ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
LÊ THÀNH SƠN
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Thái Nguyên - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
LÊ THÀNH SƠN
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ Ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 8.62.01.15 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. DƯƠNG VĂN SƠN 2. TS. KIỀU THỊ THU HƯƠNG
Thái Nguyên - 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả đã nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, trung thực,
xuất phát từ tình hình thực tế của công tác giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn
Lê Thành Sơn
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài: “Giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ”, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ,
động viên của nhiều cá nhân và tập thể. Tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc
nhất tới tất cả các cá nhân và tập thể đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Nhà trường, Các quý thầy cô
khoa Kinh tế và phát triển nông thôn của Trường Đại học Nông Lâm - Đại học
Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình học tập và
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn
PGS. TS Dương Văn Sơn
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ, đóng góp nhiều ý kiến quý báu của các
nhà khoa học, các thầy, cô giáo trong Trường Đại học Nông Lâm - Đại học
Thái Nguyên.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi còn được sự giúp đỡ và cộng tác của
các đồng chí tại địa điểm nghiên cứu, tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo
Huyện Ủy, HĐND, UBND và các phòng ban huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ đã
tạo điều kiện mọi mặt để tôi hoàn thành nghiên cứu này.
Tôi xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của bạn bè và gia đình đã giúp
tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đối với mọi sự giúp đỡ quý báu đó.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn
Lê Thành Sơn
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...................................................................... v
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................... vi
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI ............................................... 4
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài ................................................................................. 4
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................ 4
1.1.2. Đặc điểm nguồn lao động nông thôn ......................................................... 6
1.1.3. Vai trò của nguồn lao động nông thôn ....................................................... 7
1.1.4. Đặc điểm của thị trường lao động nông thôn ............................................. 9
1.1.5. Sử dụng lao động nông thôn .................................................................... 13
1.1.6. Việc làm và giải quyết việc làm ở nông thôn ........................................... 15
1.1.7. Hậu quả kinh tế xã hội của thất nghiệp và thiếu việc làm ....................... 25
1.1.8. Yếu tố ảnh hưởng tới vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn ..................................................................................................................... 27
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài ............................................................................ 30
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động nông thôn ................................................................................... 30
1.2.2. Một số kinh nghiệm về tạo việc làm cho lao động nông thôn ở một số
địa phương .......................................................................................................... 33
1.2.3. Một số công trình nghiên cứu khoa học về việc làm lao động nông thôn
ở nước ta ............................................................................................................. 36
1.2.4. Kinh nghiệm và bài học rút ra cho giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn huyện Phù Ninh ................................................................................. 39
iv
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ................................................................................................ 40
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 40
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................... 40
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 40
2.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................... 40
2.3. Tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 41
2.3.1. Tiếp cận nghiên cứu ................................................................................. 41
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 41
2.4. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ...................................................................... 44
2.4.1. Điều kiện tự nhiên huyện Phù Ninh ......................................................... 44
2.4.2. Tình hình phát triển kinh tế huyện Phù Ninh ........................................... 45
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .......................... 47
3.1. Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
huyện Phù Ninh .................................................................................................. 47
3.1.1. Nguồn lao động nông thôn của huyện Phù Ninh ..................................... 47
3.1.2. Tình hình việc làm của lao động nông thôn huyện Phù Ninh .................. 50
3.1.3. Một số mô hình điển hình về giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn huyện Phù Ninh .......................................................................................... 56
3.2. Kết quả điều tra việc làm của lao động hộ nông thôn tại một số xã huyện
Phù Ninh ............................................................................................................. 63
3.3. Những khó khăn, hạn chế và giải pháp giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn huyện Phù Ninh ................................................................................. 75
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .................................................................. 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH ................................................................. 88
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 90
PHIẾU ĐIỀU TRA LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM NÔNG HỘ ................... 90
v
NN
Nông nghiệp
CN, XD
Công nghiệp, xây dựng
CNH - HĐH
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
KCN
Khu công nghiệp
KTX
Không thường xuyên
LĐ
Lao động
LVBQ
Làm việc bình quân
LVTT
Làm việc thực tế
QĐ
Quy đổi
SX
Sản xuất
TMDV
Thương mại dịch vụ
TNBQ
Thu nhập bình quân
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
TX
Thường xuyên
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Dân số và lao động huyện Phù Ninh năm 2014-2016 .................... 47
Bảng 3.2. Cơ cấu nguồn lao động nông thôn huyện Phù Ninh theo giới tính và
nhóm tuổi ......................................................................................................... 48
Bảng 3.3. Lao động huyện Phù Ninh theo trình độ đào tạo ............................ 49
Bảng 3.4. Lao động có việc làm và chưa có việc làm huyện Phù Ninh ......... 50
Bảng 3.5. Lao động phân theo ngành kinh tế ................................................. 51
Bảng 3.6. Quy mô lao động bình quân của cơ sở sản xuất công nghiệp ............... 53
Bảng 3.7. Lao động trong nội bộ ngành nông lâm thuỷ sản ........................... 54
Bảng 3.8. Mô hình làng nghề điển hình .......................................................... 56
Bảng 3.9. Mô hình Hợp tác xã - Tổ hợp tác ................................................... 59
Bảng 3.10. Thông tin cơ bản về nhóm hộ điều tra ......................................... 63
Bảng 3.11. Trình độ chuyên môn và nghề nghiệp chính của chủ hộ .............. 64
Bảng 3.12. Chất lượng nhân lực hộ tại các xã điều tra ................................... 65
Bảng 3.13. Lao động được đào tạo tại các xã điều tra ................................... 66
Bảng 3.14. Mức độ áp dụng kiến thức chuyên môn được đào tạo ................. 68
Bảng 3.15. Việc làm và thời gian làm việc của lao động trong nông hộ ........ 69
Bảng 3.16. Điều kiện sản xuất của hộ phân theo nhóm hộ điều tra ................ 71
Bảng 3.17. Giá trị sản xuất nông nghiệp của lao động nông thôn .................. 73
Bảng 3.18. Thu nhập trong lĩnh vực phi nông nghiệp .................................... 74
Bảng 3.19. Khó khăn trong việc làm của lao động nông thôn ........................ 75
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để đảm bảo
cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Lao động- việc làm là vấn đề kinh tế - xã
hội thu hút sự quan tâm của các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị, xã hội
và mọi người lao động. Giải quyết tốt vấn đề việc làm, nâng cao chất lượng
lao động sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Tình trạng thất nghiệp
và thiếu việc làm đang ngày càng gia tăng dẫn đến tình trạng cách biệt thu
nhập giữa các vùng và giữa các nhóm dân cư đang và sẽ tiếp tục ngày càng
tăng đi đôi với gia tăng các bất ổn xã hội. Hơn nữa do tính chất công việc phổ
thông, mang tính thời vụ nên thu nhập của lao động nông thôn không cao, lại
thất thường bởi tính thời vụ và rủi ro cao. Thực tế này tạo nên sự thiếu bền
vững và tiềm ẩn những bất ổn về việc làm đối với lực lượng lao động nông
thôn nói chung, nông dân nói riêng.
Huyện Phù Ninh được đánh giá là huyện thuần nông thuộc tỉnh Phú
Thọ. Dân số toàn huyện năm 2016 là 95.790 người, trong đó tỷ lệ dân số sống
ở nông thôn chiếm 84,6%. Từ nhiều năm nay, vấn đề giải quyết việc làm cho
lao động nông nghiệp, nông thôn đã được huyện uỷ và UBND huyện Phù
Ninh hết sức quan tâm và được tổ chức thực hiện dưới nhiều hình thức, bằng
nhiều chính sách cụ thể như: hình thành và cho vay vốn tạo việc làm từ quỹ
quốc gia giải quyết việc làm; thực hiện các chương trình mục tiêu, chương
trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn; chương trình xoá đói giảm
nghèo, phát triển làng nghề, mở các trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm,
hợp tác lao động quốc tế đối với lao động nông thôn,...
Bên cạnh những thành tưu đạt được về giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn, có rất nhiều việc cần phải làm đang được đặt ra cần phải giải quyết
để giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động nông thôn trên
2
địa bàn. Mặt khác, mặc dù địa phương đã có nhiều chương trình, mục tiêu, kế
hoạch giải quyết việc làm cho nông dân, tuy nhiên trong quá trình thực hiện
còn gặp nhiều khó khăn, nảy sinh một số vấn đề cần giải quyết như: thiếu việc
làm, nạn thất nghiệp còn nhiều, trình độ tay nghề của người nông dân chưa
đáp ứng nhu cầu của xã hội, số lượng lao động nông thôn chưa có việc làm,
việc làm chưa đủ và thiếu việc làm ngày càng tăng tạo ra sức ép lớn đối với
xã hội,... Từ đó đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp cho xã hội, gây
khó khăn cho sự phát triển bền vững của địa phương.
Xuất phát từ tình hình trên, tác giả chọn đề tài: “Giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ” làm luận văn thạc
sĩ của mình, nhằm giải quyết các yêu cầu thực tiễn đang đặt ra trên đây.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng sử dụng lao động và giải quyết việc làm ở huyện Phù
Ninh,, tỉnh Phú Thọ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về sử dụng lao động và việc làm ở
nông thôn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng sử dụng lao động và giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn ở huyện Phù Ninh.
- Xác định những khó khăn, trở ngại, thách thức và đề xuất giải pháp nhằm
góp phần tạo công ăn việc làm cho các hộ gia đình nông thôn trên địa bàn huyện
Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Cập nhật và hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến việc
làm và giải quyết việc làm của lao động nông thôn.
- Luận văn đề xuất định hướng và giải pháp giải quyết công ăn việc làm
cho lao động của gia đình nông thôn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Tác giả
hy vọng những giải pháp này sẽ được chính quyền địa phương huyện Phù
3
Ninh và những huyện có điều kiện tương tự như Phù Ninh có thể tham khảo,
vận dụng để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong thời gian tới
phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương.
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về lao động việc làm cho lao động
nông thôn
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết luận và khuyến nghị
4
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm lao động, nguồn lao động
Nhiều nhà tư tưởng cho rằng: Lao động là một hoạt động có mục đích
để sáng tạo ra những giá trị sử dụng và lao động là sự kết hợp giữa sức lao
động của con người và tư liệu lao động để tác động vào đối tượng lao động.
Theo William Petty- nhà kinh tế học người Anh (trích theo Vũ Thị Thu, 2014)
[9] thì: “Lao động là cha, đất đai là mẹ của của cải”.
Theo một số tác giả: “Lao động là hoạt động có mục đích của con
người, nhằm thoả mãn nhu cầu về đời sống của mình, là điều kiện tất yếu để
tồn tại và phát triển của xã hội loài người”.
Như vậy, lao động là hoạt động có mục đích ý thức của con người
thông qua công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi
chúng thành của cải vật chất cần thiết cho nhu cầu của mình và xã hội.
Nguồn lao động là lực lượng cơ bản của hoạt động sản xuất xã hội, bao
gồm toàn bộ những người có khả năng tham gia lao động. Nghiên cứu nguồn
lao động có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế quốc dân cũng như đối
với sự phát triển sản xuất nông nghiệp. Nguồn lao động trong nông thôn bao
gồm số lượng và chất lượng.
Số lượng nguồn lao động: Bộ Luật lao động năm 1994 có ghi: Số
lượng lao động là toàn bộ những người nằm trong độ tuổi quy định (Nam từ
15 đến 60 tuổi, Nữ từ 15 đến 55 tuổi) có khả năng tham gia lao động. Tuy
nhiên, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, số lượng lao động không hoàn
toàn phụ thuộc vào độ tuổi mà chủ yếu dựa vào khả năng lao động. Những
người trên và dưới tuổi quy định nhưng có khả năng lao động thì vẫn được coi
5
như một bộ phận của người lao động. Việc tăng số lượng người lao động trực
tiếp sản xuất có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tạo ra sản phẩm. Số lượng
những người lao động phải gắn liền với số ngày công lao động, nhất là số
ngày và số giờ lao động thực tế, số giờ làm việc hữu ích của người lao động.
Chất lượng nguồn lao động biểu hiện ở trình độ văn hóa, trình độ lành
nghề, trình độ kinh tế - tổ chức, mức độ sức khỏe.
Số lượng và chất lượng nguồn lao động luôn biến đổi. Yếu tố làm thay
đổi nguồn lao động gồm: Sự tăng giảm tự nhiên của dân số, hàng năm có một
số người đến tuổi lao động tham gia lao động, một số khác hết tuổi lao động
rút khỏi lao động nông nghiệp; Do lao động nông nghiệp chuyển sang các
ngành kinh tế quốc dân khác, chủ yếu là sang công nghiệp.
Xu hướng chung của sự thay đổi về số lượng nguồn lao động trong
nông nghiệp là: giảm liên tục cả về số tuyệt đối cũng như số tương đối, đồng
thời không ngừng tăng năng suất lao động với tốc độ cao và ổn định do việc
chuyển lao động nông nghiệp (có năng suất thấp) sang lao động công nghiệp
(có năng suất cao) và các ngành kinh tế quốc dân khác, đồng thời với việc
chuyển đổi đó là không ngừng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho lao
động nông nghiệp.
1.1.1.2. Khái niệm lao động nông thôn, nguồn lao động nông thôn
Lao động nông thôn là toàn bộ những hoạt động lao động sản xuất tạo
ra sản phẩm của những người sống ở nông thôn. Do đó, lao động nông thôn
bao gồm: lao động trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, dịch
vụ ở nông thôn,...
Nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn là tổng thể sức lao động tham
gia vào hoạt động sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn, bao gồm số lượng
và chất lượng của người lao động.
Về số lượng bao gồm những người trong độ tuổi (nam từ 15- 60 tuổi,
nữ từ 15- 55 tuổi) và những người trên dưới độ tuổi nói trên có thể tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn.
6
Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm
toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có
việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc. Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi
lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động đang có việc làm
haowcj không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
Tùy theo tình trạng việc làm, dân sô hoạt động kinh tế được chia thành hai
loại: Người có việc làm và người thất nghiệp.
Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm tòa bộ số người từ đủ 15 tuổi
trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm, những người
này không hoạt động kinh tế vì các lý do: Hiện đang đi học; Hiện đang làm
công việc nội trợ cho bản thân gia đình; Già cả ốm đau. Tàn tật không có khả
năng lao động hoặc ở vào tình trạng khác.
1.1.2. Đặc điểm nguồn lao động nông thôn
Cơ cấu lao động làm nông nghiệp chiếm 90% lao động nông thôn do đó
đặc điểm của nguồn lao động nông thôn cũng tương đồng với đặc điểm của
lao động trong sản xuất nông nghiệp.
Đặc điểm thứ nhất của lao động nông thôn là tính chất thời vụ cao và
không thể xóa bỏ được. Sản xuất nông nghiệp luôn chịu tác động và bị chi
phối mạnh mẽ bởi các quy luật sinh học và điều kiện tự nhiên của từng xã (đất,
khí hậu,...). Do đó, quá trình sản xuất mang tính thời vụ rất cao, thu hút lao
động không đồng đều. Chính tính chất này đã làm cho việc sử dụng nguồn lao
động nông thôn trở nên phức tạp.
Đặc điểm thứ hai là nguồn lao động nông thôn rất dồi dào và đa dạng
về độ tuổi và có tính thích ứng lớn. Do đó việc huy động và sử dụng đầy đủ
nguồn lao động có ý nghĩa kinh tế lớn nhưng rất phức tạp, đòi hỏi phải có
biện pháp tổ chức quản lý lao động tốt để tăng cường lực lượng lao động cho
sản xuất nông nghiệp.
Đặc điểm thứ ba là lao động nông thôn đa dạng, ít chuyên sâu, trình độ
thấp. Sản xuất nông nghiệp có nhiều công việc gồm nhiều khâu với tính chất
7
khác nhau, hơn nữa mức độ áp dụng máy móc chưa cao nên sản xuất nông
nghiệp chỉ đòi hỏi sức khỏe, sự lành nghề và kinh nghiệm. Mỗi lao động có
thể đảm nhiệm được nhiều công việc khác nhau nên lao động nông nghiệp ít
chuyên sâu hơn lao động công nghiệp và các ngành khác. Bên cạnh đó, phần
lớn lao động nông nghiệp mang tính phổ thông, ít được đào tạo, sản xuất chủ
yếu bằng kinh nghiệm, tổ chức lao động cũng rất giản đơn, với công cụ thủ
công lạc hậu. Lực lượng lao động lành nghề, lao động chất xám không đáng
kể, phân bố không đều, vì vậy hiệu suất lao động thấp, khó khăn trong việc
tiếp thu kỹ thuật và công nghệ mới (Hoàng Tú Anh, 2012) [1].
Nghiên cứu đầy đủ tính chất và những đặc điểm nói trên của lao động
nông nghiệp là có thể tìm ra những biện pháp sử dụng tốt nhất nguồn lao động
trong nông nghiệp nói riêng và nông thôn nói chung.
1.1.3. Vai trò của nguồn lao động nông thôn
Lao động nói chung và lao động trong nông nghiệp, nông thôn nói
riêng có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống cũng như trong quá trình
phát triển kinh tế đất nước. Lao động nông nghiệp, nông thôn góp phần tiến
hành thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nâng cao thế và lực
của nước ta qua việc khai thác tối đa các nguồn lực đất đai, tài nguyên, xã trời,
xã biển,... Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển với tỷ lệ nông nghiệp,
nông thôn khá lớn như Việt Nam. Điều này được thể hiện qua các mặt chủ
yếu sau:
1.1.3.1. Lao động nông nghiệp, nông thôn tham gia vào quá trình phát
triển các ngành trong nền kinh tế quốc dân
Để nền kinh tế phát triển mạnh đòi hỏi phải có một lực lượng lao động
phù hợp cả về số lượng và chất lượng. Sự phù hợp này được thể hiện khác
nhau trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Đối với lao động nông
nghiệp, nông thôn ở giai đoạn đầu khi đất nước bắt đầu công nghiệp hoá,
năng suất lao động nông nghiệp, nông thôn tăng lên, một số lao động dư thừa
8
được giải phóng và được các ngành khác thu hút, nhưng do tốc độ tăng tự
nhiên còn cao nên tỷ trọng lao động nông nghiệp, nông thôn mới giảm tương
đối, số tuyệt đối còn tăng lên. Còn khi bước vào giai đoạn sau, khi nền kinh tế
đã phát triển ở trình độ cao, năng suất lao động tăng nhanh. Số lao động dôi ra
do nông nghiệp, nông thôn giải phóng đã được các ngành khác thu hút hết. Vì
thế, giai đoạn này số lượng lao động nông nghiệp, nông thôn giảm cả về
tương đối và tuyệt đối.
Như vậy, trong mỗi giai đoạn của quá trình phát triển, lao động nông
nghiệp, nông thôn luôn đóng một vai trò to lớn trong việc phát triển các ngành:
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
1.1.3.2. Lao động nông nghiệp, nông thôn tham gia vào sản xuất lương thực,
thực phẩm
Bên cạnh quá trình gia tăng dân số hàng năm, quá trình đô thị hoá đất
nước và thu nhập của người dân tăng lên đã làm nhu cầu về lương thực, thực
phẩm ngày càng lớn, chất lượng ngày càng cao để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của dân cư. Để đáp ứng nhu cầu đó thì hầu hết các nước, nhất là các nước
đang phát triển phải dựa vào ngành nông nghiệp và lực lượng lao động trong
nông nghiệp, nông thôn đóng một vai trò to lớn trong việc sản xuất lương
thực, thực phẩm.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, nhờ chất lượng nguồn lao động
nông nghiệp, nông thôn tăng lên về mọi mặt nên sản lượng lương thực, thực
phẩm tăng nhanh không chỉ để nuôi sống dân số trong nước mà còn đáp ứng
nhu cầu cho xuất khẩu.
1.1.3.3. Lao động nông nghiệp, nông thôn tham gia sản xuất nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản
Việc phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với các
trình độ công nghệ, quy mô khác nhau là một nội dung của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
9
Với một cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ như Việt
Nam hiện nay, ngành công nghiệp chế biến phát triển sẽ tạo đà cho phát triển
một nền kinh tế vững chắc, đồng thời tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ.
Tuy nhiên, vấn đề mang tính chất sống còn của công nghiệp chế biến là
phải quy hoạch được xã nguyên liệu tập trung.
1.1.4. Đặc điểm của thị trường lao động nông thôn
1.1.4.1. Sự hình thành thị trường và cung lao động nông thôn
Trong thực tế, thị trường lao động ở nông thôn đã có từ rất lâu nhưng
kém phát triển. Hình thức trao đổi sức lao động diễn ra tự phát theo quan hệ
truyền thống trong cộng đồng và thiếu một cơ chế điều tiết thống nhất, không
được pháp chế hóa. Vì vậy, giá trị công lao động thường được đánh giá theo
thỏa thuận dân sự, trực tiếp, việc thanh toán kết hợp cả giá trị và hiện vật.
Quan hệ thuê mướn dựa trên mối quan hệ thân quen là chủ yếu, vừa kết hợp
làm thuê chuyên nghiệp, vừa theo thời vụ. Lao động thủ công, cơ bắp là chính.
Một số nơi do chưa phát triển được ngành nghề dẫn đến dư thừa lao động,
nhất là vào thời vụ nông nhàn, người lao động phải đi làm thuê ở xã khác, xã
khác hoặc ra đô thị tìm kiếm việc làm. Do đó, thị trường lao động trong nông
thôn có tính tự phát cao (Nguyễn Khánh Bình, 2014) [18].
Trong tương lai, khi sản xuất càng phát triển, sự phân công lao động và
chuyên môn hóa, hợp tác hóa càng cao thì vai trò của thị trường lao động ở
nông thôn càng được khẳng định rõ rệt. Thị trường lao động phát triển sẽ tạo
điều kiện cho người lao động ở nông thôn có thể tiếp cận được với nhu cầu
thuê lao động, thúc đẩy người lao động nâng cao trình độ văn hóa, kỹ thuật,
do đó, cơ hội việc làm và thu nhập của họ sẽ cao hơn. Nói theo ngôn ngữ kinh
tế: thị trường lao động ở nông thôn sẽ giúp cho cầu lao động (việc làm) gặp
được cung lao động (lao động), điều này không chỉ giải quyết được vấn đề việc
làm cho lao động mà còn góp phần ổn định an ninh trật tự xã hội.
Thị trường lao động là sự thoả thuận trao đổi hàng hoá giữa một bên là
10
những người sở hữu sức lao động (cung lao động) và một bên là những người
cần thuê sức lao động (cầu lao động). Như vậy, thị trường lao động là nơi gặp
gỡ giữa lao động và việc làm. Thị trường lao động ở khu vực nông thôn ở
nước ta có những nét đặc trưng sau: Là thị trường phôi thai, thể hiện: quan hệ
thuê mướn lao động, quan hệ làm công ăn lương chưa phát triển. Sự thỏa
thuận trong quan hệ thuê mướn lỏng lẻo, thường không có hợp đồng lao động,
hình thức đổi công làm thuê theo công nhật, vụ việc là chính. Quan hệ cung
cầu lao động ở nông thôn thể hiện sự dư thừa lao động tiềm tàng cũng có
nghĩa là ở tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng. Thị trường lao động khu
vực nông thôn phát triển ở trình độ thấp, thể hiện: tiền công (trả cho lao động
phổ thông, lao động đại trà) trên thị trường rất thấp, tính cạnh tranh không
cao; tính linh hoạt và thích ứng của lao động rất hạn chế
Thị trường lao động nông thôn là một bộ phận không thể tách rời của
nền kinh tế thị trường, cũng chịu sự tác động của hệ thống quy luật kinh tế,
như: quy luật giá trị, giá cả, cạnh tranh, độc quyền. Các quy luật này tác động
và chi phối mối quan hệ cung lao động và cầu lao động của thị trường.
Cung lao động là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận
được ở mỗi mức giá nhất định. Cung lao động mô tả toàn bộ hành vi của
người đi làm thuê khi thỏa thuận ở các mức giá đặt ra. Cung lao động có quan
hệ tỷ lệ thuận với giá cả sức lao động, khi tiền lương tăng, lượng cung lao
động sẽ tăng.
Mặc dù, cung lao động của một cá nhân bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố
thay thế và thu nhập, nhưng trong tổng thể nền kinh tế, đường cung lao động
vẫn giống như đường cung sản phẩm đầu ra khác. Bởi khi tiền công tăng lên
có ít người muốn nghỉ ngơi, nhưng lại có nhiều người mong muốn làm việc.
Chính vì vậy, trong thực tế các nhà kinh tế chưa thể quan sát thấy khi giá
nhân công tăng mà cung lao động lại giảm cho một cá nhân.
Cung trên thị trường lao động phụ thuộc vào: quy mô dân số, tỷ lệ tham
gia vào lực lượng lao động, tổng số lao động có thể cung cấp, độ dài của thời
11
gian làm việc và chất lượng của lực lượng lao động.
1.1.4.2. Sự hình thành cầu lao động nông thôn
Cầu lao động là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở mỗi mức
giá có thể chấp nhận được. Đối với lao động nông thôn, cầu thị trường lao động
là tổng cộng cầu lao động của các trang trại, các hộ nông dân, các hãng sản
xuất kinh đoanh trong nông thôn ở từng mức giá tiền công lao động.
Các yếu tố ảnh hưởng tới cầu lao động: Giá cả sức lao động: cầu lao
động tỷ lệ nghịch với giá cả sức lao động; Năng suất lao động để sản xuất ra
hàng hóa, dịch vụ và giá trị của các loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường.
1.1.4.3. Đặc điểm thị trường lao động nông thôn
Khu vực nông thôn là khu vực làm việc chủ yếu trong nông nghiệp,
việc làm phi nông nghiệp (công nghiệp chế biến, dịch vụ…) chiếm tỷ lệ nhỏ.
Xu hướng chung là, khi kinh tế phát triển, khu vực nông thôn phát triển, việc
làm phi nông nghiệp tăng ở nông thôn, thị trường lao động khu vực nông thôn
sẽ phát triển sôi động hơn. Ở các nước đang phát triển, lao động ở khu vực
nông thôn chủ yếu là lao động tạo ra thu nhập cho gia đình của mình tức thiếu
sự trao đổi. Tuy nhiên vẫn tồn tại thị trường lao động làm thuê theo thời vụ
trong nông nghiệp hoặc lao động tham gia các hoạt động phi nông nghiệp:
buôn bán, ngành nghề thủ công và dịch vụ ở nông thôn. Tiền lương được xác
định ở mức cân bằng và thấp hơn mức cân bằng ở khu vực thành thị không
chính thức.
Người lao động chủ yếu làm việc trong kinh tế hộ gia định, lao động tự
làm là chính. Mục đích làm việc là để góp phần cùng các thành viên khác
trong gia đình tăng sản lượng (hoặc thu nhập). Quan hệ làm công ăn lương
chưa phát triển. Cung lao động khu vực nông thôn co giãn nhiều vì khu vực
này có tỷ lệ tăng dân số nhanh hơn so với khu vực thành thị. Cầu lao động lại
ít co giãn vì cơ cấu sản xuất nông thôn chậm thay đổi, các nguồn lực cho sản
xuất bị hạn chế.
12
Lao động nông thôn (lao động phổ thông) thường đối mặt với thị
trường có nhiều người mua và nhiều người bán nên thị trường lao động nông
thôn có biểu hiện như thị trường cạnh tranh. Lao động nông thôn là những
người thuộc lực lượng lao động, tham gia hoạt động trong hệ thống các ngành
kinh tế nông thôn như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ trong nông thôn. Đây là lực lượng chủ yếu sản xuất
lương thực, thực phẩm cho xã hội và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Lao động nông thôn ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, lao động nông thôn sống và làm việc rải rác trên địa bàn
rộng. Đặc điểm này làm cho việc tổ chức hợp tác lao động và việc bồi dưỡng
đào tạo, cung cấp thông tin cho lao động nông thôn là rất khó khăn. Hơn nữa,
lao động nông thôn nước ta chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp với năng suất lao động thấp, phương thức sản xuất còn nhiều lạc hậu,
hiệu quả sản xuất không cao.
Thứ hai, lao động nông thôn ở nước ta đa số trình độ văn hoá và
chuyên môn thấp hơn so với thành thị. Theo số liệu thống kê năm 2015,
"trong tổng số 53,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động của
nước ta, có 9,99 triệu người đã qua đào tạo, chiếm 18,6% trong tổng số lao
động trên cả nước, trong đó ở thành thị là 33,7%, ở khu vực nông thôn là
11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với
nữ"2. Hơn nữa, hiện nay ở nước ta có khoảng 10 triệu hộ nông dân với hơn 30
triệu lao động trong độ tuổi nhưng chỉ có 17% trong số đó được đào tạo thông
qua các lớp tập huấn khuyến nông sơ sài, còn lại 83% là lao động chưa qua
đào tạo, chưa có trình độ chuyên môn trong sản xuất nông nghiệp3. Do đó,
lao động nông thôn chủ yếu học nghề thông qua việc hướng dẫn của thế hệ
trước hoặc tự truyền cho nhau nên lao động theo truyền thống và thói quen là
chính. Điều đó làm cho lao động nông thôn có tính bảo thủ nhất định, tạo ra
sự khó khăn cho việc thay đổi phương hướng sản xuất và thực hiện phân công
lao động, hạn chế sự phát triển kinh tế nông thôn.
13
Thứ ba, lao động nông thôn mang tính thời vụ rõ rệt, đặc biệt là các
vùng nông thôn thuần nông. Do vậy, việc sử dụng lao động trong nông thôn
kém hiệu quả, hiện tượng thiếu việc làm là phổ biến. Muốn giải quyết việc
làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn thì phải bằng mọi biện pháp
nhằm hạn chế đến mức tối đa tính thời vụ bằng cách phát triển đa dạng ngành
nghề trong nông thôn, thâm canh tăng vụ, xây dựng cơ cấu cây trồng hợp lý.
Thứ tư, lao động nông thôn ít có khả năng tiếp cận và tham gia thị
trường kém, thiếu khả năng nắm bắt và xử lý thông tin thị trường, khả năng
hạch toán hạn chế. Do đó, khả năng giao lưu và phát triển sản xuất hàng hoá
cũng có nhiều hạn chế. Tập quán sản xuất của lao động nước ta nhìn chung
vẫn nhỏ lẻ, manh mún, chủ yếu bị trói buộc trong khuôn khổ làng xã.
Với những đặc điểm như trên, lao động nông thôn chủ yếu thuộc bộ
phận dân số không có việc làm thường xuyên, hay còn gọi là thiếu việc làm
hoặc bán thất nghiệp. Đặc biệt, trong những năm gần đây, tình trạng thiếu
việc làm ở nông thôn còn do lao động tăng nhanh, do diện tích ruộng đất trên
một lao động ngày càng giảm. Tình trạng đó không chỉ ảnh hưởng đến đời
sống của chính lao động nông thôn mà còn ảnh hưởng đến sự ổn định, phát
triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, gây lãng phí một nguồn lao động lớn ở
nước ta.
Do trình độ lao động ở nông thôn còn thấp và tính chất mùa vụ của sản
xuất nên thị trường lao động nông thôn mang tính tự phát cao và không chịu
sự điều tiết của các quan hệ pháp lý. Điều này hòan toàn phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên đây cũng là
một khó khăn gây nên khó khăn cho công tác quản lý lao động nông thôn và
vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân.
1.1.5. Sử dụng lao động nông thôn
1.1.5.1. Đặc điểm của phát triển kinh tế nông thôn
Ngày nay, cùng với sự phát triển của quá trình CNH-HĐH nông nghiệp
nông thôn, kinh tế khu vực nông thôn đã có sự phát triển tương xứng. Kinh tế
14
nông thôn có những đặc điểm chính như: Sự phát triển kinh tế ở nông thôn
phần lớn phụ thuộc vào nguồn lực tự nhiên, lao động, lợi thế phát triển kinh
tế. Những nguồn lực này có tính chất định hướng cho quá trình phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động. Bên cạnh đó,
kinh tế nông thôn bao gồm các ngành kinh tế: nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ. Do đó, sự phát triển kinh tế nông thôn phụ thuộc nhiều vào sự phát triển
của các tiểu ngành kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế nông thôn phần lớn vẫn mang
màu sắc đặc trưng của khu vực kinh tế thuần nông nghiệp.
1.1.5.2. Đặc điểm và yêu cầu sử dụng lao động trong nông thôn
Sử dụng lao động trong nông thôn là việc dùng lao động trong các hoạt
động sản xuất của hộ và các cơ sở hay doanh nghiệp sản xuất trong nông
thôn. Do sức lao động là lực lượng sản xuất quan trọng của xã hội nên nhiệm
vụ đặt ra có tính chất nguyên tắc là phải sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao
động trong nông nghiệp.
Theo nguyên tắc này, đơn vị sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn phải
sử dụng đầy đủ về mặt số lượng lao động: toàn bộ những người lao động trong và
ngoài tuổi quy định có khả năng lao động đều cần được tham gia vào sự phát triển
kinh tế của hộ gia đình nói riêng và xã hội nói chung.
Lao động cần được sử dụng hợp lý về mặt thời gian: Để đạt được hiệu
suất lao động nhất định, việc sử dụng sức lao động cần đảm bảo khai thác hết
khả năng lao động của họ cả về thể lực và trí lực, nhưng phải phù hợp với trình độ,
điều kiện sức khoẻ của từng người lao động. Để làm được điều này, thời gian lao
động trong năm cần được phân bố một cách hợp lý theo các tháng và theo mùa vụ.
Tóm lại, sử dụng lao động đầy đủ, hợp lý có quan hệ mật thiết nhau. Sử dụng
đầy đủ, hợp lý thì hiệu quả mang lại sẽ thúc đẩy việc tăng thu nhập cho lao động.
Ngược lại thì hiệu quả sử dụng lao động sẽ không cao. Quá trình sử dụng lao
động trong nông thôn gắn liền với sự phát triển của kinh tế nông thôn. Khi kinh
tế phát triển, sử dụng lao động càng yêu cầu cao về chất lượng và phân công lao
động ngày một hợp lý hơn.
15
Sử dụng lao động cần đạt hiệu quả kinh tế cao: Trong thời vụ căng
thẳng, ngoài lao động gia đình thì các nông hộ vẫn phải thuê lao động trên thị
trường, vì lao động là một hàng hoá đặc biệt, nên vấn đề thuê mướn lao động
cũng thay đổi theo quan hệ cung cầu. Do đó, hộ gia đình cần so sánh giá trị
vật chất mà lao động thuê làm ra (giá trị biên do lao động đem lại) có bằng
với tiền thuê lao động đó (chi phí biên của lao động) hay không (Hoàng Tú
Anh, 2012) [1].
1.1.6. Việc làm và giải quyết việc làm ở nông thôn
1.1.6.1. Việc làm và thất nghiệp
Khái niệm việc làm và thất nghiệp
Lao động trước hết là một hành động diễn ra giữa con người với giới tự
nhiên, trong lao động con người đã vận dụng trí lực và thể lực cùng với công
cụ tác động vào giới tự nhiên tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt,
đời sống con người , lao động là một yếu tố tất yếu không thể thiếu được của
con người , nó là hoạt động rất cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người.
Con người không thể sống khi không có lao động . Quá trình lao động đồng
thời là quá trình sử dụng sức lao động, sức lao động là năng lực của con người
nó bao gồm cả thể lực và trí lực , nó là yếu tố tích cực đóng vai trò trung tâm
trong suốt quá trình lao động , là yếu tố khởi đầu, quyết định trong qúa trình
sản xuất, sản phẩm hàng hoá có thể được ra đời hay không thì nó phải phụ
thuộc vào quá trình sử dụng sức lao động . Bản thân cá nhân mỗi con người
trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí nhất định, mỗi vị trí mà
người lao động chiếm giữ trong hệ thống sản xuất xã hội với tư cách là một sự
kết hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất được gọi là chỗ làm hay
việc làm.
Như vậy việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản
xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất . Người lao
động được coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ
16
thống sản xuất của xã hội .Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện
được quá trình lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội ,cho bản thân.
Nhưng với khái niệm việc làm như trên thì chưa được coi là đầy đủ vì
con người chỉ có thể tồn tại trong gia đình và xã hội, do đó việc làm được hiểu
theo một cách hoàn chỉnh đó là ngoài phần người lao động tạo ra cho xã hội
còn phải có phần cho bản thân và gia đình nhưng điều cốt yếu là việc làm đó
phải được xã hội thừa nhận(được pháp luật thừa nhận).
Như vậy một hoạt động được coi là việc làm khi có những đặc điểm
sau: đó là những công việc mà người lao động nhận được tiền công, đó là
những công việc mà người lao động thu lợi nhuận cho bản thân và gia đình,
hoạt động đó phải được pháp luật thừa nhận.
Trên cơ sở vận dụng khái niệm việc làm của tổ chức lao động quốc tế
(ILO) và nghiên cứu điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta có khái niệm
sau: “Người có việc làm là người đang làm việc trong lĩnh vực, ngành nghề,
dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi
sống bản thân và gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội”.
Theo điều 13 Bộ luật lao động - nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam ban hành năm 1994 thì: “Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không
bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm việc làm, ta cần làm sáng tỏ khái niệm
việc làm đầy đủ và thiếu việc làm:
- Việc làm đầy đủ: Là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm. Bất cứ ai có
khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân, muốn làm việc thì có thể tìm
được việc làm trong thời gian ngắn.
- Thiếu việc làm: Được hiểu là việc làm không tạo điều kiện cho người
lao động sử dụng hết thời gian lao động theo chế độ và mang lại mức thu
nhập dưới mức tối thiểu, muốn tìm thêm việc làm bổ sung. Thiếu việc làm có
thể hiểu là trạng thái trung gian giữa có việc làm đầy đủ và thất nghiệp.
17
Tạo việc làm cho người lao động là phát huy, sử dụng tiềm năng sẵn có
của từng đơn vị, từng địa phương và của người lao động nhằm tạo ra những
công việc hợp lý, ổn định và đầy đủ, song những công việc đó phải đem lại
thu nhập đảm bảo thoả mãn các nhu cầu vật chất và tình thần cho bản thân và
gia đình; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và trình độ chuyên môn nghề
nghiệp của bản thân người lao động.
Người có việc làm là những người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số
hoạt động kinh tế đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi
nhuận được thanh toán bằng tiền hay hiện vật, hoặc những người tham gia
vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập
gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật.
Như vậy, việc làm là hoạt động lao động có ích, không bị pháp luật
ngăn cấm, tạo thu nhập hoặc lợi ích cho bản thân, gia đình người lao động
hoặc cho một cộng đồng nào đó. Với cách hiểu này, nội dung khái niệm việc
làm được mở rộng, tạo ra khả năng giải quyết việc làm cho nhiều người.
Người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết để tạo việc
làm và tự do thuê mướn lao động theo luật pháp của Nhà nước, để tự tạo việc
làm cho mình và thu hút lao động xã hội theo quan hệ cung - cầu về lao động
trên thị trường.
Thất nghiệp chỉ tình trạng không có việc làm mang lại thu nhập. Bộ
Luật lao động sửa đổi và bổ sung của Việt Nam (2002) quy định: “Thất
nghiệp là những người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng chưa tìm
được việc làm” (trích theo Hoàng Tú Anh, 2012) [1].
Vấn đề thất nghiệp đã được nhiều tổ chức,nhiều nhà khoa học bàn
luận.Song cũng còn nhiều ý kiến khác nhau nhất là về thất nghiệp.Luật Bảo
hiểm thất nghiệp (viết tắt BHTN)cộng hòa liên bang Đức định nghĩa: “Thất
nghiệp là người lao động tạm thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực
hiện công việc ngắn hạn”. Tại Pháp người ta cho rằng,thất nghiệp là không có
việc làm, có điều kiện làm việc, đang đi tìm việc làm. Thái Lan, định nghĩa về
18
thất nghiệp khẳng định: “Thất nghiệp là không có việc làm, muốn làm việc,
có năng lực làm việc”. Trung Quốc định nghĩa về thất nghiệp như sau: “Thất
nghiệp là người trong tuổi lao động (dân thành thị) có khả năng lao động,
chưa có việc làm, đang đi tìm việc làm, đăng ký tại cơ quan giải quyết việc
làm”.( Chu Tiến Quang, NXB Nông nghiệp, 2001)[14].
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO) ,”Thất nghiệp là tình trạng tồn tại
một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm
được việc làm ở mức tiền lương thịnh hành”.
Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế lần thứ tám năm 1954 tại
Giơnevơ đưa ra định nghĩa:”Thất nghiệp là người đã qua một độ tuổi xác định
mà trong một ngành hoặc một tuần xác định, thuộc những loại sau đây:
Người lao động có thể đi làm nhưng hết hạn hợp đồng hoặc bị tạm
ngừng hợp đồng, đang không có việc làm và đang tìm việc làm.
Người lao động có thể đi làm trong một thời gian xác định và đang tìm
việc làm có lương mà trước đó chưa hề có việc làm, hoặc vị trí hành nghề
cuối cùng trước đó không phải là người làm công ăn lương (ví dụ người sử
dụng lao động chẳng hạn ) hoặc đã thôi việc.
Người lao động không có việc làm và có thể đi làm ngay và đã có sự
chuẩn bị cuối cùng để làm một công việc mới vào một ngày nhất định sau một
thời kỳ đã được xác định.
Người phải nghỉ việc tạm thời hoặc không thời hạn mà không có lương.
Các định nghĩa tuy có khác nhau về mức độ, giới hạn (tuổi, thời gian
mất việc) nhưng đều thống nhất người thất nghiệp ít nhất phải có 3 đặc
trưng:Có khả năng lao động; Đang không có việc làm; Đang đi tìm việc làm.
Ở Việt Nam, thất nghiệp là vấn đề mới nảy sinh trong thời kỳ chuyển
đồi nền kinh tế cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường.Vì vậy,
tuy chưa có văn bản pháp qui về thất nghiệp cũng như các vấn đề có liên quan
đến thất nghiệp, nhưng có nhiều công trình nghiên cứu nhất định.
19
Những nghiên cứu bước đầu khẳng định thất nghiệp là những người
không có việc làm, đang đi tìm việc và sẵn sàng làm việc.
Định nghĩa thất nghiệp ở Việt Nam : “Thất nghiệp là những người
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang
không có việc làm”.
Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt
động kinh tế, không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và đang tích cực
tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc.
Thất nghiệp là một hiện tượng phức tạp cần phải được phân loại để
hiểu rõ về nó, theo nguồn gốc thất nghiệp có thể được chia thành các loại sau:
- Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra khi có một số người lao động đang trong
thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm tốt hơn, phù hợp với nguyện vọng
và mong muốn của bản thân hoặc những người mới bước vào thị trường lao
động đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi làm,… Mọi xã hội trong bất kỳ
thời điểm nào đều tồn tại loại thất nghiệp này. Chỉ có sự khác nhau về quy mô
và thời gian thất nghiệp.
- Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu
đối với người lao động. Sự mất cân đối này có thể diễn ra vì mức cầu đối với
một loại lao động nào đó tăng lên trong khi mức cầu đối với một loại khác
giảm đi, trong đó mức cung không được điều chỉnh nhanh chóng. Loại thất
nghiệp này gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh
cung của thị trường lao động, khi sự biến động này là mạnh và kéo dài, nạn
thất nghiệp sẽ trở nên trầm trọng và chuyển sang thất nghiệp dài hạn.
Thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu xảy ra trong một bộ phận
riêng biệt của thị trường lao động.
- Thất nghiệp do thiếu cầu: Xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm
xuống- nguồn gốc chính là sự suy giảm tổng cầu. Loại thất nghiệp này còn
được gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với
thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của
20
loại này là tình trạng thất nghiệp tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi ngành nghề.
Thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi nền kinh tế đi xuống, toàn bộ thị trường
lao động xã hội bị mất cân bằng.
Có 3 nguyên nhân gây thất nghiệp
Do chu kỳ sản xuất kinh doanh thay đổi:
Theo chu kỳ phát triển kinh tế, sau hưng thịnh đến suy thoáim khủng
hoảng. Ở thời kỳ được mở rộng, nguồn nhân lực xã hội được huy động vào
sản xuất, nhu cầu về sức lao động tăng nhanh nên thu hút nhiều lao
động.Ngược lại thời kỳ suy thoái sản xuất đình trệ , cầu lao động giảm không
những không tuyển thêm lao động mà còn một số lao động bị dôi dư gây nên
tình trạng thất nghiệp. Theo kinh nghiệm của các nhà kinh tế nếu năng lực sản
xuất xã hội giảm 1% so với khả năng , thất nghiệp sẽ tăng lên 2%.
Do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật: Đặc biệt quá trình tự động hóa quá
trình sản xuất.Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, tự động hóa quá trình sản
xuất sẽ tiết kiệm được chi phí, năng suất lao động tăng cao , chất lượng sản
phẩm tốt hơn, giá thành lại rẻ làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Chính vì thế, các nhà sản xuất luôn tìm cách đổi mới công nghệ, sử dụng
những dây truyền tự động vào sản xuất, máy móc được sử dụng nhiều, lao
động sẽ dôi dư. Số lao động này sẽ bổ sung vào đội quân thất nghiệp.
Sự gia tăng dân số và nguồn lực là áp lực đối với việc giải quyết việc
làm. Điều này thường xảy ra đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển
hoặc đang phát triển. Ở đây, nguồn lực dồi dào nhưng do kinh tế hạn chế nên
không có điều kiện đào tạo và sử dụng hết nguồn lao động hiện có.
Một người được coi là có việc làm nếu người đó sử dụng hầu hết tuần
trước đó để làm công việc được trả tiền lương.
Một người được coi là thất nghiệp nếu người đó tạm thời nghỉ việc,
đang tìm việc hoặc đang đợi ngày bắt đầu làm việc mới. Người không thuộc
hai loại trên, chẳng hạn sinh viên học dài hạn, người nội trợ hoặc người nghỉ
hưu không nằm trong lực lượng lao động.
21
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội, do tác động của nhiều yếu
tố kinh tế –xã hội, trong đó có những yếu tố vừa là nguyên nhân vừa là kết
quả. Ngược lại, thất nghiệp có ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước. Vì vậy , cần phân tích rõ tác động qua lại giữa các yếu tố
kinh tế –xã hội đối với thất nghiệp và ngược lại, ảnh hưởng của thất nghiệp
đến sự phát triển kinh tế –xã hội; hạn chế những tác động đến gia tăng tỷ lệ
thất nghiệp.
Thất nghiệp tác động đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Thất nghiệp tăng có nghĩa lực lượng lao động xã hội không được huy
động vào hoạt động sản xuất kinh doanh tăng lên; là sự lãng phí lao động xã
hội- nhân tố cơ bản để phát triển kinh tế – xã hội. Thất nghiệp tăng lên cũng
có nghĩa là nền kinh tế đang suy thoái- suy thoái do tổng thu nhập quốc gia
thực tế thấp hơn tiềm năng; suy thoái do thiếu vốn đầu tư ( vì vốn ngân sách
vị thu hẹp do thất thu thuế, do phải hỗ trợ người lao động mất việc làm…)
Thất nghiệp tăng lên cũng là nguyên nhân đẩy nền kinh tế đến ( bờ vực) của
lạm phát.
Mối quan hệ nghịch lý 3 chiều giữa tăng trưởng kinh tế – thất nghiệp và
lạm phát luôn luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường- Tốc độ tăng trưởng
kinh tế (GDP) mà giảm thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm, kéo theo tỷ lệ lạm phát
phát cũng giảm. Mối quan hệ này cần được quan tâm khi tác động vào các
nhân tố kích thích phát triển kinh tế – xã hội.
Thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động.
Người lao động bị thất nghiệp, tức mất việc làm, sẽ mất nguồn thu nhập.
Do đó, đời sống bản thân người lao động và gia đình họ se khó khăn. Điều đó
ảnh hưởng đến khả năng tự đào tạo lại để chuyển đổi nghề nghiệp, trở lại thị
trường lao động; con cái họ sẽ gặp khó khăn khi đến trường; sức khỏe họ sẽ
giảm sút do thiếu kinh tế để bồi dưỡng, chăm sóc y tế…Có thể nói, thất
nghiệp “đẩy” người lao động đến bần cùng, đến chán nản với cuộc sống, với
xã hội; dẫn họ đến những sai phạm đáng tiếc…
22
Thất nghiệp ảnh hưởng đến trật tự xã hội, an toàn xã hội.
Thất nghiệp gia tăng làm trật tự xã hội không ổn định; hiện tượng bãi
công, biểu tình đòi quyền làm việc, quyền sống…tăng lên; hiện tượng tiêu cực
xã hội cũng phát sinh nhiều lên như trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, mại
dâm…Sự ủng hộ của người lao động đối với nhà cầm quyền cũng bị suy
giảm…Từ đó, có thể có những xáo trộn về xã hội, thậm chí dẫn đến biến động
về chính trị.
Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế – xã hội khó khăn và nan giải của
quốc gia, có ảnh hưởng và tác động đến nhiều mặt đời sống kinh tế – xã hội.
Giải quyết tình trạng thất nghiệp không phải “một sớm, một chiều”,
không chỉ bằng một chính sách hay một biện pháp mà phải là một hệ thống
các chính sách đồng bộ, phải luôn coi trọng trong suốt quá trình phát triển
kinh tế – xã hội. Bởi lẽ, thất nghiệp luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường và
tăng (giảm) theo chu kỳ phát triển của nền kinh tế thị trường.
1.1.6.2. Đặc điểm việc làm trong nông thôn
Ở nông thôn các hoạt động sản xuất nông nghiệp, phi nông nghiệp
(công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ) thường bắt nguồn từ kinh tế hộ
gia đình. Các thành viên trong gia đình có thể chuyển đổi, thay thế để thực
hiện công việc của nhau. Vì vậy, việc chú trọng thúc đẩy phát triển các hoạt
động kinh tế khác nhau của kinh tế hộ gia đình là một trong những biện pháp
tạo việc làm có hiệu quả.
Khả năng thu hút lao động trong các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi với
các cây trồng vật nuôi khác nhau sẽ khác nhau, đồng thời thu nhập cũng rất
khác nhau, vì vậy việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng thu
dụng nhiều lao động cũng là biện pháp tạo thêm việc làm ngay trong sản xuất
nông nghiệp.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn là hoạt động phi nông
nghiệp với một số nghề thủ công mỹ nghệ được lưu truyền từ đời này sang
đời khác trong từng gia đình, từng dòng họ, từng làng xã dần dần hình thành
23
nên những làng nghề truyền thống tạo ra những sản phẩm hàng hóa tiêu dùng
độc đáo vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị văn hóa nghệ thuật đặc trưng cho
từng cộng đồng, từng dân tộc.
Sản xuất nông nghiệp luôn phụ thuộc vào yếu tố đất đai, cơ sở hạ tầng
(giao thông, thủy lợi và các hoạt động cung ứng giống, phân bón, phòng trừ
sâu bệnh,...). Hoạt động dịch vụ nông thôn bao gồm hoạt động cung ứng đầu
vào cho sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp và các mặt hàng nhu yếu phẩm cho
đời sống dân cư nông thôn, là khu vực thu hút đáng kể lao động nông thôn và
tạo ra thu nhập cao cho lao động. Ở nông thôn, có một số lớn công việc tại
nhà không định thời gian: trông nhà, trông con cháu, nội trợ, làm vườn,… có
tác dụng hỗ trợ tích cực trong việc tăng thêm thu nhập cho gia đình. Thực
chất đây cũng là việc làm có khả năng tạo thu nhập và lợi ích đáng kể cho
người lao động.
Tóm lại, Sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực tạo việc làm truyền thống và
thu hút nhiều lao động của cư dân nông thôn, nhưng diện tích đất canh tác có
xu hướng giảm đã hạn chế khả năng giải quyết việc làm trong nông thôn.
Hiện nay, những việc làm trong nông thôn chủ yếu là những công việc giản
đơn, thủ công, ít đòi hỏi tay nghề cao với tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai và
công cụ cầm tay, dễ học hỏi, dễ chia xẻ. Vì vậy, khả năng thu dụng lao động
cao, tuy nhiên sản phẩm làm ra chất lượng thấp, mẫu mã đơn điệu, năng suất
lao động thấp dẫn đến thu nhập bình quân của lao động ở nông thôn không
cao, tỷ lệ đói nghèo cao so với khu vực thành thị.
1.1.6.3. Phân loại việc làm và thất nghiệp ở nông thôn
a. Phân loại việc làm ở nông thôn
Căn cứ vào thời gian thực hiện công việc, việc làm được phân chia
thành:
- Việc làm ổn định và việc làm tạm thời: Căn cứ vào số thời gian có
việc làm thường xuyên trong một năm (quy ước: từ 180 ngày trở lên).
24
- Việc làm đủ thời gian và việc làm không đủ thời gian: Căn cứ vào số
giờ thực hiện làm việc trong một tuần.
- Việc làm chính và việc làm phụ: Căn cứ vào khối lượng thời gian
hoặc mức độ thu nhập trong việc thực hiện một công việc nào đó.
b. Phân loại thất nghiệp ở nông thôn
Căn cứ vào thời gian mà thất nghiệp được phân chia thành:
- Thất nghiệp dài hạn là thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở lên tính từ
ngày đăng ký thất nghiệp hoặc tính từ thời điểm điều tra trở về trước.
- Thất nghiệp ngắn hạn là thất nghiệp dưới từ 12 tháng trở xuống tính
từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc tính từ thời điểm điều tra trở về trước.
1.1.6.4. Nội dung giải quyết việc làm ở nông thôn
a. Giải quyết việc làm cho lao động là trách nhiệm của nhà nước
Phân bố lại dân cư và nguồn lao động giữa các vùng, để vừa tạo thêm
việc làm, vừa khai thác được tốt hơn tiềm năng của mỗi vùng. Việc phát triển
kinh tế tại các xã kinh tế mới có khả năng tiếp nhận hàng chục vạn người đến
xây dựng các xã kinh tế mới.
Đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình và đa dạng hóa các hoạt động kinh tế
nông thôn. Việc khẳng định vai trò của kinh tế hộ gia đình sẽ tạo điều kiện sử
dụng có hiệu quả hơn lao động nông nghiệp. Nền nông nghiệp đang chuyển
dần từ tự cấp, tự túc thành nông nghiệp hàng hóa, thâm canh và chuyên canh.
Các nghề thủ công truyền thống, các hoạt động dịch vụ ở nông thôn được khôi
phục và phát triển do đó, lao động thuần nông ngày càng giảm đi. Nước ta đang
đẩy mạnh công nghiệp hóa nông thôn, nhờ vậy vấn đề việc làm ở nông thôn sẽ
được giải quyết vững chắc hơn.
Phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ, trong đó có các hoạt
động công nghiệp và dịch vụ quy mô nhỏ, thu hồi vốn nhanh, sử dụng kỹ
thuật tinh xảo và cần nhiều lao động, có khả năng tạo ra nhiều việc làm mới
cho thanh niên ở các thành phố, thị xã.
Việc đa dạng hóa các loại hình đào tạo (trong đó có các hình thức đào
25
tạo từ xa, đào tạo mở rộng,…), đẩy mạnh hoạt động hướng nghiệp ở các nhà
trường, hoạt động dạy nghề và giới thiệu việc làm vừa giúp nâng cao chất
lượng người lao động, vừa giúp cho người lao động có thể tự tạo việc làm
hoặc dễ tìm việc làm hơn.
b. Giải quyết việc làm là trách nhiệm của các doanh nghiệp nông
thôn
Các doanh nghiệp phát triển sẽ kéo theo sự phát triển mở rộng cả về
quy mô lẫn hướng sản xuất, góp phần cho kinh tế phát triển. Đặc biệt với các
doanh nghiệp ở nông thôn, sự phát triển của các cơ sở này tạo thêm nhiều việc
làm cho lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng giảm dần lao động thuần nông.
c. Người dân tự vận động tạo việc làm phát triển kinh tế hộ gia
đình
Riêng đối với lao động nông thôn, trong điều kiện đất chật, người đông,
nhân khẩu và lao động có xu hướng gia tăng, vấn đề tạo việc làm, giải quyết
tình trạng dư thừa lao động càng phức tạp. Giải quyết việc làm là vấn đề của
chính quyền địa phương, đồng thời là vấn đề của chính bản thân hộ:
Đa dạng hóa sản phẩm, tập trung vào những cây con có giá trị cao tăng
cường lao động; Phát triển chăn nuôi, khôi phục những ngành nghề truyền
thống tận dụng lao động và nâng cao thu nhập; Lựa chọn kỹ thuật phù hợp với
điều kiện của gia đình; Sinh đẻ có kế hoạch; Nâng cao trình độ văn hóa; phân
công lao động hợp lý giữa các thành viên trong gia đình.
1.1.7. Hậu quả kinh tế xã hội của thất nghiệp và thiếu việc làm
1.1.7.1. Hậu quả kinh tế
Nói đến hậu quả kinh tế của tình trạng thất nghiệp cần phải nói đến
những chi phí liên quan đến thất nghiệp, cả trên góc độ gia đình cũng như xã
hội. Thất nghiệp dẫn đến tình trạng giảm sút thu nhập của hộ gia đình và kéo
theo nhiều hậu quả tiêu cực. Ở Việt Nam chưa tiến hành điều tra về tình trạng
26
thu nhập của những hộ gia đình có người bị thất nghiệp, nhưng chắc chắn
rằng họ đang phải vật lộn với cuộc sống để duy trì sự tồn tại của mình
Trên khía cạnh kinh tế vĩ mô có thể chia ra làm hai loại chi phí liên quan
đến thất nghiệp:
- Chi phí bằng tiền (chủ yếu bằng tiền từ ngân sách và các quỹ xã hội).
- Lãng phí sản phẩm xã hội do không sử dụng đầy đủ các yếu tố sẵn có
của sản xuất xã hội.
Những chi phí bằng tiền bao gồm: tiền từ ngân sách nhà nước và các quỹ
của doanh nghiệp, cũng như của xã hội chi cho bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp
mất việc làm, chi cho về hưu sớm cùng các chi phí xã hội cho đào tạo, đào tạo
lại, dịch vụ việc làm từ những chương trình chống thất nghiệp. Ở nước ta mặc
dù chưa có hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, nhưng chỉ riêng việc thực hiện trả
trợ cấp mất việc làm và chi phí cho đào tạo, đào tạo lại theo Điều 17 Bộ luật
lao động đối với khoảng 10% lao động trong doanh nghiệp nhà nước đó nghỉ
việc nhưng chưa được hưởng chế độ (theo quy định của pháp luật) đã lên đến
gần 1000 tỷ đồng (theo tính toán của vụ chính sách lao động-việc làm năm
1998).
Chi phí bằng tiền liên quan đến thất nghiệp còn bao gồm việc giảm thu
ngân sách quốc gia. Người thất nghiệp không có thu nhập, không đóng thuế,
chỉ đóng ít hoặc không đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. Chi phí của chính phủ
cho tình trạng thất nghiệp sẽ lớn và dẫn đến hậu quả gia tăng thâm hụt ngân
sách. Lãng phí lớn nhất đối với xã hội là không sử dụng đầy đủ các yếu tố sẵn
có của sản xuất. Hậu quả kinh tế của thất nghiệp cũng phải kể đến những mất
mát liên quan đến sự di cư ra nước ngoài của một bộ phận dân cư, chủ yếu là
thanh niên có trình độ học vấn, tay nghề cao nhưng không tìm được việc làm
trong nước.
27
1.1.7.2. Hậu quả tâm lý xã hội của thất nghiệp.
Tăng nhanh thất nghiệp trở thành một trong những vấn đề nhức nhối của
xã hội. Thất nghiệp không chỉ đồng nghĩa với tình trạng vật chất ngày càng
xấu đi mà cũng kèm theo những hậu quả tâm lý xã hội mà người thất nghiệp
cũng như xã hội phải gánh chịu.
Theo những kết quả điều tra xã hội học: Người mất việc làm sẽ trải qua
những diễn biến tâm lý phức tạp. Giai đoạn đầu là sự lạc quan, tin tưởng vào
việc tìm được chỗ làm việc mới, thời kỳ này thường ngắn. Giai đoan tiếp theo
là thời gian bi quan. Thời gian thất nghiệp kéo dài dẫn đến vô vọng và buông
xuôi số phận. Người thất nghiệp mặc cảm với chính mình, suy giảm tinh thần
và khả năng tự tìm việc làm, phôi phai dần những kiến thức và kỹ năng nghề
nghiệp đã có (Triệu Đức Hạnh, Nguyễn Thị Mão Khoa, 2012) [5].
Mất việc làm đồng nghĩa với không thể thoả mãn những nhu cầu cơ bản:
nhu cầu hoạt động trong một tổ chức, tiếp xúc với môi trường ngoài gia đình,
có cơ hội tự đánh giá và so sánh với những thành viên khác của tổ chức, định
hướng hoạt động và tổ chức cơ cấu thời gian hoạt động trong ngày, trong tuần.
Những vấn đề xã hội cơ bản đi kèm với thất nghiệp là: suy sụp thể lực và tinh
thần; mâu thuẫn gia đình tăng, gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm tăng. Thất
nghiệp tạo ra các điều kiện để phát triển các loại tội phạm khác nhau như:
trộm cắp, giết người,… và các tệ nạn xã hội như: nghiện rượu, chích hút cũng
như làm băng hoại các giá trị đạo đức, văn hoá của gia đình, dân tộc.
1.1.8. Yếu tố ảnh hưởng tới vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
1.1.8.1. Nguồn lực và lợi thế trong phát triển kinh tế địa phương
a. Đất đai
Đất cùng tài nguyên sinh vật trên đất vừa là đối tượng, vừa là tư liệu
sản xuất đặc biệt để con người tác động vào nó tạo ra của cải vật chất phục vụ
nhu cầu phát triển của xã hội.
Diện tích đất canh tác, mặt nước càng lớn thì tài nguyên nông, lâm,
thuỷ sản càng nhiều, thì tiềm năng khai thác và phát triển ngành nghề càng
28
lớn, khả năng tạo việc làm trong nông thôn, nông nghiệp càng nhiều. Tuy
nhiên, diện tích đất đai, mặt nước là đại lượng hữu hạn, có xu hướng bị co hẹp
do sự xâm lấn của các ngành kinh tế khác. Tài nguyên nông, lâm, thủy sản
đang bị suy giảm nghiêm trọng do sự khai thác quá mức của con người. Vì
vậy, vấn đề tạo việc làm đang trở nên khó khăn và phức tạp khi lao động xã
hội ngày một tăng lên.
b. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm: hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi,
điện, thông tin liên lạc,… là các yếu tố gián tiếp góp phần tạo ra việc làm và
nâng cao hiệu qủa việc làm. Ví dụ, khi nắm bắt được nhiều thông tin, sự lựa
chọn về sản xuất cái gì, làm như thế nào, với công nghệ nào cũng dễ dàng hơn,
nếu thông tin liên lạc phát triển,… Hơn nữa, việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật ở các cộng đồng dân cư sẽ thu hút dân cư, thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng,
từ đó thu hút sự đầu tư sản xuất của các doanh nghiệp, do đó, gián tiếp tạo
môi trường phát triển việc làm trong từng cộng đồng.
c. Vốn
Ở cấp độ vĩ mô, vốn là nguồn lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của quốc gia, địa phương thông qua các hoạt động đầu tư. Ở cấp độ vi mô,
vốn vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu cho phát triển kinh tế doanh nghiệp,
kinh tế hộ. Nhu cầu về vốn cho đầu tư sản xuất là nhu cầu tất yếu, nó càng
quan trọng hơn đối với hộ muốn mở rộng quy mô sản xuất.
d. Nguồn lao động
Số lượng và chất lượng lao động có ảnh hưởng trực tiếp đối đến tạo việc
làm. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, trình độ lao động có vai trò quyết
định, vì ở một trình độ lao động nhất định sẽ phù hợp với một công việc nhất định.
Những lợi thế của địa phương là điều kiện cho địa phương trong phát triển
kinh tế nông thôn, mở ra những hướng phát triển sản xuất, tạo việc làm, giải quyết
nhu cầu việc làm cho lao động nông thôn. Trên cơ sở lợi thế đó, địa phương đề ra
những chính sách thu hút đầu tư, tạo việc làm cho nhiều lao động.
29
Lợi thế đó bao gồm:
- Lợi thế về tự nhiên: nguồn tài nguyên thiên nhiên, ví trí địa lý, điều
kiện tự nhiên,…
- Lợi thế về xã hội: yếu tố lao động, yếu tố thuộc về phong tục, tập quán của
từng xã nông thôn,…
- Lợi thế về chính sách: chính sách hỗ trợ phát triển giao thông, chính sách
về tín dụng tài chính,…
1.1.8.2. Quy mô phát triển, cơ cấu sản xuất và khả năng phát triển kinh tế
Sự phát triển kinh tế của địa phương sẽ thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng, qua
đó thúc đẩy sản xuất phát triển, thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế, qua
đó tạo nhiều việc làm cho xã hội. Quy mô phát triển càng lớn thì càng tạo ra
nhiều việc làm cho xã hội.
Cơ cấu sản xuất phản ánh mức độ khai thác nguồn lực, khả năng phát triển
kinh tế dựa trên tiềm năng về nguồn lực tự nhiên. Do đó, cơ cấu sản xuất và khả
năng phát triển kinh tế của địa phương có vị thế đặc biệt quan trọng đối với vấn
đề phát triển sản xuất, thu hút lao động trong các ngành kinh tế.
1.1.8.3. Các yếu tố xã hội
Các yếu tố xã hội có ảnh hưởng nhất định tới vấn đề giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn, chủ yếu đây là những yếu tố ngoài hộ.
a. Tập quán
Tập quán tiêu dùng, tập quán sản xuất có tác động mạnh tới tư duy tìm
việc, tư duy lao động của hộ.
b. Chính sách việc làm
Chính sách việc làm có thể phân loại như sau:
- Chính sách chung ở tầm vĩ mô: Chính sách tín dụng, chính sách đất
đai, chính sách thuế.
- Chính sách khuyến khích phát triển các lĩnh vực ngành nghề có khả
năng thu hút nhiều lao động, như: chính sách phát triển doanh nghiệp, chính
sách di dân, chính sách phát triển xã kinh tế mới, chính sách đi làm việc có
30
thời hạn ở nước ngoài, chính sách phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn,
chính sách khôi phục và phát triển các nghề cổ truyền.
- Chính sách việc làm cho các đối tượng đặc biệt: người tàn tật, đối
tượng tệ nạn xã hội.
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách xã
hội và các chính sách kinh tế. Thực hiện tốt chính sách việc làm sẽ giảm được
hiện tượng thất nghiệp, đảm bảo được an ninh xã hội. Các yếu tố xã hội có
ảnh hưởng nhất định tới vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn,
chủ yếu đây là những yếu tố ngoài hộ.
c. Quan hệ kinh tế hợp tác
Trong công tác giải quyết việc làm cho lao động dư thừa, thì quan hệ
kinh tế hợp tác được đánh giá là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Quan hệ
kinh tế hợp tác diễn ra giữa chính quyền địa phương với các công ty trong và
ngoài nước. Thông qua các công ty này, lao động có thể tìm được việc làm từ
các hoạt động phi nông nghiệp như: công nhân trong các cụm công nghiệp,
hay giúp việc gia đình,... Thời gian gần đây, xuất khẩu lao động đang là
hướng giải quyết có hiệu quả cho lao động dư thừa của hầu hết các xã nông
thôn.
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết việc làm
cho người lao động nông thôn
Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi con người vừa
là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Chính vì vậy,
vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động luôn là một trong những chỉ
tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đề ra.
Mục tiêu của chính sách lao động việc làm của Đảng là hướng vào giải
phóng sức sản xuất, giải phóng và phát huy mọi tiềm năng sức lao động, khơi
dậy tiềm năng của mỗi người và của cả cộng đồng dân tộc, coi trọng giá trị
sức lao động, mở rộng cơ hội cho mọi người cùng phát triển.
31
Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VI (năm 1986) đánh dấu bước
chuyển biến trong nhận thức và quan niệm về vấn đề việc làm của Đảng. Đại
hội xác định: “Nhà nước cố gắng tạo thêm việc làm và có chính sách để người
lao động tự tạo ra việc làm” (trích theo Vũ Thị Thu, 2014) [9]. Đây là khâu
đột phá có tính cách mạng trong lĩnh vực việc làm ở nước ta: Nhà nước không
bao cấp toàn bộ về việc làm mà chuyển dần sang Nhà nước kết hợp với người
lao động, gia đình và xã hội tạo việc làm cho người lao động.
Để quán triệt quan điểm đó, Đảng và nhà nước ta đã ban hành hệ thống
các chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần; Tạo nhiều việc làm mới, đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và
phát triển đời sống của người lao động. Quyết định số 136/HĐBT ngày
9/10/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) là mốc có tính lịch sử
nhằm giải quyết việc làm cho gần 1 triệu lao động dôi dư do sắp xếp lại tổ
chức sản xuất khu vực nhà nước, chuyển ra ngoài làm việc.
Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng, lần đầu tiên Đảng ta đã đưa ra
phương hướng cơ bản và toàn diện về giải quyết việc làm phù hợp với thời kỳ
đầu chuyển sang kinh tế thị trường: Coi trọng cả phát triển sản xuất và dịch
vụ. Kết hợp giải quyết việc làm tại chỗ với phân bố lại lao động theo lãnh thổ,
xây dựng các khu kinh tế mới, hình thành các cụm kinh tế - kỹ thuật, dịch vụ
nhỏ ở nông thôn, ở các thị trấn, thị tứ đồng thời mở rộng xuất khẩu lao động,
đa dạng hóa việc làm có thu nhập để thu hút lao động (trích theo Vũ Thị Thu,
2014) [9].
Đặc biệt Đảng ta đã chỉ rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc
làm, coi đó là “Trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mọi đơn vị thuộc mọi
thành phần kinh tế, của từng gia đình, từng người ” (trích theo Vũ Thị Thu,
2014) [9]. Quan điểm trên của Đảng đã góp phần xã hội hóa vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động thực hiện quyền lao động và quyền có việc làm
của người lao động theo qui định của hiến pháp năm 1992.
32
Nghị quyết số 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ) về chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc
làm đã thể chế hóa những quan điểm đổi mới cơ bản đó của Đảng về việc làm
trong cơ chế thị trường như: Đa dạng hóa việc làm và đa dạng hóa thu nhập,
giải phòng sức lao động trên cơ sở tự do hóa trong lao động; Thực hiện các
chương trình quốc gia về việc làm và lập quĩ quốc gia về giải quyết việc làm.
Đặc biệt từ ngày 1/1/1995, Bộ luật lao động đầu tiên của nước ta bắt đầu có
hiệu lực, quan điểm, chủ trương, chính sách và cơ chế vê vấn đề việc làm của
Đảng được thể chế hóa một cách có hệ thống, đồng bộ tạo ra hành lang pháp
lý để phát triển việc làm trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tại đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) Vấn đề việc làm
trong cơ chế thị trường đã được nhận thức rõ hơn và phát triển lên như một
tầm cao mới. Đại hội xác định: “Nhà nước đầu tư tạo thêm chỗ làm việc và
tạo điều kiện cho mọi người tự mình và giúp đỡ người khác tạo việc làm”
(trích theo Vũ Thị Thu, 2014) [9]. Lần đầu tiên, những phác thảo quan trọng
của thị trường lao động định hướng XHCN đã được vạch rõ: “Mọi công dân
đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật, phát triển
dịch vụ việc làm”. Ngày 1/7/1998 Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết
định số 126/1998/QĐ-TTg về việc quyết định chương trình mục tiêu quốc gia
về việc làm đến năm 2000. Mục tiêu cơ bản của chương trình là: Tạo việc làm
mới, đảm bảo việc làm cho người có khả năng lao động, có yêu cầu việc làm
thực hiện các biện pháp trợ giúp người thất nghiệp nhanh chóng có được việc
làm, người thiếu việc làm, có đủ việc làm đặc biệt có chính sách hỗ trợ giúp
cụ thể các đối tượng yếu thế trong thị trường lao động (trích theo Vũ Thị Thu,
2014) [9].
Chương trình đưa ra những chỉ tiêu cụ thể đến năm 2000 là mỗi năm
thu hút từ 1,3 đến 1,4 triệu chỗ làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
xuống còn 5% nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75%.
Đặc biệt đến đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Đảng và nhà nước xác
33
định rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm và thấy rõ mối quan hệ
giữa giải quyết việc làm và phát huy nhân tố con người. Đại hội khẳng định:
“Giải quyết việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của quốc
gia - Bằng nhiều biện pháp, hàng năm tạo ra hàng triệu việc làm mới, tận
dụng số ngày công lao động chưa được sử dụng đến nhất là trên địa bàn nông
nghiệp, nông thôn” và đưa ra những giải pháp cơ bản giải quyết việc làm cho
người lao động như: Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các
thành phần kinh tế đầu tư phát triển mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh
tạo nhiều việc làm, phát triển thị trường lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao
động,... Như vậy, đến đại hội IX của Đảng vấn đề việc làm đã được nhận thức
sâu sắc và toàn diện trong mối quan hệ với các lĩnh vực của đời sống kinh tế,
xã hội. Chính sách việc làm phải nhằm khai thác tối đa nguồn lực con người
Việt Nam, với trí tuệ và truyền thống của dân tộc đó là nguồn lực chính của
sự phát triển đất nước (trích theo Vũ Thị Thu, 2014) [9].
Rõ ràng là Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh:
ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn của toàn xã hội để
giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người lao động tự
tạo việc làm, phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao
động. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân, nhất là những nơi
đất nông nghiệp bị chuyển đổi do đô thị hoá và công nghiệp hoá. Phát triển
các dịch vụ phục vụ đời sống của người lao động ở các khu công nghiệp. Tiếp
tục thực hiện chương trình xuất khẩu lao động, tăng tỷ lệ lao động xuất khẩu
đã qua đào tạo, quản lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao
động, nhất là lao động nông thôn (trích theo Vũ Thị Thu, 2014) [9].
1.2.2. Một số kinh nghiệm về tạo việc làm cho lao động nông thôn ở một số
địa phương
1.2.2.1 Tạo việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa
Lao động và việc làm ở khu vực nông thôn tỉnh Thanh Hóa nằm trong
tình trạng chung như đối với các tỉnh khác: Lao động nông nghiệp chiếm 83%
34
tổng lực lượng lao động toàn tỉnh (1,8 triệu người), trong khi lao động làm
việc trong khu vực dịch vụ, thương mại chỉ chiếm 4% và lao động trong khu
vực nhà nước chiếm 7%. Phần lớn lao động nông nghiệp tập trung ở đồng
bằng, nơi đất đai hạn chế và chật chội. Hàng năm, toàn tỉnh có trên 30.000
người tham gia vào lực lượng lao động. Lao động nông thôn chỉ sử dụng hết
70% quỹ thời gian trong năm dẫn đến tình trạng thiếu việc làm rất phổ biến.
Hàng năm, tỉnh phải lo tạo việc làm cho ít nhất 70.000 người, tăng tỷ lệ thời
gian làm việc của lao động nông thôn lên 75%.
Trước tình hình đó, Đảng bộ tỉnh đã có Nghị quyết đề ra các biện pháp:
Thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế -xã hội; Tăng cường đào tạo tay nghề gắn
với các chương trình dự án phát triển chung, xây dựng các khu công nghiệp;
Tăng cường và nâng cao chất lượng dịch vụ việc làm, cung cấp thông tin đầy
đủ và thường xuyên về thị trường lao động; Hỗ trợ người lao động để họ tự
phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để tự tạo việc làm cho mình, cho lao
động trong gia đình họ. Các ngành, các cấp xây dựng đề án về giải quyết việc
làm; Tạo điều kiện về thuê đất, mặt bằng, thuê lao động, cho vay tín dụng ưu
đãi, miễn giảm thuế, khuyến khích sử dụng nguyên liệu, lao động tại chỗ; Xúc
tiến xuất khẩu lao động.
1.2.2.2. Tạo việc làm cho lao động nông thôn ở huyện Châu Giang (tỉnh Hưng
Yên)
Trước năm 2000, Châu Giang (nay là Khoái Châu và Văn Giang, Hưng
Yên) là huyện đất chật, người đông, độc canh cây lúa truyền thống, ngày nay
mới bắt đầu chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và phát triển ngành nghề phi
nông nghiệp.
Huyện Châu Giang là huyện thuần nông, lao động nông nghiệp chiếm
85,6% tổng lao động của toàn huyện, cao hơn mức trung bình của cả nước,
lao động phi nông nghiệp có xu hướng giảm. Trong khi đó, bình quân diện
tích đất nông nghiệp theo lao động nông nghiệp có xu hướng giảm (năm 1995
là 1.150 m2/người đến năm 1998 chỉ còn 1.048 m2/người). Hơn nữa số lao
35
động di chuyển ra khỏi huyện cũng khá lớn: khoảng hơn 6.000 người, chiếm
hơn 4% tổng số lao động, phần lớn những lao động này làm việc tạm thời tại
thành phố, đến mùa vụ họ lại quay về làm nông nghiệp.
Lực lượng lao động mới bổ sung hàng năm chủ yếu là lao động trẻ, có
trình độ văn hóa từ tốt nghiệp PTCS trở lên. Tuy nhiên số lao động có tay
nghề, đã qua đào tạo chỉ chiếm 5% so với tổng số. Số lao động này chủ yếu
làm việc trong các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Số lao
động không có việc nhưng có nhu cầu làm việc chiếm 6,4% tổng số lao động. Ngoài
ra thời gian nông nhàn của lao động nông nghiệp chiếm tới 40% tổng số thời gian,
cao hơn số ước tính của cả nước (28 - 30%) (Chu Tiến Quang (2001), Việc làm ở
nông thôn, thực trạng và giải pháp, Hà Nội.)
Như vậy, hàng năm huyện có thêm 3.138 người và hơn 9.000 lao động
thất nghiệp với thời gian nông nhàn lớn. Nguyên nhân chủ yếu do ngành nghề
phi nông nghiệp không phát triển, dẫn đến không thu hút lao động thậm chí còn
dôi dư. Điều này gây một áp lực không nhỏ cho vấn đề giải quyết việc làm của
huyện Châu Giang.
Bằng những giải pháp tích cực, huyện Châu Giang đã giải quyết được
vấn đề việc làm:
Thứ nhất: Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng: Từ cây lúa nước sang các
loại cây có giá trị kinh tế cao như cây dược liệu, cây ăn quả, cây cảnh.
Thứ hai: Thực hiện chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa: Từ chăn nuôi gia
súc quy mô nhỏ lẻ, mang tính kết hợp và tận dụng cao chuyển thành chăn nuôi quy
mô lớn mang tính sản xuất hàng hóa trong các hộ gia đình. Thu hút số lượng lớn lao
động tham gia vào quá trình vận chuyển, tiêu thụ gia cầm, gia súc.
Thứ ba: Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp: một số nghề truyền
thống tiếp tục được khôi phục và phát triển như: Vật liệu xây dựng, mây tre đan,
chế biến lương thực). Bên cạnh đó, số người tham gia ngành thương nghiệp, dịch
vụ như xay sát, bơm nước, làm đất,... đã tăng lên đáp ứng được nhu cầu sản xuất
và sinh hoạt của nông dân.
36
Thứ tư: Triển khai các chương trình quốc gia về giải quyết việc làm: Thực
hiện chương trình 120 và 773 di dân đi xã kinh tế mới bằng nguồn vốn vay được
huy động từ ngân hàng Nông nghiệp, ngân hàng Người nghèo, cho người dân vay
với lãi suất ưu đãi.
Thứ năm: Hỗ trợ vốn tạo việc làm thông qua các hiệp hội: Hội Nông dân,
Hội Phụ nữ đã tín chấp với Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT và Ngân hàng Chính
sách xã hội cho hàng nghìn hộ vay vốn để tổ chức sản xuất trồng trọt, chăn nuôi tạo
việc làm cho nhiều lao động. Bên cạnh đó, Hội còn hướng dẫn các hộ sử dụng vốn
vay có mục đích và có hiệu quả.
1.2.3. Một số công trình nghiên cứu khoa học về việc làm lao động nông
thôn ở nước ta
Đảng ta xác định chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển, tạo sự chuyển biến căn bản cho khu
vực nông thôn. Ngoài chủ trương, quan điểm của Đảng từ đại hội đại biểu lần
thứ VI đến nay thì Đảng còn có nghị quyết riêng về vấn đề nông nghiệp, nông
dân, nông thôn trong đó có đề cập đến giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn như Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương khóa IX về đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nhiệm kỳ 2001-
2010; nghị quyết số 26-NQ/TU ngày 5/8/2008 về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Ngoài ra còn nhiều đề tài nghiên cứu tập trung vào vấn đề này và
các vấn đề có liên quan ở nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau:
- Phát triển việc làm gắn với việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông
thôn - thành thị, Lê Xuân Bá (2008); phân tích phát triển việc làm gắn với
việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn - thành thị ở cấp độ địa phương.
Nghiên cứu đưa ra những kết luận: Tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng việc
làm không phải lúc nào cũng cùng chung một tốc độ; thách thức về việc làm
nói chung và chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn - thành thị nói riêng
thường có thể thấy rõ hơn ở cấp tỉnh, nơi gặp nhiều khó khăn phát sinh trong
quá trình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Từ đó tác
37
giả đã đưa ra các khuyến nghị chính sách: Thúc đẩy các hoạt động phi nông
nghiệp; phát triển hạ tầng; phát triển doanh nghiệp trên cơ sở phát triển sản
xuất và tự tạo việc làm,... (trích theo Nguyễn Xuân Hùng, 2014) [6].
- “Việc làm ở nông thôn- Thực trạng và giải pháp”, Nxb, Nông nghiệp,
H.2001, tác giả Chu Tiến Quang (chủ biên) đã làm rõ thực trạng, lao động và
việc làm ở nông thôn nước ta và đề xuất những giải pháp tạo cơ hội cho lao
động nông thôn có thể tiếp cận đến việc làm. Tác giả phân tích mặt mạnh, yếu
của lao động ở nông thôn về trình độ học vấn, tay nghề, kỹ năng lao động,
văn hóa lao động,… và chỉ ra nguyên nhân của tình trạng trên là do nền kinh
tế nông nghiệp lạc hậu, tâm lý sản xuất nhỏ, điều kiện giáo dục về học vấn,
nghề nghiệp, ý thức lao động,… ở nông thôn rất hạn chế. Những hạn chế này
chính là cản trở người lao động tiếp cận với việc làm đòi hỏi phải có tay nghề,
có ý thức trách nhiệm cao hiện nay. Để người lao động ở nông thôn có việc
làm đảm bảo thu nhập, tác giả nhấn mạnh đến công tác giáo dục học vấn, dạy
nghề và mở rộng sản xuất, kinh doanh,… coi đó là nhiệm vụ hàng đầu ở nông
thôn hiện nay (trích theo Nguyễn Xuân Hùng, 2014) [6].
- “Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc
làm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(2001) do Trần
Văn Chử làm chủ nhiệm đề tài. Trong đề tài tác giả và cộng sự đã phân tích
làm rõ mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc làm
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và khẳng định rằng:
việc nâng cao chất lượng nguồn lao động không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu
của phát triển mà còn góp phần giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp. Từ đó,
các nhà nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ lao động và giải quyết việc làm ở nước ta (trích theo Nguyễn Xuân Hùng,
2014) [6].
- “Việc làm của nông dân xã đồng bằng sông Hồng trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Lý luận chính trị, H.2017, do Bùi Thị
Ngọc Lan chủ biên. Đề tài đã làm rõ quan niệm về việc làm và những nhân tố
38
tác động đến việc làm của nông dân xã đồng bằng song Hồng; phân tích thực
trạng việc làm và những triển vọng giải quyết việc làm cho nông dân đồng
bằng sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho nông dân xã đồng
bằng sông Hồng đến năm 2015 (trích theo Nguyễn Xuân Hùng, 2014) [6].
- “ Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa xã đồng bằng Sông Hồng đến năm 2020”, H.2009, đề tài cấp Bộ của
Viện khoa học xã hội Việt Nam do Trần Minh Ngọc làm chủ biên. Đề tài đã
phân tích, làm rõ thực trạng việc làm ở Đồng bằng Sông Hồng từ năm 2000
đến năm 2017; đánh giá tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến thay
đổi cơ cấu việc làm của nông dân Đồng bằng Sông Hồng; làm rõ tác động của
thị trường đến việc làm của nông dân, vai trò của nhà nước, của các chủ thể
tạo việc làm và người lao động trong giải quyết việc làm của Đồng bằng Sông
Hồng. Từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm giải quyết việc làm,
tăng thu nhập cho nông dân xã Đồng bằng Sông Hồng trong tiến trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2020.
Một số luận văn đã đi sâu vấn đề việc làm của lao động nông thôn của
các địa phương như: “Việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh Thanh
Hóa”, Lê Văn Dũng, H. 2008; “Việc làm trong quá trình công nghiệp hóa ở
Bắc Ninh”, Vũ Bá Hải, Luận văn thạc sỹ triết học, H.2008; “Nông dân Hà
Nội trong phát triển nông nghiệp bền vững hiện nay”, Nguyễn Kim Tôn, luận
văn thạc sĩ triết học, H. 2010 (trích theo Nguyễn Xuân Hùng, 2014) [6].
Một số phương tiện thông tin đại chúng, một số báo, tạp chí cũng đề
cập đến vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn như: Tạp chí Cộng sản,
Công tác thông tin - Lý luận, báo Nông thôn, Tạp chi Lý luận,... Tuy nhiên
chưa có công trình nào, đề tài nào phân tích, đánh giá, đề cập vấn đề giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Để
thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã kế thừa có lựa chọn những kết quả nghiên
cứu đã công bố và phát triển những vấn đề cốt lõi của đề tài. Từ đó phân tích,
39
luận giải, đánh giá và đề xuất có căn cứ khoa và thực tiễn các giải pháp tạo
việc làm cho lao động nông thôn tỉnh huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ phù hợp
với tình hình thực tế quá trình phát triển của địa phương trong bối cảnh hội
nhập quốc tế.
1.2.4. Kinh nghiệm và bài học rút ra cho giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn huyện Phù Ninh
Qua kinh nghiệm giải quyết việc làm của các địa phương có thể rút ra
một số bài học áp dụng trong việc giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
huyện Phù Ninh như sau:
- Phát triển các doanh nghiệp, xí nghiệp sử dụng lao động nông thôn. Phát
triển các hoạt động phi nông nghiệp ở các địa phương để thu hút lao động.
- Tăng cường vai trò của hệ thống các hợp tác xã tại địa phương
- Ưu tiên phát triển công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao động
để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn. Khuyến khích
người lao động làm việc tại nhà, tạo tính linh hoạt của thị trường lao động.
- Đào tạo công nhân, nâng cao tay nghề và trình độ quản lý cho người
lao động.
- Thực hiện mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học,
các trung tâm đào tạo của quốc gia, với các tổ chức công nghiệp chế biến, các
hộ nông dân tại các xã nguyên liệu để ứng dụng kỹ thuật, công nghệ mới,
cung cấp lao động đã qua đào tạo nhằm phát triển đồng bộ công nghiệp chế
biến sản phẩm nông nghiệp, xây dựng công nghiệp nông thôn.
40
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu của đề tài là những liên quan đến việc làm và giải quyết
việc làm của lao động nông thôn tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
2.1.2.1. Phạm vi về không gian
Đề tài thực hiện tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Các thông tin thứ
cấp và một số thông tin sơ cấp được thu thập trên toàn bộ huyện Phù Ninh. Số
liệu điều tra mẫu về lao động, về việc làm của hộ nông thôn được điều tra tại
3 xã Liên Hoa, Trị Quận và Phú Nham, đại diện cho huyện Phù Ninh.
2.1.2.2. Phạm vi về thời gian
Số liệu thứ cấp được điều tra 3 năm từ năm 2014, 2015 2016. Số liệu sơ
cấp được điều tra trong năm 2017.
2.2. Nội dung nghiên cứu
1. Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
+ Nguồn lao động nông thôn huyện Phù Ninh qua các năm
+ Tình hình việc làm của lao động nông thôn huyện Phù Ninh các năm
+ Một số điển hình về công tác giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn huyện Phù Ninh
2. Những khó khăn, hạn chế trong giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
3. Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm lao động nông thôn
huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
41
2.3. Tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Tiếp cận nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi sử dụng các tiếp cận sau đây:
- Tiếp cận vĩ mô: Sử dụng tiếp cận vĩ mô để thu thập các thông tin số
liệu ở tầm tổng thể, bao quát trên phạm vị huyện, xã, hoặc thu thập thông tin
qua khảo sát ở cấp sở, ban, ngành liên quan đến nông thôn mới. Nghiên cứu
khảo sát tình hình lao động, việc làm và phát triển kinh tế xã hội trên phạm vi
toàn xã, huyện Phù Ninh hay tỉnh Phú Thọ.
- Tiếp cận vi mô: Sử dụng tiếp cận này để nghiên cứu một cách chi tiết,
chuyên sâu các thông tin số liệu thu thập ở cấp độ nông hộ liên quan đến lao
động - việc làm. Nghiên cứu những số liệu từ các hộ trong hai xã thông qua
việc khảo sát và phỏng vấn đến các hộ trong 3 xã nghiên cứu
- Tiếp cận hệ thống: Hệ thống 3 cấp từ huyện đến xã và thôn xóm về
lao động - việc làm của người dân. Nghiên cứu liên quan đến các giải pháp
xóa đói giảm nghèo tăng thu nhập của người dân. Sử dụng tiếp cận hệ thống để
nghiên cứu một cách bài bản, đầy đủ và toàn diện các nội dung nghiên cứu.
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu
2.3.2.1. Thu thập số liệu thứ cấp
Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp là phương pháp thu thập các
thông tin, số liệu có sẵn thường có trong các báo cáo hoặc các tài liệu đã
công bố. Các thông tin này thường được thu thập từ UBND huyện, các
phòng chức năng của huyện, các cơ quan, tổ chức, văn phòng dự án,…
Trong phạm vi nghiên cứu này, phương pháp thu thập thông tin thứ
cấp sử dụng để có được các số liệu về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội
của xã từ UBND xã, cán bộ khuyến nông, cán bộ nông nghiệp, các trưởng
thôn, hội nông dân, hội phụ nữ,... Các báo cáo của các dự án liên quan.
2.3.2.2. Thu thập số liệu sơ cấp
- Phương pháp điều tra bảng hỏi (Survey and Questionnaires - phiếu
điều tra). Đây là cách thức thu thập thông tin dựa trên những câu hỏi của một
42
bảng hỏi được chuẩn bị chu đáo theo đề tài nghiên cứu, là một phương pháp
quan trọng và thông dụng thường được dùng trong nghiên cứu kinh tế - xã hội.
Nội dung bảng hỏi gồm những thông tin chung của hộ, thực trạng về
nguồn nhân lực của hộ (số nhân khẩu, số lao động, trình độ chuyên môn của
chủ hộ và các thành viên gia đình, khó khăn trong sản xuất, thực trạng việc
làm theo các ngành nghề khác nhau (nông nghiệp, phi nông nghiệp), khó khăn
tìm kiếm việc làm,... Xây dựng bộ câu hỏi điều tra (phiếu điều tra) để
phỏng vấn trực tiếp mỗi xã 30 hộ nông dân tại 3 xã Liên Hoa, Trị Quận
và Phú Nham, đại diện cho huyện Phù Ninh. Lựa chọn hộ để điều tra theo
phương pháp phi ngẫu nhiên, với tổng số 90 hộ tại 3 xã. Với bộ câu hỏi này,
số liệu thu thập được nhập vào máy tính trên Excel để phân tích số liệu hình
thành các bảng biểu.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study) để tìm hiểu các
điển hình, các mô hình về phát triển kinh tế, tạo việc làm cho lao động nông
thôn trên địa bàn toàn huyện Phù Ninh như làng nghề, HTX, trang trại,....
Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp quan sát trực tiếp (Direct
Observation) để ghi nhận con số, sự kiện và những hành vi của bà con nông
dân và lý giải những kết quả đánh giá liên quan đến đề tài.
2.3.2.3. Phương pháp phân tích sử lý số liệu
Phương pháp phân tích thống kê kinh tế
Sau khi tổng hợp các tài liệu sơ cấp, và thứ cấp, dùng công cụ thống kê
phân tổ để tổng hợp và phân tích các chỉ tiêu kinh tế, xã hội của huyện, của hộ.
Căn cứ vào các số liệu thống kê đã thu thập được phân tích tình hình
lao động việc làm hiện tại của các nhóm hộ điều tra, từ đó xem xét việc phân
bổ nguồn lao động vào nội bộ của từng ngành sản xuất của các nhóm hộ và có
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nguồn lao động, giải quyết việc làm
cho các nhóm hộ.
Phương pháp so sánh: So sánh số liệu tương đối và tuyệt đối theo thời
gian để thấy được sự phát triển của hiện tượng.
43
Phương pháp cân đối: dùng trong cân đối số lao động sử dụng trong hộ
và số lao động thừa thiếu giữa các vùng. Từ đó đề ra giải pháp sử dụng lao
động hợp lý và đầy đủ giữa các vùng và trong hộ.
Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Phỏng vấn lãnh đạo phòng Lao động Thương binh xã hội huyện Phù
Ninh, chủ doanh nghiệp, HTX, Các chủ hộ về vấn đề lao động và việc làm
của lao động nông thôn: chất lượng lao động, xu hướng phát triển nguồn lao
động trong những năm gần đây, việc làm của lao động nông thôn.
2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
Đề tài bao gồm hệ thống chỉ tiêu phân tích sau đây:
- Nhóm chỉ tiêu về dân số, lao động, việc làm: Cơ cấu lao động, việc làm,
lao động có việc làm và chưa có việc làm,lao động trong nội bộ ngành nông
nghiệp, lao động theo ngành kinh tế,...
- Nhóm chỉ tiêu về danh tính hộ nông thôn: Tuổi, giới tính, quan hệ với
chủ hộ, học vấn, phân loại kinh tế, dân tộc, các nguồn lực đất đai, vốn, tư liệu
sản xuất,...),...
- Nhóm chỉ tiêu nguồn nhân lực của hộ: nhân khẩu, lao động trong độ tuổi,
lao động ngoài độ tuổi,...
- Nhóm các chỉ tiêu về lao động: Số lượng lao động, chất lượng lao động
(được đào tạo, chưa đào tạo, đạo tạo nghề, truyền nghề, đào tạo đại học,...)
- Nhóm chỉ tiêu về việc làm: việc làm theo ngành nghề (nông nghiệp,
phi nông nghiệp), việc làm trong nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, lâm
nghiệp), việc làm phi nông nghiệp (thương mại, làng nghề, dịch vụ sản xuất,
dịch vụ đời sống, làm thuê,...), việc làm theo thời gian làm việc (toàn bộ thời
gian, một phần thời gian), thất nghiệp và không việc làm, việc làm được trả
lương, việc làm không trả lương, việc làm đổi công,...
44
2.4. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.4.1. Điều kiện tự nhiên huyện Phù Ninh
Huyện Phù Ninh nằm ở phía đông bắc tỉnh Phú Thọ, phía Bắc giáp
huyện Đoan Hùng, phía nam giáp thành phố Việt Trì và huyện Lâm Thao,
phía Tây giáp thị xã Phú Thọ và huyện Thanh Ba, phía đông có tuyến sông
Lô bao bọc, là ranh giới với huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Phù Ninh có
19 đơn vị hành chính trực thuộc huyện, bao gồm thị trấn Phong Châu và 18
xã: An Đạo, Bảo Thanh, Bình Bộ, Gia Thanh, Hạ Giáp, Lệ Mỹ, Liên
Hoa, Phú Lộc, Phú Mỹ, Phú Nham, Phù Ninh, Tiên Du, Trạm Thản, Tiên
Phú, Trị Quận, Trung Giáp, Tử Đà và Vĩnh Phú.
Giao thông: có 4 km Quốc lộ 2 đi qua huyện Phù Ninh. Ngoài ra có rất
nhiều đường giao thông liên tỉnh, liên huyện. Là huyện nằm giữa 3 trung tâm
kinh tế của tỉnh Phú Thọ là thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ và huyện Lâm
Thao, hầu như mọi hàng hóa đi từ 3 trung tâm này ra các huyện khác của tỉnh
Phú Thọ đều đi qua huyện Phù Ninh.
Đặc điểm địa hình: có hướng dốc chính từ tây bắc xuống đông nam, độ
dốc từ 3 – 25⁰, chủ yếu là đồi núi thấp. Tài nguyên đất: tổng diện tích đất tự
nhiên của huyện là 18.337 ha, trong đó có 63,32% là đất đồi núi, đất nông
nghiệp là 8.981 ha, đất lâm nghiệp là 4.149 ha, đất chuyên dùng là 2.402 ha,
đất ở 675 ha, đất chưa sử dụng là 2.431 ha.
Nguồn nước: địa bàn huyện có sông Lô chạy dọc bao bọc phía Đông
dài 36 km; có 4 trục ngòi tiêu chính phân bổ tương đối đồng đều dọc theo
chiều dài của huyện (ngòi Đầu, ngòi Tiên Du, ngòi Mên và ngòi Chanh), có
120 hồ đập vừa và nhỏ. Tài nguyên khoáng sản: trên địa bàn huyện có mỏ đá
Trị Quận, cát sỏi sông Lô trữ lượng tương đối lớn.
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân ước đạt 7% năm. Thu nhập đầu người bình quân đạt 32,56 triệu
đồng/người/năm. Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp, xây dựng 51,54%; dịch vụ
24,29%; nông, lâm nghiệp, thủy sản 24,71%. Thu ngân sách trên địa bàn tăng
45
bình quân 13,2% năm. Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội đạt 6.700 tỷ đồng.
Tỷ lệ đô thị hóa 22%. Tỷ lệ đường giao thông nông thôn được kiên cố hóa
57%. Tỷ lệ hộ nghèo 3,9%. Giải quyết việc làm trên 8.000 lao động; số lao
động có việc làm mới đạt trên 6.000 lao động, trong đó xuất khẩu lao động
1.302 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 50%. Cơ cấu lao động: Nông, lâm
nghiệp 40%; công nghiệp – xây dựng 35%; dịch vụ 25%.
Huyện Phù Ninh có 5 xã cơ bản đạt tiêu chí nông thôn mới. Tỷ lệ hộ
được dùng nước hợp vệ sinh đạt trên 90%. Có 100% cơ sở sản xuất mới xây
dựng ứng dụng công nghệ sạch hoặc có trang bị thiết bị xử lý chất thải, giảm
thiểu ô nhiễm môi trường. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5
tuổi; có 23 trường học đạt chuẩn quốc gia. Toàn huyện hiện có 199/199 khu dân
cư có nhà văn hóa. Tỷ lệ khu dân cư đạt khu dân cư văn hóa 82%; Gia đình đạt
tiêu chuẩn văn hóa 90%. Các phong trào thể dục thể thao, văn hóa, văn nghệ,
các câu lạc bộ TDTT được mở rộng, các thiết chế văn hóa thể thao ở cơ sở hoạt
động hiệu quả.
2.4.2. Tình hình phát triển kinh tế huyện Phù Ninh
Tính chung, giai đoạn 2010 - 20105(năm 2015 ước tính), tốc độ tăng
trưởng giá trị sản xuất trên địa bàn huyện đạt bình quân 7,76%/năm (Huyện
quản lý là 9,56%/năm). Tính riêng giai đoạn 2013-2015, giá trị sản xuất trên
địa bàn đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 9,02%/năm (huyện quản lý là
10,0%/năm). Giá trị sản xuất bình quân đầu người năm 2010 (tính trên địa
bàn huyện) đạt 14,87 tỷ, tăng 6,04 tỷ đồng so với năm 2010; theo huyện quản
lý là 8,05 tỷ đồng, tăng 4,53 tỷ đồng.
Các ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao nhất, với mức tăng trưởng
bình quân đạt 11,64%/năm tính trên địa bàn và 14,42%/năm tính theo Huyện
quản lý ở giai đoạn 2002-2010 và 14,18%, 14,65% ở giai đoạn 2006-2010.
Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng trưởng
đứng thứ 2 với tốc độ tăng trưởng bình quân 7,52%/năm (2002-2010) và
8,92%/năm (2006-2010) tính chung trên địa bàn huyện và 10,73%/năm,
46
11,15% do huyện quản lý. Nông nghiệp có mức tăng trưởng thấp nhất, nhưng
cũng có mức tăng trưởng khá so với mức tăng chung của nhóm ngành trên địa
bàn Phú Thọ (4,9%/năm giai đoạn 2002-2010 và 4,97%/năm giai đoạn 2006-
2010).
Khảo sát số liệu cho thấy, mức tăng tổng giá trị sản xuất các ngành phụ
thuộc nhiều vào mức tăng của các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ,
nhất là mức tăng của công nghiệp, xây dựng do huyện quản lý, trong 6 năm
giá trị sản xuất các ngành này tăng 2,26 lần. Với quy mô và tốc độ tăng
trưởng các ngành giai đoạn 2010-2015, đặc biệt là sự biến động giá cả
những năm gần đây đã làm cho cơ cấu kinh tế giữa các ngành và trong nội
bộ từng ngành chuyển dịch đặc thù.
Cơ cấu kinh tế trên địa bàn và cơ cấu kinh tế do huyện quản lý có sự
khác biệt. Tính trên địa bàn cơ cấu kinh tế là công nghiệp và xây dựng - nông,
lâm, thủy sản - dịch vụ thể hiện rõ sự vượt trội của công nghiệp và xây dựng.
Xét theo huyện quản lý, cơ cấu kinh tế là nông, lâm, thủy sản - dịch vụ - công
nghiệp và xây dựng nhưng sự chênh lệch của cơ cấu kinh tế không rõ và trật
tự có thể thay đổi do sự tác động nhỏ của một nhóm ngành nào đó. Kinh tế
nhà nước có qui mô nhỏ, kinh tế tập thể chưa được củng cố và phát triển. Sản
xuất nông, lâm nghiệp vẫn mang tính tự cấp, tự túc; giá trị sản xuất trên đơn
vị diện tích canh tác chưa cao; các ngành dịch vụ phục vụ nông nghiệp chưa
đáp ứng yêu cầu thực tế; ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu
giá trị sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, thuỷ sản, lâm nghiệp chưa phát triển
tương ứng với tiềm năng.
47
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng sử dụng lao động và giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn huyện Phù Ninh
3.1.1. Thực trạng nguồn lao động nông thôn của huyện Phù Ninh
3.1.1.1. Dân số và lao động nông thôn huyện Phù Ninh
Bảng 3. 1. Dân số và lao động huyện Phù Ninh năm 2014-2016
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Tốc độ tăng
CHỈ TIÊU
Số lượng
15/14
16/15
Đơn vị tính
Số lượng
Số lượng
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Người
0.09
1.18
93.715
100,00
93.799
100,00
94.904
100,00
1. Tổng dân số trung bình (người)
47.756
50,96
47.361
50,49
47.936
50,51
-0.83
1.21
Tr.đó: Nữ
1.14
2.70
Hộ
24628
25292
25580
2. Tổng số hộ
Phân theo ngành kinh tế
Hộ
-1.90
5.64
- Nông, lâm, thủy sản
19786
21,11
20901
22,28
20503
21,60
Hộ
Hộ
324
0,35
225
0,24
435
0,46
-30.56
93.33
Hộ
4518
4,82
4166
4,44
4642
4,89
-7.79
11.43
63.851
100,00
63.886
100,00
65.912
100,00
Người
0.05
3.17
1,23
1,49
1.46
%
- Công nghiệp, và xây dựng - Dịch vụ và hoạt động khác 3. Tổng lao động trong độ tuổi 4. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Phù Ninh và tính toán của tác giả)
Thực trạng về lao động: Phù Ninh có lực lượng lao động khá dồi dào,
năm 2016 tổng số lao động của huyện là 65.912 lao động, trong đó có lao
động không có việc làm là 3.634 người, chiếm 5.51%. Những năm qua, sự
phát triển kinh tế đã tạo thêm việc làm cho người lao động trong huyện. Về cơ
cấu lao động theo ngành: lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ
trọng cao và đã có sự dịch chuyển giảm từ 67,51% năm 2014 xuống còn
63,13% vào năm 2016. Số lao động tham gia kinh doanh thuộc thành phần
kinh tế nhà nước đã giảm xuống đáng kể trong những năm gần đây. Riêng
khu vực kinh tế tư nhân số người tham gia thương mại tăng, chủ yếu tập trung
trong thương mại, dịch vụ và công nghiệp xây dựng. Như vậy, về cơ bản, lao
48
động của Phù Ninh vẫn chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông lâm nghiệp và
thủy sản. Nguồn lao động dồi dào vừa là nguồn lực quan trọng cho phát triển
kinh tế nông nghiệp của huyện Phù Ninh trong tương lai, vừa đặt ra yêu cầu
thách thức phải phân bố, sử dụng đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả trong kỳ quy
hoạch.
Năm 2016, toàn huyện còn 2.418 hộ thuộc diện nghèo, chiếm 10% số
hộ (năm 2014 là 3.357 hộ, chiếm 14%). Toàn huyện có 3.000 đối tượng bảo
trợ xã hội được hưởng trợ cấp thường xuyên và trên 300 hộ được hỗ trợ xóa
nhà tạm. Huyện Phù Ninh đã quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm, đầu tư
mở rộng các ngành nghề nông thôn, cải tạo vườn cây ăn quả,... và mở các lớp
dạy nghề nâng cao trình độ người lao động, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm.
Huyện Phù Ninh đã thành lập Ban chỉ đạo xoá đói, giảm nghèo ở hai cấp:
huyện và xã. Kết quả đã điều tra, phân loại hộ và rút ra những nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến đói nghèo của hộ và có những giải pháp hỗ trợ tích cực và cụ
thể (cho vay vốn, hướng dẫn tổ chức sản xuất,...) để giúp các hộ nghèo vươn
lên. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ đói nghèo vẫn còn cao; kết quả xóa đói giảm nghèo ở
một số xã chưa thật bền vững, nguy cơ tái nghèo cao.
3.1.1.2. Cơ cấu nguồn lao động nông thôn
Bảng 3. 2. Cơ cấu nguồn lao động nông thôn huyện Phù Ninh theo
giới tính và nhóm tuổi
Năm 2014
Năm 2016
Trong đó
Trong đó
Nhóm tuổi
Số lao động
Tỷ lệ %
Số lao động
Tỷ lệ %
Nữ
Nữ
15-24
Tỷ lệ % 52.13 19676
29.85
10362
Tỷ lệ % 52.66
19024
29.79
9917
25-54
25711
40.27
15378 59.81 23702
35.96
14394
60.73
55-60
12305
19.27
7906
64.25 13687
20.77
8851
64.67
Trên 60
6811
10.67
4330
63.57
8847
13.42
5290
59.79
Tổng số
63851 100.00 37531 58.78 65912 100.00 38897
59.01
(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Phù Ninh và tính toán của tác giả)
49
Tuổi và giới tính là hai biến quan trọng trong phân tích nguồn lao động
và việc làm để từ đó có những phân tích chính xác về cơ cấu ngành nghề, việc
làm cho người lao động.
Bảng số liệu trên cho ta thấy lực lượng lao động nông thôn huyện Phù
Ninh chủ yếu ở độ tuổi 25-54, nếu như năm 2014 với 25.711 lao động, chiếm
40,27%, thì đến năm 2016 có 23.702 lao động, chiếm 35,96%. Điều đó cho
thấy lực lượng lao động của Phù Ninh đang trong độ tuổi trẻ và sung sức, khả
năng lao động lớn và là lực lượng lao động hứa hẹn nhiều khả năng thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội cho huyện nếu được tạo công ăn việc làm. Đây
vừa là thế mạnh đồng thời cũng là khó khăn cho huyện trong giải quyết việc
làm cho họ. Trong sô các lao động nông thôn, ở tất cả các nhóm tuổi thì lao
động nữ vẫn có tỷ lệ cao hơn lao động là nam giới.
3.1.1.3. Trình độ đào tạo của lao động nông thôn huyện Phù Ninh
Bảng 3. 3. Lao động huyện Phù Ninh theo trình độ đào tạo
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Trình độ chuyên môn kỹ
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
thuật
(người)
(%)
(người)
(%)
(người)
(%)
1. Chưa qua đào tạo
10152
15,9
10030
15,7
10348
15,7
2. Sơ cấp
11940
18,7
12266
19,2
13248
20,1
3. Học nghề (không có
958
1,5
831
1,3
791
1,2
bằng/chứng chỉ/chứng nhận)
4. Học nghề (có bằng/chứng
30840
48,3
31240
48,9
33088
50,2
chỉ/chứng nhận)
5. Trung cấp
9258
14,5
9008
14,1
8898
13,5
6. Cao đẳng trở lên
702
1,1
703
1,1
593
0,9
Tổng
63851
100
63886
100
65912
100
(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Phù Ninh và tính toán của tác giả)
Số liệu tổng hợp trong bảng 3.3 trên đây cho thấy nguồn lao động nông
thôn huyện Phù Ninh đã qua đào tạo nghề có tỷ lệ khá cao, trong đó tỷ lệ học
50
nghề chiếm 48,3% vào năm 2014, 50,2% vào thời kỳ năm 2016, điều đó là
do trong những năm qua tỉnh Phú Thọ và huyện Phù Ninh đã rất quan tâm đến
đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo đề án 1956 của Chính Phủ, một loạt
các lớp đào tạo nghề được mở tại các xã, huyện tạo điều kiện tốt nhất cho
người học trên địa bàn huyện,... Bên cạnh đó, một tỷ lệ không nhỏ những
người lao động chưa qua đào tạo (15,9%), qua điều tra tìm hiểu thì đây hầu
hết là những người trong độ tuổi 15- 24 hoặc nhóm tuổi trên 55.
3.1.2. Tình hình việc làm của lao động nông thôn huyện Phù Ninh
Lao động có việc làm là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh tính chất của
nền kinh tế- xã hội, phản ánh hiệu quả công tác giải quyết việc làm. Trong
những năm qua, với những chủ trương định hướng phát triển kinh tế- xã hội
đúng đắn của huyện Phù Ninh, trình độ dân trí được nâng cao, tiềm năng được
khai thác và sử dụng hợp lý đã tạo việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó,
thiếu việc làm ở nông thôn luôn là vấn đề hết sức nóng bỏng của huyện Phù
Ninh. Tình hình thiếu việc làm được đánh giá chính xác, đầy đủ sẽ giúp cho
các nhà quản lý đưa ra được những chính sách hợp lý nhằm giảm tỷ lệ này.
Bảng 3.4. Lao động có việc làm và chưa có việc làm huyện Phù Ninh
Năm 2014
CHỈ TIÊU
Số lượng (người)
Tổng lao động trong độ tuổi
63851
Năm 2015 Tỷ Số trọng lượng (%) (người) 100,00 63886
Năm 2016 Số lượng (người) 65912
Tỷ trọng (%) 100,00
Tỷ trọng (%) 100,00
1. Lao động có việc làm
59899
93.81
59957
93.85
62280
94.49
2. Lao động chưa có việc làm
3952
6.19
3929
6.15
3632
5.51
(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Phù Ninh và tính toán của tác giả)
Về việc làm, mỗi năm, lượng lao động có việc làm tăng không đáng kể,
chỉ từ 60 đến 300 người có việc làm, đây là số lượng quá thấp so với mong
muốn của người lao động. Qua khảo sát, tác giả nắm được những lao động
thất nghiệp phần lớn là do không có trình độ chuyên môn kỹ thuật gì, hầu hết
đều đã lớn tuổi, ngại đi học tập nghề, mặc dù các lớp nghề mở tại địa phương
51
họ cũng không tham gia. Nhóm đối tượng thứ hai là các lao động còn rất trẻ,
tuổi từ 15- 18 tuổi, các lao động này học hết THPT chưa đi học nghề. Một
phần khác lại do thiếu đất canh tác: một số hộ dân có ruộng đất nằm trong khu
vực quy hoạch các khu công nghiệp Đồng Lạng, Phù Ninh, Kim Đức bị thu
hồi đất trong khi bản thân họ không có trình độ nghề, không biết buôn bán mà
chỉ ở nhà làm việc gia đình. Đây thực sự là vấn đề khó khăn trong giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn của huyện Phù Ninh.
Bảng 3.5. Lao động phân theo ngành kinh tế
Năm 2015
Năm 2016 Tỷ Số trọng lượng (%) (người)
Số lượng (người)
Tỷ trọng (%)
Năm 2014 Tỷ Số trọng lượng (%) (người) 63.851 100,00 63.886 100,00 65.912 100,00
Tổng lao động trong độ tuổi
59.901
93.81
59.96
93.85
62.278
94.49
1. Lao động phân theo ngành kinh tế
43.103
67.51
41.956
65.67
41.613
63.13
- Nông, lâm, thủy sản
7978
12.49
8.659
13.55
10.512
15.95
- Công nghiệp và xây dựng
8820
13.81
9345
14.63
10153
15.40
- Dịch vụ
3952
6.19
3929
6.15
3632
5.51
3.2. Lao động chưa có việc làm
(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Phù Ninh và tính toán của tác giả)
Vấn đề phân bổ lao động vào từng ngành có vai trò hết sức quan trọng,
nó có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế trong xã
nếu việc phân bổ nguồn lao động hợp lý hoặc không hợp lý với cơ cấu kinh tế.
Số lao động chưa có việc làm giảm qua các năm, tuy nhiên toàn huyện
năm 2016 hiện vẫn còn có 3.632 người chưa có việc làm, năm 2014 là 3.952
người, năm 2015 có 3.929 người chưa có việc làm.
Qua số liệu thu thập được trong bảng 3.5 ở trên cho ta thấy, lực lượng
lao động nông thôn huyện Phù Ninh tập trung phần lớn trong ngành nông,
lâm, thuỷ sản. Năm 2014 là 43.103 người chiếm 67,51%; năm 2015 là 41956
người chiếm 65,67% và năm 2016 con số này là 41.613 người chiếm 63,13%.
Trong các năm qua lực lượng lao động trong lĩnh vực này giảm cùng với chủ
trương phát triển nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và người dân
52
đã nhận thức được vấn đề này nên một bộ phận lực lượng lao động đã chuyển
sang hoạt động ở các ngành công nghiệp, dịch vụ.
Về lao động nông thôn trong các ngành công nghiệp và xây dựng cũng
như trong ngành dịch vụ, cùng với sự phát triển nền kinh tế, các ngành này đã
có bước phát triển mạnh. Nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên, đất đai, khoáng
sản đa dạng ở Phù Ninh nên trong các năm qua ở huyện Phù Ninh đã xây
dựng và phát triển được các ngành tiểu thủ công nghiệp như: Làng nghề trồng
hoa làng Thượng xã Tiên Du, làng nón lá Dền xã Gia Thanh, làng chăn nuôi
và chế biến rắn Khuôn Dậu xã Trung Giáp, làng sản xuất và chế biến chè
Chùa Tà xã Tiên Phú, làng kinh doanh bon sai-cây cảnh và dịch vụ An Mỹ xã
Phú Lộc.
Để làng nghề phát triển ổn định bền vững trong cơ chế thị trường, huyện
Phù Ninh cũng cần tính đến những biện pháp hỗ trợ cụ thể hơn, rõ ràng hơn
đối với các làng nghề và làng có nghề trên địa bàn, trong đó nên ưu tiên đầu
tư cơ sở hạ tầng các làng nghề, tăng cường công tác hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ
trợ vốn vay phát triển sản xuất ở những ngành hàng có lợi thế, có tiềm năng
về thị trường tiêu thụ. Làm tốt công tác tuyên truyền khuyến khích các hộ
nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tạo dựng uy tín, thương hiệu sản phẩm
tiến tới xây dựng thương hiệu làng nghề,... Ở đâu nghề phát triển thì đời sống
của người dân nơi đó ngày càng khởi sắc. Để đưa nền kinh tế của Phù Ninh
chuyển dịch theo hướng công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ thì không thể
duy trì một nguồn lao động khá lớn tập trung vào ngành nông, lâm, thuỷ sản
như hiện nay. Vì vậy, các cơ quan lãnh đạo cần phải tích cực giải quyết vấn
đề này. Tuy nhiên, giảm lao động trong ngành nông, lâm, thuỷ sản nhưng vẫn
phải giữ được lượng lương thực sản xuất ra nhằm đảm bảo an ninh lương thực
và phục vụ xuất khẩu nhờ nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người
lao động và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông, lâm,
thuỷ sản.
53
Bảng 3. 6. Quy mô lao động bình quân của cơ sở sản xuất công nghiệp
(ĐVT: lao động/cơ sở)
Năm
Lao động/cơ sở theo ngành 2014 2015 2016 Số cơ sở/DN
28 3 88 9 21 2 4 23 3 88 8 21 3 3 12 4 78 6 23 3 3 8 6 54 5 150 28 4
46 50 3
(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Phù Ninh và tính toán của tác giả)
1. Công nghiệp khai thác cát, sỏi 2. Công nghiệp chế biến - CN SX lương thực, thực phẩm - CN chế biến gỗ, lâm sản - CN SX VLXD - CN chế biến chè - CN sửa chữa xe có động cơ - CN chế tác kim loại - CN SX sản phẩm da, giả da, may - CN SX sản phẩm giấy 3. Công nghiệp điện nước 4. Các cở sở sx kinh doanh khác 92 1 4 85 1 4 65 2 4 13 8 8
Công nghiệp chế biến không chỉ giữ vai trò chủ đạo trong phát triển
kinh tế ở huyện Phù Ninh, mà còn là ngành chủ chốt trong tạo việc làm cho
lao động nông thôn. Tuy nhiên quy mô lao động của công nghiệp chế biến
còn nhỏ có quy mô từ 1 đến 4 lao động/cơ sở (năm 2014), năm 2016 quy mô
có tăng từ 2-4 lao động/cơ sở, trong đó, hầu hết các ngành chế biến đều là quy
mô nhỏ lẻ dưới 4 lao động/cơ sở, chỉ có công nghiệp sản xuất chế biến gỗ,
lâm sản hiện có quy mô khá cao, nhưng cũng có hiện tượng giảm từ 88 lao
động/ cơ sở năm 2014 xuống còn 78 lao động/ cơ sở năm 2016 (Không tính
quy mô của tổng công ty Giấy Bãi Bằng). Các cơ sở chế biến sản phẩm giấy
cũng có quy mô giảm sút từ 92 lao động/ cơ sở năm 2014 xuống 65 lao động/
cơ sở năm 2016. Có các cơ sở sản xuất chế biến chè là quy mô tăng nhưng
không đáng kể. Các cơ sở sản xuất còn lại hầu như chỉ ở qu mô rất nhỏ, theo
quy mô gia đình, cá thể.
54
Bảng 3. 7. Lao động trong nội bộ ngành nông lâm thuỷ sản
2014
2015
2016
CHỈ TIÊU
Số lượng (người)
Tỷ trọng (%)
Số lượng (người)
Tỷ trọng (%)
Số lượng (người)
Tỷ trọng (%)
43.103
100,00 41.956
100,00 41.613
100,00
Lao động Nông, lâm, thủy sản 1.Lao động nông nghiệp. 39784
92,30
37635
89.7
34039
81,80
2.Lao động lâm nghiệp
1806
4,19
2291
5.46
5397
12,97
3.Lao động thuỷ sản
1513
3,51
2031
4.84
2176
5,23
(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Phù Ninh và tính toán của tác giả) Trong những năm qua đã có sự dịch chuyển mới trong cơ cấu và sử
dụng lao động nông thôn của huyện Phù Ninh. Năm 2014 tỷ lệ lao động NN-
LN-TS là 92,3% - 4,19% - 3,51%; năm 2015 là 89,7% - 5,46% - 4,84%; năm
2016 là 81,8% - 12,97% - 5,23%.
Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu, tập quán sản xuất độc canh từng bước
được khắc phục, thay vào đó là việc áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật,
đưa giống mới vào sản xuất, đầu tư thực hiện thâm canh, chuyển đổi cơ cấu
mùa vụ, cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm môi trường sinh thái từng
xã cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Các mô hình kinh tế hộ làm ăn giỏi được
nhân rộng, kinh tế trang trại hình thành và phát triển tốt. Tất cả những thực tế
đó đã tạo điều kiện cho người lao động có việc làm nhiều hơn. Việc lao động
tăng lên trong nông nghiệp trong giai đoạn vừa qua hoàn toàn phù hợp với
quá trình phát triển nông nghiệp huyện Phù Ninh; đó là việc hình thành xã
chuyên canh cây công nghiệp gắn với công nghiệp chế biến giấy, cây chè đã
tạo khối lượng hàng hoá xuất khẩu khá và tăng việc làm cho người lao động.
Diện tích chè của huyện chủ yếu vẫn giữ ở mức ổn định như hiện nay, nhưng
diện tích chè trung du cũ sẽ được thay thế dần bằng các giống chè mới có
năng suất cao, hoặc dự kiến đưa vào trồng thử nghiệm một số giống chè chất
lượng cao, được ưa thích trên thị trường như Phúc Vân Tiên, Bát Tiên, Ô
55
Long,… Bên cạnh đó, những giống chè có năng suất cao, chất lượng phù hợp
để làm chè đen xuất khẩu như LDP1, LDP 2, chè Ấn Độ cũng đã thay thế dần
giống chè cũ. Điều quan trọng nhất hiện nay đối với người trồng chè Phù
Ninh và các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh chè là giữ vững uy tín, tiến
tới hình thành và xây dựng thương hiệu cho chè Phù Ninh. Bên cạnh đó,
người trồng chè cũng cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về sử dụng thuốc
BVTV, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm,… Cùng với việc quy hoạch xã
trồng chè, việc đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất cũng được các cấp
lãnh đạo huyện quan tâm, chỉ đạo không chỉ trong khâu trồng, chăm sóc mà
cả trong các khâu chế biến. Một số hộ đã đầu tư mua các loại máy như máy
đốn chè, máy hái chè, máy vò, sao chè giúp cho công lao động giảm, hiệu quả
kinh tế được nâng lên. Ngoài một số đơn vị lớn như Công ty cổ phần chè Tân
Phong, Công ty TNHH Trường Lộc, xưởng chế biến chè Sen Phượng, HTX
chế biến nông sản thực phẩm Bãi Bằng thì toàn huyện còn có trên 150 cơ sở
chế biến tư nhân đã góp phần không nhỏ trong việc tạo việc làm cho lao động
nông thôn của huyện.
Về lâm nghiệp, thực hiện từng bước xã hội hoá nghề rừng, lao động bố
trí cho lâm nghiệp cơ bản tập trung cho việc trồng mới, khoanh nuôi bảo vệ
316 ha rừng trồng. Số lao động có việc làm chuyên lâm nghiệp cũng không
ngừng được tăng lên. Tập trung chủ yếu cho việc trồng rừng nguyên liệu và
khoanh nuôi, bảo vệ rừng và được tách khỏi hẳn lao động thuần nông.
Về thuỷ sản, dưới tác động tích cực của chương trình đầu tư phát triển
thuỷ sản; trong những năm qua ngành thuỷ sản đã có sự chuyển dịch mạnh về
cơ cấu theo hướng phát triển nuôi trồng chế biến; việc làm cho người lao
động ngành thuỷ sản tăng lên nhanh chóng nhờ kết hợp mở rộng mở rộng,
phát triển các ao hồ, đầm cá, tận dụng ưu thế địa lý những xá nằm ven sông
Lô, sông Hồng.
56
3.1.3. Một số mô hình điển hình về giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn huyện Phù Ninh
3.1.3.1. Mô hình làng nghề
Bảng 3. 8. Mô hình làng nghề điển hình
Làng nghề
Số hộ tham gia/Số hộ của xã
Thu nhập bình quân/hộ (Triệu đồng)
Tổng số lao động (Cả lao động thuê ngoài)
Bon sai – Cây
90/200
360
260
cảnh xã An Mỹ
Làng nghề chè
104/240
350
80
Chùa Tà
Làng nghề bún
160
– bánh và dịch
60/110
270
vụ xóm Chùa
(Nguồn: Điều tra của tác giả, 2017)
- Làng nghề bon sai-cây cảnh An Mỹ (xã Phú Lộc)
An Phú có hơn 200 hộ dân, trong đó có 90 hộ tham gia làm các ngành
nghề và dịch vụ thương mại. Không giống như các làng nghề truyền thống
khác trong huyện, làng nghề An Mỹ hoạt động tổng hợp đa dạng với sự phát
triển mạnh mẽ của nghề kinh doanh bon sai-cây cảnh, một nghề mới được du
nhập vào địa phương khoảng chục năm nay, song đã mang lại hiệu quả kinh
tế rõ nét. Năm 2016 doanh thu từ nghề làm cây cảnh đạt hơn 4,5 tỷ đồng,
chiếm khoảng 60% tổng doanh thu từ các ngành nghề dịch vụ của làng. Cây
cảnh và bon sai chủ yếu được trồng vào các chậu xi măng đặt ngay trước sân
nhà hoặc đặt trong vườn, vừa tạo cảnh quan thiên nhiên đẹp, thân thiện với
môi trường, vừa có giá trị kinh tế cao. Những chậu cây cảnh, dáng, thế đẹp có
giá từ vài chục triệu đến cả trăm triệu đồng/cây, giá thấp nhất cũng 5-7 triệu
đồng/cây. Hiện ở An Mỹ số hộ có thu nhập từ 100-200 triệu đồng/năm nhờ
trồng và bán cây cảnh không hiếm. Điển hình như hộ anh Hiền đang sở hữu
57
tới 300 cây cảnh, chủ yếu là si, sanh, chậu cảnh,... Vào thời kỳ cao điểm, lợi
nhuận mang lại cho gia đình anh trên 200 triệu đồng/năm. Ngoài hộ anh Hiền
còn nhiều hộ khác có thu nhập cao từ cây cảnh như hộ ông Trần Văn Quýnh,
Đỗ Công Kiên,... bình quân thu nhập của người dân làng An Mỹ cao hơn hẳn
các thôn khác trong xã, trung bình đạt 14 triệu đồng/người/năm. Do đó xác
định xây dựng phát triển làng nghề sẽ góp phần tích cực vào tiến trình xây
dựng nông thôn mới của địa phương nên Đảng ủy, chính quyền xã Phú Lộc
đang tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp để đưa làng nghề An Mỹ ngày càng
phát triển.
- Làng nghề chè Chùa Tà (xã Tiên Phú)
Làng nghề chè Chùa Tà được UBND tỉnh công nhận là làng nghề năm
2009. Hiện nay, làng nghề Chùa Tà có 104 hộ gia đình làm nghề chè, nguồn
thu nhập chính của người dân là cây chè và cây lúa, nhưng cây chè là cây
trọng điểm để phát triển nền kinh tế địa phương và giảm nghèo của người dân.
Cây chè đã tạo nên một xã lao động ổn định và thu nhập cao, trung bình
khoảng 1,5 triệu đồng/ người/ tháng. Làng nghề Chè Chùa Tà hình thành và
phát triển trong những năm qua không những thu hút lao động trong làng, xã
mà còn tạo điều kiện cho lao động xã chè của các xã: Trạm Thản, Liên Hoa,
Phú Mỹ, Trung Giáp, và các xã thuộc huyện Đoan Hùng, Thanh Ba có điều
kiện đầu tư thâm canh mở rộng diện tích chè để có nguyên liệu chè tươi bán
cho làng Chùa Tà để chế biến. Thị trường tiêu thụ ổn định, rộng khắp bao tiêu
được khối lượng lớn như nhà máy Đông Anh, Yên Bái, Tuyên Quang,…
Đó là những yếu tố tạo cho làng Chè Chùa Tà ngày càng phát triển.
- Làng nghề bún bánh và dịch vụ Xóm Chùa (xã Phú Nham)
Xóm Chùa có gần 60 hộ chuyên và không chuyên nghề làm bún (chiếm
gần 55% số hộ của làng), trong làng hiện nay chỉ có khoảng hơn chục hộ làm
bún, còn lại là các hộ làm bánh chưng, bánh giầy và các nghề dịch vụ khác
như: Xay xát, xây dựng, cơ khí sửa chữa, thương mại dịch vụ,… Tổng doanh
thu của làng nghề năm 2015 đạt 7,5 tỷ đồng, góp phần nâng cao đời sống cho
58
người dân. Từ nghề bún, mỗi năm các gia đình làm nhiều có thu nhập trên
100 triệu đồng. Nói về hiệu quả của làng nghề bún bánh và dịch vụ xóm Chùa,
đồng chí Dương Mạnh Hùng- Chủ tịch UBND xã Phú Nham cho biết: “Sau
gần 2 năm được tỉnh công nhận là làng nghề, các hộ đã tích cực sản xuất -
kinh doanh. Để duy trì và phát triển làng nghề, xã cũng đã tạo điều kiện về
vốn vay, động viên, khuyến khích các hộ làm bún, bánh và các ngành nghề
dịch vụ khác. Làng nghề đã góp phần tích cực vào tỷ trọng dịch vụ của xã,
chiếm tới 18% trong cơ cấu kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao
thu nhập cho người dân”.
Ngoài ra còn có các làng nghề khác như làng nón Gia Thanh, Làng ấm
ủ…..Trong các năm qua mô hình làng nghề đã giải quyết, tạo công ăn việc
làm cho gần 500 hộ, tương ứng 1600 lao động ổn định.
3.1.3.2. Mô hình trồng rừng – trang trại hỗn hợp
Huyện Phù Ninh với lợi thế có Tổng công ty Giấy Việt Nam đóng trên
địa bàn, việc phát triển các xã trồng cây nguyên liệu cho nhà máy đã tạo điều
kiện tăng thu nhập, giải quyết công ăn việc làm cho lao động nông thôn của
huyện.
Trong năm 2015:
- Trồng lại 100 ha rừng sau khai thác theo dự án bảo vệ và phát triển
rừng;
- Khoán bảo vệ rừng phòng hộ 76 ha.
- Chăm sóc và bảo vệ 85,3 ha rừng mới trồng năm thứ nhất.
Ngoài ra, các hộ trồng rừng kết hợp trồng cây ăn quả, nuôi thả trâu bò,
gia cầm. Hàng năm mô hình này đã giải quyết việc làm cho 1.500 lao động
của các xã trên địa bàn huyện Phù Ninh.
59
3.1.3.3.Mô hình Hợp tác xã - Tổ hợp tác
Bảng 3. 9. Mô hình Hợp tác xã - Tổ hợp tác
Mô hình
Số lượng
Số thành viên
Tổ hợp tác
01
06
Thu nhập bình quân/ lao động/năm (Triệu đồng) 43
Hợp tác xã
22
16.000
14
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Phù Ninh, 2017)
- Tổ hợp tác: Tổ hợp tác chăn nuôi Khu 1B (xã Phú Nham, huyện Phù
Ninh) tuy mới ra đời tháng 4/2014, nhưng rất đáng ghi nhận bởi cách thức tổ
chức chặt chẽ, hợp tác thực chất và có sức vươn lên rất nhanh. Phát huy các
mô hình chăn nuôi sẵn có của các hộ thành viên, đến nay, THT chăn nuôi Khu
1B đã nuôi 15 con lợn sinh sản, 250 con lợn thịt nuôi quy mô lớn trong 850
m2 chuồng trại. Ngoài ra, THT còn có mô hình nuôi gà vịt và cá trên khoảng
1,5 ha mặt nước, mỗi đợt thu hoạch ước khoảng gần 2 tấn cá và 1.100 con gà
vịt thương phẩm. Cuối năm 2014, THT đạt doanh thu gần 3 tỷ đồng, lợi
nhuận 400 triệu đồng. Và trong năm 2015, THT tiếp tục tăng doanh thu, lợi
nhuận và bảo đảm ổn định mức thu nhập hàng tháng 3,5 triệu đồng cho 6 lao
động thường xuyên trong THT.
- Hợp tác xã: Trên địa bàn huyện Phù Ninh có 22 HTX hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp với tổng số gần 16.000 thành viên. Hầu hết các HTX đã
được kiện toàn lại theo Luật HTX 2012, song vẫn ở mức phát triển không
đồng đều; quy mô sản xuất nhỏ; cơ sở vật chất lạc hậu; chưa có trụ sở riêng
nên khó khăn trong việc vay và huy động vốn; ngành nghề kinh doanh còn
chưa đa dạng,… chủ yếu mới chỉ ở khâu dịch vụ phục vụ nông nghiệp, các
dịch vụ khác yếu. Các nguồn thu khác không đáng kể. Để tăng thêm thu nhập,
HTX cũng mạnh dạn thành lập thêm đội bốc dỡ hàng hóa, ký hợp đồng với
Nhà máy Giấy Bãi Bằng nhưng công việc cũng chỉ mang tính chất thời vụ,
lúc có lúc không, chưa có thu nhập ổn định. Hơn nữa, công tác dồn điền đổi
thửa trên địa bàn thị trấn nói riêng và toàn huyện nói chung khó thực hiện bởi
60
có sự biến động về diện tích đất canh tác do quá trình đô thị hóa, xây dựng
các khu công nghiệp,… Điều kiện sản xuất lại chủ yếu phụ thuộc vào tự nhiên
nên lợi nhuận thu để tái đầu tư không ổn định, đời sống của cán bộ HTX gặp
nhiều khó khăn nên có sự né tránh không muốn đảm nhiệm công việc, có
những thời điểm ban quản trị HTX không có cả tiền để trả lương. Hiện nay
Ban Quản trị của tất cả các HTX trong Phù Ninh đều đã ở độ tuổi từ 50 trở
lên, làm việc dựa trên kinh nghiệm là chủ yếu, trình độ không đáp ứng được
đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Do năng lực bị hạn chế nên không có được
sự năng động cần thiết với tốc độ phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, cần có các
chính sách hỗ trợ, thu hút người trẻ tâm huyết và có năng lực chuyên môn
tham gia vào Ban quản trị.
3.1.3.4. Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn qua hoạt động đào tạo
nghề và xuất khẩu lao động
Huyện Phù Ninh luôn chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến
chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực lao động, việc làm
trên các phương tiện thông tin đại chúng như Đài truyền thanh huyện, Đài
phát thanh các xã, thị trấn; các đoàn thể nhân dân và hệ thống chính quyền từ
huyện đến xã, khu dân cư. Công tác phân luồng, định hướng, hướng nghiệp
cho học sinh vào các trường nghề và đào tạo nghề cho lao động được triển
khai đúng hướng, đúng nguyện vọng của người dân, do đó tỷ lệ lao động
nông thôn qua đào tạo trên địa bàn ngày càng tăng. Huyện còn phối hợp với
các doanh nghiệp, các đơn vị tổ chức hội nghị tư vấn, lớp giáo dục định
hướng tại các xã, thị trấn, các khu dân cư cho người dân. Ông Nguyễn Phúc
Suyên- Trưởng phòng Lao động- Thương binh & Xã hội huyện cho biết: “Từ
năm 2014 đến nay, huyện Phù Ninh đã có trên 625 lao động được đào tạo
nghề ngắn hạn và tham gia các lớp sơ cấp nghề như kỹ thuật chăm sóc chè; kỹ
thuật trồng lúa cho năng suất cao; chăn nuôi gà, lợn thịt; phòng và chữa bệnh
cho gia súc gia cầm; nuôi trồng thủy sản... Sau khi tham gia các khóa học, các
61
lao động đã ứng dụng tại địa phương, triển khai các mô hình chăn nuôi gà, lợn
thịt, lợn giống đạt năng suất và đem lại hiệu quả kinh tế. Một số xã triển khai
hiệu quả là Trung Giáp, Liên Hoa, Trạm Thản, Tiên Phú, Phù Ninh, Phú
Nham.
Việc triển khai Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn” trên địa
bàn huyện Phù Ninh đã góp phần giảm nghèo cho các xã trong huyện.
Chương trình đào tạo các lớp nghề cơ bản giúp người lao động có ý thức về
học nghề, gắn với việc làm, tạo sản phẩm chất lượng cao trên thị trường nhằm
tăng thu nhập, ổn định đời sống cho nhân dân.
Tuy nhiên huyện Phù Ninh đang tích cực khắc phục một số tồn tại
trong công tác đào tạo nghề như: Số người lao động tự nguyện đăng ký tham
gia học nghề chưa nhiều, một số lao động nông thôn lại có suy nghĩ tự làm rồi
sẽ biết, không cần phải học; công tác tuyên truyền, vận động ở một số cấp ủy,
chính quyền, đoàn thể cơ sở chưa được quan tâm; chưa chọn được mô hình
điểm hiệu quả phù hợp với điều kiện chung của địa phương để lôi cuốn
khuyến khích người dân tham gia.
Để công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đạt hiệu quả, thời
gian tới, huyện Phù Ninh tập trung đào tạo nghề gắn với tạo việc làm mới
bằng hình thức liên kết với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, các
làng nghề,... nhằm tạo việc làm tại chỗ, tăng thu nhập lao động địa phương.
Về xuất khẩu lao động: Cùng với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, sản xuất vật
liệu xây dựng, gò hàn cơ khí, xây dựng dân dụng, các dịch vụ, thương mại
phục vụ cho sản xuất và đời sống cũng đang trên đà phát triển. Đây là một
lĩnh vực có tiềm năng lớn để giải quyết việc làm cho lao động. Vì vậy số lao
động dôi dư, lao động thời vụ trong nông thôn đã nhanh chóng chuyển hướng
sang hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, dịch vụ thương mại. Tuy việc làm
nhiều, nhưng do trình độ lao động nông thôn còn thấp nên thừa lao động và
thừa việc làm vẫn diễn ra. Giải quyết vấn đề này, huyện đã có chủ trương xuất
62
khẩu lao động, giao chỉ tiêu cụ thể cho từng xã, thị trấn, thành lập Ban chỉ đạo
xuất khẩu lao động ở các xã, thị trấn, phân công địa bàn cho từng đơn vị xuất
khẩu.
Theo số liệu của phòng lao động và thương binh xã hội huyện Phù Ninh,
trong ba năm qua số lao động của huyện tham gia xuất khẩu ngày càng tăng từ 136
lao động xuất khẩu năm 2014 đến nay đã có 1340 lao động tham gia xuất khẩu,
riêng năm 2015 có 500 lao động, trong đó 50% là lao động nông thôn. Lao động
xuất khẩu được đi làm việc tại các nước Đài Loan, Malayxia, Nhật Bản với việc
làm chủ yếu là giúp việc gia đình, làm công nhân tại các trang trại và nhà máy.
Nhìn chung, nhờ chủ trương đào tạo nghề cho lao động nông thôn, số lao
động tại các xã được học nghề tăng lên, nhưng do chi phí học nghề cao so với mức
thu nhập của hộ nông dân nên hoạt động dạy nghề chưa thực sự thu hút được nhiều
lao động tại các xã khó khăn. Số lượng lao động đi làm việc ở các khu vực ngoại
tỉnh qua con đường giới thiệu việc làm của xã, thị trấn khá nhiều do các khu công
nghiệp trên địa bàn huyện ít trong khi lực lượng lao động khá dồi dào.
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn thông qua chương trình
quốc gia về giải quyết việc làm: Bên cạnh hoạt động xuất khẩu lao động huyện
còn xúc tiến các chương trình giải quyết việc làm: Vốn vay quỹ Quốc gia giải
quyết việc làm và giới thiệu việc làm. Chương trình cho vay vốn Quỹ Quốc gia
hỗ trợ giải quyết việc làm được thực hiện hàng năm, các đối tượng lao động
không có việc làm như: Bộ đội xuất ngũ, cán bộ công nhân viên chức dôi dư
nghỉ việc 1 lần, thanh niên học sinh đến tuổi lao động chưa tìm được việc làm
được ưu tiên vay vốn, Trong 3 năm qua đã có 580 lao động đựơc tạo việc làm
từ vay vốn ưu đãi với số tiền 5 tỷ đồng, bình quân mỗi năm có từ 100 - 190
lao động được hỗ trợ vay vốn để phát triển sản xuất tạo việc làm.
Huyện giao cho phòng Lao động Thương binh và xã hội phối hợp với
Trung tâm dịch vụ việc làm của Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnhPhú
Thọ và các công ty môi giới tuyển dụng lao động ở các địa phương khác tiến
63
hành tư vấn giới thiệu việc làm cho lao động đến làm việc tại các doanh
nghiệp thuộc các địa phương khác trong nước; mỗi năm có khoảng trên 400
lao động đi làm việc tại các thành phố HCM, Hà nội, khu công nghiệp Bình
Dương, Sam Sung… Đồng thời phối hợp với các trung tâm dạy nghề tuyển
sinh đào tạo nghề cho lao động thuộc một số lĩnh vực ngành nghề để trang bị
tay nghề cho lao động tự tìm việc tại trong nước hoặc tham gia xuất khẩu lao
động đi các nước.
3.2. Kết quả điều tra việc làm và các nhân tố ảnh hưởng tới việc làm của
lao động hộ nông thôn tại một số xã huyện Phù Ninh
3.2.1. Thông tin chung về các hộ lao động
Qua điều tra 90 hộ nông thôn thuộc 3 xã Liên Hoa, Trị Quận và Phú
Nham cho thấy:
Xã Trị Quận có dân số khá trẻ, mức tuổi bình quân của chủ hộ trong
khu vực này là 38, trung bình mỗi hộ có 4,06 người thấp nhất trong 3 xã, số
lao động bình quân của hộ ở mức trung bình 2,1 lao động/hộ.
Bảng 3.10. Thông tin cơ bản về nhóm hộ điều tra
Chỉ tiêu
ĐVT
Liên Hoa
Trị Quận
Phú Nham
Bình quân 3 xã
30 45 20,0 60,0 20,0 30 86
hộ năm % % % % % người 4,12 người 1,83
30 38 40,0 40,0 20,0 10 25 4,06 2,10
30 43 50,0 40,0 10,0 50 77 4,49 2,83
30 42 36,7 46,7 16,6 30 63 4,22 2,25
Tổng số hộ điều tra 1. Tuổi bình quân của chủ hộ 2. Học vấn của chủ hộ - Tốt nghiệp tiểu học - Tốt nghiệp THCS - Tốt nghiêp THPT 3. Chủ hộ là nữ 4. Chủ hộ là người kinh 5. Nhân khẩu/hộ 6. Lao động/hộ
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Xã Liên Hoa có dân số già nhất trong 3 xã, độ tuổi trung bình của chủ
hộ là 45, số khẩu bình quân thấp 4,12 người/hộ, nhưng số lao động trung bình
trong hộ chỉ là 1,83 lao động/hộ.
64
Xã Phú Nham là xã có số dân khá đông, trình độ dân trí thấp, bình quân
mỗi hộ trong xã có 4,49 người, nguồn lao động dồi dào 4,83 lao động/hộ, tỷ lệ
chủ hộ là nữ khá cao 50%. Đây là xã thu hút lượng lớn lao động nam giới làm
cát sỏi, làm cho phần lớn các hộ trong xã thiếu lao động nam.
3.2.2. Trình độ chuyên môn của các hộ và của lao động
Bảng 3. 11. Trình độ chuyên môn và nghề nghiệp chính của chủ hộ
%
%
%
Bình quân 3 xã
Liên Hoa Số lượng
Trị Quận Số lượng
Phú Nham Số lượng
1. Trình độ chuyên
100
30
100,0
30
100,0
100,0
30
môn
Chưa đào tạo
5
16,7
4
13,3
4
13,3
14,4
Sơ cấp
14
46,7
19
63,3
16
53,3
54,4
Trung cấp
7
23,3
5
16,7
5
16,7
18,9
Cao đẳng
3
10,0
2
6,7
4
13,3
10,0
Đại học
1
3,3
0
0,0
1
3,3
2,2
2. Nghề nghiệp của
30
100,0
30
100,0
30
100,0
100,0
chủ hộ
Thuần nông
2
6,7
3
10,0
1
3,3
6,7
Hỗn hợp
25
83,3
24
80,0
25
83,3
82,2
Phi nông nghiệp
3
10,0
3
10,0
4
13,3
11,1
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Trong số 90 hộ điều tra thì trung bình có 14,4% chủ hộ chưa qua đào
tạo. Tỷ lệ này cao là do khá nhiều chủ hộ là gia đình truyền thống nhiều thế
hệ chung sống nên chủ hộ có khi là ông, bà đã khá nhiều tuổi. Có 54,4% chủ
hộ có trình độ sơ cấp trong đó xã Trị Quận có nhiều nhất. Có 18,9% chủ hộ có
trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng có 10% , chỉ có 2,2% (2 người) ở cả 3 xã
có trình độ đại học
Hộ thuần nông rất ít chiếm 6,7%, hộ phi nông nghiệp chiếm 11,1% và
82,2% là hộ hỗn hợp tham gia nhiều lĩnh vực lao động. Trong số 380 khẩu
65
của 90 hộ được phỏng vấn, có 147 khẩu (trẻ em và người già) ở ngoài độ tuổi
lao động, không có khả năng lao động và 233 người trong độ tuổi lao động.
Đvt: người
Bảng 3. 12. Chất lượng nhân lực hộ tại các xã điều tra
Trị Quận
Bình quân 3 xã (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Liên Hoa Số lượng (người) 85
Số lượng (người) 72
1. Giới tính
100,0 56,5 43,5
100,0 56,9 43,1
54,1 45,9
- Nam - Nữ
48 37
41 31
Phú Nham Số lượng (người) 76 37 39
100,0 48,7 51,3
100,0
100,0
100,0
85
72
76
100,0
2. Học vấn - Tốt nghiệp tiểu học
15,3
16,7
17,2
13
12
15
19,7
- Tốt nghiệp THCS
40,0
38,9
42,5
34
28
36
47,4
44,7
44,4
40,3
38
32
24
31,6
85
100,0
72
76
100,0
100,0
100,0
- Tốt nghiêp THPT 3. Trình độ chuyên môn
10,6
12,5
11,2
Chưa đào tạo
9
9
8
10,5
51,8
51,4
49,8
Sơ cấp
44
37
35
46,1
18,8
15,3
17,6
Trung cấp
16
11
14
18,4
16,5
16,7
17,6
Cao đẳng
14
12
15
19,7
2,4
4,2
3,9
Đại học
2
3
4
5,3
0,0
0,0
0,0
0,0
Sau đại học
0
0
0 (Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Trong 3 xã số lao động nhiều nhất là ở xã Liên Hoa có 85 người, trong
đó có 38 người tốt nghiệp THPT, 34 người tốt nghiệp THCS và 13 người tốt
nghiệp tiểu học; Trong số đó có 9 người chưa qua đào tạo và 76 người đã qua
các lớp đào tạo từ sơ cấp trở lên. Xã Phú Nham có 76 lao động trong đó có 24
người tốt nghiệp THPT, 36 người tốt nghiệp THCS và 15 người tốt nghiệp
tiểu học; Trong số đó có 8 người chưa qua đào tạo và 66 người đã qua các lớp
đào tạo từ sơ cấp trở lên. Xã Trị Quận có 72 lao động. trong đó có 32 người
tốt nghiệp THPT, 28 người tốt nghiệp THCS và 12 người tốt nghiệp tiểu học;
Trong số đó có 9 người chưa qua đào tạo và 64 người đã qua các lớp đào tạo
từ sơ cấp trở lên (Bảng 3.12)
66
Bảng 3. 13. Lao động được đào tạo tại các xã điều tra
Trị Quận
Lĩnh vực đào tạo
Bình quân 3 xã (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Liên Hoa Số lượng (%)
Số lượng (%)
Phú Nham Số lượng (%)
100,0 100,0 65,1 88,9 23,8 57,1
100,0 88,8 49,4 73,4 18,0 41,2
Tổng số lao động Nông nghiệp Lâm nghiệp Chăn nuôi Kinh tế Khác
63 63 41 56 15 36
76 76 38 51 13 21
100,0 100,0 52,9 94,1 20,6 57,4
100,0 68 100,0 68 50,0 36 67,1 64 17,1 14 27,6 39 (Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Qua tìm hiểu, tác giả được biết sở dĩ vẫn còn lượng lớn người lao động
chưa qua đào tạo là do nhiều tuổi. Một số khác là các lao động rất trẻ, có trình
độ THCS, tuổi từ 15 – 18, các lao động này không muốn học nghề cho lao
động nông thôn và cũng không muốn làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp tại
địa phương. Hầu như họ muốn tìm cơ hội đi lao động xuất khẩu, đi lao động
tại các khu công nghiệp ngoài tỉnh và đặc biệt là làm tại công ty Sam Sung có
thu nhập cao hơn rất nhiều. Khi huyện và xã tổ chức các lớp đào tạo nghề thì
trong gia đình có người đi học rồi về truyền đạt và làm bằng kinh nghiệm,
những kiến thức về nghề mới các lao động này học hỏi qua người nhà theo
hình thức truyền miệng và cầm tay chỉ việc. Theo thống kê, phần lớn số lao
động tham gia các lớp về nông nghiệp (88,8%), chăn nuôi (49,4%), ít nhất là
lớp đào tạo về kinh tế (18%). Còn lại là các nghề khác như: quản lý dịch vụ,
làm tóc, chăm sóc da, nghề may,...
Các lớp nghề cho lao động nông thôn như trồng lúa, chăn nuôi,... hầu
như được tổ chức tại xã vì cũng khá nhiều người theo học. Đối với các nghề
sửa chữa xe máy, điện tử điện lạnh, nghề sửa chữa điện thoại,... lao động
muốn học thì phải đến các trung tâm tại thành phố Việt Trì hoặc tự đi học ở
Hà Nội vì nhu cầu học tại địa phương không nhiều và ở đây cũng không có đủ
điều kiện để đào tạo, mặt khác chi phí cho các khóa học này cũng khá cao so
67
với thu nhập của người lao động nông thôn. Nhiều gia đình cho con đi học
cũng phải vay mượn tiền khá nhiều.
Theo kết quả thu thập được trong bảng 3.14 ta thấy: Trong số các lao
động điều tra ở cả 3 xã có một số lao động trẻ (Tuổi từ 24 – 27) đã đi học cao
đẳng, đại học một số ngành nghề như sư phạm, kinh tế,... chưa có việc làm
nên tham gia vào lực lượng lao động nông thôn của các xã. Số lao động có
trình độ từ cao đẳng trở lên 100% không áp dụng trong sản xuất nông nghiệp
họ là những người đi học nhưng không xin được việc/ chưa xin được việc nên
ở nhà tăng gia sản xuất. Phần lớn các nghề nông nghiệp, chăn nuôi, lâm
nghiệp, trồng trọt tỷ lệ áp dụng khá cao, có những nghề như trồng lúa, chăn
nuôi, xử lý chất thải trong chăn nuôi tỷ lệ áp dụng là 100%. Nghề trồng cây
ăn quả có múi (cam quýt, bưởi,...) là lớp đào tạo nghề khá mới mẻ, lại phù
hợp với nhiều hộ gia đình nên cũng được nhiều bà con đăng ký tham gia khóa
học. Tuy nhiên chỉ những hộ gia đình có trang trại cây ăn quả hoặc đất rộng
canh tác hỗn hợp thì đã áp dụng các kỹ thuật mới ngay. Còn lại các lao động
khác tuy có tham gia nhưng chưa có điều kiện áp dụng.
68
Bảng 3. 14. Mức độ áp dụng kiến thức chuyên môn được đào tạo
Liên Hoa
Trị Quận
Phú Nham
Các khóa đào tạo
Áp dụng
Áp dụng
Áp dụng
Số lượng
Số lượng
Số lượng
Thời gian đào tạo
85
Có Không
72
Có Không
Tổng số lao động
76 Có Không 1
1
Sư phạm địa
4 năm
1
Quản trị k.doanh
1
1
Công nghệ t.tin
3 năm
1
Nhạc họa
1
1
1
2
2
1
1 1
2 2
2 2
3 2
3 2
2 26
24
2 2
1 34
21
1 13
19
1 1 1 1 2 1 1 31
1 1 1 1 2 1 1 12
2 năm 3 th
80
80
72
72
75
75
75
Kế toán Tài chính - Ng.hàng Sư phạm sinh Kế toán Sư phạm Quản trị k. doanh Công nghệ t. tin KT chăm sóc chè Kỹ thuật trồng lúa`1
3 th 3 th
56
56
61
59
2
52
52
52
3 th
13
8
5
9
6
3
5
12
7
3 th
0
28
28
41
41
30
30
30
Kỹ thuật chăn nuôi Kỹ thuật nuôi trồng thủy sản Kỹ thuật phòng và chữa bệnh cho gia sức gia cầm
3 th
9
7
2
11
8
3
10
6
4
Kỹ thuật trồng nấm
3 th
25
18
7
19
14
5
28
17
11
3 th
26
26
29
29
29
24
24
Kỹ thuật trồng cây có múi giống mới Vận hành máy gặt đập
3 th
30
30
30
30
30
30
30
3 th
9
9
8
8
12
12
3 th
30
30
30
30
30
30
nông
3 th
38
31
7
4
5
36
32
32
27
nông
3 th
25
18
7
5
7
21
16
24
17
Xử lý chất thải trong chăn nuôi Trồng keo, bồ đề, bạch đàn làm nguyên liệu giấy Kỹ thuật trồng rau an toàn Các nghề nghiệp khác Nghề phi nghiệp
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2016)
Đặc biệt, nghề trồng cây nguyên liệu giấy có tỷ lệ áp dụng đạt 100%, vì
các hộ nông thôn đã và đang có trang trại trồng rừng cây nguyên liệu rồi mới
69
đăng ký học theo các lớp dạy nghề. Đây là đặc trưng nổi bật của địa phương
có nhà máy giấy Bãi Bằng đóng trên địa bàn. Ta thấy: rõ ràng phần lớn lao
động nông thôn trong khu vực nghiên cứu làm nông nghiệp, chỉ có một phần nhỏ
lao động làm nghề tiểu thủ công nghiệp và xây dựng, làm dịch vụ buôn bán nhỏ,
và lao động kiêm dịch vụ (trông trẻ, giúp việc gia đình,…).
3.2.3. Thời gian làm việc của lao động
Bảng 3. 15. Việc làm và thời gian làm việc của lao động trong nông hộ
Đơn vị: người/hộ
Nông nghiệp Phi nông nghiệp
Xã
Liên Hoa Toàn bộ thời gian 2,0 Một phần thời gian 1,6 Toàn bộ thời gian 0,9 Một phần thời gian 1,6
Trị Quận 2,3 1,8 1,2 2,1
Phú Nham 2,1 0,9 1,6 1,0
Bình quân 3 xã 2,1 1,4 1,2 1,6
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Việc làm và thời gian làm việc của lao động trong nông hộ là chỉ tiêu
quan trọng, phản ánh sự phân công lao động trong nông thôn. Kết quả điều tra
(Bảng 3.15) cho thấy: Nhìn chung bình quân số lao động giành toàn bộ thời
gian cho hoạt động nông nghiệp là 2,1 lao động/hộ, cao hơn so với số lao
động giành toàn bộ thời gian cho hoạt động phi nông nghiệp (1,2 lao động/hộ).
Tuy nhiên, có sự khác biệt khá rõ về số lao động giành một phần thời gian
cho hoạt động phi nông nghiệp. Con số này ở phi nông nghiệp là 1,6 lao
động/hộ, cao hơn so với hoạt động nông nghiệp, chỉ đạt 1,4 lao động/hộ Đối
với nhóm hộ nghèo, ngoài thời gian làm việc cho các hoạt động nông nghiệp,
họ không có thể kiếm việc làm thêm vì trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ
thuật thấp và không tiếp cận được với thông tin về thuê lao động. Hơn nữa
vào lúc nhàn rỗi đa số hộ nghèo ít chăn nuôi vì không có vốn. Đối với hộ khá
nhu cầu cho lao động không chỉ cho sản xuất mùa vụ mà cho cả ngành nghề
70
khác (chủ yếu là chế biến nông sản, làm tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ). Tuy
nhiên, ngành nghề trong huyện còn phát triển chậm, không chỉ riêng hộ nghèo
mà cả hộ khá chăn nuôi cũng gặp nhiều khó khăn, vì giá lương thực đắt, thị
trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định, dẫn đến việc làm còn thiếu nghiêm
trọng trong các nhóm hộ và thời gian sử dụng lao động vào làm việc là chưa
cao, trong khi tiềm năng về lao động còn nhiều. Vậy để tăng tỷ suất sử dụng
sức lao động trong các hộ hiện nay, vấn đề trước mắt là giải quyết việc làm
cho người lao động. Có thể nói việc sử dụng thời gian lao động chính là nguyên
nhân dẫn đến khoảng cách thu nhập giữa các nhóm hộ ngày càng lớn.
Một số hộ khá ngoài việc sử dụng lao động trong ngành nông nghiệp
còn phát triển hoạt động thương mại và dịch vụ. Trong khi đó, do thiếu vốn,
thiếu tư duy làm giàu và đất sản xuất nên hộ nghèo bám trụ với nông nghiệp
(mà cụ thể là trồng trọt) và xa hơn là đi làm thuê cho cơ sở cơ sở kinh doanh
dịch vụ. Điều này cho thấy ở từng nhóm hộ, cơ cấu thời gian lao động trong
từng ngành sản xuất phụ thuộc vào phương hướng sản xuất, đặc điểm sản xuất
của từng ngành và khả năng lao động của lao động trong từng nhóm hộ. Xã
Phú Nham có lợi thế về khai thác cát sỏi, các xưởng cơ khí tư nhân, xưởng
mộc, các cơ sở sản xuất chè tư nhân nên cơ sở công nghiệp ở đây (chủ yếu
họat động khai thác quặng) thu hút được nhiều lao động hơn.
Xét về tình hình thuê lao động ta thấy cơ sở lớn, khu công nghiệp (tập
trung nhiều trong lĩnh vực công nghiệp) có tính ổn định thường sử dụng nhiều
lao động trong thời gian dài. Như vậy, lao động nông thôn có trình độ thấp, ít
hiểu biết về luật và thị trường lao động đạng là hạn chế trong bảo vệ quyền lợi
và khả năng tìm kiếm việc làm của chính bản thân họ.
71
3.2.4. Các yếu tố nguồn lực của lao động
Bảng 3.16. Điều kiện sản xuất của hộ phân theo nhóm hộ điều tra
Bình
Chỉ tiêu
ĐVT
Hộ khá
Hộ TB
Hộ nghèo
quân
I. Đất sản xuất
Ha
0,863
0,656
0,4
Ha
1. Đất cây hàng năm
0,528
0,33
“
0,2
“
2. Đất cây lâu năm
“
0,4
0,9
1,7
“
3. Đất rừng sản xuất
“
0
0,2
0,4
“
4. Đất NTTS
II. Vốn
20
48
Tr.đ
69,50
Tr.đ
1. Vốn cố định
“
11
26
26
“
2. Vốn lưu động
“
20
25
35
“
3. Nhu cầu vay vốn
III. Tỷ lệ nguồn vay
- Bạn bè, họ hàng
7,03
%
10,00
23,21
%
- Người cho vay lấy lãi
“
2,81
4,00
8,04
“
- Ngân hàng NNo&
“
68,27
68,50
59,82
“
PTNT
- Tổ chức tín dụng khác
“
14,66
3,50
1,79
“
- Ngân hàng CSXH
“
7,23
14,00
7,14
“
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Như vậy, đất đai vừa là thuận lợi lại vừa là khó khăn do khách quan
mang lại, nó chi phối quá trình phát triển sản xuất, gián tiếp tác động đến quá
trình vay vốn và sử dụng vốn của hộ nông dân, do đó để sử dụng lao động
hiệu quả hộ cần tận dụng ngay phần diện tích đất để sản xuất cây trồng thích
nghèo có ít đất để tăng gia sản xuất nhất. Các hộ ở xã Phú Nham có tổng diện tích
đất trung bình (là 2,44 ha/hộ) lớn nhất trong 3 xã, nhưng chủ yếu là diện tích rừng
chè, rừng nguyên liệu sản xuất giấy và cây lâu năm. Còn xã Liên Hoa hầu như
không có ưu thế về rừng, đất cây lâu năm cũng ở mức thấp 1,8 ha/hộ. Các hộ thuộc
hợp. Thực tế nghiên cứu cho thấy các hộ khá có diện tích đất lớn nhất, các họ
xã Trị Quận chủ yếu sản xuất cây trồng hàng năm và chăn nuôi thủy sản nên tỷ lệ
diện tích đất cây hàng năm khá lớn so với mức bình quân chung (1,72 ha/hộ), đồng
thời diện tích đất nuôi trồng thủy sản cao gấp 2 lần mức bình quân chung (0,8
ha/hộ). Những điều kiện này do khách quan mang lại nhưng ảnh hưởng không nhỏ
tới định hướng phát triển sản xuất của hộ.
72
Ở các nhóm hộ khác nhau thì diện tích đất bình quân theo các nhóm hộ
Kết quả điều tra hộ cũng cho thấy, khoảng 78% số mảnh đất của hộ đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tỷ lệ được cấp sổ đỏ cao nhất là đất cây
hàng năm (82%) và đất ở (65%), tiếp đó là đất trồng cây lâu năm (55%) và đất rừng
(43%), đất mặt nước là (39%). Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do quy
trình giao đất chưa phù hợp, đo đạc thiếu chính xác và một phần do hộ nông dân
chưa có nhu cầu nhận sổ đỏ. Tình trạng manh mún trong sử dụng đất của các hộ là
rất phổ biến, trung bình mỗi hộ có khoảng 4 đến 6 mảnh nằm ở các vị trí tách biệt
nhau, ở địa hình khác nhau, mỗi mảnh lại có diện tích trung bình là 518 m2. Thực
trạng này gây khó khăn cho hộ trong tổ chức canh tác, vận chuyển vật tư và sản
phẩm, bảo vệ đồng ruộng và khó chuyển sang sản xuất hàng hóa lớn. Tỷ lệ tưới tiêu
chủ động còn thấp, trung bình các mảnh ruộng được tưới thấp 51%, do công trình
thủy nông chưa phát huy hết vai trò.
- Vốn cho sản xuất nông nghiệp
Bên cạnh đất, vốn là phần tư liệu quan trọng không kém cho hoạt động sản
xuất của các hộ, đặc biệt là đối với hộ muốn chuyển sang lĩnh vực phi nông nghiệp.
Bảng 3.16 phản ánh tình hình vốn sản xuất ở các hộ điều tra.
Nhìn chung, ở các xã khác nhau lượng vốn sản xuất cho các hộ khác nhau và
nhu cầu vốn khác nhau. Theo kết quả khảo sát, các hộ khá có tổn vốn cao nhất và
cũng có nhu cầu vay vốn cao nhất. Các hộ nghèo có vốn thấp nhất và nhu cầu vay
vốn khá cao.
khác nhau cũng khác nhau, bảng 3.16 phản ánh sự khác biệt này.
Quá trình điều tra cũng cho thấy, 100% số hộ được phỏng vấn đều vay
vốn dưới nhiều nguồn vay. Bảng 3.16 sau phản ánh nguồn vay của các nhóm hộ.
Bảng 3.16 cho thấy các tổ chức tín dụng nhà nước như ngân hàng
NNo&PTNT là nguồn vay chính của người dân, nhất là hộ trung bình và hộ
73
nghèo, trên 68% lượng vay của các hộ là từ Ngân hàng NN&PTNT. Bên cạnh
đó, tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng chính sách xã hội
còn hạn chế, chỉ có khoảng 2/30 hộ (7,23%) số hộ nghèo vay vốn; với hộ khá
tỷ lệ này cao hơn 4/30 hộ vay và ở hộ khá là 7,14%. Khối lượng vay của một
hộ không nhiều, nhưng hộ thường vay nhiều món nhỏ trong năm. Các hộ
thường vay từ 5 - 15 triệu đồng, thời gian vay trung bình khoảng 19 tháng. Tỷ
lệ sử dụng vốn vay sai mục đích chiếm khoảng 15% tổng số hộ vay vốn,
nguyên nhân của tình trạng này do hộ thiếu phương hướng sản xuất kinh
doanh, vay để trang trải sinh hoạt và tiêu dùng (mua xe, mua đất,...) và trả nợ
vay khác. Do đó, tỷ lệ nợ quá hạn của hộ còn khá cao.
3.2.5. Giá trị sản xuất của lao động
Bảng 3. 17. Giá trị sản xuất nông nghiệp của lao động nông thôn
Lĩnh vực việc làm
Số lao động
Giá trị sản xuất bình quân lao động (1000 đ/năm)
Trồng trọt Chăn nuôi Lâm nghiệp Hỗn hợp 28 31 27 147 38.000 59.000 67.000 86.000
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2017)
GTSX trung bình của lao động trong 3 xã điều tra tùy tưng lĩnh vực
việc làm là khác nhau, GTSX thấp nhất là lĩnh vực trồng trọt đạt 38 triệu/ lao
động. GTSX cao nhất là lĩnh vực hỗn hợp đạt 86 triệu đồng/lao động .
74
3.2.6. Thu nhập của lao động
Bảng 3. 18. Thu nhập trong lĩnh vực phi nông nghiệp
Lĩnh vực việc làm
Số lao động
9 13 36
Thu nhập bình quân lao động (1000 đ/năm) 60.000 45.000 52.000
4 80.000
3 78.000
5 82.000
4 97.000
Dịch vụ sản xuất Dịch vụ đời sống Làm thuê Sửa chữa xe gắn máy Sửa Ti vi, đầu VCD, DVD và đầu kỹ thuật số Sửa chữa điện thoại di động Tạo mẫu tóc, chăm sóc da N Mean 74 58.78
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Số liệu điều tra thu nhập của lao động nông thôn tham gia hoạt động
phi nông nghiệp cho thấy: Lao động làm nghề dịch vụ tạo mẫu, chăm sóc da
có thu nhập cao nhật (97 triệu đồng/lao động/năm), tuy rằng cả 3 xã điều tra
chỉ có 4 lao động làm dịch vụ này, do làm dịch vụ còn tùy thuộc vào trình độ
tay nghề và vốn đầu tư kinh doanh. Tiếp đến là nghề sửa chữa điện thoại di
động, đạt 82 triệu đồng/lao động/năm. Thu nhập thấp nhất là nghề dịch vụ đời
sống, đạt 45 triệu đồng/lao động/năm. Tính bình quân cho thấy thu nhập của
tất cả các ngành phi nông nghiệp đạt trung bình 58,78 triệu đồng/lao
động/năm.
75
3.3. Những khó khăn, hạn chế trong việc làm cho lao động nông thôn
huyện Phù Ninh
3.3.1 Những khó khăn
Bảng 3. 19. Khó khăn trong việc làm của lao động nông thôn
Số
Yếu tố khó khăn
Tỷ lệ (%) Xếp hạng
hộ
- Không có trình độ nghề nghiệp
1
- Thiếu đất sản xuất
2
26.53 39
- Thiếu vốn cho sản xuất
3
28 19.05
-Thiếu thông tin về thị trường lao động
4
23 15.65
- Sức khoẻ yếu
5
22 14.97
6
-Công tác hỗ trợ của các cấp chính quyền 16
19 12.93
10.88
Tổng số lượt
7
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2017)
147 100.00
Thông qua số liệu điều tra, ta thấy lao động nông thôn của huyện Phù
Khó khăn lớn nhất là thiếu trình độ chuyên môn nghề nghiệp.
Khó khăn thứ hai là thiếu đất sản xuất. Như đã biết, đối với lao động trong
nông nghiệp: thiếu đất sản xuất ở một góc độ nào đó là thiếu việc làm. Ở nhóm hộ
khác nhau, điều kiện sản xuất là khác nhau, do đó mức độ sử dụng lao động và kết
quả sử dụng lao động cũng khác nhau. Khó khăn trong tiếp cận và sử dụng đất của
hộ: Đất là một trong những tư liệu sản xuất quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp,
ở những xã khác nhau có điều kiện tự nhiên khác nhau thì đất sản xuất bình quân
cho hộ cũng khác nhau cho từng loại đất.
Khó khăn thứ ba là thiếu vốn sản xuất, nếu có lao động, có đất đai mà không
có vốn đâu tư thì người nông dân cũng gặp rất nhiều khó khăn trong sinh kế của mình
Khả năng tiếp cận thông tin kinh tế của hộ còn thấp
Ninh có những khó khăn tác động đến việc làm của họ, cụ thể như:
76
Hiện nay các hộ dân ở nông thôn đã tiếp cận được với nhiều nguồn
thông tin khác nhau để phục vụ sản xuất và đời sống, hộ thường tiếp xúc với
nguồn thông tin từ bạn bè, hàng xóm, chính quyền địa phương, báo chí, đài.
Qua điều tra cho thấy, có tới 78% người dân gần như không bao giờ đọc báo.
Những thông tin về giống mới và phân bón, phòng trừ dịch bệnh được hộ tiếp
cận qua tổ chức khuyến nông, nhưng mới chỉ có khoảng 35% số hộ được giúp
đỡ thông tin về giống mới, 31,2% số hộ được giúp đỡ về cách sử dụng phân
bón. Các lĩnh vực phòng trừ dịch bệnh, thuỷ lợi, tín dụng đều do chính quyền
địa phương và các tổ chức xã hội đoàn thể giúp đỡ. Như vậy có thể thấy vai
trò của chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội đoàn thể rất quan trọng
đối với sản xuất nông nghiệp của hộ, sau đó mới đến tổ chức khuyến nông.
3.3.2. Một số hạn chế trong tạo việc làm ở huyện Phù Ninh:
- Lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn Phù Ninh tuy đông
nhưng phần lớn là lao động phổ thông, số lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật nhiều ngành không có hoặc có rất mỏng; đặc biệt là xã trung
du và miền núi.
- Tác phong công nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động chưa
cao, một bộ phận vẫn không chịu khó trong làm việc để cho hiệu quả và thu
nhập cao hơn, vẫn mang nặng tư tưởng thích làm thầy hơn làm thợ và chỉ
muốn làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp hoặc các doanh
nghiệp nhà nước. Năng suất lao động đạt ở mức thấp.
- Sức ép về tình trạng lao động thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn căng
thẳng. Việc sử dụng thời gian lao động đang gây lãng phí lớn.
- Phân công lao động xã hội và vấn đề giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn đang phụ thuộc lớn vào sự điều
tiết của cơ chế thị trường; sự can thiệp của nhà nước tuy đã được quan
tâm nhưng chưa đủ mạnh để tao nên bước chuyển biến quan trọng trong giải
quyết việc làm.
77
- Việc chỉ đạo thực hiện các chương trình việc làm thời gian qua chưa
được các ngành, các cấp quan tâm đúng mức, cả về nhận thức, đầu tư và chỉ
đạo tổ chức thực hiện. Trong các chương trình chưa gắn được chỉ tiêu giải
quyết việc làm cho lao động và hiệu quả giải quyết việc làm. Công tác quản lý
nhà nước về lĩnh vực lao động- việc làm, thông tin thị trường lao động và hoạt
động dịch vụ việc làm còn nhiều hạn chế. Tính xã hội hoá trong giải quyết
việc làm chưa cao.
- Xuất phát điểm của nền kinh tế còn ở mức thấp, tích luỹ từ nội bộ nền
kinh tế còn yếu, khả năng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao chất
lượng lao động để tạo việc làm và cơ hội cho người lao động tìm việc làm và
tự tạo việc làm đang hạn chế.
- Quy mô dân số và lao động lớn luôn là áp lực đối với vấn đề giải
quyết việc làm cho người lao động. Xã trung du và miền núi rộng, có nhiều
tiềm năng phát triển kinh tế nhưng dân cư phân bố và lao động được hình
thành mang tính tự nhiên, thiếu hợp lý.
- Cơ sở hạ tầng, nhất là các xã miền núi về giao thông, thuỷ lợi, điện,
thông tin còn nhiều khó khăn, hạn chế phát triển sản xuất, sinh hoạt, đời sống,
tiêu thụ sản phẩm của nhân dân
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo chương trình việc làm chưa được các ngành,
các cấp quan tâm đúng mức. Chỉ tiêu giải quyết việc làm cho người lao động
hàng năm chưa trở thành kế hoạch của các ngành, các cấp và các chương trình,
dự án phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn. Công tác tuyên truyền nâng cao
nhận thức cho nhân dân về việc làm và tự tạo việc làm cho bản thân chưa
được chú trọng.
- Đầu tư cho đào tạo nghề còn yếu, dẫn đến chất lượng lao động thấp.
Nguồn lực đầu tư cho giải quyết việc làm còn thấp. Việc sơ tổng kết, xây
dựng và nhân rộng các mô hình giải quyết việc làm có hiệu quả trên địa bàn
chưa đi vào nề nếp. Các doanh nghiệp và trung tâm dịch vụ việc làm, xuất
khẩu lao động hoạt động còn yếu, hiệu quả thấp.
78
3.4. Giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn huyện Phù Ninh
3.4.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng và giải pháp giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn huyện Phù Ninh
Cần có quan điểm toàn diện về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
huyện Phù Ninh. Quan điểm là giải quyết việc làm cho người lao động, đáp ứng
yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hoá -
hiện đại hoá. Mục tiêu được đặt ra là: Giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn nhằm phát triển bền vững kinh tế xã hội ở nông thôn và sử dụng lao
động nông thôn ngày một hợp lý hơn.
Cụ thể là: Để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, nền kinh tế
huyện Phù Ninh phải đạt được tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng công nghiệp – thương mại dịch vụ – nông nghiệp, cơ cấu năm
2018 phấn đấu đạt 45,33% - 29,78% - 28,99%. Nội bộ ngành nông nghiệp
chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng lâm nghiệp và ngư nghiệp. Ngành
công nghiệp đi sâu phát triển công nghiệp chế biến.
Để đạt được mục tiêu trên, cần có các định hướng. Trước hết cần nâng cao
trình độ lao động ở các cấp học, chú trọng việc đào tạo công nhân lành nghề để
giải quyết việc làm cho người lao động, gắn chương trình đạo tạo nghề với nhu
cầu thực tiễn đảm bảo cho người lao động học nghề có trình độ tay nghề đáp ứng
nhu cầu tuyển dụng của thị trường.
Sau đó là liên doanh, liên kết với doanh nghiệp trong và ngoài địa
phương để tận dụng lao động tại chỗ lúc nông nhàn. Khuyến khích có ưu đãi
với những doanh nghiệp đầu tư vào huyện có sử dụng lao động của địa
phương. Thúc đẩy công nghiệp chế biến nông lâm sản và tăng cường quản lý
việc khai thác nguồn tài nguyên, công nghiệp khai khoáng (cát sỏi). Phát triển
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, khôi phục phát triển ngành nghề truyền
thống như chè, làm nón nhằm góp phần phát triển họat động du lịch Văn hóa
lịch sử và sinh thái của huyện. Cùng với đó là tăng cường đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất (đường, trường học, trạm y tế: trước mắt việc xây dựng cơ sở hạ tầng
79
sẽ tạo ra việc làm cho lao động nông thôn trong huyện, về lâu dài các công trình
sẽ phục vụ lợi ích của nhân dân, bồi dưỡng phát triển nguồn lao động tương lai
cho sự phát triển của huyện Phù Ninh. Tập trung vào việc xây dựng kết cấu hạ
tầng nông thôn, trước hết là củng cố, phát triển hệ thống thủy lợi; Tăng cường
công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, nước sạch cho sinh hoạt;
phát triển hệ thống điện và bưu chính viễn thông, hệ thống y tế, giáo dục, văn
hóa ở nông thôn. Do diện tích đất nông lâm nghiệp có hạn vì vậy phải đổi mới
cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, tăng cường đầu tư thâm canh thực hiện
chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất tập trung chuyên
canh, đẩy mạnh phát triển cây công nghịêp mía, chè, thực hiện dự án trồng
rừng nguyên liệu giấy như vậy sẽ mở ra khả năng thu hút nhiều lao động tạo
thêm nhiều việc làm.
Cần xác định rõ quy mô sản xuất tối ưu cho từng ngành công nghiệp.
Bên cạnh đó, tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng (đường giao thông, đường điện,
hệ thống cấp thoát nước, thông tin liên lạc), thu hút đầu tư vào khu du lịch,
dịch vụ thôn Xây dựng các cụm, điểm công nghiệp tại các xã, thị trấn.
Khuyến khích công nghiệp có sử dụng nhiều lao động.
Với lao động ở nông thôn nói chung: Đất là một trong những tư liệu
sản xuất quan trọng ảnh hưởng không nhỏ tới định hướng phát triển sản xuất
của hộ, Thực tế nghiên cứu cho thấy: hộ ở vùng cao có ưu thế phát triển rừng
sản xuất và cây lâu năm khai thác khoáng sản. Còn vùng đồng bằng của
huyện Phù Ninh tuy không có ưu thế về rừng, đất cây lâu năm nhưng có nhiều
tiềm năng phát triển dịch vụ. Các hộ thuộc vùng trung du của huyện chủ yếu
sản xuất cây trồng hàng năm và chăn nuôi thủy sản. Do đó cần khuyến khích
hộ ở trong khu vực này phát triển sản xuất theo hướng khai thác lợi thế về đất
đai và địa hình. Vì vậy hộ muốn thoát nghèo chỉ có cách đa dạng hóa sản xuất,
tăng cường phân bổ sức lao động vào những cây trồng ngắn ngày, dài ngày gắn với
chăn nuôi và làm thuê.
80
Khuyến khích các doanh nghiệp đến đầu tư phát triển tại địa phương có
sử dụng nhiều lao động tại chỗ, đặc biệt ưu đãi về giá thuê đất cho doanh
nghiệp có chính sách đào tạo nghề cho lao động địa phương. Phối hợp với các
công ty xuất khẩu lao động thường xuyên tuyên truyền tư vấn cho vay vốn,
giáo dục định hướng tạo mọi điều kiện cho người lao động đi xuất khẩu. Tăng
cường công tác tuyên truyền, tư vấn, giới thiệu việc làm bằng nhiều hình thức,
đa dạng hoá nội dung tư vấn tập trung vào tư vấn xuất khẩu lao động, tư vấn
pháp luật lao động, chọn nơi làm việc, lựa chọn nghề phù hợp với chất lượng
lao động, tư vấn hướng dẫn xây dựng dự án vay vốn tạo việc làm,…
Thiết lập kênh thông tin lao động việc làm miễn phí thường xuyên phát
sóng qua tivi, đài. Thường xuyên cập nhật thông tin thị trường lao động, tổ
chức điều tra khảo sát nắm chắc tình hình số lượng, chất lượng lao động, nhu
cầu việc làm và khả năng thu hút tạo việc làm của các doangh nghiệp, các lĩnh
ngành nghề trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch giải pháp giải quyết việc làm
hàng năm. Phối hợp với các cơ sở dạy nghề của tỉnh Phú Thọ, liên kết với các
cơ sở dạy nghề ở các địa phương khác, tiến tới thành lập trung tâm dạy nghề
của huyện để dạy nghề cho lao động dưới nhiều hình thức, nâng cao chất
lượng lao động đáp ứng được nhu cầu của các thị trường lao động, đặc biệt
chú trọng quan tâm đến người lao động không việc làm, thiếu việc làm. Đào
tạo nghề nâng cao chất lượng lao động để người lao động có cơ hội lựa chọn
ngành nghề, công việc đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá của địa
phương để giải quyết việc làm tại chỗ hoặc tham gia xuất khẩu lao động, coi
xuất khẩu lao động là một giải pháp xoá đói giảm nghèo có hiệu quả cao.
Tăng cường tư vấn, tuyên truyền phổ biến và tạo điều kiện để lao động là
người nghèo tích cực tham gia xuất khẩu lao động, phấn đấu mỗi năm có trên
500 lao động tham gia xuất khẩu.
Tư vấn, tạo điều kiện, vốn, vật tư kỹ thuật để các hộ thiếu đất sản xuất
chuyển đổi sang phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động
kinh doanh dịch vụ khác. Khuyến khích hình thành các doanh ngnhiệp, các cơ sở
81
sản xuất tư nhân để khai thác tối đa tiềm năng thế mạnh của địa phương trên mọi
lĩnh vực ngành nghề như xây dựng dân dụng, cơ khí gò hàn, chế biến nông lâm
sản,… Khuyến khích thu hút mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế hộ
gia đình trong nông nghiệp, nông thôn bỏ vốn đầu tư, các ngân hàng và tổ
chức tín dụng cung ứng vốn và đầu tư phát triển sản xuất ở địa bàn nông thôn.
3.4.2. Giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn huyện Phù Ninh
Thứ nhất, cần có chính sách phù hợp nhằm đẩy mạnh đào tạo nghề cho
lao động nông thôn, gắn đào tạo nghề với sử dụng lao động phù hợp. Lao
động nông thôn huyện Phù Ninh thiếu việc làm do nhiều nguyên nhân, nhưng
chủ yếu là trình độ văn hóa thấp, lại không được đào tạo nghề nên lao động
phổ thông là phổ biến. Đã có những doanh nghiệp sau khi thu hồi đất của
nông dân, nhận lao động trẻ ở nông thôn vào làm việc, nhưng chỉ một thời
gian ngắn lại phải cắt hợp đồng, do lao động này không đáp ứng được yêu cầu
công việc của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc đẩy mạnh đào tạo nghề và đa dạng
các hình thức đào tạo nghề cho lao động nông thôn đang là đòi hỏi bức thiết
của cuộc sống và phải có sự tham gia của các cấp, các ngành, các lực lượng
trong toàn xã hội. Trước hết, chính quyền các cấp phải làm tốt công tác tuyên
truyền, giáo dục để nhân dân các địa phương, nhất là lực lượng lao động trẻ
có nhận thức đúng về học nghề, thay đổi quan niệm cũ là phải vào các trường
đại học mới có việc làm, thu nhập đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Trên cơ sở
có nhận thức đúng về học nghề, cần phân luồng giúp họ chọn đúng ngành,
nghề phù hợp với bản thân và yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước và của
mỗi địa phương. Đây không phải là vấn đề có thể thực hiện trong “một sớm,
một chiều”, vì làm thay đổi nhận thức và thói quen của mỗi người và cả một
thế hệ cần phải có thời gian và sự kiên trì. Trong đào tạo nghề, cần phân loại
để có hình thức và nội dung đào tạo phù hợp. Đối với những lao động lớn tuổi
(từ 35 tuổi trở lên), không có điều kiện đi học tập trung, cần tạo điều kiện tổ
chức các lớp dạy nghề tại chỗ, với những nghề truyền thống của địa phương.
82
Sau khi học xong, cần có sự hỗ trợ về vốn để người lao động phát triển kinh
tế hộ gia đình. Với đối tượng này có thể áp dụng hình thức dạy nghề lưu động,
lồng ghép với các chương trình khuyến nông, khuyến ngư, khuyến công, tạo
cơ hội cho lao động nông thôn có nghề. Đối với lao động còn trẻ, là lực lượng
lao động lâu dài của xã hội, cần khuyến khích họ vào học tại các trường và
trung tâm dạy nghề, đảm bảo có tay nghề vững, chuyên môn chắc, đáp ứng
nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội. Với đối tượng nghèo, không có điều kiện
để học nghề, Nhà nước có thể hỗ trợ một phần kinh phí học nghề dưới hình
thức phù hợp, như cấp thẻ học nghề một lần cho người thực học. Sau đào tạo
nghề, các địa phương còn có thể tìm hiểu và tổ chức chặt chẽ việc đưa lao
động nông thôn đi lao động có thời hạn ở nước ngoài.
Thứ hai, tiếp tục phát triển các làng nghề truyền thống đi đôi với xây
dựng các làng nghề mới; phát triển tiểu - thủ công nghiệp, chế biến nông, lâm,
thủy sản với quy mô vừa và nhỏ. Các làng nghề truyền thống huyện Phù Ninh
đã và đang thu hút một số lượng lớn lao động nông thôn, song số lao động có
nhu cầu việc làm vẫn còn rất lớn. Bởi vậy, cùng với công tác đào tạo nghề cho
các đối tượng, phải tạo ra nhiều chỗ làm mới, thích ứng với nghề đã đào tạo.
Thông qua công tác phát triển, mở rộng các làng nghề truyền thống thành xã
nghề; nhân làng nghề mới và phát triển tiểu - thủ công nghiệp, chế biến nông,
lâm, thủy sản với quy mô vừa và nhỏ, vừa tạo được nhiều việc làm, vừa phù
hợp với trình độ lao động nông thôn. Đặc biệt, ở những nơi có khu công
nghiệp, các địa phương cần căn cứ vào hoạt động của các doanh nghiệp để có
hướng phát triển các làng nghề, hoặc phát triển ngành nghề mới để sản xuất
bán sản phẩm, làm vệ tinh,... cho doanh nghiệp trong các khu công nghiệp.
Thứ ba, cần có chính sách nhằm động viên, thu hút các thành phần kinh
tế đầu tư vào huyện Phù Ninh. Bởi vậy, các địa phương cần có chính sách ưu
đãi hợp lý về đất đai, vốn, thuế,... nhằm động viên, khuyến khích các nguồn
lực đầu tư xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, các khu kinh tế phù hợp với yêu
cầu xây dựng và bảo vệ địa bàn; có quy hoạch đồng bộ các yếu tố về kết cấu
83
hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu như: đường giao thông, nhà ở, nước sinh hoạt,
chợ, trạm y tế, trường học,... để những lao động đến đây có điều kiện bảo đảm
nhu cầu cơ bản, yên tâm và gắn bó xây dựng địa bàn vững mạnh, giầu đẹp.
Đồng thời, có chính sách thu hút lực lượng lao động ở các vùng, miền khác
đến định cư, sinh sống, làm cho kinh tế địa phương phát triển, tạo ra nhiều
việc làm cho xã hội.
Thứ tư, xây dựng cơ cấu kinh tế nông thôn toàn diện và hợp lý. Việc
xây dựng cơ cấu kinh tế nông thôn toàn diện và hợp lý bao gồm cả nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ có vai trò to lớn trong
giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn. Nông thôn
huyện Phù Ninh còn mang nặng tính thuần nông, điều đó dẫn đến tính thời vụ
cao làm cho lao động lâm vào tình trạng thiếu việc làm. Thực tế các hộ kiêm
ngành nghề và phi nông nghiệp có thời gian lao động ổn định hơn và có thu
nhập cao hơn. Để phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp cần có nhiều giải
pháp đồng bộ. Đẩy mạnh liên kết với các làng nghề truyền thống trong đào
tạo nghề và tiêu thụ sản phẩm. Ưu tiên cho vay vốn phát triển các hoạt động
phi nông nghiệp.
Thứ năm, Tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kết hợp
với đẩy mạnh cơ giới hóa. Trong kết quả chạy hàm sản xuất, lao động là yếu
tố ảnh hưởng lớn nhất đến thu nhập của hộ nông dân. Điều đó cũng chứng tỏ
nông thôn huyện Phù Ninh sản xuất còn lạc hậu, lao động thủ công là chính.
Vì vậy, cần tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất làm tăng năng
suất lao động. Việc đẩy mạnh cơ giới hóa có ý nghĩa rất to lớn trong phát triển
kinh tế nông thôn. Điều đó làm bớt đi sự nặng nhọc của nông dân, chuyển
được lao động sang làm nghề khác dẫn đến thu nhập của người nông dân tăng.
Tuy nhiên, để tăng cường cơ giới hóa trong nông nghiệp thì cần đẩy mạnh
xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông và hệ thống điện nông thôn nhằm
tăng hiệu quả hoạt động của máy móc thiết bị.
84
Thứ sáu tăng cường hợp tác trong tiêu thụ nông sản. Sản xuất của các hộ
nông dân trong tỉnh vẫn phổ biến là sản xuất nhỏ, manh mún, điều đó gây khó
khăn cho tiêu thụ nông sản. Hoạt động tiêu thụ nông sản chủ yếu là hoạt động
riêng rẽ của các hộ nông dân. Điều đó dẫn đến hai hệ lụy, một là bị tư thương ép
giá, hai là không có khả năng tiêu thụ làm ảnh hưởng lớn đến thu nhập của hộ.
Chính quyền các cấp cần giúp nông dân hình thành nên những nhóm hộ hợp tác
với nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, điều đó tạo điều kiện cho hộ nông
dân giới thiệu sản phẩm, tìm hiều thị trường, nâng cao hiệu quả của sản xuất
kinh doanh.
85
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Là huyện thuộc tỉnh Phú Thọ, Phù Ninh có lực lượng lao động khá dồi
dào. Năm 2016 tổng số lao động của huyện là 65.912 lao động, trong đó có
lao động không có việc làm là 3.634 người, chiếm 5.51%. Những năm qua, sự
phát triển kinh tế đã tạo thêm việc làm cho người lao động trong huyện. Về cơ
cấu lao động theo ngành: lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ
trọng cao và đã có sự dịch chuyển giảm từ 67,51% năm 2014 xuống còn
63,13% vào năm 2016. Nguồn lao động dồi dào vừa là nguồn lực quan trọng
cho phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện Phù Ninh trong tương lai, vừa
đặt ra yêu cầu thách thức phải phân bố, sử dụng đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả
trong kỳ quy hoạch.
Luận văn nghiên cứu về thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, Nguồn lao động nông
thôn huyện Phù Ninh qua các năm, tình hình việc làm của lao động nông thôn
huyện Phù Ninh các năm và xem xét một số điển hình về công tác giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn huyện Phù Ninh. Từ phân tích thực trang
xác định những khó khăn, hạn chế trong giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ đang gặp phải. Và đề xuất giải pháp
giải quyết việc làm lao động nông thôn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ trong
các năm tiếp theo.
Mặc dù số lao động chưa có việc làm giảm qua các năm, tuy nhiên toàn
huyện năm 2016 vẫn còn có 3.632 người chưa có việc làm. Tỷ lệ lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp có việc làm thường xuyên cao hơn so với lĩnh vực
phi nông nghiệp, chứng tỏ nông nghiệp là hoạt động sinh kế chính của địa
phương. Một số hộ khá ngoài việc sử dụng lao động trong ngành nông nghiệp
còn phát triển hoạt động thương mại và dịch vụ. Các hộ đều đa dạng hoá sản
xuất ngành trồng trọt đảm bảo tăng thu nhập cho gia đình.
86
Do phát triển các hoạt động dịch vụ nên lao động qua đào tạo có thu nhập
cao hơn các lao động chưa qua đào tạo. Mặt khác, việc làm của lao động trong
ngành phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn ngành nông nghiệp, bao gồm cả trồng
trọt, chăn nuôi hay lâm nghiệp. Tuy nhiên ngành phi nông nghiệp, nhất là dịch vụ
đòi hỏi phải có đầu tư vốn lớn và kỹ năng tay nghề cao, điều này khó thực hiện
đối với nhóm hộ có kinh tế chưa phát triển, nhóm hộ nghèo.
Để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, huyện Phù Ninh cần thực
hiện đồng bộ các giải pháp phát triển về nguồn lực lao động, giải pháp về chính
sách tạo việc làm, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia nền kinh tế của
địa phương.
2. Khuyến nghị
Đối với UBND huyện và UBND các xã
Cấp huyện, xã cần tăng cường quản lý về đất đai, dân số, lao động; Phần
lớn những lao động có được thông tin về việc làm qua xã, các trung tâm
lao động việc làm, trung tâm khuyến công, khuyến nông. Do đó, cần đầu
tư phương tiện cho xã để cập nhật thông tin việc làm về địa phương. Bên
cạnh đó, cần tuyển chọn đội ngũ cán bộ xã có trình độ, phẩm chất để thực
hiện tư vấn giới thiệu việc làm, giảm chi phí xin việc cho các hộ nông dân
và mọi người tìm được việc làm phù hợp.
Trong các ngân hàng cho vay vốn, tiêu chí minh bạch hóa các thủ tục
cũng cần được thực hiện nghiêm chỉnh. Để thực hiện điều này, đội ngũ cán bộ
ngân hàng ngoài nghiệp vụ vững, còn cần đến phải có trách nhiệm và thái độ
thân thiện với người dân đến vay vốn.
Chính quyền các cấp cần có chính sách để thúc đẩy quá trình thực hiện
đào tạo nghề, đặc biệt các nghề dịch vụ phi nông nghiệp đáp ứng nhu cầu của
các nhà tuyển dụng trong các khu công nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất
trên địa bàn huyện và tỉnh Phú Thọ, đảm bảo giải quyết việc làm cho lao động,
đảm bảo tăng thu nhập và tăng chất lượng cuộc sống cho lao động nông thôn
huyện Phù Ninh.
87
Tăng cường thanh tra và kiểm tra công tác đào tạo nghề của các cơ sở
đào tạo nghề trên địa bàn, đặc biệt các ngành nghề cần thực hành và cần có
máy mọc thiết bị hiện đại, tránh trường hợp người học nghề thực hành trên
các máy móc cũ, lạc hậu dẫn tối sau khi học không áp dụng được vào thực tế.
Quan tâm tới công tác tư vấn việc làm cho học sinh ngay từ trong trường học,
giúp các em nhận thức được vấn đề việc làm và con đường học tập. Chú trọng
đào tạo nghề ngay trong trường phổ thông để sau khi ra trường những lao
động này có thể tự kiếm sống bằng nghề đã được học. Cần đổi mới chương
trình đào tạo nghề theo hướng phù hợp với yêu cầu chất lượng của thị trường
lao động, hay nói cách khác là gắn đào tạo nghề với chương trình giải quyết
việc làm cho lao động.
Đối với cơ sở kinh tế
Các cơ sở kinh tế, doanh nghiệp cần công khai dự báo nhu cầu nguồn
nhân lực tới tận địa bàn cấp xã để người lao động chủ động xác định định
hướng tham gia các lớp đào tạo nghề hoặc chuyên môn phù hợp. Từ đó, phát
triển sản xuất, tăng khả năng tạo việc làm cho lao động nông thôn.
Đối với các hộ nông dân
Hộ nông dân cần nhận thức rõ vai trò làm chủ của mình trong sự phát
triển kinh tế chung của huyện. Để làm được điều này hộ cần tự phổ cập trình
độ văn hóa thông qua việc tự học lẫn nhau, tăng cường học hỏi kinh nghiệm
sản xuất qua bạn bè, hàng xóm,... Hộ cần phản ánh những vướng mắc trong
sản xuất lên tổ khuyến nông, phản ánh những sai phạm trong quản lý lên cấp
quản lý cao hơn,… Tập thực hiện ghi chép lại tình hình thu chi để quản lý tài
chính hộ một cách có hiệu quả.
Hộ nên áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng suất cho cây trồng,
học hỏi kinh nghiệm đầu tư sản xuất của các hộ để nâng cao hiệu quả thời
gian lao động, tiến tới đa dạng hóa các nguồn thu nhập.
Người lao động nên chủ động hơn nữa trong tìm hiểu nhu cầu thị
trường lao động để bản thân có định hướng phù hợp.
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Hoàng Tú Anh, 2012. Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn huyện
Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Luận văn thạc sĩ Kinh tế phát triển. Đại
2. Đặng Nguyên Anh: Suy thoái kinh tế và những thách thức đối với giải quyết việc
làm thanh niên hiện nay, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2014.
3. Nguyễn Khánh Bình: Một số vấn đề về chính sách giải quyết việc làm cho thanh
niên nông thôn hiện nay, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 209, 2013, tr.68-72.
4. Nguyễn Dương Đán, 2008. Kinh tế nông nghiệp xã hội chủ nghĩa, , NXB Nông
nghiệp .
5. Vân Anh, Thanh Huệ, 2001. Phổ biến nghề ở nông thôn, , NXB Văn hóa — Dân
tộc, Hà Nội .
6. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, 2014. Báo cáo sử dụng kết quả điều
học Đà Nẵng, 2012.
tra Lao động - việc làm hàng năm để xây dựng chính sách giải quyết việc
7. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, 2014. Ngành nghề nông thôn ở Việt
làm. Hà Nội: NXB Lao động và Xã hội, 2014.
8. Chu Tiến Quang, 2001. Việc làm ở nông thôn: Thực trạng và giải pháp, , NXB
Nông nghiệp
9. Đỗ Minh Cương, 2013. Dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay. Tạp
Nam. Hà Nội: NXB Lao Động và Xã hội, 2014.
10. Đỗ Văn Viện và Đặng Văn Tiến, 2014. Bài giảng Kinh tế hộ nông dân, , Hà Nội.
11. Nguyễn Xuân Hùng, 2014. Giải pháp giải quyết việc làm cho lao động
chí Nông thôn mới.
nông thôn miền núi huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Luận văn Thạc
sĩ Kinh tế nông nghiệp. Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái
12. Vũ Văn Phúc, 2005. Giải quyết việc làm và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực
Nguyên, 2014.
lao động nông thôn Việt nam hiện nay. Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái
89
13. Vũ Thị Thu, 2014. Nghiên cứu lao động và việc làm của hộ gia đình nông
Bình Dương, số 42, trang 14.
thôn huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Luận văn thạc sĩ Phát triển nông thôn.
14. UBND huyện Phù Ninh, 2016. Đề án phát triển kinh tế xã hội huyện Phù
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, 2014.
15. Giáo trình, Nguyên lý kinh tế học (tập II), trường đại học Kinh tế quốc dân, NXB
Thống kê - 2003.
16. Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung, 2012. Chính sách giải quyết việc làm ở
Việt Nam, , NXB Thống kê, Hà Nội.
17. Triệu Đức Hạnh, Nguyễn Thị Mão Khoa, 2012, Thực trạng việc làm bền
Ninh giai đoạn 2016-2020.
vững của lao động nông thôn tỉnh Thái Nguyên, tập 93, Tạp chí khoa học
công nghệ.
90
PHỤ LỤC
PHIẾU ĐIỀU TRA LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM NÔNG HỘ
1. Thông tin chung chủ hộ
1.1. Họ tên chủ hộ:……………………………Giới tính……………….. 1.2. Thôn:………1.3. Xã:………………
1.4. Dân tộc:…………1.5. Phân loại kinh tế hộ………………………1.6. Số nhân khẩu:…………
1.7. Số lao động:……….
1.8. Trình độ chuyên môn của chủ hộ (chưa được đào tạo-CĐT/sơ cấp-SC/trung cấp-TC/cao đẳng-CĐ/đại học-ĐH/sau đại
học-SĐH):…………………..1.9. Nghề nghiệp chính của hộ (thuần nông/hỗn hợp/phi nông nghiệp):…………………….....
2. Thông tin nguồn nhân lực hộ
2.1. Thành viên gia đình và chất lượng nhân lực
TT Họ tên thành viên gia Tuổi
đình Giới tính
Quan hệ với chủ hộ Học vấn (lớp) Nếu đã được đào tạo, thì chuyên môn đào tạo?
Đào tạo chuyên môn (đã đào tạo/chưa) Trình độ chuyên môn (CĐT, SC, TC, CĐ, ĐH, SĐH)
1 2 3 4 5 6 7 8 Chủ hộ
91
2.2. Gia đình đã được tham gia đào tạo nghề không (có/không)……………… Nếu CÓ thì lớp/khóa đào tạo về ngành nghề
gì?......................................................................................................... Có áp dụng được không (có/không)………Tại
sao?.................................................................................................................................................................................................
3. Thông tin về việc làm của các thành viên gia đình
3.1. Việc làm và thời gian làm việc của các thành viên gia đình
TT Họ tên thành viên gia
đình Quan hệ với chủ hộ
Trong 12 tháng qua có bao nhiêu tháng làm nông nghiệp toàn bộ thời gian Trong 12 tháng qua có bao nhiêu tháng làm nông nghiệp một phần thời gian Trong 12 tháng qua có bao nhiêu tháng làm phi nông nghiệp toàn bộ thời gian Trong 12 tháng qua có bao nhiêu làm phi tháng nông nghiệp một phần thời gian
1
2
3
4
5
6
7
8
92
3.2. Việc làm trong ngành nông nghiệp của hộ
Loại hình hoạt động nông nghiệp Có/không Số người tham gia Giá trị sản xuất ước tính (1000 đ/năm)
Trồng trọt
Chăn nuôi
Lâm nghiệp
Tổng hợp cả trồng trọt, chăn nuôi, lâm
nghiệp
3.3. Khó khăn, thách thức trong sản xuất ngành trồng trọt hiện nay của gia đình là gì?
…………………………………………………………………………………………………………………………………
3.4. Khó khăn thách thức trong sản xuất ngành chăn nuôi hiện nay của gia đình là gì?.
…………………………………………………………………………………………………………………………….........
3.5. Việc làm trong ngành phi nông nghiệp của hộ
Loại hình phi nông nghiệp Có/không Số người tham gia Thu nhập (1000 đ/năm)
Dịch vụ sản xuất
Dịch vụ đời sống
Làm thuê
Lương/phụ cấp
Phi nông nghiệp khác 1 (xin chỉ rõ)
Phi nông nghiệp khác 2 (xin chỉ rõ)
93
3.6. Khó khăn thách thức trong hoạt động phi nông nghiệp hiện nay của gia đình là gì?
...........................................................
3.7. Khó khăn thách thức trong việc làm hiện nay của gia đình là gì?.
........................................................................................
………………………………………………………………………………………………………………………………
Xin cám ơn gia đình!
94
TỔNG HỢP SỐ LIỆU ĐIÈU TRA
Liên Hoa 30 Trị Quận 30 Phú Nham 30
45 38 43
0 6 18 6 9 26 30 5 14 7 3 1 0 30 2 25 3 0 12 12 6 3 29 30 4 19 5 2 0 0 30 3 24 3 0 15 12 3 15 23 30 4 16 5 4 1 0 30 1 25 4
- Nam - Nữ
2. Học vấn
Chỉ tiêu Tổng số hộ điều tra I. Chủ hộ 1. Tuổi bình quân của chủ hộ 2. Học vấn của chủ hộ - Mù chữ - Tốt nghiệp tiểu học - Tốt nghiệp THCS - Tốt nghiêp THPT 3. Chủ hộ là nữ 4. Chủ hộ là người kinh 5. Trình độ chuyên môn Chưa đào tạo Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng Đại học Sau đại học 6. Nghề nghiệp của chủ hộ Thuần nông Hỗn hợp Phi nông nghiệp II. Lao động 1. Giới tính
85 48 37 85
72 41 31 72
76 37 39 76
13 34 38 85 9 44 16 14 2 0
12 28 32 72 9 37 11 12 3 0
15 36 24 76 8 35 14 15 4 0
- Tốt nghiệp tiểu học - Tốt nghiệp THCS - Tốt nghiêp THPT 3. Trình độ chuyên môn Chưa đào tạo Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng Đại học Sau đại học 4. Lĩnh vực đào tạo Nông nghiệp Lâm nghiệp Chăn nuôi Kinh tế Khác
76 38 51 13 21
63 41 56 15 36
68 36 64 14 39
95