VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ THỊ THANH HƯƠNG
HÌNH PHẠT TIỀN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ THỊ THANH HƯƠNG
HÌNH PHẠT TIỀN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN
Hà Nội, 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TIỀN ............ 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền ................ 8
1.2. Phân biệt hình phạt tiền với các hình phạt và biện pháp phạt khác
có liên quan ............................................................................................... 17
Chương 2: QUY ĐỊNH HÌNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ HÌNH PHẠT TIỀN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH ............................................................. 23
2.1. Quy định về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt Nam .......... 23
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền tại Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh .............................................................................................. 40
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ HÌNH PHẠT TIỀN ....... 52
3.1. Yêu cầu đối với việc áp dụng đúng hình phạt tiền ............................ 52
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự về hình phạt tiền ........................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
TAND : Toà án nhân dân
TANDTC : Toà án nhân dân tối cao
TANDCC : Toà án nhân dân cấp cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
KHXH : Khoa học xã hội
Nxb : Nhà xuất bản
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hình phạt tiền là một loại hình phạt trong hệ thống hình phạt vừa được
quy định với tính chất là hình phạt chính vừa được quy định với tính chất là
hình phạt bổ sung. Đây là một trong những hình phạt có lịch sử lâu đời đã
được quy định trong pháp luật của Nhà nước Việt Nam từ khá sớm. Cùng với
sự phát triển của pháp luật hình sự, các quy định về hình phạt tiền cũng dần
dần được hoàn thiện. Trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, hình phạt tiền
không chỉ được quy định để áp dụng đối với các cá nhân (thể nhân) bị kết án
mà còn để áp dụng đối với pháp nhân thương mại bị kết án về một số tội
phạm nhất định. Có thể thấy, hình phạt tiền được quy định trong BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là kết quả của nhiều lần sửa đổi, bổ sung
trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng và thi hành hình phạt này của các Cơ
quan bảo vệ pháp luật.
Việc quy định và áp dụng hình phạt này đã thể hiện được chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta là “Trừng trị kết hợp với khoan hồng,
nghiêm trị kết hợp với giáo dục, cải tạo, cảm hóa người phạm tội”, thể hiện
quan điểm chỉ đạo về đấu tranh phòng, chống tội phạm theo phương châm
“đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người
phạm tội”
Mặc dù vậy, trong thực tiễn xét xử ở tỉnh Quảng Ninh cũng như trong
phạm vi toàn quốc, việc áp dụng hình phạt tiền còn rất khiêm tốn. Có tình
trạng này là do các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tiền mặc dù
đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần qua các thời kỳ nhưng vẫn còn những hạn
chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó,
nhận thức về vị trí, vai trò của hình phạt tiền; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
1
ý thức pháp luật, trách nhiệm nghề nghiệp của một bộ phận những người làm
công tác xét xử còn hạn chế. Điều đó vô hình chung đã làm giảm hiệu lực và
hiệu quả của hình phạt tiền trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện cải cách tư pháp
theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với phương châm: “Hoàn
thiện chính sách hình sự, thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa
và tính hướng hiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở
rộng áp dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm.
Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình...” [5, tr 3]. Thêm vào đó, sự phát triển, bổ
sung và đề cao quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013
đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành để
các quyền con người, quyền công dân được bảo vệ và đảm bảo trên thực tế.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật quy định về
hình phạt tiền để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những kiến nghị hoàn
thiện và đảm bảo áp dụng đúng các quy định của BLHS hiện hành về hình
phạt tiền theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong
việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo vệ quyền con người và quyền
công dân là hết sức cần thiết và cấp thiết.
Với lý do trên, học viên lựa chọn đề tài “Hình phạt tiền theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hình phạt tiền là một loại hình phạt có lịch sử lâu đời, được quy định
trong hầu hết BLHS của các nước trên thế giới và Việt Nam không phải là
một ngoại lệ. Do vậy, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học quan tâm
nghiên cứu về hình phạt tiền ở nhiều phương diện khác nhau, với cấp độ
nghiên cứu rộng, hẹp khác nhau. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn bổ
2
ích mà học viên tham khảo, tiếp thu để thực hiện đề tài luận văn của mình.
Trong số những công trình khoa học đề cập đến hình phạt tiền mà học viên có
điều kiện tiếp cận nghiên cứu chủ yếu là các công trình cụ thể sau đây:
+ Hệ thống các giáo trình Luật hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo
ngành luật như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội,
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội,
đặc biệt là cuốn giáo trình Luật hình sự Việt Nam-phần chung và phần các tội
phạm do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, được Nhà xuất bản khoa học xã
hội phát hành năm 2013 và năm 2014. Trong những cuốn giáo trình này, các
tác giả đều làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hình phạt tiền ở mức
độ khái quát nhất.
Ngoài hệ thống giáo trình nêu trên, đề cập đến hình phạt tiền còn có các
cuốn bình luận khoa học BLHS, đặc biệt là cuốn “Bình luận Khoa học BLHS
năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017” (phần chung) do GS.TS Nguyễn
Ngọc Hòa chủ biên. Trong các cuốn bình luận Khoa học BLHS, các tác giả đã
bình luận làm rõ nội dung của các điều luật quy định hình phạt tiền trên các
mặt: bản chất, nội dung, điều kiện, căn cứ áp dụng....
+ Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ (chuyên ngành Luật hình sự và tố
tụng hình sự) có các công trình tiêu biểu như: Luận án tiến sĩ “Các hình phạt
chính trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Sơn, Viện nghiên cứu
Nhà nước và pháp luật năm 2003; luận án tiến sĩ “Quyết định hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội ở thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả
Lương Ngọc Châm, Học viện khoa học xã hội năm 2015; Luận án tiến sĩ “Xã
hội học hình phạt - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Võ Khánh
Linh, Học viện KHXH năm 2017; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt bổ sung theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng”, Học viện KHXH
năm 2016; Luận văn thạc sĩ “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội qua thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Hải Dương” của tác giả Vũ
Minh Hải, Học viện KHXH năm 2013; Luận văn thạc sĩ “Quyết định hình
3
phạt trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn T.P Đà Nẵng” của tác giả
Trương Minh Tuấn, Học viện KHXH năm 2015; Luận văn thạc sĩ “Tổng hợp
hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn TP. Đà Nẵng” của tác
giả Dương Hoàng Tú, Học viện KHXH năm 2016; Luận văn thạc sĩ “Hình
phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận”
của tác giả Nguyễn Xuân Hùng; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt tiền theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” của tác giả Nguyễn Văn
Đức, Học viện KHXH năm 2014; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt tiền theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” của tác giả Nguyễn Ngọc
Thắng, Học viện KHXH năm 2015.... Những luận án, luận văn nêu trên chủ
yếu đề cập đến hình phạt nói chung (trong đó có hình phạt tiền), tuy nhiên
cũng có những luận văn đề cập riêng về hình phạt tiền từ thực tiễn của một
địa bàn cụ thể trên cả phương diện: lý luận, thực tiễn quyết định, áp dụng và
giải pháp. Đây là những tài liệu tham khảo quý giá để học viên thực hiện đề
tài luận văn của mình.
+ Sách chuyên khảo, có các công trình tiêu biểu như: cuốn “Hình phạt
và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Đinh Văn
Quế, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2000; cuốn “Định tội danh và quyết định
hình phạt” của tác giả Dương Tuyết Miên, NXB Công an nhân dân năm
2004; cuốn “Nghiên cứu hình phạt trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ
bảo vệ quyền con người” của tác giả Trịnh Quốc Toàn, NXB Chính trị Quốc
gia, năm 2015; cuốn “Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, NXB Chính trị Quốc gia năm
1995.v.v. Những cuốn sách chuyên khảo này đi sâu nghiên cứu những vấn đề
lý luận về hình phạt được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam, nhưng
chủ yếu theo quy định của BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu này đã giúp học viên có cách tiếp cận nghiên
cứu lý luận về hình phạt tiền, một trong những loại hình phạt nói chung.
+ Các bài báo khoa học có: “Một số vấn đề lý luận về hình phạt tiền”
4
của tác giả Nguyễn Hoàng Lâm, tạp chí TAND số 16/2009; “Hình phạt tiền
trong BLHS năm 1999” của tác giả Trương Quang Vinh, tạp chí Luật học, số
2/2000; “Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh, tạp
chí TAND, số 5/2009; “Hoàn thiện quy định về hình phạt tiền” của tác giả
Nguyễn Hoàng Lâm, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2012; “Cần bổ sung
các điều kiện áp dụng hình phạt tiền... trong luật hình sự Việt Nam” của tác
giả Trần Thúy Hằng, tạp chí Kiểm sát số 18/2010; “Hình phạt tiền áp dụng
đối với người phạm tội trong BLHS năm 2015” của tác giả Mai Thị Thủy và
Đào Thì Nguyệt, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4/2016.v.v. Những bài báo
khoa học trực tiếp đề cập đến hình phạt tiền cả dưới góc độ lý luận và quy
định của luật thực định (BLHS) là những tài liệu bổ ích để học viên tham
khảo, tiếp thu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài luận văn “Hình phạt tiền
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”
Như vậy, mặc dù đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
hình phạt nói chung, hình phạt tiền nói riêng, nhưng do mục đích, nhiệm vụ,
phạm vi nghiên cứu khác nhau nên chưa có một công trình nào nghiên cứu hệ
thống, chuyên sâu về hình phạt tiền được quy định trong BLHS năm 2015 từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Qua đây có thể xác định luận văn này không trùng
lặp với các công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài
luận văn của học viên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn pháp luật (quy định và áp
dụng) về hình phạt tiền, luận văn hướng tới mục đích kiến nghị những quy
định cần sửa đổi, bổ sung về hình phạt tiền trong BLHS hiện hành và giải
pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định đó nhằm nâng cao hiệu quả của
hình hình phạt này trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như bảo
5
vệ và đảm bảo quyền con người trong bối cảnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
+ Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hình phạt tiền trên các
bình diện: khái niệm, đặc điểm, mục đích, vị trí, vai trò của hình phạt tiền với
tính cách là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, được quy định đối với cả cá
nhân phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình
sự về hình phạt tiền của TAND tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014 - 2018, rút ra
những mặt tích cực, cũng như hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân.
+ Đưa ra yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của
BLHS hiện hành về hình phạt tiền trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về lý luận: Luận văn nghiên cứu về hình phạt tiền trong phạm vi lý
luận chuyên ngành luật hình sự và Tố tụng hình sự.
+ Về thực tiễn: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn quy định và
quyết định hình phạt tiền của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
+ Về không gian, thời gian: Số liệu, bản án được thu thập, đánh giá ở
tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận (cơ sở lý luận)
của Chủ nghĩa Mác - LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp, về bảo vệ và bảo đảm
6
quyền con người trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Ngoài ra, luận văn còn dựa trên lý luận chuyên ngành luật hình sự về
hình phạt tiền để làm rõ đối tượng nghiên cứu.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Cụ thể được sử dụng gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
chuyên gia... Các phương pháp này được sử dụng kết hợp để làm rõ từng nội
dung nghiên cứu trong luận văn
6. Ý nghĩa của lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm
những vấn đề lý luận về hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để sửa đối, bổ sung
hoàn thiện các quy định của BLHS về hình phạt tiền, cũng như trong thực tiễn
áp dụng để đạt được mục đích, hiệu quả của hình phạt tiền trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo trong học tập, giảng dạy,
nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cấu trúc thành 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về hình phạt tiền
Chương 2: Thực tiễn quy định hình phạt tiền trong luật hình sự Việt
Nam và thực trạng áp dụng hình phạt tiền tại tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định
7
của pháp luật hình sự về hình phạt tiền.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TIỀN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm
Hình phạt tiền là một trong những hình phạt được quy định từ lâu trong
hệ thống hình phạt của nước ta. Nhưng trong các văn bản quy phạm pháp luật
hình sự của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay vẫn chưa có quy phạm định
nghĩa về khái niệm hình phạt tiền.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có nhiều định nghĩa khác nhau
về khái niệm hình phạt tiền như: “Phạt tiền là hình phạt buộc người phạm tội
phải nộp một khoản tiền nhất định vào ngân sách Nhà nước” [61, tr.272].
Khái niệm này mặc dù hết sức khái quát nhưng cũng chỉ ra được nội dung của
hình phạt tiền là “buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền nhất định vào
ngân sách Nhà nước”. Tuy nhiên, trong khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ
đặc điểm, tính chất, chủ thể, đối tượng, phạm vi, mục đích áp dụng của hình
phạt tiền.
Quan điểm khác thì cho rằng: “Phạt tiền được hiểu là một trong những
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được Tòa án quyết định trong bản án kết
tội đối với người bị kết án về những tội phạm được BLHS xác định với nội
dung là tước một khoản tiền nhất định của họ sung vào quỹ của Nhà nước,
thông qua đó giáo dục, cải tạo họ, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời
thực hiện phòng ngừa, giáo dục chung” [20, tr.183]. Tương tự như quan điểm
này, có tác giả định nghĩa: “Phạt tiền là một trong những biện pháp cưỡng
chế của Nhà nước được Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với người
bị kết án về những tội phạm do luật hình sự quy định với nội dung là tước một
8
khoản tiền nhất định của họ sung vào công quỹ của Nhà nước, thông qua đó
giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm
tội mới, đồng thời thực hiện phòng ngừa, giáo dục chung” [55, tr.84].
Đây là những khái niệm đầy đủ về hình phạt tiền trong đó đã phản ánh
được bản chất, nội dung của hình phạt tiền cũng như đối tượng, phạm vi, chủ
thể, và mục đích áp dụng loại hình phạt này. Nhưng trong hai khái niệm này
đêu diễn đạt “Phạt tiền là hình phạt....”, theo chúng tôi chưa thật sự chính
xác và đúng như BLHS quy định. Bởi vì, phạt tiền theo quy định của pháp
luật có thể là phạt hành chính, có thể là hình phạt. Đồng thời, trong các BLHS
đều dùng thuật ngữ “hình phạt tiền” mà không dùng thuật ngữ “phạt tiền”.
Mặt khác, những khái niệm này, được đưa ra trước thời điểm BLHS năm
2015 được ban hành, vì thế chưa phản ánh đầy đủ đối tượng bị áp dụng hình
phạt tiền, đó là pháp nhân thương mại bị kết án.
Kế thừa những yếu tố hợp lý trong những khái niệm trên, đồng thời
trên cơ sở quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt tiền, chúng tôi cho
rằng, trong nội hàm khái niệm hình phạt tiền cần thể hiện đầy đủ bản chất, nội
dung, chủ thể, đối tượng, phạm vi, mục đích áp dụng... Với cách tiếp cận như
vậy, khái niệm hình phạt tiền cần được định nghĩa như sau: “Hình phạt tiền là
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được quy định trong BLHS với tính chất
là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, do Tòa án quyết định trong bản án
kết tội đối với người bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án về những
tội được Bộ luật này xác định, với nội dung tước một khoản tiền nhất định của
đối tượng bị kết án sung công quỹ của Nhà nước nhằm phòng ngừa riêng,
cũng như phòng ngừa chung”.
1.1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tiền
Là một hình phạt trong hệ thống hình phạt, hình phạt tiền mang đầy đủ
các đặc điểm chung của hình phạt như: là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
(trừng trị, giáo dục, cải tạo) của Nhà nước; được quy định cụ thể trong BLHS;
9
do Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với đối tượng bị kết án...
Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, hình phạt tiền có những đặc
điểm riêng khác với hình phạt còn lại trong hệ thống hình phạt, đó là:
+ Thứ nhất, hình phạt tiền là hình phạt có khả năng tác động về mặt
kinh tế đối với đối tượng bị áp dụng. Đặc điểm này của hình phạt tiền thể hiện
ở nội dung của nó là: “tước một khoản tiền nhất định của đối tượng bị áp
dụng sung công quỹ của Nhà nước”. Vì thế, hình phạt tiền có khả năng tác
động đến ý thức của đối tượng bị áp dụng, buộc đối tượng phải nhận thức
được sự lên án của Nhà nước, nhận thức được tính chất sai trái của hành vi
mà mình thực hiện để có phương hướng sửa chữa. Đồng thời, hình phạt tiền
còn có tác dụng loại trừ, hạn chế những điều kiện về tài sản mà đối tượng có
thể sử dụng để tiếp tục phạm tội.
+ Thứ hai, hình phạt tiền là loại hình phạt lưỡng tính vừa được quy
định là hình phạt chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung.
Cũng như hình phạt trục xuất, hình phạt tiền vừa tồn tại trong hệ thống
hình phạt chính, vừa tồn tại trong hệ thống hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, tính
lưỡng tính này của hình phạt tiền hoàn toàn không cho phép áp dụng trong cùng
một tội phạm, có nghĩa là đối với một tội phạm cụ thể, hình phạt tiền chỉ có thể
áp dụng là hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính. Quy định
như vậy, đúng như một tác giả đã nhận định: “Nhà làm luật đã mở ra khả năng
đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, tăng cường tính linh hoạt trong việc
vận dụng, định hướng áp dụng hình phạt mà luật đã định”[55, tr.85].
+ Thứ ba, hình phạt tiền được áp dụng đối với cả cá nhân (thể nhân) bị
kết án và pháp nhân thương mại bị kết án.
Nếu như một số hình phạt như hình phạt cải tạo không giam giữ, hình
phạt tù, hình phạt tử hình... chỉ có thể áp dụng đối với cá nhân người bị kết án
(thể nhân) thì hình phạt tiền theo quy định của BLHS hiện hành có thể áp
10
dụng đối với cá nhân bị kết án và cả pháp nhân thương mại bị kết án. Như
vậy, đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền rộng hơn đối tượng bị áp dụng một
số hình phạt khác, do tính chất, nội dung của các loại hình phạt này
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền
1.1.2.1. Mục đích của hình phạt tiền
Với bản chất là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, nội
dung của hình phạt tiền được thể hiện ở việc tước một số tiền nhất định của
đối tượng (thể nhân hoặc pháp nhân thương mại) bị kết án sung công quỹ Nhà
nước. Mức phạt tiền (khoản tiền bị tước sung vào công quỹ của Nhà nước) phải
tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến
tình hình tài sản của đối tượng bị áp dụng, cũng như sự biến động của giá cả,
nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng (đối với cá nhân bị kết án) và
không được thấp hơn 50.000.000 đồng (đối với pháp nhân thương mại bị kết án).
Có thể thấy, sự tước bỏ một khoản tiền nhất định của đối tượng bị kết án sung
công quỹ của Nhà nước thể hiện tính nghiêm khắc của hình phạt này.
Với nội dung là tước bỏ lợi ích kinh tế (một khoản tiền nhất định) của
đối tượng bị kết án, hình phạt tiền có khả năng tác động về mặt kinh tế (tài
sản) đối với cá nhân người phạm tội, cũng như đối với pháp nhân thương mại
phạm tội. Nếu không tước bỏ một khoản tiền nhất định, đối tượng bị kết án sẽ
không nhận thức được lỗi lầm của mình, không nhận thức được tính không
tránh khỏi hình phạt, cũng như sự lên án của Nhà nước và xã hội đối với họ.
Việc tước bỏ lợi ích kinh tế không chỉ có tác dụng răn đe đối tượng bị kết án
mà còn có khả năng loại trừ, hạn chế những điều kiện về tài sản mà người
phạm tội có thể sử dụng để tiếp tục phạm tội. Chính vì vậy, có thể thấy hình
phạt tiền có mục đích giáo dục, cải tạo đối tượng phạm tội, loại trừ điều kiện
tái phạm của những đối tượng này (mục đích phòng ngừa riêng). Đồng thời,
thông qua việc quy định và áp dụng hình phạt tiền còn có tác dụng răn đe,
giáo dục những đối tượng “không vững vàng”, có khả năng sẽ phạm tội phải
11
tự kiềm chế không thực hiện hành vi phạm tội, cũng như giáo dục người dân
và pháp nhân thương mại khác có ý thức tôn trọng pháp luật, nâng cao sự hiểu
biết pháp luật, để tránh những vi phạm pháp luật và tội phạm (phòng ngừa
chung). Đúng như một nhà nghiên cứu đã nhận định: “Với đặc trưng riêng là
việc tước bỏ lợi ích kinh tế của người phạm tội, hình phạt tiền có một cách
thức tác động độc đáo với người phạm tội để tạo ra hiệu quả của hình phạt.
Trong những trường hợp nhất định, cách thức tác động này có ưu thế hơn hẳn
so với cách thức tác động khác và trong nhiều trường hợp nếu không có sự hỗ
trợ của hình phạt tiền thì việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, phòng ngừa
riêng và phòng ngừa chung không thể đạt được một cách triệt để” [2, tr 1].
1.1.2.2. Ý nghĩa của hình phạt tiền
Ý nghĩa của hình phạt tiền trong hệ thống hình phạt của Nhà nước ta
được thể hiện trên những mặt sau đây:
+ Thứ nhất, việc quy định hình phạt tiền trong cả hai: hình phạt chính
và bổ sung có tác dụng đa dạng hóa các hình thức xử lý hình sự, đa dạng hóa
các biện pháp trách nhiệm hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Như trên đã phân tích, hình phạt tiền vừa được quy định là hình phạt
chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt của Nhà
nước ta. Việc quy định như vậy mở ra khả năng đa dạng hóa các biện pháp xử lý
hình sự, tăng cường tính linh hoạt trong vận dụng, áp dụng hình phạt mà luật đã
quy định. Chính vì lẽ đó, khi quy định hình phạt tiền trong hệ thống hình phạt,
nhà lập pháp nước ta ghi rõ có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung
khi không áp dụng là hình phạt chính và chỉ trong trường hợp có điều luật quy
định thì hình phạt tiền mới được áp dụng là hình phạt chính.
+ Thứ hai, hình phạt tiền được quy định trong hệ thống là hình phạt
chính và hình phạt bổ sung đã tạo ra khả năng phân hoá trách nhiệm hình sự
và cá thể hoá hình phạt đối với các trường hợp phạm tội khác nhau về tính
12
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, góp phần thực hiện nguyên tắc xử lý tội
phạm “nghiêm trị, kết hợp với khoan hồng, trừng trị với giáo dục, cải tạo,
cảm hóa người phạm tội”.
Thực tế cho thấy, trong hệ thống hình phạt, hình phạt tiền vừa được
quy định là hình phạt chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung. Điều đó
đã góp phần làm tăng tính phong phú và cân đối của hệ thống hình phạt, làm
cho các hình phạt trong hệ thống không có sự chênh lệch quá xa về tính
nghiêm khắc đảm bảo được tính nối tiếp, tính liên tục theo hướng tăng dần về
mức độ nghiêm khắc, làm cho hệ thống h́ nh phạt có tính chỉnh thể. Bởi, trong
hệ thống h́ nh phạt của Nhà nước ta, các hình phạt chính được sắp xếp theo
một trình tự tăng dần về tính nghiêm khắc (từ nhẹ đến nặng). Hình phạt tiền
với tư cách là hình phạt chính giữ vị trí nối tiếp giữa hình phạt cảnh cáo - hình
phạt ít nghiêm khắc nhất với cải tạo không giam giữ - có tính nghiêm khắc
cao hơn hình phạt tiền, nhưng thấp hơn về tính nghiêm khắc so với hình phạt
tù có thời hạn. Nhờ đó đã tạo nên tính nối tiếp, tính liên tục theo hướng tăng
dần về mức độ nghiêm khắc của các hình phạt trong hệ thống.
Khi được quy định là hình phạt bổ sung, hình phạt tiền cùng với hình
phạt tịch thu tài sản đã làm phong phú, cân đối các hình phạt bổ sung trong hệ
thống hình phạt. Nhờ đó, giúp cho việc thực hiện nguyên tắc phân hóa trách
nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt trong việc xử lý đối tượng phạm tội,
tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả khả năng
tác động của các hình phạt trong hệ thống đối với phòng ngừa tội phạm. Đồng
thời, giúp Tòa án có nhiều khả năng lựa chọn hơn khi quyết định hình phạt
đối với cá nhân phạm tội cũng như đối với pháp nhân thương mại phạm tội
trên cơ sở “căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
+ Thứ ba, việc quy định hình phạt tiền trong hệ thống hình phạt còn
13
góp phần thể hiện nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam, góp
phần thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ và bảo đảm
quyền con người.
Trước hết, việc quy định hình phạt tiền có mức độ nghiêm khắc thấp
hơn các hình phạt tước tự do của con người là cơ sở pháp lý quan trọng để
Tòa án lựa chọn khi áp dụng các biện pháp khoan hồng trong việc quyết định
hình phạt đối với “người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác tội phạm, lập
công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại
đã gây ra” và đối với “người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải”.
Bởi theo quy định của BLHS hiện hành, đối với những người này (trường hợp
này) Tòa án có thể áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, trong đó có
hình phạt tiền. Mặt khác, việc quy định mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt
tiền đối với người bị kết án còn góp phần bảo vệ quyền con người được Hiến
pháp năm 2013 ghi nhận, nhất là quyền tự do thân thể của con người. Điều đó
còn thể hiện trách nhiệm nội luật hóa của Việt Nam với tư cách là nước thành
viên của Công ước của Liên hợp quốc về “Chống tra tấn và các hình thức đối
xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người” được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1984, được Việt Nam chính
thức ký tham gia Công ước ngày 07/11/2013 và được Quốc hội nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam phê chuẩn ngày 28/11/2014. Công ước này có hiệu lực
đối với Việt Nam kể từ ngày 07/03/2015.
1.1.3. Phạm vi, điều kiện áp dụng hình phạt tiền
1.1.3.1. Đối với cá nhân bị kết án
Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 35 BLHS hiện hành thì phạm vi áp
dụng hình phạt tiền là hình phạt chính chỉ trong hai trường hợp sau:
- Tội phạm mà người bị kết án thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng và điều luật về tội phạm ấy có quy định hình phạt tiền.
- Tội phạm mà người bị kết án thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng và
14
thuộc các nhóm tội phạm trật tự quản lý kinh tế, tội phạm về môi trường, tội
xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng hoặc tội phạm khác được
BLHS quy định.
Như vậy, phạm vi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính được BLHS
năm 2015 quy định rộng hơn BLHS năm 1999, nghĩa là không chỉ đối với tội
ít nghiêm trọng mà còn đối với cả tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và không có sự giới hạn ở nhóm tội phạm cụ thể nào thuộc phần các tội
phạm của BLHS. Đối với tội phạm rất nghiêm trọng, hình phạt tiền là hình phạt
chính chủ yếu được áp dụng đối với 3 nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
các tội phạm về môi trường, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng. Tuy nhiên, BLHS hiện hành cũng cho phép áp dụng hình phạt tiền là hình
phạt chính đối với một số tội phạm khác mà điều luật có quy định hình phạt này.
Căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 35 BLHS hiện hành thì hình phạt
tiền là hình phạt bổ sung được áp dụng trước hết đối với người bị kết án về các
tội tham nhũng, các tội phạm về ma túy. Ngoài ra, hình phạt tiền là hình phạt
bổ sung còn có thể áp dụng đối với những tội phạm khác do BLHS quy định.
Với quy định như vậy, BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng hình
phạt tiền là hình phạt bổ sung so với BLHS năm 1999.
Khoản 3 Điều 35 BLHS hiện hành quy định rõ mức phạt tiền và căn cứ
quyết định mức phạt tiền, theo đó mức phạt tiền thấp nhất khi áp dụng hình
phạt tiền với tính chất là hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung là
1.000.000 đồng. Như vậy khoản 3, Điều 35 chỉ quy định mức phạt tiền tối
thiểu mà không quy định mức phạt tiền tối đa. Do vậy, tòa án có quyền quyết
định bất cứ mức phạt tiền nào nhưng không được vượt quá mức cao nhất mà
điều luật về tội phạm quy định và không được dưới 1.000.000 đồng.
Khi quyết định mức phạt tiền cụ thể để áp dụng đối với người bị kết án,
Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời
có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả thị
15
trường
1.1.3.2. Đối với pháp nhân thương mại bị kết án
Theo quy định tại Điều 77 BLHS hiện hành, đối với pháp nhân thương
mại phạm tội, hình phạt tiền cũng được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình
phạt bổ sung
Về phạm vi áp dụng: Theo quy định tại Điều 76 BLHS hiện hành thì
pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm về những tội phạm quy định
tại 33 điều luật thuộc phần các tội phạm của BLHS, trong đó có 22/47 tội
thuộc các tội xâm phạm trật tự kinh tế; 9/12 tội thuộc nhóm các tội phạm về
môi trường và 2/68 tội của các nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng và trật
tự công cộng. Trong ba nhóm tội phạm này, BLHS năm 2015 quy định hình
phạt tiền vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung đối với 18/22 tội và
hình phạt tiền chỉ là hình phạt chính đối với 4/22 tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế. Thế còn; 9/12 tội xâm phạm về môi trường, BLHS hiện hành được
quy định hình phạt tiền vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung. Đối
với các tội phạm có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính hoặc hình phạt
bổ sung, BLHS hiện hành quy định cụ thể mức phạt tiền tối thiểu và tối đa
tương ứng với từng khung hình phạt.
Về mức phạt tiền và căn cứ quyết định mức phạt tiền đối với pháp nhân
thương mại bị kết án, khoản 2 Điều 77 BLHS hiện hành chỉ quy định vấn đề
này có tính nguyên tắc là: "Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính
chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của
pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không thấp
hơn 50.000.000 đồng". Như vậy, để quyết định mức phạt tiền cụ thể đối với
pháp nhân thương mại bị kết án, Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm của tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện, tình hình tài
chính của pháp nhân thương mại đó, có xét đến sự biến động giá cả. Riêng
mức phạt tiền cụ thể thì Tòa án phải căn cứ vào khung hình phạt, trong đó có
16
quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền đối với từng tội để
quyết định mức phạt tiền trong phạm vi mức độ tối thiểu và tối đa đó với điều
kiện là không dưới 50 triệu đồng.
1.2. Phân biệt hình phạt tiền với các hình phạt và biện pháp phạt khác có
liên quan
1.2.1. Phân biệt hình phạt tiền với hình phạt tịch thu tài sản
Tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung được quy định tại Điều 45 BLHS
hiện hành với nội dung là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của
người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.
Nếu so sánh hình phạt tiền với hình phạt tịch thu tài sản thấy rằng, hai
hình phạt bổ sung này có một số điểm giống nhau cơ bản như sau sau:
+ Đều được quy định là hình phạt bổ sung
+ Tiền và tài sản bị tước đều được nộp vào ngân sách nhà nước
+ Đều là những biện pháp tác động về mặt mặt kinh tế của nhà nước đối
với người bị kết án để đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa
chung của hình phạt. Tuy nhiên, hai hình phạt này khác nhau ở những điểm
sau đây:
- Một là, về tính chất: Tịch thu tài sản theo quy định của BLHS hiện hành
chỉ là hình phạt bổ sung; còn hình phạt tiền vừa được quy định là hình phạt
chính vừa được quy định là hình phạt bổ sung. Điều đó có ý nghĩa là hình phạt
tịch thu tài sản trong mọi trường hợp chỉ được áp dụng kèm theo một hình
phạt chính khác theo quy định của BLHS hiện hành. Trong khi đó, hình phạt
tiền với tính chất là hình phạt chính được áp dụng độc lập không phải kèm
theo một hình phạt chính nào khác.
- Hai là, về phạm vi áp dụng: Hình phạt tịch thu tài sản theo quy định tại
Điều 45 BLHS hiện hành chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội
17
phạm khác mà BLHS quy định. Trong khi đó hình phạt tiền được áp dụng là
hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm
trọng do BLHS quy định; hoặc người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và
một số tội phạm khác (khoản 1 Điều 35 BLHS năm 2015). Hình phạt tiền áp
dụng đối với hình phạt bổ sung đối với người phạm tội tham nhũng, ma túy,
những tội phạm khác trong BLHS quy định, không phụ thuộc vào những tội
phạm này thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hay tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, nghĩa là có thể áp dụng đối với cả tội ít nghiêm
trọng. Như vậy, phạm vi tội phạm được áp dụng hình phạt tiền rộng hơn nhiều
hơn so với hình phạt tịch thu tài sản.
- Ba là, về nội dung pháp lý: Nội dung cơ bản của hình phạt tịch thu tài
sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án,
còn nội dung của hình phạt tiền và tước một khoản tiền nhất định của người
(thể nhân) hoặc của pháp nhân thương mại bị kết án nộp vào ngân sách Nhà
nước. Như vậy, đối tượng mà nhà nước tước bỏ của người bị kết án hoặc pháp
nhân thương mại bị kết án là một khoản tiền nhất định, còn đối tượng mà Nhà
nước tước bỏ của người bị kết án tịch thu tài sản là toàn bộ hay một phần tài
sản của người đó. Tài sản mà tòa án tuyên bố tịch thu không nhất thiết phải là
tiền mà còn có thể là những tài sản khác như: hiện vật, giấy tờ có giá trị như
tiền, ... Những tài sản này có thể đang do người bị kết án trực tiếp chiếm giữ,
quản lý và cũng có thể là tài sản mà người bị kết án đang cho vay, cho thuê,
cầm cố, gửi ở ngân hàng, quỹ tín dụng, … trừ tài sản, đồ vật là tang vật của vụ
án, bởi tang vật của vụ án đương nhiên bị tịch thu và xử lý theo quy định của
BLTTHS hiện hành.
- Bốn là, về mức tiền, tài sản mà tòa án tuyên bố tước bỏ tịch thu nộp vào
ngân sách nhà nước.
Khi quyết định hình phạt tiền, Tòa án sẽ lựa chọn một mức tiền nhất định
18
để tuyên bố tước của đối tượng bị kết án sung công quỹ nhà nước tùy thuộc
vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, tình hình tài sản, tài chính của
đối tượng bị kết án, có xét đến biến động của giá cả nhưng không thấp hơn
một 1.000.000 đồng (đối với cá nhân người bị kết án) hoặc không dưới
50.000.000 đồng (đối với pháp nhân thương mại bị kết án). Trong khi đó, mức
tài sản mà tòa án tuyên bố tịch thu của người bị kết án có thể chỉ là một phần
hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu riêng của người bị kết án tùy thuộc vào tính
chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, tình hình tài sản của người bị kết án,
nhất là những tài sản bất hợp pháp do phạm tội mà có, BLHS không quy định
mức tối thiểu cũng như mức tối đa tài sản bị tịch thu như mức phạt tiền. Tuy
nhiên, để đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, khi quyết
định tịch thu toàn bộ tài sản của người bị kết án, Tòa án vẫn để cho người bị
kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.
- Năm là, về đối tượng bị áp dụng hình phạt: Đối tượng bị áp dụng hình
phạt tiền bao gồm cả cá nhân người bị kết án, cả pháp nhân thương mại bị kết
án. Còn đối tượng bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản chỉ có thể là cá nhân
người bị kết án.
1.2.2. Phân biệt hình phạt tiền với biện pháp tịch thu vật, tiền liên quan trực
tiếp đến tội phạm
Cả hai biện pháp trách nhiệm hình sự này giống nhau ở chỗ: Đều là
những biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLHS. Đối tượng bị áp dụng
có thể là cá nhân phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Tuy nhiên,
hình phạt tiền và biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
có một số điểm khác nhau sau:
+ Thứ nhất, khác nhau về tính chất và hậu quả pháp lý: Phạt tiền là một
trong những hình phạt do vậy khi đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền sẽ để lại
án tích trong một thời hạn nhất định. Còn biện pháp tịch thu vật, tiền không
phải là hình phạt mà chỉ là một trong những biện pháp tư pháp, do vậy khi bị
19
áp dụng không để lại án tích đối với đối tượng bị áp dụng.
+ Thứ hai, về đối tượng bị áp dụng: Hình phạt tiền chỉ có thể đối với cá
nhân bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án. Còn biện pháp tư pháp
tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm được áp dụng đối với cá nhân
phạm tội hoặc pháp nhân phạm tội, không đòi hỏi đã bị kết án.
+ Thứ ba, về thẩm quyền áp dụng: Hình phạt tiền chỉ do Tòa án áp dụng,
còn biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm thì ngoài Tòa
án, còn có thể do các cơ quan tiến hành tố tụng khác áp dụng.
+ Thứ tư, về khoản tiền, vật bị tước hoặc tịch thu: Khoản tiền phạt bị Tòa
án tuyên bố tước bỏ của đối tượng bị kết án sung công quỹ nhà nước là khoản
tiền bất kỳ; còn tiền, vật bị các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định tịch thu
phải là tiền, đồ vật trực tiếp liên quan đến tội phạm. Theo quy định tại Điều 47
BLHS hiện hành thì khoản tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm bao gồm:
a) Công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội; b) vật hoặc tiền do phạm tội
hoặc do mua bán đổi chác những thứ ấy mà có, hoặc thu lợi bất chính từ việc
phạm tội; c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.
+ Thứ năm, về mục đích áp dụng cụ thể: Khoản tiền phạt bị Tòa án tuyên
bố tước của đối tượng bị kết án là để để sung công quỹ nhà nước. Còn tiền, vật
trực tiếp liên quan đến tội phạm bị các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định
tịch thu là để sung công quỹ nhà nước (nếu là tiền hoặc tài sản), hoặc để tiêu
hủy (nếu là vật không có giá trị hoặc không sử dụng được).
+ Thứ sáu, về thời điểm áp dụng: Hình phạt tiền được tòa án quyết định
áp dụng đối với đối tượng bị kết án ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự sự; còn
biện pháp tư pháp tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm được các
cơ quan tiến hành tố tụng quyết định áp dụng ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào
khi có căn cứ luật định.
1.2.3. Phân biệt hình phạt tiền với biện pháp phạt tiền với tính chất là biện
pháp xử phạt vi phạm hành chính
20
Hình phạt tiền với phạt tiền là biện pháp xử phạt vi phạm hành chính có
những điểm giống nhau như: Đều là chế tài pháp lý áp dụng đối với chủ thể có
hành vi vi phạm pháp luật; chủ thể vi phạm đều phải nộp một khoản tiền vào
công quỹ nhà nước. Tuy nhiên, hai biện pháp phạt tiền này có những điểm
khác nhau cơ bản sau đây:
+ Một là, về tính chất: Hình phạt tiền là chế tài hình sự được quy định
trong BLHS, còn phạt tiền với tính chất là biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
+ Hai là, đối tượng áp dụng: Hình phạt tiền được áp dụng đối với cá
nhân người bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án theo quy định của
pháp luật hình sự, còn phạt tiền với tính chất là biện pháp xử phạt vi phạm
hành chính được áp dụng đối với mọi cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm
hành chính, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy
định của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì phải xử phạt vi phạm hành chính.
+ Ba là, về chủ thể có thẩm quyền áp dụng: Hình phạt tiền là do Tòa án
quyết định áp dụng đối với những đối tượng bị kết án, còn phạt tiền với tính
chất là biện pháp xử phạt vi phạm hành chính là do nhiều cơ quan, tổ chức
quyết định áp dụng tùy theo từng lĩnh vực, vi phạm cụ thể như: Công an, Ủy
ban nhân dân, Thanh tra chuyên ngành, Hải quan, Kiểm lâm, Thuế, v.v...
+ Bốn là, về mức tiền phạt: Đối với hình phạt, mức tiền phạt được BLHS
hiện hành quy định nhiều mức khác nhau tương ứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm nhưng thấp nhất không dưới 1.000.000đ (đối với cá
nhân bị kết án) hoặc thấp nhất không dưới 50.000.000 đồng (đối với pháp nhân
thương mại bị kết án). Còn đối với phạt tiền với tính chất là hình thức xử phạt vi
phạm hành chính cũng được luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định
nhiều mức khác nhau tùy theo từng loại vi phạm hành chính nhưng chỉ nằm trong
khoảng từ 50.000 đồng đến 1.000.000 đồng (đối với cá nhân vi phạm hành chính)
hoặc từ 100.000 đồng đến 2.000.000 đồng (đối với tổ chức vi phạm hành chính)
21
(Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính).
Trên đây là những điểm khác nhau cơ bản giữa hình phạt tiền với các loại
hình phạt và các biện pháp phạt khác có liên quan. Nắm vững những điểm
khác nhau này, cơ quan và người có thẩm quyền mới có thể áp dụng đúng đắn
các biện pháp xử phạt vi phạm pháp luật trong thực tiễn.
Tiểu kết chương 1
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật tại Chương 1 có thể
kết luận:
+ Hình phạt tiền có lịch sử lâu đời, được nhiều nhà lý luận và thực nghiên
cứu. Nhưng do có sự thay đổi của pháp luật hình sự về hình phạt này nên cần
phải tiếp tục nghiên cứu hình phạt tiền để thống nhất nhận thức về khái niệm,
các đặc điểm, nội dung, mục đích, phạm vi, điều kiện áp dụng... cũng như vai
trò, ý nghĩa của hình phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Kết quả
nghiên cứu ở Chương 1 đã giải quyết được những vấn đề này.
+ Hình phạt tiền là một trong những biện pháp cưỡng chế có tính nghiêm
khắc của Nhà nước, là một trong những hình phạt thuộc hệ thống hình phạt
của Nhà nước ta. Do vậy, hình phạt này có nhiều điểm tương đồng với các
biện pháp cưỡng chế hình sự khác, nhất là những biện pháp trách nhiệm pháp
lý, những hình phạt và biện pháp tư pháp có những nội dung giống hình phạt
tiền. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có sự khác biệt, đòi hỏi phải làm rõ, để áp
dụng đúng đắn trên thực tế.
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt tiền trong Luật hình sự
Việt Nam cho thấy, hình phạt tiền không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn
là một hiện tượng pháp lý hình sự, một loại hình phạt có khả năng tác động về
mặt kinh tế đối với cá nhân, pháp nhân thương mại bị kết án.
+ Kết quả nghiên cứu ở Chương 1 là cơ sở lý luận và pháp lý để đánh giá
thực tiễn ở Chương 2 và đưa ra giải pháp đảm bảo áp dụng đúng hình phạt tiền
22
trên thực tiễn ở Chương 3.
Chương 2
QUY ĐỊNH HÌNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH
PHẠT TIỀN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Quy định về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt Nam
2.1.1. Quy định về hình phạt tiền trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến
trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985
Nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự từ năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985 thấy rằng, ngay sau khi giành được chính
quyền, bên cạnh việc tạm thời áp dụng luật lệ hiện hành của chế độ cũ nhưng
không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa,
Nhà nước dân chủ nhân dân đã từng bước xây dựng hệ thống pháp luật mới
làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý tội phạm. Văn bản pháp luật đầu tiên có quy
định hình phạt tiền là Sắc lệnh số 51 do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ban hành ngày 17/4/1946. Tại điều 10 của Sắc lệnh này có quy định: "...
những việc tiểu hình là những việc có thể bị phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm, hay
bị phạt trên 900đ". Đến ngày 14/4/1948, Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số
168-SL trừng trị tội đánh bạc. Trong sắc lệnh này hình phạt tiền được quy định
tại Điều 2 với nội dung như sau: "Những người nào tổ chức một cuộc đánh
bài, đánh bạc, một trò chơi, không cứ một nơi nào đều bị phạt tù từ 2 đến 5
năm và phạt bạc từ 1.000đ đến 10.000đ.
Các người làm công tác khác, giúp trực tiếp vào cuộc chơi đều là tòng
phạm. Những người nào đánh bạc hay dự vào cuộc chơi nói trên sẽ bị phạt tù
từ 1 năm đến 3 năm và phạt bạc 5.000đ đến 50.000đ".
Còn tại Điều 3 của Sắc lệnh này quy định: "Các việc làm bày bán, tàng
trữ, lưu hành các khí cụ chuyên dùng để đánh bạc đều cấm hẳn. Những người
23
phạm vào điều này sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm và phạt bạc từ 1.000đ
đến 10.000đ". [56, tr.497]. Ngoài ra ở thời kỳ này còn có một số sắc lệnh khác
cũng quy định hình phạt tiền là hình phạt chính hoặc hình phạt phụ (nay là
hình phạt bổ sung) như: Sắc lệnh số 123-SL ngày 27/10/1949 về vi phạm thể
lệ chữa bệnh, chế thuốc; Sắc lệnh số 89-SL ngày 22/5/1950 cấm việc cho vay
lãi chồng thành gốc; Nghị định số 150-TTg ngày 5/3/1952 của Thủ tướng
Chính phủ về tội vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, v.v... Đặc biệt, Điều 6
Nghị định số 32/NĐ ngày 6/4/1952 của Bộ Tư pháp đã hướng dẫn tiền phạt
được tính theo giá gạo. Sau đó, Thông tư số 113/VHH ngày 4/4/1952 một Bộ
Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định này đã xác định rõ: "Để định tiền phạt
giá gạo ấy là giá gạo nơi trụ sở Tòa án xét xử, khi tuyên án. Mức tối đa và tối
thiểu tiền phạt lấy giá gạo làm tiêu chuẩn, nhưng khi tòa án tuyên phạt tiền
phải tính ra tiền và đơn vị vẫn lấy đồng bạc tài chính" [56, tr.52]. Nhìn chung
các văn bản pháp luật hình sự quy định về hình phạt tiền giai đoạn 1945- 1954
còn hết sức đơn giản, nội dung chưa cụ thể, rõ ràng. Sau khi chính thức xóa bỏ
hoàn toàn việc áp dụng luật lệ của chế độ cũ, Nhà nước Việt Nam hết sức quan
tâm đến việc ban hành những văn bản pháp luật mới để có cơ sở pháp lý đấu
tranh phòng chống tội phạm, nhất là những năm 1955 trở về sau. Ở thời kỳ
này, các văn bản pháp luật hình sự có quy định hình phạt tiền phải kể đến: Sắc
lệnh số 282-SL ngày 14/12/1956 về chế độ báo chí; Sắc luật 003/SLT ngày
18/6/1957 về quyền tự do xuất bản, Sắc luật số 011/SLT ngày 14/9/1957 về tội
đầu cơ. Hình phạt tiền được quy định trong các văn bản pháp luật hình sự này
có sự tiến bộ hơn, rõ ràng, cụ thể hơn như:
Tại Điều 13 của Sắc lệnh số 282 ngày 14/12/1956 về chế độ báo chí có
quy định: "Báo chí nào vi phạm Điều 10 bị trừng phạt tùy theo lỗi nặng nhẹ
mà cảnh cáo, tịch thu ấn phẩm, đình bản tạm thời, hoặc bị truy tố trước Tòa
án, có thể bị phạt tiền từ năm vạn đồng đến hai chục vạn đồng" [56, tr 421]
Hoặc tại Điều 16 của Sắc luật số 003/SLT ngày 18/6/1957 về quyền tự do xuất
24
bản có quy định: "Nhà xuất bản hay cá nhân xuất bản nào vi phạm Điều 12 thì
cơ quan có thẩm quyền tùy theo trường hợp nhẹ hay nặng mà cảnh cáo, thu
hồi tạm thời giấy phép hoặc truy tố trước Tòa án. Tòa án có thể xử phạt tiền
từ năm vạn đồng đến hai mươi vạn đồng" [56, tr 427].
Còn tại Điều 3 của Sắc luật 001-SLT ngày 19/4/1957 cấm mọi hành đầu
cơ quy định: "Những người vi phạm luật này và những người đồng phạm theo
nhẹ hay nặng có thể bị truy tố trước Tòa án và có thể bị phạt tiền từ 10 vạn
đồng đến 100 vạn đồng và bị phạt tù từ 1 tháng đến 5 năm, hoặc một trong hai
hình phạt trên" [56, tr 268]
Đến năm 1970, để bảo vệ tài sản của nhà nước và của công dân, Nhà
nước ta ban hành 2 pháp lệnh, đó là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài
sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.
Việc ban hành hai pháp lệnh này đã đánh dấu bước tiến quan trọng về kỹ thuật
lập pháp hình sự ở nước ta. Trong hai pháp lệnh này, hình phạt tiền được quy
định một cách khá rõ ràng về phạm vi, điều kiện áp dụng. Cụ thể: tại khoản 3
Điều 20 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN có quy định:
"Phạm một trong những tội quy định ở các điều 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13,
14, 15, 16, 17, thì tùy theo tính chất nghiêm trọng của tội phạm hoặc nguồn
thu lợi bất chính mà có thể bị phạt tiền từ 50 đồng đến 5.000 đồng..." [56, tr
208]; hoặc tại khoản 3 Điều 16 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
riêng của công dân có quy định: "Phạm một trong các tội quy định ở điều 3, 4,
5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 13 trong trường hợp có tính chất nghiêm trọng của tội
phạm hoặc nguồn thu lợi bất chính mà có thể bị phạt tiền từ 50 đồng đến
3.000 đồng..." [56, tr 457].
Sau năm 1975 miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Chính
phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số
03SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về các tội phạm và hình phạt. Theo Sắc luật
này, hình phạt tiền được áp dụng đối với tội phạm về kinh tế, các tội xâm
25
phạm trật tự công cộng và an toàn công cộng, xâm phạm sức khỏe của nhân
dân và chỉ được áp dụng là hình phạt bổ sung. Điều 6 của Sắc luật này quy
định hình phạt tiền đối với tội phạm về kinh tế với nội dung: "Phạm một trong
những các tội phạm (về kinh tế) trên đây thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm và
phạt tiền đến 50.000 đồng ngân hàng". Còn Điều 9 của Sắc luật 03/SL-76 quy
định hình phạt tiền (là hình phạt bổ sung) đối với các tội xâm phạm đến trật tự
công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân với nội dung như sau:
"...cờ bạc, tổ chức ổ mại dâm, buôn bán, tàng trữ ma túy và các chất độc khác,
thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù
đến 15 năm. Trong mọi trường hợp, có thể bị phạt tiền đến 1.000 đồng ngân
hàng" [57, tr 237].
Để đáp ứng yêu cầu ổn định trật tự quản lý kinh tế (trật tự kinh doanh,
tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, ngày 20/5/1981 Nhà
nước ta đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ và ngày 30/6/1982 ban
hành Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh
trái phép. Trong hai pháp lệnh này, hình phạt tiền được quy định là hình phạt
bổ sung. Cụ thể: Điều 7 Pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ quy định: "Người
phạm tội hối lộ nói ở Điều 2 và Điều 3 của Pháp lệnh này còn có thể bị phạt
tiền từ 1 đến 3 lần giá trị của hối lộ"; còn Điều 2 Pháp lệnh trừng trị các tội
đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép quy định: "Người nào lợi
dụng khó khăn về kinh tế hoặc tạo ra những khó khăn đó, mua vét hàng hóa,
lương thực, vật tư, các loại tem, phiếu, vé, giấy tờ có giá trị phân phối hàng
hóa, vật tư hoặc cung ứng dịch vụ nhằm thu lợi bất chính, thì bị phạt tù từ 6
tháng đến 5 năm và bị phạt tiền gấp 3 lần giá trị hàng phạm pháp".
Qua nghiên cứu các quy định về hình phạt tiền trong các văn bản pháp
luật nêu trên có thể thấy:
+ Hình phạt tiền được quy định ngay trong các văn bản pháp luật hình sự
đầu tiên của Nhà nước ta sau khi mới giành được chính quyền dưới các hình thức
26
Sắc lệnh, Sắc luật, Pháp lệnh (văn bản pháp luật hình sự đơn hành, dưới luật).
+ Hình phạt tiền vừa được quy định là hình phạt chính, vừa được quy
định là hình phạt bổ sung. Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính theo
quy định của Sắc lệnh số 51 ngày 17/04/1946, Sắc lệnh số 168-SL ngày
14/04/1948 và Sắc luật 03/SL-76 ngày 15/3/1976 ... Hình phạt tiền được áp
dụng là hình phạt bổ sung theo quy định của Pháp lệnh trừng trị các tội xâm
phạm tài sản XHCN năm 1970, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
riêng của công dân năm 1970, Pháp lệnh trừng trị các tội phạm về hối lộ năm
1981 và Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh
trái phép năm 1982.
+ Hình phạt tiền được áp dụng chủ yếu đối với người phạm tội có tính
chất vụ lợi nhằm trừng phạt họ về mặt kinh tế và loại trừ điều kiện mà họ sử
dụng được phạm tội mới (tái phạm). Về cơ bản phạm vi áp dụng hình phạt tiền
còn hẹp, chỉ đối với một số ít tội.
+ Hình phạt tiền được áp dụng trong hoàn cảnh chính quyền nhà nước
còn non trẻ, tình hình kinh tế xã hội còn thấp kém, đời sống nhân dân còn khó
khăn. Do vậy, hình phạt tiền được áp dụng căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh, khả
năng kinh tế cụ thể của người phạm tội; không áp dụng hình phạt tiền liên đới.
Đặc biệt, từ năm 1955 trở về trước, do vẫn áp dụng luật lệ của chế độ cũ, nên Tòa
án đã đổi hình phạt tù thành hình phạt tiền, nhưng từ sau năm 1955 trở về sau thì
không được quy đổi hình phạt tù thành hình phạt tiền và ngược lại.
2.1.2. Quy định về hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm 1985
Năm 1985 đánh dấu một bước phát triển quan trọng của công tác lập
pháp hình sự ở nước ta bằng việc ban hành BLHS đầu tiên ngày 27/6/1985
(sau đây gọi là BLHS năm 1985). Đây là một văn bản quy phạm pháp luật
hình sự có kỹ thuật pháp điển hóa cáo, trong đó quy định tương đối đầy đủ về
tội phạm, về hình phạt phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, đặc biệt là tình
hình tội phạm vào thời điểm đó. Trong BLHS năm 1985, hình phạt tiền là hình
27
phạt duy nhất được quy định vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung.
Theo quy định tại Điều 23 BLHS năm 1985 thì: "Hình phạt tiền được áp dụng
đối với người phạm các tội có tính chất vụ lợi, tham nhũng các tội dùng tiền
làm phương tiện hoạt động hoặc các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Mức phạt tiền được quyết định theo mức độ nghiêm trọng của tội đã
phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động
của giá cả" [6, tr 91]
Tại phần các tội phạm của BLHS năm 1985, hình phạt tiền là hình phạt chính
quy định tại 9 điều luật, là hình phạt bổ sung được quy định tại 58 điều luật.
Nghiên cứu các quy định của BLHS năm 1985 về hình phạt tiền thấy rằng:
+ Một là, trong BLHS năm 1985, hình phạt tiền vừa được quy định là
hình phạt chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung, nhưng trong phần
các tội phạm hình phạt tiền chỉ được quy định là hình phạt chính đối với một
số ít tội phạm cụ thể. Điều này, cho thấy các nhà làm luật nước ta chưa nhìn
nhận, đánh giá đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của hình phạt tiền trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Mặt khác, theo quy định tại Điều 23 BLHS năm
1985 thì hình phạt tiền được áp dụng đối với người phạm tội có tính chất vụ
lợi, tham nhũng, các tội có dùng tiền làm phương tiện hoạt động, nhưng trong
phần các tội phạm, có một số tội cũng thuộc loại tội phạm có tính chất này
nhưng nhà làm luật không quy định hình phạt tiền là hình phạt chính hoặc là
hình phạt bổ sung, ví dụ: Điều 170, 174, 175, 176... Như vậy, quy định tại
Điều 23 phần chung không được cụ thể hóa một cách triệt để trong phần các
tội phạm của BLHS năm 1985. Điều đó đã dẫn đến việc thu hẹp phạm vi áp
dụng của hình phạt tiền.
+ Hai là, một số chế tài có hình phạt tiền được quy định là hình phạt bổ
sung bắt buộc chiếm tỷ lệ không đáng kể (khoảng 11%) trong tổng số các chế
tài của BLHS năm 1985 đã ảnh hưởng đến tần suất áp dụng trong thực tiễn
hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Trong nhiều trường hợp, Tòa án không bị
28
ràng buộc phải áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung mà có thể tùy nghi
lựa chọn giữa hình phạt bổ sung là hình phạt tiền với hình phạt bổ sung khác.
Do vậy, có ý kiến cho là "Điều đó đã làm cho phạm vi áp dụng hình phạt tiền
trên thực tế lại bị thu hẹp thêm một lần nữa, cho thấy sự nhìn nhận về vai trò và
hiệu quả của hình phạt tiền chưa được đánh giá một cách chính xác" [49, tr 27].
+ Ba là, trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985, nhà làm luật quy
định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền (tiền phạt) hoặc chỉ quy
định mức tối đa mà không quy định mức tối thiểu. Trong đó có một số khung
hình phạt giữa mức tối thiểu và mức tối đa của tiền phạt quá rộng, ví dụ: Điều
215. "Tội vi phạm các quy định về xuất bản và phát hành sách, báo, ấn phẩm
khác" quy định mức tối thiểu của hình phạt tiền là 250.000đ, mức tối đa là 10
triệu (gấp 40 lần mức tối thiểu). Điều đó có thể dẫn đến sự tùy tiện trong thực
tiễn áp dụng đồng thời không bảo đảm nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và khả
năng tác động có lựa chọn của hình phạt tiền đối với người bị kết án. Mặt
khác, đối với một số tội, do nhà làm luật chỉ quy định mức tiền phạt tối đa mà
không quy định mức tối thiểu cũng có thể dẫn tới việc áp dụng hình phạt tiền
bị cứng nhắc, không bảo đảm công bằng khi quyết định hình phạt, đồng thời
còn gây khó khăn cho việc áp dụng khoản 3 Điều 38 BLHS năm 1985 "Khi có
nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức
thấp nhất mà điều luật quy định".
Như vậy, mặc dù BLHS năm 1985 qua hơn chục năm áp dụng đã được
sửa đổi bổ sung tới 4 lần vào các năm: 1989, 1991, 1992, 1997 nhưng vẫn còn
nhiều điểm bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội
phạm trong tình hình mới, cần phải sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, trong đó
các quy định về hình phạt tiền. Với tinh thần đó ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa
X tại kỳ họp thứ 6 đã thông qua BLHS năm 1999 thay thế BLHS năm 1985.
2.1.3. Quy định về hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm 1999
Trong BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (sau đây gọi tắt là
29
BLHS năm 1999), hình phạt tiền tiếp tục được quy định vừa là hình phạt
chính, vừa là hình phạt bổ sung. Nếu so với quy định của BLHS năm 1985, thì
quy định về phạt tiền trong BLHS năm 1999 có nhiều điểm mới. Cụ thể là:
+ Thứ nhất, BLHS năm 1999 đã mở rộng số lượng điều luật quy định
hình phạt tiền
Trong BLHS năm 1999 (lúc mới ban hành), h́ nh phạt tiền được quy định
ở hình phạt chính tại 68/263 điều luật (chiếm 25,85%); hình phạt tiền là hình
phạt bổ sung được quy định tại 104/263 điều luật (chiếm 39,54%). Như vậy,
hình phạt tiền là hình phạt chính được BLHS năm 1999 quy định tăng hơn 7,5
lần so với hình phạt tiền là hình phạt chính được quy định ở BLHS năm 1985
(Bộ luật này chỉ quy định hình phạt tiền là hình phạt chính tại 9 điều luật).
Hình phạt bổ sung tăng 1,8 lần (BLHS năm 1999 quy định hình phạt tiền là hình
phạt bổ sung tại 104 điều luật, còn BLHS năm 1985 chỉ quy định tại 58 điều luật).
Qua đây thấy rằng, nhà làm luật nước ta đã có cách nhìn và đánh giá tích cực về
vai trò của hình phạt tiền trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Mặt khác, việc
mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền là nhằm phát triển kinh tế - xã hội, nhất là
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
+ Thứ hai, BLHS năm 1999 quy định chặt chẽ hơn về phạm vi, điều kiện
áp dụng hình phạt tiền.
Khác với Điều 23 BLHS năm 1985, Điều 30 BLHS năm 1999 quy định
phạm vi, điều kiện áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính như sau: "Phạt
tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính
và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định" (khoản 1 Điều 30).
Như vậy, khác với quy định của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999
không dựa vào tính chất của tội phạm (như tính chất vụ lợi, tính chất tham
nhũng) hoặc tính chất của phương tiện sử dụng để phạm tội mà căn cứ vào
từng nhóm tội xâm phạm đến những quan hệ xã hội nhất định được luật hình
30
sự bảo vệ để quy định phạm vi, điều kiện áp dụng hình phạt tiền là hình phạt
chính. Nghiên cứu phần các tội phạm của BLHS năm 1999 cho thấy, hình phạt
tiền được áp dụng đối với các nhóm tội phạm cụ thể sau đây:
+ Nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Nhóm này hình
phạt tiền áp dụng đối với những tội mà người phạm tội thực hiện nhằm mục
đích thu lợi bất chính được quy định tại 20/31 điều luật.
+ Nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Nhóm
này, hình phạt tiền được áp dụng đối với những tội có tính chất vụ lợi hoặc
dùng tiền làm phương tiện phạm tội được quy định tại 30/56 điều luật;
+ Nhóm các tội phạm khác do BLHS quy định. Nhóm này bao gồm các
tội phạm (nhưng không thuộc hai nhóm tội phạm nêu trên) mà BLHS có quy
định hình phạt tiền là hình phạt chính nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong
việc xử lý tội phạm. Thuộc nhóm này có 02 tội xâm phạm quyền tự do dân chủ
của công dân; 01 tội xâm phạm sở hữu; 09 tội phạm về môi trường; 01 tội
phạm về ma túy, 07 tội phạm trật tự quản lý hành chính.
Điều kiện duy nhất để áp dụng hình phạt tiền đối với những nhóm tội
phạm nêu trên là: "Tội phạm mà người phạm tội thực hiện phải thuộc tội phạm
ít nghiêm trọng", tức là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất đối với tội ấy là đến 03 năm tù (khoản 2 Điều 8 BLHS năm 1999).
Đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền chỉ là những người phạm tội đủ 16
tuổi trở lên, còn đối với người ở độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội
thì không áp dụng hình phạt tiền (khoản 5 Điều 69 BLHS năm 1999).
* Về hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, khoản 2 Điều 30 đã quy định rõ
ràng, cụ thể những trường hợp được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ
sung khi không áp dụng là hình phạt chính, theo đó: "Phạt tiền được áp dụng
là hình phạt bổ sung đối với người phạm các tội tham nhũng, ma túy hoặc tội
phạm khác do Bộ luật này quy định". Từ quy định này thấy rằng, khoản 2 Điều
30 không quy định điều kiện áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung mà
31
chỉ quy định phạm vi các trường hợp được áp dụng hình phạt này. Tuy nhiên,
theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 28 BLHS năm 1999 thì có thể hiểu điều
kiện để áp dụng thì phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung là "Khi hình
phạt chính được áp dụng không phải là hình phạt tiền". Điều này có nghĩa là,
nếu hình phạt tiền đã được áp dụng là hình phạt chính thì không áp dụng là
hình phạt bổ sung.
Tóm lại, Điều 30 BLHS năm 1999 đã quy định cụ thể trường hợp nào thì
hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính, trường hợp nào hình phạt tiền
được áp dụng là hình phạt bổ sung. Trong khi đó, BLHS năm 1985 không quy
định rõ vấn đề này. Do vậy, quy định tại Điều 30 BLHS năm 1999 đã đảm bảo
việc áp dụng hình phạt tiền được thống nhất hơn và có tác dụng hạn chế sự tùy
tiện khi áp dụng. Nghiên cứu phần các tội phạm của BLHS năm 1999 có quy
định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thấy rằng, ngoài những người phạm
tội tham nhũng, ma túy, Bộ luật này đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt
tiền là hình phạt bổ sung đối với những người phạm các tội được quy định ở
các chương khác của BLHS. Cụ thể là: 03 tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của con người (Chương XII); 02 tội xâm phạm quyền tự do,
dân chủ của công dân (Chương XIII); 10 tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV);
24 tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (chương XVI); 10 tội phạm về môi
trường (Chương XVII); 28 tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
(Chương XIX) và 7 tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính (Chương XX).
Cũng như hình phạt tiền là hình phạt chính, hình phạt tiền là hình phạt bổ
sung chỉ áp dụng với người phạm tội đủ 16 tuổi trở lên, không áp dụng đối với
người phạm tội ở độ tuổi từ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi.
+ Thứ ba, BLHS năm 1999 quy định cụ thể mức phạt tiền tối thiểu tại
Điều 30 phần chung, đồng thời trong phần các tội phạm hầu hết các điều luật
đều quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền, hoặc quy định
mức tối đa của hình phạt này. Trong khi đó Điều 23 BLHS năm 1985 không
32
quy định mức tối thiểu của hình phạt tiền, còn trong phần các tội phạm của Bộ
luật này gần như chỉ quy định mức tiền phạt tối đa (ngoại trừ Điều 215. Tội vi
phạm các quy định về xuất bản và phát hành sách, báo, ấn phẩm khác, tuy có
quy định mức tiền phạt tối thiểu là 250.000đ và mức tiền phạt tối ta là
10.000.000đ, nhưng khoảng cách giữa mức tiền phạt tối thiểu với mức tiền
phạt tối đa là quá lớn, gấp khoảng 40 lần. Để khắc phục hạn chế này, khoản 3
Điều 30 BLHS năm 1999 quy định: "Mức phạt tiền được quyết định tùy theo
tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, đồng thời có xét
đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng
không được thấp hơn 1.000.000đ".
Như vậy, mức tối thiểu của hình phạt tiền được quy định chung cho cả
hình phạt tiền là hình phạt chính và hình phạt tiền là hình phạt bổ sung và
được nhà làm luật xác định cụ thể là 1.000.000đ. Đây là một quy định mới, thể
hiện tính nghiêm khắc của chế tài hình sự so với chế tài hành chính. Về vấn đề
này có tác giả nhận định: "Quy định này phản ánh được các đòi hỏi của cả hai
khía cạnh của nguyên tắc công bằng; công bằng ngang nhau và công bằng
phân phối. Luật quy định mức phạt tiền được quyết định tùy theo tính chất,
mức độ nghiêm trọng của tội phạm thể hiện sự bình đẳng giữa mọi người
trước pháp luật, thể hiện khía cạnh ngang nhau của công bằng; đồng thời có
xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động giá cả thị trường
đã thể hiện khía cạnh phân phối của công bằng" [27, tr.70]. Trên cơ sở quy
định có tính nguyên tắc này, tại phần các tội phạm BLHS, mức phạt tiền được
quy định cụ thể đối với từng tội danh từ mức tối thiểu đến mức tối đa hoặc
theo số lần giá trị hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính. Đơn vị tiền tệ để tính
mức phạt tiền là Việt Nam đồng. Khi quyết định mức phạt tiền cụ thể đối với
người bị kết án, Tòa án không chỉ phải bảo đảm mức tiền phạt tương xứng với
tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm... mà còn phải xét đến tình hình tài
33
sản của người bị kết án để hình phạt tiền được áp dụng có tính khả thi.
Thứ tư, BLHS năm 1999 quy định rõ, cụ thể phương thức thi hành hình
phạt tiền tại khoản 4 Điều 30, theo đó: "Tiền phạt có thể nộp một lần hoặc
nhiều lần trong thời hạn do Tòa án quyết định trong bản án". Phương thức thi
hành hình phạt tiền được BLHS năm 1999 quy định như vậy là nhằm tạo điều
kiện để người bị kết án với những điều kiện, hoàn cảnh kinh tế khác nhau, khả
năng tài sản khác nhau đều có thể thi hành hình phạt tiền mà Tòa án áp dụng
đối với họ. Đồng thời xác định rõ trách nhiệm của Tòa án phải ấn định rõ
trong bản án thời hạn thi hành hình phạt tiền của người bị kết án.
Từ sự phân tích, đánh giá trên có thể thấy rằng, quy định của BLHS năm
1999 về hình phạt tiền chặt chẽ, cụ thể hơn, có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là
đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền và phương thức thi hành hình phạt
tiền. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành BLHS năm 1999 kể từ khi có hiệu lực
đến nay cho thấy, quy định của Bộ luật này về hình phạt tiền đã bộc lộ những
hạn chế, bất cập nhất định cần phải sửa đổi bổ sung để phát huy hiệu quả của
hình phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
2.1.4. Quy định về hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm 2015
BLHS năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua
ngày 27/11/2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi chung là
BLHS năm 2015). Trong Bộ luật này, bên cạnh việc kế thừa những quy định
hợp lý về hình phạt tiền của BLHS năm 1999 thì cũng có nhiều sửa đổi, bổ
sung mới. Một trong những sửa đổi, bổ sung quan trọng là quy định hình phạt
tiền đối với pháp luật thương mại phạm tội. Theo quy định tại Điều 32 “Các
hình phạt đối với người phạm tội” và Điều 33 “Các hình phạt đối với pháp
nhân thương mại phạm tội” của BLHS năm 2015 có thể thấy, trong hệ thống
hình phạt nước ta, hình phạt tiền là hình phạt duy nhất vừa được áp dụng đối
với người phạm tội (thể nhân) vừa được áp dụng đối với pháp nhân thương
mại phạm tội với tư cách là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung khi không
34
áp dụng là hình phạt chính.
* Trước hết, quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt tiền áp dụng đối
với người phạm tội
Nếu so sánh với quy định của BLHS năm 1999, thì BLHS năm 2015 quy
định về hình phạt tiền áp dụng đối với người phạm tội có những sửa đổi, bổ
sung mới sau đây:
- Mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với
người phạm tội. Cụ thể là:
Khoản 1 Điều 35 BLHS năm 2015 quy định:
"1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây:
a. Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này
quy định;
b. Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do
Bộ luật này quy định". Như vậy, khoản 1 Điều 35 đã mở rộng phạm vi áp dụng
hình phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người phạm tội theo hướng:
+ Mở rộng loại tội phạm hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính
đối với người phạm tội. Theo đó, phạt tiền là hình phạt chính không chỉ được
áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng (theo quy định tại Điều 30
BLHs năm 1999), mà còn được áp dụng đối với người phạm tội nghiêm trọng,
tội rất nghiêm trọng.
Với việc sửa đổi, bổ sung này thấy rằng, việc áp dụng hình phạt tiền là
hình phạt chính đối với người phạm tội không bị giới hạn về nhóm tội phạm
cụ thể được quy định tại phần các tội phạm với điều kiện tội phạm mà người
phạm tội thực hiện phải thuộc loại tội ít nghiệm trọng, tội nghiêm trọng (quy
định tại khoản 1, 2 Điều 9 BLHS năm 2015), đồng thời trong điều luật tương
ứng có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính. Chỉ riêng đối với người
phạm tội rất nghiêm trọng, điểm b khoản 1 Điều 35 BLHS năm 2015 đã giới
35
hạn một số nhóm tội phạm cụ thể mà người phạm tội thực hiện được áp dụng
hình phạt tiền là hình phạt chính. Đó là nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và các tội phạm khác
do BLHS quy định. Một số tội phạm khác do BLHS năm 2015 quy định ở đây
là những tội phạm không thuộc các nhóm tội phạm nêu trên và cũng không
thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, nhưng nhà làm
luật nhận thấy, "Khi áp dụng phạt tiền là hình phạt chính sẽ đạt được mục đích
của hình phạt" [53,tr26].
Đối với hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, nhà làm luật kế thừa toàn bộ
quy định tại khoản 2 Điều 30 BLHS năm 1999 và tiếp tục quy định tại khoản 2
Điều 35 BLHS năm 2015 như sau: "Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt
bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm
khác do Bộ luật này quy định". Trong BLHS hiện hành, phạt tiền là hình phạt
bổ sung được quy định dưới dạng chế tài tùy nghi (không bắt buộc). Vì vậy,
nếu điều luật có quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền, đồng thời hình phạt
tiền không được áp dụng là hình phạt chính thì tùy từng trường hợp mà Tòa án
có thể áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người bị kết án.
Thứ hai, về căn cứ quyết định và mức phạt tiền, khoản 3 Điều 35 BLHS
năm 2015 về cơ bản kế thừa quy định tại khoản 3 Điều 30 BLHS năm 1999
nên tiếp tục quy định: "3. Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính chất
và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của
người phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không thấp hơn 1.000.000đ".
Tuy vậy, khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 có sửa đổi về kỹ thuật lập pháp, cụ
thể là thay một số từ "tùy theo" bằng cụm từ "căn cứ vào" và thay từ "nghiêm
trọng" bằng từ "nguy hiểm" trong nội dung của khoản này. Việc thay đổi này
là nhằm đảm bảo sự chuẩn xác, sự thống nhất về mặt thuật ngữ trong các quy
định của BLHS năm 2015. Về mức phạt tiền, theo quy định tại khoản 3 Điều
35 BLHS hiện hành cho thấy, nhà làm luật nước ta chỉ quy định mức tối thiểu
36
chung của hình phạt tiền là 1.000.000đ mà không quy định mức phạt tiền tối
đa. Ở phần các tội phạm của BLHS năm 2015, mức phạt tiền được quy định
đối với từng tội phạm cụ thể căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội
phạm đó. Nghiên cứu quy định của BLHS năm 2015 về vấn đề này thấy rằng,
mức phạt tiền được quy định đối với các tội phạm cụ thể là một khoản tiền
nhất định, trong đó có chỉ ra mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền. Cụ
thể là: Đối với trường hợp phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính thì mức
tối thiểu là 5 triệu đồng và mức tối đa là 5 tỷ đồng; còn phạt tiền là hình phạt
bổ sung cũng có mức tối thiểu là 5 triệu đồng và mức tối đa là 500 triệu đồng.
Quy định về mức phạt tiền như trên, mặc dù chưa có sự phân biệt giữa
mức tối thiểu của hình phạt tiền là hình phạt chính và mức tối thiểu của hình
phạt tiền là hình phạt bổ sung, nhưng đây là một quy định hợp lý tạo điều kiện
cho việc áp dụng hình phạt tiền được thống nhất, tránh tùy tiện dẫn đến áp
dụng mức phạt tiền quá thấp hoặc quá cao. Thực tế cho thấy, mỗi tội phạm cụ
thể có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, có khả năng gây
thiệt hại với mức độ khác nhau và bị xử lý hình sự trong các thời điểm biến
động của giá cả thị trường khác nhau, vì thế mức phạt tiền cũng phải khác
nhau. Nếu Tòa án áp dụng mức phạt tiền quá thấp đối với những người phạm
tội có tính chất chuyên nghiệp, có động cơ, mục đích trục lợi bất chính, làm
giàu bằng mọi giá... thì sẽ không đạt được mục đích của hình phạt tiền. Còn
nếu Tòa án áp dụng mức phạt tiền quá cao so với tính chất, mức độ nguy hiểm
của tội phạm mà người phạm tội thực hiện, tình hình tài sản của họ và so với
giá cả thị trường thì không chỉ trái với mục đích của hình phạt mà còn làm cho
hình phạt đã tuyên không có tính khả thi, gây khó khăn cho công tác thi hành
án. Do vậy, để hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc áp dụng là
hình phạt bổ sung có tính khả thi trên thực tế, khoản 3 Điều 35 BLHS năm
2015 tiếp tục quy định: "Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính chất,
37
mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của
người phạm tội, sự biến động của giá cả". Đây là quy định có tính bắt buộc
đối với Tòa án khi quyết định hình phạt tiền đối với người bị kết án.
Thứ ba, về phương thức thi hành hình phạt tiền
Khác với khoản 4 Điều 30 BLHS năm 1999, trong đó có quy định thể
thức thi hành hình phạt tiền: "Tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều
lần trong thời hạn do Ṭa án quy định", thì hiện nay Điều 35 BLHS năm 2015
không còn tiếp tục quy định vấn đề này, bởi thể thức thi hành hình phạt tiền đã
được quy định tại điềm a khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008
(sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Thứ tư, về hình phạt tiền áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
So với Điều 72 BLHS năm 1999, Điều 99 BLHS năm 2015 không có sửa
đổi, bổ sung gì mà vẫn tiếp tục quy định: "Phạt tiền được áp dụng là hình phạt
chính đối với người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập
hoặc có tài sản riêng.
Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội
không quá một phần hai mức phạt tiền mà điều luật quy định".
Từ quy định này thấy rằng, để áp dụng phạt tiền là hình phạt chính đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội, ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1
Điều 35 BLHS năm 2015 còn phải có thêm hai điều kiện: 1. Người phạm tội
phải ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; 2 Người phạm tội phải có thu
nhập hoặc tài sản riêng.
Về mức phạt tiền đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, theo quy
định tại Điều 99 BLHS năm 2015 thì không được quá 1/2 mức phạt tiền mà
điều luật quy định.
Quy định tại Điều 99 như vậy là hoàn toàn hợp lý, bởi ở lứa tuổi này, người
phạm tội phần lớn sống phụ thuộc vào gia đình, chưa có thu nhập, hoặc có thu
nhập nhưng không đáng kể. Nếu tòa án áp dụng hình phạt tiền khi họ không có thu
38
nhập hoặc tài sản riêng thì sẽ không đảm bảo tính khả thi của hình phạt.
Thứ năm, hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Đây là
một quy định hoàn toàn mới của pháp luật hình sự Việt Nam, bởi lần đầu tiên
trong lịch sử lập pháp đã coi chủ thể của trách nhiệm hình sự bao gồm cả cá
nhân và pháp nhân. Trong BLHS năm 2015 đã có một chương riêng (Chương
XI) quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội, trong
đó có quy định về hình phạt. Đây là điểm nổi bật, mang tính đột phá trong
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, làm thay đổi nhận thức truyền
thống về vấn đề tội phạm và hình phạt.
Trong BLHS năm 2015, hệ thống các hình phạt đối với pháp nhân thương
mại phạm tội được quy định tại Điều 33, theo đó các hình phạt chính gồm:
Phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Các
hình phạt bổ sung gồm: cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực
nhất định; cấm huy động vốn; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Đồng thời, tại các điều từ Điều 77 đến Điều 79, BLHS hiện hành quy
định cụ thể điều kiện áp dụng các hình phạt đối với pháp nhân thương mại
phạm tội. Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được nhà làm
luật quy định tại Điều 77 BLHS năm 2015 như sau: "Hình phạt tiền được áp
dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại
phạm tội. Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại
phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000đ".
Từ quy định này cho thấy, đối với pháp nhận thương mại phạm tội, hình
phạt tiền được áp dụng vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung (nếu
không áp dụng là hình phạt chính). Trong số những hình phạt chính, phạt tiền
được xem như là "một công cụ hữu hiệu để thể hiện cách ứng xử của Nhà
nước đối với pháp nhân thương mại khi có hành vi gây thiệt hại cho xã hội"
39
[52, tr61].
Khác với việc quy định hình phạt tiền đối với cá nhân phạm tội, BLHS
năm 2015 không quy định các trường hợp cụ thể áp dụng hình phạt tiền đối
với pháp nhân thương mại phạm tội. Vì vậy, có thể hiểu là hình phạt tiền được
áp dụng đối với cả 33 tội danh được quy định tại Điều 76 BLHS do pháp nhân
thương mại thực hiện, không phụ thuộc vào trường hợp phạm tội ít nghiêm
trọng, phạm tội nghiêm trọng hay phạm tội rất nghiêm trọng.
Thêm vào đó, BLHS năm 2015 còn quy định mức tối thiểu của hình phạt
tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội (chung cho cả trường hợp áp dụng
là hình phạt chính, cả trường hợp áp dụng là hình phạt bổ sung) là
50.000.000đ và mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân
thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả. Nếu so với mức tiền phạt tối
thiểu đối với cá nhân phạm tội thì mức tiền phạt tối thiểu đối với pháp nhân
thương mại phạm tội cao hơn 50 lần, thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự
giữa pháp nhân và cá nhân phạm tội, đồng thời còn cho thấy tính nghiêm khắc
của hình phạt tiền so với các chế tài hành chính, kinh tế hay dân sự mà pháp
nhân thương mại phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm. Tuy nhiên, việc quy
định mức tiền phạt tối thiểu đối với pháp nhân thương mại phạm tội tại Điều
77 chỉ mang tính chất nguyên tắc chung. Căn cứ vào nguyên tắc chung như
vậy, BLHS năm 2015 đã quy định cụ thể mức tiền phạt đối với từng tội danh
cụ thể, tưng ứng với từng khung hình phạt cụ thể mà theo quy định tại Điều 76
pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự.
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Khái quát tình hình các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh
Theo số liệu thống kê xét xử cho thấy, từ năm 2014 đến năm 2018,
TAND hai cấp tỉnh Quảng Ninh đã giải quyết, xét xử: 7.546/8060 vụ với
40
13.069/14.244 bị cáo đạt 91,75% về số vụ và 93,62% về số bị cáo. Ở giai đoạn
này, trung bình mỗi năm TAND tỉnh Quảng Ninh đã giải quyết xét xử:
1.509/1.612 vụ với 2.848/2.613 bị cáo. Cụ thể các năm như sau:
+ Năm 2014 giải quyết, xét xử: 1.770/1.839 vụ với 3.118/ 3.310 bị cáo,
đạt tỷ lệ 96,2% về số vụ và 94,19% về số bị cáo.
+ Năm 2015 giải quyết, xét xử: 1444/1491 vụ với 2.467/2.607 bị cáo, đạt
96,8% về số vụ và 94,62% về số bị cáo;
+ Năm 2016 giải quyết, xét xử: 1.397/1.493 vụ với 2.574/2.863 bị cáo,
đạt 93,6% về số vụ và 90% về số bị cáo.
+ Năm 2017 giải quyết, xét xử: 1.340/1.559 vụ với 2.403/2.794 bị cáo,
đạt 86% về số vụ và 86% về số bị cáo.
+ Năm 2018 giải quyết, xét xử: 1.595/1.678 vụ với 2.507/2.670 bị cáo,
đạt 95% về số vụ và 93,8% về số bị cáo (xem Bảng 2.1 Phụ lục).
Về cơ bản, công tác xét xử các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật. Trong giai đoạn này chưa có trường hợp nào kết án oan
người vô tội hoặc để lọt người phạm tội. Hình phạt được áp dụng đối với
người phạm tội đảm bảo đúng luật, tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm, đặc điểm nhân thân người phạm tội, các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong từng vụ án, đảm bảo hình
phạt đã tuyên có tính khả thi, góp phần đạt được mục đích của hình phạt.
Chất lượng xét xử các vụ án hình sự được đảm bảo. Số bản án, quyết định
sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị chiếm tỷ lệ không đáng kể. Bản án, quyết
định bị hủy do lỗi chủ quan của Hội đồng xét xử được duy trì ở mức độ thấp,
năm sau giảm hơn năm trước. Tranh tụng tại phiên tòa được đẩy mạnh và đảm
bảo thực chất. Các phán quyết của TAND hai cấp đã đảm bảo quyền lợi hợp
pháp của công dân, đảm bảo công lý, bảo vệ và đảm bảo quyền con người.
Khắc phục có hiệu quả việc để các vụ án giải quyết quá thời hạn luật định và
tình trạng bản án tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án.
41
Nhiều vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng hoặc các vụ án được dư luận xã hội
quan tâm đã được đưa ra xét xử án điểm, án lưu động để đáp ứng yêu cầu chính
trị- xã hội của địa phương, nhất là yêu cầu tuyên truyền phổ biến pháp luật và yêu
cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự tại địa phương.
2.2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh
Theo số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của TAND tỉnh Quảng
Ninh cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, TAND tỉnh Quảng
Ninh đã xử phạt 10.515 bị cáo, trong đó hình phạt chính được áp dụng đối với
các bị cáo cụ thể như sau: Phạt cảnh cáo: 21/10.515 vụ (chiếm 0,19%); phạt
tiền: 114/10.515 bị cáo (chiếm 1,08%); phạt cải tạo không giam giữ:
135/10.515 bị cáo (chiếm 1,28%); phạt tụ cho hưởng án treo 2.019/10.515 bị
cáo (chiếm 19,20%); phạt tù từ 03 năm trở xuống 5.023/10.515 bị cáo (chiếm
47,76%); phạt tù từ trên 03 năm đến 07 năm: 1.584/10.515 bị cáo (chiếm
15,06%); phạt tù từ trên 07 năm đến 15 năm 1.052/10.515 bị cáo chiếm ….%;
phạt tù trên 15 năm đến 20 năm: 387/10.515 bị cáo (chiếm 3,68%); phạt tù
chung thân: 108/10.515 bị cáo (chiếm 1,02%); tử hình: 72/10.515 bị cáo
(chiếm 0,68) (xem Bảng 2.2 Phụ lục). Như vậy, hình phạt tiền áp dụng đối với
bị cáo chiếm tỷ lệ không đáng kể, cụ thể: chỉ có 144/10.515 bị cáo bị áp dụng
là hình phạt chính (chiếm tỷ lệ 1,08%) và 154/10.515 bị cáo bị áp dụng là hình
phạt bổ sung (chiếm tỷ lệ 1,46%). Trong tổng số 162 bị cáo bị áp dụng hình
phạt bổ sung thì có tới 154 bị cáo bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ
sung chiếm tỷ lệ 95,06%. Qua đây cho thấy, hình phạt bổ sung được Tòa án áp
dụng đối với bị cáo chủ yếu là hình phạt tiền. Cụ thể các năm như sau:
+ Năm 2014 có: 13 bị cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt chính và 43 bị
cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung;
+ Năm 2015 có: 20 bị cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt chính và 19 bị
42
cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung;
+ Năm 2016 có: 18 bị cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt chính và 20 bị
cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung;
+ Năm 2017 có: 16 bị cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt chính và 20 bị
cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung;
+ Năm 2018 có: 47 bị cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt chính và 52 bị
cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung (xem Bảng 2.3 Phụ lục). Như vậy,
trong 5 năm qua, năm 2018 là năm có số bị cáo được Tòa án áp dụng phạt tiền
là hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung cao nhất. Điều đó cho thấy, Tòa
án đã có sự chuyển biến trong nhận thức và đánh giá đúng về vai trò của hình
phạt tiền trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Qua nghiên cứu số liệu thống kê nêu trên và nghiên cứu ngẫu nhiên 10
bản án của TAND tỉnh Quảng Ninh có xử phạt tiền thấy rằng:
+ Trong xét xử các vụ án hình sự, hình phạt nói chung, hình phạt tiền nói
riêng mà TAND tỉnh Quảng Ninh áp dụng đối với bị cáo đã thể hiện được
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước là: Nghiêm trị kết hợp với khoan
hồng, giữa trừng trị với giáo dục, cải tạo người phạm tội, tôn trọng bảo vệ
quyền con người, hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội cũng như đề
cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm.
+ Khi quyết định hình phạt nói chung, hình phạt tiền nói riêng, TAND
tỉnh Quảng Ninh ngoài việc dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt được quy
định tại Điều 45 BLHS năm 1999 (nay là Điều 50 BLHS năm 2015) còn chú ý
xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, tình hình tài sản
của người bị kết án, sự biến động của giá cả trên thị trường để lựa chọn và
quyết định mức tiền phạt phù hợp, đảm bảo tính khả thi, góp phần đạt được
mục đích phòng ngừa riêng, cũng như phòng ngừa chung của hình phạt đã
tuyên, đặc biệt là đã phần nào loại trừ, hạn chế những điều kiện về tài sản mà
43
người phạm tội có thể sử dụng để tiếp tục phạm tội (tái phạm).
+ Mức phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính và hình phạt bổ sung
đều thuộc chế tài mà điều luật có quy định, phù hợp với thu lợi bất chính và
khả năng thi hành của người bị kết án. Vụ án cụ thể sau đây là một minh
chứng: Tại Bản án số 97/2018/HS-ST ngày 31/8/2018, TAND tỉnh Quảng
Ninh: 1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tiến Khôi và Lê Tiến Thành, Nguyễn
Hoài Thu phạm tội "làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" và "Vận
chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới". Áp dụng điểm a, b, c khoản 3, Điều
341; khoản 3, 4 Điều 189; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 55; Điều 17; Điều
58 BLHS năm 2015, xử phạt Nghiêm Tuấn Khôi 04 năm tù về tội "làm giả
con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức", 6 năm 6 tháng tù về tội "vận chuyển
trái phép tiền tệ qua biên giới". Tổng hợp buộc bị cáo phải chấp hành hình
phạt chung của cả hai tội là 10 năm 6 tháng tù, thời hạn kể từ ngày bị bắt ngày
30/01/2018.
Phạt bị cáo 20.000.000đ để sung qũy nhà nước.
Áp dụng điểm a, b, c khoản 3 Điều 341; khoản 3,4 Điều 189; điểm s
khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55; Điều 17; Điều 58 BLHS năm 2015, xử
phạt Lê Tiến THành 03 năm tù về tội "làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan,
tổ chức" 6 năm tù về tội "vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới". Tổng
hợp buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 09 năm tù,
thời hạn kể từ ngày bị bắt ngày 21/4/2018.
2. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoài Thu phạm tội "làm giả con dấu, tài
liệu của cơ quan, tổ chức" và "Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới". Áp
dụng điểm a, b, khoản 3, Điều 341; khoản 3 Điều 189; điểm b, s khoản 1 Điều
51; Điều 55; Điều 17; Điều 58 BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Hoài Thu 01
năm tù về tội "làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" 02 năm tù về tội
"vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới". Tổng hợp buộc bị cáo phải chấp
hành hình phạt chung của cả hai tội là 03 năm tù, thời hạn kể từ ngày bị bắt
44
ngày 20/4/2018.
3. Tuyên bố các bị cáo Vũ Hồng Hải, Lê Thị Liên, Đậu Thị Lan Anh,
Nguyễn Thu Hằng phạm tội "Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới".
- Áp dụng khoản 3, khoản 4 Điều 189; điểm b, v, s khoản 1, khoản 2 Điều
51; Điều 17; Điều 58 BLHS năm 2015 xử phạt Vũ Hồng Hải 04 năm tù, thời hạn
tính từ ngày bị bắt ngày 20/3/2018; phạt bị cáo 20.000.000đ sung quỹ Nhà nước;
- Áp dụng khoản 3, Điều 189; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 17; Điều 58
BLHS năm 2015 xử phạt Nguyễn Thu Hằng 03 năm tù, thời hạn tính từ ngày
bị bắt đi thi hành án;
- Áp dụng khoản 3, Điều 189; điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 17; Điều 58; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 56 BLHS năm 2015 xử
phạt Lê Thị Liên 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm
kể từ ngày tuyên án.
- Áp dụng khoản 3, Điều 189; điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 17; Điều 58; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 56 BLHS năm 2015 xử
phạt Đậu Thị Lan Anh 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05
năm kể từ ngày tuyên án.
Như vậy, trong vụ án này ngoài hình phạt tù được áp dụng là hình phạt
chính đối với bị cáo, TAND còn phạt bị cáo Nghiêm Tuấn Khôi, Lê Tiến
Thành, Vũ Hồng Hải, mỗi bị cáo 20.000.000đ với tính chất là hình phạt bổ
sung. Lý do áp dụng là các bị cáo này được hưởng lợi cao nhất. Các bị cáo còn
lại được miễn phạt tiền là hình phạt bổ sung. Có thể thấy trong vụ án này,
TAND tỉnh Quảng Ninh đã căn cứ vào quy định của BLHS năm 2015, tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà mỗi bị cáo thực hiện, vai
trò của bị cáo trong vụ án, các tình tiết giảm nhẹ của mỗi bị cáo được quy định
tại khoản 1, 2 Điều 51, đặc điểm nhân thân của bị cáo để quyết định loại, mức
hình phạt thỏa đáng. Cụ thể là khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo,
TAND đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51:
45
Các bị cáo đều khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của bản thân và
đồng phạm; các bị cáo Liên, Thu, Lan Anh đã tự nguyên nộp lại khoản tiền thu
lời bất chính; bị cáo Liên là con liệt sĩ để giảm nhẹ tội cho các bị cáo một phần
hình phạt. Ngoài ra, TAND tỉnh Quảng Ninh còn áp dụng khoản 2 Điều 51
BLHS năm 2015 để coi một số tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự và ghi rõ trong bản án như: Bị cáo Đậu Thị Lan Anh ra đầu thú, bố là
thương binh, được thưởng huân chương chiến sĩ giải phóng; bị cáo Lê Tiến
Thành có bố là thương binh, ông nội có công với cách mạng; bị cáo Khôi có
bố là thương binh, ông bà nội được tặng huân, huy chương, bị cáo Liên có bố
tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ... để xét giảm nhẹ một phần hình
phạt cho các bị cáo. Các tình tiết giảm nhẹ này là hoàn toàn xác đáng, đúng
với văn bản hướng dẫn áp dụng của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Bên cạnh
đó, khi quyết định hình phạt, TAND tỉnh Quảng Ninh còn căn cứ vào đặc
điểm nhân thân của bị cáo để quyết định. Chẳng hạn, tại bản án này TAND
tỉnh Quảng Ninh khẳng định: "Đối với bị cáo Nguyễn Thu Hằng là cán bộ
ngân hàng làm tại bộ phận thanh toán quốc tế, nắm vững quy định, hiểu biết
pháp luật, lẽ ra phải thực hiện nghiêm chỉnh quy chế của ngân hàng, pháp luật
của Nhà nước nhưng vẫn tiếp tay cho tội phạm nên phải có mức án nghiêm khắc
để răn đe, cải tạo, giáo dục" [60]. Đây là đặc điểm về nghề nghiệp của bị cáo đã
được TAND tỉnh Quảng Ninh xem xét khi quyết định hình phạt.
+ Nhiều vụ án, TAND tỉnh Quảng Ninh xử phạt nghiêm khắc, đúng mức,
đáp ứng được yêu cầu phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị- xã hội của địa
phương, được dư luận xã hội đồng tình, qua đó uy tín của Tòa án được nâng
cao, công lý được đảm bảo, điển hěnh lŕ: vụ Bůi Trọng Tiến phạm tội "Giết
người" và "cướp tài sản" xảy ra tại thị xã Đông Triều; vụ Phạm Văn Hà cùng
đồng phạm phạm tội "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ" xảy
ra tại Công ty Cổ phần Than Tây Nam Đá Mài, TP Cẩm Phả, v.v...
Những kết quả nêu trên trong công tác xét xử của TAND tỉnh Quảng
Ninh đã góp phần giữ vững và ổn định tình hình an ninh, trật tự, tạo thuận lợi
46
cho phát triển kinh tế- xã hội tại địa phương.
2.2.3. Những hạn chế, thiếu sót trong áp dụng hình phạt tiền và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác xét xử nói chung, áp
dụng hình phạt tiền nói riêng của TAND tỉnh Quảng Ninh trong những năm
qua vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót nhất định, cần phải kịp thời khắc phục,
đó là:
+ Thứ nhất, tần suất áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính cũng như
hình phạt bổ sung còn thấp, nên chưa phát huy được hiệu quả của hình phạt
này trong đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế, tội phạm tham nhũng, ma túy, môi trường và một số tội phạm
khác có tính chất vụ lợi, hoặc dùng tiền làm phương tiện để phạm tội.
Qua số liệu thống kê như đã phân tích ở trên cho thấy, phạt tiền áp dụng
là hình phạt chính chỉ chiếm tỷ lệ 1,16%; phạt tiền áp dụng là hình phạt bổ
sung chỉ chiếm tỷ lệ 1,45%. Như vậy là quá thấp so với tần suất áp dụng hình
phạt tù. Điều này không thực sự đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp là
"giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không
giam giữ đối với một số tội phạm" [5].
+ Thứ hai, trong một số vụ án Tòa án ít chú ý đến việc xem xét tình hình
tài sản, sự biến động của giá cả khi quyết định hình phạt tiền. Đây cũng là một
trong những lý do dẫn đến không ít trường hợp bản án phạt tiền thiếu tính khả
thi, khó thi hành trên thực tế. Ví dụ: Có những vụ án về Ma túy, đối tượng vi
phạm là những bị cáo thường không có tài sản đang chấp hành hình phạt tù
nhưng vẫn áp dụng hình phạt tiền thì dẫn đến thiếu tính khả thi trong áp việc
áp dụng hình phạt tiền.
+ Thứ ba, khi quyết định hình phạt tiền, Tòa án chủ yếu chú trọng vào
việc cá thể hóa hình phạt chính, còn đối với hình phạt tiền được áp dụng là
hình phạt bổ sung ít được coi trọng. Mặt khác, mức tiền phạt cụ thể đôi khi
chưa thật sự thỏa đáng hoặc quá nhẹ, hoặc quá nặng. Điều đó dẫn tới chưa
47
đảm bảo nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt tiền.
+ Thứ tư, khoản 4 Điều 30 BLHS năm 1999 có quy định: "Tiền phạt có
thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Tòa án quyết định
trong bản án" nhưng hầu như trong những bản án có tuyên hình phạt tiền theo
quy định của BLHS năm 1999, Tòa án chỉ tuyên phạt tiền bị cáo một khoản
tiền nhất định sung công quỹ Nhà nước mà không quyết định cho bị cáo nộp
tiền phạt một lần hay nhiều lần và cũng không ấn định thời hạn nộp tiền phạt.
Do vậy, đã gây khó khăn cho công tác thi hành án phạt tiền trên thực tế
+ Thứ năm, có một số bản án xử phạt bị cáo về nhiều tội, nhưng khi quyết
định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thì Tòa án áp dụng chung cho tất cả
các tội, do vậy không rõ hình phạt tiền áp dụng là hình phạt bổ sung đối với bị
cáo về tội cụ thể nào. Chẳng hạn trong bản án số 97/2018/HS-ST ngày
31/8/2018 tỉnh Quảng Ninh tuyên bố các bị cáo Nghiêm Tiến Khôi và Lê Tiến
Thành phạm 2 tội: "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức" và vận
“chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”. Nhưng khi quyết định áp dụng hình
phạt tiền là hình phạt bổ sung thì TAND tỉnh Quảng Ninh chỉ quyết định
chung là "Phạt bị cáo 20.000.000 đồng". Quyết định như vậy là không đúng
với quy định tại Điều 55 BLHS năm 2015, theo đó "khi xét xử cùng 01 lần một
người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội", “Sau đó
tổng hợp buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung đối với cả hai tội”.
Riêng phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền
phạt được cộng lại thành hình phạt chung (điểm đ khoản 1 và điểm a khoản 2
Điều 5 BLHS)
* Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót nêu trên:
Qua khảo sát thực tiễn xét xử các vụ án hình sự của TAND tỉnh Quảng
Ninh trong những năm gần đây chúng tôi thấy, những hạn chế, thiếu sót này là
do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là, do nhận thức của một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân về vai
48
trò, hiệu quả của hình phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm chưa
thật sự đúng đắn. Vì thế, có trường hợp nên áp dụng hình phạt tiền nhưng Hội
đồng xét xử lại không áp dụng hình phạt này.
Hai là, quy định của BLHS năm 1999 cũng như của BLHS năm 2015 vẫn
còn một số hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp dụng
(vấn đề này chúng tôi sẽ phân tích tại phần giải pháp tại Chương 3 luận văn).
Ba là, công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật của cơ quan có
thẩm quyền chưa được tiến hành kịp thời, vẫn còn một số quy phạm mang tính
nguyên tắc hoặc chưa thật sự rõ ràng, minh bạch, khó thống nhất trong thực
tiễn áp dụng hình phạt tiền nhưng vẫn chưa có văn bản giải thích, hướng dẫn
hoặc hướng dẫn vẫn chưa thật sự cụ thể, rõ ràng.
Bốn là, công tác giám đốc xét xử, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra hoạt động
áp dụng hình phạt nói chung, hình phạt tiền nói riêng chưa được tiến hành
thường xuyên, kịp thời, sát sao để phát hiện những hạn chế, thiếu sót và có
biện pháp khắc phục.
Năm là, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách nhiệm
trong công tác, đạo đức công vụ của một bộ phận Thẩm phán, nhất là Hội
thẩm nhân dân chưa thực sự đáp ứng yêu cầu công tác đặt ra.
Sáu là, điều kiện làm việc, phương tiện công tác, chế độ chính sách đãi
ngộ đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án, đối với Hội thẩm nhân dân chưa
thật sự tương xứng với tính chất đặc thù của hoạt động xét xử; đời sống sinh
hoạt của cán bộ thực thi pháp luật còn nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh
nền kinh tế thị trường hiện nay.
Như vậy, nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong công tác xét xử
nói chung trong quyết định hình phạt tiền nói riêng có cả nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Những nguyên nhân này nếu không được khắc phục sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến hoạt động xét xử, cũng như hoạt động áp dụng hình phạt,
49
trong đó có hình phạt tiền.
Tiểu kết Chương 2
Qua nghiên cứu Chương 2 của luận văn có thể rút ra một số kết luận cơ
bản sau:
Hình phạt tiền có lịch sử lâu đời, được quy định rất sớm trong pháp luật
hình sự Việt Nam.Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS
năm 1985, hình phạt tiền được quy định rải rác trong các văn bản dưới luật
bằng hình thức Sắc lệnh, Sắc luật và Pháp lệnh. Do trình độ kỹ thuật lập pháp
còn hạn chế nên ở thời kỳ này, hình phạt tiền được quy định còn hết sức đơn
giản, chưa chặt chẽ và đầy đủ.
Chỉ đến khi BLHS năm 1985 (BLHS đầu tiên) được ban hành, thì hình
phạt tiền mới được quy định một cách cụ thể vừa với tư cách là hình phạt
chính, vừa với tư cách là hình phạt bổ sung. Trong các quy định của BLHS
này đều chỉ rõ phạm vi, điều kiện, đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền. Tuy
nhiên, qua hơn chục năm áp dụng BLHS năm 1985 đã bộc lộ những hạn chế,
bất cập nhất định đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện. Với yêu
cầu đó, BLHS năm 1999 được ban hành thay thế BLHS năm 1985. Ngoài việc
tiếp thu những yếu tố hợp lý của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 có nhiều
sửa đổi, bổ sung về hình phạt tiền theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng, quy
định chặt chẽ về phạm vi, điều kiện áp dụng, nên đã thực sự tạo cơ sở pháp lý
thống nhất cho việc áp dụng hình phạt tiền trên thực tế. Tuy nhiên, so với yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội ở
trong nước cũng như trên thế giới có nhiều thay đổi, nên các quy định của
BLHS năm 1999 về hình phạt tiền không thật sự còn phù hợp, cần phải sửa
đổi, bổ sung nhằm thể chế hóa chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu bảo vệ và bảo đảm quyền con người mà
Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận. Để đáp ứng yêu cầu trên, BLHS năm 2015
được ban hành, các quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt tiền đã được
50
sửa đổi, bổ sung cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp khi quy định hình phạt
tiền, đặc biệt là quy định hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm
tội. Điểm nổi bật của Bộ luật này đã mở rộng hơn nữa về phạm vi áp dụng,
quy định chặt chẽ căn cứ, điều kiện áp dụng hěnh phạt tiền nhằm phát huy
hiệu lực vŕ hiệu quả của hěnh phạt tiền đấu tranh phòng, chống tội trong tình
hình mới.
Ngoài ra, tại Chương 2 của luận văn còn tập trung đánh giá thực trạng áp
dụng hình phạt tiền tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh; rút ra được những kết quả đạt
được cũng như những thiếu sót và nguyên nhân
Với kết quả nêu trên, Chương 2 đã thực sự là chương bàn về cơ sở thực tế
của việc về ra giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tiền trong thực tiễn
51
áp dụng ở Chýõng 3.
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ HÌNH PHẠT TIỀN
3.1. Yêu cầu đối với việc áp dụng đúng hình phạt tiền
3.1.1. Yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: "1. Ở nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng" [44, tr17].
Pháp luật hình sự nói chung, các quy định của pháp luật về hình phạt,
trong đó có hình phạt tiền nói riêng trước hết phải thể chế hóa quy định của
Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân theo hướng đề cao
hiệu quả phòng ngừa, tính nhân đạo, hướng thiện trong việc xử lý người phạm
tội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân khỏi sự xâm hại của tội phạm.
Để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 2015 tại Điều 1 có quy
định: "BLHS có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước,
bảo vệ chế độ XHCN, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình
đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật
tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân
theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Bộ luật này quy định tội phạm và hình phạt" [38,tr9]. Từ quy định này
của BLHS cho thấy, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, chống mọi hành vi phạm tội được thực hiện
52
thông qua việc BLHS xác định hành vi bị coi là tội phạm và quy định hình
phạt được áp dụng đối với hành vi bị coi là tội phạm. Để bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, Nhà nước đã sử dụng BLHS là một phương tiện pháp
lý quan trọng nhất, là cơ sở pháp lý cho việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm
để buộc người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự, hình phạt. Mặt khác khi quy định tội phạm, đặc biệt là quy
định hình phạt đối với tội phạm cũng như khi áp dụng các quy định của BLHS
về hình phạt cần phải hạn chế quy định và áp dụng các hình phạt tước đi
quyền sống, quyền tự do của con người (như hình phạt tử hình, hình phạt tù)
mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một
số tội phạm, khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, dân sự và
ngược lại.
Khi tiến hành tố tụng hình sự, đặc biệt là khi quyết định hình phạt Tòa án
"phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền lợi ích hợp pháp của cá
nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện
pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu sẽ
thấy có sự vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết" (Điều 8 BLTTHS năm
2015).
Hình phạt, trong đó có hình phạt tiền là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc của Nhà nước, có nội dung tước bỏ, hạn chế những quyền lợi thiết thân
của người bị kết án, hạn chế quyền con người, quyền công dân. Do vậy, khi
quyết định hình phạt, kể cả hình phạt tiền, Tòa án phải đảm bảo tính đúng đắn,
hợp lý và khả thi của hình phạt đã tuyên trên thực tế, phải kết hợp hài hòa,
chặt chẽ giữa trừng trị đi đôi với khoan hồng, giáo dục, cảm hóa người phạm
tội và luôn đề cao quyền con người của người bị kết án. Muốn vậy, khi ấn định
mức tiền phạt cũng như tịch thu toàn bộ tài sản của người bị kết án, thì ngoài
việc phải xét đến tình hình tài sản của người bị kết án, sự biến động của giá cả,
Tòa án còn phải chú ý đến việc bảo đảm cho người bị kết án và gia đình họ có
53
điều kiện sinh sống.
Như vậy, bảo vệ và bảo đảm quyền con người là một trong những yêu cầu
đối với hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung, hoạt động quyết định
hình phạt (trong đó có hình phạt tiền) nói riêng. Do vậy, khi áp dụng hình phạt
tiền Tòa án cần phải quán triệt yêu cầu này nhằm hình phạt đã tuyên vừa góp
phần đạt được mục đích phòng ngừa riêng, phòng ngừa chung của hình phạt,
nhưng đồng thời phải bảo vệ và đảm bảo quyền con người, quyền công dân.
3.1.2. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
Hiện nay dưới sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, tình hình
tội phạm do nguyên nhân kinh tế, có tính chất kinh tế xảy ra phổ biến, diễn
biến phức tạp, khó lường. Theo số liệu thống kê của TANDTC, thì từ năm
2001 đến năm 2017 trên phạm vi cả nước có 1.022.238 vụ phạm tội với
1.872.478 bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm về các loại tội phạm khác nhau.
Trong đó, các nhóm tội phạm xảy ra phổ biến là các tội xâm phạm sở hữu có
415.510 vụ với 633.382 bị cáo, chiếm 40,65% về số vụ và 33,83% về số bị
cáo; các tội phạm về ma túy có 215.912 vụ với 280.240 bị cáo, chiếm 21,12%
về số vụ và 14,97% về số bị cáo. Trong đời sống xã hội, xuất hiện một số tội
phạm phi truyền thống như tội phạm về chứng khoán, môi trường, tội phạm sử
dụng công nghệ cao... Những loại tội phạm này về cơ bản đều liên quan đến
lợi ích kinh tế. Những tội phạm này không chỉ do cá nhân mà còn do pháp
nhân thực hiện. Đối với những loại tội phạm này thì ngoài những hình phạt
nghiêm khắc nhất như tử hình, phạt tù áp dụng đối với cá nhân phạm tội, thì
hình phạt tiền áp dụng đối với cả cá nhân phạm tội cũng như pháp nhân
thương mại phạm tội cũng có vai trò to lớn trong phòng, chống. Chính vì vậy,
hình phạt tiền với tính chất là biện pháp tác động về kinh tế ngày càng được
BLHS mở rộng phạm vi áp dụng. Hiện nay, theo quy định của BLHS năm
2015 thì hình phạt tiền với tính chất là hình phạt chính được áp dụng không
chỉ đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật
54
này quy định mà còn đối với người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số
tội khác do Bộ luật này quy định. Với tư cách là hình phạt bổ sung, hình phạt
tiền được áp dụng đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những
tội phạm khác do Bộ luật này quy định (Điều 35). Đối với pháp nhân thương
mại phạm tội, phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ
sung (Điều 77). Do vậy, để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh các loại
tội phạm này cần tăng cường áp dụng hình phạt tiền trong thực tiễn, để một
mặt trừng phạt, giáo dục, cải tạo người phạm tội, mặt khác để triệt tiêu, hạn
chế điều kiện về tài sản mà chủ thể sử dụng thực hiện hành vi phạm tội, cũng
như phòng ngừa chung.
Thực tiễn xét xử ở nước ta nói chung, ở tỉnh Quảng Ninh nói riêng, trong
những năm qua tỷ lệ áp dụng hình phạt tiền rất thấp (ở Quảng Ninh, tỷ lệ áp
dụng hình phạt chính chỉ chiếm 1,16%, còn áp dụng là hình phạt bổ sung chỉ
chiếm 1,45%). Do vậy, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới cần tăng cường áp dụng hình phạt tiền trong thực tiễn xét
xử, nhất là đối với những tội danh, nhà làm luật quy định hình phạt tiền là chế
tài lựa chọn cùng với các hình phạt khác thì cần chú trọng áp dụng hình phạt
tiền khi có căn cứ, điều kiện để áp dụng.
3.1.3. Yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như ở địa phương
Pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng là yếu tố của kiến trúc
thượng tầng xã hội, được ra đời trên cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và được quy
định bởi cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong mối quan hệ này, các điều kiện
kinh tế xã hội không chỉ là nguyên nhân quy định sự ra đời của pháp luật hình
sự (trong đó có các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt) mà còn quyết
định toàn bộ nội dung và sự phát triển cũng như việc thi hành nó trong đời
sống xã hội. Vì thế, sự phát triển kinh tế - xã hội là yếu tố dẫn đến sự cần thiết
phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự, phải xây dựng, mở rộng phạm
55
vi áp dụng hình phạt tiền. Đúng như Mác đã nhận xét: "Trong thời đại nào
cũng thế, chính là vua chúa phải phục tùng những điều kiện kinh tế, chứ không
bao giờ vua chúa lại ra lệnh cho những điều kiện kinh tế được. Chẳng qua chế
độ lập pháp về chính trị cũng như về dân sự chỉ làm cái việc nói lên, ghi chép
lại những yêu cầu của những quan hệ kinh tế mà thôi" [7,tr159].
Hiện nay ở nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập
trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đã làm cho các quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng đa dạng, phong phú.
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng có sự thay đổi nhất định về nội
dung của chức năng tổ chức và quản lý kinh tế. Trong sự chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, pháp luật hình sự nói riêng, pháp luật nói chung cũng phải thay đổi để
kịp thời phản ánh những nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy,
để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, điều tất yếu phải đổi mới, hoàn
thiện pháp luật hình sự, trong đó có chế định hình phạt nhằm tạo ra một cơ sở
pháp lý vững chắc, chặt chẽ, thống nhất cho hoạt động của các cơ quan có
thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chế
định hình phạt, trong đó có hình phạt tiền cũng cần phải được hoàn thiện để
theo kịp và phản ánh những biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội, những đặc
điểm cơ bản của tình hình tội phạm trong giai đoạn phát triển cụ thể của đời
sống xã hội. Một trong những vấn đề hoàn thiện chế định hình phạt ở nước ta
hiện nay là "giảm hình phạt tử hình, hình phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng
hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm".
Đây là một chủ trương hết sức cần thiết và đúng đắn, phù hợp với tình hình
kinh tế - xã hội của đất nước. Song vấn đề quan trọng ở đây là phải tăng cường
áp dụng hình phạt tiền, có như vậy những quy định của pháp luật hình sự về
hình phạt tiền mới đi vào cuộc sống, mới phát huy vai trò của hình phạt này
trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tiền và
56
tăng cường áp dụng hình phạt tiền phải phù hợp với thực tiễn kinh tế xã hội
của đất nước, phản ánh được các nhu cầu, đòi hỏi của các điều kiện chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và truyền thống của dân tộc; phải tạo ra một hành lang
pháp lý an toàn cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là không làm cản trở
sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ được những lợi ích cơ bản của đất nước
trong tình hình hiện nay.
3.1.4. Yêu cầu hợp tác quốc tế
Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/04/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập
quốc tế đã chỉ định rõ: "Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng
chiến lược lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN"; "Nghiêm chỉnh tuân thủ các
cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia
xây dựng và tận dụng có hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các
hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế".
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: "Tổ chức
thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta ký kết hoặc tham gia. Tiếp tục
ký hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là các nước láng
giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thống.
Tăng cường sự phối hợp chung trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố quốc tế với các tổ chức
INTERPOL, ASEANPOL... với cảnh sát các nước láng giềng và khu vực, với
cảnh sát một số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh sống, lao động, học
tập" [4].
Quán triệt chủ trương đó, đến nay Nhà nước ta đã ký kết hoặc tham gia
nhiều công ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là Công
ước quốc tế về chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác và
vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người của Liên hợp quốc. Ngoài ra, Việt Nam
còn ký kết nhiều hiệp định tương trợ tư pháp hình sự với các nước trên thế
57
giới, hiệp định dẫn độ tội phạm, hiệp định chuyển giao bị kết án phạt tù... với
các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có nhiều người Việt
Nam sinh sống, học tập, lao động. Với tư cách là quốc gia thành viên tham gia
các công ước quốc tế, Việt Nam cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện
pháp luật hình sự trong đó có các quy định hình phạt nhằm bảo đảm tính tương
thích với các chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế, góp phần vào việc thực
hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Để đáp ứng yêu cầu này, BLHS năm 2015 có nhiều quy định liên quan
đến vấn đề hợp tác quốc tế trong việc xử lý người phạm tội, pháp nhân thương
mại phạm tội có yếu tố nước ngoài như: "Đối với người nước ngoài phạm tội
trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng
quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên hoặc theo tập
quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy
định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước
quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm
hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao" (khoản 2 Điều 5
BLHS 2015); "Công dân Việt Nam hoặc pháp nhân thương mại Việt Nam có
hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam mà Bộ luật
này quy định là tội phạm, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt
Nam theo quy định của Bộ luật này.
Quy định này cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường
trú ở Việt Nam.
Người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài
lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng
58
hòa XHCN Việt Nam là thành viên.
Đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên
tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc tại
giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thì
người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ
luật này trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là
thành viên có quy định" (Điều 6 BLHS năm 2015). Để có cơ sở pháp lý để giải
quyết vấn đề trách nhiệm hình sự, trong đó có vấn đề áp dụng hình phạt,
BLTTHS năm 2015 đã quy định phạm vi, nguyên tắc hợp tác quốc tế trong tố
tụng hình sự, theo đó: "Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự gồm tương trợ tư
pháp về hình sự; dẫn độ; tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt
tù và các hoạt động hợp tác quốc tế khác được quy định tại Bộ luật này, pháp
luật về tương trợ tư pháp và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là
thành viên.
Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng
hòa XHCN Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại, theo quy
định của Bộ luật này, pháp luật về tương trợ tư pháp và quy định khác của
pháp luật Việt Nam có liên quan" (Điều 419 BCTTHS năm 2015).
"Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được thực hiện trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp,
pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là
thành viên.
Trường hợp Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập điều ước quốc tế
có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được thực hiện theo
nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với
59
pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế" (Điều 492 BLTTHS năm 2015).
Việc áp dụng hình phạt, trong đó có hình phạt tiền trong các trường hợp
phạm tội có yếu tố nước ngoài sẽ ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao của nước ta
với các nước khác. Nếu áp dụng hình phạt đúng sẽ có phần thúc đẩy hợp tác
quốc tế, tăng cường hợp tác ngày càng sâu rộng trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm, nhất là tội phạm có tính quốc tế, tội phạm có yếu tố nước ngoài.
Ngược lại, nếu áp dụng h́ nh phạt không đúng, trái với quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam, với các điều ước quốc tế thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quan
hệ đối ngoại của nước ta. Do vậy, khi áp dụng hình phạt, trong đó có hình phạt
tiền đối với phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội có yếu tố nước ngoài,
Tòa án luôn luôn phải quán triệt yêu cầu hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm, nhất là yêu cầu của Công ước quốc tế về chống tra tấn và các hình
thức trừng phạt hay ðối xử tàn ác và vô nhân ðạo hoặc hạ nhục con ngýời ðã được
Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 28/11/2014. Đây là Văn kiện thứ 10/28 điều
ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập, phê chuẩn.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự về hình phạt tiền
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện và hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015 về hình phạt tiền
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 có nhiều nội dung đổi mới,
có tính đột phá, thể chế hóa khá đầy đủ, toàn diện các chủ trương cải cách tư
pháp của Đảng và Nhà nước, thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, khắc phục
được những vướng mắc, bất cập của BLHS năm 1999, đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, cũng như yêu cầu phát triển
mới của đất nước. Điều mới nổi bật liên quan đến chế định hình phạt nói
chung, hình phạt tiền nó riêng là mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền; quy
định hệ thống hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội...
Tuy nhiên, sau gần 2 năm áp dụng các quy định của BLHS năm 2015 về
60
hình phạt tiền đã phát sinh những khó khăn, vướng mắc từ từ chính các quy
định của Bộ luật này về hình phạt tiền. Do vậy, để phát huy hiệu quả của hình
phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, cần tiếp
tục nghiên cứu, sửa đổi các quy định của BLHS về hình phạt nói chung, hình
phạt tiền nói riêng. Cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, quy định tại khoản 3 Điều 35 về căn cứ quyết định mức phạt
tiền đối với cá nhân bị kết án.
Nghiên cứu quy định tại khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 thấy rằng, một
trong những căn cứ quyết định mức tiền phạt là "xét đến tình hình tài sản của
người phạm tội". Quy định như vậy đồng nghĩa là, Hội đồng xét xử phải xem
xét tình hình tài sản của người bị kết án phạt tiền để ấn định mức tiền phạt cụ
thể. Vấn đề đặt ra ở đây là Hội đồng xét xử xác định tình hình tài sản của người
phạm tội bằng cách nào? trong khi tài sản của người phạm tội lại hết sức đa
dạng: cũ có, mới có; loại có chứng từ, loại không có chứng từ, có loại tài sản thì
lại do người phạm tội trực tiếp chiếm giữ, quản lý, loại thì do người khác quản
lý (tài sản đem đi cầm cố, thế chấp, gửi ở ngân hàng...). Vậy Hội đồng sẽ xử có
khả năng xác định được tình hình tài sản của người phạm tội hay không? Đây là
một khó khăn, vướng mắc lớn trong thực tiễn áp dụng hình phạt tiền và cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến mức tiền phạt được quyết định trong bản
án có thể chưa thật phù hợp với tình hình tài sản của người bị kết án, làm giảm
tính khả thi của hình phạt tiền trên thực tế. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cơ quan
có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn, trong đó chỉ rõ chủ thể có
trách nhiệm xác định tình hình tài sản của người phạm tội; những loại tài sản
được xem xét, đánh giá tình hình tài sản... để Hội đồng xét xử làm cơ sở quyết
định mức tiền phạt được chính xác, phù hợp với tình hình tài sản của người bị
kết án, qua đó làm tăng tính khả thi của hình phạt tiền trên thực tế.
+ Thứ hai, quy định về mức tối thiểu của hình phạt tiền
Theo quy định tại khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 thì mức tối thiểu của
61
hình phạt tiền là 1.000.000 đồng. Nhưng trong phần các tội phạm của BLHS
năm 2015, tại các điều luật có quy định là hình phạt tiền thì không có một điều
luật nào quy định mức tối thiểu của hình phạt này là 1.000.000đ, mà đều quy
định mức phạt tiền tối thiểu là 5.000.000 đồng. Như vậy, quy định về mức tối
thiểu của hình phạt tiền ở phần chung và ở phần các tội phạm của BLHS năm
2015 là không thống nhất.
Mặt khác, khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 vẫn tiếp tục quy định mức
tối thiểu của hình phạt tiền là 1.000.000 đồng như quy định tại khoản 3 Điều
30 BLHS năm 1999. Vậy, mức tối thiểu của hình phạt tiền là 1.000.000 đồng
có thật sự phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay hay không, có thể
hiện được tính cưỡng chế nghiêm khắc của hình phạt so với các chế tài pháp lý
khác (chế tài hành chính, dân sự, kinh tế) hay không, có đủ sức răn đe phòng
ngừa tội phạm hay không. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm cho rằng
"với thực tế hiện nay, BLHS quy định mức tối thiểu của phạt tiền 1.000.000 đồng
là quá thấp" [53,tr29]. Do vậy, theo chúng tôi, để đảm bảo tính nghiêm khắc của
hình phạt tiền và phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay cần điều chỉnh
mức tối thiểu của hình phạt tiền từ 1.000.000 đồng thành 5.000.000 đồng.
Thêm vào đó, khoản 3 Điều 35 quy định mức tiền phạt tối thiểu
1.000.000 đồng chung cho cả hình phạt tiền áp dụng là hình phạt chính và cả
hình phạt tiền áp dụng hình phạt bổ sung. Như vậy là đã đánh đồng, không
phân biệt mức tối thiểu của hình phạt tiền là hình phạt chính với mức tối thiểu
của hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Theo chúng tôi, mức tối thiểu của hình
phạt tiền với tính chất là hình phạt chính phải cao hơn mức tối thiểu của hình
phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung. Nên ấn định mức tối thiểu của
hình phạt tiền áp dụng là hình phạt chính là 5.000.000 đồng, thì mức tối thiểu
của hình phạt bổ sung là 3.000.000 đồng. Cùng với sự điều chỉnh mức phạt
tiền tối thiểu ở phần chung, thì cũng phải điều chỉnh mức tối thiểu của hình
phạt tiền ở các điều luật về tội phạm có quy định hình phạt tiền là hình phạt
62
chính và hình phạt bổ sung cho tương thích.
+ Thứ ba, về thể thức thi hành hình phạt tiền khoản 2 Điều 35 BLHS
năm 2015 cũng như khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008
không quy định tiền phạt được nộp như thế nào. Bên cạnh đó, quy định về
hình phạt tiền tại Điều 35 BLHS năm 2015 cũng thiếu tính cưỡng chế cần thiết
để đảm bảo cho việc thi hành hình phạt tiền trên thực tế. Bởi, thực tế cho thấy,
không ít trường hợp người bị kết án phạt tiền cố tình không chịu nộp phạt hoặc
dây dưa, trầy ỳ không chịu nộp tiền phạt, gây khó khăn cho công tác thi hành
án, làm giảm hiệu quả phòng ngừa hình phạt tiền nhưng vẫn không có biện
pháp xử lý. Do vậy, để đảm bảo việc thi hành hình phạt tiền của người bị kết
án, khắc phục tình trạng người bị kết án cố tình không chịu nộp tiền phạt,
chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm, cần bổ sung thêm khoảng 5 tại
Điều 35 BLHS Sự 2015 theo hướng: "5. Tiền phạt có thể được nộp một lần
hay nhiều lần trong thời hạn do tòa án quyết định trong bản án nhưng không
quá 6 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực" [53, tr30]. Có quy định như vậy,
một mặt tạo điều kiện cho người bị kết án nộp tiền phạt, nhưng mặt khác sẽ có
tác dụng khắc phục tình trạng dây dưa, trây ỳ cố tình không nộp tiền phạt, đảm
bảo tính khả thi của hình phạt tiền.
Vấn đề đặt ra ở đây là thời hạn nộp tiền phạt không quá 6 tháng có phù
hợp không? đây là vấn đề cần nghiên cứu để điều chỉnh. Mặt khác, nếu hết
thời hạn luật định phải nộp tiền phạt, mà người bị kết án vẫn không chịu nộp
tiền phạt thì xử lý như thế nào. Về vấn đề này, hiện nay có quan điểm cho
rằng: "Trong trường hợp người bị kết án cố tình không nộp tiền phạt thì Tòa
án quyết định chuyển hình phạt tiền sang lao động công ích" [27, tr74] hoặc
có ý kiến khác cho rằng: "Để khắc phục hạn chế trên chúng ta cần tham khảo
luật hình sự một số nước đã áp dụng bằng cách thay thế hình phạt tiền bằng
các hình phạt khác nghiêm khắc hơn nếu người bị kết án không trả được tiền
phạt hoặc cố tình dây dưa, kéo dài không nộp phạt (ví dụ phạt tù giam)"
63
[67,tr30]. Theo chúng tôi, việc quy đổi hình phạt tiền sang các hình phạt khác
nghiêm khắc hơn (như tù có thời hạn) ở nước ta hiện nay là vấn đề hết sức khó
khăn và phức tạp, khó có thể thực hiện được. Bởi lẽ, việc xác định thu nhập
thực tế tình hình tài sản của cá nhân không phải đơn giản, chúng ta chưa có cơ
chế quản lý, theo dõi thu nhập một cách minh bạch, rõ ràng như nhiều nước
trên thế giới. Mặt khác, sẽ rất khó để đưa ra được một mức quy đổi hợp lý bao
nhiêu tiền thì bằng một ngày tù. Ngoài ra, việc quy đổi hình phạt tiền sang các
hình thức khác như lao động công ích, hoặc phạt tù có thời hạn... vô hình
chung sẽ thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tiền trên thực tế, làm giảm hiệu
quả của hình phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bởi vậy, theo
chúng tôi, BLHS hiện hành không sửa đổi bổ sung theo hướng quy định biện
pháp đảm bảo thi hành hình phạt tiền bằng việc quy đổi hình phạt này sang các
hình phạt khác, nhất là hình phạt tù, vì trái với chủ trương giảm hình phạt tù
của Ðảng và nhà nýớc ta. Ðể khắc phục tình trạng dây dưa, trây ỳ không chịu
nộp tiền phạt của người bị kết án, tăng tính khả thi của hình phạt tiền trên thực
tế, chúng tôi cho rằng, đối với những tội phạm có quy định hình phạt tiền là
hình phạt chính khi xem xét tình hình tài sản của người bị kết án nếu có khả
năng thi hành, thì Tòa án mới quyết định áp dụng hình phạt tiền, còn nếu
không có khả năng thi hành, thì Tòa án sẽ lựa chọn hình phạt khác để áp dụng
với người bị kết án. Đồng thời cơ quan thi hành án có thể áp dụng các biện
pháp ngăn chặn có tính chất tài sản để đảm bảo cho việc thi hành án phạt tiền.
Nếu sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án mà người phải thi hành
án vẫn cố tình không chịu nộp tiền phạt thì có thể áp dụng Điều 380 BLHS
hiện hành để truy cứu trách nhiệm hình sự người phải thi hành án về tội
"không chấp hành bản án".
+ Thứ tư, về việc khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam. Để đảm bảo công
bằng những người đã bị tạm giữ, tạm giam nhưng trong quá trình xét xử họ
phải chịu hình phạt tiền thì phải xem xét trừ đi phần thu nhập trong quá trình
64
họ đã bị tạm giữ, tạm giam.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 BLHS hiện hành thì: "Nếu người bị
kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào
thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ,
tạm giam bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ"; và khoản 1 Điều 38 BLHS
hiện hành thì quy định: "Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn
chấp hành hình phạt tù cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù".
Như vậy, đối với hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tù có thời hạn,
BLHS hiện hành đều có quy định thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào
thời hạn chấp hành hình phạt tù với tỷ lệ quy đổi như trên, Nhưng đối với hình
phạt tiền thì BLHS hiện hành không quy định việc quy đổi này, vì thế không
đảm bảo được nguyên tắc công bằng của luật hình sự Việt Nam, không đảm
bảo quyền lợi của người bị kết án. Điều này đã dẫn đến đến một thực tế là, một
số trường hợp người phạm tội khi bị Tòa án áp dụng hình phạt tiền là hình
phạt chính và bản thân họ đã bị tạm giữ, tạm giam trong một thời gian nhất
định không được khấu trừ và việc chấp hành hình phạt tiền. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân làm hạn chế phạm vi áp dụng hình phạt tiền.
Do vậy theo chúng tôi, để đảm bảo công bằng cũng như quyền lợi của
người bị kết án thì trường hợp người phạm tội bị áp dụng là hình phạt tiền là
hình phạt chính mà họ đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam
cần được trừ và việc chấp hành hình phạt tiền. Vấn đề đặt ra ở đây là mức
khấu trừ được tính theo tỷ lệ quy đổi như thế nào là hợp lý. Đây là vấn đề cũng
khá phức tạp, do vậy cơ quan có thẩm quyền cần có sự nghiên cứu thấu đáo để
đưa ra mức khấu trừ hợp lý nhất.
Việc quy đổi những ngày tạm giữ, tạm giam (hạn chế quyền về nhân thân
phi tài sản) và phạt tiền (quyền về sở hữu) do không cùng đối tượng về quyền
con người nên việc quy đổi là hết sức khó khăn, phức tạp và không có tiêu chí
để xác định. Tuy nhiên để đảm bảo quyền của người đã bị tạm giữ, tạm giam
65
nhưng Tòa án áp dụng hình phạt chính là phạt tiền chúng ta cần cân nhắc biện
pháp đối trừ những ngày đã bị tạm giữ tạm giam được quy ra tiền. Theo chúng
tôi, sau khi HĐXX căn cứ quy đinh pháp luật (Áp dụng pháp luật) quyết định
xử phạt bị cáo một số tiền nhất định. Nếu bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam thì cứ
một ngày tạm giữ, tạm giam được tính bằng một ngày công thu nhập của bị
cáo (nếu bị cáo có thu nhập ổn định) hoặc bằng mức lương tối thiểu vùng nếu
bị cáo không có thu nhập ổn định và lấy số tiền đã quyết định trừ đi số tiền
được quy đổi từ những ngày tạm giữ, tạm giam (số ngày tạm giữ, tạm giam
nhân với thu nhập bình quân hoặc thu nhập bình quân ngày của mức lương tối
thiểu vùng)
Ngoài những điểm hạn chế, bất cập nêu trên, các quy định của BLHS
hiện hành còn một số hạn chế về kỹ thuật lập pháp như: tại Điều 35 không có
quy định định nghĩa về hình phạt tiền cũng như nội dung của hình phạt này;
phạm vi loại tội phạm và lĩnh vực phạm tội có thể áp dụng hình phạt tiền là
hình phạt chính quy định trong BLHS hiện hành chưa thật sự đáp ứng được
yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, chưa đáp ứng đầy đủ chủ trương mở
rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền được đề cập trong Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp; khoảng cách giữa mức
tiền phạt tối thiểu với mức tiền phạt tối đa ở một số khung còn rộng; mức tiền
phạt quy định đối với một số tội phạm chưa thật sự tương xứng với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ... Những hạn chế này cần
nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện để phát huy hiệu quả của hình phạt tiền.
3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp cho những người có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự giải
quyết vụ án
Trong Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cũng như trong Báo
cáo tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49 – NQ/TN ngày 02/6/2005 của
66
Bộ Chính trị về Chiến lược này có đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh theo hướng đề cao quyền
hạn và trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị,
phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội
đối với từng loại cán bộ … [5, tr3].
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là những cán bộ tư pháp, có nhiệm vụ
xét xử các vụ án hình sự, bảo vệ công lý. Nếu những người này hạn chế về
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ pháp luật, thiếu trách nhiệm trong
thực thi nhiệm vụ, sa sút về đạo đức, lối sống… thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đối
với việc giải quyết vụ án , trong đó có việc áp dụng hình phạt nói chung, hình
phạt tiền nói riêng. Do vậy, để bảo đảm việc áp dụng hình phạt tiền được đúng
pháp luật đối với đội ngũ Thẩm phán cần làm tốt các công việc sau:
+ Trước tiên, cần hoàn thiện tiêu chí, điều kiện, qui trình bổ nhiệm
Thẩm phán. Mặc dù vấn đề này đã được qui định tương đối chặt chẽ trong
Luật Tổ chức TAND năm 2014, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
cũng như một số văn bản pháp luật khác, nhưng kết quả tuyển chọn, bổ nhiệm
Thẩm phán vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn
xét xử. Ở một vài địa phương trong đó có tỉnh Quảng Ninh; việc tuyển chọn bổ
nhiệm Thẩm phán chủ yếu quan tâm đến số lượng, ít chú ý đến chất lượng. Vấn
đề tổ chức thi tuyển để chọn người bổ nhiệm thẩm phán tuy đã được triển khai,
nhưng vẫn mang tính hình thức, không có tính cạnh tranh cao. Một số điều kiện
để được bổ nhiệm Thẩm phán mặc dù được qui định trong luật nhưng chưa cụ
thể, rõ ràng, còn chung chung và rất khó đánh giá. Chẳng hạn, khoản 3 Điều 68
Luật Tổ chức TAND năm 2014 có qui định một trong những điều kiện để bổ
nhiệm Thẩm phán là “có năng lực xét xử”. Vậy như thế nào là “có năng lực xét
xử” thì việc đánh giá chưa có sự thống nhất, dẫn tới có trường hợp Thẩm phán
được bổ nhiệm không đáp ứng được yêu cầu “có năng lực xét xử”.
+ Vấn đề tiếp theo không kém phần quan trọng là tiếp tục đổi mới nội
67
dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, kỹ năng xét xử, đạo đức công vụ cho đội ngũ Thẩm phán. Tại báo cáo tổng
kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49 – NQ/TW của Bộ chính trị nhấn mạnh:
“ Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán
bộ nguồn của các chức danh tư pháp (trong đó có Thẩm phán), bổ trợ tư
pháp. Thường xuyên bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến
thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và
kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sáng, có bản lĩnh dũng cảm
đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN, tôn trọng và bảo vệ quyền con
ngýời” [3,tr32]. Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn, bởi cán bộ tư pháp,
bổ trợ tư pháp nói chung, đội ngũ Thẩm phán nói riêng là những chủ thể có
thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết vụ án hình sự. Nếu
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp hạn chế, đạo đức công
vụ yếu kém … thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật
hình sự giải quyết đúng đắn vụ án.
Mặc dù vậy, trong một thời gian dài, công tác đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán được chú trọng đúng mức.
Phương thức đào tạo chủ yếu trang bị kiến thức cơ bản mang tính lý luận, ít
chú ý đến đào tạo kỹ năng xét xử đối với từng loại án cũng như kinh nghiệm
thực tiễn … Do vậy, thời gian tới cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp
đào tạo chuyên sâu về kỹ năng xét xử đối với từng loại án, tăng cường tập
huấn nghiệp vụ để phổ biến kinh nghiệm xét xử cho đội ngũ Thẩm phán.
+ Trong bối cảnh kinh tế thị trường cũng như đời sống sinh hoạt hiện
nay cần quan tâm hơn nữa đến cải cách chế độ tiền lương cũng như đãi ngộ
khác, nhất là trợ cấp nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán để họ thực sự yên
tâm thực thi công vụ, hạn chế tối đa những hiện tượng tiêu cực không đáng có.
+ Cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng xét
xử cho Thẩm phán, cần chú trọng hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư
68
tưởng, đạo đức lối sống cho đội ngũ này.
Đặc biệt là cần tăng cường tuyên truyền nhằm thay đổi nhận thức về vai
trò của hình phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với đội ngũ
thẩm phán. Bởi qua số liệu thống kê cho thấy, tỉ lệ áp dụng hình phạt tiền còn
thấp, phần nào là do nhận thức về vai trò, hiệu quả của hình phạt tiền chưa
đúng đắn, chưa toàn diện.
Mặt khác, đối với Hội thẩm nhân dân cần tập trung làm tốt các công
việc sau:
+ Cần phải có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân
dân đối với việc đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động xét xử nhằm đảm bảo
việc giải quyết vụ án được khách quan, chính xác và công bằng.
+ Quy định một cách cụ thể, rõ ràng, minh bạch hơn về việc lựa chọn
nhân sự để bầu Hội thẩm, cũng như những điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn,
nghiệp vụ đối với hội thẩm.
Trước hết cần lựa chọn những người có uy tín, có kiến thức pháp luật và
hiểu biết trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; có sức khỏe và quỹ thời gian
dành cho hoạt động Hội thẩm. Đặc biệt là phải lấy ý kiến của nhân dân nơi
người được giới thiệu cư trú, để giới thiệu bầu, cử làm Hội thẩm.
Về điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ đối với Hội thẩm mặc
dù đã được quy định tại Điều 85 Luật Tổ chức TAND năm 2014, nhưng còn
chung chung. Chẳng hạn tiêu chuẩn “có kiến thức pháp luật”… Đây là tiêu
chuẩn quan trọng, vì thế phải quy định một cách cụ thể, rõ ràng hơn như: phải
có trình độ trung học pháp lý trở lên; phải qua lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp
vụ xét xử.
+ Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho Hội thẩm. Học
viện Tòa án cần nghiên cứu, biên soạn tài liệu nghiệp vụ và tổ chức bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm. Bên cạnh đó, cần tổ chức các lớp
bồi dưỡng chuyên sâu theo từng chuyên đề, phổ biến các văn bản pháp luật
69
mới liên quan đến nghiệp vụ xét xử nhằm đảm bảo Hội thẩm được cập nhật
thường xuyên các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Hàng năm cần tổ chức hội nghị tổng kết công tác tham gia xét xử của Hội
thẩm, thông qua đó đánh giá chất lượng hoạt động của Hội thẩm.
+ Cùng với việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cần chú ý giáo dục
phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp cho Hội thẩm, đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn
về chính trị của Hội thẩm là “…có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và
kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực” (Điều 82 Luật Tổ chức
TAND năm 2014).
+ Quy định rõ chế độ trách nhiệm của Hội thẩm đối với các bản án,
quyết định mà mình tham gia giải quyết. Trường hợp có nhiều bản án bị hủy,
sửa vì lý do chủ quan của Hội thẩm hoặc do Hội thẩm thiếu trách nhiệm trong
công tác xét xử thì cần áp dụng các hình thức miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc các
chế tài xử lý khác.
+ Cần sửa đổi bổ sung chế độ chính sách đối với Hội thẩm, đặc biệt là
chế độ thù lao thỏa đáng đối với Hội thẩm. Phụ cấp cho Hội thẩm tham gia xét
xử cần nâng mức cao hơn quy định hiện hành không dừng lại ở mức 90.000
đồng/ngày như hiện tại.
3.2.3. Tăng cường phối hợp giữa Tòa án nhân dân với các cơ quan, tổ chức
và cá nhân khác có liên quan.
Trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có đề ra một
trong những nhiệm vụ là: “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp
trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh, đùn đẩy trách nhiệm” [3,tr4]. Quán
triệt nhiệm vụ này, ba cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cần tăng cường sự
phối hợp chặt chẽ trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Muốn vậy, phải xây
70
dựng được một cơ chế phối hợp chặt chẽ, khoa học, trong đó phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan và trách nhiệm phối hợp của ba cơ
quan này để tạo ra mối quan hệ cần thiết, bổ sung cho nhau trong suốt quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời, phải kiên quyết khắc phục hiện
tượng hữu khuynh, tình trạng: “quyền anh quyền tôi” hoặc đùn đẩy trách
nhiệm cho nhau. Đối với từng vụ án, từng giai đoạn tố tụng cần xác định nội
dung, hình thức phối hợp cụ thể sát với tình hình thực tế; việc phối hợp phải
được tiến hành kịp thời, thường xuyên, liên tục. Kinh nghiệm cho thấy, nếu ba
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với nhau thì
việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự được tiến hành nhanh chóng, kịp
thời và chính xác, việc quyết định hình phạt tiền của Tòa án đảm bảo đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật phù hợp với tình hình tài sản, sự biến động của
giá cả thị trường; hạn chế tối đa những sai sót không đáng có.
Trong quá trình xét xử vụ án hình sự nói chung, quyết định hình phạt
tiền nói riêng, những người tham gia tố tụng có vai trò không nhỏ đối với việc
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, nhất là luật sư bào chữa. Do vậy,
Hội đồng xét xử phải hết sức tôn trọng và lắng nghe ý kiến của họ khi tranh
luận, tranh tụng tại phiên tòa. Thực tế cho thấy, phiên tòa nào có luật sư bào
chữa tham gia thì việc giải quyết vụ án sẽ được chính xác, khách quan, công
bằng và nhân đạo hơn, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, người
bị hại … được bảo vệ tốt hơn. Đúng như một nhà nghiên cứu đã đánh giá: “Sự
tham gia của luật sư trong tố tụng hình sự thúc đẩy công tác điều tra, truy tố,
xét xử được đầy đủ và khách quan hơn, định tội đúng hơn, áp dụng hình phạt
có xem xét tất cả các tình tiết của vụ án và nhân thân bị cáo”. Tuy nhiên, hiện
nay ở nước ta, vai trò của luật sư, của người bào chữa chưa được đề cao đúng
mức trong xã hội, cũng như trong hoạt động tố tụng hình sự. Vì thế, để phát
huy vai trò của luật sư bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung,
trong hoạt động tranh luận, tranh tụng tại phiên tòa nói riêng phải đẩy mạnh
71
triển khai các biện pháp để phát triển và nâng cao năng lực của đội ngũ luật sư
đã được đề cập trong Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày
05/7/2011. Đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp đảm bảo cho luật sư bào chữa
thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đúng qui định của pháp
luật và lương tâm nghề nghiệp, nhất là cơ chế bảo dảm cho luật sư thực hiện
tốt việc tranh tụng dân chủ tại phiên tòa.
3.2.4. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát
xét xử, tổng kết thực tiễn, rút ra kinh nghiệm bài học trong áp dụng hình
phạt tiền
+ Để đảm bảo hoạt động quyết định hình phạt nói chung, hình phạt tiền
nói riêng của TAND được chính xác, khách quan, có tính khả thi, vấn đề
không kém phần quan trọng là phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra,
kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của Tòa án, nhất là vấn đề áp dụng hình
phạt tiền.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra
nhiệm vụ: “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trň
giám sát của cơ quan dân cử, của công luận và nhân dân đối với hoạt động tư
pháp” [5, tr4]. Đây là một chủ trương hết sức cấp thiết và quan trọng, vì thế
phải thường xuyên đổi mới và tăng cương hơn nữa. Thực tế cho thấy, ở địa
phương nào, Tòa án cấp nào làm tốt công tác này thì ở đó hoạt động xét xử nói
chung, hoạt động quyết định hình phạt tiền trong giải quyết vụ án nói riêng sẽ
có chất lượng, hiệu quả, sẽ phát hiện và khắc phục kịp thời những hạn chế, sai
sót trong hoạt động xét xử của Tòa án. Mặc dù có ý nghĩa quan trọng như vậy,
nhưng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra giám sát việc thực hiện các nhiệm
vụ cải cách tư pháp nói chung, hoạt động xét xử của tòa án nói riêng có nơi, có
lúc bị buông lỏng, chưa thường xuyên, kịp thời, chất lượng chưa cao.
Trong Đảng, chính quyền địa phương, trong ngành tòa án cũng như
72
trong xã hội còn thiếu một cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, sám sát một
cách đầy đủ, công khai, minh bạch và có hiệu quả để ngăn chặn những biểu
hiện tiêu cực, khắc phục kịp thời những hạn chế, yếu kém trong hoạt động xét
xử của tòa án. Việc thanh tra, kiểm tra trong nội bộ ngành tòa án đối với việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử của Tòa án dường như chưa đạt được
kết quả mong muốn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong khi đó, giám sát
của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) cũng như cơ quan
thanh tra chuyên ngành đôi khi còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng yêu
cầu thực tế. Giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án thì
chưa thực sự phát huy tác dụng vì chưa có các qui định cụ thể, chặt chẽ, đầy
đủ về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của tòa án… Về
vấn đề này, trong Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49 –
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã chỉ rõ: “Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với
một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn hạn chế, có nơi bị buông lỏng, thiếu
kiểm tra, đôn đốc, sự phối giữa các cấp ủy đảng các cơ quan tư pháp với nhau
và với cấp ủy đảng địa phương chưa thật sự chặt chẽ” [3,tr24]. Ở tỉnh Quảng
Ninh, những hạn chế, thiếu sót này cũng không ngoại lệ. Chẳng hạn, khi đánh
giá những mặt tồn tại trong công tác của TAND tỉnh Quảng Ninh năm 2018 về
vấn đề này có kết luận: “Lãnh đạo một số Tòa án chưa thật sự chủ động trong
triển khai nhiệm vụ công tác, công tác kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ và
thực thi công vụ của một số vơi chưa thường xuyên, hiệu quả cao… chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra” [58, tr.9].
Có thể thấy, những hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
kiểm tra, giám sát này đã ảnh hưởng không nhỏ đối với chất lượng, hiệu quả
xét xử của tòa án. Do vậy, để nâng cao chất lượng hiệu quả xét xử, đảm bảo
việc quyết định hình phạt của tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn
chế những oan sai trong xử lý vụ án cần chú trọng đổi mới và tăng cường hơn
73
nữa công tác lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, sự chỉ đạo của Tòa án cấp
trên nhưng phải đảm bảo: “Khi xét xử, tòa án hoàn toàn độc lập và chỉ tuân
thủ theo pháp luật”. Do vậy, khi thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần
tránh sự can thiệp quá sâu vào hoạt động quyết định hình phạt của tòa án.
Mặt khác, cần đề cao vai trò của VKS trong kiểm tra, giám sát hoạt
động xét xử, vai trò của cơ quan thanh tra chuyên nghành đối với việc giải
quyết vụ án của Tòa án. Đồng thời, cần xây dựng một cơ chế giám sát của
nhân dân, của công luận đối với hoạt động xét xử của tòa án một cách cụ thể,
công khai, minh bạch, trong đó qui định rõ quyền và nghĩa vụ giám sát của
nhân dân đối với hoạt động xét xử của tòa án.
+ Cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của tòa án, cần định kỳ tổng kết
thực tế xét xử để đánh giá những kết quả đạt được, rút ra bài học kinh nghiệm
… và phổ biến rộng rãi những kinh nghiệm đó trong ngành tòa án nếu có đủ
điều kiện thì xây dựng thành án lệ. Đồng thời, khi tổng kết cần đặc biệt chú ý
đến việc chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động xét xử, nhất là trong
quyết định hình phạt đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục kịp thời,
không để cho những hạn chế, thiếu sót đó tiếp tục xảy ra, gây ảnh hưởng đến
chất lượng, hiệu quả xét xử, nhất là đối với hoạt động quyết định hình phạt của
tòa án.
3.2.5. Đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, phương tiện công tác, nhất là
phương tiện khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao
Trong nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/5/20005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra phương hướng: “Tổ chức
các cơ quan tư pháp và các chế định hỗ trợ tư pháp hợp lý , khoa học và hiện
đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc” [5].
Đây là một phưng hướng hết sức đúng đắn, nhất là trong bối cảnh tác
74
động của cuộc cách mạng 4.0. Trong bối cảnh đó, để đảm bảo cho TAND định
tội danh và quyết định hình phạt đúng, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án
về hình sự, Nhà nước cần đầu tư thỏa đáng kinh phí, đảm bảo các điều kiện
phục vụ hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp, đặc
biệt là TAND.
Trước hết, cần đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các
cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp, trong đó có TAND. Tiếp tục đầu tư xây
dựng trụ sở làm việc của TAND cấp huyện khang trang phù hợp với yêu cầu
sử dụng. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, công tác xét
xử, thi hành án, công tác định giá tài sản; tăng cường áp dụng công nghệ thông
tin vào hoạt động xét xử, tiến tới xây dựng tòa án điện tử. Đặc biệt trong bối
cảnh tỉnh Quảng Ninh đang là một trong ba tòa án được TANDTC áp dụng thí
điểm hệ thống gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu chứng từ và cấp, tống đạt,
thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử, triển khai phần niên giám
sát hoạt động chuyên môn.
Trên đây là những giải pháp cơ bản, nếu được triển khai đồng bộ, kịp
thời, quyết liệt, chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo áp dụng
đúng pháp luật hình sự trong quyết định hình phạt trong đó có hình phạt tiền
của TAND không chỉ ở tỉnh Quảng Ninh mà còn trong phạm vi cả nước.
Tiểu kết Chương 3
Xuất phát từ thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật hình sự về
hình phạt tiền tại tỉnh Quảng Ninh đặt ra vấn đề phải tìm ra những giải pháp
nâng cao chất lượng xét xử, để đảm bảo quyết định hình phạt đúng, thỏa đáng
đối với người bị kết án. Việc đề ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng qui
định của pháp luật hình sự về hình phạt tiền cần phải quán triệt các yêu cầu mà
thực tiễn đặt ra, trong đó tập trung vào các yêu cầu cơ bản như yêu cầu bảo vệ
quyền con người, yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
75
phạm, yêu cầu hội nhập quốc tế. Những yêu cầu này có tính chất định hướng,
chỉ đạo việc thiết lập hệ thống giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các qui định
của pháp luật hình sự về hình phạt tiền.
Để đáp ứng các yêu cầu trên bảo đảm việc quyết định hình phạt tiền
được đúng quy định của pháp luật, có tính khả thi, cần triển khai thực hiện
đồng bộ các giải pháp như: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự;
Tăng cường nhân lực, vật lực cho hoạt động xét xử các vụ án về hình sự.
Những giải pháp này nếu được triển khai thực hiện một cách kịp thời, đầy đủ
sẽ đem lại kết quả thiết thực trong quá trình giải quyết vụ án, nhất là trong áp
76
dụng hình phạt tiền.
KẾT LUẬN
Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm, pháp luật hình sự Việt Nam đã sớm qui định về hình phạt tiền là một
trong những hình phạt trong hệ thống hình phạt của nước ta ngày càng được
hoàn thiện.
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng hình phạt tiền trên phạm vi cả nước
cũng như ở từng địa phương, trong đó có tỉnh Quảng Ninh ngoài những kết
quả đạt được thì vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót. Những hạn chế, thiếu sót
này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau như: sự hạn chế,
bất cập trong các qui định của pháp luật hình sự và pháp luật có liên quan;
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ của chủ thể áp dụng còn yếu
kém; (đặc biệt là TAND); kinh phí, điều kiện, phương tiện công tác của các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự nói chung của TAND nói riêng còn hạn chế…
Để đảm bảo chất lượng xét xử, nhất là quyết định hình phạt tiền cần
phải triển khai đồng bộ các giải pháp khác nhau như: tiếp tục hoàn thiện các
qui định của BLHS năm 2015 và các qui định của BLTTHS năm 2015 có liên
quan đến việc áp dụng hình phạt tiền; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp
luật hình sư; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa TAND với các cơ quan
hữu quan; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát xét xử,
tổng kết thực tiễn; đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, điều kiện, phương tiện
công tác cho các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, nhất là TAND ... Các giải
pháp này nếu được triển khai đồng bộ, liên tục, kiên quyết sẽ đem lại kết quả
thiết thực trong áp dụng hình phạt tiền.
Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã có nhiều có gắng, nhưng
không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả của luận văn kính
mong nhận được sự đóng góp của các nhà khoa học, các cán bộ thực tiễn, các
thầy, cô giáo để tác giả tiếp tục hoàn thiện, đảm bảo luận văn được hoàn thiện
77
hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hải Băng (2011), “Hình phạt tiền theo quy định của BLHS năm 1999
và một số kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí TAND số 01, Hà Nội.
2. Vũ Lai Bằng (1997), “Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam; Những
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ, Viện nghiên cứu nhà
nước và pháp luật, Hà Nội;
3. Ban chấp hành Trung ương – Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2014), “Báo
cáo tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội;
4. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội;
5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;
6. Bộ Tư pháp – Tạp chí Dân chủ và pháp luật (2000), số chuyên đề về BLHS
(năm 1999), Hà Nội;
7. C. Mác – Ph. Ăng ghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
8. Lê Cảm (2007), “Hình phạt và hệ thống hình phạt”, Tạp chí TAND, số 14,
Hà Nội
9. Ngô Văn Dũng (2014), “Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội;
10. Đỗ Văn Chỉnh (2009), “Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí
TAND số 5, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Đức (2014), “Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Long An”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
12. Vũ Thế Đoàn (2011), “Hình phạt tiền quy định trong BLHS năm 1999 và
78
một số kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí TAND, số 1, Hà Nội.
13. Trần Văn Độ (2017, “Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm
tội trong BLHS năm 2015”, Tạp chí TAND, số 24, Hà Nội.
14. Đặng Thị Thu Hằng (2019), “Áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Phú Yên”, Luận văn thạc sĩ, Học
viện KHXH, Hà Nội;
15. Trần Thúy Hằng (2010), “Cần bổ sung sửa đổi các điều kiện áp dụng hình
phạt tiền và hình phạt cải tạo không giam giữ trong BLHS”, Tạp chí
Kiểm sát số 18, Hà Nội.
16. Nguyễn Hữu Hậu (2007), “Đề xuất định hướng hoàn thiện các quy định về hình
phạt theo yêu cầu của cải các tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát số 7, Hà Nội.
17. Nguyễn Ánh Hồng (2017), “Hoàn thiện chính sách hình phạt trong quy
định của BLHS năm 2015 theo tinh thần của các công ước quốc tế về
quyền con người”, Tạp chí khoa học pháp lý số 6.
18. Phạm Thị Phương Hiền (2017), “Hình phạt chính áp dụng đối với pháp
nhân thương mại phạm tội trong BLHS năm 2015”, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật số 2, Hà Nội.
19. Nguyễn Ngọc Hòa (2001), “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội;
20. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), (2018), Bình luận khoa học PLHS năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần chung), Nxb Tư pháp, Hà Nội;
21. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên),Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND, Hà Nội;
22. Nguyễn Mạnh Kháng (2000), “Hình phạt một số vấn đề lý luận”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 8, Hà Nội
23. Nguyễn Mạnh Kháng (2002), “Quan điểm tiếp cận hiệu quả của hình
phạt”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8, Hà Nội
24. Nguyễn Minh Khuê (2014), “Hiệu quả của các hình phạt chính trong hệ
thống hình phạt Việt Nam – đánh giá dưới góc độ chi phí xã hội”, Tạp
79
chí Nhà nước và pháp luật số 1, Hà Nội
25. Nguyễn Minh Khuê (2015), “Các hình phạt chính không tước tự do trong luật
hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luận học, Học viện KHXH, Hà Nội;
26. Nguyễn Minh Khuê (2015), “Đảm bảo hiệu quả của các hình phạt chính
không tước tự do trong Luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật số 2, Hà Nội.
27. Nguyễn Hoàng Lâm (2012), “Hoàn thiện quy định về hình phạt tiền trong
BLHS Việt Nam hiện hành”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7, Hà Nội
28. Võ Khánh Linh (2016), “Tính quyết định xã hội của hình phạt: Một số
khía cạnh lý luận” Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội số 10, Hà Nội.
29. Võ Khánh Linh (2017), “Xã hội học hình phạt – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Luận án tiến sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
30. Nguyễn Quang Lộc (2017), “Một số sửa đổi, bổ sung cơ bản của BLHS
năm 2015” Kỳ I, II, III, Tạp chí TAND số 18, 19, 20, Hà Nội;
31. Dương Tuyết Miên (2003), Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội;
32. Dương Tuyết Miên (2004), “Định tội danh và quyết định hình phạt”, Nxb
CAND, Hà Nội;
33. Dương Tuyết Miên (2006), “Sự mâu thuẫn giữa hình phạt tiền quy định tại
khoản 1, Điều 30 BLHS với một số tội phạm cụ thể và những bất cập
của hình phạt này”, Tạp chí TAND số 15, Hà Nội.
34. Dương Tuyết Miên (2015), “Về phạt tiền và cải tạo không giam giữ”, Tạp
chí Luật học số 3, Hà Nội.
35. Phùng Thị Hải Ngọc (2015), “Hình phạt tiền trong Luật hình sự Việt
Nam”, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội
36. Đinh Văn Quế (2001), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
37. Đinh Văn Quế (2018), “Hình phạt và quyết định hình phạt đối với pháp nhân
80
thương mại phạm tội trong BLHS năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số 8,
38. Quốc hội (2018), Bộ luật hình sự năm 2015, (đã được sửa đổi bổ sung năm
2017), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
39. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm
2009, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
40. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
41. Quốc hội (2016) Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
42. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức TAND, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội;
44. Quốc hội (2013), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội;
45. Quốc hội (2010), Luật thi hành án hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
46. Quốc Hội ( ), Luật thi hành án dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
47. Nguyễn Sơn (2003), Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam,
Luận án tiến sĩ, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội;
48. Nguyễn Sơn (1998), “Hình phạt tiền điều kiện và thực tiễn áp dụng, thi
hành hình phạt tiền là hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam”,
Tạp chí TAND số 11.
49. Nguyễn Ngọc Thắng (2015), “Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH,
Hà Nội;
50. Trương Đức Thuận (2018), “Bàn về một số yếu tố tác động đến chất lượng
áp dụng hình phạt ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí TAND số 11, tr 21-26,
Tạp chí TAND số 12.
51. Trương Đức Thuận (2018), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng áp
dụng hình phạt ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã
81
hội số 6, Hà Nội.
52. Mai Thị Thủy (2018), “Những điểm mới trong quy định của BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về các hình phạt đối với người phạm
tội”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4.
53. Mai Thị Thủy, Đào Thị Nguyệt (2016), “Về hình phạt tiền áp dụng ðối với
ngýời phạm tội trong BLHS nãm 2015”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật
số 4, Hà Nội.
54. Trịnh Quốc Toản (2011), Hình phạt bổ sung trong Luật hình sự Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
55. Trịnh Quốc Toản (2015), “Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt
Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người (sách chuyên khảo)”, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội
56. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập 1
(1945-1974), Hà Nội
57. Tòa án nhân dân tối cao (1977), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập 2
(1975-1978), Hà Nội
58. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2019), Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ công tác các năm từ năm 2014 – 2018, Quảng Ninh;
59. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2018), Số liệu thống kê xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự (giai đoạn 2014 – 2018), Quảng Ninh;
60. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2018), Bản án hình sự sơ thẩm số
97/2018/HS-ST của TAND tỉnh Quảng Ninh.
61. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Phần chung, Nxb CAND, Hà Nội;
62. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam, Phần chung, Nxb Hồng Đức;
63. Trương Quang Vinh (1999), “Hình phạt tiền trong BLHS năm 1999”, Tạp
chí Luật học số 2.
64. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
82
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
65. Võ Khánh Linh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt
Nam, Nxb CAND, Hà Nội;
66. Trần Thị Quang Vinh (2001), “Ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trong chế định quyết định hình phạt theo BLHS năm
1999”, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 7.
67. Trịnh Tiến Việt (2006), “Hoàn thiện một số quy định của BLHS năm 1999
về hình phạt trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7.
68. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (1995), Hình phạt trong
83
luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Bảng 2.1. Tình hình xét xử các vụ án hình sự của TAND tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2014 – 2018.
Đã xét xử Vụ Báo cáo Tỉ lệ % Báo cáo Vụ Năm
(2) (1) (3) (4) 3/1 4/2
3.310 1.839 1.770 3.118 96,24 94,19 2014
2.607 1.491 1.444 2.467 96,84 94,62 2015
2.863 1.493 1.397 2.574 93,56 89,90 2016
2.794 1.559 1.340 2.403 85,95 86,46 2017
2.670 1.678 1.595 2.507 95,05 93,89 2018
8.060 7.546 91,75 14.244 13.069 Tổng 93,62
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Ninh
Bảng 2.2. Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo tại tỉnh Quảng
Ninh giai đoạn 2014 – 2018.
Hình phạt được áp dụng
Tù Tù Tù
Cải Tù từ trên trên trên
tạo 3 3 7 15 Tù Số bị Cảnh Phạt Án Tử không năm năm năm năm chung Năm cáo báo tiền treo hình giam trở đến đến đến thân
giữ xuống 07 15 20
năm năm năm
2.387 02 13 17 377 1.142 418 256 97 27 38 2014
1.952 14 20 17 371 935 298 195 64 25 13 2015
2.084 02 18 21 382 1.035 292 215 80 27 12 2016
2.052 00 16 35 442 968 279 206 81 16 09 2017
2.040 03 47 45 447 943 297 180 65 13 00 2018
Tổng 10.515 21 114 135 2.019 5.023 1.584 1.052 387 108 72
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Ninh
Bảng 2.3. Hình phạt tiền áp dụng đối với bị cáo tại tỉnh Quảng
Ninh giai đoạn 2014 – 2018
Hình phạt tiền Tỉ lệ %
Số bị cáo Hình phạt Hình phạt Năm chính bổ sung 2/1 3/1
1 2 3
2.387 13 43 0,54 1,80 2014
1.952 20 19 1,02 0,97 2015
2.084 18 20 0,86 0,95 2016
2.052 16 20 0,77 0,97 2017
2.040 47 52 2,30 2,54 2018
Tổng 10.515 114 154 1,08 1,46
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Ninh