VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VŨ MONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG OCEANBANK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VŨ MONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG OCEANBANK Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn thạc sĩ “Giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng

theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng OceanBank” là công trình

nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, khảo sát

tình hình thực tiễn và sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Đức Minh. Các

thông tin, số liệu được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn chính xác và có nguồn

gốc rõ ràng.

Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2019

Học viên

Phạm Vũ Mong

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn đến

PGS.TS. Nguyễn Đức Minh người đã tận tình hướng dẫn và giúp tôi đưa ra những

ý kiến và định hướng quý báu thực hiện Luận văn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia

đình động viên, giúp đỡ tôi học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn này!

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................... 1

Chương 1 ............................................................................................................................ 7

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ................... 7

1.1. Khái niệm về giao kết hợp đồng tín dụng .................................................................... 7

1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng tín dụng ............ 10

1.3. Hình thức và chủ thể giao kết hợp đồng tín dụng ...................................................... 16

1.4. Điều kiện có hiệu lực của giao kết Hợp đồng tín dụng .............................................. 25

1.5. Trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng tín dụng ........................................................ 30

1.6. Nguyên tắc giao kết hợp đồng tín dụng ..................................................................... 38

1.7. Mối quan hệ giữa giao kết hợp đồng bảo đảm tín dụng với giao kết hợp đồng tín dụng .............................................................................................................................. 41

1.8. Điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng tín dụng .............................. 43

Chương 2 .......................................................................................................................... 48

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG QUA THỰC TIỄN

NGÂN HÀNG OCEANBANK ....................................................................................... 48

2.1. Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng ........................................... 48

2.2. Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank ............................. 53

2.3. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu.................................................................. 56

2.4. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng .............................. 62

2.5. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng ............ 65

KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 74

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Stt Kí hiệu Diễn giải

1 BIDV Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

2 BLDS Bộ luật Dân Sự

3 HĐTD Hợp đồng tín dụng

4 NHNN Ngân hàng nhà nước

5 NĐ-CP Nghị định-Chính Phủ

6 QĐ Quyết định

7 TCTD Tổ chức tín dụng

8 TMCP Thương mại cổ phần

9 VBHD Văn bản hướng dẫn

10 WTO Tổ chức Thương Mại Thế giới

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm qua, Việt Nam đã và đang có những bước đi hết sức quan

trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Việc gia nhập Tổ chức thương mại

thế giới (WTO) đã thúc đẩy sự phát triển cho nền kinh tế nước nhà, tạo ra cho các

doanh nghiệp những cơ hội to lớn để phát triển, mở rộng thị trường trong và ngoài

nước nhưng đồng thời cũng đặt ra thách thức vô cùng to lớn cho các doanh nghiệp

khi họ phải cạnh tranh với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong đó,

Ngân hàng là một trong những lĩnh vực phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất.

Trong các hoạt động ngân hàng thì cho vay là hoạt động mang lại nguồn thu

chủ yếu cho các ngân hàng nhưng cũng là hoạt động tiềm ẩn những rủi ro rất lớn,

thậm chí có thể gây sụp đổ hệ thống ngân hàng tác động nghiêm trọng đến nền kinh

tế đất nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế đang diễn ra sâu rộng tại Việt Nam thì

nguy cơ rủi ro tín dụng ngày càng cao. Đồng thời, những cuộc khủng hoảng tín

dụng tại một số nước trên thế giới là lời cảnh tỉnh cho Việt Nam trong việc nâng cao

chất lượng tín dụng, kiểm soát rủi ro hoạt động. Do vậy, chúng ta cần tiếp tục

nghiên cứu và hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức để đảm bảo hơn nữa tính

thống nhất, đồng bộ, đầy đủ và hiệu quả pháp luật về ngân hàng nói chung và pháp

luật về hợp đồng tín dụng nói riêng đặc biệt là giao kết hợp đồng.

Trong những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật

như: Bộ luật dân sự 2015; Luật Ngân hàng Nhà nước; Luật các tổ chức tín dụng

2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng 2017 và các văn

bản hướng dẫn thi hành…Những văn bản đó đã tạo ra một hành lang pháp lý quan

trọng, tạo điều kiện để hoạt động cho vay của các ngân hàng phát triển, góp phần

thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu

đạt được thì pháp luật về hợp đồng tín dụng nói chung và pháp luật về giao kết hợp

đồng tín dụng nói riêng vẫn còn nhiều bất cập, thiết sót. Việc tuân thủ nghiêm ngặt

những quy định về thẩm quyền giao kết, trình tự, thủ tục, hình thức giao kết hợp

đồng và sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng tín dụng ngân hàng luôn là một

1

đòi hỏi cần thiết, bởi việc vi phạm hợp đồng tín dụng ngân hàng không chỉ gây tổn

hại cho lợi ích của các tổ chức tín dụng mà còn làm ảnh hưởng đến các chủ thể khác

và lợi ích chung của toàn xã hội.

Hơn nữa, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng đặt ra yêu cầu phải

có sự thống nhất giữa quy phạm pháp luật quốc gia với các quy phạm pháp luật

quốc tế, giữa các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng với các cam

kết của WTO mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

Với các lý do như trên, em xin lựa chọn đề tài “Giao kết hợp đồng tín dụng

ngân hàng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng OceanBank” để

nghiên cứu. Hi vọng rằng với những nghiên cứu này sẽ góp phần hoàn thiện những

vấn đề bất cập trong việc giao kết hợp đồng tín dụng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn

Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín dụng

ngân hàng nói chung và giao kết hợp đồng tín dụng nói riêng ở những khía cạnh

khác nhau như:

- “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng tín dụng và thời hiệu khởi kiện vụ án

kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín dụng” – Hoàng Quỳnh Chi – Kiểm sát. Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, số 4/2002. Bài viết đã đề cập đến nhũng quy định của

pháp luật về chủ thể, đối tượng, vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng,

thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín của các tổ chức tín

dụng ở Việt Nam.

- “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng” – Phạm

Văn Đàm – Dân chủ và Pháp luật. Bộ Tư pháp, số 11/2011. Bài viết trình bày khái

niệm, bản chất và đặc điểm sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp bảo đảm thực

hiện HĐTD. Đối với các khoản tiền vay bằng tài sản: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh...

- “Vận dụng quy định của pháp luật về lãi suất để giải quyết tranh chấp hợp

đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án” – Lương Khải An – Tạp chí Kiểm sát, số

12/2012. Bài viết chỉ ra việc vận dụng các quy định về lãi suất quá hạn, lãi suất chậm

thi hành án vẫn còn những quan điểm khác nhau; bên cạnh đó, hướng dẫn của ngành

Ngân hàng còn chồng chéo với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước

cấp trên; các cơ quan liên ngành cũng chưa kịp thời phối kết hợp để cùng giải quyết

2

vướng mắc nên việc giải quyểt tranh chấp còn thiếu thống nhất, chưa thỏa đáng.

- “Bàn về chủ thể của luật dân sự qua quy định về bảo hiểm tiền gửi của cá

nhân ở các tổ chức tín dụng” – Đinh Dũng Sỹ – Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số

02/2005. Tác giả đã nêu lên cái nhìn tổng quát về các chủ thể được quy định còn

chung chung, chưa rõ ràng trong Bộ luật dân sự 2005 gây ra không ít khó khăn,

phức tạp trong thực tiễn điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của các cá nhân ở

các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.

Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu phân tích những vấn đề pháp lý về

bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng và những bất cập đang gặp phải, đưa ra định

hướng cho sự phát triển của các ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế Việt Nam nói

chung. Tuy nhiên, những công trình này mới chỉ nghiên cứu hoạt động tín dụng ở

một số lĩnh vực mà chưa có những phân tích cụ thể về vấn đề giao kết hợp đồng tín

dụng - vấn đề này còn nhiều bất cấp, chưa phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế.

Do đó, trên cơ sở kế thừa thành tựu của các công trình nghiên cứu trước đó, tác giả sẽ

tiến hành nghiên cứu và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng tín

dụng, chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định đó trong thực tiễn, từ đó

đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ nội dung, cơ sở lý luận và

thực tiễn của các quy định về giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng, thông qua việc

phân tích các quy định của Bộ Luật Dân sự 2015, Luật các tổ chức tín dụng 2010;

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng 2017 và các văn bản

hướng dẫn thi hành… và nghiên cứu thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân

hàng OceanBank. Trên cơ sở nghiên cứu tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm

hoàn thiện những quy định bất cập, góp phần giải quyết các vướng mắc của thực

tiễn giao kết hợp đồng tín dụng.

Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:

Thứ nhất là, nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản

pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng.

Thứ hai là, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về

giao kết hợp đồng tín dụng ở nước ta hiện nay, đặc biệt là tại Ngân hàng

3

OceanBank.

Thứ ba là, đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi những quy định bất cập, góp

phần hoàn thiện khung pháp lý về giao kết hợp đồng tín dụng để nâng cao hiệu quả của

hoạt động tín dụng ở nước ta nói chung và Ngân hàng OceanBank nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài lấy đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt Nam hiện

hành về giao kết hợp đồng tín dụng, cụ thể là thực tiễn áp dụng pháp luật về giao

kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank.

Đồng thời, qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín

dụng, đề tài sẽ chỉ ra một số vấn đề bất cập còn tồn đọng. Từ đó, tác giả đề xuất một

số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng,

nâng cao hiệu quả và tính khả thi của việc áp dụng pháp luật về hoạt động tín dụng

vào thực tiễn tại Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng có phạm vi nghiên cứu

rất rộng, nội dung phức tạp, bao hàm nhiều lĩnh vực pháp luật như dân sự, hành

chính, hình sự… Do đó, để nghiên cứu một cách toàn diện thì đòi hỏi sự đầu tư

nghiên cứu rất nhiều kiến thức có liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Vì vậy,

với việc nghiên cứu dừng lại ở mức đề tài luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ giới hạn

phạm vi nội dung nghiên cứu là pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng tại ngân

hàng. Trên cơ sở đó, tác giả đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp

luật về giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Việt Nam.

Về thời gian: Luận văn sẽ nghiên cứu pháp luật về giao kết hợp đồng tín

dụng trên cơ sơ pháp luật từ năm 2010 đến nay và nghiên cứu việc thực hiện hoạt

động tín dụng tại Ngân hàng, cụ thể là: Bộ luật dân sự 2015, Luật các TCTD 2010

và một số văn bản quy phạm pháp luật khác.

Về không gian: Luận văn tập trung làm rõ thực trạng giao kết hợp đồng tín

dụng tại Ngân hàng OceanBank, từ đó đưa ra những định hướng góp phần hoàn

4

thiện vấn đề này đối với các ngân hàng tại Việt Nam.

5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở phương pháp luận

Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, tác giả dựa trên cơ sở

phương pháp luận là của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tìm ra mối quan hệ

biện chứng giữa pháp luật và thực tế áp dụng cũng như thành tựu của các chuyên

ngành khoa học pháp lý hay những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên

cứu, các bài viết trên tạp chí, các vụ án được đề cập trên truyền thông đại chúng.

5.2. Các phương pháp nghiên cứu

Bài luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu định tính như:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

cơ bản về hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank.

- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn nhằm nắm bắt được những khó

khăn, vướng mắc của cơ quan quản lý trong quá trình thực tiễn hoạt động giao kết

hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank.

Sự kết hợp các phương pháp định tính là nền tảng cho cái nhìn khách quan

nhất, đồng thời sẽ có những nhận xét, đánh giá xác thực và đề ra những phương

hướng hoàn thiện có tính khả thi.

Ngoài ra, việc thu thập, nghiên cứu, phân tích các tài liệu được cung cấp bởi

Ngân hàng OceanBank cũng góp phần hoàn thành và làm rõ hơn mục đích nghiên

cứu. Thêm nữa để có cái nhìn toàn diện, khách quan, đa chiều hơn về vấn đề nghiên

cứu, tác giả cũng tiến hành nghiên cứu thông qua sách báo, tạp chí và internet.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Đề tài nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và phát triển lý luận về

giao kết hợp đồng tín dụng và tìm ra các giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp trong

giao kết hợp đồng tín dụng.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có tính ứng dụng thực tiễn.

- Một là, nội dung của luận văn nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp

đồng tín dụng.

- Hai là, hạn chế các tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng

5

tín dụng.

- Ba là, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bên cho vay và bên vay, tạo môi

trường kinh doanh lành mạnh cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết

cấu của đề tài bao gồm:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng tín dụng

Chương 2: Thực trạng giao kết hợp đồng tín dụng qua thực tiễn Ngân hàng

OceanBank và giải pháp

6

Cuối cùng là Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

1.1. Khái niệm về giao kết hợp đồng tín dụng

Từ trước đến nay, pháp luật về hợp đồng chiếm một vị trí quan trọng trong

pháp luật Việt Nam, hầu hết các giao dịch trong xã hội đều liên quan đến hợp đồng.

Do đó, các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 liên quan đến hợp đồng dân sự nói

chung chiếm một phần không nhỏ. Mục đích của pháp luật về hợp đồng nhằm bảo

vệ quyền tự do ý chí của các bên.

Hợp đồng hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về

một vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các

quyền hay nghĩa vụ của các bên đó. Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 đã đưa ra khái

niệm về hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc

xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ đối với nhau”.

Khái niệm “Tín dụng” có nguồn gốc từ thuật ngữ Latinh “Creditium” có

nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có

nghĩa là sự vay mượn. Theo đó, tín dụng là quan hệ kinh tế trong đó một chủ thể

thỏa thuận để các chủ thể khác được sử dụng một số vốn nhất định của mình (dưới

hình thức hàng hóa hoặc tiền tệ) và số vốn này bao giờ cũng được hoàn trả trong

một khoảng thời gian nhất định dựa trên cơ sở có sự tín nhiệm.

Về bản chất, hợp đồng tín dụng là một dạng của hợp đồng vay tài sản. Do đó,

để hiểu được hợp đồng tín dụng là gì thì trước hết phải nghiên cứu khái niệm hợp đồng

vay tài sản. Theo Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 thì: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa

thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên

vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và

chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.

Ngoài ra, cũng có nhiều quan điểm về hợp đồng tín dụng như:

“Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên

cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện do Luật định (bên vay), theo đó tổ chức

tín dụng thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất

7

định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc lẫn lãi, dựa trên sự tín nhiệm” [23].

Hay: “Hợp đồng tín dụng ngân hàng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ

chức tín dụng (gọi là bên cho vay) và khách hàng vay vốn (gọi là bên đi vay), theo đó

bên cho vay cấp cho bên đi vay một khoản tiền nhất định để sử dụng trong một khoảng

thời gian nhất định và khi hết hạn đó, bên đi vay phải hoàn trả lại cả gốc và lãi” [22].

Từ các định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể hiểu: hợp đồng tín dụng là sự

thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với khách hàng là tổ

chức, cá nhân (bên vay) nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ nhất định giữa các bên

theo quy định của pháp luật, theo đó tổ chức tín dụng (bên cho vay) giao hoặc cam

kết giao cho khách hàng (bên vay) một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác

định trong một thời gian nhất định với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.

Bản chất của hợp đồng bao giờ cũng là sự thỏa thuận, nếu không có thỏa

thuận thì không có hợp đồng. Nhưng chỉ được coi là hợp đồng tín dụng khi các bên

tham gia nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Mỗi

chủ thể tham gia giao kết hợp đồng tín dụng đều có mục đích, động cơ nhằm hướng

tới lợi ích nhất định. Vì vậy, khi giao kết hợp đồng tín dụng các bên có thể tự do

bày tỏ ý chí của mình theo nguyên tắc và trình tự nhất định, cùng thỏa thuận để đi

đến thống nhất thành ý chí chung và nếu ý chí chung đó phù hợp với quy định của

pháp luật thì hợp đồng đó được coi là có hiệu lực pháp luật, làm phát sinh quyền và

nghĩa vụ của các bên.

Giao kết hợp đồng tín dụng là giai đoạn quyết định việc có tiến tới xác lập

hợp đồng hay không và liên quan tới thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Trước

tiên, là việc một bên biểu hiện ý chí của mình trước người khác bằng cách bày tỏ

cho phía bên kia biết ý muốn tham gia giao kết với người đó một HĐTD. Bên đề

nghị phải đưa ra những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng. Việc

đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Quy trình

giao kết hợp đồng tín dụng phải đảm bảo các yếu tố sau:

- Ý chí muốn xác lập hợp đồng của mỗi bên được biểu hiện ra bên ngoài.

- Có sự thông nhất ý chĩa giữa các bên

Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau .

8

Bên đề nghị có thể gặp mặt trực tiếp với người được đề nghị trao đổi, thỏa thuận

hoặc có thể thông qua điện thoại, chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện.

Bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau:

- Bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị

- Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và điều

kiện đó đã đến.

Ngoài ra, đề nghị giao kết hợp đồng được coi là chấm dứt khi bên nhận được

đề nghị trả lời không chấp nhận hoặc trả lời chấp nhận chậm.

Tiếp theo, chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD là việc bên được đề nghị nhận

lời và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đề nghị. Về nguyên tắc, bên

được đề nghị phải trả lời ngay về việc có giao kết hợp đồng hay không. Trong

những trường hợp, cần phải có thời gian để bên được đề nghị cân nhắc, suy nghĩ mà

các bên đã ấn định thời hạn trả lời thì bên được đề nghị phải trả lời trong thời hạn

đó. Nếu sau thời hạn nói trên, bên được đề nghị mới trả lời về vệc chấp nhận giao

kết hợp đồng thì lời chấp nhận đó được coi như một lời đề nghị mới của bên chậm

trả lời. Nếu việc trả lời được chuyển qua đường bưu điện thì ngày gửi đi theo dấu

của bưu điện được coi là thời điểm trả lời. Căn cứ vào thời điểm đó để bên đã đề

nghị xác định việc trả lời có chậm hay không so với thời hạn đã ấn định. Bên được

đề nghị có thể chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị, cũng có thể chỉ chấp nhận một

phần trong nội dung đó hoặc có thể chỉ chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng không

đồng ý với nội dung mà bên đề nghị đưa ra. Nghĩa là trong những trường hợp này,

bên được đề nghị muốn sửa đổi hoặc thay đổi nội dung mà bên đề nghị đưa ra. Vì

vậy, họ sẽ trở thành bên đề nghị mới và bên đã đề nghị trước đó lại trở thành bên

được đề nghị. Bên đề nghị mới cũng chịu sự ràng buộc của mình về những nội dung

đã đề nghị. Sự hoán vị này có thể xảy ra nhiều lần cho đến khi nào các bên thống

nhất thỏa thuận được với nhau toàn bộ nội dung của hợp đồng thì sẽ đi đến giao kết

hợp đồng tín dụng.

Để thực hiện hoạt động cấp tín dụng, TCTD phải giao kết và tiến hành ký kết

hợp đồng nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Trong giao kết HĐTD,

TCTD luôn tham gia với tư cách là chủ thể cấp tín dụng nhằm phân phối lại nguồn

vốn đã huy động từ tổ chức và cá nhân khác trong xã hội. Với tư cách là chủ thể cấp

9

tín dụng, TCTD phải thẩm định được phương án vay vốn, tính hiệu quả của việc sử

dụng vốn vay. Điều này là vô cùng cần thiết vì nó có khả nẳng hoàn trả nợ vay của

bên vay.

Việc đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng được thực hiện bằng những hình

thức khác nhau: văn bản viết, lời nói hoặc phương tiện khác. Việc trả lời do hai bên

thỏa thuận: trả lời ngay hoặc một thời hạn do hai bên ấn định. Khi bên đề nghị giao

kết có thời hạn ấn định trả lời thì việc chấp nhận giao kết hợp đồng chỉ có giá trị khi

được thực hiện trong thời hạn đó. Nếu sự chấp nhận diễn ra sau thời hạn đó thì được

xem như là một đề nghị giao kết hợp đồng mới. Bên đề nghị giao kết có thể thay đổi

hoặc rút lại đề nghị trong trường hợp: khi bên được đề nghị giao kết chưa nhận

được lời đề nghị hoặc bên đề nghị giao kết nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút

lại lời đề nghị.

1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng

tín dụng

1.2.1. Cơ sở pháp lý

Trong hệ thống các tổ chức tín dụng, ngân hàng được coi là một trong những

đơn vị có vị trí quan trọng nhất, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang là

thành viên của rất nhiều các tổ chức kinh tế thế giới, đòi hỏi cần thay đổi đề bắt kịp

với các nước trong cùng khối cộng đồng là hết sức cần thiết. Nhằm phối hợp nhịp

nhàng giữa nguồn cung và cầu vốn thì điều kiện cần là hệ thống văn bản quy phạm

pháp luật điều chỉnh các hoạt động tài chính quốc gia cần được hoàn thiện và là nền

tảng cho các tổ chức trong nền kinh tế, đặc biệt là các văn bản điều chỉnh những

quan hệ của các tổ chức tín dụng. Mọi hoạt động của tổ chức tín dụng đều tác động

đến nền kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó mà quá trình quản lý các hoạt dộng của

tổ chức tín dụng đã và được được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm chú trọng. Việc

ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo hoạt động của tổ chức tín

dụng có tầm ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế nước nhà, đồng thời định hướng cho

sự phát triển của chính các tổ chức tín dụng.

Cùng với đó, hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng tại Việt Nam cần dựa

trên khung pháp lý cụ thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà thực tiễn đang đặt ra. Để

hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng ngày càng hoàn thiện và tiến tới có vai trò

10

trọng yếu trong nền kinh tế thị trường thì đòi hỏi cần tiếp tục hoàn thiện những quy

định của pháp luật để hoạt động giao kết hợp động tín dụng có được sự hỗ trợ tốt

nhất trong tiến trình hội nhập và phát triển.

1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng tín dụng

Pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng là các quy phạm pháp luật do Nhà

nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong

quá trình giao kết hợp đồng tín dụng giữa các tổ chức tín dụng và các bên liên quan.

Từ khái niệm ta có thể rút ra một số thuộc tính cơ bản của pháp luật về giao kết hợp

đồng tín dụng:

Thứ nhất, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng

là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng, thực hiện hành vi

cho vay dưới hình thức hợp đồng tín dụng. Theo quy định pháp luật hiện hành thì

hoạt động cho vay là một trong những hành vi cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho

khách hàng thông qua một giao dịch hợp đồng, theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận

để khách hàng sử dụng một khoản tiền trong một thời hạn nhất định có hoàn trả cả

gốc và lãi. Việc cho vay được thể hiện dưới hình thức pháp lý là hoạt động giao kết

hợp đồng, hay nói cách khác, việc cho vay phải được thông qua hoạt động giao kết

hợp đồng tín dụng, giao kết hợp đồng tín dụng chính là hình thức pháp lý của quan

hệ tín dụng ngân hàng, bởi lẽ nó phản ánh sự thỏa thuận trực tiếp của các bên trong

việc xác lập một quan hệ tín dụng, xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của

các bên trong việc vay vốn và hoàn trả vốn vay.

Xuất phát từ vai trò của tín dụng trong nền kinh tế cũng như nhằm đảm bảo

sự an toàn của hoạt động ngân hàng và an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng

nên các nước đều coi trọng việc xây dựng một chế định về giao kết hợp đồng tín

dụng chặt chẽ và chuẩn mực.

Thứ hai, trình tự giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mà trong đó

các bên chủ thể bày tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến rồi đi đến thỏa

thuận trong việc cùng nhau xác lập các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, xác định

từng nội dung cụ thể của hợp đồng. Khi một bên muốn thiết lập một HĐTD thì ý

muốn đó phải được thể hiện ra bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Chỉ

như vậy, bên còn lại mới có thể nhận biết được ý muốn từ họ và từ đó đi đến

11

việc giao kết hợp đồng.

Theo Khoản 1 Điều 386 BLDS 2015 thì: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc

thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên

đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là

bên được đề nghị)”. Theo đó, đề nghị giao kết HĐTD là một bên biểu hiện ý chí,

nguyện vọng của mình trước một người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết

được ý muốn tham gia giao kết với người đó một HĐTD. HĐTD mà Bên đề nghị

đưa ra phải có những nội dung phù hợp và các điều khoản phải rõ ràng, cụ thể.

Còn chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD là việc bên được đề nghị nhận lời đề

nghị và tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đề nghị. Theo quy định, bên được

đề nghị phải trả lời ngay về việc có giao kết hợp đồng hay không. Trong những

trường hợp, bên được đề nghị cần có thời gian để bàn bạc, suy nghĩ mà hai bên đã

thỏa thuận thời hạn trả lời nhất định thì bên được đề nghị phải trả lời trong khoảng

thời hạn đó. Nếu quá thời hạn nói trên, bên được đề nghị mới trả lời về việc chấp

nhận giao kết hợp đồng thì theo thỏa thuận của hai bên, đề nghị giao kết HĐTD đó

có thể bị chấm dứt hoặc lời chấp nhận đó được coi như một lời đề nghị mới của bên

chậm trả lời. Bên được đề nghị có thể chấp nhận toàn bộ và vô điều kiện các nội

dung đề nghị, cũng có thể chỉ chấp nhận một phần trong nội dung đó hoặc nhận lời

đề nghị giao kết hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà bên đề nghị đưa ra.

Có nghĩa là bên được đề nghị muốn sửa đổi hoặc thay đổi nội dung tại hợp đồng mà

bên đề nghị đưa ra, khi đó bên được đề nghị sẽ trở thành bên đề nghị mới và bên đề

nghị trước đó trở thành người được đề nghị. Quá trình này có thể lặp đi lặp lại nhiều

lần cho đến khi có được chấp nhận giao kết hợp đồng đúng yêu cầu thì hợp đồng sẽ

được coi là giao kết.

Trình tự giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm các bước:

- Lập hồ sơ vay vốn

- Thẩm định hồ sơ vay vốn

- Quyết định cho vay

- Đàm phán các điều khoản của hợp đồng và ký kết hợp đồng.

Thứ ba, hợp đồng tín dụng là hợp đồng ưng thuận do vậy, thời điểm phát

sinh hiệu lực pháp lý của hợp đồng là điểm mốc thời gian làm phát sinh quyền đồng

12

thời cũng là cơ sở để phân định nghĩa vụ của các bên khi có tiền vay hoặc rủi ro xảy

ra. Thông thường khi giao kết HĐTD, các bên sẽ thỏa thuận ghi rõ thời gian mà hợp

đồng có hiệu lực, trong trường hợp này nó là hợp đồng ưng thuận và chúng ta

không có gì để bàn luận về thời điểm phát sinh hiệu lực pháp lý của HĐTD ngân

hàng. HĐTD có thể được công chứng, chứng thực phụ thuộc vào sự thỏa thuận của

các bên. Trong HĐTD cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối ứng. Cụ thể là,

TCTD có nghĩa vụ giải ngân theo đúng thỏa thuận, được quyền giám sát việc sử

dụng vốn vay của khách hàng, quyền yêu cầu khách hàng trả tiền đúng thời hạn…

Bên khách hàng có quyền yêu cầu TCTD giải ngân như đã cam kết, có nghĩa vụ sử

dụng vốn đúng mục đích, hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn.

Thứ tư, tổ chức giao kết hợp đồng tín dụng là chủ thể chủ yếu của pháp luật

về giao kết hợp đồng tín dụng.

Tại Khoản 2 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN Quy định về hoạt động

cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng

thì các tổ chức tín dụng được phép thực hiện nghiệp vụ cho vay là tổ chức tín dụng

được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng. Trước

hết, theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 thì: “Tổ chức

tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân

hàng”. Như vậy, xét về bản chất, tổ chức tín dụng là một doanh nghiệp nhưng nó có

những đặc điểm riêng để phân biệt với các doanh nghiệp khác, chẳng hạn:

- Việc cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh

mang tính chức năng. Điều này được thể hiện rõ tại Khoản 7 Điều 161 Luật các TCTD

2010: “7. Kể từ thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành, các tổ chức không phải là tổ

chức tín dụng đang thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng phải chấm dứt

ngay các hoạt động ngân hàng, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều này”.

- Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng không chỉ là một ngành nghề kinh

doanh mà hơn nữa còn là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Điều này thể

hiện ở việc hoạt động cho vay của TCTD phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định

như phải có vốn pháp định; phải được NHNN cấp phép hoạt động ngân hàng trước

khi tiến hành đăng ký kinh doanh theo luật định.

Thứ năm, hình thức giao kết hợp đồng tín dụng.

Xuất phát từ đặc thù của quan hệ tín dụng luôn tiềm ẩn độ rủi ro cao. Rủi ro

13

trong hợp đồng tín dụng không chỉ ảnh hưởng đến tổ chức tín dụng mà còn ảnh

hưởng đến người gửi tiền, gây tác động lớn đền nền kinh tế. Do vậy, hầu hết pháp

luật các nước trên thế giới đều yêu cầu các bên khi giao kết hợp đồng tín dụng phải

được thể hiện dưới hình thức văn bản như: Luật ngân hàng thương mại Trung Quốc

(Điều 37), Luật Ngân hàng Ba Lan (Điều 27.2). Ở Việt Nam, căn cứ theo quy định

tại khoản 1 Điều 23 Thông tư 39/2016/TT-NHNN thì thỏa thuận cho vay phải được

lập thành văn bản, trong đó có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền

vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài

sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận.

Ngoài ra, hiện nay, việc giao kết hợp đồng tín dụng còn được thực hiện dưới hình

giao dịch điện tử phù hợp với điều kiện công nghệ thông tin ngày càng phát triển

như hiện nay.

Thứ sáu, pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng đề cao nguyên tắc bình

đẳng, tự nguyện, tự chủ của các bên tham gia giao kết, nhất là ngân hàng thương

mại khi tham gia quan hệ tín dụng ngân hàng. Nguyên tắc này phản ánh đúng bản

chất quan hệ hợp đồng trong cơ chế thị trường, đó là các quan hệ tự nguyện.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Thông tư 39/2016/TT-NHNN Quy định

về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với

khách hàng thì: “Tổ chức tín dụng có quyền tự chủ trong hoạt động cho vay và tự

chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình. Không tổ chức, cá nhân nào được

can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng”. Quy định này

một mặt đề cao tính tự chủ của TCTD, mặc khác cũng thể hiện tư tưởng tách bạch

hoạt động quản lý ra khỏi hoạt động kinh doanh, thể hiện tính tự chủ kinh doanh

của các TCTD theo cơ chế thị trường. Qua đó thấy được, Nhà nước không làm thay

cho doanh nghiệp cũng như không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp, đặc

biệt là hoạt động kinh doanh của TCTD – một loại hình doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực đặc thù là kinh doanh tiền tệ.

Thứ bảy, trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ giao kết hợp đồng tín dụng

Theo Điều Khoản 1 Điều 351 Bộ luật dân sự, vi phạm nghĩa vụ dân sự là

việc bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thời hạn, thực

hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ và

14

bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Tương tự như

vậy, chung ta có thể hiểu vi phạm nghĩa vụ giao kết là các bên không thực hiện hoặc

thực hiện không đúng những thỏa thuận đã quy định trong hợp đồng. Đối với hợp

đồng tín dụng thì chủ thể vi phạm có thể là TCTD, có thể là khách hàng, mà cũng

có thể đồng thời các TCTD và khách hàng.

Theo đó, trong HĐTD không có một điều khoản riêng ghi nhận thỏa thuận

giữa các bên về việc xử lý các vi phạm hợp đồng. Việc quy định về các vi phạm của

các bên và phương thức xử lý, áp dụng chế tài thường được nêu trong các điều

khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên. Những thỏa thuận đối với nội dung này

cũng phải tuân theo nguyên tắc quyền tự do định đoạt bị giới hạn bởi pháp luật, tức

là dựa trên những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên trong

hợp đồng, về trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng….

Theo nguyên tắc xác định các trường hợp vi phạm HĐTD chủ yếu dựa trên

cơ sở những thỏa thuận về nghĩa vụ của các bên, cụ thể:

- Đối với tổ chức tín dụng, các vi phạm có thể là: không giải ngân và

thu nợ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng khi khách hàng cung cấp đầy đủ hồ sơ,

tài liệu; làm lộ thông tin của khách hàng đã cung cấp cho TCTD; vi phạm những

thỏa thuận khác trong hợp đồng…

- Đối với khách hàng, các vi phạm có thể là: không cung cấp đầy đủ,

kịp thời các hồ sơ, tài liệu theo yêu cầu của TCTD hoặc cung cấp nhưng hồ sơ, tài

liệu không trung thực, không chính xác, sử dụng tiền vay không đúng mục đích đã

nêu trong hợp đồng, không tạo điều kiện cho TCTD kiểm tra tình hình sử dụng vốn

vay, tài sản thế chấp, hoạt động sản xuát kinh doanh, không tra nợ gốc và tiền vay

đúng hạn…

Tùy từng loại vi phạm mà các bên có thể thỏa thuận áp dụng các phương

thức xử lý khác nhau, chẳng hạn: Khách hàng có thể yêu cầu TCTD bồi thường

thiệt hại hoặc khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật; TCTD có

quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, áp dụng lãi suất quá hạn cho

tiền chậm trả, khởi kiện ra Tòa án đòi bồi thường thiệt hại…Như vậy, thỏa thuận về

việc xử lý các vi phạm về nghĩa vụ giao kết hợp đồng phải phù hợp các quy định

pháp luật về trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng kinh tế nói chung và trách

15

nhiệm tài sản do vi phạm HĐTD nói riêng.

Thứ tám, tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng tín dụng và

phương thức giải quyết

Tại các HĐTD thường có thỏa thuận như sau: Các tranh chấp hợp đồng này

sẽ được hai bên giải quyết bằng thương lượng dựa trên nguyên tắc bình đẳng và

cùng có lợi. Trường hợp không thể giải quyết bằng thương lượng hai bên sẽ đưa

tranh chấp ra giải quyết bằng Trọng tài hoặc tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền

theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Trên thực tế, việc thực hiện các điều khoản này gặp nhiều khó khăn, vướng

mắc. Trường hợp khi đến hạn mà khách hàng chưa trả nợ, TCTD sẽ gặp gỡ, trao đổi

và thuyết phục khách hàng về việc trả nợ. Quá trình thương lượng này có thể kéo

dài nhiều tháng thậm chí đến cả năm, dẫn đến việc ảnh hưởng đến thời hiệu khởi

kiện ta Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Ngoài ra, tình trạng hình sự hóa tràn lan

các quan hệ tín dụng, khiến cho các TCTD không muốn đưa tranh chấp ra kiện tại

Tòa án vì tranh chấp có thể bị chuyển sang khởi tố hình sự. Tình trạng này một

phần xuất phát từ việc cơ quan tư pháp thường quy kết trách nhiệm cho các bộ tín

dụng, cho TCTD mà coi nhẹ trách nhiệm của khách hàng. Vi vậy, để giải quyết các

vướng mắc của việc giải quyết tranh chấp trong quá trình giao kết HĐTD, cần có

những quy định về thời hiệu khởi kiện vụ kinh tế áp dụng cho ngành ngân hàng

đồng thời bổ sung những quy định rõ ràng và cụ thể về quyền của TCTD trong việc

xử lý các tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ…

1.3. Hình thức và chủ thể giao kết hợp đồng tín dụng

1.3.1. Hình thức giao kết hợp đồng tín dụng

Việc đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng được thực hiện bằng những hình

thức khác nhau: văn bản viết, lời nói hoặc phương tiện khác. Tuy nhiên, hiện nay,

quan hệ tín dụng luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Rủi ro không chỉ ảnh hưởng đến các

tổ chức tín dụng mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế nước nhà. Do đó,

hầu hết pháp luật các nước trên thế giới đều yêu cầu các bên khi tham gia giao kết

hợp đồng tín dụng phải thể hiện dưới hình thức văn bản. Ở Việt Nam, pháp luật

không quy định cụ thể về hình thức giao kết hợp đồng tín dụng, theo Khoản 4 Điều

400 BLDS 2015 thì: “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên

16

sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn

bản”. Theo quy định này có thể hiểu, đối với những hợp đồng giao kết bằng văn

bản thường phải có chữ ký của bên sau cùng ký vào văn bản hoặc hình thức chấp

nhận khác được thể hiện trên văn bản; đối với chủ thể tham gia giao kết là tổ chức,

pháp nhân thì giao kết hợp đồng thường có chữ kí, có đóng dấu.

Việc giao kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản có những ưu điểm:

- Hợp đồng tín dụng được giao kết bằng văn bản sẽ tạo ra bằng chứng cụ

thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp pháp sinh từ hợp đồng

tín dụng.

- Việc giao kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố

công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa các bên tham gia giao kết nhằm

để người thứ ba biết được việc giao kết đó mà có những phương thức xử lý phù hợp

trong những trường hợp cần thiết

- Việc giao kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản đảm bảo quyền lợi cho các

bên, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để cơ quan có thẩm quyền thực hiện chức năng

quản lý nhà nước cũng như là cơ sở để giải quyết tranh chấp (nếu có). Chẳng hạn

như việc thu thuế, lệ phí, kiểm tra, thanh tra tài chính, kiểm soát hoạt động của chủ

thể trong việc kinh doanh, sản xuất…

Ngoài ra, theo BLDS 2015 thì các thông điệp, dữ liệu cũng được coi là một

hình thức văn bản. Luật giao dịch điện tử được ban hành và có hiệu lực từ ngày

01/03/2006 là một cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện cho các giao dịch điện tử

hình thành và phát triển. Tiếp đó, ngày 08/03/2007 Chính phủ ban hành Nghị định

35/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử, theo đó giao dịch điện tử được áp dụng cho

các hoạt động ngân hàng được quy định tại Luật các tổ chức tín dụng trừ việc phát

hành trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Do vậy, hoạt động giao kết hợp động tín

dụng của TCTD có thể được thực hiện dưới hình thức giao dịch điện tử.

1.3.2. Chủ thể giao kết hợp đồng tín dụng

Giao kết hợp đồng tín dụng là quan hệ tài sản – hàng hóa phát sinh trong quá

trình sử dụng vốn tạm thời giữa tổ chức tín dụng và các tổ chức, cá nhân theo

nguyên tắc có hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm hoặc có sự bảo đảm, được các qui

17

phạm pháp luật điều chỉnh. Tham gia quan hệ này có ít nhất gồm hai chủ thể: là bên

nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng (bên cho vay) và bên đề nghị giao kết hợp

đồng tín dụng (bên đi vay).

1.3.2.1. Bên nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng

Khác với các hợp đồng thông thường, trong hợp đồng tín dụng bên nhận đề

nghị giao kết HĐTD luôn là tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác được Ngân hàng

Nhà nước cho phép hoạt động ngân hàng, được thành lập và hoạt động theo Luật

các TCTD 2010 và các pháp luật liên quan, có chức năng hoạt động, kinh doanh tín

dụng, thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.

Bên nhận đề nghị giao kết HĐTD có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp các

tài liệu, hồ sơ chứng minh dự án, phương án vay vốn khả thi, mục đích sử dụng vốn

phù hợp và người bảo lãnh trước khi cho vay; từ chối yêu cầu vay vốn của khách

hàng trong trường hợp khách hàng không đủ điều kiện vay vốn, phương án vay vốn

không hiệu quả, mục đích sử dụng vốn không phù hợp hoặc ngân hàng không đủ

nguồn vốn để cho vay; kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả

nợ của khách hàng. Tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt cho vay, thu hồi nợ trước

hạn theo nội dung đã thỏa thuận khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự

thật, vi phạm quy định trong thỏa thuận cho vay và/hoặc hợp đồng bảo đảm tiền vay;

khởi kiện khách hàng vi phạm HĐTD hoặc khởi kiện bên thứ ba cầm cố, thế chấp,

bảo lãnh theo quy định của pháp luật; trường hợp khách hàng không trả được nợ đến

hạn thì TCTD có thể áp dụng các biện pháp thu hồi nợ theo thỏa thuận cho vay, hợp

đồng bảo đảm và quy định của pháp luật có liên quan hoặc yêu cầu người thứ ba thực

hiện nghĩa vụ cầm cố, thế chấp, bảo lãnh cho khách hàng vay vốn; quyết định miễn,

giảm lãi tiền vay, phí cho khách hàng theo quy định nội bộ của TCTD.

Bên nhận đề nghị giao kết HĐTD có nghĩa vụ giải ngân cho bên vay theo

đúng thoả thuận trong HĐTD đồng thời thực hiện đúng các thoả thuận đã quy định

trong HĐTD; lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật có liên

quan. Trong số các nghĩa vụ nêu trên, thì nghĩa vụ giải ngân là quan trọng nhất. Nếu

nghĩa vụ này không được thực hiện, thì sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ khác

của hai bên.

Theo Khoản 1 Điều 4 Luật các TCTD 2010 thì: “Tổ chức tín dụng là doanh

18

nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín

dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô

và quỹ tín dụng nhân dân”. Hiện nay, tổ chức tín dụng rất đa dạng về loại hình cũng

như hình thức sở hữu:

Căn cứ vào tính chất sở hữu vốn điều lệ, có thể chia tổ chức tín dụng thành:

Tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ

chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân

hàng nước ngoài tại Việt Nam.

Căn cứ vào phạm vi thực hiện các hoạt động ngân hàng, tổ chức tín dụng

được chia thành hai loại đó là tổ chức tín dụng ngân hàng và tổ chức tín dụng phi

ngân hàng.

Ngoài các tổ chức tín dụng là chủ thể chủ yếu của hợp đồng tín dụng thì một

số tổ chức khác cũng có thể trở thành bên nhận đề nghị giao kết HĐTD nếu được

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép. Đối với các tổ chức không phải là tổ

chức tín dụng đã được thành lập hợp pháp mà muốn trở thành bên nhận đề nghị

giao kết HĐTD thì không phải làm thủ tục thành lập doanh nghiệp mà chỉ cần thỏa

mãn các điều kiện sau: có giấy phép hoạt động ngân hàng, có người đại diện hợp

pháp và có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong giấy phép hoạt động ngân

hàng và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của tổ chức này cần phải ghi rõ hoạt

động cho vay là hoạt động ngân hàng được phép thực hiện.

1.3.2.2. Bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày

30/12/2016 thì: “Khách hàng vay vốn tại tổ chức tín dụng (sau đây gọi là khách

hàng) là pháp nhân, cá nhân bao gồm:

a) Pháp nhân được thành lập và hoạt động tại Việt Nam, pháp nhân được

thành lập tại nước ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam;

b) Cá nhân có quốc tịch Việt Nam và cá nhân có quốc tịch tại nước ngoài”.

Theo đó, bên đề nghị giao kết HĐTD bao gồm:

- Cá nhân Việt Nam.

- Pháp nhân Việt Nam: cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân,

19

tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế (doanh nghiệp nhà nước,

hợp tác xã, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và các tổ chức kinh

tế khác có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 74 BLDS 2015), tổ chức chính trị, tổ

chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề

nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức khác có đủ điều kiện theo quy định tại

Điều 74 BLDS 2015.

- Hộ gia đình

- Tổ hợp tác

- Pháp nhân và cá nhân nước ngoài.

Để trở thành chủ thể giao kết hợp đồng tín dụng, bên đề nghị giao kết HĐTD

(bên vay) phải thỏa mãn những điều kiện do pháp luật quy định và điều kiện do các

bên thỏa thuận. Cụ thể, các điều kiện đó là:

Thứ nhất, bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ

Đối với cá nhân có quốc tịch Việt Nam, Bộ luật dân sự quy định: Người

thành niên (người đủ 18 tuổi trở lên) có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tức là có

khả năng tự mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, trừ các trường hợp

người bị tâm thần hoặc mắc các bệnh mà không thể nhận thức, làm chủ được hành

vi của mình; người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ

khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi

dân sự và những người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá

tài sản của gia đình bị Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế

năng năng hành vi dân sự (Điều 22, 23 và Điều 24 Bộ luật dân sự). Đối với người

chưa thành niên, Điều 21 Bộ luận dân sự có quy định ba trường hợp: Trường hợp

một là cá nhân dưới sáu tuổi, nếu được người đại diện theo pháp luật xác lập, thực

hiện thì có thể giao kết hợp đồng tín dụng. Trường hợp hai là cá nhân từ đủ sáu tuổi

đến chưa đủ mười lăm tuổi, nếu được người đại diện theo pháp luật đồng ý thì được

tham gia giao kết hợp đồng tín dụng. Đối với các hợp đồng có giá trị nhỏ, phục vụ

nhu cầu thiết yếu hàng ngày thì những cá nhân từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm

tuổi cũng được giao kết hợp đồng tín dụng mà không cần được sự đồng ý người đại

diện theo pháp luật; trường hợp ba, các cá nhân từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ

20

mười tám tuổi thì có thể tự mình giao kết hợp đồng tín dụng trừ giao dịch liên quan

đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch khác theo quy định của luật

phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

Đối với khách hàng là hộ gia đình, tổ hợp tác thì hộ gia đình, tổ hợp tác cử

một người làm đại diện và người này cũng phải năng lực pháp luật và năng lực hành

vi dân sự đầy đủ.

Đối với khách hàng là pháp nhân thì người giao kết hợp đồng phải có thẩm

quyền ký kết, có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Theo

Điều 137 BLDS 2015 thì người đại diện theo pháp luật của pháp nhân gồm: Người

được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; người có thẩm quyền đại diện theo quy định

của pháp luật; người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Một

pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có

quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật

này. Còn đối với đại diện theo ủy quyền thì các pháp nhân có thể ủy quyền cho

pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Theo đó, người đại diện theo

pháp luật và người đại diện theo ủy quyền đều phải có năng lực hành vi dân sự đầy

đủ. Với điều kiện này thì các bên không cần ghi rõ trong hợp đồng tín dụng và nếu

không ghi trong hợp đồng tín dụng thì các bên mặc nhiên thừa nhận nó theo quy

định của pháp luật.

Đối với khách hàng là cá nhân, pháp nhân nước ngoài thì năng lực pháp luật

và năng lực hành vi dân sự của chủ thể căn cứ vào pháp luật của nước mà cá nhân,

pháp nhân đó có quốc tịch hoặc pháp nhân, cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật

nước ngoài đó được Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc

tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.

Việc xác định tư cách của chủ thể khi giao kết hợp đồng tín dụng là một vấn

đề hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng.

Đã có nhiều tổ chức tín dụng không chú trọng đến vấn đề này dẫn đến việc giao kết

hợp đồng tín dụng với chủ thể không có thẩm quyền ký kết. Hợp đồng bị tuyên vô

hiệu và gây ảnh hưởng không nhỏ đối với các tổ chức tín dụng. Ví dụ như:

Ngày 16/03/2014, Ngân hàng A đã cùng thỏa thuận ký Hợp đồng ngắn hạn

21

với chi nhánh của Công ty thiết bị vệ sinh B với tổng số tiền là 300.000.000 đồng để

mua trang thiết bị trong thời hạn là 12 tháng, lãi suất 0,6% tháng, lãi suất phạt quá

hạn là 150% lãi suất đã thỏa thuận.

Đến ngày 17/03/2015, Ngân hàng A và chi nhánh của Công ty B lại ký đồng

ngắn hạn khác, theo đó Ngân hàng A tiếp tục cho chi nhánh của Công ty B vay số

tiền là 200.000.000 đồng trong thời hạn là 12 tháng, lãi suất 0,6% tháng, lãi suất quá

hạn bằng 150% lãi suất vay.

Trong quá trình thực hiện Hợp đồng, chi nhánh của Công ty B đã không thực

hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, giám đốc công ty bỏ đi khỏi nơi cư trú. Do không được

trả nợ, Ngân hàng A đã yêu cầu Công ty B trả nợ thay cho chi nhánh. Tuy nhiên

Công ty B đã từ chối trách nhiệm. Đến thời điểm ngày 31/12/2018, tổng dư nợ là

786.550.000 đồng trong đó nợ gốc là 500.000.000 đồng và lãi là 286.550.000 đồng.

Để bảo vệ quyền lợi của mình, Ngân hàng A đã khởi kiện Công ty B ra Tòa án yêu

cầu Công ty B phải trả nợ thay cho Chi nhánh.

Trong quá trình thụ lý hồ sơ vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét

thấy chủ thể bên vay trong hai hợp đồng tín dụng nói trên là Chi nhánh của Công ty

B không đúng với các quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi

nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Chi nhánh chỉ là đơn vị phụ thuộc

không có tư các pháp nhân cho nên Chi nhánh không là chủ thể vay trong hợp đồng

tín dụng. Do đó, Tòa án tuyên hai hợp đồng tín dụng trên là vô hiệu và không làm

phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên. Các bên phải khôi phục lại tình trạng ban

đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Đối với Công ty B, cho dù chi nhánh của Công ty B đã bị Công ty B đình chỉ

hoạt động nhưng Công ty B vẫn phải chịu trách nhiệm dân sự đối với tất cả các hoạt

động của Chi nhánh.

Từ đó ta có thể thấy, việc xác định tư cách chủ thể khi giao kết hợp đồng tín

dụng là rất quan trọng, vừa làm cơ sở để các thẩm phán, trọng tài xem xét tính hiệu

lực của hợp đồng tín dụng vừa để các tổ chức tín dụng có các biện pháp phòng tránh

được các rủi ro.

Thứ hai, khách hàng có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.

Đây vừa là điều kiện đối với khách hàng vay vốn và vừa là một trong những

22

điều kiện để hợp đồng tín dụng có hiệu lực. Theo đó, mục đích sử dụng vốn hợp

pháp có nghĩa là khách hàng sử dụng vốn vay không thực hiện các mục đích mà

pháp luật cấm. Hợp đồng tín dụng có thể bị tuyên vô hiệu khi có mục đích và nội

dung trái với đạo đức xã hội và pháp luật có liên quan. Theo Điều 8 Thông tư

39/2016/TT-NHNN quy định về những nhu cầu vay vốn mà tổ chức tín dụng không

được cho vay, gồm:

“1. Để thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh thuộc ngành, nghề mà

pháp luật cấm đầu tư kinh doanh.

2. Để thanh toán các chi phí, đáp ứng các nhu cầu tài chính của các giao

dịch, hành vi mà pháp luật cấm.

3. Để mua, sử dụng các hàng hóa, dịch vụ thuộc ngành, nghề mà pháp luật

cấm đầu tư kinh doanh.

4. Để mua vàng miếng.

5. Để trả nợ khoản cấp tín dụng tại chính tổ chức tín dụng cho vay trừ

trường hợp cho vay để thanh toán lãi tiền vay phát sinh trong quá trình thi công xây

dựng công trình, mà chi phí lãi tiền vay được tính trong tổng mức đầu tư xây dựng

được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật.

6. Để trả nợ khoản cấp tín dụng tại tổ chức tín dụng và trả nợ khoản vay

nước ngoài, trừ trường hợp cho vay để trả nợ trước hạn khoản vay đáp ứng đầy đủ

các điều kiện sau đây:

a) Là khoản vay phục vụ hoạt động kinh doanh;

b) Thời hạn cho vay không vượt quá thời hạn cho vay còn lại của khoản vay cũ;

c) Là khoản vay chưa thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ”.

Ngoài ra, để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và khả năng trả

nợ của bên vay, khoản 3 Điều 94 Luật các TCTD 2010 quy định: “Tổ chức tín dụng có

quyền, nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng”.

Thứ ba, khách hàng có khả năng tài chính đảm bảo thời hạn trả nợ

Để bảo đảm an toàn cho các khoản vay thì tổ chức tín dụng phải tiến hành

phân tích các rủi ro có thể phát sinh trước khi cho vay. Theo đó, tổ chức tín dụng

phải xem xét khả năng tài chính của khách hàng thông qua báo cáo tài chính có

kiểm toán, vốn tự có…có đảm bảo khả năng trả nợ trong thời hạn đã thỏa thuận

23

không. Đây là một điều kiện mà khách hàng phải có khi vay nhằm đảm bảo thu hồi

vốn vay cả gốc lẫn lãi của tổ chức tín dụng. Về nguyên tắc, tổ chức tín dụng không

được cho vay đối với khách hàng có khả năng tài chính không đảm bảo trong toàn

bộ thời hạn trả nợ.

Khách hàng có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực các hồ sơ, tài liệu liên

quan đến việc vay vốn đồng thời chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp,

hợp lệ của các hồ sơ, tài liệu đó; sử dụng vốn vay hợp pháp, thực hiện đúng các nội

dung đã thoả thuận trong HĐTD và các cam kết khác với ngân hàng; trả nợ gốc và

lãi vốn vay theo thoả thuận trong HĐTD; chịu trách nhiệm trước pháp luật khi thực

hiện không đúng các quy định về việc trả nợ và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ

vay đã thỏa thuận trong HĐTD. Đối với các nghĩa vụ của bên vay, thì nghĩa vụ trả

nợ là quan trọng nhất, nghĩa vụ này chỉ được miễn trừ nếu bên cho vay đồng ý.

Ngoài ra, khách hàng có quyền từ chối các yêu cầu của ngân hàng nếu các

yêu cầu đó không đúng với các thoả thuận trong HĐTD; khiếu nại, khởi kiện việc vi

phạm HĐTD của ngân hàng theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, tính khả thi và hiệu quả của dự án đầu tư.

Tính khả thi và hiệu quả của dự án đầu tư cũng được coi là một yếu tố quan

trọng quyết định đến việc tổ chức tín dụng có đồng ý cho khách hàng vay vốn hay

không. Bởi lẽ, tổ chức tín dụng chỉ thực hiện xử lý tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

của khách hàng khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do đó, phương án sản xuất

kinh doanh, mục đích sử dụng vốn hiệu quả mới là mối quan tâm hàng đầu của tổ

chức tín dụng nhằm đảm bảo thu hồi vốn vay. Vì vậy, tổ chức tín dụng chỉ được phép

cho vay vốn đối với khách hàng có dự án đầu tư mang tính khả thi và hiệu quả cao.

Việc đánh giá dự án đầu tư có tính khả thi hay không phụ thuộc rất nhiều vào

công tác thẩm định. Trong thời gian qua tại Việt Nam, công tác thẩm định tại các

ngân hàng còn bộc lộ rất nhiều sai sót, yếu kém, kết quả thẩm định chưa phản ánh

hết được tính khách quan của dự án dẫn đến nhiều dự án lựa chọn đầu tư không phù

hợp, đem lại hiệu quả không cao chẳng hạn như dự án Epco – Minh Phụng,

Tamexco gây thất thoát cho ngân hàng hàng chục ngàn tỷ đồng làm ảnh hưởng đến

nền kinh tế nước nhà nói chung và sự phát triển của từng doanh nghiệp, từng ngân

24

hàng nói riêng [25].

Có rất nhiều nguyên nhân gây ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định trong đó,

con người cụ thể là cán bộ làm công tác thẩm định là nguyên nhân chủ yếu. Cho dù

ngân hàng có quy định cho vay rõ ràng, quản trị điều hành tốt đến mấy, quy trình và

phương pháp thẩm định tiên tiến mà cán bộ làm công tác thẩm định không có năng

lực chuyên môn, kiến thức pháp luật, không nắm vững quy trình về thẩm định thì

dẫn đến chất lượng thẩm định bị ảnh hưởng, cán bộ thẩm định không có những đề

xuất cụ thể để tham mưu cho lãnh đạo trong việc quyết định cho vay vốn đồng thời

gây ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.

1.4. Điều kiện có hiệu lực của giao kết Hợp đồng tín dụng

Hiệu lực pháp lý của giao dịch nói chung và giao dịch thương mại tổ chức tín

dụng nói riêng, thực chất là sự thừa nhận của Nhà nước về những hệ quả pháp lý

phát sinh bởi hành vi giao dịch của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Việc thừa

nhận hiệu lực của một giao dịch pháp lý được Nhà nước thực hiện bằng cách quy

định các điều kiện có hiệu lực của giao dịch và các nguyên tắc xác định hiệu lực của

giao dịch đó. Ở nước ta, các điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại

Điều 117 Bộ luật dân sự 2015. Các điều kiện này được áp dụng đối với mọi giao

dịch trong đó, giao kết hợp đồng tín dụng với tư cách là một loại hình giao dịch dân

sự đặc thù chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất, chủ thể tham gia giao kết hợp đồng tín dụng phải có năng lực pháp

luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.

Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng tín dụng là những người tham gia xác

lập, thực hiện hợp đồng, có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và phải chịu

trách nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Để tham

gia giao kết hợp đồng tín dụng, các hệ thống pháp luật đều quy định chủ thể phải có

năng lực chủ thể nhất định. Theo đó, yêu cầu về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng

“có năng lực hành vi dân sự” là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp đồng

có hiệu lực. Theo các quy định của BLDS 2015, chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng

bao gồm các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Mặt khác, năng lực hành

vi dân sự để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng của các chủ thể khác nhau là

25

không giống nhau.

Đối với bên cấp tín dụng: Bên cấp tín dụng trong giao kết hợp đồng tín dụng

chủ yếu là các tổ chức tín dụng và một số tổ chức khác thỏa mãn các điều kiện theo

quy định của pháp luật. Như vậy, bên cấp tín dụng trong giao kết hợp đồng tín dụng

luôn luôn là các pháp nhân (trừ Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam).

BLDS 2015 không quy định về năng lực hành vi dân sự của pháp nhân mà chỉ quy

định năng lực pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân tham gia giao kết hợp đồng phải

thông qua người đại diện theo pháp luật của tổ chức đó. Theo đó, điều kiện đối với

bên cấp tín dụng trong giao kết kết hợp động tín dụng là:

Một là, bên cấp tín dụng phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy

phép hoạt động ngân hàng và cho phép tiến hành các hoạt động cấp tín dụng.

Hai là, người tham gia giao kết phải đúng thẩm quyền và người này phải có

năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Tại các tổ chức tín dụng, người đứng đầu tổ chức

tín dụng thường ủy quyền cho giám đốc các chi nhánh được quyền giao kết hợp

đồng tín dụng. Do đó, Giám đốc chi nhánh cũng có thể đại diện cho tổ chức tín

dụng để tham gia giao kết hợp đồng tín dụng với khách hàng.

Đối với khách hàng: khách hàng tham gia giao kết hợp đồng tín dụng thường

là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và

có điều kiện vay vốn.

Đối với cá nhân: năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá

nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự bao gồm:

- Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản;

- Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản;

- Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.

Theo Điều 19 BLDS 2015: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả

năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân

sự”. Thông thường, người từ đủ 18 tuổi là người có năng lực hành vi dân sụ đầy đủ,

trừ một số trường hợp như: Người mất năng lực hành vi dân sự; Người bị hạn chế

năng lực hành vi dân sự, Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.

Như vậy, đối với các hợp đồng thông thường thì người từ đủ 18 tuổi trở lên

có thể tham gia giao kết hợp đồng. Tuy nhiên tùy từng loại hợp đồng cụ thể mà cho

26

phép người dưới 18 tuổi có thể tự mình tham gia giao kết cũng như một số loại hợp

đồng thì người trên 18 tuổi những cũng không đủ điều kiện tham gia giao kết.

Ngoài ra, người dưới 18 tuổi tham gia giao kết hợp đồng thường phải có người đại

diện theo pháp luật hoặc người giám hộ đồng ý hoặc thực hiện trên sự đồng ý của

người dưới 18 tuổi.

Đối với pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác: Một tổ chức được coi là pháp

nhân khi đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 74 BLDS năm 2015:

“a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;

b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;

c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm

bằng tài sản của mình;

d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập”.

Các pháp nhân được tham gia giao kết hợp đồng phù hợp với mục đích và

phạm vi hoạt động của pháp nhân. Khi một pháp nhân tham gia giao kết hợp đồng

phải thông qua người đại diện theo pháp luật của tổ chức đó. Do đó, chủ thể giao

kết hợp đồng của pháp nhân vừa phải đáp ứng các điều kiện đối với cá nhân nêu

trên vừa là người đại diện hợp pháp hoặc người đại diện theo ủy quyền của pháp

nhân theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đối với từng loại hợp đồng có các điều

kiện khác đối với chủ thể tham gia giao kết hợp đồng thì các chủ thể đó cũng phải

đáp ứng các điều kiện đó như điều kiện về chuyên môn, khả năng lao động.…Đối

với các hộ gia đình phải thông qua người đại diện và người này cũng phải có năng

lực hành vi dân sự đầy đủ

Nhìn chung, để tham gia giao kết hợp đồng tín dụng các chủ thể là cá nhân

phải có năng lực hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch hoặc loại hợp đồng mà

chủ thể đó tham gia. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác tham gia giao kết hợp đồng

thông qua người đại diện hợp pháp, nhưng phải đúng phạm vi đại diện và phải phù

hợp với giới hạn về lĩnh vực hoạt động của các chủ thể theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, chủ thể tham gia giao kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện.

Điều kiện này liên quan mật thiết với điều kiện về năng lực hành vi dân sự

của chủ thể tham gia giao kết hợp đồng tín dụng. Chỉ khi nào xác định rõ chủ thể

tham gia giao kết hợp đồng có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì việc xác định tính

27

tự nguyện của chủ thể đó mới chính xác, cụ thể. Tự nguyện tham gia giao kết hợp

đồng tín dụng là việc chủ thể tự mình quyết định là có tham gia hay không tham gia

vào giao kết hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân mình, mà không chịu sự chi

phối hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ những người khác. Pháp luật đòi

hỏi những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện.

Ý chí tự nguyện của chủ thể là một trong những dấu hiệu thuộc yếu tố chủ

quan, nếu không được biểu hiện ra bên ngoài, thì người khác không thể biết được.

Có nhiều ý kiến cho rằng: “tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt của tự nguyện”. Có

nghĩa là, tự nguyện phải tự do ý chí, tự do bày tỏ ý chí và phải có sự thống nhất giữa

ý chí với sự bày tỏ ý chí. Trong trường hợp không có tự do ý chí và sự bày tỏ ý chí

hoặc phá vỡ tính thống nhất giữa hai yếu tố này, thì khi đó không có sự tự nguyện.

Cũng có những quan điểm cho rằng: “người tham gia giao kết hợp đồng tín dụng

hoàn toàn tự nguyện được hiểu là các bên tham gia giao dịch hoàn toàn tự do bày tỏ

ý chí, nguyện vọng của mình, cùng nhau thoả thuận với nhau về nội dung các điều

khoản của hợp đồng mà không bị lừa dối, cưỡng ép từ phía bên kia hoặc bên thứ ba;

các bên tự nguyện thoả thuận các vấn đề nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt

quyền, nghĩa vụ của mình”. Một hợp đồng tín dụng được coi là không có sự đồng

thuận khi sự thỏa thuận đó giữa các bên bị khiếm khuyết như sự nhầm lẫn, lừa dối,

cưỡng ép trong khi giao kết hợp đồng. Về nguyên tắc, các khiếm khuyết này phải

ảnh hưởng mang tính quyết định đến ý chí giao kết của các bên mới được coi là sự

kiện pháp lý làm cho hợp đồng tín dụng vô hiệu.

Thứ ba, mục đích và nội dung của giao kết không vi phạm điều cấm của luật,

không trái đạo đức xã hội

Đây là điều kiện được pháp luật quy định nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước,

lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên quan. Đối

với giao kết hợp đồng của các tổ chức tín dụng, mục đích và nội dung của giao kết

không chỉ phản ánh lợi ích của các bên mà còn bị chi phối bởi chính các lợi ích đó.

Mục đích của giao kết hợp đồng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng được coi là

trái pháp luật và đạo đức xã hội khi giao dịch đó được các bên xác lập nhằm vi

phạm các quy tắc pháp lý đã được Nhà nước quy định để bảo vệ quyền và lợi ích

chung hoặc nhằm xâm hại các giá trị đạo đức đã được Nhà nước và xã hội công

28

nhận. Ví dụ như: Tổ chức tín dụng và khách hàng giao kết hợp đồng tài khoản tiền

gửi để giúp cho khách hàng thực hiện hành vi “rửa tiền” đối với số tiền do phạm

pháp mà có thì giao dịch này được coi là có mục đích vi phạm các điều cấm của

pháp luật.

Theo quy định tại Điều 398 BLDS 2015 thì nội dung của hợp đồng bao gồm:

đối tượng của hợp đồng; số lượng, chất lượng; giá cả, phương thức thanh toán; thời

hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng…Đối với nội dung của giao kết sẽ

được coi là trái pháp luật và đạo đức xã hôi khi các điều khoản được thiết lập giữa

tổ chức tín dụng và khách hàng đã vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc vi

phạm những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng tôn

trọng và thừa nhận. Ví dụ như: Tổ chức tín dụng ký kết hợp đồng tín dụng để cấp

tín dụng đối với khách hàng là con đẻ của Phó Tổng giám đốc của tổ chức tín dụng.

Giao dịch này có nội dung vi phạm điểm b Khoản 1 Điều 126 Luật các tổ chức tín

dụng 2010 về những trường hợp không được cấp tín dụng sẽ đương nhiên vô hiệu

ngay từ khi xác lập.

Như vậy, để hợp đồng tín dụng có hiệu lực thì việc giao kết hợp đồng phải

tuân thủ đầy đủ ba điều kiện nêu trên. Ngoài ra, hình thức của hợp đồng cũng là

điều kiện của hợp đồng trong những trường hợp pháp luật có quy định. Đối với hợp

đồng tín dụng thì hình thức giao kết phải bằng văn bản, có thể bằng văn bản viết tay

hoặc bằng giao dịch điện tử. Nếu giao kết hợp đồng tín dụng không thỏa mãn các

điều kiện nêu trên thì hợp đồng được coi là vô hiệu.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 388 BLDS 2015 về thời điểm đề nghị giao

kết hợp đồng có hiệu lực:

“1. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định như sau:

a) Do bên đề nghị ấn định;

b) Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực

kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó, trừ trường hợp luật liên quan có

quy định khác.

2. Các trường hợp sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết

hợp đồng:

a) Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân;

29

được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân;

b) Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị;

c) Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các

phương thức khác”.

Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng là thời điểm pháp luật công nhận sự

hình thành quyền và nghĩa vụ của các bên đề nghị giao kết và bên được đề nghị giao

kết. Do đó, từ thời điểm thay bên đề nghị giao kết chịu sự ràng buộc pháp lý, chịu

trách nhiệm đối với toàn bộ nội dung của lời đề nghị, không được giao kết hợp đồng

với người thứ ba nào khác. Vì vậy, pháp luật quy định thời điểm giao kết hợp đồng

tín dụng có hiệu lực được xác định trên các cơ sở sau:

- Do bên đề nghị ấn định: Bên đề nghị giao kết được đưa ra lời đề nghị, đồng

thời pháp luật cho phép bên đề nghị giao kết ấn định thời điểm có hiệu lực của lời

đề nghị. Trong trường hợp này, hiệu lực của lời đề nghị phụ thuộc vào ý chí của bên

đề nghị giao kết;

- Nếu bên đề nghị giao kết không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có

hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị giao kết nhận được đề nghị đó, trừ trường hợp

pháp luật có quy định khác.

Hiện nay do phương tiện thông tin và môi trường kỹ thuật số phát triển, cho

nên việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều phương thức khác

nhau, do vậy các trường hợp được coi là giao kết hợp đồng rất đa dạng, bao gồm

những trường hợp sau:

- Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị giao kết là cá

nhân, được chuyển đến trụ sở nếu bên được đề nghị giao kết là pháp nhân.

- Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị

giao kết

- Khi bên được đề nghị giao kết biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông

qua các phương thức khác nhau

1.5. Trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng tín dụng

Hợp đồng tín dụng là cơ sở pháp lý giữa tổ chức tín dụng và khách hàng

nhằm thể hiện ý chí trong việc thiết lập quan hệ hợp đồng, xác định rõ ràng và cụ

thể trách nhiệm của mỗi bên phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan.

30

Việc giao kết HĐTD phải theo một trình tự và thủ tục nhất định.

1.5.1. Trình tự giao kết hợp đồng tín dụng

Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn

Để được vay vốn thì bên đi vay phải gửi đến tổ chức tín dụng phục vụ mình

các kế hoạch vay vốn, các hồ sơ tài liệu liên quan đền dự án cần vay vốn. Theo

Khoản 1 Điều 96 Luật các tổ chức tín dụng 2010, hồ sơ tín dụng bao gồm:

“a) Hợp đồng cấp tín dụng và tài liệu ghi rõ mục đích sử dụng vốn; hồ sơ về

biện pháp bảo đảm;

b) Báo cáo thực trạng tài chính của khách hàng;

c) Quyết định cấp tín dụng có chữ ký của người có thẩm quyền; trường hợp

quyết định tập thể, phải có biên bản ghi rõ quyết định được thông qua;

d) Những tài liệu phát sinh trong quá trình sử dụng khoản vay liên quan đến

hợp đồng cấp tín dụng”.

Theo Điều 9 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về

hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với

khách hàng thì: “Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải gửi cho tổ chức tín dụng

các tài liệu chứng minh đủ điều kiện vay vốn theo quy định tại Điều 7 Thông tư này

và các tài liệu khác do tổ chức tín dụng hướng dẫn”.

Do đó, các điều kiện vay vốn mà khách hàng cần có đủ để tổ chức tín dụng

xem xét và quyết định cho vay là:

- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm

dân sự theo quy định của pháp luật;

- Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp;

- Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả;

- Có khả năng tài chính để trả nợ trong thời hạn đã thỏa thuận.

- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ

và pháp luật có liên quan.

Căn cứ vào từng loại khách hàng, hình thức cho vay, mục đích vay vốn, khả

năng tài chính mà tổ chức tín dụng có những quy định về từng loại hồ sơ, tài liệu

chứng minh khách hàng đủ điều kiện vay vốn mà khách hàng cần phải gửi đến tổ

31

chức tín dụng.

Đầu tiên là các hồ sơ, tài liệu liên quan đến tư cách pháp lý của khách hàng

để chứng minh khách hàng có đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân

sự theo quy định của pháp luật. Đối với pháp nhân, các tài liệu cần có như: Giấy

chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Điều lệ kinh doanh; Giấy chứng nhận đầu tư

(đối với doanh nghiệp cần có giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật);

Giấy chứng nhận đăng ký mã số thuế và mã số hải quan; Danh sách thành viên góp

vốn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, sổ đăng ký thành viên

đối với công ty cổ phần; các giấy ủy quyền của người đại diện pháp nhân của doanh

nghiệp và các ủy quyền của cổ đông, chủ sở hữu trong doanh nghiệp (nếu có); thỏa

ước lao động tập thể….Tuy nhiên, tùy từng loại hình doanh nghiệp và nghành nghề

kinh doanh khác nhau mà các tài liệu, hồ sơ cần có cũng khác nhau. Đối với các

nhân, đại diện hộ gia đình, tổ hợp tác và doanh nghiệp tư nhân phải có giấy chứng

minh nhân dân hoặc căn cước công dân, sổ hộ khẩu, giấy phép kinh doanh (nếu có).

Ngoài ra, có thể cần giấy xác nhận của chính quyền địa phương...trên giấy đề nghị

vay vốn kiêm phương án trả nợ để xác định tính khả thi, hiệu quả của dự án cũng

như năng lực pháp luật của các cá nhân có liên quan.

Ngoài ra, các dự án cần vay vốn hoặc phương án sản xuất kinh doanh và kế

hoạch vay vốn, trả nợ cần ghi rõ mục đích vay vốn, các điều kiện để thực hiện

phương án, có kế hoạch sử dụng vốn vay rõ ràng, cụ thể, nguồn trả nợ và kế hoạch

trả nợ. Khách hàng có thể phải gửi các giấy tờ liên quan chứng minh mục đích, đối

tượng sử dụng vốn vay chẳng hạn như hợp đồng kinh tế, giấy phép xuất nhập khẩu

(ủy thác xuất nhập khẩu, chỉ tiêu kế hoạch do cấp có thẩm quyền giao)...

Các tài liệu bảo đảm tiền vay như giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với tài sản

được dùng làm đảm bảo tiền vay; hợp đồng thế chấp; cầm cố; bảo lãnh tiền vay....

Bước lập hồ sơ vay vốn là bước tiền đề và có vai trò rất quan trọng, vì dựa

trên cơ sở đó mà các tổ chức tín dụng tiến hành thẩm định hồ sơ và quyết định cho

vay. Nhưng không vì thế mà khách hàng có thể cung cấp hồ sơ, tài liệu cho tổ chức

tín dụng một các gian dối, giả mạo. Khoản 2 Điều 16 Thông tư 39/2016/TT-NHNN

quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước

32

ngoài đối với khách hàng đã có quy định: “Khách hàng cung cấp thông tin cho tổ

chức tín dụng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực,

đầy đủ của các tài liệu gửi cho tổ chức tín dụng:

a) Các tài liệu quy định tại Điều 9 Thông tư này;

b) Báo cáo việc sử dụng vốn vay và chứng minh vốn vay được sử dụng đúng

mục đích ghi trong thỏa thuận cho vay;

c) Các tài liệu để chứng minh việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay”.

Đồng thời, Khoản 1 Điều 21 Thông tư này cũng quy định: “Tổ chức tín dụng

có quyền chấm dứt cho vay, thu hồi nợ trước hạn theo nội dung đã thỏa thuận khi

phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm quy định trong thỏa

thuận cho vay và/hoặc hợp đồng bảo đảm tiền vay…”. Mặc dù pháp luật đã có

những quy định cụ thể như vậy nhưng trên thực tế có rất nhiều trường hợp khách

hàng vẫn tìm cách lập những giấy tờ giả mạo về tư cách pháp lý, về giá trị thực của

tài sản bảo đảm, về tính xác thực của tài sản làm bảo đảm tiền vay…để được tổ

chức tín dụng cho vay vốn.

Bước 2: Thẩm định hồ sơ vay vốn

Do hợp đồng tín dụng luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho tổ chức tín dụng cho

nên để đảm bảo cho các khoản vay thì tổ chức tín dụng phải tiền hành phân tích

những rủi ro có thể xảy ra. Như vậy, một trong các bước không thể thiếu khi giao

kết hợp đồng tín dụng đó là thẩm định hồ sơ vay vốn. Tổ chức tín dụng phải tiến

hành thẩm định để xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư,

phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống,

mục đích sử dụng vốn hợp pháp, khả năng tài chính để trả nợ vốn vay của khách

hàng trước khi quyết định cấp tín dụng.

Nhằm đảm bảo tính khách quan, hiệu quả trong công tác thẩm định hồ sơ tín

dụng nói riêng và trong hoạt động cho vay nói chung, luật pháp hầu hết các nước

trên thế giới cũng như luật pháp Việt Nam đã có những quy định rõ ràng giữa khâu

thẩm định và khâu quyết định cấp tín dụng. Điều 35 Luật Ngân hàng thương mại

của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định: “Một ngân hàng thương mại sẽ thực

33

hiện một hệ thống trong đó việc kiểm tra và gia hạn khoản vay thực tế được thực

hiện bởi các bộ phận riêng biệt và việc kiểm tra và phê duyệt khoản vay được thực

hiện ở các cấp độ khác nhau”[ ] . Ở Việt Nam, quy định này được thể hiện rõ ràng

hơn tại Khoản 2 Điều 94 Luật các tổ chức tín dụng 2010: “Tổ chức tín dụng phải tổ

chức xét duyệt cấp tín dụng theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm

định và quyết định cấp tín dụng”. Như vậy, khâu thẩm định và quyết định cấp tín

dụng là hai khâu riêng biệt, độc lập với những thẩm quyền và trách nhiệm khác

nhau của những người thực hiện, mặc dù chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Trong thực tiễn, việc thẩm định hồ sơ tín dụng thường được giao cho nhân

viên chuyên trách của tổ chức tín dụng thực hiện. Trường hợp cần thiết thì công

việc thẩm định có thể giao cho hội đồng thẩm định hoặc thuê cơ quan tư vấn chuyên

môn thực hiện. Những người trực tiếp thẩm định phải đảm bảo tính khách quan, độc

lập, không chịu sự can thiệp hành chính đối với quá trình thẩm định, chịu trách

nhiệm đối với nội dung thẩm định và ý kiến đề xuất của mình.

Kết quả của việc thẩm định cho vay của cán bộ tín dụng được thể hiện cụ thể

trong Tờ trình thẩm định. Mỗi tổ chức tín dụng đều có mẫu Tờ trình thẩm định

riêng biệt, tuy khác nhau về hình thức nhưng về nội dung thường có một số điểm cơ

bản như: đánh giá và kết luận về tư các pháp lý của khách hàng; về năng lực sản

xuất kinh doanh của khách hàng; về phương án sử dụng vốn khả thi; về khả năng tài

chính để trả nợ của khách hàng và biện pháp bảo đảm tiền vay từ đó có kết luận

tổng quát cũng như đề xuất ý kiến đối với cấp có thẩm quyền quyết định cho vay.

Như vậy, thẩm định hồ sơ tín dụng là nhưng hành vi mang tính nghiệp vụ -

pháp lý do tổ chức tín dụng thực hiện nhẳm kiểm tra, đánh giá và xác định các điều

kiện vay vốn, trên cơ sở đó mà tổ chức tín dụng phải quyết định và thông báo việc

cho vay hay không cho vay đối với khách hàng. Trong trường hợp quyết định không

cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản, trong đó

nêu rõ những căn cứ từ chối cho vay.

Bước 3: Quyết định cho vay

Trên cơ sở kết quả thẩm định, đánh giá khả năng tài chính, tính khả thi của

dự án đầu tư, mục đích tiêu dùng, sinh hoạt và khả năng trả nợ của khách hàng, tổ

chức tín dụng đưa ra quyết định cho vay và thông báo về quyết định của mình cho

34

khách hàng. Về nguyên tắc, để đảm bảo an toàn tín dụng, phòng ngửa rủi ro, tổ

chức tín dụng chỉ được phép cho vay đối với khách hàng có dự án kinh doanh,

phương án phụ vụ đời sống khả thi, mục đích sử dụng vốn hợp pháp và có khả năng

tài chính trả nợ trong thời hạn cam kết. Theo Điều 12 Thông tư 39/2016/TT-NHNN

quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước

ngoài đối với khách hàng thì tổ chức tín dụng xem xét quyết định cho khách hàng

vay theo các loại cho vay như sau: Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn

cho vay tổi đa là một năm; cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay

trên một năm và tối đa năm năm; cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho

vay trên năm năm.

Ngoài ra, tổ chức tín dụng cần có những quy định cụ thể và công khai đối với

thời hạn tối đa phải thông báo quyết định cho vay hoặc không cho vay đối với

khách hàng, kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn và thông tin cần thiết của

khách hàng. Trường hợp quyết định không cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo

cho khách hàng bằng văn bản, trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho vay.

Quyết định cho vay của tổ chức tín dụng không đồng nghĩa với việc hợp

đồng tín dụng đã được ký kết. Quyết định đó chỉ là căn cứ để đàm phán, thoả thuận

các điều khoản trong hợp đồng và ký kết hợp đồng tín dụng. Về nguyên tắc, hợp

đồng tín dụng phát sinh hiệu lực kể từ khi đại diện hai bên tham gia quan hệ hợp

đồng cùng ký vào văn bản hợp đồng và các bên cũng không có thoả thuận về thời

hạn bắt đầu có hiệu lực của đồng tín dụng.

Bước 4: Đàm phán các điều khoản của hợp đồng và ký kết hợp đồng

Tiếp theo bước quyết định cấp tín dụng là bước đàm phán các điều khoản

của hợp đồng và ký kết hợp đồng tín dụng. Căn cứ vào các hồ sơ, tài liệu đã được

cấp có thẩm quyền phê duyệt, tổ chức tín dụng thông báo cho khách hàng về quyết

định cho vay hay từ chối cho vay đối với phương án vay vốn. Theo Khoản 1 Điều 3

Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng,

chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng thì: “1. Tổ chức tín dụng có

quyền tự chủ trong hoạt động cho vay và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay

của mình. Không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động

cho vay của tổ chức tín dụng”. Tổ chức tín dụng có quyền từ chối yêu cầu vay vốn

35

của khách hàng khi nhận thấy khách hàng không đủ điều kiện vay vốn, dự án hoặc

phương án vay vốn không khả thi hoặc yêu cầu của khách hàng không phù hợp với

quy định tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN và thỏa thuận cho vay. Trong trường hợp

từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng và nêu rõ lý do

không cho vay.

Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết từ khi bên được đề nghị giao kết

chấp nhận vô điều kiện toàn bộ nội dung đề nghị giao kết hợp đồng của bên đề nghị

giao kết, từ đó sẽ phát sinh một quan hệ hợp đồng giữa hai chủ thể nếu không có

thỏa thuận khác. Hiện nay, hợp đồng tín dụng luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro nên việc

giao kết hợp đồng cũng cần phải có những điều khoản riêng biệt. Do đó, việc tổ

chức tín dụng trả lời khách hàng về việc đồng ý cho vay chưa được coi là chấp nhận

giao kết hợp đồng mà chỉ là tuyên bố đồng ý giao kết hợp đồng. Việc chấp nhận

giao kết hợp đồng xảy ra khi các bên đàm phán, thỏa thuận xong về các điều khoản

của hợp đồng tín dụng: thời gian cho vay, lãi suất cho vay, mức cho vay, phương

thức cho vay, các điều kiện giải ngân và trả nợ, biện pháp bảo đảm tiền vay…và

người đại diện theo đúng thẩm quyền của các bên ký tên vào hợp đồng tín dụng.

Ngoài ra, sự thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng giữa tổ chức tín dụng

và khách hàng không được vượt ra ngoài phạm vi những quy định của pháp luật nói

chung và pháp luật tại tổ chức tín dụng nói riêng. Sau khi các bên đã thống nhất

được về những nội dung chủ yêu của hợp đồng tín dụng, tổ chức tín dụng và khách

hàng tiến hành soạn thỏa hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp, hợp đồng cầm cố,

bảo lãnh.

Từ đó có thể thấy, bước lập hồ sơ vay vốn và bước thẩm định hồ sơ vay vốn

có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với khách hàng. Hồ sơ vay vốn thể hiện mối

quan hệ tổng thể giữa khách hàng và tổ chức tín dụng, thể hiện khách hàng đủ điều

kiện vay vốn. Sự đầy đủ, chính xác của hồ sơ vay vốn và kết quả thẩm định hồ sơ

chính là cơ sở, căn cứ để khách hàng có thể vay vốn tại các tổ chức tín dụng.

Dựa vào hồ sơ vay vốn, tổ chức tín dụng có thể thu thập được các thông tin

về khách hàng, từ đó có thể xác định được khả năng trả nợ của khách hàng đối với

nguồn vốn vay tại tổ chức tín dụng trong thời hạn nhất định. Trong các trường hợp

cụ thể, tổ chức tín dụng sẽ yêu cầu khách hàng bổ sung thêm tài sản bảo đảm nhằm

36

hạn chế rủi ro cho tổ chức tín dụng. Còn trên cơ sở của kết quả thẩm định hồ sơ,

đánh giá tính khả thi của dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống, mục đích sử

dụng vốn hiệu quả và khả năng trả nợ của khách hàng mà tổ chức tín dụng phải ra

quyết định và thông báo quyết định của mình cho doanh nghiệp. Trong trường hợp

không cho vay, tổ chức tín dụng phải nêu rõ lý do từ chối cho vay.

Quyết định cho vay của TCTD không có nghĩa là hợp đồng tín dụng đã được

ký kết. Quyết định đó chỉ là cơ sở để các bên đàm phán, thỏa thuận các điều khoản

trong hợp đồng và tiến tới ký kết hợp đồng tín dụng. Về nguyên tắc, hợp đồng tín

dụng phát sinh hiệu lực kể từ khi đại diện hợp pháp của hai bên tham gia quan hệ

hợp đồng đã ký vào văn bản hợp đồng và các bên cũng không có thỏa thuận về thời

hạn bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng.

1.5.2. Thủ tục giao kết hợp đồng tín dụng

Pháp luật không có quy định trực tiếp về thủ tục giao kết hợp đồng, tuy rằng

có một số điều khoản quy định về mặt nguyên tắc, cách thức giao kết hợp đồng.

Trong thực tiễn, có hai cách giao kết hợp đồng đó là: Giao kết trực tiếp và giao kết

gián tiếp. Giao kết trực tiếp là đại diện các bên trực tiếp gặp nhau để trao đổi, bàn

bạc, thương lượng, thống nhất nội dung các điều khoản của hợp đồng và cùng nhau

ký kết vào một văn bản gọi là hợp đồng. Hợp đồng được coi là hình thành và có đầy

đủ hiệu lực pháp lý khi hai bên cùng ký vào văn bản. Trong trường hợp vì lí do nào

đó mà các bên không thể giao kết hợp đồng trực tiếp thì các bên có thể giao kết theo

các gián tiếp. Giao kết hợp đồng theo cách gián tiếp là các bên gửi cho nhau các tài

liệu chứa đựng các nội dung liên quan đến việc giao dịch. Giao kết hợp đồng theo

cách thức gián tiếp đồi hỏi phải tuân theo một trình tự nhất định. Bước thứ nhất, bên

đề nghị giao kết hợp đồng thông báo ý định đến bên được đề nghị giao kết hợp đồng,

trong đề nghị phải đưa ra những yêu cầu về nội dung giao dịch một cách rõ ràng, đầy

đủ và có tính xác định; bước thứ hai, bên được đề nghị giao kết hợp đồng có nghĩa vụ

trả lời bằng văn bản và gửi cho bên đề nghị giao kết, trong đó phải ghi rõ nội dung

chấp nhận hoặc không nhận nhận và những điều khoản bổ sung. Trong trường hợp

không chấp nhận phải ghi rõ lý do cụ thể. Hợp đồng được ký kết bằng cách thức gián

tiếp được coi là hình thành và có giá trị pháp lý khi các bên nhận được tài liệu giao

37

dịch có sự thỏa thuận về tất cả những điều khoản chủ yếu của hợp đồng.

Do hình thức ký kết hợp đồng tín dụng bao giờ cũng dưới hình thức văn bản,

cho nên thủ tục giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có thể là trực tiếp, có nghĩa là đại

diện của các bên tham gia giao kết phải trực tiếp gặp nhau để bàn bạc, trao đổi,

thống nhất đối với những nội dung chủ yếu các điều khoản của hợp đồng tín dụng

và cùng ký kết vào hợp đồng. Từ thời điểm bên sau cùng ký vào hợp đồng thì khi

đó hợp đồng được công nhận và có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với các bên.

1.6. Nguyên tắc giao kết hợp đồng tín dụng

Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp

vụ - pháp lý do các bên tham gia thực hiện theo một trình tự nhất định. Xuất phát từ

nguyên tắc cơ bản là đảm bảo sự an toàn pháp lý và tôn trọng quyền tự do ý chí của

cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ của

mình, đồng thời có hạn chế trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức xã hội cho nên

giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm những nguyên tắc sau:

1.6.1. Tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức

xã hội

Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thỏa mãn được các nhu cầu đời sống vật

chất cũng như tinh thần, BLDS đã cho phép các chủ thể tự do, tự nguyện thỏa

thuận. Theo nguyên tắc này, các bên chủ thể tham gia giao kết hợp đồng được quyết

định mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức nào kể

cả Nhà nước có thể can thiệp, làm thay đổi ý chí của các bên chủ thể. Tuy nhiên, sự

tự do ý chí đó phải nằm trong một khuôn khổ nhất định, không chỉ nhằm bảo đảm

quyền và lợi ích của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền và lợi ích

của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy, sự tự do của các

chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.

Tức là sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng không được trái với điều cấm của

pháp luật và những chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận. Tuy nhiên, trên thực tế

còn tồn tại nhiều trường hợp vì lợi nhuận mà các TCTD “lách luật” đồng ý cho vay

đối với các doanh nghiệp không thỏa mãn các điều kiện vay vốn (Các điều kiện quy

định tại Điều 7 Thông tư 39/2016/TT-NHNN Quy định về hoạt động cho vay của tổ

38

chức tín dụng, chinh nhán ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng).

1.6.2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.

Đối với nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác chúng ta thấy rõ

nguyên tắc này đã phản ánh đúng đắn bản chất quan hệ hợp đồng trong cơ chế thị

trường, trong đó là các quan hệ tự nguyện, có sự thỏa thuận về ý chí trong trao đổi

hàng hóa, dịch vụ xuất phát từ nhu cầu của các chủ thể tham gia. Theo đó, các chủ

thể tham gia có quyền bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật, không ai

được lấy những lý do khác biệt về dân tộc, tôn giáo, giới tính, thành phần kinh

tế…để đối xử không bình đẳng với nhau, làm ảnh hưởng đến quan hệ hợp đồng. Chỉ

khi nào các bên bình đẳng với nhau về mọi điều kiện trong giao kết hợp đồng thì ý

chí tự nguyện của các bên mới được bảo đảm. Do đó, đối với các hợp đồng tín dụng

được giao kết mà không có sự tự nguyện, bình đẳng, hợp tác giữa các bên tham gia

thì sẽ không được pháp luật công nhận.

Việc đánh giá hợp đồng tín dụng có phải do ý chí tự nguyện của các bên tạo nên

hay không là một công việc mất nhiều thời gian và tương đối khó khăn. Với bối cảnh

nền kinh tế toàn cầu đang diễn biến khá phức tạp, biến động thất thường, lợi dụng tình

trạng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp lớn, các tổ chức tín dụng thường cho vay vốn

với lãi suất cao hơn quy định 2 đến 3%. Để hợp thức hóa phần chênh lệch này, tổ chức

tín dụng đặt ra rất nhiều các loại phí chẳng hạn như: phí tài sản bảo đảm, phí quản lý

hạn mức…Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật chưa có những quy định cụ thể

về việc thu phí của các tổ chức tín dụng, mà chỉ có công văn của Ngân hàng Nhà nước

yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện đúng trần lãi suất cho vay.

1.6.3. Nguyên tắc thực hiện đúng và thực hiện trên tinh thần hợp tác, có lợi

nhất cho các bên

Nguyên tắc này đòi hỏi các bên phải chấp hành nghiêm chỉnh, đầy đủ và

trung thực các điều khoản đã cam kết trong HĐTD; đồng thời cho phép mỗi bên có

quyền yêu cầu bên kia thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã được quy định trong

HĐTD. Các bên phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ HĐTD.

Nó đòi hỏi các bên phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện

nghĩa vụ. Các bên hợp tác với nhau để tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau để thực hiện đầy

đủ và nghiêm chỉnh những điều khoản của HĐTD, để đáp ứng nhu cầu và bảo đảm

39

lợi ích cho các bên trong quan hệ nghĩa vụ. Trong trường hợp nhận thấy HĐTD có

thể bị vi phạm phải kịp thời thông báo cho nhau biết để hạn chế các thiệt hại có thể

xảy ra hoặc khi đã có những hành vi vi phạm hợp đồng, phải tìm mọi cách để hạn

chế tối đa các thiệt hại. Nếu bên nào có thể thực hiện các biện pháp ngăn chặn mà

không thực hiện sẽ bị coi là có lỗi và phải gánh chịu thiệt hại.

1.6.4. Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản

Khi tham gia giao kết hợp đồng tín dụng, các bên phải trực tiếp chịu trách

nhiệm tài sản với nhau. Các bên có thể dùng tài sản của mình cầm cố, thế chấp hoặc

nhờ người khác bảo lãnh bằng tài sản của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

trong hợp đồng. Nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm bảo đảm

quyền và lợi ích của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng tín dụng.

Vốn vay phải luôn được giá trị vật tư, hàng hóa tương đương làm bảo đảm

dựa trên cơ sở yêu cầu của quy luật lưu thông và trong phạm vi của cả nền kinh tế

trong từng thời điểm cụ thể, khối luợng tiền tệ trong lưu thông phải tương ứng với

giá trị khối lựợng hàng hóa trong lưu thông. Nó đòi hỏi khi vay vốn tổ chức tín

dụng, phải có một khối luợng vật tư, hàng hóa tương đương thuộc sở hữu của khách

hàng để làm bảo đảm bảo cho vốn vay. Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng

phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong HĐTD tránh tình

trạng đầu tư sai mục đích, thất thoát và lãng phí vốn.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp

thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau về mặt pháp lý. Họ hợp tác

với nhau ở lĩnh vực này, cạnh tranh ở những lĩnh vực khác. Trong nền kinh tế nhiều

biến động như hiện nay, bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, phát

triển mạnh còn có những doanh nghiệp kinh doanh yếu kém, bị thua lỗ dẫn tới phá

sản. Để nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro, tổ chức tín dụng phải nghiên cứu kỹ hồ sơ

khách hàng vay vốn, bao gồm khả năng tài chính, tình hình sản xuất- kinh doanh.

Do kinh doanh tín dụng là một trong những hoạt động chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro

nhất vì vậy để phòng ngừa và hạn chế rủi ro, hoạt động tín dụng phải thực hiện

nguyên tắc tránh rủi ro.

Tóm lại, việc xác định các nguyên tắc khi giao kết hợp đồng có một ý nghĩa

rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tiễn áp dụng chế định hợp đồng,

40

góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Chính

vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu nó một cách chi tiết, khoa học vấn đề này luôn

được đặt ra nhằm ngày càng làm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật về hợp

đồng, giúp các chủ thể có thể tự bảo đảm được lợi ích cá nhân cũng như lợi ích

cộng đồng khi tham gia giao kết hợp đồng.

1.7. Mối quan hệ giữa giao kết hợp đồng bảo đảm tín dụng với giao kết

hợp đồng tín dụng

Thứ nhất, mối quan hệ trong việc ký kết hợp đồng

Việc ký kết hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản luôn đi kèm với việc

xác lập giao dịch bảo đảm. Về nguyên tắc, pháp luật hiện hành không có quy định

cụ thể nên các bên không nhất thiết việc giao kết hợp đồng tín dụng và giao kết hợp

đồng bảo đảm tại cùng một thời điểm. Trên thực tế, nếu xảy ra trường hợp các bên đã

ký kết hợp đồng tín dụng nhưng một thời gian sau mới xác lập giao dịch bảo đảm thì

trong thời gian kể từ khi ký kết hợp đồng tín dụng đến khi xác lập giao dịch bảo đảm

thì hợp đồng tín dụng chỉ được coi là hợp đồng tín dụng không có bảo đảm. Khi giao

dịch bảo đảm được xác lập thì lúc đó hợp đồng tín dụng mới được coi là hợp đồng tín

dụng có bảo đảm và các bên tham gia giao kết mới bị rằng buộc bởi các quyền và nghĩa

vụ phát sinh từ giao dịch bảo đảm. Từ đó có thể thấy, giao kết hợp đồng tín dụng và

giao kết hợp đồng bảo đảm có thể tách rời nhau khi thực hiện ký kết.

Trên thực tế, việc giao kết hợp đồng tín dụng tách rời việc giao kết hợp đồng

bảo đảm vẫn được các bên lựa chọn vì những ưu điểm vốn có của nó trong việc bảo

đảm an toàn pháp lý cho cả hai bên khi tham gia hợp đồng tín dụng.

Thứ hai, mối quan hệ về hiệu lực pháp lý

Đối với vấn đề này, có nhiều quan điểm khác nhau như: Có quan điểm cho rằng

hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính còn hợp đồng bảo đảm là hợp đồng phụ. Tuy

nhiên, lại có quan điểm cho rằng hai loại hợp đồng này hoàn toàn độc lập với nhau.

Theo Điều 402 BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu

lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ; Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ

thuộc vào hợp đồng chính”. Như vậy, để phân loại hai loại hợp đồng căn cứ vào sự

phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực của hợp đồng. Nếu chỉ căn cứ vào tiêu chí hiệu lực

của hợp đồng thì theo Khoản 1 Điều 15 Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch

41

bảo đảm: “Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực

hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc

toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm

dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Do đó, không phải trong mọi trường hợp

hiệu lực của hợp đồng tín dụng đều ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng bảo đảm,

điều này phụ thuộc vào việc hợp đồng tín dụng đã được thực hiện hay chưa cho nên

hợp đồng tín dụng không là hợp đồng chính và hợp đồng bảo đảm không là hợp

đồng phụ.

Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 407 BLDS 2015 chỉ rõ: “Sự vô hiệu của hợp đồng

chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng

phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với biện pháp

bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”. Vì vậy, quan điểm hợp đồng tín dụng là hợp đồng

chính còn hợp đồng tín dụng là hợp đồng phụ vẫn chưa được làm rõ.

Mặc dù chưa có những quy định cụ thể về hợp đồng nào là hợp đồng chính,

hợp đồng nào là hợp đồng phụ nhưng Điều 15 Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao

dịch bảo đảm đã chỉ ra mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm

về hiệu lực của hợp đồng. Theo đó:

“1.Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực

hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc

toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm

dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

2.Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ

được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

3.Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt

thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt;

nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì

giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

4.Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không làm

chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.

Như vậy, hiệu lực của hợp đồng tín dụng không phải trong mọi trường hợp

đều ảnh hưởng tới hiệu lực của giao dịch bảo đảm. Để xác định xem hiệu lực của

42

hợp đồng tín dụng có ảnh hưởng tới giao dịch bảo đảm hay không hoàn toàn phụ

thuộc vào hợp đồng tín dụng đã được thực hiện hay chưa. Nếu các bên chưa thực

hiện hợp đồng tín dụng thì khi hợp đồng tín dụng bị vô hiệu, bị huỷ bỏ, hoặc đơn

phương chấm dứt hợp đồng thì giao dịch bảo đảm chấm dứt. Trường hợp các bên đã

thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng thì khi hợp đồng tín dụng bị vô hiệu, bị

huỷ bỏ, hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng thì giao dịch bảo đảm không chấm

dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Ngoài ra, nghĩa vụ được bảo đảm không chỉ

là nghĩa vụ tài sản phát sinh từ hợp đồng được bảo đảm mà còn bao gồm cả nghĩa

vụ hoàn trả lại tài sản cho bên nhận bảo đảm (nghĩa vụ này phát sinh do việc xử lý

hợp đồng được bảo đảm bị vô hiệu, theo nguyên tắc các bên phục hồi trạng thái ban

đầu khi ký kết hợp đồng).

1.8. Điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng tín dụng

Hoạt động tín dụng ngân hàng đang ngày càng phát triển và có thể nói là có

tốc độ phát triển rất nhanh. Hiện tại, có rất nhiều ngân hàng lớn mạnh mà trước đây

xuất thân là những tập đoàn kinh tế hay tập đoàn bảo hiểm. Điều này chứng tỏ rằng:

Hoạt động tín dụng ngân hàng thực chất là hoạt động kinh doanh và hoạt động này

mang lại lợi nhuận rất cao.

Những mẫu hợp đồng mà các ngân hàng đưa ra không phải là hợp đồng mẫu

được quy định tại Điều 405 BLDS 2015, mà chỉ là bản thảo để các bên thuận tiện

hơn trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Bên vay có thể thoả thuận với ngân

hàng thay đổi một hoặc nhiều nội dung có liên quan. Tuy nhiên, trên thực tế thì bên

vay thường phải chấp nhận đối với những điều khoản ràng buộc chặt chẽ đối với

bên vay và có lợi hơn cho ngân hàng.

So với hợp đồng thương mại thì HĐTD có một vài điểm khác đó là HĐTD

có nhiều văn bản có các yếu tố như một hợp đồng, ví dụ: đơn đề nghị vay vốn,

HĐTD, khế ước nhận nợ (giấy nhận nợ)… Chẳng hạn trong đơn đề nghị vay vốn có

nhiều nội dung cơ bản của HĐTD như số tiền vay, mục đích vay, thời hạn vay, lãi

suất vay và cam kết của bên vay.

Trường hợp ngân hàng chấp thuận đối với những nội dung đó, thì có thể thay

thế cho một bản HĐTD. Tương tự, khế ước nhận nợ cũng thường liệt kê lại một

cách đầy đủ những nội dung chủ yếu của HĐTD, nên trong nhiều trường hợp cũng

43

đồng nghĩa với một HĐTD. Do HĐTD được quy định một cách rất cụ thể về mặt

nội dung, nên rất ít khi xảy ra tranh chấp về chính HĐTD, mà thường là tranh chấp

liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm để trả nợ. Theo quy định của pháp luật, thì

chỉ có HĐTD. Nhưng vừa do yêu cầu thực tế và nhằm hạn chế những rủi ro xảy ra,

nên bên cạnh HĐTD, các ngân hàng thường đưa ra thêm một loại văn bản nữa là

khế ước nhận nợ, là một loại giấy nhận nợ. Khế ước nhận nợ thường cũng đủ các

nội dung chủ yếu của HĐTD.

Trên thực tế, nhiều ngân hàng ký HĐTD mẫu với bên vay, trong đó xác định

các nguyên tắc chung và các nội dung thoả thuận sơ bộ về việc cho vay với một số

vốn nhất định khi hai bên vay đáp ứng được đầy đủ những điều kiện vay vốn theo

quy định của pháp luật cũng như của ngân hàng cho vay. HĐTD mẫu là căn cứ để

ngân hàng và bên vay tiếp tục ký các HĐTD cụ thể. Khi ấy, HĐTD cụ thể có thể

không cần nhắc lại những thoả thuận chung như quyền, nghĩa vụ của các bên.

HĐTD mẫu được sử dụng trong trường hợp bên vay có nhiều tài sản bảo

đảm được thế chấp, cầm cố…tại ngân hàng để vay vốn nhiều lần và diễn ra trong

một thời gian dài. Khi đó hợp đồng bảo đảm tiền vay được thiết lập để bảo đảm cho

HĐTD mẫu, thay vì cứ mỗi HĐTD lại phải ký một hợp đồng bảo đảm tiền vay, vừa

mất chủ động trong quá trình giao dịch vay vốn, vừa tốn kém chi phí định giá, công

chứng, đăng ký thế chấp lại.

HĐTD hạn mức là HĐTD cụ thể nhưng có thêm điều khoản cho phép bên

vay rút vốn và trả nợ nhiều lần, miễn là bảo đảm dư nợ vay trong mọi thời điểm

không quá mức tiền vay cao nhất mà hai bên đã thoả thuận. Mỗi lần vay vốn, bên

vay chỉ cần ký khế ước nhận nợ thay vì phải ký nhiều HĐTD với những nội dung

tương tự nhau.

Hiện nay, tranh chấp phát sinh từ HĐTD còn diễn ra nhiều và khá phức tạp

so với các tranh chấp từ các loại hợp đồng khác được giải quyết tại tòa. Việc tranh

chấp HĐTD này nguyên nhân một phần xuất phát từ sự mâu thuẫn về quyền và lợi

ích hợp phát của các bên, một phần cũng xuất phát từ các quy định pháp luật về

giao kết và thực hiện HĐTD.

Mặt khác, số vụ tranh chấp liên quan đến HĐTD giữa ngân hàng và khách hàng

vay có chiều hướng gia tăng. Sự gia tăng này một mặt phản ánh đúng thực trạng tranh

44

chấp hiện nay. Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều trường hợp các tổ chức tín dụng và

khách hàng không đưa vụ việc tranh chấp ra tòa mà tự thương lượng giải quyết nhằm

45

giảm chi phí và thời gian kiện tụng vừa giữ được mối quan hệ tốt với nhau.

Tiểu kết chương

Như phân tích ở trên Giao kết hợp đồng tín dụng là giai đoạn quyết định việc có

tiến tới xác lập hợp đồng hay không và liên quan tới thời điểm có hiệu lực của hợp

đồng. Các bên bày tỏ ý chí cho nhau khi giao kết hợp đồng, trao đổi ý kiến, đặt ra các

điều kiện để đi đến thỏa thuận thống nhất về những điều khoản của hợp đồng. Tuy

nhiên, xuất phát từ tính chất quan trọng của hợp đồng tín dụng đối với nền kinh tế mà

pháp luật đòi hỏi nên giao kết hợp đồng tín dụng phải tuân thủ những điều kiện chặt

chẽ như điều kiện về chủ thể, hiệu lực, nguyên tắc, trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng:

1. Giao kết HĐTD luôn có ít nhất hai chủ thế đó là bên nhận đề nghị giao kết

HĐTD và bên đề nghị giao kết HĐTD, trong đó một bên chủ thể luôn là TCTD.

TCTD muốn tham gia giao kết hợp đồng phải có đầy đủ các điều kiện về thành lập,

vốn pháp định, có điều lệ được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt và có đại diện hợp

pháp khi thực hiện ký kết hợp đồng theo quy định của pháp luật. Những điều kiện

trên không những góp phần hạn chế, loại trừ những TCTD không đủ tiêu chuẩn

kinh doanh mà còn góp phần lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng. Bên còn lại có

thể là pháp nhân hoặc cá nhân, trong đó, pháp nhân bao gồm: pháp nhân được thành

lập và hoạt động tại Việt Nam, pháp nhân được thành lập tại nước ngoài và hoạt

động hợp pháp tại Việt Nam; cá nhân bao gồm: cá nhân có quốc tịch Việt Nam và

cá nhân có quốc tịch tại nước ngoài. Ngoài việc thỏa mãn các điều kiện được quy

định tại BLDS thì pháp nhân và cá nhân còn phải có năng lực pháp luật và năng lực

hành vi dân sự đầy đủ, có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, có khả năng tài

chính đảm bảo thời hạn trả nợ....

2. Giao kết HĐTD với tư cách là một loại hình giao dịch dân sự đặc thù cho

nên chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện sau: chủ thể tham gia giao kết hợp

đồng tín dụng phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp

với giao dịch dân sự được xác lập; chủ thể tham gia hoàn toàn tự nguyện; mục đích

và nội dung của giao kết không vị phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã

hội. Ngoài ra, thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng chỉ có hiệu lực khi bên đề nghị

46

giao kết ấn định hoặc nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng

có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó, trừ trường hợp luật liên

quan có quy định khác.

3. Giao kết HĐTD là một quá trình giao kết có nhiều bước, bao gồm: lập hồ

sơ vay vốn, thẩm định hồ sơ vay vốn, quyết định cho vay, đàm phán các điều khoản

của hợp đồng và ký kết hợp đồng. Trong đó, bước lập hồ sơ và thẩm định hồ sơ vay

vốn có ý nghĩa rất quan trọng. Hồ sơ tín dụng thể hiện mối quan hệ tổng thể giữa

bên vay và bên cho vay, minh chứng cho việc bên vay có đủ điều kiện vay vốn. Sự

hoàn chỉnh và chính xác của hồ sơ tín dụng, kết quả thẩm định hồ sơ là căn cứ để

bên vay có thể được vay vốn. Trên cơ sở kết quả thẩm định hồ sơ tín dụng, đánh giá

tính khả thi, hiệu quả của dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống và khả năng

hoàn trả của bên vay mà TCTD phải ra quyết định và thông báo bên vay về quyết

định cho vay của mình.

4. Giao kết hợp đồng là các bên bày tỏ với nhau ý chí về việc xác lập, thay

đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng trên cơ sở tuân theo

nguyên tắc do pháp luật quy định, gồm: a) Tự do giao kết hợp đồng, nhưng không

được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Nội dung của nguyên tắc thể hiện hai vế có tầm

quan trọng hàng đầu trong giao kết hợp đồng đó là: tự do nhưng không được trái

quy định pháp luật, không được trái đạo đức xã hội; và b) Nguyên tắc các bên "tự

nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng trong giao kết hợp

đồng". Trước hết các bên phải có vị trí bình đẳng, vì bình đẳng là điều kiện để có sự

tự nguyện một cách thực sự.

5. Hiện nay, nhiều TCTD ký HĐTD mẫu với bên vay, trong đó xác định các

nguyên tắc chung cũng như các nội dung về việc cho vay với số vốn nhất định khi

hai bên đáp ứng đầy đủ những điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật và của

TCTD. Hợp đồng tín dụng mẫu là căn cứ để TCTD và bên vay tiến hành ký kết các

HĐTD cụ thể.

Ngoài ra, để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng giao kết hợp đồng tín dụng cũng

như các giải pháp hoàn thiện, chúng ta tìm hiểu qua Chương II của đề tài: Thực

47

trạng giao kết hợp đồng tín dụng qua thực tiễn Ngân hàng OceanBank và giải pháp.

Chương 2

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG QUA THỰC TIỄN

NGÂN HÀNG OCEANBANK

2.1. Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng

Pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là BLDS 2015; Luật Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam 2010 và Luật các tổ chức tín dụng 2010 đã có những quy định về giao kết

hợp đồng tín dụng, tạo cơ sở pháp lý để các bên tham gia thực hiện. Qua tìm hiểu

thực tế giải quyết các vụ việc tranh chấp về hợp đồng tín dụng tại các Tòa án cho

thấy các bên tham gia chủ yếu tranh chấp về các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh

trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng; còn tranh chấp trong quá trình giao kết

hợp đồng tín dụng rất ít.

Thứ nhất, về đối tượng vay vốn

Hoạt động tín dụng là một lĩnh vực nhạy cảm, có nhiều rủi ro. Việc cấp tín

dụng không minh bạch, khách quan sẽ dẫn đến xảy ra nhiều hành vi trục lợi cá nhân.

Pháp luật là một công cụ hữu hiệu để hạn chế khả năng này. Vì vậy, để đảm bảo tính

an toàn trong hoạt động tín dụng, hầu hết pháp luật các nước đều có những quy định

nhằm hạn chế quyền tự do kinh doanh của các TCTD. Pháp luật các các nước đều có

những quy định nhằm hạn chế cho vay đối với một số đối tượng có mối quan hệ có

thể dẫn tới lợi dụng vay vốn để thu lợi bất chính. Ở Việt Nam, Điều 126 Luật các tổ

chức tín dụng quy định những trường hợp TCTD không được cấp tín dụng:

- Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên

Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) và

các chức danh tương đương của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài,

pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vốn góp là thành viên Hội đồng quản

trị, thành viên Ban kiểm soát của tổ chức tín dụng là công ty cổ phần, pháp nhân là

thành viên góp vốn, chủ sở hữu của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn;

- Cha, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội

đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng

48

giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương đương.

Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo tính lành mạnh, an toàn trong hoạt

động tín dụng. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, sự

cạnh tranh giữa các ngân hàng là vô cùng lớn trên mọi phương diện trong đó đặc

biệt là cạnh tranh về khách hàng. Quy định trên đây không những ảnh hưởng đến

quyền tự do định đoạt, tự chịu trách nhiệm của các TCTD mà còn làm cho các

TCTD mất đi nhiều khách hàng tiềm năng.

Thứ hai, trình tự giao kết hợp đồng tín dụng

Bước lập hồ sơ vay vốn là bước rất quan trọng, vì trên cơ sở đó TCTD sẽ tiến

hành thẩm định và quyết định cho vay. Mặc dù đã có những quy định pháp luật cụ

thể về nghĩa vụ cung cấp thông tin, tài liệu của khách hàng cho TCTD, nhưng trên

thực tế không ít khách hàng vẫn tìm mội cách để tạo lập những chứng từ giả mạo về

tư cách pháp lý, về khả năng tài chính của mình, về tính hợp pháp của tài sản làm

bảo đảm tiền vay, về giá trị thực của tài sản bảo đảm nhằm mục đích được vay vốn.

Ngoài ra, công tác thẩm định ở nước ta hiện nay còn rất nhiều yếu kém, chất

lượng thẩm định các dự án là một vấn đề đáng báo động, ảnh hưởng nghiêm trọng

đến chất lượng của các tổ chức tín dụng. Trong điều kiện nền kinh tế nước nhà cũng

như toàn thế giới đang diễn ra hết sức phức tạp, việc cho vay cầm cố bất động sản

dưới mức quy định đã khiến nhiều ngân hàng Mỹ phá sản, gây ra cuộc khủng hoảng

tín dụng, khủng hoảng nền kinh tế tại Mỹ và ảnh hưởng đến toàn thế giới. Do đó,

các ngân hàng tại Việt Nam phải kiểm soát chặt chẽ đến công tác thẩm định, nâng

cao năng lực chuyên môn, kiến thức pháp luật đối với các cán bộ thẩm định nhằm

nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo sự an toàn cho hệ thống cũng như ổn định

nền kinh tế đất nước.

Thứ ba, chủ thể giao kết hợp đồng tín dụng

Việc xem xét tư cách chủ thể của bên vay là một vấn đề hết sức quan trọng,

nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng. Trên thực tế, nếu tổ

chức tín không xác định đúng tư cách chủ thể (đặc biệt là đối với trường hợp khách

hàng là tổ chức, doanh nghiệp) dẫn đến việc ký hợp đồng tín dụng với chủ thể

không có thẩm quyền ký kết. Khi đó, hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu gây thiệt hại lớn

49

cho các tổ chức tín dụng.

Việc xem xét tư cách chủ thể của bên vay vốn – doanh nghiệp cũng rất cần

thiết. Đây chính là cơ sở để các thẩm phán, trọng tài xem xét tính hiệu lực của hợp

đồng tín dụng. Trường hợp xác định sai tư cách của chủ thể vay vốn dẫn đến hợp

đồng vô hiệu, tổ chức tín dụng không thu hồi được lãi, gây thiệt hại nặng nề cho các

tổ chức tín dụng.

Thứ tư, về hình thức giao kết hợp đồng tín dụng

Theo quy định của pháp luật các TCTD đều quy định HĐTD mẫu áp dụng

trong hệ thống của mình. Việc giao kết và thực hiện HĐTD được thực hiện theo

đúng HĐTD mẫu. Như vậy, quy định về hình thức giao kết HĐTD trên thực tế được

thực hiện một cách nghiêm ngặt, các bên không được tự do đàm phán, thỏa thuận

đưa ra một hợp đồng với hình thức, quy cách, các điều khoản…một cách thoải mái

mà phải thực hiện theo đúng hợp đồng mẫu của TCTD cho vay.

Điểm này có ưu điểm là đã thống nhất hóa được hình thức pháp lý của

HĐTD trong từng TCTD, khắc phục những sai sót về mặt hình thức, góp phần đảm

bảo sự đầy đủ và chặt chẽ về mặt nối dung của các hợp đồng. Tuy nhiên, cũng có

thể thấy rằng quy định này cũng phần nào hạn chế quyền tự do thỏa thuận của

khách hàng và duy trì vị trí ưu thế hơn, có quyền định đoạt hơn của TCTD so với

khách hàng.

Ngoài ra, hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao

kết hợp đồng là bằng văn bản. Pháp luật không quy định cụ thể về hình thức của đề

nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD. Theo Khoản 4 Điều

400 BLDS 2015 có quy định: “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời

điểm bên sau cùng kí vào văn bản”. Theo quy định này có thể hiểu là: Đề nghị giao

kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng với hình thức bằng văn bản bắt buộc

phải có chữ ký của các bên được hay không? Trên thực tế, đối với những hợp đồng

giao kết bằng văn bản thường phải có chữ ký (hoặc điểm chỉ) của các bên. Đối với

chủ thể giao kết HĐTD là tổ chức, pháp nhân thì đề nghị giao kết, chấp nhận đề

nghị giao kết HĐTD thường có chữ kí, có đóng dấu.

Như vậy, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

với hình thức văn bản có đầy đủ các nội dung của hợp đồng và nội dung của hợp

50

đồng nhưng không có chữ ký, hoặc có chữ ký nhưng không đóng dấu đối với pháp

nhân, hoặc không có chữ ký nhưng có điểm chỉ ... thì có giá trị pháp lý ràng buộc

các bên hay không cũng cần phải được quy định cụ thể để đảm bảo quyền lợi cho

các chủ thể, hạn chế các tranh chấp có thể phát sinh.

Thứ năm, về thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên

Quyền và nghĩa vụ của các bên bao giờ cũng được quy định rõ ràng trong

hợp đồng tín dụng. Khách hàng vay chỉ được sử dụng số tiền đó vào mục đích gì?

Đến thời hạn nào phải hoàn trả nợ khoản nợ cũng như TCTD phải có nghĩa vụ giải

ngân đúng số tiền và thời gian hai bên đã đã thỏa thuận, ngoài ra có quyền kiểm tra,

giám sát quá trình khách hàng sử dụng vốn vay hoặc thu hồi nợ theo quy định trong

hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết.

Trên thực tế, các quy định về quyền và nghĩa vụ đa phần được các bên thực

hiện đầy đủ, điều này tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa khách hàng và TCTD góp phần

vào sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, lại có không ít trường hợp các bên

không thực hiện đúng các quy định tại hợp đồng tín dụng dẫn đến mối quan hệ giữa

TCTD và khách hàng không còn nữa, đây là nguyên nhân dẫn đến xảy ra những

tranh chấp. Đa phần, các tranh chấp liên quan về hợp đồng tín dụng xuất phát từ

việc khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các cam kết trong

hợp đồng. Sự cam kết này đã được các bên thỏa thuận và thống nhất từ khi giao kết

hợp đồng nhưng lại không thực hiện theo đúng những gì đã thỏa thuận.

Ví dụ, trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, khách hàng đã sử dụng

số tiền vay đúng mục đích đã cam kết dưới sự giám sát của TCTD nhưng họ không

có khả năng trả nợ gốc và lãi suất theo thỏa thuận dẫn đến việc tranh chấp giữa

TCTD và khách hàng là rất cao. Trong trường hợp các bên không thể thỏa thuận về

việc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ thì bên cho vay có thể áp dụng các

biện pháp để thu hồi nợ và lãi suất chưa thanh toán. Nếu các biện pháp thu hồi nợ

này hoặc biện pháp xử lý tài sản bảo đảm không đúng trình tự thủ tục thì tranh chấp

đương nhiên xảy ra.

Ngoài ra, việc chậm trả đối với các nợ quá hạn của khoản vay thì khách hàng

còn bị phạt. Theo quy định của pháp luật, các TCTD được phép tự quyết định việc

51

cơ cấu lại thời gian trả nợ, bên đi vay không có quyền đề nghị TCTD cho cơ cấu lại

thời gian trả nợ. Chính điều này các TCTD đôi khi có thể áp dụng các biện pháp thu

nợ không phù hợp dẫn đến tranh chấp xảy ra.

Thứ sáu, về thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng

Thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD quy định chưa đảm bảo

tính thống nhất. Theo Khoản 1 Điều 394 BLDS 2015 có quy định: “1. Khi bên đề

nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được

thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời

khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm

trả lời”.

Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do

khách quan. Chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm so với thời hạn trả lời không

phải do lỗi của bên được đề nghị mà do lỗi của người thứ ba hoặc do sự kiện bất

khả kháng. Khi chấp nhận giao kết đến chậm so với thời hạn đã ấn định do nguyên

nhân khách quan này dẫn tới hệ quả:

- Nếu bên đề nghị không biết về lý do khách quan đã xảy ra, thông báo chấp

nhận đề nghị không có hiệu lực và không hình thành hợp đồng.

- Nếu bên đề nghị biết về lý do khách quan đã xảy ra, thông báo chấp nhận

giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không

đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.

Quy định trên đưa ra trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với

chấp nhận đó của bên được đề nghị giao kết hợp đồng, tuy nhiên như thế nào là trả

lời ngay thì chưa được quy định cụ thể ở bất cứ văn bản nào, điều này gây sự khó

hiểu trong quá trình áp dụng pháp luật.

Ngoài ra, trong trường hợp gửi qua đường bưu điện thì bên đề nghị giao kết

sẽ nhận được chấp nhận giao kết chậm hơn so với ngày đã ấn định trong thỏa thuận

tuy nhiên theo dấu bưu điện thì vẫn hợp lệ. Đây là điểm quy định không thống nhất

của Khoản 1 Điều 394 BLDS 2015, khi vừa quy định việc trả lời chấp nhận giao kết

có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đã được bên đề nghị ấn định – tức là

khi trả lời chấp nhận được gửi đi đã có hiệu lực lại vừa quy định bên đề nghị giao

kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì lời chấp nhận này được

52

coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời – tức là trả lời chấp nhận đề nghị có hiệu lực

và được công nhận khi bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời trong thời

hạn ấn định.

2.2. Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank

2.2.1. Tổng quan về Ngân hàng OceanBank

Ngân hàng Thương mại Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Đại Dương

(OceanBank) tiền thân là Ngân hàng thương mại cổ phần Nông thôn Hải Hưng,

được thành lập cuối năm 1993 theo Quyết định số 257/QĐ-NH ngày 30/12/1993,

giấy phép số 0048/QĐ-NH của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với vốn

điều lệ là 300 triệu đồng và chỉ đơn giản là nhận tiền gửi và cho vay hộ nông dân

trên địa bàn nông thôn Hải Dương.

Năm 2007 là năm đầu tiên OceanBank hoạt động theo mô hình Ngân hàng

Thương mại Cổ phần theo Quyết định số 104/QĐ-NHNN ngày 09/01/2007 của Thống

đốc Ngân hàng Nhà nước. OceanBank tự hào là Ngân hàng Thương mại Cổ phần đa

năng, hiện đại, có sự bứt phá về doanh thu, tổng tài sản và vốn điều lệ hàng năm.

Với những nỗ lực không ngừng của HĐQT, Ban Điều hành và tập thể

CBNV, OceanBank đã ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường

tài chính ngân hàng, xây dựng niềm tin vững bền đối với đối tác, khách hàng và cổ

đông. Năm 2011, từ một ngân hàng với vốn điều lệ 300 triệu đồng , OceanBank có

vốn điều lệ lên 4.000 tỷ đồng và năm 2012 ngân hàng sẽ tăng mức vốn lên 5000 tỷ

đồng thiết lập quan hệ đại lý với hơn 300 ngân hàng lớn trên thế giới.

Đến năm 2013, OceanBank sẽ trở thành ngân hàng hiện đại, đa năng có tầm

vóc tương xứng với một ngân hàng TMCP lớn trong nước, có năng lực tài chính,

nguồn nhân lực và công nghệ….đủ mạnh để tạo điều kiện tốt nhất cho việc chuyển

hướng thành một ngân hàng hàng đầu trong giai đoạn tiếp theo.

Sau 22 năm hình thành và phát triển, năm 2015 đánh dấu bước thay đổi lớn

trong mô hình hoạt động của ngân hàng từ Ngân hàng TMCP thành Ngân hàng

Thương mại Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên. Từ những ngày đầu thành lập

đến nay, ngân hàng đã trải qua một số biến động lớn cũng như nhiều khó khăn về cơ

sở vật chất và trình độ nhân lực để đổi mới từ bộ máy nhân sự, công nghệ, đến các

53

sản phẩm, dịch vụ… Hiện nay, toàn thể cán bộ nhân viên OceanBank nỗ lực thực

hiện kế hoạch hành động “hướng về khách hàng” bằng việc nâng cao chất lượng

dịch vụ nhằm mang lại trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng , phát triển lớn mạnh,

xây dựng uy tín thương hiệu, niềm tin của khách hàng và xã hội để vươn lên trở

thành một ngân hàng thương mại quy mô lớn, tiên tiến, hiện đại.

OceanBank có mạng lưới kinh doanh bao gồm 21 Chi nhánh và 101 Phòng

giao dịch trải rộng khắp các tỉnh thành nhằm cung cấp cho khách hàng các sản

phẩm, dịch vụ tài chính ngân hàng đa năng, hiện đại và hiệu quả, phù hợp với nhu

cầu và đặc điểm cư dân, kinh tế tại các địa phương. Lĩnh vực ngân hàng bán lẻ là ưu

điểm vượt trội của OceanBank với hệ thống mạng lưới CN/PGD thuận tiện ở các

tỉnh, thành phố lớn, sản phẩm dịch vụ đơn giản và khác biệt, có hàm lượng công

nghệ cao, chất lượng dịch vụ chuyên nghiệp, thân thiện và không ngừng được nâng

cao. Hiện nay, OceanBank đang nỗ lực thực hiện điện tử hóa các giao dịch khách

hàng cá nhân để nâng cao tiện ích và trải nghiệm cho khách hàng.

2.2.2. Tình hình giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank

Ngày 06/05/2015, OceanBank được chuyển đổi mô hình hoạt động từ Ngân

hàng TMCP sang Ngân hàng TM TNHH MTV Đại Dương do Nhà nước làm chủ sở

hữu 100% theo Quyết định số 663/QĐ-NHNN và được Ngân hàng Viettinbank hỗ

trợ quản trị, điều hành. OceanBank là tổ chức chuyên cung cấp sản phẩm, dịch vụ

ngân hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu, nâng cao chất lượng cuộc sống và hiệu quả kinh

doanh của khách hàng, góp phần vào sự phồn vinh của cộng đồng. Với tầm nhìn là

trở thành một trong những ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam được khách hàng tin

dùng với sản phẩm, dịch vụ và giải pháp tài chính đa dạng, tiện ích theo chuẩn mực

quốc tế dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại.

Trên hành trình đổi mới và phát triển, lĩnh vực bán lẻ luôn luôn là lĩnh vực

được Ban lãnh đạo ưu tiên tập trung phát triển, theo số liệu thống kê của Phòng

Quản trị tài chính, trong năm 2016, OceanBank đã tiến hành kí kết được 11.150 hợp

đồng tín dụng, trong đó kí kết tập trung vào khách hàng cá nhân với số lượng

HDTD là 11.108 hợp đồng tương đương số tiền giải ngân là 5.549 tỷ đồng; khách

hàng doanh nghiệp chỉ có 42 HDTD được kí kết tương ứng số tiền 1.093 tỷ đồng.

54

Năm 2016, toàn bộ số lượng hợp đồng tín dụng được kí kết với khách hàng doanh

nghiệp là các hợp đồng đồng tài trợ, do OceanBank chưa được Ngân hàng nhà nước

đồng ý cho cấp tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp. Tháng 07/2017,

OceanBank đã được cấp tín dụng trở lại đối với khách hàng doanh nghiệp, mặc dù

gặp rất nhiều khó khăn, số liệu kinh doanh còn hạn chế nhưng hoạt động kinh doanh

khách hàng doanh nghiệp đã và đang từng bước đi vào ổn định, vì thế năm 2017,

tổng số lượng HĐTD được kí kết trên toàn hàng đã tăng lên với con số 16.065 hợp

đồng, trong đó, số lượng hợp đồng được kí kết với khách hàng cá nhân là 15.652

HĐTD, với tổng tiền 9.122 tỷ đồng; khách hàng doanh nghiệp kí được 134 HĐTD,

giải ngân được với cả 2 loại tiền USD (dành cho doanh nghiệp có hoạt động kinh

doanh xuất nhập khẩu) và VND là 4.397.572 USD và 1.441 tỷ đồng.

Sang năm 2018, hầu hết tại các Đơn vị trong hệ thống OceanBank đã phát

sinh nghiệp vụ cấp tín dụng cho Khách hàng doanh nghiệp, trong đó nhiều Đơn vị đã

rất nỗ lực và cố gắng hoàn thành chỉ tiêu được giao, nên số lượng HĐTD được xác lập

là 18.204 (cao nhất trong vòng 3 năm qua) hợp đồng, trong đó số lượng HĐTD kí kết

với khách hàng cá nhân là 17.004 hợp đồng tương ứng số tiền giải ngân 10.601 tỷ

đồng; với khách hàng doanh nghiệp là 749 HĐTD tương ứng số tiền 10.104.038 USD

và 1.938 tỷ đồng, và còn lại là HĐTD kí kết với tổ chức tín dụng khác là 428 HĐTD,

với số tiền USD là 114.000.000 USD và VND là 31.090 tỷ đồng.

Trong 6 tháng đầu năm 2019, các Đơn vị kinh doanh của OceanBank vẫn

tiếp tục duy trì cơ sở khách hàng hiện hữu, đồng thời tăng cường chào bán, tiếp thị

thêm các sản phẩm dịch vụ khác của OceanBank, tìm kiếm giới thiệu sản phẩm tới

các khách hàng, nhóm khách hàng mới theo định hướng tín dụng năm 2019, tăng

cường các giải pháp thu phí dịch vụ thông qua bán chéo, gia tăng và khai thác tối đa

số lượng sản phẩm dịch vụ trên một khách hàng, nên tính tới thời điểm 30/06/2019,

số lượng HĐTD được kí kết trên toàn hệ thống là 8.997 hợp đồng, trong đó kí kết

với khách hàng cá nhân là 8.203 hợp đồng tương ứng số tiền giải ngân là 4.884 tỷ

đồng, với khách hàng doanh nghiệp là 611 hợp đồng (trong nửa năm 2019, số lượng

HĐTD kí kết với KHDN gần bằng tổng số lượng của năm 2018, cao hơn so với

55

năm 2017, 2016) với 02 loại tiền USD và VNĐ như sau: giải ngân loại tiền USD là

51 HĐTD tương ứng 5.225.622 usd, giải ngân loại tiền VNĐ là 561 HĐTD tương

ứng 443 tỷ đồng.

Đối với vấn đề chọn quy trình áp dụng đối với từng đối tượng khách hàng,

những khách hàng là doanh nghiệp có số vốn vay trên mức tối thiểu theo quy định

của OceanBank trong từng thời kỳ sẽ tiến hành cho vay theo quy định của NHNN.

Theo quy định của OceanBank trong thời điểm hiện nay, mức tối thiểu là 10 tỷ

đồng. Do đó, chỉ những khoản vay của doanh nghiệp từ 10 tỷ đồng trở lên, trách

nhiệm của phòng Quản trị rủi ro mới được xác định. Số vốn 10 tỷ đồng thường áp

dụng với những dự án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy mô lớn.

Trong việc xác định giới hạn cho vay, OceanBank chỉ tiến hành xác định đối

với những khách hàng mới vay vốn lần đầu tại ngân hàng, còn đối với những khách

hàng thường xuyên, công việc này được thực hiện vào tháng 3 hàng năm và áp dụng

cho cả năm đó để tiết kiệm thời gian thẩm định, tạo điều kiện cho cả Ngân hàng

cũng như khách hàng.

Qua so sánh những HĐTD đã ký kết và biểu mẫu chung của hệ thống

OceanBank, hầu như các HĐTD được ký không có sự thay đổi so với mẫu, nghĩa là

khách hàng đồng ý với những điều khoản được quy định trong hợp đồng mẫu, điều

này chứng tỏ mẫu HĐTD của OceanBank đúng theo quy định của pháp luật và đảm

bảo được quyền lợi của khách hàng.

2.3. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu

2.3.1. Về kết quả đạt được và nguyên nhân

Từ khi thành lập đến nay, OceanBank luôn chấp hành nghiêm chỉnh các quy

định của pháp luật, thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà

nước. Việc luôn tìm hiểu và cập nhật các thông tin mới nhất về pháp luật thông qua:

các văn bản quy phạm pháp luật, các nghị định, thông tư của Chính phủ và các Bộ

ban ngành có liên quan đến hoạt động kinh doanh đã đóng vai trò quan trọng trong

kết quả thực thi pháp luật của ngân hàng. Việc áp dụng đúng pháp luật là nền tảng

cho sự phát triển ổn định và bền vững trong những năm qua của OceanBank.

Ngoài ra, việc tuân thủ nghiêm ngặt các văn bản pháp luật như: Luật Doanh

56

nghiệp, Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật thuế… đã giúp

cho OceanBank có những bước đi đúng đắn trong nền kinh tế đang có diễn biến khá

phức tạp như hiện nay, mặt khác xây dựng được niềm tin nơi cán bộ, công nhân

viên - để họ nhận thấy rằng việc lựa chọn gắn bó và cống hiến cho OceanBank

trong các năm qua hoàn toàn đúng đắn.

Đặc biệt, sự trau dồi kiến thức về chuyên môn, tìm hiểu sâu rộng các quy

định của pháp luật nói chung và Luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói riêng

của Ban lãnh đạo đã giúp OceanBank đạt được những thành tựu đáng kể. Bằng chứng

là năm 2015, một năm hết sức khó khăn với nền kinh tế nói chung và hoạt động của

OceanBank nói riêng. Nhưng với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban lãnh đạo chi

nhánh cùng sự đoàn kết, nhất trí và nỗ lực của tập thể cán bộ nhân viên, OceanBank

đã đánh dấu bước thay đổi lớn trong mô hình hoạt động của Ngân hàng từ Ngân hàng

Thương mại Cổ phần sang Ngân hàng Thương mại Trách nhiệm Một thành viên Đại

Dương. Toàn bộ nhân viên nỗ lực nâng cao chất lượng dịch, nhằm mang lại trải

nghiệm tốt nhất cho khách hàng, xây dựng uy tín thương hiệu cũng như làm tăng các

chỉ tiêu hoạt động kinh doanh, đảm bảo chất lượng, an toàn, hiệu quả.

OceanBank hiện tại có rất ít vụ tranh chấp nào khởi kiện ra toà kinh tế hay

yêu cầu trọng tài kinh tế giải quyết. Một số hợp đồng bị chấm dứt như là do các hợp

đồng khác bị chấm dứt, được các bên tự thương lượng giải quyết và được ghi rõ

trong HĐTD. Do OceanBank luôn có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chính

quyền địa phương cũng như các cơ quan pháp luật để kịp thời xử lý những vướng

mắc cũng như những rủi ro.

OceanBank đã ký kết và thực hiện HĐTD theo đúng quy định của pháp luật

như HĐTD phải thoả thuận bằng văn bản, theo đúng yêu cầu OceanBank đưa ra,

thẩm định vay vốn theo đúng quy trình quy định, kiểm tra khách hàng có khả năng

tài chính để đảm bảo trả nợ, kiểm tra giám sát khoản vay một cách chặt chẽ nhằm

đảm bảo việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích hay không, sẽ có

cách giải quyết phù hợp không làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của

OceanBank.

Các quy định về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng tín dụng phải có đủ

năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Điều khoản về lãi suất trong

57

hợp đồng rõ ràng, cụ thể, dung hòa được quyền lợi và nghĩa vụ cho các bên tham

gia khi có phát sinh tranh chấp. Về đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của khách hàng thì

ngân hàng áp dụng phương thức đảm bảo tiền vay bằng tài sản, thường quyền sử

dụng đất và quyền sử dụng nhà ở để thế chấp hoặc bảo lãnh.

Như vậy, môi trường pháp lý và hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của

OceanBank đã tạo ra khung pháp lý ổn định hơn, tạo điều kiện cho OceanBank hoạt

động sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn đồng thời giúp OceanBank chăm lo tốt hơn

cho người lao động. Các chủ trương, chính sách của ngân hàng đều đi đúng theo quy

định của pháp luật và hướng tới quyền lợi của người lao động cũng như của xã hội.

2.3.2. Về hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những mặt tích cực trong công tác quản lý, điều hành hoạt động

kinh doanh và thực thi pháp luật, hiện nay ngân hàng vẫn còn tồn tại một số mặt hạn

chế như sau:

Thứ nhất, về mẫu biểu HĐTD đang được sử dụng tại OceanBank là bộ mẫu

biểu Barcode được sử dụng thống nhất trong toàn hệ thống OceanBank từ ngày

25/07/2016 theo Quyết định số 4300/2016/QĐ-TGĐ. Các file word mẫu biểu hợp

đồng sẽ được cài đặt để khóa cố định một hoặc một số nội dung để sử dụng trong

công tác soạn thảo hợp đồng, và các file này sau khi được khóa sẽ tự động xuất hiện

thanh Barcode (mã vạch) ở góc phải phía trên cùng của trang văn bản. Nội dung của

thanh Barcode bao gồm: Tài khoản của cán bộ soạn thảo hợp đồng, (đã được mã

hóa), ngày tháng năm soạn thảo hợp đồng (đã được mã hóa). Mã hóa này sẽ được

xáo trộn và thêm một chuỗi random. Chính vì thế, trong công tác soạn thảo và kí kết

hợp đồng tín dụng với khách hàng, do phải sử dụng mẫu biểu chung thống nhất

Barcode, đã xảy ra một số khó khăn cho người soạn thảo và sử dụng như sau:

- Để sử dụng chức năng khóa cố định, máy tính của cá nhân người dùng

phải được cài đặt bản Microsoft Office Enterprise 2007 (bản full), vì thế nên không

phải bất cứ máy tính cá nhân nào cũng có đủ cấu hình mạnh để cài đặt và sử dụng

tốt phần mềm trên, vì thế hay xảy ra tình trạng, máy móc không đáp ứng được yêu

cầu công việc như lỗi phông chữ soạn thảo, mã vạch bị nhảy xuống dòng…ngoài ra,

có máy tính còn xảy ra hiện tượng lỗi, sau khi khóa cố định, và người dùng đã nhập

hết các thông tin cần nhập, tiến hành lưu lại bản ghi, thì hợp đồng không tự động

58

hiện ra mã vạch Barcode. Và lúc đó người dùng sẽ phải hủy toàn bộ hợp đồng đã

được soạn thảo, và thực hiện lại các bước thao tác từ đầu, gây mất thời gian cho cả

người soạn thảo và khách hàng. Đặc biệt là đối với các hợp đồng tín dụng cho vay

cầm cố sổ tiết kiệm, yêu cầu thời gian giải ngân nhanh cho các khách hàng đã có tài

sản bảo đảm là sổ tiết kiệm, thì gây ra rất nhiều khó khăn cho người tác nghiệp, khi

phải thực hiện soạn thảo lại hợp đồng từ đầu.

- Trong thực tế, có một số điều kiện, điều khoản hợp đồng không giống như

trên mẫu hợp đồng Barcode đã khóa cố định, và khách hàng không đồng ý với điều

kiện, điều khoản đó. Ví dụ như Điều 4 của Hợp đồng thế chấp bất động sản: Trách

nhiệm của bên B (bên vay) như sau: Tại thời điểm kí kết hợp đồng này, tài sản thế

chấp chưa được sử dụng vào bất kì giao dịch tặng cho, cho thuê, chuyển nhượng,

chuyển đổi, thế chấp, góp vốn, kê khai góp vốn, không phải là đối tượng của bất kì

giao dịch hứa mua hứa bán, giao dịch đặt cọc, cam kết, hoặc bất kì giao dịch dân sự

thương mại với bất kì Tổ chức/ cá nhân khác.

Thì trên thực tế, xảy ra rất nhiều trường hợp tài sản thế chấp của khách hàng

hiện tại đã được cho thuê trước thời điểm xét duyệt cấp tín dụng tại OceanBank, và

thời hạn hiệu lực của hợp đồng thuê bất động sản đó vẫn còn kéo dài, qua cả thời

điểm cấp tín dụng; khi gặp các trường hợp như vậy, Đơn vị phải thực hiện lâp Thư

công tác gửi tới Phòng Vận hành tín dụng tại Trụ sở chính, xin xem xét đề nghị sửa

đổi điểu khoản hợp đồng. Sau khi Phòng Vận hành tín dụng đồng ý, chuyển thư

công tác sang Trung tâm Công nghệ thông tin , để tiến hành mở mã khóa, chấp nhận

cho Đơn vị được điều chỉnh lại điều khoản hợp đồng với duy nhất Hợp đồng của

khách hàng đó.

- Mẫu hợp đồng liên quan tới cấp bảo lãnh cho khách hàng doanh nghiệp,

cũng là một loại mẫu có ý kiến của khách hàng bị chỉnh sửa nhiều nhất, vì hợp đồng

cấp bảo lãnh, là một hợp đồng mà theo đó OceanBank cam kết với bên nhận bảo

lãnh, về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh, khi bên

được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết

với bên nhận bảo lãnh,

Hợp đồng cấp bảo lãnh, do có sự xuất hiện của bên thứ 3 (bên nhận bảo

lãnh), nên có rất nhiều điểu khoản, khách hàng của OceanBank và bên nhận bảo

59

lãnh đã thỏa thuận về các điều khoản hợp đồng chung, mà các điều khoản hợp đồng

chung đó lại không phù hợp với điều khoản trong mẫu Hợp đồng cấp bảo lãnh

Barcode của OceanBank như: khoản 2.12 Điều 2 và khoản 6.01 Điều 6 của Hợp

đồng cấp bảo lãnh như sau:

Giảm trừ nghĩa vụ bảo lãnh: Nghĩa vụ bảo lãnh của Bên bảo lãnh sẽ được

giảm trừ theo một trong những trường hợp sau: Bên nhận bảo lãnh có văn bản xác

nhận giảm trừ bảo lãnh; Bên bảo lãnh đã trả thay cho bên được bảo lãnh một phần

giá trị bảo lãnh theo yêu cầu thanh toán của bên nhận bảo lãnh; Các trường hợp

giảm trừ khác theo quy định của Pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các bên.

- Đối với biểu mẫu hợp đồng thế chấp Quyền tài sản đối với hàng tồn kho

luân chuyển của Công ty, tài sản đảm bảo là hàng tồn kho luân chuyển có rất nhiều

phức tạp trên thực tế, khó có thể để nội dung cố định như trong mẫu hợp đồng đã

ban hành, Đơn vị kinh doanh và khách hàng mất rất nhiều thời gian để ngồi đàm

phán lại về nội dung từng điểu khoản trong hợp đồng, ví dụ như các điều khoản liên

quan đến nghĩa vụ được bảo đảm, liên quan đến quyền đòi nợ, quyền tài sản, lơi ích

các khoản bồi hoàn và các khoản thanh toán mà bên vay có nhận được sau thời

điểm hợp đồng thế chấp có hiệu lực,… đều không được khách hàng đồng ý vì điều

khoản quy định quá chặt chẽ, đối với những Công ty xuất nhập khẩu lớn, lượng đơn

hàng tồn kho luân chuyển ra vào là rất lớn trong thời gian ngắn, và khách hàng

không thể thực hiện theo đúng với những cam kết được nêu ra trong điều khoản của

Hợp đồng thế chấp của Ngân hàng OceanBank.

- Bên cạnh việc một vài điều khoản của bộ mẫu hợp đồng Barcode còn quá

chặt chẽ, thì tại một số điều khoản khác lại hơi lỏng lẻo, có thể để khách hàng lợi

dụng những khe hở để trục lợi bất chính, nên đã xảy ra tình trạng, một số Đơn vị xin

bổ sung thêm nội dung quy định về giá trị của khoản vay trong Điều 1: Nghĩa vụ

được bảo đảm của Hợp đồng thế chấp.

Việc bổ sung thêm nội dung quy định về giá trị của khoản vay tạo ra rất

nhiều thuận lợi cho Đơn vị dễ theo dõi giá trị tối đa được vay của khách hàng, và

còn giúp đỡ cho Phòng công chứng có căn cứ để thực hiện tính phí trên giá trị

60

khoản vay.

Thứ hai, cũng giống như rất nhiều các doanh nghiệp khác ở Việt Nam, các

Chi nhánh của OceanBank chưa thành lập được bộ phận pháp chế riêng biệt. Vấn đề

này gây ra một số khó khăn cho ngân hàng, cụ thể như sau:

- Việc tiếp cận các thông tin về pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật

không được toàn diện, thiếu tính hệ thống và không kịp thời. Hoạt động kinh doanh

của ngân hàng được điều chỉnh bởi rất nhiều các bộ luật, luật và các văn bản dưới

luật như đã nêu trên, vì vậy, nếu không có các chuyên viên pháp chế thì các Chi

nhánh của OceanBank rất khó để nắm bắt và hiểu một cách rõ ràng các quy định

của pháp luật hiện hành, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả kinh doanh của

OceanBank.

- Việc đi thuê các tổ chức tư vấn về pháp luật hiện nay là vấn đề khá phổ

biến tuy nhiên chi phí cho hoạt động này khá tốn kém. Điều này ảnh hưởng không

nhỏ tới nguồn tài chính của OceanBank.

Thứ ba, trong việc áp dụng Bộ luật Dân sự, việc xác lập hợp đồng một cách

cụ thể, đầy đủ các nội dung và hợp đồng được đánh giá là khá chặt chẽ nhưng vẫn

xảy ra tình trạng các bên không thực hiện đúng hợp đồng. Nguyên nhân là do

OceanBank không đánh giá, xem xét một cách chính xác chủ thể ký kết các hợp

đồng trên, người ký kết không phải người đại diện theo pháp luật của ngân hàng

hoặc không có giấy ủy quyền để đáp ứng đủ điều kiện tư cách pháp lý ký kết hợp

đồng. Không đảm bảo về yếu tố chủ thể ký kết hợp đồng dẫn đến việc hợp đồng có

thể bị vô hiệu, điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chung của OceanBank

cũng như tốn kém về thời gian và tiền bạc.

Thứ tư, các quy định của pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân

hàng khi tiến hành hoạt động kinh doanh của mình nhưng trên thực tế là hệ thống

pháp luật vẫn còn một số hạn chế nhất định. Chẳng hạn như về vấn đề xử lý tài sản

thế chấp khi mà bên bảo đảm không chịu bàn giao tài sản đã thế chấp cho

OceanBank thì OceanBank có quyền tự xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ, tuy nhiên,

đối với phương tiện vận tải đang lưu thông, thì OceanBank khó có thể thu giữ được

tài sản đó nếu không có sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của cơ quan công an và chính

quyền địa phương. Mặt khác, trong trường hợp bên bảo đảm có dấu hiệu chống đối,

61

gây khó khăn cho việc thu giữ tài sản của OceanBank, thì cơ quan công an và chính

quyền địa phương chưa thực sự quyết liệt phối hợp, hỗ trợ OceanBank trong việc

thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm theo đề nghị của OceanBank. Trên thực tế, khi nhận

được văn bản đề nghị phối hợp, hỗ trợ thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm của

OceanBank, nhiều cơ quan chính quyền địa phương trong đó có ủy ban nhân dân

cấp xã, phường, thị trấn và cơ quan công an chưa thực sự coi đó là nhiệm vụ, trách

nhiệm của mình theo quy định tại Ðiều 63 Nghị định số 163/2006/NÐ-CP ngày

29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, thậm chí chối bỏ vì sợ ảnh hưởng

đến trách nhiệm hoặc vì lý do khác.

Thứ năm, trên thực tế, khả năng phân tính và đánh giá tình hình tài chính của

khách hàng cùa cán bộ tín dụng OceanBank còn nhiều bất cập. Nhiều cán bộ tín

dụng có nhận thức không đúng về việc phân tích tài chính doanh nghiệp, chỉ coi

việc phân tích tài chính doanh nghiệp là tính toán các hệ số tài chính đơn thuần và

từ kết quả của sự tính toán đó đã đưa ra những nhận xét không khách quan về thực

trạng tài chính doanh nghiệp. Việc phân tích tài chính doanh nghiệp nhiều khi

không căn cứ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không dựa

vào năng lực chi trả vốn và lãi của doanh nghiệp mà thường dựa vào tài sản thế

chấp, cầm cố hay biện pháp bảo lãnh, hoặc dựa vào yếu tố là các khách hàng quen

thuộc để đề nghị phê duyệt cho vay.

2.4. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng

Sự tồn tại và phát triển của tín dụng là một tất yếu khách quan đối với sự

phát triển kinh tế, cho dù đó là nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp hay là nền

kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường thì quan hệ tín dụng ngày

càng mở rộng và phát triển cả về quy mô lẫn đối tượng, trong đó hình thức tín dụng

ngân hàng giữ vai trò chủ yếu đối với quá trình phát triển nền sản xuất, do nhu cầu

về vốn và sự luân chuyển của vốn trong nền kinh tế hiện nay ngày càng gia tăng.

Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, việc đảm bảo thống nhất, hài hoà

giữa hai yếu tố lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội là một yêu cầu cần thiết. Bởi lẽ, với

mục đích nhằm đạt được lợi nhuận cao, bằng hoạt động của mình các chủ thể có thể

sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn xã hội. Sự thống nhất giữa phát triển

kinh tế lẫn xã hội có thể đạt được thông qua sự can thiệp của Nhà nước bằng pháp

62

luật. Do đó, pháp luật đóng vai trò vừa bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho các

chủ thể trong nền kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo các lợi ích chung cho toàn

xã hội.

Với nhiệm vụ quan trọng đó, pháp luật về giao kết Hợp đồng tín dụng đã

được Nhà nước quan tâm và từng bước hoàn thiện. Mặc dù sự điều chỉnh chưa đạt

mức tối ưu, song nhìn chung, pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng đã tạo ra một

hành lang pháp lý ổn định đối với sự phát triển của quan hệ tín dụng, kịp thời cung

cấp vốn cho nền kinh tế thị trường đồng thời là công cụ để điều tiết chính sách tiền

tệ quốc gia và thực hiện các vấn đề xã hội. Cụ thể:

- Tín dụng ngân hàng là ngành huy động vốn chủ yếu của nền kinh tế: Thời

gian vừa qua, pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng đã có nhiều sửa đổi theo

hướng tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế trong xã hội đặc biệt là các doanh

nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn ngân hàng. Có thể thấy, khi mà thị trường chứng

khoán ở nước ta chưa thật sự phát triển thì tín dụng ngân hàng đóng vai trò không

nhỏ trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, góp phần đáp ứng kịp thời vốn cho nhu

cầu kinh tế lớn của Chính phủ và các thành phần kinh tế khác [19].

- Tín dụng ngân hàng không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc cung

cấp vốn cho nền kinh tế mà còn là một công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc

thực hiện chính sách tiền tệ, điều tiết thị trường, chống lạm phát. Trong điều kiện

nền kinh tế thế giới đang có những diễn biến phức tạp và Việt Nam là một trong

những quốc gia bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế đó đã có những chính sách nhằm thắt

chặt tiền tệ như: tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, phát hành trái phiếu bắt

buộc...bằng hàng loạt các chính sách phù hợp và kịp thời trên đã góp phần hạn chế

đáng kể lạm phát tăng cao ở Việt Nam, ổn định nề kinh tế [24].

Từ đó ta thấy những kết quả đạt được từ những quy định của pháp luật về

giao kết hợp đồng tín dụng là không nhỏ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt

được thì thực tế pháp luật về giao kết HĐTD còn những bất cập nhất định ảnh

hưởng đến các chủ thể chẳng hạn như: nhiều quy định của Nhà nước can thiệp vào

hoạt động kinh doanh của các chủ thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do kinh

doanh của các chủ thể kinh doanh, mặt khác nhiều quy định còn thiếu, chưa rõ ràng,

thủ tục giải quyết tranh chấp chưa cụ thể, hiệu quả giải quyết tranh chấp chưa cao...

63

Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là pháp luật về giao kết hợp đồng

tín dụng còn nhiều vấn đề bất cập cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Trên cơ sở

lý luận và thực tiễn, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về HĐTD cần được

thực hiện theo những định hướng sau:

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng tín

dụng nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Một trong

các yêu cầu đặt ra đối với nền kinh tế thị trường là đảm bảo quyền tự do kinh doanh

cho các chủ thể kinh doanh trong đó có các tổ chức tín dụng, hạn chế đến mức thấp

nhất sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh. Để thực hiện mục tiêu

này, Nhà nước phải tôn trọng các nguyên tắc hoạt động nghiệp vụ của hệ thống

ngân hàng. Đồng thời phải đảm bảo phân chia trách nhiệm hợp lý giữa Nhà nước và

tổ chức tín dụng theo hướng Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội và tổ chức tín

dụng chịu trách nhiệm về sự minh bạch, khách quan trong môi trường pháp lý, môi

trường kinh doanh do Nhà nước lập ra cũng như tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh

doanh của mình. Do đó, pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng cần có sự kết hợp

hài hòa giữa lợi ích kinh tế của tổ chức tín dụng trong việc đề cao quyền tự do kinh

doanh của các chủ thể , nhưng vẫn đảm bảo lợi ích xã hội.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng

nhằm đảm bảo khả năng an toàn vốn cho các TCTD. Hoạt động tín dụng nói chung

và hoạt động cho vay nói riêng là hoạt động luôn tiềm ẩn rất nhiều những rủi ro. Rủi

ro trong hoạt động tín dụng không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của TCTD mà còn

ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người gửi tiền hoặc bên vay gây tác động

nghiêm trọng đến nền kinh tế. Ngoài ra, hiện nay đang trong quá trình toàn cầu hoá

kinh tế, rủi ro trong các hoạt động tín dụng ngày càng gia tăng; mặt khác, toàn cầu

hoá kinh tế đã và đang đòi hỏi hạn chế thấp nhất sự can thiệp của Nhà nước vào các

hoạt động tín dụng. Điều này dẫn đến nguy cơ mất an toàn cho hệ thống tín dụng.Vì

vậy, đảm bảo an toàn vốn cho các TCTD là nhiệm vụ của Nhà nuớc và là một yêu

cầu nghiêm ngặt đối với tất cả các TCTD.

Thứ ba, hoàn thiện các quy định của pháp luật về giao kết HĐTD nhằm giải

phóng mọi tiềm năng sẵn có về nguồn lực tài chính của các TCTD và khách hàng của

họ, đẩy nhanh tốc dịch chuyển vốn của nền kinh tế, đáp ứng đủ nguồn vốn cho nền

64

kinh tế. Pháp luật về giao kết HĐTD cần có những quy định tạo điều kiện cho các

TCTD thu hút tối đa nguồn vốn từ xã hội thông qua các hình thức thích hợp như: lãi

suất huy động, mở rộng mạng lưới... Đồng thời, cần có những quy định nhằm tạo mọi

điều kiện cho các tổ chức, cá nhân được tiếp cận vốn tại các ngân hàng.

Thứ tư, hoàn thiện các quy định của pháp luật về giao kết HĐTD nhằm tạo ra

sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế, góp phần nâng cao

năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực

cũng như quốc tế. Ngày nay, hội nhập quốc tế đã và đang trở thành xu hướng tất

yếu trong quá trình phát triển của các quốc gia. Quá trình hội nhập đòi hỏi phải thiết

lập những hành lang pháp lý chung có thể điều chỉnh các quan hệ phát sinh ở mỗi

quốc gia. Là một thành viên của tổ chức thương mại quốc tế, thực thi các cam kết

quốc tế, hệ thống pháp luật của Việt Nam phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các

doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Để đáp ứng yêu cầu đó, vừa qua, nhiều văn

bản pháp luật của Việt Nam đã có những thay đổi căn bản.

2.5. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng

tín dụng

Thứ nhất, về đối tượng vay vốn

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh giữa các TCTD là rất

lớn trong đó có sự cạnh tranh về các khách hàng. Nhằm đảm bảo cho các TCTD

không bị mất các khách hàng tiềm năng thì quy định về các trường hợp không được

cấp tín dụng theo Điều 126 Luật các tổ chức tín dụng 2010 (được sửa đổi, bổ sung

bởi Khoản 19 Điều 1 Luật Các tổ chức tín dụng sửa đối 2017) cần sửa đổi theo

hướng cấm cho vay với điều kiện ưu đãi. Theo đó các đối tượng trên (trừ Tổng

giám đốc của tổ chức tín dụng) vẫn được phép vay nhưng trong một giới hạn nhất

định và luôn phải có tài sản bảo đảm lớn hơn số tiền vay. Quy định trên vẫn đảm

bảo được tính minh bạch trong hoạt động cho vay và cũng không làm mất những

khách hàng tiềm năng của các TCTD.

Mặt khác, cần có những quy định ràng buộc trách nhiệm của người đại diện

trong việc ký kết hợp đồng kinh tế, bao gồm trách nhiệm tài sản, trách nhiệm hành

chính và cả trách nhiệm hình sự, để có thể ngăn chặn những tiêu cự có thể xảy ra.

65

Ngoài ra, cũng cần quy định trách nhiệm của người ủy quyền cũng như của người

được ủy quyền khi giao kết hợp đồng tín dụng trong trường hợp hành vi của họ có

thể gây ra thiệt hại cho Nhà nước và xã hội.

Thứ hai, hình thức giao kết hợp đồng tín dụng

Các quy định về hợp đồng trong BLDS 2015 là những quy định chung nhất

áp dụng được cho tất cả các loại hợp đồng trong đó có cả lĩnh vực kinh doanh,

thương mại. BLDS 2015 cần có những quy định cụ thể về:

-Hình thức và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là bằng văn bản. Pháp

luật không quy định cụ thể về hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận

đề nghị giao kết HĐTD. Theo Khoản 4 Điều 400 BLDS 2015 có quy định: “Thời

điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản”.

Theo quy định này có thể hiểu là: Đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết

hợp đồng với hình thức bằng văn bản bắt buộc phải có chữ ký của các bên được hay

không? Trên thực tế, đối với những hợp đồng giao kết bằng văn bản thường phải có

chữ ký (hoặc điểm chỉ) của các bên; Đối với chủ thể giao kết HĐTD là tổ chức,

pháp nhân thì đề nghị giao kết, chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD thường có chữ kí,

có đóng dấu.

Như vậy, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

với hình thức văn bản có đầy đủ các nội dung của hợp đồng và nội dung của hợp

đồng nhưng không có chữ ký, hoặc có chữ ký nhưng không đóng dấu đối với pháp

nhân, hoặc không có chữ ký nhưng có điểm chỉ ... thì có giá trị pháp lý ràng buộc

các bên hay không cũng cần phải được quy định cụ thể để đảm bảo quyền lợi cho

các chủ thể, hạn chế các tranh chấp có thể phát sinh.

-Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐTD quy định chưa đảm bảo tính

thống nhất. Khoản 1 Điều 394 BLDS 2015 có quy định: “1. Khi bên đề nghị có ấn

định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện

trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết

thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.”

Trong trường hợp gửi qua đường bưu điện thì bên đề nghị giao kết sẽ nhận

được chấp nhận giao kết chậm hơn so với ngày đã ấn định trong thỏa thuận tuy

66

nhiên theo dấu bưu điện thì vẫn hợp lệ. Đây là điểm quy định không thống nhất của

khoản 1 Điều 394 BLDS 2015, khi đồng thời quy định việc trả lời chấp nhận có

hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đã được ấn định – tức là khi trả lời chấp

nhận được gửi đi đã có hiệu lực lại vừa quy định bên đề nghị giao kết hợp đồng

nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì lời chấp nhận này được coi là đề

nghị mới của bên chậm trả lời – tức là trả lời chấp nhận đề nghị có hiệu lực và được

công nhận khi bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời trong thời hạn ấn

định.

- Quy định cụ thể đối với trường hợp trả lời có sửa đổi, bổ sung nhưng không

ảnh hưởng đến các nội dung trong đề nghị giao kết hợp đồng thì được coi là sự chấp

nhận, trừ khi bên đề nghị giao kết không đồng ý. Điều 19 Quy chế cho vay của

TCTD đối với khách hàng (do NHNN ban hành kèm theo Quyết định số

1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31//12-/2001) quy định những đối tượng không được

giao kết HĐTD với TCTD còn cứng nhắc. Trong nhiều trường hợp, cán bộ ngân

hàng, thành viên và người nhà thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm toán, Tổng

giám đốc… nếu có tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp và muốn

dùng những tài sản này để cầm cố, thế chấp tại chính ngân hàng mà họ đang trực

tiếp quản lý và công tác thì việc cho vay đối với những đối tượng này không có gì

mất an toàn, miễn là là họ không sử dụng vốn vay một cách phạm pháp. Hiện nay

pháp luật lại cấm TCTD giao kết HĐTD với những đối tượng này trong khi họ hoàn

toàn có khả năng trả nợ là điều bất hợp lý và không công bằng. Quy định này đã

loại bỏ một bộ phận không nhỏ những khách hàng tiềm năng của các TCTD.

Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong hợp đồng tín dụng

- Cần sớm loại bỏ quy định về quyền của khách hàng: Khách hàng được

quyền khiếu kiện TCTD từ chối cấp tín dụng mà không có căn cứ. Quy định này có

vẻ như vi phạm quyền tự do kinh doanh của các TCTD trong đó có quyền tự do

giao kết hợp đồng. Hợp đồng phải được thiết lập trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện,

tự do ý chí của các bên chủ thể, không bên nào chịu sự ép buộc của bên nào. Do đó,

nếu TCTD không muốn thiết lập quan hệ với khách hàng nào đó cũng là quyền của

67

TCTD thì họ có quyền từ chối mà không cần đưa ra lý do. Nhà nước không có

quyền can thiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế

như hiện nay thì quy định trên không phù hợp cần được loại bỏ.

- Cần bổ sung thêm quy định TCTD có quyền được chấm dứt hợp đồng trước

thời hạn trong trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ. Khả năng tài chính

đảm bảo trả nợ là một trong những căn cứ quan trọng để TCTD quyết định cho

khách hàng vay vốn, và đây cũng là căn cứ quan trọng nhất để TCTD có thể thu hồi

vốn vay. Mặc dù Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định khả năng tài chính của

khách hàng đảm bảo trả nợ trong suốt quá trình vay vốn là một trong những điều

kiện vay vốn nhưng lại không quy định về quyền của TCTD được chấm dứt hợp

đồng trước thời hạn nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng TCTD phát thiện khả

năng tài chính của khách hàng không có khả năng trả nợ. Ví dụ TCTD và khách

hàng thoả thuận cho vay theo hạn mức tín dụng và trả tiền lãi và gốc một lần vào

cuối kỳ. Nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng TCTD phát hiện khả năng tài chính

của khách hàng không có khả năng trả nợ và nếu trong hợp đồng không có thoả

thuận về nội dung này thì TCTD vẫn phải cấp tín dụng cho khách hàng mà không

có quyền chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Theo Khoản 1 Điều 21 Thông tư

29/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh

ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng chỉ quy định: “Tổ chức tín dụng có quyền

chấm dứt cho vay, thu hồi nợ trước hạn theo nội dung đã thỏa thuận khi phát hiện

khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm quy định trong thỏa thuận cho

vay và/hoặc hợp đồng bảo đảm tiền vay”. Do đó, pháp luật Việt Nam cũng cần bổ

sung quyền này cho các TCTD nhằm bảo đảm toàn vốn cho các TCTD.

- Cần quy định cụ thể hơn và giới hạn quyền kiểm tra, giám sát của TCTD

đối với khách hàng trong quá trình vay vốn. Nếu chỉ quy định một cách chung

chung như khoản 3 Điều 94 Luật các tổ chức tín dụng 2010 dễ dẫn đến trường hợp

các TCTD lợi dụng quyền kiểm tra, giám sát của mình gây khó khăn cho các doanh

nghiệp, làm lộ bí mật kinh doanh của các doanh nghiệp và như vậy sẽ trực tiếp ảnh

hưởng đến quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp.

Thứ tư, về thủ tục giải quyết tranh chấp

Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục giải quyết tranh chấp dân sự

68

rất rườm ra, nhiều thủ tục, gây tốn kém cả về thời gian lẫn tiền bạc cho các bên

tranh chấp. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín

dụng chủ yếu liên quan đến vi phạm nghĩa vụ trả nợ của khách hàng, tình tiết rõ

ràng. Vì vậy, pháp luật cần nghiên cứu bổ sung quy định áp dụng thủ tục rút gọn đối

với một số tranh chấp dân sự nói chung trong đó có tranh chấp phát sinh từ hợp

đồng tín dụng có tình tiết rõ ràng. Điều này không chỉ giải quyết được nhiều vụ án

dân sự còn tồn đọng mà đối với tổ chức tín dụng lại có khả năng thu hồi vốn nhanh,

giảm thiểu các thiệt hại.

Thứ năm, về thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

Tranh chấp hợp đồng tín dụng có nhiều yếu tố phức tạp. Mặt khác, thiệt hại

phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng là rất lớn, không chỉ gây thiệt hại cho các

bên chủ thể mà còn có những tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Thời hiệu khởi kiện

là một trong những vấn đề quan trọng mà các bên tham gia tố tụng buộc phải lưu

tâm vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền được khởi kiện của các bên khi xảy ra

tranh chấp. Đối với tranh chấp hợp đồng thì bên yêu cầu khởi kiện thông thường là

TCTD. Do đó, các tổ chức tín dụng nếu không lưu ý điều này rất có thể bị Tòa án

tuyên bố hết thời hạn khởi kiện, quyền lợi của TCTD không được bảo vệ do không

quan tâm đến thời hiệu khởi kiện, quyền lợi của các tổ chức tín dụng không được

pháp luật bảo vệ

Theo Điều 429 BLDS 2015 thì thời hiệu khởi kiện để Toà án giải quyết tranh

chấp hợp đồng là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết

quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Trên thực tế, để đảm bảo uy tín của các tổ chức tín dụng và khách hàng vay

cũng như để bảo vệ bí mật kinh doanh nên trong trường hợp khách hàng vi phạm

nghĩa vụ trả nợ, TCTD không tiến hành việc khởi kiện ngay mà thường gia hạn

hoặc thương lượng với khách hàng vay để khách hàng vay thực hiện trả nợ. Tuy

nhiên, khách hàng lại lợi dụng thời điểm này để kéo dài thời gian dẫn đến hết thời

hiệu khởi kiện, gây ảnh hưởng đến TCTD. Vì vậy, pháp luật hiện hành quy định

thời hiệu khởi kiện là 03 năm áp dụng cho tranh chấp phát sinh trong quá trình thực

69

hiện hợp đồng tín dụng là chưa hợp lý, cần được sửa đổi.

2.6. Giải pháp thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng từ thực

tiễn Ngân hàng OceanBank

Qua nghiên cứu thực trạng giao kết HĐTD tại OceanBank, tác giả nhận thấy

còn một vài điểm bất cập và xin đề xuất một số kiến nghị với mong muốn hoạt động

giao kết HĐTD tại đây ngày càng thuận lợi, thu hút được nhiều khách hàng mới và

đảm bảo an toàn cho ngân hàng khi thực hiện hoạt động mang tính rủi ro cao này.

Thứ nhất, trong giai đoạn hiện nay, với những vướng mắc khi áp dụng quy

trình cho vay theo NHNN quy định như đã trình bày ở trên OceanBank nên hạ mức

tối thiểu đối với các khoản vay của doanh nghiệp để thu hút thêm những khách

hàng. Hơn nữa, khi đồng tiền mất giá, không chỉ các doanh nghiệp vay số vốn 10 tỷ

đồng có thể không trả được nợ mà những doanh nghiệp có số vốn vay thấp hơn

cũng có nguy cơ đó. Vì vậy, để đảm bảo an toàn hoạt động cho ngân hàng, vai trò

của cán bộ quản lý rủi ro được đào tạo nghiệp vụ phát hiện và xử lý rủi ro trong quá

trình giao kết HĐTD là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Thứ hai, một trong những yếu tổ làm nên chất lượng tín dụng đó là công tác

thẩm định. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, công tác thẩm định còn nhiều yếu kém,

thiếu sót vì những nguyên nhân cả chủ quan và khách quan. Đây chính là nguyên

nhân dẫn đến tỷ lệ nợ xấu tín dụng ở Việt Nam chiếm tỷ lệ cao.

Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang có diễn biến phức tạp kéo theo các

cuộc khủng hoảng tín dụng ít nhiều ảnh hưởng đến tín dụng ngân hàng Việt Nam. Ở

Việt Nam, các ngân hàng cho vay đầu tư vào thị trường bất động sản chiếm tỷ trọng

tương đối lớn trong tổng dư nợ cho vay các các ngân hàng. Trong khi đó, việc cho

vay đầu tư vào thị trường bất động sản đây có rất nhiều biến động khó lường. Vì

vậy, OceanBank cần chú trọng hơn nữa đến chất lượng công tác thẩm định dự án.

Mặt khác, hiện nay pháp luật hiện hành còn cho phép các tổ chức tín dụng

cấp tín dụng cho khách hàng không có bảo đảm bằng tài sản hoặc cho vay với giá trị

tài sản thấp hơn số tiền vay. Đây là một trong những quy định mang tính thông

thoáng của pháp luật Việt Nam, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá

70

nhân được tiếp cận vốn ngân hàng một cách dễ dàng. Tuy nhiên, trái lại các quy

định này có thể dẫn đến việc các tổ chức tín dụng sẽ cho vay bừa bãi, không đảm

bảo chất lượng tín dụng hoặc không theo các quy định mà tổ chức tín dụng đặt ra.

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các tổ chức nước ngoài

được hoạt động tại Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau như: văn phòng đại

diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh hoặc ngân hàng 100%

vốn nước ngoài. Với các ngân hàng nước ngoài có tiềm lực về tài chính và năng lực

chuyên môn cao, nếu các ngân hàng trong nước không nâng cao năng lực cạnh

tranh, đổi mới phương pháp hoạt động thì rất khó có thể tồn tại.

Do đó, một trong những yêu cầu cần thiết là các ngân hàng phải tuân thủ

nghiêm ngặt nguyên tắc tín dụng, kiểm soát chặt chẽ công tác thẩm định dự án

nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Các tổ chức tín dụng chỉ được phép cho vay khi

khách hàng có dự án kinh doanh, dịch vụ đời sống khả thi, mục đích sử dụng vốn

vay có hiệu quả, có khả năng tài chính đảm bảo thời hạn trả nợ.

Thứ ba, quá trình sử dụng vốn vay tại OceanBank khá chặt chẽ. Tuy nhiên,

không thể tránh khỏi nhiều lý do khiến khách hàng không trả nợ đủ và đúng hạn,

nhất là trong giai đoạn nhiều doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ thua lỗ, khiến

việc vi phạm các quy định về giao kết HĐTD rất dễ xảy ra. Nếu vẫn giải quyết vi

phạm hợp đồng theo hướng thương lượng như hiện nay thì tình trạng nợ kéo dài sẽ

gây ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng. Do đó, trong những trường hợp cần thiết,

OceanBank có thể siết chặt hơn trong việc xử lý nợ quá hạn để đảm bảo thu hồi nợ,

có thể xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận tại HĐTD hay khởi kiện ta trọng tài

hoặc Tòa án.

Thứ tư, OceanBank cần có những cán bộ chuyên sâu về pháp luật để bảo vệ

ngân hàng trong trường hợp thẩm định tính pháp lý của hồ sơ vay hay trong trường

hợp các bên khởi kiện tranh chấp HĐTD hoặc bất kỳ trường hợp nào đó liên quan

đến pháp luật. Những cán bộ được đào tạo chuyên sâu về pháp luật sẽ có cái nhìn

tổng quát và xử lý nhanh chóng, hợp lý theo quy định của pháp luật hơn những cán

bộ được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ ngân hàng hay kinh tế.

Một trong các yếu tố quyết định chất lượng tín dụng là chất lượng các cán bộ

71

làm công tác ngân hàng. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng

không chỉ cạnh tranh về khả năng tài chính mà còn ở trình độ chuyên môn nghiệp

vụ. Do vậy, để thành công tại nước nhà, một trong những yêu cầu đặt ra đối với các

ngân hàng thương mại trong nước là nâng cao chất lượng cán bộ ngân hàng, nâng

cao năng lực chuyên môn và giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, để nâng cao

chất lượng cán bộ ngân hàng, cần thiết phải xây dựng một bộ quy tắc chuẩn về chức

danh các công việc ngân hàng, tiêu chuẩn nghề nghiệp ngân hàng tương đương với

tiêu chuẩn của các nước tiên tiến trong khu vực. Bên cạnh đó, đào tạo, bồi dưỡng,

cập nhật kiến thức kinh doanh cơ bản cho cán bộ hiện có nhằm đáp ứng yêu cầu

ngày càng phức tạp và chịu áp lực cạnh tranh ngày càng cao của môi trường kinh

doanh. Chú trọng việc đào tạo kỹ năng mềm, kỹ năng quản lý cho cán bộ quản lý

cấp trung và cấp cao nhằm tạo sự đột phá về tư duy và kỹ năng quản lý, tạo tiền đề

cho việc triển khai các kế hoạch cải cách và chấp nhận sự thay đổi ở các cấp điều

hành và cấp thực hiện. Ngoài ra cần có kế hoạch, chiến lược đẩy mạnh đào tạo nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực ngành tài chính, nâng cao tính chuyên nghiệp trong

các hoạt động kinh doanh, không ngừng kiểm tra, giám sát chặt chẽ và xử lý nghiêm

minh những hành vi vi phạm.

Thứ năm, các Đơn vị kinh doanh tại OceanBank thời điểm hiện tại đều đang

được áp dùng KPI đối với từng công việc cụ thể như thời gian trình hồ sơ, thời gian

soạn thảo hợp đồng… nên với những trường hơp khách hàng không thống nhất với

mẫu hợp đồng mà Đơn vị kinh doanh đã soạn thảo, Đơn vị kinh doanh muốn chỉnh

sửa nội dung điều khoản, phải thực hiện chuyển thư công tác đến Phòng Vận hành

tín dụng thuộc Trụ sở chính, sau đó Phòng Vận hành tín dụng có thư công tác

chuyển sang Phòng Pháp chế để trao đổi về nội dung thay đổi của Hợp đồng. Sau

khi có sự đồng ý nhất trí/ hoặc không đồng ý của Phòng Pháp Chế, Phòng Vận hành

tín dụng sẽ trao đổi lại ý kiến với Đơn vị kinh doanh, để Đơn vị kinh doanh tiếp tục

thực hiện trao đổi với khách hàng. Việc thay đổi nội dung hợp đồng Barcode đang

gây ra việc mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến chỉ số KPI của Đơn vị, vì thế giải

pháp đề xuất cho vấn đề này là cho phép Đơn vị kinh doanh trao đổi thẳng với

72

Phòng Pháp chế trực thuộc Trụ sở chính về việc thay đổi nội dung điều khoản hợp

đồng, mà không cần thông qua Phòng vận hành tín dụng, nhằm bớt một khâu trong

quá trình vận hành, tăng tính chủ động cho Đơn vị.

Thứ sáu, hiện tại, OceanBank vừa đưa vào triển khai sản phẩm gia tăng giá

trị tiền gửi đối với khách hàng tổ chức tại OceanBank, mẫu hợp đồng Barcode đối

với sản phẩm này do Khối Khách hàng Doanh nghiệp (là Đơn vị ngành dọc quản lý

về khách hàng doanh nghiệp đối với Đơn vị kinh doanh) tự soạn thảo, tự làm việc

với Trung tâm Công nghệ thông tin để thống nhất nội dung hợp đồng, và gửi xuống

cho các Đơn vị kinh doanh thực hiện triển khai. Điều này có thể tạo ra rủi ro cho

Đơn vị kinh doanh, vì nội dung của mẫu hợp đồng không được thông qua và thống

nhất tại Phòng Pháp chế. Vì vậy, để nâng cao tính chặt chẽ, chính xác, với độ rủi ro

ở mức thấp nhát trong các nội dung, điều khoản của hợp đồng cần đưa mẫu hợp

đồng barcode của sản phẩm này thêm các nội dung ý kiến của Phòng Pháp chế

Ngân hàng Đại Dương.

Trên đây là một số giải pháp của tác giả góp phần hoàn thiện hơn các quy

định của pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng trong điều kiện hội nhập kinh tế

73

quốc tế.

KẾT LUẬN

Ở Việt Nam, khi mà thị trường chứng khoán còn đang trong giai đoạn đầu

của quá trình phát triển thì hoạt động tín dụng là lĩnh vực huy động vốn chủ yếu của

nền kinh tế. Hoạt động tín dụng, trong đó chủ yếu là hoạt động cho vay giữ vai trò

quan trọng, cung cấp một lượng vốn lớn cho nền kinh tế, đồng thời là một trong

những công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, hạn chế lạm phát, thúc đẩy

kinh tế phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng này, những năm qua, pháp luật

về hợp đồng tín dụng nói chung và pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng nói

riêng đã và đang được Nhà nước ta quan tâm và không ngừng hoàn thiện tạo ra một

môi trường pháp lý lành mạnh, trong đó quyền tự do kinh doanh của các tổ chức tín

dụng được tôn trọng, quyền được tiếp cận vốn của các thành phần kinh tế, tạo đà

cho hoạt động cho vay tiếp tục phát triển.

Một hợp đồng có thể coi là khởi đầu của một phi vụ kinh doanh và nó cũng

là yếu tố quyết định đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau này. Sở dĩ

như vậy là trong hợp đồng thể hiện sự cam kết, ràng buộc chặt chẽ về đối tượng hợp

đồng, quyền và nghĩa vụ mỗi bên. Trong cùng một thời điểm, doanh nghiệp thường

phải ký kết và thực hiện nhiều hợp đồng, do đó vấn đề thỏa thuận về nội dung trong

hợp đồng và việc thực hiện các nội dung đó đòi hỏi phải có sự sắp xếp và quản lý

một cách có hiệu quả. Trong lĩnh vực tài chính, liên quan đến nhiều con số, liên

quan đến tài sản, tôi thiết nghĩ rằng, hợp đồng càng phải chặt chẽ hơn nữa, càng

phải được chú trọng hơn nữa.

Trong thời gian công tác tại Ngân hàng Thương mại Trách nhiệm hữu hạn

Một thành viên Đại Dương - OceanBank, tôi đã được tiếp cận, tìm hiểu nhiều hồ sơ

cho vay, từ cá nhân đến doanh nghiệp, đặc biệt điều này đã giúp tôi có cái nhìn tổng

quan hơn về thực trạng pháp luật tại ngân hàng, cũng như hình dung rõ ràng hơn về

quy trình cho vay. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về giao kết hợp đồng tín dụng và

thực tiễn áp dụng tại một Công ty để đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần vào

việc hoàn thiện pháp luật và việc áp dụng pháp luật hợp đồng nói chung trong thời

gian gần đây: Ban hành những văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành các văn bản

74

luật đó để đảm bảo sự thống nhất giữa Bộ luật Dân sự 2015 và Luật các tổ chức tín

dụng 2010, Luật thương mại 2005 cũng như Thông tư 39/2016/TT-NHNN từ đó

hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tín dụng nói chung và giao kết hợp đồng tín dụng

nói riêng góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế và tạo điều kiện thuận

lợi cho đất nước hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao. Mặc dù đã cố gắng

nghiên cứu và tập hợp tài liệu, nhưng do kiến thức chưa được hoàn thiện nên các

khuyến nghị đưa ra chỉ mang tính gợi mở, mong Quý thầy cô đóng góp ý kiến để

75

luận văn của em được hoàn thiện.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lương Khải An, “Vận dụng quy định của pháp luật về lãi suất để giải

quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án”, Tạp chí Kiểm sát, số

12/2012.

2. Bộ luật Dân sự 2005

3. Bộ luật Dân sự 2015

4. Hoàng Quỳnh Chi, “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng tín dụng và thời

hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín dụng”, Tạp chí Kiểm sát,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 4/2002.

5. Nguyễn Thị Minh Chi, “Pháp luật về bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín

dụng – thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà

Nội.

6. Phạm Văn Đàm, “Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng và những vướng

mắc khi tín dụng hợp đồng bảo đảm”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà

nước và Pháp luật, số 24/2013.

7. Phạm Văn Đàm, “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện hợp đồng tín

dụng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 11/2011.

8. Phước Hà (2007), “Xếp hạng môi trường kinh doanh: Việt Nam đang lên

điểm”, Tạp chí Vietnamnet ngày 27/09/2007.

9. Trần Quốc Hùng (2008), “Suy thoái kinh tế Mỹ và Việt Nam”, Thời báo

kinh tế Sài Gòn ngày 1/2/2008, tr 15.

10. Luật Thương mại 2005

11. Luật các tổ chức tín dụng 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

12. Luật Doanh nghiệp 2014

13. Luật Giao dịch điện tử 2005

14. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (2003),

Pháp luật về Ngân hàng Trung ương và ngân hàng thương mại một số nước, Nxb

thế giới, Hà Nội

76

15. Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm

16. Nghị định 35/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 về giao dịch điện tử trong

hoạt động ngân hàng.

17. Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 về sửa đổi, bổ sung một số

điều của Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về

giao dịch bảo đảm.

18. Nghị định 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.

19. Nghị định 102/2017/NĐ-CP ngày 01/09/2017 về đăng ký biện pháp

bảo đảm

20.

21. Đinh Dũng Sỹ, “Bàn về chủ thể của luật dân sự qua quy định về bảo

hiểm tiền gửi của cá nhân ở các tổ chức tín dụng”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,

số 02/2005.

22. Chi Văn Thái (2007), “Bàn về quyền của chủ nợ của ngân hàng thương

mại”, Tạp chí ngân hàng, số 6/2007

23. Thông tư 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 về quy định các giới hạn,

tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng

nước ngoài.

24. Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động

cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.

25. Trần Thu Thủy (2003), Chế định bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng

– Thực trạng và giải pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

26. Trường Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa luật (2005), “Giáo trình luật

ngân hàng Việt Nam”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

27. Trường Đại học quốc gia Hà Nội (2005), “Giáo trình luật ngân hàng

Việt Nam”, Nxb công an nhân dân, Hà Nội.

28. Trường Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa luật (2006), “Các biện pháp

bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng”, Nxb tư pháp, Hà Nội.

29. Đinh Trung Tụng (2005), Bình luận những nội dung mới của Bộ luật dân

77

sự 2005, Nxb tư pháp, Hà Nội.

30. Trang web: thuvienphapluat.vn, tailieu.vn, bidv.com.vn,

kinhdoanh.vnexpress.vn, 123doc.org, ...

31. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (1998), “Chống các

78

giao kết trục lợi trong kinh doanh”, Công ty in tài chính, Hà Nội.