VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THU HÀ

HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THU HÀ

HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS DƯƠNG ANH SƠN

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế “Hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” là

công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu trong luận văn được thu thập từ thực tế và có nguồn gốc rõ

ràng, đáng tin cậy, được xử lý trung thực khách quan và không sao chép của

bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 08 năm 2019

Tác giả

Nguyễn Thu Hà

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP

KHỞI NGHIỆP ......................................................................................................... 6

1.1. Khái niệm doanh nghiệp .................................................................................. 6

1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp ....................................................... 6

1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp khởi nghiệp ........................................................ 7

1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp khởi nghiệp trong nền kinh tế........................ 11

1.2. Khái niệm pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp .................................. 17

1.2.1. Định nghĩa pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ......................... 17

1.2.2. Đặc điểm pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ........................... 17

1.3. Cơ sở pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ............................................ 18

1.3.1. Các văn bản pháp luật chính thức .......................................................... 18

1.3.2. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ......................................... 20

1.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp .................................................................................................................... 23

1.4.1. Yếu tố môi trường chính trị ..................................................................... 24

1.4.2. Yếu tố môi trường kinh tế ........................................................................ 24

1.4.3. Yếu tố môi trường xã hội ......................................................................... 25

1.4.4. Yếu tố môi trường công nghệ .................................................................. 25

1.4.5. Yếu tố chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện chính sách hỗ trợ ................. 26

1.5. Cơ cấu, nội dung của pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp

luật Việt Nam ........................................................................................................ 26

1.5.1. Tối ưu hóa môi trường pháp lý ............................................................... 26

1.5.2. Tăng cường giáo dục tinh thần khởi nghiệp và phát triển các kỹ năng kinh

doanh cần thiết .................................................................................................. 26

1.5.3. Tạo điều kiện trao đổi, ứng dụng và đổi mới công nghệ ........................ 27

1.5.4. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi sự tiếp cận nguồn tài chính .......................... 27

1.5.5. Nâng cao nhận thức về khởi nghiệp và thiết lập các cụm liên kết, các hiệp

hội hỗ trợ liên quan ........................................................................................... 27

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP

KHỞI NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................... 29

2.1. Thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ............................ 29

2.1.1. Thực trạng pháp luật về điều kiện được hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

........................................................................................................................... 29

2.1.2. Thực trạng pháp luật về quy định ưu đãi tín dụng .................................. 29

2.1.3. Thực trạng pháp luật về quy định vốn .................................................... 30

2.1.4. Thực trạng pháp luật về quy định thuế, phí ............................................ 32

2.1.5. Thực trạng pháp luật về các hình thức hỗ trợ khác ................................ 33

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật của các doanh nghiệp khởi nghiệp tại thành phố

Hồ Chí Minh ......................................................................................................... 35

2.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội và sự tác động đến việc thi hành pháp luật về

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố

Hồ Chí Minh ...................................................................................................... 35

2.2.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ............................................ 41

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỪ

THỰC TIỄN CÁC DOANH NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .... 52

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và nâng

cao hiệu quả thực hiện ........................................................................................... 52

3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp . 52

3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp ........................................................................................................ 53

3.2. Giải pháp ........................................................................................................ 55

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp .... 55

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp từ thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh .......... 59

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AI (Artifical Intelligence)

Trí tuệ nhân tạo

ASEAN

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

(Association of Southeast Asian Nations)

BT (Building transfer)

Hợp đồng Xây dựng – chuyển giao

Bộ Tư pháp

BTP

Chính phủ

CP

FDI (Foreign Direct Investment)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP (Gross Dometic Product)

Tổng sản phẩm quốc nội

Diễn đàn kinh tế Thành phố

HEF

(Ho Chi Minh City Economic Forum) Hồ Chí Minh

Hệ thống thông tin toàn cầu

Internet

Nghị định

Quyết định

QLXLVPHC&TDTHPL

Quản lý xử lý vi phạm hành chính và

theo dõi thi hành pháp luật

Trực tuyến

Online

R&D (Research & Development)

Nghiên cứu và phát triển

Doanh nghiệp khởi nghiệp

Startup

Thành phố Hồ Chí Minh

TP. HCM

Thủ tướng

TTg

VCCI (Vietnam Chamber of

Phòng Thương mại và Công

Commerce and Industry)

nghiệp Việt Nam

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thành phố Hồ Chí Minh với vai trò là đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế trọng

điểm phía Nam và cả nước, hàng năm Thành phố đã đóng góp khoảng 30% tổng thu

ngân sách quốc gia. Bên cạnh đó, Thành phố còn được biết đến là “cái nôi” của khởi

nghiệp trong số khoảng 1.800 Startup trên cả nước, tại Thành phố Hồ Chí Minh có

khoảng 834 Startup đang hoạt động (chiếm 42%).

Trong đó, có 222 Startup đã và đang được hỗ trợ ươm tạo tại 10 cơ sở ươm

tạo của Nhà nước trong giai đoạn từ 2011 đến nay. Ngoài ra, có khoảng 49% Startup

đã tìm được nhà tài trợ và đầu tư; trong đó, có khoảng 70% đang ở các giai đoạn đầu

tiên của quá trình gọi vốn đầu tư khuyến khích khởi nghiệp theo hướng sản xuất, cung

cấp dịch vụ mới theo công nghệ mới. Điều đó cho thấy, Thành phố Hồ Chí Minh có

môi trường thuận lợi để khởi nghiệp.

Bên cạnh đó, theo báo cáo kết quả khảo sát về chỉ số khởi nghiệp Thành phố

năm 2017, nhìn chung, tỷ lệ khởi nghiệp trong doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí

Minh cao hơn so với mức trung bình của Việt Nam và đang có xu hướng tăng lên từ

mức 2% năm 2013, lên 2,5% năm 2015 và 2,7% năm 2017 (so với mức 0,6% của cả

nước năm 2017). Chỉ số đổi mới sáng tạo trong các hoạt động khởi nghiệp ở Việt

Nam năm 2017 đạt 19,4%, cao hơn so với các năm trước và cao hơn mức trung bình

của cả nước (13,9%).

Trong quá trình khởi nghiệp, pháp lý luôn có vai trò quan trọng trong bất kỳ

doanh nghiệp ở mọi lĩnh vực. Một doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro nếu

không có nền tảng pháp lý vững chắc. Các vấn đề pháp lý mà các doanh nghiệp khởi

nghiệp cần quan tâm như sau:

- Trước thành lập doanh nghiệp: Phát triển ý tưởng thành mô hình kinh doanh,

bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tài sản trí tuệ, quản trị nguồn nhân lực Startup

như các thỏa thuận nên có giữa các đồng sáng lập để quản trị rủi ro, hạn chế mâu

1

thuẫn nội bộ.

- Thành lập doanh nghiệp: các thủ tục pháp lý về thành lập doanh nghiệp, các

thủ tục liên quan cần thực hiện để doanh nghiệp có thể đi vào hoạt động.

- Sau thành lập doanh nghiệp: Kênh tiếp cận các nguồn vốn, các nội dung cần

chuẩn bị trước khi đàm phán với nhà đầu tư, cơ cấu vốn – cổ phần và quyền kiểm

soát, rà soát, quản trị rủi ro pháp lý trong quá trình hoạt động, cơ cấu tổ chức quản lý

đảm bảo doanh nghiệp phát triển bền vững, thực hiện luật lao động và bảo hiểm xã

hội, giải quyết tranh chấp lao động, tranh chấp hợp đồng.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để

nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. Kết quả nghiên cứu nhằm sáng tỏ một số

nội dung lý luận pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực tiễn thành phố

Hồ Chí Minh, từ đó, các cá nhân, doanh nghiệp có cái nhìn sâu sắc hơn, toàn diện

hơn về sự tác động của pháp luật đến các hoạt động khởi nghiệp của doanh nghiệp,

từ đó Nhà nước có những chính sách hỗ trợ phù hợp, doanh nghiệp có những chính

sách, chiến lược hợp lý hơn trong việc thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động theo đúng

pháp luật, góp phần nâng cao giá trị doanh nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đề tài nghiên cứu “Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam

từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” là một đề tài mới tại Việt Nam hiện nay.

Nghiên cứu của Hồ Xuân Sang (2018) về “Pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp sáng tạo”. Nghiên cứu đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật hỗ

trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo cũng như sự cần thiết phải ban hành các quy

định về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Thực trạng pháp luật hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, thực tiễn thi hành tại Việt Nam và kinh nghiệm của một

số nước trên thế giới. Kết quả nghiên cứu đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần

hoàn thiện pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, đáp ứng yêu cầu công

nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Trưởng (2018) về “Thực hiện chính sách hỗ trợ

2

doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp”.

Nghiên cứu đã góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp sáng

tạo, đồng thời góp phần phân tích đánh giá thực trạng của chính sách hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp sáng tạo hiện nay của Việt Nam. Nghiên cứu đã đề xuất các giải

pháp nhằm hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, từ đó đã góp phần

thiết thực trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

trong tình hình mới.

Báo cáo thường niên của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam -

VCCI (2017) về nghiên cứu cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, các

kinh nghiệm quốc tế từ đó đề xuất giải pháp cho Việt Nam. Báo cáo được thực hiện

với mục tiêu đánh giá hiện trạng và dự kiến chính sách đối với doanh nghiệp khởi

nghiệp sáng tạo Việt Nam, lựa chọn và phân tích kinh nghiệm hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp sáng tạo của các Chính phủ nước ngoài, từ đó đề xuất mô hình, cơ chế

hỗ trợ từ góc độ Nhà nước cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trước hết là

cho các Nghị định hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về doanh nghiệp

khởi nghiệp sáng tạo và sau đó là các văn bản pháp luật, chính sách liên quan như

Thông tư, Nghị quyết, Quyết định, Đề án,… liên quan tới nhóm doanh nghiệp này.

Những công trình nghiên cứu trên đây đã giúp tác giả có những kiến thức quý

báu để tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình thực hiện để tài luận văn “Hỗ trợ

doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí

Minh”.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp

luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.

Từ mục tiêu nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn tập trung các

nội dung chính sau đây:

- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp.

- Thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp luật Việt

3

Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.

- Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp và nâng cao hiệu quả thi hành từ thực tiễn các doanh nghiệp tại Thành phố Hồ

Chí Minh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.

- Khách thể nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu các doanh nghiệp khởi

nghiệp.

- Phạm vi nghiên cứu không gian: Luận văn tập trung khảo sát tại Thành phố

Hồ Chí Minh.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác –

Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

chương 1 để tìm hiểu một số vấn đề lý luận về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và

pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp.

- Phương pháp nghiên cứu, so sánh, đối chiếu ở chương 2 để tìm hiểu thực

trạng pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam nói chung và Thành

phố Hồ Chí Minh nói riêng.

- Phương pháp tổng hợp, quy nạp, diễn dịch ở chương 3 khi nghiên cứu đề

xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Nghiên cứu nhằm sáng tỏ pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, các

văn bản quy định về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp hiện hành. Bên cạnh đó, luận

văn còn xem xét trên thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó,

đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp và nâng cao hiệu quả thi hành từ thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố Hồ

Chí Minh.

Kết quả nghiên cứu sẽ phân tích pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp,

4

qua đó góp phần mang lại lợi ích tích cực và nâng cao kết quả hoạt động của doanh

nghiệp. Làm nền tảng pháp lý cho các cá nhân có ý tưởng khởi nghiệp trong tương

lai.

Kết quả nghiên cứu còn là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà làm luật

trong việc nghiên cứu, đề xuất văn bản pháp lý hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp

trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung.

Nghiên cứu này cũng có thể là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên

chuyên ngành Luật kinh tế, Quản trị kinh doanh và những ai có nhu cầu nghiên cứu

sâu hơn trong lĩnh vực kinh tế.

7. Kết cấu luận văn

Cấu trúc của luận văn bao gồm: ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài

liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu gồm ba chương chính.

Chương 1. Cơ sở lý luận về pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

Chương 2. Thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực

tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp và nâng cao hiệu quả từ thực tiễn các doanh nghiệp tại Thành phố

5

Hồ Chí Minh

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP

KHỞI NGHIỆP

1.1. Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp

1.1.1. Khái niệm

Trong tiếng Anh, thuật ngữ “Doanh nghiệp khởi nghiệp” - Startup có hai ý

nghĩa, nếu là tính từ thì Startup phản ánh một trạng thái bắt đầu của một công việc

kinh doanh hoặc một dự án, nếu là danh từ thì Startup có nghĩa là một doanh nghiệp

được thành lập để thực hiện các ý tưởng kinh doanh trên cơ sở khai thác tài sản trí

tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và đây là các doanh nghiệp có khả năng tăng

trưởng nhanh.

Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là thuật ngữ chỉ những công ty đang trong

giai đoạn bắt đầu kinh doanh nói chung, tuy nhiên trong thực tế thường được dùng

với nghĩa hẹp chỉ các công ty công nghệ trong giai đoạn đầu thành lập.

“Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo là doanh nghiệp nhỏ và vừa

được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ,

mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh” (Luật Hỗ trợ doanh

nghiệp nhỏ và vừa năm 2017) [13]

Như vậy, một doanh nghiệp sẽ được gọi là Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi

nghiệp sáng tạo nếu thỏa mãn 03 tiêu chí:

- Thứ nhất, về tư cách pháp lý: Phải là doanh nghiệp;

- Thứ hai, về hoạt động: Phải dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ hoặc

mô hình kinh doanh mới;

- Thứ ba, về triển vọng: Có khả năng tăng trưởng nhanh.

Theo định nghĩa của các nhà kinh tế, Doanh nghiệp khởi nghiệp được hiểu là

tập hợp các nguồn lực như nhân lực, tiền, thời gian, nhằm thực hiện tìm kiếm mô hình

kinh doanh mới và nhanh chóng xây dựng thành một tổ chức hay doanh nghiệp đạt

quy mô, đồng thời có khả năng lặp lại hay nhân rộng tại các thị trường khác nhau; và

6

thường tận dụng công nghệ làm lợi thế cạnh tranh.

Tại Việt Nam, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017 quy định, Doanh

nghiệp khởi nghiệp – Startup là quá trình khởi nghiệp dựa trên việc tạo ra hoặc ứng

dụng kết quả nghiên cứu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng

cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa và có khả năng

tăng trưởng nhanh trong tương lai. [13]

Như vậy, Doanh nghiệp khởi nghiệp được hiểu là dựa trên một công nghệ mới,

hoặc tạo ra hình thức kinh doanh mới, hay xây dựng một phân khúc thị trường mới

so với hiện tại. Các doanh nghiệp cần tạo ra sự khác biệt so với các doanh nghiệp

trong nước, với tất cả các công ty trước đây và với các doanh nghiệp trên thế giới. Do

đó doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo nhanh chóng thu hút được đầu tư trong và

ngoài nước để tăng tốc phát triển nhanh.

Tóm lại, doanh nghiệp khởi nghiệp là một tổ chức cung cấp sản phẩm và dịch

vụ có sự khác biệt về khoa học công nghệ, xây dựng một phân khúc thị trường mới,

cơ hội tăng trưởng nhanh ở trong nước mà vươn rộng ra toàn cầu.

1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp khởi nghiệp

1.1.2.1. Tính sáng tạo và đột phá

Sáng tạo và đột phá là một xu hướng tất yếu trong hoạt động kinh doanh trong

thời đại công nghệ 4.0 hiện nay. Trong điều kiện tiền vốn, máy móc, sức lao động có

hữu hạn thì giá trị của trí tuệ, sáng tạo là đóng vai trò quan trọng, góp phần tạo sự đột

phá và quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khởi nghiệp.

Với những ý tưởng kinh doanh mang tính đột phá và sáng tạo giúp doanh

nghiệp khởi nghiệp tăng trưởng cao dựa vào nhu cầu của thị trường, thân thiện với

môi trường và cộng đồng. Chính vì thế hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm hoặc

dịch vụ có thể thu hút nhiều khách hàng tiềm năng đem lại một lực đẩy mạnh mẽ cho

doanh nghiệp.

Tính đột phá chính là điều cốt lõi và bắt buộc đối với doanh nghiệp khởi

nghiệp, tạo ra những thứ chưa hề có trên thị trường hoặc tạo ra một giá trị tốt hơn so

7

với những thứ đang có sẵn, chẳng hạn có thể tạo ra một phân khúc mới trong sản xuất

những thiết bị thông minh đo lường sức khoẻ cá nhân, hay một mô hình kinh doanh

hoàn toàn mới như taxi công nghệ, hoặc một loại công nghệ độc đáo.

Công nghệ là đặc tính tiêu biểu của sản phẩm từ một doanh nghiệp khởi nghiệp

sáng tạo, là yếu tố quyết định của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Tuy nhiên, ngay cả

khi sản phẩm không dựa nhiều vào công nghệ thì doanh nghiệp khởi nghiệp cũng cần

ứng dụng công nghệ để đạt được mục tiêu kinh doanh cũng như mục tiêu tăng trưởng

lớn hơn trong tương lai.

1.1.2.2. Tiềm năng tăng trưởng lớn

Điểm khác biệt lớn giữa doanh nghiệp truyền thống và doanh nghiệp khởi

nghiệp là việc đề cao vấn đề tạo ra lợi nhuận, khi đạt được lợi nhuận mới nghĩ đến

việc mở rộng doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp khởi nghiệp lại mong muốn

tăng trưởng công ty càng nhanh, càng sớm, càng tốt, từ đó tạo ra mô hình kinh doanh

có tính tăng trưởng nhanh và mở rộng. Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có mong

muốn nhân bản mô hình kinh doanh thành công của mình ra khắp quốc gia và toàn

thế giới.

Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là người đi khai phá thị trường, tạo ra ảnh

hưởng vô cùng lớn. Doanh nghiệp khởi nghiệp xây dựng mô hình kinh doanh để sản

phẩm hoặc dịch vụ của họ có thể cung cấp ở nhiều thị trường khác nhau và có thể tùy

chỉnh trong mô hình chuyển đổi khách hàng – đa dạng hóa nhu cầu của khách hàng

như: hỗ trợ trò chuyện với khách hàng, bỏ rào cản ngôn ngữ, chăm sóc hậu mãi, hoạt

động tiếp thị, liên kết nhu cầu và cộng đồng.

Đối với doanh nghiệp truyền thống, chỉ cần quan tâm đến việc cung ứng sản

phẩm hoặc dịch vụ đơn thuần, tuy nhiên khác biệt đối với doanh nghiệp khởi nghiệp

phải tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ mang tính tiện ứng và quan trọng là có thể chuyển

giao cho thị trường lớn để thu hút được nhiều khách hàng.

Để phát triển và tăng trưởng, quản lý doanh nghiệp phải có tầm nhìn và chiến

lược về tương lai. Điều đó nghĩa là doanh nghiệp khởi nghiệp phải xác định khả năng

8

cung cấp giá trị cho thị trường rộng; cung cấp sản phẩm và dịch vụ mà nhiều khách

hàng muốn để đạt tới số lượng khách hàng nhanh chóng nhất có thể và phải sẵn lòng

thay đổi khi thị trường hay công nghệ thay đổi.

Dẫn chứng, nếu doanh nghiệp tạo ra một sản phẩm đơn thuần và chỉ được dùng

trong thị trường địa phương, doanh nghiệp chỉ có thể đạt tới một số giới hạn người

dùng, như vậy nếu doanh nghiệp tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng

và cung ứng cho thị trường thế giới thì doanh nghiệp đang hướng đến chiến lược tăng

trưởng nhanh và bền vững.

Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa truyền thống, người sáng lập mong muốn

có được doanh thu từ giai đoạn đầu tiên khi doanh nghiệp bắt đầu vào hoạt động và

xác định dòng lợi nhuận ổn định theo thời gian. Tùy vào kế hoạch hoạt động và vận

hành doanh nghiệp của người sáng lập sẽ tạo nên giá trị thương hiệu và dòng tiền cho

doanh nghiệp khởi nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế, các doanh nghiệp khởi sự sáng

tạo cần đến nhiều tháng, hoặc nhiều năm hoạt động để có được doanh thu mong muốn

và ổn định.

Doanh nghiệp khởi sự sáng tạo chuyên tập trung vào phát triển sản phẩm thật

sự hữu ích cho người dùng, nhằm có được một lượng khách hàng đông đảo. Khi đáp

ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, nếu chiến lược và kế hoạch của doanh nghiệp

khởi nghiệp thành công thì lợi nhuận tài chính lớn gấp nhiều lần.

Do vậy, đối với doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, tăng trưởng là một điều

kiện bắt buộc, là vấn đề sống còn. Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo cũng giống

như những đứa trẻ, cần phải lớn lên một cách nhanh chóng. Tăng trưởng có thể hiểu

là phát triển quy mô dự án lớn hơn, nhiều nhân sự hơn, mở rộng thị trường hơn và

thu hút được nhiều tiền đầu tư hơn. Cũng chính vì mục tiêu tăng trưởng nên các doanh

nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thường năng động, sáng tạo và linh hoạt hơn so với

những công ty truyền thống.

1.1.2.3. Rủi ro về vốn và mô hình kinh doanh

So với doanh nghiệp truyền thống, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có nhiều

rủi ro hơn và cũng có nhiều lợi thế hơn. Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo dựa vào

9

giá trị nội lực, thái độ cộng tác làm việc theo nhóm để xây dựng văn hóa doanh nghiệp

dựa vào công nghệ mới, quy trình chi tiết, quy mô kinh doanh hoặc ý tưởng mới tạo

ra cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp truyền thống.

Vốn kinh doanh của doanh nghiệp khởi nghiệp đa phần lấy từ vốn cá nhân của

người sáng lập, đóng góp hay vay mượn từ gia đình và bạn bè, một số trường hợp thì

gọi vốn từ cộng đồng (Crowdfunding). Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp khởi

nghiệp sáng tạo đều phải gọn vốn từ các Nhà đầu tư thiên thần (Angel Investors) và

Quỹ đầu tư mạo hiểm (Venture Capital), tuy nhiên vấn đề này phải trải qua nhiều

vòng gọi vốn khác nhau (Khoản 2 Điều 3 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017).

Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có ý tưởng khởi nghiệp độc đáo hoặc khác

biệt hoặc có tính năng tốt hơn so với các giải pháp cạnh tranh trên thị trường. Điều

này làm cho khách hàng thích sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp hơn là sản

phẩm hoặc dịch vụ của đối thủ cạnh tranh, tuy nhiên trong thực tế đó là điều không

chắc chắn và khá rủi ro vì quan điểm về sản phẩm và nhu cầu của khách hàng ngày

càng đa dạng.

Trong thực tế, một số doanh nghiệp khởi nghiệp thực hiện theo những doanh

nghiệp khởi nghiệp đã thành công khi sử dụng cùng một mô hình kinh doanh, tham

gia vào cùng một thị trường, có các sản phẩm hoặc dịch vụ tương tự. Tuy nhiên, có

một số rủi ro liên quan đến việc bán hàng và tiếp thị cũng làm lượng khách hàng giảm

xuống vì đặc thù của mỗi ngành nghề hay tập quán của địa phương.

Doanh nghiệp khởi nghiệp vẫn đang trong quá trình đi tìm những mô hình kinh

doanh thực sự phù hợp với thị trường mục tiêu. Vấn đề cốt lõi của doanh nghiệp khởi

nghiệp trong giai đoạn đầu không phải là doanh số như những công ty truyền thống

khác mà chính là tìm ra được một mô hình kinh doanh và quy trình làm việc hiệu quả

nhất. Để làm được điều này, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo phải không ngừng

thử nghiệm, cải tiến và thực hiện những cách làm mới.

Chính việc xây dựng được mô hình kinh doanh tốt điều đó là vấn đề mang tính

sống còn của doanh nghiệp khởi nghiệp để thuyết phục các nhà đầu tư rót vốn. Các

10

nhà đầu tư sẽ nghiên cứu và xem xét rất kỹ lưỡng cách vận hành dòng tiền, quản lý

hoạt động công ty của những doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trước khi quyết định

đầu tư vào một dự án mà họ tin tưởng sẽ đem lại lợi nhuận trong tương lai.

1.1.2.4. Thiếu nguồn lực và quản trị rủi ro

Thời gian đầu, các doanh nghiệp khởi nghiệp luôn thiếu nguồn lực chủ yếu là

thời gian và tiền bạc vì thị trường mục tiêu của doanh nghiệp đặt ra lớn và việc phát

triển sản phẩm đòi hỏi nhiều nghiên cứu, thử nghiệm, triển khai và tái triển khai sau

khi điều chỉnh. Vấn đề quan trọng là tìm ra điểm cân bằng giữa sự phát triển và việc

thực hiện. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là phải đạt doanh thu

nhanh chóng và tiết kiệm chi phí tối đa.

Doanh nghiệp khởi nghiệp được tạo dựng để sẵn sàng đối diện và giải quyết

những khó khăn, rủi ro gặp phải. Đây là cách để những doanh nghiệp khởi nghiệp

trưởng thành hơn và học được nhiều bài học quý báu và thiết thực từ thị trường. Chính

vì vậy, việc tìm ra được mô hình kinh doanh hiệu quả cũng đến từ cách mà doanh

nghiệp khởi nghiệp giải quyết những rủi ro trong quá trình phát triển; đây chính là

những đặc điểm riêng khác của doanh nghiệp khởi nghiệp với các doanh nghiệp

truyền thống.

1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp khởi nghiệp trong nền kinh tế

1.1.3.1. Đóng góp to lớn vào sự tăng trưởng của nền kinh tế

Các doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ tạo động lực thúc đẩy phát triển cho nền kinh

tế bền vững trong tương lai. Doanh nghiệp khởi nghiệp ngày càng đóng góp nhiều

hơn vào tổng GDP do số lượng doanh nghiệp thành lập mới ngày càng nhiều, đa dạng

ở nhiều ngành, lĩnh vực, phân bổ ở hầu hết các địa phương. Bên cạnh đó, tốc độ tăng

trưởng của doanh nghiệp khởi nghiệp cao hơn rất nhiều so với các khu vực doanh

nghiệp khác.

Tại một số quốc gia, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo được xem là xương

sống của cả nền kinh tế. Doanh nghiệp khởi nghiệp có đóng góp đáng kể vào tăng

trưởng kinh tế, có khả năng giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế và phát triển dù

trong giai đoạn nền kinh tế rơi vào khủng hoảng. Chính sự đóng góp quan trọng này

11

của các doanh nghiệp khởi nghiệp, các nhà nghiên cứu kinh tế cũng như các nhà quản

lý đều thống nhất quan điểm cần phải có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp khởi

nghiệp chính là nền tảng để phát triển kinh tế và ổn định xã hội trong thời đại công

nghiệp 4.0.

Bên cạnh đó, với sự tiếp sức của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và thương mại

điện tử thì các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo sẽ là khu vực cạnh tranh lớn nhất,

sáng tạo lớn nhất vì chính các doanh nghiệp này đã huy động được toàn bộ nguồn lực

để phục vụ cho xã hội và đất nước.

Qua thời gian, các doanh nghiệp khởi nghiệp khi thành công sẽ phát triển

nhanh chóng trở thành các doanh nghiệp lớn đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho

chính doanh nghiệp và đất nước. Các doanh nghiệp thành công thì mô hình kinh

doanh sẽ mở rộng làm cho quy mô của doanh nghiệp được lan rộng rất nhiều và dần

trở thành các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia đóng góp vào tăng

trưởng của nền kinh tế.

Các doanh nghiệp khởi nghiệp thường có niềm tin và có thái độ rất tích cực

đối với nền kinh tế hiện tại, khuynh hướng phát triển của nền kinh tế trong tương lai.

Vì vậy, doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ là xu hướng phát triển kinh tế các quốc gia và

của toàn thế giới, đồng thời doanh nghiệp khởi nghiệp cũng là động lực để thúc đẩy

phát triển kinh tế thế giới vốn được đánh giá là phát triển chậm dần trong thời kì phát

triển công nghệ khoa học.

1.1.3.2. Huy động được nguồn lực tài chính trong xã hội

Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng,

tuy nhiên, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng không huy động được.

Khi doanh nghiệp khởi nghiệp tiếp xúc trực tiếp với người dân và huy động được

nguồn vốn này để kinh doanh. Tận dụng nguồn lực vốn từ những người thân trong

gia đình là điều mà đa phần các doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ làm đầu tiên và rất phù

hợp với tiến trình cho doanh nghiệp khởi nghiệp giai đoạn mới khởi đầu. Tuy các

doanh nghiệp khởi nghiệp là hình thức kinh doanh mới nhưng cũng đã tận dụng thu

12

hút tốt các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội để đưa vào đầu tư trong nền kinh tế.

Chính lực lượng doanh nghiệp khởi nghiệp đã giúp huy động số lượng lớn vốn

đang tồn tại trong dân cư. Khi nhà nước có cơ chế phù hợp thì các nguồn lực của nền

kinh tế sẽ được khai thác tốt để tạo ra của cải vật chất và đem lại lợi nhuận cho cá

nhân, gia đình, doanh nghiệp và xã hội. Adam Smiths cho rằng sự giàu có của các

quốc gia chính là nhờ vào sự phát triển ổn định của doanh nghiệp, trong quá trình

hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, doanh nghiệp đã làm giàu cho

bản thân doanh nghiệp, cho các thành viên tham gia và làm giàu cho quốc gia thông

qua việc đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp.

Chính vì lẽ đó, từ trước đến nay, các nhà quản lý và các nhà kinh tế đều thừa

nhận và nghiên cứu vai trò của doanh nghiệp khởi nghiệp. Với việc đẩy mạnh phong

trào khởi nghiệp tại các quốc gia thì sự đóng góp của các doanh nghiệp này thật sự

lớn lao đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới

nổi và đang phát triển – những quốc gia có số lượng vốn trong dân rất dồi dào.

1.1.3.3. Giải quyết số lượng lớn việc làm cho người lao động

Đặc điểm chung của các doanh nghiệp khởi nghiệp là sử dụng ít lao động, tuy

nhiên với số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp thành lập ngày càng nhiều sẽ giải quyết

được số lượng lớn người lao động đặc biệt là nguồn lao động trẻ có trình độ. Tự khởi

nghiệp hay tham gia làm việc tại các doanh nghiệp khởi nghiệp khi còn trên ghế nhà

trường sẽ giúp sinh viên tích lũy kinh nghiệm về kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp, sau

khi ra trường thì sinh viên có thể tạo dựng một doanh nghiệp khởi nghiệp riêng cho

mình.

Điển hình như quốc gia Isreal, trong quá trình học tập tại trường, đa số sinh

viên đều tham dự một tổ chức doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo để tiếp thu những

kiến thức thực tiễn và trang bị kỹ năng, tác phong làm việc công nghiệp. Như vậy

mỗi sinh viên đều tích lũy cho mình những kinh nhiệm về khởi nghiệp và tự chủ động

tạo công việc cho chính mình, không trở thành gánh nặng cho xã hội khi thất nghiệp.

Như vậy, doanh nghiệp khởi nghiệp không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân cá nhân

mà còn mang lại lợi ích chung cho xã hội. Chính vì vậy, chính phủ các nước cần phải

13

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp để xây dựng một môi trường kinh doanh chủ động

khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp sử dụng lao động, tạo ra

nhiều việc làm trong tương lai.

Do vậy, việc quan tâm đến những tham vọng và sự năng động của giới trẻ hiện

nay là điều quan trọng, đất nước sẽ tận dụng năng lực của thế hệ trẻ về con người và

kinh tế. Nhu cầu cấp thiết hiện nay đặt ra cho những nhà lãnh đạo doanh nghiệp, các

doanh nghiệp khởi nghiệp và các nhà làm chính sách là cần có những hỗ trợ thiết thực

giúp thanh niên phát huy tối đa tiềm năng của họ thông qua việc tài trợ, cấp vốn hoặc

tư vấn, cố vấn, tạo cơ hội việc làm và đào tạo thông qua công việc thực tế về khởi

nghiệp.

1.1.3.4. Góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường

Tính linh hoạt của của các doanh nghiệp khởi nghiệp đã tạo ra tính năng động

cho nền kinh tế quốc gia và thế giới. Việc chuyển đổi nhanh chóng của các doanh

nghiệp khởi nghiệp nhằm lấp đầy các khoảng trống của thị trường đã công nhận vai

trò ổn định kinh tế của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Các doanh nghiệp này đem lại

cho nền kinh tế một hình ảnh mới về sự phát triển năng động, sáng tạo, dám nghĩ,

dám làm và trở thành động lực mới của nền kinh tế.

Chính sự ra đời của doanh nghiệp khởi nghiệp đã làm tăng tính cạnh tranh của

nền kinh tế, làm giảm sự độc quyền buộc các doanh nghiệp truyền thống, buộc các

doanh nghiệp cũ phải tự đổi mới công nghệ nhằm thích ứng với khách hàng và tăng

tính cạnh tranh. Các doanh nghiệp khởi nghiệp phải liên tục đổi mới để thích nghi,

tồn tại và phát triển. Với sự linh hoạt, thích ứng vào nền kinh tế nhanh chóng của

mình, các doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ tạo ra sức thu hút cạnh tranh, thậm chí dám

dạn cạnh tranh với các công ty lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia trên thế giới. Bên

cạnh đó, doanh nghiệp khởi nghiệp còn đóng vai trò thúc đẩy quá trình chuyên môn

hóa, phân công lao động trong sản xuất.

Với sự thích ứng linh hoạt, các doanh nghiệp khởi nghiệp chính là những người

đi tiên phong trong việc áp dụng công nghệ và các phát minh sáng chế mới cũng như

các sáng kiến về kĩ thuật khoa học, trí tuệ nhân tạo. Do áp lực của cạnh tranh khốc

14

liệt của nền kinh tế nên các doanh nghiệp khởi nghiệp phải luôn tìm tòi, nghiên cứu

cải tiến công nghệ đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Mặt khác, công nghệ mới ra đời

phải có sự khác biệt để tồn tại và cạnh tranh thành công.

Đây chính là những yếu tố đầu tiên làm thay đổi công nghệ, tạo ra nhiều đổi

mới trong nền kinh tế. Mặt khác, doanh nghiệp khởi nghiệp giúp trẻ hóa nền kinh tế

già cỗi, đang bị chi phối bởi các tập đoàn lớn xuyên quốc gia. Thông qua các doanh

nghiệp khởi nghiệp, Chính phủ các nước đang tạo ra một sân chơi mới, tăng cường

sự đổi mới sáng tạo, tạo ra nhiều công ăn việc làm, nhiều lĩnh vực ngành nghề mới ra

đời để đáp ứng nhu cầu ngày càng của xã hội.

1.1.3.5. Góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Các doanh nghiệp khởi nghiệp thường chọn các ngách của thị trường, nên khả

năng bao phủ rất lớn. Tuy nhiên, vì qui mô và nguồn vốn nhỏ nên các doanh nghiệp

khởi nghiệp thường chọn ngành về công nghệ hoặc dịch vụ, thương mại. Ngoài ra,

các doanh nghiệp khởi nghiệp được tạo điều kiện để chuyển đổi kinh tế nông thôn và

tạo điều kiện để phụ nữ tham gia quản lý thông qua các dự án về nông nghiệp công

nghệ cao, thúc đẩy quá trình bình đẳng giới trong phát triển kinh tế. Ở nhiều quốc

gia, những doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo về công nghệ hỗ trợ sản xuất nông

nghiệp rất phát triển, chiếm một tỉ lệ cao trong các doanh nghiệp khởi nghiệp. Đây là

yếu tố quyết định giúp kinh tế nông nghiệp, nông thôn có cơ hội thay đổi phát triển

và là điều kiện tiên quyết để chuyển dịch kinh tế nông thôn góp phần chuyển dịch

nền kinh tế quốc gia.

Bên cạnh đó, việc nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp được thành lập ở các vùng,

các địa phương khác nhau đặc biệt là ở các vùng nông thôn sẽ làm giảm tỷ trọng

ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều này sẽ giúp

cho việc chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành

nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.

1.1.3.6. Ươm mầm cho các tài năng kinh doanh trong tương lai

Các doanh nghiệp khởi nghiệp bên cạnh mục tiêu về lợi nhuận mà bên cạnh

đó còn lại lợi ích cho xã hội, đây cũng chính là yếu tố thúc đẩy để phát triển doanh

15

nghiệp khởi nghiệp. Ngoài ra những yếu tố thúc đẩy khác còn bao gồm việc đóng góp

tích cực cho cộng đồng, truyền động lực và cuốn hút thế hệ sau đi theo khát vọng

khởi nghiệp của thế hệ trước. Doanh nghiệp khởi nghiệp cũng thể hiện sự cam kết

mạnh mẽ trong việc hỗ trợ và phát triển những người trẻ như tạo ra những cơ hội thực

tập và học nghề, những sân chơi giao lưu các ý tưởng khởi nghiệp, các câu lạc bộ về

truyền cảm hứng khởi nghiệp cho tất cả mọi thanh niên, sinh viên. Các doanh nghiệp

khởi nghiệp đã và đang tạo ra những cơ hội kiến tập, trải nghiệm quá trình thực tập

và học việc thực tế gấp nhiều lần các doanh nhân lập nghiệp khác ở các quốc gia trên

toàn thế giới.

Hiện nay, có rất nhiều thanh niên đang có ý định khởi nghiệp, họ có kế hoạch

khởi nghiệp và điều hành nghiệp kinh doanh riêng tại một thời điểm nào đó phù hợp

trong sự nghiệp. Đáng chú ý, rất nhiều thanh niên có mong muốn khởi nghiệp đánh

giá rất cao sự hướng dẫn và hỗ trợ của các doanh nhân, các doanh nghiệp khởi nghiệp

đã thành công và cho đây một cơ hội thực tập thực tế có sự hướng dẫn của các doanh

nhân hàng đầu sẽ giúp những ý tưởng thành hiện thực và sớm đạt được mục tiêu khởi

nghiệp. Điều này cho thấy sự ảnh hưởng cả về tinh thần khởi nghiệp lẫn vai trò hỗ

trợ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đối với thế hệ trẻ là rất lớn.

Trên thế giới hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp lớn đều bắt nguồn từ những

doanh nghiệp khởi nghiệp có quy mô cực nhỏ. Tuy nhiên, trong hàng nghìn doanh

nghiệp khởi nghiệp nhỏ ra đời thì chỉ có ít doanh nghiệp phát triển thành công, tạo

dựng thành những doanh nghiệp cực lớn như Microsoft, Google, Facebook hay

Apple. Đây là động lực giúp cho phong trào khởi nghiệp phát triển tại Việt Nam nói

riêng và trên thế giới nói chung. Do vậy, có thể nói doanh nghiệp khởi nghiệp chính

là nơi khởi phát tinh thần doanh nghiệp, nơi đào tạo và luyện rèn những con người

được gọi là doanh nhân và đem lại sự thay đổi sâu sắc, một động lực thúc đẩy phát

triển nền kinh tế của quốc gia.

Tuy nhiên, có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những ý kiến trái chiều cho rằng

khi xét hiệu quả theo quy mô không tồn tại, nên các doanh nghiệp khởi nghiệp không

phải là động lực của nền kinh tế, nhưng ở một góc cạnh khác, nếu các doanh nghiệp

16

khởi nghiệp là nơi để nhà doanh nghiệp nhỏ làm quen với môi trường kinh doanh,

dám nghĩ lớn và chịu nghiên cứu học hỏi thì chính doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ trở

thành cái nôi để ươm mầm cho các doanh nghiệp lớn và tạo dựng những doanh nhân

thành đạt. Vì lẽ đó, sự đóng góp của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là điều không

thể phủ nhận.

1.2. Khái niệm pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

1.2.1. Định nghĩa pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

Pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo với tính chất là các quy

định, cơ chế, chính sách và cách thức can thiệp từ góc độ nhà nước để hỗ trợ cho các

doanh nghiệp khởi nghiệp và qua đó thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp khởi

nghiệp.

Các biện pháp hỗ trợ mà Chính phủ các nước thực hiện đều tập trung vào việc

giúp giải quyết các khó khăn của doanh nghiệp khởi nghiệp đồng thời tạo điều kiện

thuận lợi để doanh nghiệp phát triển trên cơ sở điều kiện kinh tế xã hội, nguồn lực

thế mạnh của mỗi quốc gia như: xây dựng pháp luật hỗ trợ về vốn, xây dựng pháp

luật hỗ trợ về tín dụng, xây dựng pháp luật hỗ trợ về thuế, xây dựng pháp luật hỗ trợ

các lĩnh vực khác.

Đây chính là tổng thể các biện pháp về thể chế pháp luật, tài chính và phi tài

chính nhằm giúp doanh nghiệp khởi nghiệp thành lập doanh nghiệp, quản trị doanh

nghiệp, đào tạo nhân lực, nghiên cứu, phát triển ý tưởng, sản phẩm, tham gia thị

trường và phát triển thị trường, trở thành những doanh nghiệp thực thụ, mang lại

doanh thu cho chủ sở hữu và các nhà đầu tư.

1.2.2. Đặc điểm pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

Chính sách pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là tổng thể

các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng nhằm khuyến

khích, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, góp phần

phát huy, nâng cao hiệu quả và khuyến khích cho hệ thống các doanh nghiệp phát

triển mạnh mẽ, phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp

17

chính là quá trình chuyển hóa các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp của nhà nước

thành những hành động cụ thể nhằm hiện thực hóa những chính sách mà nhà nước đã

ban hành để hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp, đưa chính sách vào thực

tiễn thi hành.

1.3. Cơ sở pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

1.3.1. Các văn bản pháp luật chính thức

1.3.1.1. Nghị định số 66/2008/NĐ-CP

Ngày 28/5/2008, Chính phủ đã ký Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ

pháp lý cho doanh nghiệp với mục tiêu xác định rõ cơ chế hỗ trợ pháp lý cho doanh

nghiệp, được thực hiện bằng các hình thức phù hợp, biện pháp và nội dung hỗ trợ

pháp lý mà các cơ quan nhà nước phải thực hiện để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

và các chương trình theo nhu cầu của từng đối tượng được hỗ trợ, nhằm định hướng,

nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, giúp doanh nghiệp hoạt động và phát

triển dựa trên một nền tảng pháp lý ổn định, chắc chắn, bền vững, lâu dài.

Nghị định quy định hai phương thức hỗ trợ pháp lý của nhà nước đối với doanh

nghiệp, đó là:

- Phương thức thứ nhất, hỗ trợ thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ

của các cơ quan Nhà nước. Đây là phương thức hỗ trợ thường xuyên được thực hiện

thông qua 5 hình thức như: xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt

động của doanh nghiệp; xây dựng tài liệu giới thiệu, phổ biến các văn bản quy phạm

pháp luật; bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp; giải đáp pháp luật cho

doanh nghiệp và tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật.

- Phương thức thứ hai, hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc xây dựng và tổ

chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, bao gồm Chương

trình hỗ trợ pháp lý liên ngành và chương trình hỗ trợ pháp lý của Bộ, ngành và các

địa phương. Phương thức này hỗ trợ được xác lập căn cứ vào thực trạng và nhu cầu

phát triển kinh tế, xã hội trong mỗi thời kỳ, ở mỗi địa phương, được áp dụng ưu tiên

cho các đối tượng khác nhau. Đây là phương thức giúp khai thác tốt các nguồn lực

và sự tham gia của các chủ thể khác ngoài cơ quan nhà nước trong hoạt động hỗ trợ

18

pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp.

1.3.1.2. Quyết định 844/QĐ-TTg

Ngày 18/5/2016, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Ðề án "Hỗ trợ hệ sinh

thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025"(đề án 844), tập trung vào

các hoạt động như: xây dựng cổng thông tin hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo quốc gia; khu tập trung dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp tại các bộ, ngành, địa phương;

kết nối mạng lưới khởi nghiệp, hỗ trợ, đầu tư mạo hiểm của Việt Nam với quốc tế;

ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật.

Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia đến năm 2025 đã có những

nội dung rõ ràng về pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo liên quan tới sử dụng kinh

phí của Nhà nước để hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Mục tiêu của

đề án là đến năm 2020 hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo; thiết lập được Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia; hỗ trợ được

800 dự án, 200 doanh nghiệp khởi nghiệp, trong đó 50 doanh nghiệp gọi được vốn

thành công từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá

trị ước tính khoảng 1.000 tỷ đồng. Đến năm 2025, hỗ trợ phát triển 2.000 dự án khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo; hỗ trợ phát triển 600 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo; 100 doanh nghiệp tham gia Đề án gọi được vốn đầu tư từ các nhà đầu tư mạo

hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá trị ước tính khoảng 2.000 tỷ đồng.

Một hệ sinh thái khởi nghiệp bền vững gồm năm yếu tố cấu thành: nguồn cung

là các viện nghiên cứu, trường đại học, các nhà khoa học; nguồn cầu là các doanh

nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp khởi nghiệp; cơ sở dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp;

các nhà đầu tư; cơ sở pháp lý, hệ thống pháp luật để bảo hộ, bảo vệ cho những nhà

đầu tư, cá nhân khởi nghiệp. Một trong những kênh hỗ trợ chính là không gian làm

việc chung cho hàng trăm doanh nghiệp.

1.3.1.3. Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

Ngày 12/6/2017, Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật hỗ trợ Doanh

nghiệp nhỏ và vừa, tạo thêm cơ sở pháp lý cho việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp.

Luật được thiết kế theo hướng các hỗ trợ trọng tâm chỉ tập trung cho 3 đối tượng

19

doanh nghiệp, gồm Doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập trên cơ sở chuyển đổi

từ hộ kinh doanh, Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo và Doanh nghiệp

nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Về chính sách hỗ trợ cụ thể,

các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ tiếp cận tín dụng, thuế, kế toán, hỗ trợ mặt bằng sản

xuất; công nghệ, cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung, giúp mở rộng

thị trường, hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho

các doanh nghiệp tùy vào ngành nghề cụ thể.

1.3.1.4. Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05/5/2008

Trên cơ sở Nghị định 66/2008, Bộ Tư pháp đã xây dựng Chương trình hỗ trợ

pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo

Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05/5/2008 (Chương trình 585) giai đoạn 2010-2014

và Quyết định 2139/QĐ-TTg ngày 28/11/2014 giai đoạn 2015-2020, nhằm triển khai

đồng bộ các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, phòng chống rủi ro pháp lý

và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chương trình hỗ trợ pháp lý

liên ngành dành cho doanh nghiệp là một bộ phận trong tổng thể các chính sách,

chương trình hỗ trợ của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp.

Tiếp đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 108/QĐ-BTP ngày

23/01/2017 và Công văn 1154/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 10/4/2017 về kế

hoạch theo dõi thực hiện pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2017

được xác định là lĩnh vực hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Bộ đã chủ trì phối hợp

với các Bộ, ngành liên quan để xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên

quan đến hoạt động khởi nghiệp. Bộ Tư pháp cũng yêu cầu các bộ, ngành có liên

quan cần tập trung rà soát, tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các bộ ngành. Theo hướng

dẫn của Bộ Tư pháp, doanh nghiệp khởi nghiệp để tổ chức hoạt động hỗ trợ là các

doanh nghiệp hoạt động trong khoảng thời gian 02 năm tính từ thời điểm được thành

lập, với các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ thuộc lĩnh vực nông

nghiệp, công nghiệp - thương mại, thông tin - truyền thông và xây dựng.

1.3.2. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

20

1.3.2.1. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo quy mô

Nguồn lực của Nhà nước là có giới hạn, chính vì vậy việc xác định các điều

kiện pháp lý để doanh nghiệp khởi nghiệp nhận được sự hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước

thông qua các hỗ trợ về tín dụng, hỗ trợ về thuế, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật

chất hoặc hỗ trợ gián tiếp thông qua các chính sách hỗ trợ về vốn là hết sức quan

trọng.

Xác định điều kiện để doanh nghiệp khởi nghiệp nhận được hỗ trợ sẽ giúp

nguồn lực được tập trung và dành cho đúng đối tượng, tránh dàn trải và thiếu hiệu

quả. Cần tập trung vào các vấn đề sau:

- Quy mô doanh nghiệp khởi nghiệp: vì nguồn lực hỗ trợ là hữu hạn, do vậy,

quy mô doanh nghiệp khởi nghiệp không quá lớn mới được nhận các hỗ trợ về vốn,

nhằm đảm bảo nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp nhỏ có cơ hội nhận được sự hỗ trợ

đầy đủ trong thời gian đầu thành lập. Tất nhiên, các hỗ trợ khác không tốn quá nhiều

nguồn lực vẫn được áp dụng cho doanh nghiệp khởi nghiệp, không phân biệt quy mô.

- Ưu tiên các doanh nghiệp khởi nghiệp chưa chào bán chứng khoán. Các

doanh nghiệp khởi nghiệp khi chào bán chứng khoán ra thị trường thì cơ bản đã trở

thành một công ty có quy mô, có giá trị thương hiệu nên sẽ không nhận được sự hỗ

trợ một số nguồn lực.

- Thời gian thành lập không quá 5 năm. Việc quy định thời gian nhận hỗ trợ

sẽ giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp không ngừng hoàn thiện để tự phát triển, tránh

tình trạng ỷ lại vào các nguồn lực của nhà nước mà không chịu trưởng thành.

1.3.2.2. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về vốn

Hỗ trợ về vốn tập trung vào việc xây dựng các hành lang pháp lý, cơ chế hỗ

trợ cho các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, các nhà đầu tư

thiên thần, các nhà đầu tư mạo hiểm nhằm khuyến khích việc tham gia đầu tư vốn

trong và ngoài nước thông qua việc góp vốn vào các quỹ đầu tư, rót vốn vào các

doanh nghiệp khởi nghiệp hoặc mua lại tỉ lệ sở hữu doanh nghiệp khởi nghiệp trong

giai đoạn đầu. Các doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ nhận được hỗ trợ vốn từ ngân sách

21

nhà nước và từ các tổ chức, nhà đầu tư tư nhân.

1.3.2.3. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về tiếp cận nguồn tín dụng

Hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp khởi nghiệp bao gồm: Các ưu đãi tín

dụng, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh vay vốn từ các tổ chức tín dụng thông qua ngân hàng

chính sách xã hội, các quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, quỹ phát triển khoa học và

công nghệ quốc gia, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được áp dụng đối với các

doanh nghiệp khởi nghiệp đáp ứng điều kiện là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoặc đáp

ứng được các tiêu chí đối với doanh nghiệp đổi mới sáng tạo theo chính sách của Nhà

nước.

Hỗ trợ tín dụng đến từ hai nguồn chính:

- Hỗ trợ tín dụng từ các ngân hàng thương mại thông qua các gói tín dụng ưu

đãi cho doanh nghiệp, bao gồm ưu đãi về lãi suất vay và thời gian vay.

- Hỗ trợ tín dụng từ các quỹ bảo lãnh tín dụng thông qua việc bảo lãnh các gói

tín dụng mà doanh nghiệp vay từ các ngân hàng thương mại.

1.3.2.4. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về ưu đãi thuế

Ưu đãi thuế bao gồm:

- Sử dụng thuế suất tiêu chuẩn thấp;

- Thuế suất ưu đãi;

- Miễn toàn bộ hoặc một phần thuế Thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp

khởi nghiệp;

- Giảm thuế suất thuế Thu nhập doanh nghiệp đối với các nhóm lợi nhuận mục

tiêu;

- Chiết khấu đầu tư và tín dụng thuế;

- Thực hiện chính sách khấu hao nhanh tài sản cố định;

- Khấu trừ thuế;

- Ưu đãi thuế gián tiếp;

- Miễn hoặc giảm một phần thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng;

- Cơ chế kích hoạt tài chính;

22

- Giảm gánh nặng lỗ cho doanh nghiệp.

1.3.2.5. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về các vấn đề khác

Các hình thức hỗ trợ khác bao gồm cơ sở vật chất, hạ tầng giao thông, chuyển

giao khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực, sở hữu trí tuệ thông qua việc hỗ trợ phát

triển hệ thống vườn ươm công nghệ, các khu làm việc, nghiên cứu chung, tổ chức các

khóa đào tạo nhằm tạo điều kiện ban đầu để các doanh nghiệp khởi nghiệp có đủ

phương tiện, thiết bị, hạ tầng để thực hiện dự án kinh doanh của mình với chi phí hợp

lý nhất. Điều này được đánh giá là biện pháp hiệu quả và thiết thực bên cạnh việc hỗ

trợ, vốn, tín dụng và thuế cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

1.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp

Trong thực tế, không phải tất cả doanh nghiệp khởi nghiệp đều được hỗ trợ.

Đồng thời, hỗ trợ có nghĩa là Nhà nước tạo cơ hội, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp

sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ một phần chi phí khi thực hiện hoạt động kinh doanh cụ

thể. Do đó, mức độ hỗ trợ cũng khác nhau, trong đó, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo

và doanh nghiệp tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị được ưu tiên hỗ trợ nhiều

nhất.

Khi bắt đầu khởi nghiệp, nguồn vốn của doanh nghiệp còn hạn chế, khả năng

kết nối đối tác chưa tốt, trong khi đầu tư ban đầu rất nhiều nên việc tận dụng các hỗ

trợ từ chính sách nhà nước sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong giai đoạn khởi

sự kinh doanh.

Chính phủ các quốc gia đang có xu hướng khuyến khích các doanh nghiệp

trong nước đẩy mạnh sáng tạo, tiếp cận với thế giới công nghệ với công cuộc cách

mạng công nghệ 4.0. Từ đó, với hỗ trợ từ phía Chính phủ và nội lực từ chính bản

thân, doanh nghiệp cần phải nắm bắt cơ hội, mạnh dạn dấn thân và khởi nghiệp thực

hiện ước mơ của doanh nghiệp mình.Quá trình thực hiện chính sách hỗ trợ doanh

23

nghiệp khởi nghiệp là quá trình phức tạp, đòi hỏi chịu tác động của nhiều yếu tố.

1.4.1. Yếu tố môi trường chính trị

Những thay đổi trong hoàn cảnh chính trị có tác động trực tiếp đến việc thực

hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất

của một hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đó là chính sách của Chính phủ.

Điều này liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực quan hệ với doanh nghiệp khởi

nghiệp hay tinh thần khởi nghiệp, mà còn ảnh hưởng ở một phạm vi rộng hơn là các

chính sách liên quan đến hệ thống thuế, các dịch vụ tài chính, viễn thông, giao thông,

thị trường lao động, giáo dục và đào tạo, cơ sở hạ tầng và y tế. Phần lớn tại các quốc

gia môi trường chính trị đã tác động đến việc ban hành và thực hiện chính sách hỗ trợ

doanh nghiệp khởi nghiệp của chính quốc gia đó bằng sự công nhận và hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp.

1.4.2. Yếu tố môi trường kinh tế

Thay đổi về môi trường kinh tế có tác động to lớn đến việc thực hiện chính

sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Một dự án hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

phải dựa vào những điều kiện về chính sách, cơ chế, kinh tế mà Nhà nước hỗ trợ một

phần cho các doanh nghiệp.

Dẫn chứng, ưu đãi về thuế thu nhập cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Tuy nhiên,

trong thực tế, giảm thuế Thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp khởi nghiệp không

phải là phương pháp hữu hiệu nhất giúp các doanh nghiệp thoát khỏi hoàn cảnh khó

khăn lúc mới bắt đầu vì đa phần các doanh nghiệp khởi nghiệp luôn lỗ hoặc hòa vốn

trong những năm đầu.

Tuy nhiên, đây lại là một giải pháp tạo động lực, tạo niềm tin cho doanh nghiệp

khởi nghiệp, đồng thời cũng chính là một trong những giải pháp nuôi dưỡng nguồn

thu. Việc nhà nước ban hành chính sách giảm thuế sẽ hỗ trợ doanh nghiệp mới khởi

nghiệp rất lớn vì có thể tiết kiệm được chi phí và chuyển dòng vốn sang phục vụ cho

công tác đầu tư, đồng thời giảm chi phí trả lãi tiền vay, từ đó giảm giá thành, chi phí

sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư từ bên

24

ngoài.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, những thay đổi của thế giới

như thay đổi chính sách của nhà nước, các tổ chức kinh tế thế giới, các tổ chức khu

vực có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới quá trình thực hiện chính sách hỗ

trợ doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua sự ảnh hưởng đến môi trường kinh tế hội

nhập của các nước, đặc biệt đối với những doanh nghiệp khởi nghiệp sự thay đổi

chính sách của các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư thiên thần sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến

việc thực hiện chính sách.

Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể mà mức độ ảnh

hưởng của môi trường kinh tế quốc tế đến chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

sẽ khác nhau.

1.4.3. Yếu tố môi trường xã hội

Phong trào khởi nghiệp mở rộng tại các địa phương, đa dạng ngành nghề và

bắt đầu hình thành và phát triển những hệ sinh thái khởi nghiệp. Đây là điều kiện

thuận lợi cho chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp nhanh chóng đi vào đời

sống, tạo làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ khắp đất nước. Doanh nghiệp khởi nghiệp

chính là những đối tượng tạo ra nhiều việc làm, giải quyết tình trạng thất nghiệp,

mang lại giá trị gia tăng vượt bậc cho nền kinh tế của mỗi quốc gia và trên toàn thế

giới.

1.4.4. Yếu tố môi trường công nghệ

Khởi nghiệp sáng tạo là quá trình khởi nghiệp dựa trên các giải pháp kỹ thuật,

công nghệ, các giải pháp quản lý nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng, giá

trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa và có khả năng tăng trưởng nhanh. Yếu tố cơ sở

hạ tầng công nghệ là nền tảng để các doanh nghiệp khởi nghiệp thành công.

Hiện nay, các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao là môi trường để thực

hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp rất tốt. Trong bối cảnh cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0 đang bùng nổ mạnh mẽ, yếu tố công nghệ chính là phần cốt

lõi của các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

nói riêng. Công nghệ là yếu tố tiên quyết để thực hiện tốt chính sách và làm doanh

25

nghiệp bứt phá để vươn tầm ra thế giới.

1.4.5. Yếu tố chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện chính sách hỗ trợ

Bộ máy hành chính chịu trách nhiệm ban hành và thực hiện chính sách hỗ trợ

doanh nghiệp khởi nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi chính sách cho

doanh nghiệp. Việc tổ chức thực hiện chính sách doanh nghiệp khởi nghiệp đòi hỏi

sự chung tay đồng bộ của các ngành, lĩnh vực ở các cấp để đảm bảo tính nhất quán,

công bằng và khách quan.

1.5. Cơ cấu, nội dung của pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo

pháp luật Việt Nam

Chính phủ của các quốc gia đưa ra các chương trình hỗ trợ, khuyến khích

người dân tham gia khởi nghiệp thông qua các chính sách thúc đẩy thành lập doanh

nghiệp, trợ giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp và các đề án hỗ trợ cộng đồng khởi

nghiệp với nhiều chính sách ưu đãi nhằm tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy,

hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hình thành và phát triển nhằm giúp doanh nghiệp

có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình

kinh doanh mới.

1.5.1. Tối ưu hóa môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý các quốc gia cần hướng đến nâng cao tinh thần khởi nghiệp

của các cá nhân và tổ chức trong xã hội nhằm thực hiện những ý tưởng kinh doanh

mới trên cơ sở chấp nhận rủi ro có thể chấp nhận được. Nội dung của chính sách

nhằm ra các giải pháp để tối ưu hóa môi trường pháp lý về khởi nghiệp của một quốc

gia như:

- Kiểm tra, rà soát các yêu cầu pháp lý khởi nghiệp;

- Hạn chế giảm thiểu rào cản pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp;

- Tạo dựng niềm tin cho doanh nghiệp khởi nghiệp về môi trường pháp lý;

- Hướng dẫn văn bản pháp lý cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

1.5.2. Tăng cường giáo dục tinh thần khởi nghiệp và phát triển các kỹ năng

kinh doanh cần thiết

Điều quan trọng của kỹ năng khởi nghiệp là các kỹ năng mềm và các năng lực

26

chuyên môn như kiến thức cơ bản về khởi nghiệp, lập kế hoạch kinh doanh, quản trị

tài chính và kỹ năng quản lý. Các chính sách và chương trình giáo dục khởi nghiệp

hiệu quả nên tập trung chú trọng vào phát triển năng lực kinh doanh và các kỹ năng

cần thiết trong các điều kiện công việc cụ thể, ứng dụng khoa học công nghệ nhằm

nâng cao năng lực khởi nghiệp và phát triển văn hóa khởi nghiệp trong xã hội.

1.5.3. Tạo điều kiện trao đổi, ứng dụng và đổi mới công nghệ

Khởi nghiệp và công nghệ luôn có mối quan hệ cùng chiều, tác động lẫn nhau,

cả hai yếu tố này đều quan trọng tùy vào mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ ứng dụng

công nghệ và khả năng đổi mới của doanh nghiệp, đặc biệt là tại các quốc gia đang

phát triển. Một số giải pháp mà các quốc gia có thể áp dụng như:

- Chính sách hỗ trợ phát triển công nghệ thông tin và truyền thông cho khu

vực tư nhân;

- Tăng cường mạng lưới liên kết, cụm công ty, cụm ngành nhằm phổ biến công

nghệ và đổi mới;

- Xây dựng cầu nối giữa cơ quan nhà nước, viện nghiên cứu, các trường đại

học và khu vực tư nhân;

- Thúc đẩy ưu tiên hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ cao.

1.5.4. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi sự tiếp cận nguồn tài chính

Các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp tiếp cận nguồn tài chính trong

nền kinh tế hiện nay như:

- Thúc đẩy tăng cường tiếp cận với các dịch vụ tài chính;

- Tiếp tục đẩy mạnh tài trợ cho đổi mới công nghệ;

- Nâng cao năng lực cho các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính để

phục vụ doanh nghiệp khởi nghiệp;

- Xây dựng và cung cấp các chương trình đào tạo về tài chính cho các doanh

nghiệp khởi nghiệp.

1.5.5. Nâng cao nhận thức về khởi nghiệp và thiết lập các cụm liên kết, các

hiệp hội hỗ trợ liên quan

Nâng cao hiểu biết cộng đồng về giá trị của khởi nghiệp và giải quyết những

27

thành kiến tiêu cực trong nhận thức xã hội, xây dựng môi trường bình đẳng giới trong

kinh doanh. Từ đó, nâng cao nhận thức trong cộng đồng về các cơ hội khởi nghiệp,

khuyến hợp tác giữa các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Các hiệp hội cũng cần chung tay hỗ trợ các dự án khởi nghiệp dành cho đoàn

viên thanh niên, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, người nông dân. Chính các doanh nghiệp

khởi nghiệp này đang giải quyết công việc liên quan thực tiễn để phát triển địa

phương.

Tiểu kết chương 1

Chương 1 trình bày tổng quan một số vấn đề lý luận về pháp luật hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp như: Khái niệm đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp khởi

nghiệp, việc hiểu đúng và đầy đủ về doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ giúp cho các cơ

quan nhà nước trong việc xây dựng chính sách dành cho loại hình doanh nghiệp này,

tình trạng lãng phí nguồn lực do hỗ trợ không đúng đối tượng.

Bên cạnh đó, tác giả đã trình bày khái niệm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

và vai trò của việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Việc xác định được khái niệm

và vai trò của việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo sẽ giúp xây dựng các

quy định, chính sách pháp luật nhằm hỗ trợ hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Mặt khác, tác giả đã nêu lên những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp về

pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, từ đó giúp Chính phủ xây dựng các quy

định, chính sách pháp luật nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa

và sự ứng dụng các khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng hiện nay.

Tác giả cũng xác định các nội dung pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

bao gồm các vấn đề hỗ trợ về vốn, hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ thuế và các hỗ trợ khác

như sở hữu trí tuệ, chuyển giao khoa học công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng vườn

ươm, khu làm việc chung. Việc xác định nội dung pháp luật hỗ trợ sẽ giúp ích cho

việc nhận diện thực trạng hiện có và thực tiễn thi hành pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp.

Trên cơ sở nghiên cứu trên, trong Chương 2 tiếp theo tác giả nghiên cứu thực

trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực

28

tiễn Thành phố Hồ Chí Minh nhằm đối chiếu so sánh giữa lý thuyết và thực tiễn.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI

NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

2.1.1. Thực trạng pháp luật về điều kiện được hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định các điều kiện để doanh nghiệp

khởi nghiệp. Theo đó, nếu doanh nghiệp khởi nghiệp phải đáp ứng đồng thời 2 tiêu

chí sau sẽ nhận được sự hỗ trợ theo quy định:

- Có thời hạn không quá 5 năm kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký

doanh nghiệp lần đầu;

- Chưa chào bán chứng khoán ra công chúng.

2.1.2. Thực trạng pháp luật về quy định ưu đãi tín dụng

Nguyên tắc hoạt động của các tổ chức tín dụng là phải ngăn ngừa và kiểm soát

rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng. Điều kiện là khách hàng vay thông thường phải

29

có năng lực tài chính tốt, dự án vay vốn khả thi và có tài sản bảo đảm. Trong khi đó,

các doanh nghiệp khởi nghiệp thường quá trẻ, quá nhỏ và quá nhiều rủi ro để tạo niềm

tin cho các tổ chức tài chính.

Trước thực trạng trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định về việc thành lập, tổ

chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, số

34/2018/NĐ-CP. Nghị định này đã hướng dẫn chi tiết về vấn đề bảo lãnh tín dụng

của quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong

đó có doanh nghiệp khởi nghiệp, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận với các các

gói tín dụng ưu đãi từ các tổ chức tài chính.[4]

2.1.3. Thực trạng pháp luật về quy định vốn

Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 quy định về hỗ trợ, đầu tư vốn

cho doanh nghiệp khởi nghiệp như sau:

- Nhà đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo bao gồm quỹ

đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài thực hiện

hoạt động kinh doanh thông qua việc góp vốn (Điều 17, Luật hỗ trợ doanh nghiệp

nhỏ và vừa)

- Thành lập, mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi

nghiệp sáng tạo (Điều 18, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017).

Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được hình thành từ vốn góp của các nhà đầu

tư tư nhân để đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo theo các

nguyên tắc sau:

- Đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo không quá 50%

vốn điều lệ của doanh nghiệp sau khi nhận đầu tư;

- Nhà đầu tư tư nhân góp vốn vào quỹ phải có điều kiện tài chính và chịu trách

nhiệm về vốn góp của mình.

Căn cứ vào điều kiện ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình

Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định giao cho tổ chức tài chính nhà nước của địa

phương thực hiện đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo theo các

30

nguyên tắc sau:

- Lựa chọn các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo đủ điều kiện để cùng đầu tư

vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo;

- Khoản vốn đầu tư từ ngân sách địa phương không quá 30% tổng vốn đầu tư

mà doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo huy động được từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp

sáng tạo được lựa chọn;

- Tiến hành chuyển nhượng vốn đầu tư cho nhà đầu tư tư nhân trong thời hạn

05 năm kể từ thời điểm góp vốn đầu tư. Việc chuyển nhượng vốn đầu tư được thực

hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản

xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.

Doanh nghiệp được sử dụng quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh

nghiệp để đầu tư khởi nghiệp sáng tạo theo quy định tại Luật Chuyển giao công nghệ

và Nghị định này. Doanh nghiệp nhà nước thực hiện hoạt động đầu tư khởi nghiệp

sáng tạo theo quy định về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh

doanh tại doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.[13]

- Đối với Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, theo Nghị định số 38/2018/NĐ-CP

quy định:

1. Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo không có tư cách pháp nhân, do tối đa 30

nhà đầu tư góp vốn thành lập trên cơ sở điều lệ quỹ. Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo

không được phép góp vốn vào các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo khác.

2. Tài sản góp vốn có thể bằng Đồng Việt Nam, vàng, giá trị quyền sử dụng

đất và các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam (Điều 5, Nghị định

số 38/2018/ NĐ-CP). Nhà đầu tư không được phép sử dụng vốn vay để góp vốn thành

lập các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo.

3. Danh mục và hoạt động đầu tư của quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo bao

gồm:

- Gửi tiền tại các ngân hàng thương mại theo quy định của pháp luật;

- Đầu tư không quá 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp

31

sáng tạo sau khi nhận đầu tư.

4. Toàn bộ số vốn góp và tài sản của các nhà đầu tư tại quỹ phải được hạch

toán độc lập với công ty thực hiện quản lý quỹ.

5. Các nhà đầu tư góp vốn thành lập quỹ tự thỏa thuận về thẩm quyền quyết

định danh mục đầu tư và nội dung này phải được quy định tại điều lệ quỹ và hợp đồng

với công ty thực hiện quản lý quỹ (nếu có).[5]

2.1.4. Thực trạng pháp luật về quy định thuế, phí

Do tính chất mới của doanh nghiệp khởi nghiệp nên hiện tại pháp luật về thuế

vẫn chưa có những văn bản pháp lý liên quan đến việc ưu đãi thuế, phí đối với loại

hình doanh nghiệp này. Tuy nhiên, doanh nghiệp khởi nghiệp được xác định là một

trong ba nhóm đặc thù của doanh nghiệp nhỏ và vừa nên có thể áp dụng các ưu đãi

thuế được quy định tại Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp áp dụng chung cho các loại

hình doanh nghiệp hiện có theo Luật Doanh nghiệp 2014.

Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp quy định về vấn đề ưu đãi lãi suất cho các

doanh nghiệp, theo đó, áp dụng thuế suất 10% trong thời gian mười lăm năm.

- Thu nhập thực tế của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại địa bàn

có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế trọng điểm, khu công nghệ

cao;

- Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới, bao gồm: nghiên

cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công

nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công nghệ cao; ươm

tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư mạo hiểm cho phát

triển công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển

theo quy định của Luật Công nghệ cao; đầu tư xây dựng - kinh doanh cơ sở ươm tạo

công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng

đặc biệt quan trọng của Nhà nước theo quy định của pháp luật; sản xuất sản phẩm

phần mềm; sản xuất vật liệu composit, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý

hiếm; sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, năng lượng từ việc tiêu hủy chất

32

thải; phát triển công nghệ sinh học; bảo vệ môi trường;

Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp còn quy định về vấn đề ưu đãi về thời gian

miễn thuế, giảm thuế cho doanh nghiệp.

2.1.5. Thực trạng pháp luật về các hình thức hỗ trợ khác

Theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017, các doanh nghiệp khởi

nghiệp phải đáp ứng các tiêu chí liên quan thì mới có thể được hưởng hỗ trợ thuộc

các nhóm biện pháp sau:

- Nhóm các hỗ trợ dành riêng cho doanh nghiệp khởi nghiệp;

- Nhóm các hỗ trợ chung cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó có các

doanh nghiệp khởi nghiệp phải đáp ứng điều kiện;

- Chính sách hỗ trợ 100% giá trị hợp đồng tư vấn về xây dựng và thực hiện

chính sách, chiến lược hoạt động sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp;

- Chính sách hỗ trợ 100% giá trị hợp đồng tư vấn về thiết kế, đăng ký bảo hộ,

khai thác và phát triển giá trị của nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế cho

doanh nghiệp;

- Chính sách hỗ trợ 100% giá trị hợp đồng tư vấn về xây dựng và phát triển tài

sản trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý.

Hỗ trợ pháp lý về các thủ tục đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường,

chất lượng; thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới và thực nghiệm mô hình kinh doanh

mới:

- Cung cấp thông tin miễn phí về hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn trong

nước và quốc tế thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp khởi nghiệp

sáng tạo;

- Hỗ trợ toàn bộ giá trị hợp đồng tư vấn để doanh nghiệp xây dựng tiêu chuẩn

cơ sở;

- Hỗ trợ 50% phí thử nghiệm mẫu phương tiện đo; phí kiểm định, hiệu chuẩn,

thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường; chi phí cấp dấu định lượng của hàng

đóng gói sẵn phù hợp với yêu cầu kỹ thuật đo lường nhưng không quá 10 triệu đồng

33

trên một lần thử và không quá 01 lần trên năm;

- Hỗ trợ toàn bộ giá trị hợp đồng tư vấn để doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

tự tổ chức đo lường;

- Hỗ trợ 50% phí thử nghiệm về chất lượng hàng hoá tại hệ thống thử nghiệm

thuộc cơ quan quản lý nhà nước nhưng không quá 10 triệu đồng trên một lần thử và

không quá 01 lần trên năm.

Hỗ trợ về các ứng dụng, chuyển giao công nghệ: hỗ trợ 50% chi phí hợp đồng

ứng dụng công nghệ cao, hợp đồng chuyển giao công nghệ nhưng không quá 100

triệu đồng trên một hợp đồng và không quá một hợp đồng mỗi năm.

Hỗ trợ về đào tạo, thông tin, xúc tiến thương mại, thương mại hóa:

- Hỗ trợ 50% chi phí đào tạo chuyên sâu về các nội dung sau: Xây dựng, phát

triển sản phẩm; thương mại hóa sản phẩm; gọi vốn đầu tư; phát triển thị trường; kết

nối mạng lưới khởi nghiệp với các tổ chức, cá nhân nghiên cứu khoa học. Chi phí hỗ

trợ không quá 20 triệu đồng trên một khoá đào tạo và không quá 01 khoá đào tạo trên

năm;

- Miễn phí việc tra cứu, khai thác, cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu về sáng

chế, thông tin công nghệ, kết quả nghiên cứu cho doanh nghiệp;

- Hỗ trợ 100% chi phí gian hàng tại Hội trợ triển lãm xúc tiến thương mại trong

nước và quốc tế; được ưu tiên tham gia Chương trình xúc tiến thương mại có sử dụng

ngân sách nhà nước;

- Miễn phí cung cấp thông tin, truyền thông về kết nối mạng lưới khởi nghiệp

sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo.

Hỗ trợ sử dụng cơ sở kỹ thuật, cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung:

- Hỗ trợ toàn bộ chi phí sử dụng trang thiết bị tại các cơ sở kỹ thuật hỗ trợ

doanh nghiệp nhỏ và vừa;

- Hỗ trợ 50% nhưng không vượt quá 5 triệu đồng/tháng/doanh nghiệp nhỏ và

vừa khởi nghiệp sáng tạo phí tham gia các cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung dành

cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

34

Hỗ trợ đào tạo khởi sự kinh doanh và quản trị kinh doanh.

- Ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 50% tổng chi phí của một khóa đào tạo

về khởi sự kinh doanh và quản trị doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa;

- Học viên của doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt

khó khăn, doanh nghiệp nhỏ và vừa do nữ làm chủ được miễn học phí khi tham gia

khóa đào tạo về kinh tế.

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật của các doanh nghiệp khởi nghiệp tại

thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội và sự tác động đến việc thi hành pháp luật về

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí

Minh

Việt Nam có tiềm năng khởi nghiệp rộng lớn từ một thế hệ trẻ năng động, sáng

tạo có quyết tâm khởi nghiệp cao, làm giàu chính đáng cho mình và cho xã hội, kết

hợp với văn hóa khởi nghiệp, tư duy dám chấp nhận thất bại để trải nghiệm và học

hỏi. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đang phát triển mạnh mẽ trong giai

đoạn hiện nay.

Đã có nhiều Startup khởi đầu khá thành công, nhưng sau đó bị hụt hơi do thiếu

kinh nghiệm, không có định hướng rõ ràng và rơi vào vòng xoáy luẩn quẩn dẫn đến

thất bại. Để phần nào khắc phục hạn chế này, trong hai năm 2016 – 2017, Hiệp hội

Thương mại Điện tử Việt Nam tổ chức khá nhiều buổi hội thảo chia sẻ kinh nghiệm

từ những người thành công cho các Startup.

Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh cũng tổ chức các chương trình chia sẻ

kinh nghiệm khởi nghiệp về công nghệ thông tin cho sinh viên các trường trên địa

bàn Thành phố.

Trong xu hướng hiện nay, phần lớn giới khởi nghiệp cũng như những doanh

nghiệp dựa vào công nghệ thông tin để khởi nghiệp, thường sử dụng hệ thống mạng

Internet để phát triển. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp khởi nghiệp đã thành công khi

đi ngược xu hướng đó, từ “kinh doanh hiện đại” chuyển sang “kinh doanh truyền

thống”. Từ nền tảng cửa hàng Online được hình thành và thu hút người mua qua

35

mạng. Tuy nhiên, nhận thấy xu hướng kinh doanh qua mạng có những hạn chế khó

phát triển mạnh, chủ cửa hàng đã dần chuyển sang kinh doanh truyền thống kết hợp

kinh doanh qua mạng, mở cửa hàng cho khách đến xem và mua trực tiếp.

Những dự án khởi nghiệp trên đã chứng minh, không có một quy chuẩn nào

cho khởi nghiệp thành công hay thất bại, mà sự sáng tạo của startup là nền tảng cho

thành công. Nếu một ý tưởng hay, dự án hay thì các nhà đầu tư bên ngoài sẽ nắm bắt

được ngay. Điều quan trọng là những người khởi nghiệp có được những kiến thức,

kinh nghiệm gì để có thể nắm lấy cơ hội này để thu hút nguồn vốn đầu tư.

Bên cạnh đó, Thành phố cần hỗ trợ mở các lớp dạy cho những người khởi

nghiệp như định giá doanh nghiệp họ, kỹ năng đàm phán thương mại. Về mặt công

nghệ, dự án, ý tưởng thì người khởi nghiệp phải lo, nhưng khi dồn sức vào công nghệ

và sản xuất thì doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ thiếu kỹ năng đám phán với Quỹ đầu tư

hoặc định giá quá thấp hoặc quá cao.

Với phong trào khởi nghiệp, nhất là trong giới trẻ đang phát triển, việc trang

bị những kiến thức và kỹ năng khởi nghiệp cho đối tượng này cần sớm thực hiện,

nhất là khả năng đổi mới sáng tạo. Và một trong những ý tưởng ban đầu xuất phát từ

chính trên ghế nhà trường cho sinh viên.

Hoạt động khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam đã bắt đầu khoảng năm 2009,

trước với việc hình thành một số doanh nghiệp khởi nghiệp trong các lĩnh vực thương

mại điện tử, dạy học trực tuyến. Qua hơn 10 năm hình thành và phát triển của cộng

đồng khởi nghiệp sáng tạo, mạng lưới hỗ trợ khởi nghiệp đang hình thành và hoạt

động ngày càng hiệu quả, trong đó, nổi bật là vai trò của cố vấn khởi nghiệp vốn có

từ lâu ở các nước, nay dần lớn mạnh và chuyên nghiệp ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, mạng lưới nhà đầu tư cho công ty khởi nghiệp, bao gồm các nhà

đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài làm cho nguồn lực về tài chính của

các doanh nghiệp khởi nghiệp lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Đến nay hệ sinh

thái khởi nghiệp sáng tạo và các doanh nghiệp khởi nghiệp của Việt Nam được xem

là đã bao hàm đầy đủ các thành tố quan trọng như các doanh nghiệp khởi nghiệp, nhà

đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ chức hỗ trợ kinh doanh, vườn ươm, công

36

viên nghiên cứu, mạng lưới các huấn luyện viên , nhà tư vấn, các cơ sở, đơn vị hỗ trợ

nghiên cứu và khởi nghiệp sáng tạo tại các trường đại học, viện nghiên cứu… thuộc

cả khối tư nhân và Nhà nước.

Với vai trò là đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế trọng điểm phía nam và cả

nước, hàng năm Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp khoảng 30% tổng thu ngân sách

cả nước. Sản lượng công nghiệp thành phố chiếm khoảng 30% giá trị sản lượng toàn

quốc và thu hút lượng lớn vốn FDI cho cả nước. Năng động, dám nghĩ, dám làm trong

phát triển kinh tế trở thành một truyền thống của người dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Qua tổng kết thực tiễn và chỉ đạo thực tiễn của Đảng và Nhà nước. Kết luận

số 21-KL/TW ngày 24-10-2017 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 54/2017 ngày 24-

11-2017 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố

Hồ Chí Minh mở ra bệ phóng cho những đột phá mang tầm chiến lược về phát triển

kinh tế, với mục tiêu xây dựng thành phố trở thành đô thị thông minh, hiện đại và là

đầu tàu kinh tế của cả nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cách mạng

công nghiệp 4.0, một tầm nhìn dài hơi cho kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh tăng

trưởng nhanh và bền vững là vấn đề quan tâm của nhân dân cả nước. Đề án đô thị

thông minh - đô thị công nghệ cao và thông minh, dựa trên mũi nhọn là ngành kinh

tế tri thức đang là hành trình đột phá chủ đạo của thành phố. Hướng đi này được đúc

rút từ những cách làm mới, mô hình thí điểm trước đó của thành phố như khu chế

xuất, công viên phần mềm, trung tâm công nghệ sinh học, khu công nghệ cao.

Với hệ sinh thái khởi nghiệp đã hình thành và phát triển mạnh mẽ, có sự tham

gia của nhiều trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, các quỹ đầu tư trong và ngoài nước, khu

công nghệ cao có vị trí chủ đạo, đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy hoạt động đổi

mới sáng tạo của khu đô thị sáng tạo phía đông thành phố. Khu công nghệ cao hiện

thu hút thành công hơn 10 tập đoàn, công ty công nghệ vào đầu tư sản xuất sản phẩm

công nghệ cao như Intel, Nidec, Jabil, Sonion, Sanofi, FPT, Nipro, Datalogic,

Samsung,… Hàm lượng giá trị tạo ra từ nghiên cứu và phát triển (R&D) trong cơ cấu

giá trị sản phẩm tăng dần, vượt gấp nhiều lần so với sản phẩm từ các khu công nghiệp

37

cả nước.

Dự kiến đến năm 2020, khu công nghệ cao sẽ đóng góp khoảng 20% GDP của

thành phố. Điểm nhấn của đề án xây dựng thành phố thông minh là xác định phát

triển kinh tế chủ yếu dựa trên dịch vụ và đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công

nghệ và phát triển nền kinh tế tri thức, mà một trong những trọng tâm là phát triển

thành công mô hình Khu đô thị sáng tạo tại phía đông của thành phố với tổng diện

tích khoảng 22.000 ha thuộc ba quận 2, 9 và Thủ Đức. Hiện trạng cơ sở hạ tầng kỹ

thuật nơi đây khá hiện đại, tập trung nhiều trường đại học, viện nghiên cứu, có nhiều

doanh nghiệp công nghệ cao, cũng là nơi thu hút nhiều nguồn nhân lực chất lượng

cao, cụ thể như Khu Công nghệ cao tại quận 9, 12 trường đại học, sáu viện nghiên

cứu thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trên địa bàn quận Thủ Ðức, kết

nối thuận tiện với các tỉnh Bình Dương, Bình Phước và Bà Rịa - Vũng Tàu.

Qua đó cho thấy khu đô thị sáng tạo dựa trên hai trụ cột chính là Khu Công

nghệ cao và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Việc hình thành Khu Đô thị

sáng tạo kết nối chặt chẽ, hiệu quả các chức năng trung tâm nghiên cứu khoa học, đào

tạo nhân lực trình độ cao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, dịch vụ trên

nền tảng công nghệ cao, hạ tầng kỹ thuật và xã hội hiện đại theo chuẩn quốc tế và hỗ

trợ tài chính, thương mại hiệu quả như trung tâm tài chính; trung tâm hội chợ, triển

lãm, hình thành các chuỗi giá trị gia tăng từ khâu nghiên cứu khoa học, nghiên cứu

ứng dụng, thiết kế sản phẩm, sản xuất sản phẩm phụ trợ, sản xuất sản phẩm công

nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, tiêu thụ sản phẩm và cung ứng

dịch vụ.

Khu đô thị sáng tạo sẽ trở thành hạt nhân thực hiện cuộc cách mạng công

nghiệp 4.0 của thành phố và khu vực. Điều này minh chứng cho khẩu hiệu năm 2018

của thành phố "Đổi mới - Sáng tạo để xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành

đô thị thông minh, hiện đại" quyết tâm thực hiện đạt hiệu quả cao các nội dung của

bảy chương trình đột phá theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần

thứ X đề ra.

Tinh thần đột phá của thành phố mang tên Bác được minh chứng bằng những

38

hành động quyết liệt, thi đua sớm hoàn thành những mục tiêu mang tính chiến lược

về phát triển kinh tế - xã hội. Nếu như năm 2017 là năm đầu tiên thành phố công bố

đề án xây dựng thành phố thông minh, thì năm 2018 với quyết tâm đổi mới - sáng tạo

đã mở ra những cơ sở vững chắc trong hành trình xây dựng đô thị thông minh. Diễn

đàn kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (HEF 2018) với chủ đề: "Kiến tạo đô thị sáng

tạo, tương tác - Vai trò động lực của doanh nghiệp" HEF 2018 nhằm giới thiệu với

các nhà đầu tư về kế hoạch xây dựng khu vực phía đông theo xu hướng đô thị sáng

tạo. Đáng chú ý, sau thành công của Chương trình giao lưu văn hóa - thương mại các

nước ASEAN tại Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức cuối năm 2018, thành phố đã chấp

thuận chủ trương đổi tên gọi thành "Chương trình giao lưu văn hóa - thương mại quốc

tế năm 2018", mở rộng đối tượng tham gia là các doanh nghiệp nước ngoài trên địa

bàn thành phố và các doanh nghiệp ở các quốc gia đang quan tâm, có nhu cầu mở

rộng thị trường tại Việt Nam.

Ngay từ những ngày đầu năm 2019, sinh khí đô thị thông minh được lan tỏa

mạnh mẽ trong và ngoài nước qua việc Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hàng loạt sự

kiện hữu ích mang tầm thời đại. Thành phố là nơi đầu tiên sớm tổ chức hội thảo khoa

học "Nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo" hướng tới đề án xây dựng hệ sinh thái

ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2019 - 2025, góp

phần thực hiện thành công Đề án "Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô

thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025" và Đề án xây dựng

khu đô thị sáng tạo.

Cuối quý I năm 2019, liên tục các đoàn giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ

kinh tế - xã hội trọng tâm do lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban Nhân dân thành phố trực

tiếp đi kiểm tra, lắng nghe nguyện vọng và trực tiếp tháo gỡ vướng mắc để đẩy nhanh

tiến độ dự án. Mở đầu là việc thị sát Dự án giải quyết ngập do triều khu vực Thành

phố có xét đến yếu tố biến đổi khí hậu giai đoạn 1 với nguồn vốn gần 10 nghìn tỷ

đồng đầu tư xây dựng bằng hình thức BT.

Hội nghị lần thứ 26 Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh nhấn

mạnh: Nét mới của kỳ họp này là đã dự báo được triển vọng hoàn thành các mục tiêu,

39

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong nhiệm kỳ, thể hiện trách

nhiệm của Đảng bộ thành phố với nhân dân, nhờ đó thực hiện các nhiệm vụ của quý

II với quyết tâm cao hơn. Phát biểu đầy trách nhiệm này thể hiện tinh thần "Nói đi

đôi với làm" về cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, có như vậy thành phố mới

có thể hoàn thành chủ đề "Năm 2019 là năm đột phá thực hiện cải cách hành chính".

Tiếp đó, tại kỳ họp thứ 13 Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày

8/4/2019 tiếp tục nhấn mạnh, việc tìm kiếm những giải pháp và thay đổi cách tiếp cận

để thu hút các nhà đầu tư lớn đầu tư vào thành phố.

Tiến hành xác định từ 10 đến 15 nhà đầu tư lớn nước ngoài để mời gọi đầu tư

vào các ngành chế tạo, dịch vụ trọng yếu. Thành phố chủ động cử các đoàn lãnh đạo

đến một số quốc gia để gặp gỡ, mời gọi đầu tư; đưa ra những điều kiện cụ thể về quỹ

đất, giá thuê đất, nguồn lực lao động... để thu hút các nhà đầu tư vào các dự án sản

xuất và dịch vụ có quy mô lớn. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ thông qua

tiếp tục tổ chức các hội nghị gặp gỡ các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ và

công ty lớn của các quốc gia như Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Mỹ,... để tạo niềm

tin cho các nhà đầu tư về lợi ích của việc phát triển công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hồ

Chí Minh.

Trong thời gian tới, thành phố sẽ tiếp tục tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo khoa

học để tìm kiếm các giải pháp mới phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội giai

đoạn 2020 - 2030 như: tổ chức Hội thảo khoa học nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ

nhân tạo (AI) lần thứ 2 vào tháng 5/2019 để xây dựng chương trình phát triển trí tuệ

nhân tạo của thành phố. Với hành trình xây dựng đô thị thông minh, với điểm nhấn

là khu đô thị sáng tạo, lãnh đạo thành phố đặt niềm tin trở thành hạt nhân của cách

mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam, duy trì mức đóng góp 30% GDP ngân sách quốc

gia.

Tháng 4/2019, Thành phố phấn đấu triển khai và đưa vào vận hành, khai thác

giai đoạn 1 các trung tâm thành phần thuộc đề án "Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh

trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017- 2020, tầm nhìn đến năm 2025" gồm

Trung tâm điều hành, Trung tâm dữ liệu dùng chung, Trung tâm dự báo và đơn vị

40

bảo đảm an toàn an ninh thông tin; triển khai Đề án xây dựng "Khu đô thị sáng tạo"

tại phía đông thành phố, đến năm 2020 và những năm tiếp theo quyết tâm hoàn thành

việc đầu tư nâng cấp, hoàn thiện các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật trọng điểm

để liên kết các khu vực quan trọng trong khu đô thị sáng tạo. Hết sức hợp lý với đề

xuất xây dựng cơ chế liên kết giữa khu đô thị sáng tạo với các trung tâm sáng tạo

khác của Thành phố Hồ Chí Minh như Công viên phần mềm Quang Trung. Hành

trình xây dựng Thành phố trở thành đô thị thông minh cũng chính là xây dựng thành

phố trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước. Liên tục đề ra và thực hiện bằng được

những chương trình đột phá nhằm tạo sự chuyển biến thật sự về phát triển kinh tế -

xã hội luôn là nét đẹp của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố mang tên

Bác.

2.2.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về chính sách hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Theo Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, các chính sách hỗ trợ về khởi

nghiệp của thành phố trong thời gian qua, nhất là hai Chương trình hỗ trợ doanh

nghiệp vừa và nhỏ đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc

tế giai đoạn 2016 – 2020 và Quy chế phối hợp hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp sáng

tạo.

Trong đó, Thành phố ưu tiên hỗ trợ cho các ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo khởi

nghiệp mang tính đột phá, sáng tạo, tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ có giá trị gia tăng

cao cũng như giải quyết các vấn đề xã hội hướng tới phát triển bền vững.

2.2.2.1. Tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp

Với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận chính sách,

thông tin pháp lý và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật, các

Bộ, Sở, ngành đã biên soạn các tài liệu và chương trình để phổ biến các quy định của

pháp luật.

Công tác tuyên truyền, phổ biến được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng,

41

thiết thực, phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa bàn, từng nhóm đối tượng khác

nhau. Nội dung tuyên truyền tập trung phổ biến các văn bản pháp luật liên quan đến

hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, như pháp luật về đầu tư, bảo hiểm xã hội, lao

động, thuế…

Đặc biệt, Chương trình 585 đã xây dựng, phát sóng hàng tuần chuyên đề “Kinh

doanh và pháp luật” trên Đài Tiếng nói Việt Nam (kênh VOV) và Đài Truyền hình

Việt Nam (kênh VTV2), trong đó chú trọng việc tuyên truyền những thay đổi của

pháp luật kinh doanh hiện hành, phân tích tác động của sự thay đổi pháp luật đó đối

với hoạt động của doanh nghiệp. Chương trình đã trình bày thực tiễn pháp lý trong

kinh doanh dưới hình thức phóng sự, phân tích của chuyên gia, những vướng mắc

pháp lý doanh nghiệp thường gặp, cảnh báo những rủi ro pháp lý khi doanh nghiệp

không tuân thủ các quy định pháp luật, từ đó đề xuất các giải pháp tháo gỡ vướng

mắc cho doanh nghiệp. Đây là Chương trình phổ biến pháp luật kinh doanh dành cho

doanh nghiệp đầu tiên được phát sóng với phạm vi phủ sóng toàn quốc trong một

khung thời gian phù hợp, điều này đã có tác động tích cực, góp phần quan trọng nâng

cao nhận thức và thói quen tuân thủ, áp dụng pháp luật của người quản lý doanh

nghiệp.

Chương trình 585 đã phối hợp với Cục công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp xây

dựng và đưa vào vận hành chuyên mục trang tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên

Cổng Thông tin của Bộ Tư pháp với các nội dung chính: cơ sở dữ liệu văn bản quy

phạm pháp luật về lĩnh vực kinh doanh cho doanh nghiệp; diễn đàn pháp luật kinh

doanh để trao đổi về các lĩnh vực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn liên quan tới

pháp luật kinh doanh; hỗ trợ pháp luật trực tuyến: sử dụng các công cụ như: hotline,

qua các công cụ chat trực tuyến như Skype, SMS, Gtalk,…, xây dựng hệ thống trả lời

email tự động; tích hợp với cơ sở dữ liệu hỏi đáp của Cổng thông tin điện tử Bộ Tư

pháp; các Bộ, ngành khác có liên quan như các tổ chức đại diện doanh nghiệp; Văn

phòng luật sư, Công ty luật.

Nội dung các hoạt động của các Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành

cho doanh nghiệp gồm: Bản tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, hoạt động tổ chức

42

bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh nghiệp, hội nghị đối thoại

với doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh

của doanh nghiệp, thiết lập mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các địa

phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, hoạt động tổ

chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp.

Ngoài ra, nhằm thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi

nghiệp, Thành phố cũng tiến hành rà soát, cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật

quy định về vấn đề này và đăng công khai lên các phương tiện đại chúng để các doanh

nghiệp dễ dàng tiếp cận. Xây dựng và ban hành Hệ dữ liệu văn bản quy phạm pháp

luật do Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân ban hành theo thẩm quyền liên quan

đến doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp - thương mại,

thông tin - truyền thông và xây dựng.

Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh vừa khai trương “Chương trình hỗ trợ

thông tin về thuế cho doanh nghiệp khởi nghiệp”. Thông qua các hoạt động hỗ trợ

của chương trình, cơ quan thuế sẽ cung cấp và hỗ trợ kịp thời các thông tin pháp lý,

các dịch vụ liên quan cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Hội đồng nhân dân Thành

phố Hồ Chí Minh và Đài Tiếng nói Nhân dân dân Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp

thực hiện chương trình phát thanh trực tiếp “Đối thoại cùng Chính quyền thành phố”

với chủ đề “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp”.

2.2.2.2. Hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp khởi

nghiệp

Các chuyên đề bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp

chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: pháp luật về quản trị doanh nghiệp, hợp đồng,

lao động và bảo hiểm xã hội, pháp luật về thuế, kế toán, pháp luật về cạnh tranh, sở

hữu trí tuệ, pháp luật về kinh doanh bất động sản, đầu tư, các quy định mới của Bộ

luật dân sự 2015, Luật Doanh nghiệp 2015, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của

Luật Thuế giá trị gia tăng,... các quy định về Hiệp định Thương mại đối tác xuyên

43

Thái Bình Dương, Hiệp định tự do thương mại,...

Tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh

nghiệp, góp phần tăng cường năng lực chuyên môn cho đội ngũ này trong triển khai

thực hiện nhiệm vụ, giúp doanh nghiệp có đội ngũ tư vấn pháp luật, cố vấn pháp lý

có thêm những kiến thức về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, bảo đảm thực hiện tốt

nhiệm vụ được lãnh đạo doanh nghiệp giao. Bên cạnh đó, còn bồi dưỡng các kỹ năng

cần thiết trong kinh doanh như: kỹ năng phổ biến, tuyên truyền pháp luật; kỹ năng tư

vấn pháp luật; kỹ năng soạn thảo, đàm phán, ký kết hợp đồng trong kinh doanh; kỹ

năng giải quyết tranh chấp trong kinh doanh.

2.2.2.3. Hỗ trợ công tác tư vấn pháp luật

Tổ chức, điều hành, quản lý hoạt động của mạng lưới tư vấn pháp luật được

chia theo 03 cấp:

(1) Ban Quản lý Chương trình;

(2) Cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm đại diện tại các địa phương;

(3) Đội ngũ luật sư, luật gia, tư vấn viên pháp luật, cộng tác viên tư vấn pháp

luật, cán bộ thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để trực tiếp triển khai

các hoạt động của mạng lưới tư vấn viên.

Thông qua các hình thức tư vấn pháp luật cụ thể: Giải đáp bằng văn bản, giải

đáp thông qua mạng điện tử, giải đáp trực tiếp, điện thoại, các doanh nghiệp đã được

tư vấn, cung cấp ý kiến pháp lý để kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong quá

trình hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó, tạo sự chuyển biến về nhận thức, ý thức

tôn trọng và chấp hành pháp luật đối với doanh nghiệp tại các địa phương có điều

kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, góp phần thúc đẩy sản xuất, ổn

định xã hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh tại Việt Nam.

Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp còn được các sở, ban,

ngành thực hiện thông qua nhiều hình thức như tư vấn trực tiếp qua điện thoại, tư vấn

tại các tổ chức hành nghề công chứng và tổ chức hành nghề luật sư, qua mục hỏi- đáp

tại các trang thông tin của các đơn vị. Đặc biệt nhiều địa phương chỉ đạo các sở, ban,

ngành, lĩnh vực quản lý có liên quan tổ chức giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp,

44

chủ động thông báo, trao đổi, hướng dẫn khi doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành

chính tại Tổ tiếp nhận và trả kết quả; tổ chức các buổi trực tiếp hướng dẫn các doanh

nghiệp mới đi vào hoạt động.

Một kênh rất quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp hiện nay

là các Tổ chức, Liên minh, các công ty luật sư, công chứng. Dẫn chứng như Startup

Now là tổ chức nửa phi lợi nhuận giúp hỗ trợ khởi nghiệp thuộc Công ty Cổ phần

Ươm tạo Doanh nghiệp Công nghệ Nông Lâm – Thành viên Trung tâm Ươm tạo

Doanh nghiệp Đai học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh; Saigon Innovation Hub

- hỗ trợ không gian làm việc miễn phí cho Startups (SIHUB) hướng đến mục tiêu trở

thành hình mẫu về quản lý và vận hành vườn ươm cho các vườn ươm hiện hữu, cung

cấp các hỗ trợ theo chuẩn quốc tế cho cộng đồng khởi nghiệp tại Việt Nam, cũng như

kết nối các thành phần trong hệ sinh thái khởi nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh,

SIHUB, AN LUAT LAW FIRM & Angels 4 Us tài trợ hoàn toàn miễn phí đào tạo

kiến thức pháp lý trong khởi nghiệp, đặc biệt trong đó có phần chuyên sâu về Sở hữu

trí tuệ. Sihub cũng đã ký kết thỏa thuận hợp tác với Công ty Cổ phần Giải pháp Liên

minh Luật Việt Nam (FLF) để cùng đồng hành và hỗ trợ các Startup khởi nghiệp

vững vàng và thuận lợi hơn.

2.2.2.4. Tổ chức hội thảo, tọa đàm, hội nghị đối thoại về các chuyên đề pháp

luật cho doanh nghiệp khởi nghiệp

Năm 2016, Chương trình 585 đã giao các đơn vị là các Sở, Ban ngành, các tổ

chức đại diện cho doanh nghiệp tổ chức thành công 15 hội thảo, tọa đàm, diễn đàn về

các chuyên đề pháp luật kinh doanh, thu hút sự tham gia của trên 1.000 đại biểu tham

dự. Đối tượng tham gia là các chủ sở hữu doanh nghiệp, cán bộ thực hiện công tác hỗ

trợ pháp lý cho doanh nghiệp, luật sư, luật gia, cố vấn pháp lý tại các doanh nghiệp.

Nội dung của các Tọa đàm tập trung chủ yếu vào việc góp ý xây dựng, hoàn

thiện các dự thảo Luật, các chính sách liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp, các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đồng thời nêu những

khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực thi, áp dụng các quy quy

định pháp luật như: Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,...

45

Thông qua hoạt động này, các doanh nghiệp đã được kịp thời tiếp cận thông tin, cập

nhật các chính sách, văn bản, các vấn đề pháp lý mang tính thời sự, kiến thức pháp

luật kinh doanh, đồng thời được trao đổi kinh nghiệm thực tiễn với các nhà quản lý,

chuyên gia, góp phần phòng tránh rủi ro pháp lý, hoạch định các chiến lược đầu tư,

kinh doanh phù hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp. Tuy nhiên, các hoạt động này đã thiết lập được diễn đàn trao đổi đa

chiều, tạo điều kiện để cơ quan quản lý nhà nước lắng nghe, tiếp thu ý kiến phản hồi

từ phía doanh nghiệp, từ đó, đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện chính sách, khắc phục

những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật kinh doanh của Việt Nam.

Năm 2017, Ban Quản lý Chương trình 585 phối hợp Vụ Pháp luật dân sự -

kinh tế, Bộ Tư pháp tổ chức “Tọa đàm trao đổi về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong

Luật Đầu tư năm 2014, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 04 về danh mục

ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư và các Luật chuyên

ngành”; Hội nghị đối thoại “Đánh giá, trao đổi nhu cầu và mô hình hoạt động mạng

lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó

khăn, đặc biệt khó khăn”. Bộ Tư pháp phối hợp với Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật

Bản (Dự án JICA) tại Việt Nam tổ chức Tọa đàm “Đánh giá thực trạng, nhu cầu hỗ

trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đại diện

cho doanh nghiệp” với mục đích kiểm tra, rà soát, đánh giá những kết quả đạt được,

những hạn chế và xác định nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên phạm vi cả

nước để hoàn thiện các quy định pháp luật về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh

nghiệp và chuẩn bị cho việc triển khai chế định hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ

và vừa được quy định tại khoản 3 Điều 14 Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm

2017. [13]

Trung tâm Thông tin, hỗ trợ pháp luật, Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp

phối hợp với Văn phòng đại diện Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp tại Thành phố

Hồ Chí Minh tổ chức lớp bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho các cơ quan, tổ chức,

người thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Hội nghị đối thoại với

46

doanh nghiệp về Bộ luật dân sự 2015 và các vấn đề pháp lý liên quan đến doanh

nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức chương trình “Lãnh đạo thành phố gặp gỡ,

đối thoại với doanh nhân trẻ, cá nhân khởi nghiệp”.

Tóm lại, triển khai thực hiện Nghị định 66/2008/NĐ-CP và các chương trình

hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã mang lại những giá trị hữu ích cho doanh nghiệp

khởi nghiệp, đúng mục đích và yêu cầu đặt ra của Chương trình 585, từ đó tạo điều

kiện giúp cho việc nâng cao nhận thức của lãnh đạo doanh nghiệp về công tác pháp

chế trong doanh nghiệp; nâng cao ý thức pháp luật, đáp ứng yêu cầu thực thi pháp

luật kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp; cán bộ pháp chế doanh nghiệp, cho

cán bộ quản lý, điều hành của doanh nghiệp, phòng ngừa những tranh chấp nội bộ

trong doanh nghiệp có thể xảy ra và phòng tránh rủi ro pháp lý trong kinh doanh; làm

rõ những vấn đề vướng mắc từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp giúp cho doanh

nghiệp tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều đó đã thể hiện sự

quan tâm tích cực của Nhà nước đối với công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

trong giai đoạn hiện nay.

Bên cạnh đó, việc quy định về khái niệm “doanh nghiệp khởi nghiệp” đã được

sử dụng khá phổ biến trong xã hội nhưng chưa được giải thích, quy định, hướng dẫn

trong các văn bản pháp luật hiện hành dẫn đến nhận thức về khái niệm này chưa thống

nhất. Hiện nay cũng chưa có văn bản nào quy định riêng về hỗ trợ pháp lý cho doanh

nghiệp khởi nghiệp, mà chủ yếu triển khai theo Nghị định 66 về hỗ trợ pháp lý cho

doanh nghiệp nói chung. Do vậy công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi

nghiệp thường được tổ chức theo hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói

chung và nội dung chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa thực sự bám sát nhu cầu của

các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp còn rất nhiều bất cập như việc triển

khai Nghị định 66 còn mang tính hình thức, có sự trùng lặp các hoạt động giữa các

bộ với nhau, giữa các đơn vị trong cùng 1 bộ; kinh phí còn dàn trải, chưa tập trung.

Đáng chú ý mặc dù thuộc top 5 trong số 30 chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp

nhưng hiệu quả của công tác cũng chỉ được doanh nghiệp “chấm điểm” đạt mức khá

47

và trung bình.

Nhận thức về vai trò, ý nghĩa của pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh

doanh của nhiều chủ sở hữu, người quản lý doanh nghiệp còn hạn chế. Tình trạng

doanh nghiệp không chú ý tới việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật là khá phổ biến.

Nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc cập nhật kiến thức pháp luật kinh doanh,

coi nhẹ yếu tố pháp lý trong kinh doanh nên không dành thời gian cho cán bộ đi tham

gia các chương trình bồi dưỡng. Lý do lớn nhất mà các doanh nghiệp khởi nghiệp

không tham gia các lớp bồi bưỡng là các doanh nghiệp khởi nghiệp thường không lo

phòng tránh rủi ro trong kinh doanh mà có quan điểm là chỉ đến khi sự việc pháp lý

xảy ra sẽ thuê luật sư hoặc nhờ vả các mối quan hệ để giải quyết vụ việc.

Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa biết cách khai thác hiệu quả các

thông tin pháp luật vì hiện tại hệ thống pháp luật của chúng ta đặc biệt pháp luật về

kinh tế, thương mại vừa nhiều, vừa chồng chéo và bất cập. Mặt khác, các cơ quan

quản lý nhà nước dù có sự quan tâm đến doanh nghiệp nhưng vẫn còn nhiều khó khăn

trong phương thức để phổ biến, hướng dẫn, tổ chức thi hành pháp luật cho doanh

nghiệp; nhiều thắc mắc của doanh nghiệp về nội dung các quy định của pháp luật và

việc áp dụng pháp luật chưa được các cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải đáp kịp

thời khiến cho việc thực thi pháp luật của doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn

hơn.

Nguyên nhân chính của tình trạng này là ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý của

nhiều người quản lý doanh nghiệp còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp còn khó khăn về

nguồn lực để tiếp cận với thông tin pháp lý và tư vấn pháp luật, hoạt động hỗ trợ của

các hiệp hội doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chồng chéo, thiếu hiệu quả; các cơ quan

quản lý nhà nước chưa thi hành tốt nhiệm vụ của mình trong việc tổ chức triển khai

thực hiện pháp luật cho doanh nghiệp, nhiều văn bản được ban hành cùng thời điểm

nhưng không nhất quán, chồng chéo cũng gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.

Chất lượng thông tin mà doanh nghiệp có được chưa đầy đủ, kịp thời và độ tin cậy

cao. Nhiều kênh thông tin điện tử còn cung cấp các thông tin chung chung, lạc hậu,

thiếu các thông tin phục vụ thiết thực cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh

48

của doanh nghiệp khởi nghiệp.

Trên cơ sở đó, Nhà nước cần quan tâm đẩy mạnh hơn các hoạt động hỗ trợ

pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong thời gian tới. Cụ thể như:

- Nghiên cứu ban hành Nghị định về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và

vừa để quy định chi tiết Điều 14, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017, đảm

bảo khung pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động và cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp từ

phía Nhà nước. Trong đó, đổi mới các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp,

kinh phí phục vụ các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp sẽ do Ngân sách nhà

nước cấp, có sự huy động của các nguồn lực xã hội; quy định các căn cứ để xây dựng

chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, như: nhu cầu hỗ trợ pháp lý của doanh

nghiệp trong từng thời kỳ, tại các vùng, ngành, lĩnh vực; đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

- Nâng cao năng lực, đào tạo nguồn nhân lực thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp

lý cho doanh nghiệp tại các Sở, ban, ngành, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp tại các

địa phương để thực hiện tốt nhiệm vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; biên soạn các

bản tin, sổ tay, tài liệu về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; xây dựng tiêu

chuẩn đánh giá hiệu quả của hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; hỗ trợ báo

cáo viên, hỗ trợ công tác tổ chức hội nghị, tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm, các lớp bồi

dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng cho các cơ quan, tổ chức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

nhằm nâng cao năng lực cho cơ quan, tổ chức làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh

nghiệp.

- Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin pháp lý cho doanh nghiệp, tạo điều

kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận thông tin pháp lý trong hoạt động đầu tư,

kinh doanh và hội nhập, nhất là hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh trong nước

và các cam kết quốc tế tác động trực tiếp đến doanh nghiệp nhằm nâng cao nhận thức,

ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật, chủ động hội nhập quốc tế của doanh nghiệp

thông qua hoạt động. Phát triển Trang thông tin điện tử chính thức hỗ trợ pháp lý cho

doanh nghiệp do Chương trình 585 chủ trì thực hiện nhằm cung cấp đầy đủ, kịp thời,

49

toàn diện thông tin pháp lý có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Các Bộ có trách nhiệm tổ chức xây dựng, định kỳ cập nhật tài liệu bồi dưỡng

kiến thức pháp luật có liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình quản lý và phối hợp với

các tổ chức đại diện của doanh nghiệp thực hiện việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật

cho doanh nghiệp. Đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các Hiệp hội và hội, là các tổ chức

bảo vệ quyền và lợi ích của các hội viên, các hội cần chủ động phối hơp với các cơ

quan nhà nước để thực hiện việc bồi dưỡng và phổ biến pháp luật.

- Tăng cường hỗ trợ pháp lý trực tiếp cho doanh nghiệp trên một số hoạt động

cụ thể: cần có các hoạt động tư vấn, giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp bằng nhiều

hình thức: bằng văn bản, qua mạng điện tử, điện thoại, trong đó, quy định thời hạn tư

vấn cụ thể, phân cấp thẩm quyền thực hiện tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và

vừa một cách cụ thể để cơ quan chức năng và doanh nghiệp dễ thực hiện. Bồi dưỡng

kiến thức pháp luật kinh doanh mới cho doanh nghiệp; bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp

vụ, kiến thức pháp luật cho cán bộ pháp chế các doanh nghiệp.

Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức đại diện doanh

nghiệp và các đoàn luật sư, liên đoàn luật sư để cử ra các luật sư có nhiều kinh nghiệm

tư vấn doanh nghiệp khởi nghiệp, trợ giúp họ trong các tình huống cụ thể và tổ chức

đào tạo, giới thiệu các văn bản pháp luật mới. Triển khai hoạt động thiết lập mạng

lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp, ưu tiên các địa phương có địa bàn kinh tế -

xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung

vào các hình thức tư vấn trực tiếp mang lại hiệu quả cao, thiết thực cho doanh nghiệp.

Ưu tiên hỗ trợ nguồn lực để xây dựng các đầu mối thực hiện mạng lưới cộng tác viên

tư vấn pháp luật, bao gồm: xây dựng kế hoạch và tổ chức vận động Luật gia, Luật sư,

Tư vấn viên pháp luật và cộng tác viên tư vấn pháp luật tham gia mạng lưới; tổ chức

và duy trì hoạt động của mạng lưới; tập huấn bồi dưỡng cộng tác viên tham gia mạng

lưới.

- Về phía doanh nghiệp khởi nghiệp: cần chú trọng hơn nữa đến công tác pháp

chế; kiện toàn tổ chức pháp chế, đội ngũ cán bộ pháp chế của doanh nghiệp; cần chủ

động tìm hiểu pháp luật, xem trọng ý nghĩa thượng tôn pháp luật ngay cả khi chưa

50

xảy ra rủi ro, tập trung nghiên cứu, khai thác nhiều kênh thông tin nhằm cập nhật

những văn bản pháp luật có liên quan đến doanh nghiệp kịp thời, nhằm hạn chế tối

đa rủi ro và tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp mình; phát huy và sử

dụng có hiệu quả quyền được tư vấn pháp luật trước khi thực hiện quá trình hoạt động

sản xuất kinh doanh. Từ đó, các doanh nghiệp mới có thể chủ động phòng ngừa, chủ

động trong các hoạt động kinh doanh của mình, nhất là trong điều kiện kinh tế hội

nhập quốc tế như hiện nay.

Tiểu kết chương 2

Chương 2 trình bày thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh như thực trạng pháp luật về thực trạng pháp luật

về điều kiện được hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp; thực trạng pháp luật về quy định

ưu đãi tín dụng; thực trạng pháp luật về quy định vốn; thực trạng pháp luật về quy

định thuế, phí; thực trạng pháp luật về các hình thức hỗ trợ khác..

Bên cạnh đó, tác giả cũng tìm hiểu nghiên cứu yếu tố điều kiện kinh tế - xã

hội và sự tác động đến việc thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ

thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh để đánh giá mức độ thực hiện pháp luật về hỗ trợ

doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ở khía cạnh kết quả, đánh giá hạn

chế và nguyên nhân.

Dựa trên cơ sở lý luận của chương 1, thực trạng của chương 2, từ đó tác giả đề

xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp và nâng

cao hiệu quả từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh sẽ được trình bày trong chương

51

3.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ

DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỪ

THỰC TIỄN CÁC DOANH NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

và nâng cao hiệu quả thực hiện

3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

3.1.1.1. Pháp luật hỗ trợ về sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong

nền kinh tế thời đại công nghệ số

Pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp phải đáp ứng tốt và hiệu quả nhu

cầu của các doanh nghiệp khởi nghiệp, chỉ có vậy, doanh nghiệp khởi nghiệp Việt

Nam mới có cơ hội phát triển. Các cơ quan nhà nước, người làm chính sách hiểu đúng

bản chất của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thì mới xây dựng được pháp luật hỗ

trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp đúng trọng tâm. Khi và chỉ khi doanh nghiệp khởi

nghiệp được hỗ trợ về vốn, tín dụng, công nghệ và được pháp luật bảo vệ bằng pháp

luật sở hữu trí tuệ thì doanh nghiệp khởi nghiệp mới thành công và phát triển lên tầm

cao mới.

Trong kỷ nguyên của công nghệ số của cuộc cách mạng khoa học công nghệ

kỹ thuật lần thứ 4 (cuộc cách mạng 4.0) thì việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi

nghiệp phát triển, tạo ra các sản phẩm có giá trị, vươn tầm thế giới, đóng góp vào sự

phát triển chung của nhân loại chính là cách để Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và

Việt Nam nói chung có thể gia nhập vào nền kinh tế công nghệ số, điều mà cả thế

giới đang hướng đến suốt nhiều thập kỷ qua.

3.1.1.2. Xây dựng thể chế pháp luật khởi nghiệp mang tầm nhìn quốc gia khởi

nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Các chương trình tuyên truyền, vận động khởi nghiệp sáng tạo cần kết hợp với

52

việc xây dựng hình ảnh quốc gia Việt Nam khởi nghiệp. Việt Nam cần hướng đến

việc có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp thành công mà phải cần hướng đến việc trở

thành một quốc gia khởi nghiệp thành công giống như một số nước đã làm. Mà trong

đó Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố khởi nghiệp năng động, sáng tạo, tự

chủ và là điển hình mẫu cho các tỉnh và thành phố khác học tập.

Việc xây dựng hình tượng quốc gia khởi nghiệp sẽ giúp thúc đẩy tinh thần

khởi nghiệp của mọi đối tượng trong xã hội, không chỉ thành phần tri thức mà còn

gia tăng động lực cho các thành phần lao động khác. Họ cùng đóng góp cho khởi

nghiệp sáng tạo trên nhiều phương diện khác nhau nhưng cùng hướng đến mục tiêu

chung là việc Việt Nam sẽ có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp mang tầm quốc tế.

Việt Nam sẽ trở thành quốc gia khởi nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Bên cạnh đó, quốc gia khởi nghiệp cần xây dựng các chính sách pháp luật phù

hợp với mọi thành phần khởi nghiệp sáng tạo, đáp ứng nhu cầu của mỗi ngành, nghề

đặc trưng và điều quan trọng là phù hợp với quy định và thông lệ của kinh tế quốc tế.

3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp

Trong những năm gần đây, khi phong trào khởi nghiệp sáng tạo thực sự trở

thành trào lưu mạnh mẽ, các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp của

Chính phủ ngày càng đa dạng và tập trung hơn, cả về mục tiêu, cách thức triển khai

lẫn quy mô hỗ trợ. Lý do chính để việc thúc đẩy quá trình hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp của Chính phủ đó là áp lực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhằm hướng

tới tương lai kinh tế số và nhu cầu đổi mới, thậm chí tái cơ cấu nền kinh tế, để cải

thiện năng lực cạnh tranh trong bối cảnh kinh tế kết nối toàn cầu.

Khi rà soát các tài liệu về doanh nghiệp khởi nghiệp có một vấn đề thường gặp

là ở hầu hết các quốc gia, doanh nghiệp khởi nghiệp thường gặp phải những vấn đề

tương tự như nhau. Khi tìm hiểu kỹ hơn từ nguyên nhân sẽ thấy sự tương đồng xuất

phát từ đặc điểm rất đặc trưng của doanh nghiệp khởi nghiệp, đó là khó khăn về tài

chính; khó khăn trong quản trị kinh doanh; khó khăn trong tuân thủ các thủ tục hành

53

chính của mỗi quốc gia.

Vì vậy, định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp cần:

- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng, cần xem xét và đánh giá đúng thực

trạng triển khai hoạt động khởi nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm làm rõ những

đặc trưng của hoạt động này, những ngành hoặc lĩnh vực mà khởi nghiệp có nhiều

khả năng thành công, trình độ cũng như mức độ áp dụng công nghệ trong những

ngành hay lĩnh vực, đáp ứng được nhu cầu của Thành phố. Trên cơ sở đó, có thể xem

xét và áp dụng kinh nghiệm phù hợp của các quốc gia khởi nghiệp đi trước vào thực

tiễn vào Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và mở rộng cho cả Việt Nam nói chung

thì mới thực sự có hiệu quả.

- Xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp bằng cách cần cụ thể hóa chủ trương xây

dựng thành phố khởi nghiệp, quốc gia khởi nghiệp bằng một chương trình khởi nghiệp

tổng thể, theo đó, nêu rõ những bước triển khai cụ thể để hình thành hệ sinh thái khởi

nghiệp như: khuôn khổ thể chế hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp bao gồm chính sách

về thủ tục thành lập, đầu tư, thuế, thương mại hóa sản phẩm công nghệ. Tuy nhiên,

điểm cần lưu ý là các chính sách ưu đãi không chỉ dành riêng cho doanh nghiệp khởi

nghiệp, mà còn quan tâm đến cả nhà đầu tư bỏ vốn vào các quỹ đầu tư khi họ rót vốn

cũng như thoái vốn; quy trình hỗ trợ vốn đầu tư tương ứng với các giai đoạn phát

triển của doanh nghiệp khởi nghiệp; quy định hỗ trợ hoạt động của nhà đầu tư đặc

biệt là nhà đầu tư thiên thần và nhà đầu tư mạo hiểm.

Các biện pháp nhằm tăng cường năng lực và hoạt động của các tổ chức hỗ trợ

khởi nghiệp như hệ thống vườn ươm công nghệ hay các trung tâm thúc đẩy doanh

nghiệp khởi nghiệp.

- Cần xem xét pháp luật hỗ trợ xây dựng sàn chứng khoán chuyên biệt cho các

doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam. Tạo dựng một sàn giao dịch chuyên biệt có

vai trò then chốt trong việc hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp tiếp cận trực tiếp

nguồn vốn cần thiết cho sự phát triển của mình. Mặt khác, cung cấp một sàn giao dịch

54

thuận tiện để các nhà đầu tư gặp gỡ, trao đổi với doanh nghiệp khởi nghiệp được dễ

dàng hơn, cũng như tạo khả năng thoái vốn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà

đầu tư thiên thần nhỏ lẻ.

Để nâng cao hiệu quả của chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp cũng

như khuyến khích các hoạt động khởi nghiệp chính là việc điều chỉnh chính sách một

cách hữu hiệu, phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện chính

sách ra thực tế.

3.2. Giải pháp

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

3.2.1.1. Pháp luật về cải cách thủ tục hành chính

Cải cách thủ tục hành chính theo hướng rút gọn thời gian xử lý, đơn giản hóa

các thủ tục hành chính dành cho đối tượng doanh nghiệp khởi nghiệp và các đối tượng

liên quan nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo thiết thực và

cụ thể nhất không phải là trợ cấp vốn, tín dụng mà điều quan trọng nhất là gỡ bỏ

những giấy phép con, những quy định và thủ tục hành chính bất hợp lý tạo ra rào cản

và gánh nặng kinh doanh cho doanh nghiệp.

Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trung ương cần ban hành văn bản

quy định và hướng dẫn về việc thực hiện hỗ trợ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan chủ

trì việc tổ chức thực hiện các thủ tục gia nhập thị trường, rút khỏi thị trường hoàn

toàn có thể quy định về quy trình đăng ký, giải thể rút gọn dành riêng cho các doanh

nghiệp khởi nghiệp, bên cạnh đó cần tư vấn miễn phí của cán bộ Nhà nước cho doanh

nghiệp khởi nghiệp biết, hiểu và thực hiện các quy định này, phối hợp với Bộ Tài

chính để quy định trường hợp giảm phí, lệ phí đối với chủ thể đăng ký là doanh nghiệp

khởi nghiệp.

Bộ Khoa học và Công nghệ, cơ quan quản lý về bảo hộ tài sản sở hữu trí tuệ,

có thể quy định về quy trình rút gọn cho đăng ký bảo hộ tài sản sở hữu trí tuệ của

doanh nghiệp khởi nghiệp, đồng thời phối hợp với Bộ Tài chính để quy định các

trường hợp miễn giảm phí đăng ký ban đầu, phí duy trì bảo hộ hàng năm cho các

55

doanh nghiệp khởi nghiệp.

3.2.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về

cơ chế tài chính

Pháp luật cần hỗ trợ cho việc xây dựng cơ chế kết hợp tài chính từ các ngân

hàng với tài chính từ các quỹ đầu tư mạo hiểm có phần góp vốn từ ngân sách nhà

nước nhằm đảm bảo duy trì thường xuyên nguồn vốn hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi

nghiệp sáng tạo.

Để doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng và hệ sinh thái khởi nghiệp nói chung

phát triển mạnh và bền vững, Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng các chính sách và

quy định pháp luật phù hợp, đồng thời có những chương trình cụ thể giúp hình thành

và phát triển những doanh nghiệp khởi nghiệp mới, trong đó, việc quan trọng nhất là

thiết lập các cơ chế tài chính để tham gia cùng khối đầu tư tư nhân vào khởi nghiệp,

theo mô hình mà nhiều quốc gia đã thực hiện thành công.

3.2.1.3. Tạo hành lang pháp lý về thời gian thu thuế Thu nhập doanh nghiệp

Sau khi doanh nghiệp đạt doanh thu ở một mức nhất định thì mới tiến hành

thu thuế Thu nhập doanh nghiệp, điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp

khởi nghiệp tập trung nguồn lực cho việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.

Việc đáp ứng và tuân thủ các quy định về thuế là một gánh nặng lớn đối với các doanh

nghiệp nhỏ và vừa trong đó có doanh nghiệp khởi nghiệp trong giai đoạn đầu khởi sự

kinh doanh.

Với đặc thù là các công ty chuyên phát triển các sản phẩm mới, tạo ra phân

khúc hoàn toàn mới trên thị trường, tạo ra tính đột phá, do vậy việc yêu cầu khai báo

thuế và thực hiện các thủ tục bắt buộc về thuế ngay từ lúc doanh nghiệp đi vào hoạt

động kinh doanh khiến các doanh nghiệp khởi nghiệp gặp nhiều khó khăn, về nhân

sự và về vấn đề chấp hành chủ trường của pháp luật đáp ứng các yêu cầu khai báo

thuế, kế toán. Vấn đề này tốn nhiều thời gian, tiền bạc và công sức nhưng hiệu quả

quản lý không cao. Thay vào đó nên có những quy định, doanh nghiệp đạt đến mức

độ doanh thu bao nhiêu trên một năm thì mới thực hiện các thủ tục báo cáo thuế, kê

56

khai thuế và nộp thuế cho nhà nước. Việc này sẽ giúp doanh nghiệp tập trung cho

lĩnh vực hoạt động chuyên môn của mình, hạn chế bị phân tâm trong quá trình vận

hành.

3.2.1.4. Xây dựng quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp ở cấp trung ương

Cần phải có sự thống nhất và chung tay của trung ương, vì xây dựng quỹ ở cấp

địa phương sẽ không mang lại hiệu quả thiết thực bởi cơ chế quản lý không rõ ràng,

lãng phí nguồn lực, còn mang tính cục bộ địa phương.

Do đó cần xây dựng một quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp ở cấp trung

ương mang các đặc điểm sau:

+ Chính phủ dự kiến một khoản ngân sách để rót vào quỹ;

+ Tạo lập cơ chế thành lập, quản lý nhà nước đối với của quỹ về mặt thủ tục

hành chính;

+ Dự kiến cơ chế vận hành đầu tư của quỹ;

3.2.1.5. Kết hợp biện pháp hỗ trợ trợ cấp với các biện pháp hỗ trợ khác

Xây dựng các biện pháp hỗ trợ mang tính miễn trừ, tài trợ bên cạnh biện pháp

trợ cấp nhằm cân bằng tài chính, tạo ra nguồn lực dài hạn tiến đến hỗ trợ bền vững

cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Theo kinh nghiệm của thực tiễn của nhiều

quốc gia trên thế giới, việc kết hợp biện pháp hỗ trợ trợ cấp với các biện pháp hỗ trợ

khác như cải tiến các thủ tục hành chính, miễn giảm nghĩa vụ đóng góp về thuế, hiệu

quả dự kiến cao hơn rất nhiều bởi:

- Không quá tốn kém về nguồn lực: Để triển khai các biện pháp hỗ trợ này,

ngoài các chi phí tối thiểu phải bỏ ra một lần như chi phí để điều chỉnh, bổ sung, sửa

đổi các văn bản quy định về quy trình, mức phí, lệ phí, miễn giảm thuế và giảm các

nguồn thu trong tương lai như các khoản thuế, phí, lệ phí phải nộp trong giai đoạn

đầu nhưng doanh nghiệp khởi nghiệp được ưu tiên miễn, giảm, các biện pháp này

không yêu cầu Nhà nước phải bỏ ra thêm nguồn lực nào khác để triển khai.

- Phạm vi hỗ trợ có thể mở rộng: Do khi thực hiện các biện pháp hỗ trợ này,

Nhà nước không phải trực tiếp chi từ Ngân sách nên không bị ràng buộc bởi các giới

hạn nguồn lực, và vì vậy có thể thực hiện đồng thời cho nhiều đối tượng thụ hưởng.

57

Hơn nữa, trong quá trình triển khai các biện pháp hỗ trợ này, Nhà nước không phải

tạo dựng thêm bộ máy hay cơ chế mới mà hoàn toàn có thể dùng các cơ quan, cách

thức hiện tại để thực hiện việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ở bất kỳ khu vực địa

lý, lĩnh vực hoạt động nào cũng đều có thể tiếp cận và thụ hưởng các hỗ trợ theo chính

sách này.

- Hỗ trợ đúng đối tượng, đúng nhu cầu của doanh nghiệp: Với quan điểm là

cần hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp nên chính sách chỉ áp dụng khi

doanh nghiệp khởi nghiệp triển khai các thủ tục, hoặc phát sinh khoản thuế, phí, lệ

phí liên quan, trên nguyên tắc một doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ không thể hưởng lợi

quá một lần cho các thủ tục, khoản thuế, phí, lệ phí được hỗ trợ. Vì thế, các biện pháp

hỗ trợ này cho phép hạn chế tối đa tình trạng trùng lặp, lãng phí hay thông đồng trong

việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp.

3.2.1.6. Xác định pháp luật về cơ chế lựa chọn doanh nghiệp khởi nghiệp nhận

hỗ trợ từ Chính phủ

- Cần xây dựng bộ tiêu chí và các quy định rõ ràng để các doanh nghiệp khởi

nghiệp căn cứ thực hiện khi nộp đơn đăng ký nhận hỗ trợ từ Chính phủ. Cần phân

làm 2 loại, hỗ trợ thông thường mang tính miễn trừ, tài trợ và hỗ trợ đặc biệt mang

tính trợ cấp cho các doanh nghiệp đăng ký, tránh lãng phí nguồn lực và tạo công bằng

cho các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động trong nền kinh tế.

- Cần rà soát kinh nghiệm quốc tế từ các quốc gia đã thực hiện bộ tiêu chí để

làm căn cứ, hiện nay phần lớn các nước đều quy định các tiêu chí khác nhau cho từng

nhóm biện pháp hỗ trợ để đáp ứng đa dạng các nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp với

những ngành nghề, lĩnh vực đặc trưng khác nhau. Đối với các nhóm hỗ trợ không cần

thiết phải có nguồn lực lớn, trong khi nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp có nhu cầu thì

áp dụng các điều kiện thụ hưởng đơn giản, dễ đáp ứng để ngày càng nhiều doanh

nghiệp khởi nghiệp được hưởng hỗ trợ càng tốt, qua đó tạo ra hỗ trợ rộng khắp, lan

tỏa, thúc đẩy cộng đồng doanh nghiệp khởi nghiệp.

Tuy nhiên, đối với nhóm hỗ trợ cần nguồn lực lớn, điều kiện thụ hưởng sẽ thắt

chặt, khó khăn hơn, quy trình chặt chẽ hơn, cho phép lựa chọn các đối tượng mục tiêu

58

hẹp hơn, tiềm năng hơn.

Thông thường thì các điều kiện để thụ hưởng các hỗ trợ về vốn, tín dụng hay

tài trợ tài chính sẽ nhiều hơn, khó khăn hơn. Trong khi đó, các điều kiện để thụ hưởng

các hỗ trợ về thủ tục hành chính như thủ tục nhanh chóng khi gia nhập thị trường, rút

khỏi thị trường, quy trình kế toán cần đơn giản hơn, giảm các loại phí, lệ phí chính

thức như phí đăng ký duy trì bảo hộ sở hữu trí tuệ, phí đăng ký kinh doanh, đơn giản

hơn, quy trình xét cấp hỗ trợ cũng nhanh chóng hơn.

3.2.1.7. Pháp luật về hỗ trợ phát triển các cơ sở mặt bằng, cơ sở hạ tầng, thuế,

công nghệ cho các vườn ươm, khu làm việc chung

Nhà nước cần xem xét cụ thể hóa các quy định phát luật tại các Nghị định,

Thông tư hướng dẫn nhằm hỗ trợ vốn, ưu đãi mặt bằng, cơ sở hạ tầng, thuế,… để các

chủ thể đầu tư vào các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo như khu làm

việc chung, vườn ươm công nghệ, khu thí nghiệm, khu thử nghiệm sản phẩm,… các

tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp phát triển sẽ giúp doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tiết

kiệm nhiều chi phí về mặt bằng, máy móc, thiết bị, nhân sự quản lý và vận hành các

thiết bị thường xuyên để tránh lãng phí do hao mòn tài sản. Từ đó, các doanh nghiệp

chỉ chuyên tâm tập trung nghiên cứu và phát triển sản phẩm.

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp từ thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh

Nhận diện được các vấn đề của các doanh nghiệp khởi nghiệp, Nhà nước thực

hiện chính sách hỗ trợ, can thiệp để giúp đỡ các doanh nghiệp khởi nghiệp mang tính

thực thi, thực tiễn và lâu dài. Từ đó, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp khởi

nghiệp, các biện pháp hỗ trợ mà Chính phủ đã hoặc đang thực hiện đều tập trung vào

việc giúp giải quyết hoặc xử lý các vướng mắc, khó khăn, hạn chế trong quá trình

kinh doanh của doanh nghiệp khởi nghiệp.

3.2.2.1. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về chính sách, môi trường pháp

Hoàn thiện xây dựng pháp luật về chính sách, môi trường pháp lý về chiến

59

lược khởi nghiệp quốc gia tùy vào thế mạnh riêng, mỗi quốc gia và địa phương chọn

cho mình những lĩnh vực ưu tiên phù hợp, sau đó Nhà nước sẽ hỗ trợ các doanh

nghiệp khởi nghiệp hoạt động hiệu quả.

Cải thiện môi trường kinh doanh là điều kiện vô cùng quan trọng mà cụ thể là

các pháp luật về chính sách, môi trường pháp lý trong chiến lược khởi nghiệp quốc

gia. Cải thiện môi trường kinh doanh giúp doanh nghiệp khởi nghiệp thành công trong

hội nhập kinh tế trước những cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay.

Tối ưu hóa môi trường pháp lý, cần tạo lập cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp trên cơ sở đảm bảo nhận thức đầy đủ, quan điểm toàn diện, coi

trọng vai trò và vị trí của doanh nghiệp khởi nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội.

Đồng thời, hoàn thiện xây dựng thể chế, chính sách cho doanh nghiệp khởi nghiệp

cần sớm hoàn thiện, cụ thể hóa hơn một số nội dung về doanh nghiệp khởi nghiệp

trong Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp một cách toàn diện, có

sự tham gia góp sức của các tổ chức tài chính, ngân hàng và các cơ quan nhà nước.

Bên cạnh với việc ban hành hệ thống chính sách hỗ trợ, cần sớm thiết lập hệ thống

các cơ quan, tổ chức quản lý để triển khai và thực thi cơ chế chính sách. Hỗ trợ xây

dựng hệ thống cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp khởi nghiệp, nâng cao việc chỉ đạo

và dịch vụ công của Chính phủ dành cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Đặc biệt, cần tăng cường vị thế, vai trò của Nhà nước trong xây dựng quan hệ

hợp tác chiến lược giữa các doanh nghiệp khởi nghiệp với các doanh nghiệp lớn và

quỹ đầu tư mạo hiểm. Qua thời gian, cần đánh giá, khảo sát lại toàn diện hoạt động

của khu vực doanh nghiệp khởi nghiệp; tạo động lực cho cộng đồng doanh nghiệp

khởi nghiệp trên cơ sở các cam kết của Chính phủ về việc minh bạch hoá, công bằng

hoá thông tin về sự phát triển kinh tế của các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, cần

phát huy hơn nữa vai trò của doanh nghiệp tư nhân, tôn trọng và bảo đảm quyền tự

do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp, tuân thủ các

nguyên tắc và thông lệ quốc tế.

Nhà nước nên thực hiện các biện pháp giảm thuế, điều chỉnh cách tính thuế

60

Giá trị gia tăng. Cụ thể, Nhà nước cần giảm thuế hoặc không đánh thuế trong ba năm

đầu từ khi thành lập doanh nghiệp, thuế doanh nghiệp và khu vực tư nhân được giảm

thấp hơn và các ưu đãi về phí, lệ phí, thuế khác.

Đồng thời, cần quan tâm hơn về đơn giản hóa thủ tục nhà nước. Nhà nước cần

tổ chức lại hệ thống hành chính, quản lý tài chính liên quan đến công quỹ, đơn giản

hóa thủ tục thành lập hoặc phá sản doanh nghiệp. Khung pháp lý mới cũng cần đặt ra

cho các doanh nghiệp khởi nghiệp cơ hội tái khởi động sau khi doanh nghiệp phá sản,

đẩy nhanh thủ tục phá sản, đẩy mạnh hệ thống phòng ngừa phá sản. Nhà nước cũng

cần đề cao yếu tố minh bạch trong hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp như:

xoá bỏ nạn tham nhũng, số liệu được Chính phủ công bố nhanh chóng, chia sẻ thông

tin chi tiết, công khai và minh bạch.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ; cơ chế chính sách thúc đẩy phát

triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Trong đó, cần lưu ý:

- Đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản không còn phù hợp, xây

dựng bộ máy quản lý nhà nước trong sạch; nâng cao trình độ nắm vững và thi hành

pháp luật của đội ngũ công chức quản lý nhà nước có liên quan trực tiếp đối với doanh

nghiệp khởi nghiệp; cần hướng dẫn doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển, giảm sự

nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm một bộ phận của công chức, viên chức đảm bảo cho

các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương thực sự là chỗ dựa vững

chắc, là người trợ giúp hiệu quả đối với doanh nghiệp khởi nghiệp.

- Có những tiêu chí để phân loại, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp khởi

nghiệp một cách cụ thể rõ ràng, tránh đánh giá chung, phân biệt rõ thế nào là doanh

nghiệp khởi nghiệp. Đồng thời, cần có chiến lược ưu tiên tháo gỡ khó khăn, xây dựng

những nhân tố nòng cốt, nhằm tôn vinh và nhân rộng các điển hình tiên tiến; tạo môi

trường để các doanh nghiệp khởi nghiệp Thành phố tăng cường liên kết với nhau,

khích lệ họ có niềm tin và sự cống hiến hết mình vì sự phát triển của Thành phố Hồ

Chí Minh nói riêng và là nền tảng xây dựng một đất nước Việt Nam thịnh vượng.

- Cần tăng cường xúc tiến thương mại và quản lý thị trường; nên có cơ chế đẩy

mạnh việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ và đầu tư vào các nước đã ký các hiệp định

61

thương mại và đầu tư; loại bỏ những rào cản gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự tham gia

hiệu quả các chuỗi sản xuất tạo ra giá trị toàn cầu, kể cả việc xuất khẩu lao động. Cần

có chính sách tăng cường giáo dục tinh thần khởi nghiệp và phát triển các kỹ năng để

đáp ứng các yêu cầu của khởi nghiệp trong thời đại công nghệ thông tin.

3.2.2.2. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tăng cường hỗ trợ chính sách

tài chính

Đây là nhóm biện pháp thiết thực nhằm giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp

vượt qua khó khăn ban đầu được cho là lớn nhất, chính là thiếu nguồn vốn. Muốn tập

trung phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp để làm đòn bẩy kinh tế, Chính phủ cần

tham gia đầu tư trực tiếp để kích thích tăng trưởng về số lượng và chất lượng các

doanh nghiệp khởi nghiệp. Qua đó thu hút khối tư nhân đầu tư vào doanh nghiệp khởi

nghiệp.

Thường sẽ bao gồm các yếu tố sau:

- Các khoản hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp khởi nghiệp: các hỗ trợ dưới

dạng khoản tài trợ trực tiếp vào các dự án khởi sự kinh doanh ở giai đoạn “ươm mầm”,

ý tưởng hoặc giai đoạn đầu của quá trình phát triển sản phẩm. Chính phủ có thể thực

hiện hỗ trợ tiền mặt, dựa trên cân đối thu, chi ngân sách nhà nước, Chính phủ nên

nghiên cứu, xem xét giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua hỗ trợ

một lượng tiền mặt theo một tỷ lệ nhất định trên vốn tự có của doanh nghiệp khởi

nghiệp.

- Thực thi các khoản cho vay, bảo lãnh tín dụng: Chính phủ đứng ra bảo lãnh

tín dụng cho những doanh nghiệp khởi nghiệp đi kèm các cam kết về sử dụng khoản

vay, vốn đối ứng tối thiểu. Các khoản tín dụng dành cho doanh nghiệp khởi nghiệp

từ các quỹ, tổ chức tín dụng của Nhà nước hoặc các biện pháp bảo lãnh cho các doanh

nghiệp khởi nghiệp vay tín dụng tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng tư nhân.

- Hoạt động có hiệu quả các khoản đầu tư mạo hiểm: việc đầu tư này có thể

được thực hiện thông qua các quỹ đầu tư Nhà nước hoặc đầu tư gián tiếp thông qua

việc phối hợp đầu tư với các nhà đầu tư hay các quỹ đầu tư tư nhân hoặc cung cấp

các chương trình bảo lãnh đầu tư cho các nhà đầu tư hay quỹ đầu tư tư nhân đầu tư

62

vào các doanh nghiệp khởi nghiệp.

- Tăng cường thực hiện chính sách miễn, giảm các nghĩa vụ tài chính với Nhà

nước, biện pháp thực hiện thông qua việc giảm các nghĩa vụ về tài chính phải nộp

của doanh nghiệp khởi nghiệp như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá

trị gia tăng, giảm các mức đóng góp cho bảo hiểm xã hội trong gia đoạn mới hình

thành doanh nghiệp khởi nghiệp.

- Nâng cao phát triển thêm các kênh huy động vốn cho doanh nghiệp khởi

nghiệp, trong đó cần chú trọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán.

Nghiên cứu và triển khai sàn giao dịch chứng khoán đặc thù dành cho các doanh

nghiệp khởi nghiệp, giúp các doanh nghiệp huy động vốn trực tiếp từ xã hội góp phần

tích cực trong việc tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Nếu thành

công, sàn giao dịch này sẽ chủ động hơn trong việc hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi

nghiệp tiếp cận nguồn vốn, góp phần giảm bớt áp lực huy động nguồn tài chính -

thường là gánh nặng đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp mới thành lập.

- Cần xây dựng một thị trường vốn chuyên dành cho các doanh nghiệp khởi

nghiệp. Việc xây dựng một thị trường chứng khoán tập trung cung cấp vốn cho các

doanh nghiệp khởi nghiệp, tách bạch với thị trường niêm yết có thể có lợi đặc biệt

đối với nền kinh tế đang tăng trưởng của Việt Nam và đặc biệt đối với các doanh

nghiệp khởi nghiệp. Thị trường này sẽ cung cấp cơ hội cho các doanh nghiệp có thể

tiếp cận các nguồn vốn với những tiêu chuẩn đặt ra ở mức thấp hơn về tiêu chuẩn

công khai về đặc tính của sản phẩm, báo cáo đánh giá tác động của sản phẩm đến thị

trường, báo cáo triển vọng của sản phẩm.

- Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư thiên

thần, thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, đây là nhóm biện pháp kêu gọi khu vực tư

nhân tham gia vào hoạt động đầu tư mạo hiểm cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Xây

dựng Quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp theo mô hình hợp tác công - tư thuộc

Chính phủ nhằm mục đích kêu gọi vốn đầu tư, tài trợ từ các thành phần xã hội cho

các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tiềm năng. Phần lợi nhuận tạo ra từ nguồn

63

đầu tư của Nhà nước và các nhà tài trợ sẽ được sử dụng để tái đầu tư cho hoạt động

ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khởi nghiệp cũng như đầu tư trực tiếp cho

doanh nghiệp khởi nghiệp tiềm năng trong tương lai.

- Nâng cao hỗ trợ từ khu vực tư nhân: Để thực hiện được hệ sinh thái khởi

nghiệp, doanh nghiệp lớn đi trước nên cấp vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp mới

hình thành trên cơ sở tương đồng về sản phẩm, công nghệ có liên quan hay bổ sung.

Những doanh nghiệp lớn xem trách nhiệm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp là những

mục tiêu phát triển cộng đồng lớn nhất.

- Đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, vườn ươm doanh nghiệp

khởi nghiệp thường là hình thức hỗ trợ khởi nghiệp được thành lập bởi các tổ chức

chính phủ, các trường đại học, các doanh nghiệp lớn. Các mô hình này cung cấp vốn

vay với lãi suất ưu đãi, vốn tài trợ cho các dự án tham gia; đồng thời, cung cấp cơ sở

vật chất, hạ tầng sản xuất, công nghệ, kỹ thuật, các khóa học về kinh doanh hoặc hệ

thống tư vấn pháp luật miễn phí hoặc với chi phí ưu đãi.

- Cần phát huy nguồn lực phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm để kết nối giữa

bên cần vốn với bên có vốn nhàn rỗi. Quỹ đầu tư với mục tiêu hỗ trợ tài chính cho

doanh nghiệp khởi nghiệp, đây là loại hình định chế tài chính trung gian, là dạng

doanh nghiệp đặc biệt, quỹ đầu tư dùng vốn để đầu tư trực tiếp như góp cổ phần, mua

cổ phiếu phát hành lần đầu với tư cách là cổ đông sáng lập; hoặc gián tiếp như kinh

doanh chứng khoán nhằm hưởng chênh lệch giá hay cổ tức từ các công ty hoặc lợi

tức trái phiếu.

- Nên phát triển thị trường dịch vụ tư vấn trong các lĩnh vực tài chính, quản lý,

công nghệ, luật pháp. Tại các nước công nghiệp, đầu tư vốn mạo hiểm phát triển, quá

trình gia tăng giá trị tài sản của nhà đầu tư mạo hiểm trong các đối tác được tài trợ

không thể thiếu vai trò của các nhà tư vấn. Trong quá trình hoạt động tư vấn phát

triển sẽ tạo ra mạng lưới thông tin hiệu quả giúp các nhà đầu tư hạn chế được rủi ro

và có thể dự báo hợp lý về xu hướng phát triển trong các lĩnh vực công nghệ mới

trong tương lai.

- Thành lập hiệp hội các nhà đầu tư vốn mạo hiểm Việt Nam. Đây là nơi kết

64

nối và tập trung các thông tin có giá trị liên quan đến hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm.

Hơn nữa, hiệp hội còn mở ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư mạo hiểm tham gia hợp

tác kinh doanh trong cùng một thương vụ nhằm chia sẻ rủi ro. Các doanh nghiệp khởi

nghiệp cố gắng liên kết lại với nhau để hỗ trợ nhau về công nghệ, thị trường và nguồn

vốn. Thúc đẩy mối liên kết giữa các startup trên thị trường với nhau, liên kết từ các

cơ quan tổ chức khác nhau từ Chính phủ, trường đại học, nhà đầu tư.

3.2.2.3. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tăng cường đẩy mạnh hoạt

động tư vấn, hỗ trợ kinh doanh

Cần có các giải pháp cụ thể nhằm giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp vượt qua

được các khó khăn ban đầu về kinh doanh do thiếu các kiến thức cần thiết về kinh tế,

quảng bá và kết nối mạng lưới. Ở một khía cạnh khác, các biện pháp này cũng góp

phần hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp vượt qua các khó khăn về vốn thông qua

việc giảm bớt các chi phí về quản lý, thuê dịch vụ.

Do các thị trường có đặc điểm tương đối khác biệt giữa thị trường hàng hóa,

thị trường địa lý, hành chính, dẫn tới nhu cầu tư vấn, hỗ trợ khác nhau giữa các doanh

nghiệp khởi nghiệp. Vì vậy các biện pháp hỗ trợ cũng rất đa dạng, tuy nhiên chủ yếu

vẫn là:

- Hỗ trợ xây dựng các ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ hướng dẫn sử

dụng trang thiết bị tại cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc

chung; hướng dẫn thử nghiệm, giúp doanh nghiệp khởi nghiệp hoàn thiện sản phẩm

mới, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới.

- Hỗ trợ kênh thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới

khởi nghiệp sáng tạo giữa các địa phương, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi

nghiệp sáng tạo.

- Hỗ trợ tư vấn về pháp lý và quản trị miễn phí hoặc được tài trợ một phần chi

phí.

- Hỗ trợ marketing cho doanh nghiệp khởi nghiệp, bao gồm cả quảng bá, giới

thiệu, xúc tiến thương mại cho sản phẩm của doanh nghiệp khởi nghiệp. Giúp doanh

nghiệp khởi nghiệp thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát

65

triển công nghệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ.

- Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản phẩm; thu

hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ

thuật, đo lường, chất lượng.

- Nhà nước cần tập trung đẩy mạnh chính sách phát triển hệ thống vườn ươm

công nghệ: coi trọng việc phát triển hệ thống vườn ươm công nghệ như là công cụ

đòn bẩy quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp bằng khoa

học công nghệ, thương mại hoá công nghệ và thúc đẩy đổi mới, chuyển giao công

nghệ, liên kết khoa học với sản xuất, thị trường.

- Thúc đẩy việc phát triển các mô hình vườn ươm đặc thù như vườn ươm tại

các trường đại học, hoặc vườn ươm cho chuyên gia Việt kiều, hay mô hình vườn ươm

doanh nghiệp khởi nghiệp được thành lập ngay trong doanh nghiệp nhà nước, nhất là

các tập đoàn, tổng công ty lớn.

- Xây dựng và kết nối trang thông tin điện tử vườn ươm doanh nghiệp đổi mới

sáng tạo trong các lĩnh vực để hỗ trợ và cung cấp thông tin cần thiết cho các cá nhân,

nhóm cá nhân, doanh nghiệp trong các lĩnh vực có quan tâm. Hỗ trợ các vườn ươm

quảng bá công nghệ, các doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua các hình thức tổ chức

hội chợ công nghệ, xúc tiến thương mại điện tử trong các triển lãm, hội chợ thương

mại.

3.2.2.4. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ tạo dựng cơ sở hạ tầng

Cần có chính sách hợp lý khi xây dựng khu tập trung dịch vụ hỗ trợ khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo tại các Bộ, ngành, địa phương có tiềm năng phát triển hoạt

động khởi nghiệp; hỗ trợ kinh phí lắp đặt hạ tầng công nghệ thông tin và cung cấp

dịch vụ Internet miễn phí trong khu tập trung dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo.

Thu hút tư nhân đầu tư sửa chữa, trả phí khai thác cơ sở hạ tầng, lắp đặt trang

thiết bị cần thiết và tổ chức quản lý; cung cấp các dịch vụ đào tạo, huấn luyện, tư vấn;

kết nối đầu tư, khách hàng; cung cấp nguồn nhân lực, không gian làm việc, thiết bị

66

dùng chung cho hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp khởi nghiệp có nhu cầu cao mặt bằng

hoạt động, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại để nghiên cứu nhưng lại không đủ

nguồn lực trang trải cho các cơ sở vật chất này.

Thông qua các chính sách khuyến khích về các nhà đầu tư xây dựng các khu

dịch vụ dùng chung cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, như hỗ trợ một phần chi phí

xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, chi phí vận hành và thuê mặt bằng. Bao gồm các

biện pháp như xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập các khu làm việc chung, các công

viên công nghệ, vườn ươm khoa học của Thành phố, từ đó cung cấp không gian làm

việc và trang thiết bị với giá hợp lý, hoặc miễn giảm phí thuê cho các Startup hoặc

hỗ trợ các chi phí về cơ sở hạ tầng cho Startup tại các khu làm việc, vườn ươm tư

nhân.

3.2.2.5. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tăng cường truyền thông tạo

động lực, cảm hứng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp

Thông qua các hoạt động mang tính chất truyền thông rộng rãi, qua đó tạo cảm

hứng, thúc đẩy tinh thần sáng tạo khởi nghiệp, xây dựng nhận thức, văn hóa tích cực

của xã hội đối với doanh nghiệp khởi nghiệp, lựa chọn các Startup mục tiêu để tập

trung hỗ trợ hiệu quả.

Biện pháp này được ưu tiên sử dụng ở nhiều quốc gia, với ưu điểm là chi phí

thấp nhưng tạo hiệu quả rộng rãi như:

- Mở rộng và tài trợ cho các cuộc thi, giải thưởng cho các doanh nghiệp khởi

nghiệp sáng tạo.

- Các hoạt động quảng bá, truyền thông trên báo chí, truyền hình nhằm tăng

cường nhận thức của công chúng đối với doanh nghiệp khởi nghiệp.

- Bảo trợ, thúc đẩy thành lập các tổ chức kết nối, đại diện thông qua các câu

lạc bộ, cộng đồng, nhóm tương trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Môi trường khởi nghiệp Việt Nam còn non so với mặt bằng chung của thế giới

nên có nhiều tiềm năng để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp một cách mạnh mẽ vì dân

số đang ở trong thời kì dân số vàng, nền kinh tế đang phát triển, hơn nửa triệu doanh

67

nghiệp đang hoạt động, hàng trăm trường đại học và trung tâm nghiên cứu đang hoạt

động trên khắp cả nước. Cần phát huy tinh thần khởi nghiệp cho thanh niên ngay từ

khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Bài học từ các quốc gia phát triển trên thế giới cho

thấy, ý chí tự làm chủ của con người phải được rèn luyện trong hệ thống giáo dục và

xã hội ngay từ khi còn nhỏ.

3.2.2.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục đào tạo cho các doanh nghiệp

khởi nghiệp

Cần xây dựng các kỹ năng mà các doanh nghiệp khởi nghiệp thường bị hạn

chế, qua đó thúc đẩy và tạo thuận lợi cho việc khởi nghiệp sáng tạo nhằm mục tiêu là

tạo dựng tinh thần khởi nghiệp - đổi mới - sáng tạo trong trường học, các trường đại

học cần có nhiều chương trình học và làm thiết thực, cung cấp kiến thức và truyền

cảm hứng làm chủ sự nghiệp, làm chủ bản thân cho sinh viên. Vai trò cốt lõi của đại

học là tạo ra hạt giống và ươm tạo các ý tưởng khởi nghiệp, từ đó sinh viên các ngành

khác nhau, nơi cho các em đến giao lưu, gặp gỡ, trao đổi ý tưởng để khởi nghiệp.

Nhà trường cần tạo điều kiện môi trường thuận lợi để sinh viên tham gia các

hoạt động đổi mới, sáng tạo và nghiên cứu khoa học, tổ chức các cuộc thi ý tưởng

khởi nghiệp, tạo sự kết nối giữa các nhóm nhằm hình thành các dự án khởi nghiệp.

Kiến tạo liên kết giữa sinh viên với hoạt động giáo dục đào tạo để tạo việc làm; giữa

nhà khoa học với doanh nghiệp khởi nghiệp nhằm đưa tri thức, dự án nghiên cứu vào

đời sống - xã hội, sản xuất, kinh doanh; kết nối các nguồn lực hỗ trợ sinh viên khởi

nghiệp sáng tạo. Với hoạt động này, trường đại học không chỉ là nơi ươm mầm cho

các dự án kinh doanh đổi mới, sáng tạo tiềm năng mà còn tạo cơ hội thu hút những

tài năng đến làm việc, tăng cường trải nghiệm với môi trường thực tế cho sinh viên

từ khi còn học tập tại nhà trường.

Do vậy trường đại học phải đóng vai trò tiên phong trong việc nghiên cứu ứng

dụng, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho cộng đồng và đời sống

xã hội. Đồng thời, tiên phong trong việc tiếp cận các thành tựu khoa học tiên tiến của

thế giới, thử nghiệm và truyền tải những kiến thức đó đến thế hệ trẻ, đưa ra các định

68

hướng phù hợp với tiến bộ của thế giới. Vai trò của trường đại học đóng vị trí quan

trọng trong chuyển giao kết quả nghiên cứu thành công đến với doanh nghiệp, tạo ra

các kết nối giữa doanh nghiệp và nhà trường.

Thông qua giáo dục để phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp gồm hai nội dung

chính là các chương trình đào tạo, hướng dẫn khởi nghiệp tại các trường đại học, các

cơ sở giáo dục bậc cao về đào tạo, tập huấn các kiến thức kinh doanh, các kỹ năng,

điều kiện, quy trình để sinh viên có thể khởi nghiệp và các chương trình đào tạo kỹ

năng quản trị, quản lý tài chính, lao động cho các sáng lập viên của các doanh nghiệp

khởi nghiệp.

Tiểu kết chương 3

Chương 3 tác giả đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ

trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh gồm hai định

hướng chính là định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

và định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp,

Trong đó định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

gồm pháp luật hỗ trợ về sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong nền kinh

tế thời đại công nghệ số và xây dựng thể chế pháp luật khởi nghiệp mang tầm nhìn

quốc gia khởi nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Về các giải pháp, tác giả đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp từ thực tiễn các doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong đó có bảy giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. Bao gồm:

- Pháp luật về cải cách thủ tục hành chính

- Tăng cường giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp về cơ chế tài chính

- Tạo hành lang pháp lý về thời gian thu thuế Thu nhập doanh nghiệp

- Xây dựng quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp ở cấp trung ương

69

- Kết hợp biện pháp hỗ trợ trợ cấp với các biện pháp hỗ trợ khác

- Xác định pháp luật về cơ chế lựa chọn doanh nghiệp khởi nghiệp nhận hỗ trợ

từ Chính phủ

- Pháp luật về hỗ trợ phát triển các cơ sở mặt bằng, cơ sở hạ tầng, thuế, công

nghệ cho các vườn ươm, khu làm việc chung.

Phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp được Chính phủ coi là nhiệm vụ trọng

tâm, thường xuyên và liên tục. Việc thực hiện đồng loạt các nhóm giải pháp sẽ tác

động trực tiếp và có hiệu quả cao đến doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ mở ra nhiều cơ

hội cho các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với vốn, với thị trường quốc tế.

Qua thực tiễn việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, bên

cạnh những kết quả còn có những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra cần thực hiện các

giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả doanh nghiệp khởi nghiệp những

năm tiếp theo.

KẾT LUẬN

Doanh nghiệp khởi nghiệp là đại diện cho mô hình kinh doanh mới, là động

lực chính thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng năng suất trong xã hội dựa trên tri thức

và công nghệ. Đó là hình thức phù hợp nhất để thực hiện các phát minh, sáng kiến và

đó là cơ chế tốt nhất để thương mại hóa các công nghệ mới, đưa các thành tựu khoa

học kỹ thuật vào cuộc sống, đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng của các công

nghệ mới và sự phát triển của nền kinh tế tri thức, sáng tạo.

Pháp luật hỗ trợ Doanh nghiệp khởi nghiệp được các quốc gia trên thế giới

dành sự quan tâm đặc biệt nhằm xây dựng hành lang pháp lý đủ mạnh và đủ sức hỗ

trợ để Doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng và hệ sinh thái khởi nghiệp nói chung trở

thành nền tảng của nền kinh tế, động lực thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm,

tạo thu nhập và khẳng định vị thế của mỗi quốc gia trên bản đồ thế giới.

Hiện nay, môi trường khởi nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh còn quá trẻ so

70

với nhiều thành phố khác trên thế giới nhưng có nhiều tiềm năng để khởi dậy tinh

thần khởi nghiệp mạnh mẽ. Thành phố cần quan tâm đến các chính sách đẩy mạnh

giáo dục như: tài trợ các chương trình đào tạo khởi nghiệp, đào tạo miễn phí trong

ngành lên kế hoạch kinh doanh, đào tạo sau đại học về khởi nghiệp.

Cải cách hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học theo hướng gắn với giáo

dục – đào tạo với hoạt động thực tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc đẩy văn hóa

khởi nghiệp là điều kiện tiên quyết để bản thân mỗi người hình thành ý chí tự thân

lập nghiệp.

Hệ thống giáo dục cũng cần có những chuyển biến mạnh về mục tiêu, nội dung

và phương pháp đào tạo, giảng dạy để giảm thiểu tinh thần học để làm quản lý, thiếu

thợ; tăng cường các hoạt động hướng nghiệp để học sinh ra trường biết chọn hướng

đi thích hợp với khả năng của mình; khơi gợi khả năng sáng tạo thay vì cách học nhồi

nhét, một chiều như hiện tại, cách đào tạo này vốn chỉ tạo ra những con người thụ

động, phục tùng và ỷ lại vào người khác. Có thể nói, hệ thống giáo dục là một trong

những mắt xích quan trọng nhất trong hệ thống các yếu tố nuôi dưỡng và thúc đẩy

tinh thần khởi nghiệp hiện đang là điểm rất yếu ở Việt Nam.

Cần có chính sách tạo điều kiện trao đổi và đổi mới công nghệ: Để có một hệ

sinh thái khởi nghiệp công nghệ cao, Nhà nước cần nâng cao cơ sở hạ tầng trực tuyến

và trực tiếp như tạo ra các cơ chế để tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp khởi

nghiệp, xây dựng nền tảng cho việc tìm kiếm đối tác, nền tảng giao kết và các sự kiện,

xây dựng cổng thông tin thực tế, rõ ràng trong việc tiếp cận và minh bạch thông tin.

Tăng cường thiết lập các mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Nhà nước và

doanh nghiệp khởi nghiệp để làm chủ công nghệ trong các mảng kinh tế - xã hội.

Trong giai đoạn toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ giữa Chính

phủ và doanh nghiệp khởi nghiệp nên được đẩy mạnh lên thành quan hệ đối tác chiến

lược, hợp tác kinh doanh vì mục tiêu của mỗi bên trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.

Với việc hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã và đang nhận được sự

quan tâm và đầu tư từ các doanh nghiệp trên khắp thế giới. Hệ sinh thái khởi nghiệp

theo đó cũng dần được hình thành, hướng tới mục tiêu quốc gia khởi nghiệp với khởi

71

nghiệp sáng tạo là trung tâm. Việc nghiên cứu về pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp là cần thiết ở thời điểm hiện tại nhằm đánh giá khách quan, chính xác vai trò

đóng góp của doanh nghiệp khởi nghiệp, đồng thời đề ra được phương hướng, giải

pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp trong thời gian tới.

Trong quá trình toàn cầu hóa, thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0, các

doanh nghiệp khởi nghiệp có giá trị vô cùng to lớn trong việc đưa hình ảnh đất nước,

đưa nền kinh tế vươn tầm. Với hoạt động ngày càng mạnh mẽ, sự phát triển nhanh

của các doanh nghiệp khởi nghiệp đã có tác động không nhỏ đến nền kinh tế. Luận

văn đã khái quát nội dung cơ bản của doanh nghiệp khởi nghiệp như khái niệm, đặc

điểm, vai trò và sự khác biệt giữa doanh nghiệp khởi nghiệp và doanh nghiệp nhỏ và

vừa, nhấn mạnh sự cần thiết phải có cơ chế hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với loại hình

doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, tác giả đã trình bày thực tiễn pháp luật về hỗ trợ

doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực tế Thành phố Hồ Chí Minh nhằm làm căn cứ để

đưa ra phương hướng trong công tác hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp trước những

cơ hội và thách thức mà các doanh nghiệp khởi nghiệp Thành phố cần phải đối mặt

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp hiện nay là những vấn đề

chủ yếu gây trở ngại đối với đa số các doanh nghiệp khởi nghiệp chính là pháp luật

về cải cách thủ tục hành chính, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp về cơ chế tài chính, tạo hành lang pháp lý về thời gian thu thuế Thu nhập

doanh nghiệp, xây dựng quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp ở cấp trung ương,

kết hợp biện pháp hỗ trợ trợ cấp với các biện pháp hỗ trợ khác, cần xác định pháp

luật về cơ chế lựa chọn doanh nghiệp khởi nghiệp nhận hỗ trợ từ Chính phủ và pháp

luật về hỗ trợ phát triển các cơ sở mặt bằng, cơ sở hạ tầng, thuế, công nghệ cho các

vườn ươm, khu làm việc chung

Nhà nước cần nâng cao và hoàn thiện về chính sách môi trường pháp lý; hỗ

trợ về tài chính; tư vấn hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp; hỗ trợ về cơ sở vật chất,

đất đai, văn phòng; truyền thông tinh thần và văn hóa khởi nghiệp nhằm tạo làn sóng

khởi nghiệp mạnh mẽ hơn nữa; thông qua giáo dục cần đưa khởi nghiệp là một môn

72

học mới trong chương trình giáo dục đào tạo trong các hệ đào tạo.

Khi nền kinh tế càng hội nhập sâu rộng hơn với nền kinh tế thế giới, các doanh

nghiệp khởi nghiệp cần phải đương đầu với sự cạnh tranh quyết liệt từ các doanh

nghiệp đến từ các nước trong khu vực và thế giới, do vậy, các doanh nghiệp khởi

nghiệp cần được hỗ trợ tích cực hơn nữa từ Nhà nước, đặc biệt trong việc giảm thiểu

rủi ro, các rào cản từ phía cơ chế chính sách, tạo môi trường kinh doanh thực sự mở,

bình đẳng, thuận lợi, rõ ràng, minh bạch để tạo động lực cho sự phát triển, sáng tạo

73

cho các doanh nghiệp khởi nghiệp kinh doanh trong thời gian tới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2017) Kết luận số 21-KL/TW của Bộ Chính trị về sơ kết 5 năm

thực hiện Nghị quyết số 16-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ

phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, ban hành ngày 24/10/2017, Hà

Nội.

2. Bộ Tư pháp (2017) Công văn 1154/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL của Bộ Tư

pháp về ban hành kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng

tâm, liên ngành và lĩnh vực trọng tâm của Bộ Tư pháp năm 2017, ban hành ngày

10/04/2017, Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp (2017) Quyết định số 108/QĐ-BTP của Bộ Tư pháp về ban hành

kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành

và lĩnh vực trọng tâm của Bộ Tư pháp năm 2017, ban hành ngày 23/01/2017, Hà Nội.

4. Chính phủ (2018) Nghị định số 34/2018/NĐ-CP về việc thành lập, tổ chức

và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, ban hành ngày

08/03/2018, Hà Nội.

5. Chính phủ (2018) Nghị định số 38/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về đầu tư

cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, ban hành ngày 11/03/2018, Hà

Nội.

6. Chính phủ (2018) Nghị định số 39/2018/NĐ-CP hướng dẫn quy định chi tiết

một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, ban hành ngày 11/03/2018,

Hà Nội.

7. Chính phủ (2008) Nghị định số 66/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định về

hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp,ban hành ngày 28/05/2008, Hà Nội.

8. Phạm Thị Thu Hà (2018) “Khởi nghiệp và cơ hội cho doanh nghiệp Việt

Nam”, Tạp chí Công thương điện tử,

nghiep-va-co-hoi-cho-doanh-nghiep-viet-nam-54290.htm>, (02/07/2019)

9. Phạm Thị Hà My (2019) “Hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp khởi nghiệp

hiện nay thực trạng và giải pháp”,

tin.aspx?ItemID=40&l=Traodoinghiencuu>, (08/08/2019)

10. Quốc hội (2015) Luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015

của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội.

11. Quốc hội (2014) Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11

năm 2014 của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội.

12. Quốc hội (2014) Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014

của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội.

13. Quốc hội (2017) Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14

ngày 12 tháng 06 năm 2017 của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội.

14. Quốc hội (2008) Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 ngày

03 tháng 06 năm 2008 của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội.

15. Quốc hội (2005) Luật Thương mại 2005 số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng

06 năm 2005 của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội.

16. Quốc hội (2017) Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát

triển Thành phố Hồ Chí Minh, ban hành ngày 24/11/2017, Hà Nội.

17. Hồ Xuân Sang (2018) Pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo,

Luận văn Thạc sỹ Luật học, trường Đại học Huế.

18. Thông tấn xã Việt Nam (2018) “Khởi nghiệp - nhìn từ TP.HCM: Xây dựng nền

tảng từ kinh nghiệm thực tế”,

dung-nen-tang-tu-kinh-nghiem-thuc-te-110147.html>, (02/07/2019)

19. Thủ tướng Chính phủ (2010) Quyết định 585/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ về việc phê duyệt “Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh

nghiệp giai đoạn năm 2010 - 2014", ban hành ngày 05/05/2010, Hà Nội.

20. Thủ tướng Chính phủ (2008) Quyết định 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ về việc phê duyệt Ðề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc

gia đến năm 2025", ban hành ngày 18/05/2016, Hà Nội.

21. Thủ tướng Chính phủ (2014) Quyết định 2139/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện và điều chỉnh nội dung các dự án của “Chương

trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn năm 2010 - 2014",

ban hành ngày 28/11/2014, Hà Nội.

22. Nguyễn Văn Trưởng (2018) Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp sáng tạo tại Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ

Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội.

23. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Quyết định số 6179/QĐ-

UBND của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phê duyệt đề án “Xây dựng

Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn

đến năm 2025”, ban hành ngày 23/11/2017, Thành phố Hồ Chí Minh.

24. VCCI (2017) Báo cáo nghiên cứu cơ chế hỗ trợ doanh ngiệp khởi nghiệp

sáng tạo. Kinh nghiệp quốc tế - Đề xuất giải pháp cho Việt Nam.