VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG QUỐC ANH
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ
PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG QUỐC ANH
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ
PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN ĐÌNH HẢO
Hà Nội - 2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG TẠI TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM ................................................ 6
1.1. Khái quát chung về hợp đồng tín dụng ngân hàng ........................................ 6
1.2. Khái quát về tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ............................... 11
1.3. Khái quát về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại
Tòa án cấp phúc thẩm ......................................................................................... 22
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng tại Tòa án cấp phúc thẩm .................................................................. 28
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THEO THỦ TỤC
PHÚC THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................. 31
2.1. Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa
án cấp phúc thẩm ................................................................................................ 31
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
THEO THỦ TỤC PHÚC PHÚC THẨM TẠI TÒA ÁN TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY .................................................................................................. 60
3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án trong giai đoạn hiện nay ............. 60
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án trong giai đoạn hiện nay ............. 63
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu tôi sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,
đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự
tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn
của Việt Nam. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của
luận văn này.
Hà Nội, ngày 6 tháng 06 năm 2020
HỌC VIÊN
Trương Quốc Anh
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, tác giả đã nhận được sự
hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Trần Đình Hảo và những ý kiến quý báu về
chuyên môn của các thầy cô trong Trường. Đến nay, tác giả đã hoàn thành luận
văn thạc sĩ với đề tài “Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ngân
hàng từ thực tiễn xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội”.
Tác giả cũng xin trân trọng cảm ơn gia đình, các đồng nghiệp đã quan tâm,
tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ trong việc dành thời gian nghiên cứu, tìm kiếm thu
thập thông tin, tài liệu trong quá trình thực hiện luận văn.
Do trình độ nghiên cứu còn hạn chế cũng như thời gian nghiên cứu chưa
dài nên Luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của Quý thầy cô và quý độc giả.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 6 tháng 06 năm 2020
HỌC VIÊN
Trương Quốc Anh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐTD Hợp đồng tín dụng
NHNN Ngân hàng nhà nước
XHCN Xã hội chủ nghĩa
TAND Tòa án nhân dân
BLDS Bộ luật dân sự
BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự
HTND Hội thẩm nhân dân
NHTM Ngân hàng thương mại
TCTD Tổ chức tín dụng
HĐXX Hội đồng xét xử
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ở cấp phúc
thẩm của toà án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2015 – 2019 ................................. 55
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước đã
góp phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào công cuộc cải tiến nước nhà, mở ra
nhiều cơ hội mới và cũng đặt ra những thách thức vô cùng to lớn cho mọi lĩnh vực,
mọi doanh nghiệp trong đó không thể không nói đến ngân hàng, một lĩnh vực hết
sức nhạy cảm ở các nước đi lên từ nền kinh tế bao cấp. Ngân hàng ra đời và phát
triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa để giải quyết nhu
cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán…, phục vụ cho việc phát triển, mở rộng sản
xuất kinh doanh của các tổ chức kfinh tế, cá nhân. Trong hoạt động ngân hàng thì
cho vay là hoạt động truyền thống mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng
nhưng cũng là hoạt động tiềm ẩn những rủi ro vô cùng lớn. Biểu hiện của rủi ro tín
dụng khi khách hàng không hoàn trả gốc và lãi đúng hạn hoặc phát sinh ra những
tranh chấp trong hợp đồng tín dụng (HĐTD) ngân hàng…
Nhà nước ta đang trong quá trình đổi mới mọi lĩnh vực của nền kinh tế,
chính trị, xã hội và các lĩnh vực khác góp phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào
công cuộc cải tiến đất nước. Các giao dịch trong xã hội diễn ra hàng ngày rất đa
dạng, pháp luật khó có thể điều chỉnh được toàn bộ các quan hệ trong cuộc sống.
Thông thường các bên lựa chọn hình thức giao dịch thông qua hợp đồng – hợp đồng
ghi nhận sự thỏa thuận giữa các bên, là cơ sở để pháp luật bảo vệ quyền lợi của các bên
khi có tranh chấp. Trong lĩnh vực ta nhận thấy HĐTD ngân hàng có nhiều trong các
giao dịch với các đối tác cho nhu cầu vay vốn trong phát triển kinh doanh, sản xuất.
Bởi HĐTD ngân hàng chứa nhiều yếu tố phức tạp và nhạy cảm nên nó rất dễ dẫn đến
tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng. Khi lợi ích giữa các bên bị ảnh hưởng quyền
đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp sẽ làm thủ tục khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài
thương mại để được pháp luật bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng của Tòa án
đóng vai trò rất quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ
chức, các nhân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và đặc biệt góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong nên kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch
dân sự, đặc biệt là giao dịch thông qua HĐTD ngân hàng diễn ra ngày càng nhiều
trên phạm vi rộng, gây nhiều khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp này ở Tòa án.
Trước tình hình đó cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến việc
1
giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình giải
quyết tranh chấp trong lĩnh vực này cũng nhằm đảm quyền và lợi ích của các bên
tham gia hợp đồng.
Trong những năm qua, pháp luật về tổ chức tín dụng (TCTD) và pháp luật về
tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng đã được Nhà nước quan tâm và không
ngừng được hoàn thiện như: Bộ luật dân sự (BLDS) năm, Bộ luật tố tụng dân sự
(BLTTDS), Luật Các TCTD, Luật ngân hàng nhà nước (NHNN) và các văn bản
hướng dẫn thi hành... và những văn bản trên tạo ra khung pháp lý quan trọng, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho vay của các TCTD, thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia, góp phần thúc đẩy nguồn vốn cho các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức
sản xuất kinh doanh phát triển góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
bên cạnh những thuận lợi và kết quả đạt được thì pháp luật về các TCTD và pháp
luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng còn rất nhiều bất cập.
Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Hà Nội là tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền
xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, hình sự, hành chinh theo thẩm quyền và có thẩm
quyền xét xử phúc thẩm các vụ án mà TAND cấp huyện trên địa bàn đã xét xử sơ
thẩm mà có kháng cáo, kháng nghị. Tranh chấp HĐTD ngân hàng trong những năm
vừa qua trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn ra ngày một nhiều, trong đó có nhiều vụ
án rất phức tạp, cả về đối tượng tranh chấp và phạm vi tranh chấp. Điều này dẫn đến
việc giải quyết tranh chấp có nhiều phức tạp. Nhiều vụ án đã được giải quyêt ở cấp
sơ thẩm nhưng sau đó có kháng cáo, kháng nghị và được TAND thành phố Hà Nội
xét xử phúc thẩm.
Để tìm hiểu rõ hơn trong việc giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng
theo Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tòa án cấp phúc thẩm gặp những thuận
lợi, khó khăn nào, trình tự giải quyết như thế nào, vấn đề đảm bảo công bằng giữa
lợi ích các bên như thế nào, việc áp dụng pháp luật giải quyết gặp những thuận lợi
và khó khăn gì trên thực tế nên đó cũng là lý do mà người viết lựa chọn đề tài “Giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ngân hàng từ thực tiễn xét xử
phúc thẩm Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp
cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
Hiện nay, ở Việt Nam các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín
dụng ngân hang nói chung và giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng nói riêng có
2
nhiều công trình nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau như: “Tranh chấp hợp
đồng và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng” của tác giả Phan Chí
Hiếu (2005), Trường Đại học Luật Hà Nội; “Một số vấn đề pháp lý về HĐTD ngân
hàng và thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp HĐTD ngân hàng” của tác
giả Nguyễn Quỳnh Chi (2010), Trường Đại học Luật Hà Nội; “Pháp luật về giải
quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng bằng con đường Tòa án ở Việt
Nam” của tác giả Trần Thị Thùy Trang (2014), Trường Đại học quốc gia Hà Nội;
“Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức thương lượng, hòa giải -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn”của tác giả Nguyễn Hoài Sơn (2004), Trường
Đại học Luật Hà Nội; - tác giả Nguyễn Thị Thu Hồng (2013), “Thủ tục giải quyết
tranh chấp HĐTD ngân hàng qua thực tiễn xét xử tại Tòa phúc thẩm TAND tối cao
tại Hà Nội”, Học viện Khoa học Xã Hội. - tác giả Hoàng Văn Bích (2014), “Giải
quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng có thế chấp tài sản qua thực tiễn xét xử tại Vĩnh
Phúc”, Đại Học Quốc gia Hà Nội - tác giả Lý Thị Thanh Huyền (2012), “Thực tiễn
áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về thừa kề của TAND ở thành phố
Hà Nội”, Học viện Khoa học Xã Hội năm 2016…
Các công trình nghiên cứu trên đề cập các khía cạnh khác nhau của HĐTD
ngân hàng, phương thức giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng. Phần lớn các công
trình này đề cập đến các tranh chấp HĐTD ngân hàng và các biện pháp đảm bảo
thực hiện HĐTD ngân hàng. Nhiều kết quả nghiên cứu trong các công trình nêu trên
có giá trị khoa học cao và sẽ được người viết kế thừa. Để tránh trùng lặp với những
kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố, nội dung của Luận văn này
hướng tới việc phân tích toàn diện, liên ngành đối với những vấn đề lý luận cơ bản
về HĐTD ngân hàng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng ở cấp
phúc thẩm, phân tích những vấn đề mà trong thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD
ngân hàngở cấp phúc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam nói chung. Luận
văn lấy thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng tại TAND thành phố Hà
Nội nói riêng làm tình huống nghiên cứu cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng
tại tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại thành phố Hà Nội
để đưa ra các kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về HĐTD ngân hàng.
3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích này, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ nghiên
cứu như sau:
- Phân tích và làm rõ một số quy định của pháp luật về HĐTD ngân hàng.
- Thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng tại cấp phúc thẩm theo pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam tại TAND thành phố Hà Nội trong những năm qua.
- Đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thông qua việc giải
quyết HĐTD ngân hàngtại cấp phúc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
4. Đối tượng và pham vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận văn này là các quy định của pháp luật hiện hành việc giải
quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng. Luận văn phân tích thực tiễn xét xử các các vụ
án về tranh chấp HĐTD ngân hàng theo cấp phúc thẩm tại TAND thành phố Hà Nội
để nhận diện vấn đề nảy sinh từ thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn này những vấn đề khác nhau trong giải
quyết tranh chấp về HĐTD ngân hàng tại tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam qua thực tiễn xét xử tại TAND thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết đã sử dụng phương pháp biện
luận biện chứng duy vật của triết học Mác – Lenin. Ngoài ra, người viết sử dụng kết
hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp như: thống kê, phân tích,tổng
hợp, so sánh, diễn giải và quy nạp.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tiến hành thu thập các công trình khoa
học có liên quan đến đề tài nghiên cứu; các tài liệu, văn bản pháp luật về hoạt động
giải quyết tranh chấp thương mại.
- Phương pháp thống kê: trên cơ sở các tài liệu, số liệu tiến hành thu thập,
phân tích, đánh giá, tổng hợp để rút ra những kết luận về thực trạng tình hình, kết
quả hoạt động giải quyêt tranh chấp thương mại bằng phương thức Tòa án.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích, lý giải, lập
luận những vấn đề về HĐTD ngân hàng và giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng
theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
4
- Phương pháp so sánh được dung để so sánh các loại tranh chấp có tính chất
gần giống với tranh chấp HĐTD ngân hàng để thấy rõ điểm giống nhau và khác
nhau của tranh chấp HĐTD ngân hàng trong luật chuyên ngành, luật chung, từ đó
có thể xác định được bản chất và đặc trưng của tranh chấp HĐTD ngân hàng.
- Phương pháp diễn giải, quy nạp được sử dụng để đưa ra định hướng và các
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về giải quyết tranh
chấp HĐTD ngân hàng.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận của đề tài là góp phần bổ sung và phát triển lý luận về vai trò
của pháp luật và áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về HĐTD ngân
hàngtại Tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài là quá trình nghiên cứu luận văn sẽ rút ra được
nhiều điều bổ ích có thể áp dụng cho công tác giảng dạy tại các trường, đồng thời
giúp ích cho công việc của các cán bộ ngành Tòa án đang giải quyết các vụ án về
tranh chập hợp động tín dụng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng tín dụng ngân hàng và giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại tòa án cấp phúc thẩm
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấphợp đồng tín dụng ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án trong giai đoạn
hiện nay
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TẠI
TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM
1.1. Khái quát chung về hợp đồng tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng ngân hàng
HĐTD ngân hàng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản đã được quy
định trong BLDS 2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là HĐTD ngân hàng trong trường hợp
bên cho vay là các TCTD, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Theo quy định tại
điều 463 BLDS 2015: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho
bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu
có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định” [28]. HĐTD ngân hàng về bản chất là hợp
đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên
tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Còn những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh,
cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá được gọi chung là hợp đồng cấp tín dụng.
HĐTD ngân hàng là một căn cứ pháp lý mà qua đó, ngân hàng thực hiện
hoạt động cho vay. Hoạt động tín dụng luôn giữ một vai trò quan trọng trong đời
sống kinh tế và các tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng diễn ra ngày một
nhiều, gây thiệt hại không nhỏ cho các chủ thể, song, cho đến nay vẫn chưa có một
văn bản pháp luật nào của nước ta đưa ra một khái niệm chính thức về HĐTD ngân
hàng mà chỉ liệt kê những nội dung chủ yếu của HĐTD ngân hàng. Việc cho vay
của TCTD và khách hàng vay phải được lập thành HĐTD ngân hàng. HĐTD ngân
hàng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức
cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản
bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận. Như
vậy, ngay trong quy chế cho vay của TCTD cũng chỉ qui định việc cho vay phải xác
lập bằng HĐTD ngân hàng.
Từ các phân tích trên, cho thấy pháp luật chuyên ngành chỉ đưa ra quy định
về những nội dung cơ bản HĐTD ngân hàngphải có mà không đưa ra định nghĩa cụ
thể về HĐTD ngân hàng. Quan hệ tín dụng về bản chất là một quan hệ dân sự nên
6
HĐTD ngân hàngcũng là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Từ khái niệm hợp
đồng dân sự được quy định theo điều 385 BLDS 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự,
[26]”có thể hiểu “HĐTD ngân hànglà sự thỏa thuận bằng văn bản giữa TCTD (bên
cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện luật định (bên vay), theo đó
TCTD chuyển giao một số tiền cho bên vay sử dụng vào mục đích và trong một thời
hạn được xác định, khi đến hạn, bên vay phải trả cả gốc và lãi được xác định theo
lãi suất mà các bên đã thỏa thuận”.
Như vậy, HĐTD ngân hàng ngân hàng là văn bản phản ánh thỏa thuận trực
tiếp của TCTD và khách hàng trong việc xác lập một quan hệ cho vay, xác lập các
quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên đó trong việc vay và hoàn trả vốn vay.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng
HĐTD ngân hàngmang những đặc điểm chung của hợp đồng nhưng vẫn có
những nét khác biệt cụ thể như sau:
- HĐTD ngân hàng ngân hàng phải luôn được ký kết dưới hình thức văn bản.
Sau khi TCTD quyết định cho khách hàng vay vốn, sự thoả thuận cho vay và vay
của TCTD với khách hàng phải thành lập bằng văn bản. Với HĐTD ngân hàng bằng
văn bản, các bên có thể thực hiện hợp đồng trong sự đảm bảo an toàn pháp lý và khi
có tranh chấp xảy ra, HĐTD ngân hàngsẽ là căn cứ xác thực nhất để các cơ quan tài
phán giải quyết tranh chấp. Đa phần các HĐTD ngân hàng là hợp đồng theo mẫu,
chủ thể cho vay là TCTD soạn thảo dựa trên quy định của pháp luật và phù hợp với
quy chế cho vay của TCTD. Bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản
trong hợp đồng mà không phải ai cũng có thể yêu cầu sửa đổi điều khoản theo
hướng có lợi hơn cho mình. Sự tự do ý chí được thể hiện thông qua việc khách hàng
chấp nhận những điều khoản trong đó thì đồng ý giao kết hợp đồng, ngược lại thì
không giao kết. Thực tế cho thấy việc thỏa thuận sửa một số điều khoản trong
HĐTD ngân hàngtheo mẫu ít xảy ra và chỉ xảy ra với những tổ chức, cá nhân có uy
tín, khoản vay lớn và TCTD có thể thu được lợi nhuận lớn từ hợp đồng này.
Theo khoản 2, khoản 3 điều 405 BLDS 2015: “2. Trường hợp hợp đồng theo
mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất
lợi khi giải thích điều khoản đó. Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản
miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại
bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ
7
trường hợp có thỏa thuận khác.”[26] Như vậy, pháp luật cũng có cơ chế để bảo vệ
khách hàng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có những điều khoản không rõ
ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó
hoặc điều khoản gây bất lợi cho khách hàng thì điều khoản này không có hiệu lực
khi không có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, HĐTD ngân hàng ngân hàng được ký kết dưới các hình thức
pháp lý là văn bản bao gồm cả văn bản viết và văn bản điện tử dưới dạng thông điệp
dữ liệu. Căn cứ khoản 1 điều 119 BLDS 2015, “Giao dịch dân sự được thể hiện
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật
về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.[26]”; và điều 11, 12, 13,
14 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì dù HĐTD ngân hàng ngân hàng ký kết dưới
hình thức nào trên đây đều có giá trị pháp lý ngang nhau và đều là chứng cứ trong
quá trình giao dịch. Trên thực tế thì HĐTD ngân hàng được ký kết dưới hình thức
văn bản điện tử dạng thông điệp dữ liệu thường ít xảy ra.
- HĐTD ngân hàngcó đối tượng là những khoản vốn được thể hiện dưới hình
thức tiền tệ. Vốn tiền tệ trong HĐTD ngân hàngcó thể là tiền đồng Việt Nam hoặc
ngoại tệ. Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo
thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Nhờ đó, hoạt động cho vay đã
trở thành hoạt động sinh lời chủ yếu của các TCTD và trở thành một hình thức tín
dụng phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Về nguyên tắc đối tượng của HĐTD
ngân hàngbao giờ cũng là một số tiền xác định, được các bên thỏa thuận và ghi rõ
trong hợp đồng.
- Một bên chủ thể của HĐTD ngân hàngbắt buộc là TCTD được thành lập và
hoạt động cho vay theo Luật Các TCTD năm 2010 và các văn bản liên quan; có
chức năng hoạt động, kinh doanh tín dụng. TCTD bao gồm ngân hàng và TCTD phi
ngân hàng. Bên cho vay có thể là một hoặc nhiều TCTD (trường hợp cho vay hợp
vốn) thỏa mãn điều kiện luật định.
- HĐTD ngân hàngphải được tuân thủ chặt chẽ về các nội dung bắt buộc,
năng lực chủ thể của các bên tham gia quan hệ tín dụng, mục đích sử dụng vốn vay,
giới hạn vốn vay, lãi suất vay và bảo đảm thực hiện hợp đồng, phương pháp giải
quyết tranh chấp. TCTD không được cho vay vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu bị cấm
8
theo quy định của pháp luật. TCTD không được cho vay các nhu cầu vốn sau đây:
để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua
bán, chuyển nhượng, chuyển đổi; để thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các
giao dịch mà pháp luật cấm; để đáp ứng các nhu cầu chính của các giao dịch mà
pháp luật cấm” [24]. TCTD không được cho vay đối với khách hàng trong các
trường hợp sau đây: Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc
(Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của TCTD; Cán bộ, nhân viên của
chính TCTD đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định cho vay; Bố, mẹ, vợ,
chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám
đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc)” [24]. Đối với người vay là bố, mẹ, vợ,
chồng, con của Giám đốc, Phó Giám đốc chi nhánh của TCTD do TCTD xem xét
quyết định” [24].
Với vai trò đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia vào quan hệ tín
dụng, HĐTD ngân hàngtrở nên rất quan trọng. Đặc biệt, các bên phải chú ý đến nội
dung của hợp đồng, hợp đồng với những điều khoản chặt chẽ sẽ ràng buộc các bên
thực hiện đúng trách nhiệm của mình, từ đó cũng góp phần giảm bớt các tranh chấp
phát sinh và thúc đẩy sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của cả TCTD và
khách hàng.
1.1.3. Vai trò của hợp đồng tín dụng ngân hàng
Sản xuất phát triển mạnh sẽ thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển ở mỗi
quốc gia trên thế giới. Song để cho quá trình sản xuất được mở rộng và ngày càng
hoàn thiện phải nói đến vai trò to lớn của tín dụng Ngân hàng.
- Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế là người trung
gian điều hoà quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế, hoạt động tín dụng đã
thông dòng cho vốn chảy từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn.
Ngân hàng ra đời gắn liền với sự vận động trong quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá phát triển nhanh chóng đã thúc đẩy hàng
hoá - tiền tệ ngày càng sâu sắc, phức tạp và bao trùm lên mọi sinh hoạt kinh tế xã
hội. Mặt khác, chính sản xuất và lưu thông hàng hoá ra đời và được mở rộng xã kéo
theo sự vận động vốn và là nền tảng tạo nên những tổ chức kinh doanh tiền tệ đầu
tiên mang những đặc trưng của một ngân hàng. Vì vậy, chúng ta thấy rằng còn tồn
tại quan hệ hàng hoá tiền tệ thì hoạt động tín dụng không thể mất đi mà trái lại ngày
càng phát triển một cách mạnh mẽ. Bởi trong nền kinh tế, tại một thời điểm tất yếu
9
sẽ phát sinh hai loại nhu cầu là người thừa vốn cho vay để hưởng lãi và người thiếu
vốn đi vay để tiến hành sản xuất kinh doanh. Hai loại nhu cầu này ngược nhau
nhưng cũng chung một đối tượng đó là tiền, chung nhau về tính tạm thời và cả hai
bên đều thoả mãn nhu cầu và đều có lợi. Ngân hàng ra đời với vai trò là nơi hiểu
biết rõ nhất về tình hình cân đối giữa cung và cầu vốn trên thị trường như thế
nào.Và với hoạt động tín dụng, ngân hàng đã giải quyết được hiện tượng thừa vốn,
thiếu vốn này bằng cách huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi để phân phối lại vốn trên
nguyên tắc có hoàn trả phục vụ kịp thời cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh...
- Tín dụng ngân hàng tạo ra nguồn vốn hỗ trợ cho quá trình sản xuất được
thực hiện bình thường liên tục và phát triển nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình tái
ẩn xuất mở rộng, đầu tư phát triển kinh tế, mở rộng phạm vi quy mô sản xuất
Hoạt động tín dụng ngân hàng ra đời đã biến các phương tiện tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội thành những phương tiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả,
động viên nhanh chóng nguồn vật tư, lao động và các nguồn lực sẵn có khác đưa
vào sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá đẩy nhanh quá trình
tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc cung ứng vốn một cách kịp thời của tín dụng
ngân hàng để đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động, vốn cố định của các doanh
nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục tránh tình trạng ứ tắc,
đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn để ứng dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật nhằm thúc đẩy nhanh quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng từ đó
thúc đẩy nền kinh tế phát triênr nhanh chóng.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả và củng cố chế
độ hoạch toán kinh tế.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là cho vay có hoàn trả và có lợi tức Ngân hàng
huy động vốn của doanh nghiệp khi họ có vốn nhàn rỗi và cho vay khi họ cần vốn
để bổ xung cho sản xuất kinh doanh. Khi sử dụng vốn vay của ngân hàng, doanh
nghiệp phải tôn trọng mọi điều kiện ghi trong HĐTD ngân hàng, trả nợ vay đúng
hạn cả gốc và lãi. Do đó thúc đẩy các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp tăng
hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng vòng quay vốn... để tạo điều kiện nâng cao
doanh lợi cho doanh nghiệp. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tự vươn lên thông
qua các hoạt động của mình, một trong những hoạt động khá quan trọng là hạch
toán kinh tế.
10
- Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế
đối ngoại.
Ngày nay sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn luôn gắn quan hệ kinh
tế với thị trường thế giới, nền kinh tế “đóng” tự cung tự cấp trước đây nay đã
nhường chỗ cho nền kinh tế “mở” phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước
trên thế giới. Một quốc gia được gọi là phát triển thì trước hết phải có một nền kinh
tế chính trị ổn định, có vị thế trên thị trường quốc tế, có một lượng vốn lớn trong đó
vốn dự trữ ngoại tệ là rất quan trọng. Tín dụng ngân hàng trở thành một trong
những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau bằng các hoạt động tín dụng
quốc tế như các hình thức tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức cá nhân với
chính phủ, giữa các cá nhân với cá nhân...Sự phát triển ngày càng tăng trong hoạt
động ngoại thương và số thành viên tham dự hoạt động ngaỳ càng lớn làm cho nhu
cầu về hoạt động tài chính càng trở nên cần thiết. Vì vậy việc tạo điều kiện thuận lợi
về tài chính là một công cụ cạnh tranh có hiệu quả bên cạnh các yếu tố cạnh tranh
khác như giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thương mại... đã vượt ra khỏi phạm
vi của một nước ra phạm vi của thế giới có tác dụng thúc đẩy nền sản xuất mang
tính quốc tế hoá, hình thành thị trường khu vực và thị trường thế giới, tạo ra bước
phát triển mới trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các nước với nhau. Như vậy
các hình thực thanh toán cũng sẽ đa dạng hơn như thanh toán qua mạng SWIFT,
thanh toán LC... mỗi hình thực thanh toán đòi hỏi hình thức tín dụng phù hợp và
đảm bảo cho nó an toàn và hiệu quả. Chất lượng của hoạt động tín dụng ngoại
thương là cơ sở để tạo lòng tin cho bạn hàng trong thương mại, tạo điều kiện cho
quá trình lưu thông hàng hoá, thắng trong cạnh tranh về thanh toán sẽ dẫn tới thắng
lợi của mọi cạnh tranh khác trọng hoạt động ngoại thương.
1.2. Khái quát về tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Cùng với sự tồn tại và phát triển của các HĐTD ngân hàng là những tranh
chấp trong HĐTD ngân hàngphát sinh từ sự mâu thuẫn hay không thống nhất về
quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích trong quá trình thực hiện HĐTD ngân hàng của các
bên tham gia. Một HĐTD ngân hàng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột,
bất đồng về quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài thông qua những
bằng chứng cụ thể và xác định được. Theo tác giả Bùi Ngọc Cường, tranh chấp kinh
tế được hiểu là những mâu thuẫn, xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích kinh tế
giữa các bên chủ thể khi tham gia kinh doanh [11, tr.89].
11
Tranh chấp hợp đồng khác biệt với vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là
hành vi pháp lý của các bên đã xử sự trái với các điều khoản được cam kết trong
hợp đồng. Còn tranh chấp hợp đồng là ý kiến không thống nhất của các bên về hành
vi vi phạm đó hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ sự vi phạm đó và được
thể hiện ra bên ngoài. Cho nên, không phải cứ khi nào vi phạm hợp đồng thì khi đó
có tranh chấp mà đôi khi sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng
lại là sự kiện diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định. Và đôi khi có sự vi
phạm HĐTD ngân hàng nhưng không thể có sự tranh chấp bởi các bên không bày tỏ
ra bên ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vi
phản kháng cụ thể có giá trị chứng cứ.
Như vậy, tranh chấp HĐTD ngân hànglà những mâu thuẫn, bất đồng phát
sinh từ quyền và nghĩa vụ trong HĐTD ngân hàng giữa bên cho vay (ngân hàng) và
bên vay (khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải
ngân, xử lý tài sản đảm bảo, thế chấp…
1.2.2. Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Vì tranh chấp HĐTD ngân hàngngân hàng cũng là một loại tranh chấp hợp
đồng nói chung, do đó có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp
đồng. Tuy nhiên, với bản chất đặc thù của HĐTD ngân hàng tranh chấp HĐTD
ngân hàngmang một số đặc trưng riêng biệt để có thể phân biệt với các loại tranh
chấp hợp đồng khác.
Thứ nhất, giá trị của tranh chấp HĐTD ngân hàngthường có giá trị lớn hoặc
thậm chí là rất lớn.
Khi kí kết HĐTD ngân hàng thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn
mà không thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh
doanh đối với tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia đình.
Do đó, số tiền này không phải là nhỏ và dễ dàng vay được từ các tổ chức, cá nhân
ngoài xã hội mà không phải là ngân hàng.
Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng vốn
cho nền kinh tế thì TCTD còn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể khác để
cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các TCTD thường kí kết các HĐTD ngân
hàng có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời điểm cho vay. Do bên
vay vốn dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh
nên nếu bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp đồng, không trả nợ cho các
12
TCTD sẽ làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của TCTD đó. Thực tế không hiếm các
trường hợp các TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả do “nợ xấu’. Một khi
khách hàng vay không thể thanh toán được nợ, tranh chấp xảy ra thì TCTD sẽ là
chủ thể bị thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các biện pháp khắc
phục, mục đích lợi nhuận ban đầu không còn hoặc bị gián đoạn. Đặc biệt, nếu tranh
chấp HĐTD ngân hàngphải khởi kiện tại Tòa án thì càng gây khó khăn cho TCTD
khi muốn thu hồi vốn. Bởi khi đã bị khởi kiện tại Tòa án thì thường là người đi vay
không còn có khả năng trả nợ cho TCTD. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD ngân
hàngxảy ra thì TCTD sẽ mất lòng tin với khách hàng vay vốn, các HĐTD ngân
hàngtiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả khi bên đi vay chứng minh lại được khả
năng tài chính của mình. Do đó, có thể nói tranh chấp HĐTD ngân hàng là loại
tranh chấp có giá trị thiệt hại lớn, không chỉ ảnh hưởng đến bên cho vay mà còn cả
đối với bên đi vay. Thậm chí nếu tranh chấp xảy ra nhiều thì ảnh hưởng đó không
chỉ ảnh hưởng đến một TCTD mà có thể ảnh hưởng dây chuyền đến các TCTD
khác trong nền kinh tế.
Thứ hai, tranh chấp HĐTD ngân hàngngân hàng được giải quyết dựa trên
nguyên tắc tự do thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia tranh
chấp.
Pháp luật Việt Nam tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cụ thể, Điều 3
BLDS 2015 ghi nhận: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam
kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu
lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. [26]”HĐTD
ngân hàngvề bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang tính
thỏa thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết tranh
chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàngthì các bên cũng có quyền thỏa thuận để đạt
được hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Việc tôn trọng
quyền định đoạt này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì quan hệ dân sự giữa các bên
mang tính bình đẳng, không phải là mối quan hệ mệnh lệnh - phục tùng như các
quan hệ hành chính nhà nước khác. Khi các bên tham gia tranh chấp có thể thỏa
thuận được với nhau thì việc giải quyết tranh chấp sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận lợi
hơn, đồng thời giảm thiểu được thiệt hại về thời gian, tiền bạc, công sức của các
bên. Về phía các cơ quan tài phán, thi hành án thì việc thỏa thuận này cũng có ý
13
nghĩa trong việc giảm nhẹ khối lượng, áp lực công việc trong điều kiện các tranh
chấp ngày càng xảy ra nhiều và phức tạp như hiện nay.
Đặc biệt, vấn đề thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối với
các TCTD là ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng
hơn bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các TCTD trong nước, chịu sự điều
chỉnh của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt Nam và sự khác nhau trong
quy định của pháp luật giữa Việt Nam và nước khác là điều không thể tránh khỏi.
Vì vậy, việc cho phép, tôn trọng quyền tự thỏa thuận của các bên khi có tranh chấp
xảy ra sẽ giảm thiểu tối đa những xung đột pháp luật có thể xảy ra trong quá trình
giải quyết các tranh chấp. Tuy nhiên, nguyên tắc đối với các thỏa thuận này là phải
phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam.
Nguyên tắc tự do thỏa thuận khi giải quyết tranh chấp giữa các bên cũng
được BLTTDS thể hiện ở chế định hòa giải. Theo đó, hòa giải là trách nhiệm của cơ
quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra và khi đó các bên có thể thỏa thuận về việc
giải quyết vụ án. Ngay cả trước khi diễn ra hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm
các bên cũng vẫn có quyền thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp miễn sao thỏa
thuận đó phù hợp với các quy định của pháp luật.
Thứ ba, tranh chấp HĐTD ngân hàngluôn có sự tham gia của một bên là
TCTD và phần lớn các tranh chấp HĐTD ngân hàngthì nguyên đơn là TCTD cho
vay, bị đơn là bên đi vay.
Với đặc thù của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến những tổ
chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ chức, cá nhân có
thừa nguồn vốn trong xã hội nên TCTD luôn đóng vai trò trung gian trong mối quan
hệ này. Sự tham gia của TCTD là một dấu hiệu đặc trưng nhằm phân biệt giữa tranh
chấp HĐTD ngân hàngvà tranh chấp hợp đồng vay tài sản thông thường giữa các tổ
chức, cá nhân khác mà không phải là TCTD.
Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD ngân hàng, các
TCTD và khách hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia thỏa thuận. Nhưng với tư
cách là chủ thể có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối với
khách hàng là điều không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí kết hợp đồng thì
hợp đồng thường do bên cho vay là các TCTD soạn thảo với đội ngũ cán bộ có trình
độ chuyên môn về mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó, chủ thể đi vay là khách
hàng thường là các tổ chức, cá nhân, trình độ chuyên môn về mặt pháp lý của họ
14
còn thấp và nhiều khi không được chú trọng đúng mức. Và như vậy là hợp đồng
được kí kết với các điều khoản chặt chẽ nhằm bảo đảm cho quyền lợi của TCTD khi
bên vay không trả nợ hay trả không đúng nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì
TCTD luôn nắm đằng chuôi với các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ,
rõ ràng trong hợp đồng được sự đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh
chấp xảy ra thì là do bên đi vay vi phạm, chứ ít khi TCTD lại vi phạm chính những
điều khoản do chính mình soạn thảo.
Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD ngân hàng, các nghĩa vụ chính của bên
đi vay thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn
tất việc giải ngân cho khách hàng thì TCTD đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình.
Các nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ sơ tín dụng,
nghĩa vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản đảm bảo... là ít quan
trọng và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Vì lý do đó nên nếu có tranh
chấp xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ của mình, rất hiếm gặp
trường hợp bên đi vay khởi kiện TCTD [6].
Thứ tư, đa phần các tranh chấp liên quan đếnHĐTD ngân hàng ngân hàng
chính là các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn, lãi của
bên vay cho TCTD, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trong HĐTD ngân hàng.
Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng như: tranh chấp
về chủ thể xác lập, thực hiện HĐTD ngân hàng, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh
vay vốn, tranh chấp liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay... Tuy nhiên, tranh
chấp xảy ra nhiều nhất là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi, về
mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm. Sở dĩ như vậy là bởi vì những nghĩa vụ này
chính là những nghĩa vụ chính nhất, đóng vai trò nòng cốt trong quá trình thực hiện
HĐTD ngân hàngcủa các bên và việc thực hiện này có tác động trực tiếp đến quyền
lợi của TCTD. Các tranh chấp khác cũng có tác động đến các TCTD nhưng không
phải là cơ bản nên ít xảy ra hơn so với tranh chấp về nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi
hay tranh chấp về lãi suất, về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Thứ năm, tranh chấp HĐTD ngân hàngngân hàng thường là tiền đề làm phát
sinh và gắn liền với một quan hệ hợp đồng khác: hợp đồng bảo đảm tiền vay thông
qua hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba
15
Các TCTD khi tham gia vào HĐTD ngân hàngđều có mục đích lợi nhuận từ
việc cho vay đó vì bản chất của TCTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Để giảm
thiểu rủi ro trong trường hợp bên vay không trả được nợ, thông thường TCTD chỉ
đồng ý cho bên đi vay được vay vốn khi họ có cầm cố, thế chấp bằng tài sản hoặc
có bảo lãnh của bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này đóng vai trò là phương
pháp dự phòng của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được
đảm bảo trong HĐTD ngân hàngthì các bên kí kết hợp đồng bảo đảm cho khoản
vay. Tùy trường hợp mà đó có thể là hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là
dưới hình thức chứng thư bảo lãnh của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và
nghĩa vụ trong các hợp đồng bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc
vay vốn, xuất phát từ HĐTD ngân hàng đã được kí kết và mục đích cuối cùng là bảo
đảm cho việc trả nợ của bên đi vay.
Như vậy, không có trường hợp nào, hợp đồng bảo đảm lại tách rời ra khỏi
HĐTD ngân hàngvới tư cách là một hợp đồng độc lập mà giữa chúng luôn có mối
quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau. Có thể ví mối quan hệ này như là mối quan hệ
giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Sự vô hiệu loại hợp đồng này có ảnh hưởng
đến loại hợp đồng kia tùy trường hợp. “Trong trường hợp hợp đồng có nghĩa vụ
được bảo đảm vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng thì giao dịch bảo đảm
chấm dứt, nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo
đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”
[4]. Ngược lại, “giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa
vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, có thể khẳng định
rằng tranh chấp HĐTD ngân hàng, với tư cách là hợp đồng chính, luôn gắn liền và
làm cơ sở phát sinh tranh chấp hợp đồng bảo đảm - hợp đồng phụ trong quan hệ tín
dụng giữa các bên.
Thứ sáu, tranh chấp HĐTD ngân hàngphát sinh từ sự xung đột về lợi ích
giữa các bên tham gia tranh chấp.
Vì tranh chấp HĐTD ngân hàngcũng là một loại tranh chấp hợp đồng nên
phải xuất phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Mặc dù vậy trong
quan hệ dân sự, pháp luật hiện hành quy định một số cơ quan đoàn thể có thể khởi
kiện để đảm bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác mà không phải là lợi ích của
chính cơ quan, đoàn thể đó. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân
hàngthì chỉ có chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền khởi
16
kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay hay TCTD. Không có
trường hợp nào mà tranh chấp HĐTD ngân hàngphát sinh do tổ chức, cá nhân khác
khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia HĐTD ngân hàng. Như vậy,
tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng chỉ phát sinh khi các bên khởi kiện yêu
cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ tín dụng, hay nói cách
khác, tranh chấp HĐTD ngân hàngthường gắn liền với lợi ích của các bên tranh
chấp [24].
1.2.3. Phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Khách hàng vay vốn có thể là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh hoặc
không đăng ký kinh doanh và mục đích vay vốn để kinh doanh, sản xuất hoặc tiêu
dùng, sinh hoạt. Vậy, tranh chấp HĐTD ngân hàng có thể là tranh chấp về hợp đồng
dân sự và cũng có thể là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Vậy khi nào tranh chấp
HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hợp đồng dân sự và khi nào là tranh chấp kinh
doanh, thương mại? Để trả lời câu hỏi này, ta cần nhận định rằng bản chất HĐTD
ngân hàng là hợp đồng vay tài sản. Vì vậy, HĐTD ngân hàngngân hàng là một dạng
đặc biệt của hợp đồng dân sự xuất phát từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu
ngân hàng thực hiện cho vay mà bên vay là cá nhân, tổ chức và mục đích vay nhằm
đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt và tiêu dùng thì HĐTD ngân hàng ngân hàng mang
tính chất là một hợp đồng dân sự theo đúng nghĩa. Nếu ngân hàng thực hiện cho vay
mà bên vay là các cá nhân, tổ chức hoạt động kinh doanh và mục đích nhằm đáp
ứng cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thương mại thì HĐTD ngân hàng
ngân hàng mang tính chất là hợp đồng kinh doanh, thương mại. Do đó, tuỳ theo đối
tượng và mục đích trong hoạt động cho vay của ngân hàng mà chúng ta nhìn nhận
HĐTD ngân hàng ngân hàng ở gốc độ thích hợp.
Từ phân tích trên tác giả cho rằng tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng
có hai loại:
- Thứ nhất, tranh chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hợp đồng dân sự
khi bên vay vốn là hộ gia đình, cá nhân hay tổ chức không có đăng ký kinh doanh
và không có mục đích lợi nhuận.
- Thứ hai, tranh chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp kinh doanh - thương
mại khi bên vay vốn là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích
lợi nhuận.
17
* Các dạng tranh chấp HĐTD ngân hàng:
- Tranh chấp do các bên vi phạm nghĩa vụ trong HĐTD ngân hàng:
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên cho vay (ngân hàng) khi HĐTD ngân
hàngcó hiệu lực, vì một lý do nào đó bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều này, làm ảnh hưởng xấu tới quyền và
lợi ích hợp pháp của bên vay.
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ trả gốc và lãi của bên vay. Rõ ràng khi cần tiền
để thực hiện kế hoạch, mục tiêu của mình thì khách hàng mới đi vay. Cũng vì lý do
này nên ban đầu thông thường thì khách hàng chấp nhận với lãi suất của ngân hàng
đưa ra nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng nhận thấy lãi
suất đó cao quá nên không đồng ý. Đồng thời, quá trình sử dụng vốn vay không
hiệu quả nên dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ gốc và lãi. Đây là dạng tranh chấp
xảy ra nhiều nhất trong các tranh chấp HĐTD ngân hàng.
- Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng. Tranh chấp này trên
thực tế tương đối đa dạng và phức tạp nhất là trong những trường hợp có yếu tố
nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ quan giải quyết tranh chấp.
Trong quá trình ký kết HĐTD ngân hàng, việc xem xét tư cách chủ thể của bên vay
vốn là một vấn đề quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của HĐTD ngân
hàng. Trên thực tế, nếu TCTD xem nhẹ vấn đề này, không xác định đúng tư cách
chủ thể (đặc biệt là trường hợp khách hàng vay là tổ chức, doanh nghiệp) dẫn đến
việc ký HĐTD ngân hàng với chủ thể không có thẩm quyền ký kết. Hợp đồng bị
tuyên bố vô hiệu gây thiệt hại nặng nề cho các TCTD.
- Tranh chấp xảy ra từ việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD ngân
hàngcó bảo đảm bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm.
Chính bởi bản chất HĐTD ngân hàng mang tính rủi ro cao nên các TCTD coi
bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển
tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Hiện nay, theo quy định của pháp luật có ba
hình thức bảo đảm tín dụng là cầm cố, thế chấp, bảo đảm tài sản bằng bảo lãnh. Quá
trình xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm được quy định
tại BLDS 2005, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm, Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của Chính phủ về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006
của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện không
18
phải khi nào các bên cũng tuân thủ nghiêm túc những quy định của pháp luật, nên
trên thực tế, các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tương đối nhiều.
Các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng này chủ yếu liên quan đến việc xử
lý tài sản bảo đảm. Khi thẩm định hồ sơ vay vốn, nếu như nhân viên ngân hàng
thẩm định không kỹ, kết quả thẩm định không chính xác dẫn đến chấp nhận những
tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm thì sẽ dẫn
đến những tranh chấp phát sinh khi ngân hàng xử lý tài sản bảo đảm. Chẳng hạn,
nếu không xác định được tài sản bảo đảm thuộc sở hữu chung hay riêng của vợ
chồng hoặc tài sản bảo đảm không thuộc của người cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh
thì cũng gây khó khăn khi xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là tài sản của Hộ gia đình.
- Tranh chấp về pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng: Nếu như
khi ký HĐTD ngân hàng mà các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ quan giải
quyết tranh chấp cũng như luật áp dụng (nếu như có yếu tố nước ngoài) thì sau này
có nhiều khả năng xảy ra việc tranh chấp về luật áp dụng để giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng. Thực tiễn cho thấy tranh chấp này ít xảy ra.
Hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam ít nhiều chịu sự ảnh hưởng không nhỏ
bởi các cuộc khủng hoảng của các nước trên Thế giới dẫn đến việc xảy ra tranh
chấp trong HĐTD ngân hàng ngày càng nhiều và diễn biến phức tạp. Do đó, việc
tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hết sức cần thiết. Từ đó, có
những biện pháp, đường lối, chính sách nhằm khắc phục tình trạng tranh chấp để
tiến tới giảm thiểu đáng kể số lượng tranh chấp.
1.2.4. Nguyên nhân của tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ngân hàng
Nguyên nhân gây ra tranh chấp HĐTD ngân hàngrất đa dạng, song có thể
khái quát với những nguyên nhân từ phía bên vay, bên cho vay và cả những hạn chế
của quy định pháp luật.
Về nguyên nhân từ phía bên cho vay: Thông thường phía ngân hàng vi phạm
nghĩa vụ giải ngân cho khách hàng như quy định trong hợp đồng. Các TCTD không
tuân thủ chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Đôi khi ngân hàng cho vay mà không
tiến hành quy trình thẩm định theo nguyên tắc phân tích tín dụng, điều mà các định
chế tài chính quốc tế luôn cảnh báo là: Tính cách người vay, năng lực trả nợ, dòng
tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều kiện môi trường, sự kiểm soát mà ngân hàng lại
dựa vào nhận định của các nhân viên của mình. Trên thực tế, khi tiến hành thẩm
định bên cho vay không thể kiểm tra được bên vay có thông qua một TCTD đen nào
19
hay không. Ở Việt Nam, ngân hàng chưa có chính sách hợp lý và quy trình cho vay
hiệu quả, cơ chế phân tích và quản lý rủi ro còn hạn chế. Việc đánh giá biện pháp
bảo đảm tiền vay còn hạn chế, chưa phân tích, đánh giá các điều kiện về biện pháp
bảo đảm tiền vay. TCTD đánh giá về biện pháp bảo đảm tiền vay còn dựa vào tài
liệu do bên vay xuất trình mà chưa có sự kiểm tra thực tiễn.Trình độ thẩm định của
nhân viên ngân hàng còn chưa cao, nên có những sai xót và thiếu chặt chẽ - kết quả
thẩm định chưa đạt yêu cầu.
Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng còn hạn chế. Trong thực tế bên
ngân hàng không nắm rõ ràng các thông tin chính xác về khách hàng, không biết
chính xác là khách hàng vay vốn và có sử dụng vốn vay đúng mục đích trong hợp
đồng hay không. Một số nhân viên ngân hàng còn thiếu phẩm chất đạo đức cũng
như thiếu năng lực nên trong việc cho vay có đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản
thế chấp mà bên vay vẫn được giữ cả giấy tờ gốc chứng minh tài sản thế chấp của
mình. Điều này dẫn đến có thể bên vay lại đem bán tài sản đã thế chấp ở ngân hàng
cho người thứ ba. Lúc này ngân hàng và người thứ ba có sự tranh chấp về quyền tài
sản – tài sản đã được thế chấp bằng danh nghĩa ở ngân hàng.
Do đó để đảm bảo an toàn tín dụng các ngân hàng cần tuân thủ nghiêm túc
quy trình, điều kiện cho vay, các quy định của pháp luật liên quan, cần nâng cao
hơn nữa đội ngũ nhân viên ngân hàng, xây dựng và nâng cao hệ thống thông tin tín
dụng, có biện pháp để kiểm tra, giám sát hữu hiệu các hoạt động của bên vay theo
những cam kết trong hợp đồng.
Về nguyên nhân từ phía bên vay: Bên vay không đảm bảo nghĩa vụ hoặc
thực hiện không đầy đủ những nghĩa vụ của mình. Thông thường do hai nguyên
nhân: nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Nguyên nhân khách quan: là những nguyên nhân tác động ngoài ý chí, tầm
kiểm soát của khách hàng như: do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh tế, do
thiên tai, hoả hoạn, điều chỉnh quy hoạch, do thị trường biến động, quan hệ cung
cầu hàng hoá thay đổi… làm cho hoạt động của bên vay không thực hiện như kế
hoạch đề ra.
Nguyên nhân chủ quan: Cá nhân vay vốn không nắm được thông tin cần thiết
về kế hoạch đầu tư, sản xuất khi vay vốn dẫn đến tình trạng vay vốn về đầu tư
không có hiệu quả. Có thể là do vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp không đáp ứng nhu cầu, năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị
20
trường và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng tới quá trình sản xuất,
công nghệ chưa được cải thiện nên sản phẩm tạo ra chưa có tính cạnh tranh cao,
hiệu quả kinh doanh kém, hậu quả là doanh nghiệp thua lỗ lâm vào tình trạng phá sản.
Cũng có trường hợp do bên vay cố tình đưa ra những thông tin sai sự thật ngay từ khi
vay vốn nên khi về đầu tư hay sử dụng vào mục đích của mình không có hiệu quả.
Nguyên nhân nữa là do bên vay còn thiếu hiểu biết về pháp luật, trình độ
hiểu biết của bên vay còn hạn chế về những kiến thức pháp luật liên quan. Có
trường hợp bên vay ký hợp đồng trong khi bản thân không hiểu rõ về pháp luật nên
khả năng xảy ra những bất lợi cho mình là rất lớn. Đơn cử như trường hợp của bà
Phan Ngọc Dung ở Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004 bà thế chấp ngôi
nhà của mình để vay vốn Ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Tân Tạo số tiền
hai trăm bốn mươi triệu Đồng để đầu tư cho cơ sở may gia công. Nhưng sau đó do
không có hiểu biết về những quy định của pháp luật bà Dung đã ký hợp đồng bán
nhà để đảm bảo cho khoản vay mới. Hiện tại, khoản tín dụng mới không vay được,
khoản tín dụng trước thì chưa có khả năng thanh toán và bên vay còn phải đối mặt
với nguy cơ mất nhà do chủ nợ đang khởi kiện ra toà yêu cầu thực hiện hợp đồng
bán nhà trên. Trong tình huống trên, nếu bà Dung có kiến thức về pháp luật nhất là
pháp luật ngân hàng thì sẽ không dẫn đến ký hợp đồng bán nhà để đảm bảo cho
khoản vay. Hiện nay, sự hiểu biết những quy định pháp luật của một bộ phận người
dân còn nhiều hạn chế, sự hạn chế đó không chỉ gây tổn thất cho chính người vay
mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi của ngân hàng và đặc biệt là những hệ lụy về mặt
xã hội.
Nguyên nhân từ quy định của pháp luật: Xã hội luôn thay đổi theo nhiều
chiều hướng khác nhau, các mối quan hệ xã hội cũng đổi mới không ngừng kéo
theo các giao dịch trong xã hội cũng có thêm nhiều yếu tố phức tạp và đa dạng hơn.
Trái lại, trên thực tế pháp luật nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, pháp
luật chưa thể dự kiến và điều chỉnh được các mối quan hệ xã hội sắp diễn ra. Một
điều đáng lưu ý là sự hiểu biết về pháp luật của các bên trong hợp đồng còn chưa rõ
ràng, mâu thuẫn với nhau về lợi ích giữa các bên dẫn đến nảy sinh tranh chấp. Pháp
luật nước ta quy định bên cho vay bắt buộc phải đưa ra các căn cứ pháp lý hay
những lý do chính đáng nếu muốn từ chối khách hàng, vấn đề này chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể. Nên bên cho vay cho rằng cho vay là quyền của mình còn bên đi
vay thì có quan điểm ngược lại, điều đó dễ dẫn đến mâu thuẫn.
21
Những HĐTD ngân hàngngân hàng theo mẫu do ngân hàng đưa ra đa phần là
rất chặt chẽ cả về hình thức và nội dung. Thông thường những hợp đồng theo mẫu
này gắn liền với lợi ích của ngân hàng.
Các quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, chồng chéo lẫn nhau đặc
biệt là các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, hành lang pháp lý cho hoạt
động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy định không
thể thực hiện được trên thực tế. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán
ở nhiều cơ quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý.
1.3. Khái quát về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại
Tòa án cấp phúc thẩm
1.3.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân tại Tòa án
cấp phúc thẩm
Trên thực tế, việc giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng ngân hàng cũng
như các tranh chấp khác đều có rất nhiều phương thức khác nhau để giải quyết.
Ở đâu có hoạt động kinh doanh thương mại thì ở đó có khả năng phát sinh
tranh chấp. Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh nói
chung và hoạt động cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng nói riêng, vì vậy giải
quyết các tranh chấp phát sinh được coi là tự thân của các quan hệ kinh tế. Ở góc độ
khái quát chung, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh chính là việc lựa chọn các
hình thức, biện pháp thích hợp để giải toả các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích
giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận
được. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn tại bốn phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại phổ biến bao gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và
Tòa án.
Về phương thức thương lượng: Thương lượng là phương thức giải quyết
tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo
gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay
phán quyết của bất kì bên thứ ba nào. Phương pháp thương lượng được biết đến bởi
một số đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất là phương thức giải quyết tranh chấp này được thực hiện bởi cơ chế
tự giải quyết thông qua việc các bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự
giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba
để trợ giúp hay phán quyết.
22
Thứ hai là quá trình thương lượng giữa các bên cũng không chịu sự ràng
buộc của bất kì nguyên tắc pháp lí hay những quy định mang tính khuôn mẫu nào
của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Pháp luật của Việt Nam mới chỉ
dừng lại ở việc ghi nhận thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại mà không có bất kì quy định nào chi phối đến cơ chế giải quyết tranh
chấp thương mại bằng thương lượng.
Thứ ba là việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự
nguyện của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kì cơ chế pháp lí nào đảm bảo việc
thực thi đối với thỏa thuận của các bên trong quá trình thương lượng.
Quá trình thương lượng để giải quyết tranh chấp có thể được thực hiện bằng
nhiều cách thức: thương lượng trực tiếp, thương lượng gián tiếp và kết hợp thương
lượng trực tiếp với thương lượng gián tiếp. Thương lượng trực tiếp là cách thức mà
các bên tranh chấp trực tiếp gặp nhau bàn bạc, trao đổi và đề xuất ý kiến của mỗi
bên nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp. Thương lượng gián tiếp là cách
thức các bên tranh chấp gửi cho nhau tài liệu giao dịch thể hiện quan điểm và yêu
cầu của mình nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp.
Ưu điểm nổi bật nhất của phương pháp thương lượng chính là sự thuận tiện,
đơn giản, nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Mặt khác thương
lượng còn bảo vệ được uy tín cho các bên tranh chấp cũng như bí mật kinh doanh
của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh doanh hơn ai hết tự biết bảo vệ quyền lợi của
bản thân mình, hiểu rõ những bất đồng và nguyên nhân phát sinh tranh chấp nên
quá trình đàm phán thương lượng để hiểu và thông cảm với nhau hơn để có thể thỏa
thuận được các giải pháp tối ưu theo đúng nguyện vọng của mỗi bên mà không phải
một cơ quan tài phán nào cũng có thể làm được. Bởi vậy, một khi thương lượng
thành công, các bên vừa loại bỏ được những bất đồng đã phát sinh mà mức độ
phương hại đến mối quan hệ kinh doanh giữa các bên cũng thấp, tăng cường sự hiểu
biết và hợp tác trong tương lai.
Về phương thức hòa giải: Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với
sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên
tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Hòa giải được thực hiện dưới các hình thức: hòa giải ngoài thủ tục tố tụng và
hòa giải trong thủ tục tố tụng. Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng là việc hòa giải được
các bên tiến hành trước khi đưa đơn khởi kiện ra Tòa án hoặc trọng tài. Hòa giải
23
trong thủ tục tố tụng là hoạt động được tiến hành tại Tòa án, tại cơ quan trọng tài
khi các cơ quan này giải quyết tranh chấp theo đơn kiện của một bên. Khác với hòa
giải ngoài thủ tục tố tụng, hòa giải trong thủ tục tố tụng được tiến hành dưới sự trợ
giúp của Tòa án hoặc trọng tài. Khi các bên hòa giải được với nhau, Tòa án hoặc
trọng tài sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự và quyết định này
có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên.
Về phương thức trọng tài thương mại: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là
hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách
là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột trong quá trình tiến hành các hoạt
động thương mại bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải
thực hiện. Tại Luật trọng tài thương mại năm 2010 cũng quy định: “Trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến
hành theo quy định của luật này”.
Khác với việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án, trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không nhân danh quyền lực nhà
nước, trọng tài thương mại được các bên lựa chọn theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo.
Ngoài ra, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này còn đảm bảo tối đa uy
tín cũng như bí mật của các bên tranh chấp, góp phần củng cố và duy trì mối quan
hệ hợp tác lâu dài giữa các bên.
Về phương thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án: Tòa án là phương
thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, được
tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của
Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được bảo đảm thi
hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Do đó, các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của Tòa án như một giải
pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích của mình khi họ thất bại
trong việc sử dụng cơ chế thương lượng hoặc hòa giải và cũng không muốn vụ
tranh chấp giữa họ được giải quyết bằng con đường trọng tài.
Giống như các phương thức giải quyết tranh chấp khác, pháp luật hiện hành
công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng cụ
thể như: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp
kinh doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương
lượng với nhau. Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết tranh
24
chấp có thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương thức
hòa giải, trọng tài hoặc tòa án. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐTD
ngân hàng dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên. Cơ
quan Nhà nước và Trọng tài thương mại chỉ can thiệp theo yêu cầu của các bên
tranh chấp.
Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án là một phương thức
mang ý chí quyền lực nhà nước, Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để giải
quyết tranh chấp trên cơ sở các quy định của pháp luật. Quyết định của Tòa án có
hiệu lực khiến các bên bắt buộc phải thực thi và có thể kèm theo các biện pháp
cưỡng chế thi hành. Bên cạnh đó, việc giải quyết tranh chấp của Tòa án phải tuân
thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức cũng như các quy định về thẩm
quyền, thủ tục, các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại của pháp luật tố
tụng nhất là các quy định của BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
Điều của BLTTDS năm 2004; Tòa án giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc xét xử
công khai; Việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án có thể thực hiện qua hai cấp xét xử:
sơ thẩm và phúc thẩm, bản án có hiệu lực pháp luật còn có thể được xét lại theo thủ
tục: giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; Tòa án giải quyết theo nguyên tắc xét xử tập thể
và quyết định theo đa số
Như vậy, để đảm bảo phát triển và duy trì sự phát triển, vấn đề lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng được các bên cân
nhắc, lựa chọn phù hợp dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, bản chất của
tranh chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí dành cho việc giải
quyết tranh chấp. Chính vì vậy, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các
bên cần hiểu rõ bản chất và cân nhắc các ưu điểm, nhược điểm của một phương
thức để có quyết định hợp lý.
Vấn đề giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng là vấn đề mang tính thường
xuyên trong giai đoạn hiện nay, việc tự giải quyết tranh chấp của các bên gặp nhiều
khó khăn vì nhiều nguyên nhân khác nhau và vì vậy cần thiết có sự can thiệp của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền mà phổ biến là TAND. Phương thức giải quyết tranh
chấp liên quan đến HĐTD ngân hàng thông qua Tòa án là hình thức cuối cùng mà
các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp khi không còn lựa chọn nào khác. Thông
thường thì hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án được
tiến hành khi mà việc áp dụng cơ chế thương lượng và hoà giải không có hiệu quả
25
và các bên tranh chấp cũng không thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tranh
chấp tại Trọng tài thương mại.
Như vậy, có thể hiểu giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng tòa án là
hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán Nhà nước thực hiện. Tòa án
nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi
hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do đó, các đương sự thường
tìm đến sự trợ giúp của Tòa án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả
các quyền, lợi ích của mình khi họ thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng
hoặc hòa giải và cũng không muốn đưa vụ tranh chấp của họ để giải quyết bằng
trọng tài thương mại.
1.3.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
ngân hàng tại tòa án cấp phúc thẩm
Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại tòa án có nhiều ưu điểm nhưng cũng có
những nhược điểm nhất định, ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua tòa án là: đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh chấp bằng tòa án là
thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa
ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành. Vì vậy, quyết định của tòa án có
tính cưỡng chế cao, quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên
thua kiện có tài sản để thi hành án. Nhờ đó, việc giải quyết tranh chấp thông qua tòa
án còn trực tiếp góp phần vào việc nâng cao ý thức, tôn trọng pháp luật cho các bên
tham gia. So với phương thức trọng tài thương mại, việc giải quyết tranh chấp bằng
toà án được thực hiện qua hai cấp xét xử, nhờ vậy mà những sai sót trong quá trình
giải quyết tranh chấp có khả năng được phát hiện, khắc phục đảm bảo quyền lợi
chính đáng của các bên tham gia. Chi phí giải quyết tranh chấp bằng toà án ít hơn
nhiều so với chi phí giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại và chi phí này
không tỷ lệ thuận với thời gian giải quyết tranh chấp như ở phương pháp trọng tài
thương mại. Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàngbằng toà án
có tính bắt buộc tham gia cao đối với các bên tranh chấp không như các phương
thức khác chỉ có tính tự nguyện.
Trước khi đưa vụ án tranh chấp ra xét xử, toà án phải tiến hành hoà giải theo
quy định của pháp luật. Hoà giải ở đây được gọi là hoà giải trong tố tụng. Một thẩm
phán đã được phân công xét xử vụ án sẽ đóng vai trò là bên thứ ba độc lập để giúp
các bên tranh chấp tự thoả thuận cách giải quyết vấn đề mà không cần phán quyết
26
của toà án. Tại phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án các bên tranh chấp có
quyền lựa chọn việc tham gia hoà giải. Sau khi thẩm phán ra quyết định công nhận
các bên hoà giải thành thì các thoả thuận sẽ có giá trị thực hiện như một bản án hiệu
lực. Đây là điều khác biệt đối với hoà giải ngoài tố tụng như phương thức hoà giải
tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàngbằng hoà giải đã phân tích ở trên.
Tuy vậy, việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD
ngân hàng bằng con đường tòa án cũng có những nhược điểm nhất định so với các
hình thức khác như: thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua tòa án thường dài hơn
so với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Hơn nữa, nguyên tắc xét xử
công khai tại tòa án có thể làm sụt giảm uy tín của các bên trên thương trường; lộ
lọt các bí mật kinh doanh cản trở hoạt động đối với các chủ thể bên vay là doanh
nghiệp. Ngoài ra, bản án xét xử xong chưa được thi hành ngay mà các bên có quyền
kháng cáo, khiếu nại nên thời gian kéo dài ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của
các bên tranh chấp.
1.3.3. Ý nghĩa của giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại
Tòa án cấp phúc thẩm
- Thứ nhất, hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án góp phần đảm bảo ổn
định trật tự tình hình kinh tế, xã hội. Tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện hiệu quả các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Khi các tranh chấp xảy ra mà được giải quyết một cách kịp thời, triệt để
thì có thể tạo dựng được niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta trong
hoạt động quản lý đất đai.
- Thứ hai, hoạt động giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng là một trong
những công việc thúc đầy kinh tế Việt Nam phát triển. Bởi lẽ, khi xảy ra tranh chấp
các bên chủ thể sẽ phải bỏ ra rất nhiều thời gian, tiền bạc, công sức để có thể giải
quyết được. Nếu hoạt động giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng có thể giải
quyết thì hoạt động của thị trường tín dụng sẽ không bị ngưng trệ. Quyền lợi của
người đi vay cũng như phía TCTD cũng không bị ảnh hưởng, việc khai thác lợi ích
từ đất đau cũng từ đó mà hiệu quả hơn.
Việc đưa tranh chấp HĐTD ngân hàng ngân hàng ra giải quyết tại Tòa án có
nhiều ưu điểm như:
Thứ nhất, hòa giải trong tố tụng là một thủ tục bắt buộc. Các thẩm phán có
nghĩa vụ đứng ra hòa giải cho các bên đương sự trong quá trình xét xử, kể cả khi
27
mức độ tranh chấp gay gắt tới mức ngay từ đầu đã dễ dàng nhận thấy không có khả
năng hòa giải. Nếu vi phạm nguyên tắc này, bản án, quyết định đưa ra sẽ bị hủy vì
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Như vậy, kể cả khi đứng trước Tòa án, quyền
tự định đoạt của các đương sự vẫn được bảo đảm. Với sự giúp đỡ của những người
tiến hành tố tụng, họ vẫn có thể tự mình đưa ra hướng giải quyết sau cùng trên cơ sở
không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Các thỏa thuận này sau đó sẽ được pháp luật
tôn trọng, công nhận và bảo vệ.
Thứ hai, Tòa án là cơ quan đại diện cho quyền lực tư pháp của Nhà nước nên
các bản án, quyết định của Tòa án mang tính cưỡng chế thi hành. Đây chính là ưu
thế lớn nhất, tác động quyết định đến sự lựa chọn của các bên, đặc biệt là TCTD, vì
nếu không có sự cưỡng chế này thì TCTD rất khó thu hồi vốn.
Thứ ba, với nguyên tắc xét xử hai cấp cùng thủ tục đặc biệt để xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật những sai sót và vi phạm trong quá trình giải
quyết tranh chấp có khả năng được phát hiện và khắc phục tốt nhất, góp phần đảm
bảo quyền lợi hợp pháp của các bên.
Thứ tư, quyền khởi kiện ra Tòa án chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian
nhất định đó là thời hiệu khởi kiện. Do đó, tâm lý của các bên – chủ yếu là bên có
quyền lợi vi phạm nhiều khi không muốn mất thời gian cho thương lượng, hòa giải
trong khi không có gì hứa hẹn rằng chúng sẽ giải quyết được vấn đề, hoặc nếu
thương lượng, hòa giải đạt kết quả cũng không có gì bảo đảm rằng phương án đưa
ra sẽ được thực thi một cách thiện chí, để cuối cùng nhờ đến Tòa án lại rơi vào tình
cảnh bị trả lại đơn do đã hết thời hiệu khởi kiện.
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng ngân hàng tại Tòa án cấp phúc thẩm
Việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng
Tòa án chịu ảnh hưởng chặt chẽ bởi các yếu tố bên ngoài cũng như bên trong. Điều
này đóng góp tích cực vào việc xây dựng và kiện toàn hệ thống pháp luật về lĩnh
vực này.
1.4.1. Tình hình kinh tế, xã hội của đất nước
Đây chính là yếu tố đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, và pháp luật về giải quyết tranh chấp
HĐTD ngân hàng nói riêng. Theo lý thuyết về cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng mà sự ảnh hưởng của nền kinh tế, và xã hội tới giải quyết tranh chấp
28
HĐTD ngân hàng bằng Tòa án là hoàn toàn có thể xảy ra. Bởi lẽ, trên thực tế, với
sự pháp triển ngày càng tăng của nền kinh tế, thì các giao dịch tín dụng, ngân hàng
ngày càng phát triển, do đó, số lượng tranh chấp ngày một nhiều. Điều này là cơ sở,
là tiền đề để chúng ta phải hoàn thiện hơn nữa pháp luật về giải quyết tranh chấp
HĐTD ngân hàng bằng con đường Tòa án.
1.4.2. Vấn đề chiến lược cải cách tư pháp và cải cách hệ thống pháp luật
Như chúng ta đã biết, việc cải cách tư pháp và cải cách hệ thống pháp luật
Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước đề cập đến từ những năm 2002 và năm 2005
bằng các nghị quyết của Đảng. Việc hoàn thiện bất kỳ hệ thống pháp luật chuyên
ngành nào đều phải bám sát, lấy các Nghị quyết của Đảng làm trọng tâm làm cơ sở.
Trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân sự - kinh tế, Nghị quyết của Đảng
đã chỉ rõ, cần phải lấy nguyên tắc tự nguyện, tự định đoạt làm cơ sở, làm gốc của
mọi quan hệ pháp luật tư. Nhà nước cần tránh và hạn chế tối đa sự can thiệp vào các
quan hệ dân sự - kinh tế, không được hình sự hóa các quan hệ dân sự. Đây là cơ sở,
là định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín dụng và pháp luật về
giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.
1.4.3. Yếu tố về tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án
Đây là yếu tố quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về
giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng Tòa án. Bởi lẽ, giải quyết được các
tranh chấp này, cần phải có tổ chức bộ máy cán bộ Tòa án đủ mạnh, đủ năng lực, có
kinh nghiệm về giải quyết tranh chấp tín dụng. Trên thực tế, trong những năm vừa
qua, ngành TAND ngày một lớn mạnh, có sự phát triển vượt bậc về số lượng và
chất lượng. Tuy nhiên, trên thực tế, chất lượng này chưa tương xứng với lượng công
việc giải quyết các tranh chấp đặc biệt là tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế. Do đó,
trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng
bằng Tòa án cần phải đặt trong mỗi quan hệ với hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt
động của ngành TAND.
29
Kết luận chương 1
Trong chương 1 của luận văn, học viên phân tích những nội dung liên quan
đến khái niệm đặc điểm của hợp đồng tín dụng và giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng ngân hàng theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ nhất, về hợp đồng tín dụng ngân hàng cho thấy, hợp đồng tín dụng ngân
hàng là một loại hợp đồng điển hình của hợp đồng vay tài sản được quy định trong
BLDS cũng như quy định trong Luật các TCTD. Hợp đồng tín dụng ngân hàng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong nên kinh tế thị trường, bởi lẽ, đây là kênh lưu thông
tiền tệ, và tạo cơ sở để các doanh nghiệp có nhu cầu về vốn có thể tiếp cận với số
tiền cần thiết.
Thứ hai, về khái niệm tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng cho thấy, tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng là một loại tranh chấp
phát sinh từ quan hệ kinh tế nói chung, có sinh lời và một bên chủ thể là ngân hàng
thương mại. Pháp luật quy định có nhiều phương thức khác nhau để giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng nhưng phương thức Tòa án vẫn là một phương
thức phổ biến nhất.
Thứ ba, ý nghĩa của giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng cho
thấy vai trò vị trí của nó trong nền kinh tế, giải quyết tranh chấp nói chung thực tế là
một trong những yêu cầu quan trọng trong giai đoạn hiện nay, tuy nhiên với quan hệ
tín dụng ngân hàng thì việc giải quyết tranh chấp này ngày càng có ý nghĩa quan
trọng hơn.
30
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại
Tòa án cấp phúc thẩm
2.1.1. Các quy định pháp luật về hợp đồng tín dụng
HĐTD về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy định của BLDS
2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là HĐTD trong trường hợp bên cho vay là các TCTD
(TCTD), trong đó chủ yếu là các ngân hàng (sau đây gọi chung là ngân hàng).
HĐTD chính là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho vay giao
cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn
nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Còn những hoạt
động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá được gọi
chung là hợp đồng cấp tín dụng.
Nếu bên vay là doanh nghiệp và hộ kinh doanh, thì HĐTD sẽ là hợp đồng
thương mại. Nếu bên vay là cá nhân, thì HĐTD sẽ là hợp đồng dân sự.
Cho vay vốn được ví như việc bán chịu một loại hàng hóa đặc biệt, đó là tiền
tệ. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng, trước khi giải ngân, thì thế mạnh hoàn toàn thuộc
về ngân hàng và ngân hàng là người quyết định có hay không cho vay. Dấu ấn vẫn
đang hiện hữu trong Luật các TCTD năm 1997 để chỉ quá trình chuẩn bị giao kết
hợp đồng, đó là những cụm từ “cấp tín dụng” và “xét duyệt cho vay” hay là “yêu
cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh” tính khả thi của phương án vay vốn
và khả năng trả nợ. Tuy nhiên, ngay sau khi thực hiện hợp đồng, tức là sau khi ngân
hàng giải ngân, thì xu thế lại hoàn toàn đảo ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm
vai trò chủ động trong việc trả nợ. Mặc dù ngân hàng có khá nhiều quyền chi phối
theo quy định của pháp luật về HĐTD, nhưng vẫn trở thành bên thụ động.
Nhìn chung pháp luật liên quan là BLDS, Luật các TCTD và Quy chế Cho
vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN ban hành (hiện nay là Thông tư
39/2016/TT-NHNN), đã quy định khá cụ thể, chi tiết các điều kiện, điều khoản có
trong một HĐTD. Vì vậy chỉ cần lưu ý đến một số điểm đặc biệt trong HĐTD.
31
Về nguyên tắc, bên vay vốn được sử dụng vốn vay vào bất kỳ mục đích nào,
nếu không bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, có những trường hợp không bị pháp luật
cấm, như việc vay vốn để trả nợ ngân hàng khác hoặc trả nợ chính ngân hàng vay,
nhưng lại rất khó được chấp nhận, vì nó được coi như một hoạt động đảo nợ. Trước
đây, việc đảo nợ bị cấm, sau đó được quy định trong Luật các TCTD là “Việc đảo
nợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ”. Tuy nhiên từ năm 1997 đến nay,
vẫn không có văn bản nào của Chính phủ hay NHNN giải thích về nội dung này.
Đối với vay vốn dân sự hoặc thương mại thông thường, thì hầu như bên cho
vay không quan tâm đến mục đích sử dụng vốn vay, trong khi đối với HĐTD thì lại
là một trong điều kiện quan trọng nhất.
Trong cả thời hạn vay vốn, nếu bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục
đích đã thỏa thuận, thì ngân hàng lập tức được quyền chấm dứt hợp đồng, phạt vi
phạm và thu hồi nợ trước hạn. Đó luôn là quy định của pháp luật, cũng đồng thời là
điều quan tâm hàng đầu của các ngân hàng trong nghiệp vụ xét duyệt và quản lý các
khoản vay. Để bảo đảm được việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và việc trả nợ
đúng hạn, ngân hàng được quyền kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và
trả nợ. Đây cũng là điều hầu như không xuất hiện trong các hợp đồng vay vốn trong
các quan hệ giữa cá nhân và các doanh nghiệp.
Để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và khả năng trả nợ của bên
vay, Luật các TCTD quy định, ngân hàng có trách nhiệm và có quyền kiểm tra,
giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của bên vay.
HĐTD phải được lập thành văn bản, trong đó có nội dung về điều kiện vay,
mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình
thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác
được các bên thoả thuận (§ 51 Luật các TCTD).
Mẫu hợp đồng mà các ngân hàng đưa ra không phải là hợp đồng mẫu theo
quy định của BLDS, mà chỉ là bản thảo để thuận tiện trong quá trình đàm phán ký
kết hợp đồng. Bên vay hoàn toàn có thể thoả thuận với ngân hàng thay đổi bất kỳ
nội dung nào. Tuy nhiên, trên thực tế thì bên vay thường phải chấp nhận những điều
khoản thiên về ràng buộc chặt chẽ đối với bên vay và có lợi hơn cho ngân hàng.
Trong thực tế, nhiều ngân hàng ký HĐTD nguyên tắc với bên vay, trong đó
xác định các nguyên tắc chung và các nội dung thoả thuận sơ bộ về việc cho vay
một số vốn nhất định khi hai bên vay đáp ứng được đầy đủ những điều kiện vay vốn
32
theo quy định của pháp luật cũng như của ngân hàng cho vay. HĐTD nguyên tắc là
căn cứ để ngân hàng và bên vay tiếp tục ký các HĐTD cụ thể. Khi ấy, HĐTD cụ thể
có thể không cần nhắc lại những thoả thuận chung như quyền, nghĩa vụ của các bên
chẳng hạn.
Các bên thường sử dụng HĐTD nguyên tắc trong trường hợp bên vay có
nhiều tài sản bảo đảm đưa vào ngân hàng để vay vốn nhiều lần và diễn ra trong một
thời gian dài. Khi đó hợp đồng bảo đảm tiền vay được thiết lập để bảo đảm cho
HĐTD nguyên tắc, thay vì cứ mỗi HĐTD lại phải ký một hợp đồng bảo đảm tiền
vay, vừa mất chủ động trong giao dịch vay vốn, vừa tốn kém chi phí định giá, công
chứng, đăng ký thế chấp lại.
HĐTD hạn mức là HĐTD cụ thể nhưng có thêm điều khoản cho phép bên
vay rút vốn và trả nợ nhiều lần, miễn là bảo đảm dư nợ vay trong mọi thời điểm
không quá mức tiền vay cao nhất mà hai bên đã thoả thuận. Mỗi lần vay vốn, bên
vay chỉ cần ký khế ước nhận nợ thay vì phải ký nhiều HĐTD với những điều kiện
tương tự nhau.
Thời hạn cho vay trong HĐTD được phân thành hai loại cơ bản là ngắn hạn
và trung, dài hạn, trong đó: Khoản vay vay ngắn hạn là không quá 12 tháng (1
năm); Khoản vay trung hạn là từ trên 12 tháng đến 60 tháng (1 - 5 năm); Khoản vay
dài hạn là trên 60 tháng (5 năm).
Giữa các khoản vay ngắn hạn và khoản vay trung, dài hạn, thường có những
đòi hỏi khác biệt, được xem xét thẩm định theo những quy trình, thủ tục khác nhau
và áp dụng lãi suất khác nhau theo nguyên tắc: thời hạn càng lâu thì càng tiềm tàng
rủi ro, và sự nguy hiểm sẽ tăng theo lãi suất.
Đối với hợp đồng kinh doanh thương mại, thời hạn được tính theo nhiều cách
khác nhau, thường là từ ngày ký hợp đồng. Còn đối với HĐTD, thì thời hạn hợp
đồng thường cũng chính là thời hạn cho vay, cho nên luôn được tính theo mốc từ
thời điểm bắt đầu nhận khoản tiền vay đầu tiên (ngày rút vốn hay ngày giải ngân)
cho đến khi trả hết khoản nợ cuối cùng theo thoả thuận ban đầu..
* Lãi suất cho vay trong HĐTD
Trước đây, tại Điều 476 BLDS năm 2005 quy định các bên trong hợp đồng
cho vay có quyền thỏa thuận về lãi suất nhưng không được vượt quá 150% của lãi
suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng và trong trường hợp
các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh
33
chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời
hạn vay tại thời điểm trả nợ Nay, BLDS năm 2015 quy định hạn mức lãi suất tối đa
mà các bên được thỏa thuận đã được hạ xuống, đồng thời pháp luật đã mở rộng
quyền thỏa thuận cho các bên trong trường hợp hợp đồng cho vay có tính lãi nhưng
không xác định lãi cụ thể. Điều 468 của Bộ luật này quy định: “1. Lãi suất vay do
các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo
thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật
khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của
Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên
và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt
quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không
có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định
rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi
suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”
Quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015, là một trong những thay đổi quan
trọng và được đánh giá là có thể hạn chế được những bất cập trong việc áp dụng
quy định về lãi xuất theo BLDS năm 2005. Theo đó, lãi suất vay là do chính các bên
thỏa thuận, nếu vay có lãi thì lãi xuất thỏa thuận không được quá 20%/năm của
khoản tiền vay, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, không như cách tính lãi
suất thỏa thuận theo mức tham chiếu là lãi suất cơ bản của NHNN được quy định tại
khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005 “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng
không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho
vay tương ứng.”.
Về mức lãi suất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015,
trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại
khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Như vậy, lãi suất tối đa
trong các hợp đồng vay tài sản các bên được thỏa thuận theo BLDS năm 2015
không quá 20%/năm (tức 1,7%/tháng).
Về lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của
lãi suất cơ bản do NHNN công bố theo quy định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm
2005. Theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của NHNN Việt
Nam, về lãi suất cơ bản của Việt Nam đồng để tính lãi suất, thì mức lãi suất cơ bản
34
là 9%/01 năm, tức là 0,75%/01 tháng. Lãi suất cao nhất các bên đương sự được thỏa
thuận theo quy định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2015 là 1,125%/01 tháng (tức
13,5%/01 năm).
So sánh quy định về lãi suất giữa BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 thấy:
BLDS năm 2015 quy định luôn mức lãi suất cao nhất được thỏa thuận trong các hợp
đồng dân sự vay tài sản là 20%, không phụ thuộc vào mức lãi suất cơ bản do
NHNN quy định. Mức lãi suất theo BLDS năm 2015 cao hơn so với BLDS năm
2005 mục đích giảm thiểu sự chênh lệch về mức lãi suất trong các hợp đồng dân sự
thông dụng với các HĐTD, bình đẳng hóa giữa các chủ thể khi tham gia vào các
giao dịch vay tài sản.
Về trường hợp không rõ về lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất: Theo
quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015, trường hợp không rõ hoặc có tranh
chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất theo quy định tại
khoản 1 Điều 468 Bộ luật này. Theo quy định này mức lãi suất trong trường hợp
không rõ hoặc có tranh chấp sẽ là 10%/01 năm (tức 0,83%/tháng).
So với quy định tại khoản 2 Điều 476 BLDS năm 2005 thì trường hợp không
rõ về lãi suất hoặc các bên đương sự có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ
bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Theo quy
định này thì mức lãi suất có tranh chấp là 0,75%/01 tháng. Như vậy, mức lãi suất
trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất theo quy định của BLDS
năm 2015 không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của NHNN và mức lãi lớn hơn so
với quy định của BLDS năm 2005.
Việc thay đổi này đã giải quyết được mâu thuẫn giữa quy định tại khoản 1
Điều 476 BLDS năm 2005 với Điều 1 của Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày
26/02/2010 của NHNN quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa
thuận của TCTD đối với khách hàng.
Theo quy định tại Điều 12 Luật NHNN năm 2010 và khoản 2, khoản 3 Điều
91 Luật Các TCTD năm 2010, trong điều kiện bình thường, lãi suất trong hoạt động
ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận, không có trần lãi suất. Về nghĩa
vụ trả nợ của bên vay, trước đây tại khoản 4 và khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005
quy định:
“4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ
hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi
35
suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả
nợ, nếu có thoả thuận.
5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả
không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ
bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
Nay theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015:
“4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả
không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời
gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không
đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với
thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Nhằm đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động xét xử đối với vấn đề cách tính
lãi suất trong hoạt động cho vay của các hợp đồng vay. Ngày 11/1/2019 Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP
của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy
định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng vay tài sản; lãi suất
trung bình trên thị trường; quyết định lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của Tòa
án. Nghị quyết đã có những thay đổi, cách xác định mang tính trực tiếp về lãi suất
vay trong các hợp đồng dân sự cũng như các hợp đồng tín dụng nói chung. Theo đó,
lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng do các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với
quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và văn bản quy phạm pháp luật quy định
chi tiết, hướng dẫn áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng tại thời điểm xác lập hợp
đồng, thời điểm tính lãi suất.
Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, Tòa án áp dụng quy định của
Luật Các tổ chức tín dụng, văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn
áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng để giải quyết mà không áp dụng quy định về giới
36
hạn lãi suất của Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định lãi,
lãi suất.
Tại thời điểm xét xử sơ thẩm, lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng xác lập
trước ngày 01-01-2017 được xác định như sau: Lãi trên nợ gốc trong hạn chưa trả
được xác định theo lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với Luật Các tổ
chức tín dụng và văn bản quy phạm pháp luật quy định về lãi suất áp dụng cho hợp
đồng tín dụng tại thời điểm xác lập hợp đồng, thời điểm tính lãi suất tương ứng với
thời hạn vay chưa trả. Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả được xác định theo thỏa
thuận của các bên nhưng phải phù hợp với Luật Các tổ chức tín dụng và văn bản
quy phạm pháp luật quy định về lãi suất áp dụng cho hợp đồng tín dụng tại thời
điểm xác lập hợp đồng.
Tại thời điểm xét xử sơ thẩm, lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng xác lập kể
từ ngày 01-01-2017 được xác định như sau: Lãi trên nợ gốc, lãi trên nợ gốc quá hạn
được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp khách hàng không
trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, thì phải trả
lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng
không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định tương ứng với thời
gian chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn. Thời gian chậm trả tiền nợ gốc bắt đầu kể từ
ngày chuyển nợ quá hạn đến thời điểm xét xử sơ thẩm, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác. Thời gian chậm trả tiền lãi trên nợ gốc bắt đầu kể từ ngày tiếp theo
liền kề của ngày phải trả lãi trên nợ gốc đến thời điểm xét xử sơ thẩm, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.
Xử lý thỏa thuận về lãi, lãi suất cao hơn mức lãi, lãi suất được pháp luật quy
định. Hợp đồng vay tài sản có thỏa thuận về lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ
lãi quá hạn cao hơn mức lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ lãi quá hạn được
pháp luật quy định thì mức lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ lãi quá hạn vượt
quá không có hiệu lực; số tiền lãi đã trả vượt quá mức lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn,
lãi trên nợ lãi quá hạn quy định được trừ vào số tiền nợ gốc tại thời điểm trả lãi; số tiền
lãi đã trả vượt quá còn lại sau khi đã trừ hết nợ gốc thì được trả lại cho bên vay.
* Nghĩa vụ trả nợ trong HĐTD
- Thoả thuận về nợ đến hạn
Một trong những vấn đề vướng mắc trong HĐTD là việc thu hồi nợ trước
hạn. Luật các TCTD cho phép các ngân hàng được phép thu hồi nợ trước hạn nếu
37
bên vay vi phạm HĐTD. Đây là một trong những đòi hỏi cơ bản, là quyền rất quan
trọng của các ngân hàng để bảo đảm an toàn vốn cho vay. Tuy nhiên có luồng quan
điểm không đồng tình vì căn cứ vào quy định của BLDS thì bên cho vay “Không
được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn”, trừ trường hợp được bên vay
đồng ý (§ 473.3). Nếu theo quan điểm này, thì trái ngược hoàn toàn với quy định
của pháp luật ngân hàng, vô cùng bất lợi đối với bên cho vay. Theo đó, khi bên vay
chậm trả một kỳ hạn nợ hoặc có những vi phạm khác, thì ngân hàng sẽ không được
phép chuyển toàn bộ số nợ sang nợ quá hạn, thu hồi toàn bộ nợ vay và xử lý tải sản
bảo đảm để thu hồi nợ. Thực tế đã từng xảy ra vụ việc dưới đây:
Để hạn chế rủi ro trên, các bên nên có thoả thuận trong HĐTD nội dung sau:
Trường hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ một kỳ hạn trả nợ thì các kỳ hạn khác chưa
đến hạn cũng được coi là đến hạn trả nợ và ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn.
- Lãi suất và phí trả nợ trước hạn
Trường hợp bên vay trả nợ trước hạn, thì thường phải trả phí trả nợ trước hạn
theo thoả thuận trong HĐTD. Gọi là phí trả nợ trước hạn nhưng thực chất là một
loại lãi suất phạt trên cơ sở quy định bên vay có quyền trả tiền vay trước hạn, nhưng
phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, nếu không có thỏa thuận khác. Trên thực tế, nhiều
ngân hàng không thu phí trả nợ trước hạn, hoặc chỉ thu với tỷ lệ từ vài đến vài chục
phần trăm so với số tiền lãi của thời hạn vay còn lại.
- Cơ cấu lại thời hạn trả nợ
Trường hợp bên vay không có khả năng trả nợ theo đúng thoả thuận ban đầu,
nếu đủ điều kiện thì có thể được ngân hàng xem xét cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ,
bao gồm hai cách là gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ.
Có một thời kỳ NHNN quy định khoản vay ngắn hạn chỉ được gia hạn tối đa
bằng thời hạn cho vay; khoản vay trung, dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho vay.
Như vậy, khoản vay 12 tháng thì được phép gia hạn thêm 12 tháng nữa, nhưng nếu
là khoản vay 13 tháng, thì chỉ được phép gia hạn thêm 6,5 tháng.
Đến nay, các khoản nợ được gia hạn nhiều lần, với thời hạn không bị hạn
chế. Tuy nhiên, khi đó khoản nợ sẽ bị đánh giá về khả năng rủi ro và phải phân loại
vào nhóm nợ thích hợp để trích lập dự phòng.
- Hiệu lực của HĐTD
Các ngân hàng thường đưa vào HĐTD câu: Hợp đồng này có hiệu lực cho
đến khi bên vay trả hết nợ gốc, lãi và các chi phí có liên quan. Nếu thoả thuận này
38
được công nhận, thì dẫn đến tình trạng không hợp lý là hiệu lực của HĐTD sẽ luôn
luôn là vô thời hạn, không bao giờ chấm dứt, nếu chưa trả hết nợ.
Tuy nhiên trên thực tế, Toà án đã từng thừa nhận thời hiệu khởi kiện không
tính từ ngày hết hạn trả nợ theo thoả thuận, mà tính đến khi bên vay trả hết nợ trong
trường hợp HĐTD có thoả thuận: Hợp đồng này có hiệu lực cho đến khi bên vay trả
hết nợ (gốc và lãi) cho bên cho vay (xem Bản án giám đốc thẩm số 08/2003/HĐTP-
KT ngày 29-5-2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND TC về vụ án tranh chấp
HĐTD giữa Ngân hàng Công thương Việt Nam và Công ty TNHH Thương mại
Lam Hồng Sơn).
Sau khi thực hiện xong, đương nhiên hợp đồng được thanh lý. Các bên
không cần thiết phải lập biên bản thanh lý hợp đồng, trừ trường hợp cần bằng.
- Thẩm quyền ký HĐTD
Mỗi bên chỉ cần một người đại diện ký HĐTD và khế ước nhận nợ. Tuy
nhiên trên thực tế, nhiều trường hợp bên ngân hàng có hai chữ ký (giám đốc và
trưởng phòng tín dụng), đồng thời yêu cầu bên vay cũng có hai chữ ký (giám đốc và
kế toán trưởng đối với doanh nghiệp hoặc hai vợ chồng đối với cá nhân).
Đối với ngân hàng, ít khi người đại diện theo pháp luật ký HĐTD, mà
thường do người được uỷ quyền ký, trong đó không ít trường hợp uỷ quyền cho
người thứ ba một cách thường xuyên, liên tục. Phổ biến là trường hợp, người đại
diện pháp luật của ngân hàng uỷ quyền cho giám đốc chi nhánh, sau đó giám đốc
chi nhánh uỷ quyền lại cho phó giám đốc hoặc trưởng phòng.
Ngược lại, ngân hàng thường chỉ chấp chấp nhận cho bên vay là doanh
nghiệp uỷ quyền một cấp cho người thứ hai và thường là có vị trí ngay dưới người
uỷ quyền ký HĐTD.
Việc đòi hỏi như trên của ngân hàng là chặt hơn đòi hỏi của pháp luật, nhưng
nó có ý nghĩa quan trọng trên thực tế, nhằm hạn chế rủi ro về chủ thể ký HĐTD của
bên vay, giúp cho HĐTD an toàn và dễ dàng hơn trong việc thu hồi nợ.
Luật các TCTD cũng quy định rõ, không một tổ chức cá nhân nào được can thiệp
trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của các ngân hàng.
* Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
- Bên vay vốn có các quyền sau: Từ chối các yêu cầu của ngân hàng không
đúng với các thoả thuận trong HĐTD; Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm HĐTD của
ngân hàng theo quy định của pháp luật.
39
- Bên vay vốn có các nghĩa vụ sau: Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông
tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn đồng thời chịu trách nhiệm về tính chính xác
và hợp pháp của các thông tin, tài liệu cung cấp cho ngân hàng; Sử dụng tiền vay
đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận trong HĐTD và các cam
kết khác với ngân hàng; Trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thoả thuận trong HĐTD;
Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả thuận về
việc trả nợ và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong HĐTD.
* Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
- Bên ngân hàng cho vay có các quyền sau: Yêu cầu khách hàng cung cấp
tài liệu chứng minh dự án, phương án vay vốn khả thi, khả năng tài chính của mình
và người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay; Từ chối yêu cầu vay vốn của khách
hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn; dự án, phương án vay vốn không có
hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc ngân hàng không có đủ
nguồn vốn để cho vay; Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả
nợ của khách hàng; Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá
hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm HĐTD; Khởi
kiện khách hàng vi phạm HĐTD hoặc khởi kiện bên thứ ba cầm cố, thế chấp, bảo
lãnh theo quy định của pháp luật; Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ,
nếu các bên không có thoả thuận khác thì ngân hàng có quyền bán tài sản bảo đảm
tiền vay theo sự thoả thuận trong HĐTD và hợp đồng bảo đảm tiền vay để thu nợ
theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu người thứ ba thực hiện nghĩa vụ cầm cố,
thế chấp, bảo lãnh cho khách hàng vay vốn; Miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định
của ngân hàng; gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ theo quy định; Mua bán nợ, đảo
nợ, khoanh nợ, xoá nợ và cơ cấu lại nợ theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn
của NHNN Việt Nam .
- Bên ngân hàng cho vay có các nghĩa vụ sau: Giải ngân cho bên vay theo
đúng thoả thuận trong HĐTD; Thực hiện đúng các thoả thuận trong HĐTD; Lưu
giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.
2.1.2. Các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng bằng Tòa án
2.1.2.1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp tín dụng
Quá trình giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng băng Tòa án phải tuân theo
những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam. Đó là những tư tưởng
40
pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân
sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên tắc của
BLTTDS trong quá trình giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng thể hiện được
tính ưu Việt của pháp luật XHCN, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà nước, của các cơ quan, tổ chức xã hội và của mọi người dân.
Được thể hiện ở một số nguyên tắc như: nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN trong
quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại; nguyên tắc bình đẳng về
quyềt và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự; nguyên tắc xét xử công khai...
Bên cạnh đó, giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng Tòa án còn phải
đáp ứng những nguyên tắc cơ bản, mang tính đặc thù trong hoạt động giải quyết
tranh chấp HĐTD ngân hàng. Theo quy định của BLTTDS thì pháp luật đòi hỏi các
bên tham gia giải quyết tranh chấp tại toà án phải tuân thủ một số nguyên tắc. Như
vậy, khi giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng bằng con đường toà án
cũng đòi hỏi các bên tham gia tuân thủ các nguyên tắc đó, cụ thể là:
Thứ nhất, nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự [26]: Ở
nguyên tắc này, quyền của chủ thể tranh chấp trong việc quyết định chọn phương
thức giải quyết tranh chấp bằng toà án được đảm bảo. Toà án chỉ giải quyết khi
đương sự có đơn yêu cầu và chỉ giải quyết các vấn đề tranh chấp trong phạm vi yêu
cầu. Có nghĩa là khi tranh chấp xảy ra, các bên tranh chấp có quyền tự quyết định
việc khởi kiện, chủ động đề xuất các yêu cầu, phạm vi mức độ quyền và lợi ích cần
được bảo vệ. Thậm chí, ngay khi đưa vụ án tranh chấp ra giải quyết các bên tranh
chấp có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau
một cách tự nguyện, không trái pháp luật và yêu cầu đạo đức xã hội.
Thứ hai, các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh [26]:
việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong giải quyết tranh chấp là quyền và
nghĩa vụ của các đương sự. Khi yêu cầu toà án giải quyết thì đương sự phải chứng
minh được các yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Các bên có quyền và
nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là cần thiết và có thể phản đối yêu cầu của
người khác đối với mình nhưng phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Toà án không bị bắt buộc thu thập, xác minh
chứng cứ mà chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do
BLTTDS quy định. Nguyên tắc này tạo cơ sở giải quyết nhanh chóng các vụ án
41
tranh chấp và nâng cao trách nhiệm chứng minh của các đương sự để bảo vệ lợi ích
của mình.
Thứ ba, nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự
[26]. Đây là nguyên tắc thể hiện quyền con người trong Hiến pháp nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam. Khi tham gia giải quyết tranh chấp tại toà án, các đương sự có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau, không ai được phân biệt đối xử. Các đương sự đều
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Toà án có trách nhiệm tạo
điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Có nghĩa là, các đương
sự có quyền đưa ra yêu cầu và phản đối yêu cầu của bên kia cũng như thực hiện
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ nhằm bảo vệ lợi ích của mình.
Thứ tư, nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự [26]. Ngoài quyền
tự bảo vệ cho mình, các đương sự có quyền nhờ luật sư hay người khác có đủ điều
kiện theo quy định của pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án
có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.
Thứ năm, nguyên tắc hoà giải [26]. Vì đặc điểm của tranh chấp phát sinh từ
HĐTD ngân hàng phản ảnh về lợi ích kinh tế của các bên nên biện pháp mà các bên
tiến hành để giải quyết tranh chấp trước tiên là hoà giải và chỉ cần đến sự can thiệp
của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi không thể hoà giải được. Hòa giải
được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phục thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến
khi bắt đầu xét xử tại phiên tòa trừ những vụ án không được hòa giải như yêu cầu bối
thường gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước. Khi Toà án tiến hành giải quyết tranh
chấp, trước tiên toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để
các đương sự thoả thuận với nhau. Điều này có nghĩa, tại toà án, các đương sự vẫn có
quyền tiến hành hoà giải dưới sự hướng dẫn và công nhận của Toà án.
Thứ sáu, nguyên tắc xét xử vụ án dân sự phải có HTND tham gia [26]. Thẩm
phán và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Hội thẩm là người có uy
tín, được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ
án thuộc thẩm quyền của Toà án nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của
người dân tham gia xét xử. Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
1 Quốc hội (2014), Luật tổ chức TAND, Hà Nội
thẩm quyền của Tòa án. Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án1. Khi xét
42
xử vụ án dân sự, Thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Pháp luật
nghiêm cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán, HTND thực hiện nhiệm vụ. Có nghĩa
là, hoạt động của Thẩm phán, HTND khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật mà không
chịu bất kỳ sự chi phối nào khác. Tất nhiên, họ phải chịu trách nhiệm đối với ý kiến
của mình về từng vấn đề của vụ án.
Thứ bảy, nguyên tắc giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng nhanh
chóng, kịp thời. Xuất phát từ đặc điểm của tranh chấp HĐTD ngân hàng thường
mang giá trị vật chất lớn, có thể ảnh hưởng đến nhiều mặt của xã hội, kinh tế, chính
trị, văn hóa... từ nhu cầu của các các bên tranh chấp, từ thực tiễn yêu cầu tín dụng
đòi hỏi việc giải quyết tranh chấp phải nhanh chóng kịp thời, dứt điểm, tránh dây
dưa, kéo dài đảm bảo khắc phục kịp thời cho bên bị vi phạm, tạo điều kiện cho các
bên yên tâm, phấn khởi tham gia hoạt động tín dụng. BLTTDS quy định cụ thể thời
hạn các giai đoạn tố tụng như thời hạn thụ lý, thời hạn thu thập chứng cứ và đưa vụ
việc ra xét xử, thời hạn kháng cáo, kiếu nại và giải quyết theo trình tự phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm...
Thứ tám, bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án. Giải quyết
tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng phương thức tòa án có một ưu điểm lớn nhất mà
các phương thức khác không thể có được đó là bảo đảm thi hành các quyết định,
bản án của Tòa án bằng các biện pháp cưỡng chế thi hành của nhà nước. Điều này
được thể hiện rõ trong luật thi hành án dân sự năm 2008 và quy định tại điều 19
BLTTDS năm 2015. Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành và phải được mọi công dân, cơ quan, tổ chức tôn trọng. Cá nhân, cơ
quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm
chỉnh chấp hành. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Toà án nhân dân
và các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án
phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ đó.
2.1.2.2. Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong giải quyết tranh chấp
tín dụng
BLTTDS năm 2015 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016, cùng với đó là Luật tổ
chức TAND năm 2014 đã có hiệu lực, thẩm quyền xét xử các cấp Tòa án là một vấn
đề cần phải làm rõ. Theo BLTTDS, Tòa án thực hiện chế độ xét xử 2 cấp. Bản án,
quyết định sơ thẩm của TAND cấp huyện có kháng cáo, kháng nghị sẽ được TAND
43
cấp tỉnh xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
Dưới đây là sơ đồ tóm tắt thẩm quyền của bốn cấp Tòa án hiện nay gồm TAND tối
cao, TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện:
Theo đó:
TAND cấp huyện là cấp Tòa thấp nhất trong hệ thống Tòa án Việt Nam phân
theo lãnh thổ. Tòa án nhân cấp huyện có thẩm quyền chính là xét xử sơ thẩm các vụ
án dân sự (Điều 35 BLTTDS 2015), đồng thời giải quyết các việc dân sự (khoản 2
Điều 35 BLTTDS 2015).
TAND cấp tỉnh (tên gọi đầy đủ là Tòa án nhân cấp tỉnh, thành phố thành phố
trực thuộc trung ương) có thẩm quyền trong việc xét sử sơ thẩm đối với các vụ việc dân
sự quy định tại Điều 37 BLTTDS 2015). Đối với các bản án, quyết định của Tòa cấp
huyện chưa có hiệu lực pháp luật thì Tòa mà bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp
tỉnh sẽ tiến hành xét xử phúc thẩm đối với những bản án, quyết định này.
TAND cấp cao là một cấp Tòa mới được bổ sung tại Luật tổ chức TAND
2014 có hiệu lực vào ngày 1/6/2015. Hiện nay, cả nước có 3 TAND cấp cao được
44
đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, mỗi Tòa cấp cao như vậy quản
lý một khu vực tương ứng theo Luật tổ chức TAND. Theo đó, TAND cấp cao sẽ
tiến hành xét xử phúc thẩm đối với các bản án, quyết định chưa có hiệu lực do Tòa
cấp tỉnh ra theo thủ tục sơ thẩm mà bị kháng cáo, kháng nghị. Bên cạnh đó, Tòa cấp
cao còn có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định của Tòa
cấp tỉnh và Tòa cấp huyện. (Tòa cấp cao quản lý khu vực nào thì sẽ có thẩm quyền
xét xử phúc thẩm hoặc thực hiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án,
quyết định tại của Tòa cấp tỉnh hoặc Tòa cấp huyện trong khu vực đó)
TAND tối cao là Tòa án cấp cao nhất trong hệ thống Tòa án Việt Nam.
TAND tối cao sẽ không có thẩm quyền xét xử mà chỉ thực hiện quyền giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm đối với những bản án, quyết định của tất cả các Tòa án cấp dưới
đã có hiệu lực pháp luật và bị kháng nghị(bao gồm Tòa cấp cao, Tòa cấp tỉnh và tòa
cấp huyện).
Theo Điều 275, BLTTDS, HĐXX phúc thẩm có các quyền sau đây:
1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
2. Sửa bản án sơ thẩm;
3. Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải
quyết lại vụ án;
4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm: Hội đồng phúc thẩm bác kháng cáo hoặc kháng
nghị trong trường hợp kháng cáo kháng nghị không có căn cứ và tòa án cấp sơ thẩm
đã xét xử đúng.
Sửa bản án sơ thẩm: Nếu qua việc xét xử phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm xét
xử thấy tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật, thì HĐXX có thể
sửa 1 phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm. Theo Điều 309 BLTTDS, HĐXX phúc
thẩm sửa 1 phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu tòa án cấp sơ thẩm quyết định
không đúng pháp luật trong những trường hợp sau đây: Việc chứng minh và thu
thập chứng cứ đã đưỡ thực hiện đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật; Việc
chứng minh và thu thập chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại
phiên tòa phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ.
Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết
lại vụ án dân sự: HĐXX phúc thẩm sẽ thực hiện đầy đủ quyền hạn này trong một số
trường hợp sau đây: Việc chứng minh và thu thập chứng cứ không theo đúng quy
45
định tại chương VIII BLTTDS hoặc chưa thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc
thẩm không thực hiện bổ sung được; Thành phần HĐXX phúc thẩm không đúng
quy định của BLTTDS hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng Điều
310 BLTTDS .
Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự: Theo quy định tại Điều
311 BLTTDS, HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu
trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các
trường hợp quy định tại Điều 217, điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ luật này.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn có thể tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ
án dân sự khi có căn cứ tại Điều 214 BLTTDS: Theo quy định tại các Điều 288,
295 BLTTDS , khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 214 BLTTDS thì
HĐXX phúc thẩm có quyền tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự.
Tòa án cấp phúc thẩm cũng có quyền đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
khi có căn cứ tại Điều 289 BLTTDS: Theo quy định tại Điều 289 BLTTDS , khi có
một trong những căn cứ quy định tại Điều 289 BLTTDS thì HĐXX phúc thẩm có
quyền đình chỉ xét xử vụ án dân sự.
2.1.2.3. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp tại tòa án cấp phúc thẩm
Bản án xét xử sơ thẩm vụ án nếu không có kháng nghị (của Viện kiểm sát),
kháng cáo (của cá nhân và tổ chức có quyền và nghĩa vụ liên quan) thì sẽ có hiệu
lực theo quy định của pháp luật. Trường hợp bản án có kháng nghị, kháng cáo thì
vụ án phải đưa ra xét xử phúc thẩm. Thông thường thời gian kháng cáo là 15 ngày,
thời gian kháng nghị là 15 ngày đối với Viện kiểm sát cùng cấp hoặc 30 ngày đối
với Viện kiểm sát cấp trên. Sau thời gian này mà không có kháng cáo, kháng nghị
thì bản án sẽ có hiệu lực.
Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản
án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc
kháng nghị. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là 15 ngày,
kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng
cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát
cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày
tuyên án. Trường hợp kiểm sát viên không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng
nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.
46
Đơn kháng cáo phải có các nội dung quy định tại điều 272 của BLTTDS
2015, đơn kháng cáo có thể gửi cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo hoặc gửi cho Toà án cấp phúc thẩm. Đơn kháng cáo phải kèm
theo tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng minh cho kháng cáo của mình là
có căn cứ và hợp pháp.
Sau khi nhận được đơn kháng cáo, Toà án cấp sơ thẩm phải kiểm tra tính hợp
lệ của đơn kháng cáo. Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, Toà án cấp sơ thẩm
phải thông báo cho người kháng cáo biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
theo quy định của pháp luật, nếu họ không thuộc trường hợp được miễn hoặc không
phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí phúc thẩm.
Trong thời hạn 10 kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án về việc nộp
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí và
nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Hết thời hạn này mà
người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì được coi là họ từ bỏ
việc kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu,
chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý. Trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho các
đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án. Chánh án Tòa
án cấp phúc thẩm hoặc Chánh tòa Tòa phúc thẩm TAND tối cao thành lập HĐXX
phúc thẩm gồm có: một Thẩm phán phân công làm chủ tọa phiên tòa và hai Thẩm
phán.
Trình tự thủ tục giống phiên toà sơ thẩm chỉ khác là quyết định của phiên toà
phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định. Khi bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật, các bên phải tự nguyện thi hành. Nếu một bên không tự
nguyện thi hành, bên được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự
cưỡng chế thi hành. Bên được thi hành án làm đơn gửi tới phòng thi hành án dân sự
thuộc tỉnh, thành phố đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật do Tòa án cấp
tỉnh, thành phố tuyên. Trong trường hợp bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật do
Tòa án cấp quận, huyện tuyên thì bên được thi hành án làm đơn đề nghị thi hành án
gửi tới đội thi hành án dân sự thuộc quận, huyện. Bên được thi hành án có quyền
yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án cư trú (nếu người
47
phải thi hành án là cá nhân) hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự nơi bên phải
thi hành án có trụ sở hoặc nơi có tài sản (nếu bên phải thi hành án là pháp nhân).
Cơ sở pháp lý điều chỉnh thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự nói chung và
vụ tranh chấp HĐTD ngân hàng nói riêng là BLTTDS năm 2015. Thủ tục chuẩn bị
xét xử phúc thẩm được quy định tại Chương 16 BLTTDS, bao gồm 8 điều (từ Điều
285 đến Điều 292), trong đó giữ nguyên 1 điều, sửa đổi 5 điều, bổ sung mới 2 điều.
Thủ tục xét xử phúc thẩm được quy định tại Chương 17, bao gồm 2 mục và 23 điều
(từ Điều 293 đến Điều 315), trong đó giữ nguyên 6 điều, sửa đổi 14 điều, bổ sung
mới 3 điều. Theo đó, một tranh chấp HĐTD ngân hàng được giải quyết ở Tòa án
cấp phúc thẩm phải trải qua các bước sau đây:
a) Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu,
chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý, thông báo bằng văn
bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng
cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án. Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm thành lập
HĐXX phúc thẩm và phân công một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa. Trong vòng
2 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa có thể đưa ra quyết định tạm đình chỉ xét xử,
đình chỉ xét xử hoặc đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Quyết định này dựa trên kết quả
nghiên cứu hồ sơ vụ án đã được xét xử ở cấp sơ thẩm.
b) Phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án:
Trường hợp Tòa quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì phiên tòa phải
được diễn ra theo đúng trình tự thủ tục của pháp luật, gồm thủ tục bắt đầu phiên tòa,
thủ tục hỏi các đương sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc
giải quyết vụ án thì HĐXX công nhận thỏa thuân đó và dựa trên đó đưa ra bản án
phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm.
Trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau thì phiên tòa được tiến
hành theo thủ tục gồm phần tranh tụng giữa nguyên đơn, bị đơn:Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo trình bày, người kháng cáo có
quyền bổ sung ý kiến;Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tranh
luận, đối đáp, đương sự có quyền bổ sung ý kiến;Khi xét thấy cần thiết, HĐXX có
thể yêu cầu các đương sự tranh luận bổ sung về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ
giải quyết vụ án.
48
Hoặc tranh luận đối với kháng nghị:Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự phát biểu về tính hợp pháp, tính có căn cứ của kháng nghị. Đương sự
có quyền bổ sung ý kiến;Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về những vấn đề mà người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự đã nêu.
c) Nghị án và tuyên án xét xử phúc thẩm:
Sau phần tranh tụng, Tòa án và Viện kiểm sát ra quyết định và tuyên án. Bản
án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Quyết định phúc thẩm có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng theo
thủ tục phúc thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
2.2.1. Khái quát chung về Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
Thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế đất nước đã có những phát triển
đáng kể. Bên cạnh những mặt tích cực mà nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất
nước, thì mặt trái của nó cũng tác động tiêu cực đối với xã hội, làm gia tăng tội
phạm, trong đó có những loại tội phạm mới gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng,
đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, hành
chính gia tăng, đặc biệt là các tranh chấp về dân sự liên quan đến đất đai, nhà ở,
thừa kế hoặc tranh chấp về tài sản trong lĩnh vực hôn nhân - gia đình. TAND thành
phố Hà Nội đã tổ chức tốt công tác xét xử các loại vụ án, đặc biệt là các vụ án lớn,
trọng điểm, phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của Thủ đô Hà Nội như vụ án mang
tính chất băng nhóm “theo kiểu xã hội đen” (vụ “ Khánh trắng”, “Phúc bồ”); vụ án
mua bán trái phép chất ma tuý với số lượng lớn, địa bàn phạm tội rộng và có đông
người tham gia (vụ Vũ Xuân Trường); vụ án Lã Thị Kim Oanh phạm tội tham
nhũng có giá trị đặc biệt lớn, vụ án Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân nguyên
là Luật sư phạm tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”…
Thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-QH của Quốc hội khoá XII về mở rộng địa
giới hành chính Thủ đô Hà Nội, TAND tỉnh Hà Tây được hợp nhất vào TAND
thành phố Hà Nội từ ngày 01/8/2008. Với địa bàn công tác rộng, các loại vụ án đều
tăng đáng kể, phức tạp và đa dạng nhưng đội ngũ cán bộ, công chức TAND thành
phố Hà Nội luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc
phục mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Hàng năm,
TAND thành phố Hà Nội thụ lý, giải quyết trên 3.000 vụ án các loại; chất lượng
49
giải quyết, xét xử các loại vụ án được nâng cao, tỷ lệ án bị hủy, bị sửa giảm rõ rệt;
công tác tổ chức xét xử được quan tâm, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, điển
hình là việc xét xử vụ án Nguyễn Thị Nhi và các đồng phạm gây rối trật tự công
cộng và hủy hoại tài sản nhà nước tại 40 phố Nhà Chung và số 178 phố Nguyễn
Lương Bằng, vụ án Bùi Tiến Dũng (PMU 18) cố ý làm trái các quy định của Nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, vụ án Lê Quốc Quân phạm tội
“Trốn thuế” , Cù Huy Hà Vũ phạm tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam”; vụ án Dương Chí Dũng phạm tội tham ô tài sản, cố ý làm trái
quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, vụ án Nguyễn
Đức Kiên phạm các tội kinh doanh trái phép, trốn thuế, cố ý làm trái trái quy định
của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và lừa đảo chiếm đoạt
tài sản…
Để đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong từng giai đoạn, cơ cấu tổ chức,
chức năng, nhiệm vụ của TAND ngày càng được kiện toàn theo hướng, TAND là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Do
đó, TAND thành phố Hà Nội cũng từng bước đổi mới, hoàn thiện về tổ chức và
hoạt động, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để
tập trung nâng cao chất lượng xét xử và các mặt công tác khác, góp phần vào việc
bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các
hoạt động kinh tế, xã hội phát triển, ổn định chính trị; xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Đến nay (tính đến ngày 01/4/2017), TAND thành phố Hà Nội có 192
người, trong đó có 64 Thẩm phán, 124 Thư ký và chức danh khác; về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ có 35 Thạc sỹ Luật, 143 cử nhân; về trình độ lý luận chính
trị có 51 người có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị. Cơ cấu tổ chức của
TAND thành phố Hà Nội gồm Ủy ban Thẩm phán, Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa
Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Hành chính, Văn phòng, Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án, Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và Thi đua khen thưởng. Hằng năm,
TAND thành phố Hà Nội thụ lý, giải quyết 3.000 vụ án các loại.
Bên cạnh đó, TAND thành phố Hà Nội còn được giao nhiệm vụ quản lý 30
TAND cấp huyện, thành phố Hà Nội về công tác tổ chức cán bộ, tài chính kế toán.
Hiện nay, các TAND cấp huyện có 662 người, trong đó có 304 Thẩm phán, 358
Thư ký và chức danh khác; về trình độ chuyên môn nghiệp vụ có 02 Tiến sỹ Luật,
50
97 Thạc sỹ Luật, 554 cử nhân; về trình độ lý luận chính trị có 74 người có trình độ
cử nhân và cao cấp lý luận chính trị; hằng năm, thụ lý, giải quyết 24.500 vụ án các
loại, bảo đảm đúng quy định của pháp luật.
2.2.2. Tình hình tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng trên địa bàn
thành phố Hà Nội
Hoạt động cho vay của các TCTD đang ngày càng phát triển và có thể nói là
phát triển rất nhanh. Hiện tại, có rất nhiều TCTD ra đời, theo đó các TCTD cũng
cạnh tranh với nhau rất mạnh mẽ từ mô hình tổ chức, cơ cấu nghiệp vụ, phát triển
mạng lưới, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển
các sản phẩm dịch vụ mới ... Điều này chứng tỏ rằng hoạt động ngân hàng thực chất
là hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận rất cao. Theo thống kê, hiện nay số
lượng tranh chấp giữa TCTD và khách hàng vay vốn còn khá cao so với các loại
tranh chấp hợp đồng khác được giải quyết tại Tòa án. Tranh chấp HĐTD ngân hàng
chiếm tỷ lệ lớn thứ hai sau hợp đồng mua bán trong tổng số tranh chấp hợp đồng
kinh doanh, thương mại. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ một trong
những đặc trưng cơ bản của HĐTD ngân hàng là sự chứa đựng nguy cơ rủi ro rất
lớn đối với quyền lợi của bên cho vay vì theo cam kết trong HĐTD ngân hàng bên
cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời hạn nhất định, nếu thời hạn cho
vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn, vì thế mà các tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với các hợp
đồng khác được giải quyết tại Tòa án. Việc tranh chấp HĐTD ngân hàng xuất phát
từ sự mâu thuẫn về quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Theo báo cáo thống kê của TAND thành phố Hà Nội, tranh chấp kinh doanh,
thương mại (trong đó có tranh chấp HĐTD ngân hàng) có chiều hướng gia tăng:
năm 2016: 5.411 vụ, năm 2017: 8.995 vụ, năm 2018: 10.767 vụ. Nguyên nhân cơ
bản nhất của tình hình này là do sự khủng hoảng kinh tế tòan cầu.
So sánh giai đoạn 2010 – 2015, thì số vụ tranh chấp năm 2018 tăng gấp từ 2
đến 7 lần, trong đó tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng chiếm tỷ lệ cao nhất
trong số các vụ án đã thụ lý và giải quyết.
Sự gia tăng này một mặt phản ánh đúng thực trạng tranh chấp hiện nay. Tuy
nhiên, việc thống kê này cũng chưa đầy đủ, trong thực tế do các TCTD và khách
hàng không đưa vụ việc tranh chấp ra Tòa án mà tự thương lượng giải quyết nhằm
giảm chi phí và thời gian kiện tụng, vừa giữ quan hệ tốt với nhau. Các tranh chấp
51
nêu trên dù đơn giản hay phức tạp, dù giá trị tài sản nhỏ hay lớn đều để lại những
hậu quả nhất định cho các đương sự và gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội.
Trong các dạng tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng thì tranh chấp đòi
nợ quá hạn và lãi suất là dạng tranh chấp phổ biến nhất:
Vụ án 1: Ngày 26/08/2013, Ngân hàng TMCP A – Chi nhánh H – Phòng
giao dịch LHvà Công ty cổ phần nội thất kính A ( viết tắt là Công ty A) đã ký Hợp
đồng cấp hạn mức số 0044/13/TD/II.14 và Phụ lục số 0044/13/TD/II.14 để Công ty
A vay số tiền 1.100.000.000 đồng trong thời hạn 12 tháng để bổ sung vốn lưu
động.Trên cơ sở Hợp đồng trên ngân hàng TMCP A đã tiến hành giải ngân thể hiện
qua Giấy nhận nợ ngày 29/8/2013 do Công ty A đã ký giấy nhận nợ với ngân hàng
TMCP A số tiền 400.000.000 đồng và ngày 31/12/2013 ký nhận nợ số tiền
700.000.000 đồng, lãi suất cho vay tại thời điểm vay là 12,75%/năm được thay đổi
theo quy định của ngân hàng TMCP A. Để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ, ngày
08/10/2012 Công ty A cùng ông Hoàng Mai A ( đại diện theo pháp luật của công ty
) đã ký Hợp đồng thế chấp số công chứng 485312 quyển 4TP/CC-SCC/HDGD tại
văn phòng công chứng số 1 H, theo đó ông Hoàng Mai A đã thế chấp tài sản là
Quyền sử dụng 34,1m2 đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất 56( 1F), tờ bản đồ
6I.III-39, địa chỉ ở phường Q, quận H, thành phố H theo Giấy chứng nhận Quyền sử
dụng đất,quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BI 961099 do Ủy
ban nhân dân quận H cấp ngày 08/6/2012.
Trong quá trình vay vốn Công ty A đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo các cam
kết trong hợp đồng đã ký với ngân hàng TMCP A, hiện Công ty còn nợ số tiền gốc
là 1.097.554.947 đồng và các khoản tiền nợ lãi phát sinh từ số tiền nợ gốc trên theo
HĐTD ngân hàng hạn mức số 0044/13/TD/II.14 ngày 26/8/2013. Ngân hàng TMCP
A đã nhiều lần liên hệ ,làm việc trực tiếp ,thông báo chuyển nợ quá hạn yêu cầu
khách hàng tự xử lý tài sản đảm bảo để trả nợ nhưng phía Công ty A không thực
hiện, vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.Do vậy ngân hàng
TMCP A khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc Công ty A phải thanh toán cho
ngân hàng TMCP A số tiền nợ gốc 1.097.554.947 đồng và tiền lãi tạm tính đến
13/9/2016 là 539.712.406 đồng. Công ty A tiếp tục phải chịu số tiền lãi phát sinh
trên dư nợ gốc thực nợ kể từ ngày 14/9/2016 cho đến khi thanh toán hết nợ theo
mức lãi suất nợ quá hạn quy định tại Hợp đồng hai bên đã ký, trường hợp Công ty
không trả được nợ Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan Thi hành án phát mãi tài
52
sản đảm bảo là Quyền sử dụng 34,1m2 đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất
56( 1F), tờ bản đồ 6I.III-39, địa chỉ ở phường Q, quận H, thành phố H theo Giấy
chứng nhận Quyền sử dụng đất,quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số BI 961099 do Ủy ban nhân dân quận H cấp ngày 08/6/2012 cho ông Hoàng Mai
A để thu hồi nợ.
Với nội dung nêu trên, TAND quận H thành phố Hà Nội đã ban hành Bản án
sơ thẩm số 16/2018/DS-ST quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ngân hàng
TMCP A đối với Công ty cổ phần nội thất kính A về việc "Tranh chấp HĐTD ngân
hàng"
- Buộc Công ty cổ phần nội thất kính A phải thanh toán trả Ngân hàng
TMCP A số tiền nợ theo theo Hợp đồng cấp hạn mức số 0044/13/TD/II.14 ngày
26/08/2013 và Phụ lục số 0044/13/TD/II.14 là 2.094.398.988 đồng ( hai tỷ không
trăm chín tư triệu,ba trăm chín tám nghìn chín trăm tám tám đồng) bao gồm nợ gốc
1.097.554.947 đồng, lãi trong hạn 43.491.667 đồng, lãi quá hạn (tính đến ngày
06/11/2018) là 943.352.374 đồng.
- Kể từ ngày 07/11/2018, Công ty cổ phần nội thất kính A còn phải tiếp tục
chịu lãi suất của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa
thuận trong HĐTD ngân hàng trả góp số LTG.CN.03290113 ngày 29/01/2013 cho
đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
- Trường hợp Công ty cổ phần nội thất kính A không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán thì Ngân hàng TMCP A có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là toàn bộ Quyền sử dụng 34,1m2 đất và tài sản
gắn liền với đất tại thửa đất 56 (1F),tờ bản đồ 6I.III-39, địa chỉ tại phường Q,quận
H, tp.H ( nay là phường Q,quận H, tp.H) theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BI 961099 do Ủy ban nhân
dân quận H cấp ngày 08/6/2012 cho ông Hoàng Mai A theo Hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất số 485312 quyển 4TP/CC-SCC/HDGD ngày 08/10/2012; Văn
bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày 26/08/2013 lập tại
Văn phòng công chứng số 1 H.
- Khi cơ quan,tổ chức có thẩm quyền xử lý tài sản đảm bảo, những người
đang sinh sống thực tế trên nhà đất này phải chuyển đi nơi khác ở. Trường hợp
quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận
53
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Vụ án 2: về thu hồi nợ đến hạn.
Tháng 7-2007, bà Phùng Thị Tuyết Ng. ký HĐTD ngân hàng vay của Ngân
hàng V. 800 triệu đồng, thời hạn vay là 60 tháng, trả nợ gốc, lãi cho theo định kỳ
hằng tháng. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của người thứ ba. Bà Ng chỉ trả
nợ được 2 kỳ, sau đó không trả nợ tiếp. Sau đó Ngân hàng V. khởi kiện ra TAND
quận Hoàn Kiếm đòi nợ và đề nghị phát mại tài sản thế chấp để thu nợ. Toà án đã
tuyên bác yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V.
Ngân hàng V. thì cho rằng: Việc chậm trả của bà Ng. là đã vi phạm nghĩa vụ
trả nợ, do vậy việc đòi nợ dựa trên cơ sở nghĩa vụ đã đến hạn chứ không phải là
“đòi lại nợ trước hạn”. Căn cứ pháp lý là Luật các TCTD cho phép ngân hàng “có
quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung
cấp thông tin sai sự thật, vi phạm HĐTD ngân hàng.”
Và Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, ban hành kèm theo
Quyết định số 1627/2010/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN cũng quy định rõ:
“Đối với khoản nợ vay không trả nợ đúng hạn, được TCTD đánh giá là không có
khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì số
dư nợ gốc của HĐTD ngân hàng đó là nợ quá hạn và TCTD thực hiện các biện pháp
để thu hồi nợ; việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên
thoả thuận trên cơ sở quy định của pháp luật."
Còn Toà án thì lập luận rằng: HĐTD ngân hàng có thời hạn vay là 5 năm,
đến nay mới là 3 năm, chưa đến hạn. Do đó, căn cứ vào quy định của BLDS thì
Ngân hàng V. chưa có quyền yêu cầu bên vay trả nợ, theo đó cũng không có quyền
đòi bên thế chấp tài sản phải thực hiện nghĩa vụ.
2.2.3. Kết quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng theo thủ
tục phúc thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
Hoạt động cho vay của các TCTD đang ngày càng phát triển và có thể nói là
phát triển rất nhanh. Hiện tại, có rất nhiều TCTD ra đời, theo đó các TCTD cũng
cạnh tranh với nhau rất mạnh mẽ từ mô hình tổ chức, cơ cấu nghiệp vụ, phát triển
mạng lưới, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển
các sản phẩm dịch vụ mới ...
54
Điều này chứng tỏ rằng hoạt động ngân hàng thực chất là hoạt động kinh
doanh mang lại lợi nhuận rất cao. Theo thống kê, hiện nay số lượng tranh chấp giữa
TCTD và khách hàng vay vốn còn khá cao so với các loại tranh chấp hợp đồng khác
được giải quyết tại Tòa án. Tranh chấp HĐTD ngân hàng chiếm tỷ lệ lớn thứ hai sau
hợp đồng mua bán trong tổng số tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại.
Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ một trong những đặc trưng cơ bản của
HĐTD ngân hàng là sự chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn đối với quyền lợi của bên
cho vay vì theo cam kết trong HĐTD ngân hàng bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của
bên vay sau một thời hạn nhất định, nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro
và bất trắc càng lớn, vì thế mà các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cũng thường
xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với các hợp đồng khác được giải quyết tại
Tòa án. Việc tranh chấp HĐTD ngân hàng xuất phát từ sự mâu thuẫn về quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên.
Theo số liệu của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thì trong giai đoạn từ
năm 2015 đến năm 2019 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý giải quyết
142 vụ án ở cấp phúc thẩm về loại án tranh chấp tín dụng ngân hàng. Điều này cho
thấy số lượng vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng chiếm một tỉ lệ khá lớn trong
tổng số tranh chấp kinh doanh thương mại ở cấp phúc thẩm của thành phố Hà Nội.
Bảng 2.1. Kết quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ở cấp
phúc thẩm của toà án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2015 – 2019
Số thụ lý Số đã giải quyết Năm
23 22 2015
27 24 2016
29 26 2017
31 29 2018
32 26 2019
Tổng 142 127
Nguồn: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.
Như vậy, qua bảng số liệu trên cho thấy, trong toàn giai đoạn từ 2015 đến
2019 toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý 142 hồ sơ xét xử phúc thẩm đối
với các vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng ngân hàng trong đó xu hướng chung
là tăng trong toàn giai đoạn từ 23 vụ vào năm 2015 lên 32 vụ vào năm 2019. Điều
này là do tình hình chung tình trạng nợ xấu của các ngân hàng trong giai đoạn vừa
55
qua đã và đang được giải quyết một cách triệt để, nhiều vụ việc đã được đưa ra toà
án để xét xử và mang lại kết quả cao. Do đó, giải quyết án ở cấp phúc thẩm cũng
được quan tâm hơn. Trong giai đoạn từ 2015 đến 2019 có tổng số 127 vụ án về
tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng được giải quyết tại toà án nhân dân thành
phố Hà Nội chiếm 93% tổng số thụ lý. Điều này cho thấy sự tích cực, chủ động của
Toà án trong việc giải quyết tranh chấp tín dụng ngân hàng, đảm bảo quyền khởi
kiện và quyền kháng cáo của đương sự được quan tâm, đáp ứng. Nhiều vụ việc
được giải quyết đạt kết quả cao, được đương sự quan tâm. Số lượng án bị kháng
nghị giám đốc thẩm và tái thẩm không có vụ nào trong giai đoạn vừa qua. Như vậy,
cho thấy chất lượng xét xử phúc thẩm của toà án nhân dân thành phố Hà Nội đối với
các tranh chấp tín dụng ngân hàng đạt được là rất tốt.
Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng theo thủ tục phúc
thẩm tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thời gian qua đã đạt được những kết
quả nhất định. Cụ thể là:
Thứ nhất, pháp luật quy định chi tiết thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tranh
chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hợp đồng dân sự thì thời hạn là bốn tháng,
kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với tranh chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hoạt
động kinh doanh, thương mại thì thời hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Ngoài ra, đối với các loại tranh chấp HĐTD ngân hàng mà có tính chất phức tạp
hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp tranh
chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hợp đồng dân sự và một tháng đối với vụ
án thuộc trường hợp tranh chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hoạt động kinh
doanh, thương mại là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với vụ án có tính chất
phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn
thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá một tháng. Trong thời hạn một tháng kể
từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường
hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng. Quy định này đã nâng cao
trách nhiệm của các Toà án trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp HĐTD
ngân hàng.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng đã được thống nhất
theo một thủ tục tố tụng chung - thủ tục tố tụng dân sự. Điều này, đã tiết kiệm được
thời gian cho các cơ quan tư pháp và cho chính các bên tranh chấp.
56
Thứ ba, Toà án nhân dân các cấp đã không ngừng nâng cao chất lượng xét
xử, làm rõ những yêu cầu của đương sự trong vụ án, tăng cường phối hợp với các
cơ quan chức năng để giải quyết vụ án. Công tác giải quyết tranh chấp về cơ bản
được thực hiện đúng các quy định của pháp luật, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tranh chấp.
Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng tại Toà án thành
phố Hà Nội thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Cụ thể là:
Thứ nhất, pháp luật quy định chi tiết thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tranh
chấp HĐTD là tranh chấp về hợp đồng dân sự thì thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày
thụ lý vụ án. Đối với tranh chấp HĐTD là tranh chấp về hoạt động kinh doanh,
thương mại thì thời hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Ngoài ra, đối với các
loại tranh chấp HĐTD mà có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì
Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không
quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp tranh chấp HĐTD là tranh chấp về
hợp đồng dân sự và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp tranh chấp HĐTD là
tranh chấp về hoạt động kinh doanh, thương mại là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ
án. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án
Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá một
tháng. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà
án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai
tháng. Quy định này đã nâng cao trách nhiệm của các Toà án trong quá trình giải
quyết các vụ án tranh chấp HĐTD.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp HĐTD đã được thống nhất theo một thủ
tục tố tụng chung - thủ tục tố tụng dân sự. Điều này, đã tiết kiệm được thời gian cho
các cơ quan tư pháp và cho chính các bên tranh chấp.
Thứ ba, Toà án nhân dân các cấp đã không ngừng nâng cao chất lượng xét
xử, làm rõ những yêu cầu của đương sự trong vụ án, tăng cường phối hợp với các
cơ quan chức năng để giải quyết vụ án. Công tác giải quyết tranh chấp về cơ bản
được thực hiện đúng các quy định của pháp luật, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tranh chấp.
2.2.4. Những hạn chế tồn tại và nguyên nhân
Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động của Toà án đối với giải quyết theo thủ tục
phúc thẩm các tranh chấp kinh doanh, thương mại nói chung và tranh chấp phát sinh
57
từ HĐTD ngân hàng nói riêng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế khiến quá trình giải
quyết còn chưa thực sự có hiệu quả. Theo báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án
sự yếu kém, hạn chế bởi các nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, trong quá trình giải quyết tranh chấp, nhiều Thẩm phán nghiên cứu
tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, rõ ràng, đánh giá chứng cứ không đúng với sự thật
khách quan, thậm chí còn xác định sai tư cách tố tụng của đương sự hoặc triệu tập
không đầy đủ những người bắt buộc phải tham gia phiên toà dẫn đến nhiều phiên
toà vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và kết quả là bản án được tuyên bị huỷ vì
vi phạm nghĩa vụ tố tụng.
Thứ hai, công tác thụ lý và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm còn chậm,
nhiều bản án phúc thẩm giải quyết chưa thoả đáng, việc phát hiện những sai sót của
Toà án sơ thẩm chưa tiến hành kịp thời để đưa ra những giải pháp khắc phục. Số
lượng bản án phúc thẩm bị xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm còn chiếm tỷ
lệ khá cao trong tổng số vụ án thụ lý giải quyết. Việc tố tụng chậm, sai, phiền hà đã
ảnh hưởng tiêu cực tới các bên trong HĐTD ngân hàng. Đối với các TCTD, việc
giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng kéo dài dẫn đến không thu hồi được vốn
cho vay, ảnh hưởng tới hoạt động của tổ chức đó. Còn đối với bên vay, tranh chấp
kéo dài có thể làm cho việc ký kết những hợp đồng vay với các TCTD cho vay khác
để mở rộng nguồn vốn kinh doanh gặp khó khăn.
Thứ ba, đối với công tác giám đốc thẩm, tái thẩm và giải quyết khiếu nại vẫn
chưa đảm bảo được những quy định của pháp luật. Công tác kiểm tra, giám đốc
thẩm của Toà án cấp trên đối với Toà án cấp dưới còn hạn chế, nên chưa kịp thời
phát hiện các vi phạm để khắc phục và xử lý.
Thứ tư, pháp luật hiện hành liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tuy khá
đầy đủ nhưng chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện. Pháp luật của Việt Nam đang trong
quá trình sửa đổi, bổ sung để dần dần hoàn thiện. Vì thế, nhiều bộ luật, luật được
ban hành mà chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết thi hành, nhiều quy định
chồng chéo không thực hiện được trên thực tế hoặc được áp dụng không thống nhất
trong hệ thống cơ quan tư pháp.
Một số văn bản pháp luật đã có hiệu lực thi hành trong một thời gian khá dài
nhưng nhiều quy định trong các văn bản đó chưa được Toà án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cùng các cơ quan hữu quan trong phạm vi thẩm
quyền ban hành những văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành nên có tình trạng Toà án
58
nhân dân các cấp áp dụng không thống nhất và kết quả các bản án hoàn toàn trái
ngược nhau giữa các cấp Toà.
Thứ năm, đội ngũ cán bộ Toà án hiện nay còn thiếu về số lượng và yếu kém
về năng lực, có một số cán bộ Toà án sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm
nghề nghiệp chưa cao nên đã có những hành vi vi phạm làm ảnh hưởng không nhỏ
tới danh dự, uy tín của ngành Tư pháp.
Thứ sáu, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Toà án còn
nhiều hạn chế. Quá trình giải quyết các tranh chấp còn mất nhiều thời gian, nhiều
loại chi phí, nhiều đầu mối trung gian trong khi đó lĩnh vực tài chính ngân hàng là
lĩnh vực nhạy cảm yêu cầu giải quyết nhanh gọn để các bên có thể tiến hành hoạt
động bình thường.
Kết luận chương 2
Trong chương 2 của luận văn, học viên phân tích về thực trạng các quy định
của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại
tòa án phúc thẩm và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Thứ nhất, về quy định của pháp luật về hợp đồng tín dụng ngân hàng. Hiện
nay, quy định về hợp đồng tín dụng được xác định nằm trong BLDS năm 2015 và
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 Luật NHNN… Các quy định này gồm lãi suất
cho vay trong hợp đồng tín dụng, hình thức hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng tín dụng….
Thứ hai, về thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại
Tòa án cấp phúc thẩm gồm có trình tự thủ tục chuẩn bị xét xử phúc thẩm, trình tự
thủ tục bắt đầu phiên tòa, trình tự thủ tục xét hỏi, đối đáp, tranh luận và các tình tự
thủ tục khác có liên quan. Các quy định này được xác định nằm trong BLTTDS
năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ ba, về thực trạng giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho thấy, trong những năm vừa qua Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội đã thụ lý xét xử phúc thẩm hàng trăm vụ án dân sự, kinh tế
các loại, trong đó có hàng chục vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng, các tranh
chấp này chiếm tỉ lệ 10-15% tổng số tranh chấp mà TAND thành phố Hà Nội đã thụ
lý giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Trong kết quả đạt được thì việc giải quyết
tranh chấp này cũng có những nhược điểm hạn chế nhất định cần được khắc phục.
59
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THEO THỦ TỤC
PHÚC PHÚC THẨM TẠI TÒA ÁN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án trong giai đoạn hiện nay
Giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng tại Tòa án là hoạt động áp dụng
pháp luật có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự công bằng và đúng pháp luật trong việc
đưa ra phán quyết có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên đương sự có tranh
chấp về quyền và lợi ích, góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
của tổ chức, cá nhân, ổn định và làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội, thúc đẩy
các giao dịch dân sự theo định hướng của Nhà nước. Do đó, việc giải quyết các vụ
án về tranh chấp HĐTD ngân hàng tại TAND thành phố Hà Nội cần quán triệt và
thực hiện nghiêm túc các quan điểm cơ bản sau đây:
3.1.1. Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về áp
dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án nói chung và giải quyết các vụ án
tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng nói riêng
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết
đề cập tới vấn đề cả cách tư pháp và trong đó đặc biệt là Nghị quyết số 49 –
NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020” và nghị quyết số 81/2014/QH13 ngày 24/11/2014 “Về việc thi hành luật
tổ chức TAND”. Vấn đề này tiếp tục được đề cập đến tại Báo cáo Chính trị của các
kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ta.
Là cơ quan thực hiện chức năng xét xử các vụ án (trong đó có các vụ án về
tranh chấp HĐTD ngân hàng), lại là cơ quan xét xử hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, nên
hoạt động áp dụng pháp luật về thủ tục xét xử tranh chấp HĐTD ngân hàng tại TAND
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay cũng phải được thực hiện trên cơ sở quán
triệt các quan điểm của Đảng về lĩnh vực này. Đó là các quan điểm mang tính chỉ đạo
của Đảng trong các văn kiện, Nghị quyết các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc.
Thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quy định về thủ tục trong quá trình xét xử
các vụ án kinh doanh thương mại về tranh chấp HĐTD ngân hàng là cơ sở để góp
phần đẩy mạnh cải cách tư pháp, nhằm “Xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch,
60
vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Do đó, cần quán
triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong
gia đoạn hiện nay:
Thứ nhất: Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo
đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
Thứ hai: Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải
cách hành chính. Đồng thời phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành
tựu đã đạt được của nền tư pháp XHCN Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội
nhập quốc tế, đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai.
Thứ ba: Cải cách tư pháp được tiến hành khẩn tưởng, đồng bộ, có trọng tâm,
trọng điểm với những bước đi vững chắc. Ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết số 49/NQ – TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
trong đó có đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động TAND theo
hướng: Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử độc lập, không phụ thuộc
vào đơn vị hành chính, gồm Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số
đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc
thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có
nhiệm vụ xét xử phúc thẩm, TAND Tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử,
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc, tái thẩm.
Việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp của Tòa án,
từng khu vực. Đổi mới tổ chức TAND theo hướng tinh gọn với đội ngũ Thẩm phán là
những chuyên gia đầu ngành về pháp luật có kinh nghiệm trong ngành.
Thứ tư: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách
tư pháp. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của
các cơ quan dân cử và nhân dân.
Những quan điểm trên của Đảng cộng sản Việt Nam chính là cơ sở lý luận,
là định hướng cho hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD ngân
61
hàng của TAND nói chung và hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh
chấp hợp đồng của TAND thành phố Hà Nội nói riêng.
3.1.2. Quan điểm cụ thể về áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng ngân hàng của ngành Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội nói riêng
Trên cơ sở quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng ta đã nêu ở mục
3.2.1 của Luận văn, có thể thấy rằng các quan điểm cơ bản đảm bảo việc áp dụng
pháp luật có hiệu quả trong việc giải quyết các vụ án nói chung và các vụ án tranh
chấp HĐTD ngân hàng nói riêng của TAND thành phố Hà Nội là:
Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động áp dụng pháp
luật trong giải quyết án tranh chấp HĐTD ngân hàng tại TAND thành phố Hà Nội,
Đảng lãnh đạo trên ba phương diện: Tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Thường xuyên
giám sát hoạt động của Tòa án, đánh giá đạo đức phẩm chất, vai trò gương mẫu của
cán bộ, đảng viên trong ngành Tòa, sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở phương
diện chỉ đạo Tòa án theo đường lối xét xử nghiêm minh, công bằng, đúng pháp luật,
tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân đối với cơ quan Tòa án nói riêng và sự
lãnh đạo của Đảng nói chung.
Thứ hai: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân
hàng phải quan tâm chú trọng hơn nữa đến vấn đề hòa giải, xuất phát từ các quan hệ
trong xã hội, các tranh chấp HĐTD ngân hàng thường xảy ra khi các bên tham gia
hợp đồng không thống nhất được vấn đề mà các bên cần giải quyết. Vì vậy khi các
bên cần đến sự can thiệp của Tòa án, thì Tòa án chính là cơ quan phân định quyền
và nghĩa vụ của các bên nhằm đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cũng như
việc thực hiện nghĩa vụ của các đương sự. Việc giải quyết được mẫu thuẫn giữa các
bên tham gia bằng công tác hòa giải sẽ giúp giảm được thời gian và chi phí cho Tòa
án cũng như các bên tham gia tranh chấp. Vì vậy công tác hòa giải trong giải quyết
tranh chấp HĐTD ngân hàng cần phải được chú trọng và ưu tiên hàng đầu.
Việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng khi ra
quyết định xét xử phải quan tâm đến tính khả thi, khả năng thực hiện trong thực tiễn
để đảm bảo được quyền và lợi lích của các bên tham gia hợp đồng.
Thứ ba: Tăng cường tranh tụng tại phiên tòa là một trong những nội dung
quan trọng trong công cuộc cải các tư pháp hiện nay. Việc mở rộng tranh tụng tại
Tòa án sẽ giúp cho các bên tham gia bảo vệ được quyền và lợi ích của minh và giúp
62
cho việc xét xử của Tòa án các cấp nâng cao chất lượng khi ra ban hành bản án và
quyết định tranh gây sai sót trong hoạt động tố tụng.
Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của giải quyết tranh chấp dân sự nói chung
và giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng nói riêng là quyền tự quyết và tự định
đoạt thuộc về các đương sự. Việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp
HĐTD ngân hàng không chỉ Tòa có quyền chỉ định áp dụng các quy phạm pháp luật
để giải quyết các tranh chấp mà ở đây còn thể hiện sự bình đẳng của các bên tham
gia quan hệ pháp luật.
Thứ tư: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng xây dựng và phát triển đội ngũ Thẩm
phán, HTND đáp ứng được nghiệp vụ, chuyên môn về pháp luật để xử lý các vụ án
về tranh chấp HĐTD ngân hàng đủ về số lượng và chất lượng.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng ngân hàng theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật
Với nhiều qui định phù hợp hơn về hợp đồng vay tài sản, BLDS năm 2015 đã
góp phần khắc phục những bất cập trong pháp luật về HĐTD ngân hàng. Quy định của
BLDS năm 2015 về vay tài sản có cơ cấu và nội hàm kế thừa đầy đủ BLDS 2005. Tuy
nhiên, BLDS năm 2015 cùng cần phải hoàn thiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, quy định pháp luật về lãi suất cho vay.
Phần lãi suất (Điều 468 BLDS 2015) đã nhấn mạnh nguyên tắc tự thỏa thuận.
Nếu các bên tự thỏa thuận về lãi suất thì không được vượt quá 20% năm của khoản
tiền vay. Trường hợp thỏa thuận lãi suất vượt quá quy định này thì mức lãi suất
vượt quá không có hiệu lực. Trường hợp có thỏa thuận lãi nhưng không xác định rõ
lãi suất và có tranh chấp thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn
quy định ở trên. Đây là quy định làm chấm dứt hoàn những tranh cải về việc áp
dụng lãi suất thỏa thuận vượt quá quy định của BLDS nhưng lại đúng với Thông tư
hướng dẫn của ngành chủ quản.
Trường hợp các bên tự thỏa thuận vay tài sản có kỳ hạn nhưng không có lãi
thì bên cho vay có quyền đòi hòi tài sản trước kỳ hạn nếu được bên vay đồng ý, còn
bên vay có quyền trả tài sản bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước một thời gian hợp
lý. Trong trường hợp vay có kỳ hạn và có lãi thì bên vay có quyền trả tài sản trước
kỳ hạn nhưng phải trả toàn bộ lãi suất theo kỳ hạn trừ khi có thỏa thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác.
63
Trường hợp vay không kỳ hạn và không có lãi thì các bên có quyền đòi lại
hoặc trã lại tài sản bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho nhau một thời gian hợp
lý. Trường hợp vay không kỳ hạn và có lãi thì hai bên có thể đòi lại hoặc trã lại tài
sản bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, bên cho vay được trã
lãi đến thời điểm nhận lại tài sản, bên vay chỉ phải trả lãi đến thời điểm trả nợ.
Điều 357 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền
thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi
suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng
không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật
này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật này.” Bên cạnh đó, khoản 5 điều 466 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp
vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải
trả lãi như sau: a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương
ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này; b) Lãi trên nợ gốc
quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian
chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Ngoài ra, khoản 1 Điều 468 BLDS 2015 quy định: “Lãi suất vay do các bên
thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận
không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên
quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy
ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo
Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất
giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.”
Những quy định này thể hiện sự áp đặt bất hợp lý và đang tạo ra những rủi ro
pháp lý cho các hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay của các TCTD
nói riêng. Theo quy định tại khoản 1 điều 12 của Luật NHNN Việt Nam thì “NHNN
công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành
chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi”. Việc BLDS quy định phải trả lãi trên nợ
gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời
hạn vay tại thời điểm trả nợ và mức trần lãi suất không vượt quá 150% cũng với
mục đích chống cho vay nặng lãi. Tuy nhiên, việc đặt ra tỷ lệ 150% là không phù
hợp vì lãi suất cơ bản thường được quan niệm là lãi suất định hướng và ở mức rất
64
thấp so với lãi suất thị trường. Do vậy mức 150% không đủ để đảm bảo mức lãi suất
hợp lý thông thường trên thực tế mà các tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ cho vay
cần áp dụng. Trên thực tế, phần lớn các tổ chức, cá nhân cho vay đều phải áp dụng
mức lãi suất vượt quá mức lãi suất tối đa được quy định tại BLDS.
TCTD cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận đối với khách
hàng phù hợp với quy định của pháp luật về cho vay của TCTD đối với khách hàng
và trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm của khách hàng vay. Quy
định này cho phép các TCTD áp dụng lãi suất thị trường, đồng thời tạo ra hai mặt
bằng pháp lý đối với hoạt động cho vay: TCTD cho vay theo lãi suất thị trường còn
các tổ chức, cá nhân khác cho vay theo lãi suất quy định tại BLDS. Điều này tạo ra
sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật, đồng thời vẫn không loại trừ rủi ro
của các TCTD bởi lý do BLDS là văn bản pháp lý có hiệu lực cao hơn Thông tư. Vì
vậy, HĐTD ngân hàng của họ có thể bị tuyên vô hiệu bất kỳ lúc nào.
Trên thực tế nếu áp dụng các quy định của BLDS để giải quyết sẽ rất bất hợp
lý. Rõ ràng nếu áp dụng pháp luật như trên thì sẽ dẫn đến tình trạng tất cả các
TCTD đều vi phạm pháp luật. Theo quy định này thì lãi suất huy động và lãi suất
cho vay (vay và cho vay), căn cứ cách tính lãi suất quá hạn của các TCTD được ấn
định trên cơ sở và ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý với lãi suất cơ bản do NHNN
công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Các quy định này đã tỏ ra
không thực tế và luôn kiềm hãm sự phát triển của hoạt động ngân hàng vì nó giống
như một mệnh lệnh hành chính bắt buộc ngân hàng phải tuân theo trong khi đó thị
trường đòi hỏi cần phải được tự do. Mặt khác, với quy định về lãi suất như vậy có
thể làm cho hàng triệu HĐTD NGÂN HÀNG bị vô hiệu do vi phạm các quy định
của BLDS 2005 về lãi suất cho vay. Vì thực tế, có những thời điểm NHNN áp dụng
trần lãi suất huy động tối đa là 15%/năm, lãi suất cho vay là 19 – 23%/năm, thậm
chí là 24 %/năm, trong khi đó lãi suất cơ bản của NHNN công bố là 9%.
BLDS năm 2015 đã sửa đổi quy định về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
theo hướng mở rộng biên độ giới hạn trần lãi suất do các bên thỏa thuận, theo quy
định của Điều 468: “1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận
không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên
quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy
65
ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo
Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy
định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.”
Quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015, là một trong những thay đổi quan
trọng và được đánh giá là có thể hạn chế được những bất cập trong việc áp dụng
quy định về lãi xuất theo BLDS năm 2005. Theo đó, lãi suất vay là do chính các bên
thỏa thuận, nếu vay có lãi thì lãi xuất thỏa thuận không được quá 20%/năm của
khoản tiền vay, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, không như cách tính lãi
suất thỏa thuận theo mức tham chiếu là lãi suất cơ bản của NHNN được quy định tại
khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005 “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng
không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho
vay tương ứng.”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015, trường hợp lãi suất theo
thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt
quá không có hiệu lực. Như vậy, lãi suất tối đa trong các hợp đồng vay tài sản các bên
được thỏa thuận theo BLDS năm 2015 không quá 20%/năm (tức 1,7%/tháng).
Về lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi
suất cơ bản do NHNN công bố theo quy định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005.
Theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của NHNN Việt Nam, về lãi
suất cơ bản của Việt Nam đồng để tính lãi suất, thì mức lãi suất cơ bản là 9%/01 năm,
tức là 0,75%/01 tháng. Lãi suất cao nhất các bên đương sự được thỏa thuận theo quy
định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2015 là 1,125%/01 tháng (tức 13,5%/01 năm).
So sánh quy định về lãi suất giữa BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 thấy:
BLDS năm 2015 quy định luôn mức lãi suất cao nhất được thỏa thuận trong các hợp
đồng dân sự vay tài sản là 20%, không phụ thuộc vào mức lãi suất cơ bản do
NHNN quy định. Mức lãi suất theo BLDS năm 2015 cao hơn so với BLDS năm
2005 mục đích giảm thiểu sự chênh lệch về mức lãi suất trong các hợp đồng dân sự
thông dụng với các HĐTD ngân hàng, bình đẳng hóa giữa các chủ thể khi tham
gia vào các giao dịch vay tài sản.
Thứ hai, về trường hợp không rõ về lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015, trường hợp không rõ
hoặc có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất theo
66
quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật này. Theo quy định này mức lãi suất trong
trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp sẽ là 10%/01 năm (tức 0,83%/tháng).
So với quy định tại khoản 2 Điều 476 BLDS năm 2005 thì trường hợp không
rõ về lãi suất hoặc các bên đương sự có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ
bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Theo quy
định này thì mức lãi suất có tranh chấp là 0,75%/01 tháng. Như vậy, mức lãi suất
trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất theo quy định của BLDS
năm 2015 không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của NHNN và mức lãi lớn hơn so
với quy định của BLDS năm 2005.
Việc thay đổi này đã giải quyết được mâu thuẫn giữa quy định tại khoản 1
Điều 476 BLDS năm 2005 với Điều 1 của Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày
26/02/2010 của NHNN quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa
thuận của TCTD đối với khách hàng.
Theo quy định tại Điều 12 Luật NHNN năm 2010 và khoản 2, khoản 3 Điều
91 Luật Các TCTD năm 2010, trong điều kiện bình thường, lãi suất trong hoạt động
ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận, không có trần lãi suất.
Về nghĩa vụ trả nợ của bên vay, trước đây tại khoản 4 và khoản 5 Điều 474
BLDS năm 2005 quy định:
“4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ
hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi
suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả
nợ, nếu có thoả thuận.
5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả
không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ
bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
Nay theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015:
“4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả
không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời
gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không
đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
67
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với
thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Thứ ba, về thực hiện nghĩa vụ trả nợ quá hạn
Trường hợp vay không có lãi quá hạn
- Theo quy định tại khoản 4 Điều 475 BLDS năm 2005, trường hợp vay
không có lãi: Nếu khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên
vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố
tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ. Theo quy định trên trường hợp
vay không có lãi, nếu quá hạn bên vay sẽ phải chịu lãi mức là 0,75%/tháng.
- Theo quy định tại khoản 4 Điều 466 BLDS năm 2015, trường hợp vay
không lãi. Nếu quá hạn vay, người vay phải chịu mức lãi suất theo quy định tại
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này (tức là bằng 50% mức lãi suất so với lãi suất vay
tối đa do các bên thỏa thuận). Trường hợp này mức lãi suất được áp dụng giống như
trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất.
Trường hợp vay có lãi quá hạn
- Theo quy định tại khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005, trường hợp vay có
lãi mà khi đến hạn bên vay không trả thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ
quá hạn theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời
điểm trả nợ. Như vậy, lãi suất quá hạn theo quy định cũ thấp hơn lãi suất tối đa mà
các bên được thỏa thuận (Bên vay chỉ phải chịu lãi suất 0,75%). Điều này mâu
thuẫn với lãi suất trong hạn tối đa mà các bên được thỏa thuận, không bảo vệ quyền
lợi cho bên cho vay; tạo điều kiện cho bên đi vay chây ỳ trách nhiệm trả nợ.
- Theo quy định tại khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, trường hợp vay có
lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi
theo quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 5 Điều này
Như vậy, BLDS năm 2015 quy định rõ 2 trường hợp vay có lãi khi đến hạn
mà không trả. Trường hợp thứ nhất, đối với tiền lãi phát sinh trong hạn chưa trả thì
phải chịu lãi suất như trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất
(10%/năm). Trường hợp thứ hai, đối với trường hợp lãi quá hạn chưa trả thì bên vay
phải chịu mức lãi suất bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng (ví dụ: Mức lãi trong
68
hợp đồng là 1%, quá hạn sẽ là 1,5%). Do vậy, theo quy định mới thì bên vay phải
trả lãi suất quá hạn trong trường hợp vay có lãi là 150%, so với lãi suất theo hợp
đồng các bên đã thỏa thuận (ví dụ: Lãi suất trong hạn các bên thỏa thuận với nhau
20%, nếu đến hạn bên vay không trả được sẽ phải chịu lãi suất 20% x 150% =
30%/năm). Với quy định này sẽ thúc đẩy được trách nhiệm trả nợ của bên vay, bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người cho vay, phù hợp với xu thế của thực
tiễn trong các giao dịch tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Điều này cũng đòi hỏi trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật với các
tranh chấp hợp đồng vay tài sản, mà theo đó, bên cho vay thường lợi dụng hoàn
cảnh khó khăn của người đi vay để buộc họ phải chịu lãi suất cao. Nếu có dấu hiệu
cấu thành tội phạm hình sự, cần xử lý theo quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015
về tội “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”
Vấn đề đặt ra, quy định trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi
suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường
hợp luật khác có liên quan quy định khác (khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015), so
với quy định khoản 2 Điều 91 Luật Các TCTD năm 2010 lại quy định, TCTD và
khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của TCTD theo quy định của pháp luật. Với sự không thống nhất này, các
ngân hàng, TCTD sẽ chịu sự điều chỉnh của BLDS năm 2015 hay Luật Các TCTD
năm 2010?
Có thể thấy, hợp đồng vay tài sản nói chung, HĐTD ngân hàng nói riêng là
một loại giao dịch dân sự. Do đó, việc điều chỉnh quan hệ này phải bảo đảm các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, quy định về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự và các nguyên tắc về giới hạn thực hiện quyền dân sự được quy định
trong BLDS. Quy định về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản là một trong những
điển hình của việc cụ thể hóa nguyên tắc giới hạn thực hiện quyền dân sự, theo đó
các bên trong hợp đồng vay có thỏa thuận về lãi suất nhưng không được vượt quá
mức lãi suất giới hạn luật định. Việc quy định trần lãi suất giúp Nhà nước có thể
điều tiết thị trường vay trong trường hợp cần có sự ổn định của kinh tế - xã hội, định
hướng chuẩn mực ứng xử trong các quan hệ cho vay, thực hiện chính sách cấm
hoặc hạn chế việc cho vay nặng lãi. Nhưng để bảo đảm không biến lãi suất trần trở
thành công cụ pháp lý để hành chính hóa quan hệ dân sự, bảo đảm tính linh hoạt
phù hợp với các quan hệ vay tài sản đa dạng, có thể được sửa đổi, bổ sung kịp thời
69
để đáp ứng yêu cầu của những biến động về kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, tại khoản
1 Điều 468 BLDS năm 2015 đã quy định mang tính linh hoạt theo hai cơ chế, đó
là: i) Căn cứ vào tình hình thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh lãi suất
theo đề nghị của Chính phủ; ii) Luật khác có liên quan quy định mức lãi suất riêng
cho các quan hệ cho vay đặc thù.
Như vậy, trong trường hợp luật có liên quan quy định khác về lãi suất thì sẽ
áp dụng lãi suất đó cho quan hệ vay thuộc phạm vi điều chỉnh của luật khác có liên
quan. Quy định này còn được hiểu không chỉ dành riêng cho quan hệ tín dụng của
các NHTM mà còn có thể áp dụng cho loại vay đặc thù vay khác như vay chính
sách xã hội, vay đầu tư phát triển, vay vàng, ngoại tệ... nếu Nhà nước xét thấy cần
điều chỉnh các quan hệ vay này bằng cơ chế lãi suất riêng. Nghĩa là nếu Luật Các
TCTD năm 2010 có cơ chế lãi suất trần riêng cho các HĐTD ngân hàng thì các
TCTD sẽ áp dụng theo quy định của Luật Các TCTD năm 2010.
Tuy nhiên, theo tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật Các TCTD hiện
hành, thực tiễn cho thấy chưa thực sự áp dụng một cơ chế lãi suất riêng cho các
HĐTD ngân hàng, mặc dù xét về mục đích chính sách pháp luật thì quy định này là
mong muốn của nhà làm luật. Nhưng xét về mặt kỹ thuật lập pháp quy định này đã
và đang dẫn đến những cách hiểu khác nhau, kể cả trong công tác xét xử của Tòa án
và điều đó không có lợi cho các chủ thể trong HĐTD ngân hàng trước những rủi ro
pháp lý có thể xảy ra trong thi hành pháp luật.
Bởi khoản 2 Điều 91 cho phép TCTD và khách hàng thỏa thuận về lãi suất
trong HĐTD ngân hàng trong giới hạn “theo quy định của pháp luật”. Đây là cách
quy định theo nhiều quan điểm của nhiều chuyên gia là “lòng vòng”, vì “theo quy
định của pháp luật” tức là vẫn có thể hiểu phải theo quy định của BLDS, trường
hợp NHNN ban hành thông tư, quyết định có quy định riêng về lãi suất khác với
quy định của BLDS thì đâu là quy định ưu tiên áp dụng? Từ đó, rất nhiều tranh chấp
liên quan đến vấn đề này, khi xét xử Tòa án đã căn cứ vào lãi suất quy định trong
BLDS để giải quyết.
Tại khoản 1 Điều 468 của BLDS năm 2015: “Trường hợp các bên có thỏa
thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của
khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”. Ngoài mức
trần lãi suất “cứng” 20%/năm, một vấn đề nữa cũng thu hút sự quan tâm của dư
luận, khi mà thời điểm có hiệu lực của BLDS năm 2015 đang đến gần, đó là hoạt
70
động cho vay tiêu dùng của các công ty tài chính sẽ được áp dụng theo luật nào,
Luật Các TCTD năm 2010 hay BLDS năm 2015?
Vấn đề này, theo quan điểm của tác giả, các công ty tài chính cũng là một
loại hình TCTD nên sẽ chịu sự chi phối của Luật Các TCTD hiện hành, chứ không
chịu sự điều chỉnh của Điều 468 BLDS năm 2015 về mức trần lãi suất 20%/năm.
Lập luận của những người ủng hộ loại ý kiến này cho rằng, tại khoản 2 Điều 91
Luật Các TCTD năm 2010, quy định TCTD và khách hàng được quyền thỏa thuận
về lãi suất. Theo các chuyên gia kinh tế, điều này là hợp lý, bởi thực tế cho thấy, với
các gói cho vay tiêu dùng, mức lãi suất 20%/năm là rất khó khăn, trong khi đó, hiện
tại lãi suất cho vay tiêu dùng thường lớn hơn và có biên độ dao động khá rộng từ
30% - 40%, thậm chí một số trường hợp có mức lãi suất cao hơn tùy thuộc vào mức
độ rủi ro tiềm ẩn của khách hàng. Nguyên nhân chủ yếu là do đối tượng khách hàng
của công ty tài chính thường ít có năng lực tài chính hoặc tài sản đảm bảo, dẫn đến
rủi ro thu hồi nguồn vốn rất cao, nên lãi suất cần phải cao để “bù đắp”. Tất nhiên
mức lãi suất của hoạt động này đều được định trên nguyên tắc thỏa thuận giữa
khách hàng và các công ty tài chính.
Thực tiễn cho thấy, nhu cầu vay tiêu dùng ở nước ta là rất lớn, do đó các
công ty tài chính, các NHTM đang có rất nhiều cơ hội để phát triển. Tuy nhiên, họ
đang gặp nhiều bất cập trong quá trình hoạt động bởi chưa có một khuôn khổ pháp
lý riêng. Do vậy, cơ quan chức năng cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn việc
thực hiện BLDS năm 2015 về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản một cách cụ thể
hơn, có như vậy mới giúp người dân hiểu được quy định nêu tại khoản 1 Điều 468
BLDS năm 2015 chỉ áp dụng đối với các quan hệ vay giữa người dân với người
dân. Còn các TCTD thì được phép thực hiện theo quy định của Luật Các TCTD
hiện hành. Cụ thể là được phép thỏa thuận mức lãi suất vay tiêu dùng, khuyến khích
hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển, phục vụ cải thiện đời sống xã hội và góp
phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngoài ra, để nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng tại
Tòa án, cũng cần ban hành các quy định thủ tục rút gọn vụ về án giải quyết tranh
chấp HĐTD ngân hàng. Hiện nay, thủ tục tố tụng dân sự giải quyết tranh chấp
HĐTD ngân hàng chưa linh hoạt, nhanh gọn xử lý vấn đề gây tốn kém về thời gian
và chi phí cho các bên tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS, thủ tục giải quyết
tranh chấp HĐTD ngân hàng còn mất rất nhiều thời gian. Thông thường để giải
71
quyết xong một tranh chấp HĐTD ngân hàng phải mất gần hai năm. Trình tự, thủ
tục ở Toà án thường kéo dài lâu do phải trải qua các khâu: thụ lý, Toà án nghiên cứu
và tiến hành hoà giải đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, (khiếu nại nếu có) cũng một
thời gian khá dài, đến khi bản án có hiệu lực pháp luật thì phải chờ cơ quan thi hành
án xử lý. Trình tự, thủ tục kéo dài nhiều thời gian như vậy khiến cho các bên trong
tranh chấp luôn ở trong tình trạng chờ đợi, mệt mỏi và chi phí kéo theo là tất yếu.
Thực tế này đòi hỏi công việc giải quyết tranh chấp ở Toà án cần rút ngắn thời gian
làm cho quá trình giải quyết tranh chấp nhanh gọn, đúng pháp luật, đơn giản nhưng
vẫn bảo vệ quyền lợi các bên trong hợp đồng.
Các tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng trước khi đã mang ra Tòa án
giải quyết thì họ đã tiến hành các bước thương lượng, hoà giải nên về các chứng cứ
chứng minh vụ việc đã có tình tiết rõ ràng và có căn cứ pháp lý. Đối với những
tranh chấp HĐTD ngân hàng mà chứng cứ rõ ràng, bị đơn có địa chỉ, lai lịch cụ thể,
họ thừa nhận nghĩa vụ của mình trước nguyên đơn, nếu nguyên đơn xuất trình được
chứng cứ bằng văn bản để chứng minh cho yêu cầu của mình và nếu như bị đơn
cùng tất cả những người liên quan khác trong vụ tranh chấp không có sự phản đối
về sự giả mạo của bằng chứng đó thì Toà án có thể khẳng định được tính chính xác
và độ tin cậy của các thông tin trong các văn bản đó. Do vậy, Toà án không phải
mất nhiều thời gian để điều tra, xác minh mà vẫn có thể giải quyết đúng pháp luật
vụ tranh chấp đó, đảm bảo giải quyết nhanh gọn, hiệu quả.
Mới đây, tại BLTTDS 2015 có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 đã thêm trình tự,
thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn được quy định từ điều 316 đến
324 của Bộ luật này. Việc ban hành thủ tục rút gọn này sẽ giúp góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của Tòa án, tạo cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết nhanh chóng
các tranh chấp phát sinh trong xã hội mà vẫn bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức; giảm nhẹ thời gian, chi phí tố tụng của Tòa án và
thời gian, chi phí của các đương sự cho việc tham gia tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên,
cần phải có cơ chế giám sát chặt chẽ trình tự tố tụng này để đảm bảo quyền lợi cho
bên vay, vì khi xảy ra tranh chấp HĐTD ngân hàng thì các TCTD (bên cho vay) là
bên mong muốn được áp dụng giải quyết theo trình tự tố tụng rút gọn nhất để nhanh
chóng thu hồi vốn và giải quyết nợ xấu do hoạt động tín dụng gây ra. Bổ sung thêm
các văn bản hướng dẫn về xử án theo thủ tục rút gọn của BLTTDS nhằm đảm bảo
tính chính xác khi áp dụng các vụ án theo thủ tục này.
72
Thứ ba, hoàn thiện pháp về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Theo đó, cần hoàn thiện các quy định về chủ thể thế chấp tài sản. Để việc
tham gia giao dịch thế chấp tài sản nhất là thế chấp giá trị quyền sử dụng đất có hiệu
quả, phát huy hết tác dụng của việc đảm bảo nghĩa vụ thì pháp luật đất đai và pháp
luật dân sự cần có những điều chỉnh phù hợp liên quan đến chủ thể thế chấp khi
tham gia hợp đồng thế chấp nhất là đối với hộ gia đình, cá nhân khi thế chấp Quyền
sử dụng đất. Tăng cường hơn nữa quyền tự chủ, quyền tự do cam kết, tự nguyện
thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ thế chấp tài sản. Do đó, pháp luật cần quy
định điều kiện đối với hộ gia đình khi thế chấp Quyền sử dụng đất, cụ thể:
- Bộ luật dân sự cần xác định các tiêu chí để xác lập địa vị pháp lý của hộ gia
đình xác lập các quyền về tài sản cho hộ gia đình đó. Tiêu chí nào để xác định đại
diện chủ hộ và tiêu chí nào để xác định các thành viên trong hộ gia đình. Đối với
Luật đất đai cần xác định tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp nào thì xác
định là chung của cả hộ gia đình và riêng cho một thành viên trong hộ gia đình. Bên
cạnh đó pháp luật cần bổ sung các quy định về quản lý đăng ký thành viên hộ gia
đình (đăng ký lần đầu, thay đổi, chấm dứt) nhằm xác định tư cách thành viên hộ
gia đình, qua đó tạo thuận lợi cho hộ gia đình khi thực hiện các quyền của người sử
dụng đất.
- Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành đối với trường hợp thế chấp
quyền sử dụng đất đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trước đây là
còn ghi là hộ gia đình nên quy định rõ trong trường hợp thế chấp này thì chỉ cần chủ
hộ gia đình ký vào hợp đồng thế chấp và phải có sự đồng ý của những người trong
hộ gia đình đó.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án.
Với việc ban hành Bộ luật tố tụng Dân sự 2015 có hiệu lực từ 01/07/2016 thì
thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện đã được mở rộng. Cùng
với thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng như hiện nay
là quá tải đối với Toà án nhân dân cấp huyện nhất là đối với những huyện có hoạt
động kinh tế phát triển, nhu cầu vay vốn tín dụng phát triển kinh doanh tăng lên
đồng nghĩa với việc tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng tăng cao và phức tạp.
Qua số liệu thống kê kết quả xét xử án phúc thẩm về giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội của Luận văn, thì số
lượng án ở cấp sơ thẩm bị sửa và hủy vẫn còn tồn tại. Một phần nguyên nhân đó là
73
do năng lực của đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện còn hạn chế về số
lượng, kiến thức, kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp HĐTD nên dẫn đến tiến
độ giải quyết tranh chấp còn chậm và nhiều sai xót. Vì vậy, ngoài việc tăng thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án cần tăng thêm về số lượng và chất lượng:
Thẩm phán, thư ký, cơ sở vật chất của Tòa án nhân dân cấp huyện nhằm đảm bảo
công tác giải quyết tranh chấp nói chung và tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng
của Tòa án nhân dân cấp huyện được đúng theo quy định của BLTTDS.
Thứ năm: Ban hành các quy định thủ tục rút gọn vụ về án giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng. Hiện nay, thủ tục tố tụng dân sự giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng chưa linh hoạt, nhanh gọn xử lý vấn đề gây tốn kém về thời gian và
chi phí cho các bên tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS, thủ tục giải quyết
tranh chấp HĐTD còn mất rất nhiều thời gian. Thông thường để giải quyết xong
một tranh chấp HĐTD phải mất gần hai năm. Trình tự, thủ tục ở Toà án thường kéo
dài lâu do phải trải qua các khâu: thụ lý, Toà án nghiên cứu và tiến hành hoà giải
đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, (khiếu nại nếu có) cũng một thời gian khá dài, đến
khi bản án có hiệu lực pháp luật thì phải chờ cơ quan thi hành án xử lý. Trình tự, thủ
tục kéo dài nhiều thời gian như vậy khiến cho các bên trong tranh chấp luôn ở trong
tình trạngchờ đợi, mệt mỏi và chi phí kéo theo là tất yếu. Thực tế này đòi hỏi công
việc giải quyết tranh chấp ở Toà án cần rút ngắn thời gian làm cho quá trình giải
quyết tranh chấp nhanh gọn, đúng pháp luật, đơn giản nhưng vẫn bảo vệ quyền lợi
các bên trong hợp đồng.
Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng trước khi đã mang ra Tòa án
giải quyết thì họ đã tiến hành các bước thương lượng, hoà giải nên về các chứng cứ
chứng minh vụ việc đã có tình tiết rõ ràng và có căn cứ pháp lý. Đối với những
tranh chấp HĐTD mà chứng cứ rõ ràng, bị đơn có địa chỉ, lai lịch cụ thể, họ thừa
nhận nghĩa vụ của mình trước nguyên đơn, nếu nguyên đơn xuất trình được chứng
cứ bằng văn bản để chứng minh cho yêu cầu của mình và nếu như bị đơn cùng tất
cả những người liên quan khác trong vụ tranh chấp không có sự phản đối về sự giả
mạo của bằng chứng đó thì Toà án có thể khẳng định được tính chính xác và độ tin
cậy của các thông tin trong các văn bản đó. Do vậy, Toà án không phải mất nhiều
thời gian để điều tra, xác minh mà vẫn có thể giải quyết đúng pháp luật vụ tranh
chấp đó, đảm bảo giải quyết nhanh gọn, hiệu quả.
74
BLTTDS 2015 đã thêm trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục
rút gọn được quy định từ điều 316 đến 324 của Bộ luật này. Việc ban hành thủ tục
rút gọn này sẽ giúp góp phần nângcao hiệu quả hoạt động của Tòa án, tạo cơ sở
pháp lý để Tòa án giải quyết nhanh chóng các tranh chấp phát sinh trong xã hội mà
vẫn bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; giảm nhẹ
thời gian, chi phí tố tụng của Tòa án và thời gian, chi phí của các đương sự cho việc
tham gia tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên, cần phải có cơ chế giám sát chặt chẽ trình tự
tố tụng này để đảm bảo quyền lợi cho bên vay, vì khi xảy ra tranh chấp HĐTD thì
các TCTD (bên cho vay) là bên mong muốn được áp dụng giải quyết theo trình tự tố
tụng rút gọn nhất để nhanh chóng thu hồi vốn và giải quyết nợ xấu do hoạt động tín
dụng gây ra. Bổ sung thêm các văn bản hướng dẫn về xử án theo thủ tục rút gọn của
BLTTDS nhằm đảm bảo tính chính xác khi áp dụng các vụ án theo thủ tục này.
Như vậy, để các điều luật này thực sự phát huy tác dụng và có hiệu quả cao
nhất khi đi vào thực tiễn. Đề nghị trong thời gian tới, các ngành tư pháp trung ương
cần tiếp tục nghiên cứu, xem xét giải quyết những vướng mắc như sau:
- Sớm có văn bản hướng dẫn việc thu thập chứng cứ sau khi đương sự gửi
đơn khởi kiện trực tuyến, theo hướng: Thẩm phán có trách nhiệm yêu cầu đương sự
giao nộp tài bản chính đơn khởi kiện và tài liệu gốc kèm theo để lưu hồ sơ và chỉ
đánh giá chứng cứ trên cơ sở những văn bản, tài liệu gốc này, còn chứng cứ thu
thập trên cổng thông tin điện tử chỉ mang tính chất tham khảo.
- Đảm bảo sự vận hành thông suốt và nâng cấp an ninh của Công thông tin
điện tử nhằm khắc phục hiện tượng trang web không thể truy cập được hoặc bị sao
chép, “đánh cắp” thông tin.
Với việc ban hành các quy định về gửi đơn kiện, cấp tống đạt qua trực tuyến
của BLTTDS 2015, TAND Tối cao cần xây dựng thêm phiên tòa xét xử qua trực
tuyến. Ví dụ như: Tòa án nhân dân tỉnh xử phúc thẩm thì người dân ở huyện, tỉnh
xa, hoặc ở nước ngoài, có thể tham gia phiên tòa qua màn hình trực tuyến, để người
dân bớt phải đi lại, di chuyển về tòa tham dự trực tiếp, tiết kiệm tiền bạc, thời gian
và công sức cho người dân, đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự không đến
được Tòa án do điều kiện địa lý và bị xét xử vắng mặt. Để xây dựng mô hình này
TAND Tối cao cần đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hành chính tư
pháp, tham khảo mô hình xét xử này từ các nước phát triển để áp dụng vào xét xử
thực tiễn tại Việt Nam.
75
Ngoài ra, cần bổ sung thủ tục yêu cầu thanh toán nợ vào những việc thuộc
thẩm quyền của Tòa án. Theo đó, trên cơ sở đơn của người có quyền yêu cầu và các
hồ sơ hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp. Tòa án xem xét và ra quyết định buộc
bên có nghĩa vụ phải thanh toán nghĩa vụ và ra quyết định việc xử lý tài sản theo
hợp đồng của các bên có nghĩa vụ không thanh toán được nghĩa vụ. Việc ra quyết
định là căn cứ để cho UBND, Công an, các tổ chức nhà nước liên quan phối hợp với
các bên tham trong hợp đồng trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, nhằm bảo vệ
quyền lợi của các bên.
3.2.2. Các giải pháp về tổ chức và thực hiện
3.2.2.1. Nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm phán, hội thẩm nhân dân của
Tòa án
Thẩm phán là người có vai trò quyết định trong việc cho ra một bản án có giá
trị pháp lý cao. Vì vậy, đội ngũ thẩm phán phải có năng lực, luôn cập nhật những
kiến thức mới và có kinh nghiệm dày dặn thì mới nắm bắt, giải quyết được các vấn
đề một cách tốt nhất. Do đội ngũ thẩm phán ở Toà án các quận, huyện còn hạn chế
trong việc bồi dưỡng kiến thức mới nên việc giải quyết các vụ án, đặc biệt là các vụ
án tranh chấp HĐTD ngân hàng còn nhiều thiếu sót và hạn chế dẫn đến nhiều bản
án bị hủy. Chính vì thực tiễn như vậy đòi hỏi cần tăng cường, bồi dưỡng kiến thức
cho các thẩm phán, bồi dưỡng cho những quy định mới về giải quyết tranh chấp
HĐTD ngân hàng. Công việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán một cách
thường xuyên, đầy đủ thì mới nâng cao chất lượng và hiệu quả xét xử của họ ở các
Toà án quận, huyện.
Ngoài ra, chất lượng bản án không cao phụ thuộc nhiều vào phẩm chất đạo
đức của Thẩm phán. Vì vậy, đối với các bản án tuyên không đúng ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân, gây thất thoát tài sản Nhà nước thì cần
tiến hành kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm để có biện pháp xử lý phù hợp với các quy
định pháp luật. Cần quy trách nhiệm cụ thể cho các cá nhân có liên quan, xử lý
nghiêm minh đối với các cá nhân, tập thể cán bộ của Tòa án có vi phạm, những
trường hợp vi phạm pháp luật, phẩm chất đạo đức kém phải kiên quyết xử lý
nghiêm.
Ngày nay, khi xã hội ngày một phát triển đòi hỏi Thẩm phán không chỉ phải
giỏi về chuyên môn mà còn phải đáp ứng yêu cầu về khả năng ngoại ngữ và sử
dụng công nghệ thông tin một cách hiệu quả. Vì vậy, cần phải bổ sung quy định của
76
pháp luật về tiêu chuẩn và nguồn bổ nhiệm thẩm phán. Nguồn bổ nhiệm Thẩm phán
không chỉ từ những người đang công tác trong ngành mà còn cả những người là các
luật sư có đầy đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành công
tác bổ nhiệm thẩm phán phải minh bạch, đảm bảo chọn được Thẩm phán có năng
lực chuyên môn và đạo đức. Từ nhận định trên, cần thay thế quy định bổ nhiệm
thẩm phán bằng thi tuyển thẩm phán, thực hiện công tác thi tuyển nghiêm túc, công
bằng đối với các đối tượng dự thi.
3.2.2.2. Nâng cao ý thức của các chủ thể trong giải quyết tranh chấp HĐTD
ngân hàng
Các tranh chấpxảy ra trong việc thực hiện HĐTD ngân hàng thường do
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ quan xuất
phát từ nguyên nhân ý thức của người dân chưa cao. Chính vì vậy, cần tăng cường
tuyên truyền nâng cao ý thức người dân về vấn đề pháp luật và vấn đề trách nhiệm
của bản thân. Có như vậy thì các tranh chấp sẽ phần nào giảm đi và hơn nữa sẽ giúp
quá trình giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng ở Toà án sẽ nhanh chóng hơn một
khi người dân đi vay đã có ý thức tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình.
3.2.2.3Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và chế độ cho TAND
Cùng với việc kiện toàn về tổ chức và cán bộ, để các Tòa án có thể hoàn
thành tốt nhiệm vụ, cần đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất cho các Tòa án.
Mặc dù các trang thiết bị và phương tiện làm việc của cán bộ ở các Tòa án đã
được nâng lên một bước, nhưng "nhìn chung vẫn còn thiếu và lạc hậu, lại chậm
được đổi mới". Cần trang bị cho mỗi Tòa án cấp huyện để tiếp cận với sự phát triển
của công nghệ thông tin. Cũng cần trang bị thêm cho mỗi Tòa án bảo đảm đủ bàn
ghế, tủ làm việc và các phương tiện làm việc cần thiết khác cho cán bộ. Ngoài việc
đầu tư xây dựng, cải tạo trụ sở số kinh phí chi thường xuyên của các Tòa án cũng
phải được tăng thêm; tiền lương và các chế độ đãi ngộ đối với người làm công tác
xét xử phải được ưu tiên.
77
Kết luận chương 3
Trong chương 3 của luận văn, học viên phân tích về quan điểm và giải pháp
nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án
trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, về quan điểm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng ngân hàng có thể thấy gồm những quan điểm sau: một là cần hoàn thiện hệ
thống tổ chức và hoạt động của tòa án, cần đảm bảo chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, cần đảm bảo pháp chế trong xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng,
cần đảm bảo quyền con người, quyền công dân.
Thứ hai, về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng ngân hàng tại tòa án nhân dân trong thời gian tới thì luận văn đã
đưa ra 2 đề xuất sau:
Một là các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật có liên quan gồm: hoàn thiện
quy định của BLDS về hợp đồng cho vay và hợp đồng tín dụng, giải pháp hoàn
thiện quy định của Luật các TCTD, hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
về trình tự, thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
Hai là các giải pháp về tổ chức và thực hiện như giải pháp về nâng cao năng
lực, trình độ của đội ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân dân, giải pháp về nâng cao quan
hệ phối hợp, giám sát trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, giải pháp về
đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị.
78
KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiêm cứu đề tài: “Giải quyết tranh chấp HĐTD qua thực
tiễn xét xử phúc thẩm của TAND thành phố Hà Nội”, luận văn đã làm rõ được
những vấn đề lý luận về HĐTD, về pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD của Tòa
án nhân tỉnh, đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp HĐTD của Tòa án án nhân
dân thành phố Hà Nội, để từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định
pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTD, nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm
chất đạo đức cho những người trực tiếp liên quan đến giải quyết tranh chấp HĐTD
tại TAND thành phố Hà Nội, nhằm giải quyết án về tranh chấp HĐTD tại thành phố
Hà Nội được chính xác, kịp thời và có hiệu quả.
Về cơ bản, luận văn đã làm sáng tỏ các định nghĩa, phân tích các đặc điểm,
đặc trưng của HĐTD cũng như giải quyết tranh chấp về HĐTD tại TAND. Đồng
thời đã phân tích, đánh giá về thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật giải quyết
tranh chấp HĐTD của Tòa án, đánh giá thực trạng về những kết quả đã đạt được
cũng như những hạn chế trong hoạt động xét xử các tranh chấp về HĐTD tại TAND
thành phố Hà Nội cũng như những nguyên nhân dẫn đến tồn tại nêu trên.
Trên cơ sở lý luận, qua nghiên cứu thực tiễn xét xử giải quyết tranh chấp
HĐTD của TAND thành phố Hà Nội, luận văn đã chỉ ra chỉ ra những tồn tại, hạn
chế cũng như nguyên nhân của hạn chế, từ đó đưa ra các quan điểm cũng như các
giải pháp. Nếu như thực hiện các giải pháp đã đề ra một cách đồng bộ sẽ nâng cao
được chất lượng giải quyết tranh chấp HĐTD của TAND thành phố Hà Nội và cho
các Tòa án khác có thực trạng tương tự.
Luận văn được thực hiện xuất phát từ công tác giải quyết tranh chấp HĐTD
qua thực tiễn xét xử của TAND thành phố Hà Nội. Tuy bản thân đã có nhiều cố
gắng, nỗ lực và được sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy hướng dẫn, các Thẩm phán,
Thư ký hỗ trợ rất nhiều nhưng do thời gian nghiêm cứu có hạn, vốn kiến thức còn ít
ỏi và được giới hạn trong khuân khổ luận văn thạc sĩ nên những vấn đề nêu trong
luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tác giả rất mong nhận được
ý kiến đóng góp, phê bình của các thầy cô và các nhà nghiên cứu để Luận văn được
hoàn thiện hơn./.
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội
2. Bộ Tư pháp (2013), Nghị định Số: 8019/VBHN-BTP ngày 10/12/2013
của Bộ Tư Pháp về giao dịch bảo đảm, Hà Nội
3. Hoàng Văn Bích (2014), Giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng có
thế chấp tài sản qua thực tiễn xét xử tại Vĩnh Phúc, Đại Học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội
4. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm, Hà Nội
5. Chính phủ (2010), Nghị định 83/2010/ NĐ-CP ngày 23 tháng 07 năm
2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, Hà Nội
6. Chính phủ (2012), Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của
Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Hà Nội
7. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư pháp (2011), Ba vấn đề cần cảnh báo
trong việc công chứng hợp đồng ủy quyền, Hà Nội
8. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư Pháp (2012), Nguyên nhân dẫn đến nợ
xấu của các TCTD - Nhìn từ góc độ các quy định của pháp luật hiện, Hà Nội
9. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư pháp (2013), Một số vấn đề về xử lý
tài sản bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm đã được công chứng, Hà Nội
10. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tài Chính (2012), Vay nợ tín dụng: Rối
chuyện bảo lãnh, Hà Nội
11. Bùi Ngọc Cường, (2004), Một số vấn đề về quyền tựdo kinh doanh
trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội
12. Trần Văn Duy – Nguyễn Hương Lan (2012), Vướng mắc trong giải
quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản và một số kiến nghị, http://www.tks.edu.vn.
13. Phạm Thị Hồng Đào – Văn phòng luật sư Thạnh Hưng (2016), Thủ
tục rút gọn theo quy định BLTTDS năm 2015, http://www.moj.gov.vn.
14. Phạm Văn Đàm (2011), “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện
HĐTD ngân hàng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3/2011, Hà Nội
80
15. Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2005), Giáo trình Luật Ngân
hàng Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
16. Hội đồng thẩm phán TAND tối cao (2012), Nghị quyết 03/2012/NQ-
HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS
được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung Bộ Luật TTDS năm 2011, Hà Nội
17. Nguyễn Thị Thu Hồng (2013), Thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTD
ngân hàng qua thực tiễn xét xử tại Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội, Học
viện Khoa học Xã Hội, Hà Nội
18. Lý Thị Thanh Huyền (2012), Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải
quyết tranh chấp về thừa kề của TAND ở thành phố Hà Nội, Học viện Khoa học Xã
Hội, Hà Nội
19. Phạm Quốc Khánh (2013), Giải pháp xử lý nợ xấu hiên nay của các
NHTM Viêt Nam, http://www.tapchi.hvnh.edu.vn
20. Ngân hàng nhà nước (2001), Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN
ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của
TCTD đối với khách hàng, Hà Nội
21. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định số: 127/2005/QĐ-
NHNN ngày 03/02/2005 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định
số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN, Hà Nội
22. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2013), Thông tư số 07/2013/TT-
NHNN ngày 14/3/2013 của Thống đốc NHNN quy định về việc kiểm soát đặc biệt
đối với TCTD, Hà Nội
23. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2014), Thông tư số 08/2014/TT-
NHNN ngày 17/3/2014 của Thống đốc NHNN Quy định lãi suất cho vay ngắn hạn
tối đa bằng đồng Việt Nam của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với
khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế, Hà
Nội
24. Ngân hàng nhà nước (2016), Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30-
12-2016 về quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài đối với khách hàng, Hà Nội
25. Quốc Hội (2005), BLDS, Hà Nội
81
26. Quốc Hội (2015), BLDS, Hà Nội
27. Quốc Hội (2011), BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung, Hà Nội
28. Quốc Hội (2015), BLTTDS, Hà Nội
29. Quốc Hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội
30. Quốc Hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội
31. Quốc Hội (2005), Luật Giao dịch điện tử, Hà Nội
32. Quốc Hội (2010), Luật Trọng tài thương mại, Hà Nội
33. Quốc Hội (2010), Luật NHNN Việt Nam, Hà Nội
34. Quốc Hội (2010), Luật Các TCTD, Hà Nội
35. Quốc hội (2014), Nghị quyết số 81/2014/QH13 ngày 22/11/2014 của
Quốc hội về việc thi hành luật tổ chức TAND, Hà Nội
36. Đào Thái Sơn – Vụ Pháp chế, NHNN (2014), Những thay đổi của
pháp luật về giao dịch bảo đảm, http://www.intecovietnam.com.
37. Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2012), HĐTD ngân hàng và biện
pháp bảo đảm tiền vay, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội
38. Trần Thị Thùy Trang (2014), Pháp luật về giải quyết tranh chấp phát
sinh từ HĐTD ngân hàng bằng con đường Tòa án ở Việt nam, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội
82