ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------

ĐẶNG MINH CHÂU

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH

TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG SỐ 2 – YÊN MÔ – NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI – 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------

ĐẶNG MINH CHÂU

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH

TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG SỐ 2 – YÊN MÔ – NINH BÌNH

Chuyên ngành: Xã hội học

Mã số: 60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Ngƣời huớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Thu Hà

HÀ NỘI – 2014

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 6

1.Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 6

2. Ý nghĩa nghiên cứu .................................................................................................... 8

3. Tổng quan nghiên cứu ............................................................................................... 8

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 13

5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ........................................................... 13

6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ...................................................... 14

7. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 15

8. Khung lý thuyết ........................................................................................................ 17

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .................. 18

1.1. Khái niệm công cụ .............................................................................................. 18

1.1.2. Khái niệm pháp luật ....................................... Error! Bookmark not defined.

1.1.3. Khái niệm giáo dục pháp luật ........................ Error! Bookmark not defined.

1.1.4. Khái niệm trường giáo dưỡng ....................... Error! Bookmark not defined.

1.1.5. Khái niệm học sinh trường giáo dưỡng ........ Error! Bookmark not defined.

1.1.6. Khái niệm giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng ................... 22

1.2. Lý thuyết áp dụng ............................................................................................... 22

1.2.1. Lý thuyết xã hội hóa .......................................................................................... 23

1.2.2. Lý thuyết cấu trúc chức năng ............................................................................ 24

1.3. Những quy định pháp lý về quyền trẻ em và đối tƣợng phải quản lý, giáo

dục ở trƣờng giáo dƣỡng. ......................................................................................... 26

1.4. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ........................................................................... 28

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH

TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG SÔ 2 NINH BÌNH HIỆN NAY ............................. 35

2.1. Đặc điểm của giáo viên và học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình . 35

2.1.1 Đặc điểm của giáo viên trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình .......................... 35

2.1.2. Đặc điểm của học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình .......................... 39

1

2.2. Mục đích giáo dục pháp luật cho học sinh trƣờng Giáo dƣỡng số 2

Ninh Bình .................................................................................................................... 53

2.3. Nội dung và phƣơng pháp giáo dục pháp luật đã đƣợc thực hiện cho học

sinh trƣờng Giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình ............................................................... 55

2.3.1. Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động học tập bắt buộc ............................ 56

2.3.2. Giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động bổ trợ ....................................... 61

2.3.3 Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động khen thưởng, kỷ luật ...................... 69

2.3.4 Giáo dục pháp luật qua phương tiện truyền thông của trường ....................... 76

2.4. Các nhân tố chính tác động đến thực trạng giáo dục pháp luật cho học

sinh ở trƣờng giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình hiện nay ............................................. 79

2.4.1. Nhóm đồng đẳng ............................................................................................... 80

2.4.2. Gia đình .............................................................................................................. 82

CHƢƠNG 3: HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH

TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG SỐ 2 - YÊN MÔ - NINH BÌNH ............................ 86

3.1. Kết quả trong hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh trƣờng giáo

dƣỡng số 2 Ninh Bình ................................................................................................ 86

3.1.1. Nâng cao nhận thức pháp luật cho học sinh .................................................... 86

3.1.2. Kết quả hoạt động giáo dục pháp luật qua phương pháp giáo dục bắt buộc ....... 87

của học sinh trường giáo dưỡng số 2.......................................................................... 87

3.1.3. Kết quả hoạt động giáo dục pháp luật qua phương pháp giáo dục bổ trợ .... 88

3.1.4. Kết quả hoạt động giáo dục pháp luật qua phương pháp khen thưởng, kỷ luật ..... 90

3.1.5. Một số hạn chế ................................................................................................... 91

3.1.6. Mong muốn của học sinh về hoạt động giáo dục pháp luật trong những năm tới . 95

3.2. Một số khuyến nghị giải pháp nhằm tăng cƣờng hiệu quả hoạt động giáo

dục pháp luật cho học sinh trƣờng Giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình hiện nay ...... 97

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý, giáo dục người chưa thành niên

vi phạm pháp luật ......................................................................................................... 97

3.2.2. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục pháp luật của

trường giáo dưỡng ........................................................................................................ 99

2

3.2.3. Củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên làm công tác giáo

dục pháp luật cho học sinh. .......................................................................................100

3.2.4. Giải pháp đối với học sinh ..............................................................................101

3.2.5. Tăng cường kinh phí để phục vụ công tác giáo dục pháp luật cho học sinh .....101

KẾT LUẬN ...............................................................................................................103

TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................105

PHỤ LỤC

3

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Số lượng cán bộ giáo viên làm công tác giáo dục pháp luật cho học

sinh trường giáo dưỡng số 2 ............................................................................ 36

Bảng 2.2: Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên làm công tác giáo

dục pháp luật tại trường giáo dưỡng số 2 ........................................................ 36

Bảng 2.3: Giới tính trẻ em vi phạm pháp luật ở trường giáo dưỡng số 2 ....... 41

Bảng 2.4. Cơ cấu hành vi vi phạm pháp luật của học sinh trường giáo dưỡng số 2 ... 42

Bảng 2.5. Nhận thức của học sinh trường giáo dưỡng số 2 về nội dung pháp luật ... 49

Bảng 2.6. Số liệu thống kê hoạt động học tập giáo dục công dân tại trường

giáo dưỡng số 2 ............................................................................................... 58

Bảng 2.7. Thống kê số ca tư vấn học sinh năm 2013 của trường giáo dưỡng số 2 ..... 65

Bảng 2.8. Số lượt khen thưởng học sinh năm 2013 của trường giáo dưỡng số 2 ..... 71

Bảng 2.9. Kết quả giảm thời hạn cho học sinh trường giáo dưỡng số 2 năm 2013 .. 72

Bảng 2.10. Tổng số lượt học sinh vi phạm kỷ luật năm 2013 ........................ 73

Bảng 2.11. Số lượt xử lý kỷ luật học sinh năm 2013 ...................................... 81

Bảng 3.1. Kết quả chất lượng học giáo dục công dân .................................... 87

Bảng 3.2 . Nhận thức của học sinh sau khi xem chương trình Tòa tuyên án . 88

Bảng 3.3. Kết quả chất lượng tư vấn riêng ..................................................... 89

Bảng 3.4. Thống kê số lượt kỷ luật học sinh trường giáo dưỡng số 2 ............ 91

Bảng 3.5. Xếp hạng mức độ yêu thích của học sinh với các phương pháp giáo

dục pháp luật đang được thực hiện tại trường giáo dưỡng số 2 ...................... 95

4

DANH MỤC HÌNH

Biểu đồ 2.1 : Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới hành vi của học sinh

trường giáo dưỡng số 2 ................................................................................... 38

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu độ tuổi của học sinh trường giáo dưỡng số 2 ................. 40

Biểu đồ 2.3: Tình trạng gia đình của học sinh trường giáo dưỡng số 2 ......... 45

Biểu đồ 2.4: Nguyên nhân của tình trạng thiếu cha mẹ của học sinh trường

giáo dưỡng số 2 ............................................................................................... 45

Biểu đồ 2.5. Nguyên nhân học sinh trường giáo dưỡng số 2 vi phạm pháp luật .... 52

Biểu đồ 2.6. Mức độ thích thú của học sinh trường giáo dưỡng số 2 với

phương pháp xem chương trình Tòa tuyên án ................................................ 63

Biểu đồ 2.7. Mức độ yêu thích của học sinh trường giáo dưỡng số 2 với

phương pháp tư vấn riêng ............................................................................... 66

Biểu đồ 2.8. Mức độ thích thú của học sinh trường giáo dưỡng số 2 với

phương pháp chơi trò chơi .............................................................................. 67

Biểu đồ 2.9 : Mức độ yêu thích của học sinh trường giáo dưỡng số 2 với

phương pháp xử án lưu động .......................................................................... 69

Biểu đồ 2.10. Mức độ yêu thích của học sinh trường giáo dưỡng số 2 với

phương pháp khen thưởng, kỷ luật ................................................................. 76

Biểu đồ 2.11. Mức độ yêu thích của học sinh trường giáo dưỡng số 2 với

phương pháp sử dụng phương tiện truyền thông ............................................ 79

5

MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài

Trong xã hội, để con người tuân thủ pháp luật một cách tự giác thì cần làm

cho họ hiểu được sự cần thiết và lợi ích xã hội của các quy định pháp luật. Từ đó

hình hành thái độ tôn trọng pháp luật và định hướng cho các hành vi pháp luật của

các cá nhân trong đời sống xã hội. Luật pháp muốn có hiệu lực, hiệu quả thì ngoài

việc sử dụng sức mạnh của công quyền, bằng cưỡng chế thì còn cần huy động cả

sức mạnh của tư tưởng và tinh thần trong việc thực thi pháp luật; pháp luật phải

được con người nhận thức như là cái cần thiết, phải tạo niềm tin và sự kính trọng

đối với pháp luật.[41, tr. 1] Đó cũng chính là mục đích, yêu cầu cơ bản của giáo dục

pháp luật đối với mọi công dân nói chung và trẻ em nói riêng.

Giáo dục pháp luật là một yếu tố có vai trò chủ đạo của quá trình hình thành ý

thức pháp luật ở cá nhân con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:“ Hiền, dữ đâu phải

là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Việc giáo dục pháp luật nhằm mục đích

cung cấp cho các cá nhân những tri thức pháp luật cần thiết, xây dựng tình cảm, thái độ

tôn trọng và hành vi tích cực tuân thủ pháp luật trong cuộc sống hàng ngày.

Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, khi mà toàn Đảng toàn dân

ta đang nỗ lực xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì

dân, tất cả mọi người đều phải “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” thì

làm sao để mọi tầng lớp nhân dân đều hiểu và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật là

một điều hết sức cần thiết, đặc biệt là đối với thế hệ thanh thiếu niên hiện nay.

Thanh, thiếu niên là đối tượng đang trong độ tuổi phát triển vượt bậc về thể

chất và có những thay đổi mạnh mẽ về tâm sinh lý. Đây là độ tuổi thích khám phá,

thử nghiệm, muốn chứng minh cái tôi…do đó dễ bị ảnh hưởng bởi những mặt tích

cực cũng như mặt tiêu cực, tác động xấu của xã hội. Sự hình thành nhân cách của

thanh, thiếu niên gắn liền với sự tác động đa chiều của môi trường sống: gia đình,

nhà trường và xã hội với những yếu tố cụ thể về chính trị, kinh tế, văn hoá; là sản

phẩm trực tiếp của quá trình giáo dục và rèn luyện của chủ thể nhân cách, trong đó

giáo dục pháp luật có ý nghĩa đặc biệt. Chính vì vậy, vấn đề giáo dục pháp luật cho

thanh thiếu niên nói chung và thanh thiếu niên vi phạm pháp luật nói riêng ngày

càng trở nên cấp thiết.

6

Theo Nghị định số 142/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày

24//11/2003 quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo

dưỡng thì “đưa vào trường giáo dưỡng” là biện pháp xử lý hành chính do Chủ tịch

UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định đối với người chưa thành

niên vi phạm pháp luật. Năm 2013 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013

của Chính phủ quy định người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật được

đưa vào trường giáo dưỡng.

Thực hiện Nghị định này, Bộ Công an được giao nhiệm vụ quản lý 04 trường

giáo dưỡng nhằm mục đích quản lý, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em vi phạm pháp luật

tập trung tại trường sau thời gian tu dưỡng rèn luyện, sửa chữa sai lầm, trở về cộng

đồng trở thành những công dân có ích, không tái phạm.

Theo số liệu thống kê tổng kết công tác tại các trường giáo dưỡng của Tổng

cục Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp - Bộ Công An, trong 10 năm (từ 2002 -

2012), các trường giáo dưỡng đã tiếp nhận 21.836 người chưa thành niên vi phạm

pháp luật, trong đó có 21.335 em nam (chiếm 97,93%) và 501 em nữ (chiếm

2,07%). Như vậy trung bình mỗi năm có khoảng trên 2.000 em được đưa vào các

trường giáo dưỡng của Bộ Công an. Cá biệt có những năm các trường giáo dưỡng

quản lý tới trên 4.000 em như các năm từ 2003-2006.[2, tr.8]

Cũng theo con số thống kê, hành vi vi phạm pháp luật của các em ngày càng

tinh vi, phức tạp, tính chất nguy hiểm, có nhiều vụ gây hậu quả nghiêm trong như

chết người gây bức xúc trong đời sống xã hội. Tổng kết 10 năm trong cả nước số

học sinh vào trường giáo dưỡng mắc lỗi do hành vi trộm cắp chiếm 61,51%; gây rối

trật tự công cộng chiến 22,9%; cố ý gây thương tích chiếm 4,3%; cướp, cướp giật,

cưỡng đoạt tài sản chiếm 4,87%; hiếp dâm chiếm 2,13%; giết người chiếm 0,26%.

Độ tuổi khi vào trường giáo dưỡng tập trung chủ yếu từ 15 đến 18 tuổi (chiếm trên

80%). [2, tr.8]

Trên thực tế, ở Việt Nam hiện nay có nhiều nghiên cứu về việc giáo dục pháp

luật nói chung và giáo dục pháp luật cho các đối tượng cụ thể với nhiều góc tiếp cận

khác nhau như Xã hội học, Luật học, Công tác xã hội, Khoa học công an... Tuy nhiên

học sinh trường giáo dưỡng- một nhóm đối tượng rất cần được phổ biến, giáo dục

7

pháp luật- thì chưa có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này bởi đây là vấn đề mới và

chưa được quan tâm đúng mức.

Hiện nay, các cấp quản lý cũng như các tổ chức quan tâm đã dành nhiều sự

quan tâm và đầu tư cho hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng

và đã thu được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn bộc lộ

nhiều bất cập, từ nội dung chương trình, phương pháp thực hiện đến việc triển khai

trong thực tế. Từ thực tiễn trên, chúng tôi tập trung nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực

trạng công tác giáo dục pháp luật cho học sinh tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh

Bình, đánh giá về vai trò của các đối tượng trong quá trình này nhằm tìm hiểu

nguyên nhân, trên cơ sở đó đưa ra các khuyến nghị phù hợp nhằm tăng cường hiệu

quả hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng hiện nay.

Với những lý do trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề: “Giáo dục pháp luật cho

học sinh trường giáo dưỡng số 2- Yên Mô- Ninh Bình hiện nay” làm đề tài nghiên

cứu của mình.

2. Ý nghĩa nghiên cứu

2.1. Ý nghĩa lý luận

Vận dụng lý thuyết để phân tích thực trạng và đánh giá kết quả hoạt động

giáo dục pháp luật đang được thực hiện tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, góp

phần làm phong phú hơn cho lĩnh vực nghiên cứu về giáo dục người thành niên vi

phạm pháp luật.

2.2.Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu của đề tài nhằm góp phần phác họa phần nào thực tế việc giáo

dục pháp luật ở trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, chỉ ra những hạn chế và khuyến

nghị những vấn đề cần khắc phục để từng bước hoàn thiện hoạt động này.

Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham

khảo cho các cá nhân, tổ chức quan tâm tới vấn đề giáo dục pháp luật cho học sinh

các trường giáo dưỡng nói chung và trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình nói riêng.

3. Tổng quan nghiên cứu

Thiết chế pháp luật, cùng với thiết chế kinh tế, chính trị và văn hoá được coi

là những thiết chế trọng tâm nhất, ảnh hưởng đến các thiết chế khác và có tính quyết

định tới sự tồn vong và phát triển của bất kì chế độ xã hội nào. Xã hội càng phát

8

triển văn minh, hiện đại thì yêu cầu về sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật càng trở

thành tất yếu đối với mỗi cá nhân trong xã hội. Pháp luật không chỉ là công cụ,

phương tiện để nhà nước căn cứ vào đó quản lý các mặt của đời sống xã hội mà nó

còn là phương tiện thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của mỗi công dân.

Chính vì vậy giáo dục pháp luật đang là một lĩnh vực dành được rất nhiều sự quan

tâm nghiên cứu ở Việt Nam. Không chỉ riêng Xã hội học mà nhiều ngành khoa học

khác như Luật học, Khoa học Công an… cũng có nhiều công trình nghiên cứu về

giáo dục pháp luật với nhiều chiều hướng nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau.

Dưới góc độ những nghiên cứu về giáo dục pháp luật nói chung

Đã có rất nhiều các tác phẩm dưới dạng giáo trình, sách tham khảo, bài viết

đăng tạp chí được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về lĩnh

vực này. Các tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng giáo dục pháp luật ở Việt nam

hiện nay, chỉ ra vai trò của các chủ thể trong công tác tuyên truyền giáo dục pháp

luật, các vấn đề cần quan tâm trong công tác giáo dục pháp luật và một số giải pháp

nâng cao hiệu quả trong công tác giáo dục pháp luật.

Trong các tác giả này có tác giả Nguyễn Đình Đăng Lục với tác phẩm “Vai

trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách” [16; tr 1-276] đã phân tích

hết sức sâu sắc, cụ thể về vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành và phát

triển nhân cách của người chưa thành niên, đó là: hình thành tính hướng thiện trong

hành vi, tạo nên tính kiềm chế và hình thành ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ công

dân của người chưa thành thiên. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra đặc điểm ý thức

pháp luật của người chưa thành niên hiện nay, từ đó đưa ra những nguyên tắc và

nhiệm vụ cụ thể của hoạt động giáo dục pháp luật cho người chưa thành niên.

Bài viết “Chất lượng giáo dục pháp luật và các tiêu chí đánh giá” của tác

giả Nguyễn Thu Thủy. Bài viết đã chỉ ra và phân tích rất cụ thể năm tiêu chỉ để

đánh giá hoạt động giáo dục pháp luật. Đó là tiêu chí về nội dung, tiêu chí về chủ

thể, tiêu chí về hình thức, phương pháp, tiêu chí về kết quả hoạt động giáo dục pháp

luật được thể hiện ở nhận thức của đối tượng và tiêu chí về những điều kiện hỗ trợ,

phục vụ cho công tác giáo dục pháp luật [27; tr 61-66]. Đây là những tài liệu rất hữu

ích cho tác giả trong việc phân tích và triển khai ý tưởng của mình.

9

Dưới góc độ những nghiên cứu về giáo dục pháp luật cho học sinh hay còn

gọi là người chưa thành niên

Đây là lĩnh vực mà được rất nhiều người quan tâm và có hàng trăm tác phẩm

nghiên cứu về vấn đề nay. Ngoài các bài viết đăng trên các tạp chí, có thể thấy có

rất nhiều các nhà khoa học đã nghiên cứu về lĩnh vực này.

Ví dụ, tác giả Nguyễn Khắc Hùng “Các biện pháp tổ chức giáo dục pháp

luật cho học sinh trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh”, LATS Giáo

dục học, năm 2009.

Hoặc tác giả Trần Thị Sáu với đề tài “ Giáo dục pháp luật cho học sinh trong

các trường trung học phổ thông ở Việt Nam”, LATS Luật học, năm 2012.

“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục pháp luật trong trường phổ

thông ở nước ta” (Luận văn Ths Luật học của Phạm Thị Kim Dung, 2010) .

Nhấn mạnh vai trò của gia đình trong việc phân tích nguyên nhân vi phạm

pháp luật của trẻ em vị thành niên, bài viết “Ảnh hưởng của gia đình tới hành vi vi

phạm pháp luật của trẻ em vị thành niên” PGS.TS Nguyễn Hồi Loan đã chỉ ra 04

tác nhân hàng đầu dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của trẻ em là (1). Trong gia

đình có thành viên đã và đang phạm tội; (2). Phương pháp giáo dục của cha mẹ

không đúng đắn; (3). Điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, đông con; (4). Hoàn cảnh

gia đình cha mẹ ly thân hoặc ly dị. Cuối cùng tác giả đưa ra kết luận, để ngăn chặn

hiện tượng trẻ em vị thành niên có hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội,

ngay trong phạm vi quản lý của gia đình thì: Các bậc cha mẹ phải là tấm gương

sáng cho con cái trong mọi việc làm của bản thân mình. Cha mẹ phải tạo mọi điều

kiện cho con cái được vui chơi, được đến trường học hành. Cha mẹ phải có lối sống

chung thủy, lành mạnh, yêu thương lẫn nhau. Ngoài ra chúng ta cần phải phát triển

các trung tâm tư vấn để giúp đỡ các em, các bậc cha mẹ lựa chọn được phương

pháp, cách thức giáo dục con cái cho phù hợp với hoàn cảnh của họ [14, tr.42].

Tác giả Nguyền Thanh Mai với “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh

trong dạy học pháp luật ở trường trung học phổ thông” lại chỉ ra một thực trạng là

phương pháp dạy học pháp luật chủ yếu trong chương trình trung học phổ thông

hiện nay là lấy hoạt động của giáo viên làm trung tâm. Khảo sát bằng phiếu hỏi học

sinh về phương pháp dạy học pháp luật trong môn Giáo dục công dân ở các trường

10

trung học phổ thông Hà Nội vào tháng 3/2003 cho thấy: hầu hết các giờ học diễn ra

khô khan, học sinh ít được hoạt động, ít có cơ hội tìm tòi khám phá, thể hiện mình.

Hình thức tổ chức dạy học nghèo nàn, chủ yếu là học trên lớp, các hình thức ngoại

khóa, thực hành chưa nhiều, chất lượng chưa cao. Bằng cách chỉ ra thực trạng và

nguyên nhân, tác giả đã khuyến nghị một số định hướng về đổi mới dạy học pháp

luật, cụ thể là: (1). Nghiên cứu xử lý tình huống; (2). Phát huy vốn kiến thức và

kinh nghiệm sống của học sinh; (3). Điều tra thực tiễn; (4). Trò chơi giáo dục pháp

luật; (5). Tạo cơ hội cho học sinh thực hành pháp luật. [17, tr.15-16]

Dưới góc độ nghiên cứu về giáo dục pháp luật cho trẻ em vi phạm pháp luật.

Đây là chủ đề nóng bỏng không chỉ hiện nay mà luôn luôn là vấn đề thời sự

của mọi thời đại bởi trẻ em chưa thành niên vi phạm pháp luật luôn là vấn đề nhức

nhối của gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội. Mỗi trẻ em vi phạm pháp luật là

một mầm hoạ cho xã hội tương lai, tiềm ẩn nguy cơ có thể trở thành tội phạm, nếu

con người không tìm tận gốc căn nguyên và loại trừ căn nguyên đó.

Ở chủ đề này có 2 mảng vấn đề được đề cập:

Một là, vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật trong phạm vi cả nước hoặc ở trên

những địa bàn cơ sở có rất nhiều đề tài, bài viết đề cập tới dưới góc độ khác nhau

như: thực trạng của hành vi vi phạm pháp luật; nguyên nhân, nguồn gốc của tình

trạng trên; dự báo xu hướng của hiện tượng trẻ em vi phạm pháp luật và chỉ ra các

vai trò của gia đình, nhà trường, xã hội trong việc phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng

trẻ em vi phạm pháp luật.

Chẳng hạn, luận án tiến sỹ của tác giả Hồ Diệu Thuý (2002) “Nguồn gốc xã

hội của việc vi phạm pháp luật ở người chưa thành niên hiện nay” tuy không trưc

tiếp nghiên cứu về phương pháp giáo dục, song thông qua việc đi sâu phân tích

nguồn gốc sâu xa của mọi hành vi vi phạm pháp luật, những lệch chuẩn của người

chưa thành niên, công trình đã cung cấp những căn cứ khoa học và tư liệu rất phong

phú cho những người làm công tác giáo dục người chưa thành niên tham khảo.

Trong luận án của mình, tác giả nhấn mạnh tới những tác động tiêu cực của xã hội

trong nền kinh tế thị trường như phân hóa giàu nghèo, quá trình đô thị hóa, sự giao

thoa văn hóa đã làm thay đổi một số giá trị truyền thống, ảnh hưởng tới môi trường

xã hội của các em. Đặc biệt, môi trường gia đình - sự giáo dục, truyền thống của gia

11

đình được khẳng định là môi trường có ảnh hưởng mạnh nhất tới hành vi vi phạm

pháp luật của trẻ chưa thành niên hiện nay.

Trong cuốn sách “Thanh thiếu niên làm trái pháp luật - Thực trạng và giải

pháp” của tác giả Trần Đức Châm đã chỉ ra thực trạng đáng báo động về tỷ lệ cũng

như mức độ nghiêm trọng của tội phạm chưa thành niên hiện nay, trong đó tốc độ

gia tăng nhanh và mạnh ở đô thị, độ tuổi đang ngày càng trẻ hoá, nhiều vi phạm

trước kia chưa từng có nay đã xuất hiện và có xu hướng gia tăng như tội giao cấu

với trẻ em. Bằng những nghiên cứu thực tế, tác giả chỉ ra, phần lớn những em vi

phạm pháp luật ở đây đều gặp những vấn đề trong gia đình như cha mẹ ly thân, ly

hôn, cha mẹ vào tù hay nghiện ngập, cha mẹ quá nuông chiều hoặc quá hà khắc

trong nuôi dạy con cái.

Luận văn Ths Luật học của tác giả Bùi Thị Hoa (2011) “ Công tác quản lý

trẻ em vi phạm pháp luật của lực lượng Công an cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum”

lại nghiên cứu dưới góc độ phòng ngừa trẻ em vi phạm pháp luật theo chức năng

của lực lượng công an cơ sở, trên địa bàn tỉnh Kon Tum, chỉ ra nguyên nhân của

những thiếu sót, từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý

trẻ em vi phạm pháp luật trên địa bàn ngày một hoàn thiện hơn.

Tuy nhiên khía cạnh thứ hai là dưới góc độ giáo dục pháp luật cho trẻ em vi

phạm pháp luật, đặc biệt là giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng, là

góc độ hẹp hơn thì cho tới hiện nay theo nghiên cứu của chúng tôi, hầu như ít được

quan tâm và chưa có nhiều công trình công bố. Có thể đây là vấn đề nghiên cứu

chuyên sâu, khá hẹp, nghiên cứu gặp nhiều cản trở nên chưa thu hút được sự quan

tâm của người nghiên cứu.

Qua khảo sát tổng quan tài liệu, chúng tôi thấy thời gian gần đây có 02 đề tài

nghiên cứu về Trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình:

(1). Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật ở trường giáo dưỡng số 2 Ninh

Bình của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Linh- Luận văn Ths.Xã hội học (2013).

Đề tài này nghiên cứu dưới góc độ đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân

và đề xuất giải pháp, khuyến nghị về công tác quản lý và giáo dục tại trường giáo

dưỡng số 2 Ninh Bình cũng như công tác đào tạo giáo viên dạy giáo dục công dân

và cán bộ công tác xã hội cho nhà trường.

12

(2) Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hoạt động dạy nghề cho học

sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình của Bùi Thanh Bình - Luận văn Ths. Công

tác xã hội (2014).

Luận văn này lại đứng dưới góc độ công tác xã hội để nghiên cứu về hoạt

động dạy nghề cho học sinh, khi coi các cán bộ quản lý, giáo viên trong trường tồn

tại như tư cách những nhân viên công tác xã hội, đánh giá vai trò của họ trong hoạt

động dạy nghề cho học sinh trường giáo dưỡng như thế nào, từ đó tìm hiểu nguyên

nhân và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp, dạy nghề

cho học sinh trường giáo dưỡng.

Tuy nhiên dưới góc độ phân tích của Xã hội học chưa có công trình nào

nghiên cứu về giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.

Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo

dưỡng số 2 Ninh Bình” để góp thêm một góc nhìn mới cho vấn đề này.

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng việc giáo dục pháp luật cho

học sinh đang học tập, sinh hoạt tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, đánh giá

hiệu quả của hoạt động này, từ đó luận văn đề xuất một số khuyến nghị giải pháp

nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo

dưỡng số 2 Ninh Bình.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Mô tả mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục pháp luật đang được

thực hiện tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.

- Đánh giá kết quả đã đạt được và những bất cập còn tồn tại trong hoạt động

giáo dục pháp luật cho học sinh tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.

- Đề xuất một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của công

tác giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình hiện nay.

5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu

5.1.Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng số 2- Yên Mô-

Ninh Bình hiện nay.

13

5.2.Khách thể nghiên cứu

- Học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình đang được quản lý và học tập

tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình

- Cán bộ, giáo viên làm công tác quản lý và giáo dục tại trường giáo dưỡng

số 2 Ninh Bình.

5.3.Phạm vi nghiên cứu

- Không gian nghiên cứu: trường giáo dưỡng số 2- Yên Mô- Ninh Bình

- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 5/2014- tháng 9/2014

6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

6.1.Câu hỏi nghiên cứu

- Hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh ở trường giáo dưỡng số 2 Ninh

Bình hiện nay đang được tổ chức thực hiện qua những phương pháp nào, nội dung

cụ thể là gì?

- Hoạt động giáo dục pháp luật đang được thực hiện ở trường giáo dưỡng số

2 Ninh Bình đã có những kết quả gì?

- Hoạt động giáo dục pháp luật đang thực hiện tại trường giáo dưỡng số 2

Ninh Bình đang tồn tại nhưng bất cập gì?

- Những khuyến nghị nào có thể đưa ra nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động

giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình?

6.2.Giả thuyết nghiên cứu

- Giáo dục pháp luật cho học sinh là một trong những hoạt động trọng tâm

của trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình. Hiện nay, nhà trường đang triển khai hoạt

động này thông qua bốn phương pháp cơ bản là giáo dục pháp luật thông qua hoạt

động học tập bắt buộc, thông qua các hoạt động giáo dục bổ trợ, thông qua các hình

thức khen thưởng, kỷ luật và thông qua phương tiện truyền thông.

- Hoạt động này đã đem lại những kết quả nhất định như: nâng cao nhận thức

pháp luật cho học sinh, giúp các em hiểu rõ những sai phạm của mình, từ đó xây

dựng hành vi chấp hành pháp luật, nội quy ngay trong trường hướng tới xây dựng

văn hoá tự giác chấp hành pháp luật cho học sinh.

- Những hạn chế của hoạt động giáo dục pháp luật tại trường giáo dưỡng số 2

Ninh Bình đó là: nội dung chương trình giảng dạy chưa phù hợp lứa tuổi, hình thức

14

giáo dục chưa thu hút được sự tham gia và yêu thích của học sinh. Mặt khác, ý thức

học tập của một số học sinh chưa tốt, một số giáo viên trình độ và kỹ năng chưa đáp

ứng yêu cầu đề ra cũng là một nguyên nhân dẫn đến những bất cập trên.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu

7.1. Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu dựa vào phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Đồng thời đề tài còn dựa vào tư tưởng

Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

về giáo dục trẻ em nói chung và học sinh trường giáo dưỡng nói riêng.

7.2. Phương pháp nghiên cứu xã hội học

7.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu

Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu khái quát những vấn đề liên

quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài thông qua các nghiên cứu về giáo dục pháp

luật nói chung và giáo dục pháp luật cho học sinh. Bằng việc thu thập và xử lý các

tài liệu, số liệu có sẵn ở các nghiên cứu trước về giáo dục pháp luật, trẻ em vi phạm

pháp luật và tham khảo, sử dụng số liệu của một số công trình khoa học, báo cáo

tổng kết, khảo sát của các cơ quan nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo

dục trẻ em giúp có được sự so sánh, đối chiếu làm phong phú nội dung đang tiến

hành tìm hiểu, đồng thời nhằm khẳng định tính đúng đắn của những luận điểm được

đưa ra trong đề tài.

7.2.2. Phương pháp trưng cầu ý kiến

Theo dự kiến, chúng tôi đã phát phiếu trưng cầu ý kiến cho 200 em học sinh

trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình nhằm thu thập những thông tin cơ bản về hoạt

động giáo dục pháp luật đang được triển khai hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế khi

thu về chúng tôi chỉ sử dụng được 164 phiếu cho kết quả đầy đủ. Nguyên nhân của

kết quả này là do mặc dù tuổi đời còn ít, nhưng nhiều em học sinh trường giáo

dưỡng có sự từng trải, khôn ngoan, thậm chí biết né tránh những điều không muốn

nói. Điều này thể hiện ở số phiếu thu về có thể xử lý được, ở các câu trả lời mising

hay trong các số liệu điều tra (về tuổi, dân tộc) có độ chênh lớn so với số liệu nhà

trường cung cấp.

15

Trong quá trình phát phiếu điều tra, chúng tôi cũng không được tiếp cận với

học sinh để chọn mẫu theo dụng ý riêng mà phải thông qua giáo viên chủ nhiệm. Do

đó, không loại trừ trường hợp có sự định hướng trong phương án trả lời của học

sinh. Chúng tôi vì thế đánh giá cao hình thức phỏng vấn sâu, trong đó người phỏng

vấn tự ghi chép để gợi ý và khai thác thêm thông tin.

Mẫu nghiên cứu của đề tài là học sinh trường giáo dưỡng số 2 trong độ tuổi

từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi, đang được quản lý, nuôi dưỡng, giáo dục và đào tạo nghề

tại trường.

Cụ thể:

Theo giới tính: 153 em nam và 11 em nữ

Theo độ tuổi: 12 đến dưới 14 tuổi là 4 em, 14 đến dưới 16 tuổi là 45 em, 16

đến dưới 18 tuổi là 115 em.

Theo hành vi phạm tội: 135 em phạm tội trộm cắp, 16 em phạm tội gây rối

trật tự công cộng, 3 em phạm tội giết người, 4 em phạm tội cố ý gây thương tích, 4

em phạm tội cướp của, 2 em phạm tội hiếp dâm.

Chúng tôi không sử dụng bảng hỏi đối với giáo viên mà chỉ dùng phương

pháp phỏng vấn sâu.

7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu

Nhằm thu thập những thông tin cụ thể về vai trò của đối tượng được giáo dục

pháp luật (học sinh) và chủ thể làm công tác giáo dục pháp luật (thầy cô giáo, cán

bộ tư vấn, cán bộ giáo vụ hồ sơ), những khó khăn gặp phải trong quá trình giáo dục

pháp luật và nguyện vọng của học sinh cũng như giáo viên về nội dung và hình thức

giáo dục pháp luật ở trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình. Phương pháp này góp phần

bổ sung vào sự chính xác, đầy đủ và sâu sắc trong việc phân tích những số liệu đã

khảo sát. Chúng tôi đã thực hiện 14 phỏng vấn sâu cho 10 học sinh và 4 giáo viên

của trường.

16

8. Khung lý thuyết

ĐIỀU KIỆN KINH TẾ

XÃ HỘI

Nhân tố khách quan:

Nhân tố chủ quan:

- Nhóm đồng đẳng

- Đặc điểm của giáo viên

- Gia đình

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG SỐ 2 NINH BÌNH HIỆN NAY

Đặc điểm của học sinh

Mục đích GDPL

Nội dung và phương pháp GDPL

17

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Khái niệm công cụ

1.1.1. Giáo dục pháp luật

Theo tác giả Nguyễn Đình Đặng Lục “Pháp luật là hệ thống các quy phạm

(quy tắc hành vi hay quy tắc xử sự) có tính chất bắt buộc chung do nhà nước ban

hành, thể hiện ý chí của nhà nước và được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các

biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước và được

thực hiện lâu dài nhằm điều chỉnh các quan hệ đó.[16, tr.138].

Ở Việt Nam hiện nay Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng nền kinh tế thị

trường dịnh hướng xã hội chủ nghĩa do đó hệ thống pháp luật được xây dựng trên

cơ sở định hướng này. Pháp luật xã hội chủ nghĩa phản ánh ý chí của tuyệt đại đa số

nhân dân lao động hướng tới sự công bằng tự do và bình đẳng giữa mọi thành viên

trong xã hội, là phương tiện để mọi công dân thực hiện quyền làm chủ của mình, là

phương tiện hữu hiệu để mọi công dân được tham gia vào quá trình quản lý xã hội

của nhà nước. Để thực thi quyền lực của nhân dân trên thực tiễn, nhà nước phải đảm

bảo bằng các chế tài cụ thể, bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, và

cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước. Mọi hành vi làm trái pháp luật đều phải bị xử lý

bằng nhiều biện pháp khác nhau theo quy định của pháp luật.

Giáo dục pháp luật là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng

trong khoa học giáo dục cũng như trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta. Do đó có

nhiều quan điểm khác nhau về giáo dục pháp luật.

Quan niệm thứ nhất cho rằng giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục

chính trị, tư tưởng, đạo đức. Theo quan niệm này khi tiến hành giáo dục chính trị tư

tưởng, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng cho nhân dân thì mặc nhiên

tự nó sẽ hình thành nên ý thức pháp luật. Điều đó có nghĩa rằng làm tốt công tác

giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức sẽ dần đạt được sự tôn trọng pháp luật

của công dân. Hay nói cách khác, sự hình thành ý thức pháp luật là hệ quả tất yếu

của việc giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục đạo đức.

Nhận định trên thể hiện rằng, việc hình thành nên ý thức pháp luật của con

người được xem như là sản phẩm tất yếu của quá trình giáo dục chính trị tư tưởng

18

và giáo dục đạo đức. Quan niệm như trên đã coi nhẹ giáo dục pháp luật, không đặt

giáo dục pháp luật như một hoạt động độc lập. Chính quan niệm này trong thực tiễn

đã gây ra hậu quả tai hại kéo dài trong nhiều năm là ở nước ta không có nội dung,

chương trình giáo dục pháp luật một cách độc lập, pháp luật không đến với người

dân do vậy ý thức chấp hành pháp luật trong xã hội còn thấp. Quan niệm này còn có

nguồn gốc sâu xa từ tư tưởng lấy “ đức trị là gốc” và “một trăm cái lý không bằng

một tý cái tình” của xã hội phong kiến còn rơi rớt lại.

Quan điểm thứ hai lại xem giáo dục pháp luật chỉ đơn thuần là hoạt động phổ

biến, tuyên truyền, giải thích pháp luật thông qua các phương tiện truyền thông đại

chúng như đài phát thanh, truyền hình và sách báo. Quan niệm này coi giáo dục

pháp luật thực chất là những đợt tuyên truyền, cổ động không mang tính thường

xuyên, liên tục với nội dung, chương trình cụ thể mà theo mùa vụ, gắn với các văn

bản pháp luật mới được ban hành. Ví dụ: khi sửa đổi Hiến pháp, sửa đổi bổ sung Bộ

luật Hình sự, Bộ luật Dân sự ... thì tổ chức tuyên truyền theo đợt. Quan niệm giáo

dục pháp luật như vậy là phiến diện, thiếu đồng bộ và không liên tục, mang tính

chất phong trào dẫn đến hiệu quả giáo dục không cao.

Quan niệm thứ ba cho rằng giáo dục pháp luật là lấy "trừng trị" để giáo dục

người vi phạm và răn đe giáo dục người khác. Thông qua việc xử lý những hành vi

vi phạm pháp luật như áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, xử phạt vi phạm

hành chính hay áp dụng các chế độ trách nhiệm dân sự sẽ có tác dụng giáo dục pháp

luật cho mọi người mà không cần phải tuyên truyền hay giải thích pháp luật.

Quan niệm thứ tư lại đồng nghĩa giáo dục pháp luật với dạy và học pháp luật

ở các trường học, còn việc tuyên truyền phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội thì không

phải là giáo dục pháp luật. Quan niệm đó đã hạ thấp vai trò, vị trí xã hội của giáo

dục pháp luật.

Tất cả các quan niệm trên, mặc dù đều có sự nhìn nhận giáo dục pháp luật ở

những khía cạnh và mức độ khác nhau, đều có những yếu tố hợp lý nhất định song

đều bộc lộ ít nhiều sự phiến diện, hoặc đơn giản đến mức tầm thường hóa vai trò

của giáo dục pháp luật, chưa thấy được đặc thù và giá trị vốn có của giáo dục pháp

luật. Các quan niệm trên đây đã không tạo ra khả năng mà có thể còn cản trở việc

19

triển khai hoạt động có tổ chức giáo dục pháp luật, cũng như việc thực hiện pháp

luật; làm cho hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong thực tế không cao.

Vì vậy chúng tôi đồng tình với quan niệm của tác giả Nguyễn Đình Đặng

Lục về giáo dục pháp luật: “Giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có tổ chức

theo một hệ thống và có mục đích rõ rệt lên mỗi thành viên của xã hội, nhằm hình

thành một cách bền vững ý thức pháp luật và những thói quen tích cực trong mọi

hành vi xử thế của con người trong đời sống xã hội”. [16, tr.144]

1.1.2. Học sinh trường giáo dưỡng

Học sinh trường giáo dưỡng là những người chưa thành niên có những hành

vi vi phạm pháp luật được đưa vào trường giáo dưỡng để quản lý, nuôi dưỡng,

chăm sóc, giáo dục văn hoá, dạy nghề, tạo cơ hội cho các em sửa chữa sai phạm, tái

hòa nhập cộng đồng trở thành những công dân có ích cho xã hội.

Các em vi phạm pháp luật vì những nguyên nhân khác nhau trong đó việc

thiếu hiểu biết về pháp luật là một trong những nguyên nhân căn bản. Những em

này phần lớn không biết hành vi của mình là trái pháp luật, số khác lại không thừa

nhận tội lỗi, có hành vi chống đối, không chấp hành quyết định của cơ quan chức

năng. Vì vậy, giáo dục pháp luật cho các em là hoạt động rất cần thiết và có vị trí

quan trọng đối với học sinh trường giáo dưỡng.

Điều 92 Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 và khoản 2 Điều

16 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định người

chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật được đưa vào trường giáo dưỡng

trong thời hạn từ sáu tháng đến hai năm để học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp,

học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường. Những

người này được gọi là học sinh trường giáo dưỡng.

Về độ tuổi, học sinh trường giáo dưỡng bao gồm:

-Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một

tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự.

- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu tội

phạm rất nghiêm trọng do lỗi vô ý quy định tại Bộ luật Hình sự (Pháp lệnh xử lý vi

phạm hành chính quy định độ tuổi thấp hơn, từ đủ 12 tuổi).

20

-Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một

tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự mà trước đó đã bị áp

dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh xử lý vi phạm hành

chính quy định độ tuổi thấp hơn, từ đủ 12 tuổi).

- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã ít nhất 2 lần bị xử phạt vi phạm

hành chính về các hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng

trong 06 tháng và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

So với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008 (đã sửa đổi), thì Luật

xử lý vi phạm hành chính năm 2013 chỉ áp dụng biện pháp này đối với người từ đủ

12 tuổi đến dưới 14 tuổi có hành vi “có dấu hiệu của tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng” thay vì “có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng”. Bên cạnh đó, khoản 4

Điều 92 Luật xử lý vi pham hành chính cũng quy định cụ thể mức độ vi phạm

“nhiều lần” là “02 lần trở lên trong 06 tháng” và Điều 16 Nghị định số 81/2013/NĐ-

CP đã chi tiết mức độ vi phạm là “đã ít nhất 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính

về các hành vi vi phạm trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng trong

06 tháng”.

Một điểm thay đổi quan trọng là đối tượng bị áp dụng đưa vào trường giáo

dưỡng trong Luật xử lý vi phạm hành chính không bao gồm người chưa thành niên

bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú

nhất định. Quy định này là một điểm tiến bộ lớn, thể hiện chính sách nhân đạo đối

với trẻ em, bảo đảm quyền thực hiện nguyên tắc “không phân biệt đối xử” trong

Công ước Quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên [40, tr.2].

Bên cạnh đó, có một phần nhỏ các em bị đưa vào trường giáo dưỡng theo

biện pháp tư pháp thay vì biện pháp xử lý hành chính. Đưa vào trường giáo dưỡng

bằng biện pháp tư pháp được quy định trong Bộ luật Hình sự, do Tòa án quyết định,

áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, nếu

thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ, nhưng do tính chất đặc biệt

nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó

mà cần phải đưa người đó vào trường giáo dưỡng.

Như vậy, học sinh trường giáo dưỡng là những người tuổi từ đủ 12 tuổi đến

dưới 18 tuổi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc phạm tội, được đưa vào trường

21

giáo dưỡng để quản lý, học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề, lao động,

sinh hoạt dưới sự quản lý của nhà trường nhằm giúp các em sửa chữa sai phạm, tái

hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội.

1.1.3. Giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng

Giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng là hoạt động của cán bộ

trường giáo dưỡng (giáo viên chủ nhiệm, giáo viên dạy văn hóa) nhằm xóa bỏ

những tư tưởng, tình cảm, thói quen, hành vi pháp luật xấu ở các em, xây dựng

những nhận thức tư tưởng đúng đắn, thói quen, phẩm chất tâm lý tích cực, giúp các

em phát triển bình thường cả về mặt đức, trí, thể, mỹ.

Hoạt động giáo dục pháp luật đối với học sinh là quá trình lâu dài, được tiến

hành từ khi các em bắt đầu vào trường cho đến khi chấp hành xong biện pháp đưa

vào trường giáo dưỡng trở về với cuộc sống cộng đồng xã hội. Giáo dục pháp luật

cho học sinh là quá trình cán bộ bằng cách cung cấp cho học sinh các quy định của

pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân trong các lĩnh vực như lao động, sở

hữu tài sản, hôn nhân, tôn trọng và bảo vệ tài sản nhà nước, bảo vệ môi trường và

tài nguyên thiên nhiên…. giúp các em tự nhận thức được những sai phạm của mình.

Bên cạnh đó, các em còn được học tập và rèn luyện theo nội quy và nếp sống quân

sự hóa. Tất cả những nội dung này đều rất thiết thực và gắn chặt với cuộc sống của

các em. Bằng nhiều hình thức giáo dục từ dạy học trên lớp, tư vấn cá nhân, tổ chức

các hoạt động ngoại khóa đến các hình thức khen thưởng, kỷ luật, hoạt động giáo

dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng nhằm phát triển cho học sinh những

năng lực cần thiết giúp các em sửa chữa những sai lầm trong quá khứ, có nhận thức

đúng đắn về pháp luật, thấy rõ trách nhiệm của bản thân đối với gia đình cũng như

xã hội, rèn luyện thói quen tự giác lao động, học tập chấp hành nghiêm chỉnh nội

quy của nhà trường, từ bỏ những hành vi trái pháp luật, trở thành những công dân

lương thiện, có ích cho xã hội.

Tóm lại, giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng là quá trình tổ

chức các hoạt động của nhà trường tác động đến học sinh để hình thành nhận thức,

tình cảm, thói quen pháp luật đúng đắn và giúp các em khi ra trường trở thành

người lương thiện, có ích cho xã hội

1.2. Lý thuyết áp dụng

22

1.2.1. Lý thuyết xã hội hóa

Có nhiều định nghĩa khác nhau về xã hội hoá nhưng chúng tôi tiếp cận định

nghĩa xã hội hoá của nhà khoa học người Mỹ Joseph H.Ficher” Xã hội hoá là một

quá trình tương tác người này với người khác, kết quả là một sự chấp nhận khuôn

mẫu hành động và thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó” [5, tr. 258].

Theo nhà xã hội học Nga G.Andreeva thì”Xã hội hoá là quá trình hai mặt:

một mặt, cá nhân tiếp tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi

trường xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội. Mặt khác các cá nhân tái sản xuất

một cách chủ động hệ thống các mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham

gia vào hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội [5, tr. 259]

Với cách tiếp cận của các lý thuyết này, xã hội hoá là một quá trình diễn ra

không ngừng nghỉ trong suốt cuộc đời con người từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời.

Quá trình này diễn ra không chỉ là sự tác động một chiều giữa cá nhân với mối quan

hệ xã hội bên ngoài (cá nhân khác và với xã hội - mà chúng tôi tạm gọi là ngoại

cảnh) với kết quả là cá nhân đó chấp nhận và thích nghi với khuôn mẫu của ngoại

cảnh mà quan trọng hơn là cá nhân đó còn tham gia, thâm nhập vào ngoại cảnh, chủ

động tái tạo ra các hệ thống các mối qua hệ xã hội, tác động vào ngoại cảnh và

trong chứng mực nào đó có thể và có tác động vào ngoại cảnh theo những chiều

hướng khác nhau.

Trẻ em với đặc trưng mang tính sinh học của tuổi tác, cũng như những đặc

điểm tâm lý do hoàn cảnh sống và môi trường giáo dục mà mỗi giai đoạn cuộc đời

có những đặc điểm và đòi hỏi riêng của quá trình xã hội hoá. Ở giai đoạn này các

em không chỉ tiếp thu những khuôn mẫu có sẵn mà trong chừng mực nhất định còn

tái tạo ra những khuôn mẫu cho phù hợp với vai trò của mình. Trong giai đoạn này

những tác nhân quan trọng tham gia vào quá trình xã hội hoá là gia đình, nhà trường

và tổ chức xã hội, trong đó gia đình và xã hội là hai nhân tố quan trọng nhất tham

gia vào việc hình thành nhân cách cũng như những hành vi ứng xử của các em.

Đối với trẻ em vi phạm pháp luật đưa vào trường giáo dưỡng thì môi trường

nhà trường có tác động rất lớn tới nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử của các em.

Những em học sinh vào trường từ nhận thức tới hành động đã hình thành sẵn những

khuôn mẫu lệch chuẩn do đã có những hành vi vi phạm pháp luật ngoài xã hội. Vì

23

vậy quá trình xã hội hoá hoạt động giáo dục pháp luật cần có những tác động của

nhà trường để xoá bỏ những khuôn mẫu lệch chuẩn đó bằng các hoạt động từ phía

nhà trường với tính cách là những nhà quản lý, từ phía thầy cô với tính cách là các

nhà giáo dục. Bên cạnh đó, để các em nhận được những giá trị chân, thiện, mỹ đúng

đắn theo chuẩn mực xã hội đòi hỏi không thể không bàn đến những ảnh hưởng của

nhóm đồng đẳng và gia đình tới hiệu quả của hoạt động giáo dục pháp luật. Sự tác

động này được hình thành bởi sự làm gương của thầy cô, của sự tác động bởi sự tiến

bộ của bạn bè đồng lứa, sự động viên khích lệ của gia đình.

Lý thuyết xã hội hóa sẽ được vận dụng trong luận văn nhằm phân tích và lý

giải những tác động của nhóm giáo viên, nhóm đồng đẳng và gia đình tới nhận thức

và hành động của học sinh- đối tượng thụ hưởng hoạt động giáo dục pháp luật đang

được thực hiện ở trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.

1.2.2. Lý thuyết cấu trúc chức năng

Lịch sử của thuyết này gắn liền với nhiều tên tuổi các nhà xã hội học như

Auguste Comte, Herbert Spencer, Emile Durkheim, Talcott Parsons, Robert

Merton… Trong quá trình phát triển, các tác giả của lý thuyết này có nhiều cách

tiếp cận và hướng nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều thống nhất cho rằng một

chỉnh thể được cấu thành nên từ nhiều bộ phận khác nhau và các bộ phận này có

mối quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi bộ phận đóng một chức năng nhất

định, góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thế đó với tư cách là một cấu trúc

tương đối ổn định, bền vững.

Nguồn gốc lý luận của thuyết cấu trúc chức năng là: thứ nhất, truyền thống

khoa học của xã hội Pháp, coi trọng sự ổn định, trật tự của hệ thống với các bộ phận

có quan hệ chức năng- hữu cơ với chỉnh thể hệ thống; và thứ hai, truyền thống khoa

học Anh với thuyết tiến hóa, thuyết kinh tế, thuyết vị lợi, thuyết hữu cơ phát triển

mạnh. Từ hai truyền thống này đã nảy sinh những ý tưởng khoa học về xã hội như

là một sinh thể hữu cơ đặc biệt với hệ thống bao gồm các thành phần có những chức

năng nhất định tạo thành cấu trúc ổn định.[38, tr.218]

Các luận điểm gốc của thuyết cấu trúc- chức năng đều nhấn mạnh tính cân

bằng, ổn định và khả năng thích nghi của cấu trúc. Thuyết này cho rằng một xã hội

tồn tại, phát triển được là do các bộ phận cấu thành của nó hoạt động nhịp nhàng với

24

nhau để đảm bảo sự cân bằng chung của cả cấu trúc; bất kì một sự thay đổi nào ở

thành phần nào cũng kéo theo sự thay đổi ở các thành phần khác nhau.[38, tr.222]

Nói cách khác, sự phát triển hay diệt vong của bất kì một thành tố, bộ phận nào cũng

tạo nên những ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực lên các thành tố, bộ phận khác cũng

như cả hệ thống xã hội nói chung. Như vậy, muốn xã hội bền vững, ổn định và phát

triển thì các bộ phận cấu thành nên nó phải thực hiện trọn vẹn chức năng của mình.

Trường giáo dưỡng có nhiệm vụ quản lý, giáo dục đạo đức, pháp luật, văn

hóa, dạy nghề, giáo dục hướng nghiệp và tổ chức lao động cho học sinh phù hợp

với lứa tuổi, nhằm giúp họ học tập, rèn luyện tiến bộ, phát triển lành mạnh về thể

chất, tinh thần, trí tuệ để trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, có khả năng

hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong biện pháp giáo dưỡng. [18, tr.3] Như

vậy, ngoài chức năng quản lý, nuôi dưỡng học sinh, ngăn giữ tạm thời những hành

vi xấu của các em có thể ảnh hưởng đến xã hội thì trường giáo dưỡng còn thực hiện

một chức năng rất quan trọng là giáo dục các em về văn hóa, pháp luật, nghề nghiệp

để các em có thể phát triển lành mạnh về thể chất lẫn tinh thần, trở thành người

lương thiện và có khả năng tái hòa nhập xã hội. Ở đây, trường giáo dưỡng đang

thực hiện đồng thời hai chức năng, nó vừa đóng vai trò là một ngôi trường bình

thường, cung cấp kiến thức cho học sinh, lại vừa là một ngôi trường đặc biệt dành

riêng cho các em có hành vi vi phạm pháp luật.

Mặt khác, trường giáo dưỡng không chỉ là môi trường giáo dục đơn thuần mà

nó còn là một bộ phận cấu thành xã hội, gắn liền với công tác đảm bảo an ninh trật

tự quốc gia. Rõ ràng, việc trường giáo dưỡng thực hiện tốt chức năng của mình hay

không sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự ổn định và phát triển của xã hội.

Trong phạm vi luận văn của mình, tôi không dành nhiều thời lượng để đánh

giá chức năng thứ nhất mà chỉ nhấn mạnh chức năng thứ hai của trường giáo

dưỡng- chức năng giáo dục lại, mà cụ thể là giáo dục pháp luật cho học sinh. Vậy

trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình đã thực hiện chức năng giáo dục pháp luật của

mình như thế nào, đạt hiệu quả ra sao, còn những vấn đề bất cập nào trong hoạt

động đó không? Lý thuyết cấu trúc chức năng sẽ được vận dụng để đánh giá vai trò

của trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình trong việc giáo dục pháp luật cho học sinh

và trả lời những câu hỏi trên.

25

1.3. Những quy định pháp lý về quyền trẻ em và đối tƣợng phải quản lý,

giáo dục ở trƣờng giáo dƣỡng.

Là đối tượng chưa trưởng thành, tâm, sinh lý có nhiều biến đổi và có thể có

những hành động gây nguy hiểm cho xã hội mà chưa ý thức đầy đủ về hành động

đó, Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em đã có những quy định để bảo vệ

quyền trẻ em. Điều 37 liên quan đến trẻ em làm trái pháp luật được quy định trong

Công ước về Quyền trẻ em như sau:

Các quốc gia sẽ đảm bảo rằng:

a. Không có trẻ em nào chịu tra tấn, đối xử và trừng phạt tàn bạo, vô nhân

đạo hay làm mất phẩm giá. Sẽ không áp dụng án tử hình hoặc tù chung thân mà

không có khả năng phóng thích với những hành động phạm pháp do những người

dưới 18 tuổi gây ra:

b. Không có trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp pháp hoặc tùy

tiện. Sự bắt bớ, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em phải được tiến hành theo luật pháp và chỉ

được dùng đến như một biện pháp cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất;

c. Mọi trẻ em bị tước quyền tự do sẽ được đối xử nhân đạo và với sự tôn

trọng phẩm giá cố hữu của con người, theo một cách có tính đến những nhu cầu của

những người ở lứa tuổi của các em. Đặc biệt, mọi trẻ em bị tước quyền tự do sẽ

được cách ly với những người đã ở tuổi trưởng thành, trừ trường hợp không làm

như vậy là vì những lợi ích tốt nhất cho các em, và các em sẽ có quyền duy trì sự

tiếp xúc với gia đình của mình qua thư từ và các cuộc viếng thăm, trừ những trường

hợp ngoại lệ;

d.Tất cả mọi trẻ em bị tước đoạt tự do sẽ có quyền đòi hỏi được nhanh chóng

hưởng sự giúp đỡ thích đáng về pháp lý và những sự giúp đỡ khác, cũng như quyền

chất vấn tính chất hợp pháp của việc bị tước quyền tự do của các em trước một tòa

án hay một cơ quan khác có thẩm quyền, độc lập và vô tư, và quyền đòi một quyết

định nhanh chóng về bất kì hành động nào như vậy.

Kế thừa tính chất nhân đạo của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em,

những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về học sinh trường giáo

dưỡng cũng như việc giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng có những

quy định rõ ràng và mang tính ưu việt, nhân văn.

26

Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên

phạm tội. Đó là quan điểm nhân đạo trong xử vi vi phạm pháp luật của trẻ em vi

thành niên của Đảng và Nhà nước ta.

Điều 69 Bộ luật Hình sự quy định nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành

niên phạm tội như sau:

1.Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp

đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã

hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa

thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức

của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và

điều kiện gây ra tội phạm.

2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu

người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều

tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.

3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp

dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn

cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu

của việc phòng ngừa tội phạm.

4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người

chưa thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được

quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự

5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên

phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành niên phạm tội

được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội

tương ứng.

Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ

tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.

6. Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi,

thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.[21, tr 52-54]

27

Như vậy đối với trẻ em từ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi mắc các lỗi vi phạm thì

tuỳ theo mức độ nặng, nhẹ mà có thể dùng các biện pháp giáo dục tại gia đình, cộng

đồng, phường, xã, nhà trường hoặc đưa vào trường giáo dưỡng để tập trung quản lý

giáo dục lấy giáo dục là chủ yếu, dùng hình phạt chỉ nhằm giúp các em nhận thức rõ

lỗi lầm để có thái độ cải tạo cho đúng đắn, tích cực. Đó chính là thấm nhuần quan

điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quan điểm “ trồng người”. Trẻ em là tương lai

của dân tộc do đó các em có những hành vi vi phạm pháp luật cần phải được xã hội

nhìn nhận với thái độ khoan dung, rộng mở, tạo điều kiện cho cho các em sửa chữa

sai lầm, hướng thiện để sau này trở thành những công dân lương thiện.

Song song với hoạt động giáo dục pháp luật bằng các chế tài xử phạt phù

hợp lứa tuổi, Nhà nước ta cũng dành nhiều quan tâm tới việc tuyên truyền, giáo dục

pháp luật trong các trường học nhằm ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật của

học sinh ngay từ cơ sở. Quyết định số 1928/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà

trường” với mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật trong nhà trường, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn

trọng pháp luật và hành vi chấp hành pháp luật của nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở

giáo dục và người học, góp phần ổn định môi trường giáo dục, nâng cao chất lượng

giáo dục toàn diện. Trong thực tế, đề án này đã được triển khai trong thực tế và có

những kết quả nhất định. Tuy nhiên, đề án này còn điểm thiếu sót khi chưa đề cập

đến nhóm học sinh đặc thù là học sinh trường giáo dưỡng.

1.4. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

Là một trong bốn trường giáo dục thanh thiếu niên vi phạm pháp luật của Bộ

Công an hiện nay, trường Giáo dưỡng số 2 Ninh Bình có tiền thân là trường phổ

thông Công nông nghiệp số 2, được thành lập ngày 2/6/1968 tại xã Phong Hải

huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai.

Mô hình trường các trường phổ thông công nông nghiệp được thành lập thay

thế các trường Kim Đồng do Bộ Giáo dục quản lý, căn cứ vào Quyết định

217/TTG-NC ngày 18/12/1967 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số

948/QĐ-BCA ngày 20/12/1967 của Bộ trưởng Bộ Công an. Nhiệm vụ của các

trường này là “giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức cách mạng, kết hợp với dạy

28

văn hoá và dạy nghề nhằm cải biến những thiếu niên hư trở thành những thanh niên

tốt, thiếu niên tốt, tiến bộ toàn diện, có đạo đức tốt, có trình độ văn hoá, ưa thích

lao động và có nghề nghiệp”.

Sau 12 năm thành lập năm 1980 trường được chuyển về xã Mai Sơn, huyện

Tam Điệp tỉnh Hà Nam Ninh (nay là huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình). Ngày

26/4/1996 trường Công nông nghiệp số 2 chính thức đổi tên thành Trường giáo

dưỡng số 2 Ninh Bình. Trường giáo dưỡng số 2 trực thuộc cục V26 (Cục Quản lý

giáo dục và cải tạo phạm nhân- Bộ Công an) nay là Tổng cục VIII- Bộ Công an.

Trải qua 46 năm xây dựng và trưởng thành, gắn liền với những giai doạn cực

kỳ khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến chổng Mỹ cứu nước của toàn dân tộc

nhưng với sự nỗ lực vượt bậc của các thế hệ giáo viên nhà trường cùng với sự quan

tâm của Đảng, Nhà nước, bộ Công an, các cấp chính quyền, tổ chức đoàn thể, gia

đình và các tổ chức quốc tế TGD số 2 đã trở thành điểm sáng trong các trường giáo

dưỡng của cả nước, là mô hình giáo dục hiệu quả được xã hội đánh giá cao.

Nằm trên diện tích 27 ha thuộc diện đất an ninh quốc phòng, trường giáo

dưỡng số 2 có khuôn viên đẹp với các khu: nhà ở học sinh, nhà ăn, khu học văn hoá,

trạm xá, các khu vui chơi, các trang thiết bị ti vi, tủ, quạt, giá sách… đã tạo điều

kiện cho cán bộ chiến sỹ và học sinh thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà trường bao gồm 175 cán bộ chiến sỹ (129 nam,

46 nữ) gồm có Ban Giám hiệu 03 đồng chí (01 hiệu trưởng và 02 hiệu phó) 07 đội,

mỗi đội có 01 đội trưởng, 01 đội phó giúp việc cho Ban Giám hiệu.

Các đội chuyên môn bao gồm:

1. Đội Tổng hợp (bao gồm cả tham mưu, chính trị, thông tin, cơ yếu) có trách

nhiệm tham mưu giúp Đảng ủy và hiệu trưởng tổng hợp tình hình liên quan đến

công tác quản lý, giáo dục học sinh; công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng;

Xây dựng nghị quyết, chương trình, kế hoạch công tác của Đảng ủy và Ban lãnh

đạo đơn vị trên cơ sở chương trình công tác của Đảng ủy, lãnh đạo Cục V26. Theo

dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện nhiệm vụ của các đội theo đúng đường lối,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Bộ Công an và Cục

V26.

29

2. Đội Giáo vụ hồ sơ học sinh có chức năng tham mưu giúp HIệu trưởng

trường giáo dưỡng về quản lý, tổ chức thực hiện các nội dung, chương trình công

tác quản lý, giáo dục, tư vấn, hoạt động giáo dục bổ trợ khác và thực hiện chế độ

chính sách đối với học sinh theo quy định của pháp luật; kiểm tra, giám sát, đánh

giá tình hình, kết quả thực hiện nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác quản lý, giáo dục toàn diện học sinh ở trường giáo dưỡng.

3. Đội giáo viên chủ nhiệm có chức năng tham mưu, giúp Hiệu trưởng

trường giáo dưỡng theo dõi, quản lý các hoạt động của học sinh. Tổ chức, duy trì

việc quản lý, giáo dục, sinh hoạt, học tập, rèn luyện, lao động và xây dựng, phát

triển các tập thể đội học sinh ổn định, vững mạnh, đoàn kết, trật tự, nề nếp và có

môi trường giáo dục tích cực; không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả công tác

bảo vệ, chăm sóc và giáo dục học sinh trường giáo dưỡng theo đúng đường lối

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Bộ Công an và hướng

dẫn của Cục V26.

4. Đội giáo viên văn hoá có nhiệm vụ tham mưu giúp hiệu trưởng trường

giáo dưỡng quản lý và tổ chức, thực hiện công tác chủ nhiệm lớp, dạy và học văn

hóa, các chương trình giáo dục khác; trang bị kiến thức, hiểu biết về tự nhiên, xã hội

và con người cho học sinh, giúp các em phát triển hệ thống tri thức, hiểu biết về tự

nhiên, xã hội và con người cho học sinh, giúp các em phát triển hệ thống tri thức,

năng lực tư duy, định hướng phát triển đạo đức, nhân cách và rèn luyện thói quen,

hành vi tích cực theo đúng chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật

của Nhà nước, quy định của Bộ Giáo dục đào tạo, của Bộ Công an và hướng dẫn

của Cục V26.

5. Đội kế hoạch sản xuất, xây dựng, hướng nghiệp, dạy nghề có trách nhiệm

tham mưu giúp hiệu trưởng trường giáo dưỡng về quản lý, chỉ đạo công tác kế

hoạch sản xuất, xây dựng, hướng nghiệp và dạy nghề cho học sinh theo quy định

của pháp luật, chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Công a và Cục V26.

6. Đội tài vụ hậu cần có nhiệm vụ tham mưu giúp hiệu trưởng trường giáo

dưỡng về quản lý, chỉ đạo công tác tài vụ- hậu cần, nhằm thực hiện tốt chế độ chính

sách cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên và các đối tượng học sinh thuộc đơn vị

mình quản lý.

30

7. Trung đội Cảnh sát bảo vệ có trách nhiệm trực tiếp tổ chức canh gác 24/24

giờ, tuần tra, kiểm soát bảo vệ trường giáo dưỡng, cưỡng chế và đưa dẫn học sinh

chấp hành quy định của pháp luật, nội quy trường giáo dưỡng.

Trên cơ sở các nhiệm vụ lớn của nhà trường như quản lý hồ sơ, quản lý học

sinh, dạy văn hoá, dạy nghề, hậu cần, sản xuất… nhà trường đã biên chế tổ chức

theo các đội và theo đó thực hiện các chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận. Trong

hoạt động giáo dục pháp luật ở trường, các cán bộ, giáo viên của đội giáo viên văn

hóa, đội giáo viên chủ nhiệm và đội giáo vụ hồ sơ là những người có vai trò, trách

nhiệm lớn nhất cũng như có tác động mạnh nhất đến học sinh.

Nhiệm vụ chủ yếu của thầy cô là quản lý học sinh trong thời gian ở trường

tuân thủ nội quy, xây dựng nếp sống trật tự theo quy định của nhà trường, dạy văn

hoá, giáo dục công dân, giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề, tổ chức lao động phù

hợp với độ tuổi… rèn luyện cho các em phát triển toàn diện cả thể chất và tinh thần,

nhận thức rõ sai lầm, phấn đấu tiển bộ sau khi ra trường trở thành công dân lương

thiện. Nói ngắn gọn nhà trường làm nhiệm vụ nuôi và dạy các em sao cho đầu vào

là trẻ em hư, đầu ra là trẻ em ngoan, công dân có ích cho xã hội.

Về đối tượng học sinh, trường có quy mô trung bình khoảng 700-800 học

sinh/ năm, tuy nhiên trong 2 năm trở lại đây do sự thay đổi về chính sách nên số

lượng học sinh vào trường có sự sụt giảm đột ngột. Độ tuổi các em từ 12 đến dưới

18 tuổi, vi phạm các lỗi (trộm cắp, gây rối trật tự công công, cố ý gây thương

tích…) bị xử lý hành chính là chủ yếu, được đưa vào trường quản lý, giáo dục.

Tình trạng học sinh vào trường phần đông là đã bỏ học, do vậy các em đều

chậm so với độ tuổi đi học của các bạn cùng trang lứa, cá biệt có em vào trường

mới được học chữ. Là học sinh ở nhiều lứa tuổi khác nhau, được tập trung tại

trường, việc khó tiếp cận, thiếu hụt kiến thức văn hoá và kỹ năng sống là một đặc

điểm nổi bật của học sinh ở trường giáo dưỡng.

Ở trường giáo dưỡng tuỳ vào trình độ văn hoá các em được xếp vào lớp khác

nhau và được học văn hoá từ lớp 1 đến lớp 9, các em vào trường đã học xong lớp 9

thì chỉ được học nghề. Nhà trường kết hợp với Sở giáo dục Ninh Bình tổ chức cho

các em thi tốt nghiệp trung học cơ sở và cấp chứng chỉ tốt nghiệp cho các em.

31

Hàng năm trường ký kết với trường Cao đẳng dạy nghề Tam Điệp và tổ chức

Plan Viêt Nam, tổ chức dạy nghề cho học sinh với các nghề: cơ khí, xây dựng, mộc,

cắt may, cắt tóc, sửa chữa xe máy, nghiệp vụ bàn bar, tiếp thị và kết hợp với Sở

LĐTB&XH Quảng Ninh đào tạo nghề theo nhu cầu thị trường….

Song song với quá trình dạy văn hoá, để giúp các em nhận thức và sửa chữa

lỗi lầm trong quá khứ một cách tích cực, xoá bỏ dần tư tưởng tự ty, mặc cảm về bản

thân, các em còn được học môn giáo dục công dân, Nội dung giáo dục công dân bao

gồm dạy đạo đức, pháp luật, dạy kỹ năng sống, giúp các em hình thành lối sống

lành mạnh phù hợp với chuẩn mực đạo đức pháp luật của xã hội, rèn luyện những

kỹ năng hành vi ứng xử phù hợp để chuẩn bị cho các em tái hoà nhập cộng đồng.

Từ năm 2008 đến tháng 2/2012 Chính phủ có dự kiến chủ trương chuyển

công tác quản lý các trường Giáo dưỡng từ Bộ Công an sang Bộ Lao động Thương

binh và Xã hội. Dự kiến này đã tác động sâu sắc đến hoạt động của nhà trường cũng

như tâm tư, tình cảm của cán bộ giáo viên. Hàng loạt cán bộ xin chuyển công tác

khiến đội ngũ cán bộ, giáo viên của trường có một thời kì bị khủng hoảng, các

khoản đầu tư kinh phí bị chững lại là những khó khăn thực tế của các trường giáo

dưỡng nói chung cũng như trường giáo dưỡng số 2 nói riêng trong giai đoạn này.

Tuy nhiên, trên cơ sở xem xét những đặc thù công việc và học sinh, cho đến nay

công việc này vẫn được giao cho Bộ Công an đảm nhiệm. Qua giai đoạn chuyển đổi

này, có thể thấy những thầy cô còn trụ lại với vị trí công tác ở trường giáo dưỡng số

2 Ninh Bình là những người tâm huyết với nghề và yêu thương học sinh.

Từ năm 2014, theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính được Quốc

hội thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012, có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 01 năm

2014 thay thế Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi) số 04/2008/

UBTVQH12, thì việc quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối

với người chưa thành niên vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân

dân cấp huyện, thay cho Chủ tịch UBND cấp huyện như trước kia. Các đối tượng áp

dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đã thu hẹp lại, do chủ trương tăng

cường các biện pháp giáo dục tại địa bàn cơ sở phưỡng, xã, kết hợp giữa chính

quyền cơ sở với các tổ chức xã hội và gia đình để giáo dục các em ngay tại cộng

32

đồng. Sự thay đổi về chính sách, pháp luật đã thay đổi số học sinh vào trường theo

hướng giảm đi.

Ví dụ theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 tại Điều 24 khoán

a thì: Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một

tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật Hình sự

bị đưa vào trường giáo dưỡng. Tuy nhiên theo Luật xử lý vi phạm hành chính năm

2012, tại Điều 92 khoản 1 quy định: Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện

hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ

luật hình sự mới được đưa vào trường giáo dưỡng.

Như vậy theo Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 nếu ở cùng độ tuổi từ

đủ 12 đến dưới 14 tuổi chỉ những em thực hiện hành vi cố ý với tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng mới đưa vào trường giáo dưỡng, còn với tội rất nghiêm trọng vẫn giao

cho gia đình chăm sóc kết hợp với chính quyền và các đoàn thể giáo dục tại cộng

đồng địa phương. Vì vậy số học sinh đưa vào trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình năm

2014 giảm đáng kể so với trước kia. Nếu như năm 2012 trường quản lý 825 học sinh,

năm 2013 có 780 học sinh, đến ngày 31/8/2014 chỉ còn quản lý 394 học sinh.[2, tr.

76], [33]

Sự thay đổi đột biến về số lượng học sinh đầu vào như vậy phần nào cũng tác

động tới các hoạt động giáo dục, dạy nghề của trường. Rõ ràng với việc số lượng các

em giảm một nửa so với các năm trước sẽ là điều kiện cho việc quản lý, giáo dục

cũng như quan tâm tới tâm tư, tình cảm của Nhà trường tới các em được sát sao hơn.

Tóm lại: Trong chương 1, tác giả đã xác định căn cứ khoa học cho đề tài, đặt

nền móng cho việc nghiên cứu ở chương 2 bằng cách nghiên cứu các khái niệm công

cụ: giáo dục, giáo dục pháp luật, học sinh trường giáo dưỡng, giáo dục pháp luật cho

học sinh trường giáo dưỡng, bằng cách các dựa vào cơ sở lý thuyết như lý thuyết xã

hội hoá, lý thuyết cấu trúc chức năng. Đây chính là những căn cứ lý luận làm cơ sở

cho việc nghiên cứu chương tiếp theo.

Đồng thời trong chương 1, tác giả cũng chỉ ra căn cứ pháp lý của những đối

tượng đưa vào trường giáo dưỡng và khái quát một số đặc điểm cơ bản của trường

giáo dưỡng số 2 Ninh Bình. Chương 1 cũng chỉ ra nhiệm vụ chủ yếu của thầy cô là

quản lý học sinh trong thời gian ở trường tuân thủ nội quy, xây dựng nếp sống trật

33

tự theo quy định của nhà trường, dạy văn hoá, giáo dục công dân, giáo dục hướng

nghiệp, dạy nghề, tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi… rèn luyện cho các em

phát triển toàn diện cả thể chất và tinh thần, nhận thức rõ sai lầm, phấn đấu từ một

trẻ chưa ngoan sau khi ra trường không tái phạm, trở thành công dân lương thiện,

có ích cho xã hội.

34

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRƢỜNG GIÁO

DƢỠNG SÔ 2 NINH BÌNH HIỆN NAY

2.1. Đặc điểm của giáo viên và học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình

Là một trường nuôi dạy trẻ em vi phạm pháp luật, trường giáo dưỡng số 2

Ninh Bình có những đặc thù riêng, khác với các trường phổ thông trong hệ thống

giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý. Những đặc thù này tồn tại ở cả giáo

viên và học sinh của trường. Bằng việc phân tích, đánh giá các đặc điểm cụ thể của

hai nhóm đối tượng này sẽ là là điều kiện để xem xét, đánh giá thực trạng giáo dục

pháp luật đang được thực hiện ở đây.

2.1.1 Đặc điểm của giáo viên trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình

Vai trò của giáo viên là một trong những thành tố quan trọng tạo nên chất

lượng giáo dục. Việc phân tích trình độ và đặc điểm của cán bộ, giáo viên trường

giáo dưỡng số 2 Ninh Bình sẽ chứng minh cho điều này.

Thứ nhất, về số lượng cán bộ giáo viên trực tiếp tham gia vào quá trình giáo

dục pháp luật cho học sinh. Trên cơ sở những nhiệm vụ cụ thể của các đội đã được

đề cập trong đặc điểm địa bàn nghiên cứu, có thể thấy cán bộ trong nhà trường có

thể được phân chia theo chức năng, nhiệm vụ thành ba bộ phận chính: Nhóm cán bộ

làm công tác quản lý bao gồm: cán bộ thuộc bộ phận tham mưu tổng hợp, giáo vụ,

giáo viên chủ nhiệm, hậu cần; Nhóm cán bộ làm công tác giáo dục bao gồm: cán bộ

dạy văn hoá, giáo dục công dân, hướng nghiệp, dạy nghề, tổ chức lao động sản

xuất; Ngoài ra còn trung đội cảnh sát bảo vệ làm nhiệm vụ tuần tra canh gác chống

trốn trường, gây rối trật tự trong trường…

Các thầy cô trong trường có khả năng tác động trực tiếp tới các em về tất cả

các mặt hoạt động chính là các thầy cô chủ nhiệm, thầy cô dạy văn hoá, thầy cô làm

công tác giáo vụ (tiếp nhận học sinh, phân loại, bố trí đội, quản lý hồ sơ, tổ chức các

hoạt động giáo dục bổ trợ, làm công tác khen thưởng, kỷ luật).

35

Bảng 2.1: Số lƣợng cán bộ giáo viên làm công tác giáo dục pháp luật

cho học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

Đội giáo viên Nam Nữ Tổng số

Giáo viên chủ nhiệm 21 03 24

Giáo viên văn hóa 09 18 27

Cán bộ giáo vụ, hồ sơ 09 10 19

Nguồn:[33]

Trong số 175 cán bộ chiến sỹ của trường có 70 cán bộ giáo viên tham gia

công tác giáo dục pháp luật cho học sinh, trong đó có 31 nữ, 39 nam. Tuy nhiên,

nhìn vào con số cụ thể trong bảng 1.1 có thể thấy đa số giáo viên chủ nhiệm là nam

giới (21/24 người), trong khi đó 2/3 giáo viên văn hóa là nữ giới (18/27 người).

Điều này là phù hợp với đặc thù trường giáo dưỡng là học sinh nam chiếm hơn

90%, cần nhiều cán bộ giáo viên làm công tác quản lý sinh hoạt là người cùng giới,

còn hoạt động giáo dục cần sự mềm mại, nhẹ nhàng thì nhu cầu nữ giáo viên lại cao hơn.

Thứ hai, về trình độ cán bộ được thể hiện thông qua bảng sau:

Bảng 2.2: Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên

làm công tác giáo dục pháp luật tại trƣờng giáo dƣỡng số 2

Đại học, Cao đẳng

Đội giáo viên Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

Trung cấp

Giáo viên chủ nhiệm 09 15

62,5% 37,5%

Giáo viên văn hóa 00 27

100% 0%

Cán bộ giáo vụ, hồ sơ 09 10

52,6% 47,4%

Nguồn:[33]

Bảng 1.2 cho kết quả trong số 70 cán bộ giáo viên làm công tác giáo dục

pháp luật thì 52 người có trình độ Cao đẳng, Đại học (chiếm 74,3%), 18 người có

trình độ Trung cấp (chiếm 25,7%). Đây là con số đáng mừng, thể hiện sự nỗ lực

phấn đấu trong việc nâng cao trình độ của cán bộ, giáo viên cũng như sự quan tâm

trong hoạt động đào tạo cán bộ của ban lãnh đạo trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.

36

Cụ thể hơn, trong 24 giáo viên chủ nhiệm có 62,5% có trình độ Đại học, Cao

đẳng. Giáo viên chủ nhiệm chủ yếu làm công tác quản lý, giám sát và thông qua đó

giáo dục học sinh, đòi hỏi phải có nghiệp vụ Công an. Chính vì vậy họ chủ yếu xuất

phát từ trường Trung học Cảnh sát nhân dân, trong quá trình làm việc được học tập

nâng cao trình độ tại Học viên Cảnh sát. Hiện nay còn 9 giáo viên do chưa đủ tiêu

chuẩn thâm niên công tác nên chưa được đi học nâng cao trình độ.

Số giáo viên văn hóa với nhiệm vụ dạy các môn văn hóa cho học sinh trường

giáo dưỡng nên đều có nguồn xuất phát các trường Đại học Sư phạm. Do đó 100%

giáo viên văn hóa đều có trình độ Đại học, Cao đẳng. Với trình độ chuyên môn như

vậy, đây sẽ là một chủ thể giáo dục pháp luật có trình độ cao, kỹ năng tốt, mang lại

luồng gió mới cho hoạt động giáo dục pháp luật vốn khô cứng, lại được thực hiện

trong môi trường kỷ luật giống như quân ngũ.

Các cán bộ làm nhiệm vụ giáo vụ, hồ sơ cũng là một chủ thể tham gia rất

nhiều vào hoạt động giáo dục pháp luật tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.

Trong 19 cán bộ giáo vụ hồ sơ, về cơ bản tỷ lệ % số cán bộ có trình độ Cao đẳng,

Đại học và trình độ Trung học không có sự khác biệt lớn (52,6% và 47,4%). Với

các nhiệm vụ cụ thể khác nhau họ có thể xuất phát từ các trường khác nhau như

trường Cảnh sát, Sư phạm, Hành chính… Mặc dù họ không trực tiếp tham gia giảng

dạy pháp luật cho học sinh, nhưng các công tác như tư vấn học sinh, tổ chức các

buổi hoạt động ngoại khóa, phổ biến thông tin pháp luật đều là nhiệm vụ trực tiếp

của cán bộ giáo vụ hồ sơ. Chính vì vậy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của họ cũng

có ảnh hưởng đến hoạt động này.

Trước ba, đội ngũ giáo viên đều là cán bộ thuộc biên chế của lực lượng công

an, mặc sắc phục cảnh sát, hoạt động tuân theo điều lệnh của lực lượng Cảnh sát

nhân dân. Đối với đội ngũ giáo viên, điểm khác biệt ở trường giáo dưỡng số 2 so với

các trường giáo dục phổ thông bình thường ngoài xã hội là các thầy cô đều là những

chiến sỹ công an làm nhiệm vụ quản lý giáo dục học sinh tập trung trong trường.

Trong thời gian này các thầy cô phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về

tình trạng học sinh của trường. Họ không chỉ dạy văn hoá, giáo dục đạo đức, pháp

luật, hướng nghiệp, dạy nghề, tổ chức lao động sản xuất cho các em mà còn phải nuôi

các em, quản lý 24/24h đối với mọi hoạt động của các em. Nếu các em đánh nhau,

37

trốn trường, ốm chết… mà không rõ lý do, họ phải có trách nhiệm pháp lý về vấn đề

này. Vì vậy thầy cô công tác tại trường giáo dưỡng chịu rất nhiều áp lực tâm lý.

Thứ tư, thầy cô giáo có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến tư tưởng, quá trình phấn

đấu của học sinh. Thầy cô giáo trong trường giáo dưỡng không chỉ thuần tuý là

người dạy chữ, dạy nghề mà còn thay mặt cha mẹ các em, nuôi dưỡng các em trong

suốt quá trình học tập rèn luyện, lao động tại trường. Các thầy cô không chỉ truyền

đạt cho các em kiến thức văn hoá, đạo đức, pháp luật, kỹ năng sống… mà còn phải

đi sâu tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, hoàn cảnh, khả năng của các em để thấu hiểu

các em, truyền cho các em cảm hứng sống lành mạnh, lương thiện, xoá bỏ mặc cảm

tội lỗi, tự ty để rèn luyện trở thành người hữu ích, có khả năng tái hoà nhập cộng

đồng, không tái phạm trở lại.

Biểu đồ 2.1 : Mức độ ảnh hƣởng của các nhân tố tới hành vi của học sinh

trƣờng giáo dƣỡng số 2

(Tỷ lệ %)

(Nguồn: Kết quả điều tra)

Biểu đồ 2.1 cho thấy ở trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, học sinh đề cao

nhất vai trò của thầy cô trong việc tác động vào hành vi, thái độ của mình. Các em

dành nhiều sự tin tưởng, chia sẻ cho thầy cô, đặc biệt là các thầy cô làm công tác

chủ nhiệm. “Phòng em có 13 nữ, cùng là số nữ của toàn trường luôn. Chúng em có

cô giáo chủ nhiệm chứ không phải thầy giáo như các bạn nam. Cô rất quan tâm đến

chúng em, từ việc ăn ở, học hành, chuyện gia đình, việc tranh cãi ở trong phòng hay

38

cả chuyện “con gái” chúng em cũng kể cho cô. Cô nói cho chúng em rất nhiều, có

những chuyện mẹ em hay các bạn chẳng bao giờ biết mà nói.” (PVS số 14 , 17 tuổi,

nữ, học sinh)

Thứ năm, đội ngũ cán bộ đang làm công tác giáo dục nói chung và giáo dục

pháp luật nói riêng phần nhiều là giáo viên kiêm nhiệm. Giáo viên dạy giáo dục

công dân đồng thời cũng là giáo viên dạy các môn văn hóa khác như toán, lý, hóa.

Cán bộ giáo vụ hồ sơ cũng kiêm nhiệm tư vấn riêng… Điều này dẫn đến việc các

thầy cô phải chia nhỏ thời gian, công sức cho nhiều lĩnh vực khác nhau, khó có sự

đầu tư về chất lượng trong các hoạt động.

Trên đây là những đặc điểm nổi bật nhất của đội ngũ thầy cô giáo làm nhiệm

vụ quản lý, giáo dục học sinh ở trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình. Những đặc điểm

này cùng với đặc điểm của học sinh, trong môi trường trường giáo dưỡng sẽ tạo nên

những phương pháp giáo dục pháp luật cụ thể.

2.1.2. Đặc điểm của học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình

Tại sao trong cùng một tình huống mà mỗi người lại có hành vi ứng xử khác

nhau? Thực tế, hành vi của mỗi cá nhân luôn là kết quả của nhận thức của chính chủ

thể cũng như những yếu tố khách quan bên ngoài tác động vào họ. Những hành vi

vi phạm pháp luật của học sinh trường giáo dưỡng số 2 cũng không nằm ngoài quy

luật này. Để giải thích cho nguyên nhân của hành vi làm trái pháp luật cũng như có

những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục pháp luật với các em không thể

không bàn đến đặc điểm nhân khẩu học và đặc điểm ý thức pháp luật của nhóm đối

tượng này.

2.1.2.1. Đặc điểm nhân khẩu học

Cũng như học sinh ở các trường giáo dưỡng khác, học sinh trường giáo

dưỡng số 2 Ninh Bình có những đặc điểm nhân khẩu học đặc trưng của người thành

niên vi phạm pháp luật. Điều này được thể hiện thông qua giới tính, độ tuổi, học

vấn, yếu tố gia đình, nhận thức về pháp luật và những hành vi vi phạm pháp luật…

Theo khảo sát của chúng tôi, độ tuổi của học sinh trường giáo dưỡng số 2

phần lớn là trên 16 tuổi (chiếm 70%), tiếp đến là trên 14 tuổi (chiếm 27%) và ít nhất

là nhóm học sinh từ 12 đến 14 tuổi (2,5%). Đặc biệt, kết quả khảo sát còn cho thấy

có 18 em ở độ tuổi 19 (chiếm 11,8%) vì thực tế theo quy định người vị thành niên

39

vi phạm phải vào trường giáo dưỡng là dưới 18 tuổi, nhưng có những em khi nhận

quyết định thi hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đã sát 18 tuổi nên thực tế

trong trường hiện nay vẫn có một số lượng học sinh 19, 20 tuổi. Mặt khác, do phiếu

trưng cầu ý kiến của chúng tôi được phát thông qua giáo viên chủ nhiệm, dành cho

những học sinh biết chữ nên về số liệu thống kê phần nào chưa thể hiện hết được

bức tranh cấu trúc độ tuổi vi phạm của học sinh trường giáo dưỡng số 2.

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu độ tuổi của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

Nhìn vào mô tả ở biểu đồ cho thấy các em ở độ tuổi dưới 14 tuổi có có tỷ lệ

ít nhất (2,5%) là phù hợp với thực tế quy định “Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14

tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý

quy định tại Bộ luật Hình sự” trong Luật Xử lý vi phạm hành chính. Số học sinh

này trong trường không nhiều, các hành vi vi phạm đến mức độ tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng chủ yếu là hiếp dâm, và hầu hết khi thực hiện hành vi này các em

không biết đó là vi phạm pháp luật.

Các em thuộc nhóm trên 16 tuổi là nhóm học sinh đông nhất (70,0%) tại

trường giáo dưỡng số 2. Ở độ tuổi này, tất cả những cá tính như thích thể hiện cái

tôi cá nhân, tính thiếu kiên định, dễ thay đổi hứng thú, nhu cầu, ham muốn tự lập, tự

khẳng định của một người vị thành niên được thể hiện rõ nét nhất. Cùng với môi

trường gia đình, bạn bè và nhà trường những học sinh hư rất dễ có hành vi làm trái

pháp luật một cách vô ý hoặc cố ý. Bên cạnh đó, nhiều em trên 15 tuổi đã bỏ học

(hoặc bị đuổi học) đi làm, việc có đồng tiền riêng cùng những nhu cầu ăn chơi, sắm

sửa cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm pháp luật phải vào trường giáo

dưỡng của các em. “Những năm gần đây các em vào trường chủ yếu là nhóm từ 16

đến 18 tuổi do sự thay đổi về cơ chế chính sách. Với đối tượng này, độ tuổi nửa

40

người lớn nửa trẻ con, lại thêm những “đức tính” được học hỏi từ “anh em xã hội”

khiến chúng tôi khi giáo dục phải vừa cương quyết, vừa khôn khéo, khuyên nhủ, động

viên để các em yên tâm học tập” (PVS số 3, 37 tuổi, nam, giáo viên chủ nhiệm)

Về giới tính, theo bảng thống kê số liệu học sinh đến hết tháng 8 năm 2014

của trường thì tỷ lệ học sinh nam là 96,7% (381 em), số học sinh nữ chỉ là 3,3% (13

em). Tỷ lệ này là khá ổn định qua hầu hết các năm.

Bảng 2.3: Giới tính trẻ em vi phạm pháp luật ở trƣờng giáo dƣỡng số 2

Năm Năm 2000 Năm 2004 Năm 2008 Năm 2011 Tháng

Giới tính 8/2014 *

Nam 97,4% 95,8% 95,4% 94,7% 96,7%

Nữ 3,6% 4,2% 4,6% 5,3% 3,3%

(Nguồn: [13, tr 44] và * [33])

Về giới tính, do đặc thù về tâm, sinh lý, nam giới thường phát triển những

tính cách như mãnh mẽ, quyết đoán, ham mê khám phá, thường có những hành vi

bộc phát, phản ứng mạnh khi có những điều trái ý thì nữ giới lại thường phát triển

những đặc tính như mềm mại, nhu mỳ, dịu dàng… Chính điều này dẫn đến việc

nam giới thường vi phạm pháp luật nhiều hơn nữ giới. Ngoài ra, các yếu tố ngoại

cảnh như chính sách, truyền thống, quan điểm của những người thi hành biện pháp

đưa vào trường giáo dưỡng cũng có tác động đến số lượng em nam và nữ có sự

khác nhau. Hầu hết các em nữ phải thực hiện biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng

đều là những em cá biệt khi ở nhà, ở trường phổ thông. Hành vi vi phạm chủ yếu

của các em là trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản của người khác để lấy tiền ăn chơi, tiêu

xài và những hành vi này diễn ra nhiều lần mà không có sự sửa đổi. “Em bị bắt vì

tội chiếm đoạt tài sản. Em đi chơi với bạn, sau đó mượn xe máy và cắm lấy tiền tiêu

xài. Em cắm xe 2 lần, 1 lần xe Wave được 9 triệu, sau mẹ em đền tiền thì người ta

rút đơn. Lần 2 em cắm Airblade của bạn gái được 20 triệu, lần này mẹ em vẫn đền

tiền nhưng người ta không chịu rút đơn nên công an đưa em vào đây” (PVS số 9,

16 tuổi, nữ, học sinh)

Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở những hành vi vi phạm đơn thuần, không ít

em nữ thực hiện hành vi vi phạm với biểu hiện côn đồ “Em bị đình chỉ học, ở nhà,

do đánh nhau, trong thời gian này em đi xe bị tai nạn gẫy chân. Ở nhà buồn quá,

em gọi các bạn đến chơi. Trong số các bạn này có đứa em không ưa, em đã bắt nó

ngồi xuống và tát 24 cái. Bạn không dám chống cự vì xung quanh còn nhiều bạn

41

khác là đệ tử của em, đứng nhìn. Vì có bạn quay video đưa lên mạng nên công an

đến bắt em” (PVS số 14, 17 tuổi, nữ, học sinh)

Về cơ cấu hành vi và tính chất vi phạm của học sinh trường giáo dưỡng số 2

rất phong phú, đa dạng. Hành vi làm trái pháp luật của các em chủ yếu là trộm cắp

(chiếm 81,5%). Xếp tiếp theo là hành vi cố ý gây thương tích (chiếm 5,6%) và gây

rối trật tự công cộng (chiếm 4,6%). Mặc dù xếp thứ 2 và 3 nhưng tỷ lệ mắc các các

hành vi này rất thấp. Hành vi lừa đảo có số học sinh ít vi phạm nhất (chiếm 0,2%)

và hiện tại ở trường không giữ học sinh nào có các hành vi vi phạm pháp luật liên

quan đến ma túy. Ở độ tuổi chưa thành niên, với sự phát triển chưa đầy đủ về tâm,

sinh lý, ý thức cá nhân thường được đặt lên hàng đầu, nhiều em không kiềm chế

được những sở thích, nhu cầu của mình dẫn đến hành động trộm cắp. Cũng lứa tuổi

này, với nhận thức xã hội còn non nớt các em ít có hành vi lừa đảo.

Bảng 2.4. Cơ cấu hành vi vi phạm pháp luật của học sinh

trƣờng giáo dƣỡng số 2

Hành vi vi phạm pháp luật Số lƣợng Tỷ lệ %

321 81,5 Trộm cắp

Gây rối trật tự công cộng 18 4,6

Cố ý gây thương tích 22 5,6

Hiếp dâm 07 1,8

Giết người 05 1,3

Cướp giật 02 0,5

Lừa đảo 01 0,2

Cưỡng đoạt tài sản 06 1,5

Hành vi liên quan đến ma túy 00 00

Hành vi khác 12 3,0

Tổng số 394 100

(Nguồn: [31, tr.1])

Qua kết quả điều tra cũng như phân tích hồ sơ của học sinh lưu tại trường,

chúng tôi nhận thấy hầu hết các em có kết quả học tập không tốt, thậm chí có những

em mù chữ hay bỏ học. Với câu hỏi “Các em đang làm gì trước khi vào trường giáo

dưỡng” có tới 60,8% trả lời “đã bỏ học”. Với 21,5% trả lời “đang đi học” thì có

9,0% đang học tiểu học, 42,5% đang học trung học cơ sở và 48,5% đang học trung

42

học phổ thông. Tuy nhiên, số liệu tổng kết của trường lại cho biết về trình độ văn

hóa của các em là mù chữ 2%; tiểu học 7,9%; trung học cơ sở 78,7%; trung học phổ

thông 11,4%.[31] Hai số liệu này hoàn toàn không phủ định nhau mà thể hiện một

thực tế là hầu hết các em có trình độ nhận thức không tương đương với lớp học, cấp

học và độ tuổi. Hầu hết các em đều có tâm lý chung là không thích học, ham chơi,

nhận thức văn hoá chậm. Điều này không những gây khó khăn cho giáo viên trường

giáo dưỡng trong việc dạy học văn hóa và dạy nghề mà còn ảnh hưởng đến việc

giáo dục, phổ biến kiến thức pháp luật cho các em.

Về địa bàn cư trú, có 57,9% học sinh sống tại khu vực thành thị và 42,1%

sống tại khu vực nông thôn và miền núi. Về dân tộc, có 40,1% em là người dân tộc

ít người.[31, tr.1] Mặc dù số liệu thống kê cho con số tương đồng như vậy nhưng

trong thực tế, hành vi vi phạm pháp luật của người vị thành niên ở các địa bàn cư

trú khác nhau cũng có những đặc trưng khác biệt. Nếu như ở khu vực nông thôn,

miền núi và các em là người dân tộc ít người các hành vi vi phạm pháp luật có tính

chất nhẹ hơn, phần nhiều là các hành vi “không biết mình phạm tội” thì ở khu vực

thành thị tính chất phức tạp, côn đồ và lặp lại của hành vi làm trái pháp luật của các

em rõ rệt hơn. Mặc dù với đặc trưng tính chất vùng miền, với tính chất lỗi khác

nhau nhưng các em vẫn có phải chấp hành biện pháp vào trường giáo dưỡng với

thời hạn như nhau. “Ở miền núi hành vi vi phạm thường nhẹ hơn, như 4 năm trước

có em vào đây do ăn trộm gà 3 lần, lần cuối giấu ở gầm cầu đến lúc ra thì bị người

khác lấy trộm mất nhưng vẫn bị đưa vào đây với thời hạn 2 năm. Do đặc trưng

vùng miền, ở miền núi như vậy đã là tội lớn rồi.” (PVS số 2, 35 tuổi, nữ, giáo viên

dạy văn hóa).

Đặc biệt, các em dưới 14 tuổi phải thực hiện biện pháp đưa vào trường giáo

dưỡng hầu hết đều mắc tội hiếp dâm và là người dân tộc. Các em này với câu hỏi

“Khi thực hiện hành vi có biết mình vi phạm pháp luật không” thì đều trả lời

“không”. Sự thiếu hiểu biết về pháp luật chính là nguyên nhân hàng đầu khiến các

em rơi vào hoàn cảnh này. “Em quê Thanh Hoá. Em được các anh cùng xóm cho

xem băng hình, sau đó em đã thử với em gái 4 tuổi, con nhà hàng xóm khi bà nó

nhờ trông hộ. Em mới thực hiện thì bà phát hiện và báo Công an và em bị công an

bắt đưa vào trường giáo dưỡng. Lúc đó em mới hiểu như vậy là vi phạm pháp luật,

43

em sợ và khóc. Đến bây giờ em rất xấu hổ và mong muốn được làm lại từ đầu”.

(PVS số 13, 14 tuổi, nam, học sinh).

Một em người dân tộc tỉnh Hoà bình khi được phỏng vấn đã kể lại “ Em 14

tuổi, học lớp 6, bỏ học cách đây 1 năm, được xem băng hình và thử nghiệm những

điều đó với em họ, con cậu ruột, 9 tuổi, khi ở nhà một mình với em họ. Em bé khóc,

bố mẹ đi làm nương về phát hiện, bên nhà cậu báo công an và đưa em vào trường

giáo dưỡng. Khi đó em mới biết là vi phạm pháp luật. Em rất ân hận và mong bố

mẹ tha thứ” ( PVS số 12, 14 tuổi, nam, học sinh)

Bên cạnh đó, địa bàn cư trú của người vi phạm chưa thể hiện rõ đặc trưng

tình hình vi phạm pháp luật của người vị thành niên hiện nay. Mặc dù có tới 42,1%

các em sống ở nông thôn, miền núi nhưng số hành vi vi phạm pháp luật thực hiện ở

đây chỉ chiếm 34% số vụ, còn tới 66% các vụ vi phạm pháp luật được thực hiện ở

khu vực thành thị [2, tr 44]. Con số này cho thấy ở khu vực thành phố, thị xã là địa

bàn đông dân cư với lối sống, văn hóa khác nhau, khó tìm thấy các chuẩn mực

chung. Những biến động lớn và phức tạp về mặt kinh tế, xã hội, tính kém bền vững

của gia đình đã khiến nơi đây tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến người vị thành niên vi

phạm pháp luật. Các hành vi vi phạm do các em thực hiện ở các địa bàn thành phố,

thị xã cũng rất đa dạng, phong phú nhưng tập trung chủ yếu ở các tội trộm cắp và

các tội về cướp giật, gây rối trật tự công cộng và sử dụng chất ma túy.

Không thể phủ nhận gia đình là môi trường có tác động mạnh mẽ và lâu dài

nhất đối với mỗi cá nhân trong xã hội. Tình trạng gia đình là một yếu tố có tương

quan rất rõ ràng tới hành vi làm trái pháp luật của học sinh trường giáo dưỡng số 2

Ninh Bình.

44

Biểu đồ 2.3: Tình trạng gia đình của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

(Nguồn: Số liệu điều tra)

Số liệu điều tra về thực trạng gia đình của học sinh trường giáo dưỡng số 2

cho thấy hơn 40% các em phải sống trong những gia đình thiếu vắng cha hoặc mẹ

hoặc cả cha, mẹ. Nguyên nhân của việc các em phải sống trong những gia đình

thiếu vắng cha, mẹ được thể hiện thông qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.4: Nguyên nhân của tình trạng thiếu cha mẹ

của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

( Nguồn số liệu khảo sát)

45

Theo số liệu của biểu đồ 2.3 cho thấy:

Trong số 40% học sinh phải sống trong hoàn cảnh thiếu vắng cha hoặc mẹ

hoặc cả cha mẹ, thì tỷ lệ bố hoặc mẹ đã mất chiếm tỷ lệ cao nhất chiếm 44%, bố, mẹ

đã lý hôn, ly thân chiếm 25% và có tới 19% bố mẹ đi làm ăn xa. Thiếu mái ấm gia

đình và sự chăm sóc giáo dục của các bậc cha mẹ là một nguyên nhân quan trọng

dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật của các em. Không có nơi nương tựa về cả mặt

tinh thần lẫn vật chất, mặc cảm về tình trạng của mình hay việc ông bà, họ hàng

không thể sát sao hoặc cũng không có điều kiện, thời gian để bảo ban các em khiến

nhiều em cảm thấy vô phương hướng, không có mục đích phấn đấu.

“Có trường hợp, một em bố mẹ đã mất, vào trường lần thứ 3. Có một mảnh

đất bố mẹ để lại nhưng ông bà bảo trợ lại không quyết liệt giữ cho em, để các cô,

chú nhòm ngó. Em này bất mãn, có những hành vi chống đối, phá phách nên bị đưa

vào trường. Ra trường thì người thân không cho cơ hội làm lại nên lại mắc lỗi, phải

vào trường nhiều lần” (PVS số 1, 39 tuổi, nam, cán bộ giáo vụ hồ sơ).

Nhiều em vì vậy mà bỏ nhà đi bụi, chơi với bạn bè xã hội và gắn bó như gia

đình của mình, sống chết bảo vệ anh em bạn bè. Tuy nhiên, với kiểu sống tự do nay

đây mai đó, không nghề nghiệp, không có sự giáo dục, định hướng thì phần đông

những em này dễ rơi vào tình trạng tái vi phạm pháp luật.

Tương tự như vậy, với 19% trả lời “bố/mẹ đang đi làm ăn xa” cũng dẫn đến

tình trạng các em dễ rơi vào sa ngã. Có một thực tế hiện nay là một số cha mẹ do

quá mải mê hoạt động kinh tế mà coi nhẹ việc giáo dục con cái. Điều này diễn ra ở

cả khu vực nông thôn và thành thị. Nếu như ở nông thôn, khi gia đình quá khó khăn

cha mẹ phải gửi con cho họ hàng để lên thành phố tìm việc hoặc đi lao động nước

ngoài, thì ở thành phố, tình trạng cha mẹ mải mê kiếm tiền làm giàu mà bỏ mặc con

cái tự lo thân cũng không ít. Việc học tập của con hầu như bị phó thác cho nhà

trường. Con cái họ làm gì, tiếp xúc với ai, tiêu dùng các sản phẩm văn hóa nào họ

cũng không biết. Đây là khoảng trống để các em nảy sinh các hiện tượng lệch

chuẩn, sa vào các tệ nạn mại dâm, tiêm chích ma túy, cờ bạc, nơi dung dưỡng các

nguy cơ phạm tội.

Đặc biệt, có tới 25% số học sinh có hoàn cảnh gia đình thiếu cha mẹ nói rằng

cha mẹ đã ly thân/ ly hôn. Rõ ràng khi các mối liên hệ giữa cha mẹ, con cái bền chặt

46

thì gia đình mới ổn định. Trong gia đình hòa thuận, có nề nếp, mọi người quan tâm,

yêu thương, giúp đỡ nhau thì sẽ tạo được không khí tình cảm, đạo đức thuận lợi cho

việc giáo dục người chưa thành niên. Tuy nhiên, cùng sự phát triển của nền kinh tế

thị trường và sự du nhập của các nét văn hóa phương Tây, xu hướng ly hôn đang có

chiều hướng gia tăng trong những năm gần đây. Gia đình rạn nứt, cha mẹ mạt sát

nhau, thậm chí là ngoại tình hoặc lấy vợ/chồng mới khiến các em sống trong hoàn

cảnh này thường thường sống khép mình, nhẫn nhục hoặc chống đối, quậy phá,

không có tâm thế lao động, học tập. “Bố mẹ em chưa ly hôn nhưng ly thân, tuy

nhiên vẫn sống cùng nhà. Nhưng ông ấy được một thời gian thì đưa bồ nhí về nhà

sống như vợ chồng, trêu ngươi mẹ con em. Em ức chế nên bỏ học, tìm cách quấy

phá, sau bỏ nhà đi để khỏi nhìn thấy cảnh đó” (PVS số 19, 16 tuổi, nam, học sinh)

2.1.2.2. Đặc điểm ý thức pháp luật

Người chưa thành niên làm trái pháp luật là người chưa thành niên đã có

hành vi vi phạm vào một trong những quy phạm pháp luật hiện tại của nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hành vi làm trái pháp luật của người chưa thành

niên chủ yếu được thể hiện dưới góc độ hành động (thực hiện hành vi vi phạm pháp

luật tức là làm những việc mà pháp luật nghiêm cấm).

Người chưa thành niên làm trái pháp luật được chia thành bốn nhóm, đó là:

Người chưa thành niên có hành vi vi phạm ngẫu nhiên, trái với xu hướng

chung của nhóm. Đây là nhóm người thành niên có hành vi vi phạm pháp luật, xong

hành vi này là do sự vô ý ngẫu nhiên nào đó hoặc chưa ý thức được hành vi của

mình chứ không phải do nhu cầu, tâm lý của các em thúc đẩy.

Nhóm những người chưa thành niên có hành vi làm trái pháp luật do không

ổn định xu hướng chung của cá nhân. Đây là nhóm người vi phạm trong những

hoàn cảnh thuận lợi theo kiểu “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Ở đây, việc vi phạm có

sự tham gia của những yếu tố xu hướng (như sự hứng thú….) xuất hiện tức thời

nhưng không ổn định bền vững, không phải xu hướng chung của nhân cách.

Nhóm người chưa thành niên làm trái pháp luật do sự định hướng chung của

tuổi, của cá nhân quy định. Đây là những người chưa thành niên có hành vi vi phạm

pháp luật trong những hoàn cảnh đặc biệt như: bị lôi kéo, kích động, xúi dục…do sự

định hướng tiêu cực của cá nhân điều chỉnh. Những em này có sự định hướng vào

47

những hành vi không hợp chuẩn nhưng không chủ động tạo ra mà chỉ thực hiện

hành vi khi ngẫu nhiên hay gặp hoàn cảnh thuận lợi về mặt tâm lý (cơ hội).

Nhóm những người chưa thành niên làm trái pháp luật do sự thúc đẩy của

tâm thế tiêu cực. Đây là các em có hành vi vi phạm pháp luật một cách chủ động do

sự điều khiển của tâm thế tiêu cực chống đối với hệ thống chuẩn mực tích cực của

xã hội (do kết quả của sự phản ứng với điều kiện, hoàn cảnh hoặc kết quả của nhận

thức tiêu cực: phim ảnh đồi trụy…) dẫn đến định hướng giá trị lệch chuẩn, tiêu cực

thúc đẩy hành động theo những định hướng sai trái đó.[34, tr 56]

Về đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên làm trái pháp luật có những

nét cơ bản sau:

Nông nổi, hiếu thắng, liều lĩnh trước tác động của ngoại cảnh. Bên cạnh đó,

có đặc tính tò mò, hiếu kì, có thiên hướng bắt chước và bắt chước cả những cái sai

của người lớn tuổi.

Dễ bị kích thích, khó tự kiềm chế bản thân khi có các yếu tố ngoại cảnh

tác động, dễ dẫn đến manh động và có các hành vi bạo lực để đối phó, chống trả

sự tác động.

Thích được đặt mình vào các nhân vật điển hình trong các phim, truyện;

thích được đề cao, muốn được mọi người khen; muốn chứng minh sự dũng cảm của

mình so với người khác.

Có thể thấy các em học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình cũng không

nằm ngoài những đặc điểm tâm lý trên.

Trên cơ sở những đặc điểm tâm lý chung của người chưa thành niên vi

phạm pháp luật, học sinh trường giáo dưỡng số 2 còn thể hiện những đặc điểm ý

thức pháp luật như sau:

Trước hết, các em có hiểu biết pháp luật một cách hời hợt, thiếu chính xác.

Có thể nói, đây là đặc điểm nổi bật của những người chưa thành niên nói chung chứ

không riêng gì học sinh trường giáo dưỡng. Thực tế là hiện nay người chưa thành

niên ít dành sự quan tâm đến những quy định của pháp luật. Điều này là dễ hiểu vì

hầu hết các em ở độ tuổi này còn đang trong vòng tay bao bọc của cha mẹ, chưa

phải va chạm với cuộc sống nên những vấn đề như quyền và nghĩa vụ của công dân,

48

các quy định của pháp luật về giữ gìn trật tự an toàn xã hội hay trong hôn nhân chưa

được các em quan tâm.

Đặc biệt, đối với các em ở trường giáo dưỡng phần lớn là bỏ học, lười học,

thiếu sự quan tâm của nhà trường, thiếu sự chăm sóc của gia đình thì sự hiểu biết

pháp luật càng bị hẫng hụt, có khoảng cách khá xa so với các em cùng độ tuổi.

Nhược điểm chung của các em là sự hiểu biết pháp luật còn tản mạn, chắp vá, thiếu

hệ thống hoàn chỉnh, thậm chí thực hiện nhiều hành động nhưng không biết đó là

vi phạm pháp luật.

Với câu hỏi khảo sát “Theo em việc học tập pháp luật có cần thiết không?”

thì 100% các em đều trả lời là “cần thiết”. Như vậy, học sinh trường giáo dưỡng

số 2 nhận thức được việc học tập pháp luật, hay nói cách khác là hiểu biết pháp

luật là một đòi hỏi tất yếu với mình. Thế nhưng từ việc nhận thức điều đó cho đến

việc các em nhận thức nó như thế nào lại là một quãng đường không ngắn.

Với câu hỏi “Theo em, những nội dung nào sau đây là pháp luật?” nhằm

mục đích đánh giá học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình phân biệt sự khác

nhau giữa nội dung pháp luật và nội dung đạo đức, kỹ năng sống thì có kết quả

như sau:

Bảng 2.5. Nhận thức của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

về nội dung pháp luật

(Tỷ lệ %)

STT Nội dung

01 Nội quy trường giáo dưỡng Không phải NDPL 37,7 N/dung pháp luật 62,3

02 Yêu quê hương 7,5 92,5

03 Quyền và nghĩa vụ của học sinh trường giáo dưỡng 56,0 44,0

04 Khả năng giải quyết mâu thuẫn 7,5 92,5

05 Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân 63,5 36,5

06 Rèn luyện tính trung thực và lương thiện 17,0 83,0

07 Kinh trọng, biết ơn thầy cô 10,7 89,7

08 Quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ tôn trọng tài sản 64,8 35,2

của người khác

49

09 Kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề 8,2 91,8

10 Hệ thống báo hiệu đường bộ và ý nghĩa của các biển 36,5 63,5

báo, đèn tín hiệu

11 Các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia 51,6 48,4

đình ở nước ta

12 Làm thế nào để hòa nhập cộng đồng 5,7 94,3

(Nguồn: Số liệu điều tra)

Kết quả cho thấy các câu hỏi 1; 3; 5; 8;11 là những câu hỏi thuộc phạm vi

nội dung về pháp luật tỷ lệ các em trả lời đúng chiếm trên 50%, tỷ lệ cao nhất đạt

64,8%. Tuy nhiên câu 10: Hệ thống biển báo hiệu đường bộ và ý nghĩa của các biển

báo, đèn tín hiệu chỉ có 36.5% các em cho rằng đây là nội dung pháp luật và có tới

có tới 63,5% các em cho rằng đây không phải là nội dung pháp luật (thuộc nội dụng

đạo đức, kỹ năng sống). Điều này cho thấy nhận thức pháp luật của học sinh trường

giáo dưỡng số 2 Ninh Bình còn nhiều thiếu hụt, nông cạn.

Tuy nhiên nhận thức về nội dung đạo đức và kỹ năng sống bao gồm các câu

hỏi 2; 4; 6; 7; 9; 12 thì tỷ lệ trả lời đúng rất cao chiếm trên 80% và tỷ lệ trả lời sai

tập trung vào câu 10.

Từ đó có thể nhận xét, về cơ bản các em đã nhận thức được sự khác nhau

giữa nội dung pháp luật và nội dung về đạo đức, kỹ năng sống. Tuy nhiên nhận thức

về pháp luật còn yếu hơn so với hai nội dung trên. Từ tình trạng nhận thức về pháp

luật còn nông cạn, hời hợt dẫn tới việc các em vẫn cố tình vi phạm mặc dù biết việc

làm đó là sai.

Thứ hai, một số em cố tình vi phạm pháp luật mặc dù đã nhận thức được

hành vi sai trái của mình.

Khảo sát học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình về tình trạng vi phạm

pháp luật bằng câu hỏi “ Khi thực hiện hành vi đó (các tội danh đã liệt kê) em có

biết việc mình làm là vi phạm pháp luật không?”, có tới 119 em (chiếm 74,4%) trả

lời “có”. Như vậy, trước khi hành động, phần lớn các em nhận thức được việc làm

của mình là sai trái, không được phép nhưng vẫn cố tình thực hiện.“Em bị đưa vào

trường vì tội gây rối trật tự công cộng. Có một anh sinh năm 1988 đánh em, hai

tháng sau em gặp lại anh ấy ở quán nét, em gọi bạn cầm dao đến đâm anh ấy. Em

50

cũng đi chém người hai lần nữa, đều là do trước đó có va chạm với người ta. Lúc

đấy em có biết là vi phạm pháp luật nhưng em không quan tâm, do một phần là

bênh bạn, một phần là sỹ diện. Em không nghĩ đến việc bị xử phạt” (PVS số 15, 16

tuổi, nam, học sinh)

Ngay cả khi bị thực hiện biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, được rèn

luyện, giáo dục trong một môi trường riêng lành mạnh và kỷ luật nhưng vẫn tồn tại

những trường hợp không nhận thức được lỗi lầm của mình. Với nội dung khảo sát

“Nếu được quay trở lại em có thực hiện lại hành vi vi phạm pháp luật của mình

không?” vẫn có 8 em (chiếm 4,9%) khẳng định “có”. Đây là những trường hợp cá

biệt, về mặt nhận thức vẫn cố tình tái phạm, cần có những biện pháp giáo dục riêng,

thậm chí là những biện pháp cưỡng bức buộc các em phải chấp hành và thay đổi

hành vi.

Thứ ba, các em chưa đánh giá hết tính chất nguy hiểm khi thực hiện hành vi

vi phạm pháp luật, đồng thời không hiểu được hậu quả nghiêm trọng do hành vi của

mình gây ra với xã hội. Đây là đặc điểm ý thức chấp hành pháp luật liên quan trực

tiếp đến sự phát triển về thể chất và nhận thức nói chung của các em. Do kinh

nghiệm đường đời của các em còn ít, chưa đủ giúp các em đánh giá một cách đầy

đủ mọi hành vi của mình với môi trường xã hội. Chính vì vậy, trong nhiều trường

hợp đã gây ra hậu quả rất nghiêm trọng cho xã hội. [16, tr174].

“Em bị đưa vào trường do lỗi gây rối trật tự công cộng. Em hay cùng thanh

niên cùng làng đánh nhau với những người đến làng em chơi. Em bị công an xã gọi

lên nhắc nhở 5,6 lần nhưng lần nào mẹ đóng tiền phạt xong là em được tha. Lần

cuối em cũng tưởng cứ đóng tiền là được, không ngờ công an đến đọc quyết định

đưa em vào trường luôn” (PVS số 10, 17 tuổi, nam, học sinh)

Mặt khác, hầu hết các em có hành vi phạm pháp không biết đến trách nhiệm

hình sự của mình đối với hành vi đó. Thậm chí, có những em có hành vi phạm pháp

gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, song trong nhận thức coi hành vi của mình như

những việc làm bình thường khác. Đó chính là lý do có những trường hợp các em

phải vào trường giáo dưỡng bắt đầu từ những nguyên nhân như “trò đùa con trẻ”

“Em bị bắt vào đây vì tội giao cấu với trẻ em. Đấy là người yêu của em, học cùng

lớp và bằng tuổi em (lúc đó 12 tuổi). Chúng em tự nguyện chứ không ai ép buộc,

51

nhưng bố bạn ấy biết và báo với công an và em bị đưa vào đây. Tận lúc đấy em mới

biết là mình vi phạm pháp luật.” (PVS số 12, 14 tuổi, nam, học sinh)

Thứ tư, ý thức phạm pháp của các em còn chịu sự tác động mạnh của nhóm

đồng đẳng (nhóm bạn). Ở tuổi chưa thành niên, hầu hết các em đều hoạt động giao

tiếp trong những nhóm bạn bè nhất định. Hoạt động của nhóm bạn bè này ảnh

hưởng rất lớn đến tư cách, hành vi của các thành viên trong nhóm.[4, tr.129] Thậm

chí, trong rất nhiều trường hợp mối quan hệ ruột thịt trong gia đình còn không được

các em coi trọng bằng “anh em xã hội”. Trong rất nhiều trường hợp, động cơ duy

nhất trong khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật của các em chỉ là nhằm bảo đảm

“tính tập thể” của nhóm mà thôi. Khi phỏng vấn sâu chúng tôi nhận thấy có những

em nói tới từ “anh em xã hội” với thái độ rất trừu mến, thân thiết, sống chết có

nhau, mặc dù có thể chính sự lôi kéo của các “anh em xã hội này” đã khiến các em

có hành vi vi phạm pháp luật và phải vào trường giáo dưỡng. Kết quả khảo sát sau

đây cho thấy rất rõ điều đó.

Biểu đồ 2.5. Nguyên nhân học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

vi phạm pháp luật

(tỷ lệ %)

(Nguồn: Kết quả điều tra)

52

Kết quả khảo sát bằng trưng cầu ý kiến cho thấy có tới 43,1% các em cho

rằng nguyên nhân khiến mình vi phạm pháp luật là “do bạn bè rủ rê”. Trong khi đó,

nguyên nhân có tỷ lệ cao tiếp theo là “muốn thể hiện đẳng cấp với người khác” và

“do mâu thuẫn trong gia đình” chỉ chiếm lần lượt là 10,1% và 8,7%. Trong 43,1%

này có nhiều trường hợp nhận thức đúng đắn của một số thành viên không cưỡng

nổi nhu cầu hành động chung của nhóm. Rất nhiều trường hợp, các em biết mình

tham gia vào hành động chung đó là sai, là phạm pháp, song vì muốn giữ được mối

quan hệ bạn bè với nhóm, không muốn bị loại ra khỏi nhóm hoặc không muốn bị

coi là hèn nhát, yếu đuối nên đã cùng hành động sai lầm một cách không tự giác.

Một số trường hợp khác, các em bị sự đe dọa, khống chế của một số đông thành

viên trong nhóm nên mặc dù hiểu biết pháp luật, song các em không đủ sức để tỏ rõ

thái độ của mình mà cuối cùng đành phải cùng thực hiện hành vi sai trái.[16, tr177]

Từ những đặc điểm trên, có thể thấy giáo dục pháp luật cho học sinh trường

giáo dưỡng phải làm cho các em nhận thức được vai trò của pháp luật đối với đời

sống xã hội. Hiểu và tuân thủ pháp luật chính là một trong những tiền đề cơ bản để

đảm bảo cho tương lai số phận của từng con người nói riêng và sự ổn định của xã

hội nói chung từ đó xác định được trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi thành viên

trong xã hội đối với việc chấp hành pháp luật.

2.2. Mục đích giáo dục pháp luật cho học sinh trƣờng Giáo dƣỡng số 2

Ninh Bình

Ngày 9/12/2003 Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị 32- CT/TW, trong

đó nhấn mạnh: công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phải được coi là một trong

những nhiệm vụ trọng tâm trong việc tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật và

phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư

tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đặc biệt ở trường giáo dưỡng, với đặc thù là các em học sinh chưa đủ tuổi

thành niên, nhận thức pháp luật còn hời hợt, nông cạn, thậm chí có em vi phạm mà

không biết hành vi đó là phạm pháp, trong khi kiến thức về pháp luật thì vô cùng

phong phú, rộng lớn, điều chỉnh rất nhiều các mối quan hệ xã hội của con người thì

việc giáo dục pháp luật càng trở nên bức thiết. Chính vì vậy, mục đích của việc giáo

dục pháp luật trong trường giáo dưỡng đã được đặt ra rất cụ thể.

53

Trước hết, mục đích giáo dục pháp luật trong trường giáo dưỡng là trang bị

cho các em có những kiến thức pháp luật tối thiểu, cần thiết để các em hiểu được

nội quy của trường giáo dưỡng, quyền và nghĩa vụ của học sinh trường giáo dưỡng

cũng như một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong đó chú trọng quyền

và nghĩa vụ lao động của công dân; nghĩa vụ tôn trọng và chấp hành Luật hành

chính. Luật dân sự, Luật hình sự… tôn trọng quyền sở hữu tài sản của công dân và

của nhà nước…

Thứ hai, trên cơ sở trang bị những kiến thức pháp luật cơ bản mà xây dựng

năng lực nhận thức giúp các em tự liên hệ để nhận ra những sai lầm, thiếu sót trong

quá khứ, hối hận và quyết tâm sửa chữa những sai lầm đó.

Thứ ba, từ nhận thức đúng đắn về pháp luật mà rèn luyện kỹ năng tôn trọng,

chấp hành pháp luật cho các em, giúp các em thấy được trách nhiệm của mình trong

việc tuân thủ pháp luật và vận dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn.

Đối với các em khi còn học tập trong trường giáo dưỡng, việc rèn luyện kỹ

năng chấp hành pháp luật trước hết là chấp hành tốt nội quy, quy chế của nhà

trường, biết nhận xét đánh giá hành vi bản thân và của người khác so với chuẩn

mực, các quy định của nội quy đã học, có thái độ khen, chê rõ ràng với những hành

vi đúng hoặc sai so với nội quy, quy chế, qua đó phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện, học

tập, lao động… đạt các danh hiệu học sịnh tiên tiến, xuất sắc.

Việc vận dụng kiến thức của pháp luật vào đời sống thực tế là một vấn đề rất

phức tạp, mà năng lực của các em không phải lúc nào cũng đáp ứng được những

yêu cầu đó. Từ thực tế này cho thấy, giáo dục pháp luật cho người chưa thành niên

không chỉ đơn thuần là chuyển tải những thông tin về những quy định” khô cứng”

của Nhà nước về mặt pháp luật mà là giúp các em hiểu rõ bản chất của những quy

định, thấy hết ý nghĩa của những quy phạm pháp luật bằng những ngôn từ dễ hiểu,

bằng những ví dụ sinh động, gần gũi với các em, giúp các em hiểu được những sai

phạm và việc chấp hành pháp luật là một là một tất yếu không thể khác trong xã hội

pháp quyền hiện nay. Việc chấp hành pháp luật là điều kiện tất yếu cho sự phát triển

của xã hội nói chung và cho từng thành viên trong cộng đồng nói riêng. Làm sao để

các em hiểu được, “con người muốn được tự do thì phải chấp hành pháp luật”,

giống như Fh. Ăng ghen nói: “nhận thức và hành động theo cái tất yếu là tự do”.

54

Thứ tư, thông qua giáo dục pháp luật để hình thành ở các em một bản lĩnh tự

chủ, vững vàng, giúp các em sửa chữa lỗi lầm, hoàn thiện bản thân, giúp các em tự

tin sau khi ra trường, tái hoà nhập cộng đồng, đủ khả năng ứng xử trong những tình

huống khó khăn trong cuộc sống để trở thành công dân lương thiện có ích cho gia

đình và xã hội.

Muốn đạt được điều này không chỉ có giáo dục pháp luật đơn thuần mà còn

phải giáo dục, bồi dưỡng các em những phẩm chất đạo đức khác, cũng như những

kỹ năng sống phù hợp, có tác dụng bổ trợ cho việc xây dựng ý thức pháp luật, xây

dựng niềm tin pháp luật, tôn trọng và chấp hành pháp luật một cách tự giác, khi đó

sẽ hình thành đạo đức pháp luật cho các em.

Tóm lại: mục đích của giáo dục pháp luật cho học sinh trong trường giáo

dưỡng là trang bị cho các em những kiến thức pháp luật cần thiết để giúp các em

nâng cao nhận thức, hiểu rõ sai phạm, quyết tâm sửa chữa; rèn luyện kỹ năng chấp

hành pháp luật, xây dựng thái độ tự giác chấp hành pháp luật; hoàn thiện bản thân

để tái hoà nhập cộng đồng và không tái phạm. Giáo dục pháp luật trong trường

giáo dưỡng là một biện pháp tích cực trong việc phòng ngừa tội phạm đối với người

chưa thành niên.

Mục đích này cần được thấu suốt không chỉ với các thầy cô giáo trong

trường giáo dưỡng mà với cả các với các cấp chính quyền và gia đình và của toàn

xã hội trong việc phối hợp giáo dục trẻ em chưa thành niên vi phạm pháp luật. Chỉ

có sự phối hợp hành động của toàn xã hội thì hoạt động này mới thực sự có hiệu

quả và mới phòng ngừa tận gốc trẻ em vi phạm pháp luật.

2.3. Nội dung và phƣơng pháp giáo dục pháp luật đã đƣợc thực hiện cho

học sinh trƣờng Giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình

Cùng với việc dạy văn hóa và dạy nghề, giáo dục pháp luật là một trong

những trong nhiệm vụ trọng tâm của cán bộ, giáo viên trường giáo dưỡng số 2 Ninh

Bình. Để đạt được những mục đích như đã nêu trên, các giáo viên phải thực hiện rất

nhiều phương pháp từ bắt buộc đến tự nguyện để lôi kéo, khuyến khích, khuyên bảo

học sinh, nhằm tác động và cải biến nhận thức và hành vi pháp luật của các em. Các

phương pháp giáo dục pháp luật này thường không được thực hiện riêng lẻ mà lồng

ghép với các hoạt động giáo dục đạo đức, kỹ năng sống … qua khảo sát thực tiễn

55

chúng tôi thấy có bốn phương pháp giáo dục pháp luật đang được thực hiện ở

trường giáo dưỡng số 2 như sau:

Một là, thông qua hoạt động học tập bắt buộc.

Hai là, thông qua các hoạt động giáo dục bổ trợ.

Ba là, thông qua các hoạt động khen thưởng, kỷ luật.

Bốn là, thông qua các phương tiện truyền thông.

2.3.1. Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động học tập bắt buộc

Hoạt động học tập bắt buộc là một hoạt động trọng tâm mà mỗi học sinh khi

được đưa vào trường giáo dưỡng đều phải trải qua, trong đó giáo dục công dân là

một môn học nằm trong hoạt động này. Trong môn giáo dục công dân, cùng với nội

dung về đạo đức và kỹ năng sống, giáo dục pháp luật cũng là nội dung được dành

nhiều thời lượng giảng dạy bởi khi quay lại với cộng đồng, các em có hòa nhập

được hay không, có tái phạm hay không một phần không nhỏ là do những gì các em

đã được tiếp thu từ trường giáo dưỡng. Với nhận thức như vậy, chương trình sách

giáo khoa môn giáo dục công dân nói chung và nội dung giáo dục pháp luật nói

riêng đã được xây dựng với những mục tiêu rất rõ ràng.

Về giáo trình, trước năm 2000, học sinh trường giáo dưỡng sử dụng sách

giáo khoa giáo dục công dân chung với học sinh phổ thông do Bộ giáo dục và Đào

tạo ban hành. Tuy nhiên với những đặc thù của học sinh trường giáo dưỡng, việc

dùng chung giáo trình như vậy đã bộc lộ nhiều điểm bất cập. Do đó, kể từ năm

2000, các em đã được học giáo trình mới do Cục Quản lý và cải tạo phạm nhân (nay

là Tổng cục thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, gọi tắt là Tổng cục VIII) phối

hợp với Viện Khoa học giáo dục biên soạn, chủ biên là PGS. TS Hà Nhật Thăng.

Sách đã được đóng góp chỉnh sửa nhiều lần từ năm 2000 đến nay. Hiện tại, nhà

trường đang sử dụng sách xuất bản năm 2004 của nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

Như vậy, có thể thấy Nhà nước, Bộ Công an đã có những quan tâm nhất định tới

hoạt động giáo dục công dân nói chung, giáo dục pháp luật nói riêng tới học sinh

trường giáo dưỡng. Việc xuất bản riêng giáo trình Giáo dục công dân cho nhóm đối

tượng đặc thù này giúp việc tác động đến các em được tập trung, đúng hướng. Nội

dung giáo trình vì thế đi vào đúng trọng tâm, trọng điểm, phù hợp đối tượng, hoàn

cảnh sống, việc chia thời lượng giảng dạy cũng phù hợp hơn.

56

Sách giáo khoa giáo dục công dân dành cho trường giáo dưỡng không chia

theo lớp học mà chia theo cấp học là cấp Tiểu học và cấp Trung học cơ sở. Riêng

cấp Trung học phổ thông các em không có sách riêng do trường giáo dưỡng số 2 chỉ

dạy văn hóa cho cấp Tiểu học và Trung học cơ sở, những học sinh khi vào trường

đã học xong lớp 9 chỉ được học nghề thay vì học văn hóa. Chính vì vậy, với nhóm

học sinh này việc học môn Giáo dục công dân không chia thời lượng như hai cấp

còn lại, mà học tập trung theo từng lĩnh vực và theo thời hạn các em ở trường.

Với việc được biên soạn cụ thể, chặt chẽ như vậy, mục tiêu môn học cũng

được đề ra rất rõ ràng. Về kiến thức, sau khi học xong môn giáo dục công dân học

sinh phải trình bày được một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Về kỹ

năng, các em có thể nhận xét, đánh giá hành vi bản thân và của người khác so với

các quy định của pháp luật đã học, thông qua đó nhận rõ lỗi lầm của bản thân; ứng

xử phù hợp với các quy định của pháp luật, nội quy trường giáo dưỡng; vận dụng

các kiến thức pháp luật đã học trong cuộc sống hàng ngày ở trường và sau khi ra

trường để tái hòa nhập cuộc sống cộng đồng. Về thái độ, các em có ý thức tôn trọng

pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh quyết định đưa vào trường giáo dưỡng; đồng

tình ủng hộ những hành vi, việc làm phù hợp với chuẩn mực đạo đức và quy định

pháp luật, phê phán những hành vi vi phạm pháp luật, nội quy trường giáo dưỡng.

Về phương pháp thực hiện, trên cơ sở mục tiêu đề ra như vậy, cũng như đặc

thù của trường là thời hạn đưa học sinh vào trường giáo dưỡng từ sáu tháng đến hai

năm, các em vào và ra trường không theo thời gian năm học như trường phổ thông,

số lượng học sinh lại luôn biến động không chỉ theo quý, theo tháng mà còn có thể

theo tuần. Vì vậy, chương trình môn giáo dục công dân ở trường giáo dưỡng được

triển khai cụ thể thành ba giai đoạn.

Giai đoạn mới vào trường, dành cho nhóm học sinh mới vào trường. Trong

giai đoạn này, các em được đưa vào trường có sự lệch nhau về độ tuổi, trình độ văn

hoá nhưng số lượng các em không đủ để chia thành lớp tiểu học và trung học cơ sở

nên nhà trường phải bố trí học chung cho cả hai trình độ. Vì vậy, mặc dù có hai

sách giáo khoa khác nhau cho học sinh hai cấp nhưng trên thực tế tất cả các em mới

vào trường cùng đợt sẽ học một phần nội dung giáo dục công dân chung. Đây là

giai đoạn học sinh có nhiều bỡ ngỡ với thầy cô, bạn bè, môi trường sống và học tập,

57

lao động, rèn luyện trong nhà trường nên các em cần được trang bị những kiến

thức, kỹ năng và hình thành thái độ sống phù hợp để biết: vì sao mình vào trường

giáo dưỡng, hối hận về những việc đã làm, quyết tâm sửa chữa lỗi lầm để trở thành

người lương thiện; tôn trọng và chấp hành nội quy nhà trường; quyền và nghĩa vụ

của học sinh trường giáo dưỡng.

Giai đoạn trong quá trình học tập ở trường là thời gian học tập, rèn luyện

dài nhất của tất cả học sinh nên số lượng học sinh nhiều hơn các giai đoạn khác. Do

đó nhà trường bố trí các em học tập theo hai cấp, tiểu học và trung học cơ sở cho

phù hợp với nhận thức của số đông học sinh. Ở giai đoạn này, các em được học tập,

rèn luyện theo các chuẩn mực đạo đức, quy định của pháp luật và các kỹ năng sống

cần thiết để hòa nhập môi trường có sự kỷ luật chặt chẽ ở trường giáo dưỡng; có ý

thức trách nhiệm với bản thân, với nhà trường, gia đình và xã hội; phấn đấu để trở

thành người lương thiện, người công dân tốt.

Giai đoạn thứ ba là giai đoạn sắp ra trường. Cũng như đầu vào, số lượng

học sinh sắp ra trường mỗi tháng không đủ để chia thành lớp tiểu học, lớp trung học

cơ sở nên nhà trường phải bố trí một lớp học chung cho cả hai trình độ. Do đó,

trong chương trình môn giáo dục công dân cũng có phần chung dành cho nhóm học

sinh sắp ra trường. Các em được trang bị những kiến thức, kỹ năng và giáo dục thái

độ sống phù hợp để có thể sống tự lập, năng động, sáng tạo, thực hiện tốt các bổn

phận, quyền và nghĩa vụ đối với gia đình, xã hội, góp phần giữ gìn trật tự, an toàn

xã hội; biết tìm kiếm sự hỗ trợ khi cần thiết; tìm kiếm việc làm phù hợp… để có thể

sống hòa nhập cộng đồng, không vi phạm pháp luật.

Cụ thể, trong năm 2013, nhà trường đã tổ chức các lớp học giáo dục công

dân như sau:

Bảng 2.6. Số liệu thống kê hoạt động học tập giáo dục công dân

tại trƣờng giáo dƣỡng số 2

Loại hình lớp học Số lớp Số lƣợt học sinh

Lớp mới vào trường 16 428

Lớp GDCD 04 139

Lớp sắp ra trường 15 572

Nguồn: [33, tr2]

58

Ở giai đoạn thứ hai, việc phân chia về thời lượng chương trình giảng dạy

giáo dục công dân đối với khối trung học cơ sở là 2 tiết/tuần, với khối tiểu học là

1 tiết/tuần. Ở cấp trung học cơ sở, giáo dục công dân cùng giáo dục giới tính là

hai môn bắt buộc được dạy xen kẽ với các môn văn hóa khác (toán, lý, hóa, văn,

sử, địa). Hiện tại có 6 giáo viên được đào tạo cơ bản để dạy giáo dục công dân

cho khối này. Đối với khối tiểu học, học sinh học xóa mù chữ và sau xóa mù

chữ, sau đó mới học giáo dục công dân và giáo dục giới tính.

Ở khối tiểu học, không có giáo viên chuyên trách môn giáo dục công dân mà

giao cho một chủ nhiệm lớp giảng dạy tất cả các môn. Mỗi quyển sách giáo khoa

được dạy trong một năm học, do đó xảy ra tình trạng hoặc các em chưa học xong đã

ra trường (với những em có thời hạn ở trường 6 tháng) hoặc các em phải học lại hai

lần (với những em có thời hạn 18 tháng hoặc 24 tháng).

Với các em có trình độ văn hóa Trung học phổ thông, ngoài hai lớp học lúc

bắt đầu và kết thúc quá trình ở trường thì không phải học văn hóa (trong đó bao

gồm cả môn giáo dục công dân). Thay vào đó, các em sẽ được học nghề và lao động

công ích cho trường.

Về nội dung, mặc dù sách giáo khoa được chia thành quyển cho hai khối

nhưng về cơ bản nội dung là khá thống nhất. Cụ thể, mỗi phần học sinh được yêu

cầu phải nắm được những nội dung cơ bản sau:

Khi mới vào trường, các em phải hiểu được thế nào là nội quy trường giáo

dưỡng; nhớ được nội dung nội quy; hiểu và rèn luyện chấp hành tốt nội quy trường

giáo dưỡng. Bên cạnh đó, các em phải biết thi hành quyết định đưa vào trường giáo

dưỡng là gì để hiểu tại sao mình phải vào trường; hiểu quyền và nghĩa vụ của học

sinh trường giáo dưỡng để có những hành vi phù hợp cũng như biết được trách nhiệm của

trường giáo dưỡng trong việc tổ chức, thực hiện quyền, nghĩa vụ của học sinh.

Trong quá trình học ở trường, học sinh được học tập, rèn luyện theo các

chuẩn mực đạo đức, quy định của pháp luật cần thiết để hòa nhập vào môi trường

có kỷ luật chặt chẽ ở trường giáo dưỡng, có ý thức trách nhiệm với bản thân, với

nhà trường, với gia đình và xã hội. Bên cạnh đó cũng phấn đấu để trở thành người

lương thiện, công dân có ích cho xã hội. Cụ thể:

59

Các em phải biết được một cách cơ bản về thế nào là vi phạm pháp luật hành

chính/ dân sự/ hình sự và trách nhiệm pháp lý hành chính/ hình sự/ dân sự. Đối với

khối THCS, khi học nội dung trách nhiệm hình sự bổ sung thêm những tình tiết tăng

nặng trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó, học sinh cũng cần hiểu được một số nội

dung và áp dụng vào trong thực tế cuộc sống như quyền và nghĩa vụ lao động của

công dân; quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ tôn trọng tài sản của người khác; nghĩa

vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng; quy định của

pháp luật về bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên; quyền và nghĩa vụ của

công dân trong gia đình, trong hôn nhân; quy định của pháp luật về giữ gìn trật tự

an toàn xã hội và giữ gìn trật tự an toàn giao thông đường bộ.

Dựa trên mục tiêu và nội dung cụ thể như vậy, phương pháp dạy học môn

giáo dục công dân ở trường giáo dưỡng đã được các thầy cô quan tâm, tìm tòi đổi

mới nhằm thu hút học sinh. Không chỉ dừng lại ở phương pháp đọc chép thông

thường, các thầy cô giáo đã kết hợp một cách hợp lý các phương pháp dạy học cụ

thể như thảo luận, phân tích trường hợp điển hình, thuyết trình, phát vấn, nêu tấm

gương, kể chuyện… kết hợp với trình chiếu bằng power point. Trong quá trình dạy,

các thầy cô đều xác định không “dạy chay” mà tăng cường việc sử dụng các phương

tiện dạy học một cách hợp lý, đúng mức, đúng lúc và đúng chỗ, phù hợp với

phương pháp dạy học được sử dụng cũng như điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị

của trường. “Với đặc trưng học sinh ngại học, tiếp thu chậm như ở đây thì nếu chỉ

giảng suông các em sẽ rất chán, thậm chí tìm cách quấy phá. Giáo viên chúng tôi

phải tìm rất nhiều cách để thu hút các em như kể chuyện người thật việc thật, lấy ví

dụ những trường hợp thực tế ngay trong các em, sử dụng hình ảnh, clip minh họa

và gợi mở để các em tự rút ra bài học thay vì áp đặt.” (PVS số 2, 35 tuổi, nữ, giáo

viên văn hóa)

Ngoài hoạt động học tập thường kì, các cấp lãnh đạo cũng dành nhiều sự

quan tâm tới việc nâng cao chất lượng dạy và học giáo dục công dân. Hàng năm,

Tổng cục VIII đều có kế hoạch tổ chức nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho

giáo viên dạy giáo dục công dân bằng việc tổ chức cuộc thi “Giáo viên dạy giỏi

môn giáo dục công dân” cho giáo viên 4 trường giáo dưỡng.

60

Cụ thể, mỗi trường lựa chọn một giáo viên và một nhóm học sinh tổ chức 2

tiết học (1 tiết bắt buộc, 1 tiết tự chọn). Nội dung bài học nằm trong sách giáo khoa

và yêu cầu sử dụng power point trong quá trình giảng dạy. Không chỉ thông qua

việc giảng dạy trực tiếp trên lớp, bài thu hoạch do học sinh viết sau khi kết thúc bài

giảng cũng là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng bài giảng. Trong hai lần tham gia

thì cả hai lần giáo viên và học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình đều dành giải

nhất. Đây thực sự là một hoạt động có ý nghĩa, giúp các giáo viên được thi cọ sát và

học hỏi chuyên môn lẫn nhau, đồng thời cũng tạo nên không khí thi đua, nỗ lực nâng

cao chất lượng bài giảng của mình. (PVS số 4, 25 tuổi, nữ, giáo viên văn hóa)

Bên cạnh đó, ban giám hiệu nhà trường cũng tổ chức hội giảng hàng năm

vào các dịp 20/11 và 26/3 cho các giáo viên dạy văn hóa. Những dịp này nhà trường

sẽ mời chuyên viên phòng Giáo dục đào tạo và các giáo viên các trường THCS

cùng địa bàn tới tham dự và đánh giá chất lượng giảng dạy.

2.3.2. Giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động bổ trợ

Giáo dục pháp luật ở trường giáo dưỡng là một quá trình tác động có mục

đích và định hướng đến đối tượng tiếp nhận (học sinh) bằng nhiều phương pháp,

hình thức phù hợp nhằm làm hình thành và phát triển ở các em những tri thức pháp

luật, tạo thói quen và hành vi ứng xử đúng đắn, tích cực. Đặc thù là học sinh khi vào

trường giáo dưỡng là đã có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc lặp lại

nhiều lần. Bên cạnh đó, các em sinh hoạt và học tập trong môi trường tập trung như

quân ngũ trong một thời hạn nhất định. Chính vì vậy, những hoạt động nhằm giáo

dục pháp luật cho các em ở đây không những dễ triển khai mà còn có thể thông qua

nhiều hình thức phong phú, đa dạng.

Tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, một số phương pháp bổ trợ nhằm

giáo dục pháp luật cho các em đã được thực hiện như tổ chức cho học sinh xem

chương trình Tòa tuyên án; tư vấn riêng cho học sinh; tổ chức các trò chơi.

- Thứ nhất: Xem chương trình Tòa tuyên án

Xem chương trình Tòa tuyên án là một trong những hoạt động giáo dục bổ

trợ mang tính bắt buộc. Với mục đích thông qua kênh truyền hình để phổ biến kiến

thức, tăng cường năng lực pháp luật cho thanh thiếu niên, từ năm 2008 Trung tâm

thanh thiếu niên Đài truyền hình Việt Nam đã phối hợp với Học viên Tư pháp sản

61

xuất chương trình Tòa tuyên án. Chương trình được xây dựng dựa trên những tư

liệu có trong thực tế và có tác động mạnh đến người xem, đặc biệt là tầng lớp thanh

thiếu niên vì họ không có cảm giác mình đang “được” giáo dục. Nhận thấy những

hiệu quả đó, với sự hỗ trợ về băng đĩa và các phương tiện thu phát của tổ chức

PLAN, từ năm 2012 trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình đã đưa hoạt động xem

chương trình Tòa tuyên án trở thành một hoạt động thường xuyên với học sinh của

mình nhằm mục đích thay đổi nhận thức và hành vi xấu của các em một cách dần

dần, tự nguyện.

Về cách thức thực hiện, trước đây, học sinh được tập trung ở sân trường và

xem qua màn ảnh rộng. Sau này, nhà trường đã trang bị tivi đến từng phòng ở và

nối mạng LAN toàn trường, do đó học sinh ngồi tại phòng và xem theo đội (từ 20

đến 30 em).

Hoạt động xem chương trình Tòa tuyên án, không do giáo viên chủ nhiệm

quản lý mà là hoạt động tự giác của học sinh. Các buổi tối theo lịch trình đã đưa ra,

sau hiệu lệnh kẻng, tất cả các hoạt động cá nhân dừng lại, học sinh tập trung tại các

phòng xem chương trình qua tivi. Mỗi đội có một Ban tự quản do giáo viên chủ

nhiệm chọn (là những em lớn tuổi, chấp hành nội quy tốt) duy trì trật tự, quản lý

việc xem chương trình của các học sinh khác. Ngoài ra, các cán bộ thuộc trung đội

cảnh sát bảo vệ cũng thường xuyên kiểm tra.

Ở trường giáo dưỡng số 2, do yếu tố sử dụng băng, đĩa sao chép của Đài

Truyền hình nên việc lựa chọn nội dung cho học sinh xem khá chủ động. “Chúng

tôi tổ chức bật đĩa ghi hình các chương trình Tòa xử án theo kiểu cuốn chiếu, lặp

lại để học sinh xem nhiều lần mà ngấm dần dần. Tuy nhiên, các đĩa về các tội danh

như cố ý gây thương tích, hiếp dâm, gây rối trật tự công cộng là những tội các em

mắc nhiều thì chúng tôi cho xem nhiều lần hơn. Không cần nói nhiều mà bằng

chính những bản án thực tế các em đã rút ra được bài học cho chính mình” (PVS

số 5, 32 tuổi, nam, giáo viên văn hoá).

Mặc dù vậy, nội dung của các chương trình Tòa xử án không phải lúc nào

cũng phù hợp với học sinh. Các phiên tòa xử tranh chấp đất đai, tội phạm kinh tế là

những chương trình các em thường không thích xem do không hiểu.

62

Về tần suất xem chương trình, dịp nghỉ hè nhà trường tổ chức cho học sinh

xem 3 buổi tối/tuần. Vào năm học, do học sinh phải tự học văn hóa vào buổi tối nên

việc xem Tòa xử án được thực hiện vào tối thứ 7 và chủ nhật hàng tuần. Đối với học

sinh, 100% các em được hỏi cho biết có được xem chương trình với số lần lên tới

30-40 lần/ trong thời gian đang ở trường. Có tới 81.3% học sinh cho rằng những

chương trình đã xem trùng hoặc gần với trường hợp vi phạm của mình, do đó việc

các em thích thú với phương pháp giáo dục pháp luật này là điều dễ hiểu.

Biểu đồ 2.6. Mức độ thích thú của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

với phƣơng pháp xem chƣơng trình Tòa tuyên án

(Nguồn: Số liệu điều tra)

Có thể thấy phần lớn học sinh (67,7%) được hỏi cho rằng chương trình Tòa

xử án là một chương trình thú vị và bổ ích với mình. Các em được xem trình tự một

phiên tòa, việc phân tích cụ thể các tội danh, đặc biệt yếu tố tác động vào tâm lý các

em mạnh nhất là việc tòa kết án. Đa số các em khi được phỏng vấn sâu đều cho rằng

việc chỉ phải vào trường giáo dưỡng là may mắn đối với mình. “Xem chương trình

Tòa tuyên án, em có gặp trường hợp giống của em. Nhưng bạn ở đấy phải vào tù 3

năm, còn em chỉ phải vào trường giáo dưỡng đã là may mắn lắm rồi. Đi tù sợ lắm.”

(PVS số 8, 16 tuổi, nam, học sinh)

Hoạt động kiểm tra nhận thức của học sinh sau khi xem Tòa tuyên án được

thực hiện một cách ngẫu nhiên chứ không mang tính bắt buộc. Các thầy cô chủ

nhiệm sẽ kiểm tra học sinh bất kì bằng các câu hỏi về nội dung, các chi tiết trong

63

chương trình. “Học sinh tự thẩm thấu chứ không phải viết thu hoạch hay bài kiểm

tra. Thỉnh thoảng chúng tôi kiểm tra kiến thức của các em bằng những câu hỏi như

tên phim, nội dung cơ bản của phim hay anh A bị xử tù bao nhiêu năm” (PVS số 3,

37 tuổi, nam, giáo viên chủ nhiệm)

- Thứ hai: Tư vấn riêng

Một hoạt động giáo dục bổ trợ khác cũng được thực hiện thường xuyên là tư

vấn riêng. Tư vấn riêng là hoạt động tương tác giữa người tư vấn với học sinh, trong

đó người tư vấn sử dụng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của mình với mục tiêu

giúp các em thấu hiểu hoàn cảnh của mình và tự giải quyết vấn đề của mình.

Tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, người tư vấn gồm một tổ có các thầy

Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm, cán bộ y tế, giáo viên văn hóa và một cán bộ

tư vấn chuyên trách.

Nguyên tắc của hoạt động tư vấn riêng là tính khuyết danh, đảm bảo bí mật

cho học sinh. Nhà trường tạo điều kiện xây dựng một phòng tư vấn riêng với cơ sở

vật chất đảm bảo để tạo sự thoải mái về không gian cũng như tâm lý cho các em.

Trước cửa phòng tư vấn có hòm thư “ Nhu cầu tư vấn tự nguyện” và phát mẫu

phiếu tư vấn (ghi họ tên, đội, thông tin cá nhân và nội dung cần tư vấn ngắn gọn)

cũng như hướng dẫn các em khi mới vào trường. Hoạt động tư vấn riêng thường

được thực hiện vào ngày nghỉ để tránh ảnh hưởng tới việc học tập và lao động của

học sinh. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, với những học sinh có những vấn đề

đặc biệt, cán bộ tư vấn có thể trích xuất em đó ở lại tư vấn riêng ngay trong ngày

nhằm giải tỏa tâm lý cho em kịp thời.

Với tổ tư vấn, học sinh hoàn toàn chủ động trong việc yêu cầu tư vấn cũng

như lựa chọn người tư vấn. Hầu hết với từng lĩnh vực cụ thể, các em sẽ đăng kí

người tư vấn phù hợp, như vấn đề sức khỏe, giới tính yêu cầu cán bộ y tế; vấn đề

nội quy, quy chế yêu cầu giáo viên chủ nhiệm, các vấn đề tình cảm, quan hệ gia

đình, bạn bè yêu cầu cán bộ tư vấn chuyên trách. Đặc biệt, Ban giám hiệu cũng là

những người tư vấn rất hiệu quả và được các em tin cậy yêu cầu tư vấn nhiều vấn đề

như việc chấp hành, giảm thời hạn hay chia sẻ hoàn cảnh gia đình.

Kết quả khảo sát về số lần được tư vấn riêng, học sinh trường giáo dưỡng số

2 trả lời như sau: 33,1% cho rằng “chưa bao giờ”; 40% trả lời “một lần” và 26,9%

64

trả lời “hai lần trở lên”. Con số này cho thấy hoạt động tư vấn riêng đã có những kết

quả nhất định với việc 66,9% học sinh tìm đến thầy cô để được giải đáp những khúc

mắc trong cuộc sống, sinh hoạt và tới 26,9% hài lòng và muốn được tư vấn nhiều

lần nữa.

Về nội dung tư vấn, thống kê kết quả tư vấn học sinh năm 2013 của trường

cho biết tổng số ca tư vấn cá nhân là 153 ca, trong đó các vấn đề cụ thể như sau:

Bảng 2.7. Thống kê số ca tƣ vấn học sinh năm 2013

của trƣờng giáo dƣỡng số 2

Nội dung Số ca Tỷ lệ %

Chấp hành nội quy, giảm thời hạn, pháp luật 61 39,9

Gia đình và tương lai 57 37,3

Sức khỏe và giới tính 21 13,7

Tình yêu, tình bạn 14 9,1

Tổng 153 100

Nguồn:[33, tr1]

Với tỷ lệ cao nhất trong các lĩnh vực tư vấn (39,9%), có thể đánh giá đối

với học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, việc tìm hiểu và được tư vấn sâu

về pháp luật là một nhu cầu thiết yếu. Các em không chỉ dừng lại ở việc lắng nghe

thụ động mà còn được đặt câu hỏi, trao đổi và có được những gợi ý, lời khuyên

hay giải pháp phù hợp với vấn đề cụ thể của mình.

Với câu hỏi khảo sát “Câu trả lời của các thầy cô tư vấn có thỏa mãn thắc

mắc của em không” cho kết quả 69,3% các em trả lời “có”; 10,5% trả lời “không”

và 20,2% trả lời “lúc có, lúc không”. Con số này phù hợp với thực tế chia sẻ của

cán bộ tư vấn chuyên trách “Không phải lúc nào việc tư vấn cũng đạt hiệu quả.

Có trường hợp một em không còn cha mẹ, sống trong một tổ chức và đi đòi nợ

thuê. Em tự xác định được là nếu không tách biệt được môi trường đó thì sẽ lại

tiếp tục quay lại con đường cũ và không tự tin có thể thoát ra được. Em luôn nghĩ

tiêu cực rằng xã hội, cộng đồng không có thiện cảm với mình và mình không có cơ

hội làm lại cuộc đời. Mặc dù chúng tôi đã phân tích, động viên bằng nhiều cách

nhưng dường như em mới bằng mặt chứ chưa bằng lòng” (PVS số 6, 27 tuổi,

nam, cán bộ tư vấn)

65

Đánh giá về mức độ yêu thích của học sinh với phương pháp tư vấn riêng, số

liệu cho thấy:

Biểu đồ 2.7. Mức độ yêu thích của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

với phƣơng pháp tƣ vấn riêng

Số liệu trên cho thấy, mặc dù không phải mọi câu trả lời của thầy, cô tư vấn

đều thỏa mãn nhưng phần đông các em học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình

(67,2%) cho rằng tư vấn riêng là phương pháp giáo dục pháp luật hay và bổ ích với

mình. Đây là một chỉ số để đánh giá mức độ hiệu quả cũng như định hướng phát

triển các phương pháp giáo dục cho phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của học sinh

trường giáo dưỡng số 2.

- Thứ ba: Chơi trò chơi

Giáo dục học sinh thông qua các hoạt động chơi trò chơi là một hoạt động bổ

trợ được thực hiện hàng tuần theo các chủ đề. Mục đích của hoạt động này là thông

qua các trò chơi tập thể cung cấp cho học sinh những kiến thức cần thiết về các lĩnh

vực (pháp luật, sức khỏe sinh sản, lịch sử…) đồng thời tạo không khí thi đua, học

hỏi giữa học sinh lẫn nhau. Hoạt động này cũng tạo điều kiện để học sinh giao lưu,

trao đổi, giúp đỡ, động viên cùng nhau phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện tiến

bộ và nâng cao ý thức trách nhiệm cộng đồng.

Mỗi tối thứ bảy hàng tuần, đội giáo vụ hồ sơ có nhiệm vụ tổ chức các trò

chơi ngoài trời như “chiếc nón kì diệu”, “đừng để tiền rơi” hay “đuổi hình bắt chữ”

với các chủ đề cụ thể.

66

Nội dung các chủ đề rất phong phú, thường về pháp luật, sức khỏe giới tính,

truyền thống và lịch sử đất nước, nhà trường và kỹ năng sống. Với những nội dung

phong phú như vậy, để thực hiện được một buổi chơi trò chơi là sự hợp tác thực

hiện của nhiều nhóm cán bộ giáo viên. Đội giáo viên văn hóa có nhiệm vụ thu thập

thông tin và lên nội dung các câu hỏi, phương án trả lời; đội giáo vụ hồ sơ có nhiệm

vụ lên nội dung chương trình và tổ chức triển khai; đội giáo viên chủ nhiệm có

nhiệm vụ tập trung và quản lý học sinh; đội tài vụ hậu cần có nhiệm vụ đảm bảo

phương tiện, quà tặng cho học sinh. Bên cạnh đó, ngay bản thân các em học sinh

cũng phải có sự chuẩn bị, tìm tòi tài liệu và trau dồi kiến thức trước khi tham gia

vào các trò chơi.

Các buổi chơi trò chơi thường được dẫn dắt bởi các cán bộ giáo vụ hồ sơ. Để

đảm bảo cho mọi học sinh trong trường đều có thể tham gia trực tiếp, hoạt động này

được tổ chức tại sân bóng ngoài trời với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật như

máy chiếu, loa đài. Với việc bắt chước khung chương trình của các trò chơi trên

truyền hình với các quà tặng mang tính hình thức nhưng hoạt động đã tạo nên sự thu

hút lớn với các em học sinh.

Biểu đồ 2.8. Mức độ thích thú của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

với phƣơng pháp chơi trò chơi

Không chỉ học sinh đánh giá cao hiệu quả của hoạt động này mà chính các

thầy cô cũng nhận thấy điều đó. “Theo tôi đánh giá các em thích nhất là chơi trò

67

chơi. Trẻ con mà, học mà chơi chơi mà học bao giờ cũng là hiệu quả nhất. Đặc biệt

việc được đại diện cho đội lên trước toàn trường để thi, được quà mang về nữa thì

càng khiến các em tự hào mà cố gắng thể hiện mình” (PVS số 1, 39 tuổi, nam, cán

bộ giáo vụ hồ sơ)

- Thứ tư: Xem xử án lưu động

Giáo dục pháp luật qua hoạt động xét xử được ghi nhận trong Luật tổ chức

tòa án nhân dân năm 2002, bằng hoạt động của mình “Tòa án giáo dục cho mọi

người ý thức tôn trọng pháp luật, rèn luyện thói quen tuân thủ pháp luật, cần làm

cho mọi người tin rằng bất cứ sự vi phạm pháp luật nào cùng sẽ bị Tòa án và xã hội

lên án, giáo dục mọi công dân ý thức tham gia vào hoạt động đấu tranh phòng

chống tội phạm”.[39, tr.1]

Giáo dục pháp luật qua hoạt động xét xử là quá trình tác động có mục đích,

có tổ chức, có chủ định và có kế hoạch của các chủ thể giáo dục (Thẩm phán, Kiểm

sát viên, Luật sư, Thư ký tòa án, Giám định viên) đến các đối tượng giáo dục

(những người tham gia tố tụng và những người tham dự phiên tòa) nhằm hình thành

ở họ ý thức pháp luật, trạng thái xúc cảm, tình cảm pháp luật đúng đắn là cơ sở cho

hành vi, ứng xử phù hợp với yêu cầu của pháp luật.[39, tr,1]

Với mục đích chung của giáo dục pháp luật qua hoạt động xét xử như vậy,

trường giáo dưỡng số 2 đã kết hợp với Tòa án nhân dân huyện Yên Mô tổ chức một

buổi xét xử lưu động tại trường. Mục đích cụ thể của hoạt động này là thông qua

hoạt động xét xử được thực hiện trực tiếp tại trường, có thể giúp cho các em học

sinh trường giáo dưỡng hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định của pháp

luật được áp dụng để giải quyết vụ án. Từ đó học sinh có thể tự đánh giá về hành vi

và trách nhiệm pháp lý của mình, giúp hình thành ở các em những cảm xúc về sự

công bằng nghiêm minh của pháp luật, tôn trọng các đại diện của công lý, giúp các

em định hướng hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật (cụ thể là phù hợp với

những bản án, quyết định đúng đắn của hội đồng xét xử), nhờ đó mà phát huy tác

dụng phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hoạt động xét xử cũng như hoạt

động giáo dục.

Trên thực tế, hoạt động này mới được thực hiện ở trường 1 lần vào năm

2013. Nguyên nhân là do học sinh Nguyễn Văn Tuấn đã đâm chết học sinh Hoàng

68

Bá Thắng do những xích mích trong cuộc sống sinh hoạt trước đó. Để làm bài học

răn dạy cho học sinh, cũng như để các em biết trình tự và trực tiếp cảm nhận cảm

không khí của một buổi xét xử, nhà trường đã làm đơn đề xuất để việc xử án đối với

em Nguyễn Văn Tuấn được thực hiện tại trường.

Biểu đồ 2.9 : Mức độ yêu thích của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

với phƣơng pháp xử án lƣu động

Biểu đồ 2.9 cho thấy học sinh trường giáo dưỡng số 2 đánh giá cao phương

pháp xử án lưu động. “Em rất thích vì nó rất thực tế, không diễn như trong Tòa xử

án. Sau khi xem xong bọn em bàn tán rất nhiều. Nếu là em đứng ở đó (vành móng

ngựa) em sẽ rất sợ.” (PVS số 9, 16 tuổi, nam, học sinh)

2.3.3 Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động khen thưởng, kỷ luật

Cũng như mọi môi trường giáo dục khác, khen thưởng và kỷ luật là một hoạt

động không thể thiếu trong trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình. Hoạt động này được

thực hiện với mục đích động viên, giáo dục học sinh phát huy tinh thần tự giác, thi

đua học tập, rèn luyện phẩm chất và chấp hành nghiêm túc các quy tắc và nội quy

của nhà trường. Mặt khác, củng cố và tăng cường công tác quản lý học sinh về mọi

mặt, góp phần tích cực vào việc rèn luyện học sinh có tư tưởng, tác phong, nếp sống

đúng đắn, phù hợp.

Với mục đích như trên, hoạt động khen thưởng và kỷ luật ở trường giáo

dưỡng số 2 được thực hiện với những nguyên tắc cụ thể, đó là:

69

- Thứ nhất, giáo dục, động viên nhiều hơn trừng phạt, khen thưởng nhiều hơn

kỷ luật. Kỷ luật chỉ được phép thực hiện khi mọi phương pháp giáo dục khác không

đạt hiệu quả.

- Thứ hai, khen thưởng, kỷ luật phải chính xác, nghiêm minh, công bằng,

không thành kiến tình cảm và đảm bảo chính sách. Khi công tác khen thưởng thi

đua cũng như kỷ luật thực sự công khai, minh bạch, công bằng, dân chủ chính sẽ là

một cú hích về tâm lý để các em ra sức phấn đấu rèn luyện.

- Thứ ba, khen thưởng, kỷ luật phải kịp thời. Chỉ khi thưởng phạt, khen chê

đúng thời điểm, kịp thời thì nó mới có tác động mạnh lên thái độ và cách ứng xử

của học sinh.

Về hoạt động khen thưởng, việc xếp loại thi đua khen thưởng cho học sinh

gắn liến với các phong trào thi đua hàng tháng, hàng quý do nhà trường phát động.

Công tác thi đua khen thưởng nhằm đánh giá phân loại và có hướng để tập trung

giáo dục đối với những em chưa tiến bộ cũng như biểu dương, động viên các em có

tinh thần phấn đấu trong học tập, lao động. Để có thể phản ánh một cách đầy đủ,

chính xác và công tâm chất lượng thi đua của các em, các thầy cô giáo mà nhất là

giáo viên chủ nhiệm đội đã thực sự sâu sát nắm chắc quá trình tu dưỡng của từng

em. Các thầy cô đều có sổ theo dõi đánh giá theo từng ngày với từng học sinh.

Đồng thời, hàng tuần trong từng đội đều tổ chức sinh hoạt kiểm điểm, biểu dương

khen thưởng, nêu những tấm gương điển hình trong học tập, lao động và chấp hành

nội quy, quy chế của trường và chỉ ra những thiếu sót, những việc làm sai trái của

học sinh để tập thể đội tự góp ý, phê bình thẳng thắn. “Việc biểu dương khen

thưởng những việc làm tốt của các em dù những việc tốt đó chỉ là rất nhỏ là rất cần

thiết vì chính sự biểu dương ấy làm các em có thêm ý chí để vươn lên.” (PVS số 2,

35 tuổi, nữ, giáo viên văn hóa). Mỗi cuối tháng, việc bình xét thi đua sẽ được tổ

chức thông qua việc bỏ phiếu kín trong tập thể đội học sinh để đảm bảo tính dân

chủ, công bằng trong khi phân loại thi đua cho từng học sinh.

Các hình thức khen thưởng được thực hiện ở trường giáo dưỡng số 2 gồm có

biểu dương, thưởng hoặc hiện vật, đề nghị giảm thời hạn, cho đi phép về thăm gia

đình hoặc gặp thêm giờ. Cụ thể, các tiêu chuẩn để được xét khen thưởng dựa trên 4

tiêu chuẩn thi đua (về học tập, rèn luyện, lao động, hoạt động ngoại khóa) và nội

70

quy, quy chế trường giáo dưỡng. Việc xếp loại này phân ra 4 mức là tốt, khá, trung

bình và yếu và được thực hiện theo tuần, tháng, 3 tháng, 6 tháng. Tùy vào hoạt động

thực tế trong tuần, tháng của học sinh mà giáo viên chủ nhiệm và đội học sinh sẽ bỏ

phiếu kín xếp loại cho từng cá nhân. Ví dụ: Cứ 3 tháng xếp loại mà trong đó có 2

tháng xếp loại khá, 1 tháng xếp loại tốt thì quý đó được xếp loại tốt và được khen

thưởng. Cụ thể, trong năm 2013 nhà trường đã có hình thức khen thưởng như sau:

Bảng 2.8. Số lƣợt khen thƣởng học sinh năm 2013 của

trƣờng giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình

Hình thức khen thƣởng Số lƣợt Tỷ lệ %

Biểu dương 2332 47,4

Thưởng tiền, hiện vật 2032 41,2

Đề nghị giảm thời hạn 485 9,9

Cho đi phép 75 1,5

Gặp thêm giờ 00 00

Tổng 4924 100

Nguồn: [33, tr.2]

Qua bảng 2.8 có thể thấy nhà trường đã rất quan tâm tới việc động viên, khen

thưởng đối với học sinh. Các hình thức khen thưởng chủ yếu là biểu dương trước

toàn trường vào giờ chào cờ đầu tuần hoặc thông qua hệ thống loa phát thanh và

thưởng tiền hoặc hiện vật. Mặc dù với tiền mặt học sinh không được giữ mà gửi về

cho gia đình hoặc gửi lưu ký ở trường để mua mua các đồ dùng cá nhân, tuy nhiên các

hình thức khen thưởng như vậy là một sự thúc đẩy các em phấn đấu, thi đua nhau.

Tuy nhiên, bảng số liệu này mới chỉ cho thấy số lượt khen thưởng mà chưa

thể hiện rõ số lượng học sinh cụ thể được nhận các hình thức khen thưởng. Mặc dù

số lượt giảm án chỉ là 485 (chiếm 9,9%) nhưng thực tế nếu xét về số lượng học sinh

thì đây là một con số đáng mừng. Do điều kiện giảm thời hạn chấp hành biện pháp

giáo dưỡng là mỗi học sinh chỉ được xét giảm 1 lần trong thời hạn ở trường nên 485

lượt giảm án chính là 485/780 em học sinh (chiếm 62,2%) trong năm 2013.

Cụ thể, về cách thức tính thời gian xét giảm thời hạn chấp hành biện pháp

giáo dưỡng như sau:

71

Đối tượng được xét giảm là học sinh đã chấp hành được ½ thời gian đã ghi

trong quyết định và trong 2 tháng trước khi xét giảm phải xếp loại thi đua khá hoặc

tốt cũng như xếp loại thi đua định kỳ quý phải xếp loại khá hoặc tốt.

Về tiêu chuẩn được xét giảm phải là các học sinh thực hiện tốt 4 tiêu chuẩn

thi đua và nội quy, quy chế trường giáo dưỡng. Các em phải nhận rõ được lỗi lầm

của bản thân, an tâm ở trường rèn luyện, tu dưỡng, tích cực lao động học tập. Đồng

thời, các em phải có tiến bộ rõ rệt, gương mẫu trong nếp sống và sinh hoạt, có ý

thức xây dựng tập thể đội và nhà trường.

Về các mức xét giảm, mỗi năm học sinh được xét giảm thời hạn một lần, thời

hạn xét giảm không quá ¼ thời hạn ghi trong quyết định. Theo đó:

4 tháng xếp loại tốt được tính giảm 1 tháng

5 tháng xếp loại khá được tính giảm 1 tháng

2 tháng xếp loại trung bình được trừ 1 tháng giảm

1 tháng xếp loại yếu được trừ 1 tháng giảm

Tuy nhiên các tính này cũng không phải cố định, mà có thể cộng thêm thời

gian xét giảm cho những học sinh có thành tích hoặc trừ thêm với những học sinh vi

phạm nội quy. Bên cạnh đó, trường hợp học sinh vào trường lần đầu nhưng trong hồ

sơ thể hiện hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, rất nghiêm trọng; học sinh vào

trường lần 2 trở lên hoặc nghiện hút, lang thang, gia đình không rõ ràng nơi cư trú

thì phải xem xét kỹ. Mức thời gian đề nghị được giảm cũng phải chặt chẽ hơn số

học sinh có cùng thời hạn cùng kết quả thi đua ít nhất là 1 tháng. [32, tr.2]

Cụ thể, năm 2013 nhà trường đã giảm thời hạn cho học sinh như sau:

Bảng 2.9. Kết quả giảm thời hạn cho học sinh

trƣờng giáo dƣỡng số 2 năm 2013

Tổng số Giảm thời hạn

06 tháng Từ 03-06 tháng Từ 01-03 tháng

485 04 258 223

100% 0,8% 53,2% 46%

Nguồn [33, tr.1]

Về tình hình kỷ luật, do tính chất đặc thù của các em học sinh trường giáo

dưỡng là đã có một thời gian dài thực hiện những hành vi trái với quy định của pháp

72

luật, với một ý thức sống buông thả, chây lười, ngổ ngáo, phá phách nên khi vào

trường các em thường chưa thực sự chịu sự hướng dẫn, bảo ban của thầy cô. Các

em thường tìm cách lừa dối thầy cô, trộm cắp đồ của bạn, trốn trường hay đánh

nhau, thích làm đại ca, anh chị để bắt các em khác phải nể sợ. Việc vi phạm nội quy

như vậy sẽ tác động đến tư tưởng của các em khác cũng như gây khó khăn trong

quá trình giáo dục của thầy cô. Chính bởi vậy, để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý

kịp thời những sai phạm đó, nhà trường đã xây dựng một nội dung kỷ luật chặt chẽ,

cụ thể và phù hợp với học sinh.

Bảng 2.10. Tổng số lƣợt học sinh vi phạm kỷ luật năm 2013

của trƣờng giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình

Hành vi vi phạm kỷ luật Số lƣợt Tỷ lệ %

Trốn 05 2,3

Đánh nhau 54 25,1

Mang đồ vật cấm 32 14,8

Trộm cắp 57 26,3

Vô lễ với thầy, cô giáo 02 0,9

Xăm trổ 10 4,7

Hành vi khác 56 25,9

Tổng số 216 100

Nguồn [33, tr1]

Nhìn vào bảng 2.10 có thể thấy hành vi vi phạm kỷ luật mà các em học sinh

trường giáo dưỡng số 2 mắc phải nhiều nhất là trộm cắp (26,3%) và đánh nhau

(25,2%). Đây cũng chính là những hành vi vi phạm mà các em mắc nhiều nhất

trước khi vào trường.

Việc xử lý vi phạm kỷ luật luôn được các thầy cô xác định là việc làm nhằm

uốn nắn những cá nhân có lối sống buông thả, tùy tiện, không khép mình vào khuôn

khổ, không tu dưỡng rèn luyện, đồng thời là bài học cho các em khác rút kinh

nghiệm. “Chúng tôi luôn tâm niệm khi xử lý học sinh vi phạm nội quy là phải xử lý

nghiêm minh, đúng người đúng lỗi, đảm bảo khách quan để giúp các em vi phạm

nội quy sửa chữa lỗi lầm của mình, mặt khác để những em khác thấy rõ hậu quả

của việc không tự giác tu dưỡng rèn luyện mà từ đó rút kinh nghiệm và chấp hành

73

tốt hơn. Tuy nhiên, xử lý gì đi chăng nữa cũng phải trên cơ sở là đi từ nhẹ đến

nặng, từ bảo ban, khuyên bảo đến phê bình, tự kiểm điểm, cảnh cáo. Có như vậy

học sinh mới thấy mình thương nó, muốn tốt cho nó.”(PVS số 7, nam, 30 tuổi, giáo

viên chủ nhiệm)

Bảng 2.11. Số lƣợt xử lý kỷ luật học sinh năm 2013

của trƣờng giáo dƣỡng số 2

Hình thức kỷ luật Số lƣợt Tỷ lệ %

Cảnh cáo 80 37,0

Đưa vào nhà tu dưỡng 135 62,5

Truy tố tội mới 01 0,5

Hình thức mới 00 00

Tổng số 216 100

Nguồn [33, tr.1]

So sánh với bảng 2.11 với bảng 2.8 có thể thấy số lượt kỷ luật ít hơn hẳn so

với số lượt khen thưởng (216 so với 4924). Như vậy nguyên tắc “giáo dục, động

viên nhiều hơn trừng phạt, khen thưởng nhiều hơn kỷ luật” đã được nhà trường và

các thầy cô thực hiện triệt để. Bên cạnh đó, số liệu này cũng cho thấy phần nhiều

các em học sinh có sự cố gắng, tiến bộ, chịu khó lao động học tập để được khen

thưởng hay xa hơn là được xét giảm thời hạn.

Giáo dục cá biệt là một phương pháp giáo dục cụ thể nằm trong phương

pháp khen thưởng kỷ luật. Giáo dục cá biệt là sự tiến hành giáo dục pháp luật cho

những học sinh đã có hành vi hoặc có nhiều biểu hiện tiêu cực có khả năng dẫn đến

việc thực hiện hành vi vi phạm nội quy với nội dung và hình thức giáo dục riêng.

Đây là một trong những phương pháp giáo dục riêng của công tác tư tưởng đối với

những học sinh chậm tiến mà nếu chỉ dừng lại ở phương pháp giáo dục chung thì sẽ

không đem lại kết quả như mong muốn.

Mục đích của phương pháp này nhằm phục vụ tích cực cho công tác phòng

ngừa và đấu tranh chống những hành vi tiêu cực, loại trừ những nhận thức lệch lạc

của các em học sinh, từ đó giúp các em sớm nhận ra sai lầm của mình mà tự giác cải

tạo, sửa chữa.

74

Phương pháp này được thực hiện theo trình tự từ khiển trách, cảnh cáo đến

giáo dục tại nhà tu dưỡng. Có 3 căn cứ để đánh giá và có mức độ giáo dục cụ thể

với từng học sinh là mức độ của hành vi lỗi so với mặt bằng chung; ý thức chủ quan

của học sinh trong quá trình thực hiện hành vi; những hậu quả xảy ra.

“Trong giáo dục cá biệt phải rất mềm dẻo, linh hoạt. Ví dụ cùng là hành vi

trốn trường, với một học sinh mới vào trường 1 tháng thì hình thức giáo dục chỉ là

nhắc nhở, khiển trách hoặc cảnh cáo. Tuy nhiên, với những học sinh có thời gian ở

trường đã lâu, hoặc là một đội trưởng đội tự quản thì hành vi này sẽ bị kỷ luật ở

mức độ đưa vào nhà tu dưỡng. Với hành vi đánh nhau cũng tương tự, là một đội

trưởng được trao quyền đôn đốc, nhắc nhở đội viên, đáng ra phải làm gương cho

các bạn thì lại đánh nhau, thậm chí kêu gọi đánh nhau tập thể, lợi dụng quyền hạn

để chèn ép, có hành vi đầu gấu, anh chị thì phải đưa vào nhà tu dưỡng để các em tự

kiểm điểm.” (PVS số 7, 30 tuổi, nam, giáo viên chủ nhiệm)

Về cách thức thực hiện, bước đầu tiên là gặp gỡ, tiếp xúc với học sinh giống

như phương pháp tư vấn riêng. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai phương pháp này là

nếu như tư vấn riêng là phương pháp học sinh chủ động tìm đến thầy cô để chia sẻ

và thầy cô tìm cách phân tích, khuyên nhủ để học sinh tự nhận thức ra vấn đề thì

giáo dục cá biệt, giáo viên một mặt cần giữ thái độ mềm mỏng song đối với học

sinh có thái độ chống đối, lỳ lợm, thể hiện máu “anh chị” ngoài xã hội thì cần phải

có thái độ cứng rắn, kiên quyết, thậm chí có những trường hợp cách thức giáo dục

nghiêng về áp đặt để buộc các em phải nhận thức ra sai lầm của mình và chấp nhận

sửa đổi. Bước thứ hai, các thầy cô tìm hiểu nguyên nhân, động cơ, nguyện vọng hay

những yếu tố cá nhân của các em để từ đó có hướng giáo dục cho phù hợp. Trong

quá trình làm việc với học sinh, nếu như việc khiển trách, cảnh cáo với học sinh

không đạt hiệu quả, giáo viên sẽ quyết định đưa các em vào nhà tu dưỡng.

Hiện nay, trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình có 5 phòng dành riêng cho công

tác này. Các phòng được trang bị những cơ sở vật chất cơ bản nhất như giường,

chăn màn. Tất cả các hoạt động của học sinh bị đưa vào nhà tu dưỡng đều được

thực hiện tại chỗ cho đến khi các em hết ngày phạt.

Thời gian tối đa cho phép để một học sinh ở nhà tu dưỡng là 5 ngày. Quá

trình ở tại nhà tu dưỡng, các em sẽ được ở một mình, tự suy nghĩ và kiểm điểm về

75

những hành vi sai trái của bản thân. Trong thời gian này, giáo viên có thể gọi học

sinh ra cho viết kiểm điểm, nhận thức về những việc mình đã làm cũng như tìm hiểu

tiếp về nguyên nhân, động cơ của hành vi của các em. Tùy thuộc vào sự hối lỗi của

học sinh mà việc ở nhà tu dưỡng kéo dài bao nhiêu ngày.

Theo số liệu điều tra, học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình đánh giá về

phương pháp giáo dục pháp luật thông qua giáo dục cá biệt như sau:

Biểu đồ 2.10. Mức độ yêu thích của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

với phƣơng pháp khen thƣởng, kỷ luật

Số học sinh đánh giá mức độ “bình thường” với phương pháp khen thưởng,

kỷ luật chiếm tỷ lệ cao nhất là 49,2%, trong khi đó “không hay/chán” có tỷ lệ

13,1%. Như vậy có thể thấy nói chung các em học sinh trường giáo dưỡng số 2

2.3.4 Giáo dục pháp luật qua phương tiện truyền thông của trường

Để đạt được mục tiêu cuối cùng là nâng cao nhận thức pháp luật cho học

sinh của mình, giúp các em hoàn thiện bản thân và tái hòa nhập cộng đồng, không

tái phạm thì nhà trường đã không chỉ dừng lại ở việc giáo dục một cách trực tiếp

qua việc học tập chính khóa hay các hoạt động giáo dục bổ trợ mà còn tuyên truyền,

phổ biến pháp luật thông qua hoạt động gián tiếp. Thông qua những hình thức gián

tiếp như vậy, học sinh tiếp nhận các vấn đề về đời sống xã hội và thẩm thấu dần

dần, hình thành cho các em một giá trị sống mới, đúng đắn. Đặc biệt, với các vấn đề

về nội quy, pháp luật, hình thức này có giá trị nhất định. Hiện tại, trường giáo

76

dưỡng số 2 Ninh Bình đang sử dụng phương tiện truyền thông chính là loa phát

thanh và báo chí.

Nội dung phát thanh rất phong phú, hệ thống loa phát thanh của nhà trường

được sử dụng thường xuyên để cập nhật thông tin mới, thông báo các vấn đề của

nhà trường và là một phương tiện giải trí cho học sinh. Vào các ngày nghỉ, giờ nghỉ

loa phát thanh thường phát các thông tin thời sự, chính luận từ đài Tiếng nói Việt

Nam nhằm giúp học sinh tăng vốn sống, sự hiểu biết xã hội. Ngoài ra, hoạt động

phát tin nội bộ có một cán bộ chuyên trách làm nhiệm vụ tổng hợp và viết các bài

tin về học tập, rèn luyện, tuyên truyền nội quy trường giáo dưỡng, các tiêu chuẩn thi

đua, chế độ chính sách, quyền và nghĩa vụ của trẻ em, các vấn đề biểu dương, phê

bình hoặc lưu ý các cá nhân, tập thể trong tuần, tuyên truyền các hoạt động, phong

trào đang diễn ra ở trường hoặc các kế hoạch của nhà trường về dịch bệnh, từ đó

học sinh nắm được hoạt động đang được triển khai ở trường. Bên cạnh đó, vào

những dịp lễ như ngày nhà giáo Việt Nam, ngày Phụ nữ Việt Nam, lễ Vu lan, chiến

thắng Điện Biên Phủ… cán bộ này cũng có nhiệm vụ viết bài theo chủ điểm như

viết về tình cảm mẹ con, thầy trò, về những chiến công của quân đội ta. Đặc biệt,

nhà trường còn quan tâm, sát sao đến những việc rất nhỏ như ghi âm những đĩa

nhạc theo chủ điểm và phát nhạc vào những dịp lễ này. Tất cả những việc này đều

nhằm mục đích bồi đắp cho các em lòng tự hào dân tộc, sự biết ơn các thầy cô, tình

cảm gia đình mà từ đó xây dựng cho mình những giá trị sống đúng đắn, tốt đẹp để

khi ra trường có thể trở thành một công dân lương thiện, có ích cho xã hội.

Cụ thể, một chương trình thông tin nội bộ thường được thiết kế gồm: 1. Tổng

kết các hoạt động trong tuần, 2. Thông báo các hoạt động sẽ triển khai trong tuần

mới, 3. Đọc danh sách khen thưởng và kỷ luật các cá nhân và tập thể, 4. Những

nhắc nhở hoặc lưu ý. Mặc dù mục đích giáo dục pháp luật ở đây không được thể

hiện một cách cụ thể, trực tiếp nhưng thông qua những tin bài được phát trên hệ

thống truyền thanh, các em lắng nghe, tự thẩm thấu và có những so sánh, nhận định

cho riêng mình mà từ đó có ý thức tuân theo pháp luật, xây dựng quy tắc sống cộng

đồng đúng đắn. “Thỉnh thoảng em và các bạn trong đội được đọc tên khen thưởng

vì giữ phòng ở sạch sẽ, thi trò chơi được xếp hạng nhất hay em viết thư được giải

cũng được nêu tên. Em cảm thấy rất vui và tự hào, em còn gọi điện về khoe bố mẹ.

77

Chắc chắn là em sẽ cố gắng nữa để lại được đọc tên khen thưởng” (PVS số 10, 15

tuổi, nam, trộm cắp)

Bên cạnh đó, sách báo, tạp chí cũng được nhà trường quan tâm đầu tư. Được

sự quan tâm, đầu tư về vốn và cơ sở vật chất của tổng cục VIII và tổ chức PLAN,

trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình đã xây dựng một thư viện với con số đầu sách

lên tới hàng nghìn. Ngoài ra, các giáo viên chủ nhiệm cũng có nhiệm vụ tìm và thu

thập những đầu sách mới, phù hợp với học sinh để làm phong phú thêm cho thư

viện trường. Ngoài sách báo ở thư viện, hàng ngày một số báo như Thanh niên, Hoa

học trò được phát về các đội để các em đọc và trao đổi.

Các đầu sách ở thư viện được phân theo từng lĩnh vực như văn hóa, sức

khỏe, giáo dục giới tính, pháp luật… Hiện nay, các sách về pháp luật ở trường chủ

yếu là các văn bản pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, bảo vệ và chăm sóc trẻ em,

các nghị định có liên quan đến chế độ, chính sách với học sinh.

Hoạt động đọc sách ở thư viện là hoạt động tự nguyện. Các cá nhân trong

thời gian rỗi có thể chủ động lên thư viện đọc sách tại chỗ. Ngoài ra, các đội trưởng

đội tự quản có thể đăng kí một số đầu sách để mượn về phòng cho cả đội đọc trong

một tuần. Tuy nhiên, trong thực tế phần đông các em học sinh không có sự hứng thú

với các sách báo, tạp chí về pháp luật. “Hầu hết sách báo mà các em mượn đều là

truyện, tạp chí giải trí hoặc sức khỏe giới tính. Các sách báo về pháp luật không

được các em quan tâm lắm ngoại trừ những lúc có phong trào, cuộc thi liên quan

hoặc một cá nhân nào đó tò mò muốn đọc. Nói chung, dù là đọc gì hay mục đích gì

thì chúng tôi đều khuyến khích vì cứ đọc 1 cuốn sách là đã gặp 1 người thầy, pháp

luật cũng không nhất thiết phải khô cứng, giáo điều mà những bài học trong cuộc

sống thường ngày cũng có thể là pháp luật.” (PVS số 3, 37 tuổi, nam, cán bộ giáo

vụ hồ sơ)

Đánh giá về mức độ yêu thích của học sinh với phương pháp giáo dục pháp

luật thông qua phương tiện truyền thông, các em cho biết:

78

Biểu đồ 2.11. Mức độ yêu thích của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

với phƣơng pháp sử dụng phƣơng tiện truyền thông

Nhìn vào biểu đồ 2.11 cho thấy học sinh trường giáo dưỡng số 2 không đánh

giá cao phương pháp này bằng các phương pháp giáo dục bổ trợ và học tập bắt

buộc. Có 49,0 % học sinh trả lời “bình thường” và 43,3% trả lời “hay, bổ ích” khi

được hỏi “ Em đánh giá như thế nào về cách giáo dục pháp luật thông qua phương

tiện truyền thông?”. “Em không ấn tượng lắm với đài phát thanh của trường. Nó

toàn phát vào giờ chơi của chúng em nên em không để ý lắm, với cả em cũng chả

bao giờ được đọc tên trên đấy cả nên nghe làm gì. Các thông báo thì các thầy cô

đều thông báo cụ thể trên lớp hoặc tại đội rồi nên nghe cũng chả làm gì. Em không

chán nhưng chỉ bình thường thôi, vì thỉnh thoảng nó phát bài hát thì cũng hay. Sách

báo thì em không thích đọc lắm, nhiều chữ nhức đầu.” (PVS số 8, 14 tuổi, nam,

trộm cắp) Tuy nhiên, chỉ có 7,7% các em cho rằng phương pháp này “không

hay/chán”. Điều đó cho thấy nếu có những đổi mới trong nội dung và hình thức tiến

hành, phương pháp sử dụng phương tiện truyền thông sẽ thu hút được học sinh và

đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình giáo dục pháp luật ở trường giáo dưỡng số 2

Ninh Bình.

2.4. Các nhân tố chính tác động đến thực trạng giáo dục pháp luật cho

học sinh ở trƣờng giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình hiện nay

Nói đến xã hội hóa là nói đến các môi trường tạo nên quá trình xã hội hóa.

Quá trình xã hội hóa là quá trình các cá nhân học hỏi, tiếp thu các kiến thức bằng

việc quan sát, bắt chước và tích lũy. Con người tiếp thu kiến thức thông qua hai con

79

đường là chính thức và không chính thức. Con đường chính thức là việc học tập

trong nhà trường, con đường không chính thức là việc tích lũy kiến thức qua học

hỏi từ gia đình, bạn bè, xã hội.

2.4.1. Nhóm đồng đẳng

Nhóm đồng đẳng chỉ một nhóm người thuộc cùng độ tuổi, địa vị xã hội hoặc

môi trường sống, thường có chung một số đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội nào đó.

Ở trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, nhóm đồng đẳng được hiểu là nhóm bạn bè

trong các em học sinh. Các em có độ tuổi trung bình khá tương đồng, đều là những

người chưa thành niên vi phạm pháp luật, đang được giáo dục tại môi trường đặc

biệt là trường giáo dưỡng. Những điểm tương đồng về độ tuổi, trình độ nhận thức,

điều kiện sống như vậy khiến hoạt động giáo dục đồng đẳng có một giá trị không hề

nhỏ ở đây.

Biểu đồ 2.1 (trang 44) cho thấy học sinh trường giáo dưỡng số 2 đánh giá cao

vai trò của nhóm đồng đẳng. Mức độ ảnh hưởng của nhân tố nhóm đồng đẳng chỉ

xếp sau nhân tố thầy cô giáo ở trường giáo dưỡng (35,6%). Điều này được lý giải

bằng thực tế ở trường giáo dưỡng, quá trình xã hội hóa của một học sinh phần lớn

thông qua môi trường nhà trường. Những tác động từ nhóm đồng đẳng là rất lớn bởi

các em ăn ngủ, sinh hoạt với nhau 24/24h. Thậm chí, trong nhiều vấn đề vai trò của

nhóm đồng đẳng còn đặt lên cao hơn vai trò của thầy cô trường giáo dưỡng và cha

mẹ các em. “Chuyện tình cảm cá nhân là chuyện em không bao giờ kể cho thầy cô,

ngại lắm. Chúng em chỉ kể cho bạn cùng phòng hoặc bạn thân thôi. Cũng có những

chuyện tranh chấp, cãi nhau trong phòng chúng em kể cho thầy cô nhưng em thấy

thầy cô giải quyết không thỏa đáng, nên từ sau em không thích kể cho thầy cô nữa.

Em kể cho bạn và chúng em tự xử lý với nhau (đánh bạn)” (PVS số 5, 16 tuổi, nam,

học sinh)

Với nhóm học sinh chọn yếu tố bạn bè thì các lý do các em đưa ra tương ứng

với các tỷ lệ như sau: 67,2% cho rằng “với bạn bè thấy gần gũi, thoải mái hơn”;

59,8% cho rằng “với bạn bè không phải chịu áp lực (mắng mỏ/khuyên răn) như

người lớn; 58,2% cho rằng “với bạn bè thấy đồng cảm và tin tưởng hơn”; 26,8%

cho rằng “thời gian tiếp xúc với bạn bè nhiều hơn”, 7,8% cho rằng “ý kiến khác”.

Dựa vào kết quả khảo sát cũng như phỏng vấn sâu chúng ta thấy rõ các em chọn bạn

bè vì sự gần gũi, đồng cảm, thoải mái và không có những áp lực phải phục tùng

80

giống như với thầy cô hoặc cha mẹ. Điều này là hợp lý với quy luật phát triển nói

chung của người chưa thành niên. Quan hệ bạn bè trong giai đoạn tuổi này thường

vượt ra khỏi giới hạn học tập mà bao trùm mọi hoạt động đời sống của các em.

Thông qua các mối quan hệ này, các em không những nhận thức được người khác

mà còn nhận thức được chính bản thân mình, thu thập những thông tin cần thiết để

hình thành sự đánh giá bản thân, hình thành thái độ giá trị- cảm xúc nhất định. Vì

vậy, thông qua mối quan hệ này, định hướng giá trị nhân cách của trẻ được thể hiện

rõ nét. [10, tr.151]

Vậy trong môi trường trường giáo dưỡng, nhóm bạn bè thường cư xử như

thế nào khi bạn của mình có nguy cơ có hành vi sai phạm? Kết quả ghi nhận từ câu

hỏi “Khi thấy bạn có nguy cơ vi phạm nội quy, quy chế trường giáo dưỡng thì em sẽ

làm gì?” như sau:

Bảng 2.11: Hành động của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

khi thấy bạn có nguy cơ vi phạm nội quy/quy chế

Hành động Tỷ lệ %

1. Khuyên can bạn không nên làm như vậy 38,7

2. Kể cho các bạn cùng phòng/bạn thân để cùng tìm cách giải quyết 29,1

3. Báo cho thầy cô 18,9

4. Mặc kệ, không làm gì cả 5,4

5. Bao che, tạo điều kiện cho bạn vi phạm 7,0

6. Không biết làm gì 1,1

7. Ý kiến khác 1,8

(Nguồn: Kết quả điều tra)

Các số liệu cho thấy, phương án được lựa chọn nhiều nhất là “khuyên can

bạn không nên làm như vậy” (chiếm 38,7%). Như vậy, các em học sinh trường giáo

dưỡng phần nào đã nhận thức được hành vi nào là vi phạm nội quy, có thể bị kỷ

luật, hành vi nào không vi phạm và đã có ý thức khuyên nhủ, động viên bạn không

làm điều sai. Tuy nhiên, con số này còn thấp. Trong khi đó, 29,1 % các em lựa chọn

việc chia sẻ vấn đề này với các bạn cùng phòng hoặc bạn chơi thân nhằm tìm ra một

phương án hữu ích nhất “kể cho các bạn cùng phòng/bạn thân để cùng tìm cách giải

quyết” và chỉ có 18,9 % tìm cách “báo cho thầy cô”. Hai số liệu này thể hiện việc

81

các em nỗ lực tìm kiếm giải pháp cho chính mình và bạn bè, kể cả với những vấn đề

lớn hơn là chia sẻ cho thầy cô ở trường. Một lần nữa vai trò của thầy cô lại xếp sau

vai trò của bạn bè trong những vấn đề “nhạy cảm”. “Trong đội của em có lần có 1

bạn xích mích với 1 bạn đội khác, khi về bạn ấy có kể với anh đội trưởng, anh ấy lại

kể lại với chúng em và chúng em tìm cách “dằn mặt” bạn kia. Tất nhiên là sau đấy

chúng em bị phạt… Chúng em không kể với thầy vì kể thì kiểu gì thầy cũng phân

tích này nọ, gọi lên làm công tác tư tưởng. Những chuyện lớn như trốn trường thì

em sẽ khuyên bạn không nên, nhưng dằn mặt nhau 1 tí thì em nghĩ cũng chả sao,

nhất là cả phòng đã đồng ý rồi, mình bảo không mình còn bị tẩy chay nữa cơ.”

(PVS số 12, 16 tuổi, nam, học sinh)

Đáng xem xét là 7% học sinh chọn cách “bao che, tạo điều kiện cho bạn vi

phạm”, 5,4% chọn “mặc kệ, không làm gì cả” và 1,1% “không biết làm gì”. Những

tỷ lệ % này tuy không cao nhưng cho thấy vẫn còn một số ít học sinh có thái độ

bàng quan, thiếu trách nhiệm với những nguy cơ sai phạm của bạn, thậm chí còn

xúi giục, bao che cho bạn vi phạm.

Kết quả khảo sát từ bảng 2.1 một lần nữa khẳng định ở trường giáo dưỡng số

2 Ninh Bình nhóm đồng đẳng đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục pháp

luật cho học sinh. Trong nhiều vấn đề, các em học sinh tìm câu trả lời và lời khuyên

ở bạn bè cũng như tuân theo những quy tắc của nhóm bạn hơn là làm theo lời thấy

cô, làm theo những điều mà bản thân biết là đúng đắn. Thấy được vai trò của nhóm

đồng đẳng trong việc ảnh hưởng đến quan niệm, thái độ, hành vi, lối sống của học

sinh trường giáo dưỡng như vậy, nhà trường cần có những hoạt động giáo dục đồng

đẳng để tăng cường hiệu quả trong quá trình giáo dục pháp luật. Những tấm gương

tốt, những hành động đẹp khi được thực hiện và nhân lên trong chính học sinh sẽ có

giá trị hơn hẳn những bài học lý thuyết mang tính giáo điều.

2.4.2. Gia đình

Bên cạnh các tác động từ nhà trường, thầy cô và nhóm đồng đẳng không thể

không bàn đến những tác động của gia đình đến hiệu quả của hoạt động giáo dục

pháp luật đang được thực hiện tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình. Gia đình là

môi trường xã hội hóa đầu tiên, có tác động mạnh nhất và lâu dài nhất đối với mỗi

cá nhân. Gia đình luôn được coi là nơi nuôi dưỡng, hình thành nhân cách của con

82

người. Những chuẩn mực đầu tiên trong cuộc sống được trẻ học hỏi từ những thành

viên trong gia đình và từ đó mới tiếp cận, khám phá với thế giới xung quanh. Do đó,

có thể nói mọi đứa trẻ đều mang dấu ấn nhất định của gia đình.

Có thể nói, giáo dục bao gồm hai quá trình đó là quá trình tiếp nhận giáo dục

và quá trình tự giáo dục. Giáo dục trong gia đình bao gồm cả hai quá trình này, mỗi

con người chịu ảnh hưởng lớn từ quá trình giáo dục của gia đình, song bản thân con

người cũng tự giáo dục để hoàn thiện mình, hình thành một nhân cách tốt.

Trước hết, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, là trường học đầu tiên

của con người. Không có cá nhân nào có thể chối bỏ hoặc phủ nhận những tác động

của môi trường này tới bản thân.

Mặt khác, gia đình cũng có mối quan hệ mật thiết với xã hội. Bác Hồ đã từng

nói „Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia

đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”. Gia đình- nơi trao

truyền các giá trị văn hóa của nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác, là con đường

nhanh nhất và chắc chắn nhất để giáo dục con người theo những chuẩn mực mà xã

hội mong muốn.

Như vậy, không thể phủ nhận những đóng góp của gia đình trong việc

hình thành nhân cách cũng như ảnh hưởng của nó tới hành vi vi phạm pháp

luật của các em học sinh trường Giáo dưỡng số 2. Tuy nhiên, sau khi vi phạm

và được đưa vào trường Giáo dưỡng, những tác động của gia đình tới hành vi

chấp hành pháp luật của các em mạnh hay yếu, được thể hiện cụ thể thế nào,

việc phân tích các số liệu sẽ cho thấy điều này.

Bảng 2.1 (trang 44) cho thấy học sinh trường giáo dưỡng số 2 đánh giá thấp

vai trò của bố mẹ và người thân khi ảnh hưởng đến hành vi, thái độ của mình

(22,3% chọn phương án này) do các em đang bị cách ly một thời gian nhất định

khỏi bố mẹ. Việc tiếp xúc với bố mẹ chủ yếu qua điện thoại hoặc bố mẹ lên thăm,

chính vì vậy những tác động ít nhiều bị lu mờ do chủ yếu là khuyên nhủ, động viên

đơn thuần.

Như đã phân tích ở đặc điểm nhân khẩu xã hội của học sinh trường giáo

dưỡng số 2, hoàn cảnh gia đình có tác động rất mạnh đến hành vi vi phạm pháp luật

của các em. Việc sống thiếu cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ do cha mẹ ly hôn/ ly thân,

83

đi làm ăn xa, đã mất hoặc sự thiếu quan tâm, dạy dỗ của cha mẹ khiến các em thiếu

điểm tựa trong cuộc sống, thiếu người định hướng và dễ dẫn đến những hành vi sai

lệch chuẩn mực. Khi đã vào trường giáo dưỡng, mặc dù mức độ ảnh hưởng của gia

đình đến sự phát triển của các em không còn mạnh như trước nhưng nó vẫn có

những tác động nhất định, cụ thể:

Thứ nhất, sự quan tâm của gia đình ảnh hưởng rất lớn đến tâm thế phấn đấu

của học sinh. Có ai mong đợi em khi em ra trường là câu hỏi lớn nhất mà các em

canh cánh khi vào trường giáo dưỡng. “Mẹ em đã mất lâu rồi, bố em thì đã lấy vợ

mới, ông bà thì già, cô dì chú bác thì chẳng ai thiết tha nuôi em. Em không biết ra

trường rồi em sẽ đi đâu về đâu.” (PVS số 15, 15 tuổi, nam, học sinh) Khi các em

không tìm thấy điểm tựa cho mình, không có người nâng đỡ, dìu dắt cũng như tin

tưởng vào sự thay đổi, trưởng thành của mình, các em dễ mất niềm tin và có tư

tưởng chống đối, phá phách. Có em thậm chí không muốn ra trường.

Sự quan tâm của cha mẹ không chỉ dừng lại ở việc khi ra trường mọi người

sẽ cư xử với em như thế nào mà còn thể hiện bằng việc khi các em ở trường gia

đình có dành thời gian, tình cảm, sự chăm lo cho các em hay không. Năm 2013, nhà

trường đã tổ chức cho thăm gặp 4587 lượt trong ngày, 00 lượt qua đêm; cho phép

nhận quà 1172 lượt; liên lạc điện thoại 3097 lượt với tổng thời gian là 6691 phút.

[33, tr.2]. “Từ khi vào trường bố mẹ lên thăm em 12, 13 lần rồi, gần như tháng nào

cũng lên. Khi lên bố mẹ mang đồ ăn, quần áo cho em. Hồi đầu mẹ em cũng toàn

khóc, bây giờ thì thôi rồi. Bố mẹ em lúc nào cũng động viên em là cố gắng phấn

đấu tốt để ra trường sớm. Em cũng cố gắng, và sắp tới em sẽ được ra trường sớm 2

tháng.” (PVS số 7, 18 tuổi, nữ, học sinh)

“Bố mẹ em bỏ nhau lâu rồi, em ở với ông bà chứ bố mẹ cũng chả ai quan

tâm đến em nữa. Ông bà thì già rồi, mà cũng không có tiền để lên thăm em được.

Thấy các bạn có người lên thăm, cho quà em buồn lắm. Có lúc thì cũng cố gắng

phấn đấu để được ra sớm, nhưng có lúc chán đời đánh nhau, lấy đồ của bạn vì ghét

nó (được quan tâm)” (PVS số 14, 15 tuổi, nam, học sinh)

Như vậy có thể thấy tình cảm gia đình với học sinh luôn được đề cao và có

tác động mạnh đến xu hướng phấn đấu, nói cách khác là xu hướng chấp hành kỷ

luật của các em. Thấy được điều này, không những cần phải thay đổi, cải tiến trong

84

hoạt động giáo dục ở trường, mà nhà trường và các gia đình cần tự nhận thức vai

trò, trách nhiệm của mình để nhiệt tình tham gia vào các hoạt động quản lý, giáo

dục con em mình để các em sớm tái hòa nhập cộng đồng.

Tóm lại:

Trong chương 2 đề tài đã đi sâu phân tích thực trạng hoạt động giáo dục

pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình qua các nội dung:

- Phân tích làm rõ các đặc điểm của giáo viên và học sinh trường giáo dưỡng

số 2 Ninh Bình, trong đó nhấn mạnh đặc điểm của giáo viên là cán bộ thuộc lực

lượng công an, vừa dạy chữ, dạy làm người, dạy lao động, vừa quản lý, nuôi dưỡng

các em 24/24 h, chịu trách nhiệm pháp lý trước gia đình và xã hội với toàn bộ thời

gian các em ở trong trường. Phân tích cũng làm rõ học sinh ở trường là học sinh hư,

vi phạm pháp luật do đó công tác quản lý giáo dục gặp nhiều khó khăn.

- Phân tích cũng làm rõ mục đích của hoạt động giáo dục pháp luật, đi sâu

phân tích nội dung, phương pháp giáo dục pháp luật ở trường giáo dục số 2 Ninh

Bình thông qua hệ thống bảng số liệu và hình số liệu, nhằm lột tả thực trạng hoạt

động giáo dục pháp luật tại trường với các hình thức cụ thể như: hoạt động học tập

bắt buộc, các hoạt động giáo dục bổ trợ, các hoạt động khen thưởng, kỷ luật và

thông qua các phương tiện truyền thông của trường.

- Bên cạnh những nhân tố mang tính chủ quan là đặc điểm của giáo viên và

học sinh trường giáo dưỡng, đề tài cũng chỉ ra những tác động của nhóm đồng đẳng

và gia đình trong quá trình giáo dục pháp luật cho học sinh.

- Kết hợp với các ý kiến phỏng vấn sâu đối với cán bộ và học sinh, chương 2

đã vẽ lên bức tranh tương đối sống động, chân thực, phong phú về hoạt động dạy và

học pháp luật của thầy và trò trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.

Đây chính là cơ sở thực tiễn để giúp tác giả có căn cứ cho các đánh giá và

kiến nghị giải pháp ở chương 3.

85

CHƢƠNG 3: HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH

TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG SỐ 2 - YÊN MÔ - NINH BÌNH

3.1. Kết quả trong hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh trƣờng

giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình

Với những hình thức giáo dục rất phong phú và cụ thể được thực hiện ở

trường giáo dưỡng số 2 đã được phân tích trên đây, hoạt động giáo dục pháp luật đã

có những kết quả rõ rệt.

3.1.1. Nâng cao nhận thức pháp luật cho học sinh

Với câu hỏi phỏng vấn sâu “Sau khi được giáo dục pháp luật ở trường giáo

dưỡng em có suy nghĩ gì/ thấy mình cần làm gì?” phần đông các em đều cho rằng

hiểu rõ về những vi phạm của mình khiến các em thấy ân hận và nuối tiếc. Bên cạnh

đó, một số em đã có những suy nghĩ và hành động tích cực hơn, đó là chăm chỉ học

văn hóa, học nghề và tham gia các công việc của trường nhiều hơn để được sớm ra

trường. “Em cảm thấy rất hối hận vì em không nghĩ những việc làm của mình lại để

lại hậu quả nặng nề như vậy. Em cũng thương bố mẹ vì em đã làm khổ bố mẹ. Nếu

mà ở ngoài bây giờ em đang học lớp 11 rồi đấy, sắp thi Đại học rồi. Ở đây em

không được học cấp 3, chỉ học nghề thôi. Ra trường em sẽ đi học tiếp” (PVS số ,

17 tuổi, nam, học sinh)

“Ở đây em mới được dạy dỗ cẩn thận về các quyền và nghĩa vụ của công

dân, được nói rõ việc gì được làm hay không được làm, nếu làm thì hình phạt như

thế nào, chứ ở trường phổ thông dạy chung chung lắm. Đài báo thì ngày trước em

có bao giờ xem đâu, bố em thì cũng chỉ quát mắng, dọa nạt thôi chứ biết gì pháp

luật đâu. Em rất hối hận vì những việc làm sai trái của mình. Em đang cố gắng rèn

luyện tốt, không vi phạm nội quy, học nghề cho cẩn thận để sớm được ra trường và

đi làm. Giờ em hiểu pháp luật rồi, em sẽ không tái phạm nữa.” (PVS số 12, 18 tuổi,

nam, học sinh)

Trong vấn đề này, các thầy cô giáo cũng có những câu trả lời tương đồng với

học sinh. “Về cơ bản tôi đánh giá hoạt động giáo dục pháp luật ở trường là tốt.

Các em vào đây sau thời gian rèn luyện, học tập đều “thuần” hơn trước rất nhiều,

các em nhận ra lỗi lầm của mình và có ý thức phấn đấu để sớm ra trường, tái hòa

nhập xã hội. Hầu hết các em đều cho rằng từ trước đến giờ trường giáo dưỡng là

86

môi trường giáo dục pháp luật cho các em đầy đủ, chính xác và có định hướng

nhất.” (PVS số 4, 30 tuổi, nam, giáo viên chủ nhiệm)

3.1.2. Kết quả hoạt động giáo dục pháp luật qua phương pháp giáo dục bắt buộc

Qua 10 năm triển khai, tổ chức chương trình dạy học môn giáo dục công dân

theo sách giáo khoa mới, nhìn chung đã cơ bản đáp ứng và hỗ trợ tích cực cho các

hoạt động giáo dục của trường và tu dưỡng, rèn luyện của cá nhân học sinh. Có

97% học sinh tiếp thu kiến thức và có liên hệ vào cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.

Các em đã tự điều chỉnh hành vi, lời nói, việc làm, dần phù hợp với chuẩn mực đạo

đức của học sinh ngoan.

Bảng 3.1. Kết quả chất lƣợng học giáo dục công dân

của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

Năm học Chất lƣợng Số lƣợt

học sinh Khá- Giỏi Trung bình Yếu- Kém

283 2010-2011 63 191 28

22,3% 67,5% 9,9%

177 2011-2012 67 98 12

37,9% 55,3% 6,8%

2012-2013* 139 51 81 7

36,7% 58,3% 5,0%

Nguồn [2, tr.156], * [33, tr.2]

Kết quả chất lượng học giáo dục công dân 3 năm gần đây của trường giáo

dưỡng số 2 Ninh Bình cho thấy tỷ lệ học sinh đạt khá- giỏi theo hướng tăng dần và

ổn định. Tỷ lệ học sinh có kết quả yếu- kém giảm rõ rệt về tỷ lệ (từ 9,9% xuống

5,0%). Kết quả này cho thấy hoạt động dạy và học giáo dục công dân đang ngày

càng được quan tâm đúng mức và đạt được những hiệu quả nhất định.

Học tập môn giáo dục công dân không chỉ cung cấp cho các em những kiến

thức pháp luật một cách đầy đủ, bài bản mà còn trau dồi những kỹ năng cần thiết

trong việc tiếp thu kiến thức hay trong cuộc sống hàng ngày. “Ngay bản thân việc

ngồi học ở lớp, chưa biết các em có tiếp thu được gì không nhưng việc phải tập

trung học, trả lời các câu hỏi của thầy cô đã tạo cho các em thói quen tập trung

87

trong công việc, biết lắng nghe, phản hồi… Những kỹ năng này giúp các em sống

trong cộng đồng có thể hòa nhập và tồn tại.” (PVS số 2, 35 tuổi, nữ, giáo viên văn

hóa)

3.1.3. Kết quả hoạt động giáo dục pháp luật qua phương pháp giáo dục bổ trợ

* Chương trình Tòa tuyên án

Năm 2013, nhà trường đã tổ chức 83 lượt xem chương trình Tòa tuyên án, số

học sinh được xem là 705 lượt em [33, tr.1].

Bảng 3.2 . Nhận thức của học sinh sau khi xem chƣơng trình Tòa tuyên án

Nhận thức Tỷ lệ %

Cảm thấy may mắn vì không bị đi tù 89%

Sợ các mức hình phạt tù 67%

Biết các tội và mức hình phạt, sẽ không vi phạm 59%

Bình thường, không có cảm giác 7%

Khác 15%

(Nguồn: Kết quả điều tra)

Số liệu khảo sát được cho thấy tác động mạnh nhất của chương trình Tòa

tuyên án tới nhận thức của học sinh là giúp các em thấy được vào trường giáo

dưỡng học tập, rèn luyện là điều tốt cho các em thay vì phải đi tù. Cụ thể có 89%

học sinh chọn phương án “cảm thấy may mắn vì không bị đi tù”. Rõ ràng, với người

chưa thành niên, việc trở thành một phạm nhân, bị đưa vào các trại giam và sống

trong một môi trường phức tạp như trại giam trong nhiều trường hợp sẽ có ảnh

hưởng tiêu cực đến các em (học thêm các thói hư tật xấu, bị gắn mác tù tội khó hòa

nhập xã hội…). Chính việc thấy được giá trị nhân văn của trường giáo dưỡng khiến

các em yên tâm rèn luyện, học tập, chấp hành kỷ luật.

Cùng với đó, việc theo dõi những phiên tòa xử án như vậy giúp các em hiểu

rõ các điều luật quy định cụ thể trong từng lĩnh vực xã hội. Một mặt, các em hiểu rõ

sai phạm của mình bị kết án như thế nào, mặt khác cũng biết được nếu mình vi

phạm pháp luật sẽ chịu hậu quả ra sao. Điều này giúp các em “sợ các mức hình phạt

tù” (67%) và “biết các tội và mức hình phạt, sẽ không vi phạm” (59%). Các con số

% này cho thấy mục đích giáo dục pháp luật mà nhà trường đề ra đã đạt được kết quả.

88

Tuy nhiên, còn tồn tại một nhóm nhỏ học sinh (7%) cho rằng chương trình

Tòa tuyên án không có tác động gì đến suy nghĩ, nhận thức của mình. Đây có thể là

những em không tập trung theo dõi chương trình, cũng có thể là những nhân tố cá

biệt cần có sự quan tâm, giáo dục riêng của các thầy cô giáo viên chủ nhiệm.

* Tư vấn riêng

Từ những tác động của hoạt động tư vấn đã làm cho các em từ chỗ sống khép

mình, thiếu tự tin vào bản thân, thiếu niềm tin đối với người khác, muốn trốn

trường… đã hòa nhập tốt hơn với cuộc sống tập thể, tích cực tham gia các hoạt

động, sẵn sàng chia sẻ với thầy cô. Thêm vào đó, từ việc nhận thức được các vấn đề

trong cuộc sống của mình các loại hình sai phạm cũng giảm dần, các em yên tâm

học tập, rèn luyện.

Bảng 3.3. Kết quả chất lƣợng tƣ vấn riêng

Năm Tổng số ca Chất lƣợng

Tốt Khá Trung bình

2011 207 144 63 00

100% 69,6% 30,4%

2012 212 135 77 00

100% 63,7% 36,3%

2013* 153 122 31 00

100% 79,7% 20,3%

(Nguồn [2, tr 155], *[33])

Kết quả chất lượng tư vấn riêng 3 năm gần đây cho thấy học sinh đánh giá

hoạt động tư vấn riêng khá tốt. Không ca tư vấn nào bị xếp loại trung bình, trên

60% các ca tư vấn được đánh giá tốt, có chất lượng và thỏa mãn thắc mắc của học sinh.

* Chơi trò chơi

Hình thức chơi trò chơi mặc dù không chứa nhiều hàm lượng kiến thức

chuyên sâu như các hình thức giáo dục khác nhưng lại có hiệu quả đặc biệt trong

việc tạo nên sự hứng thú với pháp luật của học sinh. Với cách thức biểu đạt gần gũi,

các món quà khích lệ tinh thần và tác động vào tâm lý ganh đua của học sinh khiến

các em dễ dàng tiếp thu kiến thức pháp luật một cách tự nguyện. Năm 2013, trường

89

giáo dưỡng số 2 đã tổ chức 28 buổi chơi trò chơi, trong đó có 6 buổi có nội dung

pháp luật. [33, tr.2]

* Xử án lưu động

Qua khảo sát, chúng tôi đánh giá đây là hoạt động có tác động mạnh tới học

sinh trường giáo dưỡng số 2, nó không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức đơn

thuần mà quan trọng hơn là hình thành ở học sinh tình cảm, niềm tin và kỹ năng

thực hành pháp luật. “Xem xong em rút ra bài học là phải biết kiềm chế bản thân,

không nên gây gổ đánh nhau với bạn vì sẽ khó kiểm soát mình. Nếu vào tù ở tuổi

này thì ra tù khó được xã hội chấp nhận lắm.” (PVS số 14, 17 tuổi, nam, học sinh)

Hoạt động xử án lưu động mới chỉ được thực hiện ở trường 1 lần, do đó

chúng tôi không thu thập được số liệu thứ cấp nào thể hiện kết quả của hoạt động này.

3.1.4. Kết quả hoạt động giáo dục pháp luật qua phương pháp khen

thưởng, kỷ luật

Về công tác thi đua khen thưởng được thực hiện dân chủ, công khai, minh

bạch và theo đúng quy trình. Kết quả xếp loại thi đua năm 2013 có tổng số 475 học

sinh đủ thời gian xếp loại, trong đó:

Xếp loại Tốt; 10 em (= 2,1%, tăng 0,1% so với năm 2012)

Xếp loại Khá: 366 em (= 77,1%, tăng 11,9% so với năm 2012)

Xếp loại Trung bình: 77 em (= 16,2%, giảm 9,3% soi với năm 2012)

Xếp loại Kém: 22 em (= 4,6%, giảm 2,7% so với năm 2012).

Tổ chức làm thủ tục xét giảm thời hạn cho tổng số 485 em, 75 em được

thưởng phép về thăm gia đình vào đợt Tết Nguyên đán, 30/4, 1/5 và 2/9; thưởng

tiền và hiện vật cho 659 em.[33]

Nhờ các hoạt động thi đua, khen thưởng như vậy, học sinh trường giáo

dưỡng số 2 đã có sự tiến bộ thực sự, chịu khó học tập, lao động, học nghề, tham gia

đầy đủ các hoạt động ngoại khóa. Các hình thức kỷ luật cũng khiến các em dần

khép mình vào khuôn khổ.

90

Bảng 3.4. Thống kê số lƣợt kỷ luật học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2

Năm Số lƣợt học Hình thức kỷ luật

sinh Cảnh cáo Cách ly tại Truy tố tội mới

nhà tu dƣỡng

2011 115 34 81 00

100% 29,6% 70,4% 00%

2012 201 57 144 00

100% 28,4% 71,6% 00%

2013* 216 80 135 1

100% 37,0% 62,5% 0,5%

Nguồn [2, tr.154] và * [33, tr.2]

3.1.5. Một số hạn chế

Có thể thấy hoạt động giáo dục đang được thực hiện ở trường giáo dưỡng số

2 Ninh Bình đã có những tác động tích cực đến nhận thức và hành vi các em học

sinh. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn phải kể đến những bất cập còn tồn tại trong công

tác này. Những bất cập này không chỉ nằm trong nội dung chương trình, phương

pháp thực hiện mà còn tồn tại ngay trong quá trình quản lý cũng như tổ chức thực hiện.

* Hạn chế trong nội dung, phương pháp giáo dục pháp luật

- Đối với hoạt động học tập bắt buộc

Bên cạnh những thuận lợi như đã nêu, trong giảng dạy môn giáo dục công

dân vẫn còn bộc lộ những vướng mắc cần tháo gỡ.

Thứ nhất, sự bất cập ở chỗ đối tượng có độ tuổi và trình độ nhận thức trải dài

từ lớp 1 đến lớp 12 trong khi sách giáo khoa lại chỉ được xây dựng chung cho 2

khối là cấp Tiểu học và Trung học cơ sở. Thực tế là trong cùng một khối nhưng học

sinh lớp 1 với lớp 5, học sinh lớp 6 với lớp 9 có trình độ nhận thức khác nhau. Khi

phải học cùng một nội dung chương trình giống nhau sẽ dẫn đến tình trạng các em

lớp lớn thì chán, các em lớp bé thì không hiểu, không theo kịp chương trình.

Thứ hai, sách giáo khoa môn giáo dục công dân cả khối chỉ học 1 quyển,

trong khi đó khối Tiểu học của nhà trường học 1 năm 2 lớp, vì vậy học sinh vào

trường thời hạn 2 năm phải học đi học lại ít nhất 3 lần. Điều này gây nhàm chán cho

các em, thậm chí dẫn đến tình trạng phản kháng vì cho rằng thầy cô chỉ giáo điều,

sách vở.

91

Thứ ba, về nội dung bài học. Ngoài những nội dung được biên soạn cho tất

cả học sinh, sách giáo khoa chưa có nhưng chuyên đề riêng cho từng loại hình sai

phạm của các em, ví dụ như: hành vi ngược đãi ông bà, cha mẹ, hành vi trộm cắp,

hành vi gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép… Điều này làm hoạt động dạy và

học mang tính chung chung, hiệu quả giáo dục chưa sát thực tế.

Thứ tư, ngoài sách giáo khoa thì ở tất cả các khối lớp đều không có sách

giáo viên, sách thiết kế bài giảng. Điều này tạo nên khó khăn trong việc chỉ đạo,

theo dõi và đánh giá việc thực hiện chuyên môn của giáo viên. Đồng thời, các giáo

viên cũng gặp khó khăn trong quá trình biên soạn bài theo chuẩn kiến thức của các

bài học. “Ngay cả cơ quan đại diện biên soạn cũng trả lời rằng chỉ xây dựng chung

chung thôi chứ người dạy phải linh hoạt trong quá trình giảng dạy, điều này khiến

chúng tôi phải tự mày mò xây dựng bài giảng cũng như không có barem nào để

đánh giá độ hiệu quả và phù hợp của phương pháp giảng dạy của chúng tôi.”(PVS

số 1, 35 tuổi, nữ, giáo viên văn hóa)

- Đối với hoạt động giáo dục bổ trợ

Trong hoạt động giáo dục bổ trợ, những vấn đề bất cập chủ yếu nằm ở hoạt

động tư vấn riêng, bên cạnh đó còn tồn tại một số hạn chế ở hoạt động xem chương

trình Tòa tuyên án.

Tư vấn riêng là một hoạt động được học sinh và các thầy cô đánh giá cao về

mức độ hiệu quả trong việc chuyển đổi nhận thức và hành vi của học sinh. Tuy

nhiên, trong quá trình thực hiện hoạt động này cũng còn tồn tại những khó khăn

nhất định.

Đầu tiên, cán bộ làm công tác tư vấn hầu hết đều là kiêm nhiệm, vì vậy

không có nhiều thời gian để tìm hiểu về thân chủ trước khi tư vấn. Trừ một cán bộ

chuyên trách tư vấn và cán bộ đội giáo vụ hồ sơ là những người làm việc trực tiếp

trong mảng hồ sơ thì với những cán bộ tư vấn khác, việc chưa nắm chắc về đặc

điểm nhân thân, hoàn cảnh gia đình các yếu tố cá nhân khác khiến công tác tư vấn

chưa đi đúng hướng hoặc chưa giải quyết thỏa đáng. Thêm vào đó, nguồn thông tin

để hỗ trợ cho các ca tư vấn ít, thậm chí trong hồ sơ vào trường của các em cũng

không đầy đủ, thậm chí thiếu chính xác (do lỗi của công an, chính quyền địa

phương), sự thiếu hợp tác của gia đình (mời không đến, gọi điện thì lảng tránh)

cũng là một tác nhân gây khó khăn trong quá trình tư vấn.

92

Thứ hai, nhận thức và khả năng tư duy của học sinh trường giáo dưỡng số 2

nói chung là kém. Do đó, cán bộ tư vấn thường phải mất nhiều thời gian để cung

cấp thông tin, phân tích hay giải thích cho các em hiểu. Thậm chí, đôi khi nhu cầu

tư vấn của các em tự mâu thuẫn dẫn đến việc cán bộ tư vấn không biết nên chọn

theo hướng nào để tư vấn.

Thứ ba, trong hoạt động tư vấn riêng, cán bộ tư vấn chỉ làm việc với học

sinh, cho lời khuyên và làm công tác củng cố tâm lý cho các em tại trường. Tuy

nhiên, từ việc tư vấn đến nhận thức của học sinh và xa hơn là hành động sau khi ra

trường của học sinh thì cán bộ tư vấn không đánh giá dược. Nói cách khác, rất khó

để đánh giá độ hiệu quả của hoạt động tư vấn riêng với học sinh, nhất là sau khi các

em tái hòa nhập cộng đồng.

Bên cạnh đó, không chỉ khó đánh giá hiệu quả của hoạt động tư vấn riêng

với học sinh mà ngay cả với các lãnh đạo cũng khó đánh giá được hiệu quả công

việc của cán bộ tư vấn. Đặc biệt trong ngành công an, điều này ảnh hưởng lớn tới

kết quả phấn đấu thi đua hàng năm của cán bộ, giáo viên.

Thứ tư, sau mỗi ca tư vấn riêng, cán bộ tư vấn phải viết phiếu tường thuật

quá trình tư vấn, học sinh phải viết nhận xét “cảm thấy thế nào, có muốn quay lại

lần sau hay không, mong đợi gì ở cán bộ tư vấn…” Tuy nhiên, trong môi trường lao

động, học tập bị quản lý 24/24h, với mối quan hệ thầy trò đặc thù như trường giáo

dưỡng thì phiếu này khó phản ánh đúng thực tế. Học sinh trong nhiều trường hợp

khó lòng dám nói lên quan điểm, thái độ thật của mình.

Thứ năm, cán bộ tư vấn chuyên trách phải làm việc hai ca tất cả các ngày

trong tuần, tập trung chủ yếu vào thứ 7 và chủ nhật và các ngày nghỉ lễ. Mặc dù

theo đúng quy trình, mỗi ca tư vấn kéo dài 30 phút, tuy nhiên thời gian này hầu như

không đủ để giải quyết triệt để vấn đề của học sinh. Chính bởi việc không có ngày

nghỉ, một buổi làm việc phải xử lý 2,3 ca, thời gian kéo dài khiến cán bộ tư vấn

căng thẳng, mệt mỏi, áp lực. Thêm vào đó, việc chỉ có duy nhất một cán bộ tư vấn

chuyên trách cũng dẫn đến tình trạng lối mòn trong tư vấn. “Khi phải nghe quá

nhiều trường hợp với những vấn đề giống nhau, không có sự cá biệt hóa với từng

trường hợp người tư vấn sẽ xảy ra tình trạng xử lý thông tin kiểu một chiều, tạo nên

những lối mòn trong việc tư vấn” (PVS số 2, 27 tuổi, nam, cán bộ tư vấn)

93

Trong hoạt động xem chương trình Tòa tuyên án, việc tổ chức và thực hiện

xem chương trình do đội học sinh tự quản lý mà không có sự tham gia của giáo

viên. Điều này dẫn đến tình trạng trong quá trình xem học sinh có thắc mắc, không

hiểu thì không có người giải đáp. Đặc biệt, không có sự kiểm tra ngược của giáo

viên với học sinh sau khi xem chương trình là một thiếu sót lớn. Mặc dù theo ý kiến

của các giáo viên là có kiểm tra nhận thức của học sinh nhưng sự kiểm tra chỉ theo

kiểu đột xuất, tự phát theo kiểu “Em có xem không?”. Điều này dẫn đến tình trạng

có những học sinh chỉ coi việc theo dõi chương trình Tòa tuyên án là trách nhiệm,

tham gia cho đủ quân số và nếu có hiểu sai nội dung chương trình cũng không ai

kiểm tra. Rõ ràng việc giải thích, phân tích ngay lập tức, đúng thời điểm và có sự

kiểm tra ngược sẽ tác động và định hướng vào nhận thức của học sinh tốt hơn so với

việc để các em tự thẩm thấu và có thể hiểu sai.

Hoạt động xử án lưu động cũng còn tồn tại một số bất cập, đó là việc phối

kết hợp giữa nhà trường và các cấp có thẩm quyền trong việc tổ chức xử án lưu

dộng còn chưa thực sự nhuần nhuyễn, các bước đề xuất thủ tục thực hiện còn nhiêu

khê. Bên cạnh đó, vấn đề kinh phí để tổ chức cũng là một vấn đề đáng lưu tâm. Hơn

thế, việc tổ chức một buổi xử án lưu động còn khó khăn, do việc đưa người lạ vào

trường gây xáo trộn và khó khăn cho việc quản lý (trộm cắp, đưa đồ cấm vào

trường…), còn xử án học sinh của trường thì rất ít vụ điển hình.

- Đối với hoạt động khen thưởng kỷ luật

Quy định về việc xử lý kỷ luật với học sinh là khi học sinh đã đến hạn ra

trường, dù trong quá trình học tập có vi phạm nội quy, quy chế nhiều lần mà không

tiến bộ thì khi ra trường mức độ xử lý nặng nhất là nhà trường gửi bản nhận xét về

địa phương để theo dõi. Vấn đề này chưa thể hiện đủ tính răn đe của pháp luật.

- Đối với phương tiện truyền thông

Trong hoạt động giáo dục qua phương tiện truyền thông, chương trình phát

thanh của trường còn chưa có chuyên mục Hỏi- Đáp, trợ giúp cho học sinh tìm hiểu

các vấn đề liên quan đến đời sống, sức khỏe, pháp luật. Các báo, tạp chí cũng chưa

phục vụ tốt cho nhu cầu tìm hiểu pháp luật của học sinh.

* Hạn chế trong công tác tổ chức cán bộ

Giáo viên được hưởng lợi từ quỹ Dân số thế giới và tổ chức PLAN thông qua

việc các tổ chức này đã tập huấn cho cán bộ giáo viên khá nhiều kiến thức khi làm

94

việc với trẻ em làm trái pháp luật. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này các cán bộ này

hầu hết đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác.

Hầu hết cán bộ đội giáo vụ hồ sơ hoạt động giáo dục là chủ yếu là cán bộ

được đào tạo trong ngành Công an, kỹ năng giáo dục cá biệt còn yếu, đặc biệt là

kiến thức về tâm lý giáo dục, kỹ năng công tác xã hội. Hầu hết, các cán bộ này đều

phải vừa làm vừa tự mày mò nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm cho bản thân.

* Hạn chế trong bản thân với học sinh

Nhiều học sinh xác định động cơ phấn đấu theo kiểu ăn xổi, ngắn hạn, chỉ

nhằm mục đích duy nhất là được sớm ra trường chứ ra trường để làm gì thì chưa

nhận thức được. Chính bởi vậy, khi mục đích chưa đạt được thì chán nản, hụt hẫng

và không tích cực nữa.

3.1.6. Mong muốn của học sinh về hoạt động giáo dục pháp luật trong

những năm tới

Thực trạng giáo dục pháp luật và những kết quả, hạn chế trong từng hình

thức cụ thể phần nào cũng đã cho thấy đánh giá và mong muốn của học sinh về các

hình thức này trong tương lai.

Đánh giá về mức độ yêu thích của học sinh trường giáo dưỡng số 2 với các

phương pháp giáo dục pháp luật cụ thể cho thấy phương pháp được các em đánh giá

cao nhất là chơi trò chơi, và ít yêu thích nhất với phương pháp đóng kịch.

Bảng 3.5. Xếp hạng mức độ yêu thích của học sinh với các phƣơng pháp

giáo dục pháp luật đang đƣợc thực hiện tại trƣờng giáo dƣỡng số 2

Mức độ yêu thích Phƣơng pháp giáo dục Tỷ lệ %

Yêu thích nhất Chơi trò chơi 66,2

Yêu thích thứ hai Học GDCD 51,8

Yêu thích thứ ba Xem Tòa tuyên án 44,2

Yêu thích thứ tư Tư vấn riêng 46,9

Yêu thích thứ năm Xem xử án lưu động 37,0

Yêu thích thứ sáu Hoạt động khen thưởng, kỷ luật 29,3

Yêu thích thứ bảy Qua phương tiện truyền thông 49,1

(Nguồn: Kết quả điều tra)

95

Số liệu thống kê cho thấy hình thức được học sinh yêu thích nhất là hình

thức chơi trò chơi, số học sinh chọn đây là phương án “yêu thích nhất” chiếm tới

66,2%. Kết quả này cho thấy trong quá trình giáo dục pháp luật cho học sinh trường

giáo dưỡng, phương pháp đạt được hiệu quả cao nhất chính là vừa học vừa chơi.

Chính việc tạo cho các em tâm lý thoải mái, tự tin và chủ động khi tham gia vào các

trò chơi sẽ là cơ sở để các em tự giác tìm hiểu pháp luật và nâng cao hiểu biết pháp

luật của mình.

Có 51,8% các em chọn phương án được “yêu thích thứ hai” là học giáo dục

công dân trên lớp. Con số này thể hiện mặc dù thích học mà chơi, chơi mà học hơn

nhưng phần đông học sinh cũng đánh giá cao hình thức học tập chính thống. “Em

thích nhất chơi trò chơi, thứ hai là học giáo dục công dân trên lớp, vì ở lớp học bài

bản hơn, có gì thắc mắc em sẽ hỏi được luôn và thầy cô đặt câu hỏi nhiều, chúng

em phải trả lời, cho điểm nên em nhớ bài hơn.” (PVS số 9, 14 tuổi, nam, học sinh)

Với việc nhận thức được vai trò của việc dạy và học môn giáo dục công dân như

vậy, nếu nhà trường và giáo viên có những đầu tư về nội dung, cách thức triển khai,

các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ thì hình thức này sẽ còn đạt hiệu quả giáo dục

pháp luật cao hơn.

Xem chương trình Tòa tuyên án và tham gia hoạt động tư vấn riêng là hai

phương án được học sinh xếp mức độ yêu thích lần lượt là thứ ba và thứ tư. Trong

khi đó, xem xử án lưu động chỉ xếp thứ năm dù đánh giá độ hiệu quả thì có 64,6%

cho rằng “hay, bổ ích”. Giải thích cho điều này có thể thấy cả ba hình thức trên đều

là các hoạt động giáo dục pháp luật bổ trợ, tuy nhiên xem Tòa tuyên án và tư vấn

riêng là hai hình thức hầu hết các học sinh đều đã từng tham gia hoặc dễ dàng tham

gia nếu muốn, trong khi đó hoạt động xử án lưu động mới được thực hiện ở trường

một lần (năm 2013). Chính điều này dẫn đến việc nhiều em học sinh mới chỉ biết

đến thông qua nghe kể lại mà chưa trực tiếp tham gia vào hoạt động này, do đó khó

đánh giá xếp loại.

Hai hình thức giáo dục pháp luật mà các em đánh giá ở mức độ yêu thích

thấp nhất là hoạt động khen thưởng, kỷ luật và qua phương tiện truyền thông, với

lần lượt tỷ lệ là 29,3% và 49,1%. Giải thích cho lựa chọn này các em cho rằng hai

hoạt động này không thể hiện rõ tính chất giáo dục pháp luật. “Em thấy khen

96

thưởng kỷ luật liên quan đến nội quy nhà trường nhiều hơn, em không nghĩ là nội

quy nhà trường cũng là pháp luật. Còn qua loa phát thanh thì nó nói nhiều thứ lắm,

với cả nhiều khi em cũng không để ý nghe nên e nghĩ là nó giáo dục pháp luật được

ít.” (PVS số 7, 16 tuổi, nam, học sinh)

Từ những kết quả đánh giá của học sinh về xếp loại mức độ yêu thích các

hình thức giáo dục pháp luật cụ thể như vậy, các em cũng thể hiện rõ mong muốn

của mình. “Em muốn chơi trò chơi nhiều hơn, được xem nhiều buổi xử án lưu động

hơn nữa, những cái đấy thiết thực và gần gũi với chúng em hơn là cứ giảng điều

này, quy định kia, nhức đầu lắm.” (PVS số 8, 16 tuổi, nam, học sinh)

Bên cạnh đó, những gợi ý về hình thức giáo dục pháp luật mới cũng được

các em đưa ra. “Em thích được tham gia những buổi nói chuyện thực tế, chẳng hạn

như mời những anh chị học sinh cũ của trường về kể chuyện ngày trước ở đây như

thế nào, bây giờ ra trường làm gì, sống ra sao, có thành công không. Các thầy cô ở

trường thỉnh thoảng cũng kể gương này gương kia nhưng em muốn gặp trực tiếp thì

mới tin cơ.” (PVS số 5, 17 tuổi, nam, học sinh)

Những mong muốn, nguyện vọng này của học sinh trường giáo dưỡng số 2

Ninh Bình chính là những gợi ý cho nhà trường trong việc đổi mới và hoàn thiện

các phương pháp giáo dục pháp luật cho học sinh của mình.

3.2. Một số khuyến nghị giải pháp nhằm tăng cƣờng hiệu quả hoạt động

giáo dục pháp luật cho học sinh trƣờng Giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình hiện nay

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý, giáo dục người chưa

thành niên vi phạm pháp luật

Hoạt động giáo dục pháp luật không đơn thuần là công việc của riêng nhà

trường và các thầy cô trường giáo dưỡng mà hiệu quả của nó còn do sự phối kết hợp

giữa nhà trường, cha mẹ, các tổ chức xã hội trong các khâu trước, trong và sau khi

vào trường giáo dưỡng. Trong quá trình trực tiếp làm việc với cán bộ trường Giáo

dưỡng số 2, chúng tôi nhận được những ý kiến trao đổi của những thầy cô giáo ở

đây về tình trạng một số bậc cha mẹ không có sự phối hợp với nhà trường trong

việc giáo dục con em họ khi vào trường.

Do vậy chúng tôi khuyến nghị cần có những quy định pháp lý về trách nhiệm

phối hợp của cha mẹ với trường giáo dưỡng trong việc giáo dục con em họ, đồng

97

thời có chế tài xử lý đối với cha mẹ khi thiếu quan tâm, giáo dục, bỏ mặc con cái

hoặc tiếp tay mua ma túy, vật cấm cho con em họ khi đang ở trường giáo dưỡng;

bao che, cản trở, không phối hợp truy tìm học sinh trốn trường, không nhận bảo

lãnh về chăm sóc khi biết con em bị bệnh hiểm nghèo, nhất là bị HIV/AIDS.

Theo Luật xử lý vi phạm hành chính thì kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014

việc quyết định đưa vào trường giáo dưỡng thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp

huyện. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nghị định hướng dẫn cụ thể dẫn đến việc vận

dụng các quy định của pháp luật ở các cấp chính quyền thiếu thống nhất. Vì vậy

khuyến nghị các cơ quan chức năng cần sớm ban hành hệ thống văn bản quy phạm

pháp luật hướng dẫn thi hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng theo quy định

của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đảm bảo đồng bộ, thống nhất, đúng

pháp luật, phù hợp thực tế và khả thi nhằm phát huy vai trò trách nhiệm của chính

quyền các cấp, các ban ngành, tổ chức địa phương, gia đình… chủ động tham gia

trong quá trình quản lý giáo dục các em khi đang ở trường giáo dưỡng và hỗ trợ,

giúp đỡ các em hết hạn trở về địa phương hoà nhập cộng đồng.

Bên cạnh đó, công tác xử lý hồ sơ trong nhiều trường hợp cũng tạo nên

những khó khăn nhất định cho hoạt động giáo dục pháp luật ở trường giáo dưỡng.

Trên thực tế, giấy tờ, hồ sơ của học sinh trường giáo dưỡng nhiều trường hợp bị

thiếu chính xác về năm sinh, nơi ở, bản tóm tắt lý lịch hành vi vi phạm pháp luật

còn sơ sài, chưa đáp ứng nhu cầu khai thác thông tin học sinh khi cần thiết do sự sơ

suất, thiếu sát sao của công an, cán bộ hồ sơ ở địa phương. Để hoạt động giáo dục

nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng với các em đạt hiệu quả, khuyến nghị xây

dựng cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin, quản lý người chưa thành niên vi phạm

pháp luật thống nhất, đầy đủ để công tác phối hợp giữa trường giáo dưỡng với các

tổ chức xã hội và gia đình tốt hơn, giúp học sinh vi phạm pháp luật trở về hoà nhập

cộng đồng, góp phần nâng cao chất lượng của công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục

trẻ em của toàn xã hội.

Ngoài ra, cần tăng quyền và trách nhiệm cho trường giáo dưỡng trong hoạt

động quản lý, giáo dục học sinh. Với những học sinh có hành vi, thái độ thiếu tích

cực trong quá trình học tập, rèn luyện ở trường giáo dưỡng, cần tạo cơ sở pháp lý và

tăng quyền tự quyết cho trường có thể kéo dài thời hạn của học sinh từ 6 tháng đến

98

1 năm ở lại trường để rèn luyện. Có như vậy, tính nghiêm minh và công bằng mới được

phát huy, học sinh mới nhận thức được giá trị và quyền hạn của trường giáo dưỡng.

3.2 2. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục pháp luật

của trường giáo dưỡng

Bản chất của hiệu quả trong công tác giáo dục pháp luật cho học sinh trường

giáo dưỡng nằm trong chính chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục pháp

luật đang được thực hiện ở trường. Do đó, đánh giá những hạn chế, thiếu sót trong

công tác này để đưa ra những khuyến nghị đổi mới chương trình, nội dung, phương

pháp giáo dục pháp luật cho học sinh là điều quan trọng nhất.

Mặc dù Viện Giáo dục và các trường giáo dưỡng cần phối hợp với nhau để

biên soạn lại bộ sách giáo dục công dân (đặc biệt là sách dành cho cấp Tiểu học)

theo hướng giảm kiến thức lý thuyết, tăng bài tập, phần liên hệ bản thân để học sinh

hiểu bài tốt hơn.

Nên biên soạn nội dung chương trình thêm một số chuyên đề cụ thể cho từng

loại hình sai phạm của học sinh, bởi vì với các em có nhận thức chậm, lười học thì

việc “cầm tay chỉ việc” như vậy sẽ giúp các em hiểu cụ thể về sai phạm của mình,

tránh lặp lại lần sau.

Trong nội dung các bài học về pháp luật, nên bổ sung thêm các điều luật cụ

thể trong các bộ luật của Việt Nam có liên quan tới từng bài học để học sinh kết hợp

tìm hiểu thêm về kiến thức pháp luật.

Cần xây dựng kết cấu chương trình cho phù hợp để tránh tình trạng học sinh

chán nản khi phải học đi học lại một nội dung nhiều lần. Với khối Tiểu học, mặt

bằng nhận thức của các em còn rất thấp, một bài học có thể chia thời lượng giảng

dạy dài hơn, sử dụng nhiều phương pháp như minh họa, lấy ví dụ, đóng vai… để

học sinh thực sự hiểu và nhập tâm.

Ngoài sách giáo khoa cho học sinh, Viện Khoa học giáo dục cần kết hợp với

Tổng cục VIII nhanh chóng xây dựng sách thiết kế bài giảng cho giáo viên, tránh

tình trạng không có sự thống nhất trong cách thức triển khai bài giảng, trong nội

dung chuẩn kiến thức.

Cần có sự kiểm tra, giám sát và tư vấn trong và sau khi xem chương trình

Tòa tuyên án của học sinh. Để làm được điều này, các giáo viên chủ nhiệm phải

99

trực tiếp tham gia vào các buổi theo dõi chương trình của các em, giải đáp thắc mắc

hoặc định hướng nhận thức, thái độ ngay trong chương trình. Việc kiểm tra nhận

thức sau đó cần được thực hiện thường xuyên và coi đó là một hoạt động bắt buộc.

Nên sử dụng các bài thu hoạch để kiểm tra và đánh giá nhận thức của học sinh thay

vì kiểm tra miệng, các bài thu hoạch này cần được chấm điểm và điểm này có thể

được sử dụng để đánh giá thi đua tháng. Chỉ với việc theo dõi, kiểm tra sát sao như

vậy thì hoạt động xem chương trình Tòa tuyên án mới tăng hiệu quả trong giáo dục

pháp luật của mình.

Các chương trình phát thanh của trường cần bổ sung thêm chuyên mục Hỏi-

Đáp. Chuyên mục này một mặt tạo điều kiện cho học sinh có thể được giải đáp các

thắc mắc của mình về các lĩnh vực sức khỏe, pháp luật, đời sống…, mặt khác giúp

các em học sinh khác có những thắc mắc tương tự có thể tự giải quyết các vấn đề

của mình. Điều này sẽ làm giảm áp lực cho hoạt động tư vấn riêng. Ngoài ra, cán bộ

chuyên trách mục phát thanh cũng có thể xây dựng các câu hỏi- giải đáp mẫu về

một số vấn đề hay gặp phải của học sinh trường giáo dưỡng để tác động và định

hướng nhận thức, hành động của học sinh một cách dần dần.

Ngoài báo Thanh niên và báo Hoa học trò mà các em học sinh đang được

phát hàng ngày, cần bổ sung thêm một số đầu báo như Đời sống và pháp luật, Gia

đình và xã hội… để tăng cường hiểu biết cho các em về các lĩnh vực cụ thể.

3.2.3. Củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên làm công tác

giáo dục pháp luật cho học sinh.

Cần tăng cường mở các lớp bồi dưỡng kiến thức về tâm lý, kỹ năng sống

cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên trường giáo dưỡng để mỗi cán bộ của

trường giáo dưỡng vừa là một chiến sỹ công an vừa là một nhà sư phạm, vừa là một

nhà tâm lý giỏi của các học sinh trường giáo dưỡng.

Tăng cường cán bộ chuyên trách các lĩnh vực, đặc biệt là cán bộ chuyên

trách mảng tư vấn thay vì 1 cán bộ như hiện nay. Việc giảm thiểu giáo viên kiêm

nhiệm, tăng cán bộ chuyên trách sẽ làm giảm áp lực công việc, tạo điều kiện thời

gian và sức khỏe cho cán bộ, giáo viên tập trung trau dồi kiến thức, nâng cao trình

độ làm tốt công việc của mình.

100

Bên cạnh đó, cải thiện đời sống của cán bộ, giáo viên cũng là một cách gián

tiếp để tăng hiệu quả làm việc của họ. Đặc biệt, với cán bộ chuyên trách tư vấn và

các cán bộ giáo vụ hồ sơ hầu hết phải làm việc vào thứ bảy, chủ nhật thì cần tính là

lao động ngoài giờ hành chính theo quy định của Bộ luật Lao động. Khoản thu nhập

này dù không nhiều nhưng là sự ghi nhận giá trị lao động của họ, thể hiện sự quan

tâm đến công tác giáo dục nói chung và đời sống cá nhân nói riêng của Bộ Công an.

Điều này làm khơi gợi sự nhiệt tình, tận tâm của cán bộ, giáo viên với công tác của mình.

Ngay chính cán bộ, giáo viên làm công tác giáo dục pháp luật cũng cần tự

nhận thức được vị thế, vai trò của mình để tự trau dồi kiến thức chuyên môn, kỹ

năng nghiệp vụ. Bên cạnh đó, cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo

đức trong sáng, lối sống lành mạnh để trở thành một tấm gương tốt cho học sinh

như lời Bác Hồ từng nói “Một trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương

tốt”. Đặc biệt, tình yêu nghề, lòng bao dung, nhân ái với học sinh- những trẻ em

lầm lỡ sẽ là một phẩm chất khiến các em “tâm phục khẩu phục”. Khi đã chiếm được

lòng tin, tình cảm của học sinh thì hoạt động giáo dục pháp luật sẽ dễ dàng và đạt

hiệu quả cao.

3.2.4. Giải pháp đối với học sinh

Ngay khi mới vào trường, các thầy cô cần tuyên truyền, giáo dục cho học

sinh để các em nhận thức được vào trường giáo dưỡng không phải là cắt đứt con

đường quay trở lại cộng đồng của mình, mà đây là môi trường tốt để rèn luyện, học

tập để hoàn thiện bản thân, trở thành công dân tốt và tái hòa nhập xã hội. Chỉ khi

yên tâm về tư tưởng, các em mới có động lực để phấn đấu, hoạt động giáo dục nói

chung và giáo dục pháp luật nói riêng mới dễ triển khai và đạt hiệu quả.

3.2.5. Tăng cường kinh phí để phục vụ công tác giáo dục pháp luật cho học sinh

Mọi hoạt động muốn đi vào chiều sâu, thực chất, có chất lượng và đạt hiệu

quả cao ngoài việc cần đầu tư về trí tuệ thì không thể không bàn đến sự đầu tư về

mặt kinh phí. Bộ Công an và Tổng cục VIII cần tăng cường việc huy động kinh phí

cho hoạt động giáo dục pháp luật bằng việc sử dụng phục vụ cho các mục tiêu:

Nâng cấp, xây dựng mới cơ sở vật chất phục vụ hoạt động tư vấn riêng, hội trường

học tập tập trung (thay vì ngồi ngoài trời như hiện nay), trang bị các thiết bị truyền

101

thông đa phương tiện hiện đại phục vụ hoạt động giảng dạy pháp luật như loa đài,

âm lý, máy vi tính, máy chiếu, nối mạng Internet… để giáo viên sử dụng lồng ghép

âm thanh, hình ảnh, ví dụ minh họa trong quá trình giảng dạy hoặc tổ chức chơi trò chơi.

Bên cạnh đó, ngoài tăng cường kinh phí trong việc mua bổ sung sách báo,

tạp chí, tài liệu phục vụ nhu cầu học sinh, cũng cần xây dựng tủ sách pháp luật cho

cho cán bộ giáo viên để tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ này tự nghiên cứu, cập

nhật thông tin, kiến thức pháp luật mới.

Cũng cần tăng cường kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục để hoạt

động xử án lưu động được triển khai dễ dàng.

102

KẾT LUẬN

Trên cơ sở nghiên cứu đề tài “Giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo

dưỡng số 2- Yên Mô- Ninh Bình” chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

Từ khi Việt Nam đi theo con đường kinh tế thị trường và nhất là sau khi gia

nhập WTO, sự hội nhập và phát triển mạnh mẽ của đất nước không chỉ tạo ra những

mặt tích cực mà những vấn đề tiêu cực cũng nảy sinh, đôi lúc gây ra sự mất phương

hướng cho giới trẻ. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi tình trạng vi phạm pháp

luật trong giới trẻ có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp thì việc giáo dục pháp

luật cho họ càng trở nên cần thiết. Đặc biệt, với học sinh trường giáo dưỡng- là

những người đã vi phạm pháp luật và có hành vi tái phạm nhiều lần, không sửa

chữa dẫn đến phải thi hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng thì việc giáo dục

pháp luật lại càng quan trọng.

Nhận thức được điều này, trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình đã tổ chức hoạt

động giáo dục pháp luật như là một hoạt động cơ bản, trọng tâm của nhà trường.

Với mục đích được đề ra là trang bị những kiến thức pháp luật cần thiết giúp

học sinh nâng cao nhận thức, rèn luyện kỹ năng và thái độ tự giác chấp hành pháp

luật, hoàn thiện bản thân để tái hòa nhập cộng đồng, đặc biệt là biện pháp tích cực

trong việc phòng ngừa tội phạm chưa thành niên, hoạt động giáo dục pháp luật đã

được nhà trường thực hiện thông qua 4 phương pháp sau đây: hoạt động học tập bắt

buộc; các hoạt động giáo dục bổ trợ; các hoạt động khen thưởng, kỷ luật; các

phương tiện truyền thông của trường.

Hoạt động học tập bắt buộc được thực hiện thông qua môn giáo dục công

dân. Hoạt động giáo dục bổ trợ được thực hiện thông qua hình thức xem chương

trình Tòa tuyên án, tư vấn riêng, chơi trò chơi và xem xử án lưu động. Hoạt động

khen thưởng kỷ luật được thực hiện thông qua các hình thức khen thưởng, kỷ luật

và giáo dục cá biệt. Hoạt động giáo dục qua các phương tiện truyền thông được

thực hiện thông qua loa phát thanh của trường và sách báo, tạp chí.

Mỗi phương pháp lại có đặc trưng riêng với nội dung hướng đến và hình

thức triển khai khác nhau. Trong đó, kết quả khảo sát cho thấy hình thức được học

sinh và giáo viên đánh giá cao nhất về hiệu quả là hình thức tổ chức chơi trò chơi

103

(nằm trong phương pháp giáo dục bổ trợ), và đạt hiệu quả thấp nhất là hoạt động

giáo dục thông qua phương tiện truyền thông.

Cũng như hoạt động giáo dục pháp luật cho các đối tượng khác, giáo dục

pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình phụ thuộc các nhân tố chủ

quan và khách quan. Nhân tố chủ quan là đặc điểm của giáo viên trường giáo

dưỡng, đặc điểm nhân khẩu học và ý thức pháp luật của học sinh trường giáo

dưỡng, nhân tố khách quan là gia đình và nhóm đồng đẳng. Các nhân tố này kết hợp

với nhau để tạo nên mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục đặc thù trong

trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.

Ngoài nhân tố tự thân là đặc điểm của học sinh, thì trong 3 nhân tố còn lại,

kết quả khảo sát học sinh cho thấy các em đánh giá nhân tố có tác động mạnh nhất

lên thái độ, hành vi của mình khi ở trường giáo dưỡng là thầy cô trường giáo dưỡng,

tiếp đó là nhóm đồng đẳng (nhóm bạn ở trường giáo dưỡng) và gia đình.

Trong quá trình giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng, bên cạnh

những kết quả đã đạt được là trang bị cho các em những kiến thức pháp luật cần

thiết, rèn luyện kỹ năng và thái độ tự giác chấp hành pháp luật thì hoạt động này

cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế. Những hạn chế đó là nội dung giáo dục còn chưa

phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm của học sinh; hình thức triển khai đôi khi còn mang

tính hình thức, chưa đi vào chiều sâu; về cán bộ còn thiếu về số lượng và yếu về kỹ

năng; bản thân học sinh cũng còn nhiều em xác định động cơ phấn đấu chưa đúng đắn.

Thực trạng giáo dục pháp luật cho học sinh trường giáo dưỡng đã và đang

đặt ra nhiều vấn đề cho công tác này. Để hoạt động này thực sự đạt hiệu quả, trong

thời gian tới cần thực hiện những nhóm giải pháp sau: hoàn thiện hệ thống pháp luật

về quản lý, giáo dục người chưa thành niên vi phạm pháp luật; đổi mới và hoàn

thiện chương trình nội dung, phương pháp giáo dục pháp luật; củng cố, nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên làm công tác giáo dục pháp luật cho học sinh;

giải pháp đối với học sinh; tăng cường kinh phí để phục vụ công tác giáo dục pháp

luật cho học sinh.

104

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Thanh Bình (2014), Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hoạt động

dạy nghề cho học sinh trường Giáo dưỡng số 2- Ninh Bình, Luận văn Thạc sỹ

2. Bộ công an - Tổng cục thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, Tổng kết công tác

cơ sở giáo dục trường giáo dưỡng 10 năm (2002-2012; Tr 8)

3. Trần Đức Châm (2002), Thanh thiếu niên làm trái pháp luật - Thực trạng và giải

pháp NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội

4. Phạm Thị Kim Dung (2000), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục pháp

luật trong trường phổ thông ở nước ta, Ths Luật học, Hà Nội.

5. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã Hội học đại cương, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội

6. Đặng Thị Tuyết Hạnh (2013), Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật, Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 6/2013, tr. 10-13.

7.Bùi Thị Hoa (2011) “ Công tác quản lý trẻ em vi phạm pháp luật của lực lượng

Công an cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum” , LV thạc sỹ - HVCSND

8. Lê Ngọc Hùng (2009), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

9. Nguyễn Khắc Hùng (2009), Phương pháp giáo dục pháp luật, Nxb Đại học Quốc

gia Tp. Hồ Chí Minh.

10. Đoàn Thị Thanh Huyền (2013), Giáo dục pháp luật cho con cái trong gia đình

hiện nay, Luận án Tiến sỹ Xã hội học.

11. Đoàn Thị Thanh Huyền (2013), Những yếu tố tác động đến giáo dục pháp luật

cho con cái trong gia đình hiện nay, Dân chủ và pháp luật, số 9/2013, tr 62.

12. Nguyễn Duy Lâm (1998), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Giáo dục,

Hà Nội

13. Nguyễn Thị Ngọc Linh (2013), Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật ở trường

giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, Luận văn Thạc sỹ Xã hội học

14. Nguyễn Hồi Loan (2000), Ảnh hưởng của gia đình tới hành vi vi phạm pháp

luật. Kỉ yếu hội thảo Việt – Pháp về Tâm lí học

15. Phan Thành Long (2011), Những vấn đề chung của giáo dục học, Nxb Đại học

sư phạm, Hà Nội

105

16 Nguyễn Đình Đặng Lục (2013), Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành

nhân cách, Nxb Chính trị Quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

17. Nguyễn Thị Thanh Mai (2003), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh

trong dạy học pháp luật ở trường trung học phổ thông, Tạp chí Giáo dục, số 74

(12/2003), tr.15-16.

18. Nghị định số 52/2001/NĐ-CP về việc Hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp

đưa vào trường giáo dưỡng.

19. Nghị định số 142/2003/NĐ-CP về quy định việc áp dụng xử lý hành chính đưa

vào trường giáo dưỡng.

20. Ngọ Văn Nhân (2012), Giáo dục hay giáo dục ý thức pháp luật, Nhà nước và

pháp luật, số 12/2012, tr. 3 -7.

21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Bộ luật hình sự,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2012), Luật xử lý vi phạm

hành chính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

23. Trần Thị Sáu (2012), Giáo dục pháp luật cho học sinh trong trường trung học

phổ thông ở Việt Nam : LATS Luật học, 218tr.

24. Radda Barnen, Báo cáo lượng giá dự án tư pháp người chưa thành niên do

Radda Barnen hỗ trợ, Nxb Chính trị Quốc gia.

25. Ngô Văn Trù (2013), Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam ở

các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

26. Phạm Thanh Tuyền (2009), Những vấn đề cần quan tâm trong công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật hiện nay, Dân chủ và pháp luật, số 9/2009, tr. 59-61.

27. Nguyễn Thu Thủy (2006), Chất lượng giáo dục pháp luật và các tiêu chí đánh

giá, Tạp chí luật học, số 5/2006, tr.61-66.

28. Hồ Diệu Thuý ( 2002) Nguồn gốc xã hội của việc vi phạm pháp luật ở người

chưa thành niên hiện nay, LATS.

29. Tổng cục Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp – Bộ Công an (2013), Dự thảo

lần 2 chương trình môn giáo dục công dân trường Giáo dưỡng.

106

30. Tổng cục Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp – Bộ Công an (2009), Những

văn bản pháp luật phục vụ cho công tác trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo

dưỡng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

31. Trường giáo dưỡng số 2 (2014), Thống kê số liệu học sinh đến 31/8/2014, Ninh Bình.

32. Trường giáo dưỡng số 2 (2014), Kế hoạch bình bầu xét duyệt giảm thời hạn

chấp hành biện pháp giáo dưỡng đợt 3/2014, Ninh Bình

33. Trưỡng giáo dưỡng số 2 (2013), Thống kê số liệu công tác giáo dục học sinh

năm 2013, Ninh Bình

34. Unicef (2007), Tài liệu tập huấn về công tác điều tra thân thiện với trẻ em, Hà Nội.

35. Lương Văn Úc (2009), Giáo trình xã hội học, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân,

Hà Nội.

36. Ủy ban văn hóa, giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng (2012), Báo cáo kết quả

giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ

em giai đoạn 2008- 2010, số 417/BC- UBVHGDTTN13, ngày 11/5/2012.

37. Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển Xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

38. Nguyễn Như Ý (2010), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Thành

phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

39. Trang thông tin hướng dẫn nghiệp vụ, Giới thiệu chung về phổ biến, giáo dục

pháp luật thông qua hoạt động xét xử của tòa án, http://www.moj.gov.vn,

http://www.moj.gov.vn/huongdannv/Lists/TaiLieuNghiepVu/View_Detail.aspx

?ItemId=280

40. Trang thông tin hướng dẫn nghiệp vụ, Những quy định mới về chế độ áp

dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành

niên của Luật Xử

lý vi phạm hành chính, http://moj.gov.vn,

http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=5999,

11/4/2014

41.Giáo

dục

pháp

luật

cho

trẻ

em

ở Việt Nam,

http://ttbd.gov.vn/PrintPreView.aspx?distid=3194

107