BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VĂN HÙNG

HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT CỦA TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014

BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VĂN HÙNG

HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT CỦA TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ MINH VỤ

HÀ NỘI - 2014

3

MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI

12

1.1.

12

1.2.

TRONG VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT Phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt Tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt 23

Chương 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT CỦA TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI HÀ NỘI 33

2.1.

Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội 33

2.2.

Thành tựu, hạn chế về hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội trong thời gian qua 36

53

3.1.

53

3.2.

Chương 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT CỦA TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI HÀ NỘI Quan điểm chỉ đạo nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội trong thời gian tiếp theo

KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 58 79 81 84 90

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt

Công ty cổ phần CTCP

Kinh tế - xã hội KT - XH

Nhà xuất bản NXB

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Nxb CTQG

Thành phố Hồ Chí Minh TP. HCM

Trách nhiệm hữu hạn TNHH

Ủy ban nhân dân UBND

Vận tải hành khách công cộng VTHKCC

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hà Nội - Thủ đô ngàn năm văn hiến - là trung tâm chính trị, kinh tế, văn

hóa của cả nước, là nơi đặt trụ sở của nhiều cơ quan, đơn vị cả Trung ương và

địa phương; đồng thời, cũng là địa phương có dân số đông đã nảy sinh nhu cầu

cao về tham gia giao thông của người dân, đòi hỏi cần phải phát triển hệ thống

giao thông công cộng đồng bộ và hiện đại, không ngừng đáp ứng nhu cầu đi lại

ngày càng tăng của người dân. Mục tiêu của Hà Nội phấn đấu đáp ứng 15% nhu

cầu đi lại của người dân vào năm 2015 và đạt tới 25% vào năm 2020. Song,

chất lượng dịch vụ phải thực sự tạo ra sức hấp dẫn của hệ thống vận tải hành

khách công cộng để người dân tự nguyện chuyển từ việc sử dụng phương tiện cá

nhân sang sử dụng phương tiện vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt. Đưa

dịch vụ xe buýt trở thành loại hình giao thông phổ biến, tiện ích và hiện đại là

yêu cầu cấp thiết của thành phố trong thời gian tiếp theo.

Tuy nhiên, quá trình phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe

buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội còn bộc lộ những hạn chế như: Việc

quy hoạch mạng lưới các tuyến buýt còn nhiều bất cập, chất lượng khai thác

tuyến chưa hiệu quả, sản xuất kinh doanh tuy có tăng trưởng nhưng chưa

vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng. Hạ tầng kỹ thuật, công tác quản

lý, sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành với các công ty kinh doanh xe

buýt còn nhiều hạn chế bất cập. Theo số liệu của Sở Giao thông vận tải Hà

Nội, xe buýt hiện mới chỉ đáp ứng được gần 10% nhu cầu đi lại của người

dân Thủ đô. Song vào thời điểm hiện nay, phương tiện này khó có thể phát

triển hơn nữa do hạ tầng giao thông đô thị có những bất cập. Quỹ đất dành

cho giao thông hiện chỉ đạt khoảng 8% đất xây dựng đô thị. Phần lớn các

tuyến đường, phố có mặt cắt nhỏ, có quá nhiều nút giao cắt và chủ yếu là nút

giao đồng mức. Nhiều tuyến đường và nút giao đã quá tải phương tiện. Trên

4

địa bàn thành phố hiện mới có 350/1.800 điểm dừng xe buýt được lắp đặt nhà

chờ phục vụ khách do vỉa hè chật hẹp. Nhiều khu đô thị, trung tâm thương

mại, khu vui chơi giải trí, khu công nghiệp,. vẫn chưa có quy hoạch quỹ đất

dành cho vận tải hành khách công cộng. Tất cả những yếu tố nói trên là

nguyên nhân làm cho hệ thống xe buýt khó có thể phát triển hơn nữa, bởi

không bảo đảm an toàn, thuận tiện cho người dân và sẽ làm gia tăng mật độ

phương tiện, gây ùn tắc giao thông. Do vây, chưa đáp ứng mục tiêu yêu cầu

trong xây dựng, phát triển KT - XH.

Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế xã hội

trong vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt đối với sự phát triển của giao

thông đô thị ở Hà Nội hiện nay có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.

Xuất phát từ những vấn đề trên tác giả chọn nội dung: “Hiệu quả kinh tế - xã

hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà

Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Vấn đề Nâng cao hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách công

cộng bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội, đã thu hút rộng rãi sự

quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý trong cả nước. Đến

nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này trên nhiều khía cạnh và

phạm vi khác nhau.

- Nghiên cứu đánh giá hệ thống vận tải hành khách công cộng bằng

xe buýt ở các đô thị Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế của Đại học Giao thông

vận tải (2011) của tác giả Nguyễn Văn Điệp.

Luận án đã nghiên cứu và làm rõ đặc điểm, vai trò của hệ thống vận

tải hành khách công cộng trong các đô thị nói chung và vận tải hành khách

bằng xe buýt nói riêng. Đánh giá thực trạng hệ thống vận tải công cộng bằng

xe buýt ở các đô thị của nước ta, đặc biệt là hai thành phố lớn là Hà Nội và

5

Thành phố Hồ Chí Minh; Xây dựng hệ thống phương pháp và chỉ tiêu đánh

giá hệ thống vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở các đô thị Việt

Nam. Nghiên cứu công trình này là cơ sở để tác giả xây dựng được được tiêu

chí đánh giá về hiệu quả kinh tế - xã hội của vận tải hành khách công cộng

bằng xe buýt ở Hà Nội.

- Nghiên cứu mô hình quản lý vận tải hành khách công cộng trong các

thành phố Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Giao thông

Vận tải (2013) của tác giả Vũ Hồng Trường.

Luận án đã nghiên cứu giải quyết những vấn đề bất cập của các mô

hình đã nghiên cứu và đang áp dụng ở Việt Nam về quản lý vận tải hành

khách công cộng; đề xuất các mô hình quản lý nhà nước đối với vận tải hành

khách công cộng trong các thành phố Viê ̣t Nam, trong đó bao gồm tất cả các

loại hình vận tải hành khách công cộng và phù hợp với từng nhóm thành phố

từ nay đến năm 2020 định hướng đến năm 2030. Nghiên cứu công trình này là

cơ sở để tác giả xây dựng các giải pháp liên quan đến công tác quản lý hoạt

động đối với hệ thống xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội.

- Trần Ngọc Luyện (2003), Trật tự an toàn giao thông đường bộ thực

trạng và giải pháp, Nxb CTQG, Hà Nội. Trong công trình khoa học này, tác

giả đã phân tích đánh giá, nêu ra một số nét cơ bản nhận diện về thực trạng

giao thông đường bộ ở Việt Nam, tìm ra những nguyên nhân chủ yếu gây ra

tình trạng mất an toàn giao thông như: Hạ tầng giao thông không đồng bộ, lạc

hậu, thiếu tính kết nối, ý thức người tham gia giao thông còn hạn chế, khả

năng về quản lý giao thông của các cơ quan quản lý nhà nước còn nhiều bất

cập; nguồn vốn của nhà nước đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông

công cộng còn nhiều hạn chế,. Tác giả cũng nghiên cứu và đưa ra những vấn

đề về giao thông công cộng như chất lượng hệ thống giao thông, trình độ

quản lý và sự tiện ích của giao thông công cộng của một số thành phố các

6

nước trong khu vực với tính chất tham khảo cho Việt Nam trong quá trình xây

dựng hệ thống giao thông công cộng thời gian tới. Trên cơ sở nghiên cứu tổng

kết công tác trật tự an toàn giao thông đường bộ trong những năm qua tác giả

đã đưa ra những giải pháp mang tính định hướng nhằm không ngừng đổi mới

và nâng cao chất lượng giao thông công cộng ; đặc biệt, là trực tiếp góp phần

khắc phục, hạn chế tình trạng ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông ở nước

ta hiện nay.

- Ngô Thanh Chương (2008), Quy trình tổ chức quản lý và hiệu quả xã

hội hóa vận tải hành khách công cộng bằng xe bus ở đô thị Việt Nam, Nxb

Giao thông Vận tải, đây là một công trình nghiên cứu công phu của tác giả,

trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến vận tải hành khách công

cộng ở các đô thị Việt Nam, tác giả đã chỉ rõ: Xã hội hóa Vận tải hành khách

công cộng là một hoạt động có ý nghĩa trong đáp ứng nhu cầu đi lại trong

thành phố. Các đô thị và thành phố của Việt Nam những năm gần đây đã có

rất nhiều những chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy phát triển vận tải hành

khách công cộng trong đó chủ yếu là vận tải bằng xe buýt nhằm cải thiện tình

hình giao thông tại các đô thị. Tiêu biểu là ở hai thành phố lớn là Hà Nội và

thành phố Hồ Chí Minh đã có bước đột phá trong đầu tư phương tiện, tăng

mức trợ giá, kết quả cho thấy về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu đi lại trong

đô thị và góp phần vào văn minh đô thị.

Tuy nhiên, xét thấy nguồn đầu tư hiện nay chủ yếu từ ngân sách Nhà

nước nên đã hạn chế rất lớn cho quá trình thực hiện mục tiêu đầu tư phát triển

của hệ thống giao thông. Do vậy để tiếp tục phát triển vận tải hành khách

công cộng bằng xe buýt ở các thành phố lớn cần thiết phải đa dạng hóa hình

thức đầu tư và huy động được các thành phần kinh tế cùng tham gia, thực

hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa lĩnh vực vận tải hành khách công cộng

bằng xe buýt nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ đồng thời giảm thiểu đầu tư

7

tài chính của nhà nước. Cùng với đó cần xây dựng cơ chế quản lý và các quy

định về chất lượng, độ an toàn của loại hình dịch vụ này.

- Nguyễn Thị Bích Hằng (2010), Các chính sách trợ giá cho hoạt động

vận tải hành khách công cộng bằng xe bus và biện pháp trợ giá, Nxb Giao

thông Vận tải, tác giả đã đề cập đến một thực tế được ghi nhận trong quá trình

phát triển giao thông của nhiều thành phố trên thế giới là sự phát triển của hệ

thống vận tải hành khách công cộng luôn kéo theo sự gia tăng số tiền trợ giá

cho hoạt động này. Tác giả đã đi sâu làm rõ những vấn đề liên quan để lý giải

tại sao phải trợ giá, trợ giá đến khi nào và làm thế nào để hạn chế số tiền trợ

giá cho vận tải hành khách công cộng. Đây là vấn đề vẫn tồn tại nhiều ý kiến

khác nhau, nhất là khi chúng ta chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa các loại hình

dịch vụ công trong đó có vận chuyển hành khách công cộng. Một vấn đề nữa

có tác động đến dịch vụ này là nguồn ngân sách hỗ trợ cho xe buýt của nhà

nước trong thời gian vừa qua là rất lớn, trong khi đó chất lượng dịch vụ lại

chưa tương xứng, hiện tượng tai nạn giao thông do chính các phương tiện xe

buýt vẫn xảy ra, gây bức xúc trong dư luận nhân dân.

Dựa vào kết quả nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ rõ: Khi tham gia

Vận tải hành khách công cộng, điều mà hành khách quan tâm không chỉ là

khối lượng dịch vụ doanh nghiệp có khả năng cung ứng mà còn là sự tiện ích

và chất lượng phục vụ thông qua hành trình ngắn nhất, chi phí thời gian thấp

nhất và tiện nghi tốt nhất của chuyến đi. Ngoài ra hiệu quả xã hội của hoạt

động vận tải còn được thể hiện ở khía cạnh làm giảm ô nhiễm môi trường và

đã khẳng định xu thế: Giao thông công cộng đảm bảo an toàn và từng bước

thay thế giao thông cá nhân. Hơn thế nữa, quá trình phát triển của các đô thị

lớn trên thế giới càng phát triển thì càng đòi hỏi cao hơn về khả năng phục vụ

của hệ thống giao thông công cộng. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả hoạt động

vận tải hành khách công cộng không chỉ thể hiện ở hiệu quả kinh doanh của

các doanh nghiệp vận tải.

8

- Trần Sơn (2013), Hỏi đáp pháp luật về xử phạt hành chính trong lĩnh

vực giao thông đường bộ, theo tinh thần nghị định số 34/2010/ NĐ- CP được

sửa đổi bổ xung theo nghị định số 71/2012 NĐ- CP của Chính phủ, Nxb

CTQG, Hà Nội. Nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn, trong công trình khoa học

này, tác giả đã trình bày một cách đầy đủ chi thiết những vấn đề cơ bản về

pháp luật xử phạt hành chính đối với người điều khiển các phương tiện giao

thông, trên cơ sở đó giúp cho người tham gia và điều khiển các phương tiện

giao thông đường bộ chấp hành nghiên luật giao thông đường bộ, nhằm giải

thiểu tối đa ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông. Xây dựng thói quen và

hành vi giao thông hiện đại, văn minh trong tương lai.

- Trần Văn Thành (2000) Một số vấn đề về xây dựng con người làm

công tác vận tải trong thời kỳ mới, Nxb CTQG Hà Nội, xuất phát từ quan

điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

về vấn đề con người, tác giả cuốn sách đã phân tích đánh giá về một số nhân tố,

trong đó làm rõ vai trò quyết định của yếu tố con người trong việc phát triển giao

thông nhân tố có nghĩa quyết định tới chất lượng và hiệu quả an toàn giao thông.

Trong đó, văn hóa giao thông của mọi người dân được tác giả quan tâm nghiên

cứu và khẳng định có ý nghĩa quyết định đến văn minh giao thông. Cùng với đó,

chất lượng con người trong lực lượng thực thi pháp luật nhà nước về giao thông

cũng cần xây dựng theo những chuẩn mực nhất định, đảm bảo có đủ đức và tài

để hoàn thành nhiệm vụ mà nhà nước và nhân dân giao phó. Vì vậy, để phát

triển bền vững, cùng với đổi mới toàn diện các lĩnh vực thì ngành vận tải nhất

thiết phải quan tâm đầu tư xây dựng nguồn lực con người và coi đây là vấn đề

then chốt và là động lực trong chiến lược phát triển.

Ngoài những công trình nêu trên, còn có một số bài viết tiêu biểu liên

quan đến hiệu quả hoạt động của xe buýt như: “Nâng cao hiệu quả hoạt động

vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt”, Tạp chí Giao thông vận tải Số 8.

9

- Tr.37,42-43 (2004) của tác giả Nguyễn Trọng Thông; “Đề xuất một số

phương pháp đơn giản nhất dành cho người bộ hành tiếp cận các điểm đỗ xe

buýt trong hệ thống vận tải hành khách công cộng Hà Nội”, Số 1+2, tr.89-90

(2007) của tác giả Nguyễn Thuỷ Nguyên; “Phát triển xe Buýt ở Hà Nội dưới

góc nhìn của hành khách” Tạp chí Giao thông vận tải, Số 7, Tr.57-58,63.

(2004) của tác giả Nguyễn Đức Thuần; “Một số giải pháp hoàn thiện công

tác đấu thầu nhằm thực hiện mục tiêu xã hội hoá vận tải hành khách công

cộng bằng xe Bus ở thủ đô Hà Nội”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 116. -

Tr.28-31, (2007) của Tác giả Bùi Thị Hoàng Lan...

Những công trình trên đã nghiên cứu ở nhiều nội dung khác nhau, với

những cách tiếp cận khác nhau về vấn đề hiệu quả của vận tải hành khách

công cộng bằng xe buýt, cung cấp cho tác giả những cơ sở lý luận và thực tiễn

quan trọng để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn.

Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Hiệu

quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty

Vận tải Hà Nội” dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị như một công trình

nghiên cứu chuyên ngành. Đây là “khoảng trống” khoa học để tác giả quyết

tâm lựa chọn làm vấn đề nghiên cứu của mình.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích nghiên cứu

Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn, hiệu quả KT - XH trong vận tải

hành khách công cộng bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội. Trên

cơ sở đó đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu về nâng cao hiệu quả

KT - XH trong vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt của Tổng Công ty

Vận tải Hà Nội trong thời gian tới.

* Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả KT - XH trong vận tải

hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội hiện nay.

10

- Đánh giá thực trạng hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách bằng xe

buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội trong những năm qua.

- Đề xuất những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả KT -

XH trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội

trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

* Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận

tải hành khách bằng xe buýt.

* Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Nghiên cứu về hiệu quả kinh tế và xã hội.

- Về không gian: Hoạt động vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng

Công ty Vận tải Hà Nội

- Về thời gian: Nghiên cứu hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách

bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội từ năm 2008 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản

Việt Nam, các văn kiện của Thành ủy, Ủy ban nhân dân, Sở giao thông vận

tải thành phố Hà Nội và các vấn đề có liên quan đến đề tài.

* Phương pháp nghiên cứu

Tác giả kết hợp phương pháp lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống

kê, so sánh, trừu tượng hóa khoa học đang được vận dụng trong nghiên cứu kinh

tế chính trị. Luận văn cũng chú trọng nghiên cứu, phân tích các tư liệu, dữ liệu,

thông tin từ các nguồn khác nhau của các cơ quan chức năng, các đề tài, tạp chí

mà tác giả có điều kiện tiếp cận.

11

6. Ý nghĩa của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần luận giải cơ sở khoa học

về hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công

ty Vận tải Hà Nội hiện nay. Luận văn có nội dung hữu ích giúp cho cán bộ

lãnh đạo Thành phố và lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước về giao thông tham

khảo để xác định chủ trương, giải pháp và những độc giả quan tâm đến vấn đề

này làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu.

7. Kết cấu của luận văn

Gồm có: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu

tham khảo và các phụ lục.

12

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG VẬN TẢI

HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT

1.1. Phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách

bằng xe buýt

1.1.1. Hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả kinh tế

- xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt

* Hiệu quả kinh tế - xã hội

Trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống KT - XH nói chung, hiệu

quả bao giờ cũng là vấn đề được các chủ thể quan tâm hàng đầu. Theo nghĩa

chung nhất thì: Hiệu quả là một khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết

quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra

để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định.

Ngày nay, trong các hoạt động KT - XH chúng ta thường đề cập ba loại

hiệu quả cơ bản đó là: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị xã hội và hiệu quả

môi trường. Tùy vào lĩnh vực, loại hình, tính chất nhiệm vụ và thời điểm hoạt

động của mỗi tổ chức, cá nhân để chúng ta xác định đâu là hiệu quả cơ bản cần

đạt tới. Khi nghiên cứu về vấn đề này, các tài liệu khoa học đều thống nhất

nhận thức về khái niệm hiệu quả kinh tế và xã hội như sau:

- Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế dùng so sánh kết quả sản xuất

của các chủ thể kinh tế nhận được với chi phí mà họ bỏ ra trong quá trình tái

sản xuất, nhằm kết hợp hài hòa các lợi ích, từng bước nâng cao lợi ích kinh tế

cơ bản, hiện thực hóa mục tiêu của nền sản xuất.

- Hiệu quả xã hội là thước đo của mỗi bước tiến của tiến bộ xã hội

trong không ngừng tạo ra và nâng cao các điều kiện sống, điều kiện làm việc,

phúc lợi xã hội cho sự phát triển con người một cách toàn diện, phát triển các

quan hệ xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

13

Những hiệu quả này được thể hiện sinh động ở mức đóng góp vào sự

vững mạnh, ổn định của đất nước, giữ vững an ninh xã hội; mang lại công ăn

việc làm; góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao

động, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Nhằm phát triển con người toàn diện

cả về sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ văn hoá, nâng cao mức sống, lối

sống và chất lượng cuộc sống của con người trong xã hội.

Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ biện chứng, thống

nhất chặt chẽ với nhau, làm tiền đề và tạo điều kiện cho nhau phát triển, do vậy

trong hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác không nên đề cao,

tuyệt đối hóa hoặc hạ thấp một loại hiệu quả nào.

Như vậy, theo quan niệm chung nhất, Hiệu quả kinh tế - xã hội trong

vận tải hành khách bằng xe buýt là một phạm trù kép, phản ánh kết quả đạt

được trong việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu về kinh tế - xã hội. Là tỷ lệ

giữa kết quả và lợi ích đạt được với những nguồn lực mà xã hội đã chi phí cho

việc duy trì và bảo đảm hoạt động của loại hình dịch vụ này trong một khoảng

thời gian nhất định

Tóm lại, hiệu quả KT - XH là một phạm trù kinh tế khách quan, bao

hàm trong đó hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội, được tính toán dựa trên cơ

sở so sánh giữa kết quả thu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh và chi

phí các nguồn lực để đạt được kết quả. Đồng thời, gắn với giải quyết tốt các

vấn đề xã hội phát sinh khi sử dụng các nguồn lực để đạt được hiệu quả kinh

tế cao và bền vững.

* Hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt

Vận tải hành khách bằng xe buýt là một trong những phương thức vận

chuyển hành khách chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân trong

các thành phố, cũng như từ các thành phố đến các khu đô thị vệ tinh bằng ô tô

theo tuyến cố định, có điểm dừng đón trả khách dọc tuyến, xe chạy theo biểu

14

đồ vận hành quy định, có thu tiền theo quy định của từng Thành phố.

Mục tiêu phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt trong

các đô thị ở nước ta hiện nay là cung cấp dịch vụ xe buýt thuận tiện, tiện nghi

và an toàn, phù hợp với nhu cầu đi lại của đa số người dân nhằm khuyến khích

người dân ưu tiên sử dụng xe buýt, tạo tiền đề cho việc hạn chế sử dụng

phương tiện cá nhân, góp phần giảm ùn tắc, kiềm chế tai nạn giao thông và

giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong các thành phố.

Từ sự phân tích trên đây, tác giả đưa ra quan niệm về hiệu quả kinh tế -

xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt như sau:

Hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt là một

phạm trù kép, phản ánh kết quả đạt được trong việc thực hiện các nhiệm vụ,

mục tiêu về kinh tế gắn với các nhiệm vụ và mục tiêu về xã hội. Là tỷ lệ giữa

kết quả và lợi ích đạt được với những nguồn lực mà xã hội đã chi phí cho việc

duy trì và bảo đảm hoạt động của loại hình dịch vụ này trong một khoảng thời

gian nhất định.

Nội hàm của khái niệm thể hiện một số vấn đề sau:

Thứ nhất: Hiệu quả kinh tế xã hội trong vận tải hành khách bằng xe

buýt là một “phạm trù kép”, vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù:

Tính phổ biến là do vận tải hành khách bằng xe buýt cũng là một loại

hình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, nó phải được đặt trong môi trường cạnh

tranh bình đẳng với các loại hình sản xuất kinh doanh khác của toàn bộ nền

kinh tế, mà trước hết, là trong nội bộ của ngành dịch vụ vận tải hành khách

công cộng. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh chính là động lực cơ bản

cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Để có thể đứng vững trong

môi trường cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp trong lĩnh vực vận tải hành

khách bằng xe buýt phải không ngừng nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ.

Hệ quả là hiệu quả kinh tế xã hội của nó ngày càng được nâng lên.

Như vậy, tính phổ biến của hiệu quả kinh tế xã hội trong vận tải hành

15

khách bằng xe buýt đặt ra yêu cầu là cần phải tạo ra cơ chế cạnh tranh bình

đẳng, trước hết là trong nội bộ khu vực vận tải hành khách công cộng, hạn chế

thấp nhất tình trạng bao cấp, độc quyền làm cho chất lượng dịch vụ không

được cải thiện và hiệu quả kinh tế xã hội thấp.

Tính đặc thù của hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách bằng xe

buýt được quy định bởi chức năng và nhiệm vụ của nó.

Vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt là nét đẹp trong văn minh

đô thị ở hầu hết các nước trên thế giới. Đối với các đô thị ở nước ta hiện nay,

loại hình dịch vụ này đang ngày càng phát triển. Tuy nhiên, nếu để các doanh

nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này tự trang trải và hạch toán thì chắc chắn

giá dịch vụ sẽ tăng cao, điều đó sẽ cản trở việc thực hiện mục tiêu thu hút ngày

càng nhiều người dân tham gia sử dụng dịch vụ xe buýt nhằm giảm ùn tắc, tai

nạn giao thông và ô nhiễm môi trường... Để giải quyết mâu thuẫn này, hầu hết

chính quyền các đô thị đều thực hiện các biện pháp trợ giá cho người sử dụng,

có chính sách ưu đãi về tài chính ổn định cho các doanh nghiệp, đầu tư về

phương tiện, hạ tầng đô thị, bến bãi...Tất cả các biện pháp đó, nếu nhìn một

cách trực diện thì đều làm gia tăng chi phí đầu tư dẫn đến giảm hiệu quả kinh

tế nhưng hiệu quả về mặt xã hội thì lại tăng lên. Mặt khác, nếu phân tích dưới

góc độ “hiệu ứng lan tỏa” từ việc sử dụng dịch vụ vận tải công cộng bằng xe

buýt thì chi phí xã hội sẽ được tiết kiệm đáng kể (chi phí để giải quyết ô nhiễm

môi trường, ùn tắc và tai nạn giao thông...do mức độ sử dụng phương tiện giao

thông cá nhân quá lớn). Khi đó, nhà nước chỉ phải bỏ ra “một đồng” nhưng xã

hội lại tiết kiệm được “nhiều đồng”. Đây chính là “lợi ích kép” của vận tải

hành khách bằng xe buýt đem lại mà chính quyền các đô thị cần phải tiếp tục

theo đuổi. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với mục tiêu xây dựng các đô thị

ngày càng văn minh, hiện đại ở nước ta hiện nay.

Như vậy, tính đặc thù của hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách

16

bằng xe buýt thể hiện ở chỗ hiệu quả về mặt xã hội được đặt ra cả trực tiếp

trước mắt và lâu dài, hiệu quả về mặt kinh tế nhấn mạnh tính hiệu ứng lan tỏa

của việc sử dụng loại hình dịch vụ này đối với toàn xã hội, không chỉ thể hiện

ở doanh thu của doanh nghiệp hay thu nhập của người lao động trong các

doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt mà nó còn thể hiện ở cả những

lợi ích mà dịch vụ vận tải này đem lại.

Thứ hai, hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách bằng xe buýt

được xác định cả về mặt định tính và định lượng đó là:

Về mặt định tính: Thể hiện ở mục tiêu giải quyết tốt mối quan hệ giữa

hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Mục tiêu hướng tới giải quyết tốt các vấn

đề xã hội, là phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân một cách thuận tiện, giảm ùn

tắc giao thông, chống ô nhiễm môi trường, giảm thiểu những tổn thất về kinh

tế do nạn tắc đường gây ra. Ngược lại, mỗi kết quả đạt được về xã hội, đều

nhằm mục đích góp phần tăng trưởng, phát triển kinh tế.

Về mặt định lượng: Thể hiện ở kết quả thu được so với các chỉ tiêu về

các nguồn lực đã chi phí, thông qua mối tương quan bằng các con số tương

đối và tuyệt đối. Qua đó cho phép đánh giá mức độ hoàn thành chỉ tiêu kế

hoạch đề ra.

Tuy nhiên, đánh giá hiệu quả KT- XH về mặt định lượng chỉ mang tính

tương đối, rất khó để có thể để lượng hóa chính xác về hiệu quả KT - XH của

vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt. Bởi vì, thứ nhất, những chi phí

của doanh nghiệp thì có thể tính toán được thông qua kết quả sản xuất kinh

doanh hàng năm, nhưng những chi phí của nhà nước, đặc biệt là của xã hội

(người tiêu dùng dịch vụ) thì rất khó để tính toán chính xác. Thứ hai, những lợi

ích cả về kinh tế và xã hội thông qua việc sử dụng loại hình dịch vụ này không

chỉ giới hạn trong phạm vi của các doanh nghiệp mà nó bao trùm, lan tỏa tới

nhiều lĩnh vực, nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, không chỉ trong phạm

vi địa phương mà là toàn bộ khu vực thậm chí là cả đất nước.

17

Từ tất cả những nghiên cứu trên, có thể khẳng định: Hiệu quả KT - XH

của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt là hiệu quả kép, kết quả mang lại

cả về kinh tế, xã hội cho tập thể và mọi cá nhân được thể hiện ở việc đảm bảo

nguồn thu ngân sách cho địa phương, tạo tiện ích và thuận lợi cho người dân

khi tham gia giao thông, xây dựng nét văn minh trong tham gia giao thông

công cộng, giảm ùn tắc giao thông và bảo vệ môi trường.

1.1.2. Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận

tải hành khách bằng xe buýt

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, việc đánh giá hiệu quả

KT - XH của vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt là một việc làm cần

thiết, xuất phát từ những lý do sau:

Một là, xuất phát từ yêu cầu phải giữ vững vai trò chủ đạo và định

hướng của dịch vụ vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt so với các loại

hình vận tải hành khách công cộng khác trong các đô thị.

Hiện nay, có nhiều loại hình vận tải cùng tham gia vận tải tải hành

khách công cộng ở các đô thị như: xe buýt, đường sắt, xe taxi...Tuy nhiên, vận

tải hành khách công cộng bằng xe buýt vẫn là loại hình chủ yếu, đóng vai trò

chủ đạo, định hướng cho các loại hình vận tải khác. Vai trò chủ đạo của vận tải

hàch khách bằng xe buýt được xác định rõ trong Quyết định 280/QĐ – TTg

ngày 28 tháng 3 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án

phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt từ năm 2012 đến năm

2020. Theo đó, giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020, vận tải hành khách công

cộng bằng xe buýt đóng vai trò then chốt và là nhiệm vụ, chiến lược của các đô

thị trong việc khắc phục ùn tắc giao thông, kiềm chế tai nạn giao thông và

giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Cụ thể hóa quan điểm trên, Đề án “Phát triển hợp lý các phương thức

vận tải tại các thành phố lớn ở Việt Nam” do Bộ Giao thông Vận tải xây dựng,

đến năm 2020, tỷ lệ vận tải hành khách công cộng đảm nhận tại Hà Nội và

18

Thành phố Hồ Chí Minh là từ 20-25% (trong đó xe buýt: 10-15%, đường sắt

đô thị: 4-5%, xe taxi: 2-3%, phương tiện vận tải công cộng khác: 1-2%).

Để thực hiện được vai trò chủ đạo của mình, vấn đề đặt ra là cần phải

đánh giá đúng hiệu quả KT – XH của hình thức vận tải hành khách công cộng

bằng xe buýt làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch,

xác chương trình, mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn phát triển.

Hai là, xuất phát từ những lợi ích mà dịch vụ vận tải hành khách bằng

xe buýt đem lại.

Lợi ích của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt được thể hiện

thông qua lợi ích của tất cả các bên tham gia cung ứng và sử dụng dịch vụ.

Đồng thời, còn thể hiện ở những lợi ích có tính chất là hệ quả của việc sử dụng

loại hình dịch vụ này, cụ thể:

- Đối với hành khách đi xe buýt: sử dụng dịch vụ xe buýt sẽ tiết kiệm

được thời gian, chi phí vận hành, đi lại và bảo đảm an toàn hơn so với sử dụng

các phương tiện cá nhân.

Tiết kiệm được thời gian là bởi về mặt lý thuyết, xe buýt bao giờ cũng

chạy đúng tuyến, đúng thời gian, lộ trình, có đường riêng; thông tin về lịch

trình được phổ biến rộng rãi... nên hành khách hoàn toàn có thể chủ động được

về mặt thời gian để thực hiện các công việc của mình. Tiết kiệm được chi phí

đi lại là do giá vé tương đối rẻ do được hỗ trợ về giá cho người sử dụng.

Thời gian và chi phí của một người nếu sử dụng không thường xuyên

loại hình dịch vụ này thì không lớn. Nhưng, vẫn người đó, nếu sử dụng thường

xuyên thì sẽ là một con số đáng kể. Hơn nữa, tổng thời gian và chi phí của các

cá nhân tiết kiệm được (tiết kiệm chi phí của xã hội) thì chắc chắn là một con

số không nhỏ.

- Đối với nhà nước mà trực tiếp là chính quyền các đô thị: Từ góc độ

kinh tế, khi có nhiều người dân sử dụng dịch vụ xe buýt sẽ có tác dụng tiết

kiệm được ngoại tệ cho nhà nước do ít phải nhập xăng dầu hơn để phục vụ

19

cho hàng triệu phương tiện vận chuyển cá nhân hiện nay. Tiết kiệm được

ngân sách cho các địa phương vì ít phải chi hơn cho các hoạt động duy tu,

sửa chữa và bảo dưỡng hạ tầng giao thông do tác động lớn từ các phương

tiện giao thông cá nhân gây ra.

- Đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách bằng xe

buýt: khi người dân ở các đô thị càng sử dụng dịch vụ này bao nhiêu thì doanh

thu của các doanh nghiệp vận tải càng tăng lên bấy nhiêu, khắc phục được tình

trạng thu không đủ chi và trực tiếp nâng cao mức thu nhập, tạo ra nhiều việc

làm cho người lao động. Đồng thời, các doanh nghiệp càng có điều kiện tích

lũy để tái đầu tư, mở rộng sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ,

phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhu cầu đi lại của dân cư.

- Những lợi ích có tính chất là hệ quả của việc sử dụng dịch vụ vận tải

hành khách bằng xe buýt được thể hiện trên hai khía cạnh.

Thứ nhất, làm giảm bớt các tác động tiêu cực từ bên ngoài gồm: Giảm

bớt tần suất và mức độ nghiêm trọng của tai nạn giao thông, từ đó giảm chi phí

y tế, bảo hiểm xã hội hằng năm cho lĩnh vực này; giảm thiểu ô nhiễm môi

trường do việc sử dụng quá nhiều các phương tiện giao thông của cá nhân hiện

nay; giảm thiểu tắc nghẽn giao thông - tình trạng phổ biến của các đô thị lớn ở

Việt Nam hiện nay.

Theo tính toán từ mô hình phân tích chi phí và quản lý đường bộ

(HDM4) của ngân hàng thế giới, chi phí cho việc giảm thiểu ô nhiễm môi

trường và giảm thiểu tai nạn giao thông (chi phí ngoại tác) của xe buýt thông

thường thấp hơn nhiều so với xe máy (73 đồng/hành khách/lượt so với 219

đồng/hành khách/lượt).

Thứ hai, làm gia tăng các tác động tích cực đến các mặt của đời sống

kinh tế - xã hội như: tạo ra lựa chọn mới và làm tăng nhu cầu tham gia giao

thông của người dân cũng như gia tăng độ thỏa dụng của người đi đường, từ đó

20

làm gia tăng phúc lợi xã hội; Sử dụng phương tiện giao thông bằng xe buýt ổn

định sẽ giúp người lao động rèn luyện được tác phong công nghiệp (đi đúng

giờ, làm việc đúng giờ) từ đó làm tăng năng suất và hiệu quả lao động; tạo ra

sự phát triển kinh tế - xã hội dọc tuyến đường, nhất là ở các trạm dừng hay bến

đỗ xe buýt; tăng thêm tính tiện nghi, thuận tiện và độ tin cậy của các dịch vụ

công - lĩnh vực còn nhiều hạn chế và bất cập ở Việt Nam hiện nay.

Ngoài hiệu quả về mặt phục vụ cộng đồng, xe buýt cũng được dùng để

phục vụ kinh doanh quảng cáo để tạo nguồn thu tái đầu tư phục vụ cộng đồng.

Xe buýt góp phần tạo một bộ mặt văn minh cho các đô thị lớn, một trong

những yếu tố thu hút khách du lịch và các nhà đầu tư.

Như vậy, lợi ích của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt là rất lớn và

trên nhiều mặt cả kinh tế, xã hội, môi trường. Vấn đề đặt ra là, cần phải làm rõ

về hiệu quả KT – XH nó để có các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, khuyến

khích người dân sử dụng ngày càng nhiều hơn dịch vụ vận tải hành khách bằng

xe buýt. Từng bước thay đổi thói quen trong sử dụng các phương tiện giao

thông công cộng của người dân, góp phần xây dựng nét đẹp văn hóa trong giao

thông ở các đô thị trên cả nước.

Ba là, xuất phát từ nhu cầu ngày càng tăng của người dân về thụ hưởng

dịch vụ xe buýt trong các đô thị và sự thuận tiện, văn minh của loại hình vận tải

này trong tương lai.

Trong các đô thị ở nước ta, vấn đề an toàn và ách tắc giao thông từ lâu

đã là bài toán khó. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các khu đô thị vệ

tinh, các trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội đã làm cho áp lực giao thông ở các

đô thị ngày càng lớn. Để giải bài toán giao thông, hiện nay, chính quyền các đô

thị đã và đang áp dụng nhiều biện pháp trong đó, khuyến khích người dân sử

dụng xe buýt thay cho phương tiện đi lại của cá nhân là một biện pháp mang lại

hiệu quả thiết thực. Hiện nay, nhu cầu sử dụng xe buýt ở các đô thị đã tăng lên

21

đáng kể. Tuy nhiên, “cầu” tăng nhưng “cung” vẫn chưa đáp ứng kịp thời ảnh

hưởng lớn đến chất lượng dịch vụ của Tổng công ty. Tình trạng này nếu không

nhanh chóng được cải thiện thì chắc chắn sẽ làm giảm tính hấp dẫn của loại

hình dịch vụ này đối với người dân. Khi đó, mục tiêu cả về kinh tế và xã hội

mà loại hình dịch vụ này mang lại sẽ không đạt được. Vì vậy, đánh giá hiệu

quả kinh tế xã hội của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt là nhằm tạo ra

sự cân bằng về cung – cầu trong lĩnh vực này, đáp ứng nhu cầu đi lại ngày càng

tăng của dân cư.

Bốn là, xuất phát từ thực trạng hoạt động vận tải hành khách bằng xe

buýt ở các đô thị trong những năm vừa qua tuy đã đạt được nhiều kết quả đáng

mừng; tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần giải quyết kịp thời

trong thời gian tiếp theo.

Đặc điểm của ngành vận tải hành khách công cộng mang tính xã hội

cao và thường nhận được sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ của nhà nước. Hiện nay,

chính quyền các đô thị trong cả nước thường áp dụng một số hình thức hỗ trợ

đối với dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt như:

Hỗ trợ trực tiếp về giá: Cách xác định hỗ trợ giá thường được xác định

theo chuyến đối với từng tuyến xe buýt và từng nhóm xe. Công thức tính kinh

phí trợ giá thông thường được áp dụng như sau:

Kinh phí trợ giá = Tổng chi phí chuyến xe (đã tính lợi nhuận) – Doanh

thu khoán. Theo cách tính này, nếu tổng chi phí cao hơn tổng doanh thu (từ tiền

bán vé) thì ngân sách của các đô thị phải thanh toán lại cho các đơn vị vận tải

phần chênh lệch đó. Trường hợp doanh thu cao hơn chi phí thì đơn vị vận tải

phải trả lại phần chênh lệch này cho ngân sách. Đơn giá chuẩn để xác định chi

phí đã bao gồm tất cả các khoản chi phí nhiên liệu, nhân công, vật tư, khấu hao,

bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện, chi phí quản lý và tiền thưởng dự kiến…

Ngoài hình thức trợ giá trực tiếp, vận tải hành khách bằng xe buýt trong

các đô thị ở nước ta hiện nay còn được thụ hưởng nhiều hình thức trợ giá gián

22

tiếp nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho loại hình dịch vụ này phát triển như: chính

sách ưu đãi về lãi suất và hỗ trợ phần chênh lệch lãi vay cho các tổ chức và cá

nhân vay vốn đầu tư phương tiện xe buýt; chính sách miễn thuế giá trị gia tăng

cho hoạt động vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt; chính sách về giá vé

để khuyến khích người dân sử dụng xe buýt (mức trợ giá bình quân trong các

đô thị ở nước ta hiện nay giao động từ 4000 đến 4500 đồng/một vé); chính sách

hỗ trợ lãi vay cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho mạng

lưới xe buýt…Với các hình thức hỗ trợ như trên, mỗi năm các đô thị ở nước ta

phải chi ra một lượng lớn từ ngân sách cho dịch vụ vận tải này (từ năm 2010

đến 2013, mỗi năm hai Thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh

phải chi từ 700 đến 1400 tỷ đồng).

Mặc dù, nhận được nhiều sự ưu đãi của nhà nước như đã phân tích trên

đây, tuy nhiên, hoạt động của loại hình vận tải hành khách này vẫn chưa đạt

được mục tiêu, kế hoạch đề ra: về kinh tế, nhìn chung thu vẫn chưa đủ chi; về

xã hội vẫn chưa cung cấp được một hệ thống dịch vụ đi lại thực sự thuận tiện,

an toàn, văn minh và lịch sự nhằm thu hút ngày càng nhiều người sử dụng

phương tiện vận tải bằng xe buýt. Thậm chí, nhiều tuyến buýt trong các đô thị

ở nước ta hiện nay hoạt động kém hiệu quả gây lãng phí và thất thoát ngân sách

nhà nước. Tình trạng lợi dụng hoạt động trợ giá của nhà nước để thu lợi bất

chính đã xảy ra ở một số đô thị và trên một số tuyến buýt. Cùng với đó, những

vấn đề “nóng” của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt như: thái độ phục

vụ của lái xe và nhân viên, chất lượng cơ sở hạ tầng xuống cấp, tình trạng an

toàn giao thông.v.v…vẫn chưa được cải thiện.

Vì vậy, việc đánh giá khách quan, chính xác về hiệu quả KT – XH của

dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt sẽ có tác dụng vừa hạn chế được tình

trạng dựa dẫm, ỷ lại và trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước, khắc phục kịp

23

thời những hạn chế và yếu kém hiện nay, vừa tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng

trong khu vực cung ứng các dịch vụ vận tải hành khách công cộng.

1.2. Tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng

đến hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách

bằng xe buýt

1.2.1. Tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành

khách bằng xe buýt

Như đã phân tích ở trên, do hoạt động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ

công nên hiệu quả kinh tế - xã hội của xe buýt là một phạm trù kép khó phân

định rạch ròi đâu là hiệu quả kinh tế, đâu là hiệu quả xã hội. Vì vậy, để đánh

giá hiệu quả kinh tế - xã hội của loại hình dịch vụ vận tải này luận văn xác

định các tiêu chí sau:

Thứ nhất, mức độ ổn định và phát triển của hoạt động sản xuất kinh

doanh ở các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt được biểu hiện

thông qua doanh thu của doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách địa phương,

việc làm và thu nhập của người lao động

- Doanh thu của doanh nghiệp: Đây là thước đo cơ bản để để đánh giá

hiệu quả kinh tế của một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong bất kỳ lĩnh

vực nào. Các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt ở nước ta hiện

nay cũng phải lấy tiêu chí này để xác định đúng tình trạng sản xuất kinh

doanh của từng loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp đã thực hiện xã hội hóa

và doanh nghiệp chưa xã hội hóa). Có như vậy mới tạo ra sự cạnh tranh bình

đẳng, tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Doanh thu của các doanh

nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt bao gồm tổng số tiền thu được từ hoạt

động bán vé (vé lượt cộng vé tháng) và các hoạt động quảng cáo trên xe buýt.

Vì vậy, yêu cầu đặt ra trong đánh giá mức độ ổn định và tăng doanh thu của

doanh nghiệp là phải tính toán đầy đủ tất cả các khoản thu trên.

24

- Đóng góp cho ngân sách nhà nước và các địa phương: Hiện nay, số

lượng người dân sử dụng dịch vụ xe buýt ở các độ thị, nhất là các đô thị lớn ngày

càng tăng (ở Hà Nội: khoảng 13 % và Thành phố Hồ Chí Minh khoảng: 15%).

Với tỷ lệ này, hàng năm, các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt đã

đóng góp một khoản không nhỏ vào ngân sách của các địa phương. Vì vậy, mức

độ đóng góp nhiều hay ít vào ngân sách địa phương là sự thể hiện khả năng tổ

chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tiết kiệm cho ngân sách nhà

nước và các địa phương cũng là tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh

tế của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt. Hiện nay, việc sử dụng các

phương tiện cá nhân trong giao thông ở nước ta nói chung và trong các đô thị

nói riêng vẫn là chủ yếu. Mỗi năm, nhà nước phải chi ra hàng ngàn tỷ đồng cho

việc nhập khẩu xăng dầu phục vụ các phương tiện đi lại của cá nhân. Vì vậy,

sử dụng xe buýt thay cho các phương tiện của cá nhân sẽ có tác dụng trực tiếp

làm giảm chi ngân sách cho hoạt động nhập khẩu xăng dầu hiện nay. Ngoài ra,

ngân sách của các địa phương còn tiết kiệm được do đầu tư của cá nhân và xã

hội cho phương tiện cá nhân giảm làm cho chi phí nhiên liệu giảm, hao phí thời

gian do ùn tắc giao thông gây ra sẽ giảm.

- Việc làm và thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp

vận tải hành khách bằng xe buýt: Tiêu chí này thể hiện ở một số nội dung

như: số lượng việc làm mới được tạo thêm hàng năm; số lượng người bị mất

việc làm hàng năm trong các doanh nghiệp; số lượng việc làm dịch chuyển

sang các lĩnh vực khác và từ các lĩnh vực khách dịch chuyển vào; mức thu

nhập của người lao động trong các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe

buýt so với mức thu nhập bình quân của xã hội và trong nội bộ ngành vận tải

hành khách công cộng. Đánh giá đầy đủ các yếu tố đó sẽ cho thấy mức độ bền

vững trong giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho người lao động - một yếu

tố cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.

25

Thứ hai, công tác quản lý, khai thác và sử dụng nguồn vốn đầu tư và các

phương tiện, trang thiết bị của các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt.

- Quản lý và sử dụng vốn đầu tư: được thể hiện thông qua hiệu suất đầu

tư, đây là chỉ số quan trọng phản ánh mức độ gia tăng trên tổng số vốn đã đầu

tư, nó chính là mức độ sinh lời của vốn đầu tư ở các doanh nghiệp vận tải

hành khách bằng xe buýt. Vì vậy, đánh giá hiệu quả kinh tế của dịch vụ vận tải

hành khách công cộng hiện nay không thể không đánh giá kết quả công tác

quản lý và sử dụng các nguồn vốn được giao, thể hiện ở việc sử dụng nguồn

vốn đó có đúng mục đích hay không? Nguồn vốn có bị thất thoát hay không?

Mức độ thất thoát nhiều hay ít? Mức độ huy động và khai thác các nguồn vốn

như thế nào? Và mức độ gia tăng của vốn đầu tư cao hay thấp? Tuy nhiên,

việc đánh giá hiệu suất đầu tư ở đây khác với các doanh nghiệp kinh doanh

vận tải thông thường ở chỗ không chỉ thông qua tính toán hiệu quả gia tăng

của đồng vốn, mà còn phải đánh giá hiệu suất trên cơ sở dựa vào kết quả đáp

ứng nhu cầu phát triển KT - XH nói chung.

- Hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng phương tiện, trang thiết bị của

các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt.

Các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt ở các đô thị, nhất là

những đô thị lớn ở nước ta hiện nay có số lượng và giá trị tài sản tương đối

lớn. Với điều kiện khí hậu thời tiết và hệ thống hạ tầng giao thông chưa phát

triển ở nước ta hiện nay đã làm cho mức độ xuống cấp của các phương tiện

giao thông rất nhanh. Vì vậy, đánh giá hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp

này còn phải dựa vào mức độ phù hợp trong tính toán khấu hao phương tiện và

các trang thiết bị của doanh nghiệp. Đến lượt nó, khấu hao phù hợp hay không

phù hợp lại tùy thuộc vào khả năng quản lý, khai thác và sử dụng phương tiện

và các trang thiết bị của các doanh nghiệp.

Thứ ba, chất lượng hệ thống dịch vụ và tỷ lệ tăng lên của người dân

26

tham gia sử dụng dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt ở các đô thị

- Chất lượng hệ thống dịch vụ: Chất lượng hệ thống dịch vụ phụ thuộc

chủ yếu vào số lượng và chất lượng con người và phương tiện, trang thiết bị

trong các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt. Trong đó, chất lượng

của đội ngũ lái xe và nhân viên phục vụ là trực tiếp và quyết định. Vì vậy, để

đánh giá chất lượng hệ thống dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt, trước

hết cần đánh giá đầy đủ về số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ này.

- Tỷ lệ tăng lên của người dân tham gia sử dụng dịch vụ vận tải hành

khách bằng xe buýt ở các đô thị: Chỉ số này phản ánh cả hiệu quả kinh tế và

hiệu quả xã hội của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt. Bởi vì, khi số

lượng người dân sử dụng dịch vụ tăng lên thì không chỉ doanh thu của doanh

nghiệp tăng lên mà các mục tiêu khác về giao thông đặt ra cho xe buýt cũng sẽ

thực hiện được. Đánh giá tỷ lệ tăng lên của dân cư tham gia sử dụng dịch vụ

vận tải hành khách bằng xe buýt không chỉ dựa vào số liệu thống kê về số

lượng vé bán ra, vào báo cáo của doanh nghiệp mà còn phải dựa vào kết quả

khảo sát, đánh giá đúng thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp. Khắc phục tình trạng các số liệu báo cáo chưa phản ánh đúng

với tình hình thực tiễn sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp, nhất là

những doanh nghiệp chưa xã hội hóa.

Thứ tư, mức độ đóng góp của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt

vào mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường, khắc phục ùn tắc giao thông và

kiềm chế tai nạn giao thông ở các đô thị hiện nay.

- Mức độ khí thải, tiếng ồn của xe buýt so với việc sử dụng các phương

tiện giao thông khác.

- Tỷ lệ đóng góp của xe buýt trong khắc phục ùn tắc giao thông ở các

đô thị (tính toán dựa trên tỷ lệ cư dân sử dụng xe buýt với tỷ lệ cư dân sử dụng

các phương tiện giao thông cá nhân trong các đô thị).

27

- Mức độ bảo đảm an toàn giao thông và kiềm chế tai nạn giao thông

của xe buýt so với các phương tiện giao thông khác (được tính toán dựa trên tỷ

lệ phần trăm giữa số người tăng lên do sử dụng dịch vụ xe buýt với số vụ tai

nạn giao thông trong một khoảng thời gian xác định)

1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế - xã hội trong

vận tải hành khách bằng xe buýt

Hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt

chịu sự chi phối bởi những nhân tố cơ bản sau đây:

Một là, cơ chế, chính sách phát triển dịch vụ vận tải hành khách bằng

xe buýt.

Cơ chế, chính sách có tác động to lớn, nhanh chóng và trực tiếp đến phát

triển dịch vụ vận tải hành khách công cộng nói chung, vận tải hành khách bằng

xe buýt nói riêng. Một cơ chế, chính sách phù hợp sẽ có tác dụng thúc đẩy dịch

vụ này phát triển làm gia tăng hiệu quả KT - XH và ngược lại nó sẽ kìm hãm

sự phát triển, làm giảm hiệu quả KT - XH.

Cơ chế, chính sách biểu hiện mức độ quan tâm của nhà nước (Chính

phủ, Bộ Giao thông Vận tải, chính quyền các đô thị) đối với dịch vụ vận tải

hành khách bằng xe buýt. Sự quan tâm này được thể hiện thông qua việc nhà

nước tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi để dịch vụ vận tải này phát triển như:

Đầu tư về phương tiện, trang thiết bị và khoa học - công nghệ; quy hoạch và

phát triển hạ tầng giao thông đô thị (điểm đỗ, nhà chờ, đường dành riêng cho

xe buýt...); xây dựng các lộ trình, kế hoạch phát triển mạng lưới xe buýt trong

từng giai đoạn; thực hiện nhiều chính sách ưu đãi về tài chính nhằm khuyến

khích các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt mở rộng sản xuất,

nâng cao chất lượng dịch vụ; thực hiện chính sách trợ giá nhằm khuyến khích

người dân sử dụng xe buýt thay cho các phương tiện giao thông cá nhân.v.v...

Kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia có dịch vụ vận tải hành

28

khách bằng xe buýt phát triển trong khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn

Quốc... cho thấy, nếu không có hệ thống cơ chế, chính sách hợp lý, biểu thị sự

quan tâm đầu tư của nhà nước, đặc biệt là sự đầu tư ban đầu và hoạt động “đầu

tư mồi” thông qua việc xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông đô thị liên hoàn,

hiện đại, khoa học và hoàn chỉnh thì không thể có sự phát triển của loại hình

dịch vụ vận tải này. Với nước ta, hiện tại, dịch vụ vận tải hành khách bằng xe

buýt ở các đô thị đã bước vào giai đoạn “bão hòa”, vì vậy, để thúc đẩy nó phát

triển cần tiếp tục tạo “cú huých” cho nó bằng một hệ thống cơ chế, chính sách

thông thoáng và ổn định nhằm tạo ra sự yên tâm trong đầu tư, mở rộng sản

xuất, nâng cao chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp.

Hai là, vốn đầu tư cho dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt

Vốn đầu tư là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh.

Vì vậy, vốn và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có quan hệ chặt chẽ với mức độ

đạt được về hiệu quả KT - XH của các doanh nghiệp vận tải hành khách

bằng xe buýt.

Hiện tại, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành

khách bằng xe buýt trong các đô thị nước ta bao gồm:

Vốn của nhà nước: là nguồn vốn quan trọng, tập trung chủ yếu vào

việc đầu tư ban đầu cho mua sắm phương tiện, xây dựng hạ tầng giao thông

và thực hiện việc hỗ trợ về giá vé cho người sử dụng. Nguồn vốn này tác

động có tính chất hai mặt đối với hiệu quả KT - XH của dịch vụ vận tải

hành khách bằng xe buýt. Mặt tích cực ở chỗ nó có tác dụng kích thích hoạt

động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp từ đó làm tăng hiệu quả KT

- XH của dịch vụ vận tải này. Mặt tiêu cực ở chỗ, nếu đầu tư quá lớn và

thực hiện các chính sách hỗ trợ, ưu tiên phát triển không theo các quy luật

của thị trường thì rất dễ rơi vào tình trạng bao cấp, là nguyên nhân xuất hiện

những tiêu cực trong sản xuất kinh doanh.

29

Vốn của doanh nghiệp: vốn của các doanh nghiệp có vai trò chủ yếu,

quyết định đến hiệu quả KT - XH của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt.

Vốn của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau: vốn tích luỹ

được trong quá trình sản xuất kinh doanh; vốn vay từ các ngân hàng; nguồn thu

từ hoạt động quảng cáo trên phương tiện và các nguồn vốn hợp pháp khác...

Thực hiện chủ trương xã hội hóa các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe

buýt, trong các đô thị ở nước ta hiện nay đã xuất hiện ngày càng nhiều các tuyến

buýt được xã hội hóa. Ưu điểm của những tuyến buýt này là lựa chọn được các

nhà đầu tư khác nhau, các thành phần kinh tế khác nhau cùng cạnh tranh trong

cung ứng dịch vụ. Nhà nước không phải đầu tư ban đầu về phương tiện, giảm áp

lực kinh tế cho ngân sách. Tuy nhiên, áp lực lớn về tài chính đối với các doanh

nghiệp xã hội hóa, tình trạng phân biệt đối xử và sự chênh lệch về quy mô, trình

độ, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp xã hội hóa với các

doanh nghiệp kinh doanh theo hình thức “đặt hàng” cũng ảnh hưởng không nhỏ

đến chất hiệu quả KT - XH ở các tuyến buýt này.

Ba là, trình độ và khả năng tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của

các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt.

Trình độ và khả năng tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh có ảnh

hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ của các doanh

nghiệp. Theo đó, nếu các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt có

năng lực quản lý tốt, bộ máy quản lý tinh gọn, sắp xếp hợp lý và thích ứng

nhanh với những biến đổi của kinh tế thị trường thì chất lượng và hiệu quả của

dịch vụ sẽ tăng lên. Ngược lại, bộ máy cồng kềnh, chất lượng thấp sẽ làm tăng

chi phí quản lý, giảm hiệu quả KT - XH của dịch vụ.

Thực tiễn hiện nay, năng lực tổ chức điều hành, quản lý của ban quản

lý trong một số doanh nghiệp vừa thiếu, vừa yếu và chưa đồng bộ cả về số

lượng và chất lượng nên vai trò quản lý còn mờ nhạt. Việc thiếu kiểm soát

30

hoạt động đối với nhân viên và đội ngũ lái xe thuộc quyền là một trong những

nguyên nhân gây nên tình trạng lộn xộn, dịch vụ kém chất lượng của không ít

tuyến buýt trong các đô thị ở nước ta hiện nay. Vì vậy, nâng cao trình độ tổ

chức quản lý, điều hành hoạt động của ban quản lý trong các doanh nghiệp

(hợp tác xã) xe buýt là việc làm thiết thực để nâng cao hiệu quả KT - XH của

loại hình vận tải này.

Bốn là, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh

nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt.

Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực mà trực tiếp là đội ngũ lái xe

và nhân viên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo dựng thương hiệu của dịch vụ

vận tải hành khách bằng xe buýt. Nó có thể làm tăng hoặc giảm niềm tin và

mức độ ủng hộ của người dân vào dịch vụ xe buýt và theo đó là tăng hoặc

giảm hiệu quả KT - XH. Một đội ngũ nhân viên và lái xe có đủ về số lượng,

tinh thần và thái độ phục vụ tốt, chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông và

các quy định của doanh nghiệp sẽ đóng góp một phần quan trọng trong việc tạo

dựng thương hiệu cho doanh nghiệp. Trái lại, nếu đội ngũ này không đáp ứng

được về số lượng, thái độ và hành vi ứng xử thiếu văn minh, lịch sự, chấp hành

không nghiêm chỉnh luật lệ giao thông và các quy định của doanh nghiệp thì

chẳng những không tạo dựng được thương hiệu mà còn trở thành rào cản lớn

đối với người dân đến với dịch vụ vận tải bằng xe buýt. Vì vậy, để nâng cao

hiệu quả KT - XH, tạo dựng thương hiệu cho dịch vụ vận tải hành khách công

cộng bằng xe buýt trong các đô thị ở nước ta hiện nay cần phải nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực. Trong đó, chấn chỉnh và tạo dựng nét đẹp trong văn hóa

ứng xử của đội ngũ lái xe và nhân viên phục vụ là công việc hàng đầu, cấp bách.

Năm là, sự phát triển của khoa học - công nghệ và mức độ ứng dụng

khoa học - công nghệ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Sự phát triển của hoa học - công nghệ và mức độ ứng dụng chúng

31

trong thực tiễn có quan hệ tỷ lệ thuận với hiệu quả KT - XH trong các doanh

nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt.

Hiện nay, hệ thống xe buýt trong các đô thị, nhất là trong các thành phố lớn

ở nước ta được trang bị tương đối hiện đại. Nhiều công nghệ mới đã được thử

nghiệm thành công và đưa vào sử dụng trong khai thác, quản lý và vận hành ở một

số tuyến buýt đem lại hiệu quả thiết thực như: hệ thống giám sát hành trình bằng

công nghệ định vị vệ tinh GPRS; công nghệ giám sát trật tự an ninh bằng Camera

trên xe và tại các điểm chờ xe buýt; hệ thống bảng hướng dẫn nhà chờ trên xe

bằng đèn Led. Đặc biệt, mới đây Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (Transerco) đã

chính thức đưa vào sử dụng phần mềm bản đồ tìm đường xe buýt Hà Nội.

Việc ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến nói trên sẽ tạo ra sự thuận

tiện cho hành khách trong việc tra cứu luồng, tuyến, địa điểm, lịch trình của xe

buýt - một trong những tiêu chí quan trọng để nâng cao chất lượng của loại hình

dịch vụ vận tải này. Tuy nhiên, không phải cứ ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện

đại vào sản xuất kinh doanh là có ngay hiệu quả kinh tế xã hội cao. Vì vậy, việc

ứng dụng khoa học - công nghệ phải tính đến các yếu tố như: khả năng tài chính

của doanh nghiệp; khả năng và mức độ sử dụng của của người dân (chủ yếu là

cư dân đô thị). Đồng thời, phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh

nghiệp để có thể làm chủ, khai thác và sử dụng có hiệu quả các công nghệ đó.

Sáu là, sự đồng thuận của xã hội và sự ủng hộ của người dân.

Đồng thuận của xã hội và sự ủng hộ của người dân có vai trò rất to lớn

đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vận tải hành khách bằng xe buýt là một

loại hình dịch vụ công nên muốn tồn tại và phát triển lại càng cần phải có sự đồng

thuận của toàn xã hội và sự ủng hộ của người dân. Sự đồng thuận xã hội tăng lên

cũng đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều người tin tưởng và sử dụng xe buýt

thay thế cho các phương tiện giao thông cá nhân. Khi đó, mục tiêu “kiềm chế tai

nạn, giảm ùn tắc giao thông, hạn chế ô nhiễm môi trường và tiết kiệm chi phí cho

32

xã hội” sẽ đạt được, nghĩa là, hiệu quả KT - XH sẽ tăng lên.

Tuy vậy, không phải ngẫu nhiên có sự đồng thuận của xã hội và sự

ủng hộ của người dân đối với dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt. Nó

chỉ có thể có được thông qua thực hiện đồng thời nhiều biện pháp như:

tuyên truyền giáo dục, thuyết phục và vận động tới mọi người dân, trước

hết là cư dân đô thị lựa chọn sử dụng xe buýt trong tham gia giao thông.

Đặc biệt, cần phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, làm cho

người dân thấy được những lợi ích thực sự của loại hình dịch vụ vận tải

này. Khi đó, mức độ ủng hộ của họ chắc chắn sẽ tăng lên.

*

* *

Trong Chương 1, tác giả đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận cơ bản

đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở

Hà Nội. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra quan niệm của mình về hiệu quả kinh

tế xã hội vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải

Hà Nội hiện nay. Đồng thời, làm rõ nội hàm của khái niệm trên các vấn đề: chủ

thể, nội dung, phương thức và mục đích của đặc điểm giao thông vận tải đô thị

và hệ thống vận tải bằng xe buýt ở Hà Nội. Tác giả đã đưa ra nhóm tiêu chí

đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội trong vận tải hành khách công cộng và những

nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế xã hội trong vận tải hành khách bằng

xe buýt của Tổng công ty vận tải Hà Nội. Đây là những cơ sở lý luận quan

trọng để tác giả khảo sát thực trạng hiệu quả kinh tế xã hội vận tải hành khách

công cộng bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội ở Chương 2.

33

Chương 2

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG VẬN

TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT CỦA TỔNG CÔNG TY

VẬN TẢI HÀ NỘI

2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công

ty Vận tải Hà Nội

Công ty xe buýt Hà Nội tiền thân là Công ty xe khách Thống nhất Hà

Nội được thành lập ngày 19/12/1962. Ngày 24/02/1992 UBND Thành phố

Hà Nội có Quyết định số 343/QĐ-TCCQ thành lập Công ty xe buýt Hà Nội;

Công ty Vận tải hành khách phía Bắc; Công ty Vận tải hành khách phía Nam

trên cơ sở tổ chức lại Công ty xe khách Thông Nhất; Xí nghiệp bến xe và

Bến xe phía Nam Hà Nội. Trước những yêu cầu phát triển trong giai đoạn

mới và để góp phần giải quyết bài toán ùn tắc giao thông cho thủ đô Hà Nội,

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII đề ra mục tiêu củng cố

và nhanh chóng phát triển xe buýt công cộng. Và Quyết định số

45/2001/QĐ-UB ngày 29/06/2001 của UBND Thành phố thành lập Công ty

Vận tải và Dịch vụ công cộng Hà Nội trên cơ sở hợp nhất nguyên trạng 4

Công ty; Công ty Xe buýt Hà Nội, Công ty Xe khách Nam Hà Nội, Công ty

Xe du lịch Hà Nội và Công ty Xe điện Hà Nội là một quyết sách táo bạo,

mang tính đột phá để tạo ra một Đơn vị đủ tầm đưa giao thông công cộng

Thủ đô bứt phá.

Có thể nói, bước đầu tiên của Công ty Vận tải và Dịch vụ công cộng

Hà Nội đã tạo nên một bước ngoặt mới, chuẩn bị cho bước chuyển mình

mang tầm vĩ mô hơn của Tổng công ty Vận tải Hà Nội vào năm 2004.

Ngày 14/5/2004, theo Quyết định số 72/2004/QĐ – UB của UBND

thành phố Hà Nội, Tổng công ty Vận tải Hà Nội – Transerco ra đời. Đây là

kết quả của việc sắp xếp, đổi mới để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh

34

của doanh nghiệp Nhà nước ngành giao thông vận tải trong xu thế hội nhập

và trước yêu cầu ngày càng cao về phát triển hiện đại hoá giao thông vận tải

Thủ đô. Theo đó, Tổng công ty Vận tải Hà Nội là đơn vị kinh doanh đa

ngành nghề, trong đó ngành nghề chính là cung ứng các dịch vụ công cộng

thiết yếu cho Thủ đô như: Vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt,

dịch vụ bến bãi, điểm đỗ xe công cộng, trong thời gian tới ưu tiên phát triển

các loại hình cung ứng các phương thức vận tải nhanh, khối lượng lớn.

Tổng công ty được tổ chức và hoạt động theo mô hình Tổng công ty do

các công ty tự đầu tư và thành lập (Công ty mẹ - Công ty con). Trong đó

Tổng công ty Vận tải Hà Nội giữ vai trò công ty mẹ trực tiếp thực hiện các

hoạt động kinh doanh của mình và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ

sở hữu hoặc cổ đông, thành viên góp vốn tại các công ty trực thuộc.

Cơ cấu tổ chức của Transerco thời kỳ đầu thành lập gồm Công ty

mẹ: Với 10 Đơn vị phụ thuộc gồm: (1) Xí nghiệp Xe buýt Hà Nội; (2) Xí

nghiệp Xe buýt Thủ đô; (3) Xí nghiệp Xe buýt Thăng Long; (4) Xí nghiệp

Xe buýt 10-10; (5) Xí nghiệp Toyota Hoàn Kiếm; (6) Xí nghiệp Kinh

doanh tổng hợp Hà Nội; (7) Xí nghiệp Xe khách Nam Hà Nội; (8) Xí

nghiệp Xe Điện Hà Nội; (9) Xí nghiệp Trung đại tu ôtô Hà Nội; (10) Trung

tâm Vận tải hành khách liên tỉnh và du lịch. Và 9 Công ty con gồm: 7

doanh nghiệp Nhà nước: Công ty Quản lý bến xe Hà Nội; Công ty Khai

thác điểm đỗ xe Hà Nội; Công ty Vận tải thủy Hà Nội; Công ty Vận tải

đường biển Hà Nội; Công ty Đóng tàu Hà Nội; Công ty Xây dựng giao

thông đô thị Hà Nội; Công ty Xăng dầu chất đốt Hà Nội. Và 2 Công ty cổ

phần Nhà nước giữ cổ phần chi phối: CTCP Xe khách Hà Nội; CTCP Vận

tải và dịch vụ hàng hóa Hà Nội. Và 4 Công ty liên kết gồm: 1 Công ty cổ

phần Nhà nước không giữ chi phối: CTCP Taxi CP Hà Nội. và 3 Công ty

liên doanh nước ngoài: Liên doanh Toyota TC Hà Nội; Công ty Liên doanh

Sakura Hanoi Plaza; Công ty TNHH Phát triển Giảng Võ.

35

Vận tải hành khách bằng xe buýt năm 2004 với 41 tuyến và 700

đầu xe đã vận chuyển được 285,3 triệu hành khách vượt 16% so với kế

hoạch Thành phố giao tăng 64% so với năm 2003 (vâ ̣n chuyển 174 triê ̣u

lượt hành khách) và năm thứ ba liên tiếp được chọn là mô ̣t trong 10 sự

kiê ̣n kinh tế xã hô ̣i tiêu biểu của Thủ đô . Qua từng năm đã có sự đầu tư lớn

về số lượng xe buýt và tuyến buýt, với tỉ lệ tăng hàng năm là hơn 10%;

đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ, nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của

người dân ngày một tăng, góp phần đáng kể vào việc giảm ùn tắc và giảm

tai nạn giao thông của thành phố.

Theo đó, quy mô vị thế của Thủ đô sau hợp nhất, quy hoạch tổng thể

phát triển kinh tế - xã hô ̣i Thành phố Hà Nô ̣i đến năm 2020, tầm nhìn đến

năm 2030 được Chính phủ phê duyê ̣t sẽ có tác đô ̣ng trực tiếp đến sự phát

triển của Tổng công ty Vận tải công cô ̣ng Hà Nội (Transerco). Cơ hô ̣i mở

rô ̣ng vùng hoạt đô ̣ng của vâ ̣n tải hành khách công cô ̣ng và vâ ̣n tải liên tỉnh,

kinh doanh thương mại và dịch vụ ngày càng phát triển tốt. Nhưng đồng thời

cũng đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với vai trò chủ đạo của Tổng

công ty trong viê ̣c cung ứng dịch vụ vâ ̣n tải hành khách công cô ̣ng, vâ ̣n tải

liên tỉnh, bến bãi và các điểm đỗ xe công cô ̣ng, nhất là trong điều kiê ̣n thành

phố chủ trương đẩy mạnh xã hô ̣i hóa các dịch vụ công cô ̣ng trên địa bàn thủ

đô. Đă ̣c biê ̣t, thực hiê ̣n tốt chủ trương tiếp tục phát triển, nâng cao năng lực

vâ ̣n chuyển và chất lượng hê ̣ thống giao thông công cô ̣ng, đầu tư xây dựng

các phương thức vâ ̣n chuyển hành khách công cô ̣ng nhanh với khối lượng

lớn để tăng tỷ lê ̣ người đi lại bằng phương tiê ̣n công cô ̣ng và hạn chế tối đa

sử dụng phương tiê ̣n cá nhân. Trước yêu cầu đó, đòi hỏi Tổng công ty Vận

tải công cô ̣ng Hà Nội (Transerco) phải phát huy có hiê ̣u quả mọi tiềm năng,

nguồn lực kết hợp hài hòa giữa phát triển theo chiều rô ̣ng và chiều sâu, đưa

Tổng công ty Vận tải công cô ̣ng Hà Nội thành Tổng công ty kinh doanh đa

36

ngành nghề thực hiê ̣n tốt vai trò chủ đạo trong lĩnh vực xe buýt và cung ứng

dịch vụ hạ tầng bến bãi của Thành phố. Thực sự là mô ̣t trong những thương

hiê ̣u uy tín của thủ đô góp phần tích cực vào viê ̣c thực hiê ̣n thắng lợi mục

tiêu kinh tế xã hô ̣i đã đề ra.

2.2. Thành tựu, hạn chế về hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải

hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội trong thời

gian qua

Sự ra đời và phát triển của Tổng công ty Vận tải Hà Nội là đòi hỏi tất

yếu của khách quan của quá trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là từ yêu

cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xu thế hội nhập

kinh tế quốc tế. Thực tiễn đã chứng minh, trong những năm vừa qua vận tải

hành khách công cộng bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội đã

đóng góp một phần quan trọng trong việc tăng trưởng phát kinh tế của thủ

đô nó được thể hiện trên những nội dung sau.

2.2.1. Thành tựu cơ bản

Thứ nhất, hoạt đô ̣ng sản xuất kinh doanh của Tổng công ty tương

đối ổn định, doanh thu của công ty và thu nhập của người lao động có sự

tăng lên hàng năm.

Với định hướng đúng đắn và sự chỉ đạo quyết liê ̣t của lãnh đạo Tổng

công ty là tâ ̣p trung mọi nguồn lực để thực hiê ̣n thắng lợi nhiê ̣m vụ chính trị,

kinh doanh đúng ngành nghề đồng thời triển khai đồng bô ̣ chương trình:

“Nâng cao hiê ̣u quả và sức cạnh tranh của Transerco”. Nên hoạt đô ̣ng sản

xuất kinh doanh của Tổng công ty luôn tăng trưởng ổn định bền vững bảo

đảm tốt đời sống viê ̣c làm, thu nhâ ̣p cho người lao đô ̣ng và thực hiê ̣n đầy đủ

nghĩa vụ nô ̣p ngân sách cho nhà nước. Năm 2010 doanh thu của Tổng công

ty đạt 3.475 tỷ đồng, năm 2012 doanh thu của Tổng công ty đạt 4.835 tỷ

đồng, Năm 2013 doanh thu của Tổng công ty đạt 5.133,7 tỷ đồng tăng 10%

so với năm 2012; hiê ̣u quả (khấu hao + lợi nhuâ ̣n) đạt 207,2 tỷ đồng và tăng

37

trưởng trên 10%, đảm bảo thu nhâ ̣p ổn định cho cán bô ̣, công nhân viên và

người lao đô ̣ng năm 2010 là 2.950.000đ/người/tháng, năm 2013 là 4,24 triệu

đồng/người/tháng, tăng 8% so với năm 2011. Trong năm 2013, mức thu

nhập đạt bình quân 5 triê ̣u đồng/người/tháng, với mức tăng bình quân trên

17%/năm. Doanh thu hàng năm của Tổng công ty tăng bình quân 14%, nô ̣p

ngân sách nhà nước tăng 16%.[34.tr8]

Thứ hai, nguồn vốn đầu tư và hệ thống phương tiện, trang thiết bị của

Tổng công ty được quản lý, khai thác và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả.

Tổng công ty đã quản lý, sử dụng tài sản, nguồn vốn đúng mục đích

không đầu tư vào lĩnh vực rủi ro, việc đầu tư đảm bảo hiệu quả, hợp lý nên

đã bảo toàn và phát triển được nguồn vốn của nhà nước. Hàng năm Tổng

công ty đã đầu tư bình quân trên 200 tỷ đồng để đổi mới phương tiê ̣n, xây

dựng cơ sở vâ ̣t chất, ứng dụng phần nềm quản lý và thiết bị điều hành tiên

tiến, góp phần đẩy nhanh tốc đô ̣ tăng trưởng và nâng cao hiê ̣u quả kinh

doanh của Tổng công ty Vâ ̣n tải Hà Nô ̣i.

Hệ thống phương tiện không ngừng tăng về số lượng và chất lượng:

Từ năm 2008 đến nay, số lượng phương tiện tăng từ 966 xe năm 2008 lên

1.308 xe năm 2013 (tăng 35%), trong đó đầu tư đổi mới, bổ sung 600

phương tiện mới (chiếm 35%), gắn thiết bị GPS cho trên 1000 xe buýt, xe

khách liên tỉnh và xe du lịch, đầu tư xây dựng 5 Depot xe buýt và xe khách

đạt tiêu chuẩn tiên tiến trong khu vực[34.tr6]. Các xe hiện tại đều đảm bảo

tiêu chuẩn bảo vệ môi trường EURO II và EURO III, 100% xe có điều hoà

và lắp thiết bị giám sát hành trình GPS, tất cả bằng vốn tự có và vốn vay của

Tổng công ty.

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật được duy trì và tiếp tục đổi mới, phát triển

đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi phục vụ tốt cho xe buýt hoạt động và hành

khách tiếp cận dịch vụ. Hiện nay, toàn mạng lưới hiện có 1.812 điểm dừng

đón trả khách (tăng 60% so với 2008) với 350 nhà chờ xe buýt (tăng 23% so

38

với 2008), 68 pano (tăng 51% so với 2008), 63 điểm đầu cuối (tăng 21% so

với 2008), 03 điểm trung chuyển (Long Biên, Cầu Giấy, Nhổn, tăng thêm 01

điểm tại Nhổn)[33.tr7].

Công tác kiểm tra giám sát hoạt động xe buýt được tăng cường và

đổi mới các hình thức hoạt động, góp phần quản lý tốt hơn ngân sách trợ

giá của Thành phố. Năm 2012, số lượt kiểm tra giám sát đã đạt trên 540

ngàn lượt/năm (tăng 508% so với 2008); số lượt xe được giám sát tăng

từ 2,8% năm 2008 lên 14,1%, năm 2012. Số biên bản xử lý vi phạm lập

được tăng từ 187 bản năm 2008 lên 1.839 bản năm 2012 (tăng 983%). Số

tiền thu từ xử phạt hợp đồng tăng từ 76,2 triệu đồng 2008 lên 701,2

triệu đồng năm 2012 (tăng 1.170%)[34.tr9]

Đặc biệt từ tháng 6/2012, Tổng công ty thí điểm triển khai cơ chế

thưởng và bồi hoàn vật chất đối với Giám đốc về thực hiện kế hoạch và đảm

bảo chất lượng phục vụ của xe buýt trong Tổng công ty, bước đầu đã có tác

dụng tích cực giúp cho bộ máy quản lý điều hành ở các Đơn vị vào cuộc một

cách quyết liệt hơn đã mang lại những hiệu quả thiết thực.

Thứ ba, chất lượng hệ thống dịch vụ từng bước được nâng lên, thu hút

ngày càng nhiều người sử dụng dịch vụ.

Sau thời điểm 01/08/2008, Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, hoạt

động vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt đã khắc phục khó khăn để

thực hiện tốt vai trò của mình. Theo đó, Tổng công ty không ngừng đổi mới

và nâng cao chất lượng phương tiê ̣n phục vụ. Tổng công ty đã tập trung

nguồn lực đầu tư, hoàn thành và đưa vào khai thác các dự án trọng điểm xây

dựng Depot xe buýt, đổi mới phương tiện và Gara đỗ xe cao tầng bằng giàn

thép lắp ghép, góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ của Tổng

công ty. Đến nay, Tổng công ty đã hoàn thành đầu tư thay thế trên 150 xe

buýt sàn bán thấp, thân thiện với môi trường. Lắp đặt các bảng đèn LED

thông tin hành khách trên xe và tại một số điểm dừng nhà chờ; đã hoàn

39

thành và đưa vào sử dụng Gara đỗ xe bằng giàn thép lắp ghép đầu tiên ở Hà

Nội tại 32 Nguyễn Công Trứ, góp phần từng bước hiện thực hóa chủ trương

xây dựng bãi xe thông minh và tiết kiệm diện tích để giải quyết vấn đề bức

xúc về giao thông tĩnh ở nội thành của Thành phố.

Tổng công ty cũng đã cơ bản hoàn thành dự án 315 Trường Chinh,

hoàn thành công tác chuẩn bị mặt bằng xây dựng dự án Yên Viên. Các dự án

chuyển tiếp xây dựng depot xe buýt đang được triển khai đúng kế hoạch.

Công tác chuẩn bị đầu tư dự án 4 bến xe cửa ngõ Thủ đô đang được tích cực

triển khai, phấn đấu hoàn thành đúng tiến độ Thành phố giao.

Việc đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ đã làm cho số lượng hành

khách đi xe buýt của Tổng công ty tăng lên đáng kể. So với năm 2001, đến

nay số lượng xe buýt đã tăng 4 lần, hành khách đi xe buýt tăng 26 lần (từ 15

triệu năm 2001 lên 412 triệu khách năm 2013). Mỗi ngày Tổng công ty vận

chuyển trên một triệu khách, hạn chế gần 800 ngàn lượt xe máy tham gia

giao thông, trong đó có khoảng 250.000 người chủ yếu là học sinh, sinh viên

và cán bộ công chức đi xe buýt thường xuyên bằng vé tháng. Giờ cao điểm

xe buýt đã vận chuyển được trên 30% lưu lượng khách trên các trục đường

chính của Thủ đô.

Hiện nay, mạng lưới vâ ̣n tải hành khách công cô ̣ng bằng xe buýt của

Thành phố có 86 tuyến (tăng 13% với 2008); vận chuyển được trên 412 triệu

lượt hành khách/năm (tăng 13,6% so với 2008). Mạng lưới tuyến xe buýt được

chú trọng điều chỉnh hợp lý hóa, không ngừng cải thiện điều kiện vận hành và

mở rộng vùng phục vụ tới các trung tâm dân cư mới và các quận huyện ngoại

thành, 5 năm qua Sở giao thông vâ ̣n tải Hà Nội đã thực hiện gần 250 lượt điều

chỉnh mạng lưới (năm 2008 điều chỉnh 13 lần/13 tuyến; năm 2009 điều chỉnh

84 lần/46 tuyến; năm 2010 điều chỉnh 38 lần/29 tuyến; năm 2011 điều chỉnh 46

lần/30 tuyến; năm 2012 điều chỉnh 67 lần/42 tuyến)[34.tr6].

40

Bên cạnh đó, bằng việc triển khai đồng bộ các chủ chương chính sách

của lãnh đạo Tổng công ty, chất lượng dịch vụ xe buýt đã có nhiều chuyển

biến tích cực. Hiện tượng tùy tiện bỏ điểm dừng đỗ, bỏ chuyến lượt, chạy sai

biểu đồ đã giảm đáng kể. Thái độ phục vụ, văn minh xe buýt đã được cải

thiện, những hình ảnh đẹp về sự giúp đỡ và nhường ghế cho người già,

người khuyết tật, phụ nữ, trẻ em, trả lại tài sản cho khách… ngày càng phổ

biến. Năm 2013 Số lượt xe buýt bỏ do tắc đường và hỏng xe đã giảm gần

40%, thông tin phản ánh vi phạm chất lượng phục vụ giảm 50% so với năm

2010 hiện tượng trộm cắp về cơ bản đã được giải quyết.

Thứ tư, hoạt động vận tải hành khách của Tổng công ty đã góp phần giảm

thiểu ùn tắc và tai nạn giao thông, tạo dựng môi trường văn minh đô thị

Khẳng định xe buýt chính là “chìa khóa” giải quyết tận gốc bài toán ùn

tắc giao thông đô thị. Với chủ chương ưu tiên phát triển xe buýt của thành

phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho xe buýt phát triển và có tác dụng tích cực

trong việc hạn chế ùn tắc giao thông, tạo thói quen đi lại bằng phương tiện

công cộng và văn hóa cộng đồng nét đặc trưng của văn minh đô thị hiện đại.

Hiện nay, Hà Nội có năm đơn vị tham gia hoạt động vận tải hành khách

công cộng. Trong đó Tổng công ty Vận tải Hà Nội (Transerco) giữ vai trò

chủ lực khi chiếm 80% số tuyến, 83,8% đoàn phương tiện, sản lượng hành

khách năm 2013 đạt 412 triệu lượt, chiếm 90,1% tổng sản lượng hành khách

đi lại bằng xe buýt của Hà Nội.

Đặc biệt, trong dịp Đại lễ Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội,

Transerco đã chủ động phối hợp với các Sở Ban Ngành, tranh thủ sự hỗ trợ

của Thành phố triển khai nhiều giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm

bảo an ninh trật tự trên xe, trên tuyến hoàn thành tốt vai trò chủ đạo trong

vận chuyển xe buýt phục vụ người dân Thủ đô. Xe buýt của Transerco đã

thực hiện trên 1.200 lượt xe buýt miễn phí phục vụ nhu cầu đi lại vui chơi,

41

giải trí của nhân dân trong dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long và Kỳ tuyển

sinh Đại học, Cao đẳng năm 2010.

Thời gian qua, vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở nước ta đã

có những bước phát triển mạnh mẽ như Hà Nội, TP.HCM, Đắk Lắk, Thanh

Hóa, Thái Nguyên, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Dương... Phát triển vận tải

hành khách công cộng luôn được xem là giải pháp hữu hiệu góp phần giảm

ùn tắc giao thông. Vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội

hiện đang giữ vai trò chủ đạo phục vụ người dân đi lại ở thủ đô. Nếu như

năm 2003 với 41 tuyến và gần 700 đầu xe vận chuyển 174 triệu hành khách,

thì năm 2013 tăng lên 86 tuyến và 1.308 đầu xe vận chuyển 412 triệu lượt

hành khách, năm 2014 công ty xác định vận chuyển khoảng 460 triệu lượt

hành khách[34, tr10].Cũng từ đây, số người dùng xe buýt sẽ tăng lên sẽ trực

tiếp làm giảm số lượng phương tiện giao thông cá nhân trên đường, qua đó

giảm nạn ách tắc giao thông. Vì vậy, các cơ quan, doanh nghiệp phải quan

tâm hơn đến áp dụng công nghệ tự động hóa trong quản lý hoạt động, trong

tổ chức bán vé, hạn chế sự tham gia của con người; Kết nối các loại phương

tiện vận tải hành khách công cộng hiệu quả; lắp đặt và khai thác tốt thiết bị

giám sát hành trình; đổi mới phương tiện buýt theo hướng thân thiện môi

trường.

Hiện nay, Tổng công ty Vâ ̣n tải Hà Nô ̣i đã và đang áp dụng thưởng chất

lượng phục vụ đối với đội ngũ lái xe và đội ngũ bán vé để kịp thời động viên,

khuyến khích người lao động có trách nhiệm hơn trong quá trình thực hiện

nhiệm vụ. Với vị trí lãnh đạo thì áp dụng cơ chế thưởng phạt trách nhiệm của

Giám đốc các đơn vị xe buýt về chất lượng phục vụ, đặc biệt là gắn trách

nhiệm cá nhân của Giám đốc các đơn vị đối với các vụ tai nạn giao thông

nghiêm trọng. Vì vậy số vụ tai nạn giảm dần hằng năm trên cả ba tiêu chí.

42

Như vậy, Xe buýt đã trở thành bạn đường, trở thành một phần trong

cuộc sống của người dân Thủ đô. Nhiều hơn thế, xe buýt đã có những đóng

góp tích cực trong việc giảm ùn tắc và đảm bảo trật tự an toàn giao thông:

Trên 10 ngàn lượt xe và với trên 1 triệu lượt hành khách mỗi ngày của xe

buýt đã hạn chế được trên 700 ngàn lượt xe máy tham gia giao thông, giảm

đi phần nhiều nhịp độ ồn ào, chật chội, đông đúc, góp phần giản thiểu tình

trạng ô nhiễm môi trường của nhiều tuyến đường chính của Thủ đô.

Trong những năm tới, nhà nước đã có kế hoạch đầu tư phát triển một

số loại hình vận tải hành khách công cộng có khối lượng lớn như tàu điện

ngầm, tàu điện trên cao, xe buýt vận chuyển khối lượng lớn (BRT) tại Hà

Nội. Tuy nhiên, hiện nay và trong tương lai gần, khả năng đưa các phương

tiện vận tải khối lượng lớn vào hoạt động là chưa nhiều. Chính vì vậy, vận

tải hành khách công cộng bằng xe buýt sẽ vẫn giữ vai trò chính trong hệ

thống vận tải hành khách công cộng giai đoạn từ nay đến năm 2020.

2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế

* Một số hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được như đã nêu trên, quá trình xây

dựng phát triển vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty vận tải

Hà Nội thời gian qua vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, tính ổn định và bền vững trong hoạt động sản xuất kinh

doanh của Tổng công ty chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng, vị thế

của công ty.

Trong những năm qua, sản xuất kinh doanh của Tổng công ty tuy có

tăng trưởng nhưng tính ổn định và bền vững còn hạn chế. Mô ̣t số lĩnh vực

kinh doanh hiê ̣u quả chưa cao, chất lượng dịch vụ có mặt còn có mặt chưa

đáp ứng tốt yêu cầu của hành khách. Do nhu cầu đi lại của người dân thủ đô

ngày càng tăng, đòi hỏi chất lượng phục vụ ngày một cao trong khi hạ tầng

43

xe buýt còn thiếu và thấp kém như không có đường riêng, làn riêng. Do vậy,

giao thông xe buýt phải chạy chung với dòng giao thông hỗn hợp, có nhiều

thành phần phương tiện, khác nhau, rất khó nâng cao tốc độ và dễ xảy ra va

chạm. Theo tính toán của các nhà hoạch định chính sách, năm 2008, lượng

hành khách cần vận chuyển của Tổng công ty khoảng từ 12-14% trong tổng

số hành khách. Tuy nhiên, trên thực tế, Tổng công ty mới chỉ đáp ứng được

khoảng 7-8% (đến nay, con số này cũng mới chỉ đạt khoảng từ 9 - 10%). Như

vậy, so với nhu cầu của thực tiễn thì năng lực vận tải hành khách của Tổng

công ty cần phải tăng thêm từ 4 - 5% nữa. Đây là một thách thức lớn đối với

Tổng công ty trong điều kiện giao thông hiện nay. Mặt khác, ngân sách trợ

giá của Thành phố cho Tổng công ty có xu hướng ngày càng tăng lên (năm

2009 là 500 tỷ đồng; năm 2014 là 800 tỷ đồng; giá vé xe buýt cũng tăng lên

(từ thời điểm 1/5/2014 giá vé xe buýt ở Hà Nội đã đồng loạt tăng từ 28 đến

40% đối với vé lượt và từ 11 đến 43% với vé tháng). Thực trạng trên cho

thấy, việc tăng doanh thu của doanh nghiệp và thu nhập của người lao động

trong những năm gần đây chưa hẳn đã hoàn toàn do kết quả của hoạt động

sản xuất kinh doanh của Tổng công ty đem lại.

Thứ hai, công tác quản lý, kiểm tra giám sát đối với hoạt động sản

xuất kinh doanh của Tổng công ty còn một số hạn chế, bất cập.

Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xe buýt còn nhiều bất

cập như: chưa có sự điều hành, kiểm tra, giám sát thường xuyên của các cơ

quan quản lý nhà nước các cấp đối với hoạt động xe buýt, thiếu cơ chế kiểm

tra, giám sát, chưa có chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động xe buýt. Vì vậy,

các biểu hiện tiêu cực trong vận tải hành khách công cộng ở Tổng công ty

trong những năm gần đây tuy có giảm song mức độ còn chậm và chưa vững

chắc. Trong số gần 2.000 các vụ việc vi phạm quy định về hoạt động xe

buýt đã xử lý trong năm 2013 thì có 58,5% vi phạm về bán vé, 8,5 % vi

44

phạm về chất lượng phương tiện, 6% chạy sai biểu đồ, dừng đỗ sai quy

định, 1,1% chạy sai lộ trình 0,4% vi phạm thái độ phục vụ của lái xe, phụ

xe, vẫn còn tình trạng xe buýt vi phạm luật giao thông như vượt đèn đỏ,

phóng nhanh vượt ẩu, sử dụng còi hơi tuỳ tiện, tình trang trộm cắp trên xe

buýt vẫn còn diễn biến phức tạp. Theo báo cáo kết qủa phòng chống tội

phạm hình sự trên các tuyến xe buýt của Tổ công tác 142 Công an Thành

phố Hà Nội trong 6 tháng đầu năm 2013 đã phát hiện, bắt giữ, xử lý trên các

tuyến xe buýt và tại các điểm đỗ xe buýt là 87 vụ với 123 đối tượng.

Thứ ba, chất lượng dịch vụ của Tổng công ty chưa theo kịp với đòi

hỏi của thực tiễn

Theo kết quả lấy ý kiến hành khách về chất lượng phục vụ của xe buýt

năm 2013 của Tổng công ty cho thấy: 65% số hành khách được hỏi đều phàn

nàn là chậm giờ, 16% phàn nàn về thái độ phục vụ kém, 5% kêu ca về tệ nạn

trên xe và 4% lo lắng vì lái xe chạy ẩu. Từ đầu năm 2014 đến nay, Trung tâm

quản lý điều hành giao thông đô thị Hà Nội đã lập gần 1.200 biên bản xe buýt

vi phạm quy định hoạt động (tăng 185% so với cùng kỳ năm 2010), trong đó,

40% là vi phạm về doanh thu, hơn 12% chạy sai lộ trình, 5,5% chạy không

đúng biểu đồ, 8,4% dừng đón trả khách không đúng quy định.

Khoảng cách điểm dừng, đón trả khách một số tuyến chưa hợp lý,

không thuận tiện cho nhân dân, việc bố trí tiếp cận xe buýt còn gặp rất nhiều

khó khăn vì chưa có phương tiện trung chuyển thu gom khách kết nối các

tuyến với nhau, các tuyến thường hoạt động độc lập, thiếu liên kết. Các trạm

dừng xe buýt thường xa nơi ở của người dân gây ùn tắc giao thông. Mặt

khác, do chi phí cao dẫn đến lợi nhuận thấp, thời gian di chuyển bị kéo dài,

hiện tượng chậm giờ, bỏ bến vẫn xảy ra, thái độ phục vụ ở một số tuyến buýt

chưa tốt, chưa đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người dân và hành khách.

45

Chất lượng một số tuyến buýt xuống cấp, gây tiếng ồn, ô nhiễm môi

trường; việc kiểm soát vé còn lạc hậu, chủ yếu vẫn mang tính thủ công dẫn đến

tình trạng hỗn loạn trên xe, không bảo đảm tính văn minh, lịch sự nơi đô thị.

Thứ tư, mức độ đóng góp của Tổng công ty vào việc giảm thiểu ùn tắc

và tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường chưa nhiều

Xe buýt hiện nay vẫn được coi là một phương tiện hữu hiệu để giải

bài toán về ùn tắc và tai nạn giao thông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở

tất cả các đô thị của nước ta, đặc biệt là ở Thủ đô Hà nội. Để thực hiện mục

tiêu đó, Thành phố Hà Nội đã quan tâm đầu tư lớn cho nâng cấp hệ thống hạ

tầng giao thông đô thị, phát triển nhanh mạng lưới các tuyến buýt, đầu tư

thông qua trợ giá vé, mua sắm phương tiện ngày càng tăng. Tuy nhiên, mức

độ đóng góp của xe buýt Hà Nội (trong đó Transerco chiếm tới 80% thị

phần) vào việc giảm thiểu ùn tắc và tai nạn giao thông chưa rõ nét. Thậm

chí, nhiều trường hợp chính xe buýt lại trở thành nguyên nhân gây ra tai nạn

và ùn tắc giao thông.

Theo số liệu thống kê của sở Giao thông Vận tải Hà Nội, trong năm

2013, riêng xe buýt đã trực tiếp liên quan đến 62 vụ tai nạn; ba tháng đầu

năm 2014, xe buýt cũng đã gây ra 11 vụ tai nạn. Tình trạng xe buýt phóng

nhanh, vượt ẩu, vượt đèn đỏ và vi phạm các quy định về an toàn giao thông

khác vẫn chưa được khắc phục triệt để gây bức xúc trong dư luận. Đặc biệt,

đến nay vẫn còn một lượng không nhỏ xe kém chất lượng đang hoạt động gây

ra tiếng ồn và khói bụi lớn làm ô nhiễm môi trường đô thị. Năm 2011 có tới

27% số xe buýt của Tổng công ty qua kiểm tra không đạt tiêu chuẩn khí thải,

đến cuối năm 2013, con số này vẫn còn ở mức khá cao là 20%. Với thực

trạng về chất lượng phương tiện như trên và ý thức chấp hành luật lệ giao

thông của một số lái xe, nhân viên phục vụ chưa tốt đã làm giảm đi tính ưu

việt của của xe buýt trong việc kiềm chế và giảm thiểu tai nạn giao thông,

46

hạn chế ô nhiễm môi trường ở Hà Nội.

* Nguyên nhân của hạn chế

- Nguyên nhân khách quan

Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và những

khó khăn thách thức của nền kinh tế đất nước trong những năm qua nên các

doanh nghiệp xe buýt cũng như các doanh nghiệp khác gặp rất nhiều khó

khăn trong việc thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển hệ thống vận tải

hành khách công cộng. Hơn nữa, việc người dân ít có thói quen sử dụng dịch

vụ vận tải hành khách công cộng nên đây cũng là khó khăn lớn đối với Tổng

công ty khi chưa xây dựng được lòng tin đối với khách hàng.

Bên cạnh đó, mô hình công ty mẹ – công ty con là mô hình thí điểm,

nhất là quy định của Nhà nước cũng đang trong quá trình vừa thực hiê ̣n vừa

hoàn thiê ̣n. Bên cạnh đó các hoạt đô ̣ng xe buýt, dịch vụ bến xe, bãi đỗ xe

công cô ̣ng là ngành nghề mang tính xã hô ̣i, sử dụng nhiều đất đai, đầu tư lớn

nhưng hiê ̣u quả không cao nên khó huy đô ̣ng các nhà đầu tư tham gia các dự

án khai thác tiềm năng đất đai. Bên cạnh đó, điều kiê ̣n hạ tầng, giao thông của

Hà Nô ̣i những năm qua, tuy đã được quy hoạch đầu tư, đã có bước cải thiê ̣n

đáng kể nhưng tình trạng ùn tắc giao thông vẫn diễn biến hết sức phức tạp gây

không ít khó khăn đối với nhiều lĩnh vực hoạt đô ̣ng của Tổng công ty

- Hiện thành phố còn thiếu các cơ chế chính sách cụ thể cho việc hỗ

trợ mua sắm phương tiện tiên tiến, thân thiện môi trường, các chính sách tạo

nguồn tài chính cho vận tải công cộng hoạt động ổn định, có chất lượng, các

chính sách để đảm bảo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao nhất là cho

đội ngũ quản lý và hoạt động kiểm tra giám sát.

- Nguồn ngân sách đầu tư cho phát triển các loại phương tiện, bến

bãi còn hạn chế do đó chưa đủ phương tiện đáp ứng được nhu cầu đi lại của

nhân dân và phương tiện chưa đa dạng.

- Nguyên nhân chủ quan

47

Việc chậm trễ trong rà soát, điều chỉnh quy hoạch, chiến lược phát

triển xe buýt có chất lượng, phù hợp, khả thi; chưa có Quy hoạch về điểm

đỗ, bãi đỗ xe.

Chưa xây dựng được các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển xe buýt

thấu đáo, hiệu quả cho mọi đối tượng tham gia phát triển trên các tuyến xe

buýt cần thiết (ngoài 2 tuyến đang được ngân sách trợ giá bình quân 2 tỷ

đồng /tuyến/năm, trong khi năm 2011, thành phố Hồ Chí Minh trợ giá 1.269

tỷ đồng, thành phố Hà Nội trợ giá 1.084 tỷ đồng cho hoạt động VTHKCC

bằng xe buýt).

Chưa thành lập được Trung tâm quản lý và điều hành vận tải

hành khách công cộng để điều hành, kiểm tra, giám sát hoạt động vận

tải hành khách công cộng bằng xe buýt. Công tác tổ chức tập huấn,

nâng cao trình độ phục vụ cho đội ngũ lái xe, nhân viên phục vụ chưa

được quan tâm, chú trọng.

Năng lực, trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh

xe buýt của các doanh nghiệp còn yếu. Nguồn lực tài chính của các doanh

nghiệp tham gia hoạt động xe buýt hạn chế, do vậy không bảo đảm duy trì

tốt hoạt động và đầu tư phát triển mở rộng hoạt động kinh doanh xe buýt.

Bên cạnh đó, trình đô ̣ đô ̣i ngũ cán bô ̣ công nhân viên còn nhiều bất

câ ̣p hạn chế, tính chuyên nghiê ̣p trong phục vụ và văn hóa doanh nghiê ̣p của

các đơn vị trong Tổng công ty cũng có điểm khác biê ̣t nên để hô ̣i nhâ ̣p

chung là mô ̣t khó khăn rất lớn đòi hỏi phải có thời gian và lô ̣ trình cụ thể.

Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo điều hành có lúc có nơi chưa đồng bô ̣, kiên

quyết, sự phối hợp giữa các các cơ quan phòng ban với các đơn vị trong

Tổng công ty đôi khi còn lúng túng chưa đáp ứng được yêu cầu trước sự

phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và sự gia tăng về nhu cầu đi lại của

hàng khách khi tham gia giao thông.

2.2.3. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng hiệu quả kinh tế - xã hội

48

trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội

Qua phân tích thực trạng hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành

khách bằng xe buýt của Tổng công ty vận tải Hà Nội cho thấy, bên cạnh

những thành tựu đạt được, loại hình dịch vụ này vẫn còn bộc lộ nhiều hạn

chế và bất cập. Thực trạng đó đã đặt ra một số vấn đề cần phải giải quyết:

Một là, cần phải giải quyết mối quan hệ giữa nâng cao hiệu quả về

kinh tế với nâng cao hiệu quả về xã hội trong vận tải hành khách công cộng

bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội.

Đây là mâu thuẫn cơ bản, lâu dài trong vận tải hành khách công cộng

bằng xe buýt ở Tổng công ty Vận tải Hà Nội. Giải quyết mâu thuẫn này nhằm

bảo đảm cho dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt phát triển đúng hướng.

Như đã trình bày ở trên, hiệu quả về kinh tế và hiệu quả về xã hội

trong vận tải hành khách bằng xe buýt có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và

đều phải được coi trọng như nhau. Song, trên thực tế, do nhiều nguyên nhân

khác nhau nên việc giải quyết hài hòa giữa mục tiêu về kinh tế với mục tiêu

về xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt ở Tổng công ty Vận tải Hà

Nội chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Tình trạng đề cao lợi ích kinh tế,

thậm chí là chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần vẫn còn tồn tại. Hiệu quả về

mặt xã hội chưa thực sự được coi trọng. Vì vậy, đến nay, các yếu tố thể hiện

hiệu quả xã hội của vận tải hành khách bằng xe buýt như: sự thuận tiện, bảo

đảm an toàn và văn minh trong giao thông của dịch vụ vận tải hành khách

bằng xe buýt vẫn chưa trở thành yếu tố hấp dẫn đối với đa số cư dân đô thị.

Trong nền kinh tế thị trường, việc quan tâm và nâng cao hiệu quả

kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ

quan tâm đến hiệu quả kinh tế mà xem nhẹ hiệu quả xã hội thì doanh nghiệp

sẽ thiếu cơ sở vững chắc bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển. Là một doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công, hoạt động sản xuất

49

kinh doanh của Tổng công ty Vận tải Hà Nội lại càng phải bảo đảm gắn kết

chặt chẽ giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội. Vì vậy, nâng cao hiệu

quả kinh tế của Tổng công ty phải hướng vào việc giải quyết tốt các mục

tiêu về xã hội, lấy hiệu quả xã hội làm căn cứ và thước đo cơ bản để đánh

giá sự phát triển bền vững của Tổng công ty. Để giải quyết mối quan hệ này,

cần phải có các giải pháp đồng bộ không chỉ bảo đảm cho doanh nghiệp

đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường mà còn phải có trách

nhiệm và nghĩa vụ thực hiện tốt các mục tiêu về xã hội của giao thông đô thị

mà Thành phố đã đặt ra.

Hai là, cần giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu nhanh chóng nâng cao

chất lượng dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt với những tồn tại, hạn

chế trong công tác quản lý điều hành, chất lượng nguồn nhân lực của Tổng

công ty và kết cấu hạ tầng giao thông đô thị ở Hà Nội.

Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt là yêu

cầu cấp thiết hiện nay. Tính cấp thiết đó không chỉ do tính ưu việt của loại

hình vận tải này quy định mà còn do thực trạng chất lượng dịch vụ và áp lực

về nhu cầu sử dụng xe buýt của người dân Thành phố có xu hướng tăng

nhanh trong những năm gần đây.

Cả về lý luận và thực tiễn đều chỉ ra, hiệu quả kinh tế - xã hội của

dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt ở Tổng công ty vận tải Hà Nội phụ

thuộc chủ yếu vào chất lượng cung ứng dịch vụ của Tổng công ty. Bởi vì,

khi chất lượng dịch vụ tăng lên sẽ thu hút được nhiều hơn số người sử dụng

dịch vụ, làm cho doanh thu của doanh nghiệp tăng (hiệu quả kinh tế tăng).

Mặt khác, số người sử dụng dịch vụ tăng lên cũng đồng nghĩa với việc sẽ

hạn chế được số người sử dụng phương tiện giao thông của cá nhân. Lúc đó,

các mục tiêu về xã hội như giảm thiểu ô nhiễm môi trường; giảm ùn tắc và

50

kiềm chế tai nạn giao thông; xây dựng nét đẹp trong văn hóa giao thông đô

thị ở Hà Nội... sẽ được thực hiện (hiệu quả xã hội tăng). Song, chất lượng

cung ứng dịch vụ lại phụ thuộc vào các yếu tố: chất lượng mạng lưới tuyến

xe buýt; chất lượng hạ tầng xe buýt; chất lượng phương tiện; chất lượng đội

ngũ công nhân lái xe, nhân viên bán vé và chất lượng quản lý, kiểm soát,

điều hành họat động sản xuất kinh doanh.

Tuy nhiên, những yếu tố quy định đến chất lượng dịch vụ vận tải

hành khách bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội đã trình bày ở

trên hiện vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập như: Tình trạng quy hoạch mạng

lưới tuyến buýt chưa hợp lý (bố trí, phân bổ các điểm buýt, tuyến buýt thiếu

tính liên hoàn và đồng bộ); hạ tầng giao thông dành cho xe buýt chưa được

quan tâm đầu tư đúng mức, nhiều nơi xuống cấp nghiêm trọng; chất lượng

phương tiện của một số tuyến chưa bảo đảm; chất lượng đội ngũ công nhân

lái xe và nhân viên bán vé chưa cao, tình trạng chấp hành luật lệ giao thông

không nghiêm, thiếu văn hóa trong giao tiếp, ứng xử chậm được khắc phục.

Hoạt động điều hành, kiểm tra, kiểm soát chưa chặt chẽ, xử lý vi phạm thiếu

kiên quyết, kịp thời...Tất cả những hạn chế đó đã trực tiếp làm giảm chất

lượng của dịch vụ và theo đó là giảm hiệu quả kinh tế - xã hội của Tổng

công ty.

Vì vậy, để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của dịch vụ vận tải

hành khách công cộng bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội cần

phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm khắc phục triệt để những tồn tại

và bất cập nêu trên. Trong đó, đẩy mạnh đầu tư cho con người (công nhân

lái xe, nhân viên bán vé, lực lượng quản lý, kiểm soát) kết hợp với ứng dụng

khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại vừa là giải pháp cơ bản, lâu dài vừa là

giải pháp cần kíp trước mắt bảo đảm nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ

51

của Tổng công ty.

Ba là, cần phải giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả

kinh tế - xã hội của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt với những bất cập

trong cơ chế, chính sách của Thành phố đối với loại hình dịch vụ vận tải này.

Vận tải hành khách bằng xe buýt là loại hình vận tải được Thành phố

Hà Nội ưu tiên phát triển và xác định vẫn là hình thức vận tải hành khách

chủ yếu từ nay đến năm 2020. Nhờ có sự quan tâm, đầu tư của Thành phố

nên những năm qua, loại hình dịch vụ vận tải này không ngừng phát triển.

Số lượng, phạm vi hoạt động và chất lượng dịch vụ cũng ngày một được

nâng lên, từng bước đáp ứng nhu cầu của giao thông đô thị.

Tuy nhiên, cần phải có sự đánh giá khách quan, chính xác về mức độ

đầu tư của Thành phố với sự gia tăng về hiệu quả kinh tế - xã hội mà loại

hình vận tải này đem lại. Theo đó, mức độ đầu tư (nhất là mức độ trợ giá)

của Thành phố ngày càng tăng trong khi đó, hiệu quả kinh tế - xã hội lại

không tăng tương ứng (số lượng người sử dụng dịch vụ tăng không tương

ứng với kỳ vọng đầu tư của Thành phố). Có nhiều nguyên nhân của tình

trạng nói trên trong đó, bất cập về cơ chế, chính sách đối với loại hình dịch

vụ vận tải này là một trong những nguyên nhân chủ yếu. Cơ chế tài chính,

chính sách đầu tư và các chính sách ưu đãi về lãi suất, thuế, chính sách phát

triển hạ tầng cơ sở cho xe buýt... hiện vẫn còn nhiều bất cập.

Vì vậy, để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của dịch vụ vận tải hành

khách bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội, vấn đề cấp bách hiện

nay là cần phải có sự thay đổi, bổ sung và hoàn thiện về hệ thống cơ chế,

chính sách theo đúng quy luật của kinh tế thị trường. Đặc biệt, cần phải xây

dựng cơ chế cạnh tranh bình đẳng trong cung ứng dịch vụ giữa Tổng công ty

Vận tải Hà Nội (doanh nghiệp chiếm tới hơn 80% thị phần) với các doanh

52

nghiệp vận tải hành khách khác của Thành phố. Khắc phục triệt để tình trạng

ỷ lại, trông chờ vào “chiếc bánh ngân sách” và tình trạng độc quyền trong

cung ứng dịch vụ. Thành phố phải dùng cơ chế như một “chiếc gậy” để điều

khiển toàn bộ hoạt động của các doanh nghiệp theo đúng mục tiêu, phương

hướng phát triển hệ thống dịch vụ xe buýt mà Thành phố đã đề ra.

*

* *

Thực tiễn hiệu quả kinh tế - xã hội vận tải hành khách bằng xe buýt

của Tổng công ty Vận tải Hà Nội trong những năm qua đã thể hiện sự lãnh

đạo đúng đắn thành ủy Hà Nội, Đảng bộ Tổng công ty trong đường lối phát

triển kinh tế xã hội. Thực tiễn cho thấy trong những năm qua Tổng công ty

Vận tải Hà Nội, đã có những đóng góp không nhỏ trong việc giải quyết tình

trạng ùn tắc giao thông trên địa bàn thành phố. Đồng thời, đóng góp một

phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước, tạo môi trường và nét đẹp trong

văn hóa giao thông đô thị.

Bên cạnh những thành tựu đạt đuợc vận tải hành khách bằng xe buýt

của Tổng công ty Vận tải Hà Nội, vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục đó

là: kinh doanh của Tổng công ty tuy có tăng trưởng nhưng tính ổn định chưa

cao, chất lượng dịch vụ có mặt còn có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu của

hành khách, nguồn ngân sách đầu tư cho phát triển các loại phương tiện hạ

tầng xe buýt còn quá thiếu thốn, chất lượng xe buýt xuống cấp, gây tiến ồn

lớn, gây ô nhiễm môi trường… Đồng thời, là những thực trạng và nguyên

nhân cơ bản, những mâu thuẫn cần tập trung giải quyết nhằm nâng cao chất

lượng vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội

trong thời gian tới.

53

Chương 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO

HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG VẬN TẢI HÀNH

KHÁCH BẰNG XE BUÝT CỦA TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI HÀ

NỘI

3.1. Quan điểm chỉ đạo nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội trong

vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội

3.1.1. Tiếp tục củng cố và phát huy vai trò chủ đạo trong vận tải

hành khách bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội

Đây là nhiệm vụ chính trị xuyên suốt của Tổng công ty Vận tải Hà

Nội cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thủ đô, theo hướng ứng

dụng công nghê ̣ quản lý hiê ̣n đại và chuẩn bị các điều kiê ̣n đáp ứng khả

năng quản lý và khai thác các loại hình vâ ̣n tải khối lượng lớn khi thành phố

giao cho. Góp phần xây dựng Thủ đô văn minh, lịch sự, phát triển kinh tế -

xã hội và bảo vệ môi trường… Như vậy, để phát huy vai trò chủ đạo trong

vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội cần làm

tốt các vấn đề sau .

Thứ nhất, điều chỉnh hợp lý hóa mạng lưới tuyến giao thông để giảm

tải cho mạng giao thông và chống ùn tắc vào giờ cao điểm. Theo đó, cần ưu

tiên đầu tư xây dựng mở mới các tuyến nối Hà Nô ̣i với các đô thị vê ̣ tinh

nằm trong vùng quy hoạch địa giới hành chính của Thủ đô. Nhằm mở rô ̣ng

vùng phục vụ của xe buýt đến những khu vực, vùng còn gă ̣p nhiều khó

khăn, nhất là các khu vực xa trung tâm thành phố và các huyê ̣n ngoại thành

Hà Nô ̣i. Thành phố cần bổ sung điều chỉnh quy hoạch hê ̣ thống giao thông

tĩnh cho phù hợp địa bàn của Thủ đô Hà Nô ̣i sau hợp nhất địa giới hành

chính đă ̣c biê ̣t là Thành phố cần có cơ chế khuyến khích và quy định các

mức phí hoă ̣c giá phù hợp để thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng hê ̣

54

thống bến bãi và các điểm đỗ xe công cô ̣ng trên địa bàn thủ đô. Hợp lý hóa

các hướng tuyến và điểm đỗ, tích cực và khai thác các hướng tuyền mới để

phục vụ với khả năng cao nhất nhu cầu của người dân đảm bảo cho cho mọi

người dân được tham giao thông mô ̣t cách hợp lý và thuâ ̣n lợi nhất.

Thứ hai, tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ và tính tiện lợi cho

hàng khách, từng bước đầu tư các loại xe buýt chất lượng cao, thân thiện với

môi trường và sàn thấp để hành khách dễ tiếp cận, ứng dụng hệ thống cung

cấp thông tin tự động cho khách tại các điểm đầu, điểm cuối, điểm dừng nhà

chờ, trên xe buýt và trên Website của Tổng công ty. Đồng thời, từng bước

chuyển đổi từ sử dụng vé lượt, vé tháng như hiện nay sang dùng thẻ từ

(Smart Card) với công nghệ Chip điện tử và thẻ thanh toán đa năng. Quản lý

điều hành tập trung bằng thiết bị GPS và hộp đen gắn trên xe, điều hành trực

tuyến qua mạng bản đồ online.

Thứ ba, đẩy mạnh phát triển vận tải hành khách công cộng trên địa

bàn, thực hiện có hiệu quả đề án phát triển vận tải hành khách công cộng

bằng xe buýt ở thủ đô từ năm 2011 đến 2015 và định hướng đến năm 2020.

Phát triển hệ thống xe buýt tiên tiến, hiệu quả, thân thiện với môi trường,

khuyến khích người dân sử dụng phương tiện cá nhân sang sử dụng phương

tiện công cộng để giảm ùn tắc, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường và chi

phí xã hội. Mục tiêu phấn đấu vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt

đáp ứng 15% nhu cầu đi lại của người dân vào năm 2015 và đạt tới 25% vào

năm 2020. Do vậy, thành phố Hà Nội cần cải thiện, nâng cấp, phát triển

mạng lưới hạ tầng xe buýt, sử dụng các mô hình hạ tầng tiên tiến, ưu tiên làn

đường dành riêng cho xe buýt, hệ thống nhà chờ và giao thông tiếp cận,

đồng bộ với hệ thống điểm, bãi đỗ xe và hệ thống giao thông tiếp cận tới khu

vực dân cư, nhằm tăng cường năng lực và cải thiện chất lượng dịch vụ. Tạo

thói quen đi lại bằng phương tiện công cộng và văn hóa cộng đồng nét đặc

55

trưng của văn minh đô thị hiện đại.

3.1.2. Phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng,

nguồn lực kết hợp hài hòa phát triển cả chiều rộng

và chiều sâu trong vận tải hành khách bằng xe buýt

Quan điểm này chính là sự vận dụng sáng tạo quan điểm kết hợp giữa

nội lực với ngoại lực để phát triển cả chiều rộng và chiều sâu trong vận tải

hành khách bằng xe buýt ở Hà Nội. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược bởi

lẽ, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

và hội nhập khu vực, quốc tế ngày càng sâu rộng, nếu không huy động được

sự tham gia của các lực lượng trong Thành phố và sự hợp tác, giúp đỡ của

các cấp bộ, ban, ngành trung ương, các tổ chức quốc tế... thì việc phát triển

vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt của Thành phố sẽ rất khó có thể

đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

Thực tế cho thấy, những hạn chế, bất cập trong trong vận tải hành

khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội những năm qua có nguyên nhân từ

chưa phát huy hết khả năng hiện có của Thành phố với huy động sự tham

gia, giúp đỡ của các lực lượng, các thành phần kinh tế, sự đóng góp của các

tầng lớp nhân dân, nhất là các tổ chức trung ương đóng trên địa bàn của Hà

Nội. Sự hợp tác của các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực này có mặt chưa thực

sự hiệu quả cần phải khắc phục trong thời gian tới. Như vậy, nội dung phát

huy có hiệu quả mọi tiềm năng, nguồn lực kết hợp hài hòa phát triển cả

chiều rộng và chiều sâu trong vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở

Hà Nội cần phải được triển khai đồng bộ và toàn diện trên tất cả các lĩnh

vực, cả về con người, vốn đầu tư, cơ sở vật chất, trang thiết bị và sự tham

gia của của các tổ chức chính trị - xã hội… góp phần nâng cao về số lượng

cũng như chất lượng dịch vụ của Tổng công ty.

Quán triệt quan điểm này cần lưu ý những vấn đề cơ bản sau:

Một là, phát huy tối đa các nguồn lực cho phát triển vận tải hành khách

56

công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội.

Đây là vấn đề trung tâm, chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển

vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội. Bởi vì, có khai thác và

phát huy tốt các nguồn lực hiện có thì mới có cơ sở để thu hút được ngoại

lực và sử dụng chúng có hiệu quả. Đồng thời, nhờ có ngoại lực (thông qua

việc tiếp thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại, vào quản lý điều

hành, giám sát nâng cao chất lượng phục vụ của Tổng công ty) thì Hà Nội có

thể rút ngắn được khoảng cách chênh lệch về trình độ và phương tiện vận tải

hành khách công cộng so với các nước trong khu vực và thế thế giới; đi tắt,

đón đầu về công nghệ tiên tiến hiện đại mà không phải mò mẫm, tìm tòi, thử

nghiệm, tốn kém, nhằm nâng cao hiệu quả của Tổng công ty.

Trong phát huy các nguồn lực, quan trọng nhất là cần tập trung khai

thác phát huy thế mạnh và thương hiệu của Tổng công ty, và trí tuệ của đội

ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ lái xe nhân viên bán vé đây là những người trực

tiếp, tiếp xúc với hành khách. Muốn vậy, cách tốt nhất là phải tăng cường

việc liên doanh liên kết, nâng cao công tác quản lý và cần có cơ chế hỗ trợ

lãi suất vốn vay để doanh nghiệp khai thác xe buýt đầu tư đổi mới phương

tiện, ứng dụng công nghệ quản lý điều hành tiên tiến và đầu tư hạ tầng, cơ sở

vật chất của doanh nghiệp xe buýt. Đồng thời cần có chính sách ưu đãi về

thuế nhập khẩu CKD để lắp ráp xe buýt, đặc biệt là xe buýt sàn thấp khách

dễ tiếp cận và loại xe thân thiện với môi trường

Hai là, kết hợp đầu tư có trọng tâm, trọng điểm với việc đẩy mạnh xã

hội hóa hoạt động đầu tư trong lĩnh vực vận tải hành khách công cộng.

Quan điểm này cần phải được quán triệt ngay trong quá trình xây dựng

chiến lược, kế hoạch phát triển của Tổng công ty Vận tải Hà Nội. Hiện nay,

nguồn kinh phí đầu tư cho phát triển vận tải hành khách công cộng của Hà

Nội còn hạn chế, vì vậy, Thành phố cần tập trung đầu tư có trong tâm, trọng

điểm vào một số lĩnh vực công nghệ mũi nhọn, then chốt quyết định đến

57

chất lượng phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh như: cơ sở hạ

tầng phục vụ cho giao thông công cộng, nâng cao chất lượng phương tiện

vận tải, công nghệ thông tin, chất lượng nguồn nhân lực để tạo ra sự đột phá

về chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh tế xã hội. Đồng thời, Phải đẩy mạnh

xã hội hóa đầu tư cho xe buýt để doanh nghiệp và người dân cùng chia sẻ

gánh nặng với Nhà nước về mặt tài chính và nhân lực. Xã hội hóa xe buýt sẽ

tạo nên môi trường vận tải cạnh tranh lành mạnh. Khi đó, các doanh nghiệp

buộc phải chú ý đến chất lượng phục vụ để đảm bảo doanh thu và lợi nhuận.

3.1.3. Giải quyết hài hòa giữa thực hiện nhiệm vụ công ích với mục

tiêu phát triển bền vững và kinh doanh có hiệu quả

Tổng công ty Vận tải Hà Nội xác định đây là nhiệm vụ chính trị xã

hội nên lợi nhuận không phải là mục tiêu hàng đầu mà quan trọng là sự đóng

góp của Tổng Công ty trong vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt cho

sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thủ đô. Bằng việc tái cơ cấu Tổng

Công ty đã từng bước chuyển các đơn vị xe buýt sang mô hình như một đơn

vị kinh doanh nhưng vẫn bảo đảm các tiêu chí phục vụ của Thành phố. Cung

ứng cho cộng đồng và xã hội những sản phẩm dịch vụ chất lượng cao, xây

dựng uy tín thương hiệu bằng sự tin cậy hài lòng của khách hàng, không

ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Mục tiêu và định hướng phát triển vận tải hành khách công cộng của

thành phố Hà Nội Hiện nay, Hà Nội đang có mức độ đô thị hóa nhanh, cùng

với nó là sự gia tăng về số lượng phương tiện vận tải cá nhân đặc biệt là xe

máy trong khi hạ tầng cơ sở của Hà Nội chưa đáp ứng được sự gia tăng này

gây ra tình trạng ùn tắc giao thông nhất là vào giờ cao điểm. Vì vậy, việc

phát triển mạng lưới vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt là cần thiết.

Mục tiêu phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội: ưu

tiên phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hành khách công cộng

bằng xe buýt, thu hút hành khách tham gia giao thông bằng xe buýt. Phấn

58

đấu đến năm 2015 vận tải hành khách công cộng đạt chỉ tiêu vận chuyển

khoảng 15% nhu cầu đi lại của người dân. Để tăng cường khả năng vận tải

bằng xe buýt ngoài việc đưa thêm các tuyến buýt mới vào hoạt động, điều

chỉnh lại các tuyến buýt đang hoạt động, cần đưa vào sử dụng phương tiện

vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt có sức chứa lớn. Đến năm 2020,

vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội đáp ứng 20 – 25% sô

chuyến đi của người dân Thủ đô tương ứng với khoảng hơn 1 tỷ lượt

HK/năm. Theo đó, Sở giao thông vận tải Hà Nội xác định đến năm 2020, cơ

sở hạ tầng đường bộ phải được cải thiện một cách căn bản với mật độ mạng

lưới xe buýt trên toàn thành phố lên 3,6km/km2 đối với các quận nội thành và

1,5 – 1,76Km/Km2 trong toàn thành phố nhằm đảm bảo thuận tiện cho người

sử dụng. Đưa vào khai thác những tuyến đường xe buýt chạy riêng ở những

tuyến đường có nhu cầu đi lại lớn, những tuyến đường đã tổ chức làn xe buýt

chạy riêng nếu được thay bằng loại phương tiện khác có năng lực vận chuyển

lớn hơn sẽ không dùng làn xe buýt chạy riêng nữa. Tập trung mọi nguồn lực,

phát huy các lợi thế hiện có, khai thác sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng,

tranh thủ tối đa sự chỉ đạo của Thành phố, sự hỗ trợ của các Sở, Ban, Ngành

của Thành phố. Có cơ chế thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài và tranh thủ sức

mạnh về công nghệ, về quản lý của các đối tác, các nhà đầu tư chiến lược,

góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà thành phố giao cho.

3.2. Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội

trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà

Nội trong thời gian tiếp theo

3.2.1. Từng bước đổi mới và ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào

tất cả các khâu của hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo bước đột phá về hiệu quả

kinh tế - xã hội ở Tổng công ty

Đổi mới và phát triển công nghệ theo hướng tiên tiến hiện đại, tạo

bước đột phá về chất lượng phục vụ nhằm nâng cao năng lực kinh doanh và

59

khả năng cạnh tranh của Tổng công ty. Đây được coi là giải pháp có ý quan

trọng hàng đầu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty

Vận tải Hà Nội.

Đối với lĩnh vực vận tải hành khách công cộng ở thủ đô Hà Nội hiện

nay, việc đổi mới nâng cao chất lượng công nghệ, dịch vụ xe buýt đây là

cách lựa chọn tốt nhất để Tổng công ty tập trung đầu tư “đi tắt, đón đầu” vào

những công nghệ mới nhằm rút ngắn khoảng cách lạc hậu về công nghệ so

với các nước phát triển trong lĩnh vực vận tải hành khách công cộng. Việc

lựa chọn công nghệ tiên tiến hiện đại và nâng cao chất lượng dịch vụ của

Tổng công ty còn do chính đặc điểm kinh tế - xã hội và nhu cầu của nhân

dân tham gia giao thông hiện nay ở Hà Nội quy định. Trong đó, điều quan

trọng nhất là do nguồn vốn đầu tư cho việc đổi mới công nghệ, phương tiện

giao thông công cộng của Thành phố còn hạn hẹp nên không thể đầu tư một

cách dàn trải, cào bằng cho tất cả các lĩnh vực mà cần có trọng tâm trọng

điểm. Như vậy, việc ưu tiên đổi mới phát triển công nghệ tiên tiến hiện đại

và nâng chất lượng phục vụ để nâng cao hiệu quả kinh doanh của Tổng công

ty chính là hướng đi đúng trong chiến lược phát triển vận tải hành khách

cộng công ở Hà Nội hiện nay nhằm tạo điều kiện và môi trường tốt nhất để

người tham giao thông hài lòng với chất lượng và các dịch vụ công ty, góp

phần giải quyết bài tình trạng ùn tắc giao thông trên địa bàn thành phố hiện

nay. Đồng thời, việc phát triển công nghệ phương tiện vận tải và chất lượng

dịch vụ, cho phép khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực hiện có và sẽ

giảm thiểu tối đa tình trạng mất an toàn trong giao thông góp phần giải quyết

bài tình trạng ùn tắc giao thông trên địa bàn thành phố hiện nay.

Để thực hiện tốt vấn đê này cần tiến hành một số nội dung sau:

Thứ nhất, kết hợp huy động các nguồn lực các thành phần kinh tế tham

gia đầu tư phát triển vận tải hành khách công cộng ở Hà Nội.

60

Hoạt động vận tải hành khách công cộng ở đô thị là một ngành hoạt

động thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Với tính chất là một ngành phúc lợi

công cộng phục vụ cho toàn bộ cộng đồng dân cư, hoạt động vận tải công

cộng dựa trên việc nhà nước trợ cấp và bù lỗ. Chính vì thế mà giá vé đi các

phương tiện này thường thấp để sao cho mọi người dân cũng đều có cơ hội

để đi xe buýt. Do đó, những khoản thu về qua việc bán vé (vé hàng ngày, vé

tháng) không đủ để chi trả cho các chi phí về nhiên liệu và khấu hao xe,

cũng như để đầu tư mua sắm các phơng tiện mới. Trên thực tế, hiện nay các

khoản đầu tư mua sắm các phương tiện mới đều rút ra từ ngân sách nhà nước

và của chính quyền Thành phố. Vì vậy, để phát triển vận tải hành khách

công cộng có hiệu quả và giảm gánh nặng chi phí cho nhà nước và chính

quyền thành phố, thiết nghĩ, cần phải khuyến khích các thành phần kinh tế

tham gia vào loại hình vận tải công cộng. Sự tham gia của các thành phần

kinh tế sẽ góp phần giảm chi tiêu ngân sách nhà nước vào đầu tư mua sắm

thiết bị, thay vào đó sẽ tập trung nguồn ngân sách vào đầu tư phát triển hạ

tầng kỹ thuật đô thị. Trên cơ sở đó đầu tư phương tiện, trang thiết bị, cơ sở

vật chất phục vụ sản xuất kinh doanh chính và kinh doanh thương mại, dịch

vụ. Từng bước hiện đại hóa hướng tới công nghệ tiên tiến của khu vực và

trên thế giới nhằm nâng cao năng lực kinh doanh và hiệu quả cạnh tranh của

các ngành nghề mũi nhọn của Tổng công ty. Đây xem như là khâu đột phá

để hợp lý hóa sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, tiết kiệm chi

phí và tăng hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty.

Thứ hai, tiếp tục đầu tư phát triển quy mô, từng bước nâng cao chất

lượng và từng bước đổi mới công nghệ vận tải xe buýt. Viê ̣c đầu tư đổi

mới công nghê ̣ phải chú trọng tới tất cả các lĩnh vực như tăng về số

lượng xe buýt phải gắn liền với đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, hâ ̣u cần

phục vụ cho xe buýt đồng thời hiê ̣n địa hóa công nghê ̣ và trình đô ̣ quản

lý, điều hành xe buýt hê ̣ thống vé xe… Đối với với vâ ̣n tải hành khách

61

liên tỉnh cần đẩy mạnh ứng dụng công nghê ̣ quản lý điều hành tiên tiến

(GPS) vào điều hành xe buýt, làm tốt công tác chuẩn bị cho vận hành hệ

thống vận tải hành khách công cộng khối lượng lớn trong tương lai để đáp

ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân.

Theo đó, đổi mới công nghê ̣ theo hướng tiên tiến hiện đại Tổng công

ty Vận tải Hà Nội, cần đầu tư các thiết bị quản lý tự đô ̣ng, thiết bị đỗ xe

nhiều tầng tại các bến xe và điểm đỗ xe công cô ̣ng với quy mô lớn. Ưu tiên

đầu tư phát triển kinh doanh thương mại và dịch vụ tạo sự liên kết giữa các

đơn vị trong Tổng công ty. Đồng thời từng bước hiê ̣n đại hóa hê ̣ thống phần

mềm quản lý và ứng dụng công nghê ̣ tích hợp vào bảo vê ̣ hê ̣ thống quản lý

doanh nghiê ̣p nhằm cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng trên mọi lĩnh

vực kinh doanh của Tổng công ty.

Từng bước hiện đại hóa phần mềm quản lý và ứng dụng công nghệ

tích hợp vào hệ thống quản lý doanh nghiệp nhằm cung cấp dịch vụ tốt nhất

cho khách hàng trên mọi lĩnh vực kinh doanh của Tổng công ty.

Thứ ba, tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ, khai thác có hiệu quả

và năng lực phục vụ của hệ thống bến xe và điểm, bãi đỗ xe công cộng.

Thực tế hiện nay, Xe buýt không chỉ dành riêng cho những người thu nhập

thấp, nhưng để nhiều người cùng sử dụng phương tiện xe buýt phục vụ đi lại

thì chất lượng dịch vụ phải tốt hơn. Bản thân người dân cũng rất mong chờ

chất lượng dịch vụ xe buýt tăng lên. Do đó, chính đơn vị quản lý xe buýt thủ

đô phải nỗ lực, gắng sức để nâng chất lượng dịch vụ lên từng ngày. Đặc biệt

không để xảy ra những sự cố đáng tiếc làm xấu hình ảnh xe buýt Thủ đô.

Trong những năm qua, hành khách sử dụng phương tiện giao thông công cộng

ở Hà Nội mỗi năm một tăng (từ 15 triệu năm 2001 lên 412 triệu khách năm

2013). Do vậy, giải pháp tốt nhất trong đổi mới, cải thiện nâng cao chất lượng

dịch vụ của xe buýt chính là phải làm sao để người dân yêu phương tiện này,

62

bằng cách cung cấp dịch vụ thuận tiện, phù hợp với nhu cầu của đa số người

dân để khuyến khích người dân sử dụng xe buýt, tạo tiền đề hạn chế phương

tiện cá nhân, góp phần giải quyết ùn tắc giao thông khi đô thị ngày càng phát

triển. Về phương tiện, tham gia vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt

phải đảm bảo đúng quy chuẩn, tiêu chuẩn theo quy định; Khuyến khích việc

đầu tư các phương tiện xe buýt sàn thấp, xe buýt có thiết bị hỗ trợ người

khuyết tật, xe buýt sử dụng nhiên liệu giảm ô nhiễm môi trường.

Theo đó, năm 2014 Tổng công ty Vận tải Hà Nội cần thực hiện khẩu

hiệu "Năm chất lượng dịch vụ", tạo bước chuyển biến rõ rệt về chất lượng

dịch vụ xe buýt, chuyển biến rõ rệt về an ninh trật tự trên xe. Đặc biệt, là

phải quan tâm cải thiện hình ảnh, thương hiệu xe buýt thủ đô bằng chính ý

thức của người lái xe, thái độ phục vụ của phụ xe đây là vấn đề mà xã hội và

người sử dụng phương tiện đang mong muốn.

3.2.2. Tiếp tục xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị

nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty

Sau 5 năm mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội đã có bước chuyển

mình mạnh mẽ, đạt được những thành tựu quan trọng trên mọi mặt. Trong

đó, nét đổi thay dễ nhận thấy là hạ tầng giao thông được đầu tư đồng bộ,

hiện đại góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.

Để Hà Nội thực sự là địa phương đi đầu, hoàn thành những mục tiêu,

nhiệm vụ cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước cả nước từ 1 đến 2

năm thì hạ tầng giao thông vận tải cần phải đi trước một bước nhằm tạo

động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

Theo đó, sự phát triển của mạng lưới vận tải hành khách công cộng

bằng xe buýt gắn liền với quy hoạch và sự phát triển của hệ thống giao thông

đường bộ của thành phố. Vì vậy muốn phát triển hệ thống vận tải hành

khách công cộng bằng xe buýt, trước hết cần tập trung xây dựng và hoàn

63

thiện hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ của Thủ đô. Với những công

việc chủ yếu cần thực hiện là:

Thứ nhất, Tăng quỹ đất dành cho phát triển giao thông đô thị. Hiện

nay, quỹ đất của thành phố Hà nội dành cho phát triển giao thông là rất thấp

so với tiêu chuẩn quy hoạch xây dựng đô thị, mới chỉ chiếm trên dới 8%,

trong khi đó tỷ lệ đất trung bình dành cho phát triển giao thông đô thị ở

các nước phát triển trên thế giới là 20% - 25% . Vì vậy giải pháp để tăng quỹ

đất dành cho giao thông hiện nay là: Tập trung đẩy mạnh công tác giải

phóng mặt bằng phục vụ cho các dự án xây dựng các công trình giao thông

và phát triển đô thị. Hiện nay, thành phố Hà nội đang triển khai rất nhiều các

dự án xây dựng các khu đô thị mới và các dự án cải tạo, xây dựng các tuyến

đường giao thông trong thành phố. Nhưng khó khăn lớn nhất cho việc

triển khai các dự án này là ở công tác đền bù giải phóng mặt bằng. Do chi

phí đền bù thiệt hại tài sản và đất đai trong các dự án này thường rất lớn, có

ảnh hưởng tới cuộc sống của nhiều người dân, đặc biệt là đối với các dự án

xây dựng các công trình giao thông trong nội thành thành phố Hà Nội. Chính

điều này đã gây sự trở ngại cho việc triển khai thực hiện các dự án. Vì vậy,

chính quyền đô thị cần phải có những chính sách và biện pháp cụ thể, kiên

quyết theo đúng quy định của pháp luật để đẩy mạnh thực hiện công tác giải

phóng mặt bằng. Bởi thực tế, các công trình giao thông và các dự án phát

triển đô thị mục đích chủ yếu là phục vụ lợi ích của cả cộng đồng dân cư,

chúng là tài sản của toàn xã hội. Những lợi ích mà các dự án này đem lại

thường lớn hơn rất nhiều so với chi phí ban đầu bỏ ra. Để làm tăng quỹ đất

dành cho giao thông đô thị phải kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch sử dụng đất

đai đô thị, với quy hoạch phát triển giao thông vận tải. Cụ thể là cần có một

quy hoạch tổng thể việc sử dụng đất đai đô thị, trong đó xác định rõ diện tích

đất dành cho giao thông đô thị là bao nhiêu trong tổng số diện tích dành cho

64

phát triển đô thị. Có như vậy thì diện tích dành cho giao thông mới đáp ứng

được cho các mục tiêu phát triển giao thông của thành phố trong tương lai.

Thứ hai, Đầu tư xây dựng nâng cấp và mở rộng các tuyến đường

theo quy hoạch phát triển giao thông vận tải của Thành phố Hà Nội đến

năm 2020. Đồng thời, đầu tư xây dựng mới các tuyến đường và việc nâng

cấp, mở rộng các tuyến đường thuộc khu phố cổ và các đô thị cũ cũng là

một trong những giải pháp quan trọng góp phần phát triển hạ tầng giao

thông đường bộ của Thủ đô Hà Nội. Hiện trạng mạng lưới đường bộ của

Hà Nội là một trong các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ách tắc giao thông,

thể hiện sự lạc hậu và yếu kém trong công tác quản lý hạ tầng đô thị. Vì

vậy, vấn đề quan tâm hàng đầu đối với phát triển giao thông đường bộ của

Hà Nội là cần phải có các con đường mới với cơ sở hạ tầng hiện đại đủ

sức đáp ứng nhu cầu vận tải của Thủ đô trong tương lai. Xuất phát từ quan

điểm lợi ích, ta thấy lợi ích do đầu tư xây dựng và cải tạo mạng lưới

đường giao thông đem lại lợi ích là rất lớn. Các tuyến đường được xây

dựng mới và mở rộng sẽ làm giảm tình trạng ùn tắc giao thông hiện nay,

tạo cơ sở phát triển hệ thống vận tải hành khách công cộng, đồng thời

tạo nên cảnh quan kiến trúc đô thị. Không những thế việc nâng cấp và mở

rộng các tuyến đường còn đem lại cho người dân và chính quyền đô thị

những lợi ích kinh tế rất lớn nhờ khai thác lợi thế trong buôn bán, giao

lưu thương mại dọc theo hai bên đường và nguồn của cải từ các hoạt động

giao thông vận tải đem lại. Tuy nhiên việc mở rộng các tuyến đường

thường phải phá dỡ các công trình bên đường, gây tốn kém, nhất là trên

các tuyến phố thuộc khu phố cổ. Vì vậy, cần cân nhắc lựa chọn những khả

năng phát triển hợp lý: chẳng hạn như giữ nguyên hiện trạng lòng đường

hiện tại nhưng sẽ có đầu tư cải tạo và nâng cấp mặt đường, tổ chức thành

hệ thống đuờng một chiều... Ngoài ra, để đầu tư xây dựng, nâng cấp và

65

mở rộng đường phố trong đô thị cần có nguồn vốn đầu tư. Chính quyền đô

thị cần có các chính sách nhằm tạo nguồn vốn như khuyến khích các tổ

chức trong và ngoài nước tham gia vào hoạt động đầu tư giao thông vận

tải thông qua các giải pháp ưu đãi về thuế, lãi suất vay ngân hàng, miễn

quyền nộp phí sử dụng hạ tầng kỹ thuật hai bên đường... Bên cạnh đó, huy

động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn viện trợ ODA, FDI vào đầu

tư phát triển hạ tầng đô thị.

Thứ ba, Hoàn chỉnh tổ chức giao thông phân luồng một chiều trên

các phố chính. Do diện tích đất dành cho giao thông ở Hà Nội là rất ít, các

tuyến đường đô thị lại nhỏ và hẹp, trong khi đó mật độ giao thông trên các

tuyến đường chính của Hà Nội lại rất đông, nhất là vào các giờ cao điểm.

Vì vậy, cần phải tiến hành phân luồng giao thông một chiều để giảm lưu

lượng các phương tiện tham gia giao thông trên những tuyến đường

chính. Hiện nay, trên toàn bộ mạng lưới đường giao thông của Hà Nội,

các tuyến đường có phân luồng một chiều chiếm tỷ lệ nhỏ. Chỉ một vài

tuyến phố chính tới trung tâm thành phố là được phân luồng một chiều.

Vậy để có thể hoàn thiện hệ thống giao thông Thủ đô Hà Nội trong tương

lai cần phải hoàn chỉnh tổ chức giao thông phân luồng một chiều trên tất

cả các trục chính của giao thông Hà Nội. Đây là không chỉ là giải pháp

tạm thời trong tình hình quỹ đất dành cho giao thông còn hạn chế mà sẽ

phải là giải pháp lâu dài để phát triển giao thông của Thủ đô.

Bên cạnh đó, việc phát triển mạng lưới giao thông nông thôn và mạng

lưới xe buýt về các huyện, xã nhằm tạo thuận lợi trong đi lại sẽ góp phần

điều tiết và giãn dân cho khu vực nội thành, giảm áp lực cho giao thông đô

thị, giảm ùn tắc giao thông. Về phát triển vận tải hành khách công cộng, Hà

Nội sẽ tập trung hiện đại hóa hệ thống xe buýt hiện tại; phát triển, mở rộng

các tuyến buýt mới về các quận, huyện xa trung tâm thành phố, các khu

66

công nghiệp, các khu đông dân cư để phục vụ tốt nhu cầu đi lại của người

dân. Về lâu dài, phải khẩn trương xây dựng hệ thống đường sắt đô thị. Ngoài

ra, thành phố sẽ tiếp tục tập trung đầu tư phát triển hệ thống giao thông thuỷ

và các cảng quan trọng theo hướng hiện đại; quy hoạch lại hệ thống vận tải

thuỷ cho phù hợp với tình hình mới. Để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng

giao thông vận tải Thủ đô trong thời gian tới cần một nguồn vốn lớn, vì vậy,

ngoài nguồn ngân sách của thành phố, của Trung ương, Hà Nội sẽ mở rộng

các hình thức thu hút đầu tư như BOT, BTO, BT, PPP… cho hạ tầng giao

thông vận tải, trước mắt sẽ tập trung xây dựng hệ thống hạ tầng khung để tạo

sự thay đổi tích cực cho hạ tầng giao thông vận tải, đáp ứng nhu cầu phát

triển kinh tế - xã hội của Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung.

3.2.3. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực quản lý Nhà

nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty

Quản lý Nhà nước mà trực tiếp là của bộ máy Chính quyền các cấp

đối với Tổng công ty Vận tải Hà Nội hiện nay là đòi hỏi khách quan nhằm

tạo ra sân chơi công bằng, bình đẳng cho các các doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực này. Thực tế tình trạng thiếu đồng bộ, thống nhất trong quản

lý Nhà nước đối với vận tải hành khách công cộng trong những năm qua là

do còn nhiều bất cập như: chưa có sự điều hành, kiểm tra, giám sát thường

xuyên của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp đối với hoạt động xe buýt,

thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát, chưa có chế tài xử lý vi phạm trong hoạt

động xe buýt. Do vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với Tổng

công ty Vận tải Hà Nội cần phải tập trung giải quyết tốt những vấn đề sau:

Thứ nhất, thành lập trung tâm điều hành, kiểm tra giám sát hoạt

động VTHKCC của thành phố (Dự án Phát triển giao thông đô thị thành

phố); ứng dụng công nghệ mới đối với hoạt động quản lý, điều hành xe

buýt (các xe buýt bắt buộc phải lắp đặt thiết bị giám sát hành trình GPS)

67

để cơ quan quản lý kiểm tra, giám sát về tuyến, tần suất, thời gian hoạt

động bảo đảm đúng quy định.

Theo đó, cần tiếp tục thực hiện áp dụng triệt để phân cấp quản lý điều

hành và hệ thống quản lý chất lượng theo quy trình ISO của Tổng công ty đã

ban hành. Công tác bảo dưỡng sửa chữa, chỉnh trang phương tiện nhằm tăng

số đầu phương tiện xe tốt khi ra tuyến hoạt động. Nâng cao chất lượng bảo

dưỡng, sửa chữa kỹ thuật phương tiện. Nâng cao tay nghề bậc thợ như: Tổ

chức các lớp học đào tạo cho thợ bảo dưỡng sửa chữa, thi tay nghề bậc thợ.

Duy trì tốt việc ứng trực cứu hộ, vệ sinh phương tiện. Tăng cường kiểm tra

giám sát việc chấp hành quy chế của đội ngũ công nhân lái xe và nhân viên

phục vụ. Lập kế hoạch kiểm tra giám sát theo tuần, tháng trên các tuyến

buýt. Phối hợp với tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên và các phòng ban Xí

nghiệp lập kế hoạch tổ chức kiểm tra quy chế theo định kỳ. Nâng cao chất

lượng quản lý công tác điều hành các tuyến buýt, nghiêm khắc xử lý các

trường hợp vi phạm ảnh hưởng đến chỉ tiêu chất lượng phục vụ. Tăng cường

phối hợp điều hành các tuyến buýt khi xảy ra sự cố (như tắc đường, ngập

úng nước, hỏng xe…) với các đơn vị và lực lượng điều hành Trung tâm. Xây

dựng phương án dự phòng phương tiện tập trung nhằm đảm bảo kế hoạch

chỉ tiêu chuyến lượt, sản lượng của các tuyến buýt, đồng thời đảm bảo đúng

kế hoạch đưa phương tiện vào thực hiện bảo dưỡng sửa chữa định kỳ. Phối

hợp với Trung tâm Đào tạo Tổng công ty tổ chức các lớp đào tạo nâng cao

nghiệp vụ cho lái xe, nhân viên bán vé và các đối tượng khác. Tiếp tục triển

khai thực hiện việc điều hành quản lý các tuyến buýt thông qua hệ thống

điều hành Tahco-GPS nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, hạn chế những vi

phạm trong hoạt động buýt.

Thứ hai, xây dựng quy chế đấu thầu, đặt hàng lựa chọn đơn vị vận

68

chuyển năng lực tốt trên các tuyến xe buýt, góp phần nâng cao hiệu quả và

chất lượng dịch vụ xe buýt; xây dựng Quy chế quản lý hoạt động vận tải

hành khách bằng xe buýt trên địa bàn. Có thể thấy rằng, phương tiện là yếu

tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ vận tải hành khách công cộng

trên các tuyến. Nếu phương tiện cũ nát sẽ làm lái xe và hành khách khó chịu

không thoải mái, phương tiện cũ lưu thông trên đường gây nguy hiểm cho

hành khách và những phương tiện khác. Phương tiện ảnh hưởng đến thời

gian đi lại của hành khách cũng như ảnh hưởng đến tính chính xác về thời

gian của hành trình. Vì vậy, Thành phố khuyến khích các thành phần kinh tế

tham gia vào hoạt động dịch vụ vận tải khách bằng xe buýt thông qua hình

thức đấu thầu hoặc đặt hàng nhằm đảm nhận việc vận tải hành khách bằng

xe buýt trên một số tuyến nhất định nằm trong mạng lưới vận chuyển hành

khách công cộng theo những tiêu chuẩn vận hành cụ thể (tần suất, số lượng

và chất lượng phương tiện...). Các doanh nghiệp này được hưởng cơ chế tài

chính trợ giá trực tiếp và gián tiếp; song phải sử dụng đúng mục đích số vốn

được vay, số phương tiện đầu tư theo dự án, quỹ đất dành cho xây dựng các

công trình phục vụ xe buýt, phục vụ đúng đối tượng trên các tuyến xe buýt.

Đồng thời, đầu tư mua sắm, đổi mới phương tiện đúng quy chuẩn, tiêu

chuẩn; đình chỉ, chấm dứt hoạt động các phương tiện xuống cấp. Doanh

nghiệp đầu tư xe buýt cần đầu tư thiết bị hỗ trợ người khuyết tật nhằm tạo

thuận lợi cho người khuyết tật khi sử dụng xe buýt.

Thứ ba, xây dựng và áp dụng các định mức kinh tế - kỹ thuật trong

hoạt động vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt; khung giá vé ưu đãi

cho các đối tượng.

69

Mặc dù, trong những năm qua Tổng công ty Vận tải Hà Nội đã nhận

được nhiều chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển, song hiện vẫn còn

thiếu cơ chế chính sách cho việc hỗ trợ mua sắm phương tiện tiên tiến, thân

thiện môi trường, các chính sách tạo nguồn tài chính cho vận tải công cộng

hoạt động ổn định. Các chính sách để đảm bảo và thu hút nguồn nhân lực

chất lượng cao nhất là với đội ngũ quản lý và hoạt động kiểm tra giám sát

cũng còn thiếu rất nhiều. Do vậy, cần phải có chính sách cụ thể trong việc

xây dựng và áp dụng các định mức kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động vận tải

hành khách công cộng bằng xe buýt.

Bên cạnh đó, để làm tốt vấn đề trên Ủy ban nhân dân thành phố phải

có quy định rõ ràng minh bạch giá vé lượt, giá vé tháng, giá vé liên tuyến

đối với các tuyến có trợ giá và mức miễn giảm đối với các loại đối tượng

thuộc diện chính sách cần ưu tiên khuyến khích như thương, bệnh binh,

người khuyết tật. Miễn giảm giá vé tháng cho các đối tượng học sinh, sinh

viên, người già từ 60 tuổi trở lên thường xuyên đi xe buýt.

Thứ tư, tăng cường kiểm tra, thực hiện các chế tài xử lý cần thiết, đúng

pháp luật đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh xe buýt.

Đây là vấn đề hết sức cần thiết để giảm tình trạng vi phạm luật giao

thông đường bộ, đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông và tạo

dựng uy tín của Tổng công ty và cũng là trăn trở của những người quản lý,

vận hành xe buýt. Vì vậy, để xe buýt trở nên thân thiện, an toàn với hành

khách và cộng đồng, Tổng công ty Vận tải Hà Nội phải chủ động phối hợp

với các lực lượng liên ngành như thanh tra giao thông, cảnh sát giao thông,

cảnh sát trật tự, cảnh sát hình sự để có các giải pháp hữu hiệu đảm bảo an

ninh trật tự, an toàn cho hành khách đi xe buýt. Về phía mình, Tổng công ty

(Transerco) cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các tiêu chí phục vụ

của xe buýt như kỷ luật dừng đỗ, an toàn chạy xe, chấp hành Luật giao

70

thông đường bộ. Như vậy, để giám sát tài xế thực hiện đúng các tiêu chí

trên, Transerco đã lắp đặt hệ thống thiết bị giám sát hành trình, kiểm soát

các vi phạm về chạy xe quá tốc độ, về bến sớm so với thời gian quy định.

Việc triển khai lắp đặt camera quản lý trên một số tuyến xe buýt có lượng

hành khách lớn nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, thái độ phục vụ, quá

trình điều khiển phương tiện của lái xe và nhân viên bán vé; đồng thời kiểm

soát doanh thu và an ninh, an toàn cho hành khách. Với các sai phạm, phải

kiên quyết xử lý nghiêm theo quy chế, đặc biệt là các vi phạm về an toàn

chạy xe và thời gian chạy xe.

3.2.4. Nâng cao số lượng và chất lượng nguồn nhân

lực đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội

của Tổng công ty trong tình hình mới

Bảo đảm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu

của Tổng công ty trong tình hình mới là yêu cầu khách quan đáp ứng việc

nâng cao chất lượng dịch vụ trong sự phát triển của Tổng công ty Vận tải Hà

Nội hiện nay. Transerco xác định việc xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ

ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn là một trong những

khâu đột phá chiến lược. Transerco luôn coi “nhân lực là nguồn tài sản quý

giá của doanh nghiệp”.

Do vậy, phát triển nguồn nhân lực cần phải chú ý tới phát triển toàn diện

trên cả ba yếu tố đó là số lượng, chất lượng, và cơ cấu nguồn nhân lực. Theo đó,

để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của Tổng công ty cần tập trung vào hai vấn đề

chính là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý và sử dụng có

hiệu quả nguồn nhân lực. Việc bảo đảm nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng

với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới cần phải làm tốt các nội dung sau.

Một là, bảo đảm về số lượng

Số lượng nguồn nhân lực có vai hết sức quan trọng trong sự phát triển

71

của Tổng công ty Vận tải Hà Nội, nếu số lượng nguồn nhân lực quá ít so với

nhu cầu của Tổng công ty thì sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa phương tiện và

không khai thác hết công xuất phương tiện hiện có. Ngược lại nếu số lượng

lao động lớn hơn nhu cầu của Tổng công ty thì sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí

ảnh hưởng doanh thu của Tổng công ty. Như vậy, cả hai vấn đề trên đều tác

động tiêu cực đối với hiệu quả kinh tế xã hội nói chung và phát triển của

Tổng công ty vận tải Hà nội nói riêng. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực

phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và cho Tổng

công ty Vận tải Hà Nội nói riêng phải trên cơ sở phát triển hợp lý về số

lượng nguồn nhân lực, đây chính là cơ sở để hoạch định chiến lược phát

triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới.

Hai là, bảo đảm về chất lượng

Để đáp ứng quá trình phát triển của khoa học và công nghệ ngày càng

tiên tiến hiện đại, đòi hỏi nguồn nhân lực không chỉ đảm bảo về số lượng mà

đòi hỏi phải có chất lượng ngày càng cao. Nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực được xem là yếu tố quan trong nhất trong phát triển nguồn nhân lực. Bởi

lẽ chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố quyết định nâng cao, chất lượng

hiệu quả của các hoạt động của Tổng công ty như ý thức thái độ trách nhiệm

của lái xe, phụ xe trong thực hiện nhiệm vụ tạo ấn tượng tốt đẹp cho hành

khách khi tham gia giao thông, góp phần xây dựng thương hiệu của Tổng

công ty đó cũng là vấn đề mà Tổng công ty Vận tải Hà Nội luôn đặc biệt

quan tâm. Trong khi đó chất lượng nguồn nhân lực Tổng công ty hiện nay

vẫn còn nhiều bất cập như trình độ, ý thức thái độ trách nhiệm của một số lái

xe, nhân viên phục vụ còn hạn chế. Bên cạnh đó tình trạng lái xe phóng

nhanh vượt ẩu, không chấp hành luật lệ giao thông dẫn tới tình trạng tai nạn

giao thông vẫn còn. Trong khi đó công tác đào tạo để nâng cao trình độ, ý

thức cho người lao động còn khó khăn về nhiều mặt, ý thức tổ chức kỷ luật

72

của một bộ phận cán bộ nhân viên chưa cao; tác phong làm việc thiếu tính

chuyên nghiệp. Vì vậy, phải nâng cao trình độ học vấn, kèm theo đó là giáo

dục nhân cách, ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ, kỷ luật lao động,

lề lối tác phong làm việc, nếp nghĩ của đội ngũ cán bộ nhân viên là việc làm

hết sức cần thiết hiện nay. Vì vậy, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và

năng lực của Tổng công ty Vận tải Hà Nội, cần quan tâm giải quyết tốt một

số vấn đề sau:

Thứ nhất, Tăng cường công tác tổ chức cán bộ và đào tạo nguồn nhân

lực theo hướng chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình

mới. Đặc biệt quan tâm đến công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng và luân

chuyển từ cán bộ lãnh đạo đến cán bộ chuyên môn theo hướng trẻ hóa đội

ngũ mà nòng cốt là nguồn cán bộ tại chỗ đúng theo tinh thần nghị quyết

Trung ương 4. Tiếp tục chuẩn hóa các tài liệu, chương trình đào tạo và mở

rộng đối tượng đào tạo sang nhân viên bán vé và thợ bảo dưỡng sửa chữa

Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho vận tải hành khách công cộng ở

Hà Nội hiện nay cần kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo với tự đào tạo, trong đó

lấy tự đào tạo, tự bồi dưỡng của đội ngũ cán bộ, lái xe, công nhân viên để

nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được phân công là chủ yếu.

Đào tạo cần phải được thực hiện đối với tất cả các đối tượng có liên quan

đến nhiệm vụ của Tổng công ty. Trong đó, đặc biệt quan tâm đối với đội ngũ

cán bộ lãnh đạo và đội ngũ lái xe nhân viên phục vụ. Bởi đây, chính là lực

lượng trực tiếp tham gia hàng ngày để tạo uy tín và thương hiệu của Tổng

công ty Vận tải Hà Nội. Bên cạnh đó, phát huy vai trò của tổ chức đảng các

cấp trong cộng tác quản lý, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ

các cấp. Thực hiện có hiệu quả các nội dung của đề án phát triển nguồn nhân

lực của ngành đến năm 2015 và các năm tiếp theo, trong đó chú trọng xây

dựng nguồn lực con người.

73

Thứ hai, Tiếp tục trẻ hóa đô ̣i ngũ lãnh đạo chủ chốt nhất là ở các đơn

vị cơ sở, phấn đấu đến năm 2015 có 100% đô ̣i ngũ cán bô ̣ có trình đô ̣ chuẩn

hóa và công nhân lao đô ̣ng được đào tạo nghề. Bên cạnh đó, có chính sách

đãi ngộ thu hút nhân tài và đào tạo phát triển tài năng trẻ, nâng cao chất

lượng của các trung tâm đào tạo trong đó đặc biệt chú trọng đến chất lượng

đào tạo. Nâng tầm, tăng cường đầu tư cơ sở vâ ̣t chất kỹ thuâ ̣t cho các trung

tâm đào tạo, đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo gắn với thực tiễn nghề

nghiê ̣p. Tâ ̣p trung nghiên cứu thành lâ ̣p trung tâm đào tạo lái xe để từng

bước chủ đô ̣ng về nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu về đô ̣i ngũ lái xe của

Tổng công ty và các doanh nghiê ̣p khi có nhu cầu. Có chính sách khuyến

khích nâng cao trình đô ̣ chuyên môn nghiê ̣p vụ gắn với tiêu chuẩn chức

danh và hiê ̣u quả công tác với chế đô ̣ tiền lương tiền thưởng và các chính

sách đãi ngô ̣ khác, tạo môi trường và không khí thi đua sôi nổi trong Tổng

công ty.

Thứ ba, đối với công tác cán bô ̣, tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng

công tác cán bộ, trước hết cần tâ ̣p trung đổi mới hơn nữa về nhâ ̣n thức về

công tác cán bô ̣ nhất là chủ chương trẻ hóa đô ̣ ngũ cán bô ̣ lãnh đạo. Đă ̣c biê ̣t

chú trọng công tác phát hiê ̣n, qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bô ̣ tại

chỗ kết hợp với viê ̣c phát hiê ̣n, tìm nguồn từ bên ngoài. Tuy nhiên, cần kết

hợp hài hòa giữa ổn định với công tác luân chuyển để đô ̣i ngũ cán bô ̣ được

đào tạo toàn diê ̣n và có kinh nghiê ̣m thực tiễn. Bên cạnh đó cần tiếp tục

chuẩn hóa và công khai minh bạch tiêu chuẩn chức danh ở tất cả các cấp để

có kế hoạch, qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bổ nhiê ̣m cán bô ̣ theo đúng sở

trường, khả năng, trình đô ̣ và phẩm chất của người cán bô ̣ đáp ứng yêu cầu

nhiêm vụ trong tình hình mới

74

3.2.5. Kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao chất lượng dịch vụ với tuyên

truyền, vận động người dân hưởng ứng đi xe buýt làm cơ sở để nâng cao

hiệu quả kinh tế - xã hội trong sản xuất kinh doanh của Tổng công ty

Về nâng cao chất lượng dịch vụ của Tổng công ty:

Như đã phân tích ở phần lý luận, chất lượng cung ứng dịch vụ của

Tổng công ty phụ thuộc chủ yếu vào đội ngũ lái xe cán bộ và nhân viên

phục vụ của Tổng công ty. Do vậy, để nâng cao chất lượng dịch vụ xe

buýt, phải nâng cao chất lượng mà trước hết là văn hóa ứng xử, giao tiếp

của đội ngũ này. Theo đó, Tổng công ty Vận tải Hà Nội cần xây dựng môi

trường làm việc và cống hiến tốt cho cán bộ công nhân viên; Xây dựng con

người Transerco có trí tuệ và trình độ chuyên môn cao, có sức khỏe và thể

chất tốt, có ý thức trong việc chấp hành đường lối chính sách và pháp luật

của Đảng, Nhà nước, của Thành phố và Tổng công ty, có đạo đức lối sống

văn minh, thanh lịch và hiện đại, có trách nhiệm và tâm huyết với nghề

nghiệp, có ý thức vươn lên, không ngừng học tập để tiếp cận và làm chủ

khoa học công nghệ mới; tất cả để trở thành động lực và hướng tới sứ mệnh,

tầm nhìn của Transerco.

Transerco cần phải đi tiên phong trong xây dựng và thể hiện văn

hóa con người Transerco tại các điểm cung ứng dịch vụ công như: Trên xe

buýt, tại bến xe, điểm đỗ xe công cộng...Từng bước xây dựng và ban hành

các qui chế, quy định cụ thể về nếp sống văn hóa ở mọi nơi, mọi lĩnh vực.

Nêu cao vai trò gương mẫu của đảng viên trong việc vận động, tuyên

truyền mọi người tham gia tích cực “Cuộc vận động toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa” của Thành phố. Để làm tốt những vấn đề trên

cần có sự phối hợp cả từ hai phía Tổng công ty vận tải Hà Nội và hành

khách khi tham gia giao thông.

75

Cần đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động thi đua chung sức đồng lòng

xây dựng văn hoá xe buýt. Đây là một chiến dịch rất có ý nghĩa và hiệu quả

để nâng cao chất lượng phục vụ, chất lượng phương tiện. Nâng cao ý thức

chấp hành luật giao thông, ý thức giữ gìn phương tiện trong đội ngũ lái xe và

nhân viên bán vé cũng như phong cách giao tiếp, thái độ phục vụ văn minh

đối với hành khách. Qua đây, Tổng công ty cần tập trung kiểm tra giám sát

các hoạt động trên các tuyến xe và chỉ đạo công tác chống thất thoát doanh

thu và các trường hợp gian lận trong sử dụng vé tháng. Đồng thời chú trọng

xây dựng đội ngũ nhân viên hỗ trợ Marketing điều hành - kiểm tra, giám sát

tuyến đường, điều hành tuyến và lực lượng kiểm tra của các xí nghiệp,

không chỉ đơn thuần đóng vai trò kiểm tra giám sát mà cũng sẽ tham gia thi

đua để tìm ra các cá nhân ưu tú.

Bên cạnh đó, Tổng công ty cần nghiên cứu phương án thành lập tổ

kiểm tra giám sát những lái xe vi phạm, đề xuất hình thức xử lý, kỷ luật

xứng đáng với hành vi vi phạm về văn hóa giao thông. Tổng công ty cũng

cần chú trọng tuyển chọn kỹ, loại bỏ những lái xe và nhân viên bán vé hành

xử côn đồ và thiếu văn hoá. Đó là về phía Tổng công ty, tuy nhiên đội ngũ

nhân viên cũng cần phải tuân thủ đúng nội quy đưa ra, đồng thời phải thực

sự đổi mới tác phong phục vụ khách hàng, thực sự coi khách hàng là thượng

đế.

Về công tác tuyên truyền, vận động người dân hưởng ứng đi xe buýt:

Xe buýt được đánh giá là loại hình giao thông công cộng hiệu quả

nhất về mọi mặt kinh tế, xã hội, dịch vụ và môi trường. Kinh nghiệm phổ

quát cho thấy: phát triển giao thông bền vững và hiệu quả nhất chính là phát

triển các hệ thống giao thông công cộng thay thế xe cá nhân. Chúng ta cần

nhận thức sâu sắc rằng, trong giao thông đô thị, phương tiện giao thông công

76

cộng giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Trong những năm qua vận tải khách

công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội đã có bước phát triển vượt bậc cả về quy

mô và chất lượng dịch vụ góp phần đáng kể vào giải quyết tình trạng ùn tắc

giao thông trên địa bàn thủ đô. Tuy nhiện, hiện nay Hà Nội có tỷ lệ người sử

dụng giao thông công cộng ở mức thấp nhất so với các thành phố lớn ở

Đông Nam Á. Có thể nói, người dân Hà Nội đã đánh mất thói quen sử dụng

phương tiện giao thông công cộng trong một thời gian dài. Hơn nữa, người

tham gia giao thông lại không được giáo dục về luật giao thông một cách

đầy đủ, cùng với việc buông lỏng quản lý và xử lý dẫn đến thói quen đi lại

tuỳ tiện khi tham gia giao thông. Bên cạnh đó, nhu cầu đi lại ngày càng tăng,

đòi hỏi chất lượng phục vụ ngày một cao của người dân thủ đô trong khi hạ

tầng xe buýt còn quá thiếu thốn và thấp kém như không có đường riêng, làn

riêng. Do vậy, giao thông xe buýt phải chạy chung với dòng giao thông hỗn

hợp, có nhiều thành phần phương tiện, khác nhau, rất khó nâng cao tốc độ và

dễ xảy ra va chạm đây là một thực tế hiện nay. Như vậy, để xây dựng cho

người dân có thói quen tham gia giao thông công cộng góp phần giải quyết

bài toán giao thông hiện nay ở Thủ đô giảm thiểu ô nhiễm môi trường tạo

nét đẹp trong trong văn minh đô thị hiện đại cần làm tốt công tác tuyên

truyền, vận động người dân hưởng ứng đi xe buýt như:

Thứ nhất, tuyên truyền đến người dân hiểu rõ về lợi ích, tác dụng của

việc đi xe buýt. Có thể thấy rằng, lợi ích mà vận tải hành khách công cộng

mang lại là rất lớn. Về chi phí, hằng năm thành phố Hà Nội sẽ tiết kiệm

được hàng trăm tỷ đồng do đầu tư phương tiện cá nhân giảm, chi phí nhiên

liệu giảm, hao phí thời gian chờ do ùn tắc giao thông gây ra sẽ giảm, giảm

thiểu ô nhiễm môi trường. Đối với mỗi cá nhân, khi xe buýt thuận lợi sẽ

giảm được chi phí đầu tư cho phương tiện và giảm chi phí đi lại vì trong giá

77

vé xe buýt đã có một phần trợ giá, đây chính là điều kiện để chúng ta đầu tư

vào phát triển kinh tế xã hội.

Về mặt xã hội, phát triển vận tải hành khách công cộng xẽ góp phần

giải quyết và phục vụ tốt được các đối tượng chính sách xã hội, đặc biệt là

các đối tượng học sinh, sinh viên, người khuyết tật, bảo đảm thực hiện được

các mục tiêu về an sinh xã hội của thành phố Hà Nội. Giảm thiểu tối đa được

ô nhiễm môi trường do giảm khí thải từ các phương tiện cá nhân, giảm đáng

kể tình trạng tai nạn giao thông trên địa bàn thành phố.

Thứ hai, để người dân tích cực hưởng ứng tham gia giao thông công

cộng bằng xe buýt, thì Nhà nước cần có chính sách tài chính, trợ giá ổn định

lâu dài cho vận tải hành khách công cộng để khuyến khích các thành phần

kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng, vận hành BRT, xe điện ngầm, đường sắt

nội đô, giảm gánh nặng ngân sách. Đồng thời, tiếp tục tuyên truyền về tính

ưu việt của vận tải hành khách công cộng và nguy cơ gây mất an toàn, xung

đột giao thông nếu tiếp tục sử dụng phương tiện cá nhân. Khi vận tải hành

khách công cộng với nhiều loại hình được xây dựng, hoàn thành và đưa vào

sử dụng sẽ tạo mạng lưới giao thông công cộng hoàn chỉnh giúp người dân

đi lại được thuận tiện an toàn chắc chắn người dân sẽ từ bỏ phương tiện cá

nhân. Đây chính là giải pháp hữu hiệu để giảm thiểu ùn tắc và tai nạn giao

thông một cách bền vững.

Thứ ba, tổ chức đào tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ

phục vụ hoạt động vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt, đặc biệt là

đội ngũ lái xe, nhân viên phục vụ để bảo đảm chất lượng phục vụ hành

khách. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao đạo đức nghề nghiệp lái xe, nhân

viên phục vụ để tăng cường trách nhiệm, thái độ phục vụ hành khác, ý thức

chấp hành pháp luật trật tự an toàn giao thông trong quá trình làm việc,

tuyên truyền về lợi ích việc sử dụng xe buýt và mở cuộc vận động cán bộ

công nhân viên chức ngành giao thông vận tải gương mẫu không sử dụng

78

phương tiện cá nhân, sau một thời gian có thể khuyến khích toàn thể công

chức Thành Phố, tiến tới vận động toàn dân đô thị sử dụng phương tiện giao

thông công cộng bằng xe buýt.

Như vậy, chỉ khi nào dịch vụ vận tải hành khách công cộng bằng xe

buýt có chất lượng phục vụ tốt, thuận tiện, đủ sức hấp dẫn, các cơ quan, tổ

chức cá nhân tham gia giao thông thấy rõ lợi ích của việc sử dụng xe buýt

thì khi đó VTHKCC bằng xe buýt mới thực sự phát huy hết hiệu quả và ý

nghĩa về mặt kinh tế - xã hội và môi trường.

*

* *

Trên cơ sở đánh giá thực trạng về hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận

tải hành khách bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội, ở chương 3

luận văn đã nêu ra 3 quan điểm và 5 giải pháp cơ bản nhằm khắc phục

những tồn tại hạn chế đó. 3 quan điểm chỉ đạo nâng cao hiệu quả kinh tế - xã

hội của Tổng công ty Vận tải Hà Nội là: Tiếp tục củng cố và phát huy vai trò

chủ đạo trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà

Nội; Phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng, nguồn lực kết hợp hài hòa phát

triển cả chiều rộng và chiều sâu trong vận tải hành khách bằng xe buýt;

Giải quyết hài hòa giữa thực hiện nhiệm vụ công ích với mục tiêu phát triển

bền vững và kinh doanh có hiệu quả. 5 giải pháp gồm: Từng bước đổi mới và

ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào tất cả các khâu của hoạt động sản

xuất kinh doanh, tạo bước đột phá về hiệu quả kinh tế - xã hội ở Tổng công ty;

Tiếp tục xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị nhằm tạo thuận

lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty; Tiếp tục hoàn thiện thể

chế, nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh

doanh của Tổng công ty; Nâng cao số lượng và chất lượng nguồn nhân lực đáp

ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của Tổng công ty trong tình hình

79

mới; Kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao chất lượng dịch vụ với tuyên truyền, vận

động người dân hưởng ứng đi xe buýt làm cơ sở để nâng cao hiệu quả kinh tế -

xã hội trong sản xuất kinh doanh của Tổng công ty.

Các quan điểm và giải pháp nêu trên là một chỉnh thể thống nhất. Thực

hiện tốt các quan điểm và giải pháp nêu trên chắc chắn sẽ góp phần đắc lực vào

việc nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội ở Tổng công ty vận tải Hà Nội trong thời

gian tới.

KẾT LUẬN

Phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội là

nội dung giải pháp quan trọng, mang tính đột phá trong việc giải quyết tình

trạng ùn tắc giao thông giản thiểu tai nạn giao thông ở Hà nội. Vì vậy, việc

phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn hiệu quả kinh tế xã hội của vận tải hành

khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội phải dựa vào điều kiện phát triển

kinh tế xã hội và nhu cầu thực tiễn hiện nay. Đây chính là cơ sở lý luận

quan trọng để tác giả phân tích một cách khách quan, toàn diện thực trạng

hiệu quả kinh tế xã hội vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà

Nội trong thời gian qua. Những hạn chế bất cập hạn chế trên trong quá

trình phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội trên

được rút ra từ chính thực tiễn quá trình phát triển, vấn đề đó không thể

khắc phục ngay mà phải có lộ trình và kế hoạch cụ thể, với sự lãnh đạo, chỉ

đạo quyết liệt của Thành ủy, sự điều hành của UBND Thành phố và sự nỗ

lực, quyết tâm cao của các ban ngành, các thành phần kinh tế và các doanh

nghiệp và toàn thể nhân dân.

Luận văn đã đánh giá được cơ bản rõ nét hiện trạng hoạt động của

mạng lưới vận tải hành khách bằng xe buýt trên địa bàn thành phố Hà Nội;

phân tích chỉ rõ các nguyên nhân, hạn chế, yếu kém của mạng lưới tuyến xe

buýt cũng như tồn tại trong công tác quản lý nhà nước và xây dựng, thực hiện

80

các cơ chế chính sách ưu tiên, khuyến khích đầu tư phát triển mạng lưới xe

buýt của Hà Nội hiện nay.

Xây dựng chiến lược phát triển mạng lưới cũng như chất lượng phục vụ

của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt trên địa bàn thành phố trong

những năm tới là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với một Thủ đô

văn minh, thanh lịch. Trong đó, tập trung vào những vấn đề trọng tâm như:

củng cố mạng lưới tuyến, củng cố, bổ sung hệ thống hạ tầng xe buýt, phát

triển tuyến mới, phương thức, nguyên tắc trợ giá xe buýt... Đồng thời, dự kiến

nhu cầu và chủ động khai thác các nguồn vốn tập trung cho phát triển mạng

lưới vận tải hành khách bằng xe buýt giai đoạn tiếp theo cần được quan tâm

đúng mức. Trong giới hạn nhận thức và phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác

giả đưa ra 3 quan điểm và 5 giải pháp cơ bản mang tính chất định hướng

cho quá trình phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội

hiện nay. Những quan điểm và giải pháp nói trên chỉ là kết quả bước đầu

nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị, trong khi đó để phát triển vận tải

hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội đây là một vấn đề lớn, đặt ra

cho nhiều lĩnh vực khoa học cùng nghiên cứu dưới nhiều góc độ và đối

tượng nghiên cứu khác nhau, cả về lý luận và thực tiễn cần phải tiếp tục

đầu tư nghiên cứu một cách công phu hơn nữa. Do vậy, trong khuôn khổ

của luận văn do trình độ nghiên cứu của tác giả còn có nhiều hạn chế, chắc

chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Kính mong nhận được

những đóng góp chân thành của các nhà khoa học, để tác giả hoàn thiện

mình trong con đường nghiên cứu tiếp theo. Tác giả cho rằng, những vấn

đề luận văn đề cập đã góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về

phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội, và có thể

làm tài liệu tham khảo, gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách nhiều ý

tưởng mới, và những người có cùng quan tâm vấn đề này.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngân Anh (2013), Vận tải công cộng vẫn khó trăm bề, Báo Giao thông

vận tải số ra ngày 07/7/2013, Hà Nội.

2. Ngô Thanh Chương (2008), Quy trình tổ chức quản lý và hiệu quả xã hội

hóa vận tải hành khách công cộng bằng xe bus ở đô thị Việt Nam, Nxb

Giao thông Vận tải, Hà Nội.

3. Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2005), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ

Thành phố Hà Nội lần thứ XIV, Nxb CTQG, Hà Nội.

4. Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2010), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ

Thành phố Hà Nội lần thứ XV, Nxb CTQG, Hà Nội.

5. Đảng bộ Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2005), Báo cáo chính trị Đại hội

lần thứ 1 Đảng bộ Tổng Công ty Vận tải Hà Nội, Hà Nội.

6. Đảng bộ Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2010), Báo cáo chính trị Đại hội

lần thứ 2 Đảng bộ Tổng Công ty Vận tải Hà Nội, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội.

82

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kì quá độ (Bổ sung và phát triển 2011), Nxb CTQG, Hà Nội.

12. Nguyễn Thi Bích Hằng (2010), Các chính sách trợ giá cho hoạt động vận

tải hành khách công cộng bằng xe bus và biện pháp trợ giá, Nxb Giao

thông Vận tải, Hà Nội.

13. Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội (2013), Nghị quyết số:

03/2013/NQ-HĐND ngày 12/7/2013 Về ưu tiên phát triển hệ thống vận

tải hành khách công cộng khối lượng lớn; khuyến khích đầu tư xây

dựng, khai thác bến xe,bãi đỗ xe ô tô và các phương tiện cơ giới khác;

áp dụng công nghệ cao trong quản lý, điều hành hệ thống giao thông

vận tải, Hà Nội

14. Lênin V. I, Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979.

15. Lênin V. I, Toàn tập, Tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979.

16. Trần Ngọc Luyện (2003), Trật tự an toàn giao thông đường bộ thực trạng

và giải pháp, Nxb CTQG, Hà Nội.

17. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội.

18. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 9, Nxb CTQG, Hà Nội.

19. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội.

20. Hà Minh Phương (2013), “Vận tải hành khác công cộng bằng xe bus góp

phần thúc đẩy phát triển KT - XH và đảm bảo trật tự an toàn giao

thông”, Báo Phú Thọ số ra ngày 10/7/2013, Phú Thọ.

21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Thủ đô,

Nxb CTQG, Hà Nội.

22. Trần Văn Thành (2000) Một số vấn đề về xây dựng con người làm công

tác vận tải trong thời kỳ mới, Nxb CTQG, Hà Nội.

83

23. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số: 62/2009/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủ Về việc miễn tiền thuê đất để xây dựng trạm bảo

dưỡng, sửa chữa, bãi đỗ xe của doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành

khách công cộng, Hà Nội.

24. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số: 55/2012/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủ Về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 62/2009/QĐ-

TTg ngày 20/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn tiền thuê

đất để xây dựng trạm bảo dưỡng, sửa chữa, bãi đỗ xe của doanh

nghiệp kinh doanh vận tải hành khách công cộng, Hà Nội.

25. Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2005), Chiến lược sản xuất kinh doanh

của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội giai đoạn 2005 – 2010, Hà Nội.

26. Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2010), Chiến lược sản xuất kinh doanh

của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội giai đoạn 2010 – 2015, Hà Nội.

27. Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2005), Báo cáo kết quả sản xuất kinh

doanh năm 2005 và Kế hoạch năm 2006 toàn Tổng Công ty. Hà Nội.

28. Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2006), Báo cáo kết quả sản xuất kinh

doanh năm 2006 và Kế hoạch năm 2007 toàn Tổng Công ty. Hà Nội.

29. Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2007), Báo cáo kết quả sản xuất kinh

doanh năm 2007 và Kế hoạch năm 2008 toàn Tổng Công ty. Hà Nội.

30. Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2008), Báo cáo kết quả sản xuất kinh

doanh năm 2008 và Kế hoạch năm 2009 toàn Tổng Công ty. Hà Nội.

31. Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2009), Báo cáo kết quả sản xuất kinh

doanh năm 2009 và Kế hoạch năm 2010 toàn Tổng Công ty. Hà Nội.

32. Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2010), Báo cáo kết quả sản xuất kinh

doanh năm 2010 và Kế hoạch năm 2011 toàn Tổng Công ty. Hà Nội.

33. Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2011), Báo cáo kết quả sản xuất kinh

doanh năm 2011 và Kế hoạch năm 2012 toàn Tổng Công ty. Hà Nội.

84

34. Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (2012), Báo cáo kết quả sản xuất kinh

doanh năm 2012 và Kế hoạch năm 2013 toàn Tổng Công ty. Hà Nội.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Bản đồ Thành phố Hà Nội sau khi mở rộng địa giới hành chính (2008) –

Tỉ lệ 1/500.000

85

Nguån:

www.vietbando.com

Phụ lục 2

Sơ đồ cơ cấu tổ chức toàn Công ty

86

Nguồn: Tổng Công ty vận tải Hà Nội.

Phụ lục 3

87

Cơ cấu lao động phân theo trình độ và giới tính của Khối

vận tải hành khách công cộng - Tổng công ty vận tải Hà Nội từ năm

2010 đến năm 2012

So sánh

Chỉ tiêu

2010

2011

2012

2011/2010

2012/2011

Chênh

Tỷ lệ

Chênh

Tỷ lệ

Tổng số lao động (người)

3596

4028

4253

lệch

(%)

lệch

(%)

Nam

2487

2672

2760

185

11,45

288

10,8

Giới tính

Nữ

1109

1356

1493

247

11,4

137

10,1

Sau ĐH

185

199

229

14

7,6

30

15,07

Trình độ

ĐH CĐ,TC,PT

1265 2146

1314 2515

1494 2530

49 369

3,8 17,2

180 15

13,6 0,6

Nguồn: Theo số liệu của ban Tổ chức- Tiền lương – Tổng Công ty năm 2012

88

Phụ lục 4

Thống kê kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty từ năm 2010

STT

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Chỉ tiêu Sản lượng hành khách

1

389 757 878

406 285 213

419 228 651

(người) Doanh thu (đồng) Số lượng tuyến Số lượng xe

2 3 4

384 829 455 50 926

483 681 958 51 954

đến năm 2012

347 522 000 50 911

Nguồn: Tổng Công ty vận tải Hà Nội.

89

Phụ lục 5

Một số chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Thành

phố từ năm 2008 đến năm 2010

Chỉ tiêu

Kết quả cụ thể Thực Thực

Thực

TT Chỉ tiêu ĐV tính

hiện

hiện

hiện

2008 6,35

2009 6,47

2010 6,549

triệu người

-

1

Dân số Tốc độ tăng GDP bình

%

11-12

10,62

6,67

10-10,5

2

1800-

quân hàng năm GDP bình quân đầu

USD/người

1.689

1.700

1.964

3

1850

4

người Cơ cấu kinh tế - Công nghiệp – xây

%

41,5-42

41,4

41,4

41,4

% %

52-52,5 5,5-6,5

52,1 6,5

52,3 6,3

52,5 6,1

dựng - Dịch vụ - Nông nghiệp Tốc độ tăng giá trị sản

5

%

xuất bình quân - Công nghiệp – xây

13,5

10,2

13-14,5

-

% %

12,03 2,6

9,1 0,3

11-12,5 4,0-6,0

- -

dựng - Dịch vụ - Nông nghiệp Tốc độ tăng kim ngạch

%

27-27,5

36,12

-8,34

9-10

6

xuất khẩu Tỷ lệ tăng thu ngân sách

%

1,54

20,7

-

-

7

nhà nước Huy động vốn đầu tư

1000 tỷ đồng

410-415 124,426 147,815 177,326

8

xã hội Đầu tư trực tiếp nước

tỷ USD

5,009

0,787

-

-

9

ngoài Diện tích nhà ở B.quân

-

10

m2/người

8-8,5

20,8

25,7

đầu người

90

Chỉ tiêu

Kết quả cụ thể Thực Thực

Thực

TT Chỉ tiêu ĐV tính

hiện

hiện

hiện

Tỷ lệ lao động qua đào

%

2008 45

2009 31,1

50-55

2010 35

11

%

78

78

80

80

12

tạo Tỷ lệ phổ cập trung học Tỷ lệ tăng dân số tự

%

1,1-1,15

1,246

1,234

1,214

13

nhiên Tỷ lệ hộ nghèo cuối

%

12,5 (2)

16

6,1

4,5

14

năm 2010

Nguồn: Trích Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ

XV, trang 134 - 135.

91

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Hùng (2013) “Giảm ùn tắc giao thông: Vận tải công cộng là lựa

chọn hàng đầu”. Tạp chí Giao thông Vận tải, số 5/2013, Tr. 47 và 19.