VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG QUỐC ANH

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ

PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG QUỐC ANH

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ

PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

Hà Nội - 2020

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

NGÂN HÀNG VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

NGÂN HÀNG TẠI TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM ................................................ 6

1.1. Khái quát chung về hợp đồng tín dụng ngân hàng ........................................ 6

1.2. Khái quát về tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ............................... 11

1.3. Khái quát về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại

Tòa án cấp phúc thẩm ......................................................................................... 22

1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

ngân hàng tại Tòa án cấp phúc thẩm .................................................................. 28

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THEO THỦ TỤC

PHÚC THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................. 31

2.1. Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa

án cấp phúc thẩm ................................................................................................ 31

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

THEO THỦ TỤC PHÚC PHÚC THẨM TẠI TÒA ÁN TRONG GIAI

ĐOẠN HIỆN NAY .................................................................................................. 60

3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án trong giai đoạn hiện nay ............. 60

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án trong giai đoạn hiện nay ............. 63

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các số liệu tôi sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,

đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự

tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn

của Việt Nam. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của

luận văn này.

Hà Nội, ngày 6 tháng 06 năm 2020

HỌC VIÊN

Trương Quốc Anh

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, tác giả đã nhận được sự

hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Trần Đình Hảo và những ý kiến quý báu về

chuyên môn của các thầy cô trong Trường. Đến nay, tác giả đã hoàn thành luận

văn thạc sĩ với đề tài “Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ngân

hàng từ thực tiễn xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội”.

Tác giả cũng xin trân trọng cảm ơn gia đình, các đồng nghiệp đã quan tâm,

tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ trong việc dành thời gian nghiên cứu, tìm kiếm thu

thập thông tin, tài liệu trong quá trình thực hiện luận văn.

Do trình độ nghiên cứu còn hạn chế cũng như thời gian nghiên cứu chưa

dài nên Luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được

những ý kiến đóng góp của Quý thầy cô và quý độc giả.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 6 tháng 06 năm 2020

HỌC VIÊN

Trương Quốc Anh

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

HĐTD Hợp đồng tín dụng

NHNN Ngân hàng nhà nước

XHCN Xã hội chủ nghĩa

TAND Tòa án nhân dân

BLDS Bộ luật dân sự

BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự

HTND Hội thẩm nhân dân

NHTM Ngân hàng thương mại

TCTD Tổ chức tín dụng

HĐXX Hội đồng xét xử

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Kết quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ở cấp phúc

thẩm của toà án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2015 – 2019 ................................. 55

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận văn

Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước đã

góp phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào công cuộc cải tiến nước nhà, mở ra

nhiều cơ hội mới và cũng đặt ra những thách thức vô cùng to lớn cho mọi lĩnh vực,

mọi doanh nghiệp trong đó không thể không nói đến ngân hàng, một lĩnh vực hết

sức nhạy cảm ở các nước đi lên từ nền kinh tế bao cấp. Ngân hàng ra đời và phát

triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa để giải quyết nhu

cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán…, phục vụ cho việc phát triển, mở rộng sản

xuất kinh doanh của các tổ chức kfinh tế, cá nhân. Trong hoạt động ngân hàng thì

cho vay là hoạt động truyền thống mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng

nhưng cũng là hoạt động tiềm ẩn những rủi ro vô cùng lớn. Biểu hiện của rủi ro tín

dụng khi khách hàng không hoàn trả gốc và lãi đúng hạn hoặc phát sinh ra những

tranh chấp trong hợp đồng tín dụng (HĐTD) ngân hàng…

Nhà nước ta đang trong quá trình đổi mới mọi lĩnh vực của nền kinh tế,

chính trị, xã hội và các lĩnh vực khác góp phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào

công cuộc cải tiến đất nước. Các giao dịch trong xã hội diễn ra hàng ngày rất đa

dạng, pháp luật khó có thể điều chỉnh được toàn bộ các quan hệ trong cuộc sống.

Thông thường các bên lựa chọn hình thức giao dịch thông qua hợp đồng – hợp đồng

ghi nhận sự thỏa thuận giữa các bên, là cơ sở để pháp luật bảo vệ quyền lợi của các bên

khi có tranh chấp. Trong lĩnh vực ta nhận thấy HĐTD ngân hàng có nhiều trong các

giao dịch với các đối tác cho nhu cầu vay vốn trong phát triển kinh doanh, sản xuất.

Bởi HĐTD ngân hàng chứa nhiều yếu tố phức tạp và nhạy cảm nên nó rất dễ dẫn đến

tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng. Khi lợi ích giữa các bên bị ảnh hưởng quyền

đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp sẽ làm thủ tục khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài

thương mại để được pháp luật bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng của Tòa án

đóng vai trò rất quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ

chức, các nhân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và đặc biệt góp phần thúc đẩy sự phát

triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong nên kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch

dân sự, đặc biệt là giao dịch thông qua HĐTD ngân hàng diễn ra ngày càng nhiều

trên phạm vi rộng, gây nhiều khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp này ở Tòa án.

Trước tình hình đó cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến việc

1

giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình giải

quyết tranh chấp trong lĩnh vực này cũng nhằm đảm quyền và lợi ích của các bên

tham gia hợp đồng.

Trong những năm qua, pháp luật về tổ chức tín dụng (TCTD) và pháp luật về

tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng đã được Nhà nước quan tâm và không

ngừng được hoàn thiện như: Bộ luật dân sự (BLDS) năm, Bộ luật tố tụng dân sự

(BLTTDS), Luật Các TCTD, Luật ngân hàng nhà nước (NHNN) và các văn bản

hướng dẫn thi hành... và những văn bản trên tạo ra khung pháp lý quan trọng, tạo

điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho vay của các TCTD, thực hiện chính sách tiền

tệ quốc gia, góp phần thúc đẩy nguồn vốn cho các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức

sản xuất kinh doanh phát triển góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,

bên cạnh những thuận lợi và kết quả đạt được thì pháp luật về các TCTD và pháp

luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng còn rất nhiều bất cập.

Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Hà Nội là tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền

xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, hình sự, hành chinh theo thẩm quyền và có thẩm

quyền xét xử phúc thẩm các vụ án mà TAND cấp huyện trên địa bàn đã xét xử sơ

thẩm mà có kháng cáo, kháng nghị. Tranh chấp HĐTD ngân hàng trong những năm

vừa qua trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn ra ngày một nhiều, trong đó có nhiều vụ

án rất phức tạp, cả về đối tượng tranh chấp và phạm vi tranh chấp. Điều này dẫn đến

việc giải quyết tranh chấp có nhiều phức tạp. Nhiều vụ án đã được giải quyêt ở cấp

sơ thẩm nhưng sau đó có kháng cáo, kháng nghị và được TAND thành phố Hà Nội

xét xử phúc thẩm.

Để tìm hiểu rõ hơn trong việc giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng

theo Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tòa án cấp phúc thẩm gặp những thuận

lợi, khó khăn nào, trình tự giải quyết như thế nào, vấn đề đảm bảo công bằng giữa

lợi ích các bên như thế nào, việc áp dụng pháp luật giải quyết gặp những thuận lợi

và khó khăn gì trên thực tế nên đó cũng là lý do mà người viết lựa chọn đề tài “Giải

quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ngân hàng từ thực tiễn xét xử

phúc thẩm Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp

cao học luật.

2. Tình hình nghiên cứu luận văn

Hiện nay, ở Việt Nam các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín

dụng ngân hang nói chung và giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng nói riêng có

2

nhiều công trình nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau như: “Tranh chấp hợp

đồng và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng” của tác giả Phan Chí

Hiếu (2005), Trường Đại học Luật Hà Nội; “Một số vấn đề pháp lý về HĐTD ngân

hàng và thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp HĐTD ngân hàng” của tác

giả Nguyễn Quỳnh Chi (2010), Trường Đại học Luật Hà Nội; “Pháp luật về giải

quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng bằng con đường Tòa án ở Việt

Nam” của tác giả Trần Thị Thùy Trang (2014), Trường Đại học quốc gia Hà Nội;

“Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức thương lượng, hòa giải -

Những vấn đề lý luận và thực tiễn”của tác giả Nguyễn Hoài Sơn (2004), Trường

Đại học Luật Hà Nội; - tác giả Nguyễn Thị Thu Hồng (2013), “Thủ tục giải quyết

tranh chấp HĐTD ngân hàng qua thực tiễn xét xử tại Tòa phúc thẩm TAND tối cao

tại Hà Nội”, Học viện Khoa học Xã Hội. - tác giả Hoàng Văn Bích (2014), “Giải

quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng có thế chấp tài sản qua thực tiễn xét xử tại Vĩnh

Phúc”, Đại Học Quốc gia Hà Nội - tác giả Lý Thị Thanh Huyền (2012), “Thực tiễn

áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về thừa kề của TAND ở thành phố

Hà Nội”, Học viện Khoa học Xã Hội năm 2016…

Các công trình nghiên cứu trên đề cập các khía cạnh khác nhau của HĐTD

ngân hàng, phương thức giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng. Phần lớn các công

trình này đề cập đến các tranh chấp HĐTD ngân hàng và các biện pháp đảm bảo

thực hiện HĐTD ngân hàng. Nhiều kết quả nghiên cứu trong các công trình nêu trên

có giá trị khoa học cao và sẽ được người viết kế thừa. Để tránh trùng lặp với những

kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố, nội dung của Luận văn này

hướng tới việc phân tích toàn diện, liên ngành đối với những vấn đề lý luận cơ bản

về HĐTD ngân hàng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng ở cấp

phúc thẩm, phân tích những vấn đề mà trong thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD

ngân hàngở cấp phúc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam nói chung. Luận

văn lấy thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng tại TAND thành phố Hà

Nội nói riêng làm tình huống nghiên cứu cụ thể.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng

tại tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại thành phố Hà Nội

để đưa ra các kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về HĐTD ngân hàng.

3

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích này, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ nghiên

cứu như sau:

- Phân tích và làm rõ một số quy định của pháp luật về HĐTD ngân hàng.

- Thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng tại cấp phúc thẩm theo pháp

luật tố tụng dân sự Việt Nam tại TAND thành phố Hà Nội trong những năm qua.

- Đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thông qua việc giải

quyết HĐTD ngân hàngtại cấp phúc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

4. Đối tượng và pham vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng của luận văn này là các quy định của pháp luật hiện hành việc giải

quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng. Luận văn phân tích thực tiễn xét xử các các vụ

án về tranh chấp HĐTD ngân hàng theo cấp phúc thẩm tại TAND thành phố Hà Nội

để nhận diện vấn đề nảy sinh từ thực tiễn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn này những vấn đề khác nhau trong giải

quyết tranh chấp về HĐTD ngân hàng tại tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam qua thực tiễn xét xử tại TAND thành phố Hà Nội.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết đã sử dụng phương pháp biện

luận biện chứng duy vật của triết học Mác – Lenin. Ngoài ra, người viết sử dụng kết

hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp như: thống kê, phân tích,tổng

hợp, so sánh, diễn giải và quy nạp.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tiến hành thu thập các công trình khoa

học có liên quan đến đề tài nghiên cứu; các tài liệu, văn bản pháp luật về hoạt động

giải quyết tranh chấp thương mại.

- Phương pháp thống kê: trên cơ sở các tài liệu, số liệu tiến hành thu thập,

phân tích, đánh giá, tổng hợp để rút ra những kết luận về thực trạng tình hình, kết

quả hoạt động giải quyêt tranh chấp thương mại bằng phương thức Tòa án.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích, lý giải, lập

luận những vấn đề về HĐTD ngân hàng và giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng

theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.

4

- Phương pháp so sánh được dung để so sánh các loại tranh chấp có tính chất

gần giống với tranh chấp HĐTD ngân hàng để thấy rõ điểm giống nhau và khác

nhau của tranh chấp HĐTD ngân hàng trong luật chuyên ngành, luật chung, từ đó

có thể xác định được bản chất và đặc trưng của tranh chấp HĐTD ngân hàng.

- Phương pháp diễn giải, quy nạp được sử dụng để đưa ra định hướng và các

giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về giải quyết tranh

chấp HĐTD ngân hàng.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Ý nghĩa lý luận của đề tài là góp phần bổ sung và phát triển lý luận về vai trò

của pháp luật và áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về HĐTD ngân

hàngtại Tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài là quá trình nghiên cứu luận văn sẽ rút ra được

nhiều điều bổ ích có thể áp dụng cho công tác giảng dạy tại các trường, đồng thời

giúp ích cho công việc của các cán bộ ngành Tòa án đang giải quyết các vụ án về

tranh chập hợp động tín dụng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn được trình bày trong 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng tín dụng ngân hàng và giải

quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại tòa án cấp phúc thẩm

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng

tín dụng ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh

chấphợp đồng tín dụng ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án trong giai đoạn

hiện nay

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TẠI

TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM

1.1. Khái quát chung về hợp đồng tín dụng ngân hàng

1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng ngân hàng

HĐTD ngân hàng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản đã được quy

định trong BLDS 2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là HĐTD ngân hàng trong trường hợp

bên cho vay là các TCTD, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Theo quy định tại

điều 463 BLDS 2015: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo

đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho

bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu

có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định” [28]. HĐTD ngân hàng về bản chất là hợp

đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử

dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên

tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Còn những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh,

cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá được gọi chung là hợp đồng cấp tín dụng.

HĐTD ngân hàng là một căn cứ pháp lý mà qua đó, ngân hàng thực hiện

hoạt động cho vay. Hoạt động tín dụng luôn giữ một vai trò quan trọng trong đời

sống kinh tế và các tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng diễn ra ngày một

nhiều, gây thiệt hại không nhỏ cho các chủ thể, song, cho đến nay vẫn chưa có một

văn bản pháp luật nào của nước ta đưa ra một khái niệm chính thức về HĐTD ngân

hàng mà chỉ liệt kê những nội dung chủ yếu của HĐTD ngân hàng. Việc cho vay

của TCTD và khách hàng vay phải được lập thành HĐTD ngân hàng. HĐTD ngân

hàng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức

cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản

bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận. Như

vậy, ngay trong quy chế cho vay của TCTD cũng chỉ qui định việc cho vay phải xác

lập bằng HĐTD ngân hàng.

Từ các phân tích trên, cho thấy pháp luật chuyên ngành chỉ đưa ra quy định

về những nội dung cơ bản HĐTD ngân hàngphải có mà không đưa ra định nghĩa cụ

thể về HĐTD ngân hàng. Quan hệ tín dụng về bản chất là một quan hệ dân sự nên

6

HĐTD ngân hàngcũng là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Từ khái niệm hợp

đồng dân sự được quy định theo điều 385 BLDS 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận

giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự,

[26]”có thể hiểu “HĐTD ngân hànglà sự thỏa thuận bằng văn bản giữa TCTD (bên

cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện luật định (bên vay), theo đó

TCTD chuyển giao một số tiền cho bên vay sử dụng vào mục đích và trong một thời

hạn được xác định, khi đến hạn, bên vay phải trả cả gốc và lãi được xác định theo

lãi suất mà các bên đã thỏa thuận”.

Như vậy, HĐTD ngân hàng ngân hàng là văn bản phản ánh thỏa thuận trực

tiếp của TCTD và khách hàng trong việc xác lập một quan hệ cho vay, xác lập các

quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên đó trong việc vay và hoàn trả vốn vay.

1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng

HĐTD ngân hàngmang những đặc điểm chung của hợp đồng nhưng vẫn có

những nét khác biệt cụ thể như sau:

- HĐTD ngân hàng ngân hàng phải luôn được ký kết dưới hình thức văn bản.

Sau khi TCTD quyết định cho khách hàng vay vốn, sự thoả thuận cho vay và vay

của TCTD với khách hàng phải thành lập bằng văn bản. Với HĐTD ngân hàng bằng

văn bản, các bên có thể thực hiện hợp đồng trong sự đảm bảo an toàn pháp lý và khi

có tranh chấp xảy ra, HĐTD ngân hàngsẽ là căn cứ xác thực nhất để các cơ quan tài

phán giải quyết tranh chấp. Đa phần các HĐTD ngân hàng là hợp đồng theo mẫu,

chủ thể cho vay là TCTD soạn thảo dựa trên quy định của pháp luật và phù hợp với

quy chế cho vay của TCTD. Bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản

trong hợp đồng mà không phải ai cũng có thể yêu cầu sửa đổi điều khoản theo

hướng có lợi hơn cho mình. Sự tự do ý chí được thể hiện thông qua việc khách hàng

chấp nhận những điều khoản trong đó thì đồng ý giao kết hợp đồng, ngược lại thì

không giao kết. Thực tế cho thấy việc thỏa thuận sửa một số điều khoản trong

HĐTD ngân hàngtheo mẫu ít xảy ra và chỉ xảy ra với những tổ chức, cá nhân có uy

tín, khoản vay lớn và TCTD có thể thu được lợi nhuận lớn từ hợp đồng này.

Theo khoản 2, khoản 3 điều 405 BLDS 2015: “2. Trường hợp hợp đồng theo

mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất

lợi khi giải thích điều khoản đó. Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản

miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại

bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ

7

trường hợp có thỏa thuận khác.”[26] Như vậy, pháp luật cũng có cơ chế để bảo vệ

khách hàng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có những điều khoản không rõ

ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó

hoặc điều khoản gây bất lợi cho khách hàng thì điều khoản này không có hiệu lực

khi không có thỏa thuận khác.

Tuy nhiên, HĐTD ngân hàng ngân hàng được ký kết dưới các hình thức

pháp lý là văn bản bao gồm cả văn bản viết và văn bản điện tử dưới dạng thông điệp

dữ liệu. Căn cứ khoản 1 điều 119 BLDS 2015, “Giao dịch dân sự được thể hiện

bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua

phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật

về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.[26]”; và điều 11, 12, 13,

14 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì dù HĐTD ngân hàng ngân hàng ký kết dưới

hình thức nào trên đây đều có giá trị pháp lý ngang nhau và đều là chứng cứ trong

quá trình giao dịch. Trên thực tế thì HĐTD ngân hàng được ký kết dưới hình thức

văn bản điện tử dạng thông điệp dữ liệu thường ít xảy ra.

- HĐTD ngân hàngcó đối tượng là những khoản vốn được thể hiện dưới hình

thức tiền tệ. Vốn tiền tệ trong HĐTD ngân hàngcó thể là tiền đồng Việt Nam hoặc

ngoại tệ. Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khách

hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo

thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Nhờ đó, hoạt động cho vay đã

trở thành hoạt động sinh lời chủ yếu của các TCTD và trở thành một hình thức tín

dụng phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Về nguyên tắc đối tượng của HĐTD

ngân hàngbao giờ cũng là một số tiền xác định, được các bên thỏa thuận và ghi rõ

trong hợp đồng.

- Một bên chủ thể của HĐTD ngân hàngbắt buộc là TCTD được thành lập và

hoạt động cho vay theo Luật Các TCTD năm 2010 và các văn bản liên quan; có

chức năng hoạt động, kinh doanh tín dụng. TCTD bao gồm ngân hàng và TCTD phi

ngân hàng. Bên cho vay có thể là một hoặc nhiều TCTD (trường hợp cho vay hợp

vốn) thỏa mãn điều kiện luật định.

- HĐTD ngân hàngphải được tuân thủ chặt chẽ về các nội dung bắt buộc,

năng lực chủ thể của các bên tham gia quan hệ tín dụng, mục đích sử dụng vốn vay,

giới hạn vốn vay, lãi suất vay và bảo đảm thực hiện hợp đồng, phương pháp giải

quyết tranh chấp. TCTD không được cho vay vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu bị cấm

8

theo quy định của pháp luật. TCTD không được cho vay các nhu cầu vốn sau đây:

để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua

bán, chuyển nhượng, chuyển đổi; để thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các

giao dịch mà pháp luật cấm; để đáp ứng các nhu cầu chính của các giao dịch mà

pháp luật cấm” [24]. TCTD không được cho vay đối với khách hàng trong các

trường hợp sau đây: Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc

(Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của TCTD; Cán bộ, nhân viên của

chính TCTD đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định cho vay; Bố, mẹ, vợ,

chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám

đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc)” [24]. Đối với người vay là bố, mẹ, vợ,

chồng, con của Giám đốc, Phó Giám đốc chi nhánh của TCTD do TCTD xem xét

quyết định” [24].

Với vai trò đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia vào quan hệ tín

dụng, HĐTD ngân hàngtrở nên rất quan trọng. Đặc biệt, các bên phải chú ý đến nội

dung của hợp đồng, hợp đồng với những điều khoản chặt chẽ sẽ ràng buộc các bên

thực hiện đúng trách nhiệm của mình, từ đó cũng góp phần giảm bớt các tranh chấp

phát sinh và thúc đẩy sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của cả TCTD và

khách hàng.

1.1.3. Vai trò của hợp đồng tín dụng ngân hàng

Sản xuất phát triển mạnh sẽ thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển ở mỗi

quốc gia trên thế giới. Song để cho quá trình sản xuất được mở rộng và ngày càng

hoàn thiện phải nói đến vai trò to lớn của tín dụng Ngân hàng.

- Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế là người trung

gian điều hoà quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế, hoạt động tín dụng đã

thông dòng cho vốn chảy từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn.

Ngân hàng ra đời gắn liền với sự vận động trong quá trình sản xuất và lưu

thông hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá phát triển nhanh chóng đã thúc đẩy hàng

hoá - tiền tệ ngày càng sâu sắc, phức tạp và bao trùm lên mọi sinh hoạt kinh tế xã

hội. Mặt khác, chính sản xuất và lưu thông hàng hoá ra đời và được mở rộng xã kéo

theo sự vận động vốn và là nền tảng tạo nên những tổ chức kinh doanh tiền tệ đầu

tiên mang những đặc trưng của một ngân hàng. Vì vậy, chúng ta thấy rằng còn tồn

tại quan hệ hàng hoá tiền tệ thì hoạt động tín dụng không thể mất đi mà trái lại ngày

càng phát triển một cách mạnh mẽ. Bởi trong nền kinh tế, tại một thời điểm tất yếu

9

sẽ phát sinh hai loại nhu cầu là người thừa vốn cho vay để hưởng lãi và người thiếu

vốn đi vay để tiến hành sản xuất kinh doanh. Hai loại nhu cầu này ngược nhau

nhưng cũng chung một đối tượng đó là tiền, chung nhau về tính tạm thời và cả hai

bên đều thoả mãn nhu cầu và đều có lợi. Ngân hàng ra đời với vai trò là nơi hiểu

biết rõ nhất về tình hình cân đối giữa cung và cầu vốn trên thị trường như thế

nào.Và với hoạt động tín dụng, ngân hàng đã giải quyết được hiện tượng thừa vốn,

thiếu vốn này bằng cách huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi để phân phối lại vốn trên

nguyên tắc có hoàn trả phục vụ kịp thời cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh...

- Tín dụng ngân hàng tạo ra nguồn vốn hỗ trợ cho quá trình sản xuất được

thực hiện bình thường liên tục và phát triển nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình tái

ẩn xuất mở rộng, đầu tư phát triển kinh tế, mở rộng phạm vi quy mô sản xuất

Hoạt động tín dụng ngân hàng ra đời đã biến các phương tiện tiền tệ tạm thời

nhàn rỗi trong xã hội thành những phương tiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả,

động viên nhanh chóng nguồn vật tư, lao động và các nguồn lực sẵn có khác đưa

vào sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá đẩy nhanh quá trình

tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc cung ứng vốn một cách kịp thời của tín dụng

ngân hàng để đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động, vốn cố định của các doanh

nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục tránh tình trạng ứ tắc,

đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn để ứng dụng các tiến bộ khoa

học kỹ thuật nhằm thúc đẩy nhanh quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng từ đó

thúc đẩy nền kinh tế phát triênr nhanh chóng.

- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả và củng cố chế

độ hoạch toán kinh tế.

Đặc trưng cơ bản của tín dụng là cho vay có hoàn trả và có lợi tức Ngân hàng

huy động vốn của doanh nghiệp khi họ có vốn nhàn rỗi và cho vay khi họ cần vốn

để bổ xung cho sản xuất kinh doanh. Khi sử dụng vốn vay của ngân hàng, doanh

nghiệp phải tôn trọng mọi điều kiện ghi trong HĐTD ngân hàng, trả nợ vay đúng

hạn cả gốc và lãi. Do đó thúc đẩy các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp tăng

hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng vòng quay vốn... để tạo điều kiện nâng cao

doanh lợi cho doanh nghiệp. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tự vươn lên thông

qua các hoạt động của mình, một trong những hoạt động khá quan trọng là hạch

toán kinh tế.

10

- Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế

đối ngoại.

Ngày nay sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn luôn gắn quan hệ kinh

tế với thị trường thế giới, nền kinh tế “đóng” tự cung tự cấp trước đây nay đã

nhường chỗ cho nền kinh tế “mở” phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước

trên thế giới. Một quốc gia được gọi là phát triển thì trước hết phải có một nền kinh

tế chính trị ổn định, có vị thế trên thị trường quốc tế, có một lượng vốn lớn trong đó

vốn dự trữ ngoại tệ là rất quan trọng. Tín dụng ngân hàng trở thành một trong

những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau bằng các hoạt động tín dụng

quốc tế như các hình thức tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức cá nhân với

chính phủ, giữa các cá nhân với cá nhân...Sự phát triển ngày càng tăng trong hoạt

động ngoại thương và số thành viên tham dự hoạt động ngaỳ càng lớn làm cho nhu

cầu về hoạt động tài chính càng trở nên cần thiết. Vì vậy việc tạo điều kiện thuận lợi

về tài chính là một công cụ cạnh tranh có hiệu quả bên cạnh các yếu tố cạnh tranh

khác như giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thương mại... đã vượt ra khỏi phạm

vi của một nước ra phạm vi của thế giới có tác dụng thúc đẩy nền sản xuất mang

tính quốc tế hoá, hình thành thị trường khu vực và thị trường thế giới, tạo ra bước

phát triển mới trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các nước với nhau. Như vậy

các hình thực thanh toán cũng sẽ đa dạng hơn như thanh toán qua mạng SWIFT,

thanh toán LC... mỗi hình thực thanh toán đòi hỏi hình thức tín dụng phù hợp và

đảm bảo cho nó an toàn và hiệu quả. Chất lượng của hoạt động tín dụng ngoại

thương là cơ sở để tạo lòng tin cho bạn hàng trong thương mại, tạo điều kiện cho

quá trình lưu thông hàng hoá, thắng trong cạnh tranh về thanh toán sẽ dẫn tới thắng

lợi của mọi cạnh tranh khác trọng hoạt động ngoại thương.

1.2. Khái quát về tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

Cùng với sự tồn tại và phát triển của các HĐTD ngân hàng là những tranh

chấp trong HĐTD ngân hàngphát sinh từ sự mâu thuẫn hay không thống nhất về

quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích trong quá trình thực hiện HĐTD ngân hàng của các

bên tham gia. Một HĐTD ngân hàng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột,

bất đồng về quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài thông qua những

bằng chứng cụ thể và xác định được. Theo tác giả Bùi Ngọc Cường, tranh chấp kinh

tế được hiểu là những mâu thuẫn, xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích kinh tế

giữa các bên chủ thể khi tham gia kinh doanh [11, tr.89].

11

Tranh chấp hợp đồng khác biệt với vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là

hành vi pháp lý của các bên đã xử sự trái với các điều khoản được cam kết trong

hợp đồng. Còn tranh chấp hợp đồng là ý kiến không thống nhất của các bên về hành

vi vi phạm đó hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ sự vi phạm đó và được

thể hiện ra bên ngoài. Cho nên, không phải cứ khi nào vi phạm hợp đồng thì khi đó

có tranh chấp mà đôi khi sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng

lại là sự kiện diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định. Và đôi khi có sự vi

phạm HĐTD ngân hàng nhưng không thể có sự tranh chấp bởi các bên không bày tỏ

ra bên ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vi

phản kháng cụ thể có giá trị chứng cứ.

Như vậy, tranh chấp HĐTD ngân hànglà những mâu thuẫn, bất đồng phát

sinh từ quyền và nghĩa vụ trong HĐTD ngân hàng giữa bên cho vay (ngân hàng) và

bên vay (khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải

ngân, xử lý tài sản đảm bảo, thế chấp…

1.2.2. Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

Vì tranh chấp HĐTD ngân hàngngân hàng cũng là một loại tranh chấp hợp

đồng nói chung, do đó có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp

đồng. Tuy nhiên, với bản chất đặc thù của HĐTD ngân hàng tranh chấp HĐTD

ngân hàngmang một số đặc trưng riêng biệt để có thể phân biệt với các loại tranh

chấp hợp đồng khác.

Thứ nhất, giá trị của tranh chấp HĐTD ngân hàngthường có giá trị lớn hoặc

thậm chí là rất lớn.

Khi kí kết HĐTD ngân hàng thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn

mà không thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh

doanh đối với tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia đình.

Do đó, số tiền này không phải là nhỏ và dễ dàng vay được từ các tổ chức, cá nhân

ngoài xã hội mà không phải là ngân hàng.

Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng vốn

cho nền kinh tế thì TCTD còn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể khác để

cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các TCTD thường kí kết các HĐTD ngân

hàng có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời điểm cho vay. Do bên

vay vốn dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh

nên nếu bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp đồng, không trả nợ cho các

12

TCTD sẽ làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của TCTD đó. Thực tế không hiếm các

trường hợp các TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả do “nợ xấu’. Một khi

khách hàng vay không thể thanh toán được nợ, tranh chấp xảy ra thì TCTD sẽ là

chủ thể bị thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các biện pháp khắc

phục, mục đích lợi nhuận ban đầu không còn hoặc bị gián đoạn. Đặc biệt, nếu tranh

chấp HĐTD ngân hàngphải khởi kiện tại Tòa án thì càng gây khó khăn cho TCTD

khi muốn thu hồi vốn. Bởi khi đã bị khởi kiện tại Tòa án thì thường là người đi vay

không còn có khả năng trả nợ cho TCTD. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD ngân

hàngxảy ra thì TCTD sẽ mất lòng tin với khách hàng vay vốn, các HĐTD ngân

hàngtiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả khi bên đi vay chứng minh lại được khả

năng tài chính của mình. Do đó, có thể nói tranh chấp HĐTD ngân hàng là loại

tranh chấp có giá trị thiệt hại lớn, không chỉ ảnh hưởng đến bên cho vay mà còn cả

đối với bên đi vay. Thậm chí nếu tranh chấp xảy ra nhiều thì ảnh hưởng đó không

chỉ ảnh hưởng đến một TCTD mà có thể ảnh hưởng dây chuyền đến các TCTD

khác trong nền kinh tế.

Thứ hai, tranh chấp HĐTD ngân hàngngân hàng được giải quyết dựa trên

nguyên tắc tự do thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia tranh

chấp.

Pháp luật Việt Nam tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cụ thể, Điều 3

BLDS 2015 ghi nhận: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền,

nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam

kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu

lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. [26]”HĐTD

ngân hàngvề bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang tính

thỏa thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết tranh

chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàngthì các bên cũng có quyền thỏa thuận để đạt

được hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Việc tôn trọng

quyền định đoạt này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì quan hệ dân sự giữa các bên

mang tính bình đẳng, không phải là mối quan hệ mệnh lệnh - phục tùng như các

quan hệ hành chính nhà nước khác. Khi các bên tham gia tranh chấp có thể thỏa

thuận được với nhau thì việc giải quyết tranh chấp sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận lợi

hơn, đồng thời giảm thiểu được thiệt hại về thời gian, tiền bạc, công sức của các

bên. Về phía các cơ quan tài phán, thi hành án thì việc thỏa thuận này cũng có ý

13

nghĩa trong việc giảm nhẹ khối lượng, áp lực công việc trong điều kiện các tranh

chấp ngày càng xảy ra nhiều và phức tạp như hiện nay.

Đặc biệt, vấn đề thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối với

các TCTD là ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng

hơn bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các TCTD trong nước, chịu sự điều

chỉnh của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt Nam và sự khác nhau trong

quy định của pháp luật giữa Việt Nam và nước khác là điều không thể tránh khỏi.

Vì vậy, việc cho phép, tôn trọng quyền tự thỏa thuận của các bên khi có tranh chấp

xảy ra sẽ giảm thiểu tối đa những xung đột pháp luật có thể xảy ra trong quá trình

giải quyết các tranh chấp. Tuy nhiên, nguyên tắc đối với các thỏa thuận này là phải

phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam.

Nguyên tắc tự do thỏa thuận khi giải quyết tranh chấp giữa các bên cũng

được BLTTDS thể hiện ở chế định hòa giải. Theo đó, hòa giải là trách nhiệm của cơ

quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra và khi đó các bên có thể thỏa thuận về việc

giải quyết vụ án. Ngay cả trước khi diễn ra hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm

các bên cũng vẫn có quyền thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp miễn sao thỏa

thuận đó phù hợp với các quy định của pháp luật.

Thứ ba, tranh chấp HĐTD ngân hàngluôn có sự tham gia của một bên là

TCTD và phần lớn các tranh chấp HĐTD ngân hàngthì nguyên đơn là TCTD cho

vay, bị đơn là bên đi vay.

Với đặc thù của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến những tổ

chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ chức, cá nhân có

thừa nguồn vốn trong xã hội nên TCTD luôn đóng vai trò trung gian trong mối quan

hệ này. Sự tham gia của TCTD là một dấu hiệu đặc trưng nhằm phân biệt giữa tranh

chấp HĐTD ngân hàngvà tranh chấp hợp đồng vay tài sản thông thường giữa các tổ

chức, cá nhân khác mà không phải là TCTD.

Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD ngân hàng, các

TCTD và khách hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia thỏa thuận. Nhưng với tư

cách là chủ thể có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối với

khách hàng là điều không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí kết hợp đồng thì

hợp đồng thường do bên cho vay là các TCTD soạn thảo với đội ngũ cán bộ có trình

độ chuyên môn về mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó, chủ thể đi vay là khách

hàng thường là các tổ chức, cá nhân, trình độ chuyên môn về mặt pháp lý của họ

14

còn thấp và nhiều khi không được chú trọng đúng mức. Và như vậy là hợp đồng

được kí kết với các điều khoản chặt chẽ nhằm bảo đảm cho quyền lợi của TCTD khi

bên vay không trả nợ hay trả không đúng nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì

TCTD luôn nắm đằng chuôi với các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ,

rõ ràng trong hợp đồng được sự đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh

chấp xảy ra thì là do bên đi vay vi phạm, chứ ít khi TCTD lại vi phạm chính những

điều khoản do chính mình soạn thảo.

Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD ngân hàng, các nghĩa vụ chính của bên

đi vay thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn

tất việc giải ngân cho khách hàng thì TCTD đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình.

Các nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ sơ tín dụng,

nghĩa vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản đảm bảo... là ít quan

trọng và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Vì lý do đó nên nếu có tranh

chấp xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ của mình, rất hiếm gặp

trường hợp bên đi vay khởi kiện TCTD [6].

Thứ tư, đa phần các tranh chấp liên quan đếnHĐTD ngân hàng ngân hàng

chính là các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn, lãi của

bên vay cho TCTD, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

trong HĐTD ngân hàng.

Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng như: tranh chấp

về chủ thể xác lập, thực hiện HĐTD ngân hàng, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh

vay vốn, tranh chấp liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay... Tuy nhiên, tranh

chấp xảy ra nhiều nhất là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi, về

mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm. Sở dĩ như vậy là bởi vì những nghĩa vụ này

chính là những nghĩa vụ chính nhất, đóng vai trò nòng cốt trong quá trình thực hiện

HĐTD ngân hàngcủa các bên và việc thực hiện này có tác động trực tiếp đến quyền

lợi của TCTD. Các tranh chấp khác cũng có tác động đến các TCTD nhưng không

phải là cơ bản nên ít xảy ra hơn so với tranh chấp về nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi

hay tranh chấp về lãi suất, về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Thứ năm, tranh chấp HĐTD ngân hàngngân hàng thường là tiền đề làm phát

sinh và gắn liền với một quan hệ hợp đồng khác: hợp đồng bảo đảm tiền vay thông

qua hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba

15

Các TCTD khi tham gia vào HĐTD ngân hàngđều có mục đích lợi nhuận từ

việc cho vay đó vì bản chất của TCTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Để giảm

thiểu rủi ro trong trường hợp bên vay không trả được nợ, thông thường TCTD chỉ

đồng ý cho bên đi vay được vay vốn khi họ có cầm cố, thế chấp bằng tài sản hoặc

có bảo lãnh của bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này đóng vai trò là phương

pháp dự phòng của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được

đảm bảo trong HĐTD ngân hàngthì các bên kí kết hợp đồng bảo đảm cho khoản

vay. Tùy trường hợp mà đó có thể là hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là

dưới hình thức chứng thư bảo lãnh của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và

nghĩa vụ trong các hợp đồng bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc

vay vốn, xuất phát từ HĐTD ngân hàng đã được kí kết và mục đích cuối cùng là bảo

đảm cho việc trả nợ của bên đi vay.

Như vậy, không có trường hợp nào, hợp đồng bảo đảm lại tách rời ra khỏi

HĐTD ngân hàngvới tư cách là một hợp đồng độc lập mà giữa chúng luôn có mối

quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau. Có thể ví mối quan hệ này như là mối quan hệ

giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Sự vô hiệu loại hợp đồng này có ảnh hưởng

đến loại hợp đồng kia tùy trường hợp. “Trong trường hợp hợp đồng có nghĩa vụ

được bảo đảm vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng thì giao dịch bảo đảm

chấm dứt, nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo

đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”

[4]. Ngược lại, “giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa

vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, có thể khẳng định

rằng tranh chấp HĐTD ngân hàng, với tư cách là hợp đồng chính, luôn gắn liền và

làm cơ sở phát sinh tranh chấp hợp đồng bảo đảm - hợp đồng phụ trong quan hệ tín

dụng giữa các bên.

Thứ sáu, tranh chấp HĐTD ngân hàngphát sinh từ sự xung đột về lợi ích

giữa các bên tham gia tranh chấp.

Vì tranh chấp HĐTD ngân hàngcũng là một loại tranh chấp hợp đồng nên

phải xuất phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Mặc dù vậy trong

quan hệ dân sự, pháp luật hiện hành quy định một số cơ quan đoàn thể có thể khởi

kiện để đảm bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác mà không phải là lợi ích của

chính cơ quan, đoàn thể đó. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân

hàngthì chỉ có chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền khởi

16

kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay hay TCTD. Không có

trường hợp nào mà tranh chấp HĐTD ngân hàngphát sinh do tổ chức, cá nhân khác

khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia HĐTD ngân hàng. Như vậy,

tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng chỉ phát sinh khi các bên khởi kiện yêu

cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ tín dụng, hay nói cách

khác, tranh chấp HĐTD ngân hàngthường gắn liền với lợi ích của các bên tranh

chấp [24].

1.2.3. Phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

Khách hàng vay vốn có thể là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh hoặc

không đăng ký kinh doanh và mục đích vay vốn để kinh doanh, sản xuất hoặc tiêu

dùng, sinh hoạt. Vậy, tranh chấp HĐTD ngân hàng có thể là tranh chấp về hợp đồng

dân sự và cũng có thể là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Vậy khi nào tranh chấp

HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hợp đồng dân sự và khi nào là tranh chấp kinh

doanh, thương mại? Để trả lời câu hỏi này, ta cần nhận định rằng bản chất HĐTD

ngân hàng là hợp đồng vay tài sản. Vì vậy, HĐTD ngân hàngngân hàng là một dạng

đặc biệt của hợp đồng dân sự xuất phát từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu

ngân hàng thực hiện cho vay mà bên vay là cá nhân, tổ chức và mục đích vay nhằm

đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt và tiêu dùng thì HĐTD ngân hàng ngân hàng mang

tính chất là một hợp đồng dân sự theo đúng nghĩa. Nếu ngân hàng thực hiện cho vay

mà bên vay là các cá nhân, tổ chức hoạt động kinh doanh và mục đích nhằm đáp

ứng cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thương mại thì HĐTD ngân hàng

ngân hàng mang tính chất là hợp đồng kinh doanh, thương mại. Do đó, tuỳ theo đối

tượng và mục đích trong hoạt động cho vay của ngân hàng mà chúng ta nhìn nhận

HĐTD ngân hàng ngân hàng ở gốc độ thích hợp.

Từ phân tích trên tác giả cho rằng tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng

có hai loại:

- Thứ nhất, tranh chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hợp đồng dân sự

khi bên vay vốn là hộ gia đình, cá nhân hay tổ chức không có đăng ký kinh doanh

và không có mục đích lợi nhuận.

- Thứ hai, tranh chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp kinh doanh - thương

mại khi bên vay vốn là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích

lợi nhuận.

17

* Các dạng tranh chấp HĐTD ngân hàng:

- Tranh chấp do các bên vi phạm nghĩa vụ trong HĐTD ngân hàng:

+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên cho vay (ngân hàng) khi HĐTD ngân

hàngcó hiệu lực, vì một lý do nào đó bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực

hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều này, làm ảnh hưởng xấu tới quyền và

lợi ích hợp pháp của bên vay.

+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ trả gốc và lãi của bên vay. Rõ ràng khi cần tiền

để thực hiện kế hoạch, mục tiêu của mình thì khách hàng mới đi vay. Cũng vì lý do

này nên ban đầu thông thường thì khách hàng chấp nhận với lãi suất của ngân hàng

đưa ra nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng nhận thấy lãi

suất đó cao quá nên không đồng ý. Đồng thời, quá trình sử dụng vốn vay không

hiệu quả nên dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ gốc và lãi. Đây là dạng tranh chấp

xảy ra nhiều nhất trong các tranh chấp HĐTD ngân hàng.

- Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng. Tranh chấp này trên

thực tế tương đối đa dạng và phức tạp nhất là trong những trường hợp có yếu tố

nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ quan giải quyết tranh chấp.

Trong quá trình ký kết HĐTD ngân hàng, việc xem xét tư cách chủ thể của bên vay

vốn là một vấn đề quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của HĐTD ngân

hàng. Trên thực tế, nếu TCTD xem nhẹ vấn đề này, không xác định đúng tư cách

chủ thể (đặc biệt là trường hợp khách hàng vay là tổ chức, doanh nghiệp) dẫn đến

việc ký HĐTD ngân hàng với chủ thể không có thẩm quyền ký kết. Hợp đồng bị

tuyên bố vô hiệu gây thiệt hại nặng nề cho các TCTD.

- Tranh chấp xảy ra từ việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD ngân

hàngcó bảo đảm bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm.

Chính bởi bản chất HĐTD ngân hàng mang tính rủi ro cao nên các TCTD coi

bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển

tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Hiện nay, theo quy định của pháp luật có ba

hình thức bảo đảm tín dụng là cầm cố, thế chấp, bảo đảm tài sản bằng bảo lãnh. Quá

trình xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm được quy định

tại BLDS 2005, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về

giao dịch bảo đảm, Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của Chính phủ về

việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006

của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện không

18

phải khi nào các bên cũng tuân thủ nghiêm túc những quy định của pháp luật, nên

trên thực tế, các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tương đối nhiều.

Các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng này chủ yếu liên quan đến việc xử

lý tài sản bảo đảm. Khi thẩm định hồ sơ vay vốn, nếu như nhân viên ngân hàng

thẩm định không kỹ, kết quả thẩm định không chính xác dẫn đến chấp nhận những

tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm thì sẽ dẫn

đến những tranh chấp phát sinh khi ngân hàng xử lý tài sản bảo đảm. Chẳng hạn,

nếu không xác định được tài sản bảo đảm thuộc sở hữu chung hay riêng của vợ

chồng hoặc tài sản bảo đảm không thuộc của người cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh

thì cũng gây khó khăn khi xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là tài sản của Hộ gia đình.

- Tranh chấp về pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng: Nếu như

khi ký HĐTD ngân hàng mà các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ quan giải

quyết tranh chấp cũng như luật áp dụng (nếu như có yếu tố nước ngoài) thì sau này

có nhiều khả năng xảy ra việc tranh chấp về luật áp dụng để giải quyết các tranh

chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng. Thực tiễn cho thấy tranh chấp này ít xảy ra.

Hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam ít nhiều chịu sự ảnh hưởng không nhỏ

bởi các cuộc khủng hoảng của các nước trên Thế giới dẫn đến việc xảy ra tranh

chấp trong HĐTD ngân hàng ngày càng nhiều và diễn biến phức tạp. Do đó, việc

tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hết sức cần thiết. Từ đó, có

những biện pháp, đường lối, chính sách nhằm khắc phục tình trạng tranh chấp để

tiến tới giảm thiểu đáng kể số lượng tranh chấp.

1.2.4. Nguyên nhân của tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ngân hàng

Nguyên nhân gây ra tranh chấp HĐTD ngân hàngrất đa dạng, song có thể

khái quát với những nguyên nhân từ phía bên vay, bên cho vay và cả những hạn chế

của quy định pháp luật.

Về nguyên nhân từ phía bên cho vay: Thông thường phía ngân hàng vi phạm

nghĩa vụ giải ngân cho khách hàng như quy định trong hợp đồng. Các TCTD không

tuân thủ chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Đôi khi ngân hàng cho vay mà không

tiến hành quy trình thẩm định theo nguyên tắc phân tích tín dụng, điều mà các định

chế tài chính quốc tế luôn cảnh báo là: Tính cách người vay, năng lực trả nợ, dòng

tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều kiện môi trường, sự kiểm soát mà ngân hàng lại

dựa vào nhận định của các nhân viên của mình. Trên thực tế, khi tiến hành thẩm

định bên cho vay không thể kiểm tra được bên vay có thông qua một TCTD đen nào

19

hay không. Ở Việt Nam, ngân hàng chưa có chính sách hợp lý và quy trình cho vay

hiệu quả, cơ chế phân tích và quản lý rủi ro còn hạn chế. Việc đánh giá biện pháp

bảo đảm tiền vay còn hạn chế, chưa phân tích, đánh giá các điều kiện về biện pháp

bảo đảm tiền vay. TCTD đánh giá về biện pháp bảo đảm tiền vay còn dựa vào tài

liệu do bên vay xuất trình mà chưa có sự kiểm tra thực tiễn.Trình độ thẩm định của

nhân viên ngân hàng còn chưa cao, nên có những sai xót và thiếu chặt chẽ - kết quả

thẩm định chưa đạt yêu cầu.

Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng còn hạn chế. Trong thực tế bên

ngân hàng không nắm rõ ràng các thông tin chính xác về khách hàng, không biết

chính xác là khách hàng vay vốn và có sử dụng vốn vay đúng mục đích trong hợp

đồng hay không. Một số nhân viên ngân hàng còn thiếu phẩm chất đạo đức cũng

như thiếu năng lực nên trong việc cho vay có đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản

thế chấp mà bên vay vẫn được giữ cả giấy tờ gốc chứng minh tài sản thế chấp của

mình. Điều này dẫn đến có thể bên vay lại đem bán tài sản đã thế chấp ở ngân hàng

cho người thứ ba. Lúc này ngân hàng và người thứ ba có sự tranh chấp về quyền tài

sản – tài sản đã được thế chấp bằng danh nghĩa ở ngân hàng.

Do đó để đảm bảo an toàn tín dụng các ngân hàng cần tuân thủ nghiêm túc

quy trình, điều kiện cho vay, các quy định của pháp luật liên quan, cần nâng cao

hơn nữa đội ngũ nhân viên ngân hàng, xây dựng và nâng cao hệ thống thông tin tín

dụng, có biện pháp để kiểm tra, giám sát hữu hiệu các hoạt động của bên vay theo

những cam kết trong hợp đồng.

Về nguyên nhân từ phía bên vay: Bên vay không đảm bảo nghĩa vụ hoặc

thực hiện không đầy đủ những nghĩa vụ của mình. Thông thường do hai nguyên

nhân: nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Nguyên nhân khách quan: là những nguyên nhân tác động ngoài ý chí, tầm

kiểm soát của khách hàng như: do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh tế, do

thiên tai, hoả hoạn, điều chỉnh quy hoạch, do thị trường biến động, quan hệ cung

cầu hàng hoá thay đổi… làm cho hoạt động của bên vay không thực hiện như kế

hoạch đề ra.

Nguyên nhân chủ quan: Cá nhân vay vốn không nắm được thông tin cần thiết

về kế hoạch đầu tư, sản xuất khi vay vốn dẫn đến tình trạng vay vốn về đầu tư

không có hiệu quả. Có thể là do vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp không đáp ứng nhu cầu, năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị

20

trường và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng tới quá trình sản xuất,

công nghệ chưa được cải thiện nên sản phẩm tạo ra chưa có tính cạnh tranh cao,

hiệu quả kinh doanh kém, hậu quả là doanh nghiệp thua lỗ lâm vào tình trạng phá sản.

Cũng có trường hợp do bên vay cố tình đưa ra những thông tin sai sự thật ngay từ khi

vay vốn nên khi về đầu tư hay sử dụng vào mục đích của mình không có hiệu quả.

Nguyên nhân nữa là do bên vay còn thiếu hiểu biết về pháp luật, trình độ

hiểu biết của bên vay còn hạn chế về những kiến thức pháp luật liên quan. Có

trường hợp bên vay ký hợp đồng trong khi bản thân không hiểu rõ về pháp luật nên

khả năng xảy ra những bất lợi cho mình là rất lớn. Đơn cử như trường hợp của bà

Phan Ngọc Dung ở Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004 bà thế chấp ngôi

nhà của mình để vay vốn Ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Tân Tạo số tiền

hai trăm bốn mươi triệu Đồng để đầu tư cho cơ sở may gia công. Nhưng sau đó do

không có hiểu biết về những quy định của pháp luật bà Dung đã ký hợp đồng bán

nhà để đảm bảo cho khoản vay mới. Hiện tại, khoản tín dụng mới không vay được,

khoản tín dụng trước thì chưa có khả năng thanh toán và bên vay còn phải đối mặt

với nguy cơ mất nhà do chủ nợ đang khởi kiện ra toà yêu cầu thực hiện hợp đồng

bán nhà trên. Trong tình huống trên, nếu bà Dung có kiến thức về pháp luật nhất là

pháp luật ngân hàng thì sẽ không dẫn đến ký hợp đồng bán nhà để đảm bảo cho

khoản vay. Hiện nay, sự hiểu biết những quy định pháp luật của một bộ phận người

dân còn nhiều hạn chế, sự hạn chế đó không chỉ gây tổn thất cho chính người vay

mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi của ngân hàng và đặc biệt là những hệ lụy về mặt

xã hội.

Nguyên nhân từ quy định của pháp luật: Xã hội luôn thay đổi theo nhiều

chiều hướng khác nhau, các mối quan hệ xã hội cũng đổi mới không ngừng kéo

theo các giao dịch trong xã hội cũng có thêm nhiều yếu tố phức tạp và đa dạng hơn.

Trái lại, trên thực tế pháp luật nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, pháp

luật chưa thể dự kiến và điều chỉnh được các mối quan hệ xã hội sắp diễn ra. Một

điều đáng lưu ý là sự hiểu biết về pháp luật của các bên trong hợp đồng còn chưa rõ

ràng, mâu thuẫn với nhau về lợi ích giữa các bên dẫn đến nảy sinh tranh chấp. Pháp

luật nước ta quy định bên cho vay bắt buộc phải đưa ra các căn cứ pháp lý hay

những lý do chính đáng nếu muốn từ chối khách hàng, vấn đề này chưa có văn bản

hướng dẫn cụ thể. Nên bên cho vay cho rằng cho vay là quyền của mình còn bên đi

vay thì có quan điểm ngược lại, điều đó dễ dẫn đến mâu thuẫn.

21

Những HĐTD ngân hàngngân hàng theo mẫu do ngân hàng đưa ra đa phần là

rất chặt chẽ cả về hình thức và nội dung. Thông thường những hợp đồng theo mẫu

này gắn liền với lợi ích của ngân hàng.

Các quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, chồng chéo lẫn nhau đặc

biệt là các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, hành lang pháp lý cho hoạt

động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy định không

thể thực hiện được trên thực tế. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán

ở nhiều cơ quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý.

1.3. Khái quát về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại

Tòa án cấp phúc thẩm

1.3.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân tại Tòa án

cấp phúc thẩm

Trên thực tế, việc giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng ngân hàng cũng

như các tranh chấp khác đều có rất nhiều phương thức khác nhau để giải quyết.

Ở đâu có hoạt động kinh doanh thương mại thì ở đó có khả năng phát sinh

tranh chấp. Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh nói

chung và hoạt động cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng nói riêng, vì vậy giải

quyết các tranh chấp phát sinh được coi là tự thân của các quan hệ kinh tế. Ở góc độ

khái quát chung, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh chính là việc lựa chọn các

hình thức, biện pháp thích hợp để giải toả các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích

giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận

được. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn tại bốn phương thức giải quyết tranh

chấp thương mại phổ biến bao gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và

Tòa án.

Về phương thức thương lượng: Thương lượng là phương thức giải quyết

tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo

gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay

phán quyết của bất kì bên thứ ba nào. Phương pháp thương lượng được biết đến bởi

một số đặc điểm cơ bản:

Thứ nhất là phương thức giải quyết tranh chấp này được thực hiện bởi cơ chế

tự giải quyết thông qua việc các bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự

giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba

để trợ giúp hay phán quyết.

22

Thứ hai là quá trình thương lượng giữa các bên cũng không chịu sự ràng

buộc của bất kì nguyên tắc pháp lí hay những quy định mang tính khuôn mẫu nào

của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Pháp luật của Việt Nam mới chỉ

dừng lại ở việc ghi nhận thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp

thương mại mà không có bất kì quy định nào chi phối đến cơ chế giải quyết tranh

chấp thương mại bằng thương lượng.

Thứ ba là việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự

nguyện của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kì cơ chế pháp lí nào đảm bảo việc

thực thi đối với thỏa thuận của các bên trong quá trình thương lượng.

Quá trình thương lượng để giải quyết tranh chấp có thể được thực hiện bằng

nhiều cách thức: thương lượng trực tiếp, thương lượng gián tiếp và kết hợp thương

lượng trực tiếp với thương lượng gián tiếp. Thương lượng trực tiếp là cách thức mà

các bên tranh chấp trực tiếp gặp nhau bàn bạc, trao đổi và đề xuất ý kiến của mỗi

bên nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp. Thương lượng gián tiếp là cách

thức các bên tranh chấp gửi cho nhau tài liệu giao dịch thể hiện quan điểm và yêu

cầu của mình nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp.

Ưu điểm nổi bật nhất của phương pháp thương lượng chính là sự thuận tiện,

đơn giản, nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Mặt khác thương

lượng còn bảo vệ được uy tín cho các bên tranh chấp cũng như bí mật kinh doanh

của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh doanh hơn ai hết tự biết bảo vệ quyền lợi của

bản thân mình, hiểu rõ những bất đồng và nguyên nhân phát sinh tranh chấp nên

quá trình đàm phán thương lượng để hiểu và thông cảm với nhau hơn để có thể thỏa

thuận được các giải pháp tối ưu theo đúng nguyện vọng của mỗi bên mà không phải

một cơ quan tài phán nào cũng có thể làm được. Bởi vậy, một khi thương lượng

thành công, các bên vừa loại bỏ được những bất đồng đã phát sinh mà mức độ

phương hại đến mối quan hệ kinh doanh giữa các bên cũng thấp, tăng cường sự hiểu

biết và hợp tác trong tương lai.

Về phương thức hòa giải: Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với

sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên

tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.

Hòa giải được thực hiện dưới các hình thức: hòa giải ngoài thủ tục tố tụng và

hòa giải trong thủ tục tố tụng. Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng là việc hòa giải được

các bên tiến hành trước khi đưa đơn khởi kiện ra Tòa án hoặc trọng tài. Hòa giải

23

trong thủ tục tố tụng là hoạt động được tiến hành tại Tòa án, tại cơ quan trọng tài

khi các cơ quan này giải quyết tranh chấp theo đơn kiện của một bên. Khác với hòa

giải ngoài thủ tục tố tụng, hòa giải trong thủ tục tố tụng được tiến hành dưới sự trợ

giúp của Tòa án hoặc trọng tài. Khi các bên hòa giải được với nhau, Tòa án hoặc

trọng tài sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự và quyết định này

có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên.

Về phương thức trọng tài thương mại: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là

hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách

là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột trong quá trình tiến hành các hoạt

động thương mại bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải

thực hiện. Tại Luật trọng tài thương mại năm 2010 cũng quy định: “Trọng tài

thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến

hành theo quy định của luật này”.

Khác với việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án, trọng tài thương mại là

phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không nhân danh quyền lực nhà

nước, trọng tài thương mại được các bên lựa chọn theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo.

Ngoài ra, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này còn đảm bảo tối đa uy

tín cũng như bí mật của các bên tranh chấp, góp phần củng cố và duy trì mối quan

hệ hợp tác lâu dài giữa các bên.

Về phương thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án: Tòa án là phương

thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, được

tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của

Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được bảo đảm thi

hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.

Do đó, các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của Tòa án như một giải

pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích của mình khi họ thất bại

trong việc sử dụng cơ chế thương lượng hoặc hòa giải và cũng không muốn vụ

tranh chấp giữa họ được giải quyết bằng con đường trọng tài.

Giống như các phương thức giải quyết tranh chấp khác, pháp luật hiện hành

công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng cụ

thể như: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp

kinh doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương

lượng với nhau. Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết tranh

24

chấp có thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương thức

hòa giải, trọng tài hoặc tòa án. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐTD

ngân hàng dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên. Cơ

quan Nhà nước và Trọng tài thương mại chỉ can thiệp theo yêu cầu của các bên

tranh chấp.

Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án là một phương thức

mang ý chí quyền lực nhà nước, Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để giải

quyết tranh chấp trên cơ sở các quy định của pháp luật. Quyết định của Tòa án có

hiệu lực khiến các bên bắt buộc phải thực thi và có thể kèm theo các biện pháp

cưỡng chế thi hành. Bên cạnh đó, việc giải quyết tranh chấp của Tòa án phải tuân

thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức cũng như các quy định về thẩm

quyền, thủ tục, các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại của pháp luật tố

tụng nhất là các quy định của BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số

Điều của BLTTDS năm 2004; Tòa án giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc xét xử

công khai; Việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án có thể thực hiện qua hai cấp xét xử:

sơ thẩm và phúc thẩm, bản án có hiệu lực pháp luật còn có thể được xét lại theo thủ

tục: giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; Tòa án giải quyết theo nguyên tắc xét xử tập thể

và quyết định theo đa số

Như vậy, để đảm bảo phát triển và duy trì sự phát triển, vấn đề lựa chọn

phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng được các bên cân

nhắc, lựa chọn phù hợp dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, bản chất của

tranh chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí dành cho việc giải

quyết tranh chấp. Chính vì vậy, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các

bên cần hiểu rõ bản chất và cân nhắc các ưu điểm, nhược điểm của một phương

thức để có quyết định hợp lý.

Vấn đề giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng là vấn đề mang tính thường

xuyên trong giai đoạn hiện nay, việc tự giải quyết tranh chấp của các bên gặp nhiều

khó khăn vì nhiều nguyên nhân khác nhau và vì vậy cần thiết có sự can thiệp của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền mà phổ biến là TAND. Phương thức giải quyết tranh

chấp liên quan đến HĐTD ngân hàng thông qua Tòa án là hình thức cuối cùng mà

các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp khi không còn lựa chọn nào khác. Thông

thường thì hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án được

tiến hành khi mà việc áp dụng cơ chế thương lượng và hoà giải không có hiệu quả

25

và các bên tranh chấp cũng không thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tranh

chấp tại Trọng tài thương mại.

Như vậy, có thể hiểu giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng tòa án là

hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán Nhà nước thực hiện. Tòa án

nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi

hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do đó, các đương sự thường

tìm đến sự trợ giúp của Tòa án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả

các quyền, lợi ích của mình khi họ thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng

hoặc hòa giải và cũng không muốn đưa vụ tranh chấp của họ để giải quyết bằng

trọng tài thương mại.

1.3.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

ngân hàng tại tòa án cấp phúc thẩm

Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại tòa án có nhiều ưu điểm nhưng cũng có

những nhược điểm nhất định, ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thông

qua tòa án là: đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh chấp bằng tòa án là

thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa

ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành. Vì vậy, quyết định của tòa án có

tính cưỡng chế cao, quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên

thua kiện có tài sản để thi hành án. Nhờ đó, việc giải quyết tranh chấp thông qua tòa

án còn trực tiếp góp phần vào việc nâng cao ý thức, tôn trọng pháp luật cho các bên

tham gia. So với phương thức trọng tài thương mại, việc giải quyết tranh chấp bằng

toà án được thực hiện qua hai cấp xét xử, nhờ vậy mà những sai sót trong quá trình

giải quyết tranh chấp có khả năng được phát hiện, khắc phục đảm bảo quyền lợi

chính đáng của các bên tham gia. Chi phí giải quyết tranh chấp bằng toà án ít hơn

nhiều so với chi phí giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại và chi phí này

không tỷ lệ thuận với thời gian giải quyết tranh chấp như ở phương pháp trọng tài

thương mại. Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàngbằng toà án

có tính bắt buộc tham gia cao đối với các bên tranh chấp không như các phương

thức khác chỉ có tính tự nguyện.

Trước khi đưa vụ án tranh chấp ra xét xử, toà án phải tiến hành hoà giải theo

quy định của pháp luật. Hoà giải ở đây được gọi là hoà giải trong tố tụng. Một thẩm

phán đã được phân công xét xử vụ án sẽ đóng vai trò là bên thứ ba độc lập để giúp

các bên tranh chấp tự thoả thuận cách giải quyết vấn đề mà không cần phán quyết

26

của toà án. Tại phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án các bên tranh chấp có

quyền lựa chọn việc tham gia hoà giải. Sau khi thẩm phán ra quyết định công nhận

các bên hoà giải thành thì các thoả thuận sẽ có giá trị thực hiện như một bản án hiệu

lực. Đây là điều khác biệt đối với hoà giải ngoài tố tụng như phương thức hoà giải

tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàngbằng hoà giải đã phân tích ở trên.

Tuy vậy, việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD

ngân hàng bằng con đường tòa án cũng có những nhược điểm nhất định so với các

hình thức khác như: thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua tòa án thường dài hơn

so với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Hơn nữa, nguyên tắc xét xử

công khai tại tòa án có thể làm sụt giảm uy tín của các bên trên thương trường; lộ

lọt các bí mật kinh doanh cản trở hoạt động đối với các chủ thể bên vay là doanh

nghiệp. Ngoài ra, bản án xét xử xong chưa được thi hành ngay mà các bên có quyền

kháng cáo, khiếu nại nên thời gian kéo dài ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của

các bên tranh chấp.

1.3.3. Ý nghĩa của giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại

Tòa án cấp phúc thẩm

- Thứ nhất, hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án góp phần đảm bảo ổn

định trật tự tình hình kinh tế, xã hội. Tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền thực hiện hiệu quả các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước. Khi các tranh chấp xảy ra mà được giải quyết một cách kịp thời, triệt để

thì có thể tạo dựng được niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta trong

hoạt động quản lý đất đai.

- Thứ hai, hoạt động giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng là một trong

những công việc thúc đầy kinh tế Việt Nam phát triển. Bởi lẽ, khi xảy ra tranh chấp

các bên chủ thể sẽ phải bỏ ra rất nhiều thời gian, tiền bạc, công sức để có thể giải

quyết được. Nếu hoạt động giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng có thể giải

quyết thì hoạt động của thị trường tín dụng sẽ không bị ngưng trệ. Quyền lợi của

người đi vay cũng như phía TCTD cũng không bị ảnh hưởng, việc khai thác lợi ích

từ đất đau cũng từ đó mà hiệu quả hơn.

Việc đưa tranh chấp HĐTD ngân hàng ngân hàng ra giải quyết tại Tòa án có

nhiều ưu điểm như:

Thứ nhất, hòa giải trong tố tụng là một thủ tục bắt buộc. Các thẩm phán có

nghĩa vụ đứng ra hòa giải cho các bên đương sự trong quá trình xét xử, kể cả khi

27

mức độ tranh chấp gay gắt tới mức ngay từ đầu đã dễ dàng nhận thấy không có khả

năng hòa giải. Nếu vi phạm nguyên tắc này, bản án, quyết định đưa ra sẽ bị hủy vì

vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Như vậy, kể cả khi đứng trước Tòa án, quyền

tự định đoạt của các đương sự vẫn được bảo đảm. Với sự giúp đỡ của những người

tiến hành tố tụng, họ vẫn có thể tự mình đưa ra hướng giải quyết sau cùng trên cơ sở

không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Các thỏa thuận này sau đó sẽ được pháp luật

tôn trọng, công nhận và bảo vệ.

Thứ hai, Tòa án là cơ quan đại diện cho quyền lực tư pháp của Nhà nước nên

các bản án, quyết định của Tòa án mang tính cưỡng chế thi hành. Đây chính là ưu

thế lớn nhất, tác động quyết định đến sự lựa chọn của các bên, đặc biệt là TCTD, vì

nếu không có sự cưỡng chế này thì TCTD rất khó thu hồi vốn.

Thứ ba, với nguyên tắc xét xử hai cấp cùng thủ tục đặc biệt để xét lại bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật những sai sót và vi phạm trong quá trình giải

quyết tranh chấp có khả năng được phát hiện và khắc phục tốt nhất, góp phần đảm

bảo quyền lợi hợp pháp của các bên.

Thứ tư, quyền khởi kiện ra Tòa án chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian

nhất định đó là thời hiệu khởi kiện. Do đó, tâm lý của các bên – chủ yếu là bên có

quyền lợi vi phạm nhiều khi không muốn mất thời gian cho thương lượng, hòa giải

trong khi không có gì hứa hẹn rằng chúng sẽ giải quyết được vấn đề, hoặc nếu

thương lượng, hòa giải đạt kết quả cũng không có gì bảo đảm rằng phương án đưa

ra sẽ được thực thi một cách thiện chí, để cuối cùng nhờ đến Tòa án lại rơi vào tình

cảnh bị trả lại đơn do đã hết thời hiệu khởi kiện.

1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết tranh chấp hợp đồng tín

dụng ngân hàng tại Tòa án cấp phúc thẩm

Việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng

Tòa án chịu ảnh hưởng chặt chẽ bởi các yếu tố bên ngoài cũng như bên trong. Điều

này đóng góp tích cực vào việc xây dựng và kiện toàn hệ thống pháp luật về lĩnh

vực này.

1.4.1. Tình hình kinh tế, xã hội của đất nước

Đây chính là yếu tố đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc

hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, và pháp luật về giải quyết tranh chấp

HĐTD ngân hàng nói riêng. Theo lý thuyết về cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc

thượng tầng mà sự ảnh hưởng của nền kinh tế, và xã hội tới giải quyết tranh chấp

28

HĐTD ngân hàng bằng Tòa án là hoàn toàn có thể xảy ra. Bởi lẽ, trên thực tế, với

sự pháp triển ngày càng tăng của nền kinh tế, thì các giao dịch tín dụng, ngân hàng

ngày càng phát triển, do đó, số lượng tranh chấp ngày một nhiều. Điều này là cơ sở,

là tiền đề để chúng ta phải hoàn thiện hơn nữa pháp luật về giải quyết tranh chấp

HĐTD ngân hàng bằng con đường Tòa án.

1.4.2. Vấn đề chiến lược cải cách tư pháp và cải cách hệ thống pháp luật

Như chúng ta đã biết, việc cải cách tư pháp và cải cách hệ thống pháp luật

Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước đề cập đến từ những năm 2002 và năm 2005

bằng các nghị quyết của Đảng. Việc hoàn thiện bất kỳ hệ thống pháp luật chuyên

ngành nào đều phải bám sát, lấy các Nghị quyết của Đảng làm trọng tâm làm cơ sở.

Trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân sự - kinh tế, Nghị quyết của Đảng

đã chỉ rõ, cần phải lấy nguyên tắc tự nguyện, tự định đoạt làm cơ sở, làm gốc của

mọi quan hệ pháp luật tư. Nhà nước cần tránh và hạn chế tối đa sự can thiệp vào các

quan hệ dân sự - kinh tế, không được hình sự hóa các quan hệ dân sự. Đây là cơ sở,

là định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín dụng và pháp luật về

giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.

1.4.3. Yếu tố về tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án

Đây là yếu tố quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về

giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng Tòa án. Bởi lẽ, giải quyết được các

tranh chấp này, cần phải có tổ chức bộ máy cán bộ Tòa án đủ mạnh, đủ năng lực, có

kinh nghiệm về giải quyết tranh chấp tín dụng. Trên thực tế, trong những năm vừa

qua, ngành TAND ngày một lớn mạnh, có sự phát triển vượt bậc về số lượng và

chất lượng. Tuy nhiên, trên thực tế, chất lượng này chưa tương xứng với lượng công

việc giải quyết các tranh chấp đặc biệt là tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế. Do đó,

trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng

bằng Tòa án cần phải đặt trong mỗi quan hệ với hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt

động của ngành TAND.

29

Kết luận chương 1

Trong chương 1 của luận văn, học viên phân tích những nội dung liên quan

đến khái niệm đặc điểm của hợp đồng tín dụng và giải quyết tranh chấp hợp đồng

tín dụng ngân hàng theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Thứ nhất, về hợp đồng tín dụng ngân hàng cho thấy, hợp đồng tín dụng ngân

hàng là một loại hợp đồng điển hình của hợp đồng vay tài sản được quy định trong

BLDS cũng như quy định trong Luật các TCTD. Hợp đồng tín dụng ngân hàng có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng trong nên kinh tế thị trường, bởi lẽ, đây là kênh lưu thông

tiền tệ, và tạo cơ sở để các doanh nghiệp có nhu cầu về vốn có thể tiếp cận với số

tiền cần thiết.

Thứ hai, về khái niệm tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

ngân hàng cho thấy, tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng là một loại tranh chấp

phát sinh từ quan hệ kinh tế nói chung, có sinh lời và một bên chủ thể là ngân hàng

thương mại. Pháp luật quy định có nhiều phương thức khác nhau để giải quyết tranh

chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng nhưng phương thức Tòa án vẫn là một phương

thức phổ biến nhất.

Thứ ba, ý nghĩa của giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng cho

thấy vai trò vị trí của nó trong nền kinh tế, giải quyết tranh chấp nói chung thực tế là

một trong những yêu cầu quan trọng trong giai đoạn hiện nay, tuy nhiên với quan hệ

tín dụng ngân hàng thì việc giải quyết tranh chấp này ngày càng có ý nghĩa quan

trọng hơn.

30

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM TẠI

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại

Tòa án cấp phúc thẩm

2.1.1. Các quy định pháp luật về hợp đồng tín dụng

HĐTD về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy định của BLDS

2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là HĐTD trong trường hợp bên cho vay là các TCTD

(TCTD), trong đó chủ yếu là các ngân hàng (sau đây gọi chung là ngân hàng).

HĐTD chính là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho vay giao

cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn

nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Còn những hoạt

động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá được gọi

chung là hợp đồng cấp tín dụng.

Nếu bên vay là doanh nghiệp và hộ kinh doanh, thì HĐTD sẽ là hợp đồng

thương mại. Nếu bên vay là cá nhân, thì HĐTD sẽ là hợp đồng dân sự.

Cho vay vốn được ví như việc bán chịu một loại hàng hóa đặc biệt, đó là tiền

tệ. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng, trước khi giải ngân, thì thế mạnh hoàn toàn thuộc

về ngân hàng và ngân hàng là người quyết định có hay không cho vay. Dấu ấn vẫn

đang hiện hữu trong Luật các TCTD năm 1997 để chỉ quá trình chuẩn bị giao kết

hợp đồng, đó là những cụm từ “cấp tín dụng” và “xét duyệt cho vay” hay là “yêu

cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh” tính khả thi của phương án vay vốn

và khả năng trả nợ. Tuy nhiên, ngay sau khi thực hiện hợp đồng, tức là sau khi ngân

hàng giải ngân, thì xu thế lại hoàn toàn đảo ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm

vai trò chủ động trong việc trả nợ. Mặc dù ngân hàng có khá nhiều quyền chi phối

theo quy định của pháp luật về HĐTD, nhưng vẫn trở thành bên thụ động.

Nhìn chung pháp luật liên quan là BLDS, Luật các TCTD và Quy chế Cho

vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN ban hành (hiện nay là Thông tư

39/2016/TT-NHNN), đã quy định khá cụ thể, chi tiết các điều kiện, điều khoản có

trong một HĐTD. Vì vậy chỉ cần lưu ý đến một số điểm đặc biệt trong HĐTD.

31

Về nguyên tắc, bên vay vốn được sử dụng vốn vay vào bất kỳ mục đích nào,

nếu không bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, có những trường hợp không bị pháp luật

cấm, như việc vay vốn để trả nợ ngân hàng khác hoặc trả nợ chính ngân hàng vay,

nhưng lại rất khó được chấp nhận, vì nó được coi như một hoạt động đảo nợ. Trước

đây, việc đảo nợ bị cấm, sau đó được quy định trong Luật các TCTD là “Việc đảo

nợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ”. Tuy nhiên từ năm 1997 đến nay,

vẫn không có văn bản nào của Chính phủ hay NHNN giải thích về nội dung này.

Đối với vay vốn dân sự hoặc thương mại thông thường, thì hầu như bên cho

vay không quan tâm đến mục đích sử dụng vốn vay, trong khi đối với HĐTD thì lại

là một trong điều kiện quan trọng nhất.

Trong cả thời hạn vay vốn, nếu bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục

đích đã thỏa thuận, thì ngân hàng lập tức được quyền chấm dứt hợp đồng, phạt vi

phạm và thu hồi nợ trước hạn. Đó luôn là quy định của pháp luật, cũng đồng thời là

điều quan tâm hàng đầu của các ngân hàng trong nghiệp vụ xét duyệt và quản lý các

khoản vay. Để bảo đảm được việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và việc trả nợ

đúng hạn, ngân hàng được quyền kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và

trả nợ. Đây cũng là điều hầu như không xuất hiện trong các hợp đồng vay vốn trong

các quan hệ giữa cá nhân và các doanh nghiệp.

Để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và khả năng trả nợ của bên

vay, Luật các TCTD quy định, ngân hàng có trách nhiệm và có quyền kiểm tra,

giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của bên vay.

HĐTD phải được lập thành văn bản, trong đó có nội dung về điều kiện vay,

mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình

thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác

được các bên thoả thuận (§ 51 Luật các TCTD).

Mẫu hợp đồng mà các ngân hàng đưa ra không phải là hợp đồng mẫu theo

quy định của BLDS, mà chỉ là bản thảo để thuận tiện trong quá trình đàm phán ký

kết hợp đồng. Bên vay hoàn toàn có thể thoả thuận với ngân hàng thay đổi bất kỳ

nội dung nào. Tuy nhiên, trên thực tế thì bên vay thường phải chấp nhận những điều

khoản thiên về ràng buộc chặt chẽ đối với bên vay và có lợi hơn cho ngân hàng.

Trong thực tế, nhiều ngân hàng ký HĐTD nguyên tắc với bên vay, trong đó

xác định các nguyên tắc chung và các nội dung thoả thuận sơ bộ về việc cho vay

một số vốn nhất định khi hai bên vay đáp ứng được đầy đủ những điều kiện vay vốn

32

theo quy định của pháp luật cũng như của ngân hàng cho vay. HĐTD nguyên tắc là

căn cứ để ngân hàng và bên vay tiếp tục ký các HĐTD cụ thể. Khi ấy, HĐTD cụ thể

có thể không cần nhắc lại những thoả thuận chung như quyền, nghĩa vụ của các bên

chẳng hạn.

Các bên thường sử dụng HĐTD nguyên tắc trong trường hợp bên vay có

nhiều tài sản bảo đảm đưa vào ngân hàng để vay vốn nhiều lần và diễn ra trong một

thời gian dài. Khi đó hợp đồng bảo đảm tiền vay được thiết lập để bảo đảm cho

HĐTD nguyên tắc, thay vì cứ mỗi HĐTD lại phải ký một hợp đồng bảo đảm tiền

vay, vừa mất chủ động trong giao dịch vay vốn, vừa tốn kém chi phí định giá, công

chứng, đăng ký thế chấp lại.

HĐTD hạn mức là HĐTD cụ thể nhưng có thêm điều khoản cho phép bên

vay rút vốn và trả nợ nhiều lần, miễn là bảo đảm dư nợ vay trong mọi thời điểm

không quá mức tiền vay cao nhất mà hai bên đã thoả thuận. Mỗi lần vay vốn, bên

vay chỉ cần ký khế ước nhận nợ thay vì phải ký nhiều HĐTD với những điều kiện

tương tự nhau.

Thời hạn cho vay trong HĐTD được phân thành hai loại cơ bản là ngắn hạn

và trung, dài hạn, trong đó: Khoản vay vay ngắn hạn là không quá 12 tháng (1

năm); Khoản vay trung hạn là từ trên 12 tháng đến 60 tháng (1 - 5 năm); Khoản vay

dài hạn là trên 60 tháng (5 năm).

Giữa các khoản vay ngắn hạn và khoản vay trung, dài hạn, thường có những

đòi hỏi khác biệt, được xem xét thẩm định theo những quy trình, thủ tục khác nhau

và áp dụng lãi suất khác nhau theo nguyên tắc: thời hạn càng lâu thì càng tiềm tàng

rủi ro, và sự nguy hiểm sẽ tăng theo lãi suất.

Đối với hợp đồng kinh doanh thương mại, thời hạn được tính theo nhiều cách

khác nhau, thường là từ ngày ký hợp đồng. Còn đối với HĐTD, thì thời hạn hợp

đồng thường cũng chính là thời hạn cho vay, cho nên luôn được tính theo mốc từ

thời điểm bắt đầu nhận khoản tiền vay đầu tiên (ngày rút vốn hay ngày giải ngân)

cho đến khi trả hết khoản nợ cuối cùng theo thoả thuận ban đầu..

* Lãi suất cho vay trong HĐTD

Trước đây, tại Điều 476 BLDS năm 2005 quy định các bên trong hợp đồng

cho vay có quyền thỏa thuận về lãi suất nhưng không được vượt quá 150% của lãi

suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng và trong trường hợp

các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh

33

chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời

hạn vay tại thời điểm trả nợ Nay, BLDS năm 2015 quy định hạn mức lãi suất tối đa

mà các bên được thỏa thuận đã được hạ xuống, đồng thời pháp luật đã mở rộng

quyền thỏa thuận cho các bên trong trường hợp hợp đồng cho vay có tính lãi nhưng

không xác định lãi cụ thể. Điều 468 của Bộ luật này quy định: “1. Lãi suất vay do

các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo

thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật

khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của

Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên

và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt

quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không

có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định

rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi

suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”

Quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015, là một trong những thay đổi quan

trọng và được đánh giá là có thể hạn chế được những bất cập trong việc áp dụng

quy định về lãi xuất theo BLDS năm 2005. Theo đó, lãi suất vay là do chính các bên

thỏa thuận, nếu vay có lãi thì lãi xuất thỏa thuận không được quá 20%/năm của

khoản tiền vay, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, không như cách tính lãi

suất thỏa thuận theo mức tham chiếu là lãi suất cơ bản của NHNN được quy định tại

khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005 “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng

không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho

vay tương ứng.”.

Về mức lãi suất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015,

trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại

khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Như vậy, lãi suất tối đa

trong các hợp đồng vay tài sản các bên được thỏa thuận theo BLDS năm 2015

không quá 20%/năm (tức 1,7%/tháng).

Về lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của

lãi suất cơ bản do NHNN công bố theo quy định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm

2005. Theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của NHNN Việt

Nam, về lãi suất cơ bản của Việt Nam đồng để tính lãi suất, thì mức lãi suất cơ bản

34

là 9%/01 năm, tức là 0,75%/01 tháng. Lãi suất cao nhất các bên đương sự được thỏa

thuận theo quy định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2015 là 1,125%/01 tháng (tức

13,5%/01 năm).

So sánh quy định về lãi suất giữa BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 thấy:

BLDS năm 2015 quy định luôn mức lãi suất cao nhất được thỏa thuận trong các hợp

đồng dân sự vay tài sản là 20%, không phụ thuộc vào mức lãi suất cơ bản do

NHNN quy định. Mức lãi suất theo BLDS năm 2015 cao hơn so với BLDS năm

2005 mục đích giảm thiểu sự chênh lệch về mức lãi suất trong các hợp đồng dân sự

thông dụng với các HĐTD, bình đẳng hóa giữa các chủ thể khi tham gia vào các

giao dịch vay tài sản.

Về trường hợp không rõ về lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất: Theo

quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015, trường hợp không rõ hoặc có tranh

chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất theo quy định tại

khoản 1 Điều 468 Bộ luật này. Theo quy định này mức lãi suất trong trường hợp

không rõ hoặc có tranh chấp sẽ là 10%/01 năm (tức 0,83%/tháng).

So với quy định tại khoản 2 Điều 476 BLDS năm 2005 thì trường hợp không

rõ về lãi suất hoặc các bên đương sự có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ

bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Theo quy

định này thì mức lãi suất có tranh chấp là 0,75%/01 tháng. Như vậy, mức lãi suất

trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất theo quy định của BLDS

năm 2015 không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của NHNN và mức lãi lớn hơn so

với quy định của BLDS năm 2005.

Việc thay đổi này đã giải quyết được mâu thuẫn giữa quy định tại khoản 1

Điều 476 BLDS năm 2005 với Điều 1 của Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày

26/02/2010 của NHNN quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa

thuận của TCTD đối với khách hàng.

Theo quy định tại Điều 12 Luật NHNN năm 2010 và khoản 2, khoản 3 Điều

91 Luật Các TCTD năm 2010, trong điều kiện bình thường, lãi suất trong hoạt động

ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận, không có trần lãi suất. Về nghĩa

vụ trả nợ của bên vay, trước đây tại khoản 4 và khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005

quy định:

“4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ

hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi

35

suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả

nợ, nếu có thoả thuận.

5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả

không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ

bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”

Nay theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015:

“4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả

không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy

định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời

gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.

5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không

đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:

a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với

thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo

mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;

b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng

tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”

Nhằm đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động xét xử đối với vấn đề cách tính

lãi suất trong hoạt động cho vay của các hợp đồng vay. Ngày 11/1/2019 Hội đồng

thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP

của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy

định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng vay tài sản; lãi suất

trung bình trên thị trường; quyết định lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của Tòa

án. Nghị quyết đã có những thay đổi, cách xác định mang tính trực tiếp về lãi suất

vay trong các hợp đồng dân sự cũng như các hợp đồng tín dụng nói chung. Theo đó,

lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng do các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với

quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và văn bản quy phạm pháp luật quy định

chi tiết, hướng dẫn áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng tại thời điểm xác lập hợp

đồng, thời điểm tính lãi suất.

Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, Tòa án áp dụng quy định của

Luật Các tổ chức tín dụng, văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn

áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng để giải quyết mà không áp dụng quy định về giới

36

hạn lãi suất của Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định lãi,

lãi suất.

Tại thời điểm xét xử sơ thẩm, lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng xác lập

trước ngày 01-01-2017 được xác định như sau: Lãi trên nợ gốc trong hạn chưa trả

được xác định theo lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với Luật Các tổ

chức tín dụng và văn bản quy phạm pháp luật quy định về lãi suất áp dụng cho hợp

đồng tín dụng tại thời điểm xác lập hợp đồng, thời điểm tính lãi suất tương ứng với

thời hạn vay chưa trả. Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả được xác định theo thỏa

thuận của các bên nhưng phải phù hợp với Luật Các tổ chức tín dụng và văn bản

quy phạm pháp luật quy định về lãi suất áp dụng cho hợp đồng tín dụng tại thời

điểm xác lập hợp đồng.

Tại thời điểm xét xử sơ thẩm, lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng xác lập kể

từ ngày 01-01-2017 được xác định như sau: Lãi trên nợ gốc, lãi trên nợ gốc quá hạn

được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp khách hàng không

trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, thì phải trả

lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng

không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định tương ứng với thời

gian chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn. Thời gian chậm trả tiền nợ gốc bắt đầu kể từ

ngày chuyển nợ quá hạn đến thời điểm xét xử sơ thẩm, trừ trường hợp các bên có

thỏa thuận khác. Thời gian chậm trả tiền lãi trên nợ gốc bắt đầu kể từ ngày tiếp theo

liền kề của ngày phải trả lãi trên nợ gốc đến thời điểm xét xử sơ thẩm, trừ trường

hợp các bên có thỏa thuận khác.

Xử lý thỏa thuận về lãi, lãi suất cao hơn mức lãi, lãi suất được pháp luật quy

định. Hợp đồng vay tài sản có thỏa thuận về lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ

lãi quá hạn cao hơn mức lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ lãi quá hạn được

pháp luật quy định thì mức lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ lãi quá hạn vượt

quá không có hiệu lực; số tiền lãi đã trả vượt quá mức lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn,

lãi trên nợ lãi quá hạn quy định được trừ vào số tiền nợ gốc tại thời điểm trả lãi; số tiền

lãi đã trả vượt quá còn lại sau khi đã trừ hết nợ gốc thì được trả lại cho bên vay.

* Nghĩa vụ trả nợ trong HĐTD

- Thoả thuận về nợ đến hạn

Một trong những vấn đề vướng mắc trong HĐTD là việc thu hồi nợ trước

hạn. Luật các TCTD cho phép các ngân hàng được phép thu hồi nợ trước hạn nếu

37

bên vay vi phạm HĐTD. Đây là một trong những đòi hỏi cơ bản, là quyền rất quan

trọng của các ngân hàng để bảo đảm an toàn vốn cho vay. Tuy nhiên có luồng quan

điểm không đồng tình vì căn cứ vào quy định của BLDS thì bên cho vay “Không

được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn”, trừ trường hợp được bên vay

đồng ý (§ 473.3). Nếu theo quan điểm này, thì trái ngược hoàn toàn với quy định

của pháp luật ngân hàng, vô cùng bất lợi đối với bên cho vay. Theo đó, khi bên vay

chậm trả một kỳ hạn nợ hoặc có những vi phạm khác, thì ngân hàng sẽ không được

phép chuyển toàn bộ số nợ sang nợ quá hạn, thu hồi toàn bộ nợ vay và xử lý tải sản

bảo đảm để thu hồi nợ. Thực tế đã từng xảy ra vụ việc dưới đây:

Để hạn chế rủi ro trên, các bên nên có thoả thuận trong HĐTD nội dung sau:

Trường hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ một kỳ hạn trả nợ thì các kỳ hạn khác chưa

đến hạn cũng được coi là đến hạn trả nợ và ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn.

- Lãi suất và phí trả nợ trước hạn

Trường hợp bên vay trả nợ trước hạn, thì thường phải trả phí trả nợ trước hạn

theo thoả thuận trong HĐTD. Gọi là phí trả nợ trước hạn nhưng thực chất là một

loại lãi suất phạt trên cơ sở quy định bên vay có quyền trả tiền vay trước hạn, nhưng

phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, nếu không có thỏa thuận khác. Trên thực tế, nhiều

ngân hàng không thu phí trả nợ trước hạn, hoặc chỉ thu với tỷ lệ từ vài đến vài chục

phần trăm so với số tiền lãi của thời hạn vay còn lại.

- Cơ cấu lại thời hạn trả nợ

Trường hợp bên vay không có khả năng trả nợ theo đúng thoả thuận ban đầu,

nếu đủ điều kiện thì có thể được ngân hàng xem xét cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ,

bao gồm hai cách là gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ.

Có một thời kỳ NHNN quy định khoản vay ngắn hạn chỉ được gia hạn tối đa

bằng thời hạn cho vay; khoản vay trung, dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho vay.

Như vậy, khoản vay 12 tháng thì được phép gia hạn thêm 12 tháng nữa, nhưng nếu

là khoản vay 13 tháng, thì chỉ được phép gia hạn thêm 6,5 tháng.

Đến nay, các khoản nợ được gia hạn nhiều lần, với thời hạn không bị hạn

chế. Tuy nhiên, khi đó khoản nợ sẽ bị đánh giá về khả năng rủi ro và phải phân loại

vào nhóm nợ thích hợp để trích lập dự phòng.

- Hiệu lực của HĐTD

Các ngân hàng thường đưa vào HĐTD câu: Hợp đồng này có hiệu lực cho

đến khi bên vay trả hết nợ gốc, lãi và các chi phí có liên quan. Nếu thoả thuận này

38

được công nhận, thì dẫn đến tình trạng không hợp lý là hiệu lực của HĐTD sẽ luôn

luôn là vô thời hạn, không bao giờ chấm dứt, nếu chưa trả hết nợ.

Tuy nhiên trên thực tế, Toà án đã từng thừa nhận thời hiệu khởi kiện không

tính từ ngày hết hạn trả nợ theo thoả thuận, mà tính đến khi bên vay trả hết nợ trong

trường hợp HĐTD có thoả thuận: Hợp đồng này có hiệu lực cho đến khi bên vay trả

hết nợ (gốc và lãi) cho bên cho vay (xem Bản án giám đốc thẩm số 08/2003/HĐTP-

KT ngày 29-5-2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND TC về vụ án tranh chấp

HĐTD giữa Ngân hàng Công thương Việt Nam và Công ty TNHH Thương mại

Lam Hồng Sơn).

Sau khi thực hiện xong, đương nhiên hợp đồng được thanh lý. Các bên

không cần thiết phải lập biên bản thanh lý hợp đồng, trừ trường hợp cần bằng.

- Thẩm quyền ký HĐTD

Mỗi bên chỉ cần một người đại diện ký HĐTD và khế ước nhận nợ. Tuy

nhiên trên thực tế, nhiều trường hợp bên ngân hàng có hai chữ ký (giám đốc và

trưởng phòng tín dụng), đồng thời yêu cầu bên vay cũng có hai chữ ký (giám đốc và

kế toán trưởng đối với doanh nghiệp hoặc hai vợ chồng đối với cá nhân).

Đối với ngân hàng, ít khi người đại diện theo pháp luật ký HĐTD, mà

thường do người được uỷ quyền ký, trong đó không ít trường hợp uỷ quyền cho

người thứ ba một cách thường xuyên, liên tục. Phổ biến là trường hợp, người đại

diện pháp luật của ngân hàng uỷ quyền cho giám đốc chi nhánh, sau đó giám đốc

chi nhánh uỷ quyền lại cho phó giám đốc hoặc trưởng phòng.

Ngược lại, ngân hàng thường chỉ chấp chấp nhận cho bên vay là doanh

nghiệp uỷ quyền một cấp cho người thứ hai và thường là có vị trí ngay dưới người

uỷ quyền ký HĐTD.

Việc đòi hỏi như trên của ngân hàng là chặt hơn đòi hỏi của pháp luật, nhưng

nó có ý nghĩa quan trọng trên thực tế, nhằm hạn chế rủi ro về chủ thể ký HĐTD của

bên vay, giúp cho HĐTD an toàn và dễ dàng hơn trong việc thu hồi nợ.

Luật các TCTD cũng quy định rõ, không một tổ chức cá nhân nào được can thiệp

trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của các ngân hàng.

* Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay

- Bên vay vốn có các quyền sau: Từ chối các yêu cầu của ngân hàng không

đúng với các thoả thuận trong HĐTD; Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm HĐTD của

ngân hàng theo quy định của pháp luật.

39

- Bên vay vốn có các nghĩa vụ sau: Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông

tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn đồng thời chịu trách nhiệm về tính chính xác

và hợp pháp của các thông tin, tài liệu cung cấp cho ngân hàng; Sử dụng tiền vay

đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận trong HĐTD và các cam

kết khác với ngân hàng; Trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thoả thuận trong HĐTD;

Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả thuận về

việc trả nợ và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong HĐTD.

* Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay

- Bên ngân hàng cho vay có các quyền sau: Yêu cầu khách hàng cung cấp

tài liệu chứng minh dự án, phương án vay vốn khả thi, khả năng tài chính của mình

và người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay; Từ chối yêu cầu vay vốn của khách

hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn; dự án, phương án vay vốn không có

hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc ngân hàng không có đủ

nguồn vốn để cho vay; Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả

nợ của khách hàng; Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá

hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm HĐTD; Khởi

kiện khách hàng vi phạm HĐTD hoặc khởi kiện bên thứ ba cầm cố, thế chấp, bảo

lãnh theo quy định của pháp luật; Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ,

nếu các bên không có thoả thuận khác thì ngân hàng có quyền bán tài sản bảo đảm

tiền vay theo sự thoả thuận trong HĐTD và hợp đồng bảo đảm tiền vay để thu nợ

theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu người thứ ba thực hiện nghĩa vụ cầm cố,

thế chấp, bảo lãnh cho khách hàng vay vốn; Miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định

của ngân hàng; gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ theo quy định; Mua bán nợ, đảo

nợ, khoanh nợ, xoá nợ và cơ cấu lại nợ theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn

của NHNN Việt Nam .

- Bên ngân hàng cho vay có các nghĩa vụ sau: Giải ngân cho bên vay theo

đúng thoả thuận trong HĐTD; Thực hiện đúng các thoả thuận trong HĐTD; Lưu

giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.

2.1.2. Các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

ngân hàng bằng Tòa án

2.1.2.1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp tín dụng

Quá trình giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng băng Tòa án phải tuân theo

những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam. Đó là những tư tưởng

40

pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân

sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên tắc của

BLTTDS trong quá trình giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng thể hiện được

tính ưu Việt của pháp luật XHCN, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của nhà nước, của các cơ quan, tổ chức xã hội và của mọi người dân.

Được thể hiện ở một số nguyên tắc như: nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN trong

quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại; nguyên tắc bình đẳng về

quyềt và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự; nguyên tắc xét xử công khai...

Bên cạnh đó, giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng Tòa án còn phải

đáp ứng những nguyên tắc cơ bản, mang tính đặc thù trong hoạt động giải quyết

tranh chấp HĐTD ngân hàng. Theo quy định của BLTTDS thì pháp luật đòi hỏi các

bên tham gia giải quyết tranh chấp tại toà án phải tuân thủ một số nguyên tắc. Như

vậy, khi giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng bằng con đường toà án

cũng đòi hỏi các bên tham gia tuân thủ các nguyên tắc đó, cụ thể là:

Thứ nhất, nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự [26]: Ở

nguyên tắc này, quyền của chủ thể tranh chấp trong việc quyết định chọn phương

thức giải quyết tranh chấp bằng toà án được đảm bảo. Toà án chỉ giải quyết khi

đương sự có đơn yêu cầu và chỉ giải quyết các vấn đề tranh chấp trong phạm vi yêu

cầu. Có nghĩa là khi tranh chấp xảy ra, các bên tranh chấp có quyền tự quyết định

việc khởi kiện, chủ động đề xuất các yêu cầu, phạm vi mức độ quyền và lợi ích cần

được bảo vệ. Thậm chí, ngay khi đưa vụ án tranh chấp ra giải quyết các bên tranh

chấp có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau

một cách tự nguyện, không trái pháp luật và yêu cầu đạo đức xã hội.

Thứ hai, các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh [26]:

việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong giải quyết tranh chấp là quyền và

nghĩa vụ của các đương sự. Khi yêu cầu toà án giải quyết thì đương sự phải chứng

minh được các yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Các bên có quyền và

nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là cần thiết và có thể phản đối yêu cầu của

người khác đối với mình nhưng phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ.

Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Toà án không bị bắt buộc thu thập, xác minh

chứng cứ mà chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do

BLTTDS quy định. Nguyên tắc này tạo cơ sở giải quyết nhanh chóng các vụ án

41

tranh chấp và nâng cao trách nhiệm chứng minh của các đương sự để bảo vệ lợi ích

của mình.

Thứ ba, nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự

[26]. Đây là nguyên tắc thể hiện quyền con người trong Hiến pháp nước Cộng hoà

XHCN Việt Nam. Khi tham gia giải quyết tranh chấp tại toà án, các đương sự có

quyền và nghĩa vụ ngang nhau, không ai được phân biệt đối xử. Các đương sự đều

bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Toà án có trách nhiệm tạo

điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Có nghĩa là, các đương

sự có quyền đưa ra yêu cầu và phản đối yêu cầu của bên kia cũng như thực hiện

quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ nhằm bảo vệ lợi ích của mình.

Thứ tư, nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự [26]. Ngoài quyền

tự bảo vệ cho mình, các đương sự có quyền nhờ luật sư hay người khác có đủ điều

kiện theo quy định của pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án

có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.

Thứ năm, nguyên tắc hoà giải [26]. Vì đặc điểm của tranh chấp phát sinh từ

HĐTD ngân hàng phản ảnh về lợi ích kinh tế của các bên nên biện pháp mà các bên

tiến hành để giải quyết tranh chấp trước tiên là hoà giải và chỉ cần đến sự can thiệp

của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi không thể hoà giải được. Hòa giải

được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phục thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến

khi bắt đầu xét xử tại phiên tòa trừ những vụ án không được hòa giải như yêu cầu bối

thường gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước. Khi Toà án tiến hành giải quyết tranh

chấp, trước tiên toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để

các đương sự thoả thuận với nhau. Điều này có nghĩa, tại toà án, các đương sự vẫn có

quyền tiến hành hoà giải dưới sự hướng dẫn và công nhận của Toà án.

Thứ sáu, nguyên tắc xét xử vụ án dân sự phải có HTND tham gia [26]. Thẩm

phán và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Hội thẩm là người có uy

tín, được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ

án thuộc thẩm quyền của Toà án nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của

người dân tham gia xét xử. Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của

pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc

1 Quốc hội (2014), Luật tổ chức TAND, Hà Nội

thẩm quyền của Tòa án. Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án1. Khi xét

42

xử vụ án dân sự, Thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Pháp luật

nghiêm cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán, HTND thực hiện nhiệm vụ. Có nghĩa

là, hoạt động của Thẩm phán, HTND khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật mà không

chịu bất kỳ sự chi phối nào khác. Tất nhiên, họ phải chịu trách nhiệm đối với ý kiến

của mình về từng vấn đề của vụ án.

Thứ bảy, nguyên tắc giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng nhanh

chóng, kịp thời. Xuất phát từ đặc điểm của tranh chấp HĐTD ngân hàng thường

mang giá trị vật chất lớn, có thể ảnh hưởng đến nhiều mặt của xã hội, kinh tế, chính

trị, văn hóa... từ nhu cầu của các các bên tranh chấp, từ thực tiễn yêu cầu tín dụng

đòi hỏi việc giải quyết tranh chấp phải nhanh chóng kịp thời, dứt điểm, tránh dây

dưa, kéo dài đảm bảo khắc phục kịp thời cho bên bị vi phạm, tạo điều kiện cho các

bên yên tâm, phấn khởi tham gia hoạt động tín dụng. BLTTDS quy định cụ thể thời

hạn các giai đoạn tố tụng như thời hạn thụ lý, thời hạn thu thập chứng cứ và đưa vụ

việc ra xét xử, thời hạn kháng cáo, kiếu nại và giải quyết theo trình tự phúc thẩm,

giám đốc thẩm, tái thẩm...

Thứ tám, bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án. Giải quyết

tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng phương thức tòa án có một ưu điểm lớn nhất mà

các phương thức khác không thể có được đó là bảo đảm thi hành các quyết định,

bản án của Tòa án bằng các biện pháp cưỡng chế thi hành của nhà nước. Điều này

được thể hiện rõ trong luật thi hành án dân sự năm 2008 và quy định tại điều 19

BLTTDS năm 2015. Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải

được thi hành và phải được mọi công dân, cơ quan, tổ chức tôn trọng. Cá nhân, cơ

quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm

chỉnh chấp hành. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Toà án nhân dân

và các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án

phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện

nhiệm vụ đó.

2.1.2.2. Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong giải quyết tranh chấp

tín dụng

BLTTDS năm 2015 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016, cùng với đó là Luật tổ

chức TAND năm 2014 đã có hiệu lực, thẩm quyền xét xử các cấp Tòa án là một vấn

đề cần phải làm rõ. Theo BLTTDS, Tòa án thực hiện chế độ xét xử 2 cấp. Bản án,

quyết định sơ thẩm của TAND cấp huyện có kháng cáo, kháng nghị sẽ được TAND

43

cấp tỉnh xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.

Dưới đây là sơ đồ tóm tắt thẩm quyền của bốn cấp Tòa án hiện nay gồm TAND tối

cao, TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện:

Theo đó:

TAND cấp huyện là cấp Tòa thấp nhất trong hệ thống Tòa án Việt Nam phân

theo lãnh thổ. Tòa án nhân cấp huyện có thẩm quyền chính là xét xử sơ thẩm các vụ

án dân sự (Điều 35 BLTTDS 2015), đồng thời giải quyết các việc dân sự (khoản 2

Điều 35 BLTTDS 2015).

TAND cấp tỉnh (tên gọi đầy đủ là Tòa án nhân cấp tỉnh, thành phố thành phố

trực thuộc trung ương) có thẩm quyền trong việc xét sử sơ thẩm đối với các vụ việc dân

sự quy định tại Điều 37 BLTTDS 2015). Đối với các bản án, quyết định của Tòa cấp

huyện chưa có hiệu lực pháp luật thì Tòa mà bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp

tỉnh sẽ tiến hành xét xử phúc thẩm đối với những bản án, quyết định này.

TAND cấp cao là một cấp Tòa mới được bổ sung tại Luật tổ chức TAND

2014 có hiệu lực vào ngày 1/6/2015. Hiện nay, cả nước có 3 TAND cấp cao được

44

đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, mỗi Tòa cấp cao như vậy quản

lý một khu vực tương ứng theo Luật tổ chức TAND. Theo đó, TAND cấp cao sẽ

tiến hành xét xử phúc thẩm đối với các bản án, quyết định chưa có hiệu lực do Tòa

cấp tỉnh ra theo thủ tục sơ thẩm mà bị kháng cáo, kháng nghị. Bên cạnh đó, Tòa cấp

cao còn có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định của Tòa

cấp tỉnh và Tòa cấp huyện. (Tòa cấp cao quản lý khu vực nào thì sẽ có thẩm quyền

xét xử phúc thẩm hoặc thực hiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án,

quyết định tại của Tòa cấp tỉnh hoặc Tòa cấp huyện trong khu vực đó)

TAND tối cao là Tòa án cấp cao nhất trong hệ thống Tòa án Việt Nam.

TAND tối cao sẽ không có thẩm quyền xét xử mà chỉ thực hiện quyền giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm đối với những bản án, quyết định của tất cả các Tòa án cấp dưới

đã có hiệu lực pháp luật và bị kháng nghị(bao gồm Tòa cấp cao, Tòa cấp tỉnh và tòa

cấp huyện).

Theo Điều 275, BLTTDS, HĐXX phúc thẩm có các quyền sau đây:

1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm;

2. Sửa bản án sơ thẩm;

3. Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải

quyết lại vụ án;

4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm: Hội đồng phúc thẩm bác kháng cáo hoặc kháng

nghị trong trường hợp kháng cáo kháng nghị không có căn cứ và tòa án cấp sơ thẩm

đã xét xử đúng.

Sửa bản án sơ thẩm: Nếu qua việc xét xử phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm xét

xử thấy tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật, thì HĐXX có thể

sửa 1 phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm. Theo Điều 309 BLTTDS, HĐXX phúc

thẩm sửa 1 phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu tòa án cấp sơ thẩm quyết định

không đúng pháp luật trong những trường hợp sau đây: Việc chứng minh và thu

thập chứng cứ đã đưỡ thực hiện đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật; Việc

chứng minh và thu thập chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại

phiên tòa phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ.

Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết

lại vụ án dân sự: HĐXX phúc thẩm sẽ thực hiện đầy đủ quyền hạn này trong một số

trường hợp sau đây: Việc chứng minh và thu thập chứng cứ không theo đúng quy

45

định tại chương VIII BLTTDS hoặc chưa thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc

thẩm không thực hiện bổ sung được; Thành phần HĐXX phúc thẩm không đúng

quy định của BLTTDS hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng Điều

310 BLTTDS .

Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự: Theo quy định tại Điều

311 BLTTDS, HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu

trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các

trường hợp quy định tại Điều 217, điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ luật này.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn có thể tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ

án dân sự khi có căn cứ tại Điều 214 BLTTDS: Theo quy định tại các Điều 288,

295 BLTTDS , khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 214 BLTTDS thì

HĐXX phúc thẩm có quyền tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự.

Tòa án cấp phúc thẩm cũng có quyền đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự

khi có căn cứ tại Điều 289 BLTTDS: Theo quy định tại Điều 289 BLTTDS , khi có

một trong những căn cứ quy định tại Điều 289 BLTTDS thì HĐXX phúc thẩm có

quyền đình chỉ xét xử vụ án dân sự.

2.1.2.3. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp tại tòa án cấp phúc thẩm

Bản án xét xử sơ thẩm vụ án nếu không có kháng nghị (của Viện kiểm sát),

kháng cáo (của cá nhân và tổ chức có quyền và nghĩa vụ liên quan) thì sẽ có hiệu

lực theo quy định của pháp luật. Trường hợp bản án có kháng nghị, kháng cáo thì

vụ án phải đưa ra xét xử phúc thẩm. Thông thường thời gian kháng cáo là 15 ngày,

thời gian kháng nghị là 15 ngày đối với Viện kiểm sát cùng cấp hoặc 30 ngày đối

với Viện kiểm sát cấp trên. Sau thời gian này mà không có kháng cáo, kháng nghị

thì bản án sẽ có hiệu lực.

Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản

án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc

kháng nghị. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là 15 ngày,

kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng

cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát

cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày

tuyên án. Trường hợp kiểm sát viên không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng

nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.

46

Đơn kháng cáo phải có các nội dung quy định tại điều 272 của BLTTDS

2015, đơn kháng cáo có thể gửi cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ

thẩm bị kháng cáo hoặc gửi cho Toà án cấp phúc thẩm. Đơn kháng cáo phải kèm

theo tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng minh cho kháng cáo của mình là

có căn cứ và hợp pháp.

Sau khi nhận được đơn kháng cáo, Toà án cấp sơ thẩm phải kiểm tra tính hợp

lệ của đơn kháng cáo. Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, Toà án cấp sơ thẩm

phải thông báo cho người kháng cáo biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm

theo quy định của pháp luật, nếu họ không thuộc trường hợp được miễn hoặc không

phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí phúc thẩm.

Trong thời hạn 10 kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án về việc nộp

tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí và

nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Hết thời hạn này mà

người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì được coi là họ từ bỏ

việc kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng.

Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu,

chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý. Trong thời hạn 03

ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho các

đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án. Chánh án Tòa

án cấp phúc thẩm hoặc Chánh tòa Tòa phúc thẩm TAND tối cao thành lập HĐXX

phúc thẩm gồm có: một Thẩm phán phân công làm chủ tọa phiên tòa và hai Thẩm

phán.

Trình tự thủ tục giống phiên toà sơ thẩm chỉ khác là quyết định của phiên toà

phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định. Khi bản án, quyết định của Tòa án

đã có hiệu lực pháp luật, các bên phải tự nguyện thi hành. Nếu một bên không tự

nguyện thi hành, bên được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự

cưỡng chế thi hành. Bên được thi hành án làm đơn gửi tới phòng thi hành án dân sự

thuộc tỉnh, thành phố đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật do Tòa án cấp

tỉnh, thành phố tuyên. Trong trường hợp bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật do

Tòa án cấp quận, huyện tuyên thì bên được thi hành án làm đơn đề nghị thi hành án

gửi tới đội thi hành án dân sự thuộc quận, huyện. Bên được thi hành án có quyền

yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án cư trú (nếu người

47

phải thi hành án là cá nhân) hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự nơi bên phải

thi hành án có trụ sở hoặc nơi có tài sản (nếu bên phải thi hành án là pháp nhân).

Cơ sở pháp lý điều chỉnh thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự nói chung và

vụ tranh chấp HĐTD ngân hàng nói riêng là BLTTDS năm 2015. Thủ tục chuẩn bị

xét xử phúc thẩm được quy định tại Chương 16 BLTTDS, bao gồm 8 điều (từ Điều

285 đến Điều 292), trong đó giữ nguyên 1 điều, sửa đổi 5 điều, bổ sung mới 2 điều.

Thủ tục xét xử phúc thẩm được quy định tại Chương 17, bao gồm 2 mục và 23 điều

(từ Điều 293 đến Điều 315), trong đó giữ nguyên 6 điều, sửa đổi 14 điều, bổ sung

mới 3 điều. Theo đó, một tranh chấp HĐTD ngân hàng được giải quyết ở Tòa án

cấp phúc thẩm phải trải qua các bước sau đây:

a) Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án

Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu,

chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý, thông báo bằng văn

bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng

cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án. Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm thành lập

HĐXX phúc thẩm và phân công một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa. Trong vòng

2 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa có thể đưa ra quyết định tạm đình chỉ xét xử,

đình chỉ xét xử hoặc đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Quyết định này dựa trên kết quả

nghiên cứu hồ sơ vụ án đã được xét xử ở cấp sơ thẩm.

b) Phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án:

Trường hợp Tòa quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì phiên tòa phải

được diễn ra theo đúng trình tự thủ tục của pháp luật, gồm thủ tục bắt đầu phiên tòa,

thủ tục hỏi các đương sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc

giải quyết vụ án thì HĐXX công nhận thỏa thuân đó và dựa trên đó đưa ra bản án

phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm.

Trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau thì phiên tòa được tiến

hành theo thủ tục gồm phần tranh tụng giữa nguyên đơn, bị đơn:Người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo trình bày, người kháng cáo có

quyền bổ sung ý kiến;Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tranh

luận, đối đáp, đương sự có quyền bổ sung ý kiến;Khi xét thấy cần thiết, HĐXX có

thể yêu cầu các đương sự tranh luận bổ sung về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ

giải quyết vụ án.

48

Hoặc tranh luận đối với kháng nghị:Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự phát biểu về tính hợp pháp, tính có căn cứ của kháng nghị. Đương sự

có quyền bổ sung ý kiến;Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về những vấn đề mà người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự đã nêu.

c) Nghị án và tuyên án xét xử phúc thẩm:

Sau phần tranh tụng, Tòa án và Viện kiểm sát ra quyết định và tuyên án. Bản

án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Quyết định phúc thẩm có

hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.

2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng theo

thủ tục phúc thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

2.2.1. Khái quát chung về Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế đất nước đã có những phát triển

đáng kể. Bên cạnh những mặt tích cực mà nền kinh tế thị trường theo định hướng

XHCN và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất

nước, thì mặt trái của nó cũng tác động tiêu cực đối với xã hội, làm gia tăng tội

phạm, trong đó có những loại tội phạm mới gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng,

đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, hành

chính gia tăng, đặc biệt là các tranh chấp về dân sự liên quan đến đất đai, nhà ở,

thừa kế hoặc tranh chấp về tài sản trong lĩnh vực hôn nhân - gia đình. TAND thành

phố Hà Nội đã tổ chức tốt công tác xét xử các loại vụ án, đặc biệt là các vụ án lớn,

trọng điểm, phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của Thủ đô Hà Nội như vụ án mang

tính chất băng nhóm “theo kiểu xã hội đen” (vụ “ Khánh trắng”, “Phúc bồ”); vụ án

mua bán trái phép chất ma tuý với số lượng lớn, địa bàn phạm tội rộng và có đông

người tham gia (vụ Vũ Xuân Trường); vụ án Lã Thị Kim Oanh phạm tội tham

nhũng có giá trị đặc biệt lớn, vụ án Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân nguyên

là Luật sư phạm tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”…

Thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-QH của Quốc hội khoá XII về mở rộng địa

giới hành chính Thủ đô Hà Nội, TAND tỉnh Hà Tây được hợp nhất vào TAND

thành phố Hà Nội từ ngày 01/8/2008. Với địa bàn công tác rộng, các loại vụ án đều

tăng đáng kể, phức tạp và đa dạng nhưng đội ngũ cán bộ, công chức TAND thành

phố Hà Nội luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc

phục mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Hàng năm,

TAND thành phố Hà Nội thụ lý, giải quyết trên 3.000 vụ án các loại; chất lượng

49

giải quyết, xét xử các loại vụ án được nâng cao, tỷ lệ án bị hủy, bị sửa giảm rõ rệt;

công tác tổ chức xét xử được quan tâm, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, điển

hình là việc xét xử vụ án Nguyễn Thị Nhi và các đồng phạm gây rối trật tự công

cộng và hủy hoại tài sản nhà nước tại 40 phố Nhà Chung và số 178 phố Nguyễn

Lương Bằng, vụ án Bùi Tiến Dũng (PMU 18) cố ý làm trái các quy định của Nhà

nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, vụ án Lê Quốc Quân phạm tội

“Trốn thuế” , Cù Huy Hà Vũ phạm tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa

XHCN Việt Nam”; vụ án Dương Chí Dũng phạm tội tham ô tài sản, cố ý làm trái

quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, vụ án Nguyễn

Đức Kiên phạm các tội kinh doanh trái phép, trốn thuế, cố ý làm trái trái quy định

của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và lừa đảo chiếm đoạt

tài sản…

Để đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong từng giai đoạn, cơ cấu tổ chức,

chức năng, nhiệm vụ của TAND ngày càng được kiện toàn theo hướng, TAND là

cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Do

đó, TAND thành phố Hà Nội cũng từng bước đổi mới, hoàn thiện về tổ chức và

hoạt động, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để

tập trung nâng cao chất lượng xét xử và các mặt công tác khác, góp phần vào việc

bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các

hoạt động kinh tế, xã hội phát triển, ổn định chính trị; xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và chủ động hội nhập kinh tế

quốc tế. Đến nay (tính đến ngày 01/4/2017), TAND thành phố Hà Nội có 192

người, trong đó có 64 Thẩm phán, 124 Thư ký và chức danh khác; về trình độ

chuyên môn nghiệp vụ có 35 Thạc sỹ Luật, 143 cử nhân; về trình độ lý luận chính

trị có 51 người có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị. Cơ cấu tổ chức của

TAND thành phố Hà Nội gồm Ủy ban Thẩm phán, Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa

Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Hành chính, Văn phòng, Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và

thi hành án, Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và Thi đua khen thưởng. Hằng năm,

TAND thành phố Hà Nội thụ lý, giải quyết 3.000 vụ án các loại.

Bên cạnh đó, TAND thành phố Hà Nội còn được giao nhiệm vụ quản lý 30

TAND cấp huyện, thành phố Hà Nội về công tác tổ chức cán bộ, tài chính kế toán.

Hiện nay, các TAND cấp huyện có 662 người, trong đó có 304 Thẩm phán, 358

Thư ký và chức danh khác; về trình độ chuyên môn nghiệp vụ có 02 Tiến sỹ Luật,

50

97 Thạc sỹ Luật, 554 cử nhân; về trình độ lý luận chính trị có 74 người có trình độ

cử nhân và cao cấp lý luận chính trị; hằng năm, thụ lý, giải quyết 24.500 vụ án các

loại, bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

2.2.2. Tình hình tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng trên địa bàn

thành phố Hà Nội

Hoạt động cho vay của các TCTD đang ngày càng phát triển và có thể nói là

phát triển rất nhanh. Hiện tại, có rất nhiều TCTD ra đời, theo đó các TCTD cũng

cạnh tranh với nhau rất mạnh mẽ từ mô hình tổ chức, cơ cấu nghiệp vụ, phát triển

mạng lưới, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển

các sản phẩm dịch vụ mới ... Điều này chứng tỏ rằng hoạt động ngân hàng thực chất

là hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận rất cao. Theo thống kê, hiện nay số

lượng tranh chấp giữa TCTD và khách hàng vay vốn còn khá cao so với các loại

tranh chấp hợp đồng khác được giải quyết tại Tòa án. Tranh chấp HĐTD ngân hàng

chiếm tỷ lệ lớn thứ hai sau hợp đồng mua bán trong tổng số tranh chấp hợp đồng

kinh doanh, thương mại. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ một trong

những đặc trưng cơ bản của HĐTD ngân hàng là sự chứa đựng nguy cơ rủi ro rất

lớn đối với quyền lợi của bên cho vay vì theo cam kết trong HĐTD ngân hàng bên

cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời hạn nhất định, nếu thời hạn cho

vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn, vì thế mà các tranh chấp phát

sinh từ hợp đồng cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với các hợp

đồng khác được giải quyết tại Tòa án. Việc tranh chấp HĐTD ngân hàng xuất phát

từ sự mâu thuẫn về quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Theo báo cáo thống kê của TAND thành phố Hà Nội, tranh chấp kinh doanh,

thương mại (trong đó có tranh chấp HĐTD ngân hàng) có chiều hướng gia tăng:

năm 2016: 5.411 vụ, năm 2017: 8.995 vụ, năm 2018: 10.767 vụ. Nguyên nhân cơ

bản nhất của tình hình này là do sự khủng hoảng kinh tế tòan cầu.

So sánh giai đoạn 2010 – 2015, thì số vụ tranh chấp năm 2018 tăng gấp từ 2

đến 7 lần, trong đó tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng chiếm tỷ lệ cao nhất

trong số các vụ án đã thụ lý và giải quyết.

Sự gia tăng này một mặt phản ánh đúng thực trạng tranh chấp hiện nay. Tuy

nhiên, việc thống kê này cũng chưa đầy đủ, trong thực tế do các TCTD và khách

hàng không đưa vụ việc tranh chấp ra Tòa án mà tự thương lượng giải quyết nhằm

giảm chi phí và thời gian kiện tụng, vừa giữ quan hệ tốt với nhau. Các tranh chấp

51

nêu trên dù đơn giản hay phức tạp, dù giá trị tài sản nhỏ hay lớn đều để lại những

hậu quả nhất định cho các đương sự và gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội.

Trong các dạng tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng thì tranh chấp đòi

nợ quá hạn và lãi suất là dạng tranh chấp phổ biến nhất:

Vụ án 1: Ngày 26/08/2013, Ngân hàng TMCP A – Chi nhánh H – Phòng

giao dịch LHvà Công ty cổ phần nội thất kính A ( viết tắt là Công ty A) đã ký Hợp

đồng cấp hạn mức số 0044/13/TD/II.14 và Phụ lục số 0044/13/TD/II.14 để Công ty

A vay số tiền 1.100.000.000 đồng trong thời hạn 12 tháng để bổ sung vốn lưu

động.Trên cơ sở Hợp đồng trên ngân hàng TMCP A đã tiến hành giải ngân thể hiện

qua Giấy nhận nợ ngày 29/8/2013 do Công ty A đã ký giấy nhận nợ với ngân hàng

TMCP A số tiền 400.000.000 đồng và ngày 31/12/2013 ký nhận nợ số tiền

700.000.000 đồng, lãi suất cho vay tại thời điểm vay là 12,75%/năm được thay đổi

theo quy định của ngân hàng TMCP A. Để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ, ngày

08/10/2012 Công ty A cùng ông Hoàng Mai A ( đại diện theo pháp luật của công ty

) đã ký Hợp đồng thế chấp số công chứng 485312 quyển 4TP/CC-SCC/HDGD tại

văn phòng công chứng số 1 H, theo đó ông Hoàng Mai A đã thế chấp tài sản là

Quyền sử dụng 34,1m2 đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất 56( 1F), tờ bản đồ

6I.III-39, địa chỉ ở phường Q, quận H, thành phố H theo Giấy chứng nhận Quyền sử

dụng đất,quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BI 961099 do Ủy

ban nhân dân quận H cấp ngày 08/6/2012.

Trong quá trình vay vốn Công ty A đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo các cam

kết trong hợp đồng đã ký với ngân hàng TMCP A, hiện Công ty còn nợ số tiền gốc

là 1.097.554.947 đồng và các khoản tiền nợ lãi phát sinh từ số tiền nợ gốc trên theo

HĐTD ngân hàng hạn mức số 0044/13/TD/II.14 ngày 26/8/2013. Ngân hàng TMCP

A đã nhiều lần liên hệ ,làm việc trực tiếp ,thông báo chuyển nợ quá hạn yêu cầu

khách hàng tự xử lý tài sản đảm bảo để trả nợ nhưng phía Công ty A không thực

hiện, vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.Do vậy ngân hàng

TMCP A khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc Công ty A phải thanh toán cho

ngân hàng TMCP A số tiền nợ gốc 1.097.554.947 đồng và tiền lãi tạm tính đến

13/9/2016 là 539.712.406 đồng. Công ty A tiếp tục phải chịu số tiền lãi phát sinh

trên dư nợ gốc thực nợ kể từ ngày 14/9/2016 cho đến khi thanh toán hết nợ theo

mức lãi suất nợ quá hạn quy định tại Hợp đồng hai bên đã ký, trường hợp Công ty

không trả được nợ Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan Thi hành án phát mãi tài

52

sản đảm bảo là Quyền sử dụng 34,1m2 đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất

56( 1F), tờ bản đồ 6I.III-39, địa chỉ ở phường Q, quận H, thành phố H theo Giấy

chứng nhận Quyền sử dụng đất,quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

số BI 961099 do Ủy ban nhân dân quận H cấp ngày 08/6/2012 cho ông Hoàng Mai

A để thu hồi nợ.

Với nội dung nêu trên, TAND quận H thành phố Hà Nội đã ban hành Bản án

sơ thẩm số 16/2018/DS-ST quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ngân hàng

TMCP A đối với Công ty cổ phần nội thất kính A về việc "Tranh chấp HĐTD ngân

hàng"

- Buộc Công ty cổ phần nội thất kính A phải thanh toán trả Ngân hàng

TMCP A số tiền nợ theo theo Hợp đồng cấp hạn mức số 0044/13/TD/II.14 ngày

26/08/2013 và Phụ lục số 0044/13/TD/II.14 là 2.094.398.988 đồng ( hai tỷ không

trăm chín tư triệu,ba trăm chín tám nghìn chín trăm tám tám đồng) bao gồm nợ gốc

1.097.554.947 đồng, lãi trong hạn 43.491.667 đồng, lãi quá hạn (tính đến ngày

06/11/2018) là 943.352.374 đồng.

- Kể từ ngày 07/11/2018, Công ty cổ phần nội thất kính A còn phải tiếp tục

chịu lãi suất của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa

thuận trong HĐTD ngân hàng trả góp số LTG.CN.03290113 ngày 29/01/2013 cho

đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

- Trường hợp Công ty cổ phần nội thất kính A không thực hiện nghĩa vụ

thanh toán thì Ngân hàng TMCP A có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có

thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là toàn bộ Quyền sử dụng 34,1m2 đất và tài sản

gắn liền với đất tại thửa đất 56 (1F),tờ bản đồ 6I.III-39, địa chỉ tại phường Q,quận

H, tp.H ( nay là phường Q,quận H, tp.H) theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất,

quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BI 961099 do Ủy ban nhân

dân quận H cấp ngày 08/6/2012 cho ông Hoàng Mai A theo Hợp đồng thế chấp

quyền sử dụng đất số 485312 quyển 4TP/CC-SCC/HDGD ngày 08/10/2012; Văn

bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày 26/08/2013 lập tại

Văn phòng công chứng số 1 H.

- Khi cơ quan,tổ chức có thẩm quyền xử lý tài sản đảm bảo, những người

đang sinh sống thực tế trên nhà đất này phải chuyển đi nơi khác ở. Trường hợp

quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì

người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận

53

thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi

hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu

thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Vụ án 2: về thu hồi nợ đến hạn.

Tháng 7-2007, bà Phùng Thị Tuyết Ng. ký HĐTD ngân hàng vay của Ngân

hàng V. 800 triệu đồng, thời hạn vay là 60 tháng, trả nợ gốc, lãi cho theo định kỳ

hằng tháng. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của người thứ ba. Bà Ng chỉ trả

nợ được 2 kỳ, sau đó không trả nợ tiếp. Sau đó Ngân hàng V. khởi kiện ra TAND

quận Hoàn Kiếm đòi nợ và đề nghị phát mại tài sản thế chấp để thu nợ. Toà án đã

tuyên bác yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V.

Ngân hàng V. thì cho rằng: Việc chậm trả của bà Ng. là đã vi phạm nghĩa vụ

trả nợ, do vậy việc đòi nợ dựa trên cơ sở nghĩa vụ đã đến hạn chứ không phải là

“đòi lại nợ trước hạn”. Căn cứ pháp lý là Luật các TCTD cho phép ngân hàng “có

quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung

cấp thông tin sai sự thật, vi phạm HĐTD ngân hàng.”

Và Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, ban hành kèm theo

Quyết định số 1627/2010/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN cũng quy định rõ:

“Đối với khoản nợ vay không trả nợ đúng hạn, được TCTD đánh giá là không có

khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì số

dư nợ gốc của HĐTD ngân hàng đó là nợ quá hạn và TCTD thực hiện các biện pháp

để thu hồi nợ; việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên

thoả thuận trên cơ sở quy định của pháp luật."

Còn Toà án thì lập luận rằng: HĐTD ngân hàng có thời hạn vay là 5 năm,

đến nay mới là 3 năm, chưa đến hạn. Do đó, căn cứ vào quy định của BLDS thì

Ngân hàng V. chưa có quyền yêu cầu bên vay trả nợ, theo đó cũng không có quyền

đòi bên thế chấp tài sản phải thực hiện nghĩa vụ.

2.2.3. Kết quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng theo thủ

tục phúc thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Hoạt động cho vay của các TCTD đang ngày càng phát triển và có thể nói là

phát triển rất nhanh. Hiện tại, có rất nhiều TCTD ra đời, theo đó các TCTD cũng

cạnh tranh với nhau rất mạnh mẽ từ mô hình tổ chức, cơ cấu nghiệp vụ, phát triển

mạng lưới, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển

các sản phẩm dịch vụ mới ...

54

Điều này chứng tỏ rằng hoạt động ngân hàng thực chất là hoạt động kinh

doanh mang lại lợi nhuận rất cao. Theo thống kê, hiện nay số lượng tranh chấp giữa

TCTD và khách hàng vay vốn còn khá cao so với các loại tranh chấp hợp đồng khác

được giải quyết tại Tòa án. Tranh chấp HĐTD ngân hàng chiếm tỷ lệ lớn thứ hai sau

hợp đồng mua bán trong tổng số tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại.

Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ một trong những đặc trưng cơ bản của

HĐTD ngân hàng là sự chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn đối với quyền lợi của bên

cho vay vì theo cam kết trong HĐTD ngân hàng bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của

bên vay sau một thời hạn nhất định, nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro

và bất trắc càng lớn, vì thế mà các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cũng thường

xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với các hợp đồng khác được giải quyết tại

Tòa án. Việc tranh chấp HĐTD ngân hàng xuất phát từ sự mâu thuẫn về quyền và

lợi ích hợp pháp của các bên.

Theo số liệu của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thì trong giai đoạn từ

năm 2015 đến năm 2019 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý giải quyết

142 vụ án ở cấp phúc thẩm về loại án tranh chấp tín dụng ngân hàng. Điều này cho

thấy số lượng vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng chiếm một tỉ lệ khá lớn trong

tổng số tranh chấp kinh doanh thương mại ở cấp phúc thẩm của thành phố Hà Nội.

Bảng 2.1. Kết quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ở cấp

phúc thẩm của toà án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2015 – 2019

Số thụ lý Số đã giải quyết Năm

23 22 2015

27 24 2016

29 26 2017

31 29 2018

32 26 2019

Tổng 142 127

Nguồn: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

Như vậy, qua bảng số liệu trên cho thấy, trong toàn giai đoạn từ 2015 đến

2019 toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý 142 hồ sơ xét xử phúc thẩm đối

với các vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng ngân hàng trong đó xu hướng chung

là tăng trong toàn giai đoạn từ 23 vụ vào năm 2015 lên 32 vụ vào năm 2019. Điều

này là do tình hình chung tình trạng nợ xấu của các ngân hàng trong giai đoạn vừa

55

qua đã và đang được giải quyết một cách triệt để, nhiều vụ việc đã được đưa ra toà

án để xét xử và mang lại kết quả cao. Do đó, giải quyết án ở cấp phúc thẩm cũng

được quan tâm hơn. Trong giai đoạn từ 2015 đến 2019 có tổng số 127 vụ án về

tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng được giải quyết tại toà án nhân dân thành

phố Hà Nội chiếm 93% tổng số thụ lý. Điều này cho thấy sự tích cực, chủ động của

Toà án trong việc giải quyết tranh chấp tín dụng ngân hàng, đảm bảo quyền khởi

kiện và quyền kháng cáo của đương sự được quan tâm, đáp ứng. Nhiều vụ việc

được giải quyết đạt kết quả cao, được đương sự quan tâm. Số lượng án bị kháng

nghị giám đốc thẩm và tái thẩm không có vụ nào trong giai đoạn vừa qua. Như vậy,

cho thấy chất lượng xét xử phúc thẩm của toà án nhân dân thành phố Hà Nội đối với

các tranh chấp tín dụng ngân hàng đạt được là rất tốt.

Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng theo thủ tục phúc

thẩm tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thời gian qua đã đạt được những kết

quả nhất định. Cụ thể là:

Thứ nhất, pháp luật quy định chi tiết thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tranh

chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hợp đồng dân sự thì thời hạn là bốn tháng,

kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với tranh chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hoạt

động kinh doanh, thương mại thì thời hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

Ngoài ra, đối với các loại tranh chấp HĐTD ngân hàng mà có tính chất phức tạp

hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn

chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp tranh

chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hợp đồng dân sự và một tháng đối với vụ

án thuộc trường hợp tranh chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hoạt động kinh

doanh, thương mại là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với vụ án có tính chất

phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn

thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá một tháng. Trong thời hạn một tháng kể

từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường

hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng. Quy định này đã nâng cao

trách nhiệm của các Toà án trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp HĐTD

ngân hàng.

Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng đã được thống nhất

theo một thủ tục tố tụng chung - thủ tục tố tụng dân sự. Điều này, đã tiết kiệm được

thời gian cho các cơ quan tư pháp và cho chính các bên tranh chấp.

56

Thứ ba, Toà án nhân dân các cấp đã không ngừng nâng cao chất lượng xét

xử, làm rõ những yêu cầu của đương sự trong vụ án, tăng cường phối hợp với các

cơ quan chức năng để giải quyết vụ án. Công tác giải quyết tranh chấp về cơ bản

được thực hiện đúng các quy định của pháp luật, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích

hợp pháp của các bên tranh chấp.

Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng tại Toà án thành

phố Hà Nội thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Cụ thể là:

Thứ nhất, pháp luật quy định chi tiết thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tranh

chấp HĐTD là tranh chấp về hợp đồng dân sự thì thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày

thụ lý vụ án. Đối với tranh chấp HĐTD là tranh chấp về hoạt động kinh doanh,

thương mại thì thời hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Ngoài ra, đối với các

loại tranh chấp HĐTD mà có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì

Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không

quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp tranh chấp HĐTD là tranh chấp về

hợp đồng dân sự và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp tranh chấp HĐTD là

tranh chấp về hoạt động kinh doanh, thương mại là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ

án. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án

Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá một

tháng. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà

án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai

tháng. Quy định này đã nâng cao trách nhiệm của các Toà án trong quá trình giải

quyết các vụ án tranh chấp HĐTD.

Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp HĐTD đã được thống nhất theo một thủ

tục tố tụng chung - thủ tục tố tụng dân sự. Điều này, đã tiết kiệm được thời gian cho

các cơ quan tư pháp và cho chính các bên tranh chấp.

Thứ ba, Toà án nhân dân các cấp đã không ngừng nâng cao chất lượng xét

xử, làm rõ những yêu cầu của đương sự trong vụ án, tăng cường phối hợp với các

cơ quan chức năng để giải quyết vụ án. Công tác giải quyết tranh chấp về cơ bản

được thực hiện đúng các quy định của pháp luật, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích

hợp pháp của các bên tranh chấp.

2.2.4. Những hạn chế tồn tại và nguyên nhân

Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động của Toà án đối với giải quyết theo thủ tục

phúc thẩm các tranh chấp kinh doanh, thương mại nói chung và tranh chấp phát sinh

57

từ HĐTD ngân hàng nói riêng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế khiến quá trình giải

quyết còn chưa thực sự có hiệu quả. Theo báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án

sự yếu kém, hạn chế bởi các nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất, trong quá trình giải quyết tranh chấp, nhiều Thẩm phán nghiên cứu

tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, rõ ràng, đánh giá chứng cứ không đúng với sự thật

khách quan, thậm chí còn xác định sai tư cách tố tụng của đương sự hoặc triệu tập

không đầy đủ những người bắt buộc phải tham gia phiên toà dẫn đến nhiều phiên

toà vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và kết quả là bản án được tuyên bị huỷ vì

vi phạm nghĩa vụ tố tụng.

Thứ hai, công tác thụ lý và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm còn chậm,

nhiều bản án phúc thẩm giải quyết chưa thoả đáng, việc phát hiện những sai sót của

Toà án sơ thẩm chưa tiến hành kịp thời để đưa ra những giải pháp khắc phục. Số

lượng bản án phúc thẩm bị xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm còn chiếm tỷ

lệ khá cao trong tổng số vụ án thụ lý giải quyết. Việc tố tụng chậm, sai, phiền hà đã

ảnh hưởng tiêu cực tới các bên trong HĐTD ngân hàng. Đối với các TCTD, việc

giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng kéo dài dẫn đến không thu hồi được vốn

cho vay, ảnh hưởng tới hoạt động của tổ chức đó. Còn đối với bên vay, tranh chấp

kéo dài có thể làm cho việc ký kết những hợp đồng vay với các TCTD cho vay khác

để mở rộng nguồn vốn kinh doanh gặp khó khăn.

Thứ ba, đối với công tác giám đốc thẩm, tái thẩm và giải quyết khiếu nại vẫn

chưa đảm bảo được những quy định của pháp luật. Công tác kiểm tra, giám đốc

thẩm của Toà án cấp trên đối với Toà án cấp dưới còn hạn chế, nên chưa kịp thời

phát hiện các vi phạm để khắc phục và xử lý.

Thứ tư, pháp luật hiện hành liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tuy khá

đầy đủ nhưng chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện. Pháp luật của Việt Nam đang trong

quá trình sửa đổi, bổ sung để dần dần hoàn thiện. Vì thế, nhiều bộ luật, luật được

ban hành mà chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết thi hành, nhiều quy định

chồng chéo không thực hiện được trên thực tế hoặc được áp dụng không thống nhất

trong hệ thống cơ quan tư pháp.

Một số văn bản pháp luật đã có hiệu lực thi hành trong một thời gian khá dài

nhưng nhiều quy định trong các văn bản đó chưa được Toà án nhân dân tối cao,

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cùng các cơ quan hữu quan trong phạm vi thẩm

quyền ban hành những văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành nên có tình trạng Toà án

58

nhân dân các cấp áp dụng không thống nhất và kết quả các bản án hoàn toàn trái

ngược nhau giữa các cấp Toà.

Thứ năm, đội ngũ cán bộ Toà án hiện nay còn thiếu về số lượng và yếu kém

về năng lực, có một số cán bộ Toà án sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm

nghề nghiệp chưa cao nên đã có những hành vi vi phạm làm ảnh hưởng không nhỏ

tới danh dự, uy tín của ngành Tư pháp.

Thứ sáu, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Toà án còn

nhiều hạn chế. Quá trình giải quyết các tranh chấp còn mất nhiều thời gian, nhiều

loại chi phí, nhiều đầu mối trung gian trong khi đó lĩnh vực tài chính ngân hàng là

lĩnh vực nhạy cảm yêu cầu giải quyết nhanh gọn để các bên có thể tiến hành hoạt

động bình thường.

Kết luận chương 2

Trong chương 2 của luận văn, học viên phân tích về thực trạng các quy định

của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại

tòa án phúc thẩm và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Thứ nhất, về quy định của pháp luật về hợp đồng tín dụng ngân hàng. Hiện

nay, quy định về hợp đồng tín dụng được xác định nằm trong BLDS năm 2015 và

Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 Luật NHNN… Các quy định này gồm lãi suất

cho vay trong hợp đồng tín dụng, hình thức hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các

bên trong hợp đồng tín dụng….

Thứ hai, về thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại

Tòa án cấp phúc thẩm gồm có trình tự thủ tục chuẩn bị xét xử phúc thẩm, trình tự

thủ tục bắt đầu phiên tòa, trình tự thủ tục xét hỏi, đối đáp, tranh luận và các tình tự

thủ tục khác có liên quan. Các quy định này được xác định nằm trong BLTTDS

năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Thứ ba, về thực trạng giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho thấy, trong những năm vừa qua Tòa án nhân

dân thành phố Hà Nội đã thụ lý xét xử phúc thẩm hàng trăm vụ án dân sự, kinh tế

các loại, trong đó có hàng chục vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng, các tranh

chấp này chiếm tỉ lệ 10-15% tổng số tranh chấp mà TAND thành phố Hà Nội đã thụ

lý giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Trong kết quả đạt được thì việc giải quyết

tranh chấp này cũng có những nhược điểm hạn chế nhất định cần được khắc phục.

59

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THEO THỦ TỤC

PHÚC PHÚC THẨM TẠI TÒA ÁN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín

dụng ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án trong giai đoạn hiện nay

Giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng tại Tòa án là hoạt động áp dụng

pháp luật có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự công bằng và đúng pháp luật trong việc

đưa ra phán quyết có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên đương sự có tranh

chấp về quyền và lợi ích, góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước,

của tổ chức, cá nhân, ổn định và làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội, thúc đẩy

các giao dịch dân sự theo định hướng của Nhà nước. Do đó, việc giải quyết các vụ

án về tranh chấp HĐTD ngân hàng tại TAND thành phố Hà Nội cần quán triệt và

thực hiện nghiêm túc các quan điểm cơ bản sau đây:

3.1.1. Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về áp

dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án nói chung và giải quyết các vụ án

tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng nói riêng

Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết

đề cập tới vấn đề cả cách tư pháp và trong đó đặc biệt là Nghị quyết số 49 –

NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020” và nghị quyết số 81/2014/QH13 ngày 24/11/2014 “Về việc thi hành luật

tổ chức TAND”. Vấn đề này tiếp tục được đề cập đến tại Báo cáo Chính trị của các

kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ta.

Là cơ quan thực hiện chức năng xét xử các vụ án (trong đó có các vụ án về

tranh chấp HĐTD ngân hàng), lại là cơ quan xét xử hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, nên

hoạt động áp dụng pháp luật về thủ tục xét xử tranh chấp HĐTD ngân hàng tại TAND

thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay cũng phải được thực hiện trên cơ sở quán

triệt các quan điểm của Đảng về lĩnh vực này. Đó là các quan điểm mang tính chỉ đạo

của Đảng trong các văn kiện, Nghị quyết các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc.

Thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quy định về thủ tục trong quá trình xét xử

các vụ án kinh doanh thương mại về tranh chấp HĐTD ngân hàng là cơ sở để góp

phần đẩy mạnh cải cách tư pháp, nhằm “Xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch,

60

vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Do đó, cần quán

triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong

gia đoạn hiện nay:

Thứ nhất: Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo

đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,

phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp.

Thứ hai: Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã

hội, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển

kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải

cách hành chính. Đồng thời phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành

tựu đã đạt được của nền tư pháp XHCN Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh

nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội

nhập quốc tế, đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai.

Thứ ba: Cải cách tư pháp được tiến hành khẩn tưởng, đồng bộ, có trọng tâm,

trọng điểm với những bước đi vững chắc. Ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị đã ban

hành Nghị quyết số 49/NQ – TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,

trong đó có đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động TAND theo

hướng: Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử độc lập, không phụ thuộc

vào đơn vị hành chính, gồm Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số

đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc

thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có

nhiệm vụ xét xử phúc thẩm, TAND Tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử,

hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc, tái thẩm.

Việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp của Tòa án,

từng khu vực. Đổi mới tổ chức TAND theo hướng tinh gọn với đội ngũ Thẩm phán là

những chuyên gia đầu ngành về pháp luật có kinh nghiệm trong ngành.

Thứ tư: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách

tư pháp. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của

các cơ quan dân cử và nhân dân.

Những quan điểm trên của Đảng cộng sản Việt Nam chính là cơ sở lý luận,

là định hướng cho hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD ngân

61

hàng của TAND nói chung và hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh

chấp hợp đồng của TAND thành phố Hà Nội nói riêng.

3.1.2. Quan điểm cụ thể về áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp

hợp đồng tín dụng ngân hàng của ngành Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án

nhân dân thành phố Hà Nội nói riêng

Trên cơ sở quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng ta đã nêu ở mục

3.2.1 của Luận văn, có thể thấy rằng các quan điểm cơ bản đảm bảo việc áp dụng

pháp luật có hiệu quả trong việc giải quyết các vụ án nói chung và các vụ án tranh

chấp HĐTD ngân hàng nói riêng của TAND thành phố Hà Nội là:

Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động áp dụng pháp

luật trong giải quyết án tranh chấp HĐTD ngân hàng tại TAND thành phố Hà Nội,

Đảng lãnh đạo trên ba phương diện: Tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Thường xuyên

giám sát hoạt động của Tòa án, đánh giá đạo đức phẩm chất, vai trò gương mẫu của

cán bộ, đảng viên trong ngành Tòa, sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở phương

diện chỉ đạo Tòa án theo đường lối xét xử nghiêm minh, công bằng, đúng pháp luật,

tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân đối với cơ quan Tòa án nói riêng và sự

lãnh đạo của Đảng nói chung.

Thứ hai: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân

hàng phải quan tâm chú trọng hơn nữa đến vấn đề hòa giải, xuất phát từ các quan hệ

trong xã hội, các tranh chấp HĐTD ngân hàng thường xảy ra khi các bên tham gia

hợp đồng không thống nhất được vấn đề mà các bên cần giải quyết. Vì vậy khi các

bên cần đến sự can thiệp của Tòa án, thì Tòa án chính là cơ quan phân định quyền

và nghĩa vụ của các bên nhằm đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cũng như

việc thực hiện nghĩa vụ của các đương sự. Việc giải quyết được mẫu thuẫn giữa các

bên tham gia bằng công tác hòa giải sẽ giúp giảm được thời gian và chi phí cho Tòa

án cũng như các bên tham gia tranh chấp. Vì vậy công tác hòa giải trong giải quyết

tranh chấp HĐTD ngân hàng cần phải được chú trọng và ưu tiên hàng đầu.

Việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng khi ra

quyết định xét xử phải quan tâm đến tính khả thi, khả năng thực hiện trong thực tiễn

để đảm bảo được quyền và lợi lích của các bên tham gia hợp đồng.

Thứ ba: Tăng cường tranh tụng tại phiên tòa là một trong những nội dung

quan trọng trong công cuộc cải các tư pháp hiện nay. Việc mở rộng tranh tụng tại

Tòa án sẽ giúp cho các bên tham gia bảo vệ được quyền và lợi ích của minh và giúp

62

cho việc xét xử của Tòa án các cấp nâng cao chất lượng khi ra ban hành bản án và

quyết định tranh gây sai sót trong hoạt động tố tụng.

Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của giải quyết tranh chấp dân sự nói chung

và giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng nói riêng là quyền tự quyết và tự định

đoạt thuộc về các đương sự. Việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp

HĐTD ngân hàng không chỉ Tòa có quyền chỉ định áp dụng các quy phạm pháp luật

để giải quyết các tranh chấp mà ở đây còn thể hiện sự bình đẳng của các bên tham

gia quan hệ pháp luật.

Thứ tư: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng xây dựng và phát triển đội ngũ Thẩm

phán, HTND đáp ứng được nghiệp vụ, chuyên môn về pháp luật để xử lý các vụ án

về tranh chấp HĐTD ngân hàng đủ về số lượng và chất lượng.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín

dụng ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án trong giai đoạn hiện nay

3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật

Với nhiều qui định phù hợp hơn về hợp đồng vay tài sản, BLDS năm 2015 đã

góp phần khắc phục những bất cập trong pháp luật về HĐTD ngân hàng. Quy định của

BLDS năm 2015 về vay tài sản có cơ cấu và nội hàm kế thừa đầy đủ BLDS 2005. Tuy

nhiên, BLDS năm 2015 cùng cần phải hoàn thiện một số vấn đề sau:

Thứ nhất, quy định pháp luật về lãi suất cho vay.

Phần lãi suất (Điều 468 BLDS 2015) đã nhấn mạnh nguyên tắc tự thỏa thuận.

Nếu các bên tự thỏa thuận về lãi suất thì không được vượt quá 20% năm của khoản

tiền vay. Trường hợp thỏa thuận lãi suất vượt quá quy định này thì mức lãi suất

vượt quá không có hiệu lực. Trường hợp có thỏa thuận lãi nhưng không xác định rõ

lãi suất và có tranh chấp thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn

quy định ở trên. Đây là quy định làm chấm dứt hoàn những tranh cải về việc áp

dụng lãi suất thỏa thuận vượt quá quy định của BLDS nhưng lại đúng với Thông tư

hướng dẫn của ngành chủ quản.

Trường hợp các bên tự thỏa thuận vay tài sản có kỳ hạn nhưng không có lãi

thì bên cho vay có quyền đòi hòi tài sản trước kỳ hạn nếu được bên vay đồng ý, còn

bên vay có quyền trả tài sản bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước một thời gian hợp

lý. Trong trường hợp vay có kỳ hạn và có lãi thì bên vay có quyền trả tài sản trước

kỳ hạn nhưng phải trả toàn bộ lãi suất theo kỳ hạn trừ khi có thỏa thuận khác hoặc

pháp luật có quy định khác.

63

Trường hợp vay không kỳ hạn và không có lãi thì các bên có quyền đòi lại

hoặc trã lại tài sản bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho nhau một thời gian hợp

lý. Trường hợp vay không kỳ hạn và có lãi thì hai bên có thể đòi lại hoặc trã lại tài

sản bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, bên cho vay được trã

lãi đến thời điểm nhận lại tài sản, bên vay chỉ phải trả lãi đến thời điểm trả nợ.

Điều 357 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền

thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi

suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng

không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật

này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của

Bộ luật này.” Bên cạnh đó, khoản 5 điều 466 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp

vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải

trả lãi như sau: a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương

ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi

theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này; b) Lãi trên nợ gốc

quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian

chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Ngoài ra, khoản 1 Điều 468 BLDS 2015 quy định: “Lãi suất vay do các bên

thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận

không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên

quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy

ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo

Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất

giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.”

Những quy định này thể hiện sự áp đặt bất hợp lý và đang tạo ra những rủi ro

pháp lý cho các hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay của các TCTD

nói riêng. Theo quy định tại khoản 1 điều 12 của Luật NHNN Việt Nam thì “NHNN

công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành

chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi”. Việc BLDS quy định phải trả lãi trên nợ

gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời

hạn vay tại thời điểm trả nợ và mức trần lãi suất không vượt quá 150% cũng với

mục đích chống cho vay nặng lãi. Tuy nhiên, việc đặt ra tỷ lệ 150% là không phù

hợp vì lãi suất cơ bản thường được quan niệm là lãi suất định hướng và ở mức rất

64

thấp so với lãi suất thị trường. Do vậy mức 150% không đủ để đảm bảo mức lãi suất

hợp lý thông thường trên thực tế mà các tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ cho vay

cần áp dụng. Trên thực tế, phần lớn các tổ chức, cá nhân cho vay đều phải áp dụng

mức lãi suất vượt quá mức lãi suất tối đa được quy định tại BLDS.

TCTD cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận đối với khách

hàng phù hợp với quy định của pháp luật về cho vay của TCTD đối với khách hàng

và trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm của khách hàng vay. Quy

định này cho phép các TCTD áp dụng lãi suất thị trường, đồng thời tạo ra hai mặt

bằng pháp lý đối với hoạt động cho vay: TCTD cho vay theo lãi suất thị trường còn

các tổ chức, cá nhân khác cho vay theo lãi suất quy định tại BLDS. Điều này tạo ra

sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật, đồng thời vẫn không loại trừ rủi ro

của các TCTD bởi lý do BLDS là văn bản pháp lý có hiệu lực cao hơn Thông tư. Vì

vậy, HĐTD ngân hàng của họ có thể bị tuyên vô hiệu bất kỳ lúc nào.

Trên thực tế nếu áp dụng các quy định của BLDS để giải quyết sẽ rất bất hợp

lý. Rõ ràng nếu áp dụng pháp luật như trên thì sẽ dẫn đến tình trạng tất cả các

TCTD đều vi phạm pháp luật. Theo quy định này thì lãi suất huy động và lãi suất

cho vay (vay và cho vay), căn cứ cách tính lãi suất quá hạn của các TCTD được ấn

định trên cơ sở và ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý với lãi suất cơ bản do NHNN

công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Các quy định này đã tỏ ra

không thực tế và luôn kiềm hãm sự phát triển của hoạt động ngân hàng vì nó giống

như một mệnh lệnh hành chính bắt buộc ngân hàng phải tuân theo trong khi đó thị

trường đòi hỏi cần phải được tự do. Mặt khác, với quy định về lãi suất như vậy có

thể làm cho hàng triệu HĐTD NGÂN HÀNG bị vô hiệu do vi phạm các quy định

của BLDS 2005 về lãi suất cho vay. Vì thực tế, có những thời điểm NHNN áp dụng

trần lãi suất huy động tối đa là 15%/năm, lãi suất cho vay là 19 – 23%/năm, thậm

chí là 24 %/năm, trong khi đó lãi suất cơ bản của NHNN công bố là 9%.

BLDS năm 2015 đã sửa đổi quy định về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản

theo hướng mở rộng biên độ giới hạn trần lãi suất do các bên thỏa thuận, theo quy

định của Điều 468: “1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận

không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên

quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy

65

ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo

Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy

định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.”

Quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015, là một trong những thay đổi quan

trọng và được đánh giá là có thể hạn chế được những bất cập trong việc áp dụng

quy định về lãi xuất theo BLDS năm 2005. Theo đó, lãi suất vay là do chính các bên

thỏa thuận, nếu vay có lãi thì lãi xuất thỏa thuận không được quá 20%/năm của

khoản tiền vay, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, không như cách tính lãi

suất thỏa thuận theo mức tham chiếu là lãi suất cơ bản của NHNN được quy định tại

khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005 “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng

không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho

vay tương ứng.”

Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015, trường hợp lãi suất theo

thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt

quá không có hiệu lực. Như vậy, lãi suất tối đa trong các hợp đồng vay tài sản các bên

được thỏa thuận theo BLDS năm 2015 không quá 20%/năm (tức 1,7%/tháng).

Về lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi

suất cơ bản do NHNN công bố theo quy định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005.

Theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của NHNN Việt Nam, về lãi

suất cơ bản của Việt Nam đồng để tính lãi suất, thì mức lãi suất cơ bản là 9%/01 năm,

tức là 0,75%/01 tháng. Lãi suất cao nhất các bên đương sự được thỏa thuận theo quy

định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2015 là 1,125%/01 tháng (tức 13,5%/01 năm).

So sánh quy định về lãi suất giữa BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 thấy:

BLDS năm 2015 quy định luôn mức lãi suất cao nhất được thỏa thuận trong các hợp

đồng dân sự vay tài sản là 20%, không phụ thuộc vào mức lãi suất cơ bản do

NHNN quy định. Mức lãi suất theo BLDS năm 2015 cao hơn so với BLDS năm

2005 mục đích giảm thiểu sự chênh lệch về mức lãi suất trong các hợp đồng dân sự

thông dụng với các HĐTD ngân hàng, bình đẳng hóa giữa các chủ thể khi tham

gia vào các giao dịch vay tài sản.

Thứ hai, về trường hợp không rõ về lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015, trường hợp không rõ

hoặc có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất theo

66

quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật này. Theo quy định này mức lãi suất trong

trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp sẽ là 10%/01 năm (tức 0,83%/tháng).

So với quy định tại khoản 2 Điều 476 BLDS năm 2005 thì trường hợp không

rõ về lãi suất hoặc các bên đương sự có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ

bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Theo quy

định này thì mức lãi suất có tranh chấp là 0,75%/01 tháng. Như vậy, mức lãi suất

trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất theo quy định của BLDS

năm 2015 không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của NHNN và mức lãi lớn hơn so

với quy định của BLDS năm 2005.

Việc thay đổi này đã giải quyết được mâu thuẫn giữa quy định tại khoản 1

Điều 476 BLDS năm 2005 với Điều 1 của Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày

26/02/2010 của NHNN quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa

thuận của TCTD đối với khách hàng.

Theo quy định tại Điều 12 Luật NHNN năm 2010 và khoản 2, khoản 3 Điều

91 Luật Các TCTD năm 2010, trong điều kiện bình thường, lãi suất trong hoạt động

ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận, không có trần lãi suất.

Về nghĩa vụ trả nợ của bên vay, trước đây tại khoản 4 và khoản 5 Điều 474

BLDS năm 2005 quy định:

“4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ

hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi

suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả

nợ, nếu có thoả thuận.

5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả

không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ

bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”

Nay theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015:

“4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả

không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy

định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời

gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.

5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không

đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:

67

a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với

thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo

mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;

b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng

tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”

Thứ ba, về thực hiện nghĩa vụ trả nợ quá hạn

Trường hợp vay không có lãi quá hạn

- Theo quy định tại khoản 4 Điều 475 BLDS năm 2005, trường hợp vay

không có lãi: Nếu khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên

vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố

tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ. Theo quy định trên trường hợp

vay không có lãi, nếu quá hạn bên vay sẽ phải chịu lãi mức là 0,75%/tháng.

- Theo quy định tại khoản 4 Điều 466 BLDS năm 2015, trường hợp vay

không lãi. Nếu quá hạn vay, người vay phải chịu mức lãi suất theo quy định tại

khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này (tức là bằng 50% mức lãi suất so với lãi suất vay

tối đa do các bên thỏa thuận). Trường hợp này mức lãi suất được áp dụng giống như

trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất.

Trường hợp vay có lãi quá hạn

- Theo quy định tại khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005, trường hợp vay có

lãi mà khi đến hạn bên vay không trả thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ

quá hạn theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời

điểm trả nợ. Như vậy, lãi suất quá hạn theo quy định cũ thấp hơn lãi suất tối đa mà

các bên được thỏa thuận (Bên vay chỉ phải chịu lãi suất 0,75%). Điều này mâu

thuẫn với lãi suất trong hạn tối đa mà các bên được thỏa thuận, không bảo vệ quyền

lợi cho bên cho vay; tạo điều kiện cho bên đi vay chây ỳ trách nhiệm trả nợ.

- Theo quy định tại khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, trường hợp vay có

lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi

theo quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 5 Điều này

Như vậy, BLDS năm 2015 quy định rõ 2 trường hợp vay có lãi khi đến hạn

mà không trả. Trường hợp thứ nhất, đối với tiền lãi phát sinh trong hạn chưa trả thì

phải chịu lãi suất như trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất

(10%/năm). Trường hợp thứ hai, đối với trường hợp lãi quá hạn chưa trả thì bên vay

phải chịu mức lãi suất bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng (ví dụ: Mức lãi trong

68

hợp đồng là 1%, quá hạn sẽ là 1,5%). Do vậy, theo quy định mới thì bên vay phải

trả lãi suất quá hạn trong trường hợp vay có lãi là 150%, so với lãi suất theo hợp

đồng các bên đã thỏa thuận (ví dụ: Lãi suất trong hạn các bên thỏa thuận với nhau

20%, nếu đến hạn bên vay không trả được sẽ phải chịu lãi suất 20% x 150% =

30%/năm). Với quy định này sẽ thúc đẩy được trách nhiệm trả nợ của bên vay, bảo

vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người cho vay, phù hợp với xu thế của thực

tiễn trong các giao dịch tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Điều này cũng đòi hỏi trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật với các

tranh chấp hợp đồng vay tài sản, mà theo đó, bên cho vay thường lợi dụng hoàn

cảnh khó khăn của người đi vay để buộc họ phải chịu lãi suất cao. Nếu có dấu hiệu

cấu thành tội phạm hình sự, cần xử lý theo quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015

về tội “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”

Vấn đề đặt ra, quy định trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi

suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường

hợp luật khác có liên quan quy định khác (khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015), so

với quy định khoản 2 Điều 91 Luật Các TCTD năm 2010 lại quy định, TCTD và

khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân

hàng của TCTD theo quy định của pháp luật. Với sự không thống nhất này, các

ngân hàng, TCTD sẽ chịu sự điều chỉnh của BLDS năm 2015 hay Luật Các TCTD

năm 2010?

Có thể thấy, hợp đồng vay tài sản nói chung, HĐTD ngân hàng nói riêng là

một loại giao dịch dân sự. Do đó, việc điều chỉnh quan hệ này phải bảo đảm các

nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, quy định về điều kiện có hiệu lực của giao

dịch dân sự và các nguyên tắc về giới hạn thực hiện quyền dân sự được quy định

trong BLDS. Quy định về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản là một trong những

điển hình của việc cụ thể hóa nguyên tắc giới hạn thực hiện quyền dân sự, theo đó

các bên trong hợp đồng vay có thỏa thuận về lãi suất nhưng không được vượt quá

mức lãi suất giới hạn luật định. Việc quy định trần lãi suất giúp Nhà nước có thể

điều tiết thị trường vay trong trường hợp cần có sự ổn định của kinh tế - xã hội, định

hướng chuẩn mực ứng xử trong các quan hệ cho vay, thực hiện chính sách cấm

hoặc hạn chế việc cho vay nặng lãi. Nhưng để bảo đảm không biến lãi suất trần trở

thành công cụ pháp lý để hành chính hóa quan hệ dân sự, bảo đảm tính linh hoạt

phù hợp với các quan hệ vay tài sản đa dạng, có thể được sửa đổi, bổ sung kịp thời

69

để đáp ứng yêu cầu của những biến động về kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, tại khoản

1 Điều 468 BLDS năm 2015 đã quy định mang tính linh hoạt theo hai cơ chế, đó

là: i) Căn cứ vào tình hình thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh lãi suất

theo đề nghị của Chính phủ; ii) Luật khác có liên quan quy định mức lãi suất riêng

cho các quan hệ cho vay đặc thù.

Như vậy, trong trường hợp luật có liên quan quy định khác về lãi suất thì sẽ

áp dụng lãi suất đó cho quan hệ vay thuộc phạm vi điều chỉnh của luật khác có liên

quan. Quy định này còn được hiểu không chỉ dành riêng cho quan hệ tín dụng của

các NHTM mà còn có thể áp dụng cho loại vay đặc thù vay khác như vay chính

sách xã hội, vay đầu tư phát triển, vay vàng, ngoại tệ... nếu Nhà nước xét thấy cần

điều chỉnh các quan hệ vay này bằng cơ chế lãi suất riêng. Nghĩa là nếu Luật Các

TCTD năm 2010 có cơ chế lãi suất trần riêng cho các HĐTD ngân hàng thì các

TCTD sẽ áp dụng theo quy định của Luật Các TCTD năm 2010.

Tuy nhiên, theo tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật Các TCTD hiện

hành, thực tiễn cho thấy chưa thực sự áp dụng một cơ chế lãi suất riêng cho các

HĐTD ngân hàng, mặc dù xét về mục đích chính sách pháp luật thì quy định này là

mong muốn của nhà làm luật. Nhưng xét về mặt kỹ thuật lập pháp quy định này đã

và đang dẫn đến những cách hiểu khác nhau, kể cả trong công tác xét xử của Tòa án

và điều đó không có lợi cho các chủ thể trong HĐTD ngân hàng trước những rủi ro

pháp lý có thể xảy ra trong thi hành pháp luật.

Bởi khoản 2 Điều 91 cho phép TCTD và khách hàng thỏa thuận về lãi suất

trong HĐTD ngân hàng trong giới hạn “theo quy định của pháp luật”. Đây là cách

quy định theo nhiều quan điểm của nhiều chuyên gia là “lòng vòng”, vì “theo quy

định của pháp luật” tức là vẫn có thể hiểu phải theo quy định của BLDS, trường

hợp NHNN ban hành thông tư, quyết định có quy định riêng về lãi suất khác với

quy định của BLDS thì đâu là quy định ưu tiên áp dụng? Từ đó, rất nhiều tranh chấp

liên quan đến vấn đề này, khi xét xử Tòa án đã căn cứ vào lãi suất quy định trong

BLDS để giải quyết.

Tại khoản 1 Điều 468 của BLDS năm 2015: “Trường hợp các bên có thỏa

thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của

khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”. Ngoài mức

trần lãi suất “cứng” 20%/năm, một vấn đề nữa cũng thu hút sự quan tâm của dư

luận, khi mà thời điểm có hiệu lực của BLDS năm 2015 đang đến gần, đó là hoạt

70

động cho vay tiêu dùng của các công ty tài chính sẽ được áp dụng theo luật nào,

Luật Các TCTD năm 2010 hay BLDS năm 2015?

Vấn đề này, theo quan điểm của tác giả, các công ty tài chính cũng là một

loại hình TCTD nên sẽ chịu sự chi phối của Luật Các TCTD hiện hành, chứ không

chịu sự điều chỉnh của Điều 468 BLDS năm 2015 về mức trần lãi suất 20%/năm.

Lập luận của những người ủng hộ loại ý kiến này cho rằng, tại khoản 2 Điều 91

Luật Các TCTD năm 2010, quy định TCTD và khách hàng được quyền thỏa thuận

về lãi suất. Theo các chuyên gia kinh tế, điều này là hợp lý, bởi thực tế cho thấy, với

các gói cho vay tiêu dùng, mức lãi suất 20%/năm là rất khó khăn, trong khi đó, hiện

tại lãi suất cho vay tiêu dùng thường lớn hơn và có biên độ dao động khá rộng từ

30% - 40%, thậm chí một số trường hợp có mức lãi suất cao hơn tùy thuộc vào mức

độ rủi ro tiềm ẩn của khách hàng. Nguyên nhân chủ yếu là do đối tượng khách hàng

của công ty tài chính thường ít có năng lực tài chính hoặc tài sản đảm bảo, dẫn đến

rủi ro thu hồi nguồn vốn rất cao, nên lãi suất cần phải cao để “bù đắp”. Tất nhiên

mức lãi suất của hoạt động này đều được định trên nguyên tắc thỏa thuận giữa

khách hàng và các công ty tài chính.

Thực tiễn cho thấy, nhu cầu vay tiêu dùng ở nước ta là rất lớn, do đó các

công ty tài chính, các NHTM đang có rất nhiều cơ hội để phát triển. Tuy nhiên, họ

đang gặp nhiều bất cập trong quá trình hoạt động bởi chưa có một khuôn khổ pháp

lý riêng. Do vậy, cơ quan chức năng cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn việc

thực hiện BLDS năm 2015 về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản một cách cụ thể

hơn, có như vậy mới giúp người dân hiểu được quy định nêu tại khoản 1 Điều 468

BLDS năm 2015 chỉ áp dụng đối với các quan hệ vay giữa người dân với người

dân. Còn các TCTD thì được phép thực hiện theo quy định của Luật Các TCTD

hiện hành. Cụ thể là được phép thỏa thuận mức lãi suất vay tiêu dùng, khuyến khích

hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển, phục vụ cải thiện đời sống xã hội và góp

phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Ngoài ra, để nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng tại

Tòa án, cũng cần ban hành các quy định thủ tục rút gọn vụ về án giải quyết tranh

chấp HĐTD ngân hàng. Hiện nay, thủ tục tố tụng dân sự giải quyết tranh chấp

HĐTD ngân hàng chưa linh hoạt, nhanh gọn xử lý vấn đề gây tốn kém về thời gian

và chi phí cho các bên tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS, thủ tục giải quyết

tranh chấp HĐTD ngân hàng còn mất rất nhiều thời gian. Thông thường để giải

71

quyết xong một tranh chấp HĐTD ngân hàng phải mất gần hai năm. Trình tự, thủ

tục ở Toà án thường kéo dài lâu do phải trải qua các khâu: thụ lý, Toà án nghiên cứu

và tiến hành hoà giải đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, (khiếu nại nếu có) cũng một

thời gian khá dài, đến khi bản án có hiệu lực pháp luật thì phải chờ cơ quan thi hành

án xử lý. Trình tự, thủ tục kéo dài nhiều thời gian như vậy khiến cho các bên trong

tranh chấp luôn ở trong tình trạng chờ đợi, mệt mỏi và chi phí kéo theo là tất yếu.

Thực tế này đòi hỏi công việc giải quyết tranh chấp ở Toà án cần rút ngắn thời gian

làm cho quá trình giải quyết tranh chấp nhanh gọn, đúng pháp luật, đơn giản nhưng

vẫn bảo vệ quyền lợi các bên trong hợp đồng.

Các tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng trước khi đã mang ra Tòa án

giải quyết thì họ đã tiến hành các bước thương lượng, hoà giải nên về các chứng cứ

chứng minh vụ việc đã có tình tiết rõ ràng và có căn cứ pháp lý. Đối với những

tranh chấp HĐTD ngân hàng mà chứng cứ rõ ràng, bị đơn có địa chỉ, lai lịch cụ thể,

họ thừa nhận nghĩa vụ của mình trước nguyên đơn, nếu nguyên đơn xuất trình được

chứng cứ bằng văn bản để chứng minh cho yêu cầu của mình và nếu như bị đơn

cùng tất cả những người liên quan khác trong vụ tranh chấp không có sự phản đối

về sự giả mạo của bằng chứng đó thì Toà án có thể khẳng định được tính chính xác

và độ tin cậy của các thông tin trong các văn bản đó. Do vậy, Toà án không phải

mất nhiều thời gian để điều tra, xác minh mà vẫn có thể giải quyết đúng pháp luật

vụ tranh chấp đó, đảm bảo giải quyết nhanh gọn, hiệu quả.

Mới đây, tại BLTTDS 2015 có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 đã thêm trình tự,

thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn được quy định từ điều 316 đến

324 của Bộ luật này. Việc ban hành thủ tục rút gọn này sẽ giúp góp phần nâng cao

hiệu quả hoạt động của Tòa án, tạo cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết nhanh chóng

các tranh chấp phát sinh trong xã hội mà vẫn bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp

của cá nhân, cơ quan, tổ chức; giảm nhẹ thời gian, chi phí tố tụng của Tòa án và

thời gian, chi phí của các đương sự cho việc tham gia tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên,

cần phải có cơ chế giám sát chặt chẽ trình tự tố tụng này để đảm bảo quyền lợi cho

bên vay, vì khi xảy ra tranh chấp HĐTD ngân hàng thì các TCTD (bên cho vay) là

bên mong muốn được áp dụng giải quyết theo trình tự tố tụng rút gọn nhất để nhanh

chóng thu hồi vốn và giải quyết nợ xấu do hoạt động tín dụng gây ra. Bổ sung thêm

các văn bản hướng dẫn về xử án theo thủ tục rút gọn của BLTTDS nhằm đảm bảo

tính chính xác khi áp dụng các vụ án theo thủ tục này.

72

Thứ ba, hoàn thiện pháp về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng.

Theo đó, cần hoàn thiện các quy định về chủ thể thế chấp tài sản. Để việc

tham gia giao dịch thế chấp tài sản nhất là thế chấp giá trị quyền sử dụng đất có hiệu

quả, phát huy hết tác dụng của việc đảm bảo nghĩa vụ thì pháp luật đất đai và pháp

luật dân sự cần có những điều chỉnh phù hợp liên quan đến chủ thể thế chấp khi

tham gia hợp đồng thế chấp nhất là đối với hộ gia đình, cá nhân khi thế chấp Quyền

sử dụng đất. Tăng cường hơn nữa quyền tự chủ, quyền tự do cam kết, tự nguyện

thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ thế chấp tài sản. Do đó, pháp luật cần quy

định điều kiện đối với hộ gia đình khi thế chấp Quyền sử dụng đất, cụ thể:

- Bộ luật dân sự cần xác định các tiêu chí để xác lập địa vị pháp lý của hộ gia

đình xác lập các quyền về tài sản cho hộ gia đình đó. Tiêu chí nào để xác định đại

diện chủ hộ và tiêu chí nào để xác định các thành viên trong hộ gia đình. Đối với

Luật đất đai cần xác định tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp nào thì xác

định là chung của cả hộ gia đình và riêng cho một thành viên trong hộ gia đình. Bên

cạnh đó pháp luật cần bổ sung các quy định về quản lý đăng ký thành viên hộ gia

đình (đăng ký lần đầu, thay đổi, chấm dứt) nhằm xác định tư cách thành viên hộ

gia đình, qua đó tạo thuận lợi cho hộ gia đình khi thực hiện các quyền của người sử

dụng đất.

- Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành đối với trường hợp thế chấp

quyền sử dụng đất đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trước đây là

còn ghi là hộ gia đình nên quy định rõ trong trường hợp thế chấp này thì chỉ cần chủ

hộ gia đình ký vào hợp đồng thế chấp và phải có sự đồng ý của những người trong

hộ gia đình đó.

Thứ tư, hoàn thiện quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án.

Với việc ban hành Bộ luật tố tụng Dân sự 2015 có hiệu lực từ 01/07/2016 thì

thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện đã được mở rộng. Cùng

với thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng như hiện nay

là quá tải đối với Toà án nhân dân cấp huyện nhất là đối với những huyện có hoạt

động kinh tế phát triển, nhu cầu vay vốn tín dụng phát triển kinh doanh tăng lên

đồng nghĩa với việc tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng tăng cao và phức tạp.

Qua số liệu thống kê kết quả xét xử án phúc thẩm về giải quyết tranh chấp

hợp đồng tín dụng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội của Luận văn, thì số

lượng án ở cấp sơ thẩm bị sửa và hủy vẫn còn tồn tại. Một phần nguyên nhân đó là

73

do năng lực của đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện còn hạn chế về số

lượng, kiến thức, kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp HĐTD nên dẫn đến tiến

độ giải quyết tranh chấp còn chậm và nhiều sai xót. Vì vậy, ngoài việc tăng thẩm

quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án cần tăng thêm về số lượng và chất lượng:

Thẩm phán, thư ký, cơ sở vật chất của Tòa án nhân dân cấp huyện nhằm đảm bảo

công tác giải quyết tranh chấp nói chung và tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng

của Tòa án nhân dân cấp huyện được đúng theo quy định của BLTTDS.

Thứ năm: Ban hành các quy định thủ tục rút gọn vụ về án giải quyết tranh

chấp hợp đồng tín dụng. Hiện nay, thủ tục tố tụng dân sự giải quyết tranh chấp hợp

đồng tín dụng chưa linh hoạt, nhanh gọn xử lý vấn đề gây tốn kém về thời gian và

chi phí cho các bên tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS, thủ tục giải quyết

tranh chấp HĐTD còn mất rất nhiều thời gian. Thông thường để giải quyết xong

một tranh chấp HĐTD phải mất gần hai năm. Trình tự, thủ tục ở Toà án thường kéo

dài lâu do phải trải qua các khâu: thụ lý, Toà án nghiên cứu và tiến hành hoà giải

đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, (khiếu nại nếu có) cũng một thời gian khá dài, đến

khi bản án có hiệu lực pháp luật thì phải chờ cơ quan thi hành án xử lý. Trình tự, thủ

tục kéo dài nhiều thời gian như vậy khiến cho các bên trong tranh chấp luôn ở trong

tình trạngchờ đợi, mệt mỏi và chi phí kéo theo là tất yếu. Thực tế này đòi hỏi công

việc giải quyết tranh chấp ở Toà án cần rút ngắn thời gian làm cho quá trình giải

quyết tranh chấp nhanh gọn, đúng pháp luật, đơn giản nhưng vẫn bảo vệ quyền lợi

các bên trong hợp đồng.

Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng trước khi đã mang ra Tòa án

giải quyết thì họ đã tiến hành các bước thương lượng, hoà giải nên về các chứng cứ

chứng minh vụ việc đã có tình tiết rõ ràng và có căn cứ pháp lý. Đối với những

tranh chấp HĐTD mà chứng cứ rõ ràng, bị đơn có địa chỉ, lai lịch cụ thể, họ thừa

nhận nghĩa vụ của mình trước nguyên đơn, nếu nguyên đơn xuất trình được chứng

cứ bằng văn bản để chứng minh cho yêu cầu của mình và nếu như bị đơn cùng tất

cả những người liên quan khác trong vụ tranh chấp không có sự phản đối về sự giả

mạo của bằng chứng đó thì Toà án có thể khẳng định được tính chính xác và độ tin

cậy của các thông tin trong các văn bản đó. Do vậy, Toà án không phải mất nhiều

thời gian để điều tra, xác minh mà vẫn có thể giải quyết đúng pháp luật vụ tranh

chấp đó, đảm bảo giải quyết nhanh gọn, hiệu quả.

74

BLTTDS 2015 đã thêm trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục

rút gọn được quy định từ điều 316 đến 324 của Bộ luật này. Việc ban hành thủ tục

rút gọn này sẽ giúp góp phần nângcao hiệu quả hoạt động của Tòa án, tạo cơ sở

pháp lý để Tòa án giải quyết nhanh chóng các tranh chấp phát sinh trong xã hội mà

vẫn bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; giảm nhẹ

thời gian, chi phí tố tụng của Tòa án và thời gian, chi phí của các đương sự cho việc

tham gia tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên, cần phải có cơ chế giám sát chặt chẽ trình tự

tố tụng này để đảm bảo quyền lợi cho bên vay, vì khi xảy ra tranh chấp HĐTD thì

các TCTD (bên cho vay) là bên mong muốn được áp dụng giải quyết theo trình tự tố

tụng rút gọn nhất để nhanh chóng thu hồi vốn và giải quyết nợ xấu do hoạt động tín

dụng gây ra. Bổ sung thêm các văn bản hướng dẫn về xử án theo thủ tục rút gọn của

BLTTDS nhằm đảm bảo tính chính xác khi áp dụng các vụ án theo thủ tục này.

Như vậy, để các điều luật này thực sự phát huy tác dụng và có hiệu quả cao

nhất khi đi vào thực tiễn. Đề nghị trong thời gian tới, các ngành tư pháp trung ương

cần tiếp tục nghiên cứu, xem xét giải quyết những vướng mắc như sau:

- Sớm có văn bản hướng dẫn việc thu thập chứng cứ sau khi đương sự gửi

đơn khởi kiện trực tuyến, theo hướng: Thẩm phán có trách nhiệm yêu cầu đương sự

giao nộp tài bản chính đơn khởi kiện và tài liệu gốc kèm theo để lưu hồ sơ và chỉ

đánh giá chứng cứ trên cơ sở những văn bản, tài liệu gốc này, còn chứng cứ thu

thập trên cổng thông tin điện tử chỉ mang tính chất tham khảo.

- Đảm bảo sự vận hành thông suốt và nâng cấp an ninh của Công thông tin

điện tử nhằm khắc phục hiện tượng trang web không thể truy cập được hoặc bị sao

chép, “đánh cắp” thông tin.

Với việc ban hành các quy định về gửi đơn kiện, cấp tống đạt qua trực tuyến

của BLTTDS 2015, TAND Tối cao cần xây dựng thêm phiên tòa xét xử qua trực

tuyến. Ví dụ như: Tòa án nhân dân tỉnh xử phúc thẩm thì người dân ở huyện, tỉnh

xa, hoặc ở nước ngoài, có thể tham gia phiên tòa qua màn hình trực tuyến, để người

dân bớt phải đi lại, di chuyển về tòa tham dự trực tiếp, tiết kiệm tiền bạc, thời gian

và công sức cho người dân, đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự không đến

được Tòa án do điều kiện địa lý và bị xét xử vắng mặt. Để xây dựng mô hình này

TAND Tối cao cần đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hành chính tư

pháp, tham khảo mô hình xét xử này từ các nước phát triển để áp dụng vào xét xử

thực tiễn tại Việt Nam.

75

Ngoài ra, cần bổ sung thủ tục yêu cầu thanh toán nợ vào những việc thuộc

thẩm quyền của Tòa án. Theo đó, trên cơ sở đơn của người có quyền yêu cầu và các

hồ sơ hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp. Tòa án xem xét và ra quyết định buộc

bên có nghĩa vụ phải thanh toán nghĩa vụ và ra quyết định việc xử lý tài sản theo

hợp đồng của các bên có nghĩa vụ không thanh toán được nghĩa vụ. Việc ra quyết

định là căn cứ để cho UBND, Công an, các tổ chức nhà nước liên quan phối hợp với

các bên tham trong hợp đồng trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, nhằm bảo vệ

quyền lợi của các bên.

3.2.2. Các giải pháp về tổ chức và thực hiện

3.2.2.1. Nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm phán, hội thẩm nhân dân của

Tòa án

Thẩm phán là người có vai trò quyết định trong việc cho ra một bản án có giá

trị pháp lý cao. Vì vậy, đội ngũ thẩm phán phải có năng lực, luôn cập nhật những

kiến thức mới và có kinh nghiệm dày dặn thì mới nắm bắt, giải quyết được các vấn

đề một cách tốt nhất. Do đội ngũ thẩm phán ở Toà án các quận, huyện còn hạn chế

trong việc bồi dưỡng kiến thức mới nên việc giải quyết các vụ án, đặc biệt là các vụ

án tranh chấp HĐTD ngân hàng còn nhiều thiếu sót và hạn chế dẫn đến nhiều bản

án bị hủy. Chính vì thực tiễn như vậy đòi hỏi cần tăng cường, bồi dưỡng kiến thức

cho các thẩm phán, bồi dưỡng cho những quy định mới về giải quyết tranh chấp

HĐTD ngân hàng. Công việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán một cách

thường xuyên, đầy đủ thì mới nâng cao chất lượng và hiệu quả xét xử của họ ở các

Toà án quận, huyện.

Ngoài ra, chất lượng bản án không cao phụ thuộc nhiều vào phẩm chất đạo

đức của Thẩm phán. Vì vậy, đối với các bản án tuyên không đúng ảnh hưởng đến

quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân, gây thất thoát tài sản Nhà nước thì cần

tiến hành kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm để có biện pháp xử lý phù hợp với các quy

định pháp luật. Cần quy trách nhiệm cụ thể cho các cá nhân có liên quan, xử lý

nghiêm minh đối với các cá nhân, tập thể cán bộ của Tòa án có vi phạm, những

trường hợp vi phạm pháp luật, phẩm chất đạo đức kém phải kiên quyết xử lý

nghiêm.

Ngày nay, khi xã hội ngày một phát triển đòi hỏi Thẩm phán không chỉ phải

giỏi về chuyên môn mà còn phải đáp ứng yêu cầu về khả năng ngoại ngữ và sử

dụng công nghệ thông tin một cách hiệu quả. Vì vậy, cần phải bổ sung quy định của

76

pháp luật về tiêu chuẩn và nguồn bổ nhiệm thẩm phán. Nguồn bổ nhiệm Thẩm phán

không chỉ từ những người đang công tác trong ngành mà còn cả những người là các

luật sư có đầy đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành công

tác bổ nhiệm thẩm phán phải minh bạch, đảm bảo chọn được Thẩm phán có năng

lực chuyên môn và đạo đức. Từ nhận định trên, cần thay thế quy định bổ nhiệm

thẩm phán bằng thi tuyển thẩm phán, thực hiện công tác thi tuyển nghiêm túc, công

bằng đối với các đối tượng dự thi.

3.2.2.2. Nâng cao ý thức của các chủ thể trong giải quyết tranh chấp HĐTD

ngân hàng

Các tranh chấpxảy ra trong việc thực hiện HĐTD ngân hàng thường do

nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ quan xuất

phát từ nguyên nhân ý thức của người dân chưa cao. Chính vì vậy, cần tăng cường

tuyên truyền nâng cao ý thức người dân về vấn đề pháp luật và vấn đề trách nhiệm

của bản thân. Có như vậy thì các tranh chấp sẽ phần nào giảm đi và hơn nữa sẽ giúp

quá trình giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng ở Toà án sẽ nhanh chóng hơn một

khi người dân đi vay đã có ý thức tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình.

3.2.2.3Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và chế độ cho TAND

Cùng với việc kiện toàn về tổ chức và cán bộ, để các Tòa án có thể hoàn

thành tốt nhiệm vụ, cần đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất cho các Tòa án.

Mặc dù các trang thiết bị và phương tiện làm việc của cán bộ ở các Tòa án đã

được nâng lên một bước, nhưng "nhìn chung vẫn còn thiếu và lạc hậu, lại chậm

được đổi mới". Cần trang bị cho mỗi Tòa án cấp huyện để tiếp cận với sự phát triển

của công nghệ thông tin. Cũng cần trang bị thêm cho mỗi Tòa án bảo đảm đủ bàn

ghế, tủ làm việc và các phương tiện làm việc cần thiết khác cho cán bộ. Ngoài việc

đầu tư xây dựng, cải tạo trụ sở số kinh phí chi thường xuyên của các Tòa án cũng

phải được tăng thêm; tiền lương và các chế độ đãi ngộ đối với người làm công tác

xét xử phải được ưu tiên.

77

Kết luận chương 3

Trong chương 3 của luận văn, học viên phân tích về quan điểm và giải pháp

nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án

trong giai đoạn hiện nay.

Thứ nhất, về quan điểm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín

dụng ngân hàng có thể thấy gồm những quan điểm sau: một là cần hoàn thiện hệ

thống tổ chức và hoạt động của tòa án, cần đảm bảo chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020, cần đảm bảo pháp chế trong xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng,

cần đảm bảo quyền con người, quyền công dân.

Thứ hai, về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về giải quyết tranh chấp

hợp đồng tín dụng ngân hàng tại tòa án nhân dân trong thời gian tới thì luận văn đã

đưa ra 2 đề xuất sau:

Một là các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật có liên quan gồm: hoàn thiện

quy định của BLDS về hợp đồng cho vay và hợp đồng tín dụng, giải pháp hoàn

thiện quy định của Luật các TCTD, hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng dân sự

về trình tự, thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.

Hai là các giải pháp về tổ chức và thực hiện như giải pháp về nâng cao năng

lực, trình độ của đội ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân dân, giải pháp về nâng cao quan

hệ phối hợp, giám sát trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, giải pháp về

đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị.

78

KẾT LUẬN

Thông qua việc nghiêm cứu đề tài: “Giải quyết tranh chấp HĐTD qua thực

tiễn xét xử phúc thẩm của TAND thành phố Hà Nội”, luận văn đã làm rõ được

những vấn đề lý luận về HĐTD, về pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD của Tòa

án nhân tỉnh, đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp HĐTD của Tòa án án nhân

dân thành phố Hà Nội, để từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định

pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTD, nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm

chất đạo đức cho những người trực tiếp liên quan đến giải quyết tranh chấp HĐTD

tại TAND thành phố Hà Nội, nhằm giải quyết án về tranh chấp HĐTD tại thành phố

Hà Nội được chính xác, kịp thời và có hiệu quả.

Về cơ bản, luận văn đã làm sáng tỏ các định nghĩa, phân tích các đặc điểm,

đặc trưng của HĐTD cũng như giải quyết tranh chấp về HĐTD tại TAND. Đồng

thời đã phân tích, đánh giá về thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật giải quyết

tranh chấp HĐTD của Tòa án, đánh giá thực trạng về những kết quả đã đạt được

cũng như những hạn chế trong hoạt động xét xử các tranh chấp về HĐTD tại TAND

thành phố Hà Nội cũng như những nguyên nhân dẫn đến tồn tại nêu trên.

Trên cơ sở lý luận, qua nghiên cứu thực tiễn xét xử giải quyết tranh chấp

HĐTD của TAND thành phố Hà Nội, luận văn đã chỉ ra chỉ ra những tồn tại, hạn

chế cũng như nguyên nhân của hạn chế, từ đó đưa ra các quan điểm cũng như các

giải pháp. Nếu như thực hiện các giải pháp đã đề ra một cách đồng bộ sẽ nâng cao

được chất lượng giải quyết tranh chấp HĐTD của TAND thành phố Hà Nội và cho

các Tòa án khác có thực trạng tương tự.

Luận văn được thực hiện xuất phát từ công tác giải quyết tranh chấp HĐTD

qua thực tiễn xét xử của TAND thành phố Hà Nội. Tuy bản thân đã có nhiều cố

gắng, nỗ lực và được sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy hướng dẫn, các Thẩm phán,

Thư ký hỗ trợ rất nhiều nhưng do thời gian nghiêm cứu có hạn, vốn kiến thức còn ít

ỏi và được giới hạn trong khuân khổ luận văn thạc sĩ nên những vấn đề nêu trong

luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tác giả rất mong nhận được

ý kiến đóng góp, phê bình của các thầy cô và các nhà nghiên cứu để Luận văn được

hoàn thiện hơn./.

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của

Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội

2. Bộ Tư pháp (2013), Nghị định Số: 8019/VBHN-BTP ngày 10/12/2013

của Bộ Tư Pháp về giao dịch bảo đảm, Hà Nội

3. Hoàng Văn Bích (2014), Giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng có

thế chấp tài sản qua thực tiễn xét xử tại Vĩnh Phúc, Đại Học Quốc gia Hà Nội, Hà

Nội

4. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về

giao dịch bảo đảm, Hà Nội

5. Chính phủ (2010), Nghị định 83/2010/ NĐ-CP ngày 23 tháng 07 năm

2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, Hà Nội

6. Chính phủ (2012), Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của

Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP

ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Hà Nội

7. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư pháp (2011), Ba vấn đề cần cảnh báo

trong việc công chứng hợp đồng ủy quyền, Hà Nội

8. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư Pháp (2012), Nguyên nhân dẫn đến nợ

xấu của các TCTD - Nhìn từ góc độ các quy định của pháp luật hiện, Hà Nội

9. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư pháp (2013), Một số vấn đề về xử lý

tài sản bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm đã được công chứng, Hà Nội

10. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tài Chính (2012), Vay nợ tín dụng: Rối

chuyện bảo lãnh, Hà Nội

11. Bùi Ngọc Cường, (2004), Một số vấn đề về quyền tựdo kinh doanh

trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà

Nội

12. Trần Văn Duy – Nguyễn Hương Lan (2012), Vướng mắc trong giải

quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản và một số kiến nghị, http://www.tks.edu.vn.

13. Phạm Thị Hồng Đào – Văn phòng luật sư Thạnh Hưng (2016), Thủ

tục rút gọn theo quy định BLTTDS năm 2015, http://www.moj.gov.vn.

14. Phạm Văn Đàm (2011), “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện

HĐTD ngân hàng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3/2011, Hà Nội

80

15. Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2005), Giáo trình Luật Ngân

hàng Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

16. Hội đồng thẩm phán TAND tối cao (2012), Nghị quyết 03/2012/NQ-

HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về hướng dẫn thi

hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS

được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung Bộ Luật TTDS năm 2011, Hà Nội

17. Nguyễn Thị Thu Hồng (2013), Thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTD

ngân hàng qua thực tiễn xét xử tại Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội, Học

viện Khoa học Xã Hội, Hà Nội

18. Lý Thị Thanh Huyền (2012), Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải

quyết tranh chấp về thừa kề của TAND ở thành phố Hà Nội, Học viện Khoa học Xã

Hội, Hà Nội

19. Phạm Quốc Khánh (2013), Giải pháp xử lý nợ xấu hiên nay của các

NHTM Viêt Nam, http://www.tapchi.hvnh.edu.vn

20. Ngân hàng nhà nước (2001), Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN

ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của

TCTD đối với khách hàng, Hà Nội

21. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định số: 127/2005/QĐ-

NHNN ngày 03/02/2005 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều

của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định

số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN, Hà Nội

22. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2013), Thông tư số 07/2013/TT-

NHNN ngày 14/3/2013 của Thống đốc NHNN quy định về việc kiểm soát đặc biệt

đối với TCTD, Hà Nội

23. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2014), Thông tư số 08/2014/TT-

NHNN ngày 17/3/2014 của Thống đốc NHNN Quy định lãi suất cho vay ngắn hạn

tối đa bằng đồng Việt Nam của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với

khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế, Hà

Nội

24. Ngân hàng nhà nước (2016), Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30-

12-2016 về quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước

ngoài đối với khách hàng, Hà Nội

25. Quốc Hội (2005), BLDS, Hà Nội

81

26. Quốc Hội (2015), BLDS, Hà Nội

27. Quốc Hội (2011), BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung, Hà Nội

28. Quốc Hội (2015), BLTTDS, Hà Nội

29. Quốc Hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội

30. Quốc Hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội

31. Quốc Hội (2005), Luật Giao dịch điện tử, Hà Nội

32. Quốc Hội (2010), Luật Trọng tài thương mại, Hà Nội

33. Quốc Hội (2010), Luật NHNN Việt Nam, Hà Nội

34. Quốc Hội (2010), Luật Các TCTD, Hà Nội

35. Quốc hội (2014), Nghị quyết số 81/2014/QH13 ngày 22/11/2014 của

Quốc hội về việc thi hành luật tổ chức TAND, Hà Nội

36. Đào Thái Sơn – Vụ Pháp chế, NHNN (2014), Những thay đổi của

pháp luật về giao dịch bảo đảm, http://www.intecovietnam.com.

37. Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2012), HĐTD ngân hàng và biện

pháp bảo đảm tiền vay, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội

38. Trần Thị Thùy Trang (2014), Pháp luật về giải quyết tranh chấp phát

sinh từ HĐTD ngân hàng bằng con đường Tòa án ở Việt nam, Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội

82