BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Bé Hằng
GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT – KHMER Ở
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
(1975 – 2000)
LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Bé Hằng
GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT – KHMER Ở
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
(1975 – 2000)
Chuyên ngành: Lịch Sử Việt Nam Mã số: 60 22 03 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VÕ XUÂN ĐÀN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu được
trích dẫn trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng. Công
trình nghiên cứu này chưa từng công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
1
Lê Thị Bé Hằng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Võ Xuân Đàn – người Thầy đã
tận tình hướng dẫn, khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Quí Thầy, Cô ở Khoa Lịch sử Trường Đại học Sư
Phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã dạy bảo tôi trong quá trình đào tạo Cao học để tôi
có được những kiến thức như ngày hôm nay, cụ thể là qua kết quả luận văn này.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu và Phòng sau Đại
học Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Ban giám đốc bảo tàng Văn
hóa dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh, Ban quản lý Thư viện Tổng hợp đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và làm luận văn.
Và tôi không quên gửi lời cảm ơn trước sự động viên từ phía gia đình, người thân,
bạn bè và đồng nghiệp.
Dù đã cố gắng rất nhiều để hoàn thành luận văn nhưng chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót, tôi kính mong Quí Thầy Cô và bạn bè góp ý.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013
Tác giả
2
Lê Thị Bé Hằng
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT CHỮ VIẾT TẮT CHỮ ĐẦY ĐỦ
1 PGS.TS Phó Giáo sư Tiến sĩ
2 LTBH Lê Thị Bé Hằng
3 Nxb Nhà xuất bản
4 BTVH Bảo tàng văn hóa
5 VHTTDL Văn hóa thể thao – du lịch
6 TTXVN Thông tấn Xã Việt Nam
7 VHNT Văn hóa Nghệ Thuật
Luận văn đã sử dụng 26 ảnh để minh họa cho công trình; trong đó có 03 ảnh của tác
3
giả khác, 11 ảnh sưu tầm từ một số báo và nguồn Internet.
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ 3
MỤC LỤC .................................................................................................................... 4
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 6
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ......................................................................................... 10
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu của đề tài ................................................................ 12
4. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................................... 13
5. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu ..................................................................... 13
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ....................................................... 14
7. Bố cục của đề tài............................................................................................................ 15
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM TỤ CƯ, CỘNG CƯ CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI KHMER Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THẾ KỈ XVII ĐẾN NAY .......................................... 16
1.1. Khái quát vài nét về yếu tố địa – lịch sử vùng đồng bằng sông Cửu Long thế kỉ XVII đến nay .................................................................................................................... 16
1.2. Khái quát về người Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long ............................ 18
1.2.1. Lịch sử tụ cư và sự hình thành tộc người .............................................................. 18
1.2.2. Đặc điểm cư trú, sản xuất và xã hội ...................................................................... 21
1.3. Khái quát về người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long ................................. 24
1.3.1. Lịch sử tụ cư .......................................................................................................... 25
1.3.2. Đặc điểm cư trú và cơ sở kinh tế của người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả vùng Nam Bộ nói chung ............................................................... 27
1.4. Đặc điểm của quá trình tụ cư và cộng cư của người Việtt và người Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long ...................................................................................... 30
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT – KHMER Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (1975 – 2000) ................................................. 34
2.1. Khái niệm “văn hóa” và “giao lưu văn hóa” ........................................................... 34
2.1.1. Khái niệm về “Văn hóa” ....................................................................................... 34
2.1.2. Khái niệm về “Giao lưu văn hóa” ......................................................................... 36
2.2. Quá trình giao lưu văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (1975 – 2000) ...................................................................................................................... 37
4
2.2.1. Những giá trị văn hóa Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long ........................ 37
2.2.2. Những giá trị văn hóa Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long ............................ 44
2.2.3. Những biểu hiện giao lưu của văn hóa vật chất Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (1975 – 2000) ........................................................................................ 50
2.2.4. Những biểu hiện giao lưu của văn hóa tinh thần Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (1975 – 2000) ........................................................................................ 59
2.2.5. Yếu tố dẫn đến giao lưu văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (1975 – 2000) .................................................................................................................. 65
CHƯƠNG 3:VAI TRÒ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA VIỆT – KHMER Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM ......................................................................... 81
3.1. Vai trò của cộng đồng người Khmer và người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long .................................................................................................................................... 81
3.2. Giá trị của văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đối với lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam ........................................................................................... 83
3.3. Phương hướng và giải pháp phát huy giá trị văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay ........................................................................ 88
3.3.1. Thực trạng việc phát huy giá trị văn hóa Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long từ sau năm 1975 đến nay ....................................................................................... 88
3.3.2. Phương hướng và giải pháp phát huy giá trị văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay ......................................................................... 93
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 115
5
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 125
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, Tổ Quốc Việt Nam được thống nhất về mặt
lãnh thổ. Nguyện vọng của nhân dân cả nước là sớm có một nhà nước chung, một cơ
quan quyền lực chung nhằm tạo cơ sở để hoàn thành thống nhất đất nước trên các
lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội sau khi trải qua hai cuộc chiến
tranh lớn trong lịch sử chống ngoại xâm đó là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Với
những khó khăn trong giai đoạn của năm 1975, bằng những công cuộc thực hiện
đường lối đổi mới toàn diện đến năm 2000, kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, giải
quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề xã hội, tạo điều kiện cho sư giao lưu, hợp tác
trong tất cả các lĩnh vực nhất là về lĩnh vực văn hóa (sự giao lưu đó đã được thể hiện
ngay từ thời kì sơ khai, hay kể cả thời kì chiến tranh và trong thời hòa bình sẽ càng
diễn ra mạnh mẽ hơn) giữa các vùng, miền trên lãnh thổ Việt Nam, cũng như giữa
Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Mỗi dân tộc ở nước ta đều có những giá trị
văn hóa đặc sắc, góp phần tạo nên nền văn hóa Việt Nam vừa thống nhất, vừa đa
dạng. Trong quá trình khai phá vùng đất mới – vùng đất màu mỡ ở đồng bằng sông
Cửu Long, chắc chắn có công sức của nhiều tộc người thuộc các ngữ hệ Nam Á, Nam
Đảo. Chính họ đã tạo nền tảng văn hóa cho chúng ta ngày nay, nhưng phải nói rằng
từ thế kỉ XVII trở lại đây, khi người Việt, người Khmer đoàn tụ trong một đại gia
đình Việt Nam thì việc phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa ở đồng bằng sông Cửu
Long mới được đẩy mạnh. Một đặc điểm nổi bật ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
xưa và nay là sự hỗn dung văn hóa với cơ cấu đa thành phần, tuy có ít nhiều tách biệt,
nhiều lớp lang, nhưng cuối cùng vẫn vươn tới sự thống nhất. Chính nhân dân các dân
tộc nơi đây đã đưa nền văn hóa truyền thống của người Việt hội nhập với văn hóa địa
phương, đồng thời cũng đã góp được nhiều thành tựu vào văn hóa chung của cả nước.
Lý do thứ nhất, các nhà khảo cổ học đã chứng minh vùng đồng bằng sông Cửu
6
Long và Đông Nam Bộ cách đây 2-3 nghìn năm đã có nền văn hóa Óc Eo cùng thời
với văn hóa Sa Huỳnh (Trung Bộ) và Đông Sơn (Bắc Bộ). Cư dân Óc Eo đã sáng tạo
ra một nền văn hóa rực rỡ nhất vào thế kỉ I đến thế kỉ VII tại đồng bằng sông Tiền,
sông Hậu. Người Khmer đến đồng bằng sông Cửu Long sớm nhất cũng chỉ từ thế kỉ
thứ VIII. Tiếp sau đó người Chăm, người Hoa, người Việt tiếp tục khai thác vùng đất
này. Như ở Đông Nam Bộ, vùng này chỉ thực sự được thuần hóa và thịnh vượng khi
người Việt tới, chung sức cùng với các dân tộc anh em khai khẩn và tạo dựng cuộc
sống mới. Văn hóa đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu được khắc họa bởi sắc thái
văn hóa các tộc người đến đây mở đất như Chăm, Khmer, Việt, Hoa. Trong đó văn
hóa Việt đóng vai trò chủ đạo đối với quá trình thuần hóa và tạo nên sự phong hóa, sự
kết nối, giao lưu và tiếp biến văn hóa, cũng như điều kiện tự nhiên – sinh thái, đã và
đang định hình các tiểu vùng văn hóa ở khu vực này.
Lý do thứ hai, tìm hiểu về những giá trị văn hóa ở vùng sông nước – mà điển
hình là vùng đồng bằng sông Cửu Long, đây là vùng đất mới, là đồng bằng rộng lớn
nhất ở Việt Nam, cũng là một trong số các đồng bằng rộng lớn trên thế giới. Đồng
bằng sông Cửu Long vốn là vùng sản xuất lương thực, nông sản hàng hóa, nông sản
xuất khẩu quan trọng nhất của nước ta. Theo dòng lịch sử và chiều dài đất nước Việt
Nam, đồng bằng sông Cửu Long là nơi hội tụ, nơi dừng chân của những dòng chảy
văn hóa, cùng với đó là những giá trị văn hóa cũng được kết tinh, lắng đọng. Đóng
góp vào các tầng văn hóa vùng đồng bằng “sông nước miệt vườn” này không thể
không nói tới lát cắt văn hóa độc đáo, phong phú, giàu bản sắc của người Việt cũng
như cộng đồng người Khmer nơi đây.
Lý do thứ ba, sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trên vùng đất mới Nam Bộ
nói chung cũng như sự giao lưu giá trị văn hóa của người Khmer và người Việt
(người Kinh) ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, có thể diễn ra ở mọi khía
cạnh đời sống văn hóa – xã hội, chính trị, tôn giáo, tín ngưỡng, đạo đức…và đều đi
liền với quan hệ tình cảm cộng đồng. Một điều mà chúng ta đã nhìn nhận rõ, trong
không gian văn hoá vùng đồng bằng sông Cửu Long là phần mở rộng của không gian
7
văn hoá Nam Bộ nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung, ở vùng đất mới này ngoài
sự chung tay khai phá với người Việt còn có các tộc người bản địa và các tộc người
di dân. Vì vậy, trên vùng đất này, ngay từ đầu văn hoá của cư dân Việt, mà trong đó
đã có sẵn yếu tố Chăm, đã giao lưu mật thiết với văn hoá của các cư dân Khmer,
Hoa...
Lý do thứ tư, trong thời cận đại và hiện đại, suốt một thời gian dài vùng đất này
lại chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp rồi tiếp đó là văn hoá Mỹ. Vì vậy, Nam Bộ nói
chung cũng như vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng là một vùng đất mà giao
lưu, tiếp biến văn hoá đã và đang diễn ra với tốc độ rất nhanh. Hệ quả là hầu như
không có hiện tượng văn hoá nào ở nơi đây còn nguyên chất thuần Việt mà luôn có
bóng dáng của những nền văn hoá khác. Cho nên, có thể nói, giao lưu văn hoá chính
là một trong những bản sắc của văn hoá đồng bằng sông Cửu Long. Nó khiến cho văn
hoá Nam Bộ vừa tương đồng, lại vừa khác biệt với cội nguồn của nó là văn hoá Việt
ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Tuy nhiên, trong quá trình giao lưu văn hoá, cư
dân Việt hay cộng đồng Khmer nơi đây đã không tiếp thu trọn gói các nền văn hoá
khác mà chỉ những yếu tố đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần để bổ sung vào
hành trang văn hoá mang theo. Vì vậy, các yếu tố văn hoá nơi đây không tự đánh mất
mình mà chỉ tái tạo các giá trị văn hoá mà vùng đất này thu nạp được theo hướng làm
cho nó thích ứng với nhu cầu của cộng đồng người Việt cũng như người Khmer, sự
tái tạo các giá trị văn hoá đó cũng là một bản sắc của văn hoá nơi đây. Bên cạnh sự
tiếp biến văn hoá đó đã làm cho Nam Bộ mang rõ đặc trưng văn hóa của vùng đồng
bằng sông nước. Hai đặc trưng văn hoá chủ đạo này của vùng đất Nam Bộ đã buộc tất
cả các nền văn hoá sinh tụ nơi đây đều phải tự cấu trúc lại, lược bỏ những giá trị
không còn phù hợp với môi trường mới, phát triển hoặc sáng tạo những giá trị mới
giúp con người có thể tồn tại và phát triển, đan xen những tộc người khác biệt nhau
về văn hoá.
Lý do thứ năm, những giá trị văn hóa phản ánh sức sống và khả năng sáng tạo,
8
tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển văn hóa dân tộc Khmer, dân tộc Việt cũng như
những dân tộc khác trên lãnh thổ Việt Nam; đồng thời là yếu tố để đồng bào có thể
thích ứng, đi lên trong sự giao thoa với các dân tộc khác trong vùng và cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Văn hóa một cộng đồng, một dân tộc, một quốc gia với tư cách là
một bộ phận của văn hóa thế giới phải tự hoàn thiện trên nền tảng bản sắc riêng. Tất
cả các dân tộc trên đất nước Việt Nam đã cùng đóng góp vào vốn văn hóa truyền
thống của mình, phát triển thêm vào truyền thống văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu tìm hiểu tác động sự giao thoa của các giá trị văn hóa là thiết thực và
quan trọng trong xu thế giao lưu, ngoại giao văn hóa của dân tộc hay văn hóa của thế
giới hiện nay, nhất là trong thời kì đất nước ta ngày càng hội nhập quốc tế. Mặc khác
việc phát triển, tôn tạo giữ gìn những bản sắc văn hóa riêng của từng dân tộc là vô
cùng cần thiết. Bởi từ những nét văn hóa riêng của các cộng đồng sẽ tạo thành những
bản sắc văn hóa chung của đất nước Việt Nam. Sự giao lưu văn hóa để tạo ra những
nền văn hóa mới tiến bộ hơn, hòa hợp hơn giúp gắn kết các cộng đồng dân tộc lại với
nhau nhiều hơn thúc đẩy tinh thần đoàn kết sâu rộng hơn.
Lý do thứ sáu, do tính chất và tầm quan trọng của vấn đề tộc người thiểu số ở Việt
Nam, nên đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố trong những năm qua. Các
công trình nghiên cứu đã đề cập đến tất cả các khía cạnh có liên quan đến các tộc người
thiểu số đang sinh sống trên lãnh thổ nước ta (từ lịch sử tộc người, những đặc trưng văn
hóa, những phong tục tập quán đến những đóng góp của các tộc người vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cũng như xu hướng phát triển của các tộc người
thiểu số trong điều kiện cụ thể hiện nay). Đồng thời, các công trình nghiên cứu cũng chỉ
ra những khó khăn, những hạn chế cần được khắc phục để các tộc người thiểu số có thể
xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc trong cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam.
Vấn đề phát triển và phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế là một trong những vấn đề nóng bỏng, mà các nhà hoạch định chính sách,
các nhà khoa học đang tìm lời giải. Các nước, nhất là những nước đang phát triển có
xuất phát điểm thấp như Việt Nam, tuy có kinh nghiệm của các nước đi trước, nhưng
không phải mô hình nào cũng có thể vận dụng được. Trên bình diện cả nước, vấn đề
phát triển và phát triển bền vững như là những thách đố, mà dân tộc Việt Nam đang nỗ 9
lực để có thể vượt qua. Còn các tộc người thiểu số, ngoài những đặc điểm chung của
một nước đang phát triển như Việt Nam, liệu còn có vấn đề gì mang tính đặc thù cần
được quan tâm nghiên cứu, để các tộc người thiểu số có thể phát triển và phát triển bền
vững trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Càng nghiên cứu sâu vào những giá trị văn hóa của cộng đồng người Việt và
người Khmer trên vùng đất mới – đồng bằng sông Cửu Long, cũng như sự tiếp biến
giao lưu văn hóa của hai tộc người này, càng cho ta thấy được những nét riêng biệt về
bản sắc văn hóa “sông nước miệt vườn” so với các vùng văn hóa khác, ít nhiều đã
góp phần làm phong phú thêm nền lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam, vừa mang
tính nhân văn vừa mang tính xã hội sâu sắc và đó cũng là một trong những hướng
phát triển du lịch Việt Nam đưa văn hoá Việt Nam ra bên ngoài mà ta đã thấy. Và với
những lý do trên, nên tác giả chọn và muốn đi sâu tìm hiểu về “Giao lưu văn hóa
Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (1975 - 2000)” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu có liên đến vùng đất
mới Nam Bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng như: “Gia Định
thành thông chí” (của Trịnh Hoài Đức, 1972); “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ”
(NXB Tp. HCM, 1987) trình bày tiến trình nhân dân ta khai khẩn và mở mang vùng
đất Nam Bộ từ đầu thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XX.
Đồng thời cũng có nhiều công trình chuyên khảo, nghiên cứu về đặc trưng văn
hóa của các tộc người ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có liên quan đến đề tài như:
“Mấy vấn đề văn hóa đồng bằng sông Cửu Long” của Viện Văn hóa (1984), tác phẩm
tổng hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu về vấn đề dân cư và dân tộc của tác
giả Mạc Đường, thực tế ngôn ngữ tại đồng bằng sông Cửu Long – một đặc trưng văn
hóa của vùng của tác giả Hồ Lê, ngoài ra còn có bài viết của Nguyễn Phúc về hướng
tiếp cận con người và vốn văn hóa - văn nghệ truyền thống của nhân dân đồng bằng
10
sông Cửu Long, trong đó tác giả Ros KuLap có bài viết về văn hóa – văn nghệ truyền
thống của người Khmer; Dân ca nhạc cổ của người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long
của Thụy Loan. “Văn hóa Khmer Nam Bộ - Nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt
Nam” (NXB Chính trị quốc gia - Sự Thật, 2011), giới thiệu về những nét văn hóa đặc
trưng của người Khmer Nam Bộ (gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần);
“Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ” (NXB Tổng hợp Hậu Giang, 1988),
gồm một số bản báo cáo, tham luận chọn lọc của Hội nghị Khoa học về văn hóa
truyền thống và dân gian đồng bằng sông Cửu Long năm 1983 đề cập đến đặc điểm
văn hóa Khmer và một số bài viết khác có liên quan đến lịch sử tụ cư, cơ sở kinh tế -
xã hội, cũng như sự giao lưu văn hóa và một số loại hình văn hóa - văn nghệ; “Các
tộc người ở Việt Nam” (NXB Thời đại, 2012) đã nêu ra những yếu tố văn hóa vật thể
và văn hóa tinh thần chủ yếu của các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam một cách khái
quát, riêng ở vùng Nam Bộ tập trung vào bốn tộc người Việt, Khmer, Hoa, Chăm;
“Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ Việt Nam (từ thế kỉ XVII – 1975)
(NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000) đã góp phần tìm hiểu tiến trình phát triển của
lịch sử Phật giáo tại vùng đất mới, vai trò của đạo Phật trong đời sống văn hóa – xã
hội của người Việt tại nơi đây; “Văn hóa vật chất của người Việt” (NXB Hà Nội,
2011); “Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ” (NXB KHXH, Hà Nội, 1992); Lễ
hội văn hóa dân gian của người Việt ở Nam Bộ” (NXB VHTT, 2003); Đạo Tứ ân
hiếu nghĩa của người Việt ở Nam Bộ (1867 – 1975) (NXB Trẻ Tp. HCM, 1999)…
Nhiều công trình về mặt lý luận và phương pháp luận giúp nghiên cứu giao lưu
văn hóa như: “Giao thoa văn hóa và chính sách ngoại giao văn hóa Việt Nam” (NXB
Chính trị Quốc Gia Hà Nội, 2012); “Mấy vấn đề văn hóa cần nghiên cứu” của Trần
Đệ; “Văn hóa, truyền thống và cách tân” của Đinh Gia Khánh; “ Giao tiếp văn hóa và
vai trò của nó đối với qui luật đổi mới cái “truyền thống” trong văn hóa các dân tộc ở
Việt Nam và Đông Nam Á” của Ngô Đức Thịnh; “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của
Trần Ngọc Thêm v.v…
Tóm lại, hầu hết các công trình nghiên cứu văn hóa đồng bằng sông Cửu Long trong
giai đoạn từ thế kỉ XVII đến nay khá phong phú và có thể kế thừa trong việc nghiên
cứu. Nhìn chung giá trị khoa học của các tài liệu có mức độ khác nhau về mặt tư liệu 11
cũng như phương pháp. Tác giả luận văn có kế thừa những kết quả nghiên cứu trên
sự phân tích, thẩm định của bản thân qua nghiên cứu thực tiễn. Phần lớn tài liệu được
sử dụng trong luận văn này là kết quả thu thập, nghiên cứu của tác giả sau các đợt
điền giã ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mà một phần đã được công bố trong các
công trình nghiên cứu về văn hóa của các dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài chủ yếu tìm hiểu trong phạm vi vùng đồng bằng sông Cửu Long, giới
hạn trong khoảng thời gian từ 1975 đến năm 2000. Vì vùng này là nơi tụ cư lâu đời
của đông đảo cộng đồng người Việt cũng như người Khmer, bên cạnh đó với việc tìm
hiểu văn hóa Việt – Khmer từ năm 1975 - 2000, đây là giai đoạn có những dấu ấn
cũng như những biểu hiện rất rõ nét trong sự giao lưu văn hóa, góp phần làm phong
phú thêm lịch sử văn hóa Việt Nam.
Đề tài luận văn tìm hiểu một số vấn đề lý luận về giao lưu văn hóa, trong phần
này tác giả sẽ nêu một số khái niệm liên quan về giao lưu văn hóa như: khái niệm văn
hóa, giao lưu văn hóa, giao lưu tiếp biến văn hóa. Để thấy được, giao lưu văn hóa
luôn có tính qui luật, là một tất yếu trong sự phát triển văn hóa dân tộc, là hiện tượng
phổ biến của lịch sử văn hóa nhân loại.
Đề tài nghiên cứu vào các khía cạnh về những biểu hiện của sự giao lưu văn
hóa từ lịch sử tụ cư và cộng cư cũng như đặc điểm cư trú, cơ sở kinh tế - xã hội của
hai tộc người Việt và Khmer, đồng thời đi sâu tìm hiểu và làm sáng tỏ về nét văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần của hai tộc người này. Qua đó, so sánh, đối chiếu những
đặc trưng văn hóa tìm ra những nét tương đồng về giao lưu văn hóa người Việt –
Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, việc phát huy tính thống nhất và tính đa dạng là hai yêu cầu bắt buộc
trong sự phát triển của nền văn hóa nước ta. Tính đa dạng yêu cầu phải bảo tồn, khai
thác và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc, tôn trọng những
sắc thái riêng trong văn hóa các dân tộc. Nhưng tính đa dạng phải được đặt trong mối
12
quan hệ với tính thống nhất, tính thống nhất được thể hiện ở những giá trị chung giữa
các dân tộc trong cả nước cũng như khu vực, những giá trị đó được hình thành từ
hoạt động giao lưu văn hóa trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước của cộng
đồng các dân tộc, phản ánh truyền thống đoàn kết và có vai trò quan trọng tạo nên sự
gắn bó, “kết dính” giữa các cộng đồng dân tộc thành một khối thống nhất trong toàn
lãnh thổ. Vì vậy, đề tài cũng nêu ra những vai trò của văn hóa Việt và văn hóa Khmer
đối với lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam, qua đó đưa ra những phương hướng, giải
pháp cũng như những kiến nghị để phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc, nhất là việc bảo tồn bản sắc văn hóa của dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt
Nam nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: giới hạn nghiên cứu trong phạm vi văn hóa
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đôi khi tác giả cũng nghiên cứu một số nơi khác
ở Nam Bộ để so sánh.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: giới hạn nghiên cứu trong phạm vi văn hóa
thời gian từ năm 1975 đến năm 2000. Tuy nhiên, tác giả cũng nghiên cứu thời gian
trước năm 1975 và giai đoạn hiện nay để so sánh.
5. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Nhận thức được những điều trên và để giải quyết các vấn đề đặt ra, luận văn sử
dụng những phương pháp sau: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp
thống kê, phương pháp quan sát. Ngoài ra trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tác
giả còn vận dụng nhiều phương pháp khác như: phương pháp thu thập và xử lý dữ
liệu, phương pháp so sánh, đối chiếu… các nội dung tham khảo với các tài liệu có
liên quan đến đề tài. Bên cạnh đó, với nội dung trình bày trong đề tài, ít nhiều cũng
sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành như văn hóa học liên ngành với nhân
học, xã hội học, dân tộc học…đồng thời, tác giả cũng đã tìm hiểu và vận dụng khai
13
thác đối chiếu trong một số khái niệm để làm rõ nội dung đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long là một trong 54 dân tộc ở
nước ta, có nền văn hóa đặc sắc, thể hiện trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt văn hóa
Khmer hòa quyện chặt chẽ với tôn giáo (Phật giáo tiểu thừa) và chính điều đó làm
ảnh hưởng sâu rộng tới toàn bộ đời sống (cả vật chất lẫn tinh thần). Người Khmer ở
đồng bằng sông Cửu Long đã có những đóng góp nhất định vào kho tàng văn hóa
chung của người Việt – Nam Bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng, những sắc thái được tiếp nhận làm phong phú thêm nét bản sắc văn hóa người
Việt. Đồng thời, người Khmer cũng tự tiếp nhận vào nền văn hóa truyền thống của
mình không ít yếu tố văn hóa của người Việt, từ cung cách ăn mặc, nhà ở đến tập
quán, lối sống…để tạo nên sự khác biệt giữa đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ với
người Khmer ở Campuchia, là dân tộc đã có mối quan hệ chủng tộc với họ, vốn sẵn
có những nét văn hóa chung lâu đời từ quan hệ chủng tộc.
Những giá trị văn hóa do dân tộc Khmer cũng như những giá trị văn hóa của
người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã sáng tạo ra trong quá trình lịch sử vô
cùng đa dạng và phong phú, bao gồm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể đã thể
hiện những bản sắc riêng trong mỗi nền văn hóa của mỗi dân tộc, những bản sắc văn
hóa riêng ấy được hòa quyện vào nhau tạo nên sư giao lưu, tiếp biến và giao lưu trên
cơ sở tiếp thu có chọn lọc, đã làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc. Những
giá trị văn hóa của người Việt và người Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long này
đã thể hiện được đặc điểm nền văn hóa của cư dân nông nghiệp, canh tác lúa nước cổ
truyền, in đậm nét riêng về dấu ấn Phật giáo trong mỗi cộng đồng dân tộc của mình,
thể hiện sự hòa nhập với nhau, vừa mang tính độc đáo riêng biệt vừa mang tính
phong phú đa dạng. Có thể nói, tính quần chúng rộng rãi, quyện chặt với tín ngưỡng
tôn giáo là giá trị văn hóa nổi bật của văn hóa Khmer vùng đồng bằng sông Cửu
Long, phản ánh sâu sắc đại đoàn kết của đồng bào.
Nghiên cứu về giao lưu văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu
14
Long từ năm 1975 đến năm 2000, ngoài việc có ý thức giữ gìn những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc, bản thân còn có thêm nhiều nhận thức mới về những nét
mới trong văn hóa của các dân tộc Việt Nam mà điển hình là ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long. Qua việc tìm hiểu nghiên cứu đề tài cũng giúp tôi có được vốn kiến thức
bao quát, bổ ích về lĩnh vực văn hóa dân tộc và ít nhiều giúp cho công tác giảng dạy ở
trường Phổ thông.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 chương.
Chương 1: Khái quát về lịch sử hình thành và đặc điểm tụ cư – cộng cư của
người Việt và người Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thế kỉ XVII đến nay.
Chương 2: Quá trình giao lưu văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long (1975 – 2000)
Chương 3: Vai trò và giải pháp phát huy giá trị văn hóa Việt – Khmer ở vùng
15
đồng bằng sông Cửu Long đối với lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC
ĐIỂM TỤ CƯ, CỘNG CƯ CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI KHMER
Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THẾ KỈ XVII ĐẾN NAY
1.1. Khái quát vài nét về yếu tố địa – lịch sử vùng đồng bằng sông Cửu Long thế
kỉ XVII đến nay
Về mặt địa lý – tự nhiên, đồng bằng sông Cửu Long nằm ở hạ lưu sông Mê
Công, phía Bắc giáp Campuchia, phía Đông giáp sông Vàm Cỏ, phía Nam giáp biển
Đông và phía Tây giáp vịnh Thái Lan.
Trong lịch sử hành chính trước thế kỉ XIX, đồng bằng sông Cửu Long được gọi là
“Nam Kì lục tỉnh” hoặc “các tỉnh miền Tây Nam Bộ”. Hiện nay, khu vực đồng bằng
sông Cửu Long bao gồm địa phận của một thành phố (Cần Thơ) và 12 tỉnh (Long An,
Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Hậu Giang, An Giang, Đồng Tháp, Kiên
Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau).
Nam Bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, là vùng đất
mới đối với lịch sử lâu đời của đất nước. Đó là vùng đất hoang vu, nhiều thú dữ, thiên
tai, hạn hán, lụt lội ở vùng nhiệt đới gió mùa, lại có nhiều cá sấu,…gây không ít khó
khăn cho cuộc sống. Tuy nhiên, bên cạnh mặt hoang vu, thú dữ và sự khắc nghiệt của
thiên nhiên, vùng đất Nam Bộ lại là vùng đất “cò bay thẳng cánh”, bát ngát ruộng
đồng màu mỡ, phì nhiêu. “Đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long, với hệ thống
kinh rạch chằng chịt được bồi đắp bởi phù sa sông Tiền, sông Hậu và phù sa của biển,
một vùng khí hậu ổn định, trong năm phân ra hai mùa mưa nắng rõ rệt, cảnh vật thơ
mộng lại vừa mang vẻ kỳ bí, hấp dẫn, lôi cuốn tâm hồn con người muốn khai phá, tìm
tòi, “mời gọi” cư dân từ các nơi đến sinh sống” [89, 12].
Tài nguyên thiên nhiên ở đồng bằng sông Cửu Long rất phong phú. Ngoài tài
nguyên về đất và nước, đồng bằng sông Cửu Long còn nhiều tài nguyên khoáng sản
như nguyên liệu hóa chất, phân bón, đá voi làm vật liệu xây dựng. Đáng chú ý là rừng
tự nhiên còn khoảng 260.000 ha, chiếm 6,8% diện tích đồng bằng sông Cửu Long,
16
trong đó chủ yếu là rừng ngập mặn khoảng 120.000 ha và rừng tràm khoảng 100.000
ha. Tài nguyên thủy sản cũng là thế mạnh của đồng bằng sông Cửu Long, được phân
bố theo ba vùng sinh tụ: vùng sông rạch và các khu vực ngập nước trong mùa mưa,
vùng cửa sông và vùng ven biển. Tài nguyên thủy sản dồi dào nhất ở đồng bằng sông
Cửu Long nằm ở vùng đặc quyền kinh tế biển. Đồng bằng sông Cửu Long có bờ biển
dài 743km, chiếm 22,5% chiều dài bờ biển cả nước, chạy từ biển Đông sang Vịnh
Thái Lan. Trữ lượng hải sản toàn vùng chiếm khoảng 40 - 50% trữ lượng hải sản của
cả nước. Tiềm năng mặt nước cho nuôi trồng thủy sản khoảng nửa triệu hecta. Ở đây
còn có nhiều loại nông sản phong phú, đa dạng, đặc biệt là các loại trái cây nhiệt đới
với nhiều chủng loại và sản lượng lớn.
Cư dân chủ yếu là người Việt (Kinh), Khmer, Hoa, Chăm, trong các dân tộc cư
trú ở đây, người Khmer là cư dân có mặt ở vùng đất này từ rất sớm. Và một điều
đáng quan tâm ở đây, từ sau những năm của thế kỉ XVII khi bộ phận người Việt,
người Hoa và tiếp đến là người Chăm đến vùng đồng bằng sông Cửu Long đã đoàn
kết với người Khmer, cùng nhau cải tạo vùng đất sình lầy, đầy thú dữ này dần dần trở
thành vùng đất đồng bằng màu mỡ, trù phú.
Trong quá trình đoàn kết cải tạo thiên nhiên ở vùng đồng bằng này từ lúc còn
hoang sơ đến khi trở thành một địa bàn sinh tụ hấp dẫn, các dân tộc nơi đây đã đồng
cảm với nhau và vun đắp một tình cảm chân thành ruột thịt không thể chia cắt, bởi
các dân tộc có chung một vận mệnh lịch sử, cùng chịu ảnh hưởng một môi trường
thiên nhiên và xã hội, hình thành nên một diện mạo văn hóa vùng cùng với các giá trị
truyền thống, mà nổi trội hơn cả là lòng yêu nước, tự hào dân tộc, ý thức cố kết cộng
đồng, ý chí tự lập, tự cường, cần cù, sáng tạo. Đó là những nét đẹp, giá trị văn hóa
của đồng bào các dân tộc đồng bằng sông Cửu Long nói chung, của dân tộc Việt cũng
như dân tộc Khmer nói riêng cần được giữ gìn và phát huy hơn nữa trong hiện tại và
tương lai.
Vốn là vùng đất giàu đẹp của Tổ Quốc Việt Nam, in đậm những dấu vết văn hóa
có từ lâu đời, liên tục từ thời tiền sử cho đến nay, nơi đã từng diễn ra những sự tiếp
xúc của nhiều lớp, nhiều tầng văn hóa vùng Đông Nam Á, nhưng với lịch sử nước ta
thì đó là vùng đất mới khai phá, vùng ngoại biên đã bị các thế lực phản động phong 17
kiến và đế quốc chia cắt nhiều lần. Và chỉ đến năm 1975, sau Đại thắng mùa Xuân,
khi chúng ta giải phóng miền Nam, vùng đất đồng bằng sông Cửu Long này mới thật
sự được sống lại trong độc lập và thống nhất, và một vận hội mới đã đến với đồng
bào dân tộc Việt, Khmer…nơi đây. Trong bối cảnh đất nước hòa bình, độc lập và
đang trên con đường giao lưu, hội nhập về văn hóa khi đất nước bước vào thế kỉ XXI
không chỉ dân tộc trong vùng mà còn giao lưu với các dân tộc anh em khác cũng như
trên thế giới để khẳng định những giá trị truyền thống tốt đẹp mà nhân dân sáng tạo,
làm phong phú thêm truyền thống văn hóa dân tộc, để đi vào con đường đổi mới
trong nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, triệt để khắc phục những hậu quả của chủ nghĩa
thực dân cũ và mới trên tất cả các lĩnh vực, mà trước hết là trên lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa.
1.2. Khái quát về người Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long là nơi tụ cư đông đảo của của người Khmer Việt
Nam, theo số liệu điều tra từ nguồn tuyên giáo tỉnh Sóc Trăng vào năm 1999 dân số
người Khmer có hơn một triệu người, chiếm tỷ lệ 6,4% dân số toàn vùng. Người
Khmer có mặt khá sớm ở Nam Bộ, nhiều ngôi chùa của người Khmer ở Trà Vinh,
Sóc Trăng được xây dựng từ bốn, năm thế kỷ về trước. Người Khmer là cư dân nông
nghiệp, hoạt động chủ yếu là trồng lúa nước và một ít loại hoa màu. Buổi đầu người
Khmer sống thành các phum, sóc (như các xóm, ấp của người Việt) trên các giồng
đất cao. Đó là các gò phù sa cổ, có nguồn nước ngọt, cao ráo, khí hậu thoáng mát,
tránh được nước ngập vào mùa lũ của sông Cửu Long. Người Khmer ở đồng bằng
sông Cửu Long có mối quan hệ về mặt lịch sử và văn hóa dân tộc khá mật thiết với
người Khmer ở Campuchia. Người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long là một dân
tộc ít người trong cộng đồng các dân tộc Việt, là công dân của nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
1.2.1. Lịch sử tụ cư và sự hình thành tộc người
Theo các tài liệu lịch sử đã được công bố, vào khoảng đầu công nguyên, vùng
18
đất Nam Bộ Việt Nam đã hình thành quốc gia có tên gọi Phù Nam. “Phù Nam là một
quốc gia ven biển mà trung tâm là vùng Nam Bộ Việt Nam ngày nay, cư dân chủ thể
là người Mã Lai – Đa Đảo có truyền thống hàng hải và thương nghiệp khá phát triển.
Trong thời kì hưng thịnh (từ thế kỉ I), Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng, chi phối toàn
bộ vùng vịnh Thái Lan và kiểm soát con đường giao thông huyết mạch từ nam Đông
Dương sang Ấn Độ qua eo Kra” [29, 13].
Thời kì hưng thịnh của Phù Nam, nơi đây đã hình thành và phát triển nền văn
hóa Óc Eo rực rỡ (từ thế kỉ II đến thế kỉ VIII), đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa
lịch sử trong công cuộc chinh phục đồng bằng sông Cửu Long. Sau thời kì phát triển
rực rỡ, đến thế kỉ VI, Phù Nam suy tàn. Vào đầu thế kỉ VII, Chân Lạp, vốn là một
thuộc quốc của Phù Nam đã đánh chiếm một phần lãnh thổ của Phù Nam (phần lãnh
thổ này tương ứng với Nam Bộ Việt Nam ngày nay).
Nước Chân Lạp do người Khmer xây dựng, lại nằm ở phía đông bắc Phù Nam,
nên có thể những nhóm tộc người Môn – Khmer cổ đã có mặt trên vùng đất giáp ranh
và sống xen kẽ với người Mã Lai – Đa Đảo. Lúc này “trong một số sách của Trung
Quốc đã xuất hiện tên gọi “Thủy Chân Lạp” để chỉ phần lãnh thổ của Phù Nam bị
Chân Lạp chiếm nhằm phân biệt với vùng đất “Lục Chân Lạp”, tức vùng đất gốc của
Chân Lạp” [29, 13]. Trong giai đoạn này, có nhiều vương quốc nhỏ vốn là thuộc quốc
của Phù Nam nổi lên thành những nước mạnh, tấn công vào những nước lân cận.
Trong số đó có Srivijaya của người Java, vào nửa sau thế kỉ VIII, quân đội nước
này đã liên tục tiến công vào các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Kết cục là Thủy
Chân Lạp bị quân Java chiếm. Cả vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào
Srivijaya. Cục diện này mãi đến năm 802 mới kết thúc. Trong vòng gần một thế kỉ,
vùng đất Nam Bộ đã nằm dưới quyền kiểm soát của người Java. Đến cuối thế kỉ VIII,
văn hóa Óc Eo cũng bắt đầu suy tàn và trong nhiều thế kỉ tiếp theo, vùng đồng bằng
sông Cửu Long trở nên hoang vu.
“Từ thế kỉ X trở đi do biển rút dần, những vùng ven biển nổi lên những giồng
đất, giồng cát màu mỡ, thu hút cư dân đến cư trú. Từ thế kỉ XII, những người nông
dân Khmer nghèo, trốn chạy sự bốc lột hà khắc, nạn lao dịch nặng nề của giai cấp
phong kiến và các triều đại Ăngco, đã tìm cách di cư đến vùng đồng bằng sông Cửu 19
Long. Từ thế kỉ XV, khi đế chế Ăngco sụp đổ, người dân thuộc đế chế này càng rơi
vào cảnh đói nghèo và bị đàn áp nặng nề bởi bọn phong kiến ngoại tộc, người Khmer
(kể cả quan lại, sư sãi và trí thức Khmer đương thời) đã tìm đến đồng bằng sông Cửu
Long này ngày một đông” [81, 12].
Về sự hình thành tộc người: Có nhiều người nói người Khmer là người có mặt
rất sớm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng người Khmer từ đâu đến và đến từ
bao giờ thì lại chưa được giải thích một cách khoa học. Và đó cũng là một trong
những vấn đề quan trọng cần được quan tâm, nghiên cứu, giải đáp.
Một thành tựu khoa học đã công bố trên tạp chí “Science et Vie” xuất bản ở Pháp
vào tháng 10 năm 1974, số 685, trang 84 – 87, để xác định nguồn gốc của tộc người
Khmer đồng bằng sông Cửu Long. Trong bài viết của mình, ông Pierre Rossion đã
giới thiệu thành tựu của khoa huyết chủng học, nghiên cứu về tính chất di truyền của
máu huyết. Nhờ đó mà giáo sư Ruffié đã khám phá ra lịch sử của những sắc dân còn
nằm trong nghi vấn phức tạp bởi thiếu cứ liệu, chứng tích lịch sử. Từ đó, ông thành
lập bản đồ chủng loại máu này. Bằng cách xác định sự phân phối và tỷ lệ của nó,
người ta đã tìm lại được những biên giới của đế quốc xa xưa để chiếm cứ Lào ở thế kỉ
XII, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai và hạ Miến Điện. Người ta ghi nhận rằng huyết cầu
này đã hiện diện ở miền Nam Việt Nam nhiều hơn ở miền Bắc Việt Nam. Chứng
minh khoa học này cho phép ta xác định “tộc người Khmer ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long gốc vốn là tộc người Văh Năh (Phù Nam) mà từ cuối thế kỉ VI trở đi đã bị
tộc người Chenla (Kampuchia hoặc Chân Lạp) thống trị và đồng hóa dần dần trong
vòng 12 thế kỉ (từ thế kỉ VII đến thế kỉ XVIII), và giờ đây, đương nhiên đã trở thành
một thành viên quan trọng trong cộng đồng Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”
[105, 20].
Đặc trưng chủng tộc dễ nhận biết ở người Khmer Nam Bộ là da có màu đen
xám. Tỷ lệ người có tóc quăn nhiều hơn người Kinh. Trong dòng tộc Khmer, có
những họ lớn như: Sơn, Kim, Thạch, Châu, Danh, Lâm…
Đồng bằng sông Cửu Long (miền Tây Nam Bộ) là nơi có đồng bào Khmer sinh
sống, họ cư trú tập trung tại các tỉnh: Hậu Giang, Kiên Giang, An Giang, Trà Vinh, 20
Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ..; ngoài ra còn một số ở các tỉnh Tây Ninh, Vĩnh
Long, Đồng Tháp, Thành phố Hồ Chí Minh. “Theo kết quả dân số năm 1979, thì tộc
người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long gồm khoảng 700.000 thành viên” [105,
14]. “Theo số liệu của cơ quan Đặc trách công tác dân tộc Nam Bộ, tính đến năm
1997, cả nước có khoảng 200.000 hộ, với tổng số dân là 1.066.250 người, riêng đồng
bằng sông Cửu Long có 1.046.368 người chiếm tỷ lệ 98%. Theo số liệu của Vụ địa
phương III - Ủy ban dân tộc, năm 2009, tổng số dân Khmer ở đồng bằng sông Cửu
Long là 1.162.695 người” [66, 7-8].
Trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, người Khmer định cư chủ yếu
trên 20 huyện, thị của 9 tỉnh, thành: Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Bạc
Liêu, Cà Mau, Vĩnh Long, Hậu Giang, Cần Thơ. Ở đồng bằng sông Cửu Long, người
Khmer sinh sống tập trung đông nhất (trên dưới 30% tổng số dân trên địa bàn) chủ
yếu là ở bốn khu vực: Sóc Trăng (Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên, Mỹ Tú, thị xã Sóc Trăng
(nay là thành phố Sóc Trăng), Long Phú), Trà Vinh (Trà Cú, Châu Thành, Cầu Kè),
An Giang (vùng biên giới hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên), Kiên Giang (Giồng Riềng,
Gò Quao). Vì vậy nói về người Khmer trong khái niệm dân tộc còn gắn thêm địa
danh vùng đất cư trú, thành một phổ niệm rộng “Người Khmer Nam Bộ”. “Khái niệm
“Người Khmer Nam Bộ” nói lên hai điều cơ bản: Một là, xét trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam, người Khmer Nam Bộ là dân tộc thiểu số, danh tộc “Khmer”, thuộc nhóm
chủng tộc “Môn - Khmer”, cùng nhóm chủng tộc với người Campuchia; Hai là, xét
trong cộng đồng miền của người Việt Nam, họ là người Nam Bộ” [66, 9].
1.2.2. Đặc điểm cư trú, sản xuất và xã hội
Địa bàn cư trú của đồng bào Khmer thường là vùng có điều kiện sinh thái khắc
nghiệt, vùng nông thôn nghèo và chậm phát triển. Trên những địa bàn cư trú của
người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long dọc theo miền duyên hải ở hai tỉnh Sóc
Trăng, Trà Vinh và trên tuyến đường biển, vùng cận biên giới thuộc các tỉnh biên giới
phía tây nam, vốn là những khu căn cứ địa cách mạng của Đảng ta trong hai cuộc
21
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Theo nhiều nguồn tài liệu lịch sử biết được, từ 200 – 300 năm trước Công
nguyên, người Khmer đồng bằng sông Cửu Long đã sống tập trung thành phum,
không còn du canh du cư. Họ đã có tiếng nói, sống trong những ngôi nhà nhỏ, lợp
bằng lá dừa nước, dùng búa để đốn gỗ, dùng đá mài cọ lửa, dùng hũ đựng lúa, dùng
chậu đựng nước và rượu.
Phum, sóc là những đơn vị cư trú trong tổ chức xã hội cổ truyền của đồng bào
dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long. Về mặt nhà nước, xã, ấp là những
đơn vị quản lý hành chính ở cơ sở, còn phum, sóc là những đơn vị xã hội cổ truyền,
ràng buộc nhau bởi các phong tục, lễ nghi mà ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt văn
hóa.
“Trong đời sống của các dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, phum
là đơn vị cư trú, bao gồm một số gia đình Khmer sống quây quần trong một khoảnh
đất nhất định, trên những dải đất cao (được gọi là những “giồng đất, giồng cát”).
Phum có từ thời Vương quốc Phù Nam còn lưu truyền cho đến bây giờ. Khi lập
phum, người dân thường chọn nơi đất tốt, cao ráo. Xung quanh phum thường trồng
tre gai (loài tre có gai) bao quanh thay cho việc làm tường bao để bảo vệ các gia đình
trong phum. Phum rộng còn dành một ít đất phía sau để cho mỗi hộ có thể trồng trọt
như rau, đậu… Ở Campuchia không có dạng phum như vậy, người ta cất nhà ở rải rác
khắp nơi. Nếu nơi nào có dạng phum như trên, chắc chắn là do người Khmer gốc
đồng bằng sông Cửu Long lên làm ăn sinh sống lập ra và dù cho ở đến bao nhiêu đời
thì họ vẫn giữ nề nếp tổ chức phum như thế” [80, 22]. “Việc quản lý phum do một
người lớn tuổi có uy tín trong đồng bào đảm nhận, bất kể là đàn ông hay đàn bà và
thường được gọi là “Mê Phum”. “Mê Phum” có trách nhiệm chăm lo công việc nội
bộ của phum và quan hệ với bên ngoài phum” [29, 20]. Quan hệ huyết thống và quan
hệ láng giềng là hai mối quan hệ cơ bản trong phum của người Khmer vùng đồng
bằng sông Cửu Long.
Ngoài ra, sóc của đồng bào Khmer cũng là một đơn vị cư trú, lớn hơn phum,
tương tự như các làng của người Việt. Các sóc thường trải dọc theo các giồng đất, có
khi mỗi giồng đất là một sóc, hoặc hai, ba sóc cùng nằm trên một giồng đất. Mỗi sóc 22
gồm nhiều phum với hơn hàng trăm nóc nhà và ít nhiều xen kẽ với gia đình người
Việt hay người Hoa. Và thông thường, mỗi sóc có một ngôi chùa hoặc những sóc lớn
có thể có hai ngôi chùa. Ngôi chùa là bộ mặt của phum, sóc nên được xây dựng rất
công phu, khang trang và thoáng mát. Việc quản lý sóc được giao cho ban quản trị
sóc, mà người đứng đầu được gọi là “Mê Sóc”.
Kể từ khi bước vào những năm đầu của thế kỉ XXI và cho đến hiện nay, cơ cấu
tổ chức quản lý hành chính của Nhà nước đã thay thế hệ thống quản lý xã hội cổ
truyền vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, nên các “Mê Sóc” và ban quản trị
sóc đã dần dần giảm đi, thậm chí mất hết vai trò hoặc trở thành những cán bộ của xã,
ấp vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, thiết chế xã hội cổ truyền
vẫn chi phối cuộc sống hàng ngày của người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long,
ngoài việc thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân bình thường, còn phải
thực hiện theo đúng các lễ nghi, phong tục, tập quán của dân tộc ở trong từng phum,
sóc.
Về căn bản, sinh hoạt sinh tế của người Khmer sống chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp. “Cùng với nghề làm ruộng rẫy trên những giồng đất cao mà từ lâu họ đã chọn
làm địa bàn cư trú, người Khmer còn biết khai thác những vùng trũng bao quanh để
trồng lúa nước từ rất sớm. Ngoài việc trồng lúa, trồng rẫy, người Khmer còn trồng
cây ăn trái như: dừa, chuối, …; nuôi thêm gia súc như: trâu, bò, ngựa để kéo cày, kéo
xe. Nếu ở gần sông rạch, người Khmer lợi dụng thủy triều lên mà đưa nước vào
ruộng, rồi đắp đập nhỏ giữ nước để rửa phèn cho ruộng. Đến kỳ hạn, khi sắp lên dòng
thì phá đập ra, xổ phèn, lại nhân thủy triều lên mà đặp lại một lần nữa để chứa nước
sông ăm ắp phù sa. Ở xa sông rạch, người Khmer đắp bờ thành ô để giữ nước mưa,
khi cần thì tát nước vào ô bằng gầu dai, gầu sông. Khi người Việt mới từ miền Trung
đặt chân đến vùng đồng bằng sông Cửu Long, họ chưa có sẵn trong tay những biện
pháp thủy lợi kể trên, đặc biệt là ý thức lợi dụng thủy triều để rửa phèn và đưa nước
vào ruộng. Đây là phát minh độc đáo của người Khmer xưa dựa trên cơ sở những
điều kiện địa lý cụ thể của đồng bằng sông Cửu Long. Người Khmer sống ven sông
hay ven biển còn làm nghề đánh cá, bắt tôm, gần rừng thì đốn củi, đốt than; một số 23
nơi làm nghề thủ công đan lát, dệt chiếu, dệt tơ lụa, làm đường thốt nốt)…” [29, 32].
Những nghề trên là nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, đời sống, có tính chất trao đổi
đáp ứng nhu cầu tự cung, tự cấp là chính chứ không có tính chất kinh doanh, buôn
bán. Một số vùng thạo việc ghe, thuyền – phương tiện đi lại, vận chuyển chính của
vùng sông nước. Các nhóm cư dân sống ở các đô thị thạo buôn bán, quan hệ mật thiết
với thương nhân người Việt, người Hoa.
Về mặt xã hội: Gia đình người Khmer là tiểu gia đình phụ quyền, những tàn dư
của chế độ mẫu hệ còn đậm nét, thể hiện ở việc một cá nhân không coi mình thuộc
hẳn bên cha hay bên mẹ, mà thuộc cả hai bên, không phân biệt bà con bên cha hay bà
con bên mẹ; đối xử như nhau với cả hai bên; trách nhiệm nuôi dưỡng bố mẹ già thuộc
cả con trai, con gái. Lễ cưới thường được tổ chức ở nhà gái, cư trú sau hôn nhân ở
bên vợ khá phổ biến.
“Xa xưa, người Khmer không có họ, mà lấy tên làm họ. Chẳng hạn, cha là Uôn,
con là Tean thì họ và tên của người con là Uôn Tean. Các nhà dân tộc học gọi hiện
tượng này là phụ tử liên doanh” [9, 229].
Do kinh tế tương đối phát triển, lại sống tiếp giáp với người Việt, Chăm, Hoa nên
xã hội Khmer đã phân hóa khá sâu sắc: 95% ruộng đất trong cộng đồng người Khmer
là tư hữu, chỉ có một số ruộng công của nhà chùa (trong số này phần lớn vốn là ruộng
tư hữu, do các cá nhân góp vào). Trước năm 1975, xã hội Khmer tồn tại hai giai cấp
cơ bản là địa chủ (chiếm 2 - 3% số hộ, nhưng lại chiếm đến 70,5% ruộng đất, bóc lột
bằng phát canh thu tô và cho vay nặng lãi) và nông dân; ngoài ra còn có tầng lớp phú
nông, dùng ruộng đất để thuê mướn người làm.
“Trong xã hội Khmer tầng lớp sư sãi khá đông đảo (trước giải phóng năm 1975
có đến gần 11.000 người)” [9, 230]. Các nhà sư, đặc biệt là sư cả được đặc biệt kính
trọng. Các nhà sư cũng chiếm số đông trong đội ngũ trí thức của người Khmer.
1.3. Khái quát về người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
Người Việt hiện nay là dân tộc chiếm đa số ở Đồng bằng sông Cửu Long. Số
24
liệu điều tra của ban Tuyên giáo tỉnh Sóc Trăng về dân tộc học và dân số ngày
01/4/1999, có 16.130.675 người Việt. Sau hơn ba thế kỷ khai khẩn vùng đồng bằng
sông Cửu Long, cộng đồng người Việt ngày thêm đông đúc, hiện diện hầu như khắp
đồng bằng cho đến biên giới, hải đảo. Làng xóm được lập khắp nơi, cùng với những
phố thị trung tâm thương mại - dịch vụ. Với những thành tựu kinh tế, chinh phục
thiên nhiên, cộng đồng cư dân người Việt còn tạo nên một đời sống văn hóa phong
phú vừa thống nhất trong cả nước, vừa có những nét riêng của Nam Bộ, cũng như
trong tổng số dân ở đồng bằng sông Cửu Long.
1.3.1. Lịch sử tụ cư
Chỉ trong các thế kỉ XVI, XVII, XVIII, người Việt từ vùng Thuận Hóa –
Quãng Nam lại di cư vào vùng đồng bằng sông Cửu Long. Mà điển hình là vào thế kỉ
XVII, những lưu dân người Việt từ vùng đất Thuận Quãng đến khẩn hoang và lập
những làng người Việt đầu tiên ở Nam Bộ. “Năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phúc
Nguyên gả con gái của mình là công chúa Ngọc Vạn cho Quốc vương Chân Lạp
Chey Chetta II. Dưới sự bảo hộ của Hoàng hậu người Việt, cư dân từ vùng Thuận
Quãng vào sinh sống, làm ăn ở lưu vực sông Đồng Nai ngày một đông thêm. Bên
cạnh những cuộc di dân đó, vào năm 1625, triều đình Ăngco đã phải chính thức chấp
nhận 40.000 hộ người Việt vào đồng bằng sông Cửu Long sinh sống. Đến 1765, toàn
địa phận Nam Việt ngày nay thuộc về chúa Nguyễn, người Chân Lạp bấy giờ chỉ còn
giữ đất Cao Man. Cuộc tranh chấp này kết thúc năm 1859, vào triều đại Âng Đuông ở
Campuchia” [80, 17].
Phần đông người Việt ở Nam Bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long
nói riêng vốn từ các tỉnh miền Trung, vì nhiều lí do vào khai phá vùng đất hoang vu,
theo công cuộc mở đất của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, nhằm tạo ra một tiềm lực lớn
về đất đai, kinh tế, đủ sức đối trọng lâu dài với nhà Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài. Khác
với khối người Việt ở Bắc Bộ vào khai phá miền Trung thường đi theo làng xã (nên
cơ cấu tổ chức làng miền Trung có nhiều nét giống làng Bắc Bộ, tên làng được đặt
theo tên làng ở miền Bắc), khối cư dân Việt vào khai phá Nam Bộ rộng lớn, trù phú,
25
song đầy hoang vu, khắc nghiệt, ở vùng đất mới này là những dân tứ xứ lưu vong
được các lưu quan, những người giàu có “nuôi thêm chí làm giàu”…chiêu tập. Họ đi
riêng rẽ, lẻ tẻ, nên không hình thành các khối cư dân mang tính cách riêng và thường
không giữ được các hoài niệm, các tục lệ của các làng quê gốc.
Trong cư dân chủ thể là người Việt sinh sống tại vùng đồng bằng sông Cửu
Long, những lưu dân người Việt này ngoài hành trang tôn giáo tín ngưỡng, còn mang
theo mình một “số phận đặc biệt”. Dù thuộc nhiều thành phần khác nhau nhưng chủ
yếu họ vẫn là những người nghèo khổ, phiêu tán. Họ vẫn là những nông dân đói
nghèo phải bỏ quê tha phương cầu thực, những người bị tội hay nhằm trốn tránh cảnh
“sưu cao thuế nặng”, do đó tâm lý bất mãn với cuộc sống hiện tại, tinh thần đấu tranh
với thiên nhiên và xã hội được hình thành mạnh mẽ. Điều này cũng là một trong
những nguyên nhân chủ yếu giải thích vì sao trong những giai đoạn lịch sử khác nhau
sau này, khi đã đến định cư và khai phá vùng đất mới, họ đã đấu tranh không ngừng
chống lại những áp bức, bốc lột của chính quyền và đặc biệt là tinh thần quyết sống
còn với kẻ thù xâm lược, bởi vì đất mới Nam Bộ là vùng đất mà họ đã đổ mồ hôi và
máu mới có được và điều này được thể hiện rõ trong hai cuộc đấu tranh chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Sự xuất hiện của người Việt tại vùng đất đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nên
một bước ngoặt quan trọng, họ đã làm cho vùng đất hoang vu ngày càng màu mỡ.
Theo dòng lịch sử, các lớp lưu dân người Việt tới Nam Bộ nói chung và vùng đồng
bằng sông Cửu Long nói riêng vào thời điểm lịch sử khác nhau và gốc gác của họ
cũng khác nhau. Theo nhà nghiên cứu sử học Trần Văn Giàu chia ra làm bốn lớp với
bốn thời điểm như sau:
- Lớp thứ nhất: vào Nam Bộ từ đầu thế kỉ XVII. Tiên phong là những dân
miền Trung, miền Bắc bần cùng, không có đất, không có phương kế sinh sống ngay
trên đất tổ, lưu tán không chịu nổi sự áp bức của chính quyền phong kiến hay muốn
tránh cuộc phân tranh đẫm máu giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Từ đầu thế kỉ
XVII, một số người có ít tiền của, có quyền thế, chiêu mộ dân nghèo đi vào Nam
khẩn đất theo chính sách dinh điền của nhà Nguyễn. Lính tráng cùng với những tội đồ
bị sai phái, bắt buộc vào Nam lập đồn điền vừa giữ trị an biên cương vừa mở ruộng 26
lập vườn quanh cứ điểm quân sự, đã rời quê hương tìm đến vùng đất mới để kiếm
sống và an phận. Đây là phần lưu dân trước hết và đông nhất.
- Lớp thứ hai: họ là những nông dân nghèo khổ đến Nam Bộ do sự tác động
của người Pháp thông qua chủ trương khai thác thuộc địa, vào lao động tại các đồn
điền cao su, chè và khai phá vùng phía Tây sông Hậu.
- Lớp thứ ba: họ đến Nam Bộ sau Hiệp định Genevère năm 1954 và những
năm 60 của thế kỷ trước.
- Lớp thứ tư: những người tới định cư tại Nam Bộ sau năm 1975.
Như vậy, cùng với hành trang mà người Việt Tây Nam Bộ đã thừa hưởng ở quê cũ,
đến vùng đất mới trong sự giao lưu văn hóa với các tộc người cùng cộng cư họ đã tạo
nên một nét văn hóa rất đặc sắc.
1.3.2. Đặc điểm cư trú và cơ sở kinh tế của người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long nói riêng và cả vùng Nam Bộ nói chung
Người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và Nam Bộ nói chung
sống thành các ấp (giống như làng ở ngoài Bắc), song do là vùng đất mới được đẩy
mạnh khai phá theo phương thức chiêu tập dân lưu vong nên làng và cơ cấu xã hội có
những điểm khác biệt so với làng Bắc Bộ. Trong khi làng Bắc Bộ hình thành sớm, do
khai phá cộng đồng (hoặc do tập thể cư dân, hoặc Nhà nước, quan lại đứng ra tổ
chức) và trước khi Nhà nước thiết lập các đơn vị hành chính cấp cơ sở - xã (năm
1621) nên có tính tự quản cao, tính hành chính phải “nương” theo tính tự quản. Tính
cố kết chặt, quan hệ địa vực nặng nề (thể hiện ở sự phân biệt chính cư – ngụ cư) và có
hương ước. Nền kinh tế tự cấp tự túc, khép kín. Bên cạnh đó, sự phân biệt giai cấp xã
hội thấp (5 giai tầng kinh tế với sở hữu nhỏ). Con người kín đáo, cục bộ và vun vén.
Còn đối với làng của người Việt ở Nam Bộ hình thành muộn hơn, trong tác
phẩm “Văn hóa dân gian Nam Bộ, xuất bản năm 2008, của tác giả Nguyễn Phương
Thảo có ghi: “theo sử sách ghi lại, người Việt trong quá trình Nam tiến khai hoang,
mở đất, mở rộng biên cương, xác lập chủ quyền, cũng là lúc hình thành những điểm
27
tụ cư – là cơ sở hình thành thôn ấp. Tuy nhiên đã có một bộ phận người Việt có mặt ở
vùng đất Nam Bộ trước thế kỉ XVII, nhưng vào thời điểm đó chưa có điều kiện cần
và đủ để hình thành làng (thôn ấp). Chỉ có giai đoạn sau đó, nhất là sau khi Nguyễn
Hữu Cảnh được chúa Nguyễn cử vào thiết lập bộ máy hành chính ở Đồng Nai – Gia
Định (1698), việc hình thành thôn ấp mới có những điều kiện thuận lợi. Vì vậy, làng
Việt ở Nam Bộ là làng do dân cư từ nhiều nơi tập hợp lại mà lập nên trong quá trình
khai phá, nhưng cũng có những làng vốn là đồn điền của các chúa Nguyễn, nhà
Nguyễn (chẳng hạn như làng Thạnh Phước, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre là đồn
canh của nhà Nguyễn)”.
Bên cạnh đó, công cuộc mở đất của các chúa Nguyễn do lưu dân (người tứ xứ)
khai phá với sự tổ chức của các điền chủ, của quan lại Nhà nước, cấp hành chính cơ
sở (xã) hình thành cùng với làng nên tính hành chính cao hơn tính tự quản. Ngoài ra,
làng ở Nam Bộ cố kết lỏng lẻo, quan hệ chính cư – ngụ cư không rõ nét, không có
hương ước. Kinh tế hàng hóa, mở. Phân cực giai cấp rõ ràng, triệt để (chỉ có các điền
chủ với hàng trăm hàng nghìn hecta cho các tá điền lĩnh canh nộp tô). Con người
khoáng đạt, cởi mở (thể hiện ở cách chi tiêu ăn uống, hiếu khách..), dễ hòa nhập và ít
cục bộ.
“Ở Nam Bộ không có cảnh làng mạc quen thuộc như của người Việt Bắc Bộ
với lũy tre xanh, cây đa, giếng nước, sân đình. Các thôn ấp ở Nam Bộ là một tụ điểm
những nhà ở tản mạn theo bờ kênh, ruộng lúa. “Tiền viên hậu thổ” - trước có vườn
sau có ruộng, là khuôn viên quen thuộc đối với người dân Nam Bộ cũng như “nhà
ngói cây mít” đối với người dân Bắc Bộ” [59, 190].
Về chế độ ruộng đất: Quá trình khẩn hoang lập làng diễn ra trực tiếp bởi
những người nông dân Việt vì nhiều lí do đã có mặt trước khi được tổ chức thành
những đơn vị hành chính (trước năm 1698). Do vậy, ruộng đất khẩn hoang của người
nào được phép trở thành sở hữu riêng của người đó. Trong Gia Định thành thông chí
- quyển III, Trịnh Hoài Đức đã phản ánh tình hình này: “ Dân vùng này đều có thể tự
do đi khai khẩn đất ruộng ở vùng khác, ai muốn đến đâu, khai khẩn ruộng gò, ruộng
thấp ở nơi nào tùy ý. Lựa chọn đất đai rồi chỉ cần khai báo với nhà cầm quyền là trở
28
thành nghiệp chủ khoảng đất ấy…” .
Người nông dân Việt – người tiểu nông – tuy vẫn là thành viên của một làng và
chịu sự chi phối của làng nhưng cá nhân họ dựa trên quyền tư hữu ruộng đất (do
chính họ khai phá hay mua bán sang nhượng) và được pháp luật thừa nhận. Hình thái
cư trú trên diện rộng phải chăng đã thích ứng hữu hiệu với môi trường chằng chịt
kênh rạch, đã tác động đến lối sống của người nông dân Việt ở Nam Bộ, có thể xem
đây là nét khác biệt rất lớn giữa làng Bắc Bộ và thôn ấp Nam Bộ. Nguồn gốc hình
thành các làng Việt ở đồng bằng sông Cửu Long do không bị chi phối bởi chế độ
ruộng công đã làm cho làng Việt ở đây có xu hướng mở, người nông dân năng động
hơn. Người tiểu nông tuy vẫn mang nặng tình làng nghĩa xóm, nhưng tính cách và vai
trò của họ không bị hòa tan trong cộng đồng, tính năng động làm cho họ tùy ý lựa
chọn phương thức hoạt động kinh tế của mình. Cũng nhấn mạnh thêm do làng Việt ở
đây không được thiết lập trên nền tảng ruộng công nên vai trò của nó phần nào bị hạ
thấp so với ở khu vực Bắc Bộ. Bởi vì ở đây làng không phải làm chức năng kiểm
soát, phân chia khai thác đất đai và đương nhiên cũng không có chức năng điều hòa
sử dụng các nguồn nước, những công việc đó thường do những tư nhân trực tiếp canh
tác giải quyết.
“Trong chế độ sở hữu ruộng đất, nơi đây có một hiện tượng khá phổ biến, đó là
hiện tượng ruộng phụ canh (là loại ruộng đất có chủ sở hữu không phải là người bản
thôn (xã)), điều hầu như hiếm có ở Bắc Bộ. Ruộng phụ canh không chỉ ở làng bên,
mà còn ở nhiều làng, nhiều tổng, thậm chí các tỉnh khác. Khi khảo sát địa bạ của 92
thôn xã có ruộng tư nằm rải rác đều trong 8 tổng thuộc Nam Kì Lục Tỉnh đầu thế kỉ
XIX, đã phát hiện 76/92 thôn xã có ruộng đất phụ canh. Số chủ phụ canh là
1.159/4.793 người, chiếm 24,2% số lượng chủ. Diện tích phụ canh là 17.635 mẫu 6
sào/62.202 mẫu 3 sào, chiếm 28,35% diện tích ruộng tư” [95, 178-179]. Điều này thể
hiện tính chất mở trên phương diện giao lưu sở hữu ruộng đất của các xã thôn, đồng
thời còn thể hiện tính di động cao của nông dân Nam Bộ.
Kinh tế chính của người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long là nghề nông
(trồng lúa nước), nhưng do đất đai rộng, màu mỡ nên người Việt ở đây không chú
trọng thâm canh như ngoài Bắc mà thường quản canh “cầu may” (nhiều khi lúa sót 29
mọc lại cũng cho thu hoạch khá). Người Việt ở đây còn tận dụng ưu đãi của thiên
nhiên để trồng cây ăn quả, tạo ra những miệt vườn rộng lớn, như các miệt vườn dừa,
bưởi, chôm chôm, nhãn, sầu riêng, mẵng cầu…Bên cạnh đó, người Việt nơi đây còn
biết khai thác các nguồn thủy sản, nguồn lợi từ rừng bằng các hình thức đánh bắt, săn
bắt và săn bắn.
Kinh tế sớm phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Sau đó, dưới ảnh hưởng
của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và chính sách thực dân kiểu mới
của đế quốc Mỹ, nền kinh tế hàng hóa tạo điều kiện để hình thành các đô thị lớn như
Rạch Giá, Mỹ Tho, …Ngày nay, vùng đồng bằng sông Cửu Long là một trong những
vựa lúa, vựa hoa quả xuất khẩu lớn của khu vực Nam Bộ nói riêng và của cả nước nói
chung.
1.4. Đặc điểm của quá trình tụ cư và cộng cư của người Việtt và người Khmer ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long
Trong suốt quá trình cộng cư của ba thế kỉ qua, các dân tộc ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long đã đoàn kết lao động sản xuất, cải tạo địa bàn sinh tụ, đoàn kết chống
sự áp bức, bóc lột của phong kiến, sự xâm lược của ngoại bang, bảo vệ lãnh thổ
chung của cả cộng đồng, họ đã cùng có chung vận mệnh lịch sử, có chung lợi ích.
Quá trình đó đã tạo điều kiện cho các dân tộc có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa, hình
thành nên một diện mạo văn hóa vùng đa dạng, phong phú bên cạnh những sắc thái
văn hóa riêng của từng tộc người. Các cư dân khi đến vùng đất này thường là đi riêng
lẻ từng cá nhân vì nhiều lí do (người bị tội đồ mà ra đi hay vì nghèo đói mà lưu lạc),
bởi thế, buổi ban đầu, dân tứ xứ, dân tứ chiếng, từng cá nhân, từng nhóm nhỏ tập hợp
lại, đùm bọc, nương tựa vào nhau để trụ lại nơi đất mới lạ lẫm, đầy thử thách này.
Thứ nhất, thông qua các nghiên cứu đã được công bố cũng như qua các đợt điền
dã trong quyển Địa chí Tiền Giang trang 801-803, tại các địa phương có thể nêu lên
những hình thái cư trú như sau: hình thái cư trú ven sông rạch, hình thái cư trú dọc
kinh đào, hình thái cư trú theo giồng cát, hình thái cư trú tập trung. Nhưng chủ yếu là
30
cư trú trên diện rộng, điều này hoàn toàn khác với hình thức cư trú co cụm của các
làng miền Bắc. Cư trú trên diện rộng và hầu như không tồn tại chế độ công điền, công
thổ đã làm nảy sinh tính năng động xã hội của người tiểu nông.
Thứ hai, thông qua nghiên cứu một số vấn đề về kinh tế-văn hóa-xã hội về làng
xã Việt Nam, tác giả Phan Địa Doãn viết: “do đây là vùng đất mới - nơi chuyển đến
của dân tứ phương, với nhiều thành phần cư dân, nhiều ngành nghề khác nhau, đất
đai rộng lớn lại được thiên nhiên khá ưu đãi và hào phóng với con người, nên một khi
ở nơi ở cũ họ cảm thấy không còn sống được nữa thì họ sẵn sàng theo kênh rạch rời
đến những nơi khác làm ăn, lập thôn ấp hay phum, sóc mới hoặc nhập vào những
thôn ấp, phum sóc đã có. Do đó cư dân trong các thôn ấp hay phum sóc không có tâm
lý phân biệt đối xử giữa dân chính cư và ngụ cư”.
Thứ ba, mối quan hệ gắn bó giữa những cư dân không phải là quan hệ dòng họ,
thậm chí không phải là tình nghĩa giữa những người cùng chung cảnh ngộ, cùng rời
bỏ quê hương đến làm ăn nơi đất lạ. Ca dao Nam Bộ có câu: “Tới đây thì ở lại đây;
Bao giờ bén rễ xanh cây thì về”. Vì những lí do trên mà ở Bắc Bộ nông dân thuần
nông, sản xuất tự cấp, tự túc, buôn bán chỉ là nhỏ nhặt. Còn đối với người dân sống ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả vùng Nam Bộ nói chung, là địa bàn đã sớm
phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất nông sản hàng hóa. Người nông dân luôn
gắn bó với thị trường, không kỳ thị đối với buôn bán, thể hiện qua câu ca dao: “Đạo
nào vui bằng đạo đi buôn; Xuống biển lên nguồn gạo chợ nước sông”, do đó người
nông dân còn là thương nhân và làm nhiều ngành nghề khác, điều đó thúc đẩy kinh tế
hàng hóa phát triển, kích thích giao lưu quốc tế.
Thứ tư, làng Việt ở Nam Bộ là làng do người Việt khai phá nhưng nó lại được
tạo lập trong quá trình người Việt cùng khai phá miền Nam Bộ với người Khmer,
người Chăm hay người Hoa…Trong quá trình khai phá, không diễn ra sự loại trừ
nhau giữa các tộc người mà là sự hòa hợp, đoàn kết thân ái. Đó có thể là do đất đai ở
đây còn nhiều để khai phá, vì thế không xảy ra việc lấn chiếm đất canh tác bằng bạo
lực giữa những người mới đến và đến từ lâu. Sự hòa hợp ấy khiến cho làng nơi đây
khác so với làng trên đồng bằng sông Hồng – nơi chỉ thuần người Việt trên một vùng
châu thổ khá rộng. Trong quá trình tụ cư các phum của người Khmer vùng đồng bằng 31
sông Cửu Long đã hòa nhập với làng xóm, thôn ấp của người Việt và người Hoa, tạo
điều kiện thuận lợi và thúc đẩy mạnh mẽ quá trình giao lưu văn hóa, đoàn kết, gắn bó
giữa các dân tộc trong vùng. “Như ở các vùng nông thôn Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc
Liêu,...cạnh những nếp nhà, những làng của người Việt còn có những nếp nhà, những
phum, sóc của người Khmer. Tại đấy, đương nhiên đã có sự tiếp nhận một số đặc
điểm văn hóa của các tộc người khác để làm phong phú thêm văn hóa dân tộc Việt”
[56, 15]. Vùng đồng bằng sông Cửu Long, sự giao lưu diễn ra thường xuyên. Người
dân ở đây rất nhanh nhạy trong việc tiếp thu cái mới, khả năng bươn chải thị trường,
giao lưu hoạt bát của nam nữ ở nông thôn gần như người thành phố.
Thứ năm, một khía cạnh nổi bật nữa trong lối sống của người dân miền sông
nước này là thói quen bình đẳng. Người ta ưa nói thẳng, ưa đâu ra đấy. Các thứ bậc
trên dưới trong gia đình, dòng họ được đề cao. Cũng như người Việt ở khắp nước,
người dân Nam Bộ rất kính trọng người già. Còn người già thì sống thảnh thơi như đã
làm tròn bổn phận. Thờ cúng ông bà tổ tiên rất được coi trọng. Đó là kỷ cương thiêng
liêng từ trong tâm thức trẻ già.
Như vậy, chính do quá trình cộng cư trên địa bàn đồng bằng màu mỡ này, quá
trình phát triển dân tộc nói chung, văn hóa dân tộc nói riêng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
bởi đặc điểm địa bàn sinh tụ, bởi quá trình giao lưu văn hóa, nên có thể đưa ra kết
luận rằng: “Người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long và người Khmer ở
Campuchia có những nét gần gũi nhau về đặc trưng văn hóa tộc người. Nhưng do
sống tách biệt lâu đời với nhau, nên người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long có
những điểm riêng về cư trú, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đặc biệt từ khi nhà Nguyễn sáp
nhập Biên Hòa – Gia Định, Hà Tiên vào lãnh thổ Việt Nam, người Khmer ở đồng
bằng sông Cửu Long đã dần dần tách khỏi cộng đồng dân tộc Khmer ở Campuchia để
trở thành một trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” [81, 12-13]. Sự khác nhau đó
có thể phân biệt trên các mặt như: hình thái cư trú, cách thức canh tác lúa nước, các
giá trị văn hóa hình thành do quá trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc sống trên
32
địa bàn vùng sông nước của đồng bằng sông Cửu Long.
Do đó, bất luận là người Việt (Kinh), Khmer, Hoa hay Chăm, họ đều chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi nền văn hóa mà họ xuất thân. Hơn nữa, đối với các dân tộc tụ cư
ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nền văn hóa của các dân tộc họ đều có một thời
phát triển rực rỡ, nên bên cạnh những giá trị văn hóa chung, được hình thành do quá
trình cộng cư, quá trình tiếp biến văn hóa lẫn nhau giữa các dân tộc, thì mỗi dân tộc
vẫn còn giữ cho mình những giá trị văn hóa đặc sắc, không thể hòa lẫn được, mà điển
hình đó là sự hòa hợp văn hóa giữa hai tộc người Việt và người Khmer ở vùng Nam
33
Bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT – KHMER
Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (1975 – 2000)
2.1. Khái niệm “văn hóa” và “giao lưu văn hóa”
2.1.1. Khái niệm về “Văn hóa”
“Trong tiếng Việt, “văn hóa” là danh từ có một nội dung hàm ngữ nghĩa khá
phong phú và phức tạp. Người ta có thể hiểu văn hóa như một hoạt động sáng tạo của
con người, nhưng cũng có thể hiểu văn hóa như trình độ học vấn mà mỗi công nhân
viên chức vẫn ghi trong lý lịch của mình” [33, 13].
Theo Trần Ngọc Thêm, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học
thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ
trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)…Trong khi theo nghĩa
rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín
ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động…Chính với cách hiểu rộng này, văn hóa mới
là đối tượng đích thực của văn hóa học. Ông định nghĩa “văn hóa” như sau: “Văn hóa
là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích
lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội” [92, 10].
“Thống kê mới đây của các nhà văn hóa học cho biết, trên thế giới đã có hơn
400 định nghĩa khác nhau về văn hóa” [120, 17]. Trong từng thời đại, từng quốc gia
khác nhau, những nhà khoa học, ở những khía cạnh khác nhau đưa những khái niệm
về văn hóa không giống nhau, có thể điểm qua vài định nghĩa sau:
Tại Trung Quốc, hai từ “văn”, “hóa” đã viết trong Chu Dịch với nghĩa giáo
hóa, giáo dục…cách hiểu này vẫn không thay đổi cho đến cuối thế kỉ XIX và ngày
nay khái niệm “văn hóa” được dùng trong các sách văn hóa học Trung Quốc “thường
được giới hạn trong các hiện tượng xã hội thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, bao gồm
các hình thái ý thức xã hội (triết học, sử học, văn học, nghệ thuật, lễ nghi, tôn
34
giáo)…” [37, 10].
Ở phương Tây, từ “văn hóa” bắt nguồn từ tiếng La tinh “Cultura” bao gồm ý
nghĩa trồng trọt, nuôi dưỡng, cư trú, luyện tập…Từ đó mà có từ “Culture” (tiếng
Anh, Pháp), kultur (tiếng Đức), kultura (tiếng Nga)…Người đầu tiên đưa định nghĩa
“văn hóa” là nhà Nhân học Tylor trong tác phẩm “Văn hóa nguyên thủy” (Primitive
Culture), xuất bản năm 1871, ở London, ông viết “Văn hóa là một tổng thể phức hợp,
bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục và cả những
năng lực thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là thành viên của xã
hội” [37, 11].
Một nhà nghiên cứu về văn hóa cũng đã đưa ra một quan điểm tương đồng, cho
rằng: “văn hóa là toàn bộ những của cải vật chất và tinh thần, kết quả của những hoạt
động có tính chất xã hội và lịch sử của loài người” [47, 25].
A.L.Kroibo và C.L.Kluchon quan niệm “Văn hóa là loại hành vi rõ ràng và ám
thị đã đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng, vì nó hình thành quả độc đáo của nhân
loại khác với các loại hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra”
[93, 19].
Đào Duy Anh khái quát “văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương
diện sinh hoạt của loài người, cho nên ta có thể nói rằng: văn hóa tức là sinh hoạt”
[13, 13].
Trên thế giới, khái niệm về văn hóa rất rộng và có hàng trăm định nghĩa khác
nhau về lĩnh vực này. Tuy nhiên, một khái niệm được cho là chung nhất về văn hóa là
định nghĩa được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc –
UNESCO đưa ra vào năm 1982 và điều chỉnh vào đầu năm 2000. Theo đó văn hóa là
“tổng hợp các đặc điểm tinh thần, thể chất, tri thức, tình cảm đặc trưng cho một xã
hội hoặc một nhóm xã hội. Những đặc trưng này giúp ta phân biệt được xã hội này
với xã hội khác” [33, 16].
Khi phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa” (1988 – 1997), Nguyên
Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor đã đưa ra một định nghĩa (thiên về nội
dung và đặc điểm của văn hóa cộng đồng) mà cho tới nay hay được nhiều người trích
dẫn: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong 35
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các
giá trị, các truyền thống và các thị hiếu – những yếu tố xác định tính riêng của mỗi
dân tộc” [33, 16].
Gần đây nhất, nhân dịp kỉ niệm thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1988 –
1997) UNESCO đã công bố một định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa là tổng thể các hệ
thống giá trị, bao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Nó
không đơn thuần bó hẹp trong sáng tác nghệ thuật, mà bao gồm cả phương thức sống,
những quyền con người cơ bản, truyền thống tín ngưỡng” [47, 15].
Qua những định nghĩa “văn hóa” trên, cho thấy tất cả những sản phẩm do con
người làm ra từ vật chất đến phi vật thể đều là sản phẩm văn hóa. Để tìm hiểu được
giá trị người Khmer, người Việt thì thông qua yếu tố văn hóa địa lịch sử, địa – văn
hóa, sản xuất kinh tế….
2.1.2. Khái niệm về “Giao lưu văn hóa”
Giao lưu văn hóa là một quy luật của thời đại, là hiện tượng phổ biến của xã
hội loài người. Nhờ giao lưu văn hóa đúng hướng mà các nước chậm phát triển có cơ
hội trở thành nước phát triển. Trong mọi hoạt động văn hóa, Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định: kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
“Giao lưu văn hóa là sự đối thoại giữa các nền văn hóa. Nó nhiều khi đóng vai
trò quan trọng, thậm chí quyết định những cuộc đàm phán về biên giới, lãnh thổ,
xung đột sắc tộc giữa các quốc gia, dân tộc” [33, 34].
Quá trình giao lưu văn hóa cần tính đến giá trị chung, giá trị nhân loại, đồng
thời thừa nhận cái khác biệt của các dân tộc khác. Vấn đề còn lại là bản sắc, bản lĩnh,
đạo lý dân tộc. Điều đó chúng ta có thể chiêm nghiệm được qua câu của Thomas
L.Friedman viết trong cuốn sách Chiếc Lexus và cây ô liu: “Một đất nước không có
rặng cây ô liu khỏe khoắn (biểu trưng gốc rễ dân tộc) sẽ không bao giờ có được cảm
giác nguồn gốc được duy trì hay an tâm để hội nhập với thế giới. Nhưng một đất
36
nước chỉ có rặng cây ô liu không thôi, chỉ lo cội rễ mà không có xe Lexus (biểu trưng
tính hiện đại) thì sẽ không bao giờ tiến xa được. Giữ cân bằng hai yếu tố trên là cuộc
vật lộn triền miên” [33, 34].
Ở phương Tây, các quốc gia khác nhau dùng thuật ngữ khác nhau để chỉ sự
giao lưu văn hóa. Người Anh dùng từ Culturtal exchanges. Người Tây Ban Nha có
thuật ngữ Transculturation. Người Pháp dùng cụm từ Interpenétration des
civilisations. Người Mỹ với thuật ngữ Acculturation. Mỗi dân tộc có một thuật ngữ
riêng nhưng hầu hết các khái niệm về “giao lưu văn hóa” trong các bộ Bách khoa
toàn thư, từ điển Nhân học, các công trình “Nhân học văn hóa”, đều thống nhất sử
dụng thuật ngữ “Acculturation” để chỉ hiện tượng “giao lưu văn hóa” và nội dung
định nghĩa “giao lưu văn hóa” giống nhau cho dù cách diễn đạt có khác nhau.
Nói đến khái niệm “giao lưu văn hóa” ít nhiều có liên quan đến khái niệm
“giao tiếp liên văn hóa” là sự giao tiếp giữa các nền văn hóa, giữa các cộng đồng văn
hóa khác nhau với những phương thức sống và thế giới quan khác nhau. Bản thân sự
giao tiếp liên văn hóa không phải là một hiện tượng mới mẻ, mà đã trải qua lịch sử
hàng ngàn năm, gắn liền với số phận của tất cả các dân tộc của một đất nước, hay các
cộng đồng người trên thế giới.
Cho đến nay, khi bước vào thế kỉ XXI, nhân loại đã đạt được những thành tựu
to lớn về khoa học và công nghệ. Nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại như:
mạng internet, điện thoại di động, truyền hình cùng vô số các kênh truyền thanh và
truyền hình quốc tế….thì cơ hội giao lưu, đối thoại, học hỏi lẫn nhau giữa các nền
văn hóa và các cộng đồng văn hóa ngày càng mạnh mẽ.
2.2. Quá trình giao lưu văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
(1975 – 2000)
2.2.1. Những giá trị văn hóa Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
2.2.1.1. Những giá trị văn hóa vật chất tiêu biểu
*Về đặc điểm cư trú phum, sóc:
Như đã trình bày trong phần chương 1, Phum, sóc là những đơn vị cư trú trong
37
tổ chức xã hội cổ truyền của đồng bào dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu
Long do các ban quản trị mà được gọi là “Mê Phum” hay “Mê Sóc” đảm nhận vai trò
quản lý. “Mê Phum” ngoài việc đảm nhận trách nhiệm chăm lo công việc nội bộ của
phum mà còn quan hệ với bên ngoài phum. Những công việc trong phum thường
nặng về các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo như cúng Neckta, cúng Arak, tổ chức lên
chùa trong các ngày lễ, các công việc liên quan đến chu kì đời người như cưới hỏi,
tang ma, vận động các gia đình giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống, sản xuất và sinh
hoạt. Đối với “Mê Sóc”, những thành viên trong ban quản trị này được nhân dân
tuyển chọn trong số những người đàn ông lớn tuổi có uy tín, trình độ học vấn, hiểu
biết phong tục, tập quán và có tinh thần trách nhiệm với đồng bào. Trách nhiệm của
“Mê Sóc” và ban quản trị là thay mặt các thành viên của sóc điều hành các công việc
chung trong nội bộ sóc và quan hệ với bên ngoài, đặc biệt là quan hệ với ngôi chùa
của sóc. “Tuy nhiên, mỗi người dân có thể ít hoặc không tham gia công việc của xã,
ấp, song không thể không tham gia công việc của chùa, vì quyền lợi tinh thần của họ
hầu như gắn bó với chùa nhiều hơn là gắn bó với xã, ấp” [29, 21]. Tất cả các thành
viên của dân tộc trong từng phum, sóc phải thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, có trách
nhiệm bảo vệ danh dự của phum, sóc; phải xây dựng quan hệ đoàn kết, thân thiện,
phải tu tâm, tích phước, thực hiện nghĩa vụ đóng góp xây dựng ngôi chùa Phật giáo
nơi mình cư trú một cách tự nguyện, tự giác. Tùy theo từng vùng, số lượng các ngôi
nhà trong phum có từ 5 – 10 nhà, hoặc nhiều hơn. Các gia đình trong phum hầu hết
đều có quan hệ huyết thống, chủ yếu về phía giới nữ. Thông thường gồm gia đình của
cha mẹ, gia đình của các con gái và con rể. Ngoài ra, còn có thêm một vài gia đình
không có quan hệ huyết thống, kể cả gia đình người Hoa và người Kinh.
Việc cư trú tập trung lâu đời đã tạo thành khối đoàn kết cộng đồng dân tộc chặt
chẽ và cũng rất thuận lợi cho việc bảo lưu bền vững những giá trị truyền thống qua
các phong tục, lễ nghi của người dân. Đây là một giá trị văn hóa Khmer vùng đồng
bằng sông Cửu Long cần phát huy tốt trong điều kiện mới nhằm củng cố sự cố kết
cộng đồng và đoàn kết dân tộc.
“Đơn vị cư trú phum, sóc của người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long
còn mang ý nghĩa là một đơn vị tín ngưỡng tôn giáo. Dân trong sóc có trách nhiệm 38
xây dựng và bảo tồn ngôi chùa của sóc. Các hoạt động lễ nghi trong các ngày lễ, tết
cũng được tập trung tại chùa, thông qua đó họ duy trì phong tục, tập quán và truyền
thống văn hóa của dân tộc mình. Ngoài các nghi lễ tôn giáo, người dân trong sóc còn
có trách nhiệm thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng dân gian. Đặc biệt, tín ngưỡng cúng
Neakta, phản ánh nét đặc thù của tổ chức xã hội phong kiến phân quyền cát cứ xưa
kia ở trên vùng đất này, khác hẳn với tín ngưỡng Neakta ở Campuchia, phản ánh xã
hội phong kiến tập quyền” [102, 99].
Cơ cấu tổ chức gia đình của người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long có
những nét chung và những nét đặc thù riêng. Chính đặc điểm cư trú phum, sóc đã ảnh
hưởng mạnh mẽ đến cơ cấu tổ chức gia đình của người Khmer, làm cho cơ cấu gia
đình của người Khmer mang những nét đặc thù riêng. Trong cơ cấu gia đình của
người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, gia đình hạt nhân, tức là gia đình có
vợ, chồng và con cái chiếm đại bộ phận. Trong hệ thống các gia đình, không có vai
trò trưởng tộc, mà chỉ có người đứng đầu các phum. Quan hệ vợ chồng trong gia đình
tương đối bình đẳng, cùng nhau chia sẻ mọi công việc. Tuy nhiên, người đàn ông vẫn
giữ vai trò trụ cột trong gia đình. Cha mẹ không có sự phân biệt con trai và con gái,
con trưởng hay con thứ. Quyền thừa kế được chia đều cho các con. Chế độ đa thê tuy
vẫn còn tồn tại ở người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng không phổ
biến và thường là những người đàn ông giàu có.
*Hạn chế: Kiểu cư trú phum, sóc cũng hình thành những rào cản, gây trở ngại
cho quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa dân tộc Khmer với các dân tộc khác
trong vùng. Cộng đồng phum, sóc Khmer có những hoạt động mang tính biệt lập, cô
lập trong giới hạn khép kín. Ngoài ra, kiểu cư trú trên còn gây ảnh hưởng đến môi
trường sống, môi trường tự nhiên ở địa bàn các phum, sóc Khmer. Do cơ cấu tổ chức
gia đình và cư trú theo phum, sóc như vậy nên thanh niên nam, nữ Khmer ít có điều
kiện kết hôn với thanh niên bên ngoài, thường là giới hạn trong phạm vi phum, sóc,
trong phạm vi chi phối của một ngôi chùa, nếu có mở rộng ra vùng xung quanh thì
39
cũng vẫn trong phạm vi hạn hẹp của một xã.
Về quan hệ dòng họ, người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng có
nét khá độc đáo. Phần lớn người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long mang các
họ như: Thạch, Châu, Danh, Sơn, Kim…Phụ nữ Khmer thì được phân biệt bằng “thị”
hoặc “Neang”. Những họ này xuất hiện từ giữa thế kỉ XIX, do nhà Nguyễn qui định,
trước đó người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long không có họ. Mặc dù yếu tố
phụ hệ được xác lập và củng cố trong quan hệ gia đình và hôn nhân theo pháp luật,
nhưng những tàn dư của chế độ mẫu hệ vẫn tồn tại, thể hiện trong các quan hệ xã hội
như tên gọi của những người đứng đầu phum, sóc đều bắt đầu từ chữ “Mê” nghĩa là
mẹ; hoặc sau khi kết hôn, các cặp vợ chồng thường làm nhà bên cạnh cha mẹ vợ, tạo
nên kiểu cư trú phum rất phổ biến. Đó là một trong những nét văn hóa của đồng bào
Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, trong
quan niệm hôn nhân, hầu hết đám cưới của người Khmer diễn ra với nhiều nghi lễ
phức tạp, có khi đến khắt khe, điều đó vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực khi xã
hội đã có sự phát triển mạnh mẽ.
*Kiến trúc, điêu khắc, hội họa:
Về nhà ở, trong bài “Tìm hiểu người Việt gốc Miên”, tạp chí số 2, năm 1971
của tác giả Lê Hương có viết: “nhìn vào các phum, sóc của người Khmer đồng bằng
sông Cửu Long, nhà cửa được xây cất rất đơn giản, ít nhà ngói, nhà giàu như người
Việt thì bản tính họ không thích cạnh tranh, đua chen để làm giàu và lại tin vào số
phận nên ít chịu tìm hiểu để kiếm cách cho tăng năng suất, thu hoạch được nhiều như
người Việt nên thường chịu nhịn, chịu thua thiệt”. “Họ còn thiên về đời sống tinh
thần, tiền bạc dư thì chỉ để cúng vào chùa, xây chùa cho nguy nga đồ sộ để ngày sau
được lên Niết Bàn còn bản thân hiện tại thì cam ở nhà tre vách lá” [106, 94].
Nhà làm theo kiểu nối mái, khác với người Việt là nối đầu. Nối mái là nhà chính
được cất lên trước và những nhà phụ cứ theo thứ tự mái mà nối mái về phía sau. Nhà
chính có mặt tiền quay ra đường hoặc sông rạch, phía trước nhà có mảnh sân con.
Người Khmer trổ cửa ra vào ở giữa nhà, cửa sổ ở hai bên. Cửa ra vào dẫn ngay vào
bàn thờ Phật và tổ tiên. Phía trong nhà thường là buồng ngủ hay kho chứa thóc nối
mái với nhà dưới là nhà bếp và nơi để nuôi heo, gà. “Người Khmer làm nhà thường 40
dùng số lẻ như cột cao 5 hoặc 7 mét, cửa nhà xoay về hướng Đông. Việc dựng nhà
đối với người Khmer lại là một điều quan trọng. Ai muốn xây nhà phải đến ông
Achar nhờ chỉ dẫn để tránh sự va chạm đến các thần linh và ma quỷ, chứ không ai
dám tự tiện làm nhà một cách không ý thức” [106, 95]. “Kiểu nhà sàn truyền thống
hiện nay chỉ còn ở một số vùng ven biển, ven rừng, trong các chùa” [29, 33].
Nghệ thuật điêu khắc: Điêu khắc là một bộ phận thiết yếu gắn liền với kiến
trúc, làm tăng thêm giá trị thẩm mỹ, ý nghĩa của từng bộ phận cùng toàn thể ngôi
chùa Khmer. “Điêu khắc tạo hình nổi bật với kiến trúc chùa (ba cấp mái) và trang trí
ở chùa, trang trí tượng; nguồn tranh dân gian với màu sắc sặc sỡ gắn với các tích của
đạo Phật” [9, 234]. Hiện huyện Tri Tôn có 36 ngôi chùa Khmer, huyện Tịnh Biên có
24 ngôi chùa Khmer. Chùa là chốn thiêng liêng, là trung tâm của đời sống tinh thần
mà mỗi người Khmer đều có trách nhiệm vun bồi và tự nguyện vun bồi. Cho nên, dẫu
cho họ nghèo, chùa vẫn khang trang, các sư vẫn được nuôi dưỡng tốt nhờ thức ăn
dâng cúng hằng ngày của họ. Sư sãi ở các chùa Khmer thường là trẻ tuổi, sau thời
gian tu tập từ một tuần cho đến ba năm thì có thể hoàn tục để lập gia đình. Theo tập
san Khoa học xã hội và Nhân văn, số 56, tháng 9/2012 có ghi: “Ngôi chùa Khmer nổi
tiếng nhất An Giang là chùa Xvay Ton (Xà Tón) ở Tri Tôn, nơi lưu giữ bộ kinh lá
buông khắc chữ Khmer xưa nhất Việt Nam. Ngôi chùa được xây dựng đã hơn 200
năm, được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích theo Quyết định số 235/VH-QĐ
ngày 12/12/1986, và công nhận là “Di tích lịch sử - văn hoá quốc gia” năm 1989”.
Điêu khắc Khmer rất phong phú về đề tài, thể loại cũng như chất liệu. Căn cứ
vào chất liệu, điêu khắc chùa Khmer làm từ nhiều loại: Gỗ: thường được dùng làm
tượng Phật, gồm các loại gỗ quí, bền và chắc. Ngoài ra, gỗ còn dùng để chạm khắc
phù điêu, hoa văn khung cửa, khung tượng Phật. Một số chùa hiện còn lưu giữ như
chùa Ông Mẹl (Trà Vinh), Sàm Rông, Khléang (Sóc Trăng)…Đá: cũng được dùng
làm tượng Phật, gồm các loại đá quí. Những tượng Phật làm bằng đá thường là loại
trung bình và nhỏ như chùa Khléang (Sóc Trăng)…nhưng nói chung, đối với chất
liệu đá người Khmer ít làm tượng. Xi-măng: hiện nay đa số tượng Phật lớn để trong
chùa Khmer làm bằng xi-măng, làm những bức tượng lớn. Nghệ thuật đúc khuôn và 41
đổ khuôn xi-măng của nghệ nhân Khmer đã đạt tới trình độ khéo léo, tinh xảo. Kim
loại: rất nhiều tượng nhỏ làm bằng đồng thau, kẽm.
Về trang phục: người Khmer là tộc người khéo tay trong việc kỹ nghệ, xưa kia
họ có những kiểu quần áo riêng, trang trí nhiều họa tiết đẹp, màu sắc lộng lẫy. Nhưng
ngày nay nếu đến đồng bằng sông Cửu Long, nhìn vào quần áo thì sẽ không phân
biệt được người Khmer hay người Việt vì họ mặc giống nhau. Chỉ trong dịp lễ hội
dân tộc, những phụ nữ trung niên mới mặc áo dài dân tộc gọi là áo “Tầm vông”, kiểu
áo vạt dài, may bịt bùng không có xẻ nách, khoét cổ tròn. Nữ thanh niên mặc váy
“Sâm pốt”, áo ngắn, tay cụt rộng hoặc choàng có màu sắc, hoa văn rực rỡ. “Riêng ở
huyện Tri Tôn và Tịnh Biên (tỉnh An Giang) còn nhiều người Khmer mặc “Sa rông”
vắt mối phía sau lưng gọi là “Sâm pốt”, áo trên ngắn, tay cụt nhưng rộng, cổ đứng,
cúc tròn làm bằng đồng thau hoặc đá quý thậm chí bằng vàng tùy theo mức độ giàu
nghèo” [29, 34].
2.2.1.2. Những giá trị văn hóa tinh thần tiêu biểu
*Tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội truyền thống:
Sinh sống lâu đời tại vùng đồng bằng Nam Bộ, người Khmer đã tạo ra nền văn
hóa riêng rất rõ nét. “Do mộ đạo Phật (chủ yếu là dòng Tiểu thừa) nên người Khmer
đã tạo ra một hệ thống chùa (trước giải phóng năm 1975, vùng đồng bằng này có đến
400 ngôi chùa. Chùa không chỉ là nơi thờ Phật (chỉ thờ Phật Thích Ca, chứ không thờ
đa Phật như chùa ở ngoài Bắc); mà còn là nơi quản lý nhân khẩu (mỗi chùa có một số
gia đình đến đăng ký hành lễ cố định, trước năm 1975, thường mỗi chùa có khoảng
1600 dân), bàn bạc các công việc và tổ chức các sinh hoạt của cộng đồng, nơi tiếp
khách và là trường học ở nông thôn. Trẻ em Khmer đến tuổi đi học thường vào chùa
học và tu một thời gian mới ra lập nghiệp. Mỗi chùa có ban quản trị riêng gồm hai sư
cả, 2 sư phó, 10 ông luật (những nam giới ở tuổi trung niên, đã xuất tu, có uy tín
trong phum). Ban quản trị chùa thay mặt sư trông nom chùa, quản lý tài chính, lo tu
bổ chùa, mua sắm đồ thờ (sư chỉ làm nhiệm vụ tụng kinh), hàng ngày ở chùa là chính.
42
Nhiều chùa có thư viện riêng, nghĩa trang cho các tín đồ của chùa. Sư ở chùa Khmer
cũng như nam giới Khmer khi đi tu chỉ phải kiêng ăn mặn từ 12 giờ trưa hôm trước
đến 6 giờ sáng hôm sau, song được uống sữa. Sỡ dĩ có hiện tượng này vì theo truyền
thuyết, một vị sư tụng kinh suốt từ buổi trưa đến sáng hôm sau mệt lả, đói, lả đi và
kiệt sức; may được một người đi chăn dê đưa cho một cốc sữa để uống, hồi tỉnh lại.
Từ lý do này mà về sau, các sư và người đi tu người Khmer được phép uống sữa vào
buổi chiều” [9, 231].
Người Khmer có tục thờ cúng tổ tiên, song điều đặc biệt là phần lớn gia đình
không đặt hoặc ít đặt bàn thờ tổ tiên trong nhà, vì lễ cúng tổ tiên thường diễn ra ở
chùa là chính. Nơi trang trọng nhất trong nhà thường là bàn thờ Phật.
Ngoài đạo Phật, người Khmer có nhiều hình thức tín ngưỡng truyền thống như:
- Tín ngưỡng tô tem, thờ rồng do đồng bào sinh sống trên vùng đất sông nước,
nhiều sình lầy (mô típ rồng thường được gắn trên nóc chùa, nóc đền đài).
- Các thần bảo hộ có Arắck (thần bảo hộ của xóm, giống như thổ địa). Đáng lưu ý
là Arắck được thiết kế theo dòng nữ.
- Tín ngưỡng nông nghiệp có lễ cầu mưa vào dịp đầu năm mới, khi mùa mưa sắp
đến, lễ cúng thần ruộng, thần mục súc (để xua đuổi các loài thú, côn trùng làm hại
cây trồng), cúng hồn lúa khi gặt về…
Về phong tục (gắn với lễ tiết và tín ngưỡng), trong một năm người Khmer có
ba lễ tiết quan trọng:
- Lễ mừng năm mới (Chôn Chnam Thmây) vào ba ngày 14 - 15 - 16 của tháng
Chét (giữa tháng tư dương lịch). Ngoài lễ cúng gia tiên ở các gia đình, có các lễ thức
chung của cộng đồng ở chùa theo một trình tự.
- Lễ cúng tổ tiên (Xên Đônta) từ ngày 29 tháng Tám (Asát) đến mồng 1 tháng Chín
(Soráp).
- Lễ cúng trăng (Ok om Book, lễ nuốt cốm) vào tối ngày Rằm tháng Mười
(Phétôrôbot) – ngang với Rằm tháng Tám của người Việt, mục đích của lễ này là cầu
mùa. Lễ được tổ chức tại sân chùa, sân nhà hoặc một khoảng đất trống để có thể
ngắm trăng được thuận lợi. “Cũng trong dịp này, người Khmer có tục thả đèn bay
(thể hiện tục thờ trăng), thả bè chuối gắn đèn trên sông, đua ghe ngo hay đua thuyền 43
hay ghe ngo (thể hiện tục cầu nước). Ghe ngo là loại thuyền độc mộc, dài 25 - 30
mét, rộng 1 – 1,4 mét, mỗi thuyền có 40 – 60 người bơi, một số vùng còn có tục đua
bò” [9, 234].
*Về văn hóa dân gian
Người Khmer có một kho tàng văn học dân gian, gồm nguồn truyện kể (truyện
cổ tích – có nhiều nét giống mô típ các truyện của người Việt, thần thoại, ngụ ngôn,
truyện cười), các câu tục ngữ, châm ngôn đúc kết các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Bên cạnh đó, văn học viết cũng khá phát triển.
“Âm nhạc Khmer thường gắn với sinh hoạt ca múa và sân khấu; các nhạc cụ có
dàn nhạc dây dùng trong các dịp vui; dàn nhạc Arak dùng trong cúng tế thần và đám
ma; các đàn chiêng, trống vỗ…Nguồn dân ca gắn với các điệu múa khá phong phú.
Các điệu múa có thể diễn tả tình cảm, dùng trong cúng tế, đám cưới…”[9, 235].
Vốn là một dân tộc có truyền thống văn nghệ, “người Khmer đã sáng tạo ra
nhiều loại hình ca vũ độc đáo, từ điệu múa trống Xà-jăm, múa vui Krap, múa gáo dừa
Tro-lok, múa chằng Khum-rông; từ điệu hát A-yay trữ tình, Prốp-kay đối đáp…cho
đến những hình thức sân khấu hoàn chỉnh như kịch múa Rôbăm và kịch hát Yukê”
[110, 37].
2.2.2. Những giá trị văn hóa Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
2.2.2.1. Những giá trị văn hóa vật chất tiêu biểu
*Về cư trú: Người Việt sống thành các ấp, giồng như làng ở ngoài Bắc. Nét nổi
bật của làng xóm là được hình thành trên giồng đất chạy dọc các triền sông, các kênh
rạch. “Làng không có lũy tre, cổng làng quây chặt và đóng kín khu cư trú, tách biệt
với khu canh tác như ở ngoài Bắc; mà gắn liền với hệ thống kênh rạch và đồng ruộng.
Nhà cửa không dựng theo lối mật tập mà theo chế đất canh tác, theo kiểu “tiền viên,
hậu điền” (phía trước là vườn, phía sau là ruộng); nhà cửa thường đơn sơ bằng tre
nứa, lá dừa; không phải theo kiểu nhà ngói, sân gạch, kín cổng cao tường như ở ngoài
44
Bắc” [9, 242].
Dù có một số nét khác biệt, song đất Nam Bộ, những con người Việt ở nơi đây
- nơi xa xứ luôn nhớ về đất Bắc như nhớ về cội nguồi của mình. Điều này thể hiện ở
cách gọi thứ tự anh chị em trong gia đình như: “người con đầu (trai, gái) được gọi là
anh hai, chị hai, vì quan niệm anh cả, chị cả đã ở ngoài Bắc, hoặc ở miền Trung, vào
miền Nam là em thứ” [9, 248].
Bài thơ Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ đã nói lên tính khắng khít và thống
nhất của vùng đất Nam Bộ, con người Nam Bộ và văn hóa Nam Bộ trong quốc gia
dân tộc Việt Nam:
“Ai về đất Bắc ta theo với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long…”
*Về phương diện văn hóa ẩm thực: Ngoài một số món ăn Bắc, người Việt ở
Nam Bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng tạo ra nhiều món ăn
mới để thích ứng trong điều kiện thiên nhiên của một vùng có nhiều kênh rạch.
Người Việt ưu tiên dùng nguồn đạm thủy sản, kết hợp với các loại chim thú (chuột,
dơi, cóc, rùa), các loại côn trùng. Kỹ thuật chế biến thực phẩm có nấu, nướng, phơi
khô, ướp, làm mắm.
Người Việt Nam Bộ ưa ăn mặn, ăn cay, chua, gỏi; trong mâm cơm thường có đãi rau
tự nhiên trong vườn, đĩa mắm ớt thêm vài lát xoài. Các vùng có dừa (như tỉnh Bến
Tre) chú trọng sử dụng dừa trong chế biến thức ăn.
Về uống, “người Việt ưa uống các loại nước mát (chủ yếu là nước dừa), ít dùng
trà như người Việt ở miền Bắc” [9,241].
Trong ăn uống của người Việt Nam Bộ, nét nổi bật là cung cách ăn uống rất phù hợp
với điều kiện của vùng sông nước và có kinh tế hàng hóa phát triển: ít chú ý đến chế
biến cầu kỳ, bày vẽ hình thức mà thường “xuềnh xoàng”, thích ăn uống ở hàng quán,
ăn uống kết hợp với giải quyết các mối quan hệ công việc và xã hội (trong khi người
45
Việt ở Bắc Bộ thường mời khách về nhà).
*Về mặc: Khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa thì trang phục của cư
dân vùng này không có gì khác biệt so với ngoài Bắc. Nhưng dần dần càng tiến về
phương Nam thì trang phục của cư dân Đàng Trong càng có những đặc điểm khác
biệt so với cư dân Đàng Ngoài. Đặc biệt là, từ khi người Hoa vào Đàng Trong năm
1680 thì trang phục của cư dân bản địa đã có những ảnh hưởng nhất định. Điều này
đã được Trịnh Hoài Đức ghi lại trong Gia Định thành thông chí như sau: “Duy có
người Việt ta noi theo tục cũ Giao Chỉ: người quan chức thì đội khăn cao sơn, mặc áo
phi phong, mang giày bì đà, hạng sĩ thứ thì bới tóc, đi chân trần, con trai con gái đều
mặc áo vắn tay bâu thẳng, may kín hai nách, không có quần, con trai dùng một miếng
vải buộc từ sau lưng thẳng đến dưới háng quanh lên đến rún, gọi là cái khố, con gái
có người không mặc váy, đội nón lớn, hút điếu binh, ở nhà thấp, trải chiếu ngồi dưới
đất, không có bàn ghế. Năm Mậu Ngọ (1738) Thế tôn Hiếu võ Hoàng đế định lại sắc
phục, các quan văn võ châm chước theo chế độ của đời Hán Đường, đến Đại Minh thì
hình thức mới chế như phẩm phục quan chế ngày nay đã ban hành theo trong Hội
điển, gồm đủ cả văn chất. Còn y phục gia thất khí dụng của hàng sĩ thứ đại lược như
thể chế đời Minh”.
Đến đời chúa Thế Tông Nguyễn Phước Khoát lại có một biến động lớn xảy ra
trong việc cải cách trang phục. Triều đình quy định cư dân Đàng Trong phải ăn mặc
như người Tàu, phụ nữ mặc quần chứ không còn mặc váy như người Đàng Ngoài,
nhằm tạo nên sự khác biệt trong trang phục so với Đàng Ngoài.
Một quan niệm khác lại cho rằng, “Có thể áo bà ba ảnh hưởng, cách tân từ áo
lá và áo xá xẩu may bằng vải buồm đen của người Hoa lao động, là kiểu áo cứng, xẻ
giữa, cài nút thắt... Phải chăng do thời tiết quanh năm nóng bức, họ bỏ luôn chiếc cổ
thấp của áo lá và áo xá xẩu, mang thêm áo quanh chân cổ cho chắc. Áo xẻ giữa thay
vì cài nút thắt đã được làm khuy, cài nút nhựa do ảnh hưởng phương Tây”.
Cho đến nay, về cơ bản, cách mặc của cư dân Đồng bằng sông Cửu Long có sự
46
thống nhất với các vùng miền khác trong nước. Nhưng do đặc điểm địa hình, thời tiết,
khí hậu, mà cư dân Đồng bằng sông Cửu Long đã chọn cho mình những bộ trang
phục phù hợp, mang tính đặc trưng. Cư dân Đồng bằng sông Cửu Long sống chủ yếu
dựa vào nông nghiệp. Làm nông nghiệp thì buộc con người suốt ngày phải bán mặt
cho đất bán lưng cho trời, quanh năm chân lấm tay bùn, trong điều kiện thời tiết hai
mùa mưa nắng rõ rệt màu sắc trong trang phục của người dân đồng bằng sông Cửu
Long ngày xưa thường chọn gam màu chủ đạo là màu đen, nâu sậm, ít khi mặc màu
trắng, trừ khi đám tiệc, lễ hội. Ngày xưa, để nhuộm vải, người ta dùng lá bàng, vỏ
trâm bầu, trái mặc nưa... làm nguyên liệu. Chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn từng là
phục sắc hết sức phổ biến của cư dân. Cho đến nay, chưa thấy có tư liệu nào xác định
rõ nguồn gốc của chiếc áo bà ba. Người ta chỉ biết rằng, vào đầu thế kỷ XX loại áo
này đã được mặc khá phổ biến của cả vùng Nam bộ. Theo nhà văn Sơn Nam thì “Bà
Ba là người Mã Lai lai Trung Hoa. Chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa thích, vạt
ngắn không bâu chính là kiểu áo của người Bà Ba”.
2.2.2.2. Những giá trị văn hóa tinh thần tiêu biểu
*Tín ngưỡng tôn giáo, phong tục tập quán: Tôn giáo và tín ngưỡng của người
Việt Nam Bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng khá đa dạng và
phức tạp. Người Việt Nam Bộ coi trọng tục thờ cúng tổ tiên, thờ thần thổ địa (có tiếp
thu thần Neaktà của người Khmer, thờ ông Bổn của người Hoa), thờ thành hoàng.
Bên cạnh đó, người Việt ở đây còn thờ cây, đá, ông hổ, thờ tiên hiền, có các nghi lễ
nông nhiệp từ ngoài Bắc; thờ cá voi, thờ mẫu (tiêu biểu là đền Bà Chúa Xứ ở Châu
Đốc tỉnh An Giang).
“Trong tục thờ tổ tiên, người Việt ở nhiều địa phương thuộc các tỉnh Tiền
Giang, Bến Tre, Long An – các vùng đất được coi là người nông dân Việt ở Trung
Bộ vào khai phá đầu tiên có một nghi thức đặc biệt là lễ cúng lề - nghi thức hồi tưởng
cảnh sống xiêu tán, khổ cực khi từ miền Trung vào khai phá Nam Bộ: phải có nồi cá
47
nấu ám (cá mổ bằng dao tre, để nguyên con, không đánh vảy, nấu trong nồi đất); rải
chiếu ngay trên nền đất để cúng, đồ đựng thức ăn để cúng và để ăn sau khi cúng là
bát bằng gáo dừa hay đồ sành thô.
Ngôi đình ở làng Nam Bộ không mang dáng vẻ uy nghi, tiêu biểu như ngoài
Bắc. Thành hoàng ở các làng xã là các võ tướng gắn với công cuộc mở đất, dựng
nghiệp của các chúa Nguyễn và triều Nguyễn (Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Văn
Thoại hay Thoại Bạch hầu, Võ Tánh, Võ Duy Nghi…); vào thời Pháp thuộc là các
anh hùng chống Pháp như Nguyễn Trung Trực, Trương Định…” [9, 244].
Nét nổi bật về tôn giáo của người Việt vùng đồng bằng sông Cửu Long là
nhiều tôn giáo (Phật, Kitô giáo, Islam, Tin lành) đã được địa phương hóa, kết hợp với
các tín ngưỡng bản địa đã trở thành các tôn giáo mới, như Cao Đài, Hòa Hảo, Đạo
Dừa…, dễ đi vào mê tín dị đoan, thường gắn với các yếu tố chính trị, xã hội nên bị lợi
dụng (khác với Bắc Bộ, tôn giáo có tính “thuần túy” hơn). PGS.TS Phan An, Viện
Khoa Học Xã Hội vùng Nam Bộ, trong bài “Có một nét riêng của văn hóa người Việt
ở Nam Bộ”, tác giả viết:
- Đạo Cao Đài, một tôn giáo được coi là bản địa, vì xuất hiện ở Nam Bộ vào đầu
thế kỉ XX. Đã có một số công trình nghiên cứu về đạo Cao Đài. Trên điện thờ, có sự
hiện diện khá đông đảo của nhiều vị “giáo chủ” của các tôn giáo như Phật Thích Ca,
Khổng Tử, Lão Tử, chúa Jesu…và cả Ngọc Hoàng Đại Đế. Một hệ thống giáo lý và
cơ cấu tổ chức của đạo cũng có sự hòa trộn của nhiều tôn giáo.
- Đạo Hòa Hảo, một tôn giáo cũng được gọi là bản địa ở Nam Bộ, ra đời vào
khoảng thế kỉ XX cùng thời với đạo Cao Đài. Cũng có người gọi là Phật giáo Hào
Hảo, thực ra đây là một tôn giáo vừa có yếu tố Phật giáo vừa kết hợp những tín
ngưỡng dân gian với nội dung “Tứ ân”: Ơn Tổ quốc, ơn đồng bào, ơn cha mẹ và ơn
Đức Phật”. Có thể xem đây là một tôn giáo mang tính bình dân và đại chúng ở Nam
Bộ với những giáo lý, nghi lễ đơn giản phù hợp với tâm lý, nếp sống của người nông
dân Nam Bộ.
*Vốn văn nghệ dân gian làng xã
Tiếng Nam Bộ là một phương ngữ của tiếng Việt phổ thông, cả âm, giọng, vốn
từ cơ bản đã được địa phương hóa. Đặc biệt, Nam Bộ là mảnh đất đầu tiên để hình 48
thành và phát triển chữ Quốc ngữ; phương ngữ Nam Bộ ra đời cùng với quá trình này
nên tạo ra sự thống nhất về không gian, hạn chế sự khác biệt khá rõ nét về âm, giọng
và cả vốn từ cơ bản giữa các địa phương như ở ngoài Bắc, góp phần phát triển khẩu
ngữ thành ngôn ngữ văn học. Người Việt dù đến từ địa phương nào cũng sớm nói
phương ngữ của vùng đất này.
“Người Việt có nguồn vốn ca dao, tục ngữ, dân ca, vè…khá phong phú. Điều
đáng lưu ý là các câu ca dao, lời hát, bài đồng dao…của Nam Bộ có nguồn gốc từ
Trung Bộ đã được cải biên, cụ thể hóa vào điều kiện của một vùng kênh rạch dày đặc,
mới được khai phá; và thể hiện ở các địa danh, phản ánh được đặc điểm địa lý, kinh
tế…Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, có hiện tượng “dịch chuyển văn hóa” từ Trung
Bộ vào Nam Bộ thông qua nguồn câu ca dao, dân ca này. Bên cạnh đó, nguồn truyện
kể dân gian, truyện cười của người Việt cũng rất phong phú, phản ánh rất rõ mối
quan hệ hòa đồng của con người với thiên nhiên. Vốn dân ca của người Việt cũng rất
đồ sộ, thông qua hàng trăm điệu hò, điệu lý, như Lý con sáo, Lý chiều chiều, Lý quạ
kêu…” [9, 243].
Theo PGS.TS Phan An, trong bài viết “Có một nét riêng của văn hóa ở Nam
Bộ” thì “người Việt còn có vốn nghệ thuật sân khấu mang tính đặc trưng, với các
hình thức cải lương, vọng cổ, đàn ca tài tử. Trên lĩnh vực nghệ thuật, ca vọng cổ và
sân khấu cải lương xuất hiện đầu tiên ở Nam Bộ. Đây là hai loại hình nghệ thuật do
người Việt Nam Bộ sáng tạo và xuất hiện vào đầu thế kỉ XX. Theo một số nhà nghiên
cứu, vọng cổ do ông Cao Văn Lầu (1892 – 1976) quê ở tỉnh Long An, sinh sống ở
tỉnh Bạc Liêu là người khởi xướng. Năm 1928, ông sáng tác bài “Dạ cổ hoài lang”, từ
đấy thành trào lưu ca vọng cổ ở Nam Bộ. Điều đáng lưu ý là cải lương ra đời ở Nam
Bộ, về sau đã truyền bá ra nhiều vùng miền của cả nước, còn vọng cổ hầu như chỉ
49
đóng khung trong vùng đất Nam Bộ”.
2.2.3. Những biểu hiện giao lưu của văn hóa vật chất Việt – Khmer ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long (1975 – 2000)
2.2.3.1. Văn hóa sản xuất
*Về sinh hoạt kinh tế, người Khmer và người Việt đều có những hình thái kinh tế
nông nghiệp lúa nước, cùng có chung một địa bàn địa lý tự nhiên, nên đã cùng chia
nhau những kinh nghiệm và kỹ thuật canh tác, từ việc chọn giống, làm đất, gieo mạ,
cày, bừa, cấy lúa, bón phân đến khi thu hoạch…, người Khmer và người Việt đều làm
tương đối giống nhau, đặc biệt là ý thức lợi dụng thủy triều để rửa phèn và đưa nước
vào ruộng, đây là phát minh độc đáo của người Khmer xưa dựa trên cơ sở những điều
kiện địa lý cụ thể của đồng bằng sông Cửu Long và người Việt đã học tập.
Bên cạnh đó, việc chăn nuôi trước đây của người Khmer cũng giống người
Việt, cũng nhỏ lẻ, mang tính gia đình, thường chọn hình thức thả rông, có chuồng trại
thì cũng nhỏ, thô sơ. Trâu, bò được nuôi để kéo cày, vận chuyển là chính. Đa phần
cày thì dùng trâu, nhưng có vùng nhẹ cày thì dùng bò, vùng có đất thịt pha cát, không
quá sình lầy, như vùng Bảy Núi, An Giang.
Tài liệu điều tra điền dã ở huyện Mỹ Xuyên tỉnh Hậu Giang tháng 6 -1980, Khoa Sử
trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Trần Ngọc Khánh, thì
người Khmer đã tìm ra hàng trăm giống lúa cổ truyền trị phèn mặn thích hợp với
thiên nhiên đồng bằng. Người Việt đào hàng ngàn kênh, mương lớn nhỏ, tháo cạn
đầm lầy, phủ xanh những vùng đất từ lâu hoang hóa.
Các tộc người qua trao đổi kinh tế mà xích lại gần nhau, học hỏi kinh nghiệm
và giao hoán, vay mượn và tiếp thu những yếu tố văn hóa cần thiết và ưu việt hơn.
Tuy rằng, đến một chừng mực nào đó và về một phương diện nào đó, mỗi tộc người
đều có khuynh hướng co cụm, bảo thủ lại để đề phòng một sự tha hóa về mặt văn
hóa. Có hiện tượng là cái liềm gặt lúa của người Việt và kân điêu, tuy gặt thành từng
nắm nhỏ hơn nhưng ít vung vãi hơn. Việc cắt lúa bằng lưỡi liềm (tiếng Khmer gọi là
Kà liêm) cũng như việc đặp lúa trong hồ (Đôk), theo người Khmer, là yếu tố văn hóa
50
của người Việt. Người Khmer cũng như người Việt thường sử dụng hai loại cuốc phổ
biến là cuốc tiều và cuốc tai tượng. Cuốc tiều đã có từ lâu đời, lưỡi dày, nặng, khó
gãy vì có gờ nối dài ở mặt sau, thường dùng cán gỗ chắc. Gọi là cuốc tiều vì người
Khmer mua ở tiệm của người Hoa, mà người Hoa lại đặt ở thợ rèn người Việt làm.
Cái cày (Neangkol) của người Khmer thân cày cong vòng lên ở phía trên và không có
đòn tay. Có người cho rằng cái cày có đòn tay và vài chi tiết cải tiến ở đế cày và việc
dùng lưỡi cày bằng sắt là kết quả của quá trình giao lưu văn hóa Khmer – Việt ở đồng
bằng sông Cửu Long cho phù hợp với thiên nhiên Nam Bộ.
Cũng theo tài liệu điều tra điền dã ở huyện Mỹ Xuyên tỉnh Hậu Giang tháng 6 -
1980, Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Trần
Ngọc Khánh thì “cách nay khoảng 15 – 20 năm, ở huyện Mỹ Xuyên – Hậu Giang,
người Khmer đã dùng nhiều loại giống lúa phổ biến như loại Neang Pêch đỏ, Neang
Pêch khlai, Neang khmao tauch (Nàng đen đỏ), Neang khmao thôm (Nàng đơn lớn),
nhưng vào khoảng năm 1980 giống lúa Ba Thiệt tức là Neang Soi ngày càng chiếm
ưu thế và trở thành giống lúa địa phương truyền thống ở đây. Ba Thiệt là tên người
Việt tìm ra giống lúa này, Soi là tên người Khmer đầu tiên đem về nhân giống rất
trúng mùa. Hiện nay, nhiều giống lúa mới xuất hiện, cho năng suất cao như Thần
nông IR 28,30,732…” [93]. Rõ ràng, sự giao lưu này đã đi vào từng chi tiết của đời
sống và sản xuất vì lợi ích và hạnh phúc chung của các tộc người anh em ở đồng
bằng.
Trong quá trình lao động sản xuất và cải tạo thiên nhiên, người Khmer từ rất
sớm, để nắm chắc việc trị thủy và giỏi trong các phương thức thủy lợi ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long như đào ao hứng nước trời, xẻ rạch xổ phèn và lên líp trồng rau.
Người Việt với truyền thống trồng lúa nước lâu đời ở đồng bằng sông Cửu Long và
vùng Ngũ Quãng, đào kinh Vĩnh Tế, kinh Thoại Hà (núi Sập) và hàng nghìn kinh
mương lớn nhỏ phủ xanh những cánh đồng hoang hóa. Nếu như người Khmer tìm
kiếm được hàng trăm giống lúa cổ truyền chỉ giới hạn trong những mảnh đất nhỏ
dưới chân giồng thì đồng bào Việt đem nhân rộng ra toàn vùng đồng bằng từ vùng
Đồng Tháp mênh mông nước đến vùng Năm Căn – Cà Mau quanh năm ngập mặn.
“Người Việt dùng loại cọc cáy to cán dài và cong của người Khmer ở những vùng đất 51
cứng, tiếp thu kiểu vòng gặt lúa hình chữ S của người Khmer nhưng điều chỉnh lại
thành hình chữ V cho thích hợp. Ngoài ra, chiếc “phảng”, chiếc “nóp”, ….vốn của
người Khmer đã được người Việt cải tiến thành những dụng cụ quen thuộc và thích
dụng hơn cho người làm nông. Người Việt dùng chiếc nóp (nóp là một cái túi hình
chữ nhật vừa là cái mùng tránh mũi, chiếc chiếu cái mền ngủ qua đêm của người dân
đồng bằng), cái cà ràn (là dụng cụ đốt lửa, nấu ăn hình dáng như một cái thùng cây
đàn lục huyền cầm, tiện lợi như dùng được trên ghe xuồng) của người Khmer. Rõ
ràng trao đổi kinh tế là một mặt căn bản của trao đổi văn hóa giữa các dân tộc” [105,
73].
Với công cụ lao động thô sơ, hiểu biết canh tác theo kiểu “cha truyền con nối”
nên sản lượng lúa hay các loại cây hoa màu nhìn chung không cao, nhưng cũng
chứng minh được người Khmer sớm biết làm lúa nước như người Việt. Các công cụ
lao động phục vụ cho việc làm ruộng rẫy giữa hai dân tộc Việt, Khmer như các công
cụ: “liềm, nọc cấy, dao, phảng, trục cày, trục bừa, gàu…”. Về cơ bản các nông cụ
giống nhau, được học hỏi, vay mượn lẫn nhau, chỉ khác là tiểu tiết do đặc trưng vùng
đất đòi hỏi sự thích ứng nông cụ và tâm lý cộng đồng chế tạo công cụ từ kinh nghiệm
lao động đặt ra. Theo nhà văn Sơn Nam, “cây phảng” gồm có “phảng cổ cò” và
“phảng náp” là hai nông cụ để phát cỏ được người Khmer sử dụng sớm và người Việt
khi đến vùng đất đồng bằng này cũng tiếp nhận và làm theo.
2.2.3.2. Văn hóa cư trú, ẩm thực, trang phục
Theo quy luật phát triển của địa danh thì ngành địa danh học lịch sử đã phát hiện ra
rằng, các cư dân trong quá trình di chuyển có thể đặt tên một địa danh nơi mà mình
đến bằng địa danh cũ nơi họ ra đi. Ngày nay ở Campuchia có các địa danh như
Kôkông, Tak Thmau, tương ứng với Gò Công, Cà Mau…ở Nam Bộ. Phải chăng
người Khmer trong quá trình di chuyển theo dòng sông Cửu Long và biển để đi
xuống vùng châu thổ đã mang theo các địa danh đó đặt tên cho những nơi ở Nam Bộ
mà họ mới đến trước khi có người Việt hay người Chàm. Hiện nay, ở vùng Sóc
52
Trăng, Trà Vinh, nơi người Khmer cư trú lâu đời nhất, cũng không có ngôi chùa nào
có lịch sử quá 300 năm, và người Khmer Nam Bộ hiện nay chỉ ở “giồng” theo tập
quán canh tác của họ, khác với người Việt chỉ cư trú vùng “rạch”cũng theo thói quen
làm rộng của họ. Điều đó nói lên mối quan hệ tự nhiên trong quá trình khai phá đồng
bằng sông Cửu Long của người Khmer và người Việt.
Về nhà ở, “loại hình nhà sàn là phù hợp với thiên nhiên Nam Bộ. Nhà sàn
trước đây là truyền thống cư trú cổ của người Khmer, nhưng một số vùng của người
Việt ở Đồng Tháp, Năm Căn, Sóc Trăng, người Chăm ở Châu Đốc cũng dùng rất tiện
lợi” [106,79]. Thậm chí dù định cư trên những giồng, gò, họ cũng chọn hình thức cất
nhà trên mặt sàn được kê trên những đầu trụ cao, vừa tránh nước đổ của sông
Mêkông chảy từ thượng nguồn về biển hằng năm, vừa tránh thú dữ có trên những
giồng cây cối rậm rạp, lại sạch sẽ, thoáng mát hơn. Tuy nhiên, lâu dần khuynh hướng
này trở thành tập quán. Như vậy, đặc điểm “nhà” (nhà sàn) là nét đặc trưng đầu tiên
cần nghi nhận nơi đồng bào Khmer. Ngày nay, loại nhà sàn (cao cẳng ít thông dụng)
[66, 13].
Những mái nhà lá dừa nước, chiếc xuồng be, cây phảng phát cỏ và chiếc nóp ngủ (để
chống muỗi, đỉa vắt và sương lạnh, người Việt tạo ra một chiếc nóp làm từ ba tấm
đan bằng sợi cây bàng ghép lại để ngủ đêm ở ngoài vườn, ngoài kênh rạch)…là
những loại hình văn hóa vật chất gắn liền nhau và liên kết với đời sống, sinh hoạt của
những cư dân khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài việc phản ánh sự
sáng tạo do hoàn cảnh xã hội, lịch sử của dân tộc, nó còn bao hàm khía cạnh giao
hoán văn hóa của dân tộc Việt và Khmer là những yếu tố chính, để phân tích và hình
thành nên một diện mạo văn hóa của những con người tại vùng đất mới này.
Về ẩm thực: Trong món ăn, người Khmer cũng như người Việt ở đồng bằng
sông Cửu Long khai thác rất nhiều món ăn dựa vào nguồn tự nhiên mang lại. Động
vật có các loại cá, tôm, cua, rắn, chim, chuột…Ăn không hết, có loại còn được phơi
khô, làm mắm để dự trữ ăn dần cho những tháng khô kiệt. Thực vật có các loại rau và
nhiều loại cây hoang dại cũng được đưa vào nhóm thực phẩm mà không phải vùng
nào cũng có như: bồn bồn, bông súng, điên điển, so đũa…Các món ăn cơm như canh
chua cá lóc, quả me, ngò om…các gia vị từ trái dừa…nhiều gia đình cư dân đồng 53
bằng sông Cửu Long được xem là có gốc từ ẩm thực Khmer. Cộng cư lâu đời với
người Khmer, người Việt tiếp thu nhiều món ăn của tộc người này.
Người Việt ảnh hưởng người Khmer đồng bằng sông Cửu Long ở tập quán dùng
nước cốt dừa trong hầu hết các món mặn, món ngọt, đồ chay và cả các món bánh.
Món canh chua ngày nay là sự “cải biến” và thay thế các loại phụ liệu của người
Khmer cho phù hợp với khẩu vị dân tộc. Món canh chua nguyên thủy được nêm bằng
cơm mẻ với mắm praho, được người Việt thay đổi bằng me với nước mắm. Món canh
chua nấu bằng cá khô cũng là từ sự ảnh hưởng của người Khmer. Món bún kèn ở
Kiên Giang cũng là sự phức hợp từ món bún cari của người Khmer; món “bún Bạc
Liêu” cũng là sự cải biến của người Việt dựa trên cơ sở là món “bún nước lèo” của
người Khmer. Người Việt đều ăn mắm “bồ hốc”(theo cách gọi của người dân địa
phương), hai loại bún trên qua bàn tay của người Việt đã có những mùi vị rất riêng,
còn có món canh xiêm-lo của người Khmer; người Khmer cũng thích ăn canh chua cá
kho tộ của người Việt...
Cùng khai phá, cùng sống trên một vùng đất, các dân tộc ở đồng bằng sông
Cửu Long cùng trải qua những khoảng thời gian sống cộng cư cùng nhau, chính vì
thế sự giao lưu văn hóa là điều tất yếu có thể xảy ra trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong
bất cứ điều kiện nào. Nó có sự kế thừa và đào thải, có sự gạn lọc và tích lũy, nhưng
cho dù ở bất cứ hình thức nào nó cũng là những tinh hoa mà các dân tộc đã tích lũy
được trong quá trình sinh sống.
Về y phục: Người Khmer hay người Việt ở tầng lớp nông dân ngày trước đều
đơn giản, không đa dạng quần áo. Nhưng trong cách mặc của người Khmer có phần
phức tạp hơn người Việt. “Người Khmer có kiểu quần áo riêng, trang trí nhiều màu
sắc lộng lẫy, nhưng ngày nay họ ăn mặc cũng như người Việt” [106, 96]. Khi quan
sát thường phục bà ba đen cùng với chiếc khăn rằn đội đầu hoặc quàng cổ trên vai
(cho cả nam và nữ), hay chiếc sarong của nhiều người không chỉ là cách ăn mặc riêng
54
của người Khmer mà có sự tiếp xúc qua lại với người Việt. Trong mặc của người
Việt Nam Bộ là bộ quần áo bà ba màu đen, khăn rằn ri lại có sự tiếp thu từ khăn
Krame của người Khmer. Chiếc áo “bà ba” vốn có của người Việt đã trở nên phổ
biến đối với nhiều dân tộc ít người.
Người nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long ngày xưa thường vận bộ bà ba
đen. Bởi, nó vừa sạch vừa dễ giặt giũ. Vải may là loại vải ú, vải sơn đầm... rất mau
khô sau khi giặt. Bên cạnh đó, chiếc áo bà ba còn có nhiều tiện dụng khác như: Áo
được xẻ ở hai bên hông làm cho người mặc cảm thấy thoải mái, gần vạt áo lại có
thêm hai túi to khá tiện lợi cho việc đựng những vật dụng nhỏ như thuốc rê, diêm
quẹt, tiền bạc... Chính vì tính tiện dụng và sự thoải mái này mà chiếc áo bà ba được
cả nam lẫn nữ ở Đồng bằng sông Cửu Long mặc ngay cả lúc đi làm đồng, đi chợ, đi
chơi... Chiếc khăn rằn cùng chiếc áo bà ba đã trở thành một hình tượng hết sức quen
thuộc và gần gũi với mọi người. Và nó cũng là một biểu tượng cho người phụ nữ
Đồng bằng sông Cửu Long rất cần cù và cũng rất đáng yêu.
Theo các nhà nghiên cứu thì chiếc khăn rằn có nguồn gốc từ người Khmer.
Chính sự tiện ích của nó mà chiếc khăn rằn phổ biến mà không hề có sự phân biệt về
dân tộc, giới tính khi sử dụng nó. Khăn rằn có chiều dài khoảng 1,2 m, rộng chừng 40
đến 50 cm không có các màu sắc cầu kỳ, sặc sỡ mà rất đỗi bình dị và giản đơn. Chiếc
khăn rằn thường có hai màu đen và trắng hoặc nâu và trắng. Hai màu này được kẽ
thành hai lằn ngang, đan chéo vào nhau tạo thành ô vuông nhỏ, trải dài khắp mặt
khăn. Không chỉ có những người lao động lam lũ mà những điền chủ, những người
giàu có cũng sử dụng nó. Khăn được vắt gọn trên đầu đối với người phụ nữ; hoặc cột
ngang trán, chừa hai đuôi khăn nhô lên đầu, nút khăn nằm ở phía trước đối với nam.
Khăn rằn cũng thường được quàng trên cổ (cho cả nam và nữ), một đầu thả trước
ngực, một đầu thả sau lưng. Đôi khi hai đầu buông xuôi xuống phía trước, đi kèm
theo thường là bộ quần áo bà ba làm nên nét đặc trưng của cư dân xứ này. Phụ nữ búi
tóc hoặc chải tóc kẹp. Trong sinh hoạt, chiếc “khăn rằn” (chàng hay choàng tắm) là
55
một sản phẩm đặc biệt được dân tộc Khmer, Việt hay cả người Hoa ở Nam Bộ yêu
thích. Khăn tiện dụng với nhiều chức năng: lau, đội, quấn, quàng,…nên nay vẫn
thông dụng ở vùng nông thôn.
Bên cạnh chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn, một số thành phần khá giả ở đồng
bằng sông Cửu Long ngày xưa như công chức, thương gia, điền chủ... thì ăn mặc có
phần sang trọng hơn, nhất là ở giai đoạn cuối thế kỷ XX khi mà Việt Nam đã bắt đầu
có phong trào Âu hóa thì những tầng lớp này đã chịu ảnh hưởng cách phục sức của
phương Tây. Họ ít mặc các trang phục truyền thống hơn, mà thay vào đó là áo vét-
tông, giày mỏ vịt, sơ mi cổ cồn, thắt cà vạt...Trong các ngày lễ thì trang phục đã trở
thành lễ phục nên cần được ăn mặc chỉnh tề, ngay ngắn, lịch sự. Bộ trang phục được
xem là lễ phục phổ biến ngày xưa là bộ khăn đóng áo dài. Thường thì áo dài bằng
xuyến hay lương đen, còn quần thì màu trắng bằng lụa hay vải. Bộ trang phục này
thường được mặc khi dự lễ cúng đình hay đám cưới, các dịp hiếu, hỉ... Còn nếu như
nhà có tang thì trang phục lễ tang thường chọn màu trắng làm màu chủ đạo, được
may bằng loại vải thô thưa rẻ tiền, biểu thị tình cảm của mình đối với người đã khuất
với ý nghĩa: cha mẹ hoặc ông bà mất rồi, con cái quá đau buồn không thiết gì đến
việc ăn mặc nữa. Áo tang phải được may trở sống ra ngoài. Con là nam thì đầu đội
mũ rơm, nữ thì đội mấn, những người họ hàng thân thích thì chỉ quấn vòng khăn tang
ngang đầu.
Ngày nay, xã hội phát triển, đời sống con người được nâng lên. Từ nhu cầu
mặc ấm đã được nâng lên thành mặc đẹp. Người ta sắm cho mình những bộ cánh ưng
ý nhất, đắt tiền nhất trong khả năng mình có thể. Trong quá trình giao lưu với văn hóa
phương Tây đã xuất hiện nhiều loại trang phục mới,... Dù vậy, chiếc khăn rằn và
chiếc áo bà ba không hề mất đi bởi đó là biểu tượng đặc trưng riêng của người dân
vùng Đồng bằng sông Cửu Long - nhất là phụ nữ. Và nó cũng là một biểu tượng của
bản sắc văn hóa cần lưu giữ.
Nhà cửa, trang phục, ăn uống là các điều kiện cần thiết của con người được xếp
vào phạm trù “văn hóa đảm bảo đời sống” (life sustaining culture). Đó là một trong
56
những thành tố cấu tạo nên văn hóa tộc người, là một mắc xích trong tổng thể văn
hóa tộc người. Yếu tố văn hóa vật chất cũng tạo phần nào thể hiện cả tập quán, tính
cách, phương thức sống…Và như thế khi xét những tố chất vi mô của một khu vực
riêng biệt để nói lên cái tổng thể của khu vực đó thì yếu tố văn hóa vật chất là một
trong những con đường có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề.
2.2.3.3. Văn hóa giao thông
Điểm chung của các cư dân Khmer và người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long
đều trồng lúa nước và tài ứng xử với nước. Nhờ có hệ thống kênh rạch, sông ngòi tự
nhiên và do con người tự tạo, hình thành mạng lưới giao thông đường thủy, thuận tiện
cho các loại thuyền, bè chuyên chở các loại hàng hóa, trao đổi giữa các vùng, giữa
các cộng đồng dân tộc trong vùng với nhau. Trong điều kiện đó đã tăng cường sự
giao lưu kinh tế giữa các cộng đồng Khmer với người Việt hay các cộng đồng
khác…trong lịch sử cũng như hiện tại. Theo Phú Văn Hẳn trong quyển “Người
Khmer và những tương đồng trong văn hóa dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long” thì
“nhiều Phum Sork Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long không thể thiếu các tiệm tạp
hóa của người Việt hay người Hoa…cũng như ở tại các chợ (kể cả chợ nổi) không thể
thiếu sự tham gia của người Khmer”.
“Do sống với hệ thống kênh rạch chằng chịt, người Việt vùng Nam Bộ thường
phải căn cứ vào thủy triều lên xuống (qua hệ thống ngày con nước) để bố trí việc làm
ăn, đi chơi, buôn bán, thờ cúng, thuyền và xuồng ba lá dài, nông, được ghép lại bằng
ba mảnh ván gỗ là phương tiện đi lại, vận chuyển chính” [9, 242].
Trong mạng lưới giao thông: “Nhằm hoàn chỉnh mạng lưới kinh đào kết nối
sông Hậu với vịnh Thái Lan, năm 1987 “Dự án thoát lũ đồng bằng sông Cửu Long”
đã ra đời, với sự đỡ đầu của Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Được triển khai trong những
năm 1987-2003, dự án này đã giúp hoàn chỉnh mạng lưới các tuyến kinh đưa nước lũ
thoát ra vịnh Thái Lan, tháo chua, ngăn mặn cho tứ giác Long Xuyên thuộc hai tỉnh
An Giang, Kiên Giang. Có nước ngọt, có phù sa, nông dân khắp vùng đã đẩy mạnh
việc khẩn hoang, trồng lúa. An Giang là một trong những tỉnh điển hình, sau khi khơi
57
đào con kinh chủ lực T5 vào năm 1996, Hội đồng Nhân dân tỉnh An Giang đã chính
thức đề nghị Trung ương cho đặt tên kinh T5 là kinh Võ Văn Kiệt để tỏ lòng tri ân vị
Thủ tướng đã dành nhiều tâm huyết, công sức cho công cuộc đào kinh, khai phá tứ
giác Long Xuyên. Hiện nay, việc canh tác, mưu sinh trên các cánh đồng trũng từ biên
giới đến hết tứ giác Long Xuyên bao gồm ba mùa vụ: đầu mùa mưa là vụ lúa hè thu;
mùa nước nổi thì dùng xuồng ghe, đăng, đó, vó, câu, nơm... đi đánh bắt thuỷ sản (cá
rô, cá lóc, cá trê, cá mè vinh, lươn, rắn...); khi nước rút thì làm vụ lúa đông xuân”.
Đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và Nam Bộ nói chung là
vùng đất “thiên nhiên ưu đãi”, nhiều tôm cá nên chủ yếu người Khmer hay người
Việt trước đây đều trông vào đánh bắt và tập trung sáng tạo các công cụ đánh bắt.
Các hình thức “câu, lưới, nò, vó, đáy, chà…” được tiếp nhận lẫn nhau để tận dụng
khả năng thu hoạch. Các phương tiện đi sông nước, phục vụ cho việc đánh bắt thủy
sản giữa hai cộng đồng dân tộc cũng “bắt chước” nhau những nét ưu điểm nên các
phương tiện dùng cũng khó để phân biệt phương tiện nào là của người Khmer hay
người Việt, trừ chiếc ghe ngo.
Như vậy, để đi lại, vận chuyển, các tộc người cư trú nơi đây đều phải lựa chọn
những phương tiện phù hợp với các địa hình đặc trưng của không gian Nam Bộ. Ở
trên đất liền thì các cư dân Nam Bộ dùng xe bò, xe ngựa, xe đạp, xe thồ, xe tải… Ở
vùng sông nước thì dùng xuồng, ghe, tắc ráng, vỏ lãi, tàu, bè, bắc (phà), cộ… Ở miền
Tây sông nước, xuồng ghe có vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là phương tiện vận
chuyển tiện dụng cho tất cả mọi người, vừa là phương tiện mưu sinh và phương tiện
cư trú của một số lớn cư dân làm nghề đò ngang, đò dọc, buôn bán và nuôi cá trên
sông. Hình ảnh dòng sông, con đò vì vậy đã phổ biến đến mức trở thành một hình
tượng văn học, một biểu tượng của không gian Nam Bộ. Trong thời Pháp thuộc, khi
giao thông đường bộ bước đầu phát triển, người Nam Bộ đã gọi các chuyến xe khách
liên tỉnh, liên vùng là xe đò. Nói chung, cho đến nay ở miền Tây giao thông đường
thuỷ vẫn rất thông dụng và thuận lợi, mặc dù giao thông đường bộ đã được cải thiện
nhiều. Do nhu cầu phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa, mạng lưới giao thông ở
58
đồng bằng sông Cửu Long cũng có những cải thiện hơn so với trước năm 1975, thậm
chí khá hơn nhiều so với trước năm 2000 tạo điều kiện phát triển cho hoạt động trao
đổi kinh tế hàng hóa giữa các vùng, miền thúc đẩy sự giao lưu văn hóa giữa các cộng
đồng dân tộc ngày càng cao hơn.
2.2.4. Những biểu hiện giao lưu của văn hóa tinh thần Việt – Khmer ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long (1975 – 2000)
2.2.4.1. Văn hóa tổ chức xã hội
Trong cách tính dòng họ của người Khmer, một cá nhân không xem mình
thuộc dòng họ bên cha hay bên mẹ mà tính theo cả hai phía. Đây là một nét khá đặc
biệt của đồng bào Khmer so với các dân tộc khác trong vùng. Trong quá trình cộng
cư xen kẽ giữa các dân tộc Kinh, Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, mối quan hệ
dòng họ có sự biến đổi theo chiều hướng chuyển thành phụ hệ. Hiện nay, theo quan
niệm chung, người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long lấy theo họ cha. Tuy
nhiên, họ ở đây chỉ đơn thuần là một hình thức chứ không có ý nghĩa hình thành một
tộc họ bên nội như người Việt.
Sự biến thiên lịch sử qua các chế độ chính trị khác nhau dù có tạo nên những
thử thách, nhưng khách quan mà nói vẫn chủ yếu tạo điều kiện thúc đẩy sự giao lưu,
hội nhập của văn hóa Khmer với văn hóa vùng nói riêng. Có thể nhận thấy điều đó
qua các biểu hiện sau:
Truyền thống cư trú theo đơn vị phum, sóc tự quản của người Khmer – vận
hành chủ yếu dựa trên những tập quán dân tộc truyền thống và những qui định trong
giáo lý của Phật giáo Tiểu thừa - mặc dù có sức sống bền vững nhưng cũng có những
thay đổi, đặc biệt từ khi nhà Nguyễn và tiếp đó là thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai
trị ở vùng này. Sóc không được gọi là đơn vị hành chính chính thức mà dần dần được
tích hợp vào cơ cấu xã hội theo mô hình như người Việt. Để bảo vệ cơ cấu xã hội
truyền thống của mình trước chính sách đồng hóa cưỡng bức của chính quyền thực
dân phong kiến, cư dân Khmer đã dựa vào hệ thống quản lý của nhà chùa để giải
quyết các công việc nội bộ trong cộng đồng. Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải
59
phóng (tháng 4 năm 1975), vùng nông thôn Khmer được phân định thành các khu
vực hành chính thống nhất: ấp, xã, huyện. Phum, sóc không phải là đơn vị hành chính
chính thức, nó nằm trong các ấp, xã của đơn vị hành chính hiện nay.
Quá trình cộng cư của các dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long đã tạo thành
một sức mạnh tổng hợp và vô cùng to lớn trong việc khắc phục và chế ngự những
thiên tai dịch họa, xây dựng xóm làng, làm cho vùng đất này trước kia chỉ là rừng
rậm hoang vu, đầm lầy và sau 300 năm đã trở thành một vùng đất trù phú, đem lại
một nguồn lợi to lớn từ thiên nhiên, đất hoang dần dần thu hẹp, xóm làng mọc lên, và
đời sống kinh tế ngày càng được nâng cao. Ngay từ thế kỷ XVIII vùng đồng bằng
sông Cửu Long đã xuất hiện nhiều thị tứ, tụ điểm buôn bán sầm uất, có thể kể đến
như thương cảng Bãi Xàu, thương cảng Hà Tiên, Mỹ Tho đại phố...
2.2.4.2. Văn hóa tôn giáo tín ngưỡng, phong tục, lễ hội
Ngoài sự giao lưu về sinh hoạt kinh tế và văn hóa vật chất, sự giao lưu còn đi
vào phong tục tập quán và văn hóa tinh thần của các tộc người:
Trên bình diện tôn giáo: những năm trước hay sau năm 1975 cho đến giai
đoạn đầu bước vào thế kỉ XXI cũng như giai đoạn hiện nay, người Khmer trước theo
đạo Bà la môn giáo, một tôn giáo có thể xa lạ với người Kinh, nhưng sau đó, người
Khmer theo Phật giáo Nam tông, Tiểu thừa thì lại rất gần gũi với người Việt theo
Phật giáo Bắc tông. Mặc dù theo Phật giáo Bắc tông Đại thừa, nhưng Phật giáo nói
chung vẫn được xem như một tôn giáo phổ biến của người Việt. Tuy khác nhau tông
phái trong hai cộng đồng Phật giáo Việt và Khmer, nhưng sự khác biệt này là không
nhiều. Vì vậy, những ảnh, tượng Phật giữa các chùa Khmer và chùa của người Việt
gần như có sự giao thoa lẫn nhau.
Sự giao lưu về tôn giáo, tín ngưỡng giữa các tộc người còn thể hiện rất rõ nét
qua việc thờ cúng ông bà, cha mẹ đã khuất.“Trước đây, việc thờ cúng ông bà của
người Khmer chủ yếu tập trung tại các chùa, nhưng ngày nay họ cũng theo tục của
60
người Việt, người Khmer cũng lập bàn thờ ông bà, cha mẹ, hay người thân dòng họ
đã chết ở trong nhà, tạo cho không khí gia đình thêm ấm cúng hơn. Trên bàn thờ
thường để chân nhang cho mỗi người, đôi khi còn có tấm giấy đỏ kẻ chữ Hoa. Ngoài
ra, cũng không có gì là lạ khi thấy xuất hiện trên bàn thờ người Khmer tượng Quan
Công hay Quan Thế Âm Bồ Tát là những “đấng siêu nhiên” của đồng bào Việt” [106,
81]. Quá trình cộng cư đã tạo ra sự giao lưu về mặt văn hóa giữa các dân tộc. Dù mỗi
dân tộc đều có một bản sắc văn hóa riêng, nhưng cuộc sống chung với nhau nhiều
ngày đã dẫn đến sự đan xen và pha trộn lẫn nhau giữa các nền văn hóa, tạo nên một
nét đặc trưng trong bản sắc văn hóa của vùng sông nước Cửu Long. Một dẫn chứng:
về mặt tôn giáo tín ngưỡng, cả hai dân tộc Việt, Khmer đều có thờ Phật, nhưng người
Việt cũng đều có thờ NeakTà của người Khmer.
“Ngoài ra, bàn thờ ông Thiên cũng là một dạng tín ngưỡng dân gian phổ biến ở
người Kinh mà Phật giáo Hòa Hảo, một tôn giáo địa phương của người Việt ở Nam
Bộ đã du nhập vào coi như một điện thờ bắt buộc phải có của tín đồ mình cũng được
người Khmer tiếp nhận. Bàn thờ ông Thiên thường được làm đơn giản bằng một thân
cây cao khoảng 1 mét, trên có một tấm ván nằm ngang để đựng chân nhang…” [91,
31]. Và có lẽ đây là tàn dư của loại hình tín ngưỡng sơ khai của cư dân bản địa Nam
Á hoặc do sự giao lưu văn hóa mà đi vào quan niệm thờ cúng của người Khmer. Vì
vậy, trước sân nhà của người Khmer ngày nay cũng có bàn thờ ông Thiên như bao
gia đình người Việt theo tín ngưỡng phương Đông hoặc theo đạo thờ cúng ông bà.
Bên cạnh đó, một số tập tục thờ cúng, gần như cũng có sự tương tác, giao thoa
với nhau. Chẳng hạn, tục cúng thầy pháp của người Việt cũng gần giống với cúng
Arăk của người Khmer; tục xây miếu thờ Bà, thờ Ông của hai dân tộc cũng không
khác gì nhiều. Nhà văn Sơn Nam có nhận xét về điều này như sau: “Văn hóa Việt
Nam truyền thống rất trọng việc thờ Nữ thần, Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ là tiếp nối từ
Bà Liễu Hạnh ở Nam Định, rồi bà Chúa Ngọc ở điện Hòn Chén, Nha Trang. Vẫn là
chầu văn, múa bóng rỗi: “Bà đi Châu Đốc, bà về Nam Vang. Quê bà ở tận Nha
61
Trang”. Bà ở Nha Trang là Po Y Nagar, nhập vào tượng đá của người Chăm. Vào
biên giới Tây Nam, bà lại nhập vào tượng đá Khmer cũng là bình thường” [123, 13-
14], một hiện tượng phổ biến thường thấy hiện nay ở Sóc Trăng.
Hiện nay trong các vùng dân cư hỗn hợp ở đồng bằng sông Cửu Long ta thấy
phổ biến hiện tượng là các cơ sở tôn giáo của các dân tộc khác nhau cùng xây dựng
bên nhau trong cùng một địa phương, một thị trấn hay một làng xóm. Ở Sóc Trăng,
Trà Vinh, Bạc Liêu hay Cà Mau… miếu Bà Thiên Hậu, miễu Ông Bổn…đứng chung
cùng Phật giáo tiểu thừa của người Khmer, bên cạnh đó trong nhà người Khmer cũng
thấy xuất hiện ảnh thờ Quan Thế âm Bồ Tát của người Việt.
Người ta cũng dễ nhận ra sự giao lưu về phong tục giữa các cộng đồng dân tộc
Việt – Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. “Trong tục mai táng, nhiều người Việt ở
vùng tập trung sinh sống của người Khmer cũng hỏa thiêu và gởi tro trong tháp của
các chùa Khmer (vốn là tập tục của người Khmer); ngược lại, người Khmer cư trú
vùng đông người Việt lại chôn xác chứ không hỏa thiêu” [106, 79].
Ở các vùng cộng cư chung của tộc người Việt, người Khmer như ở Trà Vinh,
Sóc Trăng, Bạc Liêu….đều ăn hai cái Tết lớn là tết Nguyên Đán (ảnh hưởng từ văn
hóa của người Hoa) và tết Châul Chhnam Thmei. “Trong các ngày lễ tết, các tộc
người đều tiến hành thăm mộ tổ tiên, cúng chùa, thăm hỏi nhau, đồng thời làm những
loại bánh truyền thống. Trong lễ Thanh minh, người Việt đi thăm mộ thì người
Khmer đi lễ chùa, viếng tháp. Nhất là trong những gia đình hỗn hợp Việt – Khmer,
Việt – Hoa, Khmer – Hoa thì những lễ tết của ba tộc người đều không thể thiếu trong
đời sống cộng đồng cũng như trong đời sống gia đình” [106, 79-80].
2.4.4.3. Ngôn ngữ, văn hóa dân gian
Sự giao lưu văn hóa giữa người Việt và người Khmer ở đồng bằng sông Cửu
Long còn thể hiện trong ngôn ngữ giao tiếp. Đáng chú ý là hầu hết người Khmer
vùng này sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp xã hội. Trong giao tiếp nhiều người có
thể chuyển từ ngôn ngữ Việt (tiếng phổ thông) sang ngôn ngữ Khmer một cách tự
nhiên. Trên bình diện ngữ âm, âm tiết tiếng Khmer và âm tiết tiếng Việt có những
62
điểm giống và khác nhau được ghi nhận sau: Cả hai đều có âm đầu và phần vần,
nhưng âm tiết tiếng Khmer không có thanh điệu và âm đệm (tiền chính âm) “w” như
âm tiết tiếng Việt [66, 37].
“Trong thực tế, ngôn ngữ các dân tộc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã có
sự vay mượn lẫn nhau, nhiều từ tiếng phổ thông (tiếng Việt) đã được người Khmer sử
dụng nhằm bổ sung vào vốn từ ngữ của dân tộc mình; ngược lại, người Việt cũng
dùng những từ của người Khmer, nhất là những dụng cụ, công cụ, món ăn…có xuất
xứ từ người Khmer. Việc pha trộn linh hoạt về ngôn ngữ, các món ăn, một số phong
tục giữa các dân tộc trong vùng đồng bằng sông Cửu Long diễn ra một cách tự nhiên,
đến mức người ta không phân biệt được nguồn gốc của nó và hầu như cũng không
quan tâm đến nguồn gốc, xuất xứ từ đâu” [29, 78]. Theo tác giả Trần Phỏng Diều
(Báo Bạc Liêu, số 1517, ngày 2-8-2008), trong tiếng nói của người Việt có xuất hiện
những từ như: cà ràng, xà quầng, mình ên, canh xiêm lo…xuất phát từ tiếng Khmer.
Ở đây còn diễn ra hiện tượng song ngữ và tam ngữ. “Người Khmer, trừ những
người già cả, đều nghe, hiểu và nói được tiếng Việt như tiếng phổ thông trong quan
hệ xã hội, ngược lại người Việt cũng vậy. Về mặt từ vựng, rất nhiều từ của nhau được
vay mượn, trao đổi do nhu cầu giao lưu với nhau, nhất là những từ khoa học kỹ thuật
và cách mạng thường bắt đầu từ ngôn ngữ Việt. Ở Minh Hải, có một số người Việt
nói tiếng Khmer rất thạo và phong tục tập quán nhiều điểm rất giống người Khmer”
[106, 80].
Trên bình diện từ vựng, từ tiếng Khmer và từ tiếng Việt (tiếng người Việt) đều
có hai lớp từ vựng: từ gốc dân tộc và từ vay mượn. Từ gốc dân tộc của tiếng Khmer
hay tiếng Việt đều có gốc ngữ hệ Nam Á, nhưng tiếng Khmer thì thuộc nhóm ngôn
ngữ Môn – Khmer, còn tiếng Việt thì thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường. Do cùng
một hệ ngữ nên trong tiếng Việt và tiếng Khmer có thể có hiện tượng từ ngữ biểu thị
một sự vật, khái niệm, được thể hiện bằng một hình thức ngữ âm gần gũi hoặc giống
nhau. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, đó là hiện tượng vay mượn lẫn nhau.
Nhưng ý kiến khác thì lại dựa trên cơ sở của ngữ hệ Nam Á mà nhìn nhận mối quan
63
hệ ngữ âm này mang tính chất tộc hệ. Do vậy, ta có thể nhìn nhận sự tương đồng ở
một số yếu tố từ vựng giữa hai ngôn ngữ, tiếng Khmer và tiếng Việt, từ tính chất ngữ
hệ có thể chính xác hơn nhìn nhận từ gốc độ tiếp thu, vay mượn [66, 39].
Bên cạnh đó, ngoài ngôn ngữ riêng của mỗi dân tộc, tiếng Việt dần dần trở
thành ngôn ngữ sử dụng phổ thông của các dân tộc trong vùng nhưng cũng pha trộn
nhiều từ ngữ, thành ngữ của nhau. Trong tiếng Việt đã có sự hiện diện của tiếng dân
tộc Khmer và ngược lại, chẳng hạn như các từ cà ràng, xà quầng, mình ên... xuất phát
từ tiếng Khmer được khẳng định trong bài viết tác giả Trần Phỏng Diều (Báo Bạc
Liêu, số 1517, ngày 2-8-2008).
Nhưng trên bình diện tiếng Việt là ngôn ngữ Quốc gia, người Khmer tiếp nhận
nhiều yếu tố Việt ngữ vào trong giao tiếp đời sống. Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt và
tiếng Khmer có những điểm chung đó là cả hai đều có hệ từ ghép, bao gồm từ ghép
chính phụ và từ ghép tổng hợp. Trên bình diện chữ viết, tuy cả hai đều là chữ viết ghi
âm, nhưng hệ chữ tiếng Việt là hệ chữ Latinh, còn hệ chữ tiếng Khmer được xác định
là hệ chữ cổ của miền Nam Ấn Độ, mà gốc của nó, theo một nhà ngữ văn học Khmer,
là chữ Brãhmi (thánh thần) [66, 46].
Ngoài ra, sự giao lưu cũng được tìm thấy trong các loại hình văn nghệ dân gian
như: văn học, sân khấu, ca, múa, nhạc… “Trong văn học dân gian như tục ngữ, câu
đố, ca dao, đồng dao…của dân tộc Việt – Khmer đều có sự vay mượn những nội
dung của nhau, một sự giao thoa hay đồng cảm tư duy sâu sắc. Chẳng hạn để diễn đạt
ý niệm “tam sao thất bản” của người Việt, người Khmer nói: “Kaek muôi, kaek dop”
(một con quạ thành mười con quạ)” [105, 75]. Cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười của
người Việt, người Khmer được lưu truyền rộng rãi. “Nhiều truyện cổ dân gian của
người Khmer có đề tài và nội dung gần gũi với truyện cổ tích của người Việt như
Chao Sanh – Chao Thông (Thạch Sanh – Lý Thông), Neang mahrônah Meađa (Cô
gái mồ côi mẹ; Tấm Cám), Chao Srâ tôp Chêk (Chàng Khố chuối: Trần Minh Khố
64
chuối), Cối xay thần, Chàng Cá Cóc, Cây Khế…” [18, 76-77].
“Cũng như văn học, sự giao lưu văn hóa cũng diễn ra trong lĩnh vực văn hóa
dân gian cũng là điều thú vị giữa các tộc người. Đặc biệt là kịch hát Yukê của người
Khmer ra đời sau Cải lương Nam Bộ không bao lâu, rất được quần chúng Khmer ưa
chuộng, còn được gọi là La Khôn Basac (kịch hát vùng Basac tức vùng đồng bằng
sông Cửu Long). Ngoài các tuồng tích rút từ anh hùng ca Ấn Độ Ramayana, Yukê
còn đưa lên sân khấu một số truyện cổ của người Việt như Thạch Sanh chém chằn,
Tấm Cám, những Phật thoại thần thoại như Lin Thông, Mak phu yong kev Săk Kinh
Ni…” [106, 82-83].
Cuộc sống “khai sơn phá thạch” trên đồng bằng sông Cửu Long đã khắc họa
lên cá tính của người nông dân Việt ở đây một dấu ấn mới: khả năng chan hòa với
cộng đồng khác. Trong ứng xử hằng ngày, đấy cũng có thể được xem là biểu hiện của
lòng hào hiệp, của đạo lý trọng nghĩa khinh tài. Nhưng rõ nhất là trên bình diện văn
hóa: tập quán của người Việt ở Nam Bộ kể cả tập quán văn nghệ còn trữ lại bao nét,
bao hình thức, tiếp thu từ các tộc người vốn cư trú ở đây trước họ. Sống gần gũi
người Khmer, họ chịu ảnh hưởng rõ rệt về tín ngưỡng (Phật giáo tiểu thừa), về ngôn
ngữ (lấy lại của người Khmer một số tên địa phương, tên một số loại thảo mộc.
Nhìn chung, do đặc điểm cảnh quan đồng bằng, do cộng cư lâu dài, quá trình
phát triển văn hóa của người Khmer là do những vận động phát triển nội tại và do sự
giao lưu văn hóa giữa Việt, Khmer, một mặt, nó thử thách sức sống của các yếu tố
văn hóa tộc người, mặt khác, nó du nhập, bổ sung những yếu tố mới, kích thích sự
phát triển của văn hóa Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, để từ đó làm giàu và đa
dạng thêm nền văn hóa Khmer cũng như làm rõ thêm phong cách Khmer trong văn
hóa chung của dân tộc Việt Nam khi bước vào thế kỉ XXI.
2.2.5. Yếu tố dẫn đến giao lưu văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long (1975 – 2000)
2.2.5.1. Cội nguồn lịch sử văn hóa: (yếu tố địa – lịch sử, yếu tố địa – văn hóa)
Đồng bằng sông Cửu Long xưa do vị trí địa lý đặc biệt quan trọng, là đầu cầu,
65
là cửa ngõ của Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, của lục địa và hải đảo, nên rất
sớm đã là nơi gặp gỡ của những nền văn hóa cổ rực rỡ, là nơi thiên di và sinh tụ của
nhiều tộc người trong lịch sử. Tiêu biểu là nơi mà các dân tộc Việt, Khmer hay Hoa,
Chăm đã cùng cư trú bên nhau, khai thác đất đai, xây dựng cộng đồng và phát triển
bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Từ những tài liệu khảo cổ - dân tộc học cho tới
những tài liệu văn hóa - văn nghệ dân gian đều cho thấy hiện nay ở đồng bằng sông
Cửu Long còn bảo lưu rất rõ những nét văn hóa chung trong dân cư các dân tộc Việt,
Khmer. Có thể đây là những nét văn hóa chung của các cư dân Nam Á, tập trung rõ
nét ở đồng bằng sông Cửu Long, chứng minh một cội nguồn chung và một xuất
nguyên giống nhau phản ánh trên tư duy thần thoại của các dân tộc cũng như trên hoa
văn trống đồng Ngọc Lũ.
Một phát hiện khảo cổ học gần đây của Lê Xuân Diệm về những phát hiện
khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam thuộc Viện Khoa học xã hội năm 1978, trên
những vùng địa mạo khác nhau từ những thềm phù sa cổ, bờ biển cổ cho tới những
vùng nước lợ của các di chỉ An Sơn (Đức Hòa), Rạch Núi (Cần Giuộc)…cho thấy
những tư liệu khá hoàn chỉnh về người cổ, động vật cổ, đồ gốm, đồ dùng, đồ trang
sức…cho phép nói đến một cộng đồng xã hội và một nền văn hóa cổ tồn tại ở đây.
“Các cư dân này đã thuần dưỡng động vật, cây trồng thích hợp, chế tạo những công
cụ đá để khai phá thiên nhiên, mở rộng tổ chức gia đình thành những thị tộc với
những phân công xã hội đầu tiên, và từng bước những người tối cổ đó đã xây dựng
một nền văn minh cổ đầu tiên trên đồng bằng này. Đồng thời, trong các thần thoại,
truyền thuyết và truyện cổ dân gian của các dân tộc Việt, Khmer được lưu truyền đều
có chung một quan niệm về nhị nguyên luận vũ trụ (hay thuyết vật chất nhị nguyên
tương phản), trong đó có nước và đất, núi và đồng bằng, lục địa và biển, loài có cánh
và loài thủy sinh tương phản nhau” [105, 66]. Bên cạnh đó, các tục thờ đá trong các
miếu thổ thần của người Việt, miếu Neakta của người Khmer; hay những ngày hội
nước với những tục đua ghe và những lễ nghi trong nông nghiệp vào mùa khô của
dân tộc Khmer…Đó là dấu vết nhà sàn của các Sala chùa Khmer, nhà người Việt
vùng Đồng Tháp, An Giang. Đó là phương thức thủy lợi đào ao chứa nước như Ao
Bà Om của người Khmer, hay những kênh rạch của người Việt...Những nét văn hóa 66
chung này đều là nền tảng trong đời sống cộng đồng của các dân tộc, đồng thời là
những tiền đề quan trọng cho sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Việt – Khmer
trong quá trình cộng cư và phát triển.
Tạp chí Dân tộc học, năm 1979 và tư liệu in-rô-nê-ô của Ban dân tộc học, Viện
Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả Mác Mod trong bài viết “Người
Chàoa - Ku ở Châu Đốc”, “đồng bằng sông Cửu Long còn là một vùng bán đảo chịu
ảnh hưởng nặng của thủy triều và các sông rạch, con nước, do đó yếu tố văn hóa biển
và ảnh hưởng văn hóa của dân tộc Malaiô Pôlinêdiên khá rõ nét. Ưu thế của truyền
thuyết rắn thần Naga và yếu tố Néak (linh vật biển), nữ thần rắn Sôma trong thần
thoại xuất nguyên của người Khmer biểu hiện rất rõ. Sư hiện diện của cộng đồng
người Java-ku (Java là tên một tộc người, một hòn đảo của quần thần Inđônêxia và
Ku: là Khmer) là một cộng đồng tộc người được hình thành bởi sự hỗn hợp văn hóa -
nhân chủng giữa các tộc người Java, Khmer và Chàm ở Châu Đốc. Sự hiện diện của
thần linh biển trong đời sống tinh thần của người Việt hay người Khmer biểu hiện
qua việc thờ cúng rất nhiều ở các miếu ông Bổn Đầu Sông và Bà Thiên Hậu, hay
trong các lễ hội Nghinh Ông rải rác khắp đồng bằng sông Cửu Long, đó là các thần
linh mà theo đồng bào là quyết định họa phúc của đại dương” [105, 67].
Ngoài những yếu tố văn hóa chung, mỗi dân tộc trong quá trình phát triển tộc
người đều phát triển trên những đặc thù của văn hóa truyền thống của mình, những
đặc thù này tạo thành bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc ở đồng bằng sông Cửu
Long. Ở đây, người Việt là dân tộc đa số, chủ thể mà tổ tiên là những người nông dân
từ đồng bằng sông Hồng, từ vùng Ngũ Quãng di cư vào khai thác đất đai, xây dựng
làng xóm, đình chùa. Bằng truyền thống nông nghiệp lúa nước, cư dân Việt đã đào
đắp hàng ngàn cây số kênh mương làm sống lại sự trù phú của đồng bằng sông Cửu
Long mà trước đó không lâu đã bị bỏ hóa cho rừng và biển tràn ngập. Tuy bị qui định
bởi một thiên nhiên đầy tiềm ẩn, thử thách và bị kìm hãm bởi các thế lực bốc lột,
người nông dân Việt với nổ lực lao động đã sáng tạo nên những cá tính và đặc điểm
văn hóa đặc sắc và nhiều sản phẩm vật chất phong phú. Đó là cam Cái bè, thuốc Cao
lãnh, mắm Châu Đốc, dừa Bến Tre. Đó là kỹ thuật dùng “phảng” phát cỏ, đốt rồi cấy 67
lúa phù hợp với thiên nhiên bao la đầy cỏ của Nam Bộ. Đó là kỹ thuật làm vườn vùng
Mỹ Tho, Tiền Giang, Cao Lãnh..
Người Việt vùng đồng bằng sông Cửu Long còn tạo ra loại hình văn nghệ dân gian
quý báu như cải lương, nói thơ Vân Tiên, thơ Thầy Thông Chính...; nói tuồng, nói
vè…Người Việt ở đây còn có chiếc áo bà ba, chiếc khăn rằn, các loại mắm và thức ăn
đặc trưng Nam Bộ…Rõ ràng đây là những nét văn hóa Việt chỉ có ở đồng bằng sông
Cửu Long qua việc cải tạo thiên nhiên và thích nghi, ứng xử của bản thân mình tạo
nên.
“Bên cạnh người Việt, cư trú xen kẽ trong các vùng Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc
Liêu, Tri Tôn là đồng bào Khmer anh em. Người Khmer quần tụ trong các phum sóc
được thiết lập lâu đời trên các giồng đất cao, bao quanh các ngôi chùa Phật giáo tiểu
thừa giữa những hàng cây sao cao vút. Người Khmer mà trong truyền thuyết khởi
nguyên là con cháu của dòng dõi chim thần Garuda có sức sống điều động lửa và sấm
sét phối hợp cùng vị thống lĩnh các nguồn nước, mưa, sông rạch của giồng dõi cá
thần hay rắn thần Naga, đã có một lịch sử văn hóa, nhân chủng, tổ chức xã hội và chữ
viết Palí mang ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ cũng như sức sáng tạo phong
phú của dân tộc này. Từ thế giới quan Phật giáo tiểu thừa và từ tư duy lưỡng nguyên,
người Khmer đã tạo nên một truyền thống văn hóa cá biệt với những kiến trúc chùa
nguy nga với các mô típ Rìa-hu, tượng tròn, tượng bốn mặt, chim thần, chim rắn, với
các dạng thức phù điêu mang cá tính và phong cách riêng” [105, 69].
Các cộng đồng cư dân ở đồng bằng sông Cửu Long có quan niệm sống “bán bà
con xa hơn láng giềng gần”, bởi vùng đồng bằng sông Cửu Long trước đây vốn là
vùng đất hoang sơ, dân cư thưa thớt, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nhiều thú dữ.
Đến khi việc cải tạo vùng đất hoang sơ bắt đầu mang lại hiệu quả thì bọn phong kiến,
thực dân đã dùng mọi thủ đoạn để cướp đất của cư dân trong vùng. Trong điều kiện
đó, để bảo vệ mình và bảo vệ đất đai, các dân tộc trong vùng phải đoàn kết, nương
tựa và giúp đỡ nhau chống chọi với thiên nhiên, chống lại bọn phong kiến, thực dân.
Điều này chứng tỏ sự gắn kết cộng đồng dân tộc trong một địa bàn sinh tụ là một nhu
cầu tất yếu để sinh tồn, góp phần hình thành và không ngừng củng cố truyền thống 68
đoàn kết giữa các dân tộc trong vùng. Truyền thống đoàn kết đó đã được thể hiện
trong hầu hết các phong tục, tập quán, lễ hội, trong các giá trị văn hóa của từng cộng
đồng cư dân cũng như những giá trị văn hóa chung của các dân tộc vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
Truyền thống và phong cách văn hóa Khmer góp mặt cùng phong cách Việt, đã
làm đa dạng văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long và tạo cho nơi này một bản sắc
riêng độc đáo. Dân tộc Việt và Khmer, trên cơ sở những đặc điểm văn hóa riêng của
mình, trong quá trình chinh phục thiên nhiên đồng bằng và đấu tranh chống áp bức,
bóc lột, đã vay mượn và giao hoán những yếu tố văn hóa của nhau để tồn tại ngày
càng phát triển hơn trong thời kỳ hiện nay, nhất là từ sau đại thắng mùa Xuân năm
1975 đến khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới của thế kỉ XXI. Dần dần qua thời
gian, những yếu tố văn hóa dù của dân tộc nào mà không thích ứng với điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội hay tỏ ra lạc hậu so với qui luật tiến bộ đều bị loại trừ, để
nhường chỗ cho những yếu tố văn hóa tỏ ra ưu việt hơn. Ngoài các yêu tố văn hóa
bản địa và các yếu tố văn hóa mới nảy sinh; qua các dân tộc Việt hay Khmer, ta thấy
sự hiện diện những yếu tố của hai nền văn hóa lớn, đó là văn hóa Ấn Độ qua người
Khmer, văn hóa Trung Quốc qua người Việt hay là sự hiện diện yếu tố của nền văn
hóa Hồi giáo qua người Chàm Islam. Đồng thời, vùng đồng bằng sông Cửu Long còn
hiện diện những yếu tố của các nền văn minh khác và của các dân tộc khác trong khu
vực hay mới du nhập trong những thế kỉ gần đây. Thế kỉ XIX, thực dân Pháp đem
văn hóa và kỹ thuật phương Tây đến đồng bằng Nam Bộ như một khí cụ xâm lược,
do đó dù muốn hay không muốn trong gần một trăm năm thuộc địa, văn hóa và văn
minh Tây phương đã du nhập, len lỏi trong cơ cấu xã hội các dân tộc ở Nam Bộ nói
chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng trong một mức độ nào đó.
Thế nhưng không phải không có sự đối kháng và đấu tranh quyết liệt khi giai
cấp bóc lột muốn áp đặt một nền văn hóa ngoại lai phi nhân bản và sự bảo tồn những
tinh túy văn hóa của quần chúng lao động các dân tộc. Và như chúng ta được biết,
69
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã thất bại không chỉ bằng chính trị, quân sự, mà cả
bằng văn hóa nữa, những gì không thích ứng với xã hội quần chúng nhân dân đấu
tranh loại trừ.
Đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long do nhiệm vụ của địa bàn này qui
định, do đó nó vừa mang tính bao dung vừa mang tính đấu tranh. Do sự giao lưu văn
hóa mà mang tính bao dung này được nhận thấy rất rõ, đồng thời bởi tính bao dung
văn hóa nên sự giao lưu mới được tiến hành thuận lợi. Do đó không lạ gì khi thấy
những đại diện các tôn giáo lớn các nền văn hóa lớn của thế giới được đặt ngồi chung
với nhau trên điện thờ của một tôn giáo địa phương được sản sinh từ đồng bằng.
Bao dung nhưng có chọn lọc, bao dung nhưng cương quyết đấu tranh với sự áp
đặt, với sự lạc hậu và những yếu tố văn hóa không thích nghi với tâm hồn và lối sống
của dân tộc. Những cuộc đấu tranh này thường nổ ra sớm nhất, cương quyết nhất từ
đồng bằng sông Cửu Long. Có những cuộc đấu tranh thể hiện bằng chính trị, quân sự
nhưng cũng có những cuộc đấu tranh có tính âm ỉ, lâu dài giữa những yếu tố, những
phong trào đơn lẻ cho sự tồn tại và phát triển của bản thân văn hóa của các dân tộc
vùng đất mới Nam Bộ.
Tính đa dạng và phong phú của văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long thể
hiện bởi sự tiếp thu và giao lưu không ngừng giữa những luồng văn hóa mới (văn hóa
Đông phương hay văn hóa Tây phương đã được du nhập vào vùng đất mới này thông
qua các cuộc di cư hay những cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp, Mỹ hoặc thông
qua con đường thương mại…) và nền văn hóa địa phương. Tiêu biểu được thể hiện ở
khả năng tổng hợp và phát triển những cái mới của dân tộc Việt, Khmer bằng sự ra
đời của loại hình sân khấu Cải lương của người Việt cũng như sân khấu Yukê của
người Khmer là một điển hình tốt đẹp của văn hóa đồng bằng.
Trên nền tảng của các yếu tố địa lý tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử hết sức đặc
thù, và chính lợi thế địa – kinh tế với sự giao thương rộng rãi, giao lưu văn hóa giữa
các tộc người qua các thời kì lịch sử đã hun đúc nên tính cách con người Nam Bộ:
bao dung, hào hiệp, thẳng thắn, năng động.
Là dân “tứ chiếng”, ly hương “tha phương cầu thực” cũng chỉ vì sự áp bức bất công,
vì “thời loạn”, họ đã ra đi và mang theo trong mình chút máu “nổi loạn” đến vùng đất 70
mới. “Trong quá trình khai phá đất hoang lập nên làng xóm, lưu dân người Việt,
người Khmer…đã kiên cường vượt qua bao thử thách, cả sự khắc nghiệt của tự nhiên
lẫn sự bất công, phiền nhiễu của tầng lớp thống trị. Họ đấu tranh để bảo tồn sự sống,
cho công lý được thực thi. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như chống áp
bức bất công của người dân ở đồng bằng sông Cửu Long, có sự tham gia của nhiều
dân tộc chung sống với nhau qua bao chặng đường lịch sử: Việt, Khmer, Hoa,
Chăm…như khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương (Võ
Duy Dương) diễn ra ở Nam Kỳ chống thực dân Pháp” [94, 308 - 309].
Từ những yếu tố tự nhiên đặc thù như đã phân tích ở trên, với sự quần cư của
nhiều tộc người từ thời tiền sử đến nay ở vùng đất Nam Bộ mà tiêu biểu là hai tộc
người Việt và Khmer sinh sống đông đảo trên địa bàn vùng đồng bằng sông Cửu
Long, trải qua nhiều thăng trầm và biến động về mặt lịch sử - chính trị. Với sự hỗn
dung từ nhiều nền văn hóa, đã tạo nên trên vùng đất này những đặc trưng về kinh tế -
xã hội, dẫu rằng kể từ sau năm 1975 và cho đến nay, đồng bằng sông Cửu Long vẫn
đi lên trong sự thống nhất của quốc gia dân tộc Việt Nam.
2.2.5.2. Quá trình cộng cư lâu dài
Do đặc điểm lịch sử quá trình hình thành vùng đất và dân cư ở đồng bằng sông
Cửu Long, cộng đồng cư dân nơi đây đã hình thành một quan niệm sống được thể
hiện bằng câu ca dao: “Ra đi gặp vịt cũng lùa, gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng
tu”, đây được xem là một trong những nét tính cách đặc trưng của người nông dân
Nam Bộ, có lẽ quan niệm này được hình thành do quá trình đi khai khẩn những vùng
đất mới để sinh tồn của các cư dân nơi đây. Những đặc điểm thiên nhiên ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long và tình trạng cư trú hỗn hợp, xen kẽ, đòi hỏi các cư dân Việt nói
riêng và các cư dân khác nói chung phải tích lũy kinh nghiệm và những tri thức dân
gian với khát vọng là chinh phục và làm giàu vùng đất này. Chính khát vọng đó đã
làm cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn, học hỏi kinh nghiệm và tiếp thu những
yếu tố, những giá trị văn hóa cần thiết của hai dân tộc Việt – Khmer cùng cộng cư,
71
góp phần làm phong phú văn hóa dân tộc mình.
Vùng châu thổ sông Cửu Long cũng là một điểm hội tụ của Đông Nam Á thời
tiền sử, yếu tố đồng bằng chiếm vai trò chủ đạo nhưng cũng rất đậm yếu tố biển, biểu
hiện không chỉ trong nền văn hóa Đông Sơn – Sa Huỳnh, mà còn có văn hóa Óc Eo,
Đồng Nai…
Trong quá trình lao động chinh phục thiên nhiên cũng như trong đấu tranh
chống lại sự áp bức bốc lột của các giai cấp phong kiến và sau này là thực dân đế
quốc thống trị, các tộc người ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà tiêu biểu là người
Việt, người Khmer cùng bộ phận người Hoa, hay người Chăm đã đoàn kết hòa hợp
với nhau. Đây là cơ sở thực tế để mỗi tộc người tồn tại và phát triển, là tình cảm giai
cấp của quần chúng lao động cùng chịu chung một số phận chính trị, và cũng là quá
trình diễn ra sự giao lưu văn hóa một cách tự nguyện và sâu sắc nhất. Ở đồng bằng
sông Cửu Long, người Việt chiếm đại đa số tiếp sau đó là tộc người Khmer sinh sống
trên vùng đất này. Người Việt hiện là tộc người chủ thể, có nhiều loại hình văn hóa,
đa dạng, là nhân tố quan trọng nhất trong các mối giao lưu, thúc đẩy sự phát triển và
tiến bộ trong các tộc người anh em và trong bản thân tộc người mình. Sự giao lưu
diễn ra một cách toàn diện, nảy sinh từ thực tế của cuộc sống, và có lẽ bắt đầu từ
những yếu tố văn hóa tiến bộ nhất và có lợi nhất cho sự phát triển và sự đồng cảm sâu
xa giữa các tộc người. Những yếu tố văn hóa, dù của tộc người nào mà tỏ ra không
thích ứng với điều kiện tự nhiên – xã hội đồng bằng, hay tỏ ra lạc hậu so với qui luật
tiến bộ, hay không phù hợp với các đặc trưng của từng tộc người thì sẽ không được
tiếp thu.
Những cuộc di dân và tụ cư trong lịch sử đã đưa người Việt đến vùng đồng
bằng sông Cửu Long, họ hòa hợp cùng với người Khmer và thiểu số người Hoa. Họ
mở rộng diện tích canh tác từ những vùng đất trũng chung quanh các giồng ra khắp
đồng bằng sông Cửu Long, khai triển hệ thống kênh mương có sẵn. Trong quá trình
ấy, bọn phong kiến đã gây nhiều tội lỗi với nhân dân lao động, kể cả nông dân Khmer
trên đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng giữa nông dân lao động cư trú và trồng trọt
bên cạnh nhau nhiều đời, dù là thành viên của tộc người khác nhau, vẫn có quan hệ
tình nghĩa láng giềng và thái độ tương trợ đùm bọc lẫn nhau. Trong hoàn cảnh đó, 72
người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã tự nhiên tiếp nhận vào nền văn hóa
truyền thống của mình không ít yếu tố văn hóa Việt, từ kiểu nhà ở đến cách ăn mặc
và một số tập quán khác nhau như thờ cúng tổ tiên chẳng hạn. Thể hiện ở việc, người
Khmer đồng bằng sông Cửu Long theo đạo Phật tiểu thừa, từ lâu đã có tục hỏa táng
người chết, đưa cốt vào tháp ở chùa, không thờ người chết tại nhà, không cúng giỗ,
tuy nhiên một số lớn người Khmer ở đây, vừa bảo lưu tục hỏa táng, vừa tổ chức cúng
giỗ hằng năm gọi là Sen khoup (cúng quay trở lại) là do tiếp thu ảnh hưởng của người
Việt.
Nét nổi bật của Nam Bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng là sự hội tụ nhiều tộc người. “Từ những cư dân bản địa (các tộc người có quan
hệ cội nguồn với các tộc người ở Tây Nguyên) là chủ nhân của nền văn hóa Đồng
Nai; đến sự du nhập của các cộng đồng cư dân nói ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo
(Malayo – Polinésien hay Nam Đảo), cư dân Ấn Độ, chủ nhân của nền văn hóa Óc
Eo, những người đã dựng xây nên vương quốc Phù Nam và đế chế Phù Nam trên cơ
sở kế thừa những thành quả văn hóa bản địa. Chính họ đã bước đầu tạo dựng nên nền
văn minh đô thị đầu tiên trên vùng đất châu thổ sông Mêkong” [94, 300].
Sự cộng cư tộc người một lần nữa lại diễn ra trên vùng đất đầy tiềm năng này
khi các cộng đồng cư dân Khmer, Việt…lần lượt di cư đến. Cùng đồng cảnh ngộ di
dân, nên cộng đồng cư dân các dân tộc đã nương tựa vào nhau, đoàn kết với nhau để
tạo lập cuộc sống mới. Nhiều nơi họ sống chung cùng chung tay xây dựng và hôn
nhân hòa huyết với nhau. Chính thái độ cùng chung tay xây dựng cuộc sống của các
dân tộc đã biến vùng đất Nam Bộ rừng rậm hoang vu thành vùng kinh tế phát triển.
Với vị thế đặc biệt của vùng đất này, lại được sự hổ trợ bởi luồng thương mại quốc tế
Đông – Tây và sự năng động của các chúa Nguyễn, đã góp phần hình thành nên một
nơi hội tụ, cộng cư của các dân tộc, vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và
Nam Bộ nói chung còn là nơi hội tụ của cư dân Việt nhiều vùng miền. Nếu những lưu
dân Việt ban đầu vào Nam Bộ chủ yếu là người miền Trung, thì sau khi nhà Nguyễn
đã xác lập chủ quyền đối với Nam Bộ, đặc biệt từ đầu thế kỉ XX, những người miền
Bắc cũng di cư vào Nam Bộ, trong đó có những đợt di dân lớn nhất là vào những năm 73
1930, 1945, 1954 và sau năm 1975, do những biến động lịch sử như đi phu cao su,
chạy chiến tranh, chạy nạn đói, …Cho đến hôm nay, Nam Bộ vẫn là “miền đất hứa”
cho những người dám bỏ quê hương ra đi lập nghiệp và hầu hết họ đều chung sống
hòa hợp trong cộng đồng cư dân Nam Bộ, trải qua thời gian tạo nên sự giao lưu văn
hóa biểu hiện rõ nét trong đời sống vật chất cũng như đời sống tâm linh mà các cộng
đồng tiếp nhận lẫn nhau. Văn hóa cộng cư của các tộc người đã tạo nên đặc trưng văn
hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng như văn hóa Nam Bộ. Khi người Pháp,
người Mỹ đến đây, dù đã áp dụng chính sách “chia để trị” rất thâm độc, thì vẫn không
thể đánh bại được văn hóa “bản địa”, hơn thế văn hóa phương Tây du nhập vào còn
trở thành một nét văn hóa được tiếp biến và bổ sung cho sự phong phú đa dạng “văn
hóa cộng cư” nhiều tộc người mà tiêu biểu đó là người Việt và người Khmer vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
“Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, khi Nam Kỳ Lục tỉnh là đất thuộc Pháp, văn
minh phương Tây có điều kiện thâm nhập mạnh mẽ hơn vào mảnh đất này, quá trình
đô thị hóa ở đây càng diễn ra nhanh chóng hơn những vùng miền khác. Dân số Nam
Kỳ tăng nhanh, kinh tế hàng hóa phát triển, cơ cấu dân cư theo địa bàn cư trú đô thị -
nông thôn thay đổi” [94, 304].
2.2.5.3. Quan hệ hôn nhân
Một hiện tượng rất phổ biến ở người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long là
các cuộc hỗn hợp giữa người Khmer với người Việt hay kể cả người Hoa, người
Chăm. “Những gia đình có ba dòng máu Khmer, Kinh và Hoa không phải là hiếm ở
vùng này. Các dân tộc ở đây không có sự phân biệt hoặc đố kỵ về việc kết hôn giữa
người của dân tộc này với người của dân tộc khác. Việc kết hôn giữa thanh niên nam,
nữ thuộc các dân tộc trong vùng là một trong những điều kiện tốt nhất cho việc giao
lưu, kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc trong vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Do đó, việc kết hôn giữa thanh niên nam, nữ trong vùng không chỉ
có ý nghĩa “di truyền” nòi giống mà còn có ý nghĩa “di truyền” các giá trị văn hóa
74
chung, các phong tục tập quán hình thành trong quá trình giao lưu, tiếp thu, kế thừa
lẫn nhau giữa các dân tộc. Trong những gia đình như thế luôn tồn tại đan xen các
truyền thống của những dân tộc mà họ xuất hiện. Điều đó làm cho quá trình giao lưu
văn hóa, truyền thống diễn ra tự nhiên và toàn diện hơn. Xét về phương diện nào đó,
các cuộc hôn nhân này là “cái cầu” giao lưu văn hóa truyền thống giữa các dân tộc
trong vùng” [29, 87].
Hơn thế nữa, trước kia cũng như hiện nay, các cuộc hôn nhân giữa người Việt
và người Khmer ngày càng phổ biến. Đây là nhân tố rất đặc biệt giúp cho quá trình
giao lưu, tiếp biến về văn hóa, phong tục, tập quán giữa các dân tộc diễn ra mạnh mẽ,
rộng rãi và tự nhiên hơn.
“Những cuộc khảo sát về hôn nhân và gia đình giữa người Việt và người Khmer ở
đồng bằng sông Cửu Long trong những năm 1990 của Viện Khoa học xã hội tại
Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy những biến đổi lớn trong phong cách làm ăn, sản
xuất, lối sống của những gia đình người Khmer có những quan hệ hôn nhân với
người Việt. Những hộ này thường có mức sống cao hơn, làm ăn khá giả hơn vì cách
tổ chức sản xuất đa dạng, năng động hơn” [45, 172]. Cuộc khảo sát ở vùng Nam
Mang thít (Trà Vinh và Vĩnh Long) vào năm 1992 cho thấy trong cộng đồng Khmer
ở đấy nhóm có thu nhập thấp là 44,1% trong khi đó nhóm Khmer có quan hệ hôn
nhân với người Việt hay Hoa là 35,7%.
Sự giao lưu cũng nảy sinh những yếu tố hỗn hợp – gạch nối giữa các dân tộc,
như vùng Phú Mỹ (Sóc Trăng) là một biểu hiện của sự hỗn hợp văn hóa nhân chủng
giữa người Khmer – Việt. Đây là một xu hướng phát triển và đang lan tỏa rộng trong
nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long từ sau giải phóng đến nay. Và một thực tế đó
là vai trò chủ đạo của người Việt trong sự giao lưu và phát triển văn hóa ở vùng đất
mới này, do số lượng đông đảo về dân số và đa dạng về mặt loại hình văn hóa, do đó
người Việt nhận một nhiệm vụ là tạo nên sự giao lưu từ tự phát đến tự giác, có kế
hoạch, đồng thời phát triển đa sắc, đa năng các yếu tố văn hóa chung cũng như riêng.
Như vậy, quá trình tiếp xúc văn hóa giữa hai dân tộc này có thể chủ yếu là qua
75
con đường hôn nhân. Càng về sau, do sự phân bố mật độ dân cư và kết cấu dân cư
thay đổi, đã dẫn đến việc các dân tộc anh em sống xen kẽ với nhau mà không theo
một trật tự như trước. Người Khmer bây giờ không còn sống bó hẹp trong các phum
sóc nữa mà họ có thể cùng sống chung với người Việt, người Chăm hay người Hoa
trong các xã phường. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc và phát
triển văn hóa ngày càng có chiều sâu hơn.
2.2.5.4. Chính sách của nhà nước Việt Nam đối với người Khmer
Lịch sử khai phá, phát triển kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long cho thấy
tác động sâu sắc của văn hóa vùng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trước khi
người Pháp đến vùng này, trong vòng hơn hai thế kỷ (thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX) cư
dân các dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nên một “phức thể văn hóa nông
nghiệp” ở đây với sự giao lưu trao đổi hàng hóa khá sớm, có xuất khẩu lúa gạo sang
Philppines, Trung Quốc, Campuchia…; xuất hiện những thương cảng như Bãi Xàu
(Sóc Trăng), Hà Tiên…; chế độ tư hữu về ruộng đất phát triển. Tuy không xác định
rõ mức độ tác động của sản xuất và kinh tế hàng hóa lúc bấy giờ nhưng có thể nói
rằng, trước khi người Pháp đến, chính sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã mở rộng
tầm mắt của người nông dân ra khỏi xóm làng của người Việt kể cả những phum, sóc
của người Khmer, kích thích sản xuất, tăng năng suất…
Trong bài viết “Chúa Nguyễn và vương triều nhà Nguyễn với các dân tộc thiểu số
miền Nam nước ta” của GS Phan Hữu Dật (Đại học Quốc gia Hà Nội), PGS.TS Lâm
Bá Nam (Đại học KHXH & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1964), chính sách
của nhà Nguyễn đối với các dân tộc thiểu số ở miền Nam, ngoài việc đối với các dân
tộc Tây Nguyên, còn thái độ đối với người Chăm, người Khmer và người Hoa. Dưới
thời Gia Long, ở một số nơi nhà vua tăng cường mật độ dân cư người Việt, nhằm đẩy
nhanh sự thống nhất quốc gia – dân tộc.
“Đối với người Khmer, đây là dân tộc đã góp phần quan trọng trong công cuộc
khai phá đồng bằng sông Cửu Long, lại có quan hệ mật thiết với người Khmer ở
76
Campuchia, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ biên giới phía Tây Nam nước ta.
Đối với dân tộc Khmer, Gia Long đã áp dụng một số chính sách mang tính “tự
trị”, cho phép người Khmer cai quản vùng Khmer, phong chức tước cho họ, duy trì
các phong tục tập quán của dân tộc. Sang thời Minh Mạng, nhà Vua cử các quan lại
người Việt đến cai trị ở các địa phương, đặt các họ cho người Khmer để ghi vào sổ
sách nhằm quản lý nhân đinh và điền thổ. Ở vùng biên giới phía Tây, Minh Mạng cử
những quan lại có năng lực như Trương Minh Giản, Thoại Ngọc Hầu đến cai quản.
Nhà vua chủ trương tập hợp người Khmer khai khẩn các vùng đất hoang hóa ở Tây
Nam lập nên phum, sóc và chiêu dụ người Khmer bên kia biên giới sang làm ăn. Vua
cũng thực hiện chính sách cho binh lính đồn trú người Khmer thay phiên nhau về nhà
làm ruộng một năm 2 tháng.
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, phức thể văn hóa nông nghiệp của đồng
bằng sông Cửu Long có những biến đổi sâu sắc. Thực dân Pháp đã biết lợi dụng
những đặc điểm của vùng để thực hiện công cuộc khai thác, bóc lột của chúng. Vùng
đồng bằng sông Cửu Long biến thành một vùng nông nghiệp thương phẩm, chuyên
sản xuất hàng hóa lúa gạo xuất khẩu lấy lời với mức độ đứng hàng thứ ba thế giới.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội mới với sự xuất hiện của những thành phố lớn, nhỏ
như Mỹ Tho, Cần Thơ…việc tiếp xúc, giao lưu văn hóa không bình thường, văn hóa
đồng bằng sông Cửu Long có những nét mới của văn hóa đô thị công nghiệp, quan hệ
hàng hóa – tiền tệ thêm vào phức thể văn hóa nông nghiệp thương phẩm. ”… [64, 3].
Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam luôn đề cao chính sách đoàn kết
dân tộc. Nhà nước từng bước hoàn chỉnh các nguyên tắc cơ bản của chính sách dân
tộc.
Theo Phan Hữu Dật trong một Văn kiện quan trọng của Đảng là Nghị quyết về
chính sách dân tộc thiểu số của Đảng (tháng 8/1952) [122, 15].
“Từ khi Đảng ta thành lập (1930) đến nay, tuy chưa có chính sách cụ thể đối với dân
tộc thiểu số, nhưng cương lĩnh chung của Đảng đã rõ: “Đoàn kết các dân tộc trên
nguyên tắc bình đẳng…
Tháng 2/1951, Đại hội lần thứ IV của Đảng đã nêu rõ “thực hiện triệt để quyền
bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận 77
gốc sự chênh lệch về kinh tế, văn hóa giữa dân tộc ít người và dân tộc đông người”
[7, 46].
Hầu hết các Văn kiện Đảng Cộng Sản Việt Nam đều đề cập đến sự bình đẳng,
tôn trọng, tương trợ giữa các cộng đồng tộc người sống trên lãnh thổ nước Việt Nam.
Văn kiện Đại hội Đảng lần VI (năm 1976) ghi rõ “… cần thể hiện đầy đủ chính sách
dân tộc, phát triển mọi quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn
kết, bình đẳng giúp đỡ lẫn nhau…” [6, 96].
Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các cộng đồng tộc người là một nguyên
tắc cơ bản trong việc đề ra chính sách dân tộc của nhà nước Cộng hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam từ trước tới nay. Trong những thời kì khác nhau nhà nước Việt Nam
có chính sách riêng biệt đối với cộng đồng các dân tộc, nhất là đối với dân tộc thiểu
số, thúc đẩy phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa.
Kể từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (4/1975), đặc biệt sau Đại hội Đảng
lần thứ VI, với đường lối đổi mới xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp chuyển sang cơ
chế kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đã thay đổi cơ bản quan hệ sản xuất ở nông
thôn Khmer đồng bằng sông Cửu Long, có nhiều chuyển biến quan trọng.
Trích - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
về nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới (ngày 29/9/1975): “Ở
miền Nam, các dân tộc thiểu số sống trong các vùng chiến lược quan trọng đã từng
tham gia đấu tranh cách mạng lâu đời, nhưng đời sống vật chất và văn hoá thấp kém.
Phải có những chủ trương, chính sách đi đôi với nhiều biện pháp tích cực để chăm
sóc sức khoẻ, cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào các dân tộc. Giữ
vững trật tự trị an, kiên quyết bảo vệ đồng bào, trấn áp bọn phản động, bọn thổ phỉ
phá hoại và gây rối. Ra sức đoàn kết và thực hiện đầy đủ quyền bình đẳng giữa các
dân tộc” [5, 39].
Bên cạnh đó, Nhà nước còn đề ra chủ trương đoàn kết dân tộc, giữ gìn văn hóa
truyền thống, thúc đẩy giao lưu văn hóa của các dân tộc, điển hình là việc phải giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, đây là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trích từ Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần 78
thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1976): “Phải tăng cường khối đoàn
kết không gì lay chuyển nổi giữa các dân tộc trong cả nước, phát huy tinh thần cách
mạng và năng lực sáng tạo của các dân tộc ít người trong sự nghiệp xây dựng Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để
quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xoá
bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hoá giữa dân tộc ít người và dân tộc
đông người; đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp; làm cho
tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc, đoàn kết, giúp
nhau tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, vấn đề mấu chốt là đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế và văn hoá ở các vùng dân tộc, nâng cao đời sống của đồng bào các dân
tộc. Tích cực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dân tộc ít người. “Khắc phục những tư
tưởng có hại cho việc đoàn kết dân tộc, trái với chính sách dân tộc của Đảng. Giữ gìn
và phát huy những phong tục, tập quán, những truyền thống văn hoá tốt đẹp, tiến bộ
của các dân tộc ít người; lãnh đạo, hướng dẫn đồng bào các dân tộc xây dựng nếp
sống mới” [5, 44-45]. Trong Chỉ thị của Ban Bí thư số 23- CT/TW ngày 15/11/1977
về công tác dân tộc ít người ở các tỉnh miền Nam trong tình hình hiện nay: “ Ở các
tỉnh miền Nam, các dân tộc ít người cư trú tại những vùng quan trọng về các mặt
chính trị, kinh tế và quốc phòng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống đoàn kết
dựng nước của đồng bào ngày càng được phát huy. Trong Cách mạng tháng Tám và
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, các dân tộc ít người
ở miền Nam đã có những đóng góp rất to lớn; có những vùng trong suốt mấy chục
năm qua là căn cứ cách mạng, căn cứ kháng chiến. Song ở những vùng tạm bị địch
chiếm trước đây, bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã thi hành chính sách chia rẽ
các dân tộc và thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, để lại những hậu quả rất tai hại về
chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội”. Nhiệm vụ chung của công tác dân tộc ở các tỉnh
miền Nam là: “Quán triệt chính sách dân tộc của Đảng, ra sức phát động quần
79
chúng xây dựng vững trật tự an ninh, đẩy mạnh sản xuất, phát triển văn hóa, cải
thiện một bước đời sống nhân dân, nhanh chóng ổn định tình hình các mặt, tạo điều
kiện thuận lợi để cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng các vùng dân tộc với bước đi
và phương pháp thích hợp, xây dựng các vùng dân tộc vững chắc về chính trị, giàu
có về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng, cùng cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Trước mắt phải ra sức giúp đỡ nhân dân khôi phục
và phát triển sản xuất, tận dụng mọi khả năng sản xuất lương thực, thực phẩm để bảo
đảm đời sống, mau chóng chấm dứt nạn thiếu đói. “Ở vùng dân tộc Chàm và dân tộc
Khơ-me, phải tích cực giúp đồng bào khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi, thực hiện
thâm canh, đồng thời tăng vụ, mở rộng diện tích, khôi phục và phát triển sản xuất
nông nghiệp và các ngành thủ công truyền thống. Chú ý giải quyết tốt những vụ tranh
chấp về ruộng đất theo tinh thần Nghị quyết 254 của Bộ chính trị”; “chính sách huy
động sức dân, cần quán triệt tinh thần lời dạy của Hồ Chủ Tịch: "Đối với các dân tộc
ít người, có vùng bồi dưỡng đi đôi với động viên; có vùng bồi dưỡng nhiều, động
viên ít; có vùng trước mắt bồi dưỡng, chưa động viên".
Với những chính sách “người cày có ruộng” cuộc điều chỉnh ruộng đất với
khẩu hiệu “lá lành đùm lá rách”, “nhường cơm xẻ áo” đã được thực hiện vào năm
1978, rồi tiến lên xây dựng các tập đoàn, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (1982), đã
dẫn đến một kết quả thực tế là hầu hết các gia đình đồng bào Khmer được “làm chủ”
một số ruộng nhất định.
Trong Chỉ thị của Ban Bí Thư (năm 1991) về công tác ở vùng đồng bào dân
tộc Khmer mà nội dung cơ bản được thể hiện qua nhiều nội dung như kinh tế, đời
sống; văn hóa, xã hội; vai trò của chùa chiền và sư sãi Khmer qua đó nâng cao tinh
thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau cùng xây dựng đất nước, thúc đẩy giao
80
lưu văn hóa.
CHƯƠNG 3:VAI TRÒ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN
HÓA VIỆT – KHMER Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM
3.1. Vai trò của cộng đồng người Khmer và người Việt ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long
Người Khmer là dân tộc có nét văn hóa độc đáo riêng góp phần tạo nên nét đặc
thù của văn hóa vùng Nam Bộ. Biểu hiện đậm nét sắc thái văn hóa đó có phần quan
trọng của hệ thống lễ hội. Nếu các tour du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long gắn
với hệ thống lễ hội của người Khmer, ngành du lịch có thể cung cấp cho du khách
nhiều hiểu biết không chỉ là sinh hoạt lễ hội mà còn nhận thức đầy đủ hơn về kiến
trúc, điêu khắc, hội họa,... của người Khmer.
Có thể nói, văn hóa Khmer có vai trò quan trọng trong việc hình thành vùng
văn hóa Nam Bộ tạo cho du khách những ấn tượng về sự phong phú của nền văn hóa
Việt Nam. Văn hóa của người Khmer cũng như lễ hội của họ sẽ góp phần không nhỏ
vào việc phát triển du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long nếu biết khai thác một
cách hợp lý.
Là một dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân tộc Khmer ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long có nền văn hóa phát triển khá sớm và chắt lọc được
nhiều nét giá trị đặc sắc, phản ánh tương đối đầy đủ những đặc trưng văn hóa Khmer
nước ta. “Những giá trị văn hóa do dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử là vô cùng đa dạng và phong phú, nó bao gồm cả
văn hóa vật chất (đình, chùa, miếu, kiến trúc, công cụ sản xuất…) và văn hóa tinh
thần (truyền thống, phong tục, tín ngưỡng…). Những giá trị văn hóa đó thể hiện bản
sắc của người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long trong lao động sản xuất, cải
tạo thiên nhiên, chiến đấu chống thiên tai và giặc ngoại xâm, cũng như trong đời sống
81
sinh hoạt tinh thần” [29, 66].
Những cư dân người Việt tìm đến vùng đất Nam Bộ từ hơn ba thế kỉ về trước,
khoảng cuối thế kỉ XVI và đầu thế kỉ XVII. Trước đó vùng đất này còn hoang hóa,
bởi những kiến tạo địa lý và thủy văn. Cùng với người Việt, trước đó một ít là người
Khmer từ thượng lưu sông Mê Công cũng tìm đến tham dự việc khai khẩn vùng đất
Nam Bộ. Những cộng đồng di dân này tìm đến vùng đất Nam Bộ với mục đích quan
trọng hàng đầu là tìm đất mưu sinh, lập nghiệp.
Người Việt ở Nam Bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng,
vốn là những lưu dân có gốc Bắc Bộ và Trung Bộ. Phần lớn họ là những nông dân,
thợ thủ công, dân nghèo sống không nổi ở quê nhà vì nhiều lý do đành phải buộc lòng
ly hương tìm nơi đất sống mới. Cùng đến đất Nam Bộ, thành phần của dân người
Việt còn khá nhiều các lớp người khác như các binh lính được phái đi đồn trú, khẩn
hoang, những thương nhân hay những tội đồ bị đầy đi biệt xứ,…
Đến đất Nam Bộ định cư, những lưu dân người Việt đã tập hợp lại thành nhóm,
những cộng đồng với người Khmer, hay người Hoa…bắt tay vào công cuộc khai mở
đất đai, lập ấp khẩn hoang. Vốn là những cư dân của nền văn minh nông nghiệp lúa
nước, họ đã nhanh chóng thích ứng với vùng đất mới. Người Việt với những hành
trang, với chiều dày lịch sử hàng ngàn năm, kinh nghiệm trồng lúa, trồng hoa màu,
với cách tổ chức đời sống cộng đồng là cái vốn quý nhất để họ đối diện và tồn tại trên
vùng đất mới này. Thêm vào đó là sự cộng cư của người Khmer và các dân tộc bản
địa anh em, người Việt đã có thêm những học hỏi văn hóa mới, tạo nên sự giao lưu
văn hóa giữa các dân tộc trên cả vùng Nam Bộ.
Hơn ba thế kỷ qua, người Việt đã đạt được nhiều thành công, thành tựu lớn lao
trong công cuộc định cư và khai mở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Những xóm ấp
được lập nên, xen lẫn với những phum, sóc của người Khmer, những cánh đồng trồng
lúa, hoa màu, cây ăn trái…trải dài khắp miền đất phương Nam. Cùng với cuộc sống
vật chất, nhu cầu tâm linh cũng đã dần dần được đáp ứng đó là những đền, chùa,
miếu cũng được xây cất, một số tín ngưỡng tôn giáo ra đời, và cả phương thức tổ
82
chức đời sống cộng đồng làng xã quen thuộc được đem từ phía Bắc vào, với sự trải
nghiệm và thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội, người Việt hay người Khmer
ở đồng bằng sông Cửu Long đã hình thành một nét văn hóa riêng của mình.
Cho đến nay, có khá nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, tìm hiểu về văn hóa
người Việt và người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. Những lí giải từ nhiều góc
cạnh khác nhau về văn hóa người Việt hay người Khmer. Đối với người Việt ở đồng
bằng sông Cửu Long hay các vùng khác ở Nam Bộ kể cả người Việt ở các vùng miền
khác của đất nước, có cội nguồn văn hóa chung từ hàng nghìn năm, từ cái nôi văn
minh sông Hồng, văn minh trồng lúa nước ở Bắc Bộ. Đó là điều cơ bản. Người Việt
Nam Bộ là một trong những bộ phận của người Việt sống trên lãnh thổ Việt Nam, đã
chuyển dịch không gian sinh tồn vào vùng đất phương Nam. Ở đây, họ đã tái lập
(hoặc tái cấu trúc) văn hóa Việt truyền thống trên một vùng đất mới, không gian văn
hóa của vùng đất Nam Bộ. Nơi đó văn hóa Việt truyền thống đã tìm cách thích ứng
và phát triển trong điều kiện tự nhiên và xã hội khác với vùng “đất Tổ” của mình.
Chính điều đó đã tạo nên nét riêng của văn hóa của người Việt ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long này.
3.2. Giá trị của văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đối với
lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam
Đồng bằng sông Cửu Long là nơi cư trú của nhiều dân tộc như Khmer, Việt,
Hoa, Chăm… Sự chung sống hòa bình, cùng đoàn kết chiến đấu với thiên nhiên, với
kẻ thù xâm lược bảo vệ quê hương đã hình thành nên đặc thù riêng các cộng đồng
dân tộc Việt Nam ở vùng đất mới này của Tổ Quốc bên cạnh bản sắc văn hóa chung
của dân tộc Việt Nam. Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa trên cơ sở kinh tế hàng
hóa sớm phát triển, đã tạo nên những biến đổi, những nhân tố mới bên cạnh văn hóa
truyền thống của từng dân tộc. Những biến đổi, những yếu tố mới đã hình thành trên
cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, từ công cụ sản xuất, ăn mặc, ở, đi lại…đến
sự ra đời và phát triển đến ngày nay của các tôn giáo địa phương (Cao Đài, Hòa hảo,
83
Tứ Ân Hiếu Nghĩa), tạo nên bản sắc văn hóa đồng bằng sông Cửu Long.
Trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, môi trường và điều kiện tự
nhiên của đồng bằng sông Cửu Long đã bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam nói
chung nét đặc trưng độc đáo của mình: đó là yếu tố “sông nước”. truyền thống văn
hóa lúa nước của người Việt vào đến Nam Bộ được hoàn chỉnh một cách tinh tế bởi
yếu tố sông nước. Làng Nam Bộ hầu như phân bố dọc sông, kênh rạch, tạo thành kiểu
cư trú phổ biến – kiểu cư trú hình tuyến, giao thông thủy tạo điều kiện cho sự phát
triển thương mại sớm, “chợ nổi” hình thành sớm trên các trục giao thông thủy, đời
“thương hồ - gạo chợ nước sông”, giới thương hồ tập trung ở khu vực giáp nước, “đò
dọc” đã nối liền vùng đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn tạo cho cả vùng một sự
đồng nhất cao trong văn hóa. Yếu tố sông nước đã tạo cho người Việt vùng đồng
bằng sông Cửu Long và lan tỏa khắp Nam Bộ một “tư duy sông nước”, tạo ra một hệ
thống biểu tượng gắn với sông nước. Kết quả là một hệ thống biểu tượng văn hóa đặc
trưng gắn với sông nước được thể hiện trong phương ngữ của người Việt Nam Bộ
cũng ngư người Khmer. Chính tư duy sông nước đã hình thành và thay thế đến mức
ngạc nhiên về tính biểu tượng trong đặc trưng văn hóa Nam Bộ so với Bắc Bộ và
Trung Bộ: xe khách thành “xe đò”, đi nhờ thành “quá giang”, anh em đồng hao thành
“anh em cột chèo”…[64, 1-2].
Văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và Nam Bộ nói chung đã
được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến, theo tạp chí Xã hội học của Nguyễn Công
Bình vào năm 1998, trong bài viết “Phát triển xã hội trong công cuộc khai phá đất
Nam Bộ” và qua đó ta cũng có thể nhận thấy được một số nét chung:
- Văn hóa đồng bằng sông Cửu Long là một phức thể nông nghiệp (lúa nước –
miệt vườn…), một bộ phận của “vùng văn hóa Nam Bộ”, một phức thể văn hóa công
– nông nghiệp, dựa trên sự phát triển của kinh tế hàng hóa và sự kết hợp đan xen
những yếu tố truyền thống văn hóa dân tộc với những yếu tố văn hóa hiện đại.
- Văn hóa làng của người Việt ở vùng này ngoài những nét chung như văn hóa
làng truyền thống ở Bắc Bộ, còn có những nét khá riêng biệt. Cư dân trong làng của
người Việt hay trong một số phum, sóc của người Khmer định cư theo kênh rạch;
làng không có chức năng phân chia lại ruộng đất công, điều hành nguồn nước; không 84
có cơ cấu khép kín, mà là một “thiết chế mở, vượt khỏi trạng thái tự túc, tự trị cổ
truyền”.
- Dân làng không chịu ảnh hưởng nặng của thiết chế làng – họ; tính độc lập của
cá nhân được đề cao. Hiện tượng cả xã chỉ có một dòng họ duy nhất gần như không
có ở đồng bằng sông Cửu Long, mặc dù quan hệ thân tộc họ hàng vẫn có một vị trí
quan trọng trong các quan hệ xã hội ở nông thôn. Tình làng nghĩa xóm, quan hệ “lối
xóm” có ảnh hưởng khá mạnh trong tiếp thu thông tin, kỹ thuật sản xuất mới, tương
trợ giúp đỡ nhau trong đời sống và sản xuất. Phong tục lễ tiết ở cấp độ làng xã rất
yếu, tuy rằng qui mô gia đình thì khá mạnh. Sinh hoạt và kinh tế của làng gắn với thị
trường.
- Người dân có đầu óc thực tế, năng động, “miệng nói tay làm”, lấy thực tiễn
làm thước đo chân lí, ít giáo điều, nhiều sáng tạo; khai thác tự nhiên trong sự hài hòa
với thiên nhiên (chung sống với lũ – là một biểu hiện tiêu biểu) nên tính tình cởi mở,
thông thoáng, hào hiệp, bao dung, bộc trực, thẳng thắn, coi trọng lẽ công bằng, trọng
nghĩa khinh tài, có tinh thần xả thân vì nghĩa lớn, kiên quyết trong đấu tranh với kẻ
thù ngoại xâm; sống lâu trong môi trường kinh tế hàng hóa, người dân có khả năng
cao trong thích ứng, nhạy bén, có bản lĩnh vượt thoát những thử thách trong đời sống
và hoạt động văn hóa, kinh tế.
Vùng đất Nam Bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, kể
từ sau giải phóng năm 1975 đến khi bắt đầu bước vào thế kỉ XXI và cho đến hôm nay
đã có nhiều thay đổi lớn lao so với những thế kỉ trước. Giờ đây, vùng đồng bằng sông
Cửu Long hay cả vùng đất Nam Bộ không còn là nơi hoang hóa. Đất rộng người thưa
như xưa nữa, đất đai, tài nguyên đã khai thác đến mức gần như không còn “khai mở”
thêm được nữa. Vùng đồng bằng sông Cửu Long đang bước vào thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, và tốc độ đô thị hóa trở nên nhanh chóng. Không gian sinh tồn đã
thay đổi, và văn hóa người Việt cũng như người Khmer cũng có những chuyển đổi
lớn lao. Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa đã tác động đến sự giao lưu văn hóa của
cộng đồng người Việt và người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, nhất là đối với
thế hệ trẻ hôm nay. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người Việt và người 85
Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, nhìn chung có sự tăng cường, được nâng lên khá
nhiều. Sự giao tiếp với thế giới bên ngoài rộng mở, với những chính sách, chủ trương
của Đảng và Nhà nước đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long, người Việt cũng như
đồng bào dân tộc thiểu số người Khmer đã được tiếp xúc với khoa học kỹ thuật hiện
đại, với nhiều văn hóa trên thế giới. Vấn đề đặt ra ở đây là sự bảo tồn bản sắc văn hóa
Việt – Khmer. Nhiều nếp sống cũ cách cư xử, tư duy của người Việt và người Khmer
sẽ lùi dần vào quá khứ hoặc chuyển đổi để thích ứng với cuộc sống hiện đại. Đó là
điều tất yếu. Các nhận xét của Trịnh Hoài Đức về người Việt Nam Bộ cách đây gần
hai thế kỷ và được nhiều người tán đồng là “trọng nghĩa, khinh tài”, có lẽ cũng cần
xem lại. Với sự phát triển hôm nay của đất nước và thích ứng với sự phát triển đó,
việc thay đổi thành quan niệm “trọng nghĩa và trọng tài”(tài là tiền tài, là vật chất) sẽ
phù hợp hơn.
Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa là cần thiết, khi đã
quan niệm văn hóa là nguồn lực phát triển của đất nước hôm nay và sắp tới. Bảo tồn
những giá trị tốt đẹp và tích cực của văn hóa Việt – Khmer ở đồng bằng sông Cửu
Long cũng nằm trong cái chung, là một phần của việc gìn giữ và phát huy giá trị văn
hóa, bản sắc văn hóa của cả nước, và của các dân tộc anh em ở Việt Nam. Những nét
riêng của văn hóa người Việt hay người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long như
trọng nghĩa, trọng tài (tài năng), tính năng động, linh hoạt,…cho đến hôm nay vẫn
còn những giá trị lớn lao và tích cực.
Tất cả những giá trị văn hóa của hai dân tộc thể hiện trong sự giao lưu văn hóa
của người Việt – người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nên bản sắc văn
hóa Việt Nam và tiếp thêm sức mạnh để Việt Nam tiếp bước trên con đường phát
triển toàn diện, để thực hiện mục tiêu cao quý: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang trên con đường
hội nhập, thì việc nghiên cứu giao lưu văn hóa Việt – Khmer ở đồng bằng sông Cửu
Long hay cả vùng đất Nam Bộ không chỉ giúp cho người đọc thấy được sự kế thừa và
sáng tạo trong chiều dài lịch sử mà còn thấy được những giá trị đích thực tạo nên sức
mạnh cho sự phát triển hôm nay. Bởi vì, trong “công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy 86
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện
mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh đòi hỏi chúng ta
phải xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Coi
đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội” [2, 9-10]. Đồng chí Đỗ
Mười, nguyên Tổng Bí Thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong phát biểu của
mình trước Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng đã nhấn mạnh: “Tất cả
mọi sự phát triển xã hội phải gắn liền với việc kế thừa và pháy huy những truyền
thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển tách khỏi cội nguồn thì nhất định lâm
vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời
những giá trị truyền thống sẽ làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở
thành cái bóng mờ của người khác”.
Khi nói đến những giá trị truyền thống là nói đến những chuẩn mực văn hóa
được mọi người tin tưởng. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.
Nhưng có một thực tế là “mỗi tộc người có những đặc tính giá trị văn hóa riêng của
mình và chính điều này làm cho văn hóa của tộc người này khác với văn hóa của tộc
người khác. Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy, ở tộc người này có những yếu tố văn
hóa được coi là chuẩn mực giá trị, mọi người trong cộng đồng đều có trách nhiệm gìn
giữ, thì tộc người khác lại không chấp nhận, mặc dù họ sống cận kề nhau” [94, 247].
Ở nước ta, dân cư các dân tộc cư trú xen kẽ, đặc trưng cư trú ở nước ta là phân
tán và xen kẽ, biểu hiện ở các cấp độ: toàn quốc, tỉnh, huyện, xã. “Ở nước ta không
hình thành những vùng lãnh thổ riêng cho từng dân tộc nên không có tình trạng “mỗi
dân tộc thiểu số tạo thành vùng văn hóa riêng” nghĩa là: không có cái gọi là vùng văn
hóa Chăm hay vùng văn hóa Khmer mà trong vùng văn hóa duyên hải Nam Trung Bộ
thì văn hóa Chăm có vai trò quan trọng và từ lâu đã giao lưu với văn hóa Việt trong
vùng. Cũng không có vùng văn hóa Khmer, mà trong vùng văn hóa Nam Bộ, văn hóa
Khmer đã giao lưu và ảnh hưởng qua lại với văn hóa Việt để hình thành nên các đặc
trưng văn hóa chung” [29, 84].
Ở đồng bằng sông Cửu Long, sự giao lưu văn hóa diễn ra trong hoàn cảnh đặc
biệt đã được minh chứng trong phần chương 2, dân tộc Khmer muốn bảo vệ mình và 87
lưu giữ những giá trị văn hóa của mình cần phải dựa vào các dân tộc khác, cũng như
các dân tộc khác muốn bảo vệ mình cần dựa vào dân tộc Khmer. Sự giao lưu trong
hoàn cảnh đó không chỉ mang tính “xã giao” mà trở thành nhu cầu sống còn. Sự giao
lưu, học hỏi lẫn nhau giữa hai dân tộc Việt – Khmer diễn ra như một lẽ thường tình
trong cuộc sống. Nhiều giá trị văn hóa Việt (Kinh), Khmer “hóa thân” thành những
giá trị văn hóa vùng (cái riêng trở thành cái chung, nhập vào cái chung).
3.3. Phương hướng và giải pháp phát huy giá trị văn hóa Việt – Khmer ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay
3.3.1. Thực trạng việc phát huy giá trị văn hóa Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long từ sau năm 1975 đến nay
Vấn đề thứ nhất, đó là tình trạng nghèo đói, trình độ học vấn thấp hay mù chữ.
Ở nước ta, việc điều tra xác định hộ đói nghèo được triển khai từ năm 1993 với sự
tham gia của các tổ chức khác nhau (Bùi Minh Đạo, 2003). Trên cơ sở triển khai đề tài ở
tỉnh Sóc Trăng, nơi có ba tộc người cư trú, có thể nêu lên một số vấn đề về tương quan
giữa đói nghèo và phát triển nhân lực. “Theo điều tra tình hình đời sống của người
Khmer ở tỉnh Sóc Trăng vào năm 1993, số hộ khá chiếm 10,17%, hộ trung bình chiếm
22,35%, số hộ nghèo là 67,48%. Ở hai huyện nghèo nhất tỉnh là Long Phú, hộ nghèo
chiếm tới 72,02% và Mỹ Tú, hộ nghèo chiếm 72,65%. Như vậy, hơn 2/3 số hộ Khmer
rơi vào cảnh đói nghèo (Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, 2003). Vào năm 1994 tỉnh Sóc
Trăng tiến hành điều tra 61.292 hộ người Khmer cũng cho thấy ở các huyện nghèo của
tỉnh số hộ Khmer thuộc diện đói nghèo vẫn chiếm một tỷ lệ cao (theo đó huyện Thanh
Trì có số hộ Khmer thuộc diện đói nghèo chiếm 78,18%, huyện Mỹ Tú là 75,84%) (Ngô
Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, 2003). Điều tra hộ đói nghèo ở các tỉnh thuộc đồng bằng
sông Cửu Long cũng cho những kết quả tương tự, nơi nào có tỷ trọng cư dân tộc người
thiểu số cư trú cao, thì nơi đó tỷ lệ hộ đói nghèo cũng cao.
Giữa đói nghèo và phát triển ở các tộc người thiểu số có mối liên hệ như thế nào?
Muốn phát triển đòi hỏi phải nâng cao dân trí. Xóa đói giảm nghèo và phát triển giáo
dục phụ thuộc vào các chiều kích khác nhau, nhưng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với 88
nhau, trong đó học vấn là một trong mối tương quan với vấn đề nghèo đói. Cũng theo
cuộc điều tra của Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, năm 2003 thì “ở Việt Nam cũng có
một tình hình tương tự. Người Khmer có khoảng hơn một triệu người, sinh sống ở hầu
hết các tỉnh thành Nam Bộ, nhưng tập trung đông đảo ở Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang
thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, riêng tỉnh Sóc Trăng người Khmer chiếm gần
30% dân số. Người Khmer chiếm trên 50% dân số của 33 xã thuộc vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn. Điều tra các hộ nghèo trong những năm 1992, 1994 và 1998,
theo thời gian số hộ đói nghèo có giảm (theo thứ tự 67,48% ; 64,1% và 33,1%), nhưng
vẫn ở mức trên 30%. Trong ba tộc người sinh sống ở Sóc Trăng, thì người Khmer có tỷ
lệ hộ đói nghèo cao hơn người Việt và người Hoa (theo thứ tự 33,1%, 24,31% và
22,12%).
Theo Ngô Văn Lệ, trong bài “Thực trạng kinh tế-xã hội và những giải pháp xóa đói
giảm nghèo ở người Khmer tỉnh Sóc Trăng”, NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh,
2003, đã thống kê năm 1989 tỷ lệ mù chữ ở người Khmer là 48,78%, trong khi đó người
Mường là 15,10%, người Việt là 13,38%, người Hoa là 16,40% và người Nùng là
23,80%. Ở các xã ven biển thuộc huyện Vĩnh Châu tỷ lệ này còn cao hơn nhiều (64%).
Như là một nghịch lý, người Khmer cư trú ở đồng bằng, mà tỷ lệ người mù chữ lại cao
hơn một số tộc người cư trú ở miền núi. Số người đi học chỉ chiếm 12,30%. Những
người có trình độ trung cấp đến đại học ở người Khmer chỉ có 0,18% so với dân số,trong
khi đó ở người Việt là 1,31%” .
Theo điều tra năm 1999, thì có đến 98,97% người Khmer từ 13 tuổi trở lên không
có trình độ chuyên môn kỹ thuật: tại Trà Vinh là 98,81% và tại Sóc Trăng là 98,96%, dù
đã có nhiều nỗ lực, nhưng rõ ràng còn nhiều bất cập . Đối với nữ giới vấn đề còn bức
xúc hơn, tỷ lệ chung là 99%, tại Trà Vinh là 99,27%, tại Sóc Trăng là 99,34%. Các hộ
đói nghèo ở người Khmer có trình độ học vấn thấp. Phần đông những người trên 40 tuổi
trở lên là mù chữ hoặc chỉ biết viết cho đến tốt nghiệp tiểu học. Đây là một thực tế tại địa
89
bàn các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Trình độ học vấn thấp hoặc mù chữ, về lâu
dài, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng di động xã hội, chuyển đổi nghề nghiệp, thay
đổi vị thế xã hội và có ý chí về sự thăng tiến xã hội.
Ở một khía cạnh khác, trình độ học vấn thấp hoặc mù chữ sẽ dẫn đến khó hình
thành đội ngũ trí thức dân tộc và như vậy, khó có thể tạo thành động lực phát triển của
chính tộc người đó. Với trình độ học vấn thấp, người nghèo không có kỹ năng và trình
độ khoa học kỹ thuật, việc tiếp nhận thông tin rất hạn chế. Trình độ học vấn thấp lại là
rào cản lớn cho người nghèo tiếp nhận thông tin, kiến thức, mở rộng mạng lưới quan hệ
xã hội. Ít giao tiếp với bên ngoài, trình độ tiếng Việt kém, hạn chế khả năng giao tiếp
bằng tiếng Việt làm cho người nghèo bị cô lập trong cộng đồng. Không giao tiếp với bên
ngoài, với người Việt để trao đổi học hỏi, sẽ làm thu hẹp mạng lưới xã hội của người
Khmer. Cũng do học vấn thấp sẽ gây khó khăn cho người nghèo tiếp cận thông tin qua
sách vở, báo chí, tivi, đài để nâng cao kiến thức về chính sách, về thị trường, giá cả, tín
dụng, áp dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật. Tất cả những điều đó, cùng với tâm lý
tộc người, khiến họ ngại tham gia các cuộc hội họp, tập huấn áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vì sự hiểu biết còn hạn chế, đã làm cho họ không tận dụng được cơ hội giúp đỡ
từ phía cộng đồng để thoát khỏi đói nghèo.
Ở tộc người Khmer, các chức sắc tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn đối với cộng
đồng. Giữa người và người là quan hệ đoàn kết, tương thân tương ái, mang tính cộng
đồng cao. Sống trong một môi trường như vậy, tạo nên mối quan hệ gắn kết với cộng
đồng, người dân sống chết với cộng đồng không muốn xa rời cộng đồng. Do vậy, người
dân không thể rời bỏ cộng đồng trong một khoảng thời gian nhất định để tham gia các
khóa học nhằm nâng cao năng lực. Như vậy, nếu trong xã hội truyền thống, những giá trị
văn hóa của các tộc người thiểu số đã có một vị trí quan trọng trong cố kết cộng đồng,
thì trong xã hội hiện đại lại là một lực cản làm hạn chế phát triển nguồn nhân lực ở các
tộc người thiểu số, mà điển hình là bộ phận không nhỏ người Khmer ở đồng bằng sông
Cửu Long .
Như vậy, ở các tộc người thiểu số, mà ở đây là người Khmer, có thể thấy học vấn
90
thấp song hành với tình trạng đói nghèo. Để xóa đói giảm nghèo, và phát triển bền vững,
nâng cao dân trí và trình độ học vấn là điều kiện tiên quyết. Trình độ học vấn thấp có thể
là nguyên nhân của nhiều vấn đề kinh tế xã hội, mà trước nhất là sự phát triển nguồn
nhân lực của người Khmer cũng như của các tộc người thiểu số sinh sống trên lãnh thổ
nước ta, trên con đường phát triển, làm giảm mức đói nghèo. Nâng cao trình độ văn hóa
của người Khmer nói riêng và của các tộc người thiểu số là bước đột phá quan trọng
giúp họ nắm bắt các cơ hội tạo thu nhập, cải thiện cuộc sống và khi đã cải thiện cuộc
sống, họ mới có cơ hội tốt hơn để tiếp cận phúc lợi xã hội quan trọng hàng đầu là giáo
dục. Đây cũng là nhân tố quan trọng trong việc phát triển và phát triển bền vững ở các
tộc người thiểu số. Để phát triển và phát triển bền vững, đòi hỏi phải phát triển nguồn
nhân lực, mà nguồn nhân lực của một quốc gia hay của một tộc người là tổng hợp những
tiềm năng lao động, trí lực và tâm lực của một bộ phận dân số có thể tham gia vào các
hoạt động kinh tế-xã hội. Phát triển nguồn nhân lực ở các tộc người thiểu số ở nước ta
cần một cách tiếp cận toàn diện hơn và có những giải pháp hiệu quả hơn.
Vấn đề thứ hai là những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tộc người, vấn đề tâm lý
dân tộc là một trong những vấn đề nhạy cảm.
“Về lịch sử, đồng bào dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long có những
mối quan hệ đồng tộc, đồng tôn, đồng ngôn ngữ với người Khmer ở nước Campuchia
láng giềng. Do đó, quan hệ thân tộc và giao lưu văn hóa giữa hai nước, hai dân tộc. Song
phải nhận thúc rằng, đồng bào dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long và người
Khmer ở Campuchia tuy có nguồn gốc tộc người, nhưng do những biến động của lịch
sử, từ lâu họ đã trở thành hai tộc người ở hai quốc gia khác nhau. Do đó, không có và
không thể có sự đồng nhất nền văn hóa giữa hai tộc người Khmer của hai nước. Hiện
nay, các thế lực thù địch cũng đang ra sức đục khoét sâu, lợi dung vấn đề (cho rằng
người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long là thuộc về dân tộc Khmer ở Campuchia)
để chia rẽ khối đoàn kết giữa hai dân tộc, hai nước, chống phá sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta. Đòi hỏi cần phải hết sức thận trọng và tỉnh táo, không để cho tâm lý đó phát
triển, phải khôn khéo và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn
91
chống phá của bọn phản động và các thế lực thù địch. Phát huy giá trị văn hóa là để góp
phần củng cố khối đoàn kết dân tộc, chứ không phải kích thích tư tưởng, tâm lý ly khai,
làm suy yếu khối đại đoàn kết” [29, 143].
Bên cạnh đó, tâm lý tộc người của cộng đồng Khmer vẫn còn tồn tại những yếu tố
mang tính bảo thủ.
Người Khmer sống rất thực tế (không phải thực dụng). Họ luôn quan tâm đến
những gì mang lại lợi ích trực tiếp cho họ, họ ít “cân, đong, đo, điếm”, ít tính toán thiệt
hơn, không thích cạnh tranh. Tâm lý này làm cho họ không kiên định về lập trường tư
tưởng. Chính vì yếu tố này mà thời gian vừa qua đồng bào Khmer đã bị các thế lực thù
địch lôi kéo, dụ dỗ thực hiện một số hoạt động chống phá trên một số địa bàn thuộc các
tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Một yếu tố tâm lý khác là vấn đề niềm tin. Khi tin thì tin tuyệt đối, sẵn sàng hành
động theo niềm tin (một phần là do ảnh hưởng của Phật giáo Tiểu thừa nên trong niềm
tin của người Khmer, yếu tố tâm linh, hữu thần chi phối mạnh mẽ), nhưng khi mất niềm
tin thì họ sẵn sàng rời bỏ, quay lưng, trả đũa không thương tiếc vì một niềm tin khác.
Như vậy, đối với văn hóa của các tộc người thiểu số ở nước ta là sự kế thừa
những giá trị truyền thống của các tộc người trong quá trình cộng cư, giao lưu và tiếp
biến văn hóa trên lãnh thổ Việt Nam qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Những
giá trị văn hóa truyền thống đó đã góp phần làm phong phú những giá trị văn hóa Việt
Nam, tạo nên sức mạnh để cho dân tộc Việt Nam vượt qua những thử thách lớn lao
trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong xây dựng hòa bình. Trải qua thời
gian, những giá trị của văn hóa cũng có những thay đổi. Có những giá trị ở giai đoạn lịch
sử trước được đề cao, thì ở giai đoạn sau có thể không còn phù hợp nữa, trở thành lực
cản của phát triển. Ở các tộc người thiểu số Việt Nam cũng có một tình hình tương tự.
Để có thể phát triển đòi hỏi phải hội nhập. Mà muốn hội nhập phải nâng cao nhân lực có
đào tạo của chính tộc người đó. Tuy nhiên, những di sản và hạn chế của lịch sử phát
triển của một tộc người cần phải được nhận thức một cách khoa học, mới có thể tìm ra
92
các giải pháp để khắc phục.
3.3.2. Phương hướng và giải pháp phát huy giá trị văn hóa Việt – Khmer ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay
Thực tế không phải đến hôm nay chúng ta mới đặt vấn đề bảo tồn và phát huy
truyền thống văn hóa của dân tộc, mà từ xưa, cha ông ta đã làm điều đó, khi các cụ
khuyên con cháu “giấy rách phải giữ lấy lề”. Gìn giữ những cái hay cái đẹp của văn
hóa dân tộc, tức cái bản sắc văn hóa, có lẽ là một trong những nguyên nhân giữ cho
đất nước, dân tộc ta tồn tại, vững bền hàng ngàn năm qua. Vấn đề đặt ra hôm nay, là
bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa của người Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long, là làm việc đó trong bối cảnh hiện tại, những điều kiện lịch sử, xã hội có
khác trước, và những dự báo cần lưu ý. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã có nhiều
cố gắng để giữ gìn bản sắc văn hóa, tuy nhiên cũng đôi khi còn mang tính hình thức,
chưa có sự chu đáo kể cả việc thấu hiểu bản sắc văn hóa là cái gì. Trên đất Nam Bộ
người Việt, người Khmer hay người Hoa, người Chăm…đã mở mang, phát triển một
vùng đất cho Tổ Quốc và cũng đã tạo dựng cho mình nét văn hóa tiêu biểu trong bức
tranh đa dạng về văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Để phát huy tốt
những giá trị văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện
nay, theo tôi cần có phương hướng phù hợp sau:
Một là, xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với
đặc điểm dân tộc và văn hóa của người Việt, nhất là đồng bào thiểu số Khmer vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Đây là phương hướng cơ bản trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; đồng thời cũng là phương hướng cơ bản trong việc phát huy giá trị
văn hóa Việt – Khmer trong giai đoạn hiện nay. Cho nên cần quán triệt sâu sắc các
quan điểm, chủ trương của Đảng, mà trực tiếp là quan điểm, chủ trương của Đảng tại
Đại hội XI, đồng thời nắm chắc đặc điểm lịch sử, cư dân, đất đai, những đặc điểm tự
nhiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việc phát triển văn hóa tinh thần của xã
hội trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Đại hội XI của Đảng xác
định: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy giá trị tốt đẹp
93
của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ
giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một
động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” [3, 126].
Là một dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Khmer
vùng đồng bằng sông Cửu Long sớm có một nền văn hóa khá phát triển. “Do quá
trình phát triển tộc người có những bước thăng trầm lại chịu sự tác động của lịch sử
nên sự phát triển văn hóa Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long còn bị nhiều hạn
chế. Trong lịch sử, người Khmer cũng như người Việt luôn sống trong sự đô hộ,
thống trị của các thế lực phong kiến, thực dân, đế quốc, đã hình thành nên ý chí kiên
cường, bất khuất, ý thức dân tộc và lòng yêu nước sâu sắc. Từ khi Việt Nam hoàn
toàn được giải phóng, bước vào thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
quyền bình đẳng, dân chủ của đồng bào Khmer thực sự được tôn trọng và có điều
kiện phát triển” [29, 149].
Theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long phải
đạt được và hướng vào giải quyết các yệu cầu chủ yếu sau: một là, phát triển kinh tế -
xã hội phải góp phần và tạo điều kiện thúc đẩy đời sống văn hóa tinh thần xã hội phát
triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào Khmer; hai là, phát triển
kinh tế - xã hội phải giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, không làm méo mó, tha
hóa các giá trị văn hóa dân tộc Việt – Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long; ba là,
phát triển kinh tế - xã hội phải phát huy được vai trò của các giá trị văn hóa Việt –
Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, xã
hội ổn định; bốn là, phát huy giá trị văn hóa phải hướng vào phục vụ cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, trực tiếp củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Hai là, xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án nhằm bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây là phương
hướng quan trọng và trực tiếp nhằm phát huy giá trị văn hóa. Từ Đại hội VII, Đảng ta
đã chỉ rõ: “Chọn lọc, gìn giữ và nâng cao tinh hoa văn hóa của cộng đồng dân tộc
Việt Nam và của từng dân tộc; bảo tồn và phát triển ngôn ngữ và chữ viết của các dân
tộc; tiếp thu các giá trị văn hóa, khoa học của nhân loại” [4, 82-83]. Về bảo tồn văn
hóa dân tộc, Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc 94
các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn và phát huy giá trị các di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn
hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với phát triển du lịch và
hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hóa trong công
chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài…” [3, 225].
Trong giai đoạn cách mạng mới, công tác bảo tồn, phát huy các di sản, giá trị
văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer, Việt hay cả người Hoa, Chăm…ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long cần phải có chương trình, dự án cụ thể, hiệu quả
hơn. Các chương trình, dự án phải được triển khai trên phạm vi toàn vùng và trong
từng tỉnh, từng địa bàn, địa phương; vì mỗi tỉnh, mỗi địa phương ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long tuy có những nét văn hóa chung nhưng cũng có những sắc thái văn
hóa riêng, cần gìn giữ và phát huy, tôn tạo và quản lý tốt các di sản văn hóa, các di
tích lịch sử, nhà bảo tàng, phát triển mạng lưới thư viện, lưu trữ. Xây dựng các công
trình văn hóa, khu vui chơi công cộng và những lễ hội truyền thống dân gian, khuyến
khích sáng tác những tác phẩm văn học, nghệ thuật, phim ảnh và cả các công trình
kiến trúc như nhà ở, trường học…là một hướng cơ bản nhằm bảo tồn gìn giữ các giá
trị văn hóa một cách tốt nhất, hiệu quả nhất và thiết thực nhất. Không nên quan niệm
bảo tồn chỉ là công việc cất giữ cho vào kho, mà bảo tồn chính là để phát triển và
phát huy, là phải đem lại những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ra phục vụ đời
sống, đáp ứng với yêu cầu của thời đại, của xã hội luôn vận động và phát triển.
Ba là, tiếp tục thực hiện hóa các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước
về dân tộc và đại đoàn kết dân tộc. Đây là một phương hướng cơ bản thể hiện tính
chính trị - thực tiễn và mục đích của việc phát huy các giá trị văn hóa dân tộc Việt –
Khmer. Trong các giai đoạn hòa bình, thống nhất đất nước, tại các Đại hội IV, V,
VI,VII, VIII, IX, X. Đảng ta luôn khẳng định rõ ràng vị trí, vai trò to lớn của đại đoàn
kết các dân tộc. Từ đổi mới quan điểm về vấn đề dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc,
Đảng ta chủ trương đổi mới chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các
95
dân tộc, các tôn giáo và chú trọng đến các dân tộc thiểu số” [29, 157].
Yêu cầu của việc phát huy các giá trị văn hóa dân tộc nói chung, các giá trị văn
hóa Việt – Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng phải quán triệt sâu sắc
và hướng vào thực hiện tốt những quan điểm, chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân
tộc của Đảng đề ra, sẽ tạo điều kiện căn bản cho việc phát huy giá trị văn hóa Khmer.
Để triển khai hiệu quả chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc vùng đồng bằng
sông Cửu Long, trước hết các cấp ủy đảng, chính quyền và đồng bào Khmer cần thực
hiện tốt những vấn đề chính yếu và cụ thể sau: đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội; ổn định và nâng cao đời sống của đồng bào; thực hiện tốt xóa đói giảm nghèo;
nâng cao trình độ văn hóa, trình độ dân trí; khắc phục những mặc cảm, tự ti dân tộc…
Bốn là, mở rộng giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong vùng, trong nước và
quốc tế. Đây là một định hướng cơ bản vừa có ý nghĩa làm cho các giá trị văn hóa
dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long được tiếp xúc, giao lưu với các dân
tộc khác để phát triển và phát huy. Thực tế lịch sử cho thấy, các giá trị văn hóa của
dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long không thể phong phú, đa dạng, giàu
bản sắc như ngày nay nếu trong quá trình phát triển không có sự giao lưu, tiếp xúc
các dòng văn hóa khác. Trong giai đoạn lịch sử cách mạng mới, cùng với sự mở rộng
quan hệ và hợp tác quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa, thì giao lưu văn hóa giữa các
dân tộc càng có điều kiện phát triển.
Hiện nay, chiến lược văn hóa đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long phải tập
trung giải quyết hai nội dung cơ bản và cấp thiết có quan hệ hữu cơ với nhau, không
tách rời nhau: thứ nhất, gìn giữ, kế thừa bản sắc văn hóa dân tộc Khmer; thứ hai, phát
huy văn hóa dân tộc Khmer, nguồn sức mạnh nội sinh trong quá trình hội nhập, giao
lưu văn hóa của đồng bào Khmer.
Giải pháp đầu tiên trong vấn đề phát huy giá trị văn hóa Việt – Khmer ở đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay là nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính
quyền về tầm quan trọng của việc phát huy giá trị văn hóa dân tộc, nhất là đối với
96
đồng bào Khmer. Một số biện pháp cần thực hiện:
Xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên, nhân
viên và nhân dân về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, vai
trò của từng dân tộc trong vùng.
Đảng và Nhà nước cần có nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi cho đồng bào
dân tộc nói chung và đồng bào Khmer nói riêng, nhất là trong việc triển khai về
Chương trình 134, 167 về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước
sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, giải quyết việc
làm cho đồng bào khó khăn và thiểu số ở đồng bằng sông Cửu Long, từng bước nâng
cao mức sống, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển bền vững.
Các cơ quan chức năng liên quan đến lĩnh vực văn hóa tư tưởng cung cấp
những thông tin cần thiết phục vụ cho việc nâng cao hiểu biết của cán bộ, đảng viên
về vai trò của các dân tộc và văn hóa dân tộc, những giá trị văn hóa trong vùng để
cùng nhau giữ gìn và pháy huy.
Giải pháp thứ hai đó là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào Việt,
Khmer, sớm rút ngắn chênh lệch về mọi mặt giữa dân tộc Khmer với các dân tộc
khác trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây là giải pháp quan trọng, góp phần
tạo tiền đề cho sự đoàn kết dân tộc trên cơ sở xích lại gần nhau về mức sống, về đời
sống vật chất và tinh thần. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy các giá trị
văn hóa của các dân tộc trong vùng. Trong phạm vi nghiên cứu về giá trị văn hóa
Việt – Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể,
mang tính cấp thiết nhất là đối với đồng bào Khmer như sau:
Giải quyết đất đai, ổn định việc làm, đời sống. Tìm kiếm lối đi mới cho nông
dân không có đất, tức là tìm kiếm điều kiện sống mới, việc làm mới cho nông dân sau
khi không còn đất. Đó là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành và
các đoàn thể. Đồng thời, tư vấn, hổ trợ dạy nghề, tạo việc làm cho nông dân không có
đất sản xuất. Đây cũng là hướng đi góp phần giải quyết vấn đề lao động của nông dân
nước ta hiện nay.
Đầu tư phát triển toàn diện, thực hiện xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào
nghèo và đồng bào thiểu số. Phải xây dựng kế hoạch đầu tư cụ thể, huy động nguồn 97
vốn của Trung ương, thực hiện vào đúng mục đích chủ trương đề ra. Tập trung xây
dựng cơ cấu hạ tầng, đường giao thông, điện khí hóa, hệ thống thủy lợi và nước sinh
hoạt. Cũng cần ưu tiên dành một phần đầu tư xây dựng và phát triển chương trình
khuyến nông và mở rộng ngành nghề thu hút lực lượng lao động. Mở rộng các lớp tập
huấn, triển khai ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, tuyên truyền, ứng dụng
tiến bộ khoa học kĩ thuật dưới dạng thông báo, nêu gương. Vận đồng đồng bào
Khmer tham gia sinh hoạt câu lạc bộ khuyến nông tại các điểm chùa, xóm, ấp, phum,
sóc.
Nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ, trí thức nhất là đối với người Khmer. Trong
thời kì đổi mới đất nước, Đảng ta luôn xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
thực chất là chiến lược phát triển con người, lấy việc phát huy nguồn lực con người là
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát
huy nguồn lực con người – yếu tố cần thiết để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
và bền vững” [3, 108-109]. Kinh tế không bao giờ có thể phát triển bền vững nếu
không phát triển về con người. Chính vì không hiểu điều đó cho nên chỉ tiêu GDP ở
đồng bằng sông Cửu Long càng ngày càng tụt: 1993: 23%, 1996: 18,4%, 2000:
17,2%…“Muốn có chủ nghĩa xã hội thì trước hết phỉ có con người xã hội chủ
nghĩa”. Lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh ai cũng biết cả, nhưng có phải ai cũng
nhận thức được đâu”
Phát triển xã hội ở vùng đồng bằng sông Cửu Long hãy bắt đầu từ nhận thức về
con người, hãy đổi mới tư duy về con người chứ không phải đổi mới tư duy về kinh
tế. Cũng đừng quá ư quan ngại về dân trí, về trình độ học vấn của đồng bào dân tộc
thiểu số. Đương nhiên trình độ nhận thức của đồng bào người Việt thiểu số, kể cả
người Việt đa số chưa cao, nhưng cũng không nên quá bi quan về điều đó. Nhà Việt
Nam học người Úc Philip Taylor cũng không đồng tình với cách nhận xét đó. Trình
độ nhận thức thấp về người Việt đồng bằng sông Cửu Long mới chính là trở ngại lớn
nhất. Bởi người Việt là cộng đồng dân cư đông đảo nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu 98
Long, có sức ảnh hưởng và chi phối rất lớn đối với các cộng đồng khác. Và với đặc
điểm hiện tại của đồng bào dân tộc thiểu số, tại sao không phát triển du lịch sinh thái,
du lịch tâm linh, văn hóa - nghệ thuật cận tự nhiên… Qua đó phát triển nông nghiệp
và công nghiệp. Phát triển về con người là cơ sở bền vững của phát triển kinh tế-xã
hội. Ngược lại, thì kinh tế tăng trưởng một, xã hội sẽ xuống cấp hai.
Đa dạng hóa các loại hình giáo dục và đào tạo. Xây dựng và củng cố các
trường dân tộc nội trú cho học sinh dân tộc. Ưu tiên bố trí giáo viên về dạy. Ngoài
đào tạo về chuyên môn đạo đức, nên trang bị thêm cho những giáo viên này những
quan điểm về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, cũng như những kiến thức
về lịch sử dân tộc, phong tục tập quán của đồng bào thiểu số vùng đồng bằng sông
Cửu Long.
Chú trọng dạy và học chữ Khmer. Đây là vấn đề rất quan trọng hiện nay. Soạn
thảo và sắp xếp lại chương trình sách giáo khoa phổ cập tiểu học bằng hai thứ tiếng
Việt và tiếng Khmer phù hợp với trình độ, tình cảm, tâm lý của học sinh Khmer.
Quan tâm xây dựng nhà trẻ, mẫu giáo, đào tạo nghề và chính sách hỗ trợ chi phí cho
vùng đồng bào dân tộc Khmer. Cần thực hiện chính sách cử tuyển và miễn giảm học
phí cho học sinh dân tộc vùng khó khăn. Trong quá trình tìm hiểu về chính sách hổ
trợ giáo dục của Nhà nước ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, học sinh thuộc các
huyện khó khăn, vùng sâu, vùng xa, mỗi học sinh được trợ cấp tiền hàng tháng. Có
những chế độ miễn giảm học phí, điều này cũng góp phần giải quyết được một phần
khó khăn cho học sinh vùng nghèo.
Giải pháp thứ ba là bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa làm cơ sở xây dựng ý
thức đoàn kết dân tộc trong đồng bào Khmer và giữa dân tộc Khmer với các dân tộc
khác trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây là một giải pháp rất quan trọng, trực
tiếp tác động đến việc phát huy những giá trị văn hóa Việt, Khmer giai đọan hiện nay.
Những yêu cầu cơ bản về bảo tồn đã được xác định trong phần phương hướng đã
trình bày ở trên, ở đây cần chú ý thực hiện tốt các vấn đề sau:
Điều tra, nghiên cứu, sưu tầm và đánh giá các di sản văn hóa. Trước hết, phải
xây dựng chương trình, kế hoạch tiến hành điều tra, nghiên cứu, sưu tầm và đánh giá 99
các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Cần có những trung tâm nghiên cứu và phát
triển di sản văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Xác định chủ thể bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa . Đưa công tác bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa thành một nội dung trong chương trình trong xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở, hay trong chương trình sách giáo khoa lịch sử về di sản văn hóa
dân tộc nhất là dân tộc thiểu số, để tuyên truyền giáo dục học sinh ở trường học.
Cần có kế hoạch bảo tồn, khai thác và phát huy vốn văn hóa truyền thống. Nội
dung bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa gồm: Bảo tồn tiếng nói và chữ viết. Bảo
tồn các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật dân tộc. Phát huy các yếu tố tích cực
trong tổ chức xã hội, phong tục, tập quán. Một thí dụ điển hình là thông qua các lễ
hội là hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính tổng hợp các yếu tố tinh thần và vật
chất, tôn giáo tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật, linh thiêng và đời thường trong mối
quan hệ giữa con người với thần linh, con người với con người và con người với tự
nhiên. Là một bộ phận của nền văn hóa dân gian được sáng tạo và bảo tồn, lưu truyền
lâu đời trong lòng xã hội từ xưa đến nay. Lễ hội dân gian là loại hình sinh hoạt văn
hóa - xã hội mang tính tổng hợp các yếu tố tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán,
văn học nghệ thuật, thế giới quan, nhân sinh quan, v.v, của cộng đồng dân cư ở một
địa bàn cụ thể trong một thời gian nhất định.
“Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long phải đảm bảo tính thống nhất với nền văn hóa Việt Nam. Nước ta có 54 dân tộc
anh em, mỗi dân tộc có những sắc thái văn hóa riêng, điều đó làm cho nền văn hóa
Việt Nam vừa mang tính thống nhất, vừa mang tính đa dạng. Thống nhất trên cơ sở
bình đẳng, tôn trọng nhằm phát triển sắc thái văn hóa của các dân tộc, tuyệt nhiên
không phải là sự thống nhất trên cơ sở đồng hóa hoặc thôn tính. Nếu đánh mất tính đa
dạng thì văn hóa Việt Nam sẽ nghèo nàn, mất động lực phát triển” [29, 204].
Vì thế, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa Việt – Khmer nói riêng và
của các dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, một mặt cần hướng vào mục tiêu xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mặt khác, phải tiếp thu
100
có chọn lọc những yếu tố tiến bộ, phù hợp với văn hóa của các dân tộc khác.
Như vậy, do đặc điểm cư trú đan xen và quá trình giao lưu văn hóa giữa các
dân tộc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là sự ảnh hưởng văn hóa của người
Việt, diễn ra khá mạnh mẽ, nên trong thực tế đã và đang diễn ra một quá trình “đồng
hóa tự nhiên”. Trong điều kiện đó, đồng bào dân tộc Khmer đang có nguy cơ mất dần
những sắc thái văn hóa của dân tộc mình, đặc biệt là tiếng nói và chữ viết. “Thực tế
đáng báo động là nhiều nơi hiện nay, người Khmer và ngay cả giáo viên người dân
tộc Khmer cũng không biết nói và viết tiếng Khmer” [29, 209]. Tuy nhiên, khắc phục
những biểu hiện “đồng hóa” về văn hóa. Cần nhận thức rằng, quá trình xích lại gần
nhau giữa các dân tộc mà điển hình là hai dân tộc chủ thể Việt và Khmer ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long đã tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc phát triển toàn diện, là
cơ sở để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nhưng không phải vì thế mà để xảy ra sự
đồng hóa về văn hóa dù đó là sự đồng hóa tự nhiên, dẫn tới tình trạng làm mất đi các
giá trị văn hóa của dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là sự mai
một của tiếng nói và chữ viết Khmer. Do đó, cần đào tạo đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ
người Khmer, chính lực lượng này sẽ giữ vai trò nồng cốt trong việc bảo tồn, giữ gìn
những giá trị văn hóa trước sự đồng hóa và sự mai một của các giá trị văn hóa. Phải
nhận thức đúng đắn và tầm quan trọng của những giá trị văn hóa Khmer đối với việc
củng cố khối đoàn kết dân tộc. Văn hóa Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tín ngưỡng tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo Tiểu thừa, họ tin
tưởng tuyệt đối vào các nhà chùa và các sư sãi, là một tộc người có tư duy sáng tạo,
cần cù, chịu khó, có truyền thống đấu tranh chống áp bức. Những giá trị văn hóa
Khmer thể hiện đặc điểm của cư dân nông nghiệp lúa nước, in đậm dấu ấn Bàlamôn
và Phật giáo Tiểu thừa, đồng thời thể hiện sự hòa nhập, giao lưu văn hóa với các dân
101
tộc khác trong vùng, vừa độc đáo riêng biệt, vừa phong phú đa dạng.
KẾT LUẬN
Đồng bằng sông Cửu Long – một miền đất giàu đẹp của Tổ quốc ta, vốn có
những dấu vết văn hóa lâu đời, liên tục từ thời tiền sử cho đến nay, nơi đã từng diễn
ra những tiếp xúc của nhiều lớp, nhiều tầng văn hóa vùng Đông Nam Á. Vì vậy, việc
nghiên cứu văn hóa đồng bằng sông Cửu Long cần được xét trong quá trình thống
nhất văn hóa của cả nước.
Ngay từ buổi đầu mở đất, các dân tộc cộng cư ở đồng bằng sông Cửu Long đã
chung lưng đấu cật, đoàn kết để chống chọi với thiên nhiên, với thú dữ và nhiều tai
họa khác. Bên cạnh việc đoàn kết để chống chọi với những khó khăn còn là để cho có
bạn có bè, cho đỡ quạnh hiu giữa chốn rừng thiên nước độc. Vì lẽ đó, cư dân ở đồng
bằng sông Cửu Long quan niệm “Bán bà con xa mua láng giềng gần”. Yếu tố láng
giềng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cư dân, trong việc giúp đỡ nhau những
lúc hoạn nạn khó khăn, tối lửa tắt đèn có nhau, trong việc khẩn hoang lập ấp, mở rộng
xóm làng, tạo dựng cho cuộc sống ngày càng phát triển lên. Có lẽ vì vậy dân đồng
bằng sông Cửu Long có tinh thần hiếu khách, trọng nghĩa khinh tài. Và trong hơn ba
thế kỷ qua, các cộng đồng dân tộc cộng cư trên đồng bằng sông Cửu Long đã khẳng
định được sức sống mãnh liệt trên vùng đất mới của Tổ quốc. Các dân tộc đã đoàn
kết, giúp đỡ nhau trong công cuộc xây dựng cuộc sống, kiến tạo những nét văn hóa
thêm phong phú và hơn hết đã góp phần gìn giữ trọn vẹn đất nước trước các cuộc
xâm lấn, nô dịch từ nhiều phía. Sự cộng cư của nhiều dân tộc trên một vùng đất đã
giúp vùng đồng bằng sông Cửu Long có được một bản sắc văn hóa phong phú và đa
dạng. Lúc đầu, có thể chỉ là sự liên kết đơn thuần của nhiều cộng đồng người để
chống lại những thiên tai dịch họa, hòng tìm sự bình yên trong cuộc sống và sản xuất.
Như trên đã trình bày, đồng bằng sông Cửu Long có nhiều tộc người sinh sống
như người Hoa, Khmer, Chăm và nơi đây người Việt chiếm số lượng đông đảo nhất.
Họ cùng cộng cư lâu dài với nhau trên vùng đất mới này. Trong quá trình lao động và
102
chinh phục thiên nhiên cũng như trong đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột của giai
cấp phong kiến và sau này là thực dân đế quốc thống trị, đã đoàn kết hòa hợp với
nhau. Đây là cơ sở thực tế để mỗi tộc người tồn tại và phát triển, là tình cảm giai cấp
của quần chúng lao động cùng chịu chung một số phận chính trị, và cũng là quá trình
diễn ra sự giao lưu văn hóa một cách tự nguyện và sâu sắc nhất. Khi Việt Nam hoàn
toàn độc lập thống nhất, người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long mới thực sự được
giải phóng, quyền bình đẳng, dân chủ được khôi phục, thực sự được tôn trọng và có
nhiều điều kiện phát triển tự do trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong
đó, lĩnh vực văn hóa cũng dần dần được khởi sắc, đồng hành cùng văn hóa của các
dân tộc khác trong vùng cũng như trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Do điều kiện địa lý đặc thù, nên cách thức hoạt động sản xuất của cư dân trên
vùng đất phì nhiêu rộng lớn này mang đặc trưng đồng bằng sông nước rõ nét nhất,
đồng thời cũng đa dạng nhất so với tất cả các vùng miền khác.
Từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, do dân số gia tăng và đất hoang ngày
càng ít, người Việt và người Khmer đã khai phá cả những mảnh đất bưng phèn ở các
vùng ngập mặn chỉ có thể cấy lúa một vụ. Bên cạnh việc trồng lúa nước, người
Khmer còn trồng hoa màu trên đất rẫy giống người Việt. Ở vùng ven sông biển,
người Khmer cũng làm nghề đánh bắt cá mà chủ yếu là cá đồng, cá sông, với kỹ thuật
và ngư cụ giống như người Việt. Nghề chăn nuôi nhìn chung còn gắn với nông
nghiệp, mặc dù đã hình thành được những đàn bò, trâu, vịt tàu… khá lớn. Các nghề
thủ công đan mây tre, đan đệm, dệt chiếu rất phổ biến. Nghề dệt và làm gốm còn duy
trì ở An Giang, Kiên Giang.
Đến Nam Bộ để khai hoang lập ấp, người Việt cũng theo truyền thống để tổ
chức quần cư thành làng ấp. Tuy nhiên, về nội dung và hình thức, làng ấp của người
Việt Nam Bộ có nhiều điểm khác biệt với làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.
Về nội dung, làng ấp của người Việt ở Nam Bộ là một tập hợp cư dân đến từ nhiều
vùng, nhiều họ tộc khác nhau, gắn bó với nhau không phải do quan hệ dòng họ mà
103
chủ yếu là do quan hệ láng giềng. Tập hợp cư dân của mỗi làng ấp cũng thường
xuyên biến động hơn, kẻ đến người đi đổi chỗ cho nhau, nên không có sự phân biệt
đáng kể giữa dân chính cư với dân ngụ cư. Về hình thức, để tiện việc đi lại, làng ấp ở
Nam Bộ thường hình thành dọc theo kinh rạch hoặc trục lộ, không có luỹ tre làng
đóng kín. Do đó, tính cố kết cộng đồng của làng ấp Nam Bộ lỏng lẻo hơn làng quê ở
đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.
Đối với người Khmer trước kia theo chế độ gia đình song hệ nhưng đang trong
xu hướng chuyển sang phụ hệ. Có lẽ do sự ảnh hưởng trong quá trình cộng cư lâu dài
với người Việt. Hình thức gia đình chủ yếu là tiểu gia đình, mặc dù vẫn còn tồn tại
các đại gia đình gồm 3, 4 thế hệ sống chung trong các phum nhỏ. Hình thức tổ chức
cộng đồng cơ sở là phum, bao gồm dăm ba gia đình có quan hệ huyết thống và quan
hệ hôn nhân với nhau, phát triển từ công xã thị tộc mẫu hệ nguyên thuỷ, đứng đầu là
mê phum. Nhưng cũng có phum lớn, bao gồm cả trăm gia đình thuộc nhiều dòng họ
khác nhau. Các gia đình trong phum là những đơn vị kinh tế độc lập, có ruộng đất, tài
sản, sinh hoạt và sản xuất riêng. Cũng như làng ấp của người Việt, sóc của người
Khmer không có sự phân biệt đáng kể giữa dân chính cư và dân ngụ cư.
Về tín ngưỡng, là một vùng đất đa tộc người, Nam Bộ cũng là nơi gặp gỡ các
tín ngưỡng tôn giáo sẵn có từ Bắc Bộ, Trung Bộ, đồng thời là cái nôi sinh thành
những tín ngưỡng tôn giáo mới. Vì vậy, đây chính là vùng đất phong phú nhất về tín
ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. Tiếp nối truyền thống của người Việt ở đồng bằng
Trung và Nam Trung Bộ, người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long cũng dành ưu tiên
cho đạo Phật, kết hợp với tín ngưỡng vạn vật hữu linh và thờ cúng tổ tiên. Chùa chiền
có mặt ở khắp đồng bằng, đặc biệt là những vùng đồi núi sót, có sơn thuỷ hữu tình.
Phong tục của người Việt cũng có nguồn gốc từ đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ,
nhưng có tiếp biến thêm nhiều yếu tố từ phong tục của người Khmer. Đối với người
Khmer và đại bộ phận người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long, Phật là chỗ dựa tinh
thần vững chắc nhất, là đấng thiêng liêng nhất, còn sư sãi là những người thay Đức
104
Phật để hoằng hóa độ sinh, vì vậy rất được mọi người tôn kính.
Ở Nam Bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng có một kho
tàng văn học, văn nghệ dân gian phong phú. Đó là các truyện dân gian phản ánh sự
nghiệp khai phá đất đai, gắn liền với những danh thắng, di tích và nhân vật lịch sử.
Đó là kho tàng ca dao và dân ca với các điệu hò, điệu lý, các bài hát huê tình, hát ru
em, hát đồng dao, hát sắc bùa, hát thài, hát rối, hát vọng cổ, hát tài tử, v.v. Đặc biệt,
hát vọng cổ và hát tài tử rất được ưa thích.
Trên cơ sở khai thác đặc điểm ngữ âm và những thành tựu của ca nhạc, sân
khấu dân gian và ca nhạc tài tử Nam Bộ, cùng với sự tiếp biến loại hình sân khấu
kịch nói phương Tây, cải lương đã nhanh chóng trở thành một trong ba loại hình sân
khấu dân tộc phổ biến ở Việt Nam. Người Khmer Nam Bộ có một kho tàng văn học
dân gian rất phong phú bao gồm nhiều thể loại như truyện cổ tích (rương prêng), thần
thoại (rương boran), tục ngữ (sopheaset), bài ca (châm riêng)…, và được chia làm hai
mảng lớn là văn xuôi (peak sâmrai) và văn vần (kâm nap). Người Khmer Nam Bộ
cũng có nhiều loại hình nghệ thuật rất độc đáo như múa, âm nhạc, sân khấu, kiến
trúc, điêu khắc, hội hoạ, trang trí… Trong đó, nghệ thuật múa được chú ý nhiều nhất,
bao gồm múa dân gian và múa chuyên nghiệp.
Ẩm thực của người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng theo truyền
thống bảo đảm cân bằng âm dương và theo quy luật ngũ hành tương sinh tương khắc
của người Việt nói chung. Tuy nhiên, do điều kiện địa lý đặc thù và giao lưu tiếp biến
văn hoá, cơ cấu bữa ăn thông thường của người Việt nơi đây đã được điều chỉnh
thành cơm – canh – rau – tôm cá. Để cân bằng với khí hậu nóng nực, người Việt nơi
đây rất món ăn, và do tiếp biến các món canh chua của người Khmer, nên các món ăn
ở vùng đất này cực kỳ phong phú, nhiều địa phương ở đây cũng có những đặc sản nổi
tiếng.
Do sống trong môi trường sông nước, nông dân người Việt ở đồng bằng sông
Cửu Long, cả nam và nữ, rất thích chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn. Chiếc áo bà ba
105
gọn nhẹ rất tiện dụng khi chèo ghe, bơi xuồng, lội đồng, tát mương, tát đìa, cắm câu
giăng lưới, và có túi để có thể đựng một vài vật dụng cần thiết. Chiếc khăn rằn được
dùng để che đầu, lau mồ hôi, và có thể dùng quấn ngang người để thay quần. Trang
phục thường nhật của nam giới người Khmer Nam Bộ cũng là bộ bà ba đen, quấn
khăn rằn. Hiện nay, trang phục của người Khmer giống với người Việt ở địa phương.
Nhà của người Việt có ba loại chính: nhà đất cất dọc theo ven lộ, nhà sàn cất
dọc theo kinh rạch, và nhà nổi trên sông nước. Nhà nổi trên sông nước là nơi cư trú
đồng thời là phương tiện mưu sinh của những gia đình theo nghề nuôi cá bè, vận
chuyển đường sông, buôn bán ở các chợ nổi, bán sỉ và bán lẻ trên sông. Người Khmer
trước đây đều ở nhà sàn, nhưng ngày nay phần nhiều đã chuyển thành nhà đất, nhà
sàn chỉ còn phổ biến ở những khu vực gần biên giới. Nhà ở của họ ngày nay về hình
dáng, vật liệu kiến trúc cũng gần giống với nhà của người Việt.
Để đi lại, vận chuyển, các tộc người cư trú nơi đây đều phải lựa chọn những
phương tiện phù hợp với các địa hình đặc trưng của không gian Nam Bộ nói chung và
vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Nói chung, cho đến nay ở miền Tây giao
thông đường thuỷ vẫn rất thông dụng và thuận lợi, mặc dù giao thông đường bộ đã
được cải thiện nhiều.
Như vậy, theo qui luật phát triển của lịch sử văn hóa Việt Nam đã chỉ rõ: quá
trình đấu tranh cho độc lập dân tộc gắn với quá trình thống nhất đất nước trở thành
sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Việt Nam. Vì vậy, một đặc điểm nổi bật của cuộc sống
kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng đồng bằng sông Cửu Long xưa và nay là sự hỗn dung
văn hóa với cơ cấu đa thành phần, tuy có ít nhiều tách biệt. Chính nhân dân các dân
tộc ở đây đã đưa nền văn hóa truyền thống của người Việt hội nhập với văn hóa địa
phương mà điển hình là loại hình sân khấu cải lương với loại hình Yukê của người
Khmer, hiện nay được nhân dân cả nước ưa thích và là một trong những loại hình có
khả năng đổi mới để góp phần xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa trong cả nước.
106
Đó là mặt chủ đạo, mặt tích cực của văn hóa đồng bằng Nam Bộ mà ta cần phát huy,
khai thác mạnh mẽ, như thế là chúng ta đã làm đúng theo đường lối văn nghệ của
Đảng và cũng phù hợp với lòng dân.
Từ sự phân tích trên có thể thấy một số biểu hiện tích cực trong quá trình
giao lưu văn hóa Việt – Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, được biểu hiện:
Thứ nhất, trong quá trình cộng cư trên vùng đất này đã nảy sinh một quá trình
tiếp xúc văn hóa tự nguyện của hai dân tộc Việt - Khmer. Trong quá trình sinh sống,
làm ăn, hành trang mang theo của cư dân là những vốn truyền thống từ làng quê, đất
tổ đã thẩm thấu lẫn nhau tạo nên một nét mới để thích nghi, phù hợp với vùng sinh
thái tự nhiên và xã hội. Người dân tới vùng đất phương Nam phải gạt bỏ dần những
tập tục phong kiến để tiếp thu, thẩm thấu những nét, những sắc thái văn hóa hết sức
đa dạng, phong phú và riêng có của văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long trong
nền văn hóa người Việt. Đây là một sự gắn kết của hai dân tộc anh em, cùng khai
phá, cùng sống và cùng phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc mình.
Thứ hai, chính trạng thái cộng cư xen kẽ lâu dài, nên quá trình hình thành và
phát triển văn hóa của người Việt và người Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
không chỉ là kết quả của sự vận động phát triển tự thân mỗi tộc người mà còn là kết
quả của sự giao lưu văn hóa. Những giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người
Việt vùng đồng bằng sông Cửu Long có nguồn gốc từ đồng bằng Trung và Nam
Trung bộ, nhưng trong quá trình cộng cư lâu dài đã có sự tiếp biến thêm nhiều yếu tố
từ phong tục của người Khmer, người Hoa. Đây là quá trình tiếp xúc văn hóa tự
nguyện qua quá trình cùng sống, sinh hoạt lâu dài trên cùng một địa vực.
Thứ ba, những gì ban đầu mà người Việt, người Khmer mang theo đến vùng
đất này để “mở cõi” là những vốn sống, hành trang văn hóa vật chất và tinh thần
trong huyết quản, tiềm thức và để thích ứng với điều kiện tự nhiên của vùng đất mới,
cho nên họ đã bao dung lẫn nhau, cùng hòa đồng, thân thiện, làm ăn, sinh sống.
Chính vì vậy một tổng thể của các sắc thái văn hóa và tôn giáo cùng tồn tại, cùng
chung sống, cùng phát triển trong sự tôn trọng lẫn nhau đã làm nên nét văn hóa đặt
107
trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long, đó là đa tôn giáo, đa dân tộc. Thông qua
các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo, hoạt động sản xuất, lễ hội truyền thống hay văn
hóa dân gian của hai dân tộc Việt, Khmer tại vùng đồng bằng sông Cửu Long tạo
điều kiện cho quá trình giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ hơn, qua đó thúc đẩy sự
gắn kết cộng đồng, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp đã có, hiện có và sẽ có
trong tương lai.
Thứ tư, những giá trị văn hóa của cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long trong
lịch sử phát triển của mình đã kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp những giá trị
văn hóa của quốc gia dân tộc. Đây là một sự kế thừa tích cực, làm cho nền văn hóa
dân tộc Việt Nam có thêm những giá trị văn hóa mới.
Thứ năm, xét trên bình diện tổng thể thì sự tiếp xúc văn hóa giữa các nền văn
hóa cùng có mặt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long là sự tiếp xúc văn hóa trong hòa
bình, sự tiếp biến văn hóa có chọn lọc. Chính điều này đã làm cho Việt Nam trở
thành một quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc.
Sự va chạm giữa các nền văn hóa trên thế giới đôi khi xảy ra những xung đột,
nhưng cũng có lúc sự va chạm này diễn ra một cách hòa bình. Khi những yếu tố văn
hóa phương Tây du nhập vào Việt Nam, dù bằng con đường truyền đạo hay xâm lược
thì những yếu tố văn hóa đó vẫn bén rễ và phát triển ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Sự tiếp biến có chọn lọc những giá trị văn hóa của nhiều nền văn hóa khác
nhau đã tạo ra một sự phát triển đa dạng và đặc sắc của cư dân trên vùng đất này.
Tuy nhiên, bên cạnh những biểu hiện tích cực trong quá trình giao lưu văn
hóa lâu đời của hai tộc người Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thì
cũng có một số hạn chế trong sự giao lưu này, được thể hiện ở một số điểm như
sau:
Thứ nhất, ở đồng bằng sông Cửu Long không trải qua cuộc cải cách ruộng đất,
phần nhiều người dân có ruộng, có vườn, nên cuộc sống cũng không vất vả, cực nhọc
như những cư dân miền Bắc, miền Trung. Có lẽ vì vậy người dân thường có những
108
suy nghĩ giản đơn, ít có sự nhìn xa, trông rộng để có sự đầu tư cho con cái trong
tương lai về vấn đề học hành, sự nghiệp, tiến thân. Tâm lý và tính cách tiểu nông
trong lối sống của cư dân nơi đây vẫn còn tồn tại khá phổ biến, ý chí làm giàu chưa
trở thành mẫu số chung trong nhân sinh quan của người dân, thái độ sống thụ động, lệ
thuộc, không cầu tiến vẫn tồn tại khá rõ nét. Những yếu kém và bất cập không chỉ thể
hiện sức ì, bảo thủ, tính cục bộ và phân tán của con người trong nhận thức và hành
động mà còn chứng tỏ một sự thật là nền kinh tế của vùng sông nước này vẫn còn là
nền kinh tế tiểu nông, nghèo nàn, lạc hậu và bộc lộ rõ nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế và tri thức trong quá trình phát triển ở đồng bằng sông Cửu Long . Đây là những
trở ngại lớn đối với nhu cầu phát triển bền vững cũng như xây dựng lối sống văn hóa
mới cho đồng bằng sông Cửu Long. Khi cả nước đi vào kinh tế thị trường, nguồn
nhân lực yêu cầu cần được đào tạo, có chuyên môn, có trình độ cao thì ở đồng bằng
sông Cửu Long tỉ lệ người không có việc làm còn cao, số người nghèo còn đông
(9,25%) nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Thứ hai, do đặc điểm cư trú đan xen và quá trình giao lưu văn hóa giữa hai dân
tộc, diễn ra khá mạnh mẽ, nên trong thực tế và đang diễn ra một quá trình “đồng hóa
tự nhiên”. Trong điều kiện đó, đồng bào dân tộc Khmer đang có nguy cơ mất dần
những sắc thái văn hóa của dân tộc mình, đặc biệt là tiếng nói và chữ viết. Thực tế
đáng báo động là nhiều nơi hiện nay, người Khmer và ngay cả giáo viên người dân
tộc Khmer cũng không biết nói và viết tiếng Khmer.
Thứ ba, đức tin của Phật giáo Tiểu thừa từ bao đời nay đã ăn sâu vào tiềm thức
của các thế hệ người Khmer và được lưu truyền từ đời này sang đời khác, trở thành
một lý tưởng truyền thống, một động lực phát triển, họ rất tự hào về ngôi chùa và các
sư sãi, đối với họ “mất Phật giáo là mất dân tộc” [29, 138]. “Người Khmer nếu không
có chùa không thành người Khmer” [22, 67]. Tuy nhiên hiện nay trong các giá trị văn
hóa truyền thống ấy đã có một số giá trị bắt đầu mai một hoặc có những biểu hiện
mới cần phải quan tâm, lưu ý như: Số người đi tu ngày càng ít và số người chọn việc
tu hành lâu dài càng ít hơn, điều đó làm giảm vị thế của nhà chùa và các vị sư. Bởi
ngôi chùa từ lâu là trung tâm sinh hoạt tôn giáo văn hóa, nơi giữ gìn và phát huy các 109
giá trị văn hóa dân tộc, dạy giáo lý, đạo đức, chữ viết cho người Khmer. Nhưng ngày
nay, đa số thanh niên Khmer không xem trọng tiêu chuẩn đi tu, số người đi tu ngày
càng ít dần. Điều đó cũng nói lên rằng việc đi tu ngày nay chỉ là việc học đạo chứ nhà
chùa không còn là nơi giáo dục đạo đức cho thanh niên.
• Một số kiến nghị:
Kiến nghị thứ nhất: Cần nhận thức rằng, quá trình xích lại gần nhau giữa hai
dân tộc tạo điều kiện cho dân tộc kia phát triển và ngược lại, nhằm tạo điều kiện cho
mỗi dân tộc phát triển toàn diện về văn hóa, là cơ sở để củng cố vững chắc khối đại
đoàn kết dân tộc, nhưng không phải vì thế mà để xảy ra sự đồng hóa về văn hóa, dù
đó là sự đồng hóa tự nhiên, dẫn tới tình trạng làm mất đi các giá trị văn hóa của dân
tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, cần nhanh chóng đào tạo đội ngũ
trí thức, văn nghệ sĩ người Khmer, chính lực lượng này sẽ giữ vai trò nòng cốt trong
việc bảo vệ, giữ gìn những giá trị văn hóa trước sự đồng hóa, sự mai một các giá trị
văn hóa dân tộc. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa, tôn
giáo.
Kiến nghị thứ hai: Trình độ dân trí thấp của bộ phận người Việt thiểu số và
đông đảo người Khmer, nên hiểu biết về các giá trị truyền thống còn hạn chế, tình
trạng mù chữ dân tộc còn nhiều. Đòi hỏi Đảng và Nhà nước cũng như các cấp lãnh
đạo ở đồng bằng sông Cửu Long cần có những chính sách tích cực hơn nữa nhằm
tuyên truyền, vận động họ nâng cao kiến thức, tạo điều kiện và hổ trợ để đẩy mạnh
việc giáo dục ở địa phương trong từng tỉnh, nhất là tỉnh có số người Khmer đông.
Kiến nghị thứ ba: Các hình thức lễ hội, văn hóa dân gian được tổ chức hay
diễn ra vào những ngày lễ trọng đại của từng tộc người (ví dụ: Lễ Ok om Bok, Lễ hội
đua Ghe Ngo của người Khmer,…) tạo cơ hội cho các cộng đồng dân tộc người Việt,
hay người Khmer hay bất cứ một dân tộc nào khác được giao lưu văn hóa, gắn kết
thêm tính cộng đồng, đoàn kết. Cho nên việc giữ nguyên bản sắc văn hóa bản địa của
110
loại hình văn hóa này là rất cần thiết.
Kiến nghị thứ tư: Có thể khẳng định rằng, không có giá trị văn hóa thì ngành
kinh doanh du lịch của quốc gia đó không thể có tiềm năng phát triển nhưng tác động
của du lịch đến văn hóa cũng mang cả những ý nghĩa tích cực và tiêu cực của nó. Một
trong những ý nghĩa tích cực đầu tiên là du lịch giúp mở rộng giá trị của sản phẩm
văn hóa. Nếu không có du lịch thì bạn bè thế giới không thể biết đến Việt Nam nói
chung hay vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Nếu không có du lịch, sản
phẩm văn hóa chỉ đơn thuần có giá trị lịch sử, nghệ thuật hay khoa học không thể một
năm đóng góp một giá trị kinh tế nhất định cho nền kinh tế quốc dân. Thứ hai, chính
hoạt động du lịch giúp bảo tồn, duy trì lâu bền những giá trị văn hóa đang dần mai
một hoặc bị phá hủy bởi thời gian, bởi sự lãng quên của người dân bản địa. Minh
chứng rõ ràng rằng hàng năm chính quyền các cấp luôn dành một khoản kinh phí lớn
hay nhỏ cho việc trùng tu, tôn tạo chùa chiền, các công trình điêu khắc, mỹ thuật,…
tùy theo sức hấp dẫn du khách của điểm đến.
Tuy nhiên, hoạt động du lịch cũng mang đến những tác động tiêu cực đối với
nền văn hóa. Trước tiên, du lịch thâm nhập vào cộng đồng làm thương mại hóa
những giá trị văn hóa bản địa thuần túy. Ngày nay, dễ dàng nhận thấy những hình ảnh
khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng, các quán ăn tạm, các cửa hàng bán đồ ăn theo… mọc
lên nhan nhản với các hoạt động kinh doanh manh mún, xô bồ xung quanh khu vực
đền, chùa – nơi vốn là chốn thiêng, không gian tĩnh mịch của tâm linh. Thứ hai, chính
du lịch ảnh hưởng đến lối sống của một bộ phận dân địa phương, làm mai một đi
những giá trị văn hóa trong tâm thức họ. Tóm lại, mặc dù hoạt động du lịch hiện nay
đang có những tác động rất lớn đến các thành tựu văn hóa dân tộc song không thể
không khẳng định lại sự gắn kết chặt chẽ của lịch sử, du lịch với văn hóa. Du lịch
hình thành dựa trên những giá trị văn hóa.
Có thể kết luận rằng “Giao lưu văn hóa vừa là kết quả của trao đổi vừa là chính
bản thân của sự trao đổi, có hiểu như vậy, mới thấy hết tầm quan trọng của giao lưu
văn hóa trong lịch sử nhân loại vì bên cạnh sản xuất, trao đổi là động lực thúc đẩy sự
111
phát triển lịch sử” [112, 28]. “Văn hóa là của chung nhân loại, không của riêng dân
tộc nào. Trong bài viết, “Yếu tố Hoa – Việt trong kiến trúc chùa chiền Việt
Nam”(1998), tác giả Nguyễn Duy Hinh, viết: “Việc tiếp thu văn hóa ngoại lai là điều
kiện cần thiết và thông minh có lợi cho sự phát triển văn hóa bản địa. Công bằng mà
nói, không có nền văn minh nào “thuần chủng”.“Giao lưu văn hóa là một xu thế tất
yếu trong lịch sử của mỗi quốc gia và toàn nhân loại” [119, 98]. Theo Trần Hồng
Liên, trong bài viết “Văn hóa phi vật thể qua các văn khắc tại những cơ sở tín
ngưỡng – tôn giáo người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh” trong “Bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trang 10 thì “Giao lưu
văn hóa – nhu cầu tất yếu của một nền văn hóa đa dân tộc”.
Qua việc nghiên cứu đề tài, có thể rút ra rằng, môi trường tự nhiên và điều kiện
xã hội đóng vai trò không nhỏ trong việc hình thành quan điểm tư tưởng, tâm lý, triết
lý sống và đời sống tâm linh của một cộng đồng. Suốt mấy nghìn năm dựng nước và
giữ nước, chúng ta có thể tự hào mà nói rằng, văn hóa bản địa, văn hóa làng xã là tài
sản vô giá của dân tộc cần phải được giữ gìn, phát huy trên cơ sở sàng lọc, loại bỏ
những gì phi văn hóa, duy trì và làm phong phú thêm những nét đep văn hóa vốn có.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, với đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta,
văn hóa Việt Nam tiếp tục được phát huy, đã góp phần quyết định vào những thắng
lợi to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là
kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng
hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách và bản lĩnh
Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc “vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh”, là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của nhân dân ta, đồng
thời là một quá trình cải biến xã hội sâu sắc đòi hỏi phát huy khả năng và trí tuệ ở
112
mỗi con người Việt Nam. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội, nhu cầu tăng
nhanh về văn hóa…là những yếu tố làm thay đổi nhiều mặt đời sống văn hóa dân tộc.
Nhìn nhận những di sản và hạn chế của những đặc điểm lịch sử, xã hội đối với sự phát
triển và phát triển bền vững của các tộc người tại chỗ (bản địa), tức chúng ta xem xét
trong mối quan hệ tương tác giữa tác động lịch đại và đồng đại đến sự phát triển của một
tộc người.
Ngày nay, đồng bằng sông Cửu Long không những chiếm một vị trí chiến lược
trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà còn có vai trò
hết sức quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết quốc tế, trước hết là sự liên minh chiến
lược giữa các nước trong khu vực. Do đó, việc khẳng định và phát huy truyền thống
văn hóa vùng này trong sự nghiệp cách mạng văn hóa – tư tưởng của cả nước và
trong mối giao lưu văn hóa với các nước bạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Tóm lại, chính sự hòa hợp và đoàn kết giữa các dân tộc mà điển hình là người
Việt, người Khmer cùng cộng cư trên vùng đồng bằng sông Cửu Long này đã tạo nên
một nguồn lực to lớn trong việc khai khẩn và phát triển vùng. Cuộc sống cộng cư của
các dân tộc, mà thành phần người Việt là chủ yếu, giữa vùng đất hoang vu đầy khắc
nghiệt đã tạo nên sự đoàn kết, hòa thuận giữa các dân tộc anh em. Tất cả cùng chung
sức khai phá vùng đất hoang với quy mô ngày càng lớn. Trong quá trình đó, họ đã
biến vùng đất hoang vu, rừng rậm này trở thành những xóm làng đông đúc, ruộng
đồng phì nhiêu, xây lộ, đắp cầu, dần dần hình thành chợ búa, thị tứ và từ đó trung tâm
dân cư cũng được thiết lập. Nói đến văn hóa ở vùng đất mới này là phải nói đến văn
hóa của các dân tộc cùng cộng cư trên một vùng đất. Trong đó, giao lưu và hòa nhập
văn hóa là một yếu tố đặc trưng của văn hóa vùng miền. Không gian văn hóa Đồng
bằng sông Cửu Long là một không gian văn hóa mở, sẵn sàng chấp nhận bất kỳ một
nền văn hóa nào du nhập vào. Nhưng đây là sự chấp nhận có chọn lọc, củng cố, bổ
sung và làm giàu thêm cho bản sắc văn hóa của mình. “Không thể kể hết sự giao lưu
văn hóa người Việt với văn hóa các dân tộc khác trong vùng trên tất cả các lĩnh vực:
cung cách làm ăn, việc ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, vui chơi, giải trí, giữ gìn sức khỏe
113
v.v... Trong sự giao lưu đó, trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, nền văn hóa của
người Việt trong vùng đã được nâng lên, được làm phong phú thêm với nhiều nét đặc
sắc.
Hiện nay song song với nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, việc xây dựng
nền văn hóa văn minh hiện đại, trong đó bảo tồn và phát huy văn hóa bản địa là việc
làm vô cùng cần thiết trong hệ thống giáo dục Việt Nam, đặc biệt trong giáo dục
trung học phổ thông và đại học hiện nay. Những trí thức Việt Nam trong thời đại
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nền kinh tế tri thức toàn cầu phải là những hiền tài,
nguyên khí của quốc gia, mang đầy đủ bản lĩnh, bản sắc và tinh hoa của dân tộc Việt.
Phải làm sao để các giá trị truyền thống của 4.000 năm văn hiến lan tỏa thành giá trị
đặc thù của nền văn hóa Việt. Hiện nay và trong tương lai, đất nước Việt Nam chúng
ta đang trên đà phát triển và từng bước khẳng định vị trí của mình trên trường quốc
tế. Phát huy những yếu tố văn hóa dân tộc, trên cơ sở đó tạo nên sự giao lưu văn hóa
giữa các dân tộc hay giữa các nước trên thế giới, tạo nền tảng của việc mở rộng quan
hệ ngoại giao. Cùng với quá trình toàn cầu hóa, quá trình giao lưu văn hóa càng trở
nên mạnh mẽ. Đó như một quy luật tất yếu mà không một nền văn hóa nào có thể
đứng ngoài. Mỗi một nền văn hóa muốn phát triển, tiến ngang tầm thời đại thì không
114
thể tự khép mình, đóng cửa với những “luồng gió” văn hóa mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 126.
4. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đảng thời kì đổi mới (Đại hội VI, VII,
VIII, IX) – Về văn hóa, xã hội, khoa học – kỹ thuật, giáo dục, đào tạo.
5. Văn kiện của Đảng và Nhà nước về Chính sách Dân tộc (1960-1977) (1978),
Nxb Sự thật, Hà Nội.
6. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1997), Nxb Sự Thật, Hà Nội.
7. Văn kiện Đảng về chính sách dân tộc (1978), Nxb Sự Thật, Hà Nội.
8. Bùi Minh Đạo (2003), Một số vấn đề giảm nghèo ở các dân tộc thiểu số Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
9. Bùi Xuân Đính (2012), Các tộc người ở Việt Nam, Nxb Thời Đại.
10. Cao Xuân Phổ, Văn hóa Phật giáo của người Khmer Nam Bộ, Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2/ 2004.
11. Đặng Phương Kiệt (2006), Gia đình Việt Nam, Nxb Lao động.
12. Đặng Thị Vũ Thảo (1981), Sân khấu của người Khmer ở đồng bằng sông
Cửu Long, Nxb Tổng hợp tỉnh Hậu Giang.
13. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Tp.Hồ Chí Minh.
14. Đinh Khắc Thuần (2006), Tục lễ cổ truyền làng xã Việt Nam, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
15. Đinh Lê Thư (2005), Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer đồng bằng sông
115
Cửu Long, Nxb Đại học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh.
16. Đinh Lư Giang (2011), Tình hình song ngữ Khmer – Việt tại đồng bằng sông
Cửu Long, Một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
17. Đinh Văn Hạnh (1999), Đạo Tứ ân hiếu nghĩa của người Việt ở Nam Bộ
(1867 - 1975), Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
18. Đinh Văn Liên (1985), Giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long trong Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long,
Viện Văn hóa xuất bản, Hà Nội.
19. Đỗ Mười (1993), Chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người vì mục
đích dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, Văn kiện Hội nghị
BCH TW lần thứ 4 khóa VII, Nxb Sự thật, H.
20. Đoàn Giỏi (2010), Đất rừng phương Nam, Nxb Văn học.
21. Đoàn Văn Chúc (2009), Xã hội học Văn hóa, Nxb Văn hóa – thông tin, Hà
Nội.
22. Hà Lý (2004), Chùa Khmer Nam Bộ với văn hóa đương đại, Nxb Dân tộc, Hà
Nội.
23. Hà Thắng (1997), Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Giáo
dục.
24. Hồ Bá Thâm (2011), Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa
thông tin.
25. Hội khoa học lịch sử TP. Hồ Chí Minh (2004), Nam Bộ đất và người, Nxb
Trẻ.
26. Huỳnh Công Bá (1998), Lịch sử Văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa.
27. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Tp. Hồ Chí
Minh.
28. Huỳnh Quốc Thắng (2003), Lễ hội văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ,
116
Nxb Văn hóa thông tin.
29. Huỳnh Thanh Quang (2011), Giá trị văn hóa Khmer vùng đồng bằng sông
Cửu Long, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự Thật, Hà Nội.
30. Lê Bá Thảo (2004), Thiên nhiên Việt Nam, Nxb Giáo dục.
31. Lê Duẩn (1982), Các dân tộc đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Lê Minh (1984), Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
33. Lê Thanh Bình (2012), Giao thoa văn hóa và chính sách ngoại giao văn hóa
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội
34. Lê Thanh Sơn (1997), Ngôi chùa trong đời sống văn hóa của người Khmer
tỉnh Sóc Trăng, Luận văn Thạc sĩ khoa học văn hóa , tr.73.
35. Lê Văn Chương (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Trẻ.
36. Lê Xuân Diệm (1978), Những phát hiện khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam,
Viện Khoa học xã hội.
37. Lương Duy Thứ (2000), Đại cương văn hóa phương Đông, Nxb Đại học
quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh.
38. Mạc Đường (1991), Về vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
39. Ngô Đức Thịnh (1997), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, H, Nxb
Văn hóa Dân tộc.
40. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, H.
41. Ngô Văn Lệ (2003), Một số vấn đề tộc người ở Nam Bộ và Đông Nam Á, Tp.
Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia.
42. Ngô Văn Lệ (2003), Nghiên cứu thực trạng kinh tế-xã hội và những giải pháp
xóa đói giảm nghèo ở người Khmer tỉnh Sóc Trăng, Đề tài nghiên cứu cấp
117
Đại học Quốc gia.
43. Ngô Văn Lệ (2003), Thực trạng kinh tế-xã hội và những giải pháp xóa đói giảm
nghèo ở người Khmer tỉnh Sóc Trăng, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí
Minh.
44. Ngô Văn Lệ (2004), Tộc người và văn hóa tộc người, Nxb Đại học Quốc gia
Tp. Hồ Chí Minh.
45. Nguyễn Công Bình (1995), Đồng bằng sông Cửu Long – Nghiên cứu phát
triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân
đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội, Nxb Khoa học xã hội.
47. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng – tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
48. Nguyễn Đức Sự, Lê Tâm Đắc (2000), Mấy vấn đề Phật giáo trong Lịch sử
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H.
49. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ
và tư duy của người Việt: Trong sự so sánh với những dân tộc khác, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
50. Nguyễn Duy Hinh (1998), Yếu tố Hoa – Việt trong kiến trúc chùa chiền Việt
Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội, trang 147.
51. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
52. Nguyễn Hùng Khu (2008), Hôn nhân và gia đình của người Khmer Nam Bộ,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
53. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu văn hóa tâm linh – Thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb Trẻ.
54. Nguyễn Khắc Cảnh (1998), Phum, sóc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long,
118
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Nguyễn Mạnh Cường (2002), Vài nét về người Khmer Nam Bộ, Nxb KH –
XH, Hà Nội.
56. Nguyễn Phương Thảo (2008), Văn hóa dân gian Nam Bộ, những phác thảo.
Nxb Văn hóa Thông tin .
57. Nguyễn Quản Tuân, Huỳnh Lứa, Trần Hồng Liên (1994), Những ngôi chùa ở
Nam Bộ, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
58. Nguyễn Tất Đạt (2011), Mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội Phật giáo
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia.
59. Nguyễn Thanh Tuấn (2010), Đa dạng văn hóa và quyền văn hóa hiện nay ở
Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin và Viện văn hóa, Hà Nội.
60. Nguyễn Thị Hương, Trần Kim Cúc (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
61. Nguyễn Văn Chiến (1994), Yếu tố Việt trong tiếng Khmer Nam Bộ (cách nhìn
và phương pháp), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
62. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập I-II,
Nxb Khoa học xã hội, H.
63. Nhiều tác giả (2003), Phát triển giáo dục vùng dân tộc Khmer Nam Bộ, Nxb
Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
64. Võ Văn Sen, Phan Văn Dốp (1998), Văn hóa vùng, văn hóa tộc người và sự
phát triển kinh tế - xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long, Trường
ĐHKHXH &NV – TP.HCM, Viện phát triển bền vững Vùng Nam Bộ.
65. Phạm Bích Hợp (2007) , Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa. Nxb. Tôn giáo,
Hà Nội.
66. Phạm Thị Phương Hạnh (2011), Văn hóa Khmer – Nét đẹp trong bản sắc
văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội.
67. Phan An (1991), Một số vấn đề kinh tế - xã hội vùng nông thôn Khmer đồng
bằng sông Cửu Long, trong Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long,
119
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
68. Phan Cẩm Thượng (2011), Văn hóa vật chất của người Việt, Nxb Hà Nội.
69. Phan Đại Doãn (2001), Làng xã Việt Nam, Một số vấn đề kinh tế-văn hóa-xã
hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Phan Đăng Nhật (1998), Đại cương về văn hóa dân tộc thiểu số Việt Nam,
Nxb Thời Đại.
71. Phan Ngọc (2005), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa – thông tin, Hà
Nội.
72. Phan Quang (1981), Đồng bằng sông Cửu Long, H.
73. Phan Thái Bình (2003), Ghe xuồng trong đời sống văn hóa người Việt ở đồng
bằng sông Cửu Long, Luận văn Thạc sĩ khoa học.
74. Phan Thị Yến Tuyết (1993), Truyền thống đoàn kết Việt – Khmer trong chiến
đấu và xây dựng, Trong người Khmer ở Cửu Long, Nxb Văn hóa – Thông
tin Cửu Long.
75. Phan Thị Yến Tuyết (1992), Văn hóa vật chất của các dân tộc ở đồng bằng
sông Cửu Long, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
76. Phan Xuân An (1994), Nhìn lại những chính sách đối với cộng đồng người
Hoa và người Khmer ở Việt Nam trong lịch sử, trong Báo cáo tổng hợp đề
tài Khoa học, Viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh.
77. Sơn Nam (1981), Đồng bằng sông Cửu Long, nét sinh hoạt xưa, Nxb Tp. Hồ
Chí Minh.
78. Sơn Nam (2009), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ.
79. Thạch Phương (1992), Văn hóa dân gian Khmer ở Nam Bộ, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
80. Theo Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Sóc Trăng (1998), Truyền thống Khmer
Nam Bộ, Sóc Trăng.
81. Theo Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ (2004), Thực trạng và những vấn đề
120
đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng tôn giáo và các phong tục tập quán, lễ hội tôn
giáo ở Việt Nam, Nxb Lao động, 2012
83. Toan Ánh (2005), Nếp cũ con người Việt Nam, Nxb Trẻ.
84. Toan Ánh (2005), Nếp cũ hội hè đình đám, Quyển thượng, Nxb Trẻ.
85. Toan Ánh (2005), Nếp cũ Làng xã Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
86. Tổng cục Chính trị (1998), Một số vấn đề dân tộc và quan điểm chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
87. Trần Hồng Liên (2002), Văn hóa phi vật thể qua các văn khắc tại những cơ
sở tín ngưỡng – tôn giáo người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong Bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, trang 10
88. Trần Hồng Liên (2004), Cộng đồng ngư dân Việt ở Nam Bộ, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
89. Trần Hồng Liên (2000), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ Việt
Nam (từ thế kỉ XVII – 1975), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
90. Trần Kim Dung (2000), Văn hóa truyền thống Khmer đồng bằng sông Cửu
Long trong cuộc sống hiện nay, trong Văn hóa Nam Bộ trong không gian
xã hội Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
91. Trần Ngọc Khánh, Tài liệu điều tra điền dã ở huyện Mỹ Xuyên tỉnh Hậu
Giang tháng 6 -1980. Khoa Sử trường Đai học Tổng hợp Tp. Hồ Chí
Minh
92. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
93. Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
94. Trần Thị Nhung (1998), Lịch sử vùng đất Nam Bộ - một số kết quả nghiên
cứu, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
95. Trần Thị Thu Lương (1994), Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ
121
nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
96. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, Bản dịch của Viện Sử
học, Hà Nội, Nxb Giáo dục.
97. Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định Thành thông chí, quyển III, S.
98. Trường Lưu (1993), Văn hóa Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb
Văn hóa dân tộc.
99. Trương Thìn (2007)- Đại đức Thích Minh Nghiêm (hiệu đính), Nghi lễ thờ
cúng tổ tiên, đền chùa, miếu phủ, Nxb Hà Nội.
100. Sở VH – TT An Giang (1984), Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng
bằng sông Cửu Long, Nxb Long Xuyên.
101. Viện Dân tộc học (1983), Sổ tay về các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, H.
102. Viện khoa học xã hội – Thành phố Hồ Chí Minh (1980), Người Khmer ở
đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Tp.Hồ Chí Minh.
103. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí
Minh (1991), Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học
Xã hội.
104. Viện văn hóa, (Trường Lưu) (1993), Văn hóa người Khmer vùng đồng bằng
sông Cửu Long, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr.94.
105. Viện văn hóa (1984), Mấy vấn đề văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Viện
văn hóa xuất bản.
106. Viện văn hóa (1988), Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ, Nxb
Tổng hợp Hậu Giang.
107. Viện văn hóa (1993), Văn hóa Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
108. Vũ Ngọc Khánh, Hoàng Khôi (2005), Gia đình gia phong trong văn hóa
Việt, Nxb Hà Nội.
122
109. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hoá làng ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
110. Đặng Vũ Thị Thảo (1981), “Sân khấu của người Khmer ở đồng bằng sông
Cửu Long”, Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, 41(6), tr. 37.
111. Hà Văn Tấn (1981), “Giao lưu văn hóa ở người Việt cổ”, Tạp chí văn hóa
Nghệ thuật, (4), Bộ Văn hóa và Thông Tin, Hà Nội, tr. 28.
112. Lê Hương (1971), “Lễ Phật Đản của người Việt gốc Miên”, Văn hóa Nguyệt
San, (2).
113. Lê Hương (1969), “Tìm hiểu người Việt gốc Miên”, Văn hóa tập san, (4 –
5), tr. 76 – 87.
114. Lương Hồng Quang (1992), “Đời sống văn hóa cơ sở ở đồng bằng sông Cửu
Long”, Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (1992), tr.101-104.
115. Mác Mod-Người Chàoa-Ku ở Châu Đốc, Tạp chí Dân tộc học, 1979 và tư
liệu in-rô-nê-ô của Ban dân tộc học, Viện Khoa học Xã hội TP. Hồ Chí
Minh
116. Nguyễn Công Bình (1998), “Phát triển xã hội trong công cuộc khai phá đất
Nam Bộ”, Tạp chí Xã hội học.
117. Nguyễn Phương Thảo (1992), “An Giang, vị thế lịch sử - văn hóa trên đồng
bằng sông Cửu Long”, Tạp chí nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, số 5/
1992.
118. Nguyễn Văn Diệu (1996), “Giao lưu văn hóa ở Việt Nam trong lịch sử và
hiện tại”, Tạp chí Khoa học xã hội, (29), Hà Nội, tr.98.
119. Nguyễn Danh Tiên (2005), “Lịch sử Đảng”, (12), tr.49 – 52.
120. Phạm Đức Mạnh (1997), “Giao lưu và hội tụ thành tố của bản sắc văn hóa cổ
ở Việt Nam trong thời đại kim khí”, Tạp chí khảo cổ học, Viện khảo cổ,
Hà Nội.
121. Phan Đại Doãn (1993), “Riêng và chung trong truyền thống văn hóa của các
cộng đồng cư dân Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, Viện Dân tộc
123
học, Hà Nội.
122. Phan Hữu Dật (1988), “Về xác định các nguyên tắc cơ bản của chính sách
dân tộc của Đảng”, Tạp chí Dân tộc học, (4), Viện Dân tộc học, Hà Nội,
tr.15.
123. Sơn Nam (2008), “Sơn Nam đi và ghi nhớ”, Tạp chí Xưa và Nay, Nxb Văn
hóa Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh, , tr. 13 -14.
124. Tập san Khoa học xã hội & Nhân văn (Annals of USSH), Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh), số
56, tháng 9/2012, tr. 25-40.
125. Trần Lâm Biền (1977), “Sơ lược về chùa Khmer”, thông báo nghệ thuật,
(20), Viện Nghệ thuật – Bộ Văn hóa thông tin phát hành.
126. Trương Thìn (1992), Lễ “Óc-om-Bóc” và hội đua Ghe Ngo của người
Khmer ở Nam Bộ, Văn hóa dân gian, (39), tr.51-53.
124
127. www.gso.gov.vn – Webside tổng cục thống kê.
PHỤ LỤC
I
II
III
IV
V
VI
VII
Hình 1: Vị trí các vùng kinh tế ở Việt Nam (*)
I. Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ; II. Vùng đồng bằng sông Hồng
III. Vùng Bắc Trung Bộ; IV. Vùng duyên hải Nam Trung Bộ
125
V. Vùng Tây Nguyên; VI. Vùng Đông Nam Bộ; VII. Vùng Tây Nam Bộ
@
Hình 2: Vị trí các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long hiện nay (*) (*)http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Đồng_bằng_sông_Cửu_Long&oldid=121
126
95001
Hình 3: Nhà ở Nam Bộ xưa. Ảnh: Trần Kiều Quang.
127
Theo Báo Cần Thơ
Hình 4: Bàn thờ Phật, bàn thờ ông bà và bộ bàn ghế cổ truyền
mời khách uống trà, ăn trầu
Ảnh chụp tại BTVH Khmer tỉnh Trà Vinh ngày 4/8/2012
Hình 5: Tạo dáng đồ gốm
128
Ảnh sưu tầm
Hình 6: Cày hai trâu là một đặc trưng kỹ thuật nông nghiệp
của người dân Khmer
Ảnh sưu tầm
Hình 8. Người nông dân dùng phảng chặt cỏ
129
Hình 7: Cái phảng (Ảnh sưu tầm)
Hình 9: Các loại nọc cấy và phảng cấy
Ảnh sưu tầm: Nguyễn Thị Mười
Hình 13: Nọc cấy, phảng cấy và vật dụng
Ảnh LTBH chụp tại BTVH Khmer tỉnh Trà Vinh ngày 4/8/2012
Một số điệu lý về chiếc phảng: (Sưu tầm) 130
Mùa màng mạ mọng cù lăn gieo cù lăn gieo
Phảng kia phát chế cù nèo cà lăn quơ, cà lăn quơ.
(Lý cái phảng Bến Tre)
Hay:
Chú kia vác phảng đi đâu
Phảng mua, phảng mượn, phảng nhà của ai.
Bớ nàng ơi, có chồng chưa ? giúp tình thương
(Lý Cái phảng Gò Công)
Hình 10: Thúng và đòn gánh các loại
131
Ảnh LTBH chụp tại BTVH Khmer tỉnh Trà Vinh ngày 4/8/2012
Hình 11: Dụng cụ đánh bắt thủy sản của nông dân Khmer
Ảnh LTBH chụp tại BTVH Khmer tỉnh Trà Vinh ngày 4/8/2012
Hình 12: Vật dụng trong sinh hoạt thường nhật (cối, chày…)
132
Ảnh LTBH chụp tại BTVH Khmer tỉnh Trà Vinh ngày 4/8/2012
Hình 14: Ghe Ngo
Ảnh LTBH chụp tại BTVH Khmer tỉnh Trà Vinh ngày 4/8/2012
Hình 15: Lễ hội đua ghe
133
Ảnh sưu tầm từ: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Hình 16: Ghe Ngo
Ảnh sưu tầm từ nguồn: Tạp chí VHNT số 332, tháng 2-2012
Hình 17: Trang phục áo dài, áo bà ba, nón lá và trang phục
truyền thống Khmer
134
Ảnh LTBH chụp tại BTVH Khmer tỉnh Trà Vinh ngày 4/8/2012
Hình 18: Thiếu nữ Khmer mặc áo dài trong ngày hội văn hóa dân tộc
Ảnh: Vũ Thống Nhất đăng ngày 25/08/2010
Hình 19: Bộ nhạc cụ trong nghệ thuật sân khấu cải lương .
Ảnh: LTBH chụp tháng 8/2013 tại phòng trưng bày Bảo tàng
135
Thành phố Hồ Chí Minh
Hình 20: Bộ nhạc khí trong nghệ thuật sân khấu của dân tộc Khmer
Ảnh chụp tại BTVH Khmer tỉnh Trà Vinh ngày 4/8/2012
Hình 21: Buổi biểu diễn nghệ thuật sân khấu cải lương
Ảnh LTBH chụp tại BTTPHCM tháng 8/ 2013 136
Hình 22: Đoàn Nghệ thuật tuồng cổ Phương Ánh (Cần Thơ)
trình diễn hát bội tại lễ Kỳ Yên đình Bình Thủy
Ảnh LTBH chụp tại BTTPHCM tháng 8/ 2013
Hình 23: Vở Dù kê “Trùng dương lặng sóng” của Đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc
137
Trăng. Ảnh sưu tầm từ nguồn: Sở VHTTDL Sóc Trăng
Hình 24: Buổi biểu diễn nghệ thuật sân khấu Khmer
138
Ảnh LTBH chụp tại BTTPHCM tháng 8/ 2013
Hình 25: Vào ngày cuối của Tết Chol Chnam Thmay, đồng bào tập trung
lại tắm Phật để sám hồi và nguyện sẽ từ bỏ những việc ác,
thực hành thiện nghiệp
Ảnh sưu tầm từ nguồn: Báo Tin Tức – TTXVN
Hình 26: Hình Trong ngày lễ dâng y, y phục và các vật để dâng lên
ngôi tam bảo được đồng bào tôn kính đội trên đầu
Ảnh sưu tầm từ nguồn: Báo Tin Tức - TTXVN 139
Những tiếng Khmer còn giữ nguyên gốc trong tiếng Việt
Xneng là dụng cụ đươn bằng nang tre, trúc của người Khmer, có hình như cái xuổng.
Người bình dân dùng để xúc cá, tép ở những nơi có nước cạn, cỏ hoang mọc đầy.
Câu hát của người nào đó đã cất lên vẳng văng trên cánh đồng thửa ruộng:
Chiều chiều lấy cái xneng
Lên đồng xúc cá hái sen một mình
Ở một câu ca khác:
Thằn lằn cụt đuôi ai nuôi mày lớn
Dạ thưa thầy con lớn mình ên
Khmer có êng: một mình, chuyển sang Việt ngữ mất chữ g thành ên cũng mang nét
nghĩa một mình.
Hay:
Xa em nhớ vị sim lo
Xa em nhớ khứa cá kho quê nghèo
Sim lo (hay sum lo) là món canh của người Khmer nấu bằng bầu, hay lá bình bát dây,
đặc biệt nó được nêm bằng mắm bò hóc (prahok), đây là từ người Việt mượn nguyên
mẫu để sử dụng.
Cái nóp đã gắn liền với quân dân Nam Bộ thành đồng. Nóp cũng là tiếng Khmer còn
giữ lại nguyên gốc, nó chuyển sang tiếng Việt bằng phiên âm mà thôi:
140
Vai mang cái nóp tay xách cái lọp cái lờ
Về miền đồng chua nước mặn đặng nhờ miếng ăn
Cái lộp theo tiếng Khmer là dụng cụ đan bằng tre, dùng để bắt cá tôm. Một đầu của
lộp có hom bện bằng tre vót cỡ chiếc đũa ăn, hình phễu, cá tôm, rùa rắn vào được
nhưng không thể ra. Nông dân miệt này ai cũng biết, cũng dùng lộp để bắt thuỷ sản.
Những từ Khmer được Việt hoá
* Những từ chỉ địa danh
Từ vùng đất mũi còn vang vọng lời ca :
Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trong rừng cọp um
(Cà Mau là từ Việt hoá của tiếng Khmer là Tuk Khmau, nghĩa là nước đen mà thành).
Về đất Ba Xuyên nghe câu hát :
Chợ Sóc Trăng chà gạo lộn trấu càng,
Anh thương em là thương lời ăn tiếng nói dịu dàng,
Chớ không phải anh vì bạc vì vàng mà thương.
(Theo Lê Hương thì Sóc Trăng là do tiếng Khmer đọc trại ra từ chữ Srok Tréang có
nghĩa là bãi sậy vì ngày xưa đất Sóc Trăng có nhiều lau sậy hoang vu).
Qua cầu Rạch Miễu đến quê hương Đồng Khởi, xứ dừa :
141
Bến Tre nhiều gái má hồng
Không tin thì xuống Mỹ Lồng mà coi
(Theo cụ Vương Hồng Sển thì Bến Tre vốn là xứ sinh sản và sản xuất nhiều cá tôm,
cho nên xưa, người Khmer gọi là Srok treay (đọc là sốc tre), nhưng sau này người
Khmer gọi theo người Kinh là bến có nhiều tređể phân biệt với địa danh Cần Thơ,
cũng có nhiều tre, người Khmer gọi tre là rusei, nên có hai địa danh rành rẽ: prêk
rusei (sông tre): chỉ Cần Thơ/prêk kompong rusei để chỉ Bến Tre).
Ngược lên vùng Bảy Núi, có câu:
Anh về xứ Chắc Cà Đao
Bỏ em ở lại như dao cắt lòng
142
(Sưu tầm từ http//:www.google.com)