Đ Ạ I H Ọ C Q UỐ C GIA HÀ NỘI
ĩfí
ĩ|<
ífc
KHOA KINH TÊ
NGUYỀN THỊ THANH HẰNG
HỆ THÔNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH ở VIỆT NAM
■
m
THỰC TRẠNG VÀ GlẢl PHÁP
CHUYÊN NGÀNH KINH TÊ CHÍNH TRỊ XHCN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KINH TẾ
MÃ SỐ : 5.02.01
ị '■ / NGTi N. ỉ ill; VI í.. 'i I
I
K Ni-LO/>130 1
I f’ h' : C'J- CỠI- 1 I li-! Ị! h u
Ngưòỉ hướng dẫn khoa học. TS. vũ TRƯỜNG SƠN
PGS.TS. PHÍ MẠNH HÓNG
HÀ NỘI - 2002
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: MỘT s ố VÂN ĐỂ CHUNG VỂ HOẠT ĐỘNG CỦA 4
NHTM TRONG NEN k in h t ê t h ị t r ư ờ n g
1.1 NHTM và vai trò của NHTM trong nền kinh tê thị trường 4
1.1.1 N H TM : Khái niệm và các loại hình 4
1.1.1.1 Khái niệm về N H TM 4
1.1.1.2 Các loại hình N H T M trên th ế giới 8
1.1.2 Vai trò của N H T M đối với sự phát triển của nền kinh tế 10
1.1.2.1 N gân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế 11
1.1.2.2 N gân hàng là cầu nối giữa khách hàng với thị trường 12
1.1.2.3 N H T M là “cầu n ố i” giúp N H TW thực thi chính sách tiền tệ 12
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế
1.1.2.4 N H TM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế 16
1.2 C ác chức năng cơ bản của N H T M 17
1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng 17
1.2.2 Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương 19
tiện thanh toán
1.2.3 Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp 20
1.2.4 Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác 21
1.2.5 Chức năng tài trợ ngoại thương, m ở rộng nghiệp vụ ngân hàng 23
quốc tế
1.3 Xu thế phát triển mới của hệ thống NHTM trên thế giới 25
30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM QUỐC DOANH TRONG NHỮNG NẢM Đ ổ i MỚI
2.1 30
Khái quát về sự phát triển của hệ thống NHTM quốc doanh ử Việt Nam
2.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của các N H T M Q D 30
2.1.1.1 Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt N am 32
2. Ỉ . Ì . 2 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
32
2.1.1.3 Ngân hàng Công thương Việt Nam 33
33 2.1.1.4 N gân hàng N ông nghiệp và phát triển nông thôn
34 2.1.2 Những đặc điểm của hệ thống N H T M Q D ở Việt N am
2.2 Tình hình hoạt động của các NHTM quốc doanh 36
36 2.2.1 Thực trạng về nguồn vốn và sử dụng vốn của các N H T M Q D
36 2.2.1.1 Nguồn vốn và huy động vốn
43 2.2.1.2 Sử dụng vốn
47 2.2.2 Hoạt động thanh toán
52 2.2.3 Hoạt động khác của N H TM
52 2.2.3.1 Dịch vụ uỷ thác
54 2.2.3.2 Dịch vụ tư vấn
55 2.2.3.3 Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
2.3 Đánh giá về hoạt động của các NHTM quốc doanh. 56
56 2.3.1 Những kết quả đã đạt được
56 2.3.2 Hiệu quả hoạt động của các N H TM Q D
2.3.2.1 Khả năng thanh khoản 57
58 2.3.2.2 K hả năng sinh lời
2.3.2.3 Chi phí và hiệu suất hoạt động
60
61 2.3.2.4 Mức độ rủi ro
63 2.3.3 Những nguyên nhân dãn đến những tồn tại của các N H T M Q D
63 2.3.3.1 Về phía các N H T M Q D
65 2.3.3.2 Về phía N gân hàng nhà nước
2.3.3.3 Về phía khách hàng
68
65 66 2.3.3.4 Các nguyên nhân về phía cơ ch ế chính sách
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THONG NHTM QUỐC DOANH ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
68
3.1
Bối cảnh kinh tế xã hội và những đòi hỏi đối với hệ thống NHTM ở Việt Nam
68
3.1.1 Bối cảnh kinh tế hiện nay và yêu cầu đặt ra đối với hệ thống
NHTM QD
68 74
3.1.1.1 Bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế
3.1.1.2 M ột số yêu cầu lớn đặt ra đối với hệ thống N H T M Q D ở Việt Nam
74 3.1.2 Định hướng chiến lược phát triển các N H T M Q D ở Việt Nam
trong những nãm tới
3.2 75
Một sỏ giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của các NHTM quốc doanh
75 3.2.1 Lành m ạnh hoá tình hình tài chính
76 3.2.1.1 Xử lý nợ tổn đọng
83 3.2.1.2 Tăng vốn tự có cho các N H T M Q D
86 3.2.2 Quản lý rủi ro
87 3.2.2.1 Quản lý rủi ro thanh khoản
88 3.2.2.2 Quản lý rủi ro lãi suất
90 3.2.2.3 Quản lý rủi ro hối đoái
90 3.2.2.4 Quản lý rủi ro tín dụng
91 3.2.2.5 Quản lý vốn
93 3.2.3 Đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng và giảm thiểu chi phí
hoạt động của các N H T M Q D
93 3.2.3.1 Tạo điều kiện cho các N H tăng cường đa dạng hoác các
dịch vụ kinh doanh
94 3.2.3.2 G iảm thiểu chi phí hoạt động của các N H T M Q D
95 3.2.4 Cải tiến cơ bản mồ hình tổ chức và hoạt động của các N H T M Q D
95 3.2.4.1 Cơ cấu lại cơ cấu tổ chức của các N H T M Q D
95 3.2.4.2 Xác định rõ hơn chức năng quyền hạn trách nhiệm của H Đ Q T
và Ban điều hành
96 3.2.4.3 M ở rộng qu yền tự chủ về tài chính, công tác nhân sự và quản
lý nhân sự cho các N H T M Q D
98 3.2.5 Có chiến lược đầu tư hợp ]ý cho phát triển công nghệ và đào tạo
nguồn n h â n lực
99 3.2.6 T ăng cường công tác thanh tra giám hoạt động của các
N H T M Q D
Kết L uận 101
1 DNNN 2 TCTD 3 NHNN 4 NHTW 5 NHTMQD 6 NHTM 7 NHTMCP 8 NHLD 9 HTXTD 10 KTQD
Doanh nghiệp nhà nước Tổ chức tín dụng Ngân hàng nhà nước Ngân hàng trung ương Ngân hàng thương mại quốc doanh Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngân hàng Liên doanh Hợp tác xã tín dụng Kinh tế quốc dân
N H Ũ N G K Ý H IỆ U Đ ư ợ c V IÊ T T Ắ T T R O N G L U Ậ N V Ă N
(£ ỉĩí n ó i đ ă ii
1. Sự cần thiết của đề tài :
Vai trò của hệ thống NHTM Việt Nam trong nền kinh tế thị trường đã
được khẳng định từ khi hệ thống NHVN chuyển sang hệ thống Ngân hàng hai
cấp. Hệ thống NHTM là lực lượng nòng cốt trong hệ thống các tổ chức tín
dụng VN. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống NHTMVN không
ngừng đổi mới, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, tạo mọi điều kiện thuận lợi
đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động trong nền
kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi nền kinh tế ngày càng có xu
hướng mở cửa, nền tài chính quốc gia từng bước hoà nhập vào hệ thống tài
chính quốc tế thì hệ thống NHTMVN lại bộc lộ rất nhiều yếu kém. Sự yếu
kém ở đây không chí là sự yếu kém về công tác quản lý, cơ cấu tổ chức mà
còn nguy hại hơn là sự yếu kém về tình hình tài chính - một trong những điều
kiện quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của Ngân hàng. Nếu
những yếu kém trên không được khắc phục ngay thì hệ thống NHTMVN
không những không đảm nhận tốt vai trò trung gian tài chính mà còn có nguy
cơ phá sản, đe doạ đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh
tế quốc dân.
Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu hoạt động của hệ thống
NHTMQD là bộ phận đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các NHTMVN, để
từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng này, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn
mới là việc làm cần thiết.
thông N H T M Q D ở VN- Thực trạng và giải p háp" để nghiên cứu.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi đã chọn đề tài "Hệ
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận vãn :
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động của các
ngân hàng thương mại của các tác giả trong nước và quốc tế. Điển hình là
một số đề tài nghiên cứu như :
- Đề tài '."Những vấn đê cơ bẩn vê hoàn thiện các tổ chức tín dụng ở
Việt nam ..."
M ã sốK N H /95-08-02 - Ngân hàng nhà nước Việt nam 1212001.
Do tiến sĩ Lê Đình Thu và Nguyễn Đại Lai là chủ nhiệm Đ ề tài - Đ ề tài : 'Thiết lập các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh và bảo
đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại Việt nam"
M ã SỐKNH 2000-4 - Ngân hàng nhà nước Việt nam 2001
Do tiến s ĩ Lê Xuân Nghĩa là chủ nhiệm đề tài
- Đ ề tài : "Nghiên cứu giải pháp thực hiện chiến lược tổng th ể phát
triển ngành ngân hàng Việt nam giai đoạn 2001-2010"
M ã SỐKNH 99-06 - Ngân hàng nhà nước Việt nam 1212001
Do Tiến s ĩ Lê Xiiân Nghĩa, Tiến sĩ Nguyễn Đại Lai, Tiến s ĩ Phạm Thuý Ngọc
và MA Nguyễn Sơn Tường làm chủ nhiệm đề tài
Ngoài ra, còn có nhiều công trinh nghiên cứu khác được công bố trên
các tạp chí khoa học. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở khía
cạnh phân tích các nghiệp vụ kinh doanh của NHTM hay về một khía cạnh
trong hoạt động của NHTM. Việc tập trung nghiên cứu một cách hoàn chỉnh cả lý luận và thực tiễn về hệ thống NHTMQD ở VN còn chưa được chú ý
đúng mức.
3. Mục đích nghiên cứu :
- Trên cơ sở phàn tích thực trạng hoạt động của hệ thống NHTMQD
trong thời gian gần đây, qua đó làm rõ những thành tựu đã đạt được, những
hạn chế và những vấn đề đang đặt ra đối với hệ thống này. Luận văn cố gắng
đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống NHTMQDVN.
Đôi tượng nghiên cứu : Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động của hệ thống NHTMQD với tư cách là bộ phận chủ chốt của hệ thống ngân hàng
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Việt nam hiện nay.
2
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động của hệ thống
NHTMQD thời kỳ đổi mới kinh tế, đặc biệt là từ sau khi có pháp lệnh
Ngân hàng.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu các hoạt động tác nghiệp của
NHTMQD, cũng như không đi sâu phân tích từng NHTMQD mà chỉ quan
tâm đến từng NHTMQD trong chừng mực góp phần làm rõ thực trạng hoạt
động của toàn bộ hệ thống NHTMQD.
5. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Gắn với đối tượng nghiên cứu của đề tài, luận văn
chú trọng một số phương pháp cụ thể như phương pháp kết hợp phân tích và
tống hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê so sánh, dự báo .
6. Những đóng góp khoa học của luận án:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về NHTM trong nền kinh tế thị trường
- Đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống NHTMQD hiện nay, chỉ
ra những hạn chế của hệ thống này trong quá trình phát triển.
- Đề xuất các quan điểm và các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống NHTMQD trong giai đoạn mới.
7. Bô cục của luận văn :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Một s ố vấn dề chung về hoạt động của hệ thống NỈITM
C hưong 2 : Thực trạng hoạt động của các NHTMQD ở Việt Nam.
trong nền kinh tể thị trường.
Chương 3 : Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
hệ thống N K ĨM Q D trong giai đoạn mới.
3
CHƯƠNG 1
M Ộ T SỐ V Â N Đ Ể C H U N G VỂ H O Ạ T Đ Ộ N G C Ủ A H Ệ TH Ố N G
N H T M T R O N G N E N k i n h t ê t h ị t r ư ờ n g
1.1.1. N H TM : Khái niệm và các loại hình
1.1 NHTM VÀ VAI TRÒ CỦA NHTM TRONG NEN k in h t ê th ị tr ư ờ n g
1.1.1.1 Khái niệm vê Ngân hàng thương mại
Thuật ngữ “ ngân hàng “ đã có từ rất lâu. Tiền thân của ngân hàng chính
là quá trình biến đổi trong hoạt động của những người chuyên làm nghề dịch
vụ kho quỹ, những người thợ vàng, thợ bạc và ngân hàng ra đời do sự thúc đẩy
khách quan của quá trình phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá và hoạt động
thương mại. Sự “lệch pha “ về mặt thời gian giữa thời hạn gửi tài sản so với
thời hạn mà người cầm giấy biên nhận cùng với một “khoản “ thù lao cho
người bảo quản đến “chuộc” tài sản đã tự nhiên trở thành quá trình phân cực
giữa “nguồn” (là tài sản của người gửi đồ nằm trong kho) với dấu hiệu giá trị
của nguồn tài sản đó (biểu hiện bằng giá trị danh nghĩa ghi trên các giấy biên
nhận gửi tài sản ) lưu hành trong xã hội.
Việc trả nợ bằng những giấy biên nhận làm cho quá trình thanh toán
đơn giản hơn rất nhiều và tiết kiệm cho những người trả nợ, nhận nợ. Vì
những người nợ không phải đến chỗ các thợ vàng, bạc trình biên lai rút ra số
tiền, vàng cần thiết để trả cho chủ nợ. Những người chủ nợ này ngay sau đó lại
lập tức gửi vào chỗ người thợ vàng của mình. Để giúp cho việc thanh toán
được thuận lợi, những người thợ vàng phát hành biên lai ở dạng tiện lợi, làm
cho người chủ sở hữu nó có thể dùng để chi trả và chuyển quyền sở hữu của
biên lai sang chủ mới. Chính sự tiện lợi đó đã tôn những giấy biên nhận lên vị
trí hàng đầu trong số các công cụ thanh toán đương thời (tiền đúc, vàng nén,
bạc thỏi...) Đó là tiền thân của tờ ngân phiếu và nghiệp vụ phát hành giấy bạc,
nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng ngày nay.
4
Những người thợ vàng sớm phát hiện ra rằng, những gì ký gửi cho họ
tương đợi ổn định, ở một thời điểm bất kỳ số lượng vàng, tiền được rút ra chỉ
chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số tiền vàng họ giữ, hơn nữa trong khi một số khách
hàng rút tiền vàng ra khỏi kho của người thợ vàng, thì một số khác lại gửi vào-
đồng thời lại có rất nhiều người đang thiếu vốn để buôn bán sản xuất. Những
người thợ vàng có đầu óc kinh doanh đã nghĩ ra việc cho vay để lấy lãi từ
những khoản ký gửi ổn định bằng cách phát hành ra nhiều giấy biên nhận hơn
là số vàng dự trữ trong kho. Đó chính là tiền thân của nghiệp vụ tín dụng ngân
hàng ngày nay. Từ thời điểm này những người thợ vàng đã trở thành nhà ngân
hàng, bởi vì theo nghĩa bóng họ đã tạo ra tiền. Khái niệm hoạt động ngân hàng
theo tỷ lệ dự trữ đã được khai sinh.
Các ngân hàng như vậy tiếp tục hoạt động, những dịch vụ khác cũng
được phát triển theo : mua bán vàng bạc, ngoại tệ, tài khoản ký gửi...Các chủ
ngân hàng, dưới sự thôi thúc của động cơ lợi nhuận đã mở rộng tín dụng,
không chỉ với số tiền hiện có trong kho mà còn nâng lên đi vay để cho vay.
Sản xuất hàng hoá phát triển nhanh chóng, giao lưu hàng hóa ngày càng
mở rộng, làm phát sinh nhu cầu mua bán chịu hàng hóa và được ghi nhận
bằng thương phiếu. Chính thương phiếu là một công cụ nợ vừa mang tính chất
phương tiện thanh toán, vừa là công cụ tín dụng thương mại, đã tạo điều kiện
cho một loạt nghiệp vụ ngân hàng ra đời và phát triển: tài khoản ký gửi, chiết
khấu thương phiếu, tín dụng ngân hàng, thanh toán.
Kinh tế ngày càng phát triển, số lượng và quy mô của các ngân hàng
như vậy không ngừng tăng lên. Để có thể tổn tại trong bối cảnh đó, các ngân
hàng buộc phải tìm những biện pháp nâng cao chất lượng và uy tín của mình
trên thị trường như: giảm, miễn phí gửi tiền, trả lãi cho người có tiền gửi, giảm
lãi suất cho vay... Tức là thực thi một loạt biện pháp nhằm nâng cao năng lực
kinh doanh tiền tệ. Chính nhờ phản ứng tự hoàn thiện này, mà nhiều ngân
hàng sơ khai đã phát triển thành những ngân hàng thực thụ: ”Là nơi tập trung
tư bản tiền tệ của những người có tiền cho vay và người đi vay” [6, Tr 490]
Việc hệ thống lại quá trình ra đời và hình thành những hoạt động đầu tiên của
ngân hàng, cho phép ta khẳng định : Khởi tổ là dịch vụ đổi tiền cùng với sự
5
phát triển, đòi hỏi của nền kinh tế và giao lưu hàng hóa, ngân hàng đã dẩn
hình thành và hoàn thiện các nghiệp vụ của mình. Tuy nhiên do hoạt động
ngân hàng thương mại rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ ngân
hàng thường phức tạp và các vấn đề này lại luôn biến động theo sự thay đổi
chung của nền kinh tế. Mặt khác do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi
vùng lãnh thổ khác nhau đã dẫn đến quan niệm về ngân hàng thương mại
không thật đồng nhất.
Tuy nhiên xuất phát từ sự ra đời của ngân hàng, từ những chức năng cơ
bản của ngân hàng sơ khai người ta đã định nghĩa : Ngân hàng thương mại là
một tổ chức kinh tê hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ -tín dụng.
Nó cung cấp một sô dịch vụ cho khách hàng và ngược lại nó nhận tiền
của khách hàng dưới hình thức khác nhau. [10,tr 254-255]
Kinh tế càng phát triển, hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
cũng phát triển theo và các chức nãng của nó cũng được mở rộng, khi đó các
nhà kinh tế định nghĩa : NHTM là những trung gian tài chính có giấy phép
kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở các tài khoản tiền gửi
kê cả các khoản tiền gửi mà dựa vào đó có thể sử dụng các tờ séc.
Ngày nay, trên toàn thế giới, ngân hàng là loại hình tổ chức trung gian
tài chính cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô
lớn nhất. Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan
trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương
phát hành để tài trợ các công trình công cộng. Ngân hàng cũng là một trong
những tổ chức tài chính cung cấp vốn lun động quan trọng nhất cho các doanh
nghiệp, và trong những năm gần đây, ngân hàng đã tăng cường mở rộng cho
vay dài hạn đối với doanh nghiệp để hỗ trợ xây dựng nhà máy mới hay mua
sắm máy móc thiết bị mới. Ví dụ các ngân hàng Mỹ nắm giữ khoảng 1/3 tổng
tài sản của tất cả các tổ chức tài chính đóng trụ sở tại Mỹ.
ở các nước khác, như Nhật Bản, các ngân hàng nắm giữ phần lớn tài
sản của phần lớn các tổ chức tài chính.
Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua các chức năng (các
dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ
6
chức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ
cạnh tranh chính của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất
nhiều tổ chức tài chính- bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán,
công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu
đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng
đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng
cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực hoạt động bất
động sản và môi trường chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư
vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên
phương diện những loại hình dịch vụ mà nó cung cấp. Ở Mỹ người ta định
nghĩa về ngân hàng như sau : Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tẽ
[26,tr 7]
Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng đã dẫn đến
việc chúng được gọi là các “Bách hóa tài chính” (financial department stores).
Dưới đây là các chức năng cơ bản của một ngàn hàng hiện đại
/.7.7.2 Các loại hình NHTM trên th ế giới [9]; [11; [12]
Ngày nay trên thế giói có nhiều loại hình NHTM khác nhau, có nhiều
tiêu chí để phân loại các NHTM như :
- Căn cứ vào chức năng chủ yếu, các ngân hàng được phân chia thành
ngân hàng đa năng hay ngân hàng chuyên doanh.
- Căn cứ vào hình thức sở hữu, các ngân hàng được phân chia thành
ngân hàng Nhà nước, ngân hàng cổ phần, ngân hàng tư nhân, ngân hàng liên
doanh, ngân hàng nước ngoài..
- Căn cứ vào quy mô và đối tượng khách hàng, các ngân hàng được
phân chia thành ngân hàng bán buôn hay ngân hàng bán lẻ..
Các loại hình ngân hàng kể trên chiếm ưu thế và đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo ra cung tiền tệ ( khối lượng tiền tệ tăng giảm, chủ yếu là
do các ngân hàng này chi p h ố i).
Trong quá trình tiến hành kinh doanh, các ngân hàng sử dụng vốn chủ
yếu từ các nguồn tiền gửi và vay vốn qua phát hành trái phiếu. Trên cơ sở đó
các ngân hàng đã tiến hành hoạt động đầu tư nhằm đáp ứng những yêu cầu đòi
hỏi từ nền kinh tế. Chẳng hạn như : cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và
các loại hoạt động đầu tư khác.
Trong nền kinh tế thị trường các mô hình ngân hàng thương mại được tổ
chức dưới một số hình thức sau:
* Ngân hàng kinh doanh đa năng
Là loại hình ngân hàng thực hiện tất cả các nghiệp vụ kinh doanh ngân
hàng: cho vay, thực hiện các nghịệp vụ giấy tờ có giá, nhận tất cả các loại tiền
gửi, làm tất cả các dịch vụ liên quan đến hoạt động ngân hàng..
Loại ngân hàng này có nhiều dạng: ngân hàng tư nhân (sở hữu của một
gia đình, sở hữu cá nhân , sở hữu của cổ đông), ngân hàng công (sở hữu nhà
nước). Có ngân hàng ở tầm quốc gia, quốc tế, song cũng có ngân hàng chỉ có
tính chất khu vực.
Đặc điểm cơ bản của các ngân hàng này là : phong phú về các nghiệp
vụ, tiếp cận được nhiều loại khách hàng, khả năng phân tán rủi ro cao.
8
* Ngân hàng chuyên doanh
Ngược lại với ngân hàng đa năng, ngân hàng chuyên doanh chỉ thực
hiện một hoặc một số ít nghiệp vụ ngân hàng (gần như chuyên môn hoá các
hoạt động). Ở một số nước, luật ngân hàng còn giới hạn hoặc cấm các ngân
hàng cho vay tiêu dùng.
Đặc điểm cơ bản của ngân hàng này là nghiệp vụ kinh doanh mang tính
hạn hẹp, phạm vi hoạt động bị giới hạn, tính chuyên môn hoá cao.
Qua nghiên cứu xu hướng phát triển các loại hình NHTM trên thế giới
cho thấy không có một nước nào chỉ tồn tại một loại hình ngân hàng đa năng
hay ngân hàng chuyên doanh.
Bởi vì có khi ở một nước loại hình ngân hàng đa năng chiếm vị trí ưu
thế, thì vẫn có những ngân hàng chuyên doanh, và ngược lại ở một số nước
mặc dù các ngân hàng chuyên doanh chiếm ưu thế hoặc đa số thì gần đây
ngày càng có xu hướng chuyển sang kinh doanh đa năng.
Những biến đổi theo các xu hướng trên đã diễn ra trong những thập kỷ
qua. Xu hướng chuyên môn hóa các ngân hàng đã từng chiếm vị trí thống trị ở
Anh, Pháp, Mỹ, Nhật. Xu hướng kinh doanh đa năng từng chiếm vị trí thống
trị ử Thụy Sĩ, CHLB Đức, Áo. Nhưng dần dần các ngân hàng lớn, một mặt mở
rộng phạm vi các nghiệp vụ, mặt khác các ngân hàng chuyên doanh trước đây
nay cũng đa nãng hóa trở lại hoạt động của mình.
Xu hướng hiện đại trong các luật ngân hàng gần đây là không tạo ra sự
phân biệt các ngân hàng đa năng và các ngân hàng chuyên doanh như trước
mà hình thành một loại ngân hàng hoạt động đa năng.
* Ngân hàng bán buôn
Ngân hàng bán buôn là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của
nó là thực hiện với các khách hàng lớn.
Đặc điểm của ngân hàng bán buôn là : số lượng giao dịch của ngân
hàng nhỏ, nhưng giá trị của các khoản giao dịch lớn. Hoạt động của ngân
hàng bán buôn thường tập trung ở các trung tâm thương mại do đối tượng
khách hàng mà ngân hàng phục vụ thường là khách lớn và nằm tại trung tâm
9
thương mại.Vốn hoạt động của ngân hàng bán buôn lớn do đối tượng phục vụ
có nhu cầu đòi hỏi vốn cao. Phạm vi hoạt động của ngân hàng bán buôn hẹp
về số lượng khách hàng, số lượng giao dịch, lĩnh vực đầu tư vốn
* Ngân hàng bán lẻ
Là một loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó thực hiện với
các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân.
Đặc điểm của ngân hàng này là : số lượng giao dịch của ngân hàng lớn,
giá trị của từng khoản nhỏ. Phạm vi hoạt động của ngân hàng bán lẻ rất rộng,
địa bàn hoạt động của tổ chức, mạng lưới rất lớn.Vốn thực hiện đầu tư của
ngân hàng bán lẻ mang tính phân tán do khách hàng phục vụ thuộc nhiều loại
hình khác nhau. Hoạt động của ngân hàng bán lẻ về mặt vốn thường nhỏ và
tính ổn định của vốn thấp.
Qua nghiên cứu hai loại hình ngân hàng trên cho thấy xu hướng phát
triển của ngân hàng bán buôn chỉ mở rộng tại những địa bàn mà ở đó diễn ra
cung và cầu vốn lớn như ở các trung tâm thương mại lớn, ở những nước kinh
tế phát triển và những nơi có hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh.
Các ngân hàng bán lẻ có xu thế ngày càng mở rộng, đặc biệt ở các nước
có nền kinh tế chậm phát triển và trong thực tế luôn luôn tồn tại cùng với ngân
1.1.2 Vai trò của N H TM đối với sự phát triển của nền kinh tế
hàng bán buôn.
Hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính bao gồm nhiều loại hình
tổ chức kinh doanh tiền tệ. Chúng là những tổ chức trung gian và môi giới tài
chính, hoạt động như những chiếc cầu chuyển tải những khoản tiền tiết kiệm -
tích luỹ được trong xã hội đến tay những người có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư.
Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tính chất cũng như về đối tượng và
phương pháp kinh doanh. Sự khác nhau đó bắt nguồn từ những nguyên nhân
về lịch sử và chế độ kinh tế và ngày nay chúng đều là những sản phẩm của thể
chế tài chính của mỗi nước.
Lịch sử của ngân hàng thương mại là lịch sử kinh doanh tiền gửi. Các
ngân hàng thương mại từ chỗ làm dịch vụ nhận tiền gửi với tư cách là người
thủ quỹ, bảo quản tiền cho người chủ sở hữu để nhận những khoản thù lao, đã
trở thành những chủ thể kinh doanh tiền gửi. Điều đó có nghĩa là huy động
tiền gửi không những miễn khoản thù lao mà còn trả lãi cho khách hàng gửi
tiền để làm vốn cho vay nhằm tối ưu khoản lợi nhuận thu được.
Trong khi thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người cho vay
sang người đi vay, các ngân hàng thương mại đã tự tạo ra những công cụ tài
chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán. Trong đó, quan trọng nhất
là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc, một trong những công
cụ chủ yếu để vận động qua ngân hàng. Thông qua quá trình đó đưa lại kết
quả là đại bộ phận tiền giao dịch trong giao lun kinh tế là tiền qua ngân hàng.
Do đó, hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ
thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đổng thời có mối
liên hệ quốc tế rộng rãi.
Trong thế giới hiện đại, tính cho đến thời điểm này thì ngân hàng
thương mại và cơ cấu hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng nhất trong thể
chế tài chính của mỗi nước. Hoạt động của ngân hàng thương mại đa dạng,
phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác
thường hoạt động trên một vài lĩnh vực và theo hướng chuyên sâu.Vai trò của
ngân hàng thương mại thể hiện ở những điểm sau:
ỉ .1.2.1 Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và nhà nước trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng
thu nhập quốc dân và có mức độ tiêu dùng hợp lý. Để tăng thu nhập quốc dân
tức là cần phải mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu
thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của ngành trong nền kinh tế và muốn
làm được điều đó cần thiết phải có vốn. Mặt khác, khi nền kinh tế càng phát
triển sẽ càng tạo ra nhiều nguồn vốn, điều đó sẽ có tác động tích cực đến hoạt
động ngân hàng. NHTM là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất
kinh doanh. NHTM đứn^ ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời
nhàn rỗi từ mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế như : vốn tạm thời
được giải phóng ra từ quá trình sản xuất, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá
nhân trong xã hội. Bằng vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt
động tín dụng, NHTM sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng
các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có hoạt
đông của hệ thống NHTM và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp
có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất
lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.1.2.2 Ngân hàng là cầu nối giữa khách hàng với thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp
chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật
giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp
ứng nhu cầu thị trường thoả mãn nhu cầu thị trường trên mọi phương diện
được thể hiện như: không những thoả mãn nhu cầu về phương diện giá cả,
khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá mà còn đòi hỏi thoả mãn cả trên
phương diện thời gian địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị
trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố
và hoàn thiện cơ chế quản lý, chế độ hạch toán kế toán...mà còn phải không
ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử dụng
nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp...Những
hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư, nhiều khi vượt quá khả
năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó, để giải quyết khó khăn này, doanh
nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thoả mãn nhu cầu đầu tư
của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa
doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung ứng cho
doang nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi
mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị tnrờng và từ đó
tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
1.1.2.3 Ngàn hàng thương mại là "cầu nối" giúp N H TW thực thi chính
sách tiền tệ và điều tiết v ĩ mô nền kinh tê
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về ngân hàng Trung ương. Để
thực thi chính sách tiền tệ đó phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt
buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng...Chính các ngân hàng
12
thương mại là chủ thể chịu tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng
thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách
tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng và nền kinh tế. Ngược lại cũng qua ngân
hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản
lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất tỷ
giá., của nền kinh tế được phản hồi về cho ngân hàng Trung ương để chính
phủ và ngân hàng Trung ương có những chính sách điều tiết thích hợp với
từng tình hình cụ thể.
Hoạt động kinh doanh của NHTM gắn liền với các hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Trong quá
trình hoạt động đó, NHTM thực hiện vai trò cầu nối giúp NHTW điều tiết vĩ
mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng của mình, biểu hiện các mối
quan hệ giữa NHTM với các tổ chức kinh tế, cá nhân về mặt tín dụng, tiền
mặt, thanh toán không dùng tiền mặt,...đảm bảo hoạt động của ngân hàng và
nền kinh tế được bình thường.
Bằng chính sách và những biện pháp tín dụng, NHTM đáp ứng nhu cầu
vốn bổ sung kịp thời cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc các
lĩnh vực sản xuất, lưu thông và dịch vụ. NHTM có thể gia tăng hoặc thu hẹp
khối lượng tín dụng với từng doanh nghiệp, hoặc có thể thực hiện quan hệ tín
dụng đối với doanh nghiệp trong từng trường hợp cần thiết. Tất cả những vấn
đề đó đều liên quan và ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Như vậy, việc sử dụng vốn vay ngân hàng vừa giúp
doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu vốn bị thiếu hụt trong kinh doanh, vừa ý thức
cho doanh nghiệp về trách nhiệm của mình trong quá trình sử dụng vốn. Từ đó
giúp cho doanh nghiệp có những lựa chọn quyết định của mình trong việc sử
dụng nguồn vốn vay ngân hàng mở rộng hay thu hẹp quy mô kinh doanh hiện
có. Doanh nghiệp sử dụng vốn vay, khi đến hạn phải hoàn trả vốn kèm theo lãi
vay cho ngân hàng, điều đó buộc các doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng
khi sử dụng vốn sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
Vai trò cầu nối giúp NHTW điều tiết kinh tế vĩ mô của các NHTM được
thể hiện qua việc tiếp nhận, thu hút khối lượng tiền mặt từ trong nền kinh tế
13
vào NHTM, đổng thời NHTM cũng cung ứng tiền mặt theo nhu cầu khi các
doanh nghiệp cần tiền cho hoạt động của doanh nghiệp. Quá trình thu nhận và
cung ứng khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đã tạo ra mối quan hệ giữa lưu
thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ trong từng khu vực. Bằng chính sách thu
hút và nghệ thuật kinh doanh, ngân hàng sẽ tiếp nhận một khối lượng tiền mặt
không nhỏ, rồi từ đó lưu thông về ngân hàng. Khối lượng tiền mặt này sẽ đáp
ứng nhu cầu tiền mặt cho các doanh nghiệp và công chúng, đảm bảo cho nền
kinh tế thường xuyên có một khối lượng tiền hợp lý, phục vụ cho hoạt động
kinh doanh và các hoạt động khác trong phạm vi từng doanh nghiệp, từng khu
vực, cũng như trong phạm vi toàn nền kinh t ế .
Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ,
NHTM còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác trong nền kinh tế. Đây là
những dịch vụ trung gian tạo cho NHTM những nguồn lợi đáng kể, góp phần
tăng thêm khoản thu nhập cho NHTM, đổng thời tạo ra những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển toàn diện và thoả mãn các yêu cầu trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế.
Như vậy, với vai trò là “cầu nối” giúp NHTW thực thi chính sách tiền
tệ, điều tiết kinh tế vi mô, NHTM đã xâm nhập vào các hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân, các lĩnh vực khác của nền kinh tế
thông qua các nghiệp vụ tín dụng, tiền mật, thanh toán không dùng tiền mặt,
các quan hệ về tham gia hùn vốn, tư vấn v.v.Với các mối quan hệ thường
xuyên đó, NHTM giúp các hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành bình
thường và ngày càng phát triển.
Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng Trung ương
sử dụng các công cụ chính sách tiên tệ trong phạm vi toàn xã hội, mà trước hết
là hệ thống NHTM. Các công cụ này là những thao tác hoạt động hàng ngày
của ngân hàng Trung ương. Vì thế, có thể nói rằng, mọi hoạt động của ngân
hàng Trung ương đều tác động đến nền kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ của
chính sách tiền tệ đã vạch ra .
14
Sự điều tiết tiền tệ có thể tác động gián tiếp, nhưng hiệu quả đến những
hoạt động của cả nền kinh tế quốc gia. Một nội dung quan trọng của điều tiết
tiền tệ là điều hoà khối lượng tiền tệ.
Điều hoà khối lượng tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo
tiền và sử dụng tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Một khả năng kỳ bí của
hệ thống ngân hàng hai cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung tiền để ổn định
tiền tệ. Do việc phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp, nên có việc phân
chia hai loại tiền: tiền ngân hàng trung ương hay gọi tắt là tiền trung ương
(giấy bạc hay tiền mặt) và tiền ngân hàng (tiền ghi sổ, bút tệ). Tiền trung ương
là tiền do NHTW độc quyền phát hành. Tiền ngân hàng là tiền do các ngân
hàng thương mại tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặc biệt
là tiền trên các tài khoản thanh toán séc. Nó được tạo ra như là sự mở rộng gấp
nhiều lần quỹ dự trữ ngân hàng (thông qua hệ số tạo tiền)
Thực ra, cho đến những năm cuối thế kỷ 20 này, định nghĩa và phân
biệt giữa các loại tiền với nhau vẫn có nhiều ý kiến không đồng nhất. Từ năm
1980 đến nay, NHTW của nhiều nước đã thay đổi các định nghĩa của mình về
tiền mặt một vài lần và đã dùng những phép đo lượng tiền cung ứng được gọi
là tổng lượng tiền (monetary aggregates) với các ký hiệu : Mo, Mị ,M2..
Sở dĩ có sự phân chia ra giữa Mo, là nhằm tách những loại tiền
khác nhau về mặt thanh toán ra từng nhóm. Các nhóm tiền càng đi về sau này,
càng có tính thanh khoản kém hơn và càng mang tính chất của một khoản đầu tư.
M| gọi là tiền mạnh (high_power money) hay tiền theo nghĩa hẹp,
nhưng là một loại tài sản không sinh lợi, cho nên nó không có ý nghĩa như
một hành động đầu tư.
Ngược lại, M2, M 3, M u vừa là tiền, vừa là tài sản sinh lời, do vậy kinh tế
càng phát triển, xu hướng chuyển tiền từ loại không sinh lãi ( M ị ) sang loại
cũng là tiền nhưng đem lại lãi suất (M2, M 3, Mu) là càng lớn như một hoạt
động đầu tư.
Việc phân loại tiền thành M), Mi, M v . nhằm giúp NHTW và Chính phủ
theo dõi mức độ đầu tư trong nước vào các loại tài sản sinh lợi và giúp nền
kinh tế huy động một cách tốt nhất các nguồn lực, các nguồn tài sản khác
15
nhau trong nhân dân vào guồng máy sản xuất kinh doanh. Nó cũng đồng thời
đáp ứng nhu cầu cần sự gọn nhẹ bảo đảm có lãi cho tài sản và dễ dàng trong
thanh toán ở mọi lúc mọi nơi.
Chí cần nhìn vào các tỷ lệ giữa các loại tổng lượng tiền tệ sẽ biết ngay
được về sự ổn định hay chất lượng của tiền tệ. ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển thì M„ (tiền Trung ương không nằm trong tay các ngân hàng)
chiếm khoảng 7% của tổng lượng tiền M 3, trong khi đó tại Việt nam khoảng
70%. Cơ cấu khối lượng tiền như vậy cho thấy hệ thống ngân hàng ở nước ta
còn kém phát triển. Chừng nào đồng nội tệ với chức năng là phương tiện tích
luỹ giá trị còn yếu kém, thì tỷ lệ tiền mặt vẫn còn cao, tiền trung ương không
quay trở về các NHTM dưới hình thức các khoản tiền gửi và như vậy hệ số
tạo tiền sẽ nhỏ đi.
Tiền của hệ thống ngân hàng thương mại chiếm bộ phận lớn nhất trong
tổng khối lượng tiền tệ ngày nay ở các nước có nền kinh tế phát triển. Một nền
kinh tế càng đi dần vào hiện đại, càng phát triển bao nhiêu, nền kinh tế ấy
càng sử dụng nhiều hơn tiền do các ngân hàng trung gian tạo ra.
Như vậy, bằng việc tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lý vĩ mô
của ngân hàng trung ương (tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc) trong khi thực hiện
hoạt động kinh doanh của mình, NHTM đã thể hiện vai trò “cầu nối”của mình
trong việc góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương
thông qua chính sách tiền tệ. [31];[32]
1.1.2.4 NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ
ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế-xã hội giữa các nước
trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách.Việc phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một
bộ phận cấu thành của sự phát triển đó.Vì vậy, nền tài chính của mỗi nước
cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và ngân hàng thương mại cùng
các hoạt động kinh doanh của mình đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng
trong sự hoà nhập này.Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi, cho
16
vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác, ngân
hàng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng được
mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ
tín dụng với các ngân hàng thương mại nước ngoài, hệ thống ngân hàng
thương mại đã Ihực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với
sự vận động của nền tài chính quốc tế.
Ngàn hàng thương mại ra đời, phát triển trên cơ sở nền sản xuất và lưu
thông hàng hoá phát triển và nền kinh tế càng ngày càng cần đến hoạt động
của NHTM với các chức năng và vai trò của mình. Thông qua việc thực hiện
các chức năng, vai trò của mình, nhất là chức năng trung gian tín dụng,
NHTM đã trở thành một bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
1.2. CÁC CHỨC NĂNG c ơ BẢN CỦA NHTM
Tầm quan trọng của các NHTM được thể hiện qua các chức năng của
nó. Các chức năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh
khác nhau, nhưng nhìn chung được nhiều nhà kinh tế chấp nhận ở các chức
1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
năng sau:
Đây là chức nãng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài
chính là hoạt động cầu nối giữa cung và cầu trong xã hội, khơi nguồn vốn từ
những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lời với những
người có ý muốn dùng I1Ó để sinh lợi.
Thực hiện chức năng này, một mặt, NHTM huy động và tập trung các
nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình
thành nguồn vốn cho vay. Mặt khác, trên cở số vốn đã huy động được, ngân
hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng...của
các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy
kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, NHTM vừa là người đi
vay, vừa là người cho vay, hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng của NHTM
là đi vay để cho vay. NHTM với vai trò là một trung gian tín dụng đứng ra tập
trung phân phối lại vốn tiền tệ, điều hoà cung cầu về vốn trong nền kinh tế,
góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.
Để mở rộng sản xuất, đối với từng doanh nghiệp, yêu cầu về vốn là một
trong những quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh nghiệp không thể chỉ
trông chờ vào vốn tự có, mà còn phải biết dựa vào vốn của nhiều nguồn khác
nhau trong xã hội. NHTM với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn
rỗi, sẽ là trung tàm đáp ứng nhu cầu về vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như
vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian
tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy
nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế
Ngân hàng thương mại tập hợp tài lực của khách hàng này và đem
chuyển cho người khác theo phương thức kinh doanh “vay để cho vay”. Đó
chính là vai trò trung gian của ngân hàng.
Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn.
Sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của
chức năng này. Ngân hàng có thể đứng ra làm chức năng công ty (khi phát
hành cổ phiếu) với những nhà đầu tư, chuyển giao các mệnh lệnh trên thị
tnrờng chứng khoán, đảm nhận việc mua bán trái phiếu công ty., theo cách
này, ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên
thị trường.
Hơn nữa, tín dụng ngân hàng còn là một trong những nguồn hình thành
vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng ngân hàng đã
góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, động viên vật
tư hàng hoá đưa vào sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ
kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.
18
1.2.2.
Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương
tiện thanh toán.
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng ngân hàng là thủ
quỹ của các doanh nghiệp, tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản
hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản .
Trong ngân hàng thương mại, chức năng trung gian thanh toán gắn bó
chặt chẽ, hữu cơ với chức năng trung gian tín dụng : ngân hàng dùng số tiền
gửi của người này để cho người khác vay. Xuất phát từ chức năng người thủ
quỹ của các doanh nghiệp, ngân hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ
thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Khi các khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu
chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với những khoản thanh toán có
giá trị lớn, ở mọi địa phương, mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém, khó
khăn và không an toàn. Nếu như mọi khoản thanh toán được thực hiện không
thông qua ngân hàng, thì sẽ có những bất tiện và tốn kém lớn như: những chi
phí cho lưu thông tiền mặt (chi phí cho việc đúc tiền, in tiền, bảo quản tiền,
vận chuyên tiền..) và những chi phí có liên quan đến người trả và người nhận
(như đếm tiền, bảo quản, vận chuyển..).
Khi ngân hàng thương mại ra đời và phát triển, thì hầu hết các khoản
thanh toán, chi trả về hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế (các doanh
nghiệp và cá nhân) được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện, việc thanh
toán trở nên tiện lợi, tiết kiệm được nhiều chi phí, mọi quan hệ thanh toán
được thực hiện bằng cách các chủ thể mở tài khoản tại ngân hàng thực hiện
các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các
khoản tiền vào tài khoản của mình.
Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển
đến tầm mức rất đa dạng. Ngân hàng không chỉ là trung gian thanh toán
truyền Ihống như trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là
vai trò ngày càng chiếm vị trí quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ
cùa khoa học và kỹ thuật. Ớ các nước phát triển, phần lớn quá trình thanh toán
19
được thực hiện thông qua séc và hầu như séc thanh toán ở trong nước được
thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống NHTM.
Quá trình lưu chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người
bán có một đặc điểm phi vật chất, vì không giống như đổng tiền giấy được
chuyển trao tay thực sự từ người này sang tay người khác, mà nó chính là
đổng tiền ghi sổ. Tiền tệ nói chung đã trở thành một công cụ hết sức mềm dẻo,
nó không cần tồn tại dưới dạng vật chất. Séc và chuyển khoản chỉ là cách thực
hiện, nó cho phép lưu thông đồng tiền ghi sổ. Cơ sở của việc phát hành séc
hay thanh toán qua chuyển khoản đó chính là tài khoản tại ngân hàng.
Hiện nay, ở các nước công nghiệp người ta phát triển hình thức chuyển
tiền bằng điện tử và chính điều này đưa đến việc không sử dụng séc ngân
hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Người ta thanh toán bằng cách nối mạng
các máy vi tính của các NHTM trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài
1.2.3.
Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng
hai cấp
khoản người mua sang tài khoản người bán một cách nhanh chóng.
Từ khi các ngân hàng ra đời, hoạt động kinh doanh tiền tệ có được bước
phát triển mới. Trong quá trình kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng đã phát hiện
các khách hàng đã sử dụng giấy chứng nhận tiền gửi mà ngân hàng đã cấp cho
họ để chi trả các khoản nợ. Phát hiện này thúc đẩy các ngân hàng đưa vào lưu
thông các loại tiền giấy ngàn hàng (bank notes) được chuyển đổi ra vàng qua
nghiệp vụ tín dụng thay thế cho tiền vàng. Đây chính là một phát minh có giá
trị trong lịch sử hoạt động của tiền tệ.
Vào cuối thế kỷ 19, hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các
ngân hàng không còn hoạt động riêng rẽ, mà tạo nên một hệ thống, trong đó
NHTW là cơ quan quản lý tiền tệ, tín dụng, là ngân hàng của các ngân hàng.
Các ngân hàng còn lại chuyên kinh doanh tiền tệ. Nhờ hoạt động trong hệ
thống các NHTM đã tạo ra “bút tệ” thay thế cho tiền mặt. Đây là sáng kiến
quan trọng thứ hai trong lịch sử hoạt động ngân hàng. Chính nhờ phương thức
tạo tiền này mà ngân hàng chẳng những đảm bảo cho sự phát triển của mình,
mà còn trở thành trung tâm tiền tệ của đời sống kinh tế hiện đại.
20
Quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín
dụng và thanh toán trong hệ thông ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với
ngân hàng trung ương của mỗi nước. Tiền “bút tệ” do các NHTM tạo ra bằng
cách nào?
Đó là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên
nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các
nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều ngân hàng. Một ngân hàng này cho
vay xong thì hết vốn, thì sô' vốn đó lại chuyển sang ngân hàng khác trở thành
vốn tiền gửi và làm tăng thêm vốn tiền gưỉ của các ngân hàng khác
T ừ một khoán tiền gửi ban đầu (khoản tiền này do N H TƯ mới đưa thêm
vào lưu thông), thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong hệ thống NỈITM,
s ố tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với s ố lượng tiền ban đầu
Khả năng tạo tiền phụ thuộc vào lượng tiền NHTW mới bơm thêm và
hệ số mở rộng tiền gửi của NHTM. Hệ số mở rộng tiền gửi này lại chịu tác
động bởi các yếu tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa và tỷ lệ tiền
mặt so với tiền gửi thanh toán.
Theo Paul A.Samuelson: “Sự thật là toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể
làm được cái mà từng ngân hàng nhỏ một không thể làm được : nó có thể mở
rộng việc cho vay nợ và từ đó mở rộng nguồn tiền ngân hàng lên gấp nhiều
lần so với số mà các dự trữ mới tạo ra cho nó, cho dù mỗi ngân hàng nhỏ bao
giờ cũng chỉ cho vay một phần số tiền ký gửi”
Với quá trình này hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả xã hội.
Rõ ràng khái niệm về “tiền”, “tiền giao dịch”, không chỉ là giấy bạc do
NHTW của mỗi nước phát hành, mà bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ
do các NHTM tạo ra. ở Mỹ, tỷ lệ này tới 90%. ở Việt nam, tỷ lệ này ngày
càng tăng. Đến cuối năm 1998, tỷ trọng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh
1.2.4.
Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác
toán (M2) là 26.6% (năm 1997 là 30.8%).
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ, ngân hàng
có những điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin, quan hệ rộng rãi với các
21
doanh nghiệp. Với những điều kiện đó, ngân hàng có thể làm tư vấn về tài
chính và đầu tư cho các doanh nghiệp, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái
khoán bảo đảm đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Khi một doanh nghiệp
muốn phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp, họ có thể nhờ ngân
hàng cung cấp các dịch vụ như: lựa chọn loại chứng khoán phát hành, tư
vấn các vấn đề về lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề
kỹ thuật khác.
Hơn nữa ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác n h ư :
- Dịch vụ bào quản an toàn vật có giá của khách hàng. Đây vốn là một
chức năng cơ bản của NHTM, đòi hỏi các NHTM phải được xây dựng kiên cố
và được trang bị hệ thống bảo quản hiện đại. Vì vậy chúng thường chỉ thực
hiện ở các ngân hàng lớn. Dịch vụ bảo quản an toàn vật có giá bao gồm : dịch
vụ cho thuê két sắt, bảo quản ký thác và trực tiếp bảo quản an toàn các giấy tờ
có giá. Một điều hấp dẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho
khách hàng ( ghi nhận về các tài sản đang được lưu g i ữ ) có thể được lưu hành
như tiền- đó là hình thức đẩu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay nghiệp vụ
bảo quản vật có giá cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của ngân
hàng thực hiện
- Dịch vụ cho thuê két ngân buổi tối (night s a f e ) : Ngân hàng lắp đặt hệ
thống két đặc biệt trước cửa ngân hàng, khách hàng thuê dịch vụ này được
phép cất giữ tiền tiền mặt hay séc để đảm bảo an toàn vào buổi tối khi ngân
hàng đã đóng cửa.
- Dịch vụ tín thác hoặc uỷ thác ngân hàng (Trust services) : có các hình
thức sau :
+ Dịch vụ tín thác đối với cá nhân bao gồm việc thực hiện các dịch vụ
đại diện phục vụ như người bảo vệ và bảo quản tài sản, vì ở hầu hết các nước,
người vị thành niên được xem là không có năng lực pháp lý về quản lý và nắm
giữ tài sản. Khi một người ở tuổi vị thành niên thừa kế tài sản, một người giám
hộ được chỉ định nắm giữ vì lợi ích của người vị thành niên. Thông thường
trách nhiệm này được giao cho bộ phận tín thác của ngân hàng thương mại.
Sự giám hộ cũng thường được yêu cầu đối với những người cũng được toà án
quyết định là thiếu năng lực pháp lý.
22
+ Dịch vụ uỷ thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc
quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp
thương mại. Theo đó, ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay
quy mô vốn họ quản lý. Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch
vụ uỷ thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và uỷ thác thương mại cho
các doanh nghiệp.
Thông qua phòng uỷ thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các
khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó
cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai
trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua
đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả
và đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Trong
phòng uỷ thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò
như những người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu,
trái phiếu. Điều này đòi hỏi phòng uỷ thác phải trả lãi hoặc cổ tức cho chứng
khoán của công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán
1.2.5. Chức năng tài trợ ngoại thương, mở rộng nghiệp vụ ngân hàng
quốc tẽ
toàn bộ cho những người nắm giữ chứng khoán
Một trong những chức năng quan trọng nhất do các ngân hàng thực hiện
trong việc tham gia vào nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là tài trợ xuất nhập khẩu
và hoạt động thương mại giữa các quốc gia. Giống như thương mại trong
nước, hoạt động ngoại thương đòi hỏi các phương pháp tài trợ khác nhau, bao
gồm ứng tiền trước, tài khoản mở, uỷ thác nhờ thu và thư tín dụng, tín dụng
chiết khấu hối phiếu, bảo lãnh, mua và bán séc du lịch.v.v Từ lâu các ngân
hàng chỉ liên quan đến một quá trình riêng biệt trong các giao dịch mậu dịch
quốc tế như cung cấp một khoản tiền cho vay hoặc mở L/C. Nhưng từ khi tài
trợ trở thành một phần không thể thiếu đối với nhiều giao dịch thương mại,
các ngân hàng đã phát triển các dịch vụ này, họ đã đi từ việc tài trợ các hợp
đồng thương mại riêng biệt đến cung cấp các giải pháp tổng hợp đối với các
nhu cầu thương mại. Điều này bao gồm sự kết hợp việc cho vay của ngân hàng
với các nguồn bảo trợ từ các cơ quan xuất khẩu của Chính phủ, công ty thuê
23
mua tài chính quốc tế và các nguồn tài trợ phi ngân hàng khác, cùng với bảo
hiểm rủi ro chính trị và kinh tế.
Ngày nay xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá với những đặc trưng tự
do hoá thương mại và tự do hoá tài chính ngày càng rộng khắp và mạnh mẽ đã
và đang chi phối khuynh hướng và cấu trúc vận động của hệ thống tài chính
ngân hàng từng quốc gia. Do đó, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đối ngoại
đối với NHTM ở các nước đang phát triển không chỉ là một tất yếu khách
quan mà còn là lẽ sống của chính ngân hàng ở các nước này.
Kinh doanh đối ngoại của NHTM là một kinh doanh vừa mang tính
truyền thống vừa mang tính hiện đại. Truyền thống được hiểu với ý nghĩa là
kinh doanh tiền tệ không có biên giới “cứng”, đồng vốn dịch chuyển không
biên giới, đã có từ thời xa xưa, gắn với giao lưu quốc tế, với lưu thông tiền
vàng, kim loại quý, với uy tín quốc gia, thương nhân, ngân hàng nổi tiếng.
Chính nhờ kinh doanh đối ngoại đặt nền móng mới hình thành các trung tâm
tài chính quốc tế như trung tâm tài chính London, Tokyo, frankfurt,
Hongkong, Singapore ..Hiện đại là hàm ý nói về hình thức, nội dung ngày
càng khác trước, đa dạng hơn, tinh vi hơn, đổ sộ hơn thể hiện trên tất cả các
hoạt động: kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, thanh toán quốc tế, tín dụng
hợp vốn, đồng tài trợ, hùn vốn, đại lý, uỷ thác., thông qua các nghiệp vụ rất đa
dạng.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh đối ngoại trong lĩnh vực ngân hàng rất
phức tạp đòi hỏi điều kiện hết sức ngặt nghèo, nguyên tắc chặt chẽ, phương
châm linh hoạt như :
- Năng lực tài chính : có vốn đủ sức hoạt động và cạnh tranh được với
các ngân hàng.
- Trình độ quản lý kinh doanh và có uy tín thể hiện trên các mặt trang bị
những phương tiện thiết bị hiện đại, tiên tiến đủ khả năng để tiếp cận và hoà
nhập với thông lệ quốc tế.
- Kỹ thuật công nghệ ngân hàng hiện đại đảm bảo cho các giao dịch
nhanh chóng và an toàn.
- Có đội ngũ cán bộ với trình độ nghiệp vụ tin học, ngoại ngữ và phong
cách giao dịch đáp ứng yêu cầu hoạt động của cơ chế thị trường.
24
Kỹ nghệ ngân hàng hiện đại là một trong những tiêu chuẩn để hệ thống
ngân hàng hội nhập được với cộng đổng tài chính quốc tế. Chìa khoá để mở ra
triển vọng cho hoạt động của NHTM ở các nước đang phát triển là phải mở
rộng hơn nữa hoạt động kinh doanh đối ngoại. Có như vậy mới phá thế trì trệ,
co cụm, hướng nội cứng nhắc. Chỉ có hội nhập với cộng đồng tài chính tiền tệ
quốc tế, NHTM ở các nước đang phát triển mới có cơ hội đủ điều kiện tiến tới
đa dạng hoá hoạt động, mở đường vươn xa, chen chân, đứng trụ trên thương
trường quốc tế, không ngừng tích luỹ, tích tụ vốn và nâng cao kỹ xảo đảm bảo
cho các giao dịch nhanh chóng và an toàn, bảo vệ chủ quyền kinh tế quốc gia
1.3. XU THÊ PHÁT TRIỂN MỚI CỦA HỆ THỐNG NHTM HIỆN ĐẠI TRÊN THẾ
GIỚI
trong thời đại mới. [ 10];[ 11];[12];[31];[32]
Thời đại ngày nay là thời đại tiền tệ hoá các hoạt động kinh tế và
thương mại hoá mọi nguồn vốn. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông
tin, viễn thông kéo theo sự phụ thuộc chặt chẽ giữa các nền kinh tế vốn độc
láp trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu. Dần dần sự cạnh tranh
trong quá trình phát triển thị trường sẽ căn bản là cạnh tranh về năng suất lao
động, về chất lượng và giá cả hàng hoá hơn là cạnh tranh thuần tuý về không
gian thị trường và những mánh khoé phi kinh tế trong thương mại. Một khi
vàng đã như một xu thế khách quan từ bỏ vai trò tiền thế giới duy nhất thì
cuộc cạnh tranh ngân hàng trên thực tế là cạnh tranh uy tín và tiềm lực thanh
toán thực tế trong phạm vi khu vực và quốc tế. Do đó đặc trưng lớn nhất của
các NHTM ngày nay không còn đơn thuần chỉ là trung gian cung ứng vốn
giữa khách hàng thừa vốn tạm thời với khách hàng thiếu vốn tạm thời, càng
không phải là đơn thuần kinh doanh độc canh “vay để cho vay” ... mà là sự
phân công lao động thương mại khách quan về khối tài chính vô hình toàn cầu
trong mỏi quốc gia riêng lẻ. Đặc trưng này biểu hiện rõ nét trong xu hướng
ngày càng mờ đi ranh giới nghĩa bóng giữa thị trường tiền tệ với thị trường
vốn đế cấu thành thị trường tài chính đổng bộ. Trong khối tài chính khổng lồ
vỏ hình đó đã và đang ló ra hình thái phương tiện thanh toán mang tính chung
toàn cầu, nguồn tạm thời nhàn rỗi vận động theo dòng chảy toàn cầu nhưng
nhu cầu cung ứng vốn cũng như cung ứng dịch vụ và trình độ công nghệ thanh
25
toán lại mang tính quốc gia riêng lẻ. Chính đặc trưng này chi phối mạnh mẽ
xu hướng vận động chủ đạo của mô hình tổ chức và hoạt động của các NHTM
trong khu vực và trên thế giới theo những hướng sau đây:
Một là đặc trưng quan trọng nhất trong hoạt động của các ngân
hàng hiện đại trén thê giới là sự tích tụ cao, tạo nên những tập đoàn tài
chính khổng lồ, chi phối toàn bộ hệ thống kinh tê quốc tế.
Ta đã biết rằng, ngân hàng ra đời gắn liền với sự vận động vốn irong
quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá phát triển
nhanh chóng đã thúc đẩy quan hệ hàng hoá- tiền tệ ngày càng sâu sắc, phức
tạp bao trùm lên mọi sinh hoạt kinh tế -xã hội
Quá trình công nghiệp hoá của mỗi quốc gia đòi hỏi sự đầu tư vốn rất
lớn, rất năng động. Chỉ có những ngân hàng lớn mới có khả năng đáp ứng
được vốn hoặc có khả năng hợp vốn cho yêu cầu này.
Trải qua 6 thế kỷ phát triển, các ngân hàng già nua đã biến hình nhường
chỗ cho những tập đoàn ngân hàng lớn hoặc các tập đoàn tài chính lớn. Đặc
biệt trong mấy thập kỷ gần đây, xu hướng tích tụ và tập trung rất cao, theo đà
phát triển của kinh tế thị trường. Hình thái biểu hiện của xu hướng này ỉà hình
thành các tập đoàn tài chính, các tập đoàn ngân hàng lớn hoặc cực lớn xuyên
quốc gia hoặc đa quốc gia.
Tập đoàn tài chính là hình thái hỗn hợp giữa các ngân hàng lớn với các
tập đoàn công nghiệp, thương mại. Những tập đoàn này thâm nhập và nắm các
mạch máu kinh tế quyết định của quốc gia, do có các ưu thế tuyệt đối về vốn
và hạ tầng.
Các công ty tài chính thì sở hữu một hoặc nhiều ngân hàng và chiếm
lĩnh các lĩnh vực khác nhau về bảo hiểm, công nghiệp và thương mại...
Các tập đoàn ngân hàng lại có một hình thái khác : chúng thôn tính
hoặc thâm nhập lẫn nhau, thậm chí thâm nhập cả các công ty tài chính để trở
thành một tập đoàn ngân hàng. Các ngân hàng trong tập đoàn này lại hùn vốn
để lập ra các công ty con, công ty cháu. Tập đoàn ngân hàng là loại hình tổ
chức có quyền lực cực lớn và chi phối hầu hết các huyết mạch kinh tế. Ngày
nay, trên thế giới, nếu chỉ xét những tập đoàn ngân hàng có vốn từ 130 tỷ đến
500 tỷ USD đã có một danh sách dài đến hàng trăm tập đoàn. Nổi trội nhất
26
trong các quốc gia chiếm nhiều tập đoàn ngân hàng lớn là Nhật bản, Đức, Mỹ
và Pháp.
Hai là các ngân hàng từ bỏ dần loại hình chuyên môn hoá đế trở
thành ngân hàng đa năng
Ngày nay, xu thế chung là còn rất ít ngân hàng mà nội dung hoạt động
thực tế còn phù hợp với tên gọi ban đầu của nó. Các ngân hàng hầu như đã mở
rộng hoạt động sang mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế -xã hội để có cơ hội
tìm được thị trường rộng lớn hơn và có hiệu quả cao. Trên thực tế các ngân
hàng đã trở thành những định chế tài chính linh hoạt. Bức tường ngăn cách
đành ưu thế cho mỗi loại hình ngân hàng chuyên môn hoá dần dần bị loại bỏ.
Sự khoả lấp ranh giới tạo ra một môi trường đồng nhất cùng kích thích sự cạnh
tranh mãnh liệt giữa các ngân hàng. Đã xuất hiện những dịch vụ ngân hàng tại
nhà đáp ứng nhu cầu của dân cư nhằm nắm giữ phạm vi ảnh hưởng cũng như
cơ hội kiếm lời.
Một ngân hàng đa năng tạo ra cơ chế mềm dẻo và linh hoạt hơn trong
hoạt động. Chúng tận dụng được các điều kiện sẵn có để mở rộng thị trường
và phủ kín những đòi hỏi phát sinh ngày càng phong phú của nền sản xuất
hàng hóa ở những nước phát triển. Ở đây, ngân hàng có mặt ở khắp nơi. Đây
là lẽ sinh tồn tự nhiên như cây con nhiều rễ để chống chọi với sóng gió thị
trường. Kinh doanh đa năng là cách gạt bỏ rủi ro để đứng vững .
Ba là xu hướng quốc té hoá hoạt động ngân hàng. Nền kinh tế thế
giới có xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá. Các quốc gia phụ thuộc vào
nhau nhiều hơn về thị trường làm bùng nổ ngoại thương, tạo thành và mở rộng
thị trường quốc tế về hàng hoá và dịch vụ. Lẽ tất nhiên phải xuất hiện và mở
rộng thị trường tài chính quốc tế. Ngày nay đã có những tổ chức tài chính
quốc tế (WB,IMF), tổ chức tài chính khu vực (ADB), những trung tâm tài
chính quốc tế tại Thuỵ sĩ, Nhật bản, Đức, Hồng kông, Singapore...Sẽ còn xuất
hiện rất nhiều trung tâm tài chính mới. Các ngân hàng đều có xu hướng tìm
cách mở rộng hoạt động của mình ra quốc tế bằng cách phát triển mạng lưới
chân rết, tìm kiếm khách hàng ngoài biên giới bằng những công nghệ đặc thù,
có ưu thế. Một ngân hàng chỉ hướng vào thị trường nội địa, không am tường
thông lệ quốc tế sẽ không có cơ may thâm nhập thị trường quốc tế. Cũng vì lẽ
này, các ngân hàng trên thế giới dần dần giám bớt sự cách biệt nhau về thể chế
27
và nghiệp vụ. Chúng hợp tác với nhau, liên kết với nhau tạo nên sự thông suốt
trong các dịch vụ quốc tế, bởi vì đồng vốn là dòng chảy không biên giới. Điều
này thúc đẩy hội nhập và hợp tác. Đổng Ihời chúng cũng cạnh tranh nhau âm
thầm nhưng gay gắt bằng lợi thế và do lợi ích riêng biệt. Những xu hướng chủ
yếu mà các ngân hàng sẽ khai thác để cạnh tranh quốc tế là:
- Hoạch định chiến lược kinh doanh nhiều lợi thế.
- Phát triển chính sách khách hàng, tạo ưu thế thuận lợi cho khách hàng.
- Phát triển công nghệ tiên tiến.
- Phát triển tổ chức.
- Tăng vốn.
Bốn là hình thành mô hình siêu thị tài chính dựa trên những thành tựu
của khoa học và công nghệ thanh toán hiện đại, cho phép thiết lập và vận hành
loại mô hình siêu thị tài chính. Theo đó, mọi nhu cầu về đầu tư (mua công cụ
tài chính ), vay vốn (chuyển quyền sở hữu các công cụ tài chính ), huy động
và cho vay , chuyển tiền, ngân hàng tại “nhà kinh doanh hoán đổi ngoại tệ
v.v...đều thực hiện được ở các “cửa sổ” tương ứng tại sở giao dịch của siêu thị
tài chính hoặc trên mạng của siêu thị tại “nhà”. Đây là mô hình giúp quá trình
triệt để tiền tệ hoá nền kinh tế và thương mại hoá nhanh gọn các nguồn vốn
đổng thời giảm tối thiểu lượng tiền mặt trong cơ cấu tổng phương tiện thanh
toán.
Phân tích vị thế đặc thù và xu thế phát triển của hoạt động ngân hàng
trên thế giới cho phép ta rút ra những kết luận sau:
+ Ngân hàng có vai trò to lớn trong quá trình tích tụ và tập trung vốn,
phục vụ cho yêu cầu phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng lớn mạnh không ngừng, tác
động tới toàn bộ hoạt động của đời sống kinh tế- xã hội.
+ Lịch sử phát triển ngân hàng có những đặc thù nhất định. Nó phát
triển theo những quy luật sinh- tồn của nền sản xuất hàng hoá. Nhận thức
được xu thế vận động của nó không những sẽ không sợ bị nó “trả thù” mà còn
sử dụng nó phục vụ cho một định hướng nhất định.
+ Các ngân hàng non trẻ mới bước vào kinh tế thị trường ở nước ta đang
còn khoảng cách lớn so với yêu cầu đòi hỏi của đất nước, cũng như so với các
28
ngân hàng có bề dày lịch sử hàng trăm năn trên thế giới. Vì vậy việc tiếp tục
đổi mới hoạt động ngân hàng Việt nam trở thành một yêu cầu bức bách.
29
CHƯƠNG 2
THỤC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTMQD TRONG NHỮNG NĂM Đ ổ i MỚI
2.1- KHÁI QUÁT VỂ S ự PHÁT TRIỂN c ủ a h ệ THốNG NHTMQD ở v i ệ t n a m
2.1.1
Lịch sử ra đòi và phát triển của các NHTM QD
Nếu trong lịch sử tiền tệ thế giới, các ngân hàng thương mại ra đời trước
Ngân hàng trung ương hoặc Ngân hàng Nhà nước, thì ở Việt nam Ngân hàng
Nhà nước ra đời trước ngân hàng thương mại. Ngay từ khi thành lập Ngân
hàng quốc gia Việt nam năm 1951, hệ thống ngân hàng Việt nam thực chất là
hệ thống ngân hàng của Nhà nước. Trong suốt quá trình ra đời, phát triển và
trải qua những cải biến về chính sách, nội dung và đối tượng hoạt động của
mình, hệ thống ngân hàng Việt nam luôn luôn gắn chặt và phản ánh rất chân
thực quá trình phát triển kinh tế -xã hội nói chung của Việt nam. Mặt khác,
nếu xét một cách tổng quát về cả cơ chế quản lý lẫn cấu trúc hệ thống ngân
hàng Việt nam đều thấy nó gắn chủ yếu với cơ chế và cấu trúc của khu vực
kinh tê nhà nước hơn là của nền kinh tế nói chung. Những đặc điểm này rất
quan trọng giúp chúng ta có một cái nhìn thực tiễn và những kinh nghiệm quý
háu trong việc nhận thức và tìm ra các giải pháp để thực thi chiến lược tổng
thể phát triển ngành Ngân hàng Việt nam nói chung và hệ thống NHTMQD
nối riêng trong bối cảnh và điều kiện phát triển mới.
Tính đến năm 1989- sau 38 năm thành lập, về cơ bản hoạt động của
NHVN vẫn vận hành theo cơ chế một cấp. Tuy nhiên đó là môt thời kỳ dài
mà ngân hàng Việt nam không có cách lựa chọn nào khác khi phải hoạt động
trong điều kiện bị lệ ihuộc chặt chẽ và đặt trong cả một cơ chế kế hoạch hoá,
tập trung cao độ của nền kinh tế quốc dân-Một nền kinh tế nằm gọn trong tình
trạng thời chiến kéo dài : đánh Pháp, đánh Mỹ và khôi phục sau chiến tranh
trong bối cảnh bị bao vây, cấm vận nhiều năm liền và với mặt bằng xuất phát
điểm cực kỳ thấp, xét về trình độ phát triển. Công cuộc đổi mới toàn diện cơ
chế kinh tế được khởi xướng từ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng CSVN
lần thứ 6 năm 1986 là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế Việt nam từng
30
bước thoát ra khỏi khủng hoảng và phát triển vững chắc bằng cơ chế thị
trường, trong đó có sự đóng góp xứng đáng của ngành Ngân hàng Việt nam.
Sau 4 năm vừa thiết kế, vừa thi công trên con đường tìm ra lối đi cho
hoạt động ngân hàng thời kỳ đổi mới, tháng 5/1990, hai Pháp lệnh ngân hàng
ra đời đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống ngàn hàng Việt
nam từ 1 cấp sang 2 cấp, trong đó lần đầu tiên đối tượng, nhiệm vụ và mục
tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi : 1-NHNN thực
thi nhiệm vụ quản lý Nhà nước về mọi mặt hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín
dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, thực thi nhiệm vụ của một NHTW-
là ngân hàng phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng
của nhà nước, thực hiện việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ
ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính
sách điều hành cụ thể đối với hệ thống ngân hàng hai cấp. 2-Cấp Ngân hàng
kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán,
ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn bộ nền KTQD. Đổng thời NHTW
cũng đã được chấp nhận là cơ quan cao nhất của Chính phủ trong việc thực
hiện nhiệm vụ đối ngoại của Quốc gia về ngân hàng với các tổ chức Ngân
hàng- Tài chính của các Chính phủ hoặc tổ chức quốc tế trên thế giới.
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng
là quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh với các loại hình sở
hữu khác nhau gồm NHTMQD, NHTMCP, NHLD, chi nhánh hoặc văn phòng
đại diện của ngân hàng nước ngoài tại Việt nam, HTXTD, công ty tài chính,
công ty vàng bạc đá quý v.v. cùng các chi nhánh, các công ty con của các tổ
chức nói trên đã tạo thành thế đa năng trong hoạt động kinh doanh, lấy thước
đo lợi nhuận làm mục tiêu phát triển theo nguyên tắc kinh doanh bảo đảm an
toàn, đúng pháp luật, cạnh tranh bình đẳng và chịu sự quản lý vĩ mô, thanh tra
giám sát của NHTW .
Trải qua hơn 10 năm xây dựng và phát triển, hệ thống NHTM VN đã
lớn mạnh, khẳng định vai trò to lớn trong nền kinh tế và xu hướng đi lên
không ngừng. Cho đến cuối năm 2001, nếu xếp theo hình thức sở hữu, hệ
thống ngân hàng thương mại Việt nam bao gồm :
- Ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước : 6 ngân hàng, trong đó 4 ngân
hàng thương mại quốc doanh và 2 ngân hàng hoạt động mang tính chính sách
31
(ngân hàng Đổng bằng sông Cửu long và ngân hàng phục vụ người nghèo nay
được đổi thành Ngân hàng chính sách xã hội)
- Ngân hàng thương mại cổ phần (cả đô thị và nông th ô n ): 48 ngân hàng
- Ngân hàng liên doanh : có 5 ngân hàng
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài : 26 ngân hàng
Như vậy hệ thống NHTM của nước ta tới nay có 85 ngân hàng thương
mại đóng vai trò chủ lực trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Ngoài ra
cùng tham gia hoạt động trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ còn có 985
quỹ tín dụng nhân dân, 2 công ty tài chính cổ phần, 4 công ty cho thuê tài
chính và 6 công ty kinh doanh chứng khoán.
Mặc dù hiện nay có 6 ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, nhưng thực
chất hoạt động kinh doanh tập trung ở 4 NHTMQD là Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và phát
triển, Ngân hàng Ngoại thương.
2.1.1.1 .Ngân hàng Đấu tư và phát triển Việt nam được thành lập
26/4/1957 với tên gọi là Ngân hàng kiến thiết Việt nam, sau đổi thành Ngân
hàng Đẩu tư và phát triển Việt nam. Từ khi thành lập đến nay, hoạt động của
Ngân hàng ĐT&PT luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế đất nước
qua từng thời kỳ khác nhau
Ngân hàng ĐT&PT được xem là tổ chức cung cấp tài chính cho các
doanh nghiệp quốc doanh nhằm phát triển cơ sở hạ tầng và xây dựng cơ bản
(chiếm 90% tổng các khoản cho vay), thường ở dưới dạng cho vay theo định
hướng (chiếm 42% tổng các khoản cho vay ).
Là ngân hàng chủ lực trong phục vụ đầu tư phát triển, luôn giữ vai trò
quan trọng trong việc cung ứng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, góp phần
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với hơn 5000 cán bộ công nhân viên, mạng lưới tổ chức hiện có trên
120 chi nhánh tỉnh (thành phố), khu vực, phòng giao dịch, 2 sở giao dịch và
văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh, 2 công ty cho thuê tài chính và
2.1.1.2.Ngân hàng Ngoại thương Việt nam được thành lập 1/4/1963 như
công ty chứng khoán,3 đơn vị liên doanh, vốn điều lệ 1100 tỷ VND.
một ngân hàng chuyên doanh dựa trên các hoạt động của Vụ ngoại thương của
32
NHNNVN. Ngân hàng Ngoại thương phục vụ chủ yếu các tổ chức và doanh
nghiệp thuộc khối nhà nước (chiếm khoảng 70% tín dụng cho vay).
Tính đến cuối năm 2000, Ngân hàng ngoại thương chiếm 25% tổng tài
sán của hệ thống NHTM VN, nhất là tài sản bằng ngoại tệ-chiếm khoảng 63%
trong tổng số. Tuy nhiên về mặt tín dụng NHNT lại có thị phần nhỏ nhất
chiếm khoảng 9%. Các dịch vụ đặc thù của NHNT bao gồm tài trợ thương
mại, thư tín dụng, giao dịch trao đổi ngoại hối, thanh toán quốc tế, thẻ tín
dụng, cho vay..
Vào cuối năm 2000, NHNT có khoảng hơn 2800 cán bộ công nhân viên, và
28 chi nhánh, gần như tập trung tất cả ở đô thị, vốn điều lệ 1100 tỷ VNĐ.
Ngoài ra NHNT còn đầu tư vào 14 doanh nghiệp khác ở Việt nam,
trong đó có 6 ngân hàng cổ phần, 2 công ty bảo hiểm, 3 công ty bất động sản,
1 công ty thuê mua tài chính, có quan hệ đại lý với hơn 1000 ngân hàng ở 85
quốc gia trên thế giới
2.1.13. Ngân hàng Công thương Việt nam được thành lập 01/07/1988
trên cơ sở vụ tín dụng Công nghiệp và thương nghiệp của NHNN. Ngân hàng
còng thương phục vụ nhiều tổng công ty lớn của nhà nước (chiếm hơn một
nửa tín dụng của ngân hàng), cung cấp tín dụng ngắn hạn cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các công ty tư nhân. Ngân hàng công thương chiếm tỷ
trọng 25% tổng các khoản cho vay của ngành ngân hàng và 25% tổng tiền gửi.
Ngân hàng Công thương cũng cung cấp các dịch vụ khác cho nền kinh tế như
thanh toán trong và ngoài nước, ngoại hối, mua bán vàng bạc..
Ngân hàng Công thương là ngân hàng lớn thứ hai về nhân lực với
khoảng 12000 nhân viên, hơn 80 chi nhánh, 170 phòng giao dịch, 350 quỹ tín
dụng đặt tại 47 tỉnh thành phố. Vốn điều lệ 1100 tỷ VNĐ, ngân hàng còn đầu
tư vốn vào 3 công ty là Công ty cho thuê tài chính, công ty quản lý và khai
thác tài sản, công ty chứng khoán, đổng thời có quan hệ đại lý với hơn 500
ngân hàng trên thế giới.
2,1.1.4.Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn được thành lập
01/7/1988 trên cơ sở cơ cấu lại ngân hàng phát triển nông nghiệp, chuyên
cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh, nông trường, hợp tác xã
nông nghiệp, hộ gia đình và các doanh nghiệp ở nông thôn.
33
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn có vốn điều lệ lớn nhất
trong số 4 NHTMQD là 2200 tỷ VNĐ. Hiện nay ngân hàng có 22.797 nhân
viên, 1350 chi nhánh ở 61 tính thành phố, 3 sở giao dịch, 3 công ty độc lập.
Ngoài các hoạt động tín dụng, ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ khác như
bảo lãnh, thuê mua, giao dịch quốc tế và thư tín dụng, thực hiện các hợp đồng
dịch vụ liên quan đến việc cho vay thay cho ngân hàng người nghco, quản lý
2.1.2.Những đặc điểm của hệ thống NHTMQD ở Việt nam
các khoản cho vay theo chỉ định của Chính phủ.. [14];[23];[35];[36];[37]
Các NHTMQD là những ngân hàng chiếm vị trí ưu thế, chủ đạo trong
hệ thống các tổ chức tín dụng ở nước ta.
Là các doanh nghiệp Nhà nước (là một tổ chức kinh doanh, được Nhà
nước thành lập quản lý và cấp vốn ban đầu, Nhà nước bổ nhiệm người lãnh
đạo và điều hành). Các NHTMQD là những pháp nhân độc lập, do Nhà nước
cấp vốn điều lệ. Luật hiện hành quy định NHTMQD là ngân hàng được thành
lập 100% bằng vốn ngân sách Nhà nước. Quy định này có tính đến việc hoàn
thành và phát triển cơ chế cổ phần hoá sau này. Nếu sau này chế độ cổ phần
hoá cho phép thì từ chỗ chỉ có một cổ đông duy nhất là Nhà nước, có thể mở
rộng cổ phần cho công chúng. Các NHTMQD được hoạt động trong ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn, tuỳ theo tính chất nguồn vốn huy động, được hoạt động
cả trong thị trường nội địa, quốc tế và các dịch vụ khác theo luật định. Các
nghiệp vụ hoạt động của các NHTMQD không khác gì các NHTM khác tức là
tìm kiếm các cơ hội để thu lợi nhuận và tăng trưởng nguồn vốn bằng nhiều
cách khác nhau phù hợp với môi trường kinh tế xã hội. Các điều kiện kinh tế
và luật pháp của mỗi nước có thể có một vài ảnh hưởng nào đó đối với hoạt
động ngân hàng, nhưng các nghiệp vụ kinh doanh về cơ bản là khổng thay đổi.
Tuy nhiên do mục đích ra đời và định hướng hoạt động của các NHTMQD có
khác so với các NHTM khác .
Các NHTMQD vừa phải hoạt động bình đẳng trong cơ chế thị trường,
vừa phải thể hiện rõ định hướng Xã hội chủ nghĩa và vị trí chủ đạo của mình
trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt nam. Chúng phải là chỗ dựa và là
công cụ đắc lực trong tay Nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh lế của Nhà
nước. Các ngân hàng thương mại quốc doanh không thể chỉ biết kinh doanh
34
với lời lãi đơn thuần và cũng không thể trở về vai trò “bầu sữa” nuôi dưỡng
các doanh nghiệp quốc doanh như thời bao cấp. Nội dung kinh doanh của các
NHTMQD mang màu sắc khác với các Ngân hàng thương mại khác trong
nước và nước ngoài ở chỗ : Vừa phải tuân thủ các quy luật và đòi hỏi của kinh
tế thị trường, vừa phải hướng hoạt động tiền tệ phục vụ các ưu tiên kinh tế của
Nhà nước, phải xử lý hài hoà giữa lợi ích kinh doanh với việc thực hiện chính
sách xã hội ( khi cần ) với mức độ và điều kiện cho phép.
Mặc dù bốn NHTMQD đều có nguồn gốc chung (bốn NHTMQD được
hình thành từ các vụ của NHNN ), có quy mô khá giống nhau, nhưng có sự
khác nhau về các hoạt động, cơ sở khách hàng cũng như về sản phẩm dịch vụ
mà các ngân hàng cung cấp nhằm phục vụ những mục đích đã được xác định
theo tên gọi của nó và theo định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước theo
mỗi giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước.
+ Ngân hàng Công thương chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, giao thông, bưu điện...
+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ yếu hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
+ Ngân hàng Ngoại thương chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế
đối ngoại.
+ Ngân hàng Đầu tư và phát triển chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực đầu
tư và xây dựng cơ bản.
Bốn NHTMQD chiếm 82% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng Việt
nam, (các ngân hàng thương mại cổ phần 10%, còn lại là các ngân hàng liên
doanh), chiếm hơn 70% thị phần tín dụng. Mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ về số
lượng trong hệ thống NHTM ở Việt nam, nhưng các NHTMQD với khoảng
40.000 cán bộ công nhân viên luôn đóng vai trò chủ đạo, chủ lực trong hệ
thống tài chính Việt nam và đã trở thành chỗ dựa quan trọng chủ yếu của các
thành phần kinh tế, qua đó đóng góp quan trọng vào tăng trưởng và ổn định
kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Tính đến 31/12/2001 dư nợ cho vay nền kinh tế
của các NHTMQD đạt 165 nghìn tỷ đổng, chiếm 76.7% tổng dư nợ cho vay
nền kinh tế trong toàn hệ thống. Nguồn vốn huy động đạt 243,17 nghìn tỷ
đồng, chiếm 76.9% tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng hoạt
động trên lãnh thổ Việt nam . [12];[14];[20]
35
2.2 TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNCr CỦA CÁC NHTMQD Ở VIỆT NAM
2.2.1 Thực trạng về nguồn vốn và sử dụng vốn của các NHTMQD
2.2.1.1 Nguồn vốn và huy động vốn
* Nguồn vỏn
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì
phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng
kinh doanh. Riêng đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt
động kinh doanh của mình. Nói cách khác, ngân hàng không có vốn thì không
thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động
ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh
doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá
đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng
khoán (thị trường vốn dài hạn). Những ngân hàng trường vốn là ngân hàng có
nhiều thế mạnh trong kinh doanh. Chính vì thế, có thể nói : Vốn là điểm đầu
tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần
thiết, tức là đủ vốn theo luật định, thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo
tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Nguồn vốn của các NHTMQD bao gồm : Vốn tự có, vốn huy động, các
nguồn vốn khác. Mỗi loại vốn đều có một tính chất và vai trò riêng trong tổng
nguồn vốn hoạt động của các ngân hàng thương mại.Tỷ trọng từng nguồn vốn
thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tỷ trọng nguồn vốn của các NHTMQD
Tốc độ tí C
áng vốn huy ộng
TT
Tên đơn vị
Vốn vay so với nguồn vốn (%)
Tỷ trọng VHĐ /nguồnvốn (%)
Tỷ trọng cho vay bằng vốn tài trợ.uỷ thác, đầu tư
Mức tăng bq 5 năm (%)
2000/99 (%)
NHĐT & PT
1
27,4
5,0
30,0
83,11
13,0
NHNTVN
2
28,4
28,0
0,45
89,77
3,0
NHNo&PTNT
3
46,0
26,48
7,0
5,0
84,36
NHCTVN
4
19,0
17,0
6,0
78,90
1,0
Nguồn: N H N N V N - Vụ chiến lược - 2001
36
Vốn tự có của các NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập,
thuộc sở hữu của ngân hàng.Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của
ngân hàng, song là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập ngân hàng. Do
tính chất thường xuyên, ổn định của vốn tự có, ngân hàng có thể chủ động sử
dụng vào các mục đích khác nhau như : trang bị cơ sở vật chất, tài sản cố
định., phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và đặc biệt tham gia đầu tư,
góp vốn liên doanh. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như
tài sản đảm bảo gây lòng tin đối vơí khách hàng, duy trì khả năng thanh toán
trong trường hợp ngân hàng bị thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ
quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng.
N hư vậy, quy mô, sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định đến nãng
lực và thế phát triển của NHTM.
* Vốn tự có của các NHTM có các thành phần sau:
- Vốn tự có cơ bản là vốn pháp định -vốn điều lệ
+ Vốn điều lệ Nhà nước cấp cho các NHTMQD là 1100 tỷ đồng ( trừ ngân
hàng No &PTNT là 2200 tỷ đổng).
Vốn tự có của các NHTMQD ở Việt nam là chỉ tiêu quan trọng điều
chỉnh các tỷ lệ an toàn trong việc huy động vốn, cho vay và đầu tư, hùn vốn
góp vốn liên doanh và đầu tư mua sắm tài sản cố định...
- Vốn tự có bổ sung. Vốn tự có của ngân hàng thương mại không ngừng
được tăng lên theo thời gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vốn tự có bổ sung
bao gồm :
+ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, có mục đích tăng cường số vốn tự có
ban đầu.
+ Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt
động kinh doanh của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ .
+ Ngoài các quỹ trên, vốn tự có bổ sung còn bao gồm phần lợi nhuận
chưa phân bổ hoặc các quỹ đặc biệt khác như : quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,
quỹ khấu hao tài sản cố định....
Theo các chuyên gia kinh tế, và uỷ ban Basle, tỷ lệ vốn tự có trên tài sản
có (CAR) tối thiểu phải đạt 8%. Nếu so sánh con số này thì cơ sở về vốn của
các NHTMQD còn rất yếu, NHTMQD nhiều vốn nhất cũng chỉ đạt 2200 tỷ
37
đồng và hầu như không đạt tỷ lệ tối thiểu so với tài sản có. Tỷ lệ vốn tự có/tài
sản có của các NHTMQD như sau:
Bảng 2 : Tỷ lệ vốn tự có/tài sản có của các NHTMQD
Tên Ngân hàng
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
NH Nông nghiệp
8.06
5.66
5.33
NH Ngoại thương
5.04
3.33
4.56
NH Đầu tư Phát triển
5.00
4.05
4.20
NH Công thương
4.34
3.33
3.85
Nguồn NHNN/2001
Tỷ trọng vốn tự có thấp kéo dài trong nhiều năm, đặc biệt là những năm
gần đây là nguyên nhân làm tăng mức độ rủi ro của các NHTM Việt nam, hạn
chế khả năng thanh toán và khả năng cho vay của các NHTM.
* Vốn huy động bao gồm: Huy động của dân chúng, của các tổ chức,
từ ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác.
Nhìn vào Bảng 1- ta thấy tầm quan trọng của vốn huy động (thường
chiếm trên 80%) tổng nguồn vốn. Một ngân hàng thương mại nói chung
(trong nước cũng như nước n g o à i), với chức năng tạo tiền và những đặc trưng
riêng có của ngân hàng đã tạo cho ngân hàng những “lợi thế độc quyền” mà
các ngành sản xuất khác không có. Tuy nhiên đặc điểm của các NHTMQD có
khác nhau nên mức độ huy động vốn của các ngân hàng cũng khác nhau.
Tổng nguồn vốn huy động và đi vay của các NHTMQD qua các năm
như sau : Năm 1998 đạt 92 nghìn 267 tỷ đổng, trong đó 87% là nguồn vốn
huy động và 13% là vốn đi vay. Năm 1999 đạt 179.6 nghìn tỷ đồng, trong đó
82.2% là vốn huy động và 17.8% là vốn đi vay. Năm 2000 đạt 201.34 nghìn tỷ
đồng, trong đó 73.9 % là vốn huy động, 22.06% là vốn vay. Năm 2001 đạt
243.17 nghìn tỷ đồng trong đó 75.6% là vốn huy động và 24.4% là vốn đi vay
từ các tổ chức tín dụng và thị trường liên ngân hàng. Cơ cấu này phản ánh khá
rõ quy mô và khả năng huy động vốn trong nước của các NHTMQD tương đối
cao, chiếm 76.9% tổng nguồn vốn của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng Việt
38
nam (huy động vốn nước ngoài chỉ chiếm 1.24% tổng nguồn vốn huy động và
cho vay). Tổng nguồn vốn trên tương đương 16.10 tỷ USD (1 USD =15.100
VNĐ), hay 45.5% GDP năm 2001. Đây thực sự là nguồn vốn rất quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên so với nhu
cầu thì con số nói trên còn quá nhỏ, chưa đủ sức đóng vai trò quyết định trong
thị trường tài chính Việt nam. Các con số nói trên chỉ ra mức độ tiền tệ hoá
của hệ thống tài chính Việt nam còn quá thấp. Ngay ở các nước trong khu vực
như Thái lan, Indonesia, Philippin thì tổng tài sản của hệ thống ngân hàng
cũng đạt 100-150% GDP. Nếu so với ngân hàng đứng thứ 10 trên thế giới là
Credit suisse (Thuỵ sĩ) có vốn sở hữu là 16.86 tỷ USD, hoặc so sánh với số
vốn chủ sở hữu của các NHTM trong khu vực châu Á là 1 tỷ USD, thì khả
năng tài chính của các NHTM Việt nam còn quá nhỏ bé để có thể cạnh tranh :
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn có số vốn chủ sở hữu lớn nhất
cũng chỉ đạt 157 triêụ USD, những NHTMQD khác chỉ có số vốn không quá
Biểu 1.1. Tín dụng cho nền kinh tê tại Việt N am thòi kỳ 1990-2000
Ti đòng
80 triệu USD .[8];[22];[23];[34][35];[36];[37]
% GDP
200000
150000
100000
50000
0
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2001
Về cơ cấu nguồn vốn tín dụng, những năm gần đây nguồn vốn tín dụng
chủ yếu là vốn ngắn hạn ( trên 80% nguồn vốn huy động có thời hạn dưới 12
tháng), nhưng từ năm 1999 đến nay nguồn vốn tín dụng ngắn hạn có xu hướng
39
giảm dẩn, chiếm trên 60%, tín dụng trung và dài hạn tăng dần chiếm gần
40%. Tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn tăng dần thể hiện xu hướng tất yếu về
nhu cầu phát triển kinh tế, tuy nhiên nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn vẫn
còn thiếu, điều này đã hạn chế việc cho vay dài hạn của các NHTMQD.
Nghìn Tỷ VND
300
250
200
150
100
50
B iểul.2. Cơ cấu tiền gửi của các NHTMQD
0
1999
2000
2001
□ Không kỳ hạn ■ Có kỳ hạn
Nguồn N H N N V N /200Ỉ
Rủi ro cao khi tỷ trọng vốn huy động trung và dài hạn chỉ chiếm
khoảng 20% nguồn vốn huy động, gây khó khăn cho các NHTM Việt nam
trong việc tìm các đối tác cho vay đặc biệt cho vay bằng ngoại tệ. Khó khăn
này một phần do cơ chế chính sách, phần khác do khả nãng hấp thụ vốn của
các doanh nghiệp còn rất hạn chế, đặc biệt là đối với các nguồn vốn bằng
ngoại tệ với rủi ro tỷ giá hối đoái khá cao. Nhiều ngân hàng cho vay vượt quá
15% vốn tự có đối với một khách hàng, những khách hàng lớn (chủ yếu là các
doanh nghiệp nhà nước ) đều có dư nợ quá hạn từ 15-223% so với vốn tự có
của các NHTM, chưa kể các doanh nghiệp này còn vay ở các TCTD khác. Tuy
nhiên, việc kiểm tra, giám sát tín dụng cho vay doanh nghiệp còn gặp rất
nhiều vướng mắc vì một doanh nghiệp có thể quan hệ vay vốn với nhiều ngân
hàng và hàng trăm khoản vay với quy mô và phạm vi hoạt động trải khắp quốc
40
gia hoặc cả ở nước ngoài. Mặt khác, tiền cho vay sau khi ra khỏi ngân hàng
đều chuyển thành vật tư, hàng hoá nên khó phân biệt rạch ròi là đối tượng đầu
tư của nhà tài trợ nào. Hơn nữa, theo cơ chế hiện hành, doanh nghiệp có thể
dùng nhiều bản sao của bộ hoá đơn chứng từ để vay được vốn ở nhiều ngân
hàng, hiện tượng khách hàng vay ngân hàng này trả nợ ngân hàng khác vì lợi
ích cục bộ, vì mất khả năng thanh toán vẫn còn xảy ra.
Ở giai đoạn 1995-2000 thành công nổi bật của các NHTMQD là vốn
huy động có tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng vốn huy động ở các
Ngân hàng như sau :
- Ngân hàng NN(,&PTNT bình quân 26.48%/năm
- Ngân hàng Ngoại thương 28%/năm
- Ngân hàng ĐTPT 27.4%/năm
- Ngân hàng Công thương 17%/năm
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của các NHTMQD. Tính đến
31/12/2001 tỷ trọng vốn huy động trong tổng số nguồn vốn của từng ngân
hàng là:
- Ngân hàng nông nghiệp 84.36% so với 78% năm 2000
- Ngân hàng Ngoại thương 89.77% so với 86% năm 2000
- Ngân hàng ĐTPT 83.11 % so với 80% năm 2000
Biểul.3. Cơ cấu nguồn vốn của các NHTMQD năm 2000
- Ngân hàng Công thương 78.9% so với 82% năm 2000
■ 13%
tt V ố n h u y đ ộ n g
■ V ố n kh á c
■ V ố n tự có và c á c q u ỹ
» 83%
*4%
41
Trong cơ cấu nguồn vốn, tỷ trọng vốn vay NHNN có xu hướng giảm.
Số liệu trên phản ánh thực tế là khả năng huy động vốn của các ngân hàng đã
được cải thiện, bên cạnh đó cũng có một yếu tố khách quan là việc các ngân
hàng thương mại buộc phải tự tìm nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường liên
ngân hàng và tham gia các giao dịch trên thị trường mở (cuối năm 2000
NHNN đã nâng lãi suất ở cửa sổ chiết khấu để hạn chế phần nào việc khai
thác nguồn vốn của NHTW của các NHTM và hỗ trợ cho nghiệp vụ thị trường
mở mới ra đời). Tính đến 31/12/2000 tỷ trọng vốn vay NHNN trên tổng số
nguồn vốn của từng ngân hàng như sau:
- Ngân hàng nông nghiệp 7% so với 7.5% năm 1999
- Ngân hàng Ngoại thương 3% so với 4.3% năm 1999
- Ngân hàng DT&PT 13% so với 17%năm 1999
- Ngân hàng Công thương 6% so với 6.6% năm 1999
Ngoài vốn huy động và đi vay của các tổ chức tín dụng, một số
NHTMQD đã nhận làm uỷ thác đầu tư cho Chính phủ và các tổ chức quốc tế.
Tháng 12/2000, tỷ trọng cho vay bằng vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư với tổng
nguồn vốn của các ngân hàng như sau:
5% so với 7%
- Ngân hàng Nông nghiệp năm 1999
- Ngân hàng ĐT&PT 5% so với 6.5% năm 1999
- Ngân hàng Ngoại thương 0.45%SO với 0.8% năm 1999
- Ngân hàng Công thương 1% không đổi so với năm 1999
Tóm lại qua phân tích việc huy động vốn của các NHTMQD ta thấy
rằng quy mô và khả năng huy động vốn của các NHTMQD tương đối cao,
chiếm trên 70% tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng hoạt động
trên lãnh thổ Việt nam. Nguồn vốn được huy động từ các NHTMQD luôn có
mức tăng trưởng cao. Tính đến 31/12/2001 tổng nguồn vốn huy động và đi vay
của các NHTMQD đạt 243,17 nghìn tỷ đổng tăng gần gấp 3 lần so với năm
1998. Tuy nhiên so với nhu cầu về vốn để phát triển kinh tế thì con số này vẫn
còn quá nhỏ, chưa đủ sức đóng vai trò quyết định trong thị trường tài chính
Việt nam và còn xa mới có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và
trên thế giới. M ặt khác hình thức huy động vốn của các NHTMQD vẫn còn
đơn điệu, nghèo nàn, mang tính chất truyền thống như : huy động tiết kiệm,
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân
đơn thuần dưới dạng có kỳ hạn và không kỳ hạn. Chính sách tiết kiệm cứng
nhắc, chưa linh hoạt, chưa đa dạng phù hợp với thực tế nên chưa thu hút được
42
hết nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cũng như trong các tổ chức kinh tế. Cấu
trúc nguồn vốn còn chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, nguồn vốn huy
động ngắn hạn còn chiếm tỷ lệ cao, gây khó khăn cho các NHTM trong việc
cho vay các dự án trung và dài hạn.
2.2.1.2 Sử dụng vốn của các NHTMQD
Huy động vốn được rồi, NHTM phải làm thế nào để sử dụng có hiệu
quả những nguồn vốn này. Hầu như các khoản mục bên nguồn vốn của ngân
hàng đều là những khoản nợ, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi cho nó đến từng
giờ. Do đó để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc đầu tư
ngay nguồn vốn này vào những dịch vụ sinh lãi. Từ lãi thu được ngân hàng sẽ
dùng nó để trả lãi cho vốn đã huy động, thanh toán các chi phí trong hoạt
động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân hàng. Các NHTM sau khi huy
động được vốn đều tìm cách sử dụng vốn huy động đó có hiệu quả. Các hình
thức chủ yếu mà các NHTM vẫn sử dụng là cho vay, đầu tư vào chứng khoán.
Ngoài ra các NHTM còn có thể đầu tư vào các loại tài sản như bất động sản,
cơ sở hạ tầngv.v. Nhưng trước khi thực hiện các nghiệp vụ trên, các NHTM
đều phải thực hiện một công việc bắt buộc theo luật định và theo nhu cầu duy
trì khả năng thanh khoản của ngân hàng. Đó là nghiệp vụ dự trữ (dự trữ tiền
mặt tại kho ngân hàng và tiền gửi tại ngân hàng trung ương).
Trong quá trình sử dụng vốn thì mục tiêu đặt ra của NHTM đều là sử
dụng vốn có hiệu quả cao nhất nhằm kiếm lợi nhuận tối đa từ những đổng vốn
huy động được và giảm thiểu rủi ro. Bởi vậy việc cho vay hay đầu tư để sinh
lời là lẽ sống còn của NHTM. Cho vay hay đầu tư không khác nhau nhiều, vì
vậy nhiều khi người ta gọi chung cả hai hoạt động trên là “đầu tư” . Khi ngân
hàng đầu tư tiền vốn vào thương vụ, hoặc cho sản xuất kinh doanh và cho vay
tiêu dùng, nó trở thành chủ nợ, các đối tượng kia là người vay nợ. Vì thế các
khoản đầu tư biến thành tài sản có của ngân hàng. Ngân hàng càng đầu tư
nhiều càng sinh lãi nhiều từ vốn đã huy động. Nếu không đầu tư được, ngân
hàng sẽ bị lỗ vì phải trả lãi cho nguồn vốn huy động.
Tuy nhiên các hình thức sử dụng vốn đều có những ưu thế và nhược
điểm riêng và có những rủi ro khác nhau. Việc đa dạng hoá các hình thức sử
dụng vốn và cơ cấu lại các loại hình sử dụng vốn trong một NHTM sẽ giúp
cho các NHTM có thể mở rộng được quy mô kinh doanh của ngân hàng, giảm
thiểu rủi ro và tăng lợi nhuận.
43
Tổng dư nợ của các NHTMQD qua các năm như sau: Năm 1998 đạt
80,68 nghìn tỷ đồng, năm 1999 đạt 101 nghìn tỷ đồng, năm 2000 đạt gần 136
nghìn tỷ đồng. Năm 2001 đạt 165 nghìn tỷ đồng. Như vậy dư nợ tín dụng của
các NHTMQD trong những năm gần đây đã tăng nhanh chóng, năm 2001 dư
nợ tín dụng đã tăng hơn gấp đôi so với nãm 1998. Đây có thể coi là một tín
hiệu phục hồi của nền kinh tế được phản ánh qua nhu cấu về vốn của nền kinh tế.
Nếu xét trong cả một thời kỳ dài thì dư nợ tín dụng của các NHTMQD
có tốc độ tăng trưởng khá cao. Tốc độ tăng dư nợ bình quân của các
NHTMQD trong giai đoạn 1995-2000 như sau:
- Ngân hàng NNO&PTNT bình quân 25.94%/năm
- Ngân hàng Ngoại thương 13.90%/năm
- Ngán hàng ĐT&PT 32.66%/năm
- Ngân hàng Công thương 24.60%/năm
Bảng 3 : Cơ cấu cho vay đối với nền kinh tê
_____________________________ Đơn v ị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
NHNT
NHCT
NHNo&PTNT
NHĐT
Năm
1999
2000
1999
2000
1999
2000
1999
2000
Tổng dư nợ cv nền kinh tế
15705
28401
37002
32219
29924
37547
616.6
Mợ quá hạn
675
1212
1189
22979 43270
359
285
769
231.76
Mợ khoanh
824
1396
1320
873
975
1384
480
395
Mợ chờ xử lý
1296
1300
3334
3274
93.78
53.4
104
63.5
Dư nợ ngắn hạn
6340
10070
14428
18312
19650
25570
11460
16890
Dư nợ trung và dài hạn
2070
3596
5080
8370
7566
12600
3862
5890
^ho vay tài trợ uỷ thác
379
302
445
513
2870
3103
2714
2480
Dầu tư
3608
5716
3078
4471
296
201
1038
1027
)ư nợ T-DH/I dư nợ (%)
13.1
15.6
17.8
22.6
23.4
29.1
12.9
15.6
'ỷ lệ nợ quá hạn/x dư nợ
21% 14.3% 18.9%
14.4% 5.7% 4.1%
2.4% 2.2%
64.6%
65% 64%
67 % 87 % 82.2%
81% 82.5%
'ổng dư nợ cho vay nền inh tê'/vốn huy động
Nguồn NHNN/2001
44
Cơ cấu tín dụng diễn biến theo hướng tích cực, tín dụng trung và dài
hạn tăng nhanh và liên tục, tỷ trọng cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
đã tăng đáng kể. Tuy nhiên việc cho vay theo chính sách vẫn chiếm tỷ trọng
lớn trong cơ cấu tín dụng của các NHTMQD. Mặc dù tín dụng cấp cho khu
vực doanh nghiệp nhà nước đã giảm đáng kể, song đến nay vẫn chiếm trên
60%. Việc cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tuy có tăng, nhưng chỉ
các doanh nghiệp tư nhân lớn hoặc có quan hệ chặt chẽ với các cơ quan Chính
phú và ngân hàng mới có thể vay được vốn từ các NHTMQD. Hầu hết các chủ
trang trại và doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ không thể tiếp cận được nguồn
vốn ngân hàng, mà phải vay trên thị trường phi chính thức. Thị trường này tồn
tại song song với thị trường chính thức, nhất là ở các thành phố lớn và miền
Đông Nam bộ. Việc tổn tại hai thị trường này gây khó khăn cho hoạt động của
các NHTM và cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Chậm ban hành luật
doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước không hấp dẫn và thiếu
chính sách phát triển cho khu vực kinh tế tư nhân là những trở ngại cơ bản đối
với các NHTM Việt nam trong việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế này,
không đáp ứng yêu cầu chuyển đổi kinh tế hiện nay.
Nhìn vào Bảng 3 ta thấy tỷ lệ giữa tổng dư nợ cho nay nền kinh tế so
với tổng số vốn huy động của các NHTMQD tương đối cao, trên 64%, điều
này nói lên các NHTMQD đã biết khai thác và tận dụng tốt nguồn vốn đã huy
động để đầu tư cho nền kinh tế. Tuy nhiên chất lượng tín dụng của các
NHTMQD còn kém thể hiện ở nợ có vấn đề như ( nợ quá hạn, nợ chờ xử lý
của các vụ án, nợ khoanh...) còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ, đặc biệt
ở ngân hàng Ngoại thương và ngân hàng Công thương nợ có vấn đề chiếm tỷ
trọng trên 14% trong tổng dư nợ. Điều này đã gây thiệt hại nặng nề cho các
NHTMQD và làm suy yếu khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
Tỷ trọng tiền gửi và đầu tư ở nước ngoài, cho vay và gửi trong nội bộ
các TCTD trên tổng số tài sản có của các NHTMQD tính đến tháng 12/2000
như sau:
45
Bảng 4 : Tổng đầu tư của các NHTM QD
TT
Tên đơn vị
Tăng dư nợ bq 1995- 2000 (%)
Đầu tư, gửí ra nước ngoài, gửi TCTD khác so với TSC đến 31/12/00 (%)
Kinh doanh khác (chứng khoán, ngoại tê....) so với TSC (%)
1
N H Đ T & PT
32,66
16,0
2,44
2
NHNTVN
25,91
9,95
1,69
3
24,6
16,4
4,7
NHNo ầ PTNT
4
NHCTVN
13,9
62,56
1,5
A guồn: N H N N V N - Vụ chiến lược phát triển NH- 2001
Như vậy, các NHTMQD vẫn tiếp tục gặp khó khăn trong việc tìm đối
tượng cho viy trực tiếp, đặc biệt cho vay bằng ngoại tệ (hơn nữa, do lãi suất
trên thị trườig tài chính thế giới trong những năm 1998,1999, 2000 tăng cao
nên việc hm động ngoại tệ để đầu tư ra thị trường thế giới dường như vừa an
toàn lại vừa có hiệu quả, nên một số ngân hàng đã đầu tư ra nước ngoài, đây là
một dấu hiệt không tốt vì do nhu cầu phát triển kinh tế chúng ta đang rất cần
một lượng vốn lớn, trong khi đó vốn của các ngân hàng lại đầu tư ra nước
ngoài. Nhà rước ta phải có một cơ chế chính sách hợp lý đê huy động tối đa
nguồn lực cho phát triển kinh tế của đất nước.
Tóm Ịại việc sử dụng vốn của các NHTMQD ở Việt nam đã có những
bước tiến đáng kể, dư nợ cho vay nền kinh tế không ngừng tăng lên, hoạt động
đa năng của các ngân hàng thương mại quốc doanh đã góp phần chuyển dịch
cơ cấu sử dụig vốn có triển vọng như : mở rộng dịch vụ cầm đồ, cho vay tiêu
dùng, thanh toán liên hàng điện tử, thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT,
thanh toán Mẻ tín dụng, cho vay đồng tài trợ, cho vay trả góp, cho thuê tài
chính, góp vốn liên doanh, mua cổ phần.. Cơ cấu tín dụng cũng được thay đổi
theo chiều lướng tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, với lợi thế là các
NHTM Nhà iước chủ lực, các NHTMQD đã tập trung vốn vào các dự án lớn,
các ngành kinh tế mũi nhọn, các Tổng công ty 90, 91.. để phát triển kinh tế.
Tuy nhiên Cc C NHTMQD vẫn còn có những hạn chế về việc sử dụng vốn như
hình thức sử iụng vốn còn nghèo nàn, chưa phong phú. Đối tượng, thời hạn và
46
phạm vi sử dụng vốn rất hạn hẹp, đối tượng khách hàng chủ yếu của các
NHTMQD vẫn là các Doanh nghiệp quốc doanh ( chiếm từ 70-80% tổng dư
nợ). Tốc độ chu chuyển vốn tín dụng chậm, chất lượng tín dụng thấp, độ an
toàn chưa cao. Mặt khác sự điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất huy động
vốn của Nhà nước chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế, gây
ứ đọng vốn cho các tổ chức tín dụng. Các Ngân hàng thường xuyên dùng
chính sách lãi suất ưu đãi để tranh giành khách của nhau, nhiều khi còn chạy
đua theo số lượng tín dụng nên đã thực hiện cho vay mà không xét đến lãi suất
đầu vào. Thị trường mở chưa phát triển, tổ chức đấu thầu kho bạc Nhà nước
rời rạc, khối lượng phát hành ít, lãi suất thấp do đó chưa hỗ trợ được nhiều cho
2.2.2 Hoạt động thanh toán
các tổ chức tín dụng nói chung và các NHTMQD nói riêng tìm đầu ra hợp lý.
Trong mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, ngoài nghiệp vụ tín
dụng, nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt đóng vai trò cực kỳ quan
trọng. Khối lượng và chất lượng của nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng
thương mại về phương diện vĩ mô góp phần thực thi hữu hiệu chính sách tiền
tệ- tín dụng của Nhà nước, còn về phương diện vi mô, nó tác động đến sự tãng
giảm nguồn tài nguyên khả dụng của ngân hàng và sự khai thác của nguồn tài
nguyên đó.
Khi khách hàng thiết lập mối quan hệ với ngân hàng qua việc ký gửi
tiền của mình, tức là đã đưa cho ngân hàng một loại hàng hoá đặc biệt để được
cung cấp- ngoài một số tiền lãi theo lãi suất quy định nếu có - một loạt các
dịch vụ nhằm :
- Đám bảo an toàn việc cất giữ và chi, thu nhanh chóng, thuận lợi, tức là
ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ : giữ gìn tiền cho khách hàng, cung cấp séc
cho khách hàng sử dụng thay vì dùng tiền mặt trong chi trả, chuyển tiền đi đến
các địa phương khác, trung gian báo đảm cho các bên liên hệ mọi nghiệp vụ
thanh toán, hạn chế mức thấp nhất các yếu tố bất trắc trong giao dịch kinh doanh.
- Ngân hàng giúp cho kế toán ngân quỹ của khách hàng được dễ dàng tức
là trong mọi nghiệp vụ về mặt kế toán như chi trả, chuyển tiền., ngân hàng phải
tố chức như thế nào để có được các tiện ích như : Thời gian nhanh chóng, không
làm ứ đọng tiền của khách, thực hiên các nghiệp vụ có giá trị to lớn mà bản
thân khách hàng nếu tự đứng ra thực hiện sẽ rất tốn kém và khó khăn .
47
- Ngân hàng làm luân lưu tiền tệ trong không gian và thời gian để sinh lời,
là nơi tập taing tiền thu góp và phân phát tiền vay mượn và trở thành một “chợ
tiền”, ai muốn đến góp tiền hay rút tiền đều thuận tiện. Do đó, lượng tiền bất
động, “tiền chết” trở thành sống động hơn, di chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ
khách hàng này sang khách hàng khác để phục vụ sản xuất kinh doanh
Để nhằm thực hiện tốt hoạt động thanh toán cho khách hàng các
NHTM thường sử dụng các phương tiện thanh toán sau: Séc, thư tín dụng, uỷ
nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ thanh toán..
Mỗi phương tiện thanh toán đều có công dụng riêng của nó, thích hợp
cho từng đối tượng và loại hình giao dịch thanh toán đa dạng và phong phú
của các chủ thê kinh tế và dân cư. Đưa ra một “ thực đơn” công cụ thanh toán
phong phú và hợp “ khẩu vị” cho công chúng vừa là nhiệm vụ, vừa là mục
đích kinh doanh và trọng điểm cạnh tranh của các ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa kinh tế rất lớn thể hiện ở
T hứ nhất: Thanh toán không dùng tiền mặt thúc đẩy nhanh sự vận động
các khía cạnh sau:
của vật tư, tiền vốn trong nền kinh tế quốc dân, dẫn đến giảm thấp chi phí sản
T hứ hai : Trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, thanh toán không dùng tiền
xuất và lưu thông, tăng tích luỹ cho quá trình tái sản xuất.
mặt góp phần giảm thấp tý trọng tiền mặt trong lưu thông, do đó tiết kiệm
được chi phí lưu thông cho xã hội. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt
còn tạo ra sự chuyển hoá thông suốt giữa tiền mặt và tiền chuyển khoản. Cả
hai khía cạnh đó đều tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá và
T hứ ba : Đối với lĩnh vực tín dụng thanh toán không dùng tiền mặt tạo
điều hoà lưu thông tiền tệ.
khả năng tập trung nguồn vốn tín dụng vào hệ thống ngân hàng để đầu tư cho
T hứ tư : Thanh toán không dùng tiền mặt tạo những tiền đề kinh tế
phát triển kinh tế.
thuận lợi để ngân hàng kiểm soát các hoạt động kinh tế của các tác nhân kinh
tế với mục đích củng cố kỷ luật thanh toán, đảm bảo nguyên tắc thu chi tài
chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Cho đến nay, việc sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt
trong khu vực dân cư của Việt nam vẫn chưa phát triển và phổ cập rộng rãi.
48
Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu của các
NHTMQD là các loại séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, ngân phiếu thanh toán.
Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt của các NHTMQD qua các năm
như sau: năm 1998 đạt 9 nghìn 200 tỷ đồng, năm 1999 đạt 11 nghìn 369 tỷ
đồng, năm 2000 đạt 12 nghìn 650 tỷ đồng và năm 2001 đạt 14 nghìn 956 tỷ
đồng tăng 18% so với năm 2000.
Ngoài việc sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
nói trên, còn có một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được lưu
hành trên toàn thế giới và rất phổ biến ở các nước phát triển ngay từ những
năm 70, đó là thẻ thanh toán. Thẻ thanh toán ra đời, phát triển không phải
nhầm mục đích phục vụ cho các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, mà chính là
phục vụ cho nhu cầu cá nhân khách hàng một cách chủ động và nhằm sử dụng
các khoản tín dụng tiêu dùng. Thẻ thanh toán du nhập vào Việt nam tương đối
muộn và cho đến nay nó vẫn là một dịch vụ thanh toán tương đối mới, ít người
biết đến. Tại Việt nam, thẻ thanh toán quốc tế được du nhập vào năm 1990 và
lúc đó ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã tiên phong tiến hành triển khai
nghiệp vụ thanh toán thẻ thanh toán quốc tế. Đến nay đã có 14 ngân hàng tại
Việt nam triển khai dịch vụ này vì kinh doanh thẻ là một lĩnh vực đem lại
nhiều lợi nhuận. Sự đa dạng về thành phần sở hữu, cơ cấu tổ chức của các
ngân hàng đã làm cho thị trường thẻ trở nên sôi động, cạnh tranh diễn ra ngày
càng gay gắt trên cả hai lĩnh vực phát hành và thanh toán thẻ. Tuy vậy, theo
đánh giá của các Tổ chức thẻ Quốc tế và các chuyên gia ngân hàng tài chính
trong nước, thị trường thẻ Việt nam đang còn quá rộng lớn và đầy tiềm năng
cho các ngân hàng tiếp tục đầu tư và phát triển. Doanh thu thanh toán về thẻ
của các NHTM ở Việt nam qua các năm như sau: Năm 1998 đạt 127 triệu
USD, năm 1999 đạt 158 triệu USD, năm 2000 đạt 171 triệu USD, năm 2001
đạt 182 triệu USD. Trong các ngân hàng tham gia về lĩnh vực thanh toán thẻ
tín dụng quốc tế ở Việt nam hiện nay ngân hàng Ngoại thương là NHTMQD
đầu tiên và cũng là ngân hàng duy nhất chấp nhận 5 loại thẻ tín dụng quốc tế
tại Việt nam, có doanh thu về thẻ cao nhất đạt 86 triệu USD năm 2001 chiếm
47.5% thị phần thanh toán thẻ. Các NHTMQD khác mới chỉ bắt đầu triển khai
dịch vụ này nên doanh thu còn ở mức khiêm tốn.
49
Từ năm 2000 trở về trước trên thị trường Việt nam chỉ có 2 chi nhánh
ngân hàng nước ngoài có triển khai hệ thống giao dịch tự động ở quy mô nhỏ
là ANZ bank, HSBC bank. Đến năm 2001, các NHTM QD bắt đầu tham gia thị
trường giao dịch tự phục vụ ( self service), đây là dịch vụ áp dụng công nghệ
tiến tiến trên thế giới, thanh toán không dùng tiền mặt. Hiện nay có 7 ngân
hàng có đặt máy ATM trên cả nước với tổng số 90 máy ATM và 40 nghìn thẻ
ATM. Doanh số sử dụng thẻ qua hệ thống các máy ATM của các NHTMQD
tính đến 9/2002 là 1 nghìn 389 tỷ đồng. Con số này tuy không lớn nhưng điều
này cũng nói lên rằng mặc dù mới đi vào hoạt động nhưng thẻ thanh toán đã
được sự chấp nhận và hưởng ứng của khách hàng Việt nam trước việc áp dụng
công nghệ hiện đại trong lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt.
Trên cơ sở các phương tiện thanh toán được ngân hàng cung cấp, ngân
hàng tổ chức các dịch vụ thanh toán như : thanh toán chuyển tiền trong nước
và quốc tế, thanh toán séc du lịch, thanh toán nhờ thu, thanh toán tín dụng
chứng từ, chi trả kiều hối...
Tổng doanh số chuyển tiền thực hiện qua các NHTM QD trong năm gần
đây như sau : nãm 1998 đạt 7.98 tỷ USD, năm 1999 đạt 8.32 tỷ USD năm
2000 đạt 9.3 tỷ USD và năm 2001 đạt 10.59 tỷ USD. Trong đó Ngân hàng
Ngoại thương là ngân hàng chiếm vị trí hàng đầu trong việc chuyển tiền. Được
như vậy là do nghiệp vụ chuyển tiền qua mạng SWIFT của ngân hàng Ngoại
thương có độ chính xác, an toàn cao, mức phí hấp dẫn là một trong những
nhân tố quan trọng để các khách hàng tín nhiệm và thực hiện các giao dịch
chuyển tiền qua ngân hàng Ngoại thương. Đặc biệt từ tháng 4/1995 dịch vụ
chuyển tiền MoneyGram được đưa vào hoạt động, doanh số chuyển tiền qua
dịch vụ này ngày một tăng do giao dịch được thực hiện nhanh, thuận tiện, chủ
yếu phục vụ cho chuyển tiền kiều hối.
Phần lớn các NHTM Việt nam đều quá non trẻ, với tuổi trưởng thành
khoảng hơn 10 năm so với tuổi hàng trăm năm của các ngân hàng nước ngoài.
Mặt khác, trước năm 1990 hầu hết toàn bộ giao dịch thanh toán quốc tế của
Việt nam được độc quyền thực hiện qua ngân hàng Ngoại thương. Do đó so
với các ngân hàng nước ngoài, các NHTM Việt nam còn kém nhiều về kinh
nghiệm cũng như kiến thức trong thanh toán quốc tế. Cũng như các doanh
nghiệp Việt nam, các NHTM Việt nam đang phải đối phó với những thách
50
thức to lớn của tiến trình toàn cầu hoá và một thực tế là xu hướng hội nhập
khu vực và quốc tế. Cạnh tranh giữa các NHTM Việt nam với hệ thống các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh tại Việt nam ngày càng
gay gắt. Bên cạnh đó, hệ thống vãn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện nghiệp
vụ thanh toán quốc tế mang tính hệ thống còn thiếu, thậm chí là chưa có, các
NHTM tự tạo cho mình một quy trình riêng dựa trên cơ sở duy nhất là thông
lệ quốc tế -UCP500. Các quy trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế của
mỗi ngân hàng thương mại có sự khác nhau tuỳ theo trình độ và đặc điểm của
mỗi ngân hàng. Việc thiếu các văn bản pháp quy mang tính quốc gia, hoặc
văn bản không rõ ràng đã là một trong những nguyên nhân gây nên những vụ
tranh chấp kiện tụng về kinh tế ( phát sinh từ nghiệp vụ thanh toán quốc tế )
dây dưa kéo dài nhiều năm, toà án gặp khó khăn khi phán xử hoặc phán xử
thiếu chính xác, thiếu cơ sở pháp lý.
Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của các NHTMQD đều tăng qua
các năm. Năm 1999 đạt 25 nghìn 723 triệu USD, năm 2000 đạt 28 nghìn 625
triệu USD, năm 2001 đạt 30 nghìn 201 triệu USD. Thị phần thanh toán quốc tế
của các NHTMQD vẫn chiếm vị trí chủ yếu trên 70%. Tuy nhiên nhìn biểu
dưới đây ta thấy thị phần của 4 NHTMQD đã ngày càng giảm đi. Điều này
cho thấy rằng nếu những nhà quản lý tiền tệ ở Việt nam không xây dựng được
những lộ trình và chiến lược kiểm soát hợp lý thì các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài sẽ dần dần chiếm lĩnh các vị trí then chốt trong thị trường tài
chính ở nước ta.[34];[35];[36];[37];[39];[40]
Biểu 1.4. C ư cấu thị phần thanh toán quốc tê trong hệ thống N H TM V N 2000
3 N H N T V N
37.8 %
NH CTV N
■ N H Đ T & P T V N
■ N H N o N & P T N T V N
■ N H TM khác
Nguồn NHNN/2001
51
Biểu 1.5.Doanh sô thanh toán quốc tế trong hệ thống NHTMVN 2000
Triệu USD
16000
14000
12000
10000
8000
6000
4000
2000
0
NHNT
NHCT
NHĐT&PT
NHNoN
NHTM khác
■ D o a n h số th an h loán
2.2.3 Hoạt động khác của N H TM
2.2.3.1 Dịch vụ uỷ thác
Việc sở hữu tài sản dẫn đến nhu cầu về các dịch vụ quản lý tài sản. Việc
quản lý tài sản cho người khác được thực hiện dưới nhiều hình thức và cách
sắp xếp khác nhau, đó là nghiệp vụ uý thác. Dịch vụ uỷ thác được các ngân
hàng quan tâm phát triển vào cuối những năm 40 dầu những năm 50 cuả thế
kỷ 20. Việc cung cấp dịch vụ uỷ thác làm nảy sinh mối quan hệ uỷ thác nghĩa
là một bên hoạt động cho lợi ích của bên kia trong phạm vi mối quan hệ của
họ, bao gồm việc nắm giữ tài sản được điều hành bởi người được uỷ thác vì lợi
ích của một bên hoặc các bên thứ ba. Dịch vụ của phòng uỷ thác có thể được
chia thành ba lĩnh vực chính: việc ấn định tài sản, việc điều hành các dịch vụ
uỷ thác, giám sát tài sản và hoạt động của các cơ quan đại diện.
Có thể chia nghiệp vụ uý thác làm hai loại : Nghiệp vụ uỷ thác đối với
cá nhân (thể nhân) và nghiệp vụ uỷ thác đối với các doanh nghiệp (pháp nhân).
52
A. Các dịch vụ uỷ thác thực hiện đối với cá nhân
* Quản lý tài sản theo chúc thư :
Thường một số người khi chết có để lại một chúc thư nói lên ý muốn
của họ liên quan tới việc phân chia tài sản, trong đó họ chỉ định người thực
hiện di chúc thường là phòng uỷ thác của ngân hàng .
Bổn phận cơ bản của một người quản lý tài sản hay thực hiện di chúc là
bảo vệ các tích sản, chi trả các chi phí điều hành và các khoản nợ, trả thuế,
phân phát tài sản và cung cấp các dịch vụ cá nhân cho các thành viên trong gia
đình. Nhiều trường hợp bộ phận uỷ thác còn phải thực hiện chức năng của
người quản lý tài sản.
* Quản lý theo hợp đồng ký kết
Người ta có thể giao cho người uỷ thác quản lý một số tài sản nhất định
bằng một chúc thư hay một hợp đồng uỷ thác khi họ đang sống. Người được
uỷ quyền được yêu cầu phải nắm giữ đầu tư, sử dụng lợi tức và vốn gốc phù
hợp với các điều khoản đã quy định trong hợp đồng. Trường hợp này hợp đổng
uỷ thác nhằm giúp người hưởng thụ bớt đi gánh nặng về trách nhiệm chăm lo
tài sản mà vẫn được hưởng lợi tức của tài sản. Người hưởng thụ ở đây có thể
bao gồm những người hoang phí không thể quản lý tài sản , trẻ em hoặc những
người không có năng lực thực hiện việc quản lý tài sản.
* Giám hộ và bảo quản tài sản cá nhân
Sự giám hộ và bảo quán thường được thiết lập bởi một phiên toà. Toà án
chỉ định người giám hộ và bảo quản tài sản cho những người thừa kế tài sản
nhưng đang ở tuổi vị thành niên hoặc những người thiếu năng lực pháp lý với
mục đích ngăn ngừa lãng phí tài sản, tiền bạc.
13. Dịch vụ uỷ thác đôi với doanh nghiệp
Dịch vụ uỷ thác đối với doanh nghiệp nhằm phục vụ cho các mục đích
trợ cấp hưu trí, phân chia lợi nhuận, chia tiền thưởng cổ phần cho phát hành
trái phiếu, cho mua lại các quỹ và trả lại các quỹ để thanh toán cho việc phát
hành trái phiếu uỷ thác thế chấp hoặc các giấy chứng nhận. Nhiều hoạt động
uỷ thác liên quan đến việc phát hành chứng khoán như chuyển nhượng quyền
sở hữu cổ phiếu, chi trả lãi cổ phần cho các cổ đông của công ty, chuyển
nhượng trái phiếu, chi trả lãi và vốn gốc bảo quản sổ sách.
53
Thực hiện dịch vụ quản lý quỹ hưu trí của các hãng tư nhân ngân hàng
phải tiến hành thu tiền, kiểm soát tính toán đầu tư vào chứng khoán. Thông
thường ngân hàng đầu tư khoảng 60% vốn của quỹ hưu trí vào cổ phiếu hoặc
trái phiếu của công ty tư nhân, phần còn lại đầu tư vào tín phiếu của Chính
phủ. Đầu tư vào trái phiếu Chính phủ tuy lãi suất thấp hơn nhưng khả năng
chuyên đổi thành tiền mặt nhanh hơn.
Thực hiện dịch vụ uỷ thác mang lại cho ngân hàng một số lợi thế như
bổ sung cho ngân hàng một nguồn thu nhập khá lớn từ khoản thu lệ phí và hoa
hồng uỷ thác hàng năm. Ở các nước phát triển khoản thu nhập này xấp xỉ 10%
thu nhập của ngân hàng. Mặt khác, tuy không phải bỏ đồng vốn nào nhưng
ngân hàng vẫn có thể thực hiện được việc kiểm tra ở mức khác nhau đối với
công ty và vốn của công ty. Thông qua hoạt động uỷ thác giúp ngân hàng
củng cố và duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng. Ngoài ra, nhờ có hoạt động
này nhiều ngân hàng đã vượt qua được những hạn chế trong lĩnh vực đầu tư
vốn. Bởi vậy, các nhà quản lý ngân hàng thương mại Mỹ đánh giá rất cao ý
nghĩa của nghiệp vụ uỷ thác và họ coi đây là chìa khoá mở ra các hướng hoạt
động mới của ngân hàng thương mại trong tương lai.
ở Việt nam dịch vụ uỷ thác chưa được phát triển và chú trọng, các
NHTMQD mới chỉ bắt đầu chú ý đến loại hình dịch vụ mới này trong mấy
năm gần đây, nhưng vẫn chỉ mang tính chất tham khảo, chưa được đầu tư và
nghiên cứu kỹ lưỡng, điều này cũng nói lên phần nào về sự nghèo nàn về
nghiệp vụ ngân hàng ở Việt nam.
2.2 3 .2 Dịch vụ tư vấn
Nhờ khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học, đặc biệt là hệ thống
thông tin rộng lớn, nhanh chóng, chính xác, bí mật đã tạo điều kiện giúp các
ngân hàng phát triển nhanh chóng dịch vụ tư vấn .
Hoạt động tư vấn là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng của họ
những lời khuyên tốt nhất, những hiểu biết sâu sắc nhất về những lĩnh vực mà
khách hàng yêu cầu. Nhờ những lời khuyên có chất lượng của ngân hàng mà
C Ư sở để dự đoán được những diễn biến của tình hình kinh tế xã hội ... Kết cục
khách hàng có được những thông tin đáng tin cậy chính xác dựa vào đó họ có
họ có thể xây dựng được những phương án sản xuất kinh doanh tối ưu, hoặc
có những quyết định kịp thời trong đầu tư hoặc trong sản xuất kinh doanh, từ
đó họ có thể giảm tối thiểu được rủi ro hay thiệt hại và đạt được mức lợi nhuận
tối đa.
54
Các ngân hàng lớn trên thế giới đã có nhiều thành công về nghiệp vụ tư
vấn đặc biệt là cung cấp tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy phải
đương đầu với nhiều hãng tư nhân nhưng thường thì ngân hàng thắng thế. Bởi
vì, một trong các mối quan tâm của người đầu tư nước ngoài là thanh toán qua
hệ thống ngân hàng. Thông qua hoạt động tư vấn khách hàng còn muốn tìm
hiểu xem ngân hàng sẽ phục vụ mình và các đối thủ khác trên thương trường
như thế nào. Mặt khác, đặc điểm kinh doanh riêng có của hệ thống ngân hàng
đã tạo cho nó những lợi thế hơn hẳn bất cứ ngành nào, doanh nghiệp nào ở các
lĩnh vực khác về khối lượng thông tin, chất lượng thông tin mà nó có được.
Do vậy, thật là sai lầm nếu một ngân hàng nào đó lại bỏ qua hay xem
nhẹ các hoạt động tư vấn, một dịch vụ ngân hàng chi phí ít nhất mà thu nhập
không nhỏ. Thu nhập của ngân hàng trong dịch vụ tư vấn không chỉ đơn thuần
là thu lệ phí phục vụ do khách hàng thanh toán mà qua nghiệp vụ này các
ngân hàng còn mở rộng khách hàng, củng cố và tăng cường vị trí và uy tín của
mình một cách nhanh chóng.
Tất nhiên để tăng được lòng tin của khách hàng đối với mình, ngoài
tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng các thành tựu khoa học tin học
hiện đại, ngân hàng còn phải không ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ tư
vấn. đảm bảo luôn luôn cung cấp cho khách hàng những lời khuyên chính xác
nhất, tin cậy nhất với tinh thần phục vụ tận tình chu đáo nhất.
ơ nước ta dịch vụ tư vấn của các ngân hàng còn rất mới mẻ, và chưa
được phát triển rộng rãi, các ngân hàng chưa thấy được tầm quan trọng của
lĩnh vực này, nên kết quả còn rất khiêm tốn. Tuy nhiên trong tương lai không
xa dịch vụ này sẽ mang lại nguồn lợi nhuận đáng kể cho các ngân hàng
thương mại ở Việt nam nếu chúng ta có sự đầu tư và quan tâm thích đáng cho
lĩnh vực này.
2 .2 3 .3 Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
Một nền kinh tế thị trường muốn phát triển được phải có sự hỗ trợ đắc
lực của các thị trường vốn. Không chỉ phát triển thị trường vốn ngắn hạn mà
cần phải phát triển mạnh mẽ cả thị trường trung và dài hạn. Mỗi thị trường có
vị trí cũng như vai trò khác nhau đối với sự phát triển nền kinh tế mỗi nước.
Xu hướng hiện nay là có sự hoà nhập giữa hai thị trường vốn trên thực tế.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là sự cần thiết cho mạch máu của nền kinh
tế được lưu thông suốt, không ách tắc gián đoạn, không bị chia cất.
55
Cũng giống như các công ty khác, ngân hàng có quyền phát hành cổ
phiếu, để bổ sung nguồn vốn pháp định hoặc trái phiếu để tăng nguồn vốn
kinh doanh. Bằng phương pháp này ngân hàng có thể thu hút những nguồn
vốn khá lớn và ổn định, lâu dài với chi phí huy động thấp. Còn hiệu quả sử
dụng vốn này tuỳ thuộc vào quá trình hoạt động kinh doanh hay quá trình sử
dụng vốn của ngân hàng sau này.
Ỏ nước ta các NHTMQD đã thành lập công ty kinh doanh chứng khoán,
mặc dù giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán của các NHTMQD ở
Việt nam còn khiêm tốn, nếu không muốn nói là quá nhỏ bé, chỉ vào khoảng
228 tỷ đổng tính đến 30/06/2002. Tuy nhiên nó vẫn khẳng định hướng đi đúng
đắn của các ngân hàng thương mại Việt nam trong xu thế phát triển mới.
2.3 ĐÁNH GIÁ VỂ H O Ạ T ĐỘ NG CỦA CÁC N H T M Q D
2.3.1 N hững kết quả đã đạt được
Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống Ngân hàng thương mại
Quốc doanh ở Việt nam đã không ngừng lớn mạnh và góp phần quan trọng
vào những thành quả chung của công cuộc đổi mới của đất nước, đó là:
1- Với vai trò là lực lượng nòng cốt trong hệ thống các TCTD Việt nam,
trong suốt thời kỳ đổi mới hơn 10 năm qua các NHTMQD đã thực sự trở
thành chỗ dựa tin cậy không thể thiếu của các thành phần kinh tế, có những
đóng góp lớn lao trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện
với tốc độ khá cao và ổn định.
2- Góp phần tăng trưởng kinh tế và đóng góp đáng kể vào thành công
của sự nghiệp đổi mới kinh tế.
3- Huy động được một khối lượng vốn đáng kể trong và ngoài nước, thúc
đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế, coi trọng đầu tư tín dụng ưu
2.3.2 Hiệu quả hoạt động của các NHTM Q D
đãi để phục vụ xoá đói giảm nghèo và thực hiện một số chính sách xã hội.
Nhằm giảm thiểu chi phí, khi đánh giá chất lượng hoạt động của ngân
hàng và kết quả thực hiện các quy định pháp lý, các Ngân hàng Trung ương
thường thông qua một hệ thống chỉ tiêu tài chính nhất định. Hệ thống chỉ tiêu
này cho phép đưa ra những kết luận nhanh chóng và chính xác về tình hình tài
56
chính của NHTM, cụ thể là mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Quá trình đánh giá này thường được bất đầu bằng việc xem xét mục tiêu lựa
chọn và kết quả thực hiện mục tiêu đó. v ề cơ bản, mỗi ngân hàng có mục đích
riêng, một số ngân hàng coi trọng mục tiêu phát triển dài hạn, số khác ưu tiên
giảm thiểu rủi ro và tăng cường sức mạnh của ngân hàng. Nhìn chung, các
ngân hàng có thiên hướng quan tâm đến giá trị của tài sản-mục tiêu cơ bản của
ngân hàng, mục tiêu này được đặt lên trên tất cả các mục tiêu khác. Nếu tài
sản không tăng tới giá trị như các cổ đông kỳ vọng thì các nhà đầu tư có thể
rút vốn cổ phần và ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc tăng vốn để hỗ trợ
tăng trưởng.
Như vậy, hệ thống chỉ tiêu tổng hợp nhất là các chỉ tiêu tài chính đánh
giá hiệu quả kinh doanh và tính an toàn trong hoạt động của các NHTM, bao
gồm các chỉ tiêu sau :
2.3.2.1 Khả năng thanh khoản
Khả năng thanh toán của các NHTM được đặc trưng bởi 2 chỉ tiêu :
1. Khả năng thanh toán tức thì (quick liquydity ratio-QL)
QL = Tiền mặt tại quỹ/Tổng tài sản nợ ngắn hạn
2. Khả năng thanh toán hiện hành (current liquydity ratio-CRL)
CRL = Tổng tài sản có ngắn hạn/ Tổng tài sản nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán hiện hành và khả năng thanh toán tức thì của các
NHTMQD từ năm 1998-2000 được thể hiện qua bảng tính sau:
1998-2000
Bảng 5 : Khả năng thanh khoản của các NHTMQD
Tỷ lệ thanh toán tức thì
Tỷ lệ thanh toán hiện hành
Tên ngân hàng
1999
2000
1999
2000
NHCT
0.04
0.01
0.7
0.76
NHN0
0.05
0.03
0.98
1
0.02
NHĐT&PT
0.61
0.006
0.6
NHNT
0.01
0.006
0.36
0.44
Nguồn NHNN/2001
57
Năm 1999-2000 là thời điểm Chính phủ cùng với NHNN trực tiếp can
thiệp vào việc xử lý các khoản nợ không hiệu quả tại các NHTM nhằm đảm
bảo an toàn hệ thống, giải quyết dứt điểm các khoản nợ khó đòi kéo dài hàng
nhiều năm, không có cơ hội thu hổi nhằm hạn chế rủi ro thanh toán cho các
NHTMQD. Những biện pháp can thiệp nhất định đã phần nào làm thay đổi
diện mạo khả năng thanh toán của các ngân hàng, song nhìn chung kết quả đạt
được vẫn không được như mong muốn. Nhìn vào bảng số liệu tính toán trên
chúng ta có thể thấy rằng Khả năng thanh toán tức thời của các ngân hàng còn
quá thấp, không đủ để đáp ứng 10% tổng dư nợ ngắn hạn.
Chỉ tiêu thứ hai-Khả năng thanh toán hiện hành là chỉ tiêu được nhiều
người quan tâm nhất đã không thể vượt quá 1 là mức tối thiểu theo quy định
của NHNN đối với các NHTM. Đặc biệt là chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh
toán hiện hành của NHNT ở mức rất thấp ( nhỏ hơn 50%). Nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tình trạng trên là do tốc độ tăng trưởng của tài sản có ngắn hạn
thấp hơn tốc độ tăng trưởng của tài sản nợ ngắn hạn. Phần lớn các ngân hàng
sử dụng một phần vốn huy động ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu cho vay dài
hạn mà các khoản vay dài hạn thường có rủi ro cao và nếu các ngân hàng vẫn
tiếp tục duy trì tình trạng trên trong một thời gian dài thì tất yếu sẽ dẫn đến sự
xáo trộn trong hoạt động, không đảm bảo an toàn cho hệ thống, nhất là trong
điều kiện rất nhậy cảm của môi trường tài chính tiền tệ hiện nay.
2 3 .2 .2 Khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời của một ngân hàng được đặc trưng bởi 2 chỉ số : lãi
trên vốn tự có (ROE) và lãi trên tài sản có (ROA)
Bảng 6 :Lãi trên vốn tự có (ROE)
Tên Ngân hàng
1998 (%)
2000 (%)
1999 (%)
N H N o & P T N T
5,3
3,8
4,4
NHNT
10,6
6,5
9,8
N H Đ T & PT
6,5
7,6
4,2
NHCT
5,0
6,4
5,7
Nguồn: NHNN 2001
58
Từ năm 1998-2000, tỷ lệ ROE của các NHTMQD có chiều hướng gia
tăng đều qua các năm. Tuy nhiên, nếu lấy lãi suất tiền gửi tiết kiệm 8% /năm
làm chi phí cơ hội thì ngoài ngân hàng Ngoại thương, chỉ số ROE của các
ngân hàng khác đều nhỏ hơn 8%, và điều đáng nói là các chỉ số ROE này thấp
hơn rất nhiều so với chỉ số ROE bình quân trong khu vực vào thời điểm so
sánh - chỉ số ROE bình quân của các nước trong khu vực là 14.6%. Điều đó
chứng tỏ rằng khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của các NHTMQD
ở Việt nam còn rất thấp.
Nguyên nhân chính để giải thích cho tình trạng này chính là sự đơn điệu
trong hoạt động đầu tư tại các NHTMQD. Hoạt động huy động vốn để cho
vay vẫn là hoạt động chính yếu của các NHTM Việt nam, nguồn thu nhập từ
hoạt động này đóng vai trò chi phối đối với thu nhập ròng cuối cùng của các
ngân hàng. Chính vì vậy khi hoạt động tín dụng trở nên kém hiệu quả thì ngay
lập tức đã kéo theo sự sa sút của lợi nhuận ròng. Nnguồn thu nhập từ các hoạt
động khác theo mô hình ngân hàng thương mại hiện đại là rất nhỏ bé, không
thể bù đắp được sự giảm sút của nguồn thu nhập chính
Bảng 7: Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản có của các NHTMQD 1998-2000
Chỉ tiêu ROA (%)
Tên Ngân hàng
1998
1999
2000
0,26
0,17
NHCT
0,16
0,5
N H N o & PTNT
0,33
0,17
0,39
N H Đ T & PT
0,23
0,21
NHNT
0,5
0,28
0,22
Nguồn: N H N N 2001
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước cấp đã nhỏ hơn chi phí cơ hội và
thấp hơn rất nhiều so với khu vực (trên 3%) nên tình trạng tỷ suất lợi nhuận
trên tổng tài sản cũng trở nên xấu đi. Tỷ lệ ROA của cả 4 NHTMQD đều có
xu hướng giảm từ năm 1998-2000. Như đã đề cập ở trên, mặc dù thu nhập
ròng của các NHTMQD đều có gia tăng nhẹ, song mức gia tăng này lại thấp
59
hơn rất nhiều so với mức gia tăng của tài sản có. Hiện trạng này một lần nữa
khẳng định hiệu quả đạt được của hoạt động kinh doanh hiện tại của các
NHTMQD còn rất thấp.
2 3 .2 .3 Chi ph í và hiệu suất lĩoạt động
Tổng chi phí là một yếu tố quyết định đến kết quả cuối cùng của một
doanh nghiệp và ngân hàng cũng không phải là một ngoại lệ.
Chi phí và hiệu suất hoạt động của một ngân hàng đựợc đặc trưng bởi 2
chỉ số : tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập ròng và tỷ lệ tài sản có trên một
cán bộ công nhân viên. Nhìn vào bảng số liệu sau, có thể nhận thấy rằng tổng
chi phí so với tổng thu nhập tại mỗi NHTMQD còn rất cao. Trong đó chủ yếu
là chi phí cho nghiệp vụ chính- đi vay để cho vay
Bảng 8 : Cơ cấu chi phí của các NH TM QD
Tổng chi phí/Tổng thu nhập (%)
Tổng chi trả lãi/Tổng thu nhập (%)
Tên Ngân hàng
1999
2000
2000
1999
NHNo & PTNT
96
92
67
53
NHNT
93
94
70
67
NHĐT& PT
97
96
78
75
NHCT
98
97
88
76
N guồn: N H N N /2 00I
Bảng 9 : Chi phí và hiệu suất hoạt động của các NHTM QD (1999-2000)
Tài sản có/Một CBCNV
Chi phí hoạt động/Tổng tài sản (%)
(Tỷ đồng)
Tên ngân hàng
1999
2000
1999
2000
NHCT
9.7
6.8
3.8
4.48
NHNo&PTNT
10.4
8
1.93
2.49
NHĐT&PT
9.98
7.06
10.99
10.64
NHNT
4.9
4.23
17.56
23.1
Nguồn N HNN/2001
60
Mức chi phí cao đã dẫn đến thu nhập thuần tuý của các NHTMQD rất
thấp, cho dù đây là những ngân hàng có tổng thu nhập cao nhất trong hệ thống
ngân hàng. Điều này đã hạn chế khả năng tăng vốn và mở rộng hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng. Tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng tài sản có tại các
ngân hàng đã giảm xuống, năm 2000 bình quân mức chi phí này chiếm
6.5%trong tổng tài sản có, trong khi tỷ lệ này tại Malaysia là 2.2% và từ 1-2%
ở các nước công nghiệp phát triển OECD. Tỷ lệ này cao gấp 2.5-4.5 lần so với
chênh lệch lãi suất mà các ngân hàng thu được từ các khoản cho vay. Nhân tố
có ảnh hưởng đến độ lớn của mức chi này là số lượng nhân viên của các ngân
hàng. Số lượng nhân viên trong các NHTMQD trong các năm qua đã không
ngừng lãng, tiếp theo phải kể đến các chi phí về quản lý, mức chi này trong
những năm qua là khá cao, đã làm tăng chi phí hoạt động của ngân hàng. Điều
này đặt ra yêu cầu cấp bách là phải hiện đại hoá và sử dụng có hiệu quả hơn
nữa công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất lao động và tiết kiệm chi phí.
Tỷ lệ tài sản có trên một cán bộ công nhân viên của các NHTMQD Việt
nam cũng thấp xa so với tý lệ ở các nước này trong khu vực. Điều này phản
ánh mức độ áp dụng công nghệ hiện đại trong các ngân hàng còn thấp, lạc
hậu. Mạng lưới chi nhánh của các Ngân hàng rộng nhưng hoạt động kém hiệu
quả, ảnh hưỏng xấu đến kết quả kinh doanh.
Tóm lại chi phí cao là yếu tố cơ bản hạn chế khả năng sinh lời của các
NHTM, chính vì thế mà tỷ lệ ROE, ROA tại các NHTMQD còn rất thấp
2 .3 2 .4 Mức độ rủi ro
Để thấy được mức độ rủi ro của các NHTMQD cần xem xét các chỉ số:
Vốn tự có trên tài sản có và nợ quá hạn
Bảng 10: Tỷ trọng vốn tự CÓ/Tổng tài sản của các NHTMQD
(tính đến 31/12/2001)
Tỷ lệ vốn tự có/Tài sản có (%)
Tên ngân hàng
1998
1999
2000
NHCT
3.9
3.7
3.16
NHNo&PTNT
8.02
6.3
4.7
NHĐT&PT
5.13
4.2
5.23
NHNT
4.27
3.97
4.26
Nguồn NHNN/200J
61
Tỷ lệ vốn tự có / tổng tài sản có để đánh giá năng lực thanh toán của
một ngân hàng đối với những người gửi tiền. Qua số liệu cho thấy tỷ lệ vốn tự
có trên tài sản có của các NHTMQD là thấp , mức độ rủi ro cao.
Vốn tự có thấp là nguyên nhân làm tăng mức độ rủi ro của các
NHTMQD ở Việt nam, hạn chế khả năng thanh toán. Điều đáng nói là cho tới
nay vẫn chưa xác định được cơ chế để tăng vốn tự có của các NHTM Việt
nam. Đối với các NHTMCP, khi quy mô kinh doanh tăng lên, đại hội cổ đông
có thể đưa ra nghị quyết đề nghị NHNN cho phép phát hành cổ phiếu đê tăng
vốn cổ phần. Với mức gia tăng tín dụng trung bình 20%/năm, việc tăng vốn tự
có của các NHTMQD là vấn đề khó khăn, ngoài việc tạo điều kiện để bán
nhanh nợ có tài sản thế chấp đang tồn đọng, khoanh nợ, xoá nợ và đề nghị
Chính phủ bổ sung nguồn vốn cho các NHTMQD, trong khi ngân sách nhà
nước đang bội chi và nợ nước ngoài sắp đến hạn trả.
Mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn thể hiện ở tình trạng nợ
quá hạn và nợ tồn đọng. Hiện nay nợ quá hạn và tổn đọng ở các NHTMQD rất
lớn, đang là nguy cơ đe dọa sự an toàn của hệ thống. Tính đến ngày
31/12/2000, tổng nợ quá hạn của 4 NHTMQD là 14 688.9 tỷ đổng, chiếm
11.2% trong tổng dư nợ. Các khoản nợ khoanh của các NHTMQD đều gia
tăng (trừ ngân hàng Ngoại thương nợ khoanh giảm 5.4% so với năm 1999),
NHCT tăng 5.9%, NHNO tăng 41.9%, NHĐT&PT tăng 21.5% so với năm
1999.
Mội điều đáng nói là tỷ lệ nợ khó đòi trong tổng nợ không có hiệu quả
ở các NHTMQD là rất cao, chiếm 75%. Hầu hết chủ nhân của các khoản nợ
quá hạn là các DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài, không có khả năng thanh toán.
Mặt khác phần lớn các khoản vay đều không có tài sản thế chấp, chủ yếu các
khoản vay được đáp ứng trên cơ sở tín chấp, hoặc cho vay theo chỉ định của
Chính phủ, vì thế cơ hội để thu hồi lại các khoản nợ này là rất thấp.
Trong thời gian qua, nhìn nhận được những tác động tiêu cực của các
khoản nợ không hiệu quả đang ngày một gia tăng, cùng với sự chỉ đạo của
NHNN, từng NHTM đã tự nghiên cứu triển khai phương thức giải quyết các
khoản nợ không hiệu quả trong bản thân mỗi ngân hàng. Các ngân hàng đã
thận trọng và chặt chẽ hơn trong việc cung cấp các khoản tín dụng mới cho
nền kinh tế, đã dự đoán và thiết lập quỹ dự phòng rủi ro ( tuy nhiên các khoản
dự phòng này vẫn còn thấp xa so với số nợ quá hạn trong các ngân hàng) từng
62
bước thực hiện các biện pháp tình thế như khoanh nợ và giãn nợ (theo quyết
định số 445 ngày 5/11/1998 của Thống đóc NHNN Việt nam). Ngân hàng nhà
nước đã cung cấp vốn cho các NHTMQD để giải quyết các khoản nợ không
hiệu quả, song nhìn chung các nguồn vốn này vẫn còn hạn chế, các NHTM
vẫn phải tự dùng nguồn vốn huy động của mình để khoanh nợ. Với các
phương thức này các NHTMQD đã dần hạn chế được nợ quá hạn của các
khoản vay cũ vẫn tiếp tục phát sinh.
Nhìn chung, tỷ lệ nợ không có hiệu quả hiện đang tổn tại trong mỗi
NHTMQD nói riêng và trong hệ thống NHTM nói chung là khá cao. Điều đó
phản ánh sự không lành mạnh về tình hình tài chính của các NHTM. Chất
lượng tín dụng tại các NHTMQD là quá thấp và rủi ro tín dụng cao. Vì vậy để
tổn tại và phát triển các NHTMQD phải tìm ra các giải pháp hữu hiệu để ngân
chặn tình trạng này
Tóm lại, sau khi phân tích các số liệu được phản ánh các chỉ tiêu tài
chính từ năm 1998-2000, có thể nhận thấy rằng tình hình tài chính của các
NHTMQD không lành mạnh , còn có nhiều điểm yếu kém cụ thể là:
. Một là hiệu quả hoạt động thấp
. Hai là khả năng thanh khoản yếu kém .
. Ba là chất lượng tín dụng thấp -tỷ lệ nợ quá hạn cao.
. Bốn là không đảm bảo an toàn về vốn, cụ thể là vốn tự có /tổng tài sản thấp.
So với các nước trong khu vực, những yếu kém về mặt tài chính của các
NHTMQD là tương đối lớn. Tỷ lệ nợ không có hiệu quả trong các ngân hàng
cao hơn rất nhiều, khả năng thanh khoản và vốn tự có rất thấp.. Hiện nay nếu
không có sự bao cấp của Chính phủ thì chắc chắn hệ thống NHTM Việt nam
sẽ khó mà có thể tổn tại được. Sự đổ vỡ của quỹ tín dịng nhân dân vào những
năm 90, việc lấn sân của các ngân hàng nước ngoài trên thị trường tín dụng
Việt nam hiện nay là những minh chứng điển hình cho sự rạn nứt ban đầu của
2.3.3 N hững nguyên nhân dẫn đến những tồn tại của các NHTMQD
hệ thống tài chính Việt nam.
2.33.1 Về phía các NHTMQD
63
- Phần lớn các NHTMQD đều thiếu một chiến lược kinh doanh hiệu quả
và bền vững. Nhiều quyết định kinh doanh còn hời hợt, đôi khi chỉ dựa vào lợi
ích ngắn hạn. Chính vì thế chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ của môi trường kinh
doanh cũng có thể làm phát sinh các khoản nợ lớn đối với ngân hàng.
- Lực lượng cán bộ viên chức trong các ngân hàng là quá lớn dẫn đến
chi phí hoạt động cao, nhưng hiệu quả thu được là rất thấp. Trình độ nghiệp vụ
của các cán bộ tín dụng và các nhà quản lý còn có nhiều hạn chế. Việc thẩm
định các dự án cho vay tín dụng còn đơn điệu, nên dễ dẫn đến sự thiếu chính
xác trong việc đánh giá tính khả thi. Việc phân loại và quản lý thu hổi nợ còn
yếu kém, đôi lúc còn thiếu tính quyết đoán, nên thường dẫn đến việc nhầm lẫn
trong việc quản lý nợ, làm gia tăng các khoản nợ quá hạn, phản ánh khônh sát
thực tình trạng nợ quá hạn trong mỗi ngân hàng.
- Một số biện pháp quản lý như khuyến khích doanh số, tách rời quy
trình thu lãi và nợ gốc lệ thuộc một cách máy móc vào quy định về thế chấp
bảo lãnh và những quy định hành chính khác nên đã hạn chế rất lớn việc quản
lý rủi ro tín dụng vốn là nghiệp vụ quan trọng bậc nhất của các NHTM
- Rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng nhìn chung là rất cao. Ở
nước ta rủi ro này phát sinh là do các khách hàng lớn của các NHTM chủ yếu
là các DNNN. Họ luôn dựa vào sự bảo trợ của Nhà nước, coi dịch vụ ngân
hàng như là dịch vụ công ích. Ngoài ra sự thiếu minh bạch trong hệ thống luật
pháp, việc không tách bạch giữa mục tiêu kinh doanh và mục tiêu chính sách
trong hoạt động tín dụng đã làm cho các ngân hàng luôn bị động, trách nhiệm
không rõ ràng và rất khó kiểm soát. Đặc biệt một số cán bộ quản lý và điều
hành đã cố tình vi phạm nguyên tắc, chế độ để tham nhũng đã gây nên những
thất thoát lớn cho hệ thống ngân hàng, là những nguyên nhân chính làm gia
tăng rủi ro đạo đức trong hệ thống ngân hàng Việt nam.
- Tinh trạng cạnh tranh quá mức trên tùng địa bàn nhỏ do việc mở nhiều
chi nhánh theo địa giới hành chính đã dẫn đến chính sách khách hàng không
hợp lý, buộc phải tăng biên chế vì lực lượng cán bộ tín dụng quá tải, chi phí
nghiệp vụ cao và hiệu quả thấp trong hầu hết các NHTM QD
64
- Hoạt động kiểm soát nội bộ còn yếu kém thiếu tính độc lập. Hệ thống
kế toán không đạt chuẩn mực quốc tế, thông tin lạc hậu là những trở ngại rất
lớn cho việc nâng cao chất lượng quản lý và áp dụng công nghệ hiện đại.
- Các NHTM còn lệ thuộc một cách quá máy móc vào các quy định về
thế chấp , bảo lãnh và những quy định hành chính khác.
2 3 3 2 Về phía Ngân hàng Nhà nước
- Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp quá sâu vào quy trình nghiệp vụ của
các Ngân hàng thương mại ( tín dụng, bảo lãnh, kế toán, sử dụng quỹ dự
phòng..) thông qua một số các văn bản pháp lý ban hành. Điều này đã hạn chế
đáng kể tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng. Các văn bản pháp
lý do Nhà nước ban hành còn thiếu động bộ, thiếu một khuôn khổ pháp lý
đảm bảo cho hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động an toàn.
- Chưa có một cơ quan phân tích, đánh giá hiệu quả và dự báo xu hướng
phát triển của các ngân hàng một cách độc lập, đảm bảo nhanh và chính xác
đê điều chỉnh các quy định và biện pháp giám sát một cách kịp thời.
- Hoạt động thanh tra của NHNN trùng lặp, thiếu tính độc lập nên
khỏng kịp thời phát hiện và xử lý khách quan các vụ vi phạm. Mô hình tổ chức
thanh tra của NHNN cổng kềnh, tốn kém và không hiệu quả, đặc biệt là việc
tiến hành thanh tra thường xuyên tại chi nhánh của các NHTM ( thay vì thanh
tra chủ yếu tại hội sở chính ở trung ương) đã làm giảm trách nhiệm và hiệu lực
của các cơ quan kiểm soát, kiểm toán nội bộ cũng như HĐQT và ban điều
hành của các NHTM.
- Các công cụ của chính sách tiền tệ còn lạc hậu, mang nặng tính hành
chính, dễ thay đổi ngoài dự kiến của các đối tượng điều chỉnh ( mặc dù đầu
quý II năm 2000 NHNN đã đưa vào áp dụng các công cụ chính sách tiền tệ
mang tính thị trường như lãi suất cơ bản và nghiệp vụ thị trường mở nhưng cả
hai công cụ này vẫn còn rất sơ khai, chưa thể có tác động hữu hiệu đối với vốn
khả dụng của các NHTM). Đây cũng là một trong những cản trở lớn cho việc
xây dựng một chiến lược kinh doanh ổn định và vững chắc của các
NHTMQD.
- Hệ thống thống kê, kế toán, kiểm toán và thông tin tài chính toàn
ngành còn yếu kém và chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Đây là công cụ
quản lý, chỉ đạo rất quan trọng để NHNN giám sát toàn bộ hệ thống
65
2.3.3.3 Về phía khách hàng
- Phần lớn khách hàng của NHTMQD là doanh nghiệp Nhà nước, hiệu
quả kinh doanh thấp. Ngoài doanh nghiệp nhà nước, khách hàng của các
NHTMQD ngày càng đa dạng từ nhiều thành phần kinh tế. Trong đó có một
bộ phận khách hàng ít hiểu biết về pháp luật, thiếu năng lực quản lý, đạo đức
kinh doanh yếu. Hiện tượng bao cấp, đầu cơ, lừa đảo và gian lận trong quan hệ
tín dụng cũng như hoạt động thương mại còn khá phổ biến.
- Doanh nghiệp nhà nước là khách hàng của NHTM QD có cùng quan
hệ sở hữu, tuy đã hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng vẫn mang đậm tính
chất bao cấp, ỷ lại, hiệu quả thấp.
- Một số DNNN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất thay thế nhập khẩu
như xi măng, mía đường, phân bón, sắt thép, cơ khí... có thể có hiệu quả trước
mắt do được bảo hộ mậu dịch, nhưng về lâu dài thì rất dễ bị tổn thương do
việc cắt giảm hàng rào thuế quan và tăng cường sử dụng các biện pháp phi
thuế quan. Các khoản cho vay và bảo lãnh dài hạn từ những chương trình này
có thể rủi ro lớn và sẽ là nguy cơ bất ổn cho các NHTM QD trong những năm
- Môi trường kinh doanh và đầu tư ở Việt nam thiếu ổn định, rủi ro khá
lớn. Khối lượng tài sản thế chấp có khả năng phát mại thấp, gây khó khăn cho
việc thu hổi nợ
- Cơ chế chính sách về bù lãi suất, bù đắp các khoản nợ khoanh hoặc
2.3.3.4 Các nguyên nhân về phía cơ c h ế chính sách
xoá nợ không đáp ứng kịp thời các nghiệp vụ phát sinh, gây tổn thất lớn nguồn
vốn ngân hàng và làm giảm hiệu quả hoạt động của các NHTM.
- Cơ chế bao cấp còn khá đậm nét trong nhiều chính sách của Nhà nước
đối với hoạt động ngân hàng (nhất là chính sách tín dụng nông thôn, tín dụng
với DNNN và tín dụng với Ngân sách Nhà nước). Chưa có sự tách bạch rõ
ràng giữa hoạt động tín dụng chính sách với hoạt động tín dụng thương maị cả
về nghiệp vụ lẫn mô hình tổ chức.
- Nhiều trường hợp sự thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước
đã trực tiếp tạo ra các khoản nợ xấu cho NHTMQD nhưng việc bù đắp chưa
66
kịp thời ( như di dân làm chương trình quốc gia, đóng cửa rừng, tăng giá một
số hàng hoá độc quyền của Nhà nước v.v)
- Mô hình tổ chức và quản lý các DNNN nói chung và các NHTMQD
nói riêng chưa được giải quyết cơ bản như trách nhiệm và quyền hạn thực tế
của Hội đổng quản trị và Ban điều hành, quyền tự chủ ra các quyết định kinh
doanh, tự chủ về tổ chức, nhân sự, tài chính, đầu tư, phân phối thu nhập, khen
thưởng xử phạt vật chất. Đây là những nguyên nhân chủ yếu làm xói mòn
động lực và hạn chế hiệu quả hoạt động của các NHTMQD.
- Chế độ thanh tra, kiểm soát hoạt động ngân hàng còn nhiều đầu mối,
nhiều lượt kiểm tra, thanh tra với các khía cạnh, góc nhìn khác nhau đã làm
giảm lòng tin của dân chúng vào ngân hàngvà gây trở ngại lớn cho hoạt động
kinh doanh.
- Chưa có chính sách cụ thể của Nhà nước về đảm bảo an toàn vốn vay
và trích lập dự phòng rủi ro chuẩn xác. Việc xử lý các tài sản thế chấp để thu
hồi vốn diễn ra còn chậm chạp và ngân hàng luôn là người phải gánh chịu các
thiệt hại nhiều nhất.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản có ảnh hưởng tới hoạt động của
các NHTM Việt nam. Thực trang tài chính hiện tại của các ngân hàng đã có
ánh hưởng không tốt đến vị thế của các ngân hàng trên thị trường tài chính và
sẽ làm xói mòn giá trị của các ngân hàng trong tương lai.
Thực tế trên đòi hỏi phải có những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt
động của các NHTMQD, đảm bảo cho các ngân hàng có thể theo kịp các xu
hướng phát triển và có thể đương đầu với những thách thức mới trong quá
trình hội nhập.[l];[2];[3];[5];[46]
67
CHƯƠNG 3:
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NHTMQD
ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
3.1 BỐI CẢNH KINH TÊ XÃ HỘI VÀ NHŨNG ĐÒI HỎI Đ ố i VỚI HỆ THỐNG
NHTM ở VIỆT NAM
3.1.1 Bôi cảnh kinh tê hiện nay và yêu cầu đặt ra đôi vói hệ thông
NHTM QD [17];P8];[42];[35];[38];[46]
3.1.1.1 Bối cánh kinh tế trong nước và quốc tế
Nền kinh tế Việt nam đang phát triển trong vòng xoáy của xu hướng hội
nhập và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế. Hơn bao giờ hết, vào những năm cuối
của thiên niên kỷ vừa qua các hiện tượng đột biến ở hầu hết các lĩnh vực kinh
tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị và thiên nhiên môi trường đã diễn ra mạnh mẽ
trên quy mô toàn cầu với tốc độ nhanh chóng. Thế giới đang đứng trong một
chuyên động “Brao” mạnh mẽ bao gồm sự đan xen của nhiều nhân tố : thách
thức và thời cơ, nguy cơ và triển vọng, đa cực và hội nhập, vừa có những xung
đột vũ trang chớp nhoáng, vừa có những không gian rộng lớn của trào lưu thị
trường hoá chiến trường trong một xu thế toàn cầu hoá và cạnh tranh khốc liệt
Trong bối cảnh đó, nền kinh tế VN nói chung, hệ thống ngân hàng Việt nam
nói riêng đang vận động với những thách thức và thời cơ chủ yếu sau đây:
* Cơ hội:
Chúng ta đang phát triển kinh tế trong điều kiện được tiếp cận và thừa
hưởng một nền văn minh công nghệ ở thế hệ thứ 5 của thế giới -trong đó có
vãn minh tiền tệ, đang vận hành một nền kinh tế theo cơ chế thị trường đã
từng tồn tại và phát triển hàng trăm năm trên thế giới và trong thực tế, chúng
ta đã có hơn 10 năm kinh nghiệm bao gồm cả những bài học rút ra từ những
thất bại và cả những bài học rút ra từ thành công. Sau những khuynh đảo chính
trị, xã hội của nhiều nước XHCN và sự xâm thực của cuộc khủng hoảng tài
68
chính khu vực, chúng ta vẫn giữ được nền tảng chính trị ổn định, tránh được
những cú sốc đã từng trở thành nguy cơ không chí trên lĩnh vực an ninh, chính
trị, xã hội mà cả trong cơn lốc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực. Nhịp độ
tăng trưởng tuy có giảm về số tương đối nhưng vẫn tăng về giá trị tuyệt đối
của 1% GDP, vẫn kìm giữ lạm phát ở mức dưới hai con số và đặc biệt là đã
thoát khỏi sự bao vây, cấm vận về kinh tế, ngoại giao, chính trị....Đối thoại và
hội nhập với mọi thiết chế kinh tế, chính trị được mở rộng nhưng vẫn giữ
được quyền độc lập tự chủ của một quốc gia thống nhất có chủ quyền.
Sau hơn 10 năm đổi mới, đời sống nhân dân nói chung đã tăng hơn 2
lần. GDP tăng trưởng bình quân giai đoạn 1986-1990 là 4%. Trong giai đoạn
1991-1995 GDP tăng bình quân 8.2%/năm. Các năm 1998-1999 do khủng
hoang tài chính khu vực, có tác động xấu đến kinh tế Việt nam nên GDP có
giảm 5.8% (1998) và 4.7% (1999)
Năm 2001 nền kinh tế lại phục hổi GDP tăng lên 6.7%. Đây là một điều
đáng phấn khởi và tự hào vì từ một nền kinh tế tiểu nông, tự cấp tự túc, khép
kín và thiếu đói triền miên trước 1986, sau hơn 10 năm đổi mới kinh tế VN đã
phát triển mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường trong
nước và mở cửa ra thế giới. Hiện nay hàng hoá sản xuất từ các doanh nghiệp,
các tổ hợp và từ các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế Việt nam đã
có mặt ở hơn 120 thị trường các nước trên thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu
tăng bình quân hơn 20%/năm, đến nay đã đạt con số gần 10 tỷ USD năm
1998, 11,52 tỷ USD năm 1999, trong đó lần đầu tiên các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh đã làm ra hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu (6,93
tỷ /11,52 tỷ), 14,3 tỷ USD năm 2000 và năm 2001 là 16,1 tỷ USD. Cùng với
quá trình 10 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế Việt nam cũng đang chuyển mạnh từ
công thức : nông nghiệp -dịch vụ-công nghiệp sang công thức : dịch vụ-công
nghiệp-nông nghiệp:
Bảng 11 : Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước trong 4 năm (% /GDP)
69
Năm
2000
1997
1998
1999
Cơ cấu
Cơ cấu ngành:
25,0
27,0
25,0
24,5
Nông nghiệp
34.5
30,1
30,0
33,3
Công nghiệp
40,5
42,0
45,0
42,2
Dịch vụ
Cơ cấu TPKTế:
43,0
42,0
42,1
44,0
Quốc doanh
58,0
57,9
56,0
57,0
Ngoài quốc doanh
Nguồn: Kinh tếV iệt Nam sau thời kỳ đổi mới- PTS, TS Nguyễn Sinh Cúc
Riêng về hoạt động ngân hàng, cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế,
chúng ta đã có 10 năm kinh nghiệm hoạt động theo cơ chế thị trường. Từ thực
hiện theo hai pháp lệnh về ngân hàng, ngành ngân hàng đã tổng kết để nâng
lên thành luật ngân hàng. Quá trình đó là quá trình tập dượt cơ chế mới, theo
mô hình mới. Thành tựu về kinh tế của Việt nam và của hệ thống ngân hàng
trong những năm đổi mới đã tạo ra đà và lực cho bước phát triển mới khi bước
vào thế kỷ mới-Thế kỷ của hội nhập quốc tế.
- Tinh hình khủng hoảng tài chính khu vực vừa qua đã làm suy thoái
kinh tế khu vực và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu nhưng đó là
hồi chuông cảnh tỉnh về hệ thống tài chính yếu kém trong khu vực và là yêu
cầu đặt ra cho sự cải cách hệ thống tài chính, tiền tệ, ngân hàng Việt nam.
Việt nam đã và đang thực hiện các biện pháp củng cố chấn chỉnh, lành mạnh
hoá hệ thống tài chính tiền tệ của mình.
-Với xu thế hội nhập quốc tế tất yếu của thời đại, Việt nam đã và đang
tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc hội nhập vững chắc vào
cộng đồng kinh tế khu vực và quốc tế (EASEAN/AFTA, APEC...và tới đây là
WTO và mỏ' rộng các quan hệ song phương khác như quan hệ thương mại
Việt-Mỹ...). Trong đó có sự hội nhập của hệ thống tài chính ngân hàng:
70
+ Sự hội nhập quốc tế sẽ mở ra cơ hội và tiềm năng trao đổi hợp tác
quốc tế về lĩnh vực tài chính tiền tệ, đổng thời nâng vị thế quốc tế của Việt
nam trong các giao dịch tài chính tiền tệ quốc tế.
+ Sự hội nhập quốc tế cũng đưa đến điều kiện về tiếp cận các luồng vốn
quốc tế và các trợ giúp kỹ thuật quốc tế cho các ngân hàng Việt nam đảm bảo
đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vốn (nhất là vốn dài hạn ) trong nước.
+ Sự hội nhập quốc tế sẽ là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải
cách ngân hàng Việt nam, nâng cao năng lực quản lý điều hành, trình độ cán
bộ, cơ chế, chính sách của Việt nam về ngân hàng và ngoại hối sẽ cởi mở hơn,
phù hợp với trình độ và chuẩn mực quốc tế..
- Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự cải cách, đổi mới lĩnh vực
ngân hàng, coi đây là khâu trọng yếu, nhân tố quan trọng trong công cuộc cải
cách kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng của Việt nam.
* Những thách thức:
- Nền kinh tế Việt nam đã đi vào cơn lốc của quá trình toàn cầu hoá và
cạnh tranh khốc liệt trong điều kiện quy mô nhỏ bé, trình độ lạc hậu và cơ sở
vật chất- nhất là kết cấu hạ tầng còn nghèo nàn và mặt bằng dân trí thấp so với
các địch thủ cạnh tranh trong khu vực và quốc tế- nơi đã từng có hàng chục
năm, thậm chí hàng trăm năm kiến thức về kinh tế thị trường. Cho đến nay
GDP bình quân đầu người của Việt nam chưa đạt đến 500USD/người /năm
mới bằng 1/2 con số giới hạn ở ngưỡng phân biệt giữa nước nghèo với nước
thoát khỏi cảnh nghèo của thế giới.
- Sau 10 năm tốc độ tăng trưởng khá nhanh song chưa dựa trên một nền
tảng vững chắc là công nghệ tiên tiến và năng suất lao động cao, mà dựa chủ
yếu vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, sức lao động cơ bắp và không ít hơn
1/3 số tăng trưởng là đầu tư vào xây lắp và mua sắm tài sản cố định lạc hậu,
kém hiệu quả, không phát huy được lợi thế trong cạnh tranh. Khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài là nơi tạo ra tăng trưởng mạnh nhất hiện đang bị chững lại
mạnh mẽ. Theo nguồn báo cáo của NHNN cho thấy:
71
FDI đã giải ngân:
2,4 tỷ USD Năm 1996
2 tỷ USD Năm 1997
Năm 1998 1,7 tỷ USD
1,52 tỷ USD Nãm 1999
1,68 tỷ USD Năm 2000
- Các bạn hàng thương mại và đầu tư của Việt nam trong khu vực chiếm
tới trên 70% thị phần hiện vẫn đang loay hoay và gặp khó khăn trong việc
khắc phục hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính -tiền tệ đã kéo
theo những khó khăn mới cho nền kinh tế Việt nam không chỉ trong lĩnh vực
thương mại mà cả trong lình vực tài chính ngân hàng suốt 4 năm qua.
- Về những thách thức trong hoạt động ngân hàng:
+ Thế kỷ 21 là thế kỷ của hội nhập quốc tế nền kinh tế toàn cầu, tự do
hoá thương mại và tài chính. Một thách thức lớn đối với hệ thống ngân hàng
Việt nam khi bước vào thế kỷ 21 là trình độ phát triển của hệ thống Ngân
hàng còn quá thấp về mọi mặt so với khu vực và thế giới như : thiếu kinh
nghiệm quản lý, kinh doanh và trình độ còn thấp; công nghệ lạc hậu; các công
cụ quản lý và điều hành của Ngân hàng Trung ương còn sơ khai; các tiện ích
về dịch vụ của các Ngân hàng thương mại còn quá nghèo nàn; quy mô hoạt
động còn nhỏ hẹp (thể hiện qua các chỉ số tín dụng và huy động vốn so với
(ỈDP còn thấp).
+ Hệ thống Ngân hàng Việt nam còn yếu về mọi mặt, hạn chế về nguồn
lực: yếu về tiềm lực tài chính ( vốn tự có thấp), cán bộ nhiều nhưng trình độ
quản lý và kinh doanh hạn chế, tính an toàn và bền vững thấp biểu hiện ở các
chỉ số tài chính yếu kém., sức cạnh tranh sẽ kém trong điều kiện hội nhập.
+ Hệ thống tài chính tiền tệ của Việt nam còn bị chi phối bởi yếu tố bao
cấp, hành chính. Sức ỳ của cơ chế hành chính bao cấp vẫn còn đè nặng lên hệ
thống ngân hàng. Để thoát ra khỏi cơ chế này cần có một quá trình cải cách
kiên quyết và mạnh mẽ của toàn xã hội cũng như sự nỗ lực của toàn ngành
Ngân hàng.
+ Do trình độ phát triển còn thấp kém của nền kinh tế Việt nam trong
giai đoạn chuyển đổi sang cơ chế thị trường nên nhìn chung thị trường tài
72
chính tiền tệ của Việt nam còn sơ khai, kém phát triển; thị trường tài chính
ngân hàng bị chia cắt không hiệu quả. Tinh trạng sơ khai, kém phát triển này
được đặc trưng bởi một số các yếu tố : chi phí giao dịch cao, tính lưu hoạt
thấp, rủi ro lớn. Một trong những nguyên nhân là do các giao dịch của nền
kinh tế vẫn chủ yếu bẵng tiền mặt (tỷ lệ này khoảng 40% so với M2), chủ yếu
giao dịch ngoài ngân hàng, ngoài sự kiểm soát của Nhà nước; trình độ dân trí
về tiền tệ ngân hàng thấp, không quen với các công cụ tài chính. Để mở rộng
hoạt động ngân hàng hay mở cửa hội nhập quốc tế về Ngân hàng trong điều
kiện như vậy càng đòi hỏi sự đổi mới, cải tổ mạnh mẽ về quản lý và điều hành
nền kinh tế nói chung và Ngân hàng nói riêng. Đổi mới, cải tổ là một quá
trình, cần nhiều thời gian. Đổi mới quá nhanh cũng đưa đến hậu quả không
tốt, nhưng nếu chậm trễ cũng dễ bỏ lỡ cơ hội.
+ Tinh trạng đô la hoá nền kinh tế đang có xu hướng lan rộng, không
kiểm soát được đang tạo ra nguy cơ ngày càng lớn đối với việc ổn định tỷ giá
hối đoái, ổn định thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Tinh trạng đô la hoá
cũng làm giảm hiệu lực thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
+ Tính chất không đồng bộ trong thị trường tài chính Việt nam hiện nay
cũng là một thách thức lớn đối với hoạt động của các TCTD với tư cách là các
trung gian tài chính quan trọng bậc nhất của thời kỳ mà cuộc sống đòi hỏi
phải thực sự tiền tệ hoá nền kinh tế và thương mại hoá các nguồn vốn. Một
mảng thị trường vốn hết sức quan trọng và đang ngày càng phát triển một cách
khách quan như các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, các công ty tài chính, thị
trường chứng khoán v.v. hiện vẫn hầu như hoạt động ngoài vòng kiểm soát
của ngân hàng nhà nước cũng đang đặt ra những thách thức lớn về môi trường
pháp lý bất bình đẳng giữa các loại hình trung gian tài chính khác nhau trên
thị trường vốn Việt nam.
Tựu chung l ạ i , hiện nay chúng ta đang có hai loại vấn đề tạo ra một số
thách thức lớn cho hoạt động ngân hàng nói riêng và nền kinh tế Việt nam nói
chung-đó là: T hứ nhất : Dòng xoáy như vũ bão của cơ chế thị trường trong
khu vực và trên toàn cầu mà trong đó Việt nam là một thành viên không thể
đứng ngoài; T h ứ hai: trong khi chúng ta chưa thực sự đoạn tuyệt với cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp thì trong thời gian gần đây trên nhiều
73
lĩnh vực kinh tế nói chung và trong hoạt động ngân hàng nói riêng lại đang
hình thành mội nguy cơ mới đó là sự xuất hiện xu hướng phi thị trường hoá-đi
ngược với quy luật khách quan của cơ chế thị trường, nhiều thành phần và mở
cửa. Các luận giải để bao biện thường là: Việt nam là nước nghèo đi sau, chưa
thích nghi ngay v.v. và trong quá độ đến một cơ chế thị trường hoàn hảo cần
phải có những giải pháp tình thếv.v. Có thể là đúng nhưng nếu kéo dài quá lâu
sự đan xen nói trên thì sẽ tạo ra những thách thứ mới lớn hơn, sẽ triệt tiêu
nhiều lợi thế và xuất hiện những hậu quả khó lường. Nếu trọng tài thỉnh
thoảng cứ thò chân vào đá bóng khi đang điều khiển trận đấu trên sân thì điều
gì sẽ xảy ra !Trên ý nghĩa đó, cuộc sống cấp bách đòi hỏi ngành ngân hàng
cần phải có một chiến lược tổng thể mang tính đột phá cao, theo đó những
đưòng nét cơ bản của quá trình phát triển phải được hoạch định một cách
mạch lạc và đón được xu thế phát triển tất yếu của toàn ngành trong mối quan
hệ máu thịt với nền kinh tế quốc dân.
3.1.1.2 M ột sốyêu cầu lớn đặt ra đối với hệ thống NHTMQD ỞViệt nam
- Đường lối phát triển kinh tế của Đảng đòi hỏi hệ thống NHTMQD
đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng, điều nay đặt yêu cầu bức bách
cho việc cơ cấu lại hệ thống NHTMQD.
- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi một khối
lượng vốn lớn . Nhu cầu về vốn cho công nghiệp hoá đòi hỏi NHTMQD phải
có tiềm lực tài chính mạnh mẽ trong việc phân phối và sử dụng vốn một cách
có hiệu quả.
- Quá trình hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế và tự do hoá tài
chính làm cho môi trường tài chính cạnh tranh khốc liệt và rủi ro hơn.Tình
hình này đặt ra nhu cầu bức bách cho việc cơ cấu lại hệ thống NHTMQD để
đám bảo cho hệ thống phát triển an toàn hiệu quả với quy mô ngày càng lớn.
- Xu hướng phát triển khoa hoc kỹ thuật mà đặc biệt là công nghệ tin
học trong lĩnh vực ngân hàng đang đặt ra yêu cầu cơ cấu lại hệ thống ngân
hàng thương mại làm cơ sở để áp dụng kỹ thuật mới, nâng cao chất lượng dịch
3.1.2. Định hướng chiến lược phát triển các NHTM QD ở Việt nam
trong những năm tói
vụ ngân hàng.
74
- Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt nam là một chiến lược
tổng thể toàn ngành, mang tính đổng bộ và đan xen ba loại tốc độ phát triển:
Tuần tự-đuổi bắt và đón đầu để chủ động thích ứng và cập nhật hoá với trình
độ phát triển công nghệ ngân hàng của khu vực và thế giới. Tính đồng bộ của
chiến lược phát triển bao gồm ba nội dung then chốt là: hoàn thiện môi trường
pháp lý ; Cấu trúc lại hệ thống ngân hàng trung ươngvà các TCTD; Phát triển
năng lực quản lý và năng lực hoạt động kinh doanh -kích thích cạnh tranh
binh đẳng, nhất quán theo cơ chế thị trường, mở cửa, có sự quản lý vĩ mô của
nhà nước theo định hướng XHCN.
- Xây dựng hệ thống NHTMQD thực sự trở thành lực lượng chủ đạo trong
lĩnh vực ngân hàng, hoạt động đa năng, lành mạnh, an toàn và có hiệu quả.
- Củng cố các NHTMQD cần được coi là nhiệm vụ chiến lược của
ngành ngân hàng nhằm xây dựng một hệ thống ngân hàng có khả năng huy
động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu
của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước .
- Nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh của các NHTMQD trên thị
trường trong và ngoài nước, thực hiện có hiệu quả quá trình hội nhập. Hiện đại
hoá công nghệ ngân hàng nâng cao năng lực giám sát, quản lý, năng cao kỹ
nang nghiệp vụ của toàn hệ thống ngang tầm khu vực và thế giới.
- Tạo sân chơi bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, chủ động mở cửa thị
trường tài chính
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP C ơ BẢN NHAM n â n g c a o h i ệ u q u ả h o ạ t đ ộ n g
CỦA CÁC N HTM Q D
3.2.1 Lành mạnh hoá tình hình tài chính
Trước thực tế yếu kém về tài chính của các NHTM Việt nam nói
chung, của các NHTMQD nói riêng thì việc tìm ra được những giải pháp hữu
hiệu để lành mạnh hoá tình hình tài chính của các ngân hàng trong giai đoạn
hiện nay là một điều cần thiết.
Trước mắt, Ngàn hàng Nhà nước và chính phủ cũng như các NHTM
phải nỗ lực tập trung giải quyết các vấn đề :
75
3.2.1.1 Xử lý nợ tồn đọng:
Như nhiều nước chuyển đổi khác, khu vực ngân hàng của Việt nam hiện
nay đang có một khối lượng nợ không có hiệu quả lớn trong đó tập trung chủ
yếu vào các khách hàng là DNNN. Đây là hậu quả trực tiếp của việc cấp tín
dụng theo chỉ định, tức là cho vay theo những tiêu chí mang tính chính sách
cơ cấu chứ không mang tính kinh tế. Hậu quả của việc làm này không chỉ gây
thiệt hại nặng nề cho các NHTMQD, nợ tổn đọng lớn chứa đựng nguy cơ đổ
vỡ của hệ thống ngân hàng, dẫn đến khủng hoảng tài chính tiền tệ, mà còn
làm suy yếu khả nãng tăng trưởng kinh tế.
Trong hệ thống ngân hàng Việt nam hiện nay, khi đề cập đến các khoản
nợ không có hiệu quả thì phần lớn tập trung vào giải quyết các khoản nợ quá
hạn. Từ năm 1998, việc giải quyết các khoản nợ quá hạn đã được thực hiện
mạnh tại tất cả các ngân hàng, song nhìn chung vẫn chỉ đơn thuần thực hiện
theo sự chỉ đạo cứng nhắc của Chính phủ dựa trên tinh thần của 2 văn bản
pháp lý của Nhà nước: Quyết định số 95/1998/QĐ-TTg ngày 18/5/1998 của
Thủ tướng Chính phủ về xử lý thanh toán nợ giai đoạn II và thông tư số
03/1997/TTLT/NHNN-BTC ngày 22/11/1997 của liên bộ NHNN và BTC về
hướng dẫn xử lý nợ quá hạn của các NHTMQD qua chấn chỉnh hoạt động
ngàn hàng sau khi thanh tra. Căn cứ vào tinh thần của hai văn bản nói trên và
những điều kiện thực tiễn, việc xử lý nợ quá hạn đã được thực hiện thông qua
các giải pháp được đưa ra trên cơ sở phân ỉoại các khoản nợ quá hạn theo
nguyên nhân như sau:
- Nợ quá hạn theo nguyên nhân vi phạm quy chế tín dụng .
- Nợ quá hạn do nguyên nhân rủi ro ngoài khả năng kiếm s o á t .
- Các khoản nợ có tài sản cầm cố thế chấp nhưng chưa phát mại được.
Nhìn chung các biện pháp xử lý nợ không có hiệu quả tại các ngân hàng
thương mại hiện nay còn mang tính đối phó, chưa được thực hiện theo một
chương trình chính quy, chính vì thế hiệu quả của các biện pháp này còn mờ
mịt chưa rõ ràng và hoàn toàn phụ thuộc vào tương lai của các con nợ, phụ
thuộc vào nguồn bù đắp của ngân sách Nhà nước. Trong khi đó tình hình ngân
sách của Việt nam lại rất yếu kém, không có điều kiện hỗ trợ trực tiếp cho
việc cơ cấu lại các ngân hàng. Sở dĩ như vậy là không có một thị trường vốn
76
thực sự và điều này đã gây khó khãn cho việc huy động vốn theo cơ chế thị
trường để cân đối thâm hụt ngân sách Nhà nước. Ngoài ra cũng phải chú ý
rằng sự ổn định hiện nay của khu vực ngân hàng Việt nam là nhờ vào sự bảo
lãnh của Nhà nước và sự bảo lãnh này tất nhiên cũng chỉ có thể thực hiện được
trong ngắn hạn khi hiện tượng đô la hoá đang ngày một gia tăng trong nền
kinh tế cũng như trong khu vực ngân hàng kể từ khi cuộc khủng hoảng tiền tệ
bùng nổ ở khu vực châu Á.
Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết các khoản
nợ không có hiệu quả, song kết quả còn hạn chế, vì vậy việc tìm ra những biện
pháp tập trung xử lý các khoản nợ này một cách hiệu quả, phù hợp với các
điều kiện của Việt nam là điều rất cần thiết. Việc xử lý nợ không có hiệu quả
một cách nhanh chóng và toàn diện phải trở thành một chương trình hành
động của Chính phủ và của hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam.
Kể từ năm 1999 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã phối hợp
với nhiều Bộ, Ngành, các tổ chức Quốc tế để tổ chức nhiều cuộc hội thảo về
việc đưa ra các biện pháp làm “sạch “ bảng cân đối kế toán của hệ thống ngân
hàng thương mại mà trong đó việc giải quyết các khoản nợ không có hiệu quả
là vấn đề trung tâm .
Để có thể giải quyết tốt vấn đề này, điều trước mắt cần phải làm đối với
bất kỳ ngân hàng thương mại nào là phải tiến hành phân loại chính xác các
khoản nợ không có hiệu quả, trên cơ sở đó có thể xác định mức dự phòng hợp
lý, tránh cho các ngân hàng rơi vào tình thế bị động trong việc giải quyết nợ.
AI Phân loại chính xác các khoản nợ không có hiệu quả
Việc phân loại các khoản nợ không có hiệu quả trong các NHTM Việt
nam hiện nay là không rõ ràng, không tuân theo tiêu thức chuẩn của quốc tế,
vì vậy rất khó cho các nhà hoạch định chính sách khi xác định mức chi phí,
quy mô hành động để có thể xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng.
Các NHTM Việt nam đã thực hiện việc phân loại nợ và trích lập dự
phòng trên cơ sở phân loại nợ theo quyết định 48 của Chính phủ. Theo quyết
định 48 thì các khoản nợ phân làm hai loại: Nợ trong hạn (nhóm 1), nợ quá
hạn (nhóm 2,3,4). Trong các NHTMQD, các khoản vay được phân loại thành
nợ “trong hạn” và “quá hạn” phụ thuộc vào việc nợ gốc đã được thanh toán
77
hay chưa. Việc thanh toán nợ lãi và chất lượng tài sản thế chấp (nếu có) không
được tính đến khi phân loại theo cách này.
Khi nói đến các khoản nợ quá hạn, người ta thường phân ra khoản nợ
nào là nợ khó đòi, khoản nợ nào là khoản nợ có nguy cơ bị mất mát. Song theo
quyết định 48 thì khó có thể bóc tách được các loại nợ này.
Nhìn chung việc phân loại các khoản nợ trong hệ thống ngân hàng
thương mại chưa được thực hiện chặt chẽ và chưa tuân thủ các tiêu chí phân
loại nợ của quốc tế, thông thường dựa trên hai tiêu chí sau:
- Chưa trả gốc và lãi
- Giá trị thực của các tài sản thế chấp so với giá trị ghi sổ của khoản vay
Chính vì thế việc trích lập dự phòng nợ không có hiệu quả tại các
NHTM còn thiếu chính xác, khiến các ngân hàng thương mại rơi vào thế bị
động trong việc xử lý các khoản nợ.
Theo quy định của uỷ ban Basle khi tiến hành kiểm tra giám sát hoạt
động của ngân hàng, các giám sát viên cần phải yêu cầu các ngân hàng phân
biệt rõ ràng 3 loại cơ bản của nợ không có hiệu quả, đó là các khoản nợ thấp
hơn tiêu chuẩn, đáng ngờ, mất mát.
Kinh nghiệm phân loại nợ của một số nước theo yêu cầu của uỷ ban
Basle cho thấy các điều kiện phân loại nợ thấp hơn tiêu chuẩn được quy định
nghiêm ngặt hơn ở các quốc gia có thị trường mới nổi.Việc xác định khoản
vay nếu chỉ dựa vào việc thanh toán bị quá hạn sẽ không phản ánh đúng bản
chất .Việc thanh toán quá hạn chỉ được xem là điều kiện đủ chứ không phải là
điều kiện cần khi phân loại các khoản nợ vào nhóm đáng ngờ. Để xác định
đứng bản chất của các khoản vay, theo quy định quốc tế thì cần phải dựa vào
tình hình tài chính, việc phân loại tín dụng, tương lai của các con nợ , giá trị
cua các tài sản thế chấp... Đây cũng là những điều không được đề cập đến
trong việc phân loại nợ trong hệ thống ngân hàng Việt nam. Chính vì thế trong
thời gian tới đê có thể thực hiện lành mạnh hoá tình hình tài chính của các
NHTM, điều đầu tiên mà chúng ta cần phải làm là điều chỉnh dần dần cách
thức phân loại tài sản sao cho phù hợp với điều kiện của Việt nam , và tiêu
chuẩn quốc tế, cụ thể là:
-Việc phân loại nợ cần phải dựa vào việc thanh toán trả lãi và vốn vay.
78
-Việc phân loại cần phải căn cứ vào giá trị của các tài sản thế chấp.
-Việc phân loại cần được kết hợp với các thông tin khác, như tình hình
tài chính của khách hàng, triển vọng của khách hàng trong tương lai..
-Việc phân loại cần đưa ra các tiêu thức nhằm xác định rõ ràng như thế
nào là nợ khó đòi, như thế nào là những khoản nợ có khả năng mất mát lớn..
Việc phân loại chính xác các khoản nợ không có hiệu quả sẽ làm giảm
chi phí, thúc đẩy nhanh quá trình lành mạnh hoá tài chính, đặc biệt sẽ giúp
cho các ngân hàng có thể trích lập dự phòng thích hợp đối với các khoản vay,
giúp cho ngân hàng chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.
BI Nhanh chóng hoàn thiện mỏ hình xử lý nợ không có hiệu quả
* Tạo điều kiện thuận lợi cho mô hình công ty quản lý tài sản-AMC
(asset managemant company) hoạt động.
Hai thập kỷ qua, hệ thống ngân hàng của nhiều nước trên thế giới cũng
như trong khu vực đã lâm vào hiểm hoạ lớn: nợ không có hiệu quả ở mức cao,
làm suy yếu hệ thống ngân hàng, là nguy cơ đối với nền kinh tế và có nhiều
nước rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Trong tình thế đó, nhiều nước đã
phải lựa chọn phương án thích hợp để ngăn ngừa, xử lý và khấc phục.
Một trong các phương án này đã làm xuất hiện mô hình mới, khái
niệm mới:
Công ty quản lý nợ và tài sản-AMC. AMC ở nhiều nước được hình
thành dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nhìn chung đều có mục tiêu duy
nhất là giải quyết nợ khó đòi tồn đọng, tối đa hoá việc xử lý các khoản nợ khó
đòi tồn đọng, nhằm giảm thiểu chi phí của việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng,
đổng thời góp phần ổn định hệ thống ngân hàng và ổn định nền kinh tế. Với
mục tiêu đó, chức năng của AMC ià quản lý và thanh lý các khoản nợ không
sinh lời của các ngân hàng, phục hồi càng nhiều càng tốt để thu hồi được giá
trị tối đa từ các nguồn lực đã trao cho AMC. Vì thế AMC được giao những
thẩm quyền và kỹ năng đặc biệt để hoàn thành sứ mệnh trong một thời gian
ngắn bầng cách mua, quản lý, tài trợ... nhằm tối đa hoá giá trị của các khoản
nợ, tài sản. AMC không tồn tại mãi mãi, khi đã đạt được mục tiêu thì sẽ chấm
dirt hoạt động (thông thường từ 7 đến 10 năm) và ở hầu hết các nước, AMC là
một định chế không tạo ra lợi nhuận.
79
Trên thực tế người ta đã đưa ra 5 phương án xây dựng AMC:
1-Thành lập một AMC duy nhất ở Trung ương
2-Thành lập AMC như một công ty con của ngân hàng
3-Hợp đổng uỷ thác cho bên thứ ba
4-Thành lập một công ty mua bán nợ nhanh
5-Từng ngân hàng ỉập một bộ phận tự xử lý các khoản nợ không có
hiệu quả
ARTHUR ANDERSEN, một công ty tư vấn hàng đầu thế giới về AMC
đã đưa ra kết luận về sự thành công của các phương án như sau: phương án
3,4,5 đạt kết quả thấp, phương án 2 đạt trung bình, phương án 1 đạt kết quả tốt
nhất do có thẩm quyền đặc biệt và chức năng đặc biệt để xử lý.
Khi hệ thống ngân hàng của bất kỳ một quốc gia nào có nguy cơ bị đe
doạ bởi tỷ lệ nợ không có hiệu quả cao, thông thường từ 10-15% thì việc thành
lập AMC sẽ là biện pháp hữu hiệu để xử lý và ngăn chặn tình trạng này.
Thực tế cho thấy tại Mỹ những năm 1989-1995 do nguyên nhân từ phía
khách hàng vay và do quản lý tín dụng yếu kém, 2 hệ thống ngân hàng thương
mại và ngân hàng tiết kiệm đã lâm vào tình trạng khủng hoảng. Mỹ đã phải
ban hành một luật riêng cho ra đời công ty tín thác (RTC) để giải quyết khó
khăn của các ngân hàng. RTC tiếp quản các khoản nợ khó đòi, quản lý các tài
san thế chấp, làm tăng tối đa giá trị để bán, nhằm mục đích thu hồi vốn. Thành
lập năm 1989, RTC có lúc đã tiếp quản tài sản lên tới 100 tỷ USD. Kết quả đã
xử lý thành công và kết thúc sau 7 năm hoạt động. Tại Thuỵ Điển, Na Uy,
Phần lan, các nước vùng Ban tích, vào những năm 1992-1995, hệ thống ngân
hàng cũng đã lâm vào tình trạng nợ quá hạn khó đòi tăng cao và cũng đã phải
lựa chọn phương án xây dựng AMC để xử lý. Kết quả là hệ thống ngân hàng
đã phục hồi lại bình thường.
Tại Đông á, từ năm 1997 đến nay, nhiều nước (Indonexia, Malaysia,
Tháilan, Hàn Quốc,Trung Quốc..) đã lâm vào khủng hoảng tài chính -tiền tệ,
hệ thống ngân hàng chồng chất nợ quá hạn khó đòi. Nhận thức đây là vấn đề
quan trọng của Quốc gia chứ không còn chỉ là của hệ thống Ngân hàng, các
nước đã nhanh chóng thành lập AMC dưới nhiều hình thức khác nhau và đã
đem lại những kết quả nhất định.Ví dụ như ở Tháilan, mỗi ngân hàng thương
80
mại lập ra một bộ phận quản lý nợ (asset management division-AMD) hoặc bộ
phận quản lý nợ đặc biệt (Special asset management-SAM) để chuyên trách
xử lý các khoản nợ xấu. Chính phủ thành lập công ty quản lý tài sản-AMC để
chuyên trách xử lý cho ngân hàng thuộc sở hữu chính phủ hoặc thành lập
AMC cấp quốc gia (ở TW) để xử lý nợ khó đòi của hệ thống NHTM. Tương tự
như Thái lan, tại Malaysia mpỗi ngân hàng phải tự xử lý nợ xấu, ngoài ra
Chính phủ cũng đã thành lập một AMC cấp quốc gia tại trung ương có tên là
Pegurusan Danaharta National Berhad (DANAHARTA).
Việc thành lập AMC đã giúp cho một số nước trong khu vực Đông á xử
lý xong về cơ bản như Thái lan, Hàn quốc, một số nước vẫn tiếp tục duy trì đã
đem đến những kết quả rất khả quan trong quá trình làm sạch bảng cân đối kế
toán của các ngân hàng. Vì vậy, AMC cũng là một trong những giải pháp hữu
hiệu được đề xuất để giải quyết vấn đề nợ không có hiệu quả trong hệ thống
ngàn hàng Việt nam. Nét đặc thù của việc thành lập AMC ở Việt nam là các
khoản nợ không có hiệu quả gồm các khoản nợ có tài sản bảo đảm lẫn các
khoản I1Ợ không có tài sản bảo đảm, chủ yếu là nợ của các DNNN vẫn chưa
được xử lý dứt điểm, nên đến nay cần thống nhất đưa vào một đầu mối AMC
để giải quyết dứt điểm.
* Cơ chẻ xử lý nợ tồn đọng
AMC của các NHTMQD hoạt động theo nguyên tắc nhận các khoản nợ
tổn đọng có bảo đảm và không có bảo đảm của các NHTMQD tính đến thời
điểm 31/12/2000 theo giá trên sổ sách. Các công ty cơ cấu lại nợ theo nguyên
tắc thị trường. Thời gian dự kiến xử lý nợ tồn đọng làm sạch bảng cân đối
trong thời gian từ 2-3 năm. Nợ tổn động được chia thành 3 loại sau:
- Nợ tổn đọng có tài sản bảo đảm
- Nợ tổn đọng không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng đê
thu (doanh nghiệp đã giải thể , thanh lý, phá sản , cá nhân đã c h ế t, mất tích..)
- Nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và con nợ còn tồn tại đang
hoạt động
Công ty quản lý nợ có nhiệm vụ bán tài sản đảm bảo theo giá thị trường
để thu hồi nợ đối với những trường hợp nợ có tài sản bảo đảm, những trường
hợp nợ không có tài sản bảo đảm và con nợ còn tổn tại đang hoạt động thì
8 ]
công ty quản lý nợ phải tận thu để thu hổi nợ, nếu khách hàng không trả được
nợ thì phải thanh lý doanh nghiệp để thu hồi nợ.
Trong trường hợp công ty bán tài sản bảo đảm ( đối với nợ có tài sản
bảo đảm) và thanh lý doanh nghiệp để thu hổi nợ ( đối với nợ không có tài sản
bảo đảm và con nợ còn tồn tại đang hoạt động) mà giá trị khoản vay cao hơn
giá trị bán cũng như giá trị thanh lý thấp hơn giá trị các khoản vay thì xử lý
theo hướng sau:
+ Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay chính sách thì khoản chênh lệch
được bù đắp bằng nguồn tài chính của Chính phủ.
+ Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay thông thường thì bù đắp khoản
chênh lệch được lấy từ quỹ dự phòng rủi ro được trích của các NHTM
Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng để thu
thì khoán nợ này sẽ được xoá theo hướng nếu cho vay theo chính sách thì được
hù đắp bằng nguồn tài chính của Chính phủ, còn cho vay theo thông thường
thì bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro của các NHTM.
* Nguồn vốn xử lý nợ tồn đọng
- Nguồn dự phòng rủi ro được trích lập được trích lập hàng năm của các
ngân hàng.
- Nguồn từ NHNN đã tái cấp vốn trước đây cho các NHTM theo các
mục tiêu như cho vay để cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, khắc phục thiên tai, cho
vay theo chỉ định của Chính phủ.
- Nguồn từ Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ Quốc tế cho vay cơ cấu
lại nợ NHTMQD.
- Chính phủ cho phép NHNN phát hành trái phiếu có lãi suất cố định để
xử lý nợ tổn đọng cho các ngân hàng.
AMC là một định chế có thẩm quyền đặc biệt, nên sự ra đời của AMC
đòi hỏi Chính phủ cũng như các Bộ, các Ngành liên quan phải hết sức chú
tâm, tạo lập một cơ sở pháp lý vững chắc cho AMC hoạt động, ở Việt nam
hiện nay, các điều kiện ban đầu như cơ sở pháp lý, cơ chế hoạt động, xác định
chức năng quản lý còn rất yếu kém và các quan điểm về thành lập AMC chưa
rõ ràng, thống nhất. Đây là những rào cản lớn nhất đối với việc thành lập
AMC. Chính vì vậy trong thời gian tới, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các
82
Bộ, Ngành liên quan cần tập trung nỗ lực để giải quyết các tồn tại này, nhanh
chóng tạo điều kiện cho AMC hoạt động có hiệu quả, tránh tình trạng đề xuất
nhưng không thực hiện triệt để, không tạo được vị thế pháp lý cho AMC. Thực
tế đã chí ra rằng, do vị thế pháp lý của tổ chức AMC ở một số nước rất yếu
nên đã không thành công. Ví dụ như Philipin, AMC ra đời được 17 năm
nhưng đến nay coi như không “tồn tại”, ở Mexico, AMC đã hoạt động được
gần 7 năm nhưng số tài sản khổng lổ trị giá gần 60 tỷ USD vẫn chưa giải
quyết xong... do đó vấn đề đặt ra ở đây là cần phải nghiên cứu kỹ, xem xét khả
nâng của mình xem có đủ điều kiện để đảm bảo cho tổ chức AMC hoạt động
có hiệu quả hay không.[19];[27];[33];[34]
3.2.1.2 Tăng vốn tự có cho các NHTMQD
Song song với việc giải quyết nợ xấu, lành mạnh hoá tài chính của các
NHTMQD là việc tăng cường khả năng về vốn tự có. Tăng vốn tự có cho các
NHTM là vấn đề bức bách đối với các NHTMQD vì:
- Vốn là nhân tố quyết định sức mạnh tài chính của các NHTM. Tuy
nhiên trên thực tế nguồn vốn tự có của hệ thống NHTM hiện nay là rất thấp
(chiếm từ 3%-5% so với tổng tài sản). Có thể thấy một nghịch lý trong nền
kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay, đó là tiềm lực tài chính của khu vực
tai chính lại thua xa khu vực công nghiệp. Thông thường theo kinh nghiệm
các nước ( đặc biệt là các nước công nghiệp ), trong giai đoạn đầu của quá
trinh công nghiệp hoá, tư bản tài chính phải có mức tích luỹ lớn hơn nhiều tư
bán công nghiệp mới có thể tạo điều kiện để thực hiện cách mạng công nghiệp
và tiến trình công nghiệp hoá. Trong khi đó tại Việt nam vốn tự có của các
NHTM lại quá nhỏ, tổng vốn tự có của 4 NHTMQD lớn nhất Việt nam chỉ vào
khoảng 5.600 tỷ VNĐ. Nguồn vốn tự có quá nhỏ bé đã cản trở các ngân hàng
trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh, cho vay, đầu tư các dự án ....làm
gia tăng “sức ỳ” của các NHTM trong việc dựa dẫm vào sự bao cấp của nhà
nước, dễ gây ra sự mất an toàn trong thanh toán, cản trở quá trình hội nhập
quốc tế và khu vực của các ngân hàng.
- Theo quy định cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15%
vốn tự có. Với mức vốn tự có hiện nay, các NHTMQD không đủ sức tài trợ
83
cho những dự án lớn như dầu khí, điện lực, hàng không, bưu chính viền
thông., làm giảm khả năng cạnh tranh của các NHTMQD.
Những yêu cầu đặt ra từ quá trình phát triển của nền kinh tế cho thấy
cần phải có nhiều biện pháp để củng cố nâng cao vai trò của hệ thống ngân
hàng trong quá trình phát triển, tăng tiềm lực tài chính cho các NHTMQD
xứng đáng với tầm vóc của mình cũng như đáp ứng được nhu cầu xã hội. Vì
vậy, Chính phủ, Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu bổ sung
thêm vốn điều lệ cho các NHTMQD nhằm tạo động lực cho hoạt động của các
ngân hàng, giảm bớt rủi ro và đáp ứng được với các tiêu chuẩn quốc tế. Theo
tính toán để đảm bảo tỷ lệ an toàn tối thiểu hiện nay theo chuẩn mực quốc tế
là 8% (tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản có ) thì số lượng vốn cấp bổ sung cần được
xử lý là 10.000 tỷ đồng và ước tính để đảm bảo mức tăng dư nợ bình quân ở
mức 18%/năm thì mức vốn tối thiểu của các NHTMQD phải đạt 23.000 tỷ vào
thời điểm cuối năm 2003.
Chính vì thế việc đưa ra những giải pháp hiệu quả để tăng vốn tự có của
các NHTM trong thời gian tới là điều cần th iế t.
Tuy nhiên để đảm bảo cho việc tăng vốn tự có cho các NHTM đạt hiệu
quả, Chính phủ cần phải xác định rõ ngân hàng nào là ngân hàng đã đủ mạnh
không cẩn phải cấp thêm vốn , ngân hàng nào có thể tổn tại nếu được cấp
thêm vốn, và ngân hàng nào-không có khả năng tổn tại ngay cả khi có sự trợ
giúp mạnh mẽ từ phía Chính phủ. Việc xác định này không đơn giản chút nào
và việc sử dụng các chỉ tiêu được dùng trong hoạt động kiểm toán để phân biệt
các ngân hàng nào cần phải có sự trợ giúp được xem là phương pháp lành
mạnh nhất. Các giám sát viên của Indonexia dựa vào các tỷ lệ an toàn vốn, ở
Thuỵ sĩ người ta sử dụng chương trình máy tính để dự đoán về sự phát triển tài
chính của các ngân hàng trong vòng 3 hoặc 5 năm tới, đây sẽ là cơ sở cho việc
phân loại các ngân hàng cần hỗ trợ tại Thuỵ sĩ. Bên cạnh các tiêu thức được
xem là có tính quyết định, khi phân loại người ta cũng sử dụng một tiêu thức
quan trọng, đó là chất lượng của quá trình quản lý hoạt động ngân hàng.
Theo kinh nghiệm của các nước, việc tãng vốn cho các ngân hàng
thường được thực hiện thông qua :
+ Khu vực nhà nước tham gia góp vốn cổ phần
84
+ Chuyển nhượng cổ phần hoặc các khoản nợ
+Tư nhân hoá các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước
Trong 3 hình thức trên thì việc đưa vốn vào các ngân hàng từ các khu
vực của Nhà nước là phổ biến nhất. Chính phủ có thể tăng vốn dưới hình thức
góp vốn cổ phần. Đây được xem như là vốn cấp 1, nguồn vốn này đảm bảo
cho Chính phủ có thể tạo đủ điều kiện cho các ngân hàng thực hiện việc tái cơ
cấu thực sự, không làm gia tăng gánh nặng nợ nần đối với các ngân hàng yếu
kém, và cuối cùng thì chính phủ có quyền được hưởng việc phân chia phần giá
trị gia tăng khi ngân hàng được hổi phục. Tuy nhiên, trên thực tế Chính phủ
thường cấp vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu phụ thuộc. Theo cách thức
này thì Chính phủ sẽ không phải thực hiện vai trò điều hành, kiểm soát ngân
hàng và chi phí sẽ ít hơn. c ổ phiếu ưu đãi cũng cho phép Chính phủ có thể
tham gia chia lợi nhuận sau khi ngân hàng đó được phục hồi bởi vì các chứng
khoán này được phân loại sau các khoản tiền gửi và các khoản tín dụng khác.
Cách thứ hai là Chính phủ có thể mua lại các cổ phiếu hoặc các khoản nợ được
phát hành bởi ngân hàng. Việc bơm vốn dưới hình thức này thường được thực
hiện thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ.
Quá trình tăng vốn cho các ngân hàng được thực hiện bới các tổ chức
riêng biệt của Chính phủ. Ví dụ như ở Mexico, công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ
mua lại các khoản nợ phụ thuộc có thể chuyển đổi ra vốn nếu như vốn của
ngân hàng bị suy yếu sau 5 năm, hoặc qua yếu kém. Đặc điểm này đã khuyến
khích các ngân hàng phải tích cực ngăn chặn sự yếu kém của nguồn vốn và
phải cố gắng trả lại các khoản nợ này trước 5 năm. Đại lý bảo hiểm tiền gửi sẽ
tài trợ việc tăng vốn cho các ngân hàng bằng các khoản vay từ Ngân hàng
trung ương. Tại Mexico, năm 1995, 5 ngân hàng đã nhận thêm vốn thông qua
hình thức này và đã có thể mua lại các khoản nợ phụ thuộc trong 2 năm., ở
Malaysia, một tổ chức đặc biệt -Danamodal đã được thiết lập, được tài trợ vốn
từ NHTW trong đó chủ yếu là từ việc phát hành các trái phiếu coupon bằng 0
được đảm bảo bởi Chính phủ. Một phần trái phiếu này được bán cho các ngân
hàng thương mại trong nước, Danamodal giữ vai trò quản lý trong các ngân
hàng này để tìm kiếm các phương thức cải tiến hiệu quả hoạt động và tìm
kiếm các thành viên có khả năng sát nhập.
85
Các hình thức được áp dụng để tăng vốn tự có chơ các NHTM
ở Việt nam hiện nay, việc cấp thêm vốn cho các NHTMQD được quyết
định bởi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước sẽ là người thực hiện quyết định
đó. Các hình thức để bơm vốn vào hệ thống ngân hàng chưa được phong phú,
vẫn được thực hiện bởi một tổ chức duy nhất của chính phủ là Ngân hàng nhà
nước. Nguồn để tăng vốn tự có là:
- Chính phủ và Bộ tài chính cho phép NHTMQD giữ lại phần thu thuế
sử dụns vốn để tăng vốn tự có
- Chính phủ cho phép chuyển phần vốn vay từ ngân hàng thế giới và
quỹ tiền tệ quốc tế theo chương trình tái cơ cấu cho các NHTMQD và cho
phép các ngân hàng này không phải nộp thuế sử dụng vốn hàng năm để các
ngân hàng nhận vốn vay để tầng vốn tự có được sử dụng khoản thuế vốn này
hoàn trả khoản vay theo các điều kiện của quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng
thế giới.
- On định mức nộp ngân sách ( lấy năm 2000 làm mốc ) trong 3 năm đê
khuyến khích các NHTMQD phấn đâú vượt chỉ tiêu lợi nhuận, cho phép lấy
phần vượt để bổ sung vốn tự có.
- Khuyến khích các NHTM tích cực thu hồi các khoản nợ đã khoanh để
bố sung vốn tự có
- Cho phép tăng vốn tự có bằng phương thức bán cổ phần ưu đãi ( không
tham gia quản lý) cho cán bộ công nhân viên với cổ tức cao hơn lãi suất tiền
gửi tiết kiệm.
Lộ trìn h tăng vốn tự có như sau: Việc cấp vốn bổ sung cho các
NHTMQD dự kiến sẽ được chia thành các giai đoạn trong thời gian 3 năm với
các điều kiện ràng buộc theo kết quả thực hiện các hành động chủ chốt và các
chỉ tiêu hoạt động chủ chốt đối với từng năm của các NHTMQD như nêu
trong mỗi kế hoạch cơ cấu lại các NHTMQD.Nguồn vốn của Chính phủ để
thực hiện cấp vốn bổ sung sẽ được cấp cho từng NHTMQD theo từng năm vơí
điều kiện các NHTMQD đáp ứng yêu cầu về kết quả hoạt động đã được nêu
3.2.2 Quản lý rủi ro
trong từng kế hoạch cơ cấu lại.[ 17];[46]
ở nước ta vấn đề rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và vấn đề quản lý
nó còn khá mới mẻ. Với sự non yếu về nghiệp vụ ngân hàng , đồng thời hoạt
86
động trong môi trường đầy rủi ro, vấn đề quản lý rủi ro ngân hàng đang là vấn
đề cấp bách trong hệ thống ngân hàng cả nước. Bộ máy ngân hàng kém năng
động, rủi ro càng dễ phát sinh khiến nó không thể hiện được chức năng vốn có
của mình, thiệt hại cho nền kinh tế sẽ xảy ra.
Rủi ro ngân hàng không chỉ là nỗi ám ảnh của hệ thống ngân hàng một
nước mà còn là nỗi ám ảnh chung của các hệ thống ngân hàng trên thế giới.
Những bất ngờ luôn xảy ra, ngay cả đối với các ngân hàng giỏi nhất , nhiều
kinh nghiệm nhất cũng khó phỏng đoán. Vì thế, rủi ro ngân hàng và quản lý
nó luôn luôn là những vấn đề thời sự cho mỗi nền kinh tế trong mỗi thời kỳ.
Hệ thống quản lý rủi ro tại các NHTMQD ở Việt nam trong vài năm
gần đây đã được quan tâm ở một mức độ nhất định, nhưng do những hạn chế
có tính cơ chế và kỹ thuật hệ thống này chưa thể đáp ứng được đòi hỏi phức
tạp của một ngân hàng thương mại hiện đại hoạt động trong môi trường nhiều
rủi ro và thiếu hoàn chỉnh như ở Việt nam.
Trên thực tế hoạt động của các NHTM Việt nam được che chắn bởi
hàng loạt các chính sách, cơ chế của NHNN như cơ chế trần lãi suất, cơ chế
quan lý ngoại tệ, cơ chế tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng cho một khách
hàng, các quy định về bảo lãnh thế chấp V.V.. nên rủi ro trong hoạt động ngân
hàng chưa lớn, tập trung chủ yếu vào rủi ro thị trường- từ phía khách hàng.
Tuy nhiên, trong những năm tới cùng với quá trình tự do hoá tài chính, mức độ
rủi 10 ngày càng tăng, đặc biệt là rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thị
trường và rủi ro thanh khoản. Vì vậy, cùng với việc nâng cấp hệ thống thông
tin quản lý các NHTMQD cần xây dựng chiến lược và quy trình xử lý rủi ro
cho toàn bộ hoạt động. Những rủi ro nói chung trong hoạt động ngân hàng cần
được trích lập quỹ bù đắp rủi ro ngay khi bắt đầu thực hiện sản phẩm.
3.2.2.1 Quản lý rủi ro thanh khoản
Sự an toàn của các ngân hàng vẫn luôn luôn là mối quan tâm của nhiều
người, từ các giới chức điều hành đến các nhà kinh doanh, các cổ đông ngân
hàng và các công dân của mỗi nước. Vì những vụ phá sản ngân hàng có ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế hơn bất cứ vụ phá sản ở bất cứ loại hình doanh
nghiệp nào khác.
87
Mặc dầu khó nhận ra một cách chính xác các nguyên nhân của những
vụ phá sản ngân hàng, lịch sử của những vụ phá sản cho thấy, các điều kiện
mất khả năng thanh toán của ngân hàng cũng là một nguyên nhân góp phần
rất quan trọng. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng
thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp
như vậy, ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán
tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Điều này
khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng vì ngân hàng
phải bán tức thời ngay cả số tài sản khó chuyển nhượng với giá rẻ vì ngân
hàng khống đủ thời gian để tìm người mua cũng như điều kiện để thương
lượng về giá cả. Do bán khẩn cấp một số tài sản với giá thấp khiến cho khả
năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe dọa. Trong trường hợp rủi ro
thanh khoản càng ngày càng nghiêm trọng, nếu tất cả những người gửi tiền
đồng loạt yêu cầu ngân hàng chi trả toàn bộ tiền gửi của họ thì dẫn ngân hàng
chi đang từ chỗ phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với
rủi ro phá sản.
Rủi ro thanh khoản là rủi ro riêng có của ngân hàng và liên quan đến sự
sống còn của doanh nghiệp ngân hàng. Nó là loại rủi ro xảy ra mà ngân hàng
không lường trước được. Vì vậy để tránh rủi ro thanh khoản có thể xảy ra các
NHTM cần phải:
- Tăng cường khả năng nghiên cứu và phân tích kinh tế để phòng ngừa
từ xa khả năng thanh khoản.
- Xây dựng quy trình phân tích mức độ thanh khoản của các chi nhánh,
đồng thời phải thay đổi hệ thống tính toán thanh khoản theo hạn mức cố định
hiện nay bằng việc tính thanh khoản theo luồng chu chuyển trong hoạt động
tín dụng.
- Đa dạng hoá các loại khách hàng tiền gửi để ổn định thanh khoản. Đối
với các khách hàng lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến thanh khoản cần có cam
kết chặt chẽ về tiến độ thực hiện nghiệp vụ tránh biến động lớn đến quản lý
thanh khoản.
- Có kế hoạch dự phòng thanh khoản hợp lý.
3 .2 .2 2 Quản lý rủi ro lãi suất
88
Lãi suất cho vay của ngân hàng khác với lãi suất của các công cụ trên
thị trường tiền tệ, chẳng hạn như ngân khố phiếu và thương phiếu, ở chỗ là
chúng được đàm phán giữa người vay và ngân hàng hơn là được quyết định
trong một thị trường được tổ chức sẵn. Vì là kết quả của phương pháp xác định
giá cả tín dụng được đàm phán, các mức lãi suất cho vay của ngân hàng không
đồng nhất. Chúng phản ánh cả đặc tính cá biệt của khoản tín dụng lẫn cung
cầu về tín dụng trên thị trường vốn và tiền tệ. Lãi suất cũng thay đổi so với
mức rủi ro tín dụng trên hàng loạt các yếu tố : tiền cho vay, thời hạn, quy mô
cho vay, chi phí thực hiện và giám sát khoản cho vay, số dư tiền gửi của người
vay và các chứng khoán. Hơn nữa, lãi suất còn bị ảnh hưởng bởi phong tục tập
quán, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng và các nguồn vốn khác, lãi suất khống
chế tối đa, và thái độ của các giám đốc ngân hàng và người vay, liên quan đến
các điều kiện kinh tế trong tương lai.
Rủi ro lãi suất là những rủi ro mà các chủ thể kinh tế gặp phải khi có
biến động về lãi suất. Tất cả các khoản cho vay và nợ dù với lãi suất cố định
hay biến động đều có thể gặp rủi ro. Nếu như toàn bộ các chủ thể kinh tế đều
có nguy cơ gặp rủi ro, thì tất nhiên các tổ chức tín dụng là những đơn vị dễ
gặp rủi ro nhất do cơ cấu bảng cân đối tài sản của các tổ chức này. Rủi ro
lai suất là rủi ro mà ngân hàng phải chịu khi có các khoản cho vay hoặc nợ
theo lãi suất cố định, do diễn biến lãi suất về sau gây ra. Rủi ro này ảnh
hưởng đến kết quả lỗ lãi của ngân hàng. Một ngân hàng có thể đề phòng
bằng cách đánh giá rủi ro lãi suất qua từng nghiệp vụ một và thực hiện các
Đ ể giảm thiểu những rủi ro lãi suất các ngân hàng thương mại cần
phải thực hiện các bước sau:
- Thống nhất các mẫu báo cáo chi tiết về rủi ro lãi suất và quy trình
nghiệp vụ bảo chứng.
phân tích biến động lãi suất theo hướng định lượng hoá được mức rủi ro này,
trên cơ sở đó có giải pháp tăng hoặc giảm lãi suất khi thấy cần thiết.
- Có quy chế bắt buộc về đánh giá cụ thể rủi ro lãi suất đối với một sản
phẩm tín dụng hoặc dịch vụ trước khi đưa ra thị trường. Xây dựng quy trình dự
báo biến động lãi suất trong nước và quốc tế, trên cơ sở đó áp dụng các công
cụ phòng ngừa rủi ro hữu hiệu.
89
3.2.2.3 Quản lý rủi ro hối đoái
Trong môi trường toàn cầu hoá tài chính- ngân hàng, các nhà quản trị
ngân hàng càng ngày càng phải đối mặt với vấn đề rủi ro ngoại hối nhiều hơn.
Những rủi ro này có thể phát sinh thông qua các hoạt động như giao dịch
ngoại hối, cho vay bằng ngoại tệ, mua các chứng khoán được phát hành bằng
ngoại tệ hoặc là phát hành các chứng khoán nợ bằng ngoại tệ để huy động vốn.
Chính vì vậy một ngân hàng giao dịch ngoại hối phải giới hạn việc tham
gia vào các loại tiền tệ khác nhau và thực hiện một khối lượng kinh doanh vừa
đủ để các thiệt hại có thể bù đắp bằng các lợi tức. Hơn nữa, ngân hàng phải
cảnh giác không chỉ với những thay đổi tỷ giá hối đoái, mà cả với các nguyên
Các biện pháp quản lỷ rủi ro ngoại hổi là:
nhân của những thay đổi ấy để có thể áp dụng các biện pháp giảm bớt rủi ro.
- Thiết lập hệ thống các hạn mức về hoạt động kinh doanh hối đoái của
phòng vốn cũng như cơ cấu trạng thái ngoại tệ trên bảng cân đối tài sản.
- Thiết lập hạn mức về khoản chênh lệch cho phép giữa tài sản và công
nợ bằng ngoại tệ cho từng bộ phận kinh doanh.
- Thiết lập hạn mức mà các bộ phận kinh doanh có thể mua bán mà
không cần báo trước phòng vốn trung ương.
- Thiết lập các hạn mức về hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong nội bộ
phòng vốn trung ương bao gồm hạn mức qua ngày, qua đêm và có kỳ hạn,
hạn mức cho từng đối tác kinh doanh và từng nhân viên giao dịch.
3.2.2.4 Quản lý rủi ro tín dụng
Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động chính của ngân hàng. Cho vay bao
giờ cũng bao gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu
được nợ khi đến hạn. Việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm chính của nghề
ngân hàng. Các ngân hàng luôn luôn tìm cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm
những lợi tức cao nhất có thể có ở các món cho vay và chứng khoán, đồng
thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến các hoạt động cho vay như : sàng
lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, quy
định các mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế tín dụng. Dẫu sao
không một ngân hàng nào nghĩ được hết mọi sự bất ngờ khi nó viết ra những
quy định hạn chế vào một hợp đổng cho vay. Sẽ luôn luôn có những hoạt động
90
rủi ro của người vay tiền, chưa có một quy định hạn chế nào loại bỏ được
chúng cả. Người ta gọi đó là rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng giống như “ngòi nổ”, mà tự mình nó, sự phá hoại chỉ
giới hạn trong phạm vi hẹp , nhưng khi có những chất kích nổ sự phá hoại lan
truyền và sự tàn phá khủng khiếp sẽ diễn ra. Rủi ro tín dụng lúc đó có thể là
đầu mối của những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc cuộc khủng hoảng kinh
tế - xã hội. Vì thế mỗi ngân hàng cần phải có các chính sách cho vay rõ ràng
để xác định phương hướng sử dụng vốn, giảm bớt các rủi ro và duy trì các hoạt
động như dự định. Chính sách cho vay của một ngân hàng nên kết hợp sự bảo
Đê tránh được những rủi ro tín dụng có thê xảy ra các N H TM cần có
những biện pháp như:
- Tố chức nghiên cứu đánh giá tình hình hoạt động của khách hàng, đặc
đảm có thể chấp nhận được và khả năng thanh toán nợ
biệt là các khách hàng lớn, trên cơ sở đó xây dựng hạn mức tín dụng tổng hợp
cho một ngành hoặc cụ thể cho từng khách hàng, đánh giá sự phù hợp của
khoản tín dụng và hạn mức tín dụng, đồng thời tiến hành đánh giá lại tín dụng
trước khi gia hạn vay hoặc lập lại lịch trình trả nợ.
- Phân loại các khoản vay và phương pháp lập dự phòng cho phù hợp
với quy định của NHNN đồng thời nghiên cứu kiến nghị với NHNN về lĩnh
vực này theo thông lệ quốc tế để kịp thời bổ sung sửa đổi.
- Xây dựng hệ thống đo lường rủi ro tín dụng, hệ thống thang điểm
tín dụng phù hợp với mục tiêu lợi nhuận và khả năng chấp nhận rủi ro của
ngân hàng.
- Tổ chức đánh giá thường xuyên chất lượng tín dụng để đưa ra các biện
pháp kịp thời điều chỉnh hạn mức tín dụng cho khách hàng.
- Thiết lập hạn mức bảo lãnh tín dụng cho từng khách hàng, ban hành
quy trình đánh giá bảo lãnh tương tự như các khoản cho vay, thiết lập các quy
trình quản lý các tài khoản ngoại bảng một cách chính xác và đầy đủ đặc biệt
ở cấp chi nhánh.
3.2.2.5 Quản lý vốn
91
Quản lý vốn có ý nghĩa quan trọng đối với chính sách tiền tệ nói chung
(vĩ mô) và mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của các NHTM nói riêng (vi mô).
Trong những năm qua các NHTMQD đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm tăng
cường quản lý vốn đặc biệt là các biện pháp phát triển nguồn vốn. Tuy nhiên,
công tác quản lý vốn cần được nâng cấp hơn nữa trong điều kiện cạnh tranh
ngày càng gay gắt nhằm ổn định và phát triển thị phần, nâng cao khả năng
sinh lời trong dài hạn. Để đạt được mục tiêu nói trên cần thực hiện một số biện
pháp chú yếu sau:
AI Quản lý tài sản nợ:
Để quản lý tài sản nợ các NHTM cần tiến hành nghiên cứu phân tích
toàn diện về môi trường kinh doanh, trên cơ sở đó có được những dự báo về xu
hướng vận động của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tổng hợp như (GDP, tỷ lệ tiết
kiệm, cán cân vãng lai, tỷ lệ cung ứng tiền..) cũng như xu hướng vận động của
lãi suất, tỷ giá hối đoái để có kế hoạch phát triển nguồn vốn phù hợp.
Mặt khác các ngân hàng thương mại cần phân loại và đánh giá cơ cấu
nguồn vốn, hướng biến thiên của cơ cấu vốn trên cơ sở đó xây dựng cơ chế
chính sách huy động và điều hành vốn có hiệu quả nhất. Xây dựng các chỉ tiêu
an toàn về huy động vốn phù hợp với cơ cấu nguồn vốn tối ưu và tốc độ tăng
trướng hiệu quả của tài sản có.
BI Quân lý tài sản có
Hoạt động kinh doanh của khách hàng vay tiền thường rất đa dạng, trên
nhiều lĩnh vực, nhiều địa bàn với những cơ hội đầu tư rất phong phú. Vì vậy
việc nghiên cứu, sàng lọc, lựa chọn các dự án đầu tư có triển vọng tốt, hiệu
quả cao để cho vay là yếu tố quyết định của hoạt động tín dụng. Để đạt được
mục tiêu trên các NHTMQD cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau:
- Chuyên môn hoá việc cho vay hoặc đầu tư theo nhóm khách hàng ,
loại dịch vụ và chi tiết đến từng ngành nghề.
- Phân loại tài sản có theo rủi ro và quy định các hạn mức đầu tư phù
hợp với mức độ rủi ro nhằm hạn chế nợ xấu.
- Có các quy định cụ thể về hạn chế tín dụng đối với các lĩnh vực kinh
doanh rủi ro lớn và phải được thể hiện chặt chẽ trong từng hợp đổng vay vốn
92
- Xây dựng chiến lược hợp tác dài hạn với những khách hàng vay lớn
trên cơ sở đó ngân hàng có thể đánh giá đúng đắn khả năng tài chính, tiềm
năng thị trường, trình độ quản lý của khách hàng nhằm phòng ngừa những rủi
ro đến với khách hàng.
- Với một số khách hàng chiến lược, ngân hàng có thể có cổ phần thích
hợp, nhằm tham gia trực tiếp vào công tác quản lý hoặc giám sát được hoạt
động của khách hàng.
- Sử dụng có hiệu quả hệ thống các chỉ tiêu phòng ngừa rủi ro, điều
chỉnh linh hoạt các chỉ tiêu này phù hợp với nhu cầu, khả năng tài chính của
khách hàng cũng như mục tiêu sinh lời của ngân hàng.
Bố sung, sửa đổi các quy định về quản lý thanh khoản, quản lý chênh
lệch lãi suất của tài sản nợ-có, quản lý vật thế chấp, quản lý bảng tổng kết tài
3.2.3
Đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng và giảm thiểu chi p h í hoạt
động của các NHTM QD
sản phù hợp với nhu cầu phát triển mới.[2];[16];[24];[30]
3.2.3.1. Tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng cường đa dạng hoá các
dịch vụ kinh doanh
Như đã đề cập ở phần trên, hoạt động tín dụng là hoạt động giữ vị trí
độc tôn trong các NHTM Việt nam. Vì thế thu nhập cuối cùng của các NHTM
đã chịu sự chi phối mạnh của hoạt động tín dụng. Phương thức kinh doanh đơn
lẻ này đã làm cho các ngân hàng rơi vào tình trạng “ bỏ trứng trong một giỏ”-
trái ngược hẳn với chiến lược phân tán rủi ro trong kinh doanh, không phù hợp
với ngân hàng hiện đại, cản trở quá trình hội nhập tài chính của hệ thống ngân
hàng Việt nam. Để khắc phục được điều đó, buộc các ngân hàng phải tự
nghiên cứu, đưa ra nhiều sản phẩm có hiệu quả, mạnh dạn tham gia vào các dự
án lớn dưới nhiều hình thức .
Nhận thức việc phát triển sản phẩm mới là công cụ chiến lược để chiếm
lĩnh thị trường trong tương lai, các NHTMQD nên tập trung phát triển các sản
phẩm ngân hàng điện tử như Home-banking, E-banking, thẻ tín dụng, thẻ
thanh toán, séc tín dụng... Đây được đánh giá là các hoạt động dịch vụ ngân
hàng đcm lại lợi nhuận cao và có mức rủi ro thấp hơn các sản phẩm ngân hàng
93
truyền thống. Trong điều kiện vốn tự có còn quá ít thì việc phát triển các sản
phẩm mới là giải pháp tối ưu, an toàn và phù hợp với xu hướng hoạt động của
các ngân hàng hiện đại trên thế giới.
Xét về tổng thể, việc phát triển các sản phẩm mới còn là điều kiện bắt
buộc đê tiến tới khép kín các nhu cầu về lĩnh vực tài chính của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh. Điều này không chỉ giúp các ngân hàng nâng cao
khả năng cạnh tranh trên thị trường mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho chính
ngân hàng quản lý chắc chắn đồng vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, đảm bảo tính an toàn cao trong hoạt động ngân hàng.
Từ nhận thức đó các NHTMQD nên xây dựng phương hướng và mục
tiêu phát triển sản phẩm mới trong thời gian tới là tiếp tục củng cô' và từng
bước nâng cao chất lượng các sản phẩm truyền thống hiện có ; chủ động lựa
chọn, mở rộng, đa dạng hoá các hình thức dịch vụ mới nhằm đáp ứng được
yêu cầu dịch vụ đa dạng và khép kín của khách hàng; tập trung phát triển và
hoàn thiện dịch vụ ngân hàng bán lẻ và các dịch vụ ngân hàng phục vụ các
khách hàng lớn, trọng điểm. Chú trọng tìm hiểu, nghiên cứu, khảo sát thực tế
để có những sản phẩm mới trên thị trường
Bên cạnh đó Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện các điều kiện, tạo
thuận lợi cho các ngân hàng được tham gia vào thị trường chứng khoán -thị
trường luân chuyển vốn có hiệu quả nhất. Hơn nữa, quá trình hội nhập khu
vực và tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá với các hiệp định song phương và
đa phương làm cho các hoạt động cạnh tranh ngày càng toàn diện hơn và
quyết liệt hơn. Phát triển dịch vụ ngân hàng có tính cạnh tranh cao sẽ góp
phần quan trọng đến sự tăng trưởng lâu bền của ngân hàng.
3 .2 3 .2 Giảm thiểu chi phí hoạt động của các NHTMQD
Chi phí hoạt động của các NHTM Việt nam nhìn chung là cao hơn so
với các NHTM trong khu vực, đặc biệt là các NHTMQD. Chi phí hoạt động
cao sẽ dẫn đến việc hạn chế khả năng sinh lời của các ngân hàng, vì vậy việc
giảm thiểu chi phí hoạt động là một vấn đề quan trọng trong chiến lược cạnh
tranh của các ngân hàng thương mại. Để thực hiện được điều này trước hết
phải áp dụng một số biện pháp sau:
94
- Tiến hành kiểm soát chặt chẽ hệ thống các chi nhánh, xoá bỏ hoặc sát
nhập các chi nhánh không có hiệu quả
- Xác định các định mức trang bị mua sắm tài sản theo nhu cầu và phù
hợp với hiệu quả kinh doanh, quản lý chi tiêu theo định mức, khuyến khích cắt
giảm các chi phí không hợp lý.
- Hạn chế tối đa các khoản đầu tư, các hoạt động dịch vụ tạm thời chưa
có hiệu quả.
- Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tín dụng đối với các khách hàng,
3.2.4 Cải tiến cơ bản mô hình tổ chức và hoạt động của các NHTMQD
doanh nghiệp có nợ quá hạn lớn và kinh doanh kém hiệu quả.[22];[34]
3.2.4.1 Cơ cấu lại mô hình tổ chức của các NHTM QD
Cần tách riêng biệt hoạt động cho vay chính sách và cho vay thương
mại bằng việc thành lập độc lập một ngân hàng chính sách quốc gia thống
nhất để phục vụ các đối tượng chính sách
Để cho các NHTMQD hoạt động có hiệu quả, cần chuyển mô hình tổ
chức của các NHTMQD hiện nay sang mô hình tổ chức theo nhóm khách
hàng và theo loại dịch vụ kinh doanh kèm theo những định chế quản lý rủi 10
và quản lý tài sản có hiệu lực để khắc phục được cơ bản những mặt hạn chế
nói trên của các NHTMQD. Theo hướng này, hoạt động của các NHTMQD về
cơ bán tổ chức lại thành các khối, các nhốm dịch vụ sau đây:
- Khối dịch vụ ngân hàng phục vụ doanh nghiệp gồm các dịch vụ tín
dụng, thanh toán xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, thư tín dụng , bảo lãnh..
- Khối dịch vụ ngân hàng bán lẻ ( cho tư nhân) gồm các dịch vụ tiết
kiệm, tài khoản cá nhân, thanh toán thẻ, cho vay tiêu dùng cá nhân..
- Khối kinh doanh trên thị trường tài chính gồm các nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán, bảo hiểm thuê mua..
- Khối quản lý tài sản sử dụng có hiệu quả quỹ khấu hao, phát triển
phương tiện, công nghệ hiện đại, dịch vụ văn phòng..
- Khối hỗ trợ gồm các hoạt động tổng hợp về tổ chức, hành chính, quản
trị, kế toán, quan hệ quốc tế..
95
A
3.2.42 Xác định rõ hơn chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của
ỈỈĐQT và Ban điều hành
Theo luật doanh nghiệp Nhà nước, bộ máy lãnh đạo của các NHTMQD
phân thành hai bộ phận là Hội đồng quản trị và Ban điều hành. Trong thời
gian qua, việc phân định chức năng, nhiệm vụ của HĐQT và Ban Tổng giám
đốc điều hành còn chưa rõ ràng. Theo cơ chế hiện hành Chủ tịch HĐQT và
Tổng giám đốc cùng nhận vốn. Song áp dụng cơ chế này, việc phân định chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐQT và BĐH không rõ ràng. Thực tế
HĐQT chỉ quản trị ngân hàng trên cơ sở đề nghị của Ban điều hành, điều này
đặt HĐQT vào thế bị động (chỉ giải quyết những gì Ban điều hành đề nghị).
Mặt khác tình trạng các cơ quản lý Nhà nước nhiều lúc can thiệp quá sâu vào
các lĩnh vực hoạt động ngân hàng, nhất là lĩnh vực tài chính và điều hành đã làm
giảm tính tự chủ trong việc điều hành trực tiếp của HĐQT trong ngân hàng.
Chính phủ nên xem xét phân định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của HĐQT,
Tổng giám đốc cho phù hợp tinh thần : HĐQT là cơ quan đại diện sở hữu Nhà
nước tại DNNN, Nhà nước giao vốn ( hoặc đầu tư vốn vào ngân hàng) qua
HĐQT, Chủ tịch HĐQT là người nhận vốn.Tổng giám đốc do Chủ tịch HĐQT
lim chọn, ký hợp đồng và trình cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp phê
chuấn. Phân biệt rõ trách nhiệm, quyền hạn của HĐQT, BĐH trên tinh thần
HĐQT là cơ quan quản lý cao nhất trong doanh nghiệp, thực hiện việc quản lý
trong doanh nghiệp, BĐH thực thi các nghị quyết của HĐQT.
Đây là vấn đề có tính chất đột phá vì nó là nhân tố con người gắn liền
với việc chỉnh sửa và bổ sung luật các tổ chức tín dụng hiện hành-Theo đó, đối
với toàn bộ hoạt động của các NHTMQD cần xây dựng và đổi mới Điều lệ và
quy chế hoạt động phù hợp với luật các TCTD theo hướng thiết chế một
HĐQT thực quyền trên các lĩnh vực : Tuyển chọn và bổ nhiệm Tổng giám
đốc, Ban điều hành, quyết định chính sách kinh doanh, được tuyển chọn xử lý
lao động dôi dư theo Pháp luật và quyết định phương án trả lương theo hiệu
quá lao động, chịu trách nhiệm trước Nhà nước ( trực tiếp là Thống đốc ngân
hàng nhà nước) về việc bảo toàn và phát triển vốn, được quyền thành lập các
công ty con hạch toán độc lập và chịu trách nhiệm trước luật pháp về tính
minh bạch trong hoạt động của công ty. Ngoài ra, các thành viên hội đổng
96
quán trị cần phải có đủ những tiêu chuẩn cần thiết theo sự điều chỉnh của quy
chế tổ chức và hoạt động áp dụng chung cho các DNNN, tăng cường quy chế
chuyên trách hoá và xoá bỏ cơ chế kiêm nhiệm hoặc “ đại diện “ cơ quan
3.2.4.3
Mở rộng quyền tự chủ về tài chính, công tác nhân sự và quản lý
nhân sự cho các NHTMQD
khác cử vào HĐQT
Việc mở rộng quyền tự chủ tài chính cho các NHTMQD có ý nghĩa
quyết định tạo ra động lực và hệ thống khuyến khích vật chất nhằm nâng cao
năng suất lao động và hiệu lực quản lý. Nghị định 166/1999/ NĐ-CP ban hành
ngày 19/11/1999 về chế độ tài chính đối với các TCTD vẫn chưa có văn bản
hướng dẫn. Theo nghị định nói trên, quyền tự chủ tài chính của các NHTMQD
còn rất hạn chế thể hiện trên một số m ặ t : tiền thu sử dụng vốn, việc lập và sử
dụng quỹ dự phòng rủi ro, cơ chế tiền luơng, việc giao quỹ lương và đơn giá
tiền lương. Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu sửa đổi theo hướng mở
rộng quyền phán quyết, phân cấp phán quyết và NHNN chỉ quản lý vĩ mô
bằng luật pháp nhằm kích thích tính năng động, sáng tạo và nâng cao trách
nhiệm của các NHTMQD.
Do chi nhánh của các NHTMQD hiện đang phân bố trên các địa bàn (
bị coi là ngân hàng của từng Tỉnh) nên việc xắp sếp, điều chuyển cán bộ bị chi
phối bởi các cơ quan địa phương (UBND tỉnh, Tỉnh uỷ, NHNN tại tỉnh). Việc
bố trí cán bộ vốn là việc nội bộ của các NHTMQD nhưng lại chịu sự quản lý,
chỉ đạo của quá nhiều đầu mối nên cũng gặp không ít khó khăn. Điều này đã
ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch và kết quả kinh doanh của từng NHTMQD.
Việc tiếp nhận và xử lý lao động cũng như các chế tài giữa các bên
trong hợp đồng thoả ước lao động thiếu rõ ràng thiếu dứt khoát. Do đó các
NHTMQD không đủ các điều kiện pháp lý cụ thể để điều hành công tác nhân
sự nghiêm túc theo yêu cầu của các nghiệp vụ kinh doanh trong điều kiện
cạnh tranh và mục tiêu hiệu quả.
Vì vậy việc cải cách các NHTMQD cần phải gắn với việc cơ cấu lại
mạng lưới chi nhánh, thống nhất quyền lực quản lý nhân sự và định rõ các chế
tài giữa các bên tham gia thoả thuận lao động. Đây là điều kiện tiên quyết để
nâng cao năng lực và kỷ cương quản lý, nâng cao sức ép cạnh tranh, thi đua
tăng năng suất lao động trong các NHTMQD.[15];[16];[28];[34];[46]
97
3.2.5
Có chiên lược đầu tư hợp lý cho phát triển công nghệ và đào tạo
nguồn nhân lực
Công nghệ ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sức mạnh của hệ
thống ngân hàng và là điểm yếu nhất của các NHTM Việt nam hiện nay. Ngân
hàng Nhà nước cần gấp rút xây dựng chiến lược chung về phát triển công nghệ
trong toàn hệ thống và có chính sách khuyến khích thoả đáng các ngân hàng
thương mại đầu tư vào lĩnh vực này, trước mắt cần tập trung đầu tư cải thiện
chất lượng dịch vụ hiện có, tạo tiền đề phát triển các dịch vụ mới.
Mặt khác Ngân hàng nhà nước và các ngành hữu quan cần cải tiến và
gỡ bỏ những chính sách, quy định đang cản trở việc đưa công nghệ mới vào
cuộc sống như chế độ kế toán, thống kê, chế độ quản lý chứng từ, kho quỹ,
chế độ thanh toán chuẩn quốc tế nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình đầu
tư đổi mới công nghệ trong toàn hệ thống.
Trước mắt thúc đẩy hơn nữa việc triển khai dự án hiện đại hoá ngân
hàng và hệ thống thanh toán do WB tài trợ nhằm tạo ra nền tảng công nghệ
tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt là các tiểu dự án về hệ thống thanh toán nội bộ và kế
toán khách hàng có tầm quan trọng đối với quá trình tái cơ cấu các NHTMQD.
Các ngân hàng thương mại cần tập trung đầu tư nâng cấp hệ thống
ihóng tin quản lý (MIS) phục vụ cho công tác điều hành kinh doanh, kiểm soát
hoạt động ngân hàng, quản lý khách hàng, quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ-
có và công tác kế toán.
Để triển khai chương trình phát triển công nghệ, các NHTMQD cần rà
soát lại các quy định, quy chế, tiêu chí thống kê-kế toán bất hợp lý đang cản
trở việc ứng dụng công nghệ hiện đại trình Thống đốc xem xét, sửa đổi trong
thời gian tới. NHNN và Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ về tài chính cho
các NHTMQD để đầu tư đồng bộ hệ thống công nghệ thông tin và đào tạo cán
bộ khai thác và xử lý theo yêu cầu quản lý. Khoản chi phí này rất lớn và vượt
quá khả năng tài chính của các NHTMQD hiện nay.
Các NHTMQD ngoài việc đầu tư cho phát triển công nghệ một cách
hợp lý, còn phải quan tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực. Hiện nay có trên
60% cán bộ của các NHTMQD chưa có trình độ đại học. Một bộ phận lớn các
cán bộ quản lý cao cấp của các NHTMQD mặc dù có nhiều kinh nghiệm
98
nhưng chưa được cập nhật kiến thức quản lý ngân hàng hiện đại. Đó là những
trở ngại rất lớn cho quá trình cải cách và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng.
Việc khẩn trương đào tạo một lớp cán bộ chủ chốt kế cận là cực kỳ cần thiết
và mang tính chiến lược để mở đường cho công nghệ mới được tiếp nhận và
trở thành phổ biến, phát huy được công dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động
ngân hàng.
Vì vậy NHNN và các NHTMQD cần ưu tiên đầu tư thoả đáng cho lĩnh
vực đào tạo theo những tiêu chuẩn quốc tế về quản trị ngân hàng, đồng thời
gắn việc đào tạo với việc chuyển giao và hiện đại hoá công nghệ, có chính
sách nâng đỡ, thu hút và sử dụng nhân tài nhằm rút ngắn thời gian và tiết
kiệm chi phí đào tạo. Cán bộ được đào tạo theo chương trình quản trị ngân
hàng hiện đại ở trong và ngoài nước. Vai trò của hiệp hội ngân hàng cần phải
3.2.6
Tăng cường công tác thanh tra giám sát hoạt động của các
NHTMQD
vươn tới đảm đương vấn đề đặc biệt quan trọng và mang tính chiến lược này.
Hệ thống giám sát hoạt động NHTMQD hiện nay quá coi trọng vào
công tác thanh tra tại chỗ, xem nhẹ công tác thanh tra giám sát từ xa và kiểm
loan nội bộ. Ý nghĩa của giám sát từ xa và kiểm toán nội bộ đối với hoạt động
ngân hàng, sớm dự đoán các sự cố có thể đến từ nhiều phía đối với ngân hàng,
đồng thời giúp cho công tác thanh tra xử lý đúng trọng điểm, kịp thời và có
hiệu quả thiết thực, không gây phiền toái cho hoạt động kinh doanh.
Để thực hiện mục tiêu nói trên các NHTM cần tổ chức lại hệ thống phân tích,
đánh giá các chỉ tiêu tài chính và các chỉ tiêu khác về cơ số vốn, trị giá lãi
thực, vốn dự trữ, tiền vay và các tài sản khác để điều chỉnh kịp thời các hoạt
động quản lý giám sát.
Mặt khác phải chấn chỉnh và nâng cao chất lượng của kiểm toán nội bộ
từ quy trình kiểm toán đến tính xác thực và độ tin cậy của các thông tin, các
chỉ tiêu tài chính cũng như các đề xuất về cải tiến công tác quản lý tài chính,
và đào tạo lại các cán bộ kiểm tra, kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế.
Thực hiện nghiêm ngặt chế độ báo cáo tài chính, thống kê và các báo
cáo khác theo quy định, hiện đại hoá thông tin quản lý (MIS) nhằm nâng cao
năng suất và hiệu quả của việc xử lý thông tin.[16];[34];[35];[36];[37]
99
Tóm lai
Xúc tiến việc cải cách cơ cấu tổ chức và hoạt động của các NHTMQD
là nhu cầu bức xúc, khách quan của môi trường cạnh tranh và quy mô phát
triển mới của thị trường tài chính Việt nam trong tiến trình toàn cầu hoá và sự
nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. Quy trình cải tiến
vừa đảm bảo tính liên tục trong dòng chảy của mạch máu kinh tế, vừa nhanh
chóng triển khai xây dựng chiến lược cải cách của từng NHTM theo những
nội dung cơ bản như đã trình bày- trong đó những nội dung quan trọng nhất
liên quan đén tổ chức và hoạt động chính là việc cải cách môi trường pháp lý,
cơ cấu lại tài chính, tách bạch hoạt động tín dụng chính sách ra khỏi hoạt
động thương mại, tổ chức lại hệ thống mạng lưới để quản lý theo cơ cấu nhóm
khách hàng và loại dịch vụ, từng bước phát triển mạng thông tin hiện đại và
tích cực đào tạo cũng như tái đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt và chuẩn bị đội
ngũ kế cận đủ sức tiếp nhận công nghệ quản lý và kinh doanh trong môi
100
trường cạnh tranh mới.
f j\ ei ỉu ă n
0
Với những chuyển động hết sức phức tạp trong khu vực ngân hàng và
những yêu cầu bức thiết đặt ra cần phải có tổ chức để có thể đáp ứng được
những thách thức của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập khu vực. Hệ thống
ngân hàng của Việt nam cần phải có những bước chuyến mạnh mẽ hơn nữa,
trong đó cần đặc biệt chú trọng vai trò hướng đạo của các ngân hàng thương
mại nhà nước trong toàn hệ thống. Hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế
chí có thể đạt được thế cân bằng ổn định khi các ngân hàng thương mại nhà
nước duy trì và phát huy được vai trò điều tiết của mình. Muốn vậy bản thân
các ngân hàng thương mại nhà nước cũng cần phải có những cải tổ cấp tiến
toàn diện và sâu sắc hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực tài chính, nhân sự, quản
lý, hạch toán, kiểm toán và chiến lược kinh doanh...
Bèn cạnh đó để duy trì được một hệ thống tài chính lành mạnh, nhất
thiết cũng cần phải có nhiều biện pháp tháo gỡ mạnh mẽ hơn nữa từ phía các
cơ quan quản lý hành chính, mà cụ thể là ngân hàng Trung ương nhằm tímg
bước nâng cao và phát huy được khả năng cạnh tranh bền vững cho hệ thống
ngân hàng trước các thách thức to lớn ngày càng đến gần trong quá trình hội
nhập với nền kinh tế thế giới.
101
Tài liệu tham khảo
[1J- Alan c Shapiro
Quản trị tài chính quốc //-N h à xuất bản thống k ê - 1999
An ninh tài chính đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng-Nhà xuất bản tài chính- Hà nội 2001
[2] - TS Vũ Đình Á nh
Phân tích chất lượng tín dụng và rủi ro ngân hàng- Tài liệu hội thảo do ngân hàng Pháp và N gàn hàng N hà nước tiến hành 9/1998
[3] - Bruno Andre L onger
[4] - Các định c h ế tài chính-N hà xuất bản thống k ê - 1999 [5] - Các hệ thống tài chính và sự phát triển- Báo cáo của ngân hàng T hế
giới- N hà xuất bản giao thông vận tải 1998.
Các M ác tập III phần mộr-Nhà xuất bản sự thật-Hà nội 1987
[ 6 ] - Các Mác
Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại-Nhà xuất bản chính trị quốc g ia -1997 [8] - Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ và kiểm soát lạm phát ở Việt nam
[7] - David Cox
Nhà xuất bản chính trị quốc gia -1997
Ngân hàng thương m ại-N hà xuất bản thành phố Hồ Chí M in h -1993
[9] - Edward w R eed và Edward K Gild
Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính-Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật- Hà nội 1994
[10] - Frederic s M iskhin
[ 11] - Giáo trình lý thuyết tiền tệ và ngân hàng
Học viện ngân hàng-N hà xuất bản thống kê- Hà nội 2001
[12] - Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng
Học viện ngân hàng-N hà xuất bản thống kê 2000
Kinh tế học của sự phát triển-V iện nghiên cứu quản lý Trung ương-
[ 13] - H Perkins and M Gilli
1990
[14] - Hệ thống hoá văn bản pháp luật về ngân hàng
[15]-TS Lê Đình Hợp
M ột s ố vấn đ ề về cuộc cách mạng dịcli vụ ngân hàng tliập kỷ 90 Tạp chí thông tin khoa học ngân hàng, số 5-6 năm 1997
Ngân hàng N hà nước Việt nam -N hà xuất bản chính trị quốc gia-1998
[16] - Trần Văn Hùng
T ái cơ cấu hệ thống N H TM Việt nam -cơ sở hội nhập quốc t ế thành công Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, số 5/2001
Đ ổi mới chính sách tiền tệ-tín dụng- ngân hàng trong giai đoạn chuyển sang kinh t ế thị trường ở nước ta N h à xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội 1995
[ 1 8 ] -P T S Cao Sĩ Kiêm
H ai pháp lệnh ngân hàng bước tiến quan trọng trong quản lý và kinh doanh tiền tệ-Tạp chí Cộng sản số 1 năm 1990
[17] - PTS Cao Sĩ Kiếm
Thành lập công ty mua bán tài sản th ế chấp , một trong những giải p háp đ ể lành mạnh hệ thống ngân hàng-Tạp chí ngân hàng số 15/1999
[ 19] - N gô Tuấn Kiệp
[20] - Luật ngân hàng N hà nước Việt nam, luật các tổ chức tín dụng
N g â n hàng N hà nước Việt n a m - 1998
Giáo trình kinh t ế học tiền tệ ngân hàng- N hà xuất bản Đại học quốc gia-H à nội 1999
[ 2 1 ] - P T S Trịnh Thị Hoa M ai '
Xu hướng đa dạng hoá dịch vụ trong chiến lược kinh doanh của N H TM T ạp chí ngân hàng SỐ3/2001
[22] - N g uyễn Bá M inh
[23] - N gân hàng V iệt nam, quá trình xây dựng và phát triển
N hà xuất bản chính trị quốc g ia - 1996
V ấn đ ề dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng-Tạp chí ngân hàng số 7/2000
[24] - Lê Thị Thanh Nhàn
nước N h à xuất bản th ế g iớ i-1997
[25] - Pháp luật ngân hàng trung ương và Ngân hàng thương mại một s ố
K inh t ế học quốc tế-Lỷ thuyết và chính sách-Nhà xuất bản chính trị quốc gia- Hà nội 1996
[26] - Paul R K rugm an and Maurice obstfeld
N ợ tồn đọng-vấn đ ề cần tiếp tục giải quyết-Tạp chí ngân hàng số 15/1999 [28] - Tào Hữu Phùng
K hủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu A và m ột s ố giải pháp đối với V iệt nam -Tạp chí Cộng sản, số 3 tháng 2/1998
[27] - TS Đ ào M inh Phúc
[29] - Quản lý và kinh doanh tiền tệ
Trường đại học tài chính kế toán Hà nội-N hà xuất bản tài chính - Hà nội 1999
Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng-Nhà xuất bản thống kê- Hà nội 1999 [31] - G S _T S L ê Văn Tư
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính-N hà xuất bản thống kê-Hà nội 1999 [32]- GS_TS Lê Văn Tư
Ngân hàng thương m ạ/-N hà xuất bản thống kê-H à nội 2001
[30] - PTS N guyễn Văn Tiến
M ô hình AM C đ ể xử lý nợ khó đòi tồn đọng-Tạp chí ngân hàng số 7/2000
[ 3 3 ] - T S Trịnh Bá Tửu
services
chiến lược dài hạn N gân hàng T hế giới và quỹ tiền tệ Quốc tế, 1999 [35] - Tạp chí ngân hàng các năm 1999, 2000, 2001, 2002 [36} - Tạp chí tiền tệ ngân hàng các năm 2000, 2001, 2002 [37] - Bank for International Selments, Annual report 1999,2000,2001 [38] - Bank for international Settlements. 1999. International Banking and Financial M arket Developments. A u g u stl9 9 8 and August 1999. [39] - Berger, Allen N, Rebecca s Dem setz,and Phillip E Strahan.1999. Industry: Causes, “The Consolidation o f F inancial consequences and implication fo r the fu tu re ” Journal o f Banking and Finance 23(2-4): 135-194
[34] - Hệ thống ngân hàng thương m ại Việt nam-những nguy cơ hiện tại và
[40 Ị - Cerasi, Victoria, Barbara Chizzolini and Marc Ivaldi. 1998. “Sunk costs and com petitiveness o f European bank after deregulation” LSE financial Markets Group discussion paper 290 (april)
[41] - De Bandt, Olivier. 1998 “EM U and the structure o f the European- banking system .Paper prepared fo r the SUERFCFS conference: ” The Euro: Chalenge and opportunity fo r financial m a rkets” Frankfurt, Germany. N o vem berl5-1 7,1 998
[42] - Dermine, Jean. 1998 “EuroBanking, the Strategic issu es”. Paper prepared for the SU ERF Colloquium on the Euro: A chellenge and opportunity for financial m arkets” Frankfurt, Germany. October 15- 17,1998
[43] - Dietsch, Michel, Gary Ferrier and Laurent W eill, 1998. ’’Banking efficiency and European integration: Productivity, cost and profit approaches” Universite Robert Schuman de Strasbourg, France