ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

NGUYỄN THỊ YẾN

HIỆN THỰC CHIẾN TRANH TRONG

MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH VÀ

MÙA CHINH CHIẾN ẤY CỦA ĐOÀN TUẤN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

NGUYỄN THỊ YẾN

HIỆN THỰC CHIẾN TRANH TRONG

MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH VÀ

MÙA CHINH CHIẾN ẤY CỦA ĐOÀN TUẤN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam

Mã số: 8229030.04

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Đức Phƣơng

Hà Nội – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết quả quá

trình nghiên cứu của bản thân tôi.

Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa học

của các tác giả với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung tôi nghiên cứu

không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả khác.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Học viên

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ vô cùng quý

báu của các tập thể và cá nhân.

Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã và đang

giảng dạy trong chương trình Cao học môn Ngữ văn Trường Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn – những người đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.

Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS Đoàn Đức Phương – người

Thầy đã tận tâm hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và triển khai luận văn.

Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã

luôn tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện

luận văn.

Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận

văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của Thầy/ Cô và các anh chị

học viên.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Học viên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3

3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu .................................................... 6

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7

5. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 7

Chƣơng 1: VĂN HỌC VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH SAU 1975 VÀ

SÁNG TÁC CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH, ĐOÀN TUẤN

1.1. Văn học về đề tài chiến tranh sau 1975 .................................................. 8

1.1.1. Cơ sở của việc phản ánh hiện thực chiến tranh ...................................... 8

1.1.2. Hiện thực chiến tranh với những hướng tiếp cận mới .......................... 11

1.1.2.1. Hiện thực chiến trường qua góc nhìn đời tư, thế sự .......................... 11

1.1.2.2. Hiện thực chiến tranh từ góc nhìn văn hoá, tâm linh ........................ 16

1.2. Sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn ................................... 21

1.2.1. Sáng tác của Sương Nguyệt Minh ........................................................ 21

1.2.1.1. Vài nét về Sương Nguyệt Minh ........................................................... 21

1.2.1.2. Hành trình sáng tạo ........................................................................... 22

1.2.2. Sáng tác của Đoàn Tuấn ........................................................................ 26

1.2.2.1. Vài nét về Đoàn Tuấn ......................................................................... 26

1.2.2.2. Hành trình sáng tạo ........................................................................... 27

Chƣơng 2: HIỆN THỰC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM

TRONG MIỀN HOANG VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY

2.1. Bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ..................... 33

2.1.1. Hoàn cảnh chiến trường ........................................................................ 33

2.1.1.1. Chiến trường dữ dội, khốc liệt ........................................................... 33

2.1.1.2. Sự hi sinh, mất mát ............................................................................. 41

2.1.2. Cuộc chiến đấu vì Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế ................................... 45

2.1.2.1. Nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng ............................................................ 45

2.1.2.2. Sống và chiến đấu hết mình ............................................................... 49

2.2. Hình tƣợng ngƣời lính Việt Nam .......................................................... 51

2.2.1. Hình tượng người lính trong cuộc đấu tranh với kẻ thù ....................... 51

2.2.1.1. Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất ................................................................ 51

2.2.1.2. Những góc khuất tâm hồn người lính ................................................ 64

2.2.2. Hình tượng người lính trở về sau chiến tranh ....................................... 70

2.3. Hình tƣợng kẻ thù .................................................................................. 73

2.3.1. Hình tượng kẻ thù với bản chất xấu xa ................................................. 73

2.3.2. Hình tượng kẻ thù trong hiện thực chiến trường .................................. 76

2.3.2.1. Những kẻ độc ác, tàn bạo ................................................................... 76

2.3.2.2. Những kẻ đê tiện, thô bỉ ..................................................................... 80

Chƣơng 3: MIỀN HOANG VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY NHÌN TỪ

PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................. 84

3.1.1. Khắc hoạ nhân vật qua ngoại hình ........................................................ 84

3.1.2. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................ 90

3.2. Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trần thuật ........................................... 94

3.2.1. Người kể chuyện ................................................................................... 94

3.2.2. Điểm nhìn trần thuật ............................................................................ 103

3.3. Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................. 109

3.3.1. Ngôn ngữ có tính hiện thực ................................................................. 110

3.3.2. Ngôn ngữ dung tục, đời thường .......................................................... 114

3.3.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ ....................................................................... 118

3.3.4. Ngôn ngữ đậm chất triết lí .................................................................. 122

3.3.5. Ngôn ngữ ma mị, ám ảnh .................................................................... 126

KẾT LUẬN .................................................................................................. 131

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 133

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Chiến tranh là một địa hạt văn chương khá màu mỡ, thu hút nhiều cây bút tài

năng. Trong chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, chúng ta đã thấy một số lượng tác

phẩm hùng hậu, mang chiều sâu về nội dung. Văn học đã làm tròn sứ mệnh thiêng

liêng của mình trở thành vũ khí đắc lực trong cuộc chiến với kẻ thù. Phần lớn các

tác phẩm đã phản chiếu trung thành những năm tháng hào hùng của dân tộc, xây

dựng những hình tượng đẹp đẽ về đất nước và nhân dân anh hùng.

Khi hoà bình lập lại, văn học viết về chiến tranh vẫn có một chỗ đứng riêng

với những cách tân về tư duy nghệ thuật. Đất nước bước vào thời bình, các nhà văn

đã có một độ lùi nhất định để nhìn nhận chiến tranh một cách bình tĩnh hơn, sâu

lắng hơn và phản ánh vấn đề toàn diện hơn. Các tác phẩm viết về chiến tranh ở thời

kì này đã có những tìm tòi, đổi mới về nội dung tư tưởng, quan niệm về thể loại và

đổi mới về “kĩ thuật”, có những đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới văn

học nước nhà. Chính vì vậy, những năm gần đây, văn chương viết về đề tài chiến

tranh có khá nhiều thành tựu, là khu vực đặc biệt thú vị và đầy hứa hẹn, bắt kịp với

trình độ của văn học đương đại trên thế giới.

Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở vùng biên giới Tây Nam (1975 – 1979) có

ý nghĩa lịch sử quan trọng. Mỗi người lính ra trận không chỉ có nhiệm vụ bảo vệ

biên giới của Tổ quốc mà còn gánh trên vai nghĩa vụ quốc tế cao cả. Thế nhưng,

trong cuộc chiến ấy, bao nhiêu người lính đã ngã xuống, bao nhiêu những đau

thương vây bủa ngay cả khi những người còn sống được trở về. Hiện thực ấy đã

được thể hiện một cách chân thực qua văn học, dù mới chỉ là một “mảnh đất nhỏ”

với những tác phẩm như Dòng sông Xô Nét của Nguyễn Trí Huân, Không phải trò

đùa của Khuất Quang Thuỵ, Khoảng rừng có những ngôi sao và Ngôi chùa ở

Pratthana của Văn Lê, Bên dòng sông mê của Bùi Thanh Minh, Mùa xa nhà của

Nguyễn Thành Nhân, Hồi ức lính của Vũ Công Chiến,…Có thể thấy, chiến tranh

biên giới Tây Nam đã lùi xa hơn 40 năm, nhưng những kí ức về cuộc chiến đấu vì

nhiệm vụ quốc tế cao cả ấy vẫn còn là nỗi trăn trở của nhiều cây bút hiện đại. Một

1

số tác phẩm viết về chiến tranh ra đời như một “món nợ” với đồng đội, với những

người đã ngã xuống. Món nợ văn chương được các nhà văn bù lấp bằng những tác

phẩm có “tâm” và có “tầm” với lối tư duy nghệ thuật hiện đại. Miền hoang của

Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn là những tác phẩm như

thế. Chân thực, sâu sắc, toàn diện, thấm thía, cảm xúc,…hai tác giả không chỉ mang

đến cái nhìn về hiện thực chiến tranh, mà hơn hết mỗi trang văn đều được hình

thành từ cái tâm và lương tri của người lính - những lính hoàn thành nhiệm vụ

thiêng liêng từ chiến trường K năm ấy và bây giờ, họ dành những trang văn đẹp đẽ

nhất viết về đồng đội mình, về chiến tranh, …từ cái nhìn của một người trong cuộc.

Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn là hai cây bút tài năng của văn học Việt

Nam hiện đại. Họ viết văn bằng ý thức nghề nghiệp của mình. Nhưng điều đặc biệt

họ từng là người lính, họ từng trực tiếp tham gia chiến đấu, họ từng dấn thân trên

chiến trường nước bạn, gánh trên vai nhiệm vụ chiến đấu thiêng liêng. Họ cầm bút

cũng là khi “Hàng vạn đồng đội của họ đã chết để họ được sống và kể lại câu

chuyện của thế hệ mình”, họ là những người “được chọn” để viết về đồng đội của

mình và viết để “trả nợ” đồng đội. 40 năm qua đi, những kí ức về chiến tranh, về

đồng đội…vẫn vẹn nguyên và thôi thúc những người lính – nhà văn ấy cầm bút

trong một thực tại hoàn toàn khác. Tài năng, lương tri của người lính kết hợp với

những cách tân mới mẻ về nghệ thuật đã giúp Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn

viết một cách chân thực nhất, thấm thía nhất về chiến tranh biên giới Tây Nam.

Nghiên cứu, tìm hiểu chủ đề chiến tranh trong hai tác phẩm Miền hoang của

Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, một mặt khai thác

những mảng hiện thực đa bộn, nhiều chiều về chiến tranh biên giới Tây Nam nói

riêng và đề tài chiến tranh nói chung, mặt khác thấy được sự độc đáo, mới lạ trong

những cách tân nghệ thuật, những “kĩ thuật” khai thác hiện thực chiến tranh rất hiệu

quả của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Qua đó khẳng định sự phát triển của

văn học chiến tranh với những cách tân đáng chú ý, bắt kịp với trình độ đương đại

của văn học thế giới. Đó là lí do chúng tôi lựa chọn đề tài “Hiện thực chiến tranh

trong Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn

2

Tuấn” để thực hiện.

2. Lịch sử vấn đề

Miền hoang ra mắt bạn đọc vào năm 2014, sau đó được Nhà xuất bản Trẻ in

thành sách cùng tên. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tác giả. Cuốn tiểu thuyết

đoạt giải Sách hay năm 2015 và được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhà

văn, nhà báo quan tâm giới thiệu, phân tích, bình luận.

Trong buổi toạ đàm Nhà văn Sương Nguyệt Minh với tiểu thuyết „Miền hoang‟

được tổ chức vào ngày 17/12/2014 tại Đại học Văn hoá Hà Nội, nhiều nhà nghiên

cứu phê bình đã bày tỏ ý kiến nhận định về tiểu thuyết Miền hoang của Sương

Nguyệt Minh. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nhận định Miền hoang là

cuốn tiểu thuyết được viết tâm huyết, công phu, độc đáo về cuộc chiến tranh bảo vệ

biên giới Tây Nam và cuộc chiến ở chiến trường Campuchia… Cuộc chiến Miền

hoang là cuộc chiến giữa văn minh và bạo tàn, chỉ có cuộc lạc rừng loanh quanh của

4 người mà viết được hơn 600 trang, đọc vẫn bất ngờ, cuốn hút, hấp dẫn. Nguyễn

Văn Thọ đánh giá cao sự “khôn ngoan” của tác giả Miền hoang trong việc lựa chọn

ngôi kể, quy chiếu được nhiều góc nhìn, điểm nhìn, nhờ đó nội dung câu chuyện

được kể thoải mái hơn, thật hơn, khách quan hơn. Đỗ Bích Thuý cũng nhận xét thấu

đáo về tác phẩm Miền hoang. Theo nhà văn, sở trường giỏi nhất về truyện ngắn của

Sương Nguyệt Minh lại một lần nữa được thể hiện trong tác phẩm, đặc biệt là các chi

tiết. Chi tiết trong Miền hoang kĩ lưỡng, sắc nét, và chị cho rằng, với Miền hoang,

Sương Nguyệt Minh thêm một lần nữa khẳng định tên tuổi ở thể loại tiểu thuyết.

Đặc biệt, nhà phê bình Lã Nguyên có bài biết công phu về tác phẩm Miền

hoang của Sương Nguyệt Minh. Trong đó, ông đánh giá cao tác giả, tác phẩm:“Đặt

bên cạnh những tập truyện ngắn trước kia của ông, thấy „Miền hoang‟ vẫn nằm

trong văn mạch của một cây bút đã định hình phong cách”; “Tôi cho rằng điểm

mới lạ, độc sáng trong thiên tiểu thuyết này là nghệ thuật chuyển đổi điểm nhìn trần

thuật”; “Sẽ không tìm thấy trong văn xuôi Việt Nam hiện nay một tiểu thuyết thứ

hai có hệ thống nhân vật người kể chuyện được dụng công xây dựng như vậy” [55].

Còn Lê Minh Quốc, nhà văn, nhà thơ, đồng đội của Sương Nguyệt Minh thời

ở chiến trường K đã dành những lời chia sẻ: “Miền hoang của nhà văn Sương

Nguyệt Minh là cuốn tiểu thuyết…viết chân thành. Sự việc tàn khốc, bi thảm và hào

3

hùng từ chất liệu vốn có. Hãy đọc. Nên đọc” [70].

Nhà văn Đỗ Tiến Thuỵ đánh giá cao nghệ thuật tự sự của Miền hoang khi cho

rằng, tuy là lần đầu tiên viết tiểu thuyết nhưng Sương Nguyệt Minh đã trổ hết những

“ngón nghề” về thể loại. Cả nhà văn Đỗ Tiến Thuỵ và nhà phê bình Nguyễn Chí

Hoan đều cho rằng tác giả Miền hoang “khôn ngoan” khi dùng những bản tin thông

tấn ngắn gọn làm đề từ như một sự hỗn dung thể loại: văn chương - báo chí, tiểu

thuyết tư liệu - tiểu thuyết phiêu lưu; bản thân những bản tin đã có sức khơi tạo

được không khí, bối cảnh của sự kiện, tiết kiệm được công sức của nhà văn.

Nhà báo Việt Quỳnh (báo Thể thao Văn hoá) trong bài viết Nhà văn Sương

Nguyệt Minh: Tiểu thuyết từ ám ảnh của người lính lạc rừng cho rằng: “Cảm hứng để

viết cuốn tiểu thuyết định mệnh này, có lẽ bắt nguồn từ những ám ảnh ký ức của nhà

văn, khi từng là „người lính lạc rừng lang thang đói khát, mặt quắt như ngón tay chéo

ở những cánh rừng Campuchia‟ như tác giả đã chia sẻ. Những mảnh vụn còn sót lại

trong trí nhớ lúc thể hiện, lúc mờ nhạt qua từng trang viết tạo nên một thế giới nội

tâm đầy ấm ức. Trải nghiệm lạ thường trong dòng chảy cảm giác và cảm xúc được kể

lại bằng chất văn mềm mại, bình dị, pha cả trong sáng ngây thơ” [74].

Có thể nói, khi ra đời tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh nhận

được khá nhiều ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu văn học. Qua đó người đọc

dần dần khám phá những nét đặc sắc trong tác phẩm của Sương Nguyệt Minh nói

chung và tiểu thuyết Miền hoang nói riêng.

Mùa chinh chiến ấy là cuốn sách đầu tay của Đoàn Tuấn. Ngày 22/7/2017,

hơn 330 cựu binh thuộc thuộc tiểu đoàn 8, Trung đoàn 29, Sư đoàn 307 tham gia

chiến đấu trên chiến trường Campuchia đã có buổi gặp mặt kỉ niệm 40 năm ngày

nhập ngũ tại Đà Nẵng. Cũng trong dịp này, nhà văn Đoàn Tuấn đã ra mắt và tặng

hơn 300 cuốn sách Mùa chinh chiến ấy cho đồng đội mình.

Trong lời đề tựa ra mắt cuốn sách Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, Xuân

Thân đã trích dẫn lời nhận xét của nhà thơ - nhà báo Lê Minh Quốc, cựu binh Đại đội

7, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 29, Sư 307: “Với tư cách người lính từng cầm súng chiến

đấu và sống những năm tháng thanh xuân thơ dại trên quê hương Chùa Tháp, tôi dám

nói rằng…hồi ức chiến binh Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn là một trong những

4

tập bút ký xuất sắc nhất, có vị trí quan trọng trong các tác phẩm viết về chiến sĩ quân

tình nguyện Việt Nam”. Đồng thời, cũng trong bài viết, Xuân Thân cho rằng: “ Có

thể xem Mùa chinh chiến ấy như những thước phim về một giai đoạn lịch sử của đất

nước được nhìn dưới con mắt của một người lính ở tầng thấp nhất”, là “hồi ức một

thời của tác giả, cũng như những đồng đội của mình, ông đã có khoảng thời gian rất

dài để chiêm nghiệm về những gì đã qua. Dù vẫn còn đó những ám ảnh về mất mát,

hi sinh nhưng những người lính cũng đã thanh thản và nhẹ nhàng hơn, đã có thể nhìn

được đằng sau những ngày tháng khốc liệt ấy là tình người, là những giá trị cuộc sống

mà chỉ khi trải qua những ngày tháng gian nan của cận kề cái chết họ mới hiểu hết

được”. Đó cũng là lí do mà cựu binh Hiền Nhân nhận xét: “Mùa chinh chiến ấy…ngỡ

như một giấc mơ khốc liệt mà tuyệt đẹp” [ 82].

Tác giả Nguyễn Văn Hùng trong bài viết „Mùa chinh chiến‟ ấy và khúc tráng

ca người lính đã có những chia sẻ: “Bằng sự nhạy cảm và điềm tĩnh trước mọi tình

huống cùng khả năng quan sát tinh tường, ghi chép tỉ mỉ - những tố chất sẵn có của

một người lính thông tin, Đoàn Tuấn đã tái hiện “mùa chinh chiến” nơi biên giới

Tây Nam trong những năm 1978 - 1983 khốc liệt mà tuyệt đẹp, lôi cuốn và giàu sức

ám gợi. Gương mặt chiến tranh hiện lên hào hùng nhưng không kém phần khắc

nghiệt… Ở đó, sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong nháy mắt; nơi mỗi phum

làng được giải phóng, từng giây từng phút bình yên của người dân đều phải trả giá

bằng xương máu của quân tình nguyện Việt Nam. Có sự hi sinh anh dũng, đẹp đẽ,

rạng ngời nhưng cũng có cái chết tức tưởi, nghẹn uất, phi lí. Chiến tranh là vậy, và

Đoàn Tuấn đã không né tránh mảng hiện thực gai góc, trần trụi, nghiệt ngã đến tận

cùng ấy”. Với Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn trở thành người thư kí trung thành

của thời đại anh, nói về thế hệ mình - tiếng nói được cất lên từ lương tâm người

lính, từ ý thức trách nhiệm của một con người. Tác phẩm vang lên như một khúc

tráng ca để thế hệ của anh tự hào, kiêu hãnh về những năm tháng đã sống, chiến đấu

và hi sinh một phần tuổi thanh xuân. Nó còn là một khúc nguyện cầu an ủi, xoa dịu,

hoá giải cho những thiệt thòi, mất mát, đau thương của các linh hồn đã khuất. Lắng

nghe và nghiệm suy tiếng nói, người đọc hôm nay sẽ nhận diện được gương mặt

lịch sử, thấu hiểu, đồng cảm với những đau thương và vinh quang, nhọc nhằn và

5

kiêu hãnh của một thế hệ, để nhắc nhở trách nhiệm với Tổ quốc và gia đình” [31] .

Phạm Quang Long trong bài viết Mùa chinh chiến ấy – những trang sách được

viết ra từ chiến hào đã đánh giá “Mùa chinh chiến ấy là hồi ký nhưng hấp dẫn và

giàu chất truyện như một cuốn tiểu thuyết” [43]. Còn PGS.TS Phạm Xuân Thạch

khi trả lời phỏng vấn của tạp chí Văn nghệ quân đội, đã cho rằng Mùa chinh chiến

ấy là một tập xuất sắc về một cuộc chiến qua cái nhìn của người lính.

Điểm qua các bài viết về Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, có thể thấy phần

lớn là các bài giới thiệu, điểm sách, chưa đi sâu vào khai thác tư tưởng, thẩm mĩ đặc

sắc của tác phẩm

Trên tinh thần kế thừa người đi trước, với đề tài Hiện thực chiến tranh trong

„Miền hoang‟ của Sương Nguyệt Minh và „Mùa chinh chiến ấy‟ của Đoàn Tuấn,

luận văn tập trung khai thác hiện thực chiến tranh biên giới Tây Nam qua hai tác

phẩm trên, đồng thời khám phá những phương thức phản ánh hiện thực mới mẻ ở

hai tác phẩm, từ đó người đọc có cái nhìn chân thực nhất về chiến tranh cũng như

sự đổi mới và phát triển của văn học chiến tranh ở thể kỉ XXI.

3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề hiện thực chiến tranh trong văn

xuôi Việt Nam đương đại, cụ thể qua hai tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt

Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn. Lựa chọn hai tác phẩm tiêu biểu của

văn xuôi đương đại viết về đề tài chiến tranh, người viết hướng tới hiện thực chiến

tranh, đặc biệt là chiến tranh biên giới Tây Nam và phương thức phản hiện thực

chiến tranh của văn xuôi Việt Nam hiện đại từ đó có cái nhìn sâu sắc, toàn diện nhất

về chiến tranh cũng như góp phần khẳng định tài năng của các nhà văn hiện đại như

Sương Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn,…trên địa hạt văn chương đương đại.

3.2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu đặc trưng thi pháp của hai tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt

Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn để thấy được sự vận động và cách tân

của văn xuôi viết về đề tài chiến tranh hiện nay.

Từ đó luận văn khẳng định vai trò, vị trí và những đóng góp của Sương

Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn vào thành tựu của văn xuôi chiến tranh cùng tiến trình

6

hiện đại hoá tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn khảo sát hai tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và

Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn. Hai tác phẩm có một điểm chung là đều viết về

chiến tranh biên giới Tây Nam. Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã viết bằng

tâm thế của người trực tiếp tham gia chiến đấu. Chính vì vậy, khi nghiên cứu hai tác

phẩm, người viết có thể có một cách nhìn khái quát hơn, chân thực hơn về cuộc

chiến đã qua đi.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp lịch sử - xã hội: Tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt

Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn ra đời gắn với hoàn cảnh lịch sử đặc

biệt – cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Chính vì vậy, sử dụng phương pháp lịch

sử - xã hội sẽ là một phương pháp hiệu quả khi khai thác hiện thực chiến tranh trong

hai tác phẩm.

- Phương pháp tiếp cận thi pháp học là phương pháp cần thiết trong quá trình

nghiên cứu. Ở chương 2 của luận văn, người viết tập trung khai thác phương thức

nghệ thuật của hai tác phẩm trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh. Phương

pháp tiếp cận thi pháp học sẽ là chìa khóa giúp người viết vận dụng thi pháp học

vào tìm hiểu tác phẩm văn chương.

- Ngoài ra, trong luận văn người viết còn dùng các phương pháp khác như:

Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê;

phương pháp tự sự học.

5. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Văn học về đề tài chiến tranh sau 1975 và sáng tác của Sương

Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn

Chương 2. Hiện thực chiến tranh biên giới Tây Nam trong Miền hoang và

Mùa chinh chiến ấy

Chương 3. Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy nhìn từ phương diện nghệ thuật

7

biểu hiện

Chƣơng 1

VĂN HỌC VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH SAU 1975 VÀ SÁNG TÁC CỦA

SƢƠNG NGUYỆT MINH, ĐOÀN TUẤN

1.1. Văn học về đề tài chiến tranh sau 1975

1.1.1. Cơ sở của việc phản ánh hiện thực chiến tranh

Sau năm 1975, cuộc kháng chiến 20 năm kết thúc, đất nước hoàn toàn giải

phóng nhưng đồng thời cũng phải đối diện với muôn vàn khó khăn thử thách. Một

mặt chúng ta vừa phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh, vừa phải

đối mặt với muôn vàn những khó khăn, thử thách trong công cuộc dựng xây đất

nước. Nhân dân ta vừa hàn gắn vết thương do chiến tranh, vừa dựng xây đất nước

trong sự hoang tàn, xơ xác, vừa phải giải quyết những vấn đề của thời hậu chiến.

Mặt khác, không bao lâu sau, chiến tranh biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam

lại nổ ra, dân tộc lại gồng mình lên đường chiến đấu để bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ.

Nhận biết tình hình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng đề ra những chủ

trương, đường lối phát triển đất nước phù hợp với thực tiễn. Đại hội Đảng toàn quốc

lần thứ VI với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ

sự thật” phù hợp với xu thế phát triển của đất nước lúc bấy giờ.

Những đặc điểm về hoàn cảnh xã hội tác động không nhỏ đến văn học, làm

thay đổi diện mạo của nền văn học sau năm 1975. Văn học viết về chiến tranh có sự

chuyển mình đáng kể, mở ra một thời kì mới cho sáng tác văn học trong yêu cầu tái

tạo thời kì lịch sử hiện nay.

Sau năm 1975, văn học viết về chiến tranh có những chuyển động đáng chú

ý. Trong đó phải kể đến sự thay đổi về chủ thể sáng tạo. Văn học từ 1975 đến nay

đã có một đội ngũ sáng tác trải nghiệm đi từ thời chiến bước vào thời Đổi mới với

bao va đập qua những bước ngoặt lịch sử. Nhà văn viết về chiến tranh là những

người trực tiếp cầm súng chiến đấu. Họ viết về mình, về thế hệ mình, về những vinh

quang thăng trầm quá khứ một cách chân thực và sâu sắc. Họ đã đem vào trong văn

xuôi về chiến tranh những trải nghiệm từ chiến hào của cá nhân mình và của thế hệ

mình. Hơn ai hết, họ hiểu về hiện thực khốc liệt của chiến tranh, hiểu về sự hi sinh

8

lớn lao và nghĩa tình của đồng bào, đồng chí. Và họ viết bằng tất cả cảm xúc chân

thật của mình, viết bằng trái tim, viết bằng sự tri ân đối với những người đồng đội

còn nằm lại chiến trường. Những trang viết vì thế mà ấm nóng, những trang viết vì

thế mà phản ánh một cách chân thực nhất về sự dữ dội của chiến tranh và những

tình cảm thiêng liêng, sâu sắc của tình đồng chí, tình quân dân…trong những năm

tháng khốc liệt ấy. Nói như Sương Nguyệt Minh: “Viết bằng tâm thế người can dự

trong cuộc đi suốt cuộc chiến tranh với nỗi phấp phỏng băn khoăn giày vò, chứ

không viết vằng thứ tình cảm đi xem người ta đánh nhau rồi sáng tác, cũng không

viết như mấy ông nhà văn ngồi ở Hà Nội tưởng tượng về chiến tranh sáng tác như

vẽ rắn thêm chân và viết nhăng cuội” [ 52, tr. 231].

Mặt khác, văn học sau 1975 tiếp tục mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực

chiến tranh. Các tác phẩm viết về chiến tranh không chỉ dừng lại ở hai cuộc kháng

chiến chống Pháp và chống Mỹ, đường biên chiến tranh được mở rộng khi các nhà

văn hướng đến khai thác cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên

giới phía Bắc. Tuy số lượng tác phẩm viết về chiến tranh biên giới ít hơn so với tác

phẩm viết về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nhưng những tác

phẩm này đã thể hiện sự trải nghiệm sâu sắc của người cầm bút, họ viết về chiến

tranh bằng những day dứt, trăn trở, bằng những nếm trải của người “người trong

cuộc”, bởi thế những trang văn của họ chân thực và thấm thía. Không ít tác phẩm để

lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi chất hiện thực ngồn ngộn, tươi ròng

cùng cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh và chân dung người lính như Dòng sông

Xô Nét của Nguyễn Trí Huân, Không phải trò đùa của Khuất Quang Thụy, Khoảng

rừng có những ngôi sao và Ngôi chùa ở Pratthana của Văn Lê, Lính Hà (Nguyễn

Ngọc Tiến), Mùa chinh chiến ấy (Đoàn Tuấn), Hồi ức lính (Vũ Công

Chiến),…Trong đó, theo Sương Nguyệt Minh, có thể xem Dòng sông Xô Nét của

Nguyễn Trí Huân viết năm 1980 là tiểu thuyết đầu tiên viết về chiến tranh biên giới

Tây Nam. Có thể nói, đây chính là một dòng văn học dù ít, dù nhiều đã góp phần tái

hiện lại những năm tháng gian nan trong cuộc chiến đấu ở “đất bên ngoài Tổ quốc”.

Ở giai đoạn này, các nhà văn cũng có nhu cầu nhận thực lại hiện thực chiến

tranh và viết về chiến tranh với cảm quan mới. Nếu như trước 1975, hiện thực chiến

9

tranh chủ yếu được soi rọi bằng cái nhìn sử thi, hào hùng và cảm hứng lạc quan lãng

mạn thì đến nay, văn học viết về chiến tranh đã có sự đổi mới rõ rệt trên phương

diện tiếp cận, miêu tả và phản ánh hiện thực. Trong các trang viết về chiến tranh đã

bắt đầu xuất hiện cái nhìn đa chiều, trần trụi hơn ở nhiều góc độ: bi tráng, khốc liệt;

đời tư, thế sự, nhân văn; văn hóa, tâm linh. Các tác phẩm viết về chiến tranh đã

không còn né tránh hiện thực, mặt khác các nhà văn đã tái hiện hiện thực chiến

tranh với tất cả sự khốc liệt, những tổn thất, hi sinh nặng nề của nó. Hiện thực ấy

không chỉ là những ngày tháng nơi trận mạc, mà nó còn tiếp tục đeo bám người lính

khi chiến tranh kết thúc và mang đến cho người đọc cảm nhận chân thực nhất về hệ

lụy của chiến tranh. Có thể thấy, văn học đã nhìn thẳng vào hiện thực chiến tranh

bằng những trải nhiệm và cái nhìn cá nhân, tái hiện lại cái chiều kích đau thương và

bộ mặt tàn khốc không thể quy giản của chiến tranh, nói lên tiếng nói cảnh báo về

những hiểm hoạ của chiến tranh để lại trong thời hậu chiến. Văn học đương đại Việt

Nam về chiến tranh thiên về khai phá những mặt còn khuất lấp, những vấn đề đời tư

- thế sự, hướng đến cuộc sống đa trị và qua đó thể hiện cảm quan của nhà văn. Hiện

thực chiến tranh được tiếp cận, giải mã không đơn điệu, một chiều mà phức tạp, đa

dạng; hình tượng con người được miêu tả trong cái nhìn đa chiều, phong phú.

Bên cạnh việc nhận thức lại hiện thực, văn học viết về chiến tranh sau 1975

còn hướng tới thân phận của từng con người trong cuộc chiến ác liệt chống lại kẻ

thù. Các tác phẩm văn học chiến tranh viết về những số phận bi thảm, những con

người mang trong mình những vết thương về hình hài, thân xác, về tâm hồn. Những

vết thương ấy không chỉ hiện hình trong chiến tranh mà thậm chí ngay cả khi người

lính đã trở về, nỗi đau vẫn không hề nguôi ngoai. Hình tượng con người được miêu

tả trong cái nhìn đa chiều, phong phú. Hàng loạt kiểu con người mới nghiêng về

tính chất đời tư, thế sự, cá nhân, thân phận lần lượt được miêu tả. Tất cả đã khắc

họa đậm nét hệ lụy của chiến tranh và bi kịch của con người thời hậu chiến. Nhà

phê bình Tôn Phương Lan đã nhận xét: “Văn học viết về đề tài chiến tranh trong

những năm chiến tranh ít nói về buồn vui của cuộc sống thường nhật, ít nói về

những đau thương, mất mát, hi sinh trên chiến trường, ít quan tâm đến số phận con

người mà tập trung đến số phận đất nước. Sau chiến tranh, văn học viết về đề tài

10

này mới có xu hướng viết về sự thật của đời sống, viết về những khó khăn ác liệt,

sau lầm, vấp ngã, thiếu sót của người lính trong chiến tranh cũng như trước sự cám

dỗ của cuộc sống đời thường” [39]. Hiện thực chiến tranh được nhìn nhận qua thế

giới nội tâm, những số phận cá nhân con người. Tiếp cận chiến tranh từ bên dưới, từ

những số phận, những mảnh đời…nhà văn có điều kiện nhìn con người tham gia

chiến tranh từ hai phía và lí giải chiến tranh trên nguyên tắc nhân bản.

Văn học sau 1975 có những cách tân đáng kể về mặt nghệ thuật. Trước tiên

là ở điểm nhìn trần thuật, các nhà văn đã sử dụng khá linh hoạt các điểm nhìn. Sự

gia tăng điểm nhìn, dịch chuyển điểm nhìn linh hoạt trong nghệ thuật trần thuật đã

tạo ra hiệu quả nghệ thuật phong phú cho tiểu thuyết viết về chiến tranh, bộ mặt

chiến tranh hiện lên một cách khách quan và toàn vẹn hơn. Mặt khác, văn học thời

kì này cũng có sự đổi mới về ngôn ngữ, giọng điệu và nghệ thuật xây dựng nhân

vật. Những cách tân về nghệ thuật tạo ra những góc nhìn đa chiều về chiến tranh,

góp phần làm thay đổi diện mạo của văn học sau năm 1975.

Có thể thấy, khi chiến tranh kết thúc, văn học có “độ lùi” cần thiết để viết về

chiến tranh, đánh giá và nhìn nhận lại chiến tranh một cách toàn diện hơn. Đó cũng

chính là lí do khiến chiến tranh trở thành “siêu đề tài, người lính trở thành siêu

nhân vật, càng khám phá càng thấy những độ rung không mòn nhẵn” [37].

1.1.2. Hiện thực chiến tranh với những hướng tiếp cận mới

Viết về chiến tranh, văn học đương đại Việt Nam đã có những dịch chuyển

về góc nhìn nghệ thuật. Nếu như trước năm 1975, hiện thực chiến tranh chủ yếu

được soi rọi bằng cái nhìn sử thi, hào hùng và cảm hứng lạc quan, lãng mạn; đến

nay mặc dù cái nhìn và cảm hứng sử thi ấy vẫn được duy trì trong những trang viết

về chiến tranh, song đã bắt đầu xuất hiện cái nhìn đa chiều, trần trụi hơn ở những

góc độ: đời tư, thế sự và văn hóa, tâm linh. Những góc nhìn này khiến cho hiện thực

chiến tranh trở nên chân thực hơn, sâu sắc hơn, khai thác được bề sâu, bề xa và bề

sau của mỗi cuộc chiến, đặc biệt là chiến tranh biên giới Tây Nam.

1.1.2.1. Hiện thực chiến trường qua góc nhìn đời tư, thế sự

Sau năm 1975, văn học bắt đầu có sự chuyển mình, từ cảm hứng sử thi sang

cảm hứng thế sự, đời tư. Ở giai đoạn này, văn học không còn ngợi ca mà chuyển

11

sang chiêm nghiệm, phê phán, lấy vấn đề của cuộc sống hàng ngày, bình thường

của con người bình thường làm đối tượng khám phá. Chất hiện thực đời thường

theo khuynh hướng đời tư, thế sự được khai thác nhiều hơn. Chính vì vậy, chiến

tranh được nhìn nhận đánh giá lại một cách đầy đủ và nghiêm túc. Trong lịch sử dân

tộc, hiện thực chiến tranh là hiện thực hào hùng với những trang sử vẻ vang, với

những bản anh hùng ca cách mạng. Nhưng bên trong hiện thực ấy chất chứa cả

những nỗi đau, những mất mát, những giằng xé nội tâm và thậm chí cả những xấu

xa, thấp hèn trong mỗi người lính. Văn học đương đại Việt Nam viết về chiến tranh

thiên về khai phá những mặt còn khuất lấp, những vấn đề đời tư - thế sự, qua đó thể

hiện cảm quan của nhà văn. Các tác giả văn học đương đại đã chú ý nhiều hơn đến

cái gọi là “đời” mà trước đây ít nói đến. Họ viết về chiến tranh bằng sự giày vò, day

dứt của những người trong cuộc, của những người đi qua chiến thắng và may mắn

sống sót, nên hơn ai hết họ hiểu rõ về chiến tranh. Những tác phẩm của họ là một

quá trình tìm tòi, trăn trở về chiến tranh, về số phận con người. Chính vì vậy hàng

loạt tác phẩm trong giai đoạn này không đơn giản là những bức tranh về chiến tranh

đầy ắp sự kiện mà chiến tranh chỉ làm “bức phông” để các nhà văn khai thác số

phận con người trong nỗi đau nhân bản nhất.

Điểm chung trong Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy là cả hai nhà văn đều

tiếp cận, miêu tả hiện thực cuộc sống qua góc nhìn đời tư, thế sự. Phía sau mỗi trận

đánh là cuộc sống sinh hoạt bình dị nhưng không kém phần sôi nổi, vui vẻ. Đó là

những bữa cơm trắng nuốt không trôi, những đêm tát suối nhớ đời hay lần đầu được

chén thịt voi…Đó là những hình ảnh rất bình dị thuộc về cuộc sống, là những trải

nghiệm của lính tráng ở nơi đất bạn tuy vất vả nhưng không kém phần thú vị. Người

lính đã hòa mình vào sinh hoạt cộng đồng của người dân. Họ cùng ăn một bữa cơm,

uống cùng bình rượu, cùng nhau nhảy múa hát ca,...trong tình quân dân ấm áp. Họ

xúc động trước một tiếng hát ngọt ngào, vỡ òa cảm xúc trong thanh âm tiếng Việt

trong trẻo, họ trân trọng từng nét đẹp văn hóa của nhân dân Campuchia. Cuộc sống

của họ trở nên tươi mới như suối nguồn tươi trẻ, giảm đi phần nào sự khốc liệt và

dữ dội của chiến tranh. Các tác giả không chỉ dựng lại bức tranh sinh hoạt thời

chiến mà còn cho người đọc thấy được tinh thần lạc quan, yêu đời của những người

12

lính trẻ chiến đấu trên mảnh đất không phải quê hương.

Mặt khác, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn thiên về khai thác những mặt

còn khuất lấp, đặc biệt là những tâm tư, cảm xúc rất chân thực của người lính.

Trong sáng tác của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn, người lính không phải là

những người truyền bá lí tưởng, ngược lại họ là những con người rất đỗi bình

thường. Bởi thế, họ được khắc họa với những suy tư, khao khát, ước mơ, với những

xúc cảm rất chân thực trong đời sống nội tâm phức tạp, nhiều chiều. Đó là khoảnh

khắc sau những ngày tháng khô hạn, thiếu nước, người lính hạnh phúc khi được

dầm dưới cơn mưa rào để cơ thể như được tái sinh. Đó là niềm vui khi nghe giai

điệu quen thuộc từ đài phát thanh Campuchia và nghiêng ngả hát theo. Đó là giây

phút hạnh phúc khi được nhận thư nhà và sẻ chia cùng đồng đội. Đó là những nỗi

nhớ miên man về gia đình, về người yêu thương, … Thậm chí cả những sợ hãi, bất

lực hay tuyệt vọng trong hoàn cảnh khốc liệt nhất. Có thể nói, trên trang viết của

nhà văn, người lính đã sống với những cảm xúc thành thật, riêng tư nhất. Họ suy

ngẫm về cuộc chiến với tất cả những bi hùng, họ ước ao được trở về quê hương, gia

đình, được ăn bữa cơm mẹ nấu, được sống một cuộc sống bình yên. Trong những

câu chuyện của người lính chiến đấu nơi đất bạn, khát khao được trở về đất nước

luôn thôi thúc họ. Không phải họ là những kẻ hèn yếu, không phải họ quên đi nghĩa

vụ quốc tế thiêng liêng, không phải họ không dám vượt qua những khó khăn thử

thách mà thực ra phía sau họ là quê hương, là gia đình. Khát khao ấy cũng là dễ

hiểu với những chàng trai trẻ tuổi phải đối diện với muôn ngàn khó khăn, thử thách,

hiểm nguy trên đất bạn. Tuy nhiên, ước mơ khát khao ấy không khiến họ thoái lui,

bỏ cuộc, hàng ngày họ vẫn đấu tranh để bảo vệ từng tất đất, đánh đuổi kẻ thù, họ

vẫn gánh trên vai trách nhiệm thiêng liêng bởi: “tất cả mọi người lính Việt Nam ai

cũng muốn trở về nhà thì bọn Pol Pot quay trở lại Phnom Pênh ngay. Người Khmer

sẽ sống ra sao với bọn man rợ ấy. Bỏ thì thương, vương thì tội. Bỏ cuộc chiến đồng

nghĩa với ... trắng tay”. [ 52, tr. 231]. Có thể nói, Sương Nguyệt Minh và Đoàn

Tuấn đã chạm vào phần sâu nhất trong mỗi người lính, khiến trang viết của họ lấp

lánh giá trị nhân bản trong cuộc chiến tranh khốc liệt nơi chiến trường K.

Soi chiếu chiến tranh dưới góc nhìn đời tư, Sương Nguyệt Minh và Đoàn

13

Tuấn không giấu giếm những chuyện thầm kín riêng tư, những góc khuất bản năng

của những người lính trẻ. Bởi xét cho cùng, họ đều là những thanh niên, chưa biết

đến cảm giác yêu thương từ bạn khác giới, cho đến khi vội vã tham chiến, giữa

không gian núi rừng mênh mông rộng lớn, họ khát khao một vòng tay ấm, một cử

chỉ âu yếm, một ánh mắt thân yêu. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn đã khắc

họa khá chân thực cảm xúc của người lính khi nghe tin đoàn văn công đến. Không

sao giấu nổi sự háo hức ở những chàng trai suốt ngày chỉ quen với súng đạn, họ háo

hức, họ phấn đấu, họ chu đáo với những cô gái của đoàn văn công. Và khi đoàn văn

công rời đi, họ tiếc nuối ngẩn ngơ giống như những cô gái ấy “như một đám mây, từ

trên trời rơi xuống”. Hình ảnh đoàn dân công cũng chính là những khát khao của

tuổi trẻ, là những cảm xúc rất đời, bởi lẽ họ đã “để lại trong lòng lính tráng cái cảm

giác về đời thường, về sự cân bằng âm dương thiết yếu của mọi thứ tạo vật trên đời,

không chỉ riêng con người” [96, tr. 377]. Còn ở Miền hoang, Sương Nguyệt Minh

cũng không cố che giấu những cảm xúc, bản năng của nhân vật Tùng - chàng trai

Hà thành còn rất trẻ. Trong một khoảnh khắc đặc biệt, con người bản năng của

Tùng trỗi dậy. Vẻ đẹp của cô gái Sa Ly đã cuốn hút anh “Tôi đang sống trong cảm

giác được mơn man khơi gợi, kích thích bản năng tính dục thức dậy trong niềm

thích thú đê mê âm thầm” [ 52, tr. 280]. Có thể nói, chiều sâu tâm hồn của những

người lính ấy đã được Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh khắc họa một cách chân

thực nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Họ đã soi chiếu chiến tranh từ góc

nhìn đời tư thầm kín của những người lính trẻ, đã khai thác góc khuất nơi bản năng

của những chàng thanh niên vừa mới rời ghế nhà trường, từ đó hình tượng người

lính trở nên chân thực hơn.

Mặt khác, chiến trường K cũng chính là nơi để thử thách, để nhận diện giá trị

của mỗi người. Trong bối cảnh ác liệt ấy, hình ảnh người lính hiện ra với tất cả các

hành vi, tình cảm, nhận thức về nghĩa vụ, trách nhiệm, quan hệ với đồng đội, bạn

bè, sống chết, đúng sai, cao cả và thấp hèn, dũng cảm và hèn nhát, sự thực và dối trá

ở mỗi người lính. Khi cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt, ranh giới giữa sự

sống và cái chết vô cùng mong manh, hàng loạt cảnh tượng chết chóc kinh hoàng cứ

liên tiếp nối nhau đè nặng lên trí óc người lính khiến tâm hồn của họ chao đảo,

14

mông lung. Trong Miền hoang, không ít lần Tùng gục ngã giữa rừng hoang hiểm

độc để cho sự yếu đuối chế ngự: “Sợ hãi quá! Cực thân quá. Bỗng dưng anh ôm

mặt khóc tu tu. Khóc mà nước mắt không chảy ra, anh biết tính mạng mình đã đến

lúc nguy kịch. Chính lúc khóc thảm thiết không ra nước mắt vì cơ thể mất nước ấy

cũng chính là lúc lòng anh hoang vắng nhất.” [ 52, tr. 243]. Chiến tranh, sự chết

chóc làm cho họ trở nên bạc nhược. Có những người lính đã tự bắn súng vào đầu

mình chỉ vì không vượt qua nổi cơn khát đến chết đi sống lại ở rừng hoang như

trường hợp của anh Nguyễn Bá Lan. Chiến tranh không chỉ cướp đi tính mạng của

những người lính trẻ, chiến tranh để lại dư chấn khủng khiếp trong trái tim, khối óc

của họ. Đó là hình ảnh của Mạnh - một người lính không có khả năng làm điều ác

nhưng đã mất tinh thần chiến đấu, rơi vào tình trạng trầm cảm khi phải chứng kiến

cái chết của kẻ bên kia chiến tuyến. Quả thực, người lính đã bước vào cuộc chiến và

gánh chịu tất cả những mất mát, đau thương do chiến tranh gây ra.

Cũng trong góc nhìn đời tư thế sự, hình tượng người lính được khắc họa với

cả những xấu xa, thấp hèn và ích kỉ. Bên cạnh những người anh hùng là những kẻ

hèn nhát, cơ hội, gian lận,…Chẳng hạn, trong Mùa chinh chiến ấy, chỉ vì vài nhúm

thuốc rê mà lính đã vô tình làm lộ kế hoạch quân sự. Vì không được cấp phép về

nhà mà lính sẵn sàng quay lưng bắn vào đồng đội của mình…Thậm chí, chuyện lính

đào ngũ cũng được viết đến như một lẽ tự nhiên, một câu chuyện đùa của anh em

lính tráng kiểu: “Ai về thưa với quân khu/ Lính không đào ngũ, lính ngu suốt đời”;

hay “Hà chuồn, Nam lủi, Thái Bình bay/ Hải Phòng anh dũng trốn ban ngày/ Hà

Tây về phép không cần giấy/ Thanh Hóa mất mùa xin ở lại/ Nghệ An thấy thế cũng

giơ tay” [ 96, tr. 261]. Và đương nhiên, chuyện đào ngũ không phải là chuyện bông

đùa, nhiều người lính đã bỏ lại chiến trường, đồng đội. Lính tráng đào ngũ như

chuyện của Trần Văn Điểm trong Mùa chinh chiến ấy, như Quân “kều” trong Miền

hoang, là chuyện không thiếu. Nhưng đến cả tiểu đoàn trưởng - có cấp bậc, có chức

tước cũng đào ngũ thì quả thực người ta không thể nhìn chiến tranh một cách đơn

giản. Sự lung lạc ý chí, mờ mịt mục tiêu khiến những người lính đi ngược lại chính

bản thân mình, khi lí tưởng của họ bị xói mòn và nhân cách tha hóa. Với những

hành động ấy, người lính được nhìn một cách chân thực hơn, phía sau ánh hào

15

quang của những người anh hùng là những mảng tối ý thức, nhân cách.

Có thể thấy, nhân vật người lính không chỉ là những người anh hùng mang

vẻ đẹp lí tưởng, họ còn được xây dựng là những con người bình thường với cả

những khát vọng lớn lao và ham muốn thấp hèn, với tất cả những xấu xa, ích kỉ, tha

hóa trong cái khốc liệt của chiến tranh. Họ không chỉ là những con người lạc quan

cách mạng, những con người với lí tưởng lớn lao mà ngược lại, họ được nhìn nhận

lại một cách chân thực hơn. Họ xuất hiện với tư cách là những con người bình

thường với đầy đủ lí tính, tình cảm, ý thức, vô thức…Song với góc nhìn đời tư thế

sự ấy, Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh đã mang đến một cách nhìn khách quan,

chân thực và đầy chất nhân văn về người lính và hiện thực chiến tranh. Tác phẩm

của họ vì thế đã bứt phá khỏi lối tự sự truyền thống, tạo ra một lối đi riêng trongviệc

phản ánh hiện thực chiến tranh. Quả thực, góc nhìn đời tư thế sự góp một phần

không nhỏ vào thành công của Mùa chinh chiến ấy và Miền hoang.

1.1.2.2. Hiện thực chiến tranh từ góc nhìn văn hoá, tâm linh

Sau năm 1975, yếu tố tâm linh thâm nhập ngày càng nhiều vào văn học, nhất

là sau Đổi mới (1986), khi dân tộc vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại,

đang gồng mình khắc phục hậu quả của chiến tranh. Trong các tác phẩm của

Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Hòa Vang, Nguyễn Xuân Khánh…yếu tố tâm

linh trở thành một chất liệu sáng tác mới cho văn học. Theo nhà phê bình văn học

Trần Đình Sử: “Tâm linh đã trở lại với văn học, không chỉ có tác dụng miêu tả đời

sống trong phương thức tồn tại tâm linh, mở rộng khái niệm hiện thực do diễn ngôn

tâm linh kiến tạo, góp phần kích thích trí tưởng tượng, thích thúc cái kì ảo mà còn

nuôi dưỡng tinh thần con người, đi sâu vào những miền mà khoa học chưa thể giải

thích mà cũng không nhất thiết đều phải giải thích của đời sống” [78].

Tâm linh là một phần trong đời sống của con người mà văn học phản ánh

hiện thực thì điều tất yếu văn học phải gắn liền với yếu tố tâm linh. Thiếu yếu tố

tâm linh, sự miêu tả trong văn học sẽ thiếu đi sự chân thực. Với văn học đương đại,

văn hóa tâm linh được khai thác khá thành công trong những trang viết của các nhà

văn đương đại. Tâm linh được xem như là hiện tượng tự nhiên trong đời sống, nay

được dùng làm chất liệu sáng tạo mới, mang lại những chân trời rộng mở cho chủ

16

thể sáng tạo cũng như cộng đồng diễn giải.

Nếu giai đoạn trước, văn học viết về đề tài chiến tranh chủ yếu miêu tả “bề

nổi” của hiện thực với những sự kiện, biến cố có thể tri giác rõ ràng, thì bây giờ

nhằm mở rộng biên độ phản ánh, luận giải hiện thực có chiều sâu, các nhà văn đã

quan tâm nhiều hơn đến “phần chìm” tâm linh - mảng hiện thực con người chỉ có

thể linh giác, dự cảm.

Tiếp cận hiện thực chiến tranh theo góc nhìn văn hóa tâm linh trở thành một

hướng đi mới khá độc đáo của các cây bút đương đại viết về chiến tranh. Với hướng

đi đó, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã soi rọi, lí giải hiện thực chiến tranh từ

cái nhìn văn hóa tâm linh. Trong hành trình truy tìm, khám phá “cõi đời”, “cõi

người” vô cùng vô tận, hai nhà văn đã thâm nhập vào kí ức và thực tại, cõi dương

và cõi âm, vùng sáng và vùng tối, ý thức và vô thức trong tâm hồn con người.

Những linh tính, giấc mộng không đầu không cuối, những hiện tượng kì bí, ảo diệu

được hai tác giả đưa vào tác phẩm với một “liều lượng” vừa đủ để có thể nhận diện

hiện thực và con người một cách toàn diện.

Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh khéo léo xen giữa câu chuyện khắc

nghiệt, tàn bạo của hiện thực chiến tranh và cuộc đấu tranh sinh tồn giữa rừng

hoang bằng những huyền thoại kinh dị và đẹp đẽ nhuốm màu huyền ảo. Đó có thể là

huyền thoại về người rắn - loại sinh vật thường cứu những chàng trai dân chài bị

chết đuối nhưng sau đó lại quyến rũ để quan hệ giao hoan cho đến khi họ sức tan

lực kiệt mà chết. Hoặc các nghi lễ của dân tộc Campuchia được ông ghi chép tỉ mỉ,

chọn lọc. Cụ thể là nghi lễ “trận trảm” trên thân thể của các cô gái đồng trinh. Khi

con gái đến tuổi cập kê thì cần được tiến hành làm trận trảm bằng cách người ta

dùng ngón tay làm mất đồng trinh người con gái rồi nhúng vào rượu, đem ra chấm

vào trán cha mẹ cô gái và hàng xóm. Từ sau đêm trận trảm đó, người con gái sẽ ra

ngủ phòng ngoài và muốn làm gì với trai thì làm, họ được quyền quyết định những

gì thuộc về thân thể mình. Đây được coi là tín ngưỡng dân gian, thể hiện đặc trưng

đời sống tâm linh của dân tộc Campuchia.

Song ám ảnh nhất, hãi hùng nhất có lẽ chính là hình ảnh Ma Lai: “Ma Lai là

loại ma cổ cao ba ngấn có thể xoay đầu tách khỏi thân xác, rút ruột gan phổi ra

17

ngoài. Ban đêm làm ma, nhưng ban ngày Ma Lai là một cô gái sinh sống bình

thường, thậm chí lấy chồng, đẻ con. Trong hình dung của mọi người, Ma Lai là một

cô gái eo thon, mông mẩy, ngực nở có vẻ đẹp quyến rũ mê hồn. Người ta nói, món

ăn chính ngon lành của Ma Lai là phân và ruột người, ruột động vật. Ban ngày, cô

gái xinh đẹp nào cứ nhìn soi mói vào bụng mọi người tìm bộ lòng ngon thì cứ coi

chừng điều xấu sắp xảy ra”. [ 52, tr.61]. Huyền thoại về Ma Lai trở đi trở lại trong

trang viết của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Bất kì người lính nào cũng biết

đến huyền thoại Ma Lai. Nó ám ảnh những người lính trong sinh hoạt đời thường,

thậm chí câu chuyện hoang đường ấy còn đi vào giấc ngủ khiến họ sợ hãi và với họ

bất kì người gái đẹp nào cũng có thể là Ma Lai. Còn với riêng Tùng trong Miền

hoang, hình ảnh Ma Lai cứ trở đi trở lại những lúc anh cô độc, những lúc anh yếu

lòng nhất. Có thể nói, câu chuyện về Ma Lai vô cùng kì bí, khiến cho người lính sợ

hãi: “Khiếp thật! Người Khmer có những chuyện bí ẩn rùng rợn và huyễn hoặc còn

quá sức tưởng tượng của cả những nhà văn đường rừng hay kinh dị cao thủ nhất”

[52, tr.210]. Huyền thoại về Ma Lai khiến cho hiện thực chiến tranh khốc liệt hơn,

dẫn dắt người đọc tìm được bề sâu của chiến tranh với những ám ảnh tinh thần của

người lính.

Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn cũng không ngại ngần đề cập đến những

những điều kiêng kị, những linh tính, những hiện tượng bí ảo không thể giải thích

nổi… để đưa người đọc đến một cái nhìn đầy đủ nhất về hiện thực chiến tranh. Nói

như Đoàn Tuấn: “Ở chiến trường, lính tráng có nhiều điều mê tín. Không có sách nào

ghi lại. Nhưng nó đã thành định kiến, thành niềm tin, thành đá tảng „không gì lay

chuyển nổi‟. Chẳng hạn, trong đơn vị có hai thằng trùng tên thì thể nào cũng có một

thằng chết. Không chết vì đạn thì chết vì mìn. Không chết vì mìn thì chết đuối. Không

chết đuối thì sốt rét mà chết. Không sốt rét thì bị bắn nhầm… Đủ kiểu”. [96, tr.217].

Hay chuyện kiêng cơm sống, không ăn cơm khê, lính tráng quan niệm “ăn cơm sống,

thể nào cũng gặp địch”. Cái chết của anh Lâm Bình Định xảy đến khiến mọi người

kết nối các dự cảm không lành vì bữa cơm cháy và sự trùng tên đồng đội. Sau cái

chết của anh Lâm, các sự kiện lạ kì xảy đến khiến đồng đội không thể không tin vào

những yếu tố tâm linh ấy. Cũng có khi, lời chào cũng trở thành một điều kiêng kị để

18

tránh cái đen đủi. Những người lính truyền tai nhau: “Như một luật bất thành văn,

lính thông tin hay trinh sát, ai được phân công đi chiến đấu cùng các đơn vị bộ binh

thường lẳng lặng mà đi, không cần chào tạm biệt. Vì cả người đi và người ở lại đều

có cảm giác, lời chào như một lời vĩnh biệt. Vừa kiêng, vừa sợ. Không ai nói ra.

Không ai phân tích. Tất cả lặng im thực hiện” [96, tr.447]. Đó là cách lính thông tin

lí giải sự hi sinh của Phán vì trước khi đi “nó đã chào mình”. Những câu chuyện

tưởng như vô lí nhưng lại hiện hữu chân thực giữa cuộc chiến một cách ngẫu nhiên

và không tìm được lời giải đáp. Thế nhưng, những điều kì lạ ấy khiến chiến tranh

được soi rọi dưới một góc nhìn khác, sâu sắc hơn và khốc liệt hơn.

Chuyện tâm linh không chỉ nằm trong phạm vi những điều kiêng kị mà còn

là chuyện linh hồn của đồng đội hiện về. Trong Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn,

lính tráng đồn nhau về sự hi sinh của ông Lâm, rằng “Ông Lâm thiêng lắm. Đêm

đêm vẫn mò sang C8 đòi giày” [96, tr. 223]. Hay trường hợp của anh Biện đêm đêm

vẫn hiện về. Trong câu chuyện của những đồng đội, dường như anh Biện vẫn chưa

bao giờ rời xa đơn vị, anh vẫn ở đó lúc thì “đi huỳnh huỵch quanh hầm”, khi thì

“kêu mọi người dậy tập thể dục” hoặc “vấn thuốc rê” [96, tr.228]... Những góp

nhặt của lính tráng về anh Biện thêm khẳng định phần âm là có thật nơi ngập mùi

mốc meo, hoang tàn bao phủ. Quả thực “Người sống bị ám ảnh người chết. Còn

người chết cũng quyến luyến người sống” [96, tr.229], bởi vậy Đoàn Tuấn cho rằng

“Trước đây chỉ có những người đồng đội đang sống, cùng sát cánh giờ chiến đấu,

giờ, giữa chúng tôi có thêm, có chung những đồng đội đã mất” [96, tr.252]. Yếu tố

tâm linh khiến cho những người đồng đội sát lại gần nhau hơn, dù trong hoàn cảnh

nào những người đồng đội đồng chí vẫn ở cạnh nhau. Nhưng sự trở về của đồng đội

một phần thể hiện những ẩn ức của người lính, họ vẫn chưa yên tâm khi sang thế

giới bên kia, “đời sống tâm linh của người lính chúng tôi vẫn hoang mang một

khoảng trống” [96, tr.229].

Còn trong Miền hoang, những linh hồn người chết vẫn cứ trở về đối thoại

với Tùng. Không ít lần Tùng gặp anh Du, được anh bảo ban, dạy dỗ. Thậm chí,

trong trạng thái kiệt sức, đầu óc không còn đủ minh mẫn và tỉnh táo, Tùng đã có

một cuộc “gặp gỡ” với những “vong hồn trên cánh đồng chết”. Chính trong cuộc

19

đối thoại ấy, qua lời kể của vong hồn nhà sư, Tùng càng thấm thía hơn sự khốc liệt

của chiến tranh và tội ác của kẻ thù. Chiến tranh đã khiến Tùng bị trôi dạt đến bờ

vực của cái chết, còn những người chết linh hồn cũng không thể siêu thoát. Có lẽ,

đó mới chính là hiện thân đầy đủ và thấm thía nhất hiện thực của chiến trường.

Hiện thực chiến trường còn là những yếu tố không thể giải đáp, khoa học

cũng không thể vào cuộc để có thể có câu trả lời chính xác nhất khiến người chiến

sĩ rơi vào sự hồ nghi, dần dần mất đi lí trí. Đó là trường hợp của Vinh trong câu

chuyện của Đoàn Tuấn. Khi tìm được xác đồng đội, Vinh đã phải trải qua một cuộc

khủng hoảng tinh thần. Bởi lẽ đồng đội của anh đã chết tận ba ngày nơi hoang vắng,

bị rỉa hết thịt nhưng “Vinh thấy lạ, là tại sao bọn quạ không rỉa hạ bộ của bạn

mình?” [97, tr.332] và khi chỉ còn lại bộ xương khô nhưng khiêng lên ai cũng cảm

thấy nặng nề. Bom đạn dù có hủy diệt đến tận cùng nhưng cũng chưa thể hiện hết

sự khốc liệt của chiến tranh. Họ còn trải qua những cú sốc nặng nề, những ám ảnh,

những day dứt…như bủa vây bám víu lấy họ. Dường như đời sống tâm linh của

người lính vẫn hoang hoải một khoảng trống, không ai biết đâu là nơi bắt đầu cũng

không thể xác định được nơi kết thúc của thế giới đầy hoang đường, mộng mị. Có

thể là sau này, là mãi mãi, là khi chiến tranh kết thúc hoặc …không biết nữa!

Thế giới tâm linh cũng là nơi có khả năng phát ra những tia sáng bất ngờ. Đó

những khả năng kì lạ của con người, là “giác quan thứ sáu”, là những “linh tính”

trước khi xảy ra những việc hệ trọng hoặc cảm nhận được những “điềm báo” kì lạ

từ đâu đó bên ngoài lí trí của mình. Trong Mùa chinh chiến ấy, khi nhớ về người

đồng đội Tô Văn Phán, Đoàn Tuấn đã đề cập cái gọi là “linh cảm” ấy. Dường như

những người đồng đội đã linh cảm trước sự hi sinh của Phán: “Mình có linh cảm,

đợt này đi thằng Phán thể nào cũng chết!” [96, tr.447]. Cái chết do vấp mìn nhưng

“thằng Phán không kêu một tiếng. Mắt nó mở to, nhìn trân trân vào hai ống chân

đỏ lòm, gần như vỡ toác, đứt đôi. Nó cứ nhìn như vậy, không kêu la. Mặt nó vẫn

bình thường, không lộ vẻ đau đớn. Nó cảm nhận cái chết hết sức điềm nhiên. Hình

như nó đã linh cảm thấy cái chết này. Nó đón nhận. Và chấp nhận”. [96, tr.449]

Yếu tố tâm linh hiện diện nơi chiến trận không chỉ tạo nên bầu không khí

vừa thực, vừa ảo, vừa khốc kiệt vừa ma mị mà còn để thấu hiểu những nỗi đau, sự

20

ám ảnh tinh thần mà người lính phải chịu đựng. Tuy nhiên, Sương Nguyệt Minh và

Đoàn Tuấn không sa đà trong đời sống tâm linh. Việc miêu tả thế giới với những

điều kì ảo, vô thức được đặt trong một nhãn quan tỉnh táo, chừng mực, không mang

tới cảm giác li kì rùng rợn hoặc cổ vũ mê tín dị đoan. Đó là những câu chuyện lính,

suy nghĩ của lính, đậm chất lính…để thấy hiện thực chiến tranh không chỉ là bom

đạn, nó còn là bí ẩn, là niềm tin,…Đó là một góc nhìn khác về chiến tranh, tạo ra độ

chân thực về chiến tranh.

1.2. Sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn

1.2.1. Sáng tác của Sương Nguyệt Minh

1.2.1.1. Vài nét về Sương Nguyệt Minh

Sương Nguyệt Minh tên thật là Nguyễn Ngọc Sơn, sinh ngày 15 tháng 9 năm

1958 tại xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Ông xuất thân trong một gia

đình có chữ nghĩa, hiếu học ở nông thôn. Trong bối cảnh đầy biến động của lịch sử,

gia đình Sương Nguyệt Minh chịu nhiều sóng gió đặc biệt là trong cuộc đấu tranh

nội bộ về ruộng đất. Ông nội của nhà văn bị quy sai là thành phần địa chủ, bị bắt và

đưa ra đấu tố trước tòa án nông dân và bị kết tội là “địa chủ cường hào gian ác, bóc

lột và đánh đập nông dân”. Rất may, sau đó có lệnh sửa sai từ Trung ương, ông nội

Sương Nguyệt Minh không bị kết tội địa chủ nữa, được giải oan và xuống thành

phần trung nông lớp dưới. Tuy nhiên, chính hoàn cảnh gia đình đã khiến tuổi thơ

của Sương Nguyệt Minh rơi vào cô độc bởi sự kì thị “con cháu địa chủ” của dân

làng. Nhưng chính sự mặc cảm, cô độc trong kì thị, chính hoàn cảnh gia đình và quê

hương ấy đã trở thành chất liệu nghệ thuật độc đáo trong quá trình sáng tác của

Sương Nguyệt Minh sau này.

Năm 1974, Sương Nguyệt Minh có giấy gọi vào đại học nhưng xã giữ lại

không cho đi. Đầu năm 1975, ông nhập ngũ rồi tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam

và có mặt ở chiến trường K, cùng đoàn quân tình nguyện giúp nhân dân Campuchia

thoát khỏi họa diệt chủng do bọn phản động Pol Pot gây ra. Sau những năm tháng ở

chiến trường K, nhà văn Sương Nguyệt Minh được điều về nước học trường Sỹ

quan Lục quân 2, rồi về Học viện Quân y công tác. Sau đó, ông còn theo học

chuyên ngành Xây dựng Đảng - Chính quyền và Nhà nước ở Học viện Chính trị -

21

Quân sự, học khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Bén duyên với văn chương, nhưng thời gian đầu Sương Nguyệt Minh không

thể toàn tâm toàn ý với nghiệp văn. Cuộc sống với nỗi lo cơm áo gạo tiền khiến

chàng văn sĩ đành gác lại nghề viết để làm kinh tế. Ông từng đi buôn trứng vịt lộn,

thuốc lá, cắt dán phong bì, khoan nước giếng bán cho khu tập thể, nuôi chim cút,

nuôi gà công nghiệp…Tuy nhiên, những năm tháng lăn lộn với cuộc đời đã cho ông

một vốn sống phong phú cho nghiệp văn sau này của mình. Lựa chọn cuối cùng là

bước vào nghề văn, Sương Nguyệt Minh nhận ra mình không biết và cũng không

thể làm gì khác ngoài nghề viết văn.

1.2.1.2. Hành trình sáng tạo

Sương Nguyệt Minh là hiện tượng độc đáo và đặc biệt của văn học Việt Nam

đương đại. Tuy nhiên, con đường văn chương với Sương Nguyệt Minh không mấy

suôn sẻ. Ông thích viết, yêu viết và ông bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình từ cuối

thời bao cấp, ông chăm chỉ, chịu khó “cày cuốc” trên địa hạt văn chương, bắt đầu từ

những bài bút kí, hồi ký, phóng sự dài kì. Tuy nhiên, giấc mộng văn chương đã có

lúc tạm gác lại vì gánh nặng kinh tế cơm áo gạo tiền. Song, càng lăn lộn với cuộc

đời, Sương Nguyệt Minh càng nhận ra rằng nghề văn mới là con đường đúng đắn

nhất của ông. Đến năm 34 tuổi, ông mới in truyện ngắn đầu tay. Sự nghiệp văn

chương của Sương Nguyệt Minh muộn hơn đồng nghiệp đến 15 năm. Tuy nhiên,

Sương Nguyệt Minh đã sớm khẳng định được dấu ấn của mình trên văn đàn.

Sương Nguyệt Minh là một nhà văn hoạt động lao động sáng tạo nghệ thuật

cần mẫn. Ông luôn khát khao viết và viết, luôn muốn thử sức mình ở những địa hạt

văn chương mới để mang đến cái đẹp cho cuộc đời. Thậm chí có lúc ông từng từ

chức Trưởng ban văn xuôi vì “Làm biên tập chiếm mất nhiều thời gian, không có

lúc nào mà sáng tác”, nhưng điều quan trọng nhất là ông muốn dành toàn bộ thời

gian và tâm huyết của mình cho những trang văn. Ông không muốn những trang

viết của mình bị ảnh hưởng bởi phong cách của một nhà biên tập. Những trang viết

phải thực sự chân thành, phải xuất phát từ cảm xúc, từ những trải nghiệm nóng hổi

của bản thân - đó là điều Sương Nguyệt Minh mong muốn.

Sương Nguyệt Minh là người luôn cầu toàn trong sáng tác và nghiêm túc với

22

chữ nghĩa. Ông luôn nghiêm khắc với bản thân trong hoạt động lao động nghệ

thuật. Mỗi tác phẩm ra đời không chỉ là tâm huyết, nó còn trải qua một quá trình

nghiền ngẫm, chọn lọc, cân nhắc sao cho phù hợp. Chẳng hạn khi viết một cuốn tiểu

thuyết về chiến tranh, ông tâm sự: “Tôi viết hơn 10 năm rồi chưa xong. Thật là nhọc

nhằn. Nhọc nhằn bởi nghĩ ngợi nhiều quá, nên viết thế nào để khác người đi trước?

Mới là khác luôn là thách thức đối với bất cứ nhà văn nào. Nhưng văn chương là

cái nghiệp rồi. Không bỏ được. Cứ theo mãi” [44].

Sương Nguyệt Minh không chỉ là một nhà văn nghiêm túc với chữ nghĩa mà

ông còn luôn đề cao sự sáng tạo trong quá trình sáng tác. Với Sương Nguyệt Minh,

“Mỗi lần viết là một lần làm mới, không chỉ mình khác với người khác, mà còn phải

khác với chính mình trước đây. Có lẽ cái „tạng‟ của tôi phải cựa quậy, luôn luôn

thay đổi, để đa giọng điệu, đa phong cách” [12]. Chính vì vậy, giữa “siêu đề tài” -

chiến tranh, Sương Nguyệt Minh vẫn tìm được hướng đi riêng của mình, đưa người

đọc đến những “địa phận” khác của chiến tranh để người đọc có cái nhìn chân thực

và sâu sắc hơn. Quả thực, ở Sương Nguyệt Minh là vẻ đẹp của một nhà văn tâm

huyết và đầy tự trọng nghề nghiệp.

Điểm nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của Sương Nguyệt Minh là những tác

phẩm viết về chiến tranh. Ông tự nhận mình là một nhà văn chiến tranh. Là người

lính từng cầm súng chiến đấu ở chiến trường Campuchia chống quân Pol Pot,

những trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời đã cho nhà văn vốn sống phong phú và quý

giá. Xuất thân là một người lính, Sương Nguyệt Minh thấm thía cảm xúc của một

người lính trực tiếp cầm súng. Ông tâm sự: “Tôi là nhà văn chiến tranh. Thời trai

trẻ cũng là thời ước mơ, khát vọng, hành động ở rừng và chiến trận. Nhà văn chiến

tranh có ba loại: một là, nghe người từ chiến trường kể về rồi viết; hai là „đi xem‟,

thực ra là chứng kiến người ta chiến đấu rồi viết; ba là, vừa chiến đấu vừa viết

hoặc chiến đấu xong rồi viết. Tôi thuộc loại nhà văn thứ ba. Và như vậy, tôi viết

bằng sự tưởng tượng, hư cấu nhưng cũng viết bằng kí ức chiến trận. Không gian

sông Vàm Cỏ Đông, Đồng Bưng, Cánh đồng chó ngáp, những cây thốt nốt và tiếng

đại bác từ phía bên kia biên giới bắn sang…cứ lặp lại trong sáng tác của tôi. Rồi

không gian sông Tonlé Sap, những cánh rừng Âm Leng, U Đông, những ngày đói

23

khổ, những sự hi sinh thầm lặng của đồng đội…luôn ám ảnh và đi vào sáng tác của

tôi” [12]. Từ những kí ức, những ám ảnh ấy mà những trang viết của Sương Nguyệt

Minh trở nên chân thực và sâu sắc, đặc biệt khi Sương Nguyệt Minh viết về cuộc

chiến tranh biên giới Tây Nam.

Mặt khác, những trang văn của Sương Nguyệt Minh mang nét hồn hậu, bình

dị bởi cảm hứng nghệ thuật của ông gắn với quê hương, gia đình, gắn với những

con người của quê hương đất nước thân yêu. Những trang viết của Sương Nguyệt

Minh vì thế luôn chân thành và xúc cảm, lôi cuốn người đọc trên tất cả các thể loại

sáng tác.

Sương Nguyệt Minh có sở trường viết truyện ngắn. Tuy nhiên, khi viết truyện

ngắn đầu tay, Sương Nguyệt Minh gửi đến một số tờ báo nhưng đều bị từ chối. Đến

năm 1992, lần đầu tiên truyện ngắn Nỗi đau dòng họ của ông được đăng trên tạp chí

Văn nghệ Quân đội. Truyện ngắn đầu tiên đã thể hiện được chất riêng của nhà văn,

được đánh giá là những trang văn “có mùi có vị, rõ ra tư chất nhà văn”.

Cho đến nay, ông đã cho ra đời bảy tập truyện ngắn: Đêm làng Trọng Nhân

(1988), Người ở bến sông Châu (2001), Đi qua đồng chiều (2005), Mười ba bến

nước (2005), Chợ tình (2007), Dị hương (2009). Mỗi tập truyện ngắn của Sương

Nguyệt Minh mang một màu sắc riêng, thể hiện những chuyển biến về phong cách

của Sương Nguyệt Minh. Tuy nhiên, khi tiếp cận sáng tác của Sương Nguyệt Minh,

người đọc dễ dàng nhận ra một lối viết giản dị, gần gũi, không hề phô trương, cầu kì

của nhà văn. Có thể nói, chất riêng và lạ ở văn chương Sương Nguyệt Minh đã làm

rung động rất nhiều những tâm hồn đồng điệu. Năm 2010, tập truyện ngắn Dị

hương của Sương Nguyệt Minh được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam.

Điều này đã khẳng định tài năng và tên tuổi của Sương Nguyệt Minh ở thể loại

truyện ngắn nói riêng.

Dù thành công ở thể loại truyện ngắn nhưng Sương Nguyệt Minh vẫn “rẽ

ngang” sang viết tiểu thuyết và tạo được ấn tượng trong lòng bạn đọc. Ở thể loại

này, Sương Nguyệt Minh cũng tạo cho mình một dấu ấn riêng.Theo ông, “Tiểu

thuyết cần sự chiêm nghiệm sáng tác bằng độ chín nhất định, cần thời gian và thời

gian của đời nhà văn phải ở lúc sung sức nhất cả sức khỏe và nội lực sáng tạo. Tôi

24

viết tiểu thuyết lúc tôi đang tràn trề năng lực sáng tạo, tìm kiếm được cách viết mới,

không giẫm lên con đường sáng tạo của thế hệ cha anh” [12]. Chính vì thế, cuộc

chiến với Khmer Đỏ Pol Pot lùi xa đã 25 năm và trong hơn hai mươi năm ấy, Sương

Nguyệt Minh đã viết khá nhiều truyện ngắn nhưng đến tận 2014 tiểu thuyết Miền

hoang mới được ra mắt độc giả. Cuốn tiểu thuyết đã gây được sự chú ý của dư luận

bởi cách nhìn về chiến tranh trong vai trò là một người lính từng chiến đấu ở biên

giới Tây Nam. Tác phẩm viết về bốn con người ở hai chiến tuyến bị lạc trong rừng

hoang dã: một cô y tá câm, một lính áo đen, một Ông Lớn - Trung đoàn trưởng bị

thương dập nát một ống chân trong nhóm tàn quân Pol Pot, một chiến sĩ quân tình

nguyện Việt Nam bị bắt làm tù binh, và thêm một gã người rừng - dã nhân mắt một

mí bị mất nửa bàn chân, lạc rừng lang thang, lòng vòng, quẩn quanh,…đói khát, bất

lực, tuyệt vọng trong cái nắng nóng mùa khô khắc nghiệt, thú dữ rình rập, bom mìn

ẩn khuất dưới đất…luôn luôn đe dọa tính mạng. Họ đói khát tơi tả, vết thương còn

hơi sực mùi thuốc súng, lê lết trong rừng…luôn là miếng mồi béo bở của lũ kên

kên, chó sói. Miền hoang còn là số phận cô y tá câm người Khmer xinh đẹp trước

ba gã đàn ông nơi hoang dã trần trụi - nơi mà khái niệm đạo đức và pháp luật là thứ

xa xỉ, chỉ còn sức mạnh cá thể hoang dã làm bá chủ. Tiểu thuyết Miền hoang cũng

là câu chuyện sinh tồn khi bị đẩy vào nơi hoang dã. Con người trong chiến tranh đi

qua miền hoang dã, lại đối mặt với một miền hoang dã mới.

Đọc Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, chúng ta thấy nỗi ám ảnh về

chiến tranh không chỉ dừng lại ở bom rơi, đạn lạc, đó còn là nỗi ám ảnh về những

cảm giác, về sự sinh tồn, về hoàn cảnh sống khắc nghiệt do chiến tranh gây ra.

Trong những ngày tháng lạc giữa rừng hoang, chống chọi với đói khát, với sợ hãi,

tuyệt vọng, không ít lần Tùng đã nhớ khôn nguôi về thời thơ ấu. Những kí ức ngọt

ngào ấy trở thành chất liệu để phản ánh hiện thực khốc liệt của chiến tranh trong

sáng tác của Sương Nguyệt Minh. Có thể nói, với hơn 600 trang tiểu thuyết, Sương

Nguyệt Minh đã thể hiện một cách sâu sắc và toàn diện về chiến tranh. Chất hiện

thực ngồn ngộn trong tác phẩm được viết ra từ chính những trải nghiệm của Sương

Nguyệt Minh trong những năm chiến đấu trên chiến trường Tây Nam. Cuốn tiểu

thuyết không chỉ thể hiện quá trình lao động nghệ thuât công phu, đầy tâm huyết

25

của nhà văn với những tìm tòi sáng tạo ở thể loại tiểu thuyết, cuốn sách còn là tiếng

nói tự trái tim của người lính - nhà văn, ông viết về chiến tranh với tất cả những gì

sâu sắc và chân thực nhất trong cảm nghiệm của mình.

Có thể thấy, là thế hệ nhà văn của thời kì Đổi mới chuyên viết về chiến tranh

song Sương Nguyệt Minh đã tìm ra được hướng đi riêng, thể hiện tài năng và phong

cách của mình. Sương Nguyệt Minh đã vượt ra sự giới hạn của đề tài, của thế giới

hiện thực trong nền văn học cách mạng mà khám phá và thể hiện hiện thực đời sống

trong tính muôn mặt, muôn vẻ của nó. Ông đã đi sâu vào đời sống hiện thực để tìm

tòi, khám phá, từ đó có những cách tân làm nên thành công to lớn trên hành trình

nghệ thuật của mình. Có thể nói, Sương Nguyệt Minh là người không chịu dừng lại,

thỏa mãn nhấm nháp hoa thơm trái ngọt của vụ mùa cũ mà luôn tiếp tục sáng tạo

trên hành trình tìm kiếm cái đẹp cho cuộc đời. Ông sẽ tiếp tục dấn thân không mệt

mỏi và thể hiện những dấu ấn riêng trên con đường văn nghiệp của mình.

1.2.2. Sáng tác của Đoàn Tuấn

1.2.2.1. Vài nét về Đoàn Tuấn

Đoàn Tuấn sinh năm 1960, tại Hà Nội. Ông tham gia vào cuộc chiến đấu bảo

vệ biên giới Tây Nam khi tròn 18 tuổi. Lúc đó, Đoàn Tuấn vừa học xong phổ thông,

biết tin mình đỗ vào khoa Ngữ văn của Đại học Tổng hợp Hà Nội thì đồng thời có

giấy gọi tham gia nghĩa vụ quân sự. Giống như bao chàng trai Thủ đô hồi đó, Đoàn

Tuấn đi khám sức khỏe, thấy đủ tiêu chuẩn thì sẵn sàng xếp bút nghiên lên đường ra

mặt trận.

Từ năm 1978 - 1983 ông tham gia chiến đấu tại chiến trường Campuchia.

Trong thời gian 5 năm quân ngũ, Đoàn Tuấn công tác tại trung đội thông tin, tiểu

đoàn 8, trung đoàn 29, sư đoàn 307. Ba năm đầu Đoàn Tuấn đi phối thuộc chiến đấu

ở các đơn vị khác. Khi tiểu đoàn 8 chuyển lên Anlong Veng, được bổ sung quân,

Đoàn Tuấn lại chuyển về ban tác chiến tiểu đoàn. Ở đây, ông làm nhiệm vụ quản lí

quân số cùng một số trang thiết bị của đơn vị. Ngoài ra, Đoàn Tuấn còn làm một

nhiệm vụ rất thiêng liêng là chăm sóc cho thương binh, tử sĩ. Đoàn Tuấn luôn hết

lòng vì đồng đội, những người còn sống và cả những người đã hi sinh: “Tôi hiểu.

Và làm hết sức mình. Đun nước. Nhặt thịt xương. Rửa ráy. Chắp lại. Xếp cho đủ

26

các bộ phận cơ thể. Mặc quần áo. Quấn vải liệm. Gác đêm, canh thú rừng khỏi mò

đến ăn xác. Đào huyệt. Tổ chức đội vệ binh đứng bên bờ huyệt. Đọc lời điếu và bắn

súng tiễn biệt đàng hoàng. Sau đó mới chôn. Hết sức „oách‟ theo kiểu nhà binh”

[62].Đây là khoảng thời gian có ý nghĩa to lớn đối với Đoàn Tuấn.

Trở về sau chiến tranh, Đoàn Tuấn công tác ở nhiều lĩnh vực và gặt hái được

nhiều thành công trong sự nghiệp. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn tại Đại học Tổng

hợp Hà Nội. Năm 1991, ông tốt nghiệp Đại học Điện ảnh Liên Xô. Đoàn Tuấn

thành công trong nhiều kịch bản phim truyền hình, trở thành nhà lí luận phê bình

điện ảnh, giảng dạy ở Đại học Sân khấu Điện ảnh và tiếp tục tham gia làm báo.

Hiện nay Đoàn Tuấn đang công tác tại tạp chí Thế giới điện ảnh. Ông như con ong

cần mẫn, viết từng ngày, đi dạy, làm báo rồi lại viết. Ở lĩnh vực nào, Đoàn Tuấn

cũng gặt hái được thành công nhưng ông vẫn đau đáu với nghiệp văn chương, với

những trang viết tri ân quá khứ.

1.2.2.2. Hành trình sáng tạo

Đoàn Tuấn được biết đến ở nhiều “vai”, ông viết văn, làm thơ, viết kịch bản

điện ảnh, viết lí luận phê bình điện ảnh, giảng dạy ở trường Đại học Sân khấu Điện

ảnh và làm báo…Ông có nhiều đóng góp cho văn học đương đại, đặc biệt là văn

học chiến tranh. Nhắc đến ông là nhắc đến những câu thơ, những trang văn thấm

đẫm tình yêu Tổ quốc, tình yêu và món nợ nghĩa tình với đồng đội, với những

người lính không trở về sau chiến tranh.

Đầu những năm thập niên 1980, Đoàn Tuấn đoạt giải thơ sáng giá của tạp chí

Văn nghệ Quân đội. Những bài thơ viết từ chiến trường K đã khiến công chúng tìm

thấy một tiếng nói mới, thủ thỉ, thân tình và chân thật:

Những dãy núi con đường và vị trí các C

Như đồ vật trong nhà, tôi nhớ

Bao đồng đội thành cây rừng ở đó

Mỗi gương mặt bạn bè một địa chỉ không quên

Dũng đi phục mùa hè mưa xé túi quần hun muỗi

Cởi áo ra mình đắp chóng sáng hơn

Mạc Văn Tướng trèo cây bắn B41

27

Mười hai giờ đêm ăn cháo khỉ xì xòm

Lính 71 đào hầm, lính 80 nạp đạn

Có điều gì tin cậy chở che nhau

Bên cửa hầm dáng bạn ngồi đan rổ

Lá lồ ô vàng thơm sắc rơm phơi

Mùa khô ấy áo bạc theo suối cạn

Ai nhắc mình vò áo nhẹ tay thôi

Mặt chúng tôi gầy như gương mặt núi

Hào phóng như trời xanh

Tính thẳng như sông

Đoàn Tuấn là một nghệ sĩ đa tài nhưng ông đặc biệt thành công ở hai lính

vực điện ảnh và văn học. Ở lĩnh vực điện ảnh, ông đã có những tác phẩm được dựng

thành phim và gây tiếng vang như: Ngõ đàn bà (Chuyện tình trong ngõ hẹp) - Hãng

phim truyền hình Việt Nam; Chiếc chìa khóa vàng - Hãng phim Giải phóng - 1995;

Đi tìm chỗ ngủ - Hãng phim Giải phóng - 1999; Đường thư - Hãng phim truyền

hình Việt Nam - 2000; Sống cùng lịch sử - Hãng phim truyền hình Việt Nam -

2014; Trên đỉnh bình yên - Hãng phim truyền hình Việt Nam - 2016. Bên cạnh đó,

Đoàn Tuấn còn viết thêm cả phim hoạt hình như Én con và chiếc lá.

Ở lĩnh vực văn học, Đoàn Tuấn có những đóng góp không nhỏ. Các tác

phẩm chính: tiểu thuyết Bùa yêu (NXB Phụ nữ, 1993); truyện ngắn Khúc dạo đầu

mùa xuân (1995); tập thơ Đất bên ngoài Tổ quốc (thơ chung với Lê Minh Quốc,

1995); truyện kí Những người không gặp nữa (2006); tác phẩm dịch Thơ trữ tình

X.Exenhin (1995).

Ngoài ra, Đoàn Tuấn còn cộng tác cho nhiều tờ báo trong Nam, ngoài Bắc và

ký hàng loạt bút danh khác nhau. Có thể nói, Đoàn Tuấn là một trong những nhà

văn có sức lao động dồi dào. Ông có nhiều đóng góp cho văn học - nghệ thuật và

sân khấu - điện ảnh.

Ở phương diện văn học, Đoàn Tuấn là một trong số những nhà văn xuất sắc

viết về chiến tranh, đặc biệt là những tác phẩm ra đời từ hiện thực chiến tranh biên

giới Tây Nam khốc liệt. Đoàn Tuấn có 5 năm chiến đấu tại chiến trường

28

Campuchia. Những ngày tháng chiến đấu ấy đã để lại một miền kí ức xen lẫn khổ

đau, mất mát lẫn hào hùng, trong sáng và dũng cảm để sau này khi trở về, hiện thực

ấy vẫn hiện lên nguyên vẹn “buộc” Đoàn Tuấn phải viết. Ông viết không chỉ vì cái

nghiệp văn chương mà còn viết để “trả nợ đồng đội”, những người đồng đội đã nằm

xuống nơi chiến trường K, viết về những người đồng đội may mắn được trở về, viết

cho thế hệ hôm nay - những người muốn cảm nhận một cách chân thực về sự khốc

liệt, dữ dội của chiến tranh biên giới Tây Nam.

Viết về chiến tranh, Đoàn Tuấn viết bằng những cảm xúc chân thành, viết

bằng những trải nghiệm quý giá trên chiến trường. Ngay từ khi bước chân vào cuộc

chiến, ông đã mang theo nỗi trăn trở: “Ngay từ lúc ấy, tôi cảm thấy mình thật nhỏ

bé giữa những con người vô danh. Như đất biên giới. Như cây rừng tóe máu. Làm

sao để ghi lại những hình ảnh, những câu chuyện của họ?” [92, tr.28]. Những ngày

sống, chiến đấu tại chiến trường K giúp Đoàn Tuấn hiểu hơn về những người đồng

đội của mình, mỗi người họ là một vũ trụ bí mật mà nếu không ghi lại được, ông sẽ

không cảm thấy an lòng:“Mỗi người lính là một thế giới diệu kì, một kho tàng trí

thức dân gian. Nếu coi đó là một cuốn sách hay, biết cách đọc, cách kể, chúng ta sẽ

có biết bao câu chuyện tuyệt vời. Nhưng cũng thật đáng tiếc. Vì chiến tranh. Những

cuốn sách đó có thể sẽ không bao giờ được lật mở, có thể sẽ mãi mãi nằm sâu trong

lòng đất bất cứ lúc nào. Và rồi, những câu chuyện có tuyệt vời đến mấy cũng chìm

đi, lẫn vào trong bao câu chuyện đời thường. Làm sao góp nhặt để tặng cho mỗi

người, cho đồng đội tôi?” [92, tr.284]

Trong quá trình viết, Đoàn Tuấn luôn tìm tòi, trăn trở và theo ông, điều cần

thiết của một nhà văn đó chính là tìm ra giọng điệu cho tác phẩm của mình. Đoàn

Tuấn tâm sự: “Phải mất gần 10 năm trăn trở mới tìm ra giọng điệu cho một cuốn

sách. Tôi nghĩ, với người viết văn, vốn sống rất quan trọng. Nhưng cái quan trọng

hơn đó là việc tìm ra giọng điệu. Giọng điệu của riêng mình. Một giọng điệu thích

hợp với từng cuốn sách” [101]. Và Mùa chinh chiến ấy được hình thành sau một

quá trình dài để tìm ra chất riêng của tập hồi ký, chất riêng của chiến tranh biên giới

Tây Nam và chất riêng của chiến tranh biên giới Tây Nam trong kí ức của nhà văn.

Ông tâm sự: “Tôi viết lần đầu, đặt tên là „Trung đoàn viễn chinh‟ nhưng thấy văn

29

chương dài dòng quá, bỏ luôn. Lần thứ hai, tôi viết cuốn „Sư đoàn tình nguyện‟

nhưng đọc lại, thấy giọng văn giống các nhà văn viết từ hồi chống Pháp và chống

Mỹ. Không khoái. Tôi cũng bỏ nốt. Bởi thế hệ chúng tôi là thế hệ thứ ba tham gia

bảo vệ Tổ quốc. Khi gặp lại đồng đội, thấy họ nói chuyện, tôi quan sát và nghĩ: Đây

mới chính là giọng kể mà mình đang tìm kiếm. Đầy chất lính tráng. Đầy giọng điệu

thời nay. Và tôi lao vào viết như đúng kiểu chúng tôi trò chuyện” [101]. Sau 10

năm, Đoàn Tuấn mới tìm ra giọng điệu cho cuốn sách của mình. Và Mùa chinh

chiến ấy của Đoàn Tuấn trở thành cuốn “bách khoa toàn thư” về đời lính, là một tập

đại thành về số phận của những người lính trong chiến tranh biên giới Tây Nam.

Mùa chinh chiến ấy do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành, dày gần 500 trang. Tác

phẩm được viết dưới dạng hồi ức chiến binh, nhớ lại và viết. Vì vậy nội dung cuốn

sách được chắt lọc hoàn toàn từ những trải nghiệm xương máu, không thông qua

lăng kính phóng đại hay hư cấu của thể tài văn học cố định nào. Nhân vật “tôi” -

cũng chính là tác giả, người lính đã cầm súng chiến đấu trong cuộc hành quân dài

hàng ngàn cây số tới những miền rừng núi heo hút của xứ sở Chùa Tháp và để lại

một phần máu thịt tuổi trẻ ở đó. Những trang văn là đầy ắp những con người, những

sự kiện, những cảm xúc, suy tư có thực của đời “lính K”. Với người lính trẻ Đoàn

Tuấn, 5 năm chiến đấu ở nước bạn là quãng thời gian đẹp nhất, in hằn trong tâm trí

ông không thể phai nhòa. Đó là nơi mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong nháy

mắt, nơi mỗi phum làng được giải phóng, từng giây phút bình yên của người dân

đều phải trả bằng xương máu của những đồng đội của ông. Có lẽ vì vậy mà nằm sâu

mãi trong muôn tầng kí ức, những mẩu chuyện về biên giới Tây Nam vẫn luôn theo

Đoàn Tuấn đầy ám ảnh để trong hầu hết các sáng tác của ông, dù với văn học hay

điện ảnh, hình ảnh người lính luôn là mảng đề tài mà ông viết nhiều nhất. Với ông,

việc được sống và kể lại giống như món nợ cần phải trả cho những người đồng đội

thân yêu và ruột thịt. những người đã sống, đang sống và cả những linh hồn đang

còn lẩn khuất giữa bạt ngàn rừng xanh, núi thẳm.

Chứa đựng thật nhiều tâm huyết của cuộc đời, cuốn hồi ký Mùa chinh chiến

ấy được ra mắt độc giả năm 2017 sau gần 40 năm cuộc chiến tranh kết thúc. Một tác

phẩm trung thành với sự thật được viết lên từ chính những kí ức về tính nhân đạo,

30

sự hi sinh của “đoàn quân nhà Phật”. Hơn cả một tác phẩm văn học, Mùa chinh

chiến ấy còn chứa đựng những tư liệu hiện thực sâu sắc, nghiệt ngã về những gì

quân tình nguyện Việt Nam từng trải qua trên chiến trường nước bạn.

Gần đây nhất, Đoàn Tuấn cho ra đời bút kí Mùa linh cảm. Cuốn sách đã lay

động tâm thức người đọc vì Đoàn Tuấn không chỉ viết về những linh cảm trước cái

chết không tránh khỏi của đồng đội mình, “mùa linh cảm” ấy còn là linh cảm về

những nỗi đau mà người lính Việt phải chịu đựng sau khi đã kết thúc cuộc chiến

này. Đoàn Tuấn đã viết: “Tôi nghĩ về người lính. Bề ngoài, ai cũng tưởng đơn giản.

Đơn giản đến tận cùng. Uống chung ngụm nước. Đọc chung lá thư. Chui cùng căn

hầm…Nhưng bên trong họ là những miền bí ẩn, là những chiều sâu thẳm hơn đại

dương, không ai và không bao giờ khám phá nổi. Tôi nhớ câu nói nổi tiếng của một

nhà văn mà tôi không nhớ tên: “Nhìn từ xa, một trăm cây bạch dương giống nhau

cả một trăm; một trăm ánh nến giống nhau cả trăm. Nhưng khi đến gần, mỗi cây

bạch dương lại khác nhau; mỗi ánh nến cũng khác nhau nữa”, con người cũng vậy.

Và người lính, trong đời sống giáp ranh sinh tử, họ càng khác biệt bao nhiêu” [79].

Quả thật, Đoàn Tuấn là nhà văn viết về chiến tranh. Những trang viết của

ông đưa người đọc về cuộc chiến diễn ra hơn 40 năm trước nhưng cho đến hôm nay

vẫn còn ấm nóng tình đời tình người trong hiện thực vô cùng khốc liệt và đau

thương. Viết - với Đoàn Tuấn đó là sự thôi thúc, là sự “trả ơn” với những người

đồng đội. Và qua những trang viết ấy, người đọc có cơ hội chiêm nghiệm, nhìn

nhận, đánh giá một cách trung thực về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam

31

của Tổ quốc.

Tiểu kết chƣơng 1

Trong chương 1 của luận văn, chúng tôi đã đưa ra một cái nhìn tương đối

khái quát về văn học phản ánh hiện thực chiến tranh sau năm 1975 và những điểm

chính trong sáng tác của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Có thể thấy, văn học

viết về chiến tranh sau 1975 đã có những bước chuyển mình đáng kể, quan niệm về

hiện thực thay đổi, chiến tranh được nhìn nhận một cách chân thực, toàn diện và sâu

sắc hơn. Chiến tranh được tiếp cận từ nhiều góc nhìn, đường biên chiến tranh được

mở rộng, thân phận con người trong chiến tranh được nhận thức và lí giải trên tinh

thần đổi mới quan niệm về nghệ thuật và thay đổi tư duy sáng tạo. Từ đó, hiện thực

chiến tranh hiện lên đa chiều hơn, sâu sắc hơn.

Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn là hai nhà văn có đóng góp không nhỏ

cho văn học đương đại Việt Nam, đặc biệt là văn học viết về đề tài chiến tranh.

Bằng trải nghiệm của người lính từng trực tiếp tham gia chiến đấu, họ đã nhìn thẳng

vào sự thật, viết bằng sự thật về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Qua lăng kính

của người trong cuộc, chiến tranh được soi chiếu đa diện, sâu sắc và thấu đáo hơn.

Bằng tâm huyết, bằng tài năng, bằng tấm lòng với đồng đội, Sương Nguyệt Minh và

Đoàn Tuấn đã viết lên những dòng văn máu về chiến tranh biên giới Tây Nam để

người đọc hôm nay có thể nhìn nhận một cách thấu đáo và toàn diện hơn về cuộc

32

chiến đã lùi xa 40 năm.

Chƣơng 2

HIỆN THỰC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM

TRONG MIỀN HOANG VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY

2.1. Bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc

2.1.1. Hoàn cảnh chiến trường

2.1.1.1. Chiến trường dữ dội, khốc liệt

Hiện thực chiến tranh trước 1975 là hiện thực lí tưởng, là hiện thực của

những biến cố, sự kiện. Sau năm 1975, hiện thực chiến tranh đã được tái hiện chân

thật, gần gũi hơn, đó là hiện thực tồn tại như nó đang có, là hiện thực của số phận

con người. Các nhà văn viết về chiến tranh đã chú ý về tính chân thực của chiến

tranh. Chiến tranh hiện lên với tất cả bề rộng, bề xa, và bề sâu của nó. Chiến tranh

không chỉ là những ánh hào quang, không chỉ là những người anh hùng, không chỉ

là những chiến thắng oanh liệt. Chiến tranh phải được nhìn một cách đa diện hơn,

chân thực hơn.

Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam diễn ra năm 1979 là một cuộc chiến đặc

biệt. Người lính vừa bảo vệ giữ gìn từng tấc đất nhưng cũng vừa thực hiện nhiệm vụ

quốc tế cứu dân tộc Campuchia trước hiểm họa diệt chủng do chính nhà cầm quyền

của họ gây ra trên đất nước họ. Sau 40 năm, với độ lùi thời gian cần thiết, các nhà

văn có thời gian để suy ngẫm, để chiêm nghiệm và viết về chiến tranh với sự khách

quan nhất. Trong những trang viết của mình, họ nói đến vẻ đẹp của những con

người trong chiến tranh, tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng. Họ cũng không phủ

nhận sự bi tráng của cuộc chiến bảo vệ biên giới của Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ

quốc tế thiêng liêng. Tuy nhiên, các nhà văn không hề né tránh hiện thực mà trong

hiện thực ấy chính là sự khốc liệt của chiến trường, của hi sinh mất mát,…Miền

hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn mở ra cho

người đọc hôm nay một hướng tiếp cận mới về chiến tranh, đặc biệt là hiện thực

chiến trường với tất cả sự dữ dội và khốc liệt của nó.

Hiện thực chiến tranh được tái hiện ngay ở phần mở đầu của cuốn tiểu thuyết

33

của Sương Nguyệt Minh: “Quân tình nguyện Việt Nam tác chiến ở chiến trường K

tựa hồ như cuộc chiến trên cái đầm lầy khổng lồ miền nhiệt đới. Càng về cuối chiến

tranh, hình thái tác chiến càng thay đổi, cái đại quân dần dần rút về nước…chiến

tranh du lích nhùng nhằng, nhỏ lẻ, cò cưa dai dẳng, quân số hai bên cứ thế hao hụt

dần, để rồi lại bổ sung lính, lại chết…lại bổ sung”. [52, tr.6]. Trong cuộc chiến ấy,

người lính phải xông pha nơi mũi tên hòn đạn, đối diện với những khó khăn, những

thiếu thốn, những ốm đau bệnh tật, chống chọi với bom đạn hủy diệt của kẻ thù và

“chiến đấu” với thiên nhiên hoang độc, chứa đầy bí ẩn và rồi lại chết… lại bổ sung

không biết bao nhiêu mà kể. Quả thực, sự khốc liệt của chiến trường Campuchia

không sao mà kể, chỉ có thể khẳng định đó là hiện thực vô cùng khốc liệt như

những khái quát của Sương Nguyệt Minh trong những trang cuối Miền hoang: “Ra

trận không phải bảo vệ đất nước mình và viễn chinh ở một nơi xa xôi, mù mịt. Cái

nơi kẻ thù lạ mặt không còn xâm phạm bờ cõi mình. Lãnh thổ, địa hình lạ hoắc. Khí

hậu chưa bao giờ nếm trải. Ngôn ngữ bất đồng v.v...Người lính đơn độc chiến đấu

trong vòng vây, trong những tập kích, quấy nhiễu kinh thiên động địa của bọn lính

thiện chiến áo đen”. [52, tr.551].

Hiện thực chiến trường được ghi dấu là trận chiến khốc liệt giữa quân tình

nguyện Việt Nam và lính Pol Pot. Trong cuộc chiến sinh tử với kẻ thù, người chiến

sĩ trải qua rất nhiều những trận đánh cam go, ác liệt. Cả Sương Nguyệt Minh và

Đoàn Tuấn đều không quên ghi lại những giây phúc chiến đấu ác liệt ấy. Trong

Miền hoang, sự ác liệt hiện hữu ngay trong những trang viết đầu tiên, trong trận tấn

công ồ ạt của kẻ thù: “Một đợt cối cá nhân nữa chóc vào các vật cản, và nơi chúng

tôi lợi dụng địa hình địa vật ẩn nấp. Khi đó, một tốp lính áo đen lặng lẽ bò đến quá

gần, mới bắn. Đạn cày xuống đất màu gan gà và bắn thẳng vào thạch tháp viên

trượt viên phá toe toét đá. Đạn tằng tằng xé tơi tả cành lá và ghim vào cây bóc toác

ra những mảnh vỏ ứa nhựa tươi” [52, tr.16]. Bom đạn dội xuống, “đạn cày”, “đạn

tằng tằng xé tơi tả” của kẻ địch đủ sức tiêu hủy mọi thứ, đẩy quân ta vào tình trạng

chống cự yếu ớt và gánh chịu những tổn thất nặng nề. Cũng có thể là những trận

đánh một sống một còn giữa quân ta và quân địch: “Giờ nổ súng. Tôi thấy từ phía

sau các hướng, đạn bay đỏ trời, nhằm quả đồi rơi xuống. Những tiếng nổ xé tai,

34

như tiếng B-52 ngày bé tôi nghe ở Hà Nội. Đất dưới chân cũng rung lên. Tranh thủ

lúc có ánh sáng, tôi nhìn lớp cỏ từ dưới chân chạy lên sườn đồi, một cảnh tượng

vừa kinh hãi vừa tuyệt đẹp hiện ra. Những lớp cỏ rập rờn, rùng rùng như những đợt

sóng. Những con sóng xanh tươi trào dâng quanh đồi. Chất nổ không chỉ có sức

mạnh giết người khủng khiếp mà còn tạo ra những vẻ đẹp kinh hoàng”[96, tr.32].

Đó là cảm nhận chiến trường bi tráng với những hình ảnh vừa hào hùng, vừa lãng

mạn. Trong những giờ phút chiến đấu như thế, người lính của ta cũng không quên

ghi lại những khoảnh khắc hiếm hoi: “Say mê ngắm nhìn chiếc cầu vồng đỏ rực do

pháo ta bắn sang bờ bên kia và pháo địch phản lại sang bờ sông bên này. Một cầu

vồng lộng lẫy ngang trời đêm, một cầu vồng dưới đáy dòng sông đang cuộn xiết”

[96]. Tuy nhiên, hình ảnh càng kì vĩ, tráng lệ bao nhiêu thì hiện thực chiến tranh

càng khốc liệt bấy nhiêu. Bom đạn dội xuống không ngớt cũng có nghĩa là người

lính phải đối diện với bao hiểm nguy, mất mát, hi sinh. Những trận chiến ác liệt,

cam go là một phần trong hiện thực chiến trường, tô đậm thêm sự khốc liệt của cuộc

chiến tranh biên giới.

Sống và chiến đấu trên chiến trường K, người lính tình nguyện Việt Nam

phải đối diện với vô vàn những thiếu thốn, khó khăn, vất vả. Họ phải trải qua những

cuộc hành quân gian nan dài hàng nghìn cây số từ biên giới vượt sông Mê Công tiến

về hướng tây đến vùng Đông Bắc núi đồi hiểm trở, rừng rậm hoang vu. Chặng

đường họ đi đều là những vất vả, nhọc nhằn, phải mang theo lương thực, vũ khí,

vượt qua đèo cao hào sâu, thậm chí còn gánh trên vai cả những người đồng đội bị

thương, những đồng đội đã hi sinh. Họ luôn phải sống trong cảnh thiếu thốn: thiếu

lương thực đến nỗi phải ăn những nắm cơm thiu nhão nhoét, thiếu trang phục nên

phải chia sẻ với nhau từng tấm áo manh quần, thiếu cả những nhu yếu phẩm như

điếu thuốc đến nỗi họ làm lộ cả bí mật quân sự chỉ vì nhúm thuốc rê…Nhưng có lẽ,

ám ảnh nhất đó chính là thiếu nước. Chưa ở đâu và chưa bao giờ, việc thiếu nguồn

nước lại hành hạ người lính của chúng ta đến thế. Rừng Campuchia, mùa khô kéo

dài, nắng như đổ lửa, cái khát hành hạ con người. Mùa khô ở rừng núi Campuchia

đã vắt cạn sức người, và cái khát trở thành nỗi ám ảnh của bất kì người lính nào trên

mặt trận K. Khát với nhiều trạng thái khác nhau, khát giày vò con người, khát trở

35

thành nỗi ám ảnh nơi rừng hoang: “ Nóng âm âm, anh có cảm giác như mình là con

cá chuối bị xâu vào que rồi nướng trong hơi nóng. Lưng không còn ướt nữa, còn

mồ hôi nữa đâu mà ra. Miệng khô như cánh đồng hạn. Giá có ngụm nước thì cái

lưỡi sẽ mủn và tan ra như đất ruộng ải vừa tháo nước” [52, tr.152]. Cái khát khiến

sức khỏe của con người kiệt quệ. Cái khát hành hạ con người, cái khát trở thành nỗi

ám ảnh, một dấu ấn không thể quên. Thế nên trong Miền hoang, một đoạn thơ về

cái khát của Đoàn Minh Tuấn đã được ghi lại:

Quanh đây chẳng tìm đâu ra suối ra sông

Khiến lắm phen nước nấu cơm không có

Nhiều khi bắn được con thú

Không có nước mà làm

Được đi tắm là một nỗi hân hoan

Dù phải hành quân cắt rừng mười cây số

Và áo quần phải giặt giùm chục bộ

Mỗi lần được cấp nước

Í ới gọi nhau vui không giấu được

Đựng đầy xoong đầy bát đầy ca

Rồi nâng niu cất giữ trong nhà [52, tr. 373]

Và trong tác phẩm của mình, Đoàn Tuấn cũng đề cập đến cái khát như một

thứ quỷ dữ của núi rừng Campuchia, hành hạ người lính Việt Nam. Cái khát khiến

con người trở nên bạc nhược, họ không thể làm chủ được chính bản thân mình,

thậm chí họ phải tìm đến cái chết để giải thoát khỏi cái khát. Như trường hợp của

thiếu úy Nguyễn Bá Lan. Trải qua hai ngày không có nước, không tìm đâu ra nước,

anh cảm thấy “Khát quay cuồng. Khát điên dại. Người như muốn bùng cháy.” Và

cuối cùng “Không thể chịu đựng nổi, trên đường rút, anh đã cầm khẩu K54, tự giải

thoát cho mình bằng một viên đạn vào đầu” [96] để kết thúc cơn khát đang hành hạ

anh từng giây, từng phút. Cái khát đã dẫn đến bi kịch của người chiến sĩ trên mặt

trận, khiến người đọc không khỏi nghẹn lòng. Bộ đội Việt Nam không chỉ đối diện

với bom mìn của kẻ thù mà ngay những như cầu thiết yếu của cuộc sống họ cũng

không được đảm bảo đầy đủ trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường Campuchia

36

để rồi dẫn đến những cái chết đau lòng. Người chiến sĩ Việt Nam không dễ đầu

hàng trước kẻ thù, thế nhưng họ lại tự đầu hàng khi phải đối chọi với những thiếu

thốn như Đoàn Tuấn nói: “Mọi gian lao anh đều vượt qua, nhưng anh không thể

thắng nổi cơn khát”. Thật đau lòng!

Không chỉ là trường hợp của những người đồng đội, bản thân Đoàn Tuấn

cũng trải qua những giày vò của cơn khát: “Tôi tuyệt vọng hoàn toàn. Nước bọt khô

cong. Cổ họng cháy bỏng. Mắt nóng như hai hòn than. Làm thế nào để sống được

đây? Sau ba ngày không nước, sức lực tôi đã cạn kiệt. Ngay cả mồ hôi cũng không

còn mà tiết ra nữa. Mất sức chiến đấu hoàn toàn. Bây giờ mà địch ập đến đánh,

chắc không thể cầm súng chiến đấu nổi” [96, tr.435]. Và nếu như không có những

giọt nước mát lành của anh Đước thì có lẽ Đoàn Tuấn đã không còn sự sống. Và sau

này, cái khát ám ảnh Đoàn Tuấn đến nỗi trong ngày sinh nhật năm 19 tuổi, một sinh

nhật đặt biệt để lại dấu ấn trong cuộc đời, Đoàn Tuấn chỉ có một mơ ước duy nhất là

có một bi đông đầy nước. Ước mơ giản dị nhưng nó lại đủ phản ánh hiện thực khốc

liệt nơi chiến trường mà người lính phải đối diện.

Cùng với cái khát là cái đói. Cái đói khiến họ bất chấp mạng sống để giành

thức ăn với động vật: “Lúc ấy tao hết sợ, lao đến vồ lấy giữa đoạn ruột bò, một tay

cầm súng, một tay giật. Hai con kên kên bị cướp mồi bất ngờ, nhưng vẫn ngậm chặt

đoạn ruột không chịu nhả ra. Lực kéo của tao dù đang đói mệt, cũng làm cho hai

con điểu chuyên ăn xác chết ngã và bị lôi đi sền dệt, lăn lông lốc. Bị tước đoạt

miếng ăn, lũ kên kên quyết liệt không chịu bỏ miếng mồi. Chúng tạm thời nhả đoạn

ruột bò rồi lao tới bổ tới tấp vào đầu tao” [52, tr.481]. Cái đói khiến họ phải ăn thịt

chính đồng loại của mình. Không ít lần, trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đã

để các nhân vật kể về chuyện ăn thịt người, bản thân Tùng - người lính trong trận

chiến khốc liệt ấy không chỉ chứng kiến chuyện ăn thịt người của kẻ thù mà chính

Tùng cũng đã ăn thịt đồng loại trong tình huống quá trớ trêu.

Và tất nhiên, họ phải đối chọi với bệnh tật - điều không thể tránh khỏi. Đầu

tiên phải kể đến căn bệnh sốt rét rừng, căn bệnh cứ đeo bám người lính trong bất kì

cuộc chiến nào ở nơi rừng sâu nước độc. Nhưng sốt rét ở chiến trường K thì thật

đáng sợ, bởi có nhiều loại sốt rét khác nhau, đẩy người lính vào cơn nguy kịch.

37

Thậm chí, căn bệnh sốt rét đã cướp đi phần đời đẹp đẽ nhất của người lính trẻ như

cái chết của Duy Khánh. Anh bị sốt rét ác tính “là loại sốt rét rất nguy hiểm. Cầm

chắc cái chết. Có nhiều loại ác tính. Loại Duy Khánh mắc, là loại sợ nước. Cứ gặp

nước là lên cơn. Trong đầu mình đang nghĩ gì, là cái đó bùng phát” [96, tr.327], và

thế là Duy Khánh cứ hát cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Một cái chết kì lạ, một

cái chết đau đớn! Còn Nga thì lại phải chống chọi với “một loại vi khuẩn yếm

khí…loại vi khuẩn này nó chui vô trong vết thương. Nó sống trong điều kiện không

có ôxy. Càng thiếu ôxy, nó càng khoẻ. Nó đục, nó tấn công làm cơ thể mục nát, hoại

tử. Và chết một cách chầm chậm. Ngay từ bên trong cơ thể” [96, tr.336] . Và Nga hi

sinh khi không thể chống chọi với thứ “kẻ thù” không hình thể, vô cùng nguy hiểm

và “có rất nhiều ở Preah Vihear” [96, tr.336]. Quả thực, chiến trường Campuchia

luôn là nơi đẩy con người vào hoàn cảnh bi đát. Thiếu thuốc men, thiếu phương

tiện, nơi rừng sâu nước độc người chiến sĩ phải đối diện với những bệnh tật, ốm

đau, cận kề với những mất mát hi sinh. Đó quả thực là một nốt nhạc trầm buồn

trong bản anh hùng ca cách mạng trên chiến trường K.

Hiện thực chiến trường đầy ám ảnh trước sự hủy diệt bằng bom đạn của kẻ

thù. Mìn là loại vũ khí chủ đạo mà kẻ thù dùng để chống lại quân tình nguyện Việt

Nam. Chúng sử dụng hàng trăm loại mìn khác nhau, cài theo muôn vàn kiểu khác

nhau ở những vị trí không ngờ tới khiến lính Việt không kịp trở tay, không kịp

lường trước. Chính bởi thứ vũ khí hủy diệt này mà “quân tình nguyện Việt Nam

hứng chịu cái sự tàn khốc, thiệt hại của mìn ở chiến trường K bao la là không có

giới hạn” [52, tr.457], đến nỗi nó trở thành nỗi ám ảnh đối với người lính tình

nguyện Việt Nam: “cái chết bởi mìn do bọn tàn quân Pol Pot gài vẫn cứ là cái chết

thê thảm, khủng khiếp, sợ hãi nhất đối với tôi”. [52, tr.459]. Có nhiều cái chết do

mìn, có nhiều kiểu bị thương do mìn, mìn khiến những người lính hãi hùng: “Tôi đã

nhìn thấy lính bộ binh, trinh sát đang hành tiến trên đường mòn, bỗng…uỳnh một

cái. Thế là…gục. Xe ô tô đang chạy trên lộ 13, lộ 68 bỗng…chớp lửa nháng lên

cùng với tiếng nổ uỳnh một cái là lật tung xe, người, súng, lốp cao su, ván thành ô

tô vụn ra…tung lên trời, để rồi lả tả, bịch bịch, xào xào…những đất đá, cẳng chân,

khúc tay, miếng thịt,…rơi xuống đất, xuống cỏ cây” [52, tr.459]. Cái họ sợ không

38

phải là kẻ thù, thế nhưng có lúc lính tráng ùn lại không dám đi tiếp, họ lo lắng, sợ

hãi bởi vì phía trước không phải là những tên lính áo đen đấu súng trực tiếp, phía

trước họ là những bãi mìn có thể nuốt chửng bất kì đoàn quân tình nguyện Việt

Nam nào nếu sơ ý. Chính vì vậy, thứ vũ khí trở thành nỗi ám ảnh hãi hùng của quân

tình nguyện Việt Nam 10 năm ở Campuchia chính là mìn. Bản thân Tùng - người

chiến sĩ chiến đấu trên chiến trường K ấy đã phải thốt lên: “Sợ quá! Chưa có cuộc

chiến tranh nào trên thế giới mà mìn lại được sử dụng nhiều và như một loại vũ khí

chủ yếu sát thương trên chiến trường như cuộc chiến triền miên, cò cưa, dai dẳng,

hãi hùng ở chiến trường Campuchia”[52, tr.468]. Mìn trở thành sự khiếp đảm của

người chiến sĩ trong cuộc chiến sinh tử với kẻ thù đến nỗi ám ảnh cả trong giấc mơ:

“Mìn…mìn…và mìn! Suốt đêm tôi cứ luôn bị bóng ma các quả mìn đủ loại gây ám

ảnh, khiếp đảm, hãi hùng…” [52, tr.468]. Sự nham hiểm của kẻ thù cộng với thứ vũ

khí hủy diệt là mìn đã khiến trường K trở nên khốc liệt hơn, dữ dội hơn.

Song, người chiến sĩ không chỉ đấu tranh chống lại bom đạn của kẻ thù, đáng

sợ hơn, thiên nhiên rừng Miên với sự hoang vu, bí ẩn cũng hành hạ người lính, gây

ra những cái chết đau lòng với những người lính Việt Nam chiến đấu trên đất bạn.

Họ phải chịu đựng thời tiết khắc nghiệt, bị bao vây bởi ruồi, chuột, hổ, kên kên, chó

sói, ruồi…Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đã ghi lại: “Nắng thì nắng cháy

da bỏng thịt. Mưa thì mưa như trời dột vãi nước. Ban ngày ruồi bâu đen trên những

xác chết, những mẩu thịt xương của lính Pol Pot chưa kịp chôn cất, hoặc của lính

ta chưa kịp đưa về phía sau. Chúng đánh hơi thấy mùi cơm canh lại bay đến bâu

đen đĩa rau, bát cơm, bâu vào miệng, vào mũi. Vừa ăn vừa đuổi ruồi và nghĩ đến

xác chết đang thối khẳn. Ban đêm, muỗi như trấu vãi, vừa gác vừa đập muỗi, sáng

ra nhìn bàn tay đỏ máu cứ nghĩ là bị thương. Dưới kinh, đỉa nhung nhúc nổi lềnh

lên như bát canh lộn ngầy, bám vào xác lính Pol Pot đang rữa thối. Chuột đồng

lông dài như lông lợn, đông lúc nhúc hàng đàn kéo nhau ra ăn xác chết. Đêm đêm,

chuột lần mò vào cắn cả ngón chân lính ta đang ngủ. Tiếng súng, tiếng ễnh ương,

cóc nhái kêu triền miên như hòa tấu không dứt một bài ca lạnh lùng, đơn điệu, buồn

tẻ và thê lương” [52, tr.237]. Có nghĩa là người lính không chỉ chiến đấu chống lại

39

bọn Pol Pot mà còn phải chiến đấu với rất nhiều những kẻ thù nguy hiểm khác.

Chiến trường Campuchia như một mê cung của rừng thiêng nước độc, chứa

đầy bí ẩn với những chết chóc kinh hoàng. Hiện thực chiến trường được đặc tả

trong một không gian mông muội, hoang dã, man rợ đến nỗi người hóa thành mãnh

thú lăn xả vào nhau mà đâm chén, bắn giết, “đứa sống phải ăn thịt đứa chết mà tồn

tại”. Chiến tranh sẽ kéo lùi lịch sử và có nguy cơ đẩy con người trở về hoang dã và

hình ảnh dã nhân chính là hình ảnh phản chiếu của không gian chiến trường mông

muội. Dã nhân là một con người bị hoang hóa, mất hết ý thức. Dấu ấn của rừng

thiêng nước độc nơi miền hoang in rõ trên hình hài dáng vóc và tâm tính của kẻ lạc

rừng tội nghiệp. Không ai biết nguồn gốc của dã nhân, không ai biết những chuyện

gì đã xảy ra nhưng hình ảnh của một dã nhân mang còng số 8 với tiếng cười man

rợn khi nhìn thấy những cảnh chết chóc đau thương khiến người đọc ám ảnh. Và

rồi, kết thúc của dã nhân như một lời tố cáo đanh thép cho kiếp sống của con người

lạc giữa rừng Miên hoang độc, là tiếng nói đầy đủ và thấm thía nhất cho kết cục bi

đát của chiến tranh: “Hồn dã nhân không bay đi đâu xa. Có thể hồn dã nhân đậu

trên ngọn cây me cổ thụ chết khô và chứng kiến cuộc rỉa mỏ, róc xác mình. Một con

kên kên mổ cái mỏ nhọn khoằm vào móc con ngươi. Một con nữa móc nốt mắt bên.

Con lóc má. Con lóc đùi. Con mổ kéo rách thành bụng. Lòng ruột tim gan xổ ra…lõng

thõng…Lúc nhúc. Cánh đập sà sã. Chân co móng sắc đạp móc vào da thịt rách phựt

…phựt…Những cái đầu thâm đen, hoặc hói trụi lông da cổ đỏ và mỏ ngà châu vào xơi

bộ lòng ruột. Một lúc sau, hồn dã nhân không nhận ra thân xác mình nữa, chỉ còn một

bộ xương trắng treo lủng lẳng trên cây me cổ thụ chết khô…” [52, tr.526].

Hiện thực chiến trường đẩy người lính ở cả bên ta và bên địch vào số phận bi

thảm. Mỗi số phận trong cuộc chiến ấy đều chịu những hậu quả nặng nề. Tùng

trong Miền hoang phải một mình chống lại kẻ thù tàn nhẫn, một mình chống lại cái

đói, sốt rét rừng, lạc rừng …chịu đựng những giày vò trong quá trình tìm đường để

được “trở về”. Những khổ đau, sợ hãi cứ bám víu lấy Tùng, và trong cuộc chiến ấy:

“Bỗng chốc, lòng tôi hoang hoải và rét lạnh thân thể. Những hình ảnh bắn giết, tàn

sát, chết chóc, cái bụng xổ ruột gan cả đống của tên lính đen cầm „ống thổi‟ viên

đạn ghim vào trán thằng Tuấn B40, và những cái đầu đồng đội thành bãi thịt xương

40

lẫn mảnh mũ cối lổn nhổn…hiện lên liêu xiêu, dật dờ, nhẩy múa trước mắt. Rùng cả

mình” [52, tr.40]. Tùng như lạc vào mê cung với tất cả nỗi tuyệt vọng bị bỏ rơi, bị

lãng quên. Còn bọn địch “thắng” nhưng Lục Thum bị thương nặng: “Lúc này, tôi

cũng bắt gặp nỗi khốn khổ trần ai của kiếp người bầm dập quằn quại bởi những vết

đau trận mạc là hình ảnh viên chỉ huy tàn quân Pol Pot. Gã bị thương máu me thê

thảm, tã tượi ngồi bên gốc cây dầu cổ thụ khô xác” [52, tr.42] và trở thành tàn phế,

Sa Ly hóa câm, chỉ còn thằng Rô lành lặn. Kết thúc trận đánh, bốn kẻ sống sót bị

lạc đường, và chung trạng thái: “Mệt dỉu dả. Các khuôn mặt hốc hác. Thân hình tàn

tạ. Bước thấp bước cao thất thểu” [52, tr.5]. Lạc đường và tìm đường một cách vô

vọng, những kẻ thân tàn ma dại ấy lăn lộn giữa “miền hoang” rừng rậm, đầm lầy,

giữa đói khát và cả cái chết rình rập trên từng bước đi. Quả thực chiến tranh không

chừa một ai, cả bên ta và bên địch đều phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của

cuộc chiến.

2.1.1.2. Sự hi sinh, mất mát

Trong Mùa chinh chiến ấy và Miền hoang, sự khốc liệt và bi thương của

cuộc chiến được miêu tả bằng sự hi sinh của người lính. Chiến đấu với kẻ thù hiểm

ác, trong hoàn cảnh gian khổ như vậy, hi sinh mất mát là điều không thế tránh khỏi

đối với những người chiến sĩ tình nguyện Việt Nam. Nhưng ở chiến trường

Campuchia này, người lính Việt Nam hi sinh với muôn ngàn cách khác nhau:

“Những người lính chúng tôi hi sinh. Vì mìn dưới đất. Vì đạn bắn ngang tầm. Vì

nước lũ. Vì sốt rét. Vì khát…Và còn vì sét đánh nữa. Tôi đã được chứng kiến những

trận sét đánh trong chiến trường Campuchia dữ dội ra sao” [96, tr.339]. Có những

sự hi sinh đẹp đẽ, bi tráng, nhưng cũng có những cái chết phi lí, đau đớn đến nghẹn

lòng. Và dù hi sinh theo cách nào đi nữa cũng đều phản ánh chân thực những khốc

liệt và bi tráng của cuộc chiến nơi đất khách quê người. Có lẽ, chưa ở đâu và chưa

bao giờ, lính Việt Nam lại hi sinh nhiều đến thế, phi lí và nghẹn ngào đến thế.

Trong những trang văn của Đoàn Tuấn, những người đồng đội của ông buổi chiều

còn cười nói vui vẻ, đêm đến đã không còn quay về. Những người lính ấy còn chưa

kịp nghe hết một bản nhạc, đã chấm dứt tuổi thanh xuân theo tiếng nhạc. Trong

Miền hoang, Sương Nguyệt Minh cũng không hề né tránh những hiện thực đau lòng

41

ấy. Có những người hi sinh vì bom đạn, có người bị thú dữ ăn thịt, nhưng cũng có

những người lính chết vì những lí do như rơi từ độ cao 30m vì lấy nước thốt nốt, có

người chết vì điện giật khi đánh cá…Quả thực “Có hàng trăm, hàng ngàn kiểu chết

khác nhau ở chiến trường K” [52, tr.181], và cái chết nào cũng phản ánh vô cùng

chân thực sự đau thương ở chiến trường Campuchia.

Tuy nhiên, trong bom đạn của kẻ thù, cũng có những sự hi sinh vô cùng đẹp

đẽ, bi tráng. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn đã ghi chép lại nhiều sự hi sinh

đẹp đẽ và bi tráng, như trường hợp của anh Nguyễn Mạnh Hùng: “Anh Hùng đã bắn

viên đạn cuối cùng. Đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng theo nghĩa chính xác nhất

của từ này” [96, tr.360]. Viên đạn bắn ra từ giây phút cuối cùng, và cũng ở những

khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, người chỉ huy ấy đã chiến đấu trọn vẹn cho lí

tưởng, cho cách mạng. Người con của Hải Dương ấy đã không hề chùn bước, không

hề run sợ trước kẻ thù. Sự hi sinh của anh bi thương nhưng không hề bi lụy. Quả

thực, chiến tranh là nơi tô đậm vẻ đẹp của những anh hùng sẵn sàng xả thân, sẵn

sàng xông pha nơi đầu tên mũi đạn để chiến đấu với quân thù.

Mỗi người nằm xuống nơi chiến trường theo một cách riêng. Nếu sự hi sinh

của tiểu đoàn trưởng Nguyễn Mạnh Hùng mang vẻ đẹp bi tráng thì sự hi sinh của

anh Hà Huy Lan là một khoảnh khắc đẹp đến ám ảnh: “Anh Lan nằm nghiêng. Áo

vẫn bỏ trong quần. Đầu gối lên khẩu M79. Một chiếc khăn mặt trắng được anh phủ

lên vết thương trên đầu. Dưới chân anh, đôi dép cao su được xếp ngay ngắn” [96,

tr.165]. Sự hi sinh ấy khiến Đoàn Tuấn “sững sờ, kinh ngạc” trước “cái chết rất

đẹp, rất gọn, rất sạch” của người sỹ quan quân đội anh hùng. Đau đớn, ám ảnh

nhưng dường như sự hi sinh ấy là một lời khẳng định chắc chắn nhất cho vẻ đẹp của

những người chiến sĩ đã sống, chiến đấu và hi sinh trên đất bạn. Thậm chí, ngay

trong thời khắc cuối cùng của cuộc đời, họ cũng chọn cho mình cái chết thanh sạch

nhất, đẹp đẽ nhất như khi họ còn sống. Đó là những khoảnh khắc đẹp đẽ vô ngần!

Hoặc như sự hi sinh của “Duy Khánh” - Nguyễn Trận. Không hi sinh vì bom đạn,

nhưng chàng trai ấy đã hát cho đến khi tàn sức kiệt hơi khi mắc phải sốt rét ác tính.

Sự hi sinh đặc biệt và“ai cũng phải công nhận đó là một cái chết bi tráng. Hát. Và

hát. Hát đến hơi thở cuối cùng. Mấy cuộc đại chiến thế giới đã qua, có cái chết nào

42

kiêu hãnh, bi hùng đến thế chưa?” [96, tr.329]

Đành rằng có những sự hi sinh đẹp đẽ và bi tráng đến thế, nhưng những trang

viết của Đoàn Tuấn, Sương Nguyệt Minh vẫn không khiến người đọc tránh khỏi

những đau đớn, xót xa. Bằng những trải nghiệm của bản thân, họ nhìn thẳng vào sự

thật, viết lên sự thật và viết bằng tất cả những đớn đau uất nghẹn của mình trước sự

hi sinh của đồng đội. Từng làm công việc chăm lo cho tử sĩ, từng đi “nhặt nhạnh”

từng bộ phận cơ thể của đồng đội mình, từng trân trọng, nâng niu từng di vật khi

đồng đội nằm xuống, Đoàn Tuấn đã viết những trang văn bằng cảm xúc chân thực

nhật. Và sự hi sinh của đồng đội vì thế mà hiện hữu trên mỗi trang viết đầy ám ảnh.

Chính vì thế, Đoàn Tuấn đã không hề ngần ngại, né tránh khi đề cập đến những cái

chết uất nghẹn, phi lí. Chẳng hạn trường hợp của anh Cương. Khi sống, anh đã cống

hiến hết mình cho chiến tranh, đã dành tuổi thanh xuân của mình cho quân ngũ,

ngày trở về, khi nán lại một chút nơi chiến trường anh từng gắn bó thì “Ầm!”. Một

trái mìn K58 bất ngờ nổ. Anh Cương ngã vật ra. Hai ống chân nát tươm. Máu tuôn

xối xả. Nhiều người nhảy xuống xe. Phải rất thận trọng mới đến gần chỗ anh, băng

bó rồi khiêng anh lên xe. Chuyến xe đưa anh về nước phải quay đầu trở lại trạm

phẫu trung đoàn để cấp cứu cho anh. Nhưng trong đêm đó, anh đã trút hơi thở cuối

cùng trên đất K” [96, tr.357]. Đó là sự hi sinh bên lề cuộc chiến, không đối diện

trực tiếp với kẻ thù, nhưng anh Cương đã ngã xuống ngay cái nơi mà anh gắn bó,

chiến đấu để bảo vệ. Còn gì đau xót hơn khi sắp được đoàn tụ với gia đình, được trở

về với quê hương thì anh lại nằm xuống ở nơi chiến trường hoang lạnh. Sự hi sinh

của anh Cương đầy ám ảnh, bởi lẽ tình sâu nghĩa nặng, sự lãng mạn cũng có thể là

nguyên nhân dẫn đến cái chết ở trên chiến trường K dữ dội ấy.

Hoặc người đọc cũng không khỏi đau đớn trước sự hi sinh của Tô Văn Phán

- “anh chàng lính mới quê Phú Khánh”. Phán hi sinh bất ngờ nhưng cũng đầy ám

ảnh: “Về đến đúng đồi Con Cá thì thằng Phán vấp mìn… Ầm một cái! Nó ngồi bệt

xuống. Nhìn hai chân của mình nát bươm, máu tuôn lênh láng. Nhưng thằng Phán,

không kêu một tiếng, mắt nó mở to, nhìn trân trân vào hai ống chân đỏ lòm, gần

như vỡ toác, đứt đi. Nó cứ nhìn như vậy. Không kêu la. Mặt nó vẫn bình thường,

không lộ vẻ đau đớn. Nó cảm nhận cái chết hết sức điềm nhiên. Hình như nó đã linh

43

cảm thấy cái chết này. Nó đón nhận. Và chấp nhận. Khi nghe tiếng mìn, anh em vội

nằm xuống, chuẩn bị nổ súng. Nhưng không thấy động tĩnh gì. Khi anh em bò lên,

thấy thằng Phán vẫn còn ngồi nhìn đôi chân mình. Tay trái chống đất. Tay phải giữ

khẩu AK. Anh em bò lại, đỡ nó. Lúc ấy nó mới từ từ ngả xuống. Và mắt, dần khép

lại…” [96, tr.449].

Dẫu biết bước vào cuộc chiến là phải đối diện với chết chóc, đau thương, thế

nhưng người đọc vẫn không khỏi bất ngờ và đau đớn trước những sự thật mà Sương

Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã thể hiện trên trang viết của mình, đặc biệt khi viết

về sự hi sinh của người lính. Có những cái chết trong trận đánh, nhưng thậm chí còn

có những cái chết “không trong trận đánh” và “bên lề cuộc chiến”. Họ có thể chết vì

đỉa, vì sét đánh, vì yếm khí,… vì muôn ngàn lí do khác nhau nhưng sự hi sinh nào

cũng không tránh khỏi những đau đớn và ám ảnh.

Nhưng đau đớn nhất chính là những cái chết không vẹn toàn thân xác. Đây

chính là sự thảm khốc của chiến trường Campuchia mà người lính rơi vào. Người

lính hi sinh có thể vì bom mìn, vì thú dữ ăn thịt…nhưng phần lớn họ đều mất đi một

phần cơ thể. Trong Miền hoang, chính mắt Tùng đã nhìn thấy đồng đội mình “chỉ

còn một ống chân trong chiếc giày thêu chữ Du”. Hay trong góc nhìn của thằng Rô

- bên phía kẻ thù: “Trước mắt bọn tao là gốc cây dầu, cỏ bị quật nát, hai đoạn

xương ống bị róc hết thịt như chui ra từ đôi giầy vải bộ đội Việt Nam ở trong đó có

hai cái bàn chân. Chung quanh các dóng xương vương vãi và vết chân con kh‟la

quần tanh bành dập nát cả một vùng cỏ cây. Cọp chưa kịp ăn hai bàn chân còn sót

lại trong giày vải màu cứt ngựa, hay nó đã no bụng nên bỏ đi…” [52, tr.148]. Ở

Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn cũng không né tránh hiện thực đau lòng này. Bao

nhiêu người lính đã nằm xuống, bao nhiêu người đồng đội đã ở lại nơi đất khách

quê người. Nhưng đau đớn nhất, cả khi đã nằm xuống họ vẫn phải “chịu đựng”

những đớn đau của một thân xác không vẹn toàn. Có những người bị “bay mất” cả

thân trên khi bị dính mìn, “người mất tay, người mất thân, người mất đùi” [96,

tr.213]. Đau thương chồng chất đau thương. Và những người còn sống lại cẩn thận

“nhặt từng miếng thịt, từng mẩu xương, từng chiếc giày về xếp lại cho đồng đội”

[96, tr.213], “Hai ba lô xương thịt vụn, chúng tôi cũng rửa sạch đất cát. Tìm xem ai

44

thiếu gì thì xếp vào” [96, tr.215]. Chiến trường hiện lên với chi tiết tả chân đến trần

trụi, đến đau lòng. Có lẽ, đây mới chính là những hình ảnh đau đớn, ám ảnh nhất

của chiến tranh.

Thậm chí có những người hi sinh đến hai lần như trường hợp của anh Sơn.

Anh Sơn hi sinh vì mìn. Đồng đội không bỏ mặc anh nên khiêng anh về Cam-tuất

nhưng gặp phục kích của kẻ thù: “Trong số 8 người đó, có Lưu Thanh Sơn - người

đã chết hai lần. Cầu mong không có lần thứ ba” [96, tr.216]. Điều này có lẽ không

hiếm ở chiến trường Campuchia. Còn sống, người lính đã phải đối diện với muôn

ngàn khó khăn, thử thách, với muôn ngàn “kẻ thù” nơi chiến trường. Đến khi hi

sinh, họ không những phải nằm lại nơi đất khách quê người, thậm chí còn “hồn siêu

phách lạc” khi chết đi chết lại, không biết có tìm nổi đường về quê hương. Sự thực

ấy là một nỗi đau không thể nào nguôi ngoai!

Người lính hi sinh theo muôn ngàn cách khác nhau, có những sự hi sinh đẹp

đẽ, bi tráng trong cuộc chiến, cũng có những cái chết bên lề cuộc chiến nhưng đều

mang đến sự đau đớn, xót xa cho người đọc bởi họ đều hi sinh khi còn rất trẻ, hi

sinh ở phần đời đẹp đẽ nhất của mình. Họ nằm xuống nơi xứ lạ quê người, chết xa

Tổ quốc và không biết có tìm được đường về với đất Mẹ. Sự hi sinh mất mát trong

cuộc chiến được soi chiếu cận cảnh. Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã không

né tránh sự thực, không ngần ngại, không thêm bớt. Họ viết trong nỗi đau, trong sự

ngưỡng mộ, cảm phục, chua xót…nhưng quan trọng nhất là họ viết lên sự thật về

chiến trường. Viết về sự hi sinh của đồng đội, hai nhà văn đã đi đến tận cùng sự tàn

bạo của chiến tranh, sự khốc liệt của chiến trường.

2.1.2. Cuộc chiến đấu vì Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế

2.1.2.1. Nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng

Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn

là những tác phẩm viết về cuộc chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam giúp đỡ

lực lượng cách mạng Campuchia đánh đuổi đám quân phản loạn Pol Pot trên đất

nước bạn, đồng thời củng cố hậu phương, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam.

Sống và chiến đấu ở đất người, như cá bơi lạc vào dòng nước lạ, người lính phải đối

diện với muôn vàn những khó khăn, thử thách, với những mất mát, hi sinh. Song

45

điều quan trọng hơn cả là những người chiến sĩ ấy đã vượt qua muôn vàn những

gian khổ, hiểm nguy, họ vẫn bám đất, bám dân, dũng cảm chiến đấu chống lại sự

hủy diệt của kẻ thù. Mỗi người lính Việt Nam khi cầm súng chiến đấu đều đặt trên

vai nghĩa vụ thiêng liêng: bảo vệ biên giới Tây Nam, giúp nước bạn thoát khỏi họa

diệt chủng do Pol Pot gây ra. Lật giở từng trang viết, người đọc cảm phục và trân

trọng sự hi sinh của những người lính tình nguyện Việt Nam. Cả Miền hoang và

Mùa chinh chiến ấy đều thể hiện vẻ đẹp của những người lính chiến đấu vì Tổ quốc

và nghĩa vụ quốc tế.

Nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng đặt trên đôi vai của những người lính tình

nguyện Việt Nam không chỉ thể hiện ở việc xông pha nơi hòn tên mũi đạn mà ngay

trong ý thức, trong suy nghĩ, họ đã luôn tâm niệm sâu sắc về vai trò, trách nhiệm

của mình. Trong câu chuyện của anh Du và Tùng ở Miền hoang, Tùng đã từng thắc

mắc, giày vò vì sao những người như anh Du - hứng chịu đạn mìn gần mười năm

rồi vẫn chưa về cố hương. Và anh Du đã có lời giải đáp vô cùng giản dị, thấm thía

và chân thành: “Định mệnh hai dân tộc. Định mệnh gắn kết số phận hai nước, hai

dân tộc ở bên nhau, lúc khó khăn hoạn nạn không thể đừng giúp nhau. Cũng y như

cháy nhà hàng phố, không thể bình chân như vại. Không chữa giùm, nó thiêu hủy

cả di sản gia sản nhà người ta, mình có đang tâm đứng nhìn không? Vả lại hàng

xóm cháy, không chữa giùm nó cháy lan sang cả nhà mình ấy chứ. Cứ nghĩ một

cách bình dị như thế thôi Tùng ạ. Chúng ta đi từ đạo lí làm người trước, rồi mới đi

cùng lý tưởng…” [52, tr.238]. Không ai đòi, ai bắt, không nặng nề trong hai chữ

“nhiệm vụ”, anh Du đã thay lời anh em lính tráng nói lên những điều giản dị từ

trong chính cuộc chiến gian khổ ấy. Họ chiến đấu vì nhân dân hai nước, họ chiến

đấu vì tình thương yêu đối với nhân dân Campuchia. Đó cũng là lí do mà anh Du

quyết đi đến tận cùng của cuộc chiến tranh: “Nghĩ cũng tội: Chẳng lẽ anh mày xin

về nước, rồi tất cả mọi người lính Việt Nam ai cũng muốn trở về nhà thì bọn Pol

Pot quay trở lại Phnom Pênh ngay. Người Khmer sẽ sống ra sao với bọn man rợ ấy.

Bỏ thì thương, vương thì tội. Bỏ cuộc chiến nửa chừng đồng nghĩa với...trắng tay”

[52, tr.231]. Người đại đội trưởng của quân tình nguyện Việt Nam ấy đã gắn bó với

chiến trường 10 năm, vẫn muốn dấn thân trên mảnh đất Campuchia vì một lí do vô

46

cùng giản dị như thế. Cốt lõi vẫn là tình yêu thương, cốt lõi vẫn ở tình quốc tế

thiêng liêng mà anh từng nói với Tùng: “Tùng ạ! Các nhà chính trị vẫn nói với

chúng ta đó là: Nghĩa vụ quốc tế cao cả. Là: lương tâm thời đại. Không sai!” [52,

tr.238]. Hành động của Việt Nam xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng, trách

nhiệm quốc tế cũng như lương tâm của một dân tộc chịu nhiều áp bức và ngoại

xâm. Sự đóng góp hi sinh của Việt Nam tại Campuchia vừa vì sự nghiệp bảo vệ Tổ

quốc vừa với tinh thần quốc tế trong sáng và cao cả.

Trong Mùa chinh chiến ấy, bản thân mỗi người lính trên trang viết của Đoàn

Tuấn đều ý thức được vị trí và trách nhiệm của mình khi chiến đấu trên đất bạn. Họ

đối đãi với nhân dân Campuchia bằng tấm chân tình, coi nhân dân như người trong

gia đình của mình nhưng lại không dám nhận bất kì ơn huệ nào của dân. Khi đón

dân trở về, một ông già “quỳ xuống, dùng cả hai tay, nâng lên trước mặt” [96, tr.60]

người lính Việt Nam trái dừa để thể hiện lòng biết ơn. Dù rất thèm vì “Từ bé đến

giờ, mình đã được ăn trọn vẹn trái dừa bao giờ đâu”. Thế nhưng, vì là đất bạn, vì

“Dân họ nghèo lắm. Mình đang làm nghĩa vụ quốc tế, làm sao dám ăn” [96, tr.60] -

một phần vì sợ kỉ luật, nhưng quan trọng nhất là họ ý thức được rằng “người dân

Campuchia hiện nay không còn bất cứ tài sản gì. Họ chỉ còn mỗi cái khố mặc trên

người” [96, tr.49]. Lính tình nguyện Việt Nam luôn thương dân Khmer như chính

đồng bào ruột thịt của mình. Đó là những tình cảm lớn lao trong tình hữu ái thiêng

liêng. Thậm chí, ngay trong chuyện tình cảm lứa đôi, họ giữ gìn hình ảnh của người

lính Việt, làm sao để luôn được nhân dân Campuchia tin tưởng. Quả thực, lính tình

nguyện Việt Nam rất đẹp. Vẻ đẹp ấy được tạo nên bởi tình hữu ái dân tộc, bởi nghĩa

vụ quốc tế thiêng liêng.

Không chỉ là cầm súng chiến đấu, hi sinh xương máu trên chiến trường

chống lại kẻ thù Pol Pot, những người lính tình nguyện Việt Nam luôn giữ tinh thần

đoàn kết, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân, sẵn sàng nhường cơm sẻ áo:“Quân

giải phóng Việt Nam viện trợ gạo muối, vũ khí, đạn dược, huấn luyện tác chiến cho

quân Khmer Đỏ củ sắn chia đôi ca nước uống cùng” [52, tr.117]. Dù quân Khmer

Đỏ “lừa thầy phản bạn”, nhưng với nhân dân Campuchia, lính tình nguyện Việt

Nam vẫn luôn yêu thương, bảo vệ và san sẻ với những người dân bất hạnh. Hành

47

động giúp đỡ được thể hiện từ những việc tưởng chừng rất đơn giản như người lính

Việt Nam tặng ông cụ người Campuchia một đôi giày: “Tôi chạy vào, kêu gọi sự

giúp đỡ của Quốc. Tìm mãi trong cái nhà chứa gạo, Quốc cũng moi được đôi giày

cũ. Tuy rách, nhưng vẫn còn dùng được. Chúng tôi ái ngại đưa cho ông. Ông già

mừng rơn” [96, tr.83]. Hành động nhỏ bé, bình dị nhưng vô cùng ấm áp mà những

người lính Việt Nam trao tặng cho người dân Campuchia. Người đọc cũng không

khỏi xúc động, mến phục trước hành động làm bảng đen bằng cách “lấy ruột pin,

trộn lá khoai lang, chà lên mặt gỗ [96, tr.97] của bộ đội ta giúp cô giáo Campuchia

dạy các em bé học giữa hoang tàn đổ nát. Không ít lần, bộ đội Việt Nam chữa bệnh

cho dân, không ít lần bộ đội Việt Nam cứu giúp người dân gặp nạn. Chẳng hạn, đó

là câu chuyện ở biển Hồ, khi Sa Ly - người thiếu nữ Campuchia được lính quân tình

nguyện Việt Nam cứu giúp. Trong câu chuyện của cuộc đời mình, Sa Ly luôn nghĩ

đến hình ảnh hai người lính tình nguyện Việt Nam đã cứu cô ở Biển Hồ. Hình ảnh

người lính tình nguyện Việt Nam như vầng sáng lung linh trong kí ức của người con

gái Khmer. Rơi vào hoàn ảnh tuyệt vọng, bị hãm hiếp, tủi nhục cay đắng giữa rừng

hoang, nhưng trong kí ức của cô gái Khmer, hình ảnh người lính tình nguyện Việt

Nam vẫn luôn hiện hữu: “Tui sục vào kí ức… Kí ức được quân tình nguyện Việt

Nam „nhặt‟ tui dọc đường đem về nuôi, đưa vào đội phiên dịch của Ban dân vận

làm công tác vận động quần chúng” [52, tr.115]. Đó là kí ức đẹp đẽ của Sa Ly về

bộ đội Việt Nam. Cô gái người Khmer ấy luôn cảm thấy biết ơn: “Dù sao thì tui

cũng mang ân nghĩa của những người lính Việt Nam cứu sống tôi giữa đường lạc

mẹ.” [52, tr.115]. Hình ảnh người lính quân tình nguyện Việt Nam đẹp tới mức

được nhân dân Khmer gọi là “bộ đội nhà Phật”.

Nhà văn Đoàn Tuấn đã từng tâm niệm: “Chiến đấu ở chiến trường bạn, đất

bạn, phải làm sao thể hiện là những người lính rất đàng hoàng, tử tế, giúp dân tận

lòng và không làm điều gì ảnh hưởng đến đất nước của họ. Bởi vì đây là danh dự

đất nước, dân tộc. Cho nên mình đối xử với người dân, tù binh quân đội nước họ

mình phải luôn giữ được vẻ đẹp, truyền thống văn hiến của người Việt Nam mình”

[91]. Đó chính là tính thần chung của người lính Việt Nam khi chiến đấu trên chiến

48

trường K. Họ đã làm tròn sứ mệnh cao cả - một sứ mệnh không chỉ đến từ quân

lệnh như sơn mà xuất phát nhiều hơn từ trái tim yêu hòa bình, từ lòng nhân ái bao

dung của người chiến sĩ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.

2.1.2.2. Sống và chiến đấu hết mình

Ở nơi chiến trường Campuchia, người lính tình nguyện Việt Nam phải đối

diện với bao khó khăn, gian khổ, phải đánh đổi bằng chính tính mạng của mình. Sự

hiểm nguy không chỉ đến từ bom mìn của kẻ thù, mà còn đến từ thiên nhiên, từ

những sinh bật nhỏ bé nhất như ruồi, đỉa, kên kên…Có nghĩa là ở bất kì đâu, trong

bất kì khoảng thời gian nào sự nguy hiểm cũng luôn bủa vây lấy họ. Thế nhưng,

điều đáng quý là họ không bỏ đội hình đội ngũ, không bỏ mặc nhân dân Campuchia

phải tự chống chọi với nạn diệt chủng do Pol Pot gây ra. Trong mỗi người chiến sĩ,

trong mỗi giây phút của cuộc đời họ, họ luôn chiến đấu hết mình. Họ chiến đấu vì

tinh thần trách nhiệm của người lính, sẵn sàng đối diện với kẻ thù, anh dũng, kiên

cường,…Họ chiến đấu vì tinh thần chính nghĩa, vì tình yêu với mảnh đất láng

giềng. Hiện thực chiến trường là những khó khăn, gian khổ, mất mát, hi sinh nhưng

hiện thực ấy chính là cách để Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn ngợi ca tinh thần

chiến đấu quả cảm, bất chấp hiểm nguy, sẵn sàng hi sinh của quân giải phóng.

Họ kiên cường quả cảm trong những trận đánh ác liệt một mát một còn với

kẻ thù tàn bạo. Họ không bao giờ cúi đầu trước kẻ thù, dù trong lúc hiểm nguy nhất,

dù địch mạnh hơn nhiều lần. Chẳng hạn, trong trận đánh trên cao điểm 547, gặp

phục kích của kẻ thù, nhưng những người lính không đầu hàng, không tháo lui, lính

tráng vẫn “căng mình ra bắn”. Trong hiểm nguy, những người lính ấy vẫn bình tĩnh:

“Bình lại ra lệnh dựng cối lên. Bắn thẳng. Chứ không nghiêng 45 độ như lí thuyết

nữa. Những viên đạn lao thẳng lên trời, rơi xuống phía trước, cách vài chục mét.

Đạn cối nổ mà người bắn còn bị văng xuống đất. Bắn tiếp! Nghe tiếng bọn địch kêu

ré lên. Hốt hoảng. Không dám xông vào trạm phẫu nữa. Chết chưa các con. Đừng

đùa với cối 82 của quân đội Việt Nam” [52, tr.345]. Họ sẵn sàng giành giật với kẻ

thù từng mảnh đất, tiêu diệt kẻ thù đến tận sào huyệt để giải phóng đất nước

Campuchia. Những lần quân đội ta thăm dò, gỡ mìn đến nghẹt thở, sự sống và cái

chết cách nhau trong gang tấc nhưng người lính vẫn can trường vượt qua. Dù tổn

49

thất nặng nề, dù chưa đâu và chưa bao giờ lính ta lại hi sinh nhiều như trên chiến

trường Campuchia, nhưng lính tình nguyện Việt Nam đã sống và chiến đấu đến hơi

thở cuối cùng, đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng. Họ không bao giờ cúi

đầu trước kẻ thù, dù trong lúc hiểm nguy nhất, dù địch mạnh hơn nhiều lần.

Vẻ đẹp hào sảng, bi tráng không chỉ thể hiện trong các trận chiến, vẻ đẹp ấy

còn được cụ thể hóa trong hình ảnh mỗi người lính tình nguyện Việt Nam. Có thể

thấy, chiến tranh là bản anh hùng ca mà trong đó, hình ảnh những người chỉ huy của

quân đội nhân dân Việt Nam hiện lên đẹp đẽ nhất, đầy khâm phục và ngưỡng mộ.

Đó là hình ảnh anh Du trong Miền hoang, một người đồng đội, người chỉ huy, cũng

là một người anh đã dẫn dắt Tùng từ những ngày đầu tiên vào quân ngũ. Chiến đấu

10 năm ở chiến trường K, chịu đủ mùi vất vả gian truân của cuộc chiến nhưng anh

Du vẫn động viên đồng đội tiến bước và không bao giờ thoái lui trước kẻ thù. Đó là

hình ảnh của phó trung đoàn trưởng, trung tá Võ Sỹ Lực - một vị tướng tài với

“phong cách chỉ huy mạnh mẽ và thuyết phục” và đồng thời là chỗ dựa tinh thần lớn

cho đồng đội; “Ông đã thổi vào chúng tôi, mỗi người lính, tinh thần chiến đấu dũng

cảm, khí phách của người lính trận, tác phong của người lính luôn đi đầu, lối sống

của người lính đích thực là lính. Chỉ cần nhìn dáng ông đi dẫn đầu đoàn quân, lững

thững giữa rừng, là anh em D8 có điểm tựa tinh thần, có ý chí đi tiếp” [96, tr.295].

Đó là tiểu đoàn trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, một “vị chỉ huy mẫu mực” luôn hiên

ngang trước kẻ thù, bất chấp hiểm nguy, là người tiếp thêm sức mạnh cho lính “một

loại sức mạnh tinh thần vô giá”. Họ đều là những người anh hùng, là linh hồn của

cuộc chiến đấu. Có họ, hình ảnh người lính quân đội nhân dân Việt Nam đẹp hơn

bao giờ hết!

Họ chiến đấu hết mình trong trận chiến, và họ sống hết mình nơi trận mạc.

Cuộc sống của họ là những khó khăn, gian khổ, mất mát hi sinh nhưng những người

lính vẫn lựa chọn tư thế sống đẹp đẽ. Người chiến sĩ đã lấy niềm vui, sự phấn chấn

làm điểm tựa. Họ thương yêu những người dân Campuchia như người thân của

mình. Họ sống đầy nhiệt thành và lạc quan. Những lá thư, những bài hát, những

điệu nhảy…tạo nên một tinh thần lạc quan cách mạng. Chiến tranh với họ không chỉ

là mất mát, hi sinh. Chiến tranh là khi họ được sống với những cảm xúc thực của

50

mình, nhận ra những giá trị đích thực, trân quý những phút giây hạnh phúc, những

niềm vui dù là nhỏ nhoi nhất. Tất cả những điều đó đều trở thành hành trang của

người chiến sĩ.

Chiến tranh còn là bản anh hùng ca của tình đồng đội thiêng liêng. Trong lửa

đạn, chết chóc, những người lính vẫn luôn sát cánh bên nhau. Họ nhường nhau từng

hớp nước, miếng ăn, họ chia nhau cái chết, nhường nhau sự sống. Đồng đội nằm

xuống, những người còn sống giữ trọn vẹn nghĩa tình. Họ an táng cho đồng đội

mình bằng nghi thức thiêng liêng nhất có thể. Họ trân quý từng di vật đồng đội để

lại. Họ không bỏ nhau lúc còn sống, và cả khi những người đồng đội đã nằm xuống

nơi xứ người. Chiến tranh là đau thương, nhưng trong đau thương ấy vẫn ngời sáng

vẻ đẹp tình người. Đó cũng chính là vầng sáng trong cuộc chiến tranh đầy khốc liệt.

Quả thực, chiến tranh là bản anh hùng ca về người lính. Những người lính

được khắc hoạ với vẻ đẹp quả cảm, kiên cường. Khi chiến đấu, họ không lùi bước

trước kẻ thù. Hình ảnh của họ đẹp đẽ, hiên ngang, bất khuất. Họ ý thức được trọng

trách trên vai mình, ý thức về nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng mà mỗi người lính mang

trên mình, về lí tưởng cách mạng mà họ mang theo khi chiến đấu ở đất bạn. Trận

chiến dù là những gian khổ, vất vả, mất mát, hi sinh, nhưng những người lính ấy vẫn

mang tinh thần lạc quan cách mạng. Họ không lùi bước, không thoái lui, không đầu

hàng. Ở họ sáng ngời phẩm chất cách mạng của quân tình nguyện Việt Nam.

2.2. Hình tƣợng ngƣời lính Việt Nam

2.2.1. Hình tượng người lính trong cuộc đấu tranh với kẻ thù

2.2.1.1. Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất

Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh là những nhà văn bước ra từ cuộc chiến,

sống cùng những người lính, nhìn thấy họ, lắng nghe những ước mơ nhỏ nhoi của

họ cũng như phải chứng kiến biết bao đồng đội ngã xuống, bởi vậy hai nhà văn đã

viết rất chân thực và sâu sắc về hình tượng người lính. Trong tác phẩm Mùa chinh

chiến ấy và Miền hoang, hình tượng người lính hiện lên rất đời, rất người. Họ là thế

hệ thứ ba cầm súng ra chiến trường, phần lớn là học sinh, sinh viên có tri thức, có

nền tảng văn hóa. Mặt khác, cuộc sống nơi trận mạc đã rèn luyện cho người lính

những phẩm chất tuyệt vời, và cũng thắp sáng vẻ đẹp tâm hồn cao thượng trong họ.

51

Dù phải đối diện với những thử thách khốc liệt từ bên ngoài và bên trong, nhưng

những người lính đã can trường vượt qua, đã khẳng định được chính mình và hoàn

thành nghĩa vụ quốc tế và bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Chân dung

tinh thần người lính được các tác giả khắc họa sinh động, nhiều chiều: nét trữ tình,

lãng mạn, chất hồn hậu, bình dị, sự trẻ trung, hóm hỉnh và đặc biệt họ là những

người tài năng và tri thức.

Lấp lánh trên trang văn của Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh là vẻ đẹp trữ

tình, lãng mạn của những người lính tình nguyện Việt Nam. Họ là những chàng trai

mười tám, đôi mươi đã “gác bút nghiên lên đường ra trận”. Hành trang mà họ mang

theo là tình yêu học trò, là hình ảnh của quê hương, là nỗi nhớ nhung da diết, là

những rung động đầu đời... Trong khói lửa chiến tranh, họ vẫn giữ vẹn nguyên tâm

hồn lãng mạn - thứ mà bom đạn kẻ thù không tiêu diệt nổi. Thế nên trong sự cơ cực,

khốn cùng của cảnh lạc rừng, Sương Nguyệt Minh vẫn để nhân vật Tùng được sống

với chính phần hồn trẻ trung và lãng mạn của mình. Bởi thế, trong ba lô của Tùng

không chỉ là những quân nhu thiết yếu mà còn là cuốn nhật kí, tấm hình người yêu,

cuốn tiểu thuyết, những vần thơ và cả cây đàn…Cây đàn ghi ta là minh chứng cho

tâm hồn lãng mạn ở Tùng, là liều thuốc bổ giúp anh vực dậy sau những đớn đau mà

kẻ thù gây ra. Trong những ngày tháng vất vả, cực nhọc, đối diện với bom đạn, với

sự độc ác của kẻ thù…cây đàn ghi ta đã chắp cánh để Tùng cất lên những giai điệu

ngọt ngào. Trong lúc cái chết cận kề, Tùng vẫn “ôm đàn và ngẩng cao đầu” dạo một

bản dân ca Khmer: OH SVAY CHAN TY bởi “Dường như tiếng gọi của lòng kiêu

hãnh và cái sự ngạo nghễ, chết không cúi đầu như một người anh hùng ngã ngựa

trên sa trường lên tiếng, mà anh đã bị ảnh hưởng từ một nền giáo dục thời chiến ở

miền Bắc Việt Nam. Vả lại, trước sau gì cũng chết. Nhưng cái chết trên nền nhạc

dân ca của kẻ thù bao giờ cũng kiêu hùng hoàng tráng lộng lẫy và lãng mạn hơn

cái chết tầm thường bị xẻng bộ binh bổ vào mặt một cách gớm ghiếc, man rợ” [52,

tr.140]. Say mê tiếng đàn, hòa vào tiếng đàn như gửi gắm phần hồn của mình vào

đó, Tùng mang trong mình tư chất của một nghệ sĩ thực thụ. Đó là lí do vì sao Tùng

cảm thấy sung sướng khi tìm thấy chiếc đàn ghi ta bị thất lạc. Đó cũng là cũng là lí

do Tùng cảm thấy đau đớn khi đàn bị kẻ thù đốt, nước mắt Tùng “ứa ra, chảy cả

52

xuống miệng” [96, tr.430]. Đó là nỗi đau của một người nghệ sĩ khi nhìn thấy cây

đàn của mình bị tiêu hủy. Có thể thấy, Tùng chính là nơi hội tụ cho vẻ đẹp của

người lính Việt: lãng mạn và yêu nghệ thuật, nói như vị chỉ huy của Tùng: “Cậu

phải mừng vì người lính chúng ta có học, biết thưởng thức nghệ thuật và vẫn là

những con người bình thường chứ không phải người máy cầm súng” [52, tr.105].

Minh chứng khác cho vẻ đẹp lãng mạn của người lính chính là những cuốn nhật kí

chiến trận. Cuốn nhật kí chính là đời sống tâm hồn của những người lính: “Chỉ một

thoáng cảm xúc bất chợt vui buồn trên đường hành quân, hay nỗi nhớ vu vơ một

người bạn gái nào đó, hoặc tình thương bố mẹ ở quê nhà cồn cào không chịu

nổi…cũng biến thành con chữ bò lổm ngổm trên trang giấy trắng. Đặc biệt, sổ nhật

kí đứa nào cũng có thơ. Thơ chép tay từ tờ báo đã nhàu, từ sổ của đứa khác, và cả

thơ tự sáng tác nữa. Thơ hay, thơ dở cứ chép tuốt, miễn là chúng nói hộ được tâm

trạng, nỗi lòng mình…” [52, tr.161]. Gần như lính tình nguyện nào của Việt Nam

cũng có nhật kí, những trang nhật kí là những cảm xúc chân thành và mãnh liệt của

người lính. Những trang nhật kí là một thế giới khác, một thế giới đẹp hơn, lấp lánh

hơn, chan chứa tình người, tình đời hơn.

Trong Mùa chinh chiến ấy, không ít lần những khoảnh khắc lãng mạn của

người lính ùa về trên trang viết của Đoàn Tuấn. Giữa nơi rừng xanh núi đỏ, người

lính xao lòng khi tiếng hát trong trẻo vang lên: “Khi Lâm Huôi dạy bọn trẻ hát đồng

ca, Quốc đang đi bỗng dừng lại. Giữa trưa nắng, anh đứng đó, đầu trần, nghe tiếng

đồng ca của các em học trò Khmer. Đối với Quốc, đây là âm thanh đẹp nhất mà

anh được nghe trên xứ sở chùa Tháp. Chắc những âm thanh trong trẻo non tơ ấy

đang dội vào lòng anh bao kỷ niệm ngọt ngào” [96, tr.23]. Không có một tâm hồn

tinh tế, không có cảm xúc mãnh liệt thì sao người lính Việt có thể xúc động trước

một âm thanh bình dị như thế. Tiếng hát ấy đã tắm mát tâm hồn người lính, đã xua

đi những vất vả nhọc nhằn, đã gạt đi cả những bom đạn chết chóc để rồi “Đêm đó,

tôi thấy Quốc thao thức trong căn hầm còn đầy mùi súng đạn, mùi mắm muối, cá

khô và cả mùi gạo mốc lẫn mồ hôi lính tráng, viết những dòng thơ về sự hồi sinh

của đất nước Campuchia từ những tiếng hát cỏ non suối nguồn. Có những thứ

53

chiến tranh không thể vùi lấp được” [96, tr.23].

Ở mỗi khoảnh khắc của cuộc sống, người lính đều có một cách nhìn, một

cách cảm riêng về những thứ tồn tại xung quanh mình. Với người lính chiến đấu ở

chiến trường K, tâm hồn lãng mạn khiến họ nâng niu, trân trọng mọi thứ xung

quanh mình. Đó có thể là một câu chuyện rất bình dị như câu chuyện về Thuận:

“Một đêm trời mưa dầm dề. Tôi và Thuận, hai võng mắc nối tiếp. Tôi giả vờ ngủ.

Dưới chân chúng tôi cơ man là lân tinh, lấp lánh như dải Ngân Hà. Trời mưa.

Nước từ đỉnh rừng cứ lặng lẽ rơi xuống qua những tầng lá cao thấp, tạo thành bản

nhạc rả rích, thầm thì trong không gian sẫm tối. Hình như đêm càng tối, ánh lân

tinh càng sáng. Thuận mới lên, còn mê mẩn ánh lân tinh. Tôi thấy Thuận lọ mọ đi

nhặt từng chiếc lá đầy ánh sáng. Hắn soi lên xem có gì bí ẩn trong đó. Thứ ánh

sáng ma mị, diệu kì. Nếu đây không phải là Anlong Veng, thì có lẽ chúng tôi nghĩ

mình đang ở một xứ sở thần tiên nào đó. Tôi thấy Thuận ép từng chiếc lá vào trong

cuốn sổ”. Sự “mê mẩn”, hành động “nhặt từng chiếc lá” và “ép từng chiếc lá vào

trong cuốn sổ” đủ để người đọc trân trọng những người lính hàng ngày phải đối

diện với bom đạn của kẻ thù. Họ xúc động trước những thanh âm bình dị của cuộc

sống, họ thổn thức với những vần thơ trên cánh võng, nao lòng với hình ảnh thiếu

nữ ngồi dệt vải, bà mẹ ngồi chải tóc bắt chấy cho con bên cầu thang nhà sàn, nghẹn

ngào xúc động khi những thanh âm tiếng Việt thân thuộc vang lên như tiếng gọi của

quê hương giữa bạt ngàn núi rừng, nơi heo hút xứ người…Dường như sự khốc liệt

của chiến trường không hề làm vơi cạn đi tâm hồn bay bổng, mộng mơ của họ.

Ngược lại, sự lãng mạn khiến những người lính quên đi những khắc nghiệt của cuộc

chiến, khiến cho vẻ đẹp của họ càng lấp lánh hơn trên những trang viết hôm nay.

Những người lính trẻ ấy không chỉ lãng mạn, họ còn mang trong mình sự trẻ

trung, hóm hỉnh đậm chất lính. Họ có thể xông pha nơi lửa đạn, họ có thể là những

người rất nghiêm nghị khi thực hiện quân lệnh, nhưng trở về cuộc sống bình dị, họ

vui vẻ, họ tếu táo, họ nhiệt thành. Họ hiện lên trong lời kể của Đoàn Tuấn: “Lại nhớ

những ngày huấn luyện, lính tráng D1, E582 ngồi trong thung lũng Hòa Bình, bập

bùng guitar, đồng ca nhạc chế: „Ta là con của bố ta mẹ ta/ Nhớ nhà là ta tút ta

bùng/ Ta đi đường Nho Quan ta vòng Chi Nê/ Ta về trong phố đang mong chờ

54

ta…‟. Hát tếu táo cho bõ cơn nhớ nhà thôi. Dù biết chiến tranh đã kề vai sát cánh

bên mình. Để ngày mai, tất cả ra biên giới, vào chiến trường” [96, tr.262]. Những

giây phút hát vang nhạc chế đủ để trên môi họ nở nụ cười tươi tắn, quên đi những

cực nhọc của cuộc sống nơi đất khách. Những nụ cười trên môi, niềm vui lấp lánh

trên gương mặt khiến cho cuộc sống của họ chan chứa tin yêu hơn. Cứ nghe họ kể

về câu chuyện của đời mình, câu chuyện của những người đồng chí, đồng đội mình

mới thấy họ lạc quan đến thế. Trong ngôn ngữ giọng điệu của họ, câu chuyện luôn

phơi phới, luôn hóm hỉnh như câu chuyện tình yêu của Thuận qua lời kể tếu táo của

lính tráng: “Tôi bảo Thuận: „Hôm nào mình khắc bài thơ mới tặng Thuận‟. „Thơ

như nào?‟. Nó thế này: Tình yêu không chân dung/ Người yêu không bóng dáng/

Thời gian không giới hạn/ Ngày mai ăn cơm với gì?. Hai thằng lại cười ngất” [96,

tr.273]. Đó là cái cười ngất vô tư, phơi phới của tuổi trẻ. Cái cười ngất che đi những

nỗi niềm sâu thẳm trong trái tim những người lính trẻ. Chỉ cần ngồi bên nhau, họ

luôn biết trao nhau những tiếng cười như thế. Ngay cả trong cách viết thư của lính,

người đọc cũng bắt gặp những hóm hỉnh tươi vui của những chàng lính trẻ phớt đời:

“Một hôm, Hà „Giăng - van - giăng‟ bắt tôi nghe thư. Sở d ĩHà có biệt danh này vì

miệng hắn vẩu, toàn răng là răng. Hắn viết khá nhiều bản nháp. Lúc thì „Đất khách

quê người…ngày...tháng…năm, anh cô đơn nhớ em cô đơn‟; lúc thì „Rừng xanh núi

đỏ ngày…Tiên sư mấy con khỉ quấy phá anh viết thư cho em…‟; lúc lại lãng mạn

„Biên giới Miên - Thái mùa mưa…, anh đang ngồi trong hầm sũng nước, hết quần

áo mặc, nhớ em…‟; lúc lại đơn giản „Campuchia ngày…, anh vừa bị thương vì

nghịch dại đụng mìn, may mà nhẹ‟; lúc lại cụ thể „Anlong Veng xứ sở của ruồi…,

nếu em đến đây cùng anh thì không chết vì đạn mà chắc chết vì ruồi mất‟; v.v…Thư

của hắn hay trách cứ người yêu tại sao không viết trả lời. Cứ được một đoạn mùi

mẫn, lại hạ một câu: „Em có còn yêu anh nữa không thì bảo? Liệu cái thần hồn!

Cho phép em nghĩ lại…‟. Nghe mà buồn cười đến đau cả bụng” [96, tr.305]. Bao

nhiêu những câu chuyện được kể ra, bao nhiêu tiếng cười hiện trên trang viết cũng

là bấy nhiêu cái mệt mỏi bị xua tan. Họ bước vào chiến tranh, họ gánh chịu những

tổn thất nặng nề của chiến tranh và ngày mai không biết số phận họ sẽ ra sao trên

mảnh đất không phải quê hương mình. Thế nhưng, điều đáng quý là họ đã sống hết

55

mình, đã mang cái phần tươi trẻ của cuộc đời mình để xóa đi những nhọc nhằn, vất

vả. Sự trẻ trung, hóm hỉnh khiến những người lính gần nhau hơn, và hình tượng

người lính chân thực hơn, đời hơn trên trang viết của hai nhà văn.

Đặc biệt, khi viết về người lính, Đoàn Tuấn hay Sương Nguyệt Minh không

chỉ đề cập đến phẩm chất anh hùng của họ mà còn dành một vị trí quan trọng để bộc

lộ đời sống tình cảm của những người lính chiến đấu trên quê hương Chùa Tháp.

Trong hoàn cảnh đầy thử thách, gian nan, nguy hiểm của cuộc chiến, tình cảm của

người lính càng được bộc lộ đẹp đẽ vô cùng. Đó là tình đồng chí, đồng đội gắn bó

keo sơn, chia ngọt sẻ bùi, hỗ trợ, nương tựa, hi sinh vì nhau trong hoàn cảnh khó

khăn hoạn nạn. Có thể nói, điều quý giá nhất của cuộc đời quân ngũ đó là tình đồng

đội. Bên đồng đội, họ tồn tại, sát cánh cùng nhau trên chiến trường, nhường cho

nhau từng ngụm nước hiếm hoi, từng miếng ăn ít ỏi, chia sẻ với nhau những ấm

lạnh của cuộc đời riêng, những kỉ niệm khó quên nơi quê nhà, những tình cảm thầm

kín, thành thật, cháy bỏng của một thời trai trẻ. “Chúng tôi cùng ăn chung bữa cơm,

cùng hút chung điếu thuốc, cùng thay nhau thức gác canh khuya, cùng ngủ chung

một căn hầm, cùng chịu chung một trận phục, cùng chịu chung một cơn khát, một

ngày đói, cùng hưởng chung một bữa no, cùng có chung một người bạn sống, một

đồng đội chết…” [96, tr.203]. Họ đã đi cùng nhau trên một con đường, nương tựa

nhau trong những tháng ngày cơ cực nơi đất người, chính bởi thế mà nghĩa tình của

họ càng trở nên sâu sắc.

Họ gắn bó, họ sát cánh với nhau khi còn sống, và xúc động hơn khi những

người đồng đội qua đời, họ vẫn trọn nghĩa vẹn tình, vẫn gọi nhau là “đồng đội”

chân thành và thiêng liêng: “Bây giờ, đồng đội mình chết lại thấy nghĩa trang thật

gần gũi, thân thương. Đi qua mộ Hoàng An hay mộ Trung, tôi rẽ vào. Khi dọn cỏ,

bẻ cây, khi đắp lại chỗ bị sụt. Bạn mình nằm đó, chắc biết mình đến, thế nào cũng

ngồi dậy, nhìn mình. Hoặc đi lại trò chuyện. Dù không nhìn thấy nhau, những vẫn

cảm nhận sâu sắc về sự hiện diện của nhau. Tôi tin rằng, mình đối xử chân thành

với các liệt sỹ, họ cũng sẽ biết. Môi trường quân đội ngày càng thấm sâu vào tôi.

Trước đây, chỉ có những đồng đội đang sống, cùng sát cánh chiến đấu, giờ, giữa

chúng tôi có thêm, có chung những đồng đội đã mất. Họ là những sợi dây vô hình,

56

nối chúng tôi lại bên chặt hơn” [96, tr.252]. Có lẽ chưa bao giờ và chưa ở đâu tình

cảm đồng chí, đồng đội lại đẹp như trong chiến tranh. Những người lính tình

nguyện Việt Nam nằm xuống nơi đất khách quê người, thế nhưng họ không hề cô

đơn. Câu chuyện của Đoàn Tuấn về sự hi sinh của thủ trưởng Võ Sỹ Lực là câu

chuyện như thế. Khi cấp trên của mình nằm xuống, ở giữa rừng núi hoang vu, họ cố

gắng tìm cho thủ trưởng của mình những bông hoa rừng: “Bọn tôi đi khắp rừng, tìm

những chùm hoa dại, đặt lên thi hài ông. Mùa khô, hoa thật hiếm. Nhưng chúng tôi

cũng tìm được khá nhiều hoa. Ít ra, có ít hoa rừng phủ, thủ trưởng nằm cũng đỡ trơ

trọi. Bọn tôi gắng kiếm nén nhang, nhưng không đâu có” [96, tr.294]. Hành động

giản dị ấy xuất phát từ trái tim, trái tim của những người đồng đội, đồng chí. Nhưng

có lẽ, xúc động nhất chính là giây phút kiểm nghiệm di vật tử sĩ. Đó chính là giây

phút người lính nhận ra tình cảm sâu nặng đối với đồng đội - cấp trên của mình.

Hình ảnh “chiếc ba lô của ông đã cũ sờn. Bao nắng mưa, bụi bậm, khói súng đã

thấm vào đây… Bộ quần áo cũ, đồ lót cũng cũ. Bàn chải, thuốc đánh răng, khăn

mặt, đôi tất,… Quyển sổ tay, chiếc bút máy, địa bàn, mấy lá thư gia đình,… Một

khẩu súng K59. Gia tài người lính có gì đáng giá đâu! Tờ biên bản nhẹ tênh như ba

lô tử sỹ. Nhưng sao tình cảm của chúng tôi với ông Lực sâu nặng như vậy?”[96,

tr.294]. Câu hỏi chất chứa bao nỗi niềm, bao nghĩa tình sâu nặng. Tình cảm ấy

không phải ngẫu nhiên mà có, nó đã được hình thành, nó được tôi luyện từ chính

chiến trường khốc liệt. Người chỉ huy ấy không chỉ là cấp trên, mà còn là người

anh, người cha để mỗi người lính khi ở bên cạnh ông đều “cảm thấy được cái không

khí ấm cúng của một gia đình”. Thế nên, họ gắn bó với nhau sâu nặng, họ dành cho

nhau những tình cảm chân thành nhất. Trong ngày đưa tiễn bọ Lực “Cả tiểu đoàn ra

tiễn ông. Chưa bao giờ quân số tiểu đoàn lại tập trung tại bãi tráng đông thế. Ông

ra đi từ tiểu đoàn 8. Khi chết, ông về tiểu đoàn 8 để chết. Chúng tôi đã đi cùng ông

suốt mấy ngàn cây số. Từ những ngày chốt giữ biên giới Tây Nam đến những ngày

vào tận biên giới Campuchia - Thái Lan. Cùng ông đi qua bao nhiêu trận đánh.

Cùng ông đi qua bao nhiêu dòng sông, ngọn núi, qua bao nhiêu phum sóc, cánh

rừng. Cùng ông đi qua bao nhiêu trận khát cực hình, qua bao nhiêu mùa mưa

khủng khiếp…” [96, tr.295]. Những câu văn ấy đã chạm đến trái tim người đọc bởi

57

tình nghĩa sâu nặng của những người lính chiến. Họ đã “cùng nhau” không phải

ngày một ngày hai, những ngày tháng gian nan, những chặng hành quân vất vả đã

khiến cho tình đồng đội, đồng chí trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết.

Trong cuộc chiến sinh tử ấy, ai cũng muốn được trở về, ai cũng muốn được

sống sót để gặp lại người thân, gia đình và quê hương của mình. Thế nhưng, Đoàn

Tuấn lại khiến người đọc bất ngờ bởi những người lính của chiến trường K năm ấy.

Họ không chỉ chia sẻ với nhau những nỗi niềm trong cuộc đời, họ không chỉ chia

nhau những khó khăn, vất vả, gian nan trong cuộc chiến mà họ còn “chia nhau cái

chết” và “nhường nhau sự sống”. Đó là câu chuyện của Tuấn, Vinh “gạo” và

“Thuận” khi “tôi”- Đoàn Tuấn được phân công dẫn đội hình tiểu đoàn từ Anlong

Veng lên Cam - tuất gùi gạo, phải đi qua con đường dài 14 km đầy mìn, một con

đường “đã thấm không biết bao nhiêu máu thịt đồng đội tôi”. Đoàn Tuấn được phân

công là người đi đầu, cũng đồng nghĩa là người phải đối diện với nhiều nguy hiểm

nhất. Trong tình huống đó, người bạn của Đoàn Tuấn là Thuận “bồn chồn, lo lắng.

Nó dặn tôi đủ điều”. Đó là cái lo lắng của một người đồng đội. Nhưng, không chỉ

dừng lại ở sự lo lắng, Vinh “gạo” còn muốn thay bạn mình gánh phần nguy hiểm.

Ngoài cái “lo sốt vó”, Vinh “gạo” liên tục thuyết phục bạn để được đi thay: “Để mai

tao đi thay mày”, đến tận hơn 12 giờ đêm vẫn mò sang chỗ bạn để năn nỉ: “Để mai

tao đi đầu cho”. Vinh “gạo” đưa ra hàng loạt lí do để thuyết phục bạn đồng ý: “Tao

là lính trinh sát, tao biết cách gỡ mìn”, nào là “Mắt tao tinh hơn mắt mày”, rồi “Nói

thật, để mai tao đi thay mày. Tao chết đỡ phí hơn. Tao chưa có ai. Mày còn có

người yêu ở nhà chờ đợi”. Còn về phần mình, nhất quyết Tuấn không để người bạn

mình đi thay, bởi người lính ấy thấu hiểu và mong muốn những điều tốt đẹp đến với

người bạn của mình. Đó không phải là sự coi thường cái chết, rẻ rúng tính mạng của

mình, mà đó là sự sẻ chia, sẵn sàng hi sinh vì nhau, là tình đồng đội thiêng liêng và

cao đẹp. Vậy đó, những người lính có thể quên mình vì tình đồng đội. Những người

đồng chí ấy, họ đều biết rằng mình sẽ phải lăn xả vào chỗ hiểm nguy, thế nhưng ai

cũng muốn được san sẻ, được gánh vác, được nhường những điều tốt đẹp nhất cho

đồng đội của mình, thậm chí họ sẵn sàng nhường cái điều quý giá nhất của mỗi con

người - sự sống. Đó chính là sự thiêng liêng của tình bạn, tình đồng chí. Nó giúp họ

đủ sức mạnh để đi qua bom đạn của kẻ thù, nó là điểm tựa tinh thần vững chắc để

58

họ có thể chiến đấu hết mình trên chiến trường khốc liệt.

Họ không bỏ đồng đội của mình khi còn sống, họ cũng không bỏ rơi đồng

đội mình khi đã hi sinh. Ám ảnh nhất là việc khiêng tử sĩ, song đó cũng là hành

động thật cao đẹp. Họ vượt qua rừng núi, đi qua bom đạn, họ nhặt nhạnh từng mảnh

vụn thân xác của đồng đội, đưa đồng đội trở về đơn vị, trở về bên nhau, dùng những

nghi thức thiêng liêng nhất có thể để tiễn đưa đồng đội mình về thế giới bên kia,

trân trọng từng di vật đồng đội để lại… Bấy nhiêu vậy mà trọn nghĩa vẹn tình, bấy

nhiêu vậy mà linh hồn người ở thế giới bên kia có lẽ cũng được an ủi. Người lính

của chúng ta là thế. Hai tiếng “đồng đội” mà khắc sâu bao tình nghĩa thiêng liêng!

Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh cũng tập trung khai thác tình cảm

thiêng liêng này trong mối quan hệ của anh Du và Tùng. Về thứ bậc, Tùng là cấp

dưới nhưng bao giờ anh Du cũng thương yêu Tùng như đứa em của mình. Và Tùng

luôn được anh dìu dắt, dạy dỗ, bảo ban để trưởng thành hơn. Khi bị lạc rừng, hình

ảnh anh Du luôn chập chờn nhưng luôn ở bên cạnh Tùng trong những lúc yếu lòng

nhất, vẫn “thì thầm” kể chuyện cho Tùng, vẫn bên cạnh Tùng để cùng anh bước

tiếp. Dù anh Du hi sinh, dù những cuộc “gặp gỡ” chỉ là mộng tưởng, nhưng với

Tùng, anh Du luôn là hiện thân của những điều đẹp đẽ, đặc biệt là tình cảm đồng

chí, đồng đội. Chính vì vậy, khi chứng kiến sự cấu xé giữa cấp trên và cấp dưới

trong nội bộ kẻ thù, Tùng đã “phát hiện ra thằng lính thuộc cấp này nếu phải lựa

chọn thì sẽ bỏ chỉ huy, chứ không giống lính cựu bọn anh Du, họ biết chết vẫn mò

vào tận hàng rào cõng các đồng đội về đơn vị”. Đó là hành động chí tình của người

lính Việt, là nghĩa tình sâu nặng của những con người đã chiến đấu sát cánh cùng

nhau. Ở đâu và trong bất kì tình huống nào họ cũng yêu thương, che chở và bảo vệ

nhau. Nhớ có lần Tùng từng hỏi anh Du: “Giả sử như đánh nhau em bị lạc rừng

chẳng hạn, bị bọn tàn quân Pol Pot bắt chẳng hạn, có ai đi tìm em không, có ai đi

cứu em không?”. Câu trả lời dứt khoát, kiên quyết của vị thủ trưởng: “Tao. Đơn vị

sẽ đi tìm chứ, đến tử sĩ còn không nỡ bỏ lại nữa là người mất tích. Và anh mày đây -

Đại đội trường Trần Quang Du đấy sẽ đi cứu chú mày - Anh Du nói chắc nịch,

giọng tha thiết và đầy tin tưởng” [52, tr.552]. Câu trả lời ấy không xuất phát từ

nhiệm vụ của người chỉ huy mà xuất phát từ trái tim người lính. Đó là lí do dù sau

59

này lạc nơi rừng hoang, dù đồng đội chưa đến cứu, nhưng “Tùng biết và hiểu con

người như anh Du sẽ chẳng bao giờ bỏ đồng đội, càng không bao giờ bỏ đàn em

như Tùng” [52, tr.552]”. Quả thực, chiến tranh không chỉ là nơi tôi luyện ý chí cho

con người mà đó còn là nơi tình người tỏa sáng. Trong đó, đồng chí đồng đội là một

bản tình ca đẹp đẽ nhất, thiêng liêng nhất!

Chiến đấu ở “đất bên ngoài Tổ quốc”, những người lính Việt luôn đau đáu

hướng về quê hương, gia đình. Giữa bom đạn kẻ thù, sống và chiến đấu trên đất

người nhưng bao giờ hình ảnh quê hương cũng vô cùng ấm áp đối với họ. Họ trân

trọng từng đặc trưng, từng nét độc đáo trong văn hóa quê hương mình. Họ kể cho

đồng chí, đồng đội mình nghe một cách hào hứng, và tất nhiên trong cách kể ấy là

niềm tự hào, là tình yêu đối với quê hương bản xứ của họ. Tình yêu quê hương, tình

cảm gia đình là vầng sáng lung linh trong tâm hồn người lính. Giữa bom đạn, giữa

chết chóc, gia đình là nguồn động viên tinh thần, là hậu phương vững chắc cho mỗi

người lính. Trên con đường hành quân, họ vẫn không nguôi nhớ về quê hương, gia

đình, về những người vợ, người mẹ,… nơi hậu phương. Có thể đó là những phút

mềm lòng, nhưng đó cũng chính là điểm tựa vững chắc tiếp thêm sức mạnh để họ

vững tâm chiến đấu với kẻ thù. Khai thác chiều sâu tâm hồn của những người lính,

Đoàn Tuấn không ít lần khiến người đọc xúc động khi nghe câu chuyện về những

người đồng đội của ông. Đó là hình ảnh của anh Chương, anh Nghị “lúc ngồi một

mình gập quần áo hay chiều đi trên đồi cao, mặt trầm ngâm cất tiếng hát xót xa:

Nghệ Tĩnh mình ơi năm nay lại mất mùa/ Bạn về quê bạn, đèo mấy cân ngô”, hay

tiếng hát bâng khuâng của ông Vẳng: “Em hỏi anh có con đường nào là đường đẹp

nhất/ Ớ, anh nói rằng chỉ có con đường chính sách nay mai…” [96, tr.256]. Đằng sau

tiếng hát ấy là giấc mơ ấp ủ của người lính già được trở về với quê hương, gia đình.

Nhưng có lẽ, xúc động nhất là khi chứng kiến người lính đọc thư gia đình.

Bức thư đặc biệt nhất chính là bức thư của anh Nghị, bức thư không chỉ viết bằng

chữ:“Này, ông Tuấn biết không? Đây là bàn tay của thằng con mình. Còn đây là

bàn chân nó. Xinh không? Dễ thương không?. „Ủa, làm sao lại vẽ vào được vào

đây?‟. „Vợ mình, khi viết thư, đặt bàn tay thằng con trên giấy rồi đưa nét bút theo

đường những ngón tay. Bàn chân cũng thế. Ông tướng này nghịch lắm! Chắc mẹ nó

60

phải giữ chặt khi cho nó dẫm lên trang giấy. Lại còn tô lại nữa chứ! Đúng là đàn

bà! Thật kì công” [96, tr.302]. Cách mà anh kể, cách mà anh khoe với đồng đội về

bức thư đặc biệt của mình, về ngón tay ngón chân được phác họa trên giấy một cách

đơn sơ khiến người đọc thực sự xúc động. Đằng sau câu chuyện ấy là niềm hạnh

phúc, là nỗi nhớ nhung, là tình cảm sâu nặng với gia đình của người lính. Chân thật,

giản dị mà những câu chuyện như thế đủ sức lay động trái tim người đọc hôm nay.

Trên chiến trường, tất cả những thương nhớ được người lính gói ghém vào

những lá thư tay. Họ viết để thỏa nỗi nhớ mong, để vơi đi nỗi nhớ nhà da diết. Và

trường hợp của Nhân, dù biết rằng người con gái ấy chẳng nhận được thư nhưng

Nhân “vẫn viết cho đẹp tình”. Những lá thư ấy là tiếng lòng, là trái tim vẹn nguyên,

là tiếng thì thầm tình yêu ở người lính và “Tiếng thì thầm cầu chuyện tình yêu xuyên

qua những khu rừng, xuyên qua những dãy núi, xuyên qua trăm ngàn họng súng

quân thù, xuyên qua hàng ngàn cây số cánh đồng, sông suối,… về đậu trên mái tóc

người thương, hóa thành hơi thở, thấm vào từng giấc mơ. “Em ơi! Đợi anh về/ Đợi

anh hoài em nhé/ Lời cầu nguyện thầm thì/ Trên môi người ra trận…” [96, tr.302].

Nhìn cách mà họ trân trọng từng bức thư của gia đình, chúng ta không khỏi bùi ngùi

xúc động: “Tôi nhớ anh Hà Huy Lan. Lá thư nào của vợ, anh cũng chép lại vào

cuốn sổ tay. Mỗi lần chép lại là một lần uống từng chữ vào trái tim mình. Mỗi lần

chép như một lần cùng vợ âu yếm trong mơ. Chép xong rồi lại đọc. Không những

đọc một lần mà còn đọc nhiều lần nữa. Ơi cô gái thành Vinh xinh đẹp! Ở nơi xa xôi,

cô có biết, cô được đại đội trưởng của chúng tôi yêu cô như thế nào không? Cầu

mong cô cũng yêu anh Lan của chúng tôi như thế. Tôi cũng biết anh Trần Thanh

Chương, chính trị viên C7, cũng hay chép lại thư nhà trong sổ tay. Và trong mỗi ba

lô cáu bẩn của người lính đều có một góc sạch sẽ nhất, ấm áp nhất, trân trọng nhất

- đó là nơi để những lá thư. Bọc trong mấy lớp ni lông. Làm gối mềm khi ngủ. Là

ngôi nhà trên lưng lúc hành quân. Là kỉ vật vô giá cho hôm nay và mai sau” [96, tr.

303]. Tại sao họ lại chép lại từng bức thư? Có phải nơi chiến trường họ không có

việc gì để làm? Hay họ sợ những bức thư đó thất lạc? Đều không phải. Cách mà họ

nâng niu từng bức thư, cách họ nắn nót chép lại vào cuốn sổ quý giá của mình, cách

họ dành cho những bức thư ấy vị trí ấm áp nhất, cách họ gìn giữ bức thư ấy đủ cho

61

chúng ta thấy tình yêu của họ, sự trân trọng của họ đối vơi gia đình thân yêu. Với họ

- những người lính chiến đấu ở nơi xa xôi hẻo lánh, nơi không phải quê hương mình

thì những lá thư là tài sản vô cùng quý giá với họ, để họ biết được bên họ vẫn luôn

có gia đình, có người thân chờ đợi họ trở về. Và họ - những người lính chiến đấu vì

nghĩa vụ quốc tế, nhưng trong sâu thẳm những người lính ấy luôn khao khát được

trở về bên gia đình, vợ con, bên những người mà họ thương yêu. Ở họ là trái tim ấm

nồng, là tình yêu sâu nặng. Đó chính là vẻ đẹp nhân văn ở hình tượng người lính

Việt Nam. Những tình cảm nhớ thương, những mong ngóng đợi chờ, những nỗi

niềm trăn trở hiện lên trên trang viết khiến người lính hôm nay gần hơn với cuộc

đời, và vẻ đẹp của mỗi người lính hiện lên chân thực hơn.

Có thể thấy, đời sống tình cảm của người lính tình nguyện Việt Nam vô cùng

phong phú bởi lẽ họ không chỉ gắn bó với đồng chí, đồng đội của mình, họ không

chỉ nặng lòng với quê hương, gia đình của mình mà hơn nữa, với những người bên

kia chiến tuyến họ cũng không ngại ngần cưu mang, cứu giúp. Đó là câu chuyện của

Tùng trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh: trong những ngày bị lạc rừng,

gánh chịu đủ mùi khổ ải, đau đớn nhưng Tùng vẫn động lòng trắc ẩn với cô gái phía

bên kia chiến tuyến. Bị kẻ thù hành hạ, nhưng trong Tùng không hẳn chỉ có sự căm

hờn và phẫn nộ, bởi vẫn có một số phận nữa chịu đau đớn như anh. Tùng thương Sa

Ly bằng tình thương của đồng loại, bằng trái tim của một người lính giàu lòng trắc

ẩn. Còn với những người lính trong Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, không phải

lúc nào họ cũng có cái nhìn tiêu cực với kẻ thù. Thậm chí, trong trường hợp đặc biệt

họ đã tâm niệm: “Tôi thấy tụi nó cũng như em gái mình ở nhà” [96, tr.39]. Điều đó

thật đáng quý! Người lính của chúng ta dù ở trường hợp nào vẫn luôn khoan dung,

nhân đạo. Chiến tranh không làm họ chai sạn, vô cảm, ngược lại trong chiến tranh,

người lính của chúng ta luôn lấp lánh vẻ đẹp của tình người, tình đời.

Không chỉ tiếp cận người lính ở góc độ tình cảm, Sương Nguyệt Minh và

Đoàn Tuấn còn làm nổi bật vẻ đẹp tri thức của người lính tình nguyện Việt Nam.

Phần lớn người lính trong Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy là học sinh, sinh viên

vừa rời ghế nhà trường, được học hành, có tri thức, có năng lực và am hiểu văn hóa.

Nhiều lần, Đoàn Tuấn dành cảm hứng ngợi ca cho những người lính của mình. Họ

62

không chỉ chiến đấu ngoan cường, họ không chỉ trẻ trung, lãng mạn hay giàu tình

cảm mà hơn nữa: “Mỗi người lính quả là một thế giới diệu kỳ, một kho tàng tri thức

dân gian. Nếu coi đó là một quyển sách hay, biết cách đọc, cách kể, chúng ta sẽ có

biết bao nhiêu câu chuyện tuyệt vời ” [96, tr.284]. Quả thực, nguồn kiến thức từ họ

là vô tận. Từ những mẹo dân gian như nhét hạt đỗ vào tai lợn, dùng phân khô để

chữa bệnh cho đến những vần thơ trên cánh võng, những hiểu biết về bom mìn, về

văn hóa …đều khẳng định vẻ đẹp ở những người lính Việt. Chính vì thế, mà khi

được sống và chiến đấu cùng đồng đội, Đoàn Tuấn đã có những chiêm nghiệm sâu

sắc: “Giữa rừng núi xa lạ, đất khách quê người, họ vẫn tìm được những gì thân

thuộc, cho mình và cho đồng đội. Càng thấm thía, càng hiểu giá trị của quân đội,

của mỗi người lính. Hãy nhìn thật sâu vào mỗi con người, hãy nhìn thật gần vào

mỗi cuộc đời, bằng trái tim trung thực, ta sẽ thấy, mỗi con người bình dị đó, đều

chứa đựng rất nhiều điều kì diệu và bí ẩn để mình học hỏi” [96, tr.246].

Còn Tùng - nhân vật trung tâm trong tác phẩm Miền hoang xuất thân là một

chàng trai trí thức của Hà thành. Từ trường học bước vào quân ngũ, Tùng đã mang

những tri thức mình học được vào cuộc chiến tranh khốc liệt với kẻ thù, và trong

những ngày tháng mông muội nơi rừng hoang, chính vốn tri thức ấy đã giúp Tùng

vượt qua những trớ trêu đổ xuống đầu anh. Tùng biết nhiều thứ tiếng, dịch tiếng

Anh cho tên Lục Thum biết tờ báo viết gì, rồi tiếng Khơme của anh cũng tàm tạm,

vừa đủ về giao tiếp với bọn Pol Pot…. Các lĩnh vực khác như âm nhạc, văn học,

ngoại ngữ Tùng đều am hiểu và có thể sử dụng tốt trong trường hợp cụ thể. Mặt

khác, Tùng còn được trang bị kiến thức y học với những kĩ thuật cấp cứu cơ bản

như trong trường hợp cứu Sa Ly: “Đặt cô gái câm nằm ngửa ngay ngắn, Tùng vội

vã dùng hai ngón tay cái day day, bấm mạnh vào huyệt nhân trung và huyệt ấn

đường. Khoảng một phút sau, lật sấp cô gái câm, anh dùng ngón cái, ngón trỏ,

ngón giữa bấm mạnh vào huyệt phong trì ở giữa chỗ lõm thẳng phía dưới ụ chẩm

và xương chũm…rồi bấm tiếp huyệt thiên tông. Anh bấm đến huyệt kiên tỉnh, chưa

kịp bấm huyệt hợp cốc, thái xung, dũng tuyền, lao cung thì cô gái câm đã tỉnh” [52,

tr.310]. Chiến đấu trên chiến trường Campuchia, Tùng am hiểu sâu sắc về nền văn

minh đền tháp Angkor. Không ít lần Tùng tỏ ra ngưỡng mộ, say mê với nền văn

63

minh Chùa Tháp đẹp đẽ và diệu kì. Nếu không có sự thông hiểu về nền văn hóa

nước bạn, không có tri thức thì có lẽ Tùng đã không say sưa như thế. Vẻ đẹp tri

thức toát ra từ hình tượng nhân vật tạo nên sự đặc biệt trong hình tượng người lính

Việt Nam.

Với Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn, viết về người lính cũng là một cách

để “trả nợ” và tri ân sự hi sinh cao cả của đồng đội. Viết để cho thế hệ sau có thể

hiểu và nhớ mãi về một thế hệ cha anh đã dũng cảm quên mình, viết để hình ảnh

những người lính sẽ không bao giờ mai một, phai nhòa theo thời gian. Chính vì thế,

trong Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy, người lính đã được soi chiếu ở nhiều góc

độ khác nhau, nhưng họ luôn bộc lộ được vẻ đẹp phẩm cách và tâm hồn của mình.

2.2.1.2. Những góc khuất tâm hồn người lính

Về văn học chiến tranh, nhà phê bình Phạm Xuân Thạch đã nhận định: “Văn

học chiến tranh bước sang một chặng đường mới. Chúng ta đã tái hiện những con

người, khoảnh khắc của cuộc chiến đó rất con người. Có cái xấu, có cái tốt, có con

người vĩ đại nhưng cũng có con người tầm thường, hèn nhát, đúng như chúng ta

đang sống” [41]. Văn học mang tính nhân bản hơn khi quan tâm đến những phận

người trong cuộc chiến khốc liệt. Nhà văn đã đi sâu vào tâm tư, tình cảm, niềm vui,

nỗi đau của nhân vật để tái hiện lại những năm tháng chiến tranh dữ dội trên chiến

trường K. Có thể nói, tác phẩm không dựng lại chiến tranh bằng máu, bằng chết

chóc mà bằng nước mắt, bằng đau thương, bằng sự thật về con người. Và Sương

Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn đã mang tất cả những nỗi niềm ấy vào trang viết của

mình. Người lính hiện lên không chỉ có sự dũng cảm, không chỉ có lí tưởng cao đẹp,

không chỉ có nghị lực sống phi thường, họ còn có những giây phút yếu lòng, những

khoảnh khắc bản năng nguyên sơ trỗi dậy, thậm chí cả những thói xấu như ích kỉ,

nóng nảy, thù hận… Nói như Đoàn Tuấn “Ở đây có những người đẹp nhất, dũng

cảm nhất, cao cả nhất, song cũng có những người rất tệ. Tất cả tồn tại bên nhau,

cùng nương tựa vào nhau” [96, tr.45].

Bước chân vào cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, cầm súng chiến đấu để

bảo vệ biên giới Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng, khi xông pha

chiến trận họ là những người anh hùng, nhưng đằng sau họ vẫn là những nỗi niềm

64

sâu lắng, là gia đình, là quê hương, là những dở dang... Đó là hình ảnh của những

con người “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm, nắng lá rơi đầy”, vẫn

còn những day dứt, vẫn còn những trăn trở… trong sâu thẳm tâm hồn của họ. Đó

không phải là sự thoái lui, đó không phải là cái “mộng rớt” tiểu tư sản. Họ cũng là

những con người bình thường, họ cũng có gia đình vợ con nhưng họ phải “nén

lòng” để lại phía sau để lên đường chiến đấu. Đó là câu chuyện của anh Tại qua lời

kể của Hoàng: “Con ông Tại đi học về. Qua cầu, trượt chân. Bị lũ cuốn. Mất xác.

Ông ấy đóng quan tài ở đây chôn anh em, đồng đội. Nhưng ở quê, con ông ấy vẫn

chìm đâu đó trong bùn. Không có quan tài mà chôn” [96, tr.246]. Câu chuyện về

người lính ấy khiến người đọc không khỏi xót xa.

Đó cũng có thể là câu chuyện của anh Lê Quỳnh Lang - trung đội trưởng

thông tin. Anh được đơn vị cho về phép, nhưng sau đó không sang lại nữa vì

“Nghèo khổ. Khó khăn. Đói kém. Ai có thể vác ba lô trở lại chiến trường khi bố

nằm chờ chết? Khi mẹ già hàng ngày vào núi, đội từng bó củi trên đầu, còng lưng

cõng về? Khi những đứa em nheo nhóc, bỏ học, làm thuê, quắt queo bệnh tật? Và

mình đi thì không biết sống chết thế nào?” [96, tr.259]. Làm sao người lính có thể

yên tâm khi ra chiến trận. Họ cũng có cuộc đời riêng, họ còn có gia đình ở phía sau.

Đọc thư của anh Lang, mỗi người đọc không khỏi xót xa: “Mình đã cống hiến cho

quân đội 5 năm. Như thế tạm đủ. Giờ mình phải có nghĩa vụ của người con đối với

mẹ cha. Mình phải hi sinh danh dự để cứu gia đình. Mình biết, đơn vị sẽ kỷ luật

mình. Đồng đội sẽ nghĩ rất xấu về mình. Nhưng mình không còn con đường nào

khác. Tái bút: Nếu có thể, Tuấn xin giùm mình tấm thẻ Đảng viên dự bị. Để minh

chứng cho một thời tuổi trẻ…” [96, tr.259]. Những người lính ra trận nhưng trong

họ luôn là khao khát được quay trở về. Lúc họ cầm súng ra trận là vì nghĩa vụ quốc

tế, cũng là vì trách nhiệm đối với Tổ quốc, nhưng họ luôn đau đáu hướng về gia

đình, về quê hương. Như trường hợp của T, quê Hà Bắc, nhập ngũ trước 75, đã nổi

loạn. Nhưng đằng sau câu chuyện nổi loạn của T, nguyên nhân cũng khiến người ta

đau lòng: “T thường trăn trở về gia đình. Hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Mẹ mất, em

gái đau ốm, bệnh tật, không có tiền cứu chữa. Xin về phép, không được giải quyết,

T nảy sinh tiêu cực” [96, tr.254]. Chiến đấu ở “đất bên ngoài Tổ quốc”, họ không

65

tránh khỏi những cô đơn, những nhớ nhung, những khao khát được trở về đoàn tụ,

thậm chí có thể trở thành những sai lầm. Tuy nhiên, xét cho cùng, đó cũng chính là

nỗi lòng, là những đau đáu nhớ thương của những người con chiến đấu xa nhà,

chiến đấu mà không có nhân dân mình ở phía sau, ở bên cạnh. Đúng là, sau mỗi

gương mặt là một cuộc đời. Người lính trong tác phẩm của Đoàn Tuấn, không chỉ

mang dáng vóc của những người anh hùng: “Chúng tôi nhập vào những đoàn quân

thẳng tắp. Súng trên vai. Ba lô sau lưng. Lá ngụy trang rung rinh. Mũ cối sao vàng

trên đầu. Vừa bước nhịp nhàng vừa cất cao giọng hát:

Vừng đông đã hừng sáng

Núi non xanh ngàn trùng xa

Tổ quốc bao la hiền hòa

Tươi thắm bóng cờ

Vờn bay trên cao

Muôn trái tim bày hòa nhịp cùng lời ca trong sóng lúa

Lấp lánh sao bay trên quân kỳ… [96, tr.255]

mà phía sau họ còn là những trăn trở, những nỗi niềm, là quê hương, là gia đình, là

giấc mơ còn gác lại. Nói như Đoàn Tuấn: “Nhưng ai biết, sau mỗi gương mặt ấy,

sau mỗi giọng ca ấy là bao nhiêu cuộc đời. Dũng, Khánh, Hợp...bỏ dở dang trường

Đại học Kinh tế. “Chim cu” đang học dở lớp 9. Tốt nghiệp phổ thông chắc chỉ còn

là giấc mơ. Lê Minh Quốc đang học dở lớp 11 ( hệ 12 năm của chế độ cũ). Liệu

ngày về còn khả năng học tiếp được không? Nguyễn Trần Hỉa, Dương Công Hạm,

Đoàn Văn Điệp, nếu không phải đi lính, giờ này chắc đang ngồi trên giảng đường

đại học. Rồi khi vào bộ đội, bị xếp vào thành phần “Thanh niên đường phố”,..

Chúng tôi, những thanh niên 18 tuổi ấy, đang là cả niềm hi vọng lớn lao của gia

đình” [96, tr.255].

Trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, nhân vật Tùng cũng đau đáu

hướng về gia đình, về Hà Nội, về Thùy… Tùng thèm được trở về quê hương, được

về với Hà Nội, được ăn bữa cơm gia đình, được ấp ôm trong lòng mẹ, được chạy

nhảy nô đùa cùng đám bạn. Bao nhiêu kí ức ùa về trong tâm trí người lính trẻ. Bao

nhiêu kỉ niệm ngọt ngào hiện về trong những ngày tháng khổ cực, bất hạnh của

66

Tùng. Thậm chí, trong lúc kiệt quệ nhất, khi được chăm sóc bởi một người phụ nữ

khác thì Tùng vẫn thèm cảm giác trong lòng mẹ: “Mẹ nhân từ và tảo tần vòng tay

trái ôm choàng lấy vai lưng tôi. Vòng tay phải mềm mại luồn qua cổ kéo đầu tôi ép

chặt khuôn ngực đang căng đầy. Bỗng chốc, tôi thấy mình bé nhỏ và đang chui vào

nằm gọn thòn lỏn trong lòng mẹ. Cảm giác được bế ẵm, chở che, bao bọc ngập tràn

trong hạnh phúc tình mẫu tử” [52, tr.249]. Hình ảnh người mẹ trở đi trở lại như một

cách Tùng tìm sự cứu rỗi cho tâm hồn. Tuy nhiên, đối diện với hoàn cảnh một

mình, cơ cực và tuyệt vọng, Tùng đều có thể vượt qua bởi anh biết đằng sau anh có

gia đình, có quê hương, có những người đang ngóng đợi. Đường về còn gian nan,

đường về mù mịt nhưng Tùng vẫn cứ bám víu vào mọi cơ hội sống để được trở về.

Chiến đấu nơi đất bạn, nên họ phải bỏ lại người mẹ già, người vợ ngóng

trông chồng và những đứa con bơ vơ. Đằng sau họ là bao nỗi niềm, suy tư và trăn

trở. Nhà văn đã không hề giấu đi những cảm xúc ấy. Mỗi cuộc đời, mỗi số phận của

họ trong trang viết của nhà văn khiến người đọc thấm thía hơn về hiện thực chiến

tranh, trân trọng hơn, cảm phục hơn những người lính trên mặt trận Tây Nam thuở

ấy. Có thể nói, người lính hiện lên qua những trang viết của Sương Nguyệt Minh và

Đoàn Tuấn không chỉ là những người cầm súng lạnh lùng, chỉ biết đến lí tưởng,

nhiệm vụ mà họ còn có những nỗi niềm riêng, những góc khuất tâm hồn, những nhớ

thương, buồn giận…Những nỗi niềm ấy dễ bị coi là ủy mị, yếu đuối nhưng đó mới

chính thực là những con người bằng xương bằng thịt với cảm giác đời thường

không hề bị che giấu.

Mặt khác, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn còn chạm vào góc khuất nhân

tính, nơi tiếng gọi bản năng nguyên sơ luôn giày vò con người. Đó là tiếng gọi của

bản năng, dục vọng trong mỗi người lính. Thực chất, lính tráng là những cậu học trò

vừa rời ghế nhà trường khoác ba lô vào chiến trận. Ở cái tuổi hừng hực sức sống,

khao khát trải nghiệm thì cuộc sống nơi chiến trường quả thực là một thách thức

nghiệt ngã. Họ không đủ sức mạnh để vượt qua tiếng gọi của bản năng, họ bị dục

vọng trong chính mình giày vò. Trong Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, người

lính không thể giữ mình trong hoàn cảnh thiếu thốn tình cảm, bởi vậy họ đắm mình

trong những cơn say và nhục cảm khi ngửi thấy “mùi đàn bà”. Đó là lí do khiến họ

67

phải “bốc thăm” để được ở nơi những em văn công từng ngủ lại, chí chóe tranh

nhau chiếm hữu tấm ảnh cô tóc vàng làm của riêng. Những chi tiết ấy được Đoàn

Tuấn trân trọng kể lại, bởi xét cho cùng nó cũng chính là tiếng gọi bản năng nguyên

sơ nhất của con người. Họ cũng có những giây phút rất người, những cảm xúc rất

thực, những khát khao rất chân thành. Và Tùng trong Miền hoang cũng vậy, cũng

không tránh khỏi những phút yếu lòng, những khát vọng bản năng của một chàng

trai trẻ. Tùng cũng khao khát yêu thương như bất kì chàng trai trẻ nào, sự tiếp xúc

xác thịt cũng khiến anh thổn thức… Tuy nhiên, chính tiếng gọi bản năng ấy khiến

họ đời hơn, người lính được khám phá chân thực hơn, nhưng bi kịch của họ cũng

trở nên trớ trêu hơn.

Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn cũng đã nhìn thẳng vào chiều sâu nhân

tính của họ để cho người đọc thấy trong cuộc chiến khốc liệt ấy, không phải lúc nào

họ cũng là những người can trường, dũng cảm. Nơi đất khách, đối chọi không chỉ

với bom đạn, bao nhiêu những nguy hiểm rình rập và người lính đã không tránh

khỏi những lúc yếu lòng. Nỗi nhớ nhà, sự sợ hãi, thậm chí cả những hoài nghi bủa

vây lấy họ. Đó là câu chuyện của Tùng - một người lính trẻ rơi vào hoàn cảnh trớ

trêu: lạc rừng, trở thành tù binh của kẻ thù. Trong hoàn cảnh ấy, Tùng không tránh

khỏi những sợ hãi, lo lắng, những bất lực và tuyệt vọng. Những ngày đầu khi bị lạc

đường, Tùng sống giữa bọn người độc ác, lạc lõng giữa rừng Miên hoang dại, hiểm

nguy, luôn phải đối diện với nỗi sợ hãi. Nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu ập đến. Những

kỉ niệm ngọt ngào hiện hữu trong hoàn cảnh trớ trêu nhất. Rồi khi bỏ trốn khỏi kẻ

thù, một mình trơ trọi giữa rừng hoang, bị cái đói quật ngã, Tùng đã sợ: “Sợ hãi

quá! Cực thân quá. Bỗng dưng anh ôm mặt khóc tu tu. Khóc mà nước mắt không

chảy ra, anh biết tính mạng mình đã đến lúc nguy kịch. Chính lúc khóc thảm thiết

không ra nước mắt vì cơ thể mất nước ấy cũng chính là lúc lòng anh hoang vắng

nhất” [52, tr.242]. Đó là những giây phút Tùng không kìm nén được cảm xúc của

mình, là giây phút yếu đuối nhất của người lính trong hoàn cảnh khắc nghiệt.

Nhưng cũng chính ở những giây phút ấy, người đọc thấu hiểu hơn, cảm thông hơn

và trân trọng hơn những người lính tình nguyện Việt Nam.

Chiến tranh cũng là nơi người lính phải đối diện với thách thức về phẩm

68

chất, đạo đức, nhân tính. Đôi khi, họ không chiến thắng được những dục vọng bên

trong mình, không chiến thắng được những ích kỉ, thù hận, … và bởi thế, họ hiện

lên với cả những thói hư, tật xấu trong chiến đấu cũng như trong cuộc sống đời

thường. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn đã khắc họa sinh động cuộc sống

đời tư của người lính. Ông đã không hề giấu giếm cả những hiện tượng tiêu cực như

ăn trộm vặt, đào ngũ, tự thương, dục vọng… của người lính trên mặt trận, cả những

thói ích kỉ, nóng nảy, hèn nhát… cũng được thể hiện trên trang văn một cách chân

thực. Họ có thể xông pha nơi lửa đạn nhưng lại không tránh những lúc ăn trộm vặt

trong quân ngũ. Họ có thể nhường sự sống cho đồng đội, nhưng cũng có lúc ích kỉ

và nóng nảy với chính những người đồng đội của mình. Họ có thể bảo vệ che chở

cho anh em nhưng có khi lại không tiếc lời mắng chửi đồng hương, buông những

lời cay nghiệt trên nỗi đau của người khác. Những chuyện lính đào ngũ, lính tự

thương cũng được nhắc đến khiến hình tượng người lính hiện lên chân thực hơn,

toàn diện hơn. Có thể thấy, chiến tranh quả là nơi hung bạo khi tàn nhẫn triệt tiêu

mọi nguồn sống của con người, bao gồm cả cảm xúc, khát vọng. Chiến tranh không

chỉ là bom đạn, chết chóc, nghiệt ngã, tan nát mà đáng buồn hơn chiến tranh còn

hủy diệt nhân tính của con người.

Còn trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, Tùng liên tục phải đối thoại

với mình, liên tục phải đấu tranh với chính mình. Và trong những trạng huống ấy,

những khuất lấp của tâm hồn được phơi bày một cách trần trụi nhất trước hiện thực

chiến tranh. Không ít lần, Tùng tự vấn bản thân: “Vì sao mình phải có mặt ở cái đất

nước xa xôi man rợ, tối tăm này”; “Vì sao bọn Pol Pot lại diệt chủng đồng bào họ

một cách tàn độc như vậy”; “Vì sao những người lính như anh và Du lại „mắc kẹt‟ ở

cuộc chiến tranh này”… và Tùng coi mình chính là nạn nhân của chiến tranh. Trong

cuộc chiến sinh tồn, người lính Việt đồng thời cũng bộc lộ những trạng huống tâm

lí, những đau đớn, lầm lạc…Tùng cũng có những sợ hãi, những ích kỉ, những nóng

nảy khi sa chân vào cuộc chiến, cô độc trong cảnh lạc rừng. Chính trong hoàn cảnh

ấy, người lính trẻ không chỉ đối diện với hiểm nguy từ phía kẻ thù, mà còn đối diện

với thách thức về phẩm chất, nhân tính.

Hình tượng người lính được Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh soi rọi dưới

69

góc nhìn đa chiều: ánh sáng và khuất lấp, anh hùng và hèn nhát, ý thức và vô thức,

hiện thực và tâm linh, khát vọng và dục vọng, yêu thương và thù hận, cống hiến và

tự mãn, cao thượng và ích kỉ. Suy cho cùng, họ cũng chỉ là những con người rất đỗi

bình thường, và cần hơn bao giờ hết sự sẻ chia. Tuy nhiên những sự thật ở “bề sau,

bề sâu, bề xa” của cuộc chiến được Đoàn Tuấn, Sương Nguyệt Minh thể hiện trực

diện không làm mất đi hình ảnh cao đẹp của người chiến sĩ và ý nghĩa lớn lao của

cuộc chiến mà còn mang lại giá trị hiện thực và tinh thần nhân văn cho tác phẩm.

2.2.2. Hình tượng người lính trở về sau chiến tranh

Có thể nói, khi bước vào cuộc chiến chống lại họa diệt chủng Pol Pot trên

chiến trường Campuchia, người lính tình nguyện Việt Nam đã phải gánh chịu

những tổn thất nặng nề, đau đớn và ám ảnh. Hiện thực chiến trường khốc liệt đã đẩy

họ vào những hoàn cảnh bi kịch như Đoàn Tuấn khái quát: “Đời lính thế đấy. Nay

sống mai chết. Chẳng biết thế nào. Như chiếc lá bên lề đường. Chiến tranh qua đi.

Tiện tay bứt một cái. Vứt đi. Thế là xong. Đời lính đấy. Chưa đi hết một cuộc chiến

đã đi qua một kiếp người” [96, tr.240]. Những người chết nằm xuống ở nơi chiến

trường hoang lạnh, còn người sống phải gánh chịu những tổn thương về thể chất và

những dư chấn khủng khiếp về tinh thần. Ngoài những trang viết nói về sự khốc liệt

của chiến tranh, những biến cố trong cuộc đời nhân vật, tác giả còn xoáy sâu vào

nỗi đau, sự mất mát của con người để người đọc hiểu được cái giá mà chúng ta phải

trả cho chiến thắng, tác giả cho chúng ta thấy được mặt trái của chiến tranh, những

góc khuất nhân tính của người chiến sĩ… Các nhà văn đã không hề né tránh sự thực

đau lòng ấy, họ đã viết bằng những gì mắt thấy tai nghe, viết bằng những trải

nghiệm sâu sắc của người trong cuộc. Hiện thực chiến tranh vì thế có sức khái quát

cao hơn và người đọc có cơ hội nhìn vào bề sâu của cuộc chiến.

Bước chân ra khỏi cuộc chiến, người lính phải gánh chịu những tổn thương

về thể chất. Họ có thể mất đi một cánh tay, một đôi chân,… Họ chiến đấu hết mình,

nhưng chiến tranh đã lấy đi của họ một phần cơ thể. Như trường hợp của anh Thà

trong Miền hoang, bom đạn đã làm mất đi một chân của anh và để lại trong đầu anh

một mảnh vỏ gang mìn để mỗi khi trái gió trở trời anh lại phải gồng mình trong

những cơn đau. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn cũng không né tránh hiện

70

thực này. Những người đồng đội của ông, người mất một chân, người mất hai chân

như trường hợp của Lâm, Châu, Công… họ trở về với thân hình không còn lành lặn.

Quả thực, chiến tranh đã lấy đi của họ quá nhiều. Và những tổn thương về thể chất

ấy sẽ còn đeo bám họ mãi mãi.

Thế nhưng, khủng khiếp nhất chính là những dư chấn tinh thần mà người

lính phải gánh chịu khi chiến đấu trên chiến trường K. Trong đó phải kể đến trường

hợp của anh Mạnh trong Mùa chinh chiến ấy. Cái chết của tên địch ảnh hưởng sâu

sắc đến thần kinh của Mạnh và sau vụ ấy “Anh hút thuốc rất nhiều. Nửa đêm,

choàng dậy, đi lung tung trong đơn vị. Vừa đi vừa hô khẩu hiểu. Và Mạnh tự huyễn

rằng mình đã tốt nghiệp trường sĩ quan quân sự Liên Xô! Có những đêm, Mạnh

không ngủ. Anh cứ ngồi bó gối như ông già suốt đêm. Có những lúc lên cơn hưng

phấn, Mạnh múa may quay cuồng như người điên” [96, tr.191]. Từ một người lính

yêu đời, từ một người thanh niên tràn trề nhựa sống, anh rơi vào trạng thái trầm

cảm, thậm chí không kiểm soát được hành động của mình. Cái chết của tên tù binh

luôn ám ảnh anh, dằn vặt anh: “Có lẽ anh đã tra tấn hắn quá tay, lại tận mắt chứng

kiến cái chết của hắn”. Bấy nhiêu như thế đủ ám ảnh cuộc đời của một con người,

tạo thành vết hằn sâu trong tâm trí người lính như Mạnh. Mặc dù Mạnh được đi

điều trị nhưng trong đôi mắt anh vẫn thăm thẳm buồn: “Mạnh ứa nước mắt, lặng lẽ

cúi đầu đi trước hai lính thông tin đi kèm”. Mặc dù có thể sống và trở về, nhưng

“hội chứng chiến tranh”, những vết thương sâu trong lòng ấy vẫn còn ám ảnh và

chẳng bao giờ để anh được yên. Đó là nỗi đau, đó là bi kịch. Mặc dù “Ai cũng thông

cảm với Mạnh”, nhưng những gì chiến tranh để lại có thể sẽ đeo bám mãi, nó sẽ còn

hành hạ anh, cái phần đời phơi phới và tâm hồn nồng nhiệt của một người lính đã bị

khắc “một vết thương sâu” không bao giờ lành nữa. Đi sâu vào tâm tư, tình cảm,

vào nỗi đau của nhân vật, tác giả đã tái hiện lại những năm tháng chiến tranh khốc

liệt vừa qua. Có thể nói, Đoàn Tuấn đã dựng lại chiến tranh bằng nước mắt, bằng

đau thương, bằng những tổn thương tinh thần sâu sắc. Ở đó, cái chết không phải là

tận cùng của bi kịch và những dư chấn tinh thần không chỉ đeo bám người lính ở

trên chiến trường. Có những người lính khi trở về, họ cũng chịu đựng những ám

ảnh, giày vò,… Đó là những vết thương không liền da, những vết sẹo chưa kịp lên

71

da non, là những nỗi đau âm ỉ và dai dẳng, là những di chứng còn để lại sau mỗi

cuộc chiến, theo họ trong suốt quãng đời còn lại. Trong Miền hoang, Sương Nguyệt

Minh đã kể lại trường hợp của anh Thà. Bước chân ra khỏi cuộc chiến, trở về với

cuộc sống đời thường, Thà có những triệu chứng về tâm thần bởi mảnh vỏ gang mìn

vẫn nằm trong đầu anh, hành hạ anh, khiến anh không thể sống như những người

bình thường khác. Thực sự, những dấu ấn, sự tàn phá của chiến trường K vẫn cứ

đeo bám người lính ngay cả khi họ được trở về với quê hương, gia đình của mình.

Bản thân Tùng, chàng trai Hà Thành trẻ trung ấy sau khi thoát khỏi sự tra tấn của

bọn tàn quân Pol Pot, sau khi thoát khỏi những ngày tháng khủng khiếp của đói rét

trong rừng sâu cũng đã phát điên. Tùng đã đi qua cuộc chiến, đã vật lộn, khổ nhục

trong bể ngục hầm sâu của cửa tử, bao thây người bỏ lại, bao đau đớn nặng mang để

đến trang cuối cùng của tiểu thuyết, nhân vật chính rốt cuộc cũng mò ra được cái

“bến” mà không bị đầm lầy nuốt chửng, thoát ra được ma trận rừng xanh, thoát khỏi

đám người tàn phế cả thể xác lẫn tâm hồn để tìm được “một đường nhựa đi Siêm

Riệp, Biển Hồ” [52, tr.630]. Tưởng đến với cõi sống sau những tháng ngày vật lộn,

nhưng Tùng lại sa vào một cơn mê mới - anh lạc ngay trong chính thời bình, khi

chiến tranh đi qua. Rồi đây, cuộc sống của Tùng sẽ thế nào khi trở về với cuộc sống

thời bình, nhưng trong đầu óc Tùng bây giờ là “Một người rừng nữa! Một dã nhân

nữa! Một người rừng nữa!... Những hình ảnh quái đản nhảy múa như lên đồng

trong mắt anh” [52, tr.631]. Những bóng ma đi theo Tùng ở mọi nơi cho dù anh đã

được an toàn và cứu sống. Đó là những ám ảnh, đó là những chấn thương tâm lí mà

mỗi người lính phải “gánh theo” khi họ trở về.

Trong Mùa chinh chiến ấy, “Ngày về” của những người lính khiến người đọc

không khỏi xót xa. Họ lạc lõng trên chính quê hương của mình. Hình ảnh hai anh

lính mới xa Hà Nội chỉ mới vài năm, ấy vậy mà đã quên khuấy đi việc không được

đứng giữa đường tán chuyện, không như lúc ở quân ngũ. Tuy đó chỉ là biểu hiện rất

nhỏ của sự lãng quên, song dường như chi tiết ấy đã khiến người đọc phải suy

ngẫm. Có lẽ, họ đã không còn bắt kịp với cuộc sống hiện đại. Rời chiến trường, họ

phải bắt đầu với những thứ đang đổi thay. Và không ít người lính đã rơi vào bi kịch

lạc lõng. Với thiếu úy Đoàn Tuấn, dư âm ngày về sau chiến tranh là sự lạc lõng,

72

chênh vênh vì cố hòa nhập với cuộc sống cộng đồng. 5 năm đi bộ trong rừng biên

giới, về nhà, ông và nhiều đồng đội quên cách đi xe đạp. Sống trong rừng, ngủ bằng

võng, lều đã quen, ông lạ lẫm với giường và ngôi nhà chật chội. Đi trên đường, ông

luống cuống vì nỗi ám ảnh giẫm bom mìn cứ thường trực. Trong giấc ngủ, tâm trí

người lính vẫn văng vẳng tiếng súng bắn, bom rơi. Trở về với cuộc sống đời

thường, những người lính năm xưa phải gánh chịu những chấn thương tinh thần

khủng khiếp.

Quả thực, chiến tranh đã lấy đi quá nhiều ở những người lính. Sự khốc liệt

của chiến tranh không chỉ dừng lại trong cuộc chiến, ngay cả khi con người ra khỏi

chiến tranh thì họ vẫn phải gánh chịu những nỗi đau dai dẳng về thể chất và tinh

thần. Những người lính của Đoàn Tuấn từng lăn lộn trong chiến tranh, đã từng có

một thời oanh liệt, nhưng giờ đây khi trở về với cuộc sống thời bình, họ trở nên lạc

lõng. Họ là những con người “không đi ra nổi khỏi cuộc chiến khi chiến tranh đã

kết thúc”, họ là những người bị “cầm tù” vĩnh viễn trong chiến tranh. Cuộc chiến đã

kết thúc nhưng họ bị ám ảnh, những vết thương trong tâm hồn họ không lành sẹo

mà mãi rỉ máu. Điều đó cũng chính là tiếng nói tố cáo tội ác của chiến tranh một

cách đanh thép nhất. Chiến tranh kết thúc dù 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa thì

hậu quả của nó để lại vẫn nặng nề và dai dẳng. Và hôm nay, những người lính như

Đoàn Tuấn, như Sương Nguyệt Minh dù đã “giã từ vũ khí” trở về với cuộc sống đời

thường nhưng họ vẫn không thôi trăn trở, họ cầm bút để viết nên những sự thật xé

lòng, những nỗi đau dai dẳng mà người lính Việt phải chịu đựng khi cuộc chiến đã

kết thúc. Đó cũng chính là sự thấu hiểu, sự tri ân với những người lính tình nguyện

Việt Nam chiến đấu nơi đất khách quê người.

2.3. Hình tƣợng kẻ thù

2.3.1. Hình tượng kẻ thù với bản chất xấu xa

Khmer Đỏ đã gây ra thảm kịch núi xương sông máu ngay tại chính đất nước

Campuchia, đẩy nhân dân Campuchia tới họa diệt chủng. Mặt khác, chúng cũng ra

sức tàn sát nhân dân Việt Nam một cách tàn bạo. Lính tình nguyện Việt Nam khi

sống và chiến đấu trên chiến trường Campuchia cũng phải gánh chịu muôn vàn khó

khăn, nguy hiểm, phải đánh đổi bằng máu xương trước kẻ thù vô cùng tàn bạo và

73

độc ác. Chính vì vậy, khi viết về đề tài chiến tranh, bên cạnh hình tượng người lính

tình nguyện Việt Nam, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn cũng tập trung khắc họa

hình tượng kẻ thù với bản chất xấu xa.

Việt Nam là đất nước đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh để bảo vệ bờ

cõi. Trước khi bước chân cuộc chiến tranh chống Pol Pot bảo vệ biên giới Tây Nam,

chúng ta phải chống lại những kẻ thù hùng mạnh như Pháp, Mĩ trong suốt 30 năm.

Nhưng Khmer Đỏ do Pol Pot đứng đầu mới thực sự là thứ kẻ thù nguy hiểm bởi sự

phản bội, vô ơn, xảo trá và cuồng tín ở chúng. Bản chất xấu xa khiến chúng trở

thành kẻ thù vô cùng nguy hiểm đối với quân đội nhân dân Việt Nam, gây ra cho

chúng ta những tổn thất nặng nề trong suốt mười năm tham chiến tại chiến trường

Campuchia.

Khmer Đỏ là loại kẻ thù đặc biệt, loại kẻ thù phản phúc, vô ơn. Trước kia,

Việt Nam đã từng giúp đỡ và huấn luyện chúng trong quá khứ. Tuy nhiên, ngay sau

đó chúng đã lộ bản chất phản bội vô ơn, là những kẻ “lừa thầy phản bạn”. Điều này

đã được Sương Nguyệt Minh nhiều lần nhấn mạnh trong Miền hoang: “Ngày trước

cơm vẫn lành, canh vẫn ngọt, hai nước còn một kẻ thù chung. Quân giải phóng Việt

Nam đem những kinh nghiệm đánh Mĩ dạy cho lính Khmer Đỏ thế nào thì lúc này

quân lính Pol Pot áp dụng đúng những bài học xưa một cách xuất sắc để đánh lại

“thầy”, lại bạn” [52, tr.464]. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn không quá tập

trung khắc họa hình tượng kẻ thù, nhưng bản chất xấu xa, vô ơn, phản phúc của

chúng vẫn được nhắc đến trong câu chuyện của người lính: “Tôi hay nghe nhiều sỹ

quan nói, bọn Pol Pot là quân ăn cháo đá bát. Những bài học ta dạy chúng trong

chiến tranh, giờ chúng dùng lại, phản đòn ta” [96, tr.214]. Như vậy, cả Sương

Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đều nhìn thẳng vào bản chất của kẻ thù, đồng quan

điểm về sự phản bội, vô ơn của Khmer Đỏ. Có lẽ, đây cũng là quan điểm chung của

các nhà văn khi đánh giá về Khmer Đỏ.

Không chỉ phản bội, vô ơn, quân Khmer Đỏ được xây dựng là những kẻ sùng

bái lãnh đạo một cách máy móc, ngu dốt và điên cuồng. Trong Miền hoang, tàn

quân Khmer Đỏ luôn có niềm tin cuồng tín rằng chúng đang xây dựng chủ nghĩa xã

hội thiên đường, trong bảy triệu người dân Khmer chỉ cần một triệu người vô sản là

74

đủ, còn lại hoàn toàn có thể giết bỏ. Chính vì vậy, trong bất kì trường hợp nào,

chúng cũng tuyệt đối trung thành với lãnh tụ và cấp trên. Không ít lần, thằng lính áo

đen đã bộc lộ tư tưởng cuồng tín lãnh tụ trong những dòng suy nghĩ nội tâm: “tao

im lặng, cun cút làm theo, dù trong bụng còn ấm ức. Bảo giết thì giết, bảo đừng thì

đừng thôi. Chỉ huy là Lục Thum, Lục Thum bao giờ cũng có sức mạnh và có cái lí

của Ông Lớn. Chịu Ông Lớn thôi” [52, tr.25] . Hắn luôn đặt Ông Lớn lên đầu, trở

thành mục tiêu lí tưởng, không phân biệt phải trái đúng sai. Trong trường hợp nào

nhân vật xưng “tao” cũng quyết noi gương học theo Lục Thum, để được đứng vào

hàng ngũ tinh hoa như lãnh tụ Pol Pot quán triệt: “Trong số 5 triệu người Khmer,

chỉ cần một triệu người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dứt khóat, dứt khoát tao phải

đứng trong số một triệu người còn lại, chứ không thể nằm trong số bốn triệu như

bọn bác sĩ, kĩ sư, giáo viên, nghệ sĩ… bị coi là thừa ra” [52, tr.145]. Thậm chí, khi

rơi vào tình trạng kiệt quệ, khốn cùng: “Đói khát. Vô phương hướng. Sống chết chỉ

cách nhau gang tấc. Quặt quẹo. Dật dờ. Tao cũng kiệt sức mẹ nó rồi. Nghĩ thế

nhưng tao vẫn đi theo Ông Lớn, đi theo thủ lĩnh Pol Pot. Chịu khổ để có ngày sung

sướng, chịu chết “chỉ cần một triệu người xây dựng chủ nghĩa xã hội” như lãnh tụ

Pol Pot nói thì tao cũng chết…” [52, tr.315], khi đã nếm trải đủ mùi đau đớn khổ

cực của những bất hạnh, tuyệt vọng thì tên lính áo đen vẫn không hề tỉnh ngộ. Hắn

luôn cho rằng việc không xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là do Việt Nam:

“Vì bọn Duol chúng mày mà lãnh tụ Pol Pot và Angka chúng tao không xây dựng

được chủ nghĩa xã hội” [52, tr.28]. Đây không phải là niềm tin, là lí tưởng mà đó

chính là sự tôn sùng lãnh đạo một cách máy móc. Sự cuồng tín với lãnh tụ là một

trong những nguyên nhân dẫn đến những thảm họa nặng nề mà nhân dân

Campuchia phải gánh chịu. Ngay trong nội bộ kẻ thù, Lục Thum khi đánh giá tên áo

đen cũng chỉ rõ bản chất của những kẻ “trung thành lí tưởng đến mức ngu muội”.

Trong suy nghĩ của tên chỉ huy: “Những đứa cấp dưới mông muôi, trí tuệ lùn nên vô

minh, lúc nào nghe lời thì như con chó săn vẫy vẫy đuôi quấn quít, lúc nào không

chịu nghe lại như con chó sói nhe răng chực cắn lại. Khó dạy quá! Sao mà cứ bem

bẻm: …Vì bọn Duol chúng mày mà lãnh tụ Pol Pot và Angka chúng tao không xây

dựng được chủ nghĩa xã hội…” [52, tr.29]. Quả thực, sự ngu dốt cộng nhiệt tình

75

cách mạng đã tạo ra một trong những chế độ diệt chủng kinh hoàng nhất thế kỉ XX.

Có thể nói, trong tác phẩm của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn, kẻ thù

hiện ra là những kẻ tàn bạo bị nhồi sọ và tẩy não bởi tư tưởng cực đoan, không hề

có khả năng sám hối và phản tư nên biến thành cỗ máy giết người hàng loạt. Bản

chất xấu xa của chúng đã đẩy nhân dân Campuchia vào một thảm họa đau đớn, trở

thành vệt xám dài của lịch sử. Và tội ác của chúng sẽ được cụ thể hóa hơn, được thể

hiện một cách chân thực và đau đớn dưới lăng kính của những người lính đã từng

tham gia vào cuộc chiến như Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn.

2.3.2. Hình tượng kẻ thù trong hiện thực chiến trường

2.3.2.1. Những kẻ độc ác, tàn bạo

Khmer Đỏ là kẻ thù có những hành động vô cùng tàn độc trên chiến trường.

Mặt khác, quân Khmer Đỏ đa phần xuất thân từ nông dân ít học, văn hóa thấp và có

cuộc sống đói nghèo. Những người này khi có công cụ bạo lực và cơ hội bạo lực

trong tay, chúng sẵn sàng thực hiện những hành vi dã man và thú tính với đồng loại

của mình. Trên những trang sách của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn, chúng ta

bắt gặp những tội ác kinh hoàng của Khmer Đỏ đối với nhân dân Việt Nam và

chính nhân dân Campuchia. Đó là hành động hủy diệt của kẻ thù.

Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đã thể hiện một cách chân thực

những tội ác kinh hoàng của quân Khmer Đỏ. Bằng nhiều hình thức khác nhau,

chúng đã gây ra những cuộc thanh trừng đẫm máu, đẩy nhân dân vào những núi

xương bể máu. Người đọc sao có thể dửng dưng trước lời kể của Lục Thum - kẻ đã

gây tội ác: “Tưng bừng phải như cái cách bọn tao tàn sát dân Doul ở vùng Ba Chúc

- An Giang ấy. Mấy nghìn sinh mạng lìa đời nhé. Suốt một tuần: sựt sựt…chát

chát…rắc rắc…uỵch uỵch…tằng tăng…Thằng Rô mày biết âm thanh gì không?

Không à? Là tiếng cuốc bổ vỡ sọ, tiếng tay thước lim đánh vào gáy, tiếng dao quắm

chém dọc thân người, tiếng súng bắn vào ngực già trẻ gái trai dân Duol đấy…”

[52, tr.35]. Giọng kể đầy hả hê và dửng dưng ấy đã tố cáo bản chất tàn ác, vô nhân

tính của kẻ thù.

Nhân dân Việt Nam đã trải qua bao đớn đau, đã gánh chịu những tội ác kinh

hoàng từ phía kẻ thù. Sự độc ác ấy đã được Sương Nguyệt Minh nhiều lần lột tả:

76

“Hai thằng lính áo đen mỗi đứa cầm một chân đứa trẻ con lên ba… xé. Tung đứa

bé chưa đầy năm lên trời rồi đố nhau chống súng CKC hứng mũi lê đã tuốt trần

đúng hậu môn đứa bé. Có đại gia đình chết đến cả trăm người. Đau thương và tiếc

nuối nhất là những đứa bé cùng bố mẹ và láng giềng trốn trong hang. Bên trong

bọn trẻ khát nước khóc, bên ngoài lính áo đen đi tuần rình rịch. Chỉ một tiếng khóc

vang lên thì lính Pol Pot tống mìn vào trong hang đá giết hết cả trăm người” [52,

tr.34-35]. Chúng như những cỗ máy giết người hoàng loạt, không ghê tay, không

sám hối cũng chẳng chút mảy may động lòng. Quả thực, hành động của Khmer Đỏ

đã đi đến tận cùng của cái ác do sự cuồng tín và mù quáng của chúng.

Đối diện với kẻ thù tàn bạo, quân tình nguyện Việt nam phải gánh chịu biết

bao những đau đớn, mất mát, hi sinh. Những đòn roi, những búa bổ, cuốc đập, những

phanh thây, xẻ thịt… tội ác của kẻ thù không biết bao nhiêu mà kể. Sương Nguyệt

Minh đã tái hiện hiện thực đau đớn ấy qua lời kể của Thà - một người lính chiến đấu

ở chiến trường Campuchia: “Bọn chó đen tàn độc ấy căng người thằng Hanh ra đóng

năm cái cọc: Hai cọc đóng vào hai bàn chân. Hai cọc đóng vào hai bàn tay. Một cọc

đóng vào miệng xiên xuống đất” [52, tr.360]. Đó là hình thức tra tấn dã man như thời

trung cổ, khiến người đọc rùng mình khiếp đảm và đau xót khôn cùng. Chưa hết, bản

thân Tùng còn tận mắt chứng kiến cuộc truy sát của kẻ thù với chính người đồng đội

của mình: “Vẻ mặt hắc ám, y dỏng tai nghe các cú chém bằng dao quắm và đập dồn

dập…bộp…toác…ở khu đền tháp đổ nát bằng báng súng như trời giáng xuống những

cái đầu đội mũ cối bọc vải Tô Châu màu xanh. Mặc tiếng thở khò khè. Mặc tiếng kêu

xin khác ngôn ngữ. Mũ cối bẹp, tan tành. Đầu lăn lông lốc. Đầu vỡ tan. Óc trắng hếu

phọt ra” [52, tr.21]. Chúng truy quét, tàn sát đến người lính cuối cùng: “Cái xẻng

vung lên quá tầm tay, lưỡi xẻng lấp loáng đi theo đường cong cánh cung: Bổ. Phang.

Đập… Rồi gã lại dựng cán thẳng đứng thọc lưỡi xẻng sắc lạnh như băm chặt xuống

mặt “kẻ tội đồ chết trận”. Chỉ biết khi gã lính áo đen hả cơn nóng giận căm hờn và

thấm mệt dừng lại thì đầu kon top Việt Nam chỉ còn… bãi thịt xương lẫn mảnh mũ

cối lổn nhổn” [52, tr.22]. Sương Nguyệt Minh đã khắc họa nỗi đau lớn của dân tộc

dưới sự hủy diệt của kẻ thù.

Nhưng tội ác lớn nhất của quân Khmer Đỏ chính là hành động hủy diệt với

77

dân tộc của chúng, với đồng loại của chúng. Những cái chết kinh hoàng dưới thời

Pol Pốt, những hình thức tra tấn điên cuồng, man dại của kẻ thù đã bổ xuống đầu

những người dân nhỏ bé không có sức chống cự. Hiện thực ấy đã được Sương

Nguyệt Minh tái hiện qua hồi ức của Sa Ly: “Quân lính áo đen Khmer Đỏ tràn về

thành phố. Tất cả nháo nhác. Tất cả bị xới tung lên. Lệnh ban bố từ những cái loa

sắt ông ổng: Mọi người người phải ra khỏi thành phố đi về nông thôn trong vòng 24

tiếng đồng hồ để tránh bom hạt nhân của Mỹ. Vỡ chợ. Tiếng khóc tiếng hờn ai oán

nổi lên. Quân lính áo đen xộc đến từng nhà gí mũi súng vào đầu, lôi xềnh xệch tống

cổ từng người ra đường. Nhà càng giàu, bị ra khỏi nhà càng nhanh, đi tay không

càng tốt. Rất nhiều người không kịp mang thêm bộ quần áo và bị tống lên xe chở đi

đến một nơi nào đó cũng không hề biết” [52, tr.519]. Chính cô phải chứng kiến cái

chết của cha mình: “Ôi trời ơi! Cha lĩnh trọn một băng đạn từ trong phòng bắn ra.

Cha gục xuống ngay cửa nhà mình, tay chới với, ánh mắt lướt qua hình ảnh vợ con

mà không nói được lời nào. Cha chinh chiến bao nhiêu năm trên hạm tầu không

mảy may sứt sát, vậy mà cha phải chết tức tưởi bởi loạt đạn của một tên lính áo đen

vô danh” [52, tr.521]. Và kết quả, cả một dân tộc đứng trên bờ diệt vong, cả một

dân tộc quằn quại trong đau đớn, “mấy triệu người Khmer chết bởi bom đạn, bởi

chày vồ, lưỡi xẻng, bàn cuốc bàn mai, dao quắm, dây thừng treo cổ,… chết vì đói

khát, lao lực kiệt quệ trong các công xã cộng sản nửa dơi nửa chuột” [52, tr.237].

Thậm chí, lính Pol Pot có thể xả xúng vào chính những người thân của mình: “Lính

Pol Pot là thế. Ngay cả khi biết vợ mình đang nhảy trong đó, chúng vẫn nổ súng”

[96, tr.147]. Đó là những hành động vô nhân tính. Những trang văn đã là lời tố cáo

đanh thép nhất tội ác của kẻ thù.

Không chỉ tàn sát lính tình nguyện Việt Nam, tàn sát nhân dân hai nước,

quân Khmer Đỏ còn tàn sát đồng đội của mình: “Bọn man rợ này còn giở nhiều trò

tàn độc. Đến như đồng đội của mình bị thương hí hóp thở trước sau cũng chết, gã

còn đập tan sọ phọt óc ra trắng nhởn như đậu phụ vương trên bãi cỏ” [52, tr.75].

Có lẽ trong chúng không phải là trái tim khối óc của con người mà là những con ác

thú vô nhân tính. Giữa chúng không có tình cảm đồng chí, đồng đội, cũng không có

những bảo vệ, chở che... cái ác đã xâm lấn một cách trọn vẹn khiến chúng trở thành

78

những kẻ tàn độc với chính những người đã cùng sát cánh với mình. Sự độc ác ấy

được Sương Nguyệt Minh lột tả qua hành động của Lục Thum. Khi đồng đội của

hắn mắc tội, hắn trừng phạt khủng khiếp, cho quân treo lên, lột quần áo, đứa thì

dùng dao cắt xoẹt bộ phận sinh dục, đứa thì nã cả năm viên đạn vào háng khiến lúc

sau trên đất chỉ còn bãi máu. Lục Thum là một kiểu loại đại diện cho rất nhiều

những tên cầm đầu khác, bản chất của bọn chúng nói chung - nham hiểm, mọi rợ,

tàn độc. Chính sự tàn độc ấy khiến lính ta phải thắc mắc: “Từ khi đánh vào

Campuchia, quân ta không gặp một thương binh nào của quân đội Pol Pot. Chúng

chạy đâu?”[96, tr.92]. Thực chất, trong quân đội của Khmer Đỏ, không bao giờ có

hình dáng thương binh vì “thương binh nặng, bọn Pol Pot đều đổ hết xuống biển.

Chúng dùng máy bay lên thẳng làm chuyện này” [96, tr.92]. Đó quả thật là những

hành động phi nhân tính, vô đạo đức. Chính điều này tạo nên sự đối lập với lính tình

nguyện Việt Nam - những con người trọng nghĩa tình, không bao giờ bỏ lại đồng

đội. Sự đối lập càng khiến hình ảnh kẻ thù hiện lên vô cùng tàn độc.

Xuất phát điểm từ sự ngu muội, chúng đã có những hành động đi ngược lại

với văn minh nhân loại như đốt sách, tiêu hủy văn hóa: “Từ tầng trên xổ xuống cả

đống sách, vở bìa cứng: Bách khao thư bệnh học, Giải phẫu người, tiểu thuyết

“Những người khốn khổ”, “bà Bovary”, “Từ điển quân sự”, “Lịch sử cách mạng

Pháp”, “Hoàng đế Napoleon Bonapare”,…Chúng đổ xăng lên những quyển sách

bằng tiếng Pháp ấy được cho là xa xỉ của giới thượng lưu và… đốt. Lửa cháy phần

phật. Khói ngút cao” [ 52, tr.521]. Không chỉ qua lời kể của Sa Ly, bản thân Tùng

cũng đã rơi vào trạng thái vô cùng đau đớn khi bị kẻ thù xé sách, đốt đàn: “Mải mê

cuốn vào bài hát „Sơn nữ ca‟ và „Thư tình của lính‟, Tùng không hề biết trong lúc

trôi miên man về kỉ niệm tuổi học trò với cô bạn gái thì gã lính áo đen đã xé xoàn

xoạt mấy chục trang tiểu thuyết Anna Karenina … rồi vò vò nắm trong tay. Gã ôm

bụng lặng lẽ đi ra sau lùm cây gai tụt quần khỏi mông và… ngồi xuống. Còn quyển

nhật kí của Tùng với những quay quắt nhớ nhung cô gái Hà Nội và các trang chép

những bài thơ… khát ở chiến trường K thì bị tên chỉ huy xé toạc ra để… cuốn thuốc

rê hút” [52, tr.171]. Sách là biểu tượng của tri thức và văn hóa. Đốt sách chính là

đốt văn hóa, là quay lưng với tri thức, là quay trở về với sự mông muội. Và đây

79

cũng chính là một trong những nét bản chất của kẻ thù.

Nhưng đáng sợ hơn, chúng còn ăn thịt chính đồng loại của mình: “Bắt được

bọn Duol đang sống ngoay ngoảy còn cắt gót chân cho chúng không chạy trốn

được, rồi để chúng chết dần chết mòn, huống hồ khi bọn Duol vừa chết tươi, chuyện

bóc bánh chè thì có gì lạ. Lính áo đen của Ông Lớn chả phanh bụng, moi gan xổ

ruột bọn Duol ra bỏ vào mũ sắt luộc lên ăn còn gì nữa!” và coi như “chuyện vặt

vãnh có chi đáng phải lưu tâm” [52, tr.69]. Chuyện ăn thịt người không phải chỉ

được nói đến một lần, ở phần cuối truyện một lần nữa hình ảnh tên lính áo đen ăn

thịt người được miêu tả cụ thể. Hành động này thể hiện rõ nhất sự mông muội, thú

tính và tàn bạo của kẻ thù.

Sương Nguyệt Minh từng nói: “Những điều tôi đã viết trong „Miền hoang‟ chỉ

là một phần rất nhỏ về sự man rợ của bọn diệt chủng Pol Pot và sự tàn khốc của

chiến tranh. Chiến tranh sẽ kéo lùi lịch sử và có nguy cơ đẩy con người trở về hoang

dã. Mục tiêu thứ hai là, tôi tham vọng khi gấp trang sách cuối cùng của „Miền

hoang‟, bạn đọc sẽ kinh hoàng, sợ hãi chiến tranh” [57]. Quả thực, khi viết những

trang văn về sự độc ác của kẻ thù, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã đi đến tận

cùng cuộc chiến, phản ánh một cách chân thực và sâu sắc hiện thực chiến trường.

2.3.2.2. Những kẻ đê tiện, thô bỉ

Trong suốt 10 năm chiến đấu dai dẳng ở chiến trường K, lính của ta hi sinh

không biết bao nhiêu cho xuể. Một phần do không thông thuộc địa hình, một phần

do quân thù quá độc ác, tàn bạo và đặc biệt rất ít khi chúng đánh trực diện. Phần lớn

chúng vẫn trốn tránh, lẩn lút trong dân, trực chờ để đánh lén, gây thương vong khôn

kể: “Nhưng mà cái bọn tàn quân ấy lẩn lút như ma đói ấy. Chúng mặc quần áo đen,

quàng khăn cro-ma giống như người dân Khmer bình thường ấy. Nhìn cả đám

đông, chẳng phân biệt được đâu là dân, đâu là lính tàn quân Pol Pot. Ban ngày

chúng là dân đen lam lũ lầm than đi xe bò kéo, xe cà cộ, leo cây thốt nốt lấy nước

nấu đường. Ban đêm mới hiện nguyên hình là lính Pol Pot khôn ranh, độc ác” [52,

tr.361]. Ngày là dân, đêm là giặc, khiến cho lính ta không kịp trở tay. Trong Mùa

chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn cũng phản ánh những hành động lén lút, thô bỉ của kẻ

thù: “Thì ra bọn địch đóng giả thành những người dân đánh xe trâu. Trên xe, chúng

80

giấu vũ khí dưới rơm. Đến khu vực này, bọn chúng dừng xe, thả trâu ra rừng rồi

vào gần đơn vị ngủ lại. Gần sáng, đón chừng lính ta không gác, chúng mò vào nổ

súng” [96, tr.154]. Quả thực là “Khi chúng vác súng là địch, Nhưng khi giấu súng

ngoài rừng, lại thành dân” [96, tr.189]. Trong cuộc chiến với quân tình nguyện

Việt Nam, bọn chúng cũng nghĩ ra đủ hình thức hèn hạ để tiêu diệt quân ta. Lúc thì

chúng tập kích vào lúc nửa đêm gà gáy, khi thì chúng cưa cây cài mìn trên những

con đường bộ đội ta đi… Với những hành động lén lút ấy, chúng hiện nguyên hình

là những kẻ có hành tung mờ ám, chuyên đánh lén phía sau một cách thô bỉ. Đây

chính là một mảng ghép khiến cho hình ảnh kẻ thù hiện lên toàn diện hơn trong cái

nhìn sâu sắc của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn.

Không chỉ là những kẻ có hành động lén lút, mờ ám, quân Khmer Đỏ còn

được đặc tả như những con quỷ háo sắc. Trong hoàn cảnh chiến trường khốc liệt,

nhưng chúng vẫn thực hiện những hành vi thú tính của mình, đẩy những người như

Sa Ly vào số kiếp bất hạnh. Rơi vào cuộc chiến tranh, Sa Ly bị xoay vần trong

những đau đớn ê chề và tuyệt vọng. Cô bị bọn lính áo đen hãm hiếp cho đến nỗi bị

câm và những kí ức đen tối ấy cứ đeo bám lấy Sa Ly trong suốt quãng đời còn lại.

Khi bị lạc rừng cùng với ba người đàn ông, Sa Ly bị tên lính áo đen và Lục Thum

thay nhau hãm hiếp. Đặc biệt là Lục Thum, với bản tính dâm dục, thú tính hắn đã

biến Sa Ly trở thành cỗ máy giải quyết vấn đề sinh lí cho hắn. Khi hết thuốc giảm

đau, hắn bắt Sa Ly phải ngồi vuốt dương vật suốt đêm để hắn được thỏa mãn và

giảm cơn đau. Khi đói khát, đau đớn, kiệt sức hắn vẫn giở trò “thú tính” với Sa Ly

“thò tay khua khoắng vần vò, cào cấu cặp vú người con gái đang cõng mình” [52,

tr.222]. Lục Thum đã biến Sa Ly trở thành kẻ nô lệ tình dục trong suốt hành trình bị

lạc rừng.

Trên chiến trường K, kẻ thù còn hiện lên vô cùng lọc lõi, thâm độc và đa

nghi. Điều này được thể hiện rõ nhất qua hình ảnh tên chỉ huy Lục Thum trong

Miền hoang của Sương Nguyệt Minh. Lục Thum là tên chỉ huy vốn được các sĩ

quan tình nguyện Việt Nam huấn luyện. So với thằng Rô, Sa Ly hay Tùng, hắn là

người có kinh nghiệm hơn cả. Hắn luôn ý thức được giá trị của quyền uy và phát

huy sức mạnh của uy quyền trong mình. Sức mạnh của Lục Thum được củng cố bởi

81

khẩu súng K54 mà hắn luôn mang bên mình. Tùng, Sa Ly hay kể cả thằng Rô - tên

hầu cận hắn cũng không biết trong súng còn đạn hay không. Hắn luôn tỏ ra bí hiểm

và không bao giờ để cảm xúc biểu lộ trên khuôn mặt. Hắn luôn thăm dò những

người còn lại, kể cả với thằng Rô. Thằng Rô luôn tỏ ra trung thành với chủ, nhưng

Lục Thum biết thừa loại người như thằng Rô. Hắn cũng đủ thông minh để điều

khiển nó. Với giọng điệu ngọt ngào, hắn đã củng cố tinh thần của thuộc cấp bằng lời

dò hỏi: “Xưa nay, lúc sướng có nhau, lúc hoạn nạn bỏ nhau cũng nhiều, Rô ạ?”[52,

tr.36] để rồi trong tình huống ấy, sự trung thành của thằng Rô được bày tỏ chắc

chắn như đinh đóng cột: “Tao thề. Đ**mẹ đứa nào bỏ Ông Lớn, hãy bước qua xác

tao”. Bao giờ hắn cũng có sự tính toán trước sau để đề phòng mọi trường hợp.

Chưa bao giờ hắn coi tên lính áo đen hay Sa Ly là những kẻ thân thuộc của mình.

Với bản chất là kẻ đa nghi, hắn sẵn sàng giở mọi thủ đoạn với chính “đồng đội” của

mình. Điều đó cũng lí giải vì sao khi đã tìm được đường thoát ra khỏi rừng Miên,

hắn đã để tên lính áo đen chết trong đầm lầy hoang lạnh.

Trong những ngày tháng lạc rừng, Lục Thum luôn có sự tính toán tỉ mỉ cho

vai trò của Tùng. Lúc còn dùng được, Tùng sẽ là một thằng phu đòn để khiêng hắn

“Ông Lớn cau mày, bảo: mày không muốn có thêm thằng phu đòn khiêng tao hả.

Đỡ mệt nhọc hơn chứ. Mày có biết đàn sói đi cùng nhau thì dễ sống hơn là một con

sói hoang cô độc tách bầy!” [52, tr.252]. Lúc cần, thằng tù binh Duol như Tùng có

thể trở thành một “đồ ăn dự trữ”, và lúc nào Lục Thum cũng đẩy Tùng vào chỗ

nguy hiểm:“Cùng lắm là bất lực thì lúc ấy thằng Duol cũng thế mạng ta, biến thành

con mồi ngon thu hút ý chí, hành động của con sói. Khi đó, ta tùy cơ tấn công kẻ thù

không mong đợi. Ôi! Ta sẽ cứu được thân ta, rồi quay sang cứu thằng Duol, ta sẽ là

ân nhân của nó. Tên tù binh này sẽ là con lừa tận tụy thồ ta thoát khỏi núi rừng

đang bủa vây” [52, tr.272]. Hắn vừa biến Tùng là “con mồi”, vừa là kẻ thế mạng, là

“con lừa tận tụy” nhưng hắn vẫn được đóng vai “ân nhân” của Tùng. Quả thực, Lục

Thum là kẻ vô cùng mưu mô, xảo quyệt. Sự lọc lõi, cáo già của Lục Thum đã thể

82

hiện rõ bản chất của một kẻ xấu xa, đê tiện và thô bỉ.

Tiểu kết chƣơng 2

Đổi mới cái nhìn nghệ thuật về chiến tranh và hình tượng người lính được

xem là một trong những chuyển biến tư duy nghệ thuật quan trọng nhất mang lại

thành công lớn cho Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Cùng với độ lùi của thời

gian, chiến tranh được tiếp cận từ nhiều góc nhìn, thậm chí những bi kịch của chiến

tranh, thân phận con người trong chiến tranh được nhận thức và lí giải trên tinh thần

đổi mới. Trong vai trò là nhà văn từng tham gia chiến tranh, Sương Nguyệt Minh và

Đoàn Tuấn đã viết về cuộc chiến với kí ức của người trở về sau chiến tranh, mang

theo những nỗi niềm và cật vấn. Viết bằng cảm nghiệm cá nhân, Sương Nguyệt

Minh và Đoàn Tuấn hướng tới thể hiện tính nhân loại phổ quát, khắc họa nỗi đau

của những con người cuốn vào dòng xoáy của cuộc chiến tranh, những mất mát đau

thương của những con người cả hai bên chiến tuyến. Hai nhà văn đã nhìn về hiện

thực chiến tranh với tất cả những gì khốc liệt và dữ dội nhất trong cái cái nhìn đa

diện, phức cảm. Từ đó, gương mặt chiến tranh và chân dung người lính hiện lên

83

sinh động, chân thực và sâu sắc hơn.

Chƣơng 3

MIỀN HOANG VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY

NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Văn học có chức năng phản ánh đời sống, nhưng dù trong phạm vi rộng hay

hẹp, mức độ phản ánh đậm hay nhạt thì nội dung trung tâm của mọi sự phản ánh

vẫn là con người. Hình tượng con người được khái quát trong tác phẩm bằng các

nhân vật văn học. Vậy “nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ các cá thể con

người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện

bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ” [23, tr. 114].

Nhân vật văn học đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm, trở thành linh hồn

của tác phẩm văn học. Nó liên quan trực tiếp đến cốt truyện, đề tài, điểm nhìn, cách

tổ chức không gian, thời gian nghệ thuật… chính vì vậy việc xây dựng nhân vật

đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nhà văn, đòi hỏi sự nỗ lực tìm tòi và sáng

tạo của nhà văn trong hành trình nghệ thuật của mình. Mỗi nhà văn đều có nghệ

thuật xây dựng nhân vật một cách riêng biệt, mang đậm cá tính sáng tạo của mình.

Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn cũng không ngoại lệ. Cùng khắc họa hình tượng

nhân vật người lính, nhưng bằng sự đổi mới và cách tân, các nhà văn đã luôn dấn

thân và sáng tạo để tìm cho mình sự mới mẻ và độc đáo trong nghệ thuật xây dựng

nhân vật, từ đó người đọc có thể tìm ra chiếc chìa khóa để mở cánh cửa bước vào

thế giới tư tưởng của tác phẩm.

3.1.1. Khắc hoạ nhân vật qua ngoại hình

Yếu tố ngoại hình đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhân vật, góp

phần tạo nên tính toàn vẹn của con người trong văn học. Yếu tố ngoại hình là toàn

bộ hình thức bên ngoài như khuôn mặt, trang phục, hình dáng… để phân biệt nhân

vật này với nhân vật khác, qua đó khắc họa dấu ấn riêng của hình tượng nhân vật.

Mặt khác, yếu tố ngoại hình còn góp phần bộc lộ tính cách, số phận của nhân vật

trong tác phẩm.

Trong tiểu thuyết Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đặc biệt chú ý yếu tố

84

ngoại hình của nhân vật. Bốn nhân vật trong hành trình lạc rừng được Sương

Nguyệt Minh khắc họa với những chi tiết miêu tả ngoại hình đặc sắc, qua đó bộc lộ

được bản chất của từng nhân vật. Ngay từ những trang viết đầu tiên, Sương Nguyệt

Minh đã chú ý đến những chi tiết về ngoại hình: “Các khuôn mặt hốc hác. Thân

hình tàn tạ. Bước thấp bước cao thất thểu. Thời gian đói khát quá lâu đang đánh

gục cái vẻ nhẫn nại gồng mình chịu đựng khi sức người có hạn. Cô gái duy nhất

nước da mịn màu bánh mật đã cháy sạm nắng. Cặp vú căng đầy đang xẹp dần tong

teo. Đôi chân dài thẳng đã nhăn nhúm. Hai mắt to đen láy đã trũng sâu dưới vành

lông mày cong xơ xác. Những người còn lại, kẻ cụt đến gối, kẻ mất bắp chân như

cái que… cũng bị đói khát và cái nắng mùa khô nhiệt đới giày vò biến thành cái

thân khô xác, dật dờ như ma đói…” [52, tr.5]. Chỉ với vài nét phác họa về ngoại

hình của các nhân vật trong tác phẩm, Sương Nguyệt Minh đã khái quát được sự dữ

dội, khốc liệt của chiến tranh. Mặt khác, cũng qua những chi tiết về ngoại hình,

người đọc không chỉ thấy được hoàn cảnh mà phần nào cảm nhận được số phận bi

kịch của mỗi con người trong hoàn cảnh kiệt quệ. Họ chính là nạn nhân, gánh chịu

những đau thương mà chiến tranh gây ra.

Sau nét khái quát về các nhân vật, Sương Nguyệt Minh đã dành khá nhiều

thời gian để viết về Tùng, từ ngoại hình, hành động, ngôn ngữ… Tuy nhiên, ngay từ

nét vẽ ngoại hình, tác giả đã tạo ra một sự khác biệt giữa người lính Việt Nam với

những con người phía bên kia chiến tuyến. Trong điểm nhìn của kẻ thù, Tùng luôn

giữ được nét riêng trong dáng vẻ thư sinh của một chàng trai Hà thành. Lục Thum

nhìn thấy ở Tùng “Cái thằng tay trắng học trò èo uột”, còn Sa Ly ấn tượng với

Tùng bởi “Cái mặt thư sinh, nước da trắng xanh, khói thuốc đạn sạm nhọ nhem vài

vết của anh tù binh Việt Nam đang rờ rẫm buộc dây rừng. Lạ thật, nắng mưa và

trận mạc không làm cho anh lính Việt này thành người chiến trận từng trải, tầm tã,

dãi dầu. Dáng người cao nghều, lòng khòng, tay lêu nghêu, Tùng tựa hồ một tên

học trò trói gà không chặt” [52, tr.72]. Tùng khác biệt với kẻ thù bởi chất thư sinh

qua vẻ ngoại hình ấy. Lính tình nguyện Việt Nam vẫn mang trong mình dấu ấn của

một “cậu học trò” với nét ngây thơ, hồn nhiên và trong sáng của tuổi trẻ. Thế

nhưng, sự khốc liệt của rừng hoang đã in đậm trên hình hài dáng vóc của Tùng

85

khiến “da anh như thể đang khô héo, tính đàn hồi kém, dùng ngón tay véo da rồi

buông mà nếp da mất quá chậm” [52, tr.246]. Chiến tranh khiến người lính kiệt quệ

cả hình hài, thân xác. Nhưng cũng chính chiến tranh đã hun đúc ở Tùng sự căm

giận, đánh dấu sự vùng lên ở người con trai mang dáng vóc thư sinh ấy. Hình ảnh

đôi mắt Tùng chính là biểu hiện cho sự phản kháng mãnh liệt ấy: “Ngước mắt lên

nhìn tên lính tàn quân Pol Pot, trong thế tuyệt vọng, nhưng đôi mắt của Tùng vẫn

hằn lên những tia máu đỏ. Máu đỏ báo hiệu bắt đầu một sự trỗi dậy âm thầm, mãnh

liệt” [52, tr.172]. Đôi mắt ấy không chỉ biểu hiện cho sự căm thù, phản kháng mãnh

liệt mà nó còn đánh dấu cho sự trường thành ở Tùng. Chiến tranh đã tôi luyện ở

Tùng lòng dũng cảm, chiến tranh đã khắc vào đôi mắt Tùng sự kiên gan trước kẻ

thù nhưng chiến tranh cũng không làm mất đi đặc trưng của chàng trai Hà Nội.

Chính những chi tiết về ngoại hình đã khiến hình tượng người lính Việt Nam thêm

đẹp đẽ.

Trái ngược với hình dáng thư sinh của anh lính tình nguyện Việt Nam, Lục

Thum - tên chỉ huy của Pol Pot được khắc họa với một ngoại hình khá dị biệt: “Viên

chỉ huy lùn tịt. Lưng hơi gập. Hình dong cổ quái, xấu xí, khó coi, phảng phất giống

thân xác họ nhà hầu. Tướng ngũ lộ. Mắt khỉ. Hai tròng con ngươi lồi ra” [52, tr.33].

Ngoại hình của hắn hé mở tính cách của một kẻ đa nghi, trí trá, háo sắc và cô độc.

Điều này khiến hắn khác biệt với cấp dưới của mình nhưng lại mang đậm sự tương

phản đối với người lính Việt Nam. Nhìn ở phương diện nào cũng chỉ thấy Lục

Thum là một kẻ xảo trá, đa nghi và tàn bạo.

Trong tiểu thuyết Miền hoang, thằng Rô là nhân vật được Sương Nguyệt

Minh chú ý miêu tả nhiều nhất. Qua điểm nhìn của nhân vật Tùng, “Thằng này trán

dô, cằm thụt, mắt trắng rã. Một bên má sẹo lõm đến mức như bị bóc mất cơ, má bên

kia cũng sẹo vằn” [52, tr.43]; “Tên lính áo đen da nâu bóng. Tướng người phàm

tục. Trán dô. Cằm thụt. Lông mày xơ và cụt. Tay chân như tứ chi của vượn. Mắt

gấu thô lỗ trắng dã. Ấn đường hẹp chưa đủ khoảng cách một ngón tay” [52, tr.56].

Ngoại hình đã phần nào bộc lộ bản chất hung hăng, thô lỗ và xấc xược của hắn. Cái

vẻ bề ngoài kì dị của hắn thậm chí là nỗi ám ảnh trong Tùng: “Kinh nhất là cái

gương mặt có cái sẹo lõm má tối om, gớm ghiếc của nó, nhìn phát tởm đến già. Tôi

86

chẳng hiểu vì sao nó lại mang gương mặt kì dị như thế” [52, tr.123]. Cái sẹo lõm là

do hoàn cảnh sống của hắn tạo thành, nét ngoại hình dữ tợn là do môi trường tàn

bạo khiến hắn bị tha hóa mà mất dần nhân tính, để rồi sự hung hãn, tàn bạo trở

thành bản chất chủ đạo trong con người hắn.

Là cô gái duy nhất, phải sống giữa ba người đàn ông nơi rừng hoang, Sa Ly

được tác giả đặc biệt chú ý về ngoại hình. Cô được khắc hoạ với những đường nét

mềm mại làm toát lên sức sống của cô gái xinh đẹp: “Đường cong viền từ nách

xuống eo vòng theo mông rồi kéo xuống đùi dài. Mịn màng nước da màu bánh mật.

Hai gò vú căng dềnh hạ xuống theo nhịp thở” [52, tr.212]. Người con gái ấy mang

sức sống tràn trề, căng mọng. Thế nhưng hình ảnh của Sa Ly cũng là tiếng nói tố

cáo chiến tranh đanh thép nhất. Từ một cô gái xinh đẹp, trải qua những ngày tháng

lạc rừng bất hạnh, chịu sự giày vò của bọn người tàn ác, vẻ đẹp của Sa Ly không

còn giữ được nữa: “Cô gái duy nhất nước da mịn màu bánh mật đã cháy sạm nắng.

Cặp vú căng đầy đang xẹp dần tong teo. Đôi chân dài thẳng đã nhăn nhúm. Hai

mắt to đen láy đã trũng sâu dưới vành lông mày cong xơ xác” [52, tr.5]. Đó là “cái

đẹp tàn tật” trước sức mạnh tối tăm và sức mạnh tối tăm đang hành hạ, chà đạp cái

đẹp tàn tật. Có thể thấy, ngoại hình của Sa Ly phản ánh số phận con người trong

chiến tranh, đặc biệt là số phận người phụ nữ. Nhưng điều may mắn là dù chịu đựng

những bất hạnh do chiến tranh gây ra, Sa Ly vẫn giữ được vẻ đẹp nhân hậu, lương

thiện của mình. Sự xuất hiện của Sa Ly - cô gái duy nhất trong tiểu thuyết đã phần

nào giảm bớt sự khô khan của những câu chuyện về chiến tranh, để người đọc phần

nào cảm nhận được sự tồn tại của phần “người” trong miền hoang ấy.

Nếu trong tiểu thuyết Miền hoang, Sương Nguyệt Minh tập trung khắc họa

ngoại hình của bốn nhân vật: Lục Thum, Rô, Sa Ly và Tùng để bộc lộ tâm hồn, tính

cách nhân vật, đồng thời phản ánh thực tại khắc nghiệt của chiến tranh thì trong hồi

ký Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, thế giới nhân vật khá đông đảo, đa dạng và

phong phú đến từ mọi miền quê, mọi thành phần. Đoàn Tuấn chọn cách miêu tả

nhân vật theo tinh thần mấy câu thơ của Hồng Nguyên:

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

87

Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ thuở “một, hai”

(Nhớ - Hồng Nguyên)

Số nhân vật của Mùa chinh chiến ấy có lẽ phải lên đến hàng trăm. Thế nhưng

bức chân dung về đồng đội đã được Đoàn Tuấn khắc họa khá chi tiết và chân thực

qua những nét vẽ ngoại hình. Từng nét cười, đôi mắt, nước da,… đều được Đoàn

Tuấn ghi chép tỉ mỉ, mỗi người một vẻ, không ai lẫn vào ai và đặc trưng vùng miền

cũng được thể hiện rõ. Đó là tài năng song đó cũng chính là tấm lòng của Đoàn

Tuấn dành cho những người đồng đội đã mất. Qua những nét miêu tả ngoại hình,

người đọc không chỉ thấy sự chân thực trong chân dung người lính, mà hơn nữa,

chúng ta có thể cảm nhận phần nào vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của mỗi người lính

trên trang viết của nhà văn.

Trong những trang văn của mình, Đoàn Tuấn đã dành nhiều tình cảm khi

miêu tả về trung tá Võ Sỹ Lực. Từ lần đầu tiên gặp, nhân vật “tôi” đã đặc biệt chú ý

đến người chỉ huy: “Dáng cao lớn. Gương mặt đầy từng trải. Hàm răng đều và đẹp.

Đặc biệt đôi mắt như có hai đồng thau. Nhìn ai cũng như xoáy vào tâm can người

đó. Ông quê ở Quảng Bình, một mảnh đất mà con người xoắn bện dẻo dai bền bỉ

như dây chão, loại dây buộc mái chèo” [96, tr.23]. Nét vẽ ngoại hình ấy đã mang

đến ấn tượng rất đẹp về người chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự từng

trải, sự tinh nhanh, sự kiên nghị, sự rắn rỏi, bản lĩnh toát ra từngoại hình của ông

khiến cho bất kì người lính nào dưới sự chỉ huy của ông đều cảm thấy yên tâm khi

xông pha giữa bom đạn của kẻ thù. Và sau này, khi gặp lại vị chỉ huy lần thứ hai, vẻ

đẹp ngoại hình của tiểu đoàn trưởng Võ Sỹ Lực vẫn khiến cho người lính thông tin

ấy phấn khích: “Ông Lực đúng là tướng chỉ huy. Cao đến 1 mét 80. Mắt có hai đồng

thau, nhìn vào ai cũng như muốn nuốt chửng người ta. Nhưng tôi lại khoái cái nhìn

ấy. Nó như xuyên thấu tâm can người đối diện. Ông có giọng nói âm vang, chắc

nịch của người Quảng Bình” [96, tr.30]. Vâng, nói theo cách của Đoàn Tuấn thì đó

chính là “Cái uy của một vị dũng tướng”. Và chân dung của vị dũng tướng ấy cứ trở

đi trở lại: “Ông phải cao đến mét tám. Dáng người cực chắc, cực khỏe mạnh. Tôi cứ

hình dung, ông như cái dây chão. Dẻo dai, bền chặt, không bao giờ đứt. Đặc điểm

88

bền bỉ của con người Quảng Bình. Tôi đã nhìn nhiều lần vào mắt ông, thấy hai

đồng tử luôn chuyển động. Như hai nòng xoáy, xuyên suốt tâm can người đối diện.

Ai yếu bóng vía thường không chịu nổi” [96, tr.289]. Hình ảnh đôi mắt của thủ

trưởng Võ Sỹ Lực tạo thành điểm nhấn trong hình tượng nhân vật. Đôi mắt ấy bộc

lộ tính cách của con người ngay thẳng, quyết liệt, dũng cảm và đầy bản lĩnh. Chính

đôi mắt ấy đã tiếp thêm tinh thần chiến đấu cho anh em. Đôi mắt ấy khép lại ở chiến

trường, “Con đại bàng yên nghỉ trên dãy Trường Sơn”, nhưng người chỉ huy ấy vẫn

luôn là hình ảnh đẹp đẽ lung linh về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam.

Viết về đồng đội, Đoàn Tuấn nâng niu từng chi tiết, phác họa một cách chân

thực và tỉ mỉ từng con người mà anh đã gặp ở mặt trận Tây Nam. Đó có thể là hình

ảnh “con đại bàng” ở thủ trưởng Võ Sỹ Lực, có thể là những người lính tân binh

như Lũy - những tân binh má phính lông tơ: “Tôi chú ý đến Lũy, một cậu bé có

gương mặt thư sinh. Ánh nắng buổi sáng mùa khô chiếu xuống, tôi nhìn thấy những

chiếc lông tơ vàng óng trên đôi má đẹp như trái đào của Lũy. Mặt Lũy rất tươi. Nụ

cười hiền, hàm răng trắng đẹp như thiên thần khiến tôi cũng thấy vui lây” [96,

tr.296]. Vẻ đẹp thư sinh với những nét ngây thơ, trong sáng của Lũy đặt vào hiện

thực khốc liệt của chiến tranh khiến người đọc không khỏi đau xót. Lũy hi sinh

“Gương mặt em không còn hồng hào, nhưng vẫn đẹp, một vẻ đẹp trong trắng, sáng

ngời” [96, tr.298]. Vẻ đẹp của Lũy, sự hi sinh của Lũy là tiếng nói đanh thép tố cáo

chiến tranh. Khuôn mặt em bởi thế cứ ám ảnh, cứ khiến người đọc day dứt.

Còn nhiều những gương mặt đồng đội nữa góp mặt trong cuộc chiến khốc

liệt này. Đó là hình ảnh anh Bùi Văn Chứn “như con gái. Đẹp trai. Người cao dong

dỏng. Má đỏ môi hồng. Tóc lại xoăn” [96, tr.225]; hay hình ảnh anh Lưu Thanh

Sơn, người Bình Định “là một tay cực kỳ đẹp trai. Người cao. Đôi mắt dài. Tóc

bồng bềnh. Như nghệ sỹ. Sơn có giọng nói ấm và vang” [96, tr.208], anh Nguyễn

Văn Mạnh, người Quảng Ngãi “có dáng người cao dong dỏng, quần áo luôn gọn

gàng” [96, tr.160], y tá Chiến “đẹp trai, trắng trẻo, mắt đa tình, có dáng đi rất

cồng kềnh” [96, tr.139]. Mỗi người lính được khắc họa đều đẹp, rất đẹp. Đó là vẻ

đẹp hài hòa giữa ngoại hình và phẩm chất bên trong. Đằng sau mỗi gương mặt, mỗi

nét vẽ ngoại hình ấy chính là tình cảm của Đoàn Tuấn dành cho những người đồng

89

đội của mình.

Khắc họa nhân vật qua ngoại hình, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã

làm nổi bật chân dung người lính Việt trên chiến trường Campuchia. Khai thác

những yếu tố ngoại hình, một mặt các nhà văn đã khái quát hóa hiện thực của chiến

tranh, sự khốc liệt của cuộc chiến đã in đậm trong hình hài, dáng vóc của người

lính, đồng thời những nét vẽ ngoại hình là “chìa khóa” để người đọc khám phá vẻ

đẹp tâm hồn, phẩm chất của người lính. Xây dựng chân dung người lính, Sương

Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã thể hiện sự trân trọng cũng như những tình cảm sâu

đậm dành cho đồng chí, đồng đội.

3.1.2. Ngôn ngữ nhân vật

Theo Từ điển thuật ngữ văn học,“ngôn ngữ nhân vật là lời nói của nhân vật

trong tác phẩm thuộc các loại hình tự sự và kịch” [29, tr.183]. Ngôn ngữ đóng vai

trò đặc biệt trong việc khắc hoạ hình tượng nhân vật, “là một trong những phương

tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân

vật”. Trong tác phẩm của mình, nhà văn có thể cá thể hoá ngôn ngữ nhân vật bằng

nhiều cách khác nhau, song điều quan trọng nhất là qua hệ thống ngôn ngữ, nhân

vật được thể hiện một cách rõ nét nhất.

Trong Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy, Sương Nguyệt Minh và Đoàn

Tuấn đã khai thác khá thành công ngôn ngữ nhân vật, từ đó giúp người đọc tiếp cận

nhân vật một cách toàn vẹn hơn và có thể đi sâu tìm hiểu chiều sâu tư tưởng của tác

phẩm. Trong đó, các nhà văn đã chú ý khai thác ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ

độc thoại. Tùy theo chủ đích thể hiện nội dung của tác phẩm mà các tác giả cho

nhân vật dùng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại.

Về đối thoại, trong tác phẩm của mình, Sương Nguyệt Minh đã sử dụng một

dung lượng đối thoại khá lớn giữa các nhân vật. Các đoạn đối thoại giữa bốn nhân

vật khiến cho cốt truyện thêm liền mạch, làm cho mạch truyện không đơn diệu. Mặt

khác, qua ngôn ngữ đối thoại, tác giả có thể tạo nên những tình huống bất ngờ vừa

khắc họa được tính cách nhân vật. Trong Miền hoang, qua các đoạn đối thoại, bốn

nhân vật hiện lên với bốn tính cách khác nhau. Lục Thum có lối nói uy lực “Nghe

rõ chưa” thể hiện bản chất của một kẻ thâm độc những luôn nắm được uy quyền

90

trong tay. Hắn bao giờ cũng xưng “Ta”: “Ta nằm một lúc thì cơn nhức buốt lại

hành hạ, không ngủ được”, “Ta nhìn sâu vào mắt con y tá câm, dồn tinh lực áp đảo

nó khiến thần khí phải bạc nhược khuất phục” [52, tr.89, 93].

Thằng Rô cũng được khắc họa với phong cách ngôn từ cá nhân riêng. Hắn

luôn xuất hiện trong danh xưng “Tao”: “Tao nghĩ, phải phang toác đầu nó bằng

xẻng bộ binh”, “Tao trừng mắt nhìn con câm”… [52, tr.23, 25]. Cách xưng hô đã

thể hiện rõ bản chất vô học cũng như địa vị xã hội của hắn. Thằng Rô được khắc

họa với lớp ngôn ngữ thông tục, gần như lời thoại nào của hắn cũng là chửi thề,

văng tục, gắn với những chuyện chém giết: “Đ**mẹ! Có cái hố phòng thân đào

không nổi. Chả trách bọn tao đánh du kích phải chạy tụt quần. Nghe rõ chưa” [52,

tr.82] đã lột tả sự cục cằn, thô lỗ, độc ác. Mặt khác, lớp ngôn ngữ của hắn gắn liền

với các nhu cầu của đời sống hoang dã, thể hiện bản chất của con người bản năng,

ngu dốt. Hắn không thấy gì khác ngoài những nhu cầu bức thiết của đời sống bản

năng tăm tối. Thế nhưng, trong vai người kể chuyện, hắn luôn là người phát ngôn

cho lí tưởng: “Trong số 5 triệu người Khmer, chỉ cần một triệu người xây dựng xã

hội. Dứt khoát tao phải đứng trong số một triệu người còn lại, chứ không thể nằm

trong số bốn triệu như bọn bác sĩ, kĩ sư, giáo viên, nghệ sĩ,… bị coi là thừa ra” 52,

tr.145]. Lớp ngôn ngữ ấy đã lột tả tự ngu muội, trung thành một cách mù quáng của

tên lính áo đen.

Còn Tùng - một người lính tình nguyện Việt Nam chủ yếu được khắc hoạ

bằng ngôn ngữ nhẹ nhàng, có văn hoá. Trong ngôi kể thứ nhất, bao giờ Tùng cũng

xưng “Tôi”, “Chúng tôi”: “Tôi loay hoay không tài nào ra khỏi tầm đạn bắn thẳng

của bọn lính áo đen” [52, tr.11]; “Bọn lính áo đen tàn quân Pol Pot, chúng tôi hay

gọi là lính Pốt” [52, tr.8]. Đó là cách xưng hô của một con người ý thức rõ vị thế

của mình trong cuộc chiến. Mặt khác, Tùng luôn được được đặt vào vùng ngôn ngữ

văn hóa. Đó có thể là ngôn ngữ đậm chất thơ về Hà Nội, về tình yêu, về tuổi trẻ

hoặc lớp ngôn ngữ khi nói đến các lĩnh vực y học, lịch sử, địa lí… Lớp ngôn ngữ ấy

gợi tả vẻ đẹp tâm hồn của chàng trai Hà Nội vô cùng tinh tế, lãng mạn và trí thức.

Cũng có khi Tùng được khắc họa trong lớp ngôn ngữ xù xì, thô ráp, đậm chất chiến

trường: “Đéo phải ẩn nấp thì tao đéo đào nữa” [52, tr.84]; “Chuột chù chê khỉ

91

rằng hôi. Mẹ kiếp! Đúng là cái loại chuột chù” [52, tr.84]; “Tôi tỏ ra láu cá, sợ hãi,

cố đi thụt lùi lại bốn năm mét. Bàn chân tôi đặt lên vết chân thằng Rô đen in rõ trên

tro than, nó bị tan thây thì mình cũng chỉ bị thương là cùng” [52, tr.350]. Ở lớp

ngôn ngữ này, người đọc thấy được sự từng trải và trưởng thành của Tùng trong

chiến tranh. Và như vậy, qua lớp ngôn ngữ nhân vật, người lính Việt Nam hiện lên

một cách chân thực và toàn diện hơn, đối lập với kẻ thù bên kia chiến tuyến trong

tính cách cũng như vẻ đẹp tâm hồn.

Cô gái Sa Ly là người được khắc họa qua ngôn ngữ ít nhất, tiếng nói của cô

chỉ cất lên trong những trường hợp đặc biệt khẩn cấp nhưng lại thâu tóm được

những nỗi ám ảnh kinh hoàng, sự tuyệt vọng của con người trong hoàn cảnh trớ

trêu. Mỗi lớp ngôn ngữ của nhân vật lại phản ánh một trạng thái tâm lí, tính cách,

một số phận khác nhau. Qua ngôn ngữ, các nhân vật được cá tính hóa trong ý đồ

nghệ thuật của nhà văn.

Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn cũng đặc biệt chú ý khai thác ngôn

ngữ giàu tính đối thoại. Trong tác phẩm của Đoàn Tuấn, ông chủ tâm khai thác

những cuộc đối thoại ngắn của người lính để những trang viết trở nên sinh động hấp

dẫn, người đọc vừa có thể phát hiện đặc điểm tính cách nhân vật đồng thời nhận ra

những thông điệp nghệ thuật mà nhà văn muốn gửi gắm đến tác giả. Tuy nhiên, một

điểm đặc biệt quan trọng trong Mùa chinh chiến ấy là Đoàn Tuấn đã tạo ra một lớp

ngôn ngữ giàu tính đối thoại. Có nghĩa là sự đối thoại không chỉ dừng lại ở việc

chuyện người này đối thoại, trao đổi thông tin, bày tỏ quan điểm, bộc lộ cảm xúc

giữa người này với người kia một cách ngẫu nhiên, nhất thời mà quan trọng là đối

thoại về tư tưởng, quan điểm, cách nhìn về thế giới và con người ẩn đằng sau những

phát ngôn của họ. Đó là lúc nhân vật cất lên tiếng nói của mình, vừa hướng vào bản

thể để chất vấn, suy nghiệm, tự thú, vừa hướng ra bên ngoài để đối thoại, tranh biện,

phê phán. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn đã lắng nghe biết bao những cuộc

đối thoại của đồng đội để hiểu hơn đời sống bên trong của những người lính ấy.

Nhằm khắc họa toàn vẹn nhân vật, bên cạnh đối thoại, Sương Nguyệt Minh

và Đoàn Tuấn còn rất chú trọng đến độc thoại nội tâm, bởi đó là “ngôn từ trực tiếp

không diễn tả thành lời của nhân vật” [34, tr.114]. Độc thoại nội tâm chính là hình

92

thức để người lính nói lên những suy tư thầm kín của mình. Độc thoại nội tâm hay

tiếng nói bên trong của nhân vật mở ra đời sống tâm hồn của con người với đầy đủ

những cung bậc khác nhau: vui, buồn, hạnh phúc, hi vọng, thất vọng… Nhờ độc

thoại, hình tượng người lính hiện lên toàn diện hơn và người đọc có cơ hội hiểu sâu

sắc hơn về những người lính tham chiến tại chiến trường Tây Nam.

Trong Miền hoang, nhân vật Tùng nói nhiều suy nghĩ của mình về kẻ thù, về

sự hi sinh mất mát, về sự phi lí của chiến tranh và về chính bản thân mình với cả

những đau đớn, tuyệt vọng, cô đơn. Tùng được đặt trong mối quan hệ với kẻ thù và

những dòng suy tư của anh hướng về phía kẻ thù. Ở đó không hẳn là sự căm ghét,

anh bộc bạch những suy nghĩ nhân đạo cũng như suy tư sâu sắc về cuộc sống: “Tất

cả đều là sản phẩm của môi trường, hoàn cảnh sống. Thằng Rô áo đen cũng chỉ là

nạn nhân của một đời sống mù quáng, tăm tối”; anh cho Sa Ly cũng chỉ là nạn nhân

“của một cuộc nội chiến đẫm máu từ những cái đầu không tưởng về một xã hội

cộng sản Khmer chẳng cần trí thức” [52, tr.536 - 540]. Nếu như không có chiến

tranh, cuộc đời của họ sẽ không u tối, mù quáng, không bị ức hiếp, tủi nhục. Những

suy nghĩ ấy là những chiêm nghiệm của người lính về chiến tranh và con người

trong chiến tranh, giúp người đọc có cái nhìn thấu đáo hơn về chiến tranh. Qua việc

miêu tả nội tâm nhân vật, toàn bộ trạng thái, suy nghĩ, cảm xúc đều được bộc lộ một

cách cụ thể. Sương Nguyệt Minh đã thành công trong việc sử dụng độc thoại nội

tâm như một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong quá trình nhận thức của nhân

vật. Ông đi sâu vào thế giới nội tâm đầy bí ẩn để khám phá và hiểu nhân vật. Bởi

thế nhân vật của Sương Nguyệt Minh trở nên chân thực và toàn diện hơn.

Trong Mùa chinh chiến ấy, ngôn ngữ độc thoại cũng được Đoàn Tuấn sử

dụng khá hiệu quả. Ở điểm nhìn của nhân vật “tôi”, không ít lần Đoàn Tuấn bộc lộ

những suy nghĩ, những trăn trở về cuộc chiến, về con người… Đó có thể là những

đau đớn khi chứng kiến sự hi sinh của đồng đội: “Trên bộ quân phục còn mới của

em, có mùi mồ hôi, mùi máu, mùi thuốc nổ, mùi khói và mùi đất Anlong Veng, tôi

còn thấy vài cánh hoa nhỏ bám vào. Chắc khi vấp mìn, em đã nhìn thấy những cánh

hoa này? Nếu không có chiến tranh, không có mìn, chắc em sẽ cầm những bông hoa

này đi tặng cô gái nào đó, phải không Lũy? Giá không có người, tôi đã cúi xuống

93

hôn lên gương mặt em. Sao lại ra đi sớm thế Lũy ơi? Chói trong lòng tôi, đôi má

phính hồng dưới nắng mai rừng khộp. Ánh nắng ấy, những sợi lông tơ trên má hồng

ấy sao cứ in đậm mãi trong tôi? Sao tôi thấy thương cho tuổi trẻ của các em? Sao

tôi thấy tiếc cho cuộc đời các em?” [96, tr.299]. Đó là tiếng lòng, là tiếng nấc nghẹn

ngào đau đớn, là sự hòa quyện của nhiều cung bậc cảm xúc khi chứng kiến người

đồng đội trẻ của mình hi sinh.

Không chỉ hướng về đồng đội, Đoàn Tuấn cũng bộc lộ những suy tư, trăn trở

về cuộc chiến, về người lính, về hiện thực chiến trường. Trong suy nghĩ của Đoàn

Tuấn, cuộc sống của nhân dân Campuchia dưới thời Pol Pot hiện ra trong những

mất mát: “Họ cũng chẳng biết nhà mình giờ ra sao. Còn hay mất? Chiến tranh.

Phận người như chiếc lá. Cuốn bay, vui dập theo cơn gió thời cuộc” [96, tr.82]. Đó

là hậu quả nặng nề của chiến tranh, của họa diệt chủng mà Pol Pot gây ra. Trong

suy nghĩ của Đoàn Tuấn, chiến tranh luôn là những mất mát, đau thương và chuyện

sinh tử ở chiến trường luôn ám ảnh ông: “Cái chuyện sinh tử ở chiến trường, đúng

là từng giây. Giây trước sống, giây sau đã chết. Thoáng qua. Đơn giản. Ai nhớ thì

nhớ. Ai quên thì quên” [96, tr.286]. Không chỉ chiêm nghiệm về chiến tranh, mỗi số

phận người lính trong cuộc chiến ấy cũng khiến Đoàn Tuấn trăn trở. Mỗi sự kiện

cũng được Đoàn Tuấn mổ xẻ, phân tích, đánh giá theo quan điểm cả nhân của mình.

Có thể nói, qua dòng độc thoại nội tâm của nhân vật, người đọc có cơ hội được nhìn

sâu vào cuộc chiến. Chiến tranh hiện ra trong đủ mọi cung bậc, đủ mọi cảm xúc, đủ

mọi góc nhìn… chứ không chỉ là những lời kể mờ nhạt, những mô phỏng trên lí

thuyết. Hiện thực chiến tranh là hiện thực của những cảm nhận riêng, của những

con người đã và đang sống trong chiến tranh, chính vì vậy đó là hiện thực khốc liệt

và bi tráng nhất của cuộc chiến nơi “đất khách quê người”.

3.2. Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trần thuật

3.2.1. Người kể chuyện

Thuật ngữ người kể chuyện có từ năm 1940 nhưng đến cuối thế kỉ XX lý luận

về người kể chuyện mới phát triển. Đây là vấn đề được nhiều người quan tâm nhưng

cho đến nay khái niệm người kể chuyện vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn.

Theo Lê Bá Hán: “Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật

94

trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ

thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng của chính tác giả ngoài đời, có thể là

một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra, có thể là một người biết câu chuyện

nào đó. Một tác phẩm có thể có nhiều người kể chuyện” [29, tr.221]. Giáo sư Lê

Ngọc Trà cho rằng: “Người kể chuyện là thuật ngữ chỉ nhân vật đóng vai trò là chủ

thể của lời kể chuyện, là người đứng ra kể trong tác phẩm văn học” [93, tr.153]. Từ

những khái niệm trên, ta có thể hiểu người kể chuyện hay còn gọi là người trần

thuật là một nhân vật được hư cấu hoặc có thật; văn bản tự sự được thể hiện thông

qua hành vi ngôn ngữ mà anh ta tạo thành; người trần thuật thực hiện nhiệm vụ trần

thuật, truyền đạt, chỉ dẫn, bình luận,… những vấn đề được mô tả hoặc bình luận

trong tác phẩm.

Trong nghệ thuật tự sự, người kể chuyện đóng vai trò vô cùng quan trọng.

Người kể chuyện là sản phẩm của sáng tạo nghệ thuật, là công cụ do nhà văn hư cấu

nên để kể chuyện. Việc nhà văn lựa chọn hình thức kể chuyện nào có vai trò đặc biệt

quan trọng trong tác phẩm, quyết định sự thuyết phục và thành công của câu chuyện.

Người kể chuyện trong tác phẩm tự sự có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức

khác nhau: người kể chuyện kể theo “kiểu khách quan hóa” với ngôi kể thứ ba và

người kể chuyện kể theo kiểu “chủ quan hóa” với ngôi kể thứ nhất. Với ngôi kể thứ

ba chủ thể hoàn toàn ở ngoài cốt truyện, không thuộc vào thế giới của các nhân vật

truyện mà chỉ thực hiện nhiệm vụ theo dõi nhân vật, dẫn dắt, đứng sau hành động

để quan sát và kể lại, không trực tiếp tham gia vào sự kiện, biến cố truyện. Chủ thể

kể chuyện chi phối toàn bộ tác phẩm từ lời dẫn chuyện, cách kể, cách tả đến cả lời

trữ tình ngoại đề. Người kể tuy ẩn tàng giấu mặt nhưng “biết tuốt” mọi chuyện diễn

ra với nhân vật. Ngược lại, với ngôi kể thứ nhất, câu chuyện được kể lại bởi một

người kể chuyện hiện diện như một nhân vật trong truyện. Người kể chuyện là một

nhân vật ở cấp độ hành động, tham gia vào mọi biến cố, sự kiện của câu chuyện. Đó

là câu chuyện mà chính người kể chuyện đã từng “nếm trải”, “trải nghiệm” hoặc

chứng kiến, quan sát. Với đặc trưng đó, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất có khả

năng khám phá chiều sâu tâm hồn, khai mở những vùng bí mật ẩn tiềm trong tâm

thức con người. Khi đó, người kể chuyện tham gia vào câu chuyện không chỉ với tư

95

cách là người kể lại câu chuyện từng chứng kiến và “trải nghiệm” mà qua đó, người

kể chuyện cũng chính là người bày tỏ một thái độ, quan điểm hoặc lập trường diễn

ngôn hướng tới nhân vật và sự kiện.

Điểm đặc sắc trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh là tác giả đã khai

thác triệt để ưu thế của người kể chuyện ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Ở ngôi kể thứ

ba, Sương Nguyệt Minh đã sử dụng 25/88 chương truyện. Người kể chuyện ngôi

thứ ba đã thâu tóm toàn bộ cuộc chiến tranh cứu nước Campuchia thoát khỏi thảm

họa diệt chủng cũng như kết nối cuộc đời của bốn nhân vật lạc rừng. Sương Nguyệt

Minh đã đan cài khéo léo người trần thuật ngôi thứ ba vào những chương mang cái

nhìn khách quan về cuộc chiến tranh và nhân vật. Tuy nhiên, điểm đặc biệt của

cuốn tiểu thuyết là Sương Nguyệt Minh đã lồng ghép năm điểm nhìn khác nhau qua

bốn người kể chuyện ngôi thứ nhất và người kể chuyện ngôi thứ ba. Trong 88

chương của cuốn tiểu thuyết, các nhân vật luân phiên nhau giữ vai trò người kể

chuyện. Trong đó, người kể chuyện ngôi thứ nhất đóng vai trò chủ yếu. Cụ thể:

Tùng 33/88 chương, Rô 10/88 chương, Sa Ly 8/88 chương và Lục Thum 6/88

chương, các chương còn lại dành cho người kể chuyện ngôi thứ ba. Ở đây, với lối

trần thuật ngôi thứ nhất, nhà văn đã để cho nhân vật tự nói lên tiếng nói của họ. Đó

là những câu chuyện về cuộc đời, số phận của chính họ với những tâm tư, cảm xúc

riêng. Và chính tiếng nói bên trong gắn với ngôi kể thứ nhất ấy, cuốn tiểu thuyết

của Sương Nguyệt Minh đã lôi cuốn người đọc, đưa người đọc vào những trải

nghiệm mới, những nhận thức mới về cuộc chiến.

Nhân vật xuất hiện đầu tiên với vai trò người kể chuyện xưng “tôi” là Tùng -

anh lính tình nguyện Việt Nam bị bắt làm tù binh. Qua lời kể của Tùng, chiến tranh

và số phận người lính hiện lên chân thực nhất. Trong những trang đầu tiên của tác

phẩm, qua lời kể của Tùng, người đọc đã thấy ngay bộ mặt của chiến tranh: “Lính

tráng trên chiếc xe quân sự thứ hai còn đang bàng hoàng thì… đánh uỳnh một phát.

Bánh ô tô đằng sau dính mìn, sức ép hất tung cái thùng xe và lính tráng lên trời.

Một bánh cao su và thằng Huy “đen” bị lực đẩy ném lên vòm cây cổ thụ cao đến

chục mét rồi mắc luôn trên đó. Lạ kỳ! Thằng Huy “đen” nằm vắt bụng lên cành

cây, chân và đầu gục rũ, mà vẫn không chịu rơi xuống. Đất đá, mảnh gỗ, mảnh sắt,

96

xác người, cánh tay, cẳng chân và thịt người rơi kêu… bịch bịch… xào xào…” [52,

tr.10]. Sự ác liệt, cam go của cuộc chiến hiện hữu ngay trước mắt Tùng, xâm lấn

vào từng cơ quan cảm giác của người lính tình nguyện Việt Nam: “Bỗng chốc, lòng

tôi hoang hoải, và rét lạnh thân thể. Những hình ảnh bắn, giết, tàn sát, chết chóc,

cái bụng xổ ruột gan cả đống của tên lính áo đen cầm “ống thổi” viên đạn ghim

vào trán thằng Tuấn B40, và những cái đầu đồng đội thành bãi thịt xương lẫn mảnh

mũ cối lổn nhổn… hiện lên liêu xiêu, dật dờ nhẩy múa trước mắt. Rùng cả mình”

[52, tr.42]. Và cũng trong chính lời kể ấy, người đọc thấy rõ được tính chất của cuộc

chiến cũng như tình thế bất lợi của quân tình nguyện Việt Nam: “Cuối cùng thì

quân áo xanh chúng tôi hết đạn trước. Lính quân tình nguyện chúng tôi tựa hồ

những con hổ bị cạy hết nanh, nhổ sạch móng vuốt. Thằng bị thương, thằng chết,

thương vong gần hết” [52, tr.17]. Chiến tranh đã đi đến hồi kết thúc, nhưng hiện

thực chiến trường vẫn khốc liệt, vẫn chất chứa đầy những mất mát, đau thương. Ở

đó, Tùng ý thức rõ hoàn cảnh của mình: “Tôi là một tên tù binh thực thụ? Phải làm

gì đây để tồn tại giữa bầy sói hoang đói khát và sinh tồn ở núi rừng hoang này?”

[52, tr.32]. Tùng bị đặt trong tình cảnh lạc đường - mong manh giữa sự sống và cái

chết, giữa rừng Miên chứa đầy hiểm nguy và bọn người mông muội, ngu xuẩn và

độc ác. Trong những ngày tháng lạc lõng ấy, Tùng đã không giấu giếm nổi cảm xúc

của một chàng thanh niên vừa rời ghế nhà trường tham gia chiến trận. Ở Tùng, mọi

cung bậc cảm xúc được hiện lên rõ nét. Người tù binh ấy không giấu nổi sự tức giận

vói kẻ thù: “Chết cha mày đi! Tôi lẩm bẩm chửi thầm”, “Một lũ rị mọ mê tín. Tôi

chửi thầm trong bụng” và cũng có lúc, nỗi sợ hãi, đơn độc xâm chiếm lấy anh:

“Nước mắt tôi chảy ròng trên má. Nỗi lo và sợ hãi đan xen. Không kịp nghĩ đến

đồng đội, đơn vị hay nỗi nhớ nhà nữa. Chỉ cảm thấy hơi lạnh toát tỏa ra từ cái lưỡi

lê tuốt trần… xa gần sau lưng” [52, tr.79]. Không ít lần, nỗi nhớ người yêu, nhớ gia

đình ùa về khiến Tùng rưng rưng cảm xúc: “Tầm này ở nhà mẹ tôi đã dọn cơm.

Không khí xã hội bao cấp vẫn còn len lỏi vào từng bữa cơm. Cơm độn ngô vàng

ươm. Rau muống luộc. Bát nước được chắt ra, vắt nửa quả chanh, vị thanh thanh.

Chan vào cát cơm độn, rồi lùa vào miệng vẫn cứ thấy ngon lành… Tôi còn ước ao

có đĩa đặc sản bánh tôm Hồ Tây. Gọi là bánh tôm Hồ Tây, nhưng lại bán trong

97

Quán Gió ở bán đảo nổi nhô giữa hồ Trúc Bạch. Đôi khi cuối tuần, tan học đói

meo, Thùy và bọn con gái phóng xe vù vù ra nhận chỗ ngồi trước ở sát mép hồ…”

[52, tr.225]. Lời kể như thước phim quay chậm về quá khứ với những kỉ niệm ngọt

ngào. Giữa hiện thực khốc liệt của cuộc chiến, người lính Việt Nam vẫn luôn hướng

về những kỉ niệm ở Hà Nội, vẫn luôn mong muốn được trở về với quê hương, gia

đình. Đó chính là vầng sáng lung linh trong tâm hồn người lính, giúp họ vượt qua

những khó khăn, khốc liệt của cuộc chiến để được trở về.

Qua lời kể của Tùng, người đọc thấy được quá trình đấu tranh của anh lính trẻ

để được trở về. Ngay từ lúc rơi vào tay địch, Tùng đã học được cách nhẫn nhịn, chịu

đựng từ anh Du: “Nếu không may rơi vào tay bọn Khmer Đỏ, bị chúng giết ngay thì

“chó chết hết chuyện” không nói làm gì, còn chúng bắt giữ phải tuyệt nhiên: Nhẫn

nhục. Chịu đựng. Không trêu tức. Không chống đối. Chấp hành lệnh của chúng một

cách khôn khéo, làm tan chảy lòng hận thù. Vì bọn thô lỗ man rợ ấy rất hay nổi nóng,

xọc cho một lưỡi lê, hoặc bổ cho nhát dao quắm là đi đời nhà ma” [52, tr.82]. Nhận

thức ấy đánh dấu sự trưởng thành, bản lĩnh trong tính cách của anh lính tình nguyện

Việt Nam. Thời gian khiến anh biết nhẫn nhịn, chịu đựng và khéo léo hơn trong cách

ứng xử với kẻ thù để tìm con đường sống, con đường trở về.

Người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng “tui” là Sa Ly, nạn nhân của bọn

Khmer Đỏ. Ngôi kể xưng “tui” của Sa Ly chỉ xuất hiện trong 8/88 chương truyện

của tiểu thuyết Miền hoang, nhưng lại thể hiện đầy đủ nhất sự khốc liệt của chiến

tranh qua số phận của người phụ nữ ở phía bên kia chiến tuyến. Sa Ly kể câu

chuyện của cuộc đời mình bắt đầu từ thực tại “Chỉ còn tui với ba người đàn ông”

[52,tr.45] với cảnh sống ê chề: “Nỗi bất hạnh khi tuổi thơ lên sáu là nỗi đau thương

mất mát người thân ruột thịt; còn nỗi khốn khổ bị ném vào giữa đám đàn ông như

một bầy lang sói đói khát là nỗi đau bẽ bàng, ê chề lại bắt đầu từ một năm trước,

tui cố quên đi mà lúc nào cũng hiện ra ám ảnh” [52, tr.45]. Từ giây phút ấy, Sa Ly

trở thành nạn nhân của chiến tranh. Một người phụ nữ yếu đuối giữa bầy lang sói

không thể bảo vệ chính bản thân mình. Sa Ly tận mắt chứng kiến cảnh gia đình

mình bị hành sát, bản thân chịu đựng những đau đớn giày vò và thực tại trong hoàn

cảnh lạc rừng phải đồng hành cùng ba người đàn ông, hai người cùng màu da nhưng

98

lại biến cô thành “công cụ” để thỏa mãn sự dâm dục thú tính, một người đàn ông

khác chủng tộc, tri thức và hiền lành lại không thể bảo vệ, cưu mang cô. Trong câu

chuyện về chính mình, Sa Ly đã lột tẩy bản chất của chiến tranh và sự khốc liệt của

nó đối với số phận của từng con người. Chiến tranh không chừa một ai và cuộc sống

của những người bên kia chiến tuyến cũng là những đau khổ, là mất mát, là những

ám ảnh, day dứt và tuyệt vọng. Tuy nhiên, trong hành trình tìm đường ra khỏi rừng

Miên, Sa Ly luôn là người bảo vệ, chở che cho Tùng. Cô luôn giữ trong mình

những ý nghĩ, những tình cảm đẹp nhất về người lính tình nguyện Việt Nam. Trong

cô hoàn toàn không có sự hằn thù với người phía bên kia chiến tuyến, ngược lại rất

nhiều lần Sa Ly cứu Tùng khỏi sự độc ác, man rợ của kẻ thù, cũng như nhiều lần

tìm cơ hội cho anh trốn thoát. Cô chia sẻ với anh cả những giọt nước quý hiếm cuối

cùng, chăm sóc anh như một người mẹ lúc đau ốm, chia sẻ gánh nặng trên vai người

lính tình nguyện Việt Nam… Qua những trang viết mà Sa Ly đóng vai trò là người

trần thuật, người đọc nhận thấy ánh sáng lấp lánh của vẻ đẹp nhân văn. Cô gái ấy là

nạn nhân của chiến tranh, là người bên kia chiến tuyến, nhưng biết tôn trọng lẽ phải

và có một trái tim nhân hậu, chan chứa yêu thương. Chính Sa Ly đã mang đến vẻ

đẹp nhân văn cho tác phẩm, mang đến niềm tin về bản chất tốt đẹp của con người.

Người kể chuyện tiếp theo ở ngôi thứ nhất là thằng Rô với lối xưng “tao” cộc

cằn, thô lỗ. Nếu Sa Ly là nạn nhân của Pol Pot thì thằng Rô chính là sản phẩm mà

bọn chúng tạo ra. Ngay từ lần xuất hiện đầu tiên, bản chất độc ác của hắn đã được

bộc lộ: “Tao nghĩ, phải phang toác đầu nó bằng lưỡi xẻng bộ binh. Không! Phải

băm vằm…” [52, tr.23]. Và trong suốt hành trình, hắn đã nói lên những suy nghĩ

man rợ, tối tăm trong con người hắn. Ở con người này, ban đầu vẫn tồn tại với bản

chất của con người, nhưng sống trong hoàn cảnh, môi trường tàn bạo của bọn Pol

Pot hắn dần bị tha hóa, hình hài biến dạng, phần “con” lấn át phần “người” trong

hắn để rồi bản chất thú tính luôn hiện hữu trong hắn. Hắn được đào tạo để phục

tùng, để xây dựng một xã hội lí tưởng. Chính vì vậy, trong vai người kể chuyện, hắn

trở thành nhân vật phát ngôn “sáng giá” cho lí tưởng chủ nghĩa xã hội “không cần

sách vở nhảm nhí của bọn trí thức ăn bám” [52, tr.159]. Hắn luôn tôn sùng lãnh tụ

một cách ngu muội “quyết noi gương học theo Lục Thum, để được đứng vào hàng

99

ngũ tinh hoa” như lãnh tụ Pol Pot quán triệt: “Trong số 5 triệu người Khmer, chỉ

cần 1 triệu người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dứt khoát, dứt khoát tao phải đứng

trong số một triệu người còn lại, chứ không thể nằm trong số bốn triệu như bọn bác

sĩ, kĩ sư, giáo viên, nghệ sĩ… bị coi là thừa ra” [52, tr.145]. Những suy nghĩ ấy

khiến hắn trở thành một công cụ, một cỗ máy giết người của bọn Pol Pot. Trong

suốt hành trình, hắn đã bộc lộ tất cả sự tàn ác, mông muội, ngu xuẩn của mình. Có

thể nói, thằng Rô là nhân vật được đào xới tận cùng chiều sâu nhân cách, qua đó

những câu văn càng có tính chân thực và thuyết phục bạn đọc hơn nhiều lần.

Nhân vật cuối cùng kể chuyện ở ngôi thứ nhất là Lục Thum - kẻ chỉ huy. Bản

chất lọc lõi, khôn ngoan nhưng vô cùng tàn ác được thể hiện rõ qua nhân vật này.

Lục Thum xuất hiện trong hoàn cảnh bị thương ở chân: “Cái chân đau buốt và lan

lên óc, tỏa vào nội tạng” [52, tr.89]. Bản thân hắn chịu đựng những giày vò, đau

đớn do chiến tranh gây ra. Hiện thực chiến trường hiện hữu ngay ở hình ảnh cái

chân của hắn, ở vết thương ngày đêm hành hạ hắn đến kiệt quệ. Và có lúc hắn phải

thốt lên: “Thà đánh nhau tanh bành chết mẹ nó đi còn nhẹ nợ. Thà rằng tự nguyện

cột chân vào chân súng 12ly7, chết oanh liệt giữa chiến trận còn cảm thấy vẻ vang.

Thà rằng, đánh trận thua, bị xử bắn còn được tiếng oai hùng. Thà rằng, nằm trên

bụng gái đẹp bị phạm phòng chết ngắc rồi người đời nguyền rủa còn được tiếng

chết vì gái xinh… Đằng này, ta chẳng khác gì con thú hoang bị trúng tên, sống

không xong chết chẳng nổi” [52, tr.269]. Tuy ở phía thắng, nhưng hắn cũng nếm

trải đủ mùi khổ cực, đau đớn do chiến tranh gây ra. Đó là cái giá phải trả cho chiến

tranh. Từ một kẻ được quân đội Việt Nam đào tạo bài bản chính quy, hắn trở thành

một kẻ ăn cháo đá bát và trở thành công cụ giết người của bọn Pol Pot. Trong suốt

quá trình lạc đường, với bản chất của một kẻ lọc lõi hắn luôn biết cách giữ được

quyền uy của mình và tỏ ra khôn ngoan “lạt mềm buộc chặt” với thuộc cấp của

mình: “Có lẽ tại ta cả mà thôi. Các em khốn khổ quá vì cái thân tàn ngắc ngoải của

ta. Vứt ta xuống đất, quẳng ta giữa rừng. Mặc cái thân ta cho chó sói ăn, cho mối

xông xương cốt… Các em còn trẻ, các em cần phải sống… Các em phải cưới vợ, lấy

chồng, sinh con đẻ cái, đừng vì ta mà cả lũ chết mục xương giữa rừng hoang” [52,

tr.219, 220]. Bằng sự lọc lõi, nhiều lần hắn đã kích thích được sự trung thành của

100

thuộc cấp. Song cũng có thể nhận thấy, bên cạnh hình ảnh một kẻ dày dạn kinh

nghiệm chiến trường vẫn có một Lục Thum tỏ ra sợ hãi ở nơi rừng Miên mông

muội: “Ta nghĩ đến một con sói độc bỏ đàn đi hoang. Thanh âm rú rít ghê rợn ấy

mỗi lúc một rõ hơn. Hú…hú…ú…ú. Ôi giời ơi! Kẻ thù không mong đợi đang đến.

Tiếng sói tru thảm thiết dội vào tai, như có cái kim nhọn đâm đâm vào màng nhĩ.

Mắt ta nhắm lại và giơ hai bàn tay xòe ra bịt vào tai cản âm. Âm âm. U u. Nỗi

trống vắng đơn độc lẫn sợ hãi khiến thân thể ta mềm nhũn ra, và chân tay rã rời. Sợ

người ta không sợ nhưng lúc này ta sợ chó. Giữa chốn rừng hoang mênh mông mịt

mù, chó có sức mạnh hơn người, ta không bằng con sói hoang. Trong cuộc đời

chinh chiến liên miên, chưa bao giờ ta rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng và rớt giá thê

thảm thế này” [52, tr.269]. Chính lối trần thuật của Lục Thum mang đến cho người

đọc cảm nhận rõ hơn về kẻ thù, bản chất của chúng được bộc lộ rõ nhất nơi rừng

Miên bí ẩn, hoang dã.

Kể chuyện ở ngôi thứ nhất khiến cho câu chuyện trở nên chân thực hơn.

Sương Nguyệt Minh đã để nhân vật tự soi rọi vào tâm can của mình để bộc lộ, bày

tỏ… Từ đó, người đọc có một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn ở cả hai phía ta và

địch. Mỗi số phận trong cuộc chiến ấy tạo nên một bức tranh đa màu, ở đó có những

khoảnh sáng, tối, đậm nhạt khác nhau. Mặt khác, với ngôi kể thứ nhất, tác phẩm đã

thu hẹp khoảng cách giữa nhà văn và độc giả, khiến họ tiến gần nhau hơn, cùng đối

thoại để tìm ra chân lí cuộc sống. Sương Nguyệt Minh bộc lộ xu hướng viết “như

một nhu cầu trình bày những trải nghiệm của bản thân”. Điều đó cho thấy rằng

Sương Nguyệt Minh là người rất chú ý khai thác tiếng nói cá nhân của mỗi con

người để tự họ bóc trần những ham muốn rất mực con người của mình.

Người kể chuyện là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, được nhà văn hư cấu

tưởng tượng để dàn dựng câu chuyện, qua đó thể hiện ý đồ của mình. Trong tiểu

thuyết, người kể chuyện thay mặt nhà văn trong việc trình bày thể hiện quan điểm

của mình, nhưng người kể chuyện không đồng nhất với tác giả. Tác giả là chủ thể

sáng tạo, người kể chuyện là nhân vật do tác giả tạo ra, đảm nhiệm việc kể, việc tổ

chức tác phẩm. Nhưng ở thể loại hồi ký, hình tượng tác giả và người kể chuyện là

một. Hình tượng tác giả đồng nhất với con người tác giả, với chủ thể sáng tạo và thể

101

hiện trực tiếp trên văn bản nghệ thuật.

Do đặc trưng thể loại, người kể chuyện trong tác phẩm hồi ký xuất hiện ở

ngôi thứ nhất một cái tôi thông suốt, kể về mình, về những người có mối quan hệ

với mình, những kỉ niệm, những ấn tượng,… Trần thuật ở ngôi thứ nhất là một điều

tất yếu trong hồi ký bởi câu chuyện được kể lại cũng là câu chuyện của một cá

nhân, người trong cuộc, là chứng nhân của những sự kiện quá khứ. Với hồi ký,

“câu chuyện về cá nhân trở thành tâm điểm của việc tổ chức trần thuật, cho việc

thể hiện quan điểm tự sự của tác giả”, thể hiện “mối quan hệ trực tiếp giữa nhân

vật người kể chuyện và các biến cố, sự kiện được kể” [77, tr.434].

Trong hồi ký Mùa chinh chiến ấy, người kể chuyện - chủ thể hồi ức giữ

quyền kể chuyện từ đầu đến cuối. Mạch trần thuật theo thời gian biên niên, về cơ

bản mọi chuyện đều được kể theo trình tự thời gian: từ biên giới vượt sông Mê

Kông; chiến dịch Anlong Veng đợt 1; chiến dịch Anlong Veng đợt 2; chiến dịch

Anlong Veng đợt 3… Trong dòng chảy kí ức, Đoàn Tuấn đã kể lại những trải

nghiệm của bản thân, những trận đánh với kẻ thù, những sự kiện chiến trường,...

Nhưng Đoàn Tuấn kể nhiều nhất về đồng đội của mình. Câu chuyện về mỗi số phận

người lính in đậm trên trang viết của nhà văn. Đó là câu chuyện về thủ trưởng Võ

Sỹ Lực - điểm tựa tinh thần của lính, về Nguyễn Mạnh Hùng - người anh hùng, về

Lũy - chàng thanh niên má phính lông tơ và còn biết bao những câu chuyện khác về

những người đồng đội. Trong câu chuyện của Đoàn Tuấn là những hào hùng của

một thời trận địa nhưng cũng chứa chất cả nỗi đau khi viết về những người đồng

đội. Chiến tranh chỉ là bối cảnh, là bức phông nền để Đoàn Tuấn kể về số phận của

người lính trong cuộc chiến đầy khốc liệt ấy.

Mặt khác, qua điểm nhìn của người kể chuyện, người đọc như vừa được xem

một thước phim quay chậm về cuộc sống chiến đấu của người lính nơi chiến trường.

Ở đó có muôn ngàn gương mặt, muôn ngàn cuộc đời và muôn ngàn câu chuyện. Đó

là những ngày tháng hành quân dài hàng trăm cây số, là những lúc phải đối diện với

đủ mọi kẻ thù, là sống trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn, là những trải nghiệm lần

đầu tiên, là hòa cùng cuộc sống của nhân dân Campuchia… Cũng trong ngôi kể thứ

nhất, nhân vật xưng “tôi” không hề giấu giếm cảm xúc của mình. Đọc cuốn hồi kí,

102

người đọc nhận ra nỗi nhớ đang được gói ghém cẩn thận khi Đoàn Tuấn kể lại

những ngày còn đi học, thấy được những niềm hạnh phúc bình dị, giản đơn khi

nghe những thanh âm trong trẻo ở chiến trường, cảm nhận được cả những nỗi đau

khi người đồng đội nằm xuống và cả những trăn trở, suy tư về cuộc đời, con người,

về sự sống, về lẽ sinh tử, về tình đồng chí, đồng đội… Cái “tôi” nhà văn đã đưa

người đọc trải nghiệm từ sự kiện này đến sự kiện khác, dẫn người đọc theo từng

cung bậc cảm xúc khi hòa mình vào cuộc sống chiến đấu trên chiến trường

Campuchia qua ngòi bút của nhà văn. Với ngôi kể thứ nhất, cuốn hồi ký của Đoàn

Tuấn đã làm sống dậy hiện thực, đồng thời bộc lộ cảm thức, nhãn quan, luận giải về

hiện thực phức tạp của chiến tranh và chân dung đa chiều của người lính thông qua

lời kể, lời miêu tả và lời bình luận. Qua cái “tôi” hồi ức, chiến tranh hiện lên chân

thực hơn, có bi thương nhưng không bao giờ bi lụy.

Có thể thấy, người kể chuyện và ngôi kể có vai trò quan trọng trong sáng tạo

nghệ thuật. Nhà văn chỉ tạo nên thành công cho tác phẩm của mình qua việc lựa

chọn người kể chuyện, ngôi kể và gắn với điểm nhìn hợp lí. Việc xem xét người kể

chuyện, ngôi kể không chỉ giúp ta thấy được tài năng của người cầm bút mà còn

thấy được thái độ, lí tưởng, quan điểm của người cầm bút. Đọc Miền hoang và Mùa

chinh chiến ấy, người đọc nhận ra những cách tân đáng kể trong việc lựa chọn ngôi

kể của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Cả hai nhà văn đã thể hiện sự sáng tạo

trong cách khai thác và phản ánh hiện thực chiến tranh, viết về chiến tranh bằng sự

thật, bằng lương tri của người lính vừa đi ra khỏi cuộc chiến.

3.2.2. Điểm nhìn trần thuật

Hiện nay, thuật ngữ điểm nhìn đã trở nên quen thuộc trong nghiên cứu văn

học nói chung và nghiên cứu tự sự học nói riêng. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

điểm nhìn là “vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác

phẩm”; “Điểm nhìn nghệ thuật có thể hiểu là điểm rơi của cái nhìn vào khách

thể”; “Điểm nhìn nghệ thuật biểu hiện qua các phương tiện nghệ thuật, ngôi kể,

cách gọi sự vật, cách dùng từ ngữ, kiểu câu… Điểm nhìn cung cấp một phương diện

để người đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặc điểm của phong cách

ở trong đó” [29, tr.113]. Tác giả Trần Đình Sử quan niệm: “Điểm nhìn văn bản là

103

phương thức phát ngôn trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế

giới của tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh

giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới” [76]. Từ những nhận định mang tính khái

quát thì điểm nhìn là vị trí của người kể chuyện trong mối quan hệ với câu chuyện

của anh ta. Người ta phân biệt điểm nhìn với ba loại chính: người kể chuyện toàn tri

(người kể chuyện thông suốt mọi sự), người kể chuyện ngôi thứ ba và người kể

chuyện kể ngôi thứ nhất.

Sau năm 1975, tinh thần dân chủ hóa văn học đã kích thích tư duy đối thoại

trong văn học, điểm nhìn trần thuật được sử dụng linh hoạt và đa dạng, đặc biệt

trong những tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh. Chiến tranh được thể hiện qua

điểm nhìn của người trong cuộc lẫn người ngoài cuộc, của nhân vật thực lẫn siêu

thực và của cả bên ta lẫn bên địch… Mỗi loại điểm nhìn sẽ góp phần tái hiện một

“bộ mặt” khác nhau của chiến tranh và sự thực về chiến tranh sẽ được khắc họa một

cách toàn diện và sâu sắc hơn. Có thể nói, đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật là xu

hướng phổ biến về chiến tranh sau năm 1975. Nó vừa thể hiện những cảm nhận

khác nhau về cùng một cuộc chiến tranh, vừa phù hợp với hiện thực cuộc sống vốn

bộn bề và phức tạp. Đồng thời, với sự luân phiên điểm nhìn trong tác phẩm, tâm thế

đối thoại và tinh thần dân chủ thực sự được đề cao.

Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật biểu hiện tập trung ở các tiểu thuyết có

nhiều người kể chuyện và Miền hoang của Sương Nguyệt Minh là một cuốn tiểu

thuyết như thế. Trong Miền hoang xuất hiện 4 người kể chuyện xưng “tôi” bên cạnh

người kể chuyện ngôi thứ ba, 5 điểm nhìn đời sống và cuộc chiến khác nhau. Trong

đó điểm nhìn của người kể chuyện chiếm 31/88 chương, Lục Thum 6/88 chương,

Tùng 33/88 chương, Rô 10/88 chương, Sa Ly 8/88 chương. Việc trần thuật từ điểm

nhìn của nhiều nhân vật đã tạo ra nhiều góc quét khác nhau, làm cho đối tượng miêu

ta trở nên đa chiều. Có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cuộc chiến tranh. Bởi thế,

cái nhìn về chiến tranh trở nên chân thực và toàn diện hơn. Mặt khác, trong 88

chương tiểu thuyết, năm điểm nhìn này luân phiên, thay nhau kể chuyện. Mỗi nhân

vật tự kể câu chuyện của mình, những nhận xét, cảm nhận, suy nghĩ về đối phương,

đặc biệt là những dòng độc thoại nội tâm, nhờ đó hoàn cảnh, số phận của những con

người trong cuộc chiến đấu được thể hiện một cách chân thực và sinh động nhất.

104

Hiện thực chiến tranh vì thế cũng hiện ra một cách toàn diện, sâu sắc nhất.

Điểm nhìn của nhân vật Tùng được thể hiện trong các chương 2, 6, 8, 11, 14,

16, 20, 21, 23, 25, 27, 29, 30, 33, 37, 48, 50, 52, 55, 57, 59, 62, 66, 68, 70, 73, 75,

77, 79, 81, 83, 85, 87. Ở các chương này, Tùng vừa đóng vai trò là nhân vật chính,

trực tiếp tham gia vào diễn biến, sự kiện xảy ra trong tác phẩm, vừa đóng vai trò là

người kể chuyện. Tùng kể câu chuyện về cuộc đời mình và câu chuyện của những

nhân vật khác. Mỗi câu chuyện gắn bó với những cảm xúc, ký ức và quan điểm

riêng của mỗi con người về chiến tranh, về cuộc đời, về lẽ sống và cả những chiêm

nghiệm, triết lí riêng tư. Tùng có cái nhìn chiến tranh của một người lính trí thức

tham chiến ở bên ngoài biên giới. Hiện thực chiến tranh qua góc nhìn của một anh

lính trẻ trở nên chân thực và sâu sắc hơn. Điểm nhìn của Sa Ly nằm ở các chương 7,

15, 24, 32, 39, 43, 63, 71. Cô y tá người Khmer xinh đẹp, bị câm, độc thoại nội tâm

xưng “tui” là cái nhìn chiến tranh của một người con gái yếu ớt, bị giày vò, quăng

quật tan nát. Điểm nhìn của Rô trong các chương 4, 9, 18, 34, 40, 42, 45, 47, 60, 65.

Thằng Rô thô lỗ, cục cằn, vô học xưng “tao” thì chỉ với cái nhìn trận mạc của một

tên lính áo đen. Điểm nhìn của Lục Thum ở các chương 12, 36, 44, 46, 53, 69. Lục

Thum - Ông Lớn bị thương giập nát chân xưng “ta” với cái nhìn chiến tranh của

viên chỉ huy cấp trung đoàn tinh quái. Và cuối cùng là tác giả nhìn cuộc chiến tranh

ở chiến trường K. Tất cả các nhân vật được “ném” vào chung một không gian, rồi

thay nhau kể chuyện, độc thoại trong thời gian đồng hiện. Năm người kể chuyện,

năm cách cảm nhận, năm cái nhìn chiến tranh tạo nên những góc nhìn khác nhau về

cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến liên miên, dai dẳng ở chiến

trường K một cách khách quan. Tuy số lần xuất hiện và vai trò kể chuyện của mỗi

người không giống nhau, song phải nói rằng đây là phương thức tự sự đa tầng bậc

rất độc đáo của tác giả, qua đó khẳng định sự cách tân, sáng tạo của Sương Nguyệt

Minh trong tiểu thuyết Miền hoang.

Theo nhà phê bình Lã Nguyên “điểm độc đáo trong thiên truyện của Sương

Nguyệt Minh là nghệ thuật tổ chức điểm nhìn và chuyển đổi điểm nhìn trần thuật”

[55]. Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật khiến bức tranh thế giới được trần thuật

trong Miền hoang hiện lên như vũ trụ trong kính vạn hoa, giúp cái “tứ” trung tâm

105

nói về thân phận bi hài của những người lạc đường, lạc loài tìm thấy một hình thức

biểu hiện độc đáo. Mặt khác, bức tranh về chiến trường K được nhìn từ nhiều góc

độ, trở nên đa sắc, đa cung bậc tình cảm hơn.

Với hồi ký Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, điểm nhìn nghệ thuật gắn

liền với người kể chuyện ở ngôi thứ nhất với cái tôi kí ức có khả năng chiếm lĩnh và

chi phối mọi yếu tố trong tác phẩm, bởi lẽ “Đối với hồi ký, câu chuyện về cá nhân

trở thành tâm điểm của việc tổ chức trần thuật, cho việc thể hiện quan điểm tự sự

của tác giả, thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa nhân vật người kể chuyện với các

biến cố, sự kiện được kể” [77, tr.434]. Từ đó, điểm nhìn đầu tiên chính là điểm nhìn

của nhân vật xưng “tôi”. Qua điểm nhìn thứ nhất của nhân vật “tôi”, người đọc có

thể hình dung một cách chính xác về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam từ

góc nhìn của người trong cuộc.

Tuy nhiên, trong cuốn hồi ký, Đoàn Tuấn đã khéo léo đan xen nhiều điểm

nhìn khác nhau của các nhân vật. Ở từng mẩu chuyện, có sự luân phiên điểm nhìn,

lời người kể chuyện, lời nhân vật đan xen… Có khi cùng một sự việc nhưng có

nhiều điểm nhìn đan xen. Chẳng hạn trong trường hợp anh Thiệu, quê Hải Phòng

“không chịu đi tuần, đi phục cùng anh em”, và khi đơn vị phản ánh lên tiểu đoàn thì

Thiệu “Dọn ra gốc cây. Căng tăng, mắc võng sống một mình”. Trong trường hợp

này, khi đọc những lá thư Thiệu viết cho mẹ, nhân vật “tôi” đã báo cáo cấp trên:

“Thưa thủ trưởng, em thấy một người lính đã viết lá thư cho mẹ với lời lẽ như vậy,

không thể là người lính tồi được. Thủ trưởng nên tìm nguyên nhân tại sao”. Trong

khi nhân vật “tôi” có cái nhìn cảm thông, thấu hiểu thì thủ trưởng lại kết luận:“Nào

là tôi mất quan điểm, lập trường; nào là tôi không biết phân biệt thế nào là bản

chất, thế nào là hiện tượng; nào là tôi chắc có cảm tình với lính Hải Phòng vì Hà

Nội và Hải Phòng là hai thành phố lớn…” [96, tr.258]. Sự luân phiên điểm nhìn

khiến vấn đề được nhìn nhận một cách đa chiều hơn, gương mặt chiến tranh và chân

dung người lính được khắc họa chân thực hơn.

Có thể thấy, việc trần thuật từ điểm nhìn của nhiều nhân vật đã tạo ra nhiều

góc quét khác nhau, câu chuyện quá khứ không đơn điệu, hiện thực chiến tranh và

chân dung nhân vật trở nên sinh động. Có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cuộc

106

chiến tranh hiện ra. Chiến tranh không chỉ có một khuôn mặt duy nhất. Sự đa dạng

hóa điểm nhìn với nhiều nỗ lực cách tân nghệ thuật đã khiến cho tác phẩm của

Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn tái hiện hiện thực chiến tranh một cách chân

thực, toàn diện và sâu sắc.

Bên cạnh sự đa dạng hóa điểm nhìn, trong văn xuôi hậu chiến xuất hiện sự

dịch chuyển điểm nhìn nghệ thuật từ bên ngoài vào điểm nhìn bên trong. Lối trần

thuật này khiến đối tượng được trần thuật hiện lên đa chiều, đa diện và chân thật.

Trong tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, ban đầu người kể chuyện

xuất hiện với điểm nhìn bên ngoài, nhưng càng đi sâu vào trong truyện thì hình

tượng người trần thuật ngôi thứ ba xuất hiện với điểm nhìn bên trong càng dày đặc.

Người kể chuyện ngôi thứ ba đi sâu khai thác, lột tả thế giới tâm lí của nhân vật,

hiểu biết về nhân vật như chính nhân vật hiểu biết về nó. Không ít đoạn văn, người

kể chuyện đã đi sâu vào tâm lí của nhân vật. Chẳng hạn, trong đoạn miêu tả tâm lí

của Sa Ly: “Cô y tá câm lặng người. Không phải lần đầu tiên cô y tá câm nghe

ngôn ngữ thô tục bốp chát này, trong cảnh đường cùng chẳng biết thương nhau lại

còn sát phạt. Cô bỏ đi đến đám cỏ bên cạnh ngồi, trân trân nhìn cái mặt thư sinh

(...) Lạ thật, nắng mưa trận mạc không làm cho anh lính Việt thành người từng trải,

tầm tã, dãi dầu. Sao lại có gương mặt quen quen đến thế? Cô y tá câm nhắm mắt

lại, không dám nghĩ tiếp” [52, tr.72]. Tất cả những uất ức, tủi nhục, sợ hãi của nhân

vật cũng được hiện lên qua lời kể của người kể chuyện ngôi thứ ba. Không ít lần,

người kể chuyện đã khắc họa tâm lí của nhân vật Tùng: “Ứa nước mắt. Tùng ngồi

dậy ôm bàn chân tưởng như bị gãy lặt ra. Nhức nhối, cơ cực làm sao! Cha mẹ ơi!

Sao con khổ thế này”[52, tr.207]. Những trăn trở của nhân vật cũng được phơi bày

trên trang viết qua lời kể chuyện của người kể chuyện ngôi thứ ba: “Anh tự giận

mình: sao không nghĩ đến chuyện gì sẽ xảy ra với cô gái sau khi trốn chạy. Nhưng

rồi anh lại tự nhủ: làm thằng lính chiến không nên ủy mị, yếu đuối nửa vời. Chiến

tranh là mạnh được yếu thua. Phải biết trân trọng từng giọt sống, nhưng cũng phải

biết tận dụng mọi cơ hội sống. Đôi khi trong chiến trường, con người phải ác để tồn

tại, thì cái thiện ở chiến trường có đất sống không?” [52, tr.241]. Sương Nguyệt

Minh đã để Tùng trải qua những day dứt, dằn vặt, cật vấn để đi đến tận cùng bản

107

chất của chiến tranh. Có thể nói ở đây, điểm nhìn của nhân vật và điểm nhìn của

người kể chuyện là một. Người kể chuyện thấu hiểu nhân vật và có khả năng lột tả

những tầng bậc sâu xa trong tâm hồn nhân vật. Có thể nói, kĩ thuật tổ chức điểm

nhìn từ bên ngoài vào điểm nhìn bên trong đã tạo điều kiện cho nhà văn đi sâu

khám phá tâm hồn nhân vật, hòa âm với tiếng nói bên trong nhân vật.

Trong Mùa chinh chiến ấy, từ điểm nhìn bên ngoài, Đoàn Tuấn đã tái hiện

lại không gian thiên nhiên, không gian sinh hoạt và bối cảnh của những trận đánh ác

liệt, những chiến dịch gian khổ như chiến dịch Anlong Veng, chiến dịch đánh lên

cao điểm 547… Nơi đó có những hiểm nguy rình rập trong rừng sâu mịt mùng nước

bạn, những cạm bẫy do bom mìn, chỉ cần một bước chân chạm nhẹ cũng đủ cướp đi

sinh mạng của những người lính trẻ. Nơi đó có những cơn mưa bom bão đạn dội

bốn bề tứ phía, là những cuộc chiến một mất một còn với kẻ thù. Hết mùa mưa lại

mùa khô, cái nóng ngột ngạt, thiếu thốn trăm bề… Hiện thực chiến tranh được khắc

họa một cách trần trụi, khách quan nhất. Chẳng hạn sự kiện đánh vào sân bay Stung

Treng, Đoàn Tuấn đã tái hiện một cách sống động, khiến người xem cứ ngỡ như

được quan sát cận cảnh cuộc tấn công anh dũng của những anh lính Việt Nam:

“Gặp sân bay, chúng tôi dàn trận. Tôi chỉ thấy trước mắt là rừng cây, chẳng thấy

đường băng hay sân bay đâu. Tôi đang ngó nghiêng thì có lệnh nổ súng. Nhìn sang

bên phải, thấy lính trinh sát trung đoàn đang lừng lững tiến vào. Đi đầu là Châu,

lính Hà Nội, nhà ở khu Bách Khoa. Tôi nhận ra Châu vì trên trán nó có vết chàm

đỏ. Mấy ngày nay không gặp địch nên lính ta rất chủ quan. Châu vẫn để AK trên

vai, như đi chỗ không người. Bỗng Châu trúng đạn. Một viên vào giữa trán. Nó ngã

xuống. Vị trí của tôi cách đó không xa. Chỗ tôi lại cao nên nhìn thấy hết” [96,

tr.45]. Những khoảnh khắc được ghi lại như những bản tốc kí về chiến trường, diễn

biến của chiến tranh được cụ thể hóa trong điểm nhìn của tác giả.

Không chỉ dừng lại ở điểm nhìn bên ngoài, trong hồi ký của Đoàn Tuấn,

người đọc còn thấy những băn khoăn, trăn trở, cật vấn của người viết. Tác phẩm đã

bộc lộ cái nhìn của người viết, của cái tôi tác giả, những suy ngẫm, trăn trở về chiến

tranh, về lẽ sống, về tình cảm… Đó là những suy nghiệm về đời người trong “Cái

bật lửa vĩ đại”; khát vọng hòa bình, sự hồi sinh của sự sống trong “Đốt vỏ trai làm

108

vôi”, “Tiếng hát kì diệu”; là tình yêu quê hương trong “Đắp đất sét”; là những bài

học về lòng kiên trì, nhẫn nại “nửa đêm múc nước”, là tình quân dân “Lục Thum bắt

đỉa”,… Không ít lần, người viết đã đi sâu vào cảm xúc, vào đời sống tính thần của

người lính hoặc bộc bạch những suy ngẫm về chiến tranh, về người lính, về lẽ sống

chết, về tình đồng đội, tình cảm với quê hương… Ở những góc nhìn ấy, người đọc

có cơ hội nhìn sâu hơn vào đời sống tâm hồn của người lính, về những góc khuất

của chiến tranh. Có thể nói, dịch chuyển điểm nhìn vào bên trong nội tâm nhân vật,

tác giả đã nhìn sâu tận đáy tâm hồn nhân vật những khát vọng, đau đớn, nhớ mong,

day dứt, tuyệt vọng,… và số phận con người trong thời chiến hiện lên một cách

chân thực hơn, gần gũi hơn, đời hơn.

Cả Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đều có những nỗ lực cách tân nghệ

thuật, đặc biệt ở điểm nhìn trần thuật. Với những sáng tạo khi sử dụng điểm nhìn

trần thuật, hai nhà văn đã cung cấp cho người đọc một cách nhìn chân thật về cuộc

chiến đã qua, hiểu hơn cả bề sâu, bề sau và bề xa của cuộc chiến tranh bảo vệ biên

giới Tây Nam.

3.3. Ngôn ngữ trần thuật

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ngôn ngữ trần thuật “là phần lời văn độc

thoại thể hiện quan điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện (sản phẩm sáng

tạo của tác giả) đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất

trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ”

[29, tr.184]. Ngôn ngữ trần thuật là ngôn ngữ mà nhà văn dùng để xây dựng câu

chuyện (nó bao gồm ngôn ngữ của người trần thuật và ngôn ngữ của nhân vật).

Ngôn ngữ trần thuật giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống phương thức

tự sự, nó là sự thể hiện trên nền hiện thực toàn bộ tư tưởng, tình cảm của nhà văn,

giọng điệu tác phẩm, cấu trúc tác phẩm và cho thấy điểm nhìn trần thuật của nhà

văn, và do đó, qua ngôn ngữ trần thuật, người đọc nhận ra phong cách, cá tính của

tác giả.

Sau năm 1975, văn học về đề tài chiến tranh đã có sự chuyển biến mạnh mẽ

trong việc kiến tạo ngôn ngữ mới về chiến tranh. Văn học đã “vượt thoát” lối viết ca

ngợi một chiều, thi vị hóa giản đơn, để nhìn trực diện vào bản chất hiện thực và con

109

người. Trong các tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh, các nhà văn đã chối bỏ

ngôn ngữ diễm lệ, thi vị, lãng mạn và khai thác ngôn ngữ đời thường với tất cả

những mặt xù xì, thô nhám như nó vốn có. Những cách tân về ngôn ngữ khiến cho

tính hiện thực ngồn ngộn trong các tác phẩm, vừa gợi lại không khí một thời, vừa

mang hơi thở của thời đại. Nhờ đó, hiện thực chiến tranh và chân dung người lính

hiện lên chân thực, sinh động, sắc nét.

3.3.1. Ngôn ngữ đặc tả không gian chiến trường

Các tác phẩm viết về chiến tranh mang đến cho người đọc những trải nghiệm

mới về một thời kì lịch sử của dân tộc. Những cuộc chiến đi qua với tất cả những

khắc nghiệt, dữ dội; những bản anh hùng ca hòa lẫn những mất mát, đau thương...

Hiện thực chiến tranh đã được tái hiện lại một cách chân thực, sâu sắc qua lớp ngôn

ngữ đặc tả không gian chiến trường của các nhà văn. Bằng ngôn ngữ, các nhà văn

đã tái hiện lại một cách chân thực bộ mặt của chiến tranh với tất cả những dữ dội,

khốc liệt nhất.

Như đã nói ở trên, văn học viết về chiến tranh biên giới Tây Nam không

nhiều so với văn học viết về hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ. Chính vì

vậy, hiện thực chiến tranh biên giới Tây Nam chưa được khai thác triệt để. Mười

năm chiến đấu với vai trò “giúp nước bạn cũng là tự bảo vệ mình”, quân đội tình

nguyện Việt Nam đã phải “gồng gánh” bao đau thương, mất mát, không chỉ là sự dữ

dội do bom đạn của kẻ thù, đó còn là những bí ẩn của rừng sâu, những khắc nghiệt

của thời tiết, những hiểm nguy dồn nén… Và người đọc rất cần những tác phẩm có

thể viết một cách sâu sắc nhất, toàn diện và chân thực về hiện thực chiến đấu ấy. Để

làm được điều đó, ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt là ngôn ngữ đặc

tả không gian chiến trường. Ngôn ngữ ấy sẽ thổi hồn vào tác phẩm để người đọc

được sống với những năm tháng hào hùng của dân tộc khi đặt trên vai mình nghĩa

vụ quốc tế thiêng liêng.

Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn

ra đời có đóng góp không nhỏ cho văn học viết về chiến tranh, đặc biệt mang đến

một cách nhìn sâu sắc về chiến tranh biên giới Tây Nam. Qua hai tác phẩm, người

đọc không chỉ được chứng kiến sự dữ dội, cam go, ác liệt từ bom đạn của kẻ thù mà

110

còn có cái nhìn chân thực hơn về không gian chiến trường chứa đầy bí ẩn, bất trắc.

Mỗi người lính Việt Nam khi tham chiến không chỉ đối diện với mìn, với bom đạn

với kẻ thù Pol Pot mà còn “chiến đấu” với thiên nhiên khắc nghiệt nơi rừng Miên

hoang độc, nơi chất chứa tất cả những hiểm nguy, bí ẩn luôn sẵn sàng “nuốt chửng”

những người lính trẻ.

Ở những trang viết đầu tiên trong Miền hoang, lớp ngôn ngữ chiến trường đã

được Sương Nguyệt Minh khai thác triệt để khi tái hiện lại cuộc phục kích của tàn

quân Pol Pot vào hai chiếc xe của quân tình nguyện Việt Nam: “Một tên lính áo đen

phóng quả đạn B40 tạt ngang vào chiếc xe Zin công xuất 150 mã lực đi đầu đang rồ

rồ chở quân áo xanh. Bắn hơi sớm, quả đạn vút qua đầu chiếc xe quân sự, bay sang

bên kia con đường xe bò kéo bỏ hoang nổ tung ụ mối” [52, tr.9]. Một loạt những

động từ mạnh được sử dụng “phóng”, “tạt ngang”, “vút”, “bay” mang ấn tượng về

tốc độ nhanh, mạnh do vũ khí kẻ thù gây ra. Tiếp theo là “Một đợt bắn cấp tập vào

khu đền tháp cổ. Cối cá nhân rót vào các nơi trú ẩn của bọn tôi. Thêm vài chiến

binh nữa nằm vật ra, máu đỏ bết ở mặt, ở ngực, tay từ từ buông súng. Thấp thoáng

một bóng người nhảy, chạy nhoàng nhoàng qua các hòn đá lăn lóc trong nắng

chiều trước mặt tôi”[52, tr.15]. Những câu văn trùng điệp, nhịp nhanh, mạnh, dồn

dập tạo ra âm hưởng của chiến trận cam go. Người đọc như được sống lại trong

không khí ồn ào, náo loạn và đầy nguy hiểm của cuộc chiến, hình dung được tình

thế của quân ta và sự tấn công dồn dập của quân địch. Đoạn văn giống như một

thước phim chân thực về chiến tranh: hình ảnh chân thực, sự kiện chân thực, từng

số phận cũng hiện lên một cách cụ thể dưới làn bom đạn của kẻ thù: “Lính tráng

trên chiếc xe quân sự thứ hai còn đang bàng hoàng thì… đánh uỳnh một phát. Bánh

ô tô đằng sau dính mìn, sức ép hất tung cái thùng xe và lính tráng lên trời. Một

bánh cao su và thằng Huy “đen” bị lực đẩy ném lên vòm cây cổ thụ cao đến chục

mét rồi mắc luôn trên cây, chân và đầu gục rũ mà vẫn không chịu rơi xuống. Đất

đá, mảnh gỗ, mảnh sắt, xác người, cánh tay, cẳng chân và thịt người rơi kêu bịch…

xào xào…” [52, tr.10]. Ngôn ngữ chân thực đến từng chi tiết, những động từ mạnh

được sử dụng triệt để, nhịp câu ngắn, dồn dập,... khiến người đọc như căng mình

dõi theo cuộc chiến đầy cam go, ác liệt. Đó là trận chiến một sống một còn với kẻ

111

thù, là cuộc chiến mà mỗi người lính trong trung đoàn của anh Du phải gánh chịu sử

hủy diệt từ bom đạn của kẻ thù. Những tấm thân không còn lành lặn, những cái chết

đau đớn, muôn kiểu, người và vật đều tan tành: “Bỗng dưng, ầm…ầm…ầm. Cái xe

bò kéo chạy sau lăn phải mìn, một quả kích nổ, kích nổ quả thứ hai nữa. Đất cát, gỗ

thùng, gỗ càng, con bò gầy và hai xác chết… tung lên trời, rồi rơi xuống bịch

bịch… .lả tả…[52, tr.456]. Chiến tranh không chừa một ai, từ những người lính tình

nguyện Việt Nam đến nhân dân Campuchia bất hạnh.

Bất kì cuộc chiến nào cũng gây ra những đau thương. Bất kì bom đạn nào

cũng khiến cho con người mất mát, hi sinh. Thế nhưng, điều khiến chiến trường K

trở thành nỗi ám ảnh chính bởi một thứ vũ khí hủy diệt: mìn. Mìn với nhiều loại

khác nhau, mìn được cài theo đủ cách: “KP2, K65, mìn muỗi, mìn cóc, mìn lá, mìn

tăng... tất cả các loại mìn đều ghi dòng chữ „made in China‟. K65, KP2 thì nảy

ngang người mới nổ. Khi nổ nó phá tan ổ bụng hoặc làm cụt đôi chân của người

lính. Và không chỉ tiêu diệt một người mà còn làm 5 - 7 người khác bị thương, bởi

sức công phá của nó khá mạnh. Trong những trái mìn này, bọn địch còn gài thêm

chất độc hóa học cực mạnh. Vì vậy, dù vết thương đã được vệ sinh, băng bó, nhưng

chất độc ngấm vào cơ thể, lính tráng vẫn tử vong. Còn các loại mìn khác thì nhiều

vô kể. Có hôm, trên con đường từ C7 lên Cam-tuất dài chừng 14 km, chúng tôi tháo

được gần 200 trái mìn cóc. Đó là loại mìn chỉ nhỉnh hơn bao diêm một chút. Nhưng

nếu đạp phải, bàn chân bay như chơi. Tôi cũng chưa thấy ở đâu bọn địch cài mìn

tăng để giết hại lính bộ binh như bọn Pol Pot ở Anlong Veng” [96, tr.209]. Sự nguy

hiểm của từng loại mìn cộng với sự nham hiểm của kẻ thù khiến nhiều chiến sĩ của

ta không kịp trở tay. Người lính của chúng ta hi sinh vì mìn không ai giống ai bởi:

“Cách bọn địch gài mìn thì thuộc hàng siêu đẳng. Chúng chôn dưới đất, trên lối

mòn rồi phủ cát lên. Lính ta đi không chú ý, giẫm liền. Hoặc chúng chôn dưới đất,

rồi phủ lá rừng lên. Mà lá rừng thì bạt ngàn. Để ý làm gì. Lính ta đi, giẫm lên lá

tưởng an toàn nhưng vừa nhấc chân lên thì nghe ầm một tiếng. Thế là ra đi”[96,

tr.210]. Hàng trăm kiểu chết khác nhau do mìn. Đấu tranh với kẻ thù, chúng ta

không chỉ đối đầu với vũ khí hủy diệt mà hơn nữa, chúng ta phải chiến đấu với một

kẻ thù nham hiểm, mưu mô. Không gian chiến trận nơi rừng Miên bởi thế mà chất

112

chứa đầy hiểm nguy đối với người lính tình nguyện Việt Nam.

Không gian chiến trường dữ dội, khốc liệt không chỉ bởi bom mìn của kẻ

địch mà còn được đặc tả trong những bí ẩn, hiểm nguy của rừng Miên hoang độc.

Rừng Miên vào mùa khô với “Mặt trời ong ong đổ lửa. Không một gợn mây, nắng

như nung người” [52, tr.152]. Những miêu tả ngắn gọn, chính xác ấy đã giúp người

đọc hình dung được tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Cái

nắng, cái nóng của rừng Miên khiến con người rơi vào hoàn cảnh cùng cực: “Nóng

âm âm, anh có cảm giác như mình là con cá chuối bị xâu vào que rồi nướng trong

hơi nóng. Lưng không còn ướt nữa, còn mồ hôi nữa đâu mà ra. Miệng khô như cánh

đồng hạn. Giá có ngụm nước thì cái lưỡi sẽ mủn và tan ra như ruộng đất ải vừa

tháo nước [52, tr.152]. Một cách so sánh đầy hình ảnh khiến người đọc thấm thía

hơn về mùa khô ở rừng Miên.

Đó có thể là không gian mông muội, hoang dã khi người và mãnh thú lăn xả

vào nhau để kiếm miếng ăn. Con người bất chấp mạng sống để giành thức ăn với

động vật: “Lúc ấy tao hết sợ, lao đến vồ lấy giữa đoạn ruột bò, một tay cầm súng,

một tay giật. Hai con kên kên bị cướp miếng mồi bất ngờ, nhưng vẫn ngậm chặt

đoạn ruột không chịu nhả ra. Lực kéo của tao dù đang đói mệt, cũng làm cho hai

con điểu chuyên ăn xác chết ngã và bị lôi đi sền sệt, lăn lông lốc. Bị tước đoạn

miếng ăn, lũ kên kên quyết liệt không chịu bỏ miếng mồi. Chúng tạm thời nhả đoạn

ruột bò rồi lao tới bổ tới tấp vào đầu tao” [52, tr.481]. Thậm chí trong lúc đói khát

cùng cực, Lục Thum và Rô còn ăn thịt chính đồng loại của mình.

Có thể thấy, với lớp ngôn ngữ đặc tả không gian chiến trận, Sương Nguyệt

Minh và Đoàn Tuấn đã tái hiện một cách chân thực, chi tiết hiện thực chiến trường

với tất cả cái dữ dội, khốc liệt của nó. Chiến trường K không chỉ ám ảnh người đọc

bởi bom, đạn trong sự hủy diệt ghê rợn và hơn nữa, không gian miền hoang với tất

cả sự bí ẩn, hiểm nguy, hoang dại cũng đẩy con người vào tình trạng bi đát. Đó là

nơi con người phải đấu tranh với kẻ thù hiểm độc, là nơi con người phải đấu tranh

với nhiều kẻ thù khác nhau tìm sự sống. Quả thực, với lớp ngôn ngữ đặc tả không

gian chiến trận, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã góp phần tô đậm thêm bức

113

tranh hiện thực vốn đã vô cùng khốc liệt ở chiến trường Campuchia.

3.3.2. Ngôn ngữ dung tục, đời thường

Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học sau năm 1975 là các nhà văn

chú ý sử dụng ngôn ngữ mang sắc thái dung dị, tự nhiên, dân dã, đậm chất khẩu

ngữ, quen thuộc, gần gũi với đông đảo quần chúng nhân dân. Lối sử dụng ngôn ngữ

này khiến hiện thực hiện lên đúng như chính nó với tất cả nét xù xì, thô mộc. Đặc

biệt, ở các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh, các nhà văn đã sử dụng lớp ngôn ngữ

đời thường làm cho cuộc sống của người lính thật hơn, gần gũi hơn với người đọc.

Ngôn ngữ nghệ thuật “tăng dần chất thô mộc, góc cạnh của đời thường, suồng sã

trong giọng điệu, riết róng trong từ ngữ” [10, tr.172] có khả năng lột tả, khai thác

và phản ánh chân thực về cuộc chiến và hình tượng người lính trở nên đa diện và

chân thực hơn.

Với bản lĩnh và tài năng của người nghệ sĩ, Sương Nguyệt Minh đã sử dụng

lớp từ ngữ thô tục rất đúng với từng đối tượng, sự kiện và hoàn cảnh nên trong mỗi

trang viết của ông đều thể hiện một mạch ngầm tư tưởng của người viết. Cụ thể,

thằng Rô xuất hiện trong 9 chương truyện của Miền hoang và trong hầu hết các

chương dành cho thằng Rô đều là ngôn ngữ tục tĩu. Ngôn ngữ tục tĩu xuất hiện liên

tục trong lời thoại của thằng Rô. “Đ.mẹ! Bọn chó chết!...”; “Đ.mẹ! Đích thực là con

mụ Dên rồi”; và nói với bất kì ai hắn cũng thêm vào đó “Đ.mẹ”, “Đéo”. Khi hắn

nói với Tùng: “Đ**mẹ cái thằng Duol học đòi, ra trận, đánh nhau tanh bành, thời

gian đéo đâu mà đàn với hát… cho bọn lợn bò nghe và nhảy nhót à? [52, tr.135].

Thậm chí khi nói với cấp trên của hắn là Lục Thum, hắn vẫn sử dụng những từ ngữ

tục, câu chửi thề: “Ông lớn. Tao chỉ nghe thấy tiếng âm âm, rồi rộn rịch như tiếng

thú vật chạy hốt hoảng. Đ.mẹ! Y như động rừng!” [52, tr.330]. Ngôn ngữ thô tục

gắn với thằng Rô đã thể hiện bản chất vô học, vô văn hóa của nhân vật này, đồng

thời tạo ra sự khác biệt đối với hình tượng người lính Việt Nam. Nói như Sương

Nguyệt Minh: “Nhân vật tên lính áo đen là một kẻ vô học, thô lỗ, cục cằn, đen tối,…

nó chửi bậy và nói tục là chuyện đương nhiên, là thuộc tính. Vả lại bị đẩy đến tận

cùng hoang dại, ở quá xa loài người văn mình, lại bức xúc, chán nản, tuyệt vọng…

114

lời lẽ thô tục phù hợp với hoàn cảnh và tính cách nhân vật” [48].

Không chỉ khai thác lớp ngôn ngữ thô tục, Sương Nguyệt Minh còn viết về

những vấn đề nhạy cảm hết sức tự nhiên. Chẳng hạn khi nhà văn nói về những phản

ứng bản năng, sinh học của con người. Hoặc khi Sa Ly hồi tưởng lại chuyện bị hãm

hiếp: “Vẫn ghì chặt, ôm tui rồi đột ngột thằng béo kêu rống lên ồi...ồi...ồi như con

min bị chọc tiết. Tui nhận ra một dòng nước âm ấm tràn vào cửa mình” [52, tr.47].

Ngôn ngữ nhạy cảm xuất hiện dày đặc trong tác phẩm song không hề mang đến cho

người đọc cảm giác khó chịu. Khi sử dụng lớp ngôn ngữ này, một mặt tác giả đã

phơi trần bộ mặt của chiến tranh, miêu tả chân thực bản chất hoang dã man rợ; mặt

khác giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hệ lụy đau lòng của cuộc chiến tranh.

Mặt khác, trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh còn khai thác khá thành

công ngôn ngữ đời thường để khắc họa tính cách nhân vật. Ngôn ngữ cá tính hóa là

một đặc điểm thể hiện sinh động chân dung nhân vật. Chính bởi vậy, mỗi nhân vật

trong Miền hoang mang một đặc điểm ngôn ngữ riêng: Lục Thum có lối nói uy lực,

mưu mẹo; tên lính áo đen vô học, man rợ, sử dụng lối nói nhát gừng, khẩu ngữ và từ

lóng thô tục; anh lính Việt Nam khuôn phép, nhẹ nhàng; Sa Ly phát ra những tiếng

nói cảnh báo, khiếp sợ trong tình huống khẩn cấp. Ngôn ngữ đời thường đã thể hiện

được thói quen và tính cách nhân vật, từ đó chân dung nhân vật trở nên gần gũi hơn,

chân thực hơn.

Ở hồi ký văn học, người trần thuật chính là tác giả. Tác giả và nhân vật xưng

“tôi” là một nên ngôn ngữ trần thuật còn là lời của nhân vật. Song hồi ký văn học

không chỉ là câu chuyện của tác giả mà còn là một tác phẩm văn học, vì vậy mỗi

nhà văn đều có ý thức lựa chọn ngôn ngữ phù hợp cho tác phẩm của mình. Với hồi

ký văn học, đặc biệt từ sau năm 1975, các nhà văn luôn có ý thức chọn lọc một hình

thức ngôn từ phù hợp, dễ lôi cuốn, hấp dẫn người đọc. Có thể thấy, một trong

những nét đặc trưng riêng của ngôn ngữ hồi ký giai đoạn này là tác giả sử dụng

ngôn ngữ người kể chuyện theo lối nói dung dị, tự nhiên, dân dã, đậm chất khẩu

ngữ, gần gũi với đông đảo quần chúng nhân dân. Đồng thời, lối sử dụng ngôn từ

này tạo ra cái tươi nguyên cho quá khứ, gây hiệu quả nhận thức, thẩm mĩ cao.

Trong mỗi trang văn của Mùa chinh chiến ấy, ngôn ngữ đời thường đã ùa

115

vào trong tác phẩm, qua lời thoại của lính tráng. Họ nói chuyện với nhau không

kiểu cách, thậm chí bỗ bã qua cách đối đáp xưng hô mày - tao, ông - tôi, thằng này -

thằng kia,… Cách sử dụng ngôn ngữ ấy khiến cho mỗi nhân vật của Đoàn Tuấn

hiện lên chân thực, sống động, người đọc bị cuốn hút theo câu chuyện của họ. Đặc

biệt “chất lính” cũng vì thế mà toát ra, không lẫn vào đâu được. Qua ngôn ngữ,

Đoàn Tuấn đã thổi hồn vào tác phẩm của mình, chất lính tráng lan tỏa trong toàn bộ

tác phẩm. Người đọc thấy được sự trẻ trung, hài hước, tếu táo, cũng như những

cung bậc cảm xúc, suy nghĩ của những chàng thanh niên tuổi đời khá trẻ. Ngôn ngữ

ấy được cụ thể hóa trong câu chuyện của Vinh “gạo mốc” và “tôi”:

“Một buổi trưa, Vinh rủ tôi ra bãi tráng, trước cửa tiểu đoàn, chỗ trực thăng

hay đỗ. Vinh tâm sự:

- Mẹ, tao vừa nhận thư ông già. Đếch thèm đọc.

- Sao vậy?

- Thư nào cũng như xã luận báo Nhân dân. Chán chết.

- Đưa tao xem thư ông già mày viết thế nào?

Vinh lấy trong túi ra lá thư. Đúng là chưa bóc. [ 96, tr. 307]

Lớp từ của người lính được Đoàn Tuấn khai thác: ông già, đếch, chán chết…

giúp người đọc hình dung ra những con người trẻ tuổi, vô tư, tếu táo. Người đọc

như được chứng kiến cuộc nói chuyện tâm tình giữa hai người lính cùng trang lứa.

Không cầu kì kiểu cách, không hoa mĩ, không bóng bẩy, ngôn ngữ của các nhân vật

dung dị như chính cuộc sống của họ. Người đọc không chỉ thấy tâm thế của họ, thấy

“chất lính” qua lớp ngôn từ mà còn có cơ hội khám phá đời sống tâm hồn của

những người lính trẻ. Quả thực, ngôn ngữ đã giúp Đoàn Tuấn kéo những người lính

về gần hơn với đời thực và người đọc có cơ hội trải nghiệm về cuộc chiến như

chính người trong cuộc.

Có khi, tác giả còn gán vào lời thoại của nhân vật những từ ngữ thô tục:

“Thằng Kháng, vận tải, người Quảng Nam, trề môi: “Thử tính xem, từ 5 giờ chiều

đến 12 giờ đêm là 8 tiếng. Từ 12 giờ đêm đến 12 giờ trưa hôm nay là 12 tiếng. Tổng

cộng là 20 tiếng mới đi được hơn cây số. Đ.mẹ, các anh là rùa à? Đếch bằng con

nít”. Thằng Thành “hấp”, dân Đà Nẵng, nổi tiếng chập cheng, cũng gằn giọng:

116

“Đ.má, chỉ huy như thế thì chủ huy cái đ.gì”. Nói xong, nó song phi vào gốc cây,

ngã chổng vó. Không kêu đau, lại vùng dậy ngay” [96, tr.294]. Những câu chửi thể,

chửi tục được sử dụng đã thể hiện được sự thoải mái, suồng sã của người lính. Cứ

ngồi bên nhau, nói chuyện với nhau, họ đều sử dụng lối nói tếu táo, thân mật, đậm

chất lính.

Hoặc nhà văn khai thác lớp từ ngữ dân gian như trong đoạn hội thoại giữa

anh Khai và lính:

“ - Này các cậu hát linh tinh gì thế?

- Dạ, bọn em nghe nói, hướng quân khu 7 và quân khu 9, địch chống trả rất

quyết liệt nên quân khu 5 mình có thể tiến thẳng đến Phnom Phênh? - Minh “sứt”

mắt sáng bừng bừng, trả lời.

- Thôi đi các bố, không có chuyện ấy đâu.

- Sao hướng mình địch bỏ chạy hết, thủ trưởng?

- Tôi hỏi, hai cái tỉnh Mondulkiri và Ratanakiri, các cậu đi qua, có cái vị gì.

Bọn địch chỉ tập trung giữ thành phố, thị xã. Mai đánh vào sân bay Stung Treng,

các cậu sẽ biết thế nào là lễ độ với chiến tranh! Tôi nhắc thế để các cậu không được

chủ quan khinh địch.

- Thủ trưởng yên tâm. Đánh nhau với bọn ăn bốc đái đứng, mình luôn trên

cơ! Anh Sắc, vẫn đeo gùi B41, cười nói.

- Nhưng phải luôn nhớ câu: “Chó cùng dứt giậu!” - anh Khai cảnh báo rồi

bỏ đi” [96, tr 42].

Lớp ngôn ngữ dân gian được sử dụng triệt để như “ăn bốc đái đứng” , “chó

cùng dứt dậu”… khiến cho cuộc hội thoại tự nhiên, dung dị, mang đậm dấu ấn của

người Việt qua lời ăn tiếng nói. Qua ngôn ngữ trần thuật tự nhiên, dân dã và đậm

chất khẩu ngữ, nhà văn không chỉ tái hiện cuộc sống dung dị mà còn tô đậm cái hồn

nhiên, tếu táo của những chàng trai tuổi đôi mươi. Những sự thật về con người, về

cuộc sống một thời hiển lộ trong những trang hồi ký có sức lay động người đọc.

Sử dụng ngôn ngữ đậm chất sống, chất đời thường, Sương Nguyệt Minh và

Đoàn Tuấn đã tạo dựng một quá khứ gần gũi, chân thật, một hiện thực cuộc sống

đúng như chính nó. Mặt khác, ngôn ngữ đậm chất hiện thực đời thường không làm

117

mất đi vẻ đẹp cao cả của người lính mà đưa vẻ đẹp của họ bình dị hơn, gần gũi hơn.

Ngôn ngữ ấy chứng minh: họ là những con người bình thường mà phi thường, chứ

họ không phải là thánh nhân.

3.3.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ

Đứng bên cạnh ngôn ngữ đời thường, trần tục, người đọc vẫn nhận ra một

mạch nguồn ngôn ngữ khác - ngôn ngữ giàu chất thơ trong tác phẩm của Sương

Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Ngôn ngữ giàu chất thơ quyện với ngôn ngữ trận mạc

đã khiến chiến tranh được phản ánh với cái nhìn đa chiều hơn, và hình tượng người

chiến sĩ được khắc hoạ với vẻ đẹp trẻ trung và lãng mạn hơn trên những trang viết

của nhà văn.

Trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, có những đoạn văn khá lãng

mạn xen giữa hiện thực chiến tranh khốc liệt. Dưới ngòi bút của nhà văn, thiên

nhiên cũng mang những nét trữ tình, đầy chất thơ. Chẳng hạn, trong đoạn văn tác

giả miêu tả cơn mưa hiếm hoi của rừng khô Đăng - rếck: “Cả một vùng rừng mịt

mù đón mưa rơi rào rạt. Tôi há miệng đón mưa. Tôi chụm ngón đón mưa và vốc

nước đọng ở lòng bàn tay đổ vào miệng. Lưỡi tôi mềm ra. Cổ họng trước đó vài

giây còn cứng ngắc đã bắt đầu thun rãn, mềm mại, trơn tuột. Nước chảy vào đâu

mát đến đó, nói không ngoa: nước mưa mát lạnh cả dạ dày. Cô gái câm cũng há

miệng đón mưa. Có cảm giác hạt mưa như những hạt ngọc ướt long lanh trượt qua

đôi môi xinh xinh lăn vào lưỡi vào vòm họng. Mưa càng dầy, càng vô vàn hạt nước

đan xiên xiên. Chỉ vài ba phút sau, Sa Ly chỉ còn là một khối đứng mờ mờ sẫm nhạt

nhòa, không rõ hình hài trong làn mưa bàng bạc mù mịt” [52, tr.276]. Những cơn

mưa rừng luôn mang cảm xúc dội về cho người lính trẻ, tâm hồn của người thanh

niên ấy như được gột rửa, trở nên thanh sạch và trong veo. Cơn mưa xóa đi những

mệt mỏi, vất vả của người lính trong hành trình gian nan thoát khỏi rừng Miên.

Ngôn ngữ giàu chất thơ còn được thể hiện qua dòng kí ức của Tùng: “Tay đi

hợp âm và tay gảy đàn, dần dần đầu óc Tùng cũng bứt ra khỏi cái bản mặt tối tăm

của gã lính áo đen và gương mặt ranh mãnh đôi khi nhăn nhó vì đau của Ông Lớn,

để tâm tưởng trôi về với Hồ Tây trong xanh năm trước. Rặng liễu xanh yểu điệu vờn

trong gió. Tùng đi bên Thùy cùng học trường Chu Văn An dọc đường Thanh Niên.

118

Chiều Hồ Tây vàng vọt. Năn lác tốt bời bời ven bờ. Những con vịt trời vô tư quẫy

nước” [52, tr.165]. Đó là mảng kí ức đẹp đẽ của Tùng về Hà Nội, về những kỉ niệm

êm đẹp bên Thùy, bên bạn học. Một thế giới đầy ắp chất thơ, một phần tâm hồn sâu

thẳm của chàng trai lãng mạn, mang đến nguồn cổ vũ to lớn để Tùng đi qua những

bom đạn của kẻ thù.

Và trong những ngày tháng lạc lõng nơi rừng Miên, không ít lần cảm xúc ùa

về trên những trang thư, rung lên theo tiếng đàn của người lính tình nguyện Việt

Nam: “Ngày mai Tùng vào quân ngũ, chiến tranh mịt mù bom đạn, chẳng biết ngày

nào sẽ trở lại. Hai gương mặt buồn, hai trái tim xốn xang, hai nỗi lo thảng thốt, và

cả hai cái cười gượng gạo in vào ảnh hóa ra lại là kỉ niệm nhớ đời. Vài tháng sau,

cô bạn gái gửi ảnh cho Tùng cùng những lời lẽ xa xôi nhớ nhung, hò hẹn… làm anh

nhớ quay quắt. Nỗi nhớ sâu vợi xa xăm cứ lẫn với tiếng đàn và lời ca buồn đẹp da

diết mênh mang:

Một đêm trong rừng núi

Có anh lữ khách nhìn trời xa xa

Ngắm trăng say đắm

Một mình bâng khuâng…

Một đêm trong rừng núi

Có anh lữ khách nhìn trời xa xa

Biết đâu sơn nữ nhìn mình đăm đăm

Sơn nữ ơi!

Đời ta như cánh chim chiều phiêu bạc

Thời gian vun vút trời mây.

Sơn nữ ơi!

Đừng làm thắc mắc cho lòng khô cạn

Từ nay nước mắt đầy vơi…

Sơn nữ ơi!

Làm chi cho đớn đau lòng

Trong một thời gian rồi thương rồi nhớ

Sơn nữ ơi!

119

Hoàng hôn xuống dần chờ đợi ai đây? [52, tr.168]

Ngôn ngữ giàu chất thơ khiến hình tượng người lính tình nguyện Việt Nam

trở nên lãng mạn hơn, ở họ là sự kết tinh của vẻ đẹp văn hóa và tri thức, đối lập

hoàn toàn với hình tượng kẻ thù. Mặt khác, đây cũng là một thủ pháp riêng của

Sương Nguyệt Minh để tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm của mình. Theo Sương

Nguyệt Minh, “về mặt thủ pháp nghề thì cần phải có những “chiếu nghỉ cầu thang”

trong một ngôi nhà cao. Tiểu thuyết mà chi tiết, dữ dội, khốc liệt suốt từ đầu đến

cuối thì đọc rất mệt. Vỡ đầu. Nên rất cần có “dòng suối mát trong” như những

cảnh yêu nhau, va chạm khác giới,…” [48]. Và sự sáng tạo ấy khiến cho tác phẩm

của Sương Nguyệt Minh luôn hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.

Có thể nói, ở những nhà văn đương đại, nhất là với những cây bút trẻ, việc sử

dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, đầy chất thơ là một điểm nhấn đặc biệt trong tác

phẩm của họ. Với Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn cũng đã sử dụng khá thành công

ngôn ngữ giàu chất thơ. Trong ngôn ngữ trần thuật của hồi ký luôn có sự kết hợp

giữa kể, tả và biểu cảm khiến cho câu chuyện trong quá khứ, những sự kiện đời

người trở nên sinh động. Người viết đã đắp da, đắp thịt cho cái khung sự việc của

mình bằng ngôn ngữ miêu tả và bộc lộ cảm xúc. Sự kết hợp này vừa tạo được

trường nhìn về hiện thực cuộc sống và con người của người viết hồi ký, vừa làm

tăng thêm nét sinh động và mĩ cảm cho trang hồi ký của mình.

Bản thân Đoàn Tuấn là một nhà thơ, chính vì vậy ông có cách lựa chọn từ

ngữ diễn đạt bay bổng, nhẹ nhàng. Ngôn từ của Đoàn Tuấn giàu sắc thái biểu cảm,

mỗi ý đẹp như một tứ thơ. Chẳng hạn, đoạn ông miêu tả cảnh thiên nhiên bờ sông:

“Nằm trên doi cát, nghe nước chảy rì rào dưới chân, nhìn trời đất bao la, trong

lành, sạch sẽ dưới ánh trăng hiền hòa, tôi cảm thấy trào dâng một niềm hạnh phúc

sâu dịu. Dòng sông trong vắt. Những đàn cá nhỏ tung tăng vui đùa. Mùi cỏ cây hoa

dại nồng nàn. Gió đưa hương thơm đồng lúa từ xa tràn về. Rì rào. Rì rào. Mơn

man. Mơn man…” [96, tr.395]. Hệ thống tính từ được tác giả khai thác khá thành

công nhằm làm nổi bật những cung bậc cảm xúc trong tâm hồn người lính. Đâu còn

cái gọi là khốc liệt của chiến tranh trong những câu từ ấy. Chỉ còn lại một tâm hồn

đang rung động trước thiên nhiên, gắn bó với quê hương của mình. Thả hồn mình

120

vào thiên nhiên bình dị, người lính hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn, tinh tế và nhạy

cảm. Họ có thể cảm nhận được những điều rất đẹp, rất ý nghĩa từ những điều rất đỗi

bình dị, thân quen. Ngôn ngữ của Đoàn Tuấn bay bổng, chứa chan cảm xúc, đủ sức

đưa người đọc thoát khỏi hiện thực đau lòng của chiến tranh.

Hoặc khi nghe tiếng hát của bé gái người Campuchia, trong lòng người chiến

sĩ đã dâng trào xúc cảm mãnh liệt: “Tôi chợt cảm nhận, người ta hát hay nhất, say

sưa nhất chính là lúc một mình giữa thiên nhiên, chính là lúc, giữa thiên nhiên chỉ

có một mình. Lúc ấy, gió cũng ngân lên giai điệu của gió; lá cũng cất lên tiếng hát

của lá; mây cũng điểm trang cho bầu trời thêm xanh; và nắng cũng thầm reo, cũng

tung tăng bao lớp sóng đủ sắc màu. Lòng người khi ấy là âm nhạc. Hóa thành âm

thanh linh diệu của đất trời. Đó là tiếng hát hay nhất trần gian mà tôi có diễm phúc

được lắng nghe” [52, tr.134]. Thanh âm, ngôn ngữ, hình ảnh như hòa điệu ca vang

trong tâm hồn người lính trẻ.

Cũng có khi Đoàn Tuấn không giấu giếm được cảm xúc khi nghe được thanh

âm tiếng Việt nơi heo hút xứ người: “Tôi không tin vào tai mình. Trời ơi, cô bé nói

tiếng Việt! Thật kinh ngạc và kì lạ, giữa chốn rừng núi hoang vu, giữa cánh đồng xa

lạ thế này, tôi được nghe tiếng Việt, lại từ cái miệng xinh đẹp của một cô bé như

thiên thần thốt ra. Thậm chí, cái âm r trong từ “rừng”, cô bé còn rung đầu lưỡi khi

phát âm. Dễ thương làm sao! Ôi tiếng Việt thân yêu, từ ngày vào lính, từ ngày

ngang dọc trên bao chiến trường đất Campuchia, tôi chỉ toàn được nghe giọng con

trai, giọng đàn ông. Đêm nay, giữa nơi hoang vắng này, tôi lại được nghe tiếng mẹ

đẻ từ một giọng con gái. Giọng Naryn như sợi tơ vàng ánh biếc lung linh giữa cánh

đồng” [52, tr.109]. Đoạn văn gói ghém biết bao cảm xúc. Đó là những rung động

tinh tế nhất của người chiến sĩ khi được lắng nghe tiếng mẹ đẻ ở nơi đất khách quê

người. Bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu mến yêu trào dâng trong trái tim người lính

trẻ. Tiếng nói của Nary được cảm nhận bằng trái tim, bởi thế mà nó đẹp “như sợi tơ

vàng ánh biếc lung linh giữa cánh đồng”.

Mặt khác, trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn không chỉ phối hợp kể, tả,

biểu cảm mà bên cạnh những lời văn xuôi còn là những vần thơ mượt mà, sâu lắng

khiến trang hồi ký đượm chất trữ tình, đằm thắm. Đó là những vần thơ của Lê Minh

121

Quốc những vần thơ viết trên cánh võng, những vần thơ lay động trái tim người

đọc được Đoàn Tuấn ghi lại: “Tôi ngửi thấy từ cánh võng bốc lên tầng tầng lớp lớp

bụi đỏ dọc những con đường xuyên qua Mondulkiri, xuyên qua Ratanakiri. Tôi cảm

thấy mùa mưa Tây Nguyên ầm ào đâu đây. “Con suối Đắc Đam đã trở thành kỉ

niệm/ Ai thương tôi ngày mưa chiều cuối năm?”. Rồi những mùa khô cao nguyên,

mênh mang trời đất, nồng nàn tuổi trẻ… Thơ Quốc viết về lần đào ngũ vì nhớ Đà

Nẵng, nhớ người yêu. Khi lên đơn vị, có mẹ đi cùng. Mẹ Quốc giao lại cho đơn vị.

Thơ Quốc viết về cuộc chia tay một thằng bạn: “Giã từ mày nhé, Đăng Lâm/ Mùa

mưa năm ấy mưa dầm An Lung”. Thơ Quốc viết có đôi giày há mõm, mòn vẹt:

“Một ngày đi ba mươi cây số chưa được nghỉ”. Thơ Quốc viết về nỗi buồn người

lính chiến: “Nửa đêm thức dậy nhớ nhà/ Bỗng ôm mặt khóc như là trẻ con?/

Campuchia nhớ mỏi mòn/ Nhớ thương trong tận đáy hồn viễn chinh” [96, tr.312].

Những vần thơ ghi dấu một thời chinh chiến, những vần thơ chứa chan cảm xúc.

Yếu tố kể như lắng xuống, vin vào lớp ngôn ngữ giàu hình ảnh để làm cho sắc điệu

cảm xúc dâng trào. Với lối viết ấy, Đoàn Tuấn không chỉ khắc họa được hiện thực

chiến trường mà còn soi rọi được vào tâm hồn người chiến sĩ. Một lối viết giàu chất

thơ, giàu chất nghệ thuật khiến cho trang viết trở nên hấp dẫn với người đọc. Những

vần thơ trận mạc của Lê Minh Quốc khiến những trang văn của Đoàn Tuấn khảm

vào tâm thức người đọc một hình ảnh đẹp đẽ về người lính tình nguyện Việt Nam

trên chiến trường K.

Khai thác lớp ngôn ngữ giàu chất thơ, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã

mang đến góc nhìn khác về chiến tranh. Ở đó, hiện thực không còn là những đau

đớn, mất mát, người lính không phải lúc nào cũng đối diện với bom rơi lửa đạn,

cũng phải gồng mình đối chọi với hiểm nguy, chết chóc. Cũng có lúc, người lính

được sống với chính mình, với những cảm xúc ngọt ngào, với những rung động nhẹ

nhàng, tinh tế. Mặt khác, với lớp ngôn ngữ giàu chất thơ, nhà văn đã giúp người đọc

cân bằng cảm xúc, hiện thực chiến tranh cũng được nhìn nhận một cách đa diện và

thấm thía giá trị nhân văn.

3.3.4. Ngôn ngữ đậm chất triết lí

Văn học sau năm 1975 là sự nhận thức lại hiện thực nên chứa đựng rất nhiều

122

băn khoăn, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời và con người. Văn học thời kì này

vươn tới sự khái quát, triết luận về con người, về cuộc đời,… Đặc biệt, với những

người từng trải như Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn, những triết lí, suy luận

càng trở nên sâu sắc. Họ là những người từng tham chiến, là những người trở về sau

cuộc chiến, chính vì vậy trong mỗi câu chuyện của họ không chỉ là hiện thực chiến

trường mà đó là còn là những suy tư, chiêm nghiệm của người cầm bút, những

thông điệp được viết lên trong hiện thực chiến tranh khốc liệt. Với lớp ngôn ngữ

triết lí, chiêm nghiệm, mỗi trang viết của Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh không

chỉ mang đến thông tin và còn đặt ra bao điều phải nghĩ về cuộc đời, về chiến tranh,

về người lính, về lẽ sống… Những chiêm nghiệm, triết lí ấy mang đến cho người

đọc một cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc chiến đã qua.

Trong Miền hoang, ở mỗi góc nhìn khác nhau, mỗi nhân vật có những chiêm

nghiệm riêng của mình về cuộc chiến đang diễn ra. Với Tùng - một người lính tình

nguyện cầm súng chiến đấu trên chiến trường Campuchia, khi nếm trải đủ cay đắng,

cơ cực, Tùng đủ trưởng thành để nhận ra: “Con người lúc sống hung hãn, tranh

giành, thanh toán, đòi nợ. Lúc chết hồn vía bay mất chẳng còn khả năng bảo vệ thân

xác. Các cô hồn đang lẩn khuất trong đền tháp này, nhìn thấy kên kên đang rỉa xác

mình, nếu sống lại họ có tiếp tục cầm súng tương tàn, sát phạt nhau nữa không?”

[52, tr.382]. Khi bản thân rơi vào cảnh lạc rừng, một mình đơn độc, anh hiểu sâu sắc

hơn về cuộc chiến, về thân phận người lính trong chiến tranh: “Quân tình nguyện Việt

Nam có thể cứu cả một dân tộc Khmer thoát khỏi nạn diệt chủng, nhưng chưa chắc

có thể cứu được một người lính của quân đội mình bị lạc rừng hay bị đối phương

bắt.” [52, tr.553]. Sương Nguyệt Minh không chỉ để Tùng chiêm nghiệm về cuộc

chiến, về người lính, với kẻ thù của mình, Tùng cũng có những suy nghĩ vô cùng sâu

sắc và nhân hậu: “Chiến tranh lôi cả đàn bà cầm súng. Nếu không thời chiến thì chắc

chắn nàng ta đã ở nhà đẻ một bầy con, nuôi chúng nó khôn lớn rồi hành nghề bác sĩ,

kĩ sư. Đàn bà đi đánh nhau rồi tịt đẻ cho mà xem. Khốn nạn chưa!” [52, tr.126].

Sương Nguyệt Minh luôn dành sự ưu ái cho người phụ nữ, đặc biệt là những người

phụ nữ trên chiến trường. Nhà văn có thể khái quát một cách chân thực và sâu sắc về

người phụ nữ: “Phụ nữ thời nào cũng nhân hậu và phụ nữ thời nào cũng là dịu dàng.

123

Cái chất yếu ớt của giống cái làm nên cái sự dịu dàng của đàn bà. Dù là nữ binh

Khmer Đỏ nhưng cô ý tá câm cũng không thoát được cái thiên tính bẩm sinh của

giống loài” [52, tr.175]. Không chỉ có cái nhìn thấu đáo về con người, Sương Nguyệt

Minh đồng thời cũng có những chiêm nghiệm sâu sắc về chiến tranh, về sự sinh tồn:

“Chiến tranh là mạnh được yếu thua. Phải biết trân trọng từng giọt sống, nhưng

cũng phải biết tận dụng mọi cơ hội sống. Đôi khi trong chiến trường, con người phải

ác để tồn tại, thì cái thiện ở chiến trường có đất sống không? Điều cốt tử của mình là

tồn tại, tồn tại trước đã thì mới tính chuyện nhân nghĩa, được mất” [52, tr.241]. Có

thể nói, chiến tranh là một hiện thực nghiệt ngã và đau đớn đối với mỗi con người.

Thế nhưng, với Lục Thum và Rô, họ lại có một cách nhìn khác về cuộc chiến. Triết lí

của họ là triết lí về một xã hội chủ nghĩa kiểu mới: “Angkar chúng tao xây dựng xã

hội chủ nghĩa cộng sản ở Campuchia không cần thứ sách vở nhảm nhí của bọn trí

thức thằng Duol ạ” [ 2, tr.159]. Triết lí ấy đã lột tả sự ngu muội, cuồng tín của bọn

Pol Pot. Chính những tư tưởng như vậy đã dẫn đất nước Campuchia lội ngược dòng

văn minh về với thời kì mông muội, đen tối.

Bằng sự trải nghiệm của một người lính trực tiếp cầm súng, Sương Nguyệt

Minh đã khái quát những triết lí sâu sắc về cuộc chiến ở cả hai phía địch và ta. Từ

đó, Sương Nguyệt Minh đã cho thấy sự cởi mở trong suy nghĩ, sự sắc sảo trong tư

duy, cách tiếp cận và lí giải vấn đề. Chiêm nghiệm, triết lí trong sáng tác của Sương

Nguyệt Minh đã giúp người đọc có cách nhìn sâu sắc hơn về cuộc chiến bảo vệ biên

giới Tây Nam của Tổ quốc.

Trong Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, chất suy tư được rải đều trong

mỗi trang viết. Mỗi câu chuyện được kể lại không chỉ là hiện thực chiến trường, mà

đằng sau đó là những suy tư, trăn trở của người cầm bút. Đó là cái tôi luôn tự vấn,

trăn trở, là một cuộc mổ xẻ toàn diện của người viết hồi ký. Chính vì vậy, ở Mùa

chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn đã tạo nên chiều sâu triết lí trong cuốn hồi ký của mình.

Từ bức tranh sinh hoạt của người lính, Đoàn Tuấn đã khái quát thành những bài học

sống sâu sắc. Chẳng hạn, câu chuyện về cái bật lửa vĩ đại là những chiêm nghiệm

về đời người; đốt vỏ trai làm vôi, tiếng hát kì diệu là khát vọng hoà bình, sự hồi sinh

của sự sống; cả đêm múc nước mang đến bài học về sự kiên trì, nhẫn nại,… Những

124

câu chuyện ấy không chỉ tái hiện lại bức tranh sinh hoạt của người lính ở chiến

trường mà còn là những triết lí sâu sắc về cuộc sống được khái quát từ những trải

nghiệm của bản thân nhà văn. Chính những chiêm nghiệm ấy khiến cho hiện thực

chiến trường trở nên chân thực hơn, đa chiều hơn.

Mặt khác, không ít lần Đoàn Tuấn suy tư về người lính: “Những người lính,

họ như nước, như gió. Họ luôn tìm cách chảy, cách đi, tìm cách vận động. Có bao

giờ nước và gió đứng yên đâu. Ngay nước ao tù, cứ tưởng bất di bất dịch, nhưng

trong lòng đất vẫn có nhiều mạch ngầm âm ỉ. Và gió nữa. Ngay lúc này, chỗ này,

ngỡ không có gió. Nhưng thử lên cao, đúng chỗ đó, lúc đó, gió vẫn thổi không

ngừng. Giá được quan tâm hơn, sẽ không có chuyện lính tráng vào phum xin thuốc

rê. Lính tráng, suy cho cùng, cũng là những con người rất đỗi bình thường mà thôi”

[96, tr.172]. Những chiêm nghiệm ấy khiến người đọc hiểu hơn về người lính. Họ là

những con người bình thường, họ không phải những thánh nhân, họ không gánh

trên vai những trọng trách dời non lấp bể. Hình tượng người lính vì thế trở nên gần

gũi hơn, đời thường hơn.

Trong hiện thực chiến trường vô cùng khốc liệt, khi sự sống mong manh và

con người luôn phải đối diện với cái chết, điều này đã khiến người lính trẻ luôn trăn

trở, suy tư. Khi chứng kiến sự hi sinh của đồng đội, khi người sống kháo nhau về

những linh hồn người chết, Đoàn Tuấn đã tự cật vấn: “Người sống và người chết

cùng tồn tại bên nhau. Có ích gì không? Người sống bị ám ảnh người chết. Còn

người chết cũng quyến luyến người sống. Lính Pháp có linh mục cầu nguyện. Lính

Mỹ có những cha tuyên úy quân đội rửa tội. Lính mình có ai không? Ai đón những

linh hồn tử sĩ? Ai dẫn đường cho họ về quê hương? Ai cầu nguyện cho họ? Hình

như, đời sống tâm linh của những người lính chúng tôi vẫn hoang mang một

khoảng trống” [96, tr.229]. Và khi chứng kiến bao nhiêu đồng đội nằm xuống chiến

trường K, Đoàn Tuấn đã khái quát: “Đời lính thế đấy. Nay sống mai chết. Chẳng

biết thế nào. Như chiếc lá bên đường. Chiến tranh đi qua. Tiện tay bứt một cái. Vứt

đi. Thế là xong. Trai thời loạn, gái thời bình, phải chăng là thế? Đời người trải qua

bốn đoạn, sinh - lão - bệnh - tử. Được có tuổi già, được có ngày dưỡng bệnh, đó là

hạnh phúc. Nhưng lính tráng chỉ có sinh và tử” [96, tr.240]. Không ít lần, Đoàn

125

Tuấn trăn trở về lẽ sống của người lính: “Đời lính đấy. Chưa đi hết cuộc chiến đã đi

qua một kiếp người” [96, tr.240]. Chuyện sinh tử trở thành sự chiêm nghiệm của

Đoàn Tuấn khi phải chứng kiến quá nhiều sự hi sinh của đồng đội: “Trong cuộc

chiến không có gì được báo trước, sự sống và cái chết chỉ trong tích tắc, một phút

lơ đễnh rất đời, một giây xúc cảm rất người cũng khiến họ từ giã tuổi thanh xuân

tươi trẻ. Cái chuyện sinh - tử ở chiến trường, đúng là từng giây. Giây trước sống,

giây sau đã chết. Thoáng qua. Đơn giản” [96, tr.286]. Dường như, đây là nỗi ám

ảnh lớn nhất của Đoàn Tuấn bởi lẽ chưa ở đâu lính ta lại hi sinh nhiều như khi chiến

đấu ở chiến trường Campuchia. Những khái quát của Đoàn Tuấn đã phơi bày bộ

mặt của chiến tranh, tô đậm thêm hiện thực chiến trường và khơi dậy ở phía người

đọc những xót xa, đau đớn về một giai đoạn lịch sử đau thương của dân tộc.

Có thể nói, giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm được Sương Nguyệt Minh và

Đoàn Tuấn ưa chuộng. Bởi xét cho cùng, họ là những người đi ra từ cuộc chiến

tranh biên giới Tây Nam. Bản thân họ bước ra khỏi cuộc chiến với những kinh

nghiệm, những chiêm nghiệm được đánh đổi bằng xương máu, với những vốn thực

tế dày dặn. Chính vì vậy, những trang viết của họ vừa chân thực, vừa sâu sắc giống

như thứ men say đã lắng lại, luôn hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.

3.3.5. Ngôn ngữ ma mị, ám ảnh

Hiện thực chiến tranh được tiếp cận ở góc độ văn hoá, tâm linh bởi vậy các

nhà văn đã vận dụng triệt để ngôn ngữ ma mị, có sức ám ảnh lớn với người đọc.

Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đã khéo léo xen giữa câu chuyện

khắc nghiệt, tàn bạo của hiện thực chiến tranh và cuộc đấu tranh sinh tồn giữa rừng

hoang bằng những huyền thoại kinh dị và đẹp đẽ nhuốm màu huyền ảo. Miền hoang

quả thực là một thế giới ma mị đuổi bám con người trong suốt thời gian lưu lạc. Bốn

con người không chỉ đối diện với cái vất vả, cái đói, cái khát mà còn phải đối diện với

những nỗi sợ hãi, ám ảnh về một thế lực bí mật họ không thể nhìn thấy, không thể

chạm vào. Nỗi sợ hãi và ám ảnh cứ bám riết lấy họ trong những hoàn cảnh trớ trêu

nhất. Nhà văn đã đi sâu vào thế giới tâm linh của con người. Ở đó, con người phải đối

diện với vô vàn những nỗi sợ hãi, khiếp đảm nơi rừng Miên hoang độc.

Để làm được điều này, Sương Nguyệt Minh đã vận dụng triệt để ngôn ngữ

126

ma mị, có sức ám ảnh lớn. Đan xen với những nhận xét, suy nghĩ về những người

đồng hành trong cuộc vượt rừng của Tùng là không gian huyền ảo gắn với những

câu chuyện như Ma Lai:“Ma Lai là loại ma cổ cao ba ngấn có thể xoay đầu tách

khỏi thân xác, rút ruột gan phổi ra ngoài. Ban đêm làm ma, ban ngày Ma Lai là

một cô gái sinh sống bình thường” [52, tr.60]. Câu chuyện về Ma Lai cứ ám ảnh

Tùng trong suốt quá trình lạc đường, hiện hữu trong câu chuyện, trong suy nghĩ,

trong giấc ngủ, bám riết lấy anh. Với Tùng, những ám ảnh về một thế giới ma mị

trải dài suốt thời gian lưu lạc nơi miền hoang, chính vì vậy trong góc nhìn của người

lính trẻ, chiến tranh trở nên khốc liệt hơn.

Nếu Ma Lai là nỗi ám ảnh của Tùng đến nỗi “ám ảnh lang thang đi sâu vào

giấc ngủ của tôi” thì với thằng Rô, bóng ma của mụ Dên cứ đuổi riết lấy hắn: “Chớp

sáng nhằng một cái trong óc, khiến tao giật mình nhìn thấy nửa gióng xương đùi

của ai đó như vừa ném văng trước mặt đang nhảy múa.

“Cho tôi lê...ên...Cho tôi lê...ên...”

“Cứ...u...Cứ...u...tôi...”

Tao nhận ra tiếng kêu thảm thiết của con mụ cụt đùi dưới đầm lầy vọng về. Thanh

âm sắc lạnh như đâm vào màng nhĩ, như xé toạc lỗ tai. Tao nhắm mắt giơ hai bàn

tay lại bịt tai thì hình ảnh con mụ tật nguyền lại hiện về lù lù trước mặt” [52,

tr.254]. Thằng Rô độc ác và tàn bạo, thế nhưng có những giây phút hắn như không

còn là chính mình nữa. Hình ảnh mụ Dên cứ ám ảnh lấy hắn, con người ở “thế giới

bên kia” cứ đeo quấn lấy hắn như một lời nhắc nhở về quá khứ và là câu trả lời cho

hình ảnh một kẻ tàn bạo, một cỗ máy giết người mất hết lương tri.

Ngôn ngữ ma mị, ám ảnh không chỉ thể hiện ở những đoạn viết về huyền thoại

Ma Lai, truyền thuyết về người rắn, những câu chuyện hoang đường,… mà còn hiện

hữu trong những tưởng tượng đầy hãi hùng của Tùng khi nghĩ đến cái chết của dã

nhân: “Hồn dã nhân không bay đi đâu xa. Có thể hồn dã nhân đậu trên ngọn cây me

cổ thụ chết khô và chứng kiến cuộc rỉa mỏ, róc xác mình. Một con kên kên mổ cái mỏ

nhọn khoắm vào móc con ngươi. Một con nữa móc nốt mắt bên. Con lóc má. Con lóc

đùi. Con mổ kéo rách thành bụng. Lòng ruột tim gan xổ ra… lõng thõng… Lúc nhúc.

Lúc nhúc. Cánh đập sà sã. Chân co móng sắc đạp móc vào da thịt rách phựt…

127

phựt… Những cái đầu thâm đen, hoặc hói trụ lông da cổ đỏ và mỏ ngà châu vào xơi

bộ lòng ruột. Một lúc sau, hồn dã nhân không nhận ra thân xác mình nữa, chỉ còn

một bộ xương trắng treo lủng lẳng trên cây me cổ thụ chết khô… Ôi hồn dã nhân sẽ

phiêu bạt nơi đâu? Lảng vảng quanh đây và bị cầm tù trong cánh rừng Miên hoang

dã này, hay tìm đường về cố quốc mù xa vạn dặm” [52, tr.526].

Trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, ngôn ngữ ma mị, ám ảnh được

cụ thể hóa trong những đoạn văn miêu tả sự chết chóc, sự nguy hiểm, chết chóc

hiện hữu trong những cánh rừng, trên con đường hành quân,… giúp người đọc có

một cái nhìn toàn vẹn và chân thực hơn về cuộc chiến. Còn ở trong Mùa chinh

chiến ấy, ngôn ngữ ma mị, ám ảnh không phải là chất liệu chủ đạo, nhưng vẫn được

Đoàn Tuấn khai thác để tạo ra điểm nhấn riêng, góp một cái nhìn mới mẻ về cuộc

chiến tranh Campuchia. Ngôn ngữ ma mị, ám ảnh được tác giả sử dụng khi thể hiện

đời sống tâm linh của người lính, những hiện tượng đặc biệt, những yếu tố huyền

ảo… để tạo ra một không gian chiến trường đậm chất hiện thực. Câu chuyện về con

chim yểng của anh Lâm người Quảng Nam là một trường hợp ma mị. Mặc dù là

động vật nhưng nó cũng có linh giác như con người, “chẳng cần lồng, con chim

yểng hình như biết lính cô đơn, không bay đi mà luôn quanh quẩn trong doanh trại”

[96, tr.182], quấn quít ông chủ không rời. Bề ngoài là một loại chim bình thường,

nhưng âm thanh phát ra từ con vật này lại khiến các chiến sĩ có cảm tưởng giọng

nói mang nhiều âm khí chứ không mạnh mẽ như con người: “Tiếng chim nghe như

tiếng chuyển giới, âm sắc ma giáo, lại cất lên từ nhà bếp, một nơi cây rừng bao phủ

quanh năm, không có ánh sáng, tự nhiên khiến tôi thấy sợ” [96, tr.183].

Những câu chuyện về hồn ma chiến sĩ trong tác phẩm của Đoàn Tuấn cũng

góp phần làm cho hiện thực chiến tranh trở nên ám ảnh hơn, day dứt hơn. Ngôn ngữ

của Đoàn Tuấn đã đưa người đọc đến một thế giới khác, một thế giới của những

linh hồn chưa được giải thoát, những linh hồn chưa tìm được đường về với quê

hương. Đó là câu chuyện của anh Biện đêm đêm vẫn hiện về bên đồng đội. Hay câu

chuyện về anh Lâm: “Ông Lâm thiêng lắm. Đêm đêm vẫn mò sang C8 đòi giày.

Chuyện là khi thằng Cửu, lính C8, người cùng quê, rất thân với anh Lâm. Khi anh

Lâm còn sống, không biết Cửu tỉ tê thế nào, anh Lâm cho Cửu đôi giày. Mới hay cũ

128

không biết. Nhưng từ khi anh Lâm mất, đêm nào Cửu cũng nằm mơ. Nó thấy anh

Lâm về, đứng ngay cửa hầm, đòi: “Giả tao giày đây!”. Đêm đầu Cửu còn nghi.

Nhưng mấy đêm sau, vẫn thấy anh Lâm về, nói đúng một câu: “Giả tao giày đây!”.

Cửu sợ” [96, tr.223]. Linh hồn người lính xuất hiện không chỉ tạo ra cảm giác sợ

hãi, ma quái mà hơn hết tác giả đã giúp người đọc có cơ hội đi sâu vào cuộc chiến,

cảm nhận sâu sắc hơn thân phận người lính trong chiến tranh. Ở đâu, thế giới nào

trong cuộc chiến ấy, người lính cũng hoang hoải những nỗi niềm.

Hoặc những trang viết về sự hi sinh của người lính cũng khiến người đọc ám

ảnh và day dứt: “Chúng tôi đặt 8 tử sỹ ngoài trảng cỏ. Trăng sáng vằng vặc. Nhìn

rõ cả những ngọn cỏ trong đêm. Không gian như đứng im. Cả cánh rừng như cúi

đầu mặc niệm. Không có trận gió nào. Nhưng sao bỗng dưng tôi nhớ tới những lời

Chinh phụ ngâm, như heo hút vọng từ thuở ngàn cổ: “Non Kỳ quạnh quẽ trăng

treo/ Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò/ Hồn tử sỹ gió ù ù thổi/ Mặt chinh phu trăng

dõi dõi soi/ Chinh phu tử sỹ mấy người/ Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?”. Ở đây

không có non Kỳ, chỉ có dãy Dangrek xa mờ phía biên giới. Cũng chẳng có bến Phì

nào. Đồng đội tập kết về đây là yên tâm rồi. Trăng soi những gương mặt mất máu,

xạm đen khói lửa, những mái tóc dính đầy đất cát. Chẳng có ai gọi hồn. Nhưng

chắc linh hồn anh em đang bay trên tầng không” [96, tr.215]. Ngôn từ nặng trĩu,

cảm xúc dồn nén, đau đớn và day dứt. Những trang viết của Đoàn Tuấn cứ ám ảnh

người đọc hôm nay về thân phận người lính, về những mất mát đau thương trên

mảnh đất người. Hình ảnh những tử sĩ nằm đó khiến bức tranh về cuộc chiến nhuộm

thêm màu đau đớn, tang thương.

Viết với tâm thế của người trong cuộc, của người đã đi qua cuộc chiến,

Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn không chỉ mang đến những chiêm nghiệm sâu

sắc mà còn tạo ra một góc nhìn mới về cuộc chiến, để người đọc có thể cảm nhận

được sự dữ dội của cuộc chiến. Với lớp ngôn ngữ ma mị, ám ảnh, chiến tranh không

chỉ hiện lên với góc nhìn một chiều mà ngược lại, hiện thực chiến trường được cảm

129

nhận trong cả bề sâu và bề xa của nó.

Tiểu kết chƣơng 3

Nhằm tiếp cận, phản ánh và luận giải hiện thực chiến tranh và chân dung

người lính có chiều sâu, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã kiến tạo những cách

thức biểu đạt mới, tạo nên thành công của Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy.

Những đổi mới trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách tân trong lựa chọn người

kể chuyện và điểm nhìn nghệ thuật, sáng tạo mới mẻ trong việc sử dung ngôn ngữ

nghệ thuật đã đóng góp không nhỏ cho dòng văn học viết về chiến tranh sau năm

1975. Từ đó, chủ đề chiến tranh không còn đơn điệu, một chiều, hiện thực chiến

tranh được soi chiếu ở góc nhìn đa diện. Đặc biệt, cuộc chiến tranh biên giới Tây

Nam được nhìn thấu đáo hơn, sâu sắc hơn, thể hiện được tất cả cái bi hùng và khốc

liệt của nó. Có thể nói, bằng tài năng và ý thức nghề nghiệp, Sương Nguyệt Minh và

Đoàn Tuấn đã tạo nên những cách tân nghệ thuật đáng chú ý, bắt kịp với trình độ

130

đương đại của văn học thế giới.

KẾT LUẬN

1. Có thể thấy, các tiểu thuyết viết về chiến tranh biên giới Tây Nam còn ít so

với một số tác phẩm viết về chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ. Tuy nhiên, văn

học viết về chiến tranh ở thế kỉ XX- XXI, xoay quanh đề tài chiến tranh đã có

những điểm khác biệt nhất định. Chiến tranh hiện lên toàn diện hơn và cũng sâu sắc

hơn. Các nhà văn đã tìm tòi, suy ngẫm và trăn trở về chiến tranh, về số phận con

người. Có thể nói, các nhà văn hiện đại khi viết về chiến tranh đã thoát khỏi những

trói buộc để mở ra một hướng tiếp cận mới, chân thực hơn, nhân bản hơn.

2. Trước khi cầm bút thành nhà văn, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn trước

hết là những người chiến sĩ chiến đấu trên mặt trận chiến trường K. Họ là những

người thấu hiểu bộ mặt của chiến tranh, hình ảnh của kẻ thù và của những người

lính Việt Nam khi làm nhiệm vụ quốc tế - tiêu diệt bọn Pol Pot. Chính vì vậy, chiến

tranh không chỉ là nỗi đau mà còn là những ám ảnh kinh hoàng. Chiến tranh không

phải lúc nào cũng mang cảm hứng sử thi mà đó còn là cuộc chiến đấu không khoan

nhượng với chính bản thân những người lính. Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn

đã mở ra những hướng tiếp cận mới cho đề tài chiến tranh. Cách nhìn của họ có

phần khách quan, đa chiều hơn về hiện thực và con người, chi phối nội dung và

nghệ thuật của tác phẩm. Nhờ vào việc mở rộng đường biên hiện thực chiến tranh,

Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã mang đến những cái nhìn mới mẻ hơn, sâu

sắc hơn, toàn diện hơn về chiến tranh biên giới Tây Nam, kéo văn học viết về chiến

tranh gần hơn với bạn đọc ngày nay. Với những trang văn còn ấm nóng, Sương

Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã trở thành người thư kí trung thành của thời đại

mình, nói về thế hệ mình - tiếng nói được cất lên từ lương tâm người lính với Tổ

quốc, với đồng đội - những người còn sống, những người đã khuất, với thế hệ hôm

nay và mai sau.

3. Để thể hiện một cách chân thực, sâu sắc và toàn diện nhất về chiến tranh

biên giới Tây Nam, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã sử dụng những cách tân

về mặt kĩ thuật tiểu thuyết theo hướng thi pháp hiện đại từ cách xây dựng nhân vật,

131

điểm nhìn, ngôn ngữ… qua đó, hiện thực chiến tranh được hiện lên một cách đa

chiều, toàn diện nhất. Sự đổi mới về phương thức thể hiện đã góp phần khẳng định

dấu ấn và thành tựu của hai nhà văn trong đời sống văn học nói riêng cũng như sự

phát triển của văn học chiến tranh của thế kỉ XXI. Theo PGS. TS Phạm Xuân

Thạch, “Văn học chiến tranh của chúng ta đã bước sang một chặng đường rất mới”

hứa hẹn những bước tiến theo xu hướng hiện đại hoá nói chung của nền văn học

Việt Nam. Và Sương Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn đã góp phần vào sự thành công của

132

văn học chiến tranh trong thời kì mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thái Phan Vàng Anh (2010), Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 2)

2. Lại Nguyên Ân (1986), Thử nhìn lại văn xuôi mười năm qua, Nxb Văn học, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân ( 2004), Một số vấn đề xung quanh phạm trù chủ nghĩa hiện

đại, Tạp chí nghiên cứu văn học số 2, Hà Nội

5. Lê Huy Bắc (2015), Văn học hậu hiện đại lý thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại học

Sư phạm, Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Bình (1996), Mấy nhận xét về nhân vật văn xuôi Việt Nam sau

1975, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

7. Nguyễn Thị Bình (1996), Một phương diện đổi mới trong quan niệm nghệ thuật

về con người của văn xuôi Việt Nam sau 1975, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc

gia Hà Nội, số 3.

8. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau

1975, Luận án PTS Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

9. Nguyễn Thị Bình (2007), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - một cái nhìn khái

quát, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 2).

10. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi giai đoạn 1975 – 1995 những đổi mới cơ

bản, NXB Giáo dục.

11. Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ

minh hoạ, Báo Văn nghệ, số 49,50.

12. Hà Chi (2015), Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Văn chương phải chạm tới thân

phận con người. https://m.phunuonline.com.vn/van-hoa-giai-tri/nha-van-suong-

nguyet-minh-van-chuong-phai-cham-toi-than-phan-con-nguoi 63333/?paged=2

13. Vũ Công Chiến (2016), Hồi ức lính, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

14. Hà Huy Dũng (2007), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Khải, Luận

văn thạc sĩ văn học, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh

133

15. Đinh Xuân Dũng (1995), Đổi mới văn xuôi chiến tranh, Báo văn nghệ (số 51)

16. Đinh Xuân Dũng (2003), Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học, Nxb Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

17. Đoàn Ánh Dương (2014), Không gian văn học đương đại, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

18. Phan Cự Đệ (1984), Mấy vấn đề của tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách

mạng, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 9.

19. Phan Cư Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.

20. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới, Tạp

chí Văn nghệ Quân đội, số (12).

21. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Nguyễn Hoàng Đức (2014), Cảm hứng nhân đạo từ một cuộc chiến tranh, Báo

Quân đội Nhân dân, (số 989)

23. Hà Minh Đức (1999), Lí luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục.

24. Nguyễn Hoàng Đức (2014), Tiểu thuyết “Miền hoang”...giật mình và nghiền

ngẫm! nguồn: https://dantri.com.vn/hoi-am/tieu-thuyet-mien-hoang-giat-minh-

va-nghien-ngam-1419377984.htm

25. Nguyễn Hương Giang (2011), Người lính sau hòa bình trong tiểu thuyết chiến

tranh thời kỳ đổi mới, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số (4).

26. Vân Hạ (2019), “Đoàn Tuấn: viết để không ai, không điều gì bị lãng quên”.

https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Van-hoa/943967/doan-tuan-viet-de-khong-ai-

khong-dieu-gi-bi-lang-quen

27. Giang Thị Hà (2011), Đặc điểm truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, Luận văn

Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

28. Nam Hà ( 2002), Lại nói về chiến tranh và viết về chiến tranh, Tạp chí Văn

nghệ quân đội, số 564.

29. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2000), Từ điển

thuật ngữ văn học, NXB ĐHQGHN

30. Thanh Hằng (2015), Tọa đàm “Nhà văn Sương Nguyệt Minh với tiểu thuyết

“Miền hoang”: Góc nhìn mới về cuộc chiến đã qua. http://cuuchienbinh.vn/toa-

dam-nha-van-suong-nguyet-minh-voi-tieu-thuyet-mien-hoang-goc-nhin-moi-

134

ve-cuoc-chien-da-qua/

31. Nguyễn Văn Hùng, Mùa chinh chiến ấy và khúc tráng ca người lính, Nhân dân

cuối tuần. nguồn: http://www.nhandan.com.vn/cuoituan/van-nghe/ item/

34106102-mua-chinh-chien-ay-va-khuc-trang-ca-nguoi-linh.html

32. Nguyễn Văn Hùng ( 2016), Những chiều kích tâm linh trong tiểu thuyết Việt

Nam đương đại, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 855.

33. Trần Hoàng Thiên Kim (2017), Nhà biên kịch Đoàn Tuấn: Sống và viết để trả

ơn kí ức. http://antg.cand.com.vn/Kinh-te-Van-hoa-The-Thao/Nha-bien-kich-

Doan-Tuan-Song-va-viet-de-tra-on-ky-uc-452806/

34. Nguyễn Thị Dư Khánh ( 1994), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp,

NXB Giáo dục, Hà Nội

35. Lê Định Kỵ (2000 ), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục.

36. Chu Lai (1995), Nhân vật người lính trong văn học, Văn nghệ Quân đội, số (6).

37. Chu Lai (2001), Người lính là một siêu nhân vật, Báo Sài Gòn giải phóng thứ 7.

38. Chu Lai ( 2004), Viết về chiến tranh đôi điều suy ngẫm, Tạp chí Văn nghệ Quân

đội, số (8).

39. Tôn Phương Lan (1994), Chiến tranh trong các tác phẩm văn chương được

giải, Tạp chí Văn học, Số 01/1994.

40. Trần Thị Phương Loan (2010), Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Sương Nguyệt

Minh, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

41. Tuyết Loan (2018), Sự trở lại của văn học chiến tranh, nguồn:

https://www.nhandan.com.vn/vanhoa/item/37321802-su-tro-lai-cua-van-hoc-

chien-tranh.html

42. Nguyễn Văn Long (2001), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục.

43. Phạm Quang Long (2017), Mùa chinh chiến ấy – Những trang sách được viết

ra từ chiến hào, http://www.leminhquoc.vn/the-loai-khac/tac-pham-cua-ban-

be/4261-mua-chinh-chien-ay-nhung-trang-sach-duoc-viet-ra-tu-chien-hao.html

44. Ngô Xuân Lộc ( 2018), Nhà văn Sương Nguyệt Minh: “Tôi là nhà văn chiến

tranh”, http://www.bienphong.com.vn/toi-la-nha-van-chien-tranh/

45. Nguyễn Văn Lưu ( 2015), Miền hoang - Một quyển sách xấu!, Báo Văn nghệ,

135

số 353.

46. M.BakhTin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn,

dịch và giới thiệu, Bộ Văn hóa TT và TT, Trường viết văn Nguyễn Du, HN.

47. M.Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn,

dịch và giới thiệu), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

48. Hải Miên, Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Miền hoang - Một góc nhìn chiến

tranh mới, Thời báo Ngân hàng, số 202. https://thoibaonganhang.vn/nha-van-

suong-nguyet-minh-mien-hoang-mot-goc-nhin-chien-tranh-moi-29350.html

49. Sương Nguyệt Minh (2004), Văn xuôi viết về người lính - Một thách đố nhà

văn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 610.

50. Sương Nguyệt Minh (lược thuật) (2006), Cuộc bàn tròn văn học về chiến tranh

cách mạng và người lính, Tạp chí Văn nghệ quân đội, (654).

51. Sương Nguyệt Minh ( 27/3/2009), Viết về người lính thời bình – Sự thách đố

các nhà văn.

52. Sương Nguyệt Minh (2014), Miền hoang, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

53. Đặng Quốc Nhật (1980), Mấy ý kiến về đề tài chiến tranh và sự chi phối của nó

trong văn học Việt Nam hiện đại, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số (6).

54. Mai Nhật (2019), Chiến tranh biên giới Tây Nam qua hồi ký các cựu chiến

binh, https://vnexpress.net/giai-tri/chien-tranh-bien-gioi-tay-nam-qua-hoi-ky-

cac-cuu-binh-3957300.html

55. Lã Nguyên (2015), Tôi đọc “Miền hoang” của Sương Nguyệt Minh.

http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-

nhin-van-hoa/toi-doc-mien-hoang-cua-suong-nguyet-minh

56. Minh Nguyễn (2019), Xúc động với loạt sách viết về chiến tranh bảo vệ biên

giới Tây Nam. https://doanhnhansaigon.vn/ke-sach/xuc-dong-voi-loat-sach-viet-

ve-chien-tranh-bao-ve-bien-gioi-tay-nam-1093425.html

57. Việt Nguyễn (2015), Tọa đàm về tiểu thuyết Miền hoang: Chiến tranh – vết

thương trong tâm hồn nhân loại, Báo Nghệ thuật mới, số 17; 35.

58. Nhiều tác giả ( 2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

59. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.

136

60. Nhiều tác giả (2015), Thế hệ nhà văn sau năm 1975, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

61. Bảo Ninh (1990), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

62. Lê Văn Nghệ (2016), Nhà biên kịch Đoàn Tuấn – Trong ký ức rì rầm.

http://leminhquoc.vn/bao-chi/le-minh-quoc-viet/3537-le-van-nghe-nha-bien-

kich-doan-tuan-trong-ky-uc-ri-ram.html

63. Lê Thành Nghị ( 1995), Tiểu thuyết về chiến tranh mấy ý nghĩ góp bàn” Tạp chí

Văn nghệ quân đội, (7), tr.84-94

64. Lê Thành Nghị (2001), Văn học viết về chiến tranh cách mạng đòi hỏi và thách

thức của thời đại, Tạp chí Nhà văn, số (12).

65. Thy Ngọc (2014), Ám ảnh nơi Miền hoang, Báo Đời sống Văn hóa, số (517)

66. Lã Nguyên (2015), Tôi đọc Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, Báo văn nghệ

Quân đội, sô 30.

67. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

68. Hồ Phương (2002), Có gì mới trong tiểu thuyết về đề tài chiến tranh hôm nay,

Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4.

69. Trần Thị Mai Phương, (2017), Tư duy nghệ thuật trong hồi ký văn học Việt

Nam từ 1986 đến nay, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn, Hà Nội.

70. Lê Minh Quốc (2014), Tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh.

http://leminhquoc.vn/hoi-hoa/tu-lieu-le-minh-quoc/2358-tieu-thuyet-mien-

hoang-cua-suong-nguyet-minh.html

71. Lê Minh Quốc (2018), Đoàn Tuấn – người kể chuyện đời lính thế hệ mình.

https://nld.com.vn/van-nghe/doan-tuan-nguoi-ke-chuyen-doi-linh-the-he-minh-

20180702211700163.htm

72. Lê Minh Quốc (2019), Tâm tình của người lính Tây Nam.

https://baomoi.com/tam-tinh-cua-nguoi-linh-tay-nam/c/31700004.epi

73. Lê Minh Quốc (2019) , Đau đáu trong tôi vẫn là đồng đội chết trẻ. Nguồn:

http://danviet.vn/tin-tuc/nha-tho-le-minh-quoc-dau-dau-trong-toi-van-la-dong-

137

doi-chet-tre-945270.html

74. Việt Quỳnh (2014), Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Tiểu thuyết từ ám ảnh của

“người lính lạc rừng”. http://hieusach.vn/tin-sach/tac-pham/nha-van-suong-

nguyet-minh-tieu-thuyet-tu-am-anh-cua-nguoi-linh-lac-rung-.html

75. Hồ Sơn (2019), Nhà văn Đoàn Tuấn: một lòng với đồng đội. Nguồn:

https://www.nxbtre.com.vn/diem-tin/nha-van-doan-tuan-mot-long-voi-dong-

doi-33697.html

76. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.

77. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB

ĐHSPHN.

78. Trần Đình Sử ( 2014), Văn học và văn hóa tâm linh. https://trandinhsu.

wordpress.com/2014/03/21/van-hoc-va-van-hoa-tam-linh/

79. Thanh Thảo (2019), Đau nhói “Mùa linh cảm”. https://thanhnien.vn/van-

hoa/dau-nhoi-mua-linh-cam-1106548.html

80. Nguyễn Thị Thanh (2013), Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam

sau năm 1975 - Những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật.

81. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - nhìn từ góc độ thể loại,

Tạp chí Văn học, số (4)

82. Xuân Thân (2017), Mùa chinh chiến ấy, https://nhasachtriduc.vn/mua-chinh-

chien-ay/

83. Xuân Thiều (1988), Mấy suy nghĩ về mảng văn học chiến tranh cách mạng, Báo

văn nghệ, số 3.

84. Xuân Thiều (1988), Viết về chiến tranh, nghĩ về đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu

Văn học, (3-4) tr.99-104.

85. Nguyễn Bích Thu (2006), Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975,

Văn học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb

Giáo dục, Hà Nội, tr. 225-235

86. Nguyễn Bích Thu (30/1/2009), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kì

138

đổi mới.

87. Lý Hoài Thu (2011), Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới, https://

khoavanhoc.edu.vn/index.php/nghiencuukhoahoc/cong-trinh-khoa-hc/83-ngh-

thut-hc/874-hi-ki-va-but-ki-thi-ki-i-mi

88. Cẩm Thúy (2019), Nhà văn Đoàn Tuấn: Cúi xuống cuộc đời.

http://daidoanket.vn/tinh-hoa-viet/nha-van-doan-tuan-cui-xuong-cuoc-doi-

tintuc444522

89. Nguyễn Thị Thanh Thúy (2011), Đặc điểm của hồi ký văn học Việt Nam từ

1986 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh, Vinh.

90. Lê Hương Thủy, Đổi mới cái nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết chiến tranh

(Qua một số tác phẩm từ 2000 đến nay). https://www. khoanguvandhsphue.org/

chi_tiet_hoat_dong.aspx?ID=7183&nc=2&w=DOI_MOI_CAI_NHIN_NGHE_

THUAT__TRONG_TIEU_THUYET_CHIEN_TRANH__(QUA_MOT_SO_T

AC_PHAM_TU_2000_DEN_NAY).html

91. Anh Thư (2019), Mùa chinh chiến ấy – chim đã xa bầy”.

https://vovworld.vn/vi-VN/tap-chi-van-nghe/mua-chinh-chien-ay-chim-da-xa-

bay-761768.vov

92. Anh Thư (2019), Nhà biên kịch Đoàn Tuấn: “Tôi không thể sống thiếu người

đã mất”, https://vov.vn/van-hoa-giai-tri/nha-bien-kich-doan-tuan-toi-khong-the-

song-thieu-nguoi-da-mat-938363.vov

93. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ.

94. Nguyễn Nghĩa Trọng (2006), Thử nhận diện văn học ba mươi năm qua, Văn

học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo

dục, Hà Nội, tr.70-77

95. Bùi Thanh Truyền (2006), Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam,

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.

96. Đoàn Tuấn (2018), Mùa chinh chiến ấy, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

97. Nguyễn Đình Tú (9-2007), Đề tài chiến tranh với những người viết trẻ, Tạp chí

Văn nghệ quân đội, (606), tr.101-103.

98. Hoàng Ngọc Tuấn (3/3/2005), Văn chương về chiến tranh Việt Nam và nhu cầu

139

sáng tạo bút pháp mới, Chiến tranh nhìn từ nhiều phía.

99. Phùng Văn Tửu (12/1976), Vấn đề huyền thoại trong văn học nghệ thuật, Tạp

chí Văn hóa nghệ thuật, (3), tr.30-32.

100. Lê Phong Tuyết (2008), Người kể chuyện trong văn xuôi, Tạp chí văn học

nước ngoài số 5.

101. Thiên Việt (2016), Đoàn Tuấn và “Mùa chinh chiến ấy”: Tôi viết để “trả nợ”

đồng đội. http://danviet.vn/van-hoa-giai-tri/doan-tuan-va-mua-chinh-chien-ay-

toi-viet-de-tra-no-dong-doi-801016.html

102. Nguyễn Thiệu Vũ (8/2004), Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng và

lực lượng vũ trang sau 1975 – những thành tựu nghệ thuật còn bị bỏ lỡ, Tạp

140

chí Văn nghệ quân đội, (604), tr.104-108.