BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
ĐINH QUỐC THỊNH
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
ĐINH QUỐC THỊNH
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng (Hướng ứng dụng)
Mã số: 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Đinh Quốc Thịnh – là học viên lớp Cao học Khoá 27 chuyên ngành
Tài chính, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn Thạc sĩ
Kinh tế với đề tài “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và những ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết
quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa
học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của
một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có
thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện
ĐINH QUỐC THỊNH
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
TÓM TẮT
ABSTRACT
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ, HIỆP ĐỊNH
TPP/CPTPP VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ............................................ 4
1.1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ........................... 4
1.1.1. Lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố của Heckscher – Ohlin (Lý thuyết H – O)......... 4
1.1.2. Lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon .................................. 5
1.1.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương của Michael
Porter ........................................................................................................................... 7
1.2. TỔNG QUAN CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP .............................. 9
1.3. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN HIỆP ĐỊNH TPP ............. 14
CHƯƠNG 2: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP ĐẾN SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM ............................................... 26
2.1. GIAI ĐOẠN 2009 – 2018 ............................................................................. 26
2.2. GIAI ĐOẠN 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2019 .................................................. 42
2.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI ............................................................ 49
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT DÀNH CHO VIỆT NAM NHẰM TẬN DỤNG
TỐT HƠN HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP ................................................................... 54
3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SẮP TỚI .................... 54
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SẮP TỚI ......... 55
3.2.1. Nhóm kiến nghị dành cho cơ quan ban ngành ............................................... 55
3.2.2. Nhóm kiến nghị dành cho doanh nghiệp ....................................................... 61
3.2.3. Nhóm kiến nghị dành cho một số lĩnh vực cụ thể ......................................... 63
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC A
PHỤ LỤC B
PHỤ LỤC C
PHỤ LỤC D
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ đầy đủ
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (Asia- APEC Pacific Economic Cooperation)
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast ASEAN Asian Nations)
Công nghệ thông tin CNTT
Doanh nghiệp nhà nước DNNN
DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) FDI
Hiệp đinh thương mại tự do (Free Trade Agreement) FTA
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross Domestic Products) GDP
Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour ILO Organization)
Ngân hàng Nhà nước NHNN
Ngân hàng thương mại NHTM
Đô-la Mỹ (United States dollar) USD
Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization) WTO
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu Tên bảng biểu Vị trí (trang)
Bảng 2.1 Các mục tiêu cụ thể của ngành dệt may đến năm 2030 41
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ các nước 53 Bảng 2.2 thuộc CPTPP
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Tên hình vẽ, đồ thị Vị trí (trang) Số hiệu
Tóm tắt vòng đời của sản phẩm theo Raymond Hình 1.1 7 Vernon
Lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương Hình 1.2 10 của Michael Porter
Hình 2.1 Quy mô GDP Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018 31
Hình 2.2 Lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018 32
Hình 2.3 Tốc độ tăng trưởng GDP của một số nước và thế giới 33
Thu nhập bình quân đầu người một số nước và thế Hình 2.4 34 giới
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai Hình 2.5 35 đoạn 2009 – 2018
Hình 2.6 Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018 36
Hình 2.7 Cơ cấu về đối tác thương mại với Việt Nam 37
Tỷ lệ thương mại trên GDP của Việt nam và một số Hình 2.8 38 quốc gia
Xuất nhập khẩu của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2019 Hình 2.9 50 và cùng kỳ 2018
Cơ cấu đối tác thương mại của Việt Nam 9 tháng 2019 Hình 2.10 50 và cùng kỳ 2018
Tốc độ tăng trưởng giao dịch thương mại giữa Việt
Hình 2.11 Nam và các nước trong Hiệp định CPTPP giữa 9 tháng 51
đầu năm 2019 so với cùng kỳ năm 2018
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 9 tháng Hình 2.12 52 đầu năm 2019 và cùng kỳ năm 2018
TÓM TẮT
Khởi đầu từ một đất nước nghèo trải qua giai đoạn chiến tranh dài, sau hơn 30
năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ trở thành điểm sáng
trong phát triển kinh tế không chỉ trong khu vực mà còn cả trên thế giới. Để đạt được
những bước tiến đó, Việt Nam đã tiến hành mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế, đẩy
mạnh quan hệ thương mại với các quốc gia, các khu vực trên thế giới. Một hiệp định
thương mại thế hệ mới mà Việt Nam đã hoàn tất việc ký kết một cách thành công và
mới đi vào hiệu lực trong thời gian gần đây chính là Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP), hay sau này thay đổi thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Đây là một hiệp định được cho kiểu mẫu của
thế kỷ XXI, với hàng loạt các điều khoản chặt chẽ, bao trùm lên cả các vấn đề mới
mà các hiệp định trước đây không có. Việt Nam được đánh giá là một trong những
nước được hưởng lợi nhiều nhất từ hiệp định này. Cơ hội cũng sẽ đi kèm với không
ít thách thức và rào cản, khi mà hiệp định này được quy định rất cụ thể, chi tiết và
nghiêm ngặt trong các điều khoản, mục đích là để hình thành một tiêu chuẩn mới cho
thương mại toàn cầu. Việt Nam sẽ phải liên tục thay đổi, tự làm mới mình, thậm chí
còn cần phải tự phá bỏ rào cản cũ, tìm hướng đi mới để đáp ứng những tiêu chuẩn
cao cấp trong hiệp định. Việc tham gia đàm phán và đi đến thống nhất chung giữa
các bên trong khoảng một thập kỷ có lẽ cũng đã để lại cho Việt Nam nhiều kinh
nghiệm quý báu, từ đó có thể rút ra những yếu tố then chốt cần quan tâm để có thể
tạo ra thêm một cuộc đổi mới. Hiệp định đã thúc đẩy một số thay đổi về mặt chính
sách, tuy nhiên tác động tích cực lên nền kinh tế là chưa rõ ràng do hiệp định cần có
độ trễ nhất định. Vì vậy, các nghiên cứu trong tương lai cần có thời gian quan sát dài
hơn cũng như chờ đợi những thay đổi mang tính đột phá hơn về mặt chính sách để
có những phân tích chuẩn xác và rõ ràng hơn.
Từ khoá: TPP, CPTPP, phát triển, thương mại, kinh tế Việt Nam
ABSTRACT
Begin from a poor country after a long war time, after more than 30 years of
renovation and development, Vietnam has risen up and became a bright spot about
development not only in regional area but also on global position. In order to attain
such progress, Vietnam has opened its market, actively commenced international
integration, promoted commercial relationship with countries and regions all over the
world. One new trade agreement that Vietnam has successfully concluded and just
came into effect recently is Trans-Pacific Partnership (TPP), which afterwards
changed into Comprehensive and Progressive Trans-Pacific Partnership (CPTPP).
This agreement is seen as model for 21st century, with a bunch of tight provisions,
covering even new issues which were not included in past ones. Vietnam is appraised
with most benefits from this agreement. Chances will bring along challenges and
barriers, as this agreement was strictly and detailedly regulated, to form a new
standard for global trade. Vietnam will have to continuously renew itself, even need
to break its own box, find a new way to adapt to high standard of the agreement. The
fact that negotiation and conclusion took around a decade between members must
have left many experience for Vietnam, then importance points can be drawn out for
better attention for a new renovation. The agreement has made some changed on
policies, however, the positive impacts on the economy are not clear as the agreement
needs a specific lag time. Therefore, future researches should have a longer
observation period as well as wait for remarkable changes in policies in order to
output more precise and clearer analysis.
Keywords: TPP, CPTPP, development, trade, Vietnam economy
1
MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
Khởi đầu từ một đất nước nghèo trải qua giai đoạn chiến tranh dài, sau hơn 30
năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ trở thành điểm sáng
trong phát triển kinh tế không chỉ trong khu vực mà còn cả trên thế giới. Từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, không những thế còn bị bao vây và cấm vận, Việt Nam
đã xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật, hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước đáp
ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn
lực xã hội cho phát triển. So với thời kỳ trước đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều
thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng
lên đạt ngưỡng thu nhập trung bình, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện;
đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở thành lực lượng quan trọng
để thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đạt được những
bước tiến đó, Việt Nam đã tiến hành mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh
quan hệ thương mại với các quốc gia, các khu vực trên thế giới. Một hình thức thường
thấy chính là các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, các hiệp
định đối tác chiến lược. Trong đó, một hiệp định thương mại thế hệ mới mà Việt Nam
đã hoàn tất việc ký kết một cách thành công và mới đi vào hiệu lực trong thời gian
gần đây chính là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hay sau này thay
đổi thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, được ký chính thức vào tháng
02 năm 2016, dự kiến có hiệu lực vào năm 2018, là một hiệp định thương mại tự do
bao gồm 12 thành viên là Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico,
New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam. Tuy nhiên đến đầu năm 2017, Mỹ
đã chính thức tuyên bố rút khỏi TPP, vì vậy mà hiệp định này đã không thể có hiệu
lực do không thể đáp ứng được điều kiện cần thiết. Sau đó, các thành viên còn lại đã
thống nhất tiếp tục theo đuổi hiệp định mà không có Mỹ. Tháng 01 năm 2018, các
nước đã ra tuyên bố đổi tên hiệp định thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
2
xuyên Thái Bình Dương CPTPP và ký kết chính thức vào tháng 03 năm 2018. Sau
khi Úc phê chuẩn CPTPP vào ngày 31 tháng 10 năm 2018, CPTPP chính thức có hiệu
lực bắt đầu từ ngày 30 tháng 12 năm 2018. Đây là một hiệp định được cho kiểu mẫu
của thế kỷ XXI, với hàng loạt các điều khoản chặt chẽ, bao trùm lên cả các vấn đề
mới mà các hiệp định trước đây không có. Không những thế, nó còn được kỳ vọng
sẽ là nền tảng tham khảo hữu ích cho các hiệp định mang tầm vóc khu vực giai đoạn
sau này, đơn cử như Hiệp định Thương mại Tự do châu Á – Thái Bình Dương FTAAP
thuộc diễn đàn APEC, hay vòng đàm phán Doha của Liên Hợp Quốc.
Việt Nam được đánh giá là một trong những nước được hưởng lợi nhiều nhất
từ hiệp định này. Từ việc có thêm một thị trường rộng lớn để tiêu thụ hàng hoá dịch
vụ, cho đến những ưu đãi thuế về mức 0% cho hầu hết mọi mặt hàng, điều này được
xem là một cơ hội lớn cho một đất nước chú trọng hoạt động xuất nhập khẩu như Việt
Nam. Việc Mỹ rút ra khỏi hiệp định vào những thời khắc cuối được coi như một sự
kiện khá đáng tiếc, khi đây là nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới. Không những thế,
cơ hội cũng sẽ đi kèm với không ít thách thức và rào cản, khi mà hiệp định này được
quy định rất cụ thể, chi tiết và nghiêm ngặt trong các điều khoản, mục đích là để hình
thành một tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu. Việc tham gia đàm phán và đi
đến thống nhất chung giữa các bên trong khoảng một thập kỷ có lẽ cũng đã để lại cho
Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu, từ đó có thể rút ra những yếu tố then chốt cần
quan tâm để có thể tạo ra thêm một cuộc đổi mới. Nắm bắt được tính cấp thiết cùng
với mong muốn có một nghiên cứu về đề tài này, tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên
cứu cho luận văn là: “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và những ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam”.
Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung vào tìm hiểu, phân tích và đánh giá các tác động của Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) lên những khía cạnh về sự phát triển của
nền kinh tế Việt Nam, tìm ra những khó khăn, bất cập, hạn chế còn tồn tại để từ đó
đề xuất các chính sách, phương án nhằm tận dụng hiệu quả và tối đa hoá lợi ích có
thể đạt được từ hiệp định này.
3
Câu hỏi nghiên cứu
- Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã tác động như thế nào
đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam từ năm 2009 đến tháng 09 năm 2019?
- Việt Nam cần làm gì để có thể tận dụng tối đa các cơ hội và hoá giải những
thách thức do hiệp định này mang đến?
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: những ảnh hưởng từ Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP) đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: nền kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2009 đến tháng
09 năm 2019. Năm 2009 là năm mà Việt Nam bắt đầu tham gia vào các vòng đàm
phán của Hiệp định TPP.
Phương pháp nghiên cứu
- Thông tin, dữ liệu cần thu thập: tổng sản phẩm nội địa, thu nhập bình quân
đầu người, kim ngạch xuất nhập khẩu và các chỉ tiêu kinh tế quan trọng khác cùng
với các chính sách của Việt Nam giai đoạn 2009 đến tháng 09 năm 2019.
- Nguồn của thông tin, dữ liệu: website và các báo cáo của Chính phủ và các
bộ ngành, Cục Thống kê, Thông tấn xã và các cổng thông tin điện tử các cơ quan có
liên quan, Ngân hàng Thế giới (WB), Liên Hợp Quốc (UN), v.v.
- Kỹ thuật thu thập và phân tích số liệu: luận văn sử dụng các phương pháp
mô tả, so sánh, phân tích định tính với thông tin và số liệu thứ cấp được tổng hợp từ
nhiều nguồn khác nhau.
Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Tổng quan về thương mại quốc tế, Hiệp định TPP/CPTPP và các
nghiên cứu có liên quan
Chương 2: Những ảnh hưởng của Hiệp định TPP/CPTPP đến sự phát triển của
nền kinh tế Việt Nam
Chương 3: Những đề xuất dành cho Việt Nam nhằm tận dụng tốt hơn Hiệp
định TPP/CPTPP
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ, HIỆP ĐỊNH
TPP/CPTPP VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1.1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1.1. Lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố của Heckscher – Ohlin (Lý thuyết H – O)
Trong lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi thế so sánh của
David Ricardo, hai nhà kinh tế học đã mô tả được sản lượng có thể gia tăng nếu hai
quốc gia chuyên môn hoá sản xuất vào các sản phẩm mà họ có lợi thế. Lợi thế tuyệt
đối mà Adam Smith nêu lên chính là lượng sản phẩm được sản xuất ra nhiều hơn với
cùng một nguồn lực. Trong khi đó, David Ricardo nhấn mạnh tới năng suất lao động
và lập luận rằng những sự khác biệt về năng suất lao động giữa các nước là ngụ ý về
lợi thế so sánh. Hai lý thuyết trên còn khá nhiều hạn chế, vì vậy hai nhà kinh tế học
là Eli Heckscher và Bertil Ohlin đã cho ra đời Lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố (Lý thuyết
H – O) nhằm đưa ra cách giải thích khác về lợi thế so sánh. Hai ông đã lập luận rằng
lợi thế so sánh xuất phát từ những khác biệt trong độ sẵn có các yếu tố sản xuất.
Lý thuyết H – O cho rằng trong tiến trình sản xuất người ta phải phối hợp các
yếu tố sẵn có theo nhiều tỷ lệ khác nhau. Các yếu tố sẵn có được đề cập ở đây là mức
độ mà một quốc gia có sẵn các nguồn lực như đất đai, lao động và vốn. Các nước có
độ sẵn có các yếu tố là khác nhau, và sự sẵn có các yếu tố khác nhau đó giải thích sự
khác biệt về giá cả của các nhân tố, độ dồi dào của nhân tố càng lớn thì giá cả của
nhân tố đó càng rẻ. Cụ thể, đất nhiều thì giá thuê đất càng rẻ, vốn nhiều thì lãi suất
thấp, thất nghiệp nhiều thì tiền lương thấp. Chi phí thấp sẽ giúp các nước sản xuất và
xuất khẩu sản phẩm sử dụng nhân tố sản xuất dư thừa và do đó sẽ rẻ hơn. Nhưng giá
sản phẩm khác nhau không chỉ phụ thuộc vào sự khác biệt trong giá cả các yếu tố đầu
vào mà còn phải kể đến kỹ thuật sản xuất và sự phối hợp các yếu tố sản xuất, mỗi thứ
hàng có hàm số sản xuất riêng, mỗi quốc gia có kỹ thuật sản xuất riêng.
Nội dung cơ bản của Lý thuyết H – O là: “Một quốc gia sẽ chuyên môn hoá
sản xuất để xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó dư thừa tương đối,
đổng thời nhập khẩu trở lại sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó khan hiếm
tương đối”. Theo đó, nguồn lực sản xuất vốn có của mỗi quốc gia quy định sự khác
5
nhau về yếu tố sản xuất dư thừa tương đối, dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ cân đối các
yếu tố sản xuất giữa các quốc gia, tạo nên sự khác biệt về giá cả sản phẩm. Đây là
nguồn gốc để xác định lợi thế so sánh và mô hình mậu dịch của mỗi quốc gia. Một ví
dụ có thể thấy là Mỹ, với sự dồi dào về diện tích đất có thể canh tác đã trở thành một
nước xuất khẩu lớn về hàng nông sản. Hay ngược lại, Trung Quốc nổi trội về xuất
khẩu những hàng hoá được sản xuất trong những ngành thâm dụng lao động như là
dệt may và giày dép, điều này phản ánh mức độ dồi dào tương đối của Trung Quốc
về lao động giá rẻ. Trong khi đó Mỹ vốn không có nhiều lao động giá rẻ, từ lâu đã là
nước nhập khẩu chủ yếu những mặt hàng này.
1.1.2. Lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon
Raymond Vernon là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về vòng đời sản phẩm vào
giữa thập kỷ 1960 của thế kỷ trước. Lý thuyết của ông dựa trên những quan sát thực
tế là trong suốt thế kỷ XX một tỷ lệ rất lớn các sản phẩm mới của thế giới đã được
phát triển bởi các công ty Mỹ và được tiêu thụ ban đầu tại thị trường Mỹ (ví dụ như
sản xuất ô tô ở quy mô công nghiệp, máy thu hình, máy ảnh chụp lấy ngay, máy
photocopy, máy tính cá nhân, và các chíp bán dẫn). Để giải thích thực tế này,
Raymond Vernon lập luận rằng sự thịnh vượng và quy mô của thị trường Mỹ đã mang
lại cho các công ty Mỹ một động lực rất lớn đề phát triển các sản phẩm tiêu dùng mới.
Thêm vào đó, chi phí nhân công cao ở Mỹ cũng khiến cho các công ty Mỹ có lý do
để sáng chế ra các quy trình công nghệ tiết kiệm chi phí sản xuất.
Raymond Vernon đã lập luận rằng ở giai đoạn đầu trong vòng đời của một sản
phẩm mới điển hình, khi nhu cầu đang bắt đầu tăng cao một cách nhanh chóng ở Mỹ
thì nhu cầu tại các nước tiên tiến khác chỉ giới hạn ở một số nhóm khách hàng có thu
nhập cao mà thôi. Do nhu cầu ban đầu tại các nước tiên tiến khác còn hữu hạn vậy
nên các công ty chưa thấy cần thiết phải đầu tư vào sản xuất tại các nước này, nhưng
vẫn thấy cần thiết phải xuất khẩu một số sản phẩm từ Mỹ sang các thị trường đó.
Theo thời gian, nhu cầu đối với sản phẩm mới sẽ tăng dần tại các nước phát
triển khác ngoài Mỹ (ví dụ như Anh, Pháp, Đức và Nhật Bản) cho đến khi các nhà
sản xuất tại đó thấy đã đến lúc phải tiến hành sản xuất để phục vụ cho thị trường nước
6
mình. Thêm nữa, các công ty Mỹ cũng có thể sẽ thiết lập các dây chuyền sản xuất tại
các nước phát triển có nhu cầu đang tăng nhanh và như vậy, quá trình sản xuất tại các
nước này bắt đầu hạn chế bớt tiềm năng xuất khẩu từ nước Mỹ.
Khi thị trường ở Mỹ và một số nước phát triển khác trở nên bão hoà thì sản
phẩm mới cũng đạt tới mức độ tiêu chuẩn hoá, và giá cả bắt đầu trở thành vũ khí cạnh
tranh chủ yếu trên thị trường. Khi điều này xảy ra, những cân nhắc về chi phí bắt đầu
đóng một vai trò lớn hơn trong quá trình cạnh tranh. Các nhà chế tạo tại các nước
phát triển nơi mà chi phí lao động thấp hơn so với chi phí lao động tại Mỹ (ví dụ như
Ý, Tây Ban Nha) bây giờ có thể sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Nếu các sức ép về chi phí trở nên mạnh hơn nữa thì quá trình cũng sẽ không
dừng ở đó. Chu kỳ theo đó nước Mỹ đánh mất lợi thế của mình cho các nước phát
triển khác có thể tiếp tục lặp lại một lần nữa, khi các nước đang phát triển (ví dụ như
Thái Lan) bắt đầu có được những lợi thế sản xuất so với các nước phát triển. Do vậy,
chu kỳ của sản xuất toàn cầu sẽ theo trật tự: bắt đầu từ Mỹ chuyển sang các nước phát
triển khác và tiếp đó là từ những nước này chuyển sang các nước đang phát triển.
Giai đoạn đầu Giai đoạn hai
Nước đi đầu (phát minh sản Sản xuất tại chỗ ở các nước nhập
phẩm mới) chiếm ưu thế cạnh khẩu tăng, xuất khẩu của nước đi
tranh và dẫn đầu về xuất khẩu. đầu giảm tương ứng.
Giai đoạn cuối Giai đoạn ba
Sản xuất được di chuyển đến cả
Các nước công nghiệp có chi phí
một số nước đang phát triển, nơi rẻ hơn tăng sản xuất để xuất
có chi phí thấp nhất. khẩu trở lại nước đi đầu.
Hình 1.1 Tóm tắt vòng đời của sản phẩm theo Raymond Vernon
Theo thời gian, kết quả của những xu hướng này đối với các mô hình trao đổi
của thương mại thế giới là một nước xuất khẩu sản phẩm sẽ trở thành một nước nhập
7
khẩu khi quá trình sản xuất được tập trung tới những địa điểm ở nước ngoài có chi
phí sản xuất thấp hơn. Lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon có thể
được tóm tắt trong hình 1.1.
1.1.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương của
Michael Porter
Michael Porter đã xây dựng lý thuyết về bốn thuộc tính lớn của một quốc gia
hình thành nên môi trường cạnh tranh cho các công ty tại nước đó, và những thuộc
tính này thúc đẩy hoặc ngăn cản sự tạo ra lợi thế cạnh tranh của quốc gia đó. Đây là
kết quả nghiên cứu chuyên sâu của Michael Porter và các cộng sự nhằm tìm hiểu về
sự thành công và thất bại của một số quốc gia trong thương mại quốc tế. Bốn thuộc
tính lớn trong mô hình của Michael Porter bao gồm:
- Điều kiện về các yếu tố sản xuất: Michael Porter đã phân cấp các yếu tố
sản xuất thành hai nhóm gồm các yếu tố cơ bản (ví dụ như vị trí địa lý, khí
hậu, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực) và các yếu tố tiên tiến (ví dụ như
cơ sở hạ tầng truyền thông, lao động có kỹ năng và trình độ cao, các bí quyết
công nghệ). Không giống như nhóm yếu tố cơ bản được ưu đãi một cách tự
nhiên, nhóm yếu tố tiên tiến thường được hình thành trên cơ sở các yếu tố cơ
bản thông qua các hoạt động đào tạo cơ bản và nâng cao, cải thiện trình độ
kiến thức và kỹ năng chung cũng như kích thích nghiên cứu tiên tiến. Michael
Porter cũng lập luận rằng các yếu tố tiên tiến có vai trò quan trọng hơn.
- Các điều kiện về nhu cầu: Michael Porter nhấn mạnh tới vai trò của cầu
trong nước trong việc giúp nâng cao lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Thông
thường, các công ty thường tỏ ra nhạy cảm nhất với những nhu cầu của những
khách hàng ở gần với họ nhất. Vì vậy, nhu cầu nội địa cao cấp sẽ đặt ra chuẩn
mực buộc các doanh nghiệp sáng tạo đổi mới, cải tiến chất lượng và hạ giá
thành sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh. Cũng vậy, thị trường nước ngoài
đặt ra những tiêu chuẩn cao đối với những sản phẩm và dịch vụ đòi hỏi các
công ty muốn thành công trên thị trường nước ngoài củng phải liên tục thay
đổi, cải thiện để đáp ứng những tiêu chuẩn này.
8
- Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan: Những lợi ích của việc đầu
tư vào các yếu tố sản xuất tiên tiến bởi các ngành hỗ trợ và liên quan có thể sẽ
lan tỏa sang một ngành, từ đó giúp ngành này đạt được một vị trí cạnh tranh
vững mạnh. Các mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa các ngành giúp cho các
ngành phát huy được thế mạnh kết hợp, tăng được khả năng cạnh tranh của
từng ngành trong cụm công nghiệp đó. Cụ thể là các ngành hỗ trợ có thể giúp
các công ty nhận thức được các phương pháp mới và những cơ hội mới để ứng
dụng công nghệ mới. Quá trình trao đổi thông tin sẽ diễn ra mạnh hơn giữa
chúng và các hoạt động phối hợp nghiên cứu và triển khai, phối hợp giải quyết
các vấn đề sẽ thúc đẩy các công ty gia tăng khả năng thích ứng với các cơ hội
và vấn đề. Đây là quá trình gia tăng khả năng cạnh tranh về lâu dài.
- Chiến lược, cấu trúc công ty và môi trường cạnh tranh: Chiến lược của
công ty có ảnh hưởng lâu dài đến khả năng cạnh tranh trong tương lai bởi vì
các mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức công ty trong các ngành công
nghiệp khác nhau rất lớn giữa các quốc gia. Yếu tố này liên quan đến hoạt
động đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm
và thị trường của từng công ty và cả ngành. Khả năng cạnh tranh quốc gia là
kết quả của sự kết hợp hợp lý giữa các lựa chọn này với các nguồn lực của lợi
thế cạnh tranh trong một ngành công nghiệp cụ thể. Bên cạnh đó, cạnh tranh
trong nội bộ ngành và giữa các công ty trong một nước càng gay gắt thì khả
năng cạnh tranh quốc tế của các công ty đó càng cao. Các đối thủ cạnh tranh
trong nội bộ ngành gây sức ép lẫn nhau đối với việc giảm chi phí, cải thiện
chất lượng, giá cả và sáng tạo ra các sản phẩm và các quá trình mới. Điều này
kích thích hoạt động đổi mới để vượt qua mối lo ngại bị tụt hậu trong quá trình
vượt lên phía trước.
Ngoài bốn nhóm yếu tố trên, cơ hội và vai trò của chính phủ là những yếu tố
tác động rất quan trọng đến khả năng cạnh tranh. Điều kiện về yếu tố sản xuất có thể
bị ảnh hưởng bởi các khoản trợ cấp, các chính sách đối với thị trường vốn, các chính
sách đối với giáo dục, v.v. Chính phủ có thể xác lập nhu cầu nội địa thông qua các
9
tiêu chuẩn sản phẩm nội địa hoặc bằng các quy định bắt buộc hoặc ảnh hưởng tới nhu
cầu của người mua hàng. Chính sách của chính phủ có thể tác động tới các ngành hỗ
trợ và liên quan thông qua các quy định và ảnh hưởng tới đối thủ cạnh tranh thông
qua các công cụ như quy định trên thị trường vốn, chính sách thuế, và luật chống độc
quyền. Các cơ hội thường tạo ra những thay đổi đột ngột và làm thay đổi vị thế cạnh
tranh. Các cơ hội có thể làm vô hiệu hoá các lợi thế của đối thủ cạnh tranh được hình
thành trước đó và tạo ra tiềm năng mà các công ty của một quốc gia mới có thể loại
bỏ chúng để đạt được lợi thế cạnh tranh khi có các điều kiện mới và khác trước.
Theo lý thuyết của Michael Porter, các nước nên xuất khẩu những sản phẩm
của những ngành mà tại đó cả bốn thành phần của mô hình kim cương có điều kiện
thuận lợi, và nhập khẩu trong những lĩnh vực tại đó các thành phần không có điều
kiện thuận lợi. Mô hình kim cương của Michael Porter được tóm tắt trong hình 1.2.
Chính phủ
Chiến lược, cấu trúc công ty và môi trường cạnh tranh
Các điều kiện về nhu cầu Điều kiện về các yếu tố sản xuất
Chính phủ
Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan
Hình 1.2 Lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương của Michael Porter
1.2. TỔNG QUAN CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP là một hiệp định thương mại
tự do bao gồm 12 thành viên là Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia,
10
Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam. Tiền thân của TPP là Hiệp
định Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPSEP hay P4) do Brunei, Chile,
New Zealand và Singapore ký kết vào năm 2005 và đi vào hiệu lực năm 2006. Đến
tháng 02 năm 2008, Mỹ chính thức tham gia vào các vòng thảo luận TPP. Sự tham
gia của Mỹ đã kéo thêm các thành viên khác tham gia là Úc, Peru và Việt Nam vào
tháng 11 năm 2008. Đến tháng 10 năm 2010, thành viên tiếp theo gia nhập là Malaysia.
Sau đó, đến tháng 10 năm 2012, Canada và Mexico chính thức gia nhập. Và đến tháng
05 năm 2013, thành viên cuối cùng là Nhật Bản đã gia nhập các vòng thảo luận. Hiệp
định TPP được ký chính thức vào tháng 02 năm 2016, dự kiến có hiệu lực vào năm
2018. Tuy nhiên đến tháng 01 năm 2017, Mỹ đã chính thức tuyên bố rút khỏi TPP,
vì vậy mà hiệp định này đã không thể có hiệu lực do không thể đáp ứng được điều
kiện cần thiết. Sau đó, vào tháng 05 năm 2017, các thành viên còn lại đã thống nhất
tiếp tục theo đuổi hiệp định mà không có Mỹ. Tháng 01 năm 2018, các nước đã ra
tuyên bố đổi tên hiệp định thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP hay TPP-11) và ký kết chính thức vào tháng 03 năm 2018. Sau
khi Úc phê chuẩn CPTPP vào ngày 31 tháng 10 năm 2018, CPTPP chính thức có hiệu
lực bắt đầu từ ngày 30 tháng 12 năm 2018 theo như điều kiện trong hiệp định. Tính
đến hết 2018, đã có 7 thành viên phê chuẩn CPTPP theo thứ tự là Mexico, Nhật Bản,
Singapore, New Zealand, Canada, Úc và Việt Nam (Việt Nam chính thức phê duyệt
CPTPP vào ngày 15 tháng 11 năm 2018). Cơ quan lưu chiểu được chỉ định là Chính
phủ New Zealand. Ngày hiệp định chính thức đi vào hiệu lực đối với Việt Nam là
ngày 14 tháng 01 năm 2019.
Một số nội dung chính trong TPP/CPTPP
Sau khi TPP không thể đi vào hiệu lực, CPTPP tiếp nối hầu như toàn bộ các
cam kết của TPP ngoại trừ các cam kết riêng của Mỹ hoặc với Mỹ, tạm hoãn một số
cam kết trong các chương, và sửa đổi/điều chỉnh một số thư song phương giữa các
thành viên.
Tất cả các hiệp định song phương giữa các thành viên và các hiệp định khu
vực đang đàm phán sẽ có hiệu lực song song với CPTPP, kể cả WTO.
11
Các thành viên đã cam kết xoá bỏ thuế quan cho Việt Nam ngay sau khi Hiệp
định có hiệu lực đối với 78% đến 95% số dòng thuế, và 97% đến 100% số dòng thuế
khi đến cuối lộ trình. Lộ trình xoá bỏ thuế là 5 đến 10 năm cho hàng hoá thông thường,
trên 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan cho hàng hoá nhạy cảm.
Về phía mình, Việt Nam đưa ra biểu thuế ưu đãi áp dụng chung cho các thành
viên khác, cam kết loại bỏ 65.8% số dòng thuế ngay khi CPTPP có hiệu lực, 86.5%
số dòng thuế vào năm thứ 4, 97.8% vào năm thứ 11, phần còn lại có lộ trình tối đa
vào năm thứ 16 hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan.
Đối với một số sản phẩm đặc thù như tạm nhập tái xuất, sản phẩm CNTT, tài
nguyên thiên nhiên, nông sản, có các cam kết về không đánh thuế xuất nhập khẩu,
tuy nhiên các thành viên vẫn có quyền bảo lưu đối với các trường hợp cụ thể. Các
thành viên cũng không được ban hành hoặc duy trì các biện pháp cấm xuất nhập khẩu
trừ khi có cam kết hoặc ngoại lệ, và phải chấp hành nghiêm túc nguyên tắc không
phân biệt đối xử đối với các thành viên khác.
CPTPP xem hàng hoá là có xuất xứ CPTPP khi: (a) có xuất xứ thuần tuý, (b)
được sản xuất toàn bộ trong CPTPP và chỉ từ nguyên liệu có xuất xứ CPTPP hoặc,
(c) hàng hoá được sản xuất tại CPTPP, sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ CPTPP
nhưng đáp ứng được các quy tắc xuất xứ cụ thể. Có 3 phương pháp xác định xuất xứ
là: (i) quy tắc chuyển đổi mã hàng hoá (CTC), (ii) quy tắc hàm lượng giá trị nội khối
(RVC) và (iii) quy tắc công đoạn chế biến. Lưu ý là có thể kết hợp các phương pháp
khi xác định cho từng loại hàng hoá. Một số trường hợp được miễn chứng nhận xuất
xứ khi có giá trị hải quan không quá $1,000 hoặc thuộc diện xuất khẩu nhiều lần cùng
một loại hàng hoá.
CPTPP có một chương riêng dành cho Dệt may do đây là ngành quan trọng
đối với một số thành viên. Quy tắc xuất xứ chủ đạo là “yarn-forward” (“từ sợi trở
đi”). Đồng thời có một khái niệm quan trọng là Tỷ lệ tối thiểu (De minimis) quy định
khối lượng các nguyên liệu không đáp ứng xuất xứ CPTPP không được quá 10% tổng
khối lượng sản phẩm. Tuy nhiên, cũng có các ngoại lệ linh hoạt trong một số trường
hợp, cũng như danh mục một mặt hàng thuộc nguồn cung thiếu hụt tạm thời hoặc
vĩnh viễn vẫn sẽ được coi là đáp ứng quy tắc xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan.
12
Về vấn đề đầu tư, CPTPP có quy định khá rõ ràng về các nguyên tắc đầu tư,
bao gồm: (i) các nguyên tắc về mở của thị trường và xoá bỏ rào cản đầu tư (gồm các
nguyên tắc về không phân biệt đối xử NT và MFN, nguyên tắc liên quan tới “Các yêu
cầu về hoạt động”, và nguyên tắc liên quan tới “Nhân sự quản lý cao cấp và Ban lãnh
đạo”), (ii) nhóm các nguyên tắc nhằm đảm bảo các quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư
(gồm nguyên tắc chuẩn đối xử tối thiểu MST, nguyên tắc bảo vệ tài sản của nhà đầu
tư trước các biện pháp tịch thu, cưỡng chế, quốc hữu hoá, và nguyên tắc đảm bảo việc
chuyển vốn tự do), và (iii) các bảo lưu và ngoại lệ được CPTPP thừa nhận trong đối
xử với nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, CPTPP còn có một phần riêng quy định rất
chi tiết về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư (ISDS).
Đối với DNNN, các nguyên tắc áp dụng chung gồm: (a) phải hoạt động dựa
trên tính toán thương mại thuần tuý, (b) không được phân biệt đối xử khi mua bán
hàng hoá, dịch vụ và, (c) phải tuân thủ các nghĩa vụ của hiệp định khi được nhà nước
uỷ quyền. Hơn nữa, CPTPP cũng đề ra những nguyên tắc dành cho nhà nước khi quản
lý và kiểm soát DNNN gồm: (a) không hỗ trợ phi thương mại riêng đến mức gây ra
tác động tiêu cực đến lợi ích của thành viên khác, (b) cơ quan nhà nước phải hành xử
khách quan trong quản lý và điều hành, (c) toà án nội địa phải xử lý các khiếu kiện
với DNNN nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ của mình và, (d) minh bạch hoá các
thông tin cơ bản về DNNN.
Về vấn đề sở hữu trí tuệ, CPTPP đã đưa ra những cam kết cụ thể về tiêu chuẩn
bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ cho nhãn hiệu thương mại (trade mark), chỉ dẫn địa
lý, sáng chế, quyền tác giả và kiểu dáng công nghiệp. Song song đó, có cam kết về
sở hữu trí tuệ cho một số sản phẩm đặc thù như nông hoá phẩm và dược phẩm. Bên
cạnh đó, CPTPP cũng đặt ra các yêu cầu chi tiết về các nguyên tắc và thủ tục thực thi
quyền sở hữu trí tuệ, quy định rõ về các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và các
biện pháp xử lý hình sự tương ứng.
Đối với một số lĩnh vực như quản lý hải quan, phòng vệ thương mại, an toàn
thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
(TBT), nhập cảnh tạm thời, lao động, mội trường, minh bạch hoá và chống tham
13
nhũng, giải quyết tranh chấp, CPTPP khẳng định lại các nguyên tắc trong các hiệp
định của WTO, các công ước của Liên Hợp Quốc và của các tổ chức có liên quan.
Tuy nhiên, CPTPP cũng có đưa ra thêm một số quy định chi tiết và chặt chẽ hơn.
Đối với các lĩnh vực thương mại dịch vụ xuyên biên giới, dịch vụ tài chính,
thương mại điện tử, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh, CPTPP xây dựng các
quy định và cam kết dựa trên các nguyên tắc chung như Đối xử quốc gia (NT), Đối
xử tối huệ quốc (MFN), công bằng và minh bạch, mở cửa thị trường, bảo vệ người
tiêu dùng, chia sẻ thông tin.
Ngoài ra, CPTPP cũng sẽ thành lập và vận hành một số uỷ ban chuyên môn
như uỷ ban về môi trường, uỷ ban về DNNVV như những đầu mối để xúc tiến hợp
tác giữa các thành viên.
Một số điểm đáng chú ý trong TPP/CPTPP
Chứng nhận xuất xứ theo CPTPP không có mẫu cố định, tuy nhiên cần phải
có đầy đủ thông tin theo quy định, có thể theo dạng văn bản hoặc điện tử. Chứng nhận
còn cho phép người nhập khẩu, người xuất khẩu hay người sản xuất đều có thể tự
chứng nhận, khác với nhiều FTA khác.
Trong lĩnh vực thương mại điện tử, có các cam kết không yêu cầu đặt hệ thống
máy chủ ở nước sở tại thì mới được hoạt động, và cam kết cho phép truyền thông tin
qua biên giới bằng phương tiện điện tử.
Đối với mua sắm chính phủ, hình thức chỉ định thầu chỉ được áp dụng trong
rất ít các trường hợp theo quy định, và mỗi trường hợp đều đi kèm các điều kiện rất
chi tiết và cụ thể.
Việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin DNNN được xem như một bước
tiến lớn về minh bạch hoá vì hiện nay thông tin này ở Việt Nam không được công bố.
Các DNNVV được CPTPP quan tâm nhằm giúp nhóm này có thể tiếp cận
được thông tin và tận dụng tốt các lợi ích từ CPTPP. Cam kết về DNNVV cũng nằm
rải rác trong nhiều chương.
Cơ chế đảm bảo thực thi trong CPTPP đa dạng và chặt chẽ hơn so với WTO,
giúp các thành viên tăng khả năng giám sát việc thực thi của các thành viên khác,
đồng thời cũng đặt mỗi thành viên dưới áp lực phải thực thi đúng theo CPTPP.
14
Những cơ hội từ Hiệp định TPP/CPTPP
Thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp.
Do hiệp định đưa ra các tiêu chuẩn cao về mặt thể chế cũng như khuôn khổ pháp luật,
từ đó sẽ thúc đẩy thực hiện cải cách về thể chế, hướng đến các luật lệ quốc tế. Ngoài
ra, Việt Nam còn có thể học tập, trao đổi kinh nghiệm để hoàn thiện hệ thống pháp
luật cũng như quản lý và điều hành nền kinh tế.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó tạo ra cơ hội cải
thiện sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân, và mở rộng các ngành nghề,
lĩnh vực có nhu cầu phát triển.
Tạo cơ hội kinh doanh mới và mở rộng thị trường cho doanh nghiệp Việt Nam,
đặc biệt là các ngành Việt Nam có lợi thế như dệt may, da giày và thuỷ sản.
Những thách thức đến từ Hiệp định TPP/CPTPP
Áp lực từ việc điều chỉnh, sửa đổi các quy định pháp luật để thực thi các cam
kết trong hiệp định. Việt Nam cần phải phát triển hệ thống pháp luật lên tương xứng
với các bên khác.
Hàng hoá của Việt Nam sẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt từ sản phẩm của các
nước khác, đặc biệt là các sản phẩm công nghệ cao và các sản phẩm mà Việt Nam
chưa xây dựng được hàng rào kỹ thuật hoặc đã có nhưng không cao.
Hiệp định còn đòi hỏi phải mở cửa thị trường ngân hàng và gây áp lực lên thu
ngân sách do yêu cầu phải cắt giảm thuế nhập khẩu.
Các DNNN sẽ đứng trước yêu cầu phải tái cơ cấu để hoạt động hiệu quả và
minh bạch hơn. Cả thị trường mua sắm công cũng sẽ phải mở cửa, từ đó đặt ra yêu
cầu doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh sòng phẳng và làm ăn chân chính.
Chính phủ cũng sẽ phải đối xử công bằng, tạo sân chơi bình đẳng cho cả các
loại hình doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp nước ngoài.
1.3. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN HIỆP ĐỊNH TPP
Trans-Pacific Partnership or Trampling Poor Partners? A Tentative
Critical Review (Tạm dịch: Đối tác xuyên Thái Bình Dương hay Giày xéo các
Đối tác nghèo? Một bài phê bình thăm dò).
Tác giả: Raj Bhala, xuất bản năm 2014, xếp hạng Q4.
15
Bài nghiên cứu chủ yếu phân tích, đánh giá những điểm đang được thảo luận
trong TPP dựa trên góc nhìn của nước Mỹ. Do vấn đề đàm phán TPP được bảo mật
và không công khai nên bài nghiên cứu chỉ đưa ra những đánh giá mang tính thăm dò
và dựa trên một số ít tài liệu được công bố cũng như một vài nghiên cứu trước đó.
Bài nghiên cứu mở đầu bằng việc giới thiệu về TPP, hiệp định thương mại thế
hệ mới gồm 29 chương và Phụ lục, bao gồm những vấn đề về cắt giảm thuế và hàng
rào phi thuế quan, chứng nhận xuất xứ, thương mại điện tử, sở hữu trí tuệ, mua sắm
công, môi trường, lao động, v.v. Bài nghiên cứu tập trung vào hai vấn đề: một là TPP
không phải một hiệp định “tự do” đơn thuần mà là “được quản lý”; hai là việc TPP
tạo ra tăng trưởng kinh tế để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo là chưa rõ ràng.
Có 5 trụ cột chính trong TPP, bao gồm: tiếp cận thị trường (mọi lĩnh vực đều
được bao quát trừ những trường hợp được miễn, tuy nhiên mỗi thành viên đều có những
lĩnh vực nhạy cảm mà họ muốn bảo vệ); tính khu vực (nhấn mạnh tính khu vực của
TPP, không phải song phương hay đa phương); xuyên biên giới (những vấn đề về rào
cản phi thương mại, cũng như tăng cường hợp tác xuyên biên giới); tính mới lạ (một
số lĩnh vực mới như thương mại điện tử, phát triển xanh, sở hữu trí tuệ được đặt ra với
những tiêu chuẩn cao); và tính sống (hiệp định sẽ được cập nhật khi cần thiết).
Hiệp định TPP được mở rộng từ một hiệp định ban đầu chỉ có 4 thành viên,
sau đó số thành viên tăng lên 9, và sau cùng là lên 12. Đã có khoảng 20 vòng đàm
phán tính đến hết năm 2013. Việc Nhật Bản tham gia gây khá nhiều tranh cãi do nước
này đang có nhiều khúc mắc với Mỹ trong việc thoả thuận một hiệp định song phương
giữa hai bên. Ấn Độ đã không tham gia vì họ không muốn trở thành một “cấu trúc
kinh tế mới” của Mỹ, và vì họ chưa sẵn sàng để đáp ứng các tiêu chuẩn mức độ cao
của TPP. Đài Loan cũng đã không tham gia do nhiều nước đề với Trung Quốc. Kết
nạp Đài Loan mà loại bỏ Trung Quốc được coi là một hành động không chấp nhận
được đối với Đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Có bốn động lực của Mỹ khi tham gia TPP: tự do hoá cạnh tranh, tiêu chuẩn
cao và toàn diện (do một số thành viên chưa có hiệp định song phương với Mỹ nên
điều này được cho là cần thiết, tuy nhiên ngay cả một số thành viên đã có FTA với
16
Mỹ thì họ vẫn có một số lĩnh vực nhạy cảm, điều này dẫn đến câu hỏi liệu TPP có
thực sự mở rộng khả năng tiếp cận thị trường mà không cần thoả hiệp), giành lấy ảnh
hưởng chiến lược tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương để đối trọng với Trung
Quốc, và để giảm bớt các chỉ trích rằng Mỹ có chính sách thương mại “không làm gì
cả” (“do-nothing” trade policy) khi tham gia vào các vòng đàm phán TPP.
Bài nghiên cứu nhấn mạnh về việc Mỹ xem TPP như một cách thức để ngăn
chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc thông qua việc không có Trung Quốc trong TPP, và
đặt ra các tiêu chuẩn ở mức độ cao để khiến Trung Quốc phải chấp nhận mà không
được đàm phán.
Tuy nhiên, sự minh bạch của TPP trở thành một vấn đề đối với nhiều bên khi
các thành viên theo đuổi phương thức bảo mật và công khai một lần, hiểu nôm na là
“không có gì được quyết định cho đến khi mọi thứ đều được quyết định” và chỉ công
khai sau khi đã quyết định hết mọi vấn đề. Điều này dẫn đến việc nhiều tổ chức, chính
thể không có cơ hội tham gia góp ý.
Đối với các FTA hiện hữu, TPP được xem như một phương tiện để nâng cấp
các hiệp định khác.
Có thể thấy, nếu Việt Nam trở thành một thành viên của TPP thì sẽ được tiếp
cận với một khối thị trường rộng lớn, với các thành viên mà trước đó Việt Nam chưa
hề có hiệp định song phương như Canada, Chile và lớn nhất là Mỹ. Đồng thời, Việt
Nam còn có khả năng xây dựng các động lực tăng trưởng mới như thương mại điện
tử, dịch vụ tài chính xuyên biên giới. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức không nhỏ
khi Việt Nam tham gia hiệp định này. Mặc dù vậy, khó có thể phủ nhận khả năng
Việt Nam là một công cụ trong chính sách cô lập Trung Quốc của Mỹ.
The Trans Pacific Partnership (TPP)
Tác giả: V.S. Seshadri, xuất bản năm 2013, xếp hạng Q4
Bài viết dựa trên góc nhìn của một nhà nghiên cứu người Ấn Độ về các vấn
đề đang trong giai đoạn đàm phán của TPP, và những hàm ý dành cho Ấn Độ.
Bài nghiên cứu mở đầu bằng việc giới thiệu chung về TPP, được xem như là
“hiệp định của thế kỷ XXI với tiêu chuẩn cao”. Mỹ đóng một vai trò dẫn dắt trong
17
việc đàm phán TPP do hiệp định đáp ứng được rất nhiều mối quan tâm của nước này,
từ việc tự do hoá thương mại cho đến mong muốn nâng cao các tiêu chuẩn về công
nghệ, dịch vụ và đầu tư. Trước đó Mỹ đã từng đưa ra nhiều tiêu chuẩn cao trong
FTAA, tuy nhiên lại bị phản đối bởi một số nước như Brazil. Đúng lúc thì Mỹ đã
nhận ra hiệp định P-4 có các tiêu chuẩn rất phù hợp với mong muốn của mình, và đã
tham gia đàm phán. TPP cũng được cho là sẽ giúp Mỹ cạnh tranh hiệu quả hơn với
một số thị trường lớn như Trung Quốc, Ấn Độ hay Indonesia, đồng thời cũng giúp
Mỹ cân bằng sức mạnh chính trị của mình tại khu vực châu Á nhằm mục tiêu ngăn
chặn sự ảnh hưởng đang gia tăng của Trung Quốc.
TPP được cho là một bước đi khá tham vọng, bao gồm nhiều nền kinh tế từ
phát triển, mới nổi và cả đang phát triển. Các nước thành viên không chỉ xây dựng
khung pháp lý cho những vấn đề truyền thống như tiếp cận thị trường, quy định
thương mại, mà còn phải bao hàm các vấn đề mới như sở hữu trí tuệ, lao động, môi
trường, đồng thời còn phải đảm bảo môi trường đầu tư và kinh doanh cạnh tranh.
Một số nước cũng được trông chờ sẽ tham gia TPP như Hàn Quốc hoặc Thái
Lan. Tuy nhiên, tâm điểm lại là Trung Quốc khi mà TPP sẽ tạo ra nhiều ảnh hưởng
đến nước này. Dẫu vậy, Mỹ được cho là sẽ không chấp nhận cho Trung Quốc tham
gia, khi mà nước này đang cáo buộc phía bên kia có những động thái thao túng tiền
tệ, bảo trợ sản phẩm nội địa hay thiếu sự minh bạch. Trung Quốc cũng đưa ra tuyên
bố là đang tìm hiểu về hiệp định. Một số ý kiến cho rằng Trung Quốc sẽ chờ xem
những ảnh hưởng tác động đến Việt Nam, nước có nền kinh tế hoạch định từ trung
ương giống Trung Quốc.
Những hàm ý dành cho Ấn Độ: (a) không nhất thiết phải tham gia ngay do
chưa thể đáp ứng được các tiêu chuẩn cao như vậy; (b) chưa có lời mời nào dành cho
Ấn Độ; (c) nếu TPP đi vào hiệu lực, thị phần của Ấn Độ trong các nước TPP sẽ sụt
giảm; (d) đầu tư vào các nước TPP như Việt Nam hay Malaysia sẽ gia tăng thay vì
Ấn Độ; (e) nếu môi trường kinh doanh của các nước TPP trở nên tốt hơn thì các doanh
nghiệp Ấn Độ tại đây cũng được hưởng lợi, nhưng sẽ có nguy cơ ngay cả họ cũng sẽ
đầu tư vào đây thay vì nước nhà; (f) nếu các rào cản về nông nghiệp được giảm xuống
18
thì sẽ có tác động tốt đến việc kinh doanh trong lĩnh vực này; (g) nếu TPP thành công,
Mỹ sẽ đem khuôn mẫu này áp dụng lên vòng đàm phán Doha; (h) điều trên sẽ ảnh
hưởng đến việc hình thành RCEP, cần hợp tác chặt chẽ với Indonesia, Trung Quốc,
Philippines và Thái Lan, các nước có các quan điểm tương đồng; (i) nên trở thành
một thành viên của APEC.
Ngay cả Ấn Độ cũng đánh giá Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều hơn họ nếu
tham gia vào Hiệp định TPP. Một điểm tương đồng có thể thấy giữa hai quốc gia
chính là nền kinh tế còn phát triển ở mức độ thấp, cho thấy lo lắng của Ấn Độ về khả
năng đáp ứng các tiêu chuẩn cũng có thể đúng khi áp dụng vào Việt Nam. Tuy nhiên,
nếu Việt Nam chấp nhận tự thay đổi bản thân thì hiệp định này có thể tạo tiền đề cho
một bước phát triển nhanh cho nền kinh tế.
Trade Implications of the Trans-Pacific Partnership for ASEAN and
Other Asian Countries (Tạm dịch: Hàm ý thương mại của TPP đối với ASEAN
và các nước châu Á khác)
Tác giả: Alan V. Deardorff, xuất bản năm 2014, xếp hạng Q3
Bài nghiên cứu đánh giá tác động của TPP đến thương mại của các nước thành
viên TPP và một số nước trong khu vực châu Á, dựa trên các dữ liệu về trao đổi
thương mại từ WTO và các hiệp định FTA.
Bài nghiên cứu mở đầu bằng việc giới thiệu chung về TPP như một hiệp định
“đỉnh cao, thế hệ mới của thế kỷ XXI”. Điều khiến tác giả thích thú là vì có hai nền
kinh tế lớn tham gia TPP, đó là Mỹ và Nhật. Tác giả muốn đánh giá xem liệu TPP có
ảnh hưởng chồng lấn lên các FTA hiện tại của các thành viên như thế nào.
Phần một giới thiệu chung về các FTA đang hiện hành của các thành viên TPP,
trong đó có các FTA song phương và cả đa phương như hiệp định chung của 10 nước
ASEAN (AFTA). Tác giả đã chỉ ra rằng các FTA thông thường chỉ đơn thuần là xoá
bỏ thuế quan, còn các vấn đề khác vẫn chỉ ở mức tương đối. Trong khi đó, TPP được
cho là sẽ thảo luận sâu sắc hơn, chi tiết hơn về cả những vấn đề phi thương mại như
sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, lao động và môi trường, dịch vụ, đầu tư. Tác
giả có liệt kê ra những vấn đề sẽ được thảo luận trong TPP, đa phần là những yêu cầu
19
từ phía Mỹ. Một biểu đồ cho thấy quy mô GDP của các thành viên trong TPP chiếm
hơn một nửa tổng số GDP của chúng cộng với một số nước châu Á khác.
Trong phần hai, tác giả có thống kê các FTA đã được ký giữa các nước thuộc
TPP và châu Á. Tác giả đã nhận thấy rằng mức độ ký kết FTA giữa các nước là khá
cao, 40 FTA trên 66 cặp quốc gia. Với bốn nước vừa thuộc ASEAN vừa thuộc TPP
là Brunei, Malaysia, Singapore và Việt Nam thì mức độ ký kết hiệp định với 8 thành
viên còn lại cũng là hơn một nửa. Đáng chú ý, Singapore là nước duy nhất trong 4
nước này có hiệp định với Mỹ. Các nước còn lại trong khối ASEAN cũng có FTA
chung với Úc, Nhật và New Zealand. Ngoài ra thì khối ASEAN còn có hiệp định với
một số nền kinh tế lớn trong châu Á là Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc.
Phần ba là phân tích tác động của TPP, được mở đầu bằng việc dựa trên khái
niệm về sự hình thành thương mại (trade creation) và suy giảm thương mại (trade
diversion) của Viner (1950). Theo lý thuyết của Viner thì hai nước ký FTA sẽ chịu
tổn thất do hiệu ứng suy giảm thương mại vì thất thu thuế. Tuy nhiên, để áp dụng lên
TPP thì tác giả đã chỉ ra hai thiếu sót trong lý thuyết của Viner, đó là sự giảm ưu tiên
(preference erosion) và sự đảo ngược thương mại (trade reversion). Tác giả đã làm
thêm hai bảng chi tiết về thị trường xuất nhập khẩu lớn của các nước nêu trong phần
hai, sau đó sử dụng mô hình CGE và các thông tin giao dịch thương mại giữa các
nước từ WTO để đưa ra kết quả được/mất của các nước tác động bời TPP, có thể
được tóm tắt như sau:
- Úc sẽ được hưởng lợi từ TPP.
- Canada, Chile, New Zealand: tuỳ thuộc vào mức độ cân bằng giữa được
và mất.
- Mexico, Peru: TPP không có tác động đáng kể đến hai quốc gia này.
- Nhật: tác động của TPP tương tự FTA với Mỹ nếu có trong tương lai.
- Mỹ: tác động của TPP cũng là không rõ ràng.
- Brunei, Malaysia, Việt Nam: sẽ được hưởng lợi do có hiệp định với Mỹ,
riêng Việt Nam tác động sẽ ít hơn do Việt Nam không nhập nhiều hàng từ Mỹ
như hai nước còn lại.
20
- Các nước còn lại trong ASEAN: trừ Myanmar thì còn lại sẽ chịu bất lợi
gây ra do TPP.
- Một số nước khác trong khu vực châu Á: đa số sẽ đều chịu thiệt hại do TPP
gây ra, riêng Ấn Độ và Hàn Quốc thì sẽ ít nghiêm trọng hơn. Trường hợp tồi
tệ nhất chính là Trung Quốc, nước này được cho là sẽ trở thành kẻ thua cuộc
lớn nhất.
Regionalism in Asia as Disguised Multilateralism: A Critical Analysis of
the East Asia Summit and the Trans-Pacific Partnership (Tạm dịch: Chủ nghĩa
khu vực dưới lớp nguỵ trang Chủ nghĩa đa phương: Một bài phân tích về Hội
nghị Thượng đỉnh Đông Á và TPP)
Tác giả: David Camroux, xuất bản năm 2012, xếp hạng Q2
Bài viết đưa ra cách nhìn của tác giả về khái niệm “khu vực” hay “cộng đồng”
được che dấu dưới những thay đổi hướng tới chủ nghĩa đa phương, thông qua hai đề
án trong khu vực châu Á là Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và TPP.
Mở đầu, tác giả nhắc lại về hiện trạng của châu Á trong thế kỷ XIX, khi mà
chủ nghĩa đế quốc còn đang tung hoành, thì khái niệm châu Á được cho là xoay quanh
mối quan hệ Trung – Ấn. Tuy nhiên, sau khi Ấn Độ giành độc lập thì họ chỉ tập trung
vào phát triển trong nước, mãi cho đến thập niên 90, Ấn Độ mới bắt đầu thực hiện
chính sách “Hướng Đông”. Lúc này, Ấn Độ được cho là đã bắt đầu gia nhập vào sự
phát triển của châu Á. Việc định nghĩa châu Á còn được so sánh với EU đã được thể
chế hoá. Tuy nhiên, các nhà học giả đã khá dè dặt khi đưa ra ý kiến về sự hội nhập
nội khu vực châu Á. Tác giả muốn trả lời cho câu hỏi việc hội nhập nội khu vực châu
Á là hợp tác nội khu vực và xây dựng cộng đồng chung, hay là dưới dạng chủ nghĩa
song phương và chủ nghĩa đa phương, thông qua việc phân tích EAS và TPP. Cả hai
đề án này đều chưa có hiệu lực thực tế, nhưng có khả năng trở thành nhân tố mới
trong việc chi phối toàn cầu.
Một số định nghĩa về chủ nghĩa đa phương đã được nhắc đến, chẳng hạn như
“một thể chế chung” theo John Ruggie, khi các bên đều hoạt động dựa trên các
nguyên tắc đã được thống nhất hoá. Tuy nhiên, định nghĩa này đã không cân nhắc
21
đến vai trò của các tổ chức phi chính quyền, cũng như đã đặt điều kiện tiên quyết cho
sự tồn tại của các cơ quan điều hành. Vì vậy, bài nghiên cứu này dựa trên định nghĩa
của Bouchard và Peterson, rằng chủ nghĩa đa phương là “ba hoặc nhiều hơn các bên
tham gia tự nguyện hợp tác quốc tế bằng các quy chuẩn và nguyên tắc, với luật lệ áp
dụng bình đẳng cho mọi nước”. Ngoài ra, James Caporaso cho rằng chủ nghĩa đa
phương là một tổng thể các chủ nghĩa song phương, điều này khá đúng với đa số các
FTA trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương hiện nay. Tuy nhiên, cách hiểu về chủ
nghĩa đa phương cũng sẽ thay đổi theo thời gian và tuỳ thuộc vào cách nhìn nhận của
từng người, mà nó sẽ là tích cực hay tiêu cực.
Khác với ASEAN có tổng thư ký riêng, EAS không có tổng thư ký hay cơ
quan thể chế. Các cuộc gặp trong EAS thường đi kèm trong các hội nghị ASEAN,
ASEAN+3 (Trung, Hàn, Nhật) cũng như các cuộc gặp song phương với Mỹ. Sau này,
các hội nghị đã mời thêm Ấn Độ, Úc và New Zealand, và còn dự tính sẽ thêm Nga.
Do sự đối đầu trong mối quan hệ Trung-Nhật mà ASEAN được chọn là điều phối
viên. Tuy nhiên, trong nội bộ ASEAN cũng có sự chia rẽ trong việc mở rộng
ASEAN+3. Việc phê chuẩn thêm hai thành viên mới cho EAS là Mỹ và Nga vào năm
2010 được cho là bước ngoặt trong mối quan hệ châu Á – Thái Bình Dương. Tuy
nhiên, điều này không hẳn là được đồng thuận giữa các bên. Trong khi phía Úc ủng
hộ cho sự tham dự của Mỹ thì phía Nhật lại tỏ ra khá nước đôi về việc này. Điều này
được cho là ảnh hưởng của Trung Quốc khi nước này tham gia rất nhiều diễn đàn đa
phương. Trung Quốc đã trở thành một thế lực lớn, bằng chứng chính là trong cuộc
khủng hoảng tài chính, nước này đã trở thành cứu cánh cuối cùng cho Mỹ và châu
Âu. Tuy nhiên, sự mở rộng quân sự của Trung Quốc đã gây ra tâm lý e ngại trong
khu vực. Vì vậy, phía Mỹ đã nêu rõ quan điểm và tái khẳng định về sự hiện diện của
nước này trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, như một bên không thể thiếu. Ở
đây, nước Nhật được cho là điểm mấu chốt khi xét về mối quan hệ Mỹ – Trung. Hơn
nữa, sau cuộc khủng hoảng kinh tế và thảm hoạ sóng thần, Nhật Bản càng theo đuổi
chiến lược quốc tế hoá khu vực, để nâng cao vai trò của mình trên toàn cầu.
Sau các cuộc khủng hoảng, các nhà điều hành đã đặt ra câu hỏi về sự phụ thuộc
vào xuất khẩu và việc xây dựng nền kinh tế nội địa. Đồng thời, một số lượng lớn FTA
22
đã hình thành trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Khởi đầu từ hiệp định P-4,
TPP đã được đề xuất, đánh dấu sự phát triển của FTA trong khu vực châu Á – Thái
Bình Dương. Đây được cho là sáng kiến thương mại quan trọng nhất của Mỹ ở châu
Á trong vài năm trở lại. John Ravenhill đã chỉ ra 4 đặc điểm riêng biệt của TPP: liên
khu vực (châu Á – Thái Bình Dương); sự trở lại châu Á mang tính chính trị của Mỹ;
nỗ lực xoay sở các chính sách khu vực; tìm cách đạt được mục tiêu của APEC là
thương mại tự do giữa các thành viên; và dưới góc nhìn của bài nghiên cứu, TPP tìm
cách “đa phương hoá chủ nghĩa khu vực” bằng việc cho phép gia nhập trong tương
lai. Tuy nhiên, phía Nhật lại không mặn mà lắm với việc tham gia TPP do sự chia rẽ
trong nội bộ giữa mối quan hệ với Mỹ. Dẫu vậy, Nhật đã đồng ý tham gia đàm phán
sau đó, với suy nghĩ TPP có thể là công cụ để cạnh tranh với Trung Quốc. Đối với
Trung Quốc, nước này xem TPP như một chiến lược bao vây mình.
Tóm lại, khái niệm về khu vực châu Á vẫn còn khá mù mờ. Nhiều mô hình đã
được nhắc đến trong việc hội nhập trong khu vực châu Á như EAS hay TPP, cái mà
được Mỹ ủng hộ. Và dù có là mô hình nào thì thì ASEAN vẫn ở trung tâm. Bài nghiên
cứu đã nhận định sự hội nhập trong khu vực bản chất không phải là mục tiêu, mà là
để che giấu cho sự hợp tác và đa phương trong khu vực châu Á (và châu Á – Thái
Bình Dương). Nếu “chủ nghĩa khu vực” là một khái niệm sai lầm để đánh giá các mối
quan hệ quốc tế trong châu Á thì nó vẫn còn những lợi ích khác. Theo Arnold Wolfers,
đó có thể là những mục tiêu như giành lấy khả năng tiếp cận thị trường, bảo vệ chủ
quyền, kìm hãm Trung Quốc, v.v. Tuy nhiên, Amy Searight lại cho rằng đây là cách
Mỹ hình thành nên quy trình và nhận thức. Có thể nói chủ nghĩa khu vực đang tìm
cách xây dựng các chuẩn mực về hành xử đa phương trong khu vực.
Multilateralising regionalism: what role for the Trans-Pacific
Partnership Agreement? (Tạm dịch: Đa phương hoá chủ nghĩa khu vực: vai trò
nào cho Hiệp định TPP?)
Tác giả: Ann Capling và John Ravenhill, xuất bản năm 2011, xếp hạng Q1
Bài nghiên cứu phân tích những đặc điểm của TPP mà có thể giải quyết được
hiệu ứng “noodle bowl” trong khi cả WTO hay APEC đều không cho thấy hiệu quả.
23
Đồng thời, TPP cũng được kỳ vọng sẽ một bước ngoặt lớn trong việc tự do hoá thương
mại trên cơ sở không phân biệt.
Mở đầu, bài nghiên cứu nêu lên thực trạng gia tăng nhanh chóng số lượng hiệp
định mại trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Các hiệp định này cũng rất khác
nhau về hình thức, phạm vi và mục đích. Kết quả của sự bùng nổ này là một mạng
lưới dày đặc và phức tạp các luật lệ thương mại, thậm chí đôi chỗ mâu thuẫn với nhau.
Giữa lúc đó, TPP được đề xuất với mục tiêu trở thành một hiệp định toàn diện, chất
lượng cao, đa phương để giải quyết tình trạng rối rắm trong các hiệp định thương mại
hiện tại, đồng thời đạt đến mục đích của WTO và APEC trong tự do hoá thương mại.
TPP bắt nguồn từ hiệp định P-4 giữa Brunei, Chile, New Zealand và Singapore.
Xét theo mức độ ảnh hưởng về kinh tế thì P-4 là rất nhỏ, tuy nhiên hiệp định này đã
được Mỹ để ý do có nhiều điều khoản chất lượng cao, đúng với mục tiêu theo đuổi
của Mỹ. Sau khi Mỹ công khai ý định tham gia, Úc, Peru và Việt Nam cũng đã nhanh
chân bước theo. TPP được đánh giá là khác biệt hẳn so với phần còn lại trong khu
vực châu Á – Thái Bình Dương do 4 lý do: liên khu vực; đánh dấu sự cam kết của
Mỹ tại khu vực này; là hiệp định kiểu mới vượt qua khỏi khuôn khổ thông thường;
và được kỳ vọng sẽ “đa phương hoá chủ nghĩa khu vực”, giải quyết hiện tượng
“noodle bowl” và đáp ứng mục tiêu dài hạn của APEC về thương mại tự do.
Mục tiêu chính trị của TPP được cho là việc giữ lại sự hiện diện của Mỹ tại
châu Á. Điều này phù hợp với mục tiêu chung trong các hiệp định thương mại mà
Mỹ có mặt (là vì mục tiêu đối ngoại và an ninh hơn là thương mại), đồng thời cũng
khẳng định quyết tâm “quay lại châu Á” của chính phủ Mỹ đương thời. Hơn thế nữa,
điều này cũng được coi như là công cụ để kềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc trong
khu vực. Mục tiêu kinh tế đầu tiên của TPP là hình thành một hiệp định kiểu mới của
thế kỷ XXI. Một mục tiêu kinh tế khác của TPP là đa phương hoá chủ nghĩa khu vực.
Mặc dù được đánh giá là có nhiều tiềm năng, tuy nhiên tác động kinh tế trực tiếp từ
TPP được cho là khá hạn chế. Nguyên nhân là do các nền kinh tế tham gia đã khá mở,
quy mô nhỏ nếu không tính đến Mỹ, và phần nhiều cũng đã có hiệp định song phương
với nhau. Tuy vậy, điều quan trọng hơn so với lợi ích kinh tế ngắn hạn chính là việc
24
TPP có khả năng tháo gỡ những rắc rối trong mạng lưới hiệp định thương mại hiện
tại trong khu vực, giái quyết vấn đề “noodle bowl”, và “đa phương hoá chủ nghĩa khu
vực” bằng cách cho phép các nền kinh tế khác gia nhập.
Sự đóng góp của TPP cho công cuộc đa phương hoá bị thách thức bởi các rào
cản chính trị. Các doanh nghiệp khi gặp phải các rào cản hoặc bị cạnh tranh không
lành mạnh, họ sẽ tiến hành vận động để chính phủ thay đổi. Tuy nhiên, đối với các
chính phủ theo đuổi đa mục tiêu, thì mục đích thương mại có thể không phải là trọng
tâm. Mặc dù giao thương có thể được thực hiện ở những nhóm hàng có thuế suất
MFN bằng 0, một số nhóm hàng vẫn được áp dụng thuế MFN thay cho thuế suất
trong hiệp định song phương. Điều này chứng tỏ lý do kinh tế chính trị là nguyên
nhân đứng sau, nhằm bảo vệ thị trường trong nước.
Khác với châu Âu và Mỹ, các nước Đông Á dường như không bận tâm đến
chi phí khi gia tăng số lượng các hiệp định thương mại cũng như vấn đề “noodle
bowl”. TPP được cho là sẽ giải quyết tình trạng này. Tuy nhiên, cũng không thể chắc
chắn rằng doanh nghiệp sẽ tiến hành vận động để chống lại chủ nghĩa bảo hộ. Sự cân
bằng về kinh tế và chính trị cũng là đặc thù cho từng nước, tuỳ hoàn cảnh và giai
đoạn. Có một số bằng chứng còn cho thấy có sự gia tăng về tư tưởng bảo hộ trong
các cuộc đàm phán hiệp định thương mại, và ví dụ cụ thể nhất là ngay chính trong
nước Mỹ. Những người theo chủ nghĩa bảo hộ đã nêu ra vấn đề thâm hụt thương mại
với Trung Quốc khi nhắc đến các hiệp định thương mại với các nước đang phát triển
khác, hay muốn loại bỏ ngành sữa trong bất kỳ hiệp định thương mại với New Zealand,
hoặc loại Việt Nam ra khỏi các vòng đàm phán về ngành dệt may. Mặc dù quy mô
kinh tế Mỹ lớn hơn rất nhiều so với các thành viên còn lại, nhưng có thể thấy được
lợi ích về mặt thương mại là không nhiều, không những thế còn có thể gây hại đến
một số ngành nhạy cảm như nông nghiệp. Một lý do chính trị khác được cho là việc
TPP mở cửa cho phép các thành viên mới gia nhập, mà có khả năng là những nền
kinh tế lớn. Việc Hàn Quốc ký hiệp định với EU và Mỹ, hay Đài Loan ký hiệp định
với Trung Quốc, đã khiến Nhật Bản nhanh chóng tham gia TPP và trở thành thành
viên chủ lực, một phần là vì thảm hoạ năm 2011 và vì vấn đề nông nghiệp với Mỹ.
25
Tại thời điểm nghiên cứu của tác giả, TPP vẫn còn đang trong giai đoạn đàm
phán. Dẫu vậy nó vẫn trở thành một nhân tố chính trong chính sách hướng về châu Á
của Mỹ. Nhiều doanh nghiệp không đạt được lợi ích đáng kể từ các hiệp định hiện tại
do các xu hướng bảo hộ cũng như định hướng theo chính phủ (vì mục đích chính trị)
thay vì định hướng theo doanh nghiệp (vì mục đích thương mại). TPP được kỳ vọng
sẽ tạo ra thay đổi trên một vài khía cạnh, tuy nhiên nó sẽ không phải là một bước đột
phá thực sự nếu chỉ là tập hợp của nhiều hiệp định song phương thay vì một hiệp định
đa phương toàn diện. WTO cũng có thế mang mô hình TPP đến để bàn bạc tại vòng
đàm phán Doha. Nhưng nếu vòng đàm phán này thất bại thì TPP có thể bị xem là một
bức màn chia rẽ khu vực châu Á – Thái Bình Dương, với một bên là Mỹ và các đồng
minh, và bên còn lại là Trung Quốc.
Tóm tắt chương 1
Thương mại quốc tế vốn đã hình thành từ lâu, trải qua hình thái hàng đổi hàng
và sau này dùng tiền để làm vật ngang giá chung. Có nhiều nhà kinh tế học đã nghiên
cứu để tìm hiểu về bản chất và phương thức vận hành của thương mại quốc tế. Trải
qua một thời gian với các hiệp định thương mại đơn thuần, Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương TPP và sau này là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương CPTPP đã xuất hiện như một tiêu chuẩn mới cho thương mại quốc
tế trong thế kỷ XXI, với nhiều điều khoản mới nhằm thúc đẩy tự do thương mại một
cách mạnh mẽ hơn cùng với phát triển bền vững. Hiệp định TPP ban đầu có 12 thành
viên, sau đó Mỹ rút lui thì đã thay đổi thành CPTPP. Một số nghiên cứu về Hiệp định
TPP đã cho rằng Việt Nam sẽ là quốc gia hưởng được nhiều lợi ích nhất.
26
CHƯƠNG 2: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP ĐẾN SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
2.1. GIAI ĐOẠN 2009 – 2018
Hình 2.1 mô tả quy mô GDP và tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong
giai đoạn 2009 – 2018. Có thể thấy quy mô GDP của Việt Nam tăng đều đặn trong
giai đoạn này, từ 106.01 tỷ USD năm 2009 lên 244.95 tỷ USD vào năm 2018. Trong
vòng một thập kỷ qua, quy mô GDP của Việt Nam đã tăng lên khoảng 2.5 lần.
Hình 2.1 Quy mô GDP Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018
Tỷ USD 300
9.0%
7.5% 250
6.0% 200
4.5% 150
3.0% 100
1.5% 50
0.0% 0
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
GDP Tốc độ tăng trưởng GDP
Nguồn: Ngân Hàng Thế Giới
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn này đạt ở mức khá trên
6%. Tuy nhiên, có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng giai đoạn năm năm đầu thấp hơn
giai đoạn năm năm sau. Năm 2009, tốc độ tăng trưởng ở mức thấp 5.40%, nguyên
nhân chủ yếu là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2008,
khi mà cuộc khủng hoảng xuất phát từ Mỹ đã lan ra toàn thế giới và khiến cho tốc độ
tăng trưởng toàn cầu trong năm 2009 xuống mức âm. Hai năm tiếp theo, kinh tế có
sự phục hồi và tăng trưởng trên 6%, được cho là kết quả của hoạt động nới lỏng tín
dụng nhằm thúc đẩy phục hồi nên kinh tế. Tuy nhiên, hậu quả là lạm phát tăng cao
và đạt đỉnh vào năm 2011, được minh hoạ trong hình 2.2. Sau khi áp dụng các biện
27
pháp nhằm kiềm chế lạm phát và thận trọng hơn trong điều tiết cung tiền, lạm phát
đã giảm hẳn nhưng cũng kéo giảm tốc độ tăng trưởng xuống dưới 6% trong hai năm
2012 và 2013. Ngoài ra, một nguyên nhân khác có tác động không nhỏ được cho là
thế giới vẫn chưa phục hồi hoàn toàn sau cuộc khủng hoảng tài chính.
Hình 2.2 Lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018
20%
16%
12%
8%
4%
0%
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Nguồn: Ngân Hàng Thế Giới
Giai đoạn 2014 – 2018, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam có mức tăng
tốt hơn so với giai đoạn năm năm trước đó, đạt trung bình trên 6.5%. Đặc biệt là năm
2018, mức tăng trưởng đạt đến 7.08%, là mức cao nhất trong vòng một thập kỷ. Đồng
thời, lạm phát cũng đã được kiểm soát chặt chẽ và trở nên ổn định hơn. Trong ba năm
gần đây, lạm phát luôn tiệm cận dưới mức 4%, là mức mục tiêu chung trong các kế
hoạch phát triển kinh tế trong giai đoạn này.
So với một số nước trong khu vực, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam giai
đoạn 2009 – 2018 cũng có xu hướng tích cực hơn. Hình 2.3 minh hoạ tốc độ tăng
trưởng GDP của một số nước và trung bình thế giới trong giai đoạn này. Có thể thấy
rằng chỉ có Philippines và Việt Nam đang có xu hướng tăng tốc, trong khi đó Trung
Quốc giảm tốc mạnh, còn các nước khác thì hầu như đi ngang. Việt Nam cũng là
nước duy nhất có biên độ dao động về tốc độ tăng trưởng GDP trong khoảng khá hẹp.
Không những thế, năm 2018 còn là năm mà Việt Nam vươn lên dẫn đầu về tốc độ
28
tăng trưởng GDP so với các nước còn lại được xem xét. Tuy nhiên, nếu xét đến tốc
độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn thì Việt Nam vẫn xếp sau hai quốc gia đông
dân nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ. Dẫu vậy, Việt Nam vẫn đang được coi là
một điểm sáng mới về tăng trưởng không những chỉ trong khu vực mà còn cả trên
quy mô toàn cầu.
Hình 2.3 Tốc độ tăng trưởng GDP của một số nước và thế giới
12.5%
10.0%
7.5%
5.0%
2.5%
0.0%
-2.5% 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Indonesia Malaysia Trung Quốc Ấn Độ
Philippines Thái Lan Việt Nam Thế Giới
Nguồn: Ngân Hàng Thế Giới
Xét đến thu nhập bình quân đầu người trong giai đoạn 2009 – 2018 thì con số
của Việt Nam đã tăng lên gấp đôi, từ mức 1,217USD năm 2009 lên 2,564USD năm
2018. Tuy nhiên, nếu xét chung với một số quốc gia trong khu vực thì mức tăng của
Việt Nam còn khá khiêm tốn, như minh hoạ trong hình 2.4. Thái Lan và Malaysia có
mức tăng khá tốt, và Malaysia đang tiến sát đến ranh giới cho quốc gia có thu nhập
cao (khoảng 12,375USD theo phân loại của WB). Trung Quốc là quốc gia có tốc độ
tăng ấn tượng nhất, với thu nhập bình quân năm 2018 gấp 2.5 lần mức của mười năm
trước. Indonesia cũng đang tiến tới trở thành nước có thu nhập trung bình cao (khoảng
4,000USD theo phân loại của WB). Tính đến năm 2018 thì thu nhập bình quân đầu
người của Việt Nam chỉ cao hơn Ấn Độ trong nhóm các nước được xem xét.
29
USD 12,000
Hình 2.4 Thu nhập bình quân đầu người một số nước và thế giới
10,000
8,000
6,000
4,000
2,000
0
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Indonesia Malaysia Trung Quốc Ấn Độ
Philippines Thái Lan Việt Nam Thế Giới
Nguồn: Ngân Hàng Thế Giới
Tuy vẫn còn ở mức trung bình thấp trong giai đoạn này, nhưng theo một dự
báo của ngân hàng Standard Chartered (2019) công bố vào giữa năm, thu nhập bình
quân đầu người của Việt Nam có thể đạt đến 10,400USD vào năm 2030 nếu có thể
duy trí được tốc độ tăng trưởng trên 7% trong một thập kỷ tới. Ngay cả chính phủ
cũng đã đặt mục tiêu đạt mức thu nhập bình quân đầu người 10,000USD vào năm
2035, nhưng kèm theo đó sẽ là trở ngại về bẫy thu nhập trung bình mà nếu không có
những chính sách, thể chế phù hợp thì khó có thể vượt qua được.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn 2009 –
2018 cũng có thể được chia thành hai giai đoạn. Trong bốn năm đầu năm đầu, do dư
âm của cuộc khủng hoảng tài chính và sự trì trệ của kinh tế thế giới, vốn đăng ký đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã giảm từ hơn 23 tỷ USD năm 2009 xuống còn hơn 16 tỷ
USD năm 2012, vốn thực hiện cũng chỉ quanh 10 tỷ USD. Qua giai đoạn sau, thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã hồi phục và tăng nhanh, thậm chí hai năm 2017
và 2018 còn đạt trên 35 tỷ USD. Vốn thực hiện cũng được cải thiện và đạt mức cao
nhất trong lịch sử là 19.1 tỷ USD vào năm 2018. Tuy vậy, có thể thấy tỷ lệ giải ngân
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn chỉ xoay quanh mốc 50% đến 60%, chưa có sự
bứt phá nào đáng kể.
30
Hình 2.5 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018
Tỷ USD 40
80%
70% 35
60% 30
50% 25
40% 20
30% 15
20% 10
10% 5
0% 0
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Tổng vốn đăng ký Vốn thực hiện Tỷ lệ giải ngân
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
Hoạt động thương mại của Việt Nam với các nước và khu vực trên thế giới
trong giai đoạn 2009 – 2018 cũng tăng trưởng nhanh từ mức 127.05 tỷ USD năm
2009 lên mức 480.57 tỷ USD năm 2018, gấp gần 4 lần sau mười năm. Từ một nước
chuyên nhập siêu thì ba năm gần nhất Việt Nam đã duy trì trạng thái xuất siêu, và
năm 2018 là năm có mức thặng dư thương mại cao nhất trong vòng một thập kỷ với
6.83 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng thương mại của Việt Nam ngoại trừ năm 2009 bị
âm thì các năm còn lại hầu hết đều đạt mức trên hai con số. Tình hình xuất nhập khẩu
của Việt Nam trong giai đoạn 2009 – 2018 được minh hoạ trong hình 2.6.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam gồm điện thoại các loại và linh
kiện, máy vi tính các loại và linh kiện, hàng dệt may và giày dép các loại, máy móc
thiết bị và phụ tùng, gỗ và các sản phẩm gỗ, phương tiện vận tải và phụ tùng, và thuỷ
sản. Tính trong năm 2018, nhóm điện thoại và linh kiện đạt kim ngạch xuất khẩu gần
50 tỷ USD, nhóm máy vi tính và linh kiện đạt gần 30 tỷ USD, dệt may đạt trên 30 tỷ
USD, giày dép và máy móc thiết bị cùng đạt trên 16 tỳ USD, gỗ và thuỷ sản cùng đạt
gần 9 tỷ USD, phương tiện vận tải và phụ tùng đạt trên 8 tỷ USD. Các nhóm kể trên
đã chiếm gần 70% tổng lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2018.
31
Mặt hàng điện thoại và linh kiện là nhóm hàng ngày càng có mức xuất khẩu
tăng cao kể từ khi tổ hợp nhà máy của Samsung chuyển về Việt Nam, cho thấy các
sản phẩm giá trị cao đã chuyển về một nước đang phát triển như Việt Nam với chi
phí lao động thấp. Bên cạnh đó, hàng dệt may là sản phẩm thuộc ngành nghề thâm
dụng lao động mà Việt Nam có lợi thế so sánh, nên không bất ngờ khi mặt hàng này
luôn nằm trong những vị trí đầu về giá trị xuất khẩu.
Ở phía ngược lại, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu bao gồm máy vi tính và
linh kiện, máy móc thiết bị và phụ tùng, điện thoại các loại và linh kiện, vải các loại,
chất dẻo nguyên liệu, và sắt thép các loại. Năm 2018, kim ngạch nhập khẩu nhóm
máy vi tính và linh kiện đạt trên 43 tỷ USD, nhóm máy móc thiết bị đạt gần 33 tỷ
USD, nhóm điện thoại và linh kiện đạt gần 16 tỷ USD, vải các loại đạt gần 13 tỷ USD,
sắt thép các loại đạt gần 10 tỷ USD và chất dẻo nguyên liệu đạt 9 tỷ USD. Các nhóm
kể trên đã chiếm trên 50% tổng lượng hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam năm 2018.
Hình 2.6 Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2009 – 2018
Tỷ USD 250
50%
40% 200
30% 150
20% 100
10% 50
0% 0
-10% -50 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Xuất khẩu Cán cân thương mại Nhập khẩu Tốc độ tăng trưởng
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan
32
Ba thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong những năm gần đây theo
thứ tự là Mỹ, khối EU và Trung Quốc, trong khi đó ba thị trường nhập khẩu lớn nhất
của Việt Nam là Trung Quốc, Hàn Quốc và khối ASEAN. Nếu tính chung cả xuất
nhập khẩu thì đối tác lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc, kế đến là Hàn Quốc và
Mỹ. Có thể thấy rõ không có nước đơn lẻ nào trong hiệp định CPTPP nằm trong tốp
đầu về trao đổi thương mại với Việt Nam.
Hình 2.7 Cơ cấu về đối tác thương mại với Việt Nam
100%
80%
60%
40%
20%
0%
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
CPTPP Mỹ Trung Quốc Hàn Quốc Các nước khác
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan
Không những thế, hình 2.7 minh hoạ cơ cấu về đối tác thương mại với Việt
Nam, cho thấy xu hướng trao đổi thương mại giữa Việt Nam và nhóm các nước thuộc
hiệp định CPTPP đang ngày càng giảm dần cho đến trước khi hiệp định CPTPP chính
thức đi vào hiệu lực. Trao đổi hàng hoá với Mỹ, một cựu thành viên của TPP, có sự
thay đổi không nhiều. Trong khi đó, trao đổi với Trung Quốc và Hàn Quốc, hai nước
không nằm trong hiệp định CPTPP, thì lại đang tăng lên đáng kể. Sự gia tăng trao đổi
thương mại với Hàn Quốc có thể hiểu được khi hai bên đã có hiệp định thương mại
song phương chính thức đi vào hiệu lực cuối năm 2015 cùng với việc tổ hợp Samsung
đã chuyển nhiều nhà máy sang Việt Nam. Còn với Trung Quốc thì Việt Nam hiện chỉ
có hiệp định chung cùng với khối ASEAN, tuy nhiên sự gia tăng nhanh chóng về tỷ
lệ trao đổi thương mại cho thấy Việt Nam đang ngày càng phụ thuộc vào thị trường
33
Trung Quốc. Đây hiện là thách thức lớn cho Việt Nam bởi nếu không tìm cách giảm
sự phụ thuộc vào các nước ngoài CPTPP thì khó có khả năng tận dụng được các lợi
ích mà hiệp định này đem lại.
Ngoài ra, tỷ lệ xuất nhập khẩu trên GDP của Việt Nam ngày càng tăng, từ mức
120% của năm 2009 đã lên đến 200% sau một thập kỷ. Hình 2.8 minh hoạ tỷ lệ xuất
nhập khẩu trên GDP của Việt Nam và một số quốc gia trong khu vực. Việc gia tăng
nhanh chóng tỷ lệ này cho thấy sức sản xuất của Việt Nam ngày càng lớn cũng như
tác động từ việc hội nhập hoá, tham gia vào nhiều hiệp định thương mại ngày càng
thể hiện rõ, giúp cải thiện thương mại. So sánh với một số nước trong khu vực thì có
thể thấy chỉ riêng Việt Nam có xu hướng tăng, trong khi các nước xung quanh như
Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan đi ngang, thậm chí như Singapore
những năm gần đây còn tụt giảm. Tuy nhiên, độ mở lớn ngụ ý rằng Việt Nam phụ
thuộc nhiều vào tình hình thương mại thế giới. Nếu xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn
cầu thì xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng xấu.
Hình 2.8 Tỷ lệ thương mại trên GDP của Việt nam và một số quốc gia
300%
250%
200%
150%
100%
50%
0%
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Indonesia Malaysia Việt Nam
Philippines Singapore Thái Lan
Nguồn: Ngân Hàng Thế Giới
Về mặt chính sách, sau khi bắt đầu tham gia đàm phán hiệp định TPP vào
tháng 08 năm 2011, Việt Nam đã tiến hành lên kế hoạch và đẩy mạnh công tác đàm
phán nhằm nhanh chóng tiến tới kết thúc đàm phán hiệp định. Một số bộ, ban ngành
34
đã ra các quyết định chỉ định rõ trách nhiệm của các cơ quan liên quan, chẳng hạn
như Quyết định 1155/QĐ-BCT của Bộ Công Thương ngày 06 tháng 03 năm 2009 về
việc ban hành Kế hoạch hành động của ngành công thương thực hiện Nghị quyết của
Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2009, trong đó chỉ định Vụ
Chính sách thương mại đa biên làm đầu mối, phối hợp với các đơn vị có liên quan đề
xuất các phương án đàm phán FTA trong khuôn khổ đa phương như hiệp định TPP.
Trong kế hoạch công tác của mình, các bộ, ban ngành cũng đã đề cập hiệp định TPP
như một phần nằm trong kế hoạch công tác, có thể kể đến Quyết định 1147/QĐ-BCT
của Bộ Công Thương ngày 08 tháng 03 năm 2010 về việc ban hành Kế hoạch công
tác năm 2010 của Bộ Công Thương và Quyết định 979/QĐ-BTP của Bộ Tư Pháp
ngày 31 tháng 03 năm 2010 về việc phê duyệt Kế hoạch công tác năm 2010 của Vụ
Pháp luật quốc tế, chỉ thị xây dựng phương án tham gia đàm phán hiệp định TPP.
Đến năm 2012, Chính phủ đã ra Nghị quyết 06/NQ-CP ngày 07 tháng 03 năm
2012 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2011 – 2016, trong
đó tiếp tục yêu cầu Bộ Công Thương xây dựng đề án đàm phán tham gia hiệp định
TPP, và chỉ định Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư tham gia đàm phán các quy định về Mua
sắm Chính phủ thuộc hiệp định TPP. Đồng thời cũng trong thời gian này, Bộ Tư Pháp
đã ban hành Quyết định 663/QĐ-BTP ngày 24 tháng 04 năm 2012 về việc phân công
soạn thảo đề án, văn bản năm 2012, trong đó có đề án nghiên cứu đánh giá tác động
của hiệp định TPP đến hệ thống pháp luật Việt Nam, cùng với việc dự kiến phương
án, nội dung sửa đổi pháp luật để thực hiện hiệp định TPP.
Bên cạnh đó, Thủ tướng cũng ban hành một số quyết định mang tính chiến
lược dài hạn như Quyết định 808/QĐ-TTg ngày 29 tháng 06 năm 2012 về việc ban
hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch
vụ của Việt Nam đến năm 2020 và Quyết định 950/QĐ-TTg ngày 25 tháng 07 năm
2012 ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng
hóa thời kỳ 2011 – 2020, định hướng đến năm 2030, trong đó đưa hiệp định TPP vào
trọng tâm tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế với cơ quan chủ trì là Bộ Công Thương.
35
Đến năm 2013, Bộ Công Thương đã bắt đầu tiến hành phổ biến rộng rãi thông
tin về Hiệp định TPP thông qua Quyết định 2258/QĐ-BCT ngày 09 tháng 04 năm
2013 phê duyệt Chương trình hành động của Bộ Công Thương về thông tin đối ngoại
giai đoạn 2013-2020, trong đó yêu cầu Vụ Chính sách thương mại đa biên tổ chức
biên soạn tài liệu các khóa học đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ làm
công tác đối ngoại về Hiệp định TPP, đồng thời tổ chức các hoạt động nhằm phổ biến
và quảng bá về Hiệp định TPP đến các doanh nghiệp Việt Nam. Vào ngày 15 tháng
11 năm 2013, Bộ Công Thương phối hợp cùng Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI) đồng tổ chức Hội nghị với chủ đề “Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương và quá trình tham gia của Việt Nam”. Chủ trì Hội nghị gồm có Bộ trưởng
Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh – Trưởng đoàn đàm
phán Chính phủ về kinh tế và thương mại quốc tế, ông Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Hội nghị đã giới thiệu tổng quát về
Hiệp định cũng như những cơ hội và thách thức từ hiệp định này, yêu cầu cần phải
có sự cải cách mạnh mẽ và nỗ lực để hoàn thiện thể chế kinh tế, cắt giảm thuế nhanh
hơn, xây dựng Quy tắc xuất xứ có tính khả thi cao, đồng thời phải cân bằng lợi ích
của doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI.
Đối với ngành dệt may, một ngành được coi là trụ cột xuất khẩu của Việt Nam
và có riêng một chương trong Hiệp định TPP, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết
định 3218/QĐ-BCT ngày 11 tháng 04 năm 2014 phê duyệt Quy hoạch phát triển
ngành công nghiệp Dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo
như Quyết định này, mục tiêu tổng quát là xây dựng ngành công nghiệp dệt may trở
thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, hướng về xuất khẩu và có khả
năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo ngành dệt may phát triển bền
vững trên cơ sở công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý theo chuẩn mực quốc tế. Một
số định hướng phát triển được đưa ra là dịch chuyển dần lên mức độ giá trị gia tăng
cao hơn, từ gia công đầu cuối sang gia công từng phần, sản xuất bán thành phẩm, tự
thiết kế và cuối cùng là hình thành thương hiệu riêng. Thêm vào đó, nhấn mạnh đến
sự cần thiết phải phát triển nguồn nguyên liệu xơ bông bền vững và chất lượng cao,
36
phát triển hàng dệt kim, dệt thoi và sau đó là quy hoạch các nhà máy dệt nhuộm. Một
số mục tiêu cụ thể của Quyết định này được tóm tắt trong bảng 2.1.
Theo báo cáo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), xuất khẩu hàng dệt
may năm 2015 đạt hơn 27 tỷ USD, chiếm khoảng 16.7% tổng kim ngạch xuất khẩu
cả nước. Đến năm 2018, xuất khẩu hàng dệt may đạt trên 36 tỷ USD, chiểm khoảng
14.8% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Vậy có thể thấy được mục tiêu kim ngạch
xuất khẩu và tỷ lệ xuất khẩu đã hoàn thành so với các mục tiêu được đặt ra. Tuy nhiên,
VITAS lại chỉ ra rằng tỷ lệ nội địa hoá của ngành không đạt được yêu cầu đề ra. Con
số cho năm 2015 chỉ là 51.2%, và đến năm 2018 chỉ còn 49.4%, điều này cho thấy
vấn đề nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong ngành dệt may vẫn còn là thách thức rất lớn.
Bảng 2.1 Các mục tiêu cụ thể của ngành dệt may đến năm 2030
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2015 Năm 2020
Năm 2030
tỷ USD
23-24
36-38
64-67
1. Kim ngạch xuất khẩu
%
15-16
13-14
9-10
Tỷ lệ xuất khẩu so cả nước
ngàn người
2,500
3,300
4,400
2. Sử dụng lao động
3. Sản phẩm chủ yếu
- Bông xơ
ngàn tấn
8
15
30
- Xơ, sợi tổng hợp
ngàn tấn
400
700
1,500
- Sợi (kéo từ xơ cắt ngắn)
ngàn tấn
900
1,300
2,200
- Vải các loại
triệu m2
1,500
2,000
4,500
- Sản phẩm may
triệu sản phẩm
4,000
6,000
9,000
%
55
65
70
4. Tỷ lệ nội địa hóa
Nguồn: Bộ Công Thương
Về vấn đề thu hút đầu tư, Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư đã ban hành Hướng dẫn
xây dựng Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2015 số 5338/BKHĐT-ĐTNN ngày 15
tháng 08 năm 2014, trong đó đề cập đến việc chú trọng thu hút các dự án trong các
ngành Việt Nam có ưu thế khi Việt Nam ký kết gia nhập Hiệp định TPP như: dệt may,
giày dép, thủy sản, đồ gỗ và nông sản. Cụ thể hơn nữa, Hướng dẫn có định hướng thu
hút các nhà đầu tư Hàn Quốc quan tâm đến lĩnh vực dệt nhuộm, may mặc và các lĩnh
vực phụ trụ để đón đầu Hiệp định TPP.
37
Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội còn thành lập bộ phận riêng chuyên
trách Hiệp định TPP thông qua Quyết định 173/QĐ-LĐTBXH thành lập Bộ phận Hỗ
trợ kỹ thuật Tổ công tác TPP vào ngày 30 tháng 01 năm 2015, trước đó Tổ công tác
TPP đã được thành lập theo Quyết định số 1876/QĐ-LĐTBXH ngày 02 tháng 12 năm
2013. Nhiệm vụ của tổ công tác và bộ phận hỗ trợ này là chịu trách nhiệm đàm phán
về Chương 19 – Lao động, đồng thời nghiên cứu, đánh giá tác động khi thực hiện các
cam kết trong Hiệp định TPP và đề xuất phương án điều chỉnh, bổ sung chính sách,
pháp luật để thực hiện các cam kết này.
Đến năm 2015, Thủ tướng đã ban hành Quyết định 1467/QĐ-TTg phê duyệt
Đề án phát triển các thị trường khu vực thời kỳ 2015 – 2020, tầm nhìn đến năm 2030
vào ngày 24 tháng 08 năm 2015. Quyết định này yêu cầu tăng cường công tác thông
tin tuyên truyền, phổ biến các cam kết, chính sách và giới thiệu tiềm năng thị trường
từ các điều ước quốc tế trong lĩnh vực thương mại, thực hiện toàn diện công tác thông
tin tuyên truyền đối với các Hiệp định mới như TPP. Theo đó, Bộ Tư Pháp đã ban
hành Quyết định 2285/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, hòa giải ở cơ sở, chuẩn tiếp cận pháp luật; xây dựng và thực hiện hương ước,
quy ước năm 2016 ngày 31 tháng 12 năm 2015. Một trong những nhiệm vụ được đề
ra là tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu nội dung các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên, các thỏa thuận quốc tế liên quan đến người dân, doanh nghiệp, và chú
trọng đến Hiệp định TPP. Trong cùng năm, Bộ Tài Chính cũng đã ra Quyết định
2716/QĐ-BTC ban hành Kế hoạch Cải cách hành chính của Bộ Tài Chính năm 2016
vào ngày 21 tháng 12 năm 2015, trong đó có nêu nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng các
phương án đàm phán thuế quan, dịch vụ và quản lý hải quan tạo thuận lợi thương mại,
phục vụ Chương 5 – Quản lý Hải quan và Tạo thuận lợi Thương mại trong Hiệp định
TPP và do Vụ Hợp tác Quốc tế phụ trách.
Sau khi kết thúc đàm phán vào ngày 05 tháng 10 năm 2015 và công bố toàn
văn Hiệp định vào ngày 05 tháng 11 năm 2015, sau một thời gian chuẩn bị, Chính
phủ đã ra Nghị quyết 09/NQ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2016 về việc ký "Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương", trong đó đồng ý ký Hiệp định TPP và uỷ quyền
38
việc ký kết cho Bộ trưởng Bộ Công Thương. Lễ ký kết Hiệp định TPP đã diễn ra vào
ngày 04 tháng 02 năm 2016 giữa 12 nước thành viên tại Auckland, New Zealand.
Sau khi đã tiến hành ký Hiệp định TPP, Nghị quyết 35/NQ-CP về Hỗ trợ và
phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 của Chính phủ đã được ban hành ngày 16
tháng 05 năm 2016, trong đó yêu cầu tăng cường cung cấp, phổ biến thông tin và các
hướng dẫn thực thi cam kết trong khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế và các hiệp định
kinh tế - thương mại, đặc biệt là các hiệp định – thương mại tự do thế hệ mới để nâng
cao năng lực hội nhập cho doanh nghiệp, tiếp cận, mở rộng thị trường xuất khẩu và
đầu tư như TPP. Tiếp theo là Nghị quyết 63/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của quốc hội về Kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 vào ngày 22 tháng 07 năm 2016, giao Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội xây dựng Đề án hoàn thiện thể chế và tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước về quan hệ lao động đáp ứng yêu cầu của Hiệp định TPP, và
giao Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng Đề án đánh giá hoàn thiện chính sách,
pháp luật tài nguyên và môi trường phù hợp với Hiệp định TPP.
Trước đó, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cũng đã ra Quyết định 645/QĐ-
BVHTTDL ngày 01 tháng 03 năm 2016 ban hành Kế hoạch rà soát, đánh giá tác động
của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đối với hệ thống pháp luật
ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch để từ đó đề xuất giải pháp, phương án sửa đổi,
bổ sung pháp luật đảm bảo phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định
TPP. Bên cạnh đó, Tổng Cục Hải Quan cũng ra Quyết định 4429/QĐ-TCHQ ngày
21 tháng 12 năm 2016 về việc ban hành Kế hoạch hợp tác và Hội nhập quốc tế của
Hải quan Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020, trong đó giao Cục Giám sát Quản lý chủ
trì triển khai thực hiện các nội dung liên quan đến hải quan bao gồm cả các hàng rào
kỹ thuật và phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa trong Hiệp định TPP.
Tuy nhiên, sau khi đắc cử thì Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký sắc lệnh
rút Mỹ ra khỏi Hiệp định TPP vào ngày 23 tháng 01 năm 2017, đồng nghĩa với việc
Hiệp định này không thể đi vào hiệu lực được. Mặc dù vậy, 11 nước còn lại đã khởi
động lại vòng đàm phán mà không có Mỹ vào đầu tháng 05 năm 2017 và do Nhật
Bản giữ vai trò chủ trì. Lúc này, Hiệp định được gọi với một tên tạm là TPP-11.
39
Sau khi tái khởi động lại vòng đàm phán với 11 nước còn lại, Việt Nam đã
tiếp tục cải cách chính sách, pháp luật nhằm bám sát các cam kết trong Hiệp định
TPP. Đơn cử như Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa do Quốc hội phê duyệt và
ban hành ngày 12 tháng 06 năm 2017. Luật đã đưa ra cách xác định DNNVV, đồng
thời nêu lên một số nội dung hỗ trợ chính cho nhóm doanh nghiệp này như tiếp cận
tín dụng, thuế và kế toán, mặt bằng sản xuất, kỹ thuật công nghệ, thị trường và nguồn
nhân lực, thông tin và tư vấn pháp lý. Các DNNVV cũng sẽ được hỗ trợ để khởi
nghiệp sáng tạo và tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Theo ông Lê Thanh
Liêm, Phó Chủ tịch thường trực UBND TP.HCM, DNNVV hiện chiếm tới 97% tổng
số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, đóng góp 45% GDP và 31% tổng thu
ngân sách, cùng với thu hút trên 5 triệu lao động. Riêng trong năm 2018, tại TP.HCM
đã có gần 4,000 hộ kinh doanh cá thể đã chuyển đổi lên doanh nghiệp và hoạt động
theo Luật Doanh nghiệp (Ngô Kiếm, 2018).
Một số bộ ngành cũng đã bước đầu đưa vào thực tiễn một số cam kết trong
Hiệp định TPP. Có thể kể đến như Thông tư 35/2017/TT-BTTTT quy định về việc
Chuyển mạng viễn thông di động mặt đất giữ nguyên số do Bộ Thông Tin và Truyền
Thông ban hành ngày 23 tháng 11 năm 2017, trong đó yêu cầu dịch vụ chuyển mạng
phải được các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông di động mặt đất cung cấp
một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với các thuê bao di động. Mức cước
và các điều khoản sử dụng dịch vụ chuyển mạng sẽ do các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ viễn thông di động mặt đất thống nhất, công bố, niêm yết công khai và áp
dụng chung. Đây có thể được coi là hành động đáp ứng khoản 4, Điều 13.5 trong
Chương 13 – Viễn thông của Hiệp định TPP; theo đó yêu cầu các nước phải đảm bảo
rằng các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng trong phạm vi lãnh thổ của mình
thực hiện việc chuyển mạng giữ nguyên số mả không làm suy giảm chất lượng và độ
tin cậy, trên cơ sở kịp thời, và dựa trên các điều khoản và điều kiện hợp lý và không
phân biệt đối xử. Tuy nhiên, phải đến gần một năm sau thì dịch vụ chuyển mạng giữ
số mới được chính thức triển khai cho ba nhà mạng lớn là VinaPhone, Viettel và
MobiPhone, bắt đầu từ ngày 16 tháng 11 năm 2018, riêng nhà mạng Vietnamobile
40
bắt đầu triển khai sau vào ngày 01 tháng 01 năm 2019. Theo báo cáo của Cục Viễn
thông, tính đến thời điểm 24 tháng 09 năm 2019, tức là hơn mười tháng kể từ ngày
bắt đầu triển khai dịch vụ chuyển mạng giữ số, đã có 1,144,438 thuê bao đăng ký
chuyển mạng giữ số qua lại giữa các nhà mạng, trong đó có 912,043 thuê bao (chiếm
80.5%) chuyển mạng giữ số thành công (Ngọc Phạm, 2019).
Bộ Tài Chính đã ra Quyết định 2722/QĐ-BTC ngày 29 tháng 12 năm 2017 về
việc áp dụng Thí điểm quản lý, Giám sát hải quan tự động đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu, quá cảnh tại cảng biển, cảng hàng không dân dụng quốc tế. Theo đó sẽ
triển khai áp dụng thí điểm hải quan tự động đối với hàng hoá xuất nhập khẩu và quá
cảnh tải các cảng thuộc sự quản lý của Cục Hải quan TP.HCM và Cục Hải quan tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu. Hoạt động này phù hợp với Điều 5.6 – Tự động hoá thuộc
Chương 5 – Quản lý Hải quan và Tạo thuận lợi Thương mại trong Hiệp định TPP.
Trước đó vào ngày 01 tháng 12 năm 2017, Tổng cục Hải quan phối hợp cùng Cục
Hải quan Thành phố Hải Phòng đã chính thức triển khai áp dụng Hệ thống Quản lý
Hải quan tự động tại cảng biển tại Cục Hải quan này. Việc triển khai hệ thống này đã
giúp giảm mạnh thời gian giao nhận hàng hoá. Ghi nhận tại đây, việc làm thủ tục lấy
hàng chỉ còn mất 1-2 phút đối với một lô hàng thông thường (trước đây ít nhất là từ
7-10 phút, riêng thời gian phải di chuyển giữa các bộ phận mất đến 10-15 phút); thời
gian bình quân cho một lượt xe chở hàng qua khu vực cảng chỉ còn 10-12 phút so với
trước đây là 25-30 phút. Việc không phải kiểm tra, xác nhận chứng từ giấy tại khu
vực giám sát giúp giảm khoảng 2 phút/tờ khai, tiết kiệm trung bình khoảng 253 giờ
công lao động. Bên cạnh đó, do không phải xuất trình chứng từ giấy tại hải quan giám
sát nên doanh nghiệp có thể giảm chi phí in ấn, văn phòng phẩm (Hà Duy, 2017).
Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định 334/QĐ-BCT ngày 24 tháng 01
năm 2018 phê duyệt Kế hoạch đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm trong sản
xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo xuất xứ tại các địa bàn trọng điểm đến hết năm
2020. Đây được xem là để đáp ứng cam kết tại khoản 12 Điều 3.27 – Xác minh xuất
xứ thuộc Chương 3 – Quy tắc xuất xứ và Các thủ tục chứng nhận xuất xứ của Hiệp
định TPP, theo đó hàng hoá nếu được xác minh là gian lận và giả mạo để hưởng ưu
41
đãi thuế quan thì ưu đãi thuế quan có thể bị dừng cho đến khi chứng minh được hàng
hoá đáp ứng được các điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan.
Sau một thời gian nỗ lực cứu vớt Hiệp định TPP, vào tháng 11 năm 2017, 11
nước còn lại đã đạt được thoả thuận cơ bản cho hiệp định TPP-11, đồng thời thống
nhất tên mới cho hiệp định là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP). Đến ngày 23 tháng 01 năm 2018, 11 quốc gia thành viên đã
hoàn tất giai đoạn đàm phán Hiệp định CPTPP. Phiên bản cuối cùng của Hiệp định
này được công bố vào ngày 21 tháng 02 năm 2018, theo đó hơn 20 điều khoản đã
được đình chỉ, chủ yếu là về thắt chặt bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới sản
phẩm dược được đưa vào bản TPP đầu tiên bởi Mỹ. Đến ngày 08 tháng 03 năm 2018,
Hiệp định CPTPP đã được chính thức ký giữa 11 nước thành viên tại Santiago, Chile.
Ngay sau khi ký kết Hiệp định CPTPP, Chính phủ đã ban hành liên tiếp Nghị
định 39/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 03 năm 2018 quy định Chi tiết một số điều của
Luật hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó có hướng dẫn cách xác định DNNVV
và các quy định về hỗ trợ thông tin, phát triển nguồn nhân lực, khởi nghiệp sáng tạo,
tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; và Nghị định 38/2018/NĐ-CP cùng ngày
quy định Chi tiết về đầu tư cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, trong
đó hướng dẫn cách thức thành lập và điều hành quỹ khởi nghiệp sáng tạo và một số
cơ chế sử dụng ngân sách địa phương đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo.
Vào ngày 30 tháng 05 năm 2018, Tổng Cục Hải Quan đã ban hành Kế hoạch
3009/KH-TCHQ triển khai Hệ thống Quản lý hải quan tự động tại cảng, kho, bãi với
việc yêu cầu các đơn vị triển khai mở rộng hệ thống Quản lý hải quan tự động trên
phạm vi toàn quốc. Theo ông Lê Đức Thành, Phó Cục trưởng Cục Công nghệ thông
tin và thống kê Tổng cục Hải, tính đến tháng 03 năm 2019, hệ thống đã được triển
khải tại 28/35 cục hải quan tỉnh, thành phố. Số cục hải quan chưa triển khải hệ thống
có số lượng doanh nghiệp kho, bãi, cảng chỉ chiếm 7% tổng số trên toàn quốc. Sau
khi triển khai hệ thống, thời gian làm thủ tục tại cổng cảng chỉ tính bằng giây, thời
gian lấy hàng khỏi cảng trung bình dưới 30 phút, giúp lưu lượng hàng hóa qua cảng
tăng trưởng hơn 10% so với trước đây (Hải Linh, 2019).
42
Về khía cạnh phòng, chống tham nhũng, Quốc hội đã ban hành Luật phòng,
chống tham nhũng 2018 vào ngày 20 tháng 11 năm 2018, trong đó đưa ra các quy
định chi tiết và chặt chẽ hơn nhằm đẩy mạnh hơn nữa công cuộc phòng, chống tham
nhũng, đồng thời thay thế cho hai Luật phòng, chống tham nhũng sửa đổi năm 2007
và năm 2012. Đây có thể được coi là động thái nhằm đảm bảo các cam kết theo như
Chương 26 – Minh bạch hoá và Chống tham nhũng của Hiệp định CPTPP.
Sau khi xem xét Báo cáo thuyết minh về Hiệp định CPTPP cùng các văn kiện
liên quan số 522/BC-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ, Báo cáo thẩm
tra số 2905/BC-UBĐN14 ngày 30 tháng 10 năm 2018 của Ủy ban Đối ngoại của
Quốc hội và trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, vào ngày 12 tháng 11
năm 2018, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 72/2018/QH14 phê chuẩn Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan.
Đây là bước đi khẳng định cam kết cam kết mạnh mẽ đối với đổi mới, hội nhập quốc
tế toàn diện và sâu rộng. Trước đó, vào ngày 31 tháng 10 năm 2018, Australia là quốc
gia thứ sáu phê duyệt Hiệp định CPTPP, đáp ứng điều kiện để có thể đưa Hiệp định
chính thức đi vào hiệu lực vào ngày 30 tháng 12 năm 2018. Riêng đối với Việt Nam,
Hiệp định CPTPP đi vào hiệu lực chính thức sau 60 ngày sau khi phê chuẩn, tức ngày
14 tháng 01 năm 2019.
Có thể thấy rằng Việt Nam không những không bị động mà ngược lại còn chủ
động cải cách nền kinh tế, hoàn thiện thể chế và pháp luật để nâng cao sức cạnh tranh,
thu hút đầu tư nhằm đón đầu trước là TPP và sau này là CPTPP.
2.2. GIAI ĐOẠN 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
Ngay sau khi Hiệp định CPTPP chính thức đi vào hiệu lực, Việt Nam đã lập
tức thực hiện các kế hoạch nhằm triển khai hiệp định này vào thực tế. Đầu tiên là
Quyết định 121/QĐ-TTg của Thủ tướng ngày 24 tháng 01 năm 2019 phê duyệt Kế
hoạch thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP). Những nhiệm vụ chủ yếu bao gồm tuyên truyền, phổ biến thông tin về hiệp
định, xây dựng pháp luật, thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển nguồn
nhân lực, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Quyết định cũng
43
kèm theo chi tiết một số công việc cụ thể khi triển khai các nhiệm vụ trên. Sau đó,
Thủ tướng đã ban hành tiếp Quyết định 734/QĐ-TTg ngày 14 tháng 06 năm 2019 chỉ
định các Cơ quan đầu mối để triển khai thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Trong văn bản này, mỗi chương trong
Hiệp định CPTPP được chỉ định cho một hoặc nhiều bộ ngành cùng chủ trì và phối
hợp thực hiện. Ngoài ra, cơ quan đầu mối tham gia Hội đồng, các Uỷ ban chuyên
môn và các Nhóm công tác của Hiệp định CPTPP cũng được giao chi tiết đến từng
bộ ngành. Bộ Công Thương được giao trách nhiệm làm cơ quan điều phối chung,
tổng hợp tình hình thực thi Hiệp định báo cáo Thủ tướng Chính phủ, đồng thời cũng
sẽ là đầu mối thông tin liên lạc với các nước CPTPP về mọi vấn đề của Hiệp định.
Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 03/2019/TT-BCT ngày 22 tháng 01
năm 2019 quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Các điều khoản và quy tắc xuất xứ dành cho từng
loại hàng hoá đều tương thích với nội dung của Chương 3 – Quy tắc xuất xứ và Các
thủ tục chứng nhận xuất xứ. Riêng mặt hàng dệt may có một phụ lục riêng gồm những
quy tắc cụ thể mặt hàng và danh mục nguồn cung thiếu hụt. Thông tư cũng ban hành
mẫu C/O CPTPP của Việt Nam, mẫu tờ khai bổ sung và hướng dẫn kê khai chi tiết.
Vào ngày 19 tháng 04 năm 2019, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư
07/2019/TT-BCT quy định về xuất khẩu hàng dệt may sang Mexico theo Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Đây được xem là động thái
tăng cường xuất khẩu mặt hàng dệt may sang thị trường Mexico, sau khi nước này
thông báo sẽ áp thuế nhập khẩu từ 25%-30% đối với các sản phẩm dệt may và da giày
từ các nước chưa có Thỏa thuận thương mại tự do (FTA) với quốc gia này vào ngày
01 tháng 03 năm 2019 (Việt Hùng, 2019). Hiệp định CPTPP sẽ là lợi thế lớn giúp
Việt Nam gia tăng sức cạnh tranh và thị phần mặt hàng này tại nước bạn, mặc dù theo
lộ trình thuế do Mexico áp lên hàng dệt may sẽ về 0% vào năm thứ 16.
Để thực hiện các cam kết về của mình về lộ trình cắt giảm thuế quan, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 57/2019/NĐ-CP ngày 26 tháng 06 năm 2019 về Biểu thuế
xuất khẩu ưu đãi, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện Hiệp định Đối tác
44
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương giai đoạn 2019 – 2022. Nghị định thể
hiện mức thuế ưu đãi đặc biệt cho từng năm kể từ năm 2019 đến năm 2022, kèm theo
mức hạn ngạch thuế quan cho một số mặt hàng cụ thể. Tuy nhiên, theo Nghị định thì
các ưu đãi thuế hiện chỉ áp dụng cho các nước đã phê duyệt Hiệp định CPTPP tại thời
điểm ban hành, bao gồm Australia, Canada, Nhật Bản, Mexico, New Zealand và
Singapore. Các tờ khai hải quan xuất nhập khẩu kể từ ngày Hiệp định CPTPP có hiệu
lực là ngày 14 tháng 01 năm 2019 cho đến trước ngày Nghị định này có hiệu lực cũng
sẽ được xem xét xử lý tiền thuế nộp thừa theo quy định pháp luật về quản lý thuế.
Về vấn đề hỗ trợ DNNVV, Chính phủ đã ban hành Nghị định 39/2019/NĐ-
CP ngày 10 tháng 05 năm 2019 về Tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển Doanh
nghiệp nhỏ và vừa và Nghị định 55/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 06 năm 2019 về Hỗ
trợ pháp lý cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là văn bản nhằm hiện thực hoá các
chính sách hỗ trợ DNNVV đã ban hành trong Luật hỗ trợ DNNVV năm 2018.
Tiếp theo, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 59/2019/NĐ-CP ngày 01
tháng 07 năm 2019 quy định Chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng,
chống tham nhũng. Nghị định này đã cụ thể hoá nhiều quy định trong Luật phòng,
chống tham nhũng năm 2018, chỉ rõ trách nhiệm giải trình của những người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đoàn thể, cung cấp thông tin, thanh tra và giám sát công tác
phòng, chống tham nhũng, cũng như hình thức xử phạt nếu có vi phạm.
Gần đây nhất, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 19/2019/TT-BCT ngày
30 tháng 09 năm 2019 quy định về Áp dụng các Biện pháp tự vệ đặc biệt để thực thi
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Thông tư đã quy
định chi tiết việc áp dụng hình thứ Tự vệ chuyển tiếp, tương ứng với Điều 6.3 – Áp
dụng Biện pháp Tự vệ chuyển tiếp và Điều 6.4 – Tiêu chuẩn áp dụng Biện pháp Tự
vệ chuyển tiếp thuộc Chương 6 – Phòng vệ thương mại; và hình thức áp dụng biện
pháp khẩn cấp đối với hàng dệt may tương ứng với Điều 4.3 – Hành động khẩn cấp
thuộc Chương 4 – Dệt may của Hiệp định CPTPP.
Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2019 cũng có mức
tăng trưởng khá. Tính đến hết tháng 09 năm 2019, xuất khẩu đạt khoảng 194.65 tỷ
45
USD, nhập khẩu đạt khoảng 187.50 tỷ USD, cả hai chiều đều tăng 8.4% so với cùng
kỳ năm 2018. Thặng dư thương mại 9 tháng năm 2019 đạt 7.15 tỷ USD, tăng 10% so
với cùng kỳ năm 2018 và được minh hoạ trong hình 2.9. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm, khi cả hai chiều của 9 tháng năm 2019 chỉ tăng
khoảng 8.4% so với cùng kỳ năm 2018, còn 9 tháng năm 2018 xuất khẩu tăng tới hơn
15.8% và nhập khẩu tăng hơn 11.5% so với cùng kỳ năm 2017.
Hình 2.9 Xuất nhập khẩu của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2019 và cùng kỳ 2018
Tỷ USD 250
194.65
187.50
179.55
25%
173.05
20% 200
15% 150
10% 100
7.15
6.50
5% 50
0%
0
9 tháng 2018 9 tháng 2019
Nhập khẩu Tốc độ tăng xuất khẩu
Xuất khẩu Cán cân thương mại Tốc độ tăng nhập khẩu
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan
Theo báo cáo của Tổng Cục Hải Quan, các thị trường xuất nhập khẩu chính
trong 9 tháng đầu năm 2019 vẫn là Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc và ASEAN. Các mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu là điện thoại và linh kiện, máy vi tính và linh kiện và hảng
dệt may. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy vi tính và linh kiện, máy móc
thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và chất dẻo nguyên liệu.
Giao dịch xuất nhập khẩu với các nước thuộc Hiệp định CPTPP trong 9 tháng
đầu năm 2019 tiếp tục theo đà giảm như các năm trước, xuống chỉ còn 14.99% so với
mức 15.69% của cùng kỳ năm 2018, như minh hoạ trong hình 2.10. Nguyên nhân là
do Hiệp định CPTPP mới đi vào hiệu lực từ đầu năm 2019 nên cần phải có một độ
trễ nhất định, các thành viên cần thời gian để tổ chức và từ từ áp dụng các quy định
cũng như triển khai các cam kết trong hiệp định. Tuy nhiên, giao dịch thương mại hai
chiều tại một số nước cụ thể trong CPTPP chứng kiến đà tăng ấn tượng.
46
Hình 2.10 Cơ cấu đối tác thương mại của Việt Nam 9 tháng 2019 và cùng kỳ 2018
14.99%
15.69%
9 tháng đầu năm 2018 9 tháng đầu năm 2019
12.63%
14.48%
CPTPP
Mỹ
70.53%
71.67%
Khác
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan
Theo như minh hoạ trong hình 2.11, thị trường Canada và Peru ghi nhận mức
tăng trưởng trên 20%, và đây là hai quốc gia chưa có bất kỳ một hiệp định song
phương nào trước đó với Việt Nam. Tuy nhiên, một quốc gia tương tự trong cùng
khu vực là Mexico lại có mức giảm nhẹ. Một trường hợp đặc biệt ở đây là Brunei với
mức tăng gần 400%, lý do là vì sự gia tăng mạnh nhập khẩu một loại hàng hoá đặc
biệt là dầu thô. Các thị trường khác như Chile và New Zealand cũng tăng trên dưới
10%, còn Nhật Bản và Úc là trên dưới 5%. Hai quốc gia còn lại trong khối ASEAN
là Malaysia và Singapore thì đều ghi nhận mức tăng trưởng âm.
Một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất khẩu qua một số thị trường CPTPP
vẫn có mức tăng trưởng cao. Đơn cử như nhóm hàng điện thoại và linh kiện, thị
trường Canada tăng 84.79%, Mexico thì tăng mạnh đến 449.57%, Peru cũng tăng
209.13%, và Chile tăng 56.30%. Một mặt hàng khác là gạo cũng chứng kiến mức
tăng 136.13% ở thị trường Chile và 69.80% ở Úc. Tuy nhiên, một số mặt hàng nông
sản lại ghi nhận sự sụt giảm, nguyên nhân chủ yếu là do thời tiết cực đoan dẫn đến
mất mùa ở các vùng trổng trọng điểm cộng thêm việc giá các mặt hàng này giảm.
Chẳng hạn như mặt hàng cà phê, xuất khẩu sang Chile giảm 35.52%, sang Mexico
giảm đến 77.60%, sang New Zealand giảm 45%. Mặt hàng hồ tiêu xuất khẩu sang
Nhật Bản giảm 50.42%, sang Úc giảm 33.05% và sang Singapore giảm 68.12%.
47
Hình 2.11 Tốc độ tăng trưởng giao dịch thương mại giữa Việt Nam và các nước
400%
350%
30%
25%
20%
15%
10%
5%
0
-5%
-10%
trong Hiệp định CPTPP giữa 9 tháng đầu năm 2019 so với cùng kỳ năm 2018
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan
Ở chiều ngược lại, hoạt động nhập khẩu cũng ghi nhận mức tăng mạnh ở một
số nhóm mặt hàng. Ví dụ như sắt thép các loại, nhập khẩu từ Malaysia tăng đến
268.46% và từ Mexico tăng đến 915.91%. Hay ô tô nguyên chiếc nhập khẩu từ
Canada tăng 390.18% và từ Nhật Bản tăng 165.13%. Hàng tau quả nhập khẩu từ
Chile tăng 83.38%, còn các sản phẩm sữa từ Úc cũng tăng 71.12%. Một mặt hàng
khác từ Úc cũng tăng mạnh là gỗ và sản phẩm gỗ với mức tăng 121.51%, nhưng mặt
hàng bông các loại tại quốc gia này lại giảm mạnh 70.92%.
Về khía cạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong 9 tháng đầu năm
2019, Việt Nam đã nhận được 26.16 tỷ USD vốn FDI, tăng 3.11% so với cùng kỳ
năm 2018. Vốn giải ngân đạt 14.22 tỷ USD, tăng 7.32% so với cùng kỳ. Xét về ngành
nghề đầu tư, công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là ngành thu hút nhiều vốn nhất,
vượt trội so với những ngành nghề khác, chiếm 69.14% tổng số vốn đăng ký. Hai vị
trí tiếp theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản chiếm 10.58% và ngành kinh
doanh, sửa chữa ô tô, xe máy là 5.36%.
48
Hình 2.12 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 9 tháng đầu năm 2019 và
cùng kỳ năm 2018
Tỷ USD 30
26.16 25.37 25
20
14.22 13.25 15
10
5
0 9 tháng 2018 9 tháng 2019
Vốn đăng ký Vốn thực hiện
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
Dẫn đầu các quốc gia, khu vực đầu tư vào Việt Nam là Hồng Kông với gần
5.89 tỷ USD, tiếp theo là Hàn Quốc với 4.62 tỷ USD, Singapore với hơn 3.77 tỷ USD,
theo sau là Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan. Đáng chú ý là quy mô đầu tư từ Hồng
Kông đã tăng gần 3.8 lần so với cùng kỳ năm 2018, đầu tư từ Trung Quốc cũng tăng
hơn 2.2 lần. Trong số các quốc gia thuộc Hiệp định CPTPP thì hiện chỉ có Singapore
và Nhật Bản là có quy mô đầu tư đáng kể vào Việt Nam. Các nước còn lại hiện có
mức đầu tư không đáng kể, hay thậm chị là không đầu tư như Brunei và Peru.
Bảng 2.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ các nước thuộc CPTPP
Đơn vị tính: Triệu USD
Quốc gia 9 tháng 2018 9 tháng 2019 Quốc gia 9 tháng 2018 9 tháng 2019
0 N. Zealand 1.826 3.158 Brunei 0
53.36 88.32 Nhật Bản 7,090.69 3,067.34 Canada
Chile 0 0.29 Peru 0 0
Malaysia 205.95 120.44 Singapore 3,670.80 3,773.15
Mexico 0.008 0 Úc 66.58 149.52
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
49
Xét về khía cạnh đầu tư ra nước ngoài, tính chung trong 9 tháng đầu năm 2019,
tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài đạt 431.68 triệu USD. Lĩnh vực bán buôn,
bán lẻ dẫn đầu với tổng vốn đầu tư là 110.6 triệu USD, chiếm 25.6% tổng vốn đầu tư,
lĩnh vực hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ đứng thứ hai với 83.36 triệu
USD và chiếm 19.3% tổng vốn đầu tư, lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
đứng thứ ba với 64.14 triệu USD, chiếm 14.9% tổng vốn đầu tư. Xét về địa điểm đầu
tư, Úc là địa bàn dẫn đầu về vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài với 140.63 triệu
USD, chiếm 32.6% tổng vốn đầu tư. Mỹ xếp thứ hai với 20 dự án, tổng vốn đầu tư là
59.86 triệu USD, chiếm 13.9% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các nước như Tây Ban
Nha, Campuchia, Singapore, Canada, v.v. Riêng tại thị trường Úc thời gian gần đây
ghi nhận ba dự án đầu tư ra nước ngoài lớn của doanh nghiệp Việt Nam. Đầu tiên là
hai thương vụ ngành nông nghiệp đến từ Tập đoàn TH. Đó là dự án chăn thả đàn bò
tự nhiên, trang trại chăn nuôi, trồng bông, hướng dương, ngô tươi sạch, du lịch trang
trại, với vốn đầu tư 46.5 triệu USD; và dự án chăn thả tự nhiên đàn bò, trồng và chế
biến nước ép xoài, tinh dầu từ gỗ đàn hương có chất lượng cao trị giá 42 triệu USD.
Như vậy hai dự án của Tập đoàn TH có tổng số vốn đăng ký là 88.5 tỷ USD, và đã
được Bộ Kế Hoạch và Đầu tư cấp phép vào tháng 08 năm 2019 (Hà Nguyễn, 2019).
Dự án thứ ba là của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam Vietcombank, với
việc tiến hành mở chi nhánh đầu tiên của một ngân hàng Việt Nam tại Úc, với trụ sở
đặt tại Sydney. Hiện dự án đã được sự chấp thuận từ NHNN vào đầu tháng 10 năm
2019. Theo quy định thì Vietcombank phải hoàn tất việc khai trương chi nhánh tại
Úc sau 24 tháng kể từ ngày được NHNN phê duyệt (Hải Kim, 2019).
2.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI
Đầu tiên là nhận thức về Hiệp định CPTPP của các doanh nghiệp còn thấp.
Theo một khảo sát của VCCI, đối với 8,600 doanh nghiệp tham gia khảo sát, chỉ có
khoảng 26% doanh nghiệp có tìm hiểu Hiệp định CPTPP, còn lại hơn 70% doanh
nghiệp chưa rõ về hiệp định này. Điều này dẫn đến việc tận dụng hiệp định để mở
rộng thị trường các nước CPTPP còn hạn chế. Theo ông Ngô Chung Khanh, Phó vụ
trưởng Vụ Thương mại Đa biên của Bộ Công Thương, trong 6 tháng đầu năm 2019,
50
hàng hoá xuất khẩu theo mẫu CPTPP chỉ đạt 190 triệu USD trong tổng số 16.4 tỷ
USD hàng hóa xuất khẩu, tương ứng với việc chỉ tận dụng được 1.17% (Thế Hoàng,
2019). Hiện trạng cho thấy các doanh nghiệp chưa thực sự chủ động, quan tâm đến
việc tìm hiểu hiệp định này.
Vấn đề thứ hai cũng là vấn đề quan trọng nhất chính là khung pháp lý, pháp
luật, thể chế chưa hoàn thiện, độ minh bạch và tính cạnh tranh chưa cao. Cụ thể chính
là vấn đề thủ tục hành chính còn rườm rà, tình trạng giấy phép con, giấy phép cháu
còn phức tạp. Mặc dù đã có những nỗ lực từ phía Chính phủ và các Bộ, ban ngành
trong việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nhiều điều kiện kinh doanh cũng
như các giấy phép đã được cắt giảm liên tục, song tất cả dường như chưa đủ. Nhìn về
con số, đã có trên 50% điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính được cắt giảm. Tuy
nhiên, vẫn có tình trạng “dồn nhiều văn bản vào một”, nhưng thủ tục thì không thay
đổi. Theo VCCI, hiện còn rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, kiểm tra
chuyên ngành, tới 355 văn bản, rất khó cho doanh nghiệp thực hiện tra cứu, cập nhật.
Không ít trường hợp kiểm tra chồng chéo, một mặt hàng chịu nhiều hình thức quản
lý của nhiều bộ, chịu sự kiểm tra của nhiều đơn vị trong cùng một bộ (Phong Nguyễn,
2019). Như vậy, vấn đề ở đây không phải là đo đếm số lượng giấy phép hoặc điều
kiện kinh doanh được cắt giảm, mà mấu chốt là vấn đề vận hành, yếu tố con người
để thay đổi thể chế thực sự, chứ không phải là hình thức cắt giảm đơn thuần.
Vấn đề tiếp theo là quy mô, trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực
của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, dẫn đến năng lực cạnh tranh thấp. Khi
so sánh với các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong nước luôn kém cạnh tranh
hơn về giá thành sản phẩm, chất lượng sản phẩm cũng như tiến độ giao hàng. Do quy
mô nhỏ, khả năng tiếp cận vốn hạn chế nên doanh nghiệp trong nước khó có khả năng
đổi mới công nghệ, nâng cao tay nghề cho người lao động, dẫn đến sản phẩm có sức
cạnh tranh thấp, và vô hình chung giảm khả năng được nhà đầu tư nước ngoài chấp
nhận. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn thiếu tầm nhìn chiến lược phù hợp với chuỗi
giá trị, hoặc chưa quan tâm đến việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, mà vẫn còn
tư duy làm ăn manh mún, nhỏ lẻ. Phần nhiều các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ
51
quan tâm đến cạnh tranh bằng giá, và tiếp theo là chất lượng sản phẩm, nhưng lại
quên đi các khía cạnh khác như khả năng sản xuất quy mô lớn, giao hàng đúng thời
điểm và tiếp cận các kênh phân phối phù hợp.
Một vấn đề quan trọng khác là năng suất lao động còn thấp hơn nhiều so với
các nước khác. Theo Tổng Cục Thống Kê, năng suất lao động năm 2018 của
Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia lần lượt gấp 13.7 lần, 5.3 lần, 2.7 lần và
2.2 lần năng suất lao động của Việt Nam. Đáng chú ý là khoảng cách chênh lệch tuyệt
đối vẫn tiếp tục gia tăng. Tính theo PPP 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm
2018 đạt 11,142 USD, chỉ bằng 7.3% mức năng suất của Singapore, 19% của
Malaysia, 37% của Thái Lan, 44.8% của Indonesia và bằng 55.9% năng suất lao động
của Philippines. Báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy những
đánh giá tương tự. Cụ thể, theo Bộ này, năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo
giá hiện hành năm 2018 ước tính đạt 102.2 triệu đồng/lao động (tương đương 4,512
USD/lao động, tăng 5.93% so với năm 2017). Tính theo giá so sánh năm 2010, năm
2018 năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/30 lần Singapore, 29% năng suất lao
động của Thái Lan, 13% năng suất lao động của Malaysia, 44% năng suất lao động
của Philippines (Lương Bằng, 2019). Nguyên nhân được cho là do quy mô nền kinh
tế của Việt Nam còn nhỏ và có xuất phát điểm thấp. Bên cạnh đó, quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực nhưng còn chậm. Các ngành công nghiệp,
dịch vụ, nhất là những ngành dịch vụ trình độ cao có khả năng thúc đẩy nền kinh tế
như tài chính, ngân hàng, du lịch còn chiếm tỷ trọng thấp.
Tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ còn diễn ra phức tạp, đơn cử như việc hàng
hoá giả mạo nhãn mác, thương hiệu, xuất xứ. Hiện nay, các đối tượng sản xuất hàng
giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đa số sử dụng công nghệ cao, trang thiết bị hiện
đại nên rất khó phát hiện, có những sản phẩm, hàng hóa làm giả tinh vi đến mức chính
doanh nghiệp sản xuất, người tiêu dùng cũng không phát hiện được. Điều này không
chỉ gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu bị xâm phạm như giảm thị phần, giảm lợi
nhuận kinh doanh, đánh mất niềm tin của khách hàng đối với sản phẩm, mà còn gây
thiệt hại cho người tiêu dùng khi phải trả tiền không tương xứng với chất lượng hàng
52
thật, hoặc làm tổn hại đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng. Điển hình là đầu
tháng 10 năm 2019, một lô hàng vải và quần áo có nguồn gốc Trung Quốc nhưng giả
xuất xứ Việt Nam và Hàn Quốc đã bị phát hiện tại cảng Cát Lái, TP.HCM. Qua kiểm
tra bước đầu, cơ quan hải quan phát hiện, lô hàng gồm 47 kiện quần áo, xuất xứ từ
Trung Quốc, nhưng trên sản phẩm ghi rõ xuất xứ Việt Nam, xuất xứ Hàn Quốc. Trong
đó, có 3,000 mẫu quần, áo được gắn sẵn nhãn "Made in Vietnam", khoảng hơn 2,000
mẫu là "Made in Korea" hoặc chưa gắn nhãn. Trị giá tính thuế lô hàng ban đầu được
doanh nghiệp khai báo là 49,000 USD (N. Bình, 2019). Nguyên nhân dẫn đến tình
trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày một gia tăng là do lợi nhuận và một số chủ
sở hữu trí tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của mình nên không đăng
ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, bảo vệ quyền sở hữu tài sản vô hình. Ngoài ra, một số
doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc phát hiện và ngăn ngừa việc làm giả, nhái
các sản phẩm, hàng hóa của mình, chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chức
năng trong việc thanh kiểm tra, xử lý sản phẩm, hàng hóa xâm phạm sở hữu trí tuệ.
Riêng đối với ngành dệt may, còn nhiều khó khăn về nội địa hoá và khả năng
đáp ứng quy tắc “Từ sợi trở đi” của Hiệp định CPTPP. Theo một báo cáo của Ngân
hàng ACB (2019), các doanh nghiệp vẫn đang phải nhập phần lớn nguyên phụ liệu
để phục vụ sản xuất, xuất khẩu – trong đó nhập khẩu gần 99% bông, 1.3 triệu tấn xơ
sợi và 80% vải trong năm 2018. Riêng đối với lĩnh vực may, dù Việt Nam có thế
mạnh đứng thứ hai thế giới về sản lượng, tuy nhiên chủ yếu vẫn là hình thức gia công
với 76% lao động trong ngành dệt may là lao động phổ thông. Điều này khiến cho cơ
hội tham gia sâu rộng của ngành dệt may Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu gần
như là rất thấp. Đồng thời, phần lớn các nguyên phụ liệu dệt may nhập từ Trung Quốc,
cũng sẽ khiến cho doanh nghiệp dệt may Việt không được hưỡng ưu đãi thuế quan
ngay trong chính thị trường nội khối CPTPP.
Ngành tài chính của Việt Nam vẫn còn chưa phát triển tương xứng với các
nước còn lại. Một điểm có thể nhận thấy rõ là các NHTM của Việt Nam chưa triển
khai xong Basel II, một tiêu chuẩn cơ bản trong hệ thống ngân hàng mà nhiều nước
trong khối CPTPP đã áp dụng từ lâu. Chính điều này làm cho hiệu quả trong điều
53
hành và quản lý của hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa cao, đồng thời khiến cho các
nhà đầu tư nước ngoài thiếu niềm tin khi đưa ra các quyết định rót vốn vì độ an toàn
và minh bạch của hệ thống chưa cao. Bên cạnh đó, một số vấn đề mới trong các cam
kết thuộc Hiệp định CPTPP như tự do hoá tài khoản vốn, chuyển thông tin ra nước
ngoài, dịch vụ tái nhượng bảo hiểm qua biên giới, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư
qua biên giới chưa có lộ trình triển khai, cũng như chưa được đưa vào dự thảo quy
định pháp luật nào để lấy ý kiến từ các bên liên quan. Sự chậm trễ này có thể khiến
cho ngành tài chính hụt hơi khi phải cạnh tranh với các nước trong khối nếu các nước
này bắt đầu triển khai tại thị trường Việt Nam.
Tóm tắt chương 2
Có thể thấy rằng Hiệp định CPTPP đã bước đầu có những ảnh hưởng tích cực
đến nền kinh tế Việt Nam xét trên khía cạnh giao dịch thương mại trong hoàn cảnh
kinh tế thế giới có nhiều bất ổn, tuy nhiên có thể nói các tác động này còn khá khiêm
tốn so với kỳ vọng. Bản thân Hiệp định CPTPP và phiên bản trước đó là TPP cũng
đã tạo ra áp lực buộc Việt Nam phải cải cách hệ thống pháp luật để thực hiện các cam
kết của mình. Những yêu cầu, đòi hỏi từ Hiệp định CPTPP sẽ còn tiếp tục giúp Việt
Nam đi đúng hướng trên con đường hội nhập toàn cầu. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tài
nhiều vướng mắc cần sự phối hợp giải quyết của các bên vừa để nâng cao năng lực
cạnh tranh và còn tận dụng tốt hơn lợi ích từ Hiệp định CPTPP.
54
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT DÀNH CHO VIỆT NAM NHẰM TẬN DỤNG
TỐT HƠN HIỆP ĐỊNH TPP/CPTPP
3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SẮP TỚI
Năm 2019 dự kiến sẽ là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam hoàn thành toàn bộ
12/12 chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội chủ yếu, với 7 chỉ tiêu đạt và 5 chỉ
tiêu vượt kế hoạch. Hiện Chính phủ và các Bộ, ban ngành vẫn đang tiếp tục nỗ lực
với tâm lý không chủ quan trong các tháng còn lại của năm nhằm tạo tiền đề vững
chắc để bước sang năm 2020. Do năm 2020 là năm cuối cùng của nhiệm kỳ 5 năm
2016 – 2020, cũng như nhiệm kỳ 10 năm 2011 – 2020, nên nếu thực hiện thành công
các mục tiêu và nhiệm vụ của Kế hoạch 5 năm 2016 – 2020 và Kế hoạch 10 năm
2011 – 2020 thì có thể tạo nền tảng vững chắc để xây dựng các kế hoạch 5 năm, 10
năm trong giai đoạn sắp tới.
Sau Hiệp định CPTPP, vào ngày 30 tháng 06 năm 2019, Việt Nam và Liên
minh châu Âu đã chính thức ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
(EVFTA). Cho đến thời điểm hiện tại thì CPTPP và EVFTA là hai hiệp định thương
mại tự do có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam. Vì
vậy, song hành với CPTPP thì EVFTA cũng sẽ trở thành một áp lực lớn thúc đẩy Việt
Nam cải cách và phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam và một số nước trong khu vực
đang tiến hành hoàn tất những bước đàm phán cuối cùng của Hiệp định Đối tác Kinh
tế Toàn diện Khu vực (RCEP), và sẽ nỗ lực để hoàn tất ký kết vào năm 2020. Vậy
Việt Nam có khả năng sẽ có thêm một hiệp định lớn nữa trong thời gian gần, tiếp tục
mang đến nhiều cơ hội và thách thức hơn.
Mặc dù vậy, tình hình kinh tế và chính trị thế giới hiện tại vẫn phức tạp. Điển
hình lớn nhất chính là chiến tranh thương mại Mỹ – Trung vẫn chưa có hồi kết, cả
hai cường quốc liên tục có những hành động trả đũa lẫn nhau. Dù trong thương chiến
vẫn có những động thái mang tính hoà hoãn với những cuộc đàm phán nhằm tìm kiếm
một thoả thuận thương mại song phương, song vẫn chưa có một kết quả có thể khiến
nền kinh tế thế giới có thể an tâm. Bên cạnh đó, điểm nóng biểu tình tại Hồng Kông
đã trải qua hơn năm tháng nhưng vẫn chưa hề có dấu hiệu hạ nhiệt, điểm nóng Syria
55
lại đang tiếp tục nóng lên thêm từng ngày do các hành động đơn phương của Mỹ và
Thổ Nhĩ Kỳ cùng với sự tham gia của Nga, và vấn đề Brexit đã lại tiếp tục được hoãn
sang đầu tháng 01 năm 2020. Với tình hình hết sức khó đoán của thế giới hiện tại,
một số nhà phân tích đang phát đi cảnh báo về một cuộc suy thoái sắp xảy ra.
Bên cạnh đó, tình hình nội tại của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém
cần cải thiện. Chính vì vậy, việc tự nâng cao năng lực cạnh tranh cải thiện sức mạnh
của nền kinh tế là phương thức duy nhất có thể giúp Việt Nam đứng vững trong bối
cảnh đầy biến động và bất ổn của thế giới. Hiệp định CPTPP sẽ ngày càng tác động
mạnh mẽ và sâu rộng đến nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, chính vì vậy cần
phải tận dụng áp lực của hiệp định này làm động lực phát triển đất nước.
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN SẮP TỚI
3.2.1. Nhóm kiến nghị dành cho cơ quan ban ngành
3.2.1.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin về Hiệp định CPTPP
Một trong những nhiệm vụ cơ bản đã được Thủ tướng giao cho các Bộ, ban
ngành cần phải tổ chức triển khai thực hiện sớm là tuyên truyền, phổ biến thông tin
về Hiệp định CPTPP và thị trường của các nước tham gia Hiệp định CPTPP. Theo
đó, cần phải phổ biến đến những đối tượng có liên quan như nông dân, ngư dân, hiệp
hội các ngành nghề, các hợp tác xã, cộng đồng doanh nghiệp đặc biệt là DNNVV.
Nội dung cần phổ biến là các quy định, các cam kết của Việt Nam và các nước bạn,
đặc biệt là những vấn đề mới như sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, doanh nghiệp
nhà nước, DNNVV, mua sắm công, lao động và môi trường. Những cơ hội và thách
thức cần được làm rõ cùng với việc đẩy mạnh dự báo nhu cầu thị trường trong nước
và thị trường xuất nhập khẩu nhằm giúp các bên nắm bắt thông tin và có hướng đi
thích hợp. Việc phổ biến thông tin có thể thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng như báo đài, các cổng thông tin điện tử và các hội thảo, hội nghị chuyên ngành.
Đồng thời, ngay trong nội bộ các cơ quan bàn ngành cũng phải tổ chức các lớp
tập huấn, phổ biến pháp luật, trang bị kiến thức cho các cán bộ, công chức, viên chức,
đặc biệt trong các lĩnh vực hải quan, phòng vệ thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí
tuệ, nông – lâm – ngư nghiệp, lao động và môi trường. Trong đó, Bộ Công Thương
56
đã được chỉ định làm Đầu mối thông tin chung về Hiệp định CPTPP, với nhiệm vụ
cung cấp thông tin, hướng dẫn và làm rõ các cam kết và các vấn đề có liên quan.
3.2.1.2. Tiếp tục tăng cường cải cách hệ thống pháp luật và hoàn thiện thể chế
Đây là nhiệm vụ tối quan trong và lâu dài của cà hệ thống, từ cấp trung ương
đến cấp địa phương. Mục tiêu là có một hệ thống pháp luật đơn giản, thống nhất,
không chồng chéo và mâu thuẫn với nhau, đồng thời phải dễ tiếp cận, thuận lợi cho
công tác thi hành và áp dụng. Cả trước và sau khi ban hành văn bản pháp luật, cần có
sự phối hợp giữa các bộ, ban ngành, các cục và cơ quan chính quyền cấp tỉnh, thành
phố trong việc ra soát, kiểm tra, thẩm định tính thống nhất của văn bản pháp luật,
phát hiện sớm những quy định chồng chéo, mâu thuẫn để kịp thời sửa đổi hoặc loại
bỏ ra khỏi hệ thống.
Với một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật phức tạp và cồng kềnh như
hiện tại, việc theo dõi, áp dụng và xác định thứ bậc hiệu lực của văn bản quy phạm
pháp luật gặp không ít khó khăn. Vì vậy, cần thu gọn các loại văn bản chứa quy phạm
pháp luật nhằm làm cho hệ thống pháp luật đơn giản hơn, tạo thuận lợi cho việc bảo
đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật dễ tiếp cận,
thuận lợi cho công tác thi hành và áp dụng pháp luật. Đồng thời, cần xây dựng hệ
thống pháp luật chi tiết, cụ thể, tránh việc ban hành “luật khung” sau đó lại uỷ quyền
cho các cơ quan có thẩm quyền khác quy định chi tiết. Bên cạnh đó, cần phải đưa ra
một quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng bảo đảm
tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Công tác giám sát, kiểm tra, thẩm định văn
bản quy phạm pháp luật cũng phải được chú trọng. Cuối cùng, phải nâng cao nhận
thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn bản quy phạm pháp luật và trách
nhiệm của lãnh đạo các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; đảm bảo mục tiêu quản lý
nhà nước, quản lý xã hội, không được xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Hiện tại Việt Nam vẫn còn thiếu các quy định cụ thể về cách xác định như thế
nào thì một sản phẩm được coi là “sản phẩm của Việt Nam” hoặc “sản xuất tại Việt
Nam”. Chính điều này đã gây lúng túng cho các cá nhân, tổ chức khi muốn ghi nhãn
57
hàng hoá và còn gây nên tình trạng nhiều doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở chính sách để
trục lợi. Một vụ việc đang nóng gần đây là vụ Công Ty Cổ Phần Tập Đoàn Asanzo
nhập hầu hết các nguyên liệu và linh kiện từ nước ngoài, trong nước chỉ thực hiện
những công đoạn gia công, lắp ráp, đóng gói đơn giản nhưng vẫn ghi xuất xứ hàng
hoá Việt Nam. Vụ việc đã gây bức xúc trong dư luận và cộng đồng và vẫn đang tiếp
tục được điều tra. Bước đầu Tổng Cục Hải Quan đã xác định công ty có dấu hiệu vi
phạm sở hữu công nghiệp và trốn thuế. Vì vậy, việc sớm ban hành một văn bản pháp
luật quy định chi tiết về cách xác định hàng hoá có xuất xứ từ Việt Nam là hết sức
khẩn cấp để phòng tránh tình trạng giả mạo xuất xứ.
Ngoài ra, các cơ quan ban ngành cần tiếp tục ra soát các văn bản pháp luật và
tiến hành điều chỉnh, sửa đổi sao cho phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong
các hiệp định thương mại như CPTPP, đặc biệt là trong các lĩnh vực mới như sở hữu
trí tuệ, thương mại điện tử, chính sách cạnh tranh, mua sắm công, doanh nghiệp nhà
nước, lao động và môi trường.
3.2.1.3. Tăng cường các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát
triển nguồn nhân lực
Về góc độ quốc gia, cần xây dựng các chương trình hỗ trợ, nâng cao năng lực
cạnh tranh cho các ngành hàng chủ lực, đưa ra chiến lược nhằm hỗ trợ doanh nghiệp
tham gia vào mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng khuc vực và toàn cầu.
Đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp theo mô hình sản xuất tiên tiến, ứng dụng khoa
học, công nghệ an toàn và thân thiện với môi trường. Thúc đẩy phát triển các ngành
công nghiệp nền tảng, công nghiệp hỗ trợ còn đang yếu kém, các ngành có lợi thế so
sánh hoặc có tiềm năng phát triển gắn với Hiệp định CPTPP. Bên cạnh đó, cần phải
đẩy mạnh việc dạy nghề gắn với nhu cầu thực tiễn, phát triển nhân lực chất lượng
cao, đặc biệt trong các ngành kỹ thuật, công nghệ, tài chính. Ngoài ra, phải nhanh
chóng xây dựng các thương hiệu hàng hoá mạnh của quốc gia. Tổ chức lại hệ thống
phân phối hàng hoá trong nước và tiếp cận hệ thống phân phối bán lẻ ở thị trường
nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động truyền thông và xúc tiến thương mại ở ngoài nước.
Đối với mỗi địa phương, cần tập trung ưu tiên phát triển các sản phẩm chủ lực
và xây dựng kế hoạch phát triển các nhóm sản phẩm tiềm năng. Tổ chức các đoàn
58
làm việc với các doanh nghiệp để tìm hiểu tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh,
giới thiệu về các chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực để doanh nghiệp đăng
ký tham gia. Có thể đưa ra một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển như hỗ
trợ về vốn, về mặt bằng, về thuế và thủ tục hải quan, hỗ trợ phát triển khoa học công
nghệ, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại và phát triển thương hiệu. Bên cạnh đó,
cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, ra soát, điều chỉnh các chính sách, tạo
lập môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi để tăng cường thu hút FDI. Điều chỉnh
chính sách phát triển khu công nghiệp theo hướng tạo điều kiện liên kết sản xuất giữa
DNNVV với doanh nghiệp FDI, tăng cường quan hệ cung ứng sản xuất giữa các bên,
giữa các khu công nghiệp và liên kết ngành.
3.2.1.4. Đẩy mạnh công cuộc số hoá, cách mạng công nghiệp 4.0
Đây là một trong những nhiệm vụ mới phát sinh trong giai đoạn gần đây do
sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của khoa học công nghệ. Vì là vấn đề mới nên
trước hết cần đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền, các cá
nhân và tập thể, nhấn mạnh nội dung cốt lõi là thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ
và đổi mới sáng tạo trên các góc độ kinh tế số, chính quyền điện tử và sau này là
chính quyền số. Để tạo nền tảng thuận lợi cho nhiệm vụ này thì phải hoàn thiện pháp
luật về đổi mới sáng tạo, sở hữu trí tuệ và khởi nghiệp gắn với cách mạng công nghệ
4.0; xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi
cho đổi mới sáng tạo cùng với việc phối hợp, tiến tới liên kết khu vực và quốc tế. Bên
cạnh đó, cần chú trọng đến công tác quản trị và chia sẻ dữ liệu trên cơ sở đảm bảo an
toàn, an ninh trên mạng.
Tiếp theo, cần đảm bảo phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ, không chỉ là hạ tầng
viễn thông mà còn cả hạ tầng dữ liệu quốc gia nhằm phục vụ mục đích chuyển đổi số
quốc gia. Cần nhanh chóng xây dựng hệ thống trung tâm dữ liệu quốc gia, các trung
tâm dữ liệu vùng và địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất, mà trong đó các dữ
liệu phải đảm bảo tính tin cậy và ổn định. Ngoài hạ tầng cứng thì song song đó phải
có chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên cơ sở áp dụng công nghệ
số, xây dựng các mô hình đào tạo kiểu mới trên nền tảng số. Nguồn nhân lực phải
59
được phát triển năng lực tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng trong môi trường
công nghệ thay đổi liên tục. Có thể xây dựng một số trung tâm đào tạo theo hình thức
hợp tác công – tư, khuyến khích và ưu đãi các tổ chức, các doanh nghiệp công nghệ
tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục đào tạo.
3.2.1.5. Tăng cường các biện pháp quản lý, ngăn chặn hàng lậu, giả mạo xuất xứ
Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đã diễn ra căng thẳng trong thời gian dài
và vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt đáng kể, cộng thêm việc người tiêu dùng Việt ngày
càng ưa chuộng hàng hoá có xuất xứ tại Việt Nam, đã khiến cho tình trạng hàng hoá
nhập lậu và giả mạo xuất xứ từ các nước xung quanh và đặc biệt là Trung Quốc diễn
biến hết sức phức tạp. Theo thống kê của Tổng cục Quản lý Thị trường thuộc Bộ
Công Thương, trong ba năm 2016 – 2018, lực lượng quản lý thị trường cả nước đã
kiểm tra trên 505,704 lượt, xử lý 300,699 vụ; tổng số thu nộp ngân sách trên 1,520 tỷ
đồng; trị giá hàng tiêu huỷ trên 483 tỷ đồng (Tố Uyên, 2018).
Vì vậy, để ngăn chặn tình trạng hàng hoá nhập lậu, giả mạo xuất xứ tuồn vào
Việt Nam để tiêu thụ và trục lợi gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng trong nước và
các đối tác xuất khẩu, cần có sự nỗ lực và phối hợp từ các cơ quan có thẩm quyền,
đặc biệt và cơ quan Hải quan và Quản lý Thị trường. Cần xây dựng, triển khai đồng
bộ các phương án, kế hoạch công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường; thực hiện tốt việc
thông tin, báo cáo kịp thời, chính xác để có các giải pháp phù hợp với tình hình thực
tế. Đồng thời cần tiếp tục rà soát, nghiên cứu sử đổi, bổ sung các văn bản quy phạm
pháp luật, cơ chế liên quan đến công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại, giả
mạo xuất xứ hàng hoá theo hướng tăng nặng các mức xử phạt hành chính, đưa ra xét
xử hình sự các vụ việc nghiêm trọng. Ngoài ra, phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật
công vụ, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, bao che, tiếp tay cho buôn
lậu, gian lận thương mại và giả mạo xuất xứ hàng hoá.
Bên cạnh các biện pháp mang tính chính sách, cũng cần chú trọng đến việc
thu thập thông tin cảnh báo nguy cơ vi phạm về buôn lậu và giả mạo xuất xứ hàng
hoá. Tập trung thu thập, phân tích, xử lý thông tin đối với các mặt hàng, doanh nghiệp;
xác lập tiêu chí và trích lọc danh sách các mặt hàng, doanh nghiệp có rủi ro cao về
60
buôn lậu, giả mạo xuất xứ hàng hoá, chẳng hạn như khi kim ngạch xuất nhập khẩu
tăng cao đột biến. Hơn nữa, cần đẩy mạnh số hoá, áp dụng công nghệ thông tin vào
công tác quản lý điều hành và kiểm tra, xử lý; xây dựng và ứng dụng hệ thống chứng
từ điện tử hàng hoá nhằm phục vụ công tác quản lý thị trường và truy xuất nguồn gốc.
3.2.1.6. Hoàn thiện và phát triển cơ sở hạ tầng về vận tải hàng hoá
Hiện tại, cơ sở hạ tầng logistics ở Việt Nam chưa đầy đủ và hoàn thiện, chi
phí cho logistics còn cao, kết nối hạ tầng yếu, khả năng xếp dỡ và trung chuyển kém,
còn thiếu các trung tâm logistics có năng lực xử lý tương xứng. Vì vậy, trước hết cần
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng logistics đồng bộ và hiện tại, ưu tiên xây dựng hạ tầng
kết nối mạng lưới giao thông vận tải theo hướng đa phương thức, tận dụng hiệu quả
hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông hiện có. Quy hoạch và xây dựng các trung tâm
logistics quy mô lớn theo chuẩn mực quốc tế tại các hành lang kinh tế, có khả năng
kết nối các loại phương tiện vận tải và liên kết các vùng kinh tế trọng điểm. Đồng
thời, cũng cần đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo hướng chuyên
nghiệp, hiện đại, thích ứng tốt với các công nghệ mới.
Bên cạnh đó, cần có các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước đầu tư vào hạ tầng dịch vụ logistics.
Một trong những giải pháp được kỳ vọng là phương thức đối tác công – tư (PPP),
giúp đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên. Vì vậy, cần sớm hoàn thiện khung chính
sách và ban hành luật về TPP để tạo hành lang pháp lý cho phát triển ngành logistics.
Đồng thời, cũng cần rà soát, điều chỉnh quy hoạch vể quỹ đất theo hướng tăng thêm
quỹ đất dành cho đầu tư logistics.
3.2.1.7. Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Đây là những cam kết mà Việt Nam cùng các thành viên khác đã thống nhất
trong Hiệp định CPTPP. Với tình hình ô nhiễm nghiêm trọng nhiều mặt tại Việt Nam
hiện tại, cần có những giải pháp căn cơ và quyết liệt. Trước hết, cần phải điều chỉnh
các luật lệ liên quan đến bảo vệ môi trường theo hướng thắt chặt hơn. Đối với môi
trường tự nhiên, cần tăng cường công tác kiểm lâm bảo vệ rừng, ngăn chặn và đẩy
lùi mọi hành động phá hoại rừng. Thường xuyên giám sát và đánh giá chất lượng xả
61
thải, đẩy mạnh kiểm tra và xử phạt các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường hoặc
không có biện pháp để giảm thiểu gây ô nhiễm môi trường. Các dự án trước khi đưa
vào triển khai cần có đánh giá tác động môi trường hoàn chỉnh và toàn diện, không
thể để vì phát triển kinh tế mà bỏ qua vấn đề môi trường. Có thể xem xét đến việc
tăng thuế tiêu thụ các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường như nhựa dùng một lần để
hạn chế việc sử dụng, từ từ đi đến loại bỏ.
Bên cạnh đó, cần tuyên truyền rộng rãi và nâng cao ý thức cho người dân về
vấn đề bảo vệ môi trường. Triển khai công tác phân loại rác thải tại nguồn để tạo
thuận lợi cho việc xử lý và tái chế. Cần xây dựng sớm các nhà máy xử lý, tái chế rác
thải sử dụng công nghệ mới, thân thiện với môi trường. Đồng thời, khuyến khích đầu
tư và nghiên cứu vào các phương pháp xử lý, tái chế rác thải theo hướng vận dụng
các công nghệ hiện đại và thân thiện với môi trường. Và để làm được vậy thì cần có
khung pháp lý phù hợp, có nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp và các dự án như thế
này, và kêu gọi sự hỗ trợ, hợp tác từ các đơn vị nước ngoài đã có nhiều kinh nghiệm.
3.2.2. Nhóm kiến nghị dành cho doanh nghiệp
3.2.2.1. Chủ động tìm hiểu về Hiệp định CPTPP
Yêu cầu đầu tiên đặt ra với mỗi doanh nghiệp là cần phải chủ động tìm hiểu
nội dung của Hiệp định CPTPP, đặc biệt là các cam kết về thuế quan và quy tắc xuất
xứ, nhằm trang bị các kiến thức căn bản nhất khi muốn giao dịch xuất nhập khẩu với
bất kỳ nước nào trong khối CPTPP. Nếu có vấn đề không rõ, các doach nghiệp có thể
gọi điện thoại và gửi email để nhận hỗ trợ từ Trung tâm WTO và Hội nhập của VCCI.
Cùng với đó, đơn vị này cũng đã biên soạn và phát hành “Cẩm nang tóm lược CPTPP”
bao gồm hướng dẫn cách đọc hiểu hiệp định, tóm tắt ngắn gọn các cam kết và nhiều
câu hỏi – đáp tóm lược nội dung hiệp định theo từng nhóm vấn đề, doanh nghiệp có
thể tham khảo cuốn cẩm nang này song song với Hiệp định CPTPP.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nên tham gia vào các buổi hội nghị, hội thảo trình
bày và giải đáp các thắc mắc về Hiệp định CPTPP, đồng thời thảo luận và tham vấn
cho các cơ quan Nhà nước về quá trình luật hoá các cam kết trong hiệp định. Các
doanh nghiệp nên liên kết với nhau và cùng với hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành
nghề vận động và có tiếng nói hiệu quả đến việc xây dụng chính sách cho CPTPP.
62
3.2.2.2. Nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh
Trước hết, mỗi lãnh đạo doanh nghiệp cần tự trau dồi, nâng cao trình độ học
vấn và kiến thức chuyên môn, sau đó là các kiến thức về kinh tế và pháp luật. Đồng
thời, cần tăng cường năng lực quản lý và kỹ năng quản trị doanh nghiệp, kỹ năng đàm
phán và giao tiếp, các kỹ năng phân tích kinh doanh, dự báo và định hướng chiến
lược phát triển. Một vấn đề trọng yếu khác mà chủ doanh nghiệp cũng cần chú trọng
chính là kỹ năng ngoại ngữ mà trước hết là tiếng Anh và trình độ công nghệ thông
tin, vì đây là những thứ không thể thiếu trong quá trình hội nhập với thế giới. Có thể
tham gia các khoá học đào tạo doanh nhân cho giám đốc và các nhà quản lý, các lớp
đào tạo chuyên sâu về kế toán tài chính và quản trị doanh nghiệp.
Đối với nguồn nhân lực, cần có chiến lược đào tạo phù hợp với từng cấp bậc
để nâng cao năng suất lao động, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện để người
lao động sáng tạo ra những phương thức lao động hiệu quả, tiết kiệm nguồn lực cho
cả người lao động và doanh nghiệp. Hơn nữa, phải xây dựng chính sách lương thưởng,
chính sách đãi ngộ phù hợp để giữ lực lượng lao động ổn định và thu hút những lao
động khác, đặc biệt là những lao động giỏi và lành nghề.
Đối với sản phẩm, cần nâng cao chất lượng và giảm giá thành chi phí bằng
cách cải tiến và áp dụng các công nghệ mới cùng với máy móc và trang thiết bị giúp
nâng cao nâng suất và tiết kiệm chi phí nguyên liệu. Nguồn nguyên vật liệu cần được
đảm bảo chất lượng để đảm sản phẩm sản xuất ra đáp ứng được các tiêu chuẩn về
chất lượng, đồng thời cũng nên tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu mới, vật liệu thay thế
mà vẫn đảm bảo phù hợp với các tiêu chuẩn đã đặt ra. Bên cạnh đó, ngay cả quá trình
quản lý cũng cần áp dụng mạnh mẽ các phần mềm công nghệ thông tin phù hợp với
quy mô và trình độ doanh nghiệp để nâng cao hiệu suất quản lý và tiết kiệm chi phí.
Một điểm cuối cùng doanh nghiệp cần quan tâm đến là vấn đề nghiên cứu.
Việc nghiên cứu sở thích tiêu dùng của khách hàng là cấn thiết để từ đó đưa ra các
sản phẩm đa dạng hoá về mẫu mã, chất lượng và giá thành để tận dụng tối đa các
phân khúc thị trường, hoặc nhắm đến phân khúc phù hợp để mở rộng phát triển. Tiếp
đến, cần nghiên cứu đến các thị trường mới, thị trường tiềm năng, như các thị trường
63
nước ngoài để tận dụng các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do. Nếu sản phẩm
có chất lượng đáp ứng được yêu cầu của các thị trường mới thì sẽ có cơ hội để thâm
nhập và mở rộng thị trường sang các nước này. Và cuối cùng, cần tập trung để đầu
tư, nghiên cứu nhằm cải tiến, nâng cao hiệu quả máy móc thiết bị, tìm ra các công
nghệ mới, phương tiện sản xuất mới để nâng cao năng suất và tiết kiệm chi phí.
3.2.2.3. Vạch ra định hướng và có tư duy phát triển phù hợp
Các doanh nghiệp cũng nên thay đổi tư duy và định hướng phát triển sao cho
phù hợ với quy mô, khả năng và nhu cầu của thị trường. Chẳng hạn như chuyển
hướng vào những thị trường ngách, nơi những công ty lớn không khai thác hoặc khó
tiếp cận. Doanh nghiệp cũng có thể tạo ra sản phẩm mang tính sáng tạo và độc lập
cao, chuyên biệt hoá sản phẩm của mình nhằm tạo ra ưu thế cạnh tranh trong khi
không thể cạnh tranh về giá với các công ty có quy mô và tiềm lực tài chính lớn. Hoặc
có những chính sách bán hàng và sau bán hàng đặc biệt, như giao hàng nhanh, giao
hàng hoả tốc, chính sách đổi trả và bảo hành trong thời gian ngắn. Ngoài những kênh
phân phối truyền thống, có thể đưa hàng hoá lên các sàn giao dịch thương mại điện
tử để mở rộng kênh phân phối. Đồng thời, cũng cần vạch ra một chiến lược phát triển
dài hạn, không chỉ riêng về sản phẩm và còn về định hướng kinh doanh của công ty,
chẳng hạn như các mốc thời gian để đưa ra một sản phẩm mới hoặc thâm nhập vào
một thị trường mới, kèm theo những điều chỉnh phù hợp để theo sát kế hoạch ban
đầu. Các doanh nghiệp cũng nên hợp tác với các doanh nghiệp khác và cộng đồng
doanh nghiệp để cùng nhau phát triển và hội nhập kinh tế. Một điều cuối cùng là cần
xây dựng văn hoá doanh nghiệp chuyên nghiệp, lành mạnh, tích cực, sáng tạo và
hướng đến xã hội. Một doanh nghiệp có văn hoá tốt sẽ có hình ảnh đẹp trong mắt đối
tác, các nhà đầu tư và của cả xã hội.
3.2.3. Nhóm kiến nghị dành cho một số lĩnh vực cụ thể
3.2.3.1. Nhóm kiến nghị dành cho ngành dệt may
Để được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định CPTPP, hàng dệt may của
Việt Nam phải đáp ứng được quy tắc “Từ sợi trở đi”. Điểm nghẽn lớn nhất để đạt
được yêu cầu này nằm ở khâu dệt nhuộm, do đây là ngành có khả năng gây ô nhiễm
64
rất cao nên nhiều địa phương thường tránh do sợ ảnh hưởng đến môi trường. Vì vậy,
cần một quy hoạch tổng thể về các khu công nghiệp cho các doanh nghiệp dệt nhuộm,
đồng thời xây dựng các nhà máy xử lý nước thải cho các khu công nghiệp này, do chi
phí đầu tư rất lớn nên doanh nghiệp rất trông đợi vào chính sách hỗ trợ từ nhà nước.
Đồng thời, xây dựng phương án thu hút nhà đầu tư nước ngoài trong ngành dệt nhuộm
và xử lý nước thải sử dụng công nghệ cao, ít gây ảnh hưởng đến môi trường.
Các doanh nghiệp trong nước trong chuỗi giá trị từ bông, xơ sợi, dệt nhuộm
và cắt may cần liên kết với nhau và với các doanh nghiệp FDI để tạo nên một chuỗi
cung ứng khép kín trong ngành. Cần có chính sách thu hút đầu tư trong nước và từ
các nước thuộc Hiệp định CPTPP về các ngành công nghiệp hỗ trợ dệt may để đảm
bảo nguồn nguyên phụ liệu trong nước, đảm bảo và tăng dần tỷ lệ nội địa hoá. Ngoài
ra, cũng cần có biện pháp để ngăn chặn tình trạng di chuyển nhà máy sản xuất từ các
nước ngoài CPTPP như Trung Quốc, Đài Loan với mục đích trục lợi thuế suất ưu đãi
từ Hiệp định CPTPP.
Cuối cùng, cần phải có các phương án để theo đuổi mục tiêu lâu dài của ngành
dệt may là nâng dần giá trị gia tăng trong sản phẩm trong chuỗi giá trị. Nên giảm dần
gia công toàn phần, chuyển sang gia công từng phần, hướng tới tự thiết kế và xây
dựng thương hiệu. Do đó, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ việc nâng cao
tay nghề của công nhân cho đến tập trung vào nghiên cứu và phát triển thị trường, để
sau đó có những thiết kế phù hợp với nhu cầu, thị hiếu và thói quen của người tiêu
dùng. Đồng thời, cũng cần cải tiến máy móc thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin
trong cả sản xuất và quản lý điều hành.
3.2.3.2. Nhóm kiến nghị dành cho ngành tài chính – ngân hàng
Ngành tài chính – ngân hàng sẽ chứng kiến nhiều sự thay đổi được mang lại
bởi Hiệp định CPTPP do Việt Nam đã có nhiều cam kết mở cửa và tự do hoá thị
trường tài chính hơn so với trước kia. Vì vậy, NHNN cần có phương án và lộ trình
phù hợp để triển khai các cam kết này. Trước mắt, cần phối hợp với các NHTM còn
lại hoàn tất áp dụng chuẩn Basel II, còn đối với những đơn vị đã hoàn thành Basel II
thì cần theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm đảm bảo các quy định của Basel II được thực
65
thi đầy đủ và đúng tiêu chuẩn. Sau khi hoàn thành áp dụng chuẩn Basel II trên toàn
bộ hệ thống, NHNN cần hướng đến việc nghiên cứu và đánh giá khả năng áp dụng
chuẩn Basel III, để sau đó có lộ trình phù hợp nhằm triển khai đến các NHTM. Việc
áp dụng các chuẩn Basel mới nhất sẽ giúp hệ thống tài chính trở nên an toàn và minh
bạch hơn, đồng thời tăng khả năng vươn xa trên thị trường quốc tế. Xét trong nội bộ
CPTPP thì chỉ còn Brunei và Việt Nam là chưa bắt đầu áp dụng chuẩn Basel III.
Để triển khai các cam kết trong Hiệp định CPTPP, NHNN cần rà soát, đánh
giá và sửa đổi lại hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp, tiếp tục tái cơ
cấu các tổ chức yếu kém. Đồng thời, xây dựng khung pháp lý và đưa ra lộ trình triển
khai các vấn đề mới như tự do hoá tài khoản vốn, chuyển thông tin ra nước ngoài,
mở cửa thị trường thẻ có mã quốc tế và thanh toán bù trừ qua biên giới, dịch vụ tái
nhượng bảo hiểm qua biên giới, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua bên giới. Về
vấn đề chuyển mạch giao dịch thẻ, cần sớm liên kết với các nước còn lại trong khối
CPTPP. Hiện tại Công Ty Cổ Phần Thanh Toán Quốc Gia Việt Nam (NAPAS), đơn
vị được NHNN uỷ quyền thực hiện việc chuyển mạch thẻ tại Việt Nam, mới chỉ có
liên kết với Hệ Thống Thanh Toán Điện Tử Malaysia (MEPS). Việc xây dựng khung
pháp lý và các quy định cho các vấn đề mới cũng cần đi kèm các biện pháp nhằm bảo
mật thông tin, dữ liệu, bí mật của các cá nhân và tổ chức.
Đối với các NHTM chưa hoàn thành chuẩn Basel II, cần nhanh chóng hoàn tất
các nhiệm vụ cần thiết để nhanh chóng đưa Basel II vào áp dụng thực tế. Còn các
NHTM vừa hoàn thành xong chuẩn Basel II cần theo dõi chặt chẽ việc vận hành để
có những điều chỉnh cần thiết, đồng thời đẩy mạnh hoạt động quản trị rủi ro, xử lý nợ
xấu và thường xuyên tự đánh giá lại khả năng ứng phó của ngân hàng trước các tình
huống xấu bằng các bài kiểm tra giả định. Để có thể cạnh tranh tốt, các NHTM cần
cải tiến hoạt động, mở rộng và đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng, tạo
điều kiện dễ dàng hơn cho việc tiếp cận các dịch vụ do NHTM trong nước cung cấp,
tránh để thị trường rơi dần vào tay các ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó, cần áp
dụng các công nghệ hiện đại, đầu tư vào nguồn nhân lực chất lượng cao và hiện đại
hoá hệ thống ngân hàng để nâng cao quản trị và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới.
66
Tóm tắt chương 3
Hiệp định CPTPP đã có hiệu lực đối với Việt Nam từ đầu năm 2019, và có rất
nhiều việc mà các bên liên quan cần phải làm để giải quyết những vấn đề còn tồn tại
nhằm mục đích đáp ứng các yêu cầu và tận dụng lợi ích do hiệp định này mang lại.
Các cơ quan ban ngành cần nhanh chóng rà soát, điều chỉnh hệ thống và ban hành
mới văn bản quy phạm pháp luật nhằm đáp ứng các yêu cầu của hiệp định, đồng thời
triển khai các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các doanh
nghiệp cũng phải tự vận động để thích ứng với môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt. Đặc biệt, ngành dệt may cần ngay lập tức tháo gỡ điểm nghẽn ở khâu dệt nhuộm,
còn các NHTM cần nhanh chóng hoàn tất chuẩn Basel II.
67
KẾT LUẬN
Bắt đầu từ một hiệp định nhỏ với chỉ bốn thành viên và sau đó dần dần thu hút
được các nền kinh tế lớn trên thế giới, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
TPP sẽ là hiệp định thương mại tự do có quy mô lớn nhất nếu thực sự đi vào hiệu lực.
Với nhiều điều khoản cao cấp và chặt chẽ, TPP được kỳ vọng sẽ trở thành chuẩn mực
mới định hình cho thương mại thế giới trong thế kỷ XXI. Tuy nhiên, sự rút lui của
Mỹ vào đầu năm 2017 đã khiến cho hiệp định đổ vỡ ngay cả khi đã ký kết thành công,
làm dấy lên mối lo về sự quay lại của chủ nghĩa bảo hộ thương mại. Các nước thành
viên còn lại đã vượt qua khó khăn để đi tiếp mà không có Mỹ, và cuối cùng đã hoàn
tất đàm phán để đưa ra Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương CPTPP với nền tảng cơ sở từ TPP. Hiệp định CPTPP đã chính thức được ký
kết vào đầu năm 2018 và đi vào hiệu lực vào những ngày cuối cùng của cùng năm,
mở ra một bước ngoặt mới về vấn đề tự do hoá thương mại toàn cầu.
Tham dự Hiệp định TPP ngay từ đầu với tư cách nhà quan sát, và sau đó gia
nhập chính thức ngay sau sự có mặt của Mỹ, Việt Nam được dự đoán là quốc gia sẽ
có lợi ích lớn nhất khi tham gia hiệp định này. Từ khi bắt đầu tham gia đàm phán,
Việt Nam đã có những bước đi nhằm chuẩn bị trước, đi tắt đón đầu hiệp định bằng
việc tăng cường cải cách hệ thống pháp luật, ban hành và đưa vào áp dụng nhiều quy
định mới theo đúng những nội dung đã cam kết trong hiệp định. Mặc dù Mỹ tuyên
bố rút lui nhưng không có nghĩa là Việt Nam từ bỏ một cơ hội lớn để thay đổi và phát
triển, đã cùng các nước còn lại đi đến thống nhất hiệp định thay thế là CPTPP. Đến
ngày 14 tháng 01 năm 2019, Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực đối với Việt
Nam, mang đến nhiều cơ hội cũng như thách thức cho nền kinh tế nước nhà.
Sự hiện diện của TPP và sau này là CPTPP đã thúc đẩy Việt Nam thay đổi
toàn diện, từ vấn đề đơn giản hoá các thủ tục hành chính cho đến cải tổ môi trường
kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mức độ giao thương hàng hoá
đối với các thị trường mới trong CPTPP của Việt Nam sau khi hiệp định đi vào hiệu
lực đã có mức tăng trưởng tốt nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Cần có thời gian dài hơn
để quan sát và nghiên cứu, đánh giá sâu hơn về tác động toàn diện của hiệp định đến
nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Bộ Công Thương, 2014. Quyết định 3218/QĐ-BCT phê duyệt Quy hoạch phát
triển ngành công nghiệp Dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
2014-phat-trien-nganh-cong-nghiep-det-may-viet-nam-2020-tam-nhin-2030-226773. aspx> [Ngày truy cập: 29 tháng 09 năm 2019]. Bùi Xuân Lưu, 2002. Giáo trình Kinh tế Ngoại thương. Lần 4. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động – Xã hội. Cẩm Anh, 2018. Tổng thống Mỹ để ngỏ khả năng quay lại đàm phán CPTPP. 25059797.epi> [Ngày truy cập: 04 tháng 11 năm 2019]. Cục Đầu tư Nước ngoài – Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư. Đầu tư vào Việt Nam. tháng 10 năm 2019]. Hà Duy, 2017. Chỉ 1-2 phút xong thủ tục lấy hàng ở cảng: Giảm thời gian, bớt tốn kém. 1-2-phut-xong-thu-tuc-lay-hang-o-cang-giam-thoi-gian-bot-ton-kem-418693.html> [Ngày truy cập: 10 tháng 10 năm 2019]. Hà My, 2016. Vì sao Donald Trump ghét TPP? trump-ghet-tpp-20161128075433853.chn> [Ngày truy cập: 04 tháng 11 năm 2019]. Hà Nguyễn, 2019. Tập đoàn TH đầu tư hơn 88 triệu USD sang Australia. html> [Ngày truy cập: 20 tháng 10 năm 2019]. Hải Kim, 2019. Ngân hàng Việt đầu tiên được chấp thuận mở chi nhánh ở Úc. 20191010195532981.htm> [Ngày truy cập: 20 tháng 10 năm 2019]. Hải Linh, 2019. Năm 2019: Hệ thống giám sát hải quan tự động 'phủ sóng' toàn quốc. 27/nam-2019-he-thong-giam-sat-hai-quan-tu-dong-phu-song-toan-quoc-69347. aspx> [Ngày truy cập: 11 tháng 10 năm 2019]. Lương Bằng, 2019. Mỗi lao động Việt làm ra 102 triệu/năm, bằng 1/30 Singapore. nam-thua-singapore-malaysia-thai-lan-556163.html> [Ngày truy cập: 23 tháng 10 năm 2019]. N. Bình, 2019. Lô quần áo Trung Quốc hàng ngàn chiếc giả mạo xuất xứ Việt Nam. viet-nam-20191009193834797.htm> [Ngày truy cập: 24 tháng 10 năm 2019]. Ngân Hàng Thế Giới, 2018. Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương: Trường hợp của Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Hồng Đức. Ngân hàng TMCP Á Châu, 2019. Báo cáo ngành Dệt may ngày 13/06/2019. TP.HCM, tháng 06 năm 2019. Ngân hàng TMCP Á Châu, 2019. Báo cáo ngành Dệt may ngày 21/02/2019. TP.HCM, tháng 02 năm 2019. Ngô Kiếm, 2018. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đến 97% doanh nghiệp cả nước. nghiep-ca-nuoc-20418.htm> [Ngày truy cập: 09 tháng 10 năm 2019]. Ngọc Phạm, 2019. Hơn 900.000 thuê bao chuyển mạng giữ số thành công, duy nhất VinaPhone có “hời”. 900000-thue-bao-chuyen-mang-giu-so-thanh-cong-duy-nhat-vinaphone-co-hoi- c55a1085943.html> [Ngày truy cập: 10 tháng 10 năm 2019]. Nguyễn Thị Thu Trang, 2016. Cẩm nang doanh nghiệp – Tóm lược Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Hà Nội: Nhà xuất bản Công Thương. Phong Nguyễn, 2019. Cắt giảm điều kiện kinh doanh: Văn bản giảm, thủ tục vẫn nguyên! giam-thu-tuc-van-nguyen-754217.ldo> [Ngày truy cập: 22 tháng 10 năm 2019]. Thế Hoàng, 2019. Hơn 70% doanh nghiệp được khảo sát chưa hiểu rõ về CPTPP. cptpp-d106451.html> [Ngày truy cập: 22 tháng 10 năm 2019]. Tố Uyên, 2018. Hàng giả, hàng lậu vẫn diễn biến phức tạp. hang-lau-van-dien-bien-phuc-tap-65718.aspx> [Ngày truy cập: 22 tháng 10 năm 2019]. Tổng Cục Hải Quan. Thống kê Hải quan – Số liệu thống kê. p=S%E1%BB%91%20li%E1%BB%87u%20th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA> [Ngày truy cập: 18 tháng 10 năm 2019]. Trần Bình Trọng, 2003. Giáo trình Lịch sử các Học thuyết Kinh tế. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê. Trung tâm WTO – VCCI. Văn kiện Hiệp định CPTPP và các Tóm tắt. truy cập: 05 tháng 09 năm 2019]. Việt Hùng, 2019. Mexico sẽ áp thuế nhập khẩu đến 30% với sản phẩm dệt may và da giày. det-may-va-da-giay/114487.html> [Ngày truy cập: 11 tháng 10 năm 2019]. Tài liệu tiếng Anh Bhala, R., 2014. Trans-Pacific Partnership or Trampling Poor Partners? A Tentative Critical Review. Manchester Journal of International Economic Law, 11: 2-59. Camroux, D., 2012. Regionalism in Asia as Disguised Multilateralism: A Critical Analysis of the East Asia Summit and the Trans-Pacific Partnership. The International Spectator, 47: 97-115. Capling, A., J. Ravenhill, 2011. Multilateralising regionalism: what role for the Trans-Pacific Partnership Agreement. The Pacific Review, 24: 553-575. Deardorff, A.V., 2014. Trade Implications of the Trans-Pacific Partnership for ASEAN and Other Asian Countries. Asian Development Review, 31: 1-20. Helble, M., 2017. Salvaging The Trans-Pacific Partnership: Building Blocks for Regional and Multilateral Trade Opening. ADBI Working Paper Series [pdf] Asian Develoment Bank Institute. Available at: files/publication/234081/adbi-wp695.pdf > [Accessed 28 August 2019]. Petri, P.A., M. G. Plummer, 2016. The Economic Effects of the Trans-Pacific Partnership: New Estimates. Working Paper Series [pdf] Peterson Institute for International Economics. Available at: wp16-2.pdf> [Accessed 29 August 2019]. Seshari, V.S., 2013. The Trans Pacific Partnership (TPP). RIS Discussion Papers [online]. Available at: [Accessed 27 August 2019]. Standard Chartered, 2019. Doubling every decade – The 7% club [pdf]. Available at: cent-Club-Report-2019.pdf> [Accessed 05 October 2019]. World Bank. DataBank. [Accessed 29 September 2019]. PHỤ LỤC A – Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và một số quốc gia giai đoạn 2009 – 2018 Đơn vị tính: Tỷ USD 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 CPTPP 29.72 35.30 44.55 50.86 52.60 57.47 57.41 58.34 68.17 74.58 Trong đó: Canada 0.94 1.15 1.31 1.61 1.95 2.46 2.86 3.05 3.52 3.87 Malaysia 4.19 5.51 6.75 7.91 9.02 8.14 7.78 8.51 10.16 11.51 Mexico 0.52 0.58 0.68 0.79 1.00 1.30 2.02 2.37 3.13 3.36 Nhật Bản 13.76 16.74 21.18 24.67 25.25 27.62 28.49 29.74 33.84 37.87 Singapore 6.32 6.22 8.68 9.06 8.35 9.78 9.30 7.18 8.30 7.72 Úc 3.33 4.15 4.64 4.98 5.10 6.05 4.94 5.29 6.46 7.72 Mỹ 14.37 18.01 21.46 24.49 29.08 34.94 41.26 47.15 50.94 60.28 Trung Quốc 21.35 27.33 35.72 41.17 50.17 58.64 66.61 71.98 94.00 106.88 Hàn Quốc 9.04 12.85 17.89 21.12 27.32 28.91 36.55 43.57 61.78 65.82 Các nước khác 52.57 63.59 84.04 90.67 104.90 118.11 125.76 130.34 153.24 173.01 Tổng cộng 127.05 157.08 203.66 228.31 264.07 298.07 327.59 351.38 428.13 480.57 Nguồn: Tổng Cục Hải Quan PHỤ LỤC B – Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và một số quốc gia trong 9 tháng đầu năm 2019 và so sánh với cùng kỳ năm 2018 Đơn vị tính: Triệu USD 9 tháng 2018 9 tháng 2019 Tăng/giảm 55,332.09 57,291.20 3.54% CPTPP Trong đó: 35.82 174.89 388.25% Brunei 2,891.04 3,495.52 20.91% Canada 841.47 935.18 11.14% Chile 8,633.20 8,333.48 -3.47% Malaysia 2,688.91 2,633.49 -2.06% Mexico 759.75 822.21 8.22% New Zealand 27,584.94 29,167.21 5.74% Nhật Bản 264.11 321.77 21.83% Peru 5,919.47 5,468.72 -7.61% Singapore 5,713.38 5,938.74 3.94% Úc 24.22% 44,547.42 55,338.98 Mỹ 6.65% Các nước khác 252,725.15 269,527.17 8.38% Tổng cộng 352,604.66 382,157.35 Nguồn: Tổng Cục Hải Quan PHỤ LỤC C – Kim ngạch xuất khẩu chi tiết theo hàng hoá của Việt Nam với các nước thuộc CPTPP trong 9 tháng đầu năm 2019 và so sánh với cùng kỳ năm 2018 Đơn vị tính: USD 1,177,779 1,420,913 20.64% Hàng thủy sản 860,903 3,266,030 279.37% Gạo Sản phẩm từ sắt thép 339,258 19,115,022 5,534.36% Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 1,287,559 2,177,933 69.15% khác 5,146,875 21,898,319 325.47% Hàng hóa khác 172,143,951 163,421,242 -5.07% Hàng thủy sản 16,634,928 17,845,639 7.28% Hàng rau quả 84,864,518 74,065,042 -12.73% Hạt điều 8,053,067 8,809,826 9.40% Cà phê 7,861,590 6,797,057 -13.54% Hạt tiêu Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc 7,460,948 8,243,467 10.49% 34,992,492 24,724,889 -29.34% Hóa chất 3,779,583 1,856,114 -50.89% Chất dẻo nguyên liệu 32,209,257 32,718,622 1.58% Sản phẩm từ chất dẻo 6,822,796 5,223,643 -23.44% Cao su Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù 50,049,567 56,233,516 12.36% Sản phẩm mây, tre, cói và thảm 4,986,805 6,822,155 36.80% 115,709,396 128,587,388 11.13% Gỗ và sản phẩm gỗ 490,730,556 602,033,607 22.68% Hàng dệt, may Vải mành, vải kỹ thuật khác 17,821,610 17,603,410 -1.22% 238,898,027 280,054,576 17.23% Giày dép các loại 2,567,559 3,546,372 38.12% Sản phẩm gốm, sứ Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy 4,300,348 3,518,054 -18.19% tinh Sản phẩm từ sắt thép 45,035,383 38,121,491 -15.35% Kim loại thường khác và sản phẩm 33,945,656 30,517,317 -10.10% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 160,887,632 184,258,840 14.53% kiện Điện thoại các loại và linh kiện 239,552,116 442,665,487 84.79% Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện 3,433,431 814,705 -76.27% Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 65,833,099 154,153,465 134.16% khác Phương tiện vận tải và phụ tùng 143,176,162 191,295,878 33.61% Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận 31,089,612 30,547,153 -1.74% Hàng hóa khác 196,185,519 328,856,853 67.63% Hàng thủy sản 16,378,044 12,286,487 -24.98% 8,795,730 5,671,878 -35.52% Cà phê 240,538 567,986 136.13% Gạo Clanhke và xi măng 7,022,307 1,246,420 -82.25% Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù 11,823,919 6,292,068 -46.79% Gỗ và sản phẩm gỗ 10,702,396 12,991,333 21.39% Xơ, sợi dệt các loại 5,924,186 7,340,879 23.91% Hàng dệt, may 92,075,245 124,441,810 35.15% Giày dép các loại 100,425,341 89,386,083 -10.99% Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 6,618,546 4,227,009 -36.13% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 41,842,405 49,862,438 19.17% kiện Điện thoại các loại và linh kiện 204,290,863 319,303,721 56.30% Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 12,173,612 18,381,185 50.99% khác Phương tiện vận tải và phụ tùng 33,732,269 13,704,906 -59.37% Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ 2,108,409 1,920,940 -8.89% 56,920,994 49,507,633 -13.02% Hàng hóa khác 81,258,553 86,148,915 6.02% Hàng thủy sản 39,502,261 22,545,634 -42.93% Hàng rau quả 51,438,812 50,721,902 -1.39% Cà phê 2,303,369 2,342,722 1.71% Chè 3,607,311 3,752,766 4.03% Hạt tiêu 199,523,114 174,966,464 -12.31% Gạo Sắn và các sản phẩm từ sắn 11,782,211 8,801,327 -25.30% Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc 8,767,409 8,290,513 -5.44% Thức ăn gia súc và nguyên liệu 50,745,047 56,288,481 10.92% Quặng và khoáng sản khác 3,746,668 3,763,638 0.45% Clanhke và xi măng 22,058,452 22,138,403 0.36% 10,897,604 7,463,744 -31.51% Than các loại 42,273,172 160,526,975 279.74% Dầu thô 42,346,328 59,639,536 40.84% Xăng dầu các loại 8,181,011 13,326,033 62.89% Hóa chất 39,154,970 66,009,552 68.59% Sản phẩm hóa chất 19,063,931 10,770,598 -43.50% Phân bón các loại 10,997,278 30,552,557 177.82% Chất dẻo nguyên liệu 36,600,747 35,385,907 -3.32% Sản phẩm từ chất dẻo 60,934,376 40,497,274 -33.54% Cao su Sản phẩm từ cao su 8,895,253 5,827,568 -34.49% Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù 7,460,428 12,727,995 70.61% Gỗ và sản phẩm gỗ 78,921,948 51,733,677 -34.45% Giấy và các sản phẩm từ giấy 37,992,388 35,978,658 -5.30% Xơ, sợi dệt các loại 43,425,728 40,167,990 -7.50% Hàng dệt, may 76,600,876 87,837,390 14.67% Giày dép các loại 44,389,928 51,143,447 15.21% Sản phẩm gốm, sứ 9,054,702 7,243,889 -20.00% Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy 200,430,207 150,093,996 -25.11% tinh Sắt thép các loại 330,617,327 351,736,490 6.39% Sản phẩm từ sắt thép 13,777,548 17,908,495 29.98% Kim loại thường khác và sản phẩm 27,541,505 22,169,877 -19.50% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 553,894,779 363,495,664 -34.37% kiện Điện thoại các loại và linh kiện 446,542,312 319,588,052 -28.43% Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 144,334,647 207,347,729 43.66% khác Dây điện và dây cáp điện 12,664,761 9,494,944 -25.03% Phương tiện vận tải và phụ tùng 131,494,584 154,469,866 17.47% Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ 2,685,113 1,641,898 -38.85% Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận 3,097,339 4,329,634 39.79% Hàng hóa khác 171,917,076 166,210,112 -3.32% Hàng thủy sản 78,394,137 84,664,747 8.00% Cà phê 45,740,031 10,247,595 -77.60% Sản phẩm từ chất dẻo 11,544,857 13,856,759 20.03% Cao su 2,776,795 4,193,901 51.03% Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù 8,860,700 9,797,014 10.57% Gỗ và sản phẩm gỗ 9,587,368 13,780,073 43.73% Hàng dệt, may 72,856,006 93,312,025 28.08% Giày dép các loại 203,886,510 225,616,421 10.66% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 787,461,805 713,349,693 -9.41% kiện Điện thoại các loại và linh kiện 71,575,325 393,357,971 449.57% Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 94,456,897 161,732,807 71.22% khác Phương tiện vận tải và phụ tùng 63,435,839 89,894,772 41.71% Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận 24,111,758 32,422,628 34.47% 226,371,030 325,405,144 43.75% Hàng hóa khác 13,445,395 13,617,931 1.28% Hàng thủy sản 18,773,598 16,817,311 -10.42% Hạt điều 3,428,561 1,885,784 -45.00% Cà phê Quặng và khoáng sản khác 2,786,910 3,598,294 29.11% 8,791,974 7,048,580 -19.83% Sản phẩm từ chất dẻo 19,366,913 17,449,587 -9.90% Gỗ và sản phẩm gỗ 15,725,285 21,822,333 38.77% Hàng dệt, may 20,033,172 27,680,152 38.17% Giày dép các loại Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 43,588,091 43,499,524 -0.20% kiện Điện thoại các loại và linh kiện 135,103,026 148,174,465 9.68% Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 23,352,908 27,445,234 17.52% khác Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ 4,799,936 4,913,943 2.38% 51,716,465 70,946,603 37.18% Hàng hóa khác 988,621,822 1,066,094,027 7.84% Hàng thủy sản 72,135,879 89,660,865 24.29% Hàng rau quả 24,091,631 20,026,966 -16.87% Hạt điều Cà phê 163,567,265 124,788,003 -23.71% Hạt tiêu 11,004,776 5,456,686 -50.42% Sắn và các sản phẩm từ sắn 5,038,142 1,522,799 -69.77% Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc 31,835,157 35,160,929 10.45% Thức ăn gia súc và nguyên liệu 21,930,743 26,984,172 23.04% Quặng và khoáng sản khác 9,288,775 13,352,625 43.75% Than các loại 93,019,436 45,725,541 -50.84% Dầu thô 151,359,562 250,981,593 65.82% Hóa chất 265,752,397 284,423,523 7.03% Sản phẩm hóa chất 79,480,569 119,298,606 50.10% Phân bón các loại 2,837,518 4,202,158 48.09% Chất dẻo nguyên liệu 24,282,768 63,915,013 163.21% Sản phẩm từ chất dẻo 484,672,065 542,539,856 11.94% Cao su 13,961,600 12,889,934 -7.68% Sản phẩm từ cao su 97,721,987 105,937,154 8.41% Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù 274,571,190 302,306,461 10.10% Sản phẩm mây, tre, cói và thảm 45,861,838 50,814,247 10.80% Gỗ và sản phẩm gỗ 826,809,762 971,375,783 17.48% Giấy và các sản phẩm từ giấy 63,692,601 55,600,090 -12.71% Xơ, sợi dệt các loại 57,435,439 61,506,178 7.09% Hàng dệt, may 2,792,118,089 2,910,464,601 4.24% Vải mành, vải kỹ thuật khác 24,866,786 26,468,185 6.44% Giày dép các loại 633,642,628 727,247,720 14.77% Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 91,884,289 93,118,401 1.34% Sản phẩm gốm, sứ 60,363,217 55,517,310 -8.03% Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy 69,018,981 71,818,209 4.06% tinh Đá quý, kim loại quý và sản phẩm 45,174,616 43,698,404 -3.27% Sắt thép các loại 43,729,228 99,672,224 127.93% Sản phẩm từ sắt thép 310,450,225 352,136,746 13.43% Kim loại thường khác và sản phẩm 170,417,913 187,020,402 9.74% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 586,715,673 753,581,344 28.44% kiện Điện thoại các loại và linh kiện 552,717,050 559,385,568 1.21% Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện 86,730,360 101,045,191 16.50% Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 1,343,908,635 1,414,082,535 5.22% khác Dây điện và dây cáp điện 251,581,943 224,373,728 -10.81% Phương tiện vận tải và phụ tùng 1,792,741,319 1,934,018,175 7.88% Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận 221,770,624 230,094,006 3.75% Hàng hóa khác 822,819,764 944,992,315 14.85% Hàng thủy sản 140,331,606 150,358,173 7.14% Hàng rau quả 26,907,170 31,090,743 15.55% Hạt điều 81,258,999 83,779,387 3.10% Cà phê 31,417,049 26,624,524 -15.25% Hạt tiêu 7,290,865 4,881,271 -33.05% Gạo 5,078,561 8,623,562 69.80% Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc 16,668,167 17,610,747 5.65% Clanhke và xi măng 3,576,092 6,125,539 71.29% Dầu thô 334,152,979 53,591,083 -83.96% Sản phẩm hóa chất 20,079,955 28,695,228 42.90% Chất dẻo nguyên liệu 3,984,717 5,535,624 38.92% Sản phẩm từ chất dẻo 44,299,698 42,276,832 -4.57% Sản phẩm từ cao su 9,814,591 6,442,336 -34.36% Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù 43,046,110 25,239,692 -41.37% Sản phẩm mây, tre, cói và thảm 11,044,351 13,953,709 26.34% Gỗ và sản phẩm gỗ 136,976,167 108,976,369 -20.44% Giấy và các sản phẩm từ giấy 23,826,965 29,640,788 24.40% Hàng dệt, may 156,554,461 183,091,433 16.95% Giày dép các loại 176,405,727 208,185,329 18.02% Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 10,459,113 12,108,395 15.77% Sản phẩm gốm, sứ 10,945,415 10,721,252 -2.05% Đá quý, kim loại quý và sản phẩm 9,355,143 9,361,419 0.07% Sắt thép các loại 32,701,709 22,260,652 -31.93% Sản phẩm từ sắt thép 73,189,851 80,784,773 10.38% Kim loại thường khác và sản phẩm 28,197,743 29,897,408 6.03% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 279,314,904 311,387,717 11.48% kiện Điện thoại các loại và linh kiện 612,197,755 569,567,640 -6.96% Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện 2,462,659 2,722,995 10.57% Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 267,294,124 181,633,613 -32.05% khác Dây điện và dây cáp điện 11,792,179 8,124,166 -31.11% Phương tiện vận tải và phụ tùng 41,232,412 75,431,342 82.94% Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ 37,591,406 32,705,443 -13.00% Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận 23,508,680 27,894,089 18.65% Hàng hóa khác 275,702,353 169,040,503 -38.69% Hàng thủy sản 7,054,231 6,771,601 -4.01% Clanhke và xi măng 38,964,625 25,832,389 -33.70% Chất dẻo nguyên liệu 4,758,446 2,398,884 -49.59% Cao su 2,777,943 2,145,769 -22.76% Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù 2,878,243 2,601,408 -9.62% Xơ, sợi dệt các loại 8,503,132 4,205,239 -50.54% Hàng dệt, may 5,416,323 7,192,499 32.79% Giày dép các loại 42,385,532 48,459,742 14.33% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 7,915,025 10,182,056 28.64% kiện Điện thoại các loại và linh kiện 35,870,868 110,886,897 209.13% Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ 420,462 42,329 -89.93% 35,938,028 41,642,295 15.87% Hàng hóa khác 84,290,567 72,362,095 -14.15% Hàng thủy sản 21,433,694 24,447,788 14.06% Hàng rau quả 4,899,692 3,379,857 -31.02% Hạt điều 2,673,227 2,169,349 -18.85% Cà phê 5,519,133 1,759,718 -68.12% Hạt tiêu 35,884,261 36,621,116 2.05% Gạo Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc 9,438,779 9,571,347 1.40% Thức ăn gia súc và nguyên liệu 2,588,937 2,485,691 -3.99% 72,492,051 167,114,013 130.53% Dầu thô 31,501,109 78,780,954 150.09% Xăng dầu các loại 13,015,713 11,533,014 -11.39% Sản phẩm hóa chất 2,360,127 2,240,898 -5.05% Chất dẻo nguyên liệu 13,977,939 13,831,980 -1.04% Sản phẩm từ chất dẻo 104,282 179,072 71.72% Cao su Sản phẩm từ cao su 2,076,855 1,845,827 -11.12% Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù 11,632,117 10,965,943 -5.73% Gỗ và sản phẩm gỗ 16,640,363 20,230,798 21.58% Giấy và các sản phẩm từ giấy 29,160,112 28,169,027 -3.40% Hàng dệt, may -9.37% 78,112,880 70,793,281 Giày dép các loại 52,924,441 59,588,044 12.59% Sản phẩm gốm, sứ 1,197,847 1,132,507 -5.45% Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy 233,159,524 249,214,797 6.89% tinh Sắt thép các loại 17,810,951 12,218,834 -31.40% Sản phẩm từ sắt thép 15,208,964 15,070,339 -0.91% Kim loại thường khác và sản phẩm 3,869,059 4,372,752 13.02% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 421,838,415 415,808,164 -1.43% kiện Điện thoại các loại và linh kiện 235,485,089 210,139,415 -10.76% Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 297,257,714 285,444,075 -3.97% khác Dây điện và dây cáp điện 53,440,569 63,705,036 19.21% Phương tiện vận tải và phụ tùng 279,470,640 307,413,833 10.00% Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận 3,900,047 3,987,901 2.25% Hàng hóa khác 279,660,372 313,545,339 12.12% Nguồn: Tổng Cục Hải Quan PHỤ LỤC D – Kim ngạch nhập khẩu chi tiết theo hàng hoá của Việt Nam với các nước thuộc CPTPP trong 9 tháng đầu năm 2019 và so sánh với cùng kỳ năm 2018 Đơn vị tính: USD 0 109,041,866 - Dầu thô 19,250,490 10,854,880 -43.61% Hóa chất 7,757,745 7,117,461 -8.25% Hàng hóa khác 34,127,835 43,785,413 28.30% Hàng thủy sản 6,077,207 6,097,853 0.34% Hàng rau quả 71,892,472 70,476,185 -1.97% Lúa mì 45,695,781 51,666,202 13.07% Đậu tương Thức ăn gia súc và nguyên liệu 15,731,913 39,534,241 151.30% Quặng và khoáng sản khác 387,238 500,781 29.32% 7,018,301 11,580,091 65.00% Sản phẩm hóa chất 9,137,915 10,851,555 18.75% Dược phẩm 50,060,859 24,966,375 -50.13% Phân bón các loại 9,058,357 9,339,412 3.10% Chất dẻo nguyên liệu 1,394,621 1,401,699 0.51% Sản phẩm từ chất dẻo 1,335,785 1,305,086 -2.30% Cao su Gỗ và sản phẩm gỗ 20,346,769 21,341,897 4.89% Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 24,395,017 11,100,677 -54.50% Đá quý, kim loại quý và sản phẩm 14,166,910 11,123,790 -21.48% Phế liệu sắt thép 16,056,194 14,157,673 -11.82% Sắt thép các loại 723,305 1,106,490 52.98% Sản phẩm từ sắt thép 1,845,993 2,392,808 29.62% Kim loại thường khác 7,229,248 7,998,963 10.65% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 6,043,568 8,817,491 45.90% kiện Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 40,294,698 51,271,656 27.24% khác Ô tô nguyên chiếc các loại 943,783 4,626,203 390.18% Phương tiện vận tải khác và phụ tùng 14,397,101 6,039,027 -58.05% Hàng hóa khác 273,650,368 240,698,700 -12.04% 50,827,869 45,490,873 -10.50% Hàng thủy sản 8,317,682 15,252,732 83.38% Hàng rau quả Dầu mỡ động thực vật 8,634,464 7,915,670 -8.32% Thức ăn gia súc và nguyên liệu 20,533,016 6,424,039 -68.71% Gỗ và sản phẩm gỗ 58,915,470 61,158,279 3.81% Phế liệu sắt thép 16,880,788 11,644,330 -31.02% Kim loại thường khác 41,486,061 37,758,860 -8.98% Hàng hóa khác 24,798,173 32,398,092 30.65% Hàng thủy sản 5,755,108 7,564,369 31.44% Sữa và sản phẩm sữa 27,254,020 37,564,594 37.83% Hàng rau quả 2,439,422 3,358,964 37.70% Dầu mỡ động thực vật 252,872,536 248,413,874 -1.76% Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc 26,836,856 25,998,516 -3.12% Chế phẩm thực phẩm khác 35,651,631 36,522,947 2.44% Thức ăn gia súc và nguyên liệu 27,899,079 23,829,336 -14.59% Nguyên phụ liệu thuốc lá 2,596,937 2,258,691 -13.02% Quặng và khoáng sản khác 2,510,408 2,935,176 16.92% Than các loại 13,270,863 199,532 -98.50% Dầu thô 41,813,662 0 -100.00% Xăng dầu các loại 1,659,970,576 1,165,021,733 -29.82% Khí đốt hóa lỏng 18,228,457 33,650,372 84.60% Sản phẩm khác từ dầu mỏ 74,598,460 43,758,561 -41.34% Hóa chất 198,104,255 205,447,747 3.71% Sản phẩm hóa chất 155,732,218 160,056,949 2.78% Dược phẩm 2,707,586 4,659,010 72.07% Phân bón các loại 32,917,696 36,920,489 12.16% Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ 6,708,493 5,596,869 -16.57% sinh Thuốc trừ sâu và nguyên liệu 16,886,419 15,406,304 -8.77% Chất dẻo nguyên liệu 231,368,689 231,824,022 0.20% Sản phẩm từ chất dẻo 77,026,066 80,894,831 5.02% Cao su 28,047,022 30,508,934 8.78% Sản phẩm từ cao su 45,261,188 43,297,751 -4.34% Gỗ và sản phẩm gỗ 65,312,508 48,366,690 -25.95% Giấy các loại 44,942,009 38,890,981 -13.46% Sản phẩm từ giấy 7,148,723 8,633,282 20.77% Xơ, sợi dệt các loại 21,448,426 17,915,248 -16.47% Vải các loại 74,407,657 86,688,888 16.51% Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 21,686,359 16,840,020 -22.35% Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy 22,775,418 47,122,049 106.90% tinh Sắt thép các loại 46,783,367 172,376,137 268.46% Sản phẩm từ sắt thép 36,366,962 27,031,407 -25.67% Kim loại thường khác 256,788,409 306,068,691 19.19% Sản phẩm từ kim loại thường khác 16,546,370 18,880,017 14.10% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 929,324,734 1,085,388,505 16.79% kiện Hàng điện gia dụng và linh kiện 176,010,430 235,840,374 33.99% Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 591,377,811 573,330,459 -3.05% khác Dây điện và dây cáp điện 30,789,289 29,412,235 -4.47% Linh kiện, phụ tùng ô tô 24,665,874 26,560,028 7.68% Phương tiện vận tải khác và phụ tùng 3,261,435 7,243,436 122.09% 186,182,382 216,116,778 16.08% Hàng hóa khác Thức ăn gia súc và nguyên liệu 3,162,077 1,820,361 -42.43% 290,244 0 -100.00% Phế liệu sắt thép 386,954 3,931,097 915.91% Sắt thép các loại Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 127,875,537 161,574,263 26.35% kiện Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 78,519,229 100,769,028 28.34% khác Hàng hóa khác 777,619,692 193,761,452 -75.08% 228,949,395 214,820,186 -6.17% Sữa và sản phẩm sữa 35,780,189 52,559,124 46.89% Hàng rau quả 1,305,678 2,198,808 68.40% Sản phẩm hóa chất 43,329,017 49,084,866 13.28% Gỗ và sản phẩm gỗ Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 6,540,316 3,423,327 -47.66% 17,703,745 20,970,831 18.45% Phế liệu sắt thép 4,256,070 6,568,857 54.34% Sắt thép các loại 0 244,698 - Kim loại thường khác Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 9,085,096 11,089,317 22.06% khác Hàng hóa khác 51,890,067 56,350,032 8.60% 81,237,478 97,888,051 20.50% Hàng thủy sản Sữa và sản phẩm sữa 24,668,252 34,299,210 39.04% Chế phẩm thực phẩm khác 17,593,916 18,921,740 7.55% Thức ăn gia súc và nguyên liệu 2,955,140 1,505,061 -49.07% Nguyên phụ liệu thuốc lá 24,108 0 -100.00% Quặng và khoáng sản khác 5,489,831 4,103,508 -25.25% 6,889,093 17,080,169 147.93% Than các loại 0 8,489,368 - Xăng dầu các loại Sản phẩm khác từ dầu mỏ 30,744,098 23,518,027 -23.50% 289,100,534 298,310,478 3.19% Hóa chất 339,155,257 372,924,377 9.96% Sản phẩm hóa chất 50,607,405 35,773,361 -29.31% Dược phẩm 19,519,665 20,100,536 2.98% Phân bón các loại Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ 25,542,437 31,083,709 21.69% sinh Thuốc trừ sâu và nguyên liệu 22,874,195 23,393,104 2.27% 1.88% 365,984,241 372,849,280 Chất dẻo nguyên liệu 631,784,505 625,034,546 -1.07% Sản phẩm từ chất dẻo 99,506,375 113,752,002 14.32% Cao su 113,055,880 108,107,815 -4.38% Sản phẩm từ cao su 6,593,466 5,834,204 -11.52% Gỗ và sản phẩm gỗ 175,591,690 160,033,599 -8.86% Giấy các loại 38,804,402 39,139,025 0.86% Sản phẩm từ giấy 57,898,674 50,517,505 -12.75% Xơ, sợi dệt các loại 540,141,518 587,559,462 8.78% Vải các loại 0.56% Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 208,332,358 209,507,831 Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy 96,482,580 106,413,540 10.29% tinh Đá quý, kim loại quý và sản phẩm 24,935,895 30,019,933 20.39% 431,113,266 506,165,776 17.41% Phế liệu sắt thép 1,177,603,868 1,024,840,899 -12.97% Sắt thép các loại Sản phẩm từ sắt thép 428,261,142 422,033,875 -1.45% Kim loại thường khác 377,239,819 268,596,466 -28.80% Sản phẩm từ kim loại thường khác 69,550,146 86,525,917 24.41% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 2,939,905,062 3,191,319,893 8.55% kiện Hàng điện gia dụng và linh kiện 10,469,293 13,229,396 26.36% Điện thoại các loại và linh kiện 228,542,178 164,075,141 -28.21% Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện 183,261,959 113,084,054 -38.29% Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 3,254,850,718 3,495,392,462 7.39% khác Dây điện và dây cáp điện 104,073,727 99,214,702 -4.67% Ô tô nguyên chiếc các loại 45,147,925 119,701,052 165.13% Linh kiện, phụ tùng ô tô 585,679,136 550,864,062 -5.94% Phương tiện vận tải khác và phụ tùng 129,356,571 93,028,221 -28.08% Hàng hóa khác 634,747,579 639,678,347 0.78% Sữa và sản phẩm sữa 21,776,027 37,262,265 71.12% Hàng rau quả 83,741,275 82,489,273 -1.50% Lúa mì 242,282,614 203,454,704 -16.03% Dầu mỡ động thực vật 5,626,194 5,282,535 -6.11% Chế phẩm thực phẩm khác 5,769,572 9,033,973 56.58% Thức ăn gia súc và nguyên liệu 11,474,756 19,892,226 73.36% Quặng và khoáng sản khác 244,502,314 415,826,077 70.07% Than các loại 582,647,095 1,196,890,965 105.42% Khí đốt hóa lỏng 30,699,343 15,357,113 -49.98% Sản phẩm khác từ dầu mỏ 7,588,845 6,265,764 -17.43% Hóa chất 1,526,324 1,215,826 -20.34% Sản phẩm hóa chất 33,837,745 32,165,846 -4.94% Dược phẩm 37,183,291 43,418,890 16.77% Chất dẻo nguyên liệu 14,786,250 14,776,559 -0.07% Gỗ và sản phẩm gỗ 3,717,638 8,234,783 121.51% Bông các loại 246,296,035 71,625,329 -70.92% Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 15,695,429 11,232,269 -28.44% Đá quý, kim loại quý và sản phẩm 8,467,765 9,463,883 11.76% Phế liệu sắt thép 129,998,552 130,230,872 0.18% Sắt thép các loại 18,635,169 30,154,739 61.82% Sản phẩm từ sắt thép 2,421,346 3,263,467 34.78% Kim loại thường khác 452,059,983 367,927,313 -18.61% Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 39,960,960 34,944,629 -12.55% khác Hàng hóa khác 484,028,541 609,966,913 26.02% Hàng hóa khác 71,223,739 59,026,157 -17.13% Hàng thủy sản 9,559,505 12,095,860 26.53% Sữa và sản phẩm sữa 101,074,245 86,752,027 -14.17% Hạt điều - 0 119,966 Dầu mỡ động thực vật 1,276,031 1,367,022 7.13% Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc 5,658,115 8,572,740 51.51% Chế phẩm thực phẩm khác 99,054,563 145,695,786 47.09% Thức ăn gia súc và nguyên liệu 12,733,763 13,448,160 5.61% Quặng và khoáng sản khác 3,693,983 2,738,497 -25.87% Xăng dầu các loại 1,328,666,779 844,114,007 -36.47% Sản phẩm khác từ dầu mỏ 188,208,018 170,448,869 -9.44% Hóa chất 183,534,684 156,889,136 -14.52% Sản phẩm hóa chất 146,720,574 136,428,582 -7.01% Nguyên phụ liệu dược phẩm 1,045,001 856,622 -18.03% Dược phẩm 6,779,843 12,152,844 79.25% Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ 204,714,683 222,412,752 8.65% sinh Thuốc trừ sâu và nguyên liệu 36,920,344 38,614,989 4.59% Chất dẻo nguyên liệu 250,027,028 247,676,060 -0.94% Sản phẩm từ chất dẻo 20,524,903 12,437,996 -39.40% Sản phẩm từ cao su 3,392,411 4,382,780 29.19% Giấy các loại 119,206,816 94,081,538 -21.08% Sản phẩm từ giấy 1,054,754 1,632,774 54.80% Bông các loại 0 1,063,540 - Vải các loại 3,128,102 2,459,789 -21.36% Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 1,667,085 5,893,119 253.50% Phế liệu sắt thép 33,073,846 25,705,068 -22.28% Sắt thép các loại 1,887,208 1,746,342 -7.46% Sản phẩm từ sắt thép 16,785,029 17,761,643 5.82% Kim loại thường khác 14,613,667 11,127,421 -23.86% Sản phẩm từ kim loại thường khác 3,504,347 2,044,290 -41.66% Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 395,572,745 252,478,654 -36.17% kiện Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 287,585,241 306,450,127 6.56% khác Dây điện và dây cáp điện 6,473,558 7,402,760 14.35% Phương tiện vận tải khác và phụ tùng 4,465,216 1,136,769 -74.54% Hàng hóa khác 93,846,066 120,412,705 28.31% Nguồn: Tổng Cục Hải QuanNước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
8,812,373
47,878,217
443.31%
BRUNEI
2,219,025,608
2,843,335,808
28.13%
CANADA
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
611,074,803
717,132,776
17.36%
CHILE
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
3,090,921,073
2,925,080,312
-5.37%
MALAYSIA
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
MEXICO
1,701,059,059
2,171,631,549
27.66%
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
360,912,234
404,899,740
12.19%
NEW ZEALAND
13,709,624,262 14,983,298,275
9.29%
NHẬT BẢN
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
ÚC
2,988,659,674
2,578,363,776
-13.73%
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
PERU
192,882,858
262,742,070
36.22%
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
2,333,025,470
2,500,122,804
7.16%
SINGAPORE
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
27,008,235
127,014,207
370.28%
BRUNEI
672,011,239
652,180,266
-2.95%
CANADA
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
230,393,524
218,042,877
-5.36%
CHILE
MALAYSIA
5,542,275,811
5,408,394,797
-2.42%
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
987,853,733
461,856,201
-53.25%
MEXICO
398,839,573
417,310,046
4.63%
NEW ZEALAND
13,875,315,383 14,183,909,702
2.22%
NHẬT BẢN
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
ÚC
2,724,723,062
3,360,376,213
23.33%
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm
PERU
71,223,739
59,026,157
-17.13%
SINGAPORE
3,586,448,153
2,968,601,234
-17.23%
Nước/Mặt hàng chủ yếu
9 tháng 2018
9 tháng 2019 Tăng/giảm