VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ VINH

GIAO RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH THEO PHÁP LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN

TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ VINH

GIAO RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH THEO PHÁP LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

: 8 38 01 07

Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và

được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học viện Khoa học

xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn./.

Tác giả

Ngô Vinh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIAO

RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH ..................................................... 8

1.1. Sự cần thiết giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình ........................................ 8

1.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của pháp luật về giao rừng cho cá nhân,

hộ gia đình theo luật bảo vệ và phát triển rừng ............................................... 12

1.3. Khung pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật bảo

vệ và phát triển rừng ........................................................................................ 15

1.4. Yếu tố tác động đến việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp

luật bảo vệ và phát triển rừng .......................................................................... 17

1.5. Phương thức quản lý việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp

luật bảo vệ và phát triển rừng .......................................................................... 20

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP

DỤNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA

ĐÌNH TẠI TỈNH QUẢNG NAM ............................................................... 23

2.1. Thực trạng pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình ................... 23

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình tại tỉnh

Quảng Nam ..................................................................................................... 34

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO

RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC THI TẠI TỈNH QUẢNG NAM ....................................................... 63

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình ... 63

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên

địa bàn tỉnh Quảng Nam ................................................................................. 67

KẾT LUẬN .................................................................................................... 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

KCN Khu công nghiệp 1

UBND Ủy ban nhân dân 2

NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 3

TN&MT Tài nguyên và Môi trường 4

HĐND Hội đồng nhân dân 5

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang bảng

Diện tích rừng tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014 – 2018 39 2.1

Phạm vi các quyền của hộ đối với 3 loại rừng theo cơ chế 44 2.2 giao và khoán

DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hiệu Tên hình Trang hình

Cơ cấu giao rừng cho các chủ thể 40 2.1

Sơ đồ mục tiêu giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân 42 2.2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên

bừa bãi, trái pháp luật luôn là vấn đề bức xúc trong đời sống Nhân dân trên cả

nước nói chung, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng, trong đó việc khai

thác lâm sản, phá rừng, lấn rừng làm nương rẫy vẫn còn là hồi chuông kéo dài

chưa dứt. Từ đó tạo ra nhiều thách thức và tác động không ít đến sự phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội, ảnh hưởng môi trường, gây biến đổi khí hậu, hạn

hán, lũ lụt xảy ra thất thường làm xói lỡ đất nông nghiệp, làm diện tích đất

sản xuất ngày giảm đáng kể, người dân đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.

Đối với những hộ nông dân của các xã miền núi tỉnh Quảng Nam thì đất rừng

là nguồn sống, nguồn việc làm, là địa bàn gắn bó cả cuộc đời của người dân.

Đối với doanh nghiệp thì đất rừng là cơ sở để họ thực hiện mục tiêu kinh doanh

thu lợi nhuận và góp phần xây dựng đất nước. Do vậy, tình trạng lấn chiến đất

rừng, khai thác lâm sản trái phép và phá rừng một cách tùy tiện vẫn còn xảy ra

và diễn biến khá phức tạp, nhiều khu rừng tự nhiên, rừng phòng hộ bị lấn dần

làm thu nhỏ diện tích. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản để xảy ra những thiên

tai mà chúng ta phải gánh chịu. Bởi vậy, để sử dụng tài nguyên rừng một cách

bền vững và hợp lý, thì việc thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng

không chỉ trách nhiệm của các cấp, các ngành mà là của toàn xã hội.

Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là một chủ trương lớn của Đảng và

Nhà nước, nhằm phân chia trách nhiệm, phân quyền quản lý theo pháp luật bảo

vệ và phát triển rừng. Quá trình giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là phát huy

trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, đất được giao cho các hộ gia đình

và cá nhân đã phát huy được hiệu quả trong việc cải thiện sinh kế cho hộ, góp

phần nâng cao độ che phủ rừng, thông qua việc mở rộng diện tích rừng trồng.

1

Những năm qua tỉnh Quảng Nam đã thực hiện giao rừng cho cá nhân,

hộ gia đình bằng nhiều chương trình, dự án như: Chương trình 327; Dự án

bảo vệ và quản lý tổng hợp các hệ sinh thái rừng KFW do Chính phủ Cộng

hoà Liên Bang Đức, thông qua Ngân hàng Tái thiết Đức tài trợ với tổng diện

tích là 4.900 ha;Giao khoán cho ban quản lý rừng tại Khu Bảo tồn thiên nhiên

Ngọc Linh, Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Voi và Khu Bảo tồn thiên nhiên

Sông Thanh thành Vườn Quốc gia [64]. Thông qua các chương trình, dự án

người dân được hưởng nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện trong việc chăm

sóc, quản lý bảo vệ rừng theo tổ nhóm hộ, từng bước gắn kết mối quan hệ

giữa người dân, với chủ rừng và các cơ quan chức năng quản lý được kịp thời.

Từ đó, người dân hạn chế việc phát rừng làm nương rẫy, lấy củi, đốt than, đặc

biệt là ngăn chặn được tình trạng tự thỏa thuận để cho lâm tặc khai thác gỗ

trái phép.Song, diện tích rừng hầu hết tập trung ở các huyện, xã miền núi, đời

sống nhân dân ở đây còn gặp nhiều khó khăn, trình độ văn hóa thấp, nhận

thức của người dân về pháp luật bảo vệ và phát triển rừng còn nhiều hạn chế,

mà nhất là người đồng bào dân tộc thiểu số, nên một số hộ nhân dân chiếm

đất lâm nghiệp để trồng nông sản, hoặc trồng rừng để phát triển kinh tế. Bên

cạnh đó, diện tích rừng rộng đến hàng trăm, hàng nghìn km, điều kiện đi lại

chia cắt bởi sông, suối gặp nhiều khó khăn, đối tượng khai thác lâm sản trái

phép ngày càng tinh vi, xảo nguyệt, dẫn đến hiện tượng khai thác, mua bán,

vận chuyển lâm sản trái phép còn xảy ra, chưa ngăn chặn triệt để.

Xuất phát từ thực tiễn nêu trên và bản thân mong muốn nghiên cứu để

tìm hiểu, đánh giá đúng thực trạng về pháp luật bảo vệ và phát triển rừng

trong hoạt động giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là cần thiết. Đó là lý do

tác giả chọn đề tài “Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật bảo

vệ và phát triển rừng ở Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để nghiên

cứu luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành luật kinh tế.

2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là một trong những chế định

quan trọng của pháp luật bảo vệ và phát triển rừng, việc giao rừng đã triển

khai từ nhiều năm trước, và đang được dư luận xã hội, cũng như các cấp, các

ngành luôn quan tâm, chú trọng, các tạp chí, báo, nhiều đề tài khoa học cũng

đã nghiên cứu việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật bảo vệ

và phát triển rừng dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau như: Luận án tiến

sĩ năm 2006 của tác giả Hà Công Tuấn với đề tài “Quản lý nhà nước bằng

pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng”; Luận án năm 2012 của tác giả Nguyễn

Thanh Huyền với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về quản lý và bảo vệ tài

nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn Tiến sỹ năm 2013 của tác giả

Nguyễn Thị Mỹ Vân với đề tài “Chính sách quản lý rừng và sinh kế bền vững

cho cộng đồng các dân tộc thiểu số vùng núi tỉnh Thừa Thiên Huế”; Luận văn

năm 2014 của tác giả Phạm Thị Thủy với đề tài “Pháp luật về bảo vệ tài

nguyên rừng ở Việt Nam”;Luận văn năm 2017 của tác giả Nguyễn Văn

Quảng với đề tài “Giao khoán đất rừng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn

tỉnh Lạng Sơn”.

Qua tham khảo các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả, mỗi công

trình nghiên cứu chỉ ở một khía cạnh, hoặc chỉ đề cập đến những vấn đề có

liên quan đến pháp luật. Về định hướng, cũng như giải pháp các tác giả đưa ra

nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, giải quyết những tồn

tại, hạn chế, và đưa ra cơ chế, chính sách nhằm thu hút các thành phần tham

gia. Bản thân nhận thấy vấn đề giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trong thực

tiễn còn nhiều phức tạp. Trong khi đó Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều

cơ chế ưu đãi để người dân ở niềm núi tập trung phát triển kinh tế rừng, quản

lý rừng, bảo vệ môi trường rừng ngay sau khi Luật đất đai năm 2013 có hiệu

lực, hơn lúc nào cần có một công trình nghiên cứu về giao rừng cho cá nhân,

3

hộ gia đình theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng để phát triển rừng trong

thời gian đến là hết sức cần thiết. Vì vậy, tác giả nghiên cứu luận văn để tìm

giải pháp và đưa ra định hướng để giải quyết vấn đề giao rừng cho cá nhân,

hộ gia đình theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam, một cách

toàn diện.

Việc chọn đề tài “Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật

bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để

nghiên cứu để bảo vệ luận văn không trùng lặp các công trình đã nghiên cứu,

và là có ý nghĩa lý luận thực tiễn tại địa phương.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn về giao rừng cho cá

nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để làm sáng tỏ đề tài. Trên cơ

sở nghiên cứu, đề xuất định hướng, các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu

quả thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về giao rừng cho cá nhân,

hộ gia đình.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Theo yêu cầu của luận văn, nhiệm vụ nghiên cứu cần đạt được các mục

đích trên theo các nhiệm vụ cụ thể sau:

Phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật bảo vệ và phát

triển rừng, về việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình.

Hệ thống các cơ sở pháp lý, nghiên cứu cơ cấu và cơ chế bảo đảmviệc

giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật Việt Nam.

Đánh giá việc thực hiện pháp luậtluật bảo vệ và phát triển rừng, về việc

giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để làm rỏ kết

quả đạt được và những nguyên nhân tồn tại, hạn chế. Từ đó, định hình những

phương hướng và đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực hiện

4

pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Lâm nghiệp năm 2017

và các qui định hướng dẫn thi hành; Các quan điểm của Đảng, chính sách

pháp luật của Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng về giao rừng cho cá

nhân, hộ gia đình; Việc thực hiện các quy định giao rừng cho cá nhân, hộ gia

đình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là một

đề tài có phạm vi nghiên cứu khá rộng, nhiều thành phần, đối tượng khác nhau.

Trong phạm vi, khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ có hạn, tác giả tập trung

nghiên cứu những vấn đề cơ bản liên quan trong địa bàn tỉnh, thông qua việc

tham khảo và đánh giá một phần nhỏ nội dung của Luật bảo vệ và phát triển

rừng năm 2004, Luật đất đai năm 2013 và Luật Lâm nghiệp năm 2017. Đồng

thời, nghiên cứu các nội dung liên quan đến giao rừng của tỉnh Quảng Nam

trong thời gian qua.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu các vấn đề trên cơ sở phương pháp luận,

đường lối quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong

điều kiện nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.

Đồng thời, đánh giá vấn đề áp dụng pháp luật bảo vệ và phát triển rừng trong

việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình để có cơ sở điều chỉnh.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu lý luận, thu thập thông tin: Thông tin được

thu thập ở số liệu báo cáo trên địa bàn tỉnh Quảng Nam với điều kiện, tình

5

hình thực tế của tỉnh từ các sở, ban, ngành của tỉnh và huyện Đại Lộc có nội dung

liên quan đến luận văn.

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích, tổng hợp các qui định của

pháp luật bảo vệ và phát triển rừngvề việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình

và các thông tin thực tiễn trên địa bàn liên quan đến đề tài nghiên cứu.

Phương pháp thống kê: Thực hiện xử lý số liệu, tài liệu thu thập thực

tiễn, nhằm lấy các thông tin được chọn lọc để đưa vào đánh giá, nhận xét của

Luận văn một cách chính xác nhất.

Bên cạnh đó Luận văn còn áp dụng các phương pháp để nghiên cứu

như: Phương pháp logic; phương pháp so sánh; phương pháp quy nạp;

phương pháp diễn dịch để làm rõ thêm một số chi tiết của nội dung Luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận

Trên cơ sở hệ thống lý luận của pháp luật bảo vệ và phát triển rừng

trong luận văn đã được tổng hợp, bổ sung, tác giả làm rõ hơn cơ chế điều

chỉnh của pháp luật về việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn

tỉnh Quảng Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trong luận văn được đánh giá thực trạng việc áp dụng pháp luật bảo vệ

và phát triển rừng bằng hình thức giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình thể hiện

tính đúng đắn và đưa ra định hướng để hoàn thiện pháp luật, đồng thời luận

văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận,nghiên cứu, học tập, giảng

dạy. Những kiến nghị, đề xuất của luận văn góp phần cung cấp các luận cứ

khoa học về pháp luật bảo vệ và phát triển rừng cho các nghiên cứu về luật học ở

Việt Nam trong thời gian đến.

7. Cơ cấu về luận văn

Luận văn có các nội dung ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và

6

danh mục tài liệu tham khảo, được kết cấu như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật giao rừng cho cá nhân,

hộ gia đình.

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về giao

rừng cho cá nhân, hộ gia đình tại tỉnh Quảng Nam.

Chương 3:Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ

gia đình và nâng cao hiệu quả thực thi tại tỉnh Quảng Nam.

7

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIAO RỪNG

CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH

1.1. Sự cần thiết giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình

Chỉ thị số 15CT/CTCW được Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành

ngày 10/3/1961 xác định: “Rừng là tài sản của toàn dân, phải do nhà nước

thống nhất quản lý”[5]. Khi đó, Nhà nước tập trung quản lý tài nguyên rừng

thông qua hệ thống các lâm trường quốc doanh. Các lâm trường nhận kinh phí

từ ngân sách quốc gia để thực hiện nhiệm vụ khai thác và trồng rừng theo các

chỉ tiêu kế hoạch chi tiết do trung ương ban hành.Năm 1991, Bộ Lâm nghiệp

công bố Báo cáo Tổng quan Lâm nghiệp Việt Nam với đề xuất chuyển lâm

nghiệp “từ một ngành kinh tế chỉ có nhà nước và tập thể được kinh doanh

rừng sang một nền lâm nghiệp xã hội với sự tham gia của các thành phần

kinh tế và nhiều lực lượng xã hội”; và “từ một ngành kinh tế có nhiệm vụ khai

thác tài nguyên tự nhiên là chính trở thành một ngành kinh tế có nhiệm vụ cơ

bản là xây dựng vốn rừng, sản xuất lâm sản” [5].

Xã hội hóa lâm nghiệp theo nghĩa chung nhất là quá trình huy động sự

tham gia và đóng góp của các thành phần kinh tế và các lực lượng xã hội vào

nghề rừng. Mặc dù khái niệm này xuất hiện và trở nên phổ biến trong thập

niên 1990, song từ trước đó, ý tưởng về sự tham gia của các lực lượng xã hội

vào lâm nghiệp đã được Pháp lệnh bảo vệ rừng năm 1972 đề cập khi xác định:

“Việc bảo vệ rừng phải do nhà nước và toàn dân cùng làm”[30]. Tuy nhiên,

vai trò của người dân tham gia vào hoạt động lâm nghiệp thời kỳ này còn rất

hạn chế, chủ yếu là lao động thời vụ cho các lâm trường quốc doanh. Vào

những năm 80, tài nguyên rừng mặc dù là tài sản công hữu và được nhà nước

tập trung quản lý vẫn bị tàn phá nghiêm trọng. Tình trạng hầu như “vô chủ”

8

tài nguyên rừng đặt ra cho ngành lâm nghiệp trước hết đòi hỏi cấp bách phải

xác định chủ thể quản lý rừng cụ thể. Giao rừng và đất rừng được xác định là

giải pháp chính sách cho sự chuyển biến cơ bản trong công tác quản lý bảo vệ

rừng: “Rừng và đất rừng là tài sản quốc gia thuộc sở hữu toàn dân, nhưng

cần được giao cho từng Liên hiệp lâm công nghiệp, lâm trường, nông trường,

hợp tác xã, từng hộ nông dân và các tổ chức kinh tế-xã hội khác quản lý kinh

doanh theo quy hoạch, kế hoạch và pháp luật của nhà nước” [31].

Công cuộc đổi mới về kinh tế và xã hội từ năm 1986 đã cung cấp

những tiền đề quan trọng cho xã hội hóa lâm nghiệp. Việc chuyển từ một nền

kinh tế nhà nước kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế theo định

hướng thị trường đã giải phóng lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp vốn

dựa trên các nông trường quốc doanh và hợp tác xã. Sự ra đời của Luật Đất

đai năm 1993 cùng với việc tự do thông thương các sản phẩm nông nghiệp đã

thúc đẩy quá trình giao đất nông nghiệp và lâm nghiệp cho các cá thể, hộ gia

đình và tổ chức. Chính sách mở cửa của Việt Nam đối với thế giới cũng tạo

điều kiện cho ngành lâm nghiệp phát triển hợp tác quốc tế, qua đó các khái

niệm về phân cấp, phân quyền trong lâm nghiệp, quản trị, đa dạng sinh học và

quản lý rừng bền vững được du nhập vào Việt Nam.

Với những tiền đề quan trọng này, Báo cáo Tổng quan Lâm nghiệp

Việt Nam năm 1991 đã đề xuất chuyển đổi lâm nghiệp Việt Nam từ lâm

nghiệp nhà nước sang lâm nghiệp xã hội với sự tham gia của các thành phần

kinh tế vào nghề rừng. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 1991 cũng thể chế

hóa bước chuyển biến này khi xác định: “Nhà nước giao rừng, đất trồng rừng

cho tổ chức, cá nhân - dưới đây gọi là chủ rừng - để bảo vệ, phát triển và sử

dụng rừng ổn định, lâu dài theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước”[35]. Sau

hàng thập kỷ của lâm nghiệp nhà nước, đây là luật lâm nghiệp đầu tiên của

Việt Nam công nhận danh hiệu chủ rừng đối với các đối tượng được giao

9

rừng và đất rừng, bao gồm cả thành phần ngoài quốc doanh.

Chính sách mở cửa của công cuộc đổi mới tạo điều thuận lợi trong việc

triển khai các dự án lâm nghiệp hợp tác với nước ngoài và sự du nhập các

khái niệm lâm nghiệp quốc tế như quản lý rừng bền vững. Đề xuất chuyển

nền sản xuất lâm nghiệp dựa trên khai thác gỗ sang bảo vệ vốn rừng của Tổng

cục Lâm nghiệp Việt Nam (1991) và việc thể chế hóa hệ thống phân loại 3

loại rừng (đặc dụng, phòng hộ và sản xuất) của Luật BVPTR năm 1991 đã đặt

cơ sở bước đầu cho quản lý rừng bền vững trong cải cách lâm nghiệp quốc

gia.Sự xuất hiện và phổ biến của hai khái niệm xã hội hóa lâm nghiệp và quản

lý rừng bền vững đánh dấu bước chuyển biến quan trọng của lâm nghiệp Việt

Nam dưới thời kỳ đổi mới. Quá trình phát triển và thể chế hóa nội dung của

hai khái niệm này trong các văn bản pháp lý lâm nghiệp phản ánh các thay đổi

căn bản của chính sách nghề rừng đối với chủ thể quản lý rừng và công tác

bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng.

Trong khi Pháp lệnh bảo vệ rừng năm 1972 chỉ khái quát chung sự

tham gia của toàn dân vào công tác bảo vệ rừng, Luật BVPTR năm 1991 xác

định chính sách giao, khoán rừng và đất rừng cho các cá nhân, tổ chức là giải

pháp chính của xã hội hóa lâm nghiệp và thể chế hóa danh hiệu chủ rừng với

các đối tượng được giao rừng và đất rừng trong nỗ lực đảm bảo mỗi khu rừng

đều có chủ cụ thể. Tuy nhiên, danh hiệu chủ rừng với các quyền và lợi ích hạn

chế đã khơi dậy vấn đề quyền sử dụng và sở hữu rừng. Luật BVPTR năm

2004 đã cho thấy bước phát triển mới của xã hội hóa lâm nghiệp khi công

nhận quyền sở hữu rừng của chủ rừng sản xuất là rừng trồng. Nhìn chung,

quyền và lợi ích của các chủ rừng đặc dụng, phòng hộ và rừng sản xuất là

rừng tự nhiên vẫn còn hạn chế [30].

Luật Lâm nghiệp năm 2017 đã đề xuất một số giải pháp cho các bất cập

của xã hội hóa lâm nghiệp và quản lý rừng bền vững thời gian qua. Việc phân

10

biệt các hình thức sở hữu rừng (rừng thuộc sở hữu toàn dân, rừng thuộc sở

hữu riêng, và rừng thuộc sở hữu chung) giúp xác định một cách phù hợp

quyền và nghĩa vụ liên quan của các tổ chức và cá nhân được giao rừng và đất

rừng. Nỗ lực cân bằng các mặt môi trường, kinh tế và xã hội của quản lý rừng

bền vững được nhấn mạnh qua các quy định tận thu lâm sản và khai thác lâm

sản bền vững; khuyến khích nâng cao giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị lâm

nghiệp; gắn bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học rừng với nâng cao giá trị

dịch vụ môi trường rừng, ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời góp phần

đảm bảo an ninh môi trường, xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế- xã hội

vùng miền núi [39].

Có thể khẳng định rằng, giao đất, giao rừng là một trong những chủ

trương trọng tâm Nhà nước nhằm xã hội hóa công tác bảo vệ rừng, góp phần

xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Chủ trương

này giúp cho các tổ chức, cộng đồng dân cư và các hộ gia đình, cá nhân ở

những địa phương có nhiều quỹ đất lâm nghiệp và rừng có được cơ hội để

nhận đất và rừng nhằm quản lý, bảo vệ và sản xuất. Việc này góp phần nâng

cao thu nhập cho cộng đồng, sử dụng hiệu quả hơn quỹ đất lâm nghiệp cũng

như nâng cao chất lượng công tác bảo vệ rừng của các địa phương tham gia

thực hiện chính sách này.Với phương châm làm cho mỗi cánh rừng đều có

chủ, xóa đói giảm nghèo cho người dân miền núi và người dân có thể sống

được từ rừng, nhiều chính sách đã được Nhà nước ban hành. Trong đó, chính

sách giao đất giao rừng cho các chủ thể khác nhau để cùng bảo vệ, hưởng lợi

đã được thực hiện hơn 30 năm qua.Từ chính sách đúng đắn đó, Nhà nước đã

huy động được rất nhiều chủ thể trong xã hội tham gia bảo vệ và phát triển

rừng, đặc biệt và hiệu quả nhất là sự tham gia của những người dân miền núi

đang sống gần rừng và phụ thuộc vào rừng.Chính sách giao đất, giao rừng

cũng phát huy được hiệu quả trong công tác bảo vệ rừng, hạn chế được tình

11

trạng suy giảm diện tích rừng và tăng chất lượng rừng.

Cùng với đó, Nhà nước cũng đã huy động được một nguồn lực tài

chính rất lớn để hỗ trợ người dân quản lý bảo vệ rừng thông qua chính sách

chi trả dịch vụ môi trường rừng. Chính sách này đã tạo một nguồn động lực

giúp người dân tăng cường thực hiện công tác bảo vệ rừng tự nhiên sau nhiều

năm nhận rừng.Việc giao đất, giao rừng và công nhận quyền hợp pháp lâu dài

đã tạo tâm lý ổn định cho người nhận, tạo động lực cho cộng đồng và hộ gia

đình huy động nguồn lực vào bảo vệ và phát triển rừng.

Nếu như trước đây, công tác bảo vệ rừng ở các địa phương gặp rất

nhiều khó khăn thì từ khi thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho cộng

đồng dân cư và hộ gia đình thì người dân ngày càng tham gia nhiều vào công

tác bảo vệ và phát triển vốn rừng, nhiều cộng đồng nhận khoán đã xây dựng

hương ước bảo vệ rừng, đời sống của người dân trong thôn, xóm được cải

thiện, người dân rất tích cực trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng. Thông qua việc

khoán rừng, đã góp phần nâng cao ý thức cho người dân trong công tác bảo vệ

rừng, bên cạnh đó góp phần tăng thu nhập tạo động lực cho người dân gắn bó

bảo vệ rừng, từng bước thay đổi nhận thức của nhân dân về vai trò và tác dụng

của rừng, nâng tỷ lệ che phủ rừng, cải thiện môi trường sống trên địa bàn.

1.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của pháp luật về giao rừng cho

cá nhân, hộ gia đình theo luật bảo vệ và phát triển rừng

1.2.1. Khái niệm, đặc trưng của pháp luật về giao rừng cho cá nhân,

hộ gia đình theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng

Pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là một bộ phận của

pháp luật bảo vệ và phát triển rừng được xây dựng dựa trên góp ý các bên liên

quan để góp phần bảo vệ và phát triển rừng nói chung và nâng cao chất lượng

rừng thuộc đối tượng sản xuất nói riêng thông qua việc đảm bảo các quyền và

nghĩa vụ, lợi ích của các chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình.

12

Từ những phân tích trên có thể đi tới khái niệm pháp luật về giao rừng

cho cá nhân, hộ gia đình như sau: “Pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia

đình là một lĩnh vực pháp luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ

xã hội phát sinh trong quá trình giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình có liên

quan đến hoạt động bảo vệ rừng và phát triển rừng”.

Pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là một bộ phận trong

hệ thống pháp luật Việt Nam có một số đăc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình điều chỉnh

các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực giao rừng cho cá nhân, hộ gia

đình.

Pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là một hệ thống các

quy phạm pháp luật được sử dụng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, các

vấn đề phát sinh liên quan đến mối quan hệ trong giao rừng chỉ đơn thuần là

việc các cơ quan quản lý nhà nước giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình, chống

các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến vấn đề này. Các quy phạm pháp

luật bao gồm các quy định về địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia vào

quan hệ pháp luật giao rừng; quy định về trách nhiệm, quyền lợi của các bên

giao rừng; quy định về thanh tra, kiểm tra trong công tác bảo vệ và phát triển

rừng và vấn đề giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật về giao rừng

cho cá nhân, hộ gia đình.

Thứ hai, pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là công cụ

quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng.

Trong hệ thống các công cụ và biện pháp Nhà nước sử dụng để bảo vệ

và phát triển rừng thì chính sách giao rừng là phương pháp, công cụ hữu hiệu

và không thể thiếu được trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng.

Có thể nói, các quy định về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình được

13

ban hành phù hợp với thực tiễn, mang lại quyền và lợi ích chính đáng cho

người dân thì được họ đồng tình ủng hộ, việc bảo vệ và phát triển rừng được

thực hiện có hiệu quả cao. Ngược lại, các quy định về giao rừng cho cá nhân,

hộ gia đình không phù hợp với thực tế, không mang lại quyền lợi đích thực

cho người dân thì sẽ không nhận được sự đồng thuận, phát sinh các tranh

chấp, nạn phá rừng, lấn chiếm đất xảy ra, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính

trị - xã hội; hậu quả là công tác bảo vệ và phát triển rừng gặp nhiều khó khăn,

phức tạp.

1.2.2. Vai trò của pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình

theo luật bảo vệ và phát triển rừng

Thứ nhất,pháp luật là cơ sở pháp lý cho hoạt động giao rừng cho cá

nhân, hộ gia đình. Tất cả các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng thông qua

hoạt động giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình phải dựa trên các quy định của

pháp luật.

Thứ hai, pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc xác định thẩm quyền của

các chủ thể trong hoạt động giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình.

Lĩnh vực pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo luật bảo

vệ và phát triển rừng cũng không nằm ngoài quy luật đó, pháp luật trong quản

lý, bảo vệ và phát triển rừngcó một vai trò quan trọng trong việc quy định cơ

cấu tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước đối với lĩnh vực giao rừng cho cá

nhân, hộ gia đình.

Pháp luật quy định thẩm quyền cụ thể của các cơ quan nhà nước ở

trung ương, địa phương trong việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo

luật bảo vệ và phát triển rừng. Từng cơ quan có thẩm quyền cụ thể như: thẩm

quyền trong việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; thẩm

quyền trong việc giao rừng; thẩm quyền trong việc xử phạt vi phạm đối với

các hành vi xâm hại tài nguyên rừng; thẩm quyền giải quyết tranh chấp về

14

quyền sử dụng rừng.

Thứ ba,pháp luật xác định thẩm quyền của các chủ thể là cá nhân, hộ

gia đình được Nhà nước giao đất rừng và tài sản gắn liền trên đất theo quy

định của pháp Luật về đất đai và pháp Luật về bảo vệ và phát triển rừng; có

kế hoạch tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp với quy hoạch và dự án về bảo

vệ và phát triển rừnghoặc đề án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê

duyệt theo quy định hiện hành của Nhà nước.

1.3. Khung pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo

pháp luật bảo vệ và phát triển rừng

Pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình điều chỉnh các quan hệ

phát sinh trong lĩnh vực giao rừng, nhằm tạo ra cơ chế pháp lý để mở rộng

dân chủ, bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình cùng tham gia vào công tác giao

rừng; đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối với rừng

được giao. Chính vì thế, khung pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia

đình theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng như sau:

Thứ nhất, về chủ thể, đối tượng được Nhà nước giao rừng là cá nhân,

hộ gia đình.

Về giao rừng, Điều 16 Luật Lâm nghiệp năm 2017 quy định: Nhà nước

giao rừng phòng hộ không thu tiền sử dụng rừng cho hộ gia đình, cá nhân cư

trú hợp pháp trên địa bàn cấp xã nơi có rừng phòng hộ đối với rừng phòng hộ

đầu nguồn; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay; rừng phòng hộ chắn sóng, lấn

biển; Nhà nước giao rừng sản xuất không thu tiền sử dụng rừng cho hộ gia

đình, cá nhân, cộng đồng dân cư cư trú hợp pháp trên địa bàn cấp xã nơi có

diện tích rừng; đơn vị vũ trang.

Thứ hai, về quyền và nghĩa vụ của cá nhân, hộ gia đình khi Nhà nước giao

rừng.

Quyền chung của chủ rừng quy định tại Điều 73 Luật Lâm nghiệp năm

15

2017, gồm: (1) Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sử

dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng theo quy định của pháp

luật; (2) Được hưởng lâm sản tăng thêm từ rừng do tự đầu tư vào rừng tự

nhiên, rừng trồng là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; (3) Sử dụng rừng phù hợp

với thời hạn giao rừng, cho thuê rừng và thời hạn giao đất, cho thuê đất trồng

rừng theo quy định của Luật này và pháp luật về đất đai; (4) Được cung ứng

dịch vụ môi trường rừng và hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng; (5) Được

hướng dẫn về kỹ thuật và hỗ trợ khác theo quy định để bảo vệ và phát triển

rừng, bảo tồn đa dạng sinh học rừng; được hưởng lợi từ công trình hạ tầng

phục vụ bảo vệ và phát triển rừng do Nhà nước đầu tư; (6) Được Nhà nước

bồi thường giá trị rừng, tài sản do chủ rừng đầu tư, xây dựng hợp pháp tại thời

điểm quyết định thu hồi rừng; (7) Được Nhà nước hỗ trợ kinh phí đối với chủ

rừng phát triển rừng sản xuất khi bị thiệt hại do thiên tai; (8) Hợp tác, liên kết

với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để bảo vệ và phát triển rừng;

(9) Được bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp khác [39].

Nghĩa vụ chung của chủ rừng quy định tại Điều 74 Luật Lâm nghiệp

năm 2017, gồm: (1) Quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng bền vững theo

Quy chế quản lý rừng, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật

có liên quan; (2) Thực hiện quy định về theo dõi diễn biến rừng; (3) Trả lại

rừng khi Nhà nước thu hồi rừng theo quy định của Luật này; (4) Bảo tồn đa

dạng sinh học rừng, thực vật rừng, động vật rừng; (5) Phòng cháy và chữa

cháy rừng; phòng, trừ sinh vật gây hại rừng; (6) Chấp hành sự quản lý, thanh

tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (7) Thực

hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Bên

cạnh quyền và nghĩa vụ chung của chủ rừng nêu trên, Luật cũng quy định cụ

thể về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân [39].

Thứ ba, về thẩm quyền giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình

16

Về thẩm quyền giao rừng được quy định tại Điều 23 Luật Lâm

nghiệp năm 2017: UBND cấp huyện có thẩm quyền giao rừng đối với hộ gia

đình, cá nhân.

1.4. Yếu tố tác động đến việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình

theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng

1.4.1. Về chính trị liên quan đến việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia

đình

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với đường lối đổi mới của

Đảng, ngành lâm nghiệp từ chỗ dựa vào quốc doanh nay chuyển sang lâm

nghiệp xã hội, Nhân dân trở thành lực lượng chủ yếu bảo vệ và phát triển

rừng. Đối tượng chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình được quy định rất sớm ngay

từ Luật Bảo vệ và phát triển rừng ban hành năm 1991 đã ghi rõ tại điều 2:

Nhà nước giao rừng, đất trồng rừng cho tổ chức, cá nhân để bảo vệ, phát triển

và sử dụng rừng ổn định, lâu dài. Như vậy là Luật Bảo vệ và phát triển rừng

(năm 1991) đã thể chế hoá một bước chủ trương giao đất, giao rừng với đối

tượng được giao là tổ chức và cá nhân, sau này trong Luật bảo vệ và phát

triển rừng 2004 mở rộng thêm các đối tượng chủ rừng khác. Tuy nhiên để quy

định rõ quyền và nghĩa vụ của đối tượng chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình thì

phải đến Luật Lâm nghiệp năm 2017 mới được cụ thể hóa[21].

1.4.2. Về pháp luật và nhận thức pháp lý liên quan đến việc giao

rừng cho cá nhân, hộ gia đình

Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật là một quá trình phụ thuộc

vào nhiều yếu tố như điều kiện chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá…Nhất là

trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng, giao khoán rừng, những người dân

sống ở vùng núi, gần rừng và trong rừng có điều kiện đời sống vật chất còn

nhiểu khó khăn, trình độ hiểu biết về pháp luật, văn hoá còn hạn chế, thì cần

có những biện pháp phù hợp để nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, người

17

dân về bảo vệ và phát triển rừng.

1.4.3. Về kinh tế và môi trường liên quan đến việc giao rừng cho cá

nhân, hộ gia đình

Nhà nước cùng nhân dân bảo vệ và phát triển rừng. Từ quan điểm, chủ

trương của Đảng định hướng công tác bảo vệ và phát triển rừng sang nhiều

mục tiêu trong đó có việc xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu trong

ngành lâm nghiệp nói chung và đối tượng chủ rừng là các tổ chức kinh tế nói

riêng... trong đó quy định các quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là cá nhân, hộ

gia đình [69].

Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, hội nhập kinh tế là tất yếu và

mở rộng ra hầu hết các lĩnh vực, tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng

nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn thách thức lớn cho các quốc gia.

1.4.4. Về khoa học, công nghệ liên quan đến việc giao rừng cho cá

nhân, hộ gia đình

Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc ứng dụng công nghệ cao nhằm

nâng cao năng suất và chất lượng rừng, đặc biệt trong khâu giống là yêu cầu

cấp thiết của ngành lâm nghiệp. Từ sản xuất, quản lý giám sát, chế biến, tiêu

thụ đến tiêu dùng đều có thể ứng dụng kỹ thuật số như ứng dụng phần mềm,

theo dõi, giám sát quá trình sản xuất, kiểm soát chất lượng sản phẩm. Các quá

trình sản xuất lâm nghiệp có thể tự động hóa ở nhiều khâu, qua đó giúp tăng

năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm chi phí. Hiện nay công nghệ cao,

công nghệ 4.0 sẽ không những hỗ trợ quản lý vĩ mô mà còn lưu trữ dữ liệu vi

mô (từng cá thể) trên mạng internet và chia sẻ nguồn dữ liệu cho nhiều người

cùng sử dụng, thông qua các thiết bị kết nối với internet.

Công nghệ cao hỗ trợ công khai, minh bạch hóa quá trình sản xuất - chế

biến - tiêu thụ, truy xuất nguồn gốc, công khai quy trình công nghệ áp dụng,

tiêu chuẩn chất lượng đạt được đến mức độ nào, thông qua điện thoại thông

18

minh kết nối với các thiết bị trợ giúp dự tính, dự báo các rủi ro thiên tai (sạt lở

đất), nạn chặt phá rừng, bảo tồn động vật quý hiếm, truy xuất nguồn gốc gỗ,

theo dõi tăng trưởng của cây lâm nông nghiệp. Ứng dụng các kỹ thuật tiên

tiến của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trong sản xuất lâm nghiệp ứng dụng

công nghệ cao sẽ góp phần tăng hiệu quả của chuỗi sản xuất và thương mại

hóa sản phẩm

Hiện nay chúng ta đang phát triển các thiết bị có thể phát hiện các đám

cháy, nhưng hiện mới ở mức nghiên cứu, thử nghiệm. Về phòng chống dịch

bệnh các tích hợp các thông tin cần thiết để dự báo nguy cơ sâu bệnh hại cho

từng khu rừng, chủ rừng. Trong phát triển rừng, nhiều công nghệ đa dạng từ

trồng rừng, khai thác, vận chuyển, chế biến đang hướng đến tự động hóa, nhất

là trong khâu trồng, khai thác, chế biến. Ví dụ, trồng rừng trong điều kiện khó

khăn, ở độ dốc cao... hay phát triển các thiết bị có thể tự đóng mở cổng để duy

trì nước ở khu rừng ngập nước, thiết bị tự động tưới tiêu...Với hệ thống thông

tin quản lý ngành lâm nghiệp hiện đại, những thông tin về diễn biến rừng

được số hóa, chính xác, minh bạch, sẽ đem lại những hiệu quả to lớn cho công

tác quản lý bảo vệ rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp.

1.4.5. Về hội nhập quốc tế liên quan đến việc giao rừng cho cá nhân,

hộ gia đình

Yếu tố quốc tế cũng tác động mạnh đến quyền và nghĩa vụ của chủ rừng

là các tổ chức kinh tế. Nhờ sự hỗ trợ đáng kể của cộng đồng quốc tế mang đến

quyền lợi kinh tế cho chủ rừng trong công tác bảo vệ, phát triển rừng và xóa

đói, giảm nghèo ở nông thôn miền núi. Để tham gia hội nhập quốc tế nhà nước

mình cũng dần hoàn thiện, điều chỉnh các quy định, chính sách pháp luật phù

hợp với Luật, các công ước quốc tế trong đó cũng quy định rất rõ trách nhiệm,

quyền lợi, nghĩa vụ của chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình.

19

1.5. Phương thức quản lý việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình

theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng

1.5.1. Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng đối với cá nhân, hộ

gia đình

Thực tế cho thấy nếu chỉ có các biện pháp truyền thống như tăng cường

luật pháp, tham gia các công ước… thì không thể bảo vệ được diện tích rừng

tự nhiên hiện còn của nhân loại, nhất là rừng nhiệt đới tập trung chủ yếu ở các

nước đang phát triển. Một trong những biện pháp quan trọng hiện nay được cả

cộng đồng quốc tế cũng như từng quốc gia đặc biệt quan tâm, kết hợp với các

giải pháp truyền thống nêu trên là cần phải thiết lập quản lý rừng bền vững và

chứng chỉ rừng [54].

Quản lý rừng bền vững là quản lý rừng ổn định bằng các biện pháp phù

hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra như: sản xuất gỗ nguyên liệu, gỗ gia dụng,

lâm sản ngoài gỗ...; phòng hộ môi trường, bảo vệ đầu nguồn, bảo vệ chốngcát

bay, chống sạt lở đất...; bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn loài, bảo tồn các hệ

sinh thái...

Dưới khía cạnh phát triển bền vững, thì quản lý rừng bền vững phải đạt

được sự bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng tài nguyên rừng. Cuộc sống

con người luôn gắn với sử dụng tài nguyên thiên nhiên và để sử dụng nó,

chúng ta cần phải bảo vệ nó vì tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận.

Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng là những tiêu chí quan trọng được

các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới cùng hướng tới xây dựng và

thực thi nhằm mục tiêu quản lý rừng bền vững cũng như phát triển bền vững

[54, tr.71-72].

1.5.2. Đảm bảo cơ chế chia sẻ lợi ích từ rừng

Ngoài ra, quản lý rừng bền vững phải đạt được sự bình đẳng và công

bằng trong sử dụng tài nguyên rừng ở cùng thế hệ. Đây là một vấn đề khó, bởi

20

vì trong khi cố tạo ra sự công bằng cho các thế hệ tương lai thì chúng ta vẫn

chưa tạo được những cơ hội bình đẳng cho những người sống ở thế hệ hiện tại

thể hiện ở những khía cạnh sau:

Sự bất bình đẳng trong xã hội và kinh tế chỉ có thể được tồn tại nếu: (i)

sự bất bình đẳng này là có lợi cho nhóm người nghèo trong xã hội (ii) và tất

cả mọi người đều có cơ hội tiếp cận nguồn tài nguyên rừng như nhau. Đây là

một nguồn kinh phí đáng kể cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, được chi

xuống tới tận cá nhân, hộ gia đình được giao rừng.

1.5.3. Hoạt động hỗ trợ đầu tư phát triển rừng đối với cá nhân, hộ

gia đình được giao rừng

Theo Nghị định 75/2015/NĐ-CP, đối tượng được hỗ trợ gồm: hộ nghèo

đang sinh sống ổn định tại các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (khu

vực II và III) thuộc vùng dân tộc và miền núi đã và đang bảo vệ và phát triển

rừng; cộng đồng dân cư thôn được giao rừng theo quy định tại Điều 29 Luật

Bảo vệ và Phát triển rừng và Điều 54 Luật Đất đai [19].

21

Tiểu kết chương 1

Tại chương 1, tác giả luận văn đã đề cập các nội dung cơ bản về hoạt

động giao rừng theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng. Một số khái niệm,

đặc trưng của pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo luật bảo vệ

và phát triển rừng đã được đưa ra đưa ra và đã được làm rõ trong mối quan hệ

giữa quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình trong công tác

bảo vệ và phát triển rừng. Bên cạnh đó tại chương này cũng nêu ra nội dung

của pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo luật bảo vệ và phát

triển rừng và được làm rõ tại các chương sau. Nội dung các vấn đề lý luận và

pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo luật bảo vệ và phát triển

rừng đã được nêu ra và làm rõ là tiền đề giúp cho quá trình phân tích thực

trạng quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là tổ chức kinh tế theo luật bảo vệ và

phát triển rừng được chính xác, hiệu quả.

22

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP

LUẬT VỀ GIAO RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH

TẠI TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Thực trạng pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình

Tài nguyên rừng và đất rừng do Nhà nước thống nhất quản lý, vì vậy

Nhà nước thực hiện giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng và chuyển mục

đích sửdụng rừng đồng thời với việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,

chuyển mục đich sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cộng

đồng dân cư.

2.1.1. Chủ thể được giao rừng, được thuê rừng

- Chủ thể được Nhà nước giao rừng

Theo Khoản 2, Điều 16 Luật Lâm nghiệp 2017 thì Nhà nước giao rừng

phòng hộ không thu tiền sử dụng rừng cho các đối tượng sau đây: Ban quản lý

rừng phòng hộ, đơn vị vũ trang đối với rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng

hộ biên giới; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay; rừng phòng hộ chắn sóng,

lấn biển; Tổ chức kinh tế đối với rừng phòng hộ xen kẽ trong diện tích rừng

sản xuất của tổ chức đó;Hộ gia đình, cá nhân cư trú hợp pháp trên địa bàn cấp

xã nơi có rừng phòng hộ đối với rừng phòng hộ đầu nguồn; rừng phòng hộ

chắn gió, chắn cát bay; rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển;Cộng đồng dân cư

cư trú hợp pháp trên địa bàn cấp xã nơi có rừng phòng hộ đối với rừng phòng

hộ đầu nguồn; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay; rừng phòng hộ chắn

sóng, lấn biển; rừng bảo vệ nguồn nước của cộng đồng dân cư đó [39].

Đối với việc giao rừng sản xuất được quy định tại Khoản 3, Điều 16

Luật Lâm nghiệp 2017: Nhà nước giao rừng sản xuất là rừng tự nhiên và rừng

sản xuất là rừng trồng không thu tiền sử dụng rừng đối với hộ gia đình, cá

23

nhân đang sinh sống tại đó trực tiếp lao động lâm nghiệp phù hợp với việc

giao đất để phát triển rừng sản xuất; tổ chức kinh tế sản xuất giống cây rừng;

đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng rừng sản xuất kết hợp với quốc phòng, an

ninh; Ban quản lý rừng phòng hộ trong trường hợp có rừng sản xuất xen kẽ

trong rừng phòng hộ đã giao cho Ban quản lý;Nhà nước giao rừng sản xuất là

rừng tự nhiên và rừng sản xuất là rừng trồng có thu tiền sử dụng rừng đối với

các tổ chức kinh tế [22];

Ngoài ra, chủ thể đặc biệt là cộng đồng dân cư thôn tùy theo điều kiện

được giao những khu rừng hiện cộng đồng dân cư thôn đang quản lý, sử dụng

có hiệu quả; khu rừng giữ nguồn nước phục vụ trực tiếp cho cộng đồng, phục

vụ lợi ích chung khác của cộng đồng mà không thể giao cho tổ chức, hộ gia

đình, cá nhân; khu rừng giáp ranh giữa các thôn, xã, huyện không thể giao

cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mà cần giao cho cộng đồng dân cư thôn để

phục vụ lợi ích của cộng đồng [22].

- Chủ thể được Nhà nước cho thuê rừng

Theo quy định tại Điều 17, Luật Lâm nghiệp năm 2017 về cho thuê

rừng sản xuất thì Nhà nước cho tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân thuê

rừng sản xuất là rừng tự nhiên, rừng sản xuất là rừng trồng trả tiền thuê rừng

một lần hoặc hằng năm để sản xuất lâm nghiệp; sản xuất lâm, nông, ngư

nghiệp kết hợp; kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí [39].

Tổ chức kinh tế trong nước được thuê rừng đặc dụng là khu bảo vệ

cảnh quan trả tiền hàng năm để bảo vệ và phát triển rừng, kết hợp kinh doanh

cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái - môi trường.

Quy định về việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê rừng, đất rừng

sản xuất là khá chi tiết và cụ thể. Tuy nhiên, trên thực tế khi cho các tổ chức,

cá nhân nước ngoài thuê đất trồng rừng nhiều diện tích thuộc vùng trồng

rừng phòng hộ, thậm chí là những vùng rừng, đất rừng xung yếu về an ninh

24

quốc phòng.

Nguyên tắc giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng

sang mục đích khác, thu hồi rừng được quy định tại Điều 14 Luật Lâm

nghiệp 2017, cụ thể như sau:

1. Phù hợp với quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia, quy hoạch sử

dụng đất; diện tích rừng hiện có tại địa phương.

2. Không chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác,

trừ dự án quan trọng quốc gia; dự án phục vụ quốc phòng, an ninh quốc gia;

dự án cấp thiết khác được Chính phủ phê duyệt.

3. Không giao, cho thuê diện tích rừng đang có tranh chấp.

4. Chủ rừng không được cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác thuê

diện tích rừng tự nhiên, rừng trồng do Nhà nước đầu tư.

5. Thống nhất, đồng bộ với giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử

dụng đất, thu hồi đất.

6. Thời hạn, hạn mức giao rừng, cho thuê rừng phù hợp với thời hạn,

hạn mức giao đất, cho thuê đất.

7. Bảo đảm công khai, minh bạch, có sự tham gia của người dân địa

phương; không phân biệt đối xử về tôn giáo, tín ngưỡng và giới trong giao

rừng, cho thuê rừng.

8. Tôn trọng không gian sinh tồn, phong tục, tập quán của cộng đồng

dân cư; ưu tiên giao rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số, hộ gia đình, cá

nhân, cộng đồng dân cư có phong tục, tập quán, văn hóa, tín ngưỡng, truyền

thống gắn bó với rừng, có hương ước, quy ước phù hợp với quy định của

pháp luật.

2.1.2. Thẩm quyền giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng và chuyển

mục đích sử dụng rừng

Theo Điều 15 Luật Lâm nghiệp 2017, căn cứ để giao rừng, cho thuê

25

rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác là:

Kế hoạch giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng

sang mục đích khác của UBND cấp huyện được UBND cấp tỉnh phê duyệt;

kế hoạch sử dụng đất hằng năm của cấp huyện được cơ quan nhà nước có

thẩm quyền phê duyệt; Diện tích rừng, đất quy hoạch để trồng rừng; Nhu cầu

sử dụng rừng thể hiện trong dự án đầu tư đối với tổ chức; đề nghị giao rừng,

thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đối với hộ gia

đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; Năng lực quản lý rừng bền vững của tổ

chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư [39].

Căn cứ Điều 28 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 về thẩm

quyền giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng

quy định như sau:

“1.Thẩm quyền giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng được quy định như

sau:

a) Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định

giao rừng, cho thuê rừng đối với tổ chức trong nước, người Việt Nam định cư

ở nước ngoài; cho thuê rừng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài;

b)Ủy ban nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định

giao rừng, cho thuê rừng đối với hộ gia đình, cá nhân;

c)Ủy ban nhân dân có thẩm quyền giao, cho thuê rừng nào thì có quyền

thu hồi rừng đó.

26

2.Thẩm quyền chuyển mục đích sử dụng rừng được quy định như sau:

a)Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển mục đích sử dụng toàn bộ

hoặc một phần khu rừng do Thủ tướng Chính phủ xác lập;

b)Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

quyết định chuyển mục đích sử dụng toàn bộ hoặc một phần khu rừng do Chủ

tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xác lập.”

Theo đó, chỉ những cá nhân, cơ quan trên mới được phép giao rừng,

cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng và chỉ được thực

hiện trong phạm vi nhất định. Điều 24 Nghị định 23/2006/NĐ-CP có những

quy định thêm về vấn đề này, theo đó, trong trường hợp rừng đã giao, cho

thuê trước ngày Luật Bảo vệ và phát triển rừng có hiệu lực thi hành thì Thẩm

quyền điều chỉnh quyết định giao rừng, cho thuê rừng thuộc về:

-Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan nhà nước có thẩm quyền được

điều chỉnh về diện tích rừng, thời hạn sử dụng rừng đối với chủ rừng là tổ

chức trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân

nước ngoài đã có quyết định giao rừng, cho thuê rừng trước ngày 01 tháng 4

năm 2005 mà phải điều chỉnh về diện tích rừng, thời gian sử dụng rừng.

-Ủy ban nhân dân cấp huyện là cơ quan nhà nước có thẩm quyền được

điều chỉnh về diện tích rừng, thời hạn sử dụng rừng đối với chủ rừng là hộ gia

đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn đã có quyết định giao rừng, cho thuê

rừng trước ngày 01 tháng 4 năm 2005 mà phải điều chỉnh về diện tích rừng,

thời gian sử dụng rừng.

Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với

Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện việc giao rừng, cho thuê

rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng theo quy định tại các Điều

20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29 Nghị định 23/2006/NĐ-CP gắn liền với

việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đảm bảo

27

được tiến hành thống nhất, đồng thời, đồng bộ trong cả nước, trong đó:

Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm chỉ đạo việc xác định các

thông tin, số liệu có liên quan đến các loại đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc

dụng, đất rừng sản xuất.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm chỉ đạo việc

xác định các thông tin, số liệu có liên quan đến các loại rừng.

Theo quy định tại Luật lâm nghiệp năm 2017 thì nội dung này được

quy định như sau:

1. Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được quy định như sau:

a) Giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục

đích khác, thu hồi rừng đối với tổ chức;

b) Cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thuê đất

để trồng rừng sản xuất.

2. Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện được quy định như sau:

a) Giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục

đích khác, thu hồi rừng đối với hộ gia đình, cá nhân;

b) Giao rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, thu

hồi rừng đối với cộng đồng dân cư.

3. Trường hợp trong khu vực thu hồi rừng có cả đối tượng quy định tại

điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định

thu hồi rừng hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu

hồi rừng.

4. Chính phủ quy định chi tiết việc giao rừng, cho thuê rừng, chuyển

loại rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, thu hồi rừng.

Chính vì vậy, thẩm quyền giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích

sử dụng rừng sang mục đích khác, thu hồi rừng được quy định tại Điều 23

Luật Lâm nghiệp 2017. UBND cấp huyện có thẩm quyền giao rừng, cho thuê

28

rừng đối với hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn.

2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình

Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình được quy định

cụ thể tạo Điều 73 và Điều 74 Luật lâm nghiệp năm 2017, cụ thể:

Hiện nay, hộ gia đình, cá nhân là đối tượng được Nhà nước ưu tiên,

khuyến khích giao, cho thuê rừng để bảo vệ, quản lý và phát triển rừng. Nhà

nước phát triển rừng theo hướng “Người làm nghề rừng phải sống và làm giàu

được từ rừng”. Nhà nước khuyến khích những hộ gia đình, cá nhân có khả

năng quản lý, bảo vệ, phát triển kinh doanh rừng có thể được Nhà nước cho

thuê đất, rừng, nhận khoán bảo vệ rừng từ các tổ chức khác được Nhà nước

giao đất như các Ban quản lý rừng phòng hộ, Ban quản lý rừng đặc dụng, các

đơn vị lực lượng vũ trang, các tổ chức kinh tế…Tuy nhiên, cho dù hộ gia

đình, cá nhân được giao, hay được thuê hoặc nhận khoán bảo vệ rừng thì trách

nhiệm đầu tiên trong quản lý rừng là phải bảo toàn vốn rừng và phát triển

rừng bền vững, sử dụng rừng đúng mục đích, đúng ranh giới đã quy định

trong quyết định giao, cho thuê rừng và theo quy chế quản lý rừng. Hộ gia

đình, cá nhân có trách nhiệm tổ chức bảo vệ và phát triển rừngtheo quy hoạch,

kế hoạch, dự án, phương án đã được phê duyệt; định kỳ báo cáo cơ quan nhà

nước có thẩm quyền về diễn biến tài nguyên rừng và các hoạt động liên quan

đến khu rừng như kiểm kê rừng, thống kê rừng, theo dõi diễn biến khu rừng.

Chủ thể này cũng phải giao lại rừng khi nhà nước có quyết định thu hồi rừng

hoặc khi hết thời hạn sử dụng rừng và thực hiện nghĩa vụ tài chính và các

nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật [1].

Ngoài ra, tuỳ thuộc vào loại rừng được giao hay được cho thuê hoặc

diện tích rừng được sở hữu hay được sử dụng mà hộ gia đình, cá nhân có các

quyền và trách nhiệm trong việc quản lý rừng khác nhau, cụ thể:

Thứ nhất, đối với hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao rừng phòng

29

hộ, ngoài các trách nhiệm và lợi ích trên, chủ rừng này phải xây dựng khu

rừng theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền quản lý về rừng. Họ được

chuyển đổi diện tích rừng được giao cho hộ gia đình, cá nhân trong cùng xã,

phường, thị trấn; cá nhân được để lại quyền sử dụng rừng cho người thừa kế

theo quy định của pháp luật; được phép khai thác những cây sâu, bệnh, gẫy,

đổ trong rừng phòng hộ,khai thác rừng phòng hộ khi đến tuổi khai thác nhưng

phải đảm bảo mật độ phòng hộ của rừng theo quy định. Tuy nhiên, chủ thể

này không được phép chuyển nhượng, thế chấp, bảo lãnh… giá trị quyền sử

dụng rừng phòng hộ.

Thứ hai, đối với hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng sản

xuất. Nếu là rừng tự nhiên thì chủ rừng phải có kế hoạch quản lý, bảo vệ và

sản xuất, kinh doanh rừng theo hướng dẫn của UBND cấp xã hoặc của cán bộ

kiểm lâm và được chủ tịch UBND cấp huyện phê duyệt; được khai thác gỗ và

các thực vật khác trừ các loài động thực vật bị cấm không được khai thác theo

quy định của chính phủ.

Việc khai thác rừng phải theo quy chế quản lý rừng và chấp hành quy

phạm, quy trình kỹ thuật bảo vệ và phát triển rừng, sau khi khai thác phải tổ

chức bảo vệ, nuôi dưỡng, làm giàu rừng cho đến kỳ khai thác sau. Nếu hộ gia

đình, cá nhân được giao rừng sản xuất là rừng trồng thì chủ rừng phải có kế

hoạch chăm sóc, nuôi dưỡng, trồng rừng mới, bảo vệ rừng, kết hợp kinh doanh

lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái,

môi trường trong khu rừng phù hợp với quy hoạch, quy chế quản lý rừng.

Trường hợp chủ rừng tự bỏ vốn gây trồng và chăm sóc rừng thì được tự quyết

định việc khai thác rừng trồng, các sản phẩm được khai thác từ rừng trồng được

tự do lưu thông trên thị trường, riêng các cây gỗ quý khai thác từ rừng trồng thì

khi khai thác chủ rừng phải thực hiện theo quy định của chính phủ.

Thứ ba, đối với hộ gia đình, cá nhân được nhà nước cho thuê rừng sản

30

xuất thì được hưởng giá trị tăng thêm của rừng do chủ rừng tự đầu tư trong

thời gian được thuê theo quy định của pháp luật; được thế chấp, bảo lãnh, góp

vốn bằng giá trị rừng sản xuất là rừng trồng do mình tự đầu tư. Nếu rừng sản

xuất được thuê là rừng trồng bằng vốn ngân sách Nhà nước thì hộ gia đình, cá

nhân lập hồ sơ khai thác trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nguồn vốn

quyết định, khai thác gỗ quý hiếm thực hiện theo quy định của chính phủ;

được chuyển nhượng, cho thuê lại quyền sử dụng rừng theo quy định của

pháp luật; chỉ được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng

rừng tăng thêm do chủ rừng tự đầu tư so với giá trị quyền sử dụng được xác

định tại thời điểm được thuê theo quy định của pháp luật.

Mặc dù, chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân được giao rừng, cho thuê rừng

đối với các loại rừng phòng hộ, rừng sản xuất, vùng đệm của rừng đặc dụng

nhưng tổng diện tích rừng do hộ gia đình, cá nhân quản lý còn khá khiêm tốn

so với các chủ rừng khác. Pháp luật quy định về loại rừng được giao, được

thuê đối với hộ gia đình, cá nhân là rất phong phú, cả rừng phòng hộ, rừng sản

xuất và vùng đệm rừng đặc dụng nhưng thực tế chủ thể này chủ yếu được

giao loại rừng nghèo kiệt hoặc đất trống đồi núi trọc để trồng rừng còn rừng

sản xuất là rừng tự nhiên thường được Nhà nước giao cho tổ chức kinh tế có

vốn đầu tư nhà nước quản lý và khai thác.

2.1.4. Thủ tục giao rừng, cho thuê rừng

Trình tự, thủ tục giao rừng, cho thuê rừng thống nhất, đồng bộ với giao

đất, cho thuê đất được quy định tại Điều 36 Nghị định 156/2018/NĐ-CP

hướng dẫn Luật Lâm nghiệp năm 2017. Tuy nhiên, các chủ thể phải nộp kèm

các văn bản sau đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cụ thể:

Trình tự, thủ tục giao rừng, cho thuê rừng thống nhất, đồng bộ với giao

đất, cho thuê đất thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và các quy

định sau:

31

1. Mẫu đề nghị giao đất, giao rừng, cho thuê đất, cho thuê rừng áp dụng

theo Mẫu số 02 đối với tổ chức, Mẫu số 03 đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng

đồng dân cư, Phụ lục II kèm theo Nghị định này.

2. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ khi tiếp nhận hồ sơ hợp lệ, cơ

quan tiếp nhận và trả hồ sơ có trách nhiệm chuyển hồ sơ đến cơ quan quản lý

chuyên ngành về lâm nghiệp có ý kiến về nội dung đề nghị giao rừng, cho

thuê rừng. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ

quan quản lý chuyên ngành về lâm nghiệp có ý kiến bằng văn bản gửi cơ

quan Tài nguyên và Môi trường cùng cấp.

3. Quyết định về giao đất, giao rừng, cho thuê đất, cho thuê rừng áp

dụng theo mẫu quy định tại Nghị định này:

a) Quyết định về giao đất, giao rừng cho tổ chức theo Mẫu số 04 Phụ

lục II kèm theo Nghị định này;

b) Quyết định về việc cho thuê đất, cho thuê rừng đối với tổ chức theo

Mẫu số 05 Phụ lục II kèm theo Nghị định này;

c) Quyết định về giao đất, giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng

đồng dân cư theo Mẫu số 06 Phụ lục II kèm theo Nghị định này;

d) Quyết định về cho thuê đất, cho thuê rừng cho hộ gia đình, cá nhân

theo Mẫu số 07 Phụ lục II kèm theo Nghị định này.

4. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày quyết định cho thuê đất,

thuê rừng được ban hành, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

ký Hợp đồng cho thuê rừng đối với trường hợp cho tổ chức thuê rừng, Chủ

tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký Hợp đồng cho thuê rừng đối với trường

hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê rừng theo Mẫu số 08 Phụ lục II kèm theo

Nghị định này.

Như vậy, toàn bộ đất rừng và rừng tự nhiên của Việt Nam thuộc sở hữu

toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện việc giao rừng,

32

cho thuê rừng tới các chủ thể trong xã hội.

Tùy thuộc vào chủ thể là tổ chức hay cá nhân, hộ gia đình; chủ thể

trong nước hay nước ngoài mà nhà nước tiến hành giao, cho thuê các loại

rừng khác nhau. Về nguyên tắc, tổ chức, cá nhân nước ngoài khi đầu tư vào

lĩnh vực trồng rừng được nhà nước cho thuê rừng sản xuất là rừng trồng. Tuy

nhiên, trên thực tế, các chủ thể này chủ yếu là thuê đất rừng sản xuất sau đó

trồng rừng.

Quản lý nhà nước về giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng và chuyển

mục đích sử dụng rừng được quy định cho từng loại chủ thể được giao, cho

thuê đối với từng loại rừng, loại đất rừng từ các đơn vị sự nghiệp do nhà nước

thành lập đến các tổ chức kinh tế trong nước, các hộ gia đình, cá nhân, các tổ

chức, các nhân nước ngoài. Tuy nhiên, công tác tổ chức thực hiện việc giao

rừng, cho thuê rừng... luôn gắn liền với việc giao đất, cho thuê đất trong thực

tế còn nhiều bất cập. Trong nhiều thập niên qua, khi giao đất, cho thuê đất gắn

liền với giao rừng, cho thuê rừng việc đo đạc trong thực tế với hồ sơ quản lý

địa chính nhiều nơi sai lệch về số liệu. Đặc biệt công tác giao, cho thuê rừng

và đất rừng bị thay đổi cơ quan quản lý nhiều lần trong vài thập niên qua, đầu

tiên là do cơ quan kiểm lâm quản lý, sau đó là cơ quan địa chính và hiện nay

là cơ quan tài nguyên và môi trường. Do vậy, quản lý số liệu về giao, cho thuê

rừng và đất không thống nhất, đồng bộ và nhiều số liệu bị thất lạc nên tình

trạng tranh chấp rừng, đất rừng vẫn diễn ra tại nhiều địa phương. Do đó, hoạt

động quản lý nhà nước đối với việc giao, cho thuê, thu hồi và chuyển mục

đích sử dụng rừng gặp không ít khó khăn và phức tạp.

Có thể thấy, về chính sách của Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng,

nếu như Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 mới chỉ dừng ở mức “Nhà

nước khuyến khích tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nhận đất phát triển rừng ở

những vùng đất trống, đồi núi trọc” (Khoản 4 - Điều 10) thì đến Luật Lâm

33

nghiệp 2017 đã khẳng định “Nhà nước bảo đảm cho đồng bào dân tộc thiểu

số, cộng đồng dân cư sinh sống phụ thuộc vào rừng được giao rừng gắn với

giao đất để sản xuất” (Khoản 6 - Điều 4).

Quy định trên của Luật Lâm nghiệp cũng thể hiện sự đột phá so với

quy định tại Khoản 2 - Điều 27 Luật Đất đai 2013 là: “Có chính sách tạo điều

kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số trực tiếp sản xuất nông nghiệp ở nông thôn

có đất để sản xuất nông nghiệp”. “Tạo điều kiện” nghĩa là có điều kiện thì

giao, không có điều kiện thì không giao, không mang tính bắt buộc.

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật giao rừng cho cá nhân, hộ gia

đình tại tỉnh Quảng Nam

2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Quảng

Nam

2.2.1.1. Điều kiện tự nhiên

* Vị trí địa lý

Quảng Nam là tỉnh thuộc vùng đồng bằng duyên hải miền Trung, ở

trung độ của cả nước, có tọa độ địa lý từ 14057’10’ đến 16o03’50” vĩ độ Bắc,

từ số 107o12’40” đến 108o44’20” kinh độ Đông. Cách Thủ đô Hà Nội khoảng

883 km về hướng Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 887 km về hướng Nam

theo Quốc lộ 1A [64].

- Phía Bắc giáp: Tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng.

- Phía Nam giáp: Tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum.

- Phía Tây giáp: Nước CHDCND Lào và tỉnh Kon Tum.

- Phía Đông giáp: Biển Đông.

Tổng diện tích tự nhiên tỉnh Quảng Nam là 1.057.474 ha. Toàn tỉnh có

2 thành phố (Tam Kỳ, Hội An), 01 thị xã (Điện Bàn) và 15 huyện (Tây Giang,

Đông Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Bắc Trà My, Nam Trà My, Hiệp Đức,

Tiên Phước, Nông Sơn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Thăng Bình, Quế Sơn, Núi

34

Thành và Phú Ninh), với 244 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: 207 xã, 25

phường và 12 thị trấn [64] [65].

Phía đông có bờ biển chạy dài trên 125 km, vùng đặc quyền kinh tế

rộng lớn hơn 40.000 km2 hình thành nhiều ngư trường với nguồn lợi hải sản

phong phú để phát triển nghề khai thác thủy sản.

Tóm lại, Quảng Nam nằm trong vùng trọng điểm kinh tế Miền Trung,

phía bắc giáp thành phố Đà Nẵng, phía nam giáp khu kinh tế Dung Quất, có

sân bay, cảng biển, đường Xuyên Á nên rất thuận lợi cho việc giao lưu phát

triển kinh tế - xã hội và có tầm quan trọng trong an ninh, quốc phòng [64].

2.2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

* Về thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế

Năm 2018, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh đạt 68.100 tỷ đồng, tăng

8,11% so với năm 2017 (bình quân 3 năm (2016-2018) tăng 13,1%; vượt chỉ

tiêu theo Nghị quyết. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, khu

vực nông - lâm - thuỷ sản còn 12%, khu vực công nghiệp và xây dựng,

thương mại - dịch vụ 88%, trong đó công nghiệp xây dựng 36,8%. GRDP

bình quân đầu người hơn 61 triệu đồng/người [65].

Ngành công nghiệp - xây dựng tăng trưởng gần 13,3%, bình quân 3

năm tăng gần 15,3%; trong đó công nghiệp tăng gần 14%; ngành dịch vụ hơn

6,3%, bình quân 3 năm tăng 13,7%. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ

tiêu dùng hơn 49.800 tỷ đồng, tăng gần 1,4 lần so năm 2016; hoạt động du

lịch tăng trưởng khá, tổng lượt khách tham quan, lưu trú trên 6,5 triệu lượt,

tăng 21,5%, bình quân 3 năm tăng 19%/năm [65].

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tiếp tục duy trì và phát triển ổn định,

tăng trưởng 4,28%, bình quân 3 năm tăng 3,8%/năm. Sản xuất nông nghiệp

năm 2018 được mùa, năng suất lúa đạt 53,6 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha; sản lượng

đạt trên 462 nghìn tấn, tăng 01 nghìn tấn so với năm 2017. Chăn nuôi gia súc,

35

gia cầm nhìn chung ổn định, ít xảy ra dịch bệnh [65].

Đã tập trung chỉ đạo, triển khai quyết liệt công tác quản lý, bảo vệ và

phát triển rừng, Tỷ lệ che phủ rừng đạt 57,38%, vượt kế hoạch đề ra.

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn hơn 23.741 tỷ đồng, tăng

20,66% so với dự toán; trong đó thu nội địa hơn 19.131 tỷ đồng, tăng 23,62%

so với dự toán. Thu xuất nhập khẩu hơn 4.405 tỷ đồng, tăng 4,88% so với dự

toán (tính đến ngày 31/12/2018) [65].

Tổng chi cân đối ngân sách địa phương hơn 18.917 tỷ đồng, tăng 7% so

với dự toán; trong đó, chi thường xuyên 11.740 tỷ đồng, tăng 2% dự toán, chi

đầu tư phát triển 4.420 tỷ đồng. Nguồn vốn huy động năm 2018 gần 48.970 tỷ

đồng, tăng gần 12% so với đầu năm.

Phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, chương trình nông thôn

mới, giảm nghèo đạt được một số kết quả.

Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy và HĐND tỉnh về phát triển kinh tế -

xã hội miền núi tỉnh đã sắp xếp, ổn định dân cư cho 1.860 hộ, đạt 65,6% kế

hoạch. Đến nay, bình quân số tiêu chí đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) là

13,51 tiêu chí/xã, tăng 0,4 tiêu chí/xã so với năm 2017, trong đó các xã miền

núi bình quân đạt 10,02 tiêu chí/xã; không còn xã dưới 5 tiêu chí, đến cuối

năm 2018, có thêm 14 xã đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số xã đạt chuẩn

nông thôn mới đến cuối năm 2018 là 86 xã, đạt tỷ lệ 42,15%. Triển khai thực

hiện có hiệu quả các chương trình, chính sách giảm nghèo, chính sách khuyến

khích thoát nghèo bền vững. Trong năm đã giảm được 6.575 hộ nghèo (tỷ lệ

giảm 1,71%); số hộ nghèo của tỉnh còn 31.537 hộ (tỷ lệ 7,57%) [66].

Quản lý tài nguyên, môi trường được quan tâm, công tác giải phóng

mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ tái định cư được tập trung chỉ đạo thực hiện

quyết liệt. Triển khai điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế

hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020) của tỉnh; sửa đổi, bổ sung Bảng giá

36

đất trên địa bàn tỉnh thời kỳ 2015-2019. Đẩy nhanh tiến độ đo đạc, xây dựng

hệ thống hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu quản lý đất đai và cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân các xã Vùng Đông. Tăng cường công

tác quản lý, bảo vệ môi trường, đặc biệt là ở các khu, cụm công nghiệp, cơ sở

sản xuất, khu du lịch. Hoàn thành 02 nhà máy xử lý nước thải tập trung tại các

khu công nghiệp: Đông Quế Sơn và KCN cơ khí ô tô Chu Lai Trường Hải;

nâng số lượng các KCN đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải lên 06/07

KCN (tỷ lệ 85,7%) [67].

Tập trung quyết liệt chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp lập lại kỷ

luật, kỷ cương trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, lâm sản nhất là cát, sỏi

trên sông Vu Gia, Thu Bồn; triển khai phương án kiểm tra, truy quét các địa

bàn trọng điểm về tài nguyên lâm sản, khoáng sản. Ưu tiên giải quyết các tồn

tại, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, bàn giao mặt bằng

sạch các dự án trọng điểm, dự án vùng Đông Nam và ven biển.

Các vấn đề về văn hóa, xã hội được tập trung giải quyết. Trong năm

2018, nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra nhân sự

kiện và các ngày lễ như hoạt động mừng Đảng, đón Xuân; kỷ niệm 21 năm tái

lập tỉnh và 43 năm ngày Giải phóng Quảng Nam. Tổ chức thành công các

hoạt động và lễ hội nổi bật như: Lễ hội Văn hóa - Thể thao các huyện miền

núi tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX và Ngày hội văn hóa các dân tộc miền

Trung lần thứ III, những ngày văn hóa Nhật Bản tại Quảng Nam và giao lưu

văn hóa Hội An - Nhật Bản lần thứ 16. Phối hợp tổ chức thành công nhiều

giải thể thao truyền thống; giải Bóng chuyền nữ quốc tế cúp VTV9 Bình Điền

lần thứ XII và Đại hội thể dục thể thao tỉnh lần thứ VIII [65].

Năm học 2017-2018 đảm bảo đúng kế hoạch, chất lượng mũi nhọn tiếp

tục được duy trì và đạt được những kết quả cao tại các kỳ thi khu vực và toàn

quốc. Tiếp tục xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia theo lộ trình, đã công

37

nhận 9 trường đạt chuẩn quốc gia; nâng số trường đạt chuẩn quốc gia trên địa

bàn tỉnh lên 492 trường, đạt tỉ lệ 60%. Tiếp tục thực hiện phân luồng, định

hướng nghề nghiệp cho học sinh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông.

Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống,

chú trọng công tác khởi nghiệp sáng tạo và đổi mới góp phần phát triển kinh

tế xã hội địa phương. Triển khai thực hiện các đề án, chương trình hỗ trợ đầu

tư khoa học công nghệ đối với ngành công nghiệp hỗ trợ cơ khí ô tô, hỗ trợ

ngành dệt may.

Thực hiện tốt chính sách người có công và an sinh xã hội; tập trung giải

quyết hồ sơ chế độ chính sách tồn đọng, nâng cao chất lượng phụng dưỡng Bà

Mẹ Việt Nam Anh hùng; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người có

công. Đến nay, đã hỗ trợ xây dựng, sửa chữa hoàn thành 25.971 ngôi nhà,

đang xây dựng 1.220 nhà theo Quyết định 22/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ, đạt tỷ lệ hơn 92,4% so với kế hoạch [64] [65].

Tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng y tế, mở rộng qui mô giường bệnh,

phát triển một số kỹ thuật y tế chuyên sâu; công tác phòng, chống dịch bệnh,

vệ sinh an toàn thực phẩm được kiểm soát tốt nên hạn chế được các dịch bệnh

nguy hiểm, không để dịch bệnh lây lan.

2.2.1.3. Hiện trạng đất lâm nghiệp tại tỉnh Quảng Nam

Quảng Nam có tổng diện tích tự nhiên là 608.391 ha. Năm 2017, toàn

tỉnh có 427.302,3 ha rừng và đất lâm nghiệp (chiếm trên 70% diện tích tự

nhiên). Có 301.751,8 ha có rừng (trên 48% diện tích tự nhiên), trong đó có

149.192,0 ha rừng tự nhiên, 152.559,8 ha rừng trồng. Rừng giàu ở Quảng

Nam hiện có khoảng 10 nghìn ha, phân bố ở các đỉnh núi cao, diện tích rừng

còn lại chủ yếu là rừng nghèo, rừng trung bình và rừng tái sinh, có trữ lượng

gỗ khoảng 69 m3/ha [64].

38

Bảng 2.1. Diện tích rừng tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014 – 2018

Theo mục đích sử dụng rừng Nguồn gốc rừng Diện tích Rừng Rừng Năm rừng hiện Rừng Rừng tự Rừng đặc phòng có sản xuất nhiên trồng dụng hộ

2014 280.395,5 24.861,1 117.009,3 138.525,1 165.453,5 114.942,0

2015 289.314,8 22.540,4 114.412,7 152.361,7 161.655,6 127.655,6

2016 291.297,6 23.424,5 98.922,3 168.950,8 155.870,7 135.426,9

2017 301.751,8 22.920,1 98.477,4 180.261,3 149.192,0 152.559,8

2018 314.216,2 22.365,2 97.163,4 194.687,6 149.005,2 165.211,0

Nguồn: Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Nam

Trong phần diện tích đã được giao, hộ gia đình, cá nhân, các cơ quan

Nhà nước và các tổ chức kinh tế nắm phần lớn diện tích; các tổ chức liên

doanh, tổ chức 100% vốn nước ngoài và cộng đồng được giao diện tích nhỏ.

Hình 2.1 thể hiện tỷ lệ phần diện tích được giao cho các nhóm sử dụng. Trong

diện tích đất lâm nghiệp được giao cho các nhóm đối tượng sử dụng, diện tích

đất hiện đang được hộ gia đình và cá nhân chiếm tỉ lệ cao nhất (37% trong

tổng số, tương đương với gần 116.259,92ha). Khoảng 70% diện tích đất lâm

nghiệp mà hộ gia đình và cá nhân được giao sử dụng là đất rừng sản xuất, còn

lại (gần 30%) là đất rừng phòng hộ [14].

39

Hình 2.1. Cơ cấu giao rừng cho các chủ thể

Tổ chức khác 4%

Cộng đồng 7%

UBND xã 5%

Hộ gia đình, cá nhân 37%

Cơ quan nhà nước 28%

Tổ chức kinh tế 29 %

Các tổ chức thuộc Nhà nước, chủ yếu là các Ban quản lý rừng phòng hộ

và rừng đặc dụng hiện đang được giao khoảng 103.691,34 ha, chiếm 33%

trong tổng diện tích đất lâm nghiệp đã được giao. Tuy nhiên, khác với phần

diện tích đất được giao cho hộ gia đình và cá nhân, diện tích đất được giao

cho các cơ quan Nhà nước, UBND chủ yếu là đất rừng phòng hộ (44%) và đất

rừng đặc dụng (39%); diện tích đất rừng sản xuất chỉ chiếm 17%. Nói cách

khác, hầu hết các diện tích đất rừng phòng hộ và rừng đặc dụng hiện đang

được giao cho các tổ chức thuộc Nhà nước [14] [64].

2.2.2. Tình hình công tác giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình tại tỉnh

Quảng Nam

* Các chính sách quy định việc giao và khoán đất

Pháp luật hiện hành quy định việc tiếp cận đất đai, bao gồm cả đất lâm

nghiệp của các cá nhân, tổ chức thuộc Nhà nước và bên ngoài Nhà nước như

hộ gia đình và cá nhân được thực hiện qua 2 cơ chế giao và giao khoán. Giao

đất là việc Nhà nước với vai trò là chủ sở hữu về đất đai tiến hành giao đất

cho các tổ chức thuộc Nhà nước và bên ngoài Nhà nước như hộ gia đình và cá

40

nhân nhằm sử dụng đất theo kế hoạch đã được Nhà nước phê duyệt [64].

Trong cơ chế này, mối quan hệ giữa Nhà nước và các nhóm được giao

đất, thông qua đất đai, được điều chỉnh bằng pháp luật hành chính, với quyền

lợi và trách nhiệm của người giao và người nhận đất được quy định cụ thể

theo luật đất đai. Giao khoán, hay còn gọi là khoán, là việc các tổ chức của

Nhà nước, được Nhà nước giao đất như các công ty lâm nghiệp hoặc các Ban

quản lý tiến hành việc khoán đất rừng sản xuất cho các hộ gia đình và cá nhân

với mục đích sản xuất (ví dụ trồng rừng kinh tế), hoặc khoán rừng phòng hộ

cho các hộ gia đình, cá nhân với mục đích bảo vệ. Cơ chế khoán đất và/hoặc

rừng thể hiện mối quan hệ giữa công ty lâm nghiệp (hoặc Ban quản lý) và

người dân, thông qua đất đai, rừng, được điều chỉnh bằng mối quan hệ dân sự,

trong đó Nhà nước chỉ đóng vai trò tạo khung pháp luật điều chỉnh mối quan

hệ và hành vi giữa bên giao khoán và bên nhận khoán.Theo Nhà nước thực

hiện giao đất cho hộ gia đình và cá nhân (sau đây được gọi chung là hộ) sẽ

giúp hộ tiếp cận tốt hơn đối với đất đai. Theo cách lập luận này, khi các hộ

được nhận đất và các quyền sử dụng đất lâu dài hộsẽ có động lực để đầu tư

phát triển và bảo vệ rừng, tạo cơ hội nâng cao sinh kế và ổn định cuộc sống,

từ bỏ canh tác nương rẫy. Theo cách nghĩ này, khi sinh kế các hộ được cải

thiện hộ sẽ có điều kiện tiếp tục thực hiện đầu tư vào phát triển và bảo vệ

rừng, cải thiện môi trường sinh thái.Hình 2.2 thể hiện mục tiêu của giao đất

cho hộ gia đình.

41

Mục tiêu của chính sách giao đất, giao rừng tại tỉnh Quảng Nam

Giao đất, giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân

Tăng cường tính trách nhiệm của hộ với rừng

Tăng cường phát triển vốn rừng

Hình 2.2. Sơ đồ mục tiêu giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân

Cải thiện sinh kế hộ

Áp dụng hình thức định canh, định cư

Tăng cường việc bảo vệ tài nguyên rừng

Nguồn: Bổ sung từ nguồn của Castella và cộng sự năm 2006

Số liệu trong bảng 2.1, hình 2.1 tính đến hết ngày 31 tháng 12 năm

2018, tổng diện tích đất lâm nghiệp đã giao cho các hộ gia đình và cá nhân là

116.259,92ha, trong đó đất rừng sản xuất chiếm 69,5%, đất rừng phòng hộ

chiếm 29,8%, còn lại là đất rừng đặc dụng. Diện tích rừng tự nhiên được giao

cho hộ tương đối lớn, chiếm 53% trong tổng lượng đất có rừng được giao cho

hộ gia đình. Tuy nhiên cho đến nay, hầu hết các hộ đều chưa được hưởng lợi

từ diện tích rừng này. Kết quả này cho thấy rằng trên 70% diện tích rừng tự

nhiên được giao cho hộ là rừng nghèo, do vậy hạn chế về tiềm năngkinh tế mà

rừng có thể đem lại cho hộ. Bên cạnh đó, quyền của hộ được giao đất là rừng

tự nhiên rất hạn chế: so sánh một cách tương đối, các quyền sử dụng rừng của

hộ đối với rừng tự nhiên chưa bằng một nửa so với các quyền được giao cho

42

hộ đối với đất sản xuất nông nghiệp và đất trồng rừng. Điều này có nghĩa rằng

có 2 loại hình thể chế được áp dụng đối với các hộ nhận đất rừng trên đó có

rừng tự nhiên là rừng sản xuất. Thứ nhất là pháp luật đất đai, điều chỉnh mối

quan hệ, bao gồm cả trách nhiệm và quyền lợi của bên giao đất (Nhà nước) và

bên nhận đất (hộ) thông qua đất đai, và Luật Lâm nghiệp năm 2017 điều

chỉnh mối quan hệ giữa 2 bên thông qua rừng tự nhiên là rừng sản xuất. Luật

Đất đai cho phép hộ nhận đất được chuyển nhượng quyền sử dụng đất, được

cho thuê quyền sử dụng đất, có quyền thực hiện thừa kế, tặng quyền sử dụng,

được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, đối với

rừng tự nhiên, được coi là tài sản ở trên đất, Luật Lâm nghiệp năm 2017không

cho phép việc thực hiện các quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê, quyền

cho tặng đối với các quyền sử dụng rừng được giao cho hộ gia đình. Bên cạnh

đó, các quyền cho, tặng, thế chấp đối với rừng nói chung và rừng tự nhiên nói

riêng lại hết sức hạn chế. Bảng 2.2 so sách các quyền của hộ gia đình đối với

đất đai và rừng sản xuất, bao gồm cả rừng tự nhiên và rừng trồng.

43

Bảng 2.2. Phạm vi các quyền của hộ đối với 3 loại rừng theo cơ chế giao và khoán

Các loại Rừng sản xuất là rừng Rừng sản xuất là rừng Rừng phòng hộ Rừng đặc dụng quyền tự nhiên trồng

Hạn chế, nếu rừng được

hình thành từngân sách Quyền Hạn chế, được Ban quản Hạn chế, được Ban quản Hạn chế, được công ty nhà nước. Không hạn chế, quản lý lý nắm giữ lý nắm giữ lâm nghiệp nắm giữ nếu rừng được hình thành

do vốn của chính hộ

Thu hái sản Hạn chế, nhưng dễdàng Hạn chế, mức độ cao hơn phẩmphụ Được phép Được phép hơn so với rừng đặc dụng so với rừng phòng hộ trong rừng

Một số trường hợp được Được cấp giấy chứng Giấy chứng Không được cấp, chỉlà Không được cấp, chỉlà cấp, nhưng các quyền nhận, với 5 quyền đầy đủ nhậnquyền hợp đồng khoán với Ban hợp đồng khoán với Ban của hộ đối với đất và của hộ như Luật đất đai sử dụng đất quản lý quản lý rừng hạn chế quy định

Được phép Quyền Hạn chế, chỉ chuyển Hạn chế, chỉ chuyển Hạn chế, chỉ chuyển

44

Các loại Rừng sản xuất là rừng Rừng sản xuất là rừng Rừng phòng hộ Rừng đặc dụng quyền tự nhiên trồng

chuyển nhượng hợp đồng khoán nhượng hợp đồng khoán nhượng hợp đồng khoán

nhượng khi có sự đồng ý của bên khi có sự đồng ý của bên khi có sự đồng ý của bên

giao khoán và chính giao khoán và chính quyền giao khoán và chính

quyền địa phương địa phương quyền địa phương

Được quy định cụthể Thời hạn trong giấy chứngnhận sử của Theo hợp đồng khoán Theo hợp đồng khoán 50 năm dụng đất, thông thường cácquyền 20-50 năm

Hạn chế, chỉ cho phép Hạn chế, chỉ cho phép Hạn chế, chỉ cho phép giữa Hạn chế, chỉ cho phép giữa Quyền trao giữa các hộ cùng vùng cư giữa các hộcùng vùng cư các hộcùng vùng cư trú các hộcùng vùng cư trú đổi trú trú

Được phép, giới hạn trong Quyền cho Không được phép Không được phép Không được phép 3 năm thuê

Quyền đem Không được phép Không được phép Không được phép Giới hạn, chỉ được tặng

45

Rừng sản xuất là rừng Rừng sản xuất là rừng Các loại Rừng phòng hộ Rừng đặc dụng tự nhiên trồng quyền

cho các tổ chức Nhà nước tặng

và cộng đồng

Chỉ được phép đối với Quyền thế Không được phép Không được phép lượng gỗ gia tăng do hộ Được phép chấp thực hiện bảo vệ rừng

Hạn chế, chỉ được phép Hạn chế, chỉ được phép

Quyền thừa khi bên giao khoán và khi bên giao khoán và Được phép Được phép kế chính quyền địa phương chính quyền địa phương

đồng ý đồng ý

Hạn chế, chỉ áp dụng đối Đầu tư vào Không được phép Không được phép với phần trữlượng gỗ gia Được phép đất rừng tăng do đầu tư của hộ

46

Sự khác nhau trong các quy định pháp lý quy định quyền lợi của hộ đối

với đất rừng sản xuất và quyền lợi của hộ đối với rừng sản xuất là rừng tự

nhiên làm hạn chế việc thực hiện các quyền của hộ. Điều này chỉ ra tính phức

tạp trong quản lý và sử dụng đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên ở Việt Nam.

2.2.3. Kết quả giao rừng tại tỉnh Quảng Nam

2.2.3.1. Tiến trình thực hiện giao đất rừng cho hộ gia đình, cá nhân

Theo Nghị định 156/2018 quy định chi tiết một số điều Luật Lâm

nghiệp, tiến trình giao đất bắt đầu bằng việc hộ gia đình viết đơn xin nhận đất,

trong đó ghi rõ diện tích đất mà hộ cần nhận, địa điểm đất trên thực địa, tình

trạng thảm thực vật trên đất (ví dụ đất trống đồi núi trọc hay đất có rừng, loại

rừng cụ thể). Trước khi đơn được gửi lên UBND huyện, đơn cần có sự xác

nhận của Chủ tịch UBND xã. Cùng với đơn xin nhận đất, hộ còn phải nộp bản

kế hoạch sử dụng đất, trong đó chỉ ra kế hoạch sử dụng đất của hộ trong

khoảng thời gian 5 năm sau khi nhận đất. Cũng giống như đơn xin nhận đất,

bản kế hoạch sử dụng đất của hộ phải có xác nhận của trưởng thôn và Chủ

tịch UBND xã. Trong những trường hợp cần thiết, UBND xã có thể thành lập

Hội đồng giao đất cấp xã, với sự tham gia của đại diện các tổ chức như Hội

Nông dân, Cựu Chiến binh cấp xã. Dựa trên đơn xin nhận đất và kế hoạch sử

dụng đất của hộ, Chủ tịch UBND huyện ban hành quyết định giao đất cho hộ.

Quyết định này xác định các quyền và nghĩa vụ của hộ đối với đất được giao.

Sau khi Quyết định được ban hành, UBND huyện ra quyết định thành lập tổ

công tác về giao đất với các thành viên của tổ là đại diện của các cơ quan

chuyên môn cấp huyện như hạt kiểm lâm huyện, phòng TN&MT... Tổ công

tác cũng có sự tham gia của UBND xã. Quá trình giao đất tại thực địa có sự

tham gia của đại diện thôn với vai trò quan sát viên. Trước khi thực hiện các

tác nghiệp tại thực địa, tổ công tác tiến hành các cuộc họp về giao đất tại xã

và thôn nhằm phổ biến các nội dung và kiến thức có liên quan đến giao đất

47

cũng như tiến trình các bước sẽ tiến hành tại địa phương.Quy trình đầy đủ của

việc giao đất, giao rừng bao gồm các bước chính sau:

• Bước 1. Chuẩn bị, bao gồm việc thành lập ban chỉ đạo, tổ công tác

giao đất cấp huyện, thành lập hội đồng giao đất cấp xã

• Bước 2.Đánh giá hiện trạng rừng và đất rừng

• Bước 3. Xây dựng kế hoạch sử dụng đất và phương án giao đất cấp xã

• Bước 4. Lập kế hoạch giao đất tại thực địa

• Bước 5. Giao đất tại thực địa

• Bước 6. Hoàn thiện hồ sơ địa chính

• Bước 7. Thẩm định, phê duyệt, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Cách thức tiến hành giao đất trên thực địa có vai trò quyết định đến

hiệu quả của công tác giao đất và sử dụng đất của hộ sau giao. Một số nghiên

cứu đã chỉ ra rằng việc thực hiệnchính sách tại một số địa phương khác xa so

với tiến trình được quy định trong chính sách.

Các bước tiến hành theo quy định trên trong nhiều trường hợp không

được tuân thủ, Tổ công tác giao đất, giao rừng thường bỏ qua một số bước

trong quy định nhằm tiết kiệm thời gian và kinh phí. Cụ thể, đôi khi các cuộc

họp tại các thôn và xã thường không được tiến hành theo yêu cầu mà bị cắt

ngắn hoặc bỏ qua; tại nhiều nơi, các cuộc họp này không có sự tham gia đầy

đủ của các ban ngành có liên quan; giao đất thiếu bản đồ hoặc có bản đồ

nhưng bản đồ không cập nhật tình trạng rừng và đất tại thời điểm giao đất;

giao đất bỏ qua một số hoạt động ngoại nghiệp khi giao đất.

Việc đẩy mạnh công tác giao rừng, thuê rừng cho các tổ chức, cá nhân,

hộ gia đình và cộng đồng dân cư nhằm đảm bảo rừng có chủ thực sự phù hợp

với chủ trương của Đảng. Giao đất giao rừng cho hộ gia đình và cộng đồng là

xu hướng hiện nay trong quản lý rừng ở nhiều nước trên thế giới, phù hợp với

quy luật tất yếu, khách quan trong quản lý tài nguyên rừng. Công tác giao

48

rừng, thuê rừng có sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Tỉnh Ủy, UBND tỉnh

Quảng Nam và lãnh đạo các cấp chính quyền địa phương.

Thông qua chính sách giao đất giao rừng người dân đã quan tâm nhiều

hơn về công tác quản lý bảo vệ rừng, thường xuyên tổ chức kiểm tra, tuần tra

trên diện tích rừng và đất rừng được giao, phát hiện, ngăn chặn và phản ánh

kịp thời các tác động tiêu cực đến tài nguyên rừng, tình trạng phá rừng trái

phép không xảy ra, tình trạng khai thác, vận chuyển lâm sản trái phép trên

diện tích rừng và đất rừng đã giao cho cộng đồng đã được hạn chế. Hiệu quả

công tác quản lý bảo vệ rừng của người dân trên diện tích rừng được giao

ngày càng tốt hơn, tài nguyên rừng đã được bảo vệ phát triển tốt.

Chính sách giao đất giao rừng đã góp phần tăng thu nhập nâng cao đời

sống của người dân, các hộ gia đình và cộng đồng đã được hưởng lợi từ

nguồn kinh phí chi trả dịch vụ môi trường rừng qua các năm bình quân mỗi

hộ thu nhập tăng hơn 11 triệu đồng so với năm trước đó.Rừng được bảo vệ tốt

hơn, nhận thức của các cấp chính quyền và người dân địa phương về công tác

quản lý bảo vệ rừng, phát triển rừng được nâng lên rõ rệt, thay đổi quan niệm

bảo vệ rừng, phát triển rừng là việc của các cơ quan Nhà nước như lâm

trường, kiểm lâm, mà việc bảo vệ rừng, phát triển rừng là sự nghiệp của toàn

dân. Đất rừng được sử dụng hiệu quả hơn, diện tích rừng có tăng lên thông

qua các hoạt động hỗ trợ hoạt động của dự án KfW10 và Viện nghiên cứu

phát triển (CODE)

Rừng đã có chủ thật sự, thông qua các hoạt động hỗ trợ sau giao đất

giao rừng đã góp phần đẩy mạnh công tác xã hội hóa nghề rừng, huy động các

nguồn lực là các hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư buôn làng tham

gia bảo vệ diện tích rừng hiện có, phát huy tối đa lợi thế của rừng, sử dụng

tiềm năng lao động ở địa phương để bảo vệ rừng gắn với phát triển bền vững

tài nguyên rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần phát triển kinh tế xã

49

hội, cải thiện đời sống người dân miền núi, xây dựng nông thôn mới.

UBND tỉnh ban hành Quyết định số 120/QĐ-UBND ngày 11/01/2017

về phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tỉnh

giai đoạn 2011 - 2020, thành lập thêm một số ban quản lý rừng phòng hộ.

Điều này làm cho diện tích rừng có chủ tăng lên.

Ví dụ: Ngày 25 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện

Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý

số: 01/2019/HS-ST ngày 07 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra

xét xử số: 01/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Tháng 9 năm 2017, cán bộ Ban quản lý Dự án KFW10 phát hiện tại

Tiểu khu 646 (thuộc thôn 4, xã H) có 4 khu vực rừng thuộc quản lý của dự án

bị phát trái phép để làm nương rẫy. Quá trình khám nghiệm hiện trường, đã

xác định: Khu rẫy 01 thuộc Khoảnh 3, 4 Tiểu khu 646, diện tích rừng bị thiệt

hại 12.627m2, lâm sản thiệt hại 6,765m3 gỗ từ nhóm V đến nhóm VTI. Khu

rẫy 02 thuộc Khoảnh 4 Tiểu khu 646, có diện tích 18.175m2, lâm sản thiệt hại

20,437m3 gỗ nhóm V đến nhóm VII. Khu rẫy 03 thuộc Khoảnh 4 Tiểu khu

646, có diện tích 16.500m2, lâm sản thiệt hại 17,265m3 gỗ nhóm V đến nhóm

VII. Khu rẫy 04 thuộc Khoảnh 4 Tiểu khu 646, có diện tích 18.340m2, lâm

sản thiệt hại 26,510m3 gỗ nhóm III đến nhóm VII.

Quá trình điều tra, xác định: Từ khoảng tháng 3 đến tháng 6 năm 2016,

Hồ Văn H vào Tiểu khu 646 dùng rựa phát dọc theo Khe Dứa được 03 tấm

rẫy (khám nghiệm hiện trường xác định là Khu rẫy 01, khu rẫy 02 và khu rẫy

03) nhưng mới phát thực bì, chưa cưa hạ những cây gỗ lớn. Đến khoảng tháng

5/2017, Hồ Văn H mượn cưa máy của người đàn ông tên T4 (không rõ lai

lịch, là người khai thác gỗ trái phép ở khu vực này) cưa hạ những cây gỗ lớn

trên diện tích 03 tấm rẫy đã phát. Vì trời mưa nhiều nên H không đốt được

rẫy, đến tháng 9/2017 bị cán bộ dự án KFW10 phát hiện, yêu cầu dừng các

50

hành vi tác động vào khu vực rừng đã phát.

Ba khu rẫy do Hồ Văn H phát có tổng diện tích rừng bị thiệt hại là

47.302m2 đều nằm trong Tiểu khu 646, khối lượng lâm sản thiệt hại là

44,467m3 gỗ từ nhóm V đến nhóm VII. Quyết định số: 120/QĐ-UBND ngày

11/01/2017 của UBND tỉnh Quảng Nam về phê duyệt, điều chỉnh, bổ sung

quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011- 2020,

thì Tiểu khu 646 xã Phước Hiệp được quy hoạch là rừng sản xuất, kiểu trạng

thái rừng gỗ tự nhiên núi đất LRTX nghèo (TXN). Khu vực này thuộc Dự án

KfW10 huyện Phước Sơn quản lý.

Kết luận định giá tài sản số: 11/KL-ĐG ngày 05/6/2018 của Hội đồng

định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phước Sơn xác định: Giá trị lâm

sản bị thiệt hại (44,467m3 gỗ) là 30.063.500 đồng, giá trị thiệt hại về môi

trường là 90.190.500 đồng.

Số gỗ vật chứng của vụ án (44,467m3), do đã mục, không còn giá trị sử

dụng nên Cơ quan chức năng không thu gom mà tiến hành cắt nhỏ, bỏ tại hiện

trường.

Con dao rựa dùng để phát rẫy, Hồ Văn H khai để ở trại rẫy tại Tiểu khu

646, Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không có kết quả.

Ngoài ra, vào khoảng tháng 5/2017, Hồ Văn H, Lê Thị T1 (vợ H) và

Nguyễn Thị T2 (con của T1) dùng rựa đi phát thực bì cho Lê Thị K (sinh năm

1996, trú: Thôn 4, xã H) được 01 tấm rẫy (khám nghiệm hiện trường xác định

là khu rẫy có diện tích 18.340m2, lâm sản thiệt hại 26,510m3 gỗ nhóm III đến

nhóm VII), với tiền công 170.000 đồng/ngày/người. Một người phát được 09

- 10 ngày công, việc Lê Thị K cùng với ai cưa hạ những cây gỗ lớn 03 người

không biết. Do không đủ tiền trả công nên Lê Thị K cho H, T1 và T2 canh tác

vụ đầu trên rẫy này. Gia đình Hồ Văn H đã đốt và trồng lúa. Ngày 28/8/2017,

Lê Thị K bị bệnh, chết.

51

Tại bản Cáo trạng số: 16/CT-VKS ngày 06 tháng 8 năm 2018 và Công

văn số: 03/VKS-HS ngày 02/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện

Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam V/v giữ nguyên Cáo trạng truy tố đã truy tố bị

cáo Hồ Văn H về tội “Hủy hoại rừng” theo điểm đ khoản 2 Điều 243 Bộ luật

Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố

và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như:

Phạm tội lần đầu chưa có tiền án tiền sự, là người dân tộc thiểu số trình độ

học vấn thấp nên sự nhận thức về pháp luật còn hạn chế, gia đình bị cáo khó

khăn thuộc hộ nghèo, vợ không có việc làm thường xuyên đau ốm, con còn

nhỏ nhưng đã khắc phục một phần hậu quả. Đề nghị áp dụng đ khoản 2 Điều

243; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự

xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian

thử thách cho phù hợp.

Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584; Điều 589 Bộ luật Dân sự

buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại về gỗ và môi trường cho Ban quản lý Dự

án KFW10.

* Giao đất và sinh kế hộ

Một trong những mục tiêu cơ bản của giao đất là cải thiện sinh kế hộ.

Báo cáo phân tích 3 khía cạnh chính có liên quan đến sinh kế của hộ, bao gồm

(i) thu nhập của hộ từ nguồn đấtrừng được giao cho hộ và tiếp cận của hộ đối

với đất đaivà các quyền với đất và rừng; (ii) công bằng trong thu nhập giữa

các hộ trong cùng một cộng đồng và giữa các hộ khác nhauvề thành phần dân

tộc (iii) thực thi các quyền đi kèm với đất được giao cho hộ và (iv) mâuthuẫn

đất đai do giao đất mang lại.

Thu nhập và tiếp cận với đất đai của hộ: Tại Quảng Nam, giao đất,

giao rừng đã tạo điều kiện cho các hộ gia đình, cộng đồng tham gia vào công

52

tácquản lý rừng và làm chủ các khu rừng, được hưởng lợi từ rừng, góp phần

cải thiện sinh kế,giúp cho người dân xóa đói giảm nghèo. Tại một số địa bàn

thuộc Quảng Nam, thực hiện giao đất, giao rừng đã tạo được nguồn thu trực

tiếp cho hộ gia đình thông qua nguồngỗ được khai thác từ rừng tự nhiên và

đầu tư của các hộ vào đất rừng.Thực thi các quyền trên đất được giaođất,

giao rừng kỳ vọng sẽ tạo ra sự chuyển biến tích cực về kinh tế, môi trường

và xã hội của vùngcao, đặc biệt là những vùng quê nghèo. Tuy nhiên ở nhiều

nơi sau khi giao đất được thựchiện, nhiều hộ gia đình được nhận đất nhưng

lại không có điều kiện đầu tư vào đất đai dovậy không được hưởng lợi từ

giao đất giao rừng. Nói cách khác, các quyền được giao cho hộkhông chuyển

được thành lợi ích kinh tế. Điều này có nghĩa rằng giao đất, giao rừng đã

không đạt mụctiêu đề ra, ở tại một số ít địa phương.

Tại một thôn người Dao của tỉnhQuảng Nam, do hạn chế về nguồn lực để

đầutư vào đất những hộ gia đình nghèo đã chuyểnnhượng một phần hoặc toàn bộ

diện tích đất được giao của mình cho các hộ khá giả trongcùng cộng đồng

hoặc cho những người bên ngoài cộng đồng. Điều này đã làm xuất hiện

thịtrường đất đai (xem chi tiết ở phần phía dưới), tuy nhiên cũng làm cho các

hộ nghèo khôngcòn đất canh tác. Giao đất, giao rừng với mục đích tạo ra sự

rõ ràng trong hưởng lợi và sử dụng đất đã phần nào làm ảnh hưởng tiêucực

đến các quyền truyền thống của cộng đồng.

Những phân tích trên đây đã chỉ ra rằng giao đất, giao rừng tác động

đến sinh kế hộ theo cách khác nhau.Tại một số địa phương của tỉnh Quảng

Nam, giao đất, giao rừng đã góp phần cải thiện sinh kế cho hộ nhận đất. Ở

một số nơikhác, giao đất, giao rừng gây ra những bất lợi cho các hộ nghèodo

các hộ này hạn chế về lao động hoặcdo hạn chế tạo ra bởi thiết chế truyền

thống của cộng đồng đối với những người mới nhậpcư. Giao đất, giao rừng

được thực hiện trong điều kiện đặc thù về kinh tế, văn hóa xã hội và chính trị

53

củatừng địa phương và các yếu tố đặc thù này góp phần không nhỏ trong việc

hình thànhkếtquả của chính sách. Phần tiếp theo sẽ thảo luận về tác động của

giao đất đối với độ che phủvà chất lượng rừng.

Công tác giao đất cho cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam đã thu được một sốkết quả đáng khích lệ. Huy động được nguồn vốn,

lao động của các cá nhân, hộ gia đình, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,

tạo nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp nông, lâm sản phát triển.Đảm

bảo cho tổ chức, hộ gia đình yên tâm đầu tư sản xuất. Góp phần sử dụnghiệu

quả tiềm năng về đất đai, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp

phầnxóa đói giảm nghèo, ổn định trật tự xã hội.

- Toàn bộ diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp đã được giao đất, cho

thuê đất vàcấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi được giao và cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các tổ chức, hộ gia đình cánhân yên tâm

đầu tư quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Thông qua việc giao đất lâmnghiệp

đất được quy chủ, người dân được thực hiện nhận khoán bảo vệ rừng, thực

hiệnchính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã hạn chế được tình trạng

cháy rừng, phárừng, khai thác rừng trái phép, rừng được bảo vệ tốt hơn.

2.2.4. Một số hạn chế, bất cập về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình

tại tỉnh Quảng Nam

- Công tác giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp chưa gắn với công tác giao

rừng, cho thuê rừng. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam mặc dù đã giao và

cho thuê đất rừng nhưng chưa tiến hành giao rừng, cho thuê rừng. Điều này

dẫn đến chưa đủ cơ sở pháp lý cho chủ rừng trong các hoạt động sử dụng

rừng, hưởng lợi từ rừng, khiếu kiện khi rừng bị xâm hại…

- Việc thực hiện giao khoán đất lâm nghiệp được thực hiện chủ yếu theo

Quyết định 1119/QĐ-UBND của UBND tỉnh Quảng Nam; Nghị định

số135/2005/NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định số 21/QĐ-UBND của

54

UBND tỉnh Quảng Nam và Chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc

(Chương trình 327) và Dự án trồng 5 triệu ha rừng (Dự án 661) đều chung

mục tiêu là tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa,

vùng đặc biệt khó khăn được hưởng lợi từ rừng, đồng thời mang lại hiệu quả

kinh tế-xã hội và môi trường. Trong giai đoạn này, trình độ xây dựng bản đồ

chưa phát triển vì vậy, các hồ sơ giao khoán rừng, đất lâm nghiệp toàn bộ là

dạng sơ đồ, không gắn tọa độ địa lý nên công tác quản lý gặp rất nhiều khó

khăn. Những diện tích này chưa được cập nhật lên bản đồ số.

- Chủ rừng không phát huy được vai trò trong công tác quản lý bảo vệ

rừng đối với những diện tích giao khoán đất lâm nghiệp do đa số các hộ nhận

khoán đất lâm nghiệp tự bỏ vốn trồng, chăm sóc, bảo vệ và hưởng lợi rừng trồng

trong khi chủ rừng thực sự là các đơn vị giao khoán lại không được hưởng lợi

ích gì, điều này dẫn đến thực trạng chủ rừng chỉ tồn tại trên danh nghĩa.

* Những bất cập trong cơ chế chính sách và pháp luật.

- Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 và Luật Lâm nghiệp 2017

đã bộc lộ những hạn chế trong ngăn chặn tình trạng phá rừng, suy giảm chất

lượng rừng tự nhiên, lấn chiếm đất; sản xuất lâm nghiệp bị chia cắt, thiếu liên

kết, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp; công nghiệp chế biến lâm sản trong

nước vẫn chủ yếu quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng suất, giá trị gia tăng

thấp; đóng góp của ngành lâm nghiệp trong nền kinh tế, thu nhập của người

làm nghề rừng thấp...Luật Lâm nghiệp năm 2017 đã có nhưng hướng hoàn

thiện gắn với những bất cập trong quy định trước đây.

Quyền hưởng lợi trực tiếp từ rừng của người dân chưa có, chỉ được

hưởng lợi gián tiếp từ cung ứng dịch vụ môi trường rừng và hỗ trợ từ các dự

án. Chính sách hưởng lợi theo quy định khó thực hiện, đối tượng rừng giao cho

người dân chủ yếu là rừng nghèo kiệt, phần lớn các hộ gia đình nhận đất, nhận

rừng là hộ nghèo, không có khả năng tự đầu tư trên diện tích được giao, việc

55

được hưởng lợi về khai thác gỗ từ lượng tăng trưởng của rừng thì phải cần một

thời gian khá dài để cho rừng tăng trưởng, do đó, người nhận rừng chưa có

được nhiều lợi ích từ khi nhận rừng, nhưng phải tốn công để quản lý bảo vệ.

(i) Hộ gia đình và cộng đồng chưa được chính sách đề cập như là một

đối tượng ưu tiên trong giao đất, giao rừng. Thông tư 38/2007/TT-BNN về

hướng dẫn trình tự thủ tục giao đất, giao rừng, đối tượng là các tổ chức (tổ

chức Nhà nước, tổ chức kinh tế) thì họ được chủ động tiếp cận dễ dàng thông

tin về quỹ đất rừng chưa giao, được hướng dẫn, tiếp cận và làm thủ tục hồ sơ

xin giao đất giao rừng (khoản 6 - mục II). Trong khi đó, hộ gia đình và cộng

đồng là đối tượng ưu tiên nhưng họ không được chủ động tiếp cận đểgiao đất,

giao rừng, làm chậm quá trình triển khai và giảm khả năng được giao đất,

giao rừng của hộ gia đình và cộng đồng. Cụ thể: Hộ gia đình và cộng đồng

không được biết thông tin quỹ đất rừng chưa giao để chủ động làm đơn xin

giao đất, giao rừng; Hộ gia đình và cộng đồng muốn được giao đất, giao rừng

phải chờ kế hoạch của huyện, của xã theo từng đợt; Cấp huyện, cấp xã lại chờ

kế hoạch kinh phí cấp trên hoặc chờ huy động được sự hỗ trợ của các dự án…

(ii) Quy định hướng dẫn giải quyết tồn tại của công tác giao đất, giao

rừng trước đây theo Thông tư Liên tịch 07/2011/TTLT-BNN-BTNMT chưa

đủ điều kiện để tổ chức thực hiện: giao đất, giao rừng trước đây là giao trên

giấy tờ và bản đồ, quan liêu, bỏ qua khâu thị sát thực địa đã gây ra giao chồng

chéo, giao chồng lấn, dẫn đến một miếng đất có hơn một chủ, chưa phân định

ranh giới, sai lệch diện tích. Do vậy việc giải quyết những tồn tại về chồng

chéo, chồng lấn lại chưa được đề cập tại Thông tư liên tịch 07/2011/TTLT-

BNN-BTNMT.

(iii) Chính sách hưởng lợi từ giao đất, giao rừng còn quá nhiều vướng

mắc. Các quy định trong các văn bản chung chung, chưa rõ ràng, ví dụ: sản

phẩm chính/sản phẩm phụ, tỉa thưa/cây phụ trợ, cơ chế phân chia lợi nhuận từ

56

rừng. Có những quy định không thể thực hiện đuợc, ví dụ đánh giá trữ lượng

rừng để cho phép khai thác: ai đánh giá, bộ tiêu chí đánh giá ở đâu. Với hộ

nông dân và cộng đồng thì ai đánh giá? Có quy định không thống nhất về khai

thác gỗ gia dụng giữa QĐ 178/2001/QĐ-TTg (quy định cơ chế hưởng lợi) và

QĐ 186/2006/QĐ-TTg (quy định quy chế quản lý rừng). Thủ tục phức tạp,

vướng mắc, chính sách hưởng lợi nhưng thực tế là không thể thực hiện được

(iv) Một số chính sách liên quan đến hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào

dân tộc miền núi chưa có sự liên kết lồng ghép với chính sách giao đất, giao

rừng. Chẳng hạn chính sách bồi thường hỗ trợ đất sản xuất khi thu hồi đất và

tái định cư cho các hộ vùng miền núi (như dự án thủy điện) chưa coi rừng và

đất lâm nghiệp là nguồn sinh kế cơ bản của hộ gia đình và cộng đồng, mà chỉ

tập trung cấp đất sản xuất nông nghiệp (đất ruộng lúa, đất màu, nuôi trồng

thủy sản); rất ít dự án chuẩn bị phương án giao đất giao rừng.

Chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho hộ đồng bào nghèo thiếu đất như

Quyết định 132/2002/QĐ-TTg, Quyết định 134/2004/QĐ-TTg, Quyết định

1592/QĐ-TTg cũng chỉ có quy định cấp đất sản xuất nông nghiệp. Mới đây,

trong Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Quyết định 755/QĐ-TTg năm

2013 của Thủ tướng Chính phủ mới bổ sung hỗ trợ đất rừng sản xuất. Các

chương trình khuyến lâm cũng chưa lồng nghép hỗ trợ cho hộ và cộng đồng

sau giao đất, giao rừng như hướng dẫn trồng xen cây nông nghiệp hoặc hướng

dẫn canh tác nông lâm kết hợp trong vùng đất rừng được giao mà quá trình tổ

chức giao đất, giao rừng chưa thực hiện.

* Bất cập trong tổ chức quản lý, bảo vệ rừng và sử dụng đất sau khi giao

- Quyền hưởng lợi hiện hành chưa khuyến khích được người dân tích

cực tham gia thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ rừng trên diện tích được

giao, có nhiều hộ dân trả lại diện tích rừng, đất rừng được giao, không muốn

tiếp tục quản lý bảo vệ.Hộ gia đình, cá nhân nhận rừng không được Nhà nước

57

hỗ trợ tiền để quản lý bảo vệ trên diện tích được giao đối với diện tích không

nằm trong lưu vực các công trình thủy điện được hưởng chính sách chi trả

dịch vụ môi trường rừng.

- Việc kiểm tra, đôn đốc của chính quyền địa phương, cơ quan chức

năng về thực hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng của các hộ dân đã được giao

rừng chưa được chú trọng. Việc thực hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng của

các hộ dân trên diện tích được giao chưa được chủ động.

- Một số chủ thể đã được Nhà nước giao rừng, thuê rừng chưa thực sự

hiểu các quyền và nghĩa vụ, còn thiếu tinh thần trách nhiệm trên diện tích

được giao, thậm chí có một số hộ có dấu hiệu chuyển nhượng, cho thuê lại

rừng và đất rừng trái phép; phá rừng trái phép hoặc để cho người khác vào

diện tích được giao để phá rừng trái phép.

* Những vấn đề tồn tại, bất cập của công tác tổ chức thực hiện chính

sách liên quan đến giao đất, giao rừng

- Các cấp, các ngành liên quan chưa thực sự quan tâm tổ chức công tác

giao đất, giao rừng, đặc biệt đối với hộ và cộng đồng: giao đất, giao rừng cho

hộ gia đình và cộng đồng có ý nghĩa rất lớn đối với sinh kế, văn hóa xã hội

của đồng bào dân tộc thiểu số và ổn định xã hội, an ninh quốc phòng. Trên

thực tế, nhiều địa phương chưa thực sự quan tâm triển khai công tác giao đất,

giao rừng cho các đối tượng này, mặc dù quỹ đất rừng chưa giao còn lại khá

lớn. Quảng Nam là vùng sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số nhưng

kết quả giao đất, giao rừng cho hộ và cộng đồng rất thấp, chưa đến 3% diện

tích đất lâm nghiệp. Việc chưa quan tâm giao đất, giao rừng của các cấp địa

phương thể hiện: (i) Không bố trí kế hoạch ngân sách hàng năm cho hoạt

động này; (ii) giao đất, giao rừng cho hộ gia đình và cộng đồng phức tạp (dễ

gây thắc mắc khó giải quyết), mất nhiều thời gian nên thường viện dẫn nhiều

lý do để né tránh, chưa giao (sợ giao xong người dân sẽ bán, sợ người dân

58

không bảo vệ được rừng…)… Do vậy, tiến độ tổ chức thực hiện giao đất, giao

rừng diễn ra rất chậm. Thực tiễn triển khai chủ trương, chính sách giao đất,

giao rừng từ trước đến nay cho thấy, kết quả giao đất, giao rừng chủ yếu thực

hiện theo Nghị định 02/1994/NĐ-CP, Nghị định 163/1999/NĐ-CP. Từ sau

Luật Đất đai 2013 và Luật bảo vệ và phát triển rừng2004, nhất là từ 2014 đến

nay thực hiện không đáng kể. Theo tổng kết Đề án giao đất, giao rừng năm

2007 của Bộ NN&PTNT (Đề án theo Quyết định 2740/QĐ-BNN-KL), từ

2014 đến nay công tác giao đất, giao rừng mới chỉ thực hiện chưa đến 1% so

với kế hoạch [12].

Công tác giao đất, giao rừng thiếu nguyên tắc nhất quán và không theo

một hệ thống qua các thời kỳ, chưa có sự phối hợp hiệu quả giữa ngành Tài

nguyên & Môi trường và ngành Lâm nghiệp. Tổ chức giao đất, giao rừng có

giai đoạn do ngành Kiểm lâm chủ trì, có giai đoạn lại do ngành Tài nguyên &

Môi trường chủ trì. Hệ thống cơ sở dữ liệu, bản đồ không thống nhất giữa hai

ngành này. Cho đến nay, ngành Tài nguyên & Môi trường và ngành Lâm

nghiệp vẫn chưa thống nhất được các chỉ tiêu thống kê, kiểm kê đất lâm

nghiệp, mỗi ngành có hệ thống chỉ tiêu thống kê, kiểm kê khác nhau, dẫn đến

tình trạng số liệu thống kê, kiểm kê đất lâm nghiệp giữa ngành Tài nguyên &

Môi trường và ngành Lâm nghiệp còn chênh lệch khá lớn. Việc chuyển đổi hồ

sơ (bản đồ, bảng biểu) từ ngành Lâm nghiệp sang hồ sơ giao đất theo quy

định của ngành Tài nguyên & Môi trường rất phức tạp, thiếu logic, mất rất

nhiều thời gian… Hậu quả của việc tổ chức giao đất, giao rừng không thống

nhất, không đồng bộ và việc triển khai thực hiện theo phong trào, giao nhanh

theo kế hoạch, chủ yếu thực hiện trên bản đồ/giấy tờ đã để lại nhiều tồn tại,

tình trạng tranh chấp quyền quản lý sử dụng, quyền khai thác lâm sản giữa

các chủ rừng. Công tác giao đất, giao rừng mới chỉ thực hiện công đoạn giao

đất mà hầu như chưa thực hiện công tác giao rừng (đánh giá đặc điểm rừng),

59

đặc biệt là tình trạng giao chồng chéo quyền sử dụng đất (có nhiều hơn một

chủ quản lý trên cùng một diện tích đất/rừng, hoặc một phần diện tích) và

chưa xác định ranh giới trên thực địa… Những tồn tại của công tác giao đất,

giao rừng trước đây không chỉ xảy ra đơn lẻ ở một vài địa phương mà là tình

trạng phổ biến trên cả nước, dẫn đến tình trạng diện tích rừng có chủ thực sự

rất thấp; rừng chưa được bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả. Vì vậy, mặc

dùđược giao đất, giao rừng nhưng hộ gia đình, cộng đồng chưa được đảm bảo

quyền quản lý, chưa phát huy vai trò làm chủ của mình và chưa đảm bảo điều

kiện (chưa có căn cứ về diện tích và trữ lượng rừng khi giao/khoán) để thực

hiện chính sách hưởng lợi từ rừng. Mặt khác, việc chưa đảm bảo quyền chủ

đất, chủ rừng đang là rào cản rất lớn để thực hiện chính sách chi trả dịch vụ

môi trường rừng theo Thông tư 22/2017/TT-BNNPTNT ngày 15 tháng 11

năm 2017 về hướng dẫn một số nội dung thực hiện chính sách chi trả dịch vụ

môi trường rừng [13].

Giao đất, giao rừng chưa có sự tham gia của người dân địa phương: Sự

tham gia của người dân địa phương vào quá trình triển khai giao đất, giao

rừng có ý nghĩa rất lớn nhằm đạt được sự đồng thuận của các chủ rừng liền

kề, tránh tranh chấp mâu thuẫn và cùng phối hợp một cách có hiệu quả trong

công tác bảo vệ rừng sau giao đất, giao rừng. Nhận thức được vấn đề này,

trong phần nguyên tắc giao đất, giao rừng tại Thông tư 38/2007 đã quy định

“Việc giao, cho thuê rừng, thu hồi rừng phải có sự tham gia của người dân địa

phương và công bố công khai”. Thực tế, chỉ trừ một số dự án thí điểm và dự

án hỗ trợ của các tổ chức phát triển là tôn trọng sự tham gia của người dân,

còn lại hầu hết khi tổ chức giao đất, giao rừng chưa có sự tham gia của người

dân địa phương, đặc biệt là khi giao đất, giao rừng cho các tổ chức mà ranh

giới lại chồng chéo và chồng lấn với diện tích đất và rừng mà ở đó người dân

đang canh tác và sinh sống nhưng thực chất lại thuộc quyền pháp lý bằng văn

60

bản của các tổ chức Nông lâm trường và các Công ty do việc giao trên giấy

tờ, quan liêu.

Loại rừng, đất rừng giao cho hộ và cộng đồng chưa phù hợp:

(i) Đối với hộ nghèo: Vị trí rừng giao cho hộ/cộng đồng ở quá xa khu

dân cư hoặc không thuận tiện hướng đi sản xuất hàng ngày, hoặc rừng giao

cho hộ thường là rừng nghèo kiệt phải mất thời gian dài mới phục hồi được

rừng để được hưởng lợi (nhưng hưởng lợi quá thấp và rất khó thực hiện).

Trong khi đó họ cần có thu nhập trước mắt nên không quản lý bảo vệ được

rừng, có hộ từ khi nhận rừng chưa lần nào đến thăm rừng tạo cơ hội cho lâm

tặc phá rừng);

(ii) Đối với cộng đồng: Một số nơi giao rừng tự nhiên cho cộng đồng

không phải là rừng gắn với tập quán văn hóa truyền thống (rừng tâm linh, rừng

bảo vệ nguồn nước…), hưởng lợi từ rừng chưa có/hoặc không đủ chi trả công

tác bảo vệ, hoặc hết thời hạn hỗ trợ của dự án nên gặp khó khăn để tiếp tục duy

trì công tác quản lý bảo vệ rừng tại nhiều cộng đồng ở tỉnh Quảng Nam.

Một nhược điểm nữa là các ngành chức năng chưa kiểm tra giám sát

chặt chẽ công tác quản lý bảo vệ rừng. Thực tế ở một số địa phương diễn ra

tình trạng chuyển đổi rừng tùy tiện giữa rừng phòng hộ, rừng đặc dụng sang

rừng sản xuất và ngược lại vì lợi ích trước mắt không tuân thủ tiêu chí phân

loại rừng, nhưng không có kiểm tra giám sát chặt chẽ. Tình trạng này dẫn đến

rừng không được quản lý bảo vệ, bị mất do chuyển mục đích sử dụng hoặc

không còn đảm bảo chức năng phòng hộ, bảo vệ môi trường. Các hoạt động

quy hoạch theo ngành, theo vùng đã cản trở công tác giao đất, giao rừng .

61

Kết luận chương 2

Thực tế cho thấy rằng chính sách giao đất - rừng lâu dài cho hộ đã phát

huy được tính hiệu quả trong sử dụng đất vào bảo vệ rừng. Nhiều hộ gia đình

đã phát huy tính chủ động sau khi nhận đất, tiến hành thực hiện các hoạt động

đầu tư trồng rừng, từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho hộ, góp phần trực

tiếp làm tăng độ che phủ rừng. Chương 2 của luận văn đã làm rõ hơn các quy

định về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo Luật Lâm nghiệp năm 2017.

Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật giao rừng cho cá nhân, hộ gia

đình theo Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam từ năm 2014 đến hết năm 2018. Qua đó đề tài đã rút ra được những kết

quả, hạn chế trong công tác giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn

tỉnh Quảng Nam trong thời gian nghiên cứu, là cơ sở để đề xuất các giải pháp

tại chương 3.

62

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO RỪNG CHO CÁ

NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI

TẠI TỈNH QUẢNG NAM

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia

đình

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm lợi ích

đối với chủ rừng

Thực hiện mục tiêu bảo vệ và phát triển rừngbằng phương thức giao

khoán phải đi liền với lợi ích mà các chủ rừng được hưởng. Nhà nước cần

xem xét đến vấn đề lợi ích của chủ rừng, khuyến khích các hoạt động có lợi

cho công tác giao khoán rừng đồng thời đem lại lợi ích cho các chủ rừng như:

khai thác tài nguyên rừng theo hướng du lịch sinh thái…bởi khai thác được

theo hướng này chủ rừng vẫn có được nguồn thu để đảm bảo cuộc sống, trang

trải những khoản đầu tư cho rừng khi chưa thu lại được lợi nhuận từ việc khai

thác rừng. Khi đã giảm được áp lực về kinh tế các chủ rừng sẽ có điều kiện

thuận lợi hơn để thực hiện việc bảo vệ và phát triển rừng. Phải xác định được

những lợi ích mà chủ rừng được hưởng để có phương án hỗ trợ, với những khu

rừng mà tiềm năng chưa lớn, Nhà nước cần tạo điều kiện cho chủ rừng có thêm

các nguồn thu, được đầu tư vốn, kiến thức…phục vụ cho sản xuất.

Văn bản pháp luật hiện hành của nước ta cũng đã có những quy định cụ

thể về các chính sách ưu đãi cho chủ rừng. Tuy nhiên, cần có những quy định

rõ ràng cụ thể hơn nữa để đảm bảo quyền lợi của các chủ rừng, điều này tạo

tiền đề tốt để các chủ rừng thấy được lợi ích từ công tác giao khoán rừng, có

được lợi ích từ công tác này mới có thể khuyến khích họ yêu rừng, tâm huyết

với nghề. Nhà nước nên có quy định sau khi chủ rừng tiếp nhận, sản xuất,

63

chăm sóc, bảo vệ rừng trong thời gian bao lâu thì được khai thác. Trong thời

gian chưa được khai thác Nhà nước sẽ hỗ trợ về vốn, thuế, phí… để chủ rừng

đảm bảo duy trì các hoạt động bình thường.

Đối tượng áp dụng là các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng

đồng dân cư thôn có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phát

triển rừng theo quy định tại điều 2 Nghị định số 75/2015/NĐ-CP. Việt Nam

đang đẩy mạnh triển khai nghiên cứu và áp dụng những hệ thống, thiết bị ứng

dụng công nghệ thông minh trong bảo vệ và phát triển rừng.

Hiện nay, thu nhập thấp, đời sống khó khăn dẫn đến việc tiếp cận khoa

học công nghệ của người làm lâm nghiệp còn nhiều hạn chế. Người dân vẫn

chủ yếu trồng và sản xuất theo phương thức truyền thống. Việc áp dụng công

nghệ cao vào công tác bảo vệ và phát triển rừng chưa thực sự được triển khai

rộng rãi.Luật Lâm nghiệp đã được Quốc hội khóa XIV thông qua, gồm các

chính sách khuyến khích phát triển khoa học công nghệ trong lĩnh vực giống

cây trồng, sinh học, chế biến gỗ… “Với các chính sách, quy định cụ thể dưới

luật sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao

tiến bộ về khoa học công nghệ trong lâm nghiệp thời gian tới”. Tập trung vào

nghiên cứu các lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn của Ngành Lâm nghiệp để tạo

ra các sản phẩm đột phá, như: công nghệ giống và công nghệ sinh học, công

nghệ gen tạo ra các giống cây lâm nghiệp tăng trưởng nhanh, chống chịu với

môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; nghiên cứu tạo ra các vật liệu mới

trong chế biến gỗ và lâm sản.

Xây dựng cơ sở dữ liệu, phát triển các phần mềm ngành Lâm nghiệp

ứng dụng trí tuệ nhân tạo phục vụ cho công tác quản lý, giám sát, theo dõi

diễn biễn tài nguyên rừng; truy xuất nguồn gốc xuất xứ gỗ.

Thứ hai, việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp phải gắn với công tác

giao rừng, cho thuê rừng

64

Mặc dù Luật Lâm nghiệp 2017 đã có những quy định về việc gắn kết

một cách thống nhất giữa việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp với việc giao

rừng, cho thuê rừng (Điều 14 khoản 5 khoản 6)nhưng cần có những quy định

hướng dẫn thi hành nhằm bảo đảm tính thống nhất này trong quá trình thực

thi, đặc biệt là giải quyết những tồn đọng, nhược điểm của hoạt động giao đất

và giao rừng không thống nhất trước đây. Đối với diện tích đất lâm nghiệp có

rừng đã cho thuê hoặc giao cho các tổ chức nhưng chưa giao rừng, cho thuê

rừng; Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với Sở Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn thống nhất về hồ sơ, thủ tục, trình UBND tỉnh quyết định

việc giao rừng, cho thuê rừng, xác định rõ trách nhiệm, quyền lợi của chủ

rừng để việc quản lý bảo vệ, phát triển rừng đi vào ổn định, đúng pháp luật.

Kể từ nay việc giao, cho thuê đất lâm nghiệp có rừng phải gắn với việc giao

rừng, cho thuê rừng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 07/2011 /TTLT-

BNNPTNT-BTNMT ngày 29-01-2011 của Bộ Nông nghiệp & PTNT và Bộ

Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn một số nội dung về giao rừng, thuê

rừng gắn liền với giao đất, thuê đất lâm nghiệp.

Thứ năm, giải quyết những tồn tại về chồng chéo, chồng lấn lại chưa

được đề cập tại Thông tư liên tịch 07/2011/TTLT-BNN-BTNMT.

Quy định hướng dẫn giải quyết tồn tại của công tác giao đất, giao rừng

trước đây theo Thông tư Liên tịch 07/2011/TTLT-BNN-BTNMT chưa đủ

điều kiện để tổ chức thực hiện: giao đất, giao rừng trước đây là giao trên giấy

tờ và bản đồ, quan liêu, bỏ qua khâu thị sát thực địa đã gây ra giao chồng

chéo, giao chồng lấn, dẫn đến một miếng đất có hơn một chủ, chưa phân định

ranh giới, sai lệch diện tích. Do vậy việc giải quyết những tồn tại về chồng

chéo, chồng lấn lại chưa được đề cập tại Thông tư liên tịch 07/2011/TTLT-

BNN-BTNMT.

Thông tin về giao rừng tự nhiên trên giấy chứng nhận của hộ gia đình

65

vẫn không được thể hiện cụ thể trên giấy chứng nhận để chủ rừng biết, mà

“chi tiết thông tin về rừng theo hồ sơ giao rừng, thuê rừng số... được lưu tại cơ

quan Kiểm lâm cấp huyện” (có nghĩa là khi muốn biết thông tin về rừng thì

chủrừng phải lên đến kiểm lâm cấp huyện). Như vậy khi lập kế hoạch quản lý

rừng, phươngán khai thác rừng hộ gia đình không có dữ liệu cơ sở lập mà

phải lên đến huyện (khôngbiết phải làm những thủ tục nào để xin được số liệu

này?). Ở đây thể hiện rõ ràng quanđiểm rừng là tài nguyên của Nhà nước,

không phải tài sản của người được giao quyềnsử dụng.Nhà nước quy định hộ

gia đình chỉ được hưởng giá trị quyền sử dụng rừng tăng thêm trên phần diện

tích được giao, nhưng trong thực tiễn không xác định giá trị quyền sử dụng

rừng tại thời điểm được giao rừng và giá trị quyền sử dụng rừng tăng thêm.

Nhà nước giao đất sản xuất cho hộ gia đình thì đất được giao được coi

là tài sản của hộ, nhưng rừng tự nhiên được giao cho hộ thì không phải là tài

sản của hộ (vì quyền sử dụng rừng rất hạn chế như đã phân tích trên), vì vậy

họ không có thái độ làm chủ đối với tài sản đó (và không được hưởng lợi bao

nhiêu từ tài sản đó), họ rất ít quan tâm đến giá trị của tài sản và giá trị sinh lợi,

khác hẳn với đất sản xuất nông nghiệp được giao.

Thứ sáu, cần có sự lồng ghép giữa chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho

đồng bào dân tộc miền núi với chính sách giao đất, giao rừng.

Nhận thức tầm quan trọng của tài nguyên rừng và quỹ đất lâm nghiệp

đối với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và

phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với

đời sống, dân sinh của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó, Đảng

bộ, chính quyền của tỉnh qua các thời kỳ luôn bám sát chủ trương chính sách

của Đảng, quy định pháp luật của Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng, về

quản lý sử dụng đất lâm nghiệp.Trong thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ

đạo thực hiện các chính sách hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là

66

hỗ trợ về đất đai. Đồng thời, tiếp tục đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng tại

vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa nhằm nâng cao hơn nữa

đời sống vật chất và tinh thần, đảm bảo đồng bào dân tộc thiểu số có cuộc

sống ổn định, thoát khỏi nghèo khó vươn lên làm giàu. Tỉnh cũng tiếp tục huy

động các nguồn lực và lồng ghép các chương trình, dự án để nâng cao hiệu

quả công tác bảo vệ rừng; nhân rộng mô hình Quản lý, sử dụng kinh phí giao

khoán bảo vệ rừng để thực hiện mô hình sinh kế bền vững cho đồng bào dân

tộc thiểu số. Cùng với đó, hỗ trợ xây dựng các mô hình trồng cây ăn trái, phát

triển chăn nuôi dưới tán rừng để người dân phát triển kinh tế kết hợp với bảo

vệ rừng. Ngoài ra, đẩy mạnh tuyên truyền Luật Bảo vệ và Phát triển rừng đến

người dân, đặc biệt là các hộ dân nhận khoán bảo vệ rừng. Đồng thời, tăng

cường công tác phối hợp giữa các cấp, ngành, chính quyền địa phương, chủ

rừng trong việc tuần tra, truy quét, ngăn chặn các hành vi vi phạm.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả về giao rừng cho cá nhân, hộ gia

đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

3.2.1. Nâng cao chất lượng và tổ chức triển khai thực hiện quy

hoạch, kế hoạch và các đề án, dự án bảo vệ và phát triển rừng; tăng cường

hiệu lực quản lýNhà nước đối với quy hoạch

- Triển khai thực hiện quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng theo hướng

tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, sử dụng bền vững diện tích rừng hiện có

và tăng diện tích rừng sản xuất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Khai thác

hợp lý và sử dụng có hiệu quả tiềm năng đất đai.

- Xây dựng các quy hoạch sản phẩm chủ yếu, các đề án, dự án phát

triển rừng nhằm thực hiện tốt tái cơ cấu ngành: i) Nâng cao giá trị sử dụng

rừng thông qua việc cải thiện chất lượng giống để tăng năng suất và chất

lượng rừng. Triển khai chính sách dịch vụ môi trường rừng và cải thiện sinh

kế cho người dân bảo vệ rừng; ii) Phát triển các loài lâm sản ngoài gỗ, dược

67

liệu dưới tán rừng; iii) Khuyến khích đầu tư công nghệ chế biến sâu.

- Tăng cường kiểm soát các quy hoạch có tác động đến diện tích rừng

tự nhiên, kiểm tra, giám sát các dự án có chuyển đổi mục đích sử dụng rừng,

trồng rừng thay thế.

- Tổ chức sắp xếp lại các tổ chức quản lý rừng trên cơ sở kết quả rà soát,

đánh giá lại quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, phân định rõ từng diện tích, ổn

định của các khu rừng phòng hộ, đặc dụng và các vùng nguyên liệu rừng trồng.

- Xây dựng thí điểm các mô hình trồng rừng bằng các giống cây trồng

mới có năng suất cao; tổ chức đánh giá, đưa vào áp dụng trong công tác phát

triển rừng.

3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và

đề cao trách nhiệm cán bộ, đảng viên, của cá nhân, hộ gia đình được giao

rừng

Tổ chức thực hiện thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ biến các

chính sách của Nhà nước về giao đất, giao rừng, quyền lợi và nghĩa vụ đối với

chủ rừng sau khi được giao đất, rừng... đến mọi người dân, cộng đồng địa

phương, các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội trên địa bàn.

UBND các huyện, thị xã, phối hợp với các Sở, ngành, đơn vị liên quan

xây dựng chương trình, kế hoạch và nội dung phổ biến cụ thể, phù hợp với

từng nhóm đối tượng và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Đảm bảo 100% người

đứng đầu chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức, cơ quan chuyên môn

nhận thức đầy đủ về vai trò, trách nhiệm của mình và nắm chắc các chủ

trương, chính sách về giao, cho thuê đất gắn với giao, cho thuê rừng. Cơ bản

các hộ dân sống gần rừng, trong rừng được tuyên truyền, tiếp cận và hiểu biết

các chủ trương, chính sách về công tác giao đất, giao rừng.

Hoạt động đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao năng lực chú trọng các nội

dung sau: Tổ chức tập huấn, phổ biến các chủ trương, chính sách về giao đất,

68

giao rừng cho cán bộ chính quyền cấp xã, cán bộ thôn xóm, bình quân mỗi

huyện 2 lớp/năm.Tổ chức học tập kinh nghiệm về công tác kiểm tra, giám sát

giao đất, giao rừng cho cán bộ cấp huyện, xã (10 đợt/10 huyện).Tổ chức phổ

biến chủ trương, chính sách về công tác giao đất, giao rừng trên đài phát

thanh, truyền hình tỉnh, huyện, phát thanh các xã (đối với cấp xã 02 lần/tháng,

trong thời gian thực hiện đề án).

3.2.3. Tập trung các nguồn lực để triển khai thực hiện có hiệu quả

các đề án, dự án, cơ chế, chính sách quản lý, bảo vệ và phát triển rừng gắn

với các chính sách hỗ trợ người dân miền núi ổn định cuộc sống

Triển khai thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách mới ban hành

về bảo vệ và phát triển rừng: Nghị định số 147/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung

một số điều của Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ

về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng; Nghị định số 75/2015/NĐ-CP

ngày 09/9/2015 của Chính phủ về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển

rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân

tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; Nghị quyết

số 05-NQ/TU ngày 17/8/2016 của Tỉnh uỷ Quảng Nam về phát triển kinh tế -

xã hội miền núi gắn với định hướng thực hiện một số dự án lớn tại vùng Tây

tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025; Nghị

quyết số 202/2016/NQ-HĐND ngày 26/4/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh

Quảng Nam về Cơ chế khuyến khích bảo tồn và phát triển một số cây dược

liệu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2016 - 2020; Đề án nâng cao

năng lực phòng cháy, chữa cháy rừng tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016 -

2020... Tăng cường đầu tư ngân sách của Nhà nước đảm bảo đáp ứng nhu cầu

vốn cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ

theo các quy hoạch, kế hoạch, đề án và dự án đã được phê duyệt.Tiếp tục xây

dựng cơ chế khuyến khích, hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh để thúc đẩy phát

69

triển dược liệu, lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng, trồng rừng thâm canh giống

mới, gỗ lớn theo hướng huy động các nguồn vốn đầu tư từ mọi thành phần

kinh tế, vốn vay, vốn tự có của các doanh nghiệp, chủ rừng.

Duy trì hợp tác, phối hợp với các Trường Đại học, Viện, Trung tâm

nghiên cứu trong nước và các Tổ chức quốc tế để tranh thủ các nguồn vốn đầu

tư trong các hoạt động đào tạo nâng cao năng lực, nghiên cứu chuyển giao các

loại giống cây trồng lâm nghiệp, dược liệu, lâm sản ngoài gỗ và công tác bảo

tồn đa dạng sinh học, cải thiện sinh kế, phát triển cộng đồng trên địa bàn tỉnh.

Triển khai ký kết hợp tác bảo vệ rừng vùng biên giới tỉnh Quảng Nam với

tỉnh Sê Kông (Lào) nhằm tăng cường trao đổi thông tin, bảo đảm công tác

quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và quản lý lâm sản hiệu quả, chặt chẽ.

3.2.4. Tăng cường ứng dụng kỹ thuật, công nghệ trong giao đất, rừng

Ưu tiên đầu tư kinh phí cho việc mua sắm các trang thiết bị hiện đại để

nâng cao chất lượng, độ chính xác trong việc đo đạc bản đồ, đánh giá tài

nguyên. Ứng dụng khoa học công nghệ, khai thác sử dụng các phần mềm

chuyên dùng vào công tác kiểm tra, giám sát chất lượng giao đất, giao rừng và

phục vụ công tác quản lý hồ sơ dữ liệu.Đào tạo, tập huấn tăng cường năng lực

cho cán bộ địa chính, lâm nghiệp cấp huyện, xã nhằm đảm bảo khả năng tham

mưu, thẩm định, kiểm tra, giám sát trong quá trình tổ chức thực hiện.

3.2.5. Xây dựng hệ thống dữ liệu và quản lý hồ sơ giao đất, giao rừng

Toàn bộ hồ sơ giao đất, giao rừng phải được thiết lập, cập nhật vào cơ

sở dữ liệu của cấp tỉnh, huyện, xã.

- Cấp tỉnh: Giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp và

PTNT (Chi cục Kiểm lâm) lưu trữ hồ sơ, tài liệu về giao đất, giao rừng và cập

nhật diễn biến về giao đất, giao rừng hàng năm, cụ thể:Văn phòng Đăng ký

quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, Chi cục Kiểm lâm

thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT: Lưu trữ bản đồ giao đất giao rừng, sổ mục

70

kê, biểu tổng hợp (bản số và giấy).

- Cấp huyện: Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất: Lưu trữ toàn bộ

hồ sơ giao đất, giao rừng (bản gốc).Hạt Kiểm lâm: Lưu trữ bản đồ giao đất,

giao rừng (bản số và giấy); sổ mục kê, biểu tổng hợp (bản gốc).

- Cấp xã: Lưu trữ hồ sơ, bản đồ giao đất, giao rừng (bản giấy và số), sổ

mục kê, biểu tổng hợp (bản gốc).

3.2.6. Hoàn thiện quy định trình tự, thủ tục giao đất, giao rừng, cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các địa phương, đơn vị liên quan

thực hiện thuận lợi

* Xây dựng Kế hoạch, Phương án giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp

- Xây dựng Kế hoạch giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp UBND cấp

huyện phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp và PTNT,

rà soát những diện tích quy hoạch giao, cho thuê đến cá nhân, hộ gia đình,

cộng đồng dân cư, xây dựng kế hoạch giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp,

trình UBND tỉnh phê duyệt.

- Xây dựng Phương án giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp

+ Cấp tỉnh: Sở Nông nghiệp và PTNT chủ trì phối hợp Sở Tài nguyên

và Môi trường và các Sở, Ngành liên quan tham mưu UBND tỉnh xây dựng

Đề án giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp đối với đối tượng là các tổ chức,

người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân nước ngoài, trình HĐND tỉnh

thông qua để làm cơ sở triển khai thực hiện.

+ Cấp xã: Trên cơ sở kế hoạch giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp

cấp huyện, UBND các xã rà soát, xác định quỹ rừng, đất lâm nghiệp có thể

giao, gồm: diện tích do các hộ gia đình đang quản lý sử dụng nhưng chưa

được giao; diện tích hiện do UBND cấp xã quản lý và diện tích dự kiến thu

hồi từ các chủ rừng Nhà nước để giao, cho thuê đến cá nhân, hộ gia đình; xây

dựng phương án giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp, trình HĐND cấp xã

71

thông qua, trình UBND cấp huyện phê duyệt. Đối với giao rừng cho cộng

đồng dân cư, phải xây dựng phương án riêng cho từng cộng đồng.

+ Phòng Tài nguyên và Môi trường, phòng Nông nghiệp và PTNT và

Hạt Kiểm lâm cấp huyện tham mưu UBND cấp huyện phê duyệt phương án

giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp cấp xã.

+ Trên cơ sở các phương án giao đất, giao rừng của từng xã đã được

phê duyệt, UBND cấp huyện tổng hợp phần diện tích dự kiến thu hồi của các

chủ rừng Nhà nước trên địa bàn huyện (nếu có), báo cáo Sở Tài nguyên và

Môi trường, Sở Nông nghiệp và PTNT để tham mưu UBND tỉnh quyết định

thu hồi đất, rừng của các đơn vị, chuyển về địa phương nhằm thực hiện

phương án giao đất, giao rừng của các xã đã được phê duyệt.

* Trình tự thủ tục giao rừng, thuê rừng gắn với giao đất, thuê đất lâm

nghiệp theo Văn bản số 03/VBHN-BNNPTNT ngày 09/01/2017 của Bộ Nông

nghiệp và PTNT, gồm 4 bước:

Trình tự, thủ tục giao rừng, cho thuê rừng cho hộ gia đình, cá nhân và

giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn

Bước 1: Nộp hồ sơ và tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ đề nghị giao rừng, cho

thuê rừng

- Hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn nộp trực tiếp hoặc qua

đường bưu điện 01 bộ hồ sơ đề nghị giao rừng, cho thuê rừng tại UBND cấp

xã, hồ sơ gồm:

+ Đối với hộ gia đình, cá nhân: Đề nghị giao rừng (Phụ lục 01 ban hành

kèm theo Thông tư số 20/2016/TT-BNNPTNT); hoặc đề nghị cho thuê rừng

(Phụ lục 02 ban hành kèm theo Thông tư số 20/2016/TT-BNNPTNT), kế

hoạch sử dụng rừng (Phụ lục 03 ban hành kèm theo Thông tư số 20/2016/TT-

BNNPTNT).

+ Đối với cộng đồng dân cư thôn: Đề nghị giao rừng (Phụ lục 04 ban

72

hành kèm theo Thông tư số 20/2016/TT-BNNPTNT); kế hoạch quản lý khu

rừng và biên bản cuộc họp cộng đồng dân cư thôn thống nhất đề nghị giao rừng.

- UBND cấp xã có trách nhiệm:

+ Tiếp nhận hồ sơ đề nghị giao rừng, cho thuê rừng; viết giấy xác nhận

thành phần hồ sơ tiếp nhận và hẹn ngày trả kết quả.

+ Xem xét đề nghị giao rừng, cho thuê rừng của hộ gia đình, cá nhân,

cộng đồng dân cư thôn; kiểm tra thực địa (vị trí, ranh giới, tranh chấp) khu

rừng theo đề nghị của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn đảm bảo

các điều kiện, căn cứ giao rừng theo quy định của pháp luật.

+ Xác nhận và chuyển đề nghị giao rừng, cho thuê rừng của hộ gia

đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn đến UBND cấp huyện.

Thời gian thực hiện Bước 1 không quá 10 (mười) ngày làm việc kể từ

khi UBND cấp xã nhận được hồ sơ đề nghị giao rừng, cho thuê rừng của hộ

gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn.

Bước 2: Thẩm định và xác định hiện trạng rừng

Hạt Kiểm lâm cấp huyện hoặc cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp

huyện ởnơi không có Hạt Kiểm lâm tiếp nhận hồ sơ đề nghị giao rừng, cho thuê

rừng của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn do UBND cấp xã

chuyển đến, có trách nhiệm:

- Thẩm định về hồ sơ đề nghị giao rừng, cho thuê rừng của hộ gia đình,

cá nhân, cộng đồng dân cư thôn.

- Phối hợp với UBND cấp xã tổ chức xác định và đánh giá hiện trạng khu

rừng tại thực địa. Kết quả kiểm tra và đánh giá hiện trạng phải lập thành biên bản

xác định rõ vị trí, ranh giới, diện tích, hiện trạng, trữ lượng, bản đồ khu rừng, có

xác nhận và ký tên của đại diện UBND cấp xã, các chủ rừng liền kề.

- Trình UBND cấp huyện xem xét, quyết định giao rừng, cho thuê rừng

cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn. Thời gian thực hiện Bước 2

73

không quá 20 (hai mươi) ngày làm việc.

Bước 3: Quyết định giao rừng, cho thuê rừng

Sau khi nhận được hồ sơ giao rừng, cho thuê rừng do Hạt Kiểm lâm

cấp huyện hoặc cơ quan chuyên môn cấp huyện trình, UBND cấp huyện xem

xét, quyết định giao rừng, cho thuê rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng

dân cư thôn theo mẫu Quyết định tại Phụ lục 4 Thông tư số 38/2007/TT-BNN

ngày 25/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn trình tự,

thủ tục giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng cho tổ chức, hộ gia đình, cá

nhân và cộng đồng dân cư thôn (sau đây viết tắt là Thông tư số 38/2007/TT-

BNN); ký Hợp đồng cho thuê rừng đối với trường hợp thuê rừng (Phụ lục 5

Thông tư số 38/2007/TT-BNN). Thời gian thực hiện Bước 3 không quá 03

(ba) ngày làm việc.

Bước 4: Bàn giao rừng

Sau khi nhận được Quyết định giao, cho thuê rừng của UBND cấp

huyện, Hạt Kiểm lâm cấp huyện hoặc cơ quan chuyên môn cấp huyện phối

hợp với UBND cấp xã tổ chức bàn giao rừng tại thực địa cho hộ gia đình, cá

nhân, cộng đồng dân cư thôn.

Việc bàn giao phải xác định rõ vị trí, ranh giới, diện tích, hiện trạng, trữ

lượng, bản đồ khu rừng được giao và lập thành biên bản, có ký tên của đại

diện UBND cấp xã, đại diện các chủ rừng liền kề theo mẫu Biên bản tại Phụ

lục 5 và 6 Thông tư số 38/2007/TT-BNN.

Thời gian thực hiện Bước 4 không quá 03 (ba) ngày làm việc. Trong

quá trình thực hiện các bước công việc nêu trên, nếu hộ gia đình, cá nhân,

cộng đồng dân cư thôn không đủ điều kiện được giao, được thuê rừng thì cơ

quan nhận hồ sơ phải trả lại hồ sơ cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư

thôn và thông báo rõ lý do không được giao, được thuê rừng.

74

Tiểu kết chương 3

Giao đất giao rừng là một chủ trương đúng đắn của đảng, Nhà nước,

phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, đáp ứng được nhu cầu của nhân

dân. Tỉnh Quảng Nam là một trong những địa phương triển khai thực hiện

sớm chính sách giao đất giao rừng trên cả nước. Quảng Nam đã chủ động

tham mưu, vận dụng và ban hành các văn bản hướng dẫn để triển khai thực

hiện chính sách giao đất giao rừng. Quá trình thực hiện bên cạnh những thành

tựu đạt được cũng có những bất cập, khó khăn của chính sách mà huyện khó

triển khai hoặc lúng túng khi thực hiện. Với các cơ sở lý luận tại chương 1 và

trên cơ sở đánh giá việc thực hiện giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam tại chương 2, trong đó đưa ra được kết quả, những tồn

tại, nội dung chương 3 đã chú trọng xây dựng được các giải pháp nhằm hoàn

thiện, khắc phục những hạn chế, tồn tại, tạo điều kiện để công tác giao rừng

cho cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam được thực hiện có hiệu

quả hơn.

75

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, Nhà nước ban hành chính sách với một số

lượng văn bản quy phạm pháp luật tăng rất lớn, phản ánh nỗ lực của Nhà

nước trong việc ban hành chính sách để giải quyết các vấn đề đặt ra liên quan

đến giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình. Các quy định của Nhà nước đã có

những tác động tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội. Và một trong những

chính sách đúng đắn đó là chính sách giao đất giao rừng. Chính sách này được

huyện Hòa Vang triển khai thực đến với các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức

bước đầu mang lại kết quả nhất định. Sự thành công đã góp phần đưa những

chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống thể hiện tính cộng

đồng đối với việc chăm sóc và bảo vệ rừng. Chính sách đã có tác động tích

cực đến việc định canh định cư cho đồng bào dân tộc miền núi, nâng cao kỹ

thuật trồng và chăm sóc các loại rừng, tăng thu nhập cho các hộ dân kích

thích phát triển sản xuất trên đất rừng, làm cho rừng có chủ thật sự. Đồng thời

góp phần thực hiện chính sách giảm nghèo, thay đổi bộ mặt nông thôn.

Vai trò của rừng và những tồn tại trong công tác bảo vệ và phát triển

rừng, những yêu cầu đặt ra phải bảo vệ và phát triển rừng trong xu thế thời đại

đòi hỏi phải khắc phục sớm nhất những tồn tại trong công tác bảo vệ và phát

triển rừng.

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Võ Mai Anh (2006), Vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước đối

với lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1983), Chỉ thị 29-CT/TW ngày

12/11/1983 về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng, xây dựng rừng và tổ

chức kinh doanh theo phương thức nông - lâm kết hợp

3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2017), Chỉ thị số 13-CT/TW ngày

12/01/2017 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản

lý, bảo vệ và phát triển rừng.

4. Báo cáo của Hội đồng dân tộc số 396/BC-HĐDT14 ngày 31/10/2017

về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về giao đất,

giao rừng cho cộng đồng dân cư và hộ gia đình vùng dân tộc thiểu số,

miền núi giai đoạn 2006 - 2016.

5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2001), Lâm Nghiệp Việt Nam

(1945-2000) - Quá trình phát triển và những bài học kinh nghiệm,Nxb

Nông nghiệp.

6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002), Văn bản quy phạm

pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), Khoa học công nghệ

nông nghiệp và phát triển nông thôn, 20 năm đổi mới, tập 5, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Báo cáo số 2387/BC-

BNN-KL ngày 11/8/2009 về báo cáo tình hình bảo vệ rừng, chống

người thi hành công vụ và các biện pháp cấp bách quản lý bảo vệ rừng

hiện nay.

9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Thông tư số

34/2009/TT-BNNPTNT, ngày 10/6/2009 quy định tiêu chí xác định và

phân loại rừng.

10. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Thông tư Liên tịch

07/2011/TTLT-BNN-BTNMT.

11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2016), Quyết định số

3158/QĐ-BNN-TCLN ngày 27/7/2016 về công bố hiện trạng rừng năm

2015.

12. Bộ NN&PTNT, (2016), Thông tư liên tịch số 93/2016/TTLT-BTC-

BNNPTNT ngày 27/6/2016 về hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng kinh

phí sự nghiệp thực hiện Nghị định số 75/2015/NĐ-CP của Chính phủ.

13. Bộ NN&PTNT, (2017), Thông tư 22/2017/TT-BNNPTNT ngày 15

tháng 11 năm 2017 về hướng dẫn một số nội dung thực hiện chính sách

chi trả dịch vụ môi trường rừng.

14. Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Nam (từ năm 2014 đến năm 2018), Báo

cáo tổng kết công tác năm.

15. Chính phủ (2006), Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 về thi

hành Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004.

16. Chính phủ (2007), Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007,

Quyết định phê duyệt chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai

đoạn 2006 - 2020.

17. Chính phủ (2009), Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 02/11/2009 về

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng

và quản lý lâm sản.

18. Chính phủ (2014), Quyết định số 218/QĐ-TTg ngày 07/02/2014 về phê

duyệt chiến lược quản lý hệ thống rừng đặc dụng, khu bảo tồn biển,

khu bảo tồn vùng nước nội địa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

19. Chính phủ (2015), Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 09/9/2015 về cơ

chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm

nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn

2015 - 2020.

20. Chính phủ (2016), Nghị định số 168/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016 quy

định về khoán rừng, vườn cây và diện tích mặt nước trong các Ban

quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và Công ty trách nhiệm hữu hạn

một thành viên nông, lâm nghiệp Nhà nước.

21. Chính phủ (2017), Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 08/8/2017 về ban

hành Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW ngày

12/01/2017 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản

lý, bảo vệ và phát triển rừng.

22. Chính phủ (2018), Nghị định 156/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Lâm

nghiệp năm 2017

23. Nguyễn Ngọc Dũng (2005), Hỏi và đáp về Luật Bảo vệ và phát triển

rừng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thư XXI (2015), Nghị quyết số 01-

NQ/ĐH ngày 27/11/2015 Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam

lần thứ XXI.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứm XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Hội đồng Bộ trưởng (1972), Pháp lệnh Bảo vệ rừng.

31. Hội đồng Bộ trưởng (1982), Quyết định ngày 6/11/1982 của Hội đồng

Bộ trưởng về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân

dân trồng cây, gây rừng.

32. Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam (2015), Nghị quyết số

168/2015/NQ-HĐND về khuyến khích bảo tồn và phát triển Sâm Ngọc

Linh và quy định cho thuê môi trường rừng để trồng Sâm Ngọc Linh.

33. Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam (2016), Nghị quyết số 44/NQ-

HĐND ngày 08/12/2016 về việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch bảo vệ

và phát triển rừng tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2011 - 2020.

34. Nguyễn Thanh Huyền (2005), Một số vấn đề cơ bản về pháp luật bảo

vệ rừng ở Việt nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh.

35. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1991), Luật Bảo

vệ và Phát triển rừng.

36. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật bảo

vệ và phát triển rừng năm 2004.

37. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật

hình sự Việt Nam.

39. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật Lâm

nghiệp năm 2017.

40. Lê Văn Quyến (2009), Thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển

rừng trên địa bàn tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sỹ luật học, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ chí Minh.

41 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam (2008), Báo cáo

số 1009/BC-NN&PTNT ngày 29/8/2008 báo cáo tình hình triển khai

thực hiện sắp sếp đổi mới và phát triển nông lâm trường quốc doanh.

42. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam (2008), Báo cáo

số 195/BC-NN&PTNT ngày 04/3/2010, về việc quản lý rừng và đất

rừng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

43. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam (2016), Báo

cáo số 245/QĐ-UBND ngày 27/9/2016 của về việc tình hình quản lý,

bảo vệ rừng vùng giáp ranh giữa các địa phương trong tỉnh và giữa

tỉnh Quảng Nam với các tỉnh, thành phố lân cận.

44. Tạp chí Kiểm lâm, số 1- năm 2010.

45. Phạm Hồng Thái (2008), Lý luận chung Nhà nước và Pháp luật, Nxb

giao thông vận tải năm.

46. Tỉnh uỷ Quảng Nam (2015), Báo cáo tổng kết năm 2010-2015

47. Tỉnh uỷ Quảng Nam (2015), Văn kiện đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần

thứ XXI.

48. Tỉnh ủy Quảng Nam (2016), Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 04/11/2016

về tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng và tài nguyên khoáng sản

trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020.

49. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 886/QĐ-TTg ngày

16/6/2017 về phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển Lâm nghiệp

bền vững giai đoạn 2016-2020.

50. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 626/QĐ-TTg ngày

10/5/2017 về phê duyệt Đề án tăng cường năng lực quản lý hệ thống

khu bảo tồn đến năm 2025, tầm nhìn 2030.

51. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 38/2016/QĐ-TTg ngày

14/9/2016 về ban hành một số chính sách BVPTR và đầu tư hỗ trợ kết

cấu hạ tầng, giao nhiệm vụ công ích đối với các công ty nông, lâm

nghiệp.

52. Trường Đại học luật Hà Nội (2005), Giáo trình lý luận chung Nhà nước

và pháp luật.

53. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa luật (2006), Giáo trình lý

luận chung Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.

54. Hà Công Tuấn (2006), Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực

bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

55. TS.Trần Hậu Thành, TS.Nguyễn Thế Thuấn (2006), Hỏi & đáp Nhà

nước và pháp luật, phần I, Nxb Lý luận chính trị Hà Nội.

56. GS.TS. Đào Trí Úc và PGS.TS. Phạm Hữu Nghị (đồng chủ biên)

(2009), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Từ

điển Bách khoa Hà Nội.

57. UBND tỉnh Quảng Nam (2014), Quyết định số 1628/QĐ-UBND ngày

09/6/2014 của UBND Quảng Nam về việc phê duyệt kết quả theo dõi

diễn biến rừng và đất lâm nghiệp tỉnh Quảng Nam năm 2013.

58. UBND tỉnh Quảng Nam (2015), Quyết định số 680/QĐ-UBND ngày

28/02/2015 của UBND Quảng Nam về việc phê duyệt kết quả theo dõi

diễn biến rừng và đất lâm nghiệp tỉnh Quảng Nam năm 2014.

59. UBND tỉnh Quảng Nam (2016), Quyết định số 271/QĐ-UBND ngày

25/01/2016 của UBND Quảng Nam về việc phê duyệt kết quả theo dõi

diễn biến rừng và đất lâm nghiệp tỉnh Quảng Nam năm 2015.

60. UBND tỉnh Quảng Nam (2009), Quyết định số 3079/2009/QĐ-UBND

ngày 08/10/2009 về việc ban hành quy định một số chính sách phát

triển rừng sản xuất trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

61. UBND tỉnh Quảng Nam (2017), Quyết định số 729/QĐ-UBND ngày

28/3/2017 của UBND Quảng Nam về việc phê duyệt kết quả theo dõi

diễn biến rừng và đất lâm nghiệp tỉnh Quảng Nam năm 2016.

62. UBND tỉnh Quảng Nam (2018), Quyết định số 41/QĐ-UBND ngày

11/1/2018 của UBND Quảng Nam về việc phê duyệt kết quả theo dõi

diễn biến rừng và đất lâm nghiệp tỉnh Quảng Nam năm 2017.

63 UBND tỉnh Quảng Nam (2017), Quyết định số 682/QĐ-UBND ngày

06/3/2017 của UBND Quảng Nam về việc ban hành chương trình hành

động tăng cường công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên địa

bàn tỉnh nhằm thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12/01/2017 của

Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày

04/11/2016 của Tỉnh ủy Quảng Nam khóa XXI.

64. UBND tỉnh Quảng Nam (2017), Quyết định số 120/QĐ-UBND ngày

11/01/2017 về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch bảo vệ và

phát triển rừng giai đoạn 2011-2020.

65. UBND tỉnh Quảng Nam (2018), Báo cáo kinh tế - xã hội tỉnh Quảng

Nam.

66. UBND tỉnh Quảng Nam (2018), Báo cáo kết quả thực hiện Chương

trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

67. UBND tỉnh Quảng Nam (2018), Báo cáo kết quả phát triển công

nghiệp - Khu công nghiệp tỉnh Quảng Nam.

68. Vụ Khoa học - kỹ thuật - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

(1994), Thuật ngữ lâm nghiệp, Nxb Hà Nội.

69. Lê Thị Xuân (2012), Phát triển rừng tại huyện Đông Giang, tỉnh

Quảng Nam, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học kinh tế Đà Nẵng.