ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
NGUYỄN THỊ YẾN
HIỆN THỰC CHIẾN TRANH TRONG
MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH VÀ
MÙA CHINH CHIẾN ẤY CỦA ĐOÀN TUẤN
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
NGUYỄN THỊ YẾN
HIỆN THỰC CHIẾN TRANH TRONG
MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH VÀ
MÙA CHINH CHIẾN ẤY CỦA ĐOÀN TUẤN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 8229030.04
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Đức Phƣơng
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết quả quá
trình nghiên cứu của bản thân tôi.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa học
của các tác giả với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung tôi nghiên cứu
không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Học viên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ vô cùng quý
báu của các tập thể và cá nhân.
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã và đang
giảng dạy trong chương trình Cao học môn Ngữ văn Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn – những người đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.
Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS Đoàn Đức Phương – người
Thầy đã tận tâm hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và triển khai luận văn.
Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
luôn tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện
luận văn.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận
văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của Thầy/ Cô và các anh chị
học viên.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Học viên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu .................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7
5. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 7
Chƣơng 1: VĂN HỌC VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH SAU 1975 VÀ
SÁNG TÁC CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH, ĐOÀN TUẤN
1.1. Văn học về đề tài chiến tranh sau 1975 .................................................. 8
1.1.1. Cơ sở của việc phản ánh hiện thực chiến tranh ...................................... 8
1.1.2. Hiện thực chiến tranh với những hướng tiếp cận mới .......................... 11
1.1.2.1. Hiện thực chiến trường qua góc nhìn đời tư, thế sự .......................... 11
1.1.2.2. Hiện thực chiến tranh từ góc nhìn văn hoá, tâm linh ........................ 16
1.2. Sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn ................................... 21
1.2.1. Sáng tác của Sương Nguyệt Minh ........................................................ 21
1.2.1.1. Vài nét về Sương Nguyệt Minh ........................................................... 21
1.2.1.2. Hành trình sáng tạo ........................................................................... 22
1.2.2. Sáng tác của Đoàn Tuấn ........................................................................ 26
1.2.2.1. Vài nét về Đoàn Tuấn ......................................................................... 26
1.2.2.2. Hành trình sáng tạo ........................................................................... 27
Chƣơng 2: HIỆN THỰC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM
TRONG MIỀN HOANG VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY
2.1. Bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ..................... 33
2.1.1. Hoàn cảnh chiến trường ........................................................................ 33
2.1.1.1. Chiến trường dữ dội, khốc liệt ........................................................... 33
2.1.1.2. Sự hi sinh, mất mát ............................................................................. 41
2.1.2. Cuộc chiến đấu vì Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế ................................... 45
2.1.2.1. Nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng ............................................................ 45
2.1.2.2. Sống và chiến đấu hết mình ............................................................... 49
2.2. Hình tƣợng ngƣời lính Việt Nam .......................................................... 51
2.2.1. Hình tượng người lính trong cuộc đấu tranh với kẻ thù ....................... 51
2.2.1.1. Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất ................................................................ 51
2.2.1.2. Những góc khuất tâm hồn người lính ................................................ 64
2.2.2. Hình tượng người lính trở về sau chiến tranh ....................................... 70
2.3. Hình tƣợng kẻ thù .................................................................................. 73
2.3.1. Hình tượng kẻ thù với bản chất xấu xa ................................................. 73
2.3.2. Hình tượng kẻ thù trong hiện thực chiến trường .................................. 76
2.3.2.1. Những kẻ độc ác, tàn bạo ................................................................... 76
2.3.2.2. Những kẻ đê tiện, thô bỉ ..................................................................... 80
Chƣơng 3: MIỀN HOANG VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................. 84
3.1.1. Khắc hoạ nhân vật qua ngoại hình ........................................................ 84
3.1.2. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................ 90
3.2. Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trần thuật ........................................... 94
3.2.1. Người kể chuyện ................................................................................... 94
3.2.2. Điểm nhìn trần thuật ............................................................................ 103
3.3. Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................. 109
3.3.1. Ngôn ngữ có tính hiện thực ................................................................. 110
3.3.2. Ngôn ngữ dung tục, đời thường .......................................................... 114
3.3.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ ....................................................................... 118
3.3.4. Ngôn ngữ đậm chất triết lí .................................................................. 122
3.3.5. Ngôn ngữ ma mị, ám ảnh .................................................................... 126
KẾT LUẬN .................................................................................................. 131
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 133
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chiến tranh là một địa hạt văn chương khá màu mỡ, thu hút nhiều cây bút tài
năng. Trong chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, chúng ta đã thấy một số lượng tác
phẩm hùng hậu, mang chiều sâu về nội dung. Văn học đã làm tròn sứ mệnh thiêng
liêng của mình trở thành vũ khí đắc lực trong cuộc chiến với kẻ thù. Phần lớn các
tác phẩm đã phản chiếu trung thành những năm tháng hào hùng của dân tộc, xây
dựng những hình tượng đẹp đẽ về đất nước và nhân dân anh hùng.
Khi hoà bình lập lại, văn học viết về chiến tranh vẫn có một chỗ đứng riêng
với những cách tân về tư duy nghệ thuật. Đất nước bước vào thời bình, các nhà văn
đã có một độ lùi nhất định để nhìn nhận chiến tranh một cách bình tĩnh hơn, sâu
lắng hơn và phản ánh vấn đề toàn diện hơn. Các tác phẩm viết về chiến tranh ở thời
kì này đã có những tìm tòi, đổi mới về nội dung tư tưởng, quan niệm về thể loại và
đổi mới về “kĩ thuật”, có những đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới văn
học nước nhà. Chính vì vậy, những năm gần đây, văn chương viết về đề tài chiến
tranh có khá nhiều thành tựu, là khu vực đặc biệt thú vị và đầy hứa hẹn, bắt kịp với
trình độ của văn học đương đại trên thế giới.
Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở vùng biên giới Tây Nam (1975 – 1979) có
ý nghĩa lịch sử quan trọng. Mỗi người lính ra trận không chỉ có nhiệm vụ bảo vệ
biên giới của Tổ quốc mà còn gánh trên vai nghĩa vụ quốc tế cao cả. Thế nhưng,
trong cuộc chiến ấy, bao nhiêu người lính đã ngã xuống, bao nhiêu những đau
thương vây bủa ngay cả khi những người còn sống được trở về. Hiện thực ấy đã
được thể hiện một cách chân thực qua văn học, dù mới chỉ là một “mảnh đất nhỏ”
với những tác phẩm như Dòng sông Xô Nét của Nguyễn Trí Huân, Không phải trò
đùa của Khuất Quang Thuỵ, Khoảng rừng có những ngôi sao và Ngôi chùa ở
Pratthana của Văn Lê, Bên dòng sông mê của Bùi Thanh Minh, Mùa xa nhà của
Nguyễn Thành Nhân, Hồi ức lính của Vũ Công Chiến,…Có thể thấy, chiến tranh
biên giới Tây Nam đã lùi xa hơn 40 năm, nhưng những kí ức về cuộc chiến đấu vì
nhiệm vụ quốc tế cao cả ấy vẫn còn là nỗi trăn trở của nhiều cây bút hiện đại. Một
1
số tác phẩm viết về chiến tranh ra đời như một “món nợ” với đồng đội, với những
người đã ngã xuống. Món nợ văn chương được các nhà văn bù lấp bằng những tác
phẩm có “tâm” và có “tầm” với lối tư duy nghệ thuật hiện đại. Miền hoang của
Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn là những tác phẩm như
thế. Chân thực, sâu sắc, toàn diện, thấm thía, cảm xúc,…hai tác giả không chỉ mang
đến cái nhìn về hiện thực chiến tranh, mà hơn hết mỗi trang văn đều được hình
thành từ cái tâm và lương tri của người lính - những lính hoàn thành nhiệm vụ
thiêng liêng từ chiến trường K năm ấy và bây giờ, họ dành những trang văn đẹp đẽ
nhất viết về đồng đội mình, về chiến tranh, …từ cái nhìn của một người trong cuộc.
Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn là hai cây bút tài năng của văn học Việt
Nam hiện đại. Họ viết văn bằng ý thức nghề nghiệp của mình. Nhưng điều đặc biệt
họ từng là người lính, họ từng trực tiếp tham gia chiến đấu, họ từng dấn thân trên
chiến trường nước bạn, gánh trên vai nhiệm vụ chiến đấu thiêng liêng. Họ cầm bút
cũng là khi “Hàng vạn đồng đội của họ đã chết để họ được sống và kể lại câu
chuyện của thế hệ mình”, họ là những người “được chọn” để viết về đồng đội của
mình và viết để “trả nợ” đồng đội. 40 năm qua đi, những kí ức về chiến tranh, về
đồng đội…vẫn vẹn nguyên và thôi thúc những người lính – nhà văn ấy cầm bút
trong một thực tại hoàn toàn khác. Tài năng, lương tri của người lính kết hợp với
những cách tân mới mẻ về nghệ thuật đã giúp Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn
viết một cách chân thực nhất, thấm thía nhất về chiến tranh biên giới Tây Nam.
Nghiên cứu, tìm hiểu chủ đề chiến tranh trong hai tác phẩm Miền hoang của
Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, một mặt khai thác
những mảng hiện thực đa bộn, nhiều chiều về chiến tranh biên giới Tây Nam nói
riêng và đề tài chiến tranh nói chung, mặt khác thấy được sự độc đáo, mới lạ trong
những cách tân nghệ thuật, những “kĩ thuật” khai thác hiện thực chiến tranh rất hiệu
quả của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Qua đó khẳng định sự phát triển của
văn học chiến tranh với những cách tân đáng chú ý, bắt kịp với trình độ đương đại
của văn học thế giới. Đó là lí do chúng tôi lựa chọn đề tài “Hiện thực chiến tranh
trong Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn
2
Tuấn” để thực hiện.
2. Lịch sử vấn đề
Miền hoang ra mắt bạn đọc vào năm 2014, sau đó được Nhà xuất bản Trẻ in
thành sách cùng tên. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tác giả. Cuốn tiểu thuyết
đoạt giải Sách hay năm 2015 và được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhà
văn, nhà báo quan tâm giới thiệu, phân tích, bình luận.
Trong buổi toạ đàm Nhà văn Sương Nguyệt Minh với tiểu thuyết „Miền hoang‟
được tổ chức vào ngày 17/12/2014 tại Đại học Văn hoá Hà Nội, nhiều nhà nghiên
cứu phê bình đã bày tỏ ý kiến nhận định về tiểu thuyết Miền hoang của Sương
Nguyệt Minh. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nhận định Miền hoang là
cuốn tiểu thuyết được viết tâm huyết, công phu, độc đáo về cuộc chiến tranh bảo vệ
biên giới Tây Nam và cuộc chiến ở chiến trường Campuchia… Cuộc chiến Miền
hoang là cuộc chiến giữa văn minh và bạo tàn, chỉ có cuộc lạc rừng loanh quanh của
4 người mà viết được hơn 600 trang, đọc vẫn bất ngờ, cuốn hút, hấp dẫn. Nguyễn
Văn Thọ đánh giá cao sự “khôn ngoan” của tác giả Miền hoang trong việc lựa chọn
ngôi kể, quy chiếu được nhiều góc nhìn, điểm nhìn, nhờ đó nội dung câu chuyện
được kể thoải mái hơn, thật hơn, khách quan hơn. Đỗ Bích Thuý cũng nhận xét thấu
đáo về tác phẩm Miền hoang. Theo nhà văn, sở trường giỏi nhất về truyện ngắn của
Sương Nguyệt Minh lại một lần nữa được thể hiện trong tác phẩm, đặc biệt là các chi
tiết. Chi tiết trong Miền hoang kĩ lưỡng, sắc nét, và chị cho rằng, với Miền hoang,
Sương Nguyệt Minh thêm một lần nữa khẳng định tên tuổi ở thể loại tiểu thuyết.
Đặc biệt, nhà phê bình Lã Nguyên có bài biết công phu về tác phẩm Miền
hoang của Sương Nguyệt Minh. Trong đó, ông đánh giá cao tác giả, tác phẩm:“Đặt
bên cạnh những tập truyện ngắn trước kia của ông, thấy „Miền hoang‟ vẫn nằm
trong văn mạch của một cây bút đã định hình phong cách”; “Tôi cho rằng điểm
mới lạ, độc sáng trong thiên tiểu thuyết này là nghệ thuật chuyển đổi điểm nhìn trần
thuật”; “Sẽ không tìm thấy trong văn xuôi Việt Nam hiện nay một tiểu thuyết thứ
hai có hệ thống nhân vật người kể chuyện được dụng công xây dựng như vậy” [55].
Còn Lê Minh Quốc, nhà văn, nhà thơ, đồng đội của Sương Nguyệt Minh thời
ở chiến trường K đã dành những lời chia sẻ: “Miền hoang của nhà văn Sương
Nguyệt Minh là cuốn tiểu thuyết…viết chân thành. Sự việc tàn khốc, bi thảm và hào
3
hùng từ chất liệu vốn có. Hãy đọc. Nên đọc” [70].
Nhà văn Đỗ Tiến Thuỵ đánh giá cao nghệ thuật tự sự của Miền hoang khi cho
rằng, tuy là lần đầu tiên viết tiểu thuyết nhưng Sương Nguyệt Minh đã trổ hết những
“ngón nghề” về thể loại. Cả nhà văn Đỗ Tiến Thuỵ và nhà phê bình Nguyễn Chí
Hoan đều cho rằng tác giả Miền hoang “khôn ngoan” khi dùng những bản tin thông
tấn ngắn gọn làm đề từ như một sự hỗn dung thể loại: văn chương - báo chí, tiểu
thuyết tư liệu - tiểu thuyết phiêu lưu; bản thân những bản tin đã có sức khơi tạo
được không khí, bối cảnh của sự kiện, tiết kiệm được công sức của nhà văn.
Nhà báo Việt Quỳnh (báo Thể thao Văn hoá) trong bài viết Nhà văn Sương
Nguyệt Minh: Tiểu thuyết từ ám ảnh của người lính lạc rừng cho rằng: “Cảm hứng để
viết cuốn tiểu thuyết định mệnh này, có lẽ bắt nguồn từ những ám ảnh ký ức của nhà
văn, khi từng là „người lính lạc rừng lang thang đói khát, mặt quắt như ngón tay chéo
ở những cánh rừng Campuchia‟ như tác giả đã chia sẻ. Những mảnh vụn còn sót lại
trong trí nhớ lúc thể hiện, lúc mờ nhạt qua từng trang viết tạo nên một thế giới nội
tâm đầy ấm ức. Trải nghiệm lạ thường trong dòng chảy cảm giác và cảm xúc được kể
lại bằng chất văn mềm mại, bình dị, pha cả trong sáng ngây thơ” [74].
Có thể nói, khi ra đời tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh nhận
được khá nhiều ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu văn học. Qua đó người đọc
dần dần khám phá những nét đặc sắc trong tác phẩm của Sương Nguyệt Minh nói
chung và tiểu thuyết Miền hoang nói riêng.
Mùa chinh chiến ấy là cuốn sách đầu tay của Đoàn Tuấn. Ngày 22/7/2017,
hơn 330 cựu binh thuộc thuộc tiểu đoàn 8, Trung đoàn 29, Sư đoàn 307 tham gia
chiến đấu trên chiến trường Campuchia đã có buổi gặp mặt kỉ niệm 40 năm ngày
nhập ngũ tại Đà Nẵng. Cũng trong dịp này, nhà văn Đoàn Tuấn đã ra mắt và tặng
hơn 300 cuốn sách Mùa chinh chiến ấy cho đồng đội mình.
Trong lời đề tựa ra mắt cuốn sách Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, Xuân
Thân đã trích dẫn lời nhận xét của nhà thơ - nhà báo Lê Minh Quốc, cựu binh Đại đội
7, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 29, Sư 307: “Với tư cách người lính từng cầm súng chiến
đấu và sống những năm tháng thanh xuân thơ dại trên quê hương Chùa Tháp, tôi dám
nói rằng…hồi ức chiến binh Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn là một trong những
4
tập bút ký xuất sắc nhất, có vị trí quan trọng trong các tác phẩm viết về chiến sĩ quân
tình nguyện Việt Nam”. Đồng thời, cũng trong bài viết, Xuân Thân cho rằng: “ Có
thể xem Mùa chinh chiến ấy như những thước phim về một giai đoạn lịch sử của đất
nước được nhìn dưới con mắt của một người lính ở tầng thấp nhất”, là “hồi ức một
thời của tác giả, cũng như những đồng đội của mình, ông đã có khoảng thời gian rất
dài để chiêm nghiệm về những gì đã qua. Dù vẫn còn đó những ám ảnh về mất mát,
hi sinh nhưng những người lính cũng đã thanh thản và nhẹ nhàng hơn, đã có thể nhìn
được đằng sau những ngày tháng khốc liệt ấy là tình người, là những giá trị cuộc sống
mà chỉ khi trải qua những ngày tháng gian nan của cận kề cái chết họ mới hiểu hết
được”. Đó cũng là lí do mà cựu binh Hiền Nhân nhận xét: “Mùa chinh chiến ấy…ngỡ
như một giấc mơ khốc liệt mà tuyệt đẹp” [ 82].
Tác giả Nguyễn Văn Hùng trong bài viết „Mùa chinh chiến‟ ấy và khúc tráng
ca người lính đã có những chia sẻ: “Bằng sự nhạy cảm và điềm tĩnh trước mọi tình
huống cùng khả năng quan sát tinh tường, ghi chép tỉ mỉ - những tố chất sẵn có của
một người lính thông tin, Đoàn Tuấn đã tái hiện “mùa chinh chiến” nơi biên giới
Tây Nam trong những năm 1978 - 1983 khốc liệt mà tuyệt đẹp, lôi cuốn và giàu sức
ám gợi. Gương mặt chiến tranh hiện lên hào hùng nhưng không kém phần khắc
nghiệt… Ở đó, sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong nháy mắt; nơi mỗi phum
làng được giải phóng, từng giây từng phút bình yên của người dân đều phải trả giá
bằng xương máu của quân tình nguyện Việt Nam. Có sự hi sinh anh dũng, đẹp đẽ,
rạng ngời nhưng cũng có cái chết tức tưởi, nghẹn uất, phi lí. Chiến tranh là vậy, và
Đoàn Tuấn đã không né tránh mảng hiện thực gai góc, trần trụi, nghiệt ngã đến tận
cùng ấy”. Với Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn trở thành người thư kí trung thành
của thời đại anh, nói về thế hệ mình - tiếng nói được cất lên từ lương tâm người
lính, từ ý thức trách nhiệm của một con người. Tác phẩm vang lên như một khúc
tráng ca để thế hệ của anh tự hào, kiêu hãnh về những năm tháng đã sống, chiến đấu
và hi sinh một phần tuổi thanh xuân. Nó còn là một khúc nguyện cầu an ủi, xoa dịu,
hoá giải cho những thiệt thòi, mất mát, đau thương của các linh hồn đã khuất. Lắng
nghe và nghiệm suy tiếng nói, người đọc hôm nay sẽ nhận diện được gương mặt
lịch sử, thấu hiểu, đồng cảm với những đau thương và vinh quang, nhọc nhằn và
5
kiêu hãnh của một thế hệ, để nhắc nhở trách nhiệm với Tổ quốc và gia đình” [31] .
Phạm Quang Long trong bài viết Mùa chinh chiến ấy – những trang sách được
viết ra từ chiến hào đã đánh giá “Mùa chinh chiến ấy là hồi ký nhưng hấp dẫn và
giàu chất truyện như một cuốn tiểu thuyết” [43]. Còn PGS.TS Phạm Xuân Thạch
khi trả lời phỏng vấn của tạp chí Văn nghệ quân đội, đã cho rằng Mùa chinh chiến
ấy là một tập xuất sắc về một cuộc chiến qua cái nhìn của người lính.
Điểm qua các bài viết về Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, có thể thấy phần
lớn là các bài giới thiệu, điểm sách, chưa đi sâu vào khai thác tư tưởng, thẩm mĩ đặc
sắc của tác phẩm
Trên tinh thần kế thừa người đi trước, với đề tài Hiện thực chiến tranh trong
„Miền hoang‟ của Sương Nguyệt Minh và „Mùa chinh chiến ấy‟ của Đoàn Tuấn,
luận văn tập trung khai thác hiện thực chiến tranh biên giới Tây Nam qua hai tác
phẩm trên, đồng thời khám phá những phương thức phản ánh hiện thực mới mẻ ở
hai tác phẩm, từ đó người đọc có cái nhìn chân thực nhất về chiến tranh cũng như
sự đổi mới và phát triển của văn học chiến tranh ở thể kỉ XXI.
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề hiện thực chiến tranh trong văn
xuôi Việt Nam đương đại, cụ thể qua hai tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt
Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn. Lựa chọn hai tác phẩm tiêu biểu của
văn xuôi đương đại viết về đề tài chiến tranh, người viết hướng tới hiện thực chiến
tranh, đặc biệt là chiến tranh biên giới Tây Nam và phương thức phản hiện thực
chiến tranh của văn xuôi Việt Nam hiện đại từ đó có cái nhìn sâu sắc, toàn diện nhất
về chiến tranh cũng như góp phần khẳng định tài năng của các nhà văn hiện đại như
Sương Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn,…trên địa hạt văn chương đương đại.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đặc trưng thi pháp của hai tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt
Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn để thấy được sự vận động và cách tân
của văn xuôi viết về đề tài chiến tranh hiện nay.
Từ đó luận văn khẳng định vai trò, vị trí và những đóng góp của Sương
Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn vào thành tựu của văn xuôi chiến tranh cùng tiến trình
6
hiện đại hoá tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát hai tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và
Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn. Hai tác phẩm có một điểm chung là đều viết về
chiến tranh biên giới Tây Nam. Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã viết bằng
tâm thế của người trực tiếp tham gia chiến đấu. Chính vì vậy, khi nghiên cứu hai tác
phẩm, người viết có thể có một cách nhìn khái quát hơn, chân thực hơn về cuộc
chiến đã qua đi.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử - xã hội: Tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt
Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn ra đời gắn với hoàn cảnh lịch sử đặc
biệt – cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Chính vì vậy, sử dụng phương pháp lịch
sử - xã hội sẽ là một phương pháp hiệu quả khi khai thác hiện thực chiến tranh trong
hai tác phẩm.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học là phương pháp cần thiết trong quá trình
nghiên cứu. Ở chương 2 của luận văn, người viết tập trung khai thác phương thức
nghệ thuật của hai tác phẩm trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh. Phương
pháp tiếp cận thi pháp học sẽ là chìa khóa giúp người viết vận dụng thi pháp học
vào tìm hiểu tác phẩm văn chương.
- Ngoài ra, trong luận văn người viết còn dùng các phương pháp khác như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê;
phương pháp tự sự học.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Văn học về đề tài chiến tranh sau 1975 và sáng tác của Sương
Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn
Chương 2. Hiện thực chiến tranh biên giới Tây Nam trong Miền hoang và
Mùa chinh chiến ấy
Chương 3. Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy nhìn từ phương diện nghệ thuật
7
biểu hiện
Chƣơng 1
VĂN HỌC VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH SAU 1975 VÀ SÁNG TÁC CỦA
SƢƠNG NGUYỆT MINH, ĐOÀN TUẤN
1.1. Văn học về đề tài chiến tranh sau 1975
1.1.1. Cơ sở của việc phản ánh hiện thực chiến tranh
Sau năm 1975, cuộc kháng chiến 20 năm kết thúc, đất nước hoàn toàn giải
phóng nhưng đồng thời cũng phải đối diện với muôn vàn khó khăn thử thách. Một
mặt chúng ta vừa phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh, vừa phải
đối mặt với muôn vàn những khó khăn, thử thách trong công cuộc dựng xây đất
nước. Nhân dân ta vừa hàn gắn vết thương do chiến tranh, vừa dựng xây đất nước
trong sự hoang tàn, xơ xác, vừa phải giải quyết những vấn đề của thời hậu chiến.
Mặt khác, không bao lâu sau, chiến tranh biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam
lại nổ ra, dân tộc lại gồng mình lên đường chiến đấu để bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ.
Nhận biết tình hình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng đề ra những chủ
trương, đường lối phát triển đất nước phù hợp với thực tiễn. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ
sự thật” phù hợp với xu thế phát triển của đất nước lúc bấy giờ.
Những đặc điểm về hoàn cảnh xã hội tác động không nhỏ đến văn học, làm
thay đổi diện mạo của nền văn học sau năm 1975. Văn học viết về chiến tranh có sự
chuyển mình đáng kể, mở ra một thời kì mới cho sáng tác văn học trong yêu cầu tái
tạo thời kì lịch sử hiện nay.
Sau năm 1975, văn học viết về chiến tranh có những chuyển động đáng chú
ý. Trong đó phải kể đến sự thay đổi về chủ thể sáng tạo. Văn học từ 1975 đến nay
đã có một đội ngũ sáng tác trải nghiệm đi từ thời chiến bước vào thời Đổi mới với
bao va đập qua những bước ngoặt lịch sử. Nhà văn viết về chiến tranh là những
người trực tiếp cầm súng chiến đấu. Họ viết về mình, về thế hệ mình, về những vinh
quang thăng trầm quá khứ một cách chân thực và sâu sắc. Họ đã đem vào trong văn
xuôi về chiến tranh những trải nghiệm từ chiến hào của cá nhân mình và của thế hệ
mình. Hơn ai hết, họ hiểu về hiện thực khốc liệt của chiến tranh, hiểu về sự hi sinh
8
lớn lao và nghĩa tình của đồng bào, đồng chí. Và họ viết bằng tất cả cảm xúc chân
thật của mình, viết bằng trái tim, viết bằng sự tri ân đối với những người đồng đội
còn nằm lại chiến trường. Những trang viết vì thế mà ấm nóng, những trang viết vì
thế mà phản ánh một cách chân thực nhất về sự dữ dội của chiến tranh và những
tình cảm thiêng liêng, sâu sắc của tình đồng chí, tình quân dân…trong những năm
tháng khốc liệt ấy. Nói như Sương Nguyệt Minh: “Viết bằng tâm thế người can dự
trong cuộc đi suốt cuộc chiến tranh với nỗi phấp phỏng băn khoăn giày vò, chứ
không viết vằng thứ tình cảm đi xem người ta đánh nhau rồi sáng tác, cũng không
viết như mấy ông nhà văn ngồi ở Hà Nội tưởng tượng về chiến tranh sáng tác như
vẽ rắn thêm chân và viết nhăng cuội” [ 52, tr. 231].
Mặt khác, văn học sau 1975 tiếp tục mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực
chiến tranh. Các tác phẩm viết về chiến tranh không chỉ dừng lại ở hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, đường biên chiến tranh được mở rộng khi các nhà
văn hướng đến khai thác cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên
giới phía Bắc. Tuy số lượng tác phẩm viết về chiến tranh biên giới ít hơn so với tác
phẩm viết về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nhưng những tác
phẩm này đã thể hiện sự trải nghiệm sâu sắc của người cầm bút, họ viết về chiến
tranh bằng những day dứt, trăn trở, bằng những nếm trải của người “người trong
cuộc”, bởi thế những trang văn của họ chân thực và thấm thía. Không ít tác phẩm để
lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi chất hiện thực ngồn ngộn, tươi ròng
cùng cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh và chân dung người lính như Dòng sông
Xô Nét của Nguyễn Trí Huân, Không phải trò đùa của Khuất Quang Thụy, Khoảng
rừng có những ngôi sao và Ngôi chùa ở Pratthana của Văn Lê, Lính Hà (Nguyễn
Ngọc Tiến), Mùa chinh chiến ấy (Đoàn Tuấn), Hồi ức lính (Vũ Công
Chiến),…Trong đó, theo Sương Nguyệt Minh, có thể xem Dòng sông Xô Nét của
Nguyễn Trí Huân viết năm 1980 là tiểu thuyết đầu tiên viết về chiến tranh biên giới
Tây Nam. Có thể nói, đây chính là một dòng văn học dù ít, dù nhiều đã góp phần tái
hiện lại những năm tháng gian nan trong cuộc chiến đấu ở “đất bên ngoài Tổ quốc”.
Ở giai đoạn này, các nhà văn cũng có nhu cầu nhận thực lại hiện thực chiến
tranh và viết về chiến tranh với cảm quan mới. Nếu như trước 1975, hiện thực chiến
9
tranh chủ yếu được soi rọi bằng cái nhìn sử thi, hào hùng và cảm hứng lạc quan lãng
mạn thì đến nay, văn học viết về chiến tranh đã có sự đổi mới rõ rệt trên phương
diện tiếp cận, miêu tả và phản ánh hiện thực. Trong các trang viết về chiến tranh đã
bắt đầu xuất hiện cái nhìn đa chiều, trần trụi hơn ở nhiều góc độ: bi tráng, khốc liệt;
đời tư, thế sự, nhân văn; văn hóa, tâm linh. Các tác phẩm viết về chiến tranh đã
không còn né tránh hiện thực, mặt khác các nhà văn đã tái hiện hiện thực chiến
tranh với tất cả sự khốc liệt, những tổn thất, hi sinh nặng nề của nó. Hiện thực ấy
không chỉ là những ngày tháng nơi trận mạc, mà nó còn tiếp tục đeo bám người lính
khi chiến tranh kết thúc và mang đến cho người đọc cảm nhận chân thực nhất về hệ
lụy của chiến tranh. Có thể thấy, văn học đã nhìn thẳng vào hiện thực chiến tranh
bằng những trải nhiệm và cái nhìn cá nhân, tái hiện lại cái chiều kích đau thương và
bộ mặt tàn khốc không thể quy giản của chiến tranh, nói lên tiếng nói cảnh báo về
những hiểm hoạ của chiến tranh để lại trong thời hậu chiến. Văn học đương đại Việt
Nam về chiến tranh thiên về khai phá những mặt còn khuất lấp, những vấn đề đời tư
- thế sự, hướng đến cuộc sống đa trị và qua đó thể hiện cảm quan của nhà văn. Hiện
thực chiến tranh được tiếp cận, giải mã không đơn điệu, một chiều mà phức tạp, đa
dạng; hình tượng con người được miêu tả trong cái nhìn đa chiều, phong phú.
Bên cạnh việc nhận thức lại hiện thực, văn học viết về chiến tranh sau 1975
còn hướng tới thân phận của từng con người trong cuộc chiến ác liệt chống lại kẻ
thù. Các tác phẩm văn học chiến tranh viết về những số phận bi thảm, những con
người mang trong mình những vết thương về hình hài, thân xác, về tâm hồn. Những
vết thương ấy không chỉ hiện hình trong chiến tranh mà thậm chí ngay cả khi người
lính đã trở về, nỗi đau vẫn không hề nguôi ngoai. Hình tượng con người được miêu
tả trong cái nhìn đa chiều, phong phú. Hàng loạt kiểu con người mới nghiêng về
tính chất đời tư, thế sự, cá nhân, thân phận lần lượt được miêu tả. Tất cả đã khắc
họa đậm nét hệ lụy của chiến tranh và bi kịch của con người thời hậu chiến. Nhà
phê bình Tôn Phương Lan đã nhận xét: “Văn học viết về đề tài chiến tranh trong
những năm chiến tranh ít nói về buồn vui của cuộc sống thường nhật, ít nói về
những đau thương, mất mát, hi sinh trên chiến trường, ít quan tâm đến số phận con
người mà tập trung đến số phận đất nước. Sau chiến tranh, văn học viết về đề tài
10
này mới có xu hướng viết về sự thật của đời sống, viết về những khó khăn ác liệt,
sau lầm, vấp ngã, thiếu sót của người lính trong chiến tranh cũng như trước sự cám
dỗ của cuộc sống đời thường” [39]. Hiện thực chiến tranh được nhìn nhận qua thế
giới nội tâm, những số phận cá nhân con người. Tiếp cận chiến tranh từ bên dưới, từ
những số phận, những mảnh đời…nhà văn có điều kiện nhìn con người tham gia
chiến tranh từ hai phía và lí giải chiến tranh trên nguyên tắc nhân bản.
Văn học sau 1975 có những cách tân đáng kể về mặt nghệ thuật. Trước tiên
là ở điểm nhìn trần thuật, các nhà văn đã sử dụng khá linh hoạt các điểm nhìn. Sự
gia tăng điểm nhìn, dịch chuyển điểm nhìn linh hoạt trong nghệ thuật trần thuật đã
tạo ra hiệu quả nghệ thuật phong phú cho tiểu thuyết viết về chiến tranh, bộ mặt
chiến tranh hiện lên một cách khách quan và toàn vẹn hơn. Mặt khác, văn học thời
kì này cũng có sự đổi mới về ngôn ngữ, giọng điệu và nghệ thuật xây dựng nhân
vật. Những cách tân về nghệ thuật tạo ra những góc nhìn đa chiều về chiến tranh,
góp phần làm thay đổi diện mạo của văn học sau năm 1975.
Có thể thấy, khi chiến tranh kết thúc, văn học có “độ lùi” cần thiết để viết về
chiến tranh, đánh giá và nhìn nhận lại chiến tranh một cách toàn diện hơn. Đó cũng
chính là lí do khiến chiến tranh trở thành “siêu đề tài, người lính trở thành siêu
nhân vật, càng khám phá càng thấy những độ rung không mòn nhẵn” [37].
1.1.2. Hiện thực chiến tranh với những hướng tiếp cận mới
Viết về chiến tranh, văn học đương đại Việt Nam đã có những dịch chuyển
về góc nhìn nghệ thuật. Nếu như trước năm 1975, hiện thực chiến tranh chủ yếu
được soi rọi bằng cái nhìn sử thi, hào hùng và cảm hứng lạc quan, lãng mạn; đến
nay mặc dù cái nhìn và cảm hứng sử thi ấy vẫn được duy trì trong những trang viết
về chiến tranh, song đã bắt đầu xuất hiện cái nhìn đa chiều, trần trụi hơn ở những
góc độ: đời tư, thế sự và văn hóa, tâm linh. Những góc nhìn này khiến cho hiện thực
chiến tranh trở nên chân thực hơn, sâu sắc hơn, khai thác được bề sâu, bề xa và bề
sau của mỗi cuộc chiến, đặc biệt là chiến tranh biên giới Tây Nam.
1.1.2.1. Hiện thực chiến trường qua góc nhìn đời tư, thế sự
Sau năm 1975, văn học bắt đầu có sự chuyển mình, từ cảm hứng sử thi sang
cảm hứng thế sự, đời tư. Ở giai đoạn này, văn học không còn ngợi ca mà chuyển
11
sang chiêm nghiệm, phê phán, lấy vấn đề của cuộc sống hàng ngày, bình thường
của con người bình thường làm đối tượng khám phá. Chất hiện thực đời thường
theo khuynh hướng đời tư, thế sự được khai thác nhiều hơn. Chính vì vậy, chiến
tranh được nhìn nhận đánh giá lại một cách đầy đủ và nghiêm túc. Trong lịch sử dân
tộc, hiện thực chiến tranh là hiện thực hào hùng với những trang sử vẻ vang, với
những bản anh hùng ca cách mạng. Nhưng bên trong hiện thực ấy chất chứa cả
những nỗi đau, những mất mát, những giằng xé nội tâm và thậm chí cả những xấu
xa, thấp hèn trong mỗi người lính. Văn học đương đại Việt Nam viết về chiến tranh
thiên về khai phá những mặt còn khuất lấp, những vấn đề đời tư - thế sự, qua đó thể
hiện cảm quan của nhà văn. Các tác giả văn học đương đại đã chú ý nhiều hơn đến
cái gọi là “đời” mà trước đây ít nói đến. Họ viết về chiến tranh bằng sự giày vò, day
dứt của những người trong cuộc, của những người đi qua chiến thắng và may mắn
sống sót, nên hơn ai hết họ hiểu rõ về chiến tranh. Những tác phẩm của họ là một
quá trình tìm tòi, trăn trở về chiến tranh, về số phận con người. Chính vì vậy hàng
loạt tác phẩm trong giai đoạn này không đơn giản là những bức tranh về chiến tranh
đầy ắp sự kiện mà chiến tranh chỉ làm “bức phông” để các nhà văn khai thác số
phận con người trong nỗi đau nhân bản nhất.
Điểm chung trong Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy là cả hai nhà văn đều
tiếp cận, miêu tả hiện thực cuộc sống qua góc nhìn đời tư, thế sự. Phía sau mỗi trận
đánh là cuộc sống sinh hoạt bình dị nhưng không kém phần sôi nổi, vui vẻ. Đó là
những bữa cơm trắng nuốt không trôi, những đêm tát suối nhớ đời hay lần đầu được
chén thịt voi…Đó là những hình ảnh rất bình dị thuộc về cuộc sống, là những trải
nghiệm của lính tráng ở nơi đất bạn tuy vất vả nhưng không kém phần thú vị. Người
lính đã hòa mình vào sinh hoạt cộng đồng của người dân. Họ cùng ăn một bữa cơm,
uống cùng bình rượu, cùng nhau nhảy múa hát ca,...trong tình quân dân ấm áp. Họ
xúc động trước một tiếng hát ngọt ngào, vỡ òa cảm xúc trong thanh âm tiếng Việt
trong trẻo, họ trân trọng từng nét đẹp văn hóa của nhân dân Campuchia. Cuộc sống
của họ trở nên tươi mới như suối nguồn tươi trẻ, giảm đi phần nào sự khốc liệt và
dữ dội của chiến tranh. Các tác giả không chỉ dựng lại bức tranh sinh hoạt thời
chiến mà còn cho người đọc thấy được tinh thần lạc quan, yêu đời của những người
12
lính trẻ chiến đấu trên mảnh đất không phải quê hương.
Mặt khác, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn thiên về khai thác những mặt
còn khuất lấp, đặc biệt là những tâm tư, cảm xúc rất chân thực của người lính.
Trong sáng tác của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn, người lính không phải là
những người truyền bá lí tưởng, ngược lại họ là những con người rất đỗi bình
thường. Bởi thế, họ được khắc họa với những suy tư, khao khát, ước mơ, với những
xúc cảm rất chân thực trong đời sống nội tâm phức tạp, nhiều chiều. Đó là khoảnh
khắc sau những ngày tháng khô hạn, thiếu nước, người lính hạnh phúc khi được
dầm dưới cơn mưa rào để cơ thể như được tái sinh. Đó là niềm vui khi nghe giai
điệu quen thuộc từ đài phát thanh Campuchia và nghiêng ngả hát theo. Đó là giây
phút hạnh phúc khi được nhận thư nhà và sẻ chia cùng đồng đội. Đó là những nỗi
nhớ miên man về gia đình, về người yêu thương, … Thậm chí cả những sợ hãi, bất
lực hay tuyệt vọng trong hoàn cảnh khốc liệt nhất. Có thể nói, trên trang viết của
nhà văn, người lính đã sống với những cảm xúc thành thật, riêng tư nhất. Họ suy
ngẫm về cuộc chiến với tất cả những bi hùng, họ ước ao được trở về quê hương, gia
đình, được ăn bữa cơm mẹ nấu, được sống một cuộc sống bình yên. Trong những
câu chuyện của người lính chiến đấu nơi đất bạn, khát khao được trở về đất nước
luôn thôi thúc họ. Không phải họ là những kẻ hèn yếu, không phải họ quên đi nghĩa
vụ quốc tế thiêng liêng, không phải họ không dám vượt qua những khó khăn thử
thách mà thực ra phía sau họ là quê hương, là gia đình. Khát khao ấy cũng là dễ
hiểu với những chàng trai trẻ tuổi phải đối diện với muôn ngàn khó khăn, thử thách,
hiểm nguy trên đất bạn. Tuy nhiên, ước mơ khát khao ấy không khiến họ thoái lui,
bỏ cuộc, hàng ngày họ vẫn đấu tranh để bảo vệ từng tất đất, đánh đuổi kẻ thù, họ
vẫn gánh trên vai trách nhiệm thiêng liêng bởi: “tất cả mọi người lính Việt Nam ai
cũng muốn trở về nhà thì bọn Pol Pot quay trở lại Phnom Pênh ngay. Người Khmer
sẽ sống ra sao với bọn man rợ ấy. Bỏ thì thương, vương thì tội. Bỏ cuộc chiến đồng
nghĩa với ... trắng tay”. [ 52, tr. 231]. Có thể nói, Sương Nguyệt Minh và Đoàn
Tuấn đã chạm vào phần sâu nhất trong mỗi người lính, khiến trang viết của họ lấp
lánh giá trị nhân bản trong cuộc chiến tranh khốc liệt nơi chiến trường K.
Soi chiếu chiến tranh dưới góc nhìn đời tư, Sương Nguyệt Minh và Đoàn
13
Tuấn không giấu giếm những chuyện thầm kín riêng tư, những góc khuất bản năng
của những người lính trẻ. Bởi xét cho cùng, họ đều là những thanh niên, chưa biết
đến cảm giác yêu thương từ bạn khác giới, cho đến khi vội vã tham chiến, giữa
không gian núi rừng mênh mông rộng lớn, họ khát khao một vòng tay ấm, một cử
chỉ âu yếm, một ánh mắt thân yêu. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn đã khắc
họa khá chân thực cảm xúc của người lính khi nghe tin đoàn văn công đến. Không
sao giấu nổi sự háo hức ở những chàng trai suốt ngày chỉ quen với súng đạn, họ háo
hức, họ phấn đấu, họ chu đáo với những cô gái của đoàn văn công. Và khi đoàn văn
công rời đi, họ tiếc nuối ngẩn ngơ giống như những cô gái ấy “như một đám mây, từ
trên trời rơi xuống”. Hình ảnh đoàn dân công cũng chính là những khát khao của
tuổi trẻ, là những cảm xúc rất đời, bởi lẽ họ đã “để lại trong lòng lính tráng cái cảm
giác về đời thường, về sự cân bằng âm dương thiết yếu của mọi thứ tạo vật trên đời,
không chỉ riêng con người” [96, tr. 377]. Còn ở Miền hoang, Sương Nguyệt Minh
cũng không cố che giấu những cảm xúc, bản năng của nhân vật Tùng - chàng trai
Hà thành còn rất trẻ. Trong một khoảnh khắc đặc biệt, con người bản năng của
Tùng trỗi dậy. Vẻ đẹp của cô gái Sa Ly đã cuốn hút anh “Tôi đang sống trong cảm
giác được mơn man khơi gợi, kích thích bản năng tính dục thức dậy trong niềm
thích thú đê mê âm thầm” [ 52, tr. 280]. Có thể nói, chiều sâu tâm hồn của những
người lính ấy đã được Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh khắc họa một cách chân
thực nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Họ đã soi chiếu chiến tranh từ góc
nhìn đời tư thầm kín của những người lính trẻ, đã khai thác góc khuất nơi bản năng
của những chàng thanh niên vừa mới rời ghế nhà trường, từ đó hình tượng người
lính trở nên chân thực hơn.
Mặt khác, chiến trường K cũng chính là nơi để thử thách, để nhận diện giá trị
của mỗi người. Trong bối cảnh ác liệt ấy, hình ảnh người lính hiện ra với tất cả các
hành vi, tình cảm, nhận thức về nghĩa vụ, trách nhiệm, quan hệ với đồng đội, bạn
bè, sống chết, đúng sai, cao cả và thấp hèn, dũng cảm và hèn nhát, sự thực và dối trá
ở mỗi người lính. Khi cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt, ranh giới giữa sự
sống và cái chết vô cùng mong manh, hàng loạt cảnh tượng chết chóc kinh hoàng cứ
liên tiếp nối nhau đè nặng lên trí óc người lính khiến tâm hồn của họ chao đảo,
14
mông lung. Trong Miền hoang, không ít lần Tùng gục ngã giữa rừng hoang hiểm
độc để cho sự yếu đuối chế ngự: “Sợ hãi quá! Cực thân quá. Bỗng dưng anh ôm
mặt khóc tu tu. Khóc mà nước mắt không chảy ra, anh biết tính mạng mình đã đến
lúc nguy kịch. Chính lúc khóc thảm thiết không ra nước mắt vì cơ thể mất nước ấy
cũng chính là lúc lòng anh hoang vắng nhất.” [ 52, tr. 243]. Chiến tranh, sự chết
chóc làm cho họ trở nên bạc nhược. Có những người lính đã tự bắn súng vào đầu
mình chỉ vì không vượt qua nổi cơn khát đến chết đi sống lại ở rừng hoang như
trường hợp của anh Nguyễn Bá Lan. Chiến tranh không chỉ cướp đi tính mạng của
những người lính trẻ, chiến tranh để lại dư chấn khủng khiếp trong trái tim, khối óc
của họ. Đó là hình ảnh của Mạnh - một người lính không có khả năng làm điều ác
nhưng đã mất tinh thần chiến đấu, rơi vào tình trạng trầm cảm khi phải chứng kiến
cái chết của kẻ bên kia chiến tuyến. Quả thực, người lính đã bước vào cuộc chiến và
gánh chịu tất cả những mất mát, đau thương do chiến tranh gây ra.
Cũng trong góc nhìn đời tư thế sự, hình tượng người lính được khắc họa với
cả những xấu xa, thấp hèn và ích kỉ. Bên cạnh những người anh hùng là những kẻ
hèn nhát, cơ hội, gian lận,…Chẳng hạn, trong Mùa chinh chiến ấy, chỉ vì vài nhúm
thuốc rê mà lính đã vô tình làm lộ kế hoạch quân sự. Vì không được cấp phép về
nhà mà lính sẵn sàng quay lưng bắn vào đồng đội của mình…Thậm chí, chuyện lính
đào ngũ cũng được viết đến như một lẽ tự nhiên, một câu chuyện đùa của anh em
lính tráng kiểu: “Ai về thưa với quân khu/ Lính không đào ngũ, lính ngu suốt đời”;
hay “Hà chuồn, Nam lủi, Thái Bình bay/ Hải Phòng anh dũng trốn ban ngày/ Hà
Tây về phép không cần giấy/ Thanh Hóa mất mùa xin ở lại/ Nghệ An thấy thế cũng
giơ tay” [ 96, tr. 261]. Và đương nhiên, chuyện đào ngũ không phải là chuyện bông
đùa, nhiều người lính đã bỏ lại chiến trường, đồng đội. Lính tráng đào ngũ như
chuyện của Trần Văn Điểm trong Mùa chinh chiến ấy, như Quân “kều” trong Miền
hoang, là chuyện không thiếu. Nhưng đến cả tiểu đoàn trưởng - có cấp bậc, có chức
tước cũng đào ngũ thì quả thực người ta không thể nhìn chiến tranh một cách đơn
giản. Sự lung lạc ý chí, mờ mịt mục tiêu khiến những người lính đi ngược lại chính
bản thân mình, khi lí tưởng của họ bị xói mòn và nhân cách tha hóa. Với những
hành động ấy, người lính được nhìn một cách chân thực hơn, phía sau ánh hào
15
quang của những người anh hùng là những mảng tối ý thức, nhân cách.
Có thể thấy, nhân vật người lính không chỉ là những người anh hùng mang
vẻ đẹp lí tưởng, họ còn được xây dựng là những con người bình thường với cả
những khát vọng lớn lao và ham muốn thấp hèn, với tất cả những xấu xa, ích kỉ, tha
hóa trong cái khốc liệt của chiến tranh. Họ không chỉ là những con người lạc quan
cách mạng, những con người với lí tưởng lớn lao mà ngược lại, họ được nhìn nhận
lại một cách chân thực hơn. Họ xuất hiện với tư cách là những con người bình
thường với đầy đủ lí tính, tình cảm, ý thức, vô thức…Song với góc nhìn đời tư thế
sự ấy, Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh đã mang đến một cách nhìn khách quan,
chân thực và đầy chất nhân văn về người lính và hiện thực chiến tranh. Tác phẩm
của họ vì thế đã bứt phá khỏi lối tự sự truyền thống, tạo ra một lối đi riêng trongviệc
phản ánh hiện thực chiến tranh. Quả thực, góc nhìn đời tư thế sự góp một phần
không nhỏ vào thành công của Mùa chinh chiến ấy và Miền hoang.
1.1.2.2. Hiện thực chiến tranh từ góc nhìn văn hoá, tâm linh
Sau năm 1975, yếu tố tâm linh thâm nhập ngày càng nhiều vào văn học, nhất
là sau Đổi mới (1986), khi dân tộc vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại,
đang gồng mình khắc phục hậu quả của chiến tranh. Trong các tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Hòa Vang, Nguyễn Xuân Khánh…yếu tố tâm
linh trở thành một chất liệu sáng tác mới cho văn học. Theo nhà phê bình văn học
Trần Đình Sử: “Tâm linh đã trở lại với văn học, không chỉ có tác dụng miêu tả đời
sống trong phương thức tồn tại tâm linh, mở rộng khái niệm hiện thực do diễn ngôn
tâm linh kiến tạo, góp phần kích thích trí tưởng tượng, thích thúc cái kì ảo mà còn
nuôi dưỡng tinh thần con người, đi sâu vào những miền mà khoa học chưa thể giải
thích mà cũng không nhất thiết đều phải giải thích của đời sống” [78].
Tâm linh là một phần trong đời sống của con người mà văn học phản ánh
hiện thực thì điều tất yếu văn học phải gắn liền với yếu tố tâm linh. Thiếu yếu tố
tâm linh, sự miêu tả trong văn học sẽ thiếu đi sự chân thực. Với văn học đương đại,
văn hóa tâm linh được khai thác khá thành công trong những trang viết của các nhà
văn đương đại. Tâm linh được xem như là hiện tượng tự nhiên trong đời sống, nay
được dùng làm chất liệu sáng tạo mới, mang lại những chân trời rộng mở cho chủ
16
thể sáng tạo cũng như cộng đồng diễn giải.
Nếu giai đoạn trước, văn học viết về đề tài chiến tranh chủ yếu miêu tả “bề
nổi” của hiện thực với những sự kiện, biến cố có thể tri giác rõ ràng, thì bây giờ
nhằm mở rộng biên độ phản ánh, luận giải hiện thực có chiều sâu, các nhà văn đã
quan tâm nhiều hơn đến “phần chìm” tâm linh - mảng hiện thực con người chỉ có
thể linh giác, dự cảm.
Tiếp cận hiện thực chiến tranh theo góc nhìn văn hóa tâm linh trở thành một
hướng đi mới khá độc đáo của các cây bút đương đại viết về chiến tranh. Với hướng
đi đó, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã soi rọi, lí giải hiện thực chiến tranh từ
cái nhìn văn hóa tâm linh. Trong hành trình truy tìm, khám phá “cõi đời”, “cõi
người” vô cùng vô tận, hai nhà văn đã thâm nhập vào kí ức và thực tại, cõi dương
và cõi âm, vùng sáng và vùng tối, ý thức và vô thức trong tâm hồn con người.
Những linh tính, giấc mộng không đầu không cuối, những hiện tượng kì bí, ảo diệu
được hai tác giả đưa vào tác phẩm với một “liều lượng” vừa đủ để có thể nhận diện
hiện thực và con người một cách toàn diện.
Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh khéo léo xen giữa câu chuyện khắc
nghiệt, tàn bạo của hiện thực chiến tranh và cuộc đấu tranh sinh tồn giữa rừng
hoang bằng những huyền thoại kinh dị và đẹp đẽ nhuốm màu huyền ảo. Đó có thể là
huyền thoại về người rắn - loại sinh vật thường cứu những chàng trai dân chài bị
chết đuối nhưng sau đó lại quyến rũ để quan hệ giao hoan cho đến khi họ sức tan
lực kiệt mà chết. Hoặc các nghi lễ của dân tộc Campuchia được ông ghi chép tỉ mỉ,
chọn lọc. Cụ thể là nghi lễ “trận trảm” trên thân thể của các cô gái đồng trinh. Khi
con gái đến tuổi cập kê thì cần được tiến hành làm trận trảm bằng cách người ta
dùng ngón tay làm mất đồng trinh người con gái rồi nhúng vào rượu, đem ra chấm
vào trán cha mẹ cô gái và hàng xóm. Từ sau đêm trận trảm đó, người con gái sẽ ra
ngủ phòng ngoài và muốn làm gì với trai thì làm, họ được quyền quyết định những
gì thuộc về thân thể mình. Đây được coi là tín ngưỡng dân gian, thể hiện đặc trưng
đời sống tâm linh của dân tộc Campuchia.
Song ám ảnh nhất, hãi hùng nhất có lẽ chính là hình ảnh Ma Lai: “Ma Lai là
loại ma cổ cao ba ngấn có thể xoay đầu tách khỏi thân xác, rút ruột gan phổi ra
17
ngoài. Ban đêm làm ma, nhưng ban ngày Ma Lai là một cô gái sinh sống bình
thường, thậm chí lấy chồng, đẻ con. Trong hình dung của mọi người, Ma Lai là một
cô gái eo thon, mông mẩy, ngực nở có vẻ đẹp quyến rũ mê hồn. Người ta nói, món
ăn chính ngon lành của Ma Lai là phân và ruột người, ruột động vật. Ban ngày, cô
gái xinh đẹp nào cứ nhìn soi mói vào bụng mọi người tìm bộ lòng ngon thì cứ coi
chừng điều xấu sắp xảy ra”. [ 52, tr.61]. Huyền thoại về Ma Lai trở đi trở lại trong
trang viết của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Bất kì người lính nào cũng biết
đến huyền thoại Ma Lai. Nó ám ảnh những người lính trong sinh hoạt đời thường,
thậm chí câu chuyện hoang đường ấy còn đi vào giấc ngủ khiến họ sợ hãi và với họ
bất kì người gái đẹp nào cũng có thể là Ma Lai. Còn với riêng Tùng trong Miền
hoang, hình ảnh Ma Lai cứ trở đi trở lại những lúc anh cô độc, những lúc anh yếu
lòng nhất. Có thể nói, câu chuyện về Ma Lai vô cùng kì bí, khiến cho người lính sợ
hãi: “Khiếp thật! Người Khmer có những chuyện bí ẩn rùng rợn và huyễn hoặc còn
quá sức tưởng tượng của cả những nhà văn đường rừng hay kinh dị cao thủ nhất”
[52, tr.210]. Huyền thoại về Ma Lai khiến cho hiện thực chiến tranh khốc liệt hơn,
dẫn dắt người đọc tìm được bề sâu của chiến tranh với những ám ảnh tinh thần của
người lính.
Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn cũng không ngại ngần đề cập đến những
những điều kiêng kị, những linh tính, những hiện tượng bí ảo không thể giải thích
nổi… để đưa người đọc đến một cái nhìn đầy đủ nhất về hiện thực chiến tranh. Nói
như Đoàn Tuấn: “Ở chiến trường, lính tráng có nhiều điều mê tín. Không có sách nào
ghi lại. Nhưng nó đã thành định kiến, thành niềm tin, thành đá tảng „không gì lay
chuyển nổi‟. Chẳng hạn, trong đơn vị có hai thằng trùng tên thì thể nào cũng có một
thằng chết. Không chết vì đạn thì chết vì mìn. Không chết vì mìn thì chết đuối. Không
chết đuối thì sốt rét mà chết. Không sốt rét thì bị bắn nhầm… Đủ kiểu”. [96, tr.217].
Hay chuyện kiêng cơm sống, không ăn cơm khê, lính tráng quan niệm “ăn cơm sống,
thể nào cũng gặp địch”. Cái chết của anh Lâm Bình Định xảy đến khiến mọi người
kết nối các dự cảm không lành vì bữa cơm cháy và sự trùng tên đồng đội. Sau cái
chết của anh Lâm, các sự kiện lạ kì xảy đến khiến đồng đội không thể không tin vào
những yếu tố tâm linh ấy. Cũng có khi, lời chào cũng trở thành một điều kiêng kị để
18
tránh cái đen đủi. Những người lính truyền tai nhau: “Như một luật bất thành văn,
lính thông tin hay trinh sát, ai được phân công đi chiến đấu cùng các đơn vị bộ binh
thường lẳng lặng mà đi, không cần chào tạm biệt. Vì cả người đi và người ở lại đều
có cảm giác, lời chào như một lời vĩnh biệt. Vừa kiêng, vừa sợ. Không ai nói ra.
Không ai phân tích. Tất cả lặng im thực hiện” [96, tr.447]. Đó là cách lính thông tin
lí giải sự hi sinh của Phán vì trước khi đi “nó đã chào mình”. Những câu chuyện
tưởng như vô lí nhưng lại hiện hữu chân thực giữa cuộc chiến một cách ngẫu nhiên
và không tìm được lời giải đáp. Thế nhưng, những điều kì lạ ấy khiến chiến tranh
được soi rọi dưới một góc nhìn khác, sâu sắc hơn và khốc liệt hơn.
Chuyện tâm linh không chỉ nằm trong phạm vi những điều kiêng kị mà còn
là chuyện linh hồn của đồng đội hiện về. Trong Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn,
lính tráng đồn nhau về sự hi sinh của ông Lâm, rằng “Ông Lâm thiêng lắm. Đêm
đêm vẫn mò sang C8 đòi giày” [96, tr. 223]. Hay trường hợp của anh Biện đêm đêm
vẫn hiện về. Trong câu chuyện của những đồng đội, dường như anh Biện vẫn chưa
bao giờ rời xa đơn vị, anh vẫn ở đó lúc thì “đi huỳnh huỵch quanh hầm”, khi thì
“kêu mọi người dậy tập thể dục” hoặc “vấn thuốc rê” [96, tr.228]... Những góp
nhặt của lính tráng về anh Biện thêm khẳng định phần âm là có thật nơi ngập mùi
mốc meo, hoang tàn bao phủ. Quả thực “Người sống bị ám ảnh người chết. Còn
người chết cũng quyến luyến người sống” [96, tr.229], bởi vậy Đoàn Tuấn cho rằng
“Trước đây chỉ có những người đồng đội đang sống, cùng sát cánh giờ chiến đấu,
giờ, giữa chúng tôi có thêm, có chung những đồng đội đã mất” [96, tr.252]. Yếu tố
tâm linh khiến cho những người đồng đội sát lại gần nhau hơn, dù trong hoàn cảnh
nào những người đồng đội đồng chí vẫn ở cạnh nhau. Nhưng sự trở về của đồng đội
một phần thể hiện những ẩn ức của người lính, họ vẫn chưa yên tâm khi sang thế
giới bên kia, “đời sống tâm linh của người lính chúng tôi vẫn hoang mang một
khoảng trống” [96, tr.229].
Còn trong Miền hoang, những linh hồn người chết vẫn cứ trở về đối thoại
với Tùng. Không ít lần Tùng gặp anh Du, được anh bảo ban, dạy dỗ. Thậm chí,
trong trạng thái kiệt sức, đầu óc không còn đủ minh mẫn và tỉnh táo, Tùng đã có
một cuộc “gặp gỡ” với những “vong hồn trên cánh đồng chết”. Chính trong cuộc
19
đối thoại ấy, qua lời kể của vong hồn nhà sư, Tùng càng thấm thía hơn sự khốc liệt
của chiến tranh và tội ác của kẻ thù. Chiến tranh đã khiến Tùng bị trôi dạt đến bờ
vực của cái chết, còn những người chết linh hồn cũng không thể siêu thoát. Có lẽ,
đó mới chính là hiện thân đầy đủ và thấm thía nhất hiện thực của chiến trường.
Hiện thực chiến trường còn là những yếu tố không thể giải đáp, khoa học
cũng không thể vào cuộc để có thể có câu trả lời chính xác nhất khiến người chiến
sĩ rơi vào sự hồ nghi, dần dần mất đi lí trí. Đó là trường hợp của Vinh trong câu
chuyện của Đoàn Tuấn. Khi tìm được xác đồng đội, Vinh đã phải trải qua một cuộc
khủng hoảng tinh thần. Bởi lẽ đồng đội của anh đã chết tận ba ngày nơi hoang vắng,
bị rỉa hết thịt nhưng “Vinh thấy lạ, là tại sao bọn quạ không rỉa hạ bộ của bạn
mình?” [97, tr.332] và khi chỉ còn lại bộ xương khô nhưng khiêng lên ai cũng cảm
thấy nặng nề. Bom đạn dù có hủy diệt đến tận cùng nhưng cũng chưa thể hiện hết
sự khốc liệt của chiến tranh. Họ còn trải qua những cú sốc nặng nề, những ám ảnh,
những day dứt…như bủa vây bám víu lấy họ. Dường như đời sống tâm linh của
người lính vẫn hoang hoải một khoảng trống, không ai biết đâu là nơi bắt đầu cũng
không thể xác định được nơi kết thúc của thế giới đầy hoang đường, mộng mị. Có
thể là sau này, là mãi mãi, là khi chiến tranh kết thúc hoặc …không biết nữa!
Thế giới tâm linh cũng là nơi có khả năng phát ra những tia sáng bất ngờ. Đó
những khả năng kì lạ của con người, là “giác quan thứ sáu”, là những “linh tính”
trước khi xảy ra những việc hệ trọng hoặc cảm nhận được những “điềm báo” kì lạ
từ đâu đó bên ngoài lí trí của mình. Trong Mùa chinh chiến ấy, khi nhớ về người
đồng đội Tô Văn Phán, Đoàn Tuấn đã đề cập cái gọi là “linh cảm” ấy. Dường như
những người đồng đội đã linh cảm trước sự hi sinh của Phán: “Mình có linh cảm,
đợt này đi thằng Phán thể nào cũng chết!” [96, tr.447]. Cái chết do vấp mìn nhưng
“thằng Phán không kêu một tiếng. Mắt nó mở to, nhìn trân trân vào hai ống chân
đỏ lòm, gần như vỡ toác, đứt đôi. Nó cứ nhìn như vậy, không kêu la. Mặt nó vẫn
bình thường, không lộ vẻ đau đớn. Nó cảm nhận cái chết hết sức điềm nhiên. Hình
như nó đã linh cảm thấy cái chết này. Nó đón nhận. Và chấp nhận”. [96, tr.449]
Yếu tố tâm linh hiện diện nơi chiến trận không chỉ tạo nên bầu không khí
vừa thực, vừa ảo, vừa khốc kiệt vừa ma mị mà còn để thấu hiểu những nỗi đau, sự
20
ám ảnh tinh thần mà người lính phải chịu đựng. Tuy nhiên, Sương Nguyệt Minh và
Đoàn Tuấn không sa đà trong đời sống tâm linh. Việc miêu tả thế giới với những
điều kì ảo, vô thức được đặt trong một nhãn quan tỉnh táo, chừng mực, không mang
tới cảm giác li kì rùng rợn hoặc cổ vũ mê tín dị đoan. Đó là những câu chuyện lính,
suy nghĩ của lính, đậm chất lính…để thấy hiện thực chiến tranh không chỉ là bom
đạn, nó còn là bí ẩn, là niềm tin,…Đó là một góc nhìn khác về chiến tranh, tạo ra độ
chân thực về chiến tranh.
1.2. Sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn
1.2.1. Sáng tác của Sương Nguyệt Minh
1.2.1.1. Vài nét về Sương Nguyệt Minh
Sương Nguyệt Minh tên thật là Nguyễn Ngọc Sơn, sinh ngày 15 tháng 9 năm
1958 tại xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Ông xuất thân trong một gia
đình có chữ nghĩa, hiếu học ở nông thôn. Trong bối cảnh đầy biến động của lịch sử,
gia đình Sương Nguyệt Minh chịu nhiều sóng gió đặc biệt là trong cuộc đấu tranh
nội bộ về ruộng đất. Ông nội của nhà văn bị quy sai là thành phần địa chủ, bị bắt và
đưa ra đấu tố trước tòa án nông dân và bị kết tội là “địa chủ cường hào gian ác, bóc
lột và đánh đập nông dân”. Rất may, sau đó có lệnh sửa sai từ Trung ương, ông nội
Sương Nguyệt Minh không bị kết tội địa chủ nữa, được giải oan và xuống thành
phần trung nông lớp dưới. Tuy nhiên, chính hoàn cảnh gia đình đã khiến tuổi thơ
của Sương Nguyệt Minh rơi vào cô độc bởi sự kì thị “con cháu địa chủ” của dân
làng. Nhưng chính sự mặc cảm, cô độc trong kì thị, chính hoàn cảnh gia đình và quê
hương ấy đã trở thành chất liệu nghệ thuật độc đáo trong quá trình sáng tác của
Sương Nguyệt Minh sau này.
Năm 1974, Sương Nguyệt Minh có giấy gọi vào đại học nhưng xã giữ lại
không cho đi. Đầu năm 1975, ông nhập ngũ rồi tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam
và có mặt ở chiến trường K, cùng đoàn quân tình nguyện giúp nhân dân Campuchia
thoát khỏi họa diệt chủng do bọn phản động Pol Pot gây ra. Sau những năm tháng ở
chiến trường K, nhà văn Sương Nguyệt Minh được điều về nước học trường Sỹ
quan Lục quân 2, rồi về Học viện Quân y công tác. Sau đó, ông còn theo học
chuyên ngành Xây dựng Đảng - Chính quyền và Nhà nước ở Học viện Chính trị -
21
Quân sự, học khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Bén duyên với văn chương, nhưng thời gian đầu Sương Nguyệt Minh không
thể toàn tâm toàn ý với nghiệp văn. Cuộc sống với nỗi lo cơm áo gạo tiền khiến
chàng văn sĩ đành gác lại nghề viết để làm kinh tế. Ông từng đi buôn trứng vịt lộn,
thuốc lá, cắt dán phong bì, khoan nước giếng bán cho khu tập thể, nuôi chim cút,
nuôi gà công nghiệp…Tuy nhiên, những năm tháng lăn lộn với cuộc đời đã cho ông
một vốn sống phong phú cho nghiệp văn sau này của mình. Lựa chọn cuối cùng là
bước vào nghề văn, Sương Nguyệt Minh nhận ra mình không biết và cũng không
thể làm gì khác ngoài nghề viết văn.
1.2.1.2. Hành trình sáng tạo
Sương Nguyệt Minh là hiện tượng độc đáo và đặc biệt của văn học Việt Nam
đương đại. Tuy nhiên, con đường văn chương với Sương Nguyệt Minh không mấy
suôn sẻ. Ông thích viết, yêu viết và ông bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình từ cuối
thời bao cấp, ông chăm chỉ, chịu khó “cày cuốc” trên địa hạt văn chương, bắt đầu từ
những bài bút kí, hồi ký, phóng sự dài kì. Tuy nhiên, giấc mộng văn chương đã có
lúc tạm gác lại vì gánh nặng kinh tế cơm áo gạo tiền. Song, càng lăn lộn với cuộc
đời, Sương Nguyệt Minh càng nhận ra rằng nghề văn mới là con đường đúng đắn
nhất của ông. Đến năm 34 tuổi, ông mới in truyện ngắn đầu tay. Sự nghiệp văn
chương của Sương Nguyệt Minh muộn hơn đồng nghiệp đến 15 năm. Tuy nhiên,
Sương Nguyệt Minh đã sớm khẳng định được dấu ấn của mình trên văn đàn.
Sương Nguyệt Minh là một nhà văn hoạt động lao động sáng tạo nghệ thuật
cần mẫn. Ông luôn khát khao viết và viết, luôn muốn thử sức mình ở những địa hạt
văn chương mới để mang đến cái đẹp cho cuộc đời. Thậm chí có lúc ông từng từ
chức Trưởng ban văn xuôi vì “Làm biên tập chiếm mất nhiều thời gian, không có
lúc nào mà sáng tác”, nhưng điều quan trọng nhất là ông muốn dành toàn bộ thời
gian và tâm huyết của mình cho những trang văn. Ông không muốn những trang
viết của mình bị ảnh hưởng bởi phong cách của một nhà biên tập. Những trang viết
phải thực sự chân thành, phải xuất phát từ cảm xúc, từ những trải nghiệm nóng hổi
của bản thân - đó là điều Sương Nguyệt Minh mong muốn.
Sương Nguyệt Minh là người luôn cầu toàn trong sáng tác và nghiêm túc với
22
chữ nghĩa. Ông luôn nghiêm khắc với bản thân trong hoạt động lao động nghệ
thuật. Mỗi tác phẩm ra đời không chỉ là tâm huyết, nó còn trải qua một quá trình
nghiền ngẫm, chọn lọc, cân nhắc sao cho phù hợp. Chẳng hạn khi viết một cuốn tiểu
thuyết về chiến tranh, ông tâm sự: “Tôi viết hơn 10 năm rồi chưa xong. Thật là nhọc
nhằn. Nhọc nhằn bởi nghĩ ngợi nhiều quá, nên viết thế nào để khác người đi trước?
Mới là khác luôn là thách thức đối với bất cứ nhà văn nào. Nhưng văn chương là
cái nghiệp rồi. Không bỏ được. Cứ theo mãi” [44].
Sương Nguyệt Minh không chỉ là một nhà văn nghiêm túc với chữ nghĩa mà
ông còn luôn đề cao sự sáng tạo trong quá trình sáng tác. Với Sương Nguyệt Minh,
“Mỗi lần viết là một lần làm mới, không chỉ mình khác với người khác, mà còn phải
khác với chính mình trước đây. Có lẽ cái „tạng‟ của tôi phải cựa quậy, luôn luôn
thay đổi, để đa giọng điệu, đa phong cách” [12]. Chính vì vậy, giữa “siêu đề tài” -
chiến tranh, Sương Nguyệt Minh vẫn tìm được hướng đi riêng của mình, đưa người
đọc đến những “địa phận” khác của chiến tranh để người đọc có cái nhìn chân thực
và sâu sắc hơn. Quả thực, ở Sương Nguyệt Minh là vẻ đẹp của một nhà văn tâm
huyết và đầy tự trọng nghề nghiệp.
Điểm nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của Sương Nguyệt Minh là những tác
phẩm viết về chiến tranh. Ông tự nhận mình là một nhà văn chiến tranh. Là người
lính từng cầm súng chiến đấu ở chiến trường Campuchia chống quân Pol Pot,
những trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời đã cho nhà văn vốn sống phong phú và quý
giá. Xuất thân là một người lính, Sương Nguyệt Minh thấm thía cảm xúc của một
người lính trực tiếp cầm súng. Ông tâm sự: “Tôi là nhà văn chiến tranh. Thời trai
trẻ cũng là thời ước mơ, khát vọng, hành động ở rừng và chiến trận. Nhà văn chiến
tranh có ba loại: một là, nghe người từ chiến trường kể về rồi viết; hai là „đi xem‟,
thực ra là chứng kiến người ta chiến đấu rồi viết; ba là, vừa chiến đấu vừa viết
hoặc chiến đấu xong rồi viết. Tôi thuộc loại nhà văn thứ ba. Và như vậy, tôi viết
bằng sự tưởng tượng, hư cấu nhưng cũng viết bằng kí ức chiến trận. Không gian
sông Vàm Cỏ Đông, Đồng Bưng, Cánh đồng chó ngáp, những cây thốt nốt và tiếng
đại bác từ phía bên kia biên giới bắn sang…cứ lặp lại trong sáng tác của tôi. Rồi
không gian sông Tonlé Sap, những cánh rừng Âm Leng, U Đông, những ngày đói
23
khổ, những sự hi sinh thầm lặng của đồng đội…luôn ám ảnh và đi vào sáng tác của
tôi” [12]. Từ những kí ức, những ám ảnh ấy mà những trang viết của Sương Nguyệt
Minh trở nên chân thực và sâu sắc, đặc biệt khi Sương Nguyệt Minh viết về cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam.
Mặt khác, những trang văn của Sương Nguyệt Minh mang nét hồn hậu, bình
dị bởi cảm hứng nghệ thuật của ông gắn với quê hương, gia đình, gắn với những
con người của quê hương đất nước thân yêu. Những trang viết của Sương Nguyệt
Minh vì thế luôn chân thành và xúc cảm, lôi cuốn người đọc trên tất cả các thể loại
sáng tác.
Sương Nguyệt Minh có sở trường viết truyện ngắn. Tuy nhiên, khi viết truyện
ngắn đầu tay, Sương Nguyệt Minh gửi đến một số tờ báo nhưng đều bị từ chối. Đến
năm 1992, lần đầu tiên truyện ngắn Nỗi đau dòng họ của ông được đăng trên tạp chí
Văn nghệ Quân đội. Truyện ngắn đầu tiên đã thể hiện được chất riêng của nhà văn,
được đánh giá là những trang văn “có mùi có vị, rõ ra tư chất nhà văn”.
Cho đến nay, ông đã cho ra đời bảy tập truyện ngắn: Đêm làng Trọng Nhân
(1988), Người ở bến sông Châu (2001), Đi qua đồng chiều (2005), Mười ba bến
nước (2005), Chợ tình (2007), Dị hương (2009). Mỗi tập truyện ngắn của Sương
Nguyệt Minh mang một màu sắc riêng, thể hiện những chuyển biến về phong cách
của Sương Nguyệt Minh. Tuy nhiên, khi tiếp cận sáng tác của Sương Nguyệt Minh,
người đọc dễ dàng nhận ra một lối viết giản dị, gần gũi, không hề phô trương, cầu kì
của nhà văn. Có thể nói, chất riêng và lạ ở văn chương Sương Nguyệt Minh đã làm
rung động rất nhiều những tâm hồn đồng điệu. Năm 2010, tập truyện ngắn Dị
hương của Sương Nguyệt Minh được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam.
Điều này đã khẳng định tài năng và tên tuổi của Sương Nguyệt Minh ở thể loại
truyện ngắn nói riêng.
Dù thành công ở thể loại truyện ngắn nhưng Sương Nguyệt Minh vẫn “rẽ
ngang” sang viết tiểu thuyết và tạo được ấn tượng trong lòng bạn đọc. Ở thể loại
này, Sương Nguyệt Minh cũng tạo cho mình một dấu ấn riêng.Theo ông, “Tiểu
thuyết cần sự chiêm nghiệm sáng tác bằng độ chín nhất định, cần thời gian và thời
gian của đời nhà văn phải ở lúc sung sức nhất cả sức khỏe và nội lực sáng tạo. Tôi
24
viết tiểu thuyết lúc tôi đang tràn trề năng lực sáng tạo, tìm kiếm được cách viết mới,
không giẫm lên con đường sáng tạo của thế hệ cha anh” [12]. Chính vì thế, cuộc
chiến với Khmer Đỏ Pol Pot lùi xa đã 25 năm và trong hơn hai mươi năm ấy, Sương
Nguyệt Minh đã viết khá nhiều truyện ngắn nhưng đến tận 2014 tiểu thuyết Miền
hoang mới được ra mắt độc giả. Cuốn tiểu thuyết đã gây được sự chú ý của dư luận
bởi cách nhìn về chiến tranh trong vai trò là một người lính từng chiến đấu ở biên
giới Tây Nam. Tác phẩm viết về bốn con người ở hai chiến tuyến bị lạc trong rừng
hoang dã: một cô y tá câm, một lính áo đen, một Ông Lớn - Trung đoàn trưởng bị
thương dập nát một ống chân trong nhóm tàn quân Pol Pot, một chiến sĩ quân tình
nguyện Việt Nam bị bắt làm tù binh, và thêm một gã người rừng - dã nhân mắt một
mí bị mất nửa bàn chân, lạc rừng lang thang, lòng vòng, quẩn quanh,…đói khát, bất
lực, tuyệt vọng trong cái nắng nóng mùa khô khắc nghiệt, thú dữ rình rập, bom mìn
ẩn khuất dưới đất…luôn luôn đe dọa tính mạng. Họ đói khát tơi tả, vết thương còn
hơi sực mùi thuốc súng, lê lết trong rừng…luôn là miếng mồi béo bở của lũ kên
kên, chó sói. Miền hoang còn là số phận cô y tá câm người Khmer xinh đẹp trước
ba gã đàn ông nơi hoang dã trần trụi - nơi mà khái niệm đạo đức và pháp luật là thứ
xa xỉ, chỉ còn sức mạnh cá thể hoang dã làm bá chủ. Tiểu thuyết Miền hoang cũng
là câu chuyện sinh tồn khi bị đẩy vào nơi hoang dã. Con người trong chiến tranh đi
qua miền hoang dã, lại đối mặt với một miền hoang dã mới.
Đọc Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, chúng ta thấy nỗi ám ảnh về
chiến tranh không chỉ dừng lại ở bom rơi, đạn lạc, đó còn là nỗi ám ảnh về những
cảm giác, về sự sinh tồn, về hoàn cảnh sống khắc nghiệt do chiến tranh gây ra.
Trong những ngày tháng lạc giữa rừng hoang, chống chọi với đói khát, với sợ hãi,
tuyệt vọng, không ít lần Tùng đã nhớ khôn nguôi về thời thơ ấu. Những kí ức ngọt
ngào ấy trở thành chất liệu để phản ánh hiện thực khốc liệt của chiến tranh trong
sáng tác của Sương Nguyệt Minh. Có thể nói, với hơn 600 trang tiểu thuyết, Sương
Nguyệt Minh đã thể hiện một cách sâu sắc và toàn diện về chiến tranh. Chất hiện
thực ngồn ngộn trong tác phẩm được viết ra từ chính những trải nghiệm của Sương
Nguyệt Minh trong những năm chiến đấu trên chiến trường Tây Nam. Cuốn tiểu
thuyết không chỉ thể hiện quá trình lao động nghệ thuât công phu, đầy tâm huyết
25
của nhà văn với những tìm tòi sáng tạo ở thể loại tiểu thuyết, cuốn sách còn là tiếng
nói tự trái tim của người lính - nhà văn, ông viết về chiến tranh với tất cả những gì
sâu sắc và chân thực nhất trong cảm nghiệm của mình.
Có thể thấy, là thế hệ nhà văn của thời kì Đổi mới chuyên viết về chiến tranh
song Sương Nguyệt Minh đã tìm ra được hướng đi riêng, thể hiện tài năng và phong
cách của mình. Sương Nguyệt Minh đã vượt ra sự giới hạn của đề tài, của thế giới
hiện thực trong nền văn học cách mạng mà khám phá và thể hiện hiện thực đời sống
trong tính muôn mặt, muôn vẻ của nó. Ông đã đi sâu vào đời sống hiện thực để tìm
tòi, khám phá, từ đó có những cách tân làm nên thành công to lớn trên hành trình
nghệ thuật của mình. Có thể nói, Sương Nguyệt Minh là người không chịu dừng lại,
thỏa mãn nhấm nháp hoa thơm trái ngọt của vụ mùa cũ mà luôn tiếp tục sáng tạo
trên hành trình tìm kiếm cái đẹp cho cuộc đời. Ông sẽ tiếp tục dấn thân không mệt
mỏi và thể hiện những dấu ấn riêng trên con đường văn nghiệp của mình.
1.2.2. Sáng tác của Đoàn Tuấn
1.2.2.1. Vài nét về Đoàn Tuấn
Đoàn Tuấn sinh năm 1960, tại Hà Nội. Ông tham gia vào cuộc chiến đấu bảo
vệ biên giới Tây Nam khi tròn 18 tuổi. Lúc đó, Đoàn Tuấn vừa học xong phổ thông,
biết tin mình đỗ vào khoa Ngữ văn của Đại học Tổng hợp Hà Nội thì đồng thời có
giấy gọi tham gia nghĩa vụ quân sự. Giống như bao chàng trai Thủ đô hồi đó, Đoàn
Tuấn đi khám sức khỏe, thấy đủ tiêu chuẩn thì sẵn sàng xếp bút nghiên lên đường ra
mặt trận.
Từ năm 1978 - 1983 ông tham gia chiến đấu tại chiến trường Campuchia.
Trong thời gian 5 năm quân ngũ, Đoàn Tuấn công tác tại trung đội thông tin, tiểu
đoàn 8, trung đoàn 29, sư đoàn 307. Ba năm đầu Đoàn Tuấn đi phối thuộc chiến đấu
ở các đơn vị khác. Khi tiểu đoàn 8 chuyển lên Anlong Veng, được bổ sung quân,
Đoàn Tuấn lại chuyển về ban tác chiến tiểu đoàn. Ở đây, ông làm nhiệm vụ quản lí
quân số cùng một số trang thiết bị của đơn vị. Ngoài ra, Đoàn Tuấn còn làm một
nhiệm vụ rất thiêng liêng là chăm sóc cho thương binh, tử sĩ. Đoàn Tuấn luôn hết
lòng vì đồng đội, những người còn sống và cả những người đã hi sinh: “Tôi hiểu.
Và làm hết sức mình. Đun nước. Nhặt thịt xương. Rửa ráy. Chắp lại. Xếp cho đủ
26
các bộ phận cơ thể. Mặc quần áo. Quấn vải liệm. Gác đêm, canh thú rừng khỏi mò
đến ăn xác. Đào huyệt. Tổ chức đội vệ binh đứng bên bờ huyệt. Đọc lời điếu và bắn
súng tiễn biệt đàng hoàng. Sau đó mới chôn. Hết sức „oách‟ theo kiểu nhà binh”
[62].Đây là khoảng thời gian có ý nghĩa to lớn đối với Đoàn Tuấn.
Trở về sau chiến tranh, Đoàn Tuấn công tác ở nhiều lĩnh vực và gặt hái được
nhiều thành công trong sự nghiệp. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn tại Đại học Tổng
hợp Hà Nội. Năm 1991, ông tốt nghiệp Đại học Điện ảnh Liên Xô. Đoàn Tuấn
thành công trong nhiều kịch bản phim truyền hình, trở thành nhà lí luận phê bình
điện ảnh, giảng dạy ở Đại học Sân khấu Điện ảnh và tiếp tục tham gia làm báo.
Hiện nay Đoàn Tuấn đang công tác tại tạp chí Thế giới điện ảnh. Ông như con ong
cần mẫn, viết từng ngày, đi dạy, làm báo rồi lại viết. Ở lĩnh vực nào, Đoàn Tuấn
cũng gặt hái được thành công nhưng ông vẫn đau đáu với nghiệp văn chương, với
những trang viết tri ân quá khứ.
1.2.2.2. Hành trình sáng tạo
Đoàn Tuấn được biết đến ở nhiều “vai”, ông viết văn, làm thơ, viết kịch bản
điện ảnh, viết lí luận phê bình điện ảnh, giảng dạy ở trường Đại học Sân khấu Điện
ảnh và làm báo…Ông có nhiều đóng góp cho văn học đương đại, đặc biệt là văn
học chiến tranh. Nhắc đến ông là nhắc đến những câu thơ, những trang văn thấm
đẫm tình yêu Tổ quốc, tình yêu và món nợ nghĩa tình với đồng đội, với những
người lính không trở về sau chiến tranh.
Đầu những năm thập niên 1980, Đoàn Tuấn đoạt giải thơ sáng giá của tạp chí
Văn nghệ Quân đội. Những bài thơ viết từ chiến trường K đã khiến công chúng tìm
thấy một tiếng nói mới, thủ thỉ, thân tình và chân thật:
Những dãy núi con đường và vị trí các C
Như đồ vật trong nhà, tôi nhớ
Bao đồng đội thành cây rừng ở đó
Mỗi gương mặt bạn bè một địa chỉ không quên
Dũng đi phục mùa hè mưa xé túi quần hun muỗi
Cởi áo ra mình đắp chóng sáng hơn
Mạc Văn Tướng trèo cây bắn B41
27
Mười hai giờ đêm ăn cháo khỉ xì xòm
Lính 71 đào hầm, lính 80 nạp đạn
Có điều gì tin cậy chở che nhau
Bên cửa hầm dáng bạn ngồi đan rổ
Lá lồ ô vàng thơm sắc rơm phơi
Mùa khô ấy áo bạc theo suối cạn
Ai nhắc mình vò áo nhẹ tay thôi
Mặt chúng tôi gầy như gương mặt núi
Hào phóng như trời xanh
Tính thẳng như sông
Đoàn Tuấn là một nghệ sĩ đa tài nhưng ông đặc biệt thành công ở hai lính
vực điện ảnh và văn học. Ở lĩnh vực điện ảnh, ông đã có những tác phẩm được dựng
thành phim và gây tiếng vang như: Ngõ đàn bà (Chuyện tình trong ngõ hẹp) - Hãng
phim truyền hình Việt Nam; Chiếc chìa khóa vàng - Hãng phim Giải phóng - 1995;
Đi tìm chỗ ngủ - Hãng phim Giải phóng - 1999; Đường thư - Hãng phim truyền
hình Việt Nam - 2000; Sống cùng lịch sử - Hãng phim truyền hình Việt Nam -
2014; Trên đỉnh bình yên - Hãng phim truyền hình Việt Nam - 2016. Bên cạnh đó,
Đoàn Tuấn còn viết thêm cả phim hoạt hình như Én con và chiếc lá.
Ở lĩnh vực văn học, Đoàn Tuấn có những đóng góp không nhỏ. Các tác
phẩm chính: tiểu thuyết Bùa yêu (NXB Phụ nữ, 1993); truyện ngắn Khúc dạo đầu
mùa xuân (1995); tập thơ Đất bên ngoài Tổ quốc (thơ chung với Lê Minh Quốc,
1995); truyện kí Những người không gặp nữa (2006); tác phẩm dịch Thơ trữ tình
X.Exenhin (1995).
Ngoài ra, Đoàn Tuấn còn cộng tác cho nhiều tờ báo trong Nam, ngoài Bắc và
ký hàng loạt bút danh khác nhau. Có thể nói, Đoàn Tuấn là một trong những nhà
văn có sức lao động dồi dào. Ông có nhiều đóng góp cho văn học - nghệ thuật và
sân khấu - điện ảnh.
Ở phương diện văn học, Đoàn Tuấn là một trong số những nhà văn xuất sắc
viết về chiến tranh, đặc biệt là những tác phẩm ra đời từ hiện thực chiến tranh biên
giới Tây Nam khốc liệt. Đoàn Tuấn có 5 năm chiến đấu tại chiến trường
28
Campuchia. Những ngày tháng chiến đấu ấy đã để lại một miền kí ức xen lẫn khổ
đau, mất mát lẫn hào hùng, trong sáng và dũng cảm để sau này khi trở về, hiện thực
ấy vẫn hiện lên nguyên vẹn “buộc” Đoàn Tuấn phải viết. Ông viết không chỉ vì cái
nghiệp văn chương mà còn viết để “trả nợ đồng đội”, những người đồng đội đã nằm
xuống nơi chiến trường K, viết về những người đồng đội may mắn được trở về, viết
cho thế hệ hôm nay - những người muốn cảm nhận một cách chân thực về sự khốc
liệt, dữ dội của chiến tranh biên giới Tây Nam.
Viết về chiến tranh, Đoàn Tuấn viết bằng những cảm xúc chân thành, viết
bằng những trải nghiệm quý giá trên chiến trường. Ngay từ khi bước chân vào cuộc
chiến, ông đã mang theo nỗi trăn trở: “Ngay từ lúc ấy, tôi cảm thấy mình thật nhỏ
bé giữa những con người vô danh. Như đất biên giới. Như cây rừng tóe máu. Làm
sao để ghi lại những hình ảnh, những câu chuyện của họ?” [92, tr.28]. Những ngày
sống, chiến đấu tại chiến trường K giúp Đoàn Tuấn hiểu hơn về những người đồng
đội của mình, mỗi người họ là một vũ trụ bí mật mà nếu không ghi lại được, ông sẽ
không cảm thấy an lòng:“Mỗi người lính là một thế giới diệu kì, một kho tàng trí
thức dân gian. Nếu coi đó là một cuốn sách hay, biết cách đọc, cách kể, chúng ta sẽ
có biết bao câu chuyện tuyệt vời. Nhưng cũng thật đáng tiếc. Vì chiến tranh. Những
cuốn sách đó có thể sẽ không bao giờ được lật mở, có thể sẽ mãi mãi nằm sâu trong
lòng đất bất cứ lúc nào. Và rồi, những câu chuyện có tuyệt vời đến mấy cũng chìm
đi, lẫn vào trong bao câu chuyện đời thường. Làm sao góp nhặt để tặng cho mỗi
người, cho đồng đội tôi?” [92, tr.284]
Trong quá trình viết, Đoàn Tuấn luôn tìm tòi, trăn trở và theo ông, điều cần
thiết của một nhà văn đó chính là tìm ra giọng điệu cho tác phẩm của mình. Đoàn
Tuấn tâm sự: “Phải mất gần 10 năm trăn trở mới tìm ra giọng điệu cho một cuốn
sách. Tôi nghĩ, với người viết văn, vốn sống rất quan trọng. Nhưng cái quan trọng
hơn đó là việc tìm ra giọng điệu. Giọng điệu của riêng mình. Một giọng điệu thích
hợp với từng cuốn sách” [101]. Và Mùa chinh chiến ấy được hình thành sau một
quá trình dài để tìm ra chất riêng của tập hồi ký, chất riêng của chiến tranh biên giới
Tây Nam và chất riêng của chiến tranh biên giới Tây Nam trong kí ức của nhà văn.
Ông tâm sự: “Tôi viết lần đầu, đặt tên là „Trung đoàn viễn chinh‟ nhưng thấy văn
29
chương dài dòng quá, bỏ luôn. Lần thứ hai, tôi viết cuốn „Sư đoàn tình nguyện‟
nhưng đọc lại, thấy giọng văn giống các nhà văn viết từ hồi chống Pháp và chống
Mỹ. Không khoái. Tôi cũng bỏ nốt. Bởi thế hệ chúng tôi là thế hệ thứ ba tham gia
bảo vệ Tổ quốc. Khi gặp lại đồng đội, thấy họ nói chuyện, tôi quan sát và nghĩ: Đây
mới chính là giọng kể mà mình đang tìm kiếm. Đầy chất lính tráng. Đầy giọng điệu
thời nay. Và tôi lao vào viết như đúng kiểu chúng tôi trò chuyện” [101]. Sau 10
năm, Đoàn Tuấn mới tìm ra giọng điệu cho cuốn sách của mình. Và Mùa chinh
chiến ấy của Đoàn Tuấn trở thành cuốn “bách khoa toàn thư” về đời lính, là một tập
đại thành về số phận của những người lính trong chiến tranh biên giới Tây Nam.
Mùa chinh chiến ấy do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành, dày gần 500 trang. Tác
phẩm được viết dưới dạng hồi ức chiến binh, nhớ lại và viết. Vì vậy nội dung cuốn
sách được chắt lọc hoàn toàn từ những trải nghiệm xương máu, không thông qua
lăng kính phóng đại hay hư cấu của thể tài văn học cố định nào. Nhân vật “tôi” -
cũng chính là tác giả, người lính đã cầm súng chiến đấu trong cuộc hành quân dài
hàng ngàn cây số tới những miền rừng núi heo hút của xứ sở Chùa Tháp và để lại
một phần máu thịt tuổi trẻ ở đó. Những trang văn là đầy ắp những con người, những
sự kiện, những cảm xúc, suy tư có thực của đời “lính K”. Với người lính trẻ Đoàn
Tuấn, 5 năm chiến đấu ở nước bạn là quãng thời gian đẹp nhất, in hằn trong tâm trí
ông không thể phai nhòa. Đó là nơi mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong nháy
mắt, nơi mỗi phum làng được giải phóng, từng giây phút bình yên của người dân
đều phải trả bằng xương máu của những đồng đội của ông. Có lẽ vì vậy mà nằm sâu
mãi trong muôn tầng kí ức, những mẩu chuyện về biên giới Tây Nam vẫn luôn theo
Đoàn Tuấn đầy ám ảnh để trong hầu hết các sáng tác của ông, dù với văn học hay
điện ảnh, hình ảnh người lính luôn là mảng đề tài mà ông viết nhiều nhất. Với ông,
việc được sống và kể lại giống như món nợ cần phải trả cho những người đồng đội
thân yêu và ruột thịt. những người đã sống, đang sống và cả những linh hồn đang
còn lẩn khuất giữa bạt ngàn rừng xanh, núi thẳm.
Chứa đựng thật nhiều tâm huyết của cuộc đời, cuốn hồi ký Mùa chinh chiến
ấy được ra mắt độc giả năm 2017 sau gần 40 năm cuộc chiến tranh kết thúc. Một tác
phẩm trung thành với sự thật được viết lên từ chính những kí ức về tính nhân đạo,
30
sự hi sinh của “đoàn quân nhà Phật”. Hơn cả một tác phẩm văn học, Mùa chinh
chiến ấy còn chứa đựng những tư liệu hiện thực sâu sắc, nghiệt ngã về những gì
quân tình nguyện Việt Nam từng trải qua trên chiến trường nước bạn.
Gần đây nhất, Đoàn Tuấn cho ra đời bút kí Mùa linh cảm. Cuốn sách đã lay
động tâm thức người đọc vì Đoàn Tuấn không chỉ viết về những linh cảm trước cái
chết không tránh khỏi của đồng đội mình, “mùa linh cảm” ấy còn là linh cảm về
những nỗi đau mà người lính Việt phải chịu đựng sau khi đã kết thúc cuộc chiến
này. Đoàn Tuấn đã viết: “Tôi nghĩ về người lính. Bề ngoài, ai cũng tưởng đơn giản.
Đơn giản đến tận cùng. Uống chung ngụm nước. Đọc chung lá thư. Chui cùng căn
hầm…Nhưng bên trong họ là những miền bí ẩn, là những chiều sâu thẳm hơn đại
dương, không ai và không bao giờ khám phá nổi. Tôi nhớ câu nói nổi tiếng của một
nhà văn mà tôi không nhớ tên: “Nhìn từ xa, một trăm cây bạch dương giống nhau
cả một trăm; một trăm ánh nến giống nhau cả trăm. Nhưng khi đến gần, mỗi cây
bạch dương lại khác nhau; mỗi ánh nến cũng khác nhau nữa”, con người cũng vậy.
Và người lính, trong đời sống giáp ranh sinh tử, họ càng khác biệt bao nhiêu” [79].
Quả thật, Đoàn Tuấn là nhà văn viết về chiến tranh. Những trang viết của
ông đưa người đọc về cuộc chiến diễn ra hơn 40 năm trước nhưng cho đến hôm nay
vẫn còn ấm nóng tình đời tình người trong hiện thực vô cùng khốc liệt và đau
thương. Viết - với Đoàn Tuấn đó là sự thôi thúc, là sự “trả ơn” với những người
đồng đội. Và qua những trang viết ấy, người đọc có cơ hội chiêm nghiệm, nhìn
nhận, đánh giá một cách trung thực về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam
31
của Tổ quốc.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương 1 của luận văn, chúng tôi đã đưa ra một cái nhìn tương đối
khái quát về văn học phản ánh hiện thực chiến tranh sau năm 1975 và những điểm
chính trong sáng tác của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Có thể thấy, văn học
viết về chiến tranh sau 1975 đã có những bước chuyển mình đáng kể, quan niệm về
hiện thực thay đổi, chiến tranh được nhìn nhận một cách chân thực, toàn diện và sâu
sắc hơn. Chiến tranh được tiếp cận từ nhiều góc nhìn, đường biên chiến tranh được
mở rộng, thân phận con người trong chiến tranh được nhận thức và lí giải trên tinh
thần đổi mới quan niệm về nghệ thuật và thay đổi tư duy sáng tạo. Từ đó, hiện thực
chiến tranh hiện lên đa chiều hơn, sâu sắc hơn.
Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn là hai nhà văn có đóng góp không nhỏ
cho văn học đương đại Việt Nam, đặc biệt là văn học viết về đề tài chiến tranh.
Bằng trải nghiệm của người lính từng trực tiếp tham gia chiến đấu, họ đã nhìn thẳng
vào sự thật, viết bằng sự thật về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Qua lăng kính
của người trong cuộc, chiến tranh được soi chiếu đa diện, sâu sắc và thấu đáo hơn.
Bằng tâm huyết, bằng tài năng, bằng tấm lòng với đồng đội, Sương Nguyệt Minh và
Đoàn Tuấn đã viết lên những dòng văn máu về chiến tranh biên giới Tây Nam để
người đọc hôm nay có thể nhìn nhận một cách thấu đáo và toàn diện hơn về cuộc
32
chiến đã lùi xa 40 năm.
Chƣơng 2
HIỆN THỰC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM
TRONG MIỀN HOANG VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY
2.1. Bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
2.1.1. Hoàn cảnh chiến trường
2.1.1.1. Chiến trường dữ dội, khốc liệt
Hiện thực chiến tranh trước 1975 là hiện thực lí tưởng, là hiện thực của
những biến cố, sự kiện. Sau năm 1975, hiện thực chiến tranh đã được tái hiện chân
thật, gần gũi hơn, đó là hiện thực tồn tại như nó đang có, là hiện thực của số phận
con người. Các nhà văn viết về chiến tranh đã chú ý về tính chân thực của chiến
tranh. Chiến tranh hiện lên với tất cả bề rộng, bề xa, và bề sâu của nó. Chiến tranh
không chỉ là những ánh hào quang, không chỉ là những người anh hùng, không chỉ
là những chiến thắng oanh liệt. Chiến tranh phải được nhìn một cách đa diện hơn,
chân thực hơn.
Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam diễn ra năm 1979 là một cuộc chiến đặc
biệt. Người lính vừa bảo vệ giữ gìn từng tấc đất nhưng cũng vừa thực hiện nhiệm vụ
quốc tế cứu dân tộc Campuchia trước hiểm họa diệt chủng do chính nhà cầm quyền
của họ gây ra trên đất nước họ. Sau 40 năm, với độ lùi thời gian cần thiết, các nhà
văn có thời gian để suy ngẫm, để chiêm nghiệm và viết về chiến tranh với sự khách
quan nhất. Trong những trang viết của mình, họ nói đến vẻ đẹp của những con
người trong chiến tranh, tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng. Họ cũng không phủ
nhận sự bi tráng của cuộc chiến bảo vệ biên giới của Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ
quốc tế thiêng liêng. Tuy nhiên, các nhà văn không hề né tránh hiện thực mà trong
hiện thực ấy chính là sự khốc liệt của chiến trường, của hi sinh mất mát,…Miền
hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn mở ra cho
người đọc hôm nay một hướng tiếp cận mới về chiến tranh, đặc biệt là hiện thực
chiến trường với tất cả sự dữ dội và khốc liệt của nó.
Hiện thực chiến tranh được tái hiện ngay ở phần mở đầu của cuốn tiểu thuyết
33
của Sương Nguyệt Minh: “Quân tình nguyện Việt Nam tác chiến ở chiến trường K
tựa hồ như cuộc chiến trên cái đầm lầy khổng lồ miền nhiệt đới. Càng về cuối chiến
tranh, hình thái tác chiến càng thay đổi, cái đại quân dần dần rút về nước…chiến
tranh du lích nhùng nhằng, nhỏ lẻ, cò cưa dai dẳng, quân số hai bên cứ thế hao hụt
dần, để rồi lại bổ sung lính, lại chết…lại bổ sung”. [52, tr.6]. Trong cuộc chiến ấy,
người lính phải xông pha nơi mũi tên hòn đạn, đối diện với những khó khăn, những
thiếu thốn, những ốm đau bệnh tật, chống chọi với bom đạn hủy diệt của kẻ thù và
“chiến đấu” với thiên nhiên hoang độc, chứa đầy bí ẩn và rồi lại chết… lại bổ sung
không biết bao nhiêu mà kể. Quả thực, sự khốc liệt của chiến trường Campuchia
không sao mà kể, chỉ có thể khẳng định đó là hiện thực vô cùng khốc liệt như
những khái quát của Sương Nguyệt Minh trong những trang cuối Miền hoang: “Ra
trận không phải bảo vệ đất nước mình và viễn chinh ở một nơi xa xôi, mù mịt. Cái
nơi kẻ thù lạ mặt không còn xâm phạm bờ cõi mình. Lãnh thổ, địa hình lạ hoắc. Khí
hậu chưa bao giờ nếm trải. Ngôn ngữ bất đồng v.v...Người lính đơn độc chiến đấu
trong vòng vây, trong những tập kích, quấy nhiễu kinh thiên động địa của bọn lính
thiện chiến áo đen”. [52, tr.551].
Hiện thực chiến trường được ghi dấu là trận chiến khốc liệt giữa quân tình
nguyện Việt Nam và lính Pol Pot. Trong cuộc chiến sinh tử với kẻ thù, người chiến
sĩ trải qua rất nhiều những trận đánh cam go, ác liệt. Cả Sương Nguyệt Minh và
Đoàn Tuấn đều không quên ghi lại những giây phúc chiến đấu ác liệt ấy. Trong
Miền hoang, sự ác liệt hiện hữu ngay trong những trang viết đầu tiên, trong trận tấn
công ồ ạt của kẻ thù: “Một đợt cối cá nhân nữa chóc vào các vật cản, và nơi chúng
tôi lợi dụng địa hình địa vật ẩn nấp. Khi đó, một tốp lính áo đen lặng lẽ bò đến quá
gần, mới bắn. Đạn cày xuống đất màu gan gà và bắn thẳng vào thạch tháp viên
trượt viên phá toe toét đá. Đạn tằng tằng xé tơi tả cành lá và ghim vào cây bóc toác
ra những mảnh vỏ ứa nhựa tươi” [52, tr.16]. Bom đạn dội xuống, “đạn cày”, “đạn
tằng tằng xé tơi tả” của kẻ địch đủ sức tiêu hủy mọi thứ, đẩy quân ta vào tình trạng
chống cự yếu ớt và gánh chịu những tổn thất nặng nề. Cũng có thể là những trận
đánh một sống một còn giữa quân ta và quân địch: “Giờ nổ súng. Tôi thấy từ phía
sau các hướng, đạn bay đỏ trời, nhằm quả đồi rơi xuống. Những tiếng nổ xé tai,
34
như tiếng B-52 ngày bé tôi nghe ở Hà Nội. Đất dưới chân cũng rung lên. Tranh thủ
lúc có ánh sáng, tôi nhìn lớp cỏ từ dưới chân chạy lên sườn đồi, một cảnh tượng
vừa kinh hãi vừa tuyệt đẹp hiện ra. Những lớp cỏ rập rờn, rùng rùng như những đợt
sóng. Những con sóng xanh tươi trào dâng quanh đồi. Chất nổ không chỉ có sức
mạnh giết người khủng khiếp mà còn tạo ra những vẻ đẹp kinh hoàng”[96, tr.32].
Đó là cảm nhận chiến trường bi tráng với những hình ảnh vừa hào hùng, vừa lãng
mạn. Trong những giờ phút chiến đấu như thế, người lính của ta cũng không quên
ghi lại những khoảnh khắc hiếm hoi: “Say mê ngắm nhìn chiếc cầu vồng đỏ rực do
pháo ta bắn sang bờ bên kia và pháo địch phản lại sang bờ sông bên này. Một cầu
vồng lộng lẫy ngang trời đêm, một cầu vồng dưới đáy dòng sông đang cuộn xiết”
[96]. Tuy nhiên, hình ảnh càng kì vĩ, tráng lệ bao nhiêu thì hiện thực chiến tranh
càng khốc liệt bấy nhiêu. Bom đạn dội xuống không ngớt cũng có nghĩa là người
lính phải đối diện với bao hiểm nguy, mất mát, hi sinh. Những trận chiến ác liệt,
cam go là một phần trong hiện thực chiến trường, tô đậm thêm sự khốc liệt của cuộc
chiến tranh biên giới.
Sống và chiến đấu trên chiến trường K, người lính tình nguyện Việt Nam
phải đối diện với vô vàn những thiếu thốn, khó khăn, vất vả. Họ phải trải qua những
cuộc hành quân gian nan dài hàng nghìn cây số từ biên giới vượt sông Mê Công tiến
về hướng tây đến vùng Đông Bắc núi đồi hiểm trở, rừng rậm hoang vu. Chặng
đường họ đi đều là những vất vả, nhọc nhằn, phải mang theo lương thực, vũ khí,
vượt qua đèo cao hào sâu, thậm chí còn gánh trên vai cả những người đồng đội bị
thương, những đồng đội đã hi sinh. Họ luôn phải sống trong cảnh thiếu thốn: thiếu
lương thực đến nỗi phải ăn những nắm cơm thiu nhão nhoét, thiếu trang phục nên
phải chia sẻ với nhau từng tấm áo manh quần, thiếu cả những nhu yếu phẩm như
điếu thuốc đến nỗi họ làm lộ cả bí mật quân sự chỉ vì nhúm thuốc rê…Nhưng có lẽ,
ám ảnh nhất đó chính là thiếu nước. Chưa ở đâu và chưa bao giờ, việc thiếu nguồn
nước lại hành hạ người lính của chúng ta đến thế. Rừng Campuchia, mùa khô kéo
dài, nắng như đổ lửa, cái khát hành hạ con người. Mùa khô ở rừng núi Campuchia
đã vắt cạn sức người, và cái khát trở thành nỗi ám ảnh của bất kì người lính nào trên
mặt trận K. Khát với nhiều trạng thái khác nhau, khát giày vò con người, khát trở
35
thành nỗi ám ảnh nơi rừng hoang: “ Nóng âm âm, anh có cảm giác như mình là con
cá chuối bị xâu vào que rồi nướng trong hơi nóng. Lưng không còn ướt nữa, còn
mồ hôi nữa đâu mà ra. Miệng khô như cánh đồng hạn. Giá có ngụm nước thì cái
lưỡi sẽ mủn và tan ra như đất ruộng ải vừa tháo nước” [52, tr.152]. Cái khát khiến
sức khỏe của con người kiệt quệ. Cái khát hành hạ con người, cái khát trở thành nỗi
ám ảnh, một dấu ấn không thể quên. Thế nên trong Miền hoang, một đoạn thơ về
cái khát của Đoàn Minh Tuấn đã được ghi lại:
Quanh đây chẳng tìm đâu ra suối ra sông
Khiến lắm phen nước nấu cơm không có
Nhiều khi bắn được con thú
Không có nước mà làm
Được đi tắm là một nỗi hân hoan
Dù phải hành quân cắt rừng mười cây số
Và áo quần phải giặt giùm chục bộ
Mỗi lần được cấp nước
Í ới gọi nhau vui không giấu được
Đựng đầy xoong đầy bát đầy ca
Rồi nâng niu cất giữ trong nhà [52, tr. 373]
Và trong tác phẩm của mình, Đoàn Tuấn cũng đề cập đến cái khát như một
thứ quỷ dữ của núi rừng Campuchia, hành hạ người lính Việt Nam. Cái khát khiến
con người trở nên bạc nhược, họ không thể làm chủ được chính bản thân mình,
thậm chí họ phải tìm đến cái chết để giải thoát khỏi cái khát. Như trường hợp của
thiếu úy Nguyễn Bá Lan. Trải qua hai ngày không có nước, không tìm đâu ra nước,
anh cảm thấy “Khát quay cuồng. Khát điên dại. Người như muốn bùng cháy.” Và
cuối cùng “Không thể chịu đựng nổi, trên đường rút, anh đã cầm khẩu K54, tự giải
thoát cho mình bằng một viên đạn vào đầu” [96] để kết thúc cơn khát đang hành hạ
anh từng giây, từng phút. Cái khát đã dẫn đến bi kịch của người chiến sĩ trên mặt
trận, khiến người đọc không khỏi nghẹn lòng. Bộ đội Việt Nam không chỉ đối diện
với bom mìn của kẻ thù mà ngay những như cầu thiết yếu của cuộc sống họ cũng
không được đảm bảo đầy đủ trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường Campuchia
36
để rồi dẫn đến những cái chết đau lòng. Người chiến sĩ Việt Nam không dễ đầu
hàng trước kẻ thù, thế nhưng họ lại tự đầu hàng khi phải đối chọi với những thiếu
thốn như Đoàn Tuấn nói: “Mọi gian lao anh đều vượt qua, nhưng anh không thể
thắng nổi cơn khát”. Thật đau lòng!
Không chỉ là trường hợp của những người đồng đội, bản thân Đoàn Tuấn
cũng trải qua những giày vò của cơn khát: “Tôi tuyệt vọng hoàn toàn. Nước bọt khô
cong. Cổ họng cháy bỏng. Mắt nóng như hai hòn than. Làm thế nào để sống được
đây? Sau ba ngày không nước, sức lực tôi đã cạn kiệt. Ngay cả mồ hôi cũng không
còn mà tiết ra nữa. Mất sức chiến đấu hoàn toàn. Bây giờ mà địch ập đến đánh,
chắc không thể cầm súng chiến đấu nổi” [96, tr.435]. Và nếu như không có những
giọt nước mát lành của anh Đước thì có lẽ Đoàn Tuấn đã không còn sự sống. Và sau
này, cái khát ám ảnh Đoàn Tuấn đến nỗi trong ngày sinh nhật năm 19 tuổi, một sinh
nhật đặt biệt để lại dấu ấn trong cuộc đời, Đoàn Tuấn chỉ có một mơ ước duy nhất là
có một bi đông đầy nước. Ước mơ giản dị nhưng nó lại đủ phản ánh hiện thực khốc
liệt nơi chiến trường mà người lính phải đối diện.
Cùng với cái khát là cái đói. Cái đói khiến họ bất chấp mạng sống để giành
thức ăn với động vật: “Lúc ấy tao hết sợ, lao đến vồ lấy giữa đoạn ruột bò, một tay
cầm súng, một tay giật. Hai con kên kên bị cướp mồi bất ngờ, nhưng vẫn ngậm chặt
đoạn ruột không chịu nhả ra. Lực kéo của tao dù đang đói mệt, cũng làm cho hai
con điểu chuyên ăn xác chết ngã và bị lôi đi sền dệt, lăn lông lốc. Bị tước đoạt
miếng ăn, lũ kên kên quyết liệt không chịu bỏ miếng mồi. Chúng tạm thời nhả đoạn
ruột bò rồi lao tới bổ tới tấp vào đầu tao” [52, tr.481]. Cái đói khiến họ phải ăn thịt
chính đồng loại của mình. Không ít lần, trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đã
để các nhân vật kể về chuyện ăn thịt người, bản thân Tùng - người lính trong trận
chiến khốc liệt ấy không chỉ chứng kiến chuyện ăn thịt người của kẻ thù mà chính
Tùng cũng đã ăn thịt đồng loại trong tình huống quá trớ trêu.
Và tất nhiên, họ phải đối chọi với bệnh tật - điều không thể tránh khỏi. Đầu
tiên phải kể đến căn bệnh sốt rét rừng, căn bệnh cứ đeo bám người lính trong bất kì
cuộc chiến nào ở nơi rừng sâu nước độc. Nhưng sốt rét ở chiến trường K thì thật
đáng sợ, bởi có nhiều loại sốt rét khác nhau, đẩy người lính vào cơn nguy kịch.
37
Thậm chí, căn bệnh sốt rét đã cướp đi phần đời đẹp đẽ nhất của người lính trẻ như
cái chết của Duy Khánh. Anh bị sốt rét ác tính “là loại sốt rét rất nguy hiểm. Cầm
chắc cái chết. Có nhiều loại ác tính. Loại Duy Khánh mắc, là loại sợ nước. Cứ gặp
nước là lên cơn. Trong đầu mình đang nghĩ gì, là cái đó bùng phát” [96, tr.327], và
thế là Duy Khánh cứ hát cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Một cái chết kì lạ, một
cái chết đau đớn! Còn Nga thì lại phải chống chọi với “một loại vi khuẩn yếm
khí…loại vi khuẩn này nó chui vô trong vết thương. Nó sống trong điều kiện không
có ôxy. Càng thiếu ôxy, nó càng khoẻ. Nó đục, nó tấn công làm cơ thể mục nát, hoại
tử. Và chết một cách chầm chậm. Ngay từ bên trong cơ thể” [96, tr.336] . Và Nga hi
sinh khi không thể chống chọi với thứ “kẻ thù” không hình thể, vô cùng nguy hiểm
và “có rất nhiều ở Preah Vihear” [96, tr.336]. Quả thực, chiến trường Campuchia
luôn là nơi đẩy con người vào hoàn cảnh bi đát. Thiếu thuốc men, thiếu phương
tiện, nơi rừng sâu nước độc người chiến sĩ phải đối diện với những bệnh tật, ốm
đau, cận kề với những mất mát hi sinh. Đó quả thực là một nốt nhạc trầm buồn
trong bản anh hùng ca cách mạng trên chiến trường K.
Hiện thực chiến trường đầy ám ảnh trước sự hủy diệt bằng bom đạn của kẻ
thù. Mìn là loại vũ khí chủ đạo mà kẻ thù dùng để chống lại quân tình nguyện Việt
Nam. Chúng sử dụng hàng trăm loại mìn khác nhau, cài theo muôn vàn kiểu khác
nhau ở những vị trí không ngờ tới khiến lính Việt không kịp trở tay, không kịp
lường trước. Chính bởi thứ vũ khí hủy diệt này mà “quân tình nguyện Việt Nam
hứng chịu cái sự tàn khốc, thiệt hại của mìn ở chiến trường K bao la là không có
giới hạn” [52, tr.457], đến nỗi nó trở thành nỗi ám ảnh đối với người lính tình
nguyện Việt Nam: “cái chết bởi mìn do bọn tàn quân Pol Pot gài vẫn cứ là cái chết
thê thảm, khủng khiếp, sợ hãi nhất đối với tôi”. [52, tr.459]. Có nhiều cái chết do
mìn, có nhiều kiểu bị thương do mìn, mìn khiến những người lính hãi hùng: “Tôi đã
nhìn thấy lính bộ binh, trinh sát đang hành tiến trên đường mòn, bỗng…uỳnh một
cái. Thế là…gục. Xe ô tô đang chạy trên lộ 13, lộ 68 bỗng…chớp lửa nháng lên
cùng với tiếng nổ uỳnh một cái là lật tung xe, người, súng, lốp cao su, ván thành ô
tô vụn ra…tung lên trời, để rồi lả tả, bịch bịch, xào xào…những đất đá, cẳng chân,
khúc tay, miếng thịt,…rơi xuống đất, xuống cỏ cây” [52, tr.459]. Cái họ sợ không
38
phải là kẻ thù, thế nhưng có lúc lính tráng ùn lại không dám đi tiếp, họ lo lắng, sợ
hãi bởi vì phía trước không phải là những tên lính áo đen đấu súng trực tiếp, phía
trước họ là những bãi mìn có thể nuốt chửng bất kì đoàn quân tình nguyện Việt
Nam nào nếu sơ ý. Chính vì vậy, thứ vũ khí trở thành nỗi ám ảnh hãi hùng của quân
tình nguyện Việt Nam 10 năm ở Campuchia chính là mìn. Bản thân Tùng - người
chiến sĩ chiến đấu trên chiến trường K ấy đã phải thốt lên: “Sợ quá! Chưa có cuộc
chiến tranh nào trên thế giới mà mìn lại được sử dụng nhiều và như một loại vũ khí
chủ yếu sát thương trên chiến trường như cuộc chiến triền miên, cò cưa, dai dẳng,
hãi hùng ở chiến trường Campuchia”[52, tr.468]. Mìn trở thành sự khiếp đảm của
người chiến sĩ trong cuộc chiến sinh tử với kẻ thù đến nỗi ám ảnh cả trong giấc mơ:
“Mìn…mìn…và mìn! Suốt đêm tôi cứ luôn bị bóng ma các quả mìn đủ loại gây ám
ảnh, khiếp đảm, hãi hùng…” [52, tr.468]. Sự nham hiểm của kẻ thù cộng với thứ vũ
khí hủy diệt là mìn đã khiến trường K trở nên khốc liệt hơn, dữ dội hơn.
Song, người chiến sĩ không chỉ đấu tranh chống lại bom đạn của kẻ thù, đáng
sợ hơn, thiên nhiên rừng Miên với sự hoang vu, bí ẩn cũng hành hạ người lính, gây
ra những cái chết đau lòng với những người lính Việt Nam chiến đấu trên đất bạn.
Họ phải chịu đựng thời tiết khắc nghiệt, bị bao vây bởi ruồi, chuột, hổ, kên kên, chó
sói, ruồi…Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đã ghi lại: “Nắng thì nắng cháy
da bỏng thịt. Mưa thì mưa như trời dột vãi nước. Ban ngày ruồi bâu đen trên những
xác chết, những mẩu thịt xương của lính Pol Pot chưa kịp chôn cất, hoặc của lính
ta chưa kịp đưa về phía sau. Chúng đánh hơi thấy mùi cơm canh lại bay đến bâu
đen đĩa rau, bát cơm, bâu vào miệng, vào mũi. Vừa ăn vừa đuổi ruồi và nghĩ đến
xác chết đang thối khẳn. Ban đêm, muỗi như trấu vãi, vừa gác vừa đập muỗi, sáng
ra nhìn bàn tay đỏ máu cứ nghĩ là bị thương. Dưới kinh, đỉa nhung nhúc nổi lềnh
lên như bát canh lộn ngầy, bám vào xác lính Pol Pot đang rữa thối. Chuột đồng
lông dài như lông lợn, đông lúc nhúc hàng đàn kéo nhau ra ăn xác chết. Đêm đêm,
chuột lần mò vào cắn cả ngón chân lính ta đang ngủ. Tiếng súng, tiếng ễnh ương,
cóc nhái kêu triền miên như hòa tấu không dứt một bài ca lạnh lùng, đơn điệu, buồn
tẻ và thê lương” [52, tr.237]. Có nghĩa là người lính không chỉ chiến đấu chống lại
39
bọn Pol Pot mà còn phải chiến đấu với rất nhiều những kẻ thù nguy hiểm khác.
Chiến trường Campuchia như một mê cung của rừng thiêng nước độc, chứa
đầy bí ẩn với những chết chóc kinh hoàng. Hiện thực chiến trường được đặc tả
trong một không gian mông muội, hoang dã, man rợ đến nỗi người hóa thành mãnh
thú lăn xả vào nhau mà đâm chén, bắn giết, “đứa sống phải ăn thịt đứa chết mà tồn
tại”. Chiến tranh sẽ kéo lùi lịch sử và có nguy cơ đẩy con người trở về hoang dã và
hình ảnh dã nhân chính là hình ảnh phản chiếu của không gian chiến trường mông
muội. Dã nhân là một con người bị hoang hóa, mất hết ý thức. Dấu ấn của rừng
thiêng nước độc nơi miền hoang in rõ trên hình hài dáng vóc và tâm tính của kẻ lạc
rừng tội nghiệp. Không ai biết nguồn gốc của dã nhân, không ai biết những chuyện
gì đã xảy ra nhưng hình ảnh của một dã nhân mang còng số 8 với tiếng cười man
rợn khi nhìn thấy những cảnh chết chóc đau thương khiến người đọc ám ảnh. Và
rồi, kết thúc của dã nhân như một lời tố cáo đanh thép cho kiếp sống của con người
lạc giữa rừng Miên hoang độc, là tiếng nói đầy đủ và thấm thía nhất cho kết cục bi
đát của chiến tranh: “Hồn dã nhân không bay đi đâu xa. Có thể hồn dã nhân đậu
trên ngọn cây me cổ thụ chết khô và chứng kiến cuộc rỉa mỏ, róc xác mình. Một con
kên kên mổ cái mỏ nhọn khoằm vào móc con ngươi. Một con nữa móc nốt mắt bên.
Con lóc má. Con lóc đùi. Con mổ kéo rách thành bụng. Lòng ruột tim gan xổ ra…lõng
thõng…Lúc nhúc. Cánh đập sà sã. Chân co móng sắc đạp móc vào da thịt rách phựt
…phựt…Những cái đầu thâm đen, hoặc hói trụi lông da cổ đỏ và mỏ ngà châu vào xơi
bộ lòng ruột. Một lúc sau, hồn dã nhân không nhận ra thân xác mình nữa, chỉ còn một
bộ xương trắng treo lủng lẳng trên cây me cổ thụ chết khô…” [52, tr.526].
Hiện thực chiến trường đẩy người lính ở cả bên ta và bên địch vào số phận bi
thảm. Mỗi số phận trong cuộc chiến ấy đều chịu những hậu quả nặng nề. Tùng
trong Miền hoang phải một mình chống lại kẻ thù tàn nhẫn, một mình chống lại cái
đói, sốt rét rừng, lạc rừng …chịu đựng những giày vò trong quá trình tìm đường để
được “trở về”. Những khổ đau, sợ hãi cứ bám víu lấy Tùng, và trong cuộc chiến ấy:
“Bỗng chốc, lòng tôi hoang hoải và rét lạnh thân thể. Những hình ảnh bắn giết, tàn
sát, chết chóc, cái bụng xổ ruột gan cả đống của tên lính đen cầm „ống thổi‟ viên
đạn ghim vào trán thằng Tuấn B40, và những cái đầu đồng đội thành bãi thịt xương
40
lẫn mảnh mũ cối lổn nhổn…hiện lên liêu xiêu, dật dờ, nhẩy múa trước mắt. Rùng cả
mình” [52, tr.40]. Tùng như lạc vào mê cung với tất cả nỗi tuyệt vọng bị bỏ rơi, bị
lãng quên. Còn bọn địch “thắng” nhưng Lục Thum bị thương nặng: “Lúc này, tôi
cũng bắt gặp nỗi khốn khổ trần ai của kiếp người bầm dập quằn quại bởi những vết
đau trận mạc là hình ảnh viên chỉ huy tàn quân Pol Pot. Gã bị thương máu me thê
thảm, tã tượi ngồi bên gốc cây dầu cổ thụ khô xác” [52, tr.42] và trở thành tàn phế,
Sa Ly hóa câm, chỉ còn thằng Rô lành lặn. Kết thúc trận đánh, bốn kẻ sống sót bị
lạc đường, và chung trạng thái: “Mệt dỉu dả. Các khuôn mặt hốc hác. Thân hình tàn
tạ. Bước thấp bước cao thất thểu” [52, tr.5]. Lạc đường và tìm đường một cách vô
vọng, những kẻ thân tàn ma dại ấy lăn lộn giữa “miền hoang” rừng rậm, đầm lầy,
giữa đói khát và cả cái chết rình rập trên từng bước đi. Quả thực chiến tranh không
chừa một ai, cả bên ta và bên địch đều phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của
cuộc chiến.
2.1.1.2. Sự hi sinh, mất mát
Trong Mùa chinh chiến ấy và Miền hoang, sự khốc liệt và bi thương của
cuộc chiến được miêu tả bằng sự hi sinh của người lính. Chiến đấu với kẻ thù hiểm
ác, trong hoàn cảnh gian khổ như vậy, hi sinh mất mát là điều không thế tránh khỏi
đối với những người chiến sĩ tình nguyện Việt Nam. Nhưng ở chiến trường
Campuchia này, người lính Việt Nam hi sinh với muôn ngàn cách khác nhau:
“Những người lính chúng tôi hi sinh. Vì mìn dưới đất. Vì đạn bắn ngang tầm. Vì
nước lũ. Vì sốt rét. Vì khát…Và còn vì sét đánh nữa. Tôi đã được chứng kiến những
trận sét đánh trong chiến trường Campuchia dữ dội ra sao” [96, tr.339]. Có những
sự hi sinh đẹp đẽ, bi tráng, nhưng cũng có những cái chết phi lí, đau đớn đến nghẹn
lòng. Và dù hi sinh theo cách nào đi nữa cũng đều phản ánh chân thực những khốc
liệt và bi tráng của cuộc chiến nơi đất khách quê người. Có lẽ, chưa ở đâu và chưa
bao giờ, lính Việt Nam lại hi sinh nhiều đến thế, phi lí và nghẹn ngào đến thế.
Trong những trang văn của Đoàn Tuấn, những người đồng đội của ông buổi chiều
còn cười nói vui vẻ, đêm đến đã không còn quay về. Những người lính ấy còn chưa
kịp nghe hết một bản nhạc, đã chấm dứt tuổi thanh xuân theo tiếng nhạc. Trong
Miền hoang, Sương Nguyệt Minh cũng không hề né tránh những hiện thực đau lòng
41
ấy. Có những người hi sinh vì bom đạn, có người bị thú dữ ăn thịt, nhưng cũng có
những người lính chết vì những lí do như rơi từ độ cao 30m vì lấy nước thốt nốt, có
người chết vì điện giật khi đánh cá…Quả thực “Có hàng trăm, hàng ngàn kiểu chết
khác nhau ở chiến trường K” [52, tr.181], và cái chết nào cũng phản ánh vô cùng
chân thực sự đau thương ở chiến trường Campuchia.
Tuy nhiên, trong bom đạn của kẻ thù, cũng có những sự hi sinh vô cùng đẹp
đẽ, bi tráng. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn đã ghi chép lại nhiều sự hi sinh
đẹp đẽ và bi tráng, như trường hợp của anh Nguyễn Mạnh Hùng: “Anh Hùng đã bắn
viên đạn cuối cùng. Đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng theo nghĩa chính xác nhất
của từ này” [96, tr.360]. Viên đạn bắn ra từ giây phút cuối cùng, và cũng ở những
khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, người chỉ huy ấy đã chiến đấu trọn vẹn cho lí
tưởng, cho cách mạng. Người con của Hải Dương ấy đã không hề chùn bước, không
hề run sợ trước kẻ thù. Sự hi sinh của anh bi thương nhưng không hề bi lụy. Quả
thực, chiến tranh là nơi tô đậm vẻ đẹp của những anh hùng sẵn sàng xả thân, sẵn
sàng xông pha nơi đầu tên mũi đạn để chiến đấu với quân thù.
Mỗi người nằm xuống nơi chiến trường theo một cách riêng. Nếu sự hi sinh
của tiểu đoàn trưởng Nguyễn Mạnh Hùng mang vẻ đẹp bi tráng thì sự hi sinh của
anh Hà Huy Lan là một khoảnh khắc đẹp đến ám ảnh: “Anh Lan nằm nghiêng. Áo
vẫn bỏ trong quần. Đầu gối lên khẩu M79. Một chiếc khăn mặt trắng được anh phủ
lên vết thương trên đầu. Dưới chân anh, đôi dép cao su được xếp ngay ngắn” [96,
tr.165]. Sự hi sinh ấy khiến Đoàn Tuấn “sững sờ, kinh ngạc” trước “cái chết rất
đẹp, rất gọn, rất sạch” của người sỹ quan quân đội anh hùng. Đau đớn, ám ảnh
nhưng dường như sự hi sinh ấy là một lời khẳng định chắc chắn nhất cho vẻ đẹp của
những người chiến sĩ đã sống, chiến đấu và hi sinh trên đất bạn. Thậm chí, ngay
trong thời khắc cuối cùng của cuộc đời, họ cũng chọn cho mình cái chết thanh sạch
nhất, đẹp đẽ nhất như khi họ còn sống. Đó là những khoảnh khắc đẹp đẽ vô ngần!
Hoặc như sự hi sinh của “Duy Khánh” - Nguyễn Trận. Không hi sinh vì bom đạn,
nhưng chàng trai ấy đã hát cho đến khi tàn sức kiệt hơi khi mắc phải sốt rét ác tính.
Sự hi sinh đặc biệt và“ai cũng phải công nhận đó là một cái chết bi tráng. Hát. Và
hát. Hát đến hơi thở cuối cùng. Mấy cuộc đại chiến thế giới đã qua, có cái chết nào
42
kiêu hãnh, bi hùng đến thế chưa?” [96, tr.329]
Đành rằng có những sự hi sinh đẹp đẽ và bi tráng đến thế, nhưng những trang
viết của Đoàn Tuấn, Sương Nguyệt Minh vẫn không khiến người đọc tránh khỏi
những đau đớn, xót xa. Bằng những trải nghiệm của bản thân, họ nhìn thẳng vào sự
thật, viết lên sự thật và viết bằng tất cả những đớn đau uất nghẹn của mình trước sự
hi sinh của đồng đội. Từng làm công việc chăm lo cho tử sĩ, từng đi “nhặt nhạnh”
từng bộ phận cơ thể của đồng đội mình, từng trân trọng, nâng niu từng di vật khi
đồng đội nằm xuống, Đoàn Tuấn đã viết những trang văn bằng cảm xúc chân thực
nhật. Và sự hi sinh của đồng đội vì thế mà hiện hữu trên mỗi trang viết đầy ám ảnh.
Chính vì thế, Đoàn Tuấn đã không hề ngần ngại, né tránh khi đề cập đến những cái
chết uất nghẹn, phi lí. Chẳng hạn trường hợp của anh Cương. Khi sống, anh đã cống
hiến hết mình cho chiến tranh, đã dành tuổi thanh xuân của mình cho quân ngũ,
ngày trở về, khi nán lại một chút nơi chiến trường anh từng gắn bó thì “Ầm!”. Một
trái mìn K58 bất ngờ nổ. Anh Cương ngã vật ra. Hai ống chân nát tươm. Máu tuôn
xối xả. Nhiều người nhảy xuống xe. Phải rất thận trọng mới đến gần chỗ anh, băng
bó rồi khiêng anh lên xe. Chuyến xe đưa anh về nước phải quay đầu trở lại trạm
phẫu trung đoàn để cấp cứu cho anh. Nhưng trong đêm đó, anh đã trút hơi thở cuối
cùng trên đất K” [96, tr.357]. Đó là sự hi sinh bên lề cuộc chiến, không đối diện
trực tiếp với kẻ thù, nhưng anh Cương đã ngã xuống ngay cái nơi mà anh gắn bó,
chiến đấu để bảo vệ. Còn gì đau xót hơn khi sắp được đoàn tụ với gia đình, được trở
về với quê hương thì anh lại nằm xuống ở nơi chiến trường hoang lạnh. Sự hi sinh
của anh Cương đầy ám ảnh, bởi lẽ tình sâu nghĩa nặng, sự lãng mạn cũng có thể là
nguyên nhân dẫn đến cái chết ở trên chiến trường K dữ dội ấy.
Hoặc người đọc cũng không khỏi đau đớn trước sự hi sinh của Tô Văn Phán
- “anh chàng lính mới quê Phú Khánh”. Phán hi sinh bất ngờ nhưng cũng đầy ám
ảnh: “Về đến đúng đồi Con Cá thì thằng Phán vấp mìn… Ầm một cái! Nó ngồi bệt
xuống. Nhìn hai chân của mình nát bươm, máu tuôn lênh láng. Nhưng thằng Phán,
không kêu một tiếng, mắt nó mở to, nhìn trân trân vào hai ống chân đỏ lòm, gần
như vỡ toác, đứt đi. Nó cứ nhìn như vậy. Không kêu la. Mặt nó vẫn bình thường,
không lộ vẻ đau đớn. Nó cảm nhận cái chết hết sức điềm nhiên. Hình như nó đã linh
43
cảm thấy cái chết này. Nó đón nhận. Và chấp nhận. Khi nghe tiếng mìn, anh em vội
nằm xuống, chuẩn bị nổ súng. Nhưng không thấy động tĩnh gì. Khi anh em bò lên,
thấy thằng Phán vẫn còn ngồi nhìn đôi chân mình. Tay trái chống đất. Tay phải giữ
khẩu AK. Anh em bò lại, đỡ nó. Lúc ấy nó mới từ từ ngả xuống. Và mắt, dần khép
lại…” [96, tr.449].
Dẫu biết bước vào cuộc chiến là phải đối diện với chết chóc, đau thương, thế
nhưng người đọc vẫn không khỏi bất ngờ và đau đớn trước những sự thật mà Sương
Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã thể hiện trên trang viết của mình, đặc biệt khi viết
về sự hi sinh của người lính. Có những cái chết trong trận đánh, nhưng thậm chí còn
có những cái chết “không trong trận đánh” và “bên lề cuộc chiến”. Họ có thể chết vì
đỉa, vì sét đánh, vì yếm khí,… vì muôn ngàn lí do khác nhau nhưng sự hi sinh nào
cũng không tránh khỏi những đau đớn và ám ảnh.
Nhưng đau đớn nhất chính là những cái chết không vẹn toàn thân xác. Đây
chính là sự thảm khốc của chiến trường Campuchia mà người lính rơi vào. Người
lính hi sinh có thể vì bom mìn, vì thú dữ ăn thịt…nhưng phần lớn họ đều mất đi một
phần cơ thể. Trong Miền hoang, chính mắt Tùng đã nhìn thấy đồng đội mình “chỉ
còn một ống chân trong chiếc giày thêu chữ Du”. Hay trong góc nhìn của thằng Rô
- bên phía kẻ thù: “Trước mắt bọn tao là gốc cây dầu, cỏ bị quật nát, hai đoạn
xương ống bị róc hết thịt như chui ra từ đôi giầy vải bộ đội Việt Nam ở trong đó có
hai cái bàn chân. Chung quanh các dóng xương vương vãi và vết chân con kh‟la
quần tanh bành dập nát cả một vùng cỏ cây. Cọp chưa kịp ăn hai bàn chân còn sót
lại trong giày vải màu cứt ngựa, hay nó đã no bụng nên bỏ đi…” [52, tr.148]. Ở
Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn cũng không né tránh hiện thực đau lòng này. Bao
nhiêu người lính đã nằm xuống, bao nhiêu người đồng đội đã ở lại nơi đất khách
quê người. Nhưng đau đớn nhất, cả khi đã nằm xuống họ vẫn phải “chịu đựng”
những đớn đau của một thân xác không vẹn toàn. Có những người bị “bay mất” cả
thân trên khi bị dính mìn, “người mất tay, người mất thân, người mất đùi” [96,
tr.213]. Đau thương chồng chất đau thương. Và những người còn sống lại cẩn thận
“nhặt từng miếng thịt, từng mẩu xương, từng chiếc giày về xếp lại cho đồng đội”
[96, tr.213], “Hai ba lô xương thịt vụn, chúng tôi cũng rửa sạch đất cát. Tìm xem ai
44
thiếu gì thì xếp vào” [96, tr.215]. Chiến trường hiện lên với chi tiết tả chân đến trần
trụi, đến đau lòng. Có lẽ, đây mới chính là những hình ảnh đau đớn, ám ảnh nhất
của chiến tranh.
Thậm chí có những người hi sinh đến hai lần như trường hợp của anh Sơn.
Anh Sơn hi sinh vì mìn. Đồng đội không bỏ mặc anh nên khiêng anh về Cam-tuất
nhưng gặp phục kích của kẻ thù: “Trong số 8 người đó, có Lưu Thanh Sơn - người
đã chết hai lần. Cầu mong không có lần thứ ba” [96, tr.216]. Điều này có lẽ không
hiếm ở chiến trường Campuchia. Còn sống, người lính đã phải đối diện với muôn
ngàn khó khăn, thử thách, với muôn ngàn “kẻ thù” nơi chiến trường. Đến khi hi
sinh, họ không những phải nằm lại nơi đất khách quê người, thậm chí còn “hồn siêu
phách lạc” khi chết đi chết lại, không biết có tìm nổi đường về quê hương. Sự thực
ấy là một nỗi đau không thể nào nguôi ngoai!
Người lính hi sinh theo muôn ngàn cách khác nhau, có những sự hi sinh đẹp
đẽ, bi tráng trong cuộc chiến, cũng có những cái chết bên lề cuộc chiến nhưng đều
mang đến sự đau đớn, xót xa cho người đọc bởi họ đều hi sinh khi còn rất trẻ, hi
sinh ở phần đời đẹp đẽ nhất của mình. Họ nằm xuống nơi xứ lạ quê người, chết xa
Tổ quốc và không biết có tìm được đường về với đất Mẹ. Sự hi sinh mất mát trong
cuộc chiến được soi chiếu cận cảnh. Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã không
né tránh sự thực, không ngần ngại, không thêm bớt. Họ viết trong nỗi đau, trong sự
ngưỡng mộ, cảm phục, chua xót…nhưng quan trọng nhất là họ viết lên sự thật về
chiến trường. Viết về sự hi sinh của đồng đội, hai nhà văn đã đi đến tận cùng sự tàn
bạo của chiến tranh, sự khốc liệt của chiến trường.
2.1.2. Cuộc chiến đấu vì Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế
2.1.2.1. Nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng
Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn
là những tác phẩm viết về cuộc chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam giúp đỡ
lực lượng cách mạng Campuchia đánh đuổi đám quân phản loạn Pol Pot trên đất
nước bạn, đồng thời củng cố hậu phương, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam.
Sống và chiến đấu ở đất người, như cá bơi lạc vào dòng nước lạ, người lính phải đối
diện với muôn vàn những khó khăn, thử thách, với những mất mát, hi sinh. Song
45
điều quan trọng hơn cả là những người chiến sĩ ấy đã vượt qua muôn vàn những
gian khổ, hiểm nguy, họ vẫn bám đất, bám dân, dũng cảm chiến đấu chống lại sự
hủy diệt của kẻ thù. Mỗi người lính Việt Nam khi cầm súng chiến đấu đều đặt trên
vai nghĩa vụ thiêng liêng: bảo vệ biên giới Tây Nam, giúp nước bạn thoát khỏi họa
diệt chủng do Pol Pot gây ra. Lật giở từng trang viết, người đọc cảm phục và trân
trọng sự hi sinh của những người lính tình nguyện Việt Nam. Cả Miền hoang và
Mùa chinh chiến ấy đều thể hiện vẻ đẹp của những người lính chiến đấu vì Tổ quốc
và nghĩa vụ quốc tế.
Nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng đặt trên đôi vai của những người lính tình
nguyện Việt Nam không chỉ thể hiện ở việc xông pha nơi hòn tên mũi đạn mà ngay
trong ý thức, trong suy nghĩ, họ đã luôn tâm niệm sâu sắc về vai trò, trách nhiệm
của mình. Trong câu chuyện của anh Du và Tùng ở Miền hoang, Tùng đã từng thắc
mắc, giày vò vì sao những người như anh Du - hứng chịu đạn mìn gần mười năm
rồi vẫn chưa về cố hương. Và anh Du đã có lời giải đáp vô cùng giản dị, thấm thía
và chân thành: “Định mệnh hai dân tộc. Định mệnh gắn kết số phận hai nước, hai
dân tộc ở bên nhau, lúc khó khăn hoạn nạn không thể đừng giúp nhau. Cũng y như
cháy nhà hàng phố, không thể bình chân như vại. Không chữa giùm, nó thiêu hủy
cả di sản gia sản nhà người ta, mình có đang tâm đứng nhìn không? Vả lại hàng
xóm cháy, không chữa giùm nó cháy lan sang cả nhà mình ấy chứ. Cứ nghĩ một
cách bình dị như thế thôi Tùng ạ. Chúng ta đi từ đạo lí làm người trước, rồi mới đi
cùng lý tưởng…” [52, tr.238]. Không ai đòi, ai bắt, không nặng nề trong hai chữ
“nhiệm vụ”, anh Du đã thay lời anh em lính tráng nói lên những điều giản dị từ
trong chính cuộc chiến gian khổ ấy. Họ chiến đấu vì nhân dân hai nước, họ chiến
đấu vì tình thương yêu đối với nhân dân Campuchia. Đó cũng là lí do mà anh Du
quyết đi đến tận cùng của cuộc chiến tranh: “Nghĩ cũng tội: Chẳng lẽ anh mày xin
về nước, rồi tất cả mọi người lính Việt Nam ai cũng muốn trở về nhà thì bọn Pol
Pot quay trở lại Phnom Pênh ngay. Người Khmer sẽ sống ra sao với bọn man rợ ấy.
Bỏ thì thương, vương thì tội. Bỏ cuộc chiến nửa chừng đồng nghĩa với...trắng tay”
[52, tr.231]. Người đại đội trưởng của quân tình nguyện Việt Nam ấy đã gắn bó với
chiến trường 10 năm, vẫn muốn dấn thân trên mảnh đất Campuchia vì một lí do vô
46
cùng giản dị như thế. Cốt lõi vẫn là tình yêu thương, cốt lõi vẫn ở tình quốc tế
thiêng liêng mà anh từng nói với Tùng: “Tùng ạ! Các nhà chính trị vẫn nói với
chúng ta đó là: Nghĩa vụ quốc tế cao cả. Là: lương tâm thời đại. Không sai!” [52,
tr.238]. Hành động của Việt Nam xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng, trách
nhiệm quốc tế cũng như lương tâm của một dân tộc chịu nhiều áp bức và ngoại
xâm. Sự đóng góp hi sinh của Việt Nam tại Campuchia vừa vì sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc vừa với tinh thần quốc tế trong sáng và cao cả.
Trong Mùa chinh chiến ấy, bản thân mỗi người lính trên trang viết của Đoàn
Tuấn đều ý thức được vị trí và trách nhiệm của mình khi chiến đấu trên đất bạn. Họ
đối đãi với nhân dân Campuchia bằng tấm chân tình, coi nhân dân như người trong
gia đình của mình nhưng lại không dám nhận bất kì ơn huệ nào của dân. Khi đón
dân trở về, một ông già “quỳ xuống, dùng cả hai tay, nâng lên trước mặt” [96, tr.60]
người lính Việt Nam trái dừa để thể hiện lòng biết ơn. Dù rất thèm vì “Từ bé đến
giờ, mình đã được ăn trọn vẹn trái dừa bao giờ đâu”. Thế nhưng, vì là đất bạn, vì
“Dân họ nghèo lắm. Mình đang làm nghĩa vụ quốc tế, làm sao dám ăn” [96, tr.60] -
một phần vì sợ kỉ luật, nhưng quan trọng nhất là họ ý thức được rằng “người dân
Campuchia hiện nay không còn bất cứ tài sản gì. Họ chỉ còn mỗi cái khố mặc trên
người” [96, tr.49]. Lính tình nguyện Việt Nam luôn thương dân Khmer như chính
đồng bào ruột thịt của mình. Đó là những tình cảm lớn lao trong tình hữu ái thiêng
liêng. Thậm chí, ngay trong chuyện tình cảm lứa đôi, họ giữ gìn hình ảnh của người
lính Việt, làm sao để luôn được nhân dân Campuchia tin tưởng. Quả thực, lính tình
nguyện Việt Nam rất đẹp. Vẻ đẹp ấy được tạo nên bởi tình hữu ái dân tộc, bởi nghĩa
vụ quốc tế thiêng liêng.
Không chỉ là cầm súng chiến đấu, hi sinh xương máu trên chiến trường
chống lại kẻ thù Pol Pot, những người lính tình nguyện Việt Nam luôn giữ tinh thần
đoàn kết, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân, sẵn sàng nhường cơm sẻ áo:“Quân
giải phóng Việt Nam viện trợ gạo muối, vũ khí, đạn dược, huấn luyện tác chiến cho
quân Khmer Đỏ củ sắn chia đôi ca nước uống cùng” [52, tr.117]. Dù quân Khmer
Đỏ “lừa thầy phản bạn”, nhưng với nhân dân Campuchia, lính tình nguyện Việt
Nam vẫn luôn yêu thương, bảo vệ và san sẻ với những người dân bất hạnh. Hành
47
động giúp đỡ được thể hiện từ những việc tưởng chừng rất đơn giản như người lính
Việt Nam tặng ông cụ người Campuchia một đôi giày: “Tôi chạy vào, kêu gọi sự
giúp đỡ của Quốc. Tìm mãi trong cái nhà chứa gạo, Quốc cũng moi được đôi giày
cũ. Tuy rách, nhưng vẫn còn dùng được. Chúng tôi ái ngại đưa cho ông. Ông già
mừng rơn” [96, tr.83]. Hành động nhỏ bé, bình dị nhưng vô cùng ấm áp mà những
người lính Việt Nam trao tặng cho người dân Campuchia. Người đọc cũng không
khỏi xúc động, mến phục trước hành động làm bảng đen bằng cách “lấy ruột pin,
trộn lá khoai lang, chà lên mặt gỗ [96, tr.97] của bộ đội ta giúp cô giáo Campuchia
dạy các em bé học giữa hoang tàn đổ nát. Không ít lần, bộ đội Việt Nam chữa bệnh
cho dân, không ít lần bộ đội Việt Nam cứu giúp người dân gặp nạn. Chẳng hạn, đó
là câu chuyện ở biển Hồ, khi Sa Ly - người thiếu nữ Campuchia được lính quân tình
nguyện Việt Nam cứu giúp. Trong câu chuyện của cuộc đời mình, Sa Ly luôn nghĩ
đến hình ảnh hai người lính tình nguyện Việt Nam đã cứu cô ở Biển Hồ. Hình ảnh
người lính tình nguyện Việt Nam như vầng sáng lung linh trong kí ức của người con
gái Khmer. Rơi vào hoàn ảnh tuyệt vọng, bị hãm hiếp, tủi nhục cay đắng giữa rừng
hoang, nhưng trong kí ức của cô gái Khmer, hình ảnh người lính tình nguyện Việt
Nam vẫn luôn hiện hữu: “Tui sục vào kí ức… Kí ức được quân tình nguyện Việt
Nam „nhặt‟ tui dọc đường đem về nuôi, đưa vào đội phiên dịch của Ban dân vận
làm công tác vận động quần chúng” [52, tr.115]. Đó là kí ức đẹp đẽ của Sa Ly về
bộ đội Việt Nam. Cô gái người Khmer ấy luôn cảm thấy biết ơn: “Dù sao thì tui
cũng mang ân nghĩa của những người lính Việt Nam cứu sống tôi giữa đường lạc
mẹ.” [52, tr.115]. Hình ảnh người lính quân tình nguyện Việt Nam đẹp tới mức
được nhân dân Khmer gọi là “bộ đội nhà Phật”.
Nhà văn Đoàn Tuấn đã từng tâm niệm: “Chiến đấu ở chiến trường bạn, đất
bạn, phải làm sao thể hiện là những người lính rất đàng hoàng, tử tế, giúp dân tận
lòng và không làm điều gì ảnh hưởng đến đất nước của họ. Bởi vì đây là danh dự
đất nước, dân tộc. Cho nên mình đối xử với người dân, tù binh quân đội nước họ
mình phải luôn giữ được vẻ đẹp, truyền thống văn hiến của người Việt Nam mình”
[91]. Đó chính là tính thần chung của người lính Việt Nam khi chiến đấu trên chiến
48
trường K. Họ đã làm tròn sứ mệnh cao cả - một sứ mệnh không chỉ đến từ quân
lệnh như sơn mà xuất phát nhiều hơn từ trái tim yêu hòa bình, từ lòng nhân ái bao
dung của người chiến sĩ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.
2.1.2.2. Sống và chiến đấu hết mình
Ở nơi chiến trường Campuchia, người lính tình nguyện Việt Nam phải đối
diện với bao khó khăn, gian khổ, phải đánh đổi bằng chính tính mạng của mình. Sự
hiểm nguy không chỉ đến từ bom mìn của kẻ thù, mà còn đến từ thiên nhiên, từ
những sinh bật nhỏ bé nhất như ruồi, đỉa, kên kên…Có nghĩa là ở bất kì đâu, trong
bất kì khoảng thời gian nào sự nguy hiểm cũng luôn bủa vây lấy họ. Thế nhưng,
điều đáng quý là họ không bỏ đội hình đội ngũ, không bỏ mặc nhân dân Campuchia
phải tự chống chọi với nạn diệt chủng do Pol Pot gây ra. Trong mỗi người chiến sĩ,
trong mỗi giây phút của cuộc đời họ, họ luôn chiến đấu hết mình. Họ chiến đấu vì
tinh thần trách nhiệm của người lính, sẵn sàng đối diện với kẻ thù, anh dũng, kiên
cường,…Họ chiến đấu vì tinh thần chính nghĩa, vì tình yêu với mảnh đất láng
giềng. Hiện thực chiến trường là những khó khăn, gian khổ, mất mát, hi sinh nhưng
hiện thực ấy chính là cách để Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn ngợi ca tinh thần
chiến đấu quả cảm, bất chấp hiểm nguy, sẵn sàng hi sinh của quân giải phóng.
Họ kiên cường quả cảm trong những trận đánh ác liệt một mát một còn với
kẻ thù tàn bạo. Họ không bao giờ cúi đầu trước kẻ thù, dù trong lúc hiểm nguy nhất,
dù địch mạnh hơn nhiều lần. Chẳng hạn, trong trận đánh trên cao điểm 547, gặp
phục kích của kẻ thù, nhưng những người lính không đầu hàng, không tháo lui, lính
tráng vẫn “căng mình ra bắn”. Trong hiểm nguy, những người lính ấy vẫn bình tĩnh:
“Bình lại ra lệnh dựng cối lên. Bắn thẳng. Chứ không nghiêng 45 độ như lí thuyết
nữa. Những viên đạn lao thẳng lên trời, rơi xuống phía trước, cách vài chục mét.
Đạn cối nổ mà người bắn còn bị văng xuống đất. Bắn tiếp! Nghe tiếng bọn địch kêu
ré lên. Hốt hoảng. Không dám xông vào trạm phẫu nữa. Chết chưa các con. Đừng
đùa với cối 82 của quân đội Việt Nam” [52, tr.345]. Họ sẵn sàng giành giật với kẻ
thù từng mảnh đất, tiêu diệt kẻ thù đến tận sào huyệt để giải phóng đất nước
Campuchia. Những lần quân đội ta thăm dò, gỡ mìn đến nghẹt thở, sự sống và cái
chết cách nhau trong gang tấc nhưng người lính vẫn can trường vượt qua. Dù tổn
49
thất nặng nề, dù chưa đâu và chưa bao giờ lính ta lại hi sinh nhiều như trên chiến
trường Campuchia, nhưng lính tình nguyện Việt Nam đã sống và chiến đấu đến hơi
thở cuối cùng, đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng. Họ không bao giờ cúi
đầu trước kẻ thù, dù trong lúc hiểm nguy nhất, dù địch mạnh hơn nhiều lần.
Vẻ đẹp hào sảng, bi tráng không chỉ thể hiện trong các trận chiến, vẻ đẹp ấy
còn được cụ thể hóa trong hình ảnh mỗi người lính tình nguyện Việt Nam. Có thể
thấy, chiến tranh là bản anh hùng ca mà trong đó, hình ảnh những người chỉ huy của
quân đội nhân dân Việt Nam hiện lên đẹp đẽ nhất, đầy khâm phục và ngưỡng mộ.
Đó là hình ảnh anh Du trong Miền hoang, một người đồng đội, người chỉ huy, cũng
là một người anh đã dẫn dắt Tùng từ những ngày đầu tiên vào quân ngũ. Chiến đấu
10 năm ở chiến trường K, chịu đủ mùi vất vả gian truân của cuộc chiến nhưng anh
Du vẫn động viên đồng đội tiến bước và không bao giờ thoái lui trước kẻ thù. Đó là
hình ảnh của phó trung đoàn trưởng, trung tá Võ Sỹ Lực - một vị tướng tài với
“phong cách chỉ huy mạnh mẽ và thuyết phục” và đồng thời là chỗ dựa tinh thần lớn
cho đồng đội; “Ông đã thổi vào chúng tôi, mỗi người lính, tinh thần chiến đấu dũng
cảm, khí phách của người lính trận, tác phong của người lính luôn đi đầu, lối sống
của người lính đích thực là lính. Chỉ cần nhìn dáng ông đi dẫn đầu đoàn quân, lững
thững giữa rừng, là anh em D8 có điểm tựa tinh thần, có ý chí đi tiếp” [96, tr.295].
Đó là tiểu đoàn trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, một “vị chỉ huy mẫu mực” luôn hiên
ngang trước kẻ thù, bất chấp hiểm nguy, là người tiếp thêm sức mạnh cho lính “một
loại sức mạnh tinh thần vô giá”. Họ đều là những người anh hùng, là linh hồn của
cuộc chiến đấu. Có họ, hình ảnh người lính quân đội nhân dân Việt Nam đẹp hơn
bao giờ hết!
Họ chiến đấu hết mình trong trận chiến, và họ sống hết mình nơi trận mạc.
Cuộc sống của họ là những khó khăn, gian khổ, mất mát hi sinh nhưng những người
lính vẫn lựa chọn tư thế sống đẹp đẽ. Người chiến sĩ đã lấy niềm vui, sự phấn chấn
làm điểm tựa. Họ thương yêu những người dân Campuchia như người thân của
mình. Họ sống đầy nhiệt thành và lạc quan. Những lá thư, những bài hát, những
điệu nhảy…tạo nên một tinh thần lạc quan cách mạng. Chiến tranh với họ không chỉ
là mất mát, hi sinh. Chiến tranh là khi họ được sống với những cảm xúc thực của
50
mình, nhận ra những giá trị đích thực, trân quý những phút giây hạnh phúc, những
niềm vui dù là nhỏ nhoi nhất. Tất cả những điều đó đều trở thành hành trang của
người chiến sĩ.
Chiến tranh còn là bản anh hùng ca của tình đồng đội thiêng liêng. Trong lửa
đạn, chết chóc, những người lính vẫn luôn sát cánh bên nhau. Họ nhường nhau từng
hớp nước, miếng ăn, họ chia nhau cái chết, nhường nhau sự sống. Đồng đội nằm
xuống, những người còn sống giữ trọn vẹn nghĩa tình. Họ an táng cho đồng đội
mình bằng nghi thức thiêng liêng nhất có thể. Họ trân quý từng di vật đồng đội để
lại. Họ không bỏ nhau lúc còn sống, và cả khi những người đồng đội đã nằm xuống
nơi xứ người. Chiến tranh là đau thương, nhưng trong đau thương ấy vẫn ngời sáng
vẻ đẹp tình người. Đó cũng chính là vầng sáng trong cuộc chiến tranh đầy khốc liệt.
Quả thực, chiến tranh là bản anh hùng ca về người lính. Những người lính
được khắc hoạ với vẻ đẹp quả cảm, kiên cường. Khi chiến đấu, họ không lùi bước
trước kẻ thù. Hình ảnh của họ đẹp đẽ, hiên ngang, bất khuất. Họ ý thức được trọng
trách trên vai mình, ý thức về nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng mà mỗi người lính mang
trên mình, về lí tưởng cách mạng mà họ mang theo khi chiến đấu ở đất bạn. Trận
chiến dù là những gian khổ, vất vả, mất mát, hi sinh, nhưng những người lính ấy vẫn
mang tinh thần lạc quan cách mạng. Họ không lùi bước, không thoái lui, không đầu
hàng. Ở họ sáng ngời phẩm chất cách mạng của quân tình nguyện Việt Nam.
2.2. Hình tƣợng ngƣời lính Việt Nam
2.2.1. Hình tượng người lính trong cuộc đấu tranh với kẻ thù
2.2.1.1. Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất
Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh là những nhà văn bước ra từ cuộc chiến,
sống cùng những người lính, nhìn thấy họ, lắng nghe những ước mơ nhỏ nhoi của
họ cũng như phải chứng kiến biết bao đồng đội ngã xuống, bởi vậy hai nhà văn đã
viết rất chân thực và sâu sắc về hình tượng người lính. Trong tác phẩm Mùa chinh
chiến ấy và Miền hoang, hình tượng người lính hiện lên rất đời, rất người. Họ là thế
hệ thứ ba cầm súng ra chiến trường, phần lớn là học sinh, sinh viên có tri thức, có
nền tảng văn hóa. Mặt khác, cuộc sống nơi trận mạc đã rèn luyện cho người lính
những phẩm chất tuyệt vời, và cũng thắp sáng vẻ đẹp tâm hồn cao thượng trong họ.
51
Dù phải đối diện với những thử thách khốc liệt từ bên ngoài và bên trong, nhưng
những người lính đã can trường vượt qua, đã khẳng định được chính mình và hoàn
thành nghĩa vụ quốc tế và bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Chân dung
tinh thần người lính được các tác giả khắc họa sinh động, nhiều chiều: nét trữ tình,
lãng mạn, chất hồn hậu, bình dị, sự trẻ trung, hóm hỉnh và đặc biệt họ là những
người tài năng và tri thức.
Lấp lánh trên trang văn của Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh là vẻ đẹp trữ
tình, lãng mạn của những người lính tình nguyện Việt Nam. Họ là những chàng trai
mười tám, đôi mươi đã “gác bút nghiên lên đường ra trận”. Hành trang mà họ mang
theo là tình yêu học trò, là hình ảnh của quê hương, là nỗi nhớ nhung da diết, là
những rung động đầu đời... Trong khói lửa chiến tranh, họ vẫn giữ vẹn nguyên tâm
hồn lãng mạn - thứ mà bom đạn kẻ thù không tiêu diệt nổi. Thế nên trong sự cơ cực,
khốn cùng của cảnh lạc rừng, Sương Nguyệt Minh vẫn để nhân vật Tùng được sống
với chính phần hồn trẻ trung và lãng mạn của mình. Bởi thế, trong ba lô của Tùng
không chỉ là những quân nhu thiết yếu mà còn là cuốn nhật kí, tấm hình người yêu,
cuốn tiểu thuyết, những vần thơ và cả cây đàn…Cây đàn ghi ta là minh chứng cho
tâm hồn lãng mạn ở Tùng, là liều thuốc bổ giúp anh vực dậy sau những đớn đau mà
kẻ thù gây ra. Trong những ngày tháng vất vả, cực nhọc, đối diện với bom đạn, với
sự độc ác của kẻ thù…cây đàn ghi ta đã chắp cánh để Tùng cất lên những giai điệu
ngọt ngào. Trong lúc cái chết cận kề, Tùng vẫn “ôm đàn và ngẩng cao đầu” dạo một
bản dân ca Khmer: OH SVAY CHAN TY bởi “Dường như tiếng gọi của lòng kiêu
hãnh và cái sự ngạo nghễ, chết không cúi đầu như một người anh hùng ngã ngựa
trên sa trường lên tiếng, mà anh đã bị ảnh hưởng từ một nền giáo dục thời chiến ở
miền Bắc Việt Nam. Vả lại, trước sau gì cũng chết. Nhưng cái chết trên nền nhạc
dân ca của kẻ thù bao giờ cũng kiêu hùng hoàng tráng lộng lẫy và lãng mạn hơn
cái chết tầm thường bị xẻng bộ binh bổ vào mặt một cách gớm ghiếc, man rợ” [52,
tr.140]. Say mê tiếng đàn, hòa vào tiếng đàn như gửi gắm phần hồn của mình vào
đó, Tùng mang trong mình tư chất của một nghệ sĩ thực thụ. Đó là lí do vì sao Tùng
cảm thấy sung sướng khi tìm thấy chiếc đàn ghi ta bị thất lạc. Đó cũng là cũng là lí
do Tùng cảm thấy đau đớn khi đàn bị kẻ thù đốt, nước mắt Tùng “ứa ra, chảy cả
52
xuống miệng” [96, tr.430]. Đó là nỗi đau của một người nghệ sĩ khi nhìn thấy cây
đàn của mình bị tiêu hủy. Có thể thấy, Tùng chính là nơi hội tụ cho vẻ đẹp của
người lính Việt: lãng mạn và yêu nghệ thuật, nói như vị chỉ huy của Tùng: “Cậu
phải mừng vì người lính chúng ta có học, biết thưởng thức nghệ thuật và vẫn là
những con người bình thường chứ không phải người máy cầm súng” [52, tr.105].
Minh chứng khác cho vẻ đẹp lãng mạn của người lính chính là những cuốn nhật kí
chiến trận. Cuốn nhật kí chính là đời sống tâm hồn của những người lính: “Chỉ một
thoáng cảm xúc bất chợt vui buồn trên đường hành quân, hay nỗi nhớ vu vơ một
người bạn gái nào đó, hoặc tình thương bố mẹ ở quê nhà cồn cào không chịu
nổi…cũng biến thành con chữ bò lổm ngổm trên trang giấy trắng. Đặc biệt, sổ nhật
kí đứa nào cũng có thơ. Thơ chép tay từ tờ báo đã nhàu, từ sổ của đứa khác, và cả
thơ tự sáng tác nữa. Thơ hay, thơ dở cứ chép tuốt, miễn là chúng nói hộ được tâm
trạng, nỗi lòng mình…” [52, tr.161]. Gần như lính tình nguyện nào của Việt Nam
cũng có nhật kí, những trang nhật kí là những cảm xúc chân thành và mãnh liệt của
người lính. Những trang nhật kí là một thế giới khác, một thế giới đẹp hơn, lấp lánh
hơn, chan chứa tình người, tình đời hơn.
Trong Mùa chinh chiến ấy, không ít lần những khoảnh khắc lãng mạn của
người lính ùa về trên trang viết của Đoàn Tuấn. Giữa nơi rừng xanh núi đỏ, người
lính xao lòng khi tiếng hát trong trẻo vang lên: “Khi Lâm Huôi dạy bọn trẻ hát đồng
ca, Quốc đang đi bỗng dừng lại. Giữa trưa nắng, anh đứng đó, đầu trần, nghe tiếng
đồng ca của các em học trò Khmer. Đối với Quốc, đây là âm thanh đẹp nhất mà
anh được nghe trên xứ sở chùa Tháp. Chắc những âm thanh trong trẻo non tơ ấy
đang dội vào lòng anh bao kỷ niệm ngọt ngào” [96, tr.23]. Không có một tâm hồn
tinh tế, không có cảm xúc mãnh liệt thì sao người lính Việt có thể xúc động trước
một âm thanh bình dị như thế. Tiếng hát ấy đã tắm mát tâm hồn người lính, đã xua
đi những vất vả nhọc nhằn, đã gạt đi cả những bom đạn chết chóc để rồi “Đêm đó,
tôi thấy Quốc thao thức trong căn hầm còn đầy mùi súng đạn, mùi mắm muối, cá
khô và cả mùi gạo mốc lẫn mồ hôi lính tráng, viết những dòng thơ về sự hồi sinh
của đất nước Campuchia từ những tiếng hát cỏ non suối nguồn. Có những thứ
53
chiến tranh không thể vùi lấp được” [96, tr.23].
Ở mỗi khoảnh khắc của cuộc sống, người lính đều có một cách nhìn, một
cách cảm riêng về những thứ tồn tại xung quanh mình. Với người lính chiến đấu ở
chiến trường K, tâm hồn lãng mạn khiến họ nâng niu, trân trọng mọi thứ xung
quanh mình. Đó có thể là một câu chuyện rất bình dị như câu chuyện về Thuận:
“Một đêm trời mưa dầm dề. Tôi và Thuận, hai võng mắc nối tiếp. Tôi giả vờ ngủ.
Dưới chân chúng tôi cơ man là lân tinh, lấp lánh như dải Ngân Hà. Trời mưa.
Nước từ đỉnh rừng cứ lặng lẽ rơi xuống qua những tầng lá cao thấp, tạo thành bản
nhạc rả rích, thầm thì trong không gian sẫm tối. Hình như đêm càng tối, ánh lân
tinh càng sáng. Thuận mới lên, còn mê mẩn ánh lân tinh. Tôi thấy Thuận lọ mọ đi
nhặt từng chiếc lá đầy ánh sáng. Hắn soi lên xem có gì bí ẩn trong đó. Thứ ánh
sáng ma mị, diệu kì. Nếu đây không phải là Anlong Veng, thì có lẽ chúng tôi nghĩ
mình đang ở một xứ sở thần tiên nào đó. Tôi thấy Thuận ép từng chiếc lá vào trong
cuốn sổ”. Sự “mê mẩn”, hành động “nhặt từng chiếc lá” và “ép từng chiếc lá vào
trong cuốn sổ” đủ để người đọc trân trọng những người lính hàng ngày phải đối
diện với bom đạn của kẻ thù. Họ xúc động trước những thanh âm bình dị của cuộc
sống, họ thổn thức với những vần thơ trên cánh võng, nao lòng với hình ảnh thiếu
nữ ngồi dệt vải, bà mẹ ngồi chải tóc bắt chấy cho con bên cầu thang nhà sàn, nghẹn
ngào xúc động khi những thanh âm tiếng Việt thân thuộc vang lên như tiếng gọi của
quê hương giữa bạt ngàn núi rừng, nơi heo hút xứ người…Dường như sự khốc liệt
của chiến trường không hề làm vơi cạn đi tâm hồn bay bổng, mộng mơ của họ.
Ngược lại, sự lãng mạn khiến những người lính quên đi những khắc nghiệt của cuộc
chiến, khiến cho vẻ đẹp của họ càng lấp lánh hơn trên những trang viết hôm nay.
Những người lính trẻ ấy không chỉ lãng mạn, họ còn mang trong mình sự trẻ
trung, hóm hỉnh đậm chất lính. Họ có thể xông pha nơi lửa đạn, họ có thể là những
người rất nghiêm nghị khi thực hiện quân lệnh, nhưng trở về cuộc sống bình dị, họ
vui vẻ, họ tếu táo, họ nhiệt thành. Họ hiện lên trong lời kể của Đoàn Tuấn: “Lại nhớ
những ngày huấn luyện, lính tráng D1, E582 ngồi trong thung lũng Hòa Bình, bập
bùng guitar, đồng ca nhạc chế: „Ta là con của bố ta mẹ ta/ Nhớ nhà là ta tút ta
bùng/ Ta đi đường Nho Quan ta vòng Chi Nê/ Ta về trong phố đang mong chờ
54
ta…‟. Hát tếu táo cho bõ cơn nhớ nhà thôi. Dù biết chiến tranh đã kề vai sát cánh
bên mình. Để ngày mai, tất cả ra biên giới, vào chiến trường” [96, tr.262]. Những
giây phút hát vang nhạc chế đủ để trên môi họ nở nụ cười tươi tắn, quên đi những
cực nhọc của cuộc sống nơi đất khách. Những nụ cười trên môi, niềm vui lấp lánh
trên gương mặt khiến cho cuộc sống của họ chan chứa tin yêu hơn. Cứ nghe họ kể
về câu chuyện của đời mình, câu chuyện của những người đồng chí, đồng đội mình
mới thấy họ lạc quan đến thế. Trong ngôn ngữ giọng điệu của họ, câu chuyện luôn
phơi phới, luôn hóm hỉnh như câu chuyện tình yêu của Thuận qua lời kể tếu táo của
lính tráng: “Tôi bảo Thuận: „Hôm nào mình khắc bài thơ mới tặng Thuận‟. „Thơ
như nào?‟. Nó thế này: Tình yêu không chân dung/ Người yêu không bóng dáng/
Thời gian không giới hạn/ Ngày mai ăn cơm với gì?. Hai thằng lại cười ngất” [96,
tr.273]. Đó là cái cười ngất vô tư, phơi phới của tuổi trẻ. Cái cười ngất che đi những
nỗi niềm sâu thẳm trong trái tim những người lính trẻ. Chỉ cần ngồi bên nhau, họ
luôn biết trao nhau những tiếng cười như thế. Ngay cả trong cách viết thư của lính,
người đọc cũng bắt gặp những hóm hỉnh tươi vui của những chàng lính trẻ phớt đời:
“Một hôm, Hà „Giăng - van - giăng‟ bắt tôi nghe thư. Sở d ĩHà có biệt danh này vì
miệng hắn vẩu, toàn răng là răng. Hắn viết khá nhiều bản nháp. Lúc thì „Đất khách
quê người…ngày...tháng…năm, anh cô đơn nhớ em cô đơn‟; lúc thì „Rừng xanh núi
đỏ ngày…Tiên sư mấy con khỉ quấy phá anh viết thư cho em…‟; lúc lại lãng mạn
„Biên giới Miên - Thái mùa mưa…, anh đang ngồi trong hầm sũng nước, hết quần
áo mặc, nhớ em…‟; lúc lại đơn giản „Campuchia ngày…, anh vừa bị thương vì
nghịch dại đụng mìn, may mà nhẹ‟; lúc lại cụ thể „Anlong Veng xứ sở của ruồi…,
nếu em đến đây cùng anh thì không chết vì đạn mà chắc chết vì ruồi mất‟; v.v…Thư
của hắn hay trách cứ người yêu tại sao không viết trả lời. Cứ được một đoạn mùi
mẫn, lại hạ một câu: „Em có còn yêu anh nữa không thì bảo? Liệu cái thần hồn!
Cho phép em nghĩ lại…‟. Nghe mà buồn cười đến đau cả bụng” [96, tr.305]. Bao
nhiêu những câu chuyện được kể ra, bao nhiêu tiếng cười hiện trên trang viết cũng
là bấy nhiêu cái mệt mỏi bị xua tan. Họ bước vào chiến tranh, họ gánh chịu những
tổn thất nặng nề của chiến tranh và ngày mai không biết số phận họ sẽ ra sao trên
mảnh đất không phải quê hương mình. Thế nhưng, điều đáng quý là họ đã sống hết
55
mình, đã mang cái phần tươi trẻ của cuộc đời mình để xóa đi những nhọc nhằn, vất
vả. Sự trẻ trung, hóm hỉnh khiến những người lính gần nhau hơn, và hình tượng
người lính chân thực hơn, đời hơn trên trang viết của hai nhà văn.
Đặc biệt, khi viết về người lính, Đoàn Tuấn hay Sương Nguyệt Minh không
chỉ đề cập đến phẩm chất anh hùng của họ mà còn dành một vị trí quan trọng để bộc
lộ đời sống tình cảm của những người lính chiến đấu trên quê hương Chùa Tháp.
Trong hoàn cảnh đầy thử thách, gian nan, nguy hiểm của cuộc chiến, tình cảm của
người lính càng được bộc lộ đẹp đẽ vô cùng. Đó là tình đồng chí, đồng đội gắn bó
keo sơn, chia ngọt sẻ bùi, hỗ trợ, nương tựa, hi sinh vì nhau trong hoàn cảnh khó
khăn hoạn nạn. Có thể nói, điều quý giá nhất của cuộc đời quân ngũ đó là tình đồng
đội. Bên đồng đội, họ tồn tại, sát cánh cùng nhau trên chiến trường, nhường cho
nhau từng ngụm nước hiếm hoi, từng miếng ăn ít ỏi, chia sẻ với nhau những ấm
lạnh của cuộc đời riêng, những kỉ niệm khó quên nơi quê nhà, những tình cảm thầm
kín, thành thật, cháy bỏng của một thời trai trẻ. “Chúng tôi cùng ăn chung bữa cơm,
cùng hút chung điếu thuốc, cùng thay nhau thức gác canh khuya, cùng ngủ chung
một căn hầm, cùng chịu chung một trận phục, cùng chịu chung một cơn khát, một
ngày đói, cùng hưởng chung một bữa no, cùng có chung một người bạn sống, một
đồng đội chết…” [96, tr.203]. Họ đã đi cùng nhau trên một con đường, nương tựa
nhau trong những tháng ngày cơ cực nơi đất người, chính bởi thế mà nghĩa tình của
họ càng trở nên sâu sắc.
Họ gắn bó, họ sát cánh với nhau khi còn sống, và xúc động hơn khi những
người đồng đội qua đời, họ vẫn trọn nghĩa vẹn tình, vẫn gọi nhau là “đồng đội”
chân thành và thiêng liêng: “Bây giờ, đồng đội mình chết lại thấy nghĩa trang thật
gần gũi, thân thương. Đi qua mộ Hoàng An hay mộ Trung, tôi rẽ vào. Khi dọn cỏ,
bẻ cây, khi đắp lại chỗ bị sụt. Bạn mình nằm đó, chắc biết mình đến, thế nào cũng
ngồi dậy, nhìn mình. Hoặc đi lại trò chuyện. Dù không nhìn thấy nhau, những vẫn
cảm nhận sâu sắc về sự hiện diện của nhau. Tôi tin rằng, mình đối xử chân thành
với các liệt sỹ, họ cũng sẽ biết. Môi trường quân đội ngày càng thấm sâu vào tôi.
Trước đây, chỉ có những đồng đội đang sống, cùng sát cánh chiến đấu, giờ, giữa
chúng tôi có thêm, có chung những đồng đội đã mất. Họ là những sợi dây vô hình,
56
nối chúng tôi lại bên chặt hơn” [96, tr.252]. Có lẽ chưa bao giờ và chưa ở đâu tình
cảm đồng chí, đồng đội lại đẹp như trong chiến tranh. Những người lính tình
nguyện Việt Nam nằm xuống nơi đất khách quê người, thế nhưng họ không hề cô
đơn. Câu chuyện của Đoàn Tuấn về sự hi sinh của thủ trưởng Võ Sỹ Lực là câu
chuyện như thế. Khi cấp trên của mình nằm xuống, ở giữa rừng núi hoang vu, họ cố
gắng tìm cho thủ trưởng của mình những bông hoa rừng: “Bọn tôi đi khắp rừng, tìm
những chùm hoa dại, đặt lên thi hài ông. Mùa khô, hoa thật hiếm. Nhưng chúng tôi
cũng tìm được khá nhiều hoa. Ít ra, có ít hoa rừng phủ, thủ trưởng nằm cũng đỡ trơ
trọi. Bọn tôi gắng kiếm nén nhang, nhưng không đâu có” [96, tr.294]. Hành động
giản dị ấy xuất phát từ trái tim, trái tim của những người đồng đội, đồng chí. Nhưng
có lẽ, xúc động nhất chính là giây phút kiểm nghiệm di vật tử sĩ. Đó chính là giây
phút người lính nhận ra tình cảm sâu nặng đối với đồng đội - cấp trên của mình.
Hình ảnh “chiếc ba lô của ông đã cũ sờn. Bao nắng mưa, bụi bậm, khói súng đã
thấm vào đây… Bộ quần áo cũ, đồ lót cũng cũ. Bàn chải, thuốc đánh răng, khăn
mặt, đôi tất,… Quyển sổ tay, chiếc bút máy, địa bàn, mấy lá thư gia đình,… Một
khẩu súng K59. Gia tài người lính có gì đáng giá đâu! Tờ biên bản nhẹ tênh như ba
lô tử sỹ. Nhưng sao tình cảm của chúng tôi với ông Lực sâu nặng như vậy?”[96,
tr.294]. Câu hỏi chất chứa bao nỗi niềm, bao nghĩa tình sâu nặng. Tình cảm ấy
không phải ngẫu nhiên mà có, nó đã được hình thành, nó được tôi luyện từ chính
chiến trường khốc liệt. Người chỉ huy ấy không chỉ là cấp trên, mà còn là người
anh, người cha để mỗi người lính khi ở bên cạnh ông đều “cảm thấy được cái không
khí ấm cúng của một gia đình”. Thế nên, họ gắn bó với nhau sâu nặng, họ dành cho
nhau những tình cảm chân thành nhất. Trong ngày đưa tiễn bọ Lực “Cả tiểu đoàn ra
tiễn ông. Chưa bao giờ quân số tiểu đoàn lại tập trung tại bãi tráng đông thế. Ông
ra đi từ tiểu đoàn 8. Khi chết, ông về tiểu đoàn 8 để chết. Chúng tôi đã đi cùng ông
suốt mấy ngàn cây số. Từ những ngày chốt giữ biên giới Tây Nam đến những ngày
vào tận biên giới Campuchia - Thái Lan. Cùng ông đi qua bao nhiêu trận đánh.
Cùng ông đi qua bao nhiêu dòng sông, ngọn núi, qua bao nhiêu phum sóc, cánh
rừng. Cùng ông đi qua bao nhiêu trận khát cực hình, qua bao nhiêu mùa mưa
khủng khiếp…” [96, tr.295]. Những câu văn ấy đã chạm đến trái tim người đọc bởi
57
tình nghĩa sâu nặng của những người lính chiến. Họ đã “cùng nhau” không phải
ngày một ngày hai, những ngày tháng gian nan, những chặng hành quân vất vả đã
khiến cho tình đồng đội, đồng chí trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết.
Trong cuộc chiến sinh tử ấy, ai cũng muốn được trở về, ai cũng muốn được
sống sót để gặp lại người thân, gia đình và quê hương của mình. Thế nhưng, Đoàn
Tuấn lại khiến người đọc bất ngờ bởi những người lính của chiến trường K năm ấy.
Họ không chỉ chia sẻ với nhau những nỗi niềm trong cuộc đời, họ không chỉ chia
nhau những khó khăn, vất vả, gian nan trong cuộc chiến mà họ còn “chia nhau cái
chết” và “nhường nhau sự sống”. Đó là câu chuyện của Tuấn, Vinh “gạo” và
“Thuận” khi “tôi”- Đoàn Tuấn được phân công dẫn đội hình tiểu đoàn từ Anlong
Veng lên Cam - tuất gùi gạo, phải đi qua con đường dài 14 km đầy mìn, một con
đường “đã thấm không biết bao nhiêu máu thịt đồng đội tôi”. Đoàn Tuấn được phân
công là người đi đầu, cũng đồng nghĩa là người phải đối diện với nhiều nguy hiểm
nhất. Trong tình huống đó, người bạn của Đoàn Tuấn là Thuận “bồn chồn, lo lắng.
Nó dặn tôi đủ điều”. Đó là cái lo lắng của một người đồng đội. Nhưng, không chỉ
dừng lại ở sự lo lắng, Vinh “gạo” còn muốn thay bạn mình gánh phần nguy hiểm.
Ngoài cái “lo sốt vó”, Vinh “gạo” liên tục thuyết phục bạn để được đi thay: “Để mai
tao đi thay mày”, đến tận hơn 12 giờ đêm vẫn mò sang chỗ bạn để năn nỉ: “Để mai
tao đi đầu cho”. Vinh “gạo” đưa ra hàng loạt lí do để thuyết phục bạn đồng ý: “Tao
là lính trinh sát, tao biết cách gỡ mìn”, nào là “Mắt tao tinh hơn mắt mày”, rồi “Nói
thật, để mai tao đi thay mày. Tao chết đỡ phí hơn. Tao chưa có ai. Mày còn có
người yêu ở nhà chờ đợi”. Còn về phần mình, nhất quyết Tuấn không để người bạn
mình đi thay, bởi người lính ấy thấu hiểu và mong muốn những điều tốt đẹp đến với
người bạn của mình. Đó không phải là sự coi thường cái chết, rẻ rúng tính mạng của
mình, mà đó là sự sẻ chia, sẵn sàng hi sinh vì nhau, là tình đồng đội thiêng liêng và
cao đẹp. Vậy đó, những người lính có thể quên mình vì tình đồng đội. Những người
đồng chí ấy, họ đều biết rằng mình sẽ phải lăn xả vào chỗ hiểm nguy, thế nhưng ai
cũng muốn được san sẻ, được gánh vác, được nhường những điều tốt đẹp nhất cho
đồng đội của mình, thậm chí họ sẵn sàng nhường cái điều quý giá nhất của mỗi con
người - sự sống. Đó chính là sự thiêng liêng của tình bạn, tình đồng chí. Nó giúp họ
đủ sức mạnh để đi qua bom đạn của kẻ thù, nó là điểm tựa tinh thần vững chắc để
58
họ có thể chiến đấu hết mình trên chiến trường khốc liệt.
Họ không bỏ đồng đội của mình khi còn sống, họ cũng không bỏ rơi đồng
đội mình khi đã hi sinh. Ám ảnh nhất là việc khiêng tử sĩ, song đó cũng là hành
động thật cao đẹp. Họ vượt qua rừng núi, đi qua bom đạn, họ nhặt nhạnh từng mảnh
vụn thân xác của đồng đội, đưa đồng đội trở về đơn vị, trở về bên nhau, dùng những
nghi thức thiêng liêng nhất có thể để tiễn đưa đồng đội mình về thế giới bên kia,
trân trọng từng di vật đồng đội để lại… Bấy nhiêu vậy mà trọn nghĩa vẹn tình, bấy
nhiêu vậy mà linh hồn người ở thế giới bên kia có lẽ cũng được an ủi. Người lính
của chúng ta là thế. Hai tiếng “đồng đội” mà khắc sâu bao tình nghĩa thiêng liêng!
Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh cũng tập trung khai thác tình cảm
thiêng liêng này trong mối quan hệ của anh Du và Tùng. Về thứ bậc, Tùng là cấp
dưới nhưng bao giờ anh Du cũng thương yêu Tùng như đứa em của mình. Và Tùng
luôn được anh dìu dắt, dạy dỗ, bảo ban để trưởng thành hơn. Khi bị lạc rừng, hình
ảnh anh Du luôn chập chờn nhưng luôn ở bên cạnh Tùng trong những lúc yếu lòng
nhất, vẫn “thì thầm” kể chuyện cho Tùng, vẫn bên cạnh Tùng để cùng anh bước
tiếp. Dù anh Du hi sinh, dù những cuộc “gặp gỡ” chỉ là mộng tưởng, nhưng với
Tùng, anh Du luôn là hiện thân của những điều đẹp đẽ, đặc biệt là tình cảm đồng
chí, đồng đội. Chính vì vậy, khi chứng kiến sự cấu xé giữa cấp trên và cấp dưới
trong nội bộ kẻ thù, Tùng đã “phát hiện ra thằng lính thuộc cấp này nếu phải lựa
chọn thì sẽ bỏ chỉ huy, chứ không giống lính cựu bọn anh Du, họ biết chết vẫn mò
vào tận hàng rào cõng các đồng đội về đơn vị”. Đó là hành động chí tình của người
lính Việt, là nghĩa tình sâu nặng của những con người đã chiến đấu sát cánh cùng
nhau. Ở đâu và trong bất kì tình huống nào họ cũng yêu thương, che chở và bảo vệ
nhau. Nhớ có lần Tùng từng hỏi anh Du: “Giả sử như đánh nhau em bị lạc rừng
chẳng hạn, bị bọn tàn quân Pol Pot bắt chẳng hạn, có ai đi tìm em không, có ai đi
cứu em không?”. Câu trả lời dứt khoát, kiên quyết của vị thủ trưởng: “Tao. Đơn vị
sẽ đi tìm chứ, đến tử sĩ còn không nỡ bỏ lại nữa là người mất tích. Và anh mày đây -
Đại đội trường Trần Quang Du đấy sẽ đi cứu chú mày - Anh Du nói chắc nịch,
giọng tha thiết và đầy tin tưởng” [52, tr.552]. Câu trả lời ấy không xuất phát từ
nhiệm vụ của người chỉ huy mà xuất phát từ trái tim người lính. Đó là lí do dù sau
59
này lạc nơi rừng hoang, dù đồng đội chưa đến cứu, nhưng “Tùng biết và hiểu con
người như anh Du sẽ chẳng bao giờ bỏ đồng đội, càng không bao giờ bỏ đàn em
như Tùng” [52, tr.552]”. Quả thực, chiến tranh không chỉ là nơi tôi luyện ý chí cho
con người mà đó còn là nơi tình người tỏa sáng. Trong đó, đồng chí đồng đội là một
bản tình ca đẹp đẽ nhất, thiêng liêng nhất!
Chiến đấu ở “đất bên ngoài Tổ quốc”, những người lính Việt luôn đau đáu
hướng về quê hương, gia đình. Giữa bom đạn kẻ thù, sống và chiến đấu trên đất
người nhưng bao giờ hình ảnh quê hương cũng vô cùng ấm áp đối với họ. Họ trân
trọng từng đặc trưng, từng nét độc đáo trong văn hóa quê hương mình. Họ kể cho
đồng chí, đồng đội mình nghe một cách hào hứng, và tất nhiên trong cách kể ấy là
niềm tự hào, là tình yêu đối với quê hương bản xứ của họ. Tình yêu quê hương, tình
cảm gia đình là vầng sáng lung linh trong tâm hồn người lính. Giữa bom đạn, giữa
chết chóc, gia đình là nguồn động viên tinh thần, là hậu phương vững chắc cho mỗi
người lính. Trên con đường hành quân, họ vẫn không nguôi nhớ về quê hương, gia
đình, về những người vợ, người mẹ,… nơi hậu phương. Có thể đó là những phút
mềm lòng, nhưng đó cũng chính là điểm tựa vững chắc tiếp thêm sức mạnh để họ
vững tâm chiến đấu với kẻ thù. Khai thác chiều sâu tâm hồn của những người lính,
Đoàn Tuấn không ít lần khiến người đọc xúc động khi nghe câu chuyện về những
người đồng đội của ông. Đó là hình ảnh của anh Chương, anh Nghị “lúc ngồi một
mình gập quần áo hay chiều đi trên đồi cao, mặt trầm ngâm cất tiếng hát xót xa:
Nghệ Tĩnh mình ơi năm nay lại mất mùa/ Bạn về quê bạn, đèo mấy cân ngô”, hay
tiếng hát bâng khuâng của ông Vẳng: “Em hỏi anh có con đường nào là đường đẹp
nhất/ Ớ, anh nói rằng chỉ có con đường chính sách nay mai…” [96, tr.256]. Đằng sau
tiếng hát ấy là giấc mơ ấp ủ của người lính già được trở về với quê hương, gia đình.
Nhưng có lẽ, xúc động nhất là khi chứng kiến người lính đọc thư gia đình.
Bức thư đặc biệt nhất chính là bức thư của anh Nghị, bức thư không chỉ viết bằng
chữ:“Này, ông Tuấn biết không? Đây là bàn tay của thằng con mình. Còn đây là
bàn chân nó. Xinh không? Dễ thương không?. „Ủa, làm sao lại vẽ vào được vào
đây?‟. „Vợ mình, khi viết thư, đặt bàn tay thằng con trên giấy rồi đưa nét bút theo
đường những ngón tay. Bàn chân cũng thế. Ông tướng này nghịch lắm! Chắc mẹ nó
60
phải giữ chặt khi cho nó dẫm lên trang giấy. Lại còn tô lại nữa chứ! Đúng là đàn
bà! Thật kì công” [96, tr.302]. Cách mà anh kể, cách mà anh khoe với đồng đội về
bức thư đặc biệt của mình, về ngón tay ngón chân được phác họa trên giấy một cách
đơn sơ khiến người đọc thực sự xúc động. Đằng sau câu chuyện ấy là niềm hạnh
phúc, là nỗi nhớ nhung, là tình cảm sâu nặng với gia đình của người lính. Chân thật,
giản dị mà những câu chuyện như thế đủ sức lay động trái tim người đọc hôm nay.
Trên chiến trường, tất cả những thương nhớ được người lính gói ghém vào
những lá thư tay. Họ viết để thỏa nỗi nhớ mong, để vơi đi nỗi nhớ nhà da diết. Và
trường hợp của Nhân, dù biết rằng người con gái ấy chẳng nhận được thư nhưng
Nhân “vẫn viết cho đẹp tình”. Những lá thư ấy là tiếng lòng, là trái tim vẹn nguyên,
là tiếng thì thầm tình yêu ở người lính và “Tiếng thì thầm cầu chuyện tình yêu xuyên
qua những khu rừng, xuyên qua những dãy núi, xuyên qua trăm ngàn họng súng
quân thù, xuyên qua hàng ngàn cây số cánh đồng, sông suối,… về đậu trên mái tóc
người thương, hóa thành hơi thở, thấm vào từng giấc mơ. “Em ơi! Đợi anh về/ Đợi
anh hoài em nhé/ Lời cầu nguyện thầm thì/ Trên môi người ra trận…” [96, tr.302].
Nhìn cách mà họ trân trọng từng bức thư của gia đình, chúng ta không khỏi bùi ngùi
xúc động: “Tôi nhớ anh Hà Huy Lan. Lá thư nào của vợ, anh cũng chép lại vào
cuốn sổ tay. Mỗi lần chép lại là một lần uống từng chữ vào trái tim mình. Mỗi lần
chép như một lần cùng vợ âu yếm trong mơ. Chép xong rồi lại đọc. Không những
đọc một lần mà còn đọc nhiều lần nữa. Ơi cô gái thành Vinh xinh đẹp! Ở nơi xa xôi,
cô có biết, cô được đại đội trưởng của chúng tôi yêu cô như thế nào không? Cầu
mong cô cũng yêu anh Lan của chúng tôi như thế. Tôi cũng biết anh Trần Thanh
Chương, chính trị viên C7, cũng hay chép lại thư nhà trong sổ tay. Và trong mỗi ba
lô cáu bẩn của người lính đều có một góc sạch sẽ nhất, ấm áp nhất, trân trọng nhất
- đó là nơi để những lá thư. Bọc trong mấy lớp ni lông. Làm gối mềm khi ngủ. Là
ngôi nhà trên lưng lúc hành quân. Là kỉ vật vô giá cho hôm nay và mai sau” [96, tr.
303]. Tại sao họ lại chép lại từng bức thư? Có phải nơi chiến trường họ không có
việc gì để làm? Hay họ sợ những bức thư đó thất lạc? Đều không phải. Cách mà họ
nâng niu từng bức thư, cách họ nắn nót chép lại vào cuốn sổ quý giá của mình, cách
họ dành cho những bức thư ấy vị trí ấm áp nhất, cách họ gìn giữ bức thư ấy đủ cho
61
chúng ta thấy tình yêu của họ, sự trân trọng của họ đối vơi gia đình thân yêu. Với họ
- những người lính chiến đấu ở nơi xa xôi hẻo lánh, nơi không phải quê hương mình
thì những lá thư là tài sản vô cùng quý giá với họ, để họ biết được bên họ vẫn luôn
có gia đình, có người thân chờ đợi họ trở về. Và họ - những người lính chiến đấu vì
nghĩa vụ quốc tế, nhưng trong sâu thẳm những người lính ấy luôn khao khát được
trở về bên gia đình, vợ con, bên những người mà họ thương yêu. Ở họ là trái tim ấm
nồng, là tình yêu sâu nặng. Đó chính là vẻ đẹp nhân văn ở hình tượng người lính
Việt Nam. Những tình cảm nhớ thương, những mong ngóng đợi chờ, những nỗi
niềm trăn trở hiện lên trên trang viết khiến người lính hôm nay gần hơn với cuộc
đời, và vẻ đẹp của mỗi người lính hiện lên chân thực hơn.
Có thể thấy, đời sống tình cảm của người lính tình nguyện Việt Nam vô cùng
phong phú bởi lẽ họ không chỉ gắn bó với đồng chí, đồng đội của mình, họ không
chỉ nặng lòng với quê hương, gia đình của mình mà hơn nữa, với những người bên
kia chiến tuyến họ cũng không ngại ngần cưu mang, cứu giúp. Đó là câu chuyện của
Tùng trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh: trong những ngày bị lạc rừng,
gánh chịu đủ mùi khổ ải, đau đớn nhưng Tùng vẫn động lòng trắc ẩn với cô gái phía
bên kia chiến tuyến. Bị kẻ thù hành hạ, nhưng trong Tùng không hẳn chỉ có sự căm
hờn và phẫn nộ, bởi vẫn có một số phận nữa chịu đau đớn như anh. Tùng thương Sa
Ly bằng tình thương của đồng loại, bằng trái tim của một người lính giàu lòng trắc
ẩn. Còn với những người lính trong Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, không phải
lúc nào họ cũng có cái nhìn tiêu cực với kẻ thù. Thậm chí, trong trường hợp đặc biệt
họ đã tâm niệm: “Tôi thấy tụi nó cũng như em gái mình ở nhà” [96, tr.39]. Điều đó
thật đáng quý! Người lính của chúng ta dù ở trường hợp nào vẫn luôn khoan dung,
nhân đạo. Chiến tranh không làm họ chai sạn, vô cảm, ngược lại trong chiến tranh,
người lính của chúng ta luôn lấp lánh vẻ đẹp của tình người, tình đời.
Không chỉ tiếp cận người lính ở góc độ tình cảm, Sương Nguyệt Minh và
Đoàn Tuấn còn làm nổi bật vẻ đẹp tri thức của người lính tình nguyện Việt Nam.
Phần lớn người lính trong Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy là học sinh, sinh viên
vừa rời ghế nhà trường, được học hành, có tri thức, có năng lực và am hiểu văn hóa.
Nhiều lần, Đoàn Tuấn dành cảm hứng ngợi ca cho những người lính của mình. Họ
62
không chỉ chiến đấu ngoan cường, họ không chỉ trẻ trung, lãng mạn hay giàu tình
cảm mà hơn nữa: “Mỗi người lính quả là một thế giới diệu kỳ, một kho tàng tri thức
dân gian. Nếu coi đó là một quyển sách hay, biết cách đọc, cách kể, chúng ta sẽ có
biết bao nhiêu câu chuyện tuyệt vời ” [96, tr.284]. Quả thực, nguồn kiến thức từ họ
là vô tận. Từ những mẹo dân gian như nhét hạt đỗ vào tai lợn, dùng phân khô để
chữa bệnh cho đến những vần thơ trên cánh võng, những hiểu biết về bom mìn, về
văn hóa …đều khẳng định vẻ đẹp ở những người lính Việt. Chính vì thế, mà khi
được sống và chiến đấu cùng đồng đội, Đoàn Tuấn đã có những chiêm nghiệm sâu
sắc: “Giữa rừng núi xa lạ, đất khách quê người, họ vẫn tìm được những gì thân
thuộc, cho mình và cho đồng đội. Càng thấm thía, càng hiểu giá trị của quân đội,
của mỗi người lính. Hãy nhìn thật sâu vào mỗi con người, hãy nhìn thật gần vào
mỗi cuộc đời, bằng trái tim trung thực, ta sẽ thấy, mỗi con người bình dị đó, đều
chứa đựng rất nhiều điều kì diệu và bí ẩn để mình học hỏi” [96, tr.246].
Còn Tùng - nhân vật trung tâm trong tác phẩm Miền hoang xuất thân là một
chàng trai trí thức của Hà thành. Từ trường học bước vào quân ngũ, Tùng đã mang
những tri thức mình học được vào cuộc chiến tranh khốc liệt với kẻ thù, và trong
những ngày tháng mông muội nơi rừng hoang, chính vốn tri thức ấy đã giúp Tùng
vượt qua những trớ trêu đổ xuống đầu anh. Tùng biết nhiều thứ tiếng, dịch tiếng
Anh cho tên Lục Thum biết tờ báo viết gì, rồi tiếng Khơme của anh cũng tàm tạm,
vừa đủ về giao tiếp với bọn Pol Pot…. Các lĩnh vực khác như âm nhạc, văn học,
ngoại ngữ Tùng đều am hiểu và có thể sử dụng tốt trong trường hợp cụ thể. Mặt
khác, Tùng còn được trang bị kiến thức y học với những kĩ thuật cấp cứu cơ bản
như trong trường hợp cứu Sa Ly: “Đặt cô gái câm nằm ngửa ngay ngắn, Tùng vội
vã dùng hai ngón tay cái day day, bấm mạnh vào huyệt nhân trung và huyệt ấn
đường. Khoảng một phút sau, lật sấp cô gái câm, anh dùng ngón cái, ngón trỏ,
ngón giữa bấm mạnh vào huyệt phong trì ở giữa chỗ lõm thẳng phía dưới ụ chẩm
và xương chũm…rồi bấm tiếp huyệt thiên tông. Anh bấm đến huyệt kiên tỉnh, chưa
kịp bấm huyệt hợp cốc, thái xung, dũng tuyền, lao cung thì cô gái câm đã tỉnh” [52,
tr.310]. Chiến đấu trên chiến trường Campuchia, Tùng am hiểu sâu sắc về nền văn
minh đền tháp Angkor. Không ít lần Tùng tỏ ra ngưỡng mộ, say mê với nền văn
63
minh Chùa Tháp đẹp đẽ và diệu kì. Nếu không có sự thông hiểu về nền văn hóa
nước bạn, không có tri thức thì có lẽ Tùng đã không say sưa như thế. Vẻ đẹp tri
thức toát ra từ hình tượng nhân vật tạo nên sự đặc biệt trong hình tượng người lính
Việt Nam.
Với Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn, viết về người lính cũng là một cách
để “trả nợ” và tri ân sự hi sinh cao cả của đồng đội. Viết để cho thế hệ sau có thể
hiểu và nhớ mãi về một thế hệ cha anh đã dũng cảm quên mình, viết để hình ảnh
những người lính sẽ không bao giờ mai một, phai nhòa theo thời gian. Chính vì thế,
trong Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy, người lính đã được soi chiếu ở nhiều góc
độ khác nhau, nhưng họ luôn bộc lộ được vẻ đẹp phẩm cách và tâm hồn của mình.
2.2.1.2. Những góc khuất tâm hồn người lính
Về văn học chiến tranh, nhà phê bình Phạm Xuân Thạch đã nhận định: “Văn
học chiến tranh bước sang một chặng đường mới. Chúng ta đã tái hiện những con
người, khoảnh khắc của cuộc chiến đó rất con người. Có cái xấu, có cái tốt, có con
người vĩ đại nhưng cũng có con người tầm thường, hèn nhát, đúng như chúng ta
đang sống” [41]. Văn học mang tính nhân bản hơn khi quan tâm đến những phận
người trong cuộc chiến khốc liệt. Nhà văn đã đi sâu vào tâm tư, tình cảm, niềm vui,
nỗi đau của nhân vật để tái hiện lại những năm tháng chiến tranh dữ dội trên chiến
trường K. Có thể nói, tác phẩm không dựng lại chiến tranh bằng máu, bằng chết
chóc mà bằng nước mắt, bằng đau thương, bằng sự thật về con người. Và Sương
Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn đã mang tất cả những nỗi niềm ấy vào trang viết của
mình. Người lính hiện lên không chỉ có sự dũng cảm, không chỉ có lí tưởng cao đẹp,
không chỉ có nghị lực sống phi thường, họ còn có những giây phút yếu lòng, những
khoảnh khắc bản năng nguyên sơ trỗi dậy, thậm chí cả những thói xấu như ích kỉ,
nóng nảy, thù hận… Nói như Đoàn Tuấn “Ở đây có những người đẹp nhất, dũng
cảm nhất, cao cả nhất, song cũng có những người rất tệ. Tất cả tồn tại bên nhau,
cùng nương tựa vào nhau” [96, tr.45].
Bước chân vào cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, cầm súng chiến đấu để
bảo vệ biên giới Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng, khi xông pha
chiến trận họ là những người anh hùng, nhưng đằng sau họ vẫn là những nỗi niềm
64
sâu lắng, là gia đình, là quê hương, là những dở dang... Đó là hình ảnh của những
con người “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm, nắng lá rơi đầy”, vẫn
còn những day dứt, vẫn còn những trăn trở… trong sâu thẳm tâm hồn của họ. Đó
không phải là sự thoái lui, đó không phải là cái “mộng rớt” tiểu tư sản. Họ cũng là
những con người bình thường, họ cũng có gia đình vợ con nhưng họ phải “nén
lòng” để lại phía sau để lên đường chiến đấu. Đó là câu chuyện của anh Tại qua lời
kể của Hoàng: “Con ông Tại đi học về. Qua cầu, trượt chân. Bị lũ cuốn. Mất xác.
Ông ấy đóng quan tài ở đây chôn anh em, đồng đội. Nhưng ở quê, con ông ấy vẫn
chìm đâu đó trong bùn. Không có quan tài mà chôn” [96, tr.246]. Câu chuyện về
người lính ấy khiến người đọc không khỏi xót xa.
Đó cũng có thể là câu chuyện của anh Lê Quỳnh Lang - trung đội trưởng
thông tin. Anh được đơn vị cho về phép, nhưng sau đó không sang lại nữa vì
“Nghèo khổ. Khó khăn. Đói kém. Ai có thể vác ba lô trở lại chiến trường khi bố
nằm chờ chết? Khi mẹ già hàng ngày vào núi, đội từng bó củi trên đầu, còng lưng
cõng về? Khi những đứa em nheo nhóc, bỏ học, làm thuê, quắt queo bệnh tật? Và
mình đi thì không biết sống chết thế nào?” [96, tr.259]. Làm sao người lính có thể
yên tâm khi ra chiến trận. Họ cũng có cuộc đời riêng, họ còn có gia đình ở phía sau.
Đọc thư của anh Lang, mỗi người đọc không khỏi xót xa: “Mình đã cống hiến cho
quân đội 5 năm. Như thế tạm đủ. Giờ mình phải có nghĩa vụ của người con đối với
mẹ cha. Mình phải hi sinh danh dự để cứu gia đình. Mình biết, đơn vị sẽ kỷ luật
mình. Đồng đội sẽ nghĩ rất xấu về mình. Nhưng mình không còn con đường nào
khác. Tái bút: Nếu có thể, Tuấn xin giùm mình tấm thẻ Đảng viên dự bị. Để minh
chứng cho một thời tuổi trẻ…” [96, tr.259]. Những người lính ra trận nhưng trong
họ luôn là khao khát được quay trở về. Lúc họ cầm súng ra trận là vì nghĩa vụ quốc
tế, cũng là vì trách nhiệm đối với Tổ quốc, nhưng họ luôn đau đáu hướng về gia
đình, về quê hương. Như trường hợp của T, quê Hà Bắc, nhập ngũ trước 75, đã nổi
loạn. Nhưng đằng sau câu chuyện nổi loạn của T, nguyên nhân cũng khiến người ta
đau lòng: “T thường trăn trở về gia đình. Hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Mẹ mất, em
gái đau ốm, bệnh tật, không có tiền cứu chữa. Xin về phép, không được giải quyết,
T nảy sinh tiêu cực” [96, tr.254]. Chiến đấu ở “đất bên ngoài Tổ quốc”, họ không
65
tránh khỏi những cô đơn, những nhớ nhung, những khao khát được trở về đoàn tụ,
thậm chí có thể trở thành những sai lầm. Tuy nhiên, xét cho cùng, đó cũng chính là
nỗi lòng, là những đau đáu nhớ thương của những người con chiến đấu xa nhà,
chiến đấu mà không có nhân dân mình ở phía sau, ở bên cạnh. Đúng là, sau mỗi
gương mặt là một cuộc đời. Người lính trong tác phẩm của Đoàn Tuấn, không chỉ
mang dáng vóc của những người anh hùng: “Chúng tôi nhập vào những đoàn quân
thẳng tắp. Súng trên vai. Ba lô sau lưng. Lá ngụy trang rung rinh. Mũ cối sao vàng
trên đầu. Vừa bước nhịp nhàng vừa cất cao giọng hát:
Vừng đông đã hừng sáng
Núi non xanh ngàn trùng xa
Tổ quốc bao la hiền hòa
Tươi thắm bóng cờ
Vờn bay trên cao
Muôn trái tim bày hòa nhịp cùng lời ca trong sóng lúa
Lấp lánh sao bay trên quân kỳ… [96, tr.255]
mà phía sau họ còn là những trăn trở, những nỗi niềm, là quê hương, là gia đình, là
giấc mơ còn gác lại. Nói như Đoàn Tuấn: “Nhưng ai biết, sau mỗi gương mặt ấy,
sau mỗi giọng ca ấy là bao nhiêu cuộc đời. Dũng, Khánh, Hợp...bỏ dở dang trường
Đại học Kinh tế. “Chim cu” đang học dở lớp 9. Tốt nghiệp phổ thông chắc chỉ còn
là giấc mơ. Lê Minh Quốc đang học dở lớp 11 ( hệ 12 năm của chế độ cũ). Liệu
ngày về còn khả năng học tiếp được không? Nguyễn Trần Hỉa, Dương Công Hạm,
Đoàn Văn Điệp, nếu không phải đi lính, giờ này chắc đang ngồi trên giảng đường
đại học. Rồi khi vào bộ đội, bị xếp vào thành phần “Thanh niên đường phố”,..
Chúng tôi, những thanh niên 18 tuổi ấy, đang là cả niềm hi vọng lớn lao của gia
đình” [96, tr.255].
Trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, nhân vật Tùng cũng đau đáu
hướng về gia đình, về Hà Nội, về Thùy… Tùng thèm được trở về quê hương, được
về với Hà Nội, được ăn bữa cơm gia đình, được ấp ôm trong lòng mẹ, được chạy
nhảy nô đùa cùng đám bạn. Bao nhiêu kí ức ùa về trong tâm trí người lính trẻ. Bao
nhiêu kỉ niệm ngọt ngào hiện về trong những ngày tháng khổ cực, bất hạnh của
66
Tùng. Thậm chí, trong lúc kiệt quệ nhất, khi được chăm sóc bởi một người phụ nữ
khác thì Tùng vẫn thèm cảm giác trong lòng mẹ: “Mẹ nhân từ và tảo tần vòng tay
trái ôm choàng lấy vai lưng tôi. Vòng tay phải mềm mại luồn qua cổ kéo đầu tôi ép
chặt khuôn ngực đang căng đầy. Bỗng chốc, tôi thấy mình bé nhỏ và đang chui vào
nằm gọn thòn lỏn trong lòng mẹ. Cảm giác được bế ẵm, chở che, bao bọc ngập tràn
trong hạnh phúc tình mẫu tử” [52, tr.249]. Hình ảnh người mẹ trở đi trở lại như một
cách Tùng tìm sự cứu rỗi cho tâm hồn. Tuy nhiên, đối diện với hoàn cảnh một
mình, cơ cực và tuyệt vọng, Tùng đều có thể vượt qua bởi anh biết đằng sau anh có
gia đình, có quê hương, có những người đang ngóng đợi. Đường về còn gian nan,
đường về mù mịt nhưng Tùng vẫn cứ bám víu vào mọi cơ hội sống để được trở về.
Chiến đấu nơi đất bạn, nên họ phải bỏ lại người mẹ già, người vợ ngóng
trông chồng và những đứa con bơ vơ. Đằng sau họ là bao nỗi niềm, suy tư và trăn
trở. Nhà văn đã không hề giấu đi những cảm xúc ấy. Mỗi cuộc đời, mỗi số phận của
họ trong trang viết của nhà văn khiến người đọc thấm thía hơn về hiện thực chiến
tranh, trân trọng hơn, cảm phục hơn những người lính trên mặt trận Tây Nam thuở
ấy. Có thể nói, người lính hiện lên qua những trang viết của Sương Nguyệt Minh và
Đoàn Tuấn không chỉ là những người cầm súng lạnh lùng, chỉ biết đến lí tưởng,
nhiệm vụ mà họ còn có những nỗi niềm riêng, những góc khuất tâm hồn, những nhớ
thương, buồn giận…Những nỗi niềm ấy dễ bị coi là ủy mị, yếu đuối nhưng đó mới
chính thực là những con người bằng xương bằng thịt với cảm giác đời thường
không hề bị che giấu.
Mặt khác, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn còn chạm vào góc khuất nhân
tính, nơi tiếng gọi bản năng nguyên sơ luôn giày vò con người. Đó là tiếng gọi của
bản năng, dục vọng trong mỗi người lính. Thực chất, lính tráng là những cậu học trò
vừa rời ghế nhà trường khoác ba lô vào chiến trận. Ở cái tuổi hừng hực sức sống,
khao khát trải nghiệm thì cuộc sống nơi chiến trường quả thực là một thách thức
nghiệt ngã. Họ không đủ sức mạnh để vượt qua tiếng gọi của bản năng, họ bị dục
vọng trong chính mình giày vò. Trong Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, người
lính không thể giữ mình trong hoàn cảnh thiếu thốn tình cảm, bởi vậy họ đắm mình
trong những cơn say và nhục cảm khi ngửi thấy “mùi đàn bà”. Đó là lí do khiến họ
67
phải “bốc thăm” để được ở nơi những em văn công từng ngủ lại, chí chóe tranh
nhau chiếm hữu tấm ảnh cô tóc vàng làm của riêng. Những chi tiết ấy được Đoàn
Tuấn trân trọng kể lại, bởi xét cho cùng nó cũng chính là tiếng gọi bản năng nguyên
sơ nhất của con người. Họ cũng có những giây phút rất người, những cảm xúc rất
thực, những khát khao rất chân thành. Và Tùng trong Miền hoang cũng vậy, cũng
không tránh khỏi những phút yếu lòng, những khát vọng bản năng của một chàng
trai trẻ. Tùng cũng khao khát yêu thương như bất kì chàng trai trẻ nào, sự tiếp xúc
xác thịt cũng khiến anh thổn thức… Tuy nhiên, chính tiếng gọi bản năng ấy khiến
họ đời hơn, người lính được khám phá chân thực hơn, nhưng bi kịch của họ cũng
trở nên trớ trêu hơn.
Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn cũng đã nhìn thẳng vào chiều sâu nhân
tính của họ để cho người đọc thấy trong cuộc chiến khốc liệt ấy, không phải lúc nào
họ cũng là những người can trường, dũng cảm. Nơi đất khách, đối chọi không chỉ
với bom đạn, bao nhiêu những nguy hiểm rình rập và người lính đã không tránh
khỏi những lúc yếu lòng. Nỗi nhớ nhà, sự sợ hãi, thậm chí cả những hoài nghi bủa
vây lấy họ. Đó là câu chuyện của Tùng - một người lính trẻ rơi vào hoàn cảnh trớ
trêu: lạc rừng, trở thành tù binh của kẻ thù. Trong hoàn cảnh ấy, Tùng không tránh
khỏi những sợ hãi, lo lắng, những bất lực và tuyệt vọng. Những ngày đầu khi bị lạc
đường, Tùng sống giữa bọn người độc ác, lạc lõng giữa rừng Miên hoang dại, hiểm
nguy, luôn phải đối diện với nỗi sợ hãi. Nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu ập đến. Những
kỉ niệm ngọt ngào hiện hữu trong hoàn cảnh trớ trêu nhất. Rồi khi bỏ trốn khỏi kẻ
thù, một mình trơ trọi giữa rừng hoang, bị cái đói quật ngã, Tùng đã sợ: “Sợ hãi
quá! Cực thân quá. Bỗng dưng anh ôm mặt khóc tu tu. Khóc mà nước mắt không
chảy ra, anh biết tính mạng mình đã đến lúc nguy kịch. Chính lúc khóc thảm thiết
không ra nước mắt vì cơ thể mất nước ấy cũng chính là lúc lòng anh hoang vắng
nhất” [52, tr.242]. Đó là những giây phút Tùng không kìm nén được cảm xúc của
mình, là giây phút yếu đuối nhất của người lính trong hoàn cảnh khắc nghiệt.
Nhưng cũng chính ở những giây phút ấy, người đọc thấu hiểu hơn, cảm thông hơn
và trân trọng hơn những người lính tình nguyện Việt Nam.
Chiến tranh cũng là nơi người lính phải đối diện với thách thức về phẩm
68
chất, đạo đức, nhân tính. Đôi khi, họ không chiến thắng được những dục vọng bên
trong mình, không chiến thắng được những ích kỉ, thù hận, … và bởi thế, họ hiện
lên với cả những thói hư, tật xấu trong chiến đấu cũng như trong cuộc sống đời
thường. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn đã khắc họa sinh động cuộc sống
đời tư của người lính. Ông đã không hề giấu giếm cả những hiện tượng tiêu cực như
ăn trộm vặt, đào ngũ, tự thương, dục vọng… của người lính trên mặt trận, cả những
thói ích kỉ, nóng nảy, hèn nhát… cũng được thể hiện trên trang văn một cách chân
thực. Họ có thể xông pha nơi lửa đạn nhưng lại không tránh những lúc ăn trộm vặt
trong quân ngũ. Họ có thể nhường sự sống cho đồng đội, nhưng cũng có lúc ích kỉ
và nóng nảy với chính những người đồng đội của mình. Họ có thể bảo vệ che chở
cho anh em nhưng có khi lại không tiếc lời mắng chửi đồng hương, buông những
lời cay nghiệt trên nỗi đau của người khác. Những chuyện lính đào ngũ, lính tự
thương cũng được nhắc đến khiến hình tượng người lính hiện lên chân thực hơn,
toàn diện hơn. Có thể thấy, chiến tranh quả là nơi hung bạo khi tàn nhẫn triệt tiêu
mọi nguồn sống của con người, bao gồm cả cảm xúc, khát vọng. Chiến tranh không
chỉ là bom đạn, chết chóc, nghiệt ngã, tan nát mà đáng buồn hơn chiến tranh còn
hủy diệt nhân tính của con người.
Còn trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, Tùng liên tục phải đối thoại
với mình, liên tục phải đấu tranh với chính mình. Và trong những trạng huống ấy,
những khuất lấp của tâm hồn được phơi bày một cách trần trụi nhất trước hiện thực
chiến tranh. Không ít lần, Tùng tự vấn bản thân: “Vì sao mình phải có mặt ở cái đất
nước xa xôi man rợ, tối tăm này”; “Vì sao bọn Pol Pot lại diệt chủng đồng bào họ
một cách tàn độc như vậy”; “Vì sao những người lính như anh và Du lại „mắc kẹt‟ ở
cuộc chiến tranh này”… và Tùng coi mình chính là nạn nhân của chiến tranh. Trong
cuộc chiến sinh tồn, người lính Việt đồng thời cũng bộc lộ những trạng huống tâm
lí, những đau đớn, lầm lạc…Tùng cũng có những sợ hãi, những ích kỉ, những nóng
nảy khi sa chân vào cuộc chiến, cô độc trong cảnh lạc rừng. Chính trong hoàn cảnh
ấy, người lính trẻ không chỉ đối diện với hiểm nguy từ phía kẻ thù, mà còn đối diện
với thách thức về phẩm chất, nhân tính.
Hình tượng người lính được Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh soi rọi dưới
69
góc nhìn đa chiều: ánh sáng và khuất lấp, anh hùng và hèn nhát, ý thức và vô thức,
hiện thực và tâm linh, khát vọng và dục vọng, yêu thương và thù hận, cống hiến và
tự mãn, cao thượng và ích kỉ. Suy cho cùng, họ cũng chỉ là những con người rất đỗi
bình thường, và cần hơn bao giờ hết sự sẻ chia. Tuy nhiên những sự thật ở “bề sau,
bề sâu, bề xa” của cuộc chiến được Đoàn Tuấn, Sương Nguyệt Minh thể hiện trực
diện không làm mất đi hình ảnh cao đẹp của người chiến sĩ và ý nghĩa lớn lao của
cuộc chiến mà còn mang lại giá trị hiện thực và tinh thần nhân văn cho tác phẩm.
2.2.2. Hình tượng người lính trở về sau chiến tranh
Có thể nói, khi bước vào cuộc chiến chống lại họa diệt chủng Pol Pot trên
chiến trường Campuchia, người lính tình nguyện Việt Nam đã phải gánh chịu
những tổn thất nặng nề, đau đớn và ám ảnh. Hiện thực chiến trường khốc liệt đã đẩy
họ vào những hoàn cảnh bi kịch như Đoàn Tuấn khái quát: “Đời lính thế đấy. Nay
sống mai chết. Chẳng biết thế nào. Như chiếc lá bên lề đường. Chiến tranh qua đi.
Tiện tay bứt một cái. Vứt đi. Thế là xong. Đời lính đấy. Chưa đi hết một cuộc chiến
đã đi qua một kiếp người” [96, tr.240]. Những người chết nằm xuống ở nơi chiến
trường hoang lạnh, còn người sống phải gánh chịu những tổn thương về thể chất và
những dư chấn khủng khiếp về tinh thần. Ngoài những trang viết nói về sự khốc liệt
của chiến tranh, những biến cố trong cuộc đời nhân vật, tác giả còn xoáy sâu vào
nỗi đau, sự mất mát của con người để người đọc hiểu được cái giá mà chúng ta phải
trả cho chiến thắng, tác giả cho chúng ta thấy được mặt trái của chiến tranh, những
góc khuất nhân tính của người chiến sĩ… Các nhà văn đã không hề né tránh sự thực
đau lòng ấy, họ đã viết bằng những gì mắt thấy tai nghe, viết bằng những trải
nghiệm sâu sắc của người trong cuộc. Hiện thực chiến tranh vì thế có sức khái quát
cao hơn và người đọc có cơ hội nhìn vào bề sâu của cuộc chiến.
Bước chân ra khỏi cuộc chiến, người lính phải gánh chịu những tổn thương
về thể chất. Họ có thể mất đi một cánh tay, một đôi chân,… Họ chiến đấu hết mình,
nhưng chiến tranh đã lấy đi của họ một phần cơ thể. Như trường hợp của anh Thà
trong Miền hoang, bom đạn đã làm mất đi một chân của anh và để lại trong đầu anh
một mảnh vỏ gang mìn để mỗi khi trái gió trở trời anh lại phải gồng mình trong
những cơn đau. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn cũng không né tránh hiện
70
thực này. Những người đồng đội của ông, người mất một chân, người mất hai chân
như trường hợp của Lâm, Châu, Công… họ trở về với thân hình không còn lành lặn.
Quả thực, chiến tranh đã lấy đi của họ quá nhiều. Và những tổn thương về thể chất
ấy sẽ còn đeo bám họ mãi mãi.
Thế nhưng, khủng khiếp nhất chính là những dư chấn tinh thần mà người
lính phải gánh chịu khi chiến đấu trên chiến trường K. Trong đó phải kể đến trường
hợp của anh Mạnh trong Mùa chinh chiến ấy. Cái chết của tên địch ảnh hưởng sâu
sắc đến thần kinh của Mạnh và sau vụ ấy “Anh hút thuốc rất nhiều. Nửa đêm,
choàng dậy, đi lung tung trong đơn vị. Vừa đi vừa hô khẩu hiểu. Và Mạnh tự huyễn
rằng mình đã tốt nghiệp trường sĩ quan quân sự Liên Xô! Có những đêm, Mạnh
không ngủ. Anh cứ ngồi bó gối như ông già suốt đêm. Có những lúc lên cơn hưng
phấn, Mạnh múa may quay cuồng như người điên” [96, tr.191]. Từ một người lính
yêu đời, từ một người thanh niên tràn trề nhựa sống, anh rơi vào trạng thái trầm
cảm, thậm chí không kiểm soát được hành động của mình. Cái chết của tên tù binh
luôn ám ảnh anh, dằn vặt anh: “Có lẽ anh đã tra tấn hắn quá tay, lại tận mắt chứng
kiến cái chết của hắn”. Bấy nhiêu như thế đủ ám ảnh cuộc đời của một con người,
tạo thành vết hằn sâu trong tâm trí người lính như Mạnh. Mặc dù Mạnh được đi
điều trị nhưng trong đôi mắt anh vẫn thăm thẳm buồn: “Mạnh ứa nước mắt, lặng lẽ
cúi đầu đi trước hai lính thông tin đi kèm”. Mặc dù có thể sống và trở về, nhưng
“hội chứng chiến tranh”, những vết thương sâu trong lòng ấy vẫn còn ám ảnh và
chẳng bao giờ để anh được yên. Đó là nỗi đau, đó là bi kịch. Mặc dù “Ai cũng thông
cảm với Mạnh”, nhưng những gì chiến tranh để lại có thể sẽ đeo bám mãi, nó sẽ còn
hành hạ anh, cái phần đời phơi phới và tâm hồn nồng nhiệt của một người lính đã bị
khắc “một vết thương sâu” không bao giờ lành nữa. Đi sâu vào tâm tư, tình cảm,
vào nỗi đau của nhân vật, tác giả đã tái hiện lại những năm tháng chiến tranh khốc
liệt vừa qua. Có thể nói, Đoàn Tuấn đã dựng lại chiến tranh bằng nước mắt, bằng
đau thương, bằng những tổn thương tinh thần sâu sắc. Ở đó, cái chết không phải là
tận cùng của bi kịch và những dư chấn tinh thần không chỉ đeo bám người lính ở
trên chiến trường. Có những người lính khi trở về, họ cũng chịu đựng những ám
ảnh, giày vò,… Đó là những vết thương không liền da, những vết sẹo chưa kịp lên
71
da non, là những nỗi đau âm ỉ và dai dẳng, là những di chứng còn để lại sau mỗi
cuộc chiến, theo họ trong suốt quãng đời còn lại. Trong Miền hoang, Sương Nguyệt
Minh đã kể lại trường hợp của anh Thà. Bước chân ra khỏi cuộc chiến, trở về với
cuộc sống đời thường, Thà có những triệu chứng về tâm thần bởi mảnh vỏ gang mìn
vẫn nằm trong đầu anh, hành hạ anh, khiến anh không thể sống như những người
bình thường khác. Thực sự, những dấu ấn, sự tàn phá của chiến trường K vẫn cứ
đeo bám người lính ngay cả khi họ được trở về với quê hương, gia đình của mình.
Bản thân Tùng, chàng trai Hà Thành trẻ trung ấy sau khi thoát khỏi sự tra tấn của
bọn tàn quân Pol Pot, sau khi thoát khỏi những ngày tháng khủng khiếp của đói rét
trong rừng sâu cũng đã phát điên. Tùng đã đi qua cuộc chiến, đã vật lộn, khổ nhục
trong bể ngục hầm sâu của cửa tử, bao thây người bỏ lại, bao đau đớn nặng mang để
đến trang cuối cùng của tiểu thuyết, nhân vật chính rốt cuộc cũng mò ra được cái
“bến” mà không bị đầm lầy nuốt chửng, thoát ra được ma trận rừng xanh, thoát khỏi
đám người tàn phế cả thể xác lẫn tâm hồn để tìm được “một đường nhựa đi Siêm
Riệp, Biển Hồ” [52, tr.630]. Tưởng đến với cõi sống sau những tháng ngày vật lộn,
nhưng Tùng lại sa vào một cơn mê mới - anh lạc ngay trong chính thời bình, khi
chiến tranh đi qua. Rồi đây, cuộc sống của Tùng sẽ thế nào khi trở về với cuộc sống
thời bình, nhưng trong đầu óc Tùng bây giờ là “Một người rừng nữa! Một dã nhân
nữa! Một người rừng nữa!... Những hình ảnh quái đản nhảy múa như lên đồng
trong mắt anh” [52, tr.631]. Những bóng ma đi theo Tùng ở mọi nơi cho dù anh đã
được an toàn và cứu sống. Đó là những ám ảnh, đó là những chấn thương tâm lí mà
mỗi người lính phải “gánh theo” khi họ trở về.
Trong Mùa chinh chiến ấy, “Ngày về” của những người lính khiến người đọc
không khỏi xót xa. Họ lạc lõng trên chính quê hương của mình. Hình ảnh hai anh
lính mới xa Hà Nội chỉ mới vài năm, ấy vậy mà đã quên khuấy đi việc không được
đứng giữa đường tán chuyện, không như lúc ở quân ngũ. Tuy đó chỉ là biểu hiện rất
nhỏ của sự lãng quên, song dường như chi tiết ấy đã khiến người đọc phải suy
ngẫm. Có lẽ, họ đã không còn bắt kịp với cuộc sống hiện đại. Rời chiến trường, họ
phải bắt đầu với những thứ đang đổi thay. Và không ít người lính đã rơi vào bi kịch
lạc lõng. Với thiếu úy Đoàn Tuấn, dư âm ngày về sau chiến tranh là sự lạc lõng,
72
chênh vênh vì cố hòa nhập với cuộc sống cộng đồng. 5 năm đi bộ trong rừng biên
giới, về nhà, ông và nhiều đồng đội quên cách đi xe đạp. Sống trong rừng, ngủ bằng
võng, lều đã quen, ông lạ lẫm với giường và ngôi nhà chật chội. Đi trên đường, ông
luống cuống vì nỗi ám ảnh giẫm bom mìn cứ thường trực. Trong giấc ngủ, tâm trí
người lính vẫn văng vẳng tiếng súng bắn, bom rơi. Trở về với cuộc sống đời
thường, những người lính năm xưa phải gánh chịu những chấn thương tinh thần
khủng khiếp.
Quả thực, chiến tranh đã lấy đi quá nhiều ở những người lính. Sự khốc liệt
của chiến tranh không chỉ dừng lại trong cuộc chiến, ngay cả khi con người ra khỏi
chiến tranh thì họ vẫn phải gánh chịu những nỗi đau dai dẳng về thể chất và tinh
thần. Những người lính của Đoàn Tuấn từng lăn lộn trong chiến tranh, đã từng có
một thời oanh liệt, nhưng giờ đây khi trở về với cuộc sống thời bình, họ trở nên lạc
lõng. Họ là những con người “không đi ra nổi khỏi cuộc chiến khi chiến tranh đã
kết thúc”, họ là những người bị “cầm tù” vĩnh viễn trong chiến tranh. Cuộc chiến đã
kết thúc nhưng họ bị ám ảnh, những vết thương trong tâm hồn họ không lành sẹo
mà mãi rỉ máu. Điều đó cũng chính là tiếng nói tố cáo tội ác của chiến tranh một
cách đanh thép nhất. Chiến tranh kết thúc dù 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa thì
hậu quả của nó để lại vẫn nặng nề và dai dẳng. Và hôm nay, những người lính như
Đoàn Tuấn, như Sương Nguyệt Minh dù đã “giã từ vũ khí” trở về với cuộc sống đời
thường nhưng họ vẫn không thôi trăn trở, họ cầm bút để viết nên những sự thật xé
lòng, những nỗi đau dai dẳng mà người lính Việt phải chịu đựng khi cuộc chiến đã
kết thúc. Đó cũng chính là sự thấu hiểu, sự tri ân với những người lính tình nguyện
Việt Nam chiến đấu nơi đất khách quê người.
2.3. Hình tƣợng kẻ thù
2.3.1. Hình tượng kẻ thù với bản chất xấu xa
Khmer Đỏ đã gây ra thảm kịch núi xương sông máu ngay tại chính đất nước
Campuchia, đẩy nhân dân Campuchia tới họa diệt chủng. Mặt khác, chúng cũng ra
sức tàn sát nhân dân Việt Nam một cách tàn bạo. Lính tình nguyện Việt Nam khi
sống và chiến đấu trên chiến trường Campuchia cũng phải gánh chịu muôn vàn khó
khăn, nguy hiểm, phải đánh đổi bằng máu xương trước kẻ thù vô cùng tàn bạo và
73
độc ác. Chính vì vậy, khi viết về đề tài chiến tranh, bên cạnh hình tượng người lính
tình nguyện Việt Nam, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn cũng tập trung khắc họa
hình tượng kẻ thù với bản chất xấu xa.
Việt Nam là đất nước đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh để bảo vệ bờ
cõi. Trước khi bước chân cuộc chiến tranh chống Pol Pot bảo vệ biên giới Tây Nam,
chúng ta phải chống lại những kẻ thù hùng mạnh như Pháp, Mĩ trong suốt 30 năm.
Nhưng Khmer Đỏ do Pol Pot đứng đầu mới thực sự là thứ kẻ thù nguy hiểm bởi sự
phản bội, vô ơn, xảo trá và cuồng tín ở chúng. Bản chất xấu xa khiến chúng trở
thành kẻ thù vô cùng nguy hiểm đối với quân đội nhân dân Việt Nam, gây ra cho
chúng ta những tổn thất nặng nề trong suốt mười năm tham chiến tại chiến trường
Campuchia.
Khmer Đỏ là loại kẻ thù đặc biệt, loại kẻ thù phản phúc, vô ơn. Trước kia,
Việt Nam đã từng giúp đỡ và huấn luyện chúng trong quá khứ. Tuy nhiên, ngay sau
đó chúng đã lộ bản chất phản bội vô ơn, là những kẻ “lừa thầy phản bạn”. Điều này
đã được Sương Nguyệt Minh nhiều lần nhấn mạnh trong Miền hoang: “Ngày trước
cơm vẫn lành, canh vẫn ngọt, hai nước còn một kẻ thù chung. Quân giải phóng Việt
Nam đem những kinh nghiệm đánh Mĩ dạy cho lính Khmer Đỏ thế nào thì lúc này
quân lính Pol Pot áp dụng đúng những bài học xưa một cách xuất sắc để đánh lại
“thầy”, lại bạn” [52, tr.464]. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn không quá tập
trung khắc họa hình tượng kẻ thù, nhưng bản chất xấu xa, vô ơn, phản phúc của
chúng vẫn được nhắc đến trong câu chuyện của người lính: “Tôi hay nghe nhiều sỹ
quan nói, bọn Pol Pot là quân ăn cháo đá bát. Những bài học ta dạy chúng trong
chiến tranh, giờ chúng dùng lại, phản đòn ta” [96, tr.214]. Như vậy, cả Sương
Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đều nhìn thẳng vào bản chất của kẻ thù, đồng quan
điểm về sự phản bội, vô ơn của Khmer Đỏ. Có lẽ, đây cũng là quan điểm chung của
các nhà văn khi đánh giá về Khmer Đỏ.
Không chỉ phản bội, vô ơn, quân Khmer Đỏ được xây dựng là những kẻ sùng
bái lãnh đạo một cách máy móc, ngu dốt và điên cuồng. Trong Miền hoang, tàn
quân Khmer Đỏ luôn có niềm tin cuồng tín rằng chúng đang xây dựng chủ nghĩa xã
hội thiên đường, trong bảy triệu người dân Khmer chỉ cần một triệu người vô sản là
74
đủ, còn lại hoàn toàn có thể giết bỏ. Chính vì vậy, trong bất kì trường hợp nào,
chúng cũng tuyệt đối trung thành với lãnh tụ và cấp trên. Không ít lần, thằng lính áo
đen đã bộc lộ tư tưởng cuồng tín lãnh tụ trong những dòng suy nghĩ nội tâm: “tao
im lặng, cun cút làm theo, dù trong bụng còn ấm ức. Bảo giết thì giết, bảo đừng thì
đừng thôi. Chỉ huy là Lục Thum, Lục Thum bao giờ cũng có sức mạnh và có cái lí
của Ông Lớn. Chịu Ông Lớn thôi” [52, tr.25] . Hắn luôn đặt Ông Lớn lên đầu, trở
thành mục tiêu lí tưởng, không phân biệt phải trái đúng sai. Trong trường hợp nào
nhân vật xưng “tao” cũng quyết noi gương học theo Lục Thum, để được đứng vào
hàng ngũ tinh hoa như lãnh tụ Pol Pot quán triệt: “Trong số 5 triệu người Khmer,
chỉ cần một triệu người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dứt khóat, dứt khoát tao phải
đứng trong số một triệu người còn lại, chứ không thể nằm trong số bốn triệu như
bọn bác sĩ, kĩ sư, giáo viên, nghệ sĩ… bị coi là thừa ra” [52, tr.145]. Thậm chí, khi
rơi vào tình trạng kiệt quệ, khốn cùng: “Đói khát. Vô phương hướng. Sống chết chỉ
cách nhau gang tấc. Quặt quẹo. Dật dờ. Tao cũng kiệt sức mẹ nó rồi. Nghĩ thế
nhưng tao vẫn đi theo Ông Lớn, đi theo thủ lĩnh Pol Pot. Chịu khổ để có ngày sung
sướng, chịu chết “chỉ cần một triệu người xây dựng chủ nghĩa xã hội” như lãnh tụ
Pol Pot nói thì tao cũng chết…” [52, tr.315], khi đã nếm trải đủ mùi đau đớn khổ
cực của những bất hạnh, tuyệt vọng thì tên lính áo đen vẫn không hề tỉnh ngộ. Hắn
luôn cho rằng việc không xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là do Việt Nam:
“Vì bọn Duol chúng mày mà lãnh tụ Pol Pot và Angka chúng tao không xây dựng
được chủ nghĩa xã hội” [52, tr.28]. Đây không phải là niềm tin, là lí tưởng mà đó
chính là sự tôn sùng lãnh đạo một cách máy móc. Sự cuồng tín với lãnh tụ là một
trong những nguyên nhân dẫn đến những thảm họa nặng nề mà nhân dân
Campuchia phải gánh chịu. Ngay trong nội bộ kẻ thù, Lục Thum khi đánh giá tên áo
đen cũng chỉ rõ bản chất của những kẻ “trung thành lí tưởng đến mức ngu muội”.
Trong suy nghĩ của tên chỉ huy: “Những đứa cấp dưới mông muôi, trí tuệ lùn nên vô
minh, lúc nào nghe lời thì như con chó săn vẫy vẫy đuôi quấn quít, lúc nào không
chịu nghe lại như con chó sói nhe răng chực cắn lại. Khó dạy quá! Sao mà cứ bem
bẻm: …Vì bọn Duol chúng mày mà lãnh tụ Pol Pot và Angka chúng tao không xây
dựng được chủ nghĩa xã hội…” [52, tr.29]. Quả thực, sự ngu dốt cộng nhiệt tình
75
cách mạng đã tạo ra một trong những chế độ diệt chủng kinh hoàng nhất thế kỉ XX.
Có thể nói, trong tác phẩm của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn, kẻ thù
hiện ra là những kẻ tàn bạo bị nhồi sọ và tẩy não bởi tư tưởng cực đoan, không hề
có khả năng sám hối và phản tư nên biến thành cỗ máy giết người hàng loạt. Bản
chất xấu xa của chúng đã đẩy nhân dân Campuchia vào một thảm họa đau đớn, trở
thành vệt xám dài của lịch sử. Và tội ác của chúng sẽ được cụ thể hóa hơn, được thể
hiện một cách chân thực và đau đớn dưới lăng kính của những người lính đã từng
tham gia vào cuộc chiến như Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn.
2.3.2. Hình tượng kẻ thù trong hiện thực chiến trường
2.3.2.1. Những kẻ độc ác, tàn bạo
Khmer Đỏ là kẻ thù có những hành động vô cùng tàn độc trên chiến trường.
Mặt khác, quân Khmer Đỏ đa phần xuất thân từ nông dân ít học, văn hóa thấp và có
cuộc sống đói nghèo. Những người này khi có công cụ bạo lực và cơ hội bạo lực
trong tay, chúng sẵn sàng thực hiện những hành vi dã man và thú tính với đồng loại
của mình. Trên những trang sách của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn, chúng ta
bắt gặp những tội ác kinh hoàng của Khmer Đỏ đối với nhân dân Việt Nam và
chính nhân dân Campuchia. Đó là hành động hủy diệt của kẻ thù.
Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đã thể hiện một cách chân thực
những tội ác kinh hoàng của quân Khmer Đỏ. Bằng nhiều hình thức khác nhau,
chúng đã gây ra những cuộc thanh trừng đẫm máu, đẩy nhân dân vào những núi
xương bể máu. Người đọc sao có thể dửng dưng trước lời kể của Lục Thum - kẻ đã
gây tội ác: “Tưng bừng phải như cái cách bọn tao tàn sát dân Doul ở vùng Ba Chúc
- An Giang ấy. Mấy nghìn sinh mạng lìa đời nhé. Suốt một tuần: sựt sựt…chát
chát…rắc rắc…uỵch uỵch…tằng tăng…Thằng Rô mày biết âm thanh gì không?
Không à? Là tiếng cuốc bổ vỡ sọ, tiếng tay thước lim đánh vào gáy, tiếng dao quắm
chém dọc thân người, tiếng súng bắn vào ngực già trẻ gái trai dân Duol đấy…”
[52, tr.35]. Giọng kể đầy hả hê và dửng dưng ấy đã tố cáo bản chất tàn ác, vô nhân
tính của kẻ thù.
Nhân dân Việt Nam đã trải qua bao đớn đau, đã gánh chịu những tội ác kinh
hoàng từ phía kẻ thù. Sự độc ác ấy đã được Sương Nguyệt Minh nhiều lần lột tả:
76
“Hai thằng lính áo đen mỗi đứa cầm một chân đứa trẻ con lên ba… xé. Tung đứa
bé chưa đầy năm lên trời rồi đố nhau chống súng CKC hứng mũi lê đã tuốt trần
đúng hậu môn đứa bé. Có đại gia đình chết đến cả trăm người. Đau thương và tiếc
nuối nhất là những đứa bé cùng bố mẹ và láng giềng trốn trong hang. Bên trong
bọn trẻ khát nước khóc, bên ngoài lính áo đen đi tuần rình rịch. Chỉ một tiếng khóc
vang lên thì lính Pol Pot tống mìn vào trong hang đá giết hết cả trăm người” [52,
tr.34-35]. Chúng như những cỗ máy giết người hoàng loạt, không ghê tay, không
sám hối cũng chẳng chút mảy may động lòng. Quả thực, hành động của Khmer Đỏ
đã đi đến tận cùng của cái ác do sự cuồng tín và mù quáng của chúng.
Đối diện với kẻ thù tàn bạo, quân tình nguyện Việt nam phải gánh chịu biết
bao những đau đớn, mất mát, hi sinh. Những đòn roi, những búa bổ, cuốc đập, những
phanh thây, xẻ thịt… tội ác của kẻ thù không biết bao nhiêu mà kể. Sương Nguyệt
Minh đã tái hiện hiện thực đau đớn ấy qua lời kể của Thà - một người lính chiến đấu
ở chiến trường Campuchia: “Bọn chó đen tàn độc ấy căng người thằng Hanh ra đóng
năm cái cọc: Hai cọc đóng vào hai bàn chân. Hai cọc đóng vào hai bàn tay. Một cọc
đóng vào miệng xiên xuống đất” [52, tr.360]. Đó là hình thức tra tấn dã man như thời
trung cổ, khiến người đọc rùng mình khiếp đảm và đau xót khôn cùng. Chưa hết, bản
thân Tùng còn tận mắt chứng kiến cuộc truy sát của kẻ thù với chính người đồng đội
của mình: “Vẻ mặt hắc ám, y dỏng tai nghe các cú chém bằng dao quắm và đập dồn
dập…bộp…toác…ở khu đền tháp đổ nát bằng báng súng như trời giáng xuống những
cái đầu đội mũ cối bọc vải Tô Châu màu xanh. Mặc tiếng thở khò khè. Mặc tiếng kêu
xin khác ngôn ngữ. Mũ cối bẹp, tan tành. Đầu lăn lông lốc. Đầu vỡ tan. Óc trắng hếu
phọt ra” [52, tr.21]. Chúng truy quét, tàn sát đến người lính cuối cùng: “Cái xẻng
vung lên quá tầm tay, lưỡi xẻng lấp loáng đi theo đường cong cánh cung: Bổ. Phang.
Đập… Rồi gã lại dựng cán thẳng đứng thọc lưỡi xẻng sắc lạnh như băm chặt xuống
mặt “kẻ tội đồ chết trận”. Chỉ biết khi gã lính áo đen hả cơn nóng giận căm hờn và
thấm mệt dừng lại thì đầu kon top Việt Nam chỉ còn… bãi thịt xương lẫn mảnh mũ
cối lổn nhổn” [52, tr.22]. Sương Nguyệt Minh đã khắc họa nỗi đau lớn của dân tộc
dưới sự hủy diệt của kẻ thù.
Nhưng tội ác lớn nhất của quân Khmer Đỏ chính là hành động hủy diệt với
77
dân tộc của chúng, với đồng loại của chúng. Những cái chết kinh hoàng dưới thời
Pol Pốt, những hình thức tra tấn điên cuồng, man dại của kẻ thù đã bổ xuống đầu
những người dân nhỏ bé không có sức chống cự. Hiện thực ấy đã được Sương
Nguyệt Minh tái hiện qua hồi ức của Sa Ly: “Quân lính áo đen Khmer Đỏ tràn về
thành phố. Tất cả nháo nhác. Tất cả bị xới tung lên. Lệnh ban bố từ những cái loa
sắt ông ổng: Mọi người người phải ra khỏi thành phố đi về nông thôn trong vòng 24
tiếng đồng hồ để tránh bom hạt nhân của Mỹ. Vỡ chợ. Tiếng khóc tiếng hờn ai oán
nổi lên. Quân lính áo đen xộc đến từng nhà gí mũi súng vào đầu, lôi xềnh xệch tống
cổ từng người ra đường. Nhà càng giàu, bị ra khỏi nhà càng nhanh, đi tay không
càng tốt. Rất nhiều người không kịp mang thêm bộ quần áo và bị tống lên xe chở đi
đến một nơi nào đó cũng không hề biết” [52, tr.519]. Chính cô phải chứng kiến cái
chết của cha mình: “Ôi trời ơi! Cha lĩnh trọn một băng đạn từ trong phòng bắn ra.
Cha gục xuống ngay cửa nhà mình, tay chới với, ánh mắt lướt qua hình ảnh vợ con
mà không nói được lời nào. Cha chinh chiến bao nhiêu năm trên hạm tầu không
mảy may sứt sát, vậy mà cha phải chết tức tưởi bởi loạt đạn của một tên lính áo đen
vô danh” [52, tr.521]. Và kết quả, cả một dân tộc đứng trên bờ diệt vong, cả một
dân tộc quằn quại trong đau đớn, “mấy triệu người Khmer chết bởi bom đạn, bởi
chày vồ, lưỡi xẻng, bàn cuốc bàn mai, dao quắm, dây thừng treo cổ,… chết vì đói
khát, lao lực kiệt quệ trong các công xã cộng sản nửa dơi nửa chuột” [52, tr.237].
Thậm chí, lính Pol Pot có thể xả xúng vào chính những người thân của mình: “Lính
Pol Pot là thế. Ngay cả khi biết vợ mình đang nhảy trong đó, chúng vẫn nổ súng”
[96, tr.147]. Đó là những hành động vô nhân tính. Những trang văn đã là lời tố cáo
đanh thép nhất tội ác của kẻ thù.
Không chỉ tàn sát lính tình nguyện Việt Nam, tàn sát nhân dân hai nước,
quân Khmer Đỏ còn tàn sát đồng đội của mình: “Bọn man rợ này còn giở nhiều trò
tàn độc. Đến như đồng đội của mình bị thương hí hóp thở trước sau cũng chết, gã
còn đập tan sọ phọt óc ra trắng nhởn như đậu phụ vương trên bãi cỏ” [52, tr.75].
Có lẽ trong chúng không phải là trái tim khối óc của con người mà là những con ác
thú vô nhân tính. Giữa chúng không có tình cảm đồng chí, đồng đội, cũng không có
những bảo vệ, chở che... cái ác đã xâm lấn một cách trọn vẹn khiến chúng trở thành
78
những kẻ tàn độc với chính những người đã cùng sát cánh với mình. Sự độc ác ấy
được Sương Nguyệt Minh lột tả qua hành động của Lục Thum. Khi đồng đội của
hắn mắc tội, hắn trừng phạt khủng khiếp, cho quân treo lên, lột quần áo, đứa thì
dùng dao cắt xoẹt bộ phận sinh dục, đứa thì nã cả năm viên đạn vào háng khiến lúc
sau trên đất chỉ còn bãi máu. Lục Thum là một kiểu loại đại diện cho rất nhiều
những tên cầm đầu khác, bản chất của bọn chúng nói chung - nham hiểm, mọi rợ,
tàn độc. Chính sự tàn độc ấy khiến lính ta phải thắc mắc: “Từ khi đánh vào
Campuchia, quân ta không gặp một thương binh nào của quân đội Pol Pot. Chúng
chạy đâu?”[96, tr.92]. Thực chất, trong quân đội của Khmer Đỏ, không bao giờ có
hình dáng thương binh vì “thương binh nặng, bọn Pol Pot đều đổ hết xuống biển.
Chúng dùng máy bay lên thẳng làm chuyện này” [96, tr.92]. Đó quả thật là những
hành động phi nhân tính, vô đạo đức. Chính điều này tạo nên sự đối lập với lính tình
nguyện Việt Nam - những con người trọng nghĩa tình, không bao giờ bỏ lại đồng
đội. Sự đối lập càng khiến hình ảnh kẻ thù hiện lên vô cùng tàn độc.
Xuất phát điểm từ sự ngu muội, chúng đã có những hành động đi ngược lại
với văn minh nhân loại như đốt sách, tiêu hủy văn hóa: “Từ tầng trên xổ xuống cả
đống sách, vở bìa cứng: Bách khao thư bệnh học, Giải phẫu người, tiểu thuyết
“Những người khốn khổ”, “bà Bovary”, “Từ điển quân sự”, “Lịch sử cách mạng
Pháp”, “Hoàng đế Napoleon Bonapare”,…Chúng đổ xăng lên những quyển sách
bằng tiếng Pháp ấy được cho là xa xỉ của giới thượng lưu và… đốt. Lửa cháy phần
phật. Khói ngút cao” [ 52, tr.521]. Không chỉ qua lời kể của Sa Ly, bản thân Tùng
cũng đã rơi vào trạng thái vô cùng đau đớn khi bị kẻ thù xé sách, đốt đàn: “Mải mê
cuốn vào bài hát „Sơn nữ ca‟ và „Thư tình của lính‟, Tùng không hề biết trong lúc
trôi miên man về kỉ niệm tuổi học trò với cô bạn gái thì gã lính áo đen đã xé xoàn
xoạt mấy chục trang tiểu thuyết Anna Karenina … rồi vò vò nắm trong tay. Gã ôm
bụng lặng lẽ đi ra sau lùm cây gai tụt quần khỏi mông và… ngồi xuống. Còn quyển
nhật kí của Tùng với những quay quắt nhớ nhung cô gái Hà Nội và các trang chép
những bài thơ… khát ở chiến trường K thì bị tên chỉ huy xé toạc ra để… cuốn thuốc
rê hút” [52, tr.171]. Sách là biểu tượng của tri thức và văn hóa. Đốt sách chính là
đốt văn hóa, là quay lưng với tri thức, là quay trở về với sự mông muội. Và đây
79
cũng chính là một trong những nét bản chất của kẻ thù.
Nhưng đáng sợ hơn, chúng còn ăn thịt chính đồng loại của mình: “Bắt được
bọn Duol đang sống ngoay ngoảy còn cắt gót chân cho chúng không chạy trốn
được, rồi để chúng chết dần chết mòn, huống hồ khi bọn Duol vừa chết tươi, chuyện
bóc bánh chè thì có gì lạ. Lính áo đen của Ông Lớn chả phanh bụng, moi gan xổ
ruột bọn Duol ra bỏ vào mũ sắt luộc lên ăn còn gì nữa!” và coi như “chuyện vặt
vãnh có chi đáng phải lưu tâm” [52, tr.69]. Chuyện ăn thịt người không phải chỉ
được nói đến một lần, ở phần cuối truyện một lần nữa hình ảnh tên lính áo đen ăn
thịt người được miêu tả cụ thể. Hành động này thể hiện rõ nhất sự mông muội, thú
tính và tàn bạo của kẻ thù.
Sương Nguyệt Minh từng nói: “Những điều tôi đã viết trong „Miền hoang‟ chỉ
là một phần rất nhỏ về sự man rợ của bọn diệt chủng Pol Pot và sự tàn khốc của
chiến tranh. Chiến tranh sẽ kéo lùi lịch sử và có nguy cơ đẩy con người trở về hoang
dã. Mục tiêu thứ hai là, tôi tham vọng khi gấp trang sách cuối cùng của „Miền
hoang‟, bạn đọc sẽ kinh hoàng, sợ hãi chiến tranh” [57]. Quả thực, khi viết những
trang văn về sự độc ác của kẻ thù, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã đi đến tận
cùng cuộc chiến, phản ánh một cách chân thực và sâu sắc hiện thực chiến trường.
2.3.2.2. Những kẻ đê tiện, thô bỉ
Trong suốt 10 năm chiến đấu dai dẳng ở chiến trường K, lính của ta hi sinh
không biết bao nhiêu cho xuể. Một phần do không thông thuộc địa hình, một phần
do quân thù quá độc ác, tàn bạo và đặc biệt rất ít khi chúng đánh trực diện. Phần lớn
chúng vẫn trốn tránh, lẩn lút trong dân, trực chờ để đánh lén, gây thương vong khôn
kể: “Nhưng mà cái bọn tàn quân ấy lẩn lút như ma đói ấy. Chúng mặc quần áo đen,
quàng khăn cro-ma giống như người dân Khmer bình thường ấy. Nhìn cả đám
đông, chẳng phân biệt được đâu là dân, đâu là lính tàn quân Pol Pot. Ban ngày
chúng là dân đen lam lũ lầm than đi xe bò kéo, xe cà cộ, leo cây thốt nốt lấy nước
nấu đường. Ban đêm mới hiện nguyên hình là lính Pol Pot khôn ranh, độc ác” [52,
tr.361]. Ngày là dân, đêm là giặc, khiến cho lính ta không kịp trở tay. Trong Mùa
chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn cũng phản ánh những hành động lén lút, thô bỉ của kẻ
thù: “Thì ra bọn địch đóng giả thành những người dân đánh xe trâu. Trên xe, chúng
80
giấu vũ khí dưới rơm. Đến khu vực này, bọn chúng dừng xe, thả trâu ra rừng rồi
vào gần đơn vị ngủ lại. Gần sáng, đón chừng lính ta không gác, chúng mò vào nổ
súng” [96, tr.154]. Quả thực là “Khi chúng vác súng là địch, Nhưng khi giấu súng
ngoài rừng, lại thành dân” [96, tr.189]. Trong cuộc chiến với quân tình nguyện
Việt Nam, bọn chúng cũng nghĩ ra đủ hình thức hèn hạ để tiêu diệt quân ta. Lúc thì
chúng tập kích vào lúc nửa đêm gà gáy, khi thì chúng cưa cây cài mìn trên những
con đường bộ đội ta đi… Với những hành động lén lút ấy, chúng hiện nguyên hình
là những kẻ có hành tung mờ ám, chuyên đánh lén phía sau một cách thô bỉ. Đây
chính là một mảng ghép khiến cho hình ảnh kẻ thù hiện lên toàn diện hơn trong cái
nhìn sâu sắc của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn.
Không chỉ là những kẻ có hành động lén lút, mờ ám, quân Khmer Đỏ còn
được đặc tả như những con quỷ háo sắc. Trong hoàn cảnh chiến trường khốc liệt,
nhưng chúng vẫn thực hiện những hành vi thú tính của mình, đẩy những người như
Sa Ly vào số kiếp bất hạnh. Rơi vào cuộc chiến tranh, Sa Ly bị xoay vần trong
những đau đớn ê chề và tuyệt vọng. Cô bị bọn lính áo đen hãm hiếp cho đến nỗi bị
câm và những kí ức đen tối ấy cứ đeo bám lấy Sa Ly trong suốt quãng đời còn lại.
Khi bị lạc rừng cùng với ba người đàn ông, Sa Ly bị tên lính áo đen và Lục Thum
thay nhau hãm hiếp. Đặc biệt là Lục Thum, với bản tính dâm dục, thú tính hắn đã
biến Sa Ly trở thành cỗ máy giải quyết vấn đề sinh lí cho hắn. Khi hết thuốc giảm
đau, hắn bắt Sa Ly phải ngồi vuốt dương vật suốt đêm để hắn được thỏa mãn và
giảm cơn đau. Khi đói khát, đau đớn, kiệt sức hắn vẫn giở trò “thú tính” với Sa Ly
“thò tay khua khoắng vần vò, cào cấu cặp vú người con gái đang cõng mình” [52,
tr.222]. Lục Thum đã biến Sa Ly trở thành kẻ nô lệ tình dục trong suốt hành trình bị
lạc rừng.
Trên chiến trường K, kẻ thù còn hiện lên vô cùng lọc lõi, thâm độc và đa
nghi. Điều này được thể hiện rõ nhất qua hình ảnh tên chỉ huy Lục Thum trong
Miền hoang của Sương Nguyệt Minh. Lục Thum là tên chỉ huy vốn được các sĩ
quan tình nguyện Việt Nam huấn luyện. So với thằng Rô, Sa Ly hay Tùng, hắn là
người có kinh nghiệm hơn cả. Hắn luôn ý thức được giá trị của quyền uy và phát
huy sức mạnh của uy quyền trong mình. Sức mạnh của Lục Thum được củng cố bởi
81
khẩu súng K54 mà hắn luôn mang bên mình. Tùng, Sa Ly hay kể cả thằng Rô - tên
hầu cận hắn cũng không biết trong súng còn đạn hay không. Hắn luôn tỏ ra bí hiểm
và không bao giờ để cảm xúc biểu lộ trên khuôn mặt. Hắn luôn thăm dò những
người còn lại, kể cả với thằng Rô. Thằng Rô luôn tỏ ra trung thành với chủ, nhưng
Lục Thum biết thừa loại người như thằng Rô. Hắn cũng đủ thông minh để điều
khiển nó. Với giọng điệu ngọt ngào, hắn đã củng cố tinh thần của thuộc cấp bằng lời
dò hỏi: “Xưa nay, lúc sướng có nhau, lúc hoạn nạn bỏ nhau cũng nhiều, Rô ạ?”[52,
tr.36] để rồi trong tình huống ấy, sự trung thành của thằng Rô được bày tỏ chắc
chắn như đinh đóng cột: “Tao thề. Đ**mẹ đứa nào bỏ Ông Lớn, hãy bước qua xác
tao”. Bao giờ hắn cũng có sự tính toán trước sau để đề phòng mọi trường hợp.
Chưa bao giờ hắn coi tên lính áo đen hay Sa Ly là những kẻ thân thuộc của mình.
Với bản chất là kẻ đa nghi, hắn sẵn sàng giở mọi thủ đoạn với chính “đồng đội” của
mình. Điều đó cũng lí giải vì sao khi đã tìm được đường thoát ra khỏi rừng Miên,
hắn đã để tên lính áo đen chết trong đầm lầy hoang lạnh.
Trong những ngày tháng lạc rừng, Lục Thum luôn có sự tính toán tỉ mỉ cho
vai trò của Tùng. Lúc còn dùng được, Tùng sẽ là một thằng phu đòn để khiêng hắn
“Ông Lớn cau mày, bảo: mày không muốn có thêm thằng phu đòn khiêng tao hả.
Đỡ mệt nhọc hơn chứ. Mày có biết đàn sói đi cùng nhau thì dễ sống hơn là một con
sói hoang cô độc tách bầy!” [52, tr.252]. Lúc cần, thằng tù binh Duol như Tùng có
thể trở thành một “đồ ăn dự trữ”, và lúc nào Lục Thum cũng đẩy Tùng vào chỗ
nguy hiểm:“Cùng lắm là bất lực thì lúc ấy thằng Duol cũng thế mạng ta, biến thành
con mồi ngon thu hút ý chí, hành động của con sói. Khi đó, ta tùy cơ tấn công kẻ thù
không mong đợi. Ôi! Ta sẽ cứu được thân ta, rồi quay sang cứu thằng Duol, ta sẽ là
ân nhân của nó. Tên tù binh này sẽ là con lừa tận tụy thồ ta thoát khỏi núi rừng
đang bủa vây” [52, tr.272]. Hắn vừa biến Tùng là “con mồi”, vừa là kẻ thế mạng, là
“con lừa tận tụy” nhưng hắn vẫn được đóng vai “ân nhân” của Tùng. Quả thực, Lục
Thum là kẻ vô cùng mưu mô, xảo quyệt. Sự lọc lõi, cáo già của Lục Thum đã thể
82
hiện rõ bản chất của một kẻ xấu xa, đê tiện và thô bỉ.
Tiểu kết chƣơng 2
Đổi mới cái nhìn nghệ thuật về chiến tranh và hình tượng người lính được
xem là một trong những chuyển biến tư duy nghệ thuật quan trọng nhất mang lại
thành công lớn cho Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Cùng với độ lùi của thời
gian, chiến tranh được tiếp cận từ nhiều góc nhìn, thậm chí những bi kịch của chiến
tranh, thân phận con người trong chiến tranh được nhận thức và lí giải trên tinh thần
đổi mới. Trong vai trò là nhà văn từng tham gia chiến tranh, Sương Nguyệt Minh và
Đoàn Tuấn đã viết về cuộc chiến với kí ức của người trở về sau chiến tranh, mang
theo những nỗi niềm và cật vấn. Viết bằng cảm nghiệm cá nhân, Sương Nguyệt
Minh và Đoàn Tuấn hướng tới thể hiện tính nhân loại phổ quát, khắc họa nỗi đau
của những con người cuốn vào dòng xoáy của cuộc chiến tranh, những mất mát đau
thương của những con người cả hai bên chiến tuyến. Hai nhà văn đã nhìn về hiện
thực chiến tranh với tất cả những gì khốc liệt và dữ dội nhất trong cái cái nhìn đa
diện, phức cảm. Từ đó, gương mặt chiến tranh và chân dung người lính hiện lên
83
sinh động, chân thực và sâu sắc hơn.
Chƣơng 3
MIỀN HOANG VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Văn học có chức năng phản ánh đời sống, nhưng dù trong phạm vi rộng hay
hẹp, mức độ phản ánh đậm hay nhạt thì nội dung trung tâm của mọi sự phản ánh
vẫn là con người. Hình tượng con người được khái quát trong tác phẩm bằng các
nhân vật văn học. Vậy “nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ các cá thể con
người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện
bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ” [23, tr. 114].
Nhân vật văn học đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm, trở thành linh hồn
của tác phẩm văn học. Nó liên quan trực tiếp đến cốt truyện, đề tài, điểm nhìn, cách
tổ chức không gian, thời gian nghệ thuật… chính vì vậy việc xây dựng nhân vật
đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nhà văn, đòi hỏi sự nỗ lực tìm tòi và sáng
tạo của nhà văn trong hành trình nghệ thuật của mình. Mỗi nhà văn đều có nghệ
thuật xây dựng nhân vật một cách riêng biệt, mang đậm cá tính sáng tạo của mình.
Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn cũng không ngoại lệ. Cùng khắc họa hình tượng
nhân vật người lính, nhưng bằng sự đổi mới và cách tân, các nhà văn đã luôn dấn
thân và sáng tạo để tìm cho mình sự mới mẻ và độc đáo trong nghệ thuật xây dựng
nhân vật, từ đó người đọc có thể tìm ra chiếc chìa khóa để mở cánh cửa bước vào
thế giới tư tưởng của tác phẩm.
3.1.1. Khắc hoạ nhân vật qua ngoại hình
Yếu tố ngoại hình đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhân vật, góp
phần tạo nên tính toàn vẹn của con người trong văn học. Yếu tố ngoại hình là toàn
bộ hình thức bên ngoài như khuôn mặt, trang phục, hình dáng… để phân biệt nhân
vật này với nhân vật khác, qua đó khắc họa dấu ấn riêng của hình tượng nhân vật.
Mặt khác, yếu tố ngoại hình còn góp phần bộc lộ tính cách, số phận của nhân vật
trong tác phẩm.
Trong tiểu thuyết Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đặc biệt chú ý yếu tố
84
ngoại hình của nhân vật. Bốn nhân vật trong hành trình lạc rừng được Sương
Nguyệt Minh khắc họa với những chi tiết miêu tả ngoại hình đặc sắc, qua đó bộc lộ
được bản chất của từng nhân vật. Ngay từ những trang viết đầu tiên, Sương Nguyệt
Minh đã chú ý đến những chi tiết về ngoại hình: “Các khuôn mặt hốc hác. Thân
hình tàn tạ. Bước thấp bước cao thất thểu. Thời gian đói khát quá lâu đang đánh
gục cái vẻ nhẫn nại gồng mình chịu đựng khi sức người có hạn. Cô gái duy nhất
nước da mịn màu bánh mật đã cháy sạm nắng. Cặp vú căng đầy đang xẹp dần tong
teo. Đôi chân dài thẳng đã nhăn nhúm. Hai mắt to đen láy đã trũng sâu dưới vành
lông mày cong xơ xác. Những người còn lại, kẻ cụt đến gối, kẻ mất bắp chân như
cái que… cũng bị đói khát và cái nắng mùa khô nhiệt đới giày vò biến thành cái
thân khô xác, dật dờ như ma đói…” [52, tr.5]. Chỉ với vài nét phác họa về ngoại
hình của các nhân vật trong tác phẩm, Sương Nguyệt Minh đã khái quát được sự dữ
dội, khốc liệt của chiến tranh. Mặt khác, cũng qua những chi tiết về ngoại hình,
người đọc không chỉ thấy được hoàn cảnh mà phần nào cảm nhận được số phận bi
kịch của mỗi con người trong hoàn cảnh kiệt quệ. Họ chính là nạn nhân, gánh chịu
những đau thương mà chiến tranh gây ra.
Sau nét khái quát về các nhân vật, Sương Nguyệt Minh đã dành khá nhiều
thời gian để viết về Tùng, từ ngoại hình, hành động, ngôn ngữ… Tuy nhiên, ngay từ
nét vẽ ngoại hình, tác giả đã tạo ra một sự khác biệt giữa người lính Việt Nam với
những con người phía bên kia chiến tuyến. Trong điểm nhìn của kẻ thù, Tùng luôn
giữ được nét riêng trong dáng vẻ thư sinh của một chàng trai Hà thành. Lục Thum
nhìn thấy ở Tùng “Cái thằng tay trắng học trò èo uột”, còn Sa Ly ấn tượng với
Tùng bởi “Cái mặt thư sinh, nước da trắng xanh, khói thuốc đạn sạm nhọ nhem vài
vết của anh tù binh Việt Nam đang rờ rẫm buộc dây rừng. Lạ thật, nắng mưa và
trận mạc không làm cho anh lính Việt này thành người chiến trận từng trải, tầm tã,
dãi dầu. Dáng người cao nghều, lòng khòng, tay lêu nghêu, Tùng tựa hồ một tên
học trò trói gà không chặt” [52, tr.72]. Tùng khác biệt với kẻ thù bởi chất thư sinh
qua vẻ ngoại hình ấy. Lính tình nguyện Việt Nam vẫn mang trong mình dấu ấn của
một “cậu học trò” với nét ngây thơ, hồn nhiên và trong sáng của tuổi trẻ. Thế
nhưng, sự khốc liệt của rừng hoang đã in đậm trên hình hài dáng vóc của Tùng
85
khiến “da anh như thể đang khô héo, tính đàn hồi kém, dùng ngón tay véo da rồi
buông mà nếp da mất quá chậm” [52, tr.246]. Chiến tranh khiến người lính kiệt quệ
cả hình hài, thân xác. Nhưng cũng chính chiến tranh đã hun đúc ở Tùng sự căm
giận, đánh dấu sự vùng lên ở người con trai mang dáng vóc thư sinh ấy. Hình ảnh
đôi mắt Tùng chính là biểu hiện cho sự phản kháng mãnh liệt ấy: “Ngước mắt lên
nhìn tên lính tàn quân Pol Pot, trong thế tuyệt vọng, nhưng đôi mắt của Tùng vẫn
hằn lên những tia máu đỏ. Máu đỏ báo hiệu bắt đầu một sự trỗi dậy âm thầm, mãnh
liệt” [52, tr.172]. Đôi mắt ấy không chỉ biểu hiện cho sự căm thù, phản kháng mãnh
liệt mà nó còn đánh dấu cho sự trường thành ở Tùng. Chiến tranh đã tôi luyện ở
Tùng lòng dũng cảm, chiến tranh đã khắc vào đôi mắt Tùng sự kiên gan trước kẻ
thù nhưng chiến tranh cũng không làm mất đi đặc trưng của chàng trai Hà Nội.
Chính những chi tiết về ngoại hình đã khiến hình tượng người lính Việt Nam thêm
đẹp đẽ.
Trái ngược với hình dáng thư sinh của anh lính tình nguyện Việt Nam, Lục
Thum - tên chỉ huy của Pol Pot được khắc họa với một ngoại hình khá dị biệt: “Viên
chỉ huy lùn tịt. Lưng hơi gập. Hình dong cổ quái, xấu xí, khó coi, phảng phất giống
thân xác họ nhà hầu. Tướng ngũ lộ. Mắt khỉ. Hai tròng con ngươi lồi ra” [52, tr.33].
Ngoại hình của hắn hé mở tính cách của một kẻ đa nghi, trí trá, háo sắc và cô độc.
Điều này khiến hắn khác biệt với cấp dưới của mình nhưng lại mang đậm sự tương
phản đối với người lính Việt Nam. Nhìn ở phương diện nào cũng chỉ thấy Lục
Thum là một kẻ xảo trá, đa nghi và tàn bạo.
Trong tiểu thuyết Miền hoang, thằng Rô là nhân vật được Sương Nguyệt
Minh chú ý miêu tả nhiều nhất. Qua điểm nhìn của nhân vật Tùng, “Thằng này trán
dô, cằm thụt, mắt trắng rã. Một bên má sẹo lõm đến mức như bị bóc mất cơ, má bên
kia cũng sẹo vằn” [52, tr.43]; “Tên lính áo đen da nâu bóng. Tướng người phàm
tục. Trán dô. Cằm thụt. Lông mày xơ và cụt. Tay chân như tứ chi của vượn. Mắt
gấu thô lỗ trắng dã. Ấn đường hẹp chưa đủ khoảng cách một ngón tay” [52, tr.56].
Ngoại hình đã phần nào bộc lộ bản chất hung hăng, thô lỗ và xấc xược của hắn. Cái
vẻ bề ngoài kì dị của hắn thậm chí là nỗi ám ảnh trong Tùng: “Kinh nhất là cái
gương mặt có cái sẹo lõm má tối om, gớm ghiếc của nó, nhìn phát tởm đến già. Tôi
86
chẳng hiểu vì sao nó lại mang gương mặt kì dị như thế” [52, tr.123]. Cái sẹo lõm là
do hoàn cảnh sống của hắn tạo thành, nét ngoại hình dữ tợn là do môi trường tàn
bạo khiến hắn bị tha hóa mà mất dần nhân tính, để rồi sự hung hãn, tàn bạo trở
thành bản chất chủ đạo trong con người hắn.
Là cô gái duy nhất, phải sống giữa ba người đàn ông nơi rừng hoang, Sa Ly
được tác giả đặc biệt chú ý về ngoại hình. Cô được khắc hoạ với những đường nét
mềm mại làm toát lên sức sống của cô gái xinh đẹp: “Đường cong viền từ nách
xuống eo vòng theo mông rồi kéo xuống đùi dài. Mịn màng nước da màu bánh mật.
Hai gò vú căng dềnh hạ xuống theo nhịp thở” [52, tr.212]. Người con gái ấy mang
sức sống tràn trề, căng mọng. Thế nhưng hình ảnh của Sa Ly cũng là tiếng nói tố
cáo chiến tranh đanh thép nhất. Từ một cô gái xinh đẹp, trải qua những ngày tháng
lạc rừng bất hạnh, chịu sự giày vò của bọn người tàn ác, vẻ đẹp của Sa Ly không
còn giữ được nữa: “Cô gái duy nhất nước da mịn màu bánh mật đã cháy sạm nắng.
Cặp vú căng đầy đang xẹp dần tong teo. Đôi chân dài thẳng đã nhăn nhúm. Hai
mắt to đen láy đã trũng sâu dưới vành lông mày cong xơ xác” [52, tr.5]. Đó là “cái
đẹp tàn tật” trước sức mạnh tối tăm và sức mạnh tối tăm đang hành hạ, chà đạp cái
đẹp tàn tật. Có thể thấy, ngoại hình của Sa Ly phản ánh số phận con người trong
chiến tranh, đặc biệt là số phận người phụ nữ. Nhưng điều may mắn là dù chịu đựng
những bất hạnh do chiến tranh gây ra, Sa Ly vẫn giữ được vẻ đẹp nhân hậu, lương
thiện của mình. Sự xuất hiện của Sa Ly - cô gái duy nhất trong tiểu thuyết đã phần
nào giảm bớt sự khô khan của những câu chuyện về chiến tranh, để người đọc phần
nào cảm nhận được sự tồn tại của phần “người” trong miền hoang ấy.
Nếu trong tiểu thuyết Miền hoang, Sương Nguyệt Minh tập trung khắc họa
ngoại hình của bốn nhân vật: Lục Thum, Rô, Sa Ly và Tùng để bộc lộ tâm hồn, tính
cách nhân vật, đồng thời phản ánh thực tại khắc nghiệt của chiến tranh thì trong hồi
ký Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, thế giới nhân vật khá đông đảo, đa dạng và
phong phú đến từ mọi miền quê, mọi thành phần. Đoàn Tuấn chọn cách miêu tả
nhân vật theo tinh thần mấy câu thơ của Hồng Nguyên:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
87
Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ thuở “một, hai”
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Số nhân vật của Mùa chinh chiến ấy có lẽ phải lên đến hàng trăm. Thế nhưng
bức chân dung về đồng đội đã được Đoàn Tuấn khắc họa khá chi tiết và chân thực
qua những nét vẽ ngoại hình. Từng nét cười, đôi mắt, nước da,… đều được Đoàn
Tuấn ghi chép tỉ mỉ, mỗi người một vẻ, không ai lẫn vào ai và đặc trưng vùng miền
cũng được thể hiện rõ. Đó là tài năng song đó cũng chính là tấm lòng của Đoàn
Tuấn dành cho những người đồng đội đã mất. Qua những nét miêu tả ngoại hình,
người đọc không chỉ thấy sự chân thực trong chân dung người lính, mà hơn nữa,
chúng ta có thể cảm nhận phần nào vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của mỗi người lính
trên trang viết của nhà văn.
Trong những trang văn của mình, Đoàn Tuấn đã dành nhiều tình cảm khi
miêu tả về trung tá Võ Sỹ Lực. Từ lần đầu tiên gặp, nhân vật “tôi” đã đặc biệt chú ý
đến người chỉ huy: “Dáng cao lớn. Gương mặt đầy từng trải. Hàm răng đều và đẹp.
Đặc biệt đôi mắt như có hai đồng thau. Nhìn ai cũng như xoáy vào tâm can người
đó. Ông quê ở Quảng Bình, một mảnh đất mà con người xoắn bện dẻo dai bền bỉ
như dây chão, loại dây buộc mái chèo” [96, tr.23]. Nét vẽ ngoại hình ấy đã mang
đến ấn tượng rất đẹp về người chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự từng
trải, sự tinh nhanh, sự kiên nghị, sự rắn rỏi, bản lĩnh toát ra từngoại hình của ông
khiến cho bất kì người lính nào dưới sự chỉ huy của ông đều cảm thấy yên tâm khi
xông pha giữa bom đạn của kẻ thù. Và sau này, khi gặp lại vị chỉ huy lần thứ hai, vẻ
đẹp ngoại hình của tiểu đoàn trưởng Võ Sỹ Lực vẫn khiến cho người lính thông tin
ấy phấn khích: “Ông Lực đúng là tướng chỉ huy. Cao đến 1 mét 80. Mắt có hai đồng
thau, nhìn vào ai cũng như muốn nuốt chửng người ta. Nhưng tôi lại khoái cái nhìn
ấy. Nó như xuyên thấu tâm can người đối diện. Ông có giọng nói âm vang, chắc
nịch của người Quảng Bình” [96, tr.30]. Vâng, nói theo cách của Đoàn Tuấn thì đó
chính là “Cái uy của một vị dũng tướng”. Và chân dung của vị dũng tướng ấy cứ trở
đi trở lại: “Ông phải cao đến mét tám. Dáng người cực chắc, cực khỏe mạnh. Tôi cứ
hình dung, ông như cái dây chão. Dẻo dai, bền chặt, không bao giờ đứt. Đặc điểm
88
bền bỉ của con người Quảng Bình. Tôi đã nhìn nhiều lần vào mắt ông, thấy hai
đồng tử luôn chuyển động. Như hai nòng xoáy, xuyên suốt tâm can người đối diện.
Ai yếu bóng vía thường không chịu nổi” [96, tr.289]. Hình ảnh đôi mắt của thủ
trưởng Võ Sỹ Lực tạo thành điểm nhấn trong hình tượng nhân vật. Đôi mắt ấy bộc
lộ tính cách của con người ngay thẳng, quyết liệt, dũng cảm và đầy bản lĩnh. Chính
đôi mắt ấy đã tiếp thêm tinh thần chiến đấu cho anh em. Đôi mắt ấy khép lại ở chiến
trường, “Con đại bàng yên nghỉ trên dãy Trường Sơn”, nhưng người chỉ huy ấy vẫn
luôn là hình ảnh đẹp đẽ lung linh về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam.
Viết về đồng đội, Đoàn Tuấn nâng niu từng chi tiết, phác họa một cách chân
thực và tỉ mỉ từng con người mà anh đã gặp ở mặt trận Tây Nam. Đó có thể là hình
ảnh “con đại bàng” ở thủ trưởng Võ Sỹ Lực, có thể là những người lính tân binh
như Lũy - những tân binh má phính lông tơ: “Tôi chú ý đến Lũy, một cậu bé có
gương mặt thư sinh. Ánh nắng buổi sáng mùa khô chiếu xuống, tôi nhìn thấy những
chiếc lông tơ vàng óng trên đôi má đẹp như trái đào của Lũy. Mặt Lũy rất tươi. Nụ
cười hiền, hàm răng trắng đẹp như thiên thần khiến tôi cũng thấy vui lây” [96,
tr.296]. Vẻ đẹp thư sinh với những nét ngây thơ, trong sáng của Lũy đặt vào hiện
thực khốc liệt của chiến tranh khiến người đọc không khỏi đau xót. Lũy hi sinh
“Gương mặt em không còn hồng hào, nhưng vẫn đẹp, một vẻ đẹp trong trắng, sáng
ngời” [96, tr.298]. Vẻ đẹp của Lũy, sự hi sinh của Lũy là tiếng nói đanh thép tố cáo
chiến tranh. Khuôn mặt em bởi thế cứ ám ảnh, cứ khiến người đọc day dứt.
Còn nhiều những gương mặt đồng đội nữa góp mặt trong cuộc chiến khốc
liệt này. Đó là hình ảnh anh Bùi Văn Chứn “như con gái. Đẹp trai. Người cao dong
dỏng. Má đỏ môi hồng. Tóc lại xoăn” [96, tr.225]; hay hình ảnh anh Lưu Thanh
Sơn, người Bình Định “là một tay cực kỳ đẹp trai. Người cao. Đôi mắt dài. Tóc
bồng bềnh. Như nghệ sỹ. Sơn có giọng nói ấm và vang” [96, tr.208], anh Nguyễn
Văn Mạnh, người Quảng Ngãi “có dáng người cao dong dỏng, quần áo luôn gọn
gàng” [96, tr.160], y tá Chiến “đẹp trai, trắng trẻo, mắt đa tình, có dáng đi rất
cồng kềnh” [96, tr.139]. Mỗi người lính được khắc họa đều đẹp, rất đẹp. Đó là vẻ
đẹp hài hòa giữa ngoại hình và phẩm chất bên trong. Đằng sau mỗi gương mặt, mỗi
nét vẽ ngoại hình ấy chính là tình cảm của Đoàn Tuấn dành cho những người đồng
89
đội của mình.
Khắc họa nhân vật qua ngoại hình, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã
làm nổi bật chân dung người lính Việt trên chiến trường Campuchia. Khai thác
những yếu tố ngoại hình, một mặt các nhà văn đã khái quát hóa hiện thực của chiến
tranh, sự khốc liệt của cuộc chiến đã in đậm trong hình hài, dáng vóc của người
lính, đồng thời những nét vẽ ngoại hình là “chìa khóa” để người đọc khám phá vẻ
đẹp tâm hồn, phẩm chất của người lính. Xây dựng chân dung người lính, Sương
Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã thể hiện sự trân trọng cũng như những tình cảm sâu
đậm dành cho đồng chí, đồng đội.
3.1.2. Ngôn ngữ nhân vật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học,“ngôn ngữ nhân vật là lời nói của nhân vật
trong tác phẩm thuộc các loại hình tự sự và kịch” [29, tr.183]. Ngôn ngữ đóng vai
trò đặc biệt trong việc khắc hoạ hình tượng nhân vật, “là một trong những phương
tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân
vật”. Trong tác phẩm của mình, nhà văn có thể cá thể hoá ngôn ngữ nhân vật bằng
nhiều cách khác nhau, song điều quan trọng nhất là qua hệ thống ngôn ngữ, nhân
vật được thể hiện một cách rõ nét nhất.
Trong Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy, Sương Nguyệt Minh và Đoàn
Tuấn đã khai thác khá thành công ngôn ngữ nhân vật, từ đó giúp người đọc tiếp cận
nhân vật một cách toàn vẹn hơn và có thể đi sâu tìm hiểu chiều sâu tư tưởng của tác
phẩm. Trong đó, các nhà văn đã chú ý khai thác ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ
độc thoại. Tùy theo chủ đích thể hiện nội dung của tác phẩm mà các tác giả cho
nhân vật dùng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại.
Về đối thoại, trong tác phẩm của mình, Sương Nguyệt Minh đã sử dụng một
dung lượng đối thoại khá lớn giữa các nhân vật. Các đoạn đối thoại giữa bốn nhân
vật khiến cho cốt truyện thêm liền mạch, làm cho mạch truyện không đơn diệu. Mặt
khác, qua ngôn ngữ đối thoại, tác giả có thể tạo nên những tình huống bất ngờ vừa
khắc họa được tính cách nhân vật. Trong Miền hoang, qua các đoạn đối thoại, bốn
nhân vật hiện lên với bốn tính cách khác nhau. Lục Thum có lối nói uy lực “Nghe
rõ chưa” thể hiện bản chất của một kẻ thâm độc những luôn nắm được uy quyền
90
trong tay. Hắn bao giờ cũng xưng “Ta”: “Ta nằm một lúc thì cơn nhức buốt lại
hành hạ, không ngủ được”, “Ta nhìn sâu vào mắt con y tá câm, dồn tinh lực áp đảo
nó khiến thần khí phải bạc nhược khuất phục” [52, tr.89, 93].
Thằng Rô cũng được khắc họa với phong cách ngôn từ cá nhân riêng. Hắn
luôn xuất hiện trong danh xưng “Tao”: “Tao nghĩ, phải phang toác đầu nó bằng
xẻng bộ binh”, “Tao trừng mắt nhìn con câm”… [52, tr.23, 25]. Cách xưng hô đã
thể hiện rõ bản chất vô học cũng như địa vị xã hội của hắn. Thằng Rô được khắc
họa với lớp ngôn ngữ thông tục, gần như lời thoại nào của hắn cũng là chửi thề,
văng tục, gắn với những chuyện chém giết: “Đ**mẹ! Có cái hố phòng thân đào
không nổi. Chả trách bọn tao đánh du kích phải chạy tụt quần. Nghe rõ chưa” [52,
tr.82] đã lột tả sự cục cằn, thô lỗ, độc ác. Mặt khác, lớp ngôn ngữ của hắn gắn liền
với các nhu cầu của đời sống hoang dã, thể hiện bản chất của con người bản năng,
ngu dốt. Hắn không thấy gì khác ngoài những nhu cầu bức thiết của đời sống bản
năng tăm tối. Thế nhưng, trong vai người kể chuyện, hắn luôn là người phát ngôn
cho lí tưởng: “Trong số 5 triệu người Khmer, chỉ cần một triệu người xây dựng xã
hội. Dứt khoát tao phải đứng trong số một triệu người còn lại, chứ không thể nằm
trong số bốn triệu như bọn bác sĩ, kĩ sư, giáo viên, nghệ sĩ,… bị coi là thừa ra” 52,
tr.145]. Lớp ngôn ngữ ấy đã lột tả tự ngu muội, trung thành một cách mù quáng của
tên lính áo đen.
Còn Tùng - một người lính tình nguyện Việt Nam chủ yếu được khắc hoạ
bằng ngôn ngữ nhẹ nhàng, có văn hoá. Trong ngôi kể thứ nhất, bao giờ Tùng cũng
xưng “Tôi”, “Chúng tôi”: “Tôi loay hoay không tài nào ra khỏi tầm đạn bắn thẳng
của bọn lính áo đen” [52, tr.11]; “Bọn lính áo đen tàn quân Pol Pot, chúng tôi hay
gọi là lính Pốt” [52, tr.8]. Đó là cách xưng hô của một con người ý thức rõ vị thế
của mình trong cuộc chiến. Mặt khác, Tùng luôn được được đặt vào vùng ngôn ngữ
văn hóa. Đó có thể là ngôn ngữ đậm chất thơ về Hà Nội, về tình yêu, về tuổi trẻ
hoặc lớp ngôn ngữ khi nói đến các lĩnh vực y học, lịch sử, địa lí… Lớp ngôn ngữ ấy
gợi tả vẻ đẹp tâm hồn của chàng trai Hà Nội vô cùng tinh tế, lãng mạn và trí thức.
Cũng có khi Tùng được khắc họa trong lớp ngôn ngữ xù xì, thô ráp, đậm chất chiến
trường: “Đéo phải ẩn nấp thì tao đéo đào nữa” [52, tr.84]; “Chuột chù chê khỉ
91
rằng hôi. Mẹ kiếp! Đúng là cái loại chuột chù” [52, tr.84]; “Tôi tỏ ra láu cá, sợ hãi,
cố đi thụt lùi lại bốn năm mét. Bàn chân tôi đặt lên vết chân thằng Rô đen in rõ trên
tro than, nó bị tan thây thì mình cũng chỉ bị thương là cùng” [52, tr.350]. Ở lớp
ngôn ngữ này, người đọc thấy được sự từng trải và trưởng thành của Tùng trong
chiến tranh. Và như vậy, qua lớp ngôn ngữ nhân vật, người lính Việt Nam hiện lên
một cách chân thực và toàn diện hơn, đối lập với kẻ thù bên kia chiến tuyến trong
tính cách cũng như vẻ đẹp tâm hồn.
Cô gái Sa Ly là người được khắc họa qua ngôn ngữ ít nhất, tiếng nói của cô
chỉ cất lên trong những trường hợp đặc biệt khẩn cấp nhưng lại thâu tóm được
những nỗi ám ảnh kinh hoàng, sự tuyệt vọng của con người trong hoàn cảnh trớ
trêu. Mỗi lớp ngôn ngữ của nhân vật lại phản ánh một trạng thái tâm lí, tính cách,
một số phận khác nhau. Qua ngôn ngữ, các nhân vật được cá tính hóa trong ý đồ
nghệ thuật của nhà văn.
Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn cũng đặc biệt chú ý khai thác ngôn
ngữ giàu tính đối thoại. Trong tác phẩm của Đoàn Tuấn, ông chủ tâm khai thác
những cuộc đối thoại ngắn của người lính để những trang viết trở nên sinh động hấp
dẫn, người đọc vừa có thể phát hiện đặc điểm tính cách nhân vật đồng thời nhận ra
những thông điệp nghệ thuật mà nhà văn muốn gửi gắm đến tác giả. Tuy nhiên, một
điểm đặc biệt quan trọng trong Mùa chinh chiến ấy là Đoàn Tuấn đã tạo ra một lớp
ngôn ngữ giàu tính đối thoại. Có nghĩa là sự đối thoại không chỉ dừng lại ở việc
chuyện người này đối thoại, trao đổi thông tin, bày tỏ quan điểm, bộc lộ cảm xúc
giữa người này với người kia một cách ngẫu nhiên, nhất thời mà quan trọng là đối
thoại về tư tưởng, quan điểm, cách nhìn về thế giới và con người ẩn đằng sau những
phát ngôn của họ. Đó là lúc nhân vật cất lên tiếng nói của mình, vừa hướng vào bản
thể để chất vấn, suy nghiệm, tự thú, vừa hướng ra bên ngoài để đối thoại, tranh biện,
phê phán. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn đã lắng nghe biết bao những cuộc
đối thoại của đồng đội để hiểu hơn đời sống bên trong của những người lính ấy.
Nhằm khắc họa toàn vẹn nhân vật, bên cạnh đối thoại, Sương Nguyệt Minh
và Đoàn Tuấn còn rất chú trọng đến độc thoại nội tâm, bởi đó là “ngôn từ trực tiếp
không diễn tả thành lời của nhân vật” [34, tr.114]. Độc thoại nội tâm chính là hình
92
thức để người lính nói lên những suy tư thầm kín của mình. Độc thoại nội tâm hay
tiếng nói bên trong của nhân vật mở ra đời sống tâm hồn của con người với đầy đủ
những cung bậc khác nhau: vui, buồn, hạnh phúc, hi vọng, thất vọng… Nhờ độc
thoại, hình tượng người lính hiện lên toàn diện hơn và người đọc có cơ hội hiểu sâu
sắc hơn về những người lính tham chiến tại chiến trường Tây Nam.
Trong Miền hoang, nhân vật Tùng nói nhiều suy nghĩ của mình về kẻ thù, về
sự hi sinh mất mát, về sự phi lí của chiến tranh và về chính bản thân mình với cả
những đau đớn, tuyệt vọng, cô đơn. Tùng được đặt trong mối quan hệ với kẻ thù và
những dòng suy tư của anh hướng về phía kẻ thù. Ở đó không hẳn là sự căm ghét,
anh bộc bạch những suy nghĩ nhân đạo cũng như suy tư sâu sắc về cuộc sống: “Tất
cả đều là sản phẩm của môi trường, hoàn cảnh sống. Thằng Rô áo đen cũng chỉ là
nạn nhân của một đời sống mù quáng, tăm tối”; anh cho Sa Ly cũng chỉ là nạn nhân
“của một cuộc nội chiến đẫm máu từ những cái đầu không tưởng về một xã hội
cộng sản Khmer chẳng cần trí thức” [52, tr.536 - 540]. Nếu như không có chiến
tranh, cuộc đời của họ sẽ không u tối, mù quáng, không bị ức hiếp, tủi nhục. Những
suy nghĩ ấy là những chiêm nghiệm của người lính về chiến tranh và con người
trong chiến tranh, giúp người đọc có cái nhìn thấu đáo hơn về chiến tranh. Qua việc
miêu tả nội tâm nhân vật, toàn bộ trạng thái, suy nghĩ, cảm xúc đều được bộc lộ một
cách cụ thể. Sương Nguyệt Minh đã thành công trong việc sử dụng độc thoại nội
tâm như một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong quá trình nhận thức của nhân
vật. Ông đi sâu vào thế giới nội tâm đầy bí ẩn để khám phá và hiểu nhân vật. Bởi
thế nhân vật của Sương Nguyệt Minh trở nên chân thực và toàn diện hơn.
Trong Mùa chinh chiến ấy, ngôn ngữ độc thoại cũng được Đoàn Tuấn sử
dụng khá hiệu quả. Ở điểm nhìn của nhân vật “tôi”, không ít lần Đoàn Tuấn bộc lộ
những suy nghĩ, những trăn trở về cuộc chiến, về con người… Đó có thể là những
đau đớn khi chứng kiến sự hi sinh của đồng đội: “Trên bộ quân phục còn mới của
em, có mùi mồ hôi, mùi máu, mùi thuốc nổ, mùi khói và mùi đất Anlong Veng, tôi
còn thấy vài cánh hoa nhỏ bám vào. Chắc khi vấp mìn, em đã nhìn thấy những cánh
hoa này? Nếu không có chiến tranh, không có mìn, chắc em sẽ cầm những bông hoa
này đi tặng cô gái nào đó, phải không Lũy? Giá không có người, tôi đã cúi xuống
93
hôn lên gương mặt em. Sao lại ra đi sớm thế Lũy ơi? Chói trong lòng tôi, đôi má
phính hồng dưới nắng mai rừng khộp. Ánh nắng ấy, những sợi lông tơ trên má hồng
ấy sao cứ in đậm mãi trong tôi? Sao tôi thấy thương cho tuổi trẻ của các em? Sao
tôi thấy tiếc cho cuộc đời các em?” [96, tr.299]. Đó là tiếng lòng, là tiếng nấc nghẹn
ngào đau đớn, là sự hòa quyện của nhiều cung bậc cảm xúc khi chứng kiến người
đồng đội trẻ của mình hi sinh.
Không chỉ hướng về đồng đội, Đoàn Tuấn cũng bộc lộ những suy tư, trăn trở
về cuộc chiến, về người lính, về hiện thực chiến trường. Trong suy nghĩ của Đoàn
Tuấn, cuộc sống của nhân dân Campuchia dưới thời Pol Pot hiện ra trong những
mất mát: “Họ cũng chẳng biết nhà mình giờ ra sao. Còn hay mất? Chiến tranh.
Phận người như chiếc lá. Cuốn bay, vui dập theo cơn gió thời cuộc” [96, tr.82]. Đó
là hậu quả nặng nề của chiến tranh, của họa diệt chủng mà Pol Pot gây ra. Trong
suy nghĩ của Đoàn Tuấn, chiến tranh luôn là những mất mát, đau thương và chuyện
sinh tử ở chiến trường luôn ám ảnh ông: “Cái chuyện sinh tử ở chiến trường, đúng
là từng giây. Giây trước sống, giây sau đã chết. Thoáng qua. Đơn giản. Ai nhớ thì
nhớ. Ai quên thì quên” [96, tr.286]. Không chỉ chiêm nghiệm về chiến tranh, mỗi số
phận người lính trong cuộc chiến ấy cũng khiến Đoàn Tuấn trăn trở. Mỗi sự kiện
cũng được Đoàn Tuấn mổ xẻ, phân tích, đánh giá theo quan điểm cả nhân của mình.
Có thể nói, qua dòng độc thoại nội tâm của nhân vật, người đọc có cơ hội được nhìn
sâu vào cuộc chiến. Chiến tranh hiện ra trong đủ mọi cung bậc, đủ mọi cảm xúc, đủ
mọi góc nhìn… chứ không chỉ là những lời kể mờ nhạt, những mô phỏng trên lí
thuyết. Hiện thực chiến tranh là hiện thực của những cảm nhận riêng, của những
con người đã và đang sống trong chiến tranh, chính vì vậy đó là hiện thực khốc liệt
và bi tráng nhất của cuộc chiến nơi “đất khách quê người”.
3.2. Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trần thuật
3.2.1. Người kể chuyện
Thuật ngữ người kể chuyện có từ năm 1940 nhưng đến cuối thế kỉ XX lý luận
về người kể chuyện mới phát triển. Đây là vấn đề được nhiều người quan tâm nhưng
cho đến nay khái niệm người kể chuyện vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn.
Theo Lê Bá Hán: “Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật
94
trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ
thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng của chính tác giả ngoài đời, có thể là
một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra, có thể là một người biết câu chuyện
nào đó. Một tác phẩm có thể có nhiều người kể chuyện” [29, tr.221]. Giáo sư Lê
Ngọc Trà cho rằng: “Người kể chuyện là thuật ngữ chỉ nhân vật đóng vai trò là chủ
thể của lời kể chuyện, là người đứng ra kể trong tác phẩm văn học” [93, tr.153]. Từ
những khái niệm trên, ta có thể hiểu người kể chuyện hay còn gọi là người trần
thuật là một nhân vật được hư cấu hoặc có thật; văn bản tự sự được thể hiện thông
qua hành vi ngôn ngữ mà anh ta tạo thành; người trần thuật thực hiện nhiệm vụ trần
thuật, truyền đạt, chỉ dẫn, bình luận,… những vấn đề được mô tả hoặc bình luận
trong tác phẩm.
Trong nghệ thuật tự sự, người kể chuyện đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Người kể chuyện là sản phẩm của sáng tạo nghệ thuật, là công cụ do nhà văn hư cấu
nên để kể chuyện. Việc nhà văn lựa chọn hình thức kể chuyện nào có vai trò đặc biệt
quan trọng trong tác phẩm, quyết định sự thuyết phục và thành công của câu chuyện.
Người kể chuyện trong tác phẩm tự sự có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau: người kể chuyện kể theo “kiểu khách quan hóa” với ngôi kể thứ ba và
người kể chuyện kể theo kiểu “chủ quan hóa” với ngôi kể thứ nhất. Với ngôi kể thứ
ba chủ thể hoàn toàn ở ngoài cốt truyện, không thuộc vào thế giới của các nhân vật
truyện mà chỉ thực hiện nhiệm vụ theo dõi nhân vật, dẫn dắt, đứng sau hành động
để quan sát và kể lại, không trực tiếp tham gia vào sự kiện, biến cố truyện. Chủ thể
kể chuyện chi phối toàn bộ tác phẩm từ lời dẫn chuyện, cách kể, cách tả đến cả lời
trữ tình ngoại đề. Người kể tuy ẩn tàng giấu mặt nhưng “biết tuốt” mọi chuyện diễn
ra với nhân vật. Ngược lại, với ngôi kể thứ nhất, câu chuyện được kể lại bởi một
người kể chuyện hiện diện như một nhân vật trong truyện. Người kể chuyện là một
nhân vật ở cấp độ hành động, tham gia vào mọi biến cố, sự kiện của câu chuyện. Đó
là câu chuyện mà chính người kể chuyện đã từng “nếm trải”, “trải nghiệm” hoặc
chứng kiến, quan sát. Với đặc trưng đó, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất có khả
năng khám phá chiều sâu tâm hồn, khai mở những vùng bí mật ẩn tiềm trong tâm
thức con người. Khi đó, người kể chuyện tham gia vào câu chuyện không chỉ với tư
95
cách là người kể lại câu chuyện từng chứng kiến và “trải nghiệm” mà qua đó, người
kể chuyện cũng chính là người bày tỏ một thái độ, quan điểm hoặc lập trường diễn
ngôn hướng tới nhân vật và sự kiện.
Điểm đặc sắc trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh là tác giả đã khai
thác triệt để ưu thế của người kể chuyện ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Ở ngôi kể thứ
ba, Sương Nguyệt Minh đã sử dụng 25/88 chương truyện. Người kể chuyện ngôi
thứ ba đã thâu tóm toàn bộ cuộc chiến tranh cứu nước Campuchia thoát khỏi thảm
họa diệt chủng cũng như kết nối cuộc đời của bốn nhân vật lạc rừng. Sương Nguyệt
Minh đã đan cài khéo léo người trần thuật ngôi thứ ba vào những chương mang cái
nhìn khách quan về cuộc chiến tranh và nhân vật. Tuy nhiên, điểm đặc biệt của
cuốn tiểu thuyết là Sương Nguyệt Minh đã lồng ghép năm điểm nhìn khác nhau qua
bốn người kể chuyện ngôi thứ nhất và người kể chuyện ngôi thứ ba. Trong 88
chương của cuốn tiểu thuyết, các nhân vật luân phiên nhau giữ vai trò người kể
chuyện. Trong đó, người kể chuyện ngôi thứ nhất đóng vai trò chủ yếu. Cụ thể:
Tùng 33/88 chương, Rô 10/88 chương, Sa Ly 8/88 chương và Lục Thum 6/88
chương, các chương còn lại dành cho người kể chuyện ngôi thứ ba. Ở đây, với lối
trần thuật ngôi thứ nhất, nhà văn đã để cho nhân vật tự nói lên tiếng nói của họ. Đó
là những câu chuyện về cuộc đời, số phận của chính họ với những tâm tư, cảm xúc
riêng. Và chính tiếng nói bên trong gắn với ngôi kể thứ nhất ấy, cuốn tiểu thuyết
của Sương Nguyệt Minh đã lôi cuốn người đọc, đưa người đọc vào những trải
nghiệm mới, những nhận thức mới về cuộc chiến.
Nhân vật xuất hiện đầu tiên với vai trò người kể chuyện xưng “tôi” là Tùng -
anh lính tình nguyện Việt Nam bị bắt làm tù binh. Qua lời kể của Tùng, chiến tranh
và số phận người lính hiện lên chân thực nhất. Trong những trang đầu tiên của tác
phẩm, qua lời kể của Tùng, người đọc đã thấy ngay bộ mặt của chiến tranh: “Lính
tráng trên chiếc xe quân sự thứ hai còn đang bàng hoàng thì… đánh uỳnh một phát.
Bánh ô tô đằng sau dính mìn, sức ép hất tung cái thùng xe và lính tráng lên trời.
Một bánh cao su và thằng Huy “đen” bị lực đẩy ném lên vòm cây cổ thụ cao đến
chục mét rồi mắc luôn trên đó. Lạ kỳ! Thằng Huy “đen” nằm vắt bụng lên cành
cây, chân và đầu gục rũ, mà vẫn không chịu rơi xuống. Đất đá, mảnh gỗ, mảnh sắt,
96
xác người, cánh tay, cẳng chân và thịt người rơi kêu… bịch bịch… xào xào…” [52,
tr.10]. Sự ác liệt, cam go của cuộc chiến hiện hữu ngay trước mắt Tùng, xâm lấn
vào từng cơ quan cảm giác của người lính tình nguyện Việt Nam: “Bỗng chốc, lòng
tôi hoang hoải, và rét lạnh thân thể. Những hình ảnh bắn, giết, tàn sát, chết chóc,
cái bụng xổ ruột gan cả đống của tên lính áo đen cầm “ống thổi” viên đạn ghim
vào trán thằng Tuấn B40, và những cái đầu đồng đội thành bãi thịt xương lẫn mảnh
mũ cối lổn nhổn… hiện lên liêu xiêu, dật dờ nhẩy múa trước mắt. Rùng cả mình”
[52, tr.42]. Và cũng trong chính lời kể ấy, người đọc thấy rõ được tính chất của cuộc
chiến cũng như tình thế bất lợi của quân tình nguyện Việt Nam: “Cuối cùng thì
quân áo xanh chúng tôi hết đạn trước. Lính quân tình nguyện chúng tôi tựa hồ
những con hổ bị cạy hết nanh, nhổ sạch móng vuốt. Thằng bị thương, thằng chết,
thương vong gần hết” [52, tr.17]. Chiến tranh đã đi đến hồi kết thúc, nhưng hiện
thực chiến trường vẫn khốc liệt, vẫn chất chứa đầy những mất mát, đau thương. Ở
đó, Tùng ý thức rõ hoàn cảnh của mình: “Tôi là một tên tù binh thực thụ? Phải làm
gì đây để tồn tại giữa bầy sói hoang đói khát và sinh tồn ở núi rừng hoang này?”
[52, tr.32]. Tùng bị đặt trong tình cảnh lạc đường - mong manh giữa sự sống và cái
chết, giữa rừng Miên chứa đầy hiểm nguy và bọn người mông muội, ngu xuẩn và
độc ác. Trong những ngày tháng lạc lõng ấy, Tùng đã không giấu giếm nổi cảm xúc
của một chàng thanh niên vừa rời ghế nhà trường tham gia chiến trận. Ở Tùng, mọi
cung bậc cảm xúc được hiện lên rõ nét. Người tù binh ấy không giấu nổi sự tức giận
vói kẻ thù: “Chết cha mày đi! Tôi lẩm bẩm chửi thầm”, “Một lũ rị mọ mê tín. Tôi
chửi thầm trong bụng” và cũng có lúc, nỗi sợ hãi, đơn độc xâm chiếm lấy anh:
“Nước mắt tôi chảy ròng trên má. Nỗi lo và sợ hãi đan xen. Không kịp nghĩ đến
đồng đội, đơn vị hay nỗi nhớ nhà nữa. Chỉ cảm thấy hơi lạnh toát tỏa ra từ cái lưỡi
lê tuốt trần… xa gần sau lưng” [52, tr.79]. Không ít lần, nỗi nhớ người yêu, nhớ gia
đình ùa về khiến Tùng rưng rưng cảm xúc: “Tầm này ở nhà mẹ tôi đã dọn cơm.
Không khí xã hội bao cấp vẫn còn len lỏi vào từng bữa cơm. Cơm độn ngô vàng
ươm. Rau muống luộc. Bát nước được chắt ra, vắt nửa quả chanh, vị thanh thanh.
Chan vào cát cơm độn, rồi lùa vào miệng vẫn cứ thấy ngon lành… Tôi còn ước ao
có đĩa đặc sản bánh tôm Hồ Tây. Gọi là bánh tôm Hồ Tây, nhưng lại bán trong
97
Quán Gió ở bán đảo nổi nhô giữa hồ Trúc Bạch. Đôi khi cuối tuần, tan học đói
meo, Thùy và bọn con gái phóng xe vù vù ra nhận chỗ ngồi trước ở sát mép hồ…”
[52, tr.225]. Lời kể như thước phim quay chậm về quá khứ với những kỉ niệm ngọt
ngào. Giữa hiện thực khốc liệt của cuộc chiến, người lính Việt Nam vẫn luôn hướng
về những kỉ niệm ở Hà Nội, vẫn luôn mong muốn được trở về với quê hương, gia
đình. Đó chính là vầng sáng lung linh trong tâm hồn người lính, giúp họ vượt qua
những khó khăn, khốc liệt của cuộc chiến để được trở về.
Qua lời kể của Tùng, người đọc thấy được quá trình đấu tranh của anh lính trẻ
để được trở về. Ngay từ lúc rơi vào tay địch, Tùng đã học được cách nhẫn nhịn, chịu
đựng từ anh Du: “Nếu không may rơi vào tay bọn Khmer Đỏ, bị chúng giết ngay thì
“chó chết hết chuyện” không nói làm gì, còn chúng bắt giữ phải tuyệt nhiên: Nhẫn
nhục. Chịu đựng. Không trêu tức. Không chống đối. Chấp hành lệnh của chúng một
cách khôn khéo, làm tan chảy lòng hận thù. Vì bọn thô lỗ man rợ ấy rất hay nổi nóng,
xọc cho một lưỡi lê, hoặc bổ cho nhát dao quắm là đi đời nhà ma” [52, tr.82]. Nhận
thức ấy đánh dấu sự trưởng thành, bản lĩnh trong tính cách của anh lính tình nguyện
Việt Nam. Thời gian khiến anh biết nhẫn nhịn, chịu đựng và khéo léo hơn trong cách
ứng xử với kẻ thù để tìm con đường sống, con đường trở về.
Người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng “tui” là Sa Ly, nạn nhân của bọn
Khmer Đỏ. Ngôi kể xưng “tui” của Sa Ly chỉ xuất hiện trong 8/88 chương truyện
của tiểu thuyết Miền hoang, nhưng lại thể hiện đầy đủ nhất sự khốc liệt của chiến
tranh qua số phận của người phụ nữ ở phía bên kia chiến tuyến. Sa Ly kể câu
chuyện của cuộc đời mình bắt đầu từ thực tại “Chỉ còn tui với ba người đàn ông”
[52,tr.45] với cảnh sống ê chề: “Nỗi bất hạnh khi tuổi thơ lên sáu là nỗi đau thương
mất mát người thân ruột thịt; còn nỗi khốn khổ bị ném vào giữa đám đàn ông như
một bầy lang sói đói khát là nỗi đau bẽ bàng, ê chề lại bắt đầu từ một năm trước,
tui cố quên đi mà lúc nào cũng hiện ra ám ảnh” [52, tr.45]. Từ giây phút ấy, Sa Ly
trở thành nạn nhân của chiến tranh. Một người phụ nữ yếu đuối giữa bầy lang sói
không thể bảo vệ chính bản thân mình. Sa Ly tận mắt chứng kiến cảnh gia đình
mình bị hành sát, bản thân chịu đựng những đau đớn giày vò và thực tại trong hoàn
cảnh lạc rừng phải đồng hành cùng ba người đàn ông, hai người cùng màu da nhưng
98
lại biến cô thành “công cụ” để thỏa mãn sự dâm dục thú tính, một người đàn ông
khác chủng tộc, tri thức và hiền lành lại không thể bảo vệ, cưu mang cô. Trong câu
chuyện về chính mình, Sa Ly đã lột tẩy bản chất của chiến tranh và sự khốc liệt của
nó đối với số phận của từng con người. Chiến tranh không chừa một ai và cuộc sống
của những người bên kia chiến tuyến cũng là những đau khổ, là mất mát, là những
ám ảnh, day dứt và tuyệt vọng. Tuy nhiên, trong hành trình tìm đường ra khỏi rừng
Miên, Sa Ly luôn là người bảo vệ, chở che cho Tùng. Cô luôn giữ trong mình
những ý nghĩ, những tình cảm đẹp nhất về người lính tình nguyện Việt Nam. Trong
cô hoàn toàn không có sự hằn thù với người phía bên kia chiến tuyến, ngược lại rất
nhiều lần Sa Ly cứu Tùng khỏi sự độc ác, man rợ của kẻ thù, cũng như nhiều lần
tìm cơ hội cho anh trốn thoát. Cô chia sẻ với anh cả những giọt nước quý hiếm cuối
cùng, chăm sóc anh như một người mẹ lúc đau ốm, chia sẻ gánh nặng trên vai người
lính tình nguyện Việt Nam… Qua những trang viết mà Sa Ly đóng vai trò là người
trần thuật, người đọc nhận thấy ánh sáng lấp lánh của vẻ đẹp nhân văn. Cô gái ấy là
nạn nhân của chiến tranh, là người bên kia chiến tuyến, nhưng biết tôn trọng lẽ phải
và có một trái tim nhân hậu, chan chứa yêu thương. Chính Sa Ly đã mang đến vẻ
đẹp nhân văn cho tác phẩm, mang đến niềm tin về bản chất tốt đẹp của con người.
Người kể chuyện tiếp theo ở ngôi thứ nhất là thằng Rô với lối xưng “tao” cộc
cằn, thô lỗ. Nếu Sa Ly là nạn nhân của Pol Pot thì thằng Rô chính là sản phẩm mà
bọn chúng tạo ra. Ngay từ lần xuất hiện đầu tiên, bản chất độc ác của hắn đã được
bộc lộ: “Tao nghĩ, phải phang toác đầu nó bằng lưỡi xẻng bộ binh. Không! Phải
băm vằm…” [52, tr.23]. Và trong suốt hành trình, hắn đã nói lên những suy nghĩ
man rợ, tối tăm trong con người hắn. Ở con người này, ban đầu vẫn tồn tại với bản
chất của con người, nhưng sống trong hoàn cảnh, môi trường tàn bạo của bọn Pol
Pot hắn dần bị tha hóa, hình hài biến dạng, phần “con” lấn át phần “người” trong
hắn để rồi bản chất thú tính luôn hiện hữu trong hắn. Hắn được đào tạo để phục
tùng, để xây dựng một xã hội lí tưởng. Chính vì vậy, trong vai người kể chuyện, hắn
trở thành nhân vật phát ngôn “sáng giá” cho lí tưởng chủ nghĩa xã hội “không cần
sách vở nhảm nhí của bọn trí thức ăn bám” [52, tr.159]. Hắn luôn tôn sùng lãnh tụ
một cách ngu muội “quyết noi gương học theo Lục Thum, để được đứng vào hàng
99
ngũ tinh hoa” như lãnh tụ Pol Pot quán triệt: “Trong số 5 triệu người Khmer, chỉ
cần 1 triệu người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dứt khoát, dứt khoát tao phải đứng
trong số một triệu người còn lại, chứ không thể nằm trong số bốn triệu như bọn bác
sĩ, kĩ sư, giáo viên, nghệ sĩ… bị coi là thừa ra” [52, tr.145]. Những suy nghĩ ấy
khiến hắn trở thành một công cụ, một cỗ máy giết người của bọn Pol Pot. Trong
suốt hành trình, hắn đã bộc lộ tất cả sự tàn ác, mông muội, ngu xuẩn của mình. Có
thể nói, thằng Rô là nhân vật được đào xới tận cùng chiều sâu nhân cách, qua đó
những câu văn càng có tính chân thực và thuyết phục bạn đọc hơn nhiều lần.
Nhân vật cuối cùng kể chuyện ở ngôi thứ nhất là Lục Thum - kẻ chỉ huy. Bản
chất lọc lõi, khôn ngoan nhưng vô cùng tàn ác được thể hiện rõ qua nhân vật này.
Lục Thum xuất hiện trong hoàn cảnh bị thương ở chân: “Cái chân đau buốt và lan
lên óc, tỏa vào nội tạng” [52, tr.89]. Bản thân hắn chịu đựng những giày vò, đau
đớn do chiến tranh gây ra. Hiện thực chiến trường hiện hữu ngay ở hình ảnh cái
chân của hắn, ở vết thương ngày đêm hành hạ hắn đến kiệt quệ. Và có lúc hắn phải
thốt lên: “Thà đánh nhau tanh bành chết mẹ nó đi còn nhẹ nợ. Thà rằng tự nguyện
cột chân vào chân súng 12ly7, chết oanh liệt giữa chiến trận còn cảm thấy vẻ vang.
Thà rằng, đánh trận thua, bị xử bắn còn được tiếng oai hùng. Thà rằng, nằm trên
bụng gái đẹp bị phạm phòng chết ngắc rồi người đời nguyền rủa còn được tiếng
chết vì gái xinh… Đằng này, ta chẳng khác gì con thú hoang bị trúng tên, sống
không xong chết chẳng nổi” [52, tr.269]. Tuy ở phía thắng, nhưng hắn cũng nếm
trải đủ mùi khổ cực, đau đớn do chiến tranh gây ra. Đó là cái giá phải trả cho chiến
tranh. Từ một kẻ được quân đội Việt Nam đào tạo bài bản chính quy, hắn trở thành
một kẻ ăn cháo đá bát và trở thành công cụ giết người của bọn Pol Pot. Trong suốt
quá trình lạc đường, với bản chất của một kẻ lọc lõi hắn luôn biết cách giữ được
quyền uy của mình và tỏ ra khôn ngoan “lạt mềm buộc chặt” với thuộc cấp của
mình: “Có lẽ tại ta cả mà thôi. Các em khốn khổ quá vì cái thân tàn ngắc ngoải của
ta. Vứt ta xuống đất, quẳng ta giữa rừng. Mặc cái thân ta cho chó sói ăn, cho mối
xông xương cốt… Các em còn trẻ, các em cần phải sống… Các em phải cưới vợ, lấy
chồng, sinh con đẻ cái, đừng vì ta mà cả lũ chết mục xương giữa rừng hoang” [52,
tr.219, 220]. Bằng sự lọc lõi, nhiều lần hắn đã kích thích được sự trung thành của
100
thuộc cấp. Song cũng có thể nhận thấy, bên cạnh hình ảnh một kẻ dày dạn kinh
nghiệm chiến trường vẫn có một Lục Thum tỏ ra sợ hãi ở nơi rừng Miên mông
muội: “Ta nghĩ đến một con sói độc bỏ đàn đi hoang. Thanh âm rú rít ghê rợn ấy
mỗi lúc một rõ hơn. Hú…hú…ú…ú. Ôi giời ơi! Kẻ thù không mong đợi đang đến.
Tiếng sói tru thảm thiết dội vào tai, như có cái kim nhọn đâm đâm vào màng nhĩ.
Mắt ta nhắm lại và giơ hai bàn tay xòe ra bịt vào tai cản âm. Âm âm. U u. Nỗi
trống vắng đơn độc lẫn sợ hãi khiến thân thể ta mềm nhũn ra, và chân tay rã rời. Sợ
người ta không sợ nhưng lúc này ta sợ chó. Giữa chốn rừng hoang mênh mông mịt
mù, chó có sức mạnh hơn người, ta không bằng con sói hoang. Trong cuộc đời
chinh chiến liên miên, chưa bao giờ ta rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng và rớt giá thê
thảm thế này” [52, tr.269]. Chính lối trần thuật của Lục Thum mang đến cho người
đọc cảm nhận rõ hơn về kẻ thù, bản chất của chúng được bộc lộ rõ nhất nơi rừng
Miên bí ẩn, hoang dã.
Kể chuyện ở ngôi thứ nhất khiến cho câu chuyện trở nên chân thực hơn.
Sương Nguyệt Minh đã để nhân vật tự soi rọi vào tâm can của mình để bộc lộ, bày
tỏ… Từ đó, người đọc có một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn ở cả hai phía ta và
địch. Mỗi số phận trong cuộc chiến ấy tạo nên một bức tranh đa màu, ở đó có những
khoảnh sáng, tối, đậm nhạt khác nhau. Mặt khác, với ngôi kể thứ nhất, tác phẩm đã
thu hẹp khoảng cách giữa nhà văn và độc giả, khiến họ tiến gần nhau hơn, cùng đối
thoại để tìm ra chân lí cuộc sống. Sương Nguyệt Minh bộc lộ xu hướng viết “như
một nhu cầu trình bày những trải nghiệm của bản thân”. Điều đó cho thấy rằng
Sương Nguyệt Minh là người rất chú ý khai thác tiếng nói cá nhân của mỗi con
người để tự họ bóc trần những ham muốn rất mực con người của mình.
Người kể chuyện là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, được nhà văn hư cấu
tưởng tượng để dàn dựng câu chuyện, qua đó thể hiện ý đồ của mình. Trong tiểu
thuyết, người kể chuyện thay mặt nhà văn trong việc trình bày thể hiện quan điểm
của mình, nhưng người kể chuyện không đồng nhất với tác giả. Tác giả là chủ thể
sáng tạo, người kể chuyện là nhân vật do tác giả tạo ra, đảm nhiệm việc kể, việc tổ
chức tác phẩm. Nhưng ở thể loại hồi ký, hình tượng tác giả và người kể chuyện là
một. Hình tượng tác giả đồng nhất với con người tác giả, với chủ thể sáng tạo và thể
101
hiện trực tiếp trên văn bản nghệ thuật.
Do đặc trưng thể loại, người kể chuyện trong tác phẩm hồi ký xuất hiện ở
ngôi thứ nhất một cái tôi thông suốt, kể về mình, về những người có mối quan hệ
với mình, những kỉ niệm, những ấn tượng,… Trần thuật ở ngôi thứ nhất là một điều
tất yếu trong hồi ký bởi câu chuyện được kể lại cũng là câu chuyện của một cá
nhân, người trong cuộc, là chứng nhân của những sự kiện quá khứ. Với hồi ký,
“câu chuyện về cá nhân trở thành tâm điểm của việc tổ chức trần thuật, cho việc
thể hiện quan điểm tự sự của tác giả”, thể hiện “mối quan hệ trực tiếp giữa nhân
vật người kể chuyện và các biến cố, sự kiện được kể” [77, tr.434].
Trong hồi ký Mùa chinh chiến ấy, người kể chuyện - chủ thể hồi ức giữ
quyền kể chuyện từ đầu đến cuối. Mạch trần thuật theo thời gian biên niên, về cơ
bản mọi chuyện đều được kể theo trình tự thời gian: từ biên giới vượt sông Mê
Kông; chiến dịch Anlong Veng đợt 1; chiến dịch Anlong Veng đợt 2; chiến dịch
Anlong Veng đợt 3… Trong dòng chảy kí ức, Đoàn Tuấn đã kể lại những trải
nghiệm của bản thân, những trận đánh với kẻ thù, những sự kiện chiến trường,...
Nhưng Đoàn Tuấn kể nhiều nhất về đồng đội của mình. Câu chuyện về mỗi số phận
người lính in đậm trên trang viết của nhà văn. Đó là câu chuyện về thủ trưởng Võ
Sỹ Lực - điểm tựa tinh thần của lính, về Nguyễn Mạnh Hùng - người anh hùng, về
Lũy - chàng thanh niên má phính lông tơ và còn biết bao những câu chuyện khác về
những người đồng đội. Trong câu chuyện của Đoàn Tuấn là những hào hùng của
một thời trận địa nhưng cũng chứa chất cả nỗi đau khi viết về những người đồng
đội. Chiến tranh chỉ là bối cảnh, là bức phông nền để Đoàn Tuấn kể về số phận của
người lính trong cuộc chiến đầy khốc liệt ấy.
Mặt khác, qua điểm nhìn của người kể chuyện, người đọc như vừa được xem
một thước phim quay chậm về cuộc sống chiến đấu của người lính nơi chiến trường.
Ở đó có muôn ngàn gương mặt, muôn ngàn cuộc đời và muôn ngàn câu chuyện. Đó
là những ngày tháng hành quân dài hàng trăm cây số, là những lúc phải đối diện với
đủ mọi kẻ thù, là sống trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn, là những trải nghiệm lần
đầu tiên, là hòa cùng cuộc sống của nhân dân Campuchia… Cũng trong ngôi kể thứ
nhất, nhân vật xưng “tôi” không hề giấu giếm cảm xúc của mình. Đọc cuốn hồi kí,
102
người đọc nhận ra nỗi nhớ đang được gói ghém cẩn thận khi Đoàn Tuấn kể lại
những ngày còn đi học, thấy được những niềm hạnh phúc bình dị, giản đơn khi
nghe những thanh âm trong trẻo ở chiến trường, cảm nhận được cả những nỗi đau
khi người đồng đội nằm xuống và cả những trăn trở, suy tư về cuộc đời, con người,
về sự sống, về lẽ sinh tử, về tình đồng chí, đồng đội… Cái “tôi” nhà văn đã đưa
người đọc trải nghiệm từ sự kiện này đến sự kiện khác, dẫn người đọc theo từng
cung bậc cảm xúc khi hòa mình vào cuộc sống chiến đấu trên chiến trường
Campuchia qua ngòi bút của nhà văn. Với ngôi kể thứ nhất, cuốn hồi ký của Đoàn
Tuấn đã làm sống dậy hiện thực, đồng thời bộc lộ cảm thức, nhãn quan, luận giải về
hiện thực phức tạp của chiến tranh và chân dung đa chiều của người lính thông qua
lời kể, lời miêu tả và lời bình luận. Qua cái “tôi” hồi ức, chiến tranh hiện lên chân
thực hơn, có bi thương nhưng không bao giờ bi lụy.
Có thể thấy, người kể chuyện và ngôi kể có vai trò quan trọng trong sáng tạo
nghệ thuật. Nhà văn chỉ tạo nên thành công cho tác phẩm của mình qua việc lựa
chọn người kể chuyện, ngôi kể và gắn với điểm nhìn hợp lí. Việc xem xét người kể
chuyện, ngôi kể không chỉ giúp ta thấy được tài năng của người cầm bút mà còn
thấy được thái độ, lí tưởng, quan điểm của người cầm bút. Đọc Miền hoang và Mùa
chinh chiến ấy, người đọc nhận ra những cách tân đáng kể trong việc lựa chọn ngôi
kể của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Cả hai nhà văn đã thể hiện sự sáng tạo
trong cách khai thác và phản ánh hiện thực chiến tranh, viết về chiến tranh bằng sự
thật, bằng lương tri của người lính vừa đi ra khỏi cuộc chiến.
3.2.2. Điểm nhìn trần thuật
Hiện nay, thuật ngữ điểm nhìn đã trở nên quen thuộc trong nghiên cứu văn
học nói chung và nghiên cứu tự sự học nói riêng. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,
điểm nhìn là “vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác
phẩm”; “Điểm nhìn nghệ thuật có thể hiểu là điểm rơi của cái nhìn vào khách
thể”; “Điểm nhìn nghệ thuật biểu hiện qua các phương tiện nghệ thuật, ngôi kể,
cách gọi sự vật, cách dùng từ ngữ, kiểu câu… Điểm nhìn cung cấp một phương diện
để người đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặc điểm của phong cách
ở trong đó” [29, tr.113]. Tác giả Trần Đình Sử quan niệm: “Điểm nhìn văn bản là
103
phương thức phát ngôn trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế
giới của tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh
giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới” [76]. Từ những nhận định mang tính khái
quát thì điểm nhìn là vị trí của người kể chuyện trong mối quan hệ với câu chuyện
của anh ta. Người ta phân biệt điểm nhìn với ba loại chính: người kể chuyện toàn tri
(người kể chuyện thông suốt mọi sự), người kể chuyện ngôi thứ ba và người kể
chuyện kể ngôi thứ nhất.
Sau năm 1975, tinh thần dân chủ hóa văn học đã kích thích tư duy đối thoại
trong văn học, điểm nhìn trần thuật được sử dụng linh hoạt và đa dạng, đặc biệt
trong những tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh. Chiến tranh được thể hiện qua
điểm nhìn của người trong cuộc lẫn người ngoài cuộc, của nhân vật thực lẫn siêu
thực và của cả bên ta lẫn bên địch… Mỗi loại điểm nhìn sẽ góp phần tái hiện một
“bộ mặt” khác nhau của chiến tranh và sự thực về chiến tranh sẽ được khắc họa một
cách toàn diện và sâu sắc hơn. Có thể nói, đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật là xu
hướng phổ biến về chiến tranh sau năm 1975. Nó vừa thể hiện những cảm nhận
khác nhau về cùng một cuộc chiến tranh, vừa phù hợp với hiện thực cuộc sống vốn
bộn bề và phức tạp. Đồng thời, với sự luân phiên điểm nhìn trong tác phẩm, tâm thế
đối thoại và tinh thần dân chủ thực sự được đề cao.
Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật biểu hiện tập trung ở các tiểu thuyết có
nhiều người kể chuyện và Miền hoang của Sương Nguyệt Minh là một cuốn tiểu
thuyết như thế. Trong Miền hoang xuất hiện 4 người kể chuyện xưng “tôi” bên cạnh
người kể chuyện ngôi thứ ba, 5 điểm nhìn đời sống và cuộc chiến khác nhau. Trong
đó điểm nhìn của người kể chuyện chiếm 31/88 chương, Lục Thum 6/88 chương,
Tùng 33/88 chương, Rô 10/88 chương, Sa Ly 8/88 chương. Việc trần thuật từ điểm
nhìn của nhiều nhân vật đã tạo ra nhiều góc quét khác nhau, làm cho đối tượng miêu
ta trở nên đa chiều. Có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cuộc chiến tranh. Bởi thế,
cái nhìn về chiến tranh trở nên chân thực và toàn diện hơn. Mặt khác, trong 88
chương tiểu thuyết, năm điểm nhìn này luân phiên, thay nhau kể chuyện. Mỗi nhân
vật tự kể câu chuyện của mình, những nhận xét, cảm nhận, suy nghĩ về đối phương,
đặc biệt là những dòng độc thoại nội tâm, nhờ đó hoàn cảnh, số phận của những con
người trong cuộc chiến đấu được thể hiện một cách chân thực và sinh động nhất.
104
Hiện thực chiến tranh vì thế cũng hiện ra một cách toàn diện, sâu sắc nhất.
Điểm nhìn của nhân vật Tùng được thể hiện trong các chương 2, 6, 8, 11, 14,
16, 20, 21, 23, 25, 27, 29, 30, 33, 37, 48, 50, 52, 55, 57, 59, 62, 66, 68, 70, 73, 75,
77, 79, 81, 83, 85, 87. Ở các chương này, Tùng vừa đóng vai trò là nhân vật chính,
trực tiếp tham gia vào diễn biến, sự kiện xảy ra trong tác phẩm, vừa đóng vai trò là
người kể chuyện. Tùng kể câu chuyện về cuộc đời mình và câu chuyện của những
nhân vật khác. Mỗi câu chuyện gắn bó với những cảm xúc, ký ức và quan điểm
riêng của mỗi con người về chiến tranh, về cuộc đời, về lẽ sống và cả những chiêm
nghiệm, triết lí riêng tư. Tùng có cái nhìn chiến tranh của một người lính trí thức
tham chiến ở bên ngoài biên giới. Hiện thực chiến tranh qua góc nhìn của một anh
lính trẻ trở nên chân thực và sâu sắc hơn. Điểm nhìn của Sa Ly nằm ở các chương 7,
15, 24, 32, 39, 43, 63, 71. Cô y tá người Khmer xinh đẹp, bị câm, độc thoại nội tâm
xưng “tui” là cái nhìn chiến tranh của một người con gái yếu ớt, bị giày vò, quăng
quật tan nát. Điểm nhìn của Rô trong các chương 4, 9, 18, 34, 40, 42, 45, 47, 60, 65.
Thằng Rô thô lỗ, cục cằn, vô học xưng “tao” thì chỉ với cái nhìn trận mạc của một
tên lính áo đen. Điểm nhìn của Lục Thum ở các chương 12, 36, 44, 46, 53, 69. Lục
Thum - Ông Lớn bị thương giập nát chân xưng “ta” với cái nhìn chiến tranh của
viên chỉ huy cấp trung đoàn tinh quái. Và cuối cùng là tác giả nhìn cuộc chiến tranh
ở chiến trường K. Tất cả các nhân vật được “ném” vào chung một không gian, rồi
thay nhau kể chuyện, độc thoại trong thời gian đồng hiện. Năm người kể chuyện,
năm cách cảm nhận, năm cái nhìn chiến tranh tạo nên những góc nhìn khác nhau về
cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến liên miên, dai dẳng ở chiến
trường K một cách khách quan. Tuy số lần xuất hiện và vai trò kể chuyện của mỗi
người không giống nhau, song phải nói rằng đây là phương thức tự sự đa tầng bậc
rất độc đáo của tác giả, qua đó khẳng định sự cách tân, sáng tạo của Sương Nguyệt
Minh trong tiểu thuyết Miền hoang.
Theo nhà phê bình Lã Nguyên “điểm độc đáo trong thiên truyện của Sương
Nguyệt Minh là nghệ thuật tổ chức điểm nhìn và chuyển đổi điểm nhìn trần thuật”
[55]. Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật khiến bức tranh thế giới được trần thuật
trong Miền hoang hiện lên như vũ trụ trong kính vạn hoa, giúp cái “tứ” trung tâm
105
nói về thân phận bi hài của những người lạc đường, lạc loài tìm thấy một hình thức
biểu hiện độc đáo. Mặt khác, bức tranh về chiến trường K được nhìn từ nhiều góc
độ, trở nên đa sắc, đa cung bậc tình cảm hơn.
Với hồi ký Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, điểm nhìn nghệ thuật gắn
liền với người kể chuyện ở ngôi thứ nhất với cái tôi kí ức có khả năng chiếm lĩnh và
chi phối mọi yếu tố trong tác phẩm, bởi lẽ “Đối với hồi ký, câu chuyện về cá nhân
trở thành tâm điểm của việc tổ chức trần thuật, cho việc thể hiện quan điểm tự sự
của tác giả, thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa nhân vật người kể chuyện với các
biến cố, sự kiện được kể” [77, tr.434]. Từ đó, điểm nhìn đầu tiên chính là điểm nhìn
của nhân vật xưng “tôi”. Qua điểm nhìn thứ nhất của nhân vật “tôi”, người đọc có
thể hình dung một cách chính xác về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam từ
góc nhìn của người trong cuộc.
Tuy nhiên, trong cuốn hồi ký, Đoàn Tuấn đã khéo léo đan xen nhiều điểm
nhìn khác nhau của các nhân vật. Ở từng mẩu chuyện, có sự luân phiên điểm nhìn,
lời người kể chuyện, lời nhân vật đan xen… Có khi cùng một sự việc nhưng có
nhiều điểm nhìn đan xen. Chẳng hạn trong trường hợp anh Thiệu, quê Hải Phòng
“không chịu đi tuần, đi phục cùng anh em”, và khi đơn vị phản ánh lên tiểu đoàn thì
Thiệu “Dọn ra gốc cây. Căng tăng, mắc võng sống một mình”. Trong trường hợp
này, khi đọc những lá thư Thiệu viết cho mẹ, nhân vật “tôi” đã báo cáo cấp trên:
“Thưa thủ trưởng, em thấy một người lính đã viết lá thư cho mẹ với lời lẽ như vậy,
không thể là người lính tồi được. Thủ trưởng nên tìm nguyên nhân tại sao”. Trong
khi nhân vật “tôi” có cái nhìn cảm thông, thấu hiểu thì thủ trưởng lại kết luận:“Nào
là tôi mất quan điểm, lập trường; nào là tôi không biết phân biệt thế nào là bản
chất, thế nào là hiện tượng; nào là tôi chắc có cảm tình với lính Hải Phòng vì Hà
Nội và Hải Phòng là hai thành phố lớn…” [96, tr.258]. Sự luân phiên điểm nhìn
khiến vấn đề được nhìn nhận một cách đa chiều hơn, gương mặt chiến tranh và chân
dung người lính được khắc họa chân thực hơn.
Có thể thấy, việc trần thuật từ điểm nhìn của nhiều nhân vật đã tạo ra nhiều
góc quét khác nhau, câu chuyện quá khứ không đơn điệu, hiện thực chiến tranh và
chân dung nhân vật trở nên sinh động. Có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cuộc
106
chiến tranh hiện ra. Chiến tranh không chỉ có một khuôn mặt duy nhất. Sự đa dạng
hóa điểm nhìn với nhiều nỗ lực cách tân nghệ thuật đã khiến cho tác phẩm của
Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn tái hiện hiện thực chiến tranh một cách chân
thực, toàn diện và sâu sắc.
Bên cạnh sự đa dạng hóa điểm nhìn, trong văn xuôi hậu chiến xuất hiện sự
dịch chuyển điểm nhìn nghệ thuật từ bên ngoài vào điểm nhìn bên trong. Lối trần
thuật này khiến đối tượng được trần thuật hiện lên đa chiều, đa diện và chân thật.
Trong tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, ban đầu người kể chuyện
xuất hiện với điểm nhìn bên ngoài, nhưng càng đi sâu vào trong truyện thì hình
tượng người trần thuật ngôi thứ ba xuất hiện với điểm nhìn bên trong càng dày đặc.
Người kể chuyện ngôi thứ ba đi sâu khai thác, lột tả thế giới tâm lí của nhân vật,
hiểu biết về nhân vật như chính nhân vật hiểu biết về nó. Không ít đoạn văn, người
kể chuyện đã đi sâu vào tâm lí của nhân vật. Chẳng hạn, trong đoạn miêu tả tâm lí
của Sa Ly: “Cô y tá câm lặng người. Không phải lần đầu tiên cô y tá câm nghe
ngôn ngữ thô tục bốp chát này, trong cảnh đường cùng chẳng biết thương nhau lại
còn sát phạt. Cô bỏ đi đến đám cỏ bên cạnh ngồi, trân trân nhìn cái mặt thư sinh
(...) Lạ thật, nắng mưa trận mạc không làm cho anh lính Việt thành người từng trải,
tầm tã, dãi dầu. Sao lại có gương mặt quen quen đến thế? Cô y tá câm nhắm mắt
lại, không dám nghĩ tiếp” [52, tr.72]. Tất cả những uất ức, tủi nhục, sợ hãi của nhân
vật cũng được hiện lên qua lời kể của người kể chuyện ngôi thứ ba. Không ít lần,
người kể chuyện đã khắc họa tâm lí của nhân vật Tùng: “Ứa nước mắt. Tùng ngồi
dậy ôm bàn chân tưởng như bị gãy lặt ra. Nhức nhối, cơ cực làm sao! Cha mẹ ơi!
Sao con khổ thế này”[52, tr.207]. Những trăn trở của nhân vật cũng được phơi bày
trên trang viết qua lời kể chuyện của người kể chuyện ngôi thứ ba: “Anh tự giận
mình: sao không nghĩ đến chuyện gì sẽ xảy ra với cô gái sau khi trốn chạy. Nhưng
rồi anh lại tự nhủ: làm thằng lính chiến không nên ủy mị, yếu đuối nửa vời. Chiến
tranh là mạnh được yếu thua. Phải biết trân trọng từng giọt sống, nhưng cũng phải
biết tận dụng mọi cơ hội sống. Đôi khi trong chiến trường, con người phải ác để tồn
tại, thì cái thiện ở chiến trường có đất sống không?” [52, tr.241]. Sương Nguyệt
Minh đã để Tùng trải qua những day dứt, dằn vặt, cật vấn để đi đến tận cùng bản
107
chất của chiến tranh. Có thể nói ở đây, điểm nhìn của nhân vật và điểm nhìn của
người kể chuyện là một. Người kể chuyện thấu hiểu nhân vật và có khả năng lột tả
những tầng bậc sâu xa trong tâm hồn nhân vật. Có thể nói, kĩ thuật tổ chức điểm
nhìn từ bên ngoài vào điểm nhìn bên trong đã tạo điều kiện cho nhà văn đi sâu
khám phá tâm hồn nhân vật, hòa âm với tiếng nói bên trong nhân vật.
Trong Mùa chinh chiến ấy, từ điểm nhìn bên ngoài, Đoàn Tuấn đã tái hiện
lại không gian thiên nhiên, không gian sinh hoạt và bối cảnh của những trận đánh ác
liệt, những chiến dịch gian khổ như chiến dịch Anlong Veng, chiến dịch đánh lên
cao điểm 547… Nơi đó có những hiểm nguy rình rập trong rừng sâu mịt mùng nước
bạn, những cạm bẫy do bom mìn, chỉ cần một bước chân chạm nhẹ cũng đủ cướp đi
sinh mạng của những người lính trẻ. Nơi đó có những cơn mưa bom bão đạn dội
bốn bề tứ phía, là những cuộc chiến một mất một còn với kẻ thù. Hết mùa mưa lại
mùa khô, cái nóng ngột ngạt, thiếu thốn trăm bề… Hiện thực chiến tranh được khắc
họa một cách trần trụi, khách quan nhất. Chẳng hạn sự kiện đánh vào sân bay Stung
Treng, Đoàn Tuấn đã tái hiện một cách sống động, khiến người xem cứ ngỡ như
được quan sát cận cảnh cuộc tấn công anh dũng của những anh lính Việt Nam:
“Gặp sân bay, chúng tôi dàn trận. Tôi chỉ thấy trước mắt là rừng cây, chẳng thấy
đường băng hay sân bay đâu. Tôi đang ngó nghiêng thì có lệnh nổ súng. Nhìn sang
bên phải, thấy lính trinh sát trung đoàn đang lừng lững tiến vào. Đi đầu là Châu,
lính Hà Nội, nhà ở khu Bách Khoa. Tôi nhận ra Châu vì trên trán nó có vết chàm
đỏ. Mấy ngày nay không gặp địch nên lính ta rất chủ quan. Châu vẫn để AK trên
vai, như đi chỗ không người. Bỗng Châu trúng đạn. Một viên vào giữa trán. Nó ngã
xuống. Vị trí của tôi cách đó không xa. Chỗ tôi lại cao nên nhìn thấy hết” [96,
tr.45]. Những khoảnh khắc được ghi lại như những bản tốc kí về chiến trường, diễn
biến của chiến tranh được cụ thể hóa trong điểm nhìn của tác giả.
Không chỉ dừng lại ở điểm nhìn bên ngoài, trong hồi ký của Đoàn Tuấn,
người đọc còn thấy những băn khoăn, trăn trở, cật vấn của người viết. Tác phẩm đã
bộc lộ cái nhìn của người viết, của cái tôi tác giả, những suy ngẫm, trăn trở về chiến
tranh, về lẽ sống, về tình cảm… Đó là những suy nghiệm về đời người trong “Cái
bật lửa vĩ đại”; khát vọng hòa bình, sự hồi sinh của sự sống trong “Đốt vỏ trai làm
108
vôi”, “Tiếng hát kì diệu”; là tình yêu quê hương trong “Đắp đất sét”; là những bài
học về lòng kiên trì, nhẫn nại “nửa đêm múc nước”, là tình quân dân “Lục Thum bắt
đỉa”,… Không ít lần, người viết đã đi sâu vào cảm xúc, vào đời sống tính thần của
người lính hoặc bộc bạch những suy ngẫm về chiến tranh, về người lính, về lẽ sống
chết, về tình đồng đội, tình cảm với quê hương… Ở những góc nhìn ấy, người đọc
có cơ hội nhìn sâu hơn vào đời sống tâm hồn của người lính, về những góc khuất
của chiến tranh. Có thể nói, dịch chuyển điểm nhìn vào bên trong nội tâm nhân vật,
tác giả đã nhìn sâu tận đáy tâm hồn nhân vật những khát vọng, đau đớn, nhớ mong,
day dứt, tuyệt vọng,… và số phận con người trong thời chiến hiện lên một cách
chân thực hơn, gần gũi hơn, đời hơn.
Cả Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đều có những nỗ lực cách tân nghệ
thuật, đặc biệt ở điểm nhìn trần thuật. Với những sáng tạo khi sử dụng điểm nhìn
trần thuật, hai nhà văn đã cung cấp cho người đọc một cách nhìn chân thật về cuộc
chiến đã qua, hiểu hơn cả bề sâu, bề sau và bề xa của cuộc chiến tranh bảo vệ biên
giới Tây Nam.
3.3. Ngôn ngữ trần thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ngôn ngữ trần thuật “là phần lời văn độc
thoại thể hiện quan điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện (sản phẩm sáng
tạo của tác giả) đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất
trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ”
[29, tr.184]. Ngôn ngữ trần thuật là ngôn ngữ mà nhà văn dùng để xây dựng câu
chuyện (nó bao gồm ngôn ngữ của người trần thuật và ngôn ngữ của nhân vật).
Ngôn ngữ trần thuật giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống phương thức
tự sự, nó là sự thể hiện trên nền hiện thực toàn bộ tư tưởng, tình cảm của nhà văn,
giọng điệu tác phẩm, cấu trúc tác phẩm và cho thấy điểm nhìn trần thuật của nhà
văn, và do đó, qua ngôn ngữ trần thuật, người đọc nhận ra phong cách, cá tính của
tác giả.
Sau năm 1975, văn học về đề tài chiến tranh đã có sự chuyển biến mạnh mẽ
trong việc kiến tạo ngôn ngữ mới về chiến tranh. Văn học đã “vượt thoát” lối viết ca
ngợi một chiều, thi vị hóa giản đơn, để nhìn trực diện vào bản chất hiện thực và con
109
người. Trong các tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh, các nhà văn đã chối bỏ
ngôn ngữ diễm lệ, thi vị, lãng mạn và khai thác ngôn ngữ đời thường với tất cả
những mặt xù xì, thô nhám như nó vốn có. Những cách tân về ngôn ngữ khiến cho
tính hiện thực ngồn ngộn trong các tác phẩm, vừa gợi lại không khí một thời, vừa
mang hơi thở của thời đại. Nhờ đó, hiện thực chiến tranh và chân dung người lính
hiện lên chân thực, sinh động, sắc nét.
3.3.1. Ngôn ngữ đặc tả không gian chiến trường
Các tác phẩm viết về chiến tranh mang đến cho người đọc những trải nghiệm
mới về một thời kì lịch sử của dân tộc. Những cuộc chiến đi qua với tất cả những
khắc nghiệt, dữ dội; những bản anh hùng ca hòa lẫn những mất mát, đau thương...
Hiện thực chiến tranh đã được tái hiện lại một cách chân thực, sâu sắc qua lớp ngôn
ngữ đặc tả không gian chiến trường của các nhà văn. Bằng ngôn ngữ, các nhà văn
đã tái hiện lại một cách chân thực bộ mặt của chiến tranh với tất cả những dữ dội,
khốc liệt nhất.
Như đã nói ở trên, văn học viết về chiến tranh biên giới Tây Nam không
nhiều so với văn học viết về hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ. Chính vì
vậy, hiện thực chiến tranh biên giới Tây Nam chưa được khai thác triệt để. Mười
năm chiến đấu với vai trò “giúp nước bạn cũng là tự bảo vệ mình”, quân đội tình
nguyện Việt Nam đã phải “gồng gánh” bao đau thương, mất mát, không chỉ là sự dữ
dội do bom đạn của kẻ thù, đó còn là những bí ẩn của rừng sâu, những khắc nghiệt
của thời tiết, những hiểm nguy dồn nén… Và người đọc rất cần những tác phẩm có
thể viết một cách sâu sắc nhất, toàn diện và chân thực về hiện thực chiến đấu ấy. Để
làm được điều đó, ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt là ngôn ngữ đặc
tả không gian chiến trường. Ngôn ngữ ấy sẽ thổi hồn vào tác phẩm để người đọc
được sống với những năm tháng hào hùng của dân tộc khi đặt trên vai mình nghĩa
vụ quốc tế thiêng liêng.
Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn
ra đời có đóng góp không nhỏ cho văn học viết về chiến tranh, đặc biệt mang đến
một cách nhìn sâu sắc về chiến tranh biên giới Tây Nam. Qua hai tác phẩm, người
đọc không chỉ được chứng kiến sự dữ dội, cam go, ác liệt từ bom đạn của kẻ thù mà
110
còn có cái nhìn chân thực hơn về không gian chiến trường chứa đầy bí ẩn, bất trắc.
Mỗi người lính Việt Nam khi tham chiến không chỉ đối diện với mìn, với bom đạn
với kẻ thù Pol Pot mà còn “chiến đấu” với thiên nhiên khắc nghiệt nơi rừng Miên
hoang độc, nơi chất chứa tất cả những hiểm nguy, bí ẩn luôn sẵn sàng “nuốt chửng”
những người lính trẻ.
Ở những trang viết đầu tiên trong Miền hoang, lớp ngôn ngữ chiến trường đã
được Sương Nguyệt Minh khai thác triệt để khi tái hiện lại cuộc phục kích của tàn
quân Pol Pot vào hai chiếc xe của quân tình nguyện Việt Nam: “Một tên lính áo đen
phóng quả đạn B40 tạt ngang vào chiếc xe Zin công xuất 150 mã lực đi đầu đang rồ
rồ chở quân áo xanh. Bắn hơi sớm, quả đạn vút qua đầu chiếc xe quân sự, bay sang
bên kia con đường xe bò kéo bỏ hoang nổ tung ụ mối” [52, tr.9]. Một loạt những
động từ mạnh được sử dụng “phóng”, “tạt ngang”, “vút”, “bay” mang ấn tượng về
tốc độ nhanh, mạnh do vũ khí kẻ thù gây ra. Tiếp theo là “Một đợt bắn cấp tập vào
khu đền tháp cổ. Cối cá nhân rót vào các nơi trú ẩn của bọn tôi. Thêm vài chiến
binh nữa nằm vật ra, máu đỏ bết ở mặt, ở ngực, tay từ từ buông súng. Thấp thoáng
một bóng người nhảy, chạy nhoàng nhoàng qua các hòn đá lăn lóc trong nắng
chiều trước mặt tôi”[52, tr.15]. Những câu văn trùng điệp, nhịp nhanh, mạnh, dồn
dập tạo ra âm hưởng của chiến trận cam go. Người đọc như được sống lại trong
không khí ồn ào, náo loạn và đầy nguy hiểm của cuộc chiến, hình dung được tình
thế của quân ta và sự tấn công dồn dập của quân địch. Đoạn văn giống như một
thước phim chân thực về chiến tranh: hình ảnh chân thực, sự kiện chân thực, từng
số phận cũng hiện lên một cách cụ thể dưới làn bom đạn của kẻ thù: “Lính tráng
trên chiếc xe quân sự thứ hai còn đang bàng hoàng thì… đánh uỳnh một phát. Bánh
ô tô đằng sau dính mìn, sức ép hất tung cái thùng xe và lính tráng lên trời. Một
bánh cao su và thằng Huy “đen” bị lực đẩy ném lên vòm cây cổ thụ cao đến chục
mét rồi mắc luôn trên cây, chân và đầu gục rũ mà vẫn không chịu rơi xuống. Đất
đá, mảnh gỗ, mảnh sắt, xác người, cánh tay, cẳng chân và thịt người rơi kêu bịch…
xào xào…” [52, tr.10]. Ngôn ngữ chân thực đến từng chi tiết, những động từ mạnh
được sử dụng triệt để, nhịp câu ngắn, dồn dập,... khiến người đọc như căng mình
dõi theo cuộc chiến đầy cam go, ác liệt. Đó là trận chiến một sống một còn với kẻ
111
thù, là cuộc chiến mà mỗi người lính trong trung đoàn của anh Du phải gánh chịu sử
hủy diệt từ bom đạn của kẻ thù. Những tấm thân không còn lành lặn, những cái chết
đau đớn, muôn kiểu, người và vật đều tan tành: “Bỗng dưng, ầm…ầm…ầm. Cái xe
bò kéo chạy sau lăn phải mìn, một quả kích nổ, kích nổ quả thứ hai nữa. Đất cát, gỗ
thùng, gỗ càng, con bò gầy và hai xác chết… tung lên trời, rồi rơi xuống bịch
bịch… .lả tả…[52, tr.456]. Chiến tranh không chừa một ai, từ những người lính tình
nguyện Việt Nam đến nhân dân Campuchia bất hạnh.
Bất kì cuộc chiến nào cũng gây ra những đau thương. Bất kì bom đạn nào
cũng khiến cho con người mất mát, hi sinh. Thế nhưng, điều khiến chiến trường K
trở thành nỗi ám ảnh chính bởi một thứ vũ khí hủy diệt: mìn. Mìn với nhiều loại
khác nhau, mìn được cài theo đủ cách: “KP2, K65, mìn muỗi, mìn cóc, mìn lá, mìn
tăng... tất cả các loại mìn đều ghi dòng chữ „made in China‟. K65, KP2 thì nảy
ngang người mới nổ. Khi nổ nó phá tan ổ bụng hoặc làm cụt đôi chân của người
lính. Và không chỉ tiêu diệt một người mà còn làm 5 - 7 người khác bị thương, bởi
sức công phá của nó khá mạnh. Trong những trái mìn này, bọn địch còn gài thêm
chất độc hóa học cực mạnh. Vì vậy, dù vết thương đã được vệ sinh, băng bó, nhưng
chất độc ngấm vào cơ thể, lính tráng vẫn tử vong. Còn các loại mìn khác thì nhiều
vô kể. Có hôm, trên con đường từ C7 lên Cam-tuất dài chừng 14 km, chúng tôi tháo
được gần 200 trái mìn cóc. Đó là loại mìn chỉ nhỉnh hơn bao diêm một chút. Nhưng
nếu đạp phải, bàn chân bay như chơi. Tôi cũng chưa thấy ở đâu bọn địch cài mìn
tăng để giết hại lính bộ binh như bọn Pol Pot ở Anlong Veng” [96, tr.209]. Sự nguy
hiểm của từng loại mìn cộng với sự nham hiểm của kẻ thù khiến nhiều chiến sĩ của
ta không kịp trở tay. Người lính của chúng ta hi sinh vì mìn không ai giống ai bởi:
“Cách bọn địch gài mìn thì thuộc hàng siêu đẳng. Chúng chôn dưới đất, trên lối
mòn rồi phủ cát lên. Lính ta đi không chú ý, giẫm liền. Hoặc chúng chôn dưới đất,
rồi phủ lá rừng lên. Mà lá rừng thì bạt ngàn. Để ý làm gì. Lính ta đi, giẫm lên lá
tưởng an toàn nhưng vừa nhấc chân lên thì nghe ầm một tiếng. Thế là ra đi”[96,
tr.210]. Hàng trăm kiểu chết khác nhau do mìn. Đấu tranh với kẻ thù, chúng ta
không chỉ đối đầu với vũ khí hủy diệt mà hơn nữa, chúng ta phải chiến đấu với một
kẻ thù nham hiểm, mưu mô. Không gian chiến trận nơi rừng Miên bởi thế mà chất
112
chứa đầy hiểm nguy đối với người lính tình nguyện Việt Nam.
Không gian chiến trường dữ dội, khốc liệt không chỉ bởi bom mìn của kẻ
địch mà còn được đặc tả trong những bí ẩn, hiểm nguy của rừng Miên hoang độc.
Rừng Miên vào mùa khô với “Mặt trời ong ong đổ lửa. Không một gợn mây, nắng
như nung người” [52, tr.152]. Những miêu tả ngắn gọn, chính xác ấy đã giúp người
đọc hình dung được tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Cái
nắng, cái nóng của rừng Miên khiến con người rơi vào hoàn cảnh cùng cực: “Nóng
âm âm, anh có cảm giác như mình là con cá chuối bị xâu vào que rồi nướng trong
hơi nóng. Lưng không còn ướt nữa, còn mồ hôi nữa đâu mà ra. Miệng khô như cánh
đồng hạn. Giá có ngụm nước thì cái lưỡi sẽ mủn và tan ra như ruộng đất ải vừa
tháo nước [52, tr.152]. Một cách so sánh đầy hình ảnh khiến người đọc thấm thía
hơn về mùa khô ở rừng Miên.
Đó có thể là không gian mông muội, hoang dã khi người và mãnh thú lăn xả
vào nhau để kiếm miếng ăn. Con người bất chấp mạng sống để giành thức ăn với
động vật: “Lúc ấy tao hết sợ, lao đến vồ lấy giữa đoạn ruột bò, một tay cầm súng,
một tay giật. Hai con kên kên bị cướp miếng mồi bất ngờ, nhưng vẫn ngậm chặt
đoạn ruột không chịu nhả ra. Lực kéo của tao dù đang đói mệt, cũng làm cho hai
con điểu chuyên ăn xác chết ngã và bị lôi đi sền sệt, lăn lông lốc. Bị tước đoạn
miếng ăn, lũ kên kên quyết liệt không chịu bỏ miếng mồi. Chúng tạm thời nhả đoạn
ruột bò rồi lao tới bổ tới tấp vào đầu tao” [52, tr.481]. Thậm chí trong lúc đói khát
cùng cực, Lục Thum và Rô còn ăn thịt chính đồng loại của mình.
Có thể thấy, với lớp ngôn ngữ đặc tả không gian chiến trận, Sương Nguyệt
Minh và Đoàn Tuấn đã tái hiện một cách chân thực, chi tiết hiện thực chiến trường
với tất cả cái dữ dội, khốc liệt của nó. Chiến trường K không chỉ ám ảnh người đọc
bởi bom, đạn trong sự hủy diệt ghê rợn và hơn nữa, không gian miền hoang với tất
cả sự bí ẩn, hiểm nguy, hoang dại cũng đẩy con người vào tình trạng bi đát. Đó là
nơi con người phải đấu tranh với kẻ thù hiểm độc, là nơi con người phải đấu tranh
với nhiều kẻ thù khác nhau tìm sự sống. Quả thực, với lớp ngôn ngữ đặc tả không
gian chiến trận, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã góp phần tô đậm thêm bức
113
tranh hiện thực vốn đã vô cùng khốc liệt ở chiến trường Campuchia.
3.3.2. Ngôn ngữ dung tục, đời thường
Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học sau năm 1975 là các nhà văn
chú ý sử dụng ngôn ngữ mang sắc thái dung dị, tự nhiên, dân dã, đậm chất khẩu
ngữ, quen thuộc, gần gũi với đông đảo quần chúng nhân dân. Lối sử dụng ngôn ngữ
này khiến hiện thực hiện lên đúng như chính nó với tất cả nét xù xì, thô mộc. Đặc
biệt, ở các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh, các nhà văn đã sử dụng lớp ngôn ngữ
đời thường làm cho cuộc sống của người lính thật hơn, gần gũi hơn với người đọc.
Ngôn ngữ nghệ thuật “tăng dần chất thô mộc, góc cạnh của đời thường, suồng sã
trong giọng điệu, riết róng trong từ ngữ” [10, tr.172] có khả năng lột tả, khai thác
và phản ánh chân thực về cuộc chiến và hình tượng người lính trở nên đa diện và
chân thực hơn.
Với bản lĩnh và tài năng của người nghệ sĩ, Sương Nguyệt Minh đã sử dụng
lớp từ ngữ thô tục rất đúng với từng đối tượng, sự kiện và hoàn cảnh nên trong mỗi
trang viết của ông đều thể hiện một mạch ngầm tư tưởng của người viết. Cụ thể,
thằng Rô xuất hiện trong 9 chương truyện của Miền hoang và trong hầu hết các
chương dành cho thằng Rô đều là ngôn ngữ tục tĩu. Ngôn ngữ tục tĩu xuất hiện liên
tục trong lời thoại của thằng Rô. “Đ.mẹ! Bọn chó chết!...”; “Đ.mẹ! Đích thực là con
mụ Dên rồi”; và nói với bất kì ai hắn cũng thêm vào đó “Đ.mẹ”, “Đéo”. Khi hắn
nói với Tùng: “Đ**mẹ cái thằng Duol học đòi, ra trận, đánh nhau tanh bành, thời
gian đéo đâu mà đàn với hát… cho bọn lợn bò nghe và nhảy nhót à? [52, tr.135].
Thậm chí khi nói với cấp trên của hắn là Lục Thum, hắn vẫn sử dụng những từ ngữ
tục, câu chửi thề: “Ông lớn. Tao chỉ nghe thấy tiếng âm âm, rồi rộn rịch như tiếng
thú vật chạy hốt hoảng. Đ.mẹ! Y như động rừng!” [52, tr.330]. Ngôn ngữ thô tục
gắn với thằng Rô đã thể hiện bản chất vô học, vô văn hóa của nhân vật này, đồng
thời tạo ra sự khác biệt đối với hình tượng người lính Việt Nam. Nói như Sương
Nguyệt Minh: “Nhân vật tên lính áo đen là một kẻ vô học, thô lỗ, cục cằn, đen tối,…
nó chửi bậy và nói tục là chuyện đương nhiên, là thuộc tính. Vả lại bị đẩy đến tận
cùng hoang dại, ở quá xa loài người văn mình, lại bức xúc, chán nản, tuyệt vọng…
114
lời lẽ thô tục phù hợp với hoàn cảnh và tính cách nhân vật” [48].
Không chỉ khai thác lớp ngôn ngữ thô tục, Sương Nguyệt Minh còn viết về
những vấn đề nhạy cảm hết sức tự nhiên. Chẳng hạn khi nhà văn nói về những phản
ứng bản năng, sinh học của con người. Hoặc khi Sa Ly hồi tưởng lại chuyện bị hãm
hiếp: “Vẫn ghì chặt, ôm tui rồi đột ngột thằng béo kêu rống lên ồi...ồi...ồi như con
min bị chọc tiết. Tui nhận ra một dòng nước âm ấm tràn vào cửa mình” [52, tr.47].
Ngôn ngữ nhạy cảm xuất hiện dày đặc trong tác phẩm song không hề mang đến cho
người đọc cảm giác khó chịu. Khi sử dụng lớp ngôn ngữ này, một mặt tác giả đã
phơi trần bộ mặt của chiến tranh, miêu tả chân thực bản chất hoang dã man rợ; mặt
khác giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hệ lụy đau lòng của cuộc chiến tranh.
Mặt khác, trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh còn khai thác khá thành
công ngôn ngữ đời thường để khắc họa tính cách nhân vật. Ngôn ngữ cá tính hóa là
một đặc điểm thể hiện sinh động chân dung nhân vật. Chính bởi vậy, mỗi nhân vật
trong Miền hoang mang một đặc điểm ngôn ngữ riêng: Lục Thum có lối nói uy lực,
mưu mẹo; tên lính áo đen vô học, man rợ, sử dụng lối nói nhát gừng, khẩu ngữ và từ
lóng thô tục; anh lính Việt Nam khuôn phép, nhẹ nhàng; Sa Ly phát ra những tiếng
nói cảnh báo, khiếp sợ trong tình huống khẩn cấp. Ngôn ngữ đời thường đã thể hiện
được thói quen và tính cách nhân vật, từ đó chân dung nhân vật trở nên gần gũi hơn,
chân thực hơn.
Ở hồi ký văn học, người trần thuật chính là tác giả. Tác giả và nhân vật xưng
“tôi” là một nên ngôn ngữ trần thuật còn là lời của nhân vật. Song hồi ký văn học
không chỉ là câu chuyện của tác giả mà còn là một tác phẩm văn học, vì vậy mỗi
nhà văn đều có ý thức lựa chọn ngôn ngữ phù hợp cho tác phẩm của mình. Với hồi
ký văn học, đặc biệt từ sau năm 1975, các nhà văn luôn có ý thức chọn lọc một hình
thức ngôn từ phù hợp, dễ lôi cuốn, hấp dẫn người đọc. Có thể thấy, một trong
những nét đặc trưng riêng của ngôn ngữ hồi ký giai đoạn này là tác giả sử dụng
ngôn ngữ người kể chuyện theo lối nói dung dị, tự nhiên, dân dã, đậm chất khẩu
ngữ, gần gũi với đông đảo quần chúng nhân dân. Đồng thời, lối sử dụng ngôn từ
này tạo ra cái tươi nguyên cho quá khứ, gây hiệu quả nhận thức, thẩm mĩ cao.
Trong mỗi trang văn của Mùa chinh chiến ấy, ngôn ngữ đời thường đã ùa
115
vào trong tác phẩm, qua lời thoại của lính tráng. Họ nói chuyện với nhau không
kiểu cách, thậm chí bỗ bã qua cách đối đáp xưng hô mày - tao, ông - tôi, thằng này -
thằng kia,… Cách sử dụng ngôn ngữ ấy khiến cho mỗi nhân vật của Đoàn Tuấn
hiện lên chân thực, sống động, người đọc bị cuốn hút theo câu chuyện của họ. Đặc
biệt “chất lính” cũng vì thế mà toát ra, không lẫn vào đâu được. Qua ngôn ngữ,
Đoàn Tuấn đã thổi hồn vào tác phẩm của mình, chất lính tráng lan tỏa trong toàn bộ
tác phẩm. Người đọc thấy được sự trẻ trung, hài hước, tếu táo, cũng như những
cung bậc cảm xúc, suy nghĩ của những chàng thanh niên tuổi đời khá trẻ. Ngôn ngữ
ấy được cụ thể hóa trong câu chuyện của Vinh “gạo mốc” và “tôi”:
“Một buổi trưa, Vinh rủ tôi ra bãi tráng, trước cửa tiểu đoàn, chỗ trực thăng
hay đỗ. Vinh tâm sự:
- Mẹ, tao vừa nhận thư ông già. Đếch thèm đọc.
- Sao vậy?
- Thư nào cũng như xã luận báo Nhân dân. Chán chết.
- Đưa tao xem thư ông già mày viết thế nào?
Vinh lấy trong túi ra lá thư. Đúng là chưa bóc. [ 96, tr. 307]
Lớp từ của người lính được Đoàn Tuấn khai thác: ông già, đếch, chán chết…
giúp người đọc hình dung ra những con người trẻ tuổi, vô tư, tếu táo. Người đọc
như được chứng kiến cuộc nói chuyện tâm tình giữa hai người lính cùng trang lứa.
Không cầu kì kiểu cách, không hoa mĩ, không bóng bẩy, ngôn ngữ của các nhân vật
dung dị như chính cuộc sống của họ. Người đọc không chỉ thấy tâm thế của họ, thấy
“chất lính” qua lớp ngôn từ mà còn có cơ hội khám phá đời sống tâm hồn của
những người lính trẻ. Quả thực, ngôn ngữ đã giúp Đoàn Tuấn kéo những người lính
về gần hơn với đời thực và người đọc có cơ hội trải nghiệm về cuộc chiến như
chính người trong cuộc.
Có khi, tác giả còn gán vào lời thoại của nhân vật những từ ngữ thô tục:
“Thằng Kháng, vận tải, người Quảng Nam, trề môi: “Thử tính xem, từ 5 giờ chiều
đến 12 giờ đêm là 8 tiếng. Từ 12 giờ đêm đến 12 giờ trưa hôm nay là 12 tiếng. Tổng
cộng là 20 tiếng mới đi được hơn cây số. Đ.mẹ, các anh là rùa à? Đếch bằng con
nít”. Thằng Thành “hấp”, dân Đà Nẵng, nổi tiếng chập cheng, cũng gằn giọng:
116
“Đ.má, chỉ huy như thế thì chủ huy cái đ.gì”. Nói xong, nó song phi vào gốc cây,
ngã chổng vó. Không kêu đau, lại vùng dậy ngay” [96, tr.294]. Những câu chửi thể,
chửi tục được sử dụng đã thể hiện được sự thoải mái, suồng sã của người lính. Cứ
ngồi bên nhau, nói chuyện với nhau, họ đều sử dụng lối nói tếu táo, thân mật, đậm
chất lính.
Hoặc nhà văn khai thác lớp từ ngữ dân gian như trong đoạn hội thoại giữa
anh Khai và lính:
“ - Này các cậu hát linh tinh gì thế?
- Dạ, bọn em nghe nói, hướng quân khu 7 và quân khu 9, địch chống trả rất
quyết liệt nên quân khu 5 mình có thể tiến thẳng đến Phnom Phênh? - Minh “sứt”
mắt sáng bừng bừng, trả lời.
- Thôi đi các bố, không có chuyện ấy đâu.
- Sao hướng mình địch bỏ chạy hết, thủ trưởng?
- Tôi hỏi, hai cái tỉnh Mondulkiri và Ratanakiri, các cậu đi qua, có cái vị gì.
Bọn địch chỉ tập trung giữ thành phố, thị xã. Mai đánh vào sân bay Stung Treng,
các cậu sẽ biết thế nào là lễ độ với chiến tranh! Tôi nhắc thế để các cậu không được
chủ quan khinh địch.
- Thủ trưởng yên tâm. Đánh nhau với bọn ăn bốc đái đứng, mình luôn trên
cơ! Anh Sắc, vẫn đeo gùi B41, cười nói.
- Nhưng phải luôn nhớ câu: “Chó cùng dứt giậu!” - anh Khai cảnh báo rồi
bỏ đi” [96, tr 42].
Lớp ngôn ngữ dân gian được sử dụng triệt để như “ăn bốc đái đứng” , “chó
cùng dứt dậu”… khiến cho cuộc hội thoại tự nhiên, dung dị, mang đậm dấu ấn của
người Việt qua lời ăn tiếng nói. Qua ngôn ngữ trần thuật tự nhiên, dân dã và đậm
chất khẩu ngữ, nhà văn không chỉ tái hiện cuộc sống dung dị mà còn tô đậm cái hồn
nhiên, tếu táo của những chàng trai tuổi đôi mươi. Những sự thật về con người, về
cuộc sống một thời hiển lộ trong những trang hồi ký có sức lay động người đọc.
Sử dụng ngôn ngữ đậm chất sống, chất đời thường, Sương Nguyệt Minh và
Đoàn Tuấn đã tạo dựng một quá khứ gần gũi, chân thật, một hiện thực cuộc sống
đúng như chính nó. Mặt khác, ngôn ngữ đậm chất hiện thực đời thường không làm
117
mất đi vẻ đẹp cao cả của người lính mà đưa vẻ đẹp của họ bình dị hơn, gần gũi hơn.
Ngôn ngữ ấy chứng minh: họ là những con người bình thường mà phi thường, chứ
họ không phải là thánh nhân.
3.3.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ
Đứng bên cạnh ngôn ngữ đời thường, trần tục, người đọc vẫn nhận ra một
mạch nguồn ngôn ngữ khác - ngôn ngữ giàu chất thơ trong tác phẩm của Sương
Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Ngôn ngữ giàu chất thơ quyện với ngôn ngữ trận mạc
đã khiến chiến tranh được phản ánh với cái nhìn đa chiều hơn, và hình tượng người
chiến sĩ được khắc hoạ với vẻ đẹp trẻ trung và lãng mạn hơn trên những trang viết
của nhà văn.
Trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, có những đoạn văn khá lãng
mạn xen giữa hiện thực chiến tranh khốc liệt. Dưới ngòi bút của nhà văn, thiên
nhiên cũng mang những nét trữ tình, đầy chất thơ. Chẳng hạn, trong đoạn văn tác
giả miêu tả cơn mưa hiếm hoi của rừng khô Đăng - rếck: “Cả một vùng rừng mịt
mù đón mưa rơi rào rạt. Tôi há miệng đón mưa. Tôi chụm ngón đón mưa và vốc
nước đọng ở lòng bàn tay đổ vào miệng. Lưỡi tôi mềm ra. Cổ họng trước đó vài
giây còn cứng ngắc đã bắt đầu thun rãn, mềm mại, trơn tuột. Nước chảy vào đâu
mát đến đó, nói không ngoa: nước mưa mát lạnh cả dạ dày. Cô gái câm cũng há
miệng đón mưa. Có cảm giác hạt mưa như những hạt ngọc ướt long lanh trượt qua
đôi môi xinh xinh lăn vào lưỡi vào vòm họng. Mưa càng dầy, càng vô vàn hạt nước
đan xiên xiên. Chỉ vài ba phút sau, Sa Ly chỉ còn là một khối đứng mờ mờ sẫm nhạt
nhòa, không rõ hình hài trong làn mưa bàng bạc mù mịt” [52, tr.276]. Những cơn
mưa rừng luôn mang cảm xúc dội về cho người lính trẻ, tâm hồn của người thanh
niên ấy như được gột rửa, trở nên thanh sạch và trong veo. Cơn mưa xóa đi những
mệt mỏi, vất vả của người lính trong hành trình gian nan thoát khỏi rừng Miên.
Ngôn ngữ giàu chất thơ còn được thể hiện qua dòng kí ức của Tùng: “Tay đi
hợp âm và tay gảy đàn, dần dần đầu óc Tùng cũng bứt ra khỏi cái bản mặt tối tăm
của gã lính áo đen và gương mặt ranh mãnh đôi khi nhăn nhó vì đau của Ông Lớn,
để tâm tưởng trôi về với Hồ Tây trong xanh năm trước. Rặng liễu xanh yểu điệu vờn
trong gió. Tùng đi bên Thùy cùng học trường Chu Văn An dọc đường Thanh Niên.
118
Chiều Hồ Tây vàng vọt. Năn lác tốt bời bời ven bờ. Những con vịt trời vô tư quẫy
nước” [52, tr.165]. Đó là mảng kí ức đẹp đẽ của Tùng về Hà Nội, về những kỉ niệm
êm đẹp bên Thùy, bên bạn học. Một thế giới đầy ắp chất thơ, một phần tâm hồn sâu
thẳm của chàng trai lãng mạn, mang đến nguồn cổ vũ to lớn để Tùng đi qua những
bom đạn của kẻ thù.
Và trong những ngày tháng lạc lõng nơi rừng Miên, không ít lần cảm xúc ùa
về trên những trang thư, rung lên theo tiếng đàn của người lính tình nguyện Việt
Nam: “Ngày mai Tùng vào quân ngũ, chiến tranh mịt mù bom đạn, chẳng biết ngày
nào sẽ trở lại. Hai gương mặt buồn, hai trái tim xốn xang, hai nỗi lo thảng thốt, và
cả hai cái cười gượng gạo in vào ảnh hóa ra lại là kỉ niệm nhớ đời. Vài tháng sau,
cô bạn gái gửi ảnh cho Tùng cùng những lời lẽ xa xôi nhớ nhung, hò hẹn… làm anh
nhớ quay quắt. Nỗi nhớ sâu vợi xa xăm cứ lẫn với tiếng đàn và lời ca buồn đẹp da
diết mênh mang:
Một đêm trong rừng núi
Có anh lữ khách nhìn trời xa xa
Ngắm trăng say đắm
Một mình bâng khuâng…
Một đêm trong rừng núi
Có anh lữ khách nhìn trời xa xa
Biết đâu sơn nữ nhìn mình đăm đăm
Sơn nữ ơi!
Đời ta như cánh chim chiều phiêu bạc
Thời gian vun vút trời mây.
Sơn nữ ơi!
Đừng làm thắc mắc cho lòng khô cạn
Từ nay nước mắt đầy vơi…
Sơn nữ ơi!
Làm chi cho đớn đau lòng
Trong một thời gian rồi thương rồi nhớ
Sơn nữ ơi!
119
Hoàng hôn xuống dần chờ đợi ai đây? [52, tr.168]
Ngôn ngữ giàu chất thơ khiến hình tượng người lính tình nguyện Việt Nam
trở nên lãng mạn hơn, ở họ là sự kết tinh của vẻ đẹp văn hóa và tri thức, đối lập
hoàn toàn với hình tượng kẻ thù. Mặt khác, đây cũng là một thủ pháp riêng của
Sương Nguyệt Minh để tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm của mình. Theo Sương
Nguyệt Minh, “về mặt thủ pháp nghề thì cần phải có những “chiếu nghỉ cầu thang”
trong một ngôi nhà cao. Tiểu thuyết mà chi tiết, dữ dội, khốc liệt suốt từ đầu đến
cuối thì đọc rất mệt. Vỡ đầu. Nên rất cần có “dòng suối mát trong” như những
cảnh yêu nhau, va chạm khác giới,…” [48]. Và sự sáng tạo ấy khiến cho tác phẩm
của Sương Nguyệt Minh luôn hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
Có thể nói, ở những nhà văn đương đại, nhất là với những cây bút trẻ, việc sử
dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, đầy chất thơ là một điểm nhấn đặc biệt trong tác
phẩm của họ. Với Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn cũng đã sử dụng khá thành công
ngôn ngữ giàu chất thơ. Trong ngôn ngữ trần thuật của hồi ký luôn có sự kết hợp
giữa kể, tả và biểu cảm khiến cho câu chuyện trong quá khứ, những sự kiện đời
người trở nên sinh động. Người viết đã đắp da, đắp thịt cho cái khung sự việc của
mình bằng ngôn ngữ miêu tả và bộc lộ cảm xúc. Sự kết hợp này vừa tạo được
trường nhìn về hiện thực cuộc sống và con người của người viết hồi ký, vừa làm
tăng thêm nét sinh động và mĩ cảm cho trang hồi ký của mình.
Bản thân Đoàn Tuấn là một nhà thơ, chính vì vậy ông có cách lựa chọn từ
ngữ diễn đạt bay bổng, nhẹ nhàng. Ngôn từ của Đoàn Tuấn giàu sắc thái biểu cảm,
mỗi ý đẹp như một tứ thơ. Chẳng hạn, đoạn ông miêu tả cảnh thiên nhiên bờ sông:
“Nằm trên doi cát, nghe nước chảy rì rào dưới chân, nhìn trời đất bao la, trong
lành, sạch sẽ dưới ánh trăng hiền hòa, tôi cảm thấy trào dâng một niềm hạnh phúc
sâu dịu. Dòng sông trong vắt. Những đàn cá nhỏ tung tăng vui đùa. Mùi cỏ cây hoa
dại nồng nàn. Gió đưa hương thơm đồng lúa từ xa tràn về. Rì rào. Rì rào. Mơn
man. Mơn man…” [96, tr.395]. Hệ thống tính từ được tác giả khai thác khá thành
công nhằm làm nổi bật những cung bậc cảm xúc trong tâm hồn người lính. Đâu còn
cái gọi là khốc liệt của chiến tranh trong những câu từ ấy. Chỉ còn lại một tâm hồn
đang rung động trước thiên nhiên, gắn bó với quê hương của mình. Thả hồn mình
120
vào thiên nhiên bình dị, người lính hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn, tinh tế và nhạy
cảm. Họ có thể cảm nhận được những điều rất đẹp, rất ý nghĩa từ những điều rất đỗi
bình dị, thân quen. Ngôn ngữ của Đoàn Tuấn bay bổng, chứa chan cảm xúc, đủ sức
đưa người đọc thoát khỏi hiện thực đau lòng của chiến tranh.
Hoặc khi nghe tiếng hát của bé gái người Campuchia, trong lòng người chiến
sĩ đã dâng trào xúc cảm mãnh liệt: “Tôi chợt cảm nhận, người ta hát hay nhất, say
sưa nhất chính là lúc một mình giữa thiên nhiên, chính là lúc, giữa thiên nhiên chỉ
có một mình. Lúc ấy, gió cũng ngân lên giai điệu của gió; lá cũng cất lên tiếng hát
của lá; mây cũng điểm trang cho bầu trời thêm xanh; và nắng cũng thầm reo, cũng
tung tăng bao lớp sóng đủ sắc màu. Lòng người khi ấy là âm nhạc. Hóa thành âm
thanh linh diệu của đất trời. Đó là tiếng hát hay nhất trần gian mà tôi có diễm phúc
được lắng nghe” [52, tr.134]. Thanh âm, ngôn ngữ, hình ảnh như hòa điệu ca vang
trong tâm hồn người lính trẻ.
Cũng có khi Đoàn Tuấn không giấu giếm được cảm xúc khi nghe được thanh
âm tiếng Việt nơi heo hút xứ người: “Tôi không tin vào tai mình. Trời ơi, cô bé nói
tiếng Việt! Thật kinh ngạc và kì lạ, giữa chốn rừng núi hoang vu, giữa cánh đồng xa
lạ thế này, tôi được nghe tiếng Việt, lại từ cái miệng xinh đẹp của một cô bé như
thiên thần thốt ra. Thậm chí, cái âm r trong từ “rừng”, cô bé còn rung đầu lưỡi khi
phát âm. Dễ thương làm sao! Ôi tiếng Việt thân yêu, từ ngày vào lính, từ ngày
ngang dọc trên bao chiến trường đất Campuchia, tôi chỉ toàn được nghe giọng con
trai, giọng đàn ông. Đêm nay, giữa nơi hoang vắng này, tôi lại được nghe tiếng mẹ
đẻ từ một giọng con gái. Giọng Naryn như sợi tơ vàng ánh biếc lung linh giữa cánh
đồng” [52, tr.109]. Đoạn văn gói ghém biết bao cảm xúc. Đó là những rung động
tinh tế nhất của người chiến sĩ khi được lắng nghe tiếng mẹ đẻ ở nơi đất khách quê
người. Bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu mến yêu trào dâng trong trái tim người lính
trẻ. Tiếng nói của Nary được cảm nhận bằng trái tim, bởi thế mà nó đẹp “như sợi tơ
vàng ánh biếc lung linh giữa cánh đồng”.
Mặt khác, trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn không chỉ phối hợp kể, tả,
biểu cảm mà bên cạnh những lời văn xuôi còn là những vần thơ mượt mà, sâu lắng
khiến trang hồi ký đượm chất trữ tình, đằm thắm. Đó là những vần thơ của Lê Minh
121
Quốc những vần thơ viết trên cánh võng, những vần thơ lay động trái tim người
đọc được Đoàn Tuấn ghi lại: “Tôi ngửi thấy từ cánh võng bốc lên tầng tầng lớp lớp
bụi đỏ dọc những con đường xuyên qua Mondulkiri, xuyên qua Ratanakiri. Tôi cảm
thấy mùa mưa Tây Nguyên ầm ào đâu đây. “Con suối Đắc Đam đã trở thành kỉ
niệm/ Ai thương tôi ngày mưa chiều cuối năm?”. Rồi những mùa khô cao nguyên,
mênh mang trời đất, nồng nàn tuổi trẻ… Thơ Quốc viết về lần đào ngũ vì nhớ Đà
Nẵng, nhớ người yêu. Khi lên đơn vị, có mẹ đi cùng. Mẹ Quốc giao lại cho đơn vị.
Thơ Quốc viết về cuộc chia tay một thằng bạn: “Giã từ mày nhé, Đăng Lâm/ Mùa
mưa năm ấy mưa dầm An Lung”. Thơ Quốc viết có đôi giày há mõm, mòn vẹt:
“Một ngày đi ba mươi cây số chưa được nghỉ”. Thơ Quốc viết về nỗi buồn người
lính chiến: “Nửa đêm thức dậy nhớ nhà/ Bỗng ôm mặt khóc như là trẻ con?/
Campuchia nhớ mỏi mòn/ Nhớ thương trong tận đáy hồn viễn chinh” [96, tr.312].
Những vần thơ ghi dấu một thời chinh chiến, những vần thơ chứa chan cảm xúc.
Yếu tố kể như lắng xuống, vin vào lớp ngôn ngữ giàu hình ảnh để làm cho sắc điệu
cảm xúc dâng trào. Với lối viết ấy, Đoàn Tuấn không chỉ khắc họa được hiện thực
chiến trường mà còn soi rọi được vào tâm hồn người chiến sĩ. Một lối viết giàu chất
thơ, giàu chất nghệ thuật khiến cho trang viết trở nên hấp dẫn với người đọc. Những
vần thơ trận mạc của Lê Minh Quốc khiến những trang văn của Đoàn Tuấn khảm
vào tâm thức người đọc một hình ảnh đẹp đẽ về người lính tình nguyện Việt Nam
trên chiến trường K.
Khai thác lớp ngôn ngữ giàu chất thơ, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã
mang đến góc nhìn khác về chiến tranh. Ở đó, hiện thực không còn là những đau
đớn, mất mát, người lính không phải lúc nào cũng đối diện với bom rơi lửa đạn,
cũng phải gồng mình đối chọi với hiểm nguy, chết chóc. Cũng có lúc, người lính
được sống với chính mình, với những cảm xúc ngọt ngào, với những rung động nhẹ
nhàng, tinh tế. Mặt khác, với lớp ngôn ngữ giàu chất thơ, nhà văn đã giúp người đọc
cân bằng cảm xúc, hiện thực chiến tranh cũng được nhìn nhận một cách đa diện và
thấm thía giá trị nhân văn.
3.3.4. Ngôn ngữ đậm chất triết lí
Văn học sau năm 1975 là sự nhận thức lại hiện thực nên chứa đựng rất nhiều
122
băn khoăn, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời và con người. Văn học thời kì này
vươn tới sự khái quát, triết luận về con người, về cuộc đời,… Đặc biệt, với những
người từng trải như Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn, những triết lí, suy luận
càng trở nên sâu sắc. Họ là những người từng tham chiến, là những người trở về sau
cuộc chiến, chính vì vậy trong mỗi câu chuyện của họ không chỉ là hiện thực chiến
trường mà đó là còn là những suy tư, chiêm nghiệm của người cầm bút, những
thông điệp được viết lên trong hiện thực chiến tranh khốc liệt. Với lớp ngôn ngữ
triết lí, chiêm nghiệm, mỗi trang viết của Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh không
chỉ mang đến thông tin và còn đặt ra bao điều phải nghĩ về cuộc đời, về chiến tranh,
về người lính, về lẽ sống… Những chiêm nghiệm, triết lí ấy mang đến cho người
đọc một cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc chiến đã qua.
Trong Miền hoang, ở mỗi góc nhìn khác nhau, mỗi nhân vật có những chiêm
nghiệm riêng của mình về cuộc chiến đang diễn ra. Với Tùng - một người lính tình
nguyện cầm súng chiến đấu trên chiến trường Campuchia, khi nếm trải đủ cay đắng,
cơ cực, Tùng đủ trưởng thành để nhận ra: “Con người lúc sống hung hãn, tranh
giành, thanh toán, đòi nợ. Lúc chết hồn vía bay mất chẳng còn khả năng bảo vệ thân
xác. Các cô hồn đang lẩn khuất trong đền tháp này, nhìn thấy kên kên đang rỉa xác
mình, nếu sống lại họ có tiếp tục cầm súng tương tàn, sát phạt nhau nữa không?”
[52, tr.382]. Khi bản thân rơi vào cảnh lạc rừng, một mình đơn độc, anh hiểu sâu sắc
hơn về cuộc chiến, về thân phận người lính trong chiến tranh: “Quân tình nguyện Việt
Nam có thể cứu cả một dân tộc Khmer thoát khỏi nạn diệt chủng, nhưng chưa chắc
có thể cứu được một người lính của quân đội mình bị lạc rừng hay bị đối phương
bắt.” [52, tr.553]. Sương Nguyệt Minh không chỉ để Tùng chiêm nghiệm về cuộc
chiến, về người lính, với kẻ thù của mình, Tùng cũng có những suy nghĩ vô cùng sâu
sắc và nhân hậu: “Chiến tranh lôi cả đàn bà cầm súng. Nếu không thời chiến thì chắc
chắn nàng ta đã ở nhà đẻ một bầy con, nuôi chúng nó khôn lớn rồi hành nghề bác sĩ,
kĩ sư. Đàn bà đi đánh nhau rồi tịt đẻ cho mà xem. Khốn nạn chưa!” [52, tr.126].
Sương Nguyệt Minh luôn dành sự ưu ái cho người phụ nữ, đặc biệt là những người
phụ nữ trên chiến trường. Nhà văn có thể khái quát một cách chân thực và sâu sắc về
người phụ nữ: “Phụ nữ thời nào cũng nhân hậu và phụ nữ thời nào cũng là dịu dàng.
123
Cái chất yếu ớt của giống cái làm nên cái sự dịu dàng của đàn bà. Dù là nữ binh
Khmer Đỏ nhưng cô ý tá câm cũng không thoát được cái thiên tính bẩm sinh của
giống loài” [52, tr.175]. Không chỉ có cái nhìn thấu đáo về con người, Sương Nguyệt
Minh đồng thời cũng có những chiêm nghiệm sâu sắc về chiến tranh, về sự sinh tồn:
“Chiến tranh là mạnh được yếu thua. Phải biết trân trọng từng giọt sống, nhưng
cũng phải biết tận dụng mọi cơ hội sống. Đôi khi trong chiến trường, con người phải
ác để tồn tại, thì cái thiện ở chiến trường có đất sống không? Điều cốt tử của mình là
tồn tại, tồn tại trước đã thì mới tính chuyện nhân nghĩa, được mất” [52, tr.241]. Có
thể nói, chiến tranh là một hiện thực nghiệt ngã và đau đớn đối với mỗi con người.
Thế nhưng, với Lục Thum và Rô, họ lại có một cách nhìn khác về cuộc chiến. Triết lí
của họ là triết lí về một xã hội chủ nghĩa kiểu mới: “Angkar chúng tao xây dựng xã
hội chủ nghĩa cộng sản ở Campuchia không cần thứ sách vở nhảm nhí của bọn trí
thức thằng Duol ạ” [ 2, tr.159]. Triết lí ấy đã lột tả sự ngu muội, cuồng tín của bọn
Pol Pot. Chính những tư tưởng như vậy đã dẫn đất nước Campuchia lội ngược dòng
văn minh về với thời kì mông muội, đen tối.
Bằng sự trải nghiệm của một người lính trực tiếp cầm súng, Sương Nguyệt
Minh đã khái quát những triết lí sâu sắc về cuộc chiến ở cả hai phía địch và ta. Từ
đó, Sương Nguyệt Minh đã cho thấy sự cởi mở trong suy nghĩ, sự sắc sảo trong tư
duy, cách tiếp cận và lí giải vấn đề. Chiêm nghiệm, triết lí trong sáng tác của Sương
Nguyệt Minh đã giúp người đọc có cách nhìn sâu sắc hơn về cuộc chiến bảo vệ biên
giới Tây Nam của Tổ quốc.
Trong Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, chất suy tư được rải đều trong
mỗi trang viết. Mỗi câu chuyện được kể lại không chỉ là hiện thực chiến trường, mà
đằng sau đó là những suy tư, trăn trở của người cầm bút. Đó là cái tôi luôn tự vấn,
trăn trở, là một cuộc mổ xẻ toàn diện của người viết hồi ký. Chính vì vậy, ở Mùa
chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn đã tạo nên chiều sâu triết lí trong cuốn hồi ký của mình.
Từ bức tranh sinh hoạt của người lính, Đoàn Tuấn đã khái quát thành những bài học
sống sâu sắc. Chẳng hạn, câu chuyện về cái bật lửa vĩ đại là những chiêm nghiệm
về đời người; đốt vỏ trai làm vôi, tiếng hát kì diệu là khát vọng hoà bình, sự hồi sinh
của sự sống; cả đêm múc nước mang đến bài học về sự kiên trì, nhẫn nại,… Những
124
câu chuyện ấy không chỉ tái hiện lại bức tranh sinh hoạt của người lính ở chiến
trường mà còn là những triết lí sâu sắc về cuộc sống được khái quát từ những trải
nghiệm của bản thân nhà văn. Chính những chiêm nghiệm ấy khiến cho hiện thực
chiến trường trở nên chân thực hơn, đa chiều hơn.
Mặt khác, không ít lần Đoàn Tuấn suy tư về người lính: “Những người lính,
họ như nước, như gió. Họ luôn tìm cách chảy, cách đi, tìm cách vận động. Có bao
giờ nước và gió đứng yên đâu. Ngay nước ao tù, cứ tưởng bất di bất dịch, nhưng
trong lòng đất vẫn có nhiều mạch ngầm âm ỉ. Và gió nữa. Ngay lúc này, chỗ này,
ngỡ không có gió. Nhưng thử lên cao, đúng chỗ đó, lúc đó, gió vẫn thổi không
ngừng. Giá được quan tâm hơn, sẽ không có chuyện lính tráng vào phum xin thuốc
rê. Lính tráng, suy cho cùng, cũng là những con người rất đỗi bình thường mà thôi”
[96, tr.172]. Những chiêm nghiệm ấy khiến người đọc hiểu hơn về người lính. Họ là
những con người bình thường, họ không phải những thánh nhân, họ không gánh
trên vai những trọng trách dời non lấp bể. Hình tượng người lính vì thế trở nên gần
gũi hơn, đời thường hơn.
Trong hiện thực chiến trường vô cùng khốc liệt, khi sự sống mong manh và
con người luôn phải đối diện với cái chết, điều này đã khiến người lính trẻ luôn trăn
trở, suy tư. Khi chứng kiến sự hi sinh của đồng đội, khi người sống kháo nhau về
những linh hồn người chết, Đoàn Tuấn đã tự cật vấn: “Người sống và người chết
cùng tồn tại bên nhau. Có ích gì không? Người sống bị ám ảnh người chết. Còn
người chết cũng quyến luyến người sống. Lính Pháp có linh mục cầu nguyện. Lính
Mỹ có những cha tuyên úy quân đội rửa tội. Lính mình có ai không? Ai đón những
linh hồn tử sĩ? Ai dẫn đường cho họ về quê hương? Ai cầu nguyện cho họ? Hình
như, đời sống tâm linh của những người lính chúng tôi vẫn hoang mang một
khoảng trống” [96, tr.229]. Và khi chứng kiến bao nhiêu đồng đội nằm xuống chiến
trường K, Đoàn Tuấn đã khái quát: “Đời lính thế đấy. Nay sống mai chết. Chẳng
biết thế nào. Như chiếc lá bên đường. Chiến tranh đi qua. Tiện tay bứt một cái. Vứt
đi. Thế là xong. Trai thời loạn, gái thời bình, phải chăng là thế? Đời người trải qua
bốn đoạn, sinh - lão - bệnh - tử. Được có tuổi già, được có ngày dưỡng bệnh, đó là
hạnh phúc. Nhưng lính tráng chỉ có sinh và tử” [96, tr.240]. Không ít lần, Đoàn
125
Tuấn trăn trở về lẽ sống của người lính: “Đời lính đấy. Chưa đi hết cuộc chiến đã đi
qua một kiếp người” [96, tr.240]. Chuyện sinh tử trở thành sự chiêm nghiệm của
Đoàn Tuấn khi phải chứng kiến quá nhiều sự hi sinh của đồng đội: “Trong cuộc
chiến không có gì được báo trước, sự sống và cái chết chỉ trong tích tắc, một phút
lơ đễnh rất đời, một giây xúc cảm rất người cũng khiến họ từ giã tuổi thanh xuân
tươi trẻ. Cái chuyện sinh - tử ở chiến trường, đúng là từng giây. Giây trước sống,
giây sau đã chết. Thoáng qua. Đơn giản” [96, tr.286]. Dường như, đây là nỗi ám
ảnh lớn nhất của Đoàn Tuấn bởi lẽ chưa ở đâu lính ta lại hi sinh nhiều như khi chiến
đấu ở chiến trường Campuchia. Những khái quát của Đoàn Tuấn đã phơi bày bộ
mặt của chiến tranh, tô đậm thêm hiện thực chiến trường và khơi dậy ở phía người
đọc những xót xa, đau đớn về một giai đoạn lịch sử đau thương của dân tộc.
Có thể nói, giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm được Sương Nguyệt Minh và
Đoàn Tuấn ưa chuộng. Bởi xét cho cùng, họ là những người đi ra từ cuộc chiến
tranh biên giới Tây Nam. Bản thân họ bước ra khỏi cuộc chiến với những kinh
nghiệm, những chiêm nghiệm được đánh đổi bằng xương máu, với những vốn thực
tế dày dặn. Chính vì vậy, những trang viết của họ vừa chân thực, vừa sâu sắc giống
như thứ men say đã lắng lại, luôn hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
3.3.5. Ngôn ngữ ma mị, ám ảnh
Hiện thực chiến tranh được tiếp cận ở góc độ văn hoá, tâm linh bởi vậy các
nhà văn đã vận dụng triệt để ngôn ngữ ma mị, có sức ám ảnh lớn với người đọc.
Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đã khéo léo xen giữa câu chuyện
khắc nghiệt, tàn bạo của hiện thực chiến tranh và cuộc đấu tranh sinh tồn giữa rừng
hoang bằng những huyền thoại kinh dị và đẹp đẽ nhuốm màu huyền ảo. Miền hoang
quả thực là một thế giới ma mị đuổi bám con người trong suốt thời gian lưu lạc. Bốn
con người không chỉ đối diện với cái vất vả, cái đói, cái khát mà còn phải đối diện với
những nỗi sợ hãi, ám ảnh về một thế lực bí mật họ không thể nhìn thấy, không thể
chạm vào. Nỗi sợ hãi và ám ảnh cứ bám riết lấy họ trong những hoàn cảnh trớ trêu
nhất. Nhà văn đã đi sâu vào thế giới tâm linh của con người. Ở đó, con người phải đối
diện với vô vàn những nỗi sợ hãi, khiếp đảm nơi rừng Miên hoang độc.
Để làm được điều này, Sương Nguyệt Minh đã vận dụng triệt để ngôn ngữ
126
ma mị, có sức ám ảnh lớn. Đan xen với những nhận xét, suy nghĩ về những người
đồng hành trong cuộc vượt rừng của Tùng là không gian huyền ảo gắn với những
câu chuyện như Ma Lai:“Ma Lai là loại ma cổ cao ba ngấn có thể xoay đầu tách
khỏi thân xác, rút ruột gan phổi ra ngoài. Ban đêm làm ma, ban ngày Ma Lai là
một cô gái sinh sống bình thường” [52, tr.60]. Câu chuyện về Ma Lai cứ ám ảnh
Tùng trong suốt quá trình lạc đường, hiện hữu trong câu chuyện, trong suy nghĩ,
trong giấc ngủ, bám riết lấy anh. Với Tùng, những ám ảnh về một thế giới ma mị
trải dài suốt thời gian lưu lạc nơi miền hoang, chính vì vậy trong góc nhìn của người
lính trẻ, chiến tranh trở nên khốc liệt hơn.
Nếu Ma Lai là nỗi ám ảnh của Tùng đến nỗi “ám ảnh lang thang đi sâu vào
giấc ngủ của tôi” thì với thằng Rô, bóng ma của mụ Dên cứ đuổi riết lấy hắn: “Chớp
sáng nhằng một cái trong óc, khiến tao giật mình nhìn thấy nửa gióng xương đùi
của ai đó như vừa ném văng trước mặt đang nhảy múa.
“Cho tôi lê...ên...Cho tôi lê...ên...”
“Cứ...u...Cứ...u...tôi...”
Tao nhận ra tiếng kêu thảm thiết của con mụ cụt đùi dưới đầm lầy vọng về. Thanh
âm sắc lạnh như đâm vào màng nhĩ, như xé toạc lỗ tai. Tao nhắm mắt giơ hai bàn
tay lại bịt tai thì hình ảnh con mụ tật nguyền lại hiện về lù lù trước mặt” [52,
tr.254]. Thằng Rô độc ác và tàn bạo, thế nhưng có những giây phút hắn như không
còn là chính mình nữa. Hình ảnh mụ Dên cứ ám ảnh lấy hắn, con người ở “thế giới
bên kia” cứ đeo quấn lấy hắn như một lời nhắc nhở về quá khứ và là câu trả lời cho
hình ảnh một kẻ tàn bạo, một cỗ máy giết người mất hết lương tri.
Ngôn ngữ ma mị, ám ảnh không chỉ thể hiện ở những đoạn viết về huyền thoại
Ma Lai, truyền thuyết về người rắn, những câu chuyện hoang đường,… mà còn hiện
hữu trong những tưởng tượng đầy hãi hùng của Tùng khi nghĩ đến cái chết của dã
nhân: “Hồn dã nhân không bay đi đâu xa. Có thể hồn dã nhân đậu trên ngọn cây me
cổ thụ chết khô và chứng kiến cuộc rỉa mỏ, róc xác mình. Một con kên kên mổ cái mỏ
nhọn khoắm vào móc con ngươi. Một con nữa móc nốt mắt bên. Con lóc má. Con lóc
đùi. Con mổ kéo rách thành bụng. Lòng ruột tim gan xổ ra… lõng thõng… Lúc nhúc.
Lúc nhúc. Cánh đập sà sã. Chân co móng sắc đạp móc vào da thịt rách phựt…
127
phựt… Những cái đầu thâm đen, hoặc hói trụ lông da cổ đỏ và mỏ ngà châu vào xơi
bộ lòng ruột. Một lúc sau, hồn dã nhân không nhận ra thân xác mình nữa, chỉ còn
một bộ xương trắng treo lủng lẳng trên cây me cổ thụ chết khô… Ôi hồn dã nhân sẽ
phiêu bạt nơi đâu? Lảng vảng quanh đây và bị cầm tù trong cánh rừng Miên hoang
dã này, hay tìm đường về cố quốc mù xa vạn dặm” [52, tr.526].
Trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, ngôn ngữ ma mị, ám ảnh được
cụ thể hóa trong những đoạn văn miêu tả sự chết chóc, sự nguy hiểm, chết chóc
hiện hữu trong những cánh rừng, trên con đường hành quân,… giúp người đọc có
một cái nhìn toàn vẹn và chân thực hơn về cuộc chiến. Còn ở trong Mùa chinh
chiến ấy, ngôn ngữ ma mị, ám ảnh không phải là chất liệu chủ đạo, nhưng vẫn được
Đoàn Tuấn khai thác để tạo ra điểm nhấn riêng, góp một cái nhìn mới mẻ về cuộc
chiến tranh Campuchia. Ngôn ngữ ma mị, ám ảnh được tác giả sử dụng khi thể hiện
đời sống tâm linh của người lính, những hiện tượng đặc biệt, những yếu tố huyền
ảo… để tạo ra một không gian chiến trường đậm chất hiện thực. Câu chuyện về con
chim yểng của anh Lâm người Quảng Nam là một trường hợp ma mị. Mặc dù là
động vật nhưng nó cũng có linh giác như con người, “chẳng cần lồng, con chim
yểng hình như biết lính cô đơn, không bay đi mà luôn quanh quẩn trong doanh trại”
[96, tr.182], quấn quít ông chủ không rời. Bề ngoài là một loại chim bình thường,
nhưng âm thanh phát ra từ con vật này lại khiến các chiến sĩ có cảm tưởng giọng
nói mang nhiều âm khí chứ không mạnh mẽ như con người: “Tiếng chim nghe như
tiếng chuyển giới, âm sắc ma giáo, lại cất lên từ nhà bếp, một nơi cây rừng bao phủ
quanh năm, không có ánh sáng, tự nhiên khiến tôi thấy sợ” [96, tr.183].
Những câu chuyện về hồn ma chiến sĩ trong tác phẩm của Đoàn Tuấn cũng
góp phần làm cho hiện thực chiến tranh trở nên ám ảnh hơn, day dứt hơn. Ngôn ngữ
của Đoàn Tuấn đã đưa người đọc đến một thế giới khác, một thế giới của những
linh hồn chưa được giải thoát, những linh hồn chưa tìm được đường về với quê
hương. Đó là câu chuyện của anh Biện đêm đêm vẫn hiện về bên đồng đội. Hay câu
chuyện về anh Lâm: “Ông Lâm thiêng lắm. Đêm đêm vẫn mò sang C8 đòi giày.
Chuyện là khi thằng Cửu, lính C8, người cùng quê, rất thân với anh Lâm. Khi anh
Lâm còn sống, không biết Cửu tỉ tê thế nào, anh Lâm cho Cửu đôi giày. Mới hay cũ
128
không biết. Nhưng từ khi anh Lâm mất, đêm nào Cửu cũng nằm mơ. Nó thấy anh
Lâm về, đứng ngay cửa hầm, đòi: “Giả tao giày đây!”. Đêm đầu Cửu còn nghi.
Nhưng mấy đêm sau, vẫn thấy anh Lâm về, nói đúng một câu: “Giả tao giày đây!”.
Cửu sợ” [96, tr.223]. Linh hồn người lính xuất hiện không chỉ tạo ra cảm giác sợ
hãi, ma quái mà hơn hết tác giả đã giúp người đọc có cơ hội đi sâu vào cuộc chiến,
cảm nhận sâu sắc hơn thân phận người lính trong chiến tranh. Ở đâu, thế giới nào
trong cuộc chiến ấy, người lính cũng hoang hoải những nỗi niềm.
Hoặc những trang viết về sự hi sinh của người lính cũng khiến người đọc ám
ảnh và day dứt: “Chúng tôi đặt 8 tử sỹ ngoài trảng cỏ. Trăng sáng vằng vặc. Nhìn
rõ cả những ngọn cỏ trong đêm. Không gian như đứng im. Cả cánh rừng như cúi
đầu mặc niệm. Không có trận gió nào. Nhưng sao bỗng dưng tôi nhớ tới những lời
Chinh phụ ngâm, như heo hút vọng từ thuở ngàn cổ: “Non Kỳ quạnh quẽ trăng
treo/ Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò/ Hồn tử sỹ gió ù ù thổi/ Mặt chinh phu trăng
dõi dõi soi/ Chinh phu tử sỹ mấy người/ Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?”. Ở đây
không có non Kỳ, chỉ có dãy Dangrek xa mờ phía biên giới. Cũng chẳng có bến Phì
nào. Đồng đội tập kết về đây là yên tâm rồi. Trăng soi những gương mặt mất máu,
xạm đen khói lửa, những mái tóc dính đầy đất cát. Chẳng có ai gọi hồn. Nhưng
chắc linh hồn anh em đang bay trên tầng không” [96, tr.215]. Ngôn từ nặng trĩu,
cảm xúc dồn nén, đau đớn và day dứt. Những trang viết của Đoàn Tuấn cứ ám ảnh
người đọc hôm nay về thân phận người lính, về những mất mát đau thương trên
mảnh đất người. Hình ảnh những tử sĩ nằm đó khiến bức tranh về cuộc chiến nhuộm
thêm màu đau đớn, tang thương.
Viết với tâm thế của người trong cuộc, của người đã đi qua cuộc chiến,
Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn không chỉ mang đến những chiêm nghiệm sâu
sắc mà còn tạo ra một góc nhìn mới về cuộc chiến, để người đọc có thể cảm nhận
được sự dữ dội của cuộc chiến. Với lớp ngôn ngữ ma mị, ám ảnh, chiến tranh không
chỉ hiện lên với góc nhìn một chiều mà ngược lại, hiện thực chiến trường được cảm
129
nhận trong cả bề sâu và bề xa của nó.
Tiểu kết chƣơng 3
Nhằm tiếp cận, phản ánh và luận giải hiện thực chiến tranh và chân dung
người lính có chiều sâu, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã kiến tạo những cách
thức biểu đạt mới, tạo nên thành công của Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy.
Những đổi mới trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách tân trong lựa chọn người
kể chuyện và điểm nhìn nghệ thuật, sáng tạo mới mẻ trong việc sử dung ngôn ngữ
nghệ thuật đã đóng góp không nhỏ cho dòng văn học viết về chiến tranh sau năm
1975. Từ đó, chủ đề chiến tranh không còn đơn điệu, một chiều, hiện thực chiến
tranh được soi chiếu ở góc nhìn đa diện. Đặc biệt, cuộc chiến tranh biên giới Tây
Nam được nhìn thấu đáo hơn, sâu sắc hơn, thể hiện được tất cả cái bi hùng và khốc
liệt của nó. Có thể nói, bằng tài năng và ý thức nghề nghiệp, Sương Nguyệt Minh và
Đoàn Tuấn đã tạo nên những cách tân nghệ thuật đáng chú ý, bắt kịp với trình độ
130
đương đại của văn học thế giới.
KẾT LUẬN
1. Có thể thấy, các tiểu thuyết viết về chiến tranh biên giới Tây Nam còn ít so
với một số tác phẩm viết về chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ. Tuy nhiên, văn
học viết về chiến tranh ở thế kỉ XX- XXI, xoay quanh đề tài chiến tranh đã có
những điểm khác biệt nhất định. Chiến tranh hiện lên toàn diện hơn và cũng sâu sắc
hơn. Các nhà văn đã tìm tòi, suy ngẫm và trăn trở về chiến tranh, về số phận con
người. Có thể nói, các nhà văn hiện đại khi viết về chiến tranh đã thoát khỏi những
trói buộc để mở ra một hướng tiếp cận mới, chân thực hơn, nhân bản hơn.
2. Trước khi cầm bút thành nhà văn, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn trước
hết là những người chiến sĩ chiến đấu trên mặt trận chiến trường K. Họ là những
người thấu hiểu bộ mặt của chiến tranh, hình ảnh của kẻ thù và của những người
lính Việt Nam khi làm nhiệm vụ quốc tế - tiêu diệt bọn Pol Pot. Chính vì vậy, chiến
tranh không chỉ là nỗi đau mà còn là những ám ảnh kinh hoàng. Chiến tranh không
phải lúc nào cũng mang cảm hứng sử thi mà đó còn là cuộc chiến đấu không khoan
nhượng với chính bản thân những người lính. Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn
đã mở ra những hướng tiếp cận mới cho đề tài chiến tranh. Cách nhìn của họ có
phần khách quan, đa chiều hơn về hiện thực và con người, chi phối nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm. Nhờ vào việc mở rộng đường biên hiện thực chiến tranh,
Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã mang đến những cái nhìn mới mẻ hơn, sâu
sắc hơn, toàn diện hơn về chiến tranh biên giới Tây Nam, kéo văn học viết về chiến
tranh gần hơn với bạn đọc ngày nay. Với những trang văn còn ấm nóng, Sương
Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã trở thành người thư kí trung thành của thời đại
mình, nói về thế hệ mình - tiếng nói được cất lên từ lương tâm người lính với Tổ
quốc, với đồng đội - những người còn sống, những người đã khuất, với thế hệ hôm
nay và mai sau.
3. Để thể hiện một cách chân thực, sâu sắc và toàn diện nhất về chiến tranh
biên giới Tây Nam, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã sử dụng những cách tân
về mặt kĩ thuật tiểu thuyết theo hướng thi pháp hiện đại từ cách xây dựng nhân vật,
131
điểm nhìn, ngôn ngữ… qua đó, hiện thực chiến tranh được hiện lên một cách đa
chiều, toàn diện nhất. Sự đổi mới về phương thức thể hiện đã góp phần khẳng định
dấu ấn và thành tựu của hai nhà văn trong đời sống văn học nói riêng cũng như sự
phát triển của văn học chiến tranh của thế kỉ XXI. Theo PGS. TS Phạm Xuân
Thạch, “Văn học chiến tranh của chúng ta đã bước sang một chặng đường rất mới”
hứa hẹn những bước tiến theo xu hướng hiện đại hoá nói chung của nền văn học
Việt Nam. Và Sương Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn đã góp phần vào sự thành công của
132
văn học chiến tranh trong thời kì mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thái Phan Vàng Anh (2010), Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 2)
2. Lại Nguyên Ân (1986), Thử nhìn lại văn xuôi mười năm qua, Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân ( 2004), Một số vấn đề xung quanh phạm trù chủ nghĩa hiện
đại, Tạp chí nghiên cứu văn học số 2, Hà Nội
5. Lê Huy Bắc (2015), Văn học hậu hiện đại lý thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Bình (1996), Mấy nhận xét về nhân vật văn xuôi Việt Nam sau
1975, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Bình (1996), Một phương diện đổi mới trong quan niệm nghệ thuật
về con người của văn xuôi Việt Nam sau 1975, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc
gia Hà Nội, số 3.
8. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau
1975, Luận án PTS Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Bình (2007), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - một cái nhìn khái
quát, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 2).
10. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi giai đoạn 1975 – 1995 những đổi mới cơ
bản, NXB Giáo dục.
11. Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ
minh hoạ, Báo Văn nghệ, số 49,50.
12. Hà Chi (2015), Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Văn chương phải chạm tới thân
phận con người. https://m.phunuonline.com.vn/van-hoa-giai-tri/nha-van-suong-
nguyet-minh-van-chuong-phai-cham-toi-than-phan-con-nguoi 63333/?paged=2
13. Vũ Công Chiến (2016), Hồi ức lính, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
14. Hà Huy Dũng (2007), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Khải, Luận
văn thạc sĩ văn học, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh
133
15. Đinh Xuân Dũng (1995), Đổi mới văn xuôi chiến tranh, Báo văn nghệ (số 51)
16. Đinh Xuân Dũng (2003), Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
17. Đoàn Ánh Dương (2014), Không gian văn học đương đại, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
18. Phan Cự Đệ (1984), Mấy vấn đề của tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách
mạng, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 9.
19. Phan Cư Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.
20. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới, Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, số (12).
21. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Nguyễn Hoàng Đức (2014), Cảm hứng nhân đạo từ một cuộc chiến tranh, Báo
Quân đội Nhân dân, (số 989)
23. Hà Minh Đức (1999), Lí luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục.
24. Nguyễn Hoàng Đức (2014), Tiểu thuyết “Miền hoang”...giật mình và nghiền
ngẫm! nguồn: https://dantri.com.vn/hoi-am/tieu-thuyet-mien-hoang-giat-minh-
va-nghien-ngam-1419377984.htm
25. Nguyễn Hương Giang (2011), Người lính sau hòa bình trong tiểu thuyết chiến
tranh thời kỳ đổi mới, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số (4).
26. Vân Hạ (2019), “Đoàn Tuấn: viết để không ai, không điều gì bị lãng quên”.
https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Van-hoa/943967/doan-tuan-viet-de-khong-ai-
khong-dieu-gi-bi-lang-quen
27. Giang Thị Hà (2011), Đặc điểm truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, Luận văn
Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Nam Hà ( 2002), Lại nói về chiến tranh và viết về chiến tranh, Tạp chí Văn
nghệ quân đội, số 564.
29. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2000), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB ĐHQGHN
30. Thanh Hằng (2015), Tọa đàm “Nhà văn Sương Nguyệt Minh với tiểu thuyết
“Miền hoang”: Góc nhìn mới về cuộc chiến đã qua. http://cuuchienbinh.vn/toa-
dam-nha-van-suong-nguyet-minh-voi-tieu-thuyet-mien-hoang-goc-nhin-moi-
134
ve-cuoc-chien-da-qua/
31. Nguyễn Văn Hùng, Mùa chinh chiến ấy và khúc tráng ca người lính, Nhân dân
cuối tuần. nguồn: http://www.nhandan.com.vn/cuoituan/van-nghe/ item/
34106102-mua-chinh-chien-ay-va-khuc-trang-ca-nguoi-linh.html
32. Nguyễn Văn Hùng ( 2016), Những chiều kích tâm linh trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 855.
33. Trần Hoàng Thiên Kim (2017), Nhà biên kịch Đoàn Tuấn: Sống và viết để trả
ơn kí ức. http://antg.cand.com.vn/Kinh-te-Van-hoa-The-Thao/Nha-bien-kich-
Doan-Tuan-Song-va-viet-de-tra-on-ky-uc-452806/
34. Nguyễn Thị Dư Khánh ( 1994), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp,
NXB Giáo dục, Hà Nội
35. Lê Định Kỵ (2000 ), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục.
36. Chu Lai (1995), Nhân vật người lính trong văn học, Văn nghệ Quân đội, số (6).
37. Chu Lai (2001), Người lính là một siêu nhân vật, Báo Sài Gòn giải phóng thứ 7.
38. Chu Lai ( 2004), Viết về chiến tranh đôi điều suy ngẫm, Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, số (8).
39. Tôn Phương Lan (1994), Chiến tranh trong các tác phẩm văn chương được
giải, Tạp chí Văn học, Số 01/1994.
40. Trần Thị Phương Loan (2010), Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Sương Nguyệt
Minh, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
41. Tuyết Loan (2018), Sự trở lại của văn học chiến tranh, nguồn:
https://www.nhandan.com.vn/vanhoa/item/37321802-su-tro-lai-cua-van-hoc-
chien-tranh.html
42. Nguyễn Văn Long (2001), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục.
43. Phạm Quang Long (2017), Mùa chinh chiến ấy – Những trang sách được viết
ra từ chiến hào, http://www.leminhquoc.vn/the-loai-khac/tac-pham-cua-ban-
be/4261-mua-chinh-chien-ay-nhung-trang-sach-duoc-viet-ra-tu-chien-hao.html
44. Ngô Xuân Lộc ( 2018), Nhà văn Sương Nguyệt Minh: “Tôi là nhà văn chiến
tranh”, http://www.bienphong.com.vn/toi-la-nha-van-chien-tranh/
45. Nguyễn Văn Lưu ( 2015), Miền hoang - Một quyển sách xấu!, Báo Văn nghệ,
135
số 353.
46. M.BakhTin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn,
dịch và giới thiệu, Bộ Văn hóa TT và TT, Trường viết văn Nguyễn Du, HN.
47. M.Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn,
dịch và giới thiệu), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
48. Hải Miên, Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Miền hoang - Một góc nhìn chiến
tranh mới, Thời báo Ngân hàng, số 202. https://thoibaonganhang.vn/nha-van-
suong-nguyet-minh-mien-hoang-mot-goc-nhin-chien-tranh-moi-29350.html
49. Sương Nguyệt Minh (2004), Văn xuôi viết về người lính - Một thách đố nhà
văn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 610.
50. Sương Nguyệt Minh (lược thuật) (2006), Cuộc bàn tròn văn học về chiến tranh
cách mạng và người lính, Tạp chí Văn nghệ quân đội, (654).
51. Sương Nguyệt Minh ( 27/3/2009), Viết về người lính thời bình – Sự thách đố
các nhà văn.
52. Sương Nguyệt Minh (2014), Miền hoang, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
53. Đặng Quốc Nhật (1980), Mấy ý kiến về đề tài chiến tranh và sự chi phối của nó
trong văn học Việt Nam hiện đại, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số (6).
54. Mai Nhật (2019), Chiến tranh biên giới Tây Nam qua hồi ký các cựu chiến
binh, https://vnexpress.net/giai-tri/chien-tranh-bien-gioi-tay-nam-qua-hoi-ky-
cac-cuu-binh-3957300.html
55. Lã Nguyên (2015), Tôi đọc “Miền hoang” của Sương Nguyệt Minh.
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-
nhin-van-hoa/toi-doc-mien-hoang-cua-suong-nguyet-minh
56. Minh Nguyễn (2019), Xúc động với loạt sách viết về chiến tranh bảo vệ biên
giới Tây Nam. https://doanhnhansaigon.vn/ke-sach/xuc-dong-voi-loat-sach-viet-
ve-chien-tranh-bao-ve-bien-gioi-tay-nam-1093425.html
57. Việt Nguyễn (2015), Tọa đàm về tiểu thuyết Miền hoang: Chiến tranh – vết
thương trong tâm hồn nhân loại, Báo Nghệ thuật mới, số 17; 35.
58. Nhiều tác giả ( 2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
59. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
136
60. Nhiều tác giả (2015), Thế hệ nhà văn sau năm 1975, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
61. Bảo Ninh (1990), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
62. Lê Văn Nghệ (2016), Nhà biên kịch Đoàn Tuấn – Trong ký ức rì rầm.
http://leminhquoc.vn/bao-chi/le-minh-quoc-viet/3537-le-van-nghe-nha-bien-
kich-doan-tuan-trong-ky-uc-ri-ram.html
63. Lê Thành Nghị ( 1995), Tiểu thuyết về chiến tranh mấy ý nghĩ góp bàn” Tạp chí
Văn nghệ quân đội, (7), tr.84-94
64. Lê Thành Nghị (2001), Văn học viết về chiến tranh cách mạng đòi hỏi và thách
thức của thời đại, Tạp chí Nhà văn, số (12).
65. Thy Ngọc (2014), Ám ảnh nơi Miền hoang, Báo Đời sống Văn hóa, số (517)
66. Lã Nguyên (2015), Tôi đọc Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, Báo văn nghệ
Quân đội, sô 30.
67. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
68. Hồ Phương (2002), Có gì mới trong tiểu thuyết về đề tài chiến tranh hôm nay,
Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4.
69. Trần Thị Mai Phương, (2017), Tư duy nghệ thuật trong hồi ký văn học Việt
Nam từ 1986 đến nay, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Hà Nội.
70. Lê Minh Quốc (2014), Tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh.
http://leminhquoc.vn/hoi-hoa/tu-lieu-le-minh-quoc/2358-tieu-thuyet-mien-
hoang-cua-suong-nguyet-minh.html
71. Lê Minh Quốc (2018), Đoàn Tuấn – người kể chuyện đời lính thế hệ mình.
https://nld.com.vn/van-nghe/doan-tuan-nguoi-ke-chuyen-doi-linh-the-he-minh-
20180702211700163.htm
72. Lê Minh Quốc (2019), Tâm tình của người lính Tây Nam.
https://baomoi.com/tam-tinh-cua-nguoi-linh-tay-nam/c/31700004.epi
73. Lê Minh Quốc (2019) , Đau đáu trong tôi vẫn là đồng đội chết trẻ. Nguồn:
http://danviet.vn/tin-tuc/nha-tho-le-minh-quoc-dau-dau-trong-toi-van-la-dong-
137
doi-chet-tre-945270.html
74. Việt Quỳnh (2014), Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Tiểu thuyết từ ám ảnh của
“người lính lạc rừng”. http://hieusach.vn/tin-sach/tac-pham/nha-van-suong-
nguyet-minh-tieu-thuyet-tu-am-anh-cua-nguoi-linh-lac-rung-.html
75. Hồ Sơn (2019), Nhà văn Đoàn Tuấn: một lòng với đồng đội. Nguồn:
https://www.nxbtre.com.vn/diem-tin/nha-van-doan-tuan-mot-long-voi-dong-
doi-33697.html
76. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
77. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB
ĐHSPHN.
78. Trần Đình Sử ( 2014), Văn học và văn hóa tâm linh. https://trandinhsu.
wordpress.com/2014/03/21/van-hoc-va-van-hoa-tam-linh/
79. Thanh Thảo (2019), Đau nhói “Mùa linh cảm”. https://thanhnien.vn/van-
hoa/dau-nhoi-mua-linh-cam-1106548.html
80. Nguyễn Thị Thanh (2013), Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam
sau năm 1975 - Những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật.
81. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - nhìn từ góc độ thể loại,
Tạp chí Văn học, số (4)
82. Xuân Thân (2017), Mùa chinh chiến ấy, https://nhasachtriduc.vn/mua-chinh-
chien-ay/
83. Xuân Thiều (1988), Mấy suy nghĩ về mảng văn học chiến tranh cách mạng, Báo
văn nghệ, số 3.
84. Xuân Thiều (1988), Viết về chiến tranh, nghĩ về đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu
Văn học, (3-4) tr.99-104.
85. Nguyễn Bích Thu (2006), Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975,
Văn học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, tr. 225-235
86. Nguyễn Bích Thu (30/1/2009), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kì
138
đổi mới.
87. Lý Hoài Thu (2011), Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới, https://
khoavanhoc.edu.vn/index.php/nghiencuukhoahoc/cong-trinh-khoa-hc/83-ngh-
thut-hc/874-hi-ki-va-but-ki-thi-ki-i-mi
88. Cẩm Thúy (2019), Nhà văn Đoàn Tuấn: Cúi xuống cuộc đời.
http://daidoanket.vn/tinh-hoa-viet/nha-van-doan-tuan-cui-xuong-cuoc-doi-
tintuc444522
89. Nguyễn Thị Thanh Thúy (2011), Đặc điểm của hồi ký văn học Việt Nam từ
1986 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh, Vinh.
90. Lê Hương Thủy, Đổi mới cái nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết chiến tranh
(Qua một số tác phẩm từ 2000 đến nay). https://www. khoanguvandhsphue.org/
chi_tiet_hoat_dong.aspx?ID=7183&nc=2&w=DOI_MOI_CAI_NHIN_NGHE_
THUAT__TRONG_TIEU_THUYET_CHIEN_TRANH__(QUA_MOT_SO_T
AC_PHAM_TU_2000_DEN_NAY).html
91. Anh Thư (2019), Mùa chinh chiến ấy – chim đã xa bầy”.
https://vovworld.vn/vi-VN/tap-chi-van-nghe/mua-chinh-chien-ay-chim-da-xa-
bay-761768.vov
92. Anh Thư (2019), Nhà biên kịch Đoàn Tuấn: “Tôi không thể sống thiếu người
đã mất”, https://vov.vn/van-hoa-giai-tri/nha-bien-kich-doan-tuan-toi-khong-the-
song-thieu-nguoi-da-mat-938363.vov
93. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ.
94. Nguyễn Nghĩa Trọng (2006), Thử nhận diện văn học ba mươi năm qua, Văn
học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, tr.70-77
95. Bùi Thanh Truyền (2006), Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.
96. Đoàn Tuấn (2018), Mùa chinh chiến ấy, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
97. Nguyễn Đình Tú (9-2007), Đề tài chiến tranh với những người viết trẻ, Tạp chí
Văn nghệ quân đội, (606), tr.101-103.
98. Hoàng Ngọc Tuấn (3/3/2005), Văn chương về chiến tranh Việt Nam và nhu cầu
139
sáng tạo bút pháp mới, Chiến tranh nhìn từ nhiều phía.
99. Phùng Văn Tửu (12/1976), Vấn đề huyền thoại trong văn học nghệ thuật, Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, (3), tr.30-32.
100. Lê Phong Tuyết (2008), Người kể chuyện trong văn xuôi, Tạp chí văn học
nước ngoài số 5.
101. Thiên Việt (2016), Đoàn Tuấn và “Mùa chinh chiến ấy”: Tôi viết để “trả nợ”
đồng đội. http://danviet.vn/van-hoa-giai-tri/doan-tuan-va-mua-chinh-chien-ay-
toi-viet-de-tra-no-dong-doi-801016.html
102. Nguyễn Thiệu Vũ (8/2004), Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng và
lực lượng vũ trang sau 1975 – những thành tựu nghệ thuật còn bị bỏ lỡ, Tạp
140
chí Văn nghệ quân đội, (604), tr.104-108.