VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THU HÀ
HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THU HÀ
HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS DƯƠNG ANH SƠN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế “Hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” là
công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận văn được thu thập từ thực tế và có nguồn gốc rõ
ràng, đáng tin cậy, được xử lý trung thực khách quan và không sao chép của
bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 08 năm 2019
Tác giả
Nguyễn Thu Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP ......................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm doanh nghiệp .................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp ....................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp khởi nghiệp ........................................................ 7
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp khởi nghiệp trong nền kinh tế........................ 11
1.2. Khái niệm pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp .................................. 17
1.2.1. Định nghĩa pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ......................... 17
1.2.2. Đặc điểm pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ........................... 17
1.3. Cơ sở pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ............................................ 18
1.3.1. Các văn bản pháp luật chính thức .......................................................... 18
1.3.2. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ......................................... 20
1.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp .................................................................................................................... 23
1.4.1. Yếu tố môi trường chính trị ..................................................................... 24
1.4.2. Yếu tố môi trường kinh tế ........................................................................ 24
1.4.3. Yếu tố môi trường xã hội ......................................................................... 25
1.4.4. Yếu tố môi trường công nghệ .................................................................. 25
1.4.5. Yếu tố chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện chính sách hỗ trợ ................. 26
1.5. Cơ cấu, nội dung của pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp
luật Việt Nam ........................................................................................................ 26
1.5.1. Tối ưu hóa môi trường pháp lý ............................................................... 26
1.5.2. Tăng cường giáo dục tinh thần khởi nghiệp và phát triển các kỹ năng kinh
doanh cần thiết .................................................................................................. 26
1.5.3. Tạo điều kiện trao đổi, ứng dụng và đổi mới công nghệ ........................ 27
1.5.4. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi sự tiếp cận nguồn tài chính .......................... 27
1.5.5. Nâng cao nhận thức về khởi nghiệp và thiết lập các cụm liên kết, các hiệp
hội hỗ trợ liên quan ........................................................................................... 27
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................... 29
2.1. Thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ............................ 29
2.1.1. Thực trạng pháp luật về điều kiện được hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
........................................................................................................................... 29
2.1.2. Thực trạng pháp luật về quy định ưu đãi tín dụng .................................. 29
2.1.3. Thực trạng pháp luật về quy định vốn .................................................... 30
2.1.4. Thực trạng pháp luật về quy định thuế, phí ............................................ 32
2.1.5. Thực trạng pháp luật về các hình thức hỗ trợ khác ................................ 33
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật của các doanh nghiệp khởi nghiệp tại thành phố
Hồ Chí Minh ......................................................................................................... 35
2.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội và sự tác động đến việc thi hành pháp luật về
hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố
Hồ Chí Minh ...................................................................................................... 35
2.2.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ............................................ 41
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỪ
THỰC TIỄN CÁC DOANH NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .... 52
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và nâng
cao hiệu quả thực hiện ........................................................................................... 52
3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp . 52
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp ........................................................................................................ 53
3.2. Giải pháp ........................................................................................................ 55
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp .... 55
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp từ thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh .......... 59
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AI (Artifical Intelligence)
Trí tuệ nhân tạo
ASEAN
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(Association of Southeast Asian Nations)
BT (Building transfer)
Hợp đồng Xây dựng – chuyển giao
Bộ Tư pháp
BTP
Chính phủ
CP
FDI (Foreign Direct Investment)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP (Gross Dometic Product)
Tổng sản phẩm quốc nội
Diễn đàn kinh tế Thành phố
HEF
(Ho Chi Minh City Economic Forum) Hồ Chí Minh
Hệ thống thông tin toàn cầu
Internet
Nghị định
NĐ
Quyết định
QĐ
QLXLVPHC&TDTHPL
Quản lý xử lý vi phạm hành chính và
theo dõi thi hành pháp luật
Trực tuyến
Online
R&D (Research & Development)
Nghiên cứu và phát triển
Doanh nghiệp khởi nghiệp
Startup
Thành phố Hồ Chí Minh
TP. HCM
Thủ tướng
TTg
VCCI (Vietnam Chamber of
Phòng Thương mại và Công
Commerce and Industry)
nghiệp Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh với vai trò là đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế trọng
điểm phía Nam và cả nước, hàng năm Thành phố đã đóng góp khoảng 30% tổng thu
ngân sách quốc gia. Bên cạnh đó, Thành phố còn được biết đến là “cái nôi” của khởi
nghiệp trong số khoảng 1.800 Startup trên cả nước, tại Thành phố Hồ Chí Minh có
khoảng 834 Startup đang hoạt động (chiếm 42%).
Trong đó, có 222 Startup đã và đang được hỗ trợ ươm tạo tại 10 cơ sở ươm
tạo của Nhà nước trong giai đoạn từ 2011 đến nay. Ngoài ra, có khoảng 49% Startup
đã tìm được nhà tài trợ và đầu tư; trong đó, có khoảng 70% đang ở các giai đoạn đầu
tiên của quá trình gọi vốn đầu tư khuyến khích khởi nghiệp theo hướng sản xuất, cung
cấp dịch vụ mới theo công nghệ mới. Điều đó cho thấy, Thành phố Hồ Chí Minh có
môi trường thuận lợi để khởi nghiệp.
Bên cạnh đó, theo báo cáo kết quả khảo sát về chỉ số khởi nghiệp Thành phố
năm 2017, nhìn chung, tỷ lệ khởi nghiệp trong doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí
Minh cao hơn so với mức trung bình của Việt Nam và đang có xu hướng tăng lên từ
mức 2% năm 2013, lên 2,5% năm 2015 và 2,7% năm 2017 (so với mức 0,6% của cả
nước năm 2017). Chỉ số đổi mới sáng tạo trong các hoạt động khởi nghiệp ở Việt
Nam năm 2017 đạt 19,4%, cao hơn so với các năm trước và cao hơn mức trung bình
của cả nước (13,9%).
Trong quá trình khởi nghiệp, pháp lý luôn có vai trò quan trọng trong bất kỳ
doanh nghiệp ở mọi lĩnh vực. Một doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro nếu
không có nền tảng pháp lý vững chắc. Các vấn đề pháp lý mà các doanh nghiệp khởi
nghiệp cần quan tâm như sau:
- Trước thành lập doanh nghiệp: Phát triển ý tưởng thành mô hình kinh doanh,
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tài sản trí tuệ, quản trị nguồn nhân lực Startup
như các thỏa thuận nên có giữa các đồng sáng lập để quản trị rủi ro, hạn chế mâu
1
thuẫn nội bộ.
- Thành lập doanh nghiệp: các thủ tục pháp lý về thành lập doanh nghiệp, các
thủ tục liên quan cần thực hiện để doanh nghiệp có thể đi vào hoạt động.
- Sau thành lập doanh nghiệp: Kênh tiếp cận các nguồn vốn, các nội dung cần
chuẩn bị trước khi đàm phán với nhà đầu tư, cơ cấu vốn – cổ phần và quyền kiểm
soát, rà soát, quản trị rủi ro pháp lý trong quá trình hoạt động, cơ cấu tổ chức quản lý
đảm bảo doanh nghiệp phát triển bền vững, thực hiện luật lao động và bảo hiểm xã
hội, giải quyết tranh chấp lao động, tranh chấp hợp đồng.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. Kết quả nghiên cứu nhằm sáng tỏ một số
nội dung lý luận pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực tiễn thành phố
Hồ Chí Minh, từ đó, các cá nhân, doanh nghiệp có cái nhìn sâu sắc hơn, toàn diện
hơn về sự tác động của pháp luật đến các hoạt động khởi nghiệp của doanh nghiệp,
từ đó Nhà nước có những chính sách hỗ trợ phù hợp, doanh nghiệp có những chính
sách, chiến lược hợp lý hơn trong việc thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động theo đúng
pháp luật, góp phần nâng cao giá trị doanh nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đề tài nghiên cứu “Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam
từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” là một đề tài mới tại Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu của Hồ Xuân Sang (2018) về “Pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo”. Nghiên cứu đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật hỗ
trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo cũng như sự cần thiết phải ban hành các quy
định về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Thực trạng pháp luật hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, thực tiễn thi hành tại Việt Nam và kinh nghiệm của một
số nước trên thế giới. Kết quả nghiên cứu đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần
hoàn thiện pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Trưởng (2018) về “Thực hiện chính sách hỗ trợ
2
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp”.
Nghiên cứu đã góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp sáng
tạo, đồng thời góp phần phân tích đánh giá thực trạng của chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo hiện nay của Việt Nam. Nghiên cứu đã đề xuất các giải
pháp nhằm hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, từ đó đã góp phần
thiết thực trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
trong tình hình mới.
Báo cáo thường niên của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam -
VCCI (2017) về nghiên cứu cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, các
kinh nghiệm quốc tế từ đó đề xuất giải pháp cho Việt Nam. Báo cáo được thực hiện
với mục tiêu đánh giá hiện trạng và dự kiến chính sách đối với doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo Việt Nam, lựa chọn và phân tích kinh nghiệm hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo của các Chính phủ nước ngoài, từ đó đề xuất mô hình, cơ chế
hỗ trợ từ góc độ Nhà nước cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trước hết là
cho các Nghị định hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo và sau đó là các văn bản pháp luật, chính sách liên quan như
Thông tư, Nghị quyết, Quyết định, Đề án,… liên quan tới nhóm doanh nghiệp này.
Những công trình nghiên cứu trên đây đã giúp tác giả có những kiến thức quý
báu để tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình thực hiện để tài luận văn “Hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí
Minh”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ mục tiêu nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn tập trung các
nội dung chính sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp.
- Thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp luật Việt
3
Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp và nâng cao hiệu quả thi hành từ thực tiễn các doanh nghiệp tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Khách thể nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu các doanh nghiệp khởi
nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu không gian: Luận văn tập trung khảo sát tại Thành phố
Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác –
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
chương 1 để tìm hiểu một số vấn đề lý luận về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và
pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Phương pháp nghiên cứu, so sánh, đối chiếu ở chương 2 để tìm hiểu thực
trạng pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam nói chung và Thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng.
- Phương pháp tổng hợp, quy nạp, diễn dịch ở chương 3 khi nghiên cứu đề
xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu nhằm sáng tỏ pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, các
văn bản quy định về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp hiện hành. Bên cạnh đó, luận
văn còn xem xét trên thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó,
đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp và nâng cao hiệu quả thi hành từ thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố Hồ
Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu sẽ phân tích pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp,
4
qua đó góp phần mang lại lợi ích tích cực và nâng cao kết quả hoạt động của doanh
nghiệp. Làm nền tảng pháp lý cho các cá nhân có ý tưởng khởi nghiệp trong tương
lai.
Kết quả nghiên cứu còn là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà làm luật
trong việc nghiên cứu, đề xuất văn bản pháp lý hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung.
Nghiên cứu này cũng có thể là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên
chuyên ngành Luật kinh tế, Quản trị kinh doanh và những ai có nhu cầu nghiên cứu
sâu hơn trong lĩnh vực kinh tế.
7. Kết cấu luận văn
Cấu trúc của luận văn bao gồm: ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu gồm ba chương chính.
Chương 1. Cơ sở lý luận về pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực
tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp và nâng cao hiệu quả từ thực tiễn các doanh nghiệp tại Thành phố
5
Hồ Chí Minh
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP
1.1. Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Trong tiếng Anh, thuật ngữ “Doanh nghiệp khởi nghiệp” - Startup có hai ý
nghĩa, nếu là tính từ thì Startup phản ánh một trạng thái bắt đầu của một công việc
kinh doanh hoặc một dự án, nếu là danh từ thì Startup có nghĩa là một doanh nghiệp
được thành lập để thực hiện các ý tưởng kinh doanh trên cơ sở khai thác tài sản trí
tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và đây là các doanh nghiệp có khả năng tăng
trưởng nhanh.
Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là thuật ngữ chỉ những công ty đang trong
giai đoạn bắt đầu kinh doanh nói chung, tuy nhiên trong thực tế thường được dùng
với nghĩa hẹp chỉ các công ty công nghệ trong giai đoạn đầu thành lập.
“Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo là doanh nghiệp nhỏ và vừa
được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ,
mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh” (Luật Hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa năm 2017) [13]
Như vậy, một doanh nghiệp sẽ được gọi là Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi
nghiệp sáng tạo nếu thỏa mãn 03 tiêu chí:
- Thứ nhất, về tư cách pháp lý: Phải là doanh nghiệp;
- Thứ hai, về hoạt động: Phải dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ hoặc
mô hình kinh doanh mới;
- Thứ ba, về triển vọng: Có khả năng tăng trưởng nhanh.
Theo định nghĩa của các nhà kinh tế, Doanh nghiệp khởi nghiệp được hiểu là
tập hợp các nguồn lực như nhân lực, tiền, thời gian, nhằm thực hiện tìm kiếm mô hình
kinh doanh mới và nhanh chóng xây dựng thành một tổ chức hay doanh nghiệp đạt
quy mô, đồng thời có khả năng lặp lại hay nhân rộng tại các thị trường khác nhau; và
6
thường tận dụng công nghệ làm lợi thế cạnh tranh.
Tại Việt Nam, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017 quy định, Doanh
nghiệp khởi nghiệp – Startup là quá trình khởi nghiệp dựa trên việc tạo ra hoặc ứng
dụng kết quả nghiên cứu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng
cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa và có khả năng
tăng trưởng nhanh trong tương lai. [13]
Như vậy, Doanh nghiệp khởi nghiệp được hiểu là dựa trên một công nghệ mới,
hoặc tạo ra hình thức kinh doanh mới, hay xây dựng một phân khúc thị trường mới
so với hiện tại. Các doanh nghiệp cần tạo ra sự khác biệt so với các doanh nghiệp
trong nước, với tất cả các công ty trước đây và với các doanh nghiệp trên thế giới. Do
đó doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo nhanh chóng thu hút được đầu tư trong và
ngoài nước để tăng tốc phát triển nhanh.
Tóm lại, doanh nghiệp khởi nghiệp là một tổ chức cung cấp sản phẩm và dịch
vụ có sự khác biệt về khoa học công nghệ, xây dựng một phân khúc thị trường mới,
cơ hội tăng trưởng nhanh ở trong nước mà vươn rộng ra toàn cầu.
1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp khởi nghiệp
1.1.2.1. Tính sáng tạo và đột phá
Sáng tạo và đột phá là một xu hướng tất yếu trong hoạt động kinh doanh trong
thời đại công nghệ 4.0 hiện nay. Trong điều kiện tiền vốn, máy móc, sức lao động có
hữu hạn thì giá trị của trí tuệ, sáng tạo là đóng vai trò quan trọng, góp phần tạo sự đột
phá và quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khởi nghiệp.
Với những ý tưởng kinh doanh mang tính đột phá và sáng tạo giúp doanh
nghiệp khởi nghiệp tăng trưởng cao dựa vào nhu cầu của thị trường, thân thiện với
môi trường và cộng đồng. Chính vì thế hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm hoặc
dịch vụ có thể thu hút nhiều khách hàng tiềm năng đem lại một lực đẩy mạnh mẽ cho
doanh nghiệp.
Tính đột phá chính là điều cốt lõi và bắt buộc đối với doanh nghiệp khởi
nghiệp, tạo ra những thứ chưa hề có trên thị trường hoặc tạo ra một giá trị tốt hơn so
7
với những thứ đang có sẵn, chẳng hạn có thể tạo ra một phân khúc mới trong sản xuất
những thiết bị thông minh đo lường sức khoẻ cá nhân, hay một mô hình kinh doanh
hoàn toàn mới như taxi công nghệ, hoặc một loại công nghệ độc đáo.
Công nghệ là đặc tính tiêu biểu của sản phẩm từ một doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo, là yếu tố quyết định của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Tuy nhiên, ngay cả
khi sản phẩm không dựa nhiều vào công nghệ thì doanh nghiệp khởi nghiệp cũng cần
ứng dụng công nghệ để đạt được mục tiêu kinh doanh cũng như mục tiêu tăng trưởng
lớn hơn trong tương lai.
1.1.2.2. Tiềm năng tăng trưởng lớn
Điểm khác biệt lớn giữa doanh nghiệp truyền thống và doanh nghiệp khởi
nghiệp là việc đề cao vấn đề tạo ra lợi nhuận, khi đạt được lợi nhuận mới nghĩ đến
việc mở rộng doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp khởi nghiệp lại mong muốn
tăng trưởng công ty càng nhanh, càng sớm, càng tốt, từ đó tạo ra mô hình kinh doanh
có tính tăng trưởng nhanh và mở rộng. Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có mong
muốn nhân bản mô hình kinh doanh thành công của mình ra khắp quốc gia và toàn
thế giới.
Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là người đi khai phá thị trường, tạo ra ảnh
hưởng vô cùng lớn. Doanh nghiệp khởi nghiệp xây dựng mô hình kinh doanh để sản
phẩm hoặc dịch vụ của họ có thể cung cấp ở nhiều thị trường khác nhau và có thể tùy
chỉnh trong mô hình chuyển đổi khách hàng – đa dạng hóa nhu cầu của khách hàng
như: hỗ trợ trò chuyện với khách hàng, bỏ rào cản ngôn ngữ, chăm sóc hậu mãi, hoạt
động tiếp thị, liên kết nhu cầu và cộng đồng.
Đối với doanh nghiệp truyền thống, chỉ cần quan tâm đến việc cung ứng sản
phẩm hoặc dịch vụ đơn thuần, tuy nhiên khác biệt đối với doanh nghiệp khởi nghiệp
phải tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ mang tính tiện ứng và quan trọng là có thể chuyển
giao cho thị trường lớn để thu hút được nhiều khách hàng.
Để phát triển và tăng trưởng, quản lý doanh nghiệp phải có tầm nhìn và chiến
lược về tương lai. Điều đó nghĩa là doanh nghiệp khởi nghiệp phải xác định khả năng
8
cung cấp giá trị cho thị trường rộng; cung cấp sản phẩm và dịch vụ mà nhiều khách
hàng muốn để đạt tới số lượng khách hàng nhanh chóng nhất có thể và phải sẵn lòng
thay đổi khi thị trường hay công nghệ thay đổi.
Dẫn chứng, nếu doanh nghiệp tạo ra một sản phẩm đơn thuần và chỉ được dùng
trong thị trường địa phương, doanh nghiệp chỉ có thể đạt tới một số giới hạn người
dùng, như vậy nếu doanh nghiệp tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng
và cung ứng cho thị trường thế giới thì doanh nghiệp đang hướng đến chiến lược tăng
trưởng nhanh và bền vững.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa truyền thống, người sáng lập mong muốn
có được doanh thu từ giai đoạn đầu tiên khi doanh nghiệp bắt đầu vào hoạt động và
xác định dòng lợi nhuận ổn định theo thời gian. Tùy vào kế hoạch hoạt động và vận
hành doanh nghiệp của người sáng lập sẽ tạo nên giá trị thương hiệu và dòng tiền cho
doanh nghiệp khởi nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế, các doanh nghiệp khởi sự sáng
tạo cần đến nhiều tháng, hoặc nhiều năm hoạt động để có được doanh thu mong muốn
và ổn định.
Doanh nghiệp khởi sự sáng tạo chuyên tập trung vào phát triển sản phẩm thật
sự hữu ích cho người dùng, nhằm có được một lượng khách hàng đông đảo. Khi đáp
ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, nếu chiến lược và kế hoạch của doanh nghiệp
khởi nghiệp thành công thì lợi nhuận tài chính lớn gấp nhiều lần.
Do vậy, đối với doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, tăng trưởng là một điều
kiện bắt buộc, là vấn đề sống còn. Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo cũng giống
như những đứa trẻ, cần phải lớn lên một cách nhanh chóng. Tăng trưởng có thể hiểu
là phát triển quy mô dự án lớn hơn, nhiều nhân sự hơn, mở rộng thị trường hơn và
thu hút được nhiều tiền đầu tư hơn. Cũng chính vì mục tiêu tăng trưởng nên các doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thường năng động, sáng tạo và linh hoạt hơn so với
những công ty truyền thống.
1.1.2.3. Rủi ro về vốn và mô hình kinh doanh
So với doanh nghiệp truyền thống, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có nhiều
rủi ro hơn và cũng có nhiều lợi thế hơn. Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo dựa vào
9
giá trị nội lực, thái độ cộng tác làm việc theo nhóm để xây dựng văn hóa doanh nghiệp
dựa vào công nghệ mới, quy trình chi tiết, quy mô kinh doanh hoặc ý tưởng mới tạo
ra cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp truyền thống.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp khởi nghiệp đa phần lấy từ vốn cá nhân của
người sáng lập, đóng góp hay vay mượn từ gia đình và bạn bè, một số trường hợp thì
gọi vốn từ cộng đồng (Crowdfunding). Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo đều phải gọn vốn từ các Nhà đầu tư thiên thần (Angel Investors) và
Quỹ đầu tư mạo hiểm (Venture Capital), tuy nhiên vấn đề này phải trải qua nhiều
vòng gọi vốn khác nhau (Khoản 2 Điều 3 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017).
Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có ý tưởng khởi nghiệp độc đáo hoặc khác
biệt hoặc có tính năng tốt hơn so với các giải pháp cạnh tranh trên thị trường. Điều
này làm cho khách hàng thích sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp hơn là sản
phẩm hoặc dịch vụ của đối thủ cạnh tranh, tuy nhiên trong thực tế đó là điều không
chắc chắn và khá rủi ro vì quan điểm về sản phẩm và nhu cầu của khách hàng ngày
càng đa dạng.
Trong thực tế, một số doanh nghiệp khởi nghiệp thực hiện theo những doanh
nghiệp khởi nghiệp đã thành công khi sử dụng cùng một mô hình kinh doanh, tham
gia vào cùng một thị trường, có các sản phẩm hoặc dịch vụ tương tự. Tuy nhiên, có
một số rủi ro liên quan đến việc bán hàng và tiếp thị cũng làm lượng khách hàng giảm
xuống vì đặc thù của mỗi ngành nghề hay tập quán của địa phương.
Doanh nghiệp khởi nghiệp vẫn đang trong quá trình đi tìm những mô hình kinh
doanh thực sự phù hợp với thị trường mục tiêu. Vấn đề cốt lõi của doanh nghiệp khởi
nghiệp trong giai đoạn đầu không phải là doanh số như những công ty truyền thống
khác mà chính là tìm ra được một mô hình kinh doanh và quy trình làm việc hiệu quả
nhất. Để làm được điều này, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo phải không ngừng
thử nghiệm, cải tiến và thực hiện những cách làm mới.
Chính việc xây dựng được mô hình kinh doanh tốt điều đó là vấn đề mang tính
sống còn của doanh nghiệp khởi nghiệp để thuyết phục các nhà đầu tư rót vốn. Các
10
nhà đầu tư sẽ nghiên cứu và xem xét rất kỹ lưỡng cách vận hành dòng tiền, quản lý
hoạt động công ty của những doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trước khi quyết định
đầu tư vào một dự án mà họ tin tưởng sẽ đem lại lợi nhuận trong tương lai.
1.1.2.4. Thiếu nguồn lực và quản trị rủi ro
Thời gian đầu, các doanh nghiệp khởi nghiệp luôn thiếu nguồn lực chủ yếu là
thời gian và tiền bạc vì thị trường mục tiêu của doanh nghiệp đặt ra lớn và việc phát
triển sản phẩm đòi hỏi nhiều nghiên cứu, thử nghiệm, triển khai và tái triển khai sau
khi điều chỉnh. Vấn đề quan trọng là tìm ra điểm cân bằng giữa sự phát triển và việc
thực hiện. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là phải đạt doanh thu
nhanh chóng và tiết kiệm chi phí tối đa.
Doanh nghiệp khởi nghiệp được tạo dựng để sẵn sàng đối diện và giải quyết
những khó khăn, rủi ro gặp phải. Đây là cách để những doanh nghiệp khởi nghiệp
trưởng thành hơn và học được nhiều bài học quý báu và thiết thực từ thị trường. Chính
vì vậy, việc tìm ra được mô hình kinh doanh hiệu quả cũng đến từ cách mà doanh
nghiệp khởi nghiệp giải quyết những rủi ro trong quá trình phát triển; đây chính là
những đặc điểm riêng khác của doanh nghiệp khởi nghiệp với các doanh nghiệp
truyền thống.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp khởi nghiệp trong nền kinh tế
1.1.3.1. Đóng góp to lớn vào sự tăng trưởng của nền kinh tế
Các doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ tạo động lực thúc đẩy phát triển cho nền kinh
tế bền vững trong tương lai. Doanh nghiệp khởi nghiệp ngày càng đóng góp nhiều
hơn vào tổng GDP do số lượng doanh nghiệp thành lập mới ngày càng nhiều, đa dạng
ở nhiều ngành, lĩnh vực, phân bổ ở hầu hết các địa phương. Bên cạnh đó, tốc độ tăng
trưởng của doanh nghiệp khởi nghiệp cao hơn rất nhiều so với các khu vực doanh
nghiệp khác.
Tại một số quốc gia, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo được xem là xương
sống của cả nền kinh tế. Doanh nghiệp khởi nghiệp có đóng góp đáng kể vào tăng
trưởng kinh tế, có khả năng giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế và phát triển dù
trong giai đoạn nền kinh tế rơi vào khủng hoảng. Chính sự đóng góp quan trọng này
11
của các doanh nghiệp khởi nghiệp, các nhà nghiên cứu kinh tế cũng như các nhà quản
lý đều thống nhất quan điểm cần phải có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp khởi
nghiệp chính là nền tảng để phát triển kinh tế và ổn định xã hội trong thời đại công
nghiệp 4.0.
Bên cạnh đó, với sự tiếp sức của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và thương mại
điện tử thì các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo sẽ là khu vực cạnh tranh lớn nhất,
sáng tạo lớn nhất vì chính các doanh nghiệp này đã huy động được toàn bộ nguồn lực
để phục vụ cho xã hội và đất nước.
Qua thời gian, các doanh nghiệp khởi nghiệp khi thành công sẽ phát triển
nhanh chóng trở thành các doanh nghiệp lớn đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho
chính doanh nghiệp và đất nước. Các doanh nghiệp thành công thì mô hình kinh
doanh sẽ mở rộng làm cho quy mô của doanh nghiệp được lan rộng rất nhiều và dần
trở thành các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia đóng góp vào tăng
trưởng của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp khởi nghiệp thường có niềm tin và có thái độ rất tích cực
đối với nền kinh tế hiện tại, khuynh hướng phát triển của nền kinh tế trong tương lai.
Vì vậy, doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ là xu hướng phát triển kinh tế các quốc gia và
của toàn thế giới, đồng thời doanh nghiệp khởi nghiệp cũng là động lực để thúc đẩy
phát triển kinh tế thế giới vốn được đánh giá là phát triển chậm dần trong thời kì phát
triển công nghệ khoa học.
1.1.3.2. Huy động được nguồn lực tài chính trong xã hội
Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng,
tuy nhiên, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng không huy động được.
Khi doanh nghiệp khởi nghiệp tiếp xúc trực tiếp với người dân và huy động được
nguồn vốn này để kinh doanh. Tận dụng nguồn lực vốn từ những người thân trong
gia đình là điều mà đa phần các doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ làm đầu tiên và rất phù
hợp với tiến trình cho doanh nghiệp khởi nghiệp giai đoạn mới khởi đầu. Tuy các
doanh nghiệp khởi nghiệp là hình thức kinh doanh mới nhưng cũng đã tận dụng thu
12
hút tốt các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội để đưa vào đầu tư trong nền kinh tế.
Chính lực lượng doanh nghiệp khởi nghiệp đã giúp huy động số lượng lớn vốn
đang tồn tại trong dân cư. Khi nhà nước có cơ chế phù hợp thì các nguồn lực của nền
kinh tế sẽ được khai thác tốt để tạo ra của cải vật chất và đem lại lợi nhuận cho cá
nhân, gia đình, doanh nghiệp và xã hội. Adam Smiths cho rằng sự giàu có của các
quốc gia chính là nhờ vào sự phát triển ổn định của doanh nghiệp, trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, doanh nghiệp đã làm giàu cho
bản thân doanh nghiệp, cho các thành viên tham gia và làm giàu cho quốc gia thông
qua việc đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chính vì lẽ đó, từ trước đến nay, các nhà quản lý và các nhà kinh tế đều thừa
nhận và nghiên cứu vai trò của doanh nghiệp khởi nghiệp. Với việc đẩy mạnh phong
trào khởi nghiệp tại các quốc gia thì sự đóng góp của các doanh nghiệp này thật sự
lớn lao đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới
nổi và đang phát triển – những quốc gia có số lượng vốn trong dân rất dồi dào.
1.1.3.3. Giải quyết số lượng lớn việc làm cho người lao động
Đặc điểm chung của các doanh nghiệp khởi nghiệp là sử dụng ít lao động, tuy
nhiên với số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp thành lập ngày càng nhiều sẽ giải quyết
được số lượng lớn người lao động đặc biệt là nguồn lao động trẻ có trình độ. Tự khởi
nghiệp hay tham gia làm việc tại các doanh nghiệp khởi nghiệp khi còn trên ghế nhà
trường sẽ giúp sinh viên tích lũy kinh nghiệm về kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp, sau
khi ra trường thì sinh viên có thể tạo dựng một doanh nghiệp khởi nghiệp riêng cho
mình.
Điển hình như quốc gia Isreal, trong quá trình học tập tại trường, đa số sinh
viên đều tham dự một tổ chức doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo để tiếp thu những
kiến thức thực tiễn và trang bị kỹ năng, tác phong làm việc công nghiệp. Như vậy
mỗi sinh viên đều tích lũy cho mình những kinh nhiệm về khởi nghiệp và tự chủ động
tạo công việc cho chính mình, không trở thành gánh nặng cho xã hội khi thất nghiệp.
Như vậy, doanh nghiệp khởi nghiệp không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân cá nhân
mà còn mang lại lợi ích chung cho xã hội. Chính vì vậy, chính phủ các nước cần phải
13
hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp để xây dựng một môi trường kinh doanh chủ động
khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp sử dụng lao động, tạo ra
nhiều việc làm trong tương lai.
Do vậy, việc quan tâm đến những tham vọng và sự năng động của giới trẻ hiện
nay là điều quan trọng, đất nước sẽ tận dụng năng lực của thế hệ trẻ về con người và
kinh tế. Nhu cầu cấp thiết hiện nay đặt ra cho những nhà lãnh đạo doanh nghiệp, các
doanh nghiệp khởi nghiệp và các nhà làm chính sách là cần có những hỗ trợ thiết thực
giúp thanh niên phát huy tối đa tiềm năng của họ thông qua việc tài trợ, cấp vốn hoặc
tư vấn, cố vấn, tạo cơ hội việc làm và đào tạo thông qua công việc thực tế về khởi
nghiệp.
1.1.3.4. Góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường
Tính linh hoạt của của các doanh nghiệp khởi nghiệp đã tạo ra tính năng động
cho nền kinh tế quốc gia và thế giới. Việc chuyển đổi nhanh chóng của các doanh
nghiệp khởi nghiệp nhằm lấp đầy các khoảng trống của thị trường đã công nhận vai
trò ổn định kinh tế của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Các doanh nghiệp này đem lại
cho nền kinh tế một hình ảnh mới về sự phát triển năng động, sáng tạo, dám nghĩ,
dám làm và trở thành động lực mới của nền kinh tế.
Chính sự ra đời của doanh nghiệp khởi nghiệp đã làm tăng tính cạnh tranh của
nền kinh tế, làm giảm sự độc quyền buộc các doanh nghiệp truyền thống, buộc các
doanh nghiệp cũ phải tự đổi mới công nghệ nhằm thích ứng với khách hàng và tăng
tính cạnh tranh. Các doanh nghiệp khởi nghiệp phải liên tục đổi mới để thích nghi,
tồn tại và phát triển. Với sự linh hoạt, thích ứng vào nền kinh tế nhanh chóng của
mình, các doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ tạo ra sức thu hút cạnh tranh, thậm chí dám
dạn cạnh tranh với các công ty lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia trên thế giới. Bên
cạnh đó, doanh nghiệp khởi nghiệp còn đóng vai trò thúc đẩy quá trình chuyên môn
hóa, phân công lao động trong sản xuất.
Với sự thích ứng linh hoạt, các doanh nghiệp khởi nghiệp chính là những người
đi tiên phong trong việc áp dụng công nghệ và các phát minh sáng chế mới cũng như
các sáng kiến về kĩ thuật khoa học, trí tuệ nhân tạo. Do áp lực của cạnh tranh khốc
14
liệt của nền kinh tế nên các doanh nghiệp khởi nghiệp phải luôn tìm tòi, nghiên cứu
cải tiến công nghệ đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Mặt khác, công nghệ mới ra đời
phải có sự khác biệt để tồn tại và cạnh tranh thành công.
Đây chính là những yếu tố đầu tiên làm thay đổi công nghệ, tạo ra nhiều đổi
mới trong nền kinh tế. Mặt khác, doanh nghiệp khởi nghiệp giúp trẻ hóa nền kinh tế
già cỗi, đang bị chi phối bởi các tập đoàn lớn xuyên quốc gia. Thông qua các doanh
nghiệp khởi nghiệp, Chính phủ các nước đang tạo ra một sân chơi mới, tăng cường
sự đổi mới sáng tạo, tạo ra nhiều công ăn việc làm, nhiều lĩnh vực ngành nghề mới ra
đời để đáp ứng nhu cầu ngày càng của xã hội.
1.1.3.5. Góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Các doanh nghiệp khởi nghiệp thường chọn các ngách của thị trường, nên khả
năng bao phủ rất lớn. Tuy nhiên, vì qui mô và nguồn vốn nhỏ nên các doanh nghiệp
khởi nghiệp thường chọn ngành về công nghệ hoặc dịch vụ, thương mại. Ngoài ra,
các doanh nghiệp khởi nghiệp được tạo điều kiện để chuyển đổi kinh tế nông thôn và
tạo điều kiện để phụ nữ tham gia quản lý thông qua các dự án về nông nghiệp công
nghệ cao, thúc đẩy quá trình bình đẳng giới trong phát triển kinh tế. Ở nhiều quốc
gia, những doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo về công nghệ hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp rất phát triển, chiếm một tỉ lệ cao trong các doanh nghiệp khởi nghiệp. Đây là
yếu tố quyết định giúp kinh tế nông nghiệp, nông thôn có cơ hội thay đổi phát triển
và là điều kiện tiên quyết để chuyển dịch kinh tế nông thôn góp phần chuyển dịch
nền kinh tế quốc gia.
Bên cạnh đó, việc nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp được thành lập ở các vùng,
các địa phương khác nhau đặc biệt là ở các vùng nông thôn sẽ làm giảm tỷ trọng
ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều này sẽ giúp
cho việc chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành
nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.
1.1.3.6. Ươm mầm cho các tài năng kinh doanh trong tương lai
Các doanh nghiệp khởi nghiệp bên cạnh mục tiêu về lợi nhuận mà bên cạnh
đó còn lại lợi ích cho xã hội, đây cũng chính là yếu tố thúc đẩy để phát triển doanh
15
nghiệp khởi nghiệp. Ngoài ra những yếu tố thúc đẩy khác còn bao gồm việc đóng góp
tích cực cho cộng đồng, truyền động lực và cuốn hút thế hệ sau đi theo khát vọng
khởi nghiệp của thế hệ trước. Doanh nghiệp khởi nghiệp cũng thể hiện sự cam kết
mạnh mẽ trong việc hỗ trợ và phát triển những người trẻ như tạo ra những cơ hội thực
tập và học nghề, những sân chơi giao lưu các ý tưởng khởi nghiệp, các câu lạc bộ về
truyền cảm hứng khởi nghiệp cho tất cả mọi thanh niên, sinh viên. Các doanh nghiệp
khởi nghiệp đã và đang tạo ra những cơ hội kiến tập, trải nghiệm quá trình thực tập
và học việc thực tế gấp nhiều lần các doanh nhân lập nghiệp khác ở các quốc gia trên
toàn thế giới.
Hiện nay, có rất nhiều thanh niên đang có ý định khởi nghiệp, họ có kế hoạch
khởi nghiệp và điều hành nghiệp kinh doanh riêng tại một thời điểm nào đó phù hợp
trong sự nghiệp. Đáng chú ý, rất nhiều thanh niên có mong muốn khởi nghiệp đánh
giá rất cao sự hướng dẫn và hỗ trợ của các doanh nhân, các doanh nghiệp khởi nghiệp
đã thành công và cho đây một cơ hội thực tập thực tế có sự hướng dẫn của các doanh
nhân hàng đầu sẽ giúp những ý tưởng thành hiện thực và sớm đạt được mục tiêu khởi
nghiệp. Điều này cho thấy sự ảnh hưởng cả về tinh thần khởi nghiệp lẫn vai trò hỗ
trợ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đối với thế hệ trẻ là rất lớn.
Trên thế giới hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp lớn đều bắt nguồn từ những
doanh nghiệp khởi nghiệp có quy mô cực nhỏ. Tuy nhiên, trong hàng nghìn doanh
nghiệp khởi nghiệp nhỏ ra đời thì chỉ có ít doanh nghiệp phát triển thành công, tạo
dựng thành những doanh nghiệp cực lớn như Microsoft, Google, Facebook hay
Apple. Đây là động lực giúp cho phong trào khởi nghiệp phát triển tại Việt Nam nói
riêng và trên thế giới nói chung. Do vậy, có thể nói doanh nghiệp khởi nghiệp chính
là nơi khởi phát tinh thần doanh nghiệp, nơi đào tạo và luyện rèn những con người
được gọi là doanh nhân và đem lại sự thay đổi sâu sắc, một động lực thúc đẩy phát
triển nền kinh tế của quốc gia.
Tuy nhiên, có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những ý kiến trái chiều cho rằng
khi xét hiệu quả theo quy mô không tồn tại, nên các doanh nghiệp khởi nghiệp không
phải là động lực của nền kinh tế, nhưng ở một góc cạnh khác, nếu các doanh nghiệp
16
khởi nghiệp là nơi để nhà doanh nghiệp nhỏ làm quen với môi trường kinh doanh,
dám nghĩ lớn và chịu nghiên cứu học hỏi thì chính doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ trở
thành cái nôi để ươm mầm cho các doanh nghiệp lớn và tạo dựng những doanh nhân
thành đạt. Vì lẽ đó, sự đóng góp của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là điều không
thể phủ nhận.
1.2. Khái niệm pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
1.2.1. Định nghĩa pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
Pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo với tính chất là các quy
định, cơ chế, chính sách và cách thức can thiệp từ góc độ nhà nước để hỗ trợ cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp và qua đó thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp khởi
nghiệp.
Các biện pháp hỗ trợ mà Chính phủ các nước thực hiện đều tập trung vào việc
giúp giải quyết các khó khăn của doanh nghiệp khởi nghiệp đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi để doanh nghiệp phát triển trên cơ sở điều kiện kinh tế xã hội, nguồn lực
thế mạnh của mỗi quốc gia như: xây dựng pháp luật hỗ trợ về vốn, xây dựng pháp
luật hỗ trợ về tín dụng, xây dựng pháp luật hỗ trợ về thuế, xây dựng pháp luật hỗ trợ
các lĩnh vực khác.
Đây chính là tổng thể các biện pháp về thể chế pháp luật, tài chính và phi tài
chính nhằm giúp doanh nghiệp khởi nghiệp thành lập doanh nghiệp, quản trị doanh
nghiệp, đào tạo nhân lực, nghiên cứu, phát triển ý tưởng, sản phẩm, tham gia thị
trường và phát triển thị trường, trở thành những doanh nghiệp thực thụ, mang lại
doanh thu cho chủ sở hữu và các nhà đầu tư.
1.2.2. Đặc điểm pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
Chính sách pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là tổng thể
các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng nhằm khuyến
khích, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, góp phần
phát huy, nâng cao hiệu quả và khuyến khích cho hệ thống các doanh nghiệp phát
triển mạnh mẽ, phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp
17
chính là quá trình chuyển hóa các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp của nhà nước
thành những hành động cụ thể nhằm hiện thực hóa những chính sách mà nhà nước đã
ban hành để hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp, đưa chính sách vào thực
tiễn thi hành.
1.3. Cơ sở pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
1.3.1. Các văn bản pháp luật chính thức
1.3.1.1. Nghị định số 66/2008/NĐ-CP
Ngày 28/5/2008, Chính phủ đã ký Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ
pháp lý cho doanh nghiệp với mục tiêu xác định rõ cơ chế hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp, được thực hiện bằng các hình thức phù hợp, biện pháp và nội dung hỗ trợ
pháp lý mà các cơ quan nhà nước phải thực hiện để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
và các chương trình theo nhu cầu của từng đối tượng được hỗ trợ, nhằm định hướng,
nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, giúp doanh nghiệp hoạt động và phát
triển dựa trên một nền tảng pháp lý ổn định, chắc chắn, bền vững, lâu dài.
Nghị định quy định hai phương thức hỗ trợ pháp lý của nhà nước đối với doanh
nghiệp, đó là:
- Phương thức thứ nhất, hỗ trợ thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan Nhà nước. Đây là phương thức hỗ trợ thường xuyên được thực hiện
thông qua 5 hình thức như: xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt
động của doanh nghiệp; xây dựng tài liệu giới thiệu, phổ biến các văn bản quy phạm
pháp luật; bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp; giải đáp pháp luật cho
doanh nghiệp và tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật.
- Phương thức thứ hai, hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc xây dựng và tổ
chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, bao gồm Chương
trình hỗ trợ pháp lý liên ngành và chương trình hỗ trợ pháp lý của Bộ, ngành và các
địa phương. Phương thức này hỗ trợ được xác lập căn cứ vào thực trạng và nhu cầu
phát triển kinh tế, xã hội trong mỗi thời kỳ, ở mỗi địa phương, được áp dụng ưu tiên
cho các đối tượng khác nhau. Đây là phương thức giúp khai thác tốt các nguồn lực
và sự tham gia của các chủ thể khác ngoài cơ quan nhà nước trong hoạt động hỗ trợ
18
pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp.
1.3.1.2. Quyết định 844/QĐ-TTg
Ngày 18/5/2016, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Ðề án "Hỗ trợ hệ sinh
thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025"(đề án 844), tập trung vào
các hoạt động như: xây dựng cổng thông tin hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo quốc gia; khu tập trung dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp tại các bộ, ngành, địa phương;
kết nối mạng lưới khởi nghiệp, hỗ trợ, đầu tư mạo hiểm của Việt Nam với quốc tế;
ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật.
Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia đến năm 2025 đã có những
nội dung rõ ràng về pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo liên quan tới sử dụng kinh
phí của Nhà nước để hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Mục tiêu của
đề án là đến năm 2020 hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo; thiết lập được Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia; hỗ trợ được
800 dự án, 200 doanh nghiệp khởi nghiệp, trong đó 50 doanh nghiệp gọi được vốn
thành công từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá
trị ước tính khoảng 1.000 tỷ đồng. Đến năm 2025, hỗ trợ phát triển 2.000 dự án khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo; hỗ trợ phát triển 600 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo; 100 doanh nghiệp tham gia Đề án gọi được vốn đầu tư từ các nhà đầu tư mạo
hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá trị ước tính khoảng 2.000 tỷ đồng.
Một hệ sinh thái khởi nghiệp bền vững gồm năm yếu tố cấu thành: nguồn cung
là các viện nghiên cứu, trường đại học, các nhà khoa học; nguồn cầu là các doanh
nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp khởi nghiệp; cơ sở dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp;
các nhà đầu tư; cơ sở pháp lý, hệ thống pháp luật để bảo hộ, bảo vệ cho những nhà
đầu tư, cá nhân khởi nghiệp. Một trong những kênh hỗ trợ chính là không gian làm
việc chung cho hàng trăm doanh nghiệp.
1.3.1.3. Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngày 12/6/2017, Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật hỗ trợ Doanh
nghiệp nhỏ và vừa, tạo thêm cơ sở pháp lý cho việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp.
Luật được thiết kế theo hướng các hỗ trợ trọng tâm chỉ tập trung cho 3 đối tượng
19
doanh nghiệp, gồm Doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập trên cơ sở chuyển đổi
từ hộ kinh doanh, Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo và Doanh nghiệp
nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Về chính sách hỗ trợ cụ thể,
các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ tiếp cận tín dụng, thuế, kế toán, hỗ trợ mặt bằng sản
xuất; công nghệ, cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung, giúp mở rộng
thị trường, hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp tùy vào ngành nghề cụ thể.
1.3.1.4. Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05/5/2008
Trên cơ sở Nghị định 66/2008, Bộ Tư pháp đã xây dựng Chương trình hỗ trợ
pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo
Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05/5/2008 (Chương trình 585) giai đoạn 2010-2014
và Quyết định 2139/QĐ-TTg ngày 28/11/2014 giai đoạn 2015-2020, nhằm triển khai
đồng bộ các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, phòng chống rủi ro pháp lý
và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chương trình hỗ trợ pháp lý
liên ngành dành cho doanh nghiệp là một bộ phận trong tổng thể các chính sách,
chương trình hỗ trợ của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp.
Tiếp đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 108/QĐ-BTP ngày
23/01/2017 và Công văn 1154/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 10/4/2017 về kế
hoạch theo dõi thực hiện pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2017
được xác định là lĩnh vực hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Bộ đã chủ trì phối hợp
với các Bộ, ngành liên quan để xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến hoạt động khởi nghiệp. Bộ Tư pháp cũng yêu cầu các bộ, ngành có liên
quan cần tập trung rà soát, tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các bộ ngành. Theo hướng
dẫn của Bộ Tư pháp, doanh nghiệp khởi nghiệp để tổ chức hoạt động hỗ trợ là các
doanh nghiệp hoạt động trong khoảng thời gian 02 năm tính từ thời điểm được thành
lập, với các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ thuộc lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp - thương mại, thông tin - truyền thông và xây dựng.
1.3.2. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
20
1.3.2.1. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo quy mô
Nguồn lực của Nhà nước là có giới hạn, chính vì vậy việc xác định các điều
kiện pháp lý để doanh nghiệp khởi nghiệp nhận được sự hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước
thông qua các hỗ trợ về tín dụng, hỗ trợ về thuế, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật
chất hoặc hỗ trợ gián tiếp thông qua các chính sách hỗ trợ về vốn là hết sức quan
trọng.
Xác định điều kiện để doanh nghiệp khởi nghiệp nhận được hỗ trợ sẽ giúp
nguồn lực được tập trung và dành cho đúng đối tượng, tránh dàn trải và thiếu hiệu
quả. Cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Quy mô doanh nghiệp khởi nghiệp: vì nguồn lực hỗ trợ là hữu hạn, do vậy,
quy mô doanh nghiệp khởi nghiệp không quá lớn mới được nhận các hỗ trợ về vốn,
nhằm đảm bảo nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp nhỏ có cơ hội nhận được sự hỗ trợ
đầy đủ trong thời gian đầu thành lập. Tất nhiên, các hỗ trợ khác không tốn quá nhiều
nguồn lực vẫn được áp dụng cho doanh nghiệp khởi nghiệp, không phân biệt quy mô.
- Ưu tiên các doanh nghiệp khởi nghiệp chưa chào bán chứng khoán. Các
doanh nghiệp khởi nghiệp khi chào bán chứng khoán ra thị trường thì cơ bản đã trở
thành một công ty có quy mô, có giá trị thương hiệu nên sẽ không nhận được sự hỗ
trợ một số nguồn lực.
- Thời gian thành lập không quá 5 năm. Việc quy định thời gian nhận hỗ trợ
sẽ giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp không ngừng hoàn thiện để tự phát triển, tránh
tình trạng ỷ lại vào các nguồn lực của nhà nước mà không chịu trưởng thành.
1.3.2.2. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về vốn
Hỗ trợ về vốn tập trung vào việc xây dựng các hành lang pháp lý, cơ chế hỗ
trợ cho các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, các nhà đầu tư
thiên thần, các nhà đầu tư mạo hiểm nhằm khuyến khích việc tham gia đầu tư vốn
trong và ngoài nước thông qua việc góp vốn vào các quỹ đầu tư, rót vốn vào các
doanh nghiệp khởi nghiệp hoặc mua lại tỉ lệ sở hữu doanh nghiệp khởi nghiệp trong
giai đoạn đầu. Các doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ nhận được hỗ trợ vốn từ ngân sách
21
nhà nước và từ các tổ chức, nhà đầu tư tư nhân.
1.3.2.3. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về tiếp cận nguồn tín dụng
Hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp khởi nghiệp bao gồm: Các ưu đãi tín
dụng, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh vay vốn từ các tổ chức tín dụng thông qua ngân hàng
chính sách xã hội, các quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, quỹ phát triển khoa học và
công nghệ quốc gia, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được áp dụng đối với các
doanh nghiệp khởi nghiệp đáp ứng điều kiện là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoặc đáp
ứng được các tiêu chí đối với doanh nghiệp đổi mới sáng tạo theo chính sách của Nhà
nước.
Hỗ trợ tín dụng đến từ hai nguồn chính:
- Hỗ trợ tín dụng từ các ngân hàng thương mại thông qua các gói tín dụng ưu
đãi cho doanh nghiệp, bao gồm ưu đãi về lãi suất vay và thời gian vay.
- Hỗ trợ tín dụng từ các quỹ bảo lãnh tín dụng thông qua việc bảo lãnh các gói
tín dụng mà doanh nghiệp vay từ các ngân hàng thương mại.
1.3.2.4. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về ưu đãi thuế
Ưu đãi thuế bao gồm:
- Sử dụng thuế suất tiêu chuẩn thấp;
- Thuế suất ưu đãi;
- Miễn toàn bộ hoặc một phần thuế Thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp
khởi nghiệp;
- Giảm thuế suất thuế Thu nhập doanh nghiệp đối với các nhóm lợi nhuận mục
tiêu;
- Chiết khấu đầu tư và tín dụng thuế;
- Thực hiện chính sách khấu hao nhanh tài sản cố định;
- Khấu trừ thuế;
- Ưu đãi thuế gián tiếp;
- Miễn hoặc giảm một phần thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng;
- Cơ chế kích hoạt tài chính;
22
- Giảm gánh nặng lỗ cho doanh nghiệp.
1.3.2.5. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về các vấn đề khác
Các hình thức hỗ trợ khác bao gồm cơ sở vật chất, hạ tầng giao thông, chuyển
giao khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực, sở hữu trí tuệ thông qua việc hỗ trợ phát
triển hệ thống vườn ươm công nghệ, các khu làm việc, nghiên cứu chung, tổ chức các
khóa đào tạo nhằm tạo điều kiện ban đầu để các doanh nghiệp khởi nghiệp có đủ
phương tiện, thiết bị, hạ tầng để thực hiện dự án kinh doanh của mình với chi phí hợp
lý nhất. Điều này được đánh giá là biện pháp hiệu quả và thiết thực bên cạnh việc hỗ
trợ, vốn, tín dụng và thuế cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.
1.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp
Trong thực tế, không phải tất cả doanh nghiệp khởi nghiệp đều được hỗ trợ.
Đồng thời, hỗ trợ có nghĩa là Nhà nước tạo cơ hội, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ một phần chi phí khi thực hiện hoạt động kinh doanh cụ
thể. Do đó, mức độ hỗ trợ cũng khác nhau, trong đó, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo
và doanh nghiệp tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị được ưu tiên hỗ trợ nhiều
nhất.
Khi bắt đầu khởi nghiệp, nguồn vốn của doanh nghiệp còn hạn chế, khả năng
kết nối đối tác chưa tốt, trong khi đầu tư ban đầu rất nhiều nên việc tận dụng các hỗ
trợ từ chính sách nhà nước sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong giai đoạn khởi
sự kinh doanh.
Chính phủ các quốc gia đang có xu hướng khuyến khích các doanh nghiệp
trong nước đẩy mạnh sáng tạo, tiếp cận với thế giới công nghệ với công cuộc cách
mạng công nghệ 4.0. Từ đó, với hỗ trợ từ phía Chính phủ và nội lực từ chính bản
thân, doanh nghiệp cần phải nắm bắt cơ hội, mạnh dạn dấn thân và khởi nghiệp thực
hiện ước mơ của doanh nghiệp mình.Quá trình thực hiện chính sách hỗ trợ doanh
23
nghiệp khởi nghiệp là quá trình phức tạp, đòi hỏi chịu tác động của nhiều yếu tố.
1.4.1. Yếu tố môi trường chính trị
Những thay đổi trong hoàn cảnh chính trị có tác động trực tiếp đến việc thực
hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất
của một hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đó là chính sách của Chính phủ.
Điều này liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực quan hệ với doanh nghiệp khởi
nghiệp hay tinh thần khởi nghiệp, mà còn ảnh hưởng ở một phạm vi rộng hơn là các
chính sách liên quan đến hệ thống thuế, các dịch vụ tài chính, viễn thông, giao thông,
thị trường lao động, giáo dục và đào tạo, cơ sở hạ tầng và y tế. Phần lớn tại các quốc
gia môi trường chính trị đã tác động đến việc ban hành và thực hiện chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp của chính quốc gia đó bằng sự công nhận và hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp.
1.4.2. Yếu tố môi trường kinh tế
Thay đổi về môi trường kinh tế có tác động to lớn đến việc thực hiện chính
sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Một dự án hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
phải dựa vào những điều kiện về chính sách, cơ chế, kinh tế mà Nhà nước hỗ trợ một
phần cho các doanh nghiệp.
Dẫn chứng, ưu đãi về thuế thu nhập cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Tuy nhiên,
trong thực tế, giảm thuế Thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp khởi nghiệp không
phải là phương pháp hữu hiệu nhất giúp các doanh nghiệp thoát khỏi hoàn cảnh khó
khăn lúc mới bắt đầu vì đa phần các doanh nghiệp khởi nghiệp luôn lỗ hoặc hòa vốn
trong những năm đầu.
Tuy nhiên, đây lại là một giải pháp tạo động lực, tạo niềm tin cho doanh nghiệp
khởi nghiệp, đồng thời cũng chính là một trong những giải pháp nuôi dưỡng nguồn
thu. Việc nhà nước ban hành chính sách giảm thuế sẽ hỗ trợ doanh nghiệp mới khởi
nghiệp rất lớn vì có thể tiết kiệm được chi phí và chuyển dòng vốn sang phục vụ cho
công tác đầu tư, đồng thời giảm chi phí trả lãi tiền vay, từ đó giảm giá thành, chi phí
sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư từ bên
24
ngoài.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, những thay đổi của thế giới
như thay đổi chính sách của nhà nước, các tổ chức kinh tế thế giới, các tổ chức khu
vực có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới quá trình thực hiện chính sách hỗ
trợ doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua sự ảnh hưởng đến môi trường kinh tế hội
nhập của các nước, đặc biệt đối với những doanh nghiệp khởi nghiệp sự thay đổi
chính sách của các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư thiên thần sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến
việc thực hiện chính sách.
Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể mà mức độ ảnh
hưởng của môi trường kinh tế quốc tế đến chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
sẽ khác nhau.
1.4.3. Yếu tố môi trường xã hội
Phong trào khởi nghiệp mở rộng tại các địa phương, đa dạng ngành nghề và
bắt đầu hình thành và phát triển những hệ sinh thái khởi nghiệp. Đây là điều kiện
thuận lợi cho chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp nhanh chóng đi vào đời
sống, tạo làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ khắp đất nước. Doanh nghiệp khởi nghiệp
chính là những đối tượng tạo ra nhiều việc làm, giải quyết tình trạng thất nghiệp,
mang lại giá trị gia tăng vượt bậc cho nền kinh tế của mỗi quốc gia và trên toàn thế
giới.
1.4.4. Yếu tố môi trường công nghệ
Khởi nghiệp sáng tạo là quá trình khởi nghiệp dựa trên các giải pháp kỹ thuật,
công nghệ, các giải pháp quản lý nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng, giá
trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa và có khả năng tăng trưởng nhanh. Yếu tố cơ sở
hạ tầng công nghệ là nền tảng để các doanh nghiệp khởi nghiệp thành công.
Hiện nay, các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao là môi trường để thực
hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp rất tốt. Trong bối cảnh cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 đang bùng nổ mạnh mẽ, yếu tố công nghệ chính là phần cốt
lõi của các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
nói riêng. Công nghệ là yếu tố tiên quyết để thực hiện tốt chính sách và làm doanh
25
nghiệp bứt phá để vươn tầm ra thế giới.
1.4.5. Yếu tố chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện chính sách hỗ trợ
Bộ máy hành chính chịu trách nhiệm ban hành và thực hiện chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi chính sách cho
doanh nghiệp. Việc tổ chức thực hiện chính sách doanh nghiệp khởi nghiệp đòi hỏi
sự chung tay đồng bộ của các ngành, lĩnh vực ở các cấp để đảm bảo tính nhất quán,
công bằng và khách quan.
1.5. Cơ cấu, nội dung của pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo
pháp luật Việt Nam
Chính phủ của các quốc gia đưa ra các chương trình hỗ trợ, khuyến khích
người dân tham gia khởi nghiệp thông qua các chính sách thúc đẩy thành lập doanh
nghiệp, trợ giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp và các đề án hỗ trợ cộng đồng khởi
nghiệp với nhiều chính sách ưu đãi nhằm tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy,
hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hình thành và phát triển nhằm giúp doanh nghiệp
có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình
kinh doanh mới.
1.5.1. Tối ưu hóa môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý các quốc gia cần hướng đến nâng cao tinh thần khởi nghiệp
của các cá nhân và tổ chức trong xã hội nhằm thực hiện những ý tưởng kinh doanh
mới trên cơ sở chấp nhận rủi ro có thể chấp nhận được. Nội dung của chính sách
nhằm ra các giải pháp để tối ưu hóa môi trường pháp lý về khởi nghiệp của một quốc
gia như:
- Kiểm tra, rà soát các yêu cầu pháp lý khởi nghiệp;
- Hạn chế giảm thiểu rào cản pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp;
- Tạo dựng niềm tin cho doanh nghiệp khởi nghiệp về môi trường pháp lý;
- Hướng dẫn văn bản pháp lý cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
1.5.2. Tăng cường giáo dục tinh thần khởi nghiệp và phát triển các kỹ năng
kinh doanh cần thiết
Điều quan trọng của kỹ năng khởi nghiệp là các kỹ năng mềm và các năng lực
26
chuyên môn như kiến thức cơ bản về khởi nghiệp, lập kế hoạch kinh doanh, quản trị
tài chính và kỹ năng quản lý. Các chính sách và chương trình giáo dục khởi nghiệp
hiệu quả nên tập trung chú trọng vào phát triển năng lực kinh doanh và các kỹ năng
cần thiết trong các điều kiện công việc cụ thể, ứng dụng khoa học công nghệ nhằm
nâng cao năng lực khởi nghiệp và phát triển văn hóa khởi nghiệp trong xã hội.
1.5.3. Tạo điều kiện trao đổi, ứng dụng và đổi mới công nghệ
Khởi nghiệp và công nghệ luôn có mối quan hệ cùng chiều, tác động lẫn nhau,
cả hai yếu tố này đều quan trọng tùy vào mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ ứng dụng
công nghệ và khả năng đổi mới của doanh nghiệp, đặc biệt là tại các quốc gia đang
phát triển. Một số giải pháp mà các quốc gia có thể áp dụng như:
- Chính sách hỗ trợ phát triển công nghệ thông tin và truyền thông cho khu
vực tư nhân;
- Tăng cường mạng lưới liên kết, cụm công ty, cụm ngành nhằm phổ biến công
nghệ và đổi mới;
- Xây dựng cầu nối giữa cơ quan nhà nước, viện nghiên cứu, các trường đại
học và khu vực tư nhân;
- Thúc đẩy ưu tiên hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ cao.
1.5.4. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi sự tiếp cận nguồn tài chính
Các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp tiếp cận nguồn tài chính trong
nền kinh tế hiện nay như:
- Thúc đẩy tăng cường tiếp cận với các dịch vụ tài chính;
- Tiếp tục đẩy mạnh tài trợ cho đổi mới công nghệ;
- Nâng cao năng lực cho các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính để
phục vụ doanh nghiệp khởi nghiệp;
- Xây dựng và cung cấp các chương trình đào tạo về tài chính cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp.
1.5.5. Nâng cao nhận thức về khởi nghiệp và thiết lập các cụm liên kết, các
hiệp hội hỗ trợ liên quan
Nâng cao hiểu biết cộng đồng về giá trị của khởi nghiệp và giải quyết những
27
thành kiến tiêu cực trong nhận thức xã hội, xây dựng môi trường bình đẳng giới trong
kinh doanh. Từ đó, nâng cao nhận thức trong cộng đồng về các cơ hội khởi nghiệp,
khuyến hợp tác giữa các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Các hiệp hội cũng cần chung tay hỗ trợ các dự án khởi nghiệp dành cho đoàn
viên thanh niên, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, người nông dân. Chính các doanh nghiệp
khởi nghiệp này đang giải quyết công việc liên quan thực tiễn để phát triển địa
phương.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 trình bày tổng quan một số vấn đề lý luận về pháp luật hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp như: Khái niệm đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp khởi
nghiệp, việc hiểu đúng và đầy đủ về doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ giúp cho các cơ
quan nhà nước trong việc xây dựng chính sách dành cho loại hình doanh nghiệp này,
tình trạng lãng phí nguồn lực do hỗ trợ không đúng đối tượng.
Bên cạnh đó, tác giả đã trình bày khái niệm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
và vai trò của việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Việc xác định được khái niệm
và vai trò của việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo sẽ giúp xây dựng các
quy định, chính sách pháp luật nhằm hỗ trợ hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Mặt khác, tác giả đã nêu lên những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp về
pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, từ đó giúp Chính phủ xây dựng các quy
định, chính sách pháp luật nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa
và sự ứng dụng các khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng hiện nay.
Tác giả cũng xác định các nội dung pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
bao gồm các vấn đề hỗ trợ về vốn, hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ thuế và các hỗ trợ khác
như sở hữu trí tuệ, chuyển giao khoa học công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng vườn
ươm, khu làm việc chung. Việc xác định nội dung pháp luật hỗ trợ sẽ giúp ích cho
việc nhận diện thực trạng hiện có và thực tiễn thi hành pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp.
Trên cơ sở nghiên cứu trên, trong Chương 2 tiếp theo tác giả nghiên cứu thực
trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực
28
tiễn Thành phố Hồ Chí Minh nhằm đối chiếu so sánh giữa lý thuyết và thực tiễn.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI
NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
2.1.1. Thực trạng pháp luật về điều kiện được hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định các điều kiện để doanh nghiệp
khởi nghiệp. Theo đó, nếu doanh nghiệp khởi nghiệp phải đáp ứng đồng thời 2 tiêu
chí sau sẽ nhận được sự hỗ trợ theo quy định:
- Có thời hạn không quá 5 năm kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp lần đầu;
- Chưa chào bán chứng khoán ra công chúng.
2.1.2. Thực trạng pháp luật về quy định ưu đãi tín dụng
Nguyên tắc hoạt động của các tổ chức tín dụng là phải ngăn ngừa và kiểm soát
rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng. Điều kiện là khách hàng vay thông thường phải
29
có năng lực tài chính tốt, dự án vay vốn khả thi và có tài sản bảo đảm. Trong khi đó,
các doanh nghiệp khởi nghiệp thường quá trẻ, quá nhỏ và quá nhiều rủi ro để tạo niềm
tin cho các tổ chức tài chính.
Trước thực trạng trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định về việc thành lập, tổ
chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, số
34/2018/NĐ-CP. Nghị định này đã hướng dẫn chi tiết về vấn đề bảo lãnh tín dụng
của quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
đó có doanh nghiệp khởi nghiệp, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận với các các
gói tín dụng ưu đãi từ các tổ chức tài chính.[4]
2.1.3. Thực trạng pháp luật về quy định vốn
Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 quy định về hỗ trợ, đầu tư vốn
cho doanh nghiệp khởi nghiệp như sau:
- Nhà đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo bao gồm quỹ
đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài thực hiện
hoạt động kinh doanh thông qua việc góp vốn (Điều 17, Luật hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa)
- Thành lập, mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi
nghiệp sáng tạo (Điều 18, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017).
Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được hình thành từ vốn góp của các nhà đầu
tư tư nhân để đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo theo các
nguyên tắc sau:
- Đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo không quá 50%
vốn điều lệ của doanh nghiệp sau khi nhận đầu tư;
- Nhà đầu tư tư nhân góp vốn vào quỹ phải có điều kiện tài chính và chịu trách
nhiệm về vốn góp của mình.
Căn cứ vào điều kiện ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình
Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định giao cho tổ chức tài chính nhà nước của địa
phương thực hiện đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo theo các
30
nguyên tắc sau:
- Lựa chọn các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo đủ điều kiện để cùng đầu tư
vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo;
- Khoản vốn đầu tư từ ngân sách địa phương không quá 30% tổng vốn đầu tư
mà doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo huy động được từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp
sáng tạo được lựa chọn;
- Tiến hành chuyển nhượng vốn đầu tư cho nhà đầu tư tư nhân trong thời hạn
05 năm kể từ thời điểm góp vốn đầu tư. Việc chuyển nhượng vốn đầu tư được thực
hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được sử dụng quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh
nghiệp để đầu tư khởi nghiệp sáng tạo theo quy định tại Luật Chuyển giao công nghệ
và Nghị định này. Doanh nghiệp nhà nước thực hiện hoạt động đầu tư khởi nghiệp
sáng tạo theo quy định về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh
doanh tại doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.[13]
- Đối với Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, theo Nghị định số 38/2018/NĐ-CP
quy định:
1. Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo không có tư cách pháp nhân, do tối đa 30
nhà đầu tư góp vốn thành lập trên cơ sở điều lệ quỹ. Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo
không được phép góp vốn vào các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo khác.
2. Tài sản góp vốn có thể bằng Đồng Việt Nam, vàng, giá trị quyền sử dụng
đất và các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam (Điều 5, Nghị định
số 38/2018/ NĐ-CP). Nhà đầu tư không được phép sử dụng vốn vay để góp vốn thành
lập các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo.
3. Danh mục và hoạt động đầu tư của quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo bao
gồm:
- Gửi tiền tại các ngân hàng thương mại theo quy định của pháp luật;
- Đầu tư không quá 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp
31
sáng tạo sau khi nhận đầu tư.
4. Toàn bộ số vốn góp và tài sản của các nhà đầu tư tại quỹ phải được hạch
toán độc lập với công ty thực hiện quản lý quỹ.
5. Các nhà đầu tư góp vốn thành lập quỹ tự thỏa thuận về thẩm quyền quyết
định danh mục đầu tư và nội dung này phải được quy định tại điều lệ quỹ và hợp đồng
với công ty thực hiện quản lý quỹ (nếu có).[5]
2.1.4. Thực trạng pháp luật về quy định thuế, phí
Do tính chất mới của doanh nghiệp khởi nghiệp nên hiện tại pháp luật về thuế
vẫn chưa có những văn bản pháp lý liên quan đến việc ưu đãi thuế, phí đối với loại
hình doanh nghiệp này. Tuy nhiên, doanh nghiệp khởi nghiệp được xác định là một
trong ba nhóm đặc thù của doanh nghiệp nhỏ và vừa nên có thể áp dụng các ưu đãi
thuế được quy định tại Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp áp dụng chung cho các loại
hình doanh nghiệp hiện có theo Luật Doanh nghiệp 2014.
Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp quy định về vấn đề ưu đãi lãi suất cho các
doanh nghiệp, theo đó, áp dụng thuế suất 10% trong thời gian mười lăm năm.
- Thu nhập thực tế của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại địa bàn
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế trọng điểm, khu công nghệ
cao;
- Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới, bao gồm: nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công
nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công nghệ cao; ươm
tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư mạo hiểm cho phát
triển công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển
theo quy định của Luật Công nghệ cao; đầu tư xây dựng - kinh doanh cơ sở ươm tạo
công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
đặc biệt quan trọng của Nhà nước theo quy định của pháp luật; sản xuất sản phẩm
phần mềm; sản xuất vật liệu composit, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý
hiếm; sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, năng lượng từ việc tiêu hủy chất
32
thải; phát triển công nghệ sinh học; bảo vệ môi trường;
Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp còn quy định về vấn đề ưu đãi về thời gian
miễn thuế, giảm thuế cho doanh nghiệp.
2.1.5. Thực trạng pháp luật về các hình thức hỗ trợ khác
Theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017, các doanh nghiệp khởi
nghiệp phải đáp ứng các tiêu chí liên quan thì mới có thể được hưởng hỗ trợ thuộc
các nhóm biện pháp sau:
- Nhóm các hỗ trợ dành riêng cho doanh nghiệp khởi nghiệp;
- Nhóm các hỗ trợ chung cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó có các
doanh nghiệp khởi nghiệp phải đáp ứng điều kiện;
- Chính sách hỗ trợ 100% giá trị hợp đồng tư vấn về xây dựng và thực hiện
chính sách, chiến lược hoạt động sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp;
- Chính sách hỗ trợ 100% giá trị hợp đồng tư vấn về thiết kế, đăng ký bảo hộ,
khai thác và phát triển giá trị của nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế cho
doanh nghiệp;
- Chính sách hỗ trợ 100% giá trị hợp đồng tư vấn về xây dựng và phát triển tài
sản trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý.
Hỗ trợ pháp lý về các thủ tục đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường,
chất lượng; thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới và thực nghiệm mô hình kinh doanh
mới:
- Cung cấp thông tin miễn phí về hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn trong
nước và quốc tế thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo;
- Hỗ trợ toàn bộ giá trị hợp đồng tư vấn để doanh nghiệp xây dựng tiêu chuẩn
cơ sở;
- Hỗ trợ 50% phí thử nghiệm mẫu phương tiện đo; phí kiểm định, hiệu chuẩn,
thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường; chi phí cấp dấu định lượng của hàng
đóng gói sẵn phù hợp với yêu cầu kỹ thuật đo lường nhưng không quá 10 triệu đồng
33
trên một lần thử và không quá 01 lần trên năm;
- Hỗ trợ toàn bộ giá trị hợp đồng tư vấn để doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
tự tổ chức đo lường;
- Hỗ trợ 50% phí thử nghiệm về chất lượng hàng hoá tại hệ thống thử nghiệm
thuộc cơ quan quản lý nhà nước nhưng không quá 10 triệu đồng trên một lần thử và
không quá 01 lần trên năm.
Hỗ trợ về các ứng dụng, chuyển giao công nghệ: hỗ trợ 50% chi phí hợp đồng
ứng dụng công nghệ cao, hợp đồng chuyển giao công nghệ nhưng không quá 100
triệu đồng trên một hợp đồng và không quá một hợp đồng mỗi năm.
Hỗ trợ về đào tạo, thông tin, xúc tiến thương mại, thương mại hóa:
- Hỗ trợ 50% chi phí đào tạo chuyên sâu về các nội dung sau: Xây dựng, phát
triển sản phẩm; thương mại hóa sản phẩm; gọi vốn đầu tư; phát triển thị trường; kết
nối mạng lưới khởi nghiệp với các tổ chức, cá nhân nghiên cứu khoa học. Chi phí hỗ
trợ không quá 20 triệu đồng trên một khoá đào tạo và không quá 01 khoá đào tạo trên
năm;
- Miễn phí việc tra cứu, khai thác, cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu về sáng
chế, thông tin công nghệ, kết quả nghiên cứu cho doanh nghiệp;
- Hỗ trợ 100% chi phí gian hàng tại Hội trợ triển lãm xúc tiến thương mại trong
nước và quốc tế; được ưu tiên tham gia Chương trình xúc tiến thương mại có sử dụng
ngân sách nhà nước;
- Miễn phí cung cấp thông tin, truyền thông về kết nối mạng lưới khởi nghiệp
sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo.
Hỗ trợ sử dụng cơ sở kỹ thuật, cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung:
- Hỗ trợ toàn bộ chi phí sử dụng trang thiết bị tại các cơ sở kỹ thuật hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Hỗ trợ 50% nhưng không vượt quá 5 triệu đồng/tháng/doanh nghiệp nhỏ và
vừa khởi nghiệp sáng tạo phí tham gia các cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung dành
cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
34
Hỗ trợ đào tạo khởi sự kinh doanh và quản trị kinh doanh.
- Ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 50% tổng chi phí của một khóa đào tạo
về khởi sự kinh doanh và quản trị doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Học viên của doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn, doanh nghiệp nhỏ và vừa do nữ làm chủ được miễn học phí khi tham gia
khóa đào tạo về kinh tế.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật của các doanh nghiệp khởi nghiệp tại
thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội và sự tác động đến việc thi hành pháp luật về
hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí
Minh
Việt Nam có tiềm năng khởi nghiệp rộng lớn từ một thế hệ trẻ năng động, sáng
tạo có quyết tâm khởi nghiệp cao, làm giàu chính đáng cho mình và cho xã hội, kết
hợp với văn hóa khởi nghiệp, tư duy dám chấp nhận thất bại để trải nghiệm và học
hỏi. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đang phát triển mạnh mẽ trong giai
đoạn hiện nay.
Đã có nhiều Startup khởi đầu khá thành công, nhưng sau đó bị hụt hơi do thiếu
kinh nghiệm, không có định hướng rõ ràng và rơi vào vòng xoáy luẩn quẩn dẫn đến
thất bại. Để phần nào khắc phục hạn chế này, trong hai năm 2016 – 2017, Hiệp hội
Thương mại Điện tử Việt Nam tổ chức khá nhiều buổi hội thảo chia sẻ kinh nghiệm
từ những người thành công cho các Startup.
Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh cũng tổ chức các chương trình chia sẻ
kinh nghiệm khởi nghiệp về công nghệ thông tin cho sinh viên các trường trên địa
bàn Thành phố.
Trong xu hướng hiện nay, phần lớn giới khởi nghiệp cũng như những doanh
nghiệp dựa vào công nghệ thông tin để khởi nghiệp, thường sử dụng hệ thống mạng
Internet để phát triển. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp khởi nghiệp đã thành công khi
đi ngược xu hướng đó, từ “kinh doanh hiện đại” chuyển sang “kinh doanh truyền
thống”. Từ nền tảng cửa hàng Online được hình thành và thu hút người mua qua
35
mạng. Tuy nhiên, nhận thấy xu hướng kinh doanh qua mạng có những hạn chế khó
phát triển mạnh, chủ cửa hàng đã dần chuyển sang kinh doanh truyền thống kết hợp
kinh doanh qua mạng, mở cửa hàng cho khách đến xem và mua trực tiếp.
Những dự án khởi nghiệp trên đã chứng minh, không có một quy chuẩn nào
cho khởi nghiệp thành công hay thất bại, mà sự sáng tạo của startup là nền tảng cho
thành công. Nếu một ý tưởng hay, dự án hay thì các nhà đầu tư bên ngoài sẽ nắm bắt
được ngay. Điều quan trọng là những người khởi nghiệp có được những kiến thức,
kinh nghiệm gì để có thể nắm lấy cơ hội này để thu hút nguồn vốn đầu tư.
Bên cạnh đó, Thành phố cần hỗ trợ mở các lớp dạy cho những người khởi
nghiệp như định giá doanh nghiệp họ, kỹ năng đàm phán thương mại. Về mặt công
nghệ, dự án, ý tưởng thì người khởi nghiệp phải lo, nhưng khi dồn sức vào công nghệ
và sản xuất thì doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ thiếu kỹ năng đám phán với Quỹ đầu tư
hoặc định giá quá thấp hoặc quá cao.
Với phong trào khởi nghiệp, nhất là trong giới trẻ đang phát triển, việc trang
bị những kiến thức và kỹ năng khởi nghiệp cho đối tượng này cần sớm thực hiện,
nhất là khả năng đổi mới sáng tạo. Và một trong những ý tưởng ban đầu xuất phát từ
chính trên ghế nhà trường cho sinh viên.
Hoạt động khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam đã bắt đầu khoảng năm 2009,
trước với việc hình thành một số doanh nghiệp khởi nghiệp trong các lĩnh vực thương
mại điện tử, dạy học trực tuyến. Qua hơn 10 năm hình thành và phát triển của cộng
đồng khởi nghiệp sáng tạo, mạng lưới hỗ trợ khởi nghiệp đang hình thành và hoạt
động ngày càng hiệu quả, trong đó, nổi bật là vai trò của cố vấn khởi nghiệp vốn có
từ lâu ở các nước, nay dần lớn mạnh và chuyên nghiệp ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, mạng lưới nhà đầu tư cho công ty khởi nghiệp, bao gồm các nhà
đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài làm cho nguồn lực về tài chính của
các doanh nghiệp khởi nghiệp lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Đến nay hệ sinh
thái khởi nghiệp sáng tạo và các doanh nghiệp khởi nghiệp của Việt Nam được xem
là đã bao hàm đầy đủ các thành tố quan trọng như các doanh nghiệp khởi nghiệp, nhà
đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ chức hỗ trợ kinh doanh, vườn ươm, công
36
viên nghiên cứu, mạng lưới các huấn luyện viên , nhà tư vấn, các cơ sở, đơn vị hỗ trợ
nghiên cứu và khởi nghiệp sáng tạo tại các trường đại học, viện nghiên cứu… thuộc
cả khối tư nhân và Nhà nước.
Với vai trò là đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế trọng điểm phía nam và cả
nước, hàng năm Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp khoảng 30% tổng thu ngân sách
cả nước. Sản lượng công nghiệp thành phố chiếm khoảng 30% giá trị sản lượng toàn
quốc và thu hút lượng lớn vốn FDI cho cả nước. Năng động, dám nghĩ, dám làm trong
phát triển kinh tế trở thành một truyền thống của người dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Qua tổng kết thực tiễn và chỉ đạo thực tiễn của Đảng và Nhà nước. Kết luận
số 21-KL/TW ngày 24-10-2017 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 54/2017 ngày 24-
11-2017 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố
Hồ Chí Minh mở ra bệ phóng cho những đột phá mang tầm chiến lược về phát triển
kinh tế, với mục tiêu xây dựng thành phố trở thành đô thị thông minh, hiện đại và là
đầu tàu kinh tế của cả nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cách mạng
công nghiệp 4.0, một tầm nhìn dài hơi cho kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh tăng
trưởng nhanh và bền vững là vấn đề quan tâm của nhân dân cả nước. Đề án đô thị
thông minh - đô thị công nghệ cao và thông minh, dựa trên mũi nhọn là ngành kinh
tế tri thức đang là hành trình đột phá chủ đạo của thành phố. Hướng đi này được đúc
rút từ những cách làm mới, mô hình thí điểm trước đó của thành phố như khu chế
xuất, công viên phần mềm, trung tâm công nghệ sinh học, khu công nghệ cao.
Với hệ sinh thái khởi nghiệp đã hình thành và phát triển mạnh mẽ, có sự tham
gia của nhiều trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, các quỹ đầu tư trong và ngoài nước, khu
công nghệ cao có vị trí chủ đạo, đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy hoạt động đổi
mới sáng tạo của khu đô thị sáng tạo phía đông thành phố. Khu công nghệ cao hiện
thu hút thành công hơn 10 tập đoàn, công ty công nghệ vào đầu tư sản xuất sản phẩm
công nghệ cao như Intel, Nidec, Jabil, Sonion, Sanofi, FPT, Nipro, Datalogic,
Samsung,… Hàm lượng giá trị tạo ra từ nghiên cứu và phát triển (R&D) trong cơ cấu
giá trị sản phẩm tăng dần, vượt gấp nhiều lần so với sản phẩm từ các khu công nghiệp
37
cả nước.
Dự kiến đến năm 2020, khu công nghệ cao sẽ đóng góp khoảng 20% GDP của
thành phố. Điểm nhấn của đề án xây dựng thành phố thông minh là xác định phát
triển kinh tế chủ yếu dựa trên dịch vụ và đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công
nghệ và phát triển nền kinh tế tri thức, mà một trong những trọng tâm là phát triển
thành công mô hình Khu đô thị sáng tạo tại phía đông của thành phố với tổng diện
tích khoảng 22.000 ha thuộc ba quận 2, 9 và Thủ Đức. Hiện trạng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật nơi đây khá hiện đại, tập trung nhiều trường đại học, viện nghiên cứu, có nhiều
doanh nghiệp công nghệ cao, cũng là nơi thu hút nhiều nguồn nhân lực chất lượng
cao, cụ thể như Khu Công nghệ cao tại quận 9, 12 trường đại học, sáu viện nghiên
cứu thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trên địa bàn quận Thủ Ðức, kết
nối thuận tiện với các tỉnh Bình Dương, Bình Phước và Bà Rịa - Vũng Tàu.
Qua đó cho thấy khu đô thị sáng tạo dựa trên hai trụ cột chính là Khu Công
nghệ cao và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Việc hình thành Khu Đô thị
sáng tạo kết nối chặt chẽ, hiệu quả các chức năng trung tâm nghiên cứu khoa học, đào
tạo nhân lực trình độ cao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, dịch vụ trên
nền tảng công nghệ cao, hạ tầng kỹ thuật và xã hội hiện đại theo chuẩn quốc tế và hỗ
trợ tài chính, thương mại hiệu quả như trung tâm tài chính; trung tâm hội chợ, triển
lãm, hình thành các chuỗi giá trị gia tăng từ khâu nghiên cứu khoa học, nghiên cứu
ứng dụng, thiết kế sản phẩm, sản xuất sản phẩm phụ trợ, sản xuất sản phẩm công
nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, tiêu thụ sản phẩm và cung ứng
dịch vụ.
Khu đô thị sáng tạo sẽ trở thành hạt nhân thực hiện cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 của thành phố và khu vực. Điều này minh chứng cho khẩu hiệu năm 2018
của thành phố "Đổi mới - Sáng tạo để xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành
đô thị thông minh, hiện đại" quyết tâm thực hiện đạt hiệu quả cao các nội dung của
bảy chương trình đột phá theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần
thứ X đề ra.
Tinh thần đột phá của thành phố mang tên Bác được minh chứng bằng những
38
hành động quyết liệt, thi đua sớm hoàn thành những mục tiêu mang tính chiến lược
về phát triển kinh tế - xã hội. Nếu như năm 2017 là năm đầu tiên thành phố công bố
đề án xây dựng thành phố thông minh, thì năm 2018 với quyết tâm đổi mới - sáng tạo
đã mở ra những cơ sở vững chắc trong hành trình xây dựng đô thị thông minh. Diễn
đàn kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (HEF 2018) với chủ đề: "Kiến tạo đô thị sáng
tạo, tương tác - Vai trò động lực của doanh nghiệp" HEF 2018 nhằm giới thiệu với
các nhà đầu tư về kế hoạch xây dựng khu vực phía đông theo xu hướng đô thị sáng
tạo. Đáng chú ý, sau thành công của Chương trình giao lưu văn hóa - thương mại các
nước ASEAN tại Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức cuối năm 2018, thành phố đã chấp
thuận chủ trương đổi tên gọi thành "Chương trình giao lưu văn hóa - thương mại quốc
tế năm 2018", mở rộng đối tượng tham gia là các doanh nghiệp nước ngoài trên địa
bàn thành phố và các doanh nghiệp ở các quốc gia đang quan tâm, có nhu cầu mở
rộng thị trường tại Việt Nam.
Ngay từ những ngày đầu năm 2019, sinh khí đô thị thông minh được lan tỏa
mạnh mẽ trong và ngoài nước qua việc Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hàng loạt sự
kiện hữu ích mang tầm thời đại. Thành phố là nơi đầu tiên sớm tổ chức hội thảo khoa
học "Nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo" hướng tới đề án xây dựng hệ sinh thái
ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2019 - 2025, góp
phần thực hiện thành công Đề án "Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô
thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025" và Đề án xây dựng
khu đô thị sáng tạo.
Cuối quý I năm 2019, liên tục các đoàn giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội trọng tâm do lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban Nhân dân thành phố trực
tiếp đi kiểm tra, lắng nghe nguyện vọng và trực tiếp tháo gỡ vướng mắc để đẩy nhanh
tiến độ dự án. Mở đầu là việc thị sát Dự án giải quyết ngập do triều khu vực Thành
phố có xét đến yếu tố biến đổi khí hậu giai đoạn 1 với nguồn vốn gần 10 nghìn tỷ
đồng đầu tư xây dựng bằng hình thức BT.
Hội nghị lần thứ 26 Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: Nét mới của kỳ họp này là đã dự báo được triển vọng hoàn thành các mục tiêu,
39
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong nhiệm kỳ, thể hiện trách
nhiệm của Đảng bộ thành phố với nhân dân, nhờ đó thực hiện các nhiệm vụ của quý
II với quyết tâm cao hơn. Phát biểu đầy trách nhiệm này thể hiện tinh thần "Nói đi
đôi với làm" về cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, có như vậy thành phố mới
có thể hoàn thành chủ đề "Năm 2019 là năm đột phá thực hiện cải cách hành chính".
Tiếp đó, tại kỳ họp thứ 13 Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày
8/4/2019 tiếp tục nhấn mạnh, việc tìm kiếm những giải pháp và thay đổi cách tiếp cận
để thu hút các nhà đầu tư lớn đầu tư vào thành phố.
Tiến hành xác định từ 10 đến 15 nhà đầu tư lớn nước ngoài để mời gọi đầu tư
vào các ngành chế tạo, dịch vụ trọng yếu. Thành phố chủ động cử các đoàn lãnh đạo
đến một số quốc gia để gặp gỡ, mời gọi đầu tư; đưa ra những điều kiện cụ thể về quỹ
đất, giá thuê đất, nguồn lực lao động... để thu hút các nhà đầu tư vào các dự án sản
xuất và dịch vụ có quy mô lớn. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ thông qua
tiếp tục tổ chức các hội nghị gặp gỡ các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ và
công ty lớn của các quốc gia như Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Mỹ,... để tạo niềm
tin cho các nhà đầu tư về lợi ích của việc phát triển công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hồ
Chí Minh.
Trong thời gian tới, thành phố sẽ tiếp tục tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo khoa
học để tìm kiếm các giải pháp mới phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2020 - 2030 như: tổ chức Hội thảo khoa học nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ
nhân tạo (AI) lần thứ 2 vào tháng 5/2019 để xây dựng chương trình phát triển trí tuệ
nhân tạo của thành phố. Với hành trình xây dựng đô thị thông minh, với điểm nhấn
là khu đô thị sáng tạo, lãnh đạo thành phố đặt niềm tin trở thành hạt nhân của cách
mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam, duy trì mức đóng góp 30% GDP ngân sách quốc
gia.
Tháng 4/2019, Thành phố phấn đấu triển khai và đưa vào vận hành, khai thác
giai đoạn 1 các trung tâm thành phần thuộc đề án "Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh
trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017- 2020, tầm nhìn đến năm 2025" gồm
Trung tâm điều hành, Trung tâm dữ liệu dùng chung, Trung tâm dự báo và đơn vị
40
bảo đảm an toàn an ninh thông tin; triển khai Đề án xây dựng "Khu đô thị sáng tạo"
tại phía đông thành phố, đến năm 2020 và những năm tiếp theo quyết tâm hoàn thành
việc đầu tư nâng cấp, hoàn thiện các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật trọng điểm
để liên kết các khu vực quan trọng trong khu đô thị sáng tạo. Hết sức hợp lý với đề
xuất xây dựng cơ chế liên kết giữa khu đô thị sáng tạo với các trung tâm sáng tạo
khác của Thành phố Hồ Chí Minh như Công viên phần mềm Quang Trung. Hành
trình xây dựng Thành phố trở thành đô thị thông minh cũng chính là xây dựng thành
phố trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước. Liên tục đề ra và thực hiện bằng được
những chương trình đột phá nhằm tạo sự chuyển biến thật sự về phát triển kinh tế -
xã hội luôn là nét đẹp của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố mang tên
Bác.
2.2.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Theo Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, các chính sách hỗ trợ về khởi
nghiệp của thành phố trong thời gian qua, nhất là hai Chương trình hỗ trợ doanh
nghiệp vừa và nhỏ đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc
tế giai đoạn 2016 – 2020 và Quy chế phối hợp hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp sáng
tạo.
Trong đó, Thành phố ưu tiên hỗ trợ cho các ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo khởi
nghiệp mang tính đột phá, sáng tạo, tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ có giá trị gia tăng
cao cũng như giải quyết các vấn đề xã hội hướng tới phát triển bền vững.
2.2.2.1. Tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp
Với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận chính sách,
thông tin pháp lý và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật, các
Bộ, Sở, ngành đã biên soạn các tài liệu và chương trình để phổ biến các quy định của
pháp luật.
Công tác tuyên truyền, phổ biến được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng,
41
thiết thực, phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa bàn, từng nhóm đối tượng khác
nhau. Nội dung tuyên truyền tập trung phổ biến các văn bản pháp luật liên quan đến
hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, như pháp luật về đầu tư, bảo hiểm xã hội, lao
động, thuế…
Đặc biệt, Chương trình 585 đã xây dựng, phát sóng hàng tuần chuyên đề “Kinh
doanh và pháp luật” trên Đài Tiếng nói Việt Nam (kênh VOV) và Đài Truyền hình
Việt Nam (kênh VTV2), trong đó chú trọng việc tuyên truyền những thay đổi của
pháp luật kinh doanh hiện hành, phân tích tác động của sự thay đổi pháp luật đó đối
với hoạt động của doanh nghiệp. Chương trình đã trình bày thực tiễn pháp lý trong
kinh doanh dưới hình thức phóng sự, phân tích của chuyên gia, những vướng mắc
pháp lý doanh nghiệp thường gặp, cảnh báo những rủi ro pháp lý khi doanh nghiệp
không tuân thủ các quy định pháp luật, từ đó đề xuất các giải pháp tháo gỡ vướng
mắc cho doanh nghiệp. Đây là Chương trình phổ biến pháp luật kinh doanh dành cho
doanh nghiệp đầu tiên được phát sóng với phạm vi phủ sóng toàn quốc trong một
khung thời gian phù hợp, điều này đã có tác động tích cực, góp phần quan trọng nâng
cao nhận thức và thói quen tuân thủ, áp dụng pháp luật của người quản lý doanh
nghiệp.
Chương trình 585 đã phối hợp với Cục công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp xây
dựng và đưa vào vận hành chuyên mục trang tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên
Cổng Thông tin của Bộ Tư pháp với các nội dung chính: cơ sở dữ liệu văn bản quy
phạm pháp luật về lĩnh vực kinh doanh cho doanh nghiệp; diễn đàn pháp luật kinh
doanh để trao đổi về các lĩnh vực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn liên quan tới
pháp luật kinh doanh; hỗ trợ pháp luật trực tuyến: sử dụng các công cụ như: hotline,
qua các công cụ chat trực tuyến như Skype, SMS, Gtalk,…, xây dựng hệ thống trả lời
email tự động; tích hợp với cơ sở dữ liệu hỏi đáp của Cổng thông tin điện tử Bộ Tư
pháp; các Bộ, ngành khác có liên quan như các tổ chức đại diện doanh nghiệp; Văn
phòng luật sư, Công ty luật.
Nội dung các hoạt động của các Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành
cho doanh nghiệp gồm: Bản tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, hoạt động tổ chức
42
bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh nghiệp, hội nghị đối thoại
với doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp, thiết lập mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các địa
phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, hoạt động tổ
chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, nhằm thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi
nghiệp, Thành phố cũng tiến hành rà soát, cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật
quy định về vấn đề này và đăng công khai lên các phương tiện đại chúng để các doanh
nghiệp dễ dàng tiếp cận. Xây dựng và ban hành Hệ dữ liệu văn bản quy phạm pháp
luật do Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân ban hành theo thẩm quyền liên quan
đến doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp - thương mại,
thông tin - truyền thông và xây dựng.
Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh vừa khai trương “Chương trình hỗ trợ
thông tin về thuế cho doanh nghiệp khởi nghiệp”. Thông qua các hoạt động hỗ trợ
của chương trình, cơ quan thuế sẽ cung cấp và hỗ trợ kịp thời các thông tin pháp lý,
các dịch vụ liên quan cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Hội đồng nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh và Đài Tiếng nói Nhân dân dân Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp
thực hiện chương trình phát thanh trực tiếp “Đối thoại cùng Chính quyền thành phố”
với chủ đề “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp”.
2.2.2.2. Hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp khởi
nghiệp
Các chuyên đề bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp
chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: pháp luật về quản trị doanh nghiệp, hợp đồng,
lao động và bảo hiểm xã hội, pháp luật về thuế, kế toán, pháp luật về cạnh tranh, sở
hữu trí tuệ, pháp luật về kinh doanh bất động sản, đầu tư, các quy định mới của Bộ
luật dân sự 2015, Luật Doanh nghiệp 2015, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Thuế giá trị gia tăng,... các quy định về Hiệp định Thương mại đối tác xuyên
43
Thái Bình Dương, Hiệp định tự do thương mại,...
Tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh
nghiệp, góp phần tăng cường năng lực chuyên môn cho đội ngũ này trong triển khai
thực hiện nhiệm vụ, giúp doanh nghiệp có đội ngũ tư vấn pháp luật, cố vấn pháp lý
có thêm những kiến thức về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, bảo đảm thực hiện tốt
nhiệm vụ được lãnh đạo doanh nghiệp giao. Bên cạnh đó, còn bồi dưỡng các kỹ năng
cần thiết trong kinh doanh như: kỹ năng phổ biến, tuyên truyền pháp luật; kỹ năng tư
vấn pháp luật; kỹ năng soạn thảo, đàm phán, ký kết hợp đồng trong kinh doanh; kỹ
năng giải quyết tranh chấp trong kinh doanh.
2.2.2.3. Hỗ trợ công tác tư vấn pháp luật
Tổ chức, điều hành, quản lý hoạt động của mạng lưới tư vấn pháp luật được
chia theo 03 cấp:
(1) Ban Quản lý Chương trình;
(2) Cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm đại diện tại các địa phương;
(3) Đội ngũ luật sư, luật gia, tư vấn viên pháp luật, cộng tác viên tư vấn pháp
luật, cán bộ thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để trực tiếp triển khai
các hoạt động của mạng lưới tư vấn viên.
Thông qua các hình thức tư vấn pháp luật cụ thể: Giải đáp bằng văn bản, giải
đáp thông qua mạng điện tử, giải đáp trực tiếp, điện thoại, các doanh nghiệp đã được
tư vấn, cung cấp ý kiến pháp lý để kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó, tạo sự chuyển biến về nhận thức, ý thức
tôn trọng và chấp hành pháp luật đối với doanh nghiệp tại các địa phương có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, góp phần thúc đẩy sản xuất, ổn
định xã hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh tại Việt Nam.
Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp còn được các sở, ban,
ngành thực hiện thông qua nhiều hình thức như tư vấn trực tiếp qua điện thoại, tư vấn
tại các tổ chức hành nghề công chứng và tổ chức hành nghề luật sư, qua mục hỏi- đáp
tại các trang thông tin của các đơn vị. Đặc biệt nhiều địa phương chỉ đạo các sở, ban,
ngành, lĩnh vực quản lý có liên quan tổ chức giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp,
44
chủ động thông báo, trao đổi, hướng dẫn khi doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành
chính tại Tổ tiếp nhận và trả kết quả; tổ chức các buổi trực tiếp hướng dẫn các doanh
nghiệp mới đi vào hoạt động.
Một kênh rất quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp hiện nay
là các Tổ chức, Liên minh, các công ty luật sư, công chứng. Dẫn chứng như Startup
Now là tổ chức nửa phi lợi nhuận giúp hỗ trợ khởi nghiệp thuộc Công ty Cổ phần
Ươm tạo Doanh nghiệp Công nghệ Nông Lâm – Thành viên Trung tâm Ươm tạo
Doanh nghiệp Đai học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh; Saigon Innovation Hub
- hỗ trợ không gian làm việc miễn phí cho Startups (SIHUB) hướng đến mục tiêu trở
thành hình mẫu về quản lý và vận hành vườn ươm cho các vườn ươm hiện hữu, cung
cấp các hỗ trợ theo chuẩn quốc tế cho cộng đồng khởi nghiệp tại Việt Nam, cũng như
kết nối các thành phần trong hệ sinh thái khởi nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh,
SIHUB, AN LUAT LAW FIRM & Angels 4 Us tài trợ hoàn toàn miễn phí đào tạo
kiến thức pháp lý trong khởi nghiệp, đặc biệt trong đó có phần chuyên sâu về Sở hữu
trí tuệ. Sihub cũng đã ký kết thỏa thuận hợp tác với Công ty Cổ phần Giải pháp Liên
minh Luật Việt Nam (FLF) để cùng đồng hành và hỗ trợ các Startup khởi nghiệp
vững vàng và thuận lợi hơn.
2.2.2.4. Tổ chức hội thảo, tọa đàm, hội nghị đối thoại về các chuyên đề pháp
luật cho doanh nghiệp khởi nghiệp
Năm 2016, Chương trình 585 đã giao các đơn vị là các Sở, Ban ngành, các tổ
chức đại diện cho doanh nghiệp tổ chức thành công 15 hội thảo, tọa đàm, diễn đàn về
các chuyên đề pháp luật kinh doanh, thu hút sự tham gia của trên 1.000 đại biểu tham
dự. Đối tượng tham gia là các chủ sở hữu doanh nghiệp, cán bộ thực hiện công tác hỗ
trợ pháp lý cho doanh nghiệp, luật sư, luật gia, cố vấn pháp lý tại các doanh nghiệp.
Nội dung của các Tọa đàm tập trung chủ yếu vào việc góp ý xây dựng, hoàn
thiện các dự thảo Luật, các chính sách liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đồng thời nêu những
khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực thi, áp dụng các quy quy
định pháp luật như: Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,...
45
Thông qua hoạt động này, các doanh nghiệp đã được kịp thời tiếp cận thông tin, cập
nhật các chính sách, văn bản, các vấn đề pháp lý mang tính thời sự, kiến thức pháp
luật kinh doanh, đồng thời được trao đổi kinh nghiệm thực tiễn với các nhà quản lý,
chuyên gia, góp phần phòng tránh rủi ro pháp lý, hoạch định các chiến lược đầu tư,
kinh doanh phù hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, các hoạt động này đã thiết lập được diễn đàn trao đổi đa
chiều, tạo điều kiện để cơ quan quản lý nhà nước lắng nghe, tiếp thu ý kiến phản hồi
từ phía doanh nghiệp, từ đó, đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện chính sách, khắc phục
những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật kinh doanh của Việt Nam.
Năm 2017, Ban Quản lý Chương trình 585 phối hợp Vụ Pháp luật dân sự -
kinh tế, Bộ Tư pháp tổ chức “Tọa đàm trao đổi về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong
Luật Đầu tư năm 2014, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 04 về danh mục
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư và các Luật chuyên
ngành”; Hội nghị đối thoại “Đánh giá, trao đổi nhu cầu và mô hình hoạt động mạng
lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó
khăn, đặc biệt khó khăn”. Bộ Tư pháp phối hợp với Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật
Bản (Dự án JICA) tại Việt Nam tổ chức Tọa đàm “Đánh giá thực trạng, nhu cầu hỗ
trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đại diện
cho doanh nghiệp” với mục đích kiểm tra, rà soát, đánh giá những kết quả đạt được,
những hạn chế và xác định nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên phạm vi cả
nước để hoàn thiện các quy định pháp luật về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp và chuẩn bị cho việc triển khai chế định hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa được quy định tại khoản 3 Điều 14 Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm
2017. [13]
Trung tâm Thông tin, hỗ trợ pháp luật, Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp
phối hợp với Văn phòng đại diện Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp tại Thành phố
Hồ Chí Minh tổ chức lớp bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho các cơ quan, tổ chức,
người thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Hội nghị đối thoại với
46
doanh nghiệp về Bộ luật dân sự 2015 và các vấn đề pháp lý liên quan đến doanh
nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức chương trình “Lãnh đạo thành phố gặp gỡ,
đối thoại với doanh nhân trẻ, cá nhân khởi nghiệp”.
Tóm lại, triển khai thực hiện Nghị định 66/2008/NĐ-CP và các chương trình
hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã mang lại những giá trị hữu ích cho doanh nghiệp
khởi nghiệp, đúng mục đích và yêu cầu đặt ra của Chương trình 585, từ đó tạo điều
kiện giúp cho việc nâng cao nhận thức của lãnh đạo doanh nghiệp về công tác pháp
chế trong doanh nghiệp; nâng cao ý thức pháp luật, đáp ứng yêu cầu thực thi pháp
luật kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp; cán bộ pháp chế doanh nghiệp, cho
cán bộ quản lý, điều hành của doanh nghiệp, phòng ngừa những tranh chấp nội bộ
trong doanh nghiệp có thể xảy ra và phòng tránh rủi ro pháp lý trong kinh doanh; làm
rõ những vấn đề vướng mắc từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp giúp cho doanh
nghiệp tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều đó đã thể hiện sự
quan tâm tích cực của Nhà nước đối với công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, việc quy định về khái niệm “doanh nghiệp khởi nghiệp” đã được
sử dụng khá phổ biến trong xã hội nhưng chưa được giải thích, quy định, hướng dẫn
trong các văn bản pháp luật hiện hành dẫn đến nhận thức về khái niệm này chưa thống
nhất. Hiện nay cũng chưa có văn bản nào quy định riêng về hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp khởi nghiệp, mà chủ yếu triển khai theo Nghị định 66 về hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp nói chung. Do vậy công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi
nghiệp thường được tổ chức theo hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói
chung và nội dung chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa thực sự bám sát nhu cầu của
các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp còn rất nhiều bất cập như việc triển
khai Nghị định 66 còn mang tính hình thức, có sự trùng lặp các hoạt động giữa các
bộ với nhau, giữa các đơn vị trong cùng 1 bộ; kinh phí còn dàn trải, chưa tập trung.
Đáng chú ý mặc dù thuộc top 5 trong số 30 chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp
nhưng hiệu quả của công tác cũng chỉ được doanh nghiệp “chấm điểm” đạt mức khá
47
và trung bình.
Nhận thức về vai trò, ý nghĩa của pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh của nhiều chủ sở hữu, người quản lý doanh nghiệp còn hạn chế. Tình trạng
doanh nghiệp không chú ý tới việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật là khá phổ biến.
Nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc cập nhật kiến thức pháp luật kinh doanh,
coi nhẹ yếu tố pháp lý trong kinh doanh nên không dành thời gian cho cán bộ đi tham
gia các chương trình bồi dưỡng. Lý do lớn nhất mà các doanh nghiệp khởi nghiệp
không tham gia các lớp bồi bưỡng là các doanh nghiệp khởi nghiệp thường không lo
phòng tránh rủi ro trong kinh doanh mà có quan điểm là chỉ đến khi sự việc pháp lý
xảy ra sẽ thuê luật sư hoặc nhờ vả các mối quan hệ để giải quyết vụ việc.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa biết cách khai thác hiệu quả các
thông tin pháp luật vì hiện tại hệ thống pháp luật của chúng ta đặc biệt pháp luật về
kinh tế, thương mại vừa nhiều, vừa chồng chéo và bất cập. Mặt khác, các cơ quan
quản lý nhà nước dù có sự quan tâm đến doanh nghiệp nhưng vẫn còn nhiều khó khăn
trong phương thức để phổ biến, hướng dẫn, tổ chức thi hành pháp luật cho doanh
nghiệp; nhiều thắc mắc của doanh nghiệp về nội dung các quy định của pháp luật và
việc áp dụng pháp luật chưa được các cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải đáp kịp
thời khiến cho việc thực thi pháp luật của doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn
hơn.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý của
nhiều người quản lý doanh nghiệp còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp còn khó khăn về
nguồn lực để tiếp cận với thông tin pháp lý và tư vấn pháp luật, hoạt động hỗ trợ của
các hiệp hội doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chồng chéo, thiếu hiệu quả; các cơ quan
quản lý nhà nước chưa thi hành tốt nhiệm vụ của mình trong việc tổ chức triển khai
thực hiện pháp luật cho doanh nghiệp, nhiều văn bản được ban hành cùng thời điểm
nhưng không nhất quán, chồng chéo cũng gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.
Chất lượng thông tin mà doanh nghiệp có được chưa đầy đủ, kịp thời và độ tin cậy
cao. Nhiều kênh thông tin điện tử còn cung cấp các thông tin chung chung, lạc hậu,
thiếu các thông tin phục vụ thiết thực cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
48
của doanh nghiệp khởi nghiệp.
Trên cơ sở đó, Nhà nước cần quan tâm đẩy mạnh hơn các hoạt động hỗ trợ
pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong thời gian tới. Cụ thể như:
- Nghiên cứu ban hành Nghị định về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và
vừa để quy định chi tiết Điều 14, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017, đảm
bảo khung pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động và cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp từ
phía Nhà nước. Trong đó, đổi mới các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp,
kinh phí phục vụ các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp sẽ do Ngân sách nhà
nước cấp, có sự huy động của các nguồn lực xã hội; quy định các căn cứ để xây dựng
chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, như: nhu cầu hỗ trợ pháp lý của doanh
nghiệp trong từng thời kỳ, tại các vùng, ngành, lĩnh vực; đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
- Nâng cao năng lực, đào tạo nguồn nhân lực thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp
lý cho doanh nghiệp tại các Sở, ban, ngành, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp tại các
địa phương để thực hiện tốt nhiệm vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; biên soạn các
bản tin, sổ tay, tài liệu về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; xây dựng tiêu
chuẩn đánh giá hiệu quả của hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; hỗ trợ báo
cáo viên, hỗ trợ công tác tổ chức hội nghị, tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm, các lớp bồi
dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng cho các cơ quan, tổ chức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
nhằm nâng cao năng lực cho cơ quan, tổ chức làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp.
- Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin pháp lý cho doanh nghiệp, tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận thông tin pháp lý trong hoạt động đầu tư,
kinh doanh và hội nhập, nhất là hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh trong nước
và các cam kết quốc tế tác động trực tiếp đến doanh nghiệp nhằm nâng cao nhận thức,
ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật, chủ động hội nhập quốc tế của doanh nghiệp
thông qua hoạt động. Phát triển Trang thông tin điện tử chính thức hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp do Chương trình 585 chủ trì thực hiện nhằm cung cấp đầy đủ, kịp thời,
49
toàn diện thông tin pháp lý có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các Bộ có trách nhiệm tổ chức xây dựng, định kỳ cập nhật tài liệu bồi dưỡng
kiến thức pháp luật có liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình quản lý và phối hợp với
các tổ chức đại diện của doanh nghiệp thực hiện việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật
cho doanh nghiệp. Đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các Hiệp hội và hội, là các tổ chức
bảo vệ quyền và lợi ích của các hội viên, các hội cần chủ động phối hơp với các cơ
quan nhà nước để thực hiện việc bồi dưỡng và phổ biến pháp luật.
- Tăng cường hỗ trợ pháp lý trực tiếp cho doanh nghiệp trên một số hoạt động
cụ thể: cần có các hoạt động tư vấn, giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp bằng nhiều
hình thức: bằng văn bản, qua mạng điện tử, điện thoại, trong đó, quy định thời hạn tư
vấn cụ thể, phân cấp thẩm quyền thực hiện tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và
vừa một cách cụ thể để cơ quan chức năng và doanh nghiệp dễ thực hiện. Bồi dưỡng
kiến thức pháp luật kinh doanh mới cho doanh nghiệp; bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp
vụ, kiến thức pháp luật cho cán bộ pháp chế các doanh nghiệp.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức đại diện doanh
nghiệp và các đoàn luật sư, liên đoàn luật sư để cử ra các luật sư có nhiều kinh nghiệm
tư vấn doanh nghiệp khởi nghiệp, trợ giúp họ trong các tình huống cụ thể và tổ chức
đào tạo, giới thiệu các văn bản pháp luật mới. Triển khai hoạt động thiết lập mạng
lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp, ưu tiên các địa phương có địa bàn kinh tế -
xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung
vào các hình thức tư vấn trực tiếp mang lại hiệu quả cao, thiết thực cho doanh nghiệp.
Ưu tiên hỗ trợ nguồn lực để xây dựng các đầu mối thực hiện mạng lưới cộng tác viên
tư vấn pháp luật, bao gồm: xây dựng kế hoạch và tổ chức vận động Luật gia, Luật sư,
Tư vấn viên pháp luật và cộng tác viên tư vấn pháp luật tham gia mạng lưới; tổ chức
và duy trì hoạt động của mạng lưới; tập huấn bồi dưỡng cộng tác viên tham gia mạng
lưới.
- Về phía doanh nghiệp khởi nghiệp: cần chú trọng hơn nữa đến công tác pháp
chế; kiện toàn tổ chức pháp chế, đội ngũ cán bộ pháp chế của doanh nghiệp; cần chủ
động tìm hiểu pháp luật, xem trọng ý nghĩa thượng tôn pháp luật ngay cả khi chưa
50
xảy ra rủi ro, tập trung nghiên cứu, khai thác nhiều kênh thông tin nhằm cập nhật
những văn bản pháp luật có liên quan đến doanh nghiệp kịp thời, nhằm hạn chế tối
đa rủi ro và tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp mình; phát huy và sử
dụng có hiệu quả quyền được tư vấn pháp luật trước khi thực hiện quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh. Từ đó, các doanh nghiệp mới có thể chủ động phòng ngừa, chủ
động trong các hoạt động kinh doanh của mình, nhất là trong điều kiện kinh tế hội
nhập quốc tế như hiện nay.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 trình bày thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh như thực trạng pháp luật về thực trạng pháp luật
về điều kiện được hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp; thực trạng pháp luật về quy định
ưu đãi tín dụng; thực trạng pháp luật về quy định vốn; thực trạng pháp luật về quy
định thuế, phí; thực trạng pháp luật về các hình thức hỗ trợ khác..
Bên cạnh đó, tác giả cũng tìm hiểu nghiên cứu yếu tố điều kiện kinh tế - xã
hội và sự tác động đến việc thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh để đánh giá mức độ thực hiện pháp luật về hỗ trợ
doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ở khía cạnh kết quả, đánh giá hạn
chế và nguyên nhân.
Dựa trên cơ sở lý luận của chương 1, thực trạng của chương 2, từ đó tác giả đề
xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp và nâng
cao hiệu quả từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh sẽ được trình bày trong chương
51
3.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ
DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỪ
THỰC TIỄN CÁC DOANH NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
và nâng cao hiệu quả thực hiện
3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
3.1.1.1. Pháp luật hỗ trợ về sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong
nền kinh tế thời đại công nghệ số
Pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp phải đáp ứng tốt và hiệu quả nhu
cầu của các doanh nghiệp khởi nghiệp, chỉ có vậy, doanh nghiệp khởi nghiệp Việt
Nam mới có cơ hội phát triển. Các cơ quan nhà nước, người làm chính sách hiểu đúng
bản chất của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thì mới xây dựng được pháp luật hỗ
trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp đúng trọng tâm. Khi và chỉ khi doanh nghiệp khởi
nghiệp được hỗ trợ về vốn, tín dụng, công nghệ và được pháp luật bảo vệ bằng pháp
luật sở hữu trí tuệ thì doanh nghiệp khởi nghiệp mới thành công và phát triển lên tầm
cao mới.
Trong kỷ nguyên của công nghệ số của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
kỹ thuật lần thứ 4 (cuộc cách mạng 4.0) thì việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp phát triển, tạo ra các sản phẩm có giá trị, vươn tầm thế giới, đóng góp vào sự
phát triển chung của nhân loại chính là cách để Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và
Việt Nam nói chung có thể gia nhập vào nền kinh tế công nghệ số, điều mà cả thế
giới đang hướng đến suốt nhiều thập kỷ qua.
3.1.1.2. Xây dựng thể chế pháp luật khởi nghiệp mang tầm nhìn quốc gia khởi
nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Các chương trình tuyên truyền, vận động khởi nghiệp sáng tạo cần kết hợp với
52
việc xây dựng hình ảnh quốc gia Việt Nam khởi nghiệp. Việt Nam cần hướng đến
việc có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp thành công mà phải cần hướng đến việc trở
thành một quốc gia khởi nghiệp thành công giống như một số nước đã làm. Mà trong
đó Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố khởi nghiệp năng động, sáng tạo, tự
chủ và là điển hình mẫu cho các tỉnh và thành phố khác học tập.
Việc xây dựng hình tượng quốc gia khởi nghiệp sẽ giúp thúc đẩy tinh thần
khởi nghiệp của mọi đối tượng trong xã hội, không chỉ thành phần tri thức mà còn
gia tăng động lực cho các thành phần lao động khác. Họ cùng đóng góp cho khởi
nghiệp sáng tạo trên nhiều phương diện khác nhau nhưng cùng hướng đến mục tiêu
chung là việc Việt Nam sẽ có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp mang tầm quốc tế.
Việt Nam sẽ trở thành quốc gia khởi nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, quốc gia khởi nghiệp cần xây dựng các chính sách pháp luật phù
hợp với mọi thành phần khởi nghiệp sáng tạo, đáp ứng nhu cầu của mỗi ngành, nghề
đặc trưng và điều quan trọng là phù hợp với quy định và thông lệ của kinh tế quốc tế.
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp
Trong những năm gần đây, khi phong trào khởi nghiệp sáng tạo thực sự trở
thành trào lưu mạnh mẽ, các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp của
Chính phủ ngày càng đa dạng và tập trung hơn, cả về mục tiêu, cách thức triển khai
lẫn quy mô hỗ trợ. Lý do chính để việc thúc đẩy quá trình hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp của Chính phủ đó là áp lực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhằm hướng
tới tương lai kinh tế số và nhu cầu đổi mới, thậm chí tái cơ cấu nền kinh tế, để cải
thiện năng lực cạnh tranh trong bối cảnh kinh tế kết nối toàn cầu.
Khi rà soát các tài liệu về doanh nghiệp khởi nghiệp có một vấn đề thường gặp
là ở hầu hết các quốc gia, doanh nghiệp khởi nghiệp thường gặp phải những vấn đề
tương tự như nhau. Khi tìm hiểu kỹ hơn từ nguyên nhân sẽ thấy sự tương đồng xuất
phát từ đặc điểm rất đặc trưng của doanh nghiệp khởi nghiệp, đó là khó khăn về tài
chính; khó khăn trong quản trị kinh doanh; khó khăn trong tuân thủ các thủ tục hành
53
chính của mỗi quốc gia.
Vì vậy, định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp cần:
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng, cần xem xét và đánh giá đúng thực
trạng triển khai hoạt động khởi nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm làm rõ những
đặc trưng của hoạt động này, những ngành hoặc lĩnh vực mà khởi nghiệp có nhiều
khả năng thành công, trình độ cũng như mức độ áp dụng công nghệ trong những
ngành hay lĩnh vực, đáp ứng được nhu cầu của Thành phố. Trên cơ sở đó, có thể xem
xét và áp dụng kinh nghiệm phù hợp của các quốc gia khởi nghiệp đi trước vào thực
tiễn vào Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và mở rộng cho cả Việt Nam nói chung
thì mới thực sự có hiệu quả.
- Xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp bằng cách cần cụ thể hóa chủ trương xây
dựng thành phố khởi nghiệp, quốc gia khởi nghiệp bằng một chương trình khởi nghiệp
tổng thể, theo đó, nêu rõ những bước triển khai cụ thể để hình thành hệ sinh thái khởi
nghiệp như: khuôn khổ thể chế hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp bao gồm chính sách
về thủ tục thành lập, đầu tư, thuế, thương mại hóa sản phẩm công nghệ. Tuy nhiên,
điểm cần lưu ý là các chính sách ưu đãi không chỉ dành riêng cho doanh nghiệp khởi
nghiệp, mà còn quan tâm đến cả nhà đầu tư bỏ vốn vào các quỹ đầu tư khi họ rót vốn
cũng như thoái vốn; quy trình hỗ trợ vốn đầu tư tương ứng với các giai đoạn phát
triển của doanh nghiệp khởi nghiệp; quy định hỗ trợ hoạt động của nhà đầu tư đặc
biệt là nhà đầu tư thiên thần và nhà đầu tư mạo hiểm.
Các biện pháp nhằm tăng cường năng lực và hoạt động của các tổ chức hỗ trợ
khởi nghiệp như hệ thống vườn ươm công nghệ hay các trung tâm thúc đẩy doanh
nghiệp khởi nghiệp.
- Cần xem xét pháp luật hỗ trợ xây dựng sàn chứng khoán chuyên biệt cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam. Tạo dựng một sàn giao dịch chuyên biệt có
vai trò then chốt trong việc hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp tiếp cận trực tiếp
nguồn vốn cần thiết cho sự phát triển của mình. Mặt khác, cung cấp một sàn giao dịch
54
thuận tiện để các nhà đầu tư gặp gỡ, trao đổi với doanh nghiệp khởi nghiệp được dễ
dàng hơn, cũng như tạo khả năng thoái vốn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà
đầu tư thiên thần nhỏ lẻ.
Để nâng cao hiệu quả của chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp cũng
như khuyến khích các hoạt động khởi nghiệp chính là việc điều chỉnh chính sách một
cách hữu hiệu, phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện chính
sách ra thực tế.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
3.2.1.1. Pháp luật về cải cách thủ tục hành chính
Cải cách thủ tục hành chính theo hướng rút gọn thời gian xử lý, đơn giản hóa
các thủ tục hành chính dành cho đối tượng doanh nghiệp khởi nghiệp và các đối tượng
liên quan nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo thiết thực và
cụ thể nhất không phải là trợ cấp vốn, tín dụng mà điều quan trọng nhất là gỡ bỏ
những giấy phép con, những quy định và thủ tục hành chính bất hợp lý tạo ra rào cản
và gánh nặng kinh doanh cho doanh nghiệp.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trung ương cần ban hành văn bản
quy định và hướng dẫn về việc thực hiện hỗ trợ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan chủ
trì việc tổ chức thực hiện các thủ tục gia nhập thị trường, rút khỏi thị trường hoàn
toàn có thể quy định về quy trình đăng ký, giải thể rút gọn dành riêng cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp, bên cạnh đó cần tư vấn miễn phí của cán bộ Nhà nước cho doanh
nghiệp khởi nghiệp biết, hiểu và thực hiện các quy định này, phối hợp với Bộ Tài
chính để quy định trường hợp giảm phí, lệ phí đối với chủ thể đăng ký là doanh nghiệp
khởi nghiệp.
Bộ Khoa học và Công nghệ, cơ quan quản lý về bảo hộ tài sản sở hữu trí tuệ,
có thể quy định về quy trình rút gọn cho đăng ký bảo hộ tài sản sở hữu trí tuệ của
doanh nghiệp khởi nghiệp, đồng thời phối hợp với Bộ Tài chính để quy định các
trường hợp miễn giảm phí đăng ký ban đầu, phí duy trì bảo hộ hàng năm cho các
55
doanh nghiệp khởi nghiệp.
3.2.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về
cơ chế tài chính
Pháp luật cần hỗ trợ cho việc xây dựng cơ chế kết hợp tài chính từ các ngân
hàng với tài chính từ các quỹ đầu tư mạo hiểm có phần góp vốn từ ngân sách nhà
nước nhằm đảm bảo duy trì thường xuyên nguồn vốn hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo.
Để doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng và hệ sinh thái khởi nghiệp nói chung
phát triển mạnh và bền vững, Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng các chính sách và
quy định pháp luật phù hợp, đồng thời có những chương trình cụ thể giúp hình thành
và phát triển những doanh nghiệp khởi nghiệp mới, trong đó, việc quan trọng nhất là
thiết lập các cơ chế tài chính để tham gia cùng khối đầu tư tư nhân vào khởi nghiệp,
theo mô hình mà nhiều quốc gia đã thực hiện thành công.
3.2.1.3. Tạo hành lang pháp lý về thời gian thu thuế Thu nhập doanh nghiệp
Sau khi doanh nghiệp đạt doanh thu ở một mức nhất định thì mới tiến hành
thu thuế Thu nhập doanh nghiệp, điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp tập trung nguồn lực cho việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
Việc đáp ứng và tuân thủ các quy định về thuế là một gánh nặng lớn đối với các doanh
nghiệp nhỏ và vừa trong đó có doanh nghiệp khởi nghiệp trong giai đoạn đầu khởi sự
kinh doanh.
Với đặc thù là các công ty chuyên phát triển các sản phẩm mới, tạo ra phân
khúc hoàn toàn mới trên thị trường, tạo ra tính đột phá, do vậy việc yêu cầu khai báo
thuế và thực hiện các thủ tục bắt buộc về thuế ngay từ lúc doanh nghiệp đi vào hoạt
động kinh doanh khiến các doanh nghiệp khởi nghiệp gặp nhiều khó khăn, về nhân
sự và về vấn đề chấp hành chủ trường của pháp luật đáp ứng các yêu cầu khai báo
thuế, kế toán. Vấn đề này tốn nhiều thời gian, tiền bạc và công sức nhưng hiệu quả
quản lý không cao. Thay vào đó nên có những quy định, doanh nghiệp đạt đến mức
độ doanh thu bao nhiêu trên một năm thì mới thực hiện các thủ tục báo cáo thuế, kê
56
khai thuế và nộp thuế cho nhà nước. Việc này sẽ giúp doanh nghiệp tập trung cho
lĩnh vực hoạt động chuyên môn của mình, hạn chế bị phân tâm trong quá trình vận
hành.
3.2.1.4. Xây dựng quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp ở cấp trung ương
Cần phải có sự thống nhất và chung tay của trung ương, vì xây dựng quỹ ở cấp
địa phương sẽ không mang lại hiệu quả thiết thực bởi cơ chế quản lý không rõ ràng,
lãng phí nguồn lực, còn mang tính cục bộ địa phương.
Do đó cần xây dựng một quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp ở cấp trung
ương mang các đặc điểm sau:
+ Chính phủ dự kiến một khoản ngân sách để rót vào quỹ;
+ Tạo lập cơ chế thành lập, quản lý nhà nước đối với của quỹ về mặt thủ tục
hành chính;
+ Dự kiến cơ chế vận hành đầu tư của quỹ;
3.2.1.5. Kết hợp biện pháp hỗ trợ trợ cấp với các biện pháp hỗ trợ khác
Xây dựng các biện pháp hỗ trợ mang tính miễn trừ, tài trợ bên cạnh biện pháp
trợ cấp nhằm cân bằng tài chính, tạo ra nguồn lực dài hạn tiến đến hỗ trợ bền vững
cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Theo kinh nghiệm của thực tiễn của nhiều
quốc gia trên thế giới, việc kết hợp biện pháp hỗ trợ trợ cấp với các biện pháp hỗ trợ
khác như cải tiến các thủ tục hành chính, miễn giảm nghĩa vụ đóng góp về thuế, hiệu
quả dự kiến cao hơn rất nhiều bởi:
- Không quá tốn kém về nguồn lực: Để triển khai các biện pháp hỗ trợ này,
ngoài các chi phí tối thiểu phải bỏ ra một lần như chi phí để điều chỉnh, bổ sung, sửa
đổi các văn bản quy định về quy trình, mức phí, lệ phí, miễn giảm thuế và giảm các
nguồn thu trong tương lai như các khoản thuế, phí, lệ phí phải nộp trong giai đoạn
đầu nhưng doanh nghiệp khởi nghiệp được ưu tiên miễn, giảm, các biện pháp này
không yêu cầu Nhà nước phải bỏ ra thêm nguồn lực nào khác để triển khai.
- Phạm vi hỗ trợ có thể mở rộng: Do khi thực hiện các biện pháp hỗ trợ này,
Nhà nước không phải trực tiếp chi từ Ngân sách nên không bị ràng buộc bởi các giới
hạn nguồn lực, và vì vậy có thể thực hiện đồng thời cho nhiều đối tượng thụ hưởng.
57
Hơn nữa, trong quá trình triển khai các biện pháp hỗ trợ này, Nhà nước không phải
tạo dựng thêm bộ máy hay cơ chế mới mà hoàn toàn có thể dùng các cơ quan, cách
thức hiện tại để thực hiện việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ở bất kỳ khu vực địa
lý, lĩnh vực hoạt động nào cũng đều có thể tiếp cận và thụ hưởng các hỗ trợ theo chính
sách này.
- Hỗ trợ đúng đối tượng, đúng nhu cầu của doanh nghiệp: Với quan điểm là
cần hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp nên chính sách chỉ áp dụng khi
doanh nghiệp khởi nghiệp triển khai các thủ tục, hoặc phát sinh khoản thuế, phí, lệ
phí liên quan, trên nguyên tắc một doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ không thể hưởng lợi
quá một lần cho các thủ tục, khoản thuế, phí, lệ phí được hỗ trợ. Vì thế, các biện pháp
hỗ trợ này cho phép hạn chế tối đa tình trạng trùng lặp, lãng phí hay thông đồng trong
việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp.
3.2.1.6. Xác định pháp luật về cơ chế lựa chọn doanh nghiệp khởi nghiệp nhận
hỗ trợ từ Chính phủ
- Cần xây dựng bộ tiêu chí và các quy định rõ ràng để các doanh nghiệp khởi
nghiệp căn cứ thực hiện khi nộp đơn đăng ký nhận hỗ trợ từ Chính phủ. Cần phân
làm 2 loại, hỗ trợ thông thường mang tính miễn trừ, tài trợ và hỗ trợ đặc biệt mang
tính trợ cấp cho các doanh nghiệp đăng ký, tránh lãng phí nguồn lực và tạo công bằng
cho các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động trong nền kinh tế.
- Cần rà soát kinh nghiệm quốc tế từ các quốc gia đã thực hiện bộ tiêu chí để
làm căn cứ, hiện nay phần lớn các nước đều quy định các tiêu chí khác nhau cho từng
nhóm biện pháp hỗ trợ để đáp ứng đa dạng các nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp với
những ngành nghề, lĩnh vực đặc trưng khác nhau. Đối với các nhóm hỗ trợ không cần
thiết phải có nguồn lực lớn, trong khi nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp có nhu cầu thì
áp dụng các điều kiện thụ hưởng đơn giản, dễ đáp ứng để ngày càng nhiều doanh
nghiệp khởi nghiệp được hưởng hỗ trợ càng tốt, qua đó tạo ra hỗ trợ rộng khắp, lan
tỏa, thúc đẩy cộng đồng doanh nghiệp khởi nghiệp.
Tuy nhiên, đối với nhóm hỗ trợ cần nguồn lực lớn, điều kiện thụ hưởng sẽ thắt
chặt, khó khăn hơn, quy trình chặt chẽ hơn, cho phép lựa chọn các đối tượng mục tiêu
58
hẹp hơn, tiềm năng hơn.
Thông thường thì các điều kiện để thụ hưởng các hỗ trợ về vốn, tín dụng hay
tài trợ tài chính sẽ nhiều hơn, khó khăn hơn. Trong khi đó, các điều kiện để thụ hưởng
các hỗ trợ về thủ tục hành chính như thủ tục nhanh chóng khi gia nhập thị trường, rút
khỏi thị trường, quy trình kế toán cần đơn giản hơn, giảm các loại phí, lệ phí chính
thức như phí đăng ký duy trì bảo hộ sở hữu trí tuệ, phí đăng ký kinh doanh, đơn giản
hơn, quy trình xét cấp hỗ trợ cũng nhanh chóng hơn.
3.2.1.7. Pháp luật về hỗ trợ phát triển các cơ sở mặt bằng, cơ sở hạ tầng, thuế,
công nghệ cho các vườn ươm, khu làm việc chung
Nhà nước cần xem xét cụ thể hóa các quy định phát luật tại các Nghị định,
Thông tư hướng dẫn nhằm hỗ trợ vốn, ưu đãi mặt bằng, cơ sở hạ tầng, thuế,… để các
chủ thể đầu tư vào các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo như khu làm
việc chung, vườn ươm công nghệ, khu thí nghiệm, khu thử nghiệm sản phẩm,… các
tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp phát triển sẽ giúp doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tiết
kiệm nhiều chi phí về mặt bằng, máy móc, thiết bị, nhân sự quản lý và vận hành các
thiết bị thường xuyên để tránh lãng phí do hao mòn tài sản. Từ đó, các doanh nghiệp
chỉ chuyên tâm tập trung nghiên cứu và phát triển sản phẩm.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp từ thực tiễn các doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
Nhận diện được các vấn đề của các doanh nghiệp khởi nghiệp, Nhà nước thực
hiện chính sách hỗ trợ, can thiệp để giúp đỡ các doanh nghiệp khởi nghiệp mang tính
thực thi, thực tiễn và lâu dài. Từ đó, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp khởi
nghiệp, các biện pháp hỗ trợ mà Chính phủ đã hoặc đang thực hiện đều tập trung vào
việc giúp giải quyết hoặc xử lý các vướng mắc, khó khăn, hạn chế trong quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp khởi nghiệp.
3.2.2.1. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về chính sách, môi trường pháp
lý
Hoàn thiện xây dựng pháp luật về chính sách, môi trường pháp lý về chiến
59
lược khởi nghiệp quốc gia tùy vào thế mạnh riêng, mỗi quốc gia và địa phương chọn
cho mình những lĩnh vực ưu tiên phù hợp, sau đó Nhà nước sẽ hỗ trợ các doanh
nghiệp khởi nghiệp hoạt động hiệu quả.
Cải thiện môi trường kinh doanh là điều kiện vô cùng quan trọng mà cụ thể là
các pháp luật về chính sách, môi trường pháp lý trong chiến lược khởi nghiệp quốc
gia. Cải thiện môi trường kinh doanh giúp doanh nghiệp khởi nghiệp thành công trong
hội nhập kinh tế trước những cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay.
Tối ưu hóa môi trường pháp lý, cần tạo lập cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp trên cơ sở đảm bảo nhận thức đầy đủ, quan điểm toàn diện, coi
trọng vai trò và vị trí của doanh nghiệp khởi nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời, hoàn thiện xây dựng thể chế, chính sách cho doanh nghiệp khởi nghiệp
cần sớm hoàn thiện, cụ thể hóa hơn một số nội dung về doanh nghiệp khởi nghiệp
trong Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp một cách toàn diện, có
sự tham gia góp sức của các tổ chức tài chính, ngân hàng và các cơ quan nhà nước.
Bên cạnh với việc ban hành hệ thống chính sách hỗ trợ, cần sớm thiết lập hệ thống
các cơ quan, tổ chức quản lý để triển khai và thực thi cơ chế chính sách. Hỗ trợ xây
dựng hệ thống cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp khởi nghiệp, nâng cao việc chỉ đạo
và dịch vụ công của Chính phủ dành cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Đặc biệt, cần tăng cường vị thế, vai trò của Nhà nước trong xây dựng quan hệ
hợp tác chiến lược giữa các doanh nghiệp khởi nghiệp với các doanh nghiệp lớn và
quỹ đầu tư mạo hiểm. Qua thời gian, cần đánh giá, khảo sát lại toàn diện hoạt động
của khu vực doanh nghiệp khởi nghiệp; tạo động lực cho cộng đồng doanh nghiệp
khởi nghiệp trên cơ sở các cam kết của Chính phủ về việc minh bạch hoá, công bằng
hoá thông tin về sự phát triển kinh tế của các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, cần
phát huy hơn nữa vai trò của doanh nghiệp tư nhân, tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp, tuân thủ các
nguyên tắc và thông lệ quốc tế.
Nhà nước nên thực hiện các biện pháp giảm thuế, điều chỉnh cách tính thuế
60
Giá trị gia tăng. Cụ thể, Nhà nước cần giảm thuế hoặc không đánh thuế trong ba năm
đầu từ khi thành lập doanh nghiệp, thuế doanh nghiệp và khu vực tư nhân được giảm
thấp hơn và các ưu đãi về phí, lệ phí, thuế khác.
Đồng thời, cần quan tâm hơn về đơn giản hóa thủ tục nhà nước. Nhà nước cần
tổ chức lại hệ thống hành chính, quản lý tài chính liên quan đến công quỹ, đơn giản
hóa thủ tục thành lập hoặc phá sản doanh nghiệp. Khung pháp lý mới cũng cần đặt ra
cho các doanh nghiệp khởi nghiệp cơ hội tái khởi động sau khi doanh nghiệp phá sản,
đẩy nhanh thủ tục phá sản, đẩy mạnh hệ thống phòng ngừa phá sản. Nhà nước cũng
cần đề cao yếu tố minh bạch trong hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp như:
xoá bỏ nạn tham nhũng, số liệu được Chính phủ công bố nhanh chóng, chia sẻ thông
tin chi tiết, công khai và minh bạch.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ; cơ chế chính sách thúc đẩy phát
triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Trong đó, cần lưu ý:
- Đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản không còn phù hợp, xây
dựng bộ máy quản lý nhà nước trong sạch; nâng cao trình độ nắm vững và thi hành
pháp luật của đội ngũ công chức quản lý nhà nước có liên quan trực tiếp đối với doanh
nghiệp khởi nghiệp; cần hướng dẫn doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển, giảm sự
nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm một bộ phận của công chức, viên chức đảm bảo cho
các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương thực sự là chỗ dựa vững
chắc, là người trợ giúp hiệu quả đối với doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Có những tiêu chí để phân loại, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp khởi
nghiệp một cách cụ thể rõ ràng, tránh đánh giá chung, phân biệt rõ thế nào là doanh
nghiệp khởi nghiệp. Đồng thời, cần có chiến lược ưu tiên tháo gỡ khó khăn, xây dựng
những nhân tố nòng cốt, nhằm tôn vinh và nhân rộng các điển hình tiên tiến; tạo môi
trường để các doanh nghiệp khởi nghiệp Thành phố tăng cường liên kết với nhau,
khích lệ họ có niềm tin và sự cống hiến hết mình vì sự phát triển của Thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng và là nền tảng xây dựng một đất nước Việt Nam thịnh vượng.
- Cần tăng cường xúc tiến thương mại và quản lý thị trường; nên có cơ chế đẩy
mạnh việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ và đầu tư vào các nước đã ký các hiệp định
61
thương mại và đầu tư; loại bỏ những rào cản gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự tham gia
hiệu quả các chuỗi sản xuất tạo ra giá trị toàn cầu, kể cả việc xuất khẩu lao động. Cần
có chính sách tăng cường giáo dục tinh thần khởi nghiệp và phát triển các kỹ năng để
đáp ứng các yêu cầu của khởi nghiệp trong thời đại công nghệ thông tin.
3.2.2.2. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tăng cường hỗ trợ chính sách
tài chính
Đây là nhóm biện pháp thiết thực nhằm giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp
vượt qua khó khăn ban đầu được cho là lớn nhất, chính là thiếu nguồn vốn. Muốn tập
trung phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp để làm đòn bẩy kinh tế, Chính phủ cần
tham gia đầu tư trực tiếp để kích thích tăng trưởng về số lượng và chất lượng các
doanh nghiệp khởi nghiệp. Qua đó thu hút khối tư nhân đầu tư vào doanh nghiệp khởi
nghiệp.
Thường sẽ bao gồm các yếu tố sau:
- Các khoản hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp khởi nghiệp: các hỗ trợ dưới
dạng khoản tài trợ trực tiếp vào các dự án khởi sự kinh doanh ở giai đoạn “ươm mầm”,
ý tưởng hoặc giai đoạn đầu của quá trình phát triển sản phẩm. Chính phủ có thể thực
hiện hỗ trợ tiền mặt, dựa trên cân đối thu, chi ngân sách nhà nước, Chính phủ nên
nghiên cứu, xem xét giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua hỗ trợ
một lượng tiền mặt theo một tỷ lệ nhất định trên vốn tự có của doanh nghiệp khởi
nghiệp.
- Thực thi các khoản cho vay, bảo lãnh tín dụng: Chính phủ đứng ra bảo lãnh
tín dụng cho những doanh nghiệp khởi nghiệp đi kèm các cam kết về sử dụng khoản
vay, vốn đối ứng tối thiểu. Các khoản tín dụng dành cho doanh nghiệp khởi nghiệp
từ các quỹ, tổ chức tín dụng của Nhà nước hoặc các biện pháp bảo lãnh cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp vay tín dụng tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng tư nhân.
- Hoạt động có hiệu quả các khoản đầu tư mạo hiểm: việc đầu tư này có thể
được thực hiện thông qua các quỹ đầu tư Nhà nước hoặc đầu tư gián tiếp thông qua
việc phối hợp đầu tư với các nhà đầu tư hay các quỹ đầu tư tư nhân hoặc cung cấp
các chương trình bảo lãnh đầu tư cho các nhà đầu tư hay quỹ đầu tư tư nhân đầu tư
62
vào các doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Tăng cường thực hiện chính sách miễn, giảm các nghĩa vụ tài chính với Nhà
nước, biện pháp thực hiện thông qua việc giảm các nghĩa vụ về tài chính phải nộp
của doanh nghiệp khởi nghiệp như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá
trị gia tăng, giảm các mức đóng góp cho bảo hiểm xã hội trong gia đoạn mới hình
thành doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Nâng cao phát triển thêm các kênh huy động vốn cho doanh nghiệp khởi
nghiệp, trong đó cần chú trọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán.
Nghiên cứu và triển khai sàn giao dịch chứng khoán đặc thù dành cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp, giúp các doanh nghiệp huy động vốn trực tiếp từ xã hội góp phần
tích cực trong việc tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Nếu thành
công, sàn giao dịch này sẽ chủ động hơn trong việc hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi
nghiệp tiếp cận nguồn vốn, góp phần giảm bớt áp lực huy động nguồn tài chính -
thường là gánh nặng đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp mới thành lập.
- Cần xây dựng một thị trường vốn chuyên dành cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp. Việc xây dựng một thị trường chứng khoán tập trung cung cấp vốn cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp, tách bạch với thị trường niêm yết có thể có lợi đặc biệt
đối với nền kinh tế đang tăng trưởng của Việt Nam và đặc biệt đối với các doanh
nghiệp khởi nghiệp. Thị trường này sẽ cung cấp cơ hội cho các doanh nghiệp có thể
tiếp cận các nguồn vốn với những tiêu chuẩn đặt ra ở mức thấp hơn về tiêu chuẩn
công khai về đặc tính của sản phẩm, báo cáo đánh giá tác động của sản phẩm đến thị
trường, báo cáo triển vọng của sản phẩm.
- Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư thiên
thần, thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, đây là nhóm biện pháp kêu gọi khu vực tư
nhân tham gia vào hoạt động đầu tư mạo hiểm cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Xây
dựng Quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp theo mô hình hợp tác công - tư thuộc
Chính phủ nhằm mục đích kêu gọi vốn đầu tư, tài trợ từ các thành phần xã hội cho
các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tiềm năng. Phần lợi nhuận tạo ra từ nguồn
63
đầu tư của Nhà nước và các nhà tài trợ sẽ được sử dụng để tái đầu tư cho hoạt động
ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khởi nghiệp cũng như đầu tư trực tiếp cho
doanh nghiệp khởi nghiệp tiềm năng trong tương lai.
- Nâng cao hỗ trợ từ khu vực tư nhân: Để thực hiện được hệ sinh thái khởi
nghiệp, doanh nghiệp lớn đi trước nên cấp vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp mới
hình thành trên cơ sở tương đồng về sản phẩm, công nghệ có liên quan hay bổ sung.
Những doanh nghiệp lớn xem trách nhiệm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp là những
mục tiêu phát triển cộng đồng lớn nhất.
- Đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, vườn ươm doanh nghiệp
khởi nghiệp thường là hình thức hỗ trợ khởi nghiệp được thành lập bởi các tổ chức
chính phủ, các trường đại học, các doanh nghiệp lớn. Các mô hình này cung cấp vốn
vay với lãi suất ưu đãi, vốn tài trợ cho các dự án tham gia; đồng thời, cung cấp cơ sở
vật chất, hạ tầng sản xuất, công nghệ, kỹ thuật, các khóa học về kinh doanh hoặc hệ
thống tư vấn pháp luật miễn phí hoặc với chi phí ưu đãi.
- Cần phát huy nguồn lực phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm để kết nối giữa
bên cần vốn với bên có vốn nhàn rỗi. Quỹ đầu tư với mục tiêu hỗ trợ tài chính cho
doanh nghiệp khởi nghiệp, đây là loại hình định chế tài chính trung gian, là dạng
doanh nghiệp đặc biệt, quỹ đầu tư dùng vốn để đầu tư trực tiếp như góp cổ phần, mua
cổ phiếu phát hành lần đầu với tư cách là cổ đông sáng lập; hoặc gián tiếp như kinh
doanh chứng khoán nhằm hưởng chênh lệch giá hay cổ tức từ các công ty hoặc lợi
tức trái phiếu.
- Nên phát triển thị trường dịch vụ tư vấn trong các lĩnh vực tài chính, quản lý,
công nghệ, luật pháp. Tại các nước công nghiệp, đầu tư vốn mạo hiểm phát triển, quá
trình gia tăng giá trị tài sản của nhà đầu tư mạo hiểm trong các đối tác được tài trợ
không thể thiếu vai trò của các nhà tư vấn. Trong quá trình hoạt động tư vấn phát
triển sẽ tạo ra mạng lưới thông tin hiệu quả giúp các nhà đầu tư hạn chế được rủi ro
và có thể dự báo hợp lý về xu hướng phát triển trong các lĩnh vực công nghệ mới
trong tương lai.
- Thành lập hiệp hội các nhà đầu tư vốn mạo hiểm Việt Nam. Đây là nơi kết
64
nối và tập trung các thông tin có giá trị liên quan đến hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm.
Hơn nữa, hiệp hội còn mở ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư mạo hiểm tham gia hợp
tác kinh doanh trong cùng một thương vụ nhằm chia sẻ rủi ro. Các doanh nghiệp khởi
nghiệp cố gắng liên kết lại với nhau để hỗ trợ nhau về công nghệ, thị trường và nguồn
vốn. Thúc đẩy mối liên kết giữa các startup trên thị trường với nhau, liên kết từ các
cơ quan tổ chức khác nhau từ Chính phủ, trường đại học, nhà đầu tư.
3.2.2.3. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tăng cường đẩy mạnh hoạt
động tư vấn, hỗ trợ kinh doanh
Cần có các giải pháp cụ thể nhằm giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp vượt qua
được các khó khăn ban đầu về kinh doanh do thiếu các kiến thức cần thiết về kinh tế,
quảng bá và kết nối mạng lưới. Ở một khía cạnh khác, các biện pháp này cũng góp
phần hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp vượt qua các khó khăn về vốn thông qua
việc giảm bớt các chi phí về quản lý, thuê dịch vụ.
Do các thị trường có đặc điểm tương đối khác biệt giữa thị trường hàng hóa,
thị trường địa lý, hành chính, dẫn tới nhu cầu tư vấn, hỗ trợ khác nhau giữa các doanh
nghiệp khởi nghiệp. Vì vậy các biện pháp hỗ trợ cũng rất đa dạng, tuy nhiên chủ yếu
vẫn là:
- Hỗ trợ xây dựng các ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ hướng dẫn sử
dụng trang thiết bị tại cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc
chung; hướng dẫn thử nghiệm, giúp doanh nghiệp khởi nghiệp hoàn thiện sản phẩm
mới, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới.
- Hỗ trợ kênh thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới
khởi nghiệp sáng tạo giữa các địa phương, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi
nghiệp sáng tạo.
- Hỗ trợ tư vấn về pháp lý và quản trị miễn phí hoặc được tài trợ một phần chi
phí.
- Hỗ trợ marketing cho doanh nghiệp khởi nghiệp, bao gồm cả quảng bá, giới
thiệu, xúc tiến thương mại cho sản phẩm của doanh nghiệp khởi nghiệp. Giúp doanh
nghiệp khởi nghiệp thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát
65
triển công nghệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ.
- Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản phẩm; thu
hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật, đo lường, chất lượng.
- Nhà nước cần tập trung đẩy mạnh chính sách phát triển hệ thống vườn ươm
công nghệ: coi trọng việc phát triển hệ thống vườn ươm công nghệ như là công cụ
đòn bẩy quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp bằng khoa
học công nghệ, thương mại hoá công nghệ và thúc đẩy đổi mới, chuyển giao công
nghệ, liên kết khoa học với sản xuất, thị trường.
- Thúc đẩy việc phát triển các mô hình vườn ươm đặc thù như vườn ươm tại
các trường đại học, hoặc vườn ươm cho chuyên gia Việt kiều, hay mô hình vườn ươm
doanh nghiệp khởi nghiệp được thành lập ngay trong doanh nghiệp nhà nước, nhất là
các tập đoàn, tổng công ty lớn.
- Xây dựng và kết nối trang thông tin điện tử vườn ươm doanh nghiệp đổi mới
sáng tạo trong các lĩnh vực để hỗ trợ và cung cấp thông tin cần thiết cho các cá nhân,
nhóm cá nhân, doanh nghiệp trong các lĩnh vực có quan tâm. Hỗ trợ các vườn ươm
quảng bá công nghệ, các doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua các hình thức tổ chức
hội chợ công nghệ, xúc tiến thương mại điện tử trong các triển lãm, hội chợ thương
mại.
3.2.2.4. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ tạo dựng cơ sở hạ tầng
Cần có chính sách hợp lý khi xây dựng khu tập trung dịch vụ hỗ trợ khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo tại các Bộ, ngành, địa phương có tiềm năng phát triển hoạt
động khởi nghiệp; hỗ trợ kinh phí lắp đặt hạ tầng công nghệ thông tin và cung cấp
dịch vụ Internet miễn phí trong khu tập trung dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo.
Thu hút tư nhân đầu tư sửa chữa, trả phí khai thác cơ sở hạ tầng, lắp đặt trang
thiết bị cần thiết và tổ chức quản lý; cung cấp các dịch vụ đào tạo, huấn luyện, tư vấn;
kết nối đầu tư, khách hàng; cung cấp nguồn nhân lực, không gian làm việc, thiết bị
66
dùng chung cho hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp khởi nghiệp có nhu cầu cao mặt bằng
hoạt động, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại để nghiên cứu nhưng lại không đủ
nguồn lực trang trải cho các cơ sở vật chất này.
Thông qua các chính sách khuyến khích về các nhà đầu tư xây dựng các khu
dịch vụ dùng chung cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, như hỗ trợ một phần chi phí
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, chi phí vận hành và thuê mặt bằng. Bao gồm các
biện pháp như xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập các khu làm việc chung, các công
viên công nghệ, vườn ươm khoa học của Thành phố, từ đó cung cấp không gian làm
việc và trang thiết bị với giá hợp lý, hoặc miễn giảm phí thuê cho các Startup hoặc
hỗ trợ các chi phí về cơ sở hạ tầng cho Startup tại các khu làm việc, vườn ươm tư
nhân.
3.2.2.5. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tăng cường truyền thông tạo
động lực, cảm hứng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp
Thông qua các hoạt động mang tính chất truyền thông rộng rãi, qua đó tạo cảm
hứng, thúc đẩy tinh thần sáng tạo khởi nghiệp, xây dựng nhận thức, văn hóa tích cực
của xã hội đối với doanh nghiệp khởi nghiệp, lựa chọn các Startup mục tiêu để tập
trung hỗ trợ hiệu quả.
Biện pháp này được ưu tiên sử dụng ở nhiều quốc gia, với ưu điểm là chi phí
thấp nhưng tạo hiệu quả rộng rãi như:
- Mở rộng và tài trợ cho các cuộc thi, giải thưởng cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo.
- Các hoạt động quảng bá, truyền thông trên báo chí, truyền hình nhằm tăng
cường nhận thức của công chúng đối với doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Bảo trợ, thúc đẩy thành lập các tổ chức kết nối, đại diện thông qua các câu
lạc bộ, cộng đồng, nhóm tương trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Môi trường khởi nghiệp Việt Nam còn non so với mặt bằng chung của thế giới
nên có nhiều tiềm năng để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp một cách mạnh mẽ vì dân
số đang ở trong thời kì dân số vàng, nền kinh tế đang phát triển, hơn nửa triệu doanh
67
nghiệp đang hoạt động, hàng trăm trường đại học và trung tâm nghiên cứu đang hoạt
động trên khắp cả nước. Cần phát huy tinh thần khởi nghiệp cho thanh niên ngay từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Bài học từ các quốc gia phát triển trên thế giới cho
thấy, ý chí tự làm chủ của con người phải được rèn luyện trong hệ thống giáo dục và
xã hội ngay từ khi còn nhỏ.
3.2.2.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục đào tạo cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp
Cần xây dựng các kỹ năng mà các doanh nghiệp khởi nghiệp thường bị hạn
chế, qua đó thúc đẩy và tạo thuận lợi cho việc khởi nghiệp sáng tạo nhằm mục tiêu là
tạo dựng tinh thần khởi nghiệp - đổi mới - sáng tạo trong trường học, các trường đại
học cần có nhiều chương trình học và làm thiết thực, cung cấp kiến thức và truyền
cảm hứng làm chủ sự nghiệp, làm chủ bản thân cho sinh viên. Vai trò cốt lõi của đại
học là tạo ra hạt giống và ươm tạo các ý tưởng khởi nghiệp, từ đó sinh viên các ngành
khác nhau, nơi cho các em đến giao lưu, gặp gỡ, trao đổi ý tưởng để khởi nghiệp.
Nhà trường cần tạo điều kiện môi trường thuận lợi để sinh viên tham gia các
hoạt động đổi mới, sáng tạo và nghiên cứu khoa học, tổ chức các cuộc thi ý tưởng
khởi nghiệp, tạo sự kết nối giữa các nhóm nhằm hình thành các dự án khởi nghiệp.
Kiến tạo liên kết giữa sinh viên với hoạt động giáo dục đào tạo để tạo việc làm; giữa
nhà khoa học với doanh nghiệp khởi nghiệp nhằm đưa tri thức, dự án nghiên cứu vào
đời sống - xã hội, sản xuất, kinh doanh; kết nối các nguồn lực hỗ trợ sinh viên khởi
nghiệp sáng tạo. Với hoạt động này, trường đại học không chỉ là nơi ươm mầm cho
các dự án kinh doanh đổi mới, sáng tạo tiềm năng mà còn tạo cơ hội thu hút những
tài năng đến làm việc, tăng cường trải nghiệm với môi trường thực tế cho sinh viên
từ khi còn học tập tại nhà trường.
Do vậy trường đại học phải đóng vai trò tiên phong trong việc nghiên cứu ứng
dụng, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho cộng đồng và đời sống
xã hội. Đồng thời, tiên phong trong việc tiếp cận các thành tựu khoa học tiên tiến của
thế giới, thử nghiệm và truyền tải những kiến thức đó đến thế hệ trẻ, đưa ra các định
68
hướng phù hợp với tiến bộ của thế giới. Vai trò của trường đại học đóng vị trí quan
trọng trong chuyển giao kết quả nghiên cứu thành công đến với doanh nghiệp, tạo ra
các kết nối giữa doanh nghiệp và nhà trường.
Thông qua giáo dục để phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp gồm hai nội dung
chính là các chương trình đào tạo, hướng dẫn khởi nghiệp tại các trường đại học, các
cơ sở giáo dục bậc cao về đào tạo, tập huấn các kiến thức kinh doanh, các kỹ năng,
điều kiện, quy trình để sinh viên có thể khởi nghiệp và các chương trình đào tạo kỹ
năng quản trị, quản lý tài chính, lao động cho các sáng lập viên của các doanh nghiệp
khởi nghiệp.
Tiểu kết chương 3
Chương 3 tác giả đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ
trợ doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh gồm hai định
hướng chính là định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
và định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp,
Trong đó định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
gồm pháp luật hỗ trợ về sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong nền kinh
tế thời đại công nghệ số và xây dựng thể chế pháp luật khởi nghiệp mang tầm nhìn
quốc gia khởi nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Về các giải pháp, tác giả đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp từ thực tiễn các doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong đó có bảy giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. Bao gồm:
- Pháp luật về cải cách thủ tục hành chính
- Tăng cường giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp về cơ chế tài chính
- Tạo hành lang pháp lý về thời gian thu thuế Thu nhập doanh nghiệp
- Xây dựng quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp ở cấp trung ương
69
- Kết hợp biện pháp hỗ trợ trợ cấp với các biện pháp hỗ trợ khác
- Xác định pháp luật về cơ chế lựa chọn doanh nghiệp khởi nghiệp nhận hỗ trợ
từ Chính phủ
- Pháp luật về hỗ trợ phát triển các cơ sở mặt bằng, cơ sở hạ tầng, thuế, công
nghệ cho các vườn ươm, khu làm việc chung.
Phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp được Chính phủ coi là nhiệm vụ trọng
tâm, thường xuyên và liên tục. Việc thực hiện đồng loạt các nhóm giải pháp sẽ tác
động trực tiếp và có hiệu quả cao đến doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ mở ra nhiều cơ
hội cho các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với vốn, với thị trường quốc tế.
Qua thực tiễn việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, bên
cạnh những kết quả còn có những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra cần thực hiện các
giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả doanh nghiệp khởi nghiệp những
năm tiếp theo.
KẾT LUẬN
Doanh nghiệp khởi nghiệp là đại diện cho mô hình kinh doanh mới, là động
lực chính thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng năng suất trong xã hội dựa trên tri thức
và công nghệ. Đó là hình thức phù hợp nhất để thực hiện các phát minh, sáng kiến và
đó là cơ chế tốt nhất để thương mại hóa các công nghệ mới, đưa các thành tựu khoa
học kỹ thuật vào cuộc sống, đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng của các công
nghệ mới và sự phát triển của nền kinh tế tri thức, sáng tạo.
Pháp luật hỗ trợ Doanh nghiệp khởi nghiệp được các quốc gia trên thế giới
dành sự quan tâm đặc biệt nhằm xây dựng hành lang pháp lý đủ mạnh và đủ sức hỗ
trợ để Doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng và hệ sinh thái khởi nghiệp nói chung trở
thành nền tảng của nền kinh tế, động lực thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm,
tạo thu nhập và khẳng định vị thế của mỗi quốc gia trên bản đồ thế giới.
Hiện nay, môi trường khởi nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh còn quá trẻ so
70
với nhiều thành phố khác trên thế giới nhưng có nhiều tiềm năng để khởi dậy tinh
thần khởi nghiệp mạnh mẽ. Thành phố cần quan tâm đến các chính sách đẩy mạnh
giáo dục như: tài trợ các chương trình đào tạo khởi nghiệp, đào tạo miễn phí trong
ngành lên kế hoạch kinh doanh, đào tạo sau đại học về khởi nghiệp.
Cải cách hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học theo hướng gắn với giáo
dục – đào tạo với hoạt động thực tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc đẩy văn hóa
khởi nghiệp là điều kiện tiên quyết để bản thân mỗi người hình thành ý chí tự thân
lập nghiệp.
Hệ thống giáo dục cũng cần có những chuyển biến mạnh về mục tiêu, nội dung
và phương pháp đào tạo, giảng dạy để giảm thiểu tinh thần học để làm quản lý, thiếu
thợ; tăng cường các hoạt động hướng nghiệp để học sinh ra trường biết chọn hướng
đi thích hợp với khả năng của mình; khơi gợi khả năng sáng tạo thay vì cách học nhồi
nhét, một chiều như hiện tại, cách đào tạo này vốn chỉ tạo ra những con người thụ
động, phục tùng và ỷ lại vào người khác. Có thể nói, hệ thống giáo dục là một trong
những mắt xích quan trọng nhất trong hệ thống các yếu tố nuôi dưỡng và thúc đẩy
tinh thần khởi nghiệp hiện đang là điểm rất yếu ở Việt Nam.
Cần có chính sách tạo điều kiện trao đổi và đổi mới công nghệ: Để có một hệ
sinh thái khởi nghiệp công nghệ cao, Nhà nước cần nâng cao cơ sở hạ tầng trực tuyến
và trực tiếp như tạo ra các cơ chế để tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp khởi
nghiệp, xây dựng nền tảng cho việc tìm kiếm đối tác, nền tảng giao kết và các sự kiện,
xây dựng cổng thông tin thực tế, rõ ràng trong việc tiếp cận và minh bạch thông tin.
Tăng cường thiết lập các mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Nhà nước và
doanh nghiệp khởi nghiệp để làm chủ công nghệ trong các mảng kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ giữa Chính
phủ và doanh nghiệp khởi nghiệp nên được đẩy mạnh lên thành quan hệ đối tác chiến
lược, hợp tác kinh doanh vì mục tiêu của mỗi bên trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
Với việc hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã và đang nhận được sự
quan tâm và đầu tư từ các doanh nghiệp trên khắp thế giới. Hệ sinh thái khởi nghiệp
theo đó cũng dần được hình thành, hướng tới mục tiêu quốc gia khởi nghiệp với khởi
71
nghiệp sáng tạo là trung tâm. Việc nghiên cứu về pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp là cần thiết ở thời điểm hiện tại nhằm đánh giá khách quan, chính xác vai trò
đóng góp của doanh nghiệp khởi nghiệp, đồng thời đề ra được phương hướng, giải
pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp trong thời gian tới.
Trong quá trình toàn cầu hóa, thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0, các
doanh nghiệp khởi nghiệp có giá trị vô cùng to lớn trong việc đưa hình ảnh đất nước,
đưa nền kinh tế vươn tầm. Với hoạt động ngày càng mạnh mẽ, sự phát triển nhanh
của các doanh nghiệp khởi nghiệp đã có tác động không nhỏ đến nền kinh tế. Luận
văn đã khái quát nội dung cơ bản của doanh nghiệp khởi nghiệp như khái niệm, đặc
điểm, vai trò và sự khác biệt giữa doanh nghiệp khởi nghiệp và doanh nghiệp nhỏ và
vừa, nhấn mạnh sự cần thiết phải có cơ chế hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với loại hình
doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, tác giả đã trình bày thực tiễn pháp luật về hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp từ thực tế Thành phố Hồ Chí Minh nhằm làm căn cứ để
đưa ra phương hướng trong công tác hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp trước những
cơ hội và thách thức mà các doanh nghiệp khởi nghiệp Thành phố cần phải đối mặt
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp hiện nay là những vấn đề
chủ yếu gây trở ngại đối với đa số các doanh nghiệp khởi nghiệp chính là pháp luật
về cải cách thủ tục hành chính, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp về cơ chế tài chính, tạo hành lang pháp lý về thời gian thu thuế Thu nhập
doanh nghiệp, xây dựng quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp ở cấp trung ương,
kết hợp biện pháp hỗ trợ trợ cấp với các biện pháp hỗ trợ khác, cần xác định pháp
luật về cơ chế lựa chọn doanh nghiệp khởi nghiệp nhận hỗ trợ từ Chính phủ và pháp
luật về hỗ trợ phát triển các cơ sở mặt bằng, cơ sở hạ tầng, thuế, công nghệ cho các
vườn ươm, khu làm việc chung
Nhà nước cần nâng cao và hoàn thiện về chính sách môi trường pháp lý; hỗ
trợ về tài chính; tư vấn hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp; hỗ trợ về cơ sở vật chất,
đất đai, văn phòng; truyền thông tinh thần và văn hóa khởi nghiệp nhằm tạo làn sóng
khởi nghiệp mạnh mẽ hơn nữa; thông qua giáo dục cần đưa khởi nghiệp là một môn
72
học mới trong chương trình giáo dục đào tạo trong các hệ đào tạo.
Khi nền kinh tế càng hội nhập sâu rộng hơn với nền kinh tế thế giới, các doanh
nghiệp khởi nghiệp cần phải đương đầu với sự cạnh tranh quyết liệt từ các doanh
nghiệp đến từ các nước trong khu vực và thế giới, do vậy, các doanh nghiệp khởi
nghiệp cần được hỗ trợ tích cực hơn nữa từ Nhà nước, đặc biệt trong việc giảm thiểu
rủi ro, các rào cản từ phía cơ chế chính sách, tạo môi trường kinh doanh thực sự mở,
bình đẳng, thuận lợi, rõ ràng, minh bạch để tạo động lực cho sự phát triển, sáng tạo
73
cho các doanh nghiệp khởi nghiệp kinh doanh trong thời gian tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2017) Kết luận số 21-KL/TW của Bộ Chính trị về sơ kết 5 năm
thực hiện Nghị quyết số 16-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ
phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, ban hành ngày 24/10/2017, Hà
Nội.
2. Bộ Tư pháp (2017) Công văn 1154/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL của Bộ Tư
pháp về ban hành kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng
tâm, liên ngành và lĩnh vực trọng tâm của Bộ Tư pháp năm 2017, ban hành ngày
10/04/2017, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2017) Quyết định số 108/QĐ-BTP của Bộ Tư pháp về ban hành
kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành
và lĩnh vực trọng tâm của Bộ Tư pháp năm 2017, ban hành ngày 23/01/2017, Hà Nội.
4. Chính phủ (2018) Nghị định số 34/2018/NĐ-CP về việc thành lập, tổ chức
và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, ban hành ngày
08/03/2018, Hà Nội.
5. Chính phủ (2018) Nghị định số 38/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về đầu tư
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, ban hành ngày 11/03/2018, Hà
Nội.
6. Chính phủ (2018) Nghị định số 39/2018/NĐ-CP hướng dẫn quy định chi tiết
một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, ban hành ngày 11/03/2018,
Hà Nội.
7. Chính phủ (2008) Nghị định số 66/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định về
hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp,ban hành ngày 28/05/2008, Hà Nội.
8. Phạm Thị Thu Hà (2018) “Khởi nghiệp và cơ hội cho doanh nghiệp Việt
Nam”, Tạp chí Công thương điện tử, nghiep-va-co-hoi-cho-doanh-nghiep-viet-nam-54290.htm>, (02/07/2019) 9. Phạm Thị Hà My (2019) “Hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp khởi nghiệp hiện nay thực trạng và giải pháp”, tin.aspx?ItemID=40&l=Traodoinghiencuu>, (08/08/2019) 10. Quốc hội (2015) Luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội. 11. Quốc hội (2014) Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội. 12. Quốc hội (2014) Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội. 13. Quốc hội (2017) Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14 ngày 12 tháng 06 năm 2017 của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội. 14. Quốc hội (2008) Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 ngày 03 tháng 06 năm 2008 của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội. 15. Quốc hội (2005) Luật Thương mại 2005 số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005 của nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội. 16. Quốc hội (2017) Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, ban hành ngày 24/11/2017, Hà Nội. 17. Hồ Xuân Sang (2018) Pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, Luận văn Thạc sỹ Luật học, trường Đại học Huế. 18. Thông tấn xã Việt Nam (2018) “Khởi nghiệp - nhìn từ TP.HCM: Xây dựng nền tảng từ kinh nghiệm thực tế”, dung-nen-tang-tu-kinh-nghiem-thuc-te-110147.html>, (02/07/2019) 19. Thủ tướng Chính phủ (2010) Quyết định 585/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn năm 2010 - 2014", ban hành ngày 05/05/2010, Hà Nội. 20. Thủ tướng Chính phủ (2008) Quyết định 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Ðề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025", ban hành ngày 18/05/2016, Hà Nội. 21. Thủ tướng Chính phủ (2014) Quyết định 2139/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện và điều chỉnh nội dung các dự án của “Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn năm 2010 - 2014", ban hành ngày 28/11/2014, Hà Nội. 22. Nguyễn Văn Trưởng (2018) Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội. 23. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Quyết định số 6179/QĐ- UBND của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phê duyệt đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025”, ban hành ngày 23/11/2017, Thành phố Hồ Chí Minh. 24. VCCI (2017) Báo cáo nghiên cứu cơ chế hỗ trợ doanh ngiệp khởi nghiệp sáng tạo. Kinh nghiệp quốc tế - Đề xuất giải pháp cho Việt Nam.