ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ ------------------------ ĐẶNG THÀNH CHUNG
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NGHỆ AN LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Hà Nội, 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ ------------------------ ĐẶNG THÀNH CHUNG
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NGHỆ AN
CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ
: 5.02.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN ANH TÀI Hà Nội, 2005
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CƠ SỞ LÍ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN......................................................................................... 5
1.1. Khái quát về việc làm và vai trò của giải quyết việc làm .................. 5
1.2. Những nhân tố tác động đến việc làm và giải quyết việc làm trong
nền kinh tế thị trường ...................................................................... 11
1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở một số địa
phương trong và ngoài nước ............................................................ 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NGHỆ AN
TRONG NHỮNG NĂM QUA ...................................................................... 32
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội của tỉnh Nghệ An ..................... 32
2.2. Thực trạng lao động và việc làm của Nghệ An ................................ 39
2.3. Đánh giá tổng quát về thực trạng lao động – việc làm ở Nghệ An .... 63
2.4. Những vấn đề đặt ra cần giả i quyết ................................................. 67
CHƯƠNG 3: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM Ở NGHỆ AN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010 ...................... 71
3.1. Quan điểm, dự báo và phương hướng giải quyết việc làm ở Nghệ
An đến năm 2010 ............................................................................ 71
3.2. Những giải pháp chủ yếu để giải quyết có hiệu quả việc làm ở
Nghệ An đến năm 2010 ................................................................... 77
KẾT LUẬN ................................................................................................ 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 99
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương
2. CHXHCNVN : Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3. CMKT : Chuyên môn kỹ thuật
4. CNH : Công nghiệp hoá
5. DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
6. CNKT : Công nhân kỹ thuật
7. HĐH : Hiện đại hoá
8. HĐKTTX : Hoạt động kinh tế thường xuyên
9. HĐND : Hội đồng nhân dân
10. LĐTB & XH : Lao động thương binh và xã hội
11. LLLĐ : Lực lượng lao động
12. THCN : Trung học chuyên nghiệp
13. THPT : Trung học phổ thông
14. PTCS : Phổ thông cơ sở
15. TW : Trung ương
16. UBND : Ủy ban nhân dân
17. VLTX : Việc làm thường xuyên
18. XKLĐ : Xuất khẩu lao động
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội có tính
chất toàn cầu, là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại nói chung, của
mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng. Thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ cho
người lao động để tạo thu nhập chính đáng qua đó không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân là một trong những chủ trương,
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng ta khẳng định "giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ
bản" [24, tr.104].
Trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn lấy
con làm trung tâm, coi phát triển con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển. Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội làm việc, một mặt là
để phát huy tiềm năng lao động - nguồn nội lực quan trọng nhất cho sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta, mặt khác giải quyết việc làm cho người lao
động là hướng cơ bản để xoá đói giảm nghèo đạt hiệu quả phát triển bền
vững. Đặc biệt, trong điều kiện đất nước ta: tài nguyên, đất đai không nhiều,
nguồn lực tài chính hạn hẹp, cơ sở vật chất còn thiếu thốn lại đang trong quá
trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức và tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế
trong xu thế toàn cầu hoá. Vì vậy, giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để
phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã
hội, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Nghệ An là một tỉnh ở Bắc Trung bộ với diện tích tự nhiên 16.487 km2,
tính đến 31 – 12 - 2004 dân số trên địa bàn tỉnh Nghệ An ước đạt 3.003.170 người, mật độ dân số 182 người/ km2. Thu nhập bình quân đầu người thấp,
kết cấu hạ tầng kém, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng. Chất
2
lượng lao động thấp, hầu hết là lao động phổ thông phần lớn chưa qua đào tạo
nghề, vấn đề đảm bảo việc làm đã và đang là một thách thức lớn trong quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở tỉnh Nghệ An. Bên cạnh đó, tỷ lệ tăng dân
số của tỉnh còn khá cao, mức đầu tư thấp trong khi ngành, nghề, dịch vụ kém
phát triển đã và đang là nguồn gốc làm nảy sinh những mâu thuẫn gay gắt
giữa cung và cầu về lao động của tỉnh, tạo nên những bức xúc ngày càng lớn
về việc làm ở Nghệ An hiện nay.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Nghệ An hiện nay
nhằm đánh giá đúng thực trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu
hiệu để sử dụng hợp lý nguồn lao động trên địa bàn của tỉnh đang là một đòi
hỏi cấp bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận lẫn thực tiễn. Do đó, tôi chọn
đề tài: "Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở
Nghệ An" làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên
ngành kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Giải quyết việc làm cho người lao động luôn là vấn đề mang tính thời
sự, cấp bách. Do đó, đã có nhiều công trình của các tác giả trong nước và
ngoài nước nghiên cứu và công bố tiêu biểu như: Sử dụng nguồn lao động và
việc làm của Trần Đình Hoan và Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991;
Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS. Nguyễn Hữu Dũng và TS
Trần Hữu Trung (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Một số
giải pháp giải quyết việc làm trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay của Trần Tuấn Anh, Luận văn thạc sỹ, khoa Kinh tế
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Lao động việc làm nguồn nhân lực ở
Việt Nam 15 năm đổi mới của Biên tập khoa học: Nolwen Henaff Jean - Yves
Martin, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2001; các công trình khoa học khác như: Điều
tra về lao động và việc làm ở Việt Nam do Bộ Lao động - Thương binh và Xã
3
hội phối hợp với Tổng cục Thống kê triển khai hàng năm (từ 1996 đến nay);
Hội thảo về lao động việc làm do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương tổ chức. Cùng với các công trình khoa học trên còn có nhiều bài viết
được đăng tải trên các sách báo, tạp chí khoa học như bài: Ảnh hưởng của nền
kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam của GS. TS. Đỗ
Thế Tùng, Tạp chí Lao động và Công đoàn (6), 2002; Vấn đề lao động và
việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay của các tác giả GS. TS. Phạm Đức
Thành, PGS. TS. Phạm Quý Thọ, ThS. Thang Mạnh Hợp, Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế (76), 2003; Lao động việc làm những bước tiến quan trọng của
Nguyễn Thị Hằng, Tạp chí Cộng sản (23), 2003 v.v... Tỉnh Nghệ An hàng
năm có báo cáo về tình hình giải quyết việc làm, điều tra lao động việc làm
hàng năm của Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh, cho đến nay chưa
có một công trình nghiên cứu nào về chuyên đề này dưới dạng một luận văn
khoa học, để đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng hợp lý nguồn lao
động dôi thừa ở Nghệ An hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích của đề tài:
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc
làm ở tỉnh Nghệ An.
Phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Nghệ An
đến năm 2010.
- Nhiệm vụ của đề tài:
+ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về lao động, việc làm và
thất nghiệp.
+ Tìm hiểu, phân tích những nhân tố tác động đến giải quyết việc làm.
4
+ Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Nghệ An từ
năm 2000 - 2004.
+ Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm giải quyết có
hiệu quả vấn đề việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung chủ yếu vào vấn đề có tính chất trọng điểm, nổi cộm
trong giải quyết việc làm ở Nghệ An từ năm 2000 - 2004, thông qua một số
giải pháp giải quyết việc làm chủ yếu trong thời gian từ nay đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
các Văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các khoá
xung quanh vấn đề này. Bên cạnh đó, đề tài kế thừa và sử dụng có chọn lọc
một số đề xuất và số liệu thống kê của một số công trình có liên quan của các
tác giả trong và ngoài nước.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử để nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương
pháp: khảo sát, điều tra, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu và phân tích để
làm sáng tỏ vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động
ở Nghệ An từ 2000 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm từng bước thúc đẩy
hiệu quả công tác giải quyết việc làm cho người lao động ở Nghệ An.
7. Kết cấu của luận văn
5
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương 9 tiết.
Chƣơng 1
VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VIỆC LÀM VÀ VAI TRÒ CỦA GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1.1. Khái quát về lao động, việc làm và thất nghiệp
Lao động là một phạm trù kinh tế, một mặt lao động là quá trình tác
động giữa con người với tự nhiên, trong quá trình đó con người cải biến
những vật thể tự nhiên làm cho nó thích ứng với nhu cầu của mình, mặt khác
lao động luôn luôn được tiến hành trong xã hội, vì vậy nó đòi hỏi những quan
hệ nhất định giữa con người với con người trong quá trình tác động vào tự
nhiên.
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động
vào giới tự nhiên nhằm cải biến những vật phẩm tự nhiên thành các sản phẩm
phục vụ các nhu cầu của đời sống con người. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã đề cập nhiều đến phạm trù này trong các nghiên cứu của
mình, theo C. Mác, lao động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ
thuộc vào bất kì hình thái kinh tế xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên, vĩnh
cửu làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người với giới tự nhiên, tức là
cho bản thân sự sống của con người.
Ph. Ăngghen viết: "... các nhà kinh tế chính trị khẳng định rằng lao
động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với
6
giới tự nhiên là giới cung cấp những vật liệu cho lao động đem biến thành của
cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa. Lao động
là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến
một mức và trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo
ra bản thân con người” [30, tr. 641].
Hoạt động lao động của con người không những làm biến đổi giới tự
nhiên tạo ra của cải, mà còn hoàn thiện, phát triển cả bản thân con người.
Trong quá trình ấy con người tích luỹ kinh nghiệm sản xuất, làm giàu tri thức
của mình, hoàn thiện bản thân cả về thể lực và trí lực.
Lao động là hoạt động bản chất nhất và là phẩm chất đặc biệt của con
người, khác với hoạt động bản năng của loài vật. C. Mác viết: "Con nhện làm
những động tác giống như động tác người thợ dệt và bằng việc xây dựng
những ngăn tổ sáp của mình, con ong còn phải làm cho một số nhà kiến trúc
phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà nhà kiến trúc tồi nhất với
con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến
trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi" [32, tr. 266].
Đặc trưng chủ yếu của lao động là sáng tạo ra giá trị và của cải cho
phép đáp ứng nhu cầu của con người và những nhu cầu này phát triển vô hạn.
Song, những nhu cầu này không chỉ thuộc lĩnh vực kinh tế, vật chất như: nhu
cầu sinh tồn, phát triển, hưởng thụ về vật chất mà còn có các nhu cầu về tinh
thần, nhu cầu hoạt động lao động... sản xuất vật chất càng phát triển thì càng
đòi hỏi phải nâng cao nhân tố con người trong quá trình sản xuất, càng đòi hỏi
ở con người chức năng sáng tạo và luôn đề ra cho lao động những yêu cầu
mới cao hơn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Vậy nên,
lao động bao giờ cũng là nhân tố đầu tiên, cơ bản, là điều kiện không thể thiếu
của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội loài người. Trong quá trình lao
động sản xuất, người lao động luôn nắm giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Họ
7
không những là chủ thể sáng tạo ra của cải vật chất mà còn sáng tạo ra những
yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất xã hội. Trong một quốc gia, một vùng hay
một địa phương cụ thể thì người lao động được thể hiện ở nguồn lao động hay
còn gọi là nguồn nhân lực. Đó là tổng thể toàn bộ thể lực và trí lực của bộ
phận dân cư của đất nước có khả năng về thể chất và tinh thần có thể sử dụng
trong quá trình lao động. Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng hợp thành
tiềm lực của đất nước. Những tiêu chuẩn cơ bản để xếp dân cư vào nguồn
nhân lực là độ tuổi và tình trạng sức khoẻ. Ở Việt Nam, nguồn nhân lực bao
gồm số người trong độ tuổi lao động theo Bộ Luật lao động quy định: Nam từ
15-60 tuổi, Nữ từ 15-55 tuổi có khả năng lao động. Tuy nhiên, không phải
toàn bộ những người thuộc nguồn nhân lực đều tham gia sản xuất xã hội cả
mà cần trừ đi (theo quy ước): những người không có khả năng lao động
(chẳng hạn do tàn tật); những người nội trợ trong gia đình; học sinh sinh viên
đang học; quân đội (do tính chất đặc thù của hoạt động quân sự). Sau khi trừ
đi khỏi nguồn nhân lực bốn bộ phận này số còn lại trong kinh tế gọi là lực
lượng lao động. Lực lượng lao động được thống kê theo hai bộ phận, đó là:
những người có việc làm và những người thất nghiệp, muốn làm việc, đang
tìm việc làm trên thị trường lao động. Đặc trưng của nguồn nhân lực là các
chỉ tiêu về số lượng và chất lượng, cụ thể: chỉ tiêu về số lượng, độ tuổi, trình
độ học vấn, giới tính, số người đang đi học, số người đang làm việc trong nền
kinh tế quốc dân và sự phân bố theo ngành, theo lĩnh vực, lãnh thổ. Mức tăng
nguồn nhân lực là sự chênh lệch giữa số dân cư đến độ tuổi lao động (15 tuổi)
và số dân cư đến độ tuổi nghỉ hưu (nam 60, nữ 55 tuổi). Để đánh giá nguồn
nhân lực người ta thường dùng các chỉ tiêu về trình độ văn hoá, chuyên môn
kỹ thuật, mức độ lành nghề, kinh nghiệm thực tiễn, trình độ quản lý, phong
cách làm việc và sức khoẻ. Trong những điều kiện lịch sử nhất định và cho
8
đến nay lao động là phương tiện để sinh sống, là nguồn gốc chân chính của
thu nhập, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Trong thực tiễn, không phải thiếu lao động mà là thiếu việc làm. Việc
làm chỉ là cái vỏ xã hội, cái khung pháp lý mà trong đó lao động được diễn ra.
Trong xã hội có giai cấp thì xã hội chịu sự chi phối bởi lợi ích của giai cấp
thống trị và hệ thống pháp luật dựa trên cơ sở lợi ích của giai cấp đó hoạch
định. Do đó, lao động thuộc về nhu cầu vô hạn của con người như là một cơ
sở đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển xã hội, còn việc làm lại là phạm trù
giới hạn và bị lợi ích giai cấp chi phối. Trong thực tiễn, vì lợi ích kinh tế
những giai cấp nắm trong tay các vật chất của lao động (đối tượng lao động,
tư liệu lao động) có thể thu hút nhanh chóng những khối lượng lớn sức lao
động vào các quá trình sản xuất nhưng cũng vì lợi ích kinh tế của giai cấp họ
sẵn sàng sa thải hàng loạt người lao động, nên việc làm của xã hội bị thu hẹp.
Bởi lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, quá trình đó chỉ có thể diễn ra
khi đã được giả định những tiền đề vật chất cho quá trình đó đã đầy đủ. Trên
bình diện một quốc gia cụ thể thì quá trình lao động sản xuất (việc làm) của bộ
phận dân cư có sức lao động lại được giả định trên cơ sở số lượng việc làm. Do
đó, việc làm không chỉ diễn ra trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
mà cả mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất,
trong đó liên quan đến các lợi ích kinh tế và pháp luật khi tạo lập đầy đủ các
yếu tố vật chất để quá trình làm việc diễn ra. Việc làm là một trong những vấn
đề có ý nghĩa kinh tế, xã hội, chính trị rất quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc
biệt là đối với những nước đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế như
Việt Nam.
Ở Việt Nam trước đây (trước 1980), nền kinh tế vận động theo cơ chế
kế hoạch hoá tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Trong cơ
chế này chúng ta thường quan niệm người lao động được coi là có việc làm
9
và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong các cơ quan nhà
nước, trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Từ khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đến nay, quan niệm về
việc làm đã có sự thay đổi một cách căn bản. Theo điều 13 chương II của Bộ
Luật lao động của nước Cộng hoà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định: " Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật
cấm đều được thừa nhận là việc làm" [9, tr. 15].
Theo quy định này việc làm bao gồm hai yếu tố: lao động tạo ra thu
nhập và không bị pháp luật cấm. Như vậy, quan niệm mới về việc làm được
quy định trong Bộ Luật lao động đã xoá bỏ quan niệm cũ về việc làm khi cho
rằng việc làm chỉ có trong khu vực nhà nước, xoá bỏ sự phân biệt đối xử lao
động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo nhiều
việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, quan niệm mới về việc làm còn
thể hiện rõ đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam ở chỗ: cho phép
công dân Việt Nam được làm những việc mà pháp luật không cấm. Ví dụ:
nghề giúp việc gia đình, nghề thu gom rác thải phế liệu.. là những nghề mà
trước đây chưa được xã hội tôn trọng và thừa nhận, thì nay đã trở thành việc
làm đáng được khuyến khích và được pháp luật bảo vệ. Ngược lại, Bộ Luật
lao động cũng quy định rõ mọi công dân không được làm những việc mà pháp
luật cấm như: buôn lậu, mãi dâm, buôn bán ma tuý, vũ khí... Với quan niệm
việc làm như vậy sẽ làm cho nội dung của việc làm được mở rộng tạo tiền đề
để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau, đồng thời ngăn chặn những việc làm phi
pháp nảy sinh trong điều kiện kinh tế mở.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tạo môi trường và các điều kiện
thuận lợi để các ngành kinh tế, các hình thức kinh tế, các vùng kinh tế phát
triển, trên cơ sở đó đã góp phần tạo thêm nhiều việc làm mới đáp ứng yêu cầu
10
về việc làm, từng bước ổn định và nâng cao đời sống của người lao động,
song trong điều kiện phát triển nền kinh tế xã hội hiện nay, ở nước ta hiện
tượng thiếu việc làm, thất nghiệp dưới những hình thức khác nhau đã và đang
còn tồn tại. Hiện tượng này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình kinh tế
- xã hội của cả nước nói chung và của từng địa phương nói riêng, điều đó đòi
hỏi Nhà nước, các cơ quan chức năng và người lao động cần phải quan tâm
giải quyết. Cần thiết phải thống nhất các khái niệm thiếu việc làm, thất
nghiệp.
Thiếu việc làm có những hình thức và nguyên nhân khác so với thất
nghiệp. Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hay thất nghiệp trá hình
là hiện tượng người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình mong muốn.
Như vậy, người thiếu việc làm là người không có đủ việc làm theo thời gian
quy định trong tuần, trong tháng hoặc là làm những công việc có thu nhập
quá thấp, không đảm bảo cuộc sống nên có nhu cầu làm việc thêm để có
thêm thu nhập.
Thất nghiệp là hiện tượng, phạm trù kinh tế gắn với trạng thái tâm lý
xã hội căng thẳng của những người lao động, trong đó, khả năng vận dụng
thần kinh và bắp thịt của họ bị kìm giữ bởi thiếu các điều kiện vật chất, điều
kiện pháp lí cho lao động diễn ra bất chấp nguyện vọng mong muốn làm
việc của họ.
Có nhiều loại thất nghiệp: thất nghiệp tạm thời là thất nghiệp phát sinh
do người lao động muốn có thời gian để tìm việc làm thích hợp với chuyên
môn và sở thích của mình; thất nghiệp cơ cấu là thất nghiệp xuất hiện khi
không có sự đồng bộ giữa kỹ năng, trình độ của người lao động với cơ hội
việc làm do cầu lao động và sản xuất thay đổi; thất nghiệp do thiếu cầu là thất
nghiệp khi tổng cầu của nền kinh tế giảm, kéo theo giảm cầu về lao động mà
tiền lương và giá cả chưa kịp điều chỉnh; thất nghiệp theo mùa vụ là thất
11
nghiệp do cầu lao động dao động, giảm thường vào những thời kì nhất định
trong năm; thất nghiệp chu kỳ là thất nghiệp gắn liền với sự suy giảm theo
thời kỳ của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp được xem là một trong những
thước đo thành tựu nền kinh tế ở tầm vĩ mô, là vấn đề trung tâm trong nền
kinh tế được toàn xã hội quan tâm. Khi thất nghiệp cao, về mặt kinh tế tài
nguyên bị lãng phí, thu nhập bị giảm sút, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực
tế thấp hơn mức tiềm năng của nó, mức thất nghiệp cao làm giảm sản lượng
của nền kinh tế, về mặt xã hội thất nghiệp tác động mạnh đến xã hội và tâm lý
người lao động làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội gia tăng.
1.1.2. Ý nghĩa của vấn đề giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa kinh tế, chính trị -
xã hội rất quan trọng trong từng đơn vị kinh tế ở cơ sở cũng như trên phạm vi
toàn quốc. Giải quyết việc làm được thực hiện thông qua các biện pháp về
kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động có nhu
cầu làm việc đều có được việc làm. Giải quyết việc làm là một vấn đề có tính
chất liên ngành, mang tính chất tổng hợp trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Làm tốt công tác giải quyết việc làm sẽ góp phần phát
triển sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói, giảm nghèo, tăng
tích luỹ nội bộ nền kinh tế, hạn chế tệ nạn xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu
vực thành thị, nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn,
đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế. Giải
quyết việc làm cho người có nhu cầu làm việc sẽ góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân, ổn định chính trị xã hội, đảm bảo công bằng,
dân chủ, văn minh.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
12
Nếu trừu tượng hoá các mối quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình lao động sản xuất và chỉ xét việc làm như một tổng thể các
điều kiện vật chất, các điều kiện pháp lý để trong đó quá trình lao động có thể
được diễn ra thì việc làm chịu sự chi phối bởi các nhân tố sau:
1.2.1. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản
xuất, kinh doanh. Việt Nam là đất nước có nguồn tài nguyên phong phú và đa
dạng, là điều kiện thuận lợi để chúng ta mở mang, phát triển các ngành nghề,
tạo việc làm cho người lao động.
Ở Việt Nam, tài nguyên thiên nhiên được phân bố ở hầu khắp các tỉnh,
tính đa dạng thể hiện ở chủng loại, số lượng, chất lượng tài nguyên như: tài
nguyên khoáng sản: vàng, đá quý, than đá, dầu khí, thiếc, mănggan, titan..;
tài nguyên biển phong phú với trữ lượng lớn về cá, tôm và hải sản có giá trị
kinh tế cao; tài nguyên rừng với các loại cây, gỗ quý, nơi lưu giữ các nguồn
ghen quý về động, thực vật; tài nguyên đất đai; khí hậu.. thuận lợi và dễ khai
thác để có thể phát triển các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
công nghiệp, thương mại và dịch vụ phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời
sống của nhân dân. Tài nguyên thiên nhiên là lợi thế so sánh để Việt Nam
phát triển kinh tế.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang ở giai đoạn chuyển đổi và phát
triển, trong giai đoạn này vai trò của tài nguyên thiên nhiên đối với phát triển
kinh tế càng thể hiện rõ. Do điểm xuất phát thấp, công nghệ mà chúng ta sử
dụng chủ yếu là công nghệ khai thác và chế biến tài nguyên. Vậy nên, để đảm
bảo phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động vấn đề đặt ra là cần
phải khai thác, sử dụng tài nguyên như thế nào?.
13
Thực tế cho thấy, Ở Việt Nam hiện nay tình trạng khai thác tài nguyên
đang diễn ra hết sức phức tạp, khó quản lý gây thất thoát, lãng phí tài nguyên
nghiêm trọng: nạn chặt phá rừng, đốt rừng làm rẫy, nạn đánh bắt thuỷ, hải sản
bằng thuốc nổ, nạn khai thác khoáng sản (than đá, vàng, đá quý, thiếc...) bừa
bãi làm suy giảm, cạn kiệt tài nguyên.
Đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững mà trong đó vấn đề khai thác, sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Cần tiết kiệm và tiết chế sử dụng những tài nguyên không tái tạo được, khai
thác sử dụng hợp lý các tài nguyên có thể tái tạo (tài nguyên biển, tài nguyên
đất đai, tài nguyên rừng) từ những dạng tài nguyên này nếu sử dụng hợp lý
chúng ta có thể mở rộng sản xuất, phát triển đa dạng các ngành nghề liên
quan, thu hút lao động, tạo thêm nhiều việc làm, chống thất nghiệp. Muốn
vậy, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên đặc biệt là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng, xử
lý nghiêm minh những hành vi khai thác bất hợp lý, gây thất thoát, lãng phí
tài nguyên.
- Tăng cường công tác giáo dục người dân có ý thức bảo vệ và tái tạo
tài nguyên đặc biệt là tài nguyên rừng.
- Khuyến khích nhân dân mở mang các ngành nghề để khai thác tận
dụng tài nguyên như: tận dụng mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản, khai thác hợp
lý tài nguyên biển, khoáng sản, mở rộng diện tích đất trồng trọt, đặc biệt là
phủ xanh đất trống đồi núi trọc, tận dụng các danh lam thắng cảnh để phát
triển ngành du lịch, dịch vụ.
1.2.2. Máy móc thiết bị
Máy móc thiết bị là tư liệu sản xuất, là yếu tố cơ bản của quá trình sản
xuất. Theo C. Mác, vấn đề chủ yếu ở đây là vấn đề giới hạn kinh tế hay điều
14
kiện kinh tế của việc áp dụng máy móc. Máy móc nâng cao năng suất lao
động (bởi nó làm giảm số lượng lao động xã hội cần thiết hao phí vào việc
sản xuất một đơn vị sản phẩm). Tuy nhiên, máy móc lại đòi hỏi phải hao phí
lao động để tạo ra nó. Do đó, nếu lao động do máy móc tiết kiệm được bằng
số lao động cần thiết để sản xuất máy móc đó thì như Mác nói: trong trường
hợp này, lao động chỉ đổi chỗ thôi, nghĩa là tổng số lao động cần thiết để sản
xuất một hàng hoá không giảm bớt, hay năng suất lao động không tăng lên.
Trong điều kiện như vậy việc áp dụng máy móc có sự khác nhau về mặt kinh
tế: lao động được giảm bớt trong phạm vi này nhưng lại bị chuyển sang phạm
vi khác.
Dưới chủ nghĩa tư bản, máy móc tạo ra khả năng sử dụng rộng rãi lao
động trẻ em và lao động phụ nữ làm cho giá trị của sức lao động giảm xuống
"..bằng cách ném tất cả mọi thành viên gia đình người công nhân vào thị
trường lao động, máy móc cũng phân phối giá trị sức lao động của đàn ông
cho toàn thể gia đình người đó” [32, tr. 569]. Nói cách khác, việc thu hút lao
động phụ nữ và lao động trẻ em là một nguồn mới để sản xuất giá trị thặng dư
tương đối. Ở đây, việc thu hút được giá trị thặng dư tương đối không phải do
nâng cao năng suất lao động mà là do nâng cao trình độ bóc lột. Nếu gạt bỏ
bản chất tư bản chủ nghĩa của nó mà chỉ xét máy móc thiết bị như là một điều
kiện vật chất tiên quyết cho việc tạo lập ra những khối lượng lớn việc làm cho
người lao động, thì việc sử dụng máy móc là cơ sở để thiết lập ra các xí
nghiệp vừa và nhỏ đồng thời là cơ sở để nâng cao năng suất lao động tạo ra
thu nhập và việc làm cho người lao động Việt Nam trong khi, điền kiện ứng
dụng những công nghệ tiên tiến nhất còn thiếu.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ
sở vật chất, kỹ thuật yếu kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển,
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa được hoàn thiện. Vì vậy, quá trình
15
công nghiệp hoá chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền
kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay được coi
là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình đổi mới trang thiết bị máy
móc theo hướng hiện đại để phục vụ cho quá trình sản xuất nhắm đạt năng
suất, chất lượng và hiệu quả cao trên phương pháp sản xuất công nghiệp.
Đồng thời phát triển các ngành công nghệ cao dựa trên các thành tựu mới nhất
của khoa học hiện đại như: công nghệ sinh học, công nghệ tin học, công nghệ
gia công chính xác trong chế tạo máy, tự động hoá với năng lượng mới, vật
liệu mới. Với lĩnh vực lao động việc làm, sự phát triển của khoa học công
nghệ mang lại nhiều cơ hội để con người phát huy khả năng của mình, nhưng
đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức. Kinh nghiệm của các nước phát
triển cho thấy, sức lao động rẻ và dư thừa (như Việt Nam) bị mất dần ưu thế.
Xu hướng hiện nay là tăng lao động khoa học kỹ thuật, tri thức, phi sản xuất
trực tiếp, giảm lao động giản đơn, kỷ năng thấp. Như vậy, trong xã hội hiện
đại chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình tìm
kiếm việc làm. Các quốc gia không lường trước được hiện tượng này của sự
phát triển khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối trong
nguồn nhân lực và xu hướng chắc chắn sẽ xẩy ra khi phát triển khoa học công
nghệ là sự gia tăng thất nghiệp của đội ngũ công nhân không lành nghề. Do
đó, để phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào các lĩnh vực của đời
sống cần phải quan tâm giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực để họ chủ động nắm
bắt khoa học công nghệ, vận hành tốt các trang thiết bị tiên tiến, có như vậy
việc ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ mới thực sự đạt hiệu quả.
Để thực hiện mục tiêu này, trước hết cần có những biện pháp nhằm tăng
cường năng lực thể chế của các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực lao động -
việc làm. Thực hiện có hiệu quả chương trình việc làm quốc gia thông qua
16
nhiều hoạt động: đào tạo nghề cho người lao động, khuyến khích phát triển
kinh tế tư nhân, khuyến khích ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất, tăng
đầu tư cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá một số trường dạy nghề, khuyến khích phát
triển hệ thống trường lớp dạy nghề dân lập và tư thục.
1.2.3. Dân số và tỷ lệ tăng dân số
Dân số, lao động và việc làm là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Mức gia tăng dân số càng nhanh thì nguồn lao động trong tương lai
cũng tăng nhanh, đồng thời nó sẽ tạo ra áp lực lớn đến giải quyết việc làm
dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Gia tăng dân số nhanh sẽ buộc xã hội phải
chi trả nhiều hơn cho mục đích tiêu dùng, đầu tư ít cho sản xuất và phát triển
nhất là cho phát triển nguồn nhân lực. Quy mô nguồn nhân lực lớn mà cơ hội
việc làm ở nông thôn thấp sẽ dẫn đến tình trạng di dân từ nông thôn ra thành
thị vì mục đích kiếm sống mà lực lượng chủ yếu là lao động trẻ, khoẻ, có vốn
kiến thức khá nhất ở nông thôn, dẫn đến hậu quả là ở nông thôn bị mất đi
nguồn nhân lực có sức khoẻ, có khả năng tiếp thu những tri thức mới cần thiết
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Nhưng
tại thành thị, lực lượng lao động này cũng khó có thể cạnh tranh để tìm kiếm
cơ hội việc làm trong khu vực kinh tế hiện đại, bởi họ hầu hết chỉ là lao động
phổ thông, phần lớn chưa qua đào tạo nghề nên chủ yếu gia nhập khu vực phi
kết cấu gây nên sự lãng phí trong sử dụng sức lao động của bộ phận lao động
này. Mặt khác, lao động ở nông thôn di cư lên thành thị sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong sinh hoạt như vệ sinh, nhà ở, y tế... Đó là chưa kể đến số dân di cư
theo mùa vụ, hình thành nên các chợ lao động làm phức tạp cho công tác quản
lý đô thị, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, cờ bạc, ma tuý, lây
nhiễm HIV, AIDS...
Dân số tăng nhanh sẽ làm cho đất nước khó khăn trong việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Đầu tư vào lớp trẻ thấp, chất lượng tương lai của
17
nguồn nhân lực thấp, khó có khả năng đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng
của những người trong độ tuổi lao động. Kinh nghiệm và tri thức của người
lao động cao tuổi cũng khó được phát huy bởi phải nhường chỗ cho lớp trẻ.
Đất nước luôn ở tình trạng vận dụng các giải pháp tình thế để giải quyết lao
động dôi dư mà giải pháp cho về nghỉ trước tuổi luôn là giải pháp đầu tiên
được nghĩ đến.
Bên cạnh đó, gia tăng dân số nhanh cùng với việc phân bố dân cư
bất hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng chung là không gắn lao động với đất đai,
tài nguyên, không gắn lao động với cơ sở vật chất kỹ thuật khiến cho
việc tạo việc làm khó khăn, thất nghiệp và thiếu việc làm tiếp tục có xu
hướng tăng nhanh khiến cho nghèo đói sinh sôi và tồn tại dai dẳng.
Nước ta từ khi thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu
kinh tế - xã hội đáng kể. Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số trong quá khứ
nhanh nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ gia
tăng của nguồn nhân lực không tương thích với tốc độ tạo việc làm trong nền
kinh tế. Thời kỳ 1979 - 1989 tỷ lệ tăng nguồn lao động bình quân hàng năm là
3,03% nhưng tỷ lệ tăng việc làm chỉ là 2,6%, còn của thời kỳ 1989 - 1999 là
2,71% và 2,34%, thời kỳ 1999-2004 chúng ta giải quyết được hơn 6,5 triệu
việc làm. Trên thực tế, số người bước vào tuổi lao động hàng năm vẫn lớn
hơn nhiều so với chỗ làm việc mà chúng ta có thể tạo ra. Đó là một sức ép
lớn, ngoài ra còn phải kể đến sức ép của số lao động bị mất việc làm do tác
động của khủng hoảng kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, của
sức cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế nước ta. Theo điều tra của Bộ lao
động thương binh và xã hội cho thấy tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
năm 2000 là 6,34% năm 2004 là 6,68%, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở
khu vực nông thôn thấp (dưới 80%). Số liệu thống kê và dự báo dân số còn
cho thấy năm 1990 số người trong độ tuổi lao động mới là 35,7 triệu người,
18
năm 2000 đã là 46,5 triệu người và dự đoán đến năm 2015 con số này sẽ lên
tới 62 triệu người. So với năm 1990 năm 2015 sẽ có thêm 26 triệu người
trong độ tuổi lao động. Đây chính là bài toán khó mà chúng ta phải giải quyết
để tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước.
1.2.4 Thị trƣờng hàng hoá sức lao động
Thị trường hàng hoá sức lao động là toàn bộ các quan hệ kinh tế hình
thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Trên thị trường lao động mức cung,
cầu về lao động ảnh hưởng đến tiền công lao động và sự thay đổi mức tiền
công cũng ảnh hưởng tới cung, cầu về lao động. Đối tượng tham gia thị
trường lao động bao gồm: những người cần thuê và đang sử dụng sức lao
động của người khác; những người có nhu cầu đi làm thuê hoặc đang làm việc
cho người khác bằng sức lao động của mình để nhận được một khoản tiền
công.
Cung về lao động là khối lượng lao động sẵn sàng được sử dụng, đó là
toàn bộ khối lượng thời gian mà những người lao động có khả năng và sẵn
sàng làm việc với những mức tiền công khác nhau trong một thời gian nhất
định. Cung về lao động phụ thuộc các yếu tố sau:
Số người tham gia lực lượng lao động xã hội.
Mức tiền công thực tế nhận được.
Mối quan hệ lợi ích giữa thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi.
Mức sống của dân cư.
Trình độ phát triển, phong tục tập quán.
Cầu về lao động là số lượng sức lao động mà các chủ doanh nghiệp có khả
năng thuê với các mức tiền công khác nhau trong một thời gian nhất định.
Cầu về lao động bị chi phối bởi các yếu tố:
Cầu về hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.
Tiền công lao động.
19
Các yếu tố về kỹ thuật công nghệ (trình độ nghề nghiệp của người lao động).
Mức độ của ưu tiên đầu tư theo các ngành, vùng.
Quan hệ cung - cầu về lao động chịu sự tác động của nhiều yếu tố trong đó
quan trọng nhất là các yếu tố sau:
+ Khả năng phát triển thị trường để thu hút lao động (mở rộng cầu về lao
động), yếu tố này phụ thuộc vào mô hình và cơ cấu kinh tế: phát triển các
ngành, đặc biệt là các ngành sử dụng nhiều lao động; phát triển các vùng mà
trước hết là các vùng nông thôn có tiềm năng tạo việc làm thu hút được nhiều
lao động; phát triển các thành phần kinh tế và sự đan xen giữa các thành phần
kinh tế; phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và mối
liên kết giữa chúng; mở rộng không gian kinh tế (trong nước và ngoài nước).
+ Sự phù hợp giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế (việc làm) về không gian
và thời gian, vấn đề chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
+ Sự phát triển của nguồn nhân lực: sự cung ứng sức lao động vào thị trường
lao động hàng năm, sự tồn đọng của lao động chưa có việc làm (thất nghiệp)
trong một thời điểm nhất định, mức độ căng thẳng hay sức ép về việc làm..
+ Khả năng tổ chức thị trường lao động đặc biệt là sự phát triển các tổ
chức xúc tiến việc làm, dịch vụ việc làm.
Ở nước ta hiện nay, quan hệ cung - cầu về lao động trên thị trường lao
động được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, trên phạm vi cả nước cung về lao động luôn lớn hơn cầu về
lao động và tình trạng này còn tiếp tục kéo dài trong nhiều năm tới dẫn đến
sức ép rất lớn về việc làm. Ở đây, chủ yếu xét đến khả năng phát triển việc
làm còn rất hạn chế trong khi khả năng tạo việc làm trong nền kinh tế còn rất
lớn. Sở dĩ chúng ta rơi vào tình trạng này là do xuất phát điểm thấp, nền kinh
tế thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng, cơ cấu kinh tế đang trong quá trình chuyển
dịch nhưng quá trình chuyển dịch diễn ra chậm chạp và khó khăn.
20
Thứ hai, cung lao động lớn hơn cầu lao động còn được xem xét về mặt
tăng cung lao động hàng năm với tỷ lệ còn cao, tỷ lệ tăng bình quân năm của
nguồn nhân lực qua nhiều năm, đều lớn hơn tỷ lệ tăng dân số.
Bảng 1.1: Tỷ lệ tăng bình quân năm của dân số và nguồn nhân lực
ở Việt Nam [39, tr. 18].
Tỷ lệ tăng hàng năm của dân
Tỷ lệ tăng hàng năm của
Thời kỳ
số
nguồn nhân lực
1975-1980
2,45
3,47
1980-1990
2,25
3,20
1991-1994
2,30
2,80
1995-2000
1,80
2,05
2000-2005
1,50
2,05
Đơn vị tính: %
Do đó, cả về quy mô và tỷ lệ tăng của nguồn nhân lực đang tạo ra
sức ép mạnh đối với nền kinh tế, đặc biệt là công tác tạo việc làm cho
người lao động.
Thứ ba, lao động nông thôn chiếm hơn 80% lao động của cả nước, nếu
chỉ làm thuần nông, lao động thiếu hoặc không có việc làm lên đến 30%. Số
lao động này sẽ tự do di chuyển ra thành phố hoặc khu công nghiệp tập trung
để tìm kiếm việc làm và sẽ làm cho cung về lao động trên thị trường lao động
ở thành thị càng lớn. Mặt khác, số lao động này hầu hết chỉ là lao động phổ
thông lại chưa qua đào tạo nghề nên gặp nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc
làm. Thị trường lao động luôn thiếu đội ngũ lao động có trình độ cao, công
nhân lành nghề để làm việc trong một số ngành, lĩnh vực áp dụng công nghệ
mới hoặc trong các khu chế xuất, các đơn vị kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
21
Thứ tư, quan hệ về cung - cầu lao động trên thị trường lao động còn
căng thẳng về mặt cơ cấu. Điều này thể hiện ở chỗ: một số ngành, một số lĩnh
vực tiềm năng còn lớn, có khả năng tạo nhiều cơ hội việc làm, thu hút nhiều
lao động, nhưng chưa tạo ra được những điều kiện về vốn, hạ tầng cơ sở, kỹ
thuật - công nghệ, kinh nghiệm quản lý... để biến những khả năng thành hiện
thực như các ngành công nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ.
Bên cạnh những biểu hiện nêu trên, hiện nay trên thị trường lao động
tồn tại xu hướng thừa lao động ở một số lĩnh vực đặt biệt là khu vực kinh tế
nhà nước (lao động trong khu vực kinh tế nhà nước do cải cách hành chính và
sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã giảm từ 14,7% năm 1991 giảm xuống
còn 9% năm 2000). Song, lại xuất hiện thêm một số lĩnh vực và hình thức
kinh doanh mới đang có nhiều khả năng thu hút nhiều lao động như kinh tế hộ
gia đình, kinh tế trang trại, khu vực phi kết cấu, doanh nghiệp nhỏ. Đó là
những tín hiệu đáng mừng, tuy nhiên Nhà nước cần có chính sách thoả đáng
để khuyến khích các tổ chức, cá nhân tạo điều kiện để họ mở rộng sản xuất,
tạo việc làm cho người lao động.
1.2.5. Cơ chế chính sách của Nhà nƣớc về vấn đề lao động việc làm
Cơ chế chính sách của Nhà nước, của chính quyền địa phương và các
quy định của doanh nghiệp là những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến
quá trình tạo việc làm cho người lao động. Những chính sách của Chính
phủ là hành trang pháp lý cho quá trình phát triển sản xuất, kinh doanh mở
rộng hoặc thu hẹp việc làm ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ngành này
hay ngành khác, tạo môi trường để người chủ sử dụng lao động và người
lao động cùng thực hiện.
Trong những năm đầu của thời kì đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội
nước ta gặp nhiều khó khăn, đất nước chưa thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh
tế, tình hình lao động - việc làm trở thành vấn đề xã hội gay gắt, quan hệ đến
22
từng gia đình, là mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Trước
tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới bằng hệ thống
các chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, điều đó đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi và nhân tố mới để đa dạng hoá
các ngành, các hình thức kinh tế, các vùng kinh tế phát triển lên và tạo thêm
nhiều việc làm mới, đáp ứng từng bước yêu cầu làm việc, tạo thu nhập nâng
cao đời sống của người lao động, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Chủ trương về tạo việc làm đã được chỉ rõ trong các Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc, Văn kiện Đại hội VIII ghi: "Khuyến khích mọi thành phần
kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc
làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn
nhân công theo pháp luật, phát triển dịch vụ việc làm" [23, tr. 114,115]; Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX nhận định : "Giải quyết việc làm là yếu tố
quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm
lành mạnh xã hội đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của
nhân dân" [24, tr. 110].
Việc nhận thức đúng và đầy đủ về vấn đề lao động - việc làm đã mở ra
những cơ hội mới.
Đối với người lao động, cơ hội lựa chọn việc làm ngày càng được mở
rộng. Từ chỗ thụ động, trông chờ sự sắp xếp bố trí công việc của Nhà nước,
người lao động trở nên năng động, tự chủ hơn, chủ động tự tạo việc làm và
tìm kiếm việc làm trong các thành phần kinh tế. Các quan hệ lao động - việc
làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự do phát huy năng lực của mình,
được giải phóng khỏi khuôn phép của cơ chế cũ, tự chủ hơn trong tìm kiếm việc
làm.
Người sử dụng lao động, được khuyến khích làm giàu hợp pháp, được
hỗ trợ bởi chính sách của Nhà nước, địa phương nên đã mạnh dạn đầu tư mở
23
rộng sản xuất, tạo việc làm. Khu vực kinh tế tư nhân, phi kết cấu được thừa
nhận và khuyến khích phát triển, mở ra khả năng to lớn để tăng khối lượng
việc làm.
Đối với Nhà nước, vai trò trong giải quyết việc làm được thay đổi căn
bản, thay vì bao cấp như trước, Nhà nước tập trung vào việc tạo ra cơ chế,
chính sách thông thoáng, tạo hành lang pháp lý, xoá bỏ rào cản về hành chính,
cải cách hành chính, tạo điều kiện vật chất đảm bảo cho mọi tổ chức, cá nhân
được tự do đầu tư phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, tự do hành nghề hợp
pháp và thuê mướn lao động. Từng bước hình thành cơ chế phân bổ lao động
theo các quy luật của thị trường lao động, đổi mới cơ chế và chính sách xuất
khẩu lao động.
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là
Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động
tự tạo việc làm thông qua những chính sách cụ thể. Có thể có rất nhiều chính
sách tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành một hệ
thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, hướng vào
phát triển cả cung và cầu lao động, đồng thời làm cho quan hệ giữa cung lao
động và cầu lao động phù hợp với nhau. Trong những năm qua, Nhà nước đã
chuyển hẳn từ cơ chế quản lý hành chính về lao động sang cơ chế thị trường,
cùng với việc triển khai và thực hiện nhất quán Bộ Luật lao động đã góp phần
quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước và ổn định xã hội. Từng bước
hoàn thiện hệ thống pháp luật: Luật đầu tư nước ngoài, Luật đất đai, Luật
doanh nghiệp... đã thúc đẩy các yếu tố của thị trường lao động, mở ra tiềm
năng mới giải phóng các tiềm năng lao động và tạo mở việc làm. Đồng thời,
với các cải tiến trong quản lý hành chính, hộ khẩu, hoàn thiện chính sách bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tách chính sách tiền lương, thu nhập khỏi chính
sách xã hội... đã góp phần tăng tính cơ động của lao động. Phát triển hệ thống
24
giáo dục - đào tạo và dịch vụ việc làm nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó
Nhà nước cần bổ sung và hoàn thiện một số chính sách vĩ mô như:
- Chính sách huy động vốn
- Chính sách đất đai
- Chính sách thuế
- Chính sách đầu tư…
1.3. KINH NGHIỆM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG Ở MỘT
SỐ ĐỊA PHƢƠNG TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC
1.3.1. Kinh nghiệm của một số địa phƣơng trong nƣớc
1.3.1.1. Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội
Hà Nội là thành phố nằm ở trung tâm của đồng bằng bắc bộ. Theo cục thống kê Hà Nội, năm 2000, Hà Nội có diện tích 920,97 km2 gồm 220 phường xã, 8 thị trấn, mật độ dân số bình quân 2.993 người/ km2, nội thành là 17.469 người/ km2, ngoài thành 1.533 người/ km2. Dân số Hà Nội là 2.743.700 người, với cơ cấu dân
số trẻ, lực lượng lao động thường chiếm hơn 50% dân số trung bình. Năm 2000 lực
lượng lao động của thành phố Hà Nội là: 1.353.518 người, chiếm 49,49%.
Trong giai đoạn 1996 - 2001 tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động
trong độ tuổi ở Hà Nội luôn ở mức cao hơn so với cả nước.
Bảng 1.2: Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi ở khu vực thành thị
Đơn vị tính: %
Năm Tỷ lệ Nơi cao nhất: Hà Nội
1998 6,85 9,09
1999 7,40 10,31
2000 6,34 7,95
2001 6,28 7,39
25
Nguồn : Niên giám thống kê 2001, tr. 47
Nguyên nhân của vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm của lực lượng
lao động ở Hà Nội, là do cung lao động vượt quá cầu lao động trên thị trường,
do cơ cấu lực lượng lao động hiện có không phù hợp với cơ cấu kinh tế theo
yêu cầu của phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, do tinh giảm biên chế và
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nên lực lượng lao động bị dôi dư.
Trước tình hình đó, Hà Nội đã đề ra những giải pháp cụ thể:
1. Phát huy các ngành nghề phù hợp trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá phát huy ưu thế của người lao động.
Phát triển công nghiệp, với phấn đấu của thành phố năm 2004 sẽ thu
hút 3,5 vạn lao động vào làm việc, phát triển tiểu thủ công nghiệp, các ngành
nghề truyền thống quy mô vừa và nhỏ: dệt Yên Thái, gốm sứ Bát Tràng, vàng
Định Công, đúc đồng Ngũ Xá..., phát triển mạnh các loại dịch vụ chất lượng
cao phục vụ công nghiệp hoá và đời sống như: du lịch, thương mại; phát triển
nông nghiệp dựa vào thế mạnh của Hà Nội.
2. Đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Hà Nội đáp ứng nhu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát huy vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng và ban hành, hướng
dẫn thực hiện các chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện các cấp học tạo tiền đề cho đào
tạo nghề, chuyên môn nghiệp vụ của lao động thủ đô.
Thực hiện các giải pháp cụ thể trong đào tạo nghề và phát triển
nguồn nhân lực của từng ngành, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tăng cường đào tạo và phát triển lao động quản lý, chủ doanh nghiệp.
3. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động - đây là một trong những giải pháp
được nhiều nước trên thế giới quan tâm và khai thác tối đa. Trên địa bàn Hà
26
Nội hiện nay có nhiều đơn vị có chức năng xuất khẩu lao động hoạt động có
hiệu quả, giữ uy tín, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu lao động
của Việt Nam ở nước ngoài. Vì vậy, trong công tác xuất khẩu lao động doanh
nghiệp xuất khẩu lao động không chỉ có trách nhiệm trong đào tạo ngoại ngữ,
tay nghề cho người lao động mà còn có trách nhiệm quan tâm, bảo vệ người
lao động khi họ gặp tai nạn, rủi ro.
4. Tăng cường hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động.
Xác định hệ thống thông tin thị trường lao động đóng vai trò quan trọng đối
với người lao động cũng như các nhà hoạch định chính sách và cả các chủ sử
dụng lao động. Trong những năm qua, Hà Nội đã đẩy mạnh hoạt động thông
tin thị trường lao động bằng việc tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng
hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm cũng như phát huy vai trò và sự
phối hợp của Sở lao động Thương binh và Xã hội của thành phố Hà Nội, các
trường Đại học và các tổ chức khác để tổ chức các hội chợ việc làm, ngày hội
lao động... tạo cơ hội cho người lao động tiếp cận với chủ sử dụng lao động.
5. Tạo điều kiện cho người lao động tự tạo việc làm trong các
ngành nghề thuộc khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, đặc biệt là khu vực
phi chính thức.
Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước nói chung, khu vực kinh tế phi chính
thức nói riêng có sự đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của thành phố Hà Nội. Hà Nội đặt ra vấn đề tiếp tục nâng cao nhận thức
về tự tạo việc làm trong khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, nhất là khu vực phi
chính thức, thừa nhận sự tồn tại khách quan của khu vực này xem nó là một
bộ phận hợp thành của nền kinh tế đang phát triển, có vai trò to lớn trong giải
quyết việc làm cho người lao động ở Hà Nội.
6. Giải quyết việc làm cho người lao động ở Hà Nội qua chương trình
quốc gia xúc tiến việc làm.
27
Trong những năm qua, Hà Nội đã triển khai có hiệu quả sức mạnh của
nguồn vốn góp phần tạo nên việc làm cho người lao động. Từ năm 1995 -
2003 tổng số vốn vay quỹ quốc gia giải quyết việc làm của Hà Nội là 151.635
triệu đồng, giải quyết việc làm cho 64.582 người.
Bên cạnh đó, các trung tâm dịch vụ việc làm cũng đóng vai trò quan
trọng đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Các trung tâm
phần lớn vừa dạy nghề, vừa hoạt động tư vấn, giới thiệu và cung ứng lao
động, gắn đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho người lao động.
Từ những giải pháp đó, thời gian từ năm 2000 – 2005 mỗi năm Hà Nội
giải quyết việc làm cho khoảng 70.000 lao động, thu nhập của người lao động
luôn duy trì ở mức khá, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 0,3%.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Đà Nẵng Đà Nẵng có diện tích tự nhiên 1.256 km2, dân số gần 700.000 người. Đà
Nẵng có vị trí địa lý khá thuận lợi, có tiềm năng phát triển nhanh chóng và toàn
diện về kinh tế - xã hội. Năm 1997, Đà Nẵng được tách ra thành đơn vị hành
chính trực thuộc Trung ương, đây là thời điểm thành phố gặp những khó khăn
thách thức: kinh tế tăng trưởng chưa cao, cơ sở hạ tầng yếu kém, tỷ lệ hộ đói
nghèo cao với 8,79%, số người thất nghiệp và thiếu việc làm còn lớn với
5,87%.
Trước tình hình đó Đà Nẵng đã đề ra những giải pháp tạo việc làm cho
người lao động:
1. Đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động, đây là giải
pháp cơ bản. Sau nhiều năm triển khai thực hiện công tác đào tạo nghề đến
năm 2002, ở Đà Nẵng đã hình thành một hệ thống cơ sở dạy nghề gồm 12
trường THCN, CNKT, Cao Đẳng có dạy nghề trong đó 10 trường công lập, 2
trường dân lập và tư thục, 5 trung tâm dịch vụ việc làm, 7 trung tâm dạy nghề
thuộc các hội, đoàn thể, 5 cơ sở doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề, 5 trung
28
tâm dạy nghề tư nhân. Thành phố đã đầu tư kinh phí, thực hiện chương trình
đào tạo nghề miễn phí cho hàng trăm thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự,
con em lao động nghèo, cùng với việc giới thiệu lao động vào làm việc tại các
công ty, xí nghiệp, nhà máy, các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể. Từ năm
1997-2002, Đà Nẵng giải quyết gần 20.000 lượt lao động có việc làm, có thu
nhập ổn định.
2. Huy động nguồn lực tham gia chương trình xoá đói giảm nghèo, giải
quyết việc làm. Năm 2001, Đà Nẵng huy động nguồn lực tham gia thực hiện
chương trình là 133 tỷ đồng, luỹ kế 5 năm (1997-2001) là 661,624 tỷ đồng
bao gồm vốn ngân hàng phục vụ người nghèo, nguồn vốn của thành phố đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn vốn huy động nội lực từ cộng đồng dân cư,
nguồn từ chủ trương kết nghĩa giữa các phường, xã, nguồn viện trợ từ các tổ
chức phi chính phủ.
3. Chuyển giao công nghệ, hướng dẫn kỹ thuật và cách làm ăn. Nâng
cao hiệu quả của nghề và công việc đang làm là một cách làm tạo sự ổn định
việc làm cho lao động của thành phố Đà Nẵng. Từ 1997-2002 Đà Nẵng đã tổ
chức được 112 lớp tập huấn với 6.378 lượt người tham gia.
4. Làm tốt công tác chỉ đạo điều hành
Từ nhận thức chủ trương đến chương trình hành động, kế hoạch, mục
tiêu, nhiệm vụ được xác định cụ thể thông qua việc áp dụng các giải pháp một
cách đồng bộ, tất cả các quá trình chỉ đạo điều hành này thực sự là động lực
quan trọng cho công tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm của thành
phố Đà Nẵng.
5. Tạo cơ chế, chính sách phù hợp
Từ thực tiễn của công cuộc xoá đói giảm nghèo - giải quyết việc làm
trên cơ sở tham mưu, đề xuất của Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo - giải
quyết việc làm của UBND Thành phố Đà Nẵng đã tạo cơ chế phù hợp, bảo
29
đảm chương trình được vận hành tốt. Chủ trương và chính sách đúng đã tác
động đến chương trình, đó là việc phân cấp cho UBND quận, huyện duyệt
mức vay dưới 10 triệu đồng từ Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm, tăng mức vay
lên 5 triệu đồng/ hộ (Trung ương 3 triệu đồng/hộ), thời hạn vay trong 5 năm
(Trung ương 3 năm).
6. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, hội, đoàn thể, mặt trận.
Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo - việc làm, là
chương trình tổng hợp được các ngành, địa phương và các hội, đoàn thể, mặt
trận trên địa bàn thành phố ký kết văn bản liên tịch để triển khai. Thông qua
các hoạt động lồng ghép, chương trình đạt được kết quả về nhiều mặt, vừa tập
hợp được hội viên, đoàn viên vừa mang lại lợi ích kinh tế, nâng cao thu nhập,
cải thiện đời sống nhân dân.
1.3.2. Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở một số quốc gia láng giềng
Để thu hút và sử dụng được lực lượng lao động đông đảo, vấn đề then
chốt là phải tạo thêm nhiều việc làm mới. Về mặt này các quốc gia Đông Á đã
thực hiện tương đối tốt, thông qua nhiều biện pháp và chính sách khác nhau.
Đây chính là những bài học quý đối với chúng ta.
Khối lượng của vốn đầu tư là một trong những nhân tố có ảnh hưởng
mạnh đến tình hình phát triển việc làm. Trong quá trình phát triển, các quốc
gia Đông Á luôn cố gắng duy trì tỷ lệ tích luỹ và đầu tư ở mức cao. Singapore
mỗi năm dành khoảng 40% GNP của mình cho đầu tư. Hàn Quốc từ năm
1970 đến 1980 luôn duy trì mức đầu tư lớn hơn 28% GDP, Đài Loan là
29,6%. Việc duy trì tỷ lệ tích luỹ và đầu tư ở mức cao đã xúc tiến sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đặt cơ sở rộng rãi và vững chắc để mở rộng
phạm vi việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Trong tổng số vốn đầu tư, tiền gửi tiết kiệm là nguồn đầu tư chủ yếu,
đặc biệt là trong giai đoạn những năm 60. Hầu hết các quốc gia này đều duy
30
trì tỷ lệ lãi suất tiền gửi tiết kiệm ở mức cao. Nhờ đó thu hút được lượng tiền
nhàn rỗi trong dân cư rất lớn, biến chúng thành nguồn đầu tư quan trọng để
phát triển kinh tế, thu hút lao động vào làm việc.
Lựa chọn cơ cấu kinh tế năng động, chiến lược phát triển linh hoạt
cũng là giải pháp hết sức quan trọng để tạo thêm nhiều việc làm mới. Tất cả
các quốc gia Đông Á đều có những chính sách ngành, nghề linh hoạt, chính
sách mậu dịch uyển chuyển phù hợp với sự phát triển và xu thế của thời đại nên
đã đặt cơ sở cho chính sách tạo việc làm rộng rãi. Những năm 60 họ ra sức phát
triển các ngành nghề cần nhiều lao động như: công nghiệp nhẹ, công nghiệp
dệt... Những năm 70 lại tập trung xây dựng công nghiệp nặng. Trong những năm
80, 90 khi cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới phát triển mạnh
mẽ, họ đã theo dõi chặt chẽ thành quả của nó và từ đó điều chỉnh mạnh cơ cấu
ngành nghề, tập trung vào các ngành có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao để sản
xuất và xuất khẩu sản phẩm. Chẳng hạn, chính phủ Singapore đã dùng pháp lệnh
buộc giới chủ chuyển sang các ngành công nghệ kỹ thuật cao; Đài Loan có các
biện pháp hướng dẫn các ngành nghề chuyển sang công nghiệp điện tử...
Sự điều chỉnh cơ cấu ngành, nghề và việc làm linh động đã khuyến
khích sản xuất phát triển tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Nhờ đó không
những tạo việc làm cho đông đảo lao động mà còn khắc phục được tình trạng
sa thải hàng loạt công nhân.
Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là giải pháp có tác dụng
thu hút rộng rãi lao động ở mọi trình độ, lứa tuổi. Nhật Bản luôn duy trì cơ
cấu kinh tế hai tầng với sự tồn tại song song của khu vực kinh tế truyền
thống (gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ) và khu vực kinh tế hiện đại. Cơ
cấu kinh tế đó đã cho phép nền kinh tế của Nhật có khả năng thu hút các
dạng lao động tay nghề thấp và một lực lượng đông đảo những người tham
gia lao động không đủ ngày công vì những lí do riêng, đặc biệt là lao động
31
phụ nữ. Thực tế cho thấy, các xí nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất lớn đối
với sản xuất và đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động. Theo Bộ
công nghiệp và thương mại quốc tế, có tới 99% các công ty, xí nghiệp ở
Nhật Bản có quy mô vừa và nhỏ. Các công ty này sử dụng tới 80% lực
lượng lao động trong nước. Không những vậy khu vực sản xuất, kinh
doanh nhỏ còn cho phép sử dụng cả lao động nhàn rỗi ở mọi lứa tuổi, là nơi
tạm thời tiếp nhận công nhân của các công ty lớn khi thiếu việc làm. Vì
vậy, sự tồn tại của khu vực sản xuất kinh doanh nhỏ được ví như chiếc van
an toàn cho các xí nghiệp lớn và công nhân của họ.
Định hướng nền kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu cũng có tác dụng rất
lớn tạo ra nhiều việc làm cho xã hội: các quốc gia Đông Á đều là những nước
có thị trường nhỏ hẹp. Vì vậy, họ rất tích cực phát triển mậu dịch đối ngoại để
mở rộng thị trường ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia. Việc mở rộng thị
trường đã có tác dụng tích cực đến phát triển sản xuất trong nước. Nhờ đó, cơ
hội tạo thêm việc làm luôn luôn được tăng lên, nó không những giải quyết
việc làm cho số người bị mất việc do hậu quả của việc tăng năng suất lao
động do sử dụng công nghệ mới, mà còn thu hút thêm những người mới bước
vào độ tuổi lao động vào làm việc. Ví dụ: Đài Loan thời kỳ 1976 do tăng năng
suất lao động đã giảm cơ hội việc làm cho 1.861 người. Tuy nhiên, do tích
cực phát triển mậu dịch đối ngoại kết quả đã kích thích mở rộng nhu cầu lao
động, tạo thêm cơ hội tìm việc làm cho 2.606 người.
Nhật Bản luôn có tốc độ tăng xuất khẩu bình quân nhanh hơn nhiều so
với tốc độ tăng sản xuất, hàng hoá của Nhật Bản có mặt ở hầu khắp các nước
trên thế giới. Nhờ đó, quá trình tái sản xuất luôn được mở rộng và tạo thêm
rất nhiều việc làm cho lực lượng lao động thông qua các hình thức gia công
xuất khẩu [48, tr. 40- 45].
32
Tóm lại, sự phát triển kinh tế thành công, quá trình thực hiện mô hình
công nghiệp hoá rút ngắn của nền kinh tế Đông Á có sự đóng góp rất lớn của
công tác bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước Đông Á có thể rút ra bài học sau:
Một là, nhân tố con người luôn được coi trọng để phát huy và sử dụng
cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; quá trình đào tạo phát triển nguồn
nhân lực được quan tâm đặc biệt và luôn gắn với chính sách sử dụng, phát
huy, kết hợp khéo léo những yếu tố truyền thống với các yếu tố hiện đại.
Hai là, chú trọng công tác đầu tư, thu hút đầu tư để phát triển sản xuất, coi
trọng thu hút đầu tư trong nước để tận dụng lượng vốn nhàn rỗi trong dân chúng.
Ba là, lựa chọn cơ cấu kinh tế năng động, chiến lược phát triển ngành,
nghề linh hoạt, ưu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để thu hút lao
động, tạo việc làm, sản xuất hướng đến xuất khẩu.
Bốn là, tích cực phát triển mậu dịch đối ngoại để mở rộng thị trường.
33
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NGHỆ AN
TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH NGHỆ AN
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Nghệ An là một tỉnh thuộc Bắc Trung bộ với diện tích tự nhiên 16.478 km2, phía bắc giáp tỉnh Thanh Hoá, phía nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
Tỉnh Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm của tiểu vùng Bắc Trung bộ, trên
tuyến giao lưu Bắc - Nam và đường xuyên Á Đông - Tây, cách thủ đô Hà
Nội 300 km về phía nam; theo đường quốc lộ 8, cách biên giới Việt - Lào
khoảng 80 km, cách biên giới Lào - Thái Lan gần 300km. Nghệ An hội nhập
đủ các tuyến giao thông quốc gia đi qua địa bàn gồm: đường bộ, đường sắt,
đường thuỷ, đường hàng không. Vị trí địa lý kinh tế là một lợi thế so sánh của
Nghệ An trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Về địa hình: Nghệ An nằm ở phía đông bắc dãy Trường Sơn, có độ
dốc thoải dần từ tây bắc xuống đông nam. Diện tích đồi núi chiếm 83% diện
tích tự nhiên, tập trung ở phía tây của tỉnh. Dải đồng bằng nhỏ hẹp chiếm
17% diện tích tự nhiên chạy từ nam đến bắc giáp biển Đông và bị các dãy núi
34
bao bọc. Địa hình bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi dày đặc và những dãy
núi xen kẽ. Đây cũng là trở ngại lớn cho sự phát triển giao thông và tiêu thụ
sản phẩm.
Nghệ An nằm ở phía nam vùng ranh giới giữa địa máng Tây Bắc và
địa máng Trường Sơn, vì thế, Nghệ An là vùng có khí hậu nhiệt đới với
mùa đông lạnh kèm theo mưa nhỏ và mùa hè nóng với đặc trưng gió Tây
Nam (gió Lào) khô nóng. Lượng mưa bình quân hàng năm lớn từ 1.800 -
2.000mm nhưng phân bố không đều. Vì thế, mùa mưa thường gây gập úng,
mùa khô hanh thường gây hạn hán làm cho đời sống và sản xuất nông
nghiệp gặp nhiều khó khăn [25, tr. 154,155].
Tài nguyên khoáng sản:
Nghệ An là tỉnh có tiềm năng rất lớn về khoáng sản nhưng chưa được
đầu tư khai thác đúng mức. Nguồn khoáng sản ở Nghệ An đa dạng và phong
phú. Có đủ loại khoáng sản quý hiếm như: vàng, đá quý đến các loại như thiếc,
bô xit, phôt phorit... và các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng như đá vôi
làm xi măng, đá xây dựng, cát, sỏi... Trong đó tập trung chủ yếu một số khoáng
sản có điều kiện khai thác như: mỏ thiếc ở Quỳ Hợp với tổng trữ lượng khoảng
100.000 tấn (lớn nhất cả nước) có hàm lượng cao; đá vôi có tổng trữ lượng trên 500 triệu m3, phân bố ở nhiều nơi trong tỉnh. Đặc biệt có mỏ đá Hoàng Mai (Quỳ Lưu) với trữ lượng > 300 triệu m3 điều kiện khai thác dễ dàng, chất lượng
đá tốt, mỏ đá Kim Nhan (Anh Sơn), mỏ đá Lèn Rõi (Tân Kỳ)... Đá xây dựng có trữ lượng hàng tỷ m3; đá bazan ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp tổng trữ lượng trên 260
triệu tấn. Đặc biệt Nghệ An có đá trắng vùng Quỳ Hợp có giá trị xuất khẩu cao;
mỏ mangan phân bố ở Hưng Nguyên, Nam Đàn, Nghi Lộc với tổng trữ lượng
trên 2 triệu tấn; mỏ nước khoáng có chất lượng cao và dễ khai thác (Quỳ Hợp,
Nghĩa Đàn, Đô lương); đất sét, cát xây dựng phân bố đều ở các huyện, thành
thị trữ lượng lớn đáp ứng nhu cầu xây dựng của tỉnh.
35
Ngoài một số khoáng sản trên, Nghệ An còn có nhiều khoáng sản quý
hiến như: vàng (Tà soi, Căm muộn, dọc sông cả), đá quý (Rubi, Saphia) (Quỳ
châu) có ý nghĩa kinh tế cao, song chưa được thăm dò đánh giá cụ thể về trữ
sản lượng và chất lượng.
Tài nguyên rừng:
Nghệ An là tỉnh có diện tích rừng và đất rừng lớn, theo quyết định số
114/QĐ.UB ngày 23/3/2001 của UBND tỉnh phê duyệt quỹ đất Lâm nghiệp
để đưa vào quản lý, bảo vệ và sử dụng như sau:
- Tổng diện tích đất Lâm nghiệp toàn tỉnh là 1.195.477 ha chiếm 72,5%
diện tích đất tự nhiên.
- Độ che phủ của rừng năm 2001 đạt 53,8%. - Tổng trữ lượng rừng gỗ năm 2001 đạt trên 55 triệu m3.
- Tổng trữ lượng nứa mét trên 1,2 tỷ cây..
Tài nguyên rừng phong phú, đa dạng về chủng loại thực vật và động vật
quý hiếm. Có 68 họ, 510 loại cây thân gỗ, trong đó có nhiều loại cây gỗ có tên
trong danh mục sách đỏ Việt Nam. Các loại lâm sản khác như: song, mây,
dược liệu tự nhiên phong phú là nguồn nguyên liệu quý cho phát triển các
ngành công nghiệp chế biến trong tương lai.
Tài nguyên biển và thuỷ sản:
Theo số liệu điều tra của Viện Nghiên cứu hải sản Trung ương (1998),
biển Nghệ An với hải phận rộng 4.230 hải lý vuông, có nguồn hải sản phong
phú với 267 loại cá, 8 loại tôm, 3 loại mực. Có nhiều loại hải sản có giá trị
kinh tế cao và xuất khẩu như: tôm hùm, tôm sú, mực, cá thu, cá chim, rắn
biển v.v... Tổng trữ lượng hải sản khoảng 80.000 tấn (mức khai thác cho phép
35.000 - 37.000 tấn/năm).
Diện tích nuôi trồng có trên 2000 ha mặt nước, mặt lợ để nuôi tôm, cua,
nhuyễn thể, sò xuất khẩu; đồng muối có khả năng phát triển trên dưới 1.000
ha, sản lượng 100.000 tấn/ năm. Bên cạnh đó, bờ biển ở Nghệ An bằng phẳng,
36
môi trường nước trong sạch có nhiều bãi tắm đẹp và hấp dẫn như: bãi tắm Cửa
Lò, Nghi Thiết, Cửa Hiền, v.v.. Bãi tắm Cửa Lò là một trong những bãi tắm
đẹp và sạch nhất cả nước. Hàng năm thu hút nhiều du khách trong nước và
quốc tế đến nghỉ mát và du lịch. Nghệ An còn có khả năng phát triển vận tải
biển với 82km bờ biển, 6 cửa lạch, 2 cảng lớn là cảng Cửa Hội, cảng Cửa Lò
có ý nghĩa chiến lược đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh, đồng thời là cửa ngõ thông ra biển của nước bạn Lào và đông bắc Thái
Lan.
Tài nguyên đất đai:
Nghệ An có tổng diện tích tự nhiên là 1.648.729 ha; trong đó có 195.944,4
ha đất nông nghiệp (chiếm 11,80%), 684.398,8 ha đất lâm nghiệp (chiếm
41,57%), 59.221,08 ha đất chuyên dùng (chiếm 3,59%), 14.893,51 ha đất ở
(chiếm 0,9%). Diện tích đất chưa sử dụng vẫn còn rất lớn với 693.166,46 ha
(chiếm 42,04%) chủ yếu là đất trống, đồi trọc [42, tr. 13-17].
2.1.2. Dân số, lao động và đơn vị hành chính
Tính đến 31-12-2004, dân số trên địa bàn tỉnh Nghệ An ước đạt
3.003.170 người. Trong đó có 316.187 người thuộc khu vực thành thị (chiếm
10,53%) và 2.686.983 người thuộc khu vực nông thôn (chiếm 89,47%).
Cơ cấu dân số tỉnh Nghệ An năm 2001-2004.
Đơn vị tính: %
Năm 2001 2002 2003 2004
Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00
Thành thị 10,20 10,39 10,39 10,53
89,60 89,61 89,61 89,47
Nông thôn Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An 2004, tr. 19.
37
Toàn tỉnh Nghệ An có hiện có 19 đơn vị hành chính cấp huyện bao
gồm 01 thành phố, 01 thị xã, 17 huyện. Mật độ dân cư toàn tỉnh là 182 người/km2.
Cơ cấu lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2004 của
Nghệ An là: nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 69,7%, công nghiệp - xây dựng
chiếm 13,6%, dịch vụ và các ngành nghề khác chiếm 17,6%.
Lực lượng lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế thời điểm
1/7/2004 phân theo ngành kinh tế là 1.445.926 lao động, chiếm 48,14% dân số.
Dân số trung bình phân theo giới tính và phân theo thành thị, nông thôn
Đơn vị tính: Người
Phân theo giới tính Phân theo TT, NT Năm Tổng số Nam Nữ Thành thị Nông thôn
2000 2.901.977 1.428.637 1.473.340 300.314 2.601.663
2001 2.928.758 1.441.564 1.487.234 304.765 2.624.033
2002 2.982.297 1.452.839 1.499.458 308.966 2.643.331
2003 2.977.267 1.464.506 1.512.761 312.962 2.664.305
2004 3.003.170 1.474.634 1.528.536 2.686.983
316.187 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An 2000 - 2004
38
Tỷ lệ sinh, chết và tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số
Đơn vị tính: 0/00
Tỉ lệ sinh Tỉ lệ chết Tỉ lệ tăng tự nhiên Năm
20,40 6,40 14,00 2000
18,86 6,61 12,28 2001
18,11 6,61 11,50 2002
18,19 6,65 11,54 2003
18,74 6,70 12,04
2004 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An 2000 - 2004
2.1.3. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Điểm nổi bật của kinh tế Nghệ An là dựa trên sản xuất nông nghiệp lạc
hậu, công nghiệp nhỏ, dịch vụ và giao lưu hàng hoá chậm phát triển. Dân cư
chủ yếu sống ở nông thôn, phần lớn làm nông nghiệp.
Thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước trong những năm qua kinh
tế Nghệ An có những bước chuyển đáng kể. Cơ cấu kinh tế thay đổi, tỷ trọng
nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch
vụ tăng lên, từng bước gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm tạo nhiều
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, người dân đã biết chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện sinh thái của từng vùng,
thay đổi mùa vụ để tránh thiên tai thiệt hại mùa màng. Cùng với sự phát triển
của cơ chế thị trường, người dân đã thay đổi tư duy, biết tận dụng lợi thế của
từng vùng, của từng loại cây, con để phát triển sản xuất hàng hoá.
Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở Nghệ An đã hình
thành khu công nghiệp Bắc Vinh với quy mô 143 ha, bước đầu đã xây dựng hoàn
chỉnh kết cấu hạ tầng 30 ha, một số xí nghiệp đã đi vào sản xuất đạt hiệu quả cao;
ở Nghệ An một số ngành chế biến được hình thành như chế biến hải sản, nhựa
39
thông, đồ mộc, chè, mía đường, mây tre đan... Một số mặt hàng đủ tiêu chuẩn bán
ra ngoài tỉnh và xuất khẩu như: đồ gỗ, tôm, cua, mực, chè, chanh, lạc.
Hệ thống giao thông và thông tin liên lạc được xây dựng và nâng cấp,
nhiều công trình xây dựng được hoàn thành làm thay đổi bộ mặt thành phố,
thị xã, thị trấn và một số vùng nông thôn, tạo tiền đề cho quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
Lĩnh vực thương mại và dịch vụ của tỉnh cũng phát triển, mạng lưới các
chợ được mở rộng, các trung tâm buôn bán được hình thành.
Nhờ biết tận dụng những lợi thế, khắc phục khó khăn liên tiếp những
năm qua Nghệ An luôn duy trì được mức tăng trưởng khá.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Nghệ An 2001- 2004
Đơn vị tính %
Năm 2001 2002 2003 2004
Tốc độ tăng trưởng 9,24 10,91 11,36 10,15
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An 2001 - 2004.
Thu nhập bình quân đầu người tăng lên, đời sống nhân dân được cải
thiện, từ 3 triệu đồng/ người/ năm vào năm 2001 lên 4,8 triệu đồng/ người/
năm vào năm 2004 (xem bảng 2.1).
Bảng 2.1. GDP Bình quân đầu người theo giá thực tế
Đơn vị: nghìn đồng
Năm 2001 2002 2003 2004
GDP/người/năm 3.010,5 3.571,2 4.070,6 4.823,3
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An 2001 - 2004
Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, lĩnh vực xã hội của tỉnh cũng có
bước phát triển nhanh. Lĩnh vực văn hoá, giáo dục, nâng cao dân trí có tiến bộ
rõ nét. Vấn đề bảo vệ sức khoẻ, kế hoạch hoá dân số, tạo việc làm, thực hiện
40
xoá đói giảm nghèo được quan tâm và có những thành tựu nhất định. Nhiều
truyền thống văn hoá tốt đẹp của xứ Nghệ được khơi dậy, bồi đắp, công tác
xây dựng đời sống mới, đời sống văn hoá ở cơ sở được chú trọng xây dựng.
Tóm lại, từ những khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của
Nghệ An, có thể nhận thấy những thuận lợi và khó khăn của Nghệ An trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm là:
Về thuận lợi:
1. Nghệ An là một tỉnh có lực lượng lao động dồi dào.
2. Nghệ An là tỉnh ở vào vị trí trung độ của cả nước, nơi giao thoa các
đặc thù lãnh thổ Bắc - Nam, dễ hội nhập, hội tụ những tiến bộ khoa học kỹ
thuật của hai miền, có hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường
hàng không thuận lợi để phát triển kinh tế.
3. Nghệ An có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt là tài
nguyên biển và nhiều danh thắng, là cơ sở để tỉnh phát triển kinh tế biển, du
lịch sinh thái.
Về khó khăn:
Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Nghệ An hiện nay tuy đã có sự
tăng trưởng nhất định, song vẫn chưa ở thế ổn định, vẫn còn những khó khăn
thách thức, ảnh hưởng tới đời sống của người dân nói chung, lực lượng lao
động ở Nghệ An nói riêng, điều này thể hiện ở chỗ:
1. Nghệ An là một tỉnh nghèo, chưa có truyền thống sản xuất hàng hoá
và kinh doanh thương mại. Có một bộ phận nhỏ dân cư có tư tưởng cam chịu
với hoàn cảnh kinh tế của mình. Một bộ phận khác lại có tư tưởng thích hoạt
động trong các đơn vị hành chính sự nghiệp.
2. Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, sản xuất
nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn
chậm, điều này gây ảnh hưởng lớn tới sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
41
3. Nghệ An có nguồn tài nguyên phong phú nhưng vẫn ở dạng tiềm
năng, muốn khai thác triệt để các nguồn tài nguyên này cần có sự đầu tư lớn
về vốn, trong khi đó nguồn vốn đầu tư của Nghệ An còn hạn hẹp.
4. Ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp do đó, việc đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội còn hạn chế.
Những thuận lợi và khó khăn trên đã tác động lớn tới vẫn đề giáo dục,
đào tạo nghề, chăm sóc sức khoẻ, tập quán tâm lý địa phương, cũng như đầu
tư vốn cho lao động Nghệ An trong vấn đề giải quyết việc làm và tự tạo việc
làm, nâng cao thu nhập.
2.2. THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM CỦA NGHỆ AN
2.2.1. Quy mô lao động
Nghệ An là tỉnh có quy mô dân số và lao động đứng vào hàng thứ 4
toàn quốc với hơn 3 triệu dân và 1,5 triệu lao động. Bình quân hàng năm số
lao động bổ sung vào nguồn tăng hơn 3 vạn người.
2.2.2. Cơ cấu lao động
Tính đến thời đểm điều tra (1-7-2004), tỉnh Nghệ An có 1.445.926
người từ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế thường xuyên. Trong đó
nữ có 736.963 người, chiến 50,96%. Khu vực thành thị có 152.558 người,
chiếm 10,55%. Nông thôn có 1.293.368 người, chiếm 89,45%.
Theo độ tuổi:
Bảng 2.2 cho thấy lực lượng lao động Nghệ An tập trung cao nhất
ở nhóm tuổi 25 - 34, sau đó là nhóm 35 - 44, tiếp theo là nhóm tuổi 15 -
24, cuối cùng là các nhóm tuổi từ 45 - 54, 55 - 59, > 60. Như vậy, số liệu
về cơ cấu lao động theo nhóm tuổi ở Nghệ An đã thể hiện được xu
hướng chung của lao động toàn quốc cũng như thế giới ở chỗ, nhóm tuổi
15 - 24 tham gia lao động không cao, bởi đây là nhóm tuổi người lao
động cần được học tập bồi dưỡng văn hoá, học nghề, rèn luyện nghề ở
42
các trung tâm dạy nghề, trường trung học, cao đẳng và đại học để có
được nghề nghiệp và chuyên môn nhất định.
43
Bảng 2.2. Cơ cấu lực lượng lao động Nghệ An theo nhóm tuổi
Trong đó
Năm
Chỉ tiêu
Tổng số
15-24 tuổi
25 - 34 tuổi
35 - 44 tuổi
45 - 54 tuổi
55 - 59 tuổi
>60 tuổi
Số lượng
1.318.311 234.237 364.352 421.173 225.574 41.704 31.268
2000
% so với tổng số
100.00
17,76
17,64
31,95
17,11
3,16
2,37
Số lượng
1.353.032 255.898 399.916 390.236 225.561 44.912 36.325
2002
% so với tổng số
100.00
18,91
29,55
28,84
16,67
3,31
2,72
Số lượng
1.445.926 287.682 435.684 396.215 237.997 48.584 39.772
2004
% so với tổng số
100.00
19,89
30,13
27,40
16,45
3,36
2,75
Đơn vị tính: Người, %
Nguồn: Thực trạng Lao động - Việc làm Việt Nam 2000, 2002, 2004
Lực lượng lao động ở Nghệ An có cơ cấu trẻ. Năm 2004, nhóm lực
lượng lao động trẻ (từ 15 - 34 tuổi) có 723.312 người, chiếm 50,02% so với
tổng số; nhóm lực lượng lao động trung niên (35 - 54 tuổi) có 634.212 người,
chiếm 43,86% và nhóm lực lượng lao động cao tuổi (54 - > 60 tuổi) có 88.356
người, chiếm 6,11%. Nhóm lực lượng lao động trẻ chiếm tỷ lệ cao nhất
(50,02%) - đây là thế mạnh của nguồn lao động Nghệ An.
Theo trình độ học vấn: Với sự thành công của quá trình phổ cập giáo
dục tiểu học và phổ thông cơ sở, trình độ của lực lượng lao động ở Nghệ An
có sự tiến bộ rõ rệt. Ta có thể nhận thấy qua bảng 2.3.
Bảng 2.3. Dân số Nghệ An từ 15 tuổi trở lên HĐKTTX chia theo nhóm tuổi và trình độ học vấn
Đơn vị tính: Người
Trong đó
Năm
Tổng số
Nhóm tuổi
Chƣa biết chữ
Đã tốt nghiệp tiểu học
Đã tốt nghiệp THPT
Đã tốt nghiệp PTCS
Chƣa tốt nghiệp tiểu học
44
Trong đó
Năm
Tổng số
Nhóm tuổi
Chƣa biết chữ
Đã tốt nghiệp tiểu học
Đã tốt nghiệp THPT
Đã tốt nghiệp PTCS
Chƣa tốt nghiệp tiểu học
2002
98.469 157.429 200.123 199.793 195.121 195.115 126.324 99.237 44.912
1.402 83.826 6.000 1.547 10.119 113.030 2.057 46.083 116.544 2.243 41.987 104.487 1.760 39.334 108.656 4.892 36.978 110.145 70.576 7.558 24.178 50.780 7.442 19.913 20.290 5.030 10.665 9.500 8.924 12.592
976 13.009
2004
36.325 1.445.926 116.274 171.354 200.862 234.822 190.378 205.837 137.859 100.138 48.584
Chung 15 - 19 20 - 24 25 - 29 30 - 34 35 - 39 40 - 44 45 - 49 50 - 54 55 - 59 > 60 Chung 15 - 19 20 - 24 25 - 29 30 - 34 35 - 39 40 - 44 45 - 49 50 - 54 55 - 59 > 60 1.353.032 16.651 42.939 247.995 788.000 257.373 7.047 159 32.303 396 35.121 271 7.266 3.756 41.625 3.698 40.882 2.167 22.402 1.562 19.259 1.783 7.701 1.177 1.641 3.620 6.466 30.478 289.431 831.643 287.908 9.028 38.087 25.151 82.763 30.247 43.634 32.214 15.267 6.349 5.168 93.172 1.136 18.329 113.768 1.708 53.763 120.212 1.968 48.126 100.239 1.042 47.841 110.216 2.007 39.584 120.076 72.798 5.368 26.737 52.296 6.742 25.196 27.772 8.976 4.879 21.094 7.870 4.662 98 44 28 1.726 1.032 536 742 637 645 978 37.772
Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm ở Nghệ An 2002, tr. 64, 8, tr. 132.
Số lao động chưa biết chữ giảm đáng kể, năm 2002 là 16.651, đến 2004 chỉ
còn 6.466. Số lao động tốt nghiệp tiểu học, PTCS, THPT tăng lên nhanh chóng.
Đây là tín hiệu đáng mừng cho công tác đào tạo ở Nghệ An hiện nay.
45
Tuy nhiên, ở Nghệ An hiện nay vẫn có sự chênh lệch đáng kể về trình
độ học vấn giữa lao động nam và lao động nữ. Năm 2002, tỷ lệ không biết
chữ của lao động nam là 0,46% nhưng của nữ là 1,62%, đến năm 2004,
khoảng cách này có được rút ngắn song tỷ lệ nữ không biết chữ vẫn cao hơn
nam, cụ thể tỷ lệ không biết chữ của lao động nam là 0,07%, của nữ là 0,34%
[40, tr. 64, 132]. Bên cạnh đó, còn có sự khác biệt khá lớn về trình độ học vấn
của lực lượng lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn. Ở khu vực nông
thôn có tỷ lệ đã tốt nghiệp PTCS cao gấp 2 lần khu vực thành thị, ngược lại số
lao động ở khu vực thành thị đã tốt nghiệp THPT cao hơn gấp 5 lần so với
khu vực nông thôn [40, tr. 13]. Số liệu đó cho thấy, vấn đề đặt ra là cần có
chính sách đào tạo đối với lực lượng lao động nhất là lao động ở khu vực
nông thôn.
Theo trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Tính đến 1-7-2004, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật của tỉnh từ sơ cấp, học nghề trở lên có 382.675 người, chiếm 26,46%, đã
qua đào tạo từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên là 276.115 người, chiếm
19,09% trong tổng lực lượng lao động của toàn tỉnh. Các tỷ lệ này của năm
2003 là 22,36% và 18,84%, so với năm 2003 cả hai tỷ lệ này đều tăng, trong
đó:
Số lao động có trình độ cao đẳng và đại học là 42.744 người chiếm
11% tỷ lệ lao động được đào tạo, chiếm 3% lực lượng lao động có việc làm
thường xuyên, trong đó phần lớn hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế và
quản lý kinh tế, xã hội; một số ngành như công nghệ thực phẩm, vật liệu xây
dựng, luyện kim... chiếm tỷ lệ quá ít.
Số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp là 142.886 người
chiếm 37% tỷ lệ lao động được đào tạo, chiếm 10% lao động có việc làm
thường xuyên, trong đó tập trung chủ yếu cho một số lĩnh vực như quản lý
kinh tế 15,9%, y tế 12,7%, du lịch 17,9%... một số ngành kinh tế quan trọng
lại quá thấp như: công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm chỉ có 1,66%.
46
Số lao động là công nhân kỹ thuật chiếm 16,24%, trong đó tập trung
chủ yếu vào các lĩnh vực như lái xe cơ giới: 13%, mộc dân dụng 15,4%, may
mặc 12,6%; trong khi một số ngành khác như chế biến nông sản chỉ có 6,2%,
trồng trọt 4,7%; lao động được đào tạo ngắn hạn tại các trung tâm dạy nghề,
các cơ sở dạy nghề tư nhân theo chương trình ngắn hạn có 6,84%.
47
Bảng 2.4: Số người từ đủ 15 tuổi trở lên HĐKTTX
chia theo trình độ CMKT
Đơn vị tính: Người, %
Năm Tổng số Không có CMKT Từ sơ cấp học nghề trở lên Từ CNKT có bằng trở lên
2000 1.318.311 1.130.776 187.535 137.096
% so với tổng số 100,00 85,77 14,23 10,40
2002 1.353.032 1.069.980 283.032 102.168
% so với tổng số 100,00 79,08 20,92 7,55
2004 1.445.926 1.092.137 382.675 145.007
% so với tổng số 100,00 26,46 10,02
75,54 Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm Việt Nam 2000, tr. 172, 2002,
tr. 40, 2004, tr. 64. Khu vực nông thôn, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp học nghề
trở lên chiếm 16,28%, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm
15,05% trong tổng lực lượng lao động ở nông thôn. Tương ứng với các tỷ lệ
này ở khu vực thành thị của toàn tỉnh là 69,43% và 36,72%.
Tính riêng cho lao động làm việc trong nhóm ngành nông, lâm, ngư
nghiệp của tỉnh, tỷ lệ có trình độ từ sơ cấp, chứng chỉ nghề trở lên của LLLĐ
có việc làm thường xuyên là 2,83%, số lao động được đào tạo từ sơ cấp có
chứng chỉ nghề và CMKT có bằng trở lên là 2,52%; trong nhóm ngành công
nghiệp và xây dựng các tỷ lệ này là 98,79% và 77,97%; trong nhóm ngành
dịch vụ là 66,47% và 54,18% [39, tr. 15].
Hình 2.1, cho thấy có sự cách biệt khá xa về trình độ CMKT của LLLĐ
giữa các thành phố, thị xã với các huyện trong tỉnh, trong khi ở thành thị,
đồng bằng lao động có CMKT chiếm tỷ lệ rất cao (Vinh 69,43%, Cữa Lò
39,94%) thì các huyện miền núi sâu và xa lao động có CMKT lại chiếm tỷ lệ
rất thấp (Quế Phong 4,47%, Tương Dương 6,2%, Kỳ Sơn 6,46%...)
48
Hình 2.1. Tỷ lệ lao động có trình độ CMKT từ sơ cấp/chứng chỉ nghề
trở lên trong tổng LLLĐ 1-7-2004.
80
70
60
50
40
30
20
10
0
Đơn vị tính: %
Nguồn: Thực trạng Lao động - Việc làm Nghệ An 2004, tr.17
Thực trạng đó cho thấy, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của
tỉnh còn ở mức thấp. Mặt khác, cơ cấu bên trong về ngành nghề và bậc học
của lực lượng lao động chưa gắn với nhu cầu sử dụng: lao động là công nhân
kỹ thuật chiếm tỷ lệ quá nhỏ trong tổng số lao động được đào tạo. Một số
ngành cần thiết như cơ khí chế tạo, chế biến nông, lâm, hải sản, vật liệu xây
dựng, luyện kim... còn quá thiếu, lại chưa được quan tâm đào tạo. Đặc biệt là
đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật bậc cao, thợ đầu đàn trong
các ngành, các lĩnh vực để đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ mới vào sản
xuất còn quá thiếu.
49
50
2.2.3. Thực trạng việc làm, thất nghiệp, thiếu việc làm của lực lƣợng lao động
ở Nghệ An
Tình hình việc làm
Trong những năm qua, tỉnh Nghệ An đã triển khai thực hiện chương
trình quốc gia về việc làm cùng với nhiều chương trình, dự án được đầu tư
vào địa bàn tỉnh như: chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, chương
trình phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, chương trình chuyển dịch cơ cấu sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp, chương trình 135, 327, 773... đã góp phần tích
cực giải quyết việc làm cho lực lượng lao động ở Nghệ An.
Chương trình vay vốn quỹ quốc gia giải quyết việc làm được sử dụng
đúng mục đích, phát huy được hiệu quả, tỷ lệ hoàn trả gốc và lãi đúng kỳ hạn
cao, tỷ lệ tồn đọng thấp... Đến nay, bên cạnh nguồn vốn tự huy động của nhân
dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở các quy mô khác nhau nhằm tự
tạo việc làm: trong 5 năm (từ 2000 - 2004) bằng nguồn vốn của Nhà nước đầu
tư theo các chương trình mục tiêu và các dự án phát triển kinh tế xã hội trên
địa bàn tỉnh đã có khoảng 4.000 tỷ đồng liên quan đến tạo việc làm cho lao
động, tập trung nhất là vốn hỗ trợ việc làm từ Quỹ quốc gia giải quyết việc
làm, Quỹ xoá đói giảm nghèo, chương trình 135, 327, 773; vốn đầu tư phát
triển nông nghiệp, công nghiệp... Nhờ có vốn đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước đã
tạo được đòn bẩy kích thích nhân dân bỏ vốn đầu tư; các hộ gia đình, người
lao động đã có điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh, tạo được việc làm
và thu nhập. Công tác XKLĐ cũng có những chuyển biến tích cực, thị trường
XKLĐ được mở rộng, đến nay đã có 33 đơn vị tham gia công tác XKLĐ. Kết
quả là bình quân mỗi năm Nghệ An tạo việc làm mới cho khoảng 3 vạn lao
động. Trong đó, mỗi năm Nghệ An tạo việc ở nước ngoài cho khoảng 5.000 -
7.000 lao động, đưa lao động đi làm việc ở ngoại tỉnh khoảng 2.500 - 3.500
người mỗi năm, số lao động còn lại được giải quyết việc làm tại chỗ.
51
Tình hình thiếu việc làm
Theo bảng số liệu 2.5, tình hình thiếu việc làm trong dân số hoạt động kinh
tế thường xuyên ở Nghệ An là khá lớn và đang có xu hướng giảm dần qua các
năm. Năm 2000 số người thiếu việc làm lên tới 469.230 người, chiếm 35,59% dân
số hoạt động kinh tế thường xuyên từ 15 tuổi trở lên, năm 2002 giảm xuống còn
424.263 người, chiếm 31,35%, đến năm 2004 số lao động thiếu việc làm tuy giảm
đáng kể so với các năm trước song vẫn còn 384.467 người, chiếm 26,58%.
Bảng 2.5. Số người và % thiếu việc làm trong dân số HĐKTTX của Nghệ An
Đơn vị tính: Người, %
Năm
2000 Dân số HĐKTTX từ 15 tuổi trở lên 1.318.311 Số người thiếu việc làm 469.230 % thiếu việc làm trong dân số HĐKTTX từ 15 tuổi trở lên 35,59
2001 1.327.643 449.426 33,85
2002 1.353.032 424.263 31,35
2003 1.441.212 397.654 27,59
2004 1.445.926 384.467 26,58
Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Nghệ An
Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn cao hơn nhiều so với thành thị.
Năm 2004 ở thành thị tỷ lệ thiếu việc làm là 12,47% trong khi ở nông thôn là
28,61%. Trong tổng số lao động thiếu việc làm ở nông thôn phần lớn thuộc khu
vực sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tỷ lệ trên dưới 80%. Khu vực sản
xuất công nghiệp và dịch vụ tỷ lệ người thiếu việc làm chỉ khoảng 5% [38, tr.
16].
Bảng 2.6. Dân số từ đủ 15 tuổi trở lên không HĐKTTX chia theo nguyên
nhân chủ yếu của tổng số chung
Đơn vị tính: Người
Năm Tổng số Đi học Nội trợ Già yếu Ốm đau Tàn tật Khác
2000 529.937 301.865 27.701 175.976 16.121 16.423 14.852
52
2002 588.168 283.993 30.789 204.446 37.104 15.389 16.447
16.151
30.142 2003 596.612 291.666 36.561 207.080 15.012 Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm Việt Nam 2001, tr. 97, 2003, tr. 95, 2004, tr. 71.
Tình hình thất nghiệp
Bảng 2.7. Thất nghiệp của LLLĐ Nghệ An 2002 - 2004
2003 2004 2002 Chỉ tiêu
ĐVT người 2.982.297 2.977.267 3.003.170 Dân số trung bình người 1.370.451 1.429.459 1.465.938 Lực lượng lao động LLLĐ có việc làm thường xuyên người 1.353.032 1.411.212 1.445.926 20.012 người Số lao động thất nghiệp 1,36 % % thất nghiệp so với LLLĐ Thất nghiệp theo khu vực 5,54 % 0,82 % 17.419 1,27 6,17 1,03 18.249 1,27 5,74 0,94 + Thành thị + Nông thôn
Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm Nghệ An 2002 - 2004
Theo bảng 2.7, số lượng người thất nghiệp năm 2002 của tỉnh là 17.479
người chiếm tỉ lệ 1,27% so với LLLĐ của tỉnh. Đến năm 2003, con số tương
ứng là 18.249 người, 1,27% và năm 2004 là 20.012 người, 1,36%. Trong các
nhóm tuổi, nhóm LLLĐ ở độ tuổi từ 20 - 24 có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất
(22,56%), tiếp đến là nhóm tuổi 25 - 29 (14,67%).
Hình 2.2. Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ Nghệ An theo nhóm tuổi 2004
Đơn vị tính: %
30
22.56
25
20
14.67
15
10
5.69
6.15
5.64
5.46
4.16
2.8
2.66
2.41
5
0
53
Nguồn: Sở Lao động thương binh- xã hội Nghệ An
Trong 19 huyện thị/ thành phố, huyện có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất là
Nghĩa Đàn (10,55%), tiếp đến là Đô Lương 9,87%, thấp nhất là Quỳ Hợp
(1,86%), số còn lại trên dưới 5%.
Thất nghiệp ở khu vực thành thị và nông thôn đều có xu hướng giảm.
Năm 2002, thất nghiệp thành thị là 6,17%, giảm xuống còn 5,54%, năm 2004
tỷ lệ tương tự ở khu vực nông thôn là 1,03% và 0,82%.
Số liệu thống kê của Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh năm
2004 cho thấy lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật càng thấp thì tỉ lệ
thất nghiệp càng cao [18, tr. 367].
2.2.4. Thực trạng giải quyết việc làm cho ngƣời lao động ở Nghệ An
thời gian qua
a. Giải quyết việc làm cho người lao động theo ngành kinh tế
Ngành nông nghiệp:
Trong những năm qua ngành sản xuất nông nghiệp ở Nghệ An đã có
bước phát triển ổn định. Sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phương trong tỉnh đã
chuyển sang hướng sản xuất hàng hoá, tập quán sản xuất độc canh từng bước
được khắc phục, thay vào đó là việc áp dụng các tiến bộ của khoa học - kỹ
54
thuật, đưa giống mới vào sản xuất, đầu tư thực hiện thâm canh, chuyển đổi cơ
cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm môi trường sinh thái của
từng vùng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn trước. Các mô hình kinh tế hộ gia
đình làm ăn giỏi được nhân rộng, kinh tế trang trại được mở mang và phát triển
tốt... Tất cả thực tế đó đã tạo điều kiện cho người lao động có việc làm nhiều hơn
trong nông nghiệp. Số lao động làm việc trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp
tiếp tục tăng lên về số tuyệt đối từ 1.095.587 người năm 2003, đến năm 2004 là
1.109.294 người, nhưng tỷ lệ phân bổ lao động cho nông - lâm - ngư nghiệp diễn
ra theo xu hướng giảm dần từ 76,73% năm 2000 xuống còn 75,92% năm 2002
và 74,68% năm 2004. Trong đó, lao động bố trí vào nông nghiệp từ 956.378
người năm 2000 lên 991.015 người năm 20002 và 1.040.062 người năm 2004.
Việc lao động tăng lên trong nông nghiệp giai đoạn 2000 - 2004 là hoàn toàn
phù hợp với quá trình phát triển nông nghiệp của tỉnh, gắn với quá trình đó là
việc hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến, đã tạo ra khối lượng hàng hoá xuất khẩu khá lớn và tăng thêm nhiều việc
làm cho người lao động, như vùng chè Thanh Chương, Anh Sơn; cà phê, cam ở
Phủ Quỳ, Nghi Lộc; lạc ở Diễn Châu, Nghi Lộc, dứa ở Quỳnh Lưu, Yên Thành,
Nghĩa Đàn...; mía ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Anh Sơn...
Bảng 2.8. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế 2003 - 2004
phân theo ngành kinh tế.
Đơn vị tính: Người
Chia ra
Tổng số 1. Nông - lâm nghiệp 2. Thuỷ sản 3. Công nghiệp khai thác mỏ 4. Công nghiệp chế biến 5. Sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước
2003 1.417.677 1.095.587 34.100 17.331 52.348 1.444
2004 1.445.926 1.109.294 33.089 18.003 54.378 1.500
6. Xây dựng 7. Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô 8. Khách sạn nhà hàng 9. Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc 10. Tài chính, tín dụng 11. Hoạt động khoa học và công nghệ 12. Các hoạt động liên quan 13. Quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng 14. Giáo dục đào tạo 15. Y tế cứu trợ xã hội 16. Hoạt động văn hoá - thông tin 17. Hoạt động Đảng, đoàn thể, hiệp hội 18. Hoạt động phục vụ cá nhân cộng đồng 19. Hoạt động làm thuê công việc gia đình
42.303 50.433 10.939 21.440 2.383 694 3.958 14.778 51.109 `7.536 1.363 7.654 2.109 1.168
46.547 52.903 11.475 22.490 2.500 728 4.152 15.502 53.613 7.905 1.430 8.029 2.212 1.176
55
Nguồn: Niên giám thống kê Nghệ An 2004, tr.117
Mặt khác, dưới tác động tích cực của các chương trình đầu tư phát triển
nông nghiệp và các chương trình khác có liên quan như giải quyết việc làm -
xoá đói giảm nghèo..., đã tạo điều kiện cho người dân có vốn, có nhận thức
mới trong tổ chức sản xuất, tự tạo việc làm.
Thực hiện từng bước xã hội hoá nghề rừng, lao động bố trí cho lâm
nghiệp cơ bản tập trung cho việc trồng mới hơn 10.000 ha rừng hàng năm,
khoanh nuôi bảo vệ 56 vạn ha rừng tự nhiên và 7 vạn ha rừng trồng. Số lao
động có việc làm chuyên lâm nghiệp từ 9.715 người năm 2002 tăng lên
14.982 người năm 2003 và 16.137 người năm 2004. Số lao động tăng lên
trong lâm nghiệp chủ yếu tập trung cho việc trồng rừng nguyên liệu và
khoanh nuôi, bảo vệ rừng và được tách khỏi lao động thuần nông.
Dưới tác động tích cực của chương trình đầu tư phát triển ngư nghiệp.
Trong những năm, qua ngành ngư nghiệp đã có sự chuyển biến mạnh về cơ
cấu theo hướng giảm thuyền nhỏ, tăng thuyền lớn, phát triển nuôi trồng, chế
biến thuỷ, hải sản, việc làm cho người lao động trong ngành này tăng lên
56
nhanh nhờ kết hợp mở rộng đánh bắt, khai thác xa bờ với việc khôi phục, mở
rộng, phát triển các ngành nghề truyền thống như dịch vụ nghề biển, chế biến
nước mắm, khô mực, cá..., đặc biệt nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh
mẽ, nhất là nuôi tôm, cua ở ven biển đưa diện tích nuôi trồng lên 15.000 ha
năm 2004, trong đó có 1.380 ha mặn lợ và 13.400 ha nuôi trồng thuỷ sản
nước ngọt. Lao động được bố trí sắp xếp vào ngành ngư nghiệp tăng lên từ
44.465 người năm 2002 lên 53.094 người năm 2004.
Ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản
Ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh đã phát triển
dưới nhiều hình thức đa dạng. Số cơ sở sản xuất công nghiệp phân theo thành
phần kinh tế có xu hướng tăng dần qua các năm. Nếu năm 2001, khu vực kinh
tế trong nước có 22.773 cơ sở sản xuất công nghiệp, khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài có 3 cơ sở thì đến 2004 khu vực kinh tế trong nước của
tỉnh tăng mạnh với 31.867 cơ sở sản xuất công nghiệp, trong đó: 33 cơ sở
thuộc thành phần kinh tế nhà nước, 30 cơ sở thuộc thành phần kinh tế tập thể,
31.610 cơ sở thuộc thành phần kinh tế cá thể, 73 cơ sở thuộc thành phần kinh
tế tư nhân, 115 cơ sở thuộc kinh tế hỗn hợp và 6 cơ sở sản xuất công nghiệp
thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (xem bảng 2.9).
Bảng 2.9. Số cơ sở sản xuất công nghiệp phân theo ngành kinh tế
Đơn vị tính: Cơ sở
2001
2002
2003
Sơ bộ
2004
Tổng số
22.776 29.243
29.864
31.867
I. Khu vực kinh tế trong nước
22.773 29.240
29.859
31.861
1. Nhà nước
53
44
41
33
- Trung ương quản lý
11
13
14
14
- Địa phương quản lý
42
31
27
19
2. Tập thể
35
34
31
30
3. Cá thể
22.622 29.041
29.650
31.610
4. Tư nhân
32
52
55
73
5. Kinh tế hỗn hợp
31
69
82
115
II. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
3
3
5
6
57
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An 2004, tr. 115
Từ bảng 2.9, có thể nhận thấy ở khu vực kinh tế trong nước ở Nghệ An
có sự dịch chuyển khá rõ nét các cơ sở sản xuất công nghiệp thuộc thành phần
kinh tế nhà nước qua cải cách DNNN đang dần co hẹp lại (năm 2001 có 53 cơ
sở, đến năm 2004 chỉ còn 33 cơ sở) và các chính sách sản xuất công nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác như cá thể, tư nhân, kinh tế hỗn hợp lại có
xu hướng tăng lên nhanh chóng. Riêng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài trên địa bàn tỉnh còn rất ít và tăng chậm qua các năm, đến năm 2004 cả
tỉnh mới chỉ có 6 cơ sở sản xuất công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Công tác xây dựng cơ bản có nhiều tiến bộ hơn trước. Ngoài nguồn vốn
tập trung, tỉnh đã huy động được các nguồn vốn khác cho đầu tư phát triển
kinh tế. Năm 2004, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 7.655,9 tỷ đồng, tăng
37,2% so với kế hoạch và tăng 33,4% so với năm 2003. Việc phân bổ chỉ tiêu
và giao kế hoạch cho các dự án được sớm hơn; phong trào làm giao thông
nông thôn và thuỷ lợi đạt kết quả khá.
Số lao động đang làm việc trong ngành công nghiệp tăng đều qua các năm.
Bảng 2.10. Số lao động sản xuất công nghiệp phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: Người
2001 2002 2003 Sơ bộ 2004
58
Tổng số 59.322 68.669 71.485 76.654
I. Khu vực kinh tế trong nước 58.715 67.997 701.627 75.774
1. Nhà nước 11.224 9.491 9.169 9.500
- Trung ương quản lý 2.956 3.986 4.092 4.900
- Địa phương quản lý 8.268 5.505 5.077 4.600
2. Tập thể 4.996 1.263 1.329 1.443
3. Cá thể 40.719 52.225 53.745 56.066
4. Tư nhân 682 898 1.104 1.623
5. Kinh tế hỗn hợp 1.094 4.120 4.983 7.142
858 880 II. Khu vực có vốn đầu tư nhà nước 607
672 Nguồn: Niên giám thống kê Nghệ An 2004, tr.61
Số liệu bảng 2.9 và 2.10 cho thấy, trung bình mỗi năm ngành công
nghiệp và xây dựng cơ bản thu hút thêm được khoảng 8.000 lao động
Ngành dịch vụ:
Hoạt động thương mại - du lịch, dịch vụ có những chuyển biến tích
cực, giá trị sản xuất đạt 3.179,6 tỷ đồng năm 2004, bằng 100,5% kế hoạch và
tăng 9% so với năm 2003. Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tỉnh đạt 56,2
triệu USD năm 2004, giảm 4% so với 2003 (do dịch cúm gia cầm (virut
H5N1)); kim ngạch nhập khẩu đạt 77,9 triệu USD, bằng 99% so với năm 2003 [18, tr. 11.12]. Cơ sở vật chất của ngành du lịch tiếp tục được tăng cường, hạ
tầng các khu vực du lịch bước đầu được triển khai xây dựng, nâng cấp và
từng bước đưa vào sử dụng có hiệu quả như: công viên trung tâm, quảng
trường Hồ Chí Minh, du lịch biển Cửa Lò, Cửa hội...
Thương mại, du lịch và dịch vụ đã đáp ứng cơ bản nhu cầu đời sống và
sản xuất của xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất, xây dựng đời
sống của nhân dân.
Bảng 2.11. Hoạt động du lịch ở Nghệ An 2001 – 2004.
2001 2002 2003 2004
59
A. Khách đến du lịch (người)
1. Số lượt người lưu trú 606.547 653.432 879.554 1.046.265
Người Việt Nam 584.749 628.609 862.374 1.017.706
Người nước ngoài 21.798 24.823 17.180 28.920
2. Số ngày khách lưu trú 1.058.599 1.170.076 1.379.275 1.716.360
Người Việt Nam 1.027.088 1.133.895 1.351.891 1.658.630
Người nước ngoài 31.511 36.181 27.384 57.730
B. Doanh thu du lịch (tr. đồng)
144.076 172.037 191.853 250.000 * Tổng số
- Phân loại doanh thu
1. Doanh thu dịch vụ 52.604 74.638 89.050 116.037
+ Thuê phòng 46.789 53.675 63.154 82.292
+ Lữ hành 2.100 4.568 4.753 6.194
+ Vận chuyển khách 4.010 4.241 5.085 6.626
+ Thu khác 8.467 12.154 16.058 20.925
40.236 36.651 47.760 2. Doanh thu bán hàng hoá 30.106
86.203 57.163
3. Doanh thu bán hàng ăn uống 66.152 51.479 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An 2004, tr.122
Bên cạnh đó, mạng lưới bưu điện phát triển (đến tháng 5/2005 toàn tỉnh
có 225.834 máy điện thoại, trong đó: 116.147 điện thoại cố định, 14.411 thuê
bao di động trả sau và 95276 thuê bao di động trả trước); các loại dịch vụ bảo
hiểm phát triển đa dạng hơn; đến cuối năm 2003, 100% số xã có trạm y tế,
nâng tổng số giường bệnh lên 6.055 giường; 62% dân cư được dùng nguồn
nước sạch, đảm bảo vệ sinh, 89,07% số xã có điện lưới quốc gia [38, tr. 17].
Sự phát triển của ngành thương mại, du lịch và dịch vụ là điều kiện tốt
nhất để khai thác tiềm năng lao động của tỉnh, tạo thêm nhiều việc làm mới.
Xem bảng 2.12.
60
Bảng 2.12. Số người từ đủ 15 tuổi trở lên có VLTX trong ngành dịch vụ
chia theo trình độ CMKT 2000 – 2004.
Năm Tổng số THCN
CĐ, ĐH trở lên
Không có CMKT 2000 180.058 68.460 Sơ cấp/ chứng chỉ nghề 30.245 CNKT không có bằng 20.671 CNKT có bằng 5.272 30.249 25.163
2002 192.038 64.379 34.680 23.606 7.826 31.739 29.725
2004 206.141 63.726 37.959 26.538 1.079 35.274 32.429
Nguồn: Thực trạng lao động việc làm Nghệ An 2000 - 2004.
Số lao động làm việc trong ngành dịch vụ tăng qua các năm. Năm 2000,
số lao động có việc làm thường xuyên trong ngành dịch vụ là 180.058 người,
đến năm 2004 tăng lên 206.141 người, bình quân mỗi năm tăng 6,5 nghìn lao
động.
Như vậy, cơ cấu kinh tế tỉnh Nghệ An đang từng bước thay đổi, sản
xuất hàng hoá ngày càng phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Theo đó cơ
cấu việc làm và cơ cấu lao động cũng thay đổi. Tỷ trọng lao động nông
nghiệp giảm dần, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ tăng lên rõ
rệt.
b. Giải quyết việc làm theo thành phần kinh tế
Nghệ An thực hiện chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, trong những năm qua đã thực sự mở ra những khả năng to lớn để phát
huy mọi tiềm năng, giải phóng triệt để hơn sức sản xuất. Nhiều cơ sở sản xuất
kinh doanh ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả, kinh tế hộ gia đình, kinh
tế trang trại phát triển phong phú, đa dạng trong các lĩnh vực, góp phần giải
quyết việc làm tại chỗ cho người lao động.
Cơ cấu lao động có việc làm thường xuyên chia theo thành phần kinh tế
đã có sự thay đổi rõ nét. Trong tổng số lao động có việc làm thường xuyên thì
61
khu vực kinh tế nhà nước chiếm 8%, kinh tế tập thể là 42,86%, tư nhân chiếm
15,5%, kinh tế cá thể là 32,49%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 0,85%,
kinh tế hỗn hợp 0,3% [39, tr. 5].
Như vậy, có thể thấy lao động có việc làm trong khu vực quốc doanh ở
Nghệ An chiếm tỷ trọng quá thấp (8%); còn lao động trong các cơ sở liên doanh
và hỗn hợp đã hình thành nhưng khả năng thu hút lao động chưa mở ra nhiều.
Kinh tế tập thể và kinh tế cá thể vẫn là các thành phần chủ yếu thu hút nhiều lao
động và là nơi tạo ra được nhiều việc làm nhất cho người lao động ở Nghệ An.
Biểu 2.1: Cơ cấu lao động chia theo nhóm ngành, 1/7/2002
Đơn vị: %
Khu vực thành phần kinh tế
Nhóm ngành KTQD
Tổng số
Cá thể
Nhà nƣớc
Tập thể
Tƣ nhân
Có vốn ĐTNN
Hỗn hợp
Tổng số
100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
100,00 100,00
Chia ra
75,93
2,98
95,90
8,98
54,15
-
3,06
- Nông, lâm, ngư nghiệp
9,26
17,06
3,31
57,34
18,13
71,88
56,75
- Công nghiệp và xây dựng
14,65
79,86
0,79
33,68
27,69
28,15
40,19
- Dịch vụ
Nguồn: Thực trạng Lao động- việc làm Nghệ An 2002, tr. 15
c. Giải quyết việc làm theo khu vực
Khu vực thành thị
Nghệ An là một tỉnh nông nghiệp, phần lớn dân cư sống ở nông thôn.
Số người ở thành thị chỉ có 316.709 người, chiếm 10,55%, trong đó số nhân
khẩu từ đủ 15 tuổi trở lên là 243.613 người, chiếm 76,9% so với thực tế
thường trú trong khu vực. trong độ tuổi lao động là 206.252, chiếm 65,3%.
Ngoài lực lượng lao động tại chỗ, hàng năm có một lực lượng lao động đáng
kể từ các vùng nông thôn vào các khu công nghiệp, đô thị tìm kiếm việc làm,
62
đặc biệt là từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Người lao động nông
thôn vào khu đô thị tìm việc và làm việc với nhiều dạng khác nhau và có xu
hướng ngày càng tăng, một số vào theo mùa vụ nông nhàn trong nông nghiệp,
một số khác tìm việc và làm việc thường xuyên trong năm... Đó là lực lượng
đáng kể bổ sung vào nguồn lao động ở khu vực thành thị.
Về trình độ học vẫn nói chung của người dân ở thành thị là khá cao và
ngày càng được nâng cao hơn.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: lực lượng lao động có chuyên môn
kỹ thuật ở thành thị là tương đối cao, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào
tạo từ sơ cấp, học nghề trở lên chiếm 69,03%; đã qua đào tạo từ chuyên
môn kỹ thuật có bằng trở lên 39,61% trong tổng số lực lượng lao động
thành thị của toàn tỉnh.
Vấn đề sử dụng nguồn lao động ở khu vực thành thị trong thời gian
qua: tỷ lệ lao động có việc làm thời kỳ 2000 - 2004 của khu vực thành thị
là 94,3% (trong độ tuổi lao động); tỷ lệ lao động không có việc làm ở khu
vực thành thị giảm từ 6,7% năm 2000 xuống còn 5,59% năm 2003 và
5,37% năm 2004 [8, tr. 135].
Thực hiện cơ chế đổi mới, Nghệ An đã có chủ trương và chính sách
khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, đa dạng hoá các hình thức sản
xuất nhằm phát huy tốt mọi nguồn lực vào quá trình phát triển kinh tế tạo thêm
nhiều việc làm cho lao động xã hội. Đồng thời với sự chuyển đổi cơ chế, sắp
xếp, tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp. Do vậy, lao
động ở thành thị của tỉnh biến động theo xu hướng giảm tỷ trọng lao động quốc
doanh và tập thể, lao động trong khu vực tư nhân và cá thể tăng lên khá nhanh.
Một trong những điểm hạn chế khi sử dụng nguồn lao động ở khu vực
thành thị là sự chưa phù hợp giữa cơ cấu nguồn lao động với cơ cấu việc làm,
thể hiện sự vừa thừa vừa thiếu lao động. Trong nhiều lĩnh vực, tỉnh thiếu lao
63
động có trình độ cao, tay nghề giỏi, hoặc khi có dự án hợp tác, liên doanh với
nước ngoài được mở ra, các khu chế xuất được xây dựng và đi vào hoạt động
thì việc tuyển dụng lao động cho các cơ sở này cũng rất khó khăn do thiếu lao
động kỹ thuật, tay nghề hoặc do lao động bị hạn chế về ngoại ngữ, vi tính...
Trong khi đó, nguồn lao động dư thừa, đặc biệt là lao động phổ thông không
có chuyên môn kỹ thuật.
Khu vực nông thôn
Hiện nay, ở khu vực nông thôn Nghệ An, số nhân khẩu từ đủ 15 tuổi
trở lên là 1.723.122 người, chiếm 65,35% dân số thực tế thường trú trong khu
vực, số nhân khẩu trong độ tuổi lao động là 1.456.557 người, chiếm 55,24%;
tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp, học nghề ở nông thôn
chiếm 15,25%; đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật có bằng trở lên 14,31%
trong tổng số lực lượng lao động nông thôn của toàn tỉnh [8, tr. 13]. Như vậy,
lao động nông thôn ở Nghệ An đại bộ phận là lao động phổ thông không có
trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Đặc trưng của tình hình lao động và việc làm ở khu vực nông thôn
Nghệ An hiện nay biểu hiện ở một số đặc điểm sau:
+ Đội ngũ lao động nông nghiệp, nông thôn khá lớn, tăng nhanh, khả
năng thu hút việc làm rất hạn chế nên lao động dư thừa lớn.
+ Hệ số sử dụng thời gian lao động còn thấp, năm 2000: 74,62%, năm
2004: 78,42%.
+ Giá trị lao động và thu nhập thấp.
Những năm qua, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở nông
thôn Nghệ An luôn dành được sự quan tâm của chính quyền tỉnh và được tổ
chức thực hiện dưới nhiều hình thức, bằng nhiều chính sách cụ thể như: hình
thành và cho vay vốn tạo việc làm từ quỹ quốc gia và giải quyết việc làm;
thực hiện các chương trình mục tiêu (như: 135, 327, 773 di giãn dân phát triển
64
vùng kinh tế mới, chương trình định canh định cư); chương trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp; mở các trung tâm đào tạo và giải quyết việc làm;
hợp tác lao động quốc tế... Nhờ đó, đã giải quyết cho hơn 45.000 lao động có
việc làm mới; các chương trình 327, 773 di giãn dân phát triển vùng kinh tế
mới nội ngoại tỉnh đã giải quyết cho 9.556 lao động, giãn dân 5.559 hộ.
Lực lượng lao động ở miền núi tăng từ 34,87% năm 2000 lên 36,68%
năm 2004. Mô hình kinh tế hộ và kinh tế trang trại đang phát huy được lợi thế
ở vùng nông thôn, thu hút được số đông lao động đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Ở nông thôn Nghệ An, cơ cấu lao động xã hội có sự chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động nông
nghiệp, tuy nhiên ở mức độ còn chậm. Kết quả điều tra năm 2004 cho thấy, tỷ
lệ lao động nông nghiệp chiếm 69,7%, công nghiệp và xây dựng chiếm
13,6%, dịch vụ chiếm 17,6%.
Tình hình việc làm và sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn tuy
đã có những tiến triển rõ rệt, song nhìn chung lao động ở nông thôn vẫn còn
là sức ép đối với nền kinh tế của tỉnh. Hiện nay, ở khu vực nông thôn đang
thiếu nghiêm trọng những lao động có chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề;
trong khi đó, nguồn nhân lực ở đây lại dồi dào nhưng phần lớn lại chưa qua
đào tạo nghề nên không thể đáp ứng được yêu cầu, gây ra khó khăn rất lớn
trong việc tạo việc làm ở khu vực này.
d. Giải quyết việc làm cho người lao động qua xuất khẩu lao động
Nghệ An là tỉnh có nguồn lao động dồi dào, chiếm khoảng 56,1% dân
số trong tỉnh. Các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ chưa phát
triển, việc mở mang du nhập nghề mới, khôi phục và phát triển ngành nghề
truyền thống còn chậm, việc tổ chức, khai thác các tiềm năng trên địa bàn
chưa đáp ứng được nhu cầu về việc làm. Bởi vậy, XKLĐ đóng một vai trò
quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, tạo thu nhập,
65
nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho
ngân sách của tỉnh.
Những năm gần đây, chính sách của Đảng và Nhà nước từng bước được
chuyển đổi phù hợp với công tác XKLĐ và chuyên gia theo cơ chế quản lý mới
làm cho người lao động có nhiều cơ hội tham gia. Bộ Chính trị đã có Chỉ thị
41/CT ngày 22/9/1999 về xuất khẩu lao động và chuyên gia, Chính phủ ban
hành Nghị định 152 ngày 20/9/1999 quy định việc đưa lao động và chuyên gia
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài... Riêng ở Nghệ An, trong những năm qua
công tác XKLĐ đã được sự quan tâm và chỉ đạo tích cực của Tỉnh uỷ, UBND
tỉnh. Ngày 24/5/2004, Tỉnh uỷ có Chỉ thị số 24/CT.TU về việc đẩy mạnh lãnh
đạo công tác XKLĐ, ngày 13/9/2004 UBND tỉnh có Quyết định số 95/2004/QĐ-
UB về việc ban hành một số chính sách khuyến khích XKLĐ thay thế Quyết
định số 39/2003/QĐ-UB. Từ tỉnh đến các huyện, thị xã, thành phố đều thành lập
ban chỉ đạo XKLĐ, có đề án, chương trình triển khai thuộc địa bàn và cơ sở.
Thực hiện chủ trương khuyến khích và kêu gọi các công ty có chức
năng và uy tín trong lĩnh vực XKLĐ của Trung ương và các tỉnh về tuyển
chọn lao động xuất khẩu, năm 2004, Sở Lao động - Thương binh và xã hội
Nghệ An đã chủ động làm việc với Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao
động - Thương binh và xã hội) và các công ty trực tiếp XKLĐ, nhờ vậy đã
mời gọi thêm 8 đơn vị ngoài tỉnh có chức năng XKLĐ trực tiếp về Nghệ An
tuyển lao động, đưa tổng số các đơn vị tuyển lao động xuất khẩu trên địa bàn
tỉnh lên 33 đơn vị. Với sự hoạt động của nhiều đơn vị XKLĐ trên địa bàn
thực sự đã tạo thuận lợi cho người lao động khắp các vùng trong tỉnh có điều
kiện tiếp cận và lựa chọn thị trường cũng như đơn vị cung ứng. Ngoài những
thị trường ổn định có nhiều lao động đi làm việc thì các đơn vị XKLĐ đã khai
thác mở rộng thêm một số thị trường mới có thu nhập cao và việc làm ổn định
như: Ả Rập, Li Bi, Hàn Quốc, Nhật Bản...
66
Thông tin thị trường lao động xuất khẩu được quan tâm thông qua công
tác tuyên truyền, quảng cáo của các đơn vị XKLĐ trên các phương tiện thông
tin đại chúng (phát thanh, truyền hình, báo). Đặc biệt tại Hội chợ việc làm lần
thứ III (2004) với sự tham gia của 17 đơn vị XKLĐ, người lao động đã có dịp
trực tiếp tìm hiểu nhu cầu, điều kiện và chủ động lựa chọn địa chỉ để đi
XKLĐ; Hội chợ 2004 thu hút 3000 lao động của tỉnh đăng ký XKLĐ. Bên
cạnh đó, các đơn vị XKLĐ đã đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường đội ngũ giáo
viên để làm tốt hơn công tác dạy nghề, dạy tiếng, định hướng cho người lao
động tiếp cận thị trường, nâng cao nhận thức, nâng cao hiểu biết cho người
lao động để họ phát huy được khả năng của mình khi làm việc ở nước ngoài.
Những năm qua, nhờ làm tốt công tác kiểm tra cơ sở về hoạt động XKLĐ nên
đã chấn chỉnh kịp thời các đơn vị tuyển lao động không đúng quy trình, khắc
phục tình trạng môi giới, lừa đảo nên số lao động bị lừa đảo trên địa bàn tỉnh
chiếm tỷ lệ không đáng kể. Các ngành liên quan như Ngân hàng, Công an,
Hải quan, Y tế... đều tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người lao động trong quá
trình chuẩn bị thủ tục. UBND tỉnh hàng năm trích ngân sách khoảng 600 -
800 triệu đồng hỗ trợ cho công tác giáo dục định hướng, đào tạo nghề, học
tiếng cho người lao động đi XKLĐ.
Xuất khẩu lao động của tỉnh Nghệ An đạt kết quả tương đối cao. Năm
2003, số người được đưa đi XKLĐ là 5.486 người, năm 2004, toàn tỉnh đã
đưa được 6.527 lao động đi làm việc có thời hạn ở các nước, trong đó tập
trung cơ bản là: Đài Loan 2.538 người; Malaysia 1.968 người; Hàn Quốc 355
người; Ả Rập 49 người... Đến nay, toàn tỉnh có số lao động đang làm việc ở
nước ngoài là 21.927 lao động. Một số huyện đã đưa được nhiều lao động đi
xuất khẩu, điển hình như: năm 2004, huyện Nghi Lộc 987 người, Nam Đàn
800 người, Hưng Nguyên 605 người, Diễn Châu 751 người... Một số đơn vị
XKLĐ đã năng động, thay đổi cách tuyển, tạo được mối liên kết chặt chẽ với
67
các xã phường nên nên đã đưa được nhiều lao động đi xuất khẩu như: Trung
tâm dịch vụ việc làm Nghệ An 505 người (tính riêng 2004); Công ty cung ứng
xuất khẩu lao động và chuyên gia Nghệ An 500 người; Công ty cung ứng
nhân lực quốc tế và thương mại (SONA) 502 người...
Bảng 2.13. Kết quả xuất khẩu lao động năm 2004
(Chia theo từng huyện và thị trường)
Đơn vị tính: Người
Trong đó đi các thị trƣờng
TT
Huyện, Thành, Thị
Tổng số
Malaysia
Đài Loan
Ả Rập
Hàn Quốc
Nhật Bản
Nƣớc khác
1
TP Vinh
390
198
157
0
23
0
12
2
Thị xã Cửa Lò
427
111
229
0
51
20
16
3 Diễn Châu
751
374
174
6
77
2
118
4 Quỳnh Lưu
522
165
261
5
50
6
35
5
Con Cuông
28
1
7
0
0
1
12
6 Nghĩa Đàn
421
53
293
8
8
2
57
7 Yên Thành
530
56
66
0
12
0
396
8 Đô Lương
325
67
66
10
19
0
48
9 Anh Sơn
45
13
2
0
0
0
0
10 Tân Kỳ
93
71
22
0
0
0
0
11 Nghi Lộc
987
354
512
14
54
0
53
12 Hưng Nguyên
605
110
222
6
47
10
210
13 Kỳ Sơn
1
1
0
0
0
0
0
14 Tương Dương
17
1
0
0
0
0
0
15 Quế Phong
28
17
3
0
0
0
0
16 Nam Đàn
800
304
482
0
14
0
0
17 Quỳ Châu
9
3
5
0
0
0
1
18 Quỳ Hợp
52
19
26
0
0
0
2
50
56
0
0
0
31
19 Thanh Chương
496
Tổng cộng 6527
1968
2583
49
355
41
991
68
Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Nghệ An
Bên cạnh những mặt đạt được, công tác XKLĐ ở Nghệ An còn gặp
phải những khiếm khuyết như:
+ Số lao động đi xuất khẩu của tỉnh còn ít, chưa tương xứng với tiềm
năng nguồn lao động của tỉnh. Một số huyện miền núi như: Kỳ Sơn, Quỳ
Châu, Tương Dương, Quế Phong... số lao động đi xuất khẩu còn rất thấp (
tính riêng năm 2004 huyện Kỳ Sơn chỉ có 01 lao động, Quỳ Châu 09 lao
động). Đặc biệt là số lao động đi xuất khẩu thuộc hộ nghèo mới có 23%, hộ
chính sách người có công có 8%; số lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật được tuyển xuất khẩu còn ít, mới chỉ đạt 18%.
+ Công tác kiểm tra, thanh tra, vai trò quản lý nhà nước về lĩnh vực
XKLĐ của một số đơn vị cấp huyện, thị trấn, xã, phường đang bị buông lỏng.
Hiện tượng môi giới, tranh giành người lao động xuất khẩu, thu phí trái quy
định của một số tổ chức, cá nhân làm dịch vụ môi giới vẫn đang xảy ra làm
thiệt hại cho người lao động, mất lòng tin của nhân dân.
+ Vẫn còn một số công ty, đơn vị trong và ngoài tỉnh có chức năng
XKLĐ trực tiếp làm trái quy định, ký hợp đồng uỷ thác hoặc liên kết với các tổ
chức, cá nhân để thông qua môi giới tuyển lao động xuất khẩu; tình trạng thông
tin thất thiệt, không đúng về chi phí XKLĐ vẫn xẩy ra.
+ UBND tỉnh đã ban hành một số chính sách khuyến khích XKLĐ,
song việc triển khai của một số sở, ngành thiếu đồng bộ và nghiêm túc đã dẫn
đến hạn chế hoạt động của các đơn vị XKLĐ như: chính sách miễn phí thông
tin quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương.
+ Tình trạng người lao động xuất khẩu của tỉnh ở thị trường các nước vi
phạm hợp đồng lao động, vi phạm pháp luật nước sở tại vẫn diễn ra [41, tr. 25].
69
2.3. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VỀ THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG - VIỆC LÀM Ở
NGHỆ AN
2.3.1. Ƣu điểm
- Lực lượng lao động Nghệ An tiếp tục tăng ổn định, hàng năm bổ sung
khoảng 3 vạn người. Chất lượng lao động đã có bước chuyển trên cơ sở củng cố
và mở rộng quy mô dạy nghề, đào tạo nghề nghiệp cho người lao động theo
hướng đa dạng hoá ngành nghề và loại hình đào tạo, dạy nghề trong các thành
phần kinh tế, thúc đẩy nâng cao chất lượng lực lượng lao động, đáp ứng nhiều hơn
đòi hỏi của thị trường lao động trong và ngoài tỉnh, thích ứng dần với tiến trình đổi
mới.
- Nhận thức về việc làm và ý thức tự tạo việc làm để tăng thu nhập đã
có sự thay đổi trong nhân dân. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng
làm, thực hành tiết kiệm, tập trung vốn cho đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, gắn sản xuất với thị trường, cùng với các chính sách khuyến khích
thích hợp, các nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống, dịch vụ mấy năm qua
đã phát triển mạnh mẽ; một số làng nghề được khôi phục; hình thành nhiều
mô hình sản xuất mới trong các lĩnh vực, nhất là mô hình trang trại, tổng đội
thanh niên xung phong, các doanh nghiệp vừa nhỏ; việc làm cho người lao
động được giải quyết theo hướng phong phú hơn, thực tế hơn. Hàng năm đã
tạo được thêm số chỗ làm việc tương đương với số lao động bổ sung vào lực
lượng lao động xã hội trên địa bàn tỉnh.
- Phân công lao động xã hội đã từng bước chuyển dịch phù hợp với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của cả nước, theo hướng rút bớt lao động
trong nông nghiệp, tăng lao động trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ; đa dạng hoá việc làm trong các thành phần kinh tế, thúc đẩy phát
triển sản xuất hàng hoá ở nhiều vùng trong tỉnh.
70
- Nhiều cơ chế chính sách mới được ban hành có tác động tích cực đến
phát triển sản xuất của các ngành kinh tế mở tạo ra các cơ hội việc làm cho
người lao động.
- Việc chỉ đạo thực hiện chương trình việc làm đã có bước chuyển đáng
kể, các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị xã hội đã từng bước gắn vấn đề
giải quyết việc làm cho người lao động với nhiệm vụ chính trị của mình.
2.3.2. Tồn tại
Bên cạnh những ưu điểm đạt được, vẫn còn một số hạn chế lớn đối với
vấn đề lao động - việc làm ở Nghệ An thời gian qua đó là:
Một là, lực lượng lao động ở Nghệ An tuy đông nhưng phần lớn là lao
động phổ thông chưa qua đào tạo nghề nghiệp, số lao động được đào tạo, có
trình độ chuyên môn kỹ thuật còn ít và tập trung ở một số ngành; nhiều ngành
kinh tế không có hoặc có rất mỏng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật. Đặc biệt là vùng nông thôn và miền núi số lao động được đào tạo còn
chiếm tỷ lệ rất thấp, chưa đáp ứng yêu cầu chuyển dịch và phát triển kinh tế.
Hai là, tác phong công nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động
chưa cao, một bộ phận không nhỏ người lao động vẫn không chịu khó trong
việc làm để cho hiệu quả và thu nhập cao hơn, vẫn mang nặng tư tưởng thích
làm thầy, không thích làm thợ và chỉ muốn làm việc trong các cơ quan hành
chính sự nghiệp hoặc tại các doanh nghiệp nhà nước. Năng suất lao động đạt
ở mức thấp.
Ba là, cơ cấu phân bổ lao động theo ngành kinh tế bước đầu đã có
chiều hướng thay đổi nhưng nhìn chung lao động vẫn tập trung chủ yếu vào
nông nghiệp, lao động công nghiệp và dịch vụ tuy có tăng nhưng tốc độ tăng
chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ là lĩnh vực thu hút nhiều lao động vào làm việc xét cả về
71
trước mắt và lâu dài, nhưng các ngành này chưa đủ sức phát triển mạnh mẽ
trong cơ chế thị trường, cho nên lao động phân bổ vào đây còn thấp.
Bốn là, sức ép về tình trạng lao động thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn căng
thẳng (ở thành thị tỉ lệ lao động thiếu việc làm là 12,47%, nông thôn 28,61%).
Việc sử dụng quỹ thời gian lao động đang ở tỷ lệ thấp (< 80%), gây lãng phí lớn,
nhất là lao động nông nghiệp, nông thôn, lao động miền núi vùng sâu, vùng xa.
Mức thu nhập của người lao động còn thấp và không ổn định (đặc biệt là
lao động ở nông thôn). Số hộ đói và nhân khẩu thiếu đói tuy có giảm qua các năm
song vẫn còn tương đối cao. Xem bảng 2.14.
Bảng 2.14. Báo cáo hộ nông nghiệp thiếu đói [17, tr. 46]
(Tính đến 10-12-2004)
Đơn vị 10-12 10-12 % so với
tính 2003 2004 cùng kỳ
1. Hộ thiếu đói
+ Số hộ thiếu đói hộ 10.465 10.385 99,24
Trong đó:
- Hộ đói gay gắt 1.697 1.811 106,72 hộ
- Hộ chính sách 402 298 74,13 hộ
+ Tỷ lệ hộ đói so với hộ nông nghiệp 2,02 2,15 %
2. Nhân khẩu thiếu đói
+ Số nhân khẩu thiếu đói người 47.417 46.118 97,26
Trong đó:
- Khẩu đói gay gắt người 6.952 8.826 112,96
- Khẩu chính sách người 1.483 1.107 74,65
+ Tỷ lệ khẩu đói so với khẩu nông % 2,11 2,03
nghiệp
72
Năm là, phân công lao động xã hội và vấn đề giải quyết việc làm cho lao
động trên địa bàn của tỉnh những năm qua phụ thuộc lớn vào sự điều tiết của cơ
chế thị trường; sự can thiệp của Nhà nước tuy đã được quan tâm song chưa đủ
mạnh để tạo nên bước chuyển biến quan trọng trong giải quyết việc làm.
Sáu là, việc chỉ đạo thực hiện chương trình việc làm thời gian qua chưa
được các cấp, các ngành quan tâm đúng mức cả về nhận thức, đầu tư và chỉ
đạo tổ chức thực hiện. Trong các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã
hội chưa gắn được chỉ tiêu giải quyết việc làm cho lao động và hiệu quả giải
quyết việc làm, tình trạng thất thoát vốn, lãng phí còn tồn tại. Một số địa
phương trên địa bàn tỉnh chưa chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện
chương trình giải quyết việc làm của mình, có tư tưởng trông chờ vào nguồn
vốn hỗ trợ giải quyết việc làm của Nhà nước. Công tác quản lý nhà nước về
lĩnh vực lao động - việc làm, thông tin thị trường lao động và hoạt động dịch
vụ việc làm còn nhiều hạn chế. Tính xã hội hoá trong giải quyết việc làm
chưa cao.
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong công tác giải quyết việc
làm cho ngƣời lao động ở Nghệ An
Từ những tồn tại của công tác giải quyết việc làm ở Nghệ An thời gian
qua, theo chúng tôi, tỉnh Nghệ An còn gặp phải những nguyên nhân khách
quan và chủ quan sau:
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Do xuất phát điểm của nền kinh tế của tỉnh còn ở mức thấp, tích luỹ
nội bộ từ nền kinh tế còn yếu, khả năng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tạo điều kiện và cơ hội cho người lao
động tìm kiếm việc làm và tự tạo việc làm đang hạn chế.
- Quy mô dân số và lao động lớn luôn là áp lực đối với vấn đề giải
quyết việc làm cho lao động. Vùng núi rộng, nơi có nhiều tiềm năng phát triển
73
kinh tế nhưng việc phân bổ dân cư và lao động được hình thành mang tính tự
nhiên, thiếu hợp lý.
- Cơ sở hạ tầng nói chung, nhất là các xã miền núi về giao thông, thuỷ
lợi, điện, thông tin liên lạc... còn khó khăn, hạn chế phát triển sản xuất, sinh
hoạt, đời sống, tiêu thụ sản phẩm.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo chương trình việc làm chưa được các ngành,
các cấp quan tâm đúng mức. Chỉ tiêu giải quyết việc làm cho lao động hàng
năm chưa trở thành kế hoạch của các ngành, các cấp và các chương trình, dự
án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Công tác tuyên truyền để nâng
cao nhận thức cho nhân dân về việc làm và tự tạo việc làm cho bản thân chưa
được chú trọng.
- Đầu tư cho đào tạo nghề để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho lực
lượng lao động còn hạn chế, cho nên chất lượng lao động thấp, thiếu các chuyên gia
kinh tế, công nhân kỹ thuật đầu đàn, đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi.
- Nguồn lực đầu tư cho chương trình giải quyết việc làm còn thấp. Việc
sơ kết, tổng kết, xây dựng và nhân rộng các mô hình giải quyết việc làm có
hiệu quả trên địa bàn tỉnh chưa đi vào nề nếp.
- Các doanh nghiệp và các trung tâm dịch vụ việc làm, XKLĐ hoạt
động còn yếu, hiệu quả thấp.
2.4. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT
2.4.1. Mâu thuẫn giữa giải quyết việc làm với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà trước hết là chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp - nông thôn của Nghệ An là giải pháp cơ bản, lâu dài để tạo việc
làm và thu nhập ổn định cho các hộ ở nông thôn. Đó là quá trình chuyển dịch
theo ngành, lĩnh vực, chuyển dịch theo thành phần kinh tế và theo vùng kinh tế.
74
Nghệ An là một tỉnh nông nghiệp, với hơn 80% lực lượng lao động
hoạt động trong nông nghiệp, năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân
trong tỉnh nhất là bà con nông dân còn gặp nhiều khó khăn. Mặc dù có những
tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế, song với cơ cấu kinh tế nông nghiệp
lạc hậu là một trở ngại lớn đối với việc phát triển kinh tế của tỉnh nói chung
và với nông nghiệp nói riêng. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH có tầm quan trọng lớn lao. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
sẽ tạo điều kiện để phân công lại lao động, phân bố lại dân cư giữa các vùng,
các ngành. Số lao động từ nông nghiệp dôi ra sẽ là nguồn lao động phục vụ
cho các ngành công nghiệp, dịch vụ.
Khi cơ cấu kinh tế thay đổi thì cơ cấu lao động cũng thay đổi theo. Đây
là một xu hướng tất yếu của quá trình chuyển hoá từ nền sản xuất tiểu nông
lên sản xuất lớn và cũng là quy luật của quá trình CNH, HĐH nền kinh tế.
Quá trình đó kéo theo sự phân công lại lao động mà chủ yếu diễn ra trong nội
bộ ngành nông nghiệp, trước hết là ngành trồng trọt và chăn nuôi, giảm bớt số
lao động nông nghiệp trên cơ sở tăng năng suất lao động; giảm lao động trồng
cây lương thực, chuyển sang trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và những cây
trồng có giá trị kinh tế cao, giảm lao động trồng trọt và tăng lao động trong
chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Thực tế hiện nay cho thấy, nguồn lao động ở nông thôn Nghệ An còn
dôi dư khá lớn, mặt khác đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chỉ có tính thời
vụ, nhu cầu về lao động trong những tháng nông nhàn chỉ bằng 30 - 40% mức
nhu cầu lao động bình quân hàng năm. Trong khi đó nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ở nông thôn phát triển chậm hơn ở thành thị, vì vậy đa dạng
về việc làm cũng ít hơn và nét phổ biến ở nông thôn là thiếu việc làm. Để giải
quyết vấn đề này Nghệ An đã chọn hướng kết hợp phát triển nông nghiệp
toàn diện với mở rộng ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn. Trên thực tế hình
75
thức này đã đạt kết quả. Song, ở Nghệ An hiện nay vẫn chưa có sự phù hợp
giữa cơ cấu lao động với cơ cấu kinh tế đang chuyển đổi nên hiện tượng thiếu
việc làm và thất nghiệp vẫn tồn tại dai dẳng. Lao động dôi dư do chuyển đổi
cơ cấu kinh tế từ lĩnh vực nông nghiệp rất khó có khả năng chuyển dịch sang
lĩnh vực khác (công nghiệp và dịch vụ), bởi lao động nông nghiệp ở tỉnh có
chất lượng thấp, số lao động dôi ra chủ yếu là chưa qua đào tạo nghề. Vì vậy,
làm cho tỷ lệ thiếu việc làm trong nông nghiệp ngày càng tăng. Đây là một
mâu thuẫn lớn giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế với giải quyết việc làm ở tỉnh
Nghệ An. Từ nay đến năm 2010 tỉnh Nghệ An cần tập trung giải quyết vấn đề
chất lượng lao động, tăng cường đầu tư cho công tác dạy nghề, khuyến khích
phát triển công tác dạy nghề đa dạng nhằm bù đắp những lỗ hổng chất lượng
hiện tại. Có như vậy các biện pháp giải quyết việc làm mới có cơ hội thực thi.
2.4.2. Mâu thuẫn giữa giải quyết việc làm với đào tạo nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được đề cập đến như một nguồn vốn tổng hợp với hệ
thống các yếu tố hợp thành: sức khoẻ và trí tuệ, khối lượng cùng với các đặc
trưng về chất lượng lao động như trình độ văn hoá, kỹ thuật, kinh nghiệm
nghề nghiệp, thái độ và phong cách, tác phong làm việc... Ở đây, con người
được xem xét với tư các là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, một
nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội.
Theo UNDP, có năm nhân tố tác động đến quá trình phát triển nguồn
nhân lực. Đó là giáo dục - đào tạo, sức khoẻ và dinh dưỡng, môi trường, việc
làm, sự giải phóng con người. Những nhân tố này quan hệ chặt chẽ với nhau
và phụ thuộc lẫn nhau, trong đó giáo dục - đào tạo là cơ sở của tất cả các nhân
tố khác. Nhà nước ta chủ trương: "Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục -
đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy
nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển" [23, tr. 10].
76
Hiện nay, Nghệ An có hơn 1,5 triệu người trong độ tuổi lao động,
nguồn lao động của tỉnh chủ yếu tập trung ở khu vực nông nghiệp nông thôn.
Chất lượng lao động của tỉnh nhìn chung còn thấp, cả về quy mô và chất
lượng. Lực lượng lao động không có CMKT cao, chiếm xấp xỉ 80%, tỉnh
thiếu nhiều lao động có trình độ CMKT, công nhân lành nghề, chuyên gia kỹ
thuật, đội ngũ quản lý. Bên cạnh đó, chất lượng giáo dục - đào tạo nghề của
tỉnh thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, cơ cấu đào tạo bất hợp lý, xu hướng
thương mại hoá trong đào tạo diễn ra khá phổ biến, đào tạo không gắn với sản
xuất và thị trường sức lao động. Lao động trong nông nghiệp, nông thôn hầu
như không được đào tạo nên khó có thể kiếm tìm công việc mới ở các lĩnh
vực sử dụng công nghệ cao, mặt khác, số lao động được đào tạo lại không
muốn tìm việc, làm việc ở khu vực nông nghiệp nông thôn.
Thực tiễn công tác giải quyết việc làm ở Nghệ An trong thời gian qua
cho thấy, ở Nghệ An hiện nay vừa thừa lại vừa thiếu lao động. So với yêu cầu
của CNH, HĐH thì ở mọi ngành, nghề đều thừa tương đối lao động giản đơn
và lao động có nghề được đào tạo, nhưng lại thiếu tuyệt đối lao động có nghề
theo công việc kỹ thuật đòi hỏi, thiếu đội ngũ lao động chất lư ợng cao. Để
thực hiện tốt hơn công tác đào tạo nguồn nhân lực qua đó cải thiện tình trạng
thiếu việc làm, thất nghiệp cũng như chuyển dịch cơ cấu, phục vụ sự nghiệp
CNH, HĐH tỉnh Nghệ An cần:
- Xây dựng, thực hiện tốt chiến lược đào tạo nhân lực, bám sát yêu cầu
của thực tiễn công việc, khắc phục xu hướng thương mại hoá trong đào tạo.
- Đầu tư vốn, trang thiết bị cho công tác đào tạo nhân lực, trong đó chú
ý đúng mức tới đội ngũ giáo viên dạy nghề.
- Bổ sung cơ chế, chính sách giữ và thu hút lao động chất lượng cao về
tỉnh công tác.
77
- Có chính sách khuyến khích học nghề, đào tạo nghề đặc biệt là cho bà
con vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
78
Chƣơng 3
NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM Ở NGHỆ AN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010
3.1. QUAN ĐIỂM, DỰ BÁO VÀ PHƢƠNG HƢỚNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở
NGHỆ AN ĐẾN NĂM 2010
3.1.1 Quan điểm cơ bản
Để công tác giải quyết việc làm ở Nghệ An đạt kết quả tốt hơn nữa cần
quán triệt các quan điểm sau:
Một là, giải quyết việc làm là trách nhiệm và nhiệm vụ kinh tế - chính
trị - xã hội của từng cá nhân, tập thể, các thành phần kinh tế, các tổ chức xã
hội, các ngành, các cấp.
Giải quyết việc làm, sử dụng lao động không còn là công việc riêng của
Nhà nước, mà là của toàn xã hội. Từng gia đình, đến phường, xã, quận,
huyện, tỉnh và Trung ương đều có trách nhiệm giải quyết việc làm. Các thành
phần kinh tế, các đoàn thể kinh tế xã hội đều phải coi giải quyết việc làm là
một trong những nhiệm vụ kinh tế - chính trị và xã hội quan trọng. Nhà nước
cần hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo sử
dụng có hiệu quả tiềm năng lao động xã hội, đồng thời tạo ra các điều kiện
cần thiết thông qua cơ chế chính sách, luật pháp để cho mọi công dân được tự
do làm ăn theo pháp luật và hỗ trợ một phần về tài chính tạo nên những "cú
huých" để người lao động tự tạo việc làm, thu hút thêm nhiều lao động xã hội.
Mặt khác, Nhà nước thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô để tích cực kiểm
soát thị trường lao động, giảm hoặc khống chế tỷ lệ thất nghiệp ở mức cho
phép.
Hai là, giải quyết việc làm có trọng tâm, trọng điểm cho những người
có nhu cầu việc làm. Những đối tượng cần được ưu tiên là các đối tượng
79
chính sách, thanh niên mới bước vào độ tuổi lao động, hoặc sau khi tốt nghiệp
các trường, bộ đội xuất ngũ, các đối tượng gặp khó khăn trong đời sống cần
được giải quyết việc làm trước.
Ba là, đa dạng việc làm và chú ý việc làm tại chỗ, nhất là trong nông
nghiệp, nông thôn. Xuất phát từ nhận thức mọi hoạt động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm. Việc làm
có thể phục vụ cho sản xuất đời sống, phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất
khẩu. Việc làm có thể được tiến hành ở các ngành công nghiệp - nông nghiệp
- thương mại - dịch vụ, văn hoá, giáo dục.., việc làm có thể đòi hỏi vốn đầu tư
ít, cũng có thể đòi hỏi vốn đầu tư nhiều. Riêng trong nông nghiệp nông thôn
phải quan tâm đến giải quyết việc làm tại chỗ.
Bốn là, huy động tối đa các nguồn vốn trong nước kết hợp với thu hút
các nguồn vốn bên ngoài, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này vào các
chương trình dự án giải quyết việc làm có mục tiêu. Vốn là nhân tố cơ bản
của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung và giải quyết việc
làm nói riêng. Sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực sản xuất trong nước, thúc
đẩy gia tăng sản lượng và năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hoá
sản xuất ra, tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác
như tài nguyên, lao động. Vốn có thể huy động từ nội lực song cũng có thể
thu hút từ bên ngoài, vấn đề đặt ra là phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
tránh thất thoát, lãng phí.
Năm là, Các giải pháp tạo việc làm phải đồng bộ, toàn diện song cần
lưu ý các biện pháp có tính đột phá tuỳ từng địa phương.
Các biện pháp giải quyết việc làm cần toàn diện, đồng bộ về chính trị -
kinh tế - xã hội, về y tế, giáo dục, dân số - kế hoạch hoá gia đình cũng như về
tín dụng và xây dựng kết cấu hạ tầng.
80
Tuỳ từng địa phương cụ thể, cần xác định rõ biện pháp đột phá, mũi
nhọn phải lưu tâm thực hiện tốt nhất.
3.1.2. Dự báo về lao động, việc làm ở Nghệ An đến năm 2010
Trên cơ sở thực trạng, những thuận lợi và khó khăn hiện có trên địa bàn
tỉnh Nghệ An như đã phân tích ở chương 2, có thể dự báo đến 2010 quy mô
dân số Nghệ An vào khoảng 3.145.800 người, với tốc độ tăng dân số giai
đoạn 2005 - 2010 dưới 1,2%.
Dự kiến mỗi năm tỉnh Ngệ An tạo thêm được từ 2,5 đến 3 vạn việc làm
cho người lao động, để đến 2010 tỷ lệ lao động không có việc làm giảm
xuống dưới 3% tổng nguồn (hiện nay còn 7,9%).
Phát triển đội ngũ lao động được đào tạo có trình độ kỹ thuật và tay
nghề cao trong các ngành kinh tế, kỹ thuật. Phấn đấu đến năm 2010 tăng tỷ lệ
lao động được đào tạo đạt 35 - 40% tổng nguồn. Chú trọng đào tạo lao động
có trình độ kỹ thuật cao cho các công trình trọng điểm, các khu công nghiệp.
Thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút người tài và chính sách khuyến khích
đối với lao động lên công tác và sản xuất ở vùng trung du, miền núi có kế hoạch
và biện pháp cụ thể để tăng cường XKLĐ (Phấn đấu từ nay đến 2010 mỗi năm
xuất khẩu 8.000 - 10.000 lao động). Thực hiện có hiệu quả các chương trình
quốc gia xoá đói giảm nghèo, chương trình hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng nông
thôn gắn với cộng đồng và phát triển kinh tế xã hội, các xã vùng núi miền sâu,
vùng xa đặc biệt khó khăn. Gắn công tác định canh định cư với phát triển nông -
lâm nghiệp. Phấn đấu đến cuối năm 2005 không còn hộ đói, năm 2010 số hộ
nghèo còn khoảng 5% (hiện nay 8,52%).
Tổng lực lượng lao động đến 2010 qua tính toán : 1.579.000 người tăng
so với năm 2000 là 244.500 người. Bình quân mỗi năm tăng 24.500 lao động.
Lao động có việc làm thường xuyên dự tính năm 2010 là 1.536.000 chiếm
81
99% tổng nguồn lao động. Trong đó cơ cấu lao động dự tính trong các ngành
kinh tế như sau:
+ Lao động ngành nông - lâm – ngư nghiệp giảm từ 73,5% năm 2000
xuống còn 50% năm 2010.
+ Lao động ngành công nghiệp – xây dựng tăng từ 11% năm 2000 lên
25,5% năm 2010.
+ Lao động ngành dịch vụ tăng từ 15,5% năm 2000 lên 24,5% năm 2010.
Biểu 3.1: Cân đối lao động và cơ cấu lao động Nghệ An đến năm 2010.
Đơn vị tính: Người
2000
2005
2010
Danh mục
Số lƣợng %
Số lƣợng %
Số lƣợng %
Tổng lực lượng lao
1.334.502
100
1.458.689
100
1.579.000 100
động
Tổng lao động có việc
1.294.484
97
1.428.610
98,1 1.563.210
99
làm thường xuyên
912.611
70,5
839.035
58,7
787.600
50
a. Lao động N, L, NN
b. Lao động CN - XD
155.338
12,0
284.201
19,9
390.800
25,5
c. Lao động dịch vụ
226.535
17,6
305.397
21,4
384.810
24,5
Lao động không có
40.036
3,0
28.179
1,9
15.790
1,0
việc làm
Nguồn: Sở lao động - thương binh và xã hội tỉnh Nghệ An
3.1.3. Phƣơng hƣớng giải quyết việc làm ở Nghệ An trong thời gian tới
82
Giai đoạn từ nay đến 2010 là bước đi quan trọng của một thời kỳ mới,
thời kỳ CNH, HĐH. Nhiệm vụ của chính quyền nhân dân tỉnh Nghệ An là ra
sức tranh thủ mọi thời cơ, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện,
phát triển kinh tế nhiều thành phần tạo nhiều công ăn việc làm, cải thiện mức
thu nhập của nhân dân, nâng cao tích luỹ nội bộ, tăng trưởng kinh tế nhanh,
bền vững, có hiệu quả tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn
trong những năm tới, với những phương hướng sau:
3.1.3.1. Phát triển kinh tế tạo mở việc làm
+ Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nghề, cơ cấu lao động hình
thành nông nghiệp hàng hoá, trên cơ sở điện khí hoá, cơ giới hoá nông nghiệp
nông thôn, ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp góp phần tăng năng suất lao động nâng cao chất lượng và sức
cạnh tranh. Phấn đấu chuyển dịch cơ cấu tỷ trọng của các khu vực kinh kế
trong GDP đến năm 2010 theo tỷ lệ:
Khu vực nông, lâm và ngư nghiệp 24 - 26%, khu vực công nghiệp và
xây dựng 30 - 31%, khu vực dịch vụ 44 - 45%
+ Phát triển mạnh các khu du lịch, dịch vụ với chất lượng ngày càng
cao, dự kiến trong những năm tới khu vực này sẽ thu hút thêm được hàng vạn
lao động có thêm việc làm và việc làm mới.
+ Phát triển nhanh các ngành sử dụng lao động có trình độ kỹ thuật cao,
đặc biệt là các khu công nghiệp, khu kinh tế mới, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, cải cách các doanh nghiệp nhà nước, sử dụng phù hợp với các
công nghệ có khả năng thu hút nhiều lao động
+ Phát triển và phân bố các ngành sản xuất mũi nhọn: ưu tiên phát triển
một số ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - hải sản, thực phẩm, công
nghiệp sản xuất khai thác và vật liệu xây dựng, công nghiệp dệt, da, may trong
giai đoạn đầu của thời kỳ CNH, HĐH. Tiếp tục đầu tư và phát triển mạnh các
83
khu công nghiệp tập trung ở một số vùng như: Hoàng Mai, Phủ Quỳ, Nam
Cấm và thị xã Cửa Lò ( Ngoài khu công nghiệp Bắc Vinh đã có).
+ Tập trung đầu tư cho những ngành, những vùng có điều kiện tạo ra
hiệu quả kinh tế nhanh, thu hút nhiều lao động và có khả năng lan toả ra các
ngành và các vùng khác. Đồng thời chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc ở
các huyện miền núi, dân tộc kể cả về kinh tế và xã hội. Tập trung hỗ trợ người
thất nghiệp, thiếu việc làm và các đối tượng yếu thế vay vốn với lãi suất ưu đãi
để tự tạo việc làm. Phấn đấu đến 2010 Nghệ An có thể giải quyết việc làm cho
125.000-150.000 lao động. Hạ tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới
3%, nâng hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 90 - 95%.
3.1.3.2. Phát triển nguồn nhân lực
Ổn định quy mô dân số thông qua công tác kế hoạch hoá gia đình, phấn
đấu đến năm 2010 tỷ lệ tăng dân số thấp hơn 1%.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao trình độ dân trí để đến
năm 2010 hoàn thành phổ cập kiến thức trung học cơ sở cho 100% học sinh
trong độ tuổi đi học. Tập trung các nguồn lực của tỉnh vào việc đào tạo nguồn
nhân lực mà trước mắt phải có chính sách đào tạo lại, bồi dưỡng và sử dụng
tốt nguồn nhân lực hiện có. Đồng thời phải đặc biệt chăm lo đào tạo đội ngũ
cán bộ quản lý, chuyên gia kỹ thuật, các nhà doanh nghiệp và đội ngũ lao
động có kỹ năng tay nghề cao để từ nay đến năm 2010 toàn bộ cán bộ khoa
học kỹ thuật của tỉnh có trình độ tương ứng với yêu cầu phát triển kinh tế của
tỉnh.
Phát triển nguồn nhân lực phải chú trọng hướng nghiệp và phổ cập
nghề cho lao động phổ thông, đặc biệt là lao động ở nông thôn và cho thanh
niên để họ có khả năng đáp ứng yêu cầu của thị trường việc làm, tăng cơ hội
và khả năng lựa chọn việc làm cho người lao động.
3.1.3.3. Phát triển thị trƣờng lao động
84
Thị trường lao động bị chi phối bởi quy luật cung - cầu lao động. Do
vậy, cần khuyến khích và ổn định đội ngũ lao động bằng cơ chế và các chính
sách phù hợp, nhất là lao động trí óc, lao động kỹ thuật cao. Cần mở rộng quy
mô hoạt động của hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, tổ chức các hội chợ,
ngày hội việc làm để người lao động và chủ sử dụng lao động trực tiếp tiếp
xúc với nhau tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn việc làm cho người lao động cũng
như tạo ra sự tiếp xúc để chủ sử dụng lao động lựa chọn được người lao động
theo đúng yêu cầu công việc họ đặt ra.
Tăng cường bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho
đội ngũ cán bộ, nhân viên trung tâm, dịch vụ việc làm để đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao và đa dạng của thị trường lao động.
3.1.3.4. Phát triển và mở rộng hợp tác quốc tế.
Tranh thủ các nguồn lực bên ngoài thu hút đầu tư và chủ động tham gia
vào phân công lao động quốc tế, liên doanh, liên kết tạo mở việc làm. Trong
những năm tiếp theo cần lựa chọn hình thức đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài với công việc (việc làm) phù hợp với khả năng và trình độ của
người lao động để họ phát huy hết khả năng và hoàn thành các hợp đồng lao
động.
Các tổ chức kinh tế đưa người đi lao động phải có trách nhiệm bảo vệ
lợi ích của người lao động, đảm bảo điều kiện lao động, an toàn xã hội cho
người lao động ở nước ngoài. Mặt khác, các tổ chức này phải chuẩn bị lực
lượng lao động có chất lượng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của
thị trường lao động nước ngoài, của các khu chế xuất, khu công nghệ cao của
nước ngoài tại tỉnh.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ GIẢI QUYẾT CÓ HIỆU QUẢ VIỆC LÀM
Ở NGHỆ AN ĐẾN NĂM 2010
85
3.2.1. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở đó tạo cơ hội việc làm cho ngƣời
lao động ở Nghệ An
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đai hoá là
sự chuyển dịch đồng bộ về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, trình độ kỹ thuật
của các vùng, các thành phần kinh tế vừa đảm bảo cho sự phát triển hiện đại, tiên
tiến, vừa khai thác triệt để các thế mạnh sẵn có của địa phương. Thực hiện quá
trình này sẽ từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng ưu tiên đầu tư vào
các ngành, các lĩnh vực có khả năng thu hút được nhiều lao động.
Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở Nghệ An cần giải quyết tốt
mối quan hệ biện chứng giữa cơ cấu kinh tế với cơ cấu lao động. Bởi lẽ, sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ có tác động nhất định tới chuyển dịch cơ cấu
lao động và làm cho cơ cấu lao động thích nghi với cơ cấu kinh tế mới. Đồng
thời nó cũng mở ra những cơ hội việc làm mới cho người lao động.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu cần phát triển mạnh và tăng nhanh giá trị
sản xuất của tất cả các ngành, song cần phải đảm bảo một cơ cấu ngành hợp
lý đó là: tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và ngành dịch vụ giảm tỷ trọng
ngành nông nghiệp trong GDP.
3.2.1.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
Ở Nghệ An hiện nay, nông nghiệp vẫn là một ngành sản xuất chính của
tỉnh. Tỉnh Nghệ An tiếp tục coi phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là
trọng điểm. Mặc dù ngành nông nghiệp ở Nghệ An chưa phát huy hết tiềm
năng hiện có về diện tích, năng suất cây trồng, vật nuôi, nhưng đã góp phần
giải quyết cơ bản vấn đề lương thực - thực phẩm cho tỉnh. Để giải quyết tốt
vấn đề việc làm cho người lao động của tỉnh trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa, ngành nông nghiệp
phải chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu sản xuất, đa dạng hoá cây trồng, phá vỡ độc
86
canh cây lúa, hình thành các vùng chuyên canh, phát triển các loại cây công
nghiệp ngắn ngày và dài ngày như: cây lạc, mía, dứa, vừng, cây chè, cà phê,
cao su, quế, thông... đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm, phát triển chăn
nuôi toàn diện. Phấn đấu tăng tỷ trọng chăn nuôi lên 40% trong tổng giá trị
sản xuất ngành công nghiệp vào năm 2010. Mở mang các ngành nghề thu hút
lao động, sử dụng lao động dư thừa trong nông nghiệp. Phấn đấu đến năm
2010 tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đạt 26%, nhịp độ phát triển nông
nghiệp thời kỳ 2006-2010 là 4,5% lao động trong nông nghiệp còn 51,6%
Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp đạt hiệu quả, góp
phần tạo việc làm cho người lao động, tỉnh Nghệ An cần tập trung giải quyết
tốt các vấn đề sau:
* Đối với vùng đồng bằng
- Tập trung chỉ đạo thâm canh và chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Mỗi
huyện, thị đều xây dựng các dự án phát triển vùng chuyên canh lúa cao sản,
vùng thâm canh cây công nghiệp. Tập trung thâm canh các loại cây trồng có
giá trị kinh tế cao như: lạc, ớt, vừng... và rau màu cao cấp, phát triển trồng
xen, gối vụ, sản xuất vụ đông.
- Chỉ đạo mạnh mẽ việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, gieo trồng của tỉnh
phù hợp với địa thế đặc điểm của ruộng và cải tạo vườn.
- Phát triển chăn nuôi đa dạng, nâng chất lượng và tăng nhanh số lượng
đàn gia súc gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt trên cơ sở tận dụng diện
tích mặt nước, kết hợp với chương trình cá lúa (nuôi cá ở ruộng lúa).
- Quan tâm đúng mức công tác giống cây, giống con.
- Du nhập và phát triển công nghệ trồng trọt và chăn nuôi phù hợp, phát
triển công nghệ chế biến sản phẩm nông, lâm nghiệp. Nhân rộng các mô hình
sản xuất liên kết nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ gắn với thị trường và
giải quyết việc làm, phân công lao động ở nông thôn.
87
* Vùng trung du vùng gò đồi và vùng núi
- Tiếp tục xây dựng chính sách động viên nhân dân vay vốn, khai thác
đất trồng, đồi núi trọc, hoàn thành giao đất khoán rừng ổn định lâu dài cho hộ
nông dân trồng rừng, cây ăn quả, phát triển kinh tế vườn đồi, vườn rừng, kinh
tế trang trại, phát triển chăn nuôi trâu, bò, dê, lợn, gia cầm...
- Thu hút đầu tư vào xây dựng mới một số nhà máy chế biến nông sản,
lâm sản, thực phẩm.
* Vùng biển và ven biển
Vùng biển, vùng ven biển của Nghệ An còn nhiều lợi thế chưa được
khai thác, tỉnh cần tập trung khai thác tạo việc làm cho nhân dân địa phương
theo hướng mở mang ngành nghề tại chỗ như:
- Nâng cao hiệu quả và đánh bắt hải sản, mở rộng khai thác vùng khơi,
trên cơ sở nắm vững nguồn lợi hải sản.
- Xây dựng các dự án phát triển vùng bãi ngang, vùng cửa biển, điều
chỉnh nghề cá gần bờ (vùng lộng) hợp lý và bền vững.
- Tập trung đầu tư phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ, hải sản xuất khẩu,
chú trọng thâm canh, đưa ngành thuỷ sản xuất khẩu trở thành mũi nhọn của
tỉnh, phát triển đồng bộ ngành thuỷ sản: nuôi trồng, đánh bắt, chế biến.
- Tiến hành nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới các cơ sở chế biến thuỷ
sản xuất khẩu.
Những giải pháp trên sẽ có tác động đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ
cấu trong ngành công nghiệp, đồng thời tạo điều kiện cho người lao động ở
nông thôn khắc phục được tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp.
3.2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp
- Để tạo ra được nhiều việc làm cho người lao động, trong những năm
trước mắt ngành công nghiệp ở Nghệ An phải dựa vào những ngành nghề sử
dụng nhiều lao động, phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế và khả năng
88
khai thác như: công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản, công nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng, dệt, da, may... là những ngành có điều kiện tạo ra sức tăng
trưởng nhanh trong công nghiệp. Đồng thời tiến hành sắp xếp và tổ chức các
loại cơ sở doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hiện có trên địa bàn tỉnh để tăng
hiệu quả kinh tế. Song, để nâng cao năng suất, sử dụng có hiệu quả lao động
thực hiện CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnh thì không thể chỉ phát triển theo
chiều rộng mà phải phát triển theo chiều sâu. Một mặt, tỉnh cần có những biện
phát cụ thể thu hút, khuyến khích đầu tư nước ngoài, tăng cường liên doanh
liên kết, thu hút vốn đầu tư vào các công trình sản xuất, xây dựng hạ tầng, đặc
biệt là các khu công nghiệp để tạo việc làm cho người lao động trong một số
ngành nghề có công nghệ cao, tạo bước chuyển biến về cơ cấu lao động chất
lượng cao. Mặt khác, tỉnh cần khuyến khích phát triển công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp ngoài quốc doanh. Tạo môi trường thuận lợi khuyến khích nhân
dân và các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển cơ sở sản xuất vừa và
nhỏ, kết hợp với phát triển làng nghề, ngành nghề truyền thống góp phần đổi
mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn. Đồng thời tận dụng được tiềm
năng về nguyên liệu và lao động. Mục tiêu đến năm 2010 tăng tỷ trọng công
nghiệp, xây dựng trong GDP lên 31%, tăng cơ cấu lao động ngành công
nghiệp lên 25,5%.
Để thực hiện cơ cấu ngành công nghiệp đạt hiệu quả, góp phần tạo việc
làm cho lao động, tỉnh nghệ An cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Khai thác tiềm năng đất đai, lao động, nguyên liệu, cơ sở vật chất kỹ
thuật và các lợi thế khác để mở rộng sản xuất, thu hút thêm lao động. Củng cố
và phát triển có hiệu quả các cơ sở công nghiệp hiện có, mở thêm các cơ sở
công nghiệp vừa và nhỏ theo hướng du nhập công nghệ mới, hiện đại nâng
cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh trên thị trường nội địa, hội nhập với
thị trường khu vực và thế giới. Phấn đầu hoàn thiện khu công nghiệp Bắc
89
Vinh và xây dựng mới các khu công nghiệp như: Khu công nghiệp Hoàng
Mai, Phủ Quỳ, Nam Cấm, Cửa Lò, Cửa Hội.
- Phát triển nhanh công nghiệp dệt, may, da, cơ khí đóng tàu, chế biến
gỗ dân dụng chất lượng cao, xúc tiến phát triển công nghiệp lắp ráp điện tử,
công nghệ tin học, chế biến nông, lâm, hải sản; chế biến mía đường, dầu ăn,
cây ăn quả, thịt, sữa, thức ăn gia súc... Triển khai các dự án tinh luyện thiếc,
mănggan, đá và bột đá siêu mịn xuất khẩu, khai thác chế biến đá Granit, đá
Bazzan tự nhiên, sản xuất bia, nước giải khát; mở rộng khai thác đá, cát, sỏi
các loại đáp ứng nhu cầu sản xuất trên địa bàn. Lập dự án đầu tư thăm dò,
khai thác và chế tác vàng vùng Tà Soi, Căm Muộn và dọc Sông Cả.
- Chủ động xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư và tích cực phối
hợp với các ngành ở Trung ương xúc tiến lập các dự án thu hút đầu tư vào các
khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu Nặm Cắn và Thanh Thuỷ.
- Khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, phát triển
tiểu thủ công nghiệp, khôi phục phát triển các mô hình hợp tác xã, các làng
nghề truyền thống. Đối với tỉnh Nghệ An, điều này có vai trò quan trọng trong
việc giải quyết việc làm, phát huy thế mạnh nguồn lao động của tỉnh: nghề
làm nước mắm ở Quỳnh Lưu, Cửa Hội, Diễn Châu; nghề mây tre đan ở Nghi
Lộc, Yên Thành; nghề trồng dâu nuôi tằm ở Nam Đàn, Đô Lương, Diễn
Châu, Thanh Chương; nghề dệt thổ cẩm ở Tương Dương, Quế Phong, Kỳ
Sơn, nghề kinh doanh ở Vinh, nghề mộc, nghề rèn, dệt chiếu cói... Việc khôi
phục các làng nghề truyền thống vừa sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá, vừa
bảo tồn nét văn hoá truyền thống của dân tộc, tạo công ăn việc làm cho người
lao động. Song, những khó khăn trong duy trì, phát triển và mở rộng ngành
nghề truyền thống ở Nghệ An hiện nay là vốn và thị trường tiêu thụ. Tỉnh cần
quan tâm tạo điều kiện về vốn và tạo lập thị trường cho các làng nghề.
90
- Mở rộng điều tra, thăm dò nguồn tài nguyên khoáng sản để phục vụ
cho phát triển công nghiệp, thương nghiệp.
3.2.1.3. Chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ
Dịch vụ là một trong những lĩnh vực thu hút được nhiều thành phần
kinh tế tham gia, nhiều hình thức lao động của người lao động kể cả lao động
trong khu vực phi kết cấu. Để góp phần tích cực vào việc thu hút lao động
trong lĩnh vực dịch vụ thì trong những năm tới ngành thương mại và dịch vụ ở
Nghệ An cần phát triển theo hướng không chỉ tăng quy mô, mà đặc biệt cần
chú ý nâng cao chất lượng dịch vụ, bảo đảm tính chất văn minh lịch sự của
con người xứ Nghệ. Mục tiêu đến năm 2010 tỷ trọng ngành dịch vụ trong
GDP tăng lên 45%, cơ cấu lao động trong ngành dịch vụ là 25,5%.
Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ đạt hiệu quả, tỉnh cần
tập trung hiệu quả các vần đề sau:
- Phát triển thương mại nhiều thành phần, nhất là các trung tâm thương
mại của thành phố, thị xã, huyện, cụm xã và chợ nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa, khai thác thị trường trong tỉnh, tăng cường công tác tiếp thị và
mở rộng thị trường ngoại tỉnh.
- Phát tiển các hình thức tín dụng nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển
thương mại và dịch vụ của tỉnh.
- Tận dụng lợi thế để phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh gắn với hệ
thống du lịch cả nước và các thành phố như: Thành phố Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Huế. Nghệ An phát triển các loại hình dịch vụ, du
lịch trên cơ sở đầu tư, nâng cấp và khai thác có hiệu quả hệ thống nhà hàng,
khách sạn ở Thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, khu di tích Kim Liên, Lâm viên
núi Quyết, công viên trung tâm, quảng trường Hồ Chí Minh, vườn chim Hưng
Hoà; khu di tích văn hoá lịch sử sinh thái Đền Cuông - Cửa Hiền (Nghi Lộc);
khu du lịch sinh thái nước nóng Giang Sơn - Đô Lương. Đồng thời đầu tư,
91
khai thác tuyến du lịch sinh thái văn hoá, lịch sử lịch sử dọc tuyến đường
quốc lộ 7 gắn với khu bảo tồn thiên nhiên Phù Mát và các vùng văn hoá dân
tộc của các huyện miền núi Tây Bắc, Tây Nam của Tỉnh.
Mở rộng các tuyến lữ hành trong nước và quốc tế : Nghệ An - Hà Nội,
Nghệ An - Quảng Bình – Huế - Đà Nẵng - Sài Gòn, Nghệ An - Lào - Thái Lan.
- Nâng cao chất lượng và an toàn vận tải hành khách, hàng hoá trên các
loại phương tiện, quan tâm đến vận tải qua cảng và qua cửa khẩu, phát triển
mạng lưới dịch vụ bưu chính viễn thông, mở rộng và nâng cao chất lượng
hoạt động của các điểm bưu điện văn hoá xã.
- Sử dụng lao động tại chỗ, lao động nữ để phát triển du lịch, dịch vụ
phấn đấu đến năm 2010 lượng khách du lịch vào Nghệ An là 3 triệu lượt
khách, tăng số ngày lưu trú bình quân lên 3 -5 ngày.
3.2.2. Phát triển và đa dạng hoá các hình thức kinh doanh tạo thêm
nhiều việc làm cho ngƣời lao động của tỉnh
Phát triển và đa dạng hoá các hình thức kinh doanh đa thành phần với
nhiều trình độ kỹ thuật và quy mô tổ chức khác nhau ở cả thành thị và nông
thôn để tạo việc làm, đa dạng hoá việc làm, thu hút nhiều lao động là một
hướng đi quan trọng để tăng cầu về lao động, phát triển thị trường lao động và
giải quyết việc làm, chống thất nghiệp.
3.2.2.1. Phát triển kinh tế hộ gia đình
Kinh tế hộ gia đình có vị trí hết sức quan trọng, tuy kinh tế hộ gia đình
không phải là một thành phần kinh tế nhưng nó là một mô hình kinh tế mang
lại hiệu quả cao, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các thành
viên kinh tế hộ gia đình là những người có quan hệ hôn nhân hoặc huyết
thống, người chủ quản lý của kinh tế hộ gia đình đồng thời là chủ hộ. Chủ hộ
điều hành toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm vô hạn
92
về trách nhiệm của mình. Ở nước ta, kinh tế hộ gia đình phát triển chủ yếu ở
nông thôn và ngày càng phát huy lợi thế, hiệu quả mà nó mang lại.
Phát triển kinh tế hộ gia đình là giải pháp tạo ra nhiều việc làm tại chỗ
phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi trình độ và tận dụng được các nguồn lực tại chỗ
như: đất đai, tài nguyên, huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân,
tận dụng lao động dư thừa, kinh nghiệm quản lý...Với mô hình này, sự hợp
tác và phân công lao động trong gia đình rất linh hoạt và có hiệu quả. Kinh tế
hộ gia đình phát triển, thu hút các đối tượng lao động trong gia đình như: phụ
nữ, trẻ em, lao động lớn tuổi, lao động có tình độ văn hoá thấp, không có
chuyên môn kỹ thuật.
3.2.2.2 Phát triển kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại là hệ quả của sự phát triển kinh tế hộ gia đình, trong
đó quy luật phát triển của nền nông nghiệp từ sản xuất nhỏ lên sản xuất hàng
hoá lớn trong điều kiện kinh tế thị trường, phù hợp với quy luật vận động và
phát triển của nền sản xuất xã hội. Kinh tế trang trại đa góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tạo ra các vùng chuyên
canh tập trung lấy sản xuất hàng hoá làm tiền đề, cơ sở cho việc phát triển
công nghiệp chế biến nông lâm sản, thực phẩm, thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội ở nông thôn, tăng độ che phủ đất trống đồi núi trọc, cải thiện môi
trường sinh thái, kinh tế trang trại tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cải
thiện đời sống ở nông thôn.
Để kinh tế trang trại phát triển đúng hướng, thực sự đóng vai trò quan
trọng trong giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn, cần thực hiện tốt
các vấn đề sau:
- Phân vùng quy hoạch gắn với chính sách sử dụng và quản lý đất đai,
tạo mọi điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển.
93
- Tăng cường đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật, mở rộng và phát triển sản
xuất thâm canh tăng vụ, có chính sách cho vay ưu đãi để đầu tư phát triển mô
hình kinh tế này.
- Hỗ trợ các chủ trang trại tìm kiếm thị trường, mở rộng và ổn định thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Hình thành quỹ trợ giá hỗ trợ người sản xuất lúc
khó khăn, tổ chức cung cấp thông tin thị trường (giá cả, dự đoán biến động
giá, nhu cầu...) nông sản thường xuyên cho các chủ trang trại để họ điều hành
sản xuất có hiệu quả.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, đặc
biệt là hệ thống đường giao thông, thông tin liên lạc, thuỷ lợi, điện.
- Có chính sách trợ giá đối với giống, phân bón, vật tư cho các trang
trại tạo điều kiện thuận lợi để người dân phát triển sản xuất thu hút lao động.
3.2.2.3. Phát triển khu vực kinh tế phi chính thức
Khu vực kinh tế phi chính thức có tỷ lệ lao động rất cao, lực lượng lao
động ở đây đang dần khẳng định vai trò trong việc tự tạo việc làm tăng thu
nhập. Sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế phi chính thức đáp ứng nhu
cầu cấp bách của người dân là có việc làm có thu nhập với vốn liếng nhỏ bé,
sử dụng công nghệ thấp và ít cần đào tạo chuyên môn. Kinh tế phi chính thức
có thu nhập không cao nhưng dễ dàng thay đổi nghề, thích hợp với mọi lao
động. Song, sự phát triển của khu vực kinh tế này, một mặt phụ thuộc vào
người lao động, khả năng kinh doanh của người lao động, mặt khác lại phụ
thuộc vào cách nhìn nhận của chính quyền địa phương. Do vậy, để giúp người
lao động tìm việc làm và tự tạo việc làm trong khu vực này cần quan tâm giải
quyết tốt các vấn đề sau:
Tỉnh Nghệ An cần thừa nhận sự tồn tại khách quan của khu vực này,
cần coi khu vực kinh tế phi chính thức là một bộ phận hợp thành của nền kinh
tế đang phát triển có vai trò to lớn trong việc giải quyết việc làm cho người
94
lao động ở Nghê An, cần tôn trọng sự phát triển năng động, khách quan của
nó, tạo điều kiện cho nó phát triển, xem nó là chiến lược trong quá trình phát
triển kinh tế của tỉnh. Bởi nền kinh tế ở Nghệ An còn là nền kinh tế sản xuất
nhỏ chưa phát triển, thể hiện ở quy mô sản xuất nhỏ, kỷ thuật thô sơ, sản xuất
thủ công chiếm tỷ trọng tương đối cao. Do vậy, phát triển kinh tế phi chính
thức là góp phần quan trọng để tăng tổng sản phẩm xã hội, góp phần giải
quyết việc làm, cải thiện và nâng cao đời sống của người dân ở Nghệ An. Sự
tồn tại của khu vực này trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh sẽ
tận dụng được nguồn lao động dồi dào, tận dụng được khả năng kinh doanh,
nguồn vốn và dần gắn các doanh nghiệp phi chính thức vào các xí nghiệp có
quy mô lớn tạo thành mạng lưới các xí nghiệp vệ tinh.
+ Tỉnh Nghệ An cần ban hành các chính sách thích hợp cho khu vực
kinh tế phi chính thức trong từng thời kỳ, tạo điều kiện cho người lao động tự
tạo việc làm.
Có thể khẳng định, đa số lao động hoạt động trong khu vực phi chính
thức là những người nghèo, người không có hoặc có ít trình độ chuyên môn
kỹ thuật, những người có trình độ học vấn thấp, họ là những người có thu
nhập thấp, quá trình kinh doanh chủ yếu lấy công làm lãi. Bởi thế họ rất cần
nhận được sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương để hoạt động của
họ được thuận lợi hơn, cụ thể :
- Giảm các thủ tục đăng ký, xoá bỏ những quy định không rõ ràng để
hạn chế tối thiểu các hiện tượng nhũng nhiễu đối với khu vực phi chính thức.
- Quy hoạch các địa điểm ổn định, đảm bảo mỹ quan đường phố cho
các hoạt động buôn bán.
- Giảm hoặc miễn thuế đối với một số hoạt động kinh tế có thu nhập
quá thấp.
95
- Khuyến khích lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn, khả năng kinh doanh, kiến thức pháp luật, ý
thức bảo vệ môi trường. Thông qua các hoạt động của tổ chức thanh niên,
đoàn, phụ nữ, tổ dân phố.
- Hỗ trợ về vốn thông qua nguồn vốn tín dụng của Nhà nước, của các tổ
chức phi chính phủ để khu vực kinh tế này phát triển giải quyết việc làm cho
người lao động góp phần xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, nâng cao hiệu quả lao
động, đáp ứng nhu cầu về vật chất, tính thần cho người lao động.
3.2.3. Đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn -
kỹ thuật cho nguồn nhân lực ở Nghệ An
Ngày nay, khi nói đến phát huy nguồn lực con người không phải là sức
mạnh cơ bắp, lao động chân tay đơn giản, tính cần cù, làm theo kinh nghiệm
cổ truyền mà là phát huy sức mạnh của trí tuệ, của tri thức và xu hướng tri
thức hoá lao động ở thế kỷ XXI, đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại.
Tri thức ngày nay đang trở thành yếu tố sản xuất theo những mô hình
mới với những công nghệ mới. Bởi thế, đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao
trình độ chuyên môn kỹ thuật đặc biệt là đào tạo bồi dưỡng nghề cho lao động
nói riêng, nguồn nhân lực nói chung là vấn đề cần thiết, quan trọng trong việc
tạo điều kiện để người lao động có khả năng đáp ứng yêu cầu của công việc,
tìm được việc làm, duy trì được việc làm. Tuy nhiên, phát triển công tác đào
tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho người lao động phải gắn với
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong từng giai đoạn, gắn với nhu
cầu phát triển của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, gắn với cung - cầu của
thị trường lao động trong nước và quốc tế. Mục tiêu phấn đấu đến 2010 tỷ lệ
lao động qua đào tạo ở Nghệ An đạt từ 35 - 40% tổng nguồn.
Để công tác đào tạo nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn, kỹ thuật
cho người lao động ở Nghệ An cần:
96
- Có chính sách của Nhà nước và chính quyền tỉnh về công tác đào tạo
nghề nhằm thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho các hoạt động đào
tạo nghề, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào công tác tạo
nghề và tạo điều kiện thận lợi cho người lao động có cơ hội học nghề, đào tạo
nghề dự phòng, tìm kiếm việc làm. Đa dạng hoá các loại hình thức đào tạo,
các loại hình trường lớp, người học nghề và người sử dụng lao động phải có
trách nhiệm đóng góp theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
- Có chính sách đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người lao
động chưa có việc làm, tạo việc làm mới cho những người lao động bị mất
việc làm trong quá trình sắp xếp lại lao động và cổ phần hoá các doanh nghiệp
nhà nước.
- Có chính sách phân luồng và liên thông trong hệ thống giáo dục và
đào tạo, làm giảm áp lực đối với các trường THPT, các trường THCN, Cao
đẳng và Đại học. Mặt khác, chính sách này sẽ tạo điều kiện cho mọi người
được học tập và nâng cao trình độ, cụ thể: chính sách đối với cán bộ giáo viên
dạy nghề, chính sách đối với học viên học nghề.
- Nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, tiểu học, PTCS, THPT tạo
cơ sở quan trọng cho người lao động ở Nghệ An tiếp tục được đào tạo nghề,
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Thực hiện tốt chương trình hướng nghiệp cho người lao động ngay từ
hệ thống các trường phổ thông của tỉnh, thực hiện tư vấn nghề nghiệp đối với
những học sinh tốt nghiệp phổ thông để các em có sự lựa chọn đúng đắn cho
tương lai, nghề nghiệp của mình.
- Kiện toàn và ban hành chính sách đào tạo và đào tạo lại nghề phổ thông.
Đồng thời, phải đặc biệt chăm lo đào tạo đội ngũ quản lý, lực lượng chuyên gia
kỹ thuật các nhà doanh nghiệp và đội ngũ lao động có kỷ năng tay nghề cao,
công nhân lành nghề gắn với nội dung phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
97
- Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, công tác đào tạo nghề phải được
phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng theo hai hướng: đào tạo nghề
dài hạn và ngắn hạn tại các trường, cơ sở dạy nghề trong và ngoài tỉnh, ở các
xí nghiệp, doanh nghiệp, các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư, các ngành, huyện, thị đồng thời bồi dưỡng tay nghề, tập huấn chuyển
giao kỹ thuật cho người lao động ở nông thôn:
+ Đào tạo nghề dài hạn: (bao gồm cả đào tạo mới và đào tạo lại) để có
đội ngũ công nhân kỹ thuật, nhân viên lành nghề đủ khả năng tiếp cận và sử
dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật và công nghệ mới và để XKLĐ.
Theo hướng này cần phát huy vai trò của cả hệ thống các trường: Trường Đại
học Vinh, Cao đẳng Kỹ thuật Vinh, Cao đẳng Việt Hàn, Cao đẳng Kinh tế -
Kế toán, Trường dạy nghề kỹ thuật Việt - Đức, Trung cấp Y, Trung tâm Giáo
dục trường xuyên.
+ Đào tạo nghề ngắn hạn: mở rộng và đa dạng hoá các loại hình đào tạo
ngắn hạn, dạy nghề tổ chức theo lớp theo hướng vừa học lý thuyết vừa thực
hành, dạy nghề theo hình thức kèm cặp nghề tại doanh nghiệp, tại nơi sản
xuất. Chủ yếu rèn luyện kỹ năng hành nghề, chuyển giao công nghệ, truyền
lại cho người học công nghệ mới, bí quyết công nghệ được sử dụng trong quá
trình sản xuất để tạo ra sản phẩn hoàn chỉnh nhằm tạo cơ hội cho người lao
động tìm và tạo việc làm.
Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề ngắn hạn ở nông thôn, nhằm mục đích
tạo điều kiện cho nhà nông tiếp cận được với các tiến bộ của khoa học kỹ
thuật về cây trồng, vật nuôi cũng như chế biến nông, lâm, hải sản. Thường
xuyên mở các lớp tập huấn nghề khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, tiến
hành đồng thời ở các vùng nhằm mục đích trang bị kiến thức và giúp người
lao động ở nông thôn tiến hành các hoạt động kinh tế trên thực tế sao cho đạt
được thành quả kinh tế cao.
98
Các hình thức đào tạo nghề ngắn hạn gồm:
* Đào tạo nghề dịch vụ, chế biến nông, lâm, hải sản tại các trung tâm
dạy nghề thành phố, huyện, thị xã, cơ sở sản xuất, hợp tác xã, tại gia đình,
làng nghề.
* Đào tạo nghề cho lao động nông thôn với các nghề: trồng cây ăn quả,
cây công nghiệp, cây lương thực, thực phẩm, vườn đồi nông, lâm kết hợp, chế
biến nông sản, nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng và đánh bắt chế
biến thuỷ, hải sản hoạt động này do các phòng như: phòng TBXH, phòng
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, trung tâm khuyến nông khuyến ngư,
các hội, đoàn thể tổ chức. Có thể bồi dưỡng, dạy nghề, tập huấn, chuyển giao
kỹ thuật sản xuất cho người lao động, tổ chức thực hiện đào tạo theo hình
thức lưu động đến tận xã, thôn, làng bản ưu tiên vùng sâu, vùng xa.
- Đẩy mạnh đào tạo, khôi phục các Làng nghề truyền thống, du nhập
nghề mới, kết hợp đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá.
- Tăng cường ngân sách đào tạo nghề, đổi mới cơ chế quản lý. Tăng tỷ
lệ ngân sách Nhà nước cho đào tạo nghề trong tổng ngân sách cấp cho đào tạo
nghề của tỉnh, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo nghề.
- Tăng cường quản lý nhà nước về đào tạo nghề gồm: mục tiêu, nội
dung, chương trình đào tạo, tổ chức quy hoạch, kế hoạch phát triển các cơ sở
ở dạy nghề, kiểm tra, kiểm định thường xuyên công tác đào tạo cấp bằng,
chứng chỉ nghề, các thông tin quảng bá.
- Nâng cao nhận thức xã hội về vai trò, vị trí của đào tạo nghề đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trên các phương tiện thông tin đại
chúng, trong các trường học. Làm cho người lao động thấy được ích lợi của
việc học nghề, xem học nghề là động lực cải thiện cuộc sống của chính họ và
99
phát triển đất nước, thấy được giá trị của trình độ nghề nghiệp đối với vấn đề
đảm bảo việc làm, đảm bảo cuộc sống trong nền kinh tế thị trường.
3.2.4. Giải pháp phát triển thị trƣờng lao động đặc biệt là các trung
tâm dịch vụ việc làm - cầu nối giữa cung và cầu lao động
Nói đến thị trường lao động tức là đề cập đến toàn bộ các quan hệ về
lao động diễn ra trong nền kinh tế, bao gồm trao đổi, thuê mướn, mua bán sức
lao động giữa người lao động tự do và người sử dụng lao động dựa trên cơ sở
các quy định ràng buộc như: tiền công lao động, thời gian lao động, điều kiện
lao động, thoả thuận về quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên.
Dưới góc độ giải quyết việc làm hoặc giảm thất nghiệp trong cơ chế thị
trường về thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu lao động trên
thị trường lao động mà cụ thể hơn hơn tăng cầu về sử dụng lao động.
Trong giai đoạn vừa qua, Tỉnh Nghệ An đã quan tâm giải quyết cả cung
và cầu lao động, nhưng chú trọng hơn tới các biện pháp kích cầu sử dụng lao
động - giải quyết việc làm. Điều này thể hiện tính cấp bách trong việc tạo công
việc làm và thu nhập cho người lao động của tỉnh. Tuy nhiên, để thực hiện
chiến lược giải quyết việc làm mà tỉnh đề ra cần thực hiện các biện pháp sau:
Đối với cung của thị trường lao động:
- Tiếp tục thực hiện chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình để giảm
tỷ lệ gia tăng dân số quá nhanh trên địa bàn tỉnh (từ năm 2000- 2004 tỷ lệ sinh ở
Nghệ An luôn duy trì ở mức cao từ 1,8 – 2%, tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số dao
động từ 1,1 - 1,4%), Nghệ An phấn đấu thực hiện các mục tiêu dân số, nhằm
làm giảm tốc độ gia tăng dân số (dưới 1%) và dần ổn định về quy mô và cơ cấu
dân số, lao động, đặc biệt tập trung ở các vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu,
vùng xa nơi trình độ dân trí thấp lại bị ảnh hưởng bởi phong tục tập quán lạc hậu.
Chú ý điều tiết di cư hợp lý.
- Tiếp tục phổ cập giáo dục, xoá mù chữ ở người lớn.
100
- Nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực cả về thể lực và trí lực đặc
biệt trong công tác đào tạo và đào tạo lại nghề cho người lao động đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH trong đó cần chú trọng tới đào tạo lao
động ở nông thôn, đặc biệt là người lao động là người dân tộc thiểu số ở vùng
núi, vùng sâu, vùng xa.
Đối với cầu của thị trường lao động:
- Cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra được
nhiều việc làm. Khuyến khích liên kết giữa các doanh nghiệp lớn - vừa - nhỏ,
qua đó có thể tuyển dụng lao động có trình độ khác nhau từ lao động giản đơn
đến lao động kỹ thuật cao, thực hiện chuyển giao kỹ thuật giữa doanh nghiệp
lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực hiện đào tạo theo phương thức vừa
học vừa làm.
- Cần cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường đầu tư thông
thoáng để thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư tư nhân trong mọi
lĩnh vực.
- Khuyến khích mở rộng các ngành sản xuất quy mô nhỏ, lựa chọn các
công nghệ sản xuất phù hợp, sử dụng nhiều lao động; khuyến khích các hoạt
động kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh
tế trang trại, làng nghề truyền thống để giải quyết việc làm tại chỗ.
- Các cấp chính quyền có vai trò quan trọng trong cung cấp thông tin,
giới thiệu sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ; hoàn thiện khung pháp luật về lao
động như: quy định về tiền công, tiền lương, các chế độ đối với với người sử
dụng lao động, người lao động.
Sự ra đời của thị trường lao động tất yếu sẽ hình thành hệ thống dịch vụ
việc làm với nhiệm vụ làm cầu nối giữa cung và cầu về lao động, đảm bảo sự
phát triển cần bằng của thị trường lao động. Vấn đề phát triển dịch vụ việc
làm cũng đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm thể hiện trong Văn kiện Đại
101
hội đại biểu toàn quốc lần thức VIII: "Mọi công dân đều được tự do hành
nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật, phát triển dịch vụ việc làm” [23,
tr.114].
Các trung tâm dịch vụ việc làm có nhiệm vụ tư vấn cho người lao động
và người sử dụng lao động về chính sách lao động và việc làm, hướng nghiệp
và đào tạo nghề; cung cấp các dịch vụ việc làm thuận lợi cho người lao động
và người sử dụng lao động; đào tạo ngắn hạn và bổ túc nghề cho người lao
động nhằm đáp ứng nhu cầu của công việc. Để các trung tâm dịch vụ việc làm
phát triển và thực hiện tốt các mục tiêu đề ra, Tỉnh Nghệ An cần chú trọng:
+ Quản lý, theo dõi sát sao hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc
làm, theo đó, có chính sách khuyến khích giúp đỡ, tạo điều kiện cho các trung
tâm dịch vụ việc làm đạt hiệu quả trong công tác giải quyết việc làm, kiên
quyết xoá bỏ các trung tâm dịch vụ việc làm có biểu hiện làm ăn gian dối, lừa
đảo người lao động.
+ Khảo sát, đánh giá nhu cầu xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất của
các trung tâm dịch vụ việc làm, quy hoạch, đổi mới và áp dụng các công nghệ
tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin để đảm bảo các hoạt động của trung
tâm dịch vụ việc làm.
+ Tổ chức cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm đăng ký tìm
việc làm tại các trung tâm; cung cấp các dịch vụ miễn phí đối với người thất
nghiệp, người thiếu việc làm đã đăng ký tìm việc làm gồm: tư vấn lựa chọn
việc làm, nơi làm việc, tư vấn chọn nghề học, hình thức học và nơi học nghề;
tư vấn lập dự án tạo việc làm hoặc dự án tạo thêm việc làm; tư vấn về pháp
luật lao động liên quan đến việc làm, giới thiệu việc làm, bố trí việc làm, các
dịch vụ khác liên quan đến việc làm việc làm.
+ Tổ chức các hội chợ việc làm để người lao động, người sử dụng lao
động, các trung tâm dịch vụ việc làm, cơ sở đào tạo nghề trực tiếp gặp gỡ nắm
102
bắt thông tin, nhu cầu về lao động việc làm thông qua đó thúc đẩy quá trình
giải quyết việc làm.
3.2.5. Tạo việc làm cho ngƣời lao động ở Nghệ An qua xuất khẩu
lao động và chuyên gia
Tỉnh Nghệ An đặt công tác XKLĐ và chuyên gia là một trong bốn
nhiệm vụ quan trọng trong hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2005 - 2010 (xuất khẩu, dịch vụ, thu hút đầu tư nước ngoài, XKLĐ). Nghệ An
xác định XKLĐ là nhằm mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng nguồn thu ngoại thu ngoại tệ và
góp phần vào chuyển dịch cơ cấu lao động, xây dựng đội ngũ lao động có tay
nghề cao phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH. Mục tiêu của tỉnh Nghệ An từ
nay đến 2010 phấn đấu XKLĐ mỗi năm từ 8.000 - 10.000 lao động.
Để đạt được mục tiêu đề ra cần có các giải pháp đồng bộ đối với tỉnh
uỷ, HĐND, UBND Tỉnh Nghệ An, ban chỉ đạo XKLĐ và các đơn vị được
phép XKLĐ và người lao động xuất khẩu.
Về phía tỉnh uỷ, HĐND, UBND cần có các chính sách.
+ Trích ngân sách hỗ trợ để người lao động được học nghề, học ngoại
ngữ, chính trị, giáo dục định hướng tại các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc
làm, các doanh nghiệp có nhiệm vụ XKLĐ trực tiếp và dịch vụ XKLĐ.
+ Hằng năm đầu tư cơ sở vật chất, vốn cho những đơn vị làm nhiệm vụ
XKLĐ có chính sách hỗ trợ để khai thác thị trường nước ngoài.
+ Tạo điều kiện cho người lao động đi XKLĐ trực tiếp vay vốn tại các
ngân hàng theo quy định của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam. Các
ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng chính sách xã hội, cụ thể hoá chính sách, thủ
tục, địa điểm vay vốn và thông báo rộng rãi đến người lao động.
+ Cho phép các đơn vị XKLĐ được thành lập quỹ phòng chống rủi ro.
103
+ Khuyến khích người lao động đã thực hiện nghiêm túc hợp đồng lao
động, khi về nước được ưu tiên mở mang phát triển ngành nghề hoặc được tuyển
dụng vào các doanh nghiệp phù hợp với khả năng ngề nghiệp của bản thân.
+ Hỗ trợ lao động nghèo ở nông thôn, miền núi đi XKLĐ.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp XKLĐ trực tiếp, có
uy tín của Trung ương đặt văn phòng đại diện về tuyển dụng lao động xuất khẩu.
Về phía ban chỉ đạo XKLĐ và các đơn vị được phép XKLĐ:
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách về
XKLĐ. Tạo nguồn vốn và giới thiệu người đảm bảo chất lượng để tham gia
dự tuyển đi làm việc ở nước ngoài. Phối hợp với các doanh nghiệp hoạt động
XKLĐ trực tiếp tuyển lao động tại địa phương, xác định trách nhiệm của gia
đình, người lao động để người lao động thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ được
quy định trong hợp đồng đã ký với doanh nghiệp và hợp đồng lao động với
nước ngoài, tránh tình trạng bỏ trốn, phá huỷ hợp đồng.
+ Tăng cường và mở rộng thị trường lao động bằng hình thức tham
quan, học tập, du lịch ở nước ngoài, thông qua đại sứ của các nước, chuyên
gia giới thiệu, tìm kiếm những nước có nhu cầu và thị trường lao động để đàm
phán trực tiếp, ký kết hợp đồng XKLĐ.
+ Các cơ quan có liên quan như công an, hải quan, y tế, ngân hàng
kiểm tra, đánh giá những việc đã làm được và những tồn tại để thông báo
hướng dẫn tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng cho các đơn vị XKLĐ thực
hiện tốt về cấp hộ chiếu, chứng minh nhân dân, khám sức khoẻ, vay vốn.
+ Kiểm tra, rà soát lại toàn bộ các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.
Đình chỉ hoạt động đối với các doanh nghiệp làm trái với quy định theo thông
tư số 22/2003/TT-BLĐTB-XH của Bộ lao động – thương binh xã hội, hướng
dẫn thực hiện Nghị định 81/CP của chính phủ về XKLĐ
104
+ Các đơn vị được phép XKLĐ phải có đủ trình độ, năng lực quản lý
để triển khai thực hiện có hiệu quả, giữ uy tín, tăng sức cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam ở nước ngoài.
+ Ngay từ khâu tạo nguồn, các đơn vị XKLĐ cần quan tâm tuyển chọn,
giáo dục định hướng, kiểm tra tay nghề, thu phí dịch vụ hợp lý tại doanh
nghiệp và các cơ sở đào tạo đối với lao động, phối hợp với công ty môi giới
nước ngoài thực hiện tốt công tác quản lý lao động, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho người lao động.
+ Đơn vị XKLĐ phải chịu trách nhiệm đào tạo người đi lao động: nâng
cao chất lượng giáo dục, ý thức tổ chức kỷ luật, kiến thức ngoại ngữ, hiểu biết
pháp luật, phong tục, tập quán, văn hoá truyền thống của đất nước mà người
lao động sẽ sang làm việc.
+ Nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội
ngũ tư vấn, giới thiệu việc làm, cung ứng XKLĐ và đội ngũ giáo viên ở các
trường dạy nghề và giáo dục định hướng XKLĐ; việc kiểm tra, cấp chứng chỉ
cho người lao động phải được thực hiện nghiêm túc đúng quy định của Bộ
Giáo dục & Đào tạo.
Về phía người lao động đi XKLĐ
+ Trước khi đi làm việc ở nước ngoài người lao động phải được đào tạo
về ngoại ngữ để có thể trao đổi với người chủ sử dụng lao động về công việc
mà mình sẽ làm; được đào tạo về tay nghề để có thể nắm bắt các thao tác, kỹ
thuật, tiếp cận công nghệ tại nơi sẽ làm việc.
+ Người lao động cần nâng cao nhận thức của bản thân về tác phong, ý
thức tổ chức kỷ luật để giao tiếp và ứng xử đúng mức, có ý thức học hỏi, cầu
tiến để nâng cao vốn hiểu biết của bản thân về ngoại ngữ, phong tục, tập
quán, cách sinh hoạt, trình độ tay nghề ngày càng hoàn thiện, đáp ứng tốt yêu
cầu của một người lao động đi XKLĐ.
105
+ Chấp hành nghiêm chỉnh hợp đồng lao động đã ký với doanh nghiệp
và hợp đồng lao động với nước ngoài.
KẾT LUẬN
Giải quyết việc làm cho người lao động đang là vấn đề vừa cơ bản lâu
dài, vừa cấp bách trước mắt, là vấn đề thời sự nhạy cảm đối với cộng đồng,
đối với từng gia đình và mọi thành viên trong xã hội. Giải quyết việc làm
không những có ý nghĩa quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới và
phát triển kinh tế - xã hội, mà còn thể hiện rõ năng lực tổ chức, quản lý cũng
như bản chất chính trị của Nhà nước. Giải quyết việc làm cần đ ược hiểu theo
nội dung bao quát, hệ thống, từ vấn đề giáo dục, đào tạo, phổ cập và rèn luyện
nghề nghiệp, việc tạo việc làm và tìm kiếm việc làm phù hợp với trình độ và
nghề nghiệp của bản thân người lao động đến vấn đề được tự do lao động và
được hưởng thụ xứng đáng thành quả do lao động sáng tạo ra.
Bước đầu nghiên cứu vấn đề "Giải quyết việc làm trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An", Luận văn xác định đây là một vấn đề khó.
Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm được xem xét từ những khái niệm cơ bản
xung quanh vấn đề lao động - việc làm, trên cơ sở đó, Luận văn xác định các
106
nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề việc làm, qua đó tìm hiểu kinh nghiệm của một
số địa phương trong nước cũng như ngoài nước về giải quyết việc làm.
Trên cơ sở tìm hiểu lý luận và thực tiễn về vấn đề giải quyết việc làm,
Luận văn phân tích thực trạng của công tác giải quyết việc làm trên địa bàn
tỉnh Nghệ An trong thời gian qua, tìm hiểu những mặt ưu điểm và hạn chế của
công tác giải quyết việc làm ở Nghệ An thời gian từ 2000 - 2004, Luận văn
đưa ra những dự báo về vấn đề lao động - việc làm trên cơ sở đó mạnh dạn đề
ra một số giải pháp cụ thể nhằm từng bước khắc phục tình trạng thất nghiệp
và thiếu việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Những kết quả ban đầu mà Luận văn đã đạt được thể hiện sự cố gắng
trong nghiên cứu của tác giả, sự giúp đỡ nghiêm túc, nhiệt tình của các thầy,
cô giáo, các nhà khoa học, đặc biệt là những ý kiến chỉ dẫn của giáo viên trực
tiếp hướng dẫn khoa học luận văn này. Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu,
thời gian và khả năng bản thân có hạn, luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà
khoa học và các bạn đồng nghiệp để Luận văn được hoàn thiện hơn.
107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tuệ Anh (1999), "Phát triển thị trường lao động ở nước ta",
Nghiên cứu kinh tế, (259), tr. 47-55.
2. Trần Tuấn Anh (1997), "Một số giải pháp giải quyết việc làm trong quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay", Luận văn
thạc sỹ kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Nguyễn Hoà Bình (2000), "Giải pháp nào cho tình trạng thiếu việc làm
ở nông thôn hiện nay", Con số và sự kiện, (3), tr. 21-24.
4. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2001), Thực trạng lao động - việc
làm ở Việt Nam 2000, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
5. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2002), Thực trạng lao động - việc
làm ở Việt Nam 2001, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
6. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2003), Thực trạng lao động - việc
làm ở Việt Nam 2002, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
108
7. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2004), Thực trạng lao động - việc
làm ở Việt Nam 2003, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
8. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2005), Thực trạng lao động - việc
làm ở Việt Nam 2004, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
9. Bộ Luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam (2005), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
10. Trần Văn Chử (2002), "Xuất khẩu lao động và giải quyết việc làm ở Việt
Nam", Kinh tế và phát triển, (57), tr. 18-22.
11. Cục Thống kê Nghệ An (2001), Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An năm
2000, Nghệ An.
12. Cục Thống kê Nghệ An (2002), Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An năm
2001, Nghệ An.
13. Cục Thống kê Nghệ An (2003), Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An năm
2002, Nghệ An.
14. Cục Thống kê Nghệ An (2004), Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An năm
2003, Nghệ An.
15. Cục Thống kê Nghệ An (2005), Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An năm
2004, Nghệ An.
16. Cục Thống kê Nghệ An (2003), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm
2003, Nghệ An.
17. Cục Thống kê Nghệ An (2004), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm
2004, Nghệ An.
18. Cục Thống kê Nghệ An (2003), Tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế -
xã hội thời gian từ 2000 - 2004 tỉnh Nghệ An, Nghệ An.
19. Đỗ Minh Cương (2001), "Về chiến lược đào tạo nghề thời kỳ 2001-
2010", Lao động và xã hội, (5), tr. 7-8.
109
20. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết
việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Hội khoa học kinh tế Việt Nam, Trung tâm tư vấn và phát triển (2002),
Tổng quan quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, tập 2,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. V. I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 7, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
27. Trần Văn Luận (1997), "Sử dụng nguồn lao động ở khu vực thành thị -
thực trạng và giải pháp", Nghiên cứu kinh tế, (229), tr. 40-48.
28. C. Mác (1984), Tư bản, tập thứ nhất, quyển I, phần 1, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
29. C. Mác (1984), Tư bản, tập thứ nhất, quyển I, phần 2, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
30. C. Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. C. Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. C. Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh (1978), Lao động là nghĩa vụ và vinh dự của mọi người,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
34. Nguyễn Lê Minh (2000), "Thị trường lao động và hội chợ việc làm",
Lao động và xã hội, (3), tr. 24-25.
110
35. Nolwen Henaff, Jean - Yves Martin (2001), Lao động- việc làm và
nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
36. Nguyễn Bá Ngọc, Trần Văn Hoan (2002), Toàn cầu hoá: cơ hội và thách
thức đối với lao động Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
37. Lê Đức Quyết (2002), Một số chính sách quốc gia về việc làm và xoá đói
giảm nghèo, Nxb Lao động, Hà Nội.
38. Sở Lao động Thương binh và Xã hội Nghệ An, Báo cáo kết quả thực hiện
công tác xoá đói giảm nghèo - giải quyết việc làm từ năm 1997 -
2004.
39. Sở Lao động Thương binh và Xã hội Nghệ An (2003), Chương trình hội
nhập kinh tế quốc tế về lao động, Nghệ An.
40. Sở Lao động Thương binh và Xã hội Nghệ An (2004), Thực trạng lao
động- việc làm ở Nghệ An 2002, Nghệ An.
41. Sở Lao động Thương binh và Xã hội Nghệ An (2005), Báo cáo công tác
xuất khẩu lao động năm 2004, nhiệm vụ năm 2005.
42. Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An (2002), Bổ sung điều chỉnh quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An thời kỳ 1996 - 2010.
43. Phạm Đức Thành, Phạm Quý Thọ, Thang Mạnh Hợp (2003), "Vấn đề
lao động, việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay", Kinh tế và phát
triển, (76), tr. 11-13.
44. Phạm Đức Thành (2001), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ
CNH, HĐH ở Việt Nam", Lao động và Xã hội, (1), tr. 45-46.
45. Trần Túc, Mai Ngọc Cường (2003), "Phát triển khoa học và công nghệ ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới", Kinh tế và Phát triển, (76), tr. 18-20.
46. Đỗ Thế tùng (2003), "Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải
quyết việc làm ở Việt Nam", Lao động và Công đoàn (6), tr. 17-19.
111
47. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm
thế giới và thực tiễn ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Lưu Ngọc Trịnh (1996), "Mô hình phát triển kinh tế Đông Á và một số
bài học kinh nghiệm", Những vấn đề thế giới, (2), tr. 40-45.
49. Toàn cảnh kinh tế Việt Nam (2004), tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 436-509.
50. UBND tỉnh Nghệ An (1997), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Nghệ An đến 2010 và một số định hướng chiến lược đến 2020.
51. UBND tỉnh Nghệ An (2000), Chương trình giải quyết việc làm và đào
tạo nghề cho người lao động tỉnh Nghệ An, Nghệ An.