BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH QUỐC THỊNH

HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)

VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN

KINH TẾ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH QUỐC THỊNH

HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)

VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN

KINH TẾ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng (Hướng ứng dụng)

Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Đinh Quốc Thịnh – là học viên lớp Cao học Khoá 27 chuyên ngành

Tài chính, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn Thạc sĩ

Kinh tế với đề tài “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và những ảnh

hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”).

Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết

quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa

học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của

một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có

thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn

khách quan và trung thực.

Học viên thực hiện

ĐINH QUỐC THỊNH

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

TÓM TẮT

ABSTRACT

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ, HIỆP ĐỊNH

TPP/CPTPP VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ............................................ 4

1.1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ........................... 4

1.1.1. Lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố của Heckscher – Ohlin (Lý thuyết H – O)......... 4

1.1.2. Lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon .................................. 5

1.1.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương của Michael

Porter ........................................................................................................................... 7

1.2. TỔNG QUAN CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP .............................. 9

1.3. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN HIỆP ĐỊNH TPP ............. 14

CHƯƠNG 2: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP ĐẾN SỰ

PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM ............................................... 26

2.1. GIAI ĐOẠN 2009 – 2018 ............................................................................. 26

2.2. GIAI ĐOẠN 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2019 .................................................. 42

2.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI ............................................................ 49

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT DÀNH CHO VIỆT NAM NHẰM TẬN DỤNG

TỐT HƠN HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP ................................................................... 54

3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SẮP TỚI .................... 54

3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SẮP TỚI ......... 55

3.2.1. Nhóm kiến nghị dành cho cơ quan ban ngành ............................................... 55

3.2.2. Nhóm kiến nghị dành cho doanh nghiệp ....................................................... 61

3.2.3. Nhóm kiến nghị dành cho một số lĩnh vực cụ thể ......................................... 63

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 67

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC A

PHỤ LỤC B

PHỤ LỤC C

PHỤ LỤC D

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Từ đầy đủ

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (Asia- APEC Pacific Economic Cooperation)

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast ASEAN Asian Nations)

Công nghệ thông tin CNTT

Doanh nghiệp nhà nước DNNN

DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) FDI

Hiệp đinh thương mại tự do (Free Trade Agreement) FTA

Tổng sản phẩm quốc gia (Gross Domestic Products) GDP

Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour ILO Organization)

Ngân hàng Nhà nước NHNN

Ngân hàng thương mại NHTM

Đô-la Mỹ (United States dollar) USD

Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization) WTO

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu Tên bảng biểu Vị trí (trang)

Bảng 2.1 Các mục tiêu cụ thể của ngành dệt may đến năm 2030 41

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ các nước 53 Bảng 2.2 thuộc CPTPP

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Tên hình vẽ, đồ thị Vị trí (trang) Số hiệu

Tóm tắt vòng đời của sản phẩm theo Raymond Hình 1.1 7 Vernon

Lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương Hình 1.2 10 của Michael Porter

Hình 2.1 Quy mô GDP Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018 31

Hình 2.2 Lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018 32

Hình 2.3 Tốc độ tăng trưởng GDP của một số nước và thế giới 33

Thu nhập bình quân đầu người một số nước và thế Hình 2.4 34 giới

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai Hình 2.5 35 đoạn 2009 – 2018

Hình 2.6 Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018 36

Hình 2.7 Cơ cấu về đối tác thương mại với Việt Nam 37

Tỷ lệ thương mại trên GDP của Việt nam và một số Hình 2.8 38 quốc gia

Xuất nhập khẩu của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2019 Hình 2.9 50 và cùng kỳ 2018

Cơ cấu đối tác thương mại của Việt Nam 9 tháng 2019 Hình 2.10 50 và cùng kỳ 2018

Tốc độ tăng trưởng giao dịch thương mại giữa Việt

Hình 2.11 Nam và các nước trong Hiệp định CPTPP giữa 9 tháng 51

đầu năm 2019 so với cùng kỳ năm 2018

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 9 tháng Hình 2.12 52 đầu năm 2019 và cùng kỳ năm 2018

TÓM TẮT

Khởi đầu từ một đất nước nghèo trải qua giai đoạn chiến tranh dài, sau hơn 30

năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ trở thành điểm sáng

trong phát triển kinh tế không chỉ trong khu vực mà còn cả trên thế giới. Để đạt được

những bước tiến đó, Việt Nam đã tiến hành mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế, đẩy

mạnh quan hệ thương mại với các quốc gia, các khu vực trên thế giới. Một hiệp định

thương mại thế hệ mới mà Việt Nam đã hoàn tất việc ký kết một cách thành công và

mới đi vào hiệu lực trong thời gian gần đây chính là Hiệp định Đối tác xuyên Thái

Bình Dương (TPP), hay sau này thay đổi thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến

bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Đây là một hiệp định được cho kiểu mẫu của

thế kỷ XXI, với hàng loạt các điều khoản chặt chẽ, bao trùm lên cả các vấn đề mới

mà các hiệp định trước đây không có. Việt Nam được đánh giá là một trong những

nước được hưởng lợi nhiều nhất từ hiệp định này. Cơ hội cũng sẽ đi kèm với không

ít thách thức và rào cản, khi mà hiệp định này được quy định rất cụ thể, chi tiết và

nghiêm ngặt trong các điều khoản, mục đích là để hình thành một tiêu chuẩn mới cho

thương mại toàn cầu. Việt Nam sẽ phải liên tục thay đổi, tự làm mới mình, thậm chí

còn cần phải tự phá bỏ rào cản cũ, tìm hướng đi mới để đáp ứng những tiêu chuẩn

cao cấp trong hiệp định. Việc tham gia đàm phán và đi đến thống nhất chung giữa

các bên trong khoảng một thập kỷ có lẽ cũng đã để lại cho Việt Nam nhiều kinh

nghiệm quý báu, từ đó có thể rút ra những yếu tố then chốt cần quan tâm để có thể

tạo ra thêm một cuộc đổi mới. Hiệp định đã thúc đẩy một số thay đổi về mặt chính

sách, tuy nhiên tác động tích cực lên nền kinh tế là chưa rõ ràng do hiệp định cần có

độ trễ nhất định. Vì vậy, các nghiên cứu trong tương lai cần có thời gian quan sát dài

hơn cũng như chờ đợi những thay đổi mang tính đột phá hơn về mặt chính sách để

có những phân tích chuẩn xác và rõ ràng hơn.

Từ khoá: TPP, CPTPP, phát triển, thương mại, kinh tế Việt Nam

ABSTRACT

Begin from a poor country after a long war time, after more than 30 years of

renovation and development, Vietnam has risen up and became a bright spot about

development not only in regional area but also on global position. In order to attain

such progress, Vietnam has opened its market, actively commenced international

integration, promoted commercial relationship with countries and regions all over the

world. One new trade agreement that Vietnam has successfully concluded and just

came into effect recently is Trans-Pacific Partnership (TPP), which afterwards

changed into Comprehensive and Progressive Trans-Pacific Partnership (CPTPP).

This agreement is seen as model for 21st century, with a bunch of tight provisions,

covering even new issues which were not included in past ones. Vietnam is appraised

with most benefits from this agreement. Chances will bring along challenges and

barriers, as this agreement was strictly and detailedly regulated, to form a new

standard for global trade. Vietnam will have to continuously renew itself, even need

to break its own box, find a new way to adapt to high standard of the agreement. The

fact that negotiation and conclusion took around a decade between members must

have left many experience for Vietnam, then importance points can be drawn out for

better attention for a new renovation. The agreement has made some changed on

policies, however, the positive impacts on the economy are not clear as the agreement

needs a specific lag time. Therefore, future researches should have a longer

observation period as well as wait for remarkable changes in policies in order to

output more precise and clearer analysis.

Keywords: TPP, CPTPP, development, trade, Vietnam economy

1

MỞ ĐẦU

Đặt vấn đề

Khởi đầu từ một đất nước nghèo trải qua giai đoạn chiến tranh dài, sau hơn 30

năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ trở thành điểm sáng

trong phát triển kinh tế không chỉ trong khu vực mà còn cả trên thế giới. Từ một nền

kinh tế nông nghiệp lạc hậu, không những thế còn bị bao vây và cấm vận, Việt Nam

đã xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật, hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước đáp

ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn

lực xã hội cho phát triển. So với thời kỳ trước đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều

thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng

lên đạt ngưỡng thu nhập trung bình, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện;

đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống

xã hội, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở thành lực lượng quan trọng

để thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đạt được những

bước tiến đó, Việt Nam đã tiến hành mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh

quan hệ thương mại với các quốc gia, các khu vực trên thế giới. Một hình thức thường

thấy chính là các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, các hiệp

định đối tác chiến lược. Trong đó, một hiệp định thương mại thế hệ mới mà Việt Nam

đã hoàn tất việc ký kết một cách thành công và mới đi vào hiệu lực trong thời gian

gần đây chính là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hay sau này thay

đổi thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, được ký chính thức vào tháng

02 năm 2016, dự kiến có hiệu lực vào năm 2018, là một hiệp định thương mại tự do

bao gồm 12 thành viên là Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico,

New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam. Tuy nhiên đến đầu năm 2017, Mỹ

đã chính thức tuyên bố rút khỏi TPP, vì vậy mà hiệp định này đã không thể có hiệu

lực do không thể đáp ứng được điều kiện cần thiết. Sau đó, các thành viên còn lại đã

thống nhất tiếp tục theo đuổi hiệp định mà không có Mỹ. Tháng 01 năm 2018, các

nước đã ra tuyên bố đổi tên hiệp định thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ

2

xuyên Thái Bình Dương CPTPP và ký kết chính thức vào tháng 03 năm 2018. Sau

khi Úc phê chuẩn CPTPP vào ngày 31 tháng 10 năm 2018, CPTPP chính thức có hiệu

lực bắt đầu từ ngày 30 tháng 12 năm 2018. Đây là một hiệp định được cho kiểu mẫu

của thế kỷ XXI, với hàng loạt các điều khoản chặt chẽ, bao trùm lên cả các vấn đề

mới mà các hiệp định trước đây không có. Không những thế, nó còn được kỳ vọng

sẽ là nền tảng tham khảo hữu ích cho các hiệp định mang tầm vóc khu vực giai đoạn

sau này, đơn cử như Hiệp định Thương mại Tự do châu Á – Thái Bình Dương FTAAP

thuộc diễn đàn APEC, hay vòng đàm phán Doha của Liên Hợp Quốc.

Việt Nam được đánh giá là một trong những nước được hưởng lợi nhiều nhất

từ hiệp định này. Từ việc có thêm một thị trường rộng lớn để tiêu thụ hàng hoá dịch

vụ, cho đến những ưu đãi thuế về mức 0% cho hầu hết mọi mặt hàng, điều này được

xem là một cơ hội lớn cho một đất nước chú trọng hoạt động xuất nhập khẩu như Việt

Nam. Việc Mỹ rút ra khỏi hiệp định vào những thời khắc cuối được coi như một sự

kiện khá đáng tiếc, khi đây là nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới. Không những thế,

cơ hội cũng sẽ đi kèm với không ít thách thức và rào cản, khi mà hiệp định này được

quy định rất cụ thể, chi tiết và nghiêm ngặt trong các điều khoản, mục đích là để hình

thành một tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu. Việc tham gia đàm phán và đi

đến thống nhất chung giữa các bên trong khoảng một thập kỷ có lẽ cũng đã để lại cho

Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu, từ đó có thể rút ra những yếu tố then chốt cần

quan tâm để có thể tạo ra thêm một cuộc đổi mới. Nắm bắt được tính cấp thiết cùng

với mong muốn có một nghiên cứu về đề tài này, tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên

cứu cho luận văn là: “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và những ảnh

hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam”.

Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn tập trung vào tìm hiểu, phân tích và đánh giá các tác động của Hiệp

định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) lên những khía cạnh về sự phát triển của

nền kinh tế Việt Nam, tìm ra những khó khăn, bất cập, hạn chế còn tồn tại để từ đó

đề xuất các chính sách, phương án nhằm tận dụng hiệu quả và tối đa hoá lợi ích có

thể đạt được từ hiệp định này.

3

Câu hỏi nghiên cứu

- Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã tác động như thế nào

đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam từ năm 2009 đến tháng 09 năm 2019?

- Việt Nam cần làm gì để có thể tận dụng tối đa các cơ hội và hoá giải những

thách thức do hiệp định này mang đến?

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: những ảnh hưởng từ Hiệp định Đối tác xuyên Thái

Bình Dương (TPP) đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

- Phạm vi nghiên cứu: nền kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2009 đến tháng

09 năm 2019. Năm 2009 là năm mà Việt Nam bắt đầu tham gia vào các vòng đàm

phán của Hiệp định TPP.

Phương pháp nghiên cứu

- Thông tin, dữ liệu cần thu thập: tổng sản phẩm nội địa, thu nhập bình quân

đầu người, kim ngạch xuất nhập khẩu và các chỉ tiêu kinh tế quan trọng khác cùng

với các chính sách của Việt Nam giai đoạn 2009 đến tháng 09 năm 2019.

- Nguồn của thông tin, dữ liệu: website và các báo cáo của Chính phủ và các

bộ ngành, Cục Thống kê, Thông tấn xã và các cổng thông tin điện tử các cơ quan có

liên quan, Ngân hàng Thế giới (WB), Liên Hợp Quốc (UN), v.v.

- Kỹ thuật thu thập và phân tích số liệu: luận văn sử dụng các phương pháp

mô tả, so sánh, phân tích định tính với thông tin và số liệu thứ cấp được tổng hợp từ

nhiều nguồn khác nhau.

Cấu trúc của luận văn

Chương 1: Tổng quan về thương mại quốc tế, Hiệp định TPP/CPTPP và các

nghiên cứu có liên quan

Chương 2: Những ảnh hưởng của Hiệp định TPP/CPTPP đến sự phát triển của

nền kinh tế Việt Nam

Chương 3: Những đề xuất dành cho Việt Nam nhằm tận dụng tốt hơn Hiệp

định TPP/CPTPP

4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ, HIỆP ĐỊNH

TPP/CPTPP VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

1.1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

1.1.1. Lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố của Heckscher – Ohlin (Lý thuyết H – O)

Trong lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi thế so sánh của

David Ricardo, hai nhà kinh tế học đã mô tả được sản lượng có thể gia tăng nếu hai

quốc gia chuyên môn hoá sản xuất vào các sản phẩm mà họ có lợi thế. Lợi thế tuyệt

đối mà Adam Smith nêu lên chính là lượng sản phẩm được sản xuất ra nhiều hơn với

cùng một nguồn lực. Trong khi đó, David Ricardo nhấn mạnh tới năng suất lao động

và lập luận rằng những sự khác biệt về năng suất lao động giữa các nước là ngụ ý về

lợi thế so sánh. Hai lý thuyết trên còn khá nhiều hạn chế, vì vậy hai nhà kinh tế học

là Eli Heckscher và Bertil Ohlin đã cho ra đời Lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố (Lý thuyết

H – O) nhằm đưa ra cách giải thích khác về lợi thế so sánh. Hai ông đã lập luận rằng

lợi thế so sánh xuất phát từ những khác biệt trong độ sẵn có các yếu tố sản xuất.

Lý thuyết H – O cho rằng trong tiến trình sản xuất người ta phải phối hợp các

yếu tố sẵn có theo nhiều tỷ lệ khác nhau. Các yếu tố sẵn có được đề cập ở đây là mức

độ mà một quốc gia có sẵn các nguồn lực như đất đai, lao động và vốn. Các nước có

độ sẵn có các yếu tố là khác nhau, và sự sẵn có các yếu tố khác nhau đó giải thích sự

khác biệt về giá cả của các nhân tố, độ dồi dào của nhân tố càng lớn thì giá cả của

nhân tố đó càng rẻ. Cụ thể, đất nhiều thì giá thuê đất càng rẻ, vốn nhiều thì lãi suất

thấp, thất nghiệp nhiều thì tiền lương thấp. Chi phí thấp sẽ giúp các nước sản xuất và

xuất khẩu sản phẩm sử dụng nhân tố sản xuất dư thừa và do đó sẽ rẻ hơn. Nhưng giá

sản phẩm khác nhau không chỉ phụ thuộc vào sự khác biệt trong giá cả các yếu tố đầu

vào mà còn phải kể đến kỹ thuật sản xuất và sự phối hợp các yếu tố sản xuất, mỗi thứ

hàng có hàm số sản xuất riêng, mỗi quốc gia có kỹ thuật sản xuất riêng.

Nội dung cơ bản của Lý thuyết H – O là: “Một quốc gia sẽ chuyên môn hoá

sản xuất để xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó dư thừa tương đối,

đổng thời nhập khẩu trở lại sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó khan hiếm

tương đối”. Theo đó, nguồn lực sản xuất vốn có của mỗi quốc gia quy định sự khác

5

nhau về yếu tố sản xuất dư thừa tương đối, dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ cân đối các

yếu tố sản xuất giữa các quốc gia, tạo nên sự khác biệt về giá cả sản phẩm. Đây là

nguồn gốc để xác định lợi thế so sánh và mô hình mậu dịch của mỗi quốc gia. Một ví

dụ có thể thấy là Mỹ, với sự dồi dào về diện tích đất có thể canh tác đã trở thành một

nước xuất khẩu lớn về hàng nông sản. Hay ngược lại, Trung Quốc nổi trội về xuất

khẩu những hàng hoá được sản xuất trong những ngành thâm dụng lao động như là

dệt may và giày dép, điều này phản ánh mức độ dồi dào tương đối của Trung Quốc

về lao động giá rẻ. Trong khi đó Mỹ vốn không có nhiều lao động giá rẻ, từ lâu đã là

nước nhập khẩu chủ yếu những mặt hàng này.

1.1.2. Lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon

Raymond Vernon là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về vòng đời sản phẩm vào

giữa thập kỷ 1960 của thế kỷ trước. Lý thuyết của ông dựa trên những quan sát thực

tế là trong suốt thế kỷ XX một tỷ lệ rất lớn các sản phẩm mới của thế giới đã được

phát triển bởi các công ty Mỹ và được tiêu thụ ban đầu tại thị trường Mỹ (ví dụ như

sản xuất ô tô ở quy mô công nghiệp, máy thu hình, máy ảnh chụp lấy ngay, máy

photocopy, máy tính cá nhân, và các chíp bán dẫn). Để giải thích thực tế này,

Raymond Vernon lập luận rằng sự thịnh vượng và quy mô của thị trường Mỹ đã mang

lại cho các công ty Mỹ một động lực rất lớn đề phát triển các sản phẩm tiêu dùng mới.

Thêm vào đó, chi phí nhân công cao ở Mỹ cũng khiến cho các công ty Mỹ có lý do

để sáng chế ra các quy trình công nghệ tiết kiệm chi phí sản xuất.

Raymond Vernon đã lập luận rằng ở giai đoạn đầu trong vòng đời của một sản

phẩm mới điển hình, khi nhu cầu đang bắt đầu tăng cao một cách nhanh chóng ở Mỹ

thì nhu cầu tại các nước tiên tiến khác chỉ giới hạn ở một số nhóm khách hàng có thu

nhập cao mà thôi. Do nhu cầu ban đầu tại các nước tiên tiến khác còn hữu hạn vậy

nên các công ty chưa thấy cần thiết phải đầu tư vào sản xuất tại các nước này, nhưng

vẫn thấy cần thiết phải xuất khẩu một số sản phẩm từ Mỹ sang các thị trường đó.

Theo thời gian, nhu cầu đối với sản phẩm mới sẽ tăng dần tại các nước phát

triển khác ngoài Mỹ (ví dụ như Anh, Pháp, Đức và Nhật Bản) cho đến khi các nhà

sản xuất tại đó thấy đã đến lúc phải tiến hành sản xuất để phục vụ cho thị trường nước

6

mình. Thêm nữa, các công ty Mỹ cũng có thể sẽ thiết lập các dây chuyền sản xuất tại

các nước phát triển có nhu cầu đang tăng nhanh và như vậy, quá trình sản xuất tại các

nước này bắt đầu hạn chế bớt tiềm năng xuất khẩu từ nước Mỹ.

Khi thị trường ở Mỹ và một số nước phát triển khác trở nên bão hoà thì sản

phẩm mới cũng đạt tới mức độ tiêu chuẩn hoá, và giá cả bắt đầu trở thành vũ khí cạnh

tranh chủ yếu trên thị trường. Khi điều này xảy ra, những cân nhắc về chi phí bắt đầu

đóng một vai trò lớn hơn trong quá trình cạnh tranh. Các nhà chế tạo tại các nước

phát triển nơi mà chi phí lao động thấp hơn so với chi phí lao động tại Mỹ (ví dụ như

Ý, Tây Ban Nha) bây giờ có thể sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Mỹ.

Nếu các sức ép về chi phí trở nên mạnh hơn nữa thì quá trình cũng sẽ không

dừng ở đó. Chu kỳ theo đó nước Mỹ đánh mất lợi thế của mình cho các nước phát

triển khác có thể tiếp tục lặp lại một lần nữa, khi các nước đang phát triển (ví dụ như

Thái Lan) bắt đầu có được những lợi thế sản xuất so với các nước phát triển. Do vậy,

chu kỳ của sản xuất toàn cầu sẽ theo trật tự: bắt đầu từ Mỹ chuyển sang các nước phát

triển khác và tiếp đó là từ những nước này chuyển sang các nước đang phát triển.

Giai đoạn đầu Giai đoạn hai

Nước đi đầu (phát minh sản Sản xuất tại chỗ ở các nước nhập

phẩm mới) chiếm ưu thế cạnh khẩu tăng, xuất khẩu của nước đi

tranh và dẫn đầu về xuất khẩu. đầu giảm tương ứng.

Giai đoạn cuối Giai đoạn ba

Sản xuất được di chuyển đến cả

Các nước công nghiệp có chi phí

một số nước đang phát triển, nơi rẻ hơn tăng sản xuất để xuất

có chi phí thấp nhất. khẩu trở lại nước đi đầu.

Hình 1.1 Tóm tắt vòng đời của sản phẩm theo Raymond Vernon

Theo thời gian, kết quả của những xu hướng này đối với các mô hình trao đổi

của thương mại thế giới là một nước xuất khẩu sản phẩm sẽ trở thành một nước nhập

7

khẩu khi quá trình sản xuất được tập trung tới những địa điểm ở nước ngoài có chi

phí sản xuất thấp hơn. Lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon có thể

được tóm tắt trong hình 1.1.

1.1.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương của

Michael Porter

Michael Porter đã xây dựng lý thuyết về bốn thuộc tính lớn của một quốc gia

hình thành nên môi trường cạnh tranh cho các công ty tại nước đó, và những thuộc

tính này thúc đẩy hoặc ngăn cản sự tạo ra lợi thế cạnh tranh của quốc gia đó. Đây là

kết quả nghiên cứu chuyên sâu của Michael Porter và các cộng sự nhằm tìm hiểu về

sự thành công và thất bại của một số quốc gia trong thương mại quốc tế. Bốn thuộc

tính lớn trong mô hình của Michael Porter bao gồm:

- Điều kiện về các yếu tố sản xuất: Michael Porter đã phân cấp các yếu tố

sản xuất thành hai nhóm gồm các yếu tố cơ bản (ví dụ như vị trí địa lý, khí

hậu, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực) và các yếu tố tiên tiến (ví dụ như

cơ sở hạ tầng truyền thông, lao động có kỹ năng và trình độ cao, các bí quyết

công nghệ). Không giống như nhóm yếu tố cơ bản được ưu đãi một cách tự

nhiên, nhóm yếu tố tiên tiến thường được hình thành trên cơ sở các yếu tố cơ

bản thông qua các hoạt động đào tạo cơ bản và nâng cao, cải thiện trình độ

kiến thức và kỹ năng chung cũng như kích thích nghiên cứu tiên tiến. Michael

Porter cũng lập luận rằng các yếu tố tiên tiến có vai trò quan trọng hơn.

- Các điều kiện về nhu cầu: Michael Porter nhấn mạnh tới vai trò của cầu

trong nước trong việc giúp nâng cao lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Thông

thường, các công ty thường tỏ ra nhạy cảm nhất với những nhu cầu của những

khách hàng ở gần với họ nhất. Vì vậy, nhu cầu nội địa cao cấp sẽ đặt ra chuẩn

mực buộc các doanh nghiệp sáng tạo đổi mới, cải tiến chất lượng và hạ giá

thành sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh. Cũng vậy, thị trường nước ngoài

đặt ra những tiêu chuẩn cao đối với những sản phẩm và dịch vụ đòi hỏi các

công ty muốn thành công trên thị trường nước ngoài củng phải liên tục thay

đổi, cải thiện để đáp ứng những tiêu chuẩn này.

8

- Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan: Những lợi ích của việc đầu

tư vào các yếu tố sản xuất tiên tiến bởi các ngành hỗ trợ và liên quan có thể sẽ

lan tỏa sang một ngành, từ đó giúp ngành này đạt được một vị trí cạnh tranh

vững mạnh. Các mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa các ngành giúp cho các

ngành phát huy được thế mạnh kết hợp, tăng được khả năng cạnh tranh của

từng ngành trong cụm công nghiệp đó. Cụ thể là các ngành hỗ trợ có thể giúp

các công ty nhận thức được các phương pháp mới và những cơ hội mới để ứng

dụng công nghệ mới. Quá trình trao đổi thông tin sẽ diễn ra mạnh hơn giữa

chúng và các hoạt động phối hợp nghiên cứu và triển khai, phối hợp giải quyết

các vấn đề sẽ thúc đẩy các công ty gia tăng khả năng thích ứng với các cơ hội

và vấn đề. Đây là quá trình gia tăng khả năng cạnh tranh về lâu dài.

- Chiến lược, cấu trúc công ty và môi trường cạnh tranh: Chiến lược của

công ty có ảnh hưởng lâu dài đến khả năng cạnh tranh trong tương lai bởi vì

các mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức công ty trong các ngành công

nghiệp khác nhau rất lớn giữa các quốc gia. Yếu tố này liên quan đến hoạt

động đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm

và thị trường của từng công ty và cả ngành. Khả năng cạnh tranh quốc gia là

kết quả của sự kết hợp hợp lý giữa các lựa chọn này với các nguồn lực của lợi

thế cạnh tranh trong một ngành công nghiệp cụ thể. Bên cạnh đó, cạnh tranh

trong nội bộ ngành và giữa các công ty trong một nước càng gay gắt thì khả

năng cạnh tranh quốc tế của các công ty đó càng cao. Các đối thủ cạnh tranh

trong nội bộ ngành gây sức ép lẫn nhau đối với việc giảm chi phí, cải thiện

chất lượng, giá cả và sáng tạo ra các sản phẩm và các quá trình mới. Điều này

kích thích hoạt động đổi mới để vượt qua mối lo ngại bị tụt hậu trong quá trình

vượt lên phía trước.

Ngoài bốn nhóm yếu tố trên, cơ hội và vai trò của chính phủ là những yếu tố

tác động rất quan trọng đến khả năng cạnh tranh. Điều kiện về yếu tố sản xuất có thể

bị ảnh hưởng bởi các khoản trợ cấp, các chính sách đối với thị trường vốn, các chính

sách đối với giáo dục, v.v. Chính phủ có thể xác lập nhu cầu nội địa thông qua các

9

tiêu chuẩn sản phẩm nội địa hoặc bằng các quy định bắt buộc hoặc ảnh hưởng tới nhu

cầu của người mua hàng. Chính sách của chính phủ có thể tác động tới các ngành hỗ

trợ và liên quan thông qua các quy định và ảnh hưởng tới đối thủ cạnh tranh thông

qua các công cụ như quy định trên thị trường vốn, chính sách thuế, và luật chống độc

quyền. Các cơ hội thường tạo ra những thay đổi đột ngột và làm thay đổi vị thế cạnh

tranh. Các cơ hội có thể làm vô hiệu hoá các lợi thế của đối thủ cạnh tranh được hình

thành trước đó và tạo ra tiềm năng mà các công ty của một quốc gia mới có thể loại

bỏ chúng để đạt được lợi thế cạnh tranh khi có các điều kiện mới và khác trước.

Theo lý thuyết của Michael Porter, các nước nên xuất khẩu những sản phẩm

của những ngành mà tại đó cả bốn thành phần của mô hình kim cương có điều kiện

thuận lợi, và nhập khẩu trong những lĩnh vực tại đó các thành phần không có điều

kiện thuận lợi. Mô hình kim cương của Michael Porter được tóm tắt trong hình 1.2.

Chính phủ

Chiến lược, cấu trúc công ty và môi trường cạnh tranh

Các điều kiện về nhu cầu Điều kiện về các yếu tố sản xuất

Chính phủ

Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan

Hình 1.2 Lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương của Michael Porter

1.2. TỔNG QUAN CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP là một hiệp định thương mại

tự do bao gồm 12 thành viên là Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia,

10

Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam. Tiền thân của TPP là Hiệp

định Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPSEP hay P4) do Brunei, Chile,

New Zealand và Singapore ký kết vào năm 2005 và đi vào hiệu lực năm 2006. Đến

tháng 02 năm 2008, Mỹ chính thức tham gia vào các vòng thảo luận TPP. Sự tham

gia của Mỹ đã kéo thêm các thành viên khác tham gia là Úc, Peru và Việt Nam vào

tháng 11 năm 2008. Đến tháng 10 năm 2010, thành viên tiếp theo gia nhập là Malaysia.

Sau đó, đến tháng 10 năm 2012, Canada và Mexico chính thức gia nhập. Và đến tháng

05 năm 2013, thành viên cuối cùng là Nhật Bản đã gia nhập các vòng thảo luận. Hiệp

định TPP được ký chính thức vào tháng 02 năm 2016, dự kiến có hiệu lực vào năm

2018. Tuy nhiên đến tháng 01 năm 2017, Mỹ đã chính thức tuyên bố rút khỏi TPP,

vì vậy mà hiệp định này đã không thể có hiệu lực do không thể đáp ứng được điều

kiện cần thiết. Sau đó, vào tháng 05 năm 2017, các thành viên còn lại đã thống nhất

tiếp tục theo đuổi hiệp định mà không có Mỹ. Tháng 01 năm 2018, các nước đã ra

tuyên bố đổi tên hiệp định thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái

Bình Dương (CPTPP hay TPP-11) và ký kết chính thức vào tháng 03 năm 2018. Sau

khi Úc phê chuẩn CPTPP vào ngày 31 tháng 10 năm 2018, CPTPP chính thức có hiệu

lực bắt đầu từ ngày 30 tháng 12 năm 2018 theo như điều kiện trong hiệp định. Tính

đến hết 2018, đã có 7 thành viên phê chuẩn CPTPP theo thứ tự là Mexico, Nhật Bản,

Singapore, New Zealand, Canada, Úc và Việt Nam (Việt Nam chính thức phê duyệt

CPTPP vào ngày 15 tháng 11 năm 2018). Cơ quan lưu chiểu được chỉ định là Chính

phủ New Zealand. Ngày hiệp định chính thức đi vào hiệu lực đối với Việt Nam là

ngày 14 tháng 01 năm 2019.

Một số nội dung chính trong TPP/CPTPP

Sau khi TPP không thể đi vào hiệu lực, CPTPP tiếp nối hầu như toàn bộ các

cam kết của TPP ngoại trừ các cam kết riêng của Mỹ hoặc với Mỹ, tạm hoãn một số

cam kết trong các chương, và sửa đổi/điều chỉnh một số thư song phương giữa các

thành viên.

Tất cả các hiệp định song phương giữa các thành viên và các hiệp định khu

vực đang đàm phán sẽ có hiệu lực song song với CPTPP, kể cả WTO.

11

Các thành viên đã cam kết xoá bỏ thuế quan cho Việt Nam ngay sau khi Hiệp

định có hiệu lực đối với 78% đến 95% số dòng thuế, và 97% đến 100% số dòng thuế

khi đến cuối lộ trình. Lộ trình xoá bỏ thuế là 5 đến 10 năm cho hàng hoá thông thường,

trên 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan cho hàng hoá nhạy cảm.

Về phía mình, Việt Nam đưa ra biểu thuế ưu đãi áp dụng chung cho các thành

viên khác, cam kết loại bỏ 65.8% số dòng thuế ngay khi CPTPP có hiệu lực, 86.5%

số dòng thuế vào năm thứ 4, 97.8% vào năm thứ 11, phần còn lại có lộ trình tối đa

vào năm thứ 16 hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan.

Đối với một số sản phẩm đặc thù như tạm nhập tái xuất, sản phẩm CNTT, tài

nguyên thiên nhiên, nông sản, có các cam kết về không đánh thuế xuất nhập khẩu,

tuy nhiên các thành viên vẫn có quyền bảo lưu đối với các trường hợp cụ thể. Các

thành viên cũng không được ban hành hoặc duy trì các biện pháp cấm xuất nhập khẩu

trừ khi có cam kết hoặc ngoại lệ, và phải chấp hành nghiêm túc nguyên tắc không

phân biệt đối xử đối với các thành viên khác.

CPTPP xem hàng hoá là có xuất xứ CPTPP khi: (a) có xuất xứ thuần tuý, (b)

được sản xuất toàn bộ trong CPTPP và chỉ từ nguyên liệu có xuất xứ CPTPP hoặc,

(c) hàng hoá được sản xuất tại CPTPP, sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ CPTPP

nhưng đáp ứng được các quy tắc xuất xứ cụ thể. Có 3 phương pháp xác định xuất xứ

là: (i) quy tắc chuyển đổi mã hàng hoá (CTC), (ii) quy tắc hàm lượng giá trị nội khối

(RVC) và (iii) quy tắc công đoạn chế biến. Lưu ý là có thể kết hợp các phương pháp

khi xác định cho từng loại hàng hoá. Một số trường hợp được miễn chứng nhận xuất

xứ khi có giá trị hải quan không quá $1,000 hoặc thuộc diện xuất khẩu nhiều lần cùng

một loại hàng hoá.

CPTPP có một chương riêng dành cho Dệt may do đây là ngành quan trọng

đối với một số thành viên. Quy tắc xuất xứ chủ đạo là “yarn-forward” (“từ sợi trở

đi”). Đồng thời có một khái niệm quan trọng là Tỷ lệ tối thiểu (De minimis) quy định

khối lượng các nguyên liệu không đáp ứng xuất xứ CPTPP không được quá 10% tổng

khối lượng sản phẩm. Tuy nhiên, cũng có các ngoại lệ linh hoạt trong một số trường

hợp, cũng như danh mục một mặt hàng thuộc nguồn cung thiếu hụt tạm thời hoặc

vĩnh viễn vẫn sẽ được coi là đáp ứng quy tắc xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan.

12

Về vấn đề đầu tư, CPTPP có quy định khá rõ ràng về các nguyên tắc đầu tư,

bao gồm: (i) các nguyên tắc về mở của thị trường và xoá bỏ rào cản đầu tư (gồm các

nguyên tắc về không phân biệt đối xử NT và MFN, nguyên tắc liên quan tới “Các yêu

cầu về hoạt động”, và nguyên tắc liên quan tới “Nhân sự quản lý cao cấp và Ban lãnh

đạo”), (ii) nhóm các nguyên tắc nhằm đảm bảo các quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư

(gồm nguyên tắc chuẩn đối xử tối thiểu MST, nguyên tắc bảo vệ tài sản của nhà đầu

tư trước các biện pháp tịch thu, cưỡng chế, quốc hữu hoá, và nguyên tắc đảm bảo việc

chuyển vốn tự do), và (iii) các bảo lưu và ngoại lệ được CPTPP thừa nhận trong đối

xử với nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, CPTPP còn có một phần riêng quy định rất

chi tiết về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư (ISDS).

Đối với DNNN, các nguyên tắc áp dụng chung gồm: (a) phải hoạt động dựa

trên tính toán thương mại thuần tuý, (b) không được phân biệt đối xử khi mua bán

hàng hoá, dịch vụ và, (c) phải tuân thủ các nghĩa vụ của hiệp định khi được nhà nước

uỷ quyền. Hơn nữa, CPTPP cũng đề ra những nguyên tắc dành cho nhà nước khi quản

lý và kiểm soát DNNN gồm: (a) không hỗ trợ phi thương mại riêng đến mức gây ra

tác động tiêu cực đến lợi ích của thành viên khác, (b) cơ quan nhà nước phải hành xử

khách quan trong quản lý và điều hành, (c) toà án nội địa phải xử lý các khiếu kiện

với DNNN nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ của mình và, (d) minh bạch hoá các

thông tin cơ bản về DNNN.

Về vấn đề sở hữu trí tuệ, CPTPP đã đưa ra những cam kết cụ thể về tiêu chuẩn

bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ cho nhãn hiệu thương mại (trade mark), chỉ dẫn địa

lý, sáng chế, quyền tác giả và kiểu dáng công nghiệp. Song song đó, có cam kết về

sở hữu trí tuệ cho một số sản phẩm đặc thù như nông hoá phẩm và dược phẩm. Bên

cạnh đó, CPTPP cũng đặt ra các yêu cầu chi tiết về các nguyên tắc và thủ tục thực thi

quyền sở hữu trí tuệ, quy định rõ về các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và các

biện pháp xử lý hình sự tương ứng.

Đối với một số lĩnh vực như quản lý hải quan, phòng vệ thương mại, an toàn

thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), hàng rào kỹ thuật đối với thương mại

(TBT), nhập cảnh tạm thời, lao động, mội trường, minh bạch hoá và chống tham

13

nhũng, giải quyết tranh chấp, CPTPP khẳng định lại các nguyên tắc trong các hiệp

định của WTO, các công ước của Liên Hợp Quốc và của các tổ chức có liên quan.

Tuy nhiên, CPTPP cũng có đưa ra thêm một số quy định chi tiết và chặt chẽ hơn.

Đối với các lĩnh vực thương mại dịch vụ xuyên biên giới, dịch vụ tài chính,

thương mại điện tử, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh, CPTPP xây dựng các

quy định và cam kết dựa trên các nguyên tắc chung như Đối xử quốc gia (NT), Đối

xử tối huệ quốc (MFN), công bằng và minh bạch, mở cửa thị trường, bảo vệ người

tiêu dùng, chia sẻ thông tin.

Ngoài ra, CPTPP cũng sẽ thành lập và vận hành một số uỷ ban chuyên môn

như uỷ ban về môi trường, uỷ ban về DNNVV như những đầu mối để xúc tiến hợp

tác giữa các thành viên.

Một số điểm đáng chú ý trong TPP/CPTPP

Chứng nhận xuất xứ theo CPTPP không có mẫu cố định, tuy nhiên cần phải

có đầy đủ thông tin theo quy định, có thể theo dạng văn bản hoặc điện tử. Chứng nhận

còn cho phép người nhập khẩu, người xuất khẩu hay người sản xuất đều có thể tự

chứng nhận, khác với nhiều FTA khác.

Trong lĩnh vực thương mại điện tử, có các cam kết không yêu cầu đặt hệ thống

máy chủ ở nước sở tại thì mới được hoạt động, và cam kết cho phép truyền thông tin

qua biên giới bằng phương tiện điện tử.

Đối với mua sắm chính phủ, hình thức chỉ định thầu chỉ được áp dụng trong

rất ít các trường hợp theo quy định, và mỗi trường hợp đều đi kèm các điều kiện rất

chi tiết và cụ thể.

Việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin DNNN được xem như một bước

tiến lớn về minh bạch hoá vì hiện nay thông tin này ở Việt Nam không được công bố.

Các DNNVV được CPTPP quan tâm nhằm giúp nhóm này có thể tiếp cận

được thông tin và tận dụng tốt các lợi ích từ CPTPP. Cam kết về DNNVV cũng nằm

rải rác trong nhiều chương.

Cơ chế đảm bảo thực thi trong CPTPP đa dạng và chặt chẽ hơn so với WTO,

giúp các thành viên tăng khả năng giám sát việc thực thi của các thành viên khác,

đồng thời cũng đặt mỗi thành viên dưới áp lực phải thực thi đúng theo CPTPP.

14

Những cơ hội từ Hiệp định TPP/CPTPP

Thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp.

Do hiệp định đưa ra các tiêu chuẩn cao về mặt thể chế cũng như khuôn khổ pháp luật,

từ đó sẽ thúc đẩy thực hiện cải cách về thể chế, hướng đến các luật lệ quốc tế. Ngoài

ra, Việt Nam còn có thể học tập, trao đổi kinh nghiệm để hoàn thiện hệ thống pháp

luật cũng như quản lý và điều hành nền kinh tế.

Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó tạo ra cơ hội cải

thiện sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân, và mở rộng các ngành nghề,

lĩnh vực có nhu cầu phát triển.

Tạo cơ hội kinh doanh mới và mở rộng thị trường cho doanh nghiệp Việt Nam,

đặc biệt là các ngành Việt Nam có lợi thế như dệt may, da giày và thuỷ sản.

Những thách thức đến từ Hiệp định TPP/CPTPP

Áp lực từ việc điều chỉnh, sửa đổi các quy định pháp luật để thực thi các cam

kết trong hiệp định. Việt Nam cần phải phát triển hệ thống pháp luật lên tương xứng

với các bên khác.

Hàng hoá của Việt Nam sẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt từ sản phẩm của các

nước khác, đặc biệt là các sản phẩm công nghệ cao và các sản phẩm mà Việt Nam

chưa xây dựng được hàng rào kỹ thuật hoặc đã có nhưng không cao.

Hiệp định còn đòi hỏi phải mở cửa thị trường ngân hàng và gây áp lực lên thu

ngân sách do yêu cầu phải cắt giảm thuế nhập khẩu.

Các DNNN sẽ đứng trước yêu cầu phải tái cơ cấu để hoạt động hiệu quả và

minh bạch hơn. Cả thị trường mua sắm công cũng sẽ phải mở cửa, từ đó đặt ra yêu

cầu doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh sòng phẳng và làm ăn chân chính.

Chính phủ cũng sẽ phải đối xử công bằng, tạo sân chơi bình đẳng cho cả các

loại hình doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp nước ngoài.

1.3. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN HIỆP ĐỊNH TPP

Trans-Pacific Partnership or Trampling Poor Partners? A Tentative

Critical Review (Tạm dịch: Đối tác xuyên Thái Bình Dương hay Giày xéo các

Đối tác nghèo? Một bài phê bình thăm dò).

Tác giả: Raj Bhala, xuất bản năm 2014, xếp hạng Q4.

15

Bài nghiên cứu chủ yếu phân tích, đánh giá những điểm đang được thảo luận

trong TPP dựa trên góc nhìn của nước Mỹ. Do vấn đề đàm phán TPP được bảo mật

và không công khai nên bài nghiên cứu chỉ đưa ra những đánh giá mang tính thăm dò

và dựa trên một số ít tài liệu được công bố cũng như một vài nghiên cứu trước đó.

Bài nghiên cứu mở đầu bằng việc giới thiệu về TPP, hiệp định thương mại thế

hệ mới gồm 29 chương và Phụ lục, bao gồm những vấn đề về cắt giảm thuế và hàng

rào phi thuế quan, chứng nhận xuất xứ, thương mại điện tử, sở hữu trí tuệ, mua sắm

công, môi trường, lao động, v.v. Bài nghiên cứu tập trung vào hai vấn đề: một là TPP

không phải một hiệp định “tự do” đơn thuần mà là “được quản lý”; hai là việc TPP

tạo ra tăng trưởng kinh tế để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo là chưa rõ ràng.

Có 5 trụ cột chính trong TPP, bao gồm: tiếp cận thị trường (mọi lĩnh vực đều

được bao quát trừ những trường hợp được miễn, tuy nhiên mỗi thành viên đều có những

lĩnh vực nhạy cảm mà họ muốn bảo vệ); tính khu vực (nhấn mạnh tính khu vực của

TPP, không phải song phương hay đa phương); xuyên biên giới (những vấn đề về rào

cản phi thương mại, cũng như tăng cường hợp tác xuyên biên giới); tính mới lạ (một

số lĩnh vực mới như thương mại điện tử, phát triển xanh, sở hữu trí tuệ được đặt ra với

những tiêu chuẩn cao); và tính sống (hiệp định sẽ được cập nhật khi cần thiết).

Hiệp định TPP được mở rộng từ một hiệp định ban đầu chỉ có 4 thành viên,

sau đó số thành viên tăng lên 9, và sau cùng là lên 12. Đã có khoảng 20 vòng đàm

phán tính đến hết năm 2013. Việc Nhật Bản tham gia gây khá nhiều tranh cãi do nước

này đang có nhiều khúc mắc với Mỹ trong việc thoả thuận một hiệp định song phương

giữa hai bên. Ấn Độ đã không tham gia vì họ không muốn trở thành một “cấu trúc

kinh tế mới” của Mỹ, và vì họ chưa sẵn sàng để đáp ứng các tiêu chuẩn mức độ cao

của TPP. Đài Loan cũng đã không tham gia do nhiều nước đề với Trung Quốc. Kết

nạp Đài Loan mà loại bỏ Trung Quốc được coi là một hành động không chấp nhận

được đối với Đảng Cộng Sản Trung Quốc.

Có bốn động lực của Mỹ khi tham gia TPP: tự do hoá cạnh tranh, tiêu chuẩn

cao và toàn diện (do một số thành viên chưa có hiệp định song phương với Mỹ nên

điều này được cho là cần thiết, tuy nhiên ngay cả một số thành viên đã có FTA với

16

Mỹ thì họ vẫn có một số lĩnh vực nhạy cảm, điều này dẫn đến câu hỏi liệu TPP có

thực sự mở rộng khả năng tiếp cận thị trường mà không cần thoả hiệp), giành lấy ảnh

hưởng chiến lược tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương để đối trọng với Trung

Quốc, và để giảm bớt các chỉ trích rằng Mỹ có chính sách thương mại “không làm gì

cả” (“do-nothing” trade policy) khi tham gia vào các vòng đàm phán TPP.

Bài nghiên cứu nhấn mạnh về việc Mỹ xem TPP như một cách thức để ngăn

chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc thông qua việc không có Trung Quốc trong TPP, và

đặt ra các tiêu chuẩn ở mức độ cao để khiến Trung Quốc phải chấp nhận mà không

được đàm phán.

Tuy nhiên, sự minh bạch của TPP trở thành một vấn đề đối với nhiều bên khi

các thành viên theo đuổi phương thức bảo mật và công khai một lần, hiểu nôm na là

“không có gì được quyết định cho đến khi mọi thứ đều được quyết định” và chỉ công

khai sau khi đã quyết định hết mọi vấn đề. Điều này dẫn đến việc nhiều tổ chức, chính

thể không có cơ hội tham gia góp ý.

Đối với các FTA hiện hữu, TPP được xem như một phương tiện để nâng cấp

các hiệp định khác.

Có thể thấy, nếu Việt Nam trở thành một thành viên của TPP thì sẽ được tiếp

cận với một khối thị trường rộng lớn, với các thành viên mà trước đó Việt Nam chưa

hề có hiệp định song phương như Canada, Chile và lớn nhất là Mỹ. Đồng thời, Việt

Nam còn có khả năng xây dựng các động lực tăng trưởng mới như thương mại điện

tử, dịch vụ tài chính xuyên biên giới. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức không nhỏ

khi Việt Nam tham gia hiệp định này. Mặc dù vậy, khó có thể phủ nhận khả năng

Việt Nam là một công cụ trong chính sách cô lập Trung Quốc của Mỹ.

The Trans Pacific Partnership (TPP)

Tác giả: V.S. Seshadri, xuất bản năm 2013, xếp hạng Q4

Bài viết dựa trên góc nhìn của một nhà nghiên cứu người Ấn Độ về các vấn

đề đang trong giai đoạn đàm phán của TPP, và những hàm ý dành cho Ấn Độ.

Bài nghiên cứu mở đầu bằng việc giới thiệu chung về TPP, được xem như là

“hiệp định của thế kỷ XXI với tiêu chuẩn cao”. Mỹ đóng một vai trò dẫn dắt trong

17

việc đàm phán TPP do hiệp định đáp ứng được rất nhiều mối quan tâm của nước này,

từ việc tự do hoá thương mại cho đến mong muốn nâng cao các tiêu chuẩn về công

nghệ, dịch vụ và đầu tư. Trước đó Mỹ đã từng đưa ra nhiều tiêu chuẩn cao trong

FTAA, tuy nhiên lại bị phản đối bởi một số nước như Brazil. Đúng lúc thì Mỹ đã

nhận ra hiệp định P-4 có các tiêu chuẩn rất phù hợp với mong muốn của mình, và đã

tham gia đàm phán. TPP cũng được cho là sẽ giúp Mỹ cạnh tranh hiệu quả hơn với

một số thị trường lớn như Trung Quốc, Ấn Độ hay Indonesia, đồng thời cũng giúp

Mỹ cân bằng sức mạnh chính trị của mình tại khu vực châu Á nhằm mục tiêu ngăn

chặn sự ảnh hưởng đang gia tăng của Trung Quốc.

TPP được cho là một bước đi khá tham vọng, bao gồm nhiều nền kinh tế từ

phát triển, mới nổi và cả đang phát triển. Các nước thành viên không chỉ xây dựng

khung pháp lý cho những vấn đề truyền thống như tiếp cận thị trường, quy định

thương mại, mà còn phải bao hàm các vấn đề mới như sở hữu trí tuệ, lao động, môi

trường, đồng thời còn phải đảm bảo môi trường đầu tư và kinh doanh cạnh tranh.

Một số nước cũng được trông chờ sẽ tham gia TPP như Hàn Quốc hoặc Thái

Lan. Tuy nhiên, tâm điểm lại là Trung Quốc khi mà TPP sẽ tạo ra nhiều ảnh hưởng

đến nước này. Dẫu vậy, Mỹ được cho là sẽ không chấp nhận cho Trung Quốc tham

gia, khi mà nước này đang cáo buộc phía bên kia có những động thái thao túng tiền

tệ, bảo trợ sản phẩm nội địa hay thiếu sự minh bạch. Trung Quốc cũng đưa ra tuyên

bố là đang tìm hiểu về hiệp định. Một số ý kiến cho rằng Trung Quốc sẽ chờ xem

những ảnh hưởng tác động đến Việt Nam, nước có nền kinh tế hoạch định từ trung

ương giống Trung Quốc.

Những hàm ý dành cho Ấn Độ: (a) không nhất thiết phải tham gia ngay do

chưa thể đáp ứng được các tiêu chuẩn cao như vậy; (b) chưa có lời mời nào dành cho

Ấn Độ; (c) nếu TPP đi vào hiệu lực, thị phần của Ấn Độ trong các nước TPP sẽ sụt

giảm; (d) đầu tư vào các nước TPP như Việt Nam hay Malaysia sẽ gia tăng thay vì

Ấn Độ; (e) nếu môi trường kinh doanh của các nước TPP trở nên tốt hơn thì các doanh

nghiệp Ấn Độ tại đây cũng được hưởng lợi, nhưng sẽ có nguy cơ ngay cả họ cũng sẽ

đầu tư vào đây thay vì nước nhà; (f) nếu các rào cản về nông nghiệp được giảm xuống

18

thì sẽ có tác động tốt đến việc kinh doanh trong lĩnh vực này; (g) nếu TPP thành công,

Mỹ sẽ đem khuôn mẫu này áp dụng lên vòng đàm phán Doha; (h) điều trên sẽ ảnh

hưởng đến việc hình thành RCEP, cần hợp tác chặt chẽ với Indonesia, Trung Quốc,

Philippines và Thái Lan, các nước có các quan điểm tương đồng; (i) nên trở thành

một thành viên của APEC.

Ngay cả Ấn Độ cũng đánh giá Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều hơn họ nếu

tham gia vào Hiệp định TPP. Một điểm tương đồng có thể thấy giữa hai quốc gia

chính là nền kinh tế còn phát triển ở mức độ thấp, cho thấy lo lắng của Ấn Độ về khả

năng đáp ứng các tiêu chuẩn cũng có thể đúng khi áp dụng vào Việt Nam. Tuy nhiên,

nếu Việt Nam chấp nhận tự thay đổi bản thân thì hiệp định này có thể tạo tiền đề cho

một bước phát triển nhanh cho nền kinh tế.

Trade Implications of the Trans-Pacific Partnership for ASEAN and

Other Asian Countries (Tạm dịch: Hàm ý thương mại của TPP đối với ASEAN

và các nước châu Á khác)

Tác giả: Alan V. Deardorff, xuất bản năm 2014, xếp hạng Q3

Bài nghiên cứu đánh giá tác động của TPP đến thương mại của các nước thành

viên TPP và một số nước trong khu vực châu Á, dựa trên các dữ liệu về trao đổi

thương mại từ WTO và các hiệp định FTA.

Bài nghiên cứu mở đầu bằng việc giới thiệu chung về TPP như một hiệp định

“đỉnh cao, thế hệ mới của thế kỷ XXI”. Điều khiến tác giả thích thú là vì có hai nền

kinh tế lớn tham gia TPP, đó là Mỹ và Nhật. Tác giả muốn đánh giá xem liệu TPP có

ảnh hưởng chồng lấn lên các FTA hiện tại của các thành viên như thế nào.

Phần một giới thiệu chung về các FTA đang hiện hành của các thành viên TPP,

trong đó có các FTA song phương và cả đa phương như hiệp định chung của 10 nước

ASEAN (AFTA). Tác giả đã chỉ ra rằng các FTA thông thường chỉ đơn thuần là xoá

bỏ thuế quan, còn các vấn đề khác vẫn chỉ ở mức tương đối. Trong khi đó, TPP được

cho là sẽ thảo luận sâu sắc hơn, chi tiết hơn về cả những vấn đề phi thương mại như

sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, lao động và môi trường, dịch vụ, đầu tư. Tác

giả có liệt kê ra những vấn đề sẽ được thảo luận trong TPP, đa phần là những yêu cầu

19

từ phía Mỹ. Một biểu đồ cho thấy quy mô GDP của các thành viên trong TPP chiếm

hơn một nửa tổng số GDP của chúng cộng với một số nước châu Á khác.

Trong phần hai, tác giả có thống kê các FTA đã được ký giữa các nước thuộc

TPP và châu Á. Tác giả đã nhận thấy rằng mức độ ký kết FTA giữa các nước là khá

cao, 40 FTA trên 66 cặp quốc gia. Với bốn nước vừa thuộc ASEAN vừa thuộc TPP

là Brunei, Malaysia, Singapore và Việt Nam thì mức độ ký kết hiệp định với 8 thành

viên còn lại cũng là hơn một nửa. Đáng chú ý, Singapore là nước duy nhất trong 4

nước này có hiệp định với Mỹ. Các nước còn lại trong khối ASEAN cũng có FTA

chung với Úc, Nhật và New Zealand. Ngoài ra thì khối ASEAN còn có hiệp định với

một số nền kinh tế lớn trong châu Á là Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc.

Phần ba là phân tích tác động của TPP, được mở đầu bằng việc dựa trên khái

niệm về sự hình thành thương mại (trade creation) và suy giảm thương mại (trade

diversion) của Viner (1950). Theo lý thuyết của Viner thì hai nước ký FTA sẽ chịu

tổn thất do hiệu ứng suy giảm thương mại vì thất thu thuế. Tuy nhiên, để áp dụng lên

TPP thì tác giả đã chỉ ra hai thiếu sót trong lý thuyết của Viner, đó là sự giảm ưu tiên

(preference erosion) và sự đảo ngược thương mại (trade reversion). Tác giả đã làm

thêm hai bảng chi tiết về thị trường xuất nhập khẩu lớn của các nước nêu trong phần

hai, sau đó sử dụng mô hình CGE và các thông tin giao dịch thương mại giữa các

nước từ WTO để đưa ra kết quả được/mất của các nước tác động bời TPP, có thể

được tóm tắt như sau:

- Úc sẽ được hưởng lợi từ TPP.

- Canada, Chile, New Zealand: tuỳ thuộc vào mức độ cân bằng giữa được

và mất.

- Mexico, Peru: TPP không có tác động đáng kể đến hai quốc gia này.

- Nhật: tác động của TPP tương tự FTA với Mỹ nếu có trong tương lai.

- Mỹ: tác động của TPP cũng là không rõ ràng.

- Brunei, Malaysia, Việt Nam: sẽ được hưởng lợi do có hiệp định với Mỹ,

riêng Việt Nam tác động sẽ ít hơn do Việt Nam không nhập nhiều hàng từ Mỹ

như hai nước còn lại.

20

- Các nước còn lại trong ASEAN: trừ Myanmar thì còn lại sẽ chịu bất lợi

gây ra do TPP.

- Một số nước khác trong khu vực châu Á: đa số sẽ đều chịu thiệt hại do TPP

gây ra, riêng Ấn Độ và Hàn Quốc thì sẽ ít nghiêm trọng hơn. Trường hợp tồi

tệ nhất chính là Trung Quốc, nước này được cho là sẽ trở thành kẻ thua cuộc

lớn nhất.

Regionalism in Asia as Disguised Multilateralism: A Critical Analysis of

the East Asia Summit and the Trans-Pacific Partnership (Tạm dịch: Chủ nghĩa

khu vực dưới lớp nguỵ trang Chủ nghĩa đa phương: Một bài phân tích về Hội

nghị Thượng đỉnh Đông Á và TPP)

Tác giả: David Camroux, xuất bản năm 2012, xếp hạng Q2

Bài viết đưa ra cách nhìn của tác giả về khái niệm “khu vực” hay “cộng đồng”

được che dấu dưới những thay đổi hướng tới chủ nghĩa đa phương, thông qua hai đề

án trong khu vực châu Á là Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và TPP.

Mở đầu, tác giả nhắc lại về hiện trạng của châu Á trong thế kỷ XIX, khi mà

chủ nghĩa đế quốc còn đang tung hoành, thì khái niệm châu Á được cho là xoay quanh

mối quan hệ Trung – Ấn. Tuy nhiên, sau khi Ấn Độ giành độc lập thì họ chỉ tập trung

vào phát triển trong nước, mãi cho đến thập niên 90, Ấn Độ mới bắt đầu thực hiện

chính sách “Hướng Đông”. Lúc này, Ấn Độ được cho là đã bắt đầu gia nhập vào sự

phát triển của châu Á. Việc định nghĩa châu Á còn được so sánh với EU đã được thể

chế hoá. Tuy nhiên, các nhà học giả đã khá dè dặt khi đưa ra ý kiến về sự hội nhập

nội khu vực châu Á. Tác giả muốn trả lời cho câu hỏi việc hội nhập nội khu vực châu

Á là hợp tác nội khu vực và xây dựng cộng đồng chung, hay là dưới dạng chủ nghĩa

song phương và chủ nghĩa đa phương, thông qua việc phân tích EAS và TPP. Cả hai

đề án này đều chưa có hiệu lực thực tế, nhưng có khả năng trở thành nhân tố mới

trong việc chi phối toàn cầu.

Một số định nghĩa về chủ nghĩa đa phương đã được nhắc đến, chẳng hạn như

“một thể chế chung” theo John Ruggie, khi các bên đều hoạt động dựa trên các

nguyên tắc đã được thống nhất hoá. Tuy nhiên, định nghĩa này đã không cân nhắc

21

đến vai trò của các tổ chức phi chính quyền, cũng như đã đặt điều kiện tiên quyết cho

sự tồn tại của các cơ quan điều hành. Vì vậy, bài nghiên cứu này dựa trên định nghĩa

của Bouchard và Peterson, rằng chủ nghĩa đa phương là “ba hoặc nhiều hơn các bên

tham gia tự nguyện hợp tác quốc tế bằng các quy chuẩn và nguyên tắc, với luật lệ áp

dụng bình đẳng cho mọi nước”. Ngoài ra, James Caporaso cho rằng chủ nghĩa đa

phương là một tổng thể các chủ nghĩa song phương, điều này khá đúng với đa số các

FTA trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương hiện nay. Tuy nhiên, cách hiểu về chủ

nghĩa đa phương cũng sẽ thay đổi theo thời gian và tuỳ thuộc vào cách nhìn nhận của

từng người, mà nó sẽ là tích cực hay tiêu cực.

Khác với ASEAN có tổng thư ký riêng, EAS không có tổng thư ký hay cơ

quan thể chế. Các cuộc gặp trong EAS thường đi kèm trong các hội nghị ASEAN,

ASEAN+3 (Trung, Hàn, Nhật) cũng như các cuộc gặp song phương với Mỹ. Sau này,

các hội nghị đã mời thêm Ấn Độ, Úc và New Zealand, và còn dự tính sẽ thêm Nga.

Do sự đối đầu trong mối quan hệ Trung-Nhật mà ASEAN được chọn là điều phối

viên. Tuy nhiên, trong nội bộ ASEAN cũng có sự chia rẽ trong việc mở rộng

ASEAN+3. Việc phê chuẩn thêm hai thành viên mới cho EAS là Mỹ và Nga vào năm

2010 được cho là bước ngoặt trong mối quan hệ châu Á – Thái Bình Dương. Tuy

nhiên, điều này không hẳn là được đồng thuận giữa các bên. Trong khi phía Úc ủng

hộ cho sự tham dự của Mỹ thì phía Nhật lại tỏ ra khá nước đôi về việc này. Điều này

được cho là ảnh hưởng của Trung Quốc khi nước này tham gia rất nhiều diễn đàn đa

phương. Trung Quốc đã trở thành một thế lực lớn, bằng chứng chính là trong cuộc

khủng hoảng tài chính, nước này đã trở thành cứu cánh cuối cùng cho Mỹ và châu

Âu. Tuy nhiên, sự mở rộng quân sự của Trung Quốc đã gây ra tâm lý e ngại trong

khu vực. Vì vậy, phía Mỹ đã nêu rõ quan điểm và tái khẳng định về sự hiện diện của

nước này trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, như một bên không thể thiếu. Ở

đây, nước Nhật được cho là điểm mấu chốt khi xét về mối quan hệ Mỹ – Trung. Hơn

nữa, sau cuộc khủng hoảng kinh tế và thảm hoạ sóng thần, Nhật Bản càng theo đuổi

chiến lược quốc tế hoá khu vực, để nâng cao vai trò của mình trên toàn cầu.

Sau các cuộc khủng hoảng, các nhà điều hành đã đặt ra câu hỏi về sự phụ thuộc

vào xuất khẩu và việc xây dựng nền kinh tế nội địa. Đồng thời, một số lượng lớn FTA

22

đã hình thành trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Khởi đầu từ hiệp định P-4,

TPP đã được đề xuất, đánh dấu sự phát triển của FTA trong khu vực châu Á – Thái

Bình Dương. Đây được cho là sáng kiến thương mại quan trọng nhất của Mỹ ở châu

Á trong vài năm trở lại. John Ravenhill đã chỉ ra 4 đặc điểm riêng biệt của TPP: liên

khu vực (châu Á – Thái Bình Dương); sự trở lại châu Á mang tính chính trị của Mỹ;

nỗ lực xoay sở các chính sách khu vực; tìm cách đạt được mục tiêu của APEC là

thương mại tự do giữa các thành viên; và dưới góc nhìn của bài nghiên cứu, TPP tìm

cách “đa phương hoá chủ nghĩa khu vực” bằng việc cho phép gia nhập trong tương

lai. Tuy nhiên, phía Nhật lại không mặn mà lắm với việc tham gia TPP do sự chia rẽ

trong nội bộ giữa mối quan hệ với Mỹ. Dẫu vậy, Nhật đã đồng ý tham gia đàm phán

sau đó, với suy nghĩ TPP có thể là công cụ để cạnh tranh với Trung Quốc. Đối với

Trung Quốc, nước này xem TPP như một chiến lược bao vây mình.

Tóm lại, khái niệm về khu vực châu Á vẫn còn khá mù mờ. Nhiều mô hình đã

được nhắc đến trong việc hội nhập trong khu vực châu Á như EAS hay TPP, cái mà

được Mỹ ủng hộ. Và dù có là mô hình nào thì thì ASEAN vẫn ở trung tâm. Bài nghiên

cứu đã nhận định sự hội nhập trong khu vực bản chất không phải là mục tiêu, mà là

để che giấu cho sự hợp tác và đa phương trong khu vực châu Á (và châu Á – Thái

Bình Dương). Nếu “chủ nghĩa khu vực” là một khái niệm sai lầm để đánh giá các mối

quan hệ quốc tế trong châu Á thì nó vẫn còn những lợi ích khác. Theo Arnold Wolfers,

đó có thể là những mục tiêu như giành lấy khả năng tiếp cận thị trường, bảo vệ chủ

quyền, kìm hãm Trung Quốc, v.v. Tuy nhiên, Amy Searight lại cho rằng đây là cách

Mỹ hình thành nên quy trình và nhận thức. Có thể nói chủ nghĩa khu vực đang tìm

cách xây dựng các chuẩn mực về hành xử đa phương trong khu vực.

Multilateralising regionalism: what role for the Trans-Pacific

Partnership Agreement? (Tạm dịch: Đa phương hoá chủ nghĩa khu vực: vai trò

nào cho Hiệp định TPP?)

Tác giả: Ann Capling và John Ravenhill, xuất bản năm 2011, xếp hạng Q1

Bài nghiên cứu phân tích những đặc điểm của TPP mà có thể giải quyết được

hiệu ứng “noodle bowl” trong khi cả WTO hay APEC đều không cho thấy hiệu quả.

23

Đồng thời, TPP cũng được kỳ vọng sẽ một bước ngoặt lớn trong việc tự do hoá thương

mại trên cơ sở không phân biệt.

Mở đầu, bài nghiên cứu nêu lên thực trạng gia tăng nhanh chóng số lượng hiệp

định mại trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Các hiệp định này cũng rất khác

nhau về hình thức, phạm vi và mục đích. Kết quả của sự bùng nổ này là một mạng

lưới dày đặc và phức tạp các luật lệ thương mại, thậm chí đôi chỗ mâu thuẫn với nhau.

Giữa lúc đó, TPP được đề xuất với mục tiêu trở thành một hiệp định toàn diện, chất

lượng cao, đa phương để giải quyết tình trạng rối rắm trong các hiệp định thương mại

hiện tại, đồng thời đạt đến mục đích của WTO và APEC trong tự do hoá thương mại.

TPP bắt nguồn từ hiệp định P-4 giữa Brunei, Chile, New Zealand và Singapore.

Xét theo mức độ ảnh hưởng về kinh tế thì P-4 là rất nhỏ, tuy nhiên hiệp định này đã

được Mỹ để ý do có nhiều điều khoản chất lượng cao, đúng với mục tiêu theo đuổi

của Mỹ. Sau khi Mỹ công khai ý định tham gia, Úc, Peru và Việt Nam cũng đã nhanh

chân bước theo. TPP được đánh giá là khác biệt hẳn so với phần còn lại trong khu

vực châu Á – Thái Bình Dương do 4 lý do: liên khu vực; đánh dấu sự cam kết của

Mỹ tại khu vực này; là hiệp định kiểu mới vượt qua khỏi khuôn khổ thông thường;

và được kỳ vọng sẽ “đa phương hoá chủ nghĩa khu vực”, giải quyết hiện tượng

“noodle bowl” và đáp ứng mục tiêu dài hạn của APEC về thương mại tự do.

Mục tiêu chính trị của TPP được cho là việc giữ lại sự hiện diện của Mỹ tại

châu Á. Điều này phù hợp với mục tiêu chung trong các hiệp định thương mại mà

Mỹ có mặt (là vì mục tiêu đối ngoại và an ninh hơn là thương mại), đồng thời cũng

khẳng định quyết tâm “quay lại châu Á” của chính phủ Mỹ đương thời. Hơn thế nữa,

điều này cũng được coi như là công cụ để kềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc trong

khu vực. Mục tiêu kinh tế đầu tiên của TPP là hình thành một hiệp định kiểu mới của

thế kỷ XXI. Một mục tiêu kinh tế khác của TPP là đa phương hoá chủ nghĩa khu vực.

Mặc dù được đánh giá là có nhiều tiềm năng, tuy nhiên tác động kinh tế trực tiếp từ

TPP được cho là khá hạn chế. Nguyên nhân là do các nền kinh tế tham gia đã khá mở,

quy mô nhỏ nếu không tính đến Mỹ, và phần nhiều cũng đã có hiệp định song phương

với nhau. Tuy vậy, điều quan trọng hơn so với lợi ích kinh tế ngắn hạn chính là việc

24

TPP có khả năng tháo gỡ những rắc rối trong mạng lưới hiệp định thương mại hiện

tại trong khu vực, giái quyết vấn đề “noodle bowl”, và “đa phương hoá chủ nghĩa khu

vực” bằng cách cho phép các nền kinh tế khác gia nhập.

Sự đóng góp của TPP cho công cuộc đa phương hoá bị thách thức bởi các rào

cản chính trị. Các doanh nghiệp khi gặp phải các rào cản hoặc bị cạnh tranh không

lành mạnh, họ sẽ tiến hành vận động để chính phủ thay đổi. Tuy nhiên, đối với các

chính phủ theo đuổi đa mục tiêu, thì mục đích thương mại có thể không phải là trọng

tâm. Mặc dù giao thương có thể được thực hiện ở những nhóm hàng có thuế suất

MFN bằng 0, một số nhóm hàng vẫn được áp dụng thuế MFN thay cho thuế suất

trong hiệp định song phương. Điều này chứng tỏ lý do kinh tế chính trị là nguyên

nhân đứng sau, nhằm bảo vệ thị trường trong nước.

Khác với châu Âu và Mỹ, các nước Đông Á dường như không bận tâm đến

chi phí khi gia tăng số lượng các hiệp định thương mại cũng như vấn đề “noodle

bowl”. TPP được cho là sẽ giải quyết tình trạng này. Tuy nhiên, cũng không thể chắc

chắn rằng doanh nghiệp sẽ tiến hành vận động để chống lại chủ nghĩa bảo hộ. Sự cân

bằng về kinh tế và chính trị cũng là đặc thù cho từng nước, tuỳ hoàn cảnh và giai

đoạn. Có một số bằng chứng còn cho thấy có sự gia tăng về tư tưởng bảo hộ trong

các cuộc đàm phán hiệp định thương mại, và ví dụ cụ thể nhất là ngay chính trong

nước Mỹ. Những người theo chủ nghĩa bảo hộ đã nêu ra vấn đề thâm hụt thương mại

với Trung Quốc khi nhắc đến các hiệp định thương mại với các nước đang phát triển

khác, hay muốn loại bỏ ngành sữa trong bất kỳ hiệp định thương mại với New Zealand,

hoặc loại Việt Nam ra khỏi các vòng đàm phán về ngành dệt may. Mặc dù quy mô

kinh tế Mỹ lớn hơn rất nhiều so với các thành viên còn lại, nhưng có thể thấy được

lợi ích về mặt thương mại là không nhiều, không những thế còn có thể gây hại đến

một số ngành nhạy cảm như nông nghiệp. Một lý do chính trị khác được cho là việc

TPP mở cửa cho phép các thành viên mới gia nhập, mà có khả năng là những nền

kinh tế lớn. Việc Hàn Quốc ký hiệp định với EU và Mỹ, hay Đài Loan ký hiệp định

với Trung Quốc, đã khiến Nhật Bản nhanh chóng tham gia TPP và trở thành thành

viên chủ lực, một phần là vì thảm hoạ năm 2011 và vì vấn đề nông nghiệp với Mỹ.

25

Tại thời điểm nghiên cứu của tác giả, TPP vẫn còn đang trong giai đoạn đàm

phán. Dẫu vậy nó vẫn trở thành một nhân tố chính trong chính sách hướng về châu Á

của Mỹ. Nhiều doanh nghiệp không đạt được lợi ích đáng kể từ các hiệp định hiện tại

do các xu hướng bảo hộ cũng như định hướng theo chính phủ (vì mục đích chính trị)

thay vì định hướng theo doanh nghiệp (vì mục đích thương mại). TPP được kỳ vọng

sẽ tạo ra thay đổi trên một vài khía cạnh, tuy nhiên nó sẽ không phải là một bước đột

phá thực sự nếu chỉ là tập hợp của nhiều hiệp định song phương thay vì một hiệp định

đa phương toàn diện. WTO cũng có thế mang mô hình TPP đến để bàn bạc tại vòng

đàm phán Doha. Nhưng nếu vòng đàm phán này thất bại thì TPP có thể bị xem là một

bức màn chia rẽ khu vực châu Á – Thái Bình Dương, với một bên là Mỹ và các đồng

minh, và bên còn lại là Trung Quốc.

Tóm tắt chương 1

Thương mại quốc tế vốn đã hình thành từ lâu, trải qua hình thái hàng đổi hàng

và sau này dùng tiền để làm vật ngang giá chung. Có nhiều nhà kinh tế học đã nghiên

cứu để tìm hiểu về bản chất và phương thức vận hành của thương mại quốc tế. Trải

qua một thời gian với các hiệp định thương mại đơn thuần, Hiệp định Đối tác xuyên

Thái Bình Dương TPP và sau này là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên

Thái Bình Dương CPTPP đã xuất hiện như một tiêu chuẩn mới cho thương mại quốc

tế trong thế kỷ XXI, với nhiều điều khoản mới nhằm thúc đẩy tự do thương mại một

cách mạnh mẽ hơn cùng với phát triển bền vững. Hiệp định TPP ban đầu có 12 thành

viên, sau đó Mỹ rút lui thì đã thay đổi thành CPTPP. Một số nghiên cứu về Hiệp định

TPP đã cho rằng Việt Nam sẽ là quốc gia hưởng được nhiều lợi ích nhất.

26

CHƯƠNG 2: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP ĐẾN SỰ

PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

2.1. GIAI ĐOẠN 2009 – 2018

Hình 2.1 mô tả quy mô GDP và tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong

giai đoạn 2009 – 2018. Có thể thấy quy mô GDP của Việt Nam tăng đều đặn trong

giai đoạn này, từ 106.01 tỷ USD năm 2009 lên 244.95 tỷ USD vào năm 2018. Trong

vòng một thập kỷ qua, quy mô GDP của Việt Nam đã tăng lên khoảng 2.5 lần.

Hình 2.1 Quy mô GDP Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018

Tỷ USD 300

9.0%

7.5% 250

6.0% 200

4.5% 150

3.0% 100

1.5% 50

0.0% 0

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

GDP Tốc độ tăng trưởng GDP

Nguồn: Ngân Hàng Thế Giới

Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn này đạt ở mức khá trên

6%. Tuy nhiên, có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng giai đoạn năm năm đầu thấp hơn

giai đoạn năm năm sau. Năm 2009, tốc độ tăng trưởng ở mức thấp 5.40%, nguyên

nhân chủ yếu là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2008,

khi mà cuộc khủng hoảng xuất phát từ Mỹ đã lan ra toàn thế giới và khiến cho tốc độ

tăng trưởng toàn cầu trong năm 2009 xuống mức âm. Hai năm tiếp theo, kinh tế có

sự phục hồi và tăng trưởng trên 6%, được cho là kết quả của hoạt động nới lỏng tín

dụng nhằm thúc đẩy phục hồi nên kinh tế. Tuy nhiên, hậu quả là lạm phát tăng cao

và đạt đỉnh vào năm 2011, được minh hoạ trong hình 2.2. Sau khi áp dụng các biện

27

pháp nhằm kiềm chế lạm phát và thận trọng hơn trong điều tiết cung tiền, lạm phát

đã giảm hẳn nhưng cũng kéo giảm tốc độ tăng trưởng xuống dưới 6% trong hai năm

2012 và 2013. Ngoài ra, một nguyên nhân khác có tác động không nhỏ được cho là

thế giới vẫn chưa phục hồi hoàn toàn sau cuộc khủng hoảng tài chính.

Hình 2.2 Lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018

20%

16%

12%

8%

4%

0%

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Nguồn: Ngân Hàng Thế Giới

Giai đoạn 2014 – 2018, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam có mức tăng

tốt hơn so với giai đoạn năm năm trước đó, đạt trung bình trên 6.5%. Đặc biệt là năm

2018, mức tăng trưởng đạt đến 7.08%, là mức cao nhất trong vòng một thập kỷ. Đồng

thời, lạm phát cũng đã được kiểm soát chặt chẽ và trở nên ổn định hơn. Trong ba năm

gần đây, lạm phát luôn tiệm cận dưới mức 4%, là mức mục tiêu chung trong các kế

hoạch phát triển kinh tế trong giai đoạn này.

So với một số nước trong khu vực, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam giai

đoạn 2009 – 2018 cũng có xu hướng tích cực hơn. Hình 2.3 minh hoạ tốc độ tăng

trưởng GDP của một số nước và trung bình thế giới trong giai đoạn này. Có thể thấy

rằng chỉ có Philippines và Việt Nam đang có xu hướng tăng tốc, trong khi đó Trung

Quốc giảm tốc mạnh, còn các nước khác thì hầu như đi ngang. Việt Nam cũng là

nước duy nhất có biên độ dao động về tốc độ tăng trưởng GDP trong khoảng khá hẹp.

Không những thế, năm 2018 còn là năm mà Việt Nam vươn lên dẫn đầu về tốc độ

28

tăng trưởng GDP so với các nước còn lại được xem xét. Tuy nhiên, nếu xét đến tốc

độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn thì Việt Nam vẫn xếp sau hai quốc gia đông

dân nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ. Dẫu vậy, Việt Nam vẫn đang được coi là

một điểm sáng mới về tăng trưởng không những chỉ trong khu vực mà còn cả trên

quy mô toàn cầu.

Hình 2.3 Tốc độ tăng trưởng GDP của một số nước và thế giới

12.5%

10.0%

7.5%

5.0%

2.5%

0.0%

-2.5% 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Indonesia Malaysia Trung Quốc Ấn Độ

Philippines Thái Lan Việt Nam Thế Giới

Nguồn: Ngân Hàng Thế Giới

Xét đến thu nhập bình quân đầu người trong giai đoạn 2009 – 2018 thì con số

của Việt Nam đã tăng lên gấp đôi, từ mức 1,217USD năm 2009 lên 2,564USD năm

2018. Tuy nhiên, nếu xét chung với một số quốc gia trong khu vực thì mức tăng của

Việt Nam còn khá khiêm tốn, như minh hoạ trong hình 2.4. Thái Lan và Malaysia có

mức tăng khá tốt, và Malaysia đang tiến sát đến ranh giới cho quốc gia có thu nhập

cao (khoảng 12,375USD theo phân loại của WB). Trung Quốc là quốc gia có tốc độ

tăng ấn tượng nhất, với thu nhập bình quân năm 2018 gấp 2.5 lần mức của mười năm

trước. Indonesia cũng đang tiến tới trở thành nước có thu nhập trung bình cao (khoảng

4,000USD theo phân loại của WB). Tính đến năm 2018 thì thu nhập bình quân đầu

người của Việt Nam chỉ cao hơn Ấn Độ trong nhóm các nước được xem xét.

29

USD 12,000

Hình 2.4 Thu nhập bình quân đầu người một số nước và thế giới

10,000

8,000

6,000

4,000

2,000

0

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Indonesia Malaysia Trung Quốc Ấn Độ

Philippines Thái Lan Việt Nam Thế Giới

Nguồn: Ngân Hàng Thế Giới

Tuy vẫn còn ở mức trung bình thấp trong giai đoạn này, nhưng theo một dự

báo của ngân hàng Standard Chartered (2019) công bố vào giữa năm, thu nhập bình

quân đầu người của Việt Nam có thể đạt đến 10,400USD vào năm 2030 nếu có thể

duy trí được tốc độ tăng trưởng trên 7% trong một thập kỷ tới. Ngay cả chính phủ

cũng đã đặt mục tiêu đạt mức thu nhập bình quân đầu người 10,000USD vào năm

2035, nhưng kèm theo đó sẽ là trở ngại về bẫy thu nhập trung bình mà nếu không có

những chính sách, thể chế phù hợp thì khó có thể vượt qua được.

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn 2009 –

2018 cũng có thể được chia thành hai giai đoạn. Trong bốn năm đầu năm đầu, do dư

âm của cuộc khủng hoảng tài chính và sự trì trệ của kinh tế thế giới, vốn đăng ký đầu

tư trực tiếp nước ngoài đã giảm từ hơn 23 tỷ USD năm 2009 xuống còn hơn 16 tỷ

USD năm 2012, vốn thực hiện cũng chỉ quanh 10 tỷ USD. Qua giai đoạn sau, thu hút

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã hồi phục và tăng nhanh, thậm chí hai năm 2017

và 2018 còn đạt trên 35 tỷ USD. Vốn thực hiện cũng được cải thiện và đạt mức cao

nhất trong lịch sử là 19.1 tỷ USD vào năm 2018. Tuy vậy, có thể thấy tỷ lệ giải ngân

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn chỉ xoay quanh mốc 50% đến 60%, chưa có sự

bứt phá nào đáng kể.

30

Hình 2.5 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018

Tỷ USD 40

80%

70% 35

60% 30

50% 25

40% 20

30% 15

20% 10

10% 5

0% 0

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Tổng vốn đăng ký Vốn thực hiện Tỷ lệ giải ngân

Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư

Hoạt động thương mại của Việt Nam với các nước và khu vực trên thế giới

trong giai đoạn 2009 – 2018 cũng tăng trưởng nhanh từ mức 127.05 tỷ USD năm

2009 lên mức 480.57 tỷ USD năm 2018, gấp gần 4 lần sau mười năm. Từ một nước

chuyên nhập siêu thì ba năm gần nhất Việt Nam đã duy trì trạng thái xuất siêu, và

năm 2018 là năm có mức thặng dư thương mại cao nhất trong vòng một thập kỷ với

6.83 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng thương mại của Việt Nam ngoại trừ năm 2009 bị

âm thì các năm còn lại hầu hết đều đạt mức trên hai con số. Tình hình xuất nhập khẩu

của Việt Nam trong giai đoạn 2009 – 2018 được minh hoạ trong hình 2.6.

Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam gồm điện thoại các loại và linh

kiện, máy vi tính các loại và linh kiện, hàng dệt may và giày dép các loại, máy móc

thiết bị và phụ tùng, gỗ và các sản phẩm gỗ, phương tiện vận tải và phụ tùng, và thuỷ

sản. Tính trong năm 2018, nhóm điện thoại và linh kiện đạt kim ngạch xuất khẩu gần

50 tỷ USD, nhóm máy vi tính và linh kiện đạt gần 30 tỷ USD, dệt may đạt trên 30 tỷ

USD, giày dép và máy móc thiết bị cùng đạt trên 16 tỳ USD, gỗ và thuỷ sản cùng đạt

gần 9 tỷ USD, phương tiện vận tải và phụ tùng đạt trên 8 tỷ USD. Các nhóm kể trên

đã chiếm gần 70% tổng lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2018.

31

Mặt hàng điện thoại và linh kiện là nhóm hàng ngày càng có mức xuất khẩu

tăng cao kể từ khi tổ hợp nhà máy của Samsung chuyển về Việt Nam, cho thấy các

sản phẩm giá trị cao đã chuyển về một nước đang phát triển như Việt Nam với chi

phí lao động thấp. Bên cạnh đó, hàng dệt may là sản phẩm thuộc ngành nghề thâm

dụng lao động mà Việt Nam có lợi thế so sánh, nên không bất ngờ khi mặt hàng này

luôn nằm trong những vị trí đầu về giá trị xuất khẩu.

Ở phía ngược lại, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu bao gồm máy vi tính và

linh kiện, máy móc thiết bị và phụ tùng, điện thoại các loại và linh kiện, vải các loại,

chất dẻo nguyên liệu, và sắt thép các loại. Năm 2018, kim ngạch nhập khẩu nhóm

máy vi tính và linh kiện đạt trên 43 tỷ USD, nhóm máy móc thiết bị đạt gần 33 tỷ

USD, nhóm điện thoại và linh kiện đạt gần 16 tỷ USD, vải các loại đạt gần 13 tỷ USD,

sắt thép các loại đạt gần 10 tỷ USD và chất dẻo nguyên liệu đạt 9 tỷ USD. Các nhóm

kể trên đã chiếm trên 50% tổng lượng hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam năm 2018.

Hình 2.6 Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018

Tỷ USD 250

50%

40% 200

30% 150

20% 100

10% 50

0% 0

-10% -50 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Xuất khẩu Cán cân thương mại Nhập khẩu Tốc độ tăng trưởng

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan

32

Ba thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong những năm gần đây theo

thứ tự là Mỹ, khối EU và Trung Quốc, trong khi đó ba thị trường nhập khẩu lớn nhất

của Việt Nam là Trung Quốc, Hàn Quốc và khối ASEAN. Nếu tính chung cả xuất

nhập khẩu thì đối tác lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc, kế đến là Hàn Quốc và

Mỹ. Có thể thấy rõ không có nước đơn lẻ nào trong hiệp định CPTPP nằm trong tốp

đầu về trao đổi thương mại với Việt Nam.

Hình 2.7 Cơ cấu về đối tác thương mại với Việt Nam

100%

80%

60%

40%

20%

0%

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

CPTPP Mỹ Trung Quốc Hàn Quốc Các nước khác

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan

Không những thế, hình 2.7 minh hoạ cơ cấu về đối tác thương mại với Việt

Nam, cho thấy xu hướng trao đổi thương mại giữa Việt Nam và nhóm các nước thuộc

hiệp định CPTPP đang ngày càng giảm dần cho đến trước khi hiệp định CPTPP chính

thức đi vào hiệu lực. Trao đổi hàng hoá với Mỹ, một cựu thành viên của TPP, có sự

thay đổi không nhiều. Trong khi đó, trao đổi với Trung Quốc và Hàn Quốc, hai nước

không nằm trong hiệp định CPTPP, thì lại đang tăng lên đáng kể. Sự gia tăng trao đổi

thương mại với Hàn Quốc có thể hiểu được khi hai bên đã có hiệp định thương mại

song phương chính thức đi vào hiệu lực cuối năm 2015 cùng với việc tổ hợp Samsung

đã chuyển nhiều nhà máy sang Việt Nam. Còn với Trung Quốc thì Việt Nam hiện chỉ

có hiệp định chung cùng với khối ASEAN, tuy nhiên sự gia tăng nhanh chóng về tỷ

lệ trao đổi thương mại cho thấy Việt Nam đang ngày càng phụ thuộc vào thị trường

33

Trung Quốc. Đây hiện là thách thức lớn cho Việt Nam bởi nếu không tìm cách giảm

sự phụ thuộc vào các nước ngoài CPTPP thì khó có khả năng tận dụng được các lợi

ích mà hiệp định này đem lại.

Ngoài ra, tỷ lệ xuất nhập khẩu trên GDP của Việt Nam ngày càng tăng, từ mức

120% của năm 2009 đã lên đến 200% sau một thập kỷ. Hình 2.8 minh hoạ tỷ lệ xuất

nhập khẩu trên GDP của Việt Nam và một số quốc gia trong khu vực. Việc gia tăng

nhanh chóng tỷ lệ này cho thấy sức sản xuất của Việt Nam ngày càng lớn cũng như

tác động từ việc hội nhập hoá, tham gia vào nhiều hiệp định thương mại ngày càng

thể hiện rõ, giúp cải thiện thương mại. So sánh với một số nước trong khu vực thì có

thể thấy chỉ riêng Việt Nam có xu hướng tăng, trong khi các nước xung quanh như

Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan đi ngang, thậm chí như Singapore

những năm gần đây còn tụt giảm. Tuy nhiên, độ mở lớn ngụ ý rằng Việt Nam phụ

thuộc nhiều vào tình hình thương mại thế giới. Nếu xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn

cầu thì xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng xấu.

Hình 2.8 Tỷ lệ thương mại trên GDP của Việt nam và một số quốc gia

300%

250%

200%

150%

100%

50%

0%

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Indonesia Malaysia Việt Nam

Philippines Singapore Thái Lan

Nguồn: Ngân Hàng Thế Giới

Về mặt chính sách, sau khi bắt đầu tham gia đàm phán hiệp định TPP vào

tháng 08 năm 2011, Việt Nam đã tiến hành lên kế hoạch và đẩy mạnh công tác đàm

phán nhằm nhanh chóng tiến tới kết thúc đàm phán hiệp định. Một số bộ, ban ngành

34

đã ra các quyết định chỉ định rõ trách nhiệm của các cơ quan liên quan, chẳng hạn

như Quyết định 1155/QĐ-BCT của Bộ Công Thương ngày 06 tháng 03 năm 2009 về

việc ban hành Kế hoạch hành động của ngành công thương thực hiện Nghị quyết của

Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát

triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2009, trong đó chỉ định Vụ

Chính sách thương mại đa biên làm đầu mối, phối hợp với các đơn vị có liên quan đề

xuất các phương án đàm phán FTA trong khuôn khổ đa phương như hiệp định TPP.

Trong kế hoạch công tác của mình, các bộ, ban ngành cũng đã đề cập hiệp định TPP

như một phần nằm trong kế hoạch công tác, có thể kể đến Quyết định 1147/QĐ-BCT

của Bộ Công Thương ngày 08 tháng 03 năm 2010 về việc ban hành Kế hoạch công

tác năm 2010 của Bộ Công Thương và Quyết định 979/QĐ-BTP của Bộ Tư Pháp

ngày 31 tháng 03 năm 2010 về việc phê duyệt Kế hoạch công tác năm 2010 của Vụ

Pháp luật quốc tế, chỉ thị xây dựng phương án tham gia đàm phán hiệp định TPP.

Đến năm 2012, Chính phủ đã ra Nghị quyết 06/NQ-CP ngày 07 tháng 03 năm

2012 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2011 – 2016, trong

đó tiếp tục yêu cầu Bộ Công Thương xây dựng đề án đàm phán tham gia hiệp định

TPP, và chỉ định Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư tham gia đàm phán các quy định về Mua

sắm Chính phủ thuộc hiệp định TPP. Đồng thời cũng trong thời gian này, Bộ Tư Pháp

đã ban hành Quyết định 663/QĐ-BTP ngày 24 tháng 04 năm 2012 về việc phân công

soạn thảo đề án, văn bản năm 2012, trong đó có đề án nghiên cứu đánh giá tác động

của hiệp định TPP đến hệ thống pháp luật Việt Nam, cùng với việc dự kiến phương

án, nội dung sửa đổi pháp luật để thực hiện hiệp định TPP.

Bên cạnh đó, Thủ tướng cũng ban hành một số quyết định mang tính chiến

lược dài hạn như Quyết định 808/QĐ-TTg ngày 29 tháng 06 năm 2012 về việc ban

hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch

vụ của Việt Nam đến năm 2020 và Quyết định 950/QĐ-TTg ngày 25 tháng 07 năm

2012 ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng

hóa thời kỳ 2011 – 2020, định hướng đến năm 2030, trong đó đưa hiệp định TPP vào

trọng tâm tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế với cơ quan chủ trì là Bộ Công Thương.

35

Đến năm 2013, Bộ Công Thương đã bắt đầu tiến hành phổ biến rộng rãi thông

tin về Hiệp định TPP thông qua Quyết định 2258/QĐ-BCT ngày 09 tháng 04 năm

2013 phê duyệt Chương trình hành động của Bộ Công Thương về thông tin đối ngoại

giai đoạn 2013-2020, trong đó yêu cầu Vụ Chính sách thương mại đa biên tổ chức

biên soạn tài liệu các khóa học đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ làm

công tác đối ngoại về Hiệp định TPP, đồng thời tổ chức các hoạt động nhằm phổ biến

và quảng bá về Hiệp định TPP đến các doanh nghiệp Việt Nam. Vào ngày 15 tháng

11 năm 2013, Bộ Công Thương phối hợp cùng Phòng Thương mại và Công nghiệp

Việt Nam (VCCI) đồng tổ chức Hội nghị với chủ đề “Hiệp định đối tác xuyên Thái

Bình Dương và quá trình tham gia của Việt Nam”. Chủ trì Hội nghị gồm có Bộ trưởng

Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh – Trưởng đoàn đàm

phán Chính phủ về kinh tế và thương mại quốc tế, ông Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng

Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Hội nghị đã giới thiệu tổng quát về

Hiệp định cũng như những cơ hội và thách thức từ hiệp định này, yêu cầu cần phải

có sự cải cách mạnh mẽ và nỗ lực để hoàn thiện thể chế kinh tế, cắt giảm thuế nhanh

hơn, xây dựng Quy tắc xuất xứ có tính khả thi cao, đồng thời phải cân bằng lợi ích

của doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI.

Đối với ngành dệt may, một ngành được coi là trụ cột xuất khẩu của Việt Nam

và có riêng một chương trong Hiệp định TPP, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết

định 3218/QĐ-BCT ngày 11 tháng 04 năm 2014 phê duyệt Quy hoạch phát triển

ngành công nghiệp Dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo

như Quyết định này, mục tiêu tổng quát là xây dựng ngành công nghiệp dệt may trở

thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, hướng về xuất khẩu và có khả

năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo ngành dệt may phát triển bền

vững trên cơ sở công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý theo chuẩn mực quốc tế. Một

số định hướng phát triển được đưa ra là dịch chuyển dần lên mức độ giá trị gia tăng

cao hơn, từ gia công đầu cuối sang gia công từng phần, sản xuất bán thành phẩm, tự

thiết kế và cuối cùng là hình thành thương hiệu riêng. Thêm vào đó, nhấn mạnh đến

sự cần thiết phải phát triển nguồn nguyên liệu xơ bông bền vững và chất lượng cao,

36

phát triển hàng dệt kim, dệt thoi và sau đó là quy hoạch các nhà máy dệt nhuộm. Một

số mục tiêu cụ thể của Quyết định này được tóm tắt trong bảng 2.1.

Theo báo cáo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), xuất khẩu hàng dệt

may năm 2015 đạt hơn 27 tỷ USD, chiếm khoảng 16.7% tổng kim ngạch xuất khẩu

cả nước. Đến năm 2018, xuất khẩu hàng dệt may đạt trên 36 tỷ USD, chiểm khoảng

14.8% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Vậy có thể thấy được mục tiêu kim ngạch

xuất khẩu và tỷ lệ xuất khẩu đã hoàn thành so với các mục tiêu được đặt ra. Tuy nhiên,

VITAS lại chỉ ra rằng tỷ lệ nội địa hoá của ngành không đạt được yêu cầu đề ra. Con

số cho năm 2015 chỉ là 51.2%, và đến năm 2018 chỉ còn 49.4%, điều này cho thấy

vấn đề nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong ngành dệt may vẫn còn là thách thức rất lớn.

Bảng 2.1 Các mục tiêu cụ thể của ngành dệt may đến năm 2030

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

Năm 2015 Năm 2020

Năm 2030

tỷ USD

23-24

36-38

64-67

1. Kim ngạch xuất khẩu

%

15-16

13-14

9-10

Tỷ lệ xuất khẩu so cả nước

ngàn người

2,500

3,300

4,400

2. Sử dụng lao động

3. Sản phẩm chủ yếu

- Bông xơ

ngàn tấn

8

15

30

- Xơ, sợi tổng hợp

ngàn tấn

400

700

1,500

- Sợi (kéo từ xơ cắt ngắn)

ngàn tấn

900

1,300

2,200

- Vải các loại

triệu m2

1,500

2,000

4,500

- Sản phẩm may

triệu sản phẩm

4,000

6,000

9,000

%

55

65

70

4. Tỷ lệ nội địa hóa

Nguồn: Bộ Công Thương

Về vấn đề thu hút đầu tư, Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư đã ban hành Hướng dẫn

xây dựng Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2015 số 5338/BKHĐT-ĐTNN ngày 15

tháng 08 năm 2014, trong đó đề cập đến việc chú trọng thu hút các dự án trong các

ngành Việt Nam có ưu thế khi Việt Nam ký kết gia nhập Hiệp định TPP như: dệt may,

giày dép, thủy sản, đồ gỗ và nông sản. Cụ thể hơn nữa, Hướng dẫn có định hướng thu

hút các nhà đầu tư Hàn Quốc quan tâm đến lĩnh vực dệt nhuộm, may mặc và các lĩnh

vực phụ trụ để đón đầu Hiệp định TPP.

37

Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội còn thành lập bộ phận riêng chuyên

trách Hiệp định TPP thông qua Quyết định 173/QĐ-LĐTBXH thành lập Bộ phận Hỗ

trợ kỹ thuật Tổ công tác TPP vào ngày 30 tháng 01 năm 2015, trước đó Tổ công tác

TPP đã được thành lập theo Quyết định số 1876/QĐ-LĐTBXH ngày 02 tháng 12 năm

2013. Nhiệm vụ của tổ công tác và bộ phận hỗ trợ này là chịu trách nhiệm đàm phán

về Chương 19 – Lao động, đồng thời nghiên cứu, đánh giá tác động khi thực hiện các

cam kết trong Hiệp định TPP và đề xuất phương án điều chỉnh, bổ sung chính sách,

pháp luật để thực hiện các cam kết này.

Đến năm 2015, Thủ tướng đã ban hành Quyết định 1467/QĐ-TTg phê duyệt

Đề án phát triển các thị trường khu vực thời kỳ 2015 – 2020, tầm nhìn đến năm 2030

vào ngày 24 tháng 08 năm 2015. Quyết định này yêu cầu tăng cường công tác thông

tin tuyên truyền, phổ biến các cam kết, chính sách và giới thiệu tiềm năng thị trường

từ các điều ước quốc tế trong lĩnh vực thương mại, thực hiện toàn diện công tác thông

tin tuyên truyền đối với các Hiệp định mới như TPP. Theo đó, Bộ Tư Pháp đã ban

hành Quyết định 2285/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật, hòa giải ở cơ sở, chuẩn tiếp cận pháp luật; xây dựng và thực hiện hương ước,

quy ước năm 2016 ngày 31 tháng 12 năm 2015. Một trong những nhiệm vụ được đề

ra là tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu nội dung các điều ước quốc tế mà Việt Nam

là thành viên, các thỏa thuận quốc tế liên quan đến người dân, doanh nghiệp, và chú

trọng đến Hiệp định TPP. Trong cùng năm, Bộ Tài Chính cũng đã ra Quyết định

2716/QĐ-BTC ban hành Kế hoạch Cải cách hành chính của Bộ Tài Chính năm 2016

vào ngày 21 tháng 12 năm 2015, trong đó có nêu nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng các

phương án đàm phán thuế quan, dịch vụ và quản lý hải quan tạo thuận lợi thương mại,

phục vụ Chương 5 – Quản lý Hải quan và Tạo thuận lợi Thương mại trong Hiệp định

TPP và do Vụ Hợp tác Quốc tế phụ trách.

Sau khi kết thúc đàm phán vào ngày 05 tháng 10 năm 2015 và công bố toàn

văn Hiệp định vào ngày 05 tháng 11 năm 2015, sau một thời gian chuẩn bị, Chính

phủ đã ra Nghị quyết 09/NQ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2016 về việc ký "Hiệp định

Đối tác xuyên Thái Bình Dương", trong đó đồng ý ký Hiệp định TPP và uỷ quyền

38

việc ký kết cho Bộ trưởng Bộ Công Thương. Lễ ký kết Hiệp định TPP đã diễn ra vào

ngày 04 tháng 02 năm 2016 giữa 12 nước thành viên tại Auckland, New Zealand.

Sau khi đã tiến hành ký Hiệp định TPP, Nghị quyết 35/NQ-CP về Hỗ trợ và

phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 của Chính phủ đã được ban hành ngày 16

tháng 05 năm 2016, trong đó yêu cầu tăng cường cung cấp, phổ biến thông tin và các

hướng dẫn thực thi cam kết trong khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế và các hiệp định

kinh tế - thương mại, đặc biệt là các hiệp định – thương mại tự do thế hệ mới để nâng

cao năng lực hội nhập cho doanh nghiệp, tiếp cận, mở rộng thị trường xuất khẩu và

đầu tư như TPP. Tiếp theo là Nghị quyết 63/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương

trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của quốc hội về Kế hoạch phát

triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 vào ngày 22 tháng 07 năm 2016, giao Bộ

Lao động – Thương binh và Xã hội xây dựng Đề án hoàn thiện thể chế và tổ chức bộ

máy quản lý nhà nước về quan hệ lao động đáp ứng yêu cầu của Hiệp định TPP, và

giao Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng Đề án đánh giá hoàn thiện chính sách,

pháp luật tài nguyên và môi trường phù hợp với Hiệp định TPP.

Trước đó, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cũng đã ra Quyết định 645/QĐ-

BVHTTDL ngày 01 tháng 03 năm 2016 ban hành Kế hoạch rà soát, đánh giá tác động

của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đối với hệ thống pháp luật

ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch để từ đó đề xuất giải pháp, phương án sửa đổi,

bổ sung pháp luật đảm bảo phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định

TPP. Bên cạnh đó, Tổng Cục Hải Quan cũng ra Quyết định 4429/QĐ-TCHQ ngày

21 tháng 12 năm 2016 về việc ban hành Kế hoạch hợp tác và Hội nhập quốc tế của

Hải quan Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020, trong đó giao Cục Giám sát Quản lý chủ

trì triển khai thực hiện các nội dung liên quan đến hải quan bao gồm cả các hàng rào

kỹ thuật và phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa trong Hiệp định TPP.

Tuy nhiên, sau khi đắc cử thì Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký sắc lệnh

rút Mỹ ra khỏi Hiệp định TPP vào ngày 23 tháng 01 năm 2017, đồng nghĩa với việc

Hiệp định này không thể đi vào hiệu lực được. Mặc dù vậy, 11 nước còn lại đã khởi

động lại vòng đàm phán mà không có Mỹ vào đầu tháng 05 năm 2017 và do Nhật

Bản giữ vai trò chủ trì. Lúc này, Hiệp định được gọi với một tên tạm là TPP-11.

39

Sau khi tái khởi động lại vòng đàm phán với 11 nước còn lại, Việt Nam đã

tiếp tục cải cách chính sách, pháp luật nhằm bám sát các cam kết trong Hiệp định

TPP. Đơn cử như Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa do Quốc hội phê duyệt và

ban hành ngày 12 tháng 06 năm 2017. Luật đã đưa ra cách xác định DNNVV, đồng

thời nêu lên một số nội dung hỗ trợ chính cho nhóm doanh nghiệp này như tiếp cận

tín dụng, thuế và kế toán, mặt bằng sản xuất, kỹ thuật công nghệ, thị trường và nguồn

nhân lực, thông tin và tư vấn pháp lý. Các DNNVV cũng sẽ được hỗ trợ để khởi

nghiệp sáng tạo và tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Theo ông Lê Thanh

Liêm, Phó Chủ tịch thường trực UBND TP.HCM, DNNVV hiện chiếm tới 97% tổng

số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, đóng góp 45% GDP và 31% tổng thu

ngân sách, cùng với thu hút trên 5 triệu lao động. Riêng trong năm 2018, tại TP.HCM

đã có gần 4,000 hộ kinh doanh cá thể đã chuyển đổi lên doanh nghiệp và hoạt động

theo Luật Doanh nghiệp (Ngô Kiếm, 2018).

Một số bộ ngành cũng đã bước đầu đưa vào thực tiễn một số cam kết trong

Hiệp định TPP. Có thể kể đến như Thông tư 35/2017/TT-BTTTT quy định về việc

Chuyển mạng viễn thông di động mặt đất giữ nguyên số do Bộ Thông Tin và Truyền

Thông ban hành ngày 23 tháng 11 năm 2017, trong đó yêu cầu dịch vụ chuyển mạng

phải được các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông di động mặt đất cung cấp

một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với các thuê bao di động. Mức cước

và các điều khoản sử dụng dịch vụ chuyển mạng sẽ do các doanh nghiệp cung cấp

dịch vụ viễn thông di động mặt đất thống nhất, công bố, niêm yết công khai và áp

dụng chung. Đây có thể được coi là hành động đáp ứng khoản 4, Điều 13.5 trong

Chương 13 – Viễn thông của Hiệp định TPP; theo đó yêu cầu các nước phải đảm bảo

rằng các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng trong phạm vi lãnh thổ của mình

thực hiện việc chuyển mạng giữ nguyên số mả không làm suy giảm chất lượng và độ

tin cậy, trên cơ sở kịp thời, và dựa trên các điều khoản và điều kiện hợp lý và không

phân biệt đối xử. Tuy nhiên, phải đến gần một năm sau thì dịch vụ chuyển mạng giữ

số mới được chính thức triển khai cho ba nhà mạng lớn là VinaPhone, Viettel và

MobiPhone, bắt đầu từ ngày 16 tháng 11 năm 2018, riêng nhà mạng Vietnamobile

40

bắt đầu triển khai sau vào ngày 01 tháng 01 năm 2019. Theo báo cáo của Cục Viễn

thông, tính đến thời điểm 24 tháng 09 năm 2019, tức là hơn mười tháng kể từ ngày

bắt đầu triển khai dịch vụ chuyển mạng giữ số, đã có 1,144,438 thuê bao đăng ký

chuyển mạng giữ số qua lại giữa các nhà mạng, trong đó có 912,043 thuê bao (chiếm

80.5%) chuyển mạng giữ số thành công (Ngọc Phạm, 2019).

Bộ Tài Chính đã ra Quyết định 2722/QĐ-BTC ngày 29 tháng 12 năm 2017 về

việc áp dụng Thí điểm quản lý, Giám sát hải quan tự động đối với hàng hóa xuất khẩu,

nhập khẩu, quá cảnh tại cảng biển, cảng hàng không dân dụng quốc tế. Theo đó sẽ

triển khai áp dụng thí điểm hải quan tự động đối với hàng hoá xuất nhập khẩu và quá

cảnh tải các cảng thuộc sự quản lý của Cục Hải quan TP.HCM và Cục Hải quan tỉnh

Bà Rịa – Vũng Tàu. Hoạt động này phù hợp với Điều 5.6 – Tự động hoá thuộc

Chương 5 – Quản lý Hải quan và Tạo thuận lợi Thương mại trong Hiệp định TPP.

Trước đó vào ngày 01 tháng 12 năm 2017, Tổng cục Hải quan phối hợp cùng Cục

Hải quan Thành phố Hải Phòng đã chính thức triển khai áp dụng Hệ thống Quản lý

Hải quan tự động tại cảng biển tại Cục Hải quan này. Việc triển khai hệ thống này đã

giúp giảm mạnh thời gian giao nhận hàng hoá. Ghi nhận tại đây, việc làm thủ tục lấy

hàng chỉ còn mất 1-2 phút đối với một lô hàng thông thường (trước đây ít nhất là từ

7-10 phút, riêng thời gian phải di chuyển giữa các bộ phận mất đến 10-15 phút); thời

gian bình quân cho một lượt xe chở hàng qua khu vực cảng chỉ còn 10-12 phút so với

trước đây là 25-30 phút. Việc không phải kiểm tra, xác nhận chứng từ giấy tại khu

vực giám sát giúp giảm khoảng 2 phút/tờ khai, tiết kiệm trung bình khoảng 253 giờ

công lao động. Bên cạnh đó, do không phải xuất trình chứng từ giấy tại hải quan giám

sát nên doanh nghiệp có thể giảm chi phí in ấn, văn phòng phẩm (Hà Duy, 2017).

Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định 334/QĐ-BCT ngày 24 tháng 01

năm 2018 phê duyệt Kế hoạch đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm trong sản

xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo xuất xứ tại các địa bàn trọng điểm đến hết năm

2020. Đây được xem là để đáp ứng cam kết tại khoản 12 Điều 3.27 – Xác minh xuất

xứ thuộc Chương 3 – Quy tắc xuất xứ và Các thủ tục chứng nhận xuất xứ của Hiệp

định TPP, theo đó hàng hoá nếu được xác minh là gian lận và giả mạo để hưởng ưu

41

đãi thuế quan thì ưu đãi thuế quan có thể bị dừng cho đến khi chứng minh được hàng

hoá đáp ứng được các điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan.

Sau một thời gian nỗ lực cứu vớt Hiệp định TPP, vào tháng 11 năm 2017, 11

nước còn lại đã đạt được thoả thuận cơ bản cho hiệp định TPP-11, đồng thời thống

nhất tên mới cho hiệp định là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái

Bình Dương (CPTPP). Đến ngày 23 tháng 01 năm 2018, 11 quốc gia thành viên đã

hoàn tất giai đoạn đàm phán Hiệp định CPTPP. Phiên bản cuối cùng của Hiệp định

này được công bố vào ngày 21 tháng 02 năm 2018, theo đó hơn 20 điều khoản đã

được đình chỉ, chủ yếu là về thắt chặt bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới sản

phẩm dược được đưa vào bản TPP đầu tiên bởi Mỹ. Đến ngày 08 tháng 03 năm 2018,

Hiệp định CPTPP đã được chính thức ký giữa 11 nước thành viên tại Santiago, Chile.

Ngay sau khi ký kết Hiệp định CPTPP, Chính phủ đã ban hành liên tiếp Nghị

định 39/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 03 năm 2018 quy định Chi tiết một số điều của

Luật hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó có hướng dẫn cách xác định DNNVV

và các quy định về hỗ trợ thông tin, phát triển nguồn nhân lực, khởi nghiệp sáng tạo,

tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; và Nghị định 38/2018/NĐ-CP cùng ngày

quy định Chi tiết về đầu tư cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, trong

đó hướng dẫn cách thức thành lập và điều hành quỹ khởi nghiệp sáng tạo và một số

cơ chế sử dụng ngân sách địa phương đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo.

Vào ngày 30 tháng 05 năm 2018, Tổng Cục Hải Quan đã ban hành Kế hoạch

3009/KH-TCHQ triển khai Hệ thống Quản lý hải quan tự động tại cảng, kho, bãi với

việc yêu cầu các đơn vị triển khai mở rộng hệ thống Quản lý hải quan tự động trên

phạm vi toàn quốc. Theo ông Lê Đức Thành, Phó Cục trưởng Cục Công nghệ thông

tin và thống kê Tổng cục Hải, tính đến tháng 03 năm 2019, hệ thống đã được triển

khải tại 28/35 cục hải quan tỉnh, thành phố. Số cục hải quan chưa triển khải hệ thống

có số lượng doanh nghiệp kho, bãi, cảng chỉ chiếm 7% tổng số trên toàn quốc. Sau

khi triển khai hệ thống, thời gian làm thủ tục tại cổng cảng chỉ tính bằng giây, thời

gian lấy hàng khỏi cảng trung bình dưới 30 phút, giúp lưu lượng hàng hóa qua cảng

tăng trưởng hơn 10% so với trước đây (Hải Linh, 2019).

42

Về khía cạnh phòng, chống tham nhũng, Quốc hội đã ban hành Luật phòng,

chống tham nhũng 2018 vào ngày 20 tháng 11 năm 2018, trong đó đưa ra các quy

định chi tiết và chặt chẽ hơn nhằm đẩy mạnh hơn nữa công cuộc phòng, chống tham

nhũng, đồng thời thay thế cho hai Luật phòng, chống tham nhũng sửa đổi năm 2007

và năm 2012. Đây có thể được coi là động thái nhằm đảm bảo các cam kết theo như

Chương 26 – Minh bạch hoá và Chống tham nhũng của Hiệp định CPTPP.

Sau khi xem xét Báo cáo thuyết minh về Hiệp định CPTPP cùng các văn kiện

liên quan số 522/BC-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ, Báo cáo thẩm

tra số 2905/BC-UBĐN14 ngày 30 tháng 10 năm 2018 của Ủy ban Đối ngoại của

Quốc hội và trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, vào ngày 12 tháng 11

năm 2018, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 72/2018/QH14 phê chuẩn Hiệp định

Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan.

Đây là bước đi khẳng định cam kết cam kết mạnh mẽ đối với đổi mới, hội nhập quốc

tế toàn diện và sâu rộng. Trước đó, vào ngày 31 tháng 10 năm 2018, Australia là quốc

gia thứ sáu phê duyệt Hiệp định CPTPP, đáp ứng điều kiện để có thể đưa Hiệp định

chính thức đi vào hiệu lực vào ngày 30 tháng 12 năm 2018. Riêng đối với Việt Nam,

Hiệp định CPTPP đi vào hiệu lực chính thức sau 60 ngày sau khi phê chuẩn, tức ngày

14 tháng 01 năm 2019.

Có thể thấy rằng Việt Nam không những không bị động mà ngược lại còn chủ

động cải cách nền kinh tế, hoàn thiện thể chế và pháp luật để nâng cao sức cạnh tranh,

thu hút đầu tư nhằm đón đầu trước là TPP và sau này là CPTPP.

2.2. GIAI ĐOẠN 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2019

Ngay sau khi Hiệp định CPTPP chính thức đi vào hiệu lực, Việt Nam đã lập

tức thực hiện các kế hoạch nhằm triển khai hiệp định này vào thực tế. Đầu tiên là

Quyết định 121/QĐ-TTg của Thủ tướng ngày 24 tháng 01 năm 2019 phê duyệt Kế

hoạch thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

(CPTPP). Những nhiệm vụ chủ yếu bao gồm tuyên truyền, phổ biến thông tin về hiệp

định, xây dựng pháp luật, thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển nguồn

nhân lực, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Quyết định cũng

43

kèm theo chi tiết một số công việc cụ thể khi triển khai các nhiệm vụ trên. Sau đó,

Thủ tướng đã ban hành tiếp Quyết định 734/QĐ-TTg ngày 14 tháng 06 năm 2019 chỉ

định các Cơ quan đầu mối để triển khai thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và

Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Trong văn bản này, mỗi chương trong

Hiệp định CPTPP được chỉ định cho một hoặc nhiều bộ ngành cùng chủ trì và phối

hợp thực hiện. Ngoài ra, cơ quan đầu mối tham gia Hội đồng, các Uỷ ban chuyên

môn và các Nhóm công tác của Hiệp định CPTPP cũng được giao chi tiết đến từng

bộ ngành. Bộ Công Thương được giao trách nhiệm làm cơ quan điều phối chung,

tổng hợp tình hình thực thi Hiệp định báo cáo Thủ tướng Chính phủ, đồng thời cũng

sẽ là đầu mối thông tin liên lạc với các nước CPTPP về mọi vấn đề của Hiệp định.

Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 03/2019/TT-BCT ngày 22 tháng 01

năm 2019 quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và

Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Các điều khoản và quy tắc xuất xứ dành cho từng

loại hàng hoá đều tương thích với nội dung của Chương 3 – Quy tắc xuất xứ và Các

thủ tục chứng nhận xuất xứ. Riêng mặt hàng dệt may có một phụ lục riêng gồm những

quy tắc cụ thể mặt hàng và danh mục nguồn cung thiếu hụt. Thông tư cũng ban hành

mẫu C/O CPTPP của Việt Nam, mẫu tờ khai bổ sung và hướng dẫn kê khai chi tiết.

Vào ngày 19 tháng 04 năm 2019, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư

07/2019/TT-BCT quy định về xuất khẩu hàng dệt may sang Mexico theo Hiệp định

Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Đây được xem là động thái

tăng cường xuất khẩu mặt hàng dệt may sang thị trường Mexico, sau khi nước này

thông báo sẽ áp thuế nhập khẩu từ 25%-30% đối với các sản phẩm dệt may và da giày

từ các nước chưa có Thỏa thuận thương mại tự do (FTA) với quốc gia này vào ngày

01 tháng 03 năm 2019 (Việt Hùng, 2019). Hiệp định CPTPP sẽ là lợi thế lớn giúp

Việt Nam gia tăng sức cạnh tranh và thị phần mặt hàng này tại nước bạn, mặc dù theo

lộ trình thuế do Mexico áp lên hàng dệt may sẽ về 0% vào năm thứ 16.

Để thực hiện các cam kết về của mình về lộ trình cắt giảm thuế quan, Chính

phủ đã ban hành Nghị định 57/2019/NĐ-CP ngày 26 tháng 06 năm 2019 về Biểu thuế

xuất khẩu ưu đãi, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện Hiệp định Đối tác

44

Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương giai đoạn 2019 – 2022. Nghị định thể

hiện mức thuế ưu đãi đặc biệt cho từng năm kể từ năm 2019 đến năm 2022, kèm theo

mức hạn ngạch thuế quan cho một số mặt hàng cụ thể. Tuy nhiên, theo Nghị định thì

các ưu đãi thuế hiện chỉ áp dụng cho các nước đã phê duyệt Hiệp định CPTPP tại thời

điểm ban hành, bao gồm Australia, Canada, Nhật Bản, Mexico, New Zealand và

Singapore. Các tờ khai hải quan xuất nhập khẩu kể từ ngày Hiệp định CPTPP có hiệu

lực là ngày 14 tháng 01 năm 2019 cho đến trước ngày Nghị định này có hiệu lực cũng

sẽ được xem xét xử lý tiền thuế nộp thừa theo quy định pháp luật về quản lý thuế.

Về vấn đề hỗ trợ DNNVV, Chính phủ đã ban hành Nghị định 39/2019/NĐ-

CP ngày 10 tháng 05 năm 2019 về Tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển Doanh

nghiệp nhỏ và vừa và Nghị định 55/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 06 năm 2019 về Hỗ

trợ pháp lý cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là văn bản nhằm hiện thực hoá các

chính sách hỗ trợ DNNVV đã ban hành trong Luật hỗ trợ DNNVV năm 2018.

Tiếp theo, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 59/2019/NĐ-CP ngày 01

tháng 07 năm 2019 quy định Chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng,

chống tham nhũng. Nghị định này đã cụ thể hoá nhiều quy định trong Luật phòng,

chống tham nhũng năm 2018, chỉ rõ trách nhiệm giải trình của những người đứng

đầu cơ quan, tổ chức, đoàn thể, cung cấp thông tin, thanh tra và giám sát công tác

phòng, chống tham nhũng, cũng như hình thức xử phạt nếu có vi phạm.

Gần đây nhất, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 19/2019/TT-BCT ngày

30 tháng 09 năm 2019 quy định về Áp dụng các Biện pháp tự vệ đặc biệt để thực thi

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Thông tư đã quy

định chi tiết việc áp dụng hình thứ Tự vệ chuyển tiếp, tương ứng với Điều 6.3 – Áp

dụng Biện pháp Tự vệ chuyển tiếp và Điều 6.4 – Tiêu chuẩn áp dụng Biện pháp Tự

vệ chuyển tiếp thuộc Chương 6 – Phòng vệ thương mại; và hình thức áp dụng biện

pháp khẩn cấp đối với hàng dệt may tương ứng với Điều 4.3 – Hành động khẩn cấp

thuộc Chương 4 – Dệt may của Hiệp định CPTPP.

Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2019 cũng có mức

tăng trưởng khá. Tính đến hết tháng 09 năm 2019, xuất khẩu đạt khoảng 194.65 tỷ

45

USD, nhập khẩu đạt khoảng 187.50 tỷ USD, cả hai chiều đều tăng 8.4% so với cùng

kỳ năm 2018. Thặng dư thương mại 9 tháng năm 2019 đạt 7.15 tỷ USD, tăng 10% so

với cùng kỳ năm 2018 và được minh hoạ trong hình 2.9. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng

xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm, khi cả hai chiều của 9 tháng năm 2019 chỉ tăng

khoảng 8.4% so với cùng kỳ năm 2018, còn 9 tháng năm 2018 xuất khẩu tăng tới hơn

15.8% và nhập khẩu tăng hơn 11.5% so với cùng kỳ năm 2017.

Hình 2.9 Xuất nhập khẩu của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2019 và cùng kỳ 2018

Tỷ USD 250

194.65

187.50

179.55

25%

173.05

20% 200

15% 150

10% 100

7.15

6.50

5% 50

0%

0

9 tháng 2018 9 tháng 2019

Nhập khẩu Tốc độ tăng xuất khẩu

Xuất khẩu Cán cân thương mại Tốc độ tăng nhập khẩu

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan

Theo báo cáo của Tổng Cục Hải Quan, các thị trường xuất nhập khẩu chính

trong 9 tháng đầu năm 2019 vẫn là Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc và ASEAN. Các mặt

hàng xuất khẩu chủ yếu là điện thoại và linh kiện, máy vi tính và linh kiện và hảng

dệt may. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy vi tính và linh kiện, máy móc

thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và chất dẻo nguyên liệu.

Giao dịch xuất nhập khẩu với các nước thuộc Hiệp định CPTPP trong 9 tháng

đầu năm 2019 tiếp tục theo đà giảm như các năm trước, xuống chỉ còn 14.99% so với

mức 15.69% của cùng kỳ năm 2018, như minh hoạ trong hình 2.10. Nguyên nhân là

do Hiệp định CPTPP mới đi vào hiệu lực từ đầu năm 2019 nên cần phải có một độ

trễ nhất định, các thành viên cần thời gian để tổ chức và từ từ áp dụng các quy định

cũng như triển khai các cam kết trong hiệp định. Tuy nhiên, giao dịch thương mại hai

chiều tại một số nước cụ thể trong CPTPP chứng kiến đà tăng ấn tượng.

46

Hình 2.10 Cơ cấu đối tác thương mại của Việt Nam 9 tháng 2019 và cùng kỳ 2018

14.99%

15.69%

9 tháng đầu năm 2018 9 tháng đầu năm 2019

12.63%

14.48%

CPTPP

Mỹ

70.53%

71.67%

Khác

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan

Theo như minh hoạ trong hình 2.11, thị trường Canada và Peru ghi nhận mức

tăng trưởng trên 20%, và đây là hai quốc gia chưa có bất kỳ một hiệp định song

phương nào trước đó với Việt Nam. Tuy nhiên, một quốc gia tương tự trong cùng

khu vực là Mexico lại có mức giảm nhẹ. Một trường hợp đặc biệt ở đây là Brunei với

mức tăng gần 400%, lý do là vì sự gia tăng mạnh nhập khẩu một loại hàng hoá đặc

biệt là dầu thô. Các thị trường khác như Chile và New Zealand cũng tăng trên dưới

10%, còn Nhật Bản và Úc là trên dưới 5%. Hai quốc gia còn lại trong khối ASEAN

là Malaysia và Singapore thì đều ghi nhận mức tăng trưởng âm.

Một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất khẩu qua một số thị trường CPTPP

vẫn có mức tăng trưởng cao. Đơn cử như nhóm hàng điện thoại và linh kiện, thị

trường Canada tăng 84.79%, Mexico thì tăng mạnh đến 449.57%, Peru cũng tăng

209.13%, và Chile tăng 56.30%. Một mặt hàng khác là gạo cũng chứng kiến mức

tăng 136.13% ở thị trường Chile và 69.80% ở Úc. Tuy nhiên, một số mặt hàng nông

sản lại ghi nhận sự sụt giảm, nguyên nhân chủ yếu là do thời tiết cực đoan dẫn đến

mất mùa ở các vùng trổng trọng điểm cộng thêm việc giá các mặt hàng này giảm.

Chẳng hạn như mặt hàng cà phê, xuất khẩu sang Chile giảm 35.52%, sang Mexico

giảm đến 77.60%, sang New Zealand giảm 45%. Mặt hàng hồ tiêu xuất khẩu sang

Nhật Bản giảm 50.42%, sang Úc giảm 33.05% và sang Singapore giảm 68.12%.

47

Hình 2.11 Tốc độ tăng trưởng giao dịch thương mại giữa Việt Nam và các nước

400%

350%

30%

25%

20%

15%

10%

5%

0

-5%

-10%

trong Hiệp định CPTPP giữa 9 tháng đầu năm 2019 so với cùng kỳ năm 2018

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan

Ở chiều ngược lại, hoạt động nhập khẩu cũng ghi nhận mức tăng mạnh ở một

số nhóm mặt hàng. Ví dụ như sắt thép các loại, nhập khẩu từ Malaysia tăng đến

268.46% và từ Mexico tăng đến 915.91%. Hay ô tô nguyên chiếc nhập khẩu từ

Canada tăng 390.18% và từ Nhật Bản tăng 165.13%. Hàng tau quả nhập khẩu từ

Chile tăng 83.38%, còn các sản phẩm sữa từ Úc cũng tăng 71.12%. Một mặt hàng

khác từ Úc cũng tăng mạnh là gỗ và sản phẩm gỗ với mức tăng 121.51%, nhưng mặt

hàng bông các loại tại quốc gia này lại giảm mạnh 70.92%.

Về khía cạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong 9 tháng đầu năm

2019, Việt Nam đã nhận được 26.16 tỷ USD vốn FDI, tăng 3.11% so với cùng kỳ

năm 2018. Vốn giải ngân đạt 14.22 tỷ USD, tăng 7.32% so với cùng kỳ. Xét về ngành

nghề đầu tư, công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là ngành thu hút nhiều vốn nhất,

vượt trội so với những ngành nghề khác, chiếm 69.14% tổng số vốn đăng ký. Hai vị

trí tiếp theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản chiếm 10.58% và ngành kinh

doanh, sửa chữa ô tô, xe máy là 5.36%.

48

Hình 2.12 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 9 tháng đầu năm 2019 và

cùng kỳ năm 2018

Tỷ USD 30

26.16 25.37 25

20

14.22 13.25 15

10

5

0 9 tháng 2018 9 tháng 2019

Vốn đăng ký Vốn thực hiện

Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư

Dẫn đầu các quốc gia, khu vực đầu tư vào Việt Nam là Hồng Kông với gần

5.89 tỷ USD, tiếp theo là Hàn Quốc với 4.62 tỷ USD, Singapore với hơn 3.77 tỷ USD,

theo sau là Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan. Đáng chú ý là quy mô đầu tư từ Hồng

Kông đã tăng gần 3.8 lần so với cùng kỳ năm 2018, đầu tư từ Trung Quốc cũng tăng

hơn 2.2 lần. Trong số các quốc gia thuộc Hiệp định CPTPP thì hiện chỉ có Singapore

và Nhật Bản là có quy mô đầu tư đáng kể vào Việt Nam. Các nước còn lại hiện có

mức đầu tư không đáng kể, hay thậm chị là không đầu tư như Brunei và Peru.

Bảng 2.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ các nước thuộc CPTPP

Đơn vị tính: Triệu USD

Quốc gia 9 tháng 2018 9 tháng 2019 Quốc gia 9 tháng 2018 9 tháng 2019

0 N. Zealand 1.826 3.158 Brunei 0

53.36 88.32 Nhật Bản 7,090.69 3,067.34 Canada

Chile 0 0.29 Peru 0 0

Malaysia 205.95 120.44 Singapore 3,670.80 3,773.15

Mexico 0.008 0 Úc 66.58 149.52

Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư

49

Xét về khía cạnh đầu tư ra nước ngoài, tính chung trong 9 tháng đầu năm 2019,

tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài đạt 431.68 triệu USD. Lĩnh vực bán buôn,

bán lẻ dẫn đầu với tổng vốn đầu tư là 110.6 triệu USD, chiếm 25.6% tổng vốn đầu tư,

lĩnh vực hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ đứng thứ hai với 83.36 triệu

USD và chiếm 19.3% tổng vốn đầu tư, lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

đứng thứ ba với 64.14 triệu USD, chiếm 14.9% tổng vốn đầu tư. Xét về địa điểm đầu

tư, Úc là địa bàn dẫn đầu về vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài với 140.63 triệu

USD, chiếm 32.6% tổng vốn đầu tư. Mỹ xếp thứ hai với 20 dự án, tổng vốn đầu tư là

59.86 triệu USD, chiếm 13.9% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các nước như Tây Ban

Nha, Campuchia, Singapore, Canada, v.v. Riêng tại thị trường Úc thời gian gần đây

ghi nhận ba dự án đầu tư ra nước ngoài lớn của doanh nghiệp Việt Nam. Đầu tiên là

hai thương vụ ngành nông nghiệp đến từ Tập đoàn TH. Đó là dự án chăn thả đàn bò

tự nhiên, trang trại chăn nuôi, trồng bông, hướng dương, ngô tươi sạch, du lịch trang

trại, với vốn đầu tư 46.5 triệu USD; và dự án chăn thả tự nhiên đàn bò, trồng và chế

biến nước ép xoài, tinh dầu từ gỗ đàn hương có chất lượng cao trị giá 42 triệu USD.

Như vậy hai dự án của Tập đoàn TH có tổng số vốn đăng ký là 88.5 tỷ USD, và đã

được Bộ Kế Hoạch và Đầu tư cấp phép vào tháng 08 năm 2019 (Hà Nguyễn, 2019).

Dự án thứ ba là của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam Vietcombank, với

việc tiến hành mở chi nhánh đầu tiên của một ngân hàng Việt Nam tại Úc, với trụ sở

đặt tại Sydney. Hiện dự án đã được sự chấp thuận từ NHNN vào đầu tháng 10 năm

2019. Theo quy định thì Vietcombank phải hoàn tất việc khai trương chi nhánh tại

Úc sau 24 tháng kể từ ngày được NHNN phê duyệt (Hải Kim, 2019).

2.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI

Đầu tiên là nhận thức về Hiệp định CPTPP của các doanh nghiệp còn thấp.

Theo một khảo sát của VCCI, đối với 8,600 doanh nghiệp tham gia khảo sát, chỉ có

khoảng 26% doanh nghiệp có tìm hiểu Hiệp định CPTPP, còn lại hơn 70% doanh

nghiệp chưa rõ về hiệp định này. Điều này dẫn đến việc tận dụng hiệp định để mở

rộng thị trường các nước CPTPP còn hạn chế. Theo ông Ngô Chung Khanh, Phó vụ

trưởng Vụ Thương mại Đa biên của Bộ Công Thương, trong 6 tháng đầu năm 2019,

50

hàng hoá xuất khẩu theo mẫu CPTPP chỉ đạt 190 triệu USD trong tổng số 16.4 tỷ

USD hàng hóa xuất khẩu, tương ứng với việc chỉ tận dụng được 1.17% (Thế Hoàng,

2019). Hiện trạng cho thấy các doanh nghiệp chưa thực sự chủ động, quan tâm đến

việc tìm hiểu hiệp định này.

Vấn đề thứ hai cũng là vấn đề quan trọng nhất chính là khung pháp lý, pháp

luật, thể chế chưa hoàn thiện, độ minh bạch và tính cạnh tranh chưa cao. Cụ thể chính

là vấn đề thủ tục hành chính còn rườm rà, tình trạng giấy phép con, giấy phép cháu

còn phức tạp. Mặc dù đã có những nỗ lực từ phía Chính phủ và các Bộ, ban ngành

trong việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nhiều điều kiện kinh doanh cũng

như các giấy phép đã được cắt giảm liên tục, song tất cả dường như chưa đủ. Nhìn về

con số, đã có trên 50% điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính được cắt giảm. Tuy

nhiên, vẫn có tình trạng “dồn nhiều văn bản vào một”, nhưng thủ tục thì không thay

đổi. Theo VCCI, hiện còn rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, kiểm tra

chuyên ngành, tới 355 văn bản, rất khó cho doanh nghiệp thực hiện tra cứu, cập nhật.

Không ít trường hợp kiểm tra chồng chéo, một mặt hàng chịu nhiều hình thức quản

lý của nhiều bộ, chịu sự kiểm tra của nhiều đơn vị trong cùng một bộ (Phong Nguyễn,

2019). Như vậy, vấn đề ở đây không phải là đo đếm số lượng giấy phép hoặc điều

kiện kinh doanh được cắt giảm, mà mấu chốt là vấn đề vận hành, yếu tố con người

để thay đổi thể chế thực sự, chứ không phải là hình thức cắt giảm đơn thuần.

Vấn đề tiếp theo là quy mô, trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực

của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, dẫn đến năng lực cạnh tranh thấp. Khi

so sánh với các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong nước luôn kém cạnh tranh

hơn về giá thành sản phẩm, chất lượng sản phẩm cũng như tiến độ giao hàng. Do quy

mô nhỏ, khả năng tiếp cận vốn hạn chế nên doanh nghiệp trong nước khó có khả năng

đổi mới công nghệ, nâng cao tay nghề cho người lao động, dẫn đến sản phẩm có sức

cạnh tranh thấp, và vô hình chung giảm khả năng được nhà đầu tư nước ngoài chấp

nhận. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn thiếu tầm nhìn chiến lược phù hợp với chuỗi

giá trị, hoặc chưa quan tâm đến việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, mà vẫn còn

tư duy làm ăn manh mún, nhỏ lẻ. Phần nhiều các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ

51

quan tâm đến cạnh tranh bằng giá, và tiếp theo là chất lượng sản phẩm, nhưng lại

quên đi các khía cạnh khác như khả năng sản xuất quy mô lớn, giao hàng đúng thời

điểm và tiếp cận các kênh phân phối phù hợp.

Một vấn đề quan trọng khác là năng suất lao động còn thấp hơn nhiều so với

các nước khác. Theo Tổng Cục Thống Kê, năng suất lao động năm 2018 của

Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia lần lượt gấp 13.7 lần, 5.3 lần, 2.7 lần và

2.2 lần năng suất lao động của Việt Nam. Đáng chú ý là khoảng cách chênh lệch tuyệt

đối vẫn tiếp tục gia tăng. Tính theo PPP 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm

2018 đạt 11,142 USD, chỉ bằng 7.3% mức năng suất của Singapore, 19% của

Malaysia, 37% của Thái Lan, 44.8% của Indonesia và bằng 55.9% năng suất lao động

của Philippines. Báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy những

đánh giá tương tự. Cụ thể, theo Bộ này, năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo

giá hiện hành năm 2018 ước tính đạt 102.2 triệu đồng/lao động (tương đương 4,512

USD/lao động, tăng 5.93% so với năm 2017). Tính theo giá so sánh năm 2010, năm

2018 năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/30 lần Singapore, 29% năng suất lao

động của Thái Lan, 13% năng suất lao động của Malaysia, 44% năng suất lao động

của Philippines (Lương Bằng, 2019). Nguyên nhân được cho là do quy mô nền kinh

tế của Việt Nam còn nhỏ và có xuất phát điểm thấp. Bên cạnh đó, quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực nhưng còn chậm. Các ngành công nghiệp,

dịch vụ, nhất là những ngành dịch vụ trình độ cao có khả năng thúc đẩy nền kinh tế

như tài chính, ngân hàng, du lịch còn chiếm tỷ trọng thấp.

Tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ còn diễn ra phức tạp, đơn cử như việc hàng

hoá giả mạo nhãn mác, thương hiệu, xuất xứ. Hiện nay, các đối tượng sản xuất hàng

giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đa số sử dụng công nghệ cao, trang thiết bị hiện

đại nên rất khó phát hiện, có những sản phẩm, hàng hóa làm giả tinh vi đến mức chính

doanh nghiệp sản xuất, người tiêu dùng cũng không phát hiện được. Điều này không

chỉ gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu bị xâm phạm như giảm thị phần, giảm lợi

nhuận kinh doanh, đánh mất niềm tin của khách hàng đối với sản phẩm, mà còn gây

thiệt hại cho người tiêu dùng khi phải trả tiền không tương xứng với chất lượng hàng

52

thật, hoặc làm tổn hại đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng. Điển hình là đầu

tháng 10 năm 2019, một lô hàng vải và quần áo có nguồn gốc Trung Quốc nhưng giả

xuất xứ Việt Nam và Hàn Quốc đã bị phát hiện tại cảng Cát Lái, TP.HCM. Qua kiểm

tra bước đầu, cơ quan hải quan phát hiện, lô hàng gồm 47 kiện quần áo, xuất xứ từ

Trung Quốc, nhưng trên sản phẩm ghi rõ xuất xứ Việt Nam, xuất xứ Hàn Quốc. Trong

đó, có 3,000 mẫu quần, áo được gắn sẵn nhãn "Made in Vietnam", khoảng hơn 2,000

mẫu là "Made in Korea" hoặc chưa gắn nhãn. Trị giá tính thuế lô hàng ban đầu được

doanh nghiệp khai báo là 49,000 USD (N. Bình, 2019). Nguyên nhân dẫn đến tình

trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày một gia tăng là do lợi nhuận và một số chủ

sở hữu trí tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của mình nên không đăng

ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, bảo vệ quyền sở hữu tài sản vô hình. Ngoài ra, một số

doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc phát hiện và ngăn ngừa việc làm giả, nhái

các sản phẩm, hàng hóa của mình, chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chức

năng trong việc thanh kiểm tra, xử lý sản phẩm, hàng hóa xâm phạm sở hữu trí tuệ.

Riêng đối với ngành dệt may, còn nhiều khó khăn về nội địa hoá và khả năng

đáp ứng quy tắc “Từ sợi trở đi” của Hiệp định CPTPP. Theo một báo cáo của Ngân

hàng ACB (2019), các doanh nghiệp vẫn đang phải nhập phần lớn nguyên phụ liệu

để phục vụ sản xuất, xuất khẩu – trong đó nhập khẩu gần 99% bông, 1.3 triệu tấn xơ

sợi và 80% vải trong năm 2018. Riêng đối với lĩnh vực may, dù Việt Nam có thế

mạnh đứng thứ hai thế giới về sản lượng, tuy nhiên chủ yếu vẫn là hình thức gia công

với 76% lao động trong ngành dệt may là lao động phổ thông. Điều này khiến cho cơ

hội tham gia sâu rộng của ngành dệt may Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu gần

như là rất thấp. Đồng thời, phần lớn các nguyên phụ liệu dệt may nhập từ Trung Quốc,

cũng sẽ khiến cho doanh nghiệp dệt may Việt không được hưỡng ưu đãi thuế quan

ngay trong chính thị trường nội khối CPTPP.

Ngành tài chính của Việt Nam vẫn còn chưa phát triển tương xứng với các

nước còn lại. Một điểm có thể nhận thấy rõ là các NHTM của Việt Nam chưa triển

khai xong Basel II, một tiêu chuẩn cơ bản trong hệ thống ngân hàng mà nhiều nước

trong khối CPTPP đã áp dụng từ lâu. Chính điều này làm cho hiệu quả trong điều

53

hành và quản lý của hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa cao, đồng thời khiến cho các

nhà đầu tư nước ngoài thiếu niềm tin khi đưa ra các quyết định rót vốn vì độ an toàn

và minh bạch của hệ thống chưa cao. Bên cạnh đó, một số vấn đề mới trong các cam

kết thuộc Hiệp định CPTPP như tự do hoá tài khoản vốn, chuyển thông tin ra nước

ngoài, dịch vụ tái nhượng bảo hiểm qua biên giới, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư

qua biên giới chưa có lộ trình triển khai, cũng như chưa được đưa vào dự thảo quy

định pháp luật nào để lấy ý kiến từ các bên liên quan. Sự chậm trễ này có thể khiến

cho ngành tài chính hụt hơi khi phải cạnh tranh với các nước trong khối nếu các nước

này bắt đầu triển khai tại thị trường Việt Nam.

Tóm tắt chương 2

Có thể thấy rằng Hiệp định CPTPP đã bước đầu có những ảnh hưởng tích cực

đến nền kinh tế Việt Nam xét trên khía cạnh giao dịch thương mại trong hoàn cảnh

kinh tế thế giới có nhiều bất ổn, tuy nhiên có thể nói các tác động này còn khá khiêm

tốn so với kỳ vọng. Bản thân Hiệp định CPTPP và phiên bản trước đó là TPP cũng

đã tạo ra áp lực buộc Việt Nam phải cải cách hệ thống pháp luật để thực hiện các cam

kết của mình. Những yêu cầu, đòi hỏi từ Hiệp định CPTPP sẽ còn tiếp tục giúp Việt

Nam đi đúng hướng trên con đường hội nhập toàn cầu. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tài

nhiều vướng mắc cần sự phối hợp giải quyết của các bên vừa để nâng cao năng lực

cạnh tranh và còn tận dụng tốt hơn lợi ích từ Hiệp định CPTPP.

54

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT DÀNH CHO VIỆT NAM NHẰM TẬN DỤNG

TỐT HƠN HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP

3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SẮP TỚI

Năm 2019 dự kiến sẽ là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam hoàn thành toàn bộ

12/12 chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội chủ yếu, với 7 chỉ tiêu đạt và 5 chỉ

tiêu vượt kế hoạch. Hiện Chính phủ và các Bộ, ban ngành vẫn đang tiếp tục nỗ lực

với tâm lý không chủ quan trong các tháng còn lại của năm nhằm tạo tiền đề vững

chắc để bước sang năm 2020. Do năm 2020 là năm cuối cùng của nhiệm kỳ 5 năm

2016 – 2020, cũng như nhiệm kỳ 10 năm 2011 – 2020, nên nếu thực hiện thành công

các mục tiêu và nhiệm vụ của Kế hoạch 5 năm 2016 – 2020 và Kế hoạch 10 năm

2011 – 2020 thì có thể tạo nền tảng vững chắc để xây dựng các kế hoạch 5 năm, 10

năm trong giai đoạn sắp tới.

Sau Hiệp định CPTPP, vào ngày 30 tháng 06 năm 2019, Việt Nam và Liên

minh châu Âu đã chính thức ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU

(EVFTA). Cho đến thời điểm hiện tại thì CPTPP và EVFTA là hai hiệp định thương

mại tự do có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam. Vì

vậy, song hành với CPTPP thì EVFTA cũng sẽ trở thành một áp lực lớn thúc đẩy Việt

Nam cải cách và phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam và một số nước trong khu vực

đang tiến hành hoàn tất những bước đàm phán cuối cùng của Hiệp định Đối tác Kinh

tế Toàn diện Khu vực (RCEP), và sẽ nỗ lực để hoàn tất ký kết vào năm 2020. Vậy

Việt Nam có khả năng sẽ có thêm một hiệp định lớn nữa trong thời gian gần, tiếp tục

mang đến nhiều cơ hội và thách thức hơn.

Mặc dù vậy, tình hình kinh tế và chính trị thế giới hiện tại vẫn phức tạp. Điển

hình lớn nhất chính là chiến tranh thương mại Mỹ – Trung vẫn chưa có hồi kết, cả

hai cường quốc liên tục có những hành động trả đũa lẫn nhau. Dù trong thương chiến

vẫn có những động thái mang tính hoà hoãn với những cuộc đàm phán nhằm tìm kiếm

một thoả thuận thương mại song phương, song vẫn chưa có một kết quả có thể khiến

nền kinh tế thế giới có thể an tâm. Bên cạnh đó, điểm nóng biểu tình tại Hồng Kông

đã trải qua hơn năm tháng nhưng vẫn chưa hề có dấu hiệu hạ nhiệt, điểm nóng Syria

55

lại đang tiếp tục nóng lên thêm từng ngày do các hành động đơn phương của Mỹ và

Thổ Nhĩ Kỳ cùng với sự tham gia của Nga, và vấn đề Brexit đã lại tiếp tục được hoãn

sang đầu tháng 01 năm 2020. Với tình hình hết sức khó đoán của thế giới hiện tại,

một số nhà phân tích đang phát đi cảnh báo về một cuộc suy thoái sắp xảy ra.

Bên cạnh đó, tình hình nội tại của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém

cần cải thiện. Chính vì vậy, việc tự nâng cao năng lực cạnh tranh cải thiện sức mạnh

của nền kinh tế là phương thức duy nhất có thể giúp Việt Nam đứng vững trong bối

cảnh đầy biến động và bất ổn của thế giới. Hiệp định CPTPP sẽ ngày càng tác động

mạnh mẽ và sâu rộng đến nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, chính vì vậy cần

phải tận dụng áp lực của hiệp định này làm động lực phát triển đất nước.

3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SẮP TỚI

3.2.1. Nhóm kiến nghị dành cho cơ quan ban ngành

3.2.1.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin về Hiệp định CPTPP

Một trong những nhiệm vụ cơ bản đã được Thủ tướng giao cho các Bộ, ban

ngành cần phải tổ chức triển khai thực hiện sớm là tuyên truyền, phổ biến thông tin

về Hiệp định CPTPP và thị trường của các nước tham gia Hiệp định CPTPP. Theo

đó, cần phải phổ biến đến những đối tượng có liên quan như nông dân, ngư dân, hiệp

hội các ngành nghề, các hợp tác xã, cộng đồng doanh nghiệp đặc biệt là DNNVV.

Nội dung cần phổ biến là các quy định, các cam kết của Việt Nam và các nước bạn,

đặc biệt là những vấn đề mới như sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, doanh nghiệp

nhà nước, DNNVV, mua sắm công, lao động và môi trường. Những cơ hội và thách

thức cần được làm rõ cùng với việc đẩy mạnh dự báo nhu cầu thị trường trong nước

và thị trường xuất nhập khẩu nhằm giúp các bên nắm bắt thông tin và có hướng đi

thích hợp. Việc phổ biến thông tin có thể thông qua các phương tiện thông tin đại

chúng như báo đài, các cổng thông tin điện tử và các hội thảo, hội nghị chuyên ngành.

Đồng thời, ngay trong nội bộ các cơ quan bàn ngành cũng phải tổ chức các lớp

tập huấn, phổ biến pháp luật, trang bị kiến thức cho các cán bộ, công chức, viên chức,

đặc biệt trong các lĩnh vực hải quan, phòng vệ thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí

tuệ, nông – lâm – ngư nghiệp, lao động và môi trường. Trong đó, Bộ Công Thương

56

đã được chỉ định làm Đầu mối thông tin chung về Hiệp định CPTPP, với nhiệm vụ

cung cấp thông tin, hướng dẫn và làm rõ các cam kết và các vấn đề có liên quan.

3.2.1.2. Tiếp tục tăng cường cải cách hệ thống pháp luật và hoàn thiện thể chế

Đây là nhiệm vụ tối quan trong và lâu dài của cà hệ thống, từ cấp trung ương

đến cấp địa phương. Mục tiêu là có một hệ thống pháp luật đơn giản, thống nhất,

không chồng chéo và mâu thuẫn với nhau, đồng thời phải dễ tiếp cận, thuận lợi cho

công tác thi hành và áp dụng. Cả trước và sau khi ban hành văn bản pháp luật, cần có

sự phối hợp giữa các bộ, ban ngành, các cục và cơ quan chính quyền cấp tỉnh, thành

phố trong việc ra soát, kiểm tra, thẩm định tính thống nhất của văn bản pháp luật,

phát hiện sớm những quy định chồng chéo, mâu thuẫn để kịp thời sửa đổi hoặc loại

bỏ ra khỏi hệ thống.

Với một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật phức tạp và cồng kềnh như

hiện tại, việc theo dõi, áp dụng và xác định thứ bậc hiệu lực của văn bản quy phạm

pháp luật gặp không ít khó khăn. Vì vậy, cần thu gọn các loại văn bản chứa quy phạm

pháp luật nhằm làm cho hệ thống pháp luật đơn giản hơn, tạo thuận lợi cho việc bảo

đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật dễ tiếp cận,

thuận lợi cho công tác thi hành và áp dụng pháp luật. Đồng thời, cần xây dựng hệ

thống pháp luật chi tiết, cụ thể, tránh việc ban hành “luật khung” sau đó lại uỷ quyền

cho các cơ quan có thẩm quyền khác quy định chi tiết. Bên cạnh đó, cần phải đưa ra

một quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng bảo đảm

tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Công tác giám sát, kiểm tra, thẩm định văn

bản quy phạm pháp luật cũng phải được chú trọng. Cuối cùng, phải nâng cao nhận

thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn bản quy phạm pháp luật và trách

nhiệm của lãnh đạo các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; đảm bảo mục tiêu quản lý

nhà nước, quản lý xã hội, không được xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của

cá nhân, cơ quan, tổ chức.

Hiện tại Việt Nam vẫn còn thiếu các quy định cụ thể về cách xác định như thế

nào thì một sản phẩm được coi là “sản phẩm của Việt Nam” hoặc “sản xuất tại Việt

Nam”. Chính điều này đã gây lúng túng cho các cá nhân, tổ chức khi muốn ghi nhãn

57

hàng hoá và còn gây nên tình trạng nhiều doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở chính sách để

trục lợi. Một vụ việc đang nóng gần đây là vụ Công Ty Cổ Phần Tập Đoàn Asanzo

nhập hầu hết các nguyên liệu và linh kiện từ nước ngoài, trong nước chỉ thực hiện

những công đoạn gia công, lắp ráp, đóng gói đơn giản nhưng vẫn ghi xuất xứ hàng

hoá Việt Nam. Vụ việc đã gây bức xúc trong dư luận và cộng đồng và vẫn đang tiếp

tục được điều tra. Bước đầu Tổng Cục Hải Quan đã xác định công ty có dấu hiệu vi

phạm sở hữu công nghiệp và trốn thuế. Vì vậy, việc sớm ban hành một văn bản pháp

luật quy định chi tiết về cách xác định hàng hoá có xuất xứ từ Việt Nam là hết sức

khẩn cấp để phòng tránh tình trạng giả mạo xuất xứ.

Ngoài ra, các cơ quan ban ngành cần tiếp tục ra soát các văn bản pháp luật và

tiến hành điều chỉnh, sửa đổi sao cho phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong

các hiệp định thương mại như CPTPP, đặc biệt là trong các lĩnh vực mới như sở hữu

trí tuệ, thương mại điện tử, chính sách cạnh tranh, mua sắm công, doanh nghiệp nhà

nước, lao động và môi trường.

3.2.1.3. Tăng cường các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát

triển nguồn nhân lực

Về góc độ quốc gia, cần xây dựng các chương trình hỗ trợ, nâng cao năng lực

cạnh tranh cho các ngành hàng chủ lực, đưa ra chiến lược nhằm hỗ trợ doanh nghiệp

tham gia vào mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng khuc vực và toàn cầu.

Đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp theo mô hình sản xuất tiên tiến, ứng dụng khoa

học, công nghệ an toàn và thân thiện với môi trường. Thúc đẩy phát triển các ngành

công nghiệp nền tảng, công nghiệp hỗ trợ còn đang yếu kém, các ngành có lợi thế so

sánh hoặc có tiềm năng phát triển gắn với Hiệp định CPTPP. Bên cạnh đó, cần phải

đẩy mạnh việc dạy nghề gắn với nhu cầu thực tiễn, phát triển nhân lực chất lượng

cao, đặc biệt trong các ngành kỹ thuật, công nghệ, tài chính. Ngoài ra, phải nhanh

chóng xây dựng các thương hiệu hàng hoá mạnh của quốc gia. Tổ chức lại hệ thống

phân phối hàng hoá trong nước và tiếp cận hệ thống phân phối bán lẻ ở thị trường

nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động truyền thông và xúc tiến thương mại ở ngoài nước.

Đối với mỗi địa phương, cần tập trung ưu tiên phát triển các sản phẩm chủ lực

và xây dựng kế hoạch phát triển các nhóm sản phẩm tiềm năng. Tổ chức các đoàn

58

làm việc với các doanh nghiệp để tìm hiểu tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh,

giới thiệu về các chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực để doanh nghiệp đăng

ký tham gia. Có thể đưa ra một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển như hỗ

trợ về vốn, về mặt bằng, về thuế và thủ tục hải quan, hỗ trợ phát triển khoa học công

nghệ, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại và phát triển thương hiệu. Bên cạnh đó,

cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, ra soát, điều chỉnh các chính sách, tạo

lập môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi để tăng cường thu hút FDI. Điều chỉnh

chính sách phát triển khu công nghiệp theo hướng tạo điều kiện liên kết sản xuất giữa

DNNVV với doanh nghiệp FDI, tăng cường quan hệ cung ứng sản xuất giữa các bên,

giữa các khu công nghiệp và liên kết ngành.

3.2.1.4. Đẩy mạnh công cuộc số hoá, cách mạng công nghiệp 4.0

Đây là một trong những nhiệm vụ mới phát sinh trong giai đoạn gần đây do

sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của khoa học công nghệ. Vì là vấn đề mới nên

trước hết cần đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền, các cá

nhân và tập thể, nhấn mạnh nội dung cốt lõi là thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ

và đổi mới sáng tạo trên các góc độ kinh tế số, chính quyền điện tử và sau này là

chính quyền số. Để tạo nền tảng thuận lợi cho nhiệm vụ này thì phải hoàn thiện pháp

luật về đổi mới sáng tạo, sở hữu trí tuệ và khởi nghiệp gắn với cách mạng công nghệ

4.0; xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi

cho đổi mới sáng tạo cùng với việc phối hợp, tiến tới liên kết khu vực và quốc tế. Bên

cạnh đó, cần chú trọng đến công tác quản trị và chia sẻ dữ liệu trên cơ sở đảm bảo an

toàn, an ninh trên mạng.

Tiếp theo, cần đảm bảo phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ, không chỉ là hạ tầng

viễn thông mà còn cả hạ tầng dữ liệu quốc gia nhằm phục vụ mục đích chuyển đổi số

quốc gia. Cần nhanh chóng xây dựng hệ thống trung tâm dữ liệu quốc gia, các trung

tâm dữ liệu vùng và địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất, mà trong đó các dữ

liệu phải đảm bảo tính tin cậy và ổn định. Ngoài hạ tầng cứng thì song song đó phải

có chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên cơ sở áp dụng công nghệ

số, xây dựng các mô hình đào tạo kiểu mới trên nền tảng số. Nguồn nhân lực phải

59

được phát triển năng lực tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng trong môi trường

công nghệ thay đổi liên tục. Có thể xây dựng một số trung tâm đào tạo theo hình thức

hợp tác công – tư, khuyến khích và ưu đãi các tổ chức, các doanh nghiệp công nghệ

tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục đào tạo.

3.2.1.5. Tăng cường các biện pháp quản lý, ngăn chặn hàng lậu, giả mạo xuất xứ

Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đã diễn ra căng thẳng trong thời gian dài

và vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt đáng kể, cộng thêm việc người tiêu dùng Việt ngày

càng ưa chuộng hàng hoá có xuất xứ tại Việt Nam, đã khiến cho tình trạng hàng hoá

nhập lậu và giả mạo xuất xứ từ các nước xung quanh và đặc biệt là Trung Quốc diễn

biến hết sức phức tạp. Theo thống kê của Tổng cục Quản lý Thị trường thuộc Bộ

Công Thương, trong ba năm 2016 – 2018, lực lượng quản lý thị trường cả nước đã

kiểm tra trên 505,704 lượt, xử lý 300,699 vụ; tổng số thu nộp ngân sách trên 1,520 tỷ

đồng; trị giá hàng tiêu huỷ trên 483 tỷ đồng (Tố Uyên, 2018).

Vì vậy, để ngăn chặn tình trạng hàng hoá nhập lậu, giả mạo xuất xứ tuồn vào

Việt Nam để tiêu thụ và trục lợi gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng trong nước và

các đối tác xuất khẩu, cần có sự nỗ lực và phối hợp từ các cơ quan có thẩm quyền,

đặc biệt và cơ quan Hải quan và Quản lý Thị trường. Cần xây dựng, triển khai đồng

bộ các phương án, kế hoạch công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường; thực hiện tốt việc

thông tin, báo cáo kịp thời, chính xác để có các giải pháp phù hợp với tình hình thực

tế. Đồng thời cần tiếp tục rà soát, nghiên cứu sử đổi, bổ sung các văn bản quy phạm

pháp luật, cơ chế liên quan đến công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại, giả

mạo xuất xứ hàng hoá theo hướng tăng nặng các mức xử phạt hành chính, đưa ra xét

xử hình sự các vụ việc nghiêm trọng. Ngoài ra, phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật

công vụ, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, bao che, tiếp tay cho buôn

lậu, gian lận thương mại và giả mạo xuất xứ hàng hoá.

Bên cạnh các biện pháp mang tính chính sách, cũng cần chú trọng đến việc

thu thập thông tin cảnh báo nguy cơ vi phạm về buôn lậu và giả mạo xuất xứ hàng

hoá. Tập trung thu thập, phân tích, xử lý thông tin đối với các mặt hàng, doanh nghiệp;

xác lập tiêu chí và trích lọc danh sách các mặt hàng, doanh nghiệp có rủi ro cao về

60

buôn lậu, giả mạo xuất xứ hàng hoá, chẳng hạn như khi kim ngạch xuất nhập khẩu

tăng cao đột biến. Hơn nữa, cần đẩy mạnh số hoá, áp dụng công nghệ thông tin vào

công tác quản lý điều hành và kiểm tra, xử lý; xây dựng và ứng dụng hệ thống chứng

từ điện tử hàng hoá nhằm phục vụ công tác quản lý thị trường và truy xuất nguồn gốc.

3.2.1.6. Hoàn thiện và phát triển cơ sở hạ tầng về vận tải hàng hoá

Hiện tại, cơ sở hạ tầng logistics ở Việt Nam chưa đầy đủ và hoàn thiện, chi

phí cho logistics còn cao, kết nối hạ tầng yếu, khả năng xếp dỡ và trung chuyển kém,

còn thiếu các trung tâm logistics có năng lực xử lý tương xứng. Vì vậy, trước hết cần

đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng logistics đồng bộ và hiện tại, ưu tiên xây dựng hạ tầng

kết nối mạng lưới giao thông vận tải theo hướng đa phương thức, tận dụng hiệu quả

hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông hiện có. Quy hoạch và xây dựng các trung tâm

logistics quy mô lớn theo chuẩn mực quốc tế tại các hành lang kinh tế, có khả năng

kết nối các loại phương tiện vận tải và liên kết các vùng kinh tế trọng điểm. Đồng

thời, cũng cần đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo hướng chuyên

nghiệp, hiện đại, thích ứng tốt với các công nghệ mới.

Bên cạnh đó, cần có các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp, các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước đầu tư vào hạ tầng dịch vụ logistics.

Một trong những giải pháp được kỳ vọng là phương thức đối tác công – tư (PPP),

giúp đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên. Vì vậy, cần sớm hoàn thiện khung chính

sách và ban hành luật về TPP để tạo hành lang pháp lý cho phát triển ngành logistics.

Đồng thời, cũng cần rà soát, điều chỉnh quy hoạch vể quỹ đất theo hướng tăng thêm

quỹ đất dành cho đầu tư logistics.

3.2.1.7. Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường và phát triển bền vững

Đây là những cam kết mà Việt Nam cùng các thành viên khác đã thống nhất

trong Hiệp định CPTPP. Với tình hình ô nhiễm nghiêm trọng nhiều mặt tại Việt Nam

hiện tại, cần có những giải pháp căn cơ và quyết liệt. Trước hết, cần phải điều chỉnh

các luật lệ liên quan đến bảo vệ môi trường theo hướng thắt chặt hơn. Đối với môi

trường tự nhiên, cần tăng cường công tác kiểm lâm bảo vệ rừng, ngăn chặn và đẩy

lùi mọi hành động phá hoại rừng. Thường xuyên giám sát và đánh giá chất lượng xả

61

thải, đẩy mạnh kiểm tra và xử phạt các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường hoặc

không có biện pháp để giảm thiểu gây ô nhiễm môi trường. Các dự án trước khi đưa

vào triển khai cần có đánh giá tác động môi trường hoàn chỉnh và toàn diện, không

thể để vì phát triển kinh tế mà bỏ qua vấn đề môi trường. Có thể xem xét đến việc

tăng thuế tiêu thụ các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường như nhựa dùng một lần để

hạn chế việc sử dụng, từ từ đi đến loại bỏ.

Bên cạnh đó, cần tuyên truyền rộng rãi và nâng cao ý thức cho người dân về

vấn đề bảo vệ môi trường. Triển khai công tác phân loại rác thải tại nguồn để tạo

thuận lợi cho việc xử lý và tái chế. Cần xây dựng sớm các nhà máy xử lý, tái chế rác

thải sử dụng công nghệ mới, thân thiện với môi trường. Đồng thời, khuyến khích đầu

tư và nghiên cứu vào các phương pháp xử lý, tái chế rác thải theo hướng vận dụng

các công nghệ hiện đại và thân thiện với môi trường. Và để làm được vậy thì cần có

khung pháp lý phù hợp, có nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp và các dự án như thế

này, và kêu gọi sự hỗ trợ, hợp tác từ các đơn vị nước ngoài đã có nhiều kinh nghiệm.

3.2.2. Nhóm kiến nghị dành cho doanh nghiệp

3.2.2.1. Chủ động tìm hiểu về Hiệp định CPTPP

Yêu cầu đầu tiên đặt ra với mỗi doanh nghiệp là cần phải chủ động tìm hiểu

nội dung của Hiệp định CPTPP, đặc biệt là các cam kết về thuế quan và quy tắc xuất

xứ, nhằm trang bị các kiến thức căn bản nhất khi muốn giao dịch xuất nhập khẩu với

bất kỳ nước nào trong khối CPTPP. Nếu có vấn đề không rõ, các doach nghiệp có thể

gọi điện thoại và gửi email để nhận hỗ trợ từ Trung tâm WTO và Hội nhập của VCCI.

Cùng với đó, đơn vị này cũng đã biên soạn và phát hành “Cẩm nang tóm lược CPTPP”

bao gồm hướng dẫn cách đọc hiểu hiệp định, tóm tắt ngắn gọn các cam kết và nhiều

câu hỏi – đáp tóm lược nội dung hiệp định theo từng nhóm vấn đề, doanh nghiệp có

thể tham khảo cuốn cẩm nang này song song với Hiệp định CPTPP.

Ngoài ra, các doanh nghiệp nên tham gia vào các buổi hội nghị, hội thảo trình

bày và giải đáp các thắc mắc về Hiệp định CPTPP, đồng thời thảo luận và tham vấn

cho các cơ quan Nhà nước về quá trình luật hoá các cam kết trong hiệp định. Các

doanh nghiệp nên liên kết với nhau và cùng với hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành

nghề vận động và có tiếng nói hiệu quả đến việc xây dụng chính sách cho CPTPP.

62

3.2.2.2. Nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh

Trước hết, mỗi lãnh đạo doanh nghiệp cần tự trau dồi, nâng cao trình độ học

vấn và kiến thức chuyên môn, sau đó là các kiến thức về kinh tế và pháp luật. Đồng

thời, cần tăng cường năng lực quản lý và kỹ năng quản trị doanh nghiệp, kỹ năng đàm

phán và giao tiếp, các kỹ năng phân tích kinh doanh, dự báo và định hướng chiến

lược phát triển. Một vấn đề trọng yếu khác mà chủ doanh nghiệp cũng cần chú trọng

chính là kỹ năng ngoại ngữ mà trước hết là tiếng Anh và trình độ công nghệ thông

tin, vì đây là những thứ không thể thiếu trong quá trình hội nhập với thế giới. Có thể

tham gia các khoá học đào tạo doanh nhân cho giám đốc và các nhà quản lý, các lớp

đào tạo chuyên sâu về kế toán tài chính và quản trị doanh nghiệp.

Đối với nguồn nhân lực, cần có chiến lược đào tạo phù hợp với từng cấp bậc

để nâng cao năng suất lao động, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện để người

lao động sáng tạo ra những phương thức lao động hiệu quả, tiết kiệm nguồn lực cho

cả người lao động và doanh nghiệp. Hơn nữa, phải xây dựng chính sách lương thưởng,

chính sách đãi ngộ phù hợp để giữ lực lượng lao động ổn định và thu hút những lao

động khác, đặc biệt là những lao động giỏi và lành nghề.

Đối với sản phẩm, cần nâng cao chất lượng và giảm giá thành chi phí bằng

cách cải tiến và áp dụng các công nghệ mới cùng với máy móc và trang thiết bị giúp

nâng cao nâng suất và tiết kiệm chi phí nguyên liệu. Nguồn nguyên vật liệu cần được

đảm bảo chất lượng để đảm sản phẩm sản xuất ra đáp ứng được các tiêu chuẩn về

chất lượng, đồng thời cũng nên tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu mới, vật liệu thay thế

mà vẫn đảm bảo phù hợp với các tiêu chuẩn đã đặt ra. Bên cạnh đó, ngay cả quá trình

quản lý cũng cần áp dụng mạnh mẽ các phần mềm công nghệ thông tin phù hợp với

quy mô và trình độ doanh nghiệp để nâng cao hiệu suất quản lý và tiết kiệm chi phí.

Một điểm cuối cùng doanh nghiệp cần quan tâm đến là vấn đề nghiên cứu.

Việc nghiên cứu sở thích tiêu dùng của khách hàng là cấn thiết để từ đó đưa ra các

sản phẩm đa dạng hoá về mẫu mã, chất lượng và giá thành để tận dụng tối đa các

phân khúc thị trường, hoặc nhắm đến phân khúc phù hợp để mở rộng phát triển. Tiếp

đến, cần nghiên cứu đến các thị trường mới, thị trường tiềm năng, như các thị trường

63

nước ngoài để tận dụng các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do. Nếu sản phẩm

có chất lượng đáp ứng được yêu cầu của các thị trường mới thì sẽ có cơ hội để thâm

nhập và mở rộng thị trường sang các nước này. Và cuối cùng, cần tập trung để đầu

tư, nghiên cứu nhằm cải tiến, nâng cao hiệu quả máy móc thiết bị, tìm ra các công

nghệ mới, phương tiện sản xuất mới để nâng cao năng suất và tiết kiệm chi phí.

3.2.2.3. Vạch ra định hướng và có tư duy phát triển phù hợp

Các doanh nghiệp cũng nên thay đổi tư duy và định hướng phát triển sao cho

phù hợ với quy mô, khả năng và nhu cầu của thị trường. Chẳng hạn như chuyển

hướng vào những thị trường ngách, nơi những công ty lớn không khai thác hoặc khó

tiếp cận. Doanh nghiệp cũng có thể tạo ra sản phẩm mang tính sáng tạo và độc lập

cao, chuyên biệt hoá sản phẩm của mình nhằm tạo ra ưu thế cạnh tranh trong khi

không thể cạnh tranh về giá với các công ty có quy mô và tiềm lực tài chính lớn. Hoặc

có những chính sách bán hàng và sau bán hàng đặc biệt, như giao hàng nhanh, giao

hàng hoả tốc, chính sách đổi trả và bảo hành trong thời gian ngắn. Ngoài những kênh

phân phối truyền thống, có thể đưa hàng hoá lên các sàn giao dịch thương mại điện

tử để mở rộng kênh phân phối. Đồng thời, cũng cần vạch ra một chiến lược phát triển

dài hạn, không chỉ riêng về sản phẩm và còn về định hướng kinh doanh của công ty,

chẳng hạn như các mốc thời gian để đưa ra một sản phẩm mới hoặc thâm nhập vào

một thị trường mới, kèm theo những điều chỉnh phù hợp để theo sát kế hoạch ban

đầu. Các doanh nghiệp cũng nên hợp tác với các doanh nghiệp khác và cộng đồng

doanh nghiệp để cùng nhau phát triển và hội nhập kinh tế. Một điều cuối cùng là cần

xây dựng văn hoá doanh nghiệp chuyên nghiệp, lành mạnh, tích cực, sáng tạo và

hướng đến xã hội. Một doanh nghiệp có văn hoá tốt sẽ có hình ảnh đẹp trong mắt đối

tác, các nhà đầu tư và của cả xã hội.

3.2.3. Nhóm kiến nghị dành cho một số lĩnh vực cụ thể

3.2.3.1. Nhóm kiến nghị dành cho ngành dệt may

Để được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định CPTPP, hàng dệt may của

Việt Nam phải đáp ứng được quy tắc “Từ sợi trở đi”. Điểm nghẽn lớn nhất để đạt

được yêu cầu này nằm ở khâu dệt nhuộm, do đây là ngành có khả năng gây ô nhiễm

64

rất cao nên nhiều địa phương thường tránh do sợ ảnh hưởng đến môi trường. Vì vậy,

cần một quy hoạch tổng thể về các khu công nghiệp cho các doanh nghiệp dệt nhuộm,

đồng thời xây dựng các nhà máy xử lý nước thải cho các khu công nghiệp này, do chi

phí đầu tư rất lớn nên doanh nghiệp rất trông đợi vào chính sách hỗ trợ từ nhà nước.

Đồng thời, xây dựng phương án thu hút nhà đầu tư nước ngoài trong ngành dệt nhuộm

và xử lý nước thải sử dụng công nghệ cao, ít gây ảnh hưởng đến môi trường.

Các doanh nghiệp trong nước trong chuỗi giá trị từ bông, xơ sợi, dệt nhuộm

và cắt may cần liên kết với nhau và với các doanh nghiệp FDI để tạo nên một chuỗi

cung ứng khép kín trong ngành. Cần có chính sách thu hút đầu tư trong nước và từ

các nước thuộc Hiệp định CPTPP về các ngành công nghiệp hỗ trợ dệt may để đảm

bảo nguồn nguyên phụ liệu trong nước, đảm bảo và tăng dần tỷ lệ nội địa hoá. Ngoài

ra, cũng cần có biện pháp để ngăn chặn tình trạng di chuyển nhà máy sản xuất từ các

nước ngoài CPTPP như Trung Quốc, Đài Loan với mục đích trục lợi thuế suất ưu đãi

từ Hiệp định CPTPP.

Cuối cùng, cần phải có các phương án để theo đuổi mục tiêu lâu dài của ngành

dệt may là nâng dần giá trị gia tăng trong sản phẩm trong chuỗi giá trị. Nên giảm dần

gia công toàn phần, chuyển sang gia công từng phần, hướng tới tự thiết kế và xây

dựng thương hiệu. Do đó, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ việc nâng cao

tay nghề của công nhân cho đến tập trung vào nghiên cứu và phát triển thị trường, để

sau đó có những thiết kế phù hợp với nhu cầu, thị hiếu và thói quen của người tiêu

dùng. Đồng thời, cũng cần cải tiến máy móc thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin

trong cả sản xuất và quản lý điều hành.

3.2.3.2. Nhóm kiến nghị dành cho ngành tài chính – ngân hàng

Ngành tài chính – ngân hàng sẽ chứng kiến nhiều sự thay đổi được mang lại

bởi Hiệp định CPTPP do Việt Nam đã có nhiều cam kết mở cửa và tự do hoá thị

trường tài chính hơn so với trước kia. Vì vậy, NHNN cần có phương án và lộ trình

phù hợp để triển khai các cam kết này. Trước mắt, cần phối hợp với các NHTM còn

lại hoàn tất áp dụng chuẩn Basel II, còn đối với những đơn vị đã hoàn thành Basel II

thì cần theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm đảm bảo các quy định của Basel II được thực

65

thi đầy đủ và đúng tiêu chuẩn. Sau khi hoàn thành áp dụng chuẩn Basel II trên toàn

bộ hệ thống, NHNN cần hướng đến việc nghiên cứu và đánh giá khả năng áp dụng

chuẩn Basel III, để sau đó có lộ trình phù hợp nhằm triển khai đến các NHTM. Việc

áp dụng các chuẩn Basel mới nhất sẽ giúp hệ thống tài chính trở nên an toàn và minh

bạch hơn, đồng thời tăng khả năng vươn xa trên thị trường quốc tế. Xét trong nội bộ

CPTPP thì chỉ còn Brunei và Việt Nam là chưa bắt đầu áp dụng chuẩn Basel III.

Để triển khai các cam kết trong Hiệp định CPTPP, NHNN cần rà soát, đánh

giá và sửa đổi lại hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp, tiếp tục tái cơ

cấu các tổ chức yếu kém. Đồng thời, xây dựng khung pháp lý và đưa ra lộ trình triển

khai các vấn đề mới như tự do hoá tài khoản vốn, chuyển thông tin ra nước ngoài,

mở cửa thị trường thẻ có mã quốc tế và thanh toán bù trừ qua biên giới, dịch vụ tái

nhượng bảo hiểm qua biên giới, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua bên giới. Về

vấn đề chuyển mạch giao dịch thẻ, cần sớm liên kết với các nước còn lại trong khối

CPTPP. Hiện tại Công Ty Cổ Phần Thanh Toán Quốc Gia Việt Nam (NAPAS), đơn

vị được NHNN uỷ quyền thực hiện việc chuyển mạch thẻ tại Việt Nam, mới chỉ có

liên kết với Hệ Thống Thanh Toán Điện Tử Malaysia (MEPS). Việc xây dựng khung

pháp lý và các quy định cho các vấn đề mới cũng cần đi kèm các biện pháp nhằm bảo

mật thông tin, dữ liệu, bí mật của các cá nhân và tổ chức.

Đối với các NHTM chưa hoàn thành chuẩn Basel II, cần nhanh chóng hoàn tất

các nhiệm vụ cần thiết để nhanh chóng đưa Basel II vào áp dụng thực tế. Còn các

NHTM vừa hoàn thành xong chuẩn Basel II cần theo dõi chặt chẽ việc vận hành để

có những điều chỉnh cần thiết, đồng thời đẩy mạnh hoạt động quản trị rủi ro, xử lý nợ

xấu và thường xuyên tự đánh giá lại khả năng ứng phó của ngân hàng trước các tình

huống xấu bằng các bài kiểm tra giả định. Để có thể cạnh tranh tốt, các NHTM cần

cải tiến hoạt động, mở rộng và đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng, tạo

điều kiện dễ dàng hơn cho việc tiếp cận các dịch vụ do NHTM trong nước cung cấp,

tránh để thị trường rơi dần vào tay các ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó, cần áp

dụng các công nghệ hiện đại, đầu tư vào nguồn nhân lực chất lượng cao và hiện đại

hoá hệ thống ngân hàng để nâng cao quản trị và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới.

66

Tóm tắt chương 3

Hiệp định CPTPP đã có hiệu lực đối với Việt Nam từ đầu năm 2019, và có rất

nhiều việc mà các bên liên quan cần phải làm để giải quyết những vấn đề còn tồn tại

nhằm mục đích đáp ứng các yêu cầu và tận dụng lợi ích do hiệp định này mang lại.

Các cơ quan ban ngành cần nhanh chóng rà soát, điều chỉnh hệ thống và ban hành

mới văn bản quy phạm pháp luật nhằm đáp ứng các yêu cầu của hiệp định, đồng thời

triển khai các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các doanh

nghiệp cũng phải tự vận động để thích ứng với môi trường cạnh tranh ngày càng gay

gắt. Đặc biệt, ngành dệt may cần ngay lập tức tháo gỡ điểm nghẽn ở khâu dệt nhuộm,

còn các NHTM cần nhanh chóng hoàn tất chuẩn Basel II.

67

KẾT LUẬN

Bắt đầu từ một hiệp định nhỏ với chỉ bốn thành viên và sau đó dần dần thu hút

được các nền kinh tế lớn trên thế giới, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

TPP sẽ là hiệp định thương mại tự do có quy mô lớn nhất nếu thực sự đi vào hiệu lực.

Với nhiều điều khoản cao cấp và chặt chẽ, TPP được kỳ vọng sẽ trở thành chuẩn mực

mới định hình cho thương mại thế giới trong thế kỷ XXI. Tuy nhiên, sự rút lui của

Mỹ vào đầu năm 2017 đã khiến cho hiệp định đổ vỡ ngay cả khi đã ký kết thành công,

làm dấy lên mối lo về sự quay lại của chủ nghĩa bảo hộ thương mại. Các nước thành

viên còn lại đã vượt qua khó khăn để đi tiếp mà không có Mỹ, và cuối cùng đã hoàn

tất đàm phán để đưa ra Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình

Dương CPTPP với nền tảng cơ sở từ TPP. Hiệp định CPTPP đã chính thức được ký

kết vào đầu năm 2018 và đi vào hiệu lực vào những ngày cuối cùng của cùng năm,

mở ra một bước ngoặt mới về vấn đề tự do hoá thương mại toàn cầu.

Tham dự Hiệp định TPP ngay từ đầu với tư cách nhà quan sát, và sau đó gia

nhập chính thức ngay sau sự có mặt của Mỹ, Việt Nam được dự đoán là quốc gia sẽ

có lợi ích lớn nhất khi tham gia hiệp định này. Từ khi bắt đầu tham gia đàm phán,

Việt Nam đã có những bước đi nhằm chuẩn bị trước, đi tắt đón đầu hiệp định bằng

việc tăng cường cải cách hệ thống pháp luật, ban hành và đưa vào áp dụng nhiều quy

định mới theo đúng những nội dung đã cam kết trong hiệp định. Mặc dù Mỹ tuyên

bố rút lui nhưng không có nghĩa là Việt Nam từ bỏ một cơ hội lớn để thay đổi và phát

triển, đã cùng các nước còn lại đi đến thống nhất hiệp định thay thế là CPTPP. Đến

ngày 14 tháng 01 năm 2019, Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực đối với Việt

Nam, mang đến nhiều cơ hội cũng như thách thức cho nền kinh tế nước nhà.

Sự hiện diện của TPP và sau này là CPTPP đã thúc đẩy Việt Nam thay đổi

toàn diện, từ vấn đề đơn giản hoá các thủ tục hành chính cho đến cải tổ môi trường

kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mức độ giao thương hàng hoá

đối với các thị trường mới trong CPTPP của Việt Nam sau khi hiệp định đi vào hiệu

lực đã có mức tăng trưởng tốt nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Cần có thời gian dài hơn

để quan sát và nghiên cứu, đánh giá sâu hơn về tác động toàn diện của hiệp định đến

nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

Bộ Công Thương, 2014. Quyết định 3218/QĐ-BCT phê duyệt Quy hoạch phát

triển ngành công nghiệp Dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

2014-phat-trien-nganh-cong-nghiep-det-may-viet-nam-2020-tam-nhin-2030-226773.

aspx> [Ngày truy cập: 29 tháng 09 năm 2019].

Bùi Xuân Lưu, 2002. Giáo trình Kinh tế Ngoại thương. Lần 4. Hà Nội: Nhà

xuất bản Lao động – Xã hội.

Cẩm Anh, 2018. Tổng thống Mỹ để ngỏ khả năng quay lại đàm phán CPTPP.

25059797.epi> [Ngày truy cập: 04 tháng 11 năm 2019].

Cục Đầu tư Nước ngoài – Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư. Đầu tư vào Việt Nam.

[Ngày truy cập: 18

tháng 10 năm 2019].

Hà Duy, 2017. Chỉ 1-2 phút xong thủ tục lấy hàng ở cảng: Giảm thời gian,

bớt tốn kém.

1-2-phut-xong-thu-tuc-lay-hang-o-cang-giam-thoi-gian-bot-ton-kem-418693.html>

[Ngày truy cập: 10 tháng 10 năm 2019].

Hà My, 2016. Vì sao Donald Trump ghét TPP?

trump-ghet-tpp-20161128075433853.chn> [Ngày truy cập: 04 tháng 11 năm 2019].

Hà Nguyễn, 2019. Tập đoàn TH đầu tư hơn 88 triệu USD sang Australia.

html> [Ngày truy cập: 20 tháng 10 năm 2019].

Hải Kim, 2019. Ngân hàng Việt đầu tiên được chấp thuận mở chi nhánh ở Úc.

20191010195532981.htm> [Ngày truy cập: 20 tháng 10 năm 2019].

Hải Linh, 2019. Năm 2019: Hệ thống giám sát hải quan tự động 'phủ sóng'

toàn quốc.

27/nam-2019-he-thong-giam-sat-hai-quan-tu-dong-phu-song-toan-quoc-69347.

aspx> [Ngày truy cập: 11 tháng 10 năm 2019].

Lương Bằng, 2019. Mỗi lao động Việt làm ra 102 triệu/năm, bằng 1/30

Singapore.

nam-thua-singapore-malaysia-thai-lan-556163.html> [Ngày truy cập: 23 tháng 10

năm 2019].

N. Bình, 2019. Lô quần áo Trung Quốc hàng ngàn chiếc giả mạo xuất xứ Việt

Nam.

viet-nam-20191009193834797.htm> [Ngày truy cập: 24 tháng 10 năm 2019].

Ngân Hàng Thế Giới, 2018. Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp

định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương: Trường hợp của Việt

Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Hồng Đức.

Ngân hàng TMCP Á Châu, 2019. Báo cáo ngành Dệt may ngày 13/06/2019.

TP.HCM, tháng 06 năm 2019.

Ngân hàng TMCP Á Châu, 2019. Báo cáo ngành Dệt may ngày 21/02/2019.

TP.HCM, tháng 02 năm 2019.

Ngô Kiếm, 2018. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đến 97% doanh nghiệp cả

nước.

nghiep-ca-nuoc-20418.htm> [Ngày truy cập: 09 tháng 10 năm 2019].

Ngọc Phạm, 2019. Hơn 900.000 thuê bao chuyển mạng giữ số thành công,

duy nhất VinaPhone có “hời”.

900000-thue-bao-chuyen-mang-giu-so-thanh-cong-duy-nhat-vinaphone-co-hoi-

c55a1085943.html> [Ngày truy cập: 10 tháng 10 năm 2019].

Nguyễn Thị Thu Trang, 2016. Cẩm nang doanh nghiệp – Tóm lược Hiệp định

Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Hà Nội: Nhà xuất bản Công Thương.

Phong Nguyễn, 2019. Cắt giảm điều kiện kinh doanh: Văn bản giảm, thủ tục

vẫn nguyên!

giam-thu-tuc-van-nguyen-754217.ldo> [Ngày truy cập: 22 tháng 10 năm 2019].

Thế Hoàng, 2019. Hơn 70% doanh nghiệp được khảo sát chưa hiểu rõ về

CPTPP.

cptpp-d106451.html> [Ngày truy cập: 22 tháng 10 năm 2019].

Tố Uyên, 2018. Hàng giả, hàng lậu vẫn diễn biến phức tạp.

hang-lau-van-dien-bien-phuc-tap-65718.aspx> [Ngày truy cập: 22 tháng 10 năm

2019].

Tổng Cục Hải Quan. Thống kê Hải quan – Số liệu thống kê.

p=S%E1%BB%91%20li%E1%BB%87u%20th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA>

[Ngày truy cập: 18 tháng 10 năm 2019].

Trần Bình Trọng, 2003. Giáo trình Lịch sử các Học thuyết Kinh tế. Hà Nội:

Nhà xuất bản Thống kê.

Trung tâm WTO – VCCI. Văn kiện Hiệp định CPTPP và các Tóm tắt.

[Ngày

truy cập: 05 tháng 09 năm 2019].

Việt Hùng, 2019. Mexico sẽ áp thuế nhập khẩu đến 30% với sản phẩm dệt may

và da giày.

det-may-va-da-giay/114487.html> [Ngày truy cập: 11 tháng 10 năm 2019].

Tài liệu tiếng Anh

Bhala, R., 2014. Trans-Pacific Partnership or Trampling Poor Partners? A

Tentative Critical Review. Manchester Journal of International Economic Law, 11:

2-59.

Camroux, D., 2012. Regionalism in Asia as Disguised Multilateralism: A

Critical Analysis of the East Asia Summit and the Trans-Pacific Partnership. The

International Spectator, 47: 97-115.

Capling, A., J. Ravenhill, 2011. Multilateralising regionalism: what role for

the Trans-Pacific Partnership Agreement. The Pacific Review, 24: 553-575.

Deardorff, A.V., 2014. Trade Implications of the Trans-Pacific Partnership for

ASEAN and Other Asian Countries. Asian Development Review, 31: 1-20.

Helble, M., 2017. Salvaging The Trans-Pacific Partnership: Building Blocks

for Regional and Multilateral Trade Opening. ADBI Working Paper Series [pdf]

Asian Develoment Bank Institute. Available at:

files/publication/234081/adbi-wp695.pdf > [Accessed 28 August 2019].

Petri, P.A., M. G. Plummer, 2016. The Economic Effects of the Trans-Pacific

Partnership: New Estimates. Working Paper Series [pdf] Peterson Institute for

International Economics. Available at:

wp16-2.pdf> [Accessed 29 August 2019].

Seshari, V.S., 2013. The Trans Pacific Partnership (TPP). RIS Discussion

Papers [online]. Available at:

[Accessed 27 August 2019].

Standard Chartered, 2019. Doubling every decade – The 7% club [pdf].

Available at:

cent-Club-Report-2019.pdf> [Accessed 05 October 2019].

World Bank. DataBank.

[Accessed 29 September 2019].

PHỤ LỤC A – Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và một số quốc gia giai đoạn 2009 – 2018

Đơn vị tính: Tỷ USD

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

CPTPP 29.72 35.30 44.55 50.86 52.60 57.47 57.41 58.34 68.17 74.58

Trong đó:

Canada 0.94 1.15 1.31 1.61 1.95 2.46 2.86 3.05 3.52 3.87

Malaysia 4.19 5.51 6.75 7.91 9.02 8.14 7.78 8.51 10.16 11.51

Mexico 0.52 0.58 0.68 0.79 1.00 1.30 2.02 2.37 3.13 3.36

Nhật Bản 13.76 16.74 21.18 24.67 25.25 27.62 28.49 29.74 33.84 37.87

Singapore 6.32 6.22 8.68 9.06 8.35 9.78 9.30 7.18 8.30 7.72

Úc 3.33 4.15 4.64 4.98 5.10 6.05 4.94 5.29 6.46 7.72

Mỹ 14.37 18.01 21.46 24.49 29.08 34.94 41.26 47.15 50.94 60.28

Trung Quốc 21.35 27.33 35.72 41.17 50.17 58.64 66.61 71.98 94.00 106.88

Hàn Quốc 9.04 12.85 17.89 21.12 27.32 28.91 36.55 43.57 61.78 65.82

Các nước khác 52.57 63.59 84.04 90.67 104.90 118.11 125.76 130.34 153.24 173.01

Tổng cộng 127.05 157.08 203.66 228.31 264.07 298.07 327.59 351.38 428.13 480.57

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan

PHỤ LỤC B – Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và một số quốc gia

trong 9 tháng đầu năm 2019 và so sánh với cùng kỳ năm 2018

Đơn vị tính: Triệu USD

9 tháng 2018 9 tháng 2019 Tăng/giảm

55,332.09 57,291.20 3.54% CPTPP

Trong đó:

35.82 174.89 388.25% Brunei

2,891.04 3,495.52 20.91% Canada

841.47 935.18 11.14% Chile

8,633.20 8,333.48 -3.47% Malaysia

2,688.91 2,633.49 -2.06% Mexico

759.75 822.21 8.22% New Zealand

27,584.94 29,167.21 5.74% Nhật Bản

264.11 321.77 21.83% Peru

5,919.47 5,468.72 -7.61% Singapore

5,713.38 5,938.74 3.94% Úc

24.22% 44,547.42 55,338.98 Mỹ

6.65% Các nước khác 252,725.15 269,527.17

8.38% Tổng cộng 352,604.66 382,157.35

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan

PHỤ LỤC C – Kim ngạch xuất khẩu chi tiết theo hàng hoá của Việt Nam với các

nước thuộc CPTPP trong 9 tháng đầu năm 2019 và so sánh với cùng kỳ năm 2018

Đơn vị tính: USD

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

8,812,373

47,878,217

443.31%

BRUNEI

1,177,779

1,420,913

20.64%

Hàng thủy sản

860,903

3,266,030

279.37%

Gạo

Sản phẩm từ sắt thép

339,258

19,115,022

5,534.36%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng

1,287,559

2,177,933

69.15%

khác

5,146,875

21,898,319

325.47%

Hàng hóa khác

2,219,025,608

2,843,335,808

28.13%

CANADA

172,143,951

163,421,242

-5.07%

Hàng thủy sản

16,634,928

17,845,639

7.28%

Hàng rau quả

84,864,518

74,065,042

-12.73%

Hạt điều

8,053,067

8,809,826

9.40%

Cà phê

7,861,590

6,797,057

-13.54%

Hạt tiêu

Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

7,460,948

8,243,467

10.49%

34,992,492

24,724,889

-29.34%

Hóa chất

3,779,583

1,856,114

-50.89%

Chất dẻo nguyên liệu

32,209,257

32,718,622

1.58%

Sản phẩm từ chất dẻo

6,822,796

5,223,643

-23.44%

Cao su

Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù

50,049,567

56,233,516

12.36%

Sản phẩm mây, tre, cói và thảm

4,986,805

6,822,155

36.80%

115,709,396

128,587,388

11.13%

Gỗ và sản phẩm gỗ

490,730,556

602,033,607

22.68%

Hàng dệt, may

Vải mành, vải kỹ thuật khác

17,821,610

17,603,410

-1.22%

238,898,027

280,054,576

17.23%

Giày dép các loại

2,567,559

3,546,372

38.12%

Sản phẩm gốm, sứ

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy

4,300,348

3,518,054

-18.19%

tinh

Sản phẩm từ sắt thép

45,035,383

38,121,491

-15.35%

Kim loại thường khác và sản phẩm

33,945,656

30,517,317

-10.10%

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

160,887,632

184,258,840

14.53%

kiện

Điện thoại các loại và linh kiện

239,552,116

442,665,487

84.79%

Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện

3,433,431

814,705

-76.27%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng

65,833,099

154,153,465

134.16%

khác

Phương tiện vận tải và phụ tùng

143,176,162

191,295,878

33.61%

Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận

31,089,612

30,547,153

-1.74%

Hàng hóa khác

196,185,519

328,856,853

67.63%

611,074,803

717,132,776

17.36%

CHILE

Hàng thủy sản

16,378,044

12,286,487

-24.98%

8,795,730

5,671,878

-35.52%

Cà phê

240,538

567,986

136.13%

Gạo

Clanhke và xi măng

7,022,307

1,246,420

-82.25%

Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù

11,823,919

6,292,068

-46.79%

Gỗ và sản phẩm gỗ

10,702,396

12,991,333

21.39%

Xơ, sợi dệt các loại

5,924,186

7,340,879

23.91%

Hàng dệt, may

92,075,245

124,441,810

35.15%

Giày dép các loại

100,425,341

89,386,083

-10.99%

Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

6,618,546

4,227,009

-36.13%

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

41,842,405

49,862,438

19.17%

kiện

Điện thoại các loại và linh kiện

204,290,863

319,303,721

56.30%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng

12,173,612

18,381,185

50.99%

khác

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Phương tiện vận tải và phụ tùng

33,732,269

13,704,906

-59.37%

Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ

2,108,409

1,920,940

-8.89%

56,920,994

49,507,633

-13.02%

Hàng hóa khác

3,090,921,073

2,925,080,312

-5.37%

MALAYSIA

81,258,553

86,148,915

6.02%

Hàng thủy sản

39,502,261

22,545,634

-42.93%

Hàng rau quả

51,438,812

50,721,902

-1.39%

Cà phê

2,303,369

2,342,722

1.71%

Chè

3,607,311

3,752,766

4.03%

Hạt tiêu

199,523,114

174,966,464

-12.31%

Gạo

Sắn và các sản phẩm từ sắn

11,782,211

8,801,327

-25.30%

Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

8,767,409

8,290,513

-5.44%

Thức ăn gia súc và nguyên liệu

50,745,047

56,288,481

10.92%

Quặng và khoáng sản khác

3,746,668

3,763,638

0.45%

Clanhke và xi măng

22,058,452

22,138,403

0.36%

10,897,604

7,463,744

-31.51%

Than các loại

42,273,172

160,526,975

279.74%

Dầu thô

42,346,328

59,639,536

40.84%

Xăng dầu các loại

8,181,011

13,326,033

62.89%

Hóa chất

39,154,970

66,009,552

68.59%

Sản phẩm hóa chất

19,063,931

10,770,598

-43.50%

Phân bón các loại

10,997,278

30,552,557

177.82%

Chất dẻo nguyên liệu

36,600,747

35,385,907

-3.32%

Sản phẩm từ chất dẻo

60,934,376

40,497,274

-33.54%

Cao su

Sản phẩm từ cao su

8,895,253

5,827,568

-34.49%

Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù

7,460,428

12,727,995

70.61%

Gỗ và sản phẩm gỗ

78,921,948

51,733,677

-34.45%

Giấy và các sản phẩm từ giấy

37,992,388

35,978,658

-5.30%

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Xơ, sợi dệt các loại

43,425,728

40,167,990

-7.50%

Hàng dệt, may

76,600,876

87,837,390

14.67%

Giày dép các loại

44,389,928

51,143,447

15.21%

Sản phẩm gốm, sứ

9,054,702

7,243,889

-20.00%

Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy

200,430,207

150,093,996

-25.11%

tinh

Sắt thép các loại

330,617,327

351,736,490

6.39%

Sản phẩm từ sắt thép

13,777,548

17,908,495

29.98%

Kim loại thường khác và sản phẩm

27,541,505

22,169,877

-19.50%

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

553,894,779

363,495,664

-34.37%

kiện

Điện thoại các loại và linh kiện

446,542,312

319,588,052

-28.43%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng

144,334,647

207,347,729

43.66%

khác

Dây điện và dây cáp điện

12,664,761

9,494,944

-25.03%

Phương tiện vận tải và phụ tùng

131,494,584

154,469,866

17.47%

Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ

2,685,113

1,641,898

-38.85%

Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận

3,097,339

4,329,634

39.79%

Hàng hóa khác

171,917,076

166,210,112

-3.32%

MEXICO

1,701,059,059

2,171,631,549

27.66%

Hàng thủy sản

78,394,137

84,664,747

8.00%

Cà phê

45,740,031

10,247,595

-77.60%

Sản phẩm từ chất dẻo

11,544,857

13,856,759

20.03%

Cao su

2,776,795

4,193,901

51.03%

Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù

8,860,700

9,797,014

10.57%

Gỗ và sản phẩm gỗ

9,587,368

13,780,073

43.73%

Hàng dệt, may

72,856,006

93,312,025

28.08%

Giày dép các loại

203,886,510

225,616,421

10.66%

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

787,461,805

713,349,693

-9.41%

kiện

Điện thoại các loại và linh kiện

71,575,325

393,357,971

449.57%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng

94,456,897

161,732,807

71.22%

khác

Phương tiện vận tải và phụ tùng

63,435,839

89,894,772

41.71%

Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận

24,111,758

32,422,628

34.47%

226,371,030

325,405,144

43.75%

Hàng hóa khác

360,912,234

404,899,740

12.19%

NEW ZEALAND

13,445,395

13,617,931

1.28%

Hàng thủy sản

18,773,598

16,817,311

-10.42%

Hạt điều

3,428,561

1,885,784

-45.00%

Cà phê

Quặng và khoáng sản khác

2,786,910

3,598,294

29.11%

8,791,974

7,048,580

-19.83%

Sản phẩm từ chất dẻo

19,366,913

17,449,587

-9.90%

Gỗ và sản phẩm gỗ

15,725,285

21,822,333

38.77%

Hàng dệt, may

20,033,172

27,680,152

38.17%

Giày dép các loại

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

43,588,091

43,499,524

-0.20%

kiện

Điện thoại các loại và linh kiện

135,103,026

148,174,465

9.68%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng

23,352,908

27,445,234

17.52%

khác

Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ

4,799,936

4,913,943

2.38%

51,716,465

70,946,603

37.18%

Hàng hóa khác

13,709,624,262 14,983,298,275

9.29%

NHẬT BẢN

988,621,822

1,066,094,027

7.84%

Hàng thủy sản

72,135,879

89,660,865

24.29%

Hàng rau quả

24,091,631

20,026,966

-16.87%

Hạt điều

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Cà phê

163,567,265

124,788,003

-23.71%

Hạt tiêu

11,004,776

5,456,686

-50.42%

Sắn và các sản phẩm từ sắn

5,038,142

1,522,799

-69.77%

Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

31,835,157

35,160,929

10.45%

Thức ăn gia súc và nguyên liệu

21,930,743

26,984,172

23.04%

Quặng và khoáng sản khác

9,288,775

13,352,625

43.75%

Than các loại

93,019,436

45,725,541

-50.84%

Dầu thô

151,359,562

250,981,593

65.82%

Hóa chất

265,752,397

284,423,523

7.03%

Sản phẩm hóa chất

79,480,569

119,298,606

50.10%

Phân bón các loại

2,837,518

4,202,158

48.09%

Chất dẻo nguyên liệu

24,282,768

63,915,013

163.21%

Sản phẩm từ chất dẻo

484,672,065

542,539,856

11.94%

Cao su

13,961,600

12,889,934

-7.68%

Sản phẩm từ cao su

97,721,987

105,937,154

8.41%

Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù

274,571,190

302,306,461

10.10%

Sản phẩm mây, tre, cói và thảm

45,861,838

50,814,247

10.80%

Gỗ và sản phẩm gỗ

826,809,762

971,375,783

17.48%

Giấy và các sản phẩm từ giấy

63,692,601

55,600,090

-12.71%

Xơ, sợi dệt các loại

57,435,439

61,506,178

7.09%

Hàng dệt, may

2,792,118,089

2,910,464,601

4.24%

Vải mành, vải kỹ thuật khác

24,866,786

26,468,185

6.44%

Giày dép các loại

633,642,628

727,247,720

14.77%

Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

91,884,289

93,118,401

1.34%

Sản phẩm gốm, sứ

60,363,217

55,517,310

-8.03%

Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy

69,018,981

71,818,209

4.06%

tinh

Đá quý, kim loại quý và sản phẩm

45,174,616

43,698,404

-3.27%

Sắt thép các loại

43,729,228

99,672,224

127.93%

Sản phẩm từ sắt thép

310,450,225

352,136,746

13.43%

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Kim loại thường khác và sản phẩm

170,417,913

187,020,402

9.74%

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

586,715,673

753,581,344

28.44%

kiện

Điện thoại các loại và linh kiện

552,717,050

559,385,568

1.21%

Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện

86,730,360

101,045,191

16.50%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng

1,343,908,635

1,414,082,535

5.22%

khác

Dây điện và dây cáp điện

251,581,943

224,373,728

-10.81%

Phương tiện vận tải và phụ tùng

1,792,741,319

1,934,018,175

7.88%

Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận

221,770,624

230,094,006

3.75%

Hàng hóa khác

822,819,764

944,992,315

14.85%

ÚC

2,988,659,674

2,578,363,776

-13.73%

Hàng thủy sản

140,331,606

150,358,173

7.14%

Hàng rau quả

26,907,170

31,090,743

15.55%

Hạt điều

81,258,999

83,779,387

3.10%

Cà phê

31,417,049

26,624,524

-15.25%

Hạt tiêu

7,290,865

4,881,271

-33.05%

Gạo

5,078,561

8,623,562

69.80%

Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

16,668,167

17,610,747

5.65%

Clanhke và xi măng

3,576,092

6,125,539

71.29%

Dầu thô

334,152,979

53,591,083

-83.96%

Sản phẩm hóa chất

20,079,955

28,695,228

42.90%

Chất dẻo nguyên liệu

3,984,717

5,535,624

38.92%

Sản phẩm từ chất dẻo

44,299,698

42,276,832

-4.57%

Sản phẩm từ cao su

9,814,591

6,442,336

-34.36%

Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù

43,046,110

25,239,692

-41.37%

Sản phẩm mây, tre, cói và thảm

11,044,351

13,953,709

26.34%

Gỗ và sản phẩm gỗ

136,976,167

108,976,369

-20.44%

Giấy và các sản phẩm từ giấy

23,826,965

29,640,788

24.40%

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Hàng dệt, may

156,554,461

183,091,433

16.95%

Giày dép các loại

176,405,727

208,185,329

18.02%

Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

10,459,113

12,108,395

15.77%

Sản phẩm gốm, sứ

10,945,415

10,721,252

-2.05%

Đá quý, kim loại quý và sản phẩm

9,355,143

9,361,419

0.07%

Sắt thép các loại

32,701,709

22,260,652

-31.93%

Sản phẩm từ sắt thép

73,189,851

80,784,773

10.38%

Kim loại thường khác và sản phẩm

28,197,743

29,897,408

6.03%

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

279,314,904

311,387,717

11.48%

kiện

Điện thoại các loại và linh kiện

612,197,755

569,567,640

-6.96%

Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện

2,462,659

2,722,995

10.57%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng

267,294,124

181,633,613

-32.05%

khác

Dây điện và dây cáp điện

11,792,179

8,124,166

-31.11%

Phương tiện vận tải và phụ tùng

41,232,412

75,431,342

82.94%

Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ

37,591,406

32,705,443

-13.00%

Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận

23,508,680

27,894,089

18.65%

Hàng hóa khác

275,702,353

169,040,503

-38.69%

PERU

192,882,858

262,742,070

36.22%

Hàng thủy sản

7,054,231

6,771,601

-4.01%

Clanhke và xi măng

38,964,625

25,832,389

-33.70%

Chất dẻo nguyên liệu

4,758,446

2,398,884

-49.59%

Cao su

2,777,943

2,145,769

-22.76%

Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù

2,878,243

2,601,408

-9.62%

Xơ, sợi dệt các loại

8,503,132

4,205,239

-50.54%

Hàng dệt, may

5,416,323

7,192,499

32.79%

Giày dép các loại

42,385,532

48,459,742

14.33%

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

7,915,025

10,182,056

28.64%

kiện

Điện thoại các loại và linh kiện

35,870,868

110,886,897

209.13%

Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ

420,462

42,329

-89.93%

35,938,028

41,642,295

15.87%

Hàng hóa khác

2,333,025,470

2,500,122,804

7.16%

SINGAPORE

84,290,567

72,362,095

-14.15%

Hàng thủy sản

21,433,694

24,447,788

14.06%

Hàng rau quả

4,899,692

3,379,857

-31.02%

Hạt điều

2,673,227

2,169,349

-18.85%

Cà phê

5,519,133

1,759,718

-68.12%

Hạt tiêu

35,884,261

36,621,116

2.05%

Gạo

Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

9,438,779

9,571,347

1.40%

Thức ăn gia súc và nguyên liệu

2,588,937

2,485,691

-3.99%

72,492,051

167,114,013

130.53%

Dầu thô

31,501,109

78,780,954

150.09%

Xăng dầu các loại

13,015,713

11,533,014

-11.39%

Sản phẩm hóa chất

2,360,127

2,240,898

-5.05%

Chất dẻo nguyên liệu

13,977,939

13,831,980

-1.04%

Sản phẩm từ chất dẻo

104,282

179,072

71.72%

Cao su

Sản phẩm từ cao su

2,076,855

1,845,827

-11.12%

Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù

11,632,117

10,965,943

-5.73%

Gỗ và sản phẩm gỗ

16,640,363

20,230,798

21.58%

Giấy và các sản phẩm từ giấy

29,160,112

28,169,027

-3.40%

Hàng dệt, may

-9.37%

78,112,880

70,793,281

Giày dép các loại

52,924,441

59,588,044

12.59%

Sản phẩm gốm, sứ

1,197,847

1,132,507

-5.45%

Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy

233,159,524

249,214,797

6.89%

tinh

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Sắt thép các loại

17,810,951

12,218,834

-31.40%

Sản phẩm từ sắt thép

15,208,964

15,070,339

-0.91%

Kim loại thường khác và sản phẩm

3,869,059

4,372,752

13.02%

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

421,838,415

415,808,164

-1.43%

kiện

Điện thoại các loại và linh kiện

235,485,089

210,139,415

-10.76%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng

297,257,714

285,444,075

-3.97%

khác

Dây điện và dây cáp điện

53,440,569

63,705,036

19.21%

Phương tiện vận tải và phụ tùng

279,470,640

307,413,833

10.00%

Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận

3,900,047

3,987,901

2.25%

Hàng hóa khác

279,660,372

313,545,339

12.12%

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan

PHỤ LỤC D – Kim ngạch nhập khẩu chi tiết theo hàng hoá của Việt Nam với các

nước thuộc CPTPP trong 9 tháng đầu năm 2019 và so sánh với cùng kỳ năm 2018

Đơn vị tính: USD

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

27,008,235

127,014,207

370.28%

BRUNEI

0

109,041,866

-

Dầu thô

19,250,490

10,854,880

-43.61%

Hóa chất

7,757,745

7,117,461

-8.25%

Hàng hóa khác

672,011,239

652,180,266

-2.95%

CANADA

34,127,835

43,785,413

28.30%

Hàng thủy sản

6,077,207

6,097,853

0.34%

Hàng rau quả

71,892,472

70,476,185

-1.97%

Lúa mì

45,695,781

51,666,202

13.07%

Đậu tương

Thức ăn gia súc và nguyên liệu

15,731,913

39,534,241

151.30%

Quặng và khoáng sản khác

387,238

500,781

29.32%

7,018,301

11,580,091

65.00%

Sản phẩm hóa chất

9,137,915

10,851,555

18.75%

Dược phẩm

50,060,859

24,966,375

-50.13%

Phân bón các loại

9,058,357

9,339,412

3.10%

Chất dẻo nguyên liệu

1,394,621

1,401,699

0.51%

Sản phẩm từ chất dẻo

1,335,785

1,305,086

-2.30%

Cao su

Gỗ và sản phẩm gỗ

20,346,769

21,341,897

4.89%

Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

24,395,017

11,100,677

-54.50%

Đá quý, kim loại quý và sản phẩm

14,166,910

11,123,790

-21.48%

Phế liệu sắt thép

16,056,194

14,157,673

-11.82%

Sắt thép các loại

723,305

1,106,490

52.98%

Sản phẩm từ sắt thép

1,845,993

2,392,808

29.62%

Kim loại thường khác

7,229,248

7,998,963

10.65%

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

6,043,568

8,817,491

45.90%

kiện

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng

40,294,698

51,271,656

27.24%

khác

Ô tô nguyên chiếc các loại

943,783

4,626,203

390.18%

Phương tiện vận tải khác và phụ tùng

14,397,101

6,039,027

-58.05%

Hàng hóa khác

273,650,368

240,698,700

-12.04%

230,393,524

218,042,877

-5.36%

CHILE

50,827,869

45,490,873

-10.50%

Hàng thủy sản

8,317,682

15,252,732

83.38%

Hàng rau quả

Dầu mỡ động thực vật

8,634,464

7,915,670

-8.32%

Thức ăn gia súc và nguyên liệu

20,533,016

6,424,039

-68.71%

Gỗ và sản phẩm gỗ

58,915,470

61,158,279

3.81%

Phế liệu sắt thép

16,880,788

11,644,330

-31.02%

Kim loại thường khác

41,486,061

37,758,860

-8.98%

Hàng hóa khác

24,798,173

32,398,092

30.65%

MALAYSIA

5,542,275,811

5,408,394,797

-2.42%

Hàng thủy sản

5,755,108

7,564,369

31.44%

Sữa và sản phẩm sữa

27,254,020

37,564,594

37.83%

Hàng rau quả

2,439,422

3,358,964

37.70%

Dầu mỡ động thực vật

252,872,536

248,413,874

-1.76%

Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

26,836,856

25,998,516

-3.12%

Chế phẩm thực phẩm khác

35,651,631

36,522,947

2.44%

Thức ăn gia súc và nguyên liệu

27,899,079

23,829,336

-14.59%

Nguyên phụ liệu thuốc lá

2,596,937

2,258,691

-13.02%

Quặng và khoáng sản khác

2,510,408

2,935,176

16.92%

Than các loại

13,270,863

199,532

-98.50%

Dầu thô

41,813,662

0

-100.00%

Xăng dầu các loại

1,659,970,576

1,165,021,733

-29.82%

Khí đốt hóa lỏng

18,228,457

33,650,372

84.60%

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Sản phẩm khác từ dầu mỏ

74,598,460

43,758,561

-41.34%

Hóa chất

198,104,255

205,447,747

3.71%

Sản phẩm hóa chất

155,732,218

160,056,949

2.78%

Dược phẩm

2,707,586

4,659,010

72.07%

Phân bón các loại

32,917,696

36,920,489

12.16%

Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ

6,708,493

5,596,869

-16.57%

sinh

Thuốc trừ sâu và nguyên liệu

16,886,419

15,406,304

-8.77%

Chất dẻo nguyên liệu

231,368,689

231,824,022

0.20%

Sản phẩm từ chất dẻo

77,026,066

80,894,831

5.02%

Cao su

28,047,022

30,508,934

8.78%

Sản phẩm từ cao su

45,261,188

43,297,751

-4.34%

Gỗ và sản phẩm gỗ

65,312,508

48,366,690

-25.95%

Giấy các loại

44,942,009

38,890,981

-13.46%

Sản phẩm từ giấy

7,148,723

8,633,282

20.77%

Xơ, sợi dệt các loại

21,448,426

17,915,248

-16.47%

Vải các loại

74,407,657

86,688,888

16.51%

Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

21,686,359

16,840,020

-22.35%

Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy

22,775,418

47,122,049

106.90%

tinh

Sắt thép các loại

46,783,367

172,376,137

268.46%

Sản phẩm từ sắt thép

36,366,962

27,031,407

-25.67%

Kim loại thường khác

256,788,409

306,068,691

19.19%

Sản phẩm từ kim loại thường khác

16,546,370

18,880,017

14.10%

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

929,324,734

1,085,388,505

16.79%

kiện

Hàng điện gia dụng và linh kiện

176,010,430

235,840,374

33.99%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng

591,377,811

573,330,459

-3.05%

khác

Dây điện và dây cáp điện

30,789,289

29,412,235

-4.47%

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Linh kiện, phụ tùng ô tô

24,665,874

26,560,028

7.68%

Phương tiện vận tải khác và phụ tùng

3,261,435

7,243,436

122.09%

186,182,382

216,116,778

16.08%

Hàng hóa khác

987,853,733

461,856,201

-53.25%

MEXICO

Thức ăn gia súc và nguyên liệu

3,162,077

1,820,361

-42.43%

290,244

0

-100.00%

Phế liệu sắt thép

386,954

3,931,097

915.91%

Sắt thép các loại

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

127,875,537

161,574,263

26.35%

kiện

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng

78,519,229

100,769,028

28.34%

khác

Hàng hóa khác

777,619,692

193,761,452

-75.08%

398,839,573

417,310,046

4.63%

NEW ZEALAND

228,949,395

214,820,186

-6.17%

Sữa và sản phẩm sữa

35,780,189

52,559,124

46.89%

Hàng rau quả

1,305,678

2,198,808

68.40%

Sản phẩm hóa chất

43,329,017

49,084,866

13.28%

Gỗ và sản phẩm gỗ

Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

6,540,316

3,423,327

-47.66%

17,703,745

20,970,831

18.45%

Phế liệu sắt thép

4,256,070

6,568,857

54.34%

Sắt thép các loại

0

244,698

-

Kim loại thường khác

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng

9,085,096

11,089,317

22.06%

khác

Hàng hóa khác

51,890,067

56,350,032

8.60%

13,875,315,383 14,183,909,702

2.22%

NHẬT BẢN

81,237,478

97,888,051

20.50%

Hàng thủy sản

Sữa và sản phẩm sữa

24,668,252

34,299,210

39.04%

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Chế phẩm thực phẩm khác

17,593,916

18,921,740

7.55%

Thức ăn gia súc và nguyên liệu

2,955,140

1,505,061

-49.07%

Nguyên phụ liệu thuốc lá

24,108

0

-100.00%

Quặng và khoáng sản khác

5,489,831

4,103,508

-25.25%

6,889,093

17,080,169

147.93%

Than các loại

0

8,489,368

-

Xăng dầu các loại

Sản phẩm khác từ dầu mỏ

30,744,098

23,518,027

-23.50%

289,100,534

298,310,478

3.19%

Hóa chất

339,155,257

372,924,377

9.96%

Sản phẩm hóa chất

50,607,405

35,773,361

-29.31%

Dược phẩm

19,519,665

20,100,536

2.98%

Phân bón các loại

Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ

25,542,437

31,083,709

21.69%

sinh

Thuốc trừ sâu và nguyên liệu

22,874,195

23,393,104

2.27%

1.88%

365,984,241

372,849,280

Chất dẻo nguyên liệu

631,784,505

625,034,546

-1.07%

Sản phẩm từ chất dẻo

99,506,375

113,752,002

14.32%

Cao su

113,055,880

108,107,815

-4.38%

Sản phẩm từ cao su

6,593,466

5,834,204

-11.52%

Gỗ và sản phẩm gỗ

175,591,690

160,033,599

-8.86%

Giấy các loại

38,804,402

39,139,025

0.86%

Sản phẩm từ giấy

57,898,674

50,517,505

-12.75%

Xơ, sợi dệt các loại

540,141,518

587,559,462

8.78%

Vải các loại

0.56%

Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

208,332,358

209,507,831

Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy

96,482,580

106,413,540

10.29%

tinh

Đá quý, kim loại quý và sản phẩm

24,935,895

30,019,933

20.39%

431,113,266

506,165,776

17.41%

Phế liệu sắt thép

1,177,603,868

1,024,840,899

-12.97%

Sắt thép các loại

Sản phẩm từ sắt thép

428,261,142

422,033,875

-1.45%

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Kim loại thường khác

377,239,819

268,596,466

-28.80%

Sản phẩm từ kim loại thường khác

69,550,146

86,525,917

24.41%

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

2,939,905,062

3,191,319,893

8.55%

kiện

Hàng điện gia dụng và linh kiện

10,469,293

13,229,396

26.36%

Điện thoại các loại và linh kiện

228,542,178

164,075,141

-28.21%

Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện

183,261,959

113,084,054

-38.29%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng

3,254,850,718

3,495,392,462

7.39%

khác

Dây điện và dây cáp điện

104,073,727

99,214,702

-4.67%

Ô tô nguyên chiếc các loại

45,147,925

119,701,052

165.13%

Linh kiện, phụ tùng ô tô

585,679,136

550,864,062

-5.94%

Phương tiện vận tải khác và phụ tùng

129,356,571

93,028,221

-28.08%

Hàng hóa khác

634,747,579

639,678,347

0.78%

ÚC

2,724,723,062

3,360,376,213

23.33%

Sữa và sản phẩm sữa

21,776,027

37,262,265

71.12%

Hàng rau quả

83,741,275

82,489,273

-1.50%

Lúa mì

242,282,614

203,454,704

-16.03%

Dầu mỡ động thực vật

5,626,194

5,282,535

-6.11%

Chế phẩm thực phẩm khác

5,769,572

9,033,973

56.58%

Thức ăn gia súc và nguyên liệu

11,474,756

19,892,226

73.36%

Quặng và khoáng sản khác

244,502,314

415,826,077

70.07%

Than các loại

582,647,095

1,196,890,965

105.42%

Khí đốt hóa lỏng

30,699,343

15,357,113

-49.98%

Sản phẩm khác từ dầu mỏ

7,588,845

6,265,764

-17.43%

Hóa chất

1,526,324

1,215,826

-20.34%

Sản phẩm hóa chất

33,837,745

32,165,846

-4.94%

Dược phẩm

37,183,291

43,418,890

16.77%

Chất dẻo nguyên liệu

14,786,250

14,776,559

-0.07%

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Gỗ và sản phẩm gỗ

3,717,638

8,234,783

121.51%

Bông các loại

246,296,035

71,625,329

-70.92%

Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

15,695,429

11,232,269

-28.44%

Đá quý, kim loại quý và sản phẩm

8,467,765

9,463,883

11.76%

Phế liệu sắt thép

129,998,552

130,230,872

0.18%

Sắt thép các loại

18,635,169

30,154,739

61.82%

Sản phẩm từ sắt thép

2,421,346

3,263,467

34.78%

Kim loại thường khác

452,059,983

367,927,313

-18.61%

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng

39,960,960

34,944,629

-12.55%

khác

Hàng hóa khác

484,028,541

609,966,913

26.02%

PERU

71,223,739

59,026,157

-17.13%

Hàng hóa khác

71,223,739

59,026,157

-17.13%

SINGAPORE

3,586,448,153

2,968,601,234

-17.23%

Hàng thủy sản

9,559,505

12,095,860

26.53%

Sữa và sản phẩm sữa

101,074,245

86,752,027

-14.17%

Hạt điều

-

0

119,966

Dầu mỡ động thực vật

1,276,031

1,367,022

7.13%

Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

5,658,115

8,572,740

51.51%

Chế phẩm thực phẩm khác

99,054,563

145,695,786

47.09%

Thức ăn gia súc và nguyên liệu

12,733,763

13,448,160

5.61%

Quặng và khoáng sản khác

3,693,983

2,738,497

-25.87%

Xăng dầu các loại

1,328,666,779

844,114,007

-36.47%

Sản phẩm khác từ dầu mỏ

188,208,018

170,448,869

-9.44%

Hóa chất

183,534,684

156,889,136

-14.52%

Sản phẩm hóa chất

146,720,574

136,428,582

-7.01%

Nguyên phụ liệu dược phẩm

1,045,001

856,622

-18.03%

Dược phẩm

6,779,843

12,152,844

79.25%

Nước/Mặt hàng chủ yếu

9 tháng 2018

9 tháng 2019 Tăng/giảm

Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ

204,714,683

222,412,752

8.65%

sinh

Thuốc trừ sâu và nguyên liệu

36,920,344

38,614,989

4.59%

Chất dẻo nguyên liệu

250,027,028

247,676,060

-0.94%

Sản phẩm từ chất dẻo

20,524,903

12,437,996

-39.40%

Sản phẩm từ cao su

3,392,411

4,382,780

29.19%

Giấy các loại

119,206,816

94,081,538

-21.08%

Sản phẩm từ giấy

1,054,754

1,632,774

54.80%

Bông các loại

0

1,063,540

-

Vải các loại

3,128,102

2,459,789

-21.36%

Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

1,667,085

5,893,119

253.50%

Phế liệu sắt thép

33,073,846

25,705,068

-22.28%

Sắt thép các loại

1,887,208

1,746,342

-7.46%

Sản phẩm từ sắt thép

16,785,029

17,761,643

5.82%

Kim loại thường khác

14,613,667

11,127,421

-23.86%

Sản phẩm từ kim loại thường khác

3,504,347

2,044,290

-41.66%

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh

395,572,745

252,478,654

-36.17%

kiện

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng

287,585,241

306,450,127

6.56%

khác

Dây điện và dây cáp điện

6,473,558

7,402,760

14.35%

Phương tiện vận tải khác và phụ tùng

4,465,216

1,136,769

-74.54%

Hàng hóa khác

93,846,066

120,412,705

28.31%

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan