VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THỊ THANH HƯƠNG

HÌNH PHẠT TIỀN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THỊ THANH HƯƠNG

HÌNH PHẠT TIỀN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. PHẠM MINH TUYÊN

Hà Nội, 2019

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TIỀN ............ 8

1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền ................ 8

1.2. Phân biệt hình phạt tiền với các hình phạt và biện pháp phạt khác

có liên quan ............................................................................................... 17

Chương 2: QUY ĐỊNH HÌNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ HÌNH PHẠT TIỀN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN

NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH ............................................................. 23

2.1. Quy định về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt Nam .......... 23

2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền tại Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh .............................................................................................. 40

Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ HÌNH PHẠT TIỀN ....... 52

3.1. Yêu cầu đối với việc áp dụng đúng hình phạt tiền ............................ 52

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật

hình sự về hình phạt tiền ........................................................................... 60

KẾT LUẬN .................................................................................................... 77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

TAND : Toà án nhân dân

TANDTC : Toà án nhân dân tối cao

TANDCC : Toà án nhân dân cấp cao

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

KHXH : Khoa học xã hội

Nxb : Nhà xuất bản

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hình phạt tiền là một loại hình phạt trong hệ thống hình phạt vừa được

quy định với tính chất là hình phạt chính vừa được quy định với tính chất là

hình phạt bổ sung. Đây là một trong những hình phạt có lịch sử lâu đời đã

được quy định trong pháp luật của Nhà nước Việt Nam từ khá sớm. Cùng với

sự phát triển của pháp luật hình sự, các quy định về hình phạt tiền cũng dần

dần được hoàn thiện. Trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, hình phạt tiền

không chỉ được quy định để áp dụng đối với các cá nhân (thể nhân) bị kết án

mà còn để áp dụng đối với pháp nhân thương mại bị kết án về một số tội

phạm nhất định. Có thể thấy, hình phạt tiền được quy định trong BLHS năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là kết quả của nhiều lần sửa đổi, bổ sung

trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng và thi hành hình phạt này của các Cơ

quan bảo vệ pháp luật.

Việc quy định và áp dụng hình phạt này đã thể hiện được chính sách

hình sự của Đảng và Nhà nước ta là “Trừng trị kết hợp với khoan hồng,

nghiêm trị kết hợp với giáo dục, cải tạo, cảm hóa người phạm tội”, thể hiện

quan điểm chỉ đạo về đấu tranh phòng, chống tội phạm theo phương châm

“đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người

phạm tội”

Mặc dù vậy, trong thực tiễn xét xử ở tỉnh Quảng Ninh cũng như trong

phạm vi toàn quốc, việc áp dụng hình phạt tiền còn rất khiêm tốn. Có tình

trạng này là do các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tiền mặc dù

đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần qua các thời kỳ nhưng vẫn còn những hạn

chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó,

nhận thức về vị trí, vai trò của hình phạt tiền; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,

1

ý thức pháp luật, trách nhiệm nghề nghiệp của một bộ phận những người làm

công tác xét xử còn hạn chế. Điều đó vô hình chung đã làm giảm hiệu lực và

hiệu quả của hình phạt tiền trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện cải cách tư pháp

theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính

trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với phương châm: “Hoàn

thiện chính sách hình sự, thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa

và tính hướng hiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở

rộng áp dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm.

Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình...” [5, tr 3]. Thêm vào đó, sự phát triển, bổ

sung và đề cao quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013

đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành để

các quyền con người, quyền công dân được bảo vệ và đảm bảo trên thực tế.

Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật quy định về

hình phạt tiền để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những kiến nghị hoàn

thiện và đảm bảo áp dụng đúng các quy định của BLHS hiện hành về hình

phạt tiền theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong

việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo vệ quyền con người và quyền

công dân là hết sức cần thiết và cấp thiết.

Với lý do trên, học viên lựa chọn đề tài “Hình phạt tiền theo pháp luật

hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm luận văn

thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Hình phạt tiền là một loại hình phạt có lịch sử lâu đời, được quy định

trong hầu hết BLHS của các nước trên thế giới và Việt Nam không phải là

một ngoại lệ. Do vậy, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học quan tâm

nghiên cứu về hình phạt tiền ở nhiều phương diện khác nhau, với cấp độ

nghiên cứu rộng, hẹp khác nhau. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn bổ

2

ích mà học viên tham khảo, tiếp thu để thực hiện đề tài luận văn của mình.

Trong số những công trình khoa học đề cập đến hình phạt tiền mà học viên có

điều kiện tiếp cận nghiên cứu chủ yếu là các công trình cụ thể sau đây:

+ Hệ thống các giáo trình Luật hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo

ngành luật như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội,

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội,

đặc biệt là cuốn giáo trình Luật hình sự Việt Nam-phần chung và phần các tội

phạm do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, được Nhà xuất bản khoa học xã

hội phát hành năm 2013 và năm 2014. Trong những cuốn giáo trình này, các

tác giả đều làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hình phạt tiền ở mức

độ khái quát nhất.

Ngoài hệ thống giáo trình nêu trên, đề cập đến hình phạt tiền còn có các

cuốn bình luận khoa học BLHS, đặc biệt là cuốn “Bình luận Khoa học BLHS

năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017” (phần chung) do GS.TS Nguyễn

Ngọc Hòa chủ biên. Trong các cuốn bình luận Khoa học BLHS, các tác giả đã

bình luận làm rõ nội dung của các điều luật quy định hình phạt tiền trên các

mặt: bản chất, nội dung, điều kiện, căn cứ áp dụng....

+ Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ (chuyên ngành Luật hình sự và tố

tụng hình sự) có các công trình tiêu biểu như: Luận án tiến sĩ “Các hình phạt

chính trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Sơn, Viện nghiên cứu

Nhà nước và pháp luật năm 2003; luận án tiến sĩ “Quyết định hình phạt đối

với người chưa thành niên phạm tội ở thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả

Lương Ngọc Châm, Học viện khoa học xã hội năm 2015; Luận án tiến sĩ “Xã

hội học hình phạt - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Võ Khánh

Linh, Học viện KHXH năm 2017; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt bổ sung theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng”, Học viện KHXH

năm 2016; Luận văn thạc sĩ “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành

niên phạm tội qua thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Hải Dương” của tác giả Vũ

Minh Hải, Học viện KHXH năm 2013; Luận văn thạc sĩ “Quyết định hình

3

phạt trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn T.P Đà Nẵng” của tác giả

Trương Minh Tuấn, Học viện KHXH năm 2015; Luận văn thạc sĩ “Tổng hợp

hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn TP. Đà Nẵng” của tác

giả Dương Hoàng Tú, Học viện KHXH năm 2016; Luận văn thạc sĩ “Hình

phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận”

của tác giả Nguyễn Xuân Hùng; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt tiền theo pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” của tác giả Nguyễn Văn

Đức, Học viện KHXH năm 2014; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt tiền theo pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” của tác giả Nguyễn Ngọc

Thắng, Học viện KHXH năm 2015.... Những luận án, luận văn nêu trên chủ

yếu đề cập đến hình phạt nói chung (trong đó có hình phạt tiền), tuy nhiên

cũng có những luận văn đề cập riêng về hình phạt tiền từ thực tiễn của một

địa bàn cụ thể trên cả phương diện: lý luận, thực tiễn quyết định, áp dụng và

giải pháp. Đây là những tài liệu tham khảo quý giá để học viên thực hiện đề

tài luận văn của mình.

+ Sách chuyên khảo, có các công trình tiêu biểu như: cuốn “Hình phạt

và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Đinh Văn

Quế, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2000; cuốn “Định tội danh và quyết định

hình phạt” của tác giả Dương Tuyết Miên, NXB Công an nhân dân năm

2004; cuốn “Nghiên cứu hình phạt trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ

bảo vệ quyền con người” của tác giả Trịnh Quốc Toàn, NXB Chính trị Quốc

gia, năm 2015; cuốn “Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của Viện

nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, NXB Chính trị Quốc gia năm

1995.v.v. Những cuốn sách chuyên khảo này đi sâu nghiên cứu những vấn đề

lý luận về hình phạt được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam, nhưng

chủ yếu theo quy định của BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999. Tuy nhiên,

những công trình nghiên cứu này đã giúp học viên có cách tiếp cận nghiên

cứu lý luận về hình phạt tiền, một trong những loại hình phạt nói chung.

+ Các bài báo khoa học có: “Một số vấn đề lý luận về hình phạt tiền”

4

của tác giả Nguyễn Hoàng Lâm, tạp chí TAND số 16/2009; “Hình phạt tiền

trong BLHS năm 1999” của tác giả Trương Quang Vinh, tạp chí Luật học, số

2/2000; “Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh, tạp

chí TAND, số 5/2009; “Hoàn thiện quy định về hình phạt tiền” của tác giả

Nguyễn Hoàng Lâm, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2012; “Cần bổ sung

các điều kiện áp dụng hình phạt tiền... trong luật hình sự Việt Nam” của tác

giả Trần Thúy Hằng, tạp chí Kiểm sát số 18/2010; “Hình phạt tiền áp dụng

đối với người phạm tội trong BLHS năm 2015” của tác giả Mai Thị Thủy và

Đào Thì Nguyệt, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4/2016.v.v. Những bài báo

khoa học trực tiếp đề cập đến hình phạt tiền cả dưới góc độ lý luận và quy

định của luật thực định (BLHS) là những tài liệu bổ ích để học viên tham

khảo, tiếp thu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài luận văn “Hình phạt tiền

theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”

Như vậy, mặc dù đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về

hình phạt nói chung, hình phạt tiền nói riêng, nhưng do mục đích, nhiệm vụ,

phạm vi nghiên cứu khác nhau nên chưa có một công trình nào nghiên cứu hệ

thống, chuyên sâu về hình phạt tiền được quy định trong BLHS năm 2015 từ

thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Qua đây có thể xác định luận văn này không trùng

lặp với các công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài

luận văn của học viên.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn pháp luật (quy định và áp

dụng) về hình phạt tiền, luận văn hướng tới mục đích kiến nghị những quy

định cần sửa đổi, bổ sung về hình phạt tiền trong BLHS hiện hành và giải

pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định đó nhằm nâng cao hiệu quả của

hình hình phạt này trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như bảo

5

vệ và đảm bảo quyền con người trong bối cảnh hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ

nghiên cứu sau:

+ Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hình phạt tiền trên các

bình diện: khái niệm, đặc điểm, mục đích, vị trí, vai trò của hình phạt tiền với

tính cách là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, được quy định đối với cả cá

nhân phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội.

+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình

sự về hình phạt tiền của TAND tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014 - 2018, rút ra

những mặt tích cực, cũng như hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân.

+ Đưa ra yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của

BLHS hiện hành về hình phạt tiền trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của

pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Về lý luận: Luận văn nghiên cứu về hình phạt tiền trong phạm vi lý

luận chuyên ngành luật hình sự và Tố tụng hình sự.

+ Về thực tiễn: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn quy định và

quyết định hình phạt tiền của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

+ Về không gian, thời gian: Số liệu, bản án được thu thập, đánh giá ở

tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận (cơ sở lý luận)

của Chủ nghĩa Mác - LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và

Nhà nước về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp, về bảo vệ và bảo đảm

6

quyền con người trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Ngoài ra, luận văn còn dựa trên lý luận chuyên ngành luật hình sự về

hình phạt tiền để làm rõ đối tượng nghiên cứu.

5.2. Các phương pháp nghiên cứu

Cụ thể được sử dụng gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,

chuyên gia... Các phương pháp này được sử dụng kết hợp để làm rõ từng nội

dung nghiên cứu trong luận văn

6. Ý nghĩa của lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm

những vấn đề lý luận về hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để sửa đối, bổ sung

hoàn thiện các quy định của BLHS về hình phạt tiền, cũng như trong thực tiễn

áp dụng để đạt được mục đích, hiệu quả của hình phạt tiền trong đấu tranh

phòng, chống tội phạm.

Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo trong học tập, giảng dạy,

nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hình sự.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn được cấu trúc thành 3 Chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về hình phạt tiền

Chương 2: Thực tiễn quy định hình phạt tiền trong luật hình sự Việt

Nam và thực trạng áp dụng hình phạt tiền tại tỉnh Quảng Ninh

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định

7

của pháp luật hình sự về hình phạt tiền.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TIỀN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm

1.1.1.1. Khái niệm

Hình phạt tiền là một trong những hình phạt được quy định từ lâu trong

hệ thống hình phạt của nước ta. Nhưng trong các văn bản quy phạm pháp luật

hình sự của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay vẫn chưa có quy phạm định

nghĩa về khái niệm hình phạt tiền.

Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có nhiều định nghĩa khác nhau

về khái niệm hình phạt tiền như: “Phạt tiền là hình phạt buộc người phạm tội

phải nộp một khoản tiền nhất định vào ngân sách Nhà nước” [61, tr.272].

Khái niệm này mặc dù hết sức khái quát nhưng cũng chỉ ra được nội dung của

hình phạt tiền là “buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền nhất định vào

ngân sách Nhà nước”. Tuy nhiên, trong khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ

đặc điểm, tính chất, chủ thể, đối tượng, phạm vi, mục đích áp dụng của hình

phạt tiền.

Quan điểm khác thì cho rằng: “Phạt tiền được hiểu là một trong những

biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được Tòa án quyết định trong bản án kết

tội đối với người bị kết án về những tội phạm được BLHS xác định với nội

dung là tước một khoản tiền nhất định của họ sung vào quỹ của Nhà nước,

thông qua đó giáo dục, cải tạo họ, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời

thực hiện phòng ngừa, giáo dục chung” [20, tr.183]. Tương tự như quan điểm

này, có tác giả định nghĩa: “Phạt tiền là một trong những biện pháp cưỡng

chế của Nhà nước được Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với người

bị kết án về những tội phạm do luật hình sự quy định với nội dung là tước một

8

khoản tiền nhất định của họ sung vào công quỹ của Nhà nước, thông qua đó

giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm

tội mới, đồng thời thực hiện phòng ngừa, giáo dục chung” [55, tr.84].

Đây là những khái niệm đầy đủ về hình phạt tiền trong đó đã phản ánh

được bản chất, nội dung của hình phạt tiền cũng như đối tượng, phạm vi, chủ

thể, và mục đích áp dụng loại hình phạt này. Nhưng trong hai khái niệm này

đêu diễn đạt “Phạt tiền là hình phạt....”, theo chúng tôi chưa thật sự chính

xác và đúng như BLHS quy định. Bởi vì, phạt tiền theo quy định của pháp

luật có thể là phạt hành chính, có thể là hình phạt. Đồng thời, trong các BLHS

đều dùng thuật ngữ “hình phạt tiền” mà không dùng thuật ngữ “phạt tiền”.

Mặt khác, những khái niệm này, được đưa ra trước thời điểm BLHS năm

2015 được ban hành, vì thế chưa phản ánh đầy đủ đối tượng bị áp dụng hình

phạt tiền, đó là pháp nhân thương mại bị kết án.

Kế thừa những yếu tố hợp lý trong những khái niệm trên, đồng thời

trên cơ sở quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt tiền, chúng tôi cho

rằng, trong nội hàm khái niệm hình phạt tiền cần thể hiện đầy đủ bản chất, nội

dung, chủ thể, đối tượng, phạm vi, mục đích áp dụng... Với cách tiếp cận như

vậy, khái niệm hình phạt tiền cần được định nghĩa như sau: “Hình phạt tiền là

biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được quy định trong BLHS với tính chất

là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, do Tòa án quyết định trong bản án

kết tội đối với người bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án về những

tội được Bộ luật này xác định, với nội dung tước một khoản tiền nhất định của

đối tượng bị kết án sung công quỹ của Nhà nước nhằm phòng ngừa riêng,

cũng như phòng ngừa chung”.

1.1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tiền

Là một hình phạt trong hệ thống hình phạt, hình phạt tiền mang đầy đủ

các đặc điểm chung của hình phạt như: là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc

(trừng trị, giáo dục, cải tạo) của Nhà nước; được quy định cụ thể trong BLHS;

9

do Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với đối tượng bị kết án...

Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, hình phạt tiền có những đặc

điểm riêng khác với hình phạt còn lại trong hệ thống hình phạt, đó là:

+ Thứ nhất, hình phạt tiền là hình phạt có khả năng tác động về mặt

kinh tế đối với đối tượng bị áp dụng. Đặc điểm này của hình phạt tiền thể hiện

ở nội dung của nó là: “tước một khoản tiền nhất định của đối tượng bị áp

dụng sung công quỹ của Nhà nước”. Vì thế, hình phạt tiền có khả năng tác

động đến ý thức của đối tượng bị áp dụng, buộc đối tượng phải nhận thức

được sự lên án của Nhà nước, nhận thức được tính chất sai trái của hành vi

mà mình thực hiện để có phương hướng sửa chữa. Đồng thời, hình phạt tiền

còn có tác dụng loại trừ, hạn chế những điều kiện về tài sản mà đối tượng có

thể sử dụng để tiếp tục phạm tội.

+ Thứ hai, hình phạt tiền là loại hình phạt lưỡng tính vừa được quy

định là hình phạt chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung.

Cũng như hình phạt trục xuất, hình phạt tiền vừa tồn tại trong hệ thống

hình phạt chính, vừa tồn tại trong hệ thống hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, tính

lưỡng tính này của hình phạt tiền hoàn toàn không cho phép áp dụng trong cùng

một tội phạm, có nghĩa là đối với một tội phạm cụ thể, hình phạt tiền chỉ có thể

áp dụng là hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính. Quy định

như vậy, đúng như một tác giả đã nhận định: “Nhà làm luật đã mở ra khả năng

đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, tăng cường tính linh hoạt trong việc

vận dụng, định hướng áp dụng hình phạt mà luật đã định”[55, tr.85].

+ Thứ ba, hình phạt tiền được áp dụng đối với cả cá nhân (thể nhân) bị

kết án và pháp nhân thương mại bị kết án.

Nếu như một số hình phạt như hình phạt cải tạo không giam giữ, hình

phạt tù, hình phạt tử hình... chỉ có thể áp dụng đối với cá nhân người bị kết án

(thể nhân) thì hình phạt tiền theo quy định của BLHS hiện hành có thể áp

10

dụng đối với cá nhân bị kết án và cả pháp nhân thương mại bị kết án. Như

vậy, đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền rộng hơn đối tượng bị áp dụng một

số hình phạt khác, do tính chất, nội dung của các loại hình phạt này

1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền

1.1.2.1. Mục đích của hình phạt tiền

Với bản chất là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, nội

dung của hình phạt tiền được thể hiện ở việc tước một số tiền nhất định của

đối tượng (thể nhân hoặc pháp nhân thương mại) bị kết án sung công quỹ Nhà

nước. Mức phạt tiền (khoản tiền bị tước sung vào công quỹ của Nhà nước) phải

tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến

tình hình tài sản của đối tượng bị áp dụng, cũng như sự biến động của giá cả,

nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng (đối với cá nhân bị kết án) và

không được thấp hơn 50.000.000 đồng (đối với pháp nhân thương mại bị kết án).

Có thể thấy, sự tước bỏ một khoản tiền nhất định của đối tượng bị kết án sung

công quỹ của Nhà nước thể hiện tính nghiêm khắc của hình phạt này.

Với nội dung là tước bỏ lợi ích kinh tế (một khoản tiền nhất định) của

đối tượng bị kết án, hình phạt tiền có khả năng tác động về mặt kinh tế (tài

sản) đối với cá nhân người phạm tội, cũng như đối với pháp nhân thương mại

phạm tội. Nếu không tước bỏ một khoản tiền nhất định, đối tượng bị kết án sẽ

không nhận thức được lỗi lầm của mình, không nhận thức được tính không

tránh khỏi hình phạt, cũng như sự lên án của Nhà nước và xã hội đối với họ.

Việc tước bỏ lợi ích kinh tế không chỉ có tác dụng răn đe đối tượng bị kết án

mà còn có khả năng loại trừ, hạn chế những điều kiện về tài sản mà người

phạm tội có thể sử dụng để tiếp tục phạm tội. Chính vì vậy, có thể thấy hình

phạt tiền có mục đích giáo dục, cải tạo đối tượng phạm tội, loại trừ điều kiện

tái phạm của những đối tượng này (mục đích phòng ngừa riêng). Đồng thời,

thông qua việc quy định và áp dụng hình phạt tiền còn có tác dụng răn đe,

giáo dục những đối tượng “không vững vàng”, có khả năng sẽ phạm tội phải

11

tự kiềm chế không thực hiện hành vi phạm tội, cũng như giáo dục người dân

và pháp nhân thương mại khác có ý thức tôn trọng pháp luật, nâng cao sự hiểu

biết pháp luật, để tránh những vi phạm pháp luật và tội phạm (phòng ngừa

chung). Đúng như một nhà nghiên cứu đã nhận định: “Với đặc trưng riêng là

việc tước bỏ lợi ích kinh tế của người phạm tội, hình phạt tiền có một cách

thức tác động độc đáo với người phạm tội để tạo ra hiệu quả của hình phạt.

Trong những trường hợp nhất định, cách thức tác động này có ưu thế hơn hẳn

so với cách thức tác động khác và trong nhiều trường hợp nếu không có sự hỗ

trợ của hình phạt tiền thì việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, phòng ngừa

riêng và phòng ngừa chung không thể đạt được một cách triệt để” [2, tr 1].

1.1.2.2. Ý nghĩa của hình phạt tiền

Ý nghĩa của hình phạt tiền trong hệ thống hình phạt của Nhà nước ta

được thể hiện trên những mặt sau đây:

+ Thứ nhất, việc quy định hình phạt tiền trong cả hai: hình phạt chính

và bổ sung có tác dụng đa dạng hóa các hình thức xử lý hình sự, đa dạng hóa

các biện pháp trách nhiệm hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Như trên đã phân tích, hình phạt tiền vừa được quy định là hình phạt

chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt của Nhà

nước ta. Việc quy định như vậy mở ra khả năng đa dạng hóa các biện pháp xử lý

hình sự, tăng cường tính linh hoạt trong vận dụng, áp dụng hình phạt mà luật đã

quy định. Chính vì lẽ đó, khi quy định hình phạt tiền trong hệ thống hình phạt,

nhà lập pháp nước ta ghi rõ có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung

khi không áp dụng là hình phạt chính và chỉ trong trường hợp có điều luật quy

định thì hình phạt tiền mới được áp dụng là hình phạt chính.

+ Thứ hai, hình phạt tiền được quy định trong hệ thống là hình phạt

chính và hình phạt bổ sung đã tạo ra khả năng phân hoá trách nhiệm hình sự

và cá thể hoá hình phạt đối với các trường hợp phạm tội khác nhau về tính

12

chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, góp phần thực hiện nguyên tắc xử lý tội

phạm “nghiêm trị, kết hợp với khoan hồng, trừng trị với giáo dục, cải tạo,

cảm hóa người phạm tội”.

Thực tế cho thấy, trong hệ thống hình phạt, hình phạt tiền vừa được

quy định là hình phạt chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung. Điều đó

đã góp phần làm tăng tính phong phú và cân đối của hệ thống hình phạt, làm

cho các hình phạt trong hệ thống không có sự chênh lệch quá xa về tính

nghiêm khắc đảm bảo được tính nối tiếp, tính liên tục theo hướng tăng dần về

mức độ nghiêm khắc, làm cho hệ thống h́ nh phạt có tính chỉnh thể. Bởi, trong

hệ thống h́ nh phạt của Nhà nước ta, các hình phạt chính được sắp xếp theo

một trình tự tăng dần về tính nghiêm khắc (từ nhẹ đến nặng). Hình phạt tiền

với tư cách là hình phạt chính giữ vị trí nối tiếp giữa hình phạt cảnh cáo - hình

phạt ít nghiêm khắc nhất với cải tạo không giam giữ - có tính nghiêm khắc

cao hơn hình phạt tiền, nhưng thấp hơn về tính nghiêm khắc so với hình phạt

tù có thời hạn. Nhờ đó đã tạo nên tính nối tiếp, tính liên tục theo hướng tăng

dần về mức độ nghiêm khắc của các hình phạt trong hệ thống.

Khi được quy định là hình phạt bổ sung, hình phạt tiền cùng với hình

phạt tịch thu tài sản đã làm phong phú, cân đối các hình phạt bổ sung trong hệ

thống hình phạt. Nhờ đó, giúp cho việc thực hiện nguyên tắc phân hóa trách

nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt trong việc xử lý đối tượng phạm tội,

tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả khả năng

tác động của các hình phạt trong hệ thống đối với phòng ngừa tội phạm. Đồng

thời, giúp Tòa án có nhiều khả năng lựa chọn hơn khi quyết định hình phạt

đối với cá nhân phạm tội cũng như đối với pháp nhân thương mại phạm tội

trên cơ sở “căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết

giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.

+ Thứ ba, việc quy định hình phạt tiền trong hệ thống hình phạt còn

13

góp phần thể hiện nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam, góp

phần thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ và bảo đảm

quyền con người.

Trước hết, việc quy định hình phạt tiền có mức độ nghiêm khắc thấp

hơn các hình phạt tước tự do của con người là cơ sở pháp lý quan trọng để

Tòa án lựa chọn khi áp dụng các biện pháp khoan hồng trong việc quyết định

hình phạt đối với “người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác tội phạm, lập

công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại

đã gây ra” và đối với “người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải”.

Bởi theo quy định của BLHS hiện hành, đối với những người này (trường hợp

này) Tòa án có thể áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, trong đó có

hình phạt tiền. Mặt khác, việc quy định mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt

tiền đối với người bị kết án còn góp phần bảo vệ quyền con người được Hiến

pháp năm 2013 ghi nhận, nhất là quyền tự do thân thể của con người. Điều đó

còn thể hiện trách nhiệm nội luật hóa của Việt Nam với tư cách là nước thành

viên của Công ước của Liên hợp quốc về “Chống tra tấn và các hình thức đối

xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người” được Đại

hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1984, được Việt Nam chính

thức ký tham gia Công ước ngày 07/11/2013 và được Quốc hội nước Cộng

hoà XHCN Việt Nam phê chuẩn ngày 28/11/2014. Công ước này có hiệu lực

đối với Việt Nam kể từ ngày 07/03/2015.

1.1.3. Phạm vi, điều kiện áp dụng hình phạt tiền

1.1.3.1. Đối với cá nhân bị kết án

Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 35 BLHS hiện hành thì phạm vi áp

dụng hình phạt tiền là hình phạt chính chỉ trong hai trường hợp sau:

- Tội phạm mà người bị kết án thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, tội

phạm nghiêm trọng và điều luật về tội phạm ấy có quy định hình phạt tiền.

- Tội phạm mà người bị kết án thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng và

14

thuộc các nhóm tội phạm trật tự quản lý kinh tế, tội phạm về môi trường, tội

xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng hoặc tội phạm khác được

BLHS quy định.

Như vậy, phạm vi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính được BLHS

năm 2015 quy định rộng hơn BLHS năm 1999, nghĩa là không chỉ đối với tội

ít nghiêm trọng mà còn đối với cả tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm

trọng và không có sự giới hạn ở nhóm tội phạm cụ thể nào thuộc phần các tội

phạm của BLHS. Đối với tội phạm rất nghiêm trọng, hình phạt tiền là hình phạt

chính chủ yếu được áp dụng đối với 3 nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,

các tội phạm về môi trường, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công

cộng. Tuy nhiên, BLHS hiện hành cũng cho phép áp dụng hình phạt tiền là hình

phạt chính đối với một số tội phạm khác mà điều luật có quy định hình phạt này.

Căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 35 BLHS hiện hành thì hình phạt

tiền là hình phạt bổ sung được áp dụng trước hết đối với người bị kết án về các

tội tham nhũng, các tội phạm về ma túy. Ngoài ra, hình phạt tiền là hình phạt

bổ sung còn có thể áp dụng đối với những tội phạm khác do BLHS quy định.

Với quy định như vậy, BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng hình

phạt tiền là hình phạt bổ sung so với BLHS năm 1999.

Khoản 3 Điều 35 BLHS hiện hành quy định rõ mức phạt tiền và căn cứ

quyết định mức phạt tiền, theo đó mức phạt tiền thấp nhất khi áp dụng hình

phạt tiền với tính chất là hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung là

1.000.000 đồng. Như vậy khoản 3, Điều 35 chỉ quy định mức phạt tiền tối

thiểu mà không quy định mức phạt tiền tối đa. Do vậy, tòa án có quyền quyết

định bất cứ mức phạt tiền nào nhưng không được vượt quá mức cao nhất mà

điều luật về tội phạm quy định và không được dưới 1.000.000 đồng.

Khi quyết định mức phạt tiền cụ thể để áp dụng đối với người bị kết án,

Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời

có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả thị

15

trường

1.1.3.2. Đối với pháp nhân thương mại bị kết án

Theo quy định tại Điều 77 BLHS hiện hành, đối với pháp nhân thương

mại phạm tội, hình phạt tiền cũng được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình

phạt bổ sung

Về phạm vi áp dụng: Theo quy định tại Điều 76 BLHS hiện hành thì

pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm về những tội phạm quy định

tại 33 điều luật thuộc phần các tội phạm của BLHS, trong đó có 22/47 tội

thuộc các tội xâm phạm trật tự kinh tế; 9/12 tội thuộc nhóm các tội phạm về

môi trường và 2/68 tội của các nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng và trật

tự công cộng. Trong ba nhóm tội phạm này, BLHS năm 2015 quy định hình

phạt tiền vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung đối với 18/22 tội và

hình phạt tiền chỉ là hình phạt chính đối với 4/22 tội xâm phạm trật tự quản lý

kinh tế. Thế còn; 9/12 tội xâm phạm về môi trường, BLHS hiện hành được

quy định hình phạt tiền vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung. Đối

với các tội phạm có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính hoặc hình phạt

bổ sung, BLHS hiện hành quy định cụ thể mức phạt tiền tối thiểu và tối đa

tương ứng với từng khung hình phạt.

Về mức phạt tiền và căn cứ quyết định mức phạt tiền đối với pháp nhân

thương mại bị kết án, khoản 2 Điều 77 BLHS hiện hành chỉ quy định vấn đề

này có tính nguyên tắc là: "Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính

chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của

pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không thấp

hơn 50.000.000 đồng". Như vậy, để quyết định mức phạt tiền cụ thể đối với

pháp nhân thương mại bị kết án, Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ

nguy hiểm của tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện, tình hình tài

chính của pháp nhân thương mại đó, có xét đến sự biến động giá cả. Riêng

mức phạt tiền cụ thể thì Tòa án phải căn cứ vào khung hình phạt, trong đó có

16

quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền đối với từng tội để

quyết định mức phạt tiền trong phạm vi mức độ tối thiểu và tối đa đó với điều

kiện là không dưới 50 triệu đồng.

1.2. Phân biệt hình phạt tiền với các hình phạt và biện pháp phạt khác có

liên quan

1.2.1. Phân biệt hình phạt tiền với hình phạt tịch thu tài sản

Tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung được quy định tại Điều 45 BLHS

hiện hành với nội dung là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của

người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.

Nếu so sánh hình phạt tiền với hình phạt tịch thu tài sản thấy rằng, hai

hình phạt bổ sung này có một số điểm giống nhau cơ bản như sau sau:

+ Đều được quy định là hình phạt bổ sung

+ Tiền và tài sản bị tước đều được nộp vào ngân sách nhà nước

+ Đều là những biện pháp tác động về mặt mặt kinh tế của nhà nước đối

với người bị kết án để đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa

chung của hình phạt. Tuy nhiên, hai hình phạt này khác nhau ở những điểm

sau đây:

- Một là, về tính chất: Tịch thu tài sản theo quy định của BLHS hiện hành

chỉ là hình phạt bổ sung; còn hình phạt tiền vừa được quy định là hình phạt

chính vừa được quy định là hình phạt bổ sung. Điều đó có ý nghĩa là hình phạt

tịch thu tài sản trong mọi trường hợp chỉ được áp dụng kèm theo một hình

phạt chính khác theo quy định của BLHS hiện hành. Trong khi đó, hình phạt

tiền với tính chất là hình phạt chính được áp dụng độc lập không phải kèm

theo một hình phạt chính nào khác.

- Hai là, về phạm vi áp dụng: Hình phạt tịch thu tài sản theo quy định tại

Điều 45 BLHS hiện hành chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội

phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội

17

phạm khác mà BLHS quy định. Trong khi đó hình phạt tiền được áp dụng là

hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm

trọng do BLHS quy định; hoặc người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm

trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và

một số tội phạm khác (khoản 1 Điều 35 BLHS năm 2015). Hình phạt tiền áp

dụng đối với hình phạt bổ sung đối với người phạm tội tham nhũng, ma túy,

những tội phạm khác trong BLHS quy định, không phụ thuộc vào những tội

phạm này thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hay tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng, nghĩa là có thể áp dụng đối với cả tội ít nghiêm

trọng. Như vậy, phạm vi tội phạm được áp dụng hình phạt tiền rộng hơn nhiều

hơn so với hình phạt tịch thu tài sản.

- Ba là, về nội dung pháp lý: Nội dung cơ bản của hình phạt tịch thu tài

sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án,

còn nội dung của hình phạt tiền và tước một khoản tiền nhất định của người

(thể nhân) hoặc của pháp nhân thương mại bị kết án nộp vào ngân sách Nhà

nước. Như vậy, đối tượng mà nhà nước tước bỏ của người bị kết án hoặc pháp

nhân thương mại bị kết án là một khoản tiền nhất định, còn đối tượng mà Nhà

nước tước bỏ của người bị kết án tịch thu tài sản là toàn bộ hay một phần tài

sản của người đó. Tài sản mà tòa án tuyên bố tịch thu không nhất thiết phải là

tiền mà còn có thể là những tài sản khác như: hiện vật, giấy tờ có giá trị như

tiền, ... Những tài sản này có thể đang do người bị kết án trực tiếp chiếm giữ,

quản lý và cũng có thể là tài sản mà người bị kết án đang cho vay, cho thuê,

cầm cố, gửi ở ngân hàng, quỹ tín dụng, … trừ tài sản, đồ vật là tang vật của vụ

án, bởi tang vật của vụ án đương nhiên bị tịch thu và xử lý theo quy định của

BLTTHS hiện hành.

- Bốn là, về mức tiền, tài sản mà tòa án tuyên bố tước bỏ tịch thu nộp vào

ngân sách nhà nước.

Khi quyết định hình phạt tiền, Tòa án sẽ lựa chọn một mức tiền nhất định

18

để tuyên bố tước của đối tượng bị kết án sung công quỹ nhà nước tùy thuộc

vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, tình hình tài sản, tài chính của

đối tượng bị kết án, có xét đến biến động của giá cả nhưng không thấp hơn

một 1.000.000 đồng (đối với cá nhân người bị kết án) hoặc không dưới

50.000.000 đồng (đối với pháp nhân thương mại bị kết án). Trong khi đó, mức

tài sản mà tòa án tuyên bố tịch thu của người bị kết án có thể chỉ là một phần

hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu riêng của người bị kết án tùy thuộc vào tính

chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, tình hình tài sản của người bị kết án,

nhất là những tài sản bất hợp pháp do phạm tội mà có, BLHS không quy định

mức tối thiểu cũng như mức tối đa tài sản bị tịch thu như mức phạt tiền. Tuy

nhiên, để đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, khi quyết

định tịch thu toàn bộ tài sản của người bị kết án, Tòa án vẫn để cho người bị

kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.

- Năm là, về đối tượng bị áp dụng hình phạt: Đối tượng bị áp dụng hình

phạt tiền bao gồm cả cá nhân người bị kết án, cả pháp nhân thương mại bị kết

án. Còn đối tượng bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản chỉ có thể là cá nhân

người bị kết án.

1.2.2. Phân biệt hình phạt tiền với biện pháp tịch thu vật, tiền liên quan trực

tiếp đến tội phạm

Cả hai biện pháp trách nhiệm hình sự này giống nhau ở chỗ: Đều là

những biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLHS. Đối tượng bị áp dụng

có thể là cá nhân phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Tuy nhiên,

hình phạt tiền và biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm

có một số điểm khác nhau sau:

+ Thứ nhất, khác nhau về tính chất và hậu quả pháp lý: Phạt tiền là một

trong những hình phạt do vậy khi đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền sẽ để lại

án tích trong một thời hạn nhất định. Còn biện pháp tịch thu vật, tiền không

phải là hình phạt mà chỉ là một trong những biện pháp tư pháp, do vậy khi bị

19

áp dụng không để lại án tích đối với đối tượng bị áp dụng.

+ Thứ hai, về đối tượng bị áp dụng: Hình phạt tiền chỉ có thể đối với cá

nhân bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án. Còn biện pháp tư pháp

tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm được áp dụng đối với cá nhân

phạm tội hoặc pháp nhân phạm tội, không đòi hỏi đã bị kết án.

+ Thứ ba, về thẩm quyền áp dụng: Hình phạt tiền chỉ do Tòa án áp dụng,

còn biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm thì ngoài Tòa

án, còn có thể do các cơ quan tiến hành tố tụng khác áp dụng.

+ Thứ tư, về khoản tiền, vật bị tước hoặc tịch thu: Khoản tiền phạt bị Tòa

án tuyên bố tước bỏ của đối tượng bị kết án sung công quỹ nhà nước là khoản

tiền bất kỳ; còn tiền, vật bị các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định tịch thu

phải là tiền, đồ vật trực tiếp liên quan đến tội phạm. Theo quy định tại Điều 47

BLHS hiện hành thì khoản tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm bao gồm:

a) Công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội; b) vật hoặc tiền do phạm tội

hoặc do mua bán đổi chác những thứ ấy mà có, hoặc thu lợi bất chính từ việc

phạm tội; c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

+ Thứ năm, về mục đích áp dụng cụ thể: Khoản tiền phạt bị Tòa án tuyên

bố tước của đối tượng bị kết án là để để sung công quỹ nhà nước. Còn tiền, vật

trực tiếp liên quan đến tội phạm bị các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định

tịch thu là để sung công quỹ nhà nước (nếu là tiền hoặc tài sản), hoặc để tiêu

hủy (nếu là vật không có giá trị hoặc không sử dụng được).

+ Thứ sáu, về thời điểm áp dụng: Hình phạt tiền được tòa án quyết định

áp dụng đối với đối tượng bị kết án ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự sự; còn

biện pháp tư pháp tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm được các

cơ quan tiến hành tố tụng quyết định áp dụng ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào

khi có căn cứ luật định.

1.2.3. Phân biệt hình phạt tiền với biện pháp phạt tiền với tính chất là biện

pháp xử phạt vi phạm hành chính

20

Hình phạt tiền với phạt tiền là biện pháp xử phạt vi phạm hành chính có

những điểm giống nhau như: Đều là chế tài pháp lý áp dụng đối với chủ thể có

hành vi vi phạm pháp luật; chủ thể vi phạm đều phải nộp một khoản tiền vào

công quỹ nhà nước. Tuy nhiên, hai biện pháp phạt tiền này có những điểm

khác nhau cơ bản sau đây:

+ Một là, về tính chất: Hình phạt tiền là chế tài hình sự được quy định

trong BLHS, còn phạt tiền với tính chất là biện pháp xử phạt vi phạm hành

chính được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

+ Hai là, đối tượng áp dụng: Hình phạt tiền được áp dụng đối với cá

nhân người bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án theo quy định của

pháp luật hình sự, còn phạt tiền với tính chất là biện pháp xử phạt vi phạm

hành chính được áp dụng đối với mọi cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm

hành chính, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy

định của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì phải xử phạt vi phạm hành chính.

+ Ba là, về chủ thể có thẩm quyền áp dụng: Hình phạt tiền là do Tòa án

quyết định áp dụng đối với những đối tượng bị kết án, còn phạt tiền với tính

chất là biện pháp xử phạt vi phạm hành chính là do nhiều cơ quan, tổ chức

quyết định áp dụng tùy theo từng lĩnh vực, vi phạm cụ thể như: Công an, Ủy

ban nhân dân, Thanh tra chuyên ngành, Hải quan, Kiểm lâm, Thuế, v.v...

+ Bốn là, về mức tiền phạt: Đối với hình phạt, mức tiền phạt được BLHS

hiện hành quy định nhiều mức khác nhau tương ứng với tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của tội phạm nhưng thấp nhất không dưới 1.000.000đ (đối với cá

nhân bị kết án) hoặc thấp nhất không dưới 50.000.000 đồng (đối với pháp nhân

thương mại bị kết án). Còn đối với phạt tiền với tính chất là hình thức xử phạt vi

phạm hành chính cũng được luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định

nhiều mức khác nhau tùy theo từng loại vi phạm hành chính nhưng chỉ nằm trong

khoảng từ 50.000 đồng đến 1.000.000 đồng (đối với cá nhân vi phạm hành chính)

hoặc từ 100.000 đồng đến 2.000.000 đồng (đối với tổ chức vi phạm hành chính)

21

(Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính).

Trên đây là những điểm khác nhau cơ bản giữa hình phạt tiền với các loại

hình phạt và các biện pháp phạt khác có liên quan. Nắm vững những điểm

khác nhau này, cơ quan và người có thẩm quyền mới có thể áp dụng đúng đắn

các biện pháp xử phạt vi phạm pháp luật trong thực tiễn.

Tiểu kết chương 1

Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật tại Chương 1 có thể

kết luận:

+ Hình phạt tiền có lịch sử lâu đời, được nhiều nhà lý luận và thực nghiên

cứu. Nhưng do có sự thay đổi của pháp luật hình sự về hình phạt này nên cần

phải tiếp tục nghiên cứu hình phạt tiền để thống nhất nhận thức về khái niệm,

các đặc điểm, nội dung, mục đích, phạm vi, điều kiện áp dụng... cũng như vai

trò, ý nghĩa của hình phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Kết quả

nghiên cứu ở Chương 1 đã giải quyết được những vấn đề này.

+ Hình phạt tiền là một trong những biện pháp cưỡng chế có tính nghiêm

khắc của Nhà nước, là một trong những hình phạt thuộc hệ thống hình phạt

của Nhà nước ta. Do vậy, hình phạt này có nhiều điểm tương đồng với các

biện pháp cưỡng chế hình sự khác, nhất là những biện pháp trách nhiệm pháp

lý, những hình phạt và biện pháp tư pháp có những nội dung giống hình phạt

tiền. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có sự khác biệt, đòi hỏi phải làm rõ, để áp

dụng đúng đắn trên thực tế.

+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt tiền trong Luật hình sự

Việt Nam cho thấy, hình phạt tiền không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn

là một hiện tượng pháp lý hình sự, một loại hình phạt có khả năng tác động về

mặt kinh tế đối với cá nhân, pháp nhân thương mại bị kết án.

+ Kết quả nghiên cứu ở Chương 1 là cơ sở lý luận và pháp lý để đánh giá

thực tiễn ở Chương 2 và đưa ra giải pháp đảm bảo áp dụng đúng hình phạt tiền

22

trên thực tiễn ở Chương 3.

Chương 2

QUY ĐỊNH HÌNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH

PHẠT TIỀN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH QUẢNG NINH

2.1. Quy định về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt Nam

2.1.1. Quy định về hình phạt tiền trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến

trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985

Nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự từ năm 1945 đến trước khi ban

hành Bộ luật hình sự năm 1985 thấy rằng, ngay sau khi giành được chính

quyền, bên cạnh việc tạm thời áp dụng luật lệ hiện hành của chế độ cũ nhưng

không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa,

Nhà nước dân chủ nhân dân đã từng bước xây dựng hệ thống pháp luật mới

làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý tội phạm. Văn bản pháp luật đầu tiên có quy

định hình phạt tiền là Sắc lệnh số 51 do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa ban hành ngày 17/4/1946. Tại điều 10 của Sắc lệnh này có quy định: "...

những việc tiểu hình là những việc có thể bị phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm, hay

bị phạt trên 900đ". Đến ngày 14/4/1948, Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số

168-SL trừng trị tội đánh bạc. Trong sắc lệnh này hình phạt tiền được quy định

tại Điều 2 với nội dung như sau: "Những người nào tổ chức một cuộc đánh

bài, đánh bạc, một trò chơi, không cứ một nơi nào đều bị phạt tù từ 2 đến 5

năm và phạt bạc từ 1.000đ đến 10.000đ.

Các người làm công tác khác, giúp trực tiếp vào cuộc chơi đều là tòng

phạm. Những người nào đánh bạc hay dự vào cuộc chơi nói trên sẽ bị phạt tù

từ 1 năm đến 3 năm và phạt bạc 5.000đ đến 50.000đ".

Còn tại Điều 3 của Sắc lệnh này quy định: "Các việc làm bày bán, tàng

trữ, lưu hành các khí cụ chuyên dùng để đánh bạc đều cấm hẳn. Những người

23

phạm vào điều này sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm và phạt bạc từ 1.000đ

đến 10.000đ". [56, tr.497]. Ngoài ra ở thời kỳ này còn có một số sắc lệnh khác

cũng quy định hình phạt tiền là hình phạt chính hoặc hình phạt phụ (nay là

hình phạt bổ sung) như: Sắc lệnh số 123-SL ngày 27/10/1949 về vi phạm thể

lệ chữa bệnh, chế thuốc; Sắc lệnh số 89-SL ngày 22/5/1950 cấm việc cho vay

lãi chồng thành gốc; Nghị định số 150-TTg ngày 5/3/1952 của Thủ tướng

Chính phủ về tội vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, v.v... Đặc biệt, Điều 6

Nghị định số 32/NĐ ngày 6/4/1952 của Bộ Tư pháp đã hướng dẫn tiền phạt

được tính theo giá gạo. Sau đó, Thông tư số 113/VHH ngày 4/4/1952 một Bộ

Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định này đã xác định rõ: "Để định tiền phạt

giá gạo ấy là giá gạo nơi trụ sở Tòa án xét xử, khi tuyên án. Mức tối đa và tối

thiểu tiền phạt lấy giá gạo làm tiêu chuẩn, nhưng khi tòa án tuyên phạt tiền

phải tính ra tiền và đơn vị vẫn lấy đồng bạc tài chính" [56, tr.52]. Nhìn chung

các văn bản pháp luật hình sự quy định về hình phạt tiền giai đoạn 1945- 1954

còn hết sức đơn giản, nội dung chưa cụ thể, rõ ràng. Sau khi chính thức xóa bỏ

hoàn toàn việc áp dụng luật lệ của chế độ cũ, Nhà nước Việt Nam hết sức quan

tâm đến việc ban hành những văn bản pháp luật mới để có cơ sở pháp lý đấu

tranh phòng chống tội phạm, nhất là những năm 1955 trở về sau. Ở thời kỳ

này, các văn bản pháp luật hình sự có quy định hình phạt tiền phải kể đến: Sắc

lệnh số 282-SL ngày 14/12/1956 về chế độ báo chí; Sắc luật 003/SLT ngày

18/6/1957 về quyền tự do xuất bản, Sắc luật số 011/SLT ngày 14/9/1957 về tội

đầu cơ. Hình phạt tiền được quy định trong các văn bản pháp luật hình sự này

có sự tiến bộ hơn, rõ ràng, cụ thể hơn như:

Tại Điều 13 của Sắc lệnh số 282 ngày 14/12/1956 về chế độ báo chí có

quy định: "Báo chí nào vi phạm Điều 10 bị trừng phạt tùy theo lỗi nặng nhẹ

mà cảnh cáo, tịch thu ấn phẩm, đình bản tạm thời, hoặc bị truy tố trước Tòa

án, có thể bị phạt tiền từ năm vạn đồng đến hai chục vạn đồng" [56, tr 421]

Hoặc tại Điều 16 của Sắc luật số 003/SLT ngày 18/6/1957 về quyền tự do xuất

24

bản có quy định: "Nhà xuất bản hay cá nhân xuất bản nào vi phạm Điều 12 thì

cơ quan có thẩm quyền tùy theo trường hợp nhẹ hay nặng mà cảnh cáo, thu

hồi tạm thời giấy phép hoặc truy tố trước Tòa án. Tòa án có thể xử phạt tiền

từ năm vạn đồng đến hai mươi vạn đồng" [56, tr 427].

Còn tại Điều 3 của Sắc luật 001-SLT ngày 19/4/1957 cấm mọi hành đầu

cơ quy định: "Những người vi phạm luật này và những người đồng phạm theo

nhẹ hay nặng có thể bị truy tố trước Tòa án và có thể bị phạt tiền từ 10 vạn

đồng đến 100 vạn đồng và bị phạt tù từ 1 tháng đến 5 năm, hoặc một trong hai

hình phạt trên" [56, tr 268]

Đến năm 1970, để bảo vệ tài sản của nhà nước và của công dân, Nhà

nước ta ban hành 2 pháp lệnh, đó là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài

sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Việc ban hành hai pháp lệnh này đã đánh dấu bước tiến quan trọng về kỹ thuật

lập pháp hình sự ở nước ta. Trong hai pháp lệnh này, hình phạt tiền được quy

định một cách khá rõ ràng về phạm vi, điều kiện áp dụng. Cụ thể: tại khoản 3

Điều 20 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN có quy định:

"Phạm một trong những tội quy định ở các điều 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13,

14, 15, 16, 17, thì tùy theo tính chất nghiêm trọng của tội phạm hoặc nguồn

thu lợi bất chính mà có thể bị phạt tiền từ 50 đồng đến 5.000 đồng..." [56, tr

208]; hoặc tại khoản 3 Điều 16 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản

riêng của công dân có quy định: "Phạm một trong các tội quy định ở điều 3, 4,

5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 13 trong trường hợp có tính chất nghiêm trọng của tội

phạm hoặc nguồn thu lợi bất chính mà có thể bị phạt tiền từ 50 đồng đến

3.000 đồng..." [56, tr 457].

Sau năm 1975 miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Chính

phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số

03SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về các tội phạm và hình phạt. Theo Sắc luật

này, hình phạt tiền được áp dụng đối với tội phạm về kinh tế, các tội xâm

25

phạm trật tự công cộng và an toàn công cộng, xâm phạm sức khỏe của nhân

dân và chỉ được áp dụng là hình phạt bổ sung. Điều 6 của Sắc luật này quy

định hình phạt tiền đối với tội phạm về kinh tế với nội dung: "Phạm một trong

những các tội phạm (về kinh tế) trên đây thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm và

phạt tiền đến 50.000 đồng ngân hàng". Còn Điều 9 của Sắc luật 03/SL-76 quy

định hình phạt tiền (là hình phạt bổ sung) đối với các tội xâm phạm đến trật tự

công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân với nội dung như sau:

"...cờ bạc, tổ chức ổ mại dâm, buôn bán, tàng trữ ma túy và các chất độc khác,

thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù

đến 15 năm. Trong mọi trường hợp, có thể bị phạt tiền đến 1.000 đồng ngân

hàng" [57, tr 237].

Để đáp ứng yêu cầu ổn định trật tự quản lý kinh tế (trật tự kinh doanh,

tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, ngày 20/5/1981 Nhà

nước ta đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ và ngày 30/6/1982 ban

hành Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh

trái phép. Trong hai pháp lệnh này, hình phạt tiền được quy định là hình phạt

bổ sung. Cụ thể: Điều 7 Pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ quy định: "Người

phạm tội hối lộ nói ở Điều 2 và Điều 3 của Pháp lệnh này còn có thể bị phạt

tiền từ 1 đến 3 lần giá trị của hối lộ"; còn Điều 2 Pháp lệnh trừng trị các tội

đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép quy định: "Người nào lợi

dụng khó khăn về kinh tế hoặc tạo ra những khó khăn đó, mua vét hàng hóa,

lương thực, vật tư, các loại tem, phiếu, vé, giấy tờ có giá trị phân phối hàng

hóa, vật tư hoặc cung ứng dịch vụ nhằm thu lợi bất chính, thì bị phạt tù từ 6

tháng đến 5 năm và bị phạt tiền gấp 3 lần giá trị hàng phạm pháp".

Qua nghiên cứu các quy định về hình phạt tiền trong các văn bản pháp

luật nêu trên có thể thấy:

+ Hình phạt tiền được quy định ngay trong các văn bản pháp luật hình sự

đầu tiên của Nhà nước ta sau khi mới giành được chính quyền dưới các hình thức

26

Sắc lệnh, Sắc luật, Pháp lệnh (văn bản pháp luật hình sự đơn hành, dưới luật).

+ Hình phạt tiền vừa được quy định là hình phạt chính, vừa được quy

định là hình phạt bổ sung. Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính theo

quy định của Sắc lệnh số 51 ngày 17/04/1946, Sắc lệnh số 168-SL ngày

14/04/1948 và Sắc luật 03/SL-76 ngày 15/3/1976 ... Hình phạt tiền được áp

dụng là hình phạt bổ sung theo quy định của Pháp lệnh trừng trị các tội xâm

phạm tài sản XHCN năm 1970, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản

riêng của công dân năm 1970, Pháp lệnh trừng trị các tội phạm về hối lộ năm

1981 và Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh

trái phép năm 1982.

+ Hình phạt tiền được áp dụng chủ yếu đối với người phạm tội có tính

chất vụ lợi nhằm trừng phạt họ về mặt kinh tế và loại trừ điều kiện mà họ sử

dụng được phạm tội mới (tái phạm). Về cơ bản phạm vi áp dụng hình phạt tiền

còn hẹp, chỉ đối với một số ít tội.

+ Hình phạt tiền được áp dụng trong hoàn cảnh chính quyền nhà nước

còn non trẻ, tình hình kinh tế xã hội còn thấp kém, đời sống nhân dân còn khó

khăn. Do vậy, hình phạt tiền được áp dụng căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh, khả

năng kinh tế cụ thể của người phạm tội; không áp dụng hình phạt tiền liên đới.

Đặc biệt, từ năm 1955 trở về trước, do vẫn áp dụng luật lệ của chế độ cũ, nên Tòa

án đã đổi hình phạt tù thành hình phạt tiền, nhưng từ sau năm 1955 trở về sau thì

không được quy đổi hình phạt tù thành hình phạt tiền và ngược lại.

2.1.2. Quy định về hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm 1985

Năm 1985 đánh dấu một bước phát triển quan trọng của công tác lập

pháp hình sự ở nước ta bằng việc ban hành BLHS đầu tiên ngày 27/6/1985

(sau đây gọi là BLHS năm 1985). Đây là một văn bản quy phạm pháp luật

hình sự có kỹ thuật pháp điển hóa cáo, trong đó quy định tương đối đầy đủ về

tội phạm, về hình phạt phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, đặc biệt là tình

hình tội phạm vào thời điểm đó. Trong BLHS năm 1985, hình phạt tiền là hình

27

phạt duy nhất được quy định vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung.

Theo quy định tại Điều 23 BLHS năm 1985 thì: "Hình phạt tiền được áp dụng

đối với người phạm các tội có tính chất vụ lợi, tham nhũng các tội dùng tiền

làm phương tiện hoạt động hoặc các trường hợp khác do pháp luật quy định.

Mức phạt tiền được quyết định theo mức độ nghiêm trọng của tội đã

phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động

của giá cả" [6, tr 91]

Tại phần các tội phạm của BLHS năm 1985, hình phạt tiền là hình phạt chính

quy định tại 9 điều luật, là hình phạt bổ sung được quy định tại 58 điều luật.

Nghiên cứu các quy định của BLHS năm 1985 về hình phạt tiền thấy rằng:

+ Một là, trong BLHS năm 1985, hình phạt tiền vừa được quy định là

hình phạt chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung, nhưng trong phần

các tội phạm hình phạt tiền chỉ được quy định là hình phạt chính đối với một

số ít tội phạm cụ thể. Điều này, cho thấy các nhà làm luật nước ta chưa nhìn

nhận, đánh giá đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của hình phạt tiền trong đấu

tranh phòng, chống tội phạm. Mặt khác, theo quy định tại Điều 23 BLHS năm

1985 thì hình phạt tiền được áp dụng đối với người phạm tội có tính chất vụ

lợi, tham nhũng, các tội có dùng tiền làm phương tiện hoạt động, nhưng trong

phần các tội phạm, có một số tội cũng thuộc loại tội phạm có tính chất này

nhưng nhà làm luật không quy định hình phạt tiền là hình phạt chính hoặc là

hình phạt bổ sung, ví dụ: Điều 170, 174, 175, 176... Như vậy, quy định tại

Điều 23 phần chung không được cụ thể hóa một cách triệt để trong phần các

tội phạm của BLHS năm 1985. Điều đó đã dẫn đến việc thu hẹp phạm vi áp

dụng của hình phạt tiền.

+ Hai là, một số chế tài có hình phạt tiền được quy định là hình phạt bổ

sung bắt buộc chiếm tỷ lệ không đáng kể (khoảng 11%) trong tổng số các chế

tài của BLHS năm 1985 đã ảnh hưởng đến tần suất áp dụng trong thực tiễn

hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Trong nhiều trường hợp, Tòa án không bị

28

ràng buộc phải áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung mà có thể tùy nghi

lựa chọn giữa hình phạt bổ sung là hình phạt tiền với hình phạt bổ sung khác.

Do vậy, có ý kiến cho là "Điều đó đã làm cho phạm vi áp dụng hình phạt tiền

trên thực tế lại bị thu hẹp thêm một lần nữa, cho thấy sự nhìn nhận về vai trò và

hiệu quả của hình phạt tiền chưa được đánh giá một cách chính xác" [49, tr 27].

+ Ba là, trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985, nhà làm luật quy

định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền (tiền phạt) hoặc chỉ quy

định mức tối đa mà không quy định mức tối thiểu. Trong đó có một số khung

hình phạt giữa mức tối thiểu và mức tối đa của tiền phạt quá rộng, ví dụ: Điều

215. "Tội vi phạm các quy định về xuất bản và phát hành sách, báo, ấn phẩm

khác" quy định mức tối thiểu của hình phạt tiền là 250.000đ, mức tối đa là 10

triệu (gấp 40 lần mức tối thiểu). Điều đó có thể dẫn đến sự tùy tiện trong thực

tiễn áp dụng đồng thời không bảo đảm nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và khả

năng tác động có lựa chọn của hình phạt tiền đối với người bị kết án. Mặt

khác, đối với một số tội, do nhà làm luật chỉ quy định mức tiền phạt tối đa mà

không quy định mức tối thiểu cũng có thể dẫn tới việc áp dụng hình phạt tiền

bị cứng nhắc, không bảo đảm công bằng khi quyết định hình phạt, đồng thời

còn gây khó khăn cho việc áp dụng khoản 3 Điều 38 BLHS năm 1985 "Khi có

nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức

thấp nhất mà điều luật quy định".

Như vậy, mặc dù BLHS năm 1985 qua hơn chục năm áp dụng đã được

sửa đổi bổ sung tới 4 lần vào các năm: 1989, 1991, 1992, 1997 nhưng vẫn còn

nhiều điểm bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội

phạm trong tình hình mới, cần phải sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, trong đó

các quy định về hình phạt tiền. Với tinh thần đó ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa

X tại kỳ họp thứ 6 đã thông qua BLHS năm 1999 thay thế BLHS năm 1985.

2.1.3. Quy định về hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm 1999

Trong BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (sau đây gọi tắt là

29

BLHS năm 1999), hình phạt tiền tiếp tục được quy định vừa là hình phạt

chính, vừa là hình phạt bổ sung. Nếu so với quy định của BLHS năm 1985, thì

quy định về phạt tiền trong BLHS năm 1999 có nhiều điểm mới. Cụ thể là:

+ Thứ nhất, BLHS năm 1999 đã mở rộng số lượng điều luật quy định

hình phạt tiền

Trong BLHS năm 1999 (lúc mới ban hành), h́ nh phạt tiền được quy định

ở hình phạt chính tại 68/263 điều luật (chiếm 25,85%); hình phạt tiền là hình

phạt bổ sung được quy định tại 104/263 điều luật (chiếm 39,54%). Như vậy,

hình phạt tiền là hình phạt chính được BLHS năm 1999 quy định tăng hơn 7,5

lần so với hình phạt tiền là hình phạt chính được quy định ở BLHS năm 1985

(Bộ luật này chỉ quy định hình phạt tiền là hình phạt chính tại 9 điều luật).

Hình phạt bổ sung tăng 1,8 lần (BLHS năm 1999 quy định hình phạt tiền là hình

phạt bổ sung tại 104 điều luật, còn BLHS năm 1985 chỉ quy định tại 58 điều luật).

Qua đây thấy rằng, nhà làm luật nước ta đã có cách nhìn và đánh giá tích cực về

vai trò của hình phạt tiền trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Mặt khác, việc

mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền là nhằm phát triển kinh tế - xã hội, nhất là

trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

+ Thứ hai, BLHS năm 1999 quy định chặt chẽ hơn về phạm vi, điều kiện

áp dụng hình phạt tiền.

Khác với Điều 23 BLHS năm 1985, Điều 30 BLHS năm 1999 quy định

phạm vi, điều kiện áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính như sau: "Phạt

tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng

xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính

và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định" (khoản 1 Điều 30).

Như vậy, khác với quy định của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999

không dựa vào tính chất của tội phạm (như tính chất vụ lợi, tính chất tham

nhũng) hoặc tính chất của phương tiện sử dụng để phạm tội mà căn cứ vào

từng nhóm tội xâm phạm đến những quan hệ xã hội nhất định được luật hình

30

sự bảo vệ để quy định phạm vi, điều kiện áp dụng hình phạt tiền là hình phạt

chính. Nghiên cứu phần các tội phạm của BLHS năm 1999 cho thấy, hình phạt

tiền được áp dụng đối với các nhóm tội phạm cụ thể sau đây:

+ Nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Nhóm này hình

phạt tiền áp dụng đối với những tội mà người phạm tội thực hiện nhằm mục

đích thu lợi bất chính được quy định tại 20/31 điều luật.

+ Nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Nhóm

này, hình phạt tiền được áp dụng đối với những tội có tính chất vụ lợi hoặc

dùng tiền làm phương tiện phạm tội được quy định tại 30/56 điều luật;

+ Nhóm các tội phạm khác do BLHS quy định. Nhóm này bao gồm các

tội phạm (nhưng không thuộc hai nhóm tội phạm nêu trên) mà BLHS có quy

định hình phạt tiền là hình phạt chính nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong

việc xử lý tội phạm. Thuộc nhóm này có 02 tội xâm phạm quyền tự do dân chủ

của công dân; 01 tội xâm phạm sở hữu; 09 tội phạm về môi trường; 01 tội

phạm về ma túy, 07 tội phạm trật tự quản lý hành chính.

Điều kiện duy nhất để áp dụng hình phạt tiền đối với những nhóm tội

phạm nêu trên là: "Tội phạm mà người phạm tội thực hiện phải thuộc tội phạm

ít nghiêm trọng", tức là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức

cao nhất đối với tội ấy là đến 03 năm tù (khoản 2 Điều 8 BLHS năm 1999).

Đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền chỉ là những người phạm tội đủ 16

tuổi trở lên, còn đối với người ở độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội

thì không áp dụng hình phạt tiền (khoản 5 Điều 69 BLHS năm 1999).

* Về hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, khoản 2 Điều 30 đã quy định rõ

ràng, cụ thể những trường hợp được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ

sung khi không áp dụng là hình phạt chính, theo đó: "Phạt tiền được áp dụng

là hình phạt bổ sung đối với người phạm các tội tham nhũng, ma túy hoặc tội

phạm khác do Bộ luật này quy định". Từ quy định này thấy rằng, khoản 2 Điều

30 không quy định điều kiện áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung mà

31

chỉ quy định phạm vi các trường hợp được áp dụng hình phạt này. Tuy nhiên,

theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 28 BLHS năm 1999 thì có thể hiểu điều

kiện để áp dụng thì phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung là "Khi hình

phạt chính được áp dụng không phải là hình phạt tiền". Điều này có nghĩa là,

nếu hình phạt tiền đã được áp dụng là hình phạt chính thì không áp dụng là

hình phạt bổ sung.

Tóm lại, Điều 30 BLHS năm 1999 đã quy định cụ thể trường hợp nào thì

hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính, trường hợp nào hình phạt tiền

được áp dụng là hình phạt bổ sung. Trong khi đó, BLHS năm 1985 không quy

định rõ vấn đề này. Do vậy, quy định tại Điều 30 BLHS năm 1999 đã đảm bảo

việc áp dụng hình phạt tiền được thống nhất hơn và có tác dụng hạn chế sự tùy

tiện khi áp dụng. Nghiên cứu phần các tội phạm của BLHS năm 1999 có quy

định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thấy rằng, ngoài những người phạm

tội tham nhũng, ma túy, Bộ luật này đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt

tiền là hình phạt bổ sung đối với những người phạm các tội được quy định ở

các chương khác của BLHS. Cụ thể là: 03 tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm của con người (Chương XII); 02 tội xâm phạm quyền tự do,

dân chủ của công dân (Chương XIII); 10 tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV);

24 tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (chương XVI); 10 tội phạm về môi

trường (Chương XVII); 28 tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng

(Chương XIX) và 7 tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính (Chương XX).

Cũng như hình phạt tiền là hình phạt chính, hình phạt tiền là hình phạt bổ

sung chỉ áp dụng với người phạm tội đủ 16 tuổi trở lên, không áp dụng đối với

người phạm tội ở độ tuổi từ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi.

+ Thứ ba, BLHS năm 1999 quy định cụ thể mức phạt tiền tối thiểu tại

Điều 30 phần chung, đồng thời trong phần các tội phạm hầu hết các điều luật

đều quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền, hoặc quy định

mức tối đa của hình phạt này. Trong khi đó Điều 23 BLHS năm 1985 không

32

quy định mức tối thiểu của hình phạt tiền, còn trong phần các tội phạm của Bộ

luật này gần như chỉ quy định mức tiền phạt tối đa (ngoại trừ Điều 215. Tội vi

phạm các quy định về xuất bản và phát hành sách, báo, ấn phẩm khác, tuy có

quy định mức tiền phạt tối thiểu là 250.000đ và mức tiền phạt tối ta là

10.000.000đ, nhưng khoảng cách giữa mức tiền phạt tối thiểu với mức tiền

phạt tối đa là quá lớn, gấp khoảng 40 lần. Để khắc phục hạn chế này, khoản 3

Điều 30 BLHS năm 1999 quy định: "Mức phạt tiền được quyết định tùy theo

tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, đồng thời có xét

đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng

không được thấp hơn 1.000.000đ".

Như vậy, mức tối thiểu của hình phạt tiền được quy định chung cho cả

hình phạt tiền là hình phạt chính và hình phạt tiền là hình phạt bổ sung và

được nhà làm luật xác định cụ thể là 1.000.000đ. Đây là một quy định mới, thể

hiện tính nghiêm khắc của chế tài hình sự so với chế tài hành chính. Về vấn đề

này có tác giả nhận định: "Quy định này phản ánh được các đòi hỏi của cả hai

khía cạnh của nguyên tắc công bằng; công bằng ngang nhau và công bằng

phân phối. Luật quy định mức phạt tiền được quyết định tùy theo tính chất,

mức độ nghiêm trọng của tội phạm thể hiện sự bình đẳng giữa mọi người

trước pháp luật, thể hiện khía cạnh ngang nhau của công bằng; đồng thời có

xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động giá cả thị trường

đã thể hiện khía cạnh phân phối của công bằng" [27, tr.70]. Trên cơ sở quy

định có tính nguyên tắc này, tại phần các tội phạm BLHS, mức phạt tiền được

quy định cụ thể đối với từng tội danh từ mức tối thiểu đến mức tối đa hoặc

theo số lần giá trị hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính. Đơn vị tiền tệ để tính

mức phạt tiền là Việt Nam đồng. Khi quyết định mức phạt tiền cụ thể đối với

người bị kết án, Tòa án không chỉ phải bảo đảm mức tiền phạt tương xứng với

tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm... mà còn phải xét đến tình hình tài

33

sản của người bị kết án để hình phạt tiền được áp dụng có tính khả thi.

Thứ tư, BLHS năm 1999 quy định rõ, cụ thể phương thức thi hành hình

phạt tiền tại khoản 4 Điều 30, theo đó: "Tiền phạt có thể nộp một lần hoặc

nhiều lần trong thời hạn do Tòa án quyết định trong bản án". Phương thức thi

hành hình phạt tiền được BLHS năm 1999 quy định như vậy là nhằm tạo điều

kiện để người bị kết án với những điều kiện, hoàn cảnh kinh tế khác nhau, khả

năng tài sản khác nhau đều có thể thi hành hình phạt tiền mà Tòa án áp dụng

đối với họ. Đồng thời xác định rõ trách nhiệm của Tòa án phải ấn định rõ

trong bản án thời hạn thi hành hình phạt tiền của người bị kết án.

Từ sự phân tích, đánh giá trên có thể thấy rằng, quy định của BLHS năm

1999 về hình phạt tiền chặt chẽ, cụ thể hơn, có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là

đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền và phương thức thi hành hình phạt

tiền. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành BLHS năm 1999 kể từ khi có hiệu lực

đến nay cho thấy, quy định của Bộ luật này về hình phạt tiền đã bộc lộ những

hạn chế, bất cập nhất định cần phải sửa đổi bổ sung để phát huy hiệu quả của

hình phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

2.1.4. Quy định về hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm 2015

BLHS năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua

ngày 27/11/2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi chung là

BLHS năm 2015). Trong Bộ luật này, bên cạnh việc kế thừa những quy định

hợp lý về hình phạt tiền của BLHS năm 1999 thì cũng có nhiều sửa đổi, bổ

sung mới. Một trong những sửa đổi, bổ sung quan trọng là quy định hình phạt

tiền đối với pháp luật thương mại phạm tội. Theo quy định tại Điều 32 “Các

hình phạt đối với người phạm tội” và Điều 33 “Các hình phạt đối với pháp

nhân thương mại phạm tội” của BLHS năm 2015 có thể thấy, trong hệ thống

hình phạt nước ta, hình phạt tiền là hình phạt duy nhất vừa được áp dụng đối

với người phạm tội (thể nhân) vừa được áp dụng đối với pháp nhân thương

mại phạm tội với tư cách là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung khi không

34

áp dụng là hình phạt chính.

* Trước hết, quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt tiền áp dụng đối

với người phạm tội

Nếu so sánh với quy định của BLHS năm 1999, thì BLHS năm 2015 quy

định về hình phạt tiền áp dụng đối với người phạm tội có những sửa đổi, bổ

sung mới sau đây:

- Mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với

người phạm tội. Cụ thể là:

Khoản 1 Điều 35 BLHS năm 2015 quy định:

"1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây:

a. Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này

quy định;

b. Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,

môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do

Bộ luật này quy định". Như vậy, khoản 1 Điều 35 đã mở rộng phạm vi áp dụng

hình phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người phạm tội theo hướng:

+ Mở rộng loại tội phạm hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính

đối với người phạm tội. Theo đó, phạt tiền là hình phạt chính không chỉ được

áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng (theo quy định tại Điều 30

BLHs năm 1999), mà còn được áp dụng đối với người phạm tội nghiêm trọng,

tội rất nghiêm trọng.

Với việc sửa đổi, bổ sung này thấy rằng, việc áp dụng hình phạt tiền là

hình phạt chính đối với người phạm tội không bị giới hạn về nhóm tội phạm

cụ thể được quy định tại phần các tội phạm với điều kiện tội phạm mà người

phạm tội thực hiện phải thuộc loại tội ít nghiệm trọng, tội nghiêm trọng (quy

định tại khoản 1, 2 Điều 9 BLHS năm 2015), đồng thời trong điều luật tương

ứng có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính. Chỉ riêng đối với người

phạm tội rất nghiêm trọng, điểm b khoản 1 Điều 35 BLHS năm 2015 đã giới

35

hạn một số nhóm tội phạm cụ thể mà người phạm tội thực hiện được áp dụng

hình phạt tiền là hình phạt chính. Đó là nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý

kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và các tội phạm khác

do BLHS quy định. Một số tội phạm khác do BLHS năm 2015 quy định ở đây

là những tội phạm không thuộc các nhóm tội phạm nêu trên và cũng không

thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, nhưng nhà làm

luật nhận thấy, "Khi áp dụng phạt tiền là hình phạt chính sẽ đạt được mục đích

của hình phạt" [53,tr26].

Đối với hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, nhà làm luật kế thừa toàn bộ

quy định tại khoản 2 Điều 30 BLHS năm 1999 và tiếp tục quy định tại khoản 2

Điều 35 BLHS năm 2015 như sau: "Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt

bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm

khác do Bộ luật này quy định". Trong BLHS hiện hành, phạt tiền là hình phạt

bổ sung được quy định dưới dạng chế tài tùy nghi (không bắt buộc). Vì vậy,

nếu điều luật có quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền, đồng thời hình phạt

tiền không được áp dụng là hình phạt chính thì tùy từng trường hợp mà Tòa án

có thể áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người bị kết án.

Thứ hai, về căn cứ quyết định và mức phạt tiền, khoản 3 Điều 35 BLHS

năm 2015 về cơ bản kế thừa quy định tại khoản 3 Điều 30 BLHS năm 1999

nên tiếp tục quy định: "3. Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính chất

và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của

người phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không thấp hơn 1.000.000đ".

Tuy vậy, khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 có sửa đổi về kỹ thuật lập pháp, cụ

thể là thay một số từ "tùy theo" bằng cụm từ "căn cứ vào" và thay từ "nghiêm

trọng" bằng từ "nguy hiểm" trong nội dung của khoản này. Việc thay đổi này

là nhằm đảm bảo sự chuẩn xác, sự thống nhất về mặt thuật ngữ trong các quy

định của BLHS năm 2015. Về mức phạt tiền, theo quy định tại khoản 3 Điều

35 BLHS hiện hành cho thấy, nhà làm luật nước ta chỉ quy định mức tối thiểu

36

chung của hình phạt tiền là 1.000.000đ mà không quy định mức phạt tiền tối

đa. Ở phần các tội phạm của BLHS năm 2015, mức phạt tiền được quy định

đối với từng tội phạm cụ thể căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội

phạm đó. Nghiên cứu quy định của BLHS năm 2015 về vấn đề này thấy rằng,

mức phạt tiền được quy định đối với các tội phạm cụ thể là một khoản tiền

nhất định, trong đó có chỉ ra mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền. Cụ

thể là: Đối với trường hợp phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính thì mức

tối thiểu là 5 triệu đồng và mức tối đa là 5 tỷ đồng; còn phạt tiền là hình phạt

bổ sung cũng có mức tối thiểu là 5 triệu đồng và mức tối đa là 500 triệu đồng.

Quy định về mức phạt tiền như trên, mặc dù chưa có sự phân biệt giữa

mức tối thiểu của hình phạt tiền là hình phạt chính và mức tối thiểu của hình

phạt tiền là hình phạt bổ sung, nhưng đây là một quy định hợp lý tạo điều kiện

cho việc áp dụng hình phạt tiền được thống nhất, tránh tùy tiện dẫn đến áp

dụng mức phạt tiền quá thấp hoặc quá cao. Thực tế cho thấy, mỗi tội phạm cụ

thể có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, có khả năng gây

thiệt hại với mức độ khác nhau và bị xử lý hình sự trong các thời điểm biến

động của giá cả thị trường khác nhau, vì thế mức phạt tiền cũng phải khác

nhau. Nếu Tòa án áp dụng mức phạt tiền quá thấp đối với những người phạm

tội có tính chất chuyên nghiệp, có động cơ, mục đích trục lợi bất chính, làm

giàu bằng mọi giá... thì sẽ không đạt được mục đích của hình phạt tiền. Còn

nếu Tòa án áp dụng mức phạt tiền quá cao so với tính chất, mức độ nguy hiểm

của tội phạm mà người phạm tội thực hiện, tình hình tài sản của họ và so với

giá cả thị trường thì không chỉ trái với mục đích của hình phạt mà còn làm cho

hình phạt đã tuyên không có tính khả thi, gây khó khăn cho công tác thi hành

án. Do vậy, để hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc áp dụng là

hình phạt bổ sung có tính khả thi trên thực tế, khoản 3 Điều 35 BLHS năm

2015 tiếp tục quy định: "Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính chất,

37

mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của

người phạm tội, sự biến động của giá cả". Đây là quy định có tính bắt buộc

đối với Tòa án khi quyết định hình phạt tiền đối với người bị kết án.

Thứ ba, về phương thức thi hành hình phạt tiền

Khác với khoản 4 Điều 30 BLHS năm 1999, trong đó có quy định thể

thức thi hành hình phạt tiền: "Tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều

lần trong thời hạn do Ṭa án quy định", thì hiện nay Điều 35 BLHS năm 2015

không còn tiếp tục quy định vấn đề này, bởi thể thức thi hành hình phạt tiền đã

được quy định tại điềm a khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008

(sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Thứ tư, về hình phạt tiền áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

So với Điều 72 BLHS năm 1999, Điều 99 BLHS năm 2015 không có sửa

đổi, bổ sung gì mà vẫn tiếp tục quy định: "Phạt tiền được áp dụng là hình phạt

chính đối với người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập

hoặc có tài sản riêng.

Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội

không quá một phần hai mức phạt tiền mà điều luật quy định".

Từ quy định này thấy rằng, để áp dụng phạt tiền là hình phạt chính đối

với người dưới 18 tuổi phạm tội, ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1

Điều 35 BLHS năm 2015 còn phải có thêm hai điều kiện: 1. Người phạm tội

phải ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; 2 Người phạm tội phải có thu

nhập hoặc tài sản riêng.

Về mức phạt tiền đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, theo quy

định tại Điều 99 BLHS năm 2015 thì không được quá 1/2 mức phạt tiền mà

điều luật quy định.

Quy định tại Điều 99 như vậy là hoàn toàn hợp lý, bởi ở lứa tuổi này, người

phạm tội phần lớn sống phụ thuộc vào gia đình, chưa có thu nhập, hoặc có thu

nhập nhưng không đáng kể. Nếu tòa án áp dụng hình phạt tiền khi họ không có thu

38

nhập hoặc tài sản riêng thì sẽ không đảm bảo tính khả thi của hình phạt.

Thứ năm, hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Đây là

một quy định hoàn toàn mới của pháp luật hình sự Việt Nam, bởi lần đầu tiên

trong lịch sử lập pháp đã coi chủ thể của trách nhiệm hình sự bao gồm cả cá

nhân và pháp nhân. Trong BLHS năm 2015 đã có một chương riêng (Chương

XI) quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội, trong

đó có quy định về hình phạt. Đây là điểm nổi bật, mang tính đột phá trong

chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, làm thay đổi nhận thức truyền

thống về vấn đề tội phạm và hình phạt.

Trong BLHS năm 2015, hệ thống các hình phạt đối với pháp nhân thương

mại phạm tội được quy định tại Điều 33, theo đó các hình phạt chính gồm:

Phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Các

hình phạt bổ sung gồm: cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực

nhất định; cấm huy động vốn; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

Đồng thời, tại các điều từ Điều 77 đến Điều 79, BLHS hiện hành quy

định cụ thể điều kiện áp dụng các hình phạt đối với pháp nhân thương mại

phạm tội. Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được nhà làm

luật quy định tại Điều 77 BLHS năm 2015 như sau: "Hình phạt tiền được áp

dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại

phạm tội. Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy

hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại

phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000đ".

Từ quy định này cho thấy, đối với pháp nhận thương mại phạm tội, hình

phạt tiền được áp dụng vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung (nếu

không áp dụng là hình phạt chính). Trong số những hình phạt chính, phạt tiền

được xem như là "một công cụ hữu hiệu để thể hiện cách ứng xử của Nhà

nước đối với pháp nhân thương mại khi có hành vi gây thiệt hại cho xã hội"

39

[52, tr61].

Khác với việc quy định hình phạt tiền đối với cá nhân phạm tội, BLHS

năm 2015 không quy định các trường hợp cụ thể áp dụng hình phạt tiền đối

với pháp nhân thương mại phạm tội. Vì vậy, có thể hiểu là hình phạt tiền được

áp dụng đối với cả 33 tội danh được quy định tại Điều 76 BLHS do pháp nhân

thương mại thực hiện, không phụ thuộc vào trường hợp phạm tội ít nghiêm

trọng, phạm tội nghiêm trọng hay phạm tội rất nghiêm trọng.

Thêm vào đó, BLHS năm 2015 còn quy định mức tối thiểu của hình phạt

tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội (chung cho cả trường hợp áp dụng

là hình phạt chính, cả trường hợp áp dụng là hình phạt bổ sung) là

50.000.000đ và mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ

nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân

thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả. Nếu so với mức tiền phạt tối

thiểu đối với cá nhân phạm tội thì mức tiền phạt tối thiểu đối với pháp nhân

thương mại phạm tội cao hơn 50 lần, thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự

giữa pháp nhân và cá nhân phạm tội, đồng thời còn cho thấy tính nghiêm khắc

của hình phạt tiền so với các chế tài hành chính, kinh tế hay dân sự mà pháp

nhân thương mại phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm. Tuy nhiên, việc quy

định mức tiền phạt tối thiểu đối với pháp nhân thương mại phạm tội tại Điều

77 chỉ mang tính chất nguyên tắc chung. Căn cứ vào nguyên tắc chung như

vậy, BLHS năm 2015 đã quy định cụ thể mức tiền phạt đối với từng tội danh

cụ thể, tưng ứng với từng khung hình phạt cụ thể mà theo quy định tại Điều 76

pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự.

2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh

2.2.1. Khái quát tình hình các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh

Theo số liệu thống kê xét xử cho thấy, từ năm 2014 đến năm 2018,

TAND hai cấp tỉnh Quảng Ninh đã giải quyết, xét xử: 7.546/8060 vụ với

40

13.069/14.244 bị cáo đạt 91,75% về số vụ và 93,62% về số bị cáo. Ở giai đoạn

này, trung bình mỗi năm TAND tỉnh Quảng Ninh đã giải quyết xét xử:

1.509/1.612 vụ với 2.848/2.613 bị cáo. Cụ thể các năm như sau:

+ Năm 2014 giải quyết, xét xử: 1.770/1.839 vụ với 3.118/ 3.310 bị cáo,

đạt tỷ lệ 96,2% về số vụ và 94,19% về số bị cáo.

+ Năm 2015 giải quyết, xét xử: 1444/1491 vụ với 2.467/2.607 bị cáo, đạt

96,8% về số vụ và 94,62% về số bị cáo;

+ Năm 2016 giải quyết, xét xử: 1.397/1.493 vụ với 2.574/2.863 bị cáo,

đạt 93,6% về số vụ và 90% về số bị cáo.

+ Năm 2017 giải quyết, xét xử: 1.340/1.559 vụ với 2.403/2.794 bị cáo,

đạt 86% về số vụ và 86% về số bị cáo.

+ Năm 2018 giải quyết, xét xử: 1.595/1.678 vụ với 2.507/2.670 bị cáo,

đạt 95% về số vụ và 93,8% về số bị cáo (xem Bảng 2.1 Phụ lục).

Về cơ bản, công tác xét xử các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật. Trong giai đoạn này chưa có trường hợp nào kết án oan

người vô tội hoặc để lọt người phạm tội. Hình phạt được áp dụng đối với

người phạm tội đảm bảo đúng luật, tương xứng với tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của tội phạm, đặc điểm nhân thân người phạm tội, các tình

tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong từng vụ án, đảm bảo hình

phạt đã tuyên có tính khả thi, góp phần đạt được mục đích của hình phạt.

Chất lượng xét xử các vụ án hình sự được đảm bảo. Số bản án, quyết định

sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị chiếm tỷ lệ không đáng kể. Bản án, quyết

định bị hủy do lỗi chủ quan của Hội đồng xét xử được duy trì ở mức độ thấp,

năm sau giảm hơn năm trước. Tranh tụng tại phiên tòa được đẩy mạnh và đảm

bảo thực chất. Các phán quyết của TAND hai cấp đã đảm bảo quyền lợi hợp

pháp của công dân, đảm bảo công lý, bảo vệ và đảm bảo quyền con người.

Khắc phục có hiệu quả việc để các vụ án giải quyết quá thời hạn luật định và

tình trạng bản án tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án.

41

Nhiều vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng hoặc các vụ án được dư luận xã hội

quan tâm đã được đưa ra xét xử án điểm, án lưu động để đáp ứng yêu cầu chính

trị- xã hội của địa phương, nhất là yêu cầu tuyên truyền phổ biến pháp luật và yêu

cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự tại địa phương.

2.2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền của Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh

Theo số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của TAND tỉnh Quảng

Ninh cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, TAND tỉnh Quảng

Ninh đã xử phạt 10.515 bị cáo, trong đó hình phạt chính được áp dụng đối với

các bị cáo cụ thể như sau: Phạt cảnh cáo: 21/10.515 vụ (chiếm 0,19%); phạt

tiền: 114/10.515 bị cáo (chiếm 1,08%); phạt cải tạo không giam giữ:

135/10.515 bị cáo (chiếm 1,28%); phạt tụ cho hưởng án treo 2.019/10.515 bị

cáo (chiếm 19,20%); phạt tù từ 03 năm trở xuống 5.023/10.515 bị cáo (chiếm

47,76%); phạt tù từ trên 03 năm đến 07 năm: 1.584/10.515 bị cáo (chiếm

15,06%); phạt tù từ trên 07 năm đến 15 năm 1.052/10.515 bị cáo chiếm ….%;

phạt tù trên 15 năm đến 20 năm: 387/10.515 bị cáo (chiếm 3,68%); phạt tù

chung thân: 108/10.515 bị cáo (chiếm 1,02%); tử hình: 72/10.515 bị cáo

(chiếm 0,68) (xem Bảng 2.2 Phụ lục). Như vậy, hình phạt tiền áp dụng đối với

bị cáo chiếm tỷ lệ không đáng kể, cụ thể: chỉ có 144/10.515 bị cáo bị áp dụng

là hình phạt chính (chiếm tỷ lệ 1,08%) và 154/10.515 bị cáo bị áp dụng là hình

phạt bổ sung (chiếm tỷ lệ 1,46%). Trong tổng số 162 bị cáo bị áp dụng hình

phạt bổ sung thì có tới 154 bị cáo bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ

sung chiếm tỷ lệ 95,06%. Qua đây cho thấy, hình phạt bổ sung được Tòa án áp

dụng đối với bị cáo chủ yếu là hình phạt tiền. Cụ thể các năm như sau:

+ Năm 2014 có: 13 bị cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt chính và 43 bị

cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung;

+ Năm 2015 có: 20 bị cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt chính và 19 bị

42

cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung;

+ Năm 2016 có: 18 bị cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt chính và 20 bị

cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung;

+ Năm 2017 có: 16 bị cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt chính và 20 bị

cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung;

+ Năm 2018 có: 47 bị cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt chính và 52 bị

cáo áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung (xem Bảng 2.3 Phụ lục). Như vậy,

trong 5 năm qua, năm 2018 là năm có số bị cáo được Tòa án áp dụng phạt tiền

là hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung cao nhất. Điều đó cho thấy, Tòa

án đã có sự chuyển biến trong nhận thức và đánh giá đúng về vai trò của hình

phạt tiền trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Qua nghiên cứu số liệu thống kê nêu trên và nghiên cứu ngẫu nhiên 10

bản án của TAND tỉnh Quảng Ninh có xử phạt tiền thấy rằng:

+ Trong xét xử các vụ án hình sự, hình phạt nói chung, hình phạt tiền nói

riêng mà TAND tỉnh Quảng Ninh áp dụng đối với bị cáo đã thể hiện được

chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước là: Nghiêm trị kết hợp với khoan

hồng, giữa trừng trị với giáo dục, cải tạo người phạm tội, tôn trọng bảo vệ

quyền con người, hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội cũng như đề

cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm.

+ Khi quyết định hình phạt nói chung, hình phạt tiền nói riêng, TAND

tỉnh Quảng Ninh ngoài việc dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt được quy

định tại Điều 45 BLHS năm 1999 (nay là Điều 50 BLHS năm 2015) còn chú ý

xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, tình hình tài sản

của người bị kết án, sự biến động của giá cả trên thị trường để lựa chọn và

quyết định mức tiền phạt phù hợp, đảm bảo tính khả thi, góp phần đạt được

mục đích phòng ngừa riêng, cũng như phòng ngừa chung của hình phạt đã

tuyên, đặc biệt là đã phần nào loại trừ, hạn chế những điều kiện về tài sản mà

43

người phạm tội có thể sử dụng để tiếp tục phạm tội (tái phạm).

+ Mức phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính và hình phạt bổ sung

đều thuộc chế tài mà điều luật có quy định, phù hợp với thu lợi bất chính và

khả năng thi hành của người bị kết án. Vụ án cụ thể sau đây là một minh

chứng: Tại Bản án số 97/2018/HS-ST ngày 31/8/2018, TAND tỉnh Quảng

Ninh: 1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tiến Khôi và Lê Tiến Thành, Nguyễn

Hoài Thu phạm tội "làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" và "Vận

chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới". Áp dụng điểm a, b, c khoản 3, Điều

341; khoản 3, 4 Điều 189; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 55; Điều 17; Điều

58 BLHS năm 2015, xử phạt Nghiêm Tuấn Khôi 04 năm tù về tội "làm giả

con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức", 6 năm 6 tháng tù về tội "vận chuyển

trái phép tiền tệ qua biên giới". Tổng hợp buộc bị cáo phải chấp hành hình

phạt chung của cả hai tội là 10 năm 6 tháng tù, thời hạn kể từ ngày bị bắt ngày

30/01/2018.

Phạt bị cáo 20.000.000đ để sung qũy nhà nước.

Áp dụng điểm a, b, c khoản 3 Điều 341; khoản 3,4 Điều 189; điểm s

khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55; Điều 17; Điều 58 BLHS năm 2015, xử

phạt Lê Tiến THành 03 năm tù về tội "làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan,

tổ chức" 6 năm tù về tội "vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới". Tổng

hợp buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 09 năm tù,

thời hạn kể từ ngày bị bắt ngày 21/4/2018.

2. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoài Thu phạm tội "làm giả con dấu, tài

liệu của cơ quan, tổ chức" và "Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới". Áp

dụng điểm a, b, khoản 3, Điều 341; khoản 3 Điều 189; điểm b, s khoản 1 Điều

51; Điều 55; Điều 17; Điều 58 BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Hoài Thu 01

năm tù về tội "làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" 02 năm tù về tội

"vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới". Tổng hợp buộc bị cáo phải chấp

hành hình phạt chung của cả hai tội là 03 năm tù, thời hạn kể từ ngày bị bắt

44

ngày 20/4/2018.

3. Tuyên bố các bị cáo Vũ Hồng Hải, Lê Thị Liên, Đậu Thị Lan Anh,

Nguyễn Thu Hằng phạm tội "Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới".

- Áp dụng khoản 3, khoản 4 Điều 189; điểm b, v, s khoản 1, khoản 2 Điều

51; Điều 17; Điều 58 BLHS năm 2015 xử phạt Vũ Hồng Hải 04 năm tù, thời hạn

tính từ ngày bị bắt ngày 20/3/2018; phạt bị cáo 20.000.000đ sung quỹ Nhà nước;

- Áp dụng khoản 3, Điều 189; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 17; Điều 58

BLHS năm 2015 xử phạt Nguyễn Thu Hằng 03 năm tù, thời hạn tính từ ngày

bị bắt đi thi hành án;

- Áp dụng khoản 3, Điều 189; điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 17; Điều 58; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 56 BLHS năm 2015 xử

phạt Lê Thị Liên 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm

kể từ ngày tuyên án.

- Áp dụng khoản 3, Điều 189; điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 17; Điều 58; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 56 BLHS năm 2015 xử

phạt Đậu Thị Lan Anh 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05

năm kể từ ngày tuyên án.

Như vậy, trong vụ án này ngoài hình phạt tù được áp dụng là hình phạt

chính đối với bị cáo, TAND còn phạt bị cáo Nghiêm Tuấn Khôi, Lê Tiến

Thành, Vũ Hồng Hải, mỗi bị cáo 20.000.000đ với tính chất là hình phạt bổ

sung. Lý do áp dụng là các bị cáo này được hưởng lợi cao nhất. Các bị cáo còn

lại được miễn phạt tiền là hình phạt bổ sung. Có thể thấy trong vụ án này,

TAND tỉnh Quảng Ninh đã căn cứ vào quy định của BLHS năm 2015, tính

chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà mỗi bị cáo thực hiện, vai

trò của bị cáo trong vụ án, các tình tiết giảm nhẹ của mỗi bị cáo được quy định

tại khoản 1, 2 Điều 51, đặc điểm nhân thân của bị cáo để quyết định loại, mức

hình phạt thỏa đáng. Cụ thể là khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo,

TAND đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51:

45

Các bị cáo đều khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của bản thân và

đồng phạm; các bị cáo Liên, Thu, Lan Anh đã tự nguyên nộp lại khoản tiền thu

lời bất chính; bị cáo Liên là con liệt sĩ để giảm nhẹ tội cho các bị cáo một phần

hình phạt. Ngoài ra, TAND tỉnh Quảng Ninh còn áp dụng khoản 2 Điều 51

BLHS năm 2015 để coi một số tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự và ghi rõ trong bản án như: Bị cáo Đậu Thị Lan Anh ra đầu thú, bố là

thương binh, được thưởng huân chương chiến sĩ giải phóng; bị cáo Lê Tiến

Thành có bố là thương binh, ông nội có công với cách mạng; bị cáo Khôi có

bố là thương binh, ông bà nội được tặng huân, huy chương, bị cáo Liên có bố

tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ... để xét giảm nhẹ một phần hình

phạt cho các bị cáo. Các tình tiết giảm nhẹ này là hoàn toàn xác đáng, đúng

với văn bản hướng dẫn áp dụng của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Bên cạnh

đó, khi quyết định hình phạt, TAND tỉnh Quảng Ninh còn căn cứ vào đặc

điểm nhân thân của bị cáo để quyết định. Chẳng hạn, tại bản án này TAND

tỉnh Quảng Ninh khẳng định: "Đối với bị cáo Nguyễn Thu Hằng là cán bộ

ngân hàng làm tại bộ phận thanh toán quốc tế, nắm vững quy định, hiểu biết

pháp luật, lẽ ra phải thực hiện nghiêm chỉnh quy chế của ngân hàng, pháp luật

của Nhà nước nhưng vẫn tiếp tay cho tội phạm nên phải có mức án nghiêm khắc

để răn đe, cải tạo, giáo dục" [60]. Đây là đặc điểm về nghề nghiệp của bị cáo đã

được TAND tỉnh Quảng Ninh xem xét khi quyết định hình phạt.

+ Nhiều vụ án, TAND tỉnh Quảng Ninh xử phạt nghiêm khắc, đúng mức,

đáp ứng được yêu cầu phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị- xã hội của địa

phương, được dư luận xã hội đồng tình, qua đó uy tín của Tòa án được nâng

cao, công lý được đảm bảo, điển hěnh lŕ: vụ Bůi Trọng Tiến phạm tội "Giết

người" và "cướp tài sản" xảy ra tại thị xã Đông Triều; vụ Phạm Văn Hà cùng

đồng phạm phạm tội "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ" xảy

ra tại Công ty Cổ phần Than Tây Nam Đá Mài, TP Cẩm Phả, v.v...

Những kết quả nêu trên trong công tác xét xử của TAND tỉnh Quảng

Ninh đã góp phần giữ vững và ổn định tình hình an ninh, trật tự, tạo thuận lợi

46

cho phát triển kinh tế- xã hội tại địa phương.

2.2.3. Những hạn chế, thiếu sót trong áp dụng hình phạt tiền và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác xét xử nói chung, áp

dụng hình phạt tiền nói riêng của TAND tỉnh Quảng Ninh trong những năm

qua vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót nhất định, cần phải kịp thời khắc phục,

đó là:

+ Thứ nhất, tần suất áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính cũng như

hình phạt bổ sung còn thấp, nên chưa phát huy được hiệu quả của hình phạt

này trong đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là các tội xâm phạm trật tự

quản lý kinh tế, tội phạm tham nhũng, ma túy, môi trường và một số tội phạm

khác có tính chất vụ lợi, hoặc dùng tiền làm phương tiện để phạm tội.

Qua số liệu thống kê như đã phân tích ở trên cho thấy, phạt tiền áp dụng

là hình phạt chính chỉ chiếm tỷ lệ 1,16%; phạt tiền áp dụng là hình phạt bổ

sung chỉ chiếm tỷ lệ 1,45%. Như vậy là quá thấp so với tần suất áp dụng hình

phạt tù. Điều này không thực sự đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp là

"giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không

giam giữ đối với một số tội phạm" [5].

+ Thứ hai, trong một số vụ án Tòa án ít chú ý đến việc xem xét tình hình

tài sản, sự biến động của giá cả khi quyết định hình phạt tiền. Đây cũng là một

trong những lý do dẫn đến không ít trường hợp bản án phạt tiền thiếu tính khả

thi, khó thi hành trên thực tế. Ví dụ: Có những vụ án về Ma túy, đối tượng vi

phạm là những bị cáo thường không có tài sản đang chấp hành hình phạt tù

nhưng vẫn áp dụng hình phạt tiền thì dẫn đến thiếu tính khả thi trong áp việc

áp dụng hình phạt tiền.

+ Thứ ba, khi quyết định hình phạt tiền, Tòa án chủ yếu chú trọng vào

việc cá thể hóa hình phạt chính, còn đối với hình phạt tiền được áp dụng là

hình phạt bổ sung ít được coi trọng. Mặt khác, mức tiền phạt cụ thể đôi khi

chưa thật sự thỏa đáng hoặc quá nhẹ, hoặc quá nặng. Điều đó dẫn tới chưa

47

đảm bảo nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt tiền.

+ Thứ tư, khoản 4 Điều 30 BLHS năm 1999 có quy định: "Tiền phạt có

thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Tòa án quyết định

trong bản án" nhưng hầu như trong những bản án có tuyên hình phạt tiền theo

quy định của BLHS năm 1999, Tòa án chỉ tuyên phạt tiền bị cáo một khoản

tiền nhất định sung công quỹ Nhà nước mà không quyết định cho bị cáo nộp

tiền phạt một lần hay nhiều lần và cũng không ấn định thời hạn nộp tiền phạt.

Do vậy, đã gây khó khăn cho công tác thi hành án phạt tiền trên thực tế

+ Thứ năm, có một số bản án xử phạt bị cáo về nhiều tội, nhưng khi quyết

định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thì Tòa án áp dụng chung cho tất cả

các tội, do vậy không rõ hình phạt tiền áp dụng là hình phạt bổ sung đối với bị

cáo về tội cụ thể nào. Chẳng hạn trong bản án số 97/2018/HS-ST ngày

31/8/2018 tỉnh Quảng Ninh tuyên bố các bị cáo Nghiêm Tiến Khôi và Lê Tiến

Thành phạm 2 tội: "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức" và vận

“chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”. Nhưng khi quyết định áp dụng hình

phạt tiền là hình phạt bổ sung thì TAND tỉnh Quảng Ninh chỉ quyết định

chung là "Phạt bị cáo 20.000.000 đồng". Quyết định như vậy là không đúng

với quy định tại Điều 55 BLHS năm 2015, theo đó "khi xét xử cùng 01 lần một

người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội", “Sau đó

tổng hợp buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung đối với cả hai tội”.

Riêng phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền

phạt được cộng lại thành hình phạt chung (điểm đ khoản 1 và điểm a khoản 2

Điều 5 BLHS)

* Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót nêu trên:

Qua khảo sát thực tiễn xét xử các vụ án hình sự của TAND tỉnh Quảng

Ninh trong những năm gần đây chúng tôi thấy, những hạn chế, thiếu sót này là

do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Một là, do nhận thức của một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân về vai

48

trò, hiệu quả của hình phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm chưa

thật sự đúng đắn. Vì thế, có trường hợp nên áp dụng hình phạt tiền nhưng Hội

đồng xét xử lại không áp dụng hình phạt này.

Hai là, quy định của BLHS năm 1999 cũng như của BLHS năm 2015 vẫn

còn một số hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp dụng

(vấn đề này chúng tôi sẽ phân tích tại phần giải pháp tại Chương 3 luận văn).

Ba là, công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật của cơ quan có

thẩm quyền chưa được tiến hành kịp thời, vẫn còn một số quy phạm mang tính

nguyên tắc hoặc chưa thật sự rõ ràng, minh bạch, khó thống nhất trong thực

tiễn áp dụng hình phạt tiền nhưng vẫn chưa có văn bản giải thích, hướng dẫn

hoặc hướng dẫn vẫn chưa thật sự cụ thể, rõ ràng.

Bốn là, công tác giám đốc xét xử, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra hoạt động

áp dụng hình phạt nói chung, hình phạt tiền nói riêng chưa được tiến hành

thường xuyên, kịp thời, sát sao để phát hiện những hạn chế, thiếu sót và có

biện pháp khắc phục.

Năm là, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách nhiệm

trong công tác, đạo đức công vụ của một bộ phận Thẩm phán, nhất là Hội

thẩm nhân dân chưa thực sự đáp ứng yêu cầu công tác đặt ra.

Sáu là, điều kiện làm việc, phương tiện công tác, chế độ chính sách đãi

ngộ đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án, đối với Hội thẩm nhân dân chưa

thật sự tương xứng với tính chất đặc thù của hoạt động xét xử; đời sống sinh

hoạt của cán bộ thực thi pháp luật còn nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh

nền kinh tế thị trường hiện nay.

Như vậy, nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong công tác xét xử

nói chung trong quyết định hình phạt tiền nói riêng có cả nguyên nhân khách

quan và chủ quan. Những nguyên nhân này nếu không được khắc phục sẽ ảnh

hưởng tiêu cực đến hoạt động xét xử, cũng như hoạt động áp dụng hình phạt,

49

trong đó có hình phạt tiền.

Tiểu kết Chương 2

Qua nghiên cứu Chương 2 của luận văn có thể rút ra một số kết luận cơ

bản sau:

Hình phạt tiền có lịch sử lâu đời, được quy định rất sớm trong pháp luật

hình sự Việt Nam.Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS

năm 1985, hình phạt tiền được quy định rải rác trong các văn bản dưới luật

bằng hình thức Sắc lệnh, Sắc luật và Pháp lệnh. Do trình độ kỹ thuật lập pháp

còn hạn chế nên ở thời kỳ này, hình phạt tiền được quy định còn hết sức đơn

giản, chưa chặt chẽ và đầy đủ.

Chỉ đến khi BLHS năm 1985 (BLHS đầu tiên) được ban hành, thì hình

phạt tiền mới được quy định một cách cụ thể vừa với tư cách là hình phạt

chính, vừa với tư cách là hình phạt bổ sung. Trong các quy định của BLHS

này đều chỉ rõ phạm vi, điều kiện, đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền. Tuy

nhiên, qua hơn chục năm áp dụng BLHS năm 1985 đã bộc lộ những hạn chế,

bất cập nhất định đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện. Với yêu

cầu đó, BLHS năm 1999 được ban hành thay thế BLHS năm 1985. Ngoài việc

tiếp thu những yếu tố hợp lý của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 có nhiều

sửa đổi, bổ sung về hình phạt tiền theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng, quy

định chặt chẽ về phạm vi, điều kiện áp dụng, nên đã thực sự tạo cơ sở pháp lý

thống nhất cho việc áp dụng hình phạt tiền trên thực tế. Tuy nhiên, so với yêu

cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội ở

trong nước cũng như trên thế giới có nhiều thay đổi, nên các quy định của

BLHS năm 1999 về hình phạt tiền không thật sự còn phù hợp, cần phải sửa

đổi, bổ sung nhằm thể chế hóa chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta

trong giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu bảo vệ và bảo đảm quyền con người mà

Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận. Để đáp ứng yêu cầu trên, BLHS năm 2015

được ban hành, các quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt tiền đã được

50

sửa đổi, bổ sung cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp khi quy định hình phạt

tiền, đặc biệt là quy định hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm

tội. Điểm nổi bật của Bộ luật này đã mở rộng hơn nữa về phạm vi áp dụng,

quy định chặt chẽ căn cứ, điều kiện áp dụng hěnh phạt tiền nhằm phát huy

hiệu lực vŕ hiệu quả của hěnh phạt tiền đấu tranh phòng, chống tội trong tình

hình mới.

Ngoài ra, tại Chương 2 của luận văn còn tập trung đánh giá thực trạng áp

dụng hình phạt tiền tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh; rút ra được những kết quả đạt

được cũng như những thiếu sót và nguyên nhân

Với kết quả nêu trên, Chương 2 đã thực sự là chương bàn về cơ sở thực tế

của việc về ra giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tiền trong thực tiễn

51

áp dụng ở Chýõng 3.

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH

CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ HÌNH PHẠT TIỀN

3.1. Yêu cầu đối với việc áp dụng đúng hình phạt tiền

3.1.1. Yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: "1. Ở nước Cộng hòa XHCN Việt

Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn

hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và

pháp luật.

2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định

của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật

tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng" [44, tr17].

Pháp luật hình sự nói chung, các quy định của pháp luật về hình phạt,

trong đó có hình phạt tiền nói riêng trước hết phải thể chế hóa quy định của

Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân theo hướng đề cao

hiệu quả phòng ngừa, tính nhân đạo, hướng thiện trong việc xử lý người phạm

tội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân khỏi sự xâm hại của tội phạm.

Để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 2015 tại Điều 1 có quy

định: "BLHS có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước,

bảo vệ chế độ XHCN, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình

đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật

tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân

theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Bộ luật này quy định tội phạm và hình phạt" [38,tr9]. Từ quy định này

của BLHS cho thấy, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo

vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, chống mọi hành vi phạm tội được thực hiện

52

thông qua việc BLHS xác định hành vi bị coi là tội phạm và quy định hình

phạt được áp dụng đối với hành vi bị coi là tội phạm. Để bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, Nhà nước đã sử dụng BLHS là một phương tiện pháp

lý quan trọng nhất, là cơ sở pháp lý cho việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm

để buộc người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách

nhiệm hình sự, hình phạt. Mặt khác khi quy định tội phạm, đặc biệt là quy

định hình phạt đối với tội phạm cũng như khi áp dụng các quy định của BLHS

về hình phạt cần phải hạn chế quy định và áp dụng các hình phạt tước đi

quyền sống, quyền tự do của con người (như hình phạt tử hình, hình phạt tù)

mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một

số tội phạm, khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, dân sự và

ngược lại.

Khi tiến hành tố tụng hình sự, đặc biệt là khi quyết định hình phạt Tòa án

"phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền lợi ích hợp pháp của cá

nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện

pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu sẽ

thấy có sự vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết" (Điều 8 BLTTHS năm

2015).

Hình phạt, trong đó có hình phạt tiền là biện pháp cưỡng chế nghiêm

khắc của Nhà nước, có nội dung tước bỏ, hạn chế những quyền lợi thiết thân

của người bị kết án, hạn chế quyền con người, quyền công dân. Do vậy, khi

quyết định hình phạt, kể cả hình phạt tiền, Tòa án phải đảm bảo tính đúng đắn,

hợp lý và khả thi của hình phạt đã tuyên trên thực tế, phải kết hợp hài hòa,

chặt chẽ giữa trừng trị đi đôi với khoan hồng, giáo dục, cảm hóa người phạm

tội và luôn đề cao quyền con người của người bị kết án. Muốn vậy, khi ấn định

mức tiền phạt cũng như tịch thu toàn bộ tài sản của người bị kết án, thì ngoài

việc phải xét đến tình hình tài sản của người bị kết án, sự biến động của giá cả,

Tòa án còn phải chú ý đến việc bảo đảm cho người bị kết án và gia đình họ có

53

điều kiện sinh sống.

Như vậy, bảo vệ và bảo đảm quyền con người là một trong những yêu cầu

đối với hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung, hoạt động quyết định

hình phạt (trong đó có hình phạt tiền) nói riêng. Do vậy, khi áp dụng hình phạt

tiền Tòa án cần phải quán triệt yêu cầu này nhằm hình phạt đã tuyên vừa góp

phần đạt được mục đích phòng ngừa riêng, phòng ngừa chung của hình phạt,

nhưng đồng thời phải bảo vệ và đảm bảo quyền con người, quyền công dân.

3.1.2. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm

Hiện nay dưới sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, tình hình

tội phạm do nguyên nhân kinh tế, có tính chất kinh tế xảy ra phổ biến, diễn

biến phức tạp, khó lường. Theo số liệu thống kê của TANDTC, thì từ năm

2001 đến năm 2017 trên phạm vi cả nước có 1.022.238 vụ phạm tội với

1.872.478 bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm về các loại tội phạm khác nhau.

Trong đó, các nhóm tội phạm xảy ra phổ biến là các tội xâm phạm sở hữu có

415.510 vụ với 633.382 bị cáo, chiếm 40,65% về số vụ và 33,83% về số bị

cáo; các tội phạm về ma túy có 215.912 vụ với 280.240 bị cáo, chiếm 21,12%

về số vụ và 14,97% về số bị cáo. Trong đời sống xã hội, xuất hiện một số tội

phạm phi truyền thống như tội phạm về chứng khoán, môi trường, tội phạm sử

dụng công nghệ cao... Những loại tội phạm này về cơ bản đều liên quan đến

lợi ích kinh tế. Những tội phạm này không chỉ do cá nhân mà còn do pháp

nhân thực hiện. Đối với những loại tội phạm này thì ngoài những hình phạt

nghiêm khắc nhất như tử hình, phạt tù áp dụng đối với cá nhân phạm tội, thì

hình phạt tiền áp dụng đối với cả cá nhân phạm tội cũng như pháp nhân

thương mại phạm tội cũng có vai trò to lớn trong phòng, chống. Chính vì vậy,

hình phạt tiền với tính chất là biện pháp tác động về kinh tế ngày càng được

BLHS mở rộng phạm vi áp dụng. Hiện nay, theo quy định của BLHS năm

2015 thì hình phạt tiền với tính chất là hình phạt chính được áp dụng không

chỉ đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật

54

này quy định mà còn đối với người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật

tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số

tội khác do Bộ luật này quy định. Với tư cách là hình phạt bổ sung, hình phạt

tiền được áp dụng đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những

tội phạm khác do Bộ luật này quy định (Điều 35). Đối với pháp nhân thương

mại phạm tội, phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ

sung (Điều 77). Do vậy, để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh các loại

tội phạm này cần tăng cường áp dụng hình phạt tiền trong thực tiễn, để một

mặt trừng phạt, giáo dục, cải tạo người phạm tội, mặt khác để triệt tiêu, hạn

chế điều kiện về tài sản mà chủ thể sử dụng thực hiện hành vi phạm tội, cũng

như phòng ngừa chung.

Thực tiễn xét xử ở nước ta nói chung, ở tỉnh Quảng Ninh nói riêng, trong

những năm qua tỷ lệ áp dụng hình phạt tiền rất thấp (ở Quảng Ninh, tỷ lệ áp

dụng hình phạt chính chỉ chiếm 1,16%, còn áp dụng là hình phạt bổ sung chỉ

chiếm 1,45%). Do vậy, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm

trong tình hình mới cần tăng cường áp dụng hình phạt tiền trong thực tiễn xét

xử, nhất là đối với những tội danh, nhà làm luật quy định hình phạt tiền là chế

tài lựa chọn cùng với các hình phạt khác thì cần chú trọng áp dụng hình phạt

tiền khi có căn cứ, điều kiện để áp dụng.

3.1.3. Yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như ở địa phương

Pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng là yếu tố của kiến trúc

thượng tầng xã hội, được ra đời trên cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và được quy

định bởi cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong mối quan hệ này, các điều kiện

kinh tế xã hội không chỉ là nguyên nhân quy định sự ra đời của pháp luật hình

sự (trong đó có các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt) mà còn quyết

định toàn bộ nội dung và sự phát triển cũng như việc thi hành nó trong đời

sống xã hội. Vì thế, sự phát triển kinh tế - xã hội là yếu tố dẫn đến sự cần thiết

phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự, phải xây dựng, mở rộng phạm

55

vi áp dụng hình phạt tiền. Đúng như Mác đã nhận xét: "Trong thời đại nào

cũng thế, chính là vua chúa phải phục tùng những điều kiện kinh tế, chứ không

bao giờ vua chúa lại ra lệnh cho những điều kiện kinh tế được. Chẳng qua chế

độ lập pháp về chính trị cũng như về dân sự chỉ làm cái việc nói lên, ghi chép

lại những yêu cầu của những quan hệ kinh tế mà thôi" [7,tr159].

Hiện nay ở nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập

trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, đã làm cho các quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng đa dạng, phong phú.

Nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng có sự thay đổi nhất định về nội

dung của chức năng tổ chức và quản lý kinh tế. Trong sự chuyển đổi cơ cấu

kinh tế, pháp luật hình sự nói riêng, pháp luật nói chung cũng phải thay đổi để

kịp thời phản ánh những nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy,

để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, điều tất yếu phải đổi mới, hoàn

thiện pháp luật hình sự, trong đó có chế định hình phạt nhằm tạo ra một cơ sở

pháp lý vững chắc, chặt chẽ, thống nhất cho hoạt động của các cơ quan có

thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chế

định hình phạt, trong đó có hình phạt tiền cũng cần phải được hoàn thiện để

theo kịp và phản ánh những biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội, những đặc

điểm cơ bản của tình hình tội phạm trong giai đoạn phát triển cụ thể của đời

sống xã hội. Một trong những vấn đề hoàn thiện chế định hình phạt ở nước ta

hiện nay là "giảm hình phạt tử hình, hình phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng

hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm".

Đây là một chủ trương hết sức cần thiết và đúng đắn, phù hợp với tình hình

kinh tế - xã hội của đất nước. Song vấn đề quan trọng ở đây là phải tăng cường

áp dụng hình phạt tiền, có như vậy những quy định của pháp luật hình sự về

hình phạt tiền mới đi vào cuộc sống, mới phát huy vai trò của hình phạt này

trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tiền và

56

tăng cường áp dụng hình phạt tiền phải phù hợp với thực tiễn kinh tế xã hội

của đất nước, phản ánh được các nhu cầu, đòi hỏi của các điều kiện chính trị,

kinh tế, văn hóa, xã hội và truyền thống của dân tộc; phải tạo ra một hành lang

pháp lý an toàn cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là không làm cản trở

sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ được những lợi ích cơ bản của đất nước

trong tình hình hiện nay.

3.1.4. Yêu cầu hợp tác quốc tế

Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/04/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập

quốc tế đã chỉ định rõ: "Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng

chiến lược lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN"; "Nghiêm chỉnh tuân thủ các

cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia

xây dựng và tận dụng có hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các

hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế".

Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: "Tổ chức

thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta ký kết hoặc tham gia. Tiếp tục

ký hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là các nước láng

giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thống.

Tăng cường sự phối hợp chung trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh

chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố quốc tế với các tổ chức

INTERPOL, ASEANPOL... với cảnh sát các nước láng giềng và khu vực, với

cảnh sát một số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh sống, lao động, học

tập" [4].

Quán triệt chủ trương đó, đến nay Nhà nước ta đã ký kết hoặc tham gia

nhiều công ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là Công

ước quốc tế về chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác và

vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người của Liên hợp quốc. Ngoài ra, Việt Nam

còn ký kết nhiều hiệp định tương trợ tư pháp hình sự với các nước trên thế

57

giới, hiệp định dẫn độ tội phạm, hiệp định chuyển giao bị kết án phạt tù... với

các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có nhiều người Việt

Nam sinh sống, học tập, lao động. Với tư cách là quốc gia thành viên tham gia

các công ước quốc tế, Việt Nam cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện

pháp luật hình sự trong đó có các quy định hình phạt nhằm bảo đảm tính tương

thích với các chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế, góp phần vào việc thực

hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Để đáp ứng yêu cầu này, BLHS năm 2015 có nhiều quy định liên quan

đến vấn đề hợp tác quốc tế trong việc xử lý người phạm tội, pháp nhân thương

mại phạm tội có yếu tố nước ngoài như: "Đối với người nước ngoài phạm tội

trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng

quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều

ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên hoặc theo tập

quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy

định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước

quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm

hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao" (khoản 2 Điều 5

BLHS 2015); "Công dân Việt Nam hoặc pháp nhân thương mại Việt Nam có

hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam mà Bộ luật

này quy định là tội phạm, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt

Nam theo quy định của Bộ luật này.

Quy định này cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường

trú ở Việt Nam.

Người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài

lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình

sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại

quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước

Cộng hòa XHCN Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng

58

hòa XHCN Việt Nam là thành viên.

Đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên

tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc tại

giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thì

người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ

luật này trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là

thành viên có quy định" (Điều 6 BLHS năm 2015). Để có cơ sở pháp lý để giải

quyết vấn đề trách nhiệm hình sự, trong đó có vấn đề áp dụng hình phạt,

BLTTHS năm 2015 đã quy định phạm vi, nguyên tắc hợp tác quốc tế trong tố

tụng hình sự, theo đó: "Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự gồm tương trợ tư

pháp về hình sự; dẫn độ; tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt

tù và các hoạt động hợp tác quốc tế khác được quy định tại Bộ luật này, pháp

luật về tương trợ tư pháp và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là

thành viên.

Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa

XHCN Việt Nam được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng

hòa XHCN Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại, theo quy

định của Bộ luật này, pháp luật về tương trợ tư pháp và quy định khác của

pháp luật Việt Nam có liên quan" (Điều 419 BCTTHS năm 2015).

"Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được thực hiện trên nguyên tắc

tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào

công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp,

pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là

thành viên.

Trường hợp Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập điều ước quốc tế

có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được thực hiện theo

nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với

59

pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế" (Điều 492 BLTTHS năm 2015).

Việc áp dụng hình phạt, trong đó có hình phạt tiền trong các trường hợp

phạm tội có yếu tố nước ngoài sẽ ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao của nước ta

với các nước khác. Nếu áp dụng hình phạt đúng sẽ có phần thúc đẩy hợp tác

quốc tế, tăng cường hợp tác ngày càng sâu rộng trong đấu tranh phòng, chống

tội phạm, nhất là tội phạm có tính quốc tế, tội phạm có yếu tố nước ngoài.

Ngược lại, nếu áp dụng h́ nh phạt không đúng, trái với quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam, với các điều ước quốc tế thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quan

hệ đối ngoại của nước ta. Do vậy, khi áp dụng hình phạt, trong đó có hình phạt

tiền đối với phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội có yếu tố nước ngoài,

Tòa án luôn luôn phải quán triệt yêu cầu hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng,

chống tội phạm, nhất là yêu cầu của Công ước quốc tế về chống tra tấn và các hình

thức trừng phạt hay ðối xử tàn ác và vô nhân ðạo hoặc hạ nhục con ngýời ðã được

Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 28/11/2014. Đây là Văn kiện thứ 10/28 điều

ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập, phê chuẩn.

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật

hình sự về hình phạt tiền

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện và hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật

hình sự năm 2015 về hình phạt tiền

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 có nhiều nội dung đổi mới,

có tính đột phá, thể chế hóa khá đầy đủ, toàn diện các chủ trương cải cách tư

pháp của Đảng và Nhà nước, thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, khắc phục

được những vướng mắc, bất cập của BLHS năm 1999, đáp ứng yêu cầu đấu

tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, cũng như yêu cầu phát triển

mới của đất nước. Điều mới nổi bật liên quan đến chế định hình phạt nói

chung, hình phạt tiền nó riêng là mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền; quy

định hệ thống hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội...

Tuy nhiên, sau gần 2 năm áp dụng các quy định của BLHS năm 2015 về

60

hình phạt tiền đã phát sinh những khó khăn, vướng mắc từ từ chính các quy

định của Bộ luật này về hình phạt tiền. Do vậy, để phát huy hiệu quả của hình

phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, cần tiếp

tục nghiên cứu, sửa đổi các quy định của BLHS về hình phạt nói chung, hình

phạt tiền nói riêng. Cụ thể như sau:

+ Thứ nhất, quy định tại khoản 3 Điều 35 về căn cứ quyết định mức phạt

tiền đối với cá nhân bị kết án.

Nghiên cứu quy định tại khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 thấy rằng, một

trong những căn cứ quyết định mức tiền phạt là "xét đến tình hình tài sản của

người phạm tội". Quy định như vậy đồng nghĩa là, Hội đồng xét xử phải xem

xét tình hình tài sản của người bị kết án phạt tiền để ấn định mức tiền phạt cụ

thể. Vấn đề đặt ra ở đây là Hội đồng xét xử xác định tình hình tài sản của người

phạm tội bằng cách nào? trong khi tài sản của người phạm tội lại hết sức đa

dạng: cũ có, mới có; loại có chứng từ, loại không có chứng từ, có loại tài sản thì

lại do người phạm tội trực tiếp chiếm giữ, quản lý, loại thì do người khác quản

lý (tài sản đem đi cầm cố, thế chấp, gửi ở ngân hàng...). Vậy Hội đồng sẽ xử có

khả năng xác định được tình hình tài sản của người phạm tội hay không? Đây là

một khó khăn, vướng mắc lớn trong thực tiễn áp dụng hình phạt tiền và cũng là

một trong những nguyên nhân dẫn đến mức tiền phạt được quyết định trong bản

án có thể chưa thật phù hợp với tình hình tài sản của người bị kết án, làm giảm

tính khả thi của hình phạt tiền trên thực tế. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cơ quan

có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn, trong đó chỉ rõ chủ thể có

trách nhiệm xác định tình hình tài sản của người phạm tội; những loại tài sản

được xem xét, đánh giá tình hình tài sản... để Hội đồng xét xử làm cơ sở quyết

định mức tiền phạt được chính xác, phù hợp với tình hình tài sản của người bị

kết án, qua đó làm tăng tính khả thi của hình phạt tiền trên thực tế.

+ Thứ hai, quy định về mức tối thiểu của hình phạt tiền

Theo quy định tại khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 thì mức tối thiểu của

61

hình phạt tiền là 1.000.000 đồng. Nhưng trong phần các tội phạm của BLHS

năm 2015, tại các điều luật có quy định là hình phạt tiền thì không có một điều

luật nào quy định mức tối thiểu của hình phạt này là 1.000.000đ, mà đều quy

định mức phạt tiền tối thiểu là 5.000.000 đồng. Như vậy, quy định về mức tối

thiểu của hình phạt tiền ở phần chung và ở phần các tội phạm của BLHS năm

2015 là không thống nhất.

Mặt khác, khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 vẫn tiếp tục quy định mức

tối thiểu của hình phạt tiền là 1.000.000 đồng như quy định tại khoản 3 Điều

30 BLHS năm 1999. Vậy, mức tối thiểu của hình phạt tiền là 1.000.000 đồng

có thật sự phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay hay không, có thể

hiện được tính cưỡng chế nghiêm khắc của hình phạt so với các chế tài pháp lý

khác (chế tài hành chính, dân sự, kinh tế) hay không, có đủ sức răn đe phòng

ngừa tội phạm hay không. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm cho rằng

"với thực tế hiện nay, BLHS quy định mức tối thiểu của phạt tiền 1.000.000 đồng

là quá thấp" [53,tr29]. Do vậy, theo chúng tôi, để đảm bảo tính nghiêm khắc của

hình phạt tiền và phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay cần điều chỉnh

mức tối thiểu của hình phạt tiền từ 1.000.000 đồng thành 5.000.000 đồng.

Thêm vào đó, khoản 3 Điều 35 quy định mức tiền phạt tối thiểu

1.000.000 đồng chung cho cả hình phạt tiền áp dụng là hình phạt chính và cả

hình phạt tiền áp dụng hình phạt bổ sung. Như vậy là đã đánh đồng, không

phân biệt mức tối thiểu của hình phạt tiền là hình phạt chính với mức tối thiểu

của hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Theo chúng tôi, mức tối thiểu của hình

phạt tiền với tính chất là hình phạt chính phải cao hơn mức tối thiểu của hình

phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung. Nên ấn định mức tối thiểu của

hình phạt tiền áp dụng là hình phạt chính là 5.000.000 đồng, thì mức tối thiểu

của hình phạt bổ sung là 3.000.000 đồng. Cùng với sự điều chỉnh mức phạt

tiền tối thiểu ở phần chung, thì cũng phải điều chỉnh mức tối thiểu của hình

phạt tiền ở các điều luật về tội phạm có quy định hình phạt tiền là hình phạt

62

chính và hình phạt bổ sung cho tương thích.

+ Thứ ba, về thể thức thi hành hình phạt tiền khoản 2 Điều 35 BLHS

năm 2015 cũng như khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008

không quy định tiền phạt được nộp như thế nào. Bên cạnh đó, quy định về

hình phạt tiền tại Điều 35 BLHS năm 2015 cũng thiếu tính cưỡng chế cần thiết

để đảm bảo cho việc thi hành hình phạt tiền trên thực tế. Bởi, thực tế cho thấy,

không ít trường hợp người bị kết án phạt tiền cố tình không chịu nộp phạt hoặc

dây dưa, trầy ỳ không chịu nộp tiền phạt, gây khó khăn cho công tác thi hành

án, làm giảm hiệu quả phòng ngừa hình phạt tiền nhưng vẫn không có biện

pháp xử lý. Do vậy, để đảm bảo việc thi hành hình phạt tiền của người bị kết

án, khắc phục tình trạng người bị kết án cố tình không chịu nộp tiền phạt,

chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm, cần bổ sung thêm khoảng 5 tại

Điều 35 BLHS Sự 2015 theo hướng: "5. Tiền phạt có thể được nộp một lần

hay nhiều lần trong thời hạn do tòa án quyết định trong bản án nhưng không

quá 6 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực" [53, tr30]. Có quy định như vậy,

một mặt tạo điều kiện cho người bị kết án nộp tiền phạt, nhưng mặt khác sẽ có

tác dụng khắc phục tình trạng dây dưa, trây ỳ cố tình không nộp tiền phạt, đảm

bảo tính khả thi của hình phạt tiền.

Vấn đề đặt ra ở đây là thời hạn nộp tiền phạt không quá 6 tháng có phù

hợp không? đây là vấn đề cần nghiên cứu để điều chỉnh. Mặt khác, nếu hết

thời hạn luật định phải nộp tiền phạt, mà người bị kết án vẫn không chịu nộp

tiền phạt thì xử lý như thế nào. Về vấn đề này, hiện nay có quan điểm cho

rằng: "Trong trường hợp người bị kết án cố tình không nộp tiền phạt thì Tòa

án quyết định chuyển hình phạt tiền sang lao động công ích" [27, tr74] hoặc

có ý kiến khác cho rằng: "Để khắc phục hạn chế trên chúng ta cần tham khảo

luật hình sự một số nước đã áp dụng bằng cách thay thế hình phạt tiền bằng

các hình phạt khác nghiêm khắc hơn nếu người bị kết án không trả được tiền

phạt hoặc cố tình dây dưa, kéo dài không nộp phạt (ví dụ phạt tù giam)"

63

[67,tr30]. Theo chúng tôi, việc quy đổi hình phạt tiền sang các hình phạt khác

nghiêm khắc hơn (như tù có thời hạn) ở nước ta hiện nay là vấn đề hết sức khó

khăn và phức tạp, khó có thể thực hiện được. Bởi lẽ, việc xác định thu nhập

thực tế tình hình tài sản của cá nhân không phải đơn giản, chúng ta chưa có cơ

chế quản lý, theo dõi thu nhập một cách minh bạch, rõ ràng như nhiều nước

trên thế giới. Mặt khác, sẽ rất khó để đưa ra được một mức quy đổi hợp lý bao

nhiêu tiền thì bằng một ngày tù. Ngoài ra, việc quy đổi hình phạt tiền sang các

hình thức khác như lao động công ích, hoặc phạt tù có thời hạn... vô hình

chung sẽ thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tiền trên thực tế, làm giảm hiệu

quả của hình phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bởi vậy, theo

chúng tôi, BLHS hiện hành không sửa đổi bổ sung theo hướng quy định biện

pháp đảm bảo thi hành hình phạt tiền bằng việc quy đổi hình phạt này sang các

hình phạt khác, nhất là hình phạt tù, vì trái với chủ trương giảm hình phạt tù

của Ðảng và nhà nýớc ta. Ðể khắc phục tình trạng dây dưa, trây ỳ không chịu

nộp tiền phạt của người bị kết án, tăng tính khả thi của hình phạt tiền trên thực

tế, chúng tôi cho rằng, đối với những tội phạm có quy định hình phạt tiền là

hình phạt chính khi xem xét tình hình tài sản của người bị kết án nếu có khả

năng thi hành, thì Tòa án mới quyết định áp dụng hình phạt tiền, còn nếu

không có khả năng thi hành, thì Tòa án sẽ lựa chọn hình phạt khác để áp dụng

với người bị kết án. Đồng thời cơ quan thi hành án có thể áp dụng các biện

pháp ngăn chặn có tính chất tài sản để đảm bảo cho việc thi hành án phạt tiền.

Nếu sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án mà người phải thi hành

án vẫn cố tình không chịu nộp tiền phạt thì có thể áp dụng Điều 380 BLHS

hiện hành để truy cứu trách nhiệm hình sự người phải thi hành án về tội

"không chấp hành bản án".

+ Thứ tư, về việc khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam. Để đảm bảo công

bằng những người đã bị tạm giữ, tạm giam nhưng trong quá trình xét xử họ

phải chịu hình phạt tiền thì phải xem xét trừ đi phần thu nhập trong quá trình

64

họ đã bị tạm giữ, tạm giam.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 BLHS hiện hành thì: "Nếu người bị

kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào

thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ,

tạm giam bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ"; và khoản 1 Điều 38 BLHS

hiện hành thì quy định: "Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn

chấp hành hình phạt tù cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù".

Như vậy, đối với hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tù có thời hạn,

BLHS hiện hành đều có quy định thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào

thời hạn chấp hành hình phạt tù với tỷ lệ quy đổi như trên, Nhưng đối với hình

phạt tiền thì BLHS hiện hành không quy định việc quy đổi này, vì thế không

đảm bảo được nguyên tắc công bằng của luật hình sự Việt Nam, không đảm

bảo quyền lợi của người bị kết án. Điều này đã dẫn đến đến một thực tế là, một

số trường hợp người phạm tội khi bị Tòa án áp dụng hình phạt tiền là hình

phạt chính và bản thân họ đã bị tạm giữ, tạm giam trong một thời gian nhất

định không được khấu trừ và việc chấp hành hình phạt tiền. Đây cũng là một

trong những nguyên nhân làm hạn chế phạm vi áp dụng hình phạt tiền.

Do vậy theo chúng tôi, để đảm bảo công bằng cũng như quyền lợi của

người bị kết án thì trường hợp người phạm tội bị áp dụng là hình phạt tiền là

hình phạt chính mà họ đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam

cần được trừ và việc chấp hành hình phạt tiền. Vấn đề đặt ra ở đây là mức

khấu trừ được tính theo tỷ lệ quy đổi như thế nào là hợp lý. Đây là vấn đề cũng

khá phức tạp, do vậy cơ quan có thẩm quyền cần có sự nghiên cứu thấu đáo để

đưa ra mức khấu trừ hợp lý nhất.

Việc quy đổi những ngày tạm giữ, tạm giam (hạn chế quyền về nhân thân

phi tài sản) và phạt tiền (quyền về sở hữu) do không cùng đối tượng về quyền

con người nên việc quy đổi là hết sức khó khăn, phức tạp và không có tiêu chí

để xác định. Tuy nhiên để đảm bảo quyền của người đã bị tạm giữ, tạm giam

65

nhưng Tòa án áp dụng hình phạt chính là phạt tiền chúng ta cần cân nhắc biện

pháp đối trừ những ngày đã bị tạm giữ tạm giam được quy ra tiền. Theo chúng

tôi, sau khi HĐXX căn cứ quy đinh pháp luật (Áp dụng pháp luật) quyết định

xử phạt bị cáo một số tiền nhất định. Nếu bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam thì cứ

một ngày tạm giữ, tạm giam được tính bằng một ngày công thu nhập của bị

cáo (nếu bị cáo có thu nhập ổn định) hoặc bằng mức lương tối thiểu vùng nếu

bị cáo không có thu nhập ổn định và lấy số tiền đã quyết định trừ đi số tiền

được quy đổi từ những ngày tạm giữ, tạm giam (số ngày tạm giữ, tạm giam

nhân với thu nhập bình quân hoặc thu nhập bình quân ngày của mức lương tối

thiểu vùng)

Ngoài những điểm hạn chế, bất cập nêu trên, các quy định của BLHS

hiện hành còn một số hạn chế về kỹ thuật lập pháp như: tại Điều 35 không có

quy định định nghĩa về hình phạt tiền cũng như nội dung của hình phạt này;

phạm vi loại tội phạm và lĩnh vực phạm tội có thể áp dụng hình phạt tiền là

hình phạt chính quy định trong BLHS hiện hành chưa thật sự đáp ứng được

yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, chưa đáp ứng đầy đủ chủ trương mở

rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền được đề cập trong Nghị quyết số 49-

NQ/TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp; khoảng cách giữa mức

tiền phạt tối thiểu với mức tiền phạt tối đa ở một số khung còn rộng; mức tiền

phạt quy định đối với một số tội phạm chưa thật sự tương xứng với tính chất,

mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ... Những hạn chế này cần

nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện để phát huy hiệu quả của hình phạt tiền.

3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề

nghiệp cho những người có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự giải

quyết vụ án

Trong Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ

Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cũng như trong Báo

cáo tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49 – NQ/TN ngày 02/6/2005 của

66

Bộ Chính trị về Chiến lược này có đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ

tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh theo hướng đề cao quyền

hạn và trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị,

phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội

đối với từng loại cán bộ … [5, tr3].

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là những cán bộ tư pháp, có nhiệm vụ

xét xử các vụ án hình sự, bảo vệ công lý. Nếu những người này hạn chế về

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ pháp luật, thiếu trách nhiệm trong

thực thi nhiệm vụ, sa sút về đạo đức, lối sống… thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đối

với việc giải quyết vụ án , trong đó có việc áp dụng hình phạt nói chung, hình

phạt tiền nói riêng. Do vậy, để bảo đảm việc áp dụng hình phạt tiền được đúng

pháp luật đối với đội ngũ Thẩm phán cần làm tốt các công việc sau:

+ Trước tiên, cần hoàn thiện tiêu chí, điều kiện, qui trình bổ nhiệm

Thẩm phán. Mặc dù vấn đề này đã được qui định tương đối chặt chẽ trong

Luật Tổ chức TAND năm 2014, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

cũng như một số văn bản pháp luật khác, nhưng kết quả tuyển chọn, bổ nhiệm

Thẩm phán vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn

xét xử. Ở một vài địa phương trong đó có tỉnh Quảng Ninh; việc tuyển chọn bổ

nhiệm Thẩm phán chủ yếu quan tâm đến số lượng, ít chú ý đến chất lượng. Vấn

đề tổ chức thi tuyển để chọn người bổ nhiệm thẩm phán tuy đã được triển khai,

nhưng vẫn mang tính hình thức, không có tính cạnh tranh cao. Một số điều kiện

để được bổ nhiệm Thẩm phán mặc dù được qui định trong luật nhưng chưa cụ

thể, rõ ràng, còn chung chung và rất khó đánh giá. Chẳng hạn, khoản 3 Điều 68

Luật Tổ chức TAND năm 2014 có qui định một trong những điều kiện để bổ

nhiệm Thẩm phán là “có năng lực xét xử”. Vậy như thế nào là “có năng lực xét

xử” thì việc đánh giá chưa có sự thống nhất, dẫn tới có trường hợp Thẩm phán

được bổ nhiệm không đáp ứng được yêu cầu “có năng lực xét xử”.

+ Vấn đề tiếp theo không kém phần quan trọng là tiếp tục đổi mới nội

67

dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp

vụ, kỹ năng xét xử, đạo đức công vụ cho đội ngũ Thẩm phán. Tại báo cáo tổng

kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49 – NQ/TW của Bộ chính trị nhấn mạnh:

“ Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán

bộ nguồn của các chức danh tư pháp (trong đó có Thẩm phán), bổ trợ tư

pháp. Thường xuyên bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến

thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và

kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sáng, có bản lĩnh dũng cảm

đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN, tôn trọng và bảo vệ quyền con

ngýời” [3,tr32]. Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn, bởi cán bộ tư pháp,

bổ trợ tư pháp nói chung, đội ngũ Thẩm phán nói riêng là những chủ thể có

thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết vụ án hình sự. Nếu

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp hạn chế, đạo đức công

vụ yếu kém … thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật

hình sự giải quyết đúng đắn vụ án.

Mặc dù vậy, trong một thời gian dài, công tác đào tạo, bồi dưỡng

chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán được chú trọng đúng mức.

Phương thức đào tạo chủ yếu trang bị kiến thức cơ bản mang tính lý luận, ít

chú ý đến đào tạo kỹ năng xét xử đối với từng loại án cũng như kinh nghiệm

thực tiễn … Do vậy, thời gian tới cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp

đào tạo chuyên sâu về kỹ năng xét xử đối với từng loại án, tăng cường tập

huấn nghiệp vụ để phổ biến kinh nghiệm xét xử cho đội ngũ Thẩm phán.

+ Trong bối cảnh kinh tế thị trường cũng như đời sống sinh hoạt hiện

nay cần quan tâm hơn nữa đến cải cách chế độ tiền lương cũng như đãi ngộ

khác, nhất là trợ cấp nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán để họ thực sự yên

tâm thực thi công vụ, hạn chế tối đa những hiện tượng tiêu cực không đáng có.

+ Cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng xét

xử cho Thẩm phán, cần chú trọng hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư

68

tưởng, đạo đức lối sống cho đội ngũ này.

Đặc biệt là cần tăng cường tuyên truyền nhằm thay đổi nhận thức về vai

trò của hình phạt tiền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với đội ngũ

thẩm phán. Bởi qua số liệu thống kê cho thấy, tỉ lệ áp dụng hình phạt tiền còn

thấp, phần nào là do nhận thức về vai trò, hiệu quả của hình phạt tiền chưa

đúng đắn, chưa toàn diện.

Mặt khác, đối với Hội thẩm nhân dân cần tập trung làm tốt các công

việc sau:

+ Cần phải có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân

dân đối với việc đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động xét xử nhằm đảm bảo

việc giải quyết vụ án được khách quan, chính xác và công bằng.

+ Quy định một cách cụ thể, rõ ràng, minh bạch hơn về việc lựa chọn

nhân sự để bầu Hội thẩm, cũng như những điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn,

nghiệp vụ đối với hội thẩm.

Trước hết cần lựa chọn những người có uy tín, có kiến thức pháp luật và

hiểu biết trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; có sức khỏe và quỹ thời gian

dành cho hoạt động Hội thẩm. Đặc biệt là phải lấy ý kiến của nhân dân nơi

người được giới thiệu cư trú, để giới thiệu bầu, cử làm Hội thẩm.

Về điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ đối với Hội thẩm mặc

dù đã được quy định tại Điều 85 Luật Tổ chức TAND năm 2014, nhưng còn

chung chung. Chẳng hạn tiêu chuẩn “có kiến thức pháp luật”… Đây là tiêu

chuẩn quan trọng, vì thế phải quy định một cách cụ thể, rõ ràng hơn như: phải

có trình độ trung học pháp lý trở lên; phải qua lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp

vụ xét xử.

+ Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho Hội thẩm. Học

viện Tòa án cần nghiên cứu, biên soạn tài liệu nghiệp vụ và tổ chức bồi dưỡng

chuyên môn, nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm. Bên cạnh đó, cần tổ chức các lớp

bồi dưỡng chuyên sâu theo từng chuyên đề, phổ biến các văn bản pháp luật

69

mới liên quan đến nghiệp vụ xét xử nhằm đảm bảo Hội thẩm được cập nhật

thường xuyên các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Hàng năm cần tổ chức hội nghị tổng kết công tác tham gia xét xử của Hội

thẩm, thông qua đó đánh giá chất lượng hoạt động của Hội thẩm.

+ Cùng với việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cần chú ý giáo dục

phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp cho Hội thẩm, đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn

về chính trị của Hội thẩm là “…có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính

trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và

kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực” (Điều 82 Luật Tổ chức

TAND năm 2014).

+ Quy định rõ chế độ trách nhiệm của Hội thẩm đối với các bản án,

quyết định mà mình tham gia giải quyết. Trường hợp có nhiều bản án bị hủy,

sửa vì lý do chủ quan của Hội thẩm hoặc do Hội thẩm thiếu trách nhiệm trong

công tác xét xử thì cần áp dụng các hình thức miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc các

chế tài xử lý khác.

+ Cần sửa đổi bổ sung chế độ chính sách đối với Hội thẩm, đặc biệt là

chế độ thù lao thỏa đáng đối với Hội thẩm. Phụ cấp cho Hội thẩm tham gia xét

xử cần nâng mức cao hơn quy định hiện hành không dừng lại ở mức 90.000

đồng/ngày như hiện tại.

3.2.3. Tăng cường phối hợp giữa Tòa án nhân dân với các cơ quan, tổ chức

và cá nhân khác có liên quan.

Trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về

một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có đề ra một

trong những nhiệm vụ là: “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp

trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh, đùn đẩy trách nhiệm” [3,tr4]. Quán

triệt nhiệm vụ này, ba cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cần tăng cường sự

phối hợp chặt chẽ trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Muốn vậy, phải xây

70

dựng được một cơ chế phối hợp chặt chẽ, khoa học, trong đó phân định rõ

chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan và trách nhiệm phối hợp của ba cơ

quan này để tạo ra mối quan hệ cần thiết, bổ sung cho nhau trong suốt quá

trình giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời, phải kiên quyết khắc phục hiện

tượng hữu khuynh, tình trạng: “quyền anh quyền tôi” hoặc đùn đẩy trách

nhiệm cho nhau. Đối với từng vụ án, từng giai đoạn tố tụng cần xác định nội

dung, hình thức phối hợp cụ thể sát với tình hình thực tế; việc phối hợp phải

được tiến hành kịp thời, thường xuyên, liên tục. Kinh nghiệm cho thấy, nếu ba

cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với nhau thì

việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự được tiến hành nhanh chóng, kịp

thời và chính xác, việc quyết định hình phạt tiền của Tòa án đảm bảo đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật phù hợp với tình hình tài sản, sự biến động của

giá cả thị trường; hạn chế tối đa những sai sót không đáng có.

Trong quá trình xét xử vụ án hình sự nói chung, quyết định hình phạt

tiền nói riêng, những người tham gia tố tụng có vai trò không nhỏ đối với việc

làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, nhất là luật sư bào chữa. Do vậy,

Hội đồng xét xử phải hết sức tôn trọng và lắng nghe ý kiến của họ khi tranh

luận, tranh tụng tại phiên tòa. Thực tế cho thấy, phiên tòa nào có luật sư bào

chữa tham gia thì việc giải quyết vụ án sẽ được chính xác, khách quan, công

bằng và nhân đạo hơn, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, người

bị hại … được bảo vệ tốt hơn. Đúng như một nhà nghiên cứu đã đánh giá: “Sự

tham gia của luật sư trong tố tụng hình sự thúc đẩy công tác điều tra, truy tố,

xét xử được đầy đủ và khách quan hơn, định tội đúng hơn, áp dụng hình phạt

có xem xét tất cả các tình tiết của vụ án và nhân thân bị cáo”. Tuy nhiên, hiện

nay ở nước ta, vai trò của luật sư, của người bào chữa chưa được đề cao đúng

mức trong xã hội, cũng như trong hoạt động tố tụng hình sự. Vì thế, để phát

huy vai trò của luật sư bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung,

trong hoạt động tranh luận, tranh tụng tại phiên tòa nói riêng phải đẩy mạnh

71

triển khai các biện pháp để phát triển và nâng cao năng lực của đội ngũ luật sư

đã được đề cập trong Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 được

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày

05/7/2011. Đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp đảm bảo cho luật sư bào chữa

thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đúng qui định của pháp

luật và lương tâm nghề nghiệp, nhất là cơ chế bảo dảm cho luật sư thực hiện

tốt việc tranh tụng dân chủ tại phiên tòa.

3.2.4. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát

xét xử, tổng kết thực tiễn, rút ra kinh nghiệm bài học trong áp dụng hình

phạt tiền

+ Để đảm bảo hoạt động quyết định hình phạt nói chung, hình phạt tiền

nói riêng của TAND được chính xác, khách quan, có tính khả thi, vấn đề

không kém phần quan trọng là phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra,

kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của Tòa án, nhất là vấn đề áp dụng hình

phạt tiền.

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra

nhiệm vụ: “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trň

giám sát của cơ quan dân cử, của công luận và nhân dân đối với hoạt động tư

pháp” [5, tr4]. Đây là một chủ trương hết sức cấp thiết và quan trọng, vì thế

phải thường xuyên đổi mới và tăng cương hơn nữa. Thực tế cho thấy, ở địa

phương nào, Tòa án cấp nào làm tốt công tác này thì ở đó hoạt động xét xử nói

chung, hoạt động quyết định hình phạt tiền trong giải quyết vụ án nói riêng sẽ

có chất lượng, hiệu quả, sẽ phát hiện và khắc phục kịp thời những hạn chế, sai

sót trong hoạt động xét xử của Tòa án. Mặc dù có ý nghĩa quan trọng như vậy,

nhưng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra giám sát việc thực hiện các nhiệm

vụ cải cách tư pháp nói chung, hoạt động xét xử của tòa án nói riêng có nơi, có

lúc bị buông lỏng, chưa thường xuyên, kịp thời, chất lượng chưa cao.

Trong Đảng, chính quyền địa phương, trong ngành tòa án cũng như

72

trong xã hội còn thiếu một cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, sám sát một

cách đầy đủ, công khai, minh bạch và có hiệu quả để ngăn chặn những biểu

hiện tiêu cực, khắc phục kịp thời những hạn chế, yếu kém trong hoạt động xét

xử của tòa án. Việc thanh tra, kiểm tra trong nội bộ ngành tòa án đối với việc

thực hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử của Tòa án dường như chưa đạt được

kết quả mong muốn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong khi đó, giám sát

của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) cũng như cơ quan

thanh tra chuyên ngành đôi khi còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng yêu

cầu thực tế. Giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án thì

chưa thực sự phát huy tác dụng vì chưa có các qui định cụ thể, chặt chẽ, đầy

đủ về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của tòa án… Về

vấn đề này, trong Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49 –

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020 đã chỉ rõ: “Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với

một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn hạn chế, có nơi bị buông lỏng, thiếu

kiểm tra, đôn đốc, sự phối giữa các cấp ủy đảng các cơ quan tư pháp với nhau

và với cấp ủy đảng địa phương chưa thật sự chặt chẽ” [3,tr24]. Ở tỉnh Quảng

Ninh, những hạn chế, thiếu sót này cũng không ngoại lệ. Chẳng hạn, khi đánh

giá những mặt tồn tại trong công tác của TAND tỉnh Quảng Ninh năm 2018 về

vấn đề này có kết luận: “Lãnh đạo một số Tòa án chưa thật sự chủ động trong

triển khai nhiệm vụ công tác, công tác kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ và

thực thi công vụ của một số vơi chưa thường xuyên, hiệu quả cao… chưa đáp

ứng được yêu cầu đặt ra” [58, tr.9].

Có thể thấy, những hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,

kiểm tra, giám sát này đã ảnh hưởng không nhỏ đối với chất lượng, hiệu quả

xét xử của tòa án. Do vậy, để nâng cao chất lượng hiệu quả xét xử, đảm bảo

việc quyết định hình phạt của tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn

chế những oan sai trong xử lý vụ án cần chú trọng đổi mới và tăng cường hơn

73

nữa công tác lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, sự chỉ đạo của Tòa án cấp

trên nhưng phải đảm bảo: “Khi xét xử, tòa án hoàn toàn độc lập và chỉ tuân

thủ theo pháp luật”. Do vậy, khi thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần

tránh sự can thiệp quá sâu vào hoạt động quyết định hình phạt của tòa án.

Mặt khác, cần đề cao vai trò của VKS trong kiểm tra, giám sát hoạt

động xét xử, vai trò của cơ quan thanh tra chuyên nghành đối với việc giải

quyết vụ án của Tòa án. Đồng thời, cần xây dựng một cơ chế giám sát của

nhân dân, của công luận đối với hoạt động xét xử của tòa án một cách cụ thể,

công khai, minh bạch, trong đó qui định rõ quyền và nghĩa vụ giám sát của

nhân dân đối với hoạt động xét xử của tòa án.

+ Cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo,

thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của tòa án, cần định kỳ tổng kết

thực tế xét xử để đánh giá những kết quả đạt được, rút ra bài học kinh nghiệm

… và phổ biến rộng rãi những kinh nghiệm đó trong ngành tòa án nếu có đủ

điều kiện thì xây dựng thành án lệ. Đồng thời, khi tổng kết cần đặc biệt chú ý

đến việc chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động xét xử, nhất là trong

quyết định hình phạt đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục kịp thời,

không để cho những hạn chế, thiếu sót đó tiếp tục xảy ra, gây ảnh hưởng đến

chất lượng, hiệu quả xét xử, nhất là đối với hoạt động quyết định hình phạt của

tòa án.

3.2.5. Đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, phương tiện công tác, nhất là

phương tiện khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các cơ quan tiến

hành tố tụng hình sự thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao

Trong nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/5/20005 của Bộ Chính trị về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra phương hướng: “Tổ chức

các cơ quan tư pháp và các chế định hỗ trợ tư pháp hợp lý , khoa học và hiện

đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc” [5].

Đây là một phưng hướng hết sức đúng đắn, nhất là trong bối cảnh tác

74

động của cuộc cách mạng 4.0. Trong bối cảnh đó, để đảm bảo cho TAND định

tội danh và quyết định hình phạt đúng, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án

về hình sự, Nhà nước cần đầu tư thỏa đáng kinh phí, đảm bảo các điều kiện

phục vụ hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp, đặc

biệt là TAND.

Trước hết, cần đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các

cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp, trong đó có TAND. Tiếp tục đầu tư xây

dựng trụ sở làm việc của TAND cấp huyện khang trang phù hợp với yêu cầu

sử dụng. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, công tác xét

xử, thi hành án, công tác định giá tài sản; tăng cường áp dụng công nghệ thông

tin vào hoạt động xét xử, tiến tới xây dựng tòa án điện tử. Đặc biệt trong bối

cảnh tỉnh Quảng Ninh đang là một trong ba tòa án được TANDTC áp dụng thí

điểm hệ thống gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu chứng từ và cấp, tống đạt,

thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử, triển khai phần niên giám

sát hoạt động chuyên môn.

Trên đây là những giải pháp cơ bản, nếu được triển khai đồng bộ, kịp

thời, quyết liệt, chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo áp dụng

đúng pháp luật hình sự trong quyết định hình phạt trong đó có hình phạt tiền

của TAND không chỉ ở tỉnh Quảng Ninh mà còn trong phạm vi cả nước.

Tiểu kết Chương 3

Xuất phát từ thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật hình sự về

hình phạt tiền tại tỉnh Quảng Ninh đặt ra vấn đề phải tìm ra những giải pháp

nâng cao chất lượng xét xử, để đảm bảo quyết định hình phạt đúng, thỏa đáng

đối với người bị kết án. Việc đề ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng qui

định của pháp luật hình sự về hình phạt tiền cần phải quán triệt các yêu cầu mà

thực tiễn đặt ra, trong đó tập trung vào các yêu cầu cơ bản như yêu cầu bảo vệ

quyền con người, yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội

75

phạm, yêu cầu hội nhập quốc tế. Những yêu cầu này có tính chất định hướng,

chỉ đạo việc thiết lập hệ thống giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các qui định

của pháp luật hình sự về hình phạt tiền.

Để đáp ứng các yêu cầu trên bảo đảm việc quyết định hình phạt tiền

được đúng quy định của pháp luật, có tính khả thi, cần triển khai thực hiện

đồng bộ các giải pháp như: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự;

Tăng cường nhân lực, vật lực cho hoạt động xét xử các vụ án về hình sự.

Những giải pháp này nếu được triển khai thực hiện một cách kịp thời, đầy đủ

sẽ đem lại kết quả thiết thực trong quá trình giải quyết vụ án, nhất là trong áp

76

dụng hình phạt tiền.

KẾT LUẬN

Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm, pháp luật hình sự Việt Nam đã sớm qui định về hình phạt tiền là một

trong những hình phạt trong hệ thống hình phạt của nước ta ngày càng được

hoàn thiện.

Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng hình phạt tiền trên phạm vi cả nước

cũng như ở từng địa phương, trong đó có tỉnh Quảng Ninh ngoài những kết

quả đạt được thì vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót. Những hạn chế, thiếu sót

này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau như: sự hạn chế,

bất cập trong các qui định của pháp luật hình sự và pháp luật có liên quan;

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ của chủ thể áp dụng còn yếu

kém; (đặc biệt là TAND); kinh phí, điều kiện, phương tiện công tác của các cơ

quan tiến hành tố tụng hình sự nói chung của TAND nói riêng còn hạn chế…

Để đảm bảo chất lượng xét xử, nhất là quyết định hình phạt tiền cần

phải triển khai đồng bộ các giải pháp khác nhau như: tiếp tục hoàn thiện các

qui định của BLHS năm 2015 và các qui định của BLTTHS năm 2015 có liên

quan đến việc áp dụng hình phạt tiền; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp

vụ kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp

luật hình sư; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa TAND với các cơ quan

hữu quan; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát xét xử,

tổng kết thực tiễn; đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, điều kiện, phương tiện

công tác cho các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, nhất là TAND ... Các giải

pháp này nếu được triển khai đồng bộ, liên tục, kiên quyết sẽ đem lại kết quả

thiết thực trong áp dụng hình phạt tiền.

Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã có nhiều có gắng, nhưng

không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả của luận văn kính

mong nhận được sự đóng góp của các nhà khoa học, các cán bộ thực tiễn, các

thầy, cô giáo để tác giả tiếp tục hoàn thiện, đảm bảo luận văn được hoàn thiện

77

hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hải Băng (2011), “Hình phạt tiền theo quy định của BLHS năm 1999

và một số kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí TAND số 01, Hà Nội.

2. Vũ Lai Bằng (1997), “Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam; Những

vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ, Viện nghiên cứu nhà

nước và pháp luật, Hà Nội;

3. Ban chấp hành Trung ương – Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2014), “Báo

cáo tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội;

4. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội;

5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ

Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;

6. Bộ Tư pháp – Tạp chí Dân chủ và pháp luật (2000), số chuyên đề về BLHS

(năm 1999), Hà Nội;

7. C. Mác – Ph. Ăng ghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

8. Lê Cảm (2007), “Hình phạt và hệ thống hình phạt”, Tạp chí TAND, số 14,

Hà Nội

9. Ngô Văn Dũng (2014), “Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam từ

thực tiễn tỉnh Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội,

Hà Nội;

10. Đỗ Văn Chỉnh (2009), “Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí

TAND số 5, Hà Nội.

11. Nguyễn Văn Đức (2014), “Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam

từ thực tiễn tỉnh Long An”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;

12. Vũ Thế Đoàn (2011), “Hình phạt tiền quy định trong BLHS năm 1999 và

78

một số kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí TAND, số 1, Hà Nội.

13. Trần Văn Độ (2017, “Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm

tội trong BLHS năm 2015”, Tạp chí TAND, số 24, Hà Nội.

14. Đặng Thị Thu Hằng (2019), “Áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình

phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Phú Yên”, Luận văn thạc sĩ, Học

viện KHXH, Hà Nội;

15. Trần Thúy Hằng (2010), “Cần bổ sung sửa đổi các điều kiện áp dụng hình

phạt tiền và hình phạt cải tạo không giam giữ trong BLHS”, Tạp chí

Kiểm sát số 18, Hà Nội.

16. Nguyễn Hữu Hậu (2007), “Đề xuất định hướng hoàn thiện các quy định về hình

phạt theo yêu cầu của cải các tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát số 7, Hà Nội.

17. Nguyễn Ánh Hồng (2017), “Hoàn thiện chính sách hình phạt trong quy

định của BLHS năm 2015 theo tinh thần của các công ước quốc tế về

quyền con người”, Tạp chí khoa học pháp lý số 6.

18. Phạm Thị Phương Hiền (2017), “Hình phạt chính áp dụng đối với pháp

nhân thương mại phạm tội trong BLHS năm 2015”, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật số 2, Hà Nội.

19. Nguyễn Ngọc Hòa (2001), “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội;

20. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), (2018), Bình luận khoa học PLHS năm

2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần chung), Nxb Tư pháp, Hà Nội;

21. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên),Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Trường

Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND, Hà Nội;

22. Nguyễn Mạnh Kháng (2000), “Hình phạt một số vấn đề lý luận”, Tạp chí

Nhà nước và pháp luật số 8, Hà Nội

23. Nguyễn Mạnh Kháng (2002), “Quan điểm tiếp cận hiệu quả của hình

phạt”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8, Hà Nội

24. Nguyễn Minh Khuê (2014), “Hiệu quả của các hình phạt chính trong hệ

thống hình phạt Việt Nam – đánh giá dưới góc độ chi phí xã hội”, Tạp

79

chí Nhà nước và pháp luật số 1, Hà Nội

25. Nguyễn Minh Khuê (2015), “Các hình phạt chính không tước tự do trong luật

hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luận học, Học viện KHXH, Hà Nội;

26. Nguyễn Minh Khuê (2015), “Đảm bảo hiệu quả của các hình phạt chính

không tước tự do trong Luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và

pháp luật số 2, Hà Nội.

27. Nguyễn Hoàng Lâm (2012), “Hoàn thiện quy định về hình phạt tiền trong

BLHS Việt Nam hiện hành”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7, Hà Nội

28. Võ Khánh Linh (2016), “Tính quyết định xã hội của hình phạt: Một số

khía cạnh lý luận” Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội số 10, Hà Nội.

29. Võ Khánh Linh (2017), “Xã hội học hình phạt – Những vấn đề lý luận và

thực tiễn”, Luận án tiến sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;

30. Nguyễn Quang Lộc (2017), “Một số sửa đổi, bổ sung cơ bản của BLHS

năm 2015” Kỳ I, II, III, Tạp chí TAND số 18, 19, 20, Hà Nội;

31. Dương Tuyết Miên (2003), Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt

Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội;

32. Dương Tuyết Miên (2004), “Định tội danh và quyết định hình phạt”, Nxb

CAND, Hà Nội;

33. Dương Tuyết Miên (2006), “Sự mâu thuẫn giữa hình phạt tiền quy định tại

khoản 1, Điều 30 BLHS với một số tội phạm cụ thể và những bất cập

của hình phạt này”, Tạp chí TAND số 15, Hà Nội.

34. Dương Tuyết Miên (2015), “Về phạt tiền và cải tạo không giam giữ”, Tạp

chí Luật học số 3, Hà Nội.

35. Phùng Thị Hải Ngọc (2015), “Hình phạt tiền trong Luật hình sự Việt

Nam”, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội

36. Đinh Văn Quế (2001), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong

Luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

37. Đinh Văn Quế (2018), “Hình phạt và quyết định hình phạt đối với pháp nhân

80

thương mại phạm tội trong BLHS năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số 8,

38. Quốc hội (2018), Bộ luật hình sự năm 2015, (đã được sửa đổi bổ sung năm

2017), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

39. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm

2009, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

40. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

41. Quốc hội (2016) Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội;

42. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức TAND, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội;

44. Quốc hội (2013), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội;

45. Quốc hội (2010), Luật thi hành án hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

46. Quốc Hội ( ), Luật thi hành án dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

47. Nguyễn Sơn (2003), Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam,

Luận án tiến sĩ, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội;

48. Nguyễn Sơn (1998), “Hình phạt tiền điều kiện và thực tiễn áp dụng, thi

hành hình phạt tiền là hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam”,

Tạp chí TAND số 11.

49. Nguyễn Ngọc Thắng (2015), “Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH,

Hà Nội;

50. Trương Đức Thuận (2018), “Bàn về một số yếu tố tác động đến chất lượng

áp dụng hình phạt ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí TAND số 11, tr 21-26,

Tạp chí TAND số 12.

51. Trương Đức Thuận (2018), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng áp

dụng hình phạt ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã

81

hội số 6, Hà Nội.

52. Mai Thị Thủy (2018), “Những điểm mới trong quy định của BLHS năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về các hình phạt đối với người phạm

tội”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4.

53. Mai Thị Thủy, Đào Thị Nguyệt (2016), “Về hình phạt tiền áp dụng ðối với

ngýời phạm tội trong BLHS nãm 2015”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật

số 4, Hà Nội.

54. Trịnh Quốc Toản (2011), Hình phạt bổ sung trong Luật hình sự Việt Nam,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

55. Trịnh Quốc Toản (2015), “Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt

Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người (sách chuyên khảo)”, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội

56. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập 1

(1945-1974), Hà Nội

57. Tòa án nhân dân tối cao (1977), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập 2

(1975-1978), Hà Nội

58. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2019), Báo cáo kết quả thực hiện

nhiệm vụ công tác các năm từ năm 2014 – 2018, Quảng Ninh;

59. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2018), Số liệu thống kê xét xử sơ thẩm

các vụ án hình sự (giai đoạn 2014 – 2018), Quảng Ninh;

60. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2018), Bản án hình sự sơ thẩm số

97/2018/HS-ST của TAND tỉnh Quảng Ninh.

61. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

Phần chung, Nxb CAND, Hà Nội;

62. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật hình

sự Việt Nam, Phần chung, Nxb Hồng Đức;

63. Trương Quang Vinh (1999), “Hình phạt tiền trong BLHS năm 1999”, Tạp

chí Luật học số 2.

64. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung),

82

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

65. Võ Khánh Linh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt

Nam, Nxb CAND, Hà Nội;

66. Trần Thị Quang Vinh (2001), “Ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự trong chế định quyết định hình phạt theo BLHS năm

1999”, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 7.

67. Trịnh Tiến Việt (2006), “Hoàn thiện một số quy định của BLHS năm 1999

về hình phạt trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam

hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7.

68. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (1995), Hình phạt trong

83

luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Bảng 2.1. Tình hình xét xử các vụ án hình sự của TAND tỉnh

Quảng Ninh giai đoạn 2014 – 2018.

Đã xét xử Vụ Báo cáo Tỉ lệ % Báo cáo Vụ Năm

(2) (1) (3) (4) 3/1 4/2

3.310 1.839 1.770 3.118 96,24 94,19 2014

2.607 1.491 1.444 2.467 96,84 94,62 2015

2.863 1.493 1.397 2.574 93,56 89,90 2016

2.794 1.559 1.340 2.403 85,95 86,46 2017

2.670 1.678 1.595 2.507 95,05 93,89 2018

8.060 7.546 91,75 14.244 13.069 Tổng 93,62

Nguồn: TAND tỉnh Quảng Ninh

Bảng 2.2. Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo tại tỉnh Quảng

Ninh giai đoạn 2014 – 2018.

Hình phạt được áp dụng

Tù Tù Tù

Cải Tù từ trên trên trên

tạo 3 3 7 15 Tù Số bị Cảnh Phạt Án Tử không năm năm năm năm chung Năm cáo báo tiền treo hình giam trở đến đến đến thân

giữ xuống 07 15 20

năm năm năm

2.387 02 13 17 377 1.142 418 256 97 27 38 2014

1.952 14 20 17 371 935 298 195 64 25 13 2015

2.084 02 18 21 382 1.035 292 215 80 27 12 2016

2.052 00 16 35 442 968 279 206 81 16 09 2017

2.040 03 47 45 447 943 297 180 65 13 00 2018

Tổng 10.515 21 114 135 2.019 5.023 1.584 1.052 387 108 72

Nguồn: TAND tỉnh Quảng Ninh

Bảng 2.3. Hình phạt tiền áp dụng đối với bị cáo tại tỉnh Quảng

Ninh giai đoạn 2014 – 2018

Hình phạt tiền Tỉ lệ %

Số bị cáo Hình phạt Hình phạt Năm chính bổ sung 2/1 3/1

1 2 3

2.387 13 43 0,54 1,80 2014

1.952 20 19 1,02 0,97 2015

2.084 18 20 0,86 0,95 2016

2.052 16 20 0,77 0,97 2017

2.040 47 52 2,30 2,54 2018

Tổng 10.515 114 154 1,08 1,46

Nguồn: TAND tỉnh Quảng Ninh