BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

------

TRẦN THANH THUẬN

NGHIÊN CỨU HỆ SỐ AN TOÀN VỐN VÀ

KHẢ NĂNG ÁP DỤNG BASEL III TẠI CÁC

NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

------

TRẦN THANH THUẬN

NGHIÊN CỨU HỆ SỐ AN TOÀN VỐN VÀ

KHẢ NĂNG ÁP DỤNG BASEL III TẠI CÁC

NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

(Hướng ứng dụng)

Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :

TS. LÊ ĐẠT CHÍ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả nghiên cứu xin cam đoạn luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu hệ số an toàn

vốn và khả năng áp dụng Basel III tại các ngân hàng TMCP Việt Nam” là kết quả

nghiên cứu của tác giả dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Lê Đạt Chí – Giảng viên

Trường Đại học Kinh tế Thành phố HỒ Chí Minh.

TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019

Tác giả

Trần Thanh Thuận

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC HÌNH

TÓM TẮT

ABSTRACT

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ................................. 1

1.1 Lý do chọn đề tài ............................................................................................1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................2

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................2

1.4 Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................2

CHƯƠNG 2: LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BASEL VÀ CÁC NGHIÊN CỨU

TRƯỚC ...................................................................................................................... 3

2.1 Những thay đổi của Basel từ Basel I đến Basel III ........................................3

2.2 Các nghiên cứu về việc áp dụng Basel III tại các nước trên thế giới ............9

2.3 Các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hệ số an toàn vốn tại các nước

trên thế giới ...........................................................................................................13

CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ TÁC

ĐỘNG ĐẾN HỆ SỐ CAR CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM ................................ 16

3.1 Dữ liệu nghiên cứu .......................................................................................16

3.2 Mô hình nghiên cứu .....................................................................................16

3.3 Xây dựng giả thuyết nghiên cứu ..................................................................17

3.4 Kết quả nghiên cứu và thảo luận ..................................................................20

CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BASEL TẠI VIỆT NAM VÀ KHẢ

NĂNG ÁP DỤNG BASEL III ................................................................................ 26

4.1 Thực trạng áp dụng Basel tại Việt Nam .......................................................26

4.2 So sánh tiêu chuẩn an toàn vốn theo Basel III và thông tư tại Việt Nam ....30

CHƯƠNG 5: KHÓ KHĂN, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ................................ 35

5.1 Khó khăn khi triển khai hiệp ước Basel .......................................................35

5.2 Kiến nghị và giải pháp .................................................................................37

5.2.1 Đối với ngân hàng .................................................................................37

5.2.2 Đối với ngân hàng Nhà nước ................................................................41

5.2.3 Đối với chính phủ .................................................................................45

5.3 Kết luận ........................................................................................................45

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 47

PHỤ LỤC 1

PHỤ LỤC 2

PHỤ LỤC 3

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asian Development Bank) ADB

Nguồn tài trợ ổn định hiện có (Asset Stable Funding) ASF

BCBS Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (Basel Committee on

Banking Supervision)

Hệ số an toàn vốn tối thiểu (Capital Adequacy Ratio) CAR

Tỷ lệ vốn cấp 1 (Common Equity Tier 1) CET1

Phương pháp bình phương bé nhất tổng quát (Generalized Least GLS

Squares).

Tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh khoản (Liquidity Coverage Ratio) LCR

Cơ quan tiền tệ Singapore (Monetary Authority of Singapore) MAS

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTW Ngân hàng Trung ương

NIM Thu nhập lãi thuần hay biên lợi nhuận ròng (Net Interest Margin)

NSFR Tỷ lệ tài trợ ổn định thuần (Net Stable Funding Ratio)

OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic

Co-operation and Development)

RSF Nguồn tài trợ ổn định cần có (Required Stable Funding)

RWA Trọng số tài sản có rủi ro (Risk-weighted asset)

TCTD Tổ chức tín dụng

TG Thế giới

TMCP Thương mại cổ phần

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1 So sánh các tiêu chuẩn an toàn vốn theo Basel II và Basel III ....................6

Bảng 2.2 Vốn điều lệ tăng thêm của các ngân hàng trong năm (2018). ...................29

Bảng 3.1 Tổng hợp các giả thuyết nghiên cứu ..........................................................19

Bảng 3.2 Thống kê mô tả các biến ............................................................................20

Bảng 3.3 Hệ số tương quan giữa các biến .................................................................21

Bảng 3.4 Kết quả tóm tắt hồi quy sử dụng phương pháp FGLS. ..............................23

Bảng 2.3 So sánh Thông tư 36 tại Việt Nam và các chỉ tiêu Basel III .....................32

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1 Hệ số CAR tại Việt Nam và các nước trên thế giới giai đoạn 2013-2018 .....

...................................................................................................................................34

TÓM TẮT

Mục đích nghiên cứu này nhằm giới thiệu sơ lược những điểm mới của Basel III

và một vài kết quả đạt được từ các quốc gia thế giới sau khi đã triển khai thành

công. Bên cạnh đó nêu ra những điểm khác biệt cơ bản các chỉ tiêu an toàn vốn giữa

Việt Nam và Basel III. Sau đó xem xét đến những tác động của các chỉ tiêu quan

trọng đến hệ số an toàn vốn và xây dựng mô hình xem xét các yếu tố tác động đến

hệ số an toàn vốn tại các ngân hàng tại Việt Nam. Thông qua việc sử dụng kỹ thuật

hồi quy bảng (Panel Regression) để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hệ số an

toàn vốn (CAR) của 30 ngân hàng TMCP tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2018.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, các ngân hàng tại Việt Nam có tỷ suất lợi nhuận

trên tài sản (ROA), quy mô ngân hàng (SIZE), khả năng huy động vốn (DEP) có

các động tiêu cực đến hệ số an toàn vốn. Trong khi đó chỉ tiêu đòn bẩy tài chính

(LEV) và thu nhập lãi thuần (NIM) có ảnh thưởng tích cực đến hệ số an toàn vốn.

Tuy nhiên nghiên cứu lại không tìm thấy được sự tác động của tỷ lệ nợ xấu (NPL),

tỷ lệ cho vay (LOA) và tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đến hệ số an toàn vốn. Từ

kết quả phân tích mô hình cũng như các kết quả từ cuộc cải cách Basel III của các

nước trên thế giới. Đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm giúp hệ thống ngân

hàng có những định hướng phát triển phù hợp hơn với mục đích mà Basel đưa ra,

nhằm giúp các ngân hàng Việt Nam phấn đấu đạt theo chuẩn quốc tế.

Từ khoá: An toàn vốn, Basel III, Rủi ro, Biên lợi nhuận ròng.

ABSTRACT

This study aims at introducing the new regulations of Basel III and the

regulation’s impacts on the global economy. Moreover, the study presents basic

differences in capital adequacy criteria between Vietnam and Basel III in order to

analyze key factors affecting capital adequacy ratio (CAR) and construct a model

dealing with these factors which impact particularly on banks in Vietnam. The

study uses panel regression to make an analysis of 30 banks in Vietnam in the

period between 2010 and 2018. The results show that in Vietnam, return on assets

(ROA), size (SIZE) and deposit ratio (DEP) have negative effects on CAR while

leverage ratio (LEV) and net interest margin (NIM) produce positive impacts. As

for other factors like non-performing loans ratio (NPL), loan ratio (LOA) and gross

domestic product (GDP), they have no effect on CAR. From the results of the study

as well as of the reality in the countries where Basel III is applied, we need to give

suggestions and solutions to improve and standardize the banking system of

Vietnam.

Keywords: Captial adequacy ratio, Basel III, Risk, NIM.

1

1 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.1 Lý do chọn đề tài

Từ những bài học kinh nghiệm sau các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới,

đã cho thấy rằng ngành ngân hàng là một trong những lĩnh vực đối mặt với nhiều

loại rủi ro nhất, gây tổn thất nhiều cho nền kinh tế. Vì thế các ngân hàng trên thế

giới nói chung và các ngân hàng Việt Nam nói riêng đã chú trọng rất nhiều vào việc

quản trị rủi ro ngân hàng. Hiệp ước Basel đã trở thành bộ tiêu chuẩn chung phổ biến

nhằm giúp các ngân hàng có thể chuẩn hoá, cải thiện và lành mạnh trong lĩnh hoạt

động kinh doanh ngân hàng. Những thay đổi từ Basel I đến Basel III đã đưa ra

những yêu cầu khắt khe hơn phần nào đã khiến các ngân hàng gặp khó khăn trong

việc ổn định các nguồn vốn nhằm giúp đảm bảo hệ thống ngân hàng được hoạt

động ổn định. Tính đến thời điểm hiện tại Việt Nam chưa là thành viên BCBS nên

không bị ràng buộc thời gian tuân thủ tiêu chuẩn Basel, nhưng hiện tại Ngân hàng

nhà nước cũng đã ban hành các thông tư, các nghị định bám sát theo các quy chuẩn

Basel nhằm nâng cao an toàn vốn, quản lý thanh khoản nhằm giảm thiểu rủi ro tiềm

ẩn của hệ thống ngân hàng. Và trong khuôn khổ Basel, chỉ tiêu hệ số an toàn vốn

(CAR) là được quan tâm hơn cả. Hệ số an toàn vốn (CAR) là một trong những chỉ

tiêu quan trọng nhằm đánh giá mức độ an toàn của ngân hàng. Các cơ quan quản lý

ngân hàng cũng như các ngân hàng đều quan tâm đặc biệt đến hệ số này, luôn đảm

bảo duy trì hệ số CAR thông qua các cơ chế, chính sách phù hợp.

Tại Việt Nam, NHNN đã có những hướng triển khai áp dụng Basel vào quản trị

rủi ro ngân hàng và xem đó là trọng tâm của ngành. Đến năm 2020, 10 ngân hàng

thí điểm cần đạt chuẩn Basel II và đến 2025 các ngân hàng còn lại phải đạt chuẩn để

từ đó có thể xem xét đến việc áp dụng Basel III. Tuy nhiên, các ngân hàng hiện tại

đang bộc lộ quá nhiều điểm yếu đặc biệt là hệ số an toàn vốn. Như vậy việc các

ngân hàng đáp ứng Basel II , cũng như việc tiến đến Basel II cũng đồng nghĩa với

việc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải đáp ứng yêu cầu về hệ số an toàn

vốn (CAR) theo chuẩn thông lệ quốc tế. Từ những điều đó, tôi xin chọn đề tài luận

2

văn “ Nghiên cứu hệ số an toàn vốn và khả năng áp dụng Basel III tại các ngân

hàng TMCP Việt Nam“ làm luận văn nghiên cứu.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản sau:

(i) Xem xét những sự thay đổi chính của Basel III so với Basel II và tác động từ

sự thay đổi này đến việc quản trị rủi ro ngân hàng của một số nước trên thế giới.

(ii) Xem xét các yếu tố tác động đến hệ số an toàn vốn tại các ngân hàng một số

nước trên thế giới. Từ đó tiến hành thực nghiệm xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến

hệ số an toàn vốn (CAR) tại các ngân hàng Việt Nam.

(iii) Thực trạng áp dụng Basel tại Việt Nam và những điểm khác biệt cơ bản giữa

các tiêu chuẩn an toàn vốn theo Basel III và các thông tư tại Việt Nam.

(iv) Đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm giúp việc quản trị rủi ro các ngân

hàng tại Việt Nam tuân theo hiệp ước Basel.

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng số liệu của 30 ngân hàng tại Việt Nam

gồm: Vietinbank, BIDV, Vietcombank, MB, ACB, Sacombank, Techcombank,

SHB, Eximbank, SCB, NCB, Kiên Long Bank, VPBank, VIB, HDBank, SGB,

SeaBank, PGBank, TPBank, MSB, Việt Á Bank, Bắc Á bank, An Bình Bank,

LienVietPostBank, Nam Á Bank, OCB, PVComBank, VietBank, Agribank,

Vietcapital. Dữ liệu được lấy từ báo cáo thường niên/ báo cáo tài chính của các

ngân hàng giai đoạn 2010 -2018 trên website ngân hàng. Và từ nguồn dữ liệu

VietStock : https://finance.vietstock.vn/

1.4 Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy bảng (Panel Regression) với biến phụ

thuộc là hệ số an toàn vốn (CAR) và các biến độc lập bao gồm: quy mô ngân hàng

(SIZE), tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA), tỷ lệ đòn bẩy (LEV), thu nhập lãi

thuần (NIM), tỷ lệ cho vay (LOA), tỷ lệ nợ xấu (NPL), tỷ lệ huy động (DEP) và tốc

độ tăng trưởng kinh tế (GDP).

3

2 CHƯƠNG 2: LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BASEL

VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

Nếu nói về chuẩn mực nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân

hàng nói riêng và các tổ chức tài chính nói chung, người ta sẽ nhắc ngay đến tiêu

chuẩn Basel. Các tiêu chuẩn được ra đời cách đây hơn hai thập kỷ và được hầu hết

các quốc gia cũng như các tổ chức tài chính trên thế giới tuân thủ một cách rộng rãi,

luôn là mục tiêu chuẩn mực mà họ cố gắng đạt được nhằm tạo ra một thị trường tài

chính an toàn, ổn định và tạo ra một mặt bằng chung cạnh tranh bình đẳng lẫn nhau

trên quy mô quốc tế.

2.1 Những thay đổi của Basel từ Basel I đến Basel III

Vào thập niên 1980, hệ thống ngân hàng thương mại trên thế giới phát triển

mạnh mẽ, đồng thời phát sinh ra những cuộc cạnh tranh bất bình đẳng giữa các

ngân hàng. Do đó, nhằm ổn định, củng cố lại hoạt động ngân hàng quốc tế và tạo ra

một cơ chế cạnh tranh lành mạnh, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng được thành

lập (BCBS).

Năm 1988, Ủy ban quyết định ban hành một thoả thuận quốc tế về các tiêu

chuẩn vốn tự có gọi là Hiệp ước vốn Basel I. Theo yêu cầu Hiệp ước này buộc các

ngân hàng phải duy trì một tỷ lệ vốn bắt buộc trên tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi

ro tối thiểu là 8% để bù bắp cho những rủi ro và những tổn thất có thể xảy ra (hay

còn được gọi là “tỷ lệ Cook”). Tỷ lệ vốn tối thiểu (CAR) theo Basel I được tính

theo công thức:

Tỷ lệ vốn tối thiểu (CAR) =

Trong đó, tổng vốn được tổng thành từ những loại vốn cấp 1 (các loại vốn chắc

chắn có như vốn chủ sở hữu vĩnh viễn, lợi nhuận giữ lại, lợi ích thiểu số tại các

công ty con có hợp nhất báo cáo tài chính, lợi thế kinh doanh), vốn cấp 2 (vốn có

chất lượng thấp hơn như nguồn vốn tăng do đánh giá lại tài sản, dự phòng các tổn

thất chung, đầu tư tài chính vào công ty con và tổ chức tài chính khác, vốn từ những

4

công cụ nợ trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi hay công cụ nợ khác) và vốn cấp

3 (vốn có độ tin cậy thấp nhất như các khoản vay ngắn hạn). Đồng thời cũng yêu

cầu tổng vốn cấp 2 và 3 không vượt quá vốn cấp 1. Tuy nhiên Basel I vẫn còn vài

hạn chế mà trong đó chủ yếu chỉ tập trung vào một giải pháp là “yêu cầu vốn tối

thiểu” mà chưa đề cập đến rủi ro thị trường cũng như rủi ro trong hoạt động ngân

hàng.

Năm 2004, Ủy ban Basel lại ban hành bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới

(Basel II) có hiệu lực từ năm 2007. Basel II chủ yếu dựa trên 3 trụ cột chính:

Trụ cột 1 liên quan đến việc duy trì tỷ lệ vốn bắt buộc (CAR vẫn giữ mức tối

thiểu 8% nhưng có sự thay đổi về hệ số rủi ro của các tài sản). Đồng thời cách tính

cũng có sự thay đổi :

Tỷ lệ vốn tối thiểu (CAR) =

Với yêu cầu một tỷ lệ 4% vốn cấp 1 (gồm cổ phần phổ thông và dự trữ được

công bố) và 8% đối với vốn cấp 2 (tăng do đánh giá lại tài sản, dự phòng chung, dự

trữ không được công bố, nguồn vốn gia tăng từ trái phiếu chuyển đổi/cổ phiếu ưu

đãi/nợ thứ cấp khác).

Trụ cột 2-3 liên quan đến việc hoạch định các chính sách trong công tác giám

sát, thanh tra và hoạt động liên quan đến việc công bố thông tin một cách thích đáng

theo nguyên tắc thị trường. Tuy không có nhiều tác động đến hệ số an toàn vốn

nhưng quy định này đòi hỏi sự công khai minh bạch phù hợp đúng với thông lệ

quốc tế.

Vào thời điểm bắt đầu triển khai, Basel II có thể được xem là khung đánh giá rủi

ro ngân hàng khá toàn diện. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm

2007-2008 chứng tỏ Basel II còn khá nhiều nhược điểm, nó hoàn toàn chưa lường

hết những rủi ro có thể xảy ra khi đối mặt với chu kỳ của một nền kinh tế, đặc biệt

chưa chú trọng vào vấn đề thanh khoản dẫn đến việc phá sản của nhiều ngân hàng.

Do đó, vào 12/09/2010 Uỷ ban Basel đã công bố Hiệp ước Basel III với các tiêu

5

chuẩn mới với những thay đổi về cấu trúc vốn, thêm yêu cầu về tỷ lệ đòn bẩy, đưa

ra các tiêu chuẩn mới về tính thanh khoản nhằm cũng cố các quy định, giám sát,

quản lý rủi ro của ngành ngân hàng nhằm khắc phục những điểm thiếu sót của Basel

II. Bộ tiêu chuẩn Basel III có hiệu lực từ 2013 với những điểm thay đổi đáng chú ý

sau (lộ trình thực hiện Basel III theo Phụ lục 2):

Thứ nhất: rà soát lại các tiêu chuẩn nhằm nâng tỷ trọng và chất lượng nguồn

vốn, cao chất lượng vốn cấp 1 và vốn cấp 2, khấu trừ các khoản vốn không đủ tiêu

chuẩn, chẳng hạn các khoản vốn được đầu tư vào các tổ chức tài chính khác vượt

mức giới hạn 15% sẽ được khấu trừ vào vốn chủ sở hữu. Đưa ra tiêu chuẩn tỷ lệ

đòn bẩy tối thử nghiệm tối thiểu là 3%, đây là mức tỷ lệ vốn cấp 1 so với tổng tài

sản hiện có cộng với các khoản mục ngoại bảng. Chất lượng vốn tốt hơn sẽ giúp

ngân hàng khoẻ hơn, chống đỡ tốt hơn trong thời kỳ khó khăn.

Thứ hai: yêu cầu các ngân hàng nâng cao chất lượng nguồn vốn, đáng chú ý là

việc nâng tỷ trọng vốn cấp 1 tối thiểu từ 4% lên 6% trong đó tỷ trọng vốn cổ đông

thường (common equity) tăng mức từ 2% lên 4,5%; Ngoài ra bổ sung thêm mức

vốn dự trữ (các tấm vốn đệm dự phòng - vốn đệm bảo toàn vốn và vốn đệm chống

hiệu ứng chu kỳ) đảm bảo bẳng vốn chủ sở hữu nằm trong khoảng từ 0 - 2,5% tuỳ

theo bối cảnh của mỗi quốc gia và loại bỏ vốn cấp 3 ra khỏi cách tính so với ban

đầu. Mục đích của vốn đệm nhằm giúp ngân hàng có thể duy trì mức dự phòng cần

thiết cho các khoản lỗ trong giai đoạn căng thẳng tài chính và kinh tế toàn cầu, có

đủ khả năng tài chính đối mặt với các sự kiện ngược chu kỳ kinh tế.

6

Bảng 2.1 So sánh các tiêu chuẩn an toàn vốn theo Basel II và Basel III

Đơn vị : %

Vốn dự Các yêu cầu về an toàn vốn phòng

Vốn chủ sở hữu Vốn cấp 1 Tổng vốn

Tổng Các Vốn vốn tối tiêu Vốn đệm dự Tổng thiểu chuẩn đệm dự Yêu Yêu Yêu phòng VCSH cộng giám phòng cầu tối cầu tối Tổng cầu tối phản cộng dự sát vốn bảo thiểu thiểu thiểu chu kỳ vốn phòng toàn kinh tế đệm bảo vốn toàn

vốn

- - 2 - - 4 - Basel II 8

Basel 10,5 0 – 2,5 4,5 2,5 7 6 8,5 8 III

(Nguồn: https://www.bis.org/bcbs/basel3)

Thứ ba: giới thiệu phương pháp giám sát an toàn vĩ mô để hạn chế rủi ro hệ

thống. Phương pháp này bổ sung cho những phương pháp giám sát vi mô đối với

từng tổ chức tín dụng đã được ban hành. Một là nhằm hướng đến mục tiêu làm

giảm mức độ khuếch đại của khủng hoảng theo chu kỳ kinh tế. Hai là rủi ro tiềm ẩn

từ các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các tổ chức tài chính đặc biệt là những

ngân hàng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế tài chính của một quốc gia.

Thứ 4: đưa ra quy định về hai tiêu chuẩn thanh khoản mới có hiệu lực từ

01/01/2015:

(i) Tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh khoản (Liquidity Coverage Ratio) = Tài

sản có tính thanh khoản cao / Tổng lượng tiền mặt ra thuần trong 30 ngày tới.

7

Tỷ lệ này nhằm mục đích ngân hàng luôn có một số lượng thích hợp các tài sản

có tính thanh khoản cao có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đáp ứng nhu cầu thanh

khoản nhanh trong vòng 30 ngày của một đợt kiểm tra sức chịu đựng. Nó cho phép

ngân hàng có thể duy trì hoạt động trong 30 ngày, và đây là thời gian nhằm giúp

ngân hàng có thể quản lý thực hiện các biện pháp nhằm đối phó với việc mất thanh

khoản trong những ngày tới. Ở đây chúng ta hiểu rằng, tài sản có tính thanh khoản

cao là tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt ngay lập tức mà không bị mất bất kỳ

giá trị nào hoặc nếu có bị mất rất ít. Chẳng hạn các khoản mục tiền mặt, hay tiền

gửi không kỳ hạn tại NHNN hoặc tại các TCTD khác. Tổng dòng tiền mặt ra thuần

là hiệu số giữ dòng tiền ra dự tính và tổng tiền vào dự tính. Dòng tiền ra được tính

theo giả định rút vốn (run -off) dựa trên bản chất của nó. Ví dụ như các khoản tiền

gửi của khách hàng có thể ổn định hoặc không ổn định. Nếu ổn định thì sẽ hiếm khi

có sự rút vốn bất thường, nên ta giả định tỷ lệ rút vốn là 5% chẳng hạn, ngược lại

nhóm không ổn định có tỷ lệ rút vốn cao hơn như 10-15% tuỳ vào quan điểm quản

trị rủi ro từng ngân hàng, sẽ ước lượng tỷ lệ phù hợp. Việc tính toán dòng tiền này

dựa trên giả định không có vỡ nợ xảy ra trong 30 ngày và ượng tiền vào để bù đắp

dòng tiền ra tối đa 75% dòng tiền ra. Hàm ý rằng các ngân hàng phải duy trì những

tài sản có tính thanh khoản cao tối thiểu là 25% dòng tiền ra bất kể dòng tiền mặt là

bao nhiêu.

(ii) Tỷ lệ ổn định ròng (Net Stable Funding Ratio) = Nguồn tài trợ ổn định

hiện có (ASF) / Nguồn tài trợ ổn định cần phải có (RSF)

Tỷ lệ này nhằm giúp ngân hàng tăng cường khả năng chống đỡ thanh khoản

trong dài hạn nhằm giúp ngân hàng qua việc tạo thêm các động cơ để ngân hàng có

thể huy động vốn từ các nguồn ổn định hơn (thời gian cần thiết trong 1 năm), trên

cơ sở việc ngân hàng vẫn tiếp tục hoạt động bình thường. Nó được đo lường tỷ lệ

vốn ổn định sẵng có như vốn cổ phần, cổ phiếu ưu đãi có thời gian nhỏ hơn hoặc

bằng 1 năm, tiền gửi không xác định kỳ hạn hoặc có kỳ hạn dưới 1 năm với giả định

sẽ không bị rút trước hạn hoặc chuyển đi khỏi ngân hàng trong điều kiện không tốt

so với vốn huy động ổn định cần thiết trong thời gian 1 năm và yêu cầu phải đạt tối

8

thiểu 100%. Các nguồn vốn ổn định đó trong bối cảnh NSFR gọi là ASF. Các yếu

tố ASF có thể đạt trọng số giá trị 100%, 90%, 80%, 50% hoặc thậm chí 0% phụ

thuộc vào 2 yêu tố (i) đặc điểm thanh khoản và kỳ hạn còn lại của tài sản của tổ

chức đang nắm giữ (ii) đặc điểm thanh khoản và kỳ hạn còn lại của các khoản mục

ngoại. Kỹ thuật NSFR này sẽ giúp ngân hàng hạn chế được sự phụ thuộc quá mức

vào các nguồn vốn ngắn hạn từ các kênh huy động thông thường để từ đó được hạn

chế được rủi ro thanh khoản của các khoản mục nội bảng và ngoại bảng (chỉ tiêu

RSF). Tuy nhiên, có một sự đánh đổi khi gia tăng tỷ lệ NSFR đó là chính là sẽ dẫn

đến viêc giảm một tỷ lệ biên lãi ròng (Net Interest Margin – NIM). Việc tăng tỷ lệ

NSFR là điều cần thiết đối với ngân hàng bằng việc tăng các nguồn vốn ổn định

(ASF) và giảm các nguồn tài sản (RSF) như việc tăng số lượng chứng khoán được

xếp hạng cao, giảm thời gian đáo hạn. Bởi vì NIM được đo lường bằng việc thu

nhập lãi thuần trên chi phí từ các tài sản sinh lãi (tiền gửi NHNN, tiền gửi TCTD

khác, chứng khoán đầu tư, cho vay khách hàng). Cho nên việc gia tăng bất kì tài sản

này đều sẽ ảnh hưởng đến NIM. Hay nói cách khác, mối quan hệ giữa NSFR và

NIM là một mối quan hệ ngược chiều. Theo nghiên cứu của MiChael R.King

(2013) về dữ liệu tài chính từ các ngân hàng lớn tại 15 quốc gia, các ngân hàng với

những chiến lược làm tăng NSFR sẽ dẫn đến NIM giảm từ 70-88 điểm cơ bản. Như

ở Châu Âu, là nơi có tỷ lệ nợ xấu cao, do đó các ngân hàng Châu Âu luôn nổ lực

điều chỉnh giảm bảng cân đối tài sản nhằm hạn chế rủi ro trong hệ thống. Cũng theo

nghiên cứu, các quốc gia ở Châu Âu có tỷ lệ NSFR thấp bởi các nguồn tài trợ ở các

ngân hàng này đa dạng, tỷ lệ vay liên ngân hàng rất cao trong khi đó tỷ lệ tiền gửi

lại thấp. Do đó, tuỳ từng quốc gia khác nhau sẽ có những phản ứng khác nhau nhằm

tăng tỷ lệ NSFR tuỳ thuộc vào các nhà hoạch định chính sách quốc gia đó bằng việc

thay đổi về những thành phần tài sản, thời gian đáo hạn khoản vay hay thời gian đầu

tư. Mỗi quốc gia sẽ thể hiện sự khác biệt các cấu trúc thành phần trên bảng cân đối

kế toán. Tóm lại, để một hệ thống tài chính vững mạnh thì không thể thiếu sót được

một trong hai yếu tố này.

9

Ban đầu, các tiêu chuẩn Basel III có hiệu lực từ năm 2013 và được thực hiện

theo lộ trình đến năm 2018 và thực hiện đầy đủ từ 01/01/2019. Tuy nhiên 2017, một

cải cách quan trọng của Basel III được thông qua và lùi thời hạn bắt đầu áp dụng từ

năm 2022 và áp dụng theo từng giai đoạn trong vòng 5 năm nhằm giúp các ngân

hàng có đủ thời gian để triển khai thực hiện.

2.2 Các nghiên cứu về việc áp dụng Basel III tại các nước trên thế giới

Theo những lập luận của Nikiforos Chatzigakis (2016) cho rằng mục tiêu chính

ban đầu hiệp ước Basel đặt ra là ổn định phát triển kinh tế và cải thiện sự ổn định

ngành ngân hàng. Giúp ngân hàng có thể đối phó tạm thời với những “cú sốc” từ đó

làm giảm sự ảnh hưởng từ khu vực tài chính sang nền kinh tế. Tuy nhiên áp dụng

theo Basel III với một vài sự thay đổi như thay đổi trong cấu trúc vốn, dẫn đến làm

tăng chi phí cho các giao dịch phái sinh và chứng khoán. Chẳng hạn như một “tấm

đệm phòng rủi ro chu kỳ” cũng góp phần làm gia tăng chi phí tín dụng, nó giống

như một “chiếc phanh” đối với việc gia tăng tuy quy mô tín dụng. Hay một ngân

hàng nắm giữ những tài sản có tính thanh khoản cao hầu như sẽ không mất giá trị

theo thời gian và tất nhiên sẽ mang lại mức lợi nhuận thấp hơn tài sản có tính thanh

khoản thấp hơn. Bởi việc cho vay đối với các doanh nghiệp SMEs được xem như

tài sản có tính thanh khoản thấp, yêu cầu mức phí cao hơn, ảnh hưởng đến chi phí

tài trợ của doanh nghiệp. Tỷ lệ LCR cũng có thể cản trở việc cung cấp cho vay của

ngân hàng, bởi khi tăng tài sản có tính thanh khoản thấp, sẽ dẫn đến việc làm giảm

LCR. Song song đó, chi phí tài trợ cho một doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ cao bởi

những thông tin bất cân xứng, ngân hàng sẽ khiến ngân hàng không thể đánh giá

mức độ tin cậy của công ty nên sẽ có thêm phí cho việc này khi mà có đến 90%

doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng số doanh nghiệp của cả khu vực OECD và

ADB. Điều này sẽ làm cho việc chi phí bỏ ra của những người đi vay sẽ gia tăng.

Chi phí cao sẽ hạn chế việc tiếp cận các nguồn tài trợ, ảnh hưởng đến khả năng hoạt

động công ty, xác suất vỡ nợ (PD) của những công ty này cũng ở mức cao và ảnh

hưởng tiêu cực đến GDP nền kinh tế. Ponce and Briozzo (2011) đã kiểm tra sự tác

động của Basel II và III đối với mức vốn yêu cầu và kết luận rằng giai đoạn 2005-

10

2007 xác xuất vỡ nợ của các công ty tại các doanh nghiệp ở Tây Ban Nha chỉ ở mức

3%, nhưng trong giai đoạn khủng hoảng tài chính 2008 đã tăng lên mức 5% và gần

7,6% vào năm 2009 do sự ảnh hưởng bởi các yêu cầu vốn khắt khe của Basel III mà

các ngân hàng đang áp dụng.

Cũng theo báo cáo OECD, để các ngân hàng đáp ứng yêu cầu Basel III (với mức

4,5% tỷ lệ vốn chủ sở hữu, 6% cho tỷ lệ vốn cấp 1) vào năm 2019 thì phải tăng mức

chênh lệch lãi suất khoảng 15 điểm cơ bản. Và 50 điểm cơ bản nếu mục tiêu yêu

cầu vốn 7% tỷ lệ vốn chủ sở hữu, 8,5% cho tỷ lệ vốn cấp 1 kéo theo tốc độ tăng

trưởng kinh tế cũng giảm. Cùng kết luận khi Sutorova và Teply (2013) nghiên cứu

các ngân hàng cho vay ở Châu Âu rằng, khi gia tăng 1% vốn chủ ngân hàng để đáp

ứng yêu cầu vốn là sự kéo theo sự gia tăng 18,8 điểm cơ bản về lãi suất cho vay,

kèm theo mức giảm khoản vay chỉ ở mức 2% so với hiện tại. Nhưng các ngân hàng

đã đáp ứng những yêu cầu vốn từ trước thì việc thay đổi lãi suất hay khoản vay hầu

như không thay đổi. Như vậy, ở góc độ nào đó họ cho rằng nó chỉ có tác động tạm

thời, về lâu dài sẽ tạo ra một tác động tích cực hơn, tạo ra một cấu trúc tài chính an

toàn và ổn định, ngăn chặn được những rủi ro quá mức. Sẽ giúp cho nền kinh tế ổn

định và tăng trưởng. Meilan Yan (2012) đã nghiên cứu về những chi phí cũng như

những lợi ích dài hạn ở Anh khi áp dụng những quy định thanh khoản Basel III

đươc để xuất bởi Ủy ban giám sát ngân hàng Basel (BCBS). Tác giả sử dụng số liệu

báo cáo thường niên các ngân hàng ở Anh giai đoạn 1997-2010 để tính toán phân

tích các chỉ tiêu về thanh khoản. Và kết quả cho rằng, các yêu cầu vốn về ngân hàng

và chất lượng vốn cao hơn, sẽ có thể ngăn chặn sự xuất hiện một cuộc khủng hoảng

ngân hàng. Thật vậy, nếu gia tăng một tỷ lệ TCE/RWA (ước tính tỷ lệ tài sản vốn

“lõi” trên tổng tài sản có rủi ro) hay tỷ lệ NSFR sẽ làm giảm xác suất khủng hoảng

xảy ra đồng thời sẽ làm gia tăng được những lợi ích đáng kể cả trong ngắn và dài

hạn. Như vậy, với việc cải cách theo Basel III sẽ mang lại những lợi ích đáng kể

cho Vương Quốc Anh. Việc tối ưu vốn lõi ngân hàng ở mức 10% (cao hơn mức quy

định Basel III là 7%) đã tạo ra những lợi ích cho nền kinh tế. Hoặc một mức NSFR

11

ở mức 1 có khả năng tăng cường sự ổn định tài chính ở Anh bằng cách tăng cường

chất lượng cả cơ sở vốn và cơ cấu tài trợ của ngân hàng.

Pornsit Jiraporn (2014) khi xem xét về mô hình phá sản của ngân hàng (Z-score)

của Laeven and Lavine (2009) với Z = (ROA + CAR) / nhằm đánh giả khả

năng phá sản của ngân hàng khi có sự thay đổi cấu trúc vốn theo chuẩn Basel III.

Mẫu nghiên cứu bao gồm 68 ngân hàng từ 11 nước Đông Á giai đoạn 2006-2000.

Các ngân hàng nằm trong top 10 của mỗi quốc gia. Từ các nước Trung Quốc, Thái

Lan, Hồng Koong, Singapore, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Sri

Lanka, Ấn Độ và Philipin. Theo tác giả, các nước Đông Á tập trung nhiều nước áp

dụng chuẩn Basel II (Sau liên minh Châu Âu) nên có mức độ tuân thủ và đồng nhất

giữa các quốc gia cao và Đông Á cũng không bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng

hoảng nợ Châu Âu. Ngoài ra, Đông Á nói chung hay Trung Quốc nói riêng đã

chứng kiến tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng, vì vậy việc tập trung vào khu vực

này sẽ phần nào cho ta thấy được sự ảnh hưởng các quy định Basel III đối với

những nền kinh tế mới nổi trên thị trường tài chính toàn cầu. Tác giả chỉ ra rằng,

việc tập trung quyền sở hữu đối với các cổ đông lớn của ngân hàng có mối quan hệ

nghịch chiều với Z. Nó cũng phù hợp với những quan điểm rằng cổ đông lớn sẽ dễ

chấp nhận rủi ro hơn để có được những lợi nhuận kỳ vọng cao hơn trong khi các

nhà quản lý thì chấp nhận rủi ro ít hơn để đảm bảo được vị trí, uy tín và lợi ích nghề

nghiệp (Galai and Masulis, 1976; Demsetz and Lehn, 1985). Hay theo Jensen và

Meckling (1976) những ngân hàng phân tán quyền sở hữu thường trung lập với rủi

ro do khả năng có thể đa dạng hóa được rủi ro vào nhiều kế hoạch khác nhau. Và

kết quả nghiên cứu cũng đúng với nghiên cứu của của Laeven và Levine (2009) khi

thấy được mối quan hệ rủi ro ngân hàng với cấu trúc sở hữu của ngân hàng. Một

mối quan hệ đồng biến giữa mức độ chấp nhận rủi ro và sức mạnh của các cổ đông.

Tỷ lệ ổn định ròng (NSFR) tỷ lệ thuận với điểm Z, chứng tỏ được rằng chất lượng

nguồn vốn càng ổn định thì xác suất phá sản ngân hàng sẽ giảm. Bên cạnh đó, vai

trò của phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng phần nào đến xác suất phá sản của ngân

hàng và mức độ ảnh hưởng của những quy định theo Basel III là không giống nhau

12

ở các quốc gia có nền kinh tế khác nhau. Những quốc gia có nền kinh tế phát triển,

những thông tin về tài chính kế toán đáng tin cậy cũng như các quy định cung cấp

thông tin nghiêm ngặt nên dữ liệu sẽ minh bạch hơn. Giúp cho việc đánh giá sẽ trở

nên tin cậy hơn và ngược lại. Nếu như GDP dùng làm thước đo cho sự phát triển

của quốc gia, tác giả cho thấy việc ổn định vốn có tác động mạnh hơn lên hệ số rủi

ro ở các nước phát triển hơn (nếu Z là biến phụ thuộc), và việc ổn định vốn sẽ làm

giảm rủi ro càng nhiều khi nền kinh tế càng phát triển (biến động vốn là biến phụ

thuộc). Tóm lại, việc ổn định vốn sẽ ảnh hưởng một mức độ rủi ro khác nhau ở các

quốc gia có nền kinh tế phát triển khác nhau.

Một câu hỏi khác được đặt ra rằng: “Những ảnh hưởng nào có thể xảy ra dưới

những quy định chặt chẽ của Basel III lên giá trị thị trường của các ngân hàng ở

Châu Âu?”. Nếu giá trị của ngân hàng giảm là vì giữ lại nhiều vốn hơn trước để đáp

ứng các yêu cầu vốn, lúc này thị trường sẽ phản ứng tiêu cực về khả năng sinh lời

của ngân hàng đó. Hoặc ngược lại nếu thị trường có phản ứng tích cực, thì các nhà

đầu tư cho rằng rủi ro ngân hàng đó đã giảm đi. Vậy vấn đề ở đây, với những yêu

cầu vốn cao có thể đưa ra một dấu hiệu tốt hay tích cực cho thị trường không? Vấn

đề này cũng đã được rất nhiều người quan tâm và nghiên cứu trong suốt nhiều năm

qua về mối quan hệ giữa vốn giá trị giữ lại và giá trị của một ngân hàng. Đầu tiên,

theo học thuyết của Modigliani and Miller (Lý thuyết MM) năm 1958 đã phát biểu

rằng “ Giá trị thị trường của bất kỳ công ty nào thì không phục thuộc vào cấu trúc

vốn”. Điều này có thể có nghĩa là giá trị của công ty được xác định bởi thu nhập

được tạo ra bởi tài sản của nó, chứ không phải bằng cách tài sản được tài trợ hoặc

thu nhập từ việc sử dụng tài sản. Lý thuyết này chỉ có thể được áp dụng trong thế

giới hoàn hảo, nghĩa là, nơi có thông tin bất cân xứng, không có thuế, không có chi

phí phá sản, không có chi phí giao dịch, có chi phí vay tương đương cho các công ty

và nhà đầu tư, không có chi phí đại lý và không ảnh hưởng của nợ trên các công ty

thu nhập và nhiều hơn nữa. Thứ hai, các học giả vào những năm 1970 lại cho rằng

nếu tỷ lệ vốn giá tăng do việc phát hành cổ phiếu mới thì mối quan hệ giữa vốn và

giá trị ngân hàng là tiêu cực (tỷ lệ nghịch) (Ross, 1977; Myer and Majluf, 1984). Và

13

cuối cùng là Valkanow and Kleimeier (2007) đã tìm ra vai trò của cấu trúc vốn

trong việc thâu tóm các Ngân hàng ở Mỹ và Châu Âu và nhận ra rằng vốn là biến số

quan sát quan trọng đối với người mua. Do đó Barbora Sutorova, Petr Teply (2014)

đã nghiên cứu về những sự tác động này tại các ngân hàng ở Châu Âu. Những

nguyên tắc về Basel III theo chỉ thị yêu cầu vốn IV (CRD IV) do Ủy ban Châu Âu

công bố hồi tháng 07/2011 và được áp dụng cho hơn 8300 ngân hàng tại EU. Một

số điểm cơ bản của CRD IV bao gồm tỷ lệ CAR vẫn mức 8% (trong đó yêu cầu vốn

cổ phần phổ thông là 4,5%), vốn đệm dự phòng 2,5%, bắt đầu áp dụng tính LCR và

yêu cầu đạt 100% vào năm 2018, đưa ra yếu tố rủi ro tín dụng đối tác nhằm giảm

thiểu sự phụ thuộc các tổ chức xếp hạng tín dụng bên ngoài. Đồng thời, Cơ quan

ngân hàng Châu Âu (EBA) đã đưa ra những điều kiện được đánh giá là khắt khe

hơn cả Basel III: yêu cầu vốn cấp 1 mức 9% (Basel III là 6%) cho các ngân hàng ở

EU. Dựa trên kết quả nghiên ông kết luận rằng dưới sự quy định của Basel III giá trị

Ngân hàng có thể bị đánh giá tiêu cực, phản ánh qua sự sụt giảm giá trị thị trường

cổ phiếu của ngân hàng tại Châu Âu.

2.3 Các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hệ số an toàn vốn tại các nước

trên thế giới

Các ngân hàng luôn hoạt động trong môi trường không có sự chắc chắn, do đó

vốn đóng một vai trò quan trọng nhằm duy trì sự an toàn của ngân hàng. An toàn

vốn thực hiện nhiều chức năng trong hệ thống ngân hàng, nhưng quan trọng là tấm

đệm hoạt động nhằm hấp thụ thua lỗ và tạo niềm tin cho các cổ đông. Như vậy hệ

số an toàn vốn được khuyến nghị nhằm đảm bảo ngân hàng có thể chịu mức thua lỗ

hợp lý trước khi mất khả năng thanh toán. Cùng quan điểm khi Pamuji Gesang

Raharjo (2014) cho các ngân hàng được yêu cầu phải có đủ số vốn nhằm để hỗ trợ

mở rộng kinh doanh cũng như một bộ đệm để ngăn chặn và hấp thụ bất kỳ tổn thất

bất ngờ nào xảy ra trước khả năng mất khả năng thanh toán. Tại Indonesia các ngân

hàng được xem là xương sống của nền kinh tế. Do đó, ngân hàng trung ương

Indonesia luôn rất chú trọng nhằm đảm bảo an toàn vốn cho các ngân hàng tại đây.

Và các ngân hàng cũng đã áp dụng Basel III vào việc quản trị rủi ro từ 01/01/2013

14

đến nay. NHTW Indonesia chú trọng vào việc giám sát an toàn vĩ mô hệ thống tài

chính các ngân hàng tại quốc gia này nhằm đảm bảo hoạt động ổn định, các bài chịu

đựng stress test của các quy chuẩn Basel. Quy định việc gia tăng tỷ lệ yêu cầu an

toàn vốn tối thiểu phụ thuộc vào mức độ rủi ro của từng loại ngân hàng. Dao động

từ mức tối thiểu theo Basel là 8% đến 14% (với mức độ xếp hạng rủi ro tín dụng

ngân hàng từ mức 1-5). Đồng thời bổ sung thêm vốn đệm an toàn vốn là 2,5% so

với tài sản có rủi ro, vốn đệm chống hiệu ứng chu kỳ dao động từ 0 – 2,5% và vốn

đệm chống rủi ro hệ thống từ 1-2,5% tương tự như quy định Basel III. Nghiên cứu

dữ liệu ngân hàng Indonesia giai đoạn từ 2004-2012 đã chỉ ra một tác động tiêu cực

của việc gia tăng tài sản đến hệ số an toàn vốn tại quốc gia này. Sự tăng trưởng của

tài sản ngân hàng chủ yếu là do sự tăng trưởng cả trong các khoản vay và các công

cụ tài chính rủi ro sẽ khiến ngân hàng thất thoát tiềm ẩn từ các khoản nợ xấu và thua

lỗ từ giảm giá của các công cụ tài chính do các ngân hàng nắm giữ. Do đó, việc tăng

các tài sản có rủi ro rủi ro sẽ làm giảm mức độ an toàn vốn của ngân hàng. Trong

khi đó tỷ lệ nợ xấu (NPL) tác động ngược chiều đến hệ số an toàn vốn. Biên lãi

ròng (NIM) tại các ngân hàng Indonesia rất cao tuy nhiên phát hiện này chỉ ra rằng

nó không ảnh hưởng đến tỷ lệ vốn của họ. Vì theo lý thuyết, NIM ảnh hưởng tích

cực đến vốn ngân hàng, vì khi có biên lợi nhuận cao cho phép các ngân hàng tăng

thêm vốn thông qua thu nhập giữ lại và để đưa ra tín hiệu tích cực về giá trị của

ngân hàng. Bên cạnh đó hoạt động chính của một ngân hàng là huy động và cho vay

nên tồn tại yếu tố về rủi ro lãi suất vốn có trong tài sản của ngân hàng và các khoản

nợ phải trả, nghĩa là rủi ro thua lỗ liên quan đến độ nhạy cảm khác nhau của tài sản

sinh lợi và nguồn vốn ngân hàng do thay đổi lãi suất. Rủi ro lãi suất khi tăng 1% sẽ

làm giảm tỷ lệ an toàn vốn 0,07%.

Một nghiên cứu khác của Osama A.El-Ansay và Hassan M.Hafez (2015) đã

nghiên cứu sự khác biệt giữa các tác động đến tỷ lệ an toàn vốn trước và sau khủng

hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 với 2 giai đoạn là 2007-2008 và 2009-2013 của

các ngân hàng thương mại tại Ai Cập. Các ngân hàng tại Ai cập cũng đang áp dụng

theo chuẩn Basel II và III. Kết quả cho thấy một sự tác độngkhác biệt về thu nhập từ

15

tài sản của ngân hàng. Nó có một tác động tiêu cực đến hệ số an toàn vốn trước

khủng hoảng năm 2008 . Sau khủng hoảng, một tỷ lệ thu nhập từ tài sản hay một tỷ

cho vay trên tài sản cũng như có tác động tích cực đến hệ số an toàn vốn này. Điều

đó chứng tỏ rằng, sau cuộc khủng hoảng tài chính và sự thất bại của nhiều ngân

hàng các ngân hàng Ai Cập đã bắt đầu xem xét cẩn thận trong việc quản trị rủi ro

tín dụng, chất lượng khoản vay. Bên cạnh đó là việc rà soát các danh mục cho vay,

nghiêm ngặt hơn trong việc cung cấp các khoản vay cho khách hàng không chỉ vậy

còn kết hợp danh mục đầu tư trong các khoản vay thương mại và công nghiệp (C&I

loans), mảng bán lẻ và chứng khoán đã được thay đổi đáng kể để thấy rằng cho vay

bán lẻ và chứng khoán ở một số ngân hàng đại diện cho phần lớn của danh mục đầu

tư ngân hàng Ai Cập để so sánh với danh mục trong những năm qua để từ đó các

ngân hàng sẽ bắt đầu thận trọng hơn trong xây dựng các khoản dự phòng cho vay

khi mà điều này biện minh cho thực tế rằng các khoản dự phòng tổn thất cho tổng

các khoản vay có tương quan đáng kể tiêu cực đến hệ số an toàn vốn sau khủng

hoảng.

16

3 CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ

TÁC ĐỘNG ĐẾN HỆ SỐ CAR CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM

3.1 Dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu nghiên cứu được tổng hợp từ báo cáo thường niên của 30 NHTM tại

Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2018. Ngoài ra, dữ liệu cấp quốc gia như tốc độ

tăng trưởng kinh kế và hệ số an toàn vốn của các nước trên thế giới được thu thập từ

cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế Giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).

3.2 Mô hình nghiên cứu

Bài “nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới hệ số an toàn vốn tại các ngân hàng

thương mại cổ phần Việt Nam” của Tiến sĩ Thân Thị Thu Thủy và Thạc sĩ Nguyễn

Kim Chi và Bài nghiên cứu của PGS.TS Lê Thanh Tâm và Nguyễn Diệu Linh “các

yếu tố quyết định tới tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng: bằng chứng thực nghiệm từ

Việt Nam”. Dựa trên mô hình nghiên cứu của hai bài viết trên, bài luận sử dụng mô

hình nghiên cứu tương tự và có thay đổi các biến như sau:

Mô hình sẽ xem xét những ảnh hưởng của các yếu tố trọng yếu đến hệ số an

toàn vốn (CAR) tại Việt Nam của ngân hàng i trong khoảng thời gian t:

Trong đó:

): Quy mô tài sản ngân hàng

: Khả năng sinh lời trên tài sản

: Tỷ lệ đòn bẩy ngân

: Biên lãi ròng

: Tỷ lệ cho vay

: Tỷ lệ nợ xấu

: Tỷ lệ huy động vốn

17

: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Phần dư mô hình

3.3 Xây dựng giả thuyết nghiên cứu

Hệ số an toàn vốn (CAR)

Hệ số an toàn vốn (CAR) hay tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là một chỉ tiêu quan

trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nó được xem như là một chỉ tiêu

tiêu biểu nhằm giúp ngân hàng hay những nhà đầu tư có thể nhìn thấy được mức độ

rủi ro của mỗi ngân hàng. Nó là thước đo mức độ an toàn của một ngân hàng, là

một “tấm đệm rủi ro” nhằm giúp ngân hàng có thể chống lại những cú sốc về tài

chính, có thể bảo vệ được mình và bảo vệ những khách hàng của ngân hàng mình.

Trong đó, cách tính CAR của các ngân hàng Việt Nam hiện tại theo Thông tư số

36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2015 của Ngân hàng nhà nước quy định về các giới

hạn, tỷ lệ đảm bảo trong hoạt động của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng

nước ngoài.

Quy mô ngân hàng (SIZE)

Quy mô ngân hàng được xác định bằng logarit tự nhiên tổng tài sản. Quy mô

được kỳ vọng sẽ có mối ảnh hưởng tích cực đến hệ số an toàn vốn. Vì một ngân

hàng gia tăng quy mô thì họ sẽ tăng thêm vốn để có thể đảm bảo theo các yêu cầu

vốn của ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên biến số này có thể có ảnh hưởng tích cực

hoặc tiêu cực phụ thuộc vào cách chọn lựa cơ cấu tài sản và chiến lược kinh doanh

của mỗi ngân hàng. Nếu một ngân hàng theo đuổi chiến lược tăng quy mô từ tăng

trưởng tín dụng chẳng hạn có thể gây ra sự sụt giảm hệ số an toàn vốn bởi việc tăng

trưởng tín dụng là một chiến lược có rất nhiều rủi ro.

Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA)

Là tỷ số giữa lợi nhuận sau thuế và tổng tài sản. Tỷ số thường có tác động tích

cực đến hệ số an toàn vốn. Ngân hàng có khả năng sinh lời cao và ổn định có khả

18

năng tích lũy vốn nhiều hơn. Đồng thời, kinh doanh có lãi cũng cho thấy rằng ngân

hàng có một thệ thống quản trị rủi ro hiệu quả. Tuy nhiên, có những ngân hàng theo

đuổi mục tiêu lợi nhuận cao nên phải chấp nhận đánh đổi bằng những chiến lược có

mức độ rủi ro cao hơn.

Tỷ lệ đòn bẩy (LEV)

Tỷ lệ đòn bẩy được tính bằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Biến này

được kỳ vọng có tác động tích cực đến hệ số an toàn vốn. Chỉ số này tăng tức mức

độ sử dụng vốn chủ sở hữu tăng, sẽ giúp làm tăng vốn tự có, dẫn đến hệ số CAR

tăng.

Biên lãi ròng ngân hàng (NIM)

Biên lãi ròng ngân hàng (hay thu nhập lãi thuần) được tính bằng tỷ lệ giữa thu

nhập lãi và tổng tài sản sinh lời của ngân hàng, đây là một chỉ tiêu tiêu biểu xác

định khả năng sinh lời của một ngân hàng. Một hoạt động của ngân hàng thương

mại thường đến từ cho vay, tuy nhiên sẽ có thêm vài hoạt động khác như kinh

doanh chứng khoán, công cụ phái sinh, bảo lãnh, giao dịch ngoại hối nhằm tăng khả

năng sinh lời. Tuy nhiên cho vay – huy động vẫn là hoạt động chủ yếu. Như vậy,

nếu một ngân hàng có khả năng phân bổ tốt vào những tài sản có khả năng sinh lãi

cao, hiệu quả thì sẽ có NIM cao. Và biến này kỳ vọng có tác động tích cực đến

CAR.

Tỷ lệ cho vay (LOA)

Tỷ lệ cho vay được tính bằng tổng dư nợ trên tổng tài sản. Đây là một hệ số

quan trọng khi nó thể hiện sự cân bằng giữa đa dạng hoá đầu tư và xây dựng các cơ

hội đầu tư. Nó đo lường sự ảnh hưởng của những khoản vay đến danh mục tài sản

vốn. Tỷ lệ này cao dễ dẫn đến việc giảm khả năng thanh khoản kéo theo xác suất vỡ

nợ cao. Biến này được cho là tác động tiêu cực với hệ số an toàn vốn.

Tỷ lệ nợ xấu (NPL)

Tỷ lệ nợ xấu được tính bằng tỷ lệ nợ xấu chia cho tổng nợ. Nó được cho là tác

động tiêu cực với hệ số CAR. Một ngân hàng có nhiều nợ xấu, sẽ dẫn đến việc trích

lập dự phòng tăng, tốn nhiều chi phí. Tuy nhiên, nó cũng có thể có tác động cùng

19

chiều khi mà ngân hàng có nhiều nợ xấu, các ngân hàng sẽ gia tăng vốn để đảm bảo

ạn toàn vốn.

Tỷ lệ huy động vốn (DEP)

Tỷ lệ huy động vốn là tỷ lệ huy động tiền gửi trên tổng tài sản. Tiền gửi được

xem là nguồn tài chính với chi phí thấp so với vay mượn và các công cụ tài chính

khác. Gia tăng huy động được mong đợi sẽ có mối quan hệ tiêu cực với CAR. Vì

khi đã có được nguồn vốn này, các ngân hàng sẽ tìm đến các khoản đầu tư có rủi ro

hơn để duy trì gia tăng lợi nhuận.

Tốc độ phát triển kinh tế Việt Nam (GDP)

GDP: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam là chỉ số được đo lường thông qua

mức tăng trưởng của hàng hóa thành phẩm và các sản phẩm dịch vụ được sản xuất

trong nước trong một khoảng thời gian cụ thể. Một vấn đề đặt ra rằng, các ngân

hàng có thể sẽ bị những tổn thất do những rủi ro có thể xảy ra trong bối cảnh nền

kinh tế bị suy thoái, do đó, họ sẽ thường nắm nhiều vốn hơn nhằm giảm bớt những

tổn thất tiềm ẩn. Do đó, tăng trưởng kinh tế được mong đợi có mối quan hệ tiêu cực

với hệ số CAR.

Bảng 3.1 Tổng hợp các giả thuyết nghiên cứu

Ký Mối quan Các biến Cách xác định hiệu hệ

Biến phụ thuộc

Hệ số an toàn vốn CAR

Biến độc lập

Logarit tự nhiên tổng tài sản Quy mô ngân hàng SIZE + (LNSIZE)

Tỷ suất lợi nhuận trên Lợi nhuận sau thuế chia tổng tài ROA tổng tài sản sản +/-

Tỷ lệ đòn bẩy LEV VCSH chia cho tổng tài sản +

Thu nhập lãi thuần NIM Thu nhập lãi thuần chia cho tài sản +

20

sinh lãi

Tổng dư nợ cho vay chia cho tổng Tỷ lệ cho vay LOA - tài sản

Tỷ lệ nợ xấu (nợ nhóm 3-4-5) chia Tỷ lệ nợ xấu NPL +/- cho tổng nợ

Tỷ lệ huy động DEP Tổng tiền cho vay trên tổng tài sản -

Tốc độ phát triển kinh Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt GDP - tế Nam

3.4 Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Bảng 3.2 Thống kê mô tả các biến

Biến quan sát Số quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất

270 14.19% 5.36% 8.02% 54.92% CAR

270 0.70% 0.72% -5.51% 4.73% ROA

270 32.212 1.157 29.738 34.811 SIZE

270 9.49% 4.24% 3.26% 25.64% LEV

270 54.54% 13.18% 14.73% 80.75% LOA

270 2.40% 1.52% 0.34% 11.40% NPL

270 2.81% 1.32% -1.98% 8.17% NIM

270 6.21% 0.65% 5.03% 7.08% GDP

270 63.19% 14.62% 4.72% 89.37% DEP

Nguồn: Theo kết quả chạy mô hình của tác giả trên STATA 14

Mẫu dữ liệu nghiên cứu tổng hợp từ báo cáo thường niên của 30 ngân hàng Việt

Nam trong khoảng thời gian từ 2010 – 2018. Tổng cộng có 270 biến quan quát.

Trong đó giá trị trung bình CAR toàn hệ thống ngân hàng là 14,19%. Trong đó chú

ý là mức CAR nhỏ nhất chỉ có 8,02% của ngân hàng Vietinbank vào năm 2010,

chưa đáp ứng được quy định của Ngân hàng Nhà nước tại Thông tư 13/TT-NHNN

do tiến độ tăng vốn điều lệ từ cổ đông nước ngoài chưa đạt được như kế hoạch của

ngân hàng. Đến ngày 10/3/2011, sau khi IFC hoàn tất thủ tục góp vốn, hệ số CAR

21

của VietinBank đã đạt mức > 9% (theo báo cáo thường niên ngân hàng Vietinbank

năm 2010 ngày 10/3/2011). Như vậy nhìn chung hệ số an toàn vốn các ngân hàng

đều cao hơn mức quy định của NHNN là 9%. Trung bình ROA khoảng 0,7%,

khoảng cách giữa ROA tối thiểu -5,51% và mức tối đa là 4,73% là khá lớn.

Bảng 3.3 Hệ số tương quan giữa các biến

CAR ROA SIZE LEV LOA NPL NIM GDP DEP

1 CAR

1 ROA 0.161

-0.574 0.014 1 SIZE

0.288 -0.731 1 LEV 0.715

1 -0.155 0.103 0.306 -0.093 LOA

1 0.112 -0.095 -0.088 0.105 -0.076 NPL

1 -0.060 0.352 0.274 -0.053 NIM 0.267 0.611

1 -0.136 0.049 0.164 -0.221 0.244 -0.342 -0.135 GDP

1 -0.273 -0.141 0.366 -0.056 0.053 0.129 DEP -0.281 0.587

Nguồn: Theo kết quả chạy mô hình của tác giả trên STATA 14

Ma trận tương quan trong bảng cho thấy CAR (biến phụ thuộc) có tương quan

dương với ROA, LEV, NPL và NIM. Tuy nhiên SIZE, LOA, GDP và DEP có mối

tương quan âm với hệ số an toàn vốn. Qua bảng ta thấy có 2 cặp biến có khả năng

xảy ra đa cộng tuyến là tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) với thu nhập lãi thuần

(NIM) ; tỷ lệ cho vay (LOA) với tỷ lệ huy động (DEP). Do đó để xác định hiện

tượng đa cộng tuyến có tồn tại hay không, nghiên cứu sử dụng kiểm định hệ số

phóng đại phương sai (Variance Inflation Factor – VIF) để kiểm tra cho dữ liệu

bảng thông qua lệnh Collin trong STATA. Kết quả cho thấy VIFs đều nhỏ hơn 10,

do đó không có dấu hiệu của đa cộng tuyến giữa các biến này trong mô hình.

22

Kết quả xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến hệ số an toàn vốn

Trong nghiên cứu này phương pháp ước lượng được sử dụng ban đầu là mô hình

ảnh hưởng cố định FEM và mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên REM. Sau đó, sẽ dùng

kiểm định Hausman chọn ra mô hình phù hợp và kết luận. Tuy nhiên, trong mô hình

vẫn còn tồn tại vấn đề nội sinh và hiện tượng phương sai thay đổi, dẫn đến kết quả

ước lượng FEM và REM không còn hiệu quả. Để giải quyết vấn đề đó, nghiên cứu

tiến hành kiểm định các khuyết tật của mô hình. Cuối cùng, nghiên cứu sử dụng

phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát khả thi GLS áp dụng cho các biến đã

được biến đổi từ một mô hình vi phạm các giả thiết cổ điển thành một mô hình mới

thoả mãn các giả thiết cổ điển.

23

Bảng 3.4 Kết quả tóm tắt hồi quy sử dụng phương pháp FGLS.

Biến quan sát Biến phụ thuộc CAR

-1.315*** ROA

[-4.34]

-0.00400* SIZE

[-1.86]

0.656*** LEV

[9.63]

-0,00613 LOA

[-0.39]

0,0758 NPL

[0.86]

0.461*** NIM

[3.52]

0,145 GDP

[0.74]

-0.0248** DEP

[-2.00]

_cons 0.210***

[2.94]

*** p < 0.01 ; ** p < 0.05 ; * p< 0.10

Nguồn: Theo kết quả chạy mô hình của tác giả trên STATA 14

Thứ 1, Không giống theo giả định ban đầu là tỷ suất sinh lợi trên tài sản có tác

động cùng chiều với hệ số CAR. Kết quả cho thấy khi ROA tăng 1% sẽ làm giảm

hệ số CAR 1,31 với mức ý nghĩa 1%. Phù hợp kết quả nghiên cứu TS Thân Thị Thu

Thủy và Ths Nguyễn Kim Chi (2015) khi nghiên cứu các ngân hàng ở Việt Nam

giai đoạn 2007 - 2013. Tuy nhiên theo nghiên cứu Gropp và Heider (2007) tại các

24

ngân hàng ở Châu Âu tỷ lệ ROA này lại có mối quan hệ cùng chiều. Theo nghiên

cứu đó, các ngân hàng Châu Âu với chi phí tài trợ thấp, ngân hàng dễ dàng dùng lợi

nhuận giữ lại để tăng vốn chủ sở hữu. Từ đó làm tăng hệ số CAR. Thêm nữa, nếu

các ngân hàng hoạt động có thu nhập cao đồng nghĩa ngân hàng có hệ thống quản lý

rủi ro tốt, làm giảm rủi ro.

Thứ 2, Tổng tài sản có tác động ngược chiều với hệ số an toàn vốn. Với mức ý

nghĩa 5%, khi quy mô tăng 1% sẽ làm cho CAR giảm 0,048%. Như vậy, khi các

ngân hàng tại Việt Nam càng mở rộng quy mô thì tỷ lệ an toàn vốn sẽ càng giảm.

Bởi sự gia tăng quy mô ngân hàng chủ yếu đến từ các tài sản sinh lời dưới hình thức

cho vay hoặc đầu tư vào các tài sản rủi ro. Và khi có sự gia tăng các khoản vay hay

các công cụ tài chính sẽ gia tăng thêm rủi ro cho ngân hàng. Theo quy định về cách

vốn hệ số an toàn vốn, việc gia tăng tín dụng (các khoản vay) và các công cụ tài

chính sẽ có hệ số có rủi ro cao, làm CAR giảm. Và điều này cũng đúng đối với tình

hình tại Việt Nam, khi các ngân hàng thuộc nhóm ngân hàng quốc doanh như

Vietcombank, BIDV hay Vietinbank...,với tổng tài sản rất lớn thường có xu hướng

kinh doanh rủi ro hơn, hệ số CAR lại rất thấp, hầu như chỉ ở mức quy định tối thiểu

9%. Kết quả cũng phù hợp nghiên cứu của Leila Bateni, Hamidreza Vakilifard và

Farshid Asghari (2014) khi xem xét hệ thống ngân hàng tư nhân tại Iran giai đoạn

2006-2012 hay kết quả của Alder Haymans Manurung và cộng sự khi nghiên cứu

ảnh hưởng của các yếu tố đến hệ số CAR ngân hàng tại Indonesia giai đoạn 2004 -

2012.

Thứ 3, Chỉ tiêu LEV – đòn bẩy tài chính. Với mức ý nghĩa 1% thỉ LEV tăng 1%

làm hệ số CAR tăng 0,65%. Chỉ tiêu này tăng chứng tỏ mức độ sử dụng vốn chủ sở

hữu ngân hàng tăng, làm cho vốn cấp 1 tăng dẫn đến tăng hệ số CAR. Điều này phù

hợp với thực trạng các ngân hàng tại Việt Nam hiện nay. Nhằm đảm bảo an toàn

vốn trong hoạt động cũng như tăng cường mức cạnh tranh các ngân hàng trong

nước. NHNN ban hành các thông tư quy định an toàn vốn, dưới áp lực kế hoạch

vốn điều lệ ngân hàng tối thiểu 3 nghìn tỷ, và các ngân hàng đã đồng loạt tăng vốn

với nhiều biện pháp khác nhau để đáp ứng những yêu cầu này.

25

Thứ 4, biên lợi nhuận ròng NIM có mối quan hệ cùng chiều với hệ số an toàn

vốn. Khi NIM tăng 1% thì CAR sẽ tăng 0,46%. Tỷ lệ NIM cao là một dấu hiệu

quan trọng cho thấy ngân hàng đang thành công trong việc quản lý tài sản và thành

công trong việc tạo lợi nhuận. Kết quả này cũng phù hợp nghiên cứu của Phạm Thị

Xuân Thoa và Nguyễn Ngọc Anh (2017) nghiên cứu dữ liệu 29 ngân hàng Việt

Nam giai đoạn 2011-2015. Tương tự ROA, việc NIM tăng là một dấu hiệu tích cực

trong hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên tại Indonesia, theo Pamuji Gesang Raharjo

(2014) NIM lại không có ý nghĩa thống kê.

Thứ 5, kết quả cho thấy tỷ lệ huy động có tác động ngược chiều với hệ số an

toàn vốn. Với mức ý nghĩa 5% khi tăng 1% tỷ lệ DEP sẽ làm CAR giảm 0,02%. Kết

quả này tương tự như nghiên cứu của Trần Đức Minh, Lưu Thị Nga (2018) các

ngân hàng tại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2016. Cũng phù hợp với nghiên cứu

của Serhat và Mastafa (2016) khi nghiên cức các ngân hàng ở Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn

2005-2016. Nguồn tiền gửi là nguồn huy động giá rẻ so với các nguồn huy động

khác như phát hành trái phiếu hay chứng khoán hóa các khoản vay. Do đó, rủi ro

đối với hình thức huy động từ tiền gửi là thấp. Do đó, các ngân hàng thông thường

sẽ giảm đi lượng vốn dự phòng đối với các khoản huy động trên, dẫn đến giảm hệ

số an toàn vốn.

Nghiên cứu mô hình này tác giả lại không tìm thấy sự tác động của các yếu tố

còn lại tác động đến hệ số an toàn vốn. Đó là các biến tỷ lệ cho vay (LOA), tỷ lệ nợ

xấu (NPL) và tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP).

26

4 CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BASEL TẠI VIỆT NAM VÀ

KHẢ NĂNG ÁP DỤNG BASEL III

4.1 Thực trạng áp dụng Basel tại Việt Nam

Tính đến năm 2017, đã có 27 nước thành viên của BCBS đã thực hiện các quy

định về vốn an toàn tối thiểu theo mức độ rủi ro tài sản, tỷ lệ vốn dự trữ chống đỡ

các cú sốc chu kỳ, tỷ lệ thanh khoản hay tỷ lệ đòn bẩy theo tiêu chuẩn Basel III.

Trong đó có những thành viên của những nước đang phát triển như Indonesia, Ấn

Độ bên cạnh những khu vực đã phát triển như Singapore, Nhật, Trung Quốc và Hàn

Quốc. Và có hơn 100 nước phi thành viên của BCBS đã có những chiến lược nhằm

thực thi Basel III.

Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cũng đã có những định

hướng triển khai áp dụng Basel vào việc quản trị rủi ro hệ thống ngân hàng và xem

đó là một chiến lược trọng tâm của ngành. Từ đó xây dựng ra những đề án phát

triển ngành ngân hàng theo từng giai đoạn, ban đầu là Đề án “Phát triển triển ngành

ngân hàng Việt Nam đến 2010 và định hướng đến năm 2020” ban hành theo Quyết

định 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Gần đây nhất

là Quyết định “Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025 và

định hướng 2020” theo Quyết định 986/QĐ-TTg ngày 08/08/2018. Trên cơ sở đó,

NHNN đã có Công văn số 1601/NHNN-TTGSNH ngày 17/03/2014 lựa chọn 10

Ngân hàng thí điểm triển khai Basel II gồm: Vietcombank, Vietinbank, BIDV, MB,

Techcombank, ACB, VIB, VPBank, Sacombank, Maritimebank và lộ trình sau đó

sẽ tiến tới triển khai toàn bộ đối với tất cả các ngân hàng trong nước. Quy định đảm

bảo an toàn vốn ban đầu được thể hiện trong Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày

20/05/2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Tuy nhiên Thông tư này chỉ đề cập

đến tài sản có điều chỉnh theo rủi ro tín dụng và quy định về vốn tối thiểu trong hoạt

động ngân hàng là 9% và vẫn chưa đề cập đến hai rủi ro còn lại trong Basel là rủi ro

hoạt động và rủi ro thị trường. Bốn năm sau, ban hành thông tư 36/2014/TT-NHNN

ngày 20/11/2014 thay thế (Thông tư 13) quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo trong

27

hoạt động của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài và Thông tư

06/2016-NHNN nhằm sửa đổi và bổ sung thêm một số điều khoản nhằm tạo lập

những chuẩn mực mới về quản trị, an toàn hơn cho hoạt động ngân hàng, đáp ứng

các yêu cầu giám sát hệ thống ngân hàng trong giai đoạn mới. Tháng 12/2016 ban

hành Thông tư 41/2016/TT-NHNN dự định có hiệu lực từ 01/01/2020 với nhiều

điểm thay đổi so với thông tư 36 như hệ số an toàn vốn giảm còn 8%, tăng hệ số rủi

ro đối với các tài sản có rủi ro là từ 0-250% (Thông tư 36 là từ 0-200%). Đã bổ

sung thêm việc tính toán cho rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Điều này cho

thấy rằng, vốn tối thiểu ngân hàng cần duy trì không chỉ dùng để bù đắp cho những

tổn thất tín dụng mà còn bù đắp tổn thất trong quá trình vận hành của ngân hàng,

tổn thất thay đổi của thị trường như lãi suất hay tỷ giá. Do đó việc NHNN quyết liệt

trong việc ban hành các Thông tư quy định nhằm bám sát các tiêu chuẩn Basel hiện

tại đối với các ngân hàng nhằm giúp thu hẹp khoản cách về chuẩn mực giữa hoạt

động ngân hàng Việt Nam với hệ thống ngân hàng trên thế giới.

Tuy vậy, hiện tại các ngân hàng tại Việt Nam vẫn còn đang tồn đọng khá nhiều

vấn đề chưa được xử lý như vấn đề nợ xấu, quản trị rủi ro, các yêu cầu vốn chưa

đáp ứng được các quy định thông lệ quốc tế. Đặc biệt là áp lực tăng vốn khi mà

Thông tư 41 quy định về tỷ lệ an toàn vốn với những yêu cầu khắt khe hơn để đáp

ứng theo chuẩn Basel có hiệu lực vào đầu năm 2020, hoàn tất việc đáp ứng chuẩn

mực theo chuẩn Basel II tại 10 ngân hàng thí điểm Basel trước năm 2020 và đến

2025 tất cả các ngân hàng còn lại cũng phải hoàn tất áp dụng Basel II theo phương

pháp tiêu chuẩn để từ đó triển khai thí điểm theo phương pháp nâng cao và cũng có

thể tiến đến việc thực hiện theo các tiêu chuẩn Basel III. Từ trước đến nay, các ngân

hàng tại Việt Nam hiện tại chủ yếu tăng vốn tự có như phát hành chứng chỉ dài hạn

để tăng vốn cấp 2 hoặc thông qua việc phát hành các trái phiếu dài hạn (các ngân

hàng thường phát hành trái phiếu dài hạn để mua lẫn nhau và tăng vốn cho nhau).

Hoặc thông qua các hình thức “lách luật” như một một ngân hàng cho một doanh

nghiệp và các công ty có liên quan vay vốn, sau đó doanh nghiệp và các công ty có

liên quan này sẽ góp vốn vào một ngân hàng khác. Như vậy, bản chất là vốn ngân

28

hàng có gia tăng nhưng thực chất chỉ là việc dòng tiền chỉ đi từ ngân hàng này sang

ngân hàng khác thông qua việc sở hữu chéo. Bởi hiện tại việc tăng vốn điều lệ

(thành phần chính của vốn cấp 1) chưa thể thực hiện được do nguồn lực trong nước

còn hạn chế, nên việc tăng vốn tự có cấp 2 là điều cần thiết. Nếu như đối với các

ngân hàng TMCP việc tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành cổ phiếu thường hay từ

lợi nhuận giữ lại là dễ thực hiện thì đối với các ngân hàng có vốn nhà nước chi phối

thì lại gặp nhiều khó khăn hơn. Do bị ràng buộc về các tỷ lệ sở hữu nhà nước và

nước ngoài. Như tại ngân hàng Vietinbank, trong những năm gần đây gặp nhiều khó

khăn trong việc tăng vốn cấp 1, tỷ lệ CAR ngân hàng đang chạm đáy ngưỡng quy

định tối thiểu. Thậm chí buộc phải giảm quy mô dư nợ để có thể đảm bảo chỉ tiêu

an toàn vốn này. Tỷ lệ sở hữu nhà nước của ngân hàng này đang đạt mức 65% (mức

quy định tối thiếu) và tỷ lệ sở hữu nước ngoài đã “hết room” khi đã đạt 30% (mức

tối đa). Do đó, để có thể phát hành cổ phiếu riêng lẻ hoặc tăng vốn từ nhà đầu tư

nước ngoài thì cần phải được thông qua luật thí điểm Ngân hàng nhà nước chiếm

51% theo chiến lược phát triển ngành ngân hàng được thông qua. Do đó, chỉ còn

cách duy nhất là giữ lại cổ tức hoặc trả cổ tức bằng cổ phiếu. Tuy nhiên, nguồn lực

ngân sách nhà nước thì có hạn, cần nguồn để bù nên việc này cũng gây khó khăn

cho các ngân hàng quốc doanh khi mà phải chi trả cổ tức bằng tiền mặt nộp vào

ngân sách nhà nước. Vì thế, trong tương lai ngân hàng này cần có chiến lược kinh

doanh phù hợp hơn để có thể đáp ứng các yêu cầu về vốn được quy định.

Tính đến thời điểm cuối năm 2018, hiện chỉ có 2 ngân hàng được công nhận đạt

chuẩn Basel II là Vietcombank và VIB (2/10 ngân hàng thí điểm). Từ đó nhận thấy

một điều rằng, để tiến đến việc đạt chuẩn Basel III đối với các ngân hàng tại Việt

Nam sẽ còn gặp nhiều khó khăn, thách thức cũng như thời gian dài hơn để có thể

tiếp cận.

29

Bảng 4.1 Vốn điều lệ tăng thêm của các ngân hàng trong năm (2018).

Đơn vị tính: Tỷ đồng

Vốn điều lệ +/- % Ngân hàng 31.12.2017 31/21/2018 Vốn điều lệ tăng thêm

11,655 15,706 5,842 5,644 5,000 3,249 10,273 18,155 6,460 5,000 3,000 11,197 30,345 37,234 34,187 35,978 18,852 12,355 14,295 3,010 9,810 3,080 5,466 3,000 11,750 3,500 5,319 3,021

23,311 200% 34,966 61% 9,593 25,300 47% 2,724 8,566 39% 2,190 7,835 32% 1,599 6,599 26% 856 4,105 25% 2,613 12,886 19% 3,449 21,605 16% 1,040 7,500 10% 500 5,500 8% 237 3,237 7% 839 12,036 0% 30,473 128 0% 37,234 - 0% 34,187 - 0% 35,978 - 0% 18,852 - 0% 12,355 - 0% 14,295 - 0% 3,010 - 0% 9,810 - 0% 3,080 - 0% 5,466 - 0% 3,000 - 0% 11,750 - 0% 3,500 - 0% 5,319 - 0% 3,021 - 0% - 0% - 9,000 3,000 9,000 3,000 TCB VPB TPBANK VIB OCB VIETBANK ACB MBB LIEN VIET BAC A BANK KLB SHB AGRIBANK CTG BID VCB STB EIB SCB NCB HDBANK SGB SEABANK PGBANK MSB VIET A BANK ABB NAM A PVCOMBANK VIETCAPITAL BANK

(Nguồn: Báo cáo thường niên của các ngân hàng)

30

4.2 So sánh tiêu chuẩn an toàn vốn theo Basel III và thông tư tại Việt Nam

Theo thông tư 36 hệ số an toàn vốn tối thiểu quy định là 9%, theo thông tư 41 là

8% bằng mức hiện tại của Basel III và được bổ sung thêm yêu cầu về vốn cho rủi ro

hoạt động và rủi ro thị trường (hiệu lực từ 01/01/2020). Trong thông tư 36 không

phân vốn cấp 1 như Basel III và cũng không quy định cụ thể vốn cấp 1 đạt bao

nhiêu phần trăm tổng tài sản có rủi ro, trong khi đó Basel III yêu cầu vốn cấp 1 đạt

tối thiểu 6% tổng tài sản có rủi ro, vốn cổ phần phổ thông trong vốn cấp 1 ít nhất là

4,5% tổng tài sản có rủi. Như vậy, nếu xét theo Basel III rõ ràng có rất nhiều khắt

khe hơn, vốn cấp 1 theo định nghĩa của Việt Nam rộng hơn nhiều so với vốn cấp 1

theo định nghĩa Basel III vì vốn dĩ bản chất Basel III quy định hệ số CAR chặt chẽ

là nhằm mục đích chính là ràng buộc trách nhiệm của chủ sở hữu với rủi ro của

ngân hàng. Nếu nhìn sang các nước cùng khu vực Đông Nam Á, tại Singapore, cơ

quan tiền tệ Singapore (MAS) đa quy định : “Mỗi ngân hàng tại Singapore đều

mang tầm quan trọng đối với hệ thống. Tỷ lệ vốn cao sẽ giúp hoạt động vững vàng

hơn trong các điều kiện căng thẳng”. Khi mà MAS quy định các ngân hàng này phải

đáp ứng tỷ lệ vốn cổ phần thường (common quity tier 1 – CET 1) tối thiểu là 6,5%

trong năm 2019, cao hơn mức quy định của Basel III là 2%. Hay NHTW – Bangko

Sentral of Philipnas (BSP) ban hành một dự thảo về các yêu cầu Basel III tại các

ngân hàng thương mại Philipin từ năm 2012 với mức CET 1 phải đạt 6%, tổng vốn

cấp 1 đạt 7,5% và hệ số an toàn vốn CAR là 10%. Các mức này đều cao hơn mức

quy định của Basel.

Với vốn cấp 2, Thông tư 36 quy định một số khoản loại trừ, đưa ra các giới hạn

xác định vốn cấp 2 (Basel III không yêu cầu) và vốn cấp 2 lại được phép chiếm tỷ lệ

lớn tài sản có rủi ro (tổng giá trị vốn cấp 2 tối đa bằng 100% giá trị vốn cấp 1) làm

cho tỷ số CAR không giống mục đích của Basel.

Về phần mẫu số trong cách tính CAR, Thông tư tại Việt Nam lại áp đặt các

chuẩn hệ số rủi ro theo từng loại tài sản của ngân hàng theo kiểu “cà bằng” và “đơn

giản”, chỉ dựa vào đối tượng khách hàng và tàu sản nên chưa đánh giá được chính

xác cụ thể từng mức độ rủi ro của các khoản vay và mức độ rủi ro riêng của mỗi

31

khách hàng. Chẳng hạn, mức độ rủi ro cho vay khách hàng kinh doanh bất động sản

đã hình thành và tài sản hình thành trong tương lại là hoàn toàn không giống nhau

nhưng đều được quy định hệ số rủi ro là 200%, hay mức độ rủi ro giữa cho việc ứng

trước tiền bán chứng khoán và cho vay cầm cố chứng khoán cũng khác nhau nhưng

quy định hệ số rủi ro chung là 150%. Theo Basel bên cạnh tính toán hệ số rủi ro, nó

không chỉ phụ thuộc vào tài sản bảo đảm hay nhóm khách hàng mà nó còn phụ

thuộc vào độ nhạy rủi ro trong trong mỗi loại và hệ số tín nhiệm từng khách hàng

dao động từ mức 0% - 150%. Bên cạnh việc tính tổng tài sản có rủi ro, mẫu số theo

Basel còn gồm 12,5 lần tổng vốn quy định nhằm dự phòng cho rủi ro thị trường và

rủi ro vận hành.Và Basel III khuyến khích các ngân hàng tự tính toán rủi ro của

chính ngân hàng và báo cáo lại NHNN, NHNN sẽ kiểm tra độ chính xác và chất

lượng từ những báo cáo này và sẽ đưa ra những định hướng cho ngân hàng. Như

vậy, các quy định về hệ số an toàn vốn tại Việt Nam sẽ dễ gây “hiểu lầm” làm cho

các ngân hàng khi gặp áp lực về gia tăng hệ số CAR sẽ theo hướng gia tăng việc

cấp tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo thay vì cơ cấu lại danh mục tài sản đảm bảo

theo hướng giám đi, từ đó ngân hàng dễ dàng chấp nhận những khách hàng có chất

lượng tín dụng không cao, gia tăng thêm rủi ro cho ngân hàng.

Tại Việt Nam cũng không yêu cầu tỷ lệ đòn bẩy, không đề cập chỉ tiêu tỷ lệ ổn

định ròng (NSFR). Đề cập đến chỉ tiêu khả năng thanh toán trong 30 ngày tới

(LCR) nhưng chỉ yêu cầu tối thiểu là 50%, trong khi đó Basel III quy định là 100%.

Thông tư 36 cũng không đề cập đến bất kỳ vốn đệm dự phòng cần thiết nào và vẫn

chưa đề cập đến việc tính toán đến rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Theo ý kiến

của nhiều chuyên gia phân tích, CAR hiện tại của Việt Nam thấp hơn theo cách tính

Basel II/III là khoảng 1-1,5%.

32

Bảng 4.2 So sánh Thông tư 36 tại Việt Nam và các chỉ tiêu Basel III

Thời gian thực hiện Chỉ tiêu Chỉ tiêu cụ thể Việt Nam quy định Basel III Việt Nam Basel III

CAR = CAR =

CAR

Tỷ lệ VCSH tối thiểu 4,5% -

Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu 6% -

8% Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu 9% Từ Tỷ lệ an

01/02/2015 toàn vốn 2,5% - Vốn đệm bảo toàn vốn

- Vốn dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ 0% - 2,5%

- Chống rủi ro hệ thống trọng yếu 1%

33

Tỷ lệ giữ vốn cấp 1 so với tổng tài sản có Tỷ lệ đòn - 3% chưa cộng các khoản mục ngoại bảng bầy

Tỷ lệ nợ Nợ xấu / Tổng dư nợ 3% Không quy định xấu

Từ LCR 50% 60%-100% Tính thanh 01/01/2015

khoản NSFR - Tối thiểu 100%

Nguồn: Tác giả tổng hợp

34

Hình 4.1 Hệ số CAR tại Việt Nam và các nước trên thế giới giai đoạn 2013-

2018

Nguồn: Dữ liệu IMF

Nhìn chung, hệ số an toàn vốn tại Việt Nam đang còn khá thấp so với các nước

trên thế giới. Từ đó, các ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng tăng

trưởng quy mô tín dụng nhằm tài trợ các nguồn vốn đáp ứng các yêu về kinh tế. Khi

mà việc tăng trưởng GDP tại Việt Nam vẫn còn đang phụ thuộc trông chờ vào việc

tăng trưởng tín dụng.

Tóm lại, quy định về an toàn vốn hiện tại của Việt Nam đang khá hạn chế, để

tiến tới việc tuân thủ hoàn toàn hiệp ước Basel II và cao hơn là Basel III với những

chuẩn mực cao hơn như vốn cấp 1 khắt khe hơn, các biện pháp đối phó với biến

động chu kỳ, tuân thủ về tỷ lệ đòn bẩy và thanh khoản sẽ là một chặng đường gian

nan đầy thử thách của NHNN cũng như các ngân hàng tại Việt Nam.

35

5 CHƯƠNG 5: KHÓ KHĂN, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ

5.1 Khó khăn khi triển khai hiệp ước Basel

Chi phí thực hiện khá lớn

Việc triển khai thực hiện ứng dụng BaselII/III vào quản trị rủi ro đòi hỏi phải có

nguồn tài chính rất lớn, mức chi phí cũng sẽ khác nhau giữa các ngân hàng vì nó

phụ thuộc vào tính chất quy mô, độ phức tạp của ngân hàng. Theo ước tính của Cơ

quan Ngân hàng ở Châu Âu, 42 ngân hàng hàng đầu ở Châu Âu cần bổ sung thêm

khoảng hơn 70 tỷ EUR để có thể đáp ứng các quy định nghiêm ngặt Basel III. Hay

như Ấn Độ cũng tiến thoái lưỡng nan khi cần 1 tỷ USD cho cơ sở hạ tầng, xây dựng

nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo các chuyên gia phân tích các ngân hàng Việt

Nam, chi phí vận hành để thực hiện hệ thống Basel đối với các ngân hàng nhỏ tốn

khoảng 10 triệu USD, các ngân hàng lớn có thể lên đến 200 triệu USD, con số này

được xem là quá lớn nếu so sánh với mức vốn chủ sở hữu hay mức vốn điều lệ yêu

cầu cho các ngân hàng tại Việt Nam, khi mà 3.000 tỷ đồng sẽ được quyền mở ngân

hàng. Hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings vừa ra báo cáo đánh giá về nhu cầu

vốn ngắn hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Theo đánh giá của Fitch, hệ thống

ngân hàng Việt Nam có thể phải đối mặt với mức thiếu hụt vốn gần 20 tỷ USD

(tương đương 9% GDP) để đáp ứng việc triển khai tiêu chuẩn Basel II, dự kiến sẽ

áp dụng từ 1/1/2020. Như vậy có thể thấy rằng, chi phí thực hiện theo chuẩn Basel

khá lớn khi mà các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới cũng có nhiều

khó khăn trong việc dùng các chi phí này thì đối với Việt Nam lại là một vấn đề khó

khăn hơn.

Nguồn nhân lực chất lượng cao

Đây là vấn đề chung đối với tất cả các ngân hàng thương mại cũng như đối với

cơ quan giám sát ngân hàng như Ngân hàng Nhà nước. Qua các chuẩn mực Basel,

ta thấy rằng các chuẩn mực luôn đòi hỏi những chuyên viên phụ trách cần có tầm

nhìn nhất định, giỏi về cả kiến thức lẫn việc quản trị ngân hàng. Để từ đó có thể

phân tích đưa ra những dự báo chuẩn xác cho những khả năng xảy ra sắp tới.

36

Thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp và chưa xây dựng

được hệ thống cơ sở dữ liệu tốt

Theo chuẩn Basel II/III các ngân hàng dựa vào rất nhiều yếu tố để có thể xác

định được các hệ số rủi ro theo từng tài sản liên quan đến từng nhóm đối tượng khác

nhau, mà việc này lại đến từ kết quả của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập.

Mà hiện tại hầu như mô hình xếp hạng này lại đến từ mỗi ngân hàng đó, nhằm chỉ

mục đích thẩm định xem xét khả năng vay vốn của khách hàng, ít được thông tin

hay phổ biến rộng rãi. Từ đó dẫn đến việc “ngân hàng nào ngân hàng đó lo” và phụ

thuộc vào khẩu vị rủi ro riêng của ngân hàng mà mô hình có thể khác nhau.

Khó khăn về môi trường thông tin, tính minh bạch và độ tin cậy của các cơ quan

cung cấp tại Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Các thông tin về báo cáo tài chính của

các doanh nghiệp chưa bắt buộc phải thông qua kiểm toán, nên độ tin cậy không

cao, không phản ánh được thực trạng thật sự của doanh nghiệp. Và đặc biệt nguồn

thông tin bất cân xứng tại thị trường tài chính Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại

khó có thể khắc phục.

Chuẩn mực kế toán

Khác nhau trong chuẩn mực kế toán. Hiện các ngân hàng tại Việt Nam đang rất

bối rối trong việc thực hiện theo các chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn

mực kế toán quốc tế (IFRS). Vì khi thực hiện theo cả hai chuẩn mực này, sẽ có

những kết quả rất khác biệt từ các tổ chức tín nhiệm độc lập trong và ngoài nước.

Điều đó dẫn đến việc phản ánh không đúng thực trạng của ngân hàng Việt Nam.

Ta thấy rằng, các quy định hiện nay trong Basel rất phức tạp, cần có nhiều thời

gian hơn để nghiên cứu và điều chỉnh để phù hợp với tình hình tại Việt Nam. Bởi sự

hình thành của Basel dựa trên kinh nghiệm tại các thị trường có nền kinh tế ổn định

và phát triển. Do đó, việc triển khai tại Việt Nam sẽ còn nhiều khó khăn, cần có thời

gian dài để điều chỉnh để thích ứng. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ từ nhiều

phía nhằm giúp xây dựng một hệ thống ngân hàng an toàn hơn, lành mạnh hơn. Vì

hiện tại, hệ số an toàn vốn của các ngân hàng tại Việt Nam còn đang khá bất ổn,

chưa đảm bảo an toàn theo các tiêu chuẩn được đặt ra.

37

5.2 Kiến nghị và giải pháp

5.2.1 Đối với ngân hàng

Cơ cấu tài sản phù hợp

Nghiên cứu chỉ ra rằng, việc tăng huy động vốn sẽ làm giảm hệ số an toàn vốn. Do

đó, ngân hàng cần duy trì lượng huy động vốn phù hợp, tránh cuộc đua chạy lãi suất

để tăng nguồn huy động cũng như việc cân đối lại các khoản lợi nhuận có được vào

việc tăng vốn, gia tăng sức mạnh nội tại của ngân hàng, tăng cường khả năng chống

lại các cú sốc trong quá tình hoạt động.

Cơ cấu nguồn vốn huy động và cho vay trên thị trường, cân đối các khoản dư nợ

cho vay ngắn hạn với cho vay trung hạn, giữa nguồn huy động ngắn hạn dùng để

cho vay trung, dài hạn. Đồng thời, thực hiện việc phát hành giấy tờ có giá, điều

chỉnh cơ cấu cho vay vào các lĩnh vực nhạy cảm và rủi ro nhiều như chứng khoán,

bất động sản và tiêu dùng, và cần phải tiến hành duy trì tỷ lệ dự trữ an toàn.

Các ngân hàng thương mại cần có lộ trình phù hợp cho quá trình mở rộng quy mô

của mình. Ngân hàng thương mại cần kiểm soát việc mở rộng quy mô cũng như

thận trọng trong việc sử dụng đòn bẩy vì nó làm giảm tỷ lệ an toàn vốn của ngân

hàng, đảm bảo các rủi ro gia tăng do việc mở rộng quy mô nằm trong tầm kiểm soát

của ngân hàng.

Đáp ứng tiêu chuẩn an toàn vốn

Các ngân hàng cần nâng cao tiêu chuẩn an toàn vốn theo đúng quy định của

Basel. Vì theo Basel một hệ thống ngân hàng sẽ hoạt động ổn định khi từng thành

viên trong đó có hệ số an toàn vốn cao, có khả năng chống lại rủi ro. Nếu chỉ một

trong các ngân hàng có hệ số an toàn vốn kém, dẫn đến hoạt động không tốt, dẫn

đến phá sản sẽ ảnh hưởng đến hệ thống và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Từ

theo cách tính, có thể nâng hệ số này bằng cách tăng mức vốn tự có và hạn chế sự

gia tăng của các tài sản có rủi ro hoặc biện pháp điều chỉnh kết hợp cả hai yếu tố

này. Đối với việc tăng vốn tự có, cần chú ý đến số lượng vốn cần thiết để phù hợp

với những chiến lược phát triển của mỗi ngân hàng, tính chất của việc sử dụng các

38

nguồn vốn mới, chính sách phân chia lợi nhuận…để từ đó chọn ra hình thức tăng

vốn phù hợp nhất. Song song đó là giải pháp giảm các tài sản có rủi ro thông qua

việc sàng lọc, phân tích chặt chẽ hơn các khoản vay khách hàng nhằm hạn chế số

lượng và quy mô các khoản nợ kém chất lượng, xử lý triệt để các khoản nợ xấu

đang tồn đọng.

Hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin và hệ thống xếp hạng nội bộ

Qua nghiên cứu, ta thấy rằng rủi ro tín dụng có tác động rất lớn với hệ số an toàn

vốn, vì nó sẽ dẫn đến sự thay đổi các tài sản có rủi ro. Do đó, với việc xếp hạng tín

dụng nội bộ của các ngân hàng, cần được xây dựng theo mô hình chuẩn hóa sao cho

những chi tiêu tài chính và phi tài chính có tác động trực tiếp đến những khả năng

dẫn đến tổn thất. Cập nhật cơ sở dữ liệu khách hàng thường xuyên để đảm bảo cho

mô hình hoạt động với độ chính xác cao. Đối với rủi ro thị trường, cần có quy chế

đánh giá những rủi ro về lãi suất và tỷ giá. Thiết lập mô hình thể hiện sự biến động

lãi suất, tỷ giả trong nước và quốc tế để từ đó đưa ra các công cụ phòng ngừa rủi ro

hiệu quả. Đối với rủi ro hoạt động, cần thu thập những cơ sở dữ liệu về những tổn

thất để quyết định mức tổn thất hoạt động có thể chấp nhận được và đặt chỉ tiêu cho

những năm tiếp theo. Việc phân tích những dữ liệu chính xác trong từng lĩnh vực,

sản phẩm hoặc quy trình có rủi ro, đảm bảo mức kiểm soát phù hợp với từng khẩu

vị rủi ro của mỗi ngân hàng. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin,

tăng cường hợp tác trong lĩnh vực công nghệ với các tổ chức tài chính và ngân hàng

trong khu vực và thế giới, học hỏi những kỹ thuật hiện đại đề từng bước đưa vào và

áp dụng ứng dụng công nghệ thông tin ngân hàng đạt hiệu quả cao. Đẩy nhanh quá

trình hội nhập quốc tế về công nghệ ngân hàng. Công nghệ ngân hàng hiện tại là

giải pháp hữu ích nhất giúp các ngân hàng có thể đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ

chiếm lĩnh thị phần. Thu nhập các dữ liệu rủi ro trong quá khứ và hiện tại từ nhiều

nguồn thông tin để xây dựng hệ thống thông tin đáng tin cậy. Cơ sở dữ liệu là yếu

tố hàng đầu trong ngân hàng nhằm việc quản trị rủi ro. Một quy trình phải được

lượng hóa một cách linh hoạt để cập nhật những rủi ro thay đổi khi môi trường hoạt

động thay đổi. Rà soát và chuẩn hóa dữ liệu đặc biệt về thông tin khách hàng và các

39

loại tài sản đảm bảo với thời gian lưu trữ từ 3-5 năm và dữ liệu về nợ xấu từ 5-7

năm.

Hoạt động ngân hàng

Đa dạng hóa các hoạt động phi ngân hàng thay vì phụ thuộc vào tín dụng. Các

hoạt động này có thể đến từ bảo hiểm, quản lý tài sản, thanh toán, bảo lãnh, ngoại

hối...cần được đa dạng theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống và

phát triển các dịch vụ mới. Đồng thời phải đảm bảo tính minh bạch và đơn giản về

những thủ tục, đảm bảo mọi khách hàng đều có thể tiếp cận dễ dàng. Nâng cao các

tiện ích theo hướng công nghệ mới, đảm bảo sự tiện lợi cho khách hàng. Chẳng hạn

như việc phát triển hệ thống ứng dụng ngân hàng tiện lợi, hướng đến công nghệ

Digital Banking tích hợp trí tuệ thông minh nhân tạo (AI) với sự tích hợp về dữ liệu,

AI, khả năng kết nối và khả năng duy trì liên lạc với con người.

Nên đa dạng hóa các nguồn vốn huy động và cho vay, không chỉ hướng tới

khách hàng bán buôn như Tập đòan, tổng công ty mà nên hướng đến nhóm khách

hàng bán lẻ như doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì nếu phụ thuộc vào nguồn tiền gửi quá

lớn từ khách hàng bán buộn tính thanh khoản của ngân hàng sẽ bị đe dọa khi tổ

chức rút tiền đột ngột, ngân hàng không đáp ứng kịp thời dẫn đến mất thanh khoản

hoặc phải huy động với chi phí cao hơn. Các ngân hàng cần có chiến lược tăng vốn

phù hợp và sử dụng vốn hợp lý nhằm ổn định sự phát triển bền vững, giảm áp lực

về cổ tức cho các cổ đông do tăng vốn ồ ạt nhưng không có kế hoạch rõ ràng cụ thể.

Cân nhắc việc chọn cổ đông chiến lược trong và ngoài nước trên cơ sở đôi bên hợp

tác cùng có lợi, học hỏi lẫn nhau những kinh nghiệm, kiến thức, quản trị và công

nghệ. Bên cạnh việc tăng vốn bằng việc phát hành cổ phần, nên chú trọng việc phát

hành các trái phiếu chuyển đổi thành cổ phần vì đây là nguồn vốn giúp ổn định hoạt

động kinh doanh lâu dài để mở rộng quy mô.

Trong điều kiện kinh tế vĩ mô có sự không ổn định, ngân hàng cũng nên chú ý

vấn đề đòn bẩy tài chính hay vốn đệm dự phòng theo như các yêu cầu của Basel III.

Chuẩn bị sẵng tiềm lực tài chính nhằm sẵng sàng cho quy định theo tiêu chuẩn

Basel III bằng việc đảm bảo đủ vốn và chất lượng vốn theo Basel III, hình thành

40

dần những vốn đệm dự phòng chống rủi ro hệ thống và chu kỳ kinh tế. Ngân hàng

cần có tầm nhìn chiến lược trong việc ổn định sự cân đối quyền lợi giữa cổ đông lớn

(thường là HĐQT) và cổ đông nhỏ.

Nguồn nhân lực

Xây dựng đội ngũ nguồn nhân sự có kinh nghiệm chuyên mô cao, am hiểu về

quản trị rủi ro, các thông lệ trong và ngoài nước về việc quản trị rủi ro, có năng lực

và đạo đức nghề nghiệp. Đặc biệt là nguồn nhân sự về khả năng phân tích dữ liệu,

xây dựng các mô hình xác suất thống kê. Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông

tin hiện đại, phù hợp là điều cần thiết. Một hệ thống thông tin với dữ liệu đáng tin

cậy, chuẩn xác và chất lượng sẽ giúp cho ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn, tiết

kiệm chi phí và thời gian. Để đáp ứng yêu cầu đó, cần có sự quan tâm từ phía

NHNN và các NHTM cùng những chuyên gia nhiều kinh nghiệm từ những ngân

hàng lớn trên thế giới. Như ngân hàng VIB là một trong những ngân hàng triển khai

thành công Basel II là một phần nhờ vào sự tư vấn từ các chuyên gia có kinh

nghiệm từ đối tác Commonwealth Bank of Australia (CBA).

Các ngân hàng phải luôn quan tâm đến nguồn nhân lực của mình thông qua các

khóa đào tạo thường xuyên, xây dựng trung tâm đào tạo riêng của mỗi ngân hàng.

Xây dựng văn hóa riêng cho mỗi ngân hàng nhằm nhân viện có môi trường làm việc

tốt nhất, nhiệt tình cống hiến, phát huy khả năng sáng tạo và năng lực của bản thân.

Xây dựng chiến lược đào tạo phù hợp dựa trên khung chuẩn mực quốc tế, có chỉnh

sửa phù hợp tại Việt Nam

41

5.2.2 Đối với ngân hàng Nhà nước

Kiểm soát quy mô ngân hàng

Qua kết quả nghiên cứu ta thấy rằng, khi các ngân hàng gia tăng quy mô sẽ làm

giảm hệ số an toàn vốn. Do đó, NHNN cần kiểm soát giám sát quá trình mở rộng

quy mô của các ngân hàng. Đồng thời yêu cầu ngân hàng luôn đảm bảo yêu cầu vốn

pháp định tối thiểu, tránh việc chạy đua gia tăng vốn, mở rộng quy mô làm tăng rủi

ro cho các ngân hàng thương mạ.

Hoàn thiện các quy định/ thông tư về an toàn vốn

Hoàn thiện thông tư cho phù hợp hơn với những chuẩn mực của Basel. Tái cơ

cấu hệ thống theo chuẩn Basel II và III. Quyết liệt trong việc tái cơ cấu và xử lý nợ

xấu của hệ thống ngân hàng. Phát triển hệ thống tổ chức tín dụng theo hướng đa

năng, hiện đại, an toàn, hiệu quả với cấu trúc đa dạng về quy mô, loại hình, có khả

năng cạnh tranh, dựa trên nền tảng công nghệ, chuẩn mực an toàn hoạt động phù

hợp với những chuẩn mực quốc tế.

Định nghĩa lại vốn cấp 1 và vốn cấp 2 theo như Basel, đồng thời đặt ra các mức

vốn cấp 1 sẽ chiếm bao nhiêu phần trăm tài sản có rủi ro thay vì đặt ra những giới

hạn cho vốn cấp 2. Vì theo Basel chất lượng vốn cấp 1 cần đáng quan tâm hơn. Đưa

ra những vùng đệm vốn an toàn, nếu như các ngân hàng không đáp ứng sẽ bị chế tài

trong việc phân chia lợi nhuận. Điều chỉnh thành phần vốn cấp 1 như loại bỏ các tài

sản vô hình ra khỏi CET 1. Đưa thêm chỉ tiêu NSFR vào quy định và có lộ trình

thực hiện phù hợp thay cho 3 chỉ tiêu hiện tại (i) tỷ lệ giới hạn cho vay (ii) tỷ lệ dự

trữ thanh khoản bằng tài sản có khả năng thanh toán ngay trên nợ phải trả và (iii) tỷ

lệ cấp tín dụng trên nguồn vốn huy động cho phù hợp với các tiêu chuẩn của Basel.

Ngân hàng nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc ổn định thị trường tiền tệ.

Triển khai cổ phấn hóa ngân hàng, giảm tỷ lệ vốn sở hữu nhà nước tại một số

NHTMCP theo quy định pháp luật, hướng đến chiến lược ngành ngân hàng vào

năm 2025 sẽ có 2-3 ngân hàng TMCP nằm top ngân hàng lớn nhất trong khu vực

Châu Á và 3-5 ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nước

ngoài.

42

Tiếp tục hoàn thiện những yêu cầu pháp lý cần thiết hướng các ngân hàng áp

dụng theo quy chuẩn quốc tế những vẫn đảm bảo khả năng áp dụng tại Việt Nam.

Cần có lộ trình cụ thể hơn trong việc áp dụng Basel II và III trên cơ sở kinh nghiệm

của các nước đã triển khai thành công. Cho phép cơ quan thanh tra giám sát ngân

hàng theo khuyến nghị của Basel và thực hiện những biện pháp xử phạt đối với các

ngân hàng không áp ứng theo yêu cầu vốn.

Nên phân loại ngân hàng trong việc áp dụng Basel cụ thể:

Ngân hàng Áp dụng Basel II và III

Ngân hàng thuộc khối NHNN, hoạt động tầm quốc tế Bắt buộc

Ngân hàng lớn khối NHTM hoạt động trong nước Khuyến khích

Ngân hàng nhỏ còn lại Áp dụng Basel I

Thực hiện nghiên cứu mô hình ảnh hưởng bởi những tác động của nền kinh tế

thị trường đến việc một ngân hàng bị phá sản và xem xét việc mua bán sáp nhập

những ngân hàng nhỏ, hoạt động không hiệu quả. Việc phá sản hoặc sáp nhập

những ngân hàng nhỏ, kém chất lượng sẽ giúp các ngân hàng tốt sẽ trụ vững, an

toàn hơn, trở nên lớn mạnh hơn, giúp vốn chủ sở hữu của ngân hàng tăng lên. Trong

quá khứ nhằm thực hiện tài cơ cấu hệ thống ngân hàng, một vài ngân hàng đã chọn

hợp nhất sáp nhập lẫn nhau gia nhằm giúp tăng vốn, giúp CAR được cải thiện. Và

hình thức mua bán sáp nhập (M&A) này đang là xu hướng toàn cầu và cũng bùng

nổ khá mạnh mẽ khu vực Châu Á khi mà các ngân hàng muốn tìm chỗ đứng vững

chắc trên thị trường tài chính. Chẳng hạn thương vụ sáp nhập ngân hàng cổ phần

Nhà Hà Nội (Habubank) và Ngân hàng cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB) hay sự sáp

nhập của 3 ngân hàng là Đệ Nhất (Ficombank), Việt Nam Tín Nghĩa

(TinNghiaBank) và Sài Gòn (SCB) vào năm 2011.

Hoàn thiện hệ thống thông tin

Việc hoạt động của NHTW dựa trên hệ thống corebanking đáp ứng các tiêu

chuẩn tốt nhất, đồng bộ liên kết với NHTM, đảm bảo việc điều hành các hoạt động

một cách hiệu quả. Giám sát nghiêm ngặt các ngân hàng phải duy trì đủ vốn tự có

để để phòng những tổn thất xảy ra. Nếu việc tổn thất có xảy ra, ngân hàng không đủ

43

vốn bù đắp thì NHNN cần có phương án huy động kịp thời dựa trên kế hoạch vốn

dự phòng đã được thiết lập, đồng thời có những biện pháp chế tài thật nghiêm đối

với những ngân hàng không đáp ứng đủ yêu cầu này.

Hoàn thiện các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực báo cáo tài chính theo hướng

quốc tế đối với một số nghiệp vụ, nội dung trong lĩnh vực ngân hàng. Phát triển

nguồn nhân lực, cơ chế quản lý, công nghệ có thể theo chuẩn mức kế toán quốc tế

(IAS).

Xây dựng mô hình kiểm tra sức chịu đựng thanh khoản ngân hàng (Stress test).

Đây là “một tập hợp các kỹ thuật và phương pháp được sử dụng để đánh giá khả

năng chịu đựng rủi ro hay mức độ tổn thương của các tổ chức tài chính, ngân hàng

trước những sự kiện hoàn cảnh bất lợ. Để đánh giá được khả năng chịu đựng hay cụ

thể là mức độ tổn thương của tổ chức này người thực hiện Stress test cần phải kiến

tạo, xây dựng nên các sự kiện mang tính chất cực độ, ngoài lệ và bất thường nhưng

có khả năng xảy ra”. (Theo Basel Committee on Banking Supervision, 2009). Các

kịch bản thường đến từ những sự kiện xảy ra trong quá khứ, hoặc những cú sốc dựa

trên một phân tích cụ thể hay giả định nào đó và nó có thể áp dụng đối với tất cả các

loại rủi ro của ngân hàng như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường,

hay các bối cảnh về nền kinh tế thua lỗ, thất nghiệp gia tăng, giá bất động sản giảm

giá mạnh, khả năng vỡ nợ của ngân hàng cao…Đặc biệt từ sau khủng hoảng kinh tế

2007-2008, các NHTW của các nước trên thế giới đã chú trọng hơn việc kiểm tra

này thường xuyên hơn, với các mức độ khác nhau nhằm đưa ra những chẩn đoán dự

báo sức khỏe hệ thống ngân hàng. Hiện tại các “bài kiểm tra sức khoẻ” này luôn

được các quốc gia như Mỹ và Châu Âu chú động đẩy mạnh và kiểm tra thường

xuyên. Nếu các bài kiểm tra này được thực hiện một cách nghiêm túc, chúng ta sẽ

có được một hệ thống ngân hàng lành mạnh nhất có thể. Cũng trên cơ sở đó, NHNN

có thể nhanh chóng phát hiện kịp thời những ngân hàng yếu kém và có những chính

sách hỗ trợ để không ảnh hưởng đến rủi ro toàn hệ thống.

Nâng cao hệ thống thông tin tại Trung tâm thông tin tín dụng CIC nhằm đáp ứng

nhu cầu thông tin nhanh và chính xác nhất. Ban hành các văn bản hướng dẫn việc

44

xây dựng một hệ thống xếp hạng nội bộ ở từng ngân hàng cũng như việc thành lập

hoạt động tổ chức xếp hạng độc lập uy tín. NHNN cũng cần đưa ra những điều kiện

tiên quyết để áp dụng, khi mà các ngân hàng nào không đạt yêu cầu sẽ phải thông

qua tổ chức xếp hạng độc lập khác do NHNN chỉ định. Định kỳ, NHNN bổ sung

các hướng dẫn về những tiêu chí cập nhật theo chuẩn mực Basel. Đồng thời, yêu

cầu các NTHM minh bạch hóa trong việc công bố những thông tin của ngân hàng

mình. Vì điều đó, sẽ là liều thuốc giúp cho hệ thống ngân hàng vững mạnh, giúp thu

hút những nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi trong việc nâng cao nguồn vốn tài trợ

cho ngân hàng

Tăng cường tính kỷ luật trên thị trường

Hiện tại tính kỷ luật thị trường đang khá lỏng lẻo khi các ngân hàng đưa ra

những sản phầm không phù hợp với thông lệ quốc tế, gây ra sự mất ổn định thanh

khoản khi có những thông tin bất cân xứng trên thị trường về ngân hàng. Tiêu biểu

như các sản phẩm tiết kiệm dân cư hay hợp đồng tiền gửi doanh nghiệp có thể rút

gốc bất kỳ lúc nào, mà vẫn được giữ lãi suất tính theo thời gian thực gửi, hay tiết

kiệm thả nổi cho phép khách hàng rút trước hạn mà vẫn hưởng lãi suất thực thật. Đó

là lý do vì sao Basel III đã đưa ra những tiêu chí nhằm khắc phục tình trạng mất

thanh khoản bằng chỉ tiêu LCR, NSFR. Một hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định

chỉ khi ngân hàng có nguồn tiền từ việc huy động ổn định, từ đó nâng cao hiệu quả

sử dụng nguồn vốn, tránh tình trạng nguồn vốn bất ổn, di chuyển lòng vòng giữa

các ngân hàng làm cho các NHTM phải thiết lập nguồn dự trữ thanh khoản cao dẫn

đến mức giá vốn cao hơn so với lãi suất huy động, tạo ra các cuộc đua lãi suất giữa

các ngân hàng.

Như vậy, để ngành ngân hàng có tầm ảnh hưởng đến nền kinh tế, đáp ứng đa

dạng về sản phẩm và dịch vụ tài chính. Ngân hàng Việt Nam cần tạo ra những bước

đột phá, xây dựng hệ thống phát triển bền vững với quy mô tầm khu vực và ở mức

trung bình so với thế giới.

45

5.2.3 Đối với chính phủ

Hoàn thiện đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam định hướng đến năm

2020.

Tiếp tục xây dựng định hướng và hoàn thiện nhằm tạo ra hệ thống vận hành an

toàn, lành mạnh với sự kiểm soát hợp lý của chính phủ. Hoàn thiện quy trình quy

định về an toàn vốn của TCTD theo những nguyên tắc về giám sát hiệu quả của Uỷ

ban Basel.

Thay đổi mức chi trả bảo hiểm tiền gửi

Việc thay đổi mức chi trả bảo hiểm tiền gửi sẽ giúp củng cố niềm tin của người

gửi tiền về sự an toàn và ổn định của hệ thống ngân hàng. Nếu so với các nước trên

thế giới, mức chi trả hiện tại của Việt Nam đang khá thấp

Với mức này hiện tại có thể thấy không thật sự phù hợp với điều kiện kinh tế ở

Việt Nam nếu xem xét đến những yếu tố lạm phát, thu nhập bình quân đầu người,

tốc độ tăng trưởng tiền gửi..và chưa thể hiện được quyền lợi của ngừoi gửi tiền.

Điều này sẽ dễ dẫn đến người gửi sẽ không yên tâm, và đem tiền đi đầu tư những

kênh sinh lời khác khi có những thông tin bất lợi cho ngân hàng. Vì vậy, việc thay

đổi này là cần thiết nhằm ngân hàng có nguồn tiền gửi ổn định, tránh tình trạng mất

thanh khoản, tạo được lòng tin của người gửi tiền và tính an toàn của cả hệ thống

ngân hàng.

5.3 Kết luận

Như vậy thông qua bài nghiên cứu, chúng ta thấy được những thay đổi tích cực

của Basel III đối với việc quản trị rủi ro hệ thống ngân hàng. Cũng như việc chú

trọng vào việc nâng cao hệ số an toàn vốn nhằm đảm bảo các ngân hàng hoạt động

được ổn định hơn.

Do đó, để từng bước có thể hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, cả Ngân

hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại tại Việt Nam đều phải cố gắng hoàn

thiện hệ thống pháp lý cho cả hệ thống cũng như công tác quản trị rủi ro tại mỗi

ngân hàng, đặc biệt tuân theo các Hiệp ước vốn Basel. Đặc biệt là các ngân hàng

phải cố gắng đặt chuẩn Basel II theo mục tiêu năm 2020 cho 10 ngân hàng thí điểm.

46

Và sau đó là áp dụng đối với các ngân hàng còn lại, để từ đó xây dựng thêm lộ trình

và hoàn thiện các văn bản pháp lý hướng đến mục tiêu Basel III. Đặc biệt, các ngân

hàng thương mại cần đảm bảo hệ số an toàn vốn (CAR) – một chỉ tiêu đặc trung của

Basel. Bên cạnh đó là sự nổ lực của cả Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng thương

mại trong việc xây dựng, cải tiến, hoàn thiện các quy trình quản trị rủi ro, hệ thống

xếp hạng nội bộ. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hoàn hệ các pháp lý an toàn

vốn, hoàn thiện và phát triển hạ tầng công nghệ thông tin.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Danh mục tài liệu Tiếng Anh

1. Aly M Hewaidy, Husain Y Alyourself (2018), European Journal of

Economics, Finance and Ministrative Sciences ISN 1450-2275 Issue 99

August-November, 2018, 5-20

2. Cardone-Riportella, C., Trujillo-Ponce, A. & Briozzo, A.(2011), What do

Basel Capital Accords mean for SMEs? Working Paper 10 Business

Economic Series 04 April 2011, 753-785

3. Chatzigakis N.(2016), How the replacement of Basel II by Basel III has an

effect on economic growth, Regional Science Inquiry, Vol. VIII, (3), 2016,

pp. 147-157

4. Hoang Cong Gia Khanh (2016), Limits to finacing medium and long-term

loans by short-term fund from the viewpoint of maturity misatch, Science

and Technology development Vol 19, No Q2-2016, 58-66

5. Laeven,L.,Levine,R.,(2009), Bank governance, regulation, and risk taking,

Journal of Finance and Ecomomics 93, 259-275

6. Meilan Yan, Maximilian J.B Hall, Paul Turner, A cost-benefit analys of

Basel III: Some evidence from the UK (2012), International Review of

Financial Analysis 25 (2012, 73-82

7. Osama A.El-Ansary, Hassan M.Hafez (2015), Determinants of capital

adequacy ratio: An empirical studey on Egyptian Banks, Corporate

ownership & Control, Volum 13, Issue 1, 2015, Continued 10, 806-816

8. Pamuji Gesang Raharjo, Dedi Budiman Hakim, Adler Haymans Manurung,

Tubagus Nur Ahmad Maulana, Determine of Capital ratio: A panel data

analysis on state-owned banks in Indonesia (2014), Bulletin of Monetary,

Economics and Banking, Volume 16, Number 4, April 2014, 369-385

9. Pham Thi Xuan Thoa, Nguyen Ngoc Anh (2017), The determinants of

capital adequacy ratio: The case of Vietnamese Banking system in the period

2011-2015, VNU Jounrnal of Science: Economics and Business, Vol.33,

No.2 (2017), 49-58

10. Pornsit Jiraporn (2014), Basel III, capital stability, risk-taking, ownership:

Evidence from Asia, Journal of Multinational Financial Management,

28(2014), 28-46

11. Šútorová, B., Teplý, P. (2013), The impact of Basel III on lending rates of

EU banks, Czech Journal of Finance, Vol. 63, No. 3, pp. 226–243.

12. Valkanov, E., Kleimeier, S. (2007), The Role of Regulatory Capital in

International Bank Mergers and Acquisitions, Research in International

Business and Finance, Vol. 21, No.1, pp. 50–68.

Danh mục tài liệu Tiếng Việt

1. Báo cáo thường niên của 30 ngân hàng tại Việt Nam gồm: Vietinbank,

BIDV, Vietcombank, MB, ACB, Sacombank, Techcombank, SHB,

Eximbank, SCB, NCB, Kiên Long Bank, VPBank, VIB, HDBank, SGB,

SeaBank, PGBank, TPBank, MSB, Việt Á Bank, Bắc Á bank, An Bình

Bank, LienVietPostBank, Nam Á Bank, OCB, PVComBank, VietBank,

Agribank, Vietcapital

2. Lê Thanh Ngọc, Đặng Trí Dũng và Lê Nguyễn Minh Phương, 2015. Mối

quan hệ giữa tỷ lệ vốn tự có và rủi ro của ngân hàng thương mại: Bằng

chứng từ Việt Nam. Tạp chí Phát Triển và Hội Nhập, số 25, trang 54-61.

3. Lê Thanh Tâm, Nguyễn Diệu Linh, 2017. Các yếu tố quyết định tới tỷ lệ an

toàn vốn của ngân hàng: Bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam. Kỷ yếu hội

thảo khoa học quốc gia: Áp dụng Basel II trong quản trị rủi ro của các ngân

hàng thương mại Việt Nam: cơ hội – thách thức và lộ trình thực hiện, trang

83-106

4. Nguyễn Đức Trung, 2012. An toàn vốn của các NHTM – Thực trạng Việt

Nam và giải pháp cho việc áp dụng hiệp ước tiêu chuẩn vốn Basel II & III.

Tạp chí ngân hàng, số 6, trang 18-25

5. Thân Thị Thu Thủy và Nguyễn Kim Chi, 2015. Nghiên cứu các yếu tố ảnh

hưởng đến hệ số an toàn vốn tại các Ngân hàng thương mại cổ phần Việt

Nam. Tạp chí Ngân Hàng, số 11, trang 12-18.

6. Website:

 https://thuvienphapluat.vn/van-ban/tien-te-ngan-hang/Thong-tu-36-2014-

TT-NHNN-gioi-han-ty-le-bao-dam-an-toan-hoat-dong-to-chuc-tin-dung-

chi-nhanh-ngan-hang-nuoc-ngoai-258000.aspx

 https://vietstock.vn/2018/09/fitch-he-thong-ngan-hang-viet-can-20-ty-

usd-de-dap-ung-basel-ii-757-628926.htm

PHỤ LỤC 1

DANH SÁCH 30 NGÂN HÀNG TMCP TẠI VIỆT NAM NĂM 2018

STT Tên viết tắt Tên đầy đủ

CTG 1 Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam

BID 2 Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam

VCB 3 Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

4 MBB Ngân hàng TMCP Quân Đội

ACB 5 Ngân hàng TMCP Á Châu

STB 6 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín

TCB 7 Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam

SHB 8 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội

EIB 9 Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam

SCB 10 Ngân hàng TMCP Sài Gòn

NCB 11 Ngân hàng TMCP Quốc Dân

KLB 12 Ngân hàng TMCP Kiên Long

VPB 13 Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng

VIB 14 Ngân hàng TMCP Quốc tế

HDBANK 15 Ngân hàng TMCP Phát triển nhà Thành phố

SGB 16 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương

17 SEABANK Ngân hàng TMCP Đông Nam Á

PGBANK 18 Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex

TPBANK 19 Ngân hàng TMCP Tiên Phong

20 MSB Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam

21 VIET A BANK Ngân hàng TMCP Việt Á

22 BAC A BANK Ngân hàng TMP Bắc Á

23 ABB Ngân hàng TMCP An Bình

24 LIEN VIET Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt

25 NAM A Ngân hàng TMCP Nam Á

OCB Ngân hàng TMCP Phương Đông 26

PVCOMBANK Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam 27

VIETBANK Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín 28

AGRIBANK Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 29

VIETCAPITAL BANK Ngân hàng Bản Việt 30

PHỤ LỤC 2

LỘ TRÌNH THỰC HIỆN BASEL III

Đơn vị tính %

Chỉ tiêu/Năm 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu 3,5 4.0 4,5 4,5 4,5 4,5 4,5

Vốn đệm dự phòng 0,625 1.25 1,875 2,5

Vốn chủ sở hữu tối thiểu cộng 3,5 4 4,5 5,125 5,76 6,375 7 vốn đệm dự phòng

Loại trừ khỏi vốn chủ sở hữu

các khoản vốn không đủ tiêu 20 40 60 80 100 100

chuẩn

Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu 4,5 5,5 6,0 6,0 6,0 6,0 6,0

Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu 8 8 8 8 8 8 8

Tổng vốn tối thiểu cộng vốn 8 8 8,625 9,125 9,875 10,5 8 đệm dự phòng bắt buộc

Loại trừ khỏi vốn cấp 1 và cấp 2 Thực hiện theo lộ trình 10 năm bắt đầu từ năm

các khoản không đủ tiêu chuẩn 2013

Vốn dự phòng chống hiệu ứng Tuỳ theo điều kiện của quốc gia: mức từ 0% -

chu kỳ 2,5%

(Nguồn: http://www.basel-iii-accord.com/)

PHỤ LỤC 3

TRỌNG SỐ TÍNH ASF VÀ RSF

ASF RSF

Loại % Loại %

Tổng vốn bao gồm vốn cấp 1 100 Tiền mặt 0

và vốn cấp 2 Chứng khoán thanh khoản

Các công cụ vốn và khoản nợ cao thời hạn < 1 năm

khác có thời gian 1 năm trở Chứng khoán repo

Các chứng khoán còn lại lên

có thời hạn < 1 năm

Tiền gửi ổn định không kỳ hạn 85 Các khoản nợ được phát 5

hoặc kỳ hạn dưới 1 năm hành hoặc đảm bảo bởi

(Khách hàng cá nhân và doanh chính phủ, ngân hàng

trung ương, BIS, IMF, Ủy nghiệp nhỏ)

ban Châu Âu, Các tổ chức

phi chính phủ, Các ngân

hàng phát triển đa phương

Tiền gửi kém ổn định hơn 70 Các trái phiếu doanh 20

không kỳ hạn hoặc kỳ hạn nghiệp được ưu tiên thanh

dưới 1 năm (Khách hàng cá toán trước không có tài

nhân và doanh nghiệp nhỏ) sản đảm bảo và được tự

do chuyển nhượng được

xếp hạng từ AA trở lên có

thời hạn > 1 năm

Nguồn vốn vay có kỳ hạn còn 50 Các chứng khoán vốn đã 50

hiệu lực dưới 1 năm từ các tổ niêm yết được tự do

chức phi tài chính chuyển nhượng hoặc các

trái phiếu doanh nghiệp

được ưu tính thanh toán

trước mà không được đảm

bảo bằng tài sản được xếp

hạng từ A+ đến A- có thời

hạn > 1 năm

Vàng

Các khoản cho vay khách

hàng phi tài chính có kỳ

hạn < 1 năm

Các khoản nợ và vốn chủ sở 0 Các khoản vay thế chấp 65

hữu khác không thuộc những bằng nhà ở còn hiệu lực

loại trên từ 1 năm trở lên với trọng

số rủi ro không vượt quá

35% theo cách tiếp cận

tiêu chuẩn Basel II

Các khoản vay không cần

tài sản đảm bảo khác

không bao gồm mục trên,

với kỳ hạn > 1 năm và

trọng số số rủi ro không

vượt quá 35% theo cách

tiếp cận tiêu chuẩn Basel

II

Các khoản vay cá nhân và 85

doanh nghiệp nhỏ < 1

năm

Các tài sản khác 100

Cam kết ngoại bảng

Các cam kết giải ngân 5

hàng thư tín dụng chưa

thực hiện

Các nghĩa vụ bảo lãnh Tuỳ hoàn

khác cảnh mỗi

quốc gia