Đ Ạ I H Ọ C Q UỐ C GIA HÀ NỘI

ĩfí

ĩ|<

ífc

KHOA KINH TÊ

NGUYỀN THỊ THANH HẰNG

HỆ THÔNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH ở VIỆT NAM

m

THỰC TRẠNG VÀ GlẢl PHÁP

CHUYÊN NGÀNH KINH TÊ CHÍNH TRỊ XHCN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KINH TẾ

MÃ SỐ : 5.02.01

ị '■ / NGTi N. ỉ ill; VI í.. 'i I

I

K Ni-LO/>130 1

I f’ h' : C'J- CỠI- 1 I li-! Ị! h u

Ngưòỉ hướng dẫn khoa học. TS. vũ TRƯỜNG SƠN

PGS.TS. PHÍ MẠNH HÓNG

HÀ NỘI - 2002

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: MỘT s ố VÂN ĐỂ CHUNG VỂ HOẠT ĐỘNG CỦA 4

NHTM TRONG NEN k in h t ê t h ị t r ư ờ n g

1.1 NHTM và vai trò của NHTM trong nền kinh tê thị trường 4

1.1.1 N H TM : Khái niệm và các loại hình 4

1.1.1.1 Khái niệm về N H TM 4

1.1.1.2 Các loại hình N H T M trên th ế giới 8

1.1.2 Vai trò của N H T M đối với sự phát triển của nền kinh tế 10

1.1.2.1 N gân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế 11

1.1.2.2 N gân hàng là cầu nối giữa khách hàng với thị trường 12

1.1.2.3 N H T M là “cầu n ố i” giúp N H TW thực thi chính sách tiền tệ 12

và điều tiết vĩ mô nền kinh tế

1.1.2.4 N H TM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế 16

1.2 C ác chức năng cơ bản của N H T M 17

1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng 17

1.2.2 Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương 19

tiện thanh toán

1.2.3 Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp 20

1.2.4 Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác 21

1.2.5 Chức năng tài trợ ngoại thương, m ở rộng nghiệp vụ ngân hàng 23

quốc tế

1.3 Xu thế phát triển mới của hệ thống NHTM trên thế giới 25

30

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM QUỐC DOANH TRONG NHỮNG NẢM Đ ổ i MỚI

2.1 30

Khái quát về sự phát triển của hệ thống NHTM quốc doanh ử Việt Nam

2.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của các N H T M Q D 30

2.1.1.1 Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt N am 32

2. Ỉ . Ì . 2 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

32

2.1.1.3 Ngân hàng Công thương Việt Nam 33

33 2.1.1.4 N gân hàng N ông nghiệp và phát triển nông thôn

34 2.1.2 Những đặc điểm của hệ thống N H T M Q D ở Việt N am

2.2 Tình hình hoạt động của các NHTM quốc doanh 36

36 2.2.1 Thực trạng về nguồn vốn và sử dụng vốn của các N H T M Q D

36 2.2.1.1 Nguồn vốn và huy động vốn

43 2.2.1.2 Sử dụng vốn

47 2.2.2 Hoạt động thanh toán

52 2.2.3 Hoạt động khác của N H TM

52 2.2.3.1 Dịch vụ uỷ thác

54 2.2.3.2 Dịch vụ tư vấn

55 2.2.3.3 Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán

2.3 Đánh giá về hoạt động của các NHTM quốc doanh. 56

56 2.3.1 Những kết quả đã đạt được

56 2.3.2 Hiệu quả hoạt động của các N H TM Q D

2.3.2.1 Khả năng thanh khoản 57

58 2.3.2.2 K hả năng sinh lời

2.3.2.3 Chi phí và hiệu suất hoạt động

60

61 2.3.2.4 Mức độ rủi ro

63 2.3.3 Những nguyên nhân dãn đến những tồn tại của các N H T M Q D

63 2.3.3.1 Về phía các N H T M Q D

65 2.3.3.2 Về phía N gân hàng nhà nước

2.3.3.3 Về phía khách hàng

68

65 66 2.3.3.4 Các nguyên nhân về phía cơ ch ế chính sách

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THONG NHTM QUỐC DOANH ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

68

3.1

Bối cảnh kinh tế xã hội và những đòi hỏi đối với hệ thống NHTM ở Việt Nam

68

3.1.1 Bối cảnh kinh tế hiện nay và yêu cầu đặt ra đối với hệ thống

NHTM QD

68 74

3.1.1.1 Bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế

3.1.1.2 M ột số yêu cầu lớn đặt ra đối với hệ thống N H T M Q D ở Việt Nam

74 3.1.2 Định hướng chiến lược phát triển các N H T M Q D ở Việt Nam

trong những nãm tới

3.2 75

Một sỏ giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của các NHTM quốc doanh

75 3.2.1 Lành m ạnh hoá tình hình tài chính

76 3.2.1.1 Xử lý nợ tổn đọng

83 3.2.1.2 Tăng vốn tự có cho các N H T M Q D

86 3.2.2 Quản lý rủi ro

87 3.2.2.1 Quản lý rủi ro thanh khoản

88 3.2.2.2 Quản lý rủi ro lãi suất

90 3.2.2.3 Quản lý rủi ro hối đoái

90 3.2.2.4 Quản lý rủi ro tín dụng

91 3.2.2.5 Quản lý vốn

93 3.2.3 Đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng và giảm thiểu chi phí

hoạt động của các N H T M Q D

93 3.2.3.1 Tạo điều kiện cho các N H tăng cường đa dạng hoác các

dịch vụ kinh doanh

94 3.2.3.2 G iảm thiểu chi phí hoạt động của các N H T M Q D

95 3.2.4 Cải tiến cơ bản mồ hình tổ chức và hoạt động của các N H T M Q D

95 3.2.4.1 Cơ cấu lại cơ cấu tổ chức của các N H T M Q D

95 3.2.4.2 Xác định rõ hơn chức năng quyền hạn trách nhiệm của H Đ Q T

và Ban điều hành

96 3.2.4.3 M ở rộng qu yền tự chủ về tài chính, công tác nhân sự và quản

lý nhân sự cho các N H T M Q D

98 3.2.5 Có chiến lược đầu tư hợp ]ý cho phát triển công nghệ và đào tạo

nguồn n h â n lực

99 3.2.6 T ăng cường công tác thanh tra giám hoạt động của các

N H T M Q D

Kết L uận 101

1 DNNN 2 TCTD 3 NHNN 4 NHTW 5 NHTMQD 6 NHTM 7 NHTMCP 8 NHLD 9 HTXTD 10 KTQD

Doanh nghiệp nhà nước Tổ chức tín dụng Ngân hàng nhà nước Ngân hàng trung ương Ngân hàng thương mại quốc doanh Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngân hàng Liên doanh Hợp tác xã tín dụng Kinh tế quốc dân

N H Ũ N G K Ý H IỆ U Đ ư ợ c V IÊ T T Ắ T T R O N G L U Ậ N V Ă N

(£ ỉĩí n ó i đ ă ii

1. Sự cần thiết của đề tài :

Vai trò của hệ thống NHTM Việt Nam trong nền kinh tế thị trường đã

được khẳng định từ khi hệ thống NHVN chuyển sang hệ thống Ngân hàng hai

cấp. Hệ thống NHTM là lực lượng nòng cốt trong hệ thống các tổ chức tín

dụng VN. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống NHTMVN không

ngừng đổi mới, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, tạo mọi điều kiện thuận lợi

đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động trong nền

kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi nền kinh tế ngày càng có xu

hướng mở cửa, nền tài chính quốc gia từng bước hoà nhập vào hệ thống tài

chính quốc tế thì hệ thống NHTMVN lại bộc lộ rất nhiều yếu kém. Sự yếu

kém ở đây không chí là sự yếu kém về công tác quản lý, cơ cấu tổ chức mà

còn nguy hại hơn là sự yếu kém về tình hình tài chính - một trong những điều

kiện quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của Ngân hàng. Nếu

những yếu kém trên không được khắc phục ngay thì hệ thống NHTMVN

không những không đảm nhận tốt vai trò trung gian tài chính mà còn có nguy

cơ phá sản, đe doạ đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh

tế quốc dân.

Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu hoạt động của hệ thống

NHTMQD là bộ phận đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các NHTMVN, để

từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân

hàng này, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn

mới là việc làm cần thiết.

thông N H T M Q D ở VN- Thực trạng và giải p háp" để nghiên cứu.

Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi đã chọn đề tài "Hệ

1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận vãn :

Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động của các

ngân hàng thương mại của các tác giả trong nước và quốc tế. Điển hình là

một số đề tài nghiên cứu như :

- Đề tài '."Những vấn đê cơ bẩn vê hoàn thiện các tổ chức tín dụng ở

Việt nam ..."

M ã sốK N H /95-08-02 - Ngân hàng nhà nước Việt nam 1212001.

Do tiến sĩ Lê Đình Thu và Nguyễn Đại Lai là chủ nhiệm Đ ề tài - Đ ề tài : 'Thiết lập các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh và bảo

đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại Việt nam"

M ã SỐKNH 2000-4 - Ngân hàng nhà nước Việt nam 2001

Do tiến s ĩ Lê Xuân Nghĩa là chủ nhiệm đề tài

- Đ ề tài : "Nghiên cứu giải pháp thực hiện chiến lược tổng th ể phát

triển ngành ngân hàng Việt nam giai đoạn 2001-2010"

M ã SỐKNH 99-06 - Ngân hàng nhà nước Việt nam 1212001

Do Tiến s ĩ Lê Xiiân Nghĩa, Tiến sĩ Nguyễn Đại Lai, Tiến s ĩ Phạm Thuý Ngọc

và MA Nguyễn Sơn Tường làm chủ nhiệm đề tài

Ngoài ra, còn có nhiều công trinh nghiên cứu khác được công bố trên

các tạp chí khoa học. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở khía

cạnh phân tích các nghiệp vụ kinh doanh của NHTM hay về một khía cạnh

trong hoạt động của NHTM. Việc tập trung nghiên cứu một cách hoàn chỉnh cả lý luận và thực tiễn về hệ thống NHTMQD ở VN còn chưa được chú ý

đúng mức.

3. Mục đích nghiên cứu :

- Trên cơ sở phàn tích thực trạng hoạt động của hệ thống NHTMQD

trong thời gian gần đây, qua đó làm rõ những thành tựu đã đạt được, những

hạn chế và những vấn đề đang đặt ra đối với hệ thống này. Luận văn cố gắng

đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động

của hệ thống NHTMQDVN.

Đôi tượng nghiên cứu : Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động của hệ thống NHTMQD với tư cách là bộ phận chủ chốt của hệ thống ngân hàng

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :

Việt nam hiện nay.

2

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động của hệ thống

NHTMQD thời kỳ đổi mới kinh tế, đặc biệt là từ sau khi có pháp lệnh

Ngân hàng.

Luận văn không đi sâu nghiên cứu các hoạt động tác nghiệp của

NHTMQD, cũng như không đi sâu phân tích từng NHTMQD mà chỉ quan

tâm đến từng NHTMQD trong chừng mực góp phần làm rõ thực trạng hoạt

động của toàn bộ hệ thống NHTMQD.

5. Phương pháp nghiên cứu :

Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử. Gắn với đối tượng nghiên cứu của đề tài, luận văn

chú trọng một số phương pháp cụ thể như phương pháp kết hợp phân tích và

tống hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê so sánh, dự báo .

6. Những đóng góp khoa học của luận án:

- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về NHTM trong nền kinh tế thị trường

- Đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống NHTMQD hiện nay, chỉ

ra những hạn chế của hệ thống này trong quá trình phát triển.

- Đề xuất các quan điểm và các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt

động của hệ thống NHTMQD trong giai đoạn mới.

7. Bô cục của luận văn :

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương

Chương 1: Một s ố vấn dề chung về hoạt động của hệ thống NỈITM

C hưong 2 : Thực trạng hoạt động của các NHTMQD ở Việt Nam.

trong nền kinh tể thị trường.

Chương 3 : Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của

hệ thống N K ĨM Q D trong giai đoạn mới.

3

CHƯƠNG 1

M Ộ T SỐ V Â N Đ Ể C H U N G VỂ H O Ạ T Đ Ộ N G C Ủ A H Ệ TH Ố N G

N H T M T R O N G N E N k i n h t ê t h ị t r ư ờ n g

1.1.1. N H TM : Khái niệm và các loại hình

1.1 NHTM VÀ VAI TRÒ CỦA NHTM TRONG NEN k in h t ê th ị tr ư ờ n g

1.1.1.1 Khái niệm vê Ngân hàng thương mại

Thuật ngữ “ ngân hàng “ đã có từ rất lâu. Tiền thân của ngân hàng chính

là quá trình biến đổi trong hoạt động của những người chuyên làm nghề dịch

vụ kho quỹ, những người thợ vàng, thợ bạc và ngân hàng ra đời do sự thúc đẩy

khách quan của quá trình phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá và hoạt động

thương mại. Sự “lệch pha “ về mặt thời gian giữa thời hạn gửi tài sản so với

thời hạn mà người cầm giấy biên nhận cùng với một “khoản “ thù lao cho

người bảo quản đến “chuộc” tài sản đã tự nhiên trở thành quá trình phân cực

giữa “nguồn” (là tài sản của người gửi đồ nằm trong kho) với dấu hiệu giá trị

của nguồn tài sản đó (biểu hiện bằng giá trị danh nghĩa ghi trên các giấy biên

nhận gửi tài sản ) lưu hành trong xã hội.

Việc trả nợ bằng những giấy biên nhận làm cho quá trình thanh toán

đơn giản hơn rất nhiều và tiết kiệm cho những người trả nợ, nhận nợ. Vì

những người nợ không phải đến chỗ các thợ vàng, bạc trình biên lai rút ra số

tiền, vàng cần thiết để trả cho chủ nợ. Những người chủ nợ này ngay sau đó lại

lập tức gửi vào chỗ người thợ vàng của mình. Để giúp cho việc thanh toán

được thuận lợi, những người thợ vàng phát hành biên lai ở dạng tiện lợi, làm

cho người chủ sở hữu nó có thể dùng để chi trả và chuyển quyền sở hữu của

biên lai sang chủ mới. Chính sự tiện lợi đó đã tôn những giấy biên nhận lên vị

trí hàng đầu trong số các công cụ thanh toán đương thời (tiền đúc, vàng nén,

bạc thỏi...) Đó là tiền thân của tờ ngân phiếu và nghiệp vụ phát hành giấy bạc,

nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng ngày nay.

4

Những người thợ vàng sớm phát hiện ra rằng, những gì ký gửi cho họ

tương đợi ổn định, ở một thời điểm bất kỳ số lượng vàng, tiền được rút ra chỉ

chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số tiền vàng họ giữ, hơn nữa trong khi một số khách

hàng rút tiền vàng ra khỏi kho của người thợ vàng, thì một số khác lại gửi vào-

đồng thời lại có rất nhiều người đang thiếu vốn để buôn bán sản xuất. Những

người thợ vàng có đầu óc kinh doanh đã nghĩ ra việc cho vay để lấy lãi từ

những khoản ký gửi ổn định bằng cách phát hành ra nhiều giấy biên nhận hơn

là số vàng dự trữ trong kho. Đó chính là tiền thân của nghiệp vụ tín dụng ngân

hàng ngày nay. Từ thời điểm này những người thợ vàng đã trở thành nhà ngân

hàng, bởi vì theo nghĩa bóng họ đã tạo ra tiền. Khái niệm hoạt động ngân hàng

theo tỷ lệ dự trữ đã được khai sinh.

Các ngân hàng như vậy tiếp tục hoạt động, những dịch vụ khác cũng

được phát triển theo : mua bán vàng bạc, ngoại tệ, tài khoản ký gửi...Các chủ

ngân hàng, dưới sự thôi thúc của động cơ lợi nhuận đã mở rộng tín dụng,

không chỉ với số tiền hiện có trong kho mà còn nâng lên đi vay để cho vay.

Sản xuất hàng hoá phát triển nhanh chóng, giao lưu hàng hóa ngày càng

mở rộng, làm phát sinh nhu cầu mua bán chịu hàng hóa và được ghi nhận

bằng thương phiếu. Chính thương phiếu là một công cụ nợ vừa mang tính chất

phương tiện thanh toán, vừa là công cụ tín dụng thương mại, đã tạo điều kiện

cho một loạt nghiệp vụ ngân hàng ra đời và phát triển: tài khoản ký gửi, chiết

khấu thương phiếu, tín dụng ngân hàng, thanh toán.

Kinh tế ngày càng phát triển, số lượng và quy mô của các ngân hàng

như vậy không ngừng tăng lên. Để có thể tổn tại trong bối cảnh đó, các ngân

hàng buộc phải tìm những biện pháp nâng cao chất lượng và uy tín của mình

trên thị trường như: giảm, miễn phí gửi tiền, trả lãi cho người có tiền gửi, giảm

lãi suất cho vay... Tức là thực thi một loạt biện pháp nhằm nâng cao năng lực

kinh doanh tiền tệ. Chính nhờ phản ứng tự hoàn thiện này, mà nhiều ngân

hàng sơ khai đã phát triển thành những ngân hàng thực thụ: ”Là nơi tập trung

tư bản tiền tệ của những người có tiền cho vay và người đi vay” [6, Tr 490]

Việc hệ thống lại quá trình ra đời và hình thành những hoạt động đầu tiên của

ngân hàng, cho phép ta khẳng định : Khởi tổ là dịch vụ đổi tiền cùng với sự

5

phát triển, đòi hỏi của nền kinh tế và giao lưu hàng hóa, ngân hàng đã dẩn

hình thành và hoàn thiện các nghiệp vụ của mình. Tuy nhiên do hoạt động

ngân hàng thương mại rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ ngân

hàng thường phức tạp và các vấn đề này lại luôn biến động theo sự thay đổi

chung của nền kinh tế. Mặt khác do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi

vùng lãnh thổ khác nhau đã dẫn đến quan niệm về ngân hàng thương mại

không thật đồng nhất.

Tuy nhiên xuất phát từ sự ra đời của ngân hàng, từ những chức năng cơ

bản của ngân hàng sơ khai người ta đã định nghĩa : Ngân hàng thương mại là

một tổ chức kinh tê hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ -tín dụng.

Nó cung cấp một sô dịch vụ cho khách hàng và ngược lại nó nhận tiền

của khách hàng dưới hình thức khác nhau. [10,tr 254-255]

Kinh tế càng phát triển, hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại

cũng phát triển theo và các chức nãng của nó cũng được mở rộng, khi đó các

nhà kinh tế định nghĩa : NHTM là những trung gian tài chính có giấy phép

kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở các tài khoản tiền gửi

kê cả các khoản tiền gửi mà dựa vào đó có thể sử dụng các tờ séc.

Ngày nay, trên toàn thế giới, ngân hàng là loại hình tổ chức trung gian

tài chính cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô

lớn nhất. Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan

trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương

phát hành để tài trợ các công trình công cộng. Ngân hàng cũng là một trong

những tổ chức tài chính cung cấp vốn lun động quan trọng nhất cho các doanh

nghiệp, và trong những năm gần đây, ngân hàng đã tăng cường mở rộng cho

vay dài hạn đối với doanh nghiệp để hỗ trợ xây dựng nhà máy mới hay mua

sắm máy móc thiết bị mới. Ví dụ các ngân hàng Mỹ nắm giữ khoảng 1/3 tổng

tài sản của tất cả các tổ chức tài chính đóng trụ sở tại Mỹ.

ở các nước khác, như Nhật Bản, các ngân hàng nắm giữ phần lớn tài

sản của phần lớn các tổ chức tài chính.

Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua các chức năng (các

dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ

6

chức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ

cạnh tranh chính của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất

nhiều tổ chức tài chính- bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán,

công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu

đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng

đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng

cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực hoạt động bất

động sản và môi trường chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư

vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ khác.

Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên

phương diện những loại hình dịch vụ mà nó cung cấp. Ở Mỹ người ta định

nghĩa về ngân hàng như sau : Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung

cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín

dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài

chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tẽ

[26,tr 7]

Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng đã dẫn đến

việc chúng được gọi là các “Bách hóa tài chính” (financial department stores).

Dưới đây là các chức năng cơ bản của một ngàn hàng hiện đại

/.7.7.2 Các loại hình NHTM trên th ế giới [9]; [11; [12]

Ngày nay trên thế giói có nhiều loại hình NHTM khác nhau, có nhiều

tiêu chí để phân loại các NHTM như :

- Căn cứ vào chức năng chủ yếu, các ngân hàng được phân chia thành

ngân hàng đa năng hay ngân hàng chuyên doanh.

- Căn cứ vào hình thức sở hữu, các ngân hàng được phân chia thành

ngân hàng Nhà nước, ngân hàng cổ phần, ngân hàng tư nhân, ngân hàng liên

doanh, ngân hàng nước ngoài..

- Căn cứ vào quy mô và đối tượng khách hàng, các ngân hàng được

phân chia thành ngân hàng bán buôn hay ngân hàng bán lẻ..

Các loại hình ngân hàng kể trên chiếm ưu thế và đóng vai trò quan

trọng trong việc tạo ra cung tiền tệ ( khối lượng tiền tệ tăng giảm, chủ yếu là

do các ngân hàng này chi p h ố i).

Trong quá trình tiến hành kinh doanh, các ngân hàng sử dụng vốn chủ

yếu từ các nguồn tiền gửi và vay vốn qua phát hành trái phiếu. Trên cơ sở đó

các ngân hàng đã tiến hành hoạt động đầu tư nhằm đáp ứng những yêu cầu đòi

hỏi từ nền kinh tế. Chẳng hạn như : cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và

các loại hoạt động đầu tư khác.

Trong nền kinh tế thị trường các mô hình ngân hàng thương mại được tổ

chức dưới một số hình thức sau:

* Ngân hàng kinh doanh đa năng

Là loại hình ngân hàng thực hiện tất cả các nghiệp vụ kinh doanh ngân

hàng: cho vay, thực hiện các nghịệp vụ giấy tờ có giá, nhận tất cả các loại tiền

gửi, làm tất cả các dịch vụ liên quan đến hoạt động ngân hàng..

Loại ngân hàng này có nhiều dạng: ngân hàng tư nhân (sở hữu của một

gia đình, sở hữu cá nhân , sở hữu của cổ đông), ngân hàng công (sở hữu nhà

nước). Có ngân hàng ở tầm quốc gia, quốc tế, song cũng có ngân hàng chỉ có

tính chất khu vực.

Đặc điểm cơ bản của các ngân hàng này là : phong phú về các nghiệp

vụ, tiếp cận được nhiều loại khách hàng, khả năng phân tán rủi ro cao.

8

* Ngân hàng chuyên doanh

Ngược lại với ngân hàng đa năng, ngân hàng chuyên doanh chỉ thực

hiện một hoặc một số ít nghiệp vụ ngân hàng (gần như chuyên môn hoá các

hoạt động). Ở một số nước, luật ngân hàng còn giới hạn hoặc cấm các ngân

hàng cho vay tiêu dùng.

Đặc điểm cơ bản của ngân hàng này là nghiệp vụ kinh doanh mang tính

hạn hẹp, phạm vi hoạt động bị giới hạn, tính chuyên môn hoá cao.

Qua nghiên cứu xu hướng phát triển các loại hình NHTM trên thế giới

cho thấy không có một nước nào chỉ tồn tại một loại hình ngân hàng đa năng

hay ngân hàng chuyên doanh.

Bởi vì có khi ở một nước loại hình ngân hàng đa năng chiếm vị trí ưu

thế, thì vẫn có những ngân hàng chuyên doanh, và ngược lại ở một số nước

mặc dù các ngân hàng chuyên doanh chiếm ưu thế hoặc đa số thì gần đây

ngày càng có xu hướng chuyển sang kinh doanh đa năng.

Những biến đổi theo các xu hướng trên đã diễn ra trong những thập kỷ

qua. Xu hướng chuyên môn hóa các ngân hàng đã từng chiếm vị trí thống trị ở

Anh, Pháp, Mỹ, Nhật. Xu hướng kinh doanh đa năng từng chiếm vị trí thống

trị ử Thụy Sĩ, CHLB Đức, Áo. Nhưng dần dần các ngân hàng lớn, một mặt mở

rộng phạm vi các nghiệp vụ, mặt khác các ngân hàng chuyên doanh trước đây

nay cũng đa nãng hóa trở lại hoạt động của mình.

Xu hướng hiện đại trong các luật ngân hàng gần đây là không tạo ra sự

phân biệt các ngân hàng đa năng và các ngân hàng chuyên doanh như trước

mà hình thành một loại ngân hàng hoạt động đa năng.

* Ngân hàng bán buôn

Ngân hàng bán buôn là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của

nó là thực hiện với các khách hàng lớn.

Đặc điểm của ngân hàng bán buôn là : số lượng giao dịch của ngân

hàng nhỏ, nhưng giá trị của các khoản giao dịch lớn. Hoạt động của ngân

hàng bán buôn thường tập trung ở các trung tâm thương mại do đối tượng

khách hàng mà ngân hàng phục vụ thường là khách lớn và nằm tại trung tâm

9

thương mại.Vốn hoạt động của ngân hàng bán buôn lớn do đối tượng phục vụ

có nhu cầu đòi hỏi vốn cao. Phạm vi hoạt động của ngân hàng bán buôn hẹp

về số lượng khách hàng, số lượng giao dịch, lĩnh vực đầu tư vốn

* Ngân hàng bán lẻ

Là một loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó thực hiện với

các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân.

Đặc điểm của ngân hàng này là : số lượng giao dịch của ngân hàng lớn,

giá trị của từng khoản nhỏ. Phạm vi hoạt động của ngân hàng bán lẻ rất rộng,

địa bàn hoạt động của tổ chức, mạng lưới rất lớn.Vốn thực hiện đầu tư của

ngân hàng bán lẻ mang tính phân tán do khách hàng phục vụ thuộc nhiều loại

hình khác nhau. Hoạt động của ngân hàng bán lẻ về mặt vốn thường nhỏ và

tính ổn định của vốn thấp.

Qua nghiên cứu hai loại hình ngân hàng trên cho thấy xu hướng phát

triển của ngân hàng bán buôn chỉ mở rộng tại những địa bàn mà ở đó diễn ra

cung và cầu vốn lớn như ở các trung tâm thương mại lớn, ở những nước kinh

tế phát triển và những nơi có hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh.

Các ngân hàng bán lẻ có xu thế ngày càng mở rộng, đặc biệt ở các nước

có nền kinh tế chậm phát triển và trong thực tế luôn luôn tồn tại cùng với ngân

1.1.2 Vai trò của N H TM đối với sự phát triển của nền kinh tế

hàng bán buôn.

Hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính bao gồm nhiều loại hình

tổ chức kinh doanh tiền tệ. Chúng là những tổ chức trung gian và môi giới tài

chính, hoạt động như những chiếc cầu chuyển tải những khoản tiền tiết kiệm -

tích luỹ được trong xã hội đến tay những người có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư.

Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tính chất cũng như về đối tượng và

phương pháp kinh doanh. Sự khác nhau đó bắt nguồn từ những nguyên nhân

về lịch sử và chế độ kinh tế và ngày nay chúng đều là những sản phẩm của thể

chế tài chính của mỗi nước.

Lịch sử của ngân hàng thương mại là lịch sử kinh doanh tiền gửi. Các

ngân hàng thương mại từ chỗ làm dịch vụ nhận tiền gửi với tư cách là người

thủ quỹ, bảo quản tiền cho người chủ sở hữu để nhận những khoản thù lao, đã

trở thành những chủ thể kinh doanh tiền gửi. Điều đó có nghĩa là huy động

tiền gửi không những miễn khoản thù lao mà còn trả lãi cho khách hàng gửi

tiền để làm vốn cho vay nhằm tối ưu khoản lợi nhuận thu được.

Trong khi thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người cho vay

sang người đi vay, các ngân hàng thương mại đã tự tạo ra những công cụ tài

chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán. Trong đó, quan trọng nhất

là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc, một trong những công

cụ chủ yếu để vận động qua ngân hàng. Thông qua quá trình đó đưa lại kết

quả là đại bộ phận tiền giao dịch trong giao lun kinh tế là tiền qua ngân hàng.

Do đó, hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ

thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đổng thời có mối

liên hệ quốc tế rộng rãi.

Trong thế giới hiện đại, tính cho đến thời điểm này thì ngân hàng

thương mại và cơ cấu hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng nhất trong thể

chế tài chính của mỗi nước. Hoạt động của ngân hàng thương mại đa dạng,

phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác

thường hoạt động trên một vài lĩnh vực và theo hướng chuyên sâu.Vai trò của

ngân hàng thương mại thể hiện ở những điểm sau:

ỉ .1.2.1 Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế

Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh

nghiệp và nhà nước trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng

thu nhập quốc dân và có mức độ tiêu dùng hợp lý. Để tăng thu nhập quốc dân

tức là cần phải mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu

thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của ngành trong nền kinh tế và muốn

làm được điều đó cần thiết phải có vốn. Mặt khác, khi nền kinh tế càng phát

triển sẽ càng tạo ra nhiều nguồn vốn, điều đó sẽ có tác động tích cực đến hoạt

động ngân hàng. NHTM là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất

kinh doanh. NHTM đứn^ ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời

nhàn rỗi từ mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế như : vốn tạm thời

được giải phóng ra từ quá trình sản xuất, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá

nhân trong xã hội. Bằng vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt

động tín dụng, NHTM sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng

các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có hoạt

đông của hệ thống NHTM và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp

có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất

lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.

1.1.2.2 Ngân hàng là cầu nối giữa khách hàng với thị trường

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp

chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật

giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp

ứng nhu cầu thị trường thoả mãn nhu cầu thị trường trên mọi phương diện

được thể hiện như: không những thoả mãn nhu cầu về phương diện giá cả,

khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá mà còn đòi hỏi thoả mãn cả trên

phương diện thời gian địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị

trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố

và hoàn thiện cơ chế quản lý, chế độ hạch toán kế toán...mà còn phải không

ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử dụng

nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp...Những

hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư, nhiều khi vượt quá khả

năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó, để giải quyết khó khăn này, doanh

nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thoả mãn nhu cầu đầu tư

của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa

doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung ứng cho

doang nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi

mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị tnrờng và từ đó

tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.

1.1.2.3 Ngàn hàng thương mại là "cầu nối" giúp N H TW thực thi chính

sách tiền tệ và điều tiết v ĩ mô nền kinh tê

Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về ngân hàng Trung ương. Để

thực thi chính sách tiền tệ đó phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt

buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng...Chính các ngân hàng

12

thương mại là chủ thể chịu tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng

thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách

tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng và nền kinh tế. Ngược lại cũng qua ngân

hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản

lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất tỷ

giá., của nền kinh tế được phản hồi về cho ngân hàng Trung ương để chính

phủ và ngân hàng Trung ương có những chính sách điều tiết thích hợp với

từng tình hình cụ thể.

Hoạt động kinh doanh của NHTM gắn liền với các hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Trong quá

trình hoạt động đó, NHTM thực hiện vai trò cầu nối giúp NHTW điều tiết vĩ

mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng của mình, biểu hiện các mối

quan hệ giữa NHTM với các tổ chức kinh tế, cá nhân về mặt tín dụng, tiền

mặt, thanh toán không dùng tiền mặt,...đảm bảo hoạt động của ngân hàng và

nền kinh tế được bình thường.

Bằng chính sách và những biện pháp tín dụng, NHTM đáp ứng nhu cầu

vốn bổ sung kịp thời cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc các

lĩnh vực sản xuất, lưu thông và dịch vụ. NHTM có thể gia tăng hoặc thu hẹp

khối lượng tín dụng với từng doanh nghiệp, hoặc có thể thực hiện quan hệ tín

dụng đối với doanh nghiệp trong từng trường hợp cần thiết. Tất cả những vấn

đề đó đều liên quan và ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mỗi doanh

nghiệp trong nền kinh tế. Như vậy, việc sử dụng vốn vay ngân hàng vừa giúp

doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu vốn bị thiếu hụt trong kinh doanh, vừa ý thức

cho doanh nghiệp về trách nhiệm của mình trong quá trình sử dụng vốn. Từ đó

giúp cho doanh nghiệp có những lựa chọn quyết định của mình trong việc sử

dụng nguồn vốn vay ngân hàng mở rộng hay thu hẹp quy mô kinh doanh hiện

có. Doanh nghiệp sử dụng vốn vay, khi đến hạn phải hoàn trả vốn kèm theo lãi

vay cho ngân hàng, điều đó buộc các doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng

khi sử dụng vốn sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.

Vai trò cầu nối giúp NHTW điều tiết kinh tế vĩ mô của các NHTM được

thể hiện qua việc tiếp nhận, thu hút khối lượng tiền mặt từ trong nền kinh tế

13

vào NHTM, đổng thời NHTM cũng cung ứng tiền mặt theo nhu cầu khi các

doanh nghiệp cần tiền cho hoạt động của doanh nghiệp. Quá trình thu nhận và

cung ứng khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đã tạo ra mối quan hệ giữa lưu

thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ trong từng khu vực. Bằng chính sách thu

hút và nghệ thuật kinh doanh, ngân hàng sẽ tiếp nhận một khối lượng tiền mặt

không nhỏ, rồi từ đó lưu thông về ngân hàng. Khối lượng tiền mặt này sẽ đáp

ứng nhu cầu tiền mặt cho các doanh nghiệp và công chúng, đảm bảo cho nền

kinh tế thường xuyên có một khối lượng tiền hợp lý, phục vụ cho hoạt động

kinh doanh và các hoạt động khác trong phạm vi từng doanh nghiệp, từng khu

vực, cũng như trong phạm vi toàn nền kinh t ế .

Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ,

NHTM còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác trong nền kinh tế. Đây là

những dịch vụ trung gian tạo cho NHTM những nguồn lợi đáng kể, góp phần

tăng thêm khoản thu nhập cho NHTM, đổng thời tạo ra những điều kiện thuận

lợi cho sự phát triển toàn diện và thoả mãn các yêu cầu trong hoạt động sản

xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế.

Như vậy, với vai trò là “cầu nối” giúp NHTW thực thi chính sách tiền

tệ, điều tiết kinh tế vi mô, NHTM đã xâm nhập vào các hoạt động sản xuất

kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân, các lĩnh vực khác của nền kinh tế

thông qua các nghiệp vụ tín dụng, tiền mật, thanh toán không dùng tiền mặt,

các quan hệ về tham gia hùn vốn, tư vấn v.v.Với các mối quan hệ thường

xuyên đó, NHTM giúp các hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành bình

thường và ngày càng phát triển.

Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng Trung ương

sử dụng các công cụ chính sách tiên tệ trong phạm vi toàn xã hội, mà trước hết

là hệ thống NHTM. Các công cụ này là những thao tác hoạt động hàng ngày

của ngân hàng Trung ương. Vì thế, có thể nói rằng, mọi hoạt động của ngân

hàng Trung ương đều tác động đến nền kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ của

chính sách tiền tệ đã vạch ra .

14

Sự điều tiết tiền tệ có thể tác động gián tiếp, nhưng hiệu quả đến những

hoạt động của cả nền kinh tế quốc gia. Một nội dung quan trọng của điều tiết

tiền tệ là điều hoà khối lượng tiền tệ.

Điều hoà khối lượng tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo

tiền và sử dụng tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Một khả năng kỳ bí của

hệ thống ngân hàng hai cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung tiền để ổn định

tiền tệ. Do việc phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp, nên có việc phân

chia hai loại tiền: tiền ngân hàng trung ương hay gọi tắt là tiền trung ương

(giấy bạc hay tiền mặt) và tiền ngân hàng (tiền ghi sổ, bút tệ). Tiền trung ương

là tiền do NHTW độc quyền phát hành. Tiền ngân hàng là tiền do các ngân

hàng thương mại tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặc biệt

là tiền trên các tài khoản thanh toán séc. Nó được tạo ra như là sự mở rộng gấp

nhiều lần quỹ dự trữ ngân hàng (thông qua hệ số tạo tiền)

Thực ra, cho đến những năm cuối thế kỷ 20 này, định nghĩa và phân

biệt giữa các loại tiền với nhau vẫn có nhiều ý kiến không đồng nhất. Từ năm

1980 đến nay, NHTW của nhiều nước đã thay đổi các định nghĩa của mình về

tiền mặt một vài lần và đã dùng những phép đo lượng tiền cung ứng được gọi

là tổng lượng tiền (monetary aggregates) với các ký hiệu : Mo, Mị ,M2..

Sở dĩ có sự phân chia ra giữa Mo, là nhằm tách những loại tiền

khác nhau về mặt thanh toán ra từng nhóm. Các nhóm tiền càng đi về sau này,

càng có tính thanh khoản kém hơn và càng mang tính chất của một khoản đầu tư.

M| gọi là tiền mạnh (high_power money) hay tiền theo nghĩa hẹp,

nhưng là một loại tài sản không sinh lợi, cho nên nó không có ý nghĩa như

một hành động đầu tư.

Ngược lại, M2, M 3, M u vừa là tiền, vừa là tài sản sinh lời, do vậy kinh tế

càng phát triển, xu hướng chuyển tiền từ loại không sinh lãi ( M ị ) sang loại

cũng là tiền nhưng đem lại lãi suất (M2, M 3, Mu) là càng lớn như một hoạt

động đầu tư.

Việc phân loại tiền thành M), Mi, M v . nhằm giúp NHTW và Chính phủ

theo dõi mức độ đầu tư trong nước vào các loại tài sản sinh lợi và giúp nền

kinh tế huy động một cách tốt nhất các nguồn lực, các nguồn tài sản khác

15

nhau trong nhân dân vào guồng máy sản xuất kinh doanh. Nó cũng đồng thời

đáp ứng nhu cầu cần sự gọn nhẹ bảo đảm có lãi cho tài sản và dễ dàng trong

thanh toán ở mọi lúc mọi nơi.

Chí cần nhìn vào các tỷ lệ giữa các loại tổng lượng tiền tệ sẽ biết ngay

được về sự ổn định hay chất lượng của tiền tệ. ở các nước có nền kinh tế thị

trường phát triển thì M„ (tiền Trung ương không nằm trong tay các ngân hàng)

chiếm khoảng 7% của tổng lượng tiền M 3, trong khi đó tại Việt nam khoảng

70%. Cơ cấu khối lượng tiền như vậy cho thấy hệ thống ngân hàng ở nước ta

còn kém phát triển. Chừng nào đồng nội tệ với chức năng là phương tiện tích

luỹ giá trị còn yếu kém, thì tỷ lệ tiền mặt vẫn còn cao, tiền trung ương không

quay trở về các NHTM dưới hình thức các khoản tiền gửi và như vậy hệ số

tạo tiền sẽ nhỏ đi.

Tiền của hệ thống ngân hàng thương mại chiếm bộ phận lớn nhất trong

tổng khối lượng tiền tệ ngày nay ở các nước có nền kinh tế phát triển. Một nền

kinh tế càng đi dần vào hiện đại, càng phát triển bao nhiêu, nền kinh tế ấy

càng sử dụng nhiều hơn tiền do các ngân hàng trung gian tạo ra.

Như vậy, bằng việc tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lý vĩ mô

của ngân hàng trung ương (tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc) trong khi thực hiện

hoạt động kinh doanh của mình, NHTM đã thể hiện vai trò “cầu nối”của mình

trong việc góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương

thông qua chính sách tiền tệ. [31];[32]

1.1.2.4 NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế

Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ

ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế-xã hội giữa các nước

trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách.Việc phát triển kinh tế

của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một

bộ phận cấu thành của sự phát triển đó.Vì vậy, nền tài chính của mỗi nước

cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và ngân hàng thương mại cùng

các hoạt động kinh doanh của mình đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng

trong sự hoà nhập này.Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi, cho

16

vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác, ngân

hàng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng được

mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ

tín dụng với các ngân hàng thương mại nước ngoài, hệ thống ngân hàng

thương mại đã Ihực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với

sự vận động của nền tài chính quốc tế.

Ngàn hàng thương mại ra đời, phát triển trên cơ sở nền sản xuất và lưu

thông hàng hoá phát triển và nền kinh tế càng ngày càng cần đến hoạt động

của NHTM với các chức năng và vai trò của mình. Thông qua việc thực hiện

các chức năng, vai trò của mình, nhất là chức năng trung gian tín dụng,

NHTM đã trở thành một bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế

phát triển.

1.2. CÁC CHỨC NĂNG c ơ BẢN CỦA NHTM

Tầm quan trọng của các NHTM được thể hiện qua các chức năng của

nó. Các chức năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh

khác nhau, nhưng nhìn chung được nhiều nhà kinh tế chấp nhận ở các chức

1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng

năng sau:

Đây là chức nãng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa

đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài

chính là hoạt động cầu nối giữa cung và cầu trong xã hội, khơi nguồn vốn từ

những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lời với những

người có ý muốn dùng I1Ó để sinh lợi.

Thực hiện chức năng này, một mặt, NHTM huy động và tập trung các

nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình

thành nguồn vốn cho vay. Mặt khác, trên cở số vốn đã huy động được, ngân

hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng...của

các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy

kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, NHTM vừa là người đi

vay, vừa là người cho vay, hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng của NHTM

là đi vay để cho vay. NHTM với vai trò là một trung gian tín dụng đứng ra tập

trung phân phối lại vốn tiền tệ, điều hoà cung cầu về vốn trong nền kinh tế,

góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.

Để mở rộng sản xuất, đối với từng doanh nghiệp, yêu cầu về vốn là một

trong những quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh nghiệp không thể chỉ

trông chờ vào vốn tự có, mà còn phải biết dựa vào vốn của nhiều nguồn khác

nhau trong xã hội. NHTM với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn

rỗi, sẽ là trung tàm đáp ứng nhu cầu về vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như

vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian

tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy

nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế

Ngân hàng thương mại tập hợp tài lực của khách hàng này và đem

chuyển cho người khác theo phương thức kinh doanh “vay để cho vay”. Đó

chính là vai trò trung gian của ngân hàng.

Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn.

Sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của

chức năng này. Ngân hàng có thể đứng ra làm chức năng công ty (khi phát

hành cổ phiếu) với những nhà đầu tư, chuyển giao các mệnh lệnh trên thị

tnrờng chứng khoán, đảm nhận việc mua bán trái phiếu công ty., theo cách

này, ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên

thị trường.

Hơn nữa, tín dụng ngân hàng còn là một trong những nguồn hình thành

vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng ngân hàng đã

góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh

doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, động viên vật

tư hàng hoá đưa vào sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ

kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.

18

1.2.2.

Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương

tiện thanh toán.

Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng ngân hàng là thủ

quỹ của các doanh nghiệp, tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản

hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản .

Trong ngân hàng thương mại, chức năng trung gian thanh toán gắn bó

chặt chẽ, hữu cơ với chức năng trung gian tín dụng : ngân hàng dùng số tiền

gửi của người này để cho người khác vay. Xuất phát từ chức năng người thủ

quỹ của các doanh nghiệp, ngân hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ

thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Khi các khách hàng gửi tiền vào

ngân hàng họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu

chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với những khoản thanh toán có

giá trị lớn, ở mọi địa phương, mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém, khó

khăn và không an toàn. Nếu như mọi khoản thanh toán được thực hiện không

thông qua ngân hàng, thì sẽ có những bất tiện và tốn kém lớn như: những chi

phí cho lưu thông tiền mặt (chi phí cho việc đúc tiền, in tiền, bảo quản tiền,

vận chuyên tiền..) và những chi phí có liên quan đến người trả và người nhận

(như đếm tiền, bảo quản, vận chuyển..).

Khi ngân hàng thương mại ra đời và phát triển, thì hầu hết các khoản

thanh toán, chi trả về hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế (các doanh

nghiệp và cá nhân) được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện, việc thanh

toán trở nên tiện lợi, tiết kiệm được nhiều chi phí, mọi quan hệ thanh toán

được thực hiện bằng cách các chủ thể mở tài khoản tại ngân hàng thực hiện

các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các

khoản tiền vào tài khoản của mình.

Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển

đến tầm mức rất đa dạng. Ngân hàng không chỉ là trung gian thanh toán

truyền Ihống như trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là

vai trò ngày càng chiếm vị trí quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ

cùa khoa học và kỹ thuật. Ớ các nước phát triển, phần lớn quá trình thanh toán

19

được thực hiện thông qua séc và hầu như séc thanh toán ở trong nước được

thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống NHTM.

Quá trình lưu chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người

bán có một đặc điểm phi vật chất, vì không giống như đổng tiền giấy được

chuyển trao tay thực sự từ người này sang tay người khác, mà nó chính là

đổng tiền ghi sổ. Tiền tệ nói chung đã trở thành một công cụ hết sức mềm dẻo,

nó không cần tồn tại dưới dạng vật chất. Séc và chuyển khoản chỉ là cách thực

hiện, nó cho phép lưu thông đồng tiền ghi sổ. Cơ sở của việc phát hành séc

hay thanh toán qua chuyển khoản đó chính là tài khoản tại ngân hàng.

Hiện nay, ở các nước công nghiệp người ta phát triển hình thức chuyển

tiền bằng điện tử và chính điều này đưa đến việc không sử dụng séc ngân

hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Người ta thanh toán bằng cách nối mạng

các máy vi tính của các NHTM trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài

1.2.3.

Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng

hai cấp

khoản người mua sang tài khoản người bán một cách nhanh chóng.

Từ khi các ngân hàng ra đời, hoạt động kinh doanh tiền tệ có được bước

phát triển mới. Trong quá trình kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng đã phát hiện

các khách hàng đã sử dụng giấy chứng nhận tiền gửi mà ngân hàng đã cấp cho

họ để chi trả các khoản nợ. Phát hiện này thúc đẩy các ngân hàng đưa vào lưu

thông các loại tiền giấy ngàn hàng (bank notes) được chuyển đổi ra vàng qua

nghiệp vụ tín dụng thay thế cho tiền vàng. Đây chính là một phát minh có giá

trị trong lịch sử hoạt động của tiền tệ.

Vào cuối thế kỷ 19, hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các

ngân hàng không còn hoạt động riêng rẽ, mà tạo nên một hệ thống, trong đó

NHTW là cơ quan quản lý tiền tệ, tín dụng, là ngân hàng của các ngân hàng.

Các ngân hàng còn lại chuyên kinh doanh tiền tệ. Nhờ hoạt động trong hệ

thống các NHTM đã tạo ra “bút tệ” thay thế cho tiền mặt. Đây là sáng kiến

quan trọng thứ hai trong lịch sử hoạt động ngân hàng. Chính nhờ phương thức

tạo tiền này mà ngân hàng chẳng những đảm bảo cho sự phát triển của mình,

mà còn trở thành trung tâm tiền tệ của đời sống kinh tế hiện đại.

20

Quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín

dụng và thanh toán trong hệ thông ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với

ngân hàng trung ương của mỗi nước. Tiền “bút tệ” do các NHTM tạo ra bằng

cách nào?

Đó là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên

nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các

nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều ngân hàng. Một ngân hàng này cho

vay xong thì hết vốn, thì sô' vốn đó lại chuyển sang ngân hàng khác trở thành

vốn tiền gửi và làm tăng thêm vốn tiền gưỉ của các ngân hàng khác

T ừ một khoán tiền gửi ban đầu (khoản tiền này do N H TƯ mới đưa thêm

vào lưu thông), thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong hệ thống NỈITM,

s ố tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với s ố lượng tiền ban đầu

Khả năng tạo tiền phụ thuộc vào lượng tiền NHTW mới bơm thêm và

hệ số mở rộng tiền gửi của NHTM. Hệ số mở rộng tiền gửi này lại chịu tác

động bởi các yếu tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa và tỷ lệ tiền

mặt so với tiền gửi thanh toán.

Theo Paul A.Samuelson: “Sự thật là toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể

làm được cái mà từng ngân hàng nhỏ một không thể làm được : nó có thể mở

rộng việc cho vay nợ và từ đó mở rộng nguồn tiền ngân hàng lên gấp nhiều

lần so với số mà các dự trữ mới tạo ra cho nó, cho dù mỗi ngân hàng nhỏ bao

giờ cũng chỉ cho vay một phần số tiền ký gửi”

Với quá trình này hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương

tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả xã hội.

Rõ ràng khái niệm về “tiền”, “tiền giao dịch”, không chỉ là giấy bạc do

NHTW của mỗi nước phát hành, mà bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ

do các NHTM tạo ra. ở Mỹ, tỷ lệ này tới 90%. ở Việt nam, tỷ lệ này ngày

càng tăng. Đến cuối năm 1998, tỷ trọng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh

1.2.4.

Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác

toán (M2) là 26.6% (năm 1997 là 30.8%).

Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ, ngân hàng

có những điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin, quan hệ rộng rãi với các

21

doanh nghiệp. Với những điều kiện đó, ngân hàng có thể làm tư vấn về tài

chính và đầu tư cho các doanh nghiệp, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái

khoán bảo đảm đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Khi một doanh nghiệp

muốn phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp, họ có thể nhờ ngân

hàng cung cấp các dịch vụ như: lựa chọn loại chứng khoán phát hành, tư

vấn các vấn đề về lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề

kỹ thuật khác.

Hơn nữa ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác n h ư :

- Dịch vụ bào quản an toàn vật có giá của khách hàng. Đây vốn là một

chức năng cơ bản của NHTM, đòi hỏi các NHTM phải được xây dựng kiên cố

và được trang bị hệ thống bảo quản hiện đại. Vì vậy chúng thường chỉ thực

hiện ở các ngân hàng lớn. Dịch vụ bảo quản an toàn vật có giá bao gồm : dịch

vụ cho thuê két sắt, bảo quản ký thác và trực tiếp bảo quản an toàn các giấy tờ

có giá. Một điều hấp dẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho

khách hàng ( ghi nhận về các tài sản đang được lưu g i ữ ) có thể được lưu hành

như tiền- đó là hình thức đẩu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay nghiệp vụ

bảo quản vật có giá cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của ngân

hàng thực hiện

- Dịch vụ cho thuê két ngân buổi tối (night s a f e ) : Ngân hàng lắp đặt hệ

thống két đặc biệt trước cửa ngân hàng, khách hàng thuê dịch vụ này được

phép cất giữ tiền tiền mặt hay séc để đảm bảo an toàn vào buổi tối khi ngân

hàng đã đóng cửa.

- Dịch vụ tín thác hoặc uỷ thác ngân hàng (Trust services) : có các hình

thức sau :

+ Dịch vụ tín thác đối với cá nhân bao gồm việc thực hiện các dịch vụ

đại diện phục vụ như người bảo vệ và bảo quản tài sản, vì ở hầu hết các nước,

người vị thành niên được xem là không có năng lực pháp lý về quản lý và nắm

giữ tài sản. Khi một người ở tuổi vị thành niên thừa kế tài sản, một người giám

hộ được chỉ định nắm giữ vì lợi ích của người vị thành niên. Thông thường

trách nhiệm này được giao cho bộ phận tín thác của ngân hàng thương mại.

Sự giám hộ cũng thường được yêu cầu đối với những người cũng được toà án

quyết định là thiếu năng lực pháp lý.

22

+ Dịch vụ uỷ thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc

quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp

thương mại. Theo đó, ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay

quy mô vốn họ quản lý. Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch

vụ uỷ thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và uỷ thác thương mại cho

các doanh nghiệp.

Thông qua phòng uỷ thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các

khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó

cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai

trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua

đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả

và đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Trong

phòng uỷ thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán

và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò

như những người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu,

trái phiếu. Điều này đòi hỏi phòng uỷ thác phải trả lãi hoặc cổ tức cho chứng

khoán của công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán

1.2.5. Chức năng tài trợ ngoại thương, mở rộng nghiệp vụ ngân hàng

quốc tẽ

toàn bộ cho những người nắm giữ chứng khoán

Một trong những chức năng quan trọng nhất do các ngân hàng thực hiện

trong việc tham gia vào nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là tài trợ xuất nhập khẩu

và hoạt động thương mại giữa các quốc gia. Giống như thương mại trong

nước, hoạt động ngoại thương đòi hỏi các phương pháp tài trợ khác nhau, bao

gồm ứng tiền trước, tài khoản mở, uỷ thác nhờ thu và thư tín dụng, tín dụng

chiết khấu hối phiếu, bảo lãnh, mua và bán séc du lịch.v.v Từ lâu các ngân

hàng chỉ liên quan đến một quá trình riêng biệt trong các giao dịch mậu dịch

quốc tế như cung cấp một khoản tiền cho vay hoặc mở L/C. Nhưng từ khi tài

trợ trở thành một phần không thể thiếu đối với nhiều giao dịch thương mại,

các ngân hàng đã phát triển các dịch vụ này, họ đã đi từ việc tài trợ các hợp

đồng thương mại riêng biệt đến cung cấp các giải pháp tổng hợp đối với các

nhu cầu thương mại. Điều này bao gồm sự kết hợp việc cho vay của ngân hàng

với các nguồn bảo trợ từ các cơ quan xuất khẩu của Chính phủ, công ty thuê

23

mua tài chính quốc tế và các nguồn tài trợ phi ngân hàng khác, cùng với bảo

hiểm rủi ro chính trị và kinh tế.

Ngày nay xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá với những đặc trưng tự

do hoá thương mại và tự do hoá tài chính ngày càng rộng khắp và mạnh mẽ đã

và đang chi phối khuynh hướng và cấu trúc vận động của hệ thống tài chính

ngân hàng từng quốc gia. Do đó, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đối ngoại

đối với NHTM ở các nước đang phát triển không chỉ là một tất yếu khách

quan mà còn là lẽ sống của chính ngân hàng ở các nước này.

Kinh doanh đối ngoại của NHTM là một kinh doanh vừa mang tính

truyền thống vừa mang tính hiện đại. Truyền thống được hiểu với ý nghĩa là

kinh doanh tiền tệ không có biên giới “cứng”, đồng vốn dịch chuyển không

biên giới, đã có từ thời xa xưa, gắn với giao lưu quốc tế, với lưu thông tiền

vàng, kim loại quý, với uy tín quốc gia, thương nhân, ngân hàng nổi tiếng.

Chính nhờ kinh doanh đối ngoại đặt nền móng mới hình thành các trung tâm

tài chính quốc tế như trung tâm tài chính London, Tokyo, frankfurt,

Hongkong, Singapore ..Hiện đại là hàm ý nói về hình thức, nội dung ngày

càng khác trước, đa dạng hơn, tinh vi hơn, đổ sộ hơn thể hiện trên tất cả các

hoạt động: kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, thanh toán quốc tế, tín dụng

hợp vốn, đồng tài trợ, hùn vốn, đại lý, uỷ thác., thông qua các nghiệp vụ rất đa

dạng.

Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh đối ngoại trong lĩnh vực ngân hàng rất

phức tạp đòi hỏi điều kiện hết sức ngặt nghèo, nguyên tắc chặt chẽ, phương

châm linh hoạt như :

- Năng lực tài chính : có vốn đủ sức hoạt động và cạnh tranh được với

các ngân hàng.

- Trình độ quản lý kinh doanh và có uy tín thể hiện trên các mặt trang bị

những phương tiện thiết bị hiện đại, tiên tiến đủ khả năng để tiếp cận và hoà

nhập với thông lệ quốc tế.

- Kỹ thuật công nghệ ngân hàng hiện đại đảm bảo cho các giao dịch

nhanh chóng và an toàn.

- Có đội ngũ cán bộ với trình độ nghiệp vụ tin học, ngoại ngữ và phong

cách giao dịch đáp ứng yêu cầu hoạt động của cơ chế thị trường.

24

Kỹ nghệ ngân hàng hiện đại là một trong những tiêu chuẩn để hệ thống

ngân hàng hội nhập được với cộng đổng tài chính quốc tế. Chìa khoá để mở ra

triển vọng cho hoạt động của NHTM ở các nước đang phát triển là phải mở

rộng hơn nữa hoạt động kinh doanh đối ngoại. Có như vậy mới phá thế trì trệ,

co cụm, hướng nội cứng nhắc. Chỉ có hội nhập với cộng đồng tài chính tiền tệ

quốc tế, NHTM ở các nước đang phát triển mới có cơ hội đủ điều kiện tiến tới

đa dạng hoá hoạt động, mở đường vươn xa, chen chân, đứng trụ trên thương

trường quốc tế, không ngừng tích luỹ, tích tụ vốn và nâng cao kỹ xảo đảm bảo

cho các giao dịch nhanh chóng và an toàn, bảo vệ chủ quyền kinh tế quốc gia

1.3. XU THÊ PHÁT TRIỂN MỚI CỦA HỆ THỐNG NHTM HIỆN ĐẠI TRÊN THẾ

GIỚI

trong thời đại mới. [ 10];[ 11];[12];[31];[32]

Thời đại ngày nay là thời đại tiền tệ hoá các hoạt động kinh tế và

thương mại hoá mọi nguồn vốn. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông

tin, viễn thông kéo theo sự phụ thuộc chặt chẽ giữa các nền kinh tế vốn độc

láp trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu. Dần dần sự cạnh tranh

trong quá trình phát triển thị trường sẽ căn bản là cạnh tranh về năng suất lao

động, về chất lượng và giá cả hàng hoá hơn là cạnh tranh thuần tuý về không

gian thị trường và những mánh khoé phi kinh tế trong thương mại. Một khi

vàng đã như một xu thế khách quan từ bỏ vai trò tiền thế giới duy nhất thì

cuộc cạnh tranh ngân hàng trên thực tế là cạnh tranh uy tín và tiềm lực thanh

toán thực tế trong phạm vi khu vực và quốc tế. Do đó đặc trưng lớn nhất của

các NHTM ngày nay không còn đơn thuần chỉ là trung gian cung ứng vốn

giữa khách hàng thừa vốn tạm thời với khách hàng thiếu vốn tạm thời, càng

không phải là đơn thuần kinh doanh độc canh “vay để cho vay” ... mà là sự

phân công lao động thương mại khách quan về khối tài chính vô hình toàn cầu

trong mỏi quốc gia riêng lẻ. Đặc trưng này biểu hiện rõ nét trong xu hướng

ngày càng mờ đi ranh giới nghĩa bóng giữa thị trường tiền tệ với thị trường

vốn đế cấu thành thị trường tài chính đổng bộ. Trong khối tài chính khổng lồ

vỏ hình đó đã và đang ló ra hình thái phương tiện thanh toán mang tính chung

toàn cầu, nguồn tạm thời nhàn rỗi vận động theo dòng chảy toàn cầu nhưng

nhu cầu cung ứng vốn cũng như cung ứng dịch vụ và trình độ công nghệ thanh

25

toán lại mang tính quốc gia riêng lẻ. Chính đặc trưng này chi phối mạnh mẽ

xu hướng vận động chủ đạo của mô hình tổ chức và hoạt động của các NHTM

trong khu vực và trên thế giới theo những hướng sau đây:

Một là đặc trưng quan trọng nhất trong hoạt động của các ngân

hàng hiện đại trén thê giới là sự tích tụ cao, tạo nên những tập đoàn tài

chính khổng lồ, chi phối toàn bộ hệ thống kinh tê quốc tế.

Ta đã biết rằng, ngân hàng ra đời gắn liền với sự vận động vốn irong

quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá phát triển

nhanh chóng đã thúc đẩy quan hệ hàng hoá- tiền tệ ngày càng sâu sắc, phức

tạp bao trùm lên mọi sinh hoạt kinh tế -xã hội

Quá trình công nghiệp hoá của mỗi quốc gia đòi hỏi sự đầu tư vốn rất

lớn, rất năng động. Chỉ có những ngân hàng lớn mới có khả năng đáp ứng

được vốn hoặc có khả năng hợp vốn cho yêu cầu này.

Trải qua 6 thế kỷ phát triển, các ngân hàng già nua đã biến hình nhường

chỗ cho những tập đoàn ngân hàng lớn hoặc các tập đoàn tài chính lớn. Đặc

biệt trong mấy thập kỷ gần đây, xu hướng tích tụ và tập trung rất cao, theo đà

phát triển của kinh tế thị trường. Hình thái biểu hiện của xu hướng này ỉà hình

thành các tập đoàn tài chính, các tập đoàn ngân hàng lớn hoặc cực lớn xuyên

quốc gia hoặc đa quốc gia.

Tập đoàn tài chính là hình thái hỗn hợp giữa các ngân hàng lớn với các

tập đoàn công nghiệp, thương mại. Những tập đoàn này thâm nhập và nắm các

mạch máu kinh tế quyết định của quốc gia, do có các ưu thế tuyệt đối về vốn

và hạ tầng.

Các công ty tài chính thì sở hữu một hoặc nhiều ngân hàng và chiếm

lĩnh các lĩnh vực khác nhau về bảo hiểm, công nghiệp và thương mại...

Các tập đoàn ngân hàng lại có một hình thái khác : chúng thôn tính

hoặc thâm nhập lẫn nhau, thậm chí thâm nhập cả các công ty tài chính để trở

thành một tập đoàn ngân hàng. Các ngân hàng trong tập đoàn này lại hùn vốn

để lập ra các công ty con, công ty cháu. Tập đoàn ngân hàng là loại hình tổ

chức có quyền lực cực lớn và chi phối hầu hết các huyết mạch kinh tế. Ngày

nay, trên thế giới, nếu chỉ xét những tập đoàn ngân hàng có vốn từ 130 tỷ đến

500 tỷ USD đã có một danh sách dài đến hàng trăm tập đoàn. Nổi trội nhất

26

trong các quốc gia chiếm nhiều tập đoàn ngân hàng lớn là Nhật bản, Đức, Mỹ

và Pháp.

Hai là các ngân hàng từ bỏ dần loại hình chuyên môn hoá đế trở

thành ngân hàng đa năng

Ngày nay, xu thế chung là còn rất ít ngân hàng mà nội dung hoạt động

thực tế còn phù hợp với tên gọi ban đầu của nó. Các ngân hàng hầu như đã mở

rộng hoạt động sang mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế -xã hội để có cơ hội

tìm được thị trường rộng lớn hơn và có hiệu quả cao. Trên thực tế các ngân

hàng đã trở thành những định chế tài chính linh hoạt. Bức tường ngăn cách

đành ưu thế cho mỗi loại hình ngân hàng chuyên môn hoá dần dần bị loại bỏ.

Sự khoả lấp ranh giới tạo ra một môi trường đồng nhất cùng kích thích sự cạnh

tranh mãnh liệt giữa các ngân hàng. Đã xuất hiện những dịch vụ ngân hàng tại

nhà đáp ứng nhu cầu của dân cư nhằm nắm giữ phạm vi ảnh hưởng cũng như

cơ hội kiếm lời.

Một ngân hàng đa năng tạo ra cơ chế mềm dẻo và linh hoạt hơn trong

hoạt động. Chúng tận dụng được các điều kiện sẵn có để mở rộng thị trường

và phủ kín những đòi hỏi phát sinh ngày càng phong phú của nền sản xuất

hàng hóa ở những nước phát triển. Ở đây, ngân hàng có mặt ở khắp nơi. Đây

là lẽ sinh tồn tự nhiên như cây con nhiều rễ để chống chọi với sóng gió thị

trường. Kinh doanh đa năng là cách gạt bỏ rủi ro để đứng vững .

Ba là xu hướng quốc té hoá hoạt động ngân hàng. Nền kinh tế thế

giới có xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá. Các quốc gia phụ thuộc vào

nhau nhiều hơn về thị trường làm bùng nổ ngoại thương, tạo thành và mở rộng

thị trường quốc tế về hàng hoá và dịch vụ. Lẽ tất nhiên phải xuất hiện và mở

rộng thị trường tài chính quốc tế. Ngày nay đã có những tổ chức tài chính

quốc tế (WB,IMF), tổ chức tài chính khu vực (ADB), những trung tâm tài

chính quốc tế tại Thuỵ sĩ, Nhật bản, Đức, Hồng kông, Singapore...Sẽ còn xuất

hiện rất nhiều trung tâm tài chính mới. Các ngân hàng đều có xu hướng tìm

cách mở rộng hoạt động của mình ra quốc tế bằng cách phát triển mạng lưới

chân rết, tìm kiếm khách hàng ngoài biên giới bằng những công nghệ đặc thù,

có ưu thế. Một ngân hàng chỉ hướng vào thị trường nội địa, không am tường

thông lệ quốc tế sẽ không có cơ may thâm nhập thị trường quốc tế. Cũng vì lẽ

này, các ngân hàng trên thế giới dần dần giám bớt sự cách biệt nhau về thể chế

27

và nghiệp vụ. Chúng hợp tác với nhau, liên kết với nhau tạo nên sự thông suốt

trong các dịch vụ quốc tế, bởi vì đồng vốn là dòng chảy không biên giới. Điều

này thúc đẩy hội nhập và hợp tác. Đổng Ihời chúng cũng cạnh tranh nhau âm

thầm nhưng gay gắt bằng lợi thế và do lợi ích riêng biệt. Những xu hướng chủ

yếu mà các ngân hàng sẽ khai thác để cạnh tranh quốc tế là:

- Hoạch định chiến lược kinh doanh nhiều lợi thế.

- Phát triển chính sách khách hàng, tạo ưu thế thuận lợi cho khách hàng.

- Phát triển công nghệ tiên tiến.

- Phát triển tổ chức.

- Tăng vốn.

Bốn là hình thành mô hình siêu thị tài chính dựa trên những thành tựu

của khoa học và công nghệ thanh toán hiện đại, cho phép thiết lập và vận hành

loại mô hình siêu thị tài chính. Theo đó, mọi nhu cầu về đầu tư (mua công cụ

tài chính ), vay vốn (chuyển quyền sở hữu các công cụ tài chính ), huy động

và cho vay , chuyển tiền, ngân hàng tại “nhà kinh doanh hoán đổi ngoại tệ

v.v...đều thực hiện được ở các “cửa sổ” tương ứng tại sở giao dịch của siêu thị

tài chính hoặc trên mạng của siêu thị tại “nhà”. Đây là mô hình giúp quá trình

triệt để tiền tệ hoá nền kinh tế và thương mại hoá nhanh gọn các nguồn vốn

đổng thời giảm tối thiểu lượng tiền mặt trong cơ cấu tổng phương tiện thanh

toán.

Phân tích vị thế đặc thù và xu thế phát triển của hoạt động ngân hàng

trên thế giới cho phép ta rút ra những kết luận sau:

+ Ngân hàng có vai trò to lớn trong quá trình tích tụ và tập trung vốn,

phục vụ cho yêu cầu phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cùng với sự

phát triển của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng lớn mạnh không ngừng, tác

động tới toàn bộ hoạt động của đời sống kinh tế- xã hội.

+ Lịch sử phát triển ngân hàng có những đặc thù nhất định. Nó phát

triển theo những quy luật sinh- tồn của nền sản xuất hàng hoá. Nhận thức

được xu thế vận động của nó không những sẽ không sợ bị nó “trả thù” mà còn

sử dụng nó phục vụ cho một định hướng nhất định.

+ Các ngân hàng non trẻ mới bước vào kinh tế thị trường ở nước ta đang

còn khoảng cách lớn so với yêu cầu đòi hỏi của đất nước, cũng như so với các

28

ngân hàng có bề dày lịch sử hàng trăm năn trên thế giới. Vì vậy việc tiếp tục

đổi mới hoạt động ngân hàng Việt nam trở thành một yêu cầu bức bách.

29

CHƯƠNG 2

THỤC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTMQD TRONG NHỮNG NĂM Đ ổ i MỚI

2.1- KHÁI QUÁT VỂ S ự PHÁT TRIỂN c ủ a h ệ THốNG NHTMQD ở v i ệ t n a m

2.1.1

Lịch sử ra đòi và phát triển của các NHTM QD

Nếu trong lịch sử tiền tệ thế giới, các ngân hàng thương mại ra đời trước

Ngân hàng trung ương hoặc Ngân hàng Nhà nước, thì ở Việt nam Ngân hàng

Nhà nước ra đời trước ngân hàng thương mại. Ngay từ khi thành lập Ngân

hàng quốc gia Việt nam năm 1951, hệ thống ngân hàng Việt nam thực chất là

hệ thống ngân hàng của Nhà nước. Trong suốt quá trình ra đời, phát triển và

trải qua những cải biến về chính sách, nội dung và đối tượng hoạt động của

mình, hệ thống ngân hàng Việt nam luôn luôn gắn chặt và phản ánh rất chân

thực quá trình phát triển kinh tế -xã hội nói chung của Việt nam. Mặt khác,

nếu xét một cách tổng quát về cả cơ chế quản lý lẫn cấu trúc hệ thống ngân

hàng Việt nam đều thấy nó gắn chủ yếu với cơ chế và cấu trúc của khu vực

kinh tê nhà nước hơn là của nền kinh tế nói chung. Những đặc điểm này rất

quan trọng giúp chúng ta có một cái nhìn thực tiễn và những kinh nghiệm quý

háu trong việc nhận thức và tìm ra các giải pháp để thực thi chiến lược tổng

thể phát triển ngành Ngân hàng Việt nam nói chung và hệ thống NHTMQD

nối riêng trong bối cảnh và điều kiện phát triển mới.

Tính đến năm 1989- sau 38 năm thành lập, về cơ bản hoạt động của

NHVN vẫn vận hành theo cơ chế một cấp. Tuy nhiên đó là môt thời kỳ dài

mà ngân hàng Việt nam không có cách lựa chọn nào khác khi phải hoạt động

trong điều kiện bị lệ ihuộc chặt chẽ và đặt trong cả một cơ chế kế hoạch hoá,

tập trung cao độ của nền kinh tế quốc dân-Một nền kinh tế nằm gọn trong tình

trạng thời chiến kéo dài : đánh Pháp, đánh Mỹ và khôi phục sau chiến tranh

trong bối cảnh bị bao vây, cấm vận nhiều năm liền và với mặt bằng xuất phát

điểm cực kỳ thấp, xét về trình độ phát triển. Công cuộc đổi mới toàn diện cơ

chế kinh tế được khởi xướng từ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng CSVN

lần thứ 6 năm 1986 là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế Việt nam từng

30

bước thoát ra khỏi khủng hoảng và phát triển vững chắc bằng cơ chế thị

trường, trong đó có sự đóng góp xứng đáng của ngành Ngân hàng Việt nam.

Sau 4 năm vừa thiết kế, vừa thi công trên con đường tìm ra lối đi cho

hoạt động ngân hàng thời kỳ đổi mới, tháng 5/1990, hai Pháp lệnh ngân hàng

ra đời đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống ngàn hàng Việt

nam từ 1 cấp sang 2 cấp, trong đó lần đầu tiên đối tượng, nhiệm vụ và mục

tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi : 1-NHNN thực

thi nhiệm vụ quản lý Nhà nước về mọi mặt hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín

dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, thực thi nhiệm vụ của một NHTW-

là ngân hàng phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng

của nhà nước, thực hiện việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ

ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính

sách điều hành cụ thể đối với hệ thống ngân hàng hai cấp. 2-Cấp Ngân hàng

kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán,

ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn bộ nền KTQD. Đổng thời NHTW

cũng đã được chấp nhận là cơ quan cao nhất của Chính phủ trong việc thực

hiện nhiệm vụ đối ngoại của Quốc gia về ngân hàng với các tổ chức Ngân

hàng- Tài chính của các Chính phủ hoặc tổ chức quốc tế trên thế giới.

Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng

là quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh với các loại hình sở

hữu khác nhau gồm NHTMQD, NHTMCP, NHLD, chi nhánh hoặc văn phòng

đại diện của ngân hàng nước ngoài tại Việt nam, HTXTD, công ty tài chính,

công ty vàng bạc đá quý v.v. cùng các chi nhánh, các công ty con của các tổ

chức nói trên đã tạo thành thế đa năng trong hoạt động kinh doanh, lấy thước

đo lợi nhuận làm mục tiêu phát triển theo nguyên tắc kinh doanh bảo đảm an

toàn, đúng pháp luật, cạnh tranh bình đẳng và chịu sự quản lý vĩ mô, thanh tra

giám sát của NHTW .

Trải qua hơn 10 năm xây dựng và phát triển, hệ thống NHTM VN đã

lớn mạnh, khẳng định vai trò to lớn trong nền kinh tế và xu hướng đi lên

không ngừng. Cho đến cuối năm 2001, nếu xếp theo hình thức sở hữu, hệ

thống ngân hàng thương mại Việt nam bao gồm :

- Ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước : 6 ngân hàng, trong đó 4 ngân

hàng thương mại quốc doanh và 2 ngân hàng hoạt động mang tính chính sách

31

(ngân hàng Đổng bằng sông Cửu long và ngân hàng phục vụ người nghèo nay

được đổi thành Ngân hàng chính sách xã hội)

- Ngân hàng thương mại cổ phần (cả đô thị và nông th ô n ): 48 ngân hàng

- Ngân hàng liên doanh : có 5 ngân hàng

- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài : 26 ngân hàng

Như vậy hệ thống NHTM của nước ta tới nay có 85 ngân hàng thương

mại đóng vai trò chủ lực trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Ngoài ra

cùng tham gia hoạt động trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ còn có 985

quỹ tín dụng nhân dân, 2 công ty tài chính cổ phần, 4 công ty cho thuê tài

chính và 6 công ty kinh doanh chứng khoán.

Mặc dù hiện nay có 6 ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, nhưng thực

chất hoạt động kinh doanh tập trung ở 4 NHTMQD là Ngân hàng nông nghiệp

và phát triển nông thôn, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và phát

triển, Ngân hàng Ngoại thương.

2.1.1.1 .Ngân hàng Đấu tư và phát triển Việt nam được thành lập

26/4/1957 với tên gọi là Ngân hàng kiến thiết Việt nam, sau đổi thành Ngân

hàng Đẩu tư và phát triển Việt nam. Từ khi thành lập đến nay, hoạt động của

Ngân hàng ĐT&PT luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế đất nước

qua từng thời kỳ khác nhau

Ngân hàng ĐT&PT được xem là tổ chức cung cấp tài chính cho các

doanh nghiệp quốc doanh nhằm phát triển cơ sở hạ tầng và xây dựng cơ bản

(chiếm 90% tổng các khoản cho vay), thường ở dưới dạng cho vay theo định

hướng (chiếm 42% tổng các khoản cho vay ).

Là ngân hàng chủ lực trong phục vụ đầu tư phát triển, luôn giữ vai trò

quan trọng trong việc cung ứng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, góp phần

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Với hơn 5000 cán bộ công nhân viên, mạng lưới tổ chức hiện có trên

120 chi nhánh tỉnh (thành phố), khu vực, phòng giao dịch, 2 sở giao dịch và

văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh, 2 công ty cho thuê tài chính và

2.1.1.2.Ngân hàng Ngoại thương Việt nam được thành lập 1/4/1963 như

công ty chứng khoán,3 đơn vị liên doanh, vốn điều lệ 1100 tỷ VND.

một ngân hàng chuyên doanh dựa trên các hoạt động của Vụ ngoại thương của

32

NHNNVN. Ngân hàng Ngoại thương phục vụ chủ yếu các tổ chức và doanh

nghiệp thuộc khối nhà nước (chiếm khoảng 70% tín dụng cho vay).

Tính đến cuối năm 2000, Ngân hàng ngoại thương chiếm 25% tổng tài

sán của hệ thống NHTM VN, nhất là tài sản bằng ngoại tệ-chiếm khoảng 63%

trong tổng số. Tuy nhiên về mặt tín dụng NHNT lại có thị phần nhỏ nhất

chiếm khoảng 9%. Các dịch vụ đặc thù của NHNT bao gồm tài trợ thương

mại, thư tín dụng, giao dịch trao đổi ngoại hối, thanh toán quốc tế, thẻ tín

dụng, cho vay..

Vào cuối năm 2000, NHNT có khoảng hơn 2800 cán bộ công nhân viên, và

28 chi nhánh, gần như tập trung tất cả ở đô thị, vốn điều lệ 1100 tỷ VNĐ.

Ngoài ra NHNT còn đầu tư vào 14 doanh nghiệp khác ở Việt nam,

trong đó có 6 ngân hàng cổ phần, 2 công ty bảo hiểm, 3 công ty bất động sản,

1 công ty thuê mua tài chính, có quan hệ đại lý với hơn 1000 ngân hàng ở 85

quốc gia trên thế giới

2.1.13. Ngân hàng Công thương Việt nam được thành lập 01/07/1988

trên cơ sở vụ tín dụng Công nghiệp và thương nghiệp của NHNN. Ngân hàng

còng thương phục vụ nhiều tổng công ty lớn của nhà nước (chiếm hơn một

nửa tín dụng của ngân hàng), cung cấp tín dụng ngắn hạn cho các doanh

nghiệp vừa và nhỏ, các công ty tư nhân. Ngân hàng công thương chiếm tỷ

trọng 25% tổng các khoản cho vay của ngành ngân hàng và 25% tổng tiền gửi.

Ngân hàng Công thương cũng cung cấp các dịch vụ khác cho nền kinh tế như

thanh toán trong và ngoài nước, ngoại hối, mua bán vàng bạc..

Ngân hàng Công thương là ngân hàng lớn thứ hai về nhân lực với

khoảng 12000 nhân viên, hơn 80 chi nhánh, 170 phòng giao dịch, 350 quỹ tín

dụng đặt tại 47 tỉnh thành phố. Vốn điều lệ 1100 tỷ VNĐ, ngân hàng còn đầu

tư vốn vào 3 công ty là Công ty cho thuê tài chính, công ty quản lý và khai

thác tài sản, công ty chứng khoán, đổng thời có quan hệ đại lý với hơn 500

ngân hàng trên thế giới.

2,1.1.4.Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn được thành lập

01/7/1988 trên cơ sở cơ cấu lại ngân hàng phát triển nông nghiệp, chuyên

cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh, nông trường, hợp tác xã

nông nghiệp, hộ gia đình và các doanh nghiệp ở nông thôn.

33

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn có vốn điều lệ lớn nhất

trong số 4 NHTMQD là 2200 tỷ VNĐ. Hiện nay ngân hàng có 22.797 nhân

viên, 1350 chi nhánh ở 61 tính thành phố, 3 sở giao dịch, 3 công ty độc lập.

Ngoài các hoạt động tín dụng, ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ khác như

bảo lãnh, thuê mua, giao dịch quốc tế và thư tín dụng, thực hiện các hợp đồng

dịch vụ liên quan đến việc cho vay thay cho ngân hàng người nghco, quản lý

2.1.2.Những đặc điểm của hệ thống NHTMQD ở Việt nam

các khoản cho vay theo chỉ định của Chính phủ.. [14];[23];[35];[36];[37]

Các NHTMQD là những ngân hàng chiếm vị trí ưu thế, chủ đạo trong

hệ thống các tổ chức tín dụng ở nước ta.

Là các doanh nghiệp Nhà nước (là một tổ chức kinh doanh, được Nhà

nước thành lập quản lý và cấp vốn ban đầu, Nhà nước bổ nhiệm người lãnh

đạo và điều hành). Các NHTMQD là những pháp nhân độc lập, do Nhà nước

cấp vốn điều lệ. Luật hiện hành quy định NHTMQD là ngân hàng được thành

lập 100% bằng vốn ngân sách Nhà nước. Quy định này có tính đến việc hoàn

thành và phát triển cơ chế cổ phần hoá sau này. Nếu sau này chế độ cổ phần

hoá cho phép thì từ chỗ chỉ có một cổ đông duy nhất là Nhà nước, có thể mở

rộng cổ phần cho công chúng. Các NHTMQD được hoạt động trong ngắn hạn,

trung hạn và dài hạn, tuỳ theo tính chất nguồn vốn huy động, được hoạt động

cả trong thị trường nội địa, quốc tế và các dịch vụ khác theo luật định. Các

nghiệp vụ hoạt động của các NHTMQD không khác gì các NHTM khác tức là

tìm kiếm các cơ hội để thu lợi nhuận và tăng trưởng nguồn vốn bằng nhiều

cách khác nhau phù hợp với môi trường kinh tế xã hội. Các điều kiện kinh tế

và luật pháp của mỗi nước có thể có một vài ảnh hưởng nào đó đối với hoạt

động ngân hàng, nhưng các nghiệp vụ kinh doanh về cơ bản là khổng thay đổi.

Tuy nhiên do mục đích ra đời và định hướng hoạt động của các NHTMQD có

khác so với các NHTM khác .

Các NHTMQD vừa phải hoạt động bình đẳng trong cơ chế thị trường,

vừa phải thể hiện rõ định hướng Xã hội chủ nghĩa và vị trí chủ đạo của mình

trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt nam. Chúng phải là chỗ dựa và là

công cụ đắc lực trong tay Nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh lế của Nhà

nước. Các ngân hàng thương mại quốc doanh không thể chỉ biết kinh doanh

34

với lời lãi đơn thuần và cũng không thể trở về vai trò “bầu sữa” nuôi dưỡng

các doanh nghiệp quốc doanh như thời bao cấp. Nội dung kinh doanh của các

NHTMQD mang màu sắc khác với các Ngân hàng thương mại khác trong

nước và nước ngoài ở chỗ : Vừa phải tuân thủ các quy luật và đòi hỏi của kinh

tế thị trường, vừa phải hướng hoạt động tiền tệ phục vụ các ưu tiên kinh tế của

Nhà nước, phải xử lý hài hoà giữa lợi ích kinh doanh với việc thực hiện chính

sách xã hội ( khi cần ) với mức độ và điều kiện cho phép.

Mặc dù bốn NHTMQD đều có nguồn gốc chung (bốn NHTMQD được

hình thành từ các vụ của NHNN ), có quy mô khá giống nhau, nhưng có sự

khác nhau về các hoạt động, cơ sở khách hàng cũng như về sản phẩm dịch vụ

mà các ngân hàng cung cấp nhằm phục vụ những mục đích đã được xác định

theo tên gọi của nó và theo định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước theo

mỗi giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước.

+ Ngân hàng Công thương chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công

nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, giao thông, bưu điện...

+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ yếu hoạt động

trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.

+ Ngân hàng Ngoại thương chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế

đối ngoại.

+ Ngân hàng Đầu tư và phát triển chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực đầu

tư và xây dựng cơ bản.

Bốn NHTMQD chiếm 82% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng Việt

nam, (các ngân hàng thương mại cổ phần 10%, còn lại là các ngân hàng liên

doanh), chiếm hơn 70% thị phần tín dụng. Mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ về số

lượng trong hệ thống NHTM ở Việt nam, nhưng các NHTMQD với khoảng

40.000 cán bộ công nhân viên luôn đóng vai trò chủ đạo, chủ lực trong hệ

thống tài chính Việt nam và đã trở thành chỗ dựa quan trọng chủ yếu của các

thành phần kinh tế, qua đó đóng góp quan trọng vào tăng trưởng và ổn định

kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Tính đến 31/12/2001 dư nợ cho vay nền kinh tế

của các NHTMQD đạt 165 nghìn tỷ đổng, chiếm 76.7% tổng dư nợ cho vay

nền kinh tế trong toàn hệ thống. Nguồn vốn huy động đạt 243,17 nghìn tỷ

đồng, chiếm 76.9% tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng hoạt

động trên lãnh thổ Việt nam . [12];[14];[20]

35

2.2 TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNCr CỦA CÁC NHTMQD Ở VIỆT NAM

2.2.1 Thực trạng về nguồn vốn và sử dụng vốn của các NHTMQD

2.2.1.1 Nguồn vốn và huy động vốn

* Nguồn vỏn

Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì

phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng

kinh doanh. Riêng đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt

động kinh doanh của mình. Nói cách khác, ngân hàng không có vốn thì không

thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động

ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh

doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá

đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng

khoán (thị trường vốn dài hạn). Những ngân hàng trường vốn là ngân hàng có

nhiều thế mạnh trong kinh doanh. Chính vì thế, có thể nói : Vốn là điểm đầu

tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần

thiết, tức là đủ vốn theo luật định, thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo

tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.

Nguồn vốn của các NHTMQD bao gồm : Vốn tự có, vốn huy động, các

nguồn vốn khác. Mỗi loại vốn đều có một tính chất và vai trò riêng trong tổng

nguồn vốn hoạt động của các ngân hàng thương mại.Tỷ trọng từng nguồn vốn

thể hiện qua bảng sau:

Bảng 1: Tỷ trọng nguồn vốn của các NHTMQD

Tốc độ tí C

áng vốn huy ộng

TT

Tên đơn vị

Vốn vay so với nguồn vốn (%)

Tỷ trọng VHĐ /nguồnvốn (%)

Tỷ trọng cho vay bằng vốn tài trợ.uỷ thác, đầu tư

Mức tăng bq 5 năm (%)

2000/99 (%)

NHĐT & PT

1

27,4

5,0

30,0

83,11

13,0

NHNTVN

2

28,4

28,0

0,45

89,77

3,0

NHNo&PTNT

3

46,0

26,48

7,0

5,0

84,36

NHCTVN

4

19,0

17,0

6,0

78,90

1,0

Nguồn: N H N N V N - Vụ chiến lược - 2001

36

Vốn tự có của các NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập,

thuộc sở hữu của ngân hàng.Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của

ngân hàng, song là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập ngân hàng. Do

tính chất thường xuyên, ổn định của vốn tự có, ngân hàng có thể chủ động sử

dụng vào các mục đích khác nhau như : trang bị cơ sở vật chất, tài sản cố

định., phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và đặc biệt tham gia đầu tư,

góp vốn liên doanh. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như

tài sản đảm bảo gây lòng tin đối vơí khách hàng, duy trì khả năng thanh toán

trong trường hợp ngân hàng bị thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ

quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng.

N hư vậy, quy mô, sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định đến nãng

lực và thế phát triển của NHTM.

* Vốn tự có của các NHTM có các thành phần sau:

- Vốn tự có cơ bản là vốn pháp định -vốn điều lệ

+ Vốn điều lệ Nhà nước cấp cho các NHTMQD là 1100 tỷ đồng ( trừ ngân

hàng No &PTNT là 2200 tỷ đổng).

Vốn tự có của các NHTMQD ở Việt nam là chỉ tiêu quan trọng điều

chỉnh các tỷ lệ an toàn trong việc huy động vốn, cho vay và đầu tư, hùn vốn

góp vốn liên doanh và đầu tư mua sắm tài sản cố định...

- Vốn tự có bổ sung. Vốn tự có của ngân hàng thương mại không ngừng

được tăng lên theo thời gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vốn tự có bổ sung

bao gồm :

+ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, có mục đích tăng cường số vốn tự có

ban đầu.

+ Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt

động kinh doanh của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ .

+ Ngoài các quỹ trên, vốn tự có bổ sung còn bao gồm phần lợi nhuận

chưa phân bổ hoặc các quỹ đặc biệt khác như : quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,

quỹ khấu hao tài sản cố định....

Theo các chuyên gia kinh tế, và uỷ ban Basle, tỷ lệ vốn tự có trên tài sản

có (CAR) tối thiểu phải đạt 8%. Nếu so sánh con số này thì cơ sở về vốn của

các NHTMQD còn rất yếu, NHTMQD nhiều vốn nhất cũng chỉ đạt 2200 tỷ

37

đồng và hầu như không đạt tỷ lệ tối thiểu so với tài sản có. Tỷ lệ vốn tự có/tài

sản có của các NHTMQD như sau:

Bảng 2 : Tỷ lệ vốn tự có/tài sản có của các NHTMQD

Tên Ngân hàng

Năm 1999

Năm 2000

Năm 2001

NH Nông nghiệp

8.06

5.66

5.33

NH Ngoại thương

5.04

3.33

4.56

NH Đầu tư Phát triển

5.00

4.05

4.20

NH Công thương

4.34

3.33

3.85

Nguồn NHNN/2001

Tỷ trọng vốn tự có thấp kéo dài trong nhiều năm, đặc biệt là những năm

gần đây là nguyên nhân làm tăng mức độ rủi ro của các NHTM Việt nam, hạn

chế khả năng thanh toán và khả năng cho vay của các NHTM.

* Vốn huy động bao gồm: Huy động của dân chúng, của các tổ chức,

từ ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác.

Nhìn vào Bảng 1- ta thấy tầm quan trọng của vốn huy động (thường

chiếm trên 80%) tổng nguồn vốn. Một ngân hàng thương mại nói chung

(trong nước cũng như nước n g o à i), với chức năng tạo tiền và những đặc trưng

riêng có của ngân hàng đã tạo cho ngân hàng những “lợi thế độc quyền” mà

các ngành sản xuất khác không có. Tuy nhiên đặc điểm của các NHTMQD có

khác nhau nên mức độ huy động vốn của các ngân hàng cũng khác nhau.

Tổng nguồn vốn huy động và đi vay của các NHTMQD qua các năm

như sau : Năm 1998 đạt 92 nghìn 267 tỷ đổng, trong đó 87% là nguồn vốn

huy động và 13% là vốn đi vay. Năm 1999 đạt 179.6 nghìn tỷ đồng, trong đó

82.2% là vốn huy động và 17.8% là vốn đi vay. Năm 2000 đạt 201.34 nghìn tỷ

đồng, trong đó 73.9 % là vốn huy động, 22.06% là vốn vay. Năm 2001 đạt

243.17 nghìn tỷ đồng trong đó 75.6% là vốn huy động và 24.4% là vốn đi vay

từ các tổ chức tín dụng và thị trường liên ngân hàng. Cơ cấu này phản ánh khá

rõ quy mô và khả năng huy động vốn trong nước của các NHTMQD tương đối

cao, chiếm 76.9% tổng nguồn vốn của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng Việt

38

nam (huy động vốn nước ngoài chỉ chiếm 1.24% tổng nguồn vốn huy động và

cho vay). Tổng nguồn vốn trên tương đương 16.10 tỷ USD (1 USD =15.100

VNĐ), hay 45.5% GDP năm 2001. Đây thực sự là nguồn vốn rất quan trọng

trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên so với nhu

cầu thì con số nói trên còn quá nhỏ, chưa đủ sức đóng vai trò quyết định trong

thị trường tài chính Việt nam. Các con số nói trên chỉ ra mức độ tiền tệ hoá

của hệ thống tài chính Việt nam còn quá thấp. Ngay ở các nước trong khu vực

như Thái lan, Indonesia, Philippin thì tổng tài sản của hệ thống ngân hàng

cũng đạt 100-150% GDP. Nếu so với ngân hàng đứng thứ 10 trên thế giới là

Credit suisse (Thuỵ sĩ) có vốn sở hữu là 16.86 tỷ USD, hoặc so sánh với số

vốn chủ sở hữu của các NHTM trong khu vực châu Á là 1 tỷ USD, thì khả

năng tài chính của các NHTM Việt nam còn quá nhỏ bé để có thể cạnh tranh :

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn có số vốn chủ sở hữu lớn nhất

cũng chỉ đạt 157 triêụ USD, những NHTMQD khác chỉ có số vốn không quá

Biểu 1.1. Tín dụng cho nền kinh tê tại Việt N am thòi kỳ 1990-2000

Ti đòng

80 triệu USD .[8];[22];[23];[34][35];[36];[37]

% GDP

200000

150000

100000

50000

0

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2001

Về cơ cấu nguồn vốn tín dụng, những năm gần đây nguồn vốn tín dụng

chủ yếu là vốn ngắn hạn ( trên 80% nguồn vốn huy động có thời hạn dưới 12

tháng), nhưng từ năm 1999 đến nay nguồn vốn tín dụng ngắn hạn có xu hướng

39

giảm dẩn, chiếm trên 60%, tín dụng trung và dài hạn tăng dần chiếm gần

40%. Tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn tăng dần thể hiện xu hướng tất yếu về

nhu cầu phát triển kinh tế, tuy nhiên nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn vẫn

còn thiếu, điều này đã hạn chế việc cho vay dài hạn của các NHTMQD.

Nghìn Tỷ VND

300

250

200

150

100

50

B iểul.2. Cơ cấu tiền gửi của các NHTMQD

0

1999

2000

2001

□ Không kỳ hạn ■ Có kỳ hạn

Nguồn N H N N V N /200Ỉ

Rủi ro cao khi tỷ trọng vốn huy động trung và dài hạn chỉ chiếm

khoảng 20% nguồn vốn huy động, gây khó khăn cho các NHTM Việt nam

trong việc tìm các đối tác cho vay đặc biệt cho vay bằng ngoại tệ. Khó khăn

này một phần do cơ chế chính sách, phần khác do khả nãng hấp thụ vốn của

các doanh nghiệp còn rất hạn chế, đặc biệt là đối với các nguồn vốn bằng

ngoại tệ với rủi ro tỷ giá hối đoái khá cao. Nhiều ngân hàng cho vay vượt quá

15% vốn tự có đối với một khách hàng, những khách hàng lớn (chủ yếu là các

doanh nghiệp nhà nước ) đều có dư nợ quá hạn từ 15-223% so với vốn tự có

của các NHTM, chưa kể các doanh nghiệp này còn vay ở các TCTD khác. Tuy

nhiên, việc kiểm tra, giám sát tín dụng cho vay doanh nghiệp còn gặp rất

nhiều vướng mắc vì một doanh nghiệp có thể quan hệ vay vốn với nhiều ngân

hàng và hàng trăm khoản vay với quy mô và phạm vi hoạt động trải khắp quốc

40

gia hoặc cả ở nước ngoài. Mặt khác, tiền cho vay sau khi ra khỏi ngân hàng

đều chuyển thành vật tư, hàng hoá nên khó phân biệt rạch ròi là đối tượng đầu

tư của nhà tài trợ nào. Hơn nữa, theo cơ chế hiện hành, doanh nghiệp có thể

dùng nhiều bản sao của bộ hoá đơn chứng từ để vay được vốn ở nhiều ngân

hàng, hiện tượng khách hàng vay ngân hàng này trả nợ ngân hàng khác vì lợi

ích cục bộ, vì mất khả năng thanh toán vẫn còn xảy ra.

Ở giai đoạn 1995-2000 thành công nổi bật của các NHTMQD là vốn

huy động có tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng vốn huy động ở các

Ngân hàng như sau :

- Ngân hàng NN(,&PTNT bình quân 26.48%/năm

- Ngân hàng Ngoại thương 28%/năm

- Ngân hàng ĐTPT 27.4%/năm

- Ngân hàng Công thương 17%/năm

Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của các NHTMQD. Tính đến

31/12/2001 tỷ trọng vốn huy động trong tổng số nguồn vốn của từng ngân

hàng là:

- Ngân hàng nông nghiệp 84.36% so với 78% năm 2000

- Ngân hàng Ngoại thương 89.77% so với 86% năm 2000

- Ngân hàng ĐTPT 83.11 % so với 80% năm 2000

Biểul.3. Cơ cấu nguồn vốn của các NHTMQD năm 2000

- Ngân hàng Công thương 78.9% so với 82% năm 2000

■ 13%

tt V ố n h u y đ ộ n g

■ V ố n kh á c

■ V ố n tự có và c á c q u ỹ

» 83%

*4%

41

Trong cơ cấu nguồn vốn, tỷ trọng vốn vay NHNN có xu hướng giảm.

Số liệu trên phản ánh thực tế là khả năng huy động vốn của các ngân hàng đã

được cải thiện, bên cạnh đó cũng có một yếu tố khách quan là việc các ngân

hàng thương mại buộc phải tự tìm nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường liên

ngân hàng và tham gia các giao dịch trên thị trường mở (cuối năm 2000

NHNN đã nâng lãi suất ở cửa sổ chiết khấu để hạn chế phần nào việc khai

thác nguồn vốn của NHTW của các NHTM và hỗ trợ cho nghiệp vụ thị trường

mở mới ra đời). Tính đến 31/12/2000 tỷ trọng vốn vay NHNN trên tổng số

nguồn vốn của từng ngân hàng như sau:

- Ngân hàng nông nghiệp 7% so với 7.5% năm 1999

- Ngân hàng Ngoại thương 3% so với 4.3% năm 1999

- Ngân hàng DT&PT 13% so với 17%năm 1999

- Ngân hàng Công thương 6% so với 6.6% năm 1999

Ngoài vốn huy động và đi vay của các tổ chức tín dụng, một số

NHTMQD đã nhận làm uỷ thác đầu tư cho Chính phủ và các tổ chức quốc tế.

Tháng 12/2000, tỷ trọng cho vay bằng vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư với tổng

nguồn vốn của các ngân hàng như sau:

5% so với 7%

- Ngân hàng Nông nghiệp năm 1999

- Ngân hàng ĐT&PT 5% so với 6.5% năm 1999

- Ngân hàng Ngoại thương 0.45%SO với 0.8% năm 1999

- Ngân hàng Công thương 1% không đổi so với năm 1999

Tóm lại qua phân tích việc huy động vốn của các NHTMQD ta thấy

rằng quy mô và khả năng huy động vốn của các NHTMQD tương đối cao,

chiếm trên 70% tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng hoạt động

trên lãnh thổ Việt nam. Nguồn vốn được huy động từ các NHTMQD luôn có

mức tăng trưởng cao. Tính đến 31/12/2001 tổng nguồn vốn huy động và đi vay

của các NHTMQD đạt 243,17 nghìn tỷ đổng tăng gần gấp 3 lần so với năm

1998. Tuy nhiên so với nhu cầu về vốn để phát triển kinh tế thì con số này vẫn

còn quá nhỏ, chưa đủ sức đóng vai trò quyết định trong thị trường tài chính

Việt nam và còn xa mới có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và

trên thế giới. M ặt khác hình thức huy động vốn của các NHTMQD vẫn còn

đơn điệu, nghèo nàn, mang tính chất truyền thống như : huy động tiết kiệm,

phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân

đơn thuần dưới dạng có kỳ hạn và không kỳ hạn. Chính sách tiết kiệm cứng

nhắc, chưa linh hoạt, chưa đa dạng phù hợp với thực tế nên chưa thu hút được

42

hết nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cũng như trong các tổ chức kinh tế. Cấu

trúc nguồn vốn còn chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, nguồn vốn huy

động ngắn hạn còn chiếm tỷ lệ cao, gây khó khăn cho các NHTM trong việc

cho vay các dự án trung và dài hạn.

2.2.1.2 Sử dụng vốn của các NHTMQD

Huy động vốn được rồi, NHTM phải làm thế nào để sử dụng có hiệu

quả những nguồn vốn này. Hầu như các khoản mục bên nguồn vốn của ngân

hàng đều là những khoản nợ, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi cho nó đến từng

giờ. Do đó để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc đầu tư

ngay nguồn vốn này vào những dịch vụ sinh lãi. Từ lãi thu được ngân hàng sẽ

dùng nó để trả lãi cho vốn đã huy động, thanh toán các chi phí trong hoạt

động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân hàng. Các NHTM sau khi huy

động được vốn đều tìm cách sử dụng vốn huy động đó có hiệu quả. Các hình

thức chủ yếu mà các NHTM vẫn sử dụng là cho vay, đầu tư vào chứng khoán.

Ngoài ra các NHTM còn có thể đầu tư vào các loại tài sản như bất động sản,

cơ sở hạ tầngv.v. Nhưng trước khi thực hiện các nghiệp vụ trên, các NHTM

đều phải thực hiện một công việc bắt buộc theo luật định và theo nhu cầu duy

trì khả năng thanh khoản của ngân hàng. Đó là nghiệp vụ dự trữ (dự trữ tiền

mặt tại kho ngân hàng và tiền gửi tại ngân hàng trung ương).

Trong quá trình sử dụng vốn thì mục tiêu đặt ra của NHTM đều là sử

dụng vốn có hiệu quả cao nhất nhằm kiếm lợi nhuận tối đa từ những đổng vốn

huy động được và giảm thiểu rủi ro. Bởi vậy việc cho vay hay đầu tư để sinh

lời là lẽ sống còn của NHTM. Cho vay hay đầu tư không khác nhau nhiều, vì

vậy nhiều khi người ta gọi chung cả hai hoạt động trên là “đầu tư” . Khi ngân

hàng đầu tư tiền vốn vào thương vụ, hoặc cho sản xuất kinh doanh và cho vay

tiêu dùng, nó trở thành chủ nợ, các đối tượng kia là người vay nợ. Vì thế các

khoản đầu tư biến thành tài sản có của ngân hàng. Ngân hàng càng đầu tư

nhiều càng sinh lãi nhiều từ vốn đã huy động. Nếu không đầu tư được, ngân

hàng sẽ bị lỗ vì phải trả lãi cho nguồn vốn huy động.

Tuy nhiên các hình thức sử dụng vốn đều có những ưu thế và nhược

điểm riêng và có những rủi ro khác nhau. Việc đa dạng hoá các hình thức sử

dụng vốn và cơ cấu lại các loại hình sử dụng vốn trong một NHTM sẽ giúp

cho các NHTM có thể mở rộng được quy mô kinh doanh của ngân hàng, giảm

thiểu rủi ro và tăng lợi nhuận.

43

Tổng dư nợ của các NHTMQD qua các năm như sau: Năm 1998 đạt

80,68 nghìn tỷ đồng, năm 1999 đạt 101 nghìn tỷ đồng, năm 2000 đạt gần 136

nghìn tỷ đồng. Năm 2001 đạt 165 nghìn tỷ đồng. Như vậy dư nợ tín dụng của

các NHTMQD trong những năm gần đây đã tăng nhanh chóng, năm 2001 dư

nợ tín dụng đã tăng hơn gấp đôi so với nãm 1998. Đây có thể coi là một tín

hiệu phục hồi của nền kinh tế được phản ánh qua nhu cấu về vốn của nền kinh tế.

Nếu xét trong cả một thời kỳ dài thì dư nợ tín dụng của các NHTMQD

có tốc độ tăng trưởng khá cao. Tốc độ tăng dư nợ bình quân của các

NHTMQD trong giai đoạn 1995-2000 như sau:

- Ngân hàng NNO&PTNT bình quân 25.94%/năm

- Ngân hàng Ngoại thương 13.90%/năm

- Ngán hàng ĐT&PT 32.66%/năm

- Ngân hàng Công thương 24.60%/năm

Bảng 3 : Cơ cấu cho vay đối với nền kinh tê

_____________________________ Đơn v ị : Tỷ đồng

Chỉ tiêu

NHNT

NHCT

NHNo&PTNT

NHĐT

Năm

1999

2000

1999

2000

1999

2000

1999

2000

Tổng dư nợ cv nền kinh tế

15705

28401

37002

32219

29924

37547

616.6

Mợ quá hạn

675

1212

1189

22979 43270

359

285

769

231.76

Mợ khoanh

824

1396

1320

873

975

1384

480

395

Mợ chờ xử lý

1296

1300

3334

3274

93.78

53.4

104

63.5

Dư nợ ngắn hạn

6340

10070

14428

18312

19650

25570

11460

16890

Dư nợ trung và dài hạn

2070

3596

5080

8370

7566

12600

3862

5890

^ho vay tài trợ uỷ thác

379

302

445

513

2870

3103

2714

2480

Dầu tư

3608

5716

3078

4471

296

201

1038

1027

)ư nợ T-DH/I dư nợ (%)

13.1

15.6

17.8

22.6

23.4

29.1

12.9

15.6

'ỷ lệ nợ quá hạn/x dư nợ

21% 14.3% 18.9%

14.4% 5.7% 4.1%

2.4% 2.2%

64.6%

65% 64%

67 % 87 % 82.2%

81% 82.5%

'ổng dư nợ cho vay nền inh tê'/vốn huy động

Nguồn NHNN/2001

44

Cơ cấu tín dụng diễn biến theo hướng tích cực, tín dụng trung và dài

hạn tăng nhanh và liên tục, tỷ trọng cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

đã tăng đáng kể. Tuy nhiên việc cho vay theo chính sách vẫn chiếm tỷ trọng

lớn trong cơ cấu tín dụng của các NHTMQD. Mặc dù tín dụng cấp cho khu

vực doanh nghiệp nhà nước đã giảm đáng kể, song đến nay vẫn chiếm trên

60%. Việc cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tuy có tăng, nhưng chỉ

các doanh nghiệp tư nhân lớn hoặc có quan hệ chặt chẽ với các cơ quan Chính

phú và ngân hàng mới có thể vay được vốn từ các NHTMQD. Hầu hết các chủ

trang trại và doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ không thể tiếp cận được nguồn

vốn ngân hàng, mà phải vay trên thị trường phi chính thức. Thị trường này tồn

tại song song với thị trường chính thức, nhất là ở các thành phố lớn và miền

Đông Nam bộ. Việc tổn tại hai thị trường này gây khó khăn cho hoạt động của

các NHTM và cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Chậm ban hành luật

doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước không hấp dẫn và thiếu

chính sách phát triển cho khu vực kinh tế tư nhân là những trở ngại cơ bản đối

với các NHTM Việt nam trong việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế này,

không đáp ứng yêu cầu chuyển đổi kinh tế hiện nay.

Nhìn vào Bảng 3 ta thấy tỷ lệ giữa tổng dư nợ cho nay nền kinh tế so

với tổng số vốn huy động của các NHTMQD tương đối cao, trên 64%, điều

này nói lên các NHTMQD đã biết khai thác và tận dụng tốt nguồn vốn đã huy

động để đầu tư cho nền kinh tế. Tuy nhiên chất lượng tín dụng của các

NHTMQD còn kém thể hiện ở nợ có vấn đề như ( nợ quá hạn, nợ chờ xử lý

của các vụ án, nợ khoanh...) còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ, đặc biệt

ở ngân hàng Ngoại thương và ngân hàng Công thương nợ có vấn đề chiếm tỷ

trọng trên 14% trong tổng dư nợ. Điều này đã gây thiệt hại nặng nề cho các

NHTMQD và làm suy yếu khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.

Tỷ trọng tiền gửi và đầu tư ở nước ngoài, cho vay và gửi trong nội bộ

các TCTD trên tổng số tài sản có của các NHTMQD tính đến tháng 12/2000

như sau:

45

Bảng 4 : Tổng đầu tư của các NHTM QD

TT

Tên đơn vị

Tăng dư nợ bq 1995- 2000 (%)

Đầu tư, gửí ra nước ngoài, gửi TCTD khác so với TSC đến 31/12/00 (%)

Kinh doanh khác (chứng khoán, ngoại tê....) so với TSC (%)

1

N H Đ T & PT

32,66

16,0

2,44

2

NHNTVN

25,91

9,95

1,69

3

24,6

16,4

4,7

NHNo ầ PTNT

4

NHCTVN

13,9

62,56

1,5

A guồn: N H N N V N - Vụ chiến lược phát triển NH- 2001

Như vậy, các NHTMQD vẫn tiếp tục gặp khó khăn trong việc tìm đối

tượng cho viy trực tiếp, đặc biệt cho vay bằng ngoại tệ (hơn nữa, do lãi suất

trên thị trườig tài chính thế giới trong những năm 1998,1999, 2000 tăng cao

nên việc hm động ngoại tệ để đầu tư ra thị trường thế giới dường như vừa an

toàn lại vừa có hiệu quả, nên một số ngân hàng đã đầu tư ra nước ngoài, đây là

một dấu hiệt không tốt vì do nhu cầu phát triển kinh tế chúng ta đang rất cần

một lượng vốn lớn, trong khi đó vốn của các ngân hàng lại đầu tư ra nước

ngoài. Nhà rước ta phải có một cơ chế chính sách hợp lý đê huy động tối đa

nguồn lực cho phát triển kinh tế của đất nước.

Tóm Ịại việc sử dụng vốn của các NHTMQD ở Việt nam đã có những

bước tiến đáng kể, dư nợ cho vay nền kinh tế không ngừng tăng lên, hoạt động

đa năng của các ngân hàng thương mại quốc doanh đã góp phần chuyển dịch

cơ cấu sử dụig vốn có triển vọng như : mở rộng dịch vụ cầm đồ, cho vay tiêu

dùng, thanh toán liên hàng điện tử, thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT,

thanh toán Mẻ tín dụng, cho vay đồng tài trợ, cho vay trả góp, cho thuê tài

chính, góp vốn liên doanh, mua cổ phần.. Cơ cấu tín dụng cũng được thay đổi

theo chiều lướng tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, với lợi thế là các

NHTM Nhà iước chủ lực, các NHTMQD đã tập trung vốn vào các dự án lớn,

các ngành kinh tế mũi nhọn, các Tổng công ty 90, 91.. để phát triển kinh tế.

Tuy nhiên Cc C NHTMQD vẫn còn có những hạn chế về việc sử dụng vốn như

hình thức sử iụng vốn còn nghèo nàn, chưa phong phú. Đối tượng, thời hạn và

46

phạm vi sử dụng vốn rất hạn hẹp, đối tượng khách hàng chủ yếu của các

NHTMQD vẫn là các Doanh nghiệp quốc doanh ( chiếm từ 70-80% tổng dư

nợ). Tốc độ chu chuyển vốn tín dụng chậm, chất lượng tín dụng thấp, độ an

toàn chưa cao. Mặt khác sự điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất huy động

vốn của Nhà nước chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế, gây

ứ đọng vốn cho các tổ chức tín dụng. Các Ngân hàng thường xuyên dùng

chính sách lãi suất ưu đãi để tranh giành khách của nhau, nhiều khi còn chạy

đua theo số lượng tín dụng nên đã thực hiện cho vay mà không xét đến lãi suất

đầu vào. Thị trường mở chưa phát triển, tổ chức đấu thầu kho bạc Nhà nước

rời rạc, khối lượng phát hành ít, lãi suất thấp do đó chưa hỗ trợ được nhiều cho

2.2.2 Hoạt động thanh toán

các tổ chức tín dụng nói chung và các NHTMQD nói riêng tìm đầu ra hợp lý.

Trong mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, ngoài nghiệp vụ tín

dụng, nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt đóng vai trò cực kỳ quan

trọng. Khối lượng và chất lượng của nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng

thương mại về phương diện vĩ mô góp phần thực thi hữu hiệu chính sách tiền

tệ- tín dụng của Nhà nước, còn về phương diện vi mô, nó tác động đến sự tãng

giảm nguồn tài nguyên khả dụng của ngân hàng và sự khai thác của nguồn tài

nguyên đó.

Khi khách hàng thiết lập mối quan hệ với ngân hàng qua việc ký gửi

tiền của mình, tức là đã đưa cho ngân hàng một loại hàng hoá đặc biệt để được

cung cấp- ngoài một số tiền lãi theo lãi suất quy định nếu có - một loạt các

dịch vụ nhằm :

- Đám bảo an toàn việc cất giữ và chi, thu nhanh chóng, thuận lợi, tức là

ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ : giữ gìn tiền cho khách hàng, cung cấp séc

cho khách hàng sử dụng thay vì dùng tiền mặt trong chi trả, chuyển tiền đi đến

các địa phương khác, trung gian báo đảm cho các bên liên hệ mọi nghiệp vụ

thanh toán, hạn chế mức thấp nhất các yếu tố bất trắc trong giao dịch kinh doanh.

- Ngân hàng giúp cho kế toán ngân quỹ của khách hàng được dễ dàng tức

là trong mọi nghiệp vụ về mặt kế toán như chi trả, chuyển tiền., ngân hàng phải

tố chức như thế nào để có được các tiện ích như : Thời gian nhanh chóng, không

làm ứ đọng tiền của khách, thực hiên các nghiệp vụ có giá trị to lớn mà bản

thân khách hàng nếu tự đứng ra thực hiện sẽ rất tốn kém và khó khăn .

47

- Ngân hàng làm luân lưu tiền tệ trong không gian và thời gian để sinh lời,

là nơi tập taing tiền thu góp và phân phát tiền vay mượn và trở thành một “chợ

tiền”, ai muốn đến góp tiền hay rút tiền đều thuận tiện. Do đó, lượng tiền bất

động, “tiền chết” trở thành sống động hơn, di chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ

khách hàng này sang khách hàng khác để phục vụ sản xuất kinh doanh

Để nhằm thực hiện tốt hoạt động thanh toán cho khách hàng các

NHTM thường sử dụng các phương tiện thanh toán sau: Séc, thư tín dụng, uỷ

nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ thanh toán..

Mỗi phương tiện thanh toán đều có công dụng riêng của nó, thích hợp

cho từng đối tượng và loại hình giao dịch thanh toán đa dạng và phong phú

của các chủ thê kinh tế và dân cư. Đưa ra một “ thực đơn” công cụ thanh toán

phong phú và hợp “ khẩu vị” cho công chúng vừa là nhiệm vụ, vừa là mục

đích kinh doanh và trọng điểm cạnh tranh của các ngân hàng.

Thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa kinh tế rất lớn thể hiện ở

T hứ nhất: Thanh toán không dùng tiền mặt thúc đẩy nhanh sự vận động

các khía cạnh sau:

của vật tư, tiền vốn trong nền kinh tế quốc dân, dẫn đến giảm thấp chi phí sản

T hứ hai : Trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, thanh toán không dùng tiền

xuất và lưu thông, tăng tích luỹ cho quá trình tái sản xuất.

mặt góp phần giảm thấp tý trọng tiền mặt trong lưu thông, do đó tiết kiệm

được chi phí lưu thông cho xã hội. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt

còn tạo ra sự chuyển hoá thông suốt giữa tiền mặt và tiền chuyển khoản. Cả

hai khía cạnh đó đều tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá và

T hứ ba : Đối với lĩnh vực tín dụng thanh toán không dùng tiền mặt tạo

điều hoà lưu thông tiền tệ.

khả năng tập trung nguồn vốn tín dụng vào hệ thống ngân hàng để đầu tư cho

T hứ tư : Thanh toán không dùng tiền mặt tạo những tiền đề kinh tế

phát triển kinh tế.

thuận lợi để ngân hàng kiểm soát các hoạt động kinh tế của các tác nhân kinh

tế với mục đích củng cố kỷ luật thanh toán, đảm bảo nguyên tắc thu chi tài

chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

Cho đến nay, việc sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt

trong khu vực dân cư của Việt nam vẫn chưa phát triển và phổ cập rộng rãi.

48

Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu của các

NHTMQD là các loại séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, ngân phiếu thanh toán.

Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt của các NHTMQD qua các năm

như sau: năm 1998 đạt 9 nghìn 200 tỷ đồng, năm 1999 đạt 11 nghìn 369 tỷ

đồng, năm 2000 đạt 12 nghìn 650 tỷ đồng và năm 2001 đạt 14 nghìn 956 tỷ

đồng tăng 18% so với năm 2000.

Ngoài việc sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt

nói trên, còn có một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được lưu

hành trên toàn thế giới và rất phổ biến ở các nước phát triển ngay từ những

năm 70, đó là thẻ thanh toán. Thẻ thanh toán ra đời, phát triển không phải

nhầm mục đích phục vụ cho các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, mà chính là

phục vụ cho nhu cầu cá nhân khách hàng một cách chủ động và nhằm sử dụng

các khoản tín dụng tiêu dùng. Thẻ thanh toán du nhập vào Việt nam tương đối

muộn và cho đến nay nó vẫn là một dịch vụ thanh toán tương đối mới, ít người

biết đến. Tại Việt nam, thẻ thanh toán quốc tế được du nhập vào năm 1990 và

lúc đó ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã tiên phong tiến hành triển khai

nghiệp vụ thanh toán thẻ thanh toán quốc tế. Đến nay đã có 14 ngân hàng tại

Việt nam triển khai dịch vụ này vì kinh doanh thẻ là một lĩnh vực đem lại

nhiều lợi nhuận. Sự đa dạng về thành phần sở hữu, cơ cấu tổ chức của các

ngân hàng đã làm cho thị trường thẻ trở nên sôi động, cạnh tranh diễn ra ngày

càng gay gắt trên cả hai lĩnh vực phát hành và thanh toán thẻ. Tuy vậy, theo

đánh giá của các Tổ chức thẻ Quốc tế và các chuyên gia ngân hàng tài chính

trong nước, thị trường thẻ Việt nam đang còn quá rộng lớn và đầy tiềm năng

cho các ngân hàng tiếp tục đầu tư và phát triển. Doanh thu thanh toán về thẻ

của các NHTM ở Việt nam qua các năm như sau: Năm 1998 đạt 127 triệu

USD, năm 1999 đạt 158 triệu USD, năm 2000 đạt 171 triệu USD, năm 2001

đạt 182 triệu USD. Trong các ngân hàng tham gia về lĩnh vực thanh toán thẻ

tín dụng quốc tế ở Việt nam hiện nay ngân hàng Ngoại thương là NHTMQD

đầu tiên và cũng là ngân hàng duy nhất chấp nhận 5 loại thẻ tín dụng quốc tế

tại Việt nam, có doanh thu về thẻ cao nhất đạt 86 triệu USD năm 2001 chiếm

47.5% thị phần thanh toán thẻ. Các NHTMQD khác mới chỉ bắt đầu triển khai

dịch vụ này nên doanh thu còn ở mức khiêm tốn.

49

Từ năm 2000 trở về trước trên thị trường Việt nam chỉ có 2 chi nhánh

ngân hàng nước ngoài có triển khai hệ thống giao dịch tự động ở quy mô nhỏ

là ANZ bank, HSBC bank. Đến năm 2001, các NHTM QD bắt đầu tham gia thị

trường giao dịch tự phục vụ ( self service), đây là dịch vụ áp dụng công nghệ

tiến tiến trên thế giới, thanh toán không dùng tiền mặt. Hiện nay có 7 ngân

hàng có đặt máy ATM trên cả nước với tổng số 90 máy ATM và 40 nghìn thẻ

ATM. Doanh số sử dụng thẻ qua hệ thống các máy ATM của các NHTMQD

tính đến 9/2002 là 1 nghìn 389 tỷ đồng. Con số này tuy không lớn nhưng điều

này cũng nói lên rằng mặc dù mới đi vào hoạt động nhưng thẻ thanh toán đã

được sự chấp nhận và hưởng ứng của khách hàng Việt nam trước việc áp dụng

công nghệ hiện đại trong lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt.

Trên cơ sở các phương tiện thanh toán được ngân hàng cung cấp, ngân

hàng tổ chức các dịch vụ thanh toán như : thanh toán chuyển tiền trong nước

và quốc tế, thanh toán séc du lịch, thanh toán nhờ thu, thanh toán tín dụng

chứng từ, chi trả kiều hối...

Tổng doanh số chuyển tiền thực hiện qua các NHTM QD trong năm gần

đây như sau : nãm 1998 đạt 7.98 tỷ USD, năm 1999 đạt 8.32 tỷ USD năm

2000 đạt 9.3 tỷ USD và năm 2001 đạt 10.59 tỷ USD. Trong đó Ngân hàng

Ngoại thương là ngân hàng chiếm vị trí hàng đầu trong việc chuyển tiền. Được

như vậy là do nghiệp vụ chuyển tiền qua mạng SWIFT của ngân hàng Ngoại

thương có độ chính xác, an toàn cao, mức phí hấp dẫn là một trong những

nhân tố quan trọng để các khách hàng tín nhiệm và thực hiện các giao dịch

chuyển tiền qua ngân hàng Ngoại thương. Đặc biệt từ tháng 4/1995 dịch vụ

chuyển tiền MoneyGram được đưa vào hoạt động, doanh số chuyển tiền qua

dịch vụ này ngày một tăng do giao dịch được thực hiện nhanh, thuận tiện, chủ

yếu phục vụ cho chuyển tiền kiều hối.

Phần lớn các NHTM Việt nam đều quá non trẻ, với tuổi trưởng thành

khoảng hơn 10 năm so với tuổi hàng trăm năm của các ngân hàng nước ngoài.

Mặt khác, trước năm 1990 hầu hết toàn bộ giao dịch thanh toán quốc tế của

Việt nam được độc quyền thực hiện qua ngân hàng Ngoại thương. Do đó so

với các ngân hàng nước ngoài, các NHTM Việt nam còn kém nhiều về kinh

nghiệm cũng như kiến thức trong thanh toán quốc tế. Cũng như các doanh

nghiệp Việt nam, các NHTM Việt nam đang phải đối phó với những thách

50

thức to lớn của tiến trình toàn cầu hoá và một thực tế là xu hướng hội nhập

khu vực và quốc tế. Cạnh tranh giữa các NHTM Việt nam với hệ thống các chi

nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh tại Việt nam ngày càng

gay gắt. Bên cạnh đó, hệ thống vãn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện nghiệp

vụ thanh toán quốc tế mang tính hệ thống còn thiếu, thậm chí là chưa có, các

NHTM tự tạo cho mình một quy trình riêng dựa trên cơ sở duy nhất là thông

lệ quốc tế -UCP500. Các quy trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế của

mỗi ngân hàng thương mại có sự khác nhau tuỳ theo trình độ và đặc điểm của

mỗi ngân hàng. Việc thiếu các văn bản pháp quy mang tính quốc gia, hoặc

văn bản không rõ ràng đã là một trong những nguyên nhân gây nên những vụ

tranh chấp kiện tụng về kinh tế ( phát sinh từ nghiệp vụ thanh toán quốc tế )

dây dưa kéo dài nhiều năm, toà án gặp khó khăn khi phán xử hoặc phán xử

thiếu chính xác, thiếu cơ sở pháp lý.

Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của các NHTMQD đều tăng qua

các năm. Năm 1999 đạt 25 nghìn 723 triệu USD, năm 2000 đạt 28 nghìn 625

triệu USD, năm 2001 đạt 30 nghìn 201 triệu USD. Thị phần thanh toán quốc tế

của các NHTMQD vẫn chiếm vị trí chủ yếu trên 70%. Tuy nhiên nhìn biểu

dưới đây ta thấy thị phần của 4 NHTMQD đã ngày càng giảm đi. Điều này

cho thấy rằng nếu những nhà quản lý tiền tệ ở Việt nam không xây dựng được

những lộ trình và chiến lược kiểm soát hợp lý thì các chi nhánh ngân hàng

nước ngoài sẽ dần dần chiếm lĩnh các vị trí then chốt trong thị trường tài

chính ở nước ta.[34];[35];[36];[37];[39];[40]

Biểu 1.4. C ư cấu thị phần thanh toán quốc tê trong hệ thống N H TM V N 2000

3 N H N T V N

37.8 %

NH CTV N

■ N H Đ T & P T V N

■ N H N o N & P T N T V N

■ N H TM khác

Nguồn NHNN/2001

51

Biểu 1.5.Doanh sô thanh toán quốc tế trong hệ thống NHTMVN 2000

Triệu USD

16000

14000

12000

10000

8000

6000

4000

2000

0

NHNT

NHCT

NHĐT&PT

NHNoN

NHTM khác

■ D o a n h số th an h loán

2.2.3 Hoạt động khác của N H TM

2.2.3.1 Dịch vụ uỷ thác

Việc sở hữu tài sản dẫn đến nhu cầu về các dịch vụ quản lý tài sản. Việc

quản lý tài sản cho người khác được thực hiện dưới nhiều hình thức và cách

sắp xếp khác nhau, đó là nghiệp vụ uý thác. Dịch vụ uỷ thác được các ngân

hàng quan tâm phát triển vào cuối những năm 40 dầu những năm 50 cuả thế

kỷ 20. Việc cung cấp dịch vụ uỷ thác làm nảy sinh mối quan hệ uỷ thác nghĩa

là một bên hoạt động cho lợi ích của bên kia trong phạm vi mối quan hệ của

họ, bao gồm việc nắm giữ tài sản được điều hành bởi người được uỷ thác vì lợi

ích của một bên hoặc các bên thứ ba. Dịch vụ của phòng uỷ thác có thể được

chia thành ba lĩnh vực chính: việc ấn định tài sản, việc điều hành các dịch vụ

uỷ thác, giám sát tài sản và hoạt động của các cơ quan đại diện.

Có thể chia nghiệp vụ uý thác làm hai loại : Nghiệp vụ uỷ thác đối với

cá nhân (thể nhân) và nghiệp vụ uỷ thác đối với các doanh nghiệp (pháp nhân).

52

A. Các dịch vụ uỷ thác thực hiện đối với cá nhân

* Quản lý tài sản theo chúc thư :

Thường một số người khi chết có để lại một chúc thư nói lên ý muốn

của họ liên quan tới việc phân chia tài sản, trong đó họ chỉ định người thực

hiện di chúc thường là phòng uỷ thác của ngân hàng .

Bổn phận cơ bản của một người quản lý tài sản hay thực hiện di chúc là

bảo vệ các tích sản, chi trả các chi phí điều hành và các khoản nợ, trả thuế,

phân phát tài sản và cung cấp các dịch vụ cá nhân cho các thành viên trong gia

đình. Nhiều trường hợp bộ phận uỷ thác còn phải thực hiện chức năng của

người quản lý tài sản.

* Quản lý theo hợp đồng ký kết

Người ta có thể giao cho người uỷ thác quản lý một số tài sản nhất định

bằng một chúc thư hay một hợp đồng uỷ thác khi họ đang sống. Người được

uỷ quyền được yêu cầu phải nắm giữ đầu tư, sử dụng lợi tức và vốn gốc phù

hợp với các điều khoản đã quy định trong hợp đồng. Trường hợp này hợp đổng

uỷ thác nhằm giúp người hưởng thụ bớt đi gánh nặng về trách nhiệm chăm lo

tài sản mà vẫn được hưởng lợi tức của tài sản. Người hưởng thụ ở đây có thể

bao gồm những người hoang phí không thể quản lý tài sản , trẻ em hoặc những

người không có năng lực thực hiện việc quản lý tài sản.

* Giám hộ và bảo quản tài sản cá nhân

Sự giám hộ và bảo quán thường được thiết lập bởi một phiên toà. Toà án

chỉ định người giám hộ và bảo quản tài sản cho những người thừa kế tài sản

nhưng đang ở tuổi vị thành niên hoặc những người thiếu năng lực pháp lý với

mục đích ngăn ngừa lãng phí tài sản, tiền bạc.

13. Dịch vụ uỷ thác đôi với doanh nghiệp

Dịch vụ uỷ thác đối với doanh nghiệp nhằm phục vụ cho các mục đích

trợ cấp hưu trí, phân chia lợi nhuận, chia tiền thưởng cổ phần cho phát hành

trái phiếu, cho mua lại các quỹ và trả lại các quỹ để thanh toán cho việc phát

hành trái phiếu uỷ thác thế chấp hoặc các giấy chứng nhận. Nhiều hoạt động

uỷ thác liên quan đến việc phát hành chứng khoán như chuyển nhượng quyền

sở hữu cổ phiếu, chi trả lãi cổ phần cho các cổ đông của công ty, chuyển

nhượng trái phiếu, chi trả lãi và vốn gốc bảo quản sổ sách.

53

Thực hiện dịch vụ quản lý quỹ hưu trí của các hãng tư nhân ngân hàng

phải tiến hành thu tiền, kiểm soát tính toán đầu tư vào chứng khoán. Thông

thường ngân hàng đầu tư khoảng 60% vốn của quỹ hưu trí vào cổ phiếu hoặc

trái phiếu của công ty tư nhân, phần còn lại đầu tư vào tín phiếu của Chính

phủ. Đầu tư vào trái phiếu Chính phủ tuy lãi suất thấp hơn nhưng khả năng

chuyên đổi thành tiền mặt nhanh hơn.

Thực hiện dịch vụ uỷ thác mang lại cho ngân hàng một số lợi thế như

bổ sung cho ngân hàng một nguồn thu nhập khá lớn từ khoản thu lệ phí và hoa

hồng uỷ thác hàng năm. Ở các nước phát triển khoản thu nhập này xấp xỉ 10%

thu nhập của ngân hàng. Mặt khác, tuy không phải bỏ đồng vốn nào nhưng

ngân hàng vẫn có thể thực hiện được việc kiểm tra ở mức khác nhau đối với

công ty và vốn của công ty. Thông qua hoạt động uỷ thác giúp ngân hàng

củng cố và duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng. Ngoài ra, nhờ có hoạt động

này nhiều ngân hàng đã vượt qua được những hạn chế trong lĩnh vực đầu tư

vốn. Bởi vậy, các nhà quản lý ngân hàng thương mại Mỹ đánh giá rất cao ý

nghĩa của nghiệp vụ uỷ thác và họ coi đây là chìa khoá mở ra các hướng hoạt

động mới của ngân hàng thương mại trong tương lai.

ở Việt nam dịch vụ uỷ thác chưa được phát triển và chú trọng, các

NHTMQD mới chỉ bắt đầu chú ý đến loại hình dịch vụ mới này trong mấy

năm gần đây, nhưng vẫn chỉ mang tính chất tham khảo, chưa được đầu tư và

nghiên cứu kỹ lưỡng, điều này cũng nói lên phần nào về sự nghèo nàn về

nghiệp vụ ngân hàng ở Việt nam.

2.2 3 .2 Dịch vụ tư vấn

Nhờ khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học, đặc biệt là hệ thống

thông tin rộng lớn, nhanh chóng, chính xác, bí mật đã tạo điều kiện giúp các

ngân hàng phát triển nhanh chóng dịch vụ tư vấn .

Hoạt động tư vấn là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng của họ

những lời khuyên tốt nhất, những hiểu biết sâu sắc nhất về những lĩnh vực mà

khách hàng yêu cầu. Nhờ những lời khuyên có chất lượng của ngân hàng mà

C Ư sở để dự đoán được những diễn biến của tình hình kinh tế xã hội ... Kết cục

khách hàng có được những thông tin đáng tin cậy chính xác dựa vào đó họ có

họ có thể xây dựng được những phương án sản xuất kinh doanh tối ưu, hoặc

có những quyết định kịp thời trong đầu tư hoặc trong sản xuất kinh doanh, từ

đó họ có thể giảm tối thiểu được rủi ro hay thiệt hại và đạt được mức lợi nhuận

tối đa.

54

Các ngân hàng lớn trên thế giới đã có nhiều thành công về nghiệp vụ tư

vấn đặc biệt là cung cấp tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy phải

đương đầu với nhiều hãng tư nhân nhưng thường thì ngân hàng thắng thế. Bởi

vì, một trong các mối quan tâm của người đầu tư nước ngoài là thanh toán qua

hệ thống ngân hàng. Thông qua hoạt động tư vấn khách hàng còn muốn tìm

hiểu xem ngân hàng sẽ phục vụ mình và các đối thủ khác trên thương trường

như thế nào. Mặt khác, đặc điểm kinh doanh riêng có của hệ thống ngân hàng

đã tạo cho nó những lợi thế hơn hẳn bất cứ ngành nào, doanh nghiệp nào ở các

lĩnh vực khác về khối lượng thông tin, chất lượng thông tin mà nó có được.

Do vậy, thật là sai lầm nếu một ngân hàng nào đó lại bỏ qua hay xem

nhẹ các hoạt động tư vấn, một dịch vụ ngân hàng chi phí ít nhất mà thu nhập

không nhỏ. Thu nhập của ngân hàng trong dịch vụ tư vấn không chỉ đơn thuần

là thu lệ phí phục vụ do khách hàng thanh toán mà qua nghiệp vụ này các

ngân hàng còn mở rộng khách hàng, củng cố và tăng cường vị trí và uy tín của

mình một cách nhanh chóng.

Tất nhiên để tăng được lòng tin của khách hàng đối với mình, ngoài

tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng các thành tựu khoa học tin học

hiện đại, ngân hàng còn phải không ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ tư

vấn. đảm bảo luôn luôn cung cấp cho khách hàng những lời khuyên chính xác

nhất, tin cậy nhất với tinh thần phục vụ tận tình chu đáo nhất.

ơ nước ta dịch vụ tư vấn của các ngân hàng còn rất mới mẻ, và chưa

được phát triển rộng rãi, các ngân hàng chưa thấy được tầm quan trọng của

lĩnh vực này, nên kết quả còn rất khiêm tốn. Tuy nhiên trong tương lai không

xa dịch vụ này sẽ mang lại nguồn lợi nhuận đáng kể cho các ngân hàng

thương mại ở Việt nam nếu chúng ta có sự đầu tư và quan tâm thích đáng cho

lĩnh vực này.

2 .2 3 .3 Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán

Một nền kinh tế thị trường muốn phát triển được phải có sự hỗ trợ đắc

lực của các thị trường vốn. Không chỉ phát triển thị trường vốn ngắn hạn mà

cần phải phát triển mạnh mẽ cả thị trường trung và dài hạn. Mỗi thị trường có

vị trí cũng như vai trò khác nhau đối với sự phát triển nền kinh tế mỗi nước.

Xu hướng hiện nay là có sự hoà nhập giữa hai thị trường vốn trên thực tế.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là sự cần thiết cho mạch máu của nền kinh

tế được lưu thông suốt, không ách tắc gián đoạn, không bị chia cất.

55

Cũng giống như các công ty khác, ngân hàng có quyền phát hành cổ

phiếu, để bổ sung nguồn vốn pháp định hoặc trái phiếu để tăng nguồn vốn

kinh doanh. Bằng phương pháp này ngân hàng có thể thu hút những nguồn

vốn khá lớn và ổn định, lâu dài với chi phí huy động thấp. Còn hiệu quả sử

dụng vốn này tuỳ thuộc vào quá trình hoạt động kinh doanh hay quá trình sử

dụng vốn của ngân hàng sau này.

Ỏ nước ta các NHTMQD đã thành lập công ty kinh doanh chứng khoán,

mặc dù giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán của các NHTMQD ở

Việt nam còn khiêm tốn, nếu không muốn nói là quá nhỏ bé, chỉ vào khoảng

228 tỷ đổng tính đến 30/06/2002. Tuy nhiên nó vẫn khẳng định hướng đi đúng

đắn của các ngân hàng thương mại Việt nam trong xu thế phát triển mới.

2.3 ĐÁNH GIÁ VỂ H O Ạ T ĐỘ NG CỦA CÁC N H T M Q D

2.3.1 N hững kết quả đã đạt được

Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống Ngân hàng thương mại

Quốc doanh ở Việt nam đã không ngừng lớn mạnh và góp phần quan trọng

vào những thành quả chung của công cuộc đổi mới của đất nước, đó là:

1- Với vai trò là lực lượng nòng cốt trong hệ thống các TCTD Việt nam,

trong suốt thời kỳ đổi mới hơn 10 năm qua các NHTMQD đã thực sự trở

thành chỗ dựa tin cậy không thể thiếu của các thành phần kinh tế, có những

đóng góp lớn lao trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện

với tốc độ khá cao và ổn định.

2- Góp phần tăng trưởng kinh tế và đóng góp đáng kể vào thành công

của sự nghiệp đổi mới kinh tế.

3- Huy động được một khối lượng vốn đáng kể trong và ngoài nước, thúc

đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế, coi trọng đầu tư tín dụng ưu

2.3.2 Hiệu quả hoạt động của các NHTM Q D

đãi để phục vụ xoá đói giảm nghèo và thực hiện một số chính sách xã hội.

Nhằm giảm thiểu chi phí, khi đánh giá chất lượng hoạt động của ngân

hàng và kết quả thực hiện các quy định pháp lý, các Ngân hàng Trung ương

thường thông qua một hệ thống chỉ tiêu tài chính nhất định. Hệ thống chỉ tiêu

này cho phép đưa ra những kết luận nhanh chóng và chính xác về tình hình tài

56

chính của NHTM, cụ thể là mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động ngân hàng.

Quá trình đánh giá này thường được bất đầu bằng việc xem xét mục tiêu lựa

chọn và kết quả thực hiện mục tiêu đó. v ề cơ bản, mỗi ngân hàng có mục đích

riêng, một số ngân hàng coi trọng mục tiêu phát triển dài hạn, số khác ưu tiên

giảm thiểu rủi ro và tăng cường sức mạnh của ngân hàng. Nhìn chung, các

ngân hàng có thiên hướng quan tâm đến giá trị của tài sản-mục tiêu cơ bản của

ngân hàng, mục tiêu này được đặt lên trên tất cả các mục tiêu khác. Nếu tài

sản không tăng tới giá trị như các cổ đông kỳ vọng thì các nhà đầu tư có thể

rút vốn cổ phần và ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc tăng vốn để hỗ trợ

tăng trưởng.

Như vậy, hệ thống chỉ tiêu tổng hợp nhất là các chỉ tiêu tài chính đánh

giá hiệu quả kinh doanh và tính an toàn trong hoạt động của các NHTM, bao

gồm các chỉ tiêu sau :

2.3.2.1 Khả năng thanh khoản

Khả năng thanh toán của các NHTM được đặc trưng bởi 2 chỉ tiêu :

1. Khả năng thanh toán tức thì (quick liquydity ratio-QL)

QL = Tiền mặt tại quỹ/Tổng tài sản nợ ngắn hạn

2. Khả năng thanh toán hiện hành (current liquydity ratio-CRL)

CRL = Tổng tài sản có ngắn hạn/ Tổng tài sản nợ ngắn hạn

Khả năng thanh toán hiện hành và khả năng thanh toán tức thì của các

NHTMQD từ năm 1998-2000 được thể hiện qua bảng tính sau:

1998-2000

Bảng 5 : Khả năng thanh khoản của các NHTMQD

Tỷ lệ thanh toán tức thì

Tỷ lệ thanh toán hiện hành

Tên ngân hàng

1999

2000

1999

2000

NHCT

0.04

0.01

0.7

0.76

NHN0

0.05

0.03

0.98

1

0.02

NHĐT&PT

0.61

0.006

0.6

NHNT

0.01

0.006

0.36

0.44

Nguồn NHNN/2001

57

Năm 1999-2000 là thời điểm Chính phủ cùng với NHNN trực tiếp can

thiệp vào việc xử lý các khoản nợ không hiệu quả tại các NHTM nhằm đảm

bảo an toàn hệ thống, giải quyết dứt điểm các khoản nợ khó đòi kéo dài hàng

nhiều năm, không có cơ hội thu hổi nhằm hạn chế rủi ro thanh toán cho các

NHTMQD. Những biện pháp can thiệp nhất định đã phần nào làm thay đổi

diện mạo khả năng thanh toán của các ngân hàng, song nhìn chung kết quả đạt

được vẫn không được như mong muốn. Nhìn vào bảng số liệu tính toán trên

chúng ta có thể thấy rằng Khả năng thanh toán tức thời của các ngân hàng còn

quá thấp, không đủ để đáp ứng 10% tổng dư nợ ngắn hạn.

Chỉ tiêu thứ hai-Khả năng thanh toán hiện hành là chỉ tiêu được nhiều

người quan tâm nhất đã không thể vượt quá 1 là mức tối thiểu theo quy định

của NHNN đối với các NHTM. Đặc biệt là chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh

toán hiện hành của NHNT ở mức rất thấp ( nhỏ hơn 50%). Nguyên nhân cơ

bản dẫn đến tình trạng trên là do tốc độ tăng trưởng của tài sản có ngắn hạn

thấp hơn tốc độ tăng trưởng của tài sản nợ ngắn hạn. Phần lớn các ngân hàng

sử dụng một phần vốn huy động ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu cho vay dài

hạn mà các khoản vay dài hạn thường có rủi ro cao và nếu các ngân hàng vẫn

tiếp tục duy trì tình trạng trên trong một thời gian dài thì tất yếu sẽ dẫn đến sự

xáo trộn trong hoạt động, không đảm bảo an toàn cho hệ thống, nhất là trong

điều kiện rất nhậy cảm của môi trường tài chính tiền tệ hiện nay.

2 3 .2 .2 Khả năng sinh lời

Khả năng sinh lời của một ngân hàng được đặc trưng bởi 2 chỉ số : lãi

trên vốn tự có (ROE) và lãi trên tài sản có (ROA)

Bảng 6 :Lãi trên vốn tự có (ROE)

Tên Ngân hàng

1998 (%)

2000 (%)

1999 (%)

N H N o & P T N T

5,3

3,8

4,4

NHNT

10,6

6,5

9,8

N H Đ T & PT

6,5

7,6

4,2

NHCT

5,0

6,4

5,7

Nguồn: NHNN 2001

58

Từ năm 1998-2000, tỷ lệ ROE của các NHTMQD có chiều hướng gia

tăng đều qua các năm. Tuy nhiên, nếu lấy lãi suất tiền gửi tiết kiệm 8% /năm

làm chi phí cơ hội thì ngoài ngân hàng Ngoại thương, chỉ số ROE của các

ngân hàng khác đều nhỏ hơn 8%, và điều đáng nói là các chỉ số ROE này thấp

hơn rất nhiều so với chỉ số ROE bình quân trong khu vực vào thời điểm so

sánh - chỉ số ROE bình quân của các nước trong khu vực là 14.6%. Điều đó

chứng tỏ rằng khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của các NHTMQD

ở Việt nam còn rất thấp.

Nguyên nhân chính để giải thích cho tình trạng này chính là sự đơn điệu

trong hoạt động đầu tư tại các NHTMQD. Hoạt động huy động vốn để cho

vay vẫn là hoạt động chính yếu của các NHTM Việt nam, nguồn thu nhập từ

hoạt động này đóng vai trò chi phối đối với thu nhập ròng cuối cùng của các

ngân hàng. Chính vì vậy khi hoạt động tín dụng trở nên kém hiệu quả thì ngay

lập tức đã kéo theo sự sa sút của lợi nhuận ròng. Nnguồn thu nhập từ các hoạt

động khác theo mô hình ngân hàng thương mại hiện đại là rất nhỏ bé, không

thể bù đắp được sự giảm sút của nguồn thu nhập chính

Bảng 7: Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản có của các NHTMQD 1998-2000

Chỉ tiêu ROA (%)

Tên Ngân hàng

1998

1999

2000

0,26

0,17

NHCT

0,16

0,5

N H N o & PTNT

0,33

0,17

0,39

N H Đ T & PT

0,23

0,21

NHNT

0,5

0,28

0,22

Nguồn: N H N N 2001

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước cấp đã nhỏ hơn chi phí cơ hội và

thấp hơn rất nhiều so với khu vực (trên 3%) nên tình trạng tỷ suất lợi nhuận

trên tổng tài sản cũng trở nên xấu đi. Tỷ lệ ROA của cả 4 NHTMQD đều có

xu hướng giảm từ năm 1998-2000. Như đã đề cập ở trên, mặc dù thu nhập

ròng của các NHTMQD đều có gia tăng nhẹ, song mức gia tăng này lại thấp

59

hơn rất nhiều so với mức gia tăng của tài sản có. Hiện trạng này một lần nữa

khẳng định hiệu quả đạt được của hoạt động kinh doanh hiện tại của các

NHTMQD còn rất thấp.

2 3 .2 .3 Chi ph í và hiệu suất lĩoạt động

Tổng chi phí là một yếu tố quyết định đến kết quả cuối cùng của một

doanh nghiệp và ngân hàng cũng không phải là một ngoại lệ.

Chi phí và hiệu suất hoạt động của một ngân hàng đựợc đặc trưng bởi 2

chỉ số : tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập ròng và tỷ lệ tài sản có trên một

cán bộ công nhân viên. Nhìn vào bảng số liệu sau, có thể nhận thấy rằng tổng

chi phí so với tổng thu nhập tại mỗi NHTMQD còn rất cao. Trong đó chủ yếu

là chi phí cho nghiệp vụ chính- đi vay để cho vay

Bảng 8 : Cơ cấu chi phí của các NH TM QD

Tổng chi phí/Tổng thu nhập (%)

Tổng chi trả lãi/Tổng thu nhập (%)

Tên Ngân hàng

1999

2000

2000

1999

NHNo & PTNT

96

92

67

53

NHNT

93

94

70

67

NHĐT& PT

97

96

78

75

NHCT

98

97

88

76

N guồn: N H N N /2 00I

Bảng 9 : Chi phí và hiệu suất hoạt động của các NHTM QD (1999-2000)

Tài sản có/Một CBCNV

Chi phí hoạt động/Tổng tài sản (%)

(Tỷ đồng)

Tên ngân hàng

1999

2000

1999

2000

NHCT

9.7

6.8

3.8

4.48

NHNo&PTNT

10.4

8

1.93

2.49

NHĐT&PT

9.98

7.06

10.99

10.64

NHNT

4.9

4.23

17.56

23.1

Nguồn N HNN/2001

60

Mức chi phí cao đã dẫn đến thu nhập thuần tuý của các NHTMQD rất

thấp, cho dù đây là những ngân hàng có tổng thu nhập cao nhất trong hệ thống

ngân hàng. Điều này đã hạn chế khả năng tăng vốn và mở rộng hoạt động kinh

doanh của các ngân hàng. Tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng tài sản có tại các

ngân hàng đã giảm xuống, năm 2000 bình quân mức chi phí này chiếm

6.5%trong tổng tài sản có, trong khi tỷ lệ này tại Malaysia là 2.2% và từ 1-2%

ở các nước công nghiệp phát triển OECD. Tỷ lệ này cao gấp 2.5-4.5 lần so với

chênh lệch lãi suất mà các ngân hàng thu được từ các khoản cho vay. Nhân tố

có ảnh hưởng đến độ lớn của mức chi này là số lượng nhân viên của các ngân

hàng. Số lượng nhân viên trong các NHTMQD trong các năm qua đã không

ngừng lãng, tiếp theo phải kể đến các chi phí về quản lý, mức chi này trong

những năm qua là khá cao, đã làm tăng chi phí hoạt động của ngân hàng. Điều

này đặt ra yêu cầu cấp bách là phải hiện đại hoá và sử dụng có hiệu quả hơn

nữa công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất lao động và tiết kiệm chi phí.

Tỷ lệ tài sản có trên một cán bộ công nhân viên của các NHTMQD Việt

nam cũng thấp xa so với tý lệ ở các nước này trong khu vực. Điều này phản

ánh mức độ áp dụng công nghệ hiện đại trong các ngân hàng còn thấp, lạc

hậu. Mạng lưới chi nhánh của các Ngân hàng rộng nhưng hoạt động kém hiệu

quả, ảnh hưỏng xấu đến kết quả kinh doanh.

Tóm lại chi phí cao là yếu tố cơ bản hạn chế khả năng sinh lời của các

NHTM, chính vì thế mà tỷ lệ ROE, ROA tại các NHTMQD còn rất thấp

2 .3 2 .4 Mức độ rủi ro

Để thấy được mức độ rủi ro của các NHTMQD cần xem xét các chỉ số:

Vốn tự có trên tài sản có và nợ quá hạn

Bảng 10: Tỷ trọng vốn tự CÓ/Tổng tài sản của các NHTMQD

(tính đến 31/12/2001)

Tỷ lệ vốn tự có/Tài sản có (%)

Tên ngân hàng

1998

1999

2000

NHCT

3.9

3.7

3.16

NHNo&PTNT

8.02

6.3

4.7

NHĐT&PT

5.13

4.2

5.23

NHNT

4.27

3.97

4.26

Nguồn NHNN/200J

61

Tỷ lệ vốn tự có / tổng tài sản có để đánh giá năng lực thanh toán của

một ngân hàng đối với những người gửi tiền. Qua số liệu cho thấy tỷ lệ vốn tự

có trên tài sản có của các NHTMQD là thấp , mức độ rủi ro cao.

Vốn tự có thấp là nguyên nhân làm tăng mức độ rủi ro của các

NHTMQD ở Việt nam, hạn chế khả năng thanh toán. Điều đáng nói là cho tới

nay vẫn chưa xác định được cơ chế để tăng vốn tự có của các NHTM Việt

nam. Đối với các NHTMCP, khi quy mô kinh doanh tăng lên, đại hội cổ đông

có thể đưa ra nghị quyết đề nghị NHNN cho phép phát hành cổ phiếu đê tăng

vốn cổ phần. Với mức gia tăng tín dụng trung bình 20%/năm, việc tăng vốn tự

có của các NHTMQD là vấn đề khó khăn, ngoài việc tạo điều kiện để bán

nhanh nợ có tài sản thế chấp đang tồn đọng, khoanh nợ, xoá nợ và đề nghị

Chính phủ bổ sung nguồn vốn cho các NHTMQD, trong khi ngân sách nhà

nước đang bội chi và nợ nước ngoài sắp đến hạn trả.

Mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn thể hiện ở tình trạng nợ

quá hạn và nợ tồn đọng. Hiện nay nợ quá hạn và tổn đọng ở các NHTMQD rất

lớn, đang là nguy cơ đe dọa sự an toàn của hệ thống. Tính đến ngày

31/12/2000, tổng nợ quá hạn của 4 NHTMQD là 14 688.9 tỷ đổng, chiếm

11.2% trong tổng dư nợ. Các khoản nợ khoanh của các NHTMQD đều gia

tăng (trừ ngân hàng Ngoại thương nợ khoanh giảm 5.4% so với năm 1999),

NHCT tăng 5.9%, NHNO tăng 41.9%, NHĐT&PT tăng 21.5% so với năm

1999.

Mội điều đáng nói là tỷ lệ nợ khó đòi trong tổng nợ không có hiệu quả

ở các NHTMQD là rất cao, chiếm 75%. Hầu hết chủ nhân của các khoản nợ

quá hạn là các DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài, không có khả năng thanh toán.

Mặt khác phần lớn các khoản vay đều không có tài sản thế chấp, chủ yếu các

khoản vay được đáp ứng trên cơ sở tín chấp, hoặc cho vay theo chỉ định của

Chính phủ, vì thế cơ hội để thu hồi lại các khoản nợ này là rất thấp.

Trong thời gian qua, nhìn nhận được những tác động tiêu cực của các

khoản nợ không hiệu quả đang ngày một gia tăng, cùng với sự chỉ đạo của

NHNN, từng NHTM đã tự nghiên cứu triển khai phương thức giải quyết các

khoản nợ không hiệu quả trong bản thân mỗi ngân hàng. Các ngân hàng đã

thận trọng và chặt chẽ hơn trong việc cung cấp các khoản tín dụng mới cho

nền kinh tế, đã dự đoán và thiết lập quỹ dự phòng rủi ro ( tuy nhiên các khoản

dự phòng này vẫn còn thấp xa so với số nợ quá hạn trong các ngân hàng) từng

62

bước thực hiện các biện pháp tình thế như khoanh nợ và giãn nợ (theo quyết

định số 445 ngày 5/11/1998 của Thống đóc NHNN Việt nam). Ngân hàng nhà

nước đã cung cấp vốn cho các NHTMQD để giải quyết các khoản nợ không

hiệu quả, song nhìn chung các nguồn vốn này vẫn còn hạn chế, các NHTM

vẫn phải tự dùng nguồn vốn huy động của mình để khoanh nợ. Với các

phương thức này các NHTMQD đã dần hạn chế được nợ quá hạn của các

khoản vay cũ vẫn tiếp tục phát sinh.

Nhìn chung, tỷ lệ nợ không có hiệu quả hiện đang tổn tại trong mỗi

NHTMQD nói riêng và trong hệ thống NHTM nói chung là khá cao. Điều đó

phản ánh sự không lành mạnh về tình hình tài chính của các NHTM. Chất

lượng tín dụng tại các NHTMQD là quá thấp và rủi ro tín dụng cao. Vì vậy để

tổn tại và phát triển các NHTMQD phải tìm ra các giải pháp hữu hiệu để ngân

chặn tình trạng này

Tóm lại, sau khi phân tích các số liệu được phản ánh các chỉ tiêu tài

chính từ năm 1998-2000, có thể nhận thấy rằng tình hình tài chính của các

NHTMQD không lành mạnh , còn có nhiều điểm yếu kém cụ thể là:

. Một là hiệu quả hoạt động thấp

. Hai là khả năng thanh khoản yếu kém .

. Ba là chất lượng tín dụng thấp -tỷ lệ nợ quá hạn cao.

. Bốn là không đảm bảo an toàn về vốn, cụ thể là vốn tự có /tổng tài sản thấp.

So với các nước trong khu vực, những yếu kém về mặt tài chính của các

NHTMQD là tương đối lớn. Tỷ lệ nợ không có hiệu quả trong các ngân hàng

cao hơn rất nhiều, khả năng thanh khoản và vốn tự có rất thấp.. Hiện nay nếu

không có sự bao cấp của Chính phủ thì chắc chắn hệ thống NHTM Việt nam

sẽ khó mà có thể tổn tại được. Sự đổ vỡ của quỹ tín dịng nhân dân vào những

năm 90, việc lấn sân của các ngân hàng nước ngoài trên thị trường tín dụng

Việt nam hiện nay là những minh chứng điển hình cho sự rạn nứt ban đầu của

2.3.3 N hững nguyên nhân dẫn đến những tồn tại của các NHTMQD

hệ thống tài chính Việt nam.

2.33.1 Về phía các NHTMQD

63

- Phần lớn các NHTMQD đều thiếu một chiến lược kinh doanh hiệu quả

và bền vững. Nhiều quyết định kinh doanh còn hời hợt, đôi khi chỉ dựa vào lợi

ích ngắn hạn. Chính vì thế chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ của môi trường kinh

doanh cũng có thể làm phát sinh các khoản nợ lớn đối với ngân hàng.

- Lực lượng cán bộ viên chức trong các ngân hàng là quá lớn dẫn đến

chi phí hoạt động cao, nhưng hiệu quả thu được là rất thấp. Trình độ nghiệp vụ

của các cán bộ tín dụng và các nhà quản lý còn có nhiều hạn chế. Việc thẩm

định các dự án cho vay tín dụng còn đơn điệu, nên dễ dẫn đến sự thiếu chính

xác trong việc đánh giá tính khả thi. Việc phân loại và quản lý thu hổi nợ còn

yếu kém, đôi lúc còn thiếu tính quyết đoán, nên thường dẫn đến việc nhầm lẫn

trong việc quản lý nợ, làm gia tăng các khoản nợ quá hạn, phản ánh khônh sát

thực tình trạng nợ quá hạn trong mỗi ngân hàng.

- Một số biện pháp quản lý như khuyến khích doanh số, tách rời quy

trình thu lãi và nợ gốc lệ thuộc một cách máy móc vào quy định về thế chấp

bảo lãnh và những quy định hành chính khác nên đã hạn chế rất lớn việc quản

lý rủi ro tín dụng vốn là nghiệp vụ quan trọng bậc nhất của các NHTM

- Rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng nhìn chung là rất cao. Ở

nước ta rủi ro này phát sinh là do các khách hàng lớn của các NHTM chủ yếu

là các DNNN. Họ luôn dựa vào sự bảo trợ của Nhà nước, coi dịch vụ ngân

hàng như là dịch vụ công ích. Ngoài ra sự thiếu minh bạch trong hệ thống luật

pháp, việc không tách bạch giữa mục tiêu kinh doanh và mục tiêu chính sách

trong hoạt động tín dụng đã làm cho các ngân hàng luôn bị động, trách nhiệm

không rõ ràng và rất khó kiểm soát. Đặc biệt một số cán bộ quản lý và điều

hành đã cố tình vi phạm nguyên tắc, chế độ để tham nhũng đã gây nên những

thất thoát lớn cho hệ thống ngân hàng, là những nguyên nhân chính làm gia

tăng rủi ro đạo đức trong hệ thống ngân hàng Việt nam.

- Tinh trạng cạnh tranh quá mức trên tùng địa bàn nhỏ do việc mở nhiều

chi nhánh theo địa giới hành chính đã dẫn đến chính sách khách hàng không

hợp lý, buộc phải tăng biên chế vì lực lượng cán bộ tín dụng quá tải, chi phí

nghiệp vụ cao và hiệu quả thấp trong hầu hết các NHTM QD

64

- Hoạt động kiểm soát nội bộ còn yếu kém thiếu tính độc lập. Hệ thống

kế toán không đạt chuẩn mực quốc tế, thông tin lạc hậu là những trở ngại rất

lớn cho việc nâng cao chất lượng quản lý và áp dụng công nghệ hiện đại.

- Các NHTM còn lệ thuộc một cách quá máy móc vào các quy định về

thế chấp , bảo lãnh và những quy định hành chính khác.

2 3 3 2 Về phía Ngân hàng Nhà nước

- Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp quá sâu vào quy trình nghiệp vụ của

các Ngân hàng thương mại ( tín dụng, bảo lãnh, kế toán, sử dụng quỹ dự

phòng..) thông qua một số các văn bản pháp lý ban hành. Điều này đã hạn chế

đáng kể tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng. Các văn bản pháp

lý do Nhà nước ban hành còn thiếu động bộ, thiếu một khuôn khổ pháp lý

đảm bảo cho hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động an toàn.

- Chưa có một cơ quan phân tích, đánh giá hiệu quả và dự báo xu hướng

phát triển của các ngân hàng một cách độc lập, đảm bảo nhanh và chính xác

đê điều chỉnh các quy định và biện pháp giám sát một cách kịp thời.

- Hoạt động thanh tra của NHNN trùng lặp, thiếu tính độc lập nên

khỏng kịp thời phát hiện và xử lý khách quan các vụ vi phạm. Mô hình tổ chức

thanh tra của NHNN cổng kềnh, tốn kém và không hiệu quả, đặc biệt là việc

tiến hành thanh tra thường xuyên tại chi nhánh của các NHTM ( thay vì thanh

tra chủ yếu tại hội sở chính ở trung ương) đã làm giảm trách nhiệm và hiệu lực

của các cơ quan kiểm soát, kiểm toán nội bộ cũng như HĐQT và ban điều

hành của các NHTM.

- Các công cụ của chính sách tiền tệ còn lạc hậu, mang nặng tính hành

chính, dễ thay đổi ngoài dự kiến của các đối tượng điều chỉnh ( mặc dù đầu

quý II năm 2000 NHNN đã đưa vào áp dụng các công cụ chính sách tiền tệ

mang tính thị trường như lãi suất cơ bản và nghiệp vụ thị trường mở nhưng cả

hai công cụ này vẫn còn rất sơ khai, chưa thể có tác động hữu hiệu đối với vốn

khả dụng của các NHTM). Đây cũng là một trong những cản trở lớn cho việc

xây dựng một chiến lược kinh doanh ổn định và vững chắc của các

NHTMQD.

- Hệ thống thống kê, kế toán, kiểm toán và thông tin tài chính toàn

ngành còn yếu kém và chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Đây là công cụ

quản lý, chỉ đạo rất quan trọng để NHNN giám sát toàn bộ hệ thống

65

2.3.3.3 Về phía khách hàng

- Phần lớn khách hàng của NHTMQD là doanh nghiệp Nhà nước, hiệu

quả kinh doanh thấp. Ngoài doanh nghiệp nhà nước, khách hàng của các

NHTMQD ngày càng đa dạng từ nhiều thành phần kinh tế. Trong đó có một

bộ phận khách hàng ít hiểu biết về pháp luật, thiếu năng lực quản lý, đạo đức

kinh doanh yếu. Hiện tượng bao cấp, đầu cơ, lừa đảo và gian lận trong quan hệ

tín dụng cũng như hoạt động thương mại còn khá phổ biến.

- Doanh nghiệp nhà nước là khách hàng của NHTM QD có cùng quan

hệ sở hữu, tuy đã hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng vẫn mang đậm tính

chất bao cấp, ỷ lại, hiệu quả thấp.

- Một số DNNN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất thay thế nhập khẩu

như xi măng, mía đường, phân bón, sắt thép, cơ khí... có thể có hiệu quả trước

mắt do được bảo hộ mậu dịch, nhưng về lâu dài thì rất dễ bị tổn thương do

việc cắt giảm hàng rào thuế quan và tăng cường sử dụng các biện pháp phi

thuế quan. Các khoản cho vay và bảo lãnh dài hạn từ những chương trình này

có thể rủi ro lớn và sẽ là nguy cơ bất ổn cho các NHTM QD trong những năm

- Môi trường kinh doanh và đầu tư ở Việt nam thiếu ổn định, rủi ro khá

lớn. Khối lượng tài sản thế chấp có khả năng phát mại thấp, gây khó khăn cho

việc thu hổi nợ

- Cơ chế chính sách về bù lãi suất, bù đắp các khoản nợ khoanh hoặc

2.3.3.4 Các nguyên nhân về phía cơ c h ế chính sách

xoá nợ không đáp ứng kịp thời các nghiệp vụ phát sinh, gây tổn thất lớn nguồn

vốn ngân hàng và làm giảm hiệu quả hoạt động của các NHTM.

- Cơ chế bao cấp còn khá đậm nét trong nhiều chính sách của Nhà nước

đối với hoạt động ngân hàng (nhất là chính sách tín dụng nông thôn, tín dụng

với DNNN và tín dụng với Ngân sách Nhà nước). Chưa có sự tách bạch rõ

ràng giữa hoạt động tín dụng chính sách với hoạt động tín dụng thương maị cả

về nghiệp vụ lẫn mô hình tổ chức.

- Nhiều trường hợp sự thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước

đã trực tiếp tạo ra các khoản nợ xấu cho NHTMQD nhưng việc bù đắp chưa

66

kịp thời ( như di dân làm chương trình quốc gia, đóng cửa rừng, tăng giá một

số hàng hoá độc quyền của Nhà nước v.v)

- Mô hình tổ chức và quản lý các DNNN nói chung và các NHTMQD

nói riêng chưa được giải quyết cơ bản như trách nhiệm và quyền hạn thực tế

của Hội đổng quản trị và Ban điều hành, quyền tự chủ ra các quyết định kinh

doanh, tự chủ về tổ chức, nhân sự, tài chính, đầu tư, phân phối thu nhập, khen

thưởng xử phạt vật chất. Đây là những nguyên nhân chủ yếu làm xói mòn

động lực và hạn chế hiệu quả hoạt động của các NHTMQD.

- Chế độ thanh tra, kiểm soát hoạt động ngân hàng còn nhiều đầu mối,

nhiều lượt kiểm tra, thanh tra với các khía cạnh, góc nhìn khác nhau đã làm

giảm lòng tin của dân chúng vào ngân hàngvà gây trở ngại lớn cho hoạt động

kinh doanh.

- Chưa có chính sách cụ thể của Nhà nước về đảm bảo an toàn vốn vay

và trích lập dự phòng rủi ro chuẩn xác. Việc xử lý các tài sản thế chấp để thu

hồi vốn diễn ra còn chậm chạp và ngân hàng luôn là người phải gánh chịu các

thiệt hại nhiều nhất.

Trên đây là những nguyên nhân cơ bản có ảnh hưởng tới hoạt động của

các NHTM Việt nam. Thực trang tài chính hiện tại của các ngân hàng đã có

ánh hưởng không tốt đến vị thế của các ngân hàng trên thị trường tài chính và

sẽ làm xói mòn giá trị của các ngân hàng trong tương lai.

Thực tế trên đòi hỏi phải có những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt

động của các NHTMQD, đảm bảo cho các ngân hàng có thể theo kịp các xu

hướng phát triển và có thể đương đầu với những thách thức mới trong quá

trình hội nhập.[l];[2];[3];[5];[46]

67

CHƯƠNG 3:

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NHTMQD

ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

3.1 BỐI CẢNH KINH TÊ XÃ HỘI VÀ NHŨNG ĐÒI HỎI Đ ố i VỚI HỆ THỐNG

NHTM ở VIỆT NAM

3.1.1 Bôi cảnh kinh tê hiện nay và yêu cầu đặt ra đôi vói hệ thông

NHTM QD [17];P8];[42];[35];[38];[46]

3.1.1.1 Bối cánh kinh tế trong nước và quốc tế

Nền kinh tế Việt nam đang phát triển trong vòng xoáy của xu hướng hội

nhập và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế. Hơn bao giờ hết, vào những năm cuối

của thiên niên kỷ vừa qua các hiện tượng đột biến ở hầu hết các lĩnh vực kinh

tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị và thiên nhiên môi trường đã diễn ra mạnh mẽ

trên quy mô toàn cầu với tốc độ nhanh chóng. Thế giới đang đứng trong một

chuyên động “Brao” mạnh mẽ bao gồm sự đan xen của nhiều nhân tố : thách

thức và thời cơ, nguy cơ và triển vọng, đa cực và hội nhập, vừa có những xung

đột vũ trang chớp nhoáng, vừa có những không gian rộng lớn của trào lưu thị

trường hoá chiến trường trong một xu thế toàn cầu hoá và cạnh tranh khốc liệt

Trong bối cảnh đó, nền kinh tế VN nói chung, hệ thống ngân hàng Việt nam

nói riêng đang vận động với những thách thức và thời cơ chủ yếu sau đây:

* Cơ hội:

Chúng ta đang phát triển kinh tế trong điều kiện được tiếp cận và thừa

hưởng một nền văn minh công nghệ ở thế hệ thứ 5 của thế giới -trong đó có

vãn minh tiền tệ, đang vận hành một nền kinh tế theo cơ chế thị trường đã

từng tồn tại và phát triển hàng trăm năm trên thế giới và trong thực tế, chúng

ta đã có hơn 10 năm kinh nghiệm bao gồm cả những bài học rút ra từ những

thất bại và cả những bài học rút ra từ thành công. Sau những khuynh đảo chính

trị, xã hội của nhiều nước XHCN và sự xâm thực của cuộc khủng hoảng tài

68

chính khu vực, chúng ta vẫn giữ được nền tảng chính trị ổn định, tránh được

những cú sốc đã từng trở thành nguy cơ không chí trên lĩnh vực an ninh, chính

trị, xã hội mà cả trong cơn lốc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực. Nhịp độ

tăng trưởng tuy có giảm về số tương đối nhưng vẫn tăng về giá trị tuyệt đối

của 1% GDP, vẫn kìm giữ lạm phát ở mức dưới hai con số và đặc biệt là đã

thoát khỏi sự bao vây, cấm vận về kinh tế, ngoại giao, chính trị....Đối thoại và

hội nhập với mọi thiết chế kinh tế, chính trị được mở rộng nhưng vẫn giữ

được quyền độc lập tự chủ của một quốc gia thống nhất có chủ quyền.

Sau hơn 10 năm đổi mới, đời sống nhân dân nói chung đã tăng hơn 2

lần. GDP tăng trưởng bình quân giai đoạn 1986-1990 là 4%. Trong giai đoạn

1991-1995 GDP tăng bình quân 8.2%/năm. Các năm 1998-1999 do khủng

hoang tài chính khu vực, có tác động xấu đến kinh tế Việt nam nên GDP có

giảm 5.8% (1998) và 4.7% (1999)

Năm 2001 nền kinh tế lại phục hổi GDP tăng lên 6.7%. Đây là một điều

đáng phấn khởi và tự hào vì từ một nền kinh tế tiểu nông, tự cấp tự túc, khép

kín và thiếu đói triền miên trước 1986, sau hơn 10 năm đổi mới kinh tế VN đã

phát triển mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường trong

nước và mở cửa ra thế giới. Hiện nay hàng hoá sản xuất từ các doanh nghiệp,

các tổ hợp và từ các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế Việt nam đã

có mặt ở hơn 120 thị trường các nước trên thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu

tăng bình quân hơn 20%/năm, đến nay đã đạt con số gần 10 tỷ USD năm

1998, 11,52 tỷ USD năm 1999, trong đó lần đầu tiên các thành phần kinh tế

ngoài quốc doanh đã làm ra hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu (6,93

tỷ /11,52 tỷ), 14,3 tỷ USD năm 2000 và năm 2001 là 16,1 tỷ USD. Cùng với

quá trình 10 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế Việt nam cũng đang chuyển mạnh từ

công thức : nông nghiệp -dịch vụ-công nghiệp sang công thức : dịch vụ-công

nghiệp-nông nghiệp:

Bảng 11 : Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước trong 4 năm (% /GDP)

69

Năm

2000

1997

1998

1999

Cơ cấu

Cơ cấu ngành:

25,0

27,0

25,0

24,5

Nông nghiệp

34.5

30,1

30,0

33,3

Công nghiệp

40,5

42,0

45,0

42,2

Dịch vụ

Cơ cấu TPKTế:

43,0

42,0

42,1

44,0

Quốc doanh

58,0

57,9

56,0

57,0

Ngoài quốc doanh

Nguồn: Kinh tếV iệt Nam sau thời kỳ đổi mới- PTS, TS Nguyễn Sinh Cúc

Riêng về hoạt động ngân hàng, cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế,

chúng ta đã có 10 năm kinh nghiệm hoạt động theo cơ chế thị trường. Từ thực

hiện theo hai pháp lệnh về ngân hàng, ngành ngân hàng đã tổng kết để nâng

lên thành luật ngân hàng. Quá trình đó là quá trình tập dượt cơ chế mới, theo

mô hình mới. Thành tựu về kinh tế của Việt nam và của hệ thống ngân hàng

trong những năm đổi mới đã tạo ra đà và lực cho bước phát triển mới khi bước

vào thế kỷ mới-Thế kỷ của hội nhập quốc tế.

- Tinh hình khủng hoảng tài chính khu vực vừa qua đã làm suy thoái

kinh tế khu vực và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu nhưng đó là

hồi chuông cảnh tỉnh về hệ thống tài chính yếu kém trong khu vực và là yêu

cầu đặt ra cho sự cải cách hệ thống tài chính, tiền tệ, ngân hàng Việt nam.

Việt nam đã và đang thực hiện các biện pháp củng cố chấn chỉnh, lành mạnh

hoá hệ thống tài chính tiền tệ của mình.

-Với xu thế hội nhập quốc tế tất yếu của thời đại, Việt nam đã và đang

tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc hội nhập vững chắc vào

cộng đồng kinh tế khu vực và quốc tế (EASEAN/AFTA, APEC...và tới đây là

WTO và mỏ' rộng các quan hệ song phương khác như quan hệ thương mại

Việt-Mỹ...). Trong đó có sự hội nhập của hệ thống tài chính ngân hàng:

70

+ Sự hội nhập quốc tế sẽ mở ra cơ hội và tiềm năng trao đổi hợp tác

quốc tế về lĩnh vực tài chính tiền tệ, đổng thời nâng vị thế quốc tế của Việt

nam trong các giao dịch tài chính tiền tệ quốc tế.

+ Sự hội nhập quốc tế cũng đưa đến điều kiện về tiếp cận các luồng vốn

quốc tế và các trợ giúp kỹ thuật quốc tế cho các ngân hàng Việt nam đảm bảo

đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vốn (nhất là vốn dài hạn ) trong nước.

+ Sự hội nhập quốc tế sẽ là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải

cách ngân hàng Việt nam, nâng cao năng lực quản lý điều hành, trình độ cán

bộ, cơ chế, chính sách của Việt nam về ngân hàng và ngoại hối sẽ cởi mở hơn,

phù hợp với trình độ và chuẩn mực quốc tế..

- Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự cải cách, đổi mới lĩnh vực

ngân hàng, coi đây là khâu trọng yếu, nhân tố quan trọng trong công cuộc cải

cách kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng của Việt nam.

* Những thách thức:

- Nền kinh tế Việt nam đã đi vào cơn lốc của quá trình toàn cầu hoá và

cạnh tranh khốc liệt trong điều kiện quy mô nhỏ bé, trình độ lạc hậu và cơ sở

vật chất- nhất là kết cấu hạ tầng còn nghèo nàn và mặt bằng dân trí thấp so với

các địch thủ cạnh tranh trong khu vực và quốc tế- nơi đã từng có hàng chục

năm, thậm chí hàng trăm năm kiến thức về kinh tế thị trường. Cho đến nay

GDP bình quân đầu người của Việt nam chưa đạt đến 500USD/người /năm

mới bằng 1/2 con số giới hạn ở ngưỡng phân biệt giữa nước nghèo với nước

thoát khỏi cảnh nghèo của thế giới.

- Sau 10 năm tốc độ tăng trưởng khá nhanh song chưa dựa trên một nền

tảng vững chắc là công nghệ tiên tiến và năng suất lao động cao, mà dựa chủ

yếu vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, sức lao động cơ bắp và không ít hơn

1/3 số tăng trưởng là đầu tư vào xây lắp và mua sắm tài sản cố định lạc hậu,

kém hiệu quả, không phát huy được lợi thế trong cạnh tranh. Khu vực có vốn

đầu tư nước ngoài là nơi tạo ra tăng trưởng mạnh nhất hiện đang bị chững lại

mạnh mẽ. Theo nguồn báo cáo của NHNN cho thấy:

71

FDI đã giải ngân:

2,4 tỷ USD Năm 1996

2 tỷ USD Năm 1997

Năm 1998 1,7 tỷ USD

1,52 tỷ USD Nãm 1999

1,68 tỷ USD Năm 2000

- Các bạn hàng thương mại và đầu tư của Việt nam trong khu vực chiếm

tới trên 70% thị phần hiện vẫn đang loay hoay và gặp khó khăn trong việc

khắc phục hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính -tiền tệ đã kéo

theo những khó khăn mới cho nền kinh tế Việt nam không chỉ trong lĩnh vực

thương mại mà cả trong lình vực tài chính ngân hàng suốt 4 năm qua.

- Về những thách thức trong hoạt động ngân hàng:

+ Thế kỷ 21 là thế kỷ của hội nhập quốc tế nền kinh tế toàn cầu, tự do

hoá thương mại và tài chính. Một thách thức lớn đối với hệ thống ngân hàng

Việt nam khi bước vào thế kỷ 21 là trình độ phát triển của hệ thống Ngân

hàng còn quá thấp về mọi mặt so với khu vực và thế giới như : thiếu kinh

nghiệm quản lý, kinh doanh và trình độ còn thấp; công nghệ lạc hậu; các công

cụ quản lý và điều hành của Ngân hàng Trung ương còn sơ khai; các tiện ích

về dịch vụ của các Ngân hàng thương mại còn quá nghèo nàn; quy mô hoạt

động còn nhỏ hẹp (thể hiện qua các chỉ số tín dụng và huy động vốn so với

(ỈDP còn thấp).

+ Hệ thống Ngân hàng Việt nam còn yếu về mọi mặt, hạn chế về nguồn

lực: yếu về tiềm lực tài chính ( vốn tự có thấp), cán bộ nhiều nhưng trình độ

quản lý và kinh doanh hạn chế, tính an toàn và bền vững thấp biểu hiện ở các

chỉ số tài chính yếu kém., sức cạnh tranh sẽ kém trong điều kiện hội nhập.

+ Hệ thống tài chính tiền tệ của Việt nam còn bị chi phối bởi yếu tố bao

cấp, hành chính. Sức ỳ của cơ chế hành chính bao cấp vẫn còn đè nặng lên hệ

thống ngân hàng. Để thoát ra khỏi cơ chế này cần có một quá trình cải cách

kiên quyết và mạnh mẽ của toàn xã hội cũng như sự nỗ lực của toàn ngành

Ngân hàng.

+ Do trình độ phát triển còn thấp kém của nền kinh tế Việt nam trong

giai đoạn chuyển đổi sang cơ chế thị trường nên nhìn chung thị trường tài

72

chính tiền tệ của Việt nam còn sơ khai, kém phát triển; thị trường tài chính

ngân hàng bị chia cắt không hiệu quả. Tinh trạng sơ khai, kém phát triển này

được đặc trưng bởi một số các yếu tố : chi phí giao dịch cao, tính lưu hoạt

thấp, rủi ro lớn. Một trong những nguyên nhân là do các giao dịch của nền

kinh tế vẫn chủ yếu bẵng tiền mặt (tỷ lệ này khoảng 40% so với M2), chủ yếu

giao dịch ngoài ngân hàng, ngoài sự kiểm soát của Nhà nước; trình độ dân trí

về tiền tệ ngân hàng thấp, không quen với các công cụ tài chính. Để mở rộng

hoạt động ngân hàng hay mở cửa hội nhập quốc tế về Ngân hàng trong điều

kiện như vậy càng đòi hỏi sự đổi mới, cải tổ mạnh mẽ về quản lý và điều hành

nền kinh tế nói chung và Ngân hàng nói riêng. Đổi mới, cải tổ là một quá

trình, cần nhiều thời gian. Đổi mới quá nhanh cũng đưa đến hậu quả không

tốt, nhưng nếu chậm trễ cũng dễ bỏ lỡ cơ hội.

+ Tinh trạng đô la hoá nền kinh tế đang có xu hướng lan rộng, không

kiểm soát được đang tạo ra nguy cơ ngày càng lớn đối với việc ổn định tỷ giá

hối đoái, ổn định thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Tinh trạng đô la hoá

cũng làm giảm hiệu lực thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.

+ Tính chất không đồng bộ trong thị trường tài chính Việt nam hiện nay

cũng là một thách thức lớn đối với hoạt động của các TCTD với tư cách là các

trung gian tài chính quan trọng bậc nhất của thời kỳ mà cuộc sống đòi hỏi

phải thực sự tiền tệ hoá nền kinh tế và thương mại hoá các nguồn vốn. Một

mảng thị trường vốn hết sức quan trọng và đang ngày càng phát triển một cách

khách quan như các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, các công ty tài chính, thị

trường chứng khoán v.v. hiện vẫn hầu như hoạt động ngoài vòng kiểm soát

của ngân hàng nhà nước cũng đang đặt ra những thách thức lớn về môi trường

pháp lý bất bình đẳng giữa các loại hình trung gian tài chính khác nhau trên

thị trường vốn Việt nam.

Tựu chung l ạ i , hiện nay chúng ta đang có hai loại vấn đề tạo ra một số

thách thức lớn cho hoạt động ngân hàng nói riêng và nền kinh tế Việt nam nói

chung-đó là: T hứ nhất : Dòng xoáy như vũ bão của cơ chế thị trường trong

khu vực và trên toàn cầu mà trong đó Việt nam là một thành viên không thể

đứng ngoài; T h ứ hai: trong khi chúng ta chưa thực sự đoạn tuyệt với cơ chế kế

hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp thì trong thời gian gần đây trên nhiều

73

lĩnh vực kinh tế nói chung và trong hoạt động ngân hàng nói riêng lại đang

hình thành mội nguy cơ mới đó là sự xuất hiện xu hướng phi thị trường hoá-đi

ngược với quy luật khách quan của cơ chế thị trường, nhiều thành phần và mở

cửa. Các luận giải để bao biện thường là: Việt nam là nước nghèo đi sau, chưa

thích nghi ngay v.v. và trong quá độ đến một cơ chế thị trường hoàn hảo cần

phải có những giải pháp tình thếv.v. Có thể là đúng nhưng nếu kéo dài quá lâu

sự đan xen nói trên thì sẽ tạo ra những thách thứ mới lớn hơn, sẽ triệt tiêu

nhiều lợi thế và xuất hiện những hậu quả khó lường. Nếu trọng tài thỉnh

thoảng cứ thò chân vào đá bóng khi đang điều khiển trận đấu trên sân thì điều

gì sẽ xảy ra !Trên ý nghĩa đó, cuộc sống cấp bách đòi hỏi ngành ngân hàng

cần phải có một chiến lược tổng thể mang tính đột phá cao, theo đó những

đưòng nét cơ bản của quá trình phát triển phải được hoạch định một cách

mạch lạc và đón được xu thế phát triển tất yếu của toàn ngành trong mối quan

hệ máu thịt với nền kinh tế quốc dân.

3.1.1.2 M ột sốyêu cầu lớn đặt ra đối với hệ thống NHTMQD ỞViệt nam

- Đường lối phát triển kinh tế của Đảng đòi hỏi hệ thống NHTMQD

đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng, điều nay đặt yêu cầu bức bách

cho việc cơ cấu lại hệ thống NHTMQD.

- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi một khối

lượng vốn lớn . Nhu cầu về vốn cho công nghiệp hoá đòi hỏi NHTMQD phải

có tiềm lực tài chính mạnh mẽ trong việc phân phối và sử dụng vốn một cách

có hiệu quả.

- Quá trình hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế và tự do hoá tài

chính làm cho môi trường tài chính cạnh tranh khốc liệt và rủi ro hơn.Tình

hình này đặt ra nhu cầu bức bách cho việc cơ cấu lại hệ thống NHTMQD để

đám bảo cho hệ thống phát triển an toàn hiệu quả với quy mô ngày càng lớn.

- Xu hướng phát triển khoa hoc kỹ thuật mà đặc biệt là công nghệ tin

học trong lĩnh vực ngân hàng đang đặt ra yêu cầu cơ cấu lại hệ thống ngân

hàng thương mại làm cơ sở để áp dụng kỹ thuật mới, nâng cao chất lượng dịch

3.1.2. Định hướng chiến lược phát triển các NHTM QD ở Việt nam

trong những năm tói

vụ ngân hàng.

74

- Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt nam là một chiến lược

tổng thể toàn ngành, mang tính đổng bộ và đan xen ba loại tốc độ phát triển:

Tuần tự-đuổi bắt và đón đầu để chủ động thích ứng và cập nhật hoá với trình

độ phát triển công nghệ ngân hàng của khu vực và thế giới. Tính đồng bộ của

chiến lược phát triển bao gồm ba nội dung then chốt là: hoàn thiện môi trường

pháp lý ; Cấu trúc lại hệ thống ngân hàng trung ươngvà các TCTD; Phát triển

năng lực quản lý và năng lực hoạt động kinh doanh -kích thích cạnh tranh

binh đẳng, nhất quán theo cơ chế thị trường, mở cửa, có sự quản lý vĩ mô của

nhà nước theo định hướng XHCN.

- Xây dựng hệ thống NHTMQD thực sự trở thành lực lượng chủ đạo trong

lĩnh vực ngân hàng, hoạt động đa năng, lành mạnh, an toàn và có hiệu quả.

- Củng cố các NHTMQD cần được coi là nhiệm vụ chiến lược của

ngành ngân hàng nhằm xây dựng một hệ thống ngân hàng có khả năng huy

động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu

của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước .

- Nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh của các NHTMQD trên thị

trường trong và ngoài nước, thực hiện có hiệu quả quá trình hội nhập. Hiện đại

hoá công nghệ ngân hàng nâng cao năng lực giám sát, quản lý, năng cao kỹ

nang nghiệp vụ của toàn hệ thống ngang tầm khu vực và thế giới.

- Tạo sân chơi bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, chủ động mở cửa thị

trường tài chính

3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP C ơ BẢN NHAM n â n g c a o h i ệ u q u ả h o ạ t đ ộ n g

CỦA CÁC N HTM Q D

3.2.1 Lành mạnh hoá tình hình tài chính

Trước thực tế yếu kém về tài chính của các NHTM Việt nam nói

chung, của các NHTMQD nói riêng thì việc tìm ra được những giải pháp hữu

hiệu để lành mạnh hoá tình hình tài chính của các ngân hàng trong giai đoạn

hiện nay là một điều cần thiết.

Trước mắt, Ngàn hàng Nhà nước và chính phủ cũng như các NHTM

phải nỗ lực tập trung giải quyết các vấn đề :

75

3.2.1.1 Xử lý nợ tồn đọng:

Như nhiều nước chuyển đổi khác, khu vực ngân hàng của Việt nam hiện

nay đang có một khối lượng nợ không có hiệu quả lớn trong đó tập trung chủ

yếu vào các khách hàng là DNNN. Đây là hậu quả trực tiếp của việc cấp tín

dụng theo chỉ định, tức là cho vay theo những tiêu chí mang tính chính sách

cơ cấu chứ không mang tính kinh tế. Hậu quả của việc làm này không chỉ gây

thiệt hại nặng nề cho các NHTMQD, nợ tổn đọng lớn chứa đựng nguy cơ đổ

vỡ của hệ thống ngân hàng, dẫn đến khủng hoảng tài chính tiền tệ, mà còn

làm suy yếu khả nãng tăng trưởng kinh tế.

Trong hệ thống ngân hàng Việt nam hiện nay, khi đề cập đến các khoản

nợ không có hiệu quả thì phần lớn tập trung vào giải quyết các khoản nợ quá

hạn. Từ năm 1998, việc giải quyết các khoản nợ quá hạn đã được thực hiện

mạnh tại tất cả các ngân hàng, song nhìn chung vẫn chỉ đơn thuần thực hiện

theo sự chỉ đạo cứng nhắc của Chính phủ dựa trên tinh thần của 2 văn bản

pháp lý của Nhà nước: Quyết định số 95/1998/QĐ-TTg ngày 18/5/1998 của

Thủ tướng Chính phủ về xử lý thanh toán nợ giai đoạn II và thông tư số

03/1997/TTLT/NHNN-BTC ngày 22/11/1997 của liên bộ NHNN và BTC về

hướng dẫn xử lý nợ quá hạn của các NHTMQD qua chấn chỉnh hoạt động

ngàn hàng sau khi thanh tra. Căn cứ vào tinh thần của hai văn bản nói trên và

những điều kiện thực tiễn, việc xử lý nợ quá hạn đã được thực hiện thông qua

các giải pháp được đưa ra trên cơ sở phân ỉoại các khoản nợ quá hạn theo

nguyên nhân như sau:

- Nợ quá hạn theo nguyên nhân vi phạm quy chế tín dụng .

- Nợ quá hạn do nguyên nhân rủi ro ngoài khả năng kiếm s o á t .

- Các khoản nợ có tài sản cầm cố thế chấp nhưng chưa phát mại được.

Nhìn chung các biện pháp xử lý nợ không có hiệu quả tại các ngân hàng

thương mại hiện nay còn mang tính đối phó, chưa được thực hiện theo một

chương trình chính quy, chính vì thế hiệu quả của các biện pháp này còn mờ

mịt chưa rõ ràng và hoàn toàn phụ thuộc vào tương lai của các con nợ, phụ

thuộc vào nguồn bù đắp của ngân sách Nhà nước. Trong khi đó tình hình ngân

sách của Việt nam lại rất yếu kém, không có điều kiện hỗ trợ trực tiếp cho

việc cơ cấu lại các ngân hàng. Sở dĩ như vậy là không có một thị trường vốn

76

thực sự và điều này đã gây khó khãn cho việc huy động vốn theo cơ chế thị

trường để cân đối thâm hụt ngân sách Nhà nước. Ngoài ra cũng phải chú ý

rằng sự ổn định hiện nay của khu vực ngân hàng Việt nam là nhờ vào sự bảo

lãnh của Nhà nước và sự bảo lãnh này tất nhiên cũng chỉ có thể thực hiện được

trong ngắn hạn khi hiện tượng đô la hoá đang ngày một gia tăng trong nền

kinh tế cũng như trong khu vực ngân hàng kể từ khi cuộc khủng hoảng tiền tệ

bùng nổ ở khu vực châu Á.

Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết các khoản

nợ không có hiệu quả, song kết quả còn hạn chế, vì vậy việc tìm ra những biện

pháp tập trung xử lý các khoản nợ này một cách hiệu quả, phù hợp với các

điều kiện của Việt nam là điều rất cần thiết. Việc xử lý nợ không có hiệu quả

một cách nhanh chóng và toàn diện phải trở thành một chương trình hành

động của Chính phủ và của hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam.

Kể từ năm 1999 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã phối hợp

với nhiều Bộ, Ngành, các tổ chức Quốc tế để tổ chức nhiều cuộc hội thảo về

việc đưa ra các biện pháp làm “sạch “ bảng cân đối kế toán của hệ thống ngân

hàng thương mại mà trong đó việc giải quyết các khoản nợ không có hiệu quả

là vấn đề trung tâm .

Để có thể giải quyết tốt vấn đề này, điều trước mắt cần phải làm đối với

bất kỳ ngân hàng thương mại nào là phải tiến hành phân loại chính xác các

khoản nợ không có hiệu quả, trên cơ sở đó có thể xác định mức dự phòng hợp

lý, tránh cho các ngân hàng rơi vào tình thế bị động trong việc giải quyết nợ.

AI Phân loại chính xác các khoản nợ không có hiệu quả

Việc phân loại các khoản nợ không có hiệu quả trong các NHTM Việt

nam hiện nay là không rõ ràng, không tuân theo tiêu thức chuẩn của quốc tế,

vì vậy rất khó cho các nhà hoạch định chính sách khi xác định mức chi phí,

quy mô hành động để có thể xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng.

Các NHTM Việt nam đã thực hiện việc phân loại nợ và trích lập dự

phòng trên cơ sở phân loại nợ theo quyết định 48 của Chính phủ. Theo quyết

định 48 thì các khoản nợ phân làm hai loại: Nợ trong hạn (nhóm 1), nợ quá

hạn (nhóm 2,3,4). Trong các NHTMQD, các khoản vay được phân loại thành

nợ “trong hạn” và “quá hạn” phụ thuộc vào việc nợ gốc đã được thanh toán

77

hay chưa. Việc thanh toán nợ lãi và chất lượng tài sản thế chấp (nếu có) không

được tính đến khi phân loại theo cách này.

Khi nói đến các khoản nợ quá hạn, người ta thường phân ra khoản nợ

nào là nợ khó đòi, khoản nợ nào là khoản nợ có nguy cơ bị mất mát. Song theo

quyết định 48 thì khó có thể bóc tách được các loại nợ này.

Nhìn chung việc phân loại các khoản nợ trong hệ thống ngân hàng

thương mại chưa được thực hiện chặt chẽ và chưa tuân thủ các tiêu chí phân

loại nợ của quốc tế, thông thường dựa trên hai tiêu chí sau:

- Chưa trả gốc và lãi

- Giá trị thực của các tài sản thế chấp so với giá trị ghi sổ của khoản vay

Chính vì thế việc trích lập dự phòng nợ không có hiệu quả tại các

NHTM còn thiếu chính xác, khiến các ngân hàng thương mại rơi vào thế bị

động trong việc xử lý các khoản nợ.

Theo quy định của uỷ ban Basle khi tiến hành kiểm tra giám sát hoạt

động của ngân hàng, các giám sát viên cần phải yêu cầu các ngân hàng phân

biệt rõ ràng 3 loại cơ bản của nợ không có hiệu quả, đó là các khoản nợ thấp

hơn tiêu chuẩn, đáng ngờ, mất mát.

Kinh nghiệm phân loại nợ của một số nước theo yêu cầu của uỷ ban

Basle cho thấy các điều kiện phân loại nợ thấp hơn tiêu chuẩn được quy định

nghiêm ngặt hơn ở các quốc gia có thị trường mới nổi.Việc xác định khoản

vay nếu chỉ dựa vào việc thanh toán bị quá hạn sẽ không phản ánh đúng bản

chất .Việc thanh toán quá hạn chỉ được xem là điều kiện đủ chứ không phải là

điều kiện cần khi phân loại các khoản nợ vào nhóm đáng ngờ. Để xác định

đứng bản chất của các khoản vay, theo quy định quốc tế thì cần phải dựa vào

tình hình tài chính, việc phân loại tín dụng, tương lai của các con nợ , giá trị

cua các tài sản thế chấp... Đây cũng là những điều không được đề cập đến

trong việc phân loại nợ trong hệ thống ngân hàng Việt nam. Chính vì thế trong

thời gian tới đê có thể thực hiện lành mạnh hoá tình hình tài chính của các

NHTM, điều đầu tiên mà chúng ta cần phải làm là điều chỉnh dần dần cách

thức phân loại tài sản sao cho phù hợp với điều kiện của Việt nam , và tiêu

chuẩn quốc tế, cụ thể là:

-Việc phân loại nợ cần phải dựa vào việc thanh toán trả lãi và vốn vay.

78

-Việc phân loại cần phải căn cứ vào giá trị của các tài sản thế chấp.

-Việc phân loại cần được kết hợp với các thông tin khác, như tình hình

tài chính của khách hàng, triển vọng của khách hàng trong tương lai..

-Việc phân loại cần đưa ra các tiêu thức nhằm xác định rõ ràng như thế

nào là nợ khó đòi, như thế nào là những khoản nợ có khả năng mất mát lớn..

Việc phân loại chính xác các khoản nợ không có hiệu quả sẽ làm giảm

chi phí, thúc đẩy nhanh quá trình lành mạnh hoá tài chính, đặc biệt sẽ giúp

cho các ngân hàng có thể trích lập dự phòng thích hợp đối với các khoản vay,

giúp cho ngân hàng chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.

BI Nhanh chóng hoàn thiện mỏ hình xử lý nợ không có hiệu quả

* Tạo điều kiện thuận lợi cho mô hình công ty quản lý tài sản-AMC

(asset managemant company) hoạt động.

Hai thập kỷ qua, hệ thống ngân hàng của nhiều nước trên thế giới cũng

như trong khu vực đã lâm vào hiểm hoạ lớn: nợ không có hiệu quả ở mức cao,

làm suy yếu hệ thống ngân hàng, là nguy cơ đối với nền kinh tế và có nhiều

nước rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Trong tình thế đó, nhiều nước đã

phải lựa chọn phương án thích hợp để ngăn ngừa, xử lý và khấc phục.

Một trong các phương án này đã làm xuất hiện mô hình mới, khái

niệm mới:

Công ty quản lý nợ và tài sản-AMC. AMC ở nhiều nước được hình

thành dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nhìn chung đều có mục tiêu duy

nhất là giải quyết nợ khó đòi tồn đọng, tối đa hoá việc xử lý các khoản nợ khó

đòi tồn đọng, nhằm giảm thiểu chi phí của việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng,

đổng thời góp phần ổn định hệ thống ngân hàng và ổn định nền kinh tế. Với

mục tiêu đó, chức năng của AMC ià quản lý và thanh lý các khoản nợ không

sinh lời của các ngân hàng, phục hồi càng nhiều càng tốt để thu hồi được giá

trị tối đa từ các nguồn lực đã trao cho AMC. Vì thế AMC được giao những

thẩm quyền và kỹ năng đặc biệt để hoàn thành sứ mệnh trong một thời gian

ngắn bầng cách mua, quản lý, tài trợ... nhằm tối đa hoá giá trị của các khoản

nợ, tài sản. AMC không tồn tại mãi mãi, khi đã đạt được mục tiêu thì sẽ chấm

dirt hoạt động (thông thường từ 7 đến 10 năm) và ở hầu hết các nước, AMC là

một định chế không tạo ra lợi nhuận.

79

Trên thực tế người ta đã đưa ra 5 phương án xây dựng AMC:

1-Thành lập một AMC duy nhất ở Trung ương

2-Thành lập AMC như một công ty con của ngân hàng

3-Hợp đổng uỷ thác cho bên thứ ba

4-Thành lập một công ty mua bán nợ nhanh

5-Từng ngân hàng ỉập một bộ phận tự xử lý các khoản nợ không có

hiệu quả

ARTHUR ANDERSEN, một công ty tư vấn hàng đầu thế giới về AMC

đã đưa ra kết luận về sự thành công của các phương án như sau: phương án

3,4,5 đạt kết quả thấp, phương án 2 đạt trung bình, phương án 1 đạt kết quả tốt

nhất do có thẩm quyền đặc biệt và chức năng đặc biệt để xử lý.

Khi hệ thống ngân hàng của bất kỳ một quốc gia nào có nguy cơ bị đe

doạ bởi tỷ lệ nợ không có hiệu quả cao, thông thường từ 10-15% thì việc thành

lập AMC sẽ là biện pháp hữu hiệu để xử lý và ngăn chặn tình trạng này.

Thực tế cho thấy tại Mỹ những năm 1989-1995 do nguyên nhân từ phía

khách hàng vay và do quản lý tín dụng yếu kém, 2 hệ thống ngân hàng thương

mại và ngân hàng tiết kiệm đã lâm vào tình trạng khủng hoảng. Mỹ đã phải

ban hành một luật riêng cho ra đời công ty tín thác (RTC) để giải quyết khó

khăn của các ngân hàng. RTC tiếp quản các khoản nợ khó đòi, quản lý các tài

san thế chấp, làm tăng tối đa giá trị để bán, nhằm mục đích thu hồi vốn. Thành

lập năm 1989, RTC có lúc đã tiếp quản tài sản lên tới 100 tỷ USD. Kết quả đã

xử lý thành công và kết thúc sau 7 năm hoạt động. Tại Thuỵ Điển, Na Uy,

Phần lan, các nước vùng Ban tích, vào những năm 1992-1995, hệ thống ngân

hàng cũng đã lâm vào tình trạng nợ quá hạn khó đòi tăng cao và cũng đã phải

lựa chọn phương án xây dựng AMC để xử lý. Kết quả là hệ thống ngân hàng

đã phục hồi lại bình thường.

Tại Đông á, từ năm 1997 đến nay, nhiều nước (Indonexia, Malaysia,

Tháilan, Hàn Quốc,Trung Quốc..) đã lâm vào khủng hoảng tài chính -tiền tệ,

hệ thống ngân hàng chồng chất nợ quá hạn khó đòi. Nhận thức đây là vấn đề

quan trọng của Quốc gia chứ không còn chỉ là của hệ thống Ngân hàng, các

nước đã nhanh chóng thành lập AMC dưới nhiều hình thức khác nhau và đã

đem lại những kết quả nhất định.Ví dụ như ở Tháilan, mỗi ngân hàng thương

80

mại lập ra một bộ phận quản lý nợ (asset management division-AMD) hoặc bộ

phận quản lý nợ đặc biệt (Special asset management-SAM) để chuyên trách

xử lý các khoản nợ xấu. Chính phủ thành lập công ty quản lý tài sản-AMC để

chuyên trách xử lý cho ngân hàng thuộc sở hữu chính phủ hoặc thành lập

AMC cấp quốc gia (ở TW) để xử lý nợ khó đòi của hệ thống NHTM. Tương tự

như Thái lan, tại Malaysia mpỗi ngân hàng phải tự xử lý nợ xấu, ngoài ra

Chính phủ cũng đã thành lập một AMC cấp quốc gia tại trung ương có tên là

Pegurusan Danaharta National Berhad (DANAHARTA).

Việc thành lập AMC đã giúp cho một số nước trong khu vực Đông á xử

lý xong về cơ bản như Thái lan, Hàn quốc, một số nước vẫn tiếp tục duy trì đã

đem đến những kết quả rất khả quan trong quá trình làm sạch bảng cân đối kế

toán của các ngân hàng. Vì vậy, AMC cũng là một trong những giải pháp hữu

hiệu được đề xuất để giải quyết vấn đề nợ không có hiệu quả trong hệ thống

ngàn hàng Việt nam. Nét đặc thù của việc thành lập AMC ở Việt nam là các

khoản nợ không có hiệu quả gồm các khoản nợ có tài sản bảo đảm lẫn các

khoản I1Ợ không có tài sản bảo đảm, chủ yếu là nợ của các DNNN vẫn chưa

được xử lý dứt điểm, nên đến nay cần thống nhất đưa vào một đầu mối AMC

để giải quyết dứt điểm.

* Cơ chẻ xử lý nợ tồn đọng

AMC của các NHTMQD hoạt động theo nguyên tắc nhận các khoản nợ

tổn đọng có bảo đảm và không có bảo đảm của các NHTMQD tính đến thời

điểm 31/12/2000 theo giá trên sổ sách. Các công ty cơ cấu lại nợ theo nguyên

tắc thị trường. Thời gian dự kiến xử lý nợ tồn đọng làm sạch bảng cân đối

trong thời gian từ 2-3 năm. Nợ tổn động được chia thành 3 loại sau:

- Nợ tổn đọng có tài sản bảo đảm

- Nợ tổn đọng không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng đê

thu (doanh nghiệp đã giải thể , thanh lý, phá sản , cá nhân đã c h ế t, mất tích..)

- Nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và con nợ còn tồn tại đang

hoạt động

Công ty quản lý nợ có nhiệm vụ bán tài sản đảm bảo theo giá thị trường

để thu hồi nợ đối với những trường hợp nợ có tài sản bảo đảm, những trường

hợp nợ không có tài sản bảo đảm và con nợ còn tổn tại đang hoạt động thì

8 ]

công ty quản lý nợ phải tận thu để thu hổi nợ, nếu khách hàng không trả được

nợ thì phải thanh lý doanh nghiệp để thu hồi nợ.

Trong trường hợp công ty bán tài sản bảo đảm ( đối với nợ có tài sản

bảo đảm) và thanh lý doanh nghiệp để thu hổi nợ ( đối với nợ không có tài sản

bảo đảm và con nợ còn tồn tại đang hoạt động) mà giá trị khoản vay cao hơn

giá trị bán cũng như giá trị thanh lý thấp hơn giá trị các khoản vay thì xử lý

theo hướng sau:

+ Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay chính sách thì khoản chênh lệch

được bù đắp bằng nguồn tài chính của Chính phủ.

+ Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay thông thường thì bù đắp khoản

chênh lệch được lấy từ quỹ dự phòng rủi ro được trích của các NHTM

Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng để thu

thì khoán nợ này sẽ được xoá theo hướng nếu cho vay theo chính sách thì được

hù đắp bằng nguồn tài chính của Chính phủ, còn cho vay theo thông thường

thì bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro của các NHTM.

* Nguồn vốn xử lý nợ tồn đọng

- Nguồn dự phòng rủi ro được trích lập được trích lập hàng năm của các

ngân hàng.

- Nguồn từ NHNN đã tái cấp vốn trước đây cho các NHTM theo các

mục tiêu như cho vay để cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, khắc phục thiên tai, cho

vay theo chỉ định của Chính phủ.

- Nguồn từ Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ Quốc tế cho vay cơ cấu

lại nợ NHTMQD.

- Chính phủ cho phép NHNN phát hành trái phiếu có lãi suất cố định để

xử lý nợ tổn đọng cho các ngân hàng.

AMC là một định chế có thẩm quyền đặc biệt, nên sự ra đời của AMC

đòi hỏi Chính phủ cũng như các Bộ, các Ngành liên quan phải hết sức chú

tâm, tạo lập một cơ sở pháp lý vững chắc cho AMC hoạt động, ở Việt nam

hiện nay, các điều kiện ban đầu như cơ sở pháp lý, cơ chế hoạt động, xác định

chức năng quản lý còn rất yếu kém và các quan điểm về thành lập AMC chưa

rõ ràng, thống nhất. Đây là những rào cản lớn nhất đối với việc thành lập

AMC. Chính vì vậy trong thời gian tới, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các

82

Bộ, Ngành liên quan cần tập trung nỗ lực để giải quyết các tồn tại này, nhanh

chóng tạo điều kiện cho AMC hoạt động có hiệu quả, tránh tình trạng đề xuất

nhưng không thực hiện triệt để, không tạo được vị thế pháp lý cho AMC. Thực

tế đã chí ra rằng, do vị thế pháp lý của tổ chức AMC ở một số nước rất yếu

nên đã không thành công. Ví dụ như Philipin, AMC ra đời được 17 năm

nhưng đến nay coi như không “tồn tại”, ở Mexico, AMC đã hoạt động được

gần 7 năm nhưng số tài sản khổng lổ trị giá gần 60 tỷ USD vẫn chưa giải

quyết xong... do đó vấn đề đặt ra ở đây là cần phải nghiên cứu kỹ, xem xét khả

nâng của mình xem có đủ điều kiện để đảm bảo cho tổ chức AMC hoạt động

có hiệu quả hay không.[19];[27];[33];[34]

3.2.1.2 Tăng vốn tự có cho các NHTMQD

Song song với việc giải quyết nợ xấu, lành mạnh hoá tài chính của các

NHTMQD là việc tăng cường khả năng về vốn tự có. Tăng vốn tự có cho các

NHTM là vấn đề bức bách đối với các NHTMQD vì:

- Vốn là nhân tố quyết định sức mạnh tài chính của các NHTM. Tuy

nhiên trên thực tế nguồn vốn tự có của hệ thống NHTM hiện nay là rất thấp

(chiếm từ 3%-5% so với tổng tài sản). Có thể thấy một nghịch lý trong nền

kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay, đó là tiềm lực tài chính của khu vực

tai chính lại thua xa khu vực công nghiệp. Thông thường theo kinh nghiệm

các nước ( đặc biệt là các nước công nghiệp ), trong giai đoạn đầu của quá

trinh công nghiệp hoá, tư bản tài chính phải có mức tích luỹ lớn hơn nhiều tư

bán công nghiệp mới có thể tạo điều kiện để thực hiện cách mạng công nghiệp

và tiến trình công nghiệp hoá. Trong khi đó tại Việt nam vốn tự có của các

NHTM lại quá nhỏ, tổng vốn tự có của 4 NHTMQD lớn nhất Việt nam chỉ vào

khoảng 5.600 tỷ VNĐ. Nguồn vốn tự có quá nhỏ bé đã cản trở các ngân hàng

trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh, cho vay, đầu tư các dự án ....làm

gia tăng “sức ỳ” của các NHTM trong việc dựa dẫm vào sự bao cấp của nhà

nước, dễ gây ra sự mất an toàn trong thanh toán, cản trở quá trình hội nhập

quốc tế và khu vực của các ngân hàng.

- Theo quy định cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15%

vốn tự có. Với mức vốn tự có hiện nay, các NHTMQD không đủ sức tài trợ

83

cho những dự án lớn như dầu khí, điện lực, hàng không, bưu chính viền

thông., làm giảm khả năng cạnh tranh của các NHTMQD.

Những yêu cầu đặt ra từ quá trình phát triển của nền kinh tế cho thấy

cần phải có nhiều biện pháp để củng cố nâng cao vai trò của hệ thống ngân

hàng trong quá trình phát triển, tăng tiềm lực tài chính cho các NHTMQD

xứng đáng với tầm vóc của mình cũng như đáp ứng được nhu cầu xã hội. Vì

vậy, Chính phủ, Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu bổ sung

thêm vốn điều lệ cho các NHTMQD nhằm tạo động lực cho hoạt động của các

ngân hàng, giảm bớt rủi ro và đáp ứng được với các tiêu chuẩn quốc tế. Theo

tính toán để đảm bảo tỷ lệ an toàn tối thiểu hiện nay theo chuẩn mực quốc tế

là 8% (tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản có ) thì số lượng vốn cấp bổ sung cần được

xử lý là 10.000 tỷ đồng và ước tính để đảm bảo mức tăng dư nợ bình quân ở

mức 18%/năm thì mức vốn tối thiểu của các NHTMQD phải đạt 23.000 tỷ vào

thời điểm cuối năm 2003.

Chính vì thế việc đưa ra những giải pháp hiệu quả để tăng vốn tự có của

các NHTM trong thời gian tới là điều cần th iế t.

Tuy nhiên để đảm bảo cho việc tăng vốn tự có cho các NHTM đạt hiệu

quả, Chính phủ cần phải xác định rõ ngân hàng nào là ngân hàng đã đủ mạnh

không cẩn phải cấp thêm vốn , ngân hàng nào có thể tổn tại nếu được cấp

thêm vốn, và ngân hàng nào-không có khả năng tổn tại ngay cả khi có sự trợ

giúp mạnh mẽ từ phía Chính phủ. Việc xác định này không đơn giản chút nào

và việc sử dụng các chỉ tiêu được dùng trong hoạt động kiểm toán để phân biệt

các ngân hàng nào cần phải có sự trợ giúp được xem là phương pháp lành

mạnh nhất. Các giám sát viên của Indonexia dựa vào các tỷ lệ an toàn vốn, ở

Thuỵ sĩ người ta sử dụng chương trình máy tính để dự đoán về sự phát triển tài

chính của các ngân hàng trong vòng 3 hoặc 5 năm tới, đây sẽ là cơ sở cho việc

phân loại các ngân hàng cần hỗ trợ tại Thuỵ sĩ. Bên cạnh các tiêu thức được

xem là có tính quyết định, khi phân loại người ta cũng sử dụng một tiêu thức

quan trọng, đó là chất lượng của quá trình quản lý hoạt động ngân hàng.

Theo kinh nghiệm của các nước, việc tãng vốn cho các ngân hàng

thường được thực hiện thông qua :

+ Khu vực nhà nước tham gia góp vốn cổ phần

84

+ Chuyển nhượng cổ phần hoặc các khoản nợ

+Tư nhân hoá các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước

Trong 3 hình thức trên thì việc đưa vốn vào các ngân hàng từ các khu

vực của Nhà nước là phổ biến nhất. Chính phủ có thể tăng vốn dưới hình thức

góp vốn cổ phần. Đây được xem như là vốn cấp 1, nguồn vốn này đảm bảo

cho Chính phủ có thể tạo đủ điều kiện cho các ngân hàng thực hiện việc tái cơ

cấu thực sự, không làm gia tăng gánh nặng nợ nần đối với các ngân hàng yếu

kém, và cuối cùng thì chính phủ có quyền được hưởng việc phân chia phần giá

trị gia tăng khi ngân hàng được hổi phục. Tuy nhiên, trên thực tế Chính phủ

thường cấp vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu phụ thuộc. Theo cách thức

này thì Chính phủ sẽ không phải thực hiện vai trò điều hành, kiểm soát ngân

hàng và chi phí sẽ ít hơn. c ổ phiếu ưu đãi cũng cho phép Chính phủ có thể

tham gia chia lợi nhuận sau khi ngân hàng đó được phục hồi bởi vì các chứng

khoán này được phân loại sau các khoản tiền gửi và các khoản tín dụng khác.

Cách thứ hai là Chính phủ có thể mua lại các cổ phiếu hoặc các khoản nợ được

phát hành bởi ngân hàng. Việc bơm vốn dưới hình thức này thường được thực

hiện thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ.

Quá trình tăng vốn cho các ngân hàng được thực hiện bới các tổ chức

riêng biệt của Chính phủ. Ví dụ như ở Mexico, công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ

mua lại các khoản nợ phụ thuộc có thể chuyển đổi ra vốn nếu như vốn của

ngân hàng bị suy yếu sau 5 năm, hoặc qua yếu kém. Đặc điểm này đã khuyến

khích các ngân hàng phải tích cực ngăn chặn sự yếu kém của nguồn vốn và

phải cố gắng trả lại các khoản nợ này trước 5 năm. Đại lý bảo hiểm tiền gửi sẽ

tài trợ việc tăng vốn cho các ngân hàng bằng các khoản vay từ Ngân hàng

trung ương. Tại Mexico, năm 1995, 5 ngân hàng đã nhận thêm vốn thông qua

hình thức này và đã có thể mua lại các khoản nợ phụ thuộc trong 2 năm., ở

Malaysia, một tổ chức đặc biệt -Danamodal đã được thiết lập, được tài trợ vốn

từ NHTW trong đó chủ yếu là từ việc phát hành các trái phiếu coupon bằng 0

được đảm bảo bởi Chính phủ. Một phần trái phiếu này được bán cho các ngân

hàng thương mại trong nước, Danamodal giữ vai trò quản lý trong các ngân

hàng này để tìm kiếm các phương thức cải tiến hiệu quả hoạt động và tìm

kiếm các thành viên có khả năng sát nhập.

85

Các hình thức được áp dụng để tăng vốn tự có chơ các NHTM

ở Việt nam hiện nay, việc cấp thêm vốn cho các NHTMQD được quyết

định bởi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước sẽ là người thực hiện quyết định

đó. Các hình thức để bơm vốn vào hệ thống ngân hàng chưa được phong phú,

vẫn được thực hiện bởi một tổ chức duy nhất của chính phủ là Ngân hàng nhà

nước. Nguồn để tăng vốn tự có là:

- Chính phủ và Bộ tài chính cho phép NHTMQD giữ lại phần thu thuế

sử dụns vốn để tăng vốn tự có

- Chính phủ cho phép chuyển phần vốn vay từ ngân hàng thế giới và

quỹ tiền tệ quốc tế theo chương trình tái cơ cấu cho các NHTMQD và cho

phép các ngân hàng này không phải nộp thuế sử dụng vốn hàng năm để các

ngân hàng nhận vốn vay để tầng vốn tự có được sử dụng khoản thuế vốn này

hoàn trả khoản vay theo các điều kiện của quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng

thế giới.

- On định mức nộp ngân sách ( lấy năm 2000 làm mốc ) trong 3 năm đê

khuyến khích các NHTMQD phấn đâú vượt chỉ tiêu lợi nhuận, cho phép lấy

phần vượt để bổ sung vốn tự có.

- Khuyến khích các NHTM tích cực thu hồi các khoản nợ đã khoanh để

bố sung vốn tự có

- Cho phép tăng vốn tự có bằng phương thức bán cổ phần ưu đãi ( không

tham gia quản lý) cho cán bộ công nhân viên với cổ tức cao hơn lãi suất tiền

gửi tiết kiệm.

Lộ trìn h tăng vốn tự có như sau: Việc cấp vốn bổ sung cho các

NHTMQD dự kiến sẽ được chia thành các giai đoạn trong thời gian 3 năm với

các điều kiện ràng buộc theo kết quả thực hiện các hành động chủ chốt và các

chỉ tiêu hoạt động chủ chốt đối với từng năm của các NHTMQD như nêu

trong mỗi kế hoạch cơ cấu lại các NHTMQD.Nguồn vốn của Chính phủ để

thực hiện cấp vốn bổ sung sẽ được cấp cho từng NHTMQD theo từng năm vơí

điều kiện các NHTMQD đáp ứng yêu cầu về kết quả hoạt động đã được nêu

3.2.2 Quản lý rủi ro

trong từng kế hoạch cơ cấu lại.[ 17];[46]

ở nước ta vấn đề rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và vấn đề quản lý

nó còn khá mới mẻ. Với sự non yếu về nghiệp vụ ngân hàng , đồng thời hoạt

86

động trong môi trường đầy rủi ro, vấn đề quản lý rủi ro ngân hàng đang là vấn

đề cấp bách trong hệ thống ngân hàng cả nước. Bộ máy ngân hàng kém năng

động, rủi ro càng dễ phát sinh khiến nó không thể hiện được chức năng vốn có

của mình, thiệt hại cho nền kinh tế sẽ xảy ra.

Rủi ro ngân hàng không chỉ là nỗi ám ảnh của hệ thống ngân hàng một

nước mà còn là nỗi ám ảnh chung của các hệ thống ngân hàng trên thế giới.

Những bất ngờ luôn xảy ra, ngay cả đối với các ngân hàng giỏi nhất , nhiều

kinh nghiệm nhất cũng khó phỏng đoán. Vì thế, rủi ro ngân hàng và quản lý

nó luôn luôn là những vấn đề thời sự cho mỗi nền kinh tế trong mỗi thời kỳ.

Hệ thống quản lý rủi ro tại các NHTMQD ở Việt nam trong vài năm

gần đây đã được quan tâm ở một mức độ nhất định, nhưng do những hạn chế

có tính cơ chế và kỹ thuật hệ thống này chưa thể đáp ứng được đòi hỏi phức

tạp của một ngân hàng thương mại hiện đại hoạt động trong môi trường nhiều

rủi ro và thiếu hoàn chỉnh như ở Việt nam.

Trên thực tế hoạt động của các NHTM Việt nam được che chắn bởi

hàng loạt các chính sách, cơ chế của NHNN như cơ chế trần lãi suất, cơ chế

quan lý ngoại tệ, cơ chế tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng cho một khách

hàng, các quy định về bảo lãnh thế chấp V.V.. nên rủi ro trong hoạt động ngân

hàng chưa lớn, tập trung chủ yếu vào rủi ro thị trường- từ phía khách hàng.

Tuy nhiên, trong những năm tới cùng với quá trình tự do hoá tài chính, mức độ

rủi 10 ngày càng tăng, đặc biệt là rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thị

trường và rủi ro thanh khoản. Vì vậy, cùng với việc nâng cấp hệ thống thông

tin quản lý các NHTMQD cần xây dựng chiến lược và quy trình xử lý rủi ro

cho toàn bộ hoạt động. Những rủi ro nói chung trong hoạt động ngân hàng cần

được trích lập quỹ bù đắp rủi ro ngay khi bắt đầu thực hiện sản phẩm.

3.2.2.1 Quản lý rủi ro thanh khoản

Sự an toàn của các ngân hàng vẫn luôn luôn là mối quan tâm của nhiều

người, từ các giới chức điều hành đến các nhà kinh doanh, các cổ đông ngân

hàng và các công dân của mỗi nước. Vì những vụ phá sản ngân hàng có ảnh

hưởng lớn đến nền kinh tế hơn bất cứ vụ phá sản ở bất cứ loại hình doanh

nghiệp nào khác.

87

Mặc dầu khó nhận ra một cách chính xác các nguyên nhân của những

vụ phá sản ngân hàng, lịch sử của những vụ phá sản cho thấy, các điều kiện

mất khả năng thanh toán của ngân hàng cũng là một nguyên nhân góp phần

rất quan trọng. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng

thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp

như vậy, ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán

tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Điều này

khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng vì ngân hàng

phải bán tức thời ngay cả số tài sản khó chuyển nhượng với giá rẻ vì ngân

hàng khống đủ thời gian để tìm người mua cũng như điều kiện để thương

lượng về giá cả. Do bán khẩn cấp một số tài sản với giá thấp khiến cho khả

năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe dọa. Trong trường hợp rủi ro

thanh khoản càng ngày càng nghiêm trọng, nếu tất cả những người gửi tiền

đồng loạt yêu cầu ngân hàng chi trả toàn bộ tiền gửi của họ thì dẫn ngân hàng

chi đang từ chỗ phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với

rủi ro phá sản.

Rủi ro thanh khoản là rủi ro riêng có của ngân hàng và liên quan đến sự

sống còn của doanh nghiệp ngân hàng. Nó là loại rủi ro xảy ra mà ngân hàng

không lường trước được. Vì vậy để tránh rủi ro thanh khoản có thể xảy ra các

NHTM cần phải:

- Tăng cường khả năng nghiên cứu và phân tích kinh tế để phòng ngừa

từ xa khả năng thanh khoản.

- Xây dựng quy trình phân tích mức độ thanh khoản của các chi nhánh,

đồng thời phải thay đổi hệ thống tính toán thanh khoản theo hạn mức cố định

hiện nay bằng việc tính thanh khoản theo luồng chu chuyển trong hoạt động

tín dụng.

- Đa dạng hoá các loại khách hàng tiền gửi để ổn định thanh khoản. Đối

với các khách hàng lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến thanh khoản cần có cam

kết chặt chẽ về tiến độ thực hiện nghiệp vụ tránh biến động lớn đến quản lý

thanh khoản.

- Có kế hoạch dự phòng thanh khoản hợp lý.

3 .2 .2 2 Quản lý rủi ro lãi suất

88

Lãi suất cho vay của ngân hàng khác với lãi suất của các công cụ trên

thị trường tiền tệ, chẳng hạn như ngân khố phiếu và thương phiếu, ở chỗ là

chúng được đàm phán giữa người vay và ngân hàng hơn là được quyết định

trong một thị trường được tổ chức sẵn. Vì là kết quả của phương pháp xác định

giá cả tín dụng được đàm phán, các mức lãi suất cho vay của ngân hàng không

đồng nhất. Chúng phản ánh cả đặc tính cá biệt của khoản tín dụng lẫn cung

cầu về tín dụng trên thị trường vốn và tiền tệ. Lãi suất cũng thay đổi so với

mức rủi ro tín dụng trên hàng loạt các yếu tố : tiền cho vay, thời hạn, quy mô

cho vay, chi phí thực hiện và giám sát khoản cho vay, số dư tiền gửi của người

vay và các chứng khoán. Hơn nữa, lãi suất còn bị ảnh hưởng bởi phong tục tập

quán, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng và các nguồn vốn khác, lãi suất khống

chế tối đa, và thái độ của các giám đốc ngân hàng và người vay, liên quan đến

các điều kiện kinh tế trong tương lai.

Rủi ro lãi suất là những rủi ro mà các chủ thể kinh tế gặp phải khi có

biến động về lãi suất. Tất cả các khoản cho vay và nợ dù với lãi suất cố định

hay biến động đều có thể gặp rủi ro. Nếu như toàn bộ các chủ thể kinh tế đều

có nguy cơ gặp rủi ro, thì tất nhiên các tổ chức tín dụng là những đơn vị dễ

gặp rủi ro nhất do cơ cấu bảng cân đối tài sản của các tổ chức này. Rủi ro

lai suất là rủi ro mà ngân hàng phải chịu khi có các khoản cho vay hoặc nợ

theo lãi suất cố định, do diễn biến lãi suất về sau gây ra. Rủi ro này ảnh

hưởng đến kết quả lỗ lãi của ngân hàng. Một ngân hàng có thể đề phòng

bằng cách đánh giá rủi ro lãi suất qua từng nghiệp vụ một và thực hiện các

Đ ể giảm thiểu những rủi ro lãi suất các ngân hàng thương mại cần

phải thực hiện các bước sau:

- Thống nhất các mẫu báo cáo chi tiết về rủi ro lãi suất và quy trình

nghiệp vụ bảo chứng.

phân tích biến động lãi suất theo hướng định lượng hoá được mức rủi ro này,

trên cơ sở đó có giải pháp tăng hoặc giảm lãi suất khi thấy cần thiết.

- Có quy chế bắt buộc về đánh giá cụ thể rủi ro lãi suất đối với một sản

phẩm tín dụng hoặc dịch vụ trước khi đưa ra thị trường. Xây dựng quy trình dự

báo biến động lãi suất trong nước và quốc tế, trên cơ sở đó áp dụng các công

cụ phòng ngừa rủi ro hữu hiệu.

89

3.2.2.3 Quản lý rủi ro hối đoái

Trong môi trường toàn cầu hoá tài chính- ngân hàng, các nhà quản trị

ngân hàng càng ngày càng phải đối mặt với vấn đề rủi ro ngoại hối nhiều hơn.

Những rủi ro này có thể phát sinh thông qua các hoạt động như giao dịch

ngoại hối, cho vay bằng ngoại tệ, mua các chứng khoán được phát hành bằng

ngoại tệ hoặc là phát hành các chứng khoán nợ bằng ngoại tệ để huy động vốn.

Chính vì vậy một ngân hàng giao dịch ngoại hối phải giới hạn việc tham

gia vào các loại tiền tệ khác nhau và thực hiện một khối lượng kinh doanh vừa

đủ để các thiệt hại có thể bù đắp bằng các lợi tức. Hơn nữa, ngân hàng phải

cảnh giác không chỉ với những thay đổi tỷ giá hối đoái, mà cả với các nguyên

Các biện pháp quản lỷ rủi ro ngoại hổi là:

nhân của những thay đổi ấy để có thể áp dụng các biện pháp giảm bớt rủi ro.

- Thiết lập hệ thống các hạn mức về hoạt động kinh doanh hối đoái của

phòng vốn cũng như cơ cấu trạng thái ngoại tệ trên bảng cân đối tài sản.

- Thiết lập hạn mức về khoản chênh lệch cho phép giữa tài sản và công

nợ bằng ngoại tệ cho từng bộ phận kinh doanh.

- Thiết lập hạn mức mà các bộ phận kinh doanh có thể mua bán mà

không cần báo trước phòng vốn trung ương.

- Thiết lập các hạn mức về hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong nội bộ

phòng vốn trung ương bao gồm hạn mức qua ngày, qua đêm và có kỳ hạn,

hạn mức cho từng đối tác kinh doanh và từng nhân viên giao dịch.

3.2.2.4 Quản lý rủi ro tín dụng

Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động chính của ngân hàng. Cho vay bao

giờ cũng bao gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu

được nợ khi đến hạn. Việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm chính của nghề

ngân hàng. Các ngân hàng luôn luôn tìm cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm

những lợi tức cao nhất có thể có ở các món cho vay và chứng khoán, đồng

thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến các hoạt động cho vay như : sàng

lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, quy

định các mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế tín dụng. Dẫu sao

không một ngân hàng nào nghĩ được hết mọi sự bất ngờ khi nó viết ra những

quy định hạn chế vào một hợp đổng cho vay. Sẽ luôn luôn có những hoạt động

90

rủi ro của người vay tiền, chưa có một quy định hạn chế nào loại bỏ được

chúng cả. Người ta gọi đó là rủi ro tín dụng.

Rủi ro tín dụng giống như “ngòi nổ”, mà tự mình nó, sự phá hoại chỉ

giới hạn trong phạm vi hẹp , nhưng khi có những chất kích nổ sự phá hoại lan

truyền và sự tàn phá khủng khiếp sẽ diễn ra. Rủi ro tín dụng lúc đó có thể là

đầu mối của những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc cuộc khủng hoảng kinh

tế - xã hội. Vì thế mỗi ngân hàng cần phải có các chính sách cho vay rõ ràng

để xác định phương hướng sử dụng vốn, giảm bớt các rủi ro và duy trì các hoạt

động như dự định. Chính sách cho vay của một ngân hàng nên kết hợp sự bảo

Đê tránh được những rủi ro tín dụng có thê xảy ra các N H TM cần có

những biện pháp như:

- Tố chức nghiên cứu đánh giá tình hình hoạt động của khách hàng, đặc

đảm có thể chấp nhận được và khả năng thanh toán nợ

biệt là các khách hàng lớn, trên cơ sở đó xây dựng hạn mức tín dụng tổng hợp

cho một ngành hoặc cụ thể cho từng khách hàng, đánh giá sự phù hợp của

khoản tín dụng và hạn mức tín dụng, đồng thời tiến hành đánh giá lại tín dụng

trước khi gia hạn vay hoặc lập lại lịch trình trả nợ.

- Phân loại các khoản vay và phương pháp lập dự phòng cho phù hợp

với quy định của NHNN đồng thời nghiên cứu kiến nghị với NHNN về lĩnh

vực này theo thông lệ quốc tế để kịp thời bổ sung sửa đổi.

- Xây dựng hệ thống đo lường rủi ro tín dụng, hệ thống thang điểm

tín dụng phù hợp với mục tiêu lợi nhuận và khả năng chấp nhận rủi ro của

ngân hàng.

- Tổ chức đánh giá thường xuyên chất lượng tín dụng để đưa ra các biện

pháp kịp thời điều chỉnh hạn mức tín dụng cho khách hàng.

- Thiết lập hạn mức bảo lãnh tín dụng cho từng khách hàng, ban hành

quy trình đánh giá bảo lãnh tương tự như các khoản cho vay, thiết lập các quy

trình quản lý các tài khoản ngoại bảng một cách chính xác và đầy đủ đặc biệt

ở cấp chi nhánh.

3.2.2.5 Quản lý vốn

91

Quản lý vốn có ý nghĩa quan trọng đối với chính sách tiền tệ nói chung

(vĩ mô) và mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của các NHTM nói riêng (vi mô).

Trong những năm qua các NHTMQD đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm tăng

cường quản lý vốn đặc biệt là các biện pháp phát triển nguồn vốn. Tuy nhiên,

công tác quản lý vốn cần được nâng cấp hơn nữa trong điều kiện cạnh tranh

ngày càng gay gắt nhằm ổn định và phát triển thị phần, nâng cao khả năng

sinh lời trong dài hạn. Để đạt được mục tiêu nói trên cần thực hiện một số biện

pháp chú yếu sau:

AI Quản lý tài sản nợ:

Để quản lý tài sản nợ các NHTM cần tiến hành nghiên cứu phân tích

toàn diện về môi trường kinh doanh, trên cơ sở đó có được những dự báo về xu

hướng vận động của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tổng hợp như (GDP, tỷ lệ tiết

kiệm, cán cân vãng lai, tỷ lệ cung ứng tiền..) cũng như xu hướng vận động của

lãi suất, tỷ giá hối đoái để có kế hoạch phát triển nguồn vốn phù hợp.

Mặt khác các ngân hàng thương mại cần phân loại và đánh giá cơ cấu

nguồn vốn, hướng biến thiên của cơ cấu vốn trên cơ sở đó xây dựng cơ chế

chính sách huy động và điều hành vốn có hiệu quả nhất. Xây dựng các chỉ tiêu

an toàn về huy động vốn phù hợp với cơ cấu nguồn vốn tối ưu và tốc độ tăng

trướng hiệu quả của tài sản có.

BI Quân lý tài sản có

Hoạt động kinh doanh của khách hàng vay tiền thường rất đa dạng, trên

nhiều lĩnh vực, nhiều địa bàn với những cơ hội đầu tư rất phong phú. Vì vậy

việc nghiên cứu, sàng lọc, lựa chọn các dự án đầu tư có triển vọng tốt, hiệu

quả cao để cho vay là yếu tố quyết định của hoạt động tín dụng. Để đạt được

mục tiêu trên các NHTMQD cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau:

- Chuyên môn hoá việc cho vay hoặc đầu tư theo nhóm khách hàng ,

loại dịch vụ và chi tiết đến từng ngành nghề.

- Phân loại tài sản có theo rủi ro và quy định các hạn mức đầu tư phù

hợp với mức độ rủi ro nhằm hạn chế nợ xấu.

- Có các quy định cụ thể về hạn chế tín dụng đối với các lĩnh vực kinh

doanh rủi ro lớn và phải được thể hiện chặt chẽ trong từng hợp đổng vay vốn

92

- Xây dựng chiến lược hợp tác dài hạn với những khách hàng vay lớn

trên cơ sở đó ngân hàng có thể đánh giá đúng đắn khả năng tài chính, tiềm

năng thị trường, trình độ quản lý của khách hàng nhằm phòng ngừa những rủi

ro đến với khách hàng.

- Với một số khách hàng chiến lược, ngân hàng có thể có cổ phần thích

hợp, nhằm tham gia trực tiếp vào công tác quản lý hoặc giám sát được hoạt

động của khách hàng.

- Sử dụng có hiệu quả hệ thống các chỉ tiêu phòng ngừa rủi ro, điều

chỉnh linh hoạt các chỉ tiêu này phù hợp với nhu cầu, khả năng tài chính của

khách hàng cũng như mục tiêu sinh lời của ngân hàng.

Bố sung, sửa đổi các quy định về quản lý thanh khoản, quản lý chênh

lệch lãi suất của tài sản nợ-có, quản lý vật thế chấp, quản lý bảng tổng kết tài

3.2.3

Đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng và giảm thiểu chi p h í hoạt

động của các NHTM QD

sản phù hợp với nhu cầu phát triển mới.[2];[16];[24];[30]

3.2.3.1. Tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng cường đa dạng hoá các

dịch vụ kinh doanh

Như đã đề cập ở phần trên, hoạt động tín dụng là hoạt động giữ vị trí

độc tôn trong các NHTM Việt nam. Vì thế thu nhập cuối cùng của các NHTM

đã chịu sự chi phối mạnh của hoạt động tín dụng. Phương thức kinh doanh đơn

lẻ này đã làm cho các ngân hàng rơi vào tình trạng “ bỏ trứng trong một giỏ”-

trái ngược hẳn với chiến lược phân tán rủi ro trong kinh doanh, không phù hợp

với ngân hàng hiện đại, cản trở quá trình hội nhập tài chính của hệ thống ngân

hàng Việt nam. Để khắc phục được điều đó, buộc các ngân hàng phải tự

nghiên cứu, đưa ra nhiều sản phẩm có hiệu quả, mạnh dạn tham gia vào các dự

án lớn dưới nhiều hình thức .

Nhận thức việc phát triển sản phẩm mới là công cụ chiến lược để chiếm

lĩnh thị trường trong tương lai, các NHTMQD nên tập trung phát triển các sản

phẩm ngân hàng điện tử như Home-banking, E-banking, thẻ tín dụng, thẻ

thanh toán, séc tín dụng... Đây được đánh giá là các hoạt động dịch vụ ngân

hàng đcm lại lợi nhuận cao và có mức rủi ro thấp hơn các sản phẩm ngân hàng

93

truyền thống. Trong điều kiện vốn tự có còn quá ít thì việc phát triển các sản

phẩm mới là giải pháp tối ưu, an toàn và phù hợp với xu hướng hoạt động của

các ngân hàng hiện đại trên thế giới.

Xét về tổng thể, việc phát triển các sản phẩm mới còn là điều kiện bắt

buộc đê tiến tới khép kín các nhu cầu về lĩnh vực tài chính của doanh nghiệp

trong quá trình kinh doanh. Điều này không chỉ giúp các ngân hàng nâng cao

khả năng cạnh tranh trên thị trường mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho chính

ngân hàng quản lý chắc chắn đồng vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp, đảm bảo tính an toàn cao trong hoạt động ngân hàng.

Từ nhận thức đó các NHTMQD nên xây dựng phương hướng và mục

tiêu phát triển sản phẩm mới trong thời gian tới là tiếp tục củng cô' và từng

bước nâng cao chất lượng các sản phẩm truyền thống hiện có ; chủ động lựa

chọn, mở rộng, đa dạng hoá các hình thức dịch vụ mới nhằm đáp ứng được

yêu cầu dịch vụ đa dạng và khép kín của khách hàng; tập trung phát triển và

hoàn thiện dịch vụ ngân hàng bán lẻ và các dịch vụ ngân hàng phục vụ các

khách hàng lớn, trọng điểm. Chú trọng tìm hiểu, nghiên cứu, khảo sát thực tế

để có những sản phẩm mới trên thị trường

Bên cạnh đó Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện các điều kiện, tạo

thuận lợi cho các ngân hàng được tham gia vào thị trường chứng khoán -thị

trường luân chuyển vốn có hiệu quả nhất. Hơn nữa, quá trình hội nhập khu

vực và tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá với các hiệp định song phương và

đa phương làm cho các hoạt động cạnh tranh ngày càng toàn diện hơn và

quyết liệt hơn. Phát triển dịch vụ ngân hàng có tính cạnh tranh cao sẽ góp

phần quan trọng đến sự tăng trưởng lâu bền của ngân hàng.

3 .2 3 .2 Giảm thiểu chi phí hoạt động của các NHTMQD

Chi phí hoạt động của các NHTM Việt nam nhìn chung là cao hơn so

với các NHTM trong khu vực, đặc biệt là các NHTMQD. Chi phí hoạt động

cao sẽ dẫn đến việc hạn chế khả năng sinh lời của các ngân hàng, vì vậy việc

giảm thiểu chi phí hoạt động là một vấn đề quan trọng trong chiến lược cạnh

tranh của các ngân hàng thương mại. Để thực hiện được điều này trước hết

phải áp dụng một số biện pháp sau:

94

- Tiến hành kiểm soát chặt chẽ hệ thống các chi nhánh, xoá bỏ hoặc sát

nhập các chi nhánh không có hiệu quả

- Xác định các định mức trang bị mua sắm tài sản theo nhu cầu và phù

hợp với hiệu quả kinh doanh, quản lý chi tiêu theo định mức, khuyến khích cắt

giảm các chi phí không hợp lý.

- Hạn chế tối đa các khoản đầu tư, các hoạt động dịch vụ tạm thời chưa

có hiệu quả.

- Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tín dụng đối với các khách hàng,

3.2.4 Cải tiến cơ bản mô hình tổ chức và hoạt động của các NHTMQD

doanh nghiệp có nợ quá hạn lớn và kinh doanh kém hiệu quả.[22];[34]

3.2.4.1 Cơ cấu lại mô hình tổ chức của các NHTM QD

Cần tách riêng biệt hoạt động cho vay chính sách và cho vay thương

mại bằng việc thành lập độc lập một ngân hàng chính sách quốc gia thống

nhất để phục vụ các đối tượng chính sách

Để cho các NHTMQD hoạt động có hiệu quả, cần chuyển mô hình tổ

chức của các NHTMQD hiện nay sang mô hình tổ chức theo nhóm khách

hàng và theo loại dịch vụ kinh doanh kèm theo những định chế quản lý rủi 10

và quản lý tài sản có hiệu lực để khắc phục được cơ bản những mặt hạn chế

nói trên của các NHTMQD. Theo hướng này, hoạt động của các NHTMQD về

cơ bán tổ chức lại thành các khối, các nhốm dịch vụ sau đây:

- Khối dịch vụ ngân hàng phục vụ doanh nghiệp gồm các dịch vụ tín

dụng, thanh toán xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, thư tín dụng , bảo lãnh..

- Khối dịch vụ ngân hàng bán lẻ ( cho tư nhân) gồm các dịch vụ tiết

kiệm, tài khoản cá nhân, thanh toán thẻ, cho vay tiêu dùng cá nhân..

- Khối kinh doanh trên thị trường tài chính gồm các nghiệp vụ kinh

doanh chứng khoán, bảo hiểm thuê mua..

- Khối quản lý tài sản sử dụng có hiệu quả quỹ khấu hao, phát triển

phương tiện, công nghệ hiện đại, dịch vụ văn phòng..

- Khối hỗ trợ gồm các hoạt động tổng hợp về tổ chức, hành chính, quản

trị, kế toán, quan hệ quốc tế..

95

A

3.2.42 Xác định rõ hơn chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của

ỈỈĐQT và Ban điều hành

Theo luật doanh nghiệp Nhà nước, bộ máy lãnh đạo của các NHTMQD

phân thành hai bộ phận là Hội đồng quản trị và Ban điều hành. Trong thời

gian qua, việc phân định chức năng, nhiệm vụ của HĐQT và Ban Tổng giám

đốc điều hành còn chưa rõ ràng. Theo cơ chế hiện hành Chủ tịch HĐQT và

Tổng giám đốc cùng nhận vốn. Song áp dụng cơ chế này, việc phân định chức

năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐQT và BĐH không rõ ràng. Thực tế

HĐQT chỉ quản trị ngân hàng trên cơ sở đề nghị của Ban điều hành, điều này

đặt HĐQT vào thế bị động (chỉ giải quyết những gì Ban điều hành đề nghị).

Mặt khác tình trạng các cơ quản lý Nhà nước nhiều lúc can thiệp quá sâu vào

các lĩnh vực hoạt động ngân hàng, nhất là lĩnh vực tài chính và điều hành đã làm

giảm tính tự chủ trong việc điều hành trực tiếp của HĐQT trong ngân hàng.

Chính phủ nên xem xét phân định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của HĐQT,

Tổng giám đốc cho phù hợp tinh thần : HĐQT là cơ quan đại diện sở hữu Nhà

nước tại DNNN, Nhà nước giao vốn ( hoặc đầu tư vốn vào ngân hàng) qua

HĐQT, Chủ tịch HĐQT là người nhận vốn.Tổng giám đốc do Chủ tịch HĐQT

lim chọn, ký hợp đồng và trình cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp phê

chuấn. Phân biệt rõ trách nhiệm, quyền hạn của HĐQT, BĐH trên tinh thần

HĐQT là cơ quan quản lý cao nhất trong doanh nghiệp, thực hiện việc quản lý

trong doanh nghiệp, BĐH thực thi các nghị quyết của HĐQT.

Đây là vấn đề có tính chất đột phá vì nó là nhân tố con người gắn liền

với việc chỉnh sửa và bổ sung luật các tổ chức tín dụng hiện hành-Theo đó, đối

với toàn bộ hoạt động của các NHTMQD cần xây dựng và đổi mới Điều lệ và

quy chế hoạt động phù hợp với luật các TCTD theo hướng thiết chế một

HĐQT thực quyền trên các lĩnh vực : Tuyển chọn và bổ nhiệm Tổng giám

đốc, Ban điều hành, quyết định chính sách kinh doanh, được tuyển chọn xử lý

lao động dôi dư theo Pháp luật và quyết định phương án trả lương theo hiệu

quá lao động, chịu trách nhiệm trước Nhà nước ( trực tiếp là Thống đốc ngân

hàng nhà nước) về việc bảo toàn và phát triển vốn, được quyền thành lập các

công ty con hạch toán độc lập và chịu trách nhiệm trước luật pháp về tính

minh bạch trong hoạt động của công ty. Ngoài ra, các thành viên hội đổng

96

quán trị cần phải có đủ những tiêu chuẩn cần thiết theo sự điều chỉnh của quy

chế tổ chức và hoạt động áp dụng chung cho các DNNN, tăng cường quy chế

chuyên trách hoá và xoá bỏ cơ chế kiêm nhiệm hoặc “ đại diện “ cơ quan

3.2.4.3

Mở rộng quyền tự chủ về tài chính, công tác nhân sự và quản lý

nhân sự cho các NHTMQD

khác cử vào HĐQT

Việc mở rộng quyền tự chủ tài chính cho các NHTMQD có ý nghĩa

quyết định tạo ra động lực và hệ thống khuyến khích vật chất nhằm nâng cao

năng suất lao động và hiệu lực quản lý. Nghị định 166/1999/ NĐ-CP ban hành

ngày 19/11/1999 về chế độ tài chính đối với các TCTD vẫn chưa có văn bản

hướng dẫn. Theo nghị định nói trên, quyền tự chủ tài chính của các NHTMQD

còn rất hạn chế thể hiện trên một số m ặ t : tiền thu sử dụng vốn, việc lập và sử

dụng quỹ dự phòng rủi ro, cơ chế tiền luơng, việc giao quỹ lương và đơn giá

tiền lương. Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu sửa đổi theo hướng mở

rộng quyền phán quyết, phân cấp phán quyết và NHNN chỉ quản lý vĩ mô

bằng luật pháp nhằm kích thích tính năng động, sáng tạo và nâng cao trách

nhiệm của các NHTMQD.

Do chi nhánh của các NHTMQD hiện đang phân bố trên các địa bàn (

bị coi là ngân hàng của từng Tỉnh) nên việc xắp sếp, điều chuyển cán bộ bị chi

phối bởi các cơ quan địa phương (UBND tỉnh, Tỉnh uỷ, NHNN tại tỉnh). Việc

bố trí cán bộ vốn là việc nội bộ của các NHTMQD nhưng lại chịu sự quản lý,

chỉ đạo của quá nhiều đầu mối nên cũng gặp không ít khó khăn. Điều này đã

ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch và kết quả kinh doanh của từng NHTMQD.

Việc tiếp nhận và xử lý lao động cũng như các chế tài giữa các bên

trong hợp đồng thoả ước lao động thiếu rõ ràng thiếu dứt khoát. Do đó các

NHTMQD không đủ các điều kiện pháp lý cụ thể để điều hành công tác nhân

sự nghiêm túc theo yêu cầu của các nghiệp vụ kinh doanh trong điều kiện

cạnh tranh và mục tiêu hiệu quả.

Vì vậy việc cải cách các NHTMQD cần phải gắn với việc cơ cấu lại

mạng lưới chi nhánh, thống nhất quyền lực quản lý nhân sự và định rõ các chế

tài giữa các bên tham gia thoả thuận lao động. Đây là điều kiện tiên quyết để

nâng cao năng lực và kỷ cương quản lý, nâng cao sức ép cạnh tranh, thi đua

tăng năng suất lao động trong các NHTMQD.[15];[16];[28];[34];[46]

97

3.2.5

Có chiên lược đầu tư hợp lý cho phát triển công nghệ và đào tạo

nguồn nhân lực

Công nghệ ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sức mạnh của hệ

thống ngân hàng và là điểm yếu nhất của các NHTM Việt nam hiện nay. Ngân

hàng Nhà nước cần gấp rút xây dựng chiến lược chung về phát triển công nghệ

trong toàn hệ thống và có chính sách khuyến khích thoả đáng các ngân hàng

thương mại đầu tư vào lĩnh vực này, trước mắt cần tập trung đầu tư cải thiện

chất lượng dịch vụ hiện có, tạo tiền đề phát triển các dịch vụ mới.

Mặt khác Ngân hàng nhà nước và các ngành hữu quan cần cải tiến và

gỡ bỏ những chính sách, quy định đang cản trở việc đưa công nghệ mới vào

cuộc sống như chế độ kế toán, thống kê, chế độ quản lý chứng từ, kho quỹ,

chế độ thanh toán chuẩn quốc tế nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình đầu

tư đổi mới công nghệ trong toàn hệ thống.

Trước mắt thúc đẩy hơn nữa việc triển khai dự án hiện đại hoá ngân

hàng và hệ thống thanh toán do WB tài trợ nhằm tạo ra nền tảng công nghệ

tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt là các tiểu dự án về hệ thống thanh toán nội bộ và kế

toán khách hàng có tầm quan trọng đối với quá trình tái cơ cấu các NHTMQD.

Các ngân hàng thương mại cần tập trung đầu tư nâng cấp hệ thống

ihóng tin quản lý (MIS) phục vụ cho công tác điều hành kinh doanh, kiểm soát

hoạt động ngân hàng, quản lý khách hàng, quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ-

có và công tác kế toán.

Để triển khai chương trình phát triển công nghệ, các NHTMQD cần rà

soát lại các quy định, quy chế, tiêu chí thống kê-kế toán bất hợp lý đang cản

trở việc ứng dụng công nghệ hiện đại trình Thống đốc xem xét, sửa đổi trong

thời gian tới. NHNN và Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ về tài chính cho

các NHTMQD để đầu tư đồng bộ hệ thống công nghệ thông tin và đào tạo cán

bộ khai thác và xử lý theo yêu cầu quản lý. Khoản chi phí này rất lớn và vượt

quá khả năng tài chính của các NHTMQD hiện nay.

Các NHTMQD ngoài việc đầu tư cho phát triển công nghệ một cách

hợp lý, còn phải quan tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực. Hiện nay có trên

60% cán bộ của các NHTMQD chưa có trình độ đại học. Một bộ phận lớn các

cán bộ quản lý cao cấp của các NHTMQD mặc dù có nhiều kinh nghiệm

98

nhưng chưa được cập nhật kiến thức quản lý ngân hàng hiện đại. Đó là những

trở ngại rất lớn cho quá trình cải cách và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng.

Việc khẩn trương đào tạo một lớp cán bộ chủ chốt kế cận là cực kỳ cần thiết

và mang tính chiến lược để mở đường cho công nghệ mới được tiếp nhận và

trở thành phổ biến, phát huy được công dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động

ngân hàng.

Vì vậy NHNN và các NHTMQD cần ưu tiên đầu tư thoả đáng cho lĩnh

vực đào tạo theo những tiêu chuẩn quốc tế về quản trị ngân hàng, đồng thời

gắn việc đào tạo với việc chuyển giao và hiện đại hoá công nghệ, có chính

sách nâng đỡ, thu hút và sử dụng nhân tài nhằm rút ngắn thời gian và tiết

kiệm chi phí đào tạo. Cán bộ được đào tạo theo chương trình quản trị ngân

hàng hiện đại ở trong và ngoài nước. Vai trò của hiệp hội ngân hàng cần phải

3.2.6

Tăng cường công tác thanh tra giám sát hoạt động của các

NHTMQD

vươn tới đảm đương vấn đề đặc biệt quan trọng và mang tính chiến lược này.

Hệ thống giám sát hoạt động NHTMQD hiện nay quá coi trọng vào

công tác thanh tra tại chỗ, xem nhẹ công tác thanh tra giám sát từ xa và kiểm

loan nội bộ. Ý nghĩa của giám sát từ xa và kiểm toán nội bộ đối với hoạt động

ngân hàng, sớm dự đoán các sự cố có thể đến từ nhiều phía đối với ngân hàng,

đồng thời giúp cho công tác thanh tra xử lý đúng trọng điểm, kịp thời và có

hiệu quả thiết thực, không gây phiền toái cho hoạt động kinh doanh.

Để thực hiện mục tiêu nói trên các NHTM cần tổ chức lại hệ thống phân tích,

đánh giá các chỉ tiêu tài chính và các chỉ tiêu khác về cơ số vốn, trị giá lãi

thực, vốn dự trữ, tiền vay và các tài sản khác để điều chỉnh kịp thời các hoạt

động quản lý giám sát.

Mặt khác phải chấn chỉnh và nâng cao chất lượng của kiểm toán nội bộ

từ quy trình kiểm toán đến tính xác thực và độ tin cậy của các thông tin, các

chỉ tiêu tài chính cũng như các đề xuất về cải tiến công tác quản lý tài chính,

và đào tạo lại các cán bộ kiểm tra, kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế.

Thực hiện nghiêm ngặt chế độ báo cáo tài chính, thống kê và các báo

cáo khác theo quy định, hiện đại hoá thông tin quản lý (MIS) nhằm nâng cao

năng suất và hiệu quả của việc xử lý thông tin.[16];[34];[35];[36];[37]

99

Tóm lai

Xúc tiến việc cải cách cơ cấu tổ chức và hoạt động của các NHTMQD

là nhu cầu bức xúc, khách quan của môi trường cạnh tranh và quy mô phát

triển mới của thị trường tài chính Việt nam trong tiến trình toàn cầu hoá và sự

nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. Quy trình cải tiến

vừa đảm bảo tính liên tục trong dòng chảy của mạch máu kinh tế, vừa nhanh

chóng triển khai xây dựng chiến lược cải cách của từng NHTM theo những

nội dung cơ bản như đã trình bày- trong đó những nội dung quan trọng nhất

liên quan đén tổ chức và hoạt động chính là việc cải cách môi trường pháp lý,

cơ cấu lại tài chính, tách bạch hoạt động tín dụng chính sách ra khỏi hoạt

động thương mại, tổ chức lại hệ thống mạng lưới để quản lý theo cơ cấu nhóm

khách hàng và loại dịch vụ, từng bước phát triển mạng thông tin hiện đại và

tích cực đào tạo cũng như tái đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt và chuẩn bị đội

ngũ kế cận đủ sức tiếp nhận công nghệ quản lý và kinh doanh trong môi

100

trường cạnh tranh mới.

f j\ ei ỉu ă n

0

Với những chuyển động hết sức phức tạp trong khu vực ngân hàng và

những yêu cầu bức thiết đặt ra cần phải có tổ chức để có thể đáp ứng được

những thách thức của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập khu vực. Hệ thống

ngân hàng của Việt nam cần phải có những bước chuyến mạnh mẽ hơn nữa,

trong đó cần đặc biệt chú trọng vai trò hướng đạo của các ngân hàng thương

mại nhà nước trong toàn hệ thống. Hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế

chí có thể đạt được thế cân bằng ổn định khi các ngân hàng thương mại nhà

nước duy trì và phát huy được vai trò điều tiết của mình. Muốn vậy bản thân

các ngân hàng thương mại nhà nước cũng cần phải có những cải tổ cấp tiến

toàn diện và sâu sắc hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực tài chính, nhân sự, quản

lý, hạch toán, kiểm toán và chiến lược kinh doanh...

Bèn cạnh đó để duy trì được một hệ thống tài chính lành mạnh, nhất

thiết cũng cần phải có nhiều biện pháp tháo gỡ mạnh mẽ hơn nữa từ phía các

cơ quan quản lý hành chính, mà cụ thể là ngân hàng Trung ương nhằm tímg

bước nâng cao và phát huy được khả năng cạnh tranh bền vững cho hệ thống

ngân hàng trước các thách thức to lớn ngày càng đến gần trong quá trình hội

nhập với nền kinh tế thế giới.

101

Tài liệu tham khảo

[1J- Alan c Shapiro

Quản trị tài chính quốc //-N h à xuất bản thống k ê - 1999

An ninh tài chính đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng-Nhà xuất bản tài chính- Hà nội 2001

[2] - TS Vũ Đình Á nh

Phân tích chất lượng tín dụng và rủi ro ngân hàng- Tài liệu hội thảo do ngân hàng Pháp và N gàn hàng N hà nước tiến hành 9/1998

[3] - Bruno Andre L onger

[4] - Các định c h ế tài chính-N hà xuất bản thống k ê - 1999 [5] - Các hệ thống tài chính và sự phát triển- Báo cáo của ngân hàng T hế

giới- N hà xuất bản giao thông vận tải 1998.

Các M ác tập III phần mộr-Nhà xuất bản sự thật-Hà nội 1987

[ 6 ] - Các Mác

Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại-Nhà xuất bản chính trị quốc g ia -1997 [8] - Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ và kiểm soát lạm phát ở Việt nam

[7] - David Cox

Nhà xuất bản chính trị quốc gia -1997

Ngân hàng thương m ại-N hà xuất bản thành phố Hồ Chí M in h -1993

[9] - Edward w R eed và Edward K Gild

Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính-Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật- Hà nội 1994

[10] - Frederic s M iskhin

[ 11] - Giáo trình lý thuyết tiền tệ và ngân hàng

Học viện ngân hàng-N hà xuất bản thống kê- Hà nội 2001

[12] - Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng

Học viện ngân hàng-N hà xuất bản thống kê 2000

Kinh tế học của sự phát triển-V iện nghiên cứu quản lý Trung ương-

[ 13] - H Perkins and M Gilli

1990

[14] - Hệ thống hoá văn bản pháp luật về ngân hàng

[15]-TS Lê Đình Hợp

M ột s ố vấn đ ề về cuộc cách mạng dịcli vụ ngân hàng tliập kỷ 90 Tạp chí thông tin khoa học ngân hàng, số 5-6 năm 1997

Ngân hàng N hà nước Việt nam -N hà xuất bản chính trị quốc gia-1998

[16] - Trần Văn Hùng

T ái cơ cấu hệ thống N H TM Việt nam -cơ sở hội nhập quốc t ế thành công Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, số 5/2001

Đ ổi mới chính sách tiền tệ-tín dụng- ngân hàng trong giai đoạn chuyển sang kinh t ế thị trường ở nước ta N h à xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội 1995

[ 1 8 ] -P T S Cao Sĩ Kiêm

H ai pháp lệnh ngân hàng bước tiến quan trọng trong quản lý và kinh doanh tiền tệ-Tạp chí Cộng sản số 1 năm 1990

[17] - PTS Cao Sĩ Kiếm

Thành lập công ty mua bán tài sản th ế chấp , một trong những giải p háp đ ể lành mạnh hệ thống ngân hàng-Tạp chí ngân hàng số 15/1999

[ 19] - N gô Tuấn Kiệp

[20] - Luật ngân hàng N hà nước Việt nam, luật các tổ chức tín dụng

N g â n hàng N hà nước Việt n a m - 1998

Giáo trình kinh t ế học tiền tệ ngân hàng- N hà xuất bản Đại học quốc gia-H à nội 1999

[ 2 1 ] - P T S Trịnh Thị Hoa M ai '

Xu hướng đa dạng hoá dịch vụ trong chiến lược kinh doanh của N H TM T ạp chí ngân hàng SỐ3/2001

[22] - N g uyễn Bá M inh

[23] - N gân hàng V iệt nam, quá trình xây dựng và phát triển

N hà xuất bản chính trị quốc g ia - 1996

V ấn đ ề dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng-Tạp chí ngân hàng số 7/2000

[24] - Lê Thị Thanh Nhàn

nước N h à xuất bản th ế g iớ i-1997

[25] - Pháp luật ngân hàng trung ương và Ngân hàng thương mại một s ố

K inh t ế học quốc tế-Lỷ thuyết và chính sách-Nhà xuất bản chính trị quốc gia- Hà nội 1996

[26] - Paul R K rugm an and Maurice obstfeld

N ợ tồn đọng-vấn đ ề cần tiếp tục giải quyết-Tạp chí ngân hàng số 15/1999 [28] - Tào Hữu Phùng

K hủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu A và m ột s ố giải pháp đối với V iệt nam -Tạp chí Cộng sản, số 3 tháng 2/1998

[27] - TS Đ ào M inh Phúc

[29] - Quản lý và kinh doanh tiền tệ

Trường đại học tài chính kế toán Hà nội-N hà xuất bản tài chính - Hà nội 1999

Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng-Nhà xuất bản thống kê- Hà nội 1999 [31] - G S _T S L ê Văn Tư

Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính-N hà xuất bản thống kê-Hà nội 1999 [32]- GS_TS Lê Văn Tư

Ngân hàng thương m ạ/-N hà xuất bản thống kê-H à nội 2001

[30] - PTS N guyễn Văn Tiến

M ô hình AM C đ ể xử lý nợ khó đòi tồn đọng-Tạp chí ngân hàng số 7/2000

[ 3 3 ] - T S Trịnh Bá Tửu

services

chiến lược dài hạn N gân hàng T hế giới và quỹ tiền tệ Quốc tế, 1999 [35] - Tạp chí ngân hàng các năm 1999, 2000, 2001, 2002 [36} - Tạp chí tiền tệ ngân hàng các năm 2000, 2001, 2002 [37] - Bank for International Selments, Annual report 1999,2000,2001 [38] - Bank for international Settlements. 1999. International Banking and Financial M arket Developments. A u g u stl9 9 8 and August 1999. [39] - Berger, Allen N, Rebecca s Dem setz,and Phillip E Strahan.1999. Industry: Causes, “The Consolidation o f F inancial consequences and implication fo r the fu tu re ” Journal o f Banking and Finance 23(2-4): 135-194

[34] - Hệ thống ngân hàng thương m ại Việt nam-những nguy cơ hiện tại và

[40 Ị - Cerasi, Victoria, Barbara Chizzolini and Marc Ivaldi. 1998. “Sunk costs and com petitiveness o f European bank after deregulation” LSE financial Markets Group discussion paper 290 (april)

[41] - De Bandt, Olivier. 1998 “EM U and the structure o f the European- banking system .Paper prepared fo r the SUERFCFS conference: ” The Euro: Chalenge and opportunity fo r financial m a rkets” Frankfurt, Germany. N o vem berl5-1 7,1 998

[42] - Dermine, Jean. 1998 “EuroBanking, the Strategic issu es”. Paper prepared for the SU ERF Colloquium on the Euro: A chellenge and opportunity for financial m arkets” Frankfurt, Germany. October 15- 17,1998

[43] - Dietsch, Michel, Gary Ferrier and Laurent W eill, 1998. ’’Banking efficiency and European integration: Productivity, cost and profit approaches” Universite Robert Schuman de Strasbourg, France