xa xưa” [49, tr.225]. Như vậy, huyền
thoại miêu tả quá trình biến hỗn mang thành vũ trụ cũng chính là miêu tả sự xâm nhập của các
lực lượng siêu nhiên vào thế giới huyền bí ở buổi đầu tiên.
Con người cũng có thể thay thế thời gian phàm tục bằng thời gian thiêng liêng: “Bằng
nghi lễ, người ta có thể chuyển từ thời gian phàm sang thời gian thiêng bằng các nghi thức”
[26, tr.198]. Tuy nhiên, có những dạng thời gian mà bản thân chúng đã mang những sức mạnh
đặc biệt, vô cùng kỳ lạ mà cho dù không có nghi lễ thì nó vẫn có khả năng tái hiện phần nào
thời gian của huyền thoại nguyên thủy. Tiêu biểu cho các dạng thời gian đó chính là đêm.
Đêm là khoảng thời gian từ tối cho đến sáng từ lâu đã là một dạng thời gian đặc biệt
trong tâm thức con người: “Đối với người Hi Lạp, đêm là con gái của hỗn mang và là mẹ của
trời (Ouranos) và đất (Gaia). Đêm còn sinh ra giấc ngủ và sự chết, những giấc mơ và mối lo
âu, tình âu yếm và sự lừa dối. Đêm hay bị kéo dài thêm theo ý các thần, họ bắt mặt trời và mặt
trăng dừng lại để thực hiện tốt hơn các kỳ tích của mình. Đêm đi khắp trời, được che phủ một
tấm màn tối trên một cỗ xe đóng bốn ngựa đen, với đoàn thiếu nữ hộ tống, đó là các nữ thần
Thịnh nộ (Furies) và Số mệnh (Parques)” [13, tr.297], “Đối với người Maya, cùng một hình
khắc chìm có nghĩa là đêm, lòng đất và cái chết” [13, tr.298]. Nói chung, đêm – ánh sáng mặt
trời không còn nữa – là một khoảng thời gian luôn huyền bí đối với con người xa xưa bởi sự
hiểu biết về thế giới của họ còn rất hạn chế.
Tuy nhiên, cho đến tận ngày hôm nay, đêm vẫn làm cho con người lo sợ bởi đêm luôn có
tính hai mặt: “mặt tăm tối, nơi đương lên men mọi sự chuyển biến”, “đi vào đêm tức là trở về
với cái chưa xác định trong đó đầy rẫy những ác mộng và quái vật, những ý nghĩ đen tối” và
“mặt trù bị cho ban ngày, ở đó sẽ lóe ra các ánh sáng của sự sống” [13, tr.298]. Đêm là lúc ánh
sáng biến mất “trạng thái mọi tri thức riêng biệt, phân tích, có thể biểu đạt đều biến mất, hơn
nữa, mọi điều hiển nhiên và mọi chỗ dựa tâm lý đều mất đi” [13, tr.298]. Dù thế nào chăng nữa
đêm vẫn làm cho con người cảm thấy lo sợ nhiều hơn so với ban ngày đầy ánh sáng.
Như vậy, đêm vừa là khoảng thời gian của các lực lượng siêu nhiên xâm nhập vào thế
giới trần tục vừa là đối tượng khiến con người luôn lo sợ bởi sự huyền bí của nó. Hai đặc tính
này của thời gian đêm đã được thể hiện đầy đủ trong tiểu thuyết Liêu trai chí dị. Với thời gian
đêm, nhà văn Bồ Tùng Linh đã tái hiện lại thuở ấu thơ của loài người vì lo sợ trước tự nhiên mà
đã nhân cách hóa hàng loạt các vị thần và tin rằng đó mới chính là những đối tượng không chỉ
biến hỗn mang thành vũ trụ mà còn vận hành cả vũ trụ. Thời gian đêm cũng huyền bí, cũng
xuất hiện hàng loạt lực lượng siêu nhiên xâm nhập cõi trần. Mặc dù thừa hưởng sâu sắc quan
niệm huyền thoại về thời gian nhưng nhà văn Bồ Tùng Linh sử dụng thời gian đêm tối không
hề có mục đích sáng tạo các yếu tố tự nhiên và văn hóa như trong thần thoại. Thời gian đêm tối
có những nhiệm vụ khác của một tác phẩm văn học.
Trong tiểu thuyết Liêu trai chí dị, đêm là lúc các lực lượng siêu nhiên tìm đến với người
giúp con người thực hiện được ước mơ của mình, con người có mộng gì thì sẽ được đáp ứng
mộng đó có khi là những giấc mộng vô cùng bản năng. Xuất hiện nhiều nhất trong tác phẩm là
các nhân vật ảo đặc biệt là các mỹ nhân xuất hiện giúp các chàng thư sinh thỏa giấc mộng yêu
đương. Trong truyện Mao hồ, nông phu Mã Thiên Vinh tuổi mới ngoài hai mươi, chết vợ
nhưng nhà nghèo không thể tái thú được. Đêm đến, hồ ly có vẻ rất phong lưu tìm đến nhà họ
Mã cùng ân ái. Biết không thể gắn bó lâu dài, hồ ly đã giúp Mã ba lượng vàng đủ để lấy một
người vợ xứng đôi vừa lứa. Khác với Mã Thiên Vinh, Tất Di Am trong truyện Hồ mộng chỉ
thích kết duyên cùng hồ ly. Tất Di Am phóng khoáng khác người, hào sảng vui vẻ, có danh
tiếng trong giới sĩ lâm. Mỗi khi đọc chuyện Thanh Phượng “trong bụng mơ ước, hận không gặp
hồ” [44, tr.910]. Tất thường đến ở biệt nghiệp của chú, nghỉ ngơi trên lầu – nơi người ta thường
đồn là có nhiều hồ. Một hôm chập tối có một người đàn bà tìm đến tự xưng là hồ gả con gái là
Tam nương cho Tất Di Am. Cô gái này “thái độ thùy mị tuyệt thế vô song” [44, tr.911] sống với
Tất suốt một thời gian dài thỏa lòng chàng ước nguyện. Trong truyện Cầm Sắt, Vương sinh nhà
nghèo lại lấy vợ giàu nên bị cả gia đình nhà vợ khinh rẻ, bỏ đi vào hang sâu chỉ muốn tự tử.
Đến khi sao mọc đầy trời thì Vương được vào tòa nhà cao, được ở lại trông coi công việc, kết
duyên với nàng tiên bị giáng trích là Cầm Sắt. Dường như giấc mộng yêu đương luôn chiếm vị
trí quan trọng nhất trong tâm trí thư sinh và nhờ thời gian đêm tối mà các chàng được thỏa ước
nguyện.
Tuy nhiên, ngoài giấc mộng yêu đương, kẻ sĩ còn mang nhiều mộng khác vì các lực
lượng siêu nhiên cũng sẵn sàng giúp đỡ nâng bước cho họ trên con đường đời. Thi cử luôn làm
cho kẻ sĩ hao tâm tổn trí bởi vì nó không chỉ giúp kẻ sĩ kinh bang tế thế mà còn gắn liền với
việc mưu cầu lợi ích cá nhân. Tuy nhiên, xã hội phong kiến đang ở giai đoạn mục ruỗng, giai
cấp thống trị độc đoán đã làm cho chế độ thi cử đầy rẫy tệ nạn đút lót, thiên vị… Họ Tống trong
truyện Tư văn lang đã nói “Trong phủ Tử Đồng, thiếu một chức Tư văn lang, tạm cho một đứa
trẻ điếc giữ triện, nên vận hội văn học điên đảo, vạn nhất may mắn tôi được giữ trật đó, sẽ làm
cho thánh giáo được sáng sủa” [44, tr.1415,1416]. Nàng hầu trong truyện Thần nữ cũng nói
thay lời chủ “Cô tôi bảo, ngày nay cửa quan học sứ như chợ, tặng chàng hai trăm lạng bạc để
làm vốn tiến thủ” [44, tr.1123]. Kẻ sĩ vô cùng khổ sở vì mộng công danh nên không ít lần đã
được lực lượng siêu nhiên trợ giúp. Truyện Tam tiên kể về một kẻ sĩ buổi tối uống rượu với ba
ông tú tài ở trong nhà, mỗi người nghĩ ra một đề cùng bàn luận để làm. Sáng hôm sau tỉnh dậy
nhà cửa đều biến mất nhưng ba bài văn của các tú tài vẫn còn nguyên trong bọc. Hỏi ra mới biết
ba tú tài chính là ba con vật thành tiên: một con cua, một con rắn và một con ễnh ương. Kẻ sĩ
lúc vào trường thi, gặp phải ba đề đều do tiên làm ra, vì thế mà đỗ được giải nguyên. Được lực
lượng siêu nhiên phù trợ để thỏa mãn giấc mộng công danh là giấc mộng đẹp của không biết
bao nhiêu kẻ sĩ.
Lực lượng siêu nhiên còn mượn bóng đêm để giúp kẻ sĩ thoát khỏi cuộc sống nghèo nàn.
Trong truyện Lưu phu nhân, Liêm sinh rất chăm học nhưng mồ côi sớm, nhà lại rất nghèo. Một
lần đi xa, trời tối bị lạc vào nhà Lưu phu nhân. Bà đưa tiền, chỉ cách cho Liêm sinh đi buôn.
Khi chàng đã có cuộc sống khá hơn liền tác hợp cho chàng lấy cháu ngoại của mình. Cuối cùng,
bà Lưu biến mất, nhà cửa của bà đã biến thành gò mộ. Như vậy, đêm là khoảng thời gian lực
lượng siêu nhiên giúp đỡ con người thỏa mãn những ước mơ của mình từ mộng yêu đương,
công danh đến cả tiền tài vật chất.
Đêm tối cũng là thời điểm thích hợp để các lực lượng siêu nhiên trà trộn vào thế giới loài
người thỏa mãn ước muốn của chính bản thân mình. Vì là lực lượng siêu nhiên nên ước mơ
của họ chủ yếu là tình cảm yêu đương, bạn bè nhưng phải là với con người. Những nàng hồ ly
dày công tu luyện cũng đến với thế giới con người có lúc quên hẳn mối nguy hoại đạo, những
bộ xương khô tự kiếp nào cũng trỗi dậy đi tìm cho mình một tri kỷ là thư sinh đa tình, phong
nhã. Những mỹ nhân kỳ ảo trong Liêu trai chí dị để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc
hơn bất kỳ nhân vật nào khác “sự hấp dẫn, ấn tượng trong trẻo, cái nhìn trẻ trung, phấn chấn
đối với cuộc sống lưu lại rất lâu ở độc giả. Ấn tượng này rõ ràng không phải toát lên từ hình
tượng của kẻ sĩ – thư sinh, cũng không phải hiện lên qua mắt nhìn của kẻ sĩ. Ấn tượng này gây
nên và đọng lại trong lòng người đọc từ hình tượng nhân vật mỹ nữ” [32, tr.51] và sự xuất
hiện của họ cũng xuất phát từ lý do rất đáng trân trọng “Tài tử hiếm hoi nên những người con
gái đẹp khát khao hạnh phúc, muốn được chọn mặt, gửi thân không dễ. Thường tác giả bắt họ
phải chết đi, phải hóa thân sang kiếp khác, phải đợi chờ mười, hai mươi năm sau mới được
trao thân hạnh phúc” [32, tr.52]. Trong truyện Liên Hương, nàng ma họ Lý hằng đêm đến tình
tự cùng Tang sinh vì “hai con ma gặp nhau, tịnh không có chi vui sướng. Nếu được vui sướng,
thì dưới suối vàng há phải thiếu hạng trai tráng ư?” [45, tr.418]. Sau này nàng Lý bị bệnh chết,
lòng đầy buồn tủi “cứ theo luồng gió trôi nổi, trông thấy người nào cũng đầy lòng thèm muốn,
ao ước làm sao mình được sống làm người như họ” [45, tr.424] và sau này đã nhập vào xác
Yến Nhi để hồi sinh. Cũng trong truyện này, nàng hồ ly Liên Hương cũng mượn bóng đêm đến
tình tự cùng người tri âm tri kỷ, sau khi chết, tái sinh làm người đã 15 năm vẫn quay về nhà cũ
nối tiếp cuộc tình hạnh phúc cùng Tang sinh. Tinh cá Bạch Thu Luyện trong truyện ngắn cùng
tên dưới ánh trăng đã si mê tiếng ngâm thơ của Mộ sinh đến bỏ cả ăn ngủ, chỉ muốn kết bạn
trăm năm với người trần. Hằng đêm, nàng tinh cá này lại tìm đến với người yêu. Cha của Mộ
sinh ngăn cản dữ dội, nàng vẫn quyết tâm làm đẹp lòng cha để lấy Mộ sinh dù cho Long Quân
nghe đồn nàng xinh đẹp quyết đón nàng về long cung làm phi tần. Đêm đã giúp cho các mỹ
nhân kỳ ảo thỏa mãn khát vọng yêu đương của chính mình cho dù nguồn gốc xuất thân của các
mỹ nhân này không giống nhau.
Khát vọng yêu đương của lực lượng siêu nhiên đôi khi còn làm hại đến con người trần
tục. Trong truyện Cổ nhi, hai hồ ly đực đêm đêm đến mê hoặc đàn bà, cuối cùng đã bị tiêu diệt
để đền tội. Trong truyện Thân thị, con gái nhà phú hộ đêm đêm thường bị tinh rùa đến bắt phải
làm vợ hắn. Một hôm, vào lúc gà gáy sáng, người đàn ông do rùa biến thành vừa vượt tường ra
đã bị phục đánh, hiện nguyên hình là một con rùa lớn. Xét cho cùng, lực lượng siêu nhiên trong
Liêu trai chí dị đầy phức tạp. Có kẻ dùng màn đêm để phù trợ cho con người trần tục, để chia sẻ
những tình cảm cao đẹp của mình nhưng cũng có khi màn đêm bị kẻ xấu lợi dụng để làm hại
người khác chỉ để thỏa mãn dục vọng cá nhân.
Lực lượng siêu nhiên xâm nhập thế giới trần tục vào lúc đêm về còn để tìm kiếm tình bạn
tri âm tri kỷ. Lục phán quan “mặt xanh, râu đỏ, mặt mũi rất dữ tợn” [44, tr.116] ở điện Thập
Vương đêm đêm vẫn đến uống rượu cùng Chu Nhĩ Đán. Sau này, Lục còn đổi cho Chu trái tim
thông tuệ, thay cho vợ Chu khuôn mặt đẹp (truyện Lục phán quan). Đối với khoa học ngày nay,
những việc làm của Lục đều có cơ sở khoa học, không phải là điều vượt quá tầm tay nhưng ở
thời đại của nhà văn Bồ Tùng Linh, việc miêu tả những việc làm trên thể hiện trí tưởng tượng
mang tính tiên đoán sâu sắc. Trong truyện Tửu bằng, Cố Xa một đêm uống rượu ngủ say lúc
nào không hay, nửa đêm thức giấc thấy tựa như có người nằm cạnh mình, đưa tay rờ thì thấy
mướt mượt như con mèo nhưng lớn hơn. Cố Xa cười bảo “Đây là bạn rượu của ta” [44, tr.192]
rồi lấy áo đắp cho. Một lát sau chồn cựa mình, hóa ngay thành một chàng trai nho nhã. Sau này,
hồ ly không chỉ là bạn rượu mà còn giúp Cố Xa làm giàu, chỉ đến khi chàng mất thì hồ ly mới
bỏ đi. Hóa ra, nhân vật ảo cũng khát khao tình cảm như con người, chỉ có điều phải mượn bóng
đêm để che đi hình tích mới có thể dễ dàng tận hưởng cuộc sống nơi trần thế. Xét cho cùng,
khát vọng của các nhân vật ảo cũng chính là khát vọng của con người trần tục.
Trong Liêu trai chí dị, nhân vật ảo cũng mang những nét bản chất của nhân vật thực và
nhân vật thực cũng không phải hoàn toàn vắng bóng các đặc tính của nhân vật ảo. Cho dù xây
dựng nhân vật nào, xét đến cùng nhà văn Bồ Tùng Linh cũng muốn viết về con người, cũng
muốn sử dụng bóng đêm làm nhòe nhân vật, để biến ước mơ, khát vọng chính đáng của con
người đặc biệt là tình yêu lứa đôi trở thành hiện thực mà không bị xã hội trừng phạt khắc
nghiệt. Như vậy, thời gian đêm trong huyền thoại đã có sự chuyển hóa trong tác phẩm văn học
và sự chuyển hóa này còn thể hiện ở các dạng thời gian khác.
3.2.2 Thời gian luân hồi nghiệp báo
Luân hồi là “chết ở kiếp này rồi lại sinh ra ở kiếp khác, cứ quay vòng mãi mãi như vậy”
[70, tr.590]. Nghiệp báo (quả báo) là “sự đáp lại điều ác hay điều thiện đã làm ở kiếp trước
bằng điều ác hay điều thiện trong kiếp sau” [70, tr.797]. Như vậy, con người vẽ nên vận mệnh
cho mình. Thời gian như một năng lượng vũ trụ đóng vai trò lực vận hành như thời gian huyền
thoại. Trong tiểu thuyết Liêu trai chí dị của nhà văn Bồ Tùng Linh, dòng thời gian của quan
niệm luân hồi nghiệp báo thể hiện trong rất nhiều câu chuyện.
Trong Liêu trai, sự luân hồi thể hiện ở chỗ con người luôn luôn tái sinh. Sự tái sinh này
chủ yếu là các nhân vật có thể kết thúc kiếp sống của mình, chuyển sang kiếp sống khác với
một thân xác mới. Truyện Tam sinh kể về hai nhân vật chính là ông mỗ ở Hồ Nam và Hưng Vu
Đường. Ở kiếp đầu tiên mà ông mỗ còn nhớ được thì ông làm lệnh doãn chấm thi đã đánh trượt
danh sĩ họ Hưng. Hưng kiện lên Diêm Vương, ông bị phạt làm dân thường còn Hưng Vu
Đường làm quan. Khi giáp mặt nhau ông là giặc, Hưng vì thù hằn ở kiếp trước mà thẳng tay
giết nên Diêm Vương phạt cả hai người kiếp sau biến thành chó. Dù đã đầu thai nhưng cả hai
vẫn mang oán thù nên giết nhau. Cuối cùng, Diêm Vương phải cho cả hai đầu thai thành bố vợ
và con rể để hóa giải mối thù. Trong truyện Tục hoàng lương, ông cử họ Tăng mơ mình làm tể
tướng gây ra nhiều tội ác nên bị chặt đầu, phải bị đày đọa cả kiếp sau để trả giá cho tội ác của
mình ở kiếp trước. Linh hồn ông cử họ Tăng tái sinh thành một đứa con gái nhà ăn mày không
một ngày nào được ăn no, mặc ấm, năm 14 tuổi đã bị bán làm nàng hầu cho một ông tú, vợ lớn
của ông tú quá độc ác vu cho nàng tội giết chồng nên nàng bị quan xử lăng trì (lóc từng miếng
thịt). Một giấc mơ mà gói gọn cả mấy kiếp. Bên cạnh việc đầu thai, sự luân hồi còn được thể
hiện theo hướng nhập hồn sống lại trong một thân xác khác. Trong truyện Tiểu Tạ, nàng ma
Thu Dung sau khi nuốt là bùa đạo sĩ cho đã có thể nhập hồn vào con gái họ Hác vừa chết, sống
cuộc đời như bất cứ con người trần tục nào. Nói chung, Liêu trai quan niệm cuộc đời mỗi nhân
vật đều nằm trong vòng luân hồi của chính mình tuy nhiên rất hiếm người có thể nhớ được sự
chuyển kiếp.
Sự luân hồi trong Liêu trai chí dị thường có sự can thiệp của các lực lượng siêu nhiên
nhưng thực sự vận hành chúng lại chính là thời gian vì quá trình luân hồi thường đi cùng với
nghiệp báo. Con người không được chọn lựa kiếp mà mình sẽ tái sinh bởi vì kiếp sau phụ thuộc
tất cả vào những gì con người đã làm được hay gây ra ở kiếp trước “Thế giới âm phủ dựa vào
biểu hiện của con người lúc còn sống để xác định địa vị, thọ yểu. Các vị quan liêm chính có thể
luân hồi đến kiếp sau để định số (đầu thai, xác định số kiếp mới), cũng có khi ở lại địa ngục âm
phủ đảm nhiệm chức vụ”, “kẻ xấu sau khi kinh qua những ngục hình nơi âm phủ đều bị đày
ngược lên nhân thế làm lừa ngựa, làm heo chó (lục súc) phục vụ cho con người” [72, tr.46].
Trong truyện Tam sinh có chàng Lưu Hiếu liêm nhớ được kiếp đầu tiên của mình là một vị
quan có làm nhiều chuyện bất chính nên sau khi chết bị Diêm Vương cho đầu thai làm ngựa. Vì
kiếp ngựa quá khổ sở nên Lưu nhịn ăn ba ngày rồi chết. Diêm Vương lại trách tội trốn tránh, sai
lột da rồi phạt bắt làm chó. Lưu lại cố tình cắn chủ nhân, muốn sớm bị đánh chết để thoát kiếp
chó. Xuống âm phủ, Lưu bị phạt tội ngông cuồng, bị bắt đầu thai làm rắn. Lần này, Lưu cố tìm
một cách chết cho lương thiện là bò qua giữa đường cho xe vô tình cán phải. Cho đến tận lúc
này, mọi tội lỗi của Lưu mới được xóa sạch để có thể đầu thai làm người. Các nhân vật trong
Liêu trai luôn phải chịu trách nhiệm với tất cả những gì mình đã gây ra ở kiếp trước.
Nhiều thần thoại để lại cho thấy con người từ thời nguyên thủy đã có ước muốn trường
sinh như thần thoại về người và rắn. Sau này Đạo giáo đã nhấn mạnh ước muốn trường sinh của
con người. Quan niệm luân hồi cũng có nguồn gốc từ thời nguyên thủy sau này mới được Phật
giáo nhấn mạnh. Người nguyên thủy xuất phát từ quá trình quan sát cây cối chết lại nảy mầm
thành cây mới đã cho rằng con người cũng như cây có thể chết ở kiếp này rồi lại sinh ra ở kiếp
khác. Điều này khiến chúng ta liên tưởng đến các mô tip hiến tế và tái sinh của huyền thoại.
Trong đó, con người đã dâng thực phẩm để tái hồi sức lực mà thần thánh đã phân tán vào quá
trình sáng tạo và duy trì sự sống muôn loài trong vũ trụ. Nhờ được phục hồi năng lực, thần
thánh có thể tiếp tục sáng tạo và duy trì sự sống. Sự hi sinh sự sống của một cá thể là để
chuyển vận không ngừng dòng chảy của sự sống trong vũ trụ.
Người nguyên thủy không phân biệt các phạm trù nguyên nhân và khởi đầu. Họ cho rằng
khởi đầu chính là nguyên nhân chứ không hề cho rằng khởi đầu chỉ là cái có trước. Chính vì
vậy, họ quan niệm cái có trước chính là nguyên nhân của cái có sau, sẽ quy định bản chất của
cái có sau. Huyền thoại giải thích trạng thái của thế giới hiện nay bằng những câu chuyện xa
xưa. Nhà nghiên cứu Meletinsky đã nhận định “Đặc điểm quan trọng nhất của huyền thoại, đặc
biệt là của huyền thoại nguyên thủy, nằm trong việc quy bản chất của sự vật vào khởi nguồn
của chúng: giải thích kết cấu của sự vật cũng có nghĩa là kể xem sự vật được tạo ra như thế
nào; mô tả thế giới xung quanh cũng chính là nói về lịch sử sáng tạo ban đầu của nó” [49,
tr.224]. Như vậy, thời gian trong quan niệm luân hồi nghiệp báo đã gặp gỡ với thời gian huyền
thoại. Dĩ nhiên, sự gặp gỡ này không phải ở nhiệm vụ giải thích con người, tự nhiên và văn hóa
hiện nay một lần duy nhất bằng các câu chuyện xa xưa vì thời gian này không phải là thời gian
khởi nguyên. Sự gặp nhau này ở cội nguồn sâu xa của quan niệm luân hồi nghiệp báo chỉ là con
người mãi sau thời nguyên thủy rất lâu cũng không phân biệt nguyên nhân và khởi đầu. Cái
thiện, cái ác của con người đã làm trong kiếp này sẽ được đáp lại đúng như thế trong kiếp sau
của người đó. Như vậy, kiếp trước tiềm ẩn nguyên nhân, có thể giải thích cho những gì con
người được hưởng ở kiếp sau chứ không đơn giản là khởi đầu, là cái có trước đối với kiếp sau.
Như vậy, con người đã vẽ nên số mệnh của mình từ kiếp trước và thời gian chỉ việc đóng vai
trò vận hành mà thôi.
Thời gian luân hồi nghiệp báo trong Liêu trai chí dị là sự thừa hưởng cái nhìn huyền
thoại về thế giới, là sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa Trung Hoa nói chung, với nhà
văn Bồ Tùng Linh nói riêng. Tuy nhiên, thời gian luân hồi nghiệp báo trong Liêu trai còn mang
những nhiệm vụ mới mẻ gắn liền với hiện thực xã hội và tâm tình của tác giả.
Nhà văn Bồ Tùng Linh mang cốt cách nhà Nho cho nên trong tiểu thuyết Liêu trai không
ít lần ông đã cổ vũ cho những trang nam tử lấy công danh sự nghiệp làm trọng và cũng không ít
lần có cái nhìn đầy khắt khe đối với những người phụ nữ chồng chết lại không chịu thủ tiết.
Tuy nhiên, những giáo lý nhà nho đầy minh bạch không thể giúp ông lý giải được những bất
công, ngang trái đầy uẩn khúc của cuộc đời, chẳng hạn như “Ở cường quyền này, nguyên không
có gì là phân minh hắc bạch. Huống chi quan lại ngày nay phân nửa là cường khấu…” [44,
tr.68] cho nên nhà văn họ Bồ tìm đến với triết lý Phật giáo, với cái nhìn huyền thoại về thế giới.
Trong truyện Tư văn lang, Vương sinh giỏi văn đi thi bị đánh trượt trong khi Dư Hàng dốt nát
lại đậu cao. Hóa ra, người giỏi hơn tất cả quan chấm thi vì trước khi họ thi đã biết được tài nghệ
từng người lại là một ông sư bị tạo vật ghen ghét làm cho bị mù. Tuy nhiên, sự thật lại không
phải như vậy! Kiếp trước, ông sư mù này là một danh gia, vì vứt bỏ giấy chữ quá nhiều nên bị
phạt mù mắt. Ông muốn tự chữa bệnh khổ cho người để chuộc lỗi trước kia nên mới hay đi lang
thang ở phố chợ. Trong truyện Chung sinh, thư sinh Chung Khánh Dư kiếp trước là đạo sĩ vì
lấy đá ném chó, lỡ xéo làm chết một con chẫu chàng. Con chẫu chàng ấy đã đầu thai làm con
lừa nhưng chàng thư sinh kiếp này số phận vẫn quy định đậu cao nhưng không thọ, phải chịu
cảnh bất đắc kỳ tử. Vì chàng có hiếu nên sau này mới hóa giải được nghiệp báo kiếp trước.
Dòng thời gian luân hồi nghiệp báo đã giúp tác giả lý giải, xoa dịu nỗi đau khi chứng kiến sự
bất công, ngang trái của cuộc đời.
Thời gian luân hồi nghiệp báo còn được sử dụng giúp các nhân vật ảo có được thân xác
con người trần tục để hưởng trọn vẹn hạnh phúc chốn trần gian. Trong truyện Lỗ Công nữ, cô
con gái của Lỗ Công sau khi chết vẫn hằng đêm đến tình tự cùng thư sinh Trương Ư Đán. Cô
gái nhờ Trương tụng kinh Kim cương để năm năm sau được đầu thai vào nhà Lư bộ hộ ở Hà
Bắc. Nàng hẹn 15 năm sau nối tiếp cuộc tình với Trương Ư Đán, cho dù chàng nhiều tuổi đã
yên bề gia thất cũng sẽ làm nữ tì để báo đáp tình duyên. Trong truyện Liên Hương, nàng hồ ly
Liên Hương bị bệnh chết, đã hẹn trước 14 năm sau sẽ lại trở về làm vợ Tang sinh. Quả đúng
như vậy, Liên Hương đầu thai làm con gái nhà nghèo, 14 năm sau tự tìm đến nối tiếp mối
duyên còn dang dở ở kiếp trước. Tình yêu trong Liêu trai rất táo bạo nhưng cũng vô cùng thủy
chung, bền bỉ vượt qua sự hữu hạn của một kiếp người. Thời gian luân hồi nghiệp báo đã thể
hiện thái độ đồng tình, bênh vực của nhà văn đối với dạng tình cảm cao quý này.
Nhà văn Bồ Tùng Linh thể hiện sự ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo khi ông sử dụng thời
gian luân hồi nghiệp báo để khuyến thiện trừng ác. Ông đã sử dụng thời gian luân hồi nghiệp
báo với năng lực tự vận hành của nó để thực hiện chức năng như giáo lý nhà Phật khuyến thiện
trừng ác để răn đe con người, đặc biệt là răn đe đối với những kẻ đang gây ra cái ác đầy rẫy
trong xã hội. Mỗi tội ác cho dù là vô tình hay hữu ý cũng gieo quả xấu cho con người trong
kiếp sau cho nên con người luôn phải giữ mình. Trong truyện Chân Hậu, một bà lão mù dắt
một con chó vàng đi ăn xin trước cửa nhà, gõ phách mà hát bài hát dân ca. Trần Tư Hương vừa
xuất hiện, con chó đã chồm cắn. Thì ra con chó là kiếp sau của Tào Tháo còn cô gái họ Trần
chính là mỹ nhân ở đài Đồng Tước xưa. Nay cô gái kết duyên với thư sinh Trần Trung Kham
làm cho Tào Tháo không khỏi ghen tức muốn trả thù. Bị đầu thai thành súc vật là cái giá mà
Tào Tháo phải trả cho những việc làm gian ác kiếp trước. Trong truyện Giang Thành, nàng dâu
Giang Thành vô cùng hung dữ với chồng, không sợ cả cha mẹ chồng. Trong giấc mơ, một cụ bà
đã lý giải cho bà mẹ biết vì sao Giang Thành lại hung hãn như thế: “Đó là nhân quả kiếp trước
để lại, Giang Thành kiếp trước nguyên là Tinh Nghiệp hòa thượng có nuôi con chuột trường
sinh. Còn công tử nhà bà tiền kiếp là học trò, một hôm đến chơi chùa, vô ý đạp chết con chuột
ấy. Vì thế kiếp này phải chịu ác báo về phía Giang Thành, chừng trả hết nợ mới yên, chứ không
lấy sức gì xoay đổi đặng” [45, tr.71]. Việc mẹ chồng niệm kinh giúp cho Giang Thành sớm
tỉnh ngộ cho thấy tác động của con người có thể đẩy nhanh việc cảm hóa kiếp người chứ không
thay đổi hoàn toàn được. Có khi, những người trong gia đình, họ hàng, tổ tiên cũng có thể tích
đức cho con cháu. Thế hệ trước không chỉ là quá khứ mà còn góp phần tạo lập nên số phận cho
thế hệ sau.
Thời gian luân hồi nghiệp báo không khỏi làm người đọc không liên tưởng đến một tiểu
thuyết khác cùng thời với Liêu trai chí dị. Trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng của nhà văn Tào
Tuyết Cần, dạng thời gian này cũng tham gia vận hành tác phẩm. Đó là cây Giáng Châu vốn
được Thần Anh hằng ngày chăm tưới, khi theo hòn đá xuống trần đã quyết lấy nước mắt một
đời của mình đền ơn cho ân nhân. Vì thế, Lâm Đại Ngọc vốn là cây Giáng Châu suốt cả một
đời yêu thương Giả Bảo Ngọc nhưng đành để tình yêu trôi qua trong nước mắt mà uất hận đến
chết. Như vậy, tác giả cũng có thể dùng dạng thời gian này để làm cái cớ trong khi xây dựng tác
phẩm, để phủ một lớp màn lộng lẫy mà huyền bí lên nội dung tác phẩm để tránh cho nó vượt
khỏi sự đánh giá khắc nghiệt của định kiến xã hội mà lại tăng thêm phần hấp dẫn, độc đáo.
Thời gian đêm và thời gian luân hồi nghiệp báo bước ra từ thời gian của huyền thoại để
thực hiện những nhiệm vụ mới mẻ của tác phẩm văn học. Thời gian đêm giúp con người bộc lộ
và thỏa mãn những khát vọng chính đáng của mình mà không lo sợ sự trừng phạt. Thời gian
luân hồi nghiệp báo cũng mang nhiệm vụ khuyến thiện trừng ác khi quan niệm mỗi sự vật có
linh tính luôn có sự chuyển kiếp và kiếp sau luôn phụ thuộc vào sự tích lũy điều thiện, điều ác ở
kiếp trước. Kết hợp với không gian âm phủ, những cảnh giới kỳ ảo chốn trần gian; không gian
và thời gian trong Liêu trai đã có khả năng tái hiện không gian và thời gian huyền thoại đầy bí
ẩn vẫn nằm sâu trong tiềm thức của con người thời hiện đại nhưng cũng đã có sự chuyển hóa để
phản ánh những vấn đề xã hội mang tính thời sự trong một lớp vỏ nghệ thuật vô cùng huyền ảo.
Liêu trai chí dị là sự kế thừa sâu sắc cái nhìn huyền thoại về thế giới thể hiện ở cốt
truyện, nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật. Các yếu tố huyền thoại khi bước vào tác
phẩm đã được cấp thêm những ý nghĩa mới để hòa nhập một cách nhuần nhuyễn với các yếu tố
khác của văn học thời cận đại. Nhà văn Bồ Tùng Linh đã mượn quá khứ để nói về hiện tại, làm
cho Liêu trai chí dị phản ánh những vấn đề, quan niệm rất mới mẻ nhưng lại thấm đẫm không
khí cổ xưa, câu chuyện được kể trở nên lung linh, đa nghĩa hơn bao giờ hết. Huyền thoại có sức
sống mãnh liệt đối với tất cả các dân tộc trên thế giới nên những gì Liêu trai chứa đựng không
chỉ dành cho cá nhân mà còn dành cho cả nhân loại.
KẾT LUẬN
Tiểu thuyết Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh là đỉnh cao của tiểu thuyết truyền kỳ - một
thể loại xuyên suốt lịch sử phát triển lâu dài của văn học Trung Quốc. Vì nó là đỉnh cao của
tiểu thuyết truyền kỳ nên sợi dây liên kết giữa rất nhiều các đoản thiên để hình thành nên tiểu
thuyết chính là cái kỳ. Cái kỳ cả về trong tư duy lẫn trong cách viết sẽ tạo nên một thế giới ảo
trong từng truyện ngắn cũng như trong cả bộ tiểu thuyết này. Vì nhà văn sử dụng rất nhiều yếu
tố ảo trong tác phẩm nên mảnh đất Liêu trai chí dị vẫn còn đầy bí ẩn, đòi hỏi phải được khai
phá tiếp. Với khoa học về huyền thoại được hình thành trong những năm gần đây, chúng tôi
muốn chọn một con đường, một phương pháp mới để tiếp cận thế giới nghệ thuật của Liêu trai
chí dị. Dùng một số nghiên cứu của các nhà khoa học về huyền thoại soi chiếu vào tác phẩm sẽ
thấy cái đẹp của Liêu trai hiện lên với nhiều chiều kích. Trên thế giới này không hề có một tác
phẩm nào ra đời từ hư vô. Một tuyệt tác như Liêu trai chí dị đã ra đời dựa trên sự kế thừa sâu
sắc tư duy huyền thoại của con người nguyên thủy, từ các thể loại văn học trước như chí quái,
chí dị, truyền kỳ. Văn học và huyền thoại có mối quan hệ khăng khít không chỉ ở trong nguồn
cội mà trong cả quá trình phát triển sau này. Tuy nhiên, sáng tạo, sử dụng và chuyển hóa các
huyền thoại như thế nào khi đưa chúng vào tác phẩm văn học phụ thuộc vào cái nhìn huyền
thoại của nhà văn về thế giới, vào tài năng, cá tính của nhà văn. Với Liêu trai, Bồ Tùng Linh đã
chọn lọc, chuyển hóa công phu những gì đi ra từ truyền thống để cấp cho các yếu tố ảo trong
tác phẩm những ý nghĩa mới mang hơi thở của cuộc sống thời cận đại của Trung Hoa và thể
hiện sự tiến bộ trong nghệ thuật phản ánh cuộc sống. Thế giới ảo trong Liêu trai chí dị phải
luôn được xem xét trong mối quan hệ với cái thực vì nhà văn đã đan cài hai yếu tố thực - ảo vô
cùng khăng khít, thậm chí trong thực có ảo, trong ảo có thực để phản ánh hiện thực qua một cái
nhìn vô cùng huyền ảo, lung linh. Thế giới ảo thể hiện trong mọi thành tố nghệ thuật của tác
phẩm, cho dù ở đâu cũng tìm thấy sự kế thừa và sáng tạo.
Về cốt truyện, nhà văn Bồ Tùng Linh đã xây dựng cốt truyện theo các hình tượng nhân
vật kỳ ảo. Bên cạnh đó còn sử dụng rất nhiều mô típ người đội lốt vật, vật đội lốt người rất phổ
biến trong thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích. Nhà văn Bồ Tùng Linh trên cơ sở kế thừa
đã đan cài hai mặt thực - ảo khi xây dựng cốt truyện cũng như khi chuyển hóa các mô tip nên
dù xây dựng cốt truyện theo hình tượng nhân vật kỳ ảo hay sử dụng các mô tip kỳ ảo đã có từ
lâu đời thì mục đích nhà văn hướng tới không phải là sự hoang đường, kỳ bí mà chính là hiện
thực trong một hình thức lung linh, huyền ảo.
Trong Liêu trai chí dị, nhà văn Bồ Tùng Linh đã xây dựng hệ thống nhân vật rất đa dạng.
Các nhân vật này chủ yếu được sinh ra từ quan niệm vạn vật hữu linh trong tư duy huyền thoại
nhưng không còn cách biệt với thế giới loài người khi được nhà văn phả vào đó tình cảm, khát
vọng của con người trần thế. Quan hệ giữa các nhân vật rất kỳ ảo bởi đó là quan hệ tình ái giữa
người và vật hết sức phóng túng, táo bạo. Nhà văn đã đưa các nhân vật cùng quan hệ giữa họ về
với quan niệm của con người cổ xưa để cảnh báo rằng con người hiện tại đã đánh mất bản chất
nguyên sơ của chính mình.
Mặc dù đã cách xa thời nguyên thủy khoảng thời gian tính bằng ngàn năm, con người
vẫn cảm thấy có một sức mạnh ẩn trong những cảnh giới chốn trần thế là nơi các lực lượng siêu
nhiên có thể xâm nhập vào cõi trần, là nơi có khả năng làm cầu nối giữa các cõi, đặc biệt là cõi
âm. Nhà văn đã miêu tả chốn âm phủ là tấm gương soi của cuộc đời trần thế vốn nhiều bất
công, miêu tả những không gian thiêng chốn trần thế nhưng sau đó có thể làm cho nó mất
thiêng để thỏa mãn ước mơ của con người.
Đối với thời gian trong Liêu trai chí dị xuất hiện nhiều nhất là thời gian đêm là khoảng
thời gian các lực lượng siêu nhiên xâm nhập vào thế giới loài người. Nhà văn đã cấp cho nó
một ý nghĩa mới khi miêu tả lực lượng siêu nhiên không phải hiện ra để sáng tạo mà hiện ra để
giúp con người thỏa mãn ước mơ đồng thời thỏa mãn ước mơ của chính mình. Bên cạnh đó,
Liêu trai có thời gian luân hồi nghiệp báo là dạng thời gian tự vận hành. Dạng thời gian này
xuất phát từ sự không phân biệt các phạm trù khởi đầu – nguyên nhân trong tư duy huyền thoại,
được sử dụng với mục đích chính là khuyến thiện trừng ác.
Như vậy, thế giới ảo trong Liêu trai chí dị thể hiện ở rất nhiều phương diện của tác phẩm:
cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian… Cho dù ở đâu, các yếu tố ảo này cũng là kết quả
của sự kế thừa tư duy huyền thoại từ thời nguyên thủy, các tác phẩm văn học dân gian và chí
quái, chí nhân, truyền kỳ đã có trước Liêu trai. Xuất phát từ mục đích phản ánh xã hội một cách
mạnh mẽ mà kín đáo bằng một hình thức lung linh, mới mẻ, Bồ Tùng Linh đã chọn lọc, chuyển
hóa sâu sắc các yếu tố từ huyền thoại, cấp cho nó những ý nghĩa mới để nó có thể phát huy hết
tác dụng trong tác phẩm của mình. Thế giới ảo làm nên sự hấp dẫn một cách vô cùng bí ẩn của
Liêu trai chí dị dưới những nghiên cứu của các nhà khoa học về huyền thoại thực chất là kết
quả của sự kế thừa và sáng tạo…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Aristotle (2007), Nghệ thuật thy ca, Nhà xuất bản Lao động
2. Lại Nguyên Ân (1992), “Thần thoại, văn học, văn học huyền thoại”, Tạp chí văn học,
số 3
3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 Thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà
Nội
4. Phạm Thuỷ Ba dịch (1988), Ramayana (3 tập), Nhà xuất bản Văn học
5. Trịnh Ân Ba, Trịnh Thu Lôi (2002), Văn học Trung Quốc, Nhà xuất bản Thế giới
6. Bakhtin, M. (2006), Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian trung
cổ và phục hưng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
7. Banzắc, Ô. (1985), Miếng da lừa, Nhà xuất bản Văn học
8. Trần Lê Bảo (2000), “Ảnh hưởng của thần thoại đối với tiểu thuyết Trung Quốc”, Tạp
chí văn hóa dân gian, số 1
9. Barthes, R. (2008), Những huyền thoại, Nhà xuất bản Tri thức
10. Tào Tuyết Cần (1999), Hồng lâu mộng, Nhà xuất bản Văn học
11. Lê Nguyên Cẩn (1999), Cái kỳ ảo trong tác phẩm của Balzac, Nhà xuất bản Giáo dục
12. Phạm Tú Châu (1992), “Việc nghiên cứu ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo trong mấy
bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc”, Tạp chí văn học, số 4
13. Chevalier, J. – Gheerbrant, A. (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nhà xuất
bản Đà Nẵng
14. Nguyễn Huệ Chi (1999), “Một vài phương diện tư tưởng và nghệ thuật của Bồ Tùng
Linh trong Liêu trai chí dị”, Tạp chí văn học, số 5
15. Đào Ngọc Chương (2009), Phê bình huyền thoại, Nhà xuất bản Đại học quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh
16. Thiều Chửu (2002), Hán Việt tự điển, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh
17. Lê Anh Dũng (2000), Giải mã truyện Tây du, Nhà xuất bản Trẻ
18. Vương Kiến Duy, Dịch Học Kim (2004), Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc, Nhà
xuất bản Thế giới
19. Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân (2005), Văn học phương Tây, Nhà xuất bản Giáo dục
20. Trần Xuân Đề (2000), Tác giả, tác phẩm văn học phương Đông (Trung Quốc), Nhà
xuất bản Giáo dục
21. Trần Xuân Đề (2003), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nhà xuất bản Giáo dục
22. Cao Huy Đỉnh, Phạm Thuỷ Ba dịch (1979), Mahabharata, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội
23. Phan Quang Định biên dịch (1995), Giải mã các giấc mộng qua ánh sáng phân tâm
học, Nhà xuất bản Trẻ
24. Lâm Ngữ Đường (1999), Truyện truyền kỳ Trung Quốc, Nhà xuất bản Văn hóa thông
tin
25. Eliade, M. (2005), “Cái thiêng và cái phàm”, Tạp chí văn học nước ngoài, số 1
26. Eliade, M. (2005), “Cái thiêng và cái phàm”, Tạp chí văn học nước ngoài, số 2
27. Frazer, J. G. (2007), Cành vàng bách khoa thư về văn hóa nguyên thủy, Nhà xuất bản
Văn hóa thông tin
28. Võ Hồng Hà (2002), Yếu tố “kỳ” trong Tây du ký, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học sư
phạm Hà Nội
29. Nguyễn Thị Bích Hải (2009), Đến với tác phẩm văn chương phương Đông (Trung
Quốc – Nhật Bản - Ấn Độ), Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
30. Đào Thị Thu Hằng (2007), Văn hóa Nhật Bản và Yasunary Kawabata, Nhà xuất bản
Giáo dục
31. Phan Thu Hiền (1999), Sử thi Ấn Độ, tập I Mahabharata, Nhà xuất bản Giáo dục
32. Lê Từ Hiển (1993), “Nhân vật mỹ nữ - điểm quy chiếu mới của hệ thống nhân vật
trong Liêu trai chí dị”, Tạp chí văn học, số 1.
33. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, Nhà xuất bản Lao động
34. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh (2000), Văn học sử Trung Quốc, Nhà xuất bản
Phụ nữ
35. Cù Hựu, Nguyễn Dữ (1999), Tiễn đăng tân thoại, Truyền kì mạn lục, Nhà xuất bản
Văn học
36. Jung, C. G. (2007), Thăm dò tiềm thức, Nhà xuất bản Tri thức
37. Kapka, F. (1989), Vụ án hóa thân, Nhà xuất bản Văn học
38. Đinh Gia Khánh (2008), Thần thoại Trung Quốc, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
39. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết Trung Hoa, Nhà xuất bản Văn học
40. Khoa Ngữ văn và báo chí trường ĐHKHXHNV(2007), Huyền thoại và văn học, Nhà
xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
41. Nguyễn Văn Khỏa (1978), Anh hùng ca của Hô – me – rơ, Nhà xuất bản Đại học và
trung học chuyên nghiệp
42. Đàm Gia Kiện (1993), Lịch sử văn hóa Trung Quốc, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
43. Nguyễn Trường Lịch (1997), “Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong văn
chương xưa và nay”, Tạp chí văn học, số 5
44. Bồ Tùng Linh (2007), Liêu trai chí dị 3 tập, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
45. Bồ Tùng Linh (2008), Liêu trai chí dị, Nhà xuất bản Văn học
46. Lisevich, I.S. (1993), Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, Trường Đại học sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh
47. Ludwig, T. M. (2000), Những con đường tâm linh phương Đông, Nhà xuất bản Văn
hóa – thông tin
48. Phương Lựu (1997), Lí luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục
49. Meletinxky, E.M. (2004), Thi pháp của huyền thoại, Nhà xuất bản Đại học quốc gia
Hà Nội
50. Phan Thị Miến dịch (1997), Iliat và Ôđixê, Nhà xuất bản Văn học
51. Phạm Xuân Nguyên (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nhà xuất bản Văn hóa – thông
tin
52. Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn
lục, Nhà xuất bản Văn học
53. Osho (2009), Minh triết tình yêu và siêu thức, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc
54. Phan Quang (2008), Sử thi huyền thoại Đông Tây, Nhà xuất bản Văn học
55. Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Nguyễn Dữ (2006), Lĩnh Nam chích quái, Truyền kì mạn lục,
Nhà xuất bản Kim Đồng
56. Riftin (2002), Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc, Nhà xuất
bản Thuận Hóa
57. Sở nghiên cứu văn học thuộc viện khoa học xã hội Trung Quốc (1997), Lịch sử văn
học Trung Quốc tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục
58. Lỗ Tấn (2002), Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Nhà xuất bản Đại học quốc
gia Hà Nội
59. Khâu Chấn Thanh (1994), Lý luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Nhà xuất
bản Giáo dục
60. Lương Duy Thứ (1995), Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ Trung Quốc, Nhà xuất bản Mũi
Cà Mau
61. Lương Duy Thứ, Phan Nhật Chiêu, Phan Thu Hiền (1998), Đại cương văn hóa
phương Đông, Nhà xuất bản Giáo dục
62. Lương Duy Thứ (2000), Bài giảng văn học Trung Quốc, Nhà xuất bản Đại học quốc
gia Hà Nội
63. Todorov, T. (2007), Dẫn luận về văn chương kì ảo, Nhà xuất bản Đại học sư phạm
64. Trần Văn Trọng (2008), Thế giới nghệ thuật trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh,
Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội
65. Lưu Đức Trung (2004), Văn học Ấn Độ, Nhà xuất bản Giáo dục
66. Tylor, E.B. (2000), Văn hóa nguyên thủy, Tạp chí văn hóa nghệ thuật Hà Nội
67. Đinh Phan Cẩm Vân (2000), “Cái kỳ trong tiểu thuyết truyền kỳ”, Tạp chí văn học, số
10
68. Lê Trí Viễn chủ biên (2002), Văn học trung đại Việt Nam, Ban ấn bản trường Đại
học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
69. Viện khoa học xã hội Trung Quốc (1997), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nhà xuất bản
Giáo dục
70. Viện ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng
II.TÀI LIỆU TIẾNG TRUNG QUỐC
71. 马瑞芳(著)(2002,神鬼狐妖的世界:聊斋人物论, 中华华局。
Mã Thụy Phương (viết) (2002), Thần quỷ hồ yêu đích thế giới:Liêu trai nhân vật luận,
Trung Hoa thư cục.
72. 马瑞芳(著)(2007,狐妖与人间:解读奇华: 聊斋志异,当代中国出版社。
Mã Thụy Phương (viết) (2007), Thần yêu dữ nhân gian: giải độc kỳ thư Liêu trai chí
dị, Đương thời Trung Quốc xuất bản xã
III.TÀI LIỆU MẠNG
73.http://en.wikipedia.org/wiki/James_Joyce
74.http://vi.wikipedia.org/wiki/Kawabata_Yasunari
75.http://vietbao.vn/Van-hoa/Franz-Kafka-la-mot-trong-nhung-nha-van-yeu-thich-nhat-
cua-toi/40170855/105/
76.http://www.glencoe.com/sec/socialstudies/mlg/wh/WH_Vietnamese_M.pdf
77.http://www.kh-sdh.udn.vn/zipfiles/sv2008-tb17/3R.minh- tran%20thi.pdf
78.http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=8341
PHỤ LỤC
Chân dung nhà văn Bồ Tùng Linh
Một cảnh trong phim Liêu trai chí dị
Phim Họa bì chuyển thể từ truyện ngắn Họa bì trong Liêu trai chí dị
Hồ ly bỏ con