1
BỘ GIÁODỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH --------------------------
NGUYỄN THỊ THU HIỀN
GIẢP PHÁP ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN NGOẠI TỆ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng : 60.31.12
Mã số
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.Ung Thị Minh Lệ
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2009
2
MỤC LỤC
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
Danh mục các hìnhvẽ, đồ thị
Lời mở đầu
Chương I: Lý luận về quyền chọn .............................................................................01
1.1. Sơ lược về lịch sử ra đời các công cụ phái sinh: ...................................................01
1.1.1. Lịch sử ra đời các công cụ phái sinh: ..............................................................01
1.1.2.Các công cụ phái sinh: ......................................................................................01
1.2. Vai trò của công cụ phái sinh trong hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng
Thương Mại: ........................................................................................................02
1.2.1. Vai trò của công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá: .......................02
1.2.2. Ưu điểm và hạn chế của các công cụ phái sinh: ...........................................04
1.3. Tổng quan về quyền chọn và quyền chọn tiền tệ: ...............................................07
1.3.1 Giới thiệu về lịch sử thị trường quyền chọn và quyền chọn tiền tệ: ...............07
1.3.2. Khái niệm, tính chất của quyền chọn nói chung và quyền chọn tiền tệ nói riêng:
........................................................................................................................09
1.3.3. Các bên tham gia trong giao dịch quyền chọn tiền tệ:....................................13
1.3.4. Định giá hợp đồng quyền chọn: .....................................................................13
1.4. Sử dụng quyền chọn trong phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá ngoại tệ đối
với hoạt động của doanh nghiệp:............................................................................18
1.4.1. Phân tích rủi ro tỷ giá trong hoạt động của doanh nghiệp...............................18
1.4.2.Phòng ngừa rủi ro tổn thất do rủi ro tỷ giá trong giao dịch khoản phải thu phải
trả ngoại tệ bằng công cụ quyền chọn:..............................................................21
1.4.3. Những lợi ích và rủi ro khi sử dụng quyền chọn:............................................25
Chương II: Thực trạng việc áp dụng công cụ quyền chọn ngoại tại ACB: ..........27
2.1.Cơ chế điều hành tỷ giá và sự biến động tỷ giá trên thị trường ngoại hối thời gian
qua tại Việt Nam:....................................................................................................28
2.2. Nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp hiện nay: .........................29
2.3. Thực trạng việc thực hiện nghiệp vụ quyền chọn trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại
các NHTM Việt Nam:..........................................................................................31
3
2.3.1. Cơ sở pháp lý của nghiệp vụ quyền chọn:......................................................31
2.3.2.Thực trạng việc thực hiện công cụ quyền chọn tại các Ngân hàng Thương mại
Việt Nam: .......................................................................................................33
2.3.3.Kết quả khảo sát nhận thức và nhu cầu sử dụng công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ
giá của doanh nghiệp:.....................................................................................35
2.4.Thực trạng việc thực hiện quyền chọn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu:
................................................................................................................................37
2.4.1 Giới thiệu khái quát về Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu :.................37
2.4.2. Tình hình kinh doanh quyền chọn tại ACB:...................................................44
2.5. Nguyên nhân làm cho quyền chọn kém phát triển tại các NHTM Việt Nam nói
chung và tại ACB nói riêng: ...............................................................................48
2.5.1. Nguyên nhân từ môi trường pháp lý và kinh tế vĩ mô: ....................................48
2.5.2. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng: .....................................................................49
2.5.3. Nguyên nhân từ phía khách hàng: ....................................................................50
2.5.4. Các Nguyên nhân khác: ....................................................................................52
Chương III: Giải pháp đẩy mạnh việc áp dụng quyền chọn ngoại tệ tại ACB.......56
3.1. Định hướng phát triển của NHTMCP Á Châu trong thời gian tới ........................56
3.2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng quyền chọn ngoại tệ tại
ACB hiện nay .........................................................................................................57
3.2.1. Thuận lợi.........................................................................................................57
3.2.2. Những khó khăn: ............................................................................................59
3.3. Điều kiện để việc áp dụng công cụ quyền chọn ngoại tệ phát triển .......................60
3.4. Giải pháp phát triển công cụ quyền chọn ngoại tệ tại NH Á Châu (ACB) .............63
3.4.1. Các giải pháp vĩ mô .........................................................................................63
3.4.2. Các giải pháp tại ACB......................................................................................66
3.5. Một số kiến nghị: .....................................................................................................70
3.5.1. Đối với Ngân hàng Nhà Nước:.........................................................................70
3.5.2. Đối vối Ngân hàng Á Châu: .............................................................................71
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NH : Ngân Hàng
NHNN : Ngân hàng Nhà Nước
NHTM : Ngân Hàng Thương Mại
TCTD : Tổ chức tín dụng
TGHĐ : Tỷ giá hối đoái
5
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tỷ giá hối đoái USD/VND từ năm 2001 đến 2008
Bảng 2.2: Kết quả khảo sát về việc sử dụng các công cụ phái sinh
Bảng 2.3: Kết quả kinh doanh của ACB qua các năm
Bảng 2.4 : Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ACB qua các năm
Bảng 2.5: Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các NHTM
Bảng 2.6: Doanh số các giao dịch phái sinh ngoại tệ tại ACB
6
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1.1: Doanh số các hợp đồng phái sinh tiền tệ trên thị trường OTC (2000-2007)
Hình 1.2: Doanh số giao dịch của các hợp đồng phái sinh tiền tệ trên các Sở giao dịch toàn cầu (2000-2008)
Hình 1.3: Đồ thị biểu diễn lợi nhuận khi mua quyền chọn mua
Hình 1.4: Đồ thị biểu diễn lợi nhuận khi bán quyền chọn mua
Hình 1.5: Đồ thị biểu diễn lợi nhuận khi mua quyền chọn bán
Hình 1.3: Đồ thị biểu diễn lợi nhuận khi bán quyền chọn bán
Hình 2.1: Tỷ giá hối đoái USD /VNĐ từ năm 2001 đến 2008
Hình 2.2: Tốc độ tăng, giảm giá USD trong 8 tháng năm 2008
Hình 2.3: Khảo sát nhận thức của doanh nghiệp về việc sử dụng quyền chọn
Hình 2.4: Khảo sát nhận thức về rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp
Hình 2.5: Khảo sát nhu cầu phòng ngừa rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp
Hình 2.6: Kết quả kinh doanh của ACB qua các năm
Hình 2.7: Tình hình thu nhập từ hoạt động của Ngân hàng qua các năm
Hình 2.8: Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ACB so với các Ngân hàng
Hình 2.9: Doanh số quyền chọn qua các năm
Hình 2.10: Doanh số giao dịch các công cụ phái sinh
7
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trước đây trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, mọi
hoạt động kinh tế đều thực hiện theo hệ thống chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước.
Trong đó, các yếu tố thị trường không được phát huy tác dụng. Các biến động của
thị trường hầu như không có tác động nhiều tới hoạt động của doanh nghiệp, bởi
việc sản xuất, tiêu thụ cũng như giá cả đều theo chỉ tiêu định sẵn. Chính vì lẽ đó
những khái niệm về công cụ phái sinh ít được biết đến và quan tâm.
Ngày nay trong nền kinh tế hội nhập, với xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa
nền kinh tế, thì mức độ tác động còn lớn hơn rất nhiều bởi sự tham gia sâu rộng
của các doanh nghiệp vào thị trường thế giới. Mọi diễn biến của thị trường có tác
động nhanh hơn, mạnh hơn và quy mô hơn mà hậu quả của những tác động này
đối với các doanh nghiệp, đối với nền kinh tế là rất lớn. Tất cả những điều đó làm
phát sinh nhu cầu phòng vệ, nhu cầu phòng ngừa và hạn chế rủi ro do các yếu tố
thị trường gây ra và cũng là nguyên nhân xuất hiện và phát triển các công cụ phái
sinh đã và đang được các doanh nghiệp, các nền kinh tế phát triển sử dụng ngày
càng phổ biến. Đối với nước ta cũng không nằm ngoài qui trình đó, đặc biệt khi
nước ta trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Khi đó, Việt Nam từng bước thực hiện tự do hoá kinh tế bao gồm tự do hoá thương
mại, tự do hoá đầu tư và tự do hoá tài chính. Tiến trình tự do hoá tài chính tất yếu
sẽ dẫn đến tự do hoá lãi suất, tự do hoá tỷ giá hối đoái, tự do hoá các dòng vốn
quốc tế hay tự do hoá tài khoản vốn. Các bước tự do hoá tài chính này vừa tạo ra
thời cơ mới đồng thời cũng tạo ra thách thức mới và cả những rủi ro cho các doanh
nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình, trong đó đặc biệt là những rủi ro về
biến động tỷ giá. Thực vậy, trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, sự
thay đổi tỷ giá hối đoái có thể là nhỏ không đáng kể đối với một vài lô hàng nhập
hoặc xuất nhưng nếu tính chung cho tổng kết quả kinh doanh có thì có thể mang lại
những thiệt hại rất lớn, đặc biệt khi sự biến động tỷ giá này rất mạnh và các doanh
nghiệp không thể nào dự đoán hết được, khi đó doanh nghiệp có thể bị thua lỗ
nặng. Vì vậy, việc sử dụng các công cụ phái sinh trong đó có quyền chọn để phòng
ngừa rủi ro tỷ giá là hết sức cần thiết trong điều kiện hiện nay. Ngoài ra, về phía
8
các Ngân hàng thương mại thì việc cung cấp các sản phẩm phái sinh góp phần làm
đang dạng hóa sản phẩm dịch vụ, tăng thu nhập và thu hút được ngày càng nhiều
khách hàng, đây là vấn đề mà các Ngân hàng thương mại trong nước cần quan tâm
để có thể cạnh tranh được với các Ngân hàng nước ngoài vốn rất nhiều kinh
nghiệm về sản phẩm phái sinh.
Năm 1998 Ngân hàng Nhà nước cho phép giao dịch kỳ hạn và hoán đổi để
phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Năm 2002, các ngân hàng thương mại như Eximbank,
Citi Bank, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đưa quyền chọn vào giao
dịch như là một công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Đến năm 2004 ACB bắt đầu
triển khai quyền chọn vàng, năm 2005 triển khai quyền chọn tiền tệ. Tuy nhiên, do
những nguyên nhân khách quan hay chủ quan mà đến nay các công cụ phái sinh
này vẫn chưa được nhiều người quan tâm và sử dụng trong đó đặc biệt là công cụ
quyền chọn, hiện chỉ có một số ít ngân hàng (khoảng 07 ngân hàng bao gồm cả
ACB) cung cấp sản phẩm này, nhưng doanh số đạt được rất thấp. Mặc dù đây là
công cụ phái sinh có nhiều ưu điểm nhất giúp cho người sử dụng nó có nhiều sự
lựa chọn và đảm bảo khả năng giảm thiểu rủi ro tỷ giá ở mức thấp nhất. Do vậy
chúng ta cần tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra các giải pháp để góp phần thúc đẩy
sự phát triển hơn nữa các công cụ phái sinh ngoại hối nói chung và công cụ quyền
chọn ngoại tệ nói riêng tại Ngân hàng Á Châu để chuẩn bị cho việc hội nhập của
ngành tài chính ngân hàng với thế khu vực và thế giới đến năm 2010 theo cam kết
khi Việt Nam gia nhập WTO. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Giải pháp phát triển
việc sử dụng công cụ quyền chọn ngoại tệ Ngân hàn Thương mại cổ phần Á
Châu” là rất hữu ích trong tình hình thực tế hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Để có thể giải quyết được vấn đề cần nghiên cứu trên đây, nhiệm vụ đầu tiên
của đề tài nghiên cứu là tìm hiểu và đánh giá thực trạng việc triển khai sản phẩm
quyền chọn ngoại tệ tại NHTMCP Á Châu. Các câu hỏi cho phần này như sau:
Công cụ quyền chọn có những ưu điểm nào so với các công cụ phái sinh
khác? Việc sử dụng quyền chọn trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá mang lại lợi
ích như thế nào?
9
Thực trạng và kết quả đạt được của việc thực hiện sản phẩm quyền chọn
ngoại tệ tại ACB như thế nào? Những hạn chế và nguyên nhân tại sao sản
phẩm quyền chọn vẫn chưa phát triển tại ACB và tại các NHTM Việt Nam? Giải pháp nào để giúp ACB có thể phát triển hơn nữa việc cung cấp sản phẩm
quyền chọ ngoại tệ ?
Trên cơ sở kết quả thu được từ việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu đề ra ở
nhiệm vụ đầu tiên, nhiệm vụ tiếp theo của đề tài sẽ là đề xuất các giải pháp nhằm
đẩy mạnh việc triển khai sản phẩm quyền chọn ngoại tệ tại ACB nói riêng và tại
các ngân hàng Việt Nam khác nói chung một cách có hiệu nhất. Từ đó tạo tiền đề
thúc đẩy sự phát triển hơn nữa thị trường các sản phẩm phái sinh – một thị trường
cao cấp vốn chỉ tồn tại trong nền kinh tế phát triển. Các mục tiêu cụ thể cho nhiệm
vụ này như sau:
Tìm hiểu nhu cầu khách hàng về “mong muốn” được bảo hiểm rủi ro tỷ giá
cũng như nhu cầu sử dụng các sản phẩm phái sinh (trong đó có quyền chọn)
để phòng ngừa rủi ro
Những thuận lợi và và khó khăn đặt ra cho ACB hiện nay, khi phát triển sản
phẩm quyền chọn ngoại tệ.
Đề xuất một số biện pháp nhằm đẩy mạnh việc sử dụng công cụ quyền chọn
ngoại tệ trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá góp phần giúp các doanh nghiệp đạt
được hiệu quả kinh doanh tốt nhất và giúp gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những vấn đề cơ bản về quyền chọn
(định nghĩa, đặc điểm, định giá quyền chọn, những ưu nhược điểm…), phân tích
rủi ro tỷ giá trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp và nêu lên cách ứng dụng
công cụ quyền chọn trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Ngoài ra, đề tài còn nêu lên
thực trạng việc triển khai việc sử dụng công cụ quyền chọn tại các NHTM hiện
nay nói chung và đặc biệt tại ACB nói riêng từ đó nêu lên những hạn chế và giải
pháp khắc phục.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn trong việc phân tích thực trạng quá trình
triển khai thực hiện sản phẩm quyền chọn ngoại tệ tại Ngân hàng Á Châu. Tuy
nhiên, để đạt được những mục tiêu đưa ra, đề tài cũng phân tích so sánh tình hình
10
kinh doanh ngoại tệ tại một số ngân hàng, tham khảo kết quả khảo sát về nhu cầu
sử dụng các công cụ phái sinh nói chung và công cụ quyền chọn nói riêng trong
việc bảo hiểm rủi ro tỷ giá, từ đó mới có cơ sở so sánh đánh giá chính xác và tìm ra
các giải pháp để phát triển các sản phẩm quyền chọn tại Ngân hàng Á Châu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đây là một đề tài mang tính khoa học và ứng dụng thực tiễn nên trong quá
trình nghiên cứu tác giả dựa vào quan điểm duy vật biện chứng, đồng thời kết hợp
với phương pháp hệ thống, phân tích tổng hợp để giải quyết những vấn đề nêu ra.
Từ đó luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận một cách có hệ thống
của vấn đề cần nghiên cứu.
Nguồn số liệu trong luận văn về cơ bản lấy từ phòng Kinh doanh ngoại tệ
của Hội sở chính Ngân hàng Á Châu. Ngoài ra, còn sử dụng một số dữ liệu thu
thập từ báo cáo thường niên của các Ngân hàng và từ một số tạp chí, sách báo.
5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Trên thị trường tài chính quốc tế, thị trường ngoại hối phái sinh đã phát triển
rất mạnh với các nghiệp vụ phái sinh rất đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai
trò quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu.
Trong các công cụ phái sinhh ngoại hối thì quyền chọn tiền tệ là công cụ
phòng chống rủi ro tỷ giá đến mức thấp nhất trong hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu cũng như đầu tư của các doanh nghiệp. Đồng thời đối với các NHTM việc
phát triển công cụ phái sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp ngân hàng tăng sức
cạnh tranh, thu hút nhiều khách hàng mới và duy trì khách hàng hiện hữu, tăng thu
nhập…. đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng hiện nay.
Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra giải pháp thích hợp và khả thi góp phần
tích cực trong việc đẩy mạnh sự phát triển của nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ tại
Ngân hàng Á Châu.
6. Kết cấu của luận văn
Bố cục của luận văn được kết cấu có tính hệ thống gồm 74 trang, cụ thể như sau:
Phần 1: Phần mở đầu
Phần 2: Nội dung của luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Lý luận về quyền chọn
11
Chương 2: Thực trạng việc áp dụng quyền chọn ngoại tệ tại ACB Chương 3: Giải pháp phát triển việc áp dụng quyền chọn ngoại tệ tại ACB Phần 3: Kết luận
12
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CHỌN
1.1. Sơ lược về lịch sử ra đời các công cụ phái sinh:
1.1.1. Lịch sử ra đời các công cụ phái sinh:
Cùng với sự phát triển của kinh tế thế giới và xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu, công cụ phái sinh ngày càng trở nên quan trọng và được sử dụng rộng rãi trong phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Các công cụ phái sinh đã được sử dụng từ nhiều thế kỷ qua. Khởi nguồn, công cụ phái sinh phát sinh từ các giao dịch hàng hóa như gạo, hoa tulip. Công cụ kỳ hạn (forward) là công cụ cơ bản nhất của các công cụ phái sinh. Nó được hình thành từ thời xa xưa để nối cung và cầu giữa người nông dân và nhà buôn. Người nông dân không biết trước diễn biến giá lúa mà họ sẽ nhận được trong tương lai, do đó họ sẽ phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Nhà buôn có nhu cầu mua lúa cũng sẽ phải đối mặt với rủi ro về về giá cả vì nó phụ thuộc vào lượng cung lúa trong mùa thu hoạch tới. Để hạn chế rủi ro đó, người nông dân và nhà buôn gặp nhau trước mùa gặt để thỏa thuận về giá cả dự kiến trong tương lai, hay nói cách khác họ thương lượng về một loại hợp đồng có thời hạn giúp cả hai bên loại trừ rủi ro có thể gặp phải do sự biến động về giá lúa.
Trong các thập niên gần đây, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu và đi kèm với nó là các rủi ro ngày càng đa dạng và khó lường, do đó các tổ chức tài chính đã quan tâm nhiều hơn tới việc sử dụng các giải pháp làm giảm thiểu rủi ro mà họ phải đối mặt. Các công cụ tài chính phái sinh đã được các tổ chức tài chính sử dụng nhằm mục đích hạn chế các rủi ro về lãi suất, tỷ giá, tín dụng… trong hoạt động.
1.1.2. Các công cụ phái sinh:
1.1.2.1. Khái niệm:
Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm đạt được những mục tiêu khác nhau như phòng tránh, phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận, chống biến động giá trị, và đôi khi để đầu cơ thu lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở như tỷ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất.
Các công cụ trên thị trường tài chính phái sinh rất phong phú và đa dạng nhưng nhìn chung có bốn công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (Forward), Hợp
13
đồng tương lai (futures), hợp đồng quyền chọn (options) và hợp đồng hoán đổi (Swaps)
1.1.2.2. Các công cụ phái sinh:
Hợp đồng kỳ hạn (Forward) là một thỏa thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác định,tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định tại thời điểm hiện tại.
Hợp đồng tương lai (Futures): là một thỏa thuận để mua hoặc bán một tài sản vào một thời điểm chắc chắn trong tương lai với mức giá xác định. Giá của hợp đồng thay đổi tùy theo giá thị trường nhưng được cố định khi thực hiện giao dịch. Hợp đồng quy định rõ các đặc điểm kỹ thuật, do đó cả hai bên mua và bán đều biết chính xác tài sản nào được giao dịch. Giá của hợp đồng tương lai được thỏa thuận trên sàn giao dịch trong quá trình bên mua và bên bán công khai mức giá mà họ muốn mua, bán trên sàn. Hiện nay, các thông tin giao dịch thường được xác định qua mạng giao dịch điện tử tự động. Điều này có nghĩa là khi một mức giá được thỏa thuận bởi bất kỳ ai trên sàn thì được hiểu là giá thanh toán. Sự minh bạch của các hợp đồng tương lai là một trong những điểm khác nhau cơ bản với các hợp đồng kỳ hạn mà theo đó giá chỉ được tỏa thuận giữa hai bên tham gia hợp đồng.
Hợp đồng hoán đổi (Swaps): là việc mua và bán đồng thời tài sản gốc tương tự hoặc nghĩa vụ tương đương với số tiền vốn mà việc hoán đổi các giao dịch tài chính cho phép cả hai bên tham gia các điều kiện thuận lợi hơn mong muốn.
Hợp đồng quyền lựa chọn (Options): là hợp đồng cho phép người mua quyền lựa chọn quyền, không phải nghĩa vụ, mua (call) hoặc bán (put) một khối lượng nhất định hàng hóa với một mức giá xác định trong một thời gian nhất định. Các hàng hóa cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai. Giá trả cho quyền này được xác định trước.
1.2. Vai trò của công cụ phái sinh trong hoạt động kinh doanh của Ngân
Hàng Thương Mại:
1.2.1. Vai trò của công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá:
Thị trường phái sinh với các công cụ như: swaps, forward, future, option… tùy theo đặc điểm của từng công cụ và việc sử dụng mỗi công cụ vào các hoạt động nghiệp vụ cụ thể khác nhau như sử dụng trong hoạt động tín dụng, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh chứng khoán…đến cả trong lĩnh
14
vực mua bán trên thị trường hàng hóa sẽ có những vai trò và tác dụng khác nhau. Tuy nhiên chúng đều mang lại một lợi ích cơ bản và quan trọng nhất đó là phòng ngừa rủi ro tài chính, nhờ hạn chế được sự biến động của giá cả hàng hóa, của tỷ giá, của lãi suất…Trong phạm vi bài viết này chỉ nhấn mạnh đến vai trò của công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
Tỷ giá biến động theo một biên độ lớn và ngẫu nhiên, phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường mà thị trường luôn ẩn chứa các yếu tố rủi ro do đầu cơ và chênh lệch giá về ngoại tệ. Đây là những yếu tố quan trọng làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối biến động một cách khó dự đoán. Chính vì sự không dự đoán trước được những thay đổi của tỷ giá trên thị trường mà các doanh nghiệp cũng như các NHTM luôn có mong muốn bảo hiểm rủi ro để chống lại những tổn thất có thể xảy ra đối với các dòng tiền ngoại tệ của mình, qua đó giúp bảo toàn lợi nhuận và duy trì được kết quả kinh doanh theo đúng kế hoạch đã đề ra. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu; các doanh nghiệp vay vốn bằng một loại ngoại tệ này nhưng nguồn thu lại bằng một ngoại tệ khác không tương ứng (ví dụ vay vốn bằng USD nhưng nguồn thu bằng EUR hoặc VND) hoặc các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, sau một thời gian họ chuyển vốn về nước trong thời gian hoạt động này tỷ giá có sự biến động rất lớn do đó việc sử dụng công cụ phái sinh trong những trường hợp này để phòng ngừa rủi ro tỷ giá sẽ giúp doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh tế rất lớn. Để thấy rõ hơn hiệu quả của việc sử dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá , xem chi tiết ví dụ như sau:
Ngày 07/05/2008, công ty A ký hợp đồng quyền chọn mua ngoại tệ của ACB với số lượng ngoại tệ là 100.000EUR (đồng tiền thanh toán là USD), thời hạn hiệu lực: 3 tháng. Tỷ giá thực hiện: EUR/USD = 1,45. Phí giao dịch: 1,2% hay 1.740 USD. Tỷ giá kỳ hạn EUR/USD = 1,42. Ba tháng sau sẽ có 02 trường hợp xảy ra:
(cid:190) Nếu tỷ giá EUR/USD trên thị trường, biến động theo chiều tăng, giả sử đạt ở mức 1,55. Lúc này công ty có quyền mua của ACB 100.000 EUR với giá 1,45 và số tiền chi ra là 145.000 USD. Nếu không có hợp đồng quyền chọn, để mua 100.000 EUR công ty phải chi: 100.000EUR x 1,55 = 155.000USD, nhiều hơn 10.000 USD. => Với hợp đồng quyền chọn Công ty A có lợi là 10.000USD -1.740USD = 8.260USD
(cid:190) Nếu tỷ giá EUR/USD giảm xuống, thấp hơn tỷ giá đặt mua trong hợp đồng, giả sử là 1,38 công ty có quyền không thực hiện hợp đồng và mua
15
EUR trên thị trường với tỷ giá giao ngay là 1,38. => Cty chỉ trả 138.000USD để mua 100.000EUR.
Trường hợp này, công ty vẫn có lợi hơn, so với thực hiện một hợp đồng kỳ hạn, giả sử trong trường hợp này Cty A không mua quyền chọn mà mua hợp đồng kỳ hạn (tỷ giá kỳ hạn EUR/USD = 1,42), số tiền USD Cty cần để thanh toán là 1,42 x 100.000EUR = 142.000 USD => So với sử dụng hợp đồng quyền chọn chênh lệch là: 142.000USD -138.000USD = 6.000USD Phí quyền chọn là 1.740USD, Công ty vẫn còn lợi hơn 4.260USD (6.000USD-1.740USD) Trên đây là một ví dụ cơ bản cho thấy được lợi ích khi sử dụng công cụ phái sinh ngoại tệ để phòng ngừa rủi ro tỷ giá đặc biệt là công cụ quyền chọn.
1.2.2. Ưu điểm và hạn chế của các công cụ phái sinh: 1.2.2.1.Hợp đồng kỳ hạn:
Đây là thỏa thuận cá nhân (qua thị trường phi tập trung OTC) giữa hai tổ chức tài chính hoặc giữa một tổ chức tài chính và khách hàng là công ty. Vì vậy hợp đồng kỳ hạn không tuân theo tiêu chuẩn của thị trường riêng biệt. * Ưu điểm: - Là công cụ giúp phòng ngừa rủi ro do sự biến động giá cả trong tương lai - Người sử dụng công cụ này không phải tốn bất kỳ chi phí khi thực hiện hợp
đồng * Nhược điểm:
- Hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng bắt buộc nên khi đến ngày đáo hạn dù có bất
lợi hai bên vẫn phải thực hiện hợp đồng.
- Hợp đồng kỳ hạn chỉ đáp ứng được nhu cầu khi nào khách hàng chỉ cần mua hoặc bán một loại tài sản cơ sở nào đó trong tương lai nhưng hiện tại không có nhu cầu. Tuy nhiên trên thực tế khách hàng vừa có nhu cầu mua bán tài sản cơ sở ở hiện tại đồng thời có nhu cầu mua bán ở tương lai => Hợp đồng kỳ hạn sẽ không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
1.2.2.2. Hợp đồng tương lai:
Hợp đồng tương lai được bắt nguồn từ các hợp đồng kỳ hạn, được giới thiệu và giao dịch sau hợp đồng kỳ hạn hàng thế kỷ. Điểm giống và khác nhau giữa hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai:
Tiêu chí Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng tương lai
Địa điểm giao dịch
Phi tập trung, có mạng lưới toàn cầu, các thành Tập trung trên sàn của Sở Giao Dịch, các thành viên
16
giao dịch với nhau theo phương thức mặt đối mặt
viên giao dịch với nhau bằng điện thoại, telex hay hệ thống giao dịch điện tử
Trị giá hợp đồng
Nhìn chung rất lớn, trị giá trên 1 triệu USD Nhỏ đủ để thu hút hiều người tham gia
Các đồng tiền giao dịch Tất cả các đồng tiền có thể mua bán được Hầu hết chỉ là đồng tiền chính
Những ngày đến hạn Bất cứ ngày làm việc nào được thỏa thuận giữa người mua và người bán
Những ngày đến hạn được (thông tiêu chuẩn hóa thường vào thứ 4 của tuần thứ 03 của các tháng 3,6,9,12.
Thời hạn tối đa Không hạn chế
Có một vài thời hạn nhất định (Tối đa 12 là tháng)
Thỏa thuận an tòan
Khách hàng phải duy trì số dư tối thiểu ở NH để đảm bảo cho hợp đồng
Tất cả các nhà giao dịch phải duy trì tiền ký quỹ theo tỷ lệ % giá trị hợp đồng
Thanh toán tiền tệ
Không có thanh toán tiền tệ trước ngày hợp đồng đến hạn
Thanh toán hàng ngày bằng các trích tài khoản của bên thua và ghi có vào tài khoản của bên được
Tỷ giá thay đổi hàng ngày
Tỷ giá/ giá cả hàng hóa Được khóa chặt trong suốt thời hạn hợp đồng
Thành viên giao dịch Không có hạn chế
Phải là thành viên của Sở Giao dịch. Những người không phải là thành viên muốn giao dịch phải sử dụng nhà môi giới
Quy chế
Các bên tham gia tự thỏa thuận Được qui định bởi Sở giao dịch
Từ những đặc điểm trên ta thấy, hợp đồng tương lai có ưu điểm là sẵn sàng cung cấp hợp đồng có giá trị nhỏ, nó cho phép các bên tham gia có thể sang nhượng lại hợp đồng ở bất kỳ thời điểm nào trước khi hợp đồng đến hạn. Tuy nhiên, hợp đồng tương lai cũng có những nhược điểm là chỉ cung cấp giới hạn cho một vài ngoại tệ mạnh và một vài ngày chuyển giao ngọai tệ
17
trong năm mà thôi. Và đây là hợp đồng bắt buộc phải thực hiện khi đến hạn chứ không cho người ta quyền được chọn như trong hợp đồng quyền chọn. Cả hai hợp đồng kỳ hạn và tương lai chỉ đáp ứng được nhu cầu của khách hàng khi cần mua hoặc bán một loại tài sản cơ sở ở tương lai nhưng không có nhu cầu ở hiện tại. Để khắc phục nhược điểm trên một công cụ phái sinh mới ra đời vừa đáp ứng được nhu cầu mua bán tài sản cơ sở của khách hàng cả ở hiện tại và tương lai là Hợp đồng hoán đổi.
1.2.2.3. Hợp đồng hoán đổi:
Hợp đồng hoán đổi là sự kết hợp giữa hợp đồng giao ngay và hợp đồng đồng kỳ hạn. Trong đó, hoán đổi tiền tệ là trao đổi một khoản nợ bằng đồng tiền này cho một khoản nợ bằng đồng tiền khác. Bằng cách hoán đổi này các bên tham gia có thể thay thế dòng tiền phải trả từ một đồng tiền này sang một đồng tiền khác giúp khách hàng có thể phòng ngừa rủi ro và giảm chi phí do những tác động của sự biến động của tỷ giá, lãi suất… Tuy nhiên, hợp đồng hoán đổi vẫn còn có hạn chế vì 02 lý do:
+ Đó là hợp đồng bắt buộc các bên phải thực hiện khi đáo hạn bất chấp tỷ giá trên thị trường giao ngay lúc đó như thế nào. Điều này đánh mất đi cơ hội kinh doanh nếu như tỷ giá biến động trái với dự đoán của khách hàng. + Hợp đồng hoán đổi chỉ quan tâm đến tỷ giá ở hai thời điểm: thời điểm hiệu lực và thời điểm đáo hạn mà không quan tâm đến sự biến động tỷ giá trong suốt thời gian giữa hai thời điểm đó
1.2.2.4 Hợp đồng quyền chọn:
Về cơ bản hợp đồng quyền chọn giống hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai dùng để bảo hiểm rủi ro biến động giá cả trong tương lai, tuy nhiên hợp đồng quyền chọn có một lợi thế mà các công cụ phái sinh khác không có là nó cho phép người mua hợp đồng quyền chọn có quyền nhưng không bắt buộc mua hoặc bán một công cụ tài chính với giá thỏa thuận trong một thời gian nhất định gọi là ngày đến hạn. Ngoài ra hợp đồng quyền chọn có thể được mua bán trên cả hai thị trường : thị trường tập trung và thị trường phi tập trung (OTC).
Tuy nhiên, nhược điểm của hợp đồng quyền chọn là để mua được quyền chọn, người có nhu cầu phải trả một khoản phí tương đối cao gọi là phí mua quyền chọn.
Chính vì ưu điểm nổi bậc này mà quyền chọn hiện nay đã được hầu hết cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức tài chính trên thế giới sử dụng, có qui mô
18
30,000
25,000
20,000
15,000
trao đổi rất lớn và là bộ phận không thể thiếu được đối với thị trường tài chính hiện đại.
Tỷ USD
10,000
5,000
0
12/2000
12/2002
12/2004
12/2006
Năm
Outright Forward & Forex Swap Currency Swap Options
Hình 1.1: Doanh số của các hợp đồng phái sinh tiền tệ trên OTC (2000-2007)
250.00
200.00
Future
D S U
150.00
ỷ T
100.00
Options
50.00
0.00
12/2004
12/2003
12/2002
12/2006
12/2000
12/2001
12/2005
12/2007
06/2008
Năm
Hình 1.2: Doanh số giao dịch của các hợp đồng phái sinh tiền tệ trên các Sở Giao dịch toàn cầu (2000-2008)
Nguồn: BIS Quaterly Review september, 2008
Nhìn 02 sơ đồ trên chúng ta thấy rằng doanh số của các giao dịch phái sinh tiền tệ OTC cao hơn rất nhiều so với các giao dịch diễn ra trên các Sở Giao dịch. Có thể nói đó là con số áp đảo khi các giao dịch phái sinh tiền tệ trên OTC chiếm tới 99% về doanh số còn giao dịch trên sở chỉ là 1%.
1.3. Tổng quan về quyền chọn và quyền chọn tiền tệ: 1.3.1 Giới thiệu về lịch sử thị trường quyền chọn và quyền chọn tiền tệ:
Trong lịch sử những quyền chọn đầu tiên xuất hiện là những quyền chọn bán những bó hoa tulíp của những người trồng hoa người Hà Lan để chống lại sự giảm giá. Giao dịch đầu tiên của thị trường quyền chọn bán và quyền chọn mua bắt đầu ở Châu Âu và Mỹ từ đầu thế kỷ 18. Những năm đầu thị trường hoạt động thất bại vì nạn tham nhũng.
19
Vào những năm 1900 một nhóm Cty đã thành lập Hiệp Hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn. Mục đích của Hiệp hội này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và những người bán lại với nhau. Nhà đầu tư muốn mua Option liên hệ với một công ty thành viên, công ty này sẽ cố gắng tìm người bán Option từ những khách hàng của họ hoặc của các công ty thành viên khác, nếu không có người bán công ty sẽ tự phát hành Option với giá cả thích hợp. Thị trường hoạt động theo cách này gọi là thị trường OTC (Over the Counter market), nhà kinh doanh không gặp nhau trên sàn giao dịch của thị trường.
Thị trường Option của hiệp hội các nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn chịu áp lực của hai yếu tố. Một là không có thị trường thứ cấp, người mua Option không có quyền bán cho bên khác trước ngày đáo hạn. Hai là, không có kỹ thuật nào bảo đảm rằng người bán Option sẽ thực hiện hợp đồng, nếu người bán không thực hiện hợp đồng thì người mua phải tốn chi phí kiện tụng.
Tháng 4 năm 1973 Chicago Board of Trade lập thị trường mới Chicago Board Option Exchange đặc biệt dành cho trao đổi Option về cổ phiếu. Đây là lần đầu tiên người ta tập hợp được những qui định cần thiết cho chức năng vận hành của thị trường quyền chọn hiệu quả như đồng tiền, khả năng thanh toán và qui mô giao dịch….Từ đó Option trở nên phổ biến đối với nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán Mỹ (The Amercian Stock Exchange – AMEX) và thị trường chứng khóan Philadelphia bắt đầu thực hiện giao dịch Option vào năm 1975. Và thị trường chứng khoán Pacific (PSE) thực hiện tương tự vào năm 1976. Khoảng đầu thập niên 80 khối lượng giao dịch tăng lên nhanh chóng đến mức mà số lượng cổ phiếu theo hợp đồng option bán hàng ngày vượt vượt quá khối lượng giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán New York.
Trong thập niên 80 thị trường option đối với ngoại tệ, chỉ số chứng khoán và hợp đồng future đã phát triển ở Mỹ. Thị trường chứng khoán Philadelphia là nơi giao dịch Option ngoại tệ đầu tiên. Thị trường Chicago Board Option Exchange trao đổi chỉ số chứng khoán S & P100 và S&P 500. Thị trường chứng khoán Mỹ giao dịch Option về chỉ số chứng khoán của một số thị trường chính và thị trường New York giao dịch chỉ số NYSE. Hầu hết các thị trường đều giao dịch Option đối với những hợp đồng future. Ngày nay, thị trường quyền chọn đã phát triển ở tất cả các thị trường tài chính lớn trên thế giới như: Paris, London, Montreal, Amsterdam, Sydney, Zurich….
20
1.3.2. Khái niệm, tính chất của quyền chọn nói chung và quyền chọn tiền tệ
nói riêng:
Quyền chọn là một công cụ phép người mua nó có quyền nhưng không bắt buộc được mua hay bán một khối lượng nhất định hàng hóa với một mức giá xác định, trong một thời gian nhất định.Và để nắm giữ được quyền chọn này người mua nó phải trả một khoản phí nhất định cho người bán quyền chọn gọi là phí quyền chọn (Premium cost). Người bán hợp đồng quyền chọn phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng khi người mua yêu cầu vì họ đã nhận phí mua quyền từ người mua. Để hiểu rõ về quyền chọn ta cần tìm hiểu chi tiết một số thuật ngữ liên quan như sau: (cid:153) Người mua quyền (Holder): Người bỏ ra chi phí để được nắm giữ quyền chọn và có quyền yêu cầu người bán có nghĩa vụ thực hiện quyền chọn theo ý mình.
(cid:153) Ngườn bán quyền chọn (Writer): Người nhận chi phí mua quyền của người mua quyền do đó có nghĩa vụ phải thực hiện quyền chọn theo yêu cầu của người mua quyền.
(cid:153) Tài sản cơ sở (Underlying Asset) tài sản mà dựa vào đó quyền chọn được giao dịch. Giá cả trên thị trường của Tài sản cơ sở là căn cứ để xác định giá trị của quyền chọn. Tài sản cơ sở có thể là: hàng hóa như cà phê, dầu hỏa, vàng….hay chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu hoặc ngoại tệ…. (cid:153) Tỷ giá thực hiện (Exercise or strike rate) hay còn gọi là tỷ giá quyền chọn: Tỷ giá sẽ được áp dụng nếu người mua quyền yêu cầu thực hiện quyền chọn.
(cid:153) Trị giá Hợp đồng quyền chọn (volume): Trị giá được chuẩn hóa theo loại
ngoại tệ và thị trường giao dịch.
(cid:153) Thời hạn của quyền chọn (maturity): Thời hạn hiệu lực của hợp đồng
quyền chọn, quá thời hạn này quyền chọn không còn giá trị.
(cid:153) Phí mua quyền (premium): chi phí mà người mua quyền phải trả cho người bán quyền được quyền để được nắm giữ hay sở hữu quyền chọn. Chi phí này thường được tính bằng số nội tệ trên mỗi ngoại tệ giao dịch. Phí hợp đồng quyền chọn phải là lượng tiền hợp lý sao cho có thể bù đắp rủi ro xét từ góc độ người bán và không quá đắt xét từ góc độ người mua. Phí quyền chọn là khoản tiền không truy đòi, và thông thường được thanh toán một lần tại thời điểm ký kết hợp đồng. Đôi khi trong một số trường hợp việc thanh toán có thể xảy ra tại thời điểm hợp đồng đến hạn, nếu như người bán có thiện chí cấp tín dụng cho người mua. Phí quyền chọn được
21
xác định dựa trên nguyên tắc: nếu xác suất thực hiện quyền chọn xảy ra càng cao và hoặc lãi dự tính phát sinh từ thực hiện quyền chọn càng lớn thì phí quyền chọn càng cao và ngược lại.
(cid:153) Loại quyền chọn: Loại quyền mà người mua nắm giữ. Loại quyền nào cho phép người mua có quyền được mua một loại tài sản cơ sở ở mức giá xác định trước trong thời hạn nhất định gọi là quyền chọn mua (Call Option). Ngược lại, loại quyền nào cho phép người mua có quyền bán gọi là quyền chọn bán (Put Option).
(cid:153) Kiểu quyền chọn: Kiểu giao dịch do hai bên thỏa thuận cho phép người mua quyền được lựa chọn thời điểm thực hiện quyền. Kiểu quyền chọn cho phép người mua quyền được thực hiện bất cứ thời điểm nào trong thời hạn hiệu lực của quyền chọn gọi là quyền chọn kiểu Mỹ. Kiểu quyền chọn chỉ cho phép người mua thực hiện khi đến hạn gọi là quyền chọn kiểu Châu Âu.
Quyền chọn có thể áp dụng cho nhiều loại thị trường với nhiều loại hàng hóa khác nhau. Do vậy có nhiều loại quyền chọn khác nhau theo những loại thị trường khác nhau. Chẳng hạn như quyền chọn trên thị trường hàng hóa, quyền chọn trên thị trường chứng khoán, quyền chọn trên thị trường ngoại hối ở đây trong nội dung luận văn này chỉ đề cập đến quyền chọn trên thị trường ngoại hối với hai hình thức quyền chọn mua và quyền chọn bán.
Quyền chọn mua là kiểu hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền nhưng không bắt buộc được mua một lượng ngoại tệ ở một mức giá và trong thời hạn được xác định trước. Quyền chọn bán là kiểu hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền nhưng không bắt buộc được bán một lượng ngoại tệ ở một mức giá và trong thời hạn được xác định trước. Nếu tỷ giá biến động thuận lợi người mua sẽ thực hiện hợp đồng, ngược lại người mua sẽ không thực hiện cho đến khi hợp đồng hết hạn.
Ở đây cũng cần phân biệt hai kiểu hợp đồng quyền chọn Kiểu Mỹ và Kiểu Châu Âu. Hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ có thể thực hiện bất cứ lúc nào cho đến trước ngày đáo hạn. Hợp đồng quyền chọn kiểu Châu Âu chỉ được thực hiện vào ngày đáo hạn.
Một quyền chọn được thực hiện và mang lại lợi nhuận (chưa trừ phí quyền chọn) với tỷ giá hiện hành được gọi là cao giá ITM (in the money). Ngược lại, một quyền chọn được thực hiện và bị lỗ với giá hiện hành gọi là kiệt giá OTM (out of the money). Trong khi đó, một quyền chọn được thực
22
hiện mà giá thực hiện bằng với giá giao ngay được gọi là ngang giá ATM (at the money).
Có bốn chiến lược cơ bản trong giao dịch quyền chọn là: mua quyền chọn mua, mua quyền chọn bán, bán quyền chọn mua và bán quyền chọn bán. => Phân tích lợi nhuận khi thực hiện 04 chiến lược này:
Profit line
P r o f i t
D1
Good price
P
D2
a. Trường hợp mua quyền chọn mua:
Hình 1.3: Đồ thị biểu diễn lợi nhuận khi mua quyền chọn mua P: Giá quyền chọn D1:Giá thực hiện D2: Giá thị trường (cid:214) Theo giá thị trường, lợi nhuận của một quyền chọn được đánh giá như
sau:
D2 ≤ D1
D2 = D1+ P
D1
P r o f i t
D2
P
D1
Good price
Lost line
b. Trường hợp bán quyền chọn mua:
Hình 1.4: Đồ thị biểu diễn lợi nhuận khi bán quyền chọn mua
23
(cid:214) Theo giá thị trường, lợi nhuận của một quyền chọn được đánh giá trong
=> Lợi nhuận = P => Lợi nhuận = 0
trường hợp này như sau:
D2 ≤ D1
D2 = D1+ P
D1
P r o f i t
Good price
D2 D1
P
c. Trường hợp mua quyền chọn bán:
Profit line
Hình 1.5: Đồ thị biểu diễn lợi nhuận khi mua quyền chọn bán (cid:214) Theo giá thị trường, lợi nhuận của một quyền chọn được đánh giá trong
trường hợp này như sau:
=> Lợi nhuận = - P
=> Lợi nhuận = 0
=> P < Lợi nhuận < 0
P r o f i t
P
D2
D1
Good price
Lost line
D2 ≥ D1 D2 = D1- P D1 > D2 > D1- P D2 < D1 - P => Lợi nhuận > 0
d. Trường hợp bán quyền chọn bán: Hình 1.6: Đồ thị biểu diễn lợi nhuận khi bán quyền chọn bán (cid:214) Theo giá thị trường, lợi nhuận của một quyền chọn được đánh giá trong
trường hợp này như sau:
D2 ≥ D1 => Lợi nhuận = P
24
=> Lợi nhuận = 0
D2 = D1- P D1 > D2 > D1- P => P > Lợi nhuận > 0
D2 < D1 - P
=> Lợi nhuận < 0 ( lỗ không giới hạn) 1.3.3. Các bên tham gia trong giao dịch quyền chọn tiền tệ:
Các chủ thể tham gia thị trường giao dịch quyền chọn rất đa dạng, bao gồm các doanh nghiệp, các cá nhân, các tổ chức hoạt động tài chính như ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán…Dựa vào các mục đích tham gia thị trường của mỗi đối tượng, ta có thể phân ra thành các nhóm sau:
Những người phòng ngừa rủi ro: Là những tổ chức tài chính và phi tài chính hay những cá nhân, tham gia thị trường quyền chọn do có nhu cầu giao dịch ngoại tệ và có những lo ngại về sự biến động của tỉ giá làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh, lợi ích của họ.
Các nhà đầu tư, đầu cơ : Là các cá nhân, các tổ chức tài chính và phi tài chính, tham gia vào thị trường với mục đích đầu cơ vào sự chênh lệch tỉ giá họ thường dựa vào các công cụ phân tích kỹ thuật để đưa ra các dự đoán về xu hướng tỉ giá trong tương lai Từ đó, thực hiện mua bán các quyền chọn thích hợp để thu lợi nhuận.
Các tổ chức tài chính trung gian: Bao gồm các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán…Ngoài mục đích tham gia vào thị trường cũng với tư cách là các nhà đầu tư hoặc những người có nhu cầu về bảo hiểm rủi ro. Ở các nước phát triển, nơi mà các giao dịch quyền chọn hầu như chỉ diễn ra trên các sàn giao dịch tập trung, với tư cách là các thành viên của sở giao dịch quyền chọn, họ đóng vai trò như một nhà môi giới các giao dịch quyền chọn trên thị trường, chỉ một số ít các tổ chức tài chính lớn như các tập đoàn tài chính khổng lồ mới có khả năng tự đứng ra phát hành quyền chọn cho thị trường.
Đối với Việt Nam chúng ta, nơi mà một sàn giao dịch quyền chọn tập trung vẫn chưa hình thành, các tổ chức tài chính (ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán…) đóng vai trò như một trung gian tài chính cung cấp các hợp đồng quyền chọn cho khách hàng từ các nhà phát hành quyền chọn chính thức ở nước ngoài để thu một khoản phí dịch vụ.
1.3.4. Định giá hợp đồng quyền chọn:
1.3.4.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá hợp đồng quyền chọn: 1.3.4.1.1. Tỷ giá thực hiện:
25
Là tỷ giá sẽ được áp dụng trong mua bán ngoại tệ nếu như người mua thực hiện hợp đồng quyền chọn. Việc ra giá một quyền chọn trước hết tùy thuộc vào tỷ giá thực hiện. Giá bán hợp đồng quyền chọn mua tăng khi tỷ giá thực hiện giảm và giá bán hợp đồng quyền chọn bán tăng khi tỷ giá thực hiện tăng.
Trong cả hai trường hợp chọn mua và chọn bán, chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá thực hiện quyết định giá bán tối thiểu của quyền chọn. Nếu giá bán tối thiểu của quyền chọn thấp hơn mức chênh lệch giữa tỷ gia giao ngay và tỷ giá thực hiện thì một cơ hội kinh doanh chênh lệch giá sẽ xuất hiện (nếu bỏ qua các yếu tố khác như hoa hồng, chênh lệch giữa bán và giá mua). Ví dụ tỷ giá thực hiện của quyền chọn theo kiểu Mỹ là 0,85USD cho 1CAD, nếu tỷ giá giao ngay là 0,86USD/CAD thì giá bán tối thiểu của quyền chọn mua phải là 0,01USD/CAD. Nếu không, sẽ có cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá bởi vì khi đó người mua hợp đồng sẽ thực hiện hợp đồng để mua CAD ở giá 0,85USD/CAD và bán lại trên trên thị trường giao ngay với mức giá 0,86USD/CAD. Tương tự đối với quyền chọn bán.
1.3.4.1.2. Thời hạn của hợp đồng quyền chọn:
Thời hạn đến hạn của hợp đồng quyền chọn càng dài thì càng có nhiều khả năng tỷ giá thị trường biến động trên mức tỷ giá quyền chọn đối với hợp đồng quyền chọn mua và thấp hơn tỷ giá quyền chọn của hợp đồng quyền chọn bán. Do đó, thời hạn của hợp đồng càng dài thì người mua sẵn sàng trả giá hợp đồng chọn càng lớn và người bán yêu cầu phí quyền chọn càng cao.
1.3.4.1.3. Quyền chọn kiểu Mỹ hay kiểu Âu và yếu tố lãi suất:
Trước hết, hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ là linh hoạt hơn quyền chọn kiểu Châu Âu do đó người mua hợp đồng kiểu Mỹ sẵn sàng trả phí quyền chọn cao hơn cho hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ có cùng tỷ giá thực hiện và kỳ hạn với hợp đồng quyền chọn kiểu Châu Âu.
Hơn nữa nếu đồng tiền chọn mua có lãi suất cao hơn đồng tiền chọn bán thì người nắm giữ hợp đồng quyền chọn mua sẽ quan tâm đến việc thực hiện giao dịch quyền chọn trước khi hợp đồng đến hạn nằm thu được lãi suất cao hơn. Lợi thế về lãi suất này khiến cho giá của hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ cao hơn giá hợp đồng quyền chọn kiểu châu Âu. Nếu lãi suất của đồng tiền chọn mua thấp hơn lãi suất của đồng tiền chọn bán, thì lợi thế về lãi suất của quyền chọn Kiểu Mỹ đối với người mua không còn nữa, mà lợi thế này sẽ trở thành lợi thế tiềm năng thuộc người bán nếu người mua tiến hành giao dịch. Do đó, về nguyên tắc, thì trong trường
26
hợp đồng quyền chọn mua có lãi suất thấp hơn thì người bán có thể giảm giá hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ so với hợp đồng kiểu châu Âu. Tuy nhiên người bán không nhất thiết phải giảm giá vì: thứ nhất, do không có lợi thế về lãi suất nên người mua sẽ không thực hiện giao dịch và do đó lợi thế tiềm năng của người bán sẽ không thành hiện thực; thứ hai, lãi suất là yếu tố thị trường nên có thể thay đổi vào bất cứ thời điểm nào trong tương lai. Điều này khiến cho lãi suất của đồng tiền chọn mua có thể cao hơn tại một thời điểm nhất định trong tương lai và do đó lợi thế tiềm năng của lãi suất sẽ chuyển từ người bán sang người mua. => ảnh hưởng của lãi suất lên giá của quyền chọn có thể được xem xét ở các góc độ sau đây: o Nếu người bán quyền chọn dự tính rằng lãi suất của đồng tiền trong hợp đồng chọn mua luôn ở mức thấp hơn đồng tiền chọn bán thì người bán tính phí quyền chọn đối với các hợp đồng kiểu Mỹ là giống như phí quyền chọn trong các hợp đồng kiểu Châu Âu.
o Nếu người bán dự định rằng lợi thế lãi suất tiềm năng sẽ chuyển từ người bán sang người mua trong tương lai thì sẽ nâng mức phí quyền chọn lên cao hơn.
1.3.4.1.4. Thông số biến động tỷ giá kỳ vọng (Expected Volatility):
Đây là yếu tố khó lượng hóa nhất trong việc quyết định giá cả quyền chọn, nó tùy thuộc chủ yếu vào khả năng phán đoán của nhà dự báo và hầu như không có cách nào khác để đo lường chính xác được sự biến động của tỷ giá. Nếu thiếu khả năng phán đoán thì thông thường nhà kinh doanh quyền chọn sẽ dựa vào hai thông số sau đây để quyết định.
Thứ nhất, dựa vào thông số biến động tỷ giá trong quá khứ, thông số
này được xác định dựa vào việc phân tích số liệu lịch sử thu thập được.
Thứ hai, dựa vào thông số biến động ngầm định trong đó những thông tin hiện tại về giá cả của quyền chọn và tỷ giá được kết hợp với những thông tin khác được đưa vào mô hình để ước lượng thông số này. Cuối cùng nhà kinh doanh so sánh thông số ngầm định với thông số mong đợi để quyết định.
1.3.4.2. Xác định phí của quyền chọn:
Giá trị quyền chọn (hay phí quyền chọn) bao gồm 02 thành phần: giá
trị nội tại và giá trị thời gian
* Giá trị nội tại ( intrinsic value) của quyền chọn là khoản lãi có thể thu được nếu thực hiện quyền chọn ngay lập tức tại một thời điểm nhất định. Như vậy, đối với quyền chọn mua tiền tệ, giá trị nội tại chính là chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá thực hiện tại một thời điểm nhất định. Ngược lại, đối
27
với hợp đồng quyền chọn bán tiền tệ, giá trị nội tại chính là chênh lệch giữa tỷ giá thực hiện và tỷ giá giao ngay tại một thời điểm nhất định. Từ đó:
* Đối với hợp đồng quyền chọn mua tiền tệ:
Giá trị nội tại = tỷ giá giao ngay – tỷ giá thực hiện. * Đối với hợp đồng quyền chọn bán tiền tệ: Giá trị nội tại = tỷ giá thực hiện – tỷ giá giao ngay. Nếu:
Giá trị nội tại > 0 gọi là quyền chọn ở trạng thái cao giá ( in the money -
ITM)
Giá trị nội tại < 0 gọi là quyền chọn ở trạng thái kiệt giá (out the money –
OTM)
Giá trị nội tại = 0 gọi là quyền chọn ở trạng thái ngang giá ( at the money
- ATM)
* Giá trị thời gian (hay còn gọi là giá trị ngoại lai – extrinsic value) của hợp đồng quyền chọn là hiệu số giữa phí quyền chọn và giá trị nội tại, nó phản ánh một thực tế là hợp đồng quyền chọn có thể có giá trị lớn hơn giá trị nội tại. Điều này ngụ ý rằng, do sự biến động của tỷ giá giao ngay trong tương lai làm cho giá trị của hợp đồng quyền chọn cũng thay đổi, tức có giá trị thời gian.
Giá trị thời gian = Phí quyền chọn – Giá trị nội tại.
Một quyền chọn sẽ được bán với giá ít nhất bằng giá trị nội tại của nó.
Quyền chọn càng ở trạng thái kiệt giá – OTM thì giá quyền chọn càng thấp.
Trong suốt thời gian tồn tại trước khi quyền chọn hết hiệu lực, tỷ giá có thể thay đổi có lợi (tỷ giá tăng nếu bạn mua quyền chọn mua) sao cho khi thực hiện quyền chọn bạn sẽ thu được lãi. Điều này cũng có nghĩa là nếu như quyền chọn ở trạng thái kiệt giá – OTM, theo thời gian có thể chuyển sang trạng thái cao giá hoặc nếu đã ở trạng thái cao giá rồi thì có thể chuyển sang trạng thái cao giá hơn nữa. Có khá nhiều cơ hội để một quyền chọn có lãi hoặc có lãi nhiều hơn. Chính vì vậy luôn luôn tồn tại giá trị thời gian đối với một quyền chọn ở trạng thái kiệt giá – OTM và đôi khi tồn tại giá trị thời gian đối với các quyền chọn ở trạng thái cao giá - ATM. Ngoài ra, thời gian hết hiệu lực của một quyền chọn càng dài thì giá trị thời gian của quyền chọn càng lớn. Một quyền chọn có thời gian hết hiệu lực là 06 tháng sẽ có giá cao hơn giá của quyền chọn có cùng giá thực hiện nhưng thời gian đáo hạn chỉ có 03 tháng. Khi quyền chọn càng tiến về thời gian đáo hạn, giá trị thời gian càng tiến đến 0. Giá trị quyền chọn kiểu Mỹ luôn lớn hơn giá trị nội tại của
28
nó bởi vì giá trị thời gian luôn luôn hiện hữu trong suốt thời gian hiệu lực. Tuy nhiên, đối với quyền chọn kiểu Châu Âu, thời gian có kéo dài đến bao nhiêu đi nữa cũng không làm tăng giá trị thời gian bởi lẽ quyền chọn kiểu Châu Âu chỉ có thể thực hiện vào ngày hết hiệu lực mà thôi.
Công thức định giá quyền chọn vừa trình bày trên chỉ áp dụng trong điều kiện chắc chắn nghĩa là khi tỷ giá giao ngay S được biết. Trên thực tế khi định giá quyền chọn chúng ta định giá của nó trong tương lai tức là định giá ở một thời điểm mà tỷ giá giao ngay ngay chưa biết. Do đó chưa biết được quan hệ giữa S và E như thế nào. Định giá quyền chọn trong trường hợp này gọi là định giá trong môi trường ngẫu nhiên. Rõ ràng ở đây giá trị quyền chọn tùy thuộc vào xác suất xảy ra khả năng S lớn hơn hay nhỏ hơn E. Trường hợp này phải sử dụng mô hình định giá Black –Scholes.
1.3.4.3. Sử dụng mô hình Black-Scholes trong định giá quyền chọn:
Vào đầu thập niên 70 Fischer Black, Myron Scholes và Robert Merton đã tạo nên một bước đột phá lớn trong vấn đề định giá option chứng khoán. Các ông đã xây dựng nên mô hình Black – Scholes sử dụng trong việc định giá quyền chọn mua theo kiểu Châu Âu và áp dụng cho cổ phiếu không trả cổ tức (non-dividend- paying stock). Mô hình này được giới thiệu mở rộng áp dụng sang lĩnh vực tiền tệ từ các bài báo của Mark Garman và Steven Kolhagen và bài của Orlin Grables vào năm 1983. Đối với quyền chọn mua theo kiểu Châu âu, mô hình Black-Scholes có thể diễn tả bởi công thức sau: Ce = Se –rfT N(d1) – Ee-rT N(d2)
Trong đó: Ce : giá quyền chọn mua theo kiểu châu Âu S : Tỷ giá giao ngay E : Tỷ giá thực hiện
T : Thời hạn hợp đồng (tính bằng năm) do hai bên thỏa thuận hoặc
được tiêu chuẩn hóa theo tập quán của thị trường.
rf : Lãi kép tiên tục không có rủi ro của đồng ngoại tệ (có thể thu thập bằng cách lấy lãi suất tín phiếu kho bạc của nước có đồng ngoại tệ) r :Lãi kép tiên tục không có rủi ro của đồng nội tệ (có thể lấy lãi suất
tín phiếu kho bạc của nước có đồng nội tệ)
e = 2,71828 là hằng số nêpe
σ : là độ lệch chuẩn hàng năm của phần trăm thay đổi tỷ giá giao ngay N(d1) và N(d2) là giá trị của hàm phân phối xác suất chuẩn d1 và d2 được xác định như sau:
29
ln (S/E) + [ rf – r + (σ2 /2)] d1 =
σ T
d2 = d1 – σ T
Mô hình Black - Schloes cho thấy giá cả của quyền chọn mua kiểu Châu Âu phụ thuộc vào tỷ giá thực hiện so với tỷ giá giao ngay, lãi suất phi rủi ro giữa hai quốc gia, thời hạn của hợp đồng và độ lệch chuẩn của sự thay đổi tỷ giá của hai đồng tiền. Mô hình này được dựa trên một số giả định như sau:
(cid:131) Lãi suất vẫn không thay đổi, lãi suất cho vay và đi vay như nhau (cid:131) Không có thuế hay chi phí giao dịch (cid:131) Sự sai biệt tỷ giá theo qui luật phân phối chuẩn (cid:131) Độ lệch chuẩn vẫn không đổi trong suốt thời gian hợp đồng.
Những giả định này không phù hợp trên thực tế, vì thực tế lãi suất và tỷ giá luôn thay đổi bất ngờ, lãi suất cho vay và lãi suất đi vay không giống nhau, có chi phí giao dịch và thuế, độ lệch tỷ giá chưa chắc có phân phối chuẩn, nên mô hình Black – Scholes chưa hẳn chính xác và nó cần phải được hoàn thiện. Tuy vậy, mô hình Black – Scholes vẫn áp dụng rộng rãi trong việc định giá quyền chọn, một phần vì theo thói quen, một phần vì nó đơn giản dễ áp dụng. Hơn nữa mô hình này có thể dẫn đến việc định giá sai nhưng mức độ sai lệch không nghiêm trọng đến nổi tạo ra cơ hội thu lợi cho những người kinh doanh chênh lệch giá.
1.4. Sử dụng quyền chọn trong phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá ngoại tệ
đối với hoạt động của doanh nghiệp
1.4.1. Phân tích rủi ro tỷ giá trong hoạt động của doanh nghiệp
Rủi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh do sự biến động tỷ giá làm ảnh hưởng đến giá trị kỳ vọng trong tương lai. Rủi ro tỷ giá có thể phát sinh trong nhiều hoạt động khác nhau của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung bất cứ hoạt động nào mà ngân lưu vào phát sinh bằng một loại đồng tiền trong khi ngân lưu ra phát sinh bằng một loại đồng tiền khác đều chứa đựng nguy cơ rủi ro tỷ giá.
1.4.1.1. Rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư:
Rủi ro tỷ giá sẽ có tác động ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư trực tiếp thường phát sinh đối với các công ty đa quốc gia hoặc các nhà đầu tư có danh mục đầu tư tài chính đa dạng trên bình diện quốc tế. Chẳng hạn, tại Việt Nam các nhà đầu tư trực
30
tiếp nước ngoài đầu tư mở những nhà máy sản xuất sản phẩm với nguồn nguyên liệu nhập từ nước ngoài mà tiêu thụ ở thị trường trong nước với doanh thu là VNĐ, trong khi chi phí nhập khẩu bỏ ra là ngoại tệ thì tỷ giá biến động tăng sẽ bất lợi cho các nhà đầu tư trực tiếp bởi chi phí bỏ ra ngày càng tăng do chi mua ngoại tệ để nhập khẩu, trong khi với doanh thu đó, khi chuyển ra ngoại tệ lại thấp hơn.
Đối với các nhà đầu tư gián tiếp trên thị trường tài chính cũng sẽ gặp rủi ro nếu đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường chứng khoán Việt Nam, mặc dù thị giá có tăng nhưng sự mất giá của đồng Việt Nam so với ngoại tệ cao hơn thì cũng sẽ gặp nhiều rủi ro.
1.4.1.2. Rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu:
Đây là lĩnh vực nhạy cảm nhất khi bất kỳ một biến động nào về tỷ giá hoặc những yếu tố có liên quan đến tỷ giá thì giá trị kỳ vọng của những khoản thu hoặc chi ngoại tệ sẽ bị ảnh hưởng và thay đổi theo. Nếu có sự thay đổi lớn sẽ ảnh hưởng đến khả năng tài chính của doanh nghiệp và làm thay đổi kết quả kinh doanh.
1.4.1.2.1. Rủi ro tỷ giá đối với hợp đồng xuất khẩu:
Giả sử công ty A đang thương lượng ký kết hợp đồng xuất khẩu trị giá 200.000 USD. Hợp đồng sẽ đến hạn thanh toán 06 tháng sau kể từ ngày ký hợp đồng. Ở thời điểm thương lượng hợp đồng, tỷ giá USD/VND =15.800 trong khi tỷ giá ở thời điểm thanh toán chưa biết vì chưa đến hạn. Sự không chắc chắn của tỷ giá USD/VND vào thời điểm thanh toán khiến cho hợp đồng xuất khẩu của Cty A chứa đựng rủi ro tỷ giá. Nếu đến hạn thanh toán, USD tiếp tục lên giá so với VND thì bên cạnh lợi nhuận do hoạt động xuất khẩu đem lại công ty còn kiếm thêm được khoản lợi nhuận tăng thêm do USD lên giá so với VND. Ngược lại, nếu đến hạn thanh toán USD xuống giá so với VND thì doanh thu kỳ vọng bằng VND của hợp đồng xuất khẩu trên giảm đi. Sự sụt giảm này làm cho lợi nhuận kỳ vọng từ hợp đồng xuất khẩu giảm đi, nghiêm trọng hơn có thể khiến cho hợp đồng trở nên lỗ nếu như sự sụt giá USD quá mạnh. Chẳng hạn, vào ngày thanh toán nếu USD/VND =15.600 thì cứ mỗi USD xuất khẩu công ty tổn thất 200 VND do USD xuống giá. Toàn bộ hợp đồng giá trị 200.000 USD, công ty bị thiệt hại 200VND x 200.000USD = 40.000.000 VND. Sự thiệt hại này là không lớn trong phạm vi một hợp đồng, nhưng nếu tính chung trong toàn bộ hoạt động xuất khẩu, công ty có đến hàng trăm hợp đồng như vậy, thiệt hại sẽ lớn đáng kể.
31
1.4.1.2.2. Rủi ro tỷ giá đối với hợp đồng nhập khẩu
Giả sử công ty B đang thương lượng ký kết hợp đồng nhập khẩu trị giá 100.000 USD. Hợp đồng sẽ đến hạn thanh toán sáu tháng sau kể từ ngày ký hợp đồng. Ở thời điểm thương lượng hợp đồng, tỷ giá USD/VND =16.600 trong khi tỷ giá ở thời điểm thanh toán chưa biết. Sự không chắc chắn của tỷ giá USD/VND vào thời điểm thanh toán khiến cho hợp đồng nhập khẩu của Công ty B chứa đựng rủi ro tỷ giá. Nếu đến hạn thanh toán, USD xuống giá so với VND thì bên cạnh lợi nhuận do hoạt động nhập khẩu đem lại công ty còn kiếm thêm được khoản lợi nhuận tăng thêm do USD xuống giá so với VND làm cho chi phí nhập khẩu giảm tương đối. Ngược lại, nếu đến hạn thanh toán USD lên giá so với VND thì chi phí nhập khẩu kỳ vọng bằng VND của hợp đồng nhập khẩu trên tăng lên. Sự gia tăng chi phí này làm cho lợi nhuận kỳ vọng từ hợp đồng nhập khẩu giảm đi thậm chí khiến cho hợp đồng có thể trở nên lỗ nếu như sự lên giá USD quá mạnh. Chẳng hạn, vào ngày thanh toán nếu USD/VND =16.700 thì cứ mỗi USD nhập khẩu làm cho chi phí gia tăng 100 VND so với tỷ giá lúc thương lượng hợp đồng. Toàn bộ hợp đồng trị giá 100.000 USD, công ty bị thiệt hại 100 x 100.000 = 10.000.000 VND. Sự thiệt hại này sẽ là nhỏ trong phạm vi một hợp đồng, nhưng nếu tính chung trong toàn bộ hoạt động nhập khẩu, công ty có đến hàng trăm hợp đồng như vậy hoặc hợp đồng có giá trị lớn hơn, thiệt hại cho công ty sẽ rất lớn.
1.4.1.3. Đối với các hoạt động tín dụng:
Rủi ro tỷ giá không chỉ xảy ra đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà còn xảy ra đối với các doanh nghiệp đi vay ngoại tệ. Hàng năm các doanh nghiệp Viêt Nam đều phải vay ngoại tệ hàng trăm triệu USD hoặc EUR để đầu tư vào các dự án lớn, các doanh nghiệp này sau khi vay ngoại tệ thường bán số ngoại tệ này chuyển sang VND để tiến hành hoạt động đầu tư dự án, đến kỳ trả nợ họ phải mua số ngoại tệ đó bằng VND. Trong thời gian tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ có sự biến động tỷ giá hối đoái rất lớn điều này dẫn đến rủi ro cho doanh nghiệp, mà doanh nghiệp gặp rủi ro thì ngân hàng cũng sẽ bị rủi ro theo khi các doanh nghiệp không trả được nợ vay. Sự tổn thất về tài chính nhiều hay ít, lớn hay nhỏ là tùy thuộc mức độ biến động của tỷ giá, giá trị các khoản nợ lớn hay nhỏ.
1.4.1.4. Tác động của rủi ro tỷ giá đến hoạt động của doanh nghiệp:
32
Tác động của rủi ro tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến năng lực tài chính, năng lực hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chẳng hạn để tránh rủi ro tỷ giá do đồng nội tệ mất giá nhiều doanh nghiệp phải nâng giá bán để đủ trang trải chi phí, điều này làm cho giá cả của doanh nghiệp trở nên kém hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp giảm sút. Hoặc trường hợp doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu, từ đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp ra nước ngoài… thì trong trường hợp ngoại tệ giảm giá trị so với đồng nội tệ thì đồng nội tệ thu về sẽ bị giảm xuống làm giảm hiệu quả kinh doanh.
Ngoài ra, rủi ro tỷ giá còn tác động đến giá trị của doanh nghiệp. Đối với các công ty cổ phần niêm yết hoặc chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán, giá trị doanh nghiệp phản ảnh bởi giá trị của cổ phiếu trên thị trường. Những doanh nghiệp nào hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên chịu tác động của rủi ro tỷ giá thì giá trị của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng bởi sự biến động của tỷ giá. Bởi vì sự biến động của tỷ giá có tác động làm thay đổi dòng tiền kỳ vọng của doanh nghiệp qua đó làm thay đổi giá trị kỳ vọng của doanh nghiệp.
1.4.2. Phòng ngừa rủi ro tổn thất do rủi ro tỷ giá trong giao dịch khoản phải
thu-phải trả ngoại tệ bằng công cụ quyền chọn
1.4.2.1. Phòng ngừa rủi ro tổn thất do rủi ro tỷ giá trong giao dịch khoản phải thu:
Để tránh tổn thất do biến động tỷ giá ngoại tệ khi có khoản phải thu từ hợp đồng xuất khẩu, công ty xuất khẩu có thể mua quyền chọn bán ngoại tệ với trị giá và thời hạn tương đương với trị giá và thời hạn thanh toán của hợp đồng xuất khẩu từ các ngân hàng thương mại hoặc trên thị trường quyền chọn. Khi đó công ty sẽ được các NHTM (bên bán quyền) chào bán quyền chọn mua với các nội dung như sau:
+ Trị giá quyền chọn (K) có thể bằng hoặc tương đương khoản phải thu
+ Tỷ giá thực hiện (E)
+ Phí mua quyền là K.P trong đó P là phí mua quyền tính trên 01 đồng
ngoại tệ
+ Thời hạn hợp đồng : T (bằng hoặc tương đương thời hạn thanh toán
khoản phải thu)
+ Quyền chọn Kiểu Châu Âu hoặc Kiểu Mỹ
33
(cid:57) Lúc này công ty cùng một lúc nắm hai hợp đồng: một là hợp đồng xuất khẩu, hai là hợp đồng mua quyền chọn bán ngoại tệ, thời gian đáo hạn của hai hợp đồng này là bằng nhau.
(cid:57) Gọi tỷ giá giao ngay tại thời điểm thực hiện quyền chọn bán là Sm. Ta có hai tình huống sẽ xảy ra khi hợp đồng đến hạn : thứ nhất đồng ngoại tệ lên giá so với nội tệ, thứ hai đồng ngoại tệ không lên giá so với đồng nội tệ.
(cid:190) Nếu đồng ngoại tệ lên giá, lúc này Sm > E công ty sẽ không thực hiện quyền chọn và bán ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Khi đó trị giá khoản phải thu qui ra nội tệ là K.Sm. Tuy nhiên ban đầu, khi mua quyền Công ty đã bỏ ra khoản chi phí là K.P => Trị giá khoản phải thu khi qui đổi ra đồng nội tệ sau khi trừ chi phí là K(Sm-P). Giá trị này không xác định (có thể đạt được mức lãi rất cao nếu Sm tăng cao hơn E rất nhiều), tuy nhiên mức lãi thấp nhất ta có thể xác định trước đó là K.(E-P). Do đó rủi ro tỷ giá được kiểm soát.
(cid:190) Nếu đồng ngoại tệ giảm giá Sm < E, công ty sẽ thực hiện quyền chọn bán, khi đó trị giá khoản phải thu qui đổi ra đồng nội tệ là K.E. Tuy nhiên do ban đầu Cty đã chi ra một khoản phí để mua quyền là K.P => Giá trị khoản phải thu bằng nội tệ qui đổi sau khi trừ phí mua quyền là K.E - K.P hay K.(E-P) và do đó rủi ro tỷ giá được kiểm soát.
Tóm lại khi sử dụng quyền chọn trong bảo hiểm rủi ro tỷ giá đối với khoản phải thu có thuận lợi là giúp các công ty có thể gia tăng mức lãi đối với một hợp đồng xuất khẩu (trong trường hợp tỷ giá biến động có lợi), còn ngược lại cũng giúp công ty xác định trước được mức lãi tối thiểu mà công ty có được để có định hướng cho những phương án kinh doanh kế tiếp… Tình huống cụ thể :
Cty A có một hợp đồng xuất khẩu trị giá 1.000.000USD, đến hạn thanh toán sau 03 tháng. Tỷ giá giao ngay hiện tại USD/VND là 16.650 -16.750, trong khi tỷ giá giao ngay tại thời điểm thanh toán chưa biết trước. Do đó để phòng ngừa rủi ro tỷ giá sẽ giảm sau 03 tháng, Cty A sẽ liên hệ với ACB để mua quyền chọn bán USD. Giả sử ACB chào bán hợp đồng quyền chọn với các nội dung như: tỷ giá thực hiện (E) là 16.900; phí mua quyền chọn là 50 đồng /1USD, hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ, thời hạn hợp đồng quyền chọn là 03 tháng. Khi đến hạn có 02 trường hợp xảy ra như sau: (cid:131) Nếu tỷ giá giao ngay tại ngày đáo hạn hợp đồng Sm < 16.900, Cty A sẽ thực hiện hợp đồng quyền chọn bán. Khi đó trị giá khoản phải thu sau khi
34
(cid:131)
qui ra VND là 1.000.000USD x 16.900 = 16.900 triệu VND, do ban đầu Cty A đã bỏ ra chi phí để mua quyền là 1.000.000USD x 50 VND = 50.000.000VND => Tổng thu nhập của Cty A có được từ hợp đồng xuất khẩu sau khi trừ chi phí là 16.900 triệu VND – 50 triệu VND = 16.850 triệu VND. Nếu tỷ giá giao ngay tại ngày đáo hạn Sm> 16.900, Cty A sẽ không thực hiện hợp đồng quyền chọn bán, mà bán ngoại tệ trên thị trường giao ngay với giá Sm, do khi ban đầu khi mua quyền Cty A đã phải trả chi phí là 50.000.000VND => Tổng thu nhập của Cty A có được từ hợp đồng xuất khẩu sau khi trừ chi phí là Sm x 1.000.000USD – 50 triệu VND, mức thu nhập này chưa được cố định tùy thuộc vào mức tăng giá của đồng ngoại tệ, tuy nhiên chắc chắn mức thu nhập này > 16.850 triệu VND
Trong trường hợp này khi sử dụng công cụ quyền chọn mua, Công ty A đã bảo hiểm được rủi ro do biến động tỷ giá. Cty A từ đầu đã xác định được mức thu nhập tối thiểu mà công ty có được từ hợp đồng xuất khẩu là 16.850 triệu VND. Ngoài ra, với quyền chọn Cty A có thể tận dụng cơ hội để làm tăng thêm thu nhập nếu tỷ giá biến động theo hướng có lợi (Sm > 16.900).
1.4.2.2. Phòng ngừa rủi ro tổn thất do rủi ro tỷ giá trong giao dịch khoản
phải trả:
Ngược lại với việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong giao dịch khoản phải thu, để phòng ngừa rủi tỷ giá đối với khoản phải trả từ các hợp đồng nhập khẩu các công ty nhập khẩu có thể mua quyền chọn mua ngoại tệ với trị giá và thời hạn tương đương với trị giá và thời hạn thanh toán của hợp đồng nhập khẩu từ các ngân hàng thương mại hoặc trên thị trường quyền chọn. Khi đó bên bán quyền chọn sẽ chào bán quyền chọn cho doanh nghiệp với các nội dung như sau:
+ Trị giá quyền chọn (K) có thể bằng hoặc tương đương khoản phải trả
+ Tỷ giá thực hiện (E)
+ Phí mua quyền là K.P trong đó P là phí mua quyền tính trên 01 đồng
ngoại tệ
+ Thời hạn hợp đồng : T (bằng hoặc tương đương thời hạn thanh toán
khoản phải trả)
+ Quyền chọn Kiểu Châu Âu hoặc Kiểu Mỹ
35
(cid:57) Lúc này công ty cùng một lúc nắm hai hợp đồng: một là hợp đồng nhập khẩu, hai là hợp đồng mua quyền chọn mua ngoại tệ, thời gian đáo hạn của hai hợp đồng này là bằng nhau.
(cid:57) Gọi tỷ giá giao ngay tại thời điểm thực hiện quyền chọn mua là Sb. Ta có hai tình huống sẽ xảy ra khi hợp đồng đến hạn: thứ nhất đồng ngoại tệ lên giá so với nội tệ, thứ hai đồng ngoại tệ không lên giá so với đồng nội tệ (cid:190) Nếu tỷ giá giao ngay lúc này Sb < E công ty sẽ không thực hiện quyền chọn và mua ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Khi đó trị giá khoản phải trả qui ra nội tệ là K.Sb. Tuy nhiên ban đầu, khi mua quyền Công ty đã bỏ ra khoản chi phí là K.P => Trị giá khoản phải trả khi qui đổi ra đồng nội tệ sau khi cộng chi phí là K(Sb + P). Giá trị này không xác định (có thế chi phí thanh toán khoản phải trả sẽ rất thấp nếu Sb càng giảm so với E), tuy nhiên mức chi phí cao nhất ta có thể xác định trước đó là K.(E+ P). Do đó rủi ro tỷ giá được kiểm soát (cid:190) Nếu tỷ giá giao ngay lúc này Sb > E công ty sẽ thực hiện quyền chọn mua, khi đó trị giá khoản phải trả qui đổi ra đồng nội tệ là K.E. Tuy nhiên do ban đầu Cty đã chi ra một khoản phí để mua quyền là K.P => Giá trị khoản phải trả bằng nội tệ qui đổi sau khi cộng phí mua quyền là K.E + K.P hay K.(E+P) và do đó rủi ro tỷ giá được kiểm soát. Việc sử dụng quyền chọn trong bảo hiểm rủi ro tỷ giá đối với khoản phải trả có thuận lợi là giúp các công ty có thể giảm thiểu đến mức thấp nhất số tiền thanh toán đối với một hợp đồng nhập khẩu (trong trường hợp tỷ giá biến động có lợi ), còn ngược lại cũng giúp công ty xác định trước được mức chi phí tối đa mà công ty phải thanh toán. Từ đó, Công ty có thể tính toán và điều chỉnh các chi phí sản xuất sao cho hoạt động kinh doanh đạt được mức lợi nhuận tốt nhất. Tình huống cụ thể :
Cty B có một hợp đồng nhập khẩu trị giá 1.000.000USD, đến hạn thanh toán sau 03 tháng. Tỷ giá giao ngay hiện tại USD/VND là 16.700 - 16.750, trong khi tỷ giá giao ngay tại thời điểm thanh toán chưa biết trước. Do đó để phòng ngừa rủi ro tỷ giá sẽ tăng sau 03 tháng, Cty A sẽ liên hệ với ACB để mua quyền chọn mua USD. Giả sử ACB chào bán hợp đồng quyền chọn với các nội dung như: tỷ giá thực hiện (E) là 16.850; phí mua quyền chọn là 50 đồng /1USD, hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ, thời hạn hợp đồng quyền chọn là 03 tháng. Khi đến hạn có 02 trường hợp xảy ra như sau:
36
(cid:131)
(cid:131) Nếu tỷ giá giao ngay tại ngày đáo hạn hợp đồng Sb > 16.850, Cty A sẽ thực hiện hợp đồng quyền chọn mua. Khi đó trị giá khoản phải trả sau khi qui ra VND là 1.000.000USD x 16.850 = 16.850 triệu VND, do ban đầu Cty A đã bỏ ra chi phí để mua quyền là 1.000.000USD x 50 VND = 50.000.000VND => Tổng chi phí Cty A phải chi ra để thanh toán cho hợp đồng nhập khẩu sau khi cộng chi phí mua quyền là 16.850 triệu VND + 50 triệu VND = 16.900 triệu VND. Nếu tỷ giá giao ngay tại ngày đáo hạn Sb < 16.900, Cty A sẽ không thực hiện hợp đồng quyền chọn mua, mà mua ngoại tệ trên thị trường giao ngay với giá Sb, do khi ban đầu khi mua quyền Cty A đã phải trả chi phí là 50.000.000VND => Tổng chi phí Cty A phải thanh toán cho hợp đồng nhập khẩu sau khi cộng chi phí mua quyền là Sb x 1.000.000USD + 50 triệu VND, mức chi phí này chưa được cố định tùy thuộc vào mức giảm giá của đồng ngoại tệ, tuy nhiên chắc chắn mức chi phí này < 16.900 triệu VND
Tóm lại dù tỷ giá giao ngay khi hợp đồng nhập khẩu đến hạn là bao nhiêu đi nữa thì trị giá phải thanh toán của hợp đồng nhập khẩu qui ra VND vẫn nằm ở mức tối đa là 16.900 triệu VND.
1.4.3. Những lợi ích và rủi ro khi sử dụng quyền chọn:
1.4.3.1. Những lợi ích khi sử dụng quyền chọn:
(cid:57) So với các nghiệp vụ phái sinh khác như hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi hoặc tương lai thì hợp đồng quyền chọn có lợi là người mua quyền chọn có quyền chứ không bắt buộc phải thực hiện hợp đồng. Trong khi đó với các hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi và tương lai thì các bên tham gia hợp đồng bắt buộc phải giao dịch, thanh toán với nhau không có bất cứ sự lựa chọn nào khác khi hợp đồng đến hạn kể cả trong trường hợp tỷ giá thực tế có diễn biến bất lợi.
(cid:57) Ngoài ra, giao dịch quyền chọn còn đem lại lợi ích kinh tế rất lớn cho những doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp có nhu cầu mua, bán ngoại tệ, nếu họ biết tận dụng những cơ hội để kinh doanh do sự biến động tỷ giá tạo ra.
(cid:57) Mặc khác, khi tham gia quyền chọn không chỉ đem lại lợi ích do hạn chế rủi ro tỷ giá mà còn cho phép các doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch sử dụng ngoại tệ, chủ động trong hoạt động kinh doanh. Đây là yếu tố lợi thế mà bất kỳ doanh nghiệp nào trong cơ chế thị trường cũng cần phải khai thác.
37
1.4.3.2. Những rủi ro khi sử dụng quyền chọn:
(cid:131) Những rủi ro đối với người mua quyền chọn: Người mua quyền chọn sẽ phải đối mặt với rủi ro bị mất toàn bộ hay một phần khoản tiền đã chi phí để mua quyền chọn. Nếu người nắm giữ hợp đồng quyền chọn không bán lại quyền của mình trên thị trường thứ cấp và cũng không thực hiện nó trước khi đến hạn, anh ta có thể sẽ mất toàn bộ số tiền chi phí mua quyền chọn.
(cid:131) Những rủi ro đối với người bán quyền chọn: Người bán bắt buộc phải thực hiện hợp đồng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn hiệu lực hợp đồng mà người mua yêu cầu. Đồng thời họ luôn chịu rủi ro mất đi cơ hội kiếm lời khi tỷ giá giao ngay vào thời điểm hợp đồng đáo hạn tăng cao hơn tỷ giá thực hiện đối với bán quyền chọn bán, cũng như phải chịu rủi ro lỗ vì bán ngoại tệ dưới giá thị trường khi bán hợp đồng quyền chọn mua.
(cid:131) Những rủi ro khác: Sự dự tính về tỷ giá tương lai khó chính xác, bởi lẽ tỷ giá chịu sự tác động từ các yếu tố kinh tế, chính trị và những hoạt động của Chính phủ ở cả hai nước. Do đó, sự biến động giá cả có thể rất lớn dẫn đến khả năng sinh lời cũng như rủi ro của những người nắm giữ hợp đồng là rất cao.
(cid:131) Mặt khác, thị trường ngoại hối là thị trường toàn cầu với các múi giờ khác nhau. Chính vì vậy, giờ của hợp đồng quyền chọn có thể không phù hợp với giờ của đồng tiền được xác định trong hợp đồng. Trong một chừng mực nào đó, thị trường quyền chọn đã đóng cửa, trong khi đó thị trường ngoại hối vẫn đang làm việc. Sự biến động của tỷ giá và các mức lãi suất có liên quan không được phản ánh ngay lập tức trên thị trường quyền chọn. Điều này có thể gây tổn thất cho những người nắm giữ hợp đồng
38
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Chương 1 đã đi vào tìm hiểu khái quát về các công cụ phái sinh tiền tệ, vai trò của các công cụ phái sinh trong hoạt động kinh doanh của NHTM, trong đó đặc biệt trình bày cụ thể về công cụ quyền chọn: khái niệm, đặc điểm, các chủ thể tham gia, cách định giá quyền chọn, phân tích những lợi ích khi sử dụng quyền chọn trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp, để từ đó thấy được sự cần thiết phải sử dụng quyền chọn để bảo hiểm rủi ro tỷ giá đối với các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp có kinh doanh xuất nhập khẩu từ đó giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong các kế hoạch kinh doanh của mình, đảm bảo hoạt động kinh doanh luôn có hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, trong chương I cũng trình bày những ưu nhược điểm khi sử dụng công cụ này để làm cơ sở giúp những đối tượng tham gia vào hợp đồng quyền chọn có thể hiểu rõ hơn về công cụ quyền chọn – một công cụ phái sinh còn khá mới mẽ tại Việt Nam để từ đó có những tính toán lựa chọn việc sử dụng sao cho mang lai lợi ích nhiều nhất.
39
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG CÔNG CỤ QUYỀN CHỌN NGOẠI TỆ TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU
2.1. Cơ chế điều hành tỷ giá và sự biến động tỷ giá trên thị trường ngoại hối
thời gian qua tại Việt Nam:
Từ năm 1992, Việt Nam đã áp dụng chính sách neo đồng Việt Nam theo đôla Mỹ theo hình thức neo giữ và qui đổi VND theo USD qua một rổ ngoại tệ hẹp (chủ yếu là USD, DEM, FRF, GBP, JPY) trong đó USD chiếm tỷ trọng lớn thông qua việc thả nổi có kiểm soát đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối. Năm 1994 với sự ra đời của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện một bước chuyển cơ bản về việc điều hành tỷ giá theo cơ chế mới. Từ thời điểm này NHNN bắt đầu công bố tỷ giá chính thức giữa ngoại tệ với VND, theo đó tỷ giá mua bán trên thị trường được dao động trong một biên độ nhất định. Tuy nhiên, tỷ giá chính thức do NHNN công bố không được điều chỉnh thường xuyên mà cố định trong thời gian dài có khi đến hơn 1 năm, tỷ giá giao dịch trên thị trường thay đổi phụ thuộc vào biên độ cho phép của NHNN trong từng giai đoạn. Chính sách tỷ giá này kéo dài đến năm 1998, do đó sự biến động tỷ giá trong giai đoạn này gần như được xác định một cách chủ quan không phản ánh đúng tỷ giá thị trường.
Từ năm 1999 đến nay tỷ giá hối đoái chính thức được NHNN công bố hàng ngày, được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân mua bán thực thế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Trên cơ sở này, các Ngân hàng thương mại sẽ ấn định mức tỷ giá giao dịch mua bán theo một biên độ dao động nhất định. Biên độ này ban đầu rất thấp +/- 0,1%, và dần tăng lên, trong 05 năm từ năm 2002-2006 NHNN chỉ điều chỉnh biên độ 02 lần. Đặc biệt từ đầu năm 2008 do tình hình kinh tế nói chung có nhiều biến động để phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường NHNN đã 06 lần điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá USD/VND. Từ +/-0,5% lên +/- 0,75%, đến 10/03/2008 lên +/-1%, 27/06 điều chỉnh lên +/-2%, và từ 07/11 lên +/-3%.
Bảng 2.1: Tỷ giá hối đoái USD/VND từ năm 2001 đến 2008
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
giá
Tỷ USD/VND
15.070 15.368 15.608 15.774 15.907 16.068 16.003 17.486
Nguồn: Số liệu báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho IMF
40
18,000 17,500 17,000
16,500 16,000 15,500 15,000
14,500 14,000 13,500
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Hình 2.1: Biế n động Tỷ giá USD/VND từ năm 2001-2008
Với cơ chế điều hành tỷ giá thả nổi nhưng có sự điều tiết của Nhà nước thông qua việc giới hạn biên độ dao động thời gian qua tại Việt Nam đã làm cho tỷ giá USD/VND thường xuyên ổn định tại mức trần so với NHNN công bố, chính điều này đã làm cho khách hàng không quan tâm đến vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Do đó việc sử dụng các công cụ phái sinh ngoại hối nói chung và hợp đồng quyền chọn nói riêng vẫn chưa phát triển tại Việt Nam thời gian qua.
2.2. Nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp hiện nay:
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Hình 2.2: Tốc độ tăng, giảm giá USD trong 8 tháng năm 2008 Qua sơ đồ trên ta thấy năm 2008 tỷ giá có sự biến động liên tục và mức biến động rất cao, theo đó giá USD đã giảm trong quý I nhưng sang Quý II giá USD đã tăng lên đột ngột, nhất là vào tháng 6 (đặc biệt trên thị trường tự do thời điểm này tỷ giá USD/VND có lúc lên đến 19.000). Nhờ các biện pháp tích cực trong việc điều hành của Ngân hàng Nhà nước, nên tỷ giá đã ổn định
41
trở lại vào tháng 7, giảm xuống vào tháng 8. Tuy nhiên, tính chung sau 8 tháng tỷ giá vẫn còn tăng 3,78% (so với tháng 12.2007), cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trong cả năm của nhiều năm trước (năm 2002 tăng 2,1%; năm 2003 tăng 2,2%; năm 2004 tăng 0,4%; năm 2005 tăng 0,9%; năm 2006 tăng 1%; năm 2007 tăng 0,03%).
Chính vì sự biến động không dự đoán trước của tỷ giá trong những tháng đầu của năm 2008 đã làm nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thiệt hại nặng. Ví dụ trường hợp Công ty Xi Măng Hà Tiên 1, trong một phát biểu trên báo đầu tháng 06/2008, Phó Giám đốc Công ty đã cho biết ” mỗi tháng công ty nhập khoảng 150.000 tấn clinker, tổng trị giá khoảng 7,3 triệu USD. Doanh nghiệp này phải mua USD để thanh toán hàng nhập khẩu với tỷ giá khoảng 17.300 đồng/USD, tăng 1.000 đồng so với giá mua USD vào đầu tháng 5, do đó số tiền mà Hà Tiên 1 phải chi ra thêm là hơn 700 triệu đồng mỗi tháng cho riêng khoản nhập clinker.” Hoặc một doanh nghiệp tại Cần Thơ chuyên nhập khẩu bã đậu nành, bao bì... cho biết công ty nhập khẩu một lô hàng trị giá 2,5 triệu USD. Số hàng này trước đó doanh nghiệp đã ký hợp đồng bán lại cho khách hàng trong nước bằng tiền đồng Việt Nam và được chốt ở mức tỷ giá 16.500 đồng/USD.Tuy nhiên đến đầu tháng 06/2008 khi công ty thanh toán tiền hàng thì tỷ giá đã tăng đến 17.700 đồng/USD. Như vậy trong hợp đồng này, chỉ tính riêng phần chênh lệch tỷ giá ông đã bị lỗ 3 tỉ đồng.
Trên đây là một số ví dụ để minh chứng cho thấy được ảnh hưởng của rủi ro do biến động tỷ giá và tầm quan trọng của việc cần thiết phải phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Rõ ràng trong những tình huống trên nếu doanh nghiệp có sử dụng các công cụ phái sinh ngoại hối (đặc biệt quyền chọn ngoại tệ) sẽ hạn chế được đến mức thấp nhất những thiệt hại sẽ xảy ra.
Nước ta đang trong xu hướng mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các chính sách quản lý điều tiết của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế ngày càng được nới lỏng. Dòng vốn nước ngoài được tự do ra vào nước ta. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng phát triển dẫn đến việc một doanh nghiệp có nguồn thu nhập từ loại ngoại tệ này nhưng chi phí nhập khẩu lại là một loại ngoại tệ khác ngày một trở nên phổ biến. Ngoài ra với cơ chế quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái ngày một thông thoáng góp phần đưa tỷ giá VND so với các ngoại tệ ngày càng sát với giá thị trường, sự biến động tỷ giá do quan hệ cung cầu quyết định. Điều này chúng ta đã thấy trong thời gian qua (những
42
tháng đầu và giữa năm 2008) và trong thời gian tới tỷ giá cũng sẽ biến động ngày càng nhiều phụ thuộc vào tình hình kinh tế trong và ngoài nước. Việc dự báo tỷ giá tương lai khá khó khăn. Do đó, trong những tình huống này thì rủi ro tỷ giá là điểu tất yếu các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ nên có những phương án phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng các công cụ phái sinh tiền tệ, đặc biệt là công cụ quyền chọn giúp doanh nghiệp luôn xác định trước khoản lỗ cũng như mức lợi nhuận tối thiểu sẽ đạt được, để từ đó doanh nghiệp có những chiến lược kinh doanh phù hợp.
2.3. Thực trạng việc thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ trong phòng
ngừa rủi ro tỷ giá tại các NHTM Việt Nam:
2.3.1. Cơ sở pháp lý của nghiệp vụ quyền chọn:
* Cơ sở pháp lý liên quan đến chính sách quản lý ngoại hối:
Trong thời gian qua, thị trường ngoại hối phát triển với nhiều nghị định, quyết định, văn bản hướng dẫn... Trong đó, Nghị định 05/2001/NĐ-CP ngày 17/1/2001 về quản lý ngoại hối, quyết định 648/2002-2004/QĐ-NHNN về cơ chế thỏa thuận tỷ giá kỳ hạn giữa NHTM với khách hàng trên cơ sở chênh lệch lãi suất, quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN về điều chỉnh giao dịch hối đoái của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Đặc biệt là pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực từ ngày 1/6/2006, pháp lệnh này như một khuôn khổ thống nhất về quản lý ngoại hối. Theo đó, NHNN nới lỏng kiểm soát ngoại tệ, tự do hóa các giao dịch, tăng quyền tự chủ cho các NHTM và TCTD, làm cho thị trường ngoại tệ diễn ra uyển chuyển và linh hoạt hơn.
Cơ chế điều hành tỷ giá cũng đã có những thay đổi đáng kể. Vào tháng 5/2004, NHNN đã bãi bỏ các trần cố định về tỷ giá kỳ hạn để thay bằng chênh lệch lãi suất. Tháng 7/2006, NHNN bỏ biên độ giao dịch đô la Mỹ tiền mặt, cho Eximbank thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ mặt theo tỷ giá thỏa thuận.
Biên độ giao dịch USD không ngừng được mở rộng, ngày 10/3/2008 biên độ được xác định là +/-1%, sau đó được nâng lên thành +/-2%, và gần đây nhất đã được nâng lên +/-3%. Việc nới lỏng biên độ tỷ giá góp phần phản ánh chính xác quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường, đồng thời chính việc này đã làm rủi ro hối đoái không ngừng tăng lên.
Giai đoạn năm 1998-2008, với sự thông thoáng hơn trong cơ chế chính sách, thị trường ngoại hối có nhiều khởi sắc với hoạt động mua bán trao đổi ngoại tệ sôi động hơn, tạo cơ hội để mở rộng quan hệ hợp tác giữa các ngân
43
hàng trong nước và nước ngoài. Những chính sách này đã mở ra nhiều nghiệp vụ mới đặc biệt là các nghiệp vụ phái sinh ngoại hối như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn, …giúp doanh nghiệp có nhiều sự lựa chọn để bảo hiểm rủi ro tỷ giá, đồng thời góp phần đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các NHTM.
* Cơ sở pháp lý về giao dịch quyền chọn ngoại tệ:
Ngày 10/01/1998, trên cơ sở nhận thức sự cần thiết thúc đẩy giao dịch ngoại hối phát triển, thống đốc NHNN đã ký quyết định 17/1998/QĐ_NHNN ban hành quy chế giao dịch hối đoái (quyết định 17). Quy chế này đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM, tạo công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất, đồng thời tăng cường sự quản lý và giám sát của NHNN về lĩnh vực ngoại hối. Tuy nhiên, với quyết định này thì giao dịch ngoại hối chỉ mới được thực hiện thông qua các công cụ giao ngay kỳ hạn và hoán đổi.
Ngày 12/02/2003, công văn số 135/NHNN-QLNH về giao dịch quyền chọn ngoại tệ, trước tiên là quyền chọn giữa ngoại tệ với ngoại tệ chính thức ra đời. Eximbank là NHTM đầu tiên thực hiện thí điểm nghiệp vụ này. Trong đó, công văn này đã quy định cụ thể nhằm triển khai thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ ở các ngân hàng như về đối tượng tham gia, đồng tiền giao dịch, thời hạn giao dịch, giới hạn số dư…
Sau 7 năm đi vào hoạt động, đến cuối năm 2004, quyết định 17/1998/QĐ-NHNN (quyết định 17) đã phát sinh những hạn chế. Vì vậy, ngày 10/11/2004, thống đốc NHNN đã ký quyết định số 1452/2004/QĐ- NHNN về giao dịch hối đoái của các TCTD để thay thế quyết định 17 và khắc phục những hạn chế này. Quyết định này đã mở rộng phạm vi giao dịch ngoại hối bao gồm cả công cụ quyền chọn. Tại Quyết định này, giao dịch quyền lựa chọn chỉ bao gồm giao dịch giữa các ngoại tệ (không liên quan đến Đồng Việt Nam). Đối tượng được tham gia giao dịch hối đoái bao gồm tổ chức tín dụng (TCTD) được phép, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, các cá nhân và NHNN Việt Nam. TCTD được phép được duy trì tổng giá trị hợp đồng quyền lựa chọn không có giao dịch đối ứng tối đa là 10% so với vốn tự có. Cũng trong quyết định này, các TCTD được phép không được mua quyền lựa chọn của tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân mà họ chỉ được phép bán quyền chọn cho các đối tượng này mà thôi. Đồng thời, quy định kỳ hạn của giao dịch quyền chọn giữa các ngoại tệ với nhau do tổ chức tín dụng được
44
phép và khách hàng tự thỏa thuận. Quy định này là một sự chuyển biến lớn trong cung cách quản lý các hoạt động giao dịch ngoại hối giúp thị trường quyền chọn nước ta ngày càng đa dạng hơn.
Như vậy, có thể thấy, các văn bản pháp lý liên quan đến chính sách quản lý ngoại hối và quyền chọn ngoại tệ được ban hành là khá nhiều nhưng chúng vẫn chưa quy định cụ thể và thúc đẩy được các giao dịch mua bán quyền chọn phát triển, nó chỉ mang tính tức thời bổ sung cho thị trường ngoại hối, cũng giống như chúng ta chỉ ban hành văn bản luật khi thị trường cần thực hiện các giao dịch này trong ngắn hạn, chứ chưa đưa ra các bộ luật chuẩn quy định cụ thể, thống nhất như luật công cụ bảo hiểm phái sinh chẳng hạn. Như vậy, sẽ gây khó khăn cho các tổ chức tài chính và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư… trong việc hoạch định các chiến lược dài hạn để kinh doanh trên thị trường.
2.3.2.Thực trạng việc thực hiện công cụ quyền chọn ngoại tệ tại các Ngân
hàng Thương mại Việt Nam:
Tại Việt Nam công cụ quyền chọn mới xuất hiện trên thị trường cách đây khoảng 05 năm, tuy nhiên còn mang tính thí điểm, nhỏ bé, đơn lẻ và chưa phổ biến. Ngày 12 tháng 2 năm 2003, Thống đốc NHNN Việt Nam, đã chấp thuận đề nghị của NHTMCP xuất nhập khẩu Việt Nam (EXIMBANK), cho phép ngân hàng này được thực hiện thí điểm, nghiệp vụ quyền lựa chọn tiền tệ. Ngay sau khi chính thức khai trương nghiệp vụ này, EXIMBANK đã nhận được sự hưởng ứng của nhiều doanh nghiệp lớn: 11 hợp đồng quyền chọn đã được ký kết; trong đó có Vinataba với hợp đồng quyền chọn mua 3 triệu SGD, Domesco mua 200.000 EUR, Vilube bán 100.000 USD,…Tuy nhiên, sau 06 tháng thí điểm chỉ được khoảng hơn 10 doanh nghiệp tham gia với 50 hợp đồng thực hiện quyền chọn, tổng trị giá hơn 5 triệu USD. Sau đó NHNN cũng lần lượt cho phép 06 ngân hàng khác là NH Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, Citibank, Vietcombank, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng HSBC chi nhánh Tp.HCM được thực hiện thí điểm quyền chọn. Đến năm 2005 công cụ quyền chọn tiếp tục được phép thực hiện tại VIB, Techcombank, Ngân hàng Quân Đội. Tuy nhiên kết quả thu được rất nhỏ bé thậm chí có ngân hàng không có hợp đồng quyền chọn nào.
Đối với giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ với VND: Tháng 4/2005 NHNN Việt Nam đã bắt đầu cho triển khai thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ với VNĐ. ACB là ngân hàng đầu tiên được thí điểm nghiệp vụ này, với mức tối đa giá trị hợp đồng là 10 triệu USD và mức tối
45
tệ và VNĐ
thiểu là 10.000 USD (quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền chọn giao dịch giữa các ngoại tệ khác và VNĐ).Tiếp theo ACB là ngân hàng Techcombank với giá trị hợp đồng tối đa là 8.000.000USD và tối thiểu là 10.000USD và chỉ được thực hiện với quyền chọn Châu Âu. BIDV được phép thí điểm từ ngày 22/8/2005 và kể từ đây không còn quy định giới hạn cho giá trị hợp đồng quyền chọn. Ngoài ra, còn có các ngân hàng như Eximbank, GPbank cũng tham gia nghiệp vụ này. Như vậy, tính đến tháng 5/2008, đã có 7 ngân hàng được phép thực hiện giao dịch quyền chọn giữa là Ngân hàng VIB,Vietcombank, ACB, BIDV, ngoại Techcombank và Ngân hàng TMCP Quân đội, Eximbank.
Đặc điểm giao dịch: Cũng giống với giao dịch giữa quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, quyền chọn ngoại tệ với VNĐ yêu cầu các NHTM muốn thực hiện nghiệp vụ này phải có đề án chi tiết quy trình nghiệp vụ, phương án phòng ngừa rủi ro, và được NHNN chấp nhận bằng văn bản.
Quy định về tỉ giá thực hiện như sau: Đối với hợp đồng quyền chọn USD/VNĐ: tỷ giá này không vượt quá tỷ giá kỳ hạn USD/VNĐ cùng thời hạn.
Đối với hợp đồng quyền chọn giữa ngoại tệ khác với VNĐ: tỷ giá do ngân
hàng và khách hàng tự thỏa thuận
Doanh số giao dịch: Mặc dù được triển khai từ năm 2005, nhưng doanh số mua bán thực tế của các NHTM không đáng kể, hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo kiểu Mỹ vì điều kiện thanh toán linh hoạt hơn. Riêng Vietcombank và Eximbank được xem là hai ngân hàng mạnh về lĩnh vực này nhưng doanh số hoạt động vẫn không cao. Tính trong năm 2006-2007 Vietcombank chỉ đạt khoảng 37,53 triệu USD (chiếm chưa đến 0,1% tổng doanh số giao dịch ngoại tệ), Eximbank đạt 128,12 triệu USD (chiếm khoảng 0,8% trong tổng số giao dịch ngoại tệ).
Qua thực tế trên, chúng ta thấy rằng giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ chưa phát triển. Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng với kết quả ban đầu trong giai đoạn thí điểm này là một dấu hiệu đáng mừng góp phần tạo tiền đề cho sự phát triển sau này
Quyền chọn là một công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá, đứng trên giác độ là người bảo hiểm, các ngân hàng khi phát hành quyền chọn rất cần có số đông khách hàng để có thể làm trung gian cân đối hay điều hòa rủi ro giữa những người ký kết hợp đồng quyền chọn với ngân hàng. Thời gian qua khi triển
46
khai thực hiện quyền chọn tại một số Ngân hàng kết quả cho thấy số lượng khách hàng tham gia rất ít, thậm chí có ngân hàng không bán được quyền chọn nào cho khách hàng. Do đó thực tế đã xảy ra tình trạng là có một số giao dịch quyền chọn về ngoại hối (USD-VND) được thực hiện trên thị trường lâu nay thường là những giao dịch “lách luật” để thực hiện mua bán USD theo tỷ giá vượt trần của NHNN mà thực chất chưa phải là giao dịch phái sinh, là công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
2.3.3.Kết quả khảo sát nhận thức và nhu cầu sử dụng công cụ phòng ngừa
rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp
Để thấy rõ hơn thực trạng của việc sử dụng các công cụ phái sinh nói chung và công cụ quyền chọn nói riêng tại các NHTM Việt Nam, ta xem xét kết quả khảo sát nhận thức và nhu cầu của doanh nghiệp về việc sử dụng công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Đây là kết quả của công trình nghiên cứu khoa học của Sở khoa học và công nghệ Tp.HCM với Trường Đại học kinh tế Tp.HCM, đề tài “Hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá nhằm chuẩn bị hội nhập khu vực và thế giới” thực hiện tháng 12/2006 do TS. Nguyễn Minh Kiều chủ nhiệm đề tài
Bảng 2.2: Kết quả khảo sát về việc sử dụng các công cụ phái sinh
Hợp đồng giao dịch
Tổng cộng
Doanh nghiệp chưa biết
Doanh nghiệp ít khi sử dụng
Doanh nghiệp thường xuyên có sử dụng
Hợp đồng kỳ hạn
17
58
25
100
Hợp đồng hoán đổi
36
64
-
100
Hợp đồng giao sau
34
66
-
100
Hợp đồng quyền chọn
21
58
21
100
Kết quả khảo sát cho thấy có đến gần 80% số doanh nghiệp được khảo sát chưa hoặc ít khi sử dụng hợp đồng quyền chọn, trong đó có 21% chưa hề nghe nói đến loại hợp đồng này. Điều thú vị là tỷ lệ doanh nghiệp có biết đến và sử dụng hợp đồng quyền chọn thường xuyên cũng vào khoảng 21%.
47
21%
21%
DN chưa biết
DN ít khi sử dụng
58%
DN thường xuyên sử dụng
Hình 2.3: Khảo sát nhận thức của doanh nghiệp về việc sử dụng quyền chọn
* Kết quả khảo sát nhận thức về rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp
DN chưa nghe
Kết quả khảo sát nhận thức của các doanh nghiệp về rủi ro tỷ giá cho thấy rằng có 5,3% doanh nghiệp chưa hề nghe nói đến hay nói đúng hơn là vẫn chưa nhận thức được về rủi ro tỷ giá. Một số khác, khoảng 24% có nghe và biết đến nhưng hầu như không có quan tâm. Như vậy, có gần 30% số doanh nghiệp phản hồi là họ chưa nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề rủi ro tỷ giá. Còn lại 70% doanh nghiệp có nhận thức được vấn đề rủi ro tỷ giá nhưng chỉ có 30% là thực sự lo lắng về vấn đề này.
5%
24%
DN có nghe và biết
71%
DN nhận thức được Risk tỷ giá
Hình 2.4 : Khảo sát nhận thức về rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp
Kết quả này đã phản ánh thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian trước đây, còn ỷ lại vào sự che chở của cơ quan nhà nước, do vậy các doanh nghiệp đã không quan tâm đến vấn đề rủi ro tỷ giá đúng mức, nhưng trong thời gian hiện tại với sự thay đổi của tỷ giá hối đoái và những rủi ro trong quá trình hội nhập đã buộc các doanh nghiệp phải chú trọng quan tâm đến các công cụ phòng ngừa rủi ro như options để tự bảo vệ mình. * Kết quả khảo sát ý kiến của doanh nghiệp về nhu cầu sử dụng các giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá
Kết quả khảo sát cho thấy có khoảng 55% số người được hỏi cho rằng hiện tại ở Việt Nam đã có nhu cầu sử dụng các giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ
48
giá, chỉ có khoảng 31% là cho rằng chưa có nhu cầu. Điều đáng thú vị là có 14% số người được hỏi trả lời rằng bây giờ chưa có nhưng tương lai các doanh nghiệp sẽ có nhu cầu sử dụng các giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
14%
Đã có nhu cầu
Chưa có nhu cầu
55%
31%
Bây giờ chưa
Hình 2.5 Khảo sát nhu cầu phòng ngừa rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp
Qua các kết quả khảo sát trên ta có thể rút ra kết luận: hiện tại phần lớn các doanh nghiệp đã có sự nhận thức về rủi ro tỷ giá và có nhu cầu sử dụng các sản phẩm phái sinh như quyền chọn ngoại tệ để bảo vệ chính mình. Bên cạnh đó, các NHTM cũng đang chuẩn bị mọi thứ có thể và sẵn sàng cạnh tranh đáp ứng nhu cầu sử dụng các công cụ phái sinh của khách hàng, đặc biệt là quyền chọn ngoại tệ. Điều này cho thấy tiềm năng phát triển rất lớn của nghiệp vụ này trong tương lai khi vấn đề tỷ giá ngày càng được tự do hóa. Đây là một cơ hội cho các Ngân hàng phát triển các công cụ phái sinh góp phần làm tăng thu nhập và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của mình.
2.4. Thực trạng việc thực hiện quyền chọn ngoại tệ tại Ngân hàng Thương
mại cổ phần Á Châu:
2.4.1 Giới thiệu khái quát về Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu : 2.4.1.1. Quá trình hình thành và phát triển:
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp ngày 24/4/1993, và Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP.HCM cấp ngày 13/5/1993. Ngày 04/6/1993 ACB chính thức đi vào hoạt động, là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường và trụ sở chính được đặt tại 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3 TP.HCM. (cid:153) Về Quy mô hoạt động: (cid:190) Năm 2006: Vốn chủ sở hữu là 1.630 tỷ đồng; Tổng tài sản là 44.346 tỷ đồng; Về mạng lưới kênh phân phối, tính đến cuối năm 2006, toàn hệ thống ACB có 80 chi nhánh và phòng giao dịch với tổng số nhân viên là 2.892, trong đó 90% số nhân viên có trình độ Đại học và Sau đại học.
49
(cid:190) Năm 2007: Vốn chủ sở hữu là 6.258 tỷ đồng; Tổng tài sản là 85.392 tỷ đồng; Về mạng lưới kênh phân phối, tính đến cuối năm 2007, toàn hệ thống ACB có 111 chi nhánh và phòng giao dịch tại những vùng kinh tế phát triển trên toàn quốc với tổng số nhân viên là 4.600, trong đó 93% số nhân viên có trình độ Đại học và Sau đại học.
(cid:190) Năm 2008 : Vốn chủ sở hữu là 6.355 tỷ đồng; Về mạng lưới kênh phân phối, tính đến cuối năm 2008, toàn hệ thống ACB có 186 chi nhánh và phòng giao dịch tại những vùng kinh tế phát triển trên toàn quốc với tổng số nhân viên là 7.000 tăng 52% so với năm 2007, trong đó 93% số nhân viên có trình độ Đại học và Sau đại học.
(cid:153) Quá trình phát triển và một số sự kiện đáng chú ý: (cid:190) Năm 1996, ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt
Nam phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-MasterCard. (cid:190) Năm 1997, ACB phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-Visa. (cid:190) Năm 1999, ACB triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin ngân hàng. Và cuối năm 2001, ACB chính thức vận hành hệ thống công nghệ ngân hàng lõi là TCBS (The Complete Banking Solution: Giải pháp ngân hàng toàn diện), cho phép tất cả chi nhánh và phòng giao dịch nối mạng với nhau, giao dịch tức thời, dùng chung cơ sở dữ liệu tập trung.
(cid:190) Năm 2000: ACB đã thực hiện tái cấu trúc như là một bộ phận của chiến lược phát triển trong nửa đầu thập niên 2000 (2000 – 2004). Cơ cấu tổ chức được thay đổi theo định hướng kinh doanh và hỗ trợ. Các khối kinh doanh gồm có Khối Khách hàng cá nhân, Khối Khách hàng doanh nghiệp, và Khối Ngân quỹ. Các đơn vị hỗ trợ gồm có Khối Công nghệ thông tin, Khối Giám sát điều hành, Khối Phát triển kinh doanh, Khối Quản trị nguồn lực và một số phòng ban do Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo. Hoạt động kinh doanh của Hội sở được chuyển giao cho Sở giao dịch (TP. HCM). Việc tái cấu trúc nhằm đảm bảo tính chỉ đạo xuyên suốt toàn hệ thống; quan tâm đúng mức việc phát triển kinh doanh và quản lý rủi ro.
(cid:190) Năm 2003: ACB xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
ISO 9001:2000
(cid:190) Năm 2005: ACB và Ngân hàng Standard Charterd ký kết thỏa thuận hỗ trợ kỹ thuật toàn diện; và SCB trở thành cổ đông chiến lược của ACB.
50
(cid:190) Năm 2006: ACB niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà
Nội.
(cid:190) Năm 2007: ACB mở rộng mạng lưới hoạt động, thành lập mới 31 chi nhánh và phòng giao dịch, thành lập Công ty Cho thuê tài chính ACB, hợp tác với các đối tác như Open Solutions (OSI) – Thiên Nam để nâng cấp hệ ngân hàng cốt lõi, hợp tác với Microsoft về việc áp dụng công nghệ thông tin vào vận hành và quản lý, hợp tác với Ngân hàng Standard Chartered về việc phát hành trái phiếu. ACB phát hành 10 triệu cổ phiếu mệnh giá 100 tỷ đồng, với số tiền thu được là hơn 1.800 tỷ đồng.
Trong hoạt động, ACB luôn tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, bảo toàn và phát triển vốn. Và ACB cũng đã khẳng định được vị trí là một thương hiệu mạnh trong và ngoài nước. Đánh giá của các định chế tài chính quốc tế và cơ quan thông tấn về tài chính ngân hàng đối với ACB qua các năm như sau: o Năm 1997, ACB được Tạp chí Euromoney chọn là Ngân hàng tốt nhất
Việt Nam.
o Trong 04 năm liền 1997 - 2000, ACB được tổ chức chuyển tiền nhanh
Western Union chọn là Đại lý tốt nhất khu vực Châu Á.
o Năm 1998, ACB được chọn triển khai Chương trình Tài trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ (SMEDF) do Liên minh châu Âu tài trợ.
o Năm 1999, ACB được Tạp chí Global Finance (Hoa Kỳ) chọn là Ngân
hàng tốt nhất Việt Nam.
o Năm 2001 và 2002, chỉ có ACB là NHTMCP hội đủ điều kiện để cơ quan
định mức tín nhiệm Fitch Ratings đánh giá xếp hạng.
o Năm 2002, ACB được chọn triển khai Dự án tài trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ(SMEFP) do Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) tài trợ. o Năm 2003, ACB đoạt được Giải thưởng Chất lượng Châu Á Thái Bình Dương hạng xuất sắc của Tổ chức Chất lượng Châu Á Thái Bình Dương (APQO). Đây là lần đầu tiên một tổ chức tài chính của Việt Nam nhận được giải thưởng này.
o Năm 2005, ACB được Tạp chí The Banker thuộc Tập đoàn Financial Times, Anh Quốc, bình chọn là Ngân hàng tốt nhất Việt Nam (Bank of the Year) năm 2005.
51
o Năm 2006, ACB được Tổ chức The Asian Banker chọn là Ngân hàng bán lẻ xuất sắc nhất (Best Retail Bank) Việt Nam và được Tạp chí Euromoney chọn là Ngân hàng tốt nhất (Best Bank) Việt Nam.
o Năm 2007, ACB được tập đoàn JP Morgan Chase chọn là Ngân hàng có
chất lượng thanh toán xuất sắc.
o Năm 2008 được Báo Sài Gòn Tiếp Thị bình chọn Dịch vụ Ngân hàng bán lẻ được hài lòng nhất năm 2008 và được Tạp chí Euromoney chọn là Ngân hàng tốt nhất (Best Bank) Việt Nam. (cid:153) Sơ đồ tổ chức của Ngân Hàng Á Châu:
(vui lòng xem chi tiết Phục lục 01 đính kèm ) 2.4.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh thời gian qua tại ACB:
Sau 15 năm hoạt động, ACB luôn giữ vững sự tăng trưởng mạnh mẽ và ổn định.Và điều này được thể hiện bằng các chỉ số tài chính qua các năm như sau: Bảng 2.3: Kết quả kinh doanh của ACB qua các năm
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng tài sản 15.417 24.247 44.645 85.392 115.241
Tổng vốn huy động 14.359 22.341 38.086 63.254 88.212
Dư nợ cho vay 6.698 9.563 17.365 31.811 34.346
Lợi nhuận sau thuế 211,6 293 505,4 1.760 2.556 (*)
120,000
100,000
Tổng tài sản
80,000
60,000
Tổng vốn huy động Dư nợ cho vay
40,000
Lợi nhuận sau thuế
20,000
0
2004
2005
2006
2007
2008
(*): Lợi nhuận trước thuế sau khi đã trích lập dự phòng
Hình 2.6: kết quả kinh doanh của ACB qua các năm
(Nguồn: Báo cáo thường niên qua các năm của ngân hàng Á Châu từ năm 2004-2008)
52
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên, chúng ta có thể nhận thấy tình hình kinh doanh khá hiệu quả và ổn định qua các năm. Một ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả là một ngân hàng huy động được nguồn vốn cần thiết cho hoạt động của mình. Trong tình hình cạnh tranh về lãi suất và thị trường có nhiều kênh thu hút vốn (cổ phiếu, trái phiếu,..) như hiện nay thì việc huy động vốn gặp không ít khó khăn, nhưng qua bảng số liệu trên cho thấy khả năng huy động vốn của Ngân hàng Á Châu vẫn giữ tốc độ tăng dần qua các năm: năm 2007 tổng huy động đạt 63.254 đồng tăng 66,1% so với năm 2006, năm 2008 đạt 88.212 tỷ đồng tăng 39,4% so với năm 2007. Điều này đã chứng tỏ sự tin tưởng của khách hàng vào ACB ngày càng cao. Nguyên nhân là do ngân hàng đã duy trì nhiều hình thức huy động đa dạng, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt cho từng địa bàn và tăng cường công tác quảng bá hình ảnh.
Sau khi đã huy động được nguồn vốn cần thiết, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tìm được khách hàng để cấp tín dụng nhằm giải phóng nguồn vốn và tìm kiếm lợi nhuận. Trong năm 2007 dư nợ cho vay đạt 31.811 tỷ đồng tăng 83,2% so với năm 2006, sang năm 2008 mức tăng trưởng tín dụng khá thấp 7,96% đạt 34.346 tỷ đồng. Năm 2008 do chính sách siết chặt tín dụng của NHNN nhằm kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế điều này ảnh hưởng làm giảm mức cho vay của ACB.
Tổng tài sản của ACB cao hơn so với các ngân hàng đối thủ cạnh tranh cả về số tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng. Cụ thể, tổng tài sản năm 2007 tăng 91,2% so với năm 2006, đạt 85.392 tỷ đồng và đến năm 2008 tổng tài sản lại tăng 34,9% so với năm 2007 đạt 115.241 tỷ đồng. Quy mô tổng tài sản hiện nay đang mang lại ưu thế cạnh tranh về vốn hoạt động cho ACB so với các ngân hàng thương mại cổ phần khác.
Với định hướng chiến lược tăng trưởng cao, quản lý chi phí tốt và duy trì nợ quá hạn mức thấp đã giúp nâng cao lợi nhuận của ACB qua các năm. Lợi nhuận sau thuế năm 2007 đạt 1.760 tỷ đồng, tăng 3,48 lần so với năm 2006, sang năm 2008 mặc dù trong điều kiện kinh doanh khó khăn của nền kinh tế do ảnh hưởng từ chính sách kiềm chế lạm phát của nước ta làm cho thu nhập từ mảng tín dụng - vốn là mảng kinh doanh mang lại thu nhập chính của Ngân hàng sụt giảm mạnh chỉ còn 22,5%/tổng thu nhập của Ngân hàng (những năm trước chiếm # 50%). Tuy nhiên, ACB đã nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu kinh doanh, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ để gia tăng thu nhập cho Ngân hàng từ các hoạt động như đầu tư, kinh doanh ngoại hối, phí dịch vụ
53
….đảm bảo kết quả hoạt động năm 2008 của ngân hàng theo đúng kế hoạch đề ra. Kết quả là năm 2008 lợi nhuận trước thuế sau khi trừ chi phí dự phòng đạt 2.556 tỷ đồng tăng 45,2% so với năm 2007 (mức lợi nhuận cao nhất trong khối các NHTM cổ phần).
2.4.1.3. Tình hình kinh doanh ngoại tệ của ACB qua các năm:
Ngân hàng Á Châu luôn đi đầu trong việc phát triển các sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ACB đã được triển khai từ rất sớm kể cả những sản phẩm phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi và Quyền chọn. Tuy sản phẩm đã được giới thiệu rộng rãi đến khách hàng thông qua các phương tiện truyền thông và qua những buổi giới thiệu sản phẩm mới, nhưng đến nay mảng kinh doanh ngoại tệ tại ACB vẫn chưa phát triển cao đặc biệt là việc phát triển các công cụ phái sinh tiền tệ. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng thu nhập của ngân hàng qua các năm. Bảng 2.4 : Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ACB qua các
năm: ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
%
2006
%
2007
%
687.654
100%
1.283.980
100%
3.020.822
100%
614.625
75%
820.572
1.311.106
43,4%
64%
97.208
14%
148.335
271.215
9%
12%
14.640
2%
70.320
5%
155.140
5,1%
33.404
5%
131.926
10%
1.278.435
42,3%
112.827
28.137
4.926
4%
9%
Tổng thu nhập của NH Thu nhập lãi ròng Thu phí và dịch vụ thuần TN từ hoạt động KD ngoại tệ TN từ hoạt động KD chứng khoán và đầu tư Thu nhập khác
0,2% (Nguồn: Báo cáo thường niên qua các năm của ngân hàng Á Châu từ năm 2005-2007)
Thu nhập khác
100%
80%
60%
40%
20%
TN từ hoạt động KD chứng khoán & đầu tư TN từ hoạt động KD ngoại tệ Thu phí và dịch vụ thuần Thu nhập lãi ròng
0%
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Hình 2.7: Tình hình thu nhập từ các hoạt động của Ngân hàng qua các năm
54
Qua bảng số liệu và hình vẽ cho thấy doanh thu từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng tăng lên qua các năm, năm 2006 đạt 70.320 triệu đồng tăng 4,8 lần so với năm 2005, năm 2007 đạt 155.140 triệu đồng tăng 22,06% so với năm 2006. Xét về số tuyệt đối có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng có sự tăng trưởng cao, nhưng xét về số tương đối thì mảng hoạt động này còn kém phát triển mang lại mức thu nhập rất thấp trong tổng thu nhập của ngân hàng. Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ/tổng thu nhập của ngân hàng qua các năm 2005, 2006 và 2007 lần lượt là 2%, 5% và 5,1%. Đây là tình hình chung của hầu hết các NHTM tại Việt Nam hiện nay không chỉ riêng tại ACB, phần lớn thu nhập của ngân hàng chủ yếu là từ hoạt động tín dụng – đây được xem như là quan điểm kinh doanh truyền thống của các NHTM Việt Nam hiện nay (nguyên nhân của việc này sẽ được trình bày trong phần sau). Ngay cả Vietcombank được xem là những ngân hàng có hoạt động kinh doanh ngoại tệ mạnh nhất hiện nay nhưng thu nhập từ lĩnh vực ngoại hối cũng rất thấp. Bảng số liệu sau đây sẽ cho thấy thực trạng tình hình kinh doanh ngoại tệ của một số ngân hàng thương mại hàng đầu tại Việt Nam hiện nay như sau:
Bảng 2.5: Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các NHTM
ĐVT: Triệu đồng
Tên NH
Chỉ tiêu
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
4.286.351
5.281.403
5.763.393
Vietcombank
354.532
6,15%
192.780 4% 303.636
274.052 5% 571.885
1.016.602
Eximbank
54.544 18% 590.227
75.453 13% 988.804
139.257 14% 2.441.583
Sacombank
25.417 4% 443.297
4.178 0,42% 611.359
100.815 4% 1.216.008
Techcombank
Tổng thu nhập của NH TN từ hoạt động KD ngoại tệ Tỷ lệ (%) Tổng thu nhập của NH TN từ hoạt động KD ngoại tệ Tỷ lệ (%) Tổng thu nhập của NH TN từ hoạt động KD ngoại tệ Tỷ lệ (%) Tổng thu nhập của NH TN từ hoạt động KD ngoại tệ Tỷ lệ (%)
7.491 1,23%
1.872 0,4%
24.583 2% (Nguồn: Từ báo cáo tài chính của các ngân hàng từ năm 2005 đến năm 2007)
55
160,000
140,000
120,000
100,000
80,000
ACB Eximbank Sacombank
Techcombank
60,000
40,000
20,000
0
2005
2006
2007
Qua bảng số liệu trên ta thấy ngoại trừ Eximbank có chú trọng vào hoạt động kinh doanh ngoại tệ, thu nhập từ mảng này chiếm trên 10% trong tổng thu nhập của ngân hàng, còn lại các ngân hàng lại như: Vietcombank, Sacombank, Techcombank – đây là những Ngân hàng có qui mô hoạt động lớn và có uy tín đối với khách hàng trong nước, tuy nhiên hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng này vẫn chưa phát triển, thu nhập từ mảng kinh doanh này chỉ chiếm từ 4%-5% trong cơ cấu thu nhập của các ngân hàng. Trong khi tại các nước phát triển thu nhập chủ yếu của ngân hàng là từ lĩnh vực dịch vụ, kinh doanh ngoại hối... Nước ta đã gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài đã mở chi nhánh tại Việt Nam, với sức ép của cạnh tranh và để thu hút được khách hàng, các ngân hàng trong nước cần phải chú trọng phát triển nhiều mảng kinh doanh ngoài mảng tín dụng truyền thống, trong đó đặc biệt phải kể đến mảng kinh doanh ngoại tệ (đây là mảng rất phát triển tại các ngân hàng nước ngoài từ trước đến nay). Tuy nhiên, xét về số tuyệt đối khi so sánh hoạt động kinh doanh ngoại tệ giữa ACB với Eximbank, Techcombank và Sacombank - những NHTM cổ phần đã triển khai các sản phẩm phái sinh ngoại hối đầu tiên, nhận thấy rằng so với các NHTM cổ phần khác, thì hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ACB có sự phát triển qua các năm, năm 2005 và 2006 thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ACB thấp hơn Eximbank (năm 2005 thấp hơn cả Sacombank), tuy nhiên sang năm 2007 hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ACB đã phát triển khá mạnh và vươn lên dẫn đầu trong 04 ngân hàng này. Sơ đồ sau đây sẽ cho thấy cụ thể thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng qua các năm
Hình 2.8: Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ACB so với các ngân hàng
(Nguồn: Từ báo cáo thường niên của ACB, Sacombank, Techcombank và Eximbank từ năm 2005 đ ến năm 2007)
56
2.4.2. Tình hình kinh doanh quyền chọn ngoại tệ tại ACB:
ACB là một trong những ngân hàng đầu tiên triển khai thực hiện thí điểm quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn ngoại tệ/VND. Vào tháng 4/2005 ACB đã chính thức giới thiệu sản phẩm quyền chọn tiền tệ đến với khách hàng cá nhân và doanh nghiệp nhằm giúp khách hàng có thêm công cụ lựa chọn trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá bên cạnh hợp đồng kỳ hạn và hoán đổi.
ACB được NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ theo công văn số 1452/2004/QĐ-NHNN ngày 1/11/2004 và quyết định 1360/NHNN-QLNH ngày 07/12/2005 cho phép ACB thực hiện thí điểm quyền chọn ngoại tệ/VND.
2.4.2.1. Đối tượng tham gia hợp đồng quyền chọn:
Các cá nhân; nhà kinh doanh/nhà đầu tư; nhà xuất nhập khẩu; doanh nghiệp/chủ doanh nghiệp; các công ty tài chính/ Công ty bảo hiểm/Quỹ đầu tư; Các ngân hàng, định chế tài chính… Nói chung là các cá nhân có đủ năng lực hành vị dân sự và doanh nghiệp hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
* Mục đích:
2.4.2.2. Mục đích và cách thức sử dụng: - Đầu tư sinh lợi trên cơ sở dự đoán xu hướng tỷ giá ngoại tệ - Bảo hiểm rủi/bảo toàn vốn khỏi sự biến động tỷ giá ngoại tệ.
* Cách thức sử dụng: - Khách hàng dự đoán giá ngoại tệ tăng sẽ mua “Quyền chọn mua” để hưởng lợi hoặc phòng ngừa rủi ro giá ngoại tệ tăng. Ngược lại, khách hàng dự đoán giá ngoại tệ giảm sẽ mua “Quyền chọn bán” để hưởng lợi hoặc phòng ngừa rủi ro giá ngoại tệ giảm.
2.4.2.3. Tỷ giá thực hiện hợp đồng quyền chọn:
Là tỷ giá mà người mua quyền chọn được quyền ấn định trước với
người bán quyền chọn và được chốt trong suốt thời gian hiệu lực hợp đồng. + USD/VND: Không được vượt quá tỷ giá kỳ hạn của cùng thời hạn + Ngoại tệ khác: Hai bên tự thỏa thuận
Tỷ giá Forward USD/VND không được vượt quá mức giá được xác định như
sau:
(cid:57) Tỷ giá giao ngay (Spot) ngày ký hợp đồng (cid:57) Chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cơ bảnVND do NHNN công bố và lãi
suất mục tiêu USD do cục dự trữ Liên Bang Mỹ ( FED) công bố
(cid:57) Kỳ hạn hợp đồng.
57
Giá Spot x [(Ls VND- Ls ngoại tệ)x thời hạn)]
Tỷ giá forward = tỷ giá spot + điểm kỳ hạn Điểm kỳ hạn được tính trên tỷ giá spot, chênh lệch lãi suất giữa 02 đồng tiền và thời hạn với công thức sau: Điểm kỳ hạn =
100/360
2.4.2.4. Phí quyền chọn:
Là khoản phí mà người mua Option phải trả cho người bán Option ngay từ lúc ký hợp đồng. Khoản phí này không được hoàn lại bất luận người mua Option có thực hiện quyền hay không.
Phí này tự bản thân không thể quyết định là cao hay thấp mà phụ thuộc vào tỷ giá thực hiện hợp đồng có lợi so với tỷ giá hiện tại hay không, thời hạn dài hay ngắn, kiểu Mỹ hay kiểu Âu, độ biến động tỷ giá ngoại tệ => quan trọng và phức tạp nhất vì đó là biến số định giá duy nhất không biết trước một cách chắc chắn…
2.4.2.5. Qui mô và loại tiền, thời hạn giao dịch: * Qui mô giao dịch: - Qui mô tối thiểu:
o Đối với cặp đồng tiền USD/VND: 10.000USD o Đối với cặp đồng tiền khác USD/VND: 50.000USD
(cid:57) Qui mô tối đa: 10.000.000USD hoặc tương đương * Các đồng tiền giao dịch: Các ngoại tệ mạnh chủ chốt như USD, EUR, JPY, CHF, GBP, AUD, CAD, SGD và HKD. Đặc biệt có thể sử dụng VND là đồng tiền thanh toán trong hợp đồng Option ngoại tệ. * Thời hạn giao dịch: - Kỳ hạn tối thiểu: 03 ngày - Kỳ hạn tối đa: 365 ngày * Kiểu Option: ACB cung cấp cả 02 loại quyền chọn: quyền chọn Kiểu Châu và Quyền chọn kiểu Mỹ cho khách hàng lựa chọn.
2.4.2.6. Qui định khi thực hiện quyền chọn:
Khách hàng mua ngoại tệ bằng VND thông qua việc thực hiện hợp đồng Option với quyền chọn mua vào ngày đáo hạn hợp đồng phải xuất trình chứng từ thanh toán cho Ngân hàng theo qui định quản lý ngoại hối hiện
58
hành. Đối với các hợp đồng Option giữa ngoại tệ với ngoại tệ, không yêu cầu xuất trình chứng từ thanh toán.
Ghi có tài khoản: Trường hợp khách hàng yêu cầu Ngân hàng thực hiện hợp đồng Option, Ngân hàng sẽ chuyển tiền vào tài khoản của khách hàng sau khi khách hàng đã thanh toán đầy đủ cho Ngân hàng.
Thanh toán bù trừ: Trường hợp khách hàng muốn hưởng chênh lệch giá, Ngân hàng sẽ thực hiện chi trả khoản tiền chênh lệch giá dựa trên tỷ giá thời điểm do ACB niêm yết hai chiều (gồm giá mua và giá bán) để bù trừ giao dịch Option ngoại tệ cho khách hàng.
2.4.2.7. Qui trình phối hợp thực hiện quyền chọn tại ACB:
Đây là qui trình phối hợp thực hiện giữa các chi nhánh của ACB ( đơn vị giao dịch trực tiếp với khách hàng), khách hàng và Khối ngân quỹ của ACB ( chi tiết xem phụ lục 2, phục 3)
2.4.2.8. Kết quả đạt được:
Mặc dù ACB đã xây dựng những tiêu chí, qui định và qui trình thực hiện quyền chọn tương đối rõ ràng. Đồng thời cũng đã giới thiệu sản phẩm quyền chọn trên nhiều phương tiện truyền thông để giới thiệu đến khách hàng từ năm 2005, tuy nhiên phải đến năm 2006 ACB mới có khách hàng thực hiện quyền chọn ngoại tệ. Đến nay, sau hơn 03 năm triển khai, việc thực hiện quyền chọn ngoại tệ tại ACB khá phát triển đặc biệt trong năm 2008, do tỷ giá biến động liên tục, để phòng ngừa rủi ro các cá nhân cũng như tổ chức đã tăng cường sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Doanh số kinh doanh quyền chọn tại ACB tăng lên qua các năm như sau: năm 2006: 10 triệu USD, năm 2007: 30 tiệu USD và năm 2008 tăng 7 lần so với năm 2007 đạt 200 triệu USD.
200
200
150
100
50
30
10
0
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Hình 2.9: Doanh số quyền chọn qua các năm
( Nguồn: Số liệu từ phòng kinh doanh ngoại hối của ACB)
59
Mặc dù doanh số quyền chọn ngoại tệ thực hiện gia tăng qua các năm nhưng nếu so sánh với các công cụ phái sinh ngoại tệ khác như hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi thì doanh số thực hiện quyền chọn còn rất thấp # 10% tổng trị giá các giao dịch phái sinh vào năm 2007. Xem xét doanh số giao dịch của các công cụ phái sinh ngoại tệ năm 2006 và 2007 tại ACB qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.6: Doanh số các giao dịch phái sinh ngoại tệ tại ACB
Côngcụ phái sinh Hợp đồng kỳ hạn Hoán đổi Quyền chọn Tổng cộng
Năm 2006 (Tr USD) 24 0 10 34
Năm 2007 (Tr USD) 75,8 179,5 30 285,3
180
200
150
Hợp đồng kỳ hạn Hoán đổi
100
76
Quyền chọn
30
50
24
10
0
0
Năm 2006
Năm 2007
Hình 2.10: Doanh số giao dịch các công cụ phái sinh
( Nguồn: Số liệu từ phòng kinh doanh ngoại hối của ACB)
Trước thực trạng trên có thể thấy rằng dù quyền chọn là công cụ phái sinh có nhiều ưu điểm và tiện ích trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện còn nhiều khó khăn vướng mắc làm cho công cụ quyền chọn đến nay vẫn chưa phổ biến và phát triển tại Việt Nam. Nguyên nhân của thực trạng trên sẽ được trình bày cụ thể trong phần tiếp theo của chương này
2.5. Nguyên nhân làm cho việc sử dụng quyền chọn ngoại tệ kém phát triển tại
các NHTM Việt Nam nói chung và tại ACB nói riêng:
2.5.1. Nguyên nhân từ môi trường pháp lý và kinh tế vĩ mô:
2.5.1.1 Thiếu cơ sở pháp lý:
Từ năm 2004 NHNN đã cho phép các NHTM được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn, tuy nhiên cơ sở pháp lý cho nghiệp vụ này chưa đầy đủ. Hiện tại, các ngân hàng thương mại chỉ được thực hiện quyền chọn giữa ngoại tệ và ngoại tệ, còn quyền chọn giữa ngoại tệ và VND thì phải được sự cho phép
60
từ phía NHNN. Trên thực tế các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường chuyển đổi ngoại tệ ra VND để phục vụ hoạt động đầu tư sản xuất trong nước mà hầu như không chuyển đổi từ ngoại tệ ra ngoại tệ. Đây là trở ngại lớn đối với các NHTM làm cho doanh số giao dịch quyền chọn rất thấp.
2.5.1.2. Cơ chế tỷ giá thiếu linh hoạt:
Như đã đề cập trong phần đầu của chương 2, thời gian qua cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái của nước ta là thả nổi có sự điều tiết của NHNN để thực thi các chính sách tiền tệ quốc gia. Điều này làm tỷ giá ngoại tệ với VND gần như cố định hoặc biến động với tỷ lệ rất thấp làm cho các doanh nghiệp cũng như NHTM chưa thấy nhu cầu thiết thực cần sử dụng công cụ tài chính phái sinh để bảo hiểm rủi ro.
Ngoài ra, việc dùng tỷ giá bình quân liên ngân hàng để ấn định tỷ giá giao dịch cho các NHTM có điểm hạn chế, vì đây là tỷ giá do NHNN – người độc quyền điều hành, độc quyền tính toán, độc quyền thông báo nên trong chừng mực nhất định thì tỷ giá bình quân liên Ngân hàng vẫn chưa thoát ly khỏi ý chí chủ quan trong điều hành tỷ giá của NHNN, chưa phản ánh đúng xu thế biến động theo cung cầu thị trường. Cho nên dù có sử dụng công cụ phái sinh nói chung trong đó có quyền chọn để phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong những trường hợp này không xác thực, không thể hiện đúng bản chất của nó là công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá. 2.5.2. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
Trình độ của cán bộ nhân viên ngân hàng về các nghiệp vụ phái sinh
nói chung và quyền chọn nói riêng vẫn còn hạn chế:
Ngân hàng chưa có đội ngũ nhân viên am hiểu những kiến thức về tài chính, pháp lý, về thị trường giao dịch, đặc biệt là kỹ thuật định giá quyền chọn để có thể tư vấn cho khách hàng một cách cụ thể rõ ràng. Thực tế tại ACB, việc định giá quyền chọn cũng như xác định tỷ giá thực hiện đều do Phòng Ngân Quỹ tại Hội sở tính toán và thông báo đến các chi nhánh và Phòng giao dịch khi có phát sinh hợp đồng. Trong khi các chi nhánh và phòng giao dịch là nơi tiếp xúc trực tiếp và giới thiệu sản phẩm đến khách hàng, nhưng phần lớn nhân viên tại đây đều không nắm rõ nghiệp vụ để giải thích cụ thể với khách hàng. Đây cũng là nguyên nhân gây trở ngại trong việc triển khai nghiệp vụ quyền chọn không chỉ tại ACB mà tại tất cả các Ngân hàng được phép kinh doanh sản phẩm phái sinh ngoại hối nói chung và sản phẩm quyền chọn nói riêng hiện nay.
61
Khả năng marketing và triển khai ứng dụng sản phẩm quyền chọn của các
Ngân hàng còn yếu
Thay đổi nhận thức của các doanh nghiệp vốn chưa quen với các sản phẩm mới là tương đối khó khăn và cần nhiều thời gian, tuy nhiên rõ ràng thực tế cho thấy các ngân hàng Việt Nam còn yếu trong khâu tiếp cận khách hàng, marketing sản phẩm tới khách hàng. Điều quan trọng là các ngân hàng phải chỉ cho doanh nghiệp thấy họ được lợi những gì khi thực hiện nghiệp vụ quyền chọn. Thực tế hiện nay cho thấy công cụ quyền chọn chưa được các Ngân hàng phổ biến rộng rãi và thông tin cho khách hàng biết ( hầu hết các ngân hàng chỉ giới thiệu chung chung trên các website). Ngân hàng cũng chưa cung cấp hướng dẫn chi tiết về sản phẩm. Việc ứng dụng các công cụ phái sinh nói chung và quyền chọn nói riêng của các NHTM Việt Nam còn rất hạn chế và manh mún.
Một lý do khác xuất phát từ phía Ngân hàng làm hạn chế sự phát triển của công cụ quyền chọn là các NHTM chưa chú trọng nhiều đến sản phẩm quyền chọn mà chỉ chú tâm phát triển các sản phẩm tín dụng vì mảng này đang mang lại lợi nhuận cao nhất trong hoạt động của các NHTM nước ta từ trước đến nay. Tại ACB cũng vậy, thu nhập từ mảng kinh doanh ngoại tệ qua các năm chỉ chiếm khoảng < 4% trong tổng thu nhập của ngân hàng. Do đó đây là quan điểm kinh doanh truyền thống của các NHTM nên việc thay đổi rất khó khăn cần có một thời gian nhất định.
2.5.3. Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Thiếu nhu cầu thực sự từ phía khách hàng:
Vấn đề cốt lõi là vì tỷ giá quá ổn định, khách hàng không quan tâm tới vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Hiện nay có hơn 90% doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước ta thanh toán bằng USD. Trong khi đó tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng ổn định, NHNN thường giữ cho tỷ giá USD/VND hàng năm chỉ tăng khoảng 1%. Mức biến động như vậy là không đáng kể so với sự biến động của các đồng tiền khác như EUR, GBP, JPY hay AUD (có thể tăng giảm 1% trong 1-2 ngày). Vì xu hướng rõ ràng như vậy trong nhiều năm qua các doanh nghiệp biết rằng tỷ giá USD/VND chỉ dao động trong một tỷ lệ nhất định nên họ thường chỉ sử dụng giao dịch mua bán ngoại tệ giao ngay mà không cần quan tâm tới bất kỳ công cụ phái sinh nào (Forward, Swap hay Option) để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Tại các NHTM doanh số giao dịch ngoại tệ cũng phản ánh thực trạng trên thể hiện ở chỗ các giao dịch mua bán giao ngay
62
chiếm 90%-95%. Điều đó có nghĩa là giao dịch phái sinh chỉ chiếm khoảng 5%-10%..
Ngoài ra, do tâm lý quen sử dụng các giao dịch ngoại tệ giao ngay của khách hàng, do khách hàng chưa thấy được những giá trị lợi ích từ việc sử dụng các công cụ phái sinh, nên phần lớn khách hàng đến với ngân hàng chỉ muốn được sử dụng các sản phẩm truyền thống (cụ thể là các giao dịch ngoại hối giao ngay) vừa dễ sử dụng, vừa không phải tính toán nhiều (vì sử dụng các sản phẩm phái sinh đặc biệt là quyền chọn đòi hỏi khách hàng phải tính toán rất kỹ các phương án đặt ra để đảm bảo cho kế hoạch kinh doanh của mình có hiệu quả nhất). Vấn đề “ văn hóa trách nhiệm” trong các doanh nghiệp: Hiện nay có một thực tế đáng lo ngại đối với các doanh nghiệp sử dụng quyền chọn ở nước ta. Ví dụ, một doanh nghiệp thậm chí biết rõ là sẽ có rủi ro khi tỉ giá có thể tăng mạnh do lạm phát tăng cao và biết rõ nếu ký mua một hợp đồng quyền chọn mua ngoại tệ sẽ đỡ thiệt hơn nhiều. Nhưng chỉ vì tư duy và cách làm ăn truyền thống, các doanh nghiệp sợ rằng nếu đưa ra quyết định này, nhưng chẳng may có một điều kiện khách quan nào đó làm cho tỷ giá thị trường giảm xuống trái với xu hướng ban đầu, gây thiệt hại một khoản phí quyền chọn ban đầu, không những uy tín, mà địa vị của người ra quyết định đó cũng bị lung lay. Còn nếu mọi dự báo đúng như thực tế thì bản thân người quyết định đó cũng không được lợi lộc gì. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện không qui định rõ ràng trách nhiệm, quyền lợi của lãnh đạo và nhân viên trong đơn vị. Trong khi một số các Công ty đa quốc gia có chính sách quản lý rủi ro rất cụ thể. Họ luôn khoanh vùng cho một vị trí lãnh đạo được chịu rủi ro tài chính đến mức bao nhiêu và nếu tới bao nhiêu thì lãnh đạo phải làm các giao dịch phòng chống và bao giờ họ cũng biết bảo vệ vốn của mình bằng các công cụ chống rủi ro khá hiệu quả. Trình độ nhận thức của cán bộ tại doanh nghiệp còn hạn chế:
Một trở ngại khá lớn làm cho các doanh nghiệp hạn chế việc sử dụng các công cụ phái sinh là việc thiếu nhân lực am hiểu về sản phẩm phái sinh, đặc biệt là quyền chọn vốn là công cụ phái sinh phức tạp nhất. Các doanh nghiệp chưa có giám đốc phụ trách về quản lý rủi ro tỷ giá cũng như chưa có bộ phận chuyên nghiệp phụ trách rủi ro để ra quyết định liên quan đến phòng ngừa rủi ro. Vì vậy, dù các doanh nghiệp có thấy rủi ro về tỷ giá sắp tác động rất lớn đến kết quả kinh doanh của mình, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn thấy rõ
63
rằng nguy cơ thua lỗ nặng do tỷ giá tăng nhưng họ không biết tìm đâu ra nhân sự ở cơ quan mình để thực hiện các chương trình quản trị rủi ro bài bản. Thông tin về sản phẩm quyền chọn, khó tiếp cận: Hiện tại các doanh nghiệp thiếu thông tin về các sản phẩm hay công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá mà ngân hàng cung cấp. Điều này liên quan đến mức độ “ khó hiểu” và không đầy đủ của các hướng dẫn về sản phẩm quyền chọn ngoại tệ của tổ chức cung cấp (ở đây là các NHTM) và của các tài liệu đào tạo. Từ đó làm cho các doanh nghiệp thiếu thông tin cần thiết liên quan đến định giá sản phẩm và dự báo tỷ giá. Trình độ quản trị điều hành của doanh nghiệp còn yếu đặc biệt là trình độ kinh doanh quốc tế, trình độ quản trị tài chính hiện đại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy khả năng tiếp cận các dịch vụ phái sinh hiện đại như quyền chọn là rất hạn chế đối với các doanh nghiệp này. Vấn đề hạch toán kế toán đối với phí quyền chọn Hiện nay, trong hạch toán kế toán dường như chỉ chú trọng tới phần lãi/lỗ thực tế phát sinh, trong khi phần lãi/lỗ dự kiến, chưa phát sinh thì dường như chưa được quan tâm. Chẳng hạn, doanh nghiệp mua một hợp quyền chọn trị giá 1 tỷ đồng và bút toán ghi sổ 1 tỷ đồng nhưng ngày mai, ngày kia, giá trị "hàng hóa" đã mua chỉ còn 800 triệu đồng hoặc lên 1,5 tỷ đồng thì sổ sách kế toán vẫn chỉ thể hiện 1 tỷ đồng. Thực tế này đã không những không phản ánh hết giá trị thực trong hệ thống sổ sách kế toán mà còn là kẽ hở của tình trạng "lãi giả, lỗ thật" và ngược lại trong báo cáo kế toán của doanh nghiệp. Từ thực tế này, để giải quyết những rào cản hiện nay đối với công cụ phái sinh, cũng như quyền chọn, không chỉ xét từ góc độ từ các NHTM hay doanh nghiệp mà rất cần sự hợp lực từ phía các cơ quan quản lý như Bộ Tài chính (tháo gỡ vướng mắc về thuế và chế độ ghi sổ kế toán) và của NHNN trong việc ban hành các văn bản pháp lý, tổ chức hội thảo hay hướng dẫn các nghiệp vụ cụ thể.
2.5.4. Các Nguyên nhân khác: Qui mô thị trường ngoại hối nhỏ, phí mua quyền chọn khá cao:
Thị trường ngoại hối Việt Nam còn rất non trẻ so với thị trường ngoại hối quốc tế. Trong số các ngân hàng hiện đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam còn nhiều ngân hàng chưa được phép kinh doanh ngoại hối, do đó với số lượng thành viên cung cấp sản sẩm phái sinh quá hạn chế, các ngân hàng sẽ không dễ dàng tìm kiếm được giao dịch đối ứng để phân tán rủi ro sau mỗi
64
lần thực hiện giao dịch với khách hàng, đặc biệt khi thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ/VND, các ngân hàng khó tìm được ngân hàng nước ngoài để “tái bảo hiểm”. Chính vì thế để giảm thiểu rủi ro, các ngân hàng thường định giá bán quyền chọn rất cao phần nào làm cho doanh nghiệp e ngại sử dụng.
Ngoài ra, hiện các NH Việt Nam vẫn chưa thể tự mình đứng ra phát hành hay cung cấp các quyền chọn ngoại tệ trực tiếp cho khách hàng, mà chỉ đóng vai trò như một trung gian môi giới quyền chọn giữa các ngân hàng lớn khác và khách hàng. Thường là theo yêu cầu của khách hàng, các ngân hàng sẽ liên hệ với các ngân hàng đối tác ở nước ngoài (thường là các ngân hàng lớn), hoặc thậm chí là một ngân hàng lớn trong nước để mua một quyền chọn rồi bán lại cho khách hàng của mình. Qui trình này dẫn đến một hệ quả là các ngân hàng muốn có lợi nhuận thì tiền phí (giá) của quyền chọn ngoại tệ tính cho khách hàng phải theo công thức sau:
Phí quyền chọn ngoại tệ = Giá phí quyền chọn ngoại tệ mua của các NH đối tác (trong và ngoài nước) + chi phí để phục vụ hợp đồng options ngoại tệ này + khoảng chênh lệch lợi nhuận cho ngân hàng.
Cách tính phí (giá) quyền chọn như trên đã làm đội chi phí thực hiện một hợp đồng quyền chọn ngoại tệ của khách hàng, làm cho họ cảm thấy mua một hợp đồng quyền chọn ngoại tệ không còn có lợi do chi phí qua cao, không hiệu quả. Điều này cũng đã trở thành một lực càn cho các giao dịch quyền chọn ngoại tệ cũng như thị trường quyền chọn phát triển ở Việt Nam trong hiện tại. Việt Nam chưa phải là một nước phát triển, việc hội nhập kinh tế quốc tế mới trong giai đoạn đầu tiên. Thị trường Việt Nam nói chung và thị trường tài chính nói riêng chưa thực sự liên thông với thế giới. Vì vậy, kiến thức và ý thức về sử dụng các hợp đồng phái sinh nói chung và hợp đồng quyền chọn nói riêng để phòng ngừa rủi ro còn xa lạ với các doanh nghiệp và tổ chức tài chính. Thực tế thị trường các công cụ phái sinh là thị trường bậc cao và các nghiệp vụ của nó hết sức phức tạp, các công cụ phái sinh này chỉ được sử dụng hiệu quả trên cơ sở quốc gia có một thị trường tài chính tiền tệ hoạt động tích cực. Thị trường tài chính nước ta còn trong giai đoạn phát triển thấp do vậy chưa tạo ra nền tảng cho các công cụ phái sinh phát triển.
Hợp đồng quyền chọn phức tạp nên doanh nghiệp ngại sử dụng. Bên cạnh đó, mặc dù là công cụ để phòng ngừa rủi ro nhưng do tính chất của nó, hợp đồng quyền chọn cũng chứa đựng những rủi ro thua lỗ cho người sử
65
dụng. Đúng ra đây là quan hệ kinh tế nên để các bên tham gia hợp đồng tự chịu trách niệm về giải quyết và khắc phục rủi ro nhưng cơ quan chức năng lại vào thanh tra kiểm tra theo hướng hình sự hóa các quan hệ kinh tế. Một số các doanh nghiệp khi sử dụng sản phẩm phái sinh gặp rủi ro đã phải giải trình với cơ quan chức năng, điều này khiến nhiều doanh nghiệp e ngại sử dụng công cụ phái sinh
Chưa có những nhà tạo lập thị trường. Thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thậm chí trong qui mô nhỏ cũng có những nhà tạo lập thị trường tạo ra các sàn giao dịch bất động sản, sàn giao dịch vàng,… nhưng chưa có tổ chức nào ở Việt Nam đứng ra tạo lập các thị trường phái sinh. Hiện nay, việc thực hiện các hợp đồng phái sinh trong đó có quyền chọn của khách hàng Việt Nam chủ yếu thực hiện qua môi giới nước ngoài để tham gia các thị trường ở nước ngoài. Thiếu đào tạo thực tế về sản phẩm phái sinh ở Việt Nam, các chuyên gia đào tạo về sản phẩm phái sinh hiện nay còn quá ít, hơn nữa số đơn vị cung cấp và tham gia giao dịch không bao nhiêu. Chính vì vậy, số chuyên gia có cơ hội tiếp cận với thực tiễn ứng dụng sản phẩm phái sinh ở Việt Nam là rất hạn chế.
Còn nhập nhằng giữa phòng ngừa rủi ro và đầu cơ. Hiện nay các doanh nghiệp không nghĩ rằng sử dụng sản phẩm phái sinh trong đó có quyền chọn là “trả một khoản tiền để mua một giấc ngủ ngon cho mình”, đồng thời chủ động trong các kế hoạch kinh doanh và kiểm soát được chi phí của mình trong tương lai. Thay vào đó, họ chỉ mong muốn kiếm được lợi nhuận và không muốn lỗ (?). Khi mục tiêu chỉ nhằm vào đánh cuộc với biến động giá, thì khi biến động giá này không đúng như kỳ vọng, các doanh nghiệp lập tức không sử dụng tiếp các sản phẩm phái sinh nữa. Như vậy doanh nghiệp hiện mới chỉ nhìn vào lợi nhuận của sản phẩm phái sinh, chứ không thấy được lợi ích phòng ngừa rủi ro mang lại.
Thị trường tiền tệ Việt Nam chưa gặp biến động lớn, những nước chịu khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 đã bị sốc trong khủng hoảng và chính nhờ đó họ vươn lên mạnh mẽ. Thái Lan, Malaysia, Philipine đang là những quốc gia có hệ thống phòng chống rủi ro tài chính phát triển mạnh trong khu vực. Ở Việt Nam, hầu như chưa gặp khủng hoảng về tài chính lớn và vì thế các doanh nghiệp còn yên tâm và thậm chí có một số doanh nghiệp còn có tâm lý ỷ lại vào sự bảo hộ của NHNN vì tỷ giá ngoại tệ/VND mà chủ
66
yếu là USD/VND nhiều năm qua luôn ổn định, mức biến động không đáng kể nên chưa cần thiết phải sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 đã nêu rõ thực trạng việc thực hiện quyền chọn tại các NHTM nói chung và tại ACB nói riêng, đồng thời nêu ra được những nguyên nhân làm cho công cụ quyền chọn vẫn chưa phát triển tại Việt Nam hiện nay. Đồng thời trong chương này cũng trình bày kết quả khảo sát về thái độ đối với rủi ro tỷ giá cũng như nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá của khách hàng. Từ đó có thể thấy được tiềm năng phát triển các công cụ phái sinh ngoại hối nói chung và quyền chọn ngoại tệ nói riêng tại Việt Nam trong thời gian tới có nhiều cơ hội phát triển. Đây là cơ sở để tìm ra các giải pháp khắc khục khó khăn thúc đẩy sự phát triển của việc sử dụng các công cụ phái sinh, đặc biệt trong điều kiện nước ta đã gia nhập WTO, việc cạnh tranh để thu hút khách hàng với các Ngân hàng nước ngoài là rất cần thiết vì việc sử dụng công cụ phái sinh vốn là thế mạnh của các Ngân hàng này từ rất lâu. Trong khi tại Việt Nam nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại các NHTM còn rất mới mẽ và sơ khai.
67
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐẤY MẠNH VIỆC ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN NGOẠI TỆ TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU
3.1. Định hướng phát triển của NHTMCP Á Châu trong thời gian tới
Với tốc độ tăng trưởng nhanh so với tốc độ tăng trưởng của ngành như hiện nay, ACB đã đề ra chiến lược 5 năm 2008 – 2010 và tầm nhìn 2015 khẳng định việc ACB sẽ tiếp tục giữ vị thế hàng đầu trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trên các mặt: tăng trưởng cao, chỉ số tài chính duy trì ở mức an toàn cao trong đó ROE cần đạt 25% đến 30%, chất lượng tài sản có, quản lý rủi ro theo thông lệ tốt nhất, các chỉ tiêu tăng trưởng bền vững, hệ thống sản phẩm và kênh phân phối đa dạng, chất lượng dịch vụ cao. ACB chủ trương tăng trưởng trong tầm kiểm soát và chỉ tăng trưởng nếu kiểm soát được rủi ro.
Theo quy định của WTO, vào năm 2010 lĩnh vực tài chính ngân hàng sẽ hoàn toàn hội nhập, không còn phân biệt giữa ngân hàng nước ngoài hay ngân hàng trong nước. Luật Doanh nghiệp 2005 và Nghị định 139 cho phép thành lập tập đoàn. Trên cơ sở đó, ACB đang từng bước xây dựng mô hình tập đoàn Ngân hàng Á Châu. Cụ thể, tập đoàn Ngân hàng Á Châu sẽ có hai mũi nhọn: Ngân hàng bán lẻ được phát triển từ khối dịch vụ NH của ACB hiện nay và NH đầu tư chuyên nghiệp sẽ phát triển từ Công ty Chứng khoán ACB (ACBS).
Năm 2015, ACB đặt mục tiêu sẽ là một trong ba tập đoàn tài chính- ngân hàng hàng đầu Việt Nam với quy mô tổng tài sản trên 300.000 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu 15.000 tỷ đồng, lợi nhuận 7.000 tỷ đồng. ROE 2015 sẽ lớn hơn 40%, mạng lưới gồm 350 chi nhánh và phòng giao dịch sẽ cung cấp các sản phẩm tài chính đa dạng theo chuẩn mực quốc tế. Đội ngũ cán bộ - nhân viên ACB sẽ có khoảng 10.000 người. Giá trị công ty trên thị trường chứng khoán đạt trên 8 tỷ đô la Mỹ.
Để đạt được mục tiêu đề ra, đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, áp dụng công nghệ hiện đại trên tất cả các lĩnh vực từ lĩnh vực truyền thống như: lĩnh vực huy động vốn, lĩnh vực cho vay…đến các lĩnh vực mới như bao thanh toán, ngân hàng điện tử, kinh doanh vàng, ngoại hối đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, một lĩnh vực còn nhiều tiềm năng phát triển nhưng thời gian qua các ngân hàng Việt Nam chưa tập trung khai thác. Trong khi đó đối với các ngân hàng nước ngoài đây là lĩnh vực kinh doanh đã có từ rất lâu đời
68
và mang lại phần lớn thu nhập cho họ. Do đó trong thời gian tới việc phát triển các công cụ phái sinh nói chung và công cụ quyền chọn nói riêng đối với các NHTM Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng phát sinh không ít khó khăn.
3.2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng quyền chọn ngoại tệ
hiện nay tại ACB
3.2.1. Thuận lợi * Thuận lợi từ yếu tố khách quan của nền kinh tế và các chính sách quản
lý của nhà nước:
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO mở ra cơ hội cho sự phát triển của thị trường tài chính nước ta nói chung, từ đó tạo tiền đề cho sự phát triển của các công cụ phái sinh. Thị trường tài chính Việt Nam trở nên sôi động hơn: với sự có mặt của nhiều ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các công cụ tài chính mới sẽ theo đó mà xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Đồng thời tạo thuận lợi cho các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và của ACB nói riêng là có nhiều đối tác lựa chọn hợp tác; nhiều cơ hội học hỏi và trao đổi kinh nghiệm; và cũng chính sự cạnh tranh gay gắt hơn sẽ tạo sức ép khiến các ngân hàng trong nước đẩy mạnh triển khai nghiệp vụ mới.
Cơ chế, chính sách thông thoáng hơn khi Việt Nam đã tham gia vào WTO:
Ở Việt Nam, do chưa từng phải chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Do chính sách quản lý các giao dịch vốn những năm trước đây còn chủ yếu dựa vào cơ chế hành chính, tự phong toả là chính, mức độ tự do hoá rất hạn chế..., nên việc áp dụng các công cụ phái sinh như options còn chưa trở thành nhu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, hiện nay nền kinh tế Việt Nam đã và đang thực sự trở thành nền kinh tế thị trường đầy đủ, đang có rất nhiều thay đổi về mặt chính sách. Các qui định về quản lý ngoại hối dần được thông thoáng hơn, các luồng vốn đã tương đối tự do chảy vào và chảy ra khỏi Việt Nam cả trực tiếp và gián tiếp với qui mô, tần suất ngày càng lớn, chính sách tỷ giá cũng từng bước điều chỉnh linh hoạt theo xu hướng thị trường giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước.
Những bối cảnh trên đã, đang là những nhân tố khách quan thúc đẩy các bên tham gia thị trường tài chính Việt Nam phải đổi mới tư duy, nhận thức về vai trò của các công cụ phái sinh nói chung và công cụ options ngoại tệ nói riêng trong công tác phòng ngừa rủi ro của mình.
69
Sự gia tăng mạnh mẽ của dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam cả trong hiện tại và tương lai
Ngoài ra, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO giúp nước ta thu hút lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn đổ vào trong nước đặc biệt là trong trong giai đoạn 2007-2008 (theo số liệu thống kê năm 2008 vốn FDI đầu tư vào Việt Nam là 64 tỷ USD tăng 3 lần so với năm 2007). Trong số đó có không ít doanh nghiệp FDI chỉ bán hàng trong nước, thu tiền đồng. Họ phải bán ngoại tệ (chủ yếu vẫn là USD) thu VNĐ để thanh toán cho các chi phí, hoặc dùng lượng ngoại tệ này để nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài. Sau một thời gian, khi có lợi nhuận, họ được chuyển tiền về nước và cần dùng VNĐ mua ngoại tệ chuyển ra... Trong quá trình đó rủi ro tỷ giá là một điều luôn tiềm ẩn đối với các doanh nghiệp này. Khi đó, việc sử dụng các công cụ phái sinh ngoại hối trong đó có quyền chọn để bảo hiểm rủi ro tỷ giá sẽ rất hữu ích cho các doanh nghiệp.
Khi Việt Nam gia nhập WTO, với cam kết mở cửa và hội nhập thị trường tài chính, thị trường vốn quốc tế giúp các doanh nghiệp nước ta có nhiều cơ hội tiếp cận các khoản vay nước ngoài số lượng lớn, kỳ hạn dài để phục vụ các dự án lớn trong nước. Đồng thời hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa cũng dễ dàng hơn do các chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước được dỡ bỏ. Những hoạt động này đều gắn liền với ngoại tệ và rủi ro tỷ giá là đều không thể tránh khỏi.
Từ những sự kiện đã đề cập trên đây cho ta thấy rằng nhu cầu về phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá trong doanh nghiệp hiện nay và đặc biệt trong thời gian tới là rất lớn và thiết thực, đây là cơ hội để các ngân hàng trong nước cũng như ACB đẩy mạnh triển khai việc sử dụng các công cụ phái sinh ngoại hối đặc biệt là công cụ quyền chọn – một công cụ phái sinh khá phức tạp, cần có thời gian dài thực hiện và hoàn thiện.
* Thuận lợi do điều kiện nội tại của ACB:
- So với các NHTM cổ phần Việt Nam khác, ACB có lợi thế về qui mô vốn huy động và cho vay, mạng lưới hoạt động thanh toán quốc tế rộng lớn với các NH nước ngoài điều này tạo thuận lợi cho ACB trong việc tìm kiếm đối tác để thực hiện tái bảo hiểm rủi ro khi cung cấp sản phẩm quyền chọn cho khách hàng. - ACB là một trong những ngân hàng được trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại giúp cho việc thao tác nghiệp vụ được nhanh chóng, chính xác đồng thời giúp việc cập nhật thông tin về những biến động của nền kinh tế thế giới
70
được kịp thời liên tục giúp ngân hàng đưa ra dự đoán hợp lý về xu hướng biến động của tỷ giá – đây là điều rất quan trọng trong kinh doanh các công cụ phái sinh ngoại hối. - Hiện tại, việc kinh doanh các công cụ phái sinh đã được ACB triển khai thực hiện, trong đó quyền được thực hiện thí điểm từ năm 2005. Phòng kinh doanh ngoại hối của ACB đã thành lập từng bộ phận chuyên trách cho từng sản phẩm phái sinh. Từ đó tạo tính chuyên nghiệp trong hoạt động và giúp ACB đào tạo được một số lượng nhân viên có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh những sản phẩm “cao cấp” này.
3.2.2. Những khó khăn:
Thứ nhất, do mức độ phát triển của thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn ở mức thấp, chưa có nhiều nhà đầu tư cũng như các tổ chức, doanh nghiệp trong nước am hiểu nhiều về các nghiệp vụ tài chính phái sinh. Trong khi đó khi Việt Nam gia nhập WTO các ngân hàng 100% vốn nước ngoài được triển khai những sản phẩm dịch vụ như NH trong nước, trong đó hoạt động kinh doanh ngoại hối vốn là thế mạnh và mang lại phần lớn thu nhập cho những NH này. Do đó, ACB sẽ đối mặt với không ít khó khăn khi phải cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài như HSBC, ANZ, SCB… có nhiều kinh nghiệm và kỹ thuật trong kinh doanh ngoại hối đặc biệt là các công cụ phái sinh.
Thứ hai, chính sách, hành lang pháp lý chưa rõ ràng, hợp lý và thiếu
tính đồng bộ.
Thứ ba, mặc dù ACB có đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh sản phẩm phái sinh ngoại hối nhưng đây chỉ là một số ít nhân viên tại Hội Sở, trong khi đó nhân viên tại các chi nhánh vẫn chưa am hiểu về sản phẩm này nên việc tiếp thị giới thiệu sản phẩm này đến với khách hàng còn nhiều hạn chế, kém hiệu quả. Ngoài ra, ACB còn thiếu đội ngũ nhân viên chuyên tính toán, phân tích và đưa ra mức phí quyền chọn hợp lý đảm bảo cho NH không bị lỗ trong hoạt động kinh doanh ngoại hối và khách hàng vẫn cấp nhận được để thực hiện hợp đồng.
Thứ tư, ngoài những lí do xuất phát từ phía NH còn có những khó
khăn từ phía khách hàng (gồm các cá nhân và doanh nghiệp) như sau: + Kiến thức quản lý rủi ro, phòng ngừa rủi ro hạn chế + Tâm lý “ e ngại”, lo sợ rủi ro + Tâm lý “ sợ trách nhiệm” củan cán bộ quản lý doanh nghiệp
71
3.3. Điều kiện để việc áp dụng công cụ quyền chọn ngoại tệ phát triển (cid:153) Thứ nhất về cơ chế điều hành tỷ giá:
Tỷ giá thị trường phải biến động tới mức đủ để các doanh nghiệp phải quan tâm chú ý tới vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Các NHTM cũng rất muốn triển khai các sản phẩm dịch vụ mới nhưng không thể “cố ép” khách hàng sử dụng khi thực sự họ không có nhu cầu. Do đó NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, tạo ra một thị trường ngoại hối phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ. Nhà nước nên dần thực hiện chính sách tự do hóa tỉ giá bằng cách dần dần nới rộng biên độ giao động của VNĐ với USD, trước mắt điều chỉnh ở mức vừa phải từ 2% -3% rồi từng bước tiến tới phạm vi 5%. Đến một thời điểm thích hợp, có thể xóa bỏ biên độ dao động tỷ giá hướng đến tự do hóa chuyển đổi tiền đồng Việt Nam. Khi không có sự “bảo hộ” của Nhà nước sẽ khiến cho các doanh nghiệp phải sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro do biến động tỷ giá.
Bên cạnh đó, NHNN cần nghiên cứu ban hành những quy tắc cơ bản nhất trong giao dịch phái sinh, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ phù hợp với điều kiện thị trường của Việt Nam hiện nay, để có hành lang pháp lý chung cho hoạt động của các NHTM. Cho phép các NHTM chủ động thực hiện quyền chọn giữa ngoại tệ và VND khi có nhu cầu phát sinh. Tránh để các NHTM thực hiện nghiệp vụ mới một cách riêng lẻ theo sự hiểu biết của ngân hàng, dẫn đến tình trạng không thống nhất, dễ gây ra tranh chấp khi có sự cố xảy ra. (cid:153) Thứ hai, hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối tại Việt Nam
Hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam nhằm quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích luỹ ngoại tệ, khắc phục tình trạng đôla hóa để nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt nam. Để thực hiện được điều này NHNN và các bộ ngành liên quan phải quan tâm để hoàn thiện những vấn đề sau: (cid:190) Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có hiệu quả. Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá. Chúng
72
ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, yên Nhật vì hiện nay EU, Nhật là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa.
(cid:190) Xoá bỏ các quy định mang tính hành chính cứng nhắc trong kiểm soát ngoại hối như : Bãi bỏ giấy phép hoạt động kiều hối và giấy phép lập bàn thu đổi ngoại tệ để chuyển sang kinh doanh có điều kiện; tiếp tục thu hút ngoại tệ trôi nổi vào hệ thống ngân hàng. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa nhiều hơn. Trong giao dịch vãng lai, xóa bỏ hạn mức tuyệt đối trên một số khoản chuyển tiền vãng lai của cá nhân ra nước ngoài; xóa bỏ hạn mức tuyệt đối đối với việc thoái hối của người không cư trú. Trong giao dịch vốn, xóa bỏ quy định doanh nghiệp Nhà nước vay nước ngoài phải có ý kiến trước của Ngân hàng Nhà nước. Xóa bỏ chế độ thanh toán trực tiếp bằng ngoại tệ tại Việt Nam, từng bước thực hiện triệt để nguyên tắc: Mọi giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam đều sử dụng VND.
(cid:190) Hiện nay tình trạng đôla hóa tại Việt Nam còn rất cao điều này làm giảm nhu cầu phát triển các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối. Để khắc phục tình trạng này cần chuyển dần quan hệ “huy động – cho vay” trong nước bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng sang quan hệ “mua – bán” ngoại tệ. Cần ban hành ngay các văn bản qui phạm pháp luật về việc thanh tra kiểm soát mọi hành vi vi phạm việc sử dụng đồng ngoại tệ trong thanh toán trao đổi hàng hóa dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam.
(cid:153) Thứ ba , phát triển thị trường vốn
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình tăng trưởng mạnh, các doanh nghiệp đang rất cần các nguồn vốn lớn để tài trợ cho các dự án mà doanh nghiệp cho là hiệu quả. Thị trường vốn phát triển sẽ thúc đẩy nền kinh tế nói chung và thị trường các sản phẩm phái sinh nói riêng phát triển theo. Để thị trường vốn phát triển cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau: (cid:190) Phát triển số lượng, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường như: đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp, các tổng công ty, các ngân hàng thương mại Nhà nước.
73
Thúc đẩy các doanh nghiệp đã cổ phần hóa và đủ điều kiện niêm yết thì niêm yết trên sàn, đồng thời cần phải theo dõi để bán thêm cổ phiếu của nhà nước ra công chúng đối với các công ty không cần sự chi phối của Nhà nước.
(cid:190) Thị trường vốn phải phát triển hiện đại, hoàn thiện về cấu trúc, được giám
sát bởi nhà nước và có khả năng liên kết với khu vực và quốc tế.
(cid:190) Cần phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường bằng cách thúc đẩy tăng chất lượng, số lượng hoạt động và năng lực tài chính của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ .
(cid:190) Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước, khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm… tham gia vào thị trường.
(cid:190) Tạo cơ chế thông thoáng hơn cho cá nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút
nguồn ngoại tệ.
Thị trường vốn phát triển mạnh thì vai trò phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các sản phẩm phái sinh sẽ phát huy được tác dụng giúp cho các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng…bảo hiểm rủi tỷ giá cho hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy, họ sẽ tìm đến công cụ phái sinh và xem chúng như là một sản phẩm dùng để đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình. Thị trường phái sinh sẽ được sử dụng phổ biến hơn và vì vậy công cụ phái sinh trong đó có quyền chọn có điều kiện để phát triển. (cid:153) Thứ tư, nới lỏng vai trò điều hành của Nhà nước vào thị trường
Hoàn chỉnh và đẩy mạnh hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, cả thị trường nội tệ cũng như ngoại tệ. Đây là nơi mở ra con đường hợp lý nhất, hiệu quả nhất để NHNN có thể can thiệp vào cung cầu vốn, can thiệp vào cung cầu ngoại tệ trong những lúc cần thiết nhằm điều chỉnh lãi suất, điều chỉnh tỷ giá thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Mặt khác, các Ngân hàng thương mại luôn thực hiện cung ứng nhiều sản phẩm (dịch vụ) có liên quan đến ngoại tệ cho nhiều khách hàng, nên nhu cầu về ngoại tệ ở các ngân hàng là rất khác nhau. Do vậy, rủi ro về các khoản dư thừa hay thiếu hụt ngoại tệ của ngân hàng này có thể chuyển cho ngân hàng khác - chính những khoản này lại bù đắp tình trạng thiếu hụt hay dư thừa ở các ngân hàng tiếp nhận (hay bán) nó. Sự sôi động của thị trường liên ngân hàng là điều kiện cần thiết để các giao dịch phái sinh hối đoái phát triển một cách nhanh chóng và bền vững.
74
Mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp đồng quyền chọn: Mở cửa thị trường các công cụ phái sinh đặc biệt là quyền chọn để tránh tình trạng phổ biến hiện nay là Chính phủ chỉ cho phép một số định chế tài chính làm thí điểm. Trong những trường hợp như thế, giá trị các hợp đồng quyền chọn sẽ chỉ là độc quyền của một số định chế tài chính, và ắt hẳn sẽ cao hơn giá trị thực của chúng. Tất cả những bóp méo trong giá trị các hợp đồng quyền chọn sẽ đẩy sang phía người mua gánh chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền này, hoặc là sẽ không tồn tại các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm tham gia canh bạc với cái giá phải trả rất cao với hy vọng gỡ gạc lại bằng những hy vọng đầu cơ trên những bất ổn của giá cả thị trường. Không có khả năng nào có lợi cho nền kinh tế. (cid:153) Thứ năm, về phía Ngân hàng:
Cần tiếp cận khách hàng, tổ chức hội thảo để giới thiệu và tư vấn nhằm mục đích vừa nâng cao nhận thức của khách hàng về rủi ro tỷ giá vừa giúp cho khách hàng hiểu biết về các công cụ phái sinh ngoại hối. Khi sử dụng các công cụ phái sinh doanh nghiệp có được sự lựa chọn về tỷ giá mong muốn. Mặt khác, cần tập trung ưu tiên đào tạo và bồi dưỡng cho các cán bộ trực tiếp kinh doanh các sản phẩm phái sinh, vì đây là những sản phẩm mới, phức tạp cả về lý thuyết lẫn thực tiễn áp dụng.
Trang bị phương tiện, thiết bị hiện đại: Ngoài những phương tiện, thiết bị hiện có của Reuters, Thomson, SowJones News hay Metastock, cần trang bị thêm phần mềm xử lý, quản lý rủi ro và tính phí đối với các nghiệp vụ phái sinh. Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trên thị trường ngoại hối quốc tế, để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức, về hệ thống phân tích quản lý rủi ro đối với các công cụ phái sinh nói chung và công cụ quyền chọn ngoại tệ nói riêng. 3.4. Giải pháp phát triển công cụ quyền chọn ngoại tệ tại NHTMCP Á
Châu (ACB) 3.4.1. Các giải pháp vĩ mô 3.4.1.1 Xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh cho công cụ quyền chọn ngoại
tệ:
Đồng bộ hóa các văn bản pháp lý liên quan: Hiện nay, các văn bản pháp lý quy định, chi phối các giao dịch quyền chọn không nhiều, thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện từ NHNN cũng như các văn bản pháp lý cấp cao nhằm chi phối, điều tiết, hướng dẫn thực hiện các giao dịch quyền chọn
75
ngoại tệ. Đó là một trong những lý do khiến các doanh nghiệp và nhà đầu tư không yên tâm khi tham gia vào thị trường này. Vì vậy, cơ quan ban ngành nhà nước cần ban hành những quy định pháp luật cụ thể cho việc sử dụng các công cụ quyền chọn ngoại tệ như vấn đề hạch toán kế toán phí quyền chọn, qui định rõ cơ quan giải quyết tranh chấp trong trường hợp các bên tham gia quyền chọn vi phạm hợp đồng… đây là sản phẩm phức tạp rất cần có sự hướng dẫn chi tiết từ phía NHNN trong thời gian tới.
Nới rộng các điều kiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ: Cho phép cả doanh nghiệp và cá nhân tham gia giao dịch quyền chọn ngoại tệ, đặc biệt là quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ. Mở rộng kỳ hạn giao dịch và hạn mức doanh số giao dịch so với quy định thí điểm. Cho phép các tổ chức tín dụng khác ngoài ngân hàng thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ nhằm gia tăng số lượng các nhà cung cấp, nâng cao tính cạnh tranh cho thị trường. Trong thời gian tới, khi thị trường đạt đến một mức độ phát triển nhất định và VNĐ được tự do chuyển đổi thì NHNN nên cho phép các doanh nghiệp tham gia vào giao dịch với tư cách vừa là người mua vừa là người bán để góp phần thúc đẩy giao dịch quyền chọn phát triển.
Ngoài ra, trong hợp đồng mua quyền chọn nên qui định thêm điều khoản về quyền mua ngoại tệ của bên mua option, vì hiện nay chỉ có các ngân hàng mới được bán quyền chọn và trong trường hợp người mua quyền (đặc biệt là mua quyền chọn mua) không thực hiện hợp đồng, thì họ rất khó mua được ngoại tệ trên thị trường nhất là ngoại tệ với số lượng lớn nếu không mua được từ ngân hàng đã bán quyền chọn cho mình (vì lúc này NH bán quyền không bị ràng buộc trách nhiệm phải bán ngoại tệ cho khách hàng). Điều này làm hưởng lớn đến kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp làm họ phần nào e ngại sử dụng quyền chọn.
3.4.1.2. Hỗ trợ, phối hợp với các tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ quyền chọn trong công tác nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, nhà đầu tư:
Công tác nâng cao trình độ và nhận thức của các đối tượng có nhu cầu sử dụng quyền chọn (nhà đầu tư, các nhà xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp…) cần được thực hiện thường xuyên, có trọng tâm, mục đích rõ ràng. Các cơ quan chính phủ cần hỗ trợ, phối hợp với các tổ chức tín dụng (TCTD) cung cấp dịch vụ quyền chọn đề ra chiến lược phát triển để dần dần tiến tới chuyên nghiệp hóa các giao dịch quyền chọn, làm cho chúng trở thành những giao dịch quen thuộc và phổ biến trong cộng đồng doanh nghiệp, giới đầu tư
76
và các TCTD. Cụ thể, các bộ ngành Giáo dục, Tài chính, truyền thông cần phối hợp với nhau cũng như với các TCTD thực hiện các công việc sau: o Tuyên truyền, phổ biến cho các doanh nghiệp nhận thức một cách đầy đủ và chính xác những ảnh hưởng do biến động tỷ giá, giá cả, lãi suất gây ra thông qua các kênh thông tin như báo chí, truyền hình, internet…
o Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề nghiên cứu bàn về rủi ro hối đoái, xây dựng và triển khai các khóa học đào tạo ngắn hạn cho các doanh nghiệp về sự cần thiết bảo hiểm rủi ro hối đoái, chứng khoán, hàng hóa….
3.4.1.3. Thay đổi một số qui định về hạch toán kế toán:
Các vấn đề về hạch toán quyền chọn nói riêng và các công cụ phái sinh nói chung hiện nay còn khá mới mẻ ở nước ta. Do đó, nhà nước nên điều chỉnh, hoàn thiện các vấn đề pháp lý về hạch toán, xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp đồng quyền chọn. Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí giao dịch quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế. Điều này sẽ góp phần khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng công cụ quyền chọn nhiều hơn, trong đó có quyền chọn ngoại tệ.
3.4.1.4. Cung cấp sản phẩm quyền chọn có điều kện:
Việc phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn ngoại tệ cho phép các doanh nghiệp Việt Nam kết hợp vừa phòng thủ vừa tiến công khi có cơ hội. Dĩ nhiên là cũng có mặt trái của phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn do khả năng đầu cơ rất cao. Việc đầu cơ giá trên các hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể làm cho tỷ giá biến động vượt khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư vào chế độ tỷ giá mà chúng ta hoạch định. Tuy nhiên chưa có chứng cứ nào cho thấy việc đầu cơ vào các quyền chọn ngoại tệ dẫn đến một sự sụp đổ hoặc khủng hoảng tỷ giá ở các nước trên thế giới. Chế độ tỷ giá chỉ phụ thuộc chủ yếu vào sự ổn định kinh tế vĩ mô của các quốc gia. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế đánh giá rất cao về chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô, do đó nỗi lo về tính bất ổn của tỷ giá khi mở rộng biên độ sẽ giảm đi đáng kể . Mặc dù vậy bước đầu để hạn chế rủi ro nên triển khai các quyền chọn có điều kiện
Quyền chọn có điều kiện là một dạng quyền chọn lai tạp giữa các quyền chọn phức tạp ở các nước phát triển nhưng nó làm giảm nhẹ đi tính đầu cơ để tránh thua lỗ tối đa cho các nhà đầu tư và thậm chí nhà đầu cơ có ham muốn sử dụng quyền chọn ngoại tệ như một công cụ kiếm lời. Các
77
quyền chọn ngoại tệ có điều kiện đưa ra những qui định về mức giá trần và giá sàn. Nếu tỷ giá vượt quá các mức giá này thì quyền chọn sẽ không còn giá trị. Những rào cản này sẽ làm nản lòng các nhà đầu cơ và do đó giảm đi đáng kể tính bất ổn do NHNN mở rộng biên độ dao động tỷ giá.
Nói tóm lại, trên đây là một số giải pháp mang tính vĩ mô, đó là những công việc mà nhà nước, chính phủ và các cơ quan liên quan cần có kế hoạch triển khai để phát triển sản phẩm quyền chọn nói chung và quyền chọn ngoại tệ nói riêng, chủ yếu là trên thị trường phi tập trung ở Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, để thị trường ngày càng phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ lực của tất cả các chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, những chủ thể cung cấp và sử dụng sản phẩm quyền chọn. Vấn đề cốt lõi chính là nhận thức của chính các chủ thể tham gia trực tiếp chứ không phải là các chủ thể quản lý.
3.4.2. Các giải pháp tại ACB:
Bên cạnh các giải pháp vĩ mô của nhà nước, các tổ chức tài chính, đặc biệt là các NHTM dưới góc độ là người trực tiếp tham gia cung ứng, môi giới sản phẩm quyền chọn cho thị trường, cần tuân thủ theo các qui định của nhà nước và thực hiện một số giải pháp vi mô sau để góp phần vào sự hình thành và phát triển sản phẩm quyền chọn trên thị trường phi tập trung ở Việt Nam.
3.4.2.1. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhân viên phụ trách sản phẩm quyền chọn tại Ngân hàng:
Trong bất kỳ tình huống nào con người vẫn là nhân tố quan trọng nhất và tiên quyết nhất đối với các hoạt động kinh tế xã hội. Đứng trước sự phát triển như vũ bảo của khoa học, công nghệ thông tin và sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tài chính ngân hàng, phi ngân hàng, để tận dụng được cơ hội, nắm bắt tri thức mới của thời đại thì vấn đề có ý nghĩa quyết định chính là đội ngũ nhân lực của ngân hàng. Do bản chất của nghiệp vụ kinh doanh quyền chọn vốn là một công việc phức tạp, căng thẳng, chứa đựng nhiều rủi ro…Do đó, đòi hỏi cán bộ kinh doanh quyền chọn ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh công cụ phái sinh nói chung và tại ACB nói riêng phải có trình độ chuyên môn tốt, am hiểu những kiến thức về kinh tế, tài chính, pháp lý đặc biệt là kỹ thuật định giá quyền chọn, có khả năng phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá, lãi suất…; đồng thời phải là những người có đạo đức nghề nghiệp, trung thực trong kinh doanh.
Ngân Hàng Á Châu cần tổ chức các chương trình đào tạo nhằm trang bị những kiến thức chuyên môn, kỹ thuật về các nghiệp vụ phái sinh cho nhân
78
viên, mời các chuyên gia trong và ngoài nước giỏi về các nghiệp vụ này tham gia giảng dạy. Nếu có điều kiện có thể cử một số nhân viên có khả năng đi đào tạo tại nước ngoài để có điều kiện học hỏi không chỉ lý thuyết mà cả thực tiễn thực hiện nghiệp vụ này tại ngân hàng nước ngoài. Để cán bộ nhân viên thực sự quan tâm đến việc học tập và nâng cao trình độ chuyên môn, ngân hàng nên có cơ chế khuyến khích bằng cách bằng cách hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần kinh phí, thực hiện chế độ khen thưởng, đề bạt đối với những nhân viên học tập đạt kết quả tốt và có khả năng vận dụng tốt trong thực tế công tác.
Ngoài ra, ngân hàng cần có chính sách đãi ngộ cụ thể nhằm thu hút nhân tài như các chế độ về khen thưởng, phúc lợi, đào tạo thường xuyên được xem xét căn cứ theo năng lực, trình độ, hiệu quả công việc…, tạo điều kiện để các sáng kiến của nhân viên được phát huy có hiệu quả.
3.4.2.2.Mở rộng khả năng tiếp cận và sử dụng công cụ quyền chọn ngoại tệ của các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế:
Để hình thành và phát triển các nghiệp vụ phái sinh nói chung và quyền chọn nói riêng, điều cần thiết là các doanh nghiệp vừa là đối tác vừa là khách hàng của ngân hàng phải được trang bị kiến thức nhất định về thị trường các công cụ phái sinh bao gồm cả quyền chọn, định giá quyền chọn, sử dụng các công cụ phái sinh trong đó có quyền chọn để phòng ngừa rủi ro nói chung và rủi ro tỷ giá nói riêng. Vì vậy ACB cần tuyên truyền, hướng dẫn và tư vấn cho các doanh nghiệp về vai trò và tầm quan trọng của nghiệp vụ này cũng như các vấn đề kỹ thuật có liên quan. Để thực hiện điều đó, ACB cần rút kinh nghiệm và thay đổi cách tiếp thị chào bán các sản phẩm phái sinh nói chung và quyền chọn nói riêng, theo hướng là lựa chọn và huấn luyện kiến thức tiếp thị, bán hàng cho những nhân viên thật sự am hiểu về sản phẩm để trực tiếp giới thiệu và chào bán cho khách hàng. Ngoài ra, về lâu dài, ACB nên lập ra bộ phận chuyên phân tích, tư vấn và hỗ trợ cho khách hàng tìm kiếm thông tin, cách thức sử dụng công cụ quyền chọn cho cả hai mục tiêu kinh doanh và hạn chế rủi ro.
Phối hợp với các bộ, ngành như Bộ Tài Chính, Giáo Dục, Truyền Thông, NHNN…để tăng cường hơn nữa công tác quảng bá và giới thiệu sản phẩm quyền chọn đến các khách hàng doanh nghiệp và nhà đầu tư, trong đó chú trọng đầu tư cho hình thức quảng bá trên các website của ngân hàng. Vì hiện tại, trên website ngân hàng chỉ giới thiệu lý thuyết chung chung về các sản phẩm phái sinh trong đó có quyền chọn, làm cho khách hàng khi đọc vào
79
cảm thấy rất mơ hồ, họ không thật sự ấn tượng về sản phẩm nên không có nhu cầu tìm hiểu và sử dụng.
Tổ chức các buổi tư vấn hướng dẫn thực hành tham gia vào giao dịch quyền chọn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Trong đó đưa ra cho các tình huống mẫu để khách hàng thử ứng dụng. Từ đó, phân tích cho các khách hàng thấy lợi ích của việc sử dụng công cụ quyền chọn trong bảo hiểm rủi ro tỷ giá và tìm kiếm lợi nhuận trong các hoạt động đầu tư cũng như kinh doanh của mình.
3.4.2.3.Tạo lập niềm tin cho các thành viên tham gia thị trường:
ACB cần tổ chức cập nhật thường xuyên và phân tích tình hình diễn biến xu hướng của thị trường ngoại hối quốc tế, đặc biệt là các ngoại tệ mà các nhà xuất – nhập khẩu thường thỏa thuận dùng làm phương tiện thanh toán. Làm được như vậy thì ACB mới có thể chủ động trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, thuận tiện, chính xác trong việc xây dựng, phát triển sản phẩm quyền chọn, biểu phí liên quan đến nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ. Không những thế, ACB còn có các thông tin đầy đủ và chính xác để có những tư vấn thích hợp, đáp ứng nhu cầu của khách hàng đặc biệt là các doanh nghiệp xuất – nhập khẩu trong việc hạn chế rủi ro, ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
3.4.2.4. Đẩy mạnh marketing sản phẩm quyền chọn:
Thay đổi nhận thức của các doanh nghiệp vốn chưa quen với các sản phẩm mới là tương đối khó khăn và cần nhiều thời gian, tuy nhiên rõ ràng thực tế cho thấy hiện ACB còn yếu trong khâu tiếp cận khách hàng, marketing sản phẩm tới khách hàng.Vì vậy, ACB cần phải có những đầu tư thích đáng vào hoạt động quảng cáo các nghiệp vụ phái sinh ngoại hối nói chung và nghiệp vụ quyền chọn nói riêng vốn là những sản phẩm còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp cũng như các cá nhân. Chẳng hạn như thông qua những hội nghị khách hàng, hội thảo chuyên đề về nghiệp vụ phái sinh ngoại hối sẽ cho khách hàng thấy rõ những lợi ích khi ký kết các hợp đồng phái sinh trong đó đặc biệt là hợp đồng quyền chọn về việc mua hay bán một ngoại tệ. Cần phải cho khách hàng thấy rõ rằng khi tham gia vào hợp đồng quyền chọn, hoạt động kinh doanh xuất – nhập khẩu của họ sẽ ổn định, không bị rủi ro về tỷ giá, nhất là trong một thị trường quốc tế có nhiều biến động liên tục và thất thường như hiện nay.
80
Ngoài ra, bộ phận phát triển sản phẩm của Ngân hàng cần nghiên cứu và đưa ra sản phẩm trọn gói dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu như kết hợp giữa tín dụng tài trợ xuất khẩu với sử dụng sản phẩm phái sinh để bảo hiểm rủi ro tỷ giá, các sản phẩm phái sinh bao gồm kỳ hạn, hoán đổi, và quyền chọn. Tùy khách hàng lựa chọn công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá nào mà các khoản cho vay sẽ có mức lãi suất khác nhau. Thông qua sản phẩm tín dụng để triển khai các sản phẩm phái sinh là cách nhanh nhất để nhiều khách hàng có thể tiếp cận với sản phẩm mới mẻ này vì tín dụng là nghiệp vụ rất phổ biến và hầu hết các doanh nghiệp đều biết và có nhu cầu sử dụng.
3.4.2.5. Đầu tư trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại:
* Về mặt thông tin :
Thị trường ngoại hối là một thị trường mang tính cạnh tranh rất cao, độ thanh khoản lớn, trong đó kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro, thông tin trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu vì vậy đòi hỏi ACB phải có hệ thống cung cấp thông tin thật hiệu quả và tức thời, cụ thể: (cid:153) Phải thường xuyên xây dựng những báo cáo đánh giá về tình hình hoạt động kinh doanh của các đối tác chiến lược, khách hàng chủ đạo, tiềm năng, các đối thủ cạnh tranh để làm căn cứ cho việc thực hiện các giao dịch ngoại hối phái sinh, tránh rủi ro trong thanh toán.
(cid:153) Xây dựng bộ phận phân tích thông tin tài chính – ngân hàng , tập hợp và phân tích các văn bản chế độ của ngân hàng Nhà nước liên quan đến hoạt động kinh doanh ngoại hối trong nước và quốc tế. Bộ phận này thường xuyên tham mưu cho Ban Lãnh Đạo chỉ đạo điều hành về kinh doanh ngoại tệ nhanh nhạy và sát sao hơn, phù hợp với diễn biến ngày càng sôi động của thị trường ngoại hối.
* Về mặt công nghệ
ACB cần xây dựng và nâng cấp công nghệ, hạ tầng cơ sở hoạt động, tiêu chuẩn hoá phòng kinh doanh ngoại tệ cùng với việc trang bị cơ sở vật chất hiện đại cũng là một trong những điều kiện cần thiết để thực hiện các giao dịch hối đoái phái sinh trong đó có quyền chọn .
Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trên thị trường ngoại hối quốc tế để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức, về hệ thống phân tích quản lý rủi ro đối với các loại hình nghiệp vụ phái sinh nói chung và nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ nói riêng.
3.4.2.6. Thay đổi cách tính phí quyền chọn
81
Hiện nay, do số lượng các ngân hàng tham gia vào thị trường quyền chọn ngoại tệ rất ít nên hiện tại ACB phần lớn cung cấp quyền chọn cho khách hàng với tư cách là nhà môi giới, làm đại lý cho các ngân hàng nước ngoài, thực hiện tái bảo hiểm trên thị trường quốc tế chứ chưa đủ khả năng để tự mình phát hành quyền chọn. Vì vậy phí quyền chọn được tính bằng phí quyền chọn của ngân hàng nước ngoài, cộng với phí dịch vụ để tính phí cho khách hàng. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam và cả các ngân hàng vì việc này đẩy phí quyền chọn lên cao ảnh hưởng đến lựa chọn của khách hàng và ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Do đó, việc thay đổi cách tính phí quyền chọn là cần thiết.
Dựa vào các điều kiện, khả năng của mình ACB dần dần tự đứng ra cung cấp và phát hành quyền chọn trực tiếp cho khách hàng, tìm hiểu và vận dụng mô hình Black-Scholes để tính phí quyền chọn cho khách hàng một cách hợp lý. Nhanh chóng triển khai ứng dụng các mô hình chiến lược kinh doanh quyền chọn, từ đó tạo nền tảng đề ra một mức phí mang tính cạnh tranh hơn. 3.5. Một số kiến nghị: 3.5.1. Đối với Ngân hàng Nhà Nước:
Thứ nhất, NHNN nới lỏng và hướng đến thay đổi các quy định trong việc đáp ứng nhu cầu mua ngoại tệ của khách hàng đối với các ngân hàng thương mại, làm tăng thêm độ thông thoáng cho các giao dịch ngoại hối. Với quy định thông thoáng thì khách hàng sẽ dễ dàng tiếp cận và thực hiện các hợp đồng mua bán ngoại tệ với các ngân hàng thương mại hơn.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để sớm quyết định cho phép tất cả các ngân hàng thương mại có hoạt động kinh doanh quốc tế, được thực hiện giao dịch quyền lựa chọn. Trên cơ sở có nhiều NHTM cùng thực hiện nghiệp vụ này sẽ tạo điều kiện thực hiện hoạt động tái bảo hiểm trên thị trường giữa các NHTM trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Đồng thời cũng tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, phấn đấu giảm phí hợp đồng.
Thứ ba, cho phép các tổ chức tham gia được thực hiện giao dịch quyền chọn giữa ngooại tệ và VND (cụ thể là USD/VND) mà không cần làm thủ tục chờ cấp phép.Bởi lẽ, hầu hết các doanh nghiệp, đều luôn hết sức quan tâm đến tỷ giá VND với các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi. Trong điều kiện hiện nay, tuy VND chưa phải đồng tiền tự do chuyển đổi, song việc tái bảo hiểm
82
tỷ giá vẫn có thể được tiến hành, giữa các NHTM, được phép thực hiện giao dịch quyền chọn trên thị trường hối đoái trong nước.
Thứ tư, NHNN cần tổ chức các khóa huấn luyện, tập huấn hoặc văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ hối đoái một cách rộng rãi đến các doanh nghiệp và NHTM để đi đến thống nhất trong cách hiểu, phương thức hoạt động, bản chất của từng loại nghiệp vụ nhằm đạt hiệu quả cao khi sử dụng.
Thứ năm, rà soát lại các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối và điều chỉnh tỷ giá, giảm thiểu tối đa những thủ tục và thời gian thực hiện nghiệp vụ. Khuyến khích các ngân hàng sẵn sàng cung cấp các hợp đồng như: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền chọn ngoại tệ với doanh nghiệp nhằm giảm thiểu việc găm giữ ngoại tệ đối với doanh nghiệp, giảm sự căng thẳng về ngoại tệ cho các ngân hàng.
Thứ sáu, NHNN nên tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các ngân hàng. Thay vì qui định ngân hàng muốn kinh doanh sản phẩm phái sinh phải xin phép thì NHNN nên qui định một tiêu chuẩn hoạt động cụ thể, chẳng hạn qui định về quy mô vốn, về tiêu chuẩn cán bộ phụ trách, về cơ sở vật chất…ngân hàng nào đáp ứng được các tiêu chuẩn này mặc nhiên sẽ được kinh doanh sản phẩm phái sinh và tự chịu trách nhiệm về tính xác thực của các tiêu chí khi NHNN kiểm tra. 3.5.2 Đối vối Ngân hàng Á Châu:
Vấn đề phí quyền chọn là điều quan trọng trước nhất mà ACB cần xem xét thay đổi, (thực tế không chỉ tại ACB mà tại các NHTM khác được phép kinh doanh ngoại hối phái sinh) ACB nên qui định giá quyền chọn ở mức “mềm” một chút. Điều đó cũng có nghĩa là, NH nên sẵn sàng giảm bớt phần nào lợi nhuận từ hoạt động này, nhằm mục đích, kích thích lợi ích vật chất đối với khách hàng, trong giai đoạn thị trường phái sinh còn sơ khai như hiện nay.
Ngân hàng cần có bộ phận chuyên trách chăm sóc khách hàng chiến lược. Cần phải chủ động đưa ra những biện pháp thích hợp để thu hút khách hàng mới. Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận sản phẩm.
Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị quảng cáo dịch vụ, thông tin đầy đủ về quyền lợi, lợi ích khi sử dụng sản phẩm quyền chọn cho khách hàng trên cơ sở đó góp phần tạo khả năng, mở rộng hoạt động của thị trường hối đoái.
Tăng thêm nguồn nhân lực và chú ý đến công tác đào tạo nguồn nhân lực cho phòng kinh doanh ngoại tệ tại Hội Sở của ACB và đặc biệt là nhân viên tại các chi nhánh - nơi giao dịch trực tiếp với khách hàng. Có kế hoạch
83
đào tạo tại chỗ nhằm đảm bảo nhân viên dịch vụ khách hàng tại các chi nhánh thông thạo nghiệp vụ để có thể tư vấn và tiếp thị khách hàng sử dụng công cụ quyền chọn. Do hiện nay tại ACB phần lớn các nhân viên tại chi nhánh đều không nắm rõ về các sản phẩm phái sinh nên mỗi khi phát sinh nghiệp vụ đều phải liên lạc về phòng kinh doanh ngoại tệ Hội Sở nhờ tư vấn, điều này thể hiện sự thiếu chuyên nghiệp và làm mất lòng tin nơi khách hàng.
Cần nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ tư vấn cho khách hàng. Đặc biệt là tư vấn trong hoạt động kinh doanh xuất – nhập khẩu, tư vấn các công cụ phòng ngừa rủi ro về thị trường, giá cả, tỷ giá và lãi suất. Thông qua đó giúp doanh nghiệp hiểu và nhận thức đầy đủ về những lợi ích mang lại từ việc sử dụng công cụ quyền chọn để phòng chống rủi ro hối đoái, từ đây, họ sẽ chủ động tìm đến ngân hàng để được tư vấn và sử dụng công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
Cần chú trọng nâng cao năng lực kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Một trong những yếu tố quan trọng đánh giá khả năng thu hút khách hàng trong kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại là năng lực của các ngân hàng đó trong kinh doanh trên thị trường ngoại hối, bao gồm khả năng về vốn, khả năng giao dịch với khách hàng, ứng dụng công nghệ hiện đại trong kinh doanh, thông tin tư vấn giúp khách hàng kịp thời đáp ứng nhu cầu về vốn ngoại tệ, cũng như các nghiệp vụ phái sinh nhằm hạn chế rủi ro tỷ giá.
Đa dạng hóa các loại ngoại tệ một mặt đáp ứng nhu cầu cụ thể về ngoại tệ đó cho khách hàng khiến khách hàng tìm đến ngân hàng thường xuyên hơn, mặt khác chia sẻ, phân tán được rủi ro trong khi tỷ giá của các loại ngọai tệ khác nhau có những biến động phụ thuộc nhiều yếu tố không kiểm soát được.
Tăng cường hợp tác quốc tế với các tổ chức tài chính khu vực và thế giới: Các nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan… có các điều kiện kinh tế xã hội khá tương đồng với Việt Nam hay các nước như Singapore, Hàn Quốc, Hồng Kông….có điều kiện phát triển vượt bậc so với chúng ta. Do đó, ACB cần mở rộng hợp tác, học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm về trang bị hạ tầng kỹ thuật, công tác điều hành, quản lý thị trường quyền chọn, cũng như kiến thức chuyên môn cho đội ngũ nhân lực về lĩnh vực này với các ngân hàng lớn trong khu vực và thế giới trong quá trình tạo lập và phát triển sản phẩm quyền chọn ngoại tệ ở Việt Nam.
84
Nói tóm lại , trên đây có thể xem như là một số giải pháp cơ bản và thiết yếu mà các nhà cung cấp dịch vụ quyền chọn ngoại tệ có thể thực hiện để góp phần vào sự phát triển thị trường quyền chọn phi tập trung ở Việt Nam. Tùy thuộc khả năng, chiến lược kinh doanh riêng của mỗi NHTM nói chung và ACB nói riêng mà họ có thể ưu tiên thực hiện những giải pháp nào, chú trọng vào giải pháp nào hơn các giải pháp còn lại.
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
Trong quá trình nghiên cứu thực trạng và những tồn tại trong quá trình triển
khai sản phẩm quyền chọn tại Ngân Hàng Á Châu, chương 3 đã nêu lên được:
(cid:57) Định hướng chiến lược phát triển đến năm 2010 của Ngân Hàng Á
Châu
(cid:57) Những cơ hội và thách thức đặt ra cho Ngân hàng Á Châu để phát triển việc sử dụng công cụ quyền chọn ngoại tệ trong điều kiện nền kinh tế hội nhập WTO hiện nay.
(cid:57) Các điều kiện để áp dụng quyền chọn ngoại tệ có hiệu quả tại ACB (cid:57) 4 giải pháp về mặt vĩ mô (cid:57) 6 giải pháp về mặt vi mô (cid:57) Một số kiến nghị đối với NHNN và Ngân hàng Á Châu
Bảo hiểm rủi ro tỷ giá thông qua các công cụ phái sinh trong đó đặc biệt là quyền chọn là một cách quản lý rủi ro khoa học, có thể mang lại lợi nhuận lớn cho các ngân hàng. Tuy nhiên để phát huy tốt tác dụng của công cụ này, không chỉ một mình Ngân hàng Á Châu mà phải có sự kết hợp của các ngân hàng thương mại Việt Nam, NHNN phối hợp với các bộ ngành liên quan để thực hiện đồng thời các giải pháp trên để từng bước khắc phục, xoá bỏ những bất cập, phát huy ưu thế vốn có của công cụ quyền chọn, hướng tới một thị trường quyền chọn ngoại tệ hiệu quả hơn .
85
KEÁT LUAÄN
Nhìn chung, so với các NHTM Việt Nam khác trong thời gian qua Ngân hàng Á Châu đã có sự nỗ lực lớn trong việc cung cấp các sản phẩm phái sinh đáp ứng cho nhu cầu phát triển hội nhập của thị trường ngoại hối trong nước với thị trường ngoại hối quốc tế, giúp các khách hàng có được các công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá hữu hiệu. Trong các sản phẩm phái sinh thì quyền chọn là sản phẩm có nhiều ưu điểm và thực tế trên thế giới doanh số giao dịch sản phẩm phái sinh quyền chọn rất cao được nhiều cá nhân và tổ chức sử dụng để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay các sản phẩm phái sinh nói chung và quyền chọn nói riêng còn rất mới mẽ, yếu kém và mờ nhạt
Tại Ngân hàng Á Châu mặc dù sản phẩm quyền chọn đã được triển khai từ năm 2004 nhưng đến nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thu hút được nhiều khách hàng tham gia. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp, chính sách quản lý tỷ giá hối đoái còn quá cứng nhắc trong thời gian qua làm cho tỷ giá ngoại tệ so với VND (đặc biệt là tỷ giá USD/VND) biến động không đáng kể làm cho các cá nhân và tổ chức kinh tế không quan tâm đến việc phải phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra, còn nguyên nhân khác nữa là trên thị trường còn thiếu vắng các nhà phân tích am hiểu kỹ về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ nghiệp vụ này. Bên cạnh đó, số lượng các nhà cung cấp quyền chọn thường là các Ngân hàng còn rất ít nên phí để giam gia vào giao dịch quyền chọn khá cao làm nản lòng những người có nhu cầu sử dụng sản phẩm này. Nền kinh tế nước ta ngày càng mở cửa và hội nhập với khu vực và thế giới, chính sách quản lý tỷ giá và chế độ quản lý ngoại hối ngày càng nới lỏng tạo điều kiện cho tỷ giá hối đoái dần thay đổi biến động theo cung cầu của thị trường. Khi đó vấn đề rủi ro tỷ giá sẽ luôn là “bạn đồng hành” trong mọi hoạt động kinh doanh của các cá nhân và tổ chức và ngày càng gia tăng khi quá trình hội nhập càng trở nên sâu rộng hơn. Vì vậy việc phát triển sản phẩm phái sinh trong đó có quyền chọn được xem như là lá chắn quan trọng để hạn chế rủi ro tỷ giá đối với các cá nhân cũng như doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, riêng đối Ngân Hàng Á Châu việc phát triển sản phẩm phái sinh sẽ giúp ngân hàng đa dạng được sản phẩm dịch vụ, tăng thu nhập và cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài
86
vốn đã rất mạnh về kinh doanh sản phẩm “cao cấp” này. Tóm lại, luận văn đã nêu lên được: (cid:190) Về mặt lý luận: Đề tài đã đi vào tìm hiểu khái quát về các công cụ phái sinh nói chung và công cụ quyền chọn nói riêng, phân tích những ưu, nhược điểm khi sử dụng công cụ quyền chọn ngoại tệ và nghiệp vụ này đóng vai trò như thế nào đối với hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra đề tài cũng nêu ra rủi ro tỷ giá phát sinh trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp và cách ứng dụng sản phẩm quyền chọn vào phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
(cid:190) Về mặt thực trạng: Đề tài đã nêu rõ thực trạng tình hình triển khai các nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ tại Ngân hàng Á Châu trong thời gian qua, qua đó nêu lên được những khó khăn trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này đồng thời chỉ ra được những nguyên nhân còn tồn tại để từ đó làm cơ sở tìm ra các giải pháp khắc phục.
(cid:190) Về mặt giải pháp: đã nêu lên được 4 giải pháp về mặt vĩ mô, 6 giải pháp về mặt vi mô và đưa ra một số kiến nghị đối với NHNN và Ngân Hàng Á Châu nhằm góp phần tích cực vào việc đẩy mạnh áp dụng quyền chọn ngoại tệ tại Ngân hàng Á Châu. Và từ đó có thể ứng dụng cho các ngân hàng thương mại khác của Việt Nam. Qua việc nghiên cứu đề tài này, luận văn hy vọng đưa ra một số giải pháp góp phần tích cực vào sự phát triển sản phẩm quyền chọn ngoại tệ tại Ngân hàng Á Châu – một sản phẩm tuy cũ đối với các Ngân hàng nước ngoài nhưng lại mới mẽ đối với các ngân hàng trong nước và còn nhiều tiềm năng phát triển.Từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Á Châu nói riêng và các NHTM nói chung trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Lê Văn Tư (2003), Thị trường hối đoái, NXB Thống kê (tr303-tr331)
2. TS. Lê Quốc Lý (2004), Quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái ở
Việt Nam, NXB Thống kê.
3. Nguyễn Văn Tiến (2001), Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch
kinh doanh ngoại hối, NXB Thống kê
4. PGS.TS.Trần Hoàng Ngân; TS. Nguyễn Minh Kiều (2008), Thanh toán quốc
tế, NXB Thống kê
5. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2007), Giải pháp phát triển thị trường phái
sinh ở Việt Nam (kỷ yếu hội thảo khoa học), Nhà xuất bản Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
6. TS.Nguyễn Minh Kiều (2006), Hoàn Thiện các giải pháp phòng ngừa rủi ro
tỷ giá nhằm chuẩn bị hội nhập khu vực và thế giới, Tóm tắt công trình nghiên
cứu khoa học, Sở khoa học và công nghệ Tp.HCM.( tr37, tr39, tr42)
7. Ngân hàng Á Châu (2005-2007), Báo cáo thường niên
8. Ngân hàng Eximbank (2005-2007), Báo cáo thường niên
9. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (2005-2007), Báo cáo thường niên
10. Ngân hàng TMCP Ngoại thương (2005,2006), Báo cáo thường niên
11. www.bis.com;
12. www.vneconomy.com.vn
13. www.saga.vn
14. www.sbv.gov.vn
88
PHỤ LỤC 1: SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CỦA NGÂN HÀNG TMCP ÁCHẤU
Đại hội đồng cổ đông
Ban kiểm soát
Ban kiểm soát
Hội đồng quản trị
Các Hội đồng
Văn phòng HĐQT
Ban kiểm toán nội bộ
Tổng Giám Đốc
Ban chiến lược
Phòng quan hệ quốc tế
Phòng Đầu tư
Ban chính sách và quản lý tín dụng
Trung tâm vàng
Ban đảm bảo chất lượng
Phòng thẩm định tài sản
Trung tâm thẻ, ATM
Khối Ngân quỹ
Khối Phát triển kinh doanh
Khối Quản trị nguồn lực
Khối Giám sát Điều hành
Khối khách hàng doanh nghiệp
Khối công nghệ thông tin
Các Sở Giao Dịch, chi nhánh và Phòng Giao dịch
Khối khách hàng cá nhân
89
PHỤ LỤC 02: QUI TRÌNH PHỐI HỢP THỰC HIỆN QUYỀN CHỌN TẠI ACB
Thực hiện
Quy trình thực hiện
NVNVCN
Nhu cầu KH
NVNVCN
Hỏi phí premium Hội sở
NVNVHS
Tính phí premium
ý g n ồ đ a ư h c H K
Báo phí premium
NVNVHS, NVNVCN
Đồng ý
NVNVCN
Ký hợp đồng Option và thu phí premium (*)
Lưu hồ sơ khách hàng
KH không thực hiện quyền
NVNVCN, NVNVHS
Thực hiện hợp đồng
NVNVCN
Thanh toán bù trừ
NVNVCN
Thanh toán 100% giá trị hợp đồng (không bù trừ)
Hỏi giá / Phí hiện hành
NVNVCN
Báo giá / phí hiện hành
Hợp đồng mặc nhiên thanh lý
NVNVCN
Chuyển trả tiền chênh lệch
Kết thúc
NVNVCN: Nhân viên nghiệp vụ chi nhánh; NVNVHS: Nhân viên nghiệp vụ Hội Sở