ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NGUYỄN THỊ GIANG

GIẢI NGÂN CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ

TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

0

Hà nội, 2009

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan 1

Mục lục 2

Danh mục các chữ viết tắt 4

Danh mục các bảng 5

Danh mục các hình vẽ, đồ thị 6

7 MỞ ĐẦU

13 Chƣơng 1 Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về giải ngân dự án FDI ở

Việt Nam

1.1 Cơ sở lí luận 13

1.1.1 Khái niệm về vốn FDI và giải ngân vốn FDI 13

1.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến giải ngân vốn FDI 21

1.2 Bài học kinh nghiệm giải ngân các dự án FDI của một số nước châu Á 30

1.2.1 Trung Quốc 30

1.2.2 Thái Lan 34

38 Chƣơng 2 Thực trạng giải ngân các dự án FDI ở Việt Nam

2.1 Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 38

2.1.1 Tăng trưởng dòng vốn FDI 38

2.1.2 Đóng góp của giải ngân vốn FDI đối với sự phát triển của Việt Nam 43

2.2 Phân tích tình hình giải ngân các dự án FDI ở Việt Nam 46

2.2.1 Giải ngân vốn FDI theo hình thức đầu tư 51

2.2.2 Giải ngân vốn FDI theo lĩnh vực đầu tư 54

2.2.3 Giải ngân vốn FDI theo địa bàn đầu tư 62

2.2.4 Giải ngân vốn FDI theo đối tác đầu tư 66

2.3 Những đánh giá chung về giải ngân các dự án FDI ở Việt Nam 69

2

2.3.1 Những thành tựu đạt được 69

2.3.2 Một số tồn tại, hạn chế 72

2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế 75

83 Chƣơng 3 Một số giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án FDI ở

Việt Nam trong thời gian tới

3.1 Định hướng thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI ở Việt Nam thời gian tới 83

3.1.1 Bối cảnh chung 83

3.1.2 Định hướng thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam thời gian tới 85

3.2 Một số giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án ở Việt nam 89

3.1.1 Nhóm giải pháp vĩ mô 89

3.1.2 Nhóm giải pháp vi mô 93

101 KẾT LUẬN

3

101 TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ngân hàng phát triển Châu Á: Asia Development Bank ADB

Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao: Build-Operate-Transfer BOT

Xây dựng – Chuyển giao: Build – Transfer BT

Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh: Build-Transfer-Operate BTO

Doanh nghiệp liên doanh DNLD

Đầu tư nước ngoài ĐTNN

Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Foreign Direct Investment FDI

Tổng sản phẩm quốc nội: Gross Domestic Product GDP

Giấy phép đầu tư GPĐT

Giải phóng mặt bằng GPMB

Quỹ tiền tệ quốc tế: International Montary Fund IMF

KCN, KCX Khu công nghiệp, khu chế xuất

KH&ĐT Kế hoạch và Đầu tư

Môi trường đầu tư MTĐT

Quản lý nhà nước QLNN

Công ty xuyên quốc gia: Trans National Corporations TNCs

UNCTAD

United Nations Conference on Trade and Development Diễn đàn Liên hiệp quốc về Thương mại và phát triển

Ngân hàng thế giới: World Bank WB

Tổ chức thương mại thế giới WTO

World Trade Organization

VCCI Vietnam Chamber of Commercial and Industry

4

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 1.1 Vốn FDI vào Việt Nam theo báo cáo của Việt Nam & thế giới 14

Bảng 2.1 Tình hình giải ngân vốn FDI qua các thời kỳ tại Việt Nam 47

Bảng 2.2 Giải ngân vốn FDI theo hình thức đầu tư (1988-2007) 51

Bảng 2.3 Vốn FDI thực hiện phân bổ theo lĩnh vực đầu tư (1988-2007) 54

Bảng 2.4 Vốn FDI thực hiện ngành công nghiệp & xây dựng (1988-2007) 55

Bảng 2.5 Số dự án, vốn đăng ký, vốn thực hiện ngành dịch vụ (1988-2007) 57

Bảng 2.6 Cơ cấu vốn FDI thực hiện của ngành dịch vụ (1988-2007) 59

Bảng 2.7 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào bất động sản (1988-2008) 60

Bảng 2.8 Giải ngân vốn FDI theo ngành nông, lâm nghiệp (1988-2007) 61

Bảng 2.9 Giải ngân vốn FDI theo địa bàn đầu tư (1988-2007) 62

5

Bảng 2.10 Giải ngân vốn FDI phân theo đối tác đầu tư (1988-2007) 67

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Trang

Hình 2.1 Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (1988-2008) 38

Hình 2.2 Vốn FDI thực hiện so với tổng đầu tư xã hội& đóng góp vào GDP 43

Hình 2.3 Tình hình vốn FDI thực hiện qua các thời kỳ tại Việt Nam 47

Hình 2.4 Vốn FDI giải thể theo lĩnh vực và hình thức đầu tư (1988-2007) 50

Hình 2.5 Quy mô vốn trung bình &VTH theo hình thức đầu tư (1988-2007) 52

Hình 2.6 Tỷ lệ giải ngân vốn FDI theo hình thức đầu tư (1988-2007) 53

Hình 2.7 Cơ cấu vốn FDI phân bổ theo lĩnh vực đầu tư (1988-2007) 55

Hình 2.8 Giải ngân vốn FDI ngành công nghiệp và xây dựng (1988-2007) 56

Hình 2.9 Cơ cấu vốn FDI vào ngành bất động sản (1988-2008) 60

Hình 2.10 Cơ cấu vốn FDI phân bổ ngành nông, lâm nghiệp (1988-2007) 61

Hình 2.11 Mức độ tập trung FDI theo địa phương (1988 – 2007) 63

Hình 2.12 Đầu tư trực tiếp nước ngoài các tỉnh phía Nam (1988-2007 63

Hình 2.13 Vốn thực hiện của 6 nước thuộc khu vực châu Á (1988-2007) 68

6

Hình 2.14 Nguyên nhân của những hạn chế về giải ngân vốn FDI ởViệt Nam 75

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sau hơn 20 năm đổi mới, trong điều kiện phát triển của thế giới và hội nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực sự trở thành

hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất hiệu quả.

Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là điều kiện thuận lợi để Việt

Nam thu hút ĐTNN, đặc biệt là dòng vốn FDI vào Việt Nam thời gian qua đạt con

số kỷ lục. Hiện nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong thu hút FDI, là

điểm đến của nhiều nhà đầu tư, thu hút nhiều dự án có quy mô vốn lớn và tập trung

vào nhiều ngành nghề lĩnh vực trọng điểm phát triển kinh tế của Việt Nam. Tính

đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với

tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD và có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn

đăng ký 83.1 tỷ USD và tính riêng năm 2008, Việt Nam đã thu hút trên 64 tỷ USD

vốn FDI.

Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề là sử dụng, giải ngân và

“hấp thụ” nguồn vốn FDI to lớn này. Trong khi số dự án và vốn đăng kí tăng nhanh,

thì việc giải ngân vốn FDI đang có xu hướng tăng chậm lại. Tính cả giai đoạn 1988-

2007, vốn thực hiện chỉ chiếm tỷ lệ 34.3% trên tổng vốn đăng kí. Trong số 8.590 dự

án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 83 tỷ USD, chỉ có khoảng 50% dự án

triển khai với vốn thực hiện hơn 43 tỷ USD; vốn của bên nước ngoài đưa vào

khoảng 37,9 tỷ USD, chiếm 89,5% tổng vốn thực hiện. Năm 2008, Việt Nam giải

ngân được 11.5 tỷ USD vốn FDI.

Tỷ lệ giải ngân vốn FDI rất thấp so với vốn đăng kí chiếm 34.4% cho cả giai

đoạn (1988-2008). Tốc độ giải ngân vốn FDI chưa đuổi kịp tương ứng với tốc độ

thu hút vốn FDI. Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ

chậm trong khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh.

7

Khoảng cách ngày càng giãn rộng bởi vốn đăng kí tăng quá nhanh. Năm 2007, mặc

dù vốn thực hiện đã đạt gần 8.1 tỷ USD nhưng vốn đăng kí đã vượt trên 21 tỷ USD.

Khoảng cách ngày càng lớn giữa vốn đăng kí và vốn thực hiện trong lĩnh vực

ĐTNN là một vấn đề đang đặt ra hiện nay ở Việt Nam.

Một vấn đề đang đặt ra là vì sao giải ngân vốn FDI của Việt Nam lại thấp so

với vốn đăng kí. Có nhiều dự án FDI sau khi đã được cấp phép lại bị rút GPĐT, giải

thể, chậm triển khai thực hiện. Tính đến hết năm 2007, đã có 1.359 dự án ĐTNN bị

giải thể trước thời hạn với số vốn đăng ký giải thể khoảng 15,5 tỷ USD,vốn giải thể

chủ yếu tập trung trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 50%, lĩnh vực công nghiệp-xây

dựng chiếm 42,3%. Giải ngân thấp là do nguyên nhân tại đâu: MTĐT của Việt Nam

còn nhiều cản trở hay do yếu tố chủ quan của bản thân nhà đầu tư, chất lượng các

dự án đầu tư kém…

Hơn nữa, tỷ lệ giải ngân thấp trong các dự án FDI sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối

với sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Thực tế cho thấy các dự án FDI đi

vào hoạt động đã tạo ra tổng giá trị doanh thu, giá trị xuất khẩu rất lớn, đóng góp

vào ngân sách, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Hiện khu vực

có vốn FDI đã đóng góp trên 17% GDP, chiếm 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội,

đạt giá trị doanh thu trong 2 năm 2006-2007 là 69 tỉ USD, trong đó giá trị xuất

khẩu (trừ dầu thô) đạt 28,6 tỉ USD, chiếm 41% tổng doanh thu.

Đề tài góp phần tìm lời giải cho các vấn đề nêu trên và đề xuất một số giải

pháp nhằm nâng cao tỷ lệ giải ngân trong các dự án FDI ở Việt Nam, góp phần tích

cực hơn nữa vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của Việt Nam trong thời

gian tới. Từ những nhận định trên, tôi chọn đề tài: “Giải ngân các dự án đầu tư

trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam” làm đề tài tốt nghiệp Cao học Kinh tế chính trị.

2. Tình hình nghiên cứu

Vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã được nhiều tác giả trong và

ngoài nước nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau như nghiên cứu chính sách, điều

chỉnh các chính sách cụ thể liên quan đến thu hút vốn FDI, tác động của FDI đối với

tăng trưởng và phát triển kinh tế, hay nghiên cứu về nội dung cụ thể như FDI theo

8

hình thức, đối tác, theo lĩnh vực hoạt động…

Phần lớn các nghiên cứu đều tập trung giải quyết “nhu cầu” thu hút vốn FDI

của Việt Nam và khai thác những đóng góp to lớn của nguồn vốn này đối với quá

trình phát triển kinh tế Việt Nam mà chưa chú trọng đến vấn đề giải ngân nguồn

vốn, đặc biệt là hiệu quả giải ngân các dự án FDI ở Việt Nam.

Hiện nay, chưa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu có hệ thống về việc

giải ngân trong các dự án FDI, đánh giá những kết quả đạt được, các vấn đề còn tồn

tại, phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải ngân

trong các dự án FDI ở Việt Nam. Dưới đây là một số công trình nghiên cứu về vấn

đề giải ngân trong các dự án FDI ở Việt Nam:

- Nghiên cứu: “Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài trong bối cảnh sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới

(WTO)” (5/2008) do TS. Đinh Văn Ân và TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh là chủ biên,

Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương thực hiện trong khuôn khổ dự án

CIEM – DANIDA. Đây là nghiên cứu mới, có tính khái quát và phương pháp

lượng hoá cao, có tính khoa học và đã khái quát được một bức tranh tổng thể về quá

trình thực hiện vốn FDI tại Việt Nam.

- Nghiên cứu nêu bật được những cam kết liên quan đến ĐTNN trong khuôn

khổ WTO của Việt Nam; phân tích và đánh giá tổng quan về các rào cản đối với

thực hiện vốn FDI thông qua phân tích kết quả điều tra bằng bảng hỏi đối với 140

FIEs trong ba nhóm ngành bị ảnh hưởng trực tiếp của việc thực hiện cam kết nêu ở

trên; đề xuất một số giải pháp chính sách có tính khả thi cao, nhằm thúc đẩy việc

thực hiện dự án, giải ngân trong ba nhóm ngành nhóm điều tra nghiên cứu.

Nghiên cứu này chỉ tập trung xem xét các ngành chịu ảnh hưởng trực tiếp của

thực hiện cam kết WTO (thay thế nhập khẩu, dịch vụ ngân hàng, sản xuất hướng

xuất khẩu) mà không phân tích giải ngân trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.

Hơn nữa, nghiên cứu chỉ đưa ra hai nhóm yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện dự

án FDI, đó là nhóm yếu tố đến từ thực hiện cam kết WTO và một số yếu tố nội tại

của nền kinh tế, mà không xét tổng thể các yếu tố tác động đến giải ngân các dự án

9

FDI ở Việt Nam.

- Nghiên cứu: “Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh triển khai thực hiện các dự

án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam” – Tạp chí Kinh tế Châu Á -

Thái Bình Dương, Hà Nội: Trung tâm kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, 12/2001,

số 6 – tr 17-20 , tác giả là Đỗ Đức Bình và Bùi Huy Nhượng. Nghiên cứu tập trung

phân tích, đánh giá thực trạng tình hình triển khai thực hiện dự án FDI tại Việt

Nam; và đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường triển khai thực hiện dự án FDI tại

Việt Nam trong thời gian tới.

Tác giả tập trung chủ yếu phân tích, đề ra giải pháp đẩy nhanh triển khai thực

hiện dự án FDI. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, việc thu hút và

sử dụng nguồn vốn FDI của Việt Nam có nhiều thành tựu to lớn và vấn đề giải ngân

trong các dự án FDI như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất, khai thác có chất lượng

những giá trị của nguồn vốn này cần phải nghiên cứu sâu trong giai đoạn phát triển

kinh tế mới.

- Nghiên cứu: “Một số giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai

thực hiện các dự án FDI tại Việt Nam” - Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Hà Nội,

2001, Số 12 – tr.7-9 , tác giả là Nguyễn Thị Hường. Nghiên cứu đã nêu bật sự cần

thiết phải ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai thực hiện các dự án FDI; và

đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai

các dự án FDI tại Việt Nam. Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những rủi ro trong

quá trình triển khai thực hiện dự án FDI tại Việt Nam trong giai đoạn đổi mới đến

năm 2001. Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO, hội nhập kinh tế quốc tế: vì sao

giải ngân thấp, giải ngân thấp thì có ảnh hưởng như thế nào đến phát triển kinh tế,

qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải ngân vốn FDI trong

điều kiện Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.

Giáo sư Kenichi Ohno đã phân tích “Những thách thức Việt Nam phải đối

mặt với hậu lạm phát, mối nguy với FDI, động lực tăng trưởng kinh tế của Việt

Nam hiện nay” (2008). Liên quan đến động lực phát triển của Việt Nam, tác giả đã

nêu ra tác động của dòng vốn FDI với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, đó là dòng

10

vốn FDI “quá nóng” gây ra hệ quả là lạm phát, mất kiểm soát của kinh tế vĩ mô;

đồng thời phân tích những bất cập trong các dự án FDI như vấn đề phân cấp đầu tư,

hiện tượng săn giấy phép (lisence hunting) của các nhà đầu tư…điều này có ảnh

hưởng đến việc giải ngân các dự án FDI của Việt Nam thời gian qua. Tác giả cũng

đưa ra một số gợi ý, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải ngân các dự án FDI

thông qua các bài học của các nước trong khu vực (Trung Quốc, Malaysia…).

Nghiên cứu “Thực hiện các dự án FDI ở Việt Nam: phân tích trường hợp

các dự án bị giải thể” của Ari Kokko, Katarina Kotoglou và Anna Krohwinkel-

Karlsson (2003) đã phân tích việc giải ngân trong các dự án FDI và nghiên cứu sâu

đặc điểm của các dự án bị giải thể, qua đó đề xuất một số giải pháp liên quan đến

chính sách góp phần hạn chế các dự án bị giải thể ở Việt Nam. Tác giả chỉ giới hạn

nghiên cứu trong các dự án bị giải thể của Việt Nam để phân tích giai đoạn thực

hiện dự án, trong đó có nêu lên vấn đề giải ngân trong các dự án FDI. Tuy nhiên,

vấn đề giải ngân không phải là đối tượng nghiên cứu chính.

Kế thừa những thành tựu khoa học đã đạt đươc và giới hạn trong phạm vi

nghiên cứu của đề tài, luận văn trình bày một cách có hệ thống về vấn đề giải ngân

vốn FDI và phân tích, đánh giá thực trạng giải ngân trong các dự án FDI, tìm ra

nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế nhằm đề xuất một số giải pháp đảy nhanh

tiến độ giải ngân trong các dự án FDI của Việt Nam, góp phần vào mục tiêu phát

triển kinh tế - xã hội của quốc gia.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Góp phần đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án FDI ở

Việt Nam.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Hệ thống lại và làm rõ một số vấn đề lí luận về giải ngân vốn FDI

- Phân tích, đánh giá thực trạng giải ngân các dự án FDI ở Việt Nam

- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án

FDI ở Việt Nam

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

11

Đối tượng nghiên cứu: Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào vấn đề giải ngân trong các dự án FDI ở Việt

Nam trong giai đoạn 1987 đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử, kết hợp với phương pháp tổng hợp, phân tích và so sánh. Ngoài ra, luận văn

còn sử dụng các thông tin được công bố chính thức, gồm số liệu thống kê, các báo

cáo tổng kết của Cục ĐTNN - Bộ KH&ĐT và của các tổ chức kinh tế quốc tế. Hơn

nữa, nội dung nghiên cứu được phân tích định lượng từ những số liệu cụ thể từ

những nguồn thông tin được công bố và từ kết quả khảo sát điều tra. Và, luận văn

cũng áp dụng phương pháp phân tích, so sánh, thống kê P.E.S.T: Chính trị, Kinh tế -

Xã hội, Công nghệ.

6. Những đóng góp của luận văn

- Phân tích có tính hệ thống cơ sở lí luận và thực tiễn về giải ngân các dự án FDI.

- Đánh giá tình hình giải ngân các dự án FDI ở Việt Nam, những đóng góp của

giải ngân vốn FDI đối với phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời phân tích những

hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại trong quá trình giải ngân vốn FDI ở

Việt Nam.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án FDI ở

Việt Nam hiện nay

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận

văn được kết cấu thành 3 chương, bao gồm:

Chƣơng 1: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về giải ngân dự án FDI ở Việt Nam

Chƣơng 2: Thực trạng giải ngân các dự án FDI ở Việt Nam

Chƣơng 3: Một số giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân dự án FDI ở Việt Nam

12

trong thời gian tới.

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢI NGÂN

DỰ ÁN FDI Ở VIỆT NAM

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Khái niệm về vốn FDI và giải ngân vốn FDI

1.1.1.1. Các khái niệm về vốn (FDI)

 Vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI)

Hiện nay, có nhiều quan điểm và cách thức xác định về vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI), sau đây là một số định nghĩa về nguồn vốn FDI của một số tổ

chức kinh tế thế giới và của Việt Nam đã được công bố sử dụng chính thức. Có sự

khác biệt trong cách xác định vốn FDI của Việt Nam và các tổ chức kinh tế thế giới.

Theo định nghĩa của các tổ chức kinh tế và đầu tư trên thế giới bao gồm

UNCTAD, WB, ADB, IMF: Dòng vốn FDI là nguồn tài chính do nhà đầu tư cấp

trực tiếp cho công ty con và bao gồm 3 thành phần chính là vốn cổ phần, khoản tái

đầu tư và các khoản vay từ công ty mẹ. Các nguồn tài chính khác như vốn góp và

các khoản tái đầu tư của một công ty trong nước trong trường hợp dự án đó là liên

doanh, hoặc các khoản vay thương mại từ các ngân hàng trong và ngoài nước không

được coi là vốn FDI [24, tr.2]

Có hai cách tính số vốn FDI, đó là (i) vốn FDI là tổng vốn đầu tư nước ngoài

vào nước nhận đầu tư hay còn gọi là vốn FDI ròng, đây là cách tính theo thông lệ

quốc tế. Khi lập cán cân thanh toán quốc tế thì dùng con số vốn FDI ròng mà không

tính phần vốn phía nước chủ nhà góp thêm vào; hoặc (ii) vốn FDI là tính tổng vốn

đầu tư đã thực hiện ở khu vực kinh tế có vốn FDI, đây là cách tính của Việt Nam.

Vốn đầu tư nước ngoài bao gồm vốn góp của phía chủ đầu tư nước ngoài và vốn

góp của phía Việt Nam.

Sau đây là một số ví dụ so sánh số vốn FDI theo cách tính của Việt Nam và

13

các tổ chức kinh tế thế giới qua các số liệu được công bố chính thức và sử dụng

rộng rãi hiện nay. Trong khi các con số được đề cập đến nhiều nhất ở Việt Nam là

số vốn FDI đăng kí, tiếp đến là số vốn FDI thực hiện; còn thế giới lại dùng số vốn

FDI giải ngân để đánh giá dòng vốn FDI.

Bảng 1.1. Vốn FDI vào Việt Nam theo báo cáo của Việt Nam & thế giới

Tổng vốn (USD) Năm 2005

6.8 tỷ FDI vào Việt Nam

3.3 tỷ Vốn thực hiện

2.36 tỷ FDI vào Việt Nam (thống kê ASEAN)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT, Số liệu thống kê ASEAN (2006)

Qua bảng số liệu trên cho thấy, các tổ chức thế giới sử dụng số vốn FDI thực

hiện làm cơ sở báo cáo và đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một

quốc gia, trong khi đó Việt Nam đánh giá khá cao theo số vốn FDI đăng kí. Theo số

liệu thống kê về vốn FDI thực hiện lũy kế trong giai đoạn 2000-2007 của Cục Đầu

tư nước ngoài - Bộ KH&ĐT Việt Nam là hơn 22,2 tỷ USD, trong khi số liệu mà

UNCTAD công bố năm 2007 cho giai đoạn trên là 11,2 tỷ USD. Như vậy, ở đây có

sự chênh lệch tới 11 tỷ USD - con số này bao hàm cả phần góp vốn của các công ty

trong nước và các khoản vay thương mại. Hay theo các tổ chức quốc tế, năm 2007,

vốn FDI thực tế vào Việt Nam là 2,8 tỷ USD, trong khi đó Tổng cục thống kê Việt

Nam công bố chính thức là 6,4 tỷ USD [24, tr.4].

Trong Luật Đầu của Việt Nam năm 2005 (kèm theo Nghị định 108/NĐ-CP

hướng dẫn quy định Luật đầu tư) và của Tổng cục thống kê Việt Nam (2005), thì

nguồn vốn FDI được định nghĩa và xác định như sau:

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư

và tham gia hoạt động quản lý đầu tư. (Điều 2, Luật Đầu tư năm 2005).

- Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động

đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp.

- Vốn FDI bao gồm tất cả các nguồn vốn của một dự án đầu tư nước ngoài,

14

nghĩa là bao gồm vốn cổ phần, các khoản tái đầu tư bao gồm phần vốn góp của đối

tác trong nước trong công ty liên doanh và tất cả các khoản vay, kể cả từ công ty mẹ

và các khoản vay thương mại từ ngân hàng trong và ngoài nước. Đây là khái niệm

được dùng để phân tích trong nghiên cứu này.

 Vốn đăng kí/ cam kết:

Vốn đăng kí là tổng vốn FDI đăng kí theo giấy phép, bao gồm vốn tự có và

vốn vay ngân hàng. Vốn tự có bao gồm vốn nước ngoài và vốn góp của đối tác liên

doanh trong nước. Vốn vay ngân hàng cũng gồm vay ngân hàng nước ngoài và vay

ngân hàng trong nước.

Vốn đăng kí là nguồn vốn cam kết của chủ đầu tư nước ngoài thực hiện dự án

đầu tư vào nước chủ nhà. Sau đó, nhà đầu tư chuẩn bị các thủ tục cần thiết để thực

hiện dự án như chuẩn bị dự án, giải phóng mặt bằng, thiết kế và thông thường phải

mất một khoảng thời gian nhất định để triển khai đầu tư, đưa vốn vào hoạt động.

Vốn FDI cam kết là chỉ số để đánh giá mức độ quan tâm của các nhà đầu tư,

và đánh giá môi trường đầu tư của nước nhận đầu tư.

 Vốn thực hiện

Vốn thực hiện là số vốn mà các chủ đầu tư thực sự đã dùng để triển khai thực

hiện dự án FDI, gồm đầu tư vào nhà xưởng, mua sắm thiết bị, mua sắm nguyên vật

liệu, thuê nhân công … để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo tiến độ đã

ghi trong hồ sơ dự án. Đối với hình thức liên doanh, vốn thực hiện có một phần là

vốn góp của phía Việt Nam. Và trong phần vốn phía Việt Nam góp vào dự án có

một phần đối ứng từ ngân sách, liên quan đến cấp phát của kho bạc Nhà nước.

Vốn thực hiện là một chỉ tiêu quan trọng cho biết tình hình thực hiện dự án

FDI, cho thấy kết quả của việc bỏ vốn triển khai các công việc của dự án. Nâng cao

tỷ lệ vốn thực hiện, giảm tỷ lệ vốn chưa thực hiện là vấn đề mà các nhà đầu tư và

nước chủ nhà quan tâm nhiều nhất.

Vốn thực hiện là số vốn đã thực hiện theo báo cáo, trong đó bao gồm cả vốn

nước ngoài và vốn trong nước. Hai con số đăng kí và thực hiện được tổng hợp bởi

cơ quan quản lý đầu tư của nước chủ nhà (Bộ KH&ĐT Việt Nam). Nếu vốn thực

15

hiện chiếm tỷ lệ càng cao so với tổng vốn đăng kí, chứng tỏ dự án đó đã thực hiện

được càng nhiều các công việc trong giai đoạn triển khai thực hiện dự án. Cách tiếp

cận ở đây là phân tích, đánh giá tình hình thực hiện vốn đầu tư của dự án FDI, tìm

ra nguyên nhân đang cản trở quá trình thực hiện dự án, giải ngân vốn FDI. Trên cơ

sở đó, đề xuất biện pháp đẩy mạnh tiến độ thực hiện dự án FDI, nâng cao tỷ lệ giải

ngân vốn FDI trong các dự án FDI ở Việt Nam.

1.1.1.2. Giải ngân vốn FDI

 Khái niệm giải ngân vốn FDI

Tỷ lệ vốn thực hiện, giải ngân vốn FDI được coi là một trong những tiêu

chuẩn đánh giá mức độ thành công của quá trình thu hút vốn FDI của một quốc gia.

Trong khi đó, vốn đăng ký chỉ phản ánh giá trị đầu tư ước tính của dự án. Giải ngân

vốn FDI là chỉ số đánh giá dòng vốn thực sự đầu tư từ nước ngoài vào nước nhận

đầu tư và thể hiện trên cán cân thanh toán quốc tế, bao gồm số vốn của đối tác trong

nước hay ngân hàng trong nước.

Đánh giá giải ngân vốn FDI cần được xem xét trong một giai đoạn, thời kỳ xác

định. Vốn giải ngân là vốn thanh toán cho các hạng mục đã đầu tư của dự án triển

khai thực hiện tại nước chủ nhà. Một dự án FDI sau khi được cấp phép đầu tư sẽ

phải mất một khoảng thời gian nhất định để triển khai theo từng giai đoạn của dự án

như trong hồ sơ cấp GPĐT. Xác định thời điểm dự án được cấp phép và thời gian

triển khai thực hiện dự án, qua đó so sánh được mức độ thực hiện, giải ngân vốn

FDI của dự án. Đối với dự án FDI có quy mô lớn, thời gian triển khai thực hiện dự

án kéo dài, số vốn giải ngân cũng được chia theo các giai đoạn khác nhau.

Nói tới vốn thực hiện, giải ngân vốn FDI, Việt Nam thường sử dụng số liệu

báo cáo của các dự án và cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài tại địa phương (Sở Kế

hoạch và Đầu tư) để tổng hợp, trong khi các nước khác thường căn cứ vào lượng

ngoại tệ được chuyển qua hệ thống ngân hàng. Có sự khác biệt trong cách tính toán

số vốn FDI thực hiện, giải ngân của Việt Nam và thế giới.

Hiện nay, tại Việt Nam thống nhất dùng con số vốn đầu tư thực hiện và quy

16

định vốn FDI đầu tư thực hiện cũng là vốn FDI giải ngân.

 Quy trình, thủ tục giải ngân vốn FDI

Giải ngân trong các dự án FDI là quá trình đưa vốn nước ngoài cùng vốn góp

bên nước chủ nhà để thực hiện các công việc, hạng mục của dự án. Giải ngân vốn

FDI có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đóng vai trò quyết định đến sự thành công, hay

thất bại của một dự án FDI. Mục tiêu của nhà đầu tư là đưa dự án FDI vào hoạt

động càng sớm càng tốt, nhằm hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra, do những biến

động của môi trường đầu tư và sử dụng tối đa hiệu quả của nguồn vốn.

Triển khai thực hiện các dự án FDI là quá trình các nhà quản trị tiến hành giao

dịch với các cơ quan quản lý nước chủ nhà, và thực hiện các công việc cụ thể để

biến các dự kiến trong dự án khả thi thành hiện thực, nhằm đưa dự án FDI đã được

cấp GPĐT vào xây dựng và hoạt động theo đúng mục tiêu đã được quy định trong

GPĐT, hay triển khai thực hiện dự án FDI là quá trình giải ngân vốn đăng ký FDI.

Như vậy, quá trình giải ngân các dự án FDI là nhiệm vụ của các chủ đầu tư và

liên quan đến sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý Nhà nước. Trong quá trình giải

ngân vốn FDI, đòi hỏi các bên phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:

+ Thực hiện đúng pháp luật: đây là yêu cầu đầu tiên, và quan trọng nhất đối với

việc giải ngân vốn FDI. Bởi vì, chỉ có thực hiện đúng pháp luật của nước chủ nhà,

thì dự án mới được pháp luật bảo vệ và ủng hộ.

+ Thực hiện đúng tiến độ: Sau khi dự án FDI được cấp GPĐT, dự án cần nhanh

chóng triển khai ngay để đảm bảo tiến độ dự án. Trong nền kinh tế thị trường, nhu

cầu thường xuyên thay đổi nên nếu triển khai chậm, dự án có thể mất cơ hội kinh

doanh, đồng thời hạn chế được các chi phí phát sinh thêm do kéo dài thời hạn dự án.

Đây là một yêu cầu rất khó thực hiện, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, thường

có thủ tục hành chính phiền hà và phức tạp.

+ Phân công và phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu, các bộ phận trong quá trình

thực hiện dự án FDI. Để đảm bảo tiến độ triển khai dự án, các nhà đầu tư phải biết

phân công công việc một cách khoa học, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các

khâu công việc đó, tránh tình trạng một công việc bị đình trệ ảnh hưởng đến các

17

công việc khác.

+ Tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư thực hiện các dự án FDI trên cơ sở

đảm bảo vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước. Nhà nước không can thiệp quá sâu vào

các hoạt động cụ thể của dự án, mà chỉ theo dõi và tạo điều kiện thuận lợi để nhà

đầu tư chân chính có đủ điều kiện để thực hiện dự án FDI.

 Cách thức thực hiện giải ngân vốn FDI

Việc thực hiên dự án, giải ngân vốn FDI là trách nhiệm của nhà đầu tư, đồng

thời cũng là trách nhiệm của các cơ quan QLNN nước chủ nhà. Nhà đầu tư phải chủ

động tiến hành các công việc cần thiết, về phía cơ quan QLNN có trách nhiệm hỗ

trợ nhà đầu tư tiến hành các công việc đó một cách thuận lợi, đúng pháp luật, nhất

là các công việc liên quan đến các thủ tục hành chính. Những công việc nhà đầu tư

phải thực hiện, không chỉ phụ thuộc vào quy định khác nhau giữa các quốc gia, theo

thông lệ quốc tế mà còn phụ thuộc vào hình thức đầu tư của dự án FDI [20, tr.105].

Quá trình giải ngân vốn FDI thường bao gồm các công việc (i) thành lập bộ

máy quản lý dự án, (ii) thực hiện các thủ tục hành chính, (iii) góp vốn và thực hiện

đầu tư, (iv) nghiệm thu và bàn giao công trình, tuyển dụng lao động.

(i) Thành lập bộ máy quản lý dự án FDI.

Đây là công việc phải tiến hành đầu tiên, ngay sau khi dự án FDI được cấp

GPĐT. Bộ máy quản lý dự án FDI phụ thuộc vào hình thức đầu tư và loại hình

doanh nghiệp. Đối với hình thức DNLD và doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN, bộ máy

quản lý dự án FDI thường bao gồm Hội đồng quản trị và Ban giám đốc (đối với các

dự án BBC, thành lập Ban điều phối/điều hành dự án FDI). Nhiệm vụ cụ thể là bổ

nhiệm chức danh chính như Chủ tịch/các phó Chủ tịch Hội đồng quản trị; Tổng

giám đốc, các phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng, tiến hành họp phiên đầu tiên để

triển khai các công việc tiếp theo. Những công việc này do chính bản thân các nhà

đầu tư tự thực hiện, không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan nào của nước chủ nhà, vì

vậy họ có thể quyết định tiến độ thực hiện những công việc này.

(ii) Thực hiện các thủ tục hành chính

Có nhiều thủ tục hành chính cần thiết cho sự ra đời và hoạt động của một dự

18

án FDI (hay gọi là doanh nghiệp có vốn FDI), gồm các thủ tục về đăng ký trụ sở

doanh nghiệp, chế độ kế toán, đăng ký con dấu, các thủ tục liên quan đến việc góp

vốn, như đăng kí kế hoạch xuất nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ để góp vốn

cho dự án, các thủ tục về đất đai, như đền bù, tái định cư và GPMB, đến các thủ tục

về xây dựng cơ bản và xuất nhập cảnh cho các chuyên gia nước ngoài, hoặc lao

động trong nước đi đào tạo ở nước ngoài.

Đây là các công việc thuộc trách nhiệm của các nhà đầu tư, nhưng kết quả của

nó lại phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả của bộ máy chính quyền nước chủ nhà, vì các

nhà đầu tư không thể tự quyết định thời gian thực hiện các công việc đó. Đối với

các nước phát triển, những công việc này thường rất gọn nhẹ và đơn giản, do các

thủ tục đều minh bạch và rõ ràng. Nhưng đối với các nước đang phát triển, đây lại là

một trong những cản trở lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, cho dù các nước

này có quy định cụ thể về thời gian thực hiện những công việc đó.

(iii) Góp vốn và thực hiện dự án đầu tư.

Góp vốn cho dự án:

Việc lựa chọn các hình thức góp vốn tùy theo Luật đầu tư của mỗi nước. Có

những hình thức góp vốn thông thường như góp vốn bằng tiền mặt, bằng giá trị

quyền sử dụng mặt đất, bằng công nghệ…Nhiệm vụ của các nhà đầu tư là tiến hành

góp vốn theo hình thức đã lựa chọn. Vấn đề phức tạp thường nảy sinh là góp vốn

đúng với tiến độ đề ra.

Ở những nước đang phát triển, các nhà đầu tư nước chủ nhà thường góp vốn

bằng giá trị quyền sử dụng đất. Vấn đề nảy sinh trong quá trình góp vốn bằng giá trị

quyền sử dụng đất là tiến độ GPMB thường chậm, nhiều khi đã được cấp giấy phép

sử dụng đất, nhưng không thể GPMB, thậm chí chính quyền nước chủ nhà còn thiếu

trách nhiệm trong việc hỗ trợ các nhà đầu tư GPMB, dẫn đến phát sinh nhiều chi phí

ngoài dự toán.

Một khía cạnh khác, vấn đề chuyển giao công nghệ từ bên ngoài vào thường

nảy sinh các vấn đề như hợp đồng chuyển giao công nghệ không rõ ràng, định giá

công nghệ sao cho sát với giá trị thực tế của công nghệ chuyển giao, vấn đề quy

19

định về bảo hộ sở hữu công nghiệp.

Một trong những nội dung quan trọng khi góp vốn là xác định giá trị vốn góp

của các bên. Luật pháp các nước có thể cho phép các nhà đầu tư góp vốn bằng các

phương thức khác nhau, như góp vốn bằng tiền mặt, bằng máy móc thiết bị, bằng

giá trị quyền sử dụng mặt đất, hay giá trị công nghệ…Vấn đề thường phức tạp khi

định giá những tài sản mà các nhà ĐTNN đưa vào góp vốn như máy móc thiết bị đã

qua sử dụng, các tài sản vô hình, gồm kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa.

Đấu thầu mua sắm thiết bị và thực hiện đầu tư:

Trong bước này, nhiệm vụ của chủ đầu tư là tổ chức đấu thầu quốc tế để

tuyển dụng các loại tư vấn (như tư vấn khảo sát, thiết kế, đấu thầu, giám định kỹ

thuật và chất lượng công trình) và mua sắm máy móc, thiết bị cũng như xây dựng

công trình.

Sau khi tổ chức đấu thầu và lựa chọn được các nhà tư vấn, nhà thầu trong và

ngoài nước, các nhà đầu tư sẽ đầu tư vốn để xây dựng công trình, mua sắm lắp đặt

máy móc thiết bị theo đúng tiến độ mà dự án đã đề ra.

(iv) Nghiệm thu công trình và tuyển dụng lao động cho dự án

Nghiệm thu công trình: Sau khi tiến hành xây dựng, lắp đặt máy móc thiết bị

hoàn chỉnh, các nhà đầu tư, các nhà thầu và các nhà tư vấn tiến hành nghiệm thu

bàn giao để đưa công trình vào hoạt động kịp tiến độ của dự án. Theo quy định của

một số nước, các nhà đầu tư phải định kỳ báo cáo tiến độ thực hiện dự án cho các cơ

quan cấp GPĐT để thực hiện chức năng QLNN.

Tuyển lao động cho dự án: Để đi vào hoạt động, các dự án cần tuyển dụng và

đào tạo lao động. Nhiệm vụ của các nhà đầu tư là tiến hành thông báo, tiến hành

tuyển dụng, thậm chí là đào tạo lại lao động nếu thấy cần thiết. Các nguồn tuyển

dụng lao động bao gồm lao động tại các địa phương nơi đặt dự án, hoặc tuyển từ

các địa phương khác tại nước chủ nhà. Đối với một số vị trí chủ chốt, đòi hỏi những

người có trình độ cao, kỹ năng chuyên môn và kinh nghiệm, hoặc do yêu cầu của

công việc, có thể phải tuyển dụng lao động và các chuyên gia nước ngoài.

Về phương thức tuyển dụng, dự án có thể thực hiện theo một trong các cách

20

như trực tiếp tiến hành tuyển chọn, tuyển dụng thông qua cơ quan chính quyền địa

phương, hay đưa ra các yêu cầu về lao động và thuê một công ty cung ứng lao động

tiến hành tuyển chọn. Đa số các quốc gia quy định sau khi tuyển dụng lao động,

nhất thiết các doanh nghiệp phải tiến hành ký hợp đồng lao động với người lao

động, và ký thỏa ước lao động tập thể để đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi

được tuyển dụng. Ngoài ra, nếu có nhu cầu, doanh nghiệp có thể tuyển chọn lao

động để đào tạo nâng cao tay nghề tại chỗ, hoặc cử đi đào tạo ở nước ngoài.

1.1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến giải ngân vốn FDI

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến việc giải ngân vốn FDI,

trong đó gồm có 4 nhóm yếu tố cơ bản sau: (i) các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô;

(ii) các yếu tố về “năng lực hấp thụ” vốn FDI; (iii) các yếu tố liên quan đến chủ đầu

tư nước ngoài và (iv) các yếu tố liên quan đến chất lượng dự án FDI.

1.1.2.1. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô

Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến

việc giải ngân vốn FDI. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô quốc tế tác động một

cách gián tiếp, trong khi đó, các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô của nước chủ nhà,

đặc biệt là luật pháp và chính sách của nước chủ nhà lại có tác động trực tiếp đến

việc giải ngân vốn FDI.

 Một số nhân tố thuộc môi trường đầu tư quốc tế

Đây là nhân tố tác động gián tiếp đến việc giải ngân nguồn vốn FDI, bao gồm

các nhân tố như sự phát triển có tính chu kỳ của nền kinh tế thế giới, khu vực và

quốc gia; xu hướng vận động của dòng vốn FDI trên thế giới; sự phát triển của khoa

học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và nền kinh tế tri thức.

Sự phát triển có tính chu kỳ của kinh tế thế giới, khu vực và quốc gia:

Đây là yếu tố tác động mạnh đến việc thực hiện dự án FDI, giải ngân vốn FDI.

Chỉ trong hơn 2 thập kỷ gần đây, nền kinh tế thế giới đã trải qua không ít các cuộc

khủng hoảng, suy thoái, phục hồi rồi suy thoái trên phạm vi toàn cầu, khu vực hay

từng quốc gia như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á (1997), hay cuộc

khủng hoảng kinh tế đang gây tác động xấu đến nền kinh tế thế giới năm 2008.

21

Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, tự do hóa và công nghệ thông

tin, những cuộc khủng hoảng như vậy đã gây ra những biến động khôn lường của

các yếu tố sản xuất và thị trường vốn ở các nước bị khủng hoảng, và các nước có

quan hệ kinh tế đối ngoại chặt chẽ với các nước bị khủng hoảng. Điều này sẽ gây ra

tác động tiêu cực; các doanh nghiệp nước đầu tư bị phá sản hàng loạt; hạn chế khả

năng đầu tư ra nước ngoài, đồng thời hạn chế khả năng thực hiện các dự án đã đầu

tư tại các nước nhận đầu tư.

Xu hướng vận động của FDI trên thế giới:

Sự phân bổ FDI vào các nước phụ thuộc vào xu hướng vận động của FDI trên

thế giới. Dòng vốn FDI đầu tư vào một quốc gia, khu vực nào đó mà lớn sẽ là điều

kiện cần cho việc gia tăng số vốn thực hiện. Sự xuất hiện của các TNCs ở một nước

tác động đến quy mô của vốn thực hiện. Thông thường các TNCs đầu tư dự án với

quy mô lớn, công nghệ hiện đại, bởi vậy việc các dự án này có được triển khai thực

hiện hay không tác động lớn đến tỷ lệ giải ngân chung của quốc gia đó. Đặc biệt,

đối với các TNCs, khi kinh doanh có hiệu quả, họ thường đầu tư nhiều dự án đa

ngành, đa lĩnh vực, hoặc thực hiện tái đầu tư vào các dự án đã có, làm cho tính khả

thi của đồng vốn này cao hơn so với các dự án mới.

Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và

nền kinh tế tri thức: Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và là một ngành

công nghiệp làm cho cơ cấu kinh tế của các quốc gia thay đổi theo chiều hướng gia

tăng tỷ trọng các ngành công nghệ cao. Điều này đòi hỏi các nước đang phát triển

phải tăng cường thu hút FDI từ các tập đoàn (TNCs, MNCs) lớn trên thế giới để

phát triển các ngành công nghiệp của mình, làm cho quy mô dự án FDI có chiều

hướng tăng lên, hàm lượng khoa học công nghệ được chuyển giao gia tăng qua các

dự án FDI vào nước chủ nhà.

Ngoài ra, sự phát triển khoa học công nghệ không chỉ tác động đến tính chất

và quy mô của các dự án, mà còn ảnh hưởng đến phân bố địa lý của vốn thực hiện.

Khi khoa học công nghệ phát triển làm cho các công ty có thiên hướng hoạt động

xuyên quốc gia nhiều hơn, tập trung nhiều hơn vào khía cạnh công nghệ của sản

22

phẩm. Điều đó làm cho nhu cầu sử dụng lao động tay nghề cao ngày càng lớn. Nếu

các quốc gia không có sự chuẩn bị từ trước về đào tạo công nhân tay nghề cao, sẽ là

rào cản rất lớn trong việc thu hút và thúc đẩy triển khai thực hiện những dự án công

nghệ cao.

 Một số nhân tố thuộc về môi trƣờng đầu tƣ của nƣớc chủ nhà

Hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI nhanh hay chậm chịu sự tác động

trực tiếp bởi MTĐT của nước chủ nhà. MTĐT bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, bất

kể sự thay đổi nào trong các yếu tố đó đều có tác động gián tiếp hay trực tiếp đến

việc thúc đẩy hoạt động giải ngân vốn trong các dự án FDI. Một số yếu tố thuộc

MTĐT của nước chủ nhà tác động đến việc giải ngân vốn FDI bao gồm đảm bảo ổn

định chính trị, chính sách phát triển kinh tế, hệ thống pháp luật chính sách về

ĐTNN, và yếu tố văn hóa xã hội.

Yếu tố chính trị:

Có thể nói, ổn định chính trị là yếu tố hấp dẫn hàng đầu đối với các nhà

ĐTNN, có tác động gián tiếp đến việc thúc đẩy triển khai thực hiện các dự án, giải

ngân vốn FDI. Bởi vì chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết để đảm bảo các cam

kết của Chính phủ đối với các nhà đầu tư về sở hữu vốn đầu tư, sở hữu tài sản, về

các chính sách ưu tiên đầu tư và định hướng phát triển của nước nhận đầu tư. Ổn

định chính trị là nhân tố quan trọng đảm bảo sự an toàn cho các dự án FDI trong

quá trình triển khai thực hiện, đồng thời đảm bảo đường lối phát triển nhất quán của

nước chủ nhà. Bên cạnh đó, việc thực hiện các cam kết khuyến khích đầu tư của

nước chủ nhà luôn là vấn đề quan trọng được nhà ĐTNN quan tâm. Việc sửa đổi

các khuyến khích về ưu đãi đầu tư luôn được thực hiện theo nguyên tắc không hồi

tố. Bởi vậy, nhà ĐTNN có thể chủ động trong chiến lược kinh doanh.

Một vấn đề khác được các nhà ĐTNN rất quan tâm, đó là định hướng thu hút

FDI của nước chủ nhà. Các nhà ĐTNN, chủ yếu là các TNCs, thường có chiến lược

kinh doanh dài hạn, nên họ rất cần sự rõ ràng và ổn định trong định hướng ĐTNN

của nước chủ nhà. Phần lớn các TNCs không muốn đầu tư vào một nước luôn thay

đổi định hướng ưu tiên đầu tư, nhất là khi đầu tư vào những ngành không phải là lợi

23

thế cạnh tranh của họ. Một số quốc gia không rõ ràng giữa định hướng đầu tư thay

thế nhập khẩu và định hướng đầu tư hướng vào xuất khẩu, sẽ làm cho các nhà

ĐTNN không thực hiện được chiến lược kinh doanh.

Yếu tố kinh tế:

Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia thể hiện ở mức độ phát triển quản

lý kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp các dịch vụ cho hoạt động kinh

doanh của các nhà ĐTNN [15, tr.125-129]. Trình độ quản lý kinh tế vĩ mô ảnh

hưởng lớn đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, đến các thủ tục hành chính và nạn tham

nhũng. Những nước có trình độ quản lý kinh tế vĩ mô kém thường dẫn đến tình

trạng lạm phát cao, nợ nước ngoài nhiều, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, các thủ

tục hành chính rườm rà… Đây chính là những nguyên nhân dẫn đến những biến

động về cung, cầu và sức mua trên thị trường, tác động không nhỏ đến hoạt động

giải ngân vốn trong các dự án FDI.

Yếu tố luật pháp và chính sách về đầu tư nước ngoài:

Đây chính là các yếu tố có tác động trực tiếp đến giải ngân vốn FDI. Quá trình

giải ngân trong các dự án FDI liên quan đến hoạt động của nhiều cơ quan khác

nhau, và được tiến hành trong khoảng thời gian dài, nên các nhà ĐTNN cần một cơ

sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ và có hiệu lực thống nhất giữa các cấp. Nhiệm vụ của

các cơ quan QLNN là phải ban hành một hệ thống các chính sách, quy định về thực

hiện dự án FDI trên cơ sở đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo với

nhau và có hiệu lực thực hiện thống nhất giữa các cấp, từ TW đến địa phương.

Hoạt động thực hiện dự án, giải ngân vốn FDI chịu tác động bởi chính sách

của nước chủ nhà, trong đó có các chính sách tác động trực tiếp và các chính sách

tác động gián tiếp. Các chính sách tác động trực tiếp đến hoạt động thực hiện dự án

FDI như chính sách về đất đai, chính sách về lao động, chính sách về chuyển giao

công nghệ và nhập khẩu máy móc thiết bị. Các chính sách có ảnh hưởng gián tiếp,

như chính sách về tài chính tiền tệ, thương mại, văn hóa xã hội, an ninh đối ngoại…

Các quy định của nước chủ nhà về thủ tục hành chính trong thực hiện các dự

án FDI mà công khai, rõ ràng có tác động tích cực, bao gồm quy định về các thủ tục

24

hành chính về xin giấy chứng nhận sử dụng đất, giấy phép xây dựng, giải quyết

khiếu kiện…Nước chủ nhà cần có những quy định gọn nhẹ và minh bạch, cộng với

việc không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, sẽ góp

phần tạo ra MTĐT minh bạch, bình đẳng và giúp các nhà ĐTNN triển khai thực

hiện dự án FDI thuận lợi hơn.

Tính hiệu lực trong thực hiện chính sách luật pháp của nước chủ nhà là mối

quan tâm lớn của các nhà ĐTNN. Tính hiệu lực của luật pháp chỉ được thể hiện khi

các nhà ĐTNN trực tiếp tiếp xúc với các cơ quan QLNN ở các cấp. Rất nhiều nhà

ĐTNN cho rằng những quy định trong hệ thống pháp luật thì rất đơn giản gọn nhẹ,

nhưng khi thực hiện trong thực tế lại gặp rất nhiều khó khăn, phiền hà. Bởi vậy, các

nhà ĐTNN rất lo ngại khi đầu tư vào nước chủ nhà có môi trường pháp lý tiềm ẩn

nhiều rủi ro.

Yếu tố văn hóa xã hội:

Yếu tố văn hóa xã hội của một quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc thực

hiện dự án, giải ngân vốn FDI, cụ thể bao gồm một số yếu tố như ngôn ngữ, tôn

giáo, phong tục tập quán, thị hiếu và giáo dục.

Một trong những khó khăn lớn nhất cho các nhà ĐTNN là bất động về ngôn

ngữ. Sự bất đồng về ngôn ngữ có thể làm phát sinh thêm chi phí, nhưng điều quan

trọng là có thể gây ra những hiểu lầm, trong quá trình giao dịch với các cơ quan

QLNN và người dân địa phương, trong hoạt động GPMB, tìm kiếm và tuyển dụng

lao động cho dự án…

Tôn giáo và phong tục tập quán của nước chủ nhà cũng tác động đến hoạt

động thực hiện dự án FDI. Các nhà ĐTNN không muốn đầu tư vào một nơi mà ở đó

có quá nhiều các tập tục khác lạ, như ăn kiêng, nhiều lễ hội tôn giáo, và các cấm

đoán trong giao tiếp với người nước ngoài. Trái lại, nếu nước chủ nhà có nhiều

phong tục tập quán gần với các nhà đầu tư, không chỉ tạo thuận lợi trong công việc

thực hiện dự án FDI, mà còn giúp họ dễ hòa nhập với cuộc sống của nước chủ nhà.

Tóm lại, qua phân tích trên cho thấy MTĐT nước chủ nhà có tác động lớn đến

việc thực hiện các dự án, giải ngân vốn FDI. Nếu MTĐT thuận lợi sẽ giúp các nhà

25

ĐTNN, một mặt, thực hiện dự án được nhanh chóng, đảm bảo đúng tiến độ đề ra,

chớp được cơ hội kinh doanh; mặt khác, giúp các nhà ĐTNN tiết kiệm đáng kể các

chi phí phát sinh ngoài dự kiến. Điều quan trọng là các nhà ĐTNN cam kết làm ăn

lâu dài tại nước đó. Một yếu tố quyết định việc nâng cao tỷ lệ giải ngân vốn FDI.

1.1.2.2. Các yếu tố về “năng lực hấp thụ” vốn FDI

Một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến giải ngân vốn FDI đó là yếu tố

nội tại của nước chủ nhà, đó là các yếu tố thuộc về “năng lực hấp thụ” vốn FDI, bao

gồm: cơ sở hạ tầng, lao động và dịch vụ.

Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và dịch vụ của nước chủ nhà là yếu tố tạo ra

những điều kiện thuận lợi và giảm những chi phí phát sinh cho các nhà ĐTNN triển

khai thực hiện dự án theo đúng tiến độ và khai thác được cơ hội đầu tư một cách

hiệu quả nhất. Cơ sở hạ tầng bao gồm nhà kho, bến bãi, cảng sân bay, đường giao

thông vận tải, bưu chính viễn thông, hệ thống cung cấp điện, nước… Đây chính là

các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai thực hiện dự án, vận hành các

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nước ngoài tại nước chủ nhà.

Ngoài ra, chất lượng các dịch vụ về lao động, tài chính, công nghệ luôn là yếu

tố được nhà ĐTNN cân nhắc kỹ trước khi quyết định đầu tư vào một quốc gia. Điều

này cho thấy một nước sẽ không thể thu hút được nhiều vốn FDI, nếu không có cơ

sở hạ tầng phát triển, và không đảm bảo chất lượng các dịch vụ cho các nhà ĐTNN.

Đặc biệt, trình độ phát triển giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng đối với

hoạt động thực hiện dự án, giải ngân vốn FDI. Trình độ giáo dục tốt và cơ cấu đào

tạo hợp lý sẽ là những cơ sở quan trọng để cung cấp cho các nhà ĐTNN đội ngũ lao

động có tay nghề cao, có kỹ năng và tác phong lao động kỷ luật. Nhờ đó, giảm được

thời gian tuyển dụng và chi phí đào tạo, nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu vận hành,

sản xuất và kinh doanh của dự án.

1.1.2.3. Các yếu tố liên quan đến chủ đầu tƣ nƣớc ngoài

Bên cạnh yếu tố khách quan thuộc về MTĐT của nước chủ nhà có tác động

đến hoạt động giải ngân vốn FDI, còn có các yếu tố chủ quan của các nhà đầu tư,

như việc thay đổi chiến lược kinh doanh, tình hình tài chính của các công ty mẹ,

26

hoặc thái độ chấp hành luật pháp của nước chủ nhà, và chất lượng quản trị dự án.

Thay đổi chiến lược kinh doanh: Các dự án đầu tư ở nước ngoài do các công

ty, tập đoàn lớn (TNCs, MNCs) trên thế giới thực hiện và được đặt trong chiến lược

phát triển chung của công ty mẹ. Các TNCs có tiềm lực tài chính mạnh, nên họ sẵn

sàng có thể hi sinh một vài dự án FDI đã được cấp phép, hoặc đang triển khai ở một

số nước nào đó để đạt được mục tiêu trong chiến lược phát triển chung của cả tập

đoàn. Sở dĩ, phát sinh những thay đổi trong mục tiêu của các TNCs bắt nguồn từ

thay đổi trong chính sách đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của nước đi đầu tư. Những

thay đổi này thường tập trung vào các chính sách tài chính tiền tệ, chính sách về

ngoại giao kinh tế, và các chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài.

Sự thay đổi trong chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ có thể ảnh hưởng

đến mức lãi suất thực tế của các doanh nghiệp. Ví dụ, trong những năm 1979-1981,

do chính phủ Mỹ thay đổi chính sách tài chính tiền tệ từ chính sách nới lỏng tiền tệ-

thắt chặt tài chính sang chính sách thắt chặt tiền tệ-nới lỏng tài chính đã làm cho

mức lãi suất thực tế cao hơn, nhờ đó góp phần cải thiện MTĐT. Tình trạng này đã

không khuyến khích đầu tư ra nước ngoài. Đây là một trong những nguyên nhân

làm cho đầu tư ra nước ngoài của Mỹ giảm mạnh trong nửa đầu thập kỷ 80. Như

vậy, do tác động bởi chính sách của chính phủ, mà các công ty TNCs có thể đã thay

đổi mục tiêu và chiến lược kinh doanh, chuyển từ mục tiêu tập trung thị trường

nước ngoài sang mục tiêu tập trung thị trường trong nước.

Các chính sách đối ngoại của chính phủ cũng có tác động rất lớn đến hoạt

động giải ngân vốn FDI, bao gồm các chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế, các

Hiệp định song phương và đa phương, các hoạt động hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài.

Nếu các chính sách tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư thì chắc chắn sẽ thúc

đẩy nhanh hơn quá trình thực hiện dự án theo đúng mục tiêu và chiến lược đề ra.

Tình hình tài chính của công ty mẹ:

Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt động giải ngân vốn FDI. Thực tế cho

thấy, có rất nhiều trường hợp dự án FDI đã được cấp giấp phép, nhưng các chủ đầu

tư lại không thực hiện dự án với lý do không đủ năng lực tài chính, hoặc triển khai

27

dự án với một tiến độ rất chậm, hoặc góp vốn không đầy đủ. Có một số trường hợp,

các nhà ĐTNN bán lại GPĐT cho các nhà đầu tư khác, làm cho dự án FDI không

thể triển khai được, hoặc nằm chờ đối tác mới để triển khai dự án. Hiện tượng này

thường xảy ra khi các đối tác nước ngoài là những công ty nhỏ, không có tiềm lực

tài chính rõ ràng; hoặc có trường hợp, khi lập hồ sơ xin GPĐT thì công ty mẹ chưa

bị phá sản, nhưng khi được cấp GPĐT, thì công ty mẹ lại bị phá sản.

Thái độ tuân thủ pháp luật của nhà đầu tư nước ngoài:

Đây là yêu cầu cốt lõi đối với một dự án FDI trong giai đoạn triển khai thực

hiện. Dự án FDI mang lại không chỉ lợi nhuận cho các nhà ĐTNN, mà còn mang lại

các lợi ích kinh tế-xã hội to lớn khác. Thực tế, có rất nhiều dự án khi đầu tư vào các

nước đang phát triển, một số nhà đầu tư cố tình vi phạm pháp luật, làm trái các quy

định của nước chủ nhà như các quy định về nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, các

quy định về nội địa hóa, các quy định về lao động.. cho đến khi bị phát hiện, họ phải

chấp nhận hậu quả có thể là bị thu hồi GPĐT, hoặc chịu những hình phạt nhất định;

gây ra không ít thiệt hại cho bản thân các nhà đầu tư, và thiệt hại cả về kinh tế và xã

hội cho nước chủ nhà.

Chất lượng công tác quản trị dự án FDI của các nhà đầu tư:

Quản trị dự án FDI là việc thực hiện các công việc cụ thể nhằm đưa dự án có

vốn FDI, đã được nước chủ nhà chấp thuận cấp GPĐT vào xây dựng và hoạt động

có hiệu quả. Đối với dự án FDI, chủ đầu tư có trách nhiệm triển khai dự án FDI theo

đúng tiến độ và mục tiêu ghi trong GPĐT. Nhiệm vụ của các nhà đầu tư là điều

hành các công việc, nhằm đưa dự án FDI nhanh chóng đi vào hoạt động. Quản trị

dự án FDI là một công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi các nhà quản trị cần nắm rõ

những yêu cầu và nội dung của các công việc trong giai đoạn này.

Dự án FDI sau khi được cấp phép có được xây dựng và đi vào hoạt động một

cách nhanh chóng, và có hiệu quả hay không, phụ thuộc vào công việc quản trị dự

án. Nhiều dự án FDI sau khi được cấp GPĐT, nhưng vì thực hiện quản trị triển khai

kém, nên phải mất một khoảng thời gian khá lâu mới thực sự đi vào xây dựng. Có

nhiều dự án đã hoạt động được một thời gian, nhưng một số công việc thuộc giai

28

đoạn triển khai vẫn chưa thực hiện và cần tiếp tục hoàn tất, tạo ra ách tắc và chi phí

không đáng có trong quá trình hoạt động của dự án. Vì vậy, quản trị dự án FDI có

một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự thành công, hay thất bại của dự án FDI.

1.1.2.4. Các yếu tố liên quan đến chất lƣợng dự án FDI

Đầu tư là một quá trình dài hạn, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Thông

thường, một dự án kể từ khi phát hiện cơ hội đầu tư, cho đến khi bắt đầu đi vào hoạt

động sản xuất kinh doanh, để cung cấp các sản phẩm ra thị trường, phải mất một vài

năm. Đây chính là khoảng thời gian mà thị trường có những biến động lớn về cung

cầu, giá cả và cạnh tranh.

Có nhiều nguyên nhân gây ra những biến động của thị trường, có thể do quá

trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của quốc gia đó, có thể do sự phát triển mạnh

mẽ của khoa học công nghệ, có thể do cơ cấu tiêu dùng thay đổi… Tất cả các yếu tố

này đã và đang “bóp méo” cơ hội đầu tư của dự án FDI, làm cho tính khả thi của dự

án FDI bị giảm dần theo thời gian. Vì vậy, chủ đầu tư không đẩy nhanh tiến độ thực

hiện dự án sẽ dẫn đến nguy cơ phải ngừng triển khai, dự án không thể vận hành

được, hoặc dự án hoạt động với công suất thấp hơn nhiều so với công suất thiết kế

ban đầu.

Tính khả thi của dự án, phát triển cơ hội đầu tư tại một quốc gia phải được

nghiên cứu và đánh giá một cách đúng đắn và có tính dự báo. Mục tiêu của dự án

phải được xác định rõ ràng và đảm bảo lợi ích của chủ đầu tư và của nước chủ nhà.

Mục tiêu của dự án phải gắn với mục tiêu phát triển kinh tế của nước chủ nhà. Cả

chủ đầu tư và nước chủ nhà phải coi trọng chất lượng dự án, tránh tình trạng đầu tư

cầm chỗ, không theo đuổi mục tiêu số lượng, mà cần tiến tới mục tiêu chất lượng

của dự án.

Giai đoạn chuẩn bị dự án là rất quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng dự án

sau khi cấp GPĐT và đi vào triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, chất

lượng dự án FDI phải xét đến khía cạnh là lựa chọn hình thức đầu tư, lĩnh vực-

ngành nghề đầu tư và địa bàn đầu tư. Nhiều địa phương đã thực hiện nhiều biện

29

pháp khuyến khích đầu tư, nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư ồ ạt,

không kiểm soát chất lượng dự án, cấp phép rất nhiều dự án không khả thi. Điều

này gây tác động xấu tới MTĐT không chỉ của địa phương đó mà của cả quốc gia.

Một vấn đề cần quan tâm là đánh giá năng lực của các đối tác nước ngoài. Đây

là một khó khăn đối với nhiều nước chủ nhà, đặc biệt là tại các nước đang phát

triển. Chất lượng của dự án FDI đảm bảo hay không tùy thuộc phần lớn vào năng

lực của chủ đầu tư nước ngoài. Do đó, cần kiểm soát và có giải pháp để đánh giá

đúng thực chất năng lực của chủ đầu tư nước ngoài.

1.2. Bài học kinh nghiệm giải ngân dự án FDI của một số nƣớc ở Châu Á

1.2.1. Trung Quốc

Sau hơn 30 năm thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới, bằng những chính

sách và biện pháp thích hợp, Trung Quốc đã thu được những thành tựu lớn trong

việc thu hút và thực hiện dự án, giải ngân vốn FDI, nhất là sau khi gia nhập WTO

[18, tr.23]. Vì vậy, việc nghiên cứu chính sách về thu hút và hỗ trợ thực hiện dự án

FDI của Trung Quốc thời gian qua có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam.

Để đạt được những thành tựu trên, chính phủ Trung Quốc đã liên tục sửa đổi

và hoàn thiện cơ chế chính sách về ĐTNN, kết hợp cả chính sách thu hút và đẩy

nhanh tiến độ thực hiện dự án, giải ngân vốn FDI.

Hình thức đầu tư và loại hình doanh nghiệp, ngoài ba hình thức đầu tư nước

ngoài chủ yếu là DNLD, doanh nghiệp hợp tác kinh doanh và doanh nghiệp sở hữu

nước ngoài, Trung Quốc còn ban hành một số hình thức khác, có tính đặc thù cho

từng lĩnh vực, như: (i) hình thức hợp tác phát triển áp dụng trong khai thác dầu khí

và mỏ tự nhiên; (ii) hình thức BOT áp dụng trong phát triển cơ sở hạ tầng; (iii) công

ty đầu tư, nhằm khuyến khích các tập đoàn lớn của nước ngoài phát triển các dự án

đầu tư; hiện đây là hình thức được nhiều nhà ĐTNN quan tâm; (iv) công ty cổ phần

đầu tư nước ngoài, đây là công ty được thành lập mới, hoặc mua cổ phần của các

doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa [18, tr.28].

Trung Quốc thực hiện đa dạng hóa hình thức đầu tư, trong đó Trung Quốc đã

cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn FDI chuyển đổi sang công ty cổ phần.

30

Hơn nữa, hình thức M&A đã được Trung Quốc nghiên cứu áp dụng trong thời gian

qua. Với chính sách này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc lại các dự án

FDI trong quá trình thực hiện.

So với Việt Nam, sự hấp dẫn hơn trong các hình thức FDI của Trung Quốc ở

chỗ (i) ba hình thức cơ bản của Trung Quốc đều là doanh nghiệp, có tư cách pháp

nhân, trong khi hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt Nam chưa được phép thành lập pháp nhân mới1. Đây là quy định mà rất nhiều nhà ĐTNN mong

muốn Việt Nam sửa đổi, vì hạn chế khả năng khuyếch trương uy tín của họ trên thị

trường Việt Nam, do phải mượn tư cách pháp nhân của đối tác Việt Nam; (ii) Trung

Quốc đã nhanh chóng ban hành hình thức công ty cổ phần đầu tư nước ngoài, cho

phép thành lập mới, hoặc các công ty TNHH chuyển thành công ty cổ phần đầu tư

nước ngoài. Trong khi đó, ở Việt nam, sau hơn 20 năm thu hút FDI, mới đang cho

thí điểm cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn FDI. Vì vậy, thời gian qua, có rất

nhiều dự án FDI gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện muốn thay đổi

chủ đầu tư, tái cơ cấu vốn…nhưng không thể thực hiện được, hoặc phải qua các thủ

tục phiền hà.

Trung Quốc thực hiện giá cả dịch vụ không phân biệt giữa các doanh nghiệp

trong và ngoài nước. Tiếp đến, từ tháng 1 năm 1998, Trung Quốc bãi bỏ thuế nhập

khẩu và thuế VAT, khi nhà đầu tư cung ứng thiết bị máy móc cho các công trình có

vốn ĐTNN. Tiếp tục mở cửa thị trường dịch vụ cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước

ngoài trong các lĩnh vực khá nhạy cảm, như tài chính, bảo hiểm, viễn thông, du lịch

và ngoại thương. Với quy định này đã góp phần thu hút một lượng vốn FDI đáng kể

vào phát triển các ngành dịch vụ, đồng thời là cơ sở gia tăng tỷ lệ giải ngân ở Trung

Quốc [18, tr.37].

Trung Quốc thực hiện cải cách chính sách thuế theo hướng khuyến khích đầu

tư nước ngoài. Hiện các doanh nghiệp có vốn FDI ở Trung Quốc phải chịu các loại

thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng,

1 Provisions on the Establishment of Investment Companies with Foreign Investment (13th Feb, 2004) of the People’s Republic of China

31

thuế tiêu thụ, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập từ đất, thuế tài nguyên, thuế bất

động sản. Ví dụ, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, Trung Quốc thực hiện 3 mức

thuế khác nhau, thuế suất thấp nhất 15% đối với các dự án đầu tư vào các đặc khu

kinh tế, các khu công nghệ cao, và đầu tư vào các ngành thuộc diện “khuyến khích

đầu tư”; 24% đối với ác dự án ở vùng kinh tế mở duyên hải và các thành phố của

các địa phương, còn mức thuế suất bình quân là 33% [21,tr.37]. Như vậy, so với các

quy định trước đây và hiện nay của Việt Nam thì mức thuế thu nhập doanh nghiệp

của Việt Nam vẫn thấp hơn mức 28%. Ngoài ra, Trung Quốc còn khuyến khích đầu

tư nước ngoài thông qua thực hiện miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo

ngành, theo vùng. Trung Quốc áp dụng phương châm “2 miễn 3 giảm” đối với các

dự án bình thường. Đối với các dự án đầu tư vào miền Trung và miền Tây, hoặc các

dự án đầu tư vào các ngành công nghệ cao, Trung Quốc có thể thực hiện miễn thuế

5 năm và giảm tiếp 50% từ 3 đến 6 năm tiếp theo. Ngoài ra, Trung Quốc cũng thực

hiện miễn giảm thuế nhập khẩu và thuế VAT trong một số trường hợp nhất định.

Đối với doanh nghiệp có vốn FDI đầu tư vào thời kỳ mở cửa2, và có thời hạn

liên doanh từ 10 năm trở lên, sẽ được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 1 năm và

giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. Đối với các dự án thuộc loại khuyến khích thì

được hưởng ưu đãi hơn, tức là miễn 2 năm và giảm 50% cho 3 năm tiếp theo. Ngoài

chế độ miễn thuế nhập khẩu đối với những thiết bị vật tư đưa vào thực hiện dự án

đầu tư, chính phủ Trung Quốc còn cho phép giảm từ 5% đến 25% thuế hải quan đối

với vật tư nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu. Đối với các dự án đầu tư vào các

ngành xây dựng, giao thông, thông tin liên lạc được miễn thuế thu nhập 5 năm và

giảm 50% cho 5 năm tiếp theo.

Nhằm hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án, giải ngân vốn FDI, chính phủ Trung

Quốc đã ban hành nhiều chính sách và biện pháp khác nhau, cụ thể là:

+ Góp vốn và tái đầu tư: nhà ĐTNN có thể góp vốn bằng những hình thức khác

nhau như ngoại tệ mạnh, máy móc, thiết bị, quyền sở hữu công nghiệp, công nghệ

độc quyền với giá xác định. Hơn nữa, nhà ĐTNN có thể sử dụng lợi nhuận bằng

2 Enterprise Income Tax Law of the People’s Republic of China (16th March, 2007)

32

đồng nhân dân tệ của tất cả các doanh nghiệp có vốn FDI kinh doanh trên lãnh thổ

Trung Quốc để tái đầu tư. Các nhà ĐTNN không chỉ sử dụng lợi nhuận của bản

thân doanh nghiệp mình để tái đầu tư, mà còn có thể sử dụng lợi nhuận của các

doanh nghiệp khác, miễn là thành lập và hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Trung

Quốc.

+ Sử dụng đất: Trung Quốc coi đất đai là sở hữu của nhà nước. Vì vậy, các nhà

ĐTNN có thể nhận các quyền sử dụng đất, nhưng không phải là quyền sở hữu đối

với đất đai. Đối với các doanh nghiệp trong nước, quyền sử dụng đất được xác định

thông qua 3 cách thức là cấp đất, thuê đất và thậm chí có thể mua đất. Đối với các

doanh nghiệp có vốn FDI, quyền sử dụng đất được xác lập thông qua 2 cách, hoặc

là bên Trung Quốc góp và thuê đất; hoặc là qua chuyển nhượng doanh nghiệp, chứ

không được phép mua bán. Các doanh nghiệp có vốn FDI có quyền được sử dụng

đất trong thời hạn tối thiểu 40 năm và tối đa 70 năm, tùy thuộc vào mục đích sử

dụng đất cho dự án. Các nhà ĐTNN có quyền thế chấp đất tại các tổ chức tín dụng

để huy động vốn nhưng phải đăng kí với cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn 30

ngày, kể từ ngày kí hợp đồng thế chấp.

+ Tuyển chọn và sử dụng lao động: nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động,

Trung Quốc buộc các doanh nghiệp FDI phải chấp hành nghiêm chỉnh bộ luật lao

động của nước chủ nhà. Nhất thiết các doanh nghiệp FDI phải ký hợp đồng lao

động với công nhân trong một thời gian nhất định sau ngày được tuyển dụng. Nhằm

tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong kinh doanh, các nhà

ĐTNN ở Trung Quốc có thể tự quyết thời gian, quy mô, điều kiện và phương thức

tuyển dụng; có quyền tuyển lao động trực tiếp mà không phải tuyển qua cơ quan

quản lý lao động của địa phương, bởi vậy họ có thể chủ động trong tuyển dụng lao

động. Chỉ trong trường hợp tuyển dụng lao động là người nước ngoài, các nhà

ĐTNN phải nộp đơn xin phép lên cơ quan quản lý Lao động và An ninh xã hội của

địa phương. Giấy phép tuyển dụng đối với lao động nước ngoài là bắt buộc.

+ Quyền hạn của các dự án FDI: doanh nghiệp FDI có toàn quyền quyết định về

quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính phủ Trung Quốc

33

khuyến khích các nhà ĐTNN áp dụng các biện pháp quản lý khoa học tiên tiến trên

thế giới. Trong phạm vi kinh doanh được phê duyệt, các nhà ĐTNN có quyền tự

quyết định về lập kế hoạch kinh doanh, tăng huy động và sử dụng vốn, mua nguyên

liệu sản xuất, thành lập văn phòng và số lượng lao động. Điều này tạo điều kiện rất

thuận lợi cho các nhà ĐTNN chủ động trong việc tái cơ cấu và điều chỉnh hoạt động

của doanh nghiệp khi cần thiết, kể từ khi triển khai cho đến khi vận hành dự án FDI.

+ Quản lý ngoại hối: các doanh nghiệp có vốn FDI có thể tiếp nhận các dịch vụ

bảo đảm cung ứng tiền mặt, các khoản vay bằng nhân dân tệ theo một số điều kiện

nhất định theo quy định. Ngoài ra, để bảo đảm chủ động ngoại tệ trong kinh doanh,

doanh nghiệp có vốn FDI còn được vay nước ngoài, phát hành trái phiếu ngoại tệ và

các công cụ nợ khác, nhưng phải đăng ký. Quy định này đã cho phép các nhà

ĐTNN chủ động trong việc huy động vốn để thực hiện dự án.

Doanh nghiệp có vốn FDI có thể sử dụng ngoại tệ để tái đầu tư, hoặc chuyển

lợi nhuận và các khoản chi phí khác bằng ngoại tệ về nước, nhưng phải được sự

đồng ý của cơ quan quản lý ngoại hối. Đối với Việt Nam, cũng cho phép các nhà

ĐTNN mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài, nhưng vẫn chỉ là tài khoản vốn vay, chứ

không phục vụ mục đích giao dịch kinh doanh. Đây chính là điểm thông thoáng

trong Luật ĐTNN của Trung Quốc so với Việt Nam. Để quản lý chặt chẽ sự di

chuyển của nguồn ngoại tệ, Trung Quốc quy định khi chuyển nhượng vốn cần có sự

phê duyệt của cơ quan Nhà nước về quản lý ngoại hối.

Nhìn chung, Trung Quốc đã tạo ra một MTĐT khá thuận lợi và ổn định cho

các nhà ĐTNN, tạo cho họ có lòng tin đầu tư dài hạn tại Trung Quốc. Nhờ có các

quy định thông thoáng trong quá trình thực hiện dự án, nên Trung Quốc đã thu hút

được lượng vốn lớn, với các hình thức đa dạng và nhiều đối tác mạnh, tiềm năng.

1.2.2. Thái Lan

Thái Lan là một trong những nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về

điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển kinh tế. Trong những năm gần đây,

nền kinh tế Thái Lan đã đạt được tốc độ phát triển nhanh trong khu vực. Trong sự

phát triển đó có sự đóng góp của nguồn vốn FDI. Chính phủ Thái Lan đã kết hợp

34

hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI với chiến lược công nghiệp hóa theo từng thời kỳ.

Để có thể triển khai các dự án FDI nhanh, thuận lợi và có chất lượng, Thái Lan luôn

có những chính sách khuyến khích mạnh các nguồn vốn đầu tư trong nước cùng

tham gia đầu tư với các dự án FDI.

Chính sách thu hút FDI của Thái Lan được đánh giá là một trong những nước

có chính sách khá thông thoáng và có sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Thái Lan đã kí

hiệp định Bảo hộ đầu tư với 21 quốc gia và kí Hiệp định tránh đánh thuế trùng với

hơn 40 nước, đã có tác động khuyến khích các nhà ĐTNN bỏ vốn đầu tư lâu dài tại

Thái Lan.

Ở Thái Lan, mọi quyết định đầu tư phải qua UB Đầu tư Thái Lan - BOI, với

một quy trình xét duyệt và thu hút FDI rõ ràng, áp dụng cho cả nước. Thái Lan chia

ra ba khu vực thu hút FDI, trong đó nhà đầu tư muốn tham gia các dự án ở Băng

Cốc chỉ được hưởng ít khuyến khích và chính sách thuế cao hơn, trong khi các khu

vực ngoài Băng Cốc sẽ được hưởng nhiều khuyến khích hơn. Họ đưa ra quy tắc

thống nhất, mỗi tỉnh không thể áp dụng một chính sách thuế riêng rẽ, hoặc đưa ra

ưu đãi, trợ cấp nhất định để thu hút FDI.

Hình thức đầu tư: Chính phủ Thái Lan bán dần các doanh nghiệp nhà nước

cho tư nhân, đây là một yếu tố góp phần đa dạng hóa các hình thức FDI tại Thái

Lan. Hình thức FDI phổ biến nhất ở Thái Lan là hình thức liên doanh. Chính phủ

khuyến khích các công ty của người Thái, người Thái gốc Hoa liên doanh với các

công ty của Mỹ, Nhật Bản, và nước khác để triển khai thực hiện đầu tư ở Thái Lan.

Ngoài ra, hình thức sở hữu 100% vốn FDI được Thái Lan chấp nhận. Trong lĩnh

vực cơ sở hạ tầng, Thái Lan cũng áp dụng hình thức BOT. Việc đa dạng hóa hình

thức đầu tư cũng là một yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của MTĐT ở Thái Lan [45, tr.1].

Đất đai: về nguyên tắc người nước ngoài không được phép sở hữu về đất đai.

Tuy nhiên, vẫn tồn tại ngoại lệ cho người nước ngoài được phép mua bán bất động

sản, trong đó có đất. Như vậy, khác với các nước khác, ở Thái Lan ngoài việc thuê

đất, bên Thái Lan góp vốn bằng đất, các nhà ĐTNN mua đất để thành lập doanh

nghiệp có vốn FDI. Với quy định này cho phép các nhà ĐTNN yên tâm bỏ vốn đầu

35

tư lâu dài tại Thái Lan.

Lao động: tuy Thái Lan cho phép các dự án FDI có quyền tuyển dụng lao

động trực tiếp, nhưng do chính phủ chưa có chiến lược dài hạn về đào tạo đội ngũ

cán bộ và công nhân có tay nghề kỹ thuật cao, nên hầu hết các vị trí điều hành chủ

chốt vẫn do người nước ngoài đảm nhận. Nhiều nhà ĐTNN cho rằng: vì chưa có đủ

các nhà quản lý Thái Lan hội đủ năng lực đảm trách chức vụ cao. Các nhà ĐTNN

phải tốn kém trong việc đào tạo và đào tạo lại. Một trong những hạn chế quan trọng

nhất mà Thái Lan gặp phải là tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng lực lưỡng kỹ sư và

công nhân lành nghề trong nhiều lĩnh vực. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này

là do Thái Lan chỉ tập trung vào đào tạo tiểu học và đại học, chưa quan tâm thích

đáng đến chất lượng giáo dục phổ thông và trung học dạy nghề. Ngoài số học sinh

học lên đại học, số học sinh không được đào tạo nghề chiếm tỷ lệ cao.

Thủ tục tuyển dụng lao động: Thái Lan không có quy định riêng về thủ tục

tuyển dụng lao động. Các dự án FDI có thể tự quyết định thời hạn, các điều khoản,

điều kiện và phương thức, cũng như số lượng tuyển dụng. Nếu một doanh nghiệp

tuyển trên 10 lao động, thì phải lập nội quy lao động bằng tiếng Thái. Đối với tất cả

lao động là người nước ngoài phải xin giấp phép lao động tại Bộ Lao động và Phúc

lợi xã hội. Thủ tục cấp phép cho lao động nước ngoài rất phức tạp. Tuy nhiên, để

tiết kiệm thời gian, các nhà ĐTNN có thể thuê “trung tâm dịch vụ một cửa” để xin

cấp phép lao động.

Quản lý ngoại hối: mọi giao dịch liên quan đến ngoại hối như việc chuyển tiền

vào để góp vốn đều phải được tiến hành thông qua các tổ chức tài chính tín dụng

được phép hoạt động ở Thái Lan. Không phải tất cả các dự án FDI ở Thái Lan đều

được mở tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng, mà phải căn cứ vào một số điều kiện nhất

định. Mọi hoạt động chuyển vốn ra nước ngoài phải có sự phê duyệt của cơ quan có

chức năng của Thái Lan.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình thực hiện dự án và

giải ngân vốn FDI:

Về công tác quy hoạch phát triển theo ngành và theo vùng: kinh nghiệm của

36

các nước cho thấy định hướng thu hút FDI rõ ràng là cơ sở quan trọng, giúp các nhà

ĐTNN chủ động trong việc lựa chọn địa điểm và ngành nghề đầu tư, đảm bảo chất

lượng dự án FDI và tạo tiền đề thuận lợi cho hoạt động thực hiện dự án FDI.

Về hình thức đầu tư và loại hình doanh nghiệp: Hầu như các nước đều cho

phép đa dạng hóa hình thức đầu tư (như BCC, doanh nghiệp liên doanh, doanh

nghiệp 100% vốn ĐTNN, hình thức M&A) và tạo điều kiện thuận lợi trong việc

chuyển đổi giữa các hình thức đó và loại hình doanh nghiệp (Công ty TNHH, Công

ty Cổ phần, Công ty hợp danh, hay mô hình Công ty mẹ-con). Đặc biệt, chính phủ

Thái Lan tạo điều kiện thuận lợi cho việc sát nhập các công ty Thái Lan với các

công ty nước ngoài.

Về xác lập quyền sử dụng đất: Thái Lan đã cho các nhà ĐTNN mua đất để

thành lập doanh nghiệp. Điều này giúp các nhà ĐTNN tránh được khó khăn do giải

phóng mặt bằng, mặt khác, các nhà ĐTNN sẽ yên tâm hơn và cam kết đầu tư dài

hạn hơn tại Thái Lan.

Về hỗ trợ vốn: Tạo điều kiện hỗ trợ về vốn thông qua hình thức tín dụng cho

các dự án FDI hay cho phép các dự án có thể vay nước ngoài, phát hành cổ phiếu,

trái phiếu nên đã giúp các nhà ĐTNN khắc phục đáng kể tình trạng thiếu vốn trong

quá trình triển khai thực hiện dự án.

Về lao động: Hầu như các nước không đưa ra quy định nhằm khống chế số lao

động là người nước ngoài được làm việc trong các dự án FDI. Tập trung, chú trọng

37

phát triển đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG GIẢI NGÂN CÁC DỰ ÁN FDI Ở VIỆT NAM

2.1. Khái quát về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở Việt Nam

2.1.1 Tăng trƣởng dòng vốn FDI

Sau khi là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đã có những cải cách

liên tục về luật pháp, cơ chế chính sách, đặc biệt là hệ thống pháp luật liên quan đến

ĐTNN. Hơn nữa, thị trường Việt Nam mở rộng cơ hội hơn khi tiếp tục thực hiện

các cam kết một cách đầy đủ trong vai trò là thành viên WTO. Đây là cơ hội để tăng

trưởng dòng vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian qua. Những lợi thế của MTĐT

như ổn định chính trị, Chính phủ thực hiện cải cách khung luật pháp, chính sách, thể

chế, các địa phương tích cực hỗ trợ nhà đầu tư về đất đai, giải phóng mặt bằng, đầu

tư hạ tầng…khuyến khích nhà đầu tư có niềm tin vào tương lai trung và dài hạn về

phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.

Hình 2.1:Tình hình đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam (1988-2008)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2009)

Theo kết quả điều tra của UNCTAD, Việt Nam được xếp vào Top 10 nền kinh

38

tế hấp dẫn nhất thế giới về đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia trong giai đoạn

2007-2009. Trong đó, Việt Nam chiếm vị trí hàng đầu về mức độ hấp dẫn đầu tư

trong lĩnh vực sản xuất.

Dù gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế châu Á (1997), lạm phát và

khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008), lượng vốn FDI vào Việt Nam vẫn tăng

nhanh qua các năm. Đặc biệt, trong 5 năm (2001-2005), Việt Nam thu hút 18,5 tỷ

USD vốn FDI, năm 2006 đạt trên 12 tỷ USD, năm 2007 vượt ngưỡng 20 tỷ USD,

tăng gần 70% so với năm 2006. Năm 2008, kết quả thu hút nguồn vốn FDI đạt mức

kỷ lục với 64,1 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2007, trong đó có 60,2 tỷ USD vốn

cấp mới.

Từ năm 1988 đến 1990, Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài mới được thực thi tại

Việt Nam, là giai đoạn khởi động thu hút dòng vốn FDI. Trong giai đoạn này, có

214 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký đạt 1,58 tỷ USD. Vốn đăng ký

trung bình 1 dự án khoảng 7,4 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 4,7 triệu USD.

Các lĩnh vực thu hút đầu tư chủ yếu là khách sạn, khai thác thăm dò dầu khí, xây dựng3.

Trong thời kỳ 1991-1995, vốn FDI đăng kí cấp mới tăng 18,3 tỷ USD với

1.409 dự án và đã có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội của quốc gia.

Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam với 1.781

dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ

USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu

hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một số nước trong khu

vực; lực lượng lao động đông với giá nhân công rẻ, thị trường mới. Vì vậy, ĐTNN

đã tăng trưởng nhanh chóng và có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế. Năm

1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5.5 lần năm 1991 (1,2 tỷ

USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm

39

trước. 3 Tất cả các số liệu về FDI ở Việt Nam trong nghiên cứu này được sử dụng từ “Báo cáo tổng kết 20 năm tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (1988-2008)” của Bộ KH&ĐT (2009) và của Tổng cục thống kê công bố chính thức (2008) (www.gso.gov.vn) và được tác giả xử lý, tổng hợp, phân tích theo mục đích nghiên cứu.

Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký

hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ

bằng 81.8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46.8% năm 1998), chủ yếu là các dự án

có quy mô vốn vừa và nhỏ. Giai đoạn này được coi là thời kỳ suy thoái với lượng

vốn FDI đăng ký giảm mạnh, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính,

tiền tệ châu Á (1997). Năm 1999 lượng vốn FDI đăng ký giảm 59.5% so với năm

1998.

Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu

phục hồi chậm, là thời kỳ điều chỉnh của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Vốn

đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm

2001 tăng 18.2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91.6% so

với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Và có xu

hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45.1% so với năm trước; năm

2005 tăng 50.8%; năm 2006 tăng 75.4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm

qua với 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm

1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng.

FDI phân theo ngành:

Trong giai đoạn 1988-2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng

lớn nhất chiếm 67% về số dự án và 60% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh

vực dịch vụ chiếm 22.3% về số dự án và 34.3% về số vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực

nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 10.7% về số dự án và 5.2 về số vốn đăng ký.

Trong đó, vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản

xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40.6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 657%

trong giai đoạn 1996-2000 và đạt khoảng 77.3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2

năm 2006 và 2007, tỷ lệ tương ứng là 80.17% và 79.1% tổng vốn tăng thêm.

Riêng trong năm 2008, vốn FDI tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và

xây dựng, gồm 572 dự án với tổng vốn đăng ký 32,62 tỷ USD, chiếm 48.85% về số

dự án và 54.12% về vốn đầu tư đăng ký; các dự án thăm dò và khai thác dầu tại Việt

40

Nam thu hút 17.5% tổng vốn FDI. Lĩnh vực dịch vụ có 554 dự án, tổng vốn đăng

ký 27,4 tỷ USD, chiếm 47.3% về số dự án và 45.4% về vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh

vực nông-lâm-ngư nghiệp chỉ chiếm 3.85% về số dự án và 0.48% về vốn đầu tư

đăng ký. Điểm dễ nhận thấy là một số dự án lớn trong lĩnh vực công nghiệp dầu khí,

công nghiệp luyện, cán thép và các dự án trong lĩnh vực dịch vụ đã đưa quy mô vốn

đầu tư đăng ký từ 14 triệu USD/dự án năm 2007 lên trên 60 triệu USD/dự án năm

2008. Nếu các dự án đó được thực hiện đúng theo tiến độ cam kết sẽ có tác động to

lớn đến tăng trưởng kinh tế trong những năm tới.

FDI phân theo đối tác đầu tư:

Tính đến nay, đã có 82 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt

Nam, trong đó các nước châu Á chiếm 66% tổng vốn đăng ký; các nước châu Âu

chiếm 29% tổng vốn đăng ký; các nước châu Mỹ chiếm 4% vốn đăng ký. Riêng 4

nền kinh tế đứng đầu trong đầu tư vào Việt Nam theo thứ tự: Hàn Quốc, Singapore,

Đài Loan và Nhật Bản đã chiếm 55% tổng vốn đăng ký. Cơ cấu đầu tư theo đối tác

đã đa dạng hơn và có sự chuyển dịch theo hướng tích cực từ các quốc gia châu Á

như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông…sang các khu vực

châu Âu (British Virgin Islands, Thụy Sỹ, Anh, Síp, Pháp, Hà Lan, Đức…) và châu

Mỹ (Canada, Hoa Kỳ). Trong số các dự án đầu tư có quy mô lớn nêu trên, đã có sự

xuất hiện của một số đối tác mới nổi lên như Malaysia, Brunei, Canada, đảo Síp…

Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn tăng

thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất 66.8%

trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000 và đạt 70.3% trong

thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007, tỷ lệ tương ứng là 72,1% và 80%.

Trong năm 2008, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư tại Việt

Nam, trong đó có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư vốn trên 1 tỷ USD.

Malaysia đứng đầu, với 55 dự án, vốn đăng ký 14,9 tỷ USD, Đài Loan đứng thứ hai,

với 132 dự án, vốn đầu tư 8,64 tỷ USD. Nhật Bản đứng thứ ba, với 105 dự án, vốn

đầu tư 7,28 tỷ USD.

FDI phân theo địa bàn đầu tư:

41

Các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế

trọng điểm phía Nam và phía Bắc vẫn là những địa phương dẫn đầu thu hút ĐTNN.

Đồng thời có sự đa dạng hơn về việc lựa chọn địa điểm đặt dự án đầu tư. Cụ thể là

bên cạnh các địa bàn thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Phòng,

Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc) và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (TP. HCM,

Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Long An), nguồn vốn FDI thời gian gần

đây đã dịch chuyển đáng kể sang một số địa bàn khác thuộc các tỉnh thuộc Duyên

hải miền Trung và đồng bằng Sông Cửu Long như Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Phú Yên,

Ninh Thuận, Kiên Giang, Hậu Giang…

Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế

trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam

chiếm 55.5% trong giai đoạn 1991-1995; đạt 68.1% trong thời kỳ 1996-2000 và

71.5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007, tỷ lệ tương ứng là

71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ;

21,1% ; 24% và 20%. Năm 2008, tỉnh Ninh Thuận đã vươn lên đứng đầu về số vốn

đăng ký do có dự án liên doanh sản xuất thép giữa tập đoàn Lion Malaysia và

Vinashin tổng vốn đăng ký 9,79 tỷ USD, Bà Rịa - Vũng Tàu đứng thứ hai trong số

43 địa phương của cả nước có vốn FDI với tổng vốn đăng ký 9,35 tỷ USD.

FDI phân theo hình thức đầu tư:

Hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn 77.6% về số dự án và

61.6% về tổng vốn đăng ký; Liên doanh chiếm 18.9% về số dự án và 28.9% về tổng

vốn đăng ký. Đầu tư theo hình thức Hợp doanh, BOT, công ty cổ phần và công ty

quản lý vốn chỉ chiếm 3.5% về số dự án và 9.5% về tổng vốn đăng ký của cả nước.

Năm 2008, Việt Nam thu hút rất nhiều dự án FDI có quy mô vốn lớn, với hơn

20 dự án có vốn trên 1 tỷ USD, bao gồm các dự án lớn trong lĩnh vực sản xuất thép,

dầu khí, du lịch và khách sạn, như là hai liên doanh thép của tập đoàn Lion (Ma-lai-

xi-a) và Vinashin với 9,79 tỷ USD; Dự án sản xuất thép Formosa (8 tỷ USD), Nhà

máy lọc dầu Nghi Sơn (6,2 tỷ USD), Khu du lịch Hồ Tràm (4,2 tỷ USD)… cho

thấy nhiều nhà đầu tư lớn đang đặc biệt quan tâm đến Việt Nam và sức hấp dẫn của

42

môi trường đầu tư tại Việt Nam.

2.1.2 Đóng góp của giải ngân vốn FDI đối với sự phát triển của Việt Nam

Vốn FDI được giải ngân đúng tiến độ sẽ đem lại lợi ích kinh tế không chỉ đối

với nhà đầu tư mà còn mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội đối với nước nhận đầu tư.

Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền

kinh tế Việt Nam.

2.1.2.1. Vốn FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư xã hội.

Xét về nhu cầu vốn, vốn FDI được coi là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho

vốn đầu tư toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu cho đầu tư phát triển của Việt Nam. Trong

thời gian qua, đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn,

từ tỷ trọng chiếm 13.1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 30.4% trong năm 1995 và

giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền

tệ khu vực và trong 7 năm (2001-2008) chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội.

Vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP. Từ năm 1991-2000, GDP

tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7.56%. Mức đóng

góp trung bình 6.3% của GDP trong giai đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp có

vốn FDI đã tăng lên 10.3% GDP của 5 năm (1996-2000). Trong thời kỳ 2001-2005,

tỷ trọng đạt trung bình là 14.6%. Trong hai năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có

vốn ĐTNN đóng góp trên 17% GDP. Khu vực FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá

trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất.

Hình 2.2: Vốn FDI thực hiện so với tổng đầu tƣ xã hội và đóng góp GDP

43

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2009)

Hoạt động sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế có vốn FDI tiếp tục đạt

được kết quả cao. Nếu trong giai đoạn 1991-1995 tổng giá trị doanh thu mới đạt 4,1

tỷ USD thì trong thời kỳ 1996-2000 tổng giá trị doanh thu đã đạt 27,09 tỷ USD,

tăng gấp 6.5 lần so với 5 năm trước. Trong giai đoạn 2001-2005 tổng giá trị doanh

thu đạt 77,4 tỷ USD, tăng gấp 2.8 lần so với 5 năm 1996-2000. Trong hai năm

2006, 2007 tổng giá trị doanh thu đạt 69 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu (trừ dầu

thô) đạt 28,6 tỷ USD, chiếm 41% tổng doanh thu). Doanh thu của các doanh nghiệp

ĐTNN năm 2008 đạt 50,55 tỷ USD, tăng 24.4% so với năm 2007.

Mức đóng góp tích cực của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày

càng tăng và bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD. Thời kỳ 1996-2000, không kể nguồn

thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4.5

lần so với 5 năm trước. Trong 5 năm (2001-2005), thu ngân sách trong khối doanh

nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và

2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi

thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005. Và trong năm 2008, đóng góp

vào ngân sách nhà nước của khu vực ĐTNN là 1,982 tỷ USD, tăng 25.8% so với

năm 2007.

2.1.2.2. ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực sản

xuất công nghiệp:

Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn FDI cao hơn mức

tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. Tỷ trọng của khu

vực kinh tế có vốn FDI trong ngành công nghiệp tăng dần qua các năm. Phần lớn

các dự án đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, đồng thời tỷ lệ giải

ngân của ngành này khá cao, góp phần nâng cao tỷ trọng giá trị công nghiệp trong

tổng sản phẩm xã hội.

Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm

qua chiếm trung bình 42.5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. ĐTNN đã tạo

44

ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành công

nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và

điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may…

2.1.2.3. ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ:

Giải ngân vốn FDI, đưa các dự án đầu tư vào triển khai thực hiện góp phần

thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại vào Việt Nam, phát triển một số

ngành kinh tế quan trọng như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí,ô tô... Nhất

là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ USD vào Việt Nam trong dự án sản xuất linh

kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ

cao (Intel, Canon, Panasonic, Ritech.v.v). Hầu hết các doanh nghiệp có vốn ĐTNN

áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ

thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.

2.1.2.4. ĐTNN góp phần hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế:

Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn FDI tăng nhanh, cao hơn

mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim

ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN

đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23%

kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả

dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các

năm 2006, 2007. Năm 2008, giá trị xuất khẩu không kể dầu thô đạt 24,4 tỷ USD,

chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thông qua mạng lưới

tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã

tiếp cận được với các thị trường tiềm năng trên thế giới.

2.1.2.5. ĐTNN góp phần quan trọng về tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải

thiện nguồn nhân lực:

Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy

các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý

để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường

45

trong nước và quốc tế. Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn FDI cũng tạo việc làm và

thu nhập ổn định cho một bộ phận dân cư, tính từ năm 1988 đến cuối năm 2007 có

trên 1,26 triệu lao động trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp khác làm việc trong

khu vực dịch vụ mà theo kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới [44], cứ 1 lao

động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho khoảng từ 2-3 lao động gián tiếp khác.

Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI cũng tăng lên qua

từng giai đoạn, từ 21 vạn người vào cuối năm 1995 đã tăng lên 37,9 vạn người vào

cuối năm 2000, tăng 80% so với 5 năm trước. Đến cuối năm 2005 đã tăng gấp 2,5

lần so với 5 năm trước thể hiện số lượng các doanh nghiệp đi vào triển khai dự án

tăng lên. Năm 2008, khu vực có vốn FDI đã tạo ra trên 200 nghìn việc làm mới,

nâng tổng số lao động làm việc trong các dự án FDI lên 1.467 triệu người, góp phần

quan trọng vào giải quyết vấn đề công ăn việc làm vốn đang rất nóng bỏng của Việt

Nam hiện nay.

Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn

FDI, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật

có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công

nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi

được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.

2.2. Phân tích tình hình giải ngân các dự án FDI ở Việt Nam

Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, số dự án và vốn FDI

đăng kí tăng nhanh, trong khi đó giải ngân vốn FDI có nhiều biến đổi, có xu hướng

tăng về số tuyệt đối nhưng tăng chậm lại về con số tương đối. Trong số 8.590 dự án

còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 83 tỷ đô la Mỹ, đã có khoảng 50% dự án

triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỷ USD (bao gồm cả vốn thực hiện của các

dự án hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn), chiếm 52.3% tổng vốn

đăng ký, trong đó, vốn của bên nước ngoài đưa vào (gồm vốn góp và vốn vay)

khoảng 37,9 tỷ USD, chiếm 89.5% tổng vốn thực hiện, các dự án FDI đã bổ sung

nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam qua các

46

thời kỳ theo mục tiêu kế hoạch đề ra.

Bảng 2.1: Tình hình giải ngân vốn FDI qua các thời kỳ tại Việt Nam

VTH chia ra:

Thời kỳ VTH (tỷ USD) VTH/VĐK (%) Bên VN Bên NN

VTH của bên NN (%) 86% 89% 88% 89% 1991-1995 1996-2000 2001-2005 2006-2007 44% 64.80% 64.80% 27% 6.1 12 12.6 7.7 1 1.5 1.7 1

7.1 13.5 14.3 8.7 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Cùng với số vốn FDI đăng ký mới tăng đột biến, lượng vốn giải ngân tiếp tục

được cải thiện, vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm, nhưng với tốc độ

chậm. Tuy nhiên, khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn giải ngân ngày càng giãn

xa. Tỷ trọng vốn nội địa ngày càng tăng lên trong nhiều dự án FDI dựa vào vốn góp

của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và vốn vay ngân hàng trong nước.

Giai đoạn 1988-1990 là giai đoạn khởi động thu hút dòng vốn FDI, nên có số

vốn thực hiện không đáng kể, một mặt do các nhà đầu tư có thái độ thăm dò, thận

trọng trong quyết định đầu tư; mặt khác thủ tục cấp phép và thủ tục đưa vốn vào

Việt Nam rất phức tạp.

Hình 2.3: Tình hình vốn FDI thực hiện qua các thời kỳ tại Việt Nam

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Giai đoạn 1991-1995, vốn thực hiện tăng dần qua các năm, nhưng chỉ đạt 7,1

tỷ USD, chiếm 44% tổng vốn đăng ký mới, trong đó vốn bên nước ngoài chiếm

47

86% vốn thực hiện (bao gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ USD - chủ

yếu là giá trị quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ USD).

Đây là thời kỳ có tỷ lệ vốn thực hiện không cao, tỷ lệ giải ngân tương đối thấp, do

trong giai đoạn này các nhà ĐTNN thực hiện chiến lược “đặt chỗ trước, nhưng chờ

đợi và nghe ngóng” trước khi quyết định thực hiện đầu tư thực sự.

Giai đoạn 1996-2000, mặc dù ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế,

vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng 89% so với 5 năm trước, chiếm 64,8% tổng

vốn đăng ký mới (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam là 1,5 tỷ USD và vốn từ

nước ngoài đạt 12 tỷ USD). Tỷ lệ giải ngân trong giai đoạn này không những những

ổn định mà tăng cao. Năm 1999, tỷ lệ thực hiện đạt 161,2% và năm 2000 đạt gần

120%. Đó là do các nhà đầu tư đã có dự án vẫn tiếp tục thực hiện cam kết đầu tư,

qua đó chứng tỏ các nhà đầu tư vẫn tin tưởng vào tương lai phát triển của Việt Nam.

Trong 5 năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng

vốn đăng ký mới, tăng 6% so với 5 năm trước, trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam

đạt trên 1,7 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Tỷ lệ giải ngân trong

giai đoạn này vẫn khá cao, chủ yếu do lượng vốn thực hiện cao hơn nhiều so với

vốn đăng ký mới và tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam cũng được nâng lên đáng kể.

Đây là một thời kỳ hoạt động FDI ở Việt Nam có nhiều biến đổi.

Riêng hai năm 2006 và 2007 tổng vốn thực hiện đạt 8,7 tỷ USD (trong đó, vốn

góp của Bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy

chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký mới, nhưng vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so

với năm 2006, và sẽ là tiền đề cho việc giải ngân của 2 năm tới 2008 và 2009 tăng

cao vì trong các dự án cấp mới trong 2 năm 2006 và 2007 có nhiều dự án quy mô

vốn lớn. Năm 2008, sự bùng phát nguồn vốn FDI vào Việt Nam với con số khá cao

trên 64 tỷ USD, tăng 3 lần so với năm 2007, và vốn giải ngân cũng đạt mức cao

nhất từ trước đến nay (11.5 tỷ USD), tăng 44% so với năm 2007; trong khi đó, cả

giai đoạn 5 năm 2001-2005, tổng vốn giải ngân chỉ đạt được 11 tỷ USD.

Quy mô dự án trong các năm gần đây là rất lớn, có nhiều dự án trên 1 tỷ USD.

Những dự án FDI lớ n như dự án tổ hơ ̣p thép ở Ninh Thuâ ̣n (9,79 tỷ USD), dự án

48

New City Phú Yên (4,3 tỷ USD )…cần khoảng thời gian ít nhất là 5 năm để triển

khai thực hiện dự án, do đó sẽ có tác động tới tỷ lệ giải ngân vốn FDI trong thời kỳ

nhất định.

Như vâ ̣y chỉ riêng trong năm 2008, viê ̣c giải ngân vốn đầu tư FDI đã vươ ̣t con

số giải ngân củ a giai đoa ̣n 2001-2005. Điều này đã chứng tỏ sức hấp dẫn của Việt

Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế do

ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới. Tốc độ giải ngân này là phù hợp với

khả năng hấp thụ của nền kinh tế trong tình hình điều kiện và trình độ phát triển cơ

sở hạ tầng, giao thông, lao động…còn hạn chế như hiện nay.

Dù luồng vốn thực hiện và tỷ lệ giải ngân qua từng năm có biến động lớn,

nhưng thực tế cho thấy một động thái không tích cực là tỷ trọng vốn thực hiện từ

nước ngoài trong tổng vốn giải ngân qua các năm không có biến động lớn, luôn duy

trì ở mức cao, chiếm bình quân gần 90% trong suốt thời kỳ 1988-2008. Trong đó,

năm thấp nhất là năm 1992 cũng chiếm 75% và năm cao nhất là năm 2003 chiếm

đến 94%. Điều này thể hiện khả năng tài chính và huy động vốn góp của bên Việt

Nam rất hạn chế, dẫn đến tình trạng lệ thuộc quá mức vào các đối tác nước ngoài.

Hơn nữa, số dự án và vốn FDI đăng kí bị giải thể trước thời hạn có chiều

hướng tăng dần qua từng năm, từng thời kỳ. Đặc biệt là trong giai đoạn 1996-2000,

do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ châu Á, làm cho số dự án bị giải

thể trước thời hạn trong thời kỳ này tăng vọt. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008

cũng đang tác động mạnh đến việc triển khai thực hiện dự án FDI của nhiều quốc

gia, làm cho tỷ lệ giải ngân giảm xuống và nguy cơ đẩy các dự án bị giải thể trước

thời hạn tăng cao.

Tính đến hết năm 2007, đã có 1.359 dự án ĐTNN bị giải thể trước thời hạn với

số vốn đăng ký giải thể khoảng 15,5 tỷ USD, trong đó vốn giải thể chủ yếu tập

trung trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 50%, lĩnh vực công nghiệp - xây dựng chiếm

42,3%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp thuộc dịch vụ không vượt qua được

khó khăn, trở ngại trong hoạt động. Trong các dự án ĐTNN bị giải thể, số dự án

hoạt động theo hình thức liên doanh chiếm đa số (56% về số dự án và 67.2% về

49

tổng vốn đăng ký), tiếp theo là hình thức Hợp doanh (10.2% về số dự án và 15.5%

về tổng vốn đăng ký). Hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 13.1% về số dự án và

17.3% về tổng vốn đăng ký.

Các dự án bị giải thể hầu hết là kéo dài quá thời gian quy định, không có khả

năng thực hiện, không đủ năng lực tài chính, bị phá sản, thu hẹp quy mô sản xuất;

sai mục đích và kém hiệu quả; bị tác động bởi khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á

(1997) hay khủng hoảng kinh tế toàn cầu (2008). Có trường hợp sau khi được cấp

giấy phép, được giao đất rồi thì dự án chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Các nhà đầu tư

nước ngoài chẳng những không đưa vốn từ nước ngoài vào để triển khai dự án mà

dùng chính dự án đó để vay vốn từ các ngân hàng trong nước.

Hình 2.4: Vốn FDI giải thể theo lĩnh vực và hình thức đầu tƣ (1988-2007)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008) Theo điều tra chuyên ngành4, chỉ tính riêng Hải Phòng, trong tổng lượng vốn

đã triển khai (khoảng 1,6 tỷ USD) là tính cả phần vốn do phía Việt Nam góp trong

các công ty liên doanh. Cụ thể có khoảng 20% tổng vốn thực hiện không phải do

đối tác mang từ nước ngoài vào mà do vay vốn các ngân hàng trong nước. Mặt

khác, không ít nhà đầu tư nước ngoài chỉ nỗ lực ở giai đoạn đầu, nhưng sau khi

được cấp giấy phép thì không có động thái triển khai, chỉ đi tìm đối tác khác để

chuyển nhượng lại dự án nhằm hưởng khoản chênh lệch. Có dự án chỉ triển khai

4 Theo “Báo cáo tình hình thực hiện vốn FDI ở Hải Phòng năm 2008” do Sở KH&ĐT Hải Phòng thực hiện và báo cáo.

50

giai đoạn đầu để vay vốn ngân hàng, rồi sử dụng nguồn vốn đó vào mục đích khác.

2.2.1. Giải ngân vốn FDI theo hình thức đầu tƣ

Kết quả giải ngân vốn trong các dự án FDI phụ thuộc nhiều vào hình thức đầu

tư mà nhà ĐTNN lựa chọn. Chỉ tính các dự án còn hiệu lực và vốn đăng kí mới, nếu

so sánh tỷ lệ thực hiện vốn FDI theo hình thức đầu tư thì các dự án 100% vốn FDI

có tỷ lệ thực hiện rất thấp dưới 50% vốn thực hiện so với tổng vốn đăng kí. Các dự

án BBC có tỷ lệ vốn thực hiện cao nhất, đạt hơn 123 %. Đến nay chỉ có 1 công ty có

vốn nước ngoài hoạt động theo hình thức công ty mẹ - con, nhưng tỷ lệ vốn thực

hiện cũng rất cao cho thấy doanh nghiệp này khá thành công trong triển khai dự án.

Bảng 2.2: Giải ngân vốn FDI theo hình thức đầu tƣ giai đoạn 1988-2007

Hình thức đầu tư Số dự án VĐK VTH VTH/VĐK (%)

52.437 11.324 24.574 11.144 5.661 4.578 727 1.710 362 1.657 14 98

100% vốn FDI Liên doanh Hợp đồng BBC Hợp đồng BOT,BT,BTO Công ty cổ phần Công ty Mẹ - Con Tổng số 6743 1640 226 8 66 1 8,684 85.056 29.234 21.6% 45.4% 123.6% 42.5% 21.9% 14.7% 34.4% TLGN/ Cả nước (%) 38.7% 38.1% 19.4% 2.5% 1.2% 0.0% 100.0%

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008) (Đvt: triệu USD)

Tính chung, hình thức đầu tư 100% vốn FDI chiếm tỷ lệ cao nhất về số dự án,

vốn đăng ký, với 6.743 dự án, gấp 4 lần số dự án đầu tư theo hình thức DNLD và

gấp 29 lần dự án đầu tư theo Hợp đồng BCC nhưng lượng vốn thực hiện của hình

thức này chỉ cao hơn hình thức DNLD không nhiều, với khoảng 11,3 tỷ USD so với

11 tỷ của hình thức DNLD. Ngoài ra, tỷ lệ giải ngân của hình thức này thấp trong số

các hình thức đầu tư, đạt trên 21.6%. Điều này chứng tỏ quy mô dự án đầu tư theo

hình thức doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN nhỏ, tình trạng chậm giải ngân vốn dẫn

đến lãng phí nguồn lực.

Đối với hình thức doanh nghiệp DNLD, lượng vốn thực hiện đạt gần 11 tỷ

USD, đạt tỷ lệ giải ngân thấp trên 45% so với vốn đăng ký mới, và chiếm gần 38%

51

tổng số vốn thực hiện của cả nước trong suốt thời kỳ 1988-2007.

Hình 2.5: Quy mô vốn thực hiện trung bình 1 dự án giai đoạn (1988-2007)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Về nguyên tắc, các dự án đầu tư theo hình thức 100% vốn ĐTNN phải là các

dự án có tỷ lệ giải ngân cao hơn so với các dự án đầu tư theo hình thức DNLD, do

họ được chủ động trong việc lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, trong việc quyết

định tiến độ thực hiện dự án, nhưng ở Việt Nam điều này không hoàn toàn chính

xác. Đó là yếu tố thời gian thực hiện vốn đầu tư của các dự án theo hình thức DNLD

và doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN ở Việt Nam thường kéo dài, đặc biệt là đối với

các dự án có quy mô vốn lớn.

Trước năm 2000, số vốn đăng ký của các dự án đầu tư theo hình thức DNLD

chú trọng vào các ngành kinh tế quan trọng như dầu khí, sản xuất xi măng, lắp

ráp….Những dự án này có vốn giải ngân nhiều làm cho các dự án đầu tư theo hình

thức DNLD có số vốn thực hiện lớn hơn, và tỷ lệ giải ngân cao hơn hình thức 100%

vốn FDI. Trong khi đó, các dự án 100% vốn FDI tập trung vào ngành công nghiệp

sử dụng nhiều lao động để sản xuất hàng xuất khẩu nên quy mô bình quân của các

dự án này thấp, làm cho vốn thực hiện chiếm tỷ trọng nhỏ. Đặc thù của những ngành

này là có tỷ lệ giải ngân thấp hơn một số ngành công nghiệp Việt Nam khuyến khích

52

theo hình thức DNLD.

Hình 2.6: Tỷ lệ giải ngân vốn FDI theo hình thức đầu tƣ (1988-2007)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Khi Việt Nam sửa đổi Luật ĐTNN năm 2000 và 2005, chính thức cho phép các

dự án FDI được chuyển đổi hình thức đầu tư, thì VTH của các dự án FDI đầu tư

theo hình thức 100% vốn FDI lớn hơn hình thức DNLD do: (i) có rất nhiều dự án đã

chuyển đổi từ DNLD sang doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN, nên vốn thực hiện được

tính cho hình thức này; (ii) do quan điểm của Việt Nam đối xử bình đẳng hơn giữa

DNLD và doanh nghiệp 100% vốn FDI, nên số lượng các dự án mới đầu tư vào Việt

Nam theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn FDI cũng nhiều hơn so với DNLD.

Hình thức BCC là hình thức có số dự án và số vốn thực hiện không nhiều so

với hình thức DNLD và doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN, chỉ chiếm trên 3% số dự

án và gần 20% vốn thực hiện của cả nước, nhưng lại là hình thức có tỷ lệ vốn giải

ngân cao nhất, đạt 124%. Thực tế cho thấy đây là hình thức áp dụng chủ yếu cho các

dự án đầu tư vào lĩnh vực viễn thông và khai thác, thăm dò dầu khí. Đối với các dự

án BCC đầu tư vào lĩnh vực dầu khí có vốn thực hiện lớn hơn vốn đăng ký, do trên

thực tế có một số dự án trong lĩnh vực khai thác và thăm dò dầu khí, trong quá trình

triển khai thăm dò đã phát sinh nhiều chi phí ngoài dự toán, các chủ đầu tư đã tự

tăng thêm vốn. Các dự án trong lĩnh vực viễn thông triển khai tốt, vì các đối tác

nước ngoài là những tập đoàn lớn, có năng lực tài chính và chuyên môn tốt.

Hợp đồng BOT là một phương thức đầu tư đặc biệt nên mới chỉ cấp phép được

53

8 dự án, với tổng vốn đăng ký trên 1,7 tỷ USD, nên vốn thực hiện không nhiều, chỉ

đạt 0,7 tỷ USD, với tỷ lệ giải ngân chiếm 42%. Do lượng vốn đầu tư nhiều, nhưng tỷ

lệ giải ngân không cao cũng là nguyên nhân làm cho số vốn thực hiện chung thấp.

Các dự án thuộc hình thức này đòi hỏi phải đầu tư đồng bộ, nên các nhà đầu tư phải

bỏ vốn ngay. Mặt khác, vì số lượng các dự án đầu tư còn ít nên đó là các dự án thật

sự cần thiết và có tính khả thi cao.

2.2.2. Giải ngân vốn FDI theo lĩnh vực đầu tƣ

Về cơ bản, cơ cấu thực hiện FDI ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam. Trong

những năm gần đây, cơ cấu vốn thực hiện giữa các ngành có những chuyển biến

nhỏ, tỷ trọng vốn thực hiện vẫn thiên về các dự án trong lĩnh vực công nghiệp và

xây dựng.

Bảng 2.3: Vốn FDI thực hiện phân bổ theo lĩnh vực đầu tƣ (1988-2007)

Cơ cấu số Cơ cấu TLGN/ VTH/VĐK Cả nƣớc Lĩnh vực DA VĐK (%) (%) (%) (%)

Công nghiệp và xây dựng 67.0 60.4 39.0 68.6

Nông, lâm nghiệp 10.7 5.2 45.3 6.9

Dịch vụ 22.3 34.3 24.6 24.5

Tổng số 100 100 34.4 100

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Trong tổng số 29,23 tỷ USD vốn thực hiện của các dự án FDI còn hiệu lực thì

ngành công nghiệp và xây dựng có tỷ lệ giải ngân cao nhất, chiếm 68.6% số vốn

thực hiện của cả nước; tiếp theo là ngành dịch vụ chiếm 24.5% số vốn thực hiện;

cuối cùng là ngành nông, lâm, thủy sản chỉ chiếm 6,9% số vốn thực hiện. Số vốn

thực hiện phân bổ giữa các ngành công nghiệp, dịch vụ và nông lâm ngư nghiệp

54

được thể hiện trong hình vẽ dưới đây:

Hình 2.7: Cơ cấu vốn FDI phân bổ theo lĩnh vực đầu tƣ (1988-2007)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Giải ngân vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng

Tỷ lệ vốn FDI thực hiện trong lĩnh vực CN&XD có chiều hướng gia tăng ổn

định. Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực CN&XD có tỷ trọng lớn nhất với 5.819 dự

án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 51,40 tỷ USD, chiếm 67,0% về số dự án,

61% tổng vốn đăng ký và 68,6% vốn thực hiện. Trong đó, ngành công nghiệp nặng

vừa là ngành thu hút được nhiều vốn FDI lớn nhất, vừa là ngành có tỷ lệ giải ngân

cao nhất, chiếm hơn 24% tổng VTH chung; thứ hai là công nghiệp dầu khí, mặc dù

số dự án FDI vào ngành này không nhiều, nhưng tổng VTH đạt tới trên 5.1 tỷ USD,

chiếm 17.6% tổng VTH trong giai đoạn 1988-2007. Đến hết năm 2007, lượng vốn

thực hiện của toàn ngành công nghiệp chiếm tới gần 69% tổng VTH chung.

Bảng 2.4: Vốn FDI thực hiện ngành công nghiệp & cây dựng (1988-2007)

Lĩnh vực Cơ cấu VĐK (%) VTH/VĐK (%)

Công nghiệp & XD CN dầu khí CN nhẹ CN nặng CN thực phẩm Xây dựng Tổng số Cơ cấu số dự án (%) 67 0.5 29.6 28.0 3.6 5.3 100 60.4 4.6 15.9 28.7 4.3 6.9 100 39 131.9 26.9 28.8 56.5 36.6 34.4 TLGN/ cả nƣớc (%) 68.6 17.6 12.4 24.1 7.0 7.4 100

55

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Công nghiệp nhẹ tuy có số dự án nhiều nhất, nhưng vốn đăng ký và vốn thực

hiện chỉ chiếm tỷ trọng thấp, chứng tỏ qui mô vốn trên 1 dự án ngành công nghiệp

nhẹ còn thấp so với các ngành công nghiệp khác. Số dự án dầu khí và vốn đăng ký

mới chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng số của cả ngành, song vốn thực hiện vẫn chiếm tỷ

trọng cao là do kết quả tăng thêm vốn của các dự án cũ. Thực tế này có tác động

đẩy vốn thực hiện trung bình 1 dự án dầu khí lên đạt mức cao nhất so với các dự

7.4%

17.6%

7%

12.4%

24.1%

CN dầu khí

CN nhẹ

CN nặng

CN thực phẩm

Xây dựng

án trong các ngành còn lại.

Hình 2.8: Giải ngân vốn FDI ngành công nghiệp và xây dựng (1988-2007)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Ngành công nghiệp thực phẩm là nhân tố mới thu hút ĐTNN từ vài năm trở

lại đây. Mặc dù số dự án trong ngành và vốn đăng ký chỉ chiếm tỷ trọng thấp,

nhưng điểm đặc biệt là dự án ngành này có qui mô vốn đăng ký trung bình 1 dự án

khá lớn, cao hơn cả mức của dự án công nghiệp nặng. Điều chỉnh vốn của khu vực

có vốn FDI cho ngành công nghiệp thực phẩm diễn ra mạnh từ 2001-2005 và vốn

thực hiện đã tăng lên dần.

Ngành công nghiệp có tỷ lệ giải ngân cao và chiếm tỷ trọng lớn trong vốn

thực hiện của cả nước vì một số lí do sau:

 Do Việt Nam ban hành Luật đầu tư trong bối cảnh bắt đầu thực hiện công

nghiệp hóa-hiện đại hóa, nên đa số các dự án FDI đều tập trung vào ngành công

nghiệp. Đây là điều kiện cơ bản nhất làm cho số vốn thực hiện của cả ngành này

56

chiếm tỷ trọng lớn so với cả nước.

 Tỷ lệ giải ngân trong ngành công nghiệp cao có sự đóng góp lớn của các dự án

trong ngành công nghiệp dầu khí, công nghiệp điện tử…Các dự án dầu khí có số

vốn thực hiện rất lớn, đạt trên 5.1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng gần 26% vốn thực hiện

của toàn ngành công nghiệp, có tỷ lệ giải ngân kỷ lục, trên 132%. Bên cạnh nguyên

nhân do đặc điểm của dự án dầu khí là trong quá trình khai thác và thăm dò thường

phát sinh nhiều vốn ngoài dự tính.

Đặc biệt, các ngành này đã thu hút được nhiều TNCs tầm cỡ thế giới, như BP

của Anh, Statiol của Na Uy, Castrol, Mobil Caltex… nên họ có đủ khả năng tài

chính để triển khai thực hiện dự án nếu nó thực sự hiệu quả.

Các dự án FDI trong ngành công nghiệp điện tử do các đối tác nước ngoài là

các tập đoàn, công ty đa quốc gia có uy tín và có tiếng trên thế giới như Sony,

Toshiba, JVC, Fujitsu, Philips, Samsung, Daewoo, LG, …có tiềm năng tài chính,

công nghệ cao nên phần lớn các dự án trong lĩnh vực này nhanh chóng triển khai

thực hiện dự án sau khi được cấp GPĐT trong một thời gian ngắn.

 Hơn nữa, các dự án trong ngành công nghiệp xe máy, cũng là ngành có các đối

tác lớn trên thế giới tham gia đầu tư; và các dự án trong ngành xây dựng là các dự

án có tỷ lệ giải ngân khá cao; hay các dự án FDI trong ngành công nghiệp ô tô cũng

đạt tỷ lệ giải ngân trên 65%.

Các TNCs có vai trò rất lớn trong việc nâng cao tỷ lệ giải ngân vốn FDI,

không phải chỉ vì họ có tiềm lực tài chính mạnh mà còn ở việc họ kinh nghiệm

trong việc hình thành dự án (tính khả thi của dự án), một yếu tố quyết định cho sự

thành công trong quá trình thực hiện dự án và giải ngân vốn FDI.

Giải ngân vốn FDI trong lĩnh vực dịch vụ

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ chiếm 22.32% số dự án,

34.3% tổng vốn đăng ký, nhưng chỉ chiếm 24.5% tổng vốn thực hiện. Ngoài các

ngành thương nghiệp, giáo dục, y tế, văn hóa, các dự án ngành dịch vụ khác đều có

mức vốn đăng ký trung bình rất cao, song vốn thực hiện trên 1 dự án lại thấp. Điều

57

đó lý giải phần nào cho tỷ trọng vốn thực hiện thấp của ngành dịch vụ nói chung.

Bảng 2.5: Vốn đăng ký và vốn thực hiện của ngành dịch vụ (1988-2007)

Lĩnh vực

Dịch vụ Thương nghiệp GTVT – Bưu điện Khách sạn – Du lịch Tài chính–Ngân hàng Văn hóa – Y tế - GD XD Khu đô thị mới XD VP – Căn hộ XD KCN – KCX Tổng cộng Cơ cấu số dự án (%) 22.3 11.1 2.4 2.6 0.8 3.1 0.1 1.8 0.3 100 Vốn đăng ký Trung bình 1 dự án (triệu USD) 15.2 2.2 20.5 27 13.7 4.5 38.6 61.1 50.6 9.7 Vốn thực hiện Trung binh 1 dự án (triệu USD) 3.7 0.4 3.4 10.6 10.7 1.3 12.3 12.2 19.2 3.4

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Vốn đăng ký tập trung trong các ngành khách sạn-du lịch, xây dựng căn hộ,

văn phòng và giao thông vận tải, viễn thông, trong khi đó để triển khai thực hiện dự

án thuộc các lĩnh vực này lại phải mất một khoảng thời gian nhất định (tương đối

dài, khoảng 2-5 năm). Điều này làm giảm tỷ lệ giải ngân của vốn FDI thuộc lĩnh

vực dịch vụ trong cơ cấu ngành của Việt Nam.

Từ năm 2000 trở lại đây, tỷ trọng vốn thực hiện của khu vực này lại thấp.

Nguyên nhân là do có quá nhiều dự án đầu tư vào ngành du lịch, khách sạn, xây

dựng căn hộ cho thuê được cấp phép, cường độ cạnh tranh trong các ngành này rất

cao nên đã hạn chế tỷ lệ giải ngân của các dự án trong lĩnh vực này. Đặc biệt là các

dự án xây dựng khu đô thị có vốn đầu tư lớn nhưng lại triển khai rất ít.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có biểu hiện hướng đến các ngành công nghệ

cao như viễn thông, công nghệ thông tin, xây dựng các khu vui chơi, nghỉ dưỡng,

sản xuất phần mềm hơn là các ngành truyền thống, ví dụ Microsoft và Intel đầu tư

mạnh vào Việt Nam với vốn cam kết rất lớn trong thời gian qua. Đó là một tín hiệu

mới về thu hút FDI trong bối cảnh Việt Nam thực hiện các cam kết WTO. Đây cũng

là lĩnh vực có qui mô vốn trung bình cao nhất, một dự án đạt gần 11 triệu USD,

trong khi mức này của công nghiệp là 7,6 triệu USD và của nông nghiệp chỉ có 2,9

58

triệu USD.

Bảng 2.6: Cơ cấu vốn FDI thực hiện của ngành dịch vụ (1988-2007)

Lĩnh vực VTH/VĐK (%)

Cơ cấu VĐK (%) 34.3 2.5 5.1 7.2 1.1 1.5 4.1 11.1 1.8 100 24.6 17.8 16.7 39.1 78.1 29.4 3.2 20.1 38.0 34.4 TLGN/ cả nƣớc (%) 24.5 1.3 2.5 8.2 2.4 1.3 0.4 6.5 2.0 100 Dịch vụ Thương nghiệp GTVT-Bưu điện Khách sạn-Du lịch Tài chính-Ngân hàng Văn hóa-Ytế-Giáo dục XD Khu đô thị mới XD Văn phòng-Căn hộ XD hạ tầng KCX-KCN Tổng số Cơ cấu số dự án (%) 22.3 11.1 2.4 2.6 0.8 3.1 0.1 1.8 0.3 100

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Đầu tư vào dịch vụ quan trọng như tài chính-ngân hàng còn rất nhỏ bé về số dự

án và về qui mô vốn. Chưa có dự án FDI lớn trong lĩnh vực khoa học – công nghệ,

số dự án giáo dục, y tế, văn hóa chỉ chiếm 3.1% số dự án, 1.5% tổng vốn đăng ký và

1.3% vốn thực hiện. Kết quả này cho thấy các lĩnh vực này còn kém hấp dẫn, chưa

thu hút đầu tư của khu vực có vốn nước ngoài, nên đòi hỏi phải xem xét chi tiết các

chính sách thu hút FDI vào các lĩnh vực này.

Một số ngành dịch vụ mới thu hút FDI từ vài năm gần đây như xây dựng khu

đô thị mới, căn hộ, hạ tầng KCN, KCX có mức vốn đăng ký trung bình rất cao, song

vốn thực hiện tính trung bình cho cả giai đoạn còn thấp chứng tỏ việc giải ngân các

dự án này rất chậm. Các dự án vào lĩnh vực bất động sản tăng nhanh, cho biết nhà

ĐTNN đã quan tâm đến thị trường bất động sản Việt Nam, nhưng việc giải ngân

chậm cũng là một sự lãng phí nguồn lực. Trên thực tế, số vốn đăng ký vào lĩnh vực

bất động sản chiếm tỷ trọng gần bằng ngành công nghiệp nhẹ và cao hơn nhiều so

với đầu tư vào nông nghiệp.

Trong 20 năm Việt Nam thu hút được 142,229 tỷ USD vốn FDI, trong đó lĩnh

vực bất động sản đạt khoảng 42,828 tỷ USD, chiếm 30% tổng vốn FDI cả nước. Đặc

59

biệt, trong giai đoạn 2006-2008, Việt Nam đã thu hút mạnh vốn FDI đăng ký với số

vốn lên tới 90,47 tỷ USD, chiếm 58% tổng vốn đăng ký của cả giai đoạn 1988-2008.

Bảng 2.7: Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào bất động sản (1988-2008)

Lĩnh vực Số dự án VĐT (Tr. USD)

Khách sạn-Du lịch XD khu đô thị mới XD Văn phòng, căn hộ XD hạ tầng KCN-KCX

Cơ cấu số dự án (%) 52.4 2.5 37.5 7.6 100 14.927 8.096 18.050 1.754 42.828 Cơ cấu VĐT (%) 34.9 18.9 42.1 4.1 100 Tổng số 249 12 178 36 475

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ KH&ĐT (2009)

Lĩnh vực bất động sản là lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài cho là tiềm

năng nhất hiện nay ở Việt Nam. Trong tổng số 57 tỷ USD vốn đăng ký thì có tới

gần 50% là đầu tư vào bất động sản (văn phòng, căn hộ, khách sạn du lịch, khu đô

thị mới, hạ tầng KCN-KCX) và chủ yếu tập trung vào các thành phố lớn và phát

triển các lĩnh vực chính như dự án tổ hợp thương mại, văn phòng, nhà ở.

Hình 2.9: Cơ cấu vốn FDI vào ngành bất động sản (1988-2008)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2009)

Giải ngân vốn FDI trong lĩnh vực nông - lâm - ngƣ nghiệp

Đây là ngành kém hấp dẫn nhất đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Ngành nông nghiệp cũng chịu sự điều chỉnh giảm vốn trong những năm gần đây,

trong đó giảm mạnh ở nhóm ngành quan trọng như dịch vụ nông nghiệp, nuôi trồng

60

và đánh bắt thủy sản.

Bảng 2.8: Giải ngân vốn FDI theo ngành nông, lâm nghiệp (1988-2007)

Lĩnh vực

Nông, lâm nghiệp Nông-Lâm nghiệp Thủy sản Tổng cộng Cơ cấu dự án (%) 10.7% 9.2% 1.5% 100 Cơ cấu VĐK (%) 5.2% 4.7% 0.5% 100 Cơ cấu VTH (%) 6.9% 6.3% 0.6% 100

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Cả giai đoạn 1988-2007, nông nghiệp mới thu hút được khoảng 929 dự án với

tổng vốn đầu tư đăng ký trên 4,5 tỷ USD, chỉ chiếm 11% số dự án và 5.2% số vốn

đầu tư đăng ký FDI cả nước. Trong đó, chỉ có khoảng 2 tỷ USD được giải ngân với

tỷ lệ vốn thực hiện chỉ chiếm gần 7% so với cả nước.

Do luôn tiềm ẩn rủi ro từ nhiều phía (điều kiện tự nhiên, thị trường, lãi suất,

thu hồi vốn chậm theo chu kỳ sản phẩm) nên có tới 30% số dự án bị giải thể trước

thời hạn so với mức bình quân chung của cả nước là 20%, nhất là các dự án cấp

phép trước năm 1992. Có rất nhiều dự án đang ở trong tình trạng kinh doanh thua lỗ

hoặc chậm triển khai. Hiện nay có đến 1/3 số dự án đang tiến hành xây dựng cơ bản

và triển khai các thủ tục khác.

Hình 2.10: Cơ cấu vốn FDI theo ngành nông, lâm nghiệp (1988-2007)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Lượng VTH của các dự án trong lĩnh vực này không những rất khiêm tốn,

61

chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn thực hiện, mà còn có xu hướng giảm dần

qua các năm. Nguyên nhân làm cho các dự án FDI chậm giải ngân, đóng vai trò thứ

yếu trong cơ cấu giải ngân, tỷ lệ giải thể cao là do: một sô dự án trồng cây nông

nghiệp và đánh bắt thủy hải sản đòi hỏi có sự liên kết ngành chặt chẽ; gặp nhiều khó

khăn về cung cấp nguyên liệu, khó khăn về tiêu thụ sản phẩm; về giải quyết đất đai

với các dự án sử dụng đất lớn; đây là các dự án chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết,

khí hậu, nhất là các dự án nuôi trồng thủy sản, trồng hoa quả. Đặc biệt, là việc nhiều

dự án chưa tìm được phương thức hợp tác phù hợp, những người đã quen với tác

phong sản xuất nhỏ, cần lợi ích trước mắt, ý thức tuân thủ cam kết rất kém.

2.2.3. Giải ngân vốn FDI theo địa bàn đầu tƣ

Giống như phân bổ nguồn vốn FDI, vốn thực hiện cũng được tập trung chủ

yếu vào các vùng kinh tế trọng điểm, nhất là các tỉnh, thành phố lớn ở phía Nam

như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu cùng với

một số tỉnh thành phố lớn ở phía Bắc như Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hà Tây

và tỉnh Thanh Hóa, Đà Nẵng ở miền Trung. Các dự án FDI tập trung chủ yếu tại các

địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương,

làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế

chung và các vùng phụ cận.

Bảng 2.9: Giải ngân vốn FDI theo địa bàn đầu tƣ giai đoạn (1988-2007)

Địa phƣơng Số DA VĐK (Tr. USD) VTH (Tr. USD) VTH/VĐK (%)

17.013 12.664 11.665 8.516 6.111 55.971 85.056 Tp Hồ Chí Minh Hà Nội Đồng Nai Bình Dương Bà Rịa - Vũng Tàu Tổng số Tổng 2399 1011 917 1581 159 6067 8684 6.347 3.589 4.152 2.078 1.267 17.436 29.234 37.3 28.3 35.6 24.4 20.7 - 34.4 TLGN/ Cả nƣớc (%) 21.7 12.3 14.2 7.1 4.3 60 100

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Các tỉnh phía Nam là những địa phương chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn

62

thực hiện. Trong số 5 địa phương có lượng vốn thực hiện lớn nhất cả nước, thì có

tới 4 địa phương là các tỉnh thành phía Nam, bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh,

Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa-Vũng Tàu. Các địa phương này đã đạt tới gần 14

tỷ USD vốn thực hiện, chiếm 47% trên tổng số vốn thực hiện của cả nước, có sự tập

trung cao độ của các dự án FDI tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đây là các

địa phương tập trung vốn FDI, nên các dự án ở đó triển khai thực hiện tốt hơn chắc

chắn sẽ tác động mạnh đến tăng vốn thực hiện của Việt Nam.

Hình 2.11: Mức độ tập trung FDI theo địa phƣơng giai đoạn 1988 - 2007

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008) Các địa phương đứng đầu về thu hút FDI không phải là các địa phương có tỷ

lệ giải ngân cao. Tỷ lệ giải ngân của TP. Hồ Chí Minh chỉ đạt 37.3%, Bình Dương

24.4% và Bà Rịa-Vũng Tàu 20.7%, thấp hơn tỷ lệ giải ngân chung của cả nước tính

chung cho cả giai đoạn 1988-2007.

Hình 2.12: Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài các tỉnh phía Nam (1988-2007)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008) Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24

63

tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký và 24% tổng vốn thực hiện

chung; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD)

chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải

Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hà Tây, Bắc Ninh.

Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6

tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả

nước, trong đó: Phú Yên hiện đứng đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng

nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng,

Quảng Nam có nhiều tiến bộ trong thực hiên dự án, nhất là đầu tư vào xây dựng các

khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhưng nhìn

chung còn dưới mức nhu cầu và tiềm năng của vùng.

Đến nay, 65 tỉnh thành của Việt Nam đều đã có dự án FDI triển khai thực

hiện. Trong đó có 6 tỉnh, thành phố có vốn thực hiện đạt trên 1 tỷ USD. Nếu tính từ

100 triệu USD trở lên thì có thêm 15 tỉnh, thành phố. Các tỉnh có tỷ lệ vốn thực hiện

cao nhất cho cả giai đoạn 20 năm hầu hết là tỉnh nghèo, có rất ít dự án, dự án qui

mô rất nhỏ và không có ảnh hưởng nhiều đến lượng vốn giải ngân của cả nước như

Kiên Giang, Thanh Hóa, Thái Nguyên. Mặc dù vậy, sự có mặt của dự án FDI có

ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế xã hội.

Việc phân bố vốn thực hiện không đều giữa các địa phương đã đặt ra cho các

nhà hoạch định chính sách là phải giải quyết vấn đề gắn với quy hoạch vùng và lãnh

thổ, trên cơ sở khai thác những lợi thế của địa phương và đảm bảo thu hẹp về

khoảng cách phát triển giữa các vùng. Kinh nghiệm của một số địa phương có vốn

thực hiện chiếm tỷ trọng cao như Tp Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai cho

thấy, ngoài các yếu tố thuận lợi do khách quan, sự hỗ trợ của các cấp chính quyền

địa phương có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong thúc đẩy thực hiện các dự án FDI,

giải ngân vốn. Sự hỗ trợ tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:

- Chính quyền địa phương phải thể hiện được sự quan tâm đối với các nhà

ĐTNN thông qua việc “luôn đồng hành cùng doanh nghiệp”, coi khó khăn của

64

doanh nghiệp như khó khăn của chính các cơ quan quản lý địa phương. Với sự cam

kết đó, các nhà ĐTNN yên tâm bỏ vốn thực hiện để đầu tư, đây có thể coi là hiệu

ứng lan tỏa của hiệu quả các dự án đã thành công.

- Hầu hết các địa phương đều gặp vấn đề về đền bù giải phóng mặt bằng, các

địa phương này đã nỗ lực tạo mọi điều kiện thuận lợi trong việc đền bù, giải tỏa và

phải thành lập hội đồng giải tỏa, đền bù chuyên trách để nâng cao trách nhiệm và

hiệu quả công việc.

- Các địa phương làm tốt sự phối hợp giữa các ban, ngành trong tỉnh thông qua

cơ chế một cửa, một dấu sẽ có tác động rất lớn trong việc thúc đẩy thực hiện dự án,

giải ngân vốn FDI. Điều này giúp nhà ĐTNN giảm được thời gian và chi phí cho

các công việc về thủ tục hành chính. Điều đặc biệt hơn, tạo ra được lòng tin và mối

quan hệ mật thiết giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp.

- Bên cạnh chính sách của địa phương thông thoáng, việc thúc đẩy triển khai dự

án, giải ngân vốn FDI còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Điều này được minh

chứng thông qua xếp hạng chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do phòng VCCI công

bố. Kết quả cho thấy có đến 8 trong số 10 tỉnh thu hút nhiều FDI nhất, và hầu hết

các tỉnh có tỷ lệ giải ngân cao, đều thuộc nhóm có chỉ số PCI khá cao và cao. Điều

này chứng tỏ việc nâng cao chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh có vai trò quan trọng đẩy

nhanh tiến độ giải ngân vốn FDI.

Tốc độ giải ngân vốn đầu tư nước ngoài tại Bà Rịa – Vũng Tàu đạt đến 45%.

Do có hai dự án lớn sản xuất thép bị chậm tiến độ nên tốc độ giải ngân chung bị kéo

xuống. Trong đó dự án của Công ty TNHH thép không gỉ Thiên Hưng (Đài Loan)

với tổng vốn đăng ký đầu tư là 700 triệu USD sau nhiều lần trì hoãn, đàm phán, nhà

đầu tư đã không đưa vốn vào Việt Nam theo đúng tiến độ nên đã bị rút giấy phép.

Nếu không vướng 2 dự án này, Bà Rịa - Vũng Tàu có thể đạt tốc độ giải ngân các

dự án từ 70-80%.

Đồng Nai được xem là địa phương có tốc độ giải ngân cao nhất cả nước, đạt

khoảng 57%. Tỉnh đã giải quyết tốt khâu giải phóng mặt bằng để triển khai thực

hiện dự án đảm bảo đúng tiến độ. Các dự án đầu tư vào KCN gần như có giấy phép

65

là có thể tiến hành ngay. Ngoài ra nhà đầu tư có vướng mắc, khó khăn gì trong quá

trình tiến hành dự án đều được các ngành chức năng liên quan hỗ trợ giải quyết kịp

thời và hiệu quả. Cụ thể, hai dự án bất động sản "Thành phố Waterfront Đồng Nai"

(vốn đầu tư 750 triệu USD) và "Thành phố Aqua" (vốn đầu tư 305 triệu USD) có

quy mô 366ha và 305ha vừa được cấp giấy chứng nhận đầu tư vào cuối tháng

4/2008 vừa qua thì năm ngày sau công trình đầu tiên của dự án là hai con đường dài

11km đã được khởi công, tạo tiền đề cho dự án được triển khai nhanh.

Tại tỉnh Bình Dương hầu hết dự án đều vào các KCN nên việc triển khai dự án

thường diễn ra sau khi được cấp phép. Tỷ lệ vốn FDI giải ngân so với vốn đăng ký

của Bình Dương cũng đạt trên 50%. Ngay cả các dự án lớn nằm ngoài KCN cũng

được các chủ đầu tư tiến hành rất nhanh chóng vì công tác đền bù giải phóng mặt

bằng ở đây được tiến hành rất nhanh và hiệu quả.

Riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh, tình hình có vẻ khó khăn hơn trong việc

giải ngân các dự án bởi phần lớn các dự án đầu tư lớn trên địa bàn trong thời gian

gần đây đều tập trung nhiều vào bất động sản, mà trong đó việc đền bù, giải phóng

mặt bằng ở đô thị trung tâm này rất gian nan, có những dự án vài ba năm mới tiến

hành xong giải phóng mặt bằng để giao cho nhà đầu tư.

2.2.4. Giải ngân vốn FDI theo đối tác đầu tƣ

Cho đến nay đã có trên 82 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới thực hiện

đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với tổng vốn đăng kí trên 85 tỷ USD, nhưng chỉ có

khoảng 64 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án FDI đang hoạt động với tổng vốn

thực hiện gần 30 tỷ USD. Các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN

chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm

10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tình hình thực hiện

vốn FDI ở các dự án tại Việt Nam chủ yếu là từ các nước trong khu vực châu Á,

những nước có vị trí địa lý gần với Việt Nam.

Trong số 10 quốc gia có lượng vốn thực hiện lớn nhất tại Việt Nam thì có tới 6

quốc gia thuộc khu vực châu Á, và các nước tiếp theo đều là các quốc gia và vùng

66

lãnh thổ thuộc khu vực châu Âu và Hoa Kỳ. Chỉ tính riêng vốn thực hiện của 6

nước trong khu vực châu Á này đã lên tới 18 tỷ USD, chiếm trên 61% vốn thực hiện

tại Việt Nam trong giai đoạn 1988-2007.

Bảng 2.10: Giải ngân vốn FDI phân theo đối tác đầu tƣ (1988-2007)

Stt Quốc gia, Vùng, lãnh thổ VĐK (Tr. USD) VTH (Tr. USD) VTH/VĐK (%)

1 Hàn Quốc 2 Singapore 3 Đài Loan 4 Nhật Bản 5 BritishVirginIslands 6 Hồng Kông 7 Malaysia 8 Hoa Kỳ 9 Hà Lan 10 Pháp Tổng cộng 2.738 3.858 3.079 4.987 1.375 2.161 1.083 746 2.031 1.085 29.234 19 34.9 28.6 54.3 17.6 36.4 38.4 26.8 78.2 45.7 34.4 TLGN/ Cả nƣớc (%) 9.4 13.2 10.5 17.1 4.7 7.4 3.7 2.6 6.9 3.7 100

14.398 11.058 10.763 9.179 7.794 5.933 2.823 2.788 2.598 2.376 85.056 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Chỉ có 9/64 quốc gia đầu tư vào Việt Nam có vốn thực hiện, giải ngân trên 1

tỷ USD. Đứng đầu là Nhật Bản với vốn giải ngân là 4.98 tỷ USD; Singapore đứng

thứ 2 với 3.85 tỷ USD; Đài Loan đứng thứ 3 với 3.07 tỷ USD, tiếp theo là Hàn

Quốc với 2.73 tỷ USD, Hồng Kông có 2.16 tỷ USD, Hà Lan có 2.03 tỷ USD và

Malaysia, Pháp, British VirginIslands có vốn thực hiện hơn 1 tỷ USD. Nếu tính vốn

thực hiện từ 500 triệu USD đến dưới 1 tỷ USD thì có thêm 7 nước bao gồm Thái lan

đạt 832 triệu USD, tiếp theo là Hoa Kỳ, Anh, Ấn Độ.

Vốn thực hiện của các quốc gia đầu tư vào Việt Nam nhiều hay ít phụ thuộc

vào một số yếu tố, như tình trạng nền kinh tế của nước đầu tư, lĩnh vực đầu tư ở

Việt Nam mà các quốc gia đó đã lựa chọn, và quan hệ kinh tế, chính trị giữa Chính

phủ Việt nam và chính phủ quốc gia đó. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều đó

khi xem xét ba quốc gia có tỷ lệ giải ngân cao nhất là Hà Lan, Nhật Bản và Hàn

67

Quốc, với tỷ lệ giải ngân bình quân đạt 82%.

Hình 2.13: Vốn thực hiện của 6 nƣớc thuộc khu vực châu Á (1988-2007)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT (2008)

Các dự án FDI của Hà Lan tại Việt Nam tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dầu

khí, dầu khí là lĩnh vực áp dụng nhiều hình thức BCC, qua phân tích ở trên cho thấy

đây là lĩnh vực và hình thức có tỷ lệ giải ngân rất cao. Ngoài nhân tố có tính quy

luật là các nhà đầu tư thường tập trung thúc đẩy triển khai các dự án, giải ngân vốn

FDI trong cùng khu vực, có thể đưa ra một số nguyên nhân giải thích tại sao Hàn

Quốc và Nhật Bản là một trong các quốc gia có tỷ lệ giải ngân cao so với các quốc

gia khác, đó là:

- Do Việt Nam xác định Nhật Bản là đối tác lớn nên trong quan điểm của các

nhà lãnh đạo Việt Nam đã có thiên hướng thiết lập và tạo điều kiện cho các nhà đầu

tư Nhật Bản, mà biểu hiện là Hiệp định về tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư được ký

kết. Đặc biệt là sự cam kết cấp Chính phủ theo phương châm đối tác tin cậy, ổn

định lâu dài.

- Việt Nam và Hàn Quốc đã ký Hiệp định tránh đánh thuế trùng năm 1994 và

Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư năm 2003. Theo đó, Việt Nam cam kết

giành cho nhà đầu tư Hàn Quốc quy chế đãi ngộ quốc gia như doanh nghiệp trong

nước, cộng với những nỗ lực cải cách của Việt Nam đã được các doanh nghiệp Hàn

Quốc ghi nhận, nên họ yên tâm bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam. Theo điều tra của

Kotra thì đến 99% doanh nghiệp Hàn Quốc thỏa mãn với hoạt động đầu tư tại Việt

68

Nam, gần 60% số doanh nghiệp làm ăn có lãi.

Như vậy, nhờ có sự hỗ trợ từ phía Việt Nam thông qua việc cam kết giành cho

các nhà đầu tư quy chế đối xử quốc gia như các doanh nghiệp trong nước, bởi vậy

họ yên tâm thực hiện các dự án được cấp GPĐT. Singapore, Đài Loan, và Hồng

Kông đều thuộc 3 nước dẫn đầu đầu tư vào Việt Nam, số vốn thực hiện của 3 nước

này chiếm hơn 30% vốn thực hiện chung, nhưng lại có tỷ lệ giải ngân không cao,

bởi họ thường là những công ty nhỏ, tập trung vào lĩnh vực có sức cạnh tranh không

cao.

Đầu tư của các nước G7 vào Việt Nam thời gian qua còn khiêm tốn, tập trung

chủ yếu vào công nghiệp, chiếm hơn 50% tổng vốn FDI; trong đó dầu khí chiếm

đến 85.43%, công nghiệp nặng chiếm 53.74% và công nghiệp vật liệu xây dựng

chiếm 69.02%. Các nước G7 chỉ chiếm 20.17% tổng vốn thực hiện của lĩnh vực

dịch vụ và 25.5% của nông lâm ngư nghiệp. Do chưa tin tưởng vào MTĐT ở Việt

Nam nên số lượng các dự án đầu tư ít, dẫn đến lượng vốn thực hiện chiếm tỷ trọng

thấp là điều không thể tránh khỏi.

2.3. Những đánh giá chung về giải ngân các dự án FDI ở Việt Nam

2.3.1. Những thành tựu đạt đƣợc

Giải ngân vốn FDI về cơ bản tăng dần qua các năm và được triển khai thực hiện

ở tất cả các địa phương tại Việt Nam.

Trong suốt 20 năm thực hiện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

(1988-2008), với thành công là số vốn đăng kí tăng nhanh và số lượng các dự án đi

vào triển khai thực hiện ngày càng nhiều đã làm cho số vốn thực hiện, giải ngân vốn

FDI về cơ bản tăng dần qua các năm, năm sau đều cao hơn năm trước. Đặc biệt

trong giai đoạn 2001-2005 số vốn thực hiện tăng liên tục và đều vượt mức kế hoạch

đề ra, cụ thể năm 2001 vượt 6%, năm 2002 vượt 18%, năm 2003 vượt 15% và năm

2004 vượt 16.7%. Giai đoạn 2006-2008, vốn FDI thực hiện tăng và đạt mức kỷ lục,

năm 2007 tăng 12% so với năm 2006 và năm 2008 tăng 44% so với năm 2007.

Mặc dù số vốn thực hiện so với vốn đăng ký có khoảng cách tương đối lớn,

nhưng theo kết quả trong thời gian qua thì vốn giải ngân của Việt Nam đã có những

69

tín hiệu tích cực, góp phần vào phát triển kinh tế-xã hội. Đây rõ ràng là một thành

công đáng ghi nhận trong việc hỗ trợ các nhà ĐTNN trong việc triển khai thực hiện

các dự án FDI.

Tính đến nay, tất cả 65 tỉnh, thành phố trong cả nước đều đã có dự án FDI

triển khai thực hiện, đưa vốn FDI vào thực hiện. Giải ngân vốn FDI tăng theo năm

và theo từng giai đoạn đối với từng địa phương cụ thể. Các tỉnh, thành phố thu hút

được nhiều dự án FDI, như Tp Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà

Rịa-Vũng Tàu đã thực hiện nhiều giải pháp tích cực, hiệu quả trong việc giải ngân

vốn FDI, nên góp phần tích cực nâng cao tỷ lệ giải ngân chung.

Giải ngân vốn FDI so với vốn đăng ký mới đạt ở mức tương đối cao qua các năm.

Mặc dù có nhiều biến động trong thu hút vốn FDI tại Việt Nam qua các thời

kỳ, suy giảm do khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á và tăng dần các năm sau đó,

nhưng vốn thực hiện vẫn được duy trì và có chiều hướng tăng. Đặc biệt, năm 2002

là năm có tỷ lệ giải ngân đạt mức cao nhất, lên tới 160%, cao hơn tỷ lệ giải ngân

của năm 2003 là 138%. Điều này, một mặt thể hiện chất lượng nguồn vốn FDI ở

Việt Nam ngày càng cao, mặt khác đó là sự tin tưởng của các nhà ĐTNN vào môi

trường đầu tư trung và dài hạn tại Việt Nam. Đây còn là một dấu hiệu tích cực trong

điều kiện ĐTNN trên thế giới đang chững lại, nền kinh tế thế giới tăng trưởng

chậm, khủng hoảng tài chính thế giới đang ảnh hưởng tới nhiều quốc gia. Song song

với sự gia tăng của vốn thực hiện trong những năm gần đây, vốn thực hiện từ nước

ngoài cũng có dấu hiệu tăng nhẹ. Trong những năm qua, vốn thực hiện từ nước

ngoài luôn chiếm tỷ trọng cao và ổn định trong tổng vốn thực hiện của các dự án

FDI, đạt mức trên 85%.

Vốn đăng ký bổ sung của các dự án FDI đang hoạt động tăng và chiếm tỷ lệ

cao so với vốn đăng ký mới.

Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có

hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ

năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu

tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký

70

cấp mới. Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so

dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng

thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng

thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.

Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công

nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm vào các năm

2006 và 2007. Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số

vốn tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao

nhất, đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-2005 và 80% năm 2007. Việc tăng vốn đầu tư

mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung

nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam và phía Bắc. Điều này

chứng tỏ môi trường ĐTNN tại Việt Nam ngày càng thuận lợi, thể hiện các dự án

FDI kinh doanh có hiệu quả và tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.

Một số đối tác có tỷ lệ giải ngân cao so với mức bình quân cả nước gồm

Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông và Hoa Kỳ, Hà Lan.

Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Hoa Kỳ và Hà Lan vừa là các đối tác có số

vốn đầu tư lớn vào Việt Nam, vừa là các quốc gia có tỷ lệ giải ngân các dự án FDI

đạt mức cao so với các quốc gia khác; và đều đạt trên mức trung bình chung là 53%.

Đặc biệt, Nhật Bản là quốc gia có tỷ lệ giải ngân cao nhất, đạt mức 86.3%; tiếp đến

là Hàn Quốc đạt 64%; Hồng Kông và Mỹ đều đạt mức trên 60%. Riêng 4 đối tác

này chiếm khoảng 35% lượng VTH chung trong suốt giai đoạn 1988-2007.

Các dự án đầu tư theo 2 hình thức BCC và BOT có tỷ lệ giải ngân cao hơn

mức trung bình của cả nước, đặc biệt các dự án FDI đầu tư theo hình thức BCC có

số vốn thực hiện cao hơn cả số vốn đăng ký. Điều này chứng tỏ các dự án đầu tư

theo hình thức BCC có hiệu quả cao, đã hấp dẫn được các nhà ĐTNN thực sự bỏ

vốn để đầu tư.

Các dự án FDI trong ngành công nghiệp và xây dựng có tỷ lệ giải ngân cao

nhất, đạt mức 68.6%, đây là một tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam

đang trong quá trình thực hiện CNH-HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế, vì ngành này

71

có số vốn đăng ký cao nhất, so với các ngành nông lâm nghiệp và dịch vụ.

Đóng góp của các dự án FDI vào phát triển kinh tế-xã hội ngày càng tăng

và cơ bản đáp ứng được các mục tiêu, phục vụ quá trình CNH-HĐH của Việt Nam.

Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong

nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất. Trong 20

năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể trong quá trình phát

triển kinh tế-xã hội của Việt Nam bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể,

trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách và tạo việc

làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời, tiếp tục khẳng định vai trò

trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản phẩm quốc

nội (GDP) của Việt Nam và thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền

kinh tế. Khai thác và phát huy hiệu quả các nguồn lực trong nước như lao động, đất

đai, và tài nguyên, giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó, FDI đã tạo điều

kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực

sản xuất các sản phẩm của Việt Nam.

2.3.2. Một số tồn tại, hạn chế

Tiến độ thực hiện dự án, tốc độ giải ngân vốn FDI chậm, vốn thực hiện

trung bình trên 1 dự án còn thấp, tính cả thời kỳ 1988-2008 tỷ lệ giải ngân chỉ đạt

mức bình quân 34.4%.

Thực tế là vốn giải ngân tăng dần trong từng năm nhưng rõ ràng so với các

nước trong khu vực, chẳng hạn như Trung Quốc có tỷ lệ giải ngân giai đoạn 2000-

2007 đạt mức trên 67%, thì tỷ lệ giải ngân vốn FDI ở Việt Nam rõ ràng là thấp.

Điều này đặt ra nhiều vấn đề cần suy nghĩ về việc cấp GPĐT, về lựa chọn đối tác

đầu tư, và vấn đề quy hoạch thu hút đầu tư sao cho có hiệu quả… Đặc biệt, tỷ lệ giải

ngân tính trung bình trong cả giai đoạn từ năm 1988-2008, đạt mức thấp (34.4%).

Nguyên nhân là do yếu tố khách quan của môi trường đầu tư quốc tế như khủng

hoảng tài chính, tiền tệ châu Á (1997), khủng hoảng kinh tế thế giới (2008), và do

nhiều vướng mắc trong môi trường đầu tư của Việt Nam gây cản trở cho nhà ĐTNN

72

thực hiện triển khai dự án, giải ngân vốn FDI.

Cơ cấu giải ngân không cân đối giữa các ngành, giữa các hình thức đầu tư

và giữa các đối tác đầu tư lớn. Điều này hạn chế hiệu quả triển khai, tỷ lệ vốn

thực hiện của các dự án FDI.

+ Về hình thức đầu tư: Tỷ lệ giải ngân giữa các hình thức đầu tư có sự chênh lệch

lớn. Nếu như hình thức BCC có tỷ lệ giải ngân đạt mức cao nhất 132%, và hình

thức BOT có tỷ lệ giải ngân cao hơn mức trung bình cả nước; thì hình thức DNLD

và doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN có tỷ lệ giải ngân ở mức thấp hơn mức trung

bình của cả nước. Đây thực sự là động thái không tích cực trong khi số lượng dự án

FDI đầu tư theo 2 hình thức này, chiếm đến 96% số dự án có hiệu lực. Điều này sẽ

làm cho tỷ lệ giải ngân chung của cả nước bị giảm xuống.

+ Về lĩnh vực đầu tư: Ngành công nghiệp có tỷ lệ giải ngân cao nhất, đạt mức

69%, và cao hơn mức trung bình của cả nước. Trong ngành công nghiệp, FDI tập

trung chủ yếu vào các ngành sản xuất thay thế nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu thị

trường nội địa còn cao, nhất là các dự án của EU, Mỹ, Nhật Bản. Ngành nông

nghiệp có tỷ lê giải ngân 7%, thấp hơn mức trung bình của cả nước. Ngoài ra, ngành

dịch vụ, một ngành có xu hướng trở thành tiên phong trong thu hút FDI lại có tỷ lệ

giải ngân rất thấp, chỉ đạt mức 25%, do tỷ trọng các dự án kinhdoanh bất động sản

còn lớn, chiếm gần 1/3 tổng vốn đăng ký.

+ Về đối tác đầu tư: Trong số 5 quốc gia dẫn đầu về FDI ở Việt Nam thì 2 quốc

gia có lượng vốn FDI lớn nhất, là Hàn Quốc và Đài Loan, lại có tỷ lệ giải ngân thấp

nhất, thấp hơn mức trung bình của cả nước. Ngược lại, 3 quốc giai đứng từ thứ 3

đến thứ 5 trong việc đầu tư vào Việt Nam lại có tỷ lệ giải ngân cao hơn. Do sự mất

cân đối này làm cho tỷ lệ giải ngân chung của các dự án FDI thấp.

Tỷ lệ và khả năng góp vốn pháp định của bên Việt Nam còn hạn chế làm

cho chất lượng và hiệu quả của hoạt động thực hiện dự án FDI phụ thuộc rất lớn

vào khả năng góp vốn của phía đối tác nước ngoài.

Do tỷ lệ góp vốn pháp định của bên Việt Nam thấp, nguồn vốn góp của phía

bên Việt Nam chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất, hoặc một số trường hợp, bên

73

VIệt Nam nhận nợ với nhà nước do các đối tác trong các DNLD chủ yếu là doanh

nghiệp Nhà nước. Tính bình quân tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam trong các DNLD

chỉ chiếm khoảng 20% vốn pháp định. Hơn nữa, tỷ lệ góp vốn trong VTH của các

nhà ĐTNN rất cao, chiếm bình quân 90%. Trong các dự án liên doanh có vốn FDI

thì bên Việt Nam thường thụ động, phó mặc cho phía đối tác nước ngoài và chỉ lấy

% lợi nhuận. Đây chính là nguyên nhân làm cho vai trò của bên Việt Nam bị lu mờ.

Ngược lại, chứng tỏ các nhà ĐTNN có toàn quyền quyết định về tiến độ triển khai,

hay thậm chí là trì hoãn việc triển khai dự án nhằm chờ đợi cơ hội của thị trường.

Số vốn đăng ký của các dự án FDI bị giải thể trước thời hạn ngày càng

nhiều, chiếm tỷ lệ cao, khoảng 26% so với vốn đăng ký mới hàng năm.

Thời gian qua, tuy Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc cải thiện MTĐT nhưng

số lượng các dự án bị giải thể trước thời hạn vẫn còn nhiều. Hầu hết các dự án bị rút

giấy phép là do kéo dài quá thời hạn quy định, không có khả năng thực hiện dự án.

Trong các dự án bị giải thể, có cả những dự án có vốn đầu tư lên đến hàng chục

triệu USD, chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ, xây dựng.

Tính đến nay, cả nước đã có 1.359 dự án bị giải thể trước thời hạn, với số vốn

đăng ký bị giải thể lên tới trên 15.5 tỷ USD, trong đó, vốn giải thể chủ yếu tập trung

trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 50%, lĩnh vực công nghiệp- xây dựng chiếm 42,3%.

Trong các dự án ĐTNN bị giải thể, số dự án hoạt động theo hình thức liên doanh

chiếm đa số (56% về số dự án và 67,2% về tổng vốn đăng ký), tiếp theo là hình thức

Hợp doanh (10,2% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký). Hình thức 100%

vốn nước ngoài chiếm13,1% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký. Đây là tỷ

trọng tương đối lớn, cho thấy chất lượng của việc thu hút FDI chưa tốt.

Đặc biệt từ năm 1997-2000, số dự án bị giải thể chiếm trên 30% so với số dự

án được cấp mới trong năm. Nguyên nhân làm cho các dự án này bị giải thể có rất

nhiều, do sự biến động của thị trường, hậu quả của khủng hoảng tài chính tiền tệ

châu Á, do các nhà đầu tư nước ngoài vi phạm pháp luật, do những tranh chấp bất

đồng giữa các chủ đầu tư, do chính sách của nước đầu tư có những thay đổi…

Có nhiều dự án FDI không đảm bảo tiến độ triển khai làm cho tỷ lệ các dự

74

án FDI bị chậm trễ còn cao. Mặc dù, tiến độ triển khai dự án FDI đã có những

chuyển biến tích cực trong các năm qua, nhưng nhìn chung thực tế vẫn còn chậm.

Đến nay vẫn còn tồn tại nhiều dự án sau khi được cấp GPĐT không đảm bảo tiến độ

triển khai, nhiều dự án xin giãn tiến độ triển khai thực hiện. Có rất nhiều nguyên

nhân làm cho các dự án không đảm bảo tiến độ triển khai thực hiện, như do các bên

không đảm bảo tiến độ góp vốn, hoặc không có khả năng góp vốn do khả năng tài

chính yếu kém, do không giải phóng được mặt bằng….Mặt khác, một số dự án gặp

phải các thủ tục hành chính quá phiền hà, gặp nhiều khó khăn trong tuyển dụng lao

động có chất lượng cao.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Có nhiều lý do làm chậm tiến độ triển khai thực hiện dự án FDI, trong đó theo

Kết quả điều tra 140 FIEs của dự án CIEM-DANIDA [30] thì có 08 lí do được nêu

ra là: (1) Khó khăn do chính sách, thay đổi chính sách và thực thi chính sách phía

Việt Nam; (2) Khó khăn về giải quyết thủ tục trong quá trình đầu tư; (3) Môi trường

đầu tư không thuận lợi như dự đoán ban đầu: đây là các nguyên nhân từ những yếu

tố nội tại của môi trường đầu tư Việt Nam; (4) Thay đổi chiến lược kinh doanh của

Công ty mẹ; (5) Khó khăn do chủ quan của doanh nghiệp (thiếu vốn, thiếu chiến

lược kinh doanh, công nghệ, quản lý,...); (6) Khó khăn do các yếu tố đầu vào không

đáp ứng; (7) Gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm do cạnh tranh ngày càng

gay gắt hơn; (8) Khó khăn trong hợp tác với các doanh nghiệp trong nước: đây là

các nguyên nhân từ phía bản thân các nhà đầu tư.

Hình 2.14: Nguyên nhân những hạn chế về giải ngân vốn FDI ở Việt Nam

75

(Nguồn: Kết quả điều tra 140 FIEs của CIEM-DANIDA 2008)

2.3.3.1. Các nguyên nhân từ phía môi trƣờng đầu tƣ

 Từ phía môi trƣờng đầu tƣ quốc tế

Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á (1997) và

khủng hoàng kinh tế toàn cầu (2008).

Phần lớn các dự án FDI vào Việt Nam đến từ các quốc gia trong khu vực nên

cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính tiền tệ trong khu vực đã gây nhiều khó khăn

cho trong việc thu xếp tài chính để thực hiện dự án, giải ngân vốn FDI tại Việt Nam.

Có rất nhiều dự án đã được cấp GPĐT nhưng không thể tiếp tục triển khai, thậm chí

bên nước ngoài không đến nhận GPĐT. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã

gây tác động xấu đến tình hình tài chính của nhiều tập đoàn kinh tế đầu tư ở Việt

Nam cũng bị cắt giảm mạnh. Các dự án chậm triển khai hoặc bị trì hoãn do khủng

hoảng diễn biến khó dự báo.

Do cạnh tranh giữa các quốc gia trong thu hút FDI ngày càng cao, đặc biệt

từ phía Trung Quốc và các nước ASEAN.

Thời gian qua cho thấy Việt Nam đang chịu sức ép cạnh tranh trong thu hút

FDI rất lớn từ phía Trung Quốc và các nước ASEAN, đặc biệt là sau khi Trung

Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO, cho dù chúng ta đã cố gắng hoàn

thiện và sửa đổi luật nhằm tăng cường tính hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN, nhưng

vẫn chưa thể cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực.

Hơn nữa, làn sóng sáp nhập và mua lại trên quy mô toàn thế giới đã ảnh

hưởng đến các công ty con đang hoạt động tại Việt Nam. Sự phát triển chững lại

của các nền kinh tế lớn, sự yếu kém của thị trường tài chính quốc tế và sự đi xuống

của thị trường công nghệ thông tin toàn cầu đã và đang tác động mạnh đến đầu tư

và thương mại quốc tế, ảnh hưởng đến các công ty đang hoạt động tại Việt Nam.

 Từ phía môi trƣờng đầu tƣ trong nƣớc

Do hệ thống luật pháp và chính sách đối với thực hiện dự án FDI ở Việt

Nam chưa đủ hấp dẫn và đồng bộ.

Nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, văn bản hướng dẫn của các

76

Bộ ngành liên quan ban hành chậm so với quy định, một số chưa phù hợp với thông

lệ quốc tế, do đó đã gây khó khăn cho triển khai thực hiện dự án. Hệ thống luật

pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu đồng bộ và nhất

quán giữa các luật chung và luật chuyên ngành. Vì vậy trên thực tế vẫn tạo ra các

cách hiểu khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho việc xem xét cấp giấy chứng nhận

đầu tư cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá

trình triển khai dự án.

Ngoài ra, do việc thực thi pháp luật về thực hiện dự án FDI chưa nghiêm túc,

xuất hiện tình trạng nhiều cơ quan địa phương không tuân theo các quy định của

Nhà nước, cố tình làm phức tạp thêm quy trình thực hiện, gây khó khăn cho nhà

ĐTNN. Công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề còn yếu và thiếu, đặc biệt trong

bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý về các địa phương, dẫn đến tình

trạng mất cân đối chung. Một số địa phương cấp quá nhiều giấy phép cho các dự án

có cùng một loại sản phẩm mà không tính đến khả năng thị trường, gây dư thừa,

lãnh phí, hiệu quả đầu tư thấp.

Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước chưa tốt, hiệu lực và trách

nhiệm của công tác quản lý nhà nước đối với các dự án FDI sau cấp phép chưa

cao. Chủ trương phân cấp trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư nước

ngoài là đúng đắn, tuy nhiên trong điều kiện hệ thống quy hoạch chưa đồng bộ, kịp

thời, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước

ngoài tại một số địa phương còn yếu, thiếu và chưa đồng bộ nên đã nảy sinh vấn đề

cạnh tranh thiếu lành mạnh trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, thiếu sự liên kết

vùng, khu vực và ảnh hưởng đến cơ cấu ngành, lĩnh vực đầu tư.

Một số địa phương không thẩm tra kỹ về năng lực của các nhà đầu tư trong

các dự án có quy mô lớn, chạy đua với nhau trong việc cấp phép các dự án lớn có

quy mô hàng tỷ USD. Do vậy, khả năng triển khai các dự án này sẽ rất khó khả thi

theo đúng cam kết của nhà đầu tư.

Việc thu thập thông tin về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI hiện

77

đang là khó khăn lớn nhất đối với các cơ quan quản lý đầu tư các cấp, kế cả Bộ Kế

hoạch và Đầu tư, trong khi cơ sở vật chất và nhân lực phục vụ công tác thông tin

kinh tế còn thiếu và yếu so với nhu cầu.

Công tác quy hoạch nói chung và quy hoạch liên quan đến FDI còn chậm,

chất lượng chưa cao và thiếu cụ thể dẫn đến nhiều dự án được cấp GPĐT nhưng

không thể triển khai thực hiện, hoặc kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến phá sản.

Công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu và thiếu, đặc

biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về các địa

phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Một số địa phương cấp quá nhiều

giấy phép cho các dự án có cùng một loại sản phẩm mà không tính đến khả năng thị

trường, gây dư thừa, lãnh phí, hiệu quả đầu tư thấp.

Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều tồn tại, gây cản trở công

tác thực hiện dự án, làm chậm tiến độ giải ngân vốn FDI.

Hiện nay việc giao đất và đền bù ở các địa phương còn nhiều bất cập. Những

bất cập đó chủ yếu liên quan đến chính sách dân sinh và an sinh xã hội, công tác tái

định cư cho người dân tại các địa phương có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn

còn lúng túng. công tác giải phòng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được khắc phục

của môi trường đầu tư của Việt Nam. Trên thực tế, công tác quy hoạch sử dụng đất

đã được các địa phương quan tâm nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ với quy

hoạch ngành, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương

nói chung và thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI nói riêng. Nhiều địa

phương đang lâm vào trình trạng khó khăn trong việc bố trí đủ đất cho các dự án

quy mô lớn như đã cam kết trước khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư.

Theo quy định của Luật Xây dựng, chính quyền địa phương chịu trách nhiệm

toàn bộ khâu giải phóng mặt bằng và bàn giao đất sạch cho nhà đầu tư. Tuy nhiên

do phải sử dụng ngân sách địa phương để đền bù thu hồi đất và thủ tục giải ngân đối

với nguồn vốn ngân sách quá phức tạp và mức đền bù theo quy định chung của Nhà

nước không đáp ứng yêu cầu của người được đền bù nên tiến độ GPMB rất chậm.

Mặt khác, còn tâm lý e ngại nhà đầu tư không triển khai dự án đúng tiến độ sẽ

78

làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Như vậy trên thực tế ngân sách

nhà nước phải chi một khoản rất lớn ngay từ lúc giải phóng mặt bằng, trong khi đó

nếu thực sự dự án có hiệu quả thì cũng phải nhiều năm sau mới có thu ngân sách.

Điển hình là một số dự án đầu tư quy mô lớn, sử dụng nhiều diện tích đất mới được

cấp GPĐT tại một số địa phương.

2.3.3.2. Các nguyên nhân từ “khả năng hấp thụ” vốn FDI của Việt Nam

Cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn nhiều hạn chế, yếu kém

Những yếu kém về cơ sở hạ tầng như khả năng cung cấp điện, cấp thoát nước,

giao thông đường bộ, hàng hải…cũng ảnh hưởng lớn đến giải ngân nguồn vốn FDI,

quy hoạch hệ thống giao thông, và triển khai những công việc ngoài hàng rào của

khu công nghiệp tại Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, khó phát triển kịp trong thời

gian ngắn để đáp ứng một lượng vốn FDI được triển khai thực hiện tại Việt Nam

trong thời gian tới.

Thông thường các nhà đầu tư tính toán, thực hiện tiến độ xây dựng công trình

dự án theo tiến độ xây dựng công trình hạ tầng ngoài hàng rào, đặc biệt là hệ thống

cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập

khẩu hàng hóa để tránh tình trạng công trình dự án xây dựng xong không đưa vào

vận hành được do hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào không đáp ứng yêu cầu

phát triển.

Hệ thống kết cấu hạ tầng ở các khu kinh tế mới được thành lập gần đây như

Chân Mây, Nhơn Hội, Nam Phú Yên… phát triển quá chậm so với nhu cầu đầu tư

phát triển các dự án FDI, gây quản ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài và cản trở

việc giải ngân triển khai dự án lớn trong các khu kinh tế này.

Chất lượng lao động ở Việt Nam rất thấp, một mặt làm tăng chi phí đầu tư,

mặt khác làm chậm tiến độ triển khai do phải mất thời gian và chi phía đào tạo lại.

Chuẩn bị nguồn lực lao động cho các dự án, đặc biệt là các dự án lớn vẫn còn

nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư, mặc dù điều này đã và

đang được Việt Nam khắc phục. Chất lượng lao động ở Việt Nam rất thấp, một mặt,

làm tăng chi phí đầu tư, mặt khác, làm chậm tiến độ triển khai thực hiện do phải mất

79

thời gian và chi phí đào tạo lại. Nguồn nhân công ở Việt Nam chỉ có ưu thế về sự

dồi dào, đa phần chưa qua đào tạo. Hơn nữa, các dự án đầu tư chỉ tập trung ở một số

khu vực trọng điểm như Tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương…là những địa

phương đang thiếu lao động cả về số lượng và chất lượng. Trong khi đó, chương

trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo trong nước còn hạn chế, chưa đáp ứng

được yêu cầu của các doanh nghiệp. Tình trạng đình công đang diễn ra và trở thành

áp lực đáng kể với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều

lao động.

Vấn đề môi trường, xử lý chất thải của các dự án FDI tập trung tại các khu

công nghiệp tập trung thuộc vùng kinh tế trọng điểm đã và đang ảnh hưởng nhất

định đến môi trường tự nhiên cũng như xã hội, trong đó đặc biệt là đối với các dự

án sản xuất quy mô lớn. Thực tế thời gian gần đây các cơ quan chức năng đã phát

hiện một số vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường với các hành vi cố ý rất tinh vi

của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề cần được các

cấp, các ngành đặc biệt quan tâm ở tất cả các khâu từ thẩm tra cấp giấy chứng nhận

đầu tư, đến triển khai thực hiện dự án cũng như quá trình hoạt động của dự án đầu

tư tại Việt Nam.

2.3.3.3. Các nguyên nhân từ phía các chủ đầu tƣ

 Từ phía các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài

Chiến lược kinh doanh của chủ đầu tư thay đổi

Các dự án đầu tư tại Việt Nam nằm trong chiến lược kinh doanh chung của

công ty mẹ, do đó, khi chiến lược kinh doanh của công ty mẹ thay đổi, sẽ có sự điều

chỉnh trong hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Các dự án có thể bị trì hoãn, cắt giảm

hoặc hoạt động triển khai dự án FDI tại Việt Nam sẽ kéo dài và trì trệ. Các tập đoàn

kinh tế Mỹ đã có những thay đổi chiến lược kinh doanh theo hình thức này khi môi

trường đầu tư tại Mỹ có những khuyến khích, ưu đãi và phát triển mạnh nên công ty

mẹ đã rút vốn đầu tư ra nước ngoài và tập trung đầu tư trong nước với lợi nhuận cao

hơn. Do đó, các dự án đầu tư đã bị giải thể trước thời hạn.

Một số nhà ĐTNN thiếu năng lực tài chính để triển khai thực hiện dự án,

80

giải ngân vốn FDI. Ngoài các yếu tố khách quan do môi trường đầu tư quốc tế gây

ra, phần lớn các dự án FDI bị giải thể là do thiếu vốn, không có khả năng đổi mới

công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất tối ưu... Ngoài ra, xuất hiện tình trạng một số

nhà ĐTNN lợi dụng xin giấy phép để “giữ chỗ”, sau đó mới tìm nguồn vốn, thậm

chí là chuyển giao cho đối tác khác để thu lợi nhuận. Khi không thu xếp được vốn,

hoặc không chuyển giao GPĐT cho đối tác khác thì dự án không thể triển khai thực

hiện được.

Một số đối tác đầu tư không chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp của Việt

Nam, hoặc lợi dụng Việt Nam đang trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc

tế, thiếu kinh nghiệm, cố tình vi phạm pháp luật, lách luật để thu lời bất chính như

dự án xây dựng khu nghỉ mát Rusalka tại Nha Trang hay vụ vi phạm quy định về

môi trường của Công ty Vêđan….Những dự án như thế này đã gây thiệt hại rất lớn

đối với tăng trưởng kinh tế và vấn đề xã hội.

 Từ phía các nhà đầu tƣ Việt Nam

Khả năng góp vốn pháp định của bên Việt Nam còn hạn chế làm cho hiệu

quả của dự án phụ thuộc phần lớn vào phía đối tác nước ngoài. Thiếu các thông

tin về đối tác đầu tư nước ngoài: Đây đang là khó khăn không chỉ của các nhà đầu

tư Việt Nam, mà còn là khó khăn chung của các cơ quan cấp GPĐT hiện nay.

Hơn nữa, trình độ chuyên môn của phía đối tác Việt Nam còn hạn chế, đặc

biệt là bộ phận quản lý, điều hành trong doanh nghiệp liên doanh. Điều này dẫn

đến tình trạng mâu thuẫn khó giải quyết được. Vấn đề đặt ra là bộ phận quản lý của

phía Việt Nam không đặt lợi ích quốc gia lên trên, do đó không đảm bảo hiệu quả

của dự án, triển khai và vận hành dự án xảy ra nhiều tranh chấp, đặc biệt tình trạng

tham nhũng.

2.3.3.4. Các nguyên nhân từ chất lƣợng dự án FDI.

Chất lượng dự án FDI chưa cao, dự án thiếu tính khả thi về sản phẩm, thị

trường. Đó là do công tác thực hiện nghiên cứu thị trường chưa tốt, đặc biệt là công

tác dự báo biến động thị trường làm cho nhiều dự án không thể tiếp tục triển khai

hoạt động. Chưa chuẩn bị đầy đủ các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác lập

81

dự án, hoặc các dự báo về sự biến động thị trường chưa tốt.

Cơ chế lựa chọn nhà đầu tư và lĩnh vực đầu tư của nước chủ nhà chưa

được kiểm soát chặt chẽ. Hiện nay, tại Việt Nam các dự án đầu tư tại các địa

phương được cấp GPĐT một cách tràn lan và không có kiểm soát, do chạy đua với

mục đích thành tích và lợi ích của địa phương mà không đặt trong lợi ích quốc gia,

quy hoạch chung của ngành, lĩnh vực và địa bàn hoạt động đầu tư. Việt Nam quan

tâm đến số lượng nhiều hơn chất lượng dự án.

Giai đoạn chuẩn bị dự án chưa được chú trọng đầu tư đúng mức: Các chủ

đầu tư nước ngoài đã không đánh giá hết được những biến động của môi trường đầu

tư, thị trường, đối tác…Do đó, sau khi dự án được cấp GPĐT, tiến hành triển khai

82

dự án nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn do khâu chuẩn bị dự án không được đảm bảo.

CHƢƠNG 3.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ GIẢI NGÂN CÁC

DỰ ÁN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Định hƣớng sử dụng nguồn vốn FDI ở Việt Nam thời gian tới

3.1.1. Bối cảnh chung

Theo kết quả dự báo của các tổ chức quốc tế và các tập đoàn kinh tế lớn trên

thế giới: “Chính phủ Việt Nam đang thực hiện kịp thời và hiệu quả các giải pháp

thích hợp nhằm vượt qua giai đoạn khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn

cầu và tình hình sẽ sớm được cải thiện kể từ năm 2009”. Theo báo cáo khảo sát

triển vọng đầu tư thế giới của UNCTAD: “Việt Nam đứng thứ 6 trong “Top 10”

nền kinh tế hấp dẫn nhất thế giới đối với FDI của các tập đoàn xuyên quốc gia giai

đoạn 2007-2009”; Có 11% tập đoàn xuyên quốc gia được khảo sát đã khẳng định

“Việt Nam sẽ là điểm đầu tư hấp dẫn nhất của họ trong những năm tới. Việt Nam

đứng sau Trung Quốc (52%), Ấn Độ (41%), Mỹ (36%), Nga (22%) và Brazil

(12%)” [34, tr.41]. Và đại diện các nhà đầu tư Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản đều

khẳng định: “Việt Nam vẫn tiếp tục có sức hút lớn đối với các nhà đầu tư quốc tế”.

Theo kết quả điều tra về môi trường kinh doanh năm nay do Ban Thư ký của

Diễn đàn doanh nghiệp công bố tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam năm 2008,

hầu hết các doanh nghiệp được điều tra đều tin tưởng “Việt Nam sẽ vượt qua các

thách thức, bình ổn kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh trong các năm 2009,

2010 và đến năm 2011 sẽ được cải thiện hơn”.

Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới sẽ làm cho nguồn vốn FDI toàn cầu sẽ bị

thu hẹp lại và sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến Việt Nam trong thời gian tới. Các tập đoàn

kinh tế toàn cầu (TNCs) đã và đang điều chỉnh chiến lược kinh doanh để đối phó

với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự điều chỉnh chiến lược của các TNCs

tác động đến cả những dự án đã được cấp phép và các dự án tiềm năng. Nhiều

83

TNCs phải tạm thời phải thu hẹp phạm vi và đình hoãn một số dự án đầu tư không

có khả năng thu xếp các khoản tín dụng. Do vậy, nhiều dự án FDI đã được cấp phép

có khả năng dãn tiến độ, thu hẹp quy mô hoặc không thực hiện, làm cho tỷ lệ vốn

FDI thực hiện so với vốn FDI đăng ký giảm so với những năm trước.

Đối với những nhà đầu tư tiềm năng, Việt Nam vẫn là thị trường hấp dẫn trong

tầm nhìn chiến lược đầu tư trung hạn và dài hạn. Dòng vốn FDI vào Việt Nam trong

vài năm trở lại đây không chỉ thay đổi về lượng (vốn đầu tư) mà cả về chất (chiều

sâu đầu tư) thông qua sự có mặt của các tập đoàn nổi tiếng trong lĩnh vực điện tử,

như: Intel, Compal, Foxconn, Samsung... Đặc biệt trong năm 2008 còn xuất hiện dự

án của các tập đoàn lớn, như Good Choi (Hoa Kỳ), Berjaya (Ma-lai-xi-a) v.v.. Điều

này cho thấy, sau một thời gian nghiên cứu thị trường Việt Nam các tập đoàn nước

ngoài đã quyết định đầu tư quy mô lớn, xem Việt Nam như một mắt xích trong

chuỗi sản xuất toàn cầu. Các dự án lớn nói trên sẽ kéo theo nhiều nhà sản xuất và

cung cấp sản phẩm phụ trợ phục vụ sản xuất.

Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đến Việt Nam tìm hiểu thị trường và

cơ hội nhưng sẽ phải cân nhắc kỹ hơn, mất nhiều thời gian hơn để quyết định tiến

hành dự án đầu tư; các ngân hàng cũng không dễ đưa ra quyết định cho vay các dự

án lớn trong điều kiện khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Hơn nữa, theo Báo cáo môi trường kinh doanh năm 2009 của Ngân hàng thế

giới (WB) và Công ty tài chính quốc tế (IFC), môi trường đầu tư kinh doanh của

Việt Nam còn nhiều “nút thắt” cần được tháo gỡ, như chỉ số: thủ tục thành lập

doanh nghiệp xếp hạng 108/181, giải thể doanh nghiệp xếp hạng 124/181, mức độ

thuận lợi trong kinh doanh 92/181….Đây là một trong các nhân tố cần được xem

xét về môi trường đầu tư và khả năng hấp thụ vốn của Việt Nam trong thời gian tới.

Nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam rất tiềm tàng, tuy nhiên vốn thực hiện vẫn

còn thấp. Chỉ số thực hiện FDI của Việt Nam năm 2006 đứng hàng thứ 78/141 quốc

gia có danh sách xếp hạng, Thái Lan (52), Trung Quốc (69), Malaysia (71)… và

đứng trên Indonesia (95), Ấn Độ (113).

Nhiệm vụ tổng quát trong thu hút và sử dụng vốn FDI trong thời gian tới là tập

84

trung khắc phục những mặt còn tồn tại của môi trường đầu tư, hạn chế đến mức

thấp nhất tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới nhằm tận dụng cơ hội thu hút

FDI, góp phần đạt mục tiêu đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã

hội và bền vững môi trường.

3.1.2. Định hƣớng thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam thời gian tới

3.1.2.1. Định hƣớng chung về thu hút và sử dụng vốn FDI

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Tăng cường thu hút vốn

đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã

hội trong 5 năm (2006-2010). Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút đầu tư

nước ngoài, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế

hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả

nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài”.

Mục tiêu phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước bình quân

5 năm 2006 – 2010 là 7,5% - 8%, phấn đấu ở mức 8%; vốn đầu tư toàn xã hội đạt

khoảng 40% GDP. Để đạt mục tiêu này, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cần

huy động là khoảng 160 tỷ USD, trong đó, ĐTNN cần đạt khoảng 25,1 tỷ USD,

trung bình trên 5 tỷ USD mỗi năm. Trong 3 năm đầu của kỳ kế hoạch 5 năm 2006 –

2010, ĐTNN đã gia tăng mạnh mẽ cả về vốn thực hiện và vốn đăng ký. So với mục

tiêu đề ra cho cả giai đoạn 5 năm 2006 – 2010, vốn đăng ký đã đạt 97,6 tỷ USD, vượt 77,4%; vốn thực hiện đã đạt khoảng 23,6 tỷ USD, bằng 94,4% mục tiêu5.

Tính lũy kế từ khi thực hiện Luật Đầu tư (năm 1987) đến nay, Việt Nam đã

thu hút được khoảng 150 tỉ USD vốn FDI cam kết, nhưng vốn giải ngân mới đạt

khoảng 56 tỉ USD, bằng khoảng 34.3% tổng vốn cam kết. Với quy mô vốn đăng ký

tăng cao đột biến trong 2 năm 2007 và 2008, việc giảm khoảng cách giữa vốn FDI

cam kết với vốn thực hiện đòi hỏi các cơ quan quản lý hoạt động FDI các cấp càng

phải nỗ lực nhiều hơn trong việc hỗ trợ trực tiếp, thiết thực đối với các dự án đang

triển khai trên địa bàn nhằm giúp các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, triển khai

giải ngân vốn theo đúng tiến độ đề ra; đồng thời tiếp tục tạo môi trường pháp lý,

5 Nghị quyết Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam

85

đầu tư - kinh doanh ngày càng minh bạch, hấp dẫn, phù hợp với cam kết quốc tế.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần tiếp tục xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống kết

cấu hạ tầng kỹ thuật, giao thông, cảng biển... bằng vốn đầu tư từ các nguồn khác

(viện trợ phát triển chính thức (ODA), tư nhân...) bắt kịp tốc độ phát triển kinh tế,

đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài.

Về vốn đăng ký: Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới cũng như bối cảnh kinh

tế vĩ mô trong nước đang có những biến động khó dự báo, dòng vốn FDI đăng ký

cũng trở nên rất khó dự báo. Tuy nhiên, theo đánh giá từ phía các nhà tài trợ, chính

sách thắt chặt tiền tệ, chính sách tỷ giá đã bước đầu phát huy tác dụng, giải pháp

thắt chặt tài khóa nếu thực hiện kiên quyết sẽ phát huy tác dụng chậm hơn, vào các

tháng cuối năm nay. Triển vọng đầu tư trung và dài hạn của Việt Nam hiện vẫn

được coi là tốt, ước dòng vốn đăng ký trong hai năm tới sẽ giảm so với năm 2008

nhưng vẫn ở mức cao, khoảng trên 20 tỷ USD/năm, đưa tổng vốn đăng ký của 5

năm 2006-2010 có thể lên tới mức 135 tỷ USD, vượt 2,4 lần kế hoạch đề ra cho cả

giai đoạn này.

Việc những năm tiếp theo khó có thể duy trì được tốc độ thu hút FDI cao như

năm 2007 và năm 2008 không có nghĩa là môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt

Nam kém hơn các năm trước. Trong giai đoạn tới cần tập trung thu hút đầu tư vào

các lĩnh vực quan trọng là công nghệ cao, phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển

nguốn nhân lực... sẽ tạo động lực và góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế-

xã hội và thu hút mạnh FDI.

Mặc dù được đánh giá rất cao về tiềm năng thu hút FDI, Việt Nam vẫn còn

nhiều việc phải làm để tiếp tục duy trì tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài,

đồng thời thúc đẩy giải ngân dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Trong bối

cảnh đặc biệt hiện nay, giải ngân vốn FDI là quan trọng hàng đầu và là công việc

khó khăn trong giai đoạn còn lại của kế hoạch 5 năm 2006-2010.

Vốn giải ngân: Với quy mô vốn đăng ký rất lớn trong những năm gần đây,

đặc biệt là năm 2007 và năm 2008, trong bối cảnh thuận lợi, vốn giải ngân trong

năm 2009 có thể đạt 13 - 14 tỷ USD/năm và tăng lên qua các năm tiếp theo, tuy

86

nhiên trong điều kiện cuộc khủng hoảng tài chính thế giới ngày càng lan rộng và có

tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của các nước, trong đó có

Việt Nam thì khả năng vốn ĐTNN thực hiện có thể đạt mức thấp hơn.

Việt Nam hướng dòng vốn FDI tiềm năng vào các ngành chủ chốt mà nền

kinh tế cần như viễn thông, điện, giao thông, giáo dục đại học và dạy nghề. Việt

Nam tích cưc xúc tiến đầu tư dự án FDI vào lĩnh vực dịch vụ và đa dạng hóa các dự

án theo hướng sản xuất phục vụ xuất khẩu.

Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi VIệt Nam phải có những biện pháp mang

tính đột phá, trong bối cảnh cạnh tranh giữa các nước về thu hút FDI ngày càng cao.

Tuy nhiên, giữa vốn đăng kí và vốn thực hiện có một khoảng cách rất lớn. Vì vậy,

mục tiêu đề ra cho thời kỳ này là đạt khoảng 20-24 tỷ USD vốn thực hiện thực sự là

một thách thức lớn. Để đạt được mục tiêu này, việc thu hút FDI phải có chọn lọc, có

trọng tâm, trọng điểm, chú trọng nâng cao chất lượng thu hút FDI lên hàng đầu, ưu

tiên các dự án quy mô lớn, tập trung vào các đối tác có khoa học công nghệ hiện

đại, và đầu tư vào các ngành dịch vụ theo cam kết gia nhập WTO. Tuy nhiêu, cung

với việc thu hút vốn FDI đòi hỏi phải chuẩn bị sẵn điều kiện cần thiết để có thể hấp

thụ nguồn vốn này, nhằm nâng cao hơn nữa tỷ lệ giải ngân, nâng cao chất lượng của

hoạt động FDI trong điều kiện mới.

3.1.2.2. Định hƣớng cụ thể về thu hút FDI gắn với thực hiện và giải ngân vốn

FDI ở Việt Nam:

Thu hút FDI vào các ngành có tỷ lệ vốn thực hiện cao

Với mục tiêu nâng cao tỷ lệ giải ngân, việc thu hút FDI vào các ngành, lĩnh

vực phải phù hợp với quy hoạch phát triển ngành, kết hợp với tình hình triển khai

thực hiện dự án đã được cấp phép đầu tư của ngành đó. Thực tế cho thấy các ngành

có tỷ lệ giải ngân cao là ngành công nghiệp nặng, công nghiệp thực phẩm, xây

dựng, tài chính ngân hàng, khách sạn du lịch, văn hóa y tế và giáo dục. Do đó, Việt

nam cần chú trọng thu hút FDI vào các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ yếu sau:

 Các dự án FDI sử dụng công nghệ cao và hiện đại phục vụ thiết thực cho mục

87

tiêu CNH-HĐH đất nước

 Các dự án FDI đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu nhằm tăng thu ngoại tệ và các dự

án FDI thay thế nhập khẩu nhằm tiết kiệm ngoại tệ cho quốc gia.

 Thu hút các dự án FDI ở một số ngành công nghiệp quan trọng như xi măng, sắt

thép, dầu khí, công nghệ viễn thông, công nghệ sinh học, sản xuất vật liệu mới...

 Thu hút các dự án FDI vào ngành dịch vụ theo yêu cầu của các cam kết quốc tế

góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ

trọng của ngành dịch vụ, tập trung vào các ngành tài chính ngân hàng, bảo hiểm,

dịch vụ du lịch lữ hành...

 Thu hút các dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực đào tạo, đặc biệt là đào tạo đội ngũ

kỹ thuật và công nhân lành nghề, góp phần trực tiếp vào việc giải quyết và tháo gỡ

khó khăn cho các nhà đầu tư về chất lượng lao động tại Việt nam.

Đồng thời, có những biện pháp khuyến khích, hỗ trợ triển khai các dự án FDI

có tỷ lệ giải ngân thấp trong một số ngành như:

 Ưu tiên các dự án FDI vào các giao thông, xây dựng khu đô thị và các nguồn

nguyên liệu thô quan trọng;

 Khuyến khích các dự án sử dụng nhiều lao động góp phần giải quyết việc làm,

ổn định đời sống xã hội;

 Các dự án FDI đầu tư vào ngành nông lâm nghiệp, do lượng vốn FDI vào ngành

này còn rất thấp, chưa phù hợp với thế mạnh và tiềm năng của phát triển của Việt

Nam.

Ưu tiên thu hút FDI vào các tỉnh, thành phố có tỷ lệ vốn thực hiện cao

Phải kết hợp giữa việc tăng cường thu hút FDI trên cơ sở kết hợp với các địa

phương có tỷ lệ giải ngân cao với các địa phương có tiềm năng thu hút FDI nhiều,

nhưng có tỷ lệ giải ngân không thấp quá so với mức trung bình chung của cả nước.

Trong quá trình thu hút FDI không nên quá quan tâm đến việc đảm bảo sự cân đối

giữa các địa phương. Các địa phương thu hút lượng vốn FDI nhiều hay ít phụ thuộc

vào nhiều yếu tố, gồm có biện pháp khuyến khích tài chính, miễn giảm thuế, sự hỗ

trợ cần thiết về cơ sở hạ tầng, phát triển thị trường, nâng cao trình độ nguồn nhân

88

lực.

Ưu tiên thu hút FDI từ các đối tác có tỷ lệ vốn thực hiện cao

Định hướng thu hút FDI theo các đối tác trên cơ sở ưu tiên gia tăng tỷ lệ giải

ngân của nguồn vốn này. Tập trung thu hút FDI từ các đối tác có tỷ lệ giải ngân cao,

và các đối tác có số dự án và lượng vốn đầu tư lớn vào Việt Nam. Tiếp tục duy trì

vận động thu hút FDI từ các nước trong khu vực có tiềm năng kinh tế mạnh như

Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Signapore, Malaysia. Đặc biệt chú trọng đến đối

tác Nhật Bản, có tỷ lệ giải ngân các dự án FDI cao. Chuyển mạnh thu hút FDI sang

các nước Châu Âu và Mỹ la tinh. Đây là các đối tác có tỷ lệ giải ngân cao như Hoa

Kỳ, Hà Lan, Pháp, Anh.

3.2. Một số giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân dự án FDI ở Việt Nam.

3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô

Để giải ngân được nguồn vốn FDI của Việt Nam hiện nay, cần phải đẩy nhanh

tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng, giao đất cho nhà đầu tư đúng tiến độ và có

những chính sách hỗ trợ nhà đầu tư trong công tác giải ngân. Đồng thời, Việt Nam

cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, minh bạch hóa các thủ tục trong đầu tư và

các lĩnh vực liên quan, giúp các nhà đầu tư giải quyết vướng mắc để nhanh chóng

triển khai thực hiện dự án nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả của dự án FDI cho

cả chủ đầu tư và nước nhận đầu tư. Đây là một yêu cầu đòi hỏi sự phối hợp của cả

phía Nhà nước và nhà ĐTNN.

3.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện và điều chỉnh hệ thống luật pháp, chính sách

nhằm thúc đẩy hoạt động thực hiện dự án, giải ngân vốn FDI.

Việt Nam tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa

đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và

loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt

Nam với WTO. Sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ

tục đầu tư và kinh doanh. Chất lượng hệ thống văn bản pháp luật cần được tiếp tục

nâng cao, đảm bảo tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, có tính dự đoán trước

89

được. Cụ thể là:

- Triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp đồng bộ

với Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ…

- Tiếp tục xây dựng các văn bản hướng dẫn còn thiếu và các văn bản hướng dẫn

thi hành các luật mới khác có liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh. Rà soát

các qui định trái với cam kết WTO, văn bản có qui định trái với tinh thần của Luật

đầu tư và văn bản hướng dẫn thi hành Luật này về thực hiện các cam kết WTO để

có biện pháp xử lý. Đồng thời phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp tiếp tục

thực hiện qui định trái với nội dung đã cam kết về WTO. Tiến hành nghiên cứu,

đánh giá để sửa đổi, bổ sung các chính sách thuế, ưu đãi đầu tư và các chính sách

khác nhằm khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực và địa bàn ưu tiên. Cần chuyển

sang tiếp nhận đầu tư có điều kiện trên cơ sở cân đối tính bền vững của dự án FDI.

Sửa đổi các quy định theo hướng tăng cường cho hoạt động triển khai thực

hiện dự án, giải ngân vốn FDI, như được quyền chuyển nhượng giá trị phần vốn góp

cho bất kỳ đối tác nào; được đăng ký mở tài khoản giao dịch ở nước ngoài; được

chủ động tái cấu trúc doanh nghiệp.

Cần sớm ban hành Thông tư hướng dẫn về ĐTNN trong lĩnh vực Giáo dục và

đào tạo nhằm một mặt, khai thông nguồn vốn FDI mới trong lĩnh vực này. Mặt

khác, nhằm thúc đẩy triển khai thực hiện các dự án FDI đã được cấp GPĐT. Cần

nhanh chóng xây dựng quy chế về việc cán bộ Việt Nam tham gia vào Hội đồng

quản trị và quản lý các dự án liên doanh.

Cùng với đó là theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh

nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban

hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông

qua trong thời gian gần đây có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Đồng thời tiếp tục

ban hành các chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các

công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hóa, thể thao) cho người lao

động làm việc trong các KCN-KCX, khu công nghệ cao, khu kinh tế.

Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án

90

công nghệ lạc hậu; dự án tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử

dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ

đất, không triển khai; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất KCN.

3.2.1.2. Tiếp tục thực hiện cải cách các thủ tục hành chính về triển khai thực

hiện dự án FDI

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính là một biện pháp rất quan trọng, không

những góp phần tăng cường thu hút FDI mà còn có tác dụng đẩy nhanh tiến độ thực

hiện dự án, giải ngân vốn FDI. Đây là biện pháp đòi hỏi có sự cố gắng và nỗ lực của

nhiều cấp, nhiều ngành và mang tính lâu dài, song cũng cần tập trung giải quyết các

vấn đề bức xúc trước mắt, nhất là khâu thủ tục.

Về thủ tục đất đai: Nhà nước Việt Nam cần nhanh chóng ban hành thông tư

hướng dẫn chi tiết việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh

nghiệp có vốn ĐTNN đã hoàn thành việc trả tiền thuê đất, tạo điều kiện để các

doanh nghiệp trong việc thế chấp tài sản khi vay vốn ngân hàng.

Tiếp tục cải cách các thủ tục liên quan đến đất đai như: thủ tục cấp đất, thuê

đất, thế chấp quyền sử dụng đất, cho phép cấp huyện được cấp Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất thay vì cấp tỉnh. Chính phủ nên ban hành những luật lệ cho phép

việc mua bán quyền sử dụng đất giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong phạm

vi quy định vùng, môi trường, và các vấn đề pháp lý khác mà không cần phải qua

các thủ tục chấp nhận trước của bất cứ cơ quan nào của Nhà nước. Thay đổi thủ tục

và cơ chế giải phóng mặt bằng theo hướng chuẩn bị sẵn quỹ đất cho các nhà ĐTNN

lựa chọn, hoặc chuyển sang đền bù theo đất, chứ không đền bù theo tiền như hiện

nay. Đẩy nhanh tiến độ phê duyệt quy hoạch đất đai, KCN, KCX, khu công nghệ

cao, khu kinh tế và thực hiện công khai hóa quy hoạch rộng rãi nhằm tạo điều kiện

cho nhà đầu tư xây dựng dự án. Đồng thời, các ngành, địa phương tổ chức giải

quyết tốt các thủ tục đất đai phục vụ công tác đầu tư như đền bù, giải phóng mặt

bằng, di dời, tái định cư cho người dân khu vực đầu tư...

Về thủ tục cấp giấy chứng nhận và điều chỉnh giấy phép đầu tư: Tiếp tục minh

bạch hóa quy trình, thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư, bao gồm thực hiện cơ chế

91

“một cửa”. Rà soát các vướng mắc về thủ tục hành chính ở các ngành, các khâu liên

quan tới triển khai dự án đầu tư như thủ tục về đất đai, hải quan, cấp dấu.. nhằm đẩy

nhanh tiến độ, đăng ký đầu tư mới và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư, giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Cải tiến công tác quản lý nhà nước đối với các dự án FDI sau khi cấp giấy

chứng nhận đầu tư. Một trong hai mục tiêu quan trọng của quản lý nhà nước đối với

các dự án FDI là phát hiện và xử lý kịp thời những vẫn đề vướng mắc, phát sinh

trong hoạt động triển khai dự án FDI. Vì vậy, cần nâng cao năng lực của các cơ

quan quản lý nhà nước về đầu tư của bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh và Ban quản

lý KCN, KCX, khu kinh tế, khu công nghệ cao. Tăng cường chức năng cung cấp,

phổ biến thông tin cho các nhà đầu tư khi họ có nhu cầu trong quá trình thực hiện

dự án. Cần tăng cường giám sát hoạt động triển khai của các dự án FDI, nhất là

khâu xây dựng cơ bản nhằm đảm bảo đúng tiến độ của dự án, đúng thiết kế, kiến

trúc công trình nhằm hạn chế tối đa tình trạng vi phạm sau khi công trình đã xây

dựng xong mới giải quyết hậu quả gây nhiều tốn kém về thời gian và tiền bạc.

Các thủ tục khác như thủ tục thiết kế và xây dựng, cần đơn giản hơn nữa các

thủ tục phê duyệt và thẩm định thiết kế. Cho phép các hàng hóa của tất cả các doanh

nghiệp có vốn ĐTNN được kiểm hóa tại các kho hàng của họ, tránh tình trạng ùn

tắc, lưu kho phát sinh rất nhiều chi phí và gây phiền nhiễu. Để tiết kiệm thời gian đi

lại cho các nhà ĐTNN cho phép tiến hành các thủ tục bằng cách gửi thư đến các địa

chỉ cần thiết mà không cần trực tiếp đến các cơ quan để đăng ký. Hơn nữa, các cơ

quan quản lý Nhà nước nên chuẩn bị sẵn các mẫu đơn để các nhà đầu tư chỉ cần

điền vào mẫu.

3.2.1.3. Hoàn thiện và nâng cao chất lƣợng công tác quy hoạch, có chiến lƣợc,

kế hoạch thu hút FDI một cách chính xác và rõ ràng.

Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Việt Nam cần có

các chính sách nhằm giảm thiểu các rủi ro mang tính chủ quan gây thiệt hại cho các

nhà ĐTNN. Cụ thể theo hướng:

Đối với công tác quy hoạch, các địa phương cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng

92

và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các

quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác

định và xây dựng dự án. Mặt khác, quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định

mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, bảo đảm việc xây dựng các quy

hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.

Tăng cường định hướng thu hút các dự án FDI chất lượng cao, tập trung vào

các ngành có hàm lượng công nghệ cao, các ngành dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao

và giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng, giáo dục, đào tạo, giám định,

marketing và phân phối, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng…

Bên cạnh việc đa phương hóa quan hệ đối tác đầu tư, chúng ta cần có định

hướng thu hút các dự án FDI từ các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia lớn trên

thế giới, tập trung vào một số nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản,

các nước EU và NICs.

Phải có chế tài buộc các cấp chính quyền địa phương tuân thủ quy hoạch

chung, đặc biệt là có thái độ kiên quyết không cấp phép hoặc thu hồi giấy phép của

những dự án không có khả năng thực hiện, gây tác động xấu đến môi trường, kinh

tế - xã hội, giữ đất không sử dụng.

3.2.2. Nhóm giải pháp vi mô

3.2.2.1. Giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng

Cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ là giải pháp ưu tiên, và là nhiệm vụ cấp bách không

chỉ đối với các dự án đã hoàn thành thủ tục đầu tư, đang triển khai dự án mà còn đối

với thu hút FDI trong những năm tới, nhất là thu hút FDI từ MNCs. Theo đó, tiến

hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ

tầng đến năm 2020 làm cơ sở để thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, các công

trình giao thông, năng lượng…

Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là

nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh

môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước

hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất

93

lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai

hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các

mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà

Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng

mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính

viễn thông, công nghệ thông tin. Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến

khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết

cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, nhà máy điện độc lập.

Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư

dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh

tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các

khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v.

Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn

thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng

mạng. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết

của Việt Nam với WTO đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà Việt Nam có nhu cầu

về văn hóa - y tế - giáo dục, hàng hải, hàng không.

3.2.2.2. Giải pháp về lao động, tiền lƣơng

Thực tế các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động có trình

độ, nhất là ngành dịch vụ, cho thấy để đẩy nhanh thực hiện dự án đầu tư và tăng

chất lượng các dự án thì cần nhanh chóng tăng tỷ lệ lao động có trình độ và tay

nghề cao. Bên cạnh khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đào tạo cán bộ quản lý

thì cần đồng thời vận động thu hút FDI vào đào tạo công nhân kỹ thuật ở một số

lĩnh vực quan trọng như công nghệ, điện tử, viễn thông…

Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo dạy nghề phục vụ cho dự án

FDI, cần: đẩy nhanh triển khai kế hoạch đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào

tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các

trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm

các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau; Nghiên

94

cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ

luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp

pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao

gồm: Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp

trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp

luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc

và đời sống cho người lao động; Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông

qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử

dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính

sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc; Tiêu

chuẩn hóa các cơ sở đào tạo và dạy nghề đi kèm với những cơ chế kiểm định chất

lượng rõ ràng. Tránh tình trạng các cơ sở dạy nghề mọc lên tràn lan, chất lượng đào

tạo thấp, gây tốn kém cho người lao động.

Tổ chức đánh giá và xếp loại các trường, lựa chọn các trường trọng điểm để

tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hiện đại hóa dụng cụ trang thiết bị, và các phương

tiện giảng dạy. Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo, kết hợp giữa đào tạo trong

nước và đào tạo nước ngoài. Cần mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo,

khuyến khích và kêu gọi các dự án FDI nhằm đào tạo các cán bộ quản lý và công

nhân tay nghề cao ở một số lĩnh vực như công nghệ, điện tử, viễn thông...

3.2.2.3. Giải pháp về giải phóng mặt bằng

Để giải ngân nguồn vốn FDI, cần đẩy nhanh tiến độ đền bù giải phóng mặt

bằng, giao đất cho nhà đầu tư đúng tiến độ và có những chính sách hỗ trợ nhà đầu

tư trong công tác giải ngân. Những bất cập về giải phóng mặt bằng chủ yếu liên

quan đến chính sách dân sinh và an sinh xã hội, công tác tái định cư cho người dân

tại các địa phương có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều tồn tại.

Về giải phóng mặt bằng, chính quyền địa phương cần tăng cường sự chỉ đạo

các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng

nhận đầu tư đối với các dự án FDI không có khả năng triển khai hoặc chưa có kế

95

hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư mới có

hiệu quả hơn. Đồng thời, trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức

việc đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự

án quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án.

3.2.2.4. Có chiến lƣợc thu hút các nhà ĐTNN đầu tƣ vào một số lĩnh vực có

hàm lƣợng công nghệ cao, sản xuất xuất khẩu, tăng chất lƣợng dịch vụ; Xây

dựng và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ dựa vào hoạt động FDI.

Bên cạnh các biện pháp hỗ trợ, ưu đãi đầu tư theo lĩnh vực và địa bàn, thì cần

nhanh chóng có chính sách, biện pháp cụ thể để thu hút FDI từ MNCs với dự án qui

mô lớn, sử dụng công nghệ cao hướng sản xuất xuất khẩu. Đối với các dự án lớn

của MNCs cần qui định việc xây dựng các trung tâm nghiên cứu và phát triển, vườn

ươm công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực và tạo mọi điều kiện cho nhà đầu tư

để thực hiện các qui định đó. Tiếp tục nâng cấp chất lượng dịch vụ phục vụ cho

thực hiện đầu tư như dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ kỹ thuật công nghệ,

chuyển giao công nghệ, dịch vụ tư vấn lao động, việc làm…để tăng tính cạnh tranh

của môi trường đầu tư.

Thu hút dự án FDI ngành công nghiệp phụ trợ và có chiến lược với chính sách

hỗ trợ cụ thể đối với ngành này. Nên nghiên cứu xây dựng mô hình sản xuất liên kết

ngang, hình thành các doanh nghiệp vệ tinh, sản xuất linh phụ kiện cho các doanh

nghiệp sản xuất hướng xuất khẩu (dệt may, da giày, điện tử, điện lạnh…) và ngành

sản xuất ô tô, xe gắn máy. Mô hình liên kết ngang, trụ cột là các FIEs qui mô lớn sẽ

tạo ra tác động lan tỏa (ví dụ thông qua các qui định về chuyển giao công nghệ, học

hỏi lẫn nhau qua các hợp đồng mua bán...) và có tác dụng lôi cuốn các doanh nghiệp

Việt Nam tham gia vào chuỗi tạo giá trị (cả tác động kéo và tác động đẩy).

3.2.2.5. Nâng cao chất lƣợng của dự án FDI

Nhằm kiểm tra chất lượng của dự án, trước khi cấp GPĐT cho phép dự án

được triển khai thực hiện tại Việt Nam, cơ quan quản lý FDI cùng các cơ quan ban

ngành liên quan phải cùng phối hợp đánh giá, kiểm tra và kiểm định chất lượng dự

án FDI theo nguyên tắc và có hiệu quả cao. Thẩm định tính khả thi của dự án FDI là

96

khâu quan trọng nhất trong quá trình xét duyệt hồ sơ dự án, bao gồm tính khả thi về

kỹ thuật và tài chính của dự án. Tính khả thi của dự án phải xem xét trên nhiều khía

cạnh, tính khả thi về sản phẩm, thị trường, hình thức kinh doanh, chiến lược đầu

tư...

Nâng cao công tác nghiên cứu thị trường, đặc biệt là công tác dự báo biến

động thị trường, nhằm đưa ra chiến lược kinh doanh, điều chỉnh chính sách đầu tư

của doanh nghiệp một cách kịp thời và hiệu quả. Qua đó, dự án FDI vẫn có thể được

thực hiện theo đúng tiến độ và có chất lượng trước các biến động của thị trường.

Chuẩn bị đầy đủ và đồng bộ các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác lập

dự án, và dự báo biến động thị trường cần được tổng hợp và báo cáo chính xác.

Nguồn thông tin và hệ thống thông tin cần được kiểm tra thường xuyên và đảm bảo

tính chuẩn xác cao, đảm bảo tính khả thi của dự án, nâng cao chất lượng của dự án

khi tiến hành triển khai thực hiện, giải ngân vốn FDI.

Nâng cao chất lượng công tác lập dự án nhằm lựa chọn các dự án có tính khả

thi cao. Thực tế cho thấy không ít dự án bị giải thể do các nhà đầu tư chưa nghiên

cứu, tìm hiểu kỹ thị trường Việt Nam và chưa nắm bắt được các yêu cầu, các quy

định đối với ĐTNN tại Việt Nam. Do đó, các nhà đầu tư ngoài đủ năng lực tài

chính, năng lực quản lý, kinh nghiệm kinh doanh còn phải nắm bắt được tình hình

cụ thể của thị trường nước sở tại và môi trường kinh doanh của nước nước nhận đầu

tư để có những phương án hiệu quả.

+ Nhà đầu tư phải nghiên cứu kỹ và đánh giá chính xác về thị trường Việt

Nam để đưa ra các quyết định hợp lý. Tăng cường chất lượng công tác dự báo biến

động của thị trường trước khi lập dự án đầu tư.

+ Nhà đầu tư cần phải nghiên cứu đầy đủ các văn bản pháp luật như chính

sách khuyến khích ưu đãi đầu tư, nắm vững ccác quy định, thủ tục mới ban hành

nhằm dự đoán những khả năng bất thường có thể xảy ra và đưa ra các phương án xử

lý kịp thời.

+ Nâng cao chất lượng công tác đàm phán và kí kết các văn bản pháp lý, đặc

biệt là hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng liên doanh nhằm hạn chế tối đa

97

những bất lợi, rủi ro cho phía Việt Nam.

3.2.2.6. Đánh giá và kiểm soát năng lực của chủ đầu tƣ nƣớc ngoài

Các cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài, các Bộ ban ngành liên quan đến thẩm

định dự án FDI, cần có cơ chế kiểm tra, đánh giá năng lực của chủ đầu tư nước

ngoài một cách chính xác và đầy đủ. Thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin nhiều

chiều về chủ đầu tư nước ngoài, nhằm kiểm soát được khả năng của chủ đầu tư, đặc

biệt là năng lực tài chính và khả năng đóng góp của dự án vào sự phát triển kinh tế -

xã hội của Việt Nam. Nâng cao trình độ của cán bộ thẩm định dự án cấp địa phương

và trung ương. Dự án FDI cấp GPĐT phải đảm bảo tính khả thi cao và có chất

lượng triển khai thực hiện tốt, nhằm khai thác tối đa nguồn vốn FDI quan trọng góp

phần vào mục tiêu thu hút và sử dụng vốn FDI của Chính phủ Việt Nam.

Sau khi cấp GPĐT, tổ chức một nhóm điều tra thực hiện công tác hậu kiểm

đối với các dự án FDI triển khai thực hiện, đánh giá tiến độ và chất lượng của dự án,

giải quyết các vướng mắc và kiểm soát những thay đổi của dự án. Giải quyết triệt để

đối với các dự án FDI không triển khai thực hiện đúng tiến độ, cố tình vi phạm, kéo

dài thời gian thực hiện dự án, giải ngân vốn FDI, gây thiệt hại đối với địa phương

và lợi ích của bên Việt Nam.

Nhanh chóng kiểm tra và xử lý đối với các chủ đầu tư nước ngoài vi phạm luật

pháp Việt Nam, cố tình trì hoãn dự án FDI, không đưa dự án vào triển khai thực

hiện đúng tiến độ, lợi dụng dự án được cấp GPĐT để kinh doanh bất chính, tiến

hành sản xuất kinh doanh không đúng với ngành nghề, lĩnh vực ghi trong GPĐT.

Đối với các trường hợp vi phạm, cần phải được xử lý chặt chẽ và nghiêm minh, tạo

môi trường đầu tư lành mạnh cho tất cả các đối tác.

Lựa chọn các đối tác đầu tư tiềm năng, có năng lực tài chính mạnh, rõ ràng.

Tập trung thu hút các tập đoàn kinh tế, các công ty xuyên quốc gia và các công ty

giàu kinh nghiệm của các quốc gia phát triển. Không thể cấp phép tràn lan, phải lựa

chọn đối tác, lựa chọn hình thức và địa bàn đầu tư hợp lý, phù hợp với quy hoạch và

kế hoạch chung của Việt Nam.

Đa dạng hóa các kênh tìm kiếm đối tác nước ngoài có đủ năng lực để hợp tác

98

kinh doanh. Trong thời gian qua, có không ít các dự án FDI bị giải thể do phía đối

tác nước ngoài không có thiện chí làm ăn lâu dài tại Việt Nam hoặc thiếu năng lực

tài chính hoặc thiếu năng lực quản lý điều hành dự án. Nguyên nhân đó là do việc

tìm hiểu đối tác đầu tư nước ngoài của các nhà đầu tư, doanh nghiệp Việt nam

không chính xác, không kỹ lưỡng, thiếu thông tin, thậm chí quá dễ dãi trong việc

lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài. Để hạn chế những rủi ro do đối tác nước ngoài

chủ động gây ra thì phía Việt Nam cần thực hiện một số biện pháp như:

+ Tìm hiểu rõ mục đích của đối tác nước ngoài để biết rõ mục đích chính của

đối tác là họ muốn làm ăn lâu dài tại Việt Nam hay chỉ muốn lợi dụng kẽ hở của

pháp luật Việt Nam để kiếm lời.

+ Nghiên cứu và đưa ra được những nhận định chính xác tiềm lực tài chính,

công nghệ của đối tác để lựa chọn được đối tác phù hợp với các dự án FDI ở Việt

Nam.

+ Đánh giá đúng đắn năng lực của đối tác về năng lực tài chính, năng lực quản

lý, năng lực kinh doanh..

Tăng cƣờng sử dụng dịch vụ tƣ vấn trong quá trình thực hiện dự án:

Đây là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đặc

biệt là các doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN.

+ Các nhà đầu tư cần tích cực tiếp cận các tổ chức tư vấn ĐTNN trong và ngoài

nước Việt nam để nắm bắt được những thông tin cập nhật, những quy định về thực

hiện dự án, giải ngân vốn FDI sau khi được cấp GPĐT.

+ Sử dụng tư vấn trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính về thực hiện dự

án FDI.

3.2.2.7. Nâng cao năng lực của các nhà đầu tƣ Việt Nam

Nâng cao khả năng góp vốn pháp định của bên Việt Nam nhằm tăng hiệu quả

của dự án FDI và giảm sự phụ thuộc vào phía đối tác nước ngoài. Nhà đầu tư Việt

Nam cần phải tham gia sâu vào hoạt động của doanh nghiệp có vốn FDI nhằm kiểm

soát hoạt động sản xuất kinh doanh và đảm bảo nguồn vốn đầu tư có hiệu quả,

99

không bị chi phối bởi đối tác nước ngoài.

Thông tin về đối tác đầu tư nước ngoài phải được thu thập và kiểm định chính

xác nhằm xác định năng lực kỹ thuật và tài chính của nhà đầu tư khi tiến hành đầu

tư tại Việt Nam. Có nhiều dự án cấp GPĐT mà phía Việt Nam không nắm rõ khả

năng của nhà đầu tư, dự án được cấp phép không được triển khai thực hiện, vốn

không đưa vào giải ngân, năng lực tài chính của nhà đầu tư không được đánh giá

chính xác; hay nhà đầu tư tiến hành đầu tư không đúng mục đích, lợi dụng điều kiện

để kinh doanh bất chính... Do đó, cần xây dựng và hợp tác với các cơ quan xúc tiến

đầu tư, các tổ chức trong và ngoài nước nhằm hình thành hệ thống thông tin liên

quan, xác định năng lực của nhà đầu tư nước ngoài, đảm bảo dự án FDI sau khi cấp

GPĐT được đưa vào triển khai thực hiện đúng tiến độ, đóng góp vào sự phát triển

chung của nền kinh tế Việt Nam.

Một giải pháp cần phải được các cơ quan chức năng quan tâm và cải thiện, đó

là nâng cao trình độ chuyên môn của phía đối tác Việt Nam, đặc biệt là bộ phận

quản lý, điều hành trong doanh nghiệp có vốn FDI. Nâng cao ý thức trách nhiệm

của đội ngũ cán bộ phía Việt Nam, đặt lợi ích quốc gia lên trên, đảm bảo dự án FDI

được triển khai thực hiện đúng tiến độ, chất lượng dự án được đảm bảo và hiệu quả

100

của nguồn vốn được khai thác hợp lí.

KẾT LUẬN

Hiện nay, vấn đề Việt Nam cần phải đẩy nhanh thực hiện và là nhiệm vụ cơ

bản nhất là giải ngân vốn FDI với lượng vốn đăng kí ngày càng gia tăng. Sau khi

gia nhập WTO, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam là điểm đến

hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư từ nhiều quốc gia khác nhau đầu tư vào các lĩnh vực

tiềm năng của thị trường Việt Nam và thế giới. Do đó, nhằm khai thác tối đa hiệu

quả của nguồn vốn FDI góp phần vào mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ

quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, Việt Nam cần tiến hành đồng bộ

nhiều giải pháp, nhanh chóng đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn FDI, nâng cao tỷ lệ

giải ngân, thu hẹp khoảng cách giữa vốn đăng kí và vốn thực hiện.

Với đề tài “Giải ngân các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam’,

luận văn đã giải quyết được một số nhiệm vụ sau đây:

Luận văn đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về vốn FDI và giải ngân vốn

FDI; đồng thời tìm hiểu một số bài học kinh nghiệm của các nước châu Á về giải

ngân vốn FDI. Qua đó, luận văn đã phân tích, đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp

nước ngoài tại Việt Nam trong sự vận động của vốn FDI, và những đóng góp giải

ngân vốn FDI sau khi dự án được triển khai và đi vào hoạt động. Tuy nhiên, luận

văn tập trung chủ yếu vào phân tích và đánh giá tình hình thực hiện vốn đầu tư; và

đưa ra được đánh giá về những thành tựu và hạn chế trong hoạt động thực hiện dự

án, giải ngân vốn FDI thời gian qua.

Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân đang cản trở giải ngân vốn FDI,

luận văn đã đề xuất một số biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn FDI tại

Việt Nam trong thời gian tới, góp phần vào việc nâng cao tỷ lệ giải ngân, để nguồn

vốn này thực sự đóng vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện

101

đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh (2006), Tác động của Đầu tư trực tiếp nước ngoài tới

tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Dự án CIEM – SIDA “Nâng cao năng lực

nghiên cứu chính sách để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của

Việt Nam thời kỳ 2001-2010”.

2. TS. Lê Xuân Bá (2006), Tác động của Đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng

trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.

3. Nguyễn Kim Bảo (2004), Điều chỉnh một số chính sách phát triển kinh tế ở

Trung Quốc, giai đoạn 1992-2010, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Đỗ Đức Bình, Bùi Huy Nhượng, (2001), Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh

triển khai thực hiện các dự án FDI tại Việt Nam – Tạp chí Kinh tế Châu Á –

Thái Bình Dương, Hà Nội: Trung tâm kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương,

12/2001, số 6 – tr 17-20

5. Trần Nam Bình (2004), FDI nông nghiệp 1988-2003 và định hướng tới năm

2010, Báo cáo Chương trình hỗ trợ quốc tế, Bộ NN&PTNT.

6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Chính sách đầu tư nước ngoài trong tiến trình

Hội nhập kinh tế quốc tế, Tài liệu Hội thảo quốc tế về “Việt Nam sẵn sàng gia

nhập WTO”, 6/2003, Hà Nội.

7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Thêm hình thức đầu tư mới: Doanh nghiệp FDI

sẽ có được phép thành lập công ty mẹ - con, Báo Đầu tư (29/6/2005)

8. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2009), Báo cáo tổng kết 20 năm tình hình đầu tư trực

tiếp nước ngoài tại Việt Nam (1988-2008), Hà nội.

9. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 13/NQ-CP về định hướng, giải pháp thu hút

và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, ngày 7 tháng 4

102

năm 2009, Hà Nội.

10. Lê Thế Hoàng, Nguyên Đình Hùng (IPSARD), Dự án Điều tra đánh giá thực

trạng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, Hà Nội.

11. Nguyễn Thị Hường (2001), Một số giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong

triển khai thực hiện các dự án FDI tại Việt Nam- Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Hà

Nội, 2001, Số 12 – tr.7-9

12. Nguyễn Thị Hường (2002), Quản trị dự án đầu tư nước ngoài và doanh nghiêp

có vốn FDI, Nxb Thống kê, Hà nội.

13. Lê Thế Giới (2004), Môi trường đầu tư tại Việt Nam qua góc nhìn của nhà đầu

tư nước ngoài, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 1/2004

14. Nguyễn Ngọc Mai (1996), Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

15. Phùng Xuân Nhạ (2001), Kinh tế quốc tế, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

16. Phùng Xuân Nhạ (2007), Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam,

Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

17. Bùi Huy Nhượng (2005), Triển khai thực hiện dự án FDI tại Việt Nam: Thực

trạng và giải pháp, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 100 tháng 10 năm 2005.

18. Phạm Thái Quốc (2008), Điều chỉnh chính sách thu hút FDI trong quá trình hội

nhập quốc tế ở Trung Quốc từ năm 1979 đến nay, Số 7 (147), trang 21-30, Tạp

chí Những vấn đề kinh tế & Chính trị thế giới, Hà Nội.

19. Phạm Quốc Trung (2007), Triển vọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của

các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam đến năm 2010, Tạp chí Kinh tế và Dự

báo, số 3 (407), tr. 11 -13.

20. Nguyễn Quốc Trường (2009), Trung Quốc 30 mở cửa cải cách, Báo Tổ quốc,

103

Hà Nội.

Tiếng Anh:

21. Alec Zhi ZUO (2007), Manufacturing Foreign Direct Investment (FDI) in

China: Where and Why Does It Occur?, Centre for Regulation and Market

Analysis, China.

22. Ari Kokko, Katarina Kotoglou and Anna Krohwinkel-Karlsson (2003), The

implementation of FDI in Vietnam: an analysis of the characterisitics of failed

projects.

23. Chadin Rochananonda (2006), Tax Incentives and FDI in Thailand, Report on

International Symposium on FDI and Corporate Taxation: Experience of Asian

Countries and Issues in the Global Economy, Tokyo.

24. Cust Nestor (2008), Around the figure $US 50,0 billion of Vietnam FDI capital,

Vietnam Economic Times dated 9/9/2008, http://www.vneconomy.com

25. Edward M. Graham (2001), Foreign Direct Investment in China: Effects on

Growth and Economic Performance, Oxford University Press

26. Françoise Lemoine (2000), FDI and the Opening up of China’s Economy,

CEPPII.

27. K.C. Fung, Hitomi Iizaka, Sarah Tong (2002), Foreign Direct Investment in

China: Policy, Trend and Impact, Paper in the international conference on

China’s Economy in the 21st Century, Hong Kong.

28. Kenichi Ohno (2008), Industrial Strategy for Vietnam New Era, GRIPS)

29. OECD (2003), FDI policy in China, OECD Development Centre

30. Peter Brimble (2002), Foreign Direct Investment: Performance and Attraction:

The case of Thailand, Paper in the workshop on Foreign Direct Investment:

Opportunities and Challenges for Cambodia, Laos and Vietnam, Hanoi.

31. Revenue Law Journal (2008), Tax incentive Policies for Foreign – Invested

Enterprises in China and their influence on Foreign Investment, China.

32. UNTACD (2007), World Investment Prospects Survey (2007-2009), United

104

Nations, New York and Geneva.

33. UNCTAD Investment Brief (2007), Rising FDI into China: The Facts behind

the numbers, United Nations, New York and Geneva.

34. UNCTAD (2008), World Investment Report 2008, Transnational Corporations,

and the infrastructure Challenge, United Nations, New York and Geneva.

Tài liệu website:

35. www.mpi.gov.vn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

36. http://fia.mpi.gov.vn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư

37. http://www.vafie.org.vn: Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài

38. www.worldbank.org.vn: Ngân hàng thế giới tại Việt Nam

39. http://thongtindubao.gov.vn: Trung tâm Thông tin&Dự báo KT-XH

40. http://www.ciem.org.vn: Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương

41. http://gso.gov.vn: Tổng cục thống kê Việt Nam

42. http://www.unctad.org: United Nations Conference Trade&Development

43. http://www.chinalawinsight.com: Đầu tư tại Trung Quốc

44. http://www.fdi.gov.cn: Cục Đầu tư nước ngoài của Trung Quốc

45. http://www.thailand.com: Đầu tư tại Thái Lan

105

46. http://www.boi.go.th: Ủy ban Đầu tư của Thái Lan