ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐỖ XUÂN DƯƠNG
HOµN THIÖN PH¸P LUËT THANH TRA GI¶I QUYÕT KHIÕU N¹I, Tè C¸O TRONG LÜNH VùC B¸N §ÊU GI¸ TµI S¶N
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐỖ XUÂN DƯƠNG
HOµN THIÖN PH¸P LUËT THANH TRA GI¶I QUYÕT KHIÕU N¹I, Tè C¸O TRONG LÜNH VùC B¸N §ÊU GI¸ TµI S¶N
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 8380101.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. MAI VĂN THẮNG
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đỗ Xuân Dương
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THANH TRA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ................................................... 8
1.1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thanh tra giải quyết
1.1.1. Những vấn đề lý luận về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản ...................... 8
và hoạt động bán đấu giá tài sản ..................................................... 8
1.1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản................................. 16
1.1.3. Xu hướng phát triển pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại,
tố cáo .......................................................................................... 19
1.2. Những vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật về thanh tra
giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản.... 26
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hoàn thiện pháp luật về thanh tra
giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản ......... 26
1.2.2. Nội dung hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại,
1.2.3. Những tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam ................... 31
tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản ......................................... 29
1.3. Ý nghĩa, vai trò của việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam ......... 36
1.4. Những điều kiện bảo đảm và yếu tố ảnh hướng tới việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản ở Việt Nam .......................... 38 Kết luận Chương 1.................................................................................. 42
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THANH TRA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG
LĨNH VỰC BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN....................................... 43
2.1. Thực trạng hoạt động bán đấu giá tài sản tại Việt Nam qua
công tác thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo .......................... 43
2.2. Thực tiễn hoàn thiện khung khổ pháp luật về hoạt động
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản và những vấn đề đặt ra ...................................... 63
2.3. Thực trạng hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật về thanh
tra giải quyết khiếu nại, tố cáo về bán đấu giá tài sản và
những vấn đề đặt ra .................................................................. 76
Kết luận chương 2................................................................................... 86
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA GIẢI QUYẾT KHIẾU
NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN....... 87
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản .................. 87
3.2. Những phương hướng chung về hoạt động thanh tra giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản ........ 90
3.3. Những giải pháp hoàn thiện cụ thể............................................ 94
3.3.1. Hoàn thiện khung khổ pháp lý ..................................................... 94
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế thực hiện ......................................................... 97
3.3.3. Các đề xuất khác ......................................................................... 99
Kết luận chương 3..................................................................................102
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................105
PHỤ LỤC ..............................................................................................107
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực
bán đấu giá tài sản được Bộ Tư pháp xác định là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ. Hàng năm, Bộ Tư pháp
xây dựng kế hoạch tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra về tổ chức và hoạt động
đấu giá tài sản ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Từ thời điểm thực
hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu
giá tài sản đến nay khi có Luật đấu giá tài sản năm 2016, Bộ Tư pháp đã tổ
chức nhiều Đoàn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực bán đấu giá
tài sản tại các địa phương trên cả nước, đồng thời tổ chức một số đoàn kiểm
tra và nắm tình hình về hoạt động bán đấu giá tài sản tại một số địa phương.
Qua công tác thanh tra giải quyết khiếu nại tố cáo, kiểm tra nắm tình hình, Bộ
Tư pháp đã phát hiện, chấn chỉnh, xử lý một số sai phạm trong hoạt động bán
đấu giá tài sản, phát hiện những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn bán đấu
giá tài sản để có các giải pháp tháo gỡ kịp thời.
Bộ Tư pháp đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa
phương thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản;
đề xuất và chủ động phối hợp với Văn phòng Chính Phủ, Bộ Tài chính, Bộ
liên ngành nắm tình hình triển khai thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản tại một số địa phương
qua đó đã kịp thời nghiên cứu, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong
thực tiễn hoạt động bán đấu giá quyền sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động bán đấu giá tài sản. Đồng thời, tạo tiền đề để hoàn thiện và xây
dựng hệ thống văn bản liên quan đến hoạt động đấu giá tài sản, trong đó có
Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan liên quan tổ chức các đoàn công tác
1
Luật đấu giá tài sản 2016.
Mặc dù các văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản như Luật đấu giá
tài sản năm 2016 và Nghị định 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản đã
có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, lĩnh vực bán đấu giá tài sản vẫn còn nhiều
bất cập, hạn chế, tổ chức bán đấu giá tài sản chưa đảm bảo tính công khai,
minh bạch, làm cho người có tài sản bán đấu giá (đặc biệt bán đấu giá tài sản
thi hành án) bị ảnh hưởng, dẫn đến việc khiếu nại, tố cáo kéo dài.
Trong quá trình thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
bán đấu giá tài sản, Thanh tra Bộ Tư pháp đã phát hiện những tồn tại, hạn
+ Quy định về tiêu chuẩn trở thành đấu giá viên còn đơn giản; điều kiện
chế, cụ thể:
thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bán đấu giá còn chưa cụ thể, dễ dãi;
+ Quy định về trình tự, thủ tục bán đấu giá còn chưa chặt chẽ, không
phù hợp như: việc công khai giá khởi điểm, công khai danh sách người đăng
ký tham gia đấu giá, niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá; phương
thức trả giá; nhiều kết quả bán đấu giá bị người có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính và Tòa án hủy do vi phạm trình tự thủ tục bán đấu giá;
+ Trong quá trình tổ chức bán đấu giá, còn có hiện tượng chiếm dụng
tiền đặt trước của khách hàng, thông đồng, dìm giá, tạo quân xanh, quân đỏ
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người có tài sản bán đấu giá;
nghiệp, quy mô nhỏ, manh mún, cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu, trình
độ quản lý còn bất cập. Phần lớn các doanh nghiệp đăng ký rất nhiều lĩnh vực
hoạt động trong đó có lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Nhiều doanh nghiệp có
đăng ký lĩnh vực bán đấu giá tài sản nhưng thực tế không có hoạt động;
+ Thực tế hoạt động đã xuất hiện tình trạng “cạnh tranh” không lành
+ Nhiều doanh nghiệp bán đấu giá tài sản hoạt động thiếu tính chuyên
2
mạnh giữa các tổ chức bán đấu giá tài sản. Một số tổ chức bán đấu giá không
tuân thủ nghiêm túc về trình tự, thủ tục bán đấu giá, trích lại phần trăm phí
cho cơ quan, đơn vị có tài sản bán đấu giá để thu hút sử dụng dịch vụ của tổ
chức mình. Điều này gây ảnh hưởng đến uy tín và sự phát triển lành mạnh của
hoạt động bán đấu giá tài sản.
Xuất phát từ thực tiễn của hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, tác giả tập trung nghiên cứu, hoàn thiện
pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá
tài sản, đề xuất các giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về thanh tra,
giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Đồng thời, hoàn
tài sản được công khai, minh bạch, khách quan, đảm bảo quyền lợi của người
thiện các khung khổ pháp lý về bán đấu giá tài sản để việc tổ chức bán đấu giá
có tài sản và hạn chế được khiếu nại, tố cáo.
Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế làm nảy
sinh nhiều mối quan hệ đa phương, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng công
nghiệp 4.0. cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động bán đấu giá tài sản. Do vậy,
cũng làm nảy sinh những tranh chấp trong giao thương, trong quan hệ dân sự
dẫn đến việc khiếu nại, tố cáo gia tăng, đòi hỏi công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo phải hoàn thiện các thể chế để đáp ứng nhiệm vụ trong thời đại mới.
Đồng thời, phải hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là pháp luật về bán đấu giá tài sản để hoạt động bán
nại, tố cáo trong lĩnh vực này.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế, pháp luật về đấu giá của Việt Nam từng bước được xây dựng và dần hoàn
thiện. Văn bản quy phạm pháp luật về đấu giá tài sản đã được quy định trong
nhiều văn bản luật và dưới luật. Trong đó, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật
đấu giá tài sản ngày càng công khai minh bạch nhằm hạn chế những khiếu
3
thương mại năm 2005, Luật đấu giá tài sản năm 2016 thay thế Nghị định số
17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản là
những cơ sở pháp lý quan trọng nhất về hoạt động đấu giá. Những văn bản
pháp luật này và những văn bản pháp luật khác có liên quan đã góp phần thúc
đẩy sự phát triển của đấu giá trong giao lưu dân sự ở Việt Nam; từng bước
củng cố và phát triển các thiết chế về đấu giá; thống nhất pháp luật về trình tự,
thủ tục bán đấu giá; đáp ứng phần lớn nhu cầu của cá nhân, tổ chức trong lĩnh
vực này. Qua đó, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong đấu giá được
tôn trọng và bảo vệ; giá trị hàng hóa của tài sản được phát huy; tài sản của các
cá nhân, tổ chức và Nhà nước được bảo vệ; hạn chế vi phạm pháp luật trong
bên cạnh những thành tựu, thực tiễn thi hành pháp luật và thực tiễn giao lưu
lĩnh vực đấu giá; tạo môi trường giao dịch cạnh tranh, lành mạnh. Tuy nhiên,
dân sự cho thấy, pháp luật hiện hành về đấu giá đã phát sinh nhiều hạn chế,
bất cập cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Vì vậy, học viên đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật thanh tra giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản” làm đề tài nghiên
cứu luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Ở Việt Nam, trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu,
bài viết về hoạt động bán đấu giá tài sản như: Luận án Tiến sỹ Luật học của
tác giả Đặng Thị Bích Liễu: “Các quy định nước ngoài về bán đấu giá tài
động bán đấu giá tài sản - thực tiễn và triển vọng của tác giả Đỗ Khắc Trung
(Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 11/2007); Một số bất cập của pháp luật về
bán đấu giá tài sản của tác giả Nguyễn Văn Mạnh; Thạc sỹ Nguyễn Thị Nga:
“Lý luận và thực tiễn đấu giá quyền sử dụng đất”, Tạp chí Luật học, số
5/2004; Nguyễn Mạnh Cường: “So sánh đấu giá hàng hóa trong luật Thương
sản, Luật về bán đấu giá tài sản của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”; Hoạt
số 7/2008; Đề tài khoa học cấp Bộ: “Giải quyết khiếu tố của nhân dân - Thực
4
mại với đấu giá tài sản trong Luật Dân sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
trạng và những bài học kinh nghiệm” (năm 2001) của Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh; Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong luật
khiếu nại, tố cáo (Nguyễn Thế Thuấn, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 5 -
2000); Những vướng mắc trong giải quyết khiếu nại, tố cáo và cách giải quyết
(Nguyễn Thắng Lợi, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 8 - 2000); Hoàn thiện
Luật khiếu nại, tố cáo trong điều kiện hội nhập quốc tế (Trần Văn Sơn, Tạp
chí nghiên cứu lập pháp, số 7 -2005).
Liên quan đến lĩnh vực thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực bán đấu giá tài sản đã có một số công trình, đề tài khoa học nghiên cứu về
kiện cần thiết để thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo như: Đề tài khoa
khiếu nại, tố cáo với các cách tiếp cận khác nhau nhằm hoàn thiện những điều
học cấp Bộ Giải quyết khiếu tố của nhân dân – Thực trạng và những bài học
kinh nghiệm (năm 2001) của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân trong luật khiếu nại, tố cáo (Nguyễn Thế
Thuấn, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 5 -2000); Những vướng mắc trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo và cách giải quyết (Nguyễn Thắng Lợi, Tạp chí dân chủ
và pháp luật, số 8 - 2000); Hoàn thiện Luật khiếu nại, tố cáo trong điều kiện
hội nhập quốc tế (Trần Văn Sơn, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 7 -2005).
Phần lớn đề tài, công trình nghiên cứu trên đây đã được nghiên cứu,
thực hiện cách đây khá lâu nên nhiều vấn đề lý luận đã không đáp ứng được
cảnh hiện nay. Bên cạnh đó, do giới hạn trong phạm vi các bài báo khoa học
nên nhiều vấn đề liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động thực
tiễn trong lĩnh vực này chưa được đề cập một cách thỏa đáng.
Bên cạnh đó, về cơ bản các công trình và bài viết nêu trên đã nêu được
toàn cảnh của hoạt động bán đấu giá tài sản và đưa ra các giải pháp, khuyến
yêu cầu đặt ra của hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bối
những năm trước đây và giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, chưa có các công
5
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản của nước ta trong
trình và bài viết nào đánh giá về thực trạng của hoạt động thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản.
Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới đất nước, yêu cầu cải
cách hành chính, cải cách tư pháp có nhiều tác giả đề cập đến lĩnh vực pháp
luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam nhưng ở dưới những góc độ khác nhau.
Vấn đề bán đấu giá tài sản không còn mới về mặt lý luận tuy nhiên lại xảy ra
nhiều bất cập trong thực tiễn thực hiện.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá được thực tiễn và lý luận
của hoạt động bán đấu giá tài sản và trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo
nhiệm và quy trình thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, qua đó để xác định rõ về thẩm quyền, trách
đấu giá tài sản tại nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài: “Hoàn thiện pháp luật thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản”, đề tài sẽ đánh giá một cách toàn diện thực
trạng tổ chức bán đấu giá tài sản của các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài
sản và các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp. Qua đó, đưa ra các giải pháp
hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực bán đấu giá tài sản, đồng thời đề ra các giải pháp để việc bán đấu giá
tài sản được công khai, minh bạch khách quan nhằm hạn chế được việc khiếu
nại, tố cáo trong bán đấu giá tài sản.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
+ Hệ thống tri thức lý luận của pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Những vấn đề lý luận về thanh
tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản;
bán đấu giá tài sản;
6
+ Hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
+ Thực tiễn hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực bán đấu giá tài sản của Thanh tra Bộ Tư pháp
+ Thực tiễn hoạt động bán đấu giá tài sản của Trung tâm dịch vụ bán
đấu giá tài sản (thuộc Sở Tư pháp) và tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp;
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Luận văn được nghiên cứu tại Thanh tra Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp Hà Nội
và Tp Hồ Chí Minh, Cục Bổ trợ tư pháp và các tổ chức bán đấu giá trên phạm vi
toàn quốc. Thời gian nghiên cứu từ 2017 đến nay.
+ Các kết luận giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra Bộ Tư pháp
trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản; các văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu
giá tài sản; các Báo cáo thanh tra, kiểm tra của Sở Tư pháp thành phố Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh (thời gian từ năm 2017 -2018).
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng và đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp và một số phương pháp luận khác để
lựa chọn những vấn đề cần thiết đưa vào nội dung nghiên cứu.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật thanh tra giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Chương 2: Cơ sở thực tiễn hoàn thiện pháp luật thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về
gồm 3 chương
7
thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THANH TRA
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC
BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
1.1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản
1.1.1. Những vấn đề lý luận về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
và hoạt động bán đấu giá tài sản
nước Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật và đổi
Trải qua các giai đoạn phát triển trong lịch sử lập hiến và lập pháp, Nhà
mới cơ chế giải quyết nhằm đảm bảo quyền khiếu nại và quyền tố cáo của các
chủ thể. Những thay đổi trong cơ chế thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo là
một quá trình phát triển của cả một hệ thống pháp luật thực định và cơ sở lý
luận cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Cho đến nay đã có
nhiều công trình, đề tài khoa học nghiên cứu về hoạt động thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo với mục đích tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và cơ chế giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2004 thì
“Thanh tra là kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí
Pháp lý in năm 1986, định nghĩa thanh tra được xem là một biện pháp (phương
pháp) của kiểm tra. Nhiệm vụ thanh tra được uỷ quyền cho các cơ quan nhà
nước có trách nhiệm. Thanh tra gắn liền với chức năng quản lý nhà nước. Để
làm được nhiệm vụ, Thanh tra có thể dựa vào bộ máy chuyên môn của mình và
quần chúng. Cơ quan Thanh tra có trách nhiệm xem xét các đơn thư khiếu nại, tố
nghiệp” [16]. Trong cuốn sách “thuật ngữ pháp lý phổ thông” do Nhà xuất bản
8
cáo để tìm kiếm những biện pháp giải quyết thoả đáng theo quy định.
Theo từng giai đoạn lịch sử, khái niệm về thanh tra cũng được nhận
thức khác nhau. Đó là sự phản ánh về mô hình tổ chức các cơ quan nhà nước;
về sự kiểm soát đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước:
Thời kỳ phong kiến, ở các triều đại Lý, Trần, Lê có cơ quan “Ngự sử
đài”, người đứng đầu là “Quan ngự sử” với chức năng gần giống như cơ quan
thanh tra nhà nước hiện nay. Ngự sử đài có nhiệm vụ giúp vua trong việc theo
dõi, xem xét các công việc hệ trọng của triều đình. Quan ngự sử đời nhà Trần
có quyền tiền trảm hậu tấu và là chức quan duy nhất có quyền can gián vua.
Thời nhà Lê có hàm “Gián nghị đại phu” phong tặng cho bất cứ bề tôi nào
những việc nhà vua nên làm và can gián nhà vua những việc không nên làm.
dám nói thẳng, nói đúng sự thật, Gián nghị đại phu có quyền đề xuất ý kiến về
Năm 1945, ngay sau khi Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập,
ngày 23 tháng 11 năm 1945, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban
Thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh nêu rõ: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh
tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên
của Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ” [13], từ đây thuật ngữ
“Thanh tra” xuất hiện, được chỉ một cơ quan cụ thể, quyền thanh tra được xác
định và chính thức giao cho Chính phủ.
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta được ban hành. Trong
đó quy định quyền “kiểm soát” đối với Chính phủ được giao cho Ban Thường
soát, phê bình Chính phủ” [24], thực chất đây là quyền giám sát của cơ quan
dân cử (cũng như quyền giám sát của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc
hội đối với Chính phủ).
Hiến pháp năm 1959 đã đề cập đến một số nội dung về kiểm tra việc thi
hành các quyết định quản lý nhà nước: “Hội đồng Chính phủ ra những thông
vụ của Nghị viện: “Khi Nghị viện không họp, Ban Thường vụ có quyền kiểm
9
tư, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các Thông tư và Chỉ thị ấy” và “Ủy ban
hành chính các cấp quản lý công tác hành chính... ra Quyết định, Chỉ thị và
kiểm tra việc thi hành Quyết định, Chỉ thị ấy” [25]. Như vậy, thanh tra, kiểm
tra ở đây ngoài việc xem xét vi phạm của các cơ quan, nhân viên hành chính
hay Chính phủ còn mở rộng ra giám sát, kiểm tra các hoạt động xây dựng,
ban hành, thực hiện các văn bản pháp quy.
Hiến pháp 1980 sử dụng thuật ngữ “thanh tra” với nội dung là một
chức năng của cơ quan quản lý nhà nước. Hiến pháp quy định Hội đồng Bộ
trưởng có nhiệm vụ: “Tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra và kiểm tra của
Nhà nước” [18, Điều 107, Khoản 15], Điều 110 quy định: “Chủ tịch Hội đồng
thi hành những quyết định của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ
Bộ trưởng lãnh đạo công tác của Hội đồng Bộ trưởng, đôn đốc, kiểm tra việc
trưởng” [18]. Về Ủy ban nhân dân, Điều 124 quy định: “Ủy ban nhân dân các
cấp chiểu theo quyền hạn do luật định, ra những Quyết định, Chỉ thị và kiểm
tra việc thi hành những văn bản đó” [18].
Đến Hiến pháp năm 1992, khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện
rõ hơn qua các Điều 112, 115, 116 và 124. Khoản 7 Điều 112 quy định Chính
phủ có nhiệm vụ “tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà
nước, công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng,
trong bộ máy nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân”.
Điều 115 quy định “...Chính phủ ra Nghị quyết, Nghị định, Thủ tướng Chính
với Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, thủ trưởng các cơ quan
thuộc Chính phủ “ra Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và kiểm tra việc thi hành
các văn bản đó...” (Điều 116). Đối với Ủy ban nhân dân, Điều 124 Hiến pháp
1992 cũng quy định “Ủy ban nhân dân... ra Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra
việc thi hành những văn bản đó” [19].
phủ ra Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó...”. Đối
10
Trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, hoạt động thanh tra của các tổ
chức thanh tra được xác định là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý
nhà nước. Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 quy định nhiệm vụ của các tổ chức
thanh tra nhà nước là:
Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch
nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, trừ hoạt động điều
tra truy tố, xét xử của các cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án và việc
giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm hợp đồng
kinh tế của các cơ quan trọng tài kinh tế [15, Điều 8].
Theo tinh thần Luật Thanh tra năm 2010, Thanh tra là hoạt động xem
sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm phát hiện
xét, đánh giá của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc chấp hành chính
và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật để xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý, phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính
sách pháp luật để kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Thanh tra là
một chức năng không thể thiếu của hoạt động quản lý, là một khâu của chu
trình quản lý của Nhà nước.
Mục đích hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm phát
hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện
và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện
hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó, hoạt
động thanh tra dựa trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà
nước từ Trung ương đến địa phương nhưng do sự phân tán của nền hành
chính nên các tổ chức thanh tra nhà nước ở các cấp, các ngành gần như lệ
đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao
11
thuộc hoàn toàn vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, trong khi sự chỉ
đạo của cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên có phần trở thành hình thức,
kém hiệu quả.
Do vậy, hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo nói riêng gồm những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Một là, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước
Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình quản lý
nhà nước, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước.
Thanh tra là một phạm trù lịch sử, thanh tra gắn liền với vai trò của Nhà
nước trong kiểm soát nhà nước, kiểm soát xã hội. Chính bản chất của quá
điều hoà những hoạt động đơn lẻ và thực hiện những chức năng chung.
trình lao động xã hội đã đòi hỏi tất yếu phải có sự quản lý của Nhà nước để
Như vậy, việc xem xét, định hướng đánh giá kết quả quản lý là một
phương diện của quản lý xã hội. Quản lý nhà nước là một bộ phận quản lý xã
hội và ở đâu có quản lý nhà nước ở đó có thanh tra.
Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì quản lý nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (quy định thẩm quyền của
các cơ quan thanh tra, quy định về tổ chức, quyết định và kết luận thanh tra,
sử dụng các kết quả, các thông tin từ phía các cơ quan thanh tra). Mặt khác,
hoạt động chấp hành của quản lý nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành,
cho nên trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự
Quản lý nhà nước và thanh tra có điểm chung là nhân danh quyền lực
nhà nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Song xem xét
theo cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là chức năng, là công cụ,
phương tiện để quản lý nhà nước.
Hai là, Thanh tra là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan có thẩm quyền.
12
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt
chẽ với tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức năng
của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm
thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Nói về
quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt
pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra phải được
Nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý.
Có thể nói, thanh tra là một hoạt động luôn luôn mang tính quyền lực
nhà nước. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Thanh
tra (ở đây được dùng với tính chất là một danh từ chỉ cơ quan có chức năng
hoạt động của mình và nó nhân danh Nhà nước khi áp dụng quyền năng đó.
này) luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong quá trình tiến hành
Thanh tra chỉ xuất hiện từ khi Nhà nước ra đời trong lịch sử và nó cũng sẽ
tiêu vong cùng với sự tiêu vong của Nhà nước. Theo Mác, đến một giai đoạn
nào đó, Nhà nước sẽ tự tiêu vong và khi đó, chức năng thanh tra sẽ cùng với
Nhà nước được “xếp bên cạnh chiếc xa kéo sợi và chiếc rìu đồng cổ”.
Tóm lại, chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là Nhà nước, thanh tra
xuất hiện, tồn tại và tiêu vong cùng với Nhà nước. Ở các nước trên thế giới,
dù mô hình tổ chức hoạt động thanh tra có khác nhau nhưng đều có chung đặc
điểm này. Ở nước ta, Pháp lệnh Thanh tra 1990 quy định: “thanh tra là một
chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là phương thức bảo đảm
chủ xã hội chủ nghĩa” [15, Điều 1].
Luật Thanh tra năm 2010 quy định:
Cơ quan thanh tra nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân
cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật [20].
13
phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ, các cơ
quan thanh tra nhà nước có quyền hạn được xác định và khả năng thực hiện
những quyền hạn đó:
- Quyết định tổ chức các cuộc thanh tra theo chương trình, kế hoạch
được phê duyệt.
- Trình thủ trưởng cơ quan quản lý hành chính phê duyệt hoặc quyết
định thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
- Yêu cầu đối tượng thanh tra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp
thông tin, tài liệu có liên quan.
- Niêm phong tài liệu, kiểm kê tài sản, trưng cầu giám định.
- Tạm đình chỉ hành vi vi phạm, tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép, thu hồi
tài sản.
- Xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật (đối với thanh tra
chuyên ngành).
- Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra, yêu cầu
truy cứu trách nhiệm đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được
phát hiện, kể cả việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu của
tội phạm sang cơ quan điều tra để xử lý.
- Trong một số trường hợp trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế
Tính quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra được cụ thể hoá
trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra, phương thức
tiến hành thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan thanh tra với
đối tượng bị thanh tra... Nếu chỉ chú trọng đến một mặt nào đó mà không thực
hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực trên đều dẫn đến hạ
nhà nước.
14
thấp vai trò và hiệu quả của hoạt động thanh tra, hạn chế hiệu lực thanh tra.
Ba là, thanh tra có tính độc lập tương đối
Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm
này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy
quản lý nhà nước. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ
quan, tổ chức tự thực hiện, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một
cơ quan chuyên trách. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan quản lý nhà
nước khác, các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là xem xét, đánh giá
một cách khách quan việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các
cơ quan, tổ chức và cá nhân.
cùng cấp thể hiện ở một số nội dung sau:
Tính độc lập tương đối của thanh tra với cơ quan quản lý nhà nước
Các cơ quan thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ
trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng
dẫn về công tác tổ chức, nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ; chịu sự
hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ của cơ quan thanh tra cấp trên.
- Chánh Thanh tra do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước bổ nhiệm
sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra cấp trên.
- Trong trường hợp những kiến nghị về thanh tra do Chánh Thanh tra
báo cáo, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp không nhất trí, Chánh
thanh tra có quyền bảo lưu báo cáo với người đứng đầu cơ quan thanh tra nhà
- Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh Thanh tra các cấp, các ngành có quyền
ra quyết định thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
- Thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước được quyền ra quyết định
xử lý theo quy định của pháp luật đối với những hành vi vi phạm.
Các cơ quan thanh tra nhà nước là bộ phận quan trọng, không thể thiếu
nước cấp trên xem xét, quyết định.
15
trong cơ cấu bộ máy nhà nước, là công cụ đắc lực để giữ gìn, bảo vệ và tăng
cường trật tự, kỷ cương quản lý, là chức năng thiết yếu của các cơ quan quản
lý nhà nước, nhưng có tính độc lập tương đối với cơ quan quản lý.
Từ những phân tích nêu trên, Thanh tra được hiểu như sau:
“Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước,
là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan nhà nước đối với việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hoạt động
thanh tra được thực hiện bởi cơ quan thanh tra chuyên trách hoặc cơ quan có
chức năng thanh tra theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm phòng ngừa,
phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở
biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả,
trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với Nhà nước các
hiệu lực của hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”.
1.1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phục
vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Hệ thống pháp luật được cấu tạo nên bởi các thành tố khác nhau, cho
nên để bảo đảm được tính thống nhất của hệ thống pháp luật thì giữa các
Bất cứ một sự mâu thuẫn, chồng chéo nào xảy ra trong hệ thống pháp luật đều
phải được phát hiện và loại khỏi hệ thống.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật - biểu hiện cụ thể của hệ thống
pháp luật bao gồm nhiều loại văn bản khác nhau theo thứ bậc hiệu lực pháp
lý, tính thống nhất của hệ thống pháp luật đặt ra yêu cầu văn bản có hiệu lực
thành tố cấu tạo nên nó không được có sự mâu thuẫn, chống chéo với nhau.
16
pháp lý thấp phải phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn; quy phạm
pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành phải phù hợp với quy phạm pháp luật
do cơ quan cấp trên ban hành và đều phải phù hợp với quy định của Hiến
pháp. Như vậy, tính thống nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi nội dung chính
sách phải nhất quán trong toàn hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các văn
bản quy phạm pháp luật, các quy phạm pháp luật phải phù hợp, không mâu
thuẫn, chồng chéo với nhau.
Pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các
mối quan hệ đối với các chủ thể tham gia giao dịch dân sự trong lĩnh vực bán
tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản được thể hiện tại Luật Thanh tra
đấu giá, cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc thanh tra, giải quyết khiếu nại,
2010, Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 và Luật Đấu giá tài
sản năm 2016, cụ thể:
Luật Thanh tra năm 2010 quy định:
Cơ quan thanh tra nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp
luật [20, Điều 5].
Thanh tra bộ là cơ quan của bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước
về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống
tham nhũng; tiến hành thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của bộ; tiến hành thanh tra
chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản
Khoản 1, Điều 17, Luật Thanh tra 2010 quy định:
cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật [20].
17
lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của bộ; giải quyết khiếu nại, tố
Luật Khiếu nại năm 2011 quy định:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu
nại của các cơ quan hành chính nhà nước trong phạm vi cả nước.
Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản
lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại trong phạm vi cả nước.
2. Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện
quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại trong phạm vi
quản lý của mình.
3. Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, thanh tra tỉnh, thành phố trực
phố thuộc tỉnh giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp
thuộc trung ương, thanh tra sở, thanh tra huyện, quận, thị xã, thành
quản lý công tác giải quyết khiếu nại [21, Điều 63].
Luật Tố cáo năm 2018 quy định:
1. Chánh thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ, Chánh thanh tra cấp tỉnh,
Chánh thanh tra sở, Chánh thanh tra cấp huyện có trách nhiệm sau đây:
a) Xác minh nội dung tố cáo, báo cáo kết quả xác minh, kiến nghị
biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp khi được giao;
b) Xem xét việc giải quyết tố cáo mà người đứng đầu cơ quan, tổ
chức cấp dưới trực tiếp của cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp
căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến
nghị người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp xem
xét, giải quyết lại [23, Điều 31, Khoản 1].
Luật Đấu giá năm 2016 quy định chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp:
g) Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm về tổ chức và hoạt động của tổ
đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp có
18
chức đấu giá tài sản; hoạt động đấu giá của tổ chức mà Nhà nước sở
hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ
chức tín dụng; tổ chức và hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của đấu giá viên theo thẩm quyền [22, Điều 77, Khoản 2, Điểm g].
Với các quy định nêu trên cho thấy, về cơ bản đã có đủ cơ sở pháp lý
quan trọng để thanh tra Bộ Tư pháp tiến hành thanh tra giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp nhất là trong lĩnh vực
bán đấu giá tài sản. Mặt khác, trong các văn bản pháp luật hiện hành cũng đã
quy định tương đối đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, thủ trưởng
các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quy định pháp luật về thanh tra,
Tuy nhiên, qua quá trình thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo nhất là trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản.
Thanh tra Bộ Tư pháp trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản đã phát hiện những
kẽ hở trong các văn bản về bán đấu giá tài sản. Do đó, cần có công trình
nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật, để việc tổ chức bán đấu giá tài
sản ngày càng được khách quan, công khai, minh bạch.
1.1.3. Xu hướng phát triển pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu
nại, tố cáo
Trong xu thế toàn cầu hoá - sự chuyển đổi hướng tới sự tương tác, hội
nhập và sự phụ thuộc lẫn nhau của người dân và các tổ chức xuyên biên giới -
tăng cường giao dịch giữa các nước trong thương mại và đầu tư, trong các
cơ hội mới về kinh tế nhưng cũng tạo ra các thách thức về chính trị, thể chế,
công nghệ và xã hội, đặc biệt đối với người nghèo mà ở đó chính phủ phải
giải quyết các vấn đề nhằm đảm bảo sự phát triển công bằng giữa kinh tế và
xã hội. Cùng với việc đổi mới từ quản lý hành chính “truyền thống” sang
quản lý hành chính nhà nước mới, mỗi quốc gia phải tiến hành đổi mới hệ
dòng vốn, con người, công nghệ và thông tin quốc tế. Toàn cầu hóa tạo ra các
19
thống pháp luật nói chung và pháp luật thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản nói riêng để phù hợp với cách thức quản lý
hành chính nhà nước mới, đáp ứng yêu cầu hội nhập nói chung.
Nhu cầu để tăng cường quản lý hoạt động bán đấu giá và nâng cao năng
lực của nhà nước trong việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ mới trong
thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa đã được các Quốc gia coi trọng. Do đó, hoàn
thiện về pháp luật thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu
giá tài sản trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa đã được Đảng và Nhà nước
chú trọng thực hiện. Nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng nhưng phải thay
đổi cách thức thực hiện liên quan đến lợi ích công. Do đó, pháp luật thanh tra
dựng trên các tiêu chí nền tảng như công bằng, minh bạch và sự tham gia của
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản cần được xây
người dân. Pháp luật thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản cũng cần được thiết lập để điều chỉnh các quan hệ giữa nhà
nước với cá nhân, tổ chức dựa trên các nguyên tắc nhất định và đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong quá trình tham gia đấu
giá tài sản, cũng như trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan thực hiện giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản.
Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đòi hỏi hệ thống pháp luật
nói chung và hệ thống pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
bán đấu giá tài sản cũng cần có sự điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tế và
quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo cần phải nắm bắt các yếu tố thúc
đẩy xu hướng phát triển của pháp luật trong lĩnh vực này, cụ thể:
xu hướng hội nhập. Do vậy, các chủ thể tham gia quan hệ đấu giá tài sản, cơ
* Quan điểm mới của Đảng
Nghị quyết số 48/NQ-TW, ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và
20
định hướng năm 2020 đã nêu:
Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo, bảo đảm mọi quyết định,
hành vi hành chính trái pháp luật đều được phát hiện và có thể bị
khởi kiện trước toà án; đổi mới thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo
và thủ tục giải quyết các vụ án hành chính theo hướng công khai,
đơn giản, thuận lợi cho dân, đồng thời đảm bảo tính thông suốt,
hiệu quả của quản lý hành chính [2].
Thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010 và định hướng năm 2020, theo Nghị quyết 48-NQ/TW
ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị Khóa IX. Theo đó, việc tổ chức thực hiện
pháp trong xây dựng và thi hành pháp luật đã được xác định trong Nghị quyết
sáu định hướng về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, 12 nhóm giải
48-NQ/TW, sáu định hướng tiếp tục thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn 2016-2020 và các nhiệm vụ, giải
pháp đã được xác định trong Kết luận số 01 ngày 4/4/2016 của Bộ Chính trị
về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW (Kết luận 01). Trên cơ sở
này, việc tổng kết đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật đạt được sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW về
tính đồng bộ, tính thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch của hệ thống
pháp luật, trọng tâm là: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát
định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong
sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công
dân; sự thống nhất, đồng bộ trong thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật với Chiến lược cải cách tư pháp, cải cách hành chính;
giữa hoàn thiện hệ thống pháp luật với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an
huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn
21
ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế.
* Hoàn thiện pháp luật trong hội nhập quốc tế
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII xác định:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; Có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng của nền kinh tế; Các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật;
thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu
sản xuất; Các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược,
quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức
quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường [11].
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia và cam kết thực hiện nhiều quy định
luật pháp quốc tế cũng như hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật phù hợp
với cam kết hội nhập. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực đấu giá tài sản đã hội nhập ở các cấp độ và hình thức khác nhau như ban
hành Luật đấu giá tài sản năm 2016 thay thế cho Nghị định 17/2010/NĐ - CP
ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản; Luật Tố cáo năm 2018
thay thế Luật Tố cáo năm 2011.
Việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật đã tạo cơ sở pháp lý
nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện vào nền kinh tế quốc tế; để
pháp luật trong nước phù hợp và tương thích với pháp luật quốc tế; đồng thời,
đảm bảo tính quốc tế của sự phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam.
Qua đó cho thấy, sự nỗ lực của các bộ, ngành như: Thanh tra Chính
phủ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp trong việc chủ động hoàn thiện, sửa đổi bổ
và tiền đề, điều kiện quan trọng về thể chế để hoạt động bán đấu giá tài sản ở
luật phù hợp với xu thế hội nhập và cam kết quốc tế.
22
sung trình Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi và ban hành nhiều văn bản pháp
Bên cạnh những thành tựu, pháp luật đạt được trong những năm qua
cũng còn một số tồn tại, hạn chế như: Công tác thể chế hóa và ban hành chính
sách, pháp luật cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng nói
chung và cụ thể hóa, hướng dẫn thực thi pháp luật về thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo nói riêng vẫn còn chậm; Thể chế kinh tế thị trường chưa thật
đồng bộ, thông suốt; Chất lượng hệ thống chính sách và pháp luật kinh tế
chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của Nhà nước pháp quyền…
* Tác động của Cánh mạng công nghiệp 4.0 trong việc hoàn thiện
pháp luật
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm đặt nền tảng cho việc ứng
Thời gian qua, Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ về
dụng thành công các công nghệ của CMCN 4.0. Tuy nhiên, việc xây dựng
pháp luật để đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 còn chậm so với những
thay đổi về kinh tế, xã hội dưới tác động của cuộc cách mạng này.
Cuộc CMCN 4.0 tác động đến nhiều lĩnh vực, trong đó hoạt động bán
đấu giá tài sản cũng đang hướng tới việc tổ chức cho các khách hàng tham gia
đấu giá bằng hình thức đấu giá trực tuyến. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện
tại, vẫn chưa có những chính sách pháp luật điều chỉnh cụ thể về phương thức
tham gia đấu giá trực tuyến. Do vậy, cần đánh giá mức độ ảnh hưởng của
CMCN 4.0 đối với hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
Hiện nay, đứng trước xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu, Đảng và Nhà
nước đã nỗ lực hoàn thiện thể chế, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật
để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Đặc biệt là, để đảm bảo tuân thủ các
cam kết của nước thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và
cộng đồng kinh tế ASEAN cũng như thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và
vực bán đấu giá tài sản để có chính sách điều chỉnh kịp thời.
23
tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Nhà nước ta cần tập trung hoàn
thiện pháp luật thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và trong lĩnh
vực bán đấu giá tài sản nói riêng với những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước và đội ngũ cán bộ, công chức, đảm bảo xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức đáp ứng yêu cầu của hội nhập và toàn cầu hóa; Pháp luật về phân cấp
quản lý giữa trung ương và địa phương, trong đó xác định rõ mối quan hệ
giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; giữa các cơ quan
quản lý ngành ở trung ương với các cơ quan ở địa phương; Hoàn thiện pháp
luật về tuyển dụng và sử dụng công chức để đảm bảo tinh giản đội ngũ công
chuyên nghiệp, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ công chức trong thực thi
chức hiện nay, hướng tới mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức hành chính
nhiệm vụ, công vụ.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Xây dựng khung pháp luật chung về thủ tục
giải quyết khiếu nại, tố cáo; Đẩy mạnh hoạt động kiểm soát thủ tục giải quyết
khiếu nại, tố cáo nhằm loại bỏ kịp thời các thủ tục hành chính gây khó khăn,
phiền hà cho người dân và doanh nghiệp; Tăng cường ứng dụng khoa học,
công nghệ vào thực hiện thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm giảm bớt
chi phí và thời gian thực hiện thủ tục hành chính, tăng cường tính liên thông
trong thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo giữa các cơ quan, các ngành, giữa
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công
Để đảm bảo các tổ chức, cá nhân có thể tham gia vào cung cấp và sử
dụng dịch vụ công một cách công khai, bình đẳng cần hoàn thiện pháp luật về
quản lý và cung cấp dịch vụ công như sau: Ban hành văn bản pháp luật quy
định rõ về các loại hình dịch vụ công: dịch vụ hành chính công, dịch vụ công
trung ương với địa phương.
24
ích, dịch vụ sự nghiệp công, từ đó xác định rõ cơ chế và khung pháp lý để
điều chỉnh đối với mỗi loại hình dịch vụ công; Pháp luật cần có cơ chế bảo
đảm sự tham gia bình đẳng của các tổ chức, cá nhân (khối tư nhân) tham gia
vào việc cung cấp dịch vụ công thông qua các hình thức cụ thể, nhất định.
Đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa nhà nước và tư nhân trong việc cung
cấp dịch vụ công; Xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ công và
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quản lý việc cung cấp các dịch
vụ công của các cơ quan, cá nhân, tổ chức.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
bán đấu giá tài sản nhằm đảm bảo sự tham gia của người dân vào quản
tố cáo để đảm bảo người dân có thể tham gia hiệu quả, thực hiện quyền khiếu
lý hành chính nhà nước; Hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, khiếu nại,
nại, tố cáo trên thực tiễn.
Như vậy, xu hướng phát triển pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa cần được hoàn thiện dựa
trên những tiêu chuẩn, học thuyết về giải quyết khiếu nại, tố cáo mà các quốc
gia trên thế giới đang thực hiện; đồng thời phải phù hợp truyền thống dân tộc,
đặc điểm thể chế chính trị của Việt Nam. Mặc dù Nhà nước ta đã và đang xây
dựng một hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản nói riêng để điều chỉnh các
nội dung cơ bản trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại các khoảng
cũng như hạn chế trong hệ thống các quy định hiện hành ở mỗi lĩnh vực, nội
dung cụ thể. Việc hoàn thiện pháp luật hành chính, xây dựng Chính phủ kiến
tạo ở Việt Nam không chỉ đặt trong bối cảnh nghiên cứu những vấn đề còn
tồn tại của pháp luật trong nước mà còn đặt trong bối cảnh của pháp luật quốc
tế, có nghĩa là xây dựng một hệ thống pháp luật hành chính phù hợp với
trống pháp lý như thiếu các luật về thủ tục hành chính, luật về dịch vụ công,
25
chuẩn mực quốc tế, đáp ứng yêu cầu của hội nhập và toàn cầu hóa.
Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ
sung trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản.
1.2. Những vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải
quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hoàn thiện pháp luật về thanh tra
giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản
Hoàn thiện pháp luật là việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước
đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện
pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân;
đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và
hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp
phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030, cụ thể:
- Thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể
hoá các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hoá - xã hội, giữ vững
quốc phòng, an ninh.
- Phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thực
hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an
chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; bảo đảm
26
ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hoà
bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ
thống pháp luật.
- Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng,
hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật. Tiến hành đồng bộ với cải cách hành
chính, cải cách tư pháp, với những bước đi vững chắc; coi trọng số lượng và
chất lượng, có trọng tâm, trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm
hiệu lực, hiệu quả thi hành của pháp luật.
những bất cập của nó nhìn từ những yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Xuất phát từ những nghiên cứu toàn diện về hệ thống pháp luật, nhất là
xã hội chủ nghĩa, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW, trong
đó đã đánh giá:
Hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu thống
nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng,
sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi
mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm,
chất lượng các văn bản chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực
hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được
quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
còn thiếu và yếu [2].
Trong số những nguyên nhân chính của những yếu kém nêu trên Nghị
quyết nhấn mạnh đến sự thiếu vắng tầm nhìn chiến lược. Vì vậy, Nghị quyết
số 48-NQ/TW đã xác định nhiều quan điểm, định hướng và giải pháp chiến
lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật
27
2010, định hướng đến năm 2020, với sáu định hướng cho việc xây dựng và
phát triển hệ thống pháp luật mang tính chiến lược và khoa học cao; hai nhóm
giải pháp thực hiện có tính khả thi cao (nhóm giải pháp xây dựng pháp luật và
nhóm giải pháp thực hiện pháp luật). Từ đó, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, nhất là việc xây dựng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
của Quốc hội hàng năm và cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII có rất nhiều
thuận lợi và thực sự đã mang tính định hướng chiến lược sâu sắc. Những
nghiên cứu, đánh giá ban đầu ba năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW cho
thấy giá trị to lớn của văn bản quan trọng này đối với hệ thống pháp luật nhìn
từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những thành
vực xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
tựu to lớn mà Nghị quyết số 48-NQ/TW mang lại thể hiện rất rõ nét trong lĩnh
nhập kinh tế quốc tế.
Với những văn bản đã ban hành, pháp luật về khiếu nại, tố cáo là cơ sở
pháp lý quan trọng trong việc giải quyết, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân. Tuy nhiên, thời gian vừa qua, tình hình khiếu nại, tố cáo trong
xã hội vẫn diễn ra rất phức tạp, đặc biệt trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Tại
nhiều địa phương, mặc dù Sở Tư pháp các tỉnh, thành đã hết sức cố gắng giải
quyết những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân nhưng số lượng các vụ
khiếu nại, tố cáo chưa giảm nhiều. Tính chất phức tạp của những vụ việc
khiếu kiện được thể hiện qua số lượng đơn thư năm sau cao hơn năm trước,
Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tập trung chủ yếu vào các
tài sản đã bị cơ quan thi hành án dân sự kê biên, bán đấu giá để đảm bảo thi
hành án như: bán đấu giá quyền sử dụng đất, bán đấu giá doanh nghiệp, dây
truyền sản xuất máy móc, trang thiết bị, vv. Đặc biệt, có nhiều vụ việc tổ chức,
cá nhân tiếp tục khiếu nại, tố cáo sau khi các cơ quan chức năng đã giải quyết
cách thức khiếu nại, tố cáo không theo đúng với quy định của pháp luật.
28
vụ việc theo đúng quy định của pháp luật. Qua quá trình thực hiện giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản đã phát hiện nhiều hạn chế,
bất cập trong những văn bản quy định về bán đấu giá đã xuất hiện. Vì vậy, việc
sửa đổi, bổ sung những quy định liên quan đến việc thực hiện giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản là một nhu cầu cấp thiết.
1.2.2. Nội dung hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu
nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản
Để việc thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá
tài sản ngày càng đi vào chiều sâu, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thấu tình đạt
lý, thanh tra phát hiện và ngăn chặn, phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp
Thứ nhất, đề cao trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
luật về bán đấu giá tài sản, thì cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, cụ thể:
thống chính trị trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, trước hết là nhờ vai
trò lãnh đạo của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, có kế hoạch thực hiện
nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo, phân công trách nhiệm một cách rõ
ràng, cụ thể để giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo. Thủ
trưởng cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo
việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Trong
quá trình giải quyết, các cơ quan nhà nước phải thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ khách quan, làm rõ nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo, kết
luận rõ đúng, sai, đề ra phương án giải quyết phù hợp, có lý, có tình.
tiếp công dân, thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp dân, bố trí cán bộ có đủ năng
lực, trình độ, kinh nghiệm, phẩm chất đảm nhiệm công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Những vụ việc phức tạp các đồng chí lãnh đạo phải đích
thân tiếp dân, đối thoại với công dân và trực tiếp chỉ đạo giải quyết với tinh
thần "giải quyết để bảo đảm yên dân chứ không giải quyết xong việc". Khi
Thứ hai, các cơ quan nhà nước phải củng cố và chấn chỉnh công tác
29
xảy ra khiếu nại, tố cáo đông người thì các cơ quan nhà nước phải tăng cường
sự phối hợp để tiếp dân và vận động công dân trở về địa phương, đồng thời,
có biện pháp giải quyết kịp thời, dứt điểm, không để kéo dài, tái khiếu kiện.
Thứ ba, các cơ quan thanh tra Nhà nước tăng cường thanh tra trách
nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với thủ trưởng và cán bộ, công chức có
trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới, tập trung vào
những nơi có nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp, đông người,
phức tạp; chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo thấp; không chấp
hành nghiêm túc sự chỉ đạo của cấp trên... để làm rõ trách nhiệm của tập thể,
cá nhân, kiến nghị chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, xử lý công khai,
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương, tăng cường
nghiêm minh những cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật
hiệu quả trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp
luật của cán bộ, nhân dân; tăng cường vận động, thuyết phục công dân chấp
hành pháp luật và các quyết định giải quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Đối với các trường hợp lợi dụng khiếu nại, tố cáo để kích động, gây
rối thì phải tiến hành làm rõ, xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo sự đồng bộ, nâng
cao tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật; chấn chỉnh, tăng
cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực bán
hội; thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để
công dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và thực hiện tốt quyền,
nghĩa vụ công dân; đẩy mạnh công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và
phòng, chống tham nhũng nhằm tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, hài
hòa, tạo sân chơi bình đẳng trong hoạt động bán đấu giá tài sản và hạn chế
đấu giá tài sản, đất đai, đầu tư, xây dựng, tài chính, ngân sách, chính sách xã
30
phát sinh khiếu nại, tố cáo.
1.2.3. Những tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam
Trên cơ sở những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung, đồng thời dựa trên đặc điểm của pháp luật về thanh tra giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, có thể xây dựng một
số tiêu chí cơ bản đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản như sau:
Một là, pháp luật về xử lý hành vi xâm phạm của chủ thể về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản phải đảm bảo tính toàn diện
Tính toàn diện của hệ thống pháp luật phản ánh mức độ đầy đủ của hệ
thống quy phạm, nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật; là tiêu
chuẩn đầu tiên để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật nói chung và
pháp luật về xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động bán đấu giá tài
sản nói riêng vì nó là tiêu chuẩn có ý nghĩa "định lượng". Tính toàn diện của
pháp luật về xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động bán đấu giá tài
sản được thể hiện ở cấp độ tổng quát và cụ thể. Ở cấp độ tổng quát, pháp luật
trong lĩnh vực này phải có đầy đủ các quy phạm pháp luật quy định về việc
xác định hành vi vi phạm pháp luật, chế tài xử lý hành vi vi phạm và thủ tục
giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với những hành vi vi phạm và thẩm quyền của
bán đấu giá tài sản. Các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này có thể nằm
trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau nhưng chúng phải có
mặt đầy đủ trong các chuyên ngành có liên quan và được cấu trúc một cách
khách quan, khoa học. Ở cấp độ cụ thể, tính toàn diện đòi hỏi bất kỳ hành vi
vi phạm pháp luật nào trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản cũng đều có quy
các cơ quan tham gia vào hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
31
phạm pháp luật chuyên ngành tương ứng điều chỉnh phù hợp.
Hai là, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ
Tính thống nhất của hệ thống pháp luật là điều kiện cần thiết bảo đảm
cho tính thống nhất về mục đích của pháp luật và sự triệt để trong thực hiện
pháp luật. Tính đồng bộ của pháp luật thể hiện ở sự thống nhất của các văn
bản pháp luật. Khi pháp luật xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
bán đấu giá tài sản có sự thống nhất, không trùng lặp, chồng chéo hay mâu
thuẫn lẫn nhau giữa các quy định pháp luật chuyên ngành liên quan đến vấn
đề xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động bán đấu giá tài sản và
giữa chính các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đó của từng chuyên ngành
Điều này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành phải đảm bảo
luật (xét ở cấp độ cụ thể) thì các quy định này đảm bảo được tính đồng bộ.
tính thứ bậc về hiệu lực pháp lý. Do pháp luật bán đấu giá tài sản được coi là
một bộ phận không thể tách rời của pháp luật dân sự nên những quy định cụ
thể đặc thù điều chỉnh các quan hệ phát sinh liên quan tới bán đấu giá tài sản
do Luật đấu giá tài sản quy định phải không được trái với những quy định
mang tính nguyên tắc trong Bộ luật Dân sự. Cùng với đó, các quy phạm pháp
luật chuyên ngành có liên quan cũng không được chồng chéo, mâu thuẫn với
các quy phạm pháp luật đấu giá tài sản. Tổng thể văn bản pháp luật thuộc các
chuyên ngành luật khác nhau quy định về việc xử lý hành vi vi phạm trong
bán đấu giá tài sản tạo thành một chỉnh thể thống nhất, ràng buộc với nhau
luật trong bán đấu giá tài sản, tạo tiền đề cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
được minh bạch, khách quan. Bên cạnh đó, các chế tài về xử lý hành vi vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản cần phải đảm bảo sự tương
thích với những cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Ba là, đảm bảo tính phù hợp, khả thi và ổn định
nhau cùng hướng tới mục đích xử lý hiệu quả những hành vi vi phạm pháp
32
Tính phù hợp và khả thi của pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản thể hiện ở việc nội dung của pháp
luật phản ánh đúng và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia. Pháp luật là một yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội, phản
ánh và tác động tới cơ sở hạ tầng (điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội...), do
vậy, pháp luật không thể quy định cao hơn hoặc thấp hơn trình độ của đối
tượng mà nó phản ánh. Khi nhận thức về pháp luật về đấu giá tài sản chưa
cao, ý thức chấp hành pháp luật còn hạn chế thì các biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản phải được quy định sao
cho phù hợp với điều kiện kinh tế, nhận thức của xã hội, đồng thời đảm bảo
phạm pháp luật trong hoạt động bán đấu giá tài sản. Ngoài ra, việc quy định
hoạt động thanh tra nhằm đấu tranh, ngăn chặn, phòng chống tình trạng vi
thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản cần phù hợp với điều kiện tổ chức của cơ quan có thẩm quyền
xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong bán đấu giá tài sản.
Bốn là, đảm bảo tính minh bạch, công khai
Tính minh bạch của pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản thể hiện ở nội dung các quy phạm pháp luật
phải rõ ràng, dễ hiểu, đơn nghĩa, không mâu thuẫn; các văn bản pháp luật phải
được công bố công khai (từ khi bắt đầu quy trình xây dựng văn bản đến việc
lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan liên quan, các chuyên gia và đông đảo
nắm rõ những hành vi bị coi là vi phạm pháp luật trong bán đấu giá tài sản,
quyền và nghĩa vụ của chủ thể liên quan đến hoạt động xử lý vi phạm, các cơ
quan có thẩm quyền xử lý vi phạm, các hình thức xử lý, trình tự, thủ tục xử lý
vi phạm… Việc công khai văn bản pháp luật không chỉ ở việc đăng tải trên
Công báo và các phương tiện thông tin đại chúng mà còn phải được thực hiện
người dân, đánh giá tác động, đến khi văn bản được ban hành) để người dân
33
thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để người dân dễ
dàng tiếp cận, hiểu rõ, thực hiện đúng quyền và theo dõi giám sát được quá
trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản.
Năm là, pháp luật về xử lý hành vi vi phạm trong hoạt động bán đấu giá
tài sản phải được xây dựng với các tiêu chuẩn kỹ thuật lập pháp cao
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải là hệ thống được xây dựng với
trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Đây là tiêu chuẩn có ý nghĩa quan trọng vì pháp
luật đòi hỏi phải có sự phù hợp cao độ giữa nội dung và hình thức biểu đạt.
Trình độ pháp lý cao thể hiện ở quy trình ban hành văn bản pháp luật khoa
học, cách thức biểu đạt chuẩn xác, ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu, một
động xây dựng pháp luật, những trình tự thủ tục tối ưu… nhằm tạo ra được
nghĩa, logic, dễ thực hiện; phải xác định đúng "những nguyên tắc của hoạt
những văn bản quy phạm pháp luật tốt nhất, phù hợp với các quy định đã có
và cơ chế thực thi pháp luật… phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội của
đất nước". Hoạt động xây dựng pháp luật xử lý hành vi vi phạm pháp luật
trong hoạt động bán đấu giá tài sản phải được tiến hành một cách khoa học,
có hệ thống, các văn bản luật, văn bản dưới luật thuộc các chuyên ngành khác
nhau cùng điều chỉnh hoạt động xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt
động bán đấu giá tài sản phải thực sự tạo thành một chỉnh thể thống nhất, bổ
sung cho nhau; kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn tránh tình trạnh không
thể áp dụng pháp luật được ngay do thiếu văn bản hướng dẫn.
gia đấu giá và lợi ích của xã hội
Trong xử lý hành vi vi phạm trong hoạt động bán đấu giá tài sản, để
đảm bảo sự cân bằng lợi ích của chủ thể quyền, khách hàng tham gia đấu giá
và lợi ích của xã hội thì việc xác định những hành vi bị coi là vi phạm trong
hoạt động bán đấu giá tài sản là đặc biệt quan trọng, nội dung các quy định
Sáu là, đảm bảo cân bằng lợi ích của chủ thể quyền, khách hàng tham
34
này cần thể hiện sao cho vừa bảo vệ đúng mức quyền, không làm ảnh hưởng
đến những khách hàng tham gia đấu giá ngay tình. Mặt khác, các quy định về
chế tài xử lý hành vi vi phạm trong hoạt động bán đấu giá tài sản cũng cần
phải đảm bảo tính công bằng và đúng đắn để một mặt vừa bảo vệ được quyền
lợi hợp pháp và chính đáng của chủ thể quyền nhưng không quá mức khiến
cản trở hoạt động bình thường của các tổ chức bán đấu giá.
Bảy là, đảm bảo công bằng, giải quyết khiếu nại, tố cáo minh bạch và
không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra
Pháp luật về xử lý, xử phạt hành vi vi phạm hoạt động bán đấu giá tài
sản chỉ đảm bảo được sự công bằng cho các bên liên quan khi nó tạo cho mọi
lý hành vi phạm pháp luật trong bán đấu giá cũng như mỗi vụ việc đều được
người có cơ hội ngang nhau trong việc tham gia các quan hệ pháp luật về xử
xử lý một cách khách quan, phù hợp với bản chất sự việc. Các kết quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan có thẩm quyền phải được thể hiện bằng
văn bản, có giải thích căn cứ, lý do đưa ra quyết định đó và các bên liên quan
có quyền có ý kiến yêu cầu xem xét lại quyết định đó trong thời gian hợp lý.
Tám là, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu
giá tài sản phải đảm bảo phù hợp với pháp luật quốc tế
Hoạt động bán đấu giá tài sản giữ vai trò không nhỏ đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và ngày càng được nhìn nhận đúng
mức và được coi là một công cụ hữu hiệu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
hiện quyết tâm và nỗ lực lớn của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Nghĩa vụ của chúng ta khi tham gia sân chơi quốc tế chung là phải đảm bảo
các quy định pháp luật quốc gia phù hợp với các nội dung đã cam kết và như
vậy việc hoàn thiện các quy định về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản bảo phù hợp với các yêu cầu về pháp luật
Việc cam kết tuân thủ luật chơi chung bán đấu giá tài sản với các đối tác thể
35
bán đấu giá được quy định trong các điều ước mà Việt Nam tham gia.
1.3. Ý nghĩa, vai trò của việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam
Khiếu nại, tố cáo là quyền dân chủ, là phương thức để người dân phản
ánh, thông tin đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các hiện tượng sai
phạm, tham nhũng, tiêu cực. Đây là phương thức để người dân tham gia vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, kiểm soát việc thực hiện quyền lực trong bộ
máy nhà nước. Các cơ quan thanh tra giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước cùng cấp thực hiện công tác quản lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo và
tham mưu, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền. Thông qua hoạt động
một số phương diện sau:
của mình, các cơ quan thanh tra kiểm soát việc thực hiện quyền hành chính ở
+ Qua các thông tin phản ánh từ thực hiện chức năng giải quyết khiếu
nại, tố cáo, các cơ quan thanh tra xem xét, đánh giá, tổng hợp để thấy được
tình hình thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, của
các cơ quan nhà nước; nắm bắt được các thông tin về tình hình triển khai thực
hiện pháp luật, thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn. Đây chính là các thông tin quan trọng giúp thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước kiểm soát được việc thực thi công vụ của các tổ chức, cá
nhân thuộc thẩm quyền quản lý.
+ Qua xác minh, kết luận những nội dung khiếu nại, tố cáo khi được
tra tiến hành làm rõ, đánh giá đúng, sai trong việc thực hiện các hành vi hành
chính, ban hành các quyết định hành chính và thực hiện nhiệm vụ, công vụ
của đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước, từ đó
đưa ra các kết luận và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý, khắc
phục các hiện tượng vi phạm, hoàn thiện cơ chế, chính sách và xử lý những tổ
giao trong giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể, các cơ quan thanh
36
chức, cá nhân có hành vi vi phạm.
+ Qua tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo, các kiến nghị, phản
ánh của người dân được xem xét giải quyết, giúp ổn định tình hình xã hội
và giám sát, kiểm soát có hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính và
cán bộ, công chức.
Để nâng cao hơn nữa vai trò của các cơ quan thanh tra nói chung và
trong kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động hành chính, Đảng và
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản khẳng định vai trò của các cơ quan
thanh tra và định hướng hoạt động của cơ quan thanh tra theo hướng tập trung
đẩy mạnh các hoạt động thanh tra công vụ, thực hiện giám sát hành chính
nước. Đây chính là định hướng quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả
nhằm xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động hành chính, giúp
cho các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước được thực
hiện đúng đắn, kinh tế-xã hội phát triển và hạn chế việc lạm dụng quyền hạn
được giao của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nghị quyết số 48/2005/NQ/TW
ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nêu:
“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, bảo đảm
mọi hoạt động quản lý nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính
phủ” [2]; Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tham nhũng, lãng phí khẳng định: “Thanh tra Chính phủ và cơ quan thanh tra
nhà nước cấp tỉnh, huyện tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ thanh tra công vụ”;
Nghị quyết số 21/2009/NQ-CP ngày 12/5/2009 ban hành Chiến lược quốc gia
phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 chỉ rõ:
Nghiên cứu sửa đổi pháp luật về thanh tra theo hướng làm rõ chức
khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
37
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước,...;
Cơ quan thanh tra theo cấp hành chính chuyển mạnh sang thực hiện
chức năng giám sát hành chính và tăng cường thanh tra việc thực
hiện chức trách, nhiệm vụ công vụ, việc thực hiện pháp luật về
phòng, chống tham nhũng;... [7].
1.4. Những điều kiện bảo đảm và yếu tố ảnh hướng tới việc hoàn
thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
bán đấu giá tài sản ở Việt Nam
Thứ nhất, nghiên cứu hoàn thiện các Luật Thanh tra, Luật khiếu nại,
Luật Tố cáo, Luật đấu giá tài sản và các văn bản hướng dẫn thi hành, đồng
bãi bỏ những chính sách không còn phát huy tác dụng; rà soát, bãi bỏ
thời rà soát
những chính sách, quy định không còn phù hợp với thực tiễn... Qua đó, đảm
bảo nâng cao năng lực hiệu quả của việc thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản.
Thứ hai, thường xuyên tổ chức tổng kết, đánh giá việc thi hành quy
định hoặc chính sách được quy định tại các Luật, Nghị định, cụ thể như: Tổng
kết, đánh giá việc chấp hành các quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản đối
với các tổ chức bán đấu giá nhằm đánh giá những kết quả đạt được từ thực
tiễn so với mục tiêu ban đầu; Tổng kết, đánh giá tình hình thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo và kết quả tổ chức, thực hiện từ công tác tuyên truyền, phổ
vướng mắc phát sinh.
Thứ ba, để hỗ trợ tích cực cho quá trình hoàn thiện pháp luật về thanh
tra giải quyết khiếu nại, tố cáo thì hoạt động truyền thông về mục tiêu, yêu
cầu, nội dung chính sách, tác động chính sách... ngày càng phải được tăng
cường hơn và chuyên nghiệp hơn.
biến pháp luật đến việc áp dụng pháp luật, qua đó, nhận diện, phân loại các
luật: Quan tâm hơn nữa và chuẩn bị sẵn sàng về chất lượng, số lượng nguồn
38
Thứ tư, ưu tiên bố trí nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hoàn thiện pháp
nhân lực cho công tác hoàn thiện thể chế theo đúng quy định của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác pháp chế; Thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng về
xây dựng chính sách, về lập chương trình Luật, về soạn thảo văn bản.
Thứ năm, củng cố hệ thống hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin thông
suốt, thường xuyên, liên tục bảo đảm yêu cầu quản lý. Đẩy mạnh phát triển và
ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ yêu cầu quản lý nhanh hơn, chính xác
hơn và đầy đủ hơn, góp phần tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc, tạo thuận
lợi cho người dân và doanh nghiệp, tiết kiệm chi phí tuân thủ, nâng cao hiệu
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu hoàn thiện pháp luật thanh tra giải quyết
lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản thì cần đảm bảo những
yếu tố sau:
- Pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản phải đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước, phù hợp
với đường lối và quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Xác định cần
phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức trách
nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức và nhân dân về công tác thanh tra
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản;
- Hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
quyền và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam, đảm bảo mọi tổ chức, cá
nhân đều bình đẳng trước pháp luật; tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà
nước dựa trên cơ sở của pháp luật; pháp luật không chỉ chú trọng bảo đảm các
quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý mà còn đặc biệt chú trọng đến
sự bình đẳng, công bằng xã hội, chống lại mọi sự phân biệt giàu nghèo, sự
lĩnh vực bán đấu giá tài sản phải đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
39
thống trị của chủ nghĩa tự do cực đoan.
- Yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản là cần bảo đảm nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
- Hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực bán đấu giá tài sản phải trên cơ sở yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp
luật ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Và đồng thời, pháp luật
phải bảo đảm được tính thống nhất với các quy định trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, nhất là không được chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định
khác, đồng thời, gắn kết với các quy định khác tạo thành sự đồng bộ, hoàn
chỉnh của hệ thống pháp luật Việt Nam và bảo đảm phù hợp với thực tiễn để
đi vào cuộc sống.
- Pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản phải đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN và bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội. Pháp luật về
thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản phải
tổ chức, cá nhân.
Trong bối cảnh thực thi Hiến pháp năm 2013 đặt ra nhiệm vụ cho các
cơ quan Thanh tra cần thực hiện có hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của
mình, góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Bên cạnh đó, yêu cầu cải cách hành chính, xây dựng nhà
đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
40
nước pháp quyền đòi hỏi các cơ quan thanh tra cần hoàn thiện phương thức
hoạt động, góp phần bảo đảm các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Việc thực hiện Chiến lược phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030 cũng đặt ra nhiệm vụ cần nghiên cứu, đánh giá toàn
diện vị trí, vai trò, chức năng của các cơ quan thanh tra nhà nước và nghiên
cứu, đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan Thanh tra, trong đó có
định hướng cơ quan thanh tra theo cấp hành chính chuyển sang thực hiện
chức năng giám sát, đánh giá hành chính; tăng cường thanh tra việc thực chức
trách, nhiệm vụ công vụ, thực hiện pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu
cầu quan trọng nhằm thúc đẩy việc thực hiện vai trò của cơ quan thanh tra
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng;... Đây chính là định hướng và yêu
trong quản lý nhà nước, góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt
động hành chính. Điều này có ý nghĩa thiết thực trong bối cảnh hiện nay, khi
chúng ta đang từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra
nhằm đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước, xây dựng Chính phủ kiến tạo
41
phát triển và thực hiện Hiến pháp 2013.
Kết luận Chương 1
Hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo là hoạt động gắn liền
với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, do vậy giải quyết khiếu
nại, tố cáo là công việc được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm để khẳng
định sự quan tâm đối với đại bộ phận quần chúng nhân dân và vị trí quan
trọng của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. Quyền khiếu nại, tố cáo được
ghi nhận trong Hiến pháp và trở thành một trong những quyền cơ bản của
công dân. Trước yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước, pháp luật về khiếu
nại, tố cáo không ngừng được củng cố và hoàn thiện. Tuy nhiên, qua hoạt
động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và lĩnh vực bán đấu giá
tài sản nói riêng đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập cần được nghiên cứu, bổ
sung để nâng cao năng lực, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực bán đấu giá tài sản. Đồng thời, hoàn thiện các quy định pháp luật về
khiếu nại, tố cáo và giải quyết tố cáo nhằm nâng cao hiệu quả việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo là hết sức cần thiết. Việc hoàn thiện pháp luật thanh tra giải
quyết khiếu nại, tố cáo phải quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
42
và vì nhân dân, yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước.
Chương 2
CƠ SỞ THỰC TIỄN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC
BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
2.1. Thực trạng hoạt động bán đấu giá tài sản tại Việt Nam qua
công tác thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
Theo tinh thần Luật Thanh tra năm 2010, Thanh tra là hoạt động xem
xét, đánh giá của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc chấp hành chính
và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật để xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến
sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm phát hiện
nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý, phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính
sách pháp luật để kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Thanh tra là
một chức năng không thể thiếu của hoạt động quản lý, là một khâu của chu
trình quản lý của Nhà nước.
Trước khi Nghị định số 54/2014/NĐ-CP ngày 29/5/2014 của Chính phủ
về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Tư pháp ban hành: Thanh tra Bộ
Tư pháp, Thanh tra Sở Tư pháp là cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
ngành Tư pháp.
Ngày 29/5/2014, Chính phủ ban hành Nghị định số 54/2014/NĐ-CP về
triển mới, quan trọng về hoàn thiện thể chế, đổi mới về cả tổ chức và hoạt
động của thanh tra ngành Tư pháp. Nghị định đã quy định các cơ quan thực
hiện chức năng thanh tra ngành Tư pháp gồm: Thanh tra Bộ Tư pháp, Thanh
tra Sở Tư pháp, Cục Bổ trợ tư pháp và Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực.
Theo đó, Thanh tra Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện các chế
tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Tư pháp đã đánh dấu bước phát
43
độ thông tin, báo cáo với Thanh tra Chính phủ về công tác thanh tra, tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng
theo quy định của pháp luật; chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ
chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ; Giúp Bộ trưởng phối hợp với các
cơ quan, đơn vị, các tổ chức liên quan ngoài Bộ trong việc tổ chức thanh tra
liên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo yêu
cầu của các cơ quan, tổ chức đó.
Ngày 13/2/2018, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 285/QĐ-
BTP quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ Tư pháp.
Theo đó, Thanh tra Bộ Tư pháp là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, giúp Bộ trưởng
tố cáo và phòng chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của
Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại,
Bộ; tiến hành thanh tra hành chính; thanh tra chuyên ngành; giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật
và phân cấp của Bộ.
Thanh tra Bộ Tư pháp gồm có Chánh Thanh tra và không quá 03 (ba)
Phó Chánh Thanh tra và 05 phòng bao gồm:
- Phòng Tổng hợp - Hành chính;
- Phòng Tiếp công dân, xử lý đơn thư và Giải quyết khiếu nại, tố cáo;
- Phòng Thanh tra hành chính;
- Phòng Thanh tra chuyên ngành;
Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Bộ trưởng hoặc
Thứ trưởng được phân công phụ trách, có trách nhiệm tổ chức thực hiện, báo
cáo, chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng và trước pháp luật về kết quả giải
quyết công việc được giao. Thanh tra Bộ là đầu mối giúp Lãnh đạo Bộ thực
hiện mối quan hệ với bộ, ngành, địa phương và các cơ quan tổ chức hữu quan
- Phòng Giám sát kiểm tra và xử lý sau thanh tra.
44
về các lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Bộ.
Theo Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011 của Chính phủ
quy định tiêu chuẩn của thanh tra viên trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
nói chung và trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản nói riêng phải đảm bảo: Thanh
tra viên là công chức, sỹ quan Quân đội nhân dân, sỹ quan Công an nhân dân
được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra và các
nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước.
Theo đó Thanh tra viên phải gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật,
không ngừng phấn đấu rèn luyện để đáp ứng tiêu chuẩn theo yêu cầu; có lối
sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng; có trách nhiệm
Trong quá trình thanh tra, thanh tra viên, cộng tác viên thanh tra phải
học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thanh tra.
thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Trưởng đoàn thanh tra; phải tuân
thủ các quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thực
hiện nhiệm vụ được giao; thanh tra viên còn phải chịu trách nhiệm trước
người ra quyết định thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp về việc
thực hiện nhiệm vụ được giao.
Từ năm 2010 đến nay, Bộ Tư pháp đã thực hiện tuyển dụng, tiếp nhận
12 trường hợp làm việc tại Thanh tra Bộ; thực hiện thủ tục bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại cho 04 lượt công chức lãnh đạo cấp Vụ và bổ nhiệm, bổ nhiệm lại
cho 17 lượt công chức lãnh đạo cấp Phòng; bổ nhiệm 23 Thanh tra viên và
thực hiện 26 biên chế (05 Thanh tra viên chính, 18 Thanh tra viên, 03
Chuyên viên, 02 Hợp đồng theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000
của Chính phủ).
Hoạt động thanh tra, kiểm tra có vai trò quan trọng trong hoạt động
quản lý nhà nước, là phương thức tăng cường kỷ luật, nâng cao hiệu lực, hiệu
03 Thanh tra viên chính. Hiện nay, Thanh tra Bộ được giao 29 biên chế, đã
45
quả quản lý nhà nước và là một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công
của việc đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước vào cuộc sống.
Thời gian qua hoạt động thanh tra, kiểm tra của Bộ, ngành Tư pháp đã
được Lãnh đạo Bộ Tư pháp quan tâm, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Công tác
thanh tra, kiểm tra đã và đang được Bộ, ngành Tư pháp triển khai thực hiện
một cách bài bản, có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng được yêu cầu của công
tác quản lý và không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan,
tổ chức, cá nhân được thanh tra; trình tự, thủ tục thanh tra được thực hiện theo
đúng quy định pháp luật và thực sự phát huy tác dụng trong công tác quản lý
tác thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành.
nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực công
Qua công tác thanh tra đã giúp phát hiện những sơ hở trong cơ chế
quản lý, phát hiện những sai phạm, kiến nghị biện pháp khắc phục và phòng
ngừa, đồng thời phát huy những ưu điểm, các nhân tố tích cực; từ đó giúp các
đơn vị thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đóng góp có hiệu quả vào
việc hoàn thành tốt nhiệm vụ và xây dựng sự phát triển của Bộ, ngành.
Kết quả công tác thanh tra các lĩnh vực công tác thuộc phạm vi quản
lý của Bộ, ngành Tư pháp
Năm 2018 (từ 16/12/2017 đến 15/12/2018), Bộ Tư pháp đã triển khai
26 cuộc thanh tra theo kế hoạch (trong đó có 10 cuộc thanh tra hành chính, 16
cáo; 16 cuộc kiểm tra chuyên ngành; 22 cuộc thanh tra xác minh giải quyết
khiếu nại, tố cáo; 07 cuộc kiểm tra sau thanh tra.
Qua công tác thanh tra, Bộ Tư pháp đã ban hành 09 Quyết định thu hồi
tiền với tổng số tiền thu hồi là 1.592.233.757 đồng và ban hành 74 Quyết định
xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền xử phạt là 580.500.000 đồng.
cuộc thanh tra chuyên ngành); 10 Tổ/Đoàn xác minh giải quyết khiếu nại, tố
46
Năm 2018, Bộ Tư pháp đã thực hiện tốt công tác thanh tra đối với các
lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ. Kết quả thanh tra cho thấy, một số
đơn vị được thanh tra đã thực hiện tương đối tốt các quy định pháp luật có
liên quan, tuy nhiên qua thanh tra cũng đã phát hiện một số trường hợp sai
phạm. Từ đó, kịp thời ngăn chặn, chấn chỉnh và có các hình thức xử lý
nghiêm minh để làm gương trong toàn ngành;
Bộ Tư pháp cũng đã thực hiện tốt việc hướng dẫn nghiệp vụ cho Thanh
tra các Sở Tư pháp và hướng dẫn cho 02 cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra theo kế hoạch.
Qua công tác thanh tra, kiểm tra, các đơn vị đã kịp thời phát hiện những
quyền, các đơn vị là đối tượng thanh tra nghiêm túc rút kinh nghiệm, xử lý và
sai sót, vi phạm của các đơn vị được thanh tra và kiến nghị cơ quan có thẩm
khắc phục những sai sót, vi phạm, cụ thể:
Sau khi Luật đấu giá tài sản năm 2016 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2017)
ban hành, có nhiều khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực nói trên. Từ năm
2017 đến năm 2018, Bộ Tư pháp đã tổ chức một số đoàn thanh tra, kiểm tra,
thanh tra đột xuất về việc chấp hành quy định pháp luật về đấu giá tài sản đối
với một số tổ chức bán đấu giá tài sản. Qua đó, đã phát hiện một số tổ chức
bán đấu giá tài sản có vi phạm như sau:
- Thực hiện không đúng quy định về thông báo, niêm yết bán đấu giá
tài sản;
- Ghi biên bản không đúng quy định tại cuộc đấu giá tài sản;
- Cho người không đủ điều kiện tham gia đấu giá tài sản;
- Đưa thêm các điều kiện vào Thông báo đấu giá tài sản;
- Tổ chức đấu giá tài sản và thẩm định giá cùng một một chủ sở hữu
nhưng pháp nhân khác nhau;
- Đăng báo không đúng về đấu giá tài sản;
47
- Đưa người là họ hàng vào tham gia đấu giá tài sản;
- Về Hợp đồng đấu giá tài sản ký kết giữa tổ chức đấu giá tài sản với
người có tài sản còn có các thỏa thuận không đúng quy định của Luật Đấu giá
tài sản về việc thu tiền đặt trước hoặc về thù lao/chi phí dịch vụ đấu giá;
- Về Quy chế đấu giá tài sản: một số tổ chức đấu giá tài sản còn ban
hành Quy chế chung cho các cuộc đấu giá, nội dung quy chế chưa đầy đủ là
không đúng quy định Luật Đấu giá tài sản; một số Quy chế đặt ra những điều
kiện không hợp lý, dẫn đến việc hạn chế người tham gia đấu giá;
- Việc bán hồ sơ tham gia đấu giá tại một vài tổ chức có biểu hiện chưa
minh bạch, dẫn tới có khiếu kiện, tranh chấp..., còn có dấu hiệu thông đồng,
Kết quả thanh tra đều đã kết luận, kiến nghị xử lý nghiêm các hành vi
dìm giá nhưng rất khó phát hiện và xử lý.
vi phạm. Một số vụ việc điển hình như:
- Kết luận thanh tra số 12/KL-TTR ngày 04/6/2018 về việc chấp hành
quy định pháp luật đối với Cục THADS tỉnh Long An và Công ty TNHH
Dịch vụ đấu giá tài sản Miền Nam;
- Kết luận thanh tra số 18/Kl-TTR ngày 21/6/2018 về việc chấp hành
các quy định pháp luật trong việc bán đấu giá tài sản đối với trung tâm dịch
vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Vĩnh Phúc;
- Kết luận thanh tra số 34/KL-TTR ngày 04/9/2018 về việc chấp hành
các quy định pháp luật trong việc bán đấu giá tài sản đối với Công ty Cổ phần
Trong đó, Thanh tra Bộ đã kiến nghị hủy 02 cuộc bán đấu giá do có
hành vi thông đồng và vi phạm về tài sản không được bán, đồng thời chuyển
hồ sơ sang cơ quan điều tra xử lý về thông đồng trong đấu giá đối với 02
trường hợp, cụ thể: Thanh tra việc chấp hành quy định pháp luật đối với Cục
THADS tỉnh Long An, Công ty TNHH Dịch vụ đấu giá tài sản Miền Nam và
đấu giá Minh Pháp.
48
Thanh tra việc chấp hành các quy định pháp luật trong việc bán đấu giá tài sản
đối với trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Vĩnh Phúc; yêu cầu xử lý
trách nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân có vi phạm.
* Kết quả hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực bán đấu giá tài sản
Ngày 04/3/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về
bán đấu giá tài sản (thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP của Chính phủ về
bán đấu giá tài sản), Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ra đời đánh dấu một bước
quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp luật về bán đấu giá, chủ
trương chuyên nghiệp hoá hoạt động bán đấu giá tài sản. Sau 04 năm thi hành
triển đáng kể. Tính đến ngày 31/12/2014 cả nước có 619 đấu giá viên đang
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, hoạt động bán đấu giá tài sản đã có bước phát
làm việc tại các tổ chức bán đấu giá trong tổng số 1259 người được cấp
chứng chỉ hành nghề đấu giá, 63 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản được
thành lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 190 doanh nghiệp
bán đấu giá tài sản.
Các loại tài sản bắt buộc bán đấu giá ngày càng được mở rộng hơn như
tài sản nhà nước; tài sản là quyền sử dụng đất khi nhà nước giao đất, cho thuê
đất, tài sản thi hành án, tài sản giao dịch bảo đảm; tài sản là tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, hàng dự trữ quốc gia, quyền khai thác
khoáng sản, quyền sử dụng tần số vô tuyến điện, kho tài nguyên Internet, cổ
Số hợp đồng bán đấu giá thành và giá trị tài sản bán được cao hơn
nhiều so với giá khởi điểm ngày càng tăng, thu ngân sách Nhà nước thông
qua hoạt động bán đấu giá đạt hiệu quả cao. Năm 2018, Bộ Tư pháp đã cấp
Chứng chỉ hành nghề đấu giá viên cho 87 trường hợp, thu hồi 06 trường hợp;
cả nước hiện có 680 tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp (tăng 156 tổ chức so
phần của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa v.v.
49
với năm 2017), với 1.200 Đấu giá viên đang hành nghề. Năm 2018, số cuộc
bán đấu giá thành là 27.518 cuộc, tăng 9,4% so với năm 2017, nộp ngân sách
hơn 568 tỷ đồng. Bộ Tư pháp đã thẩm tra hồ sơ.
Hoạt động bán đấu giá tài sản đã góp phần làm công khai hóa, minh
bạch hóa việc xử lý tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và tài sản của tổ chức, cá
nhân, qua đó, giảm thiểu các tiêu cực trong việc xử lý tài sản, đóng góp vào
việc thực hiện kế hoạch thu ngân sách, phát triển kinh tế - xã hội tại nhiều địa
phương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Kết quả hoạt
động bán đấu giá tài sản thời gian vừa qua bước đầu khẳng định hiệu quả của
chủ trương xã hội hóa, chuyên nghiệp hóa trong lĩnh vực bán đấu giá, đóng
tài sản đang trở thành xu hướng lựa chọn phổ biến của xã hội trong bối cảnh
góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Dịch vụ bán đấu giá
kinh tế thị trường.
Được xác định là nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2018, Bộ Tư pháp
và các địa phương đã chú trọng ban hành và triển khai các kế hoạch công tác
thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng, nhất là công tác thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực bổ
trợ tư pháp, hộ tịch, chứng thực, qua đó kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử
lý những vi phạm. Bộ Tư pháp đã tiến hành 71 cuộc thanh tra, kiểm tra theo
kế hoạch và đột xuất để giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó có nhiều cuộc
thuộc chuyên ngành bổ trợ tư pháp, hộ tịch, chứng thực. Đã ban hành 09
phạm hành chính với tổng số tiền là 580.500.000 đồng. Thanh tra các Sở Tư
pháp đã tiến hành 588 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với 1.151 tổ chức, qua đó
đã ban hành 227 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền là
1.411.500.000 đồng. Nhiều Sở Tư pháp đã chỉ đạo quyết liệt công tác thanh
tra, kiểm tra và xử lý vi phạm (như: Hà Nội đã tổ chức 07 đợt thanh tra
Quyết định thu hồi gần 1,6 tỷ đồng và ban hành 74 Quyết định xử phạt vi
50
chuyên ngành, xử phạt vi phạm đối với 03 tổ chức và 07 cá nhân; thành phố
Hồ Chí Minh đã tổ chức 27 cuộc thanh tra chuyên ngành, ban hành 22 Quyết
định xử phạt vi phạm hành chính, kịp thời phát hiện, xử lý vi phạm về hoạt
động bán đấu giá tài sản trên địa bàn; Thanh Hóa tổ chức 15 cuộc thanh tra,
xử phạt 11 tổ chức và 10 cá nhân sai phạm...).
- Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống
tham nhũng tiếp tục được thực hiện thường xuyên, đúng quy định và tinh thần
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường tiếp công dân, tập trung
giải quyết các vụ việc phức tạp, kéo dài. Trong năm, Bộ Tư pháp tiếp tục
công bố công khai lịch tiếp công dân theo quy định; đã tiếp 306 lượt công dân
các Thứ trưởng đã tiếp 14 lượt công dân. Thanh tra các Sở Tư pháp đã tiếp
đến khiếu nại, tố cáo (giảm 82 lượt so với năm 2017), trong đó, Bộ trưởng,
821 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo. Một số Sở Tư pháp đã tiếp số lượng
công dân lớn như: Hà Nội (183 lượt); Bắc Giang (90); thành phố Hồ Chí
Minh (51); Một số Sở Tư pháp không có công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh như: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Lạng Sơn.
Bộ Tư pháp đã tiếp nhận, xử lý 2.013 đơn khiếu nại, tố cáo (giảm 3,7%
so với năm 2017), trong đó có 983 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết (riêng
lĩnh vực bán đấu giá tài sản có 733 đơn, chiếm hơn 74%). Thanh tra các Sở
Tư pháp đã tiếp nhận 1.689 đơn, trong đó có 160 đơn thuộc thẩm quyền.
* Hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
bán đấu giá tài sản tại thời điểm áp dụng Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
ngày 04/3/2010 của Chính phủ
Qua thực tiễn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản đã phát hiện một số khó khăn, vướng mắc và bất cập căn bản
cần được nghiên cứu, đánh giá và đề xuất cơ quan có thẩm quyền xây dựng
văn bản pháp lý về bán đấu giá tài sản cao hơn, cụ thể:
51
Thứ nhất, hoạt động bán đấu giá tài sản đang được điều chỉnh bởi nhiều
văn bản quy phạm pháp luật và chưa có sự thống nhất giữa quy định của pháp
luật chuyên ngành về bán đấu giá. Văn bản pháp lý chuyên ngành có giá trị
cao nhất về bán đấu giá tài sản mới chỉ là Nghị định nên phạm vi, đối tượng
điều chỉnh còn hạn chế và chưa khắc phục được những mâu thuẫn, chồng
chéo về quy trình, thủ tục bán đấu giá tài sản giữa các văn bản hiện hành, làm
giảm hiệu quả của hoạt động bán đấu giá, gây khó khăn cho công tác quản lý
nhà nước về bán đấu giá, tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn tới tiêu cực, gây thất
thoát tài sản, nhất là tài sản nhà nước.
Thứ hai, đội ngũ đấu giá viên tuy phát triển nhanh về số lượng nhưng
chuyên môn, nghiệp vụ; một số đấu giá viên vi phạm đạo đức nghề nghiệp
chất lượng chưa đồng đều, một bộ phận đấu giá viên còn yếu về năng lực
dẫn đến những sai sót trong hoạt động bán đấu giá.
Thứ ba, phần lớn các doanh nghiệp bán đấu giá hiện nay đăng ký kinh
doanh đa ngành nghề, bán đấu giá tài sản là hoạt động bổ sung cho các lĩnh
vực kinh doanh khác (chỉ có khoảng 20/190 doanh nghiệp đăng ký hoạt động
chuyên ngành trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản); cơ sở vật chất của doanh
nghiệp yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa
hoạt động bán đấu giá tài sản
Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương được thành lập với nhiệm vụ chính trị là để bán đấu giá tài sản thi hành
nhiên, hiện nay, theo quy định của pháp luật về thi hành án và pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính thì cả Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và doanh
nghiệp bán đấu giá tài sản được bán đấu giá các loại tài sản này, nhưng phần
lớn các Trung tâm hiện nay còn được nhà nước bao cấp toàn bộ hoặc bao cấp
một phần. Điều này làm giảm tính chuyên nghiệp của hoạt động bán đấu giá
án và tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu. Tuy
52
tài sản vốn là hoạt động vận hành theo cơ chế thị trường.
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định hạn chế việc thành lập Hội đồng
bán đấu giá quyền sử dụng đất, tuy nhiên, trong thực tế, việc thành lập các Hội
đồng bán đấu giá quyền sử dụng đất vẫn còn khá phổ biến ở các địa phương.
Trong nhiều trường hợp, việc thành lập Hội đồng còn chưa phù hợp với quy
định của pháp luật. Hoạt động bán đấu giá do Hội đồng thực hiện đôi khi chưa
được công khai, minh bạch tiềm ẩn rủi ro thất thoát tài sản Nhà nước.
Thứ tư, hoạt động bán đấu giá tài sản còn có những sai sót, chất lượng
của hoạt động còn có điểm chưa thực sự đáp ứng yêu cầu; hoạt động của một
bộ phận đấu giá viên và tổ chức bán đấu giá chưa thực sự chuyên nghiệp,
tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá giữa những người tham
chưa tuân thủ đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục bán đấu giá, còn tồn tại
gia đấu giá, có nơi có lúc đã xảy ra hiện tượng chạy theo lợi nhuận hoặc
“cạnh tranh không lành mạnh” giữa một số tổ chức bán đấu giá gây ảnh
hưởng đến uy tín nghề đấu giá trong xã hội.
Thứ năm, hiện nay hoạt động bán đấu giá tài sản ở nước ta chủ yếu tập
trung vào bán tài sản của Nhà nước, tài sản mà theo quy định của pháp luật
bắt buộc phải bán đấu giá. Có rất ít cá nhân, tổ chức tự nguyện lựa chọn dịch
vụ bán đấu giá khi bán tài sản của mình. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ
thì đến thời điểm hiện tại các tổ chức bán đấu giá trong cả nước mới chỉ thực
hiện được 37 cuộc bán đấu giá tài sản do cá nhân tự nguyện ủy quyền. Con số
Thứ sáu, công tác quản lý nhà nước ở một số địa phương còn lỏng lẻo;
sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có lúc chưa chặt chẽ, việc hướng dẫn
địa phương thực hiện pháp luật bán đấu giá có lúc chưa kịp thời, đôi khi còn
chồng chéo giữa các Bộ, ngành liên quan dẫn đến lúng túng cho địa phương
khi thực hiện; công tác thanh tra, kiểm tra, theo dõi, giám sát việc tuân thủ
này chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu của xã hội.
kịp thời, chưa nghiêm.
53
pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu, việc xử lý vi phạm có nơi, có lúc chưa
* Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
trong đó có thể kể đến những nguyên nhân chủ yếu như sau:
Về nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, đấu giá tài sản là loại hình dịch vụ mới hình thành và phát
triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, chưa
theo kịp với các nước có hoạt động bán đấu giá phát triển hàng trăm năm ở
khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, tính chất của hoạt động bán đấu giá tài sản là dịch vụ được
điều tiết theo cơ chế của thị trường nên hoạt động bán đấu giá tài sản trước
ta đang phát triển, nhận thức của cơ quan nhà nước, tổ chức, người dân, đặc
hết phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội. Do điều kiện kinh tế - xã hội của nước
biệt là các chủ thể có liên quan về sự cần thiết của việc bán đấu giá chưa đầy
đủ, chưa toàn diện nên đã có tác động không nhỏ đến việc phát triển hoạt
động bán đấu giá nói chung cũng như việc chuyên nghiệp hóa hoạt động bán
đấu giá nói riêng. Bên cạnh đó, do truyền thống và tâm lý của tổ chức, cá
nhân e ngại việc công khai tài sản khi bán đấu giá, ngại tiếp cận các thủ tục
bán đấu giá và việc phải thanh toán các chi phí bán đấu giá đã làm cho hoạt
động bán đấu giá không có sức hấp dẫn đối với tổ chức, cá nhân tự nguyện
lựa chọn hình thức bán đấu giá để xử lý tài sản của mình. Điều này trái với
thực tiễn bán đấu giá ở các nước phát triển, nơi tài sản bán đấu giá chủ yếu là
Về nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, đội ngũ đấu giá viên tuy đã được đào tạo về nghề đấu giá
viên nhưng ít có cơ hội cọ sát trong thực tế; các quy định hiện hành về điều
kiện để trở thành đấu giá viên còn đơn giản, dễ dàng; thời gian đào tạo nghề
đấu giá (3 tháng) còn ít so với các chức danh bổ trợ tư pháp khác (so với luật
tài sản của tổ chức, cá nhân.
54
sư và công chứng viên là 12 tháng); chưa có quy định về thực hành nghề
nghiệp của đấu giá viên; đấu giá viên không thường xuyên làm việc tại tổ
chức đấu giá mà còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác.
Thứ hai, một số trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản hiện nay còn chưa
phù hợp với tình hình thực tiễn, còn thiếu những quy định mang tính linh hoạt,
đảm bảo cho việc xử lý tài sản một cách nhanh chóng, thuận tiện, cơ chế bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản bán đấu giá còn
yếu, quyền và nghĩa vụ của người có tài sản chưa đầy đủ, có sự chồng chéo
giữa các văn bản pháp luật chuyên ngành và pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Thứ ba, năng lực quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về bán đấu giá
về lĩnh vực đấu giá tài sản còn mỏng, chưa được đào tạo bồi dưỡng thường
tài sản tại nhiều địa phương còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý
xuyên về kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực còn mới mẻ
này nên công tác quản lý nhà nước còn bộc lộ hạn chế, bất cập.
Thứ tư, quy định điều kiện để thành lập doanh nghiệp bán đấu giá tài
sản còn chưa chặt chẽ. Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan cấp Giấy đăng ký
kinh doanh cho các doanh nghiệp bán đấu giá nhưng Sở Tư pháp lại quản lý
về chuyên môn, nghiệp vụ, trong khi đó cơ chế phối hợp giữa Sở Kế hoạch và
Đầu tư và Sở Tư pháp không rõ ràng, chưa hiệu quả, do đó nhiều trường hợp
Sở Tư pháp không nắm được đầy đủ thông tin về các tổ chức bán đấu giá đã
đăng ký hoạt động.
* Hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
bán đấu giá tài sản tại thời điểm áp dụng Luật đấu giá tài sản năm 2016
Luật đấu giá tài sản năm 2016 (có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2017) đã
tạo cơ sở pháp lý ổn định, thống nhất, lâu dài cho sự phát triển hoạt động đấu
giá tài sản theo hướng chuyên nghiệp hóa, nâng cao chất lượng đội ngũ đấu
giá viên, tổ chức đấu giá và chất lượng hoạt động đấu giá tài sản, thúc đẩy
55
dịch vụ đấu giá tài sản phát triển trong hệ thống các ngành, lĩnh vực dịch vụ
theo cơ chế thị trường; tăng cường cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể tham gia đấu giá, trách nhiệm của đấu giá viên, tổ chức đấu
giá tài sản, bảo vệ quyền lợi ích của Nhà nước, bảo vệ tài sản công. Hiện nay,
cả nước có 680 tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp với hơn 1.200 đấu giá
viên. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, trung bình mỗi năm các tổ chức bán đấu giá
thực hiện được khoảng 23.000 cuộc đấu giá thành.
Tuy nhiên, sau khi Luật đấu giá tài sản năm 2016 có hiệu lực thi hành,
việc tổ chức bán đấu giá đã được triển khai thực hiện nhưng lại phát sinh
nhiều khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực nói trên. Để tham mưu giải
đấu giá tài sản, Thanh tra Bộ Tư pháp đã tổ chức một số đoàn thanh tra đột
quyết cho Lãnh đạo Bộ cũng như góp phần xem xét, đánh giá toàn diện Luật
xuất về việc chấp hành quy định pháp luật về đấu giá tài sản đối với một số tổ
chức bán đấu giá tài sản. Qua đó, đã phát hiện một số tổ chức bán đấu giá tài
sản có những vi phạm pháp luật về đấu giá tài sản như sau:
- Thực hiện không đúng quy định về thông báo, niêm yết bán đấu giá;
- Không thực hiện đăng thông báo bán đấu giá trên phương tiện thông
tin đại chúng, thời gian đăng báo không đúng quy định, chỉ đăng 01 số báo để
hạn chế khách hàng đăng ký tham gia đấu giá.
- Biên bản bán đấu giá không ghi đầy đủ diễn biến phiên bán đấu giá;
- Cho tổ chức, cá nhân không đủ điều kiện tham gia đấu giá;
người có tài sản còn có các thỏa thuận không đúng quy định của Luật Đấu giá
tài sản về việc thu tiền đặt trước hoặc về thù lao/chi phí dịch vụ đấu giá;
- Về Quy chế đấu giá tài sản: một số tổ chức đấu giá tài sản còn ban
hành Quy chế chung cho các cuộc đấu giá, nội dung quy chế chưa đầy đủ là
không đúng quy định Luật Đấu giá tài sản;
- Về Hợp đồng đấu giá tài sản ký kết giữa tổ chức đấu giá tài sản với
56
- Việc bán hồ sơ tham gia đấu giá tại một vài tổ chức có biểu hiện chưa
minh bạch, dẫn tới có khiếu kiện, tranh chấp..., còn có dấu hiệu thông đồng,
dìm giá nhưng rất khó phát hiện và xử lý.
Quá trình tiến hành thanh tra, xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo về
lĩnh vực bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự, Thanh tra Bộ gặp phải một số
khó khăn, vướng mắc sau:
- Thể chế về công tác bán đấu giá tài sản tuy đã được quan tâm xây
dựng cơ bản đầy đủ, tuy nhiên Luật đấu giá tài sản năm 2016 (có hiệu lực từ
01/7/2017) còn hạn chế quyền của cơ quan Nhà nước như việc hủy kết quả
đấu giá tài sản (Theo Khoản 5 Điều 72 Luật đấu giá tài sản thì người có thẩm
sản trong trường hợp đấu giá tài sản nhà nước).
quyền xử phạt vi phạm hành chính chỉ có thẩm quyền hủy kết quả đấu giá tài
- Cùng với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội, việc khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực đấu giá tài sản ngày càng gia tăng với thủ đoạn vi phạm tinh
vi, khó phát hiện đòi hỏi cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra phải có
trình độ chuyên môn cao, kiến thức tổng hợp tốt và sự phối hợp của nhiều cơ
quan, đơn vị.
Do đó, đối với lĩnh vực bán đấu giá tài sản, Thanh tra Bộ Tư pháp kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền:
- Xem xét, sửa đổi, hoàn thiện quy định pháp luật về lĩnh vực bán đấu
giá tái sản theo hướng tăng thẩm quyền, tăng trách nhiệm của cơ quan thanh
như thẩm quyền xem xét xử lý kết quả đấu giá đối với tất cả các loại tài sản.
Ngoài ra, cần xem xét, quy định cho Thanh tra được áp dụng các biện pháp
nghiệp vụ để làm rõ được hành vi thông đồng trên cơ sở đảm bảo đúng quy
định pháp luật.
- Ban hành cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan, đơn vị có liên
tra đối với lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo về bán đấu giá tài sản cũng
cáo kéo dài.
57
quan để giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ việc phức tạp, khiếu nại, tố
* Tổng hợp một số vi phạm được phát hiện trong quá trình thanh tra
giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc bán đấu giá tài sản
1. Vụ việc thanh tra tại Công ty TNHH Đấu giá Công Lập (Bình Dương)
Theo các Quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự thì bà
Trần Thị Cẩm Bình phải trả 470.404.000 đồng; Ông Trần Hoàng Khải phải
trả 468.840.000 đồng cho Quỹ tín dụng nhân dân Dĩ An.
Vụ việc được giao cho ông Nguyễn Thanh Tùng (Chấp hành viên Chi
cục THADS thị xã Dĩ An) tổ chức thi hành án. Ông Tùng đã kê biên các tài
sản bảo đảm thi hành án, thẩm định giá và ký Hợp đồng dịch vụ đấu giá với
bán đấu giá thành hai quyền sử dụng đất kê biên, lần lượt với giá: Quyền sử
Công ty TNHH Đấu giá Công Lập để tổ chức bán đấu giá và Công ty này đã
dụng đất 1: 613 triệu đồng (người mua là ông Nguyễn Văn Khoan, trả bằng
giá khởi điểm); Quyền sử dụng đất 2: 645.500.000 đồng (giá khởi điểm:
645.107.188 đồng; người mua là ông Phạm Duy).
Qua thanh tra đã phát hiện một số sai phạm của Công ty Đấu giá Công
Lập nhưng sai phạm nổi cộm nhất là: Một trong hai người mua trúng (ông
Nguyễn Văn Khoan) là cháu ruột của Chấp hành viên Nguyễn Thanh Tùng.
Sau khi trúng đấu giá, Chấp hành viên đã thực hiện nhiều trình tự, thủ tục để
chuẩn bị cưỡng chế giao tài sản đấu giá cho cháu ruột của mình. Việc làm trên
là vi phạm nghiêm trọng điểm c Khoản 5 Điều 21 Luật THADS năm 2008
Tại Kết luận số 09/KL-TTR ngày 18/4/2018, Thanh tra Bộ Tư pháp đã
kiến nghị Cục THADS tỉnh Bình Dương Tổ chức kiểm điểm, làm rõ trách
nhiệm của các cá nhân có liên quan tại Chi cục THADS thị xã Dĩ An trong
việc tổ chức thi hành án vụ việc nói trên, có hình thức xử lý phù hợp, tương
xứng với tính chất và mức độ vi phạm. Theo báo cáo của Cục THADS tỉnh thì
quy định những điều Chấp hành viên không được làm.
Hiện nay, ông Tùng đã xin thôi việc và được thôi việc kể từ 01/11/2018.
58
Cục đã tổ chức họp, kiểm điểm đối với Chấp hành viên Nguyễn Thanh Tùng.
2. Vụ việc tại Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản Vĩnh Phúc
Theo quyết định của Bản án có hiệu lực pháp luật, Công ty trách nhiệm
hữu hạn xây dựng Sông Thao phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần
ngoại thương Việt Nam tổng số tiền gốc và lãi tính đến ngày 11/11/2014 là:
10.289.662.066 đồng
Để bảo đảm thi hành án, Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Vĩnh Yên đã kê biên toàn bộ tài sản là công trình xây dựng (nhà ở,
trạm xăng dầu) trên diện tích 1.372m2 đất do Nhà nước cho Công ty Sông
Thao thuê trả tiền hàng năm và thẩm định giá là 7.660.657.000 đồng và
thành với giá: 7.670.657.000 đồng (cao hơn giá khởi điểm 10 triệu đồng),
chuyển Trung tâm Dịch vụ đấu giá tài sản Vĩnh Phúc tổ chức bán đấu giá
người mua trúng là Công ty TNHH MTV Minh Đức Phú Thọ.
Quá trình thanh tra, nhận thấy có dấu hiệu thông đồng, dàn xếp giữa
những người tham gia đấu giá, Thanh tra Bộ đã phối hợp với Cục An ninh
kinh tế (nay là A04) xác minh làm rõ. Kết quả xác minh cho thấy những
người tham gia đấu giá đã thông đồng, dàn xếp đấu giá. Tuy nhiên, trước khi
có kết quả xác minh của cơ quan an ninh trả lời Thanh tra Bộ, các bên liên
quan (Chi cục THADS, Trung tâm DVĐG và người mua trúng) đã thỏa thuận
hủy kết quả đấu giá với lý do hủy là người mua trúng chậm được giao tài sản.
Thanh tra Bộ Tư pháp nhận định việc hủy kết quả đấu giá nói trên là tạo điều
hành vi vi phạm pháp luật nhằm trốn tránh pháp luật. Những vi phạm nói trên
là nghiêm trọng, xâm phạm đến khách thể là trật tự quản lý nhà nước về đấu
giá tài sản nên kiến nghị xử lý, xem xét trách nhiệm và có hình thức kỷ luật cá
nhân có liên quan (vi phạm này càng rõ rệt hơn khi trong quá trình thanh tra,
giám đốc Trung tâm liên tục có văn bản gây sức ép cho Thanh tra Bộ Tư pháp
kiện cho các cá nhân có hành vi thông đồng, dìm giá, che giấu hậu quả của
chuyển hồ sơ đến cơ quan an ninh để phối hợp làm rõ).
59
để ban hành kết luận thanh tra mặc dù đã được Thanh tra Bộ thông báo đã
Sau khi ban hành Kết luận thanh tra, Giám đốc Trung tâm có đơn khiếu
nại Kết luận thanh tra và Thanh tra Bộ đã thụ lý, giải quyết và không chấp
nhận nội dung khiếu nại của Trung tâm. Gần đây nhất, giám đốc Trung tâm
có đơn tố cáo Chánh thanh tra Bộ với những lời lẽ không chuẩn mực, Thanh
tra Bộ đã báo cáo và Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã xem xét, giải quyết.
3. Vụ việc Công ty Dệt Long An
Công ty Cổ phần Dệt Long An phải thi hành nhiều bản án trong đó có bản
án xét xử giữa Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) và Công
ty Dệt Long An, theo đó: Công ty Cổ phần Dệt Long An trả cho Ngân hàng
gốc trong hạn 7.900.000.000 đồng, nợ gốc quá hạn 66.413.792.825 đồng, nợ lãi
Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam 129.921.366.138 đồng, trong đó nợ
trong hạn 83.388.899 đồng, nợ lãi quá hạn 21.127.928.821 đồng, tiền phạt
34.396.255.603 đồng.
Để bảo đảm thi hành án cho Ngân hàng, Chấp hành viên Cục THADS
tỉnh Long An đã kê biên toàn bộ tài sản của Công ty Dệt Long An thế chấp
cho Ngân hàng. Tuy nhiên, do Chấp hành viên Nguyễn Văn Minh (người kê
biên) bị bệnh (nay đã mất) nên hồ sơ chuyển cho Chấp hành viên Nguyễn Văn
Tài thực hiện. Chấp hành viên đã tiến hành thẩm định giá tài sản với giá:
97.077.687.000 đồng (trong đó: hạng mục công trình xây dựng là 69.459.273.728
đồng; dây chuyền máy móc thiết bị là 27.618.413.295 đồng) và chuyển Công
với giá trúng là 97.180.000.000 đồng.
Quá trình thanh tra đã phát hiện rất nhiều sai phạm của Chấp hành viên
và tổ chức đấu giá, cụ thể:
- Về thi hành án dân sự
Trong quá trình tổ chức thi hành án, Cục THADS đã có nhiều sai phạm,
ty TNHH dịch vụ đấu giá tài sản Miền Nam (Long An) tổ chức bán đấu giá
60
cụ thể: Không ban hành Quyết định đình chỉ thi hành án; áp dụng biện pháp
cưỡng chế (cắt khóa) không phù hợp quy định pháp luật; Không kiểm kê số
lượng, hiện trạng tài sản dẫn đến số lượng tài sản bị kê biên trước đó với số
lượng tài sản thẩm định giá sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế có sự thất
thoát; Đưa những tài sản không bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên để
bán đấu giá.
Cục THADS đã vi phạm điểm c Khoản 1 Điều 50, Điều 71 Luật THADS
năm 2014. Trách nhiệm đối với những sai phạm nói trên thuộc về Chấp hành
viên Cục THADS (ông Nguyễn Văn Tài) và những cá nhân có liên quan.
- Về bán đấu giá tài sản
chuyền máy móc thiết bị của Công ty ty Cổ phần Dệt Long An, Công ty Đấu
Quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản là công trình xây dựng và dây
giá Miền Nam và những người liên quan có nhiều sai phạm, trong đó có
những sai phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng kết quả bán đấu giá tài sản. Cụ thể:
Chủ tịch UBND xã Nhựt Chánh tùy tiện xác nhận việc niêm yết Thông báo
bán đấu giá tại Cục THADS (trụ sở tại thành phố Tân An, Long An); Đấu giá
viên điều hành phiên bán đấu giá ghi biên bản diễn biến phiên đấu giá không
đầy đủ; Có sự thông đồng giữa những người tham gia đấu giá; Bán đấu giá
khi không có chức năng bán đấu giá những tài sản không bị kê biên bảo đảm
thi hành án; Thỏa thuận trái pháp luật với những người liên quan nhằm tạo
điều kiện cho người mua trúng đấu giá kéo dài thời gian nộp tiền mua tài sản
Công ty Đấu giá Miền Nam và những người liên quan đã vi phạm Khoản
1 Điều 3, Khoản 2 Điều 34, Khoản 3 Điều 26 Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày
04/3/2010 của Chính phủ; Khoản 3 Điều 15 Thông tư 23/2010/TT-BTP ngày
06/12/2010 của Bộ Tư pháp.
Do hành vi bán đấu giá tài sản những tài sản không được bán đấu giá
và sử dụng tiền đặt trước trái quy định để vụ lợi.
61
(những tài sản không bị kê biên) của Công ty Đấu giá Miền Nam; có việc
thông đồng giữa những người tham gia đấu giá và việc thỏa thuận trái pháp
luật của các bên tham gia đã làm ảnh hưởng kết quả đấu giá, kết quả thi hành
án và quyền, lợi ích hợp pháp của Công ty Cổ phần Dệt Long An, cần phải
được tiếp tục làm rõ, Thanh tra Bộ đã chuyển hồ sơ vụ việc đến Cục An ninh
chính trị nội bộ (A03) – Bộ Công an để tiếp tục điều tra xác minh làm rõ hành
vi thông đồng giữa 02 khách hàng đăng ký tham gia đấu giá.
4. Vụ đấu giá Nhà tại 25 (tầng 2) Đồng Khởi, phường Bến Thành,
Quận 1, Tp HCM
Nhà 25 (tầng 2) Đồng Khởi, phường Bến Thành, Quận 1, Tp Hồ Chí
Minh là tài sản bảo đảm của Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn -
Chi nhánh Bến Thành cho khoản vay của bà Trần Thị Kim Thoa. Do bà Thoa
không trả được nợ nên Ngân hàng đã tổ chức bán đấu giá với giá khởi điểm
11.542.500.000 đồng và chuyển cho Công ty Cổ phần đấu giá Minh Pháp
(thành phố Hồ Chí Minh) tổ chức đấu giá thành với giá bán 11.600.000.000
đồng (cao hơn mức giá khởi điểm 40.000.000 đồng).
Qua thanh tra, ngoài một số vi phạm về trình tự thủ tục Công ty Minh
Pháp, kết quả xác minh cho thấy: 03 người đăng ký đấu giá đều có quan hệ
với nhau, cụ thể: Bà Ngô Thu Thùy Dương (người trúng đấu giá) là con dâu
của ông Chu Hải Thanh (người đăng ký đấu giá) và cũng là cháu gọi bà Trần
người này đều không thuộc diện cấm tham gia đấu giá, người mua trúng có
văn bản xác nhận là tài sản riêng cá nhân, các khoản tiền đều từ cá nhân
từng người tham gia đấu giá nộp nên chưa đủ cơ sở xem xét hủy kết quả đấu
giá. Tuy nhiên, Thanh tra Bộ vẫn đưa nội dung nói trên vào Kết luận thanh
tra và thông báo quyền khởi kiện của bà Trần Thị Kim Thoa đề nghị Tòa án
Thị Diệu Uyên (người đăng ký đấu giá) bằng dì ruột. Tuy nhiên, những
62
xem xét kết quả đấu giá.
2.2. Thực tiễn hoàn thiện khung khổ pháp luật về hoạt động thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản và
những vấn đề đặt ra
Đấu giá tài sản là một dịch vụ ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế - xã hội. Đấu giá tài sản là một trong những cách
thức linh hoạt để chuyển quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể
khác góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động mua bán trao
đổi hàng hoá nói riêng phát triển một cách đa dạng. Trong những năm qua,
hoạt động bán đấu giá tài sản ở nước ta đã từng bước phát triển, có những
hành án dân sự và xử lý vi phạm hành chính.
đóng góp quan trọng trong công tác thi hành pháp luật, đặc biệt là công tác thi
Giai đoạn từ 2010 đến 2016 (Thời điểm áp dụng Nghị định 17/2010/NĐ-CP)
Sau 06 năm thi hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài
sản, hoạt động bán đấu giá tài sản đã có bước phát triển đáng kể. Tính đến
ngày 31/12/2016 cả nước có 619 đấu giá viên đang làm việc tại các tổ chức
bán đấu giá trong tổng số 1259 người được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá,
63 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản được thành lập tại các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương và 190 doanh nghiệp bán đấu giá tài sản.
Các loại tài sản bắt buộc bán đấu giá ngày càng được mở rộng hơn. Số
hợp đồng bán đấu giá thành, giá trị tài sản bán được cao hơn nhiều so với giá
đấu giá đạt hiệu quả ngày càng cao. Theo số liệu thống kê thì từ tháng 7/2010
đến tháng 12/2016, các tổ chức bán đấu giá tài sản đã ký 23.059 hợp đồng bán
đấu giá với giá khởi điểm hơn 38.876 tỷ đồng, giá trị tài sản bán được hơn
41.959 tỷ đồng (vượt hơn 3082 tỷ đồng so với giá khởi điểm).
Thông qua hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
khởi điểm ngày càng tăng, thu ngân sách Nhà nước thông qua hoạt động bán
63
bán đấu giá tài sản đã góp phần làm công khai hóa, minh bạch hóa việc xử lý
tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và tài sản của tổ chức, cá nhân, qua đó, giảm
thiểu các tiêu cực trong việc xử lý tài sản, đóng góp vào việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, phát triển kinh tế - xã hội tại nhiều địa
phương, bước đầu khẳng định hiệu quả của chủ trương xã hội hóa, chuyên
nghiệp hóa trong lĩnh vực bán đấu giá trong bối cảnh kinh tế thị trường.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thông qua hoạt động thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản đã phát hiện những
bất cập, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật về bán đấu giá tài sản hiện hành chưa đồng bộ,
bán đấu giá tài sản. Theo đó, hoạt động bán đấu giá tài sản đang được điều
chưa thống nhất, còn tồn tại những mâu thuẫn, chồng chéo về trình tự, thủ tục
chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Luật thương mại, Luật tần
số vô tuyến điện, Luật viễn thông, Luật đất đai, Luật khoáng sản, Luật chứng
khoán. Ngoài ra, còn có Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
Thông tư liên tịch của các Bộ, ngành quy định về trình tự, thủ tục bán đấu giá
tài sản riêng.
Thứ hai, chất lượng của đội ngũ đấu giá viên tuy đã được cải thiện
nhưng vẫn còn hạn chế, bất cập. Gần 1/2 số đấu giá viên hiện nay chưa qua
đào tạo nghề; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế; việc chủ động bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật kiến thức pháp luật liên quan đến bán
trọng. Chỉ có khoảng gần 1/2 số người được cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá
đang hành nghề tại tổ chức đấu giá; số người được Cấp chứng chỉ còn lại
không hành nghề đấu giá trong thực tế.
Thứ ba, doanh nghiệp bán đấu giá đã có sự phát triển đáng kể về số
lượng nhưng tổ chức và hoạt động của phần lớn doanh nghiệp bán đấu giá còn
đấu giá tài sản một cách thường xuyên chưa được nhiều đấu giá viên coi
64
chưa chuyên nghiệp, có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất yếu kém. Số doanh
nghiệp thực chất hoạt động chuyên nghiệp về bán đấu giá tài sản trong tổng
số doanh nghiệp có đăng ký hoạt động bán đấu giá tài sản là rất ít (chỉ có
khoảng 20/190 doanh nghiệp). Phần lớn doanh nghiệp còn lại đăng ký hoạt
động bán đấu giá tài sản mang tính hình thức mà không thực hiện phiên đấu
giá nào trên thực tế.
Số Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tự chủ về kinh phí hoạt động
còn chưa nhiều (có 12/63 Trung tâm tự chủ 100% về tài chính, 46/63 Trung
tâm được Nhà nước bao cấp một phần kinh phí, 5/63 Trung tâm được bao cấp
100% kinh phí). Một số Trung tâm hoạt động còn chủ yếu dựa vào nguồn
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định hạn chế việc thành lập Hội
ngân sách của nhà nước.
đồng bán đấu giá quyền sử dụng đất, tuy nhiên, trong thực tế, việc thành lập
các Hội đồng bán đấu giá quyền sử dụng đất vẫn còn khá phổ biến ở các địa
phương; trong nhiều trường hợp, việc thành lập Hội đồng còn chưa phù hợp
với quy định của pháp luật.
Thứ tư, chất lượng nhiều phiên đấu giá nhìn chung còn chưa có hiệu
quả, còn tồn tại tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá, giá trị
tài sản bán vượt mức giá khởi điểm chưa cao, chưa có tiêu chí lựa chọn tổ
chức bán đấu giá, cơ chế kiểm soát việc bán đấu giá... Đặc biệt, việc bàn giao
tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá còn gặp rất nhiều khó khăn,
án, tài sản giao dịch bảo đảm chịu nhiều rủi ro. Trong một số trường hợp
quyền lợi của người mua tài sản bị ảnh hưởng nghiêm trọng do không nhận
được tài sản sau hàng chục năm. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến việc người
dân “tẩy chay” tài sản mà việc chuyển giao quyền sở hữu gặp nhiều khó khăn.
Thứ năm, bán đấu giá là hình thức bán tài sản công khai, minh bạch,
dẫn đến tình trạng người mua được tài sản ngay tình nhất là tài sản thi hành
65
hiệu quả và rất thông dụng ở các nước phát triển. Ở các nước tổ chức bán đấu
giá chủ yếu phục vụ việc bán tài sản của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, tại Việt
Nam hoạt động bán đấu giá chủ yếu tập trung vào bán tài sản mà theo quy
định của pháp luật bắt buộc phải bán đấu giá. Có rất ít cá nhân, tổ chức tự
nguyện lựa chọn dịch vụ bán đấu giá khi bán tài sản của mình (trong cả nước
mới chỉ có hơn 37 cuộc bán đấu giá tài sản thuộc sở hữu của cá nhân).
Thứ sáu, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài
sản đôi lúc, đôi nơi còn buông lỏng; công tác thanh tra, kiểm tra còn chưa
thực hiện thường xuyên; việc xử lý các vi phạm trong hoạt động bán đấu giá
còn chưa kịp thời dẫn đến hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao.
Thứ nhất, tính chất của hoạt động bán đấu giá tài sản là dịch vụ được
Những hạn chế trên xuất phát từ các nguyên nhân chính sau đây:
điều tiết theo cơ chế của thị trường nên hoạt động bán đấu giá tài sản trước
hết phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội. Do điều kiện kinh tế - xã hội của
nước ta đang phát triển, nhận thức của cơ quan nhà nước, tổ chức, người
dân, đặc biệt là các chủ thể có liên quan về hoạt động bán đấu giá chưa đầy
đủ, chưa toàn diện nên đã có tác động không nhỏ đến việc phát triển hoạt
động bán đấu giá.
Bên cạnh đó, do truyền thống tâm lý của tổ chức, cá nhân e ngại việc
công khai tài sản khi bán đấu giá, ngại tiếp cận các thủ tục bán đấu giá và việc
phải thanh toán các chi phí bán đấu giá đã làm cho phương thức bán đấu giá
thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, do vậy, chưa theo
kịp với các nước có hoạt động bán đấu giá phát triển hàng trăm năm ở khu
vực và trên thế giới.
Thứ hai, các quy định hiện hành về điều kiện để trở thành đấu giá
viên còn đơn giản, dễ dàng; thời gian đào tạo nghề đấu giá còn ít so với các
không có sức hấp dẫn. Ngoài ra, đấu giá tài sản là loại hình dịch vụ mới hình
của đấu giá viên.
66
chức danh bổ trợ tư pháp khác; chưa có quy định về thực hành nghề nghiệp
Thứ tư, một số trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản hiện nay chưa phù
hợp với tình hình thực tiễn, thiếu những quy định mang tính linh hoạt, đảm
bảo cho việc xử lý tài sản một cách nhanh chóng, thuận tiện, cơ chế bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản bán đấu giá còn yếu,
còn có sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật chuyên ngành và pháp luật
về bán đấu giá tài sản.
Thứ năm, năng lực quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về bán đấu
giá tài sản một số địa phương còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản
lý về lĩnh vực đấu giá tài sản còn mỏng, chưa được đào tạo bồi dưỡng thường
xuyên về kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực mới mẻ này.
Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về doanh
nghiệp bán đấu giá, đội ngũ đấu giá viên trong doanh nghiệp còn chưa rõ
ràng, chưa có hiệu quả.
Trong bối cảnh Hiến pháp năm 2013 đã được Quốc hội Khóa XIII
thông qua và nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động bán
đấu giá tài sản đã và đang được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện như: Luật đất
đai, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật thi hành án dân sự (sửa đổi), Bộ luật
Dân sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), Luật Doanh nghiệp... thì
việc ban hành Luật đấu giá tài sản với trình tự, thủ tục bán đấu giá áp dụng
hoạt động bán đấu giá tài sản, phát triển dịch vụ bán đấu giá tài sản chuyên
nghiệp trong hệ thống các ngành dịch vụ ở nước ta, khuyến khích tổ chức, cá
nhân tự nguyện bán đấu giá tài sản của mình, góp phần hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân là yêu
thống nhất, phù hợp với tình hình mới nhằm đáp ứng yêu cầu về xã hội hóa
67
cầu khách quan thực sự cần thiết.
* Giai đoạn từ 01/7/ 2017 đến nay (Thời điểm Luật đấu giá tài sản
2016 có hiệu lực thi hành)
Thực hiện Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30/5/2014 của Quốc hội,
Nghị quyết số 780/NQ-UBTVQH13 ngày 25/6/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Quyết định số 1193/QĐ-TTg ngày 22/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư
pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành thực hiện các hoạt động xây dựng.
Xây dựng Luật đấu giá tài sản nhằm tạo cơ chế pháp lý chung, áp dụng
thống nhất cho việc đấu giá các loại tài sản bắt buộc phải đấu giá và tài sản
của tổ chức, cá nhân tự nguyện lựa chọn đấu giá; nâng cao chất lượng đội ngũ
đấu giá viên, chất lượng hoạt động đấu giá tài sản; phát triển các tổ chức đấu
giá tài sản mang tính chuyên nghiệp cao, góp phần khuyến khích tổ chức, cá
nhân sử dụng dịch vụ đấu giá tài sản để bán tài sản của mình; tạo cơ sở pháp
lý vững chắc, ổn định để thúc đẩy dịch vụ đấu giá tài sản phát triển trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường cơ chế bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia đấu giá; nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản và đảm bảo các
tiêu chí sau:
+ Tiếp tục thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối, quan điểm đã
được xác định trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính
định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo hướng xã hội hóa và chuyên
nghiệp hóa mạnh mẽ hoạt động đấu giá tài sản.
trị về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010
+ Xây dựng trình tự, thủ tục đấu giá tài sản áp dụng thống nhất cho các
loại tài sản bắt buộc đấu giá và tài sản của cá nhân, tổ chức khác tự nguyện
68
lựa chọn dịch vụ đấu giá; cơ chế kiểm soát việc đấu giá tài sản đảm bảo tính
công khai, minh bạch, phù hợp với thực tiễn, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và của Nhà nước, đặc biệt là quyền, lợi ích
của người mua được tài sản đấu giá; phát triển dịch vụ đấu giá phù hợp với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ đấu giá viên
theo hướng nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề; tăng cường trách nhiệm
pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của đấu giá viên trong hoạt động hành
nghề, đặc biệt là tuân thủ pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp của đấu
giá viên, hướng tới mục tiêu xây dựng đội ngũ đấu giá viên chuyên nghiệp,
giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
+ Bảo đảm sự quản lý thống nhất, hiệu quả của Nhà nước đối với tổ
chức và hoạt động đấu giá tài sản; phân công, phân cấp rõ ràng, tạo cơ chế
phối hợp hiệu quả trong quản lý nhà nước về đấu giá tài sản giữa nhà nước
với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của đấu giá viên.
+ Xây dựng Luật đấu giá tài sản phù hợp với quy định của Hiến pháp năm
2013, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản pháp luật có liên quan,
tính kế thừa quy định của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, tham khảo có chọn lọc
kinh nghiệm của nước ngoài gắn với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Ngày 17 tháng 11 năm 2016, Quốc hội ban hành Luật đấu giá tài sản
đấu giá tài sản; đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản; thù lao dịch vụ đấu giá,
chi phí đấu giá tài sản…Mục đích xây dựng luật là để khắc phục những nhược
điểm quy định tại Nghị định 17/2010/NĐ-CP.
Qua quá trình thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản, Thanh tra Bộ Tư pháp đã phát hiện một số bất cập của Luật
(có hiệu lực từ ngày 01/7/2017). Luật quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục
69
đấu giá năm 2016, cụ thể:
Luật đấu giá tài sản năm 2016 nêu ra 4 nguyên tắc đấu giá tài sản:
Tuân thủ quy định của pháp luật; Bảo đảm tính độc lập, trung thực,
công khai, minh bạch, công bằng, khách quan; Bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá,
người trúng đấu giá, người mua được tài sản đấu giá, tổ chức đấu
giá tài sản, đấu giá viên; Cuộc đấu giá phải do đấu giá viên điều
hành, trừ trường hợp cuộc đấu giá do Hội đồng đấu giá tài sản thực
hiện [22, Điều 6].
Nếu so với Điều 3, Nghị định 17/2010/NĐ-CP, thì Luật đấu giá tài sản
nhất tổn thất về tài sản Nhà nước”; vì hiện Việt Nam đang trong giai đoạn cổ
quy định đầy đủ hơn, nhưng cần bổ sung một nguyên tắc “giảm tới mức thấp
phần hóa tài sản Nhà nước, nếu không đặt nguyên tắc “giảm tới mức thấp
nhất tổn thất về tài sản Nhà nước”, tài sản Nhà nước sẽ bị thất thoát rất lớn;
- Điều 9 Luật Đấu giá tài sản 2016 quy định rất rõ “các hành vi bị
nghiêm cấm trong hoạt động đấu giá”. Song trên thực tế, không chỉ có đấu giá
viên, doanh nghiệp cũng có thể tham gia vào các hoạt động “quân xanh, quân
đỏ” hoặc người tham gia đấu giá và những người thực hiện quản lý cũng có
thể có vi phạm liên quan. Tuy nhiên, qua quá trình thanh tra giải quyết khiếu
nại, tố cáo đã phát hiện một số tiêu cực, bất cấp. Cụ thể:
+ Đó là sự liên kết thông đồng giữa người có tài sản bán đấu giá và tổ
chức bán đấu giá tài sản thân thiết để dễ bề điều khiển họ theo ý mình để trục
lợi cá nhân; Chủ tài sản thường thuê các đơn vị thẩm định giá và đưa ra giá
khởi điểm rất thấp để đấu giá, đối với các tổ chức bán đấu giá, họ sẽ đăng
thông tin bán đấu giá tài sản trên các phương tiện thông tin đại chúng một
cách mập mờ, chung chung với mục đích càng ít người biết và mua hồ sơ
chức bán đấu giá đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật thường lựa chọn đơn vị, tổ
kết quả bán đấu giá thì họ sẽ tìm cách hủy phiên đấu giá;
70
càng tốt, nếu có nhiều người mua hồ sơ và chủ tài sản không làm chủ được
+ Một số tổ chức bán đấu giá tài sản gây khó khăn cho khách hàng
trong việc tiếp cận, mua hồ sơ và xem tài sản với mục đích hạn chế người
tham gia đấu giá, thậm chí đóng cửa công ty, không cung cấp số tài khoản cho
khách hàng nộp tiền đặt trước, không bắt máy điện thoại cho đến ngày diễn ra
phiên bán đấu giá;
+ Sự thông đồng của tổ chức bán đấu giá với khách hàng tham gia
đấu giá. Mặc dù Luật đấu giá tài sản năm 2016 đã có quy định cấm tiết lộ
thông tin về khách hàng nhưng một số tổ chức bán đấu giá tài sản vẫn cung
cấp danh sách khách hàng tham gia đấu giá để dàn xếp trước khi vào phiên
Vì thế, ngoài việc ban hành quyết định xử phạt hành chính theo quy
bán đấu giá;
định của pháp luật về bán đấu giá tài sản thì tại Điều 218 Bộ Luật hình sự
năm 2015 cũng đã có quy định về tội “vi phạm quy định về hoạt động bán đấu
giá tài sản”. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có vụ việc bán
đấu giá nào được xử lý hình sự nên vẫn tồn tại những hành vi vi phạm nghiêm
trọng các quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản.
- Chương II, từ Điều 10 đến hết Điều 32 của Luật đấu giá tài sản 2016
quy định về “Đấu giá viên và tổ chức đấu giá tài sản”, chưa quy định nghiêm
minh đối với việc thu hồi Thẻ đấu giá viên khi vi phạm; điều hành cuộc đấu
giá nhưng không có Thẻ đấu giá viên hoặc sử dụng Thẻ đấu giá viên giả để
tra của cơ quan có thẩm quyền và người có thẩm quyền. Vì thế, việc xử lý
doanh nghiệp bán đấu giá tài sản thực hiện việc đăng ký hoạt động tại một cơ
quan và chịu sự quản lý nghiệp vụ tại một cơ quan khác khi có hành vi vi
phạm hoặc cản trở, chống lại hoạt động kiểm tra, thanh tra của cơ quan hoặc
người có thẩm quyền còn nhiều bất cập do không có thẩm quyền. Hoặc khi
điều hành phiên đấu giá; hành vi cản trở, chống lại hoạt động kiểm tra, thanh
còn tính kịp thời theo nguyên tắc xử lý vi phạm.
71
các cơ quan Nhà nước phối hợp để phát hiện, xử lý hành vi vi phạm, đã không
- Về giá khởi điểm, giám định tài sản đấu giá. Luật đấu giá tài sản năm
2016 quy định “một số loại tài sản đấu giá thì giá khởi điểm do tổ chức, cá
nhân tự xác định hoặc ủy quyền cho tổ chức đấu giá tài sản hoặc tổ chức, cá
nhân khác xác định”. Quy định này là không phù hợp với thực tế hiện nay, vì
quy định “ủy quyền cho tổ chức đấu giá tài sản” không đảm bảo nguyên tắc
khách quan, minh bạch vì tổ chức đấu giá không thể thực hiện chức năng vừa
định giá tài sản, lại vừa thực hiện chức năng đấu giá tài sản được. Điều này rất
dễ xảy ra tình trạng tùy tiện trong khâu định giá tài sản và khâu bán đấu giá
tài sản để trục lợi kiểu “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, làm ảnh hưởng và gây
- Điều 35 và 57 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 đã có những quy định
thiệt hại cho người có tài sản ủy quyền bán đấu giá;
cụ thể việc niêm yết, thông báo công khai thông tin đấu giá. Tuy nhiên, trong
quá trình triển khai trên thực tế đã bộc lộ nhiều bất cập. Vì luật cũng như
Nghị định 62/2017/NĐ-CP, ngày 16 tháng 05 năm 2017 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu giá tài sản chưa quy
định cụ thể phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương gồm có cấp nào
(cấp tỉnh, cấp huyện hay cấp xã) nên các tổ chức hành nghề bán đấu giá tài
sản sẽ lợi dụng, không thông báo rộng rãi nhằm mục đích bưng bít thông tin
bán đấu giá nhằm hạn chế khách hàng tham gia đấu giá để trục lợi;
- Điều 38 khoản 2 Luật Đấu giá tài sản, quy định về đăng ký tham gia
tham gia đấu giá trong giờ hành chính, liên tục từ ngày niêm yết việc đấu giá
tài sản cho đến trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày”. Tuy nhiên, quy định
này gây khó khăn cho việc bán đấu giá tài sản. Ví dụ, ngày 15 tổ chức bán
đấu giá. Theo quy định, tổ chức bán đấu giá phải tiếp nhận hồ sơ hết ngày 13,
nhưng đến cuối giờ ngày 13 mới có người đến đăng ký tham gia đấu giá thì
đấu giá tài sản có quy định mới là “tổ chức đấu giá tài sản tiếp nhận hồ sơ
tổ chức đấu giá, việc niêm yết mới thực hiện được 01 ngày là chưa đảm bảo.
72
ngày 14 tổ chức đấu giá mới đi niêm yết hồ sơ được. Như vậy, cho đến ngày
- Khoản 3 Điều 39 quy định “tổ chức đấu giá tài sản chỉ được thu tiền
đặt trước trong thời hạn 03 ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá”, quy
định này cũng có những khó khăn, bất cập. Giả sử nhận tiền ngày 15, 16, 17;
ngày 18 bán đấu giá. Cuối giờ chiều ngày 17 mới có người đến đặt tiền. Như
vậy, việc gửi giấy mời cho người có tài sản, người có quyền bán tài sản, các
khách mời khác theo quy định cũng không đủ thời gian;
- Điều 40 về “hình thức đấu giá, phương thức đấu giá” là quy định về
“đấu giá trực tuyến”, đấu giá trực tuyến là hình thức đã được triển khai phổ
biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, hình thức này được kỳ vọng
bất cập của phương thức đấu giá truyền thống. Với đấu giá trực tuyến, tất cả
sẽ giúp hoạt động đấu giá tài sản minh bạch, cạnh tranh hơn, hạn chế nhiều
các cơ quan, tổ chức đều có thể đăng ký đấu giá tài sản qua mạng. Khi thông
tin đấu giá đã được đăng tải công khai trên mạng, bất kỳ người dân nào cũng
có thể tìm hiểu thông tin và đăng ký tham gia đấu giá. Lợi ích của vận hành
hệ thống là đảm bảo tính công khai, minh bạch, tránh hiện tượng cấu kết, móc
ngoặc trong đấu giá. Hình thức này thu hút đông đảo người quan tâm mua đấu
giá hơn. Bởi họ có thể tham gia bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu. Tính bảo mật, an
toàn thông tin luôn được đảm bảo, khả năng bị các nhóm lợi ích chi phối là
khó xảy ra. Ngoài ra, khi triển khai hệ thống đấu giá trực tuyến, hệ thống kế
toán của các đơn vị tham gia đấu giá sẽ được kết nối với hệ thống ngân sách
kiệm được chi phí hơn so với hình thức đấu giá truyền thống trước đây, đồng
thời đem lại giá trị cao nhất cho các tài sản công khi đấu giá.
Ngoài ra, việc đấu giá trực tuyến không những vẫn đảm bảo được trình
tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, mà còn không xảy ra trường hợp
“quân xanh, quân đỏ” trong trường hợp có hàng trăm người tham dự phiên
số của Chính phủ. Điều này đảm bảo các giao dịch được xử lý nhanh nhất, tiết
73
đấu giá và có người cố tình muốn gây rối để phá hỏng phiên đấu giá. Tuy
nhiên, việc đấu giá trực tuyến có thể sẽ hạn chế đối với những người không
am hiểu về phương thức, cách thức tham gia cũng như thiếu am hiểu về máy
tính, internet. Việc trả giá trực tuyến, đôi khi chỉ gõ nhầm một con số có thể
dẫn đến kết quả không mong muốn, dẫn đến mất tiền đặt trước vì trả giá thấp
hơn giá khởi điểm, trong trường hợp đấu giá theo phương thức trả giá lên.
Bên cạnh đó, cũng có thể có sự không minh bạch trong kết quả đấu giá, nếu tổ
chức đấu giá thông đồng, móc nối để làm sai lệch kết quả đấu giá, mà những
người tham gia trả giá không phát hiện ra được.
- Tại Điểm b, khoản 1, điều 4, Thông tư 48/2017/TT-BTC quy định
còn lại (nếu còn) được xử lý theo quy định rất rõ ràng” và khoản 1, 2 Điều 3
“tiền bán hồ sơ sẽ được trừ vào số tiền thù lao dịch vụ đấu giá tài sản, phần
Thông tư 45/2017/TT-BTC quy định “về mức thù lao dịch vụ đấu giá tài sản”.
việc quy định như vậy là không hợp lý, không thể áp dụng trong mọi trường
hợp. Trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất công, khoảng cách địa lý gần,
thuận tiện đi lại, có hàng trăm, hàng nghìn người tham gia, giá trị tài sản bán
được cũng rất lớn, có thể áp dụng quy định này được. Nhưng nếu với tài sản
có giá khởi điểm thấp (ví dụ chỉ đến 1 tỷ đồng), việc đi lại xa xôi, gặp nhiều
khó khăn, nếu tài sản bán thành, tổ chức đấu giá tài sản thu hơn 14 triệu.
Nhưng nếu bán không thành, cũng không được thu vượt quá mức này. Như
vậy, nếu tổ chức đấu giá tài sản không được thu tiền bán hồ sơ và/hoặc không
để trả chi phí đi lại. Do tổ chức đấu giá cũng là đơn vị kinh doanh, hạch toán
độc lập, khách hàng tìm đến với mình, không thể từ chối thực hiện dịch vụ
được. Nhưng, nếu thực hiện dịch vụ mà thu không đủ chi, liệu khả năng tồn
tại có còn hay không;
- Mục 5 Chương II Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định 67/2015/NĐ-
được thỏa thuận thêm chi phí hợp lý khác, khoản thù lao thu được không đủ
74
CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ
tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã, các hình thức xử phạt chính trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản bao gồm: cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng chứng chỉ
hành nghề đấu giá có thời hạn từ 6 tháng đến 9 tháng hoặc thời hạn 12 tháng.
Trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản không áp dụng hình thức xử phạt bổ sung.
Cùng với đó, các biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực bán đấu giá tài
sản bao gồm: hủy bỏ giấy tờ giả; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do
thực hiện hành vi vi phạm hành chính; hủy bỏ kết quả bán đấu giá tài sản. Có
thể thấy, mức xử phạt vi phạm hành chính đối với đấu giá viên và tổ chức bán
đấu giá tài sản được quy định trong Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị
định 67/2015/NĐ-CP là tương đối thấp. Mức xử phạt này được xây dựng dựa
trên mặt bằng chung về điều kiện kinh tế, mức xử phạt vi phạm hành chính
khác, chứ không tính toán theo địa bàn tỉnh, thành phố và giá trị của tài sản
được đưa ra đấu giá;
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 218), thì đối tượng
nào thực hiện một trong các hành vi thu lợi bất chính từ hoạt động đấu giá tài
sản có thể phải chịu mức phạt tù tối đa là 5 năm. Người phạm tội còn có thể bị
phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ,
nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự với những trường hợp vi phạm khá
khó khăn, xuất phát từ thủ đoạn phạm tội của các đối tượng ngày càng trở nên
tinh vi. Ngoài ra, mức xử phạt này không đủ sức răn đe so với nguồn lợi thu
được trong những cuộc bán đấu giá tài sản có giá trị lớn. Điều này dẫn đến
câu chuyện đấu giá viên, các tổ chức bán đấu giá tài sản sẵn sàng vi phạm để
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tuy
75
đạt được lợi ích khác.
2.3. Thực trạng hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật về thanh tra
giải quyết khiếu nại, tố cáo về bán đấu giá tài sản và những vấn đề đặt ra
Thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu
giá tài sản thời gian qua cho thấy đang từng bước đi vào nền nếp và đã có
nhiều chuyển biến tích cực: Các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày càng đầy đủ hơn; ngoài Thanh tra Bộ Tư
pháp có chức năng thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản còn có các Sở Tư pháp tại 63 tỉnh, thành và Cục Bổ trợ tư pháp
(Bộ Tư pháp) cũng có chức năng thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực bán
tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo, công
đấu giá tài sản; công tác tuyên truyền, hướng dẫn, tổ chức thực hiện và thanh
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo và tiếp công dân nói chung và lĩnh vực bán đấu giá tài sản nói riêng ngày
càng được quan tâm, chú trọng. Nhờ đó, Thanh tra Bộ Tư pháp; Sở Tư pháp
và Cục Bổ trợ tư pháp đã kịp thời giải quyết số lượng không nhỏ đơn thư
khiếu nại, tố cáo của tổ chức, cá nhân liên quan đến lĩnh vực bán đấu giá tài
sản; chất lượng giải quyết được nâng lên; nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo phức
tạp, kéo dài đã được giải quyết dứt điểm.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức và
hoạt động bán đấu giá tài sản đã được Bộ Tư pháp xác định là một trong
chức các đợt thanh tra, kiểm tra về tổ chức và hoạt động đấu giá tài sản ở các
tỉnh, thành phố. Qua công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
nắm tình hình, Bộ Tư pháp đã phát hiện, chấn chỉnh, xử lý một số sai phạm
trong hoạt động bán đấu giá tài sản, phát hiện những vướng mắc, bất cập
trong thực tiễn để có các giải pháp tháo gỡ kịp thời.
những nhiệm vụ trọng tâm. Hàng năm, Bộ Tư pháp xây dựng kế hoạch tổ
76
Cụ thể: năm 2017, Thanh tra Bộ Tư pháp đã thực hiện 21 cuộc thanh
tra giải quyết khiếu nại, tố liên quan đến lĩnh vực bán đấu giá tài sản đối với
một số tổ chức bán đấu giá tài sản tại tỉnh, thành phố (Phú Yên, Thanh Hóa,
Long An, Bình Dương, Ninh Bình và Vĩnh Phúc). Năm 2018, đã thực hiện 21
cuộc thanh tra một số tổ chức bán đấu giá tài sản tại các tỉnh, thành phố (Hải
Phòng, KonTum, Quảng Trị, Hà Nam). Qua công tác thanh tra đã phát hiện
những nội dung khiếu nại, tố cáo của công dân là có căn cứ, đồng thời phát
hiện một số hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình bán đấu giá tài sản. Do
vậy, năm 2017, Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp đã ký 05 quyết định xử phạt vi
phạm hành chính, thu nộp ngân sách nhà nước 57.000.000 đồng, hủy 01 kết
sát điều tra để điều tra hành vi thông đồng, dìm giá tài sản. Năm 2018, Chánh
quả bán đấu giá tài sản tại Bình Dương, chuyển 01 vụ việc sang cơ quan cảnh
Thanh tra Bộ Tư pháp đã ký 20 quyết định xử phạt vi phạm hành chính, thu
nộp ngân sách nhà nước 210.500.000 đồng, chuyển 01 hồ sơ thi hành án và
bán đấu giá tài sản sang Cục điều tra hình sự - Viện KSND tối cao để xử lý
theo quy định pháp luật.
Có thể nói, trong những năm qua, công tác thanh tra giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản đã được Lãnh đạo Bộ Tư pháp
quan tâm, các đơn vị thực hiện chức năng thanh tra, giải quyết khiếu nại tố
cáo đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để giải quyết các đơn thư khiếu nại,
tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản đảm bảo tuân thủ đúng các trình tự,
tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản thời gian qua đã phát hiện những tồn
tại, hạn chế sau đây:
Việc phân loại, thụ lý đơn khiếu nại, tố cáo nói chung và lĩnh vực bán
đấu giá tài sản nói riêng ở một số Sở Tư pháp địa phương còn có nhiều sai
sót, hạn chế; kỹ năng xử lý đơn thư đầu vào của cán bộ làm công tác này còn
thủ tục theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, qua công tác giải quyết khiếu nại,
77
lúng túng như: đơn khiếu nại, tố cáo nhưng lại được phân loại thành đơn kiến
nghị, phản ánh dẫn đến số liệu thống kê về tình hình xử lý đơn thư, giải quyết
khiếu nại, tố cáo chưa chính xác; có trường hợp đơn có nội dung tố cáo nhưng
do phân loại sai nên giải quyết theo trình tự giải quyết khiếu nại.
Vi phạm quy định về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo như:
chậm thụ lý; xác định đối tượng bị khiếu nại, hành vi bị khiếu nại, tố cáo
không chính xác; chậm giải quyết khiếu nại (đã ra thông báo thụ lý khiếu nại
nhưng để kéo dài, không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại); giải quyết
khiếu nại chưa đầy đủ, không đúng nội dung khiếu nại của đương sự; không
giải quyết tố cáo của đương sự; thực hiện không đúng, không đầy đủ quy định
đánh bút lục không đầy đủ; sắp xếp tài liệu trong hồ sơ giải quyết khiếu nại,
về thiết lập hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo: không đánh số bút lục hoặc
tố cáo không đúng thứ tự; không ghi danh mục tài liệu có trong hồ sơ.
Nội dung giải quyết không đúng pháp luật như: khiếu nại, tố cáo của
đương sự là có cơ sở nhưng khi giải quyết áp dụng pháp luật không đúng,
không nghiên cứu đầy đủ, toàn diện hồ sơ bán đấu giá tài sản và các tài liệu
có liên quan; không tổ chức xác minh, đối thoại hoặc trưng cầu giám định khi
cần thiết dẫn đến kết quả giải quyết không khách quan, chưa đúng pháp
luật, đương sự bức xúc nên khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp; giải quyết
khiếu nại chưa đầy đủ, không đúng nội dung khiếu nại của đương sự; một
số quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo còn thiếu căn
quyết khiếu nại, tố cáo có dấu hiệu nể nang, lòng vòng, né tránh, đùn đẩy
trách nhiệm cho cơ quan cấp trên.
Một số Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết
khiếu nại lần đầu đã chưa thực hiện tốt việc hướng dẫn đương sự thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo lần 2 theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo làm cho
cứ, chưa chặt chẽ. Đặc biệt, có trường hợp người có thẩm quyền khi giải
78
các đương sự không hiểu hoặc không nắm rõ các quyền của người khiếu nại,
tố cáo dẫn đến người khiếu nại, tố cáo không thực hiện hết các quyền của
mình liên quan đến khiếu nại, tố cáo; chưa thực hiện được việc công khai
quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tồn tại này phổ biến ở tất cả các cấp
và ở hầu hết địa bàn, làm cho công tác giải quyết khiếu nại chưa thực sự phát
huy hiệu quả như yêu cầu tại Luật khiếu nại, tố cáo là phải công bố kết quả
thanh tra xác minh (hoặc niêm yết), gửi cho người khiếu nại, tố cáo kết quả
giải quyết (nếu có yêu cầu).
Chậm khắc phục sai phạm và tổ chức thực hiện các quyết định giải
quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo đã có hiệu lực, cụ thể: Chưa chủ
được phát hiện qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc tổ
động, kịp thời áp dụng pháp luật để khắc phục những sai phạm, thiếu sót đã
chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo đã có hiệu
lực pháp luật còn chậm, hạn chế và đùn đẩy; công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm
tra việc thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo còn
nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng công dân bức xúc, khiếu nại gay gắt, kéo
dài, vượt cấp hoặc chuyển từ khiếu nại sang tố cáo, làm cho vụ việc càng
phức tạp hơn.
* Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
* Nguyên nhân khách quan
- Các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các trường hợp
người bị khiếu nại, tố cáo đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác; chưa quy định,
cụ thể về người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; chưa quy định về trình tự, thủ
tục xem xét lại đối với quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật;
chưa quy định trình tự, thủ tục ra thông báo chấm dứt khiếu nại, tố cáo và
đấu giá tài sản vẫn còn khá nhiều bất cập, cụ thể như: Chưa quy định về thẩm
79
thông báo không thụ lý đối với vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng,
kéo dài về bán đấu giá tài sản đã được giải quyết đúng chính sách pháp luật,
thấu tình, đạt lý.
- Đội ngũ cán bộ, công chức làm công thanh tra giải quyết khiếu nại, tố
cáo, tiếp dân còn kiêm nhiệm nên quá trình thụ lý, xác minh, tham mưu giải
quyết khiếu nại, tố cáo chưa chuyên nghiệp, lực lượng cán bộ thanh tra trực
tiếp tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo trong toàn hệ thống còn mỏng
(Thanh tra Sở Tư pháp Tp HCM có 05 biên chế; Sở Tư pháp Hà Nội có 07 biên
chế; Thanh tra Bộ Tư pháp 05 biên chế) và phải kiêm nhiệm giải quyết khiếu
nại đối với các lĩnh vực khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
đấu giá tài sản chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra, trang thiết bị phục vụ cho
- Cơ sở vật chất phục vụ cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về bán
hoạt động thanh tra còn chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, đồng bộ dẫn
đến việc chuyển hóa chứng cứ trong hoạt động thanh tra gặp nhiều khó khăn
(ví dụ: giám định chữ ký; xác minh tài khoản tại Ngân hàng…)
* Nguyên nhân chủ quan
Nhận thức của một số thủ trưởng cơ quan thanh tra, thanh tra viên, cán
bộ công chức thanh tra về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo còn chưa đầy đủ. Vì thế chưa quan tâm bố trí những cán bộ
có năng lực, tâm huyết, có trách nhiệm để làm công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo. Một số ít thủ trưởng cơ quan thanh tra chưa sát sao trong việc đôn đốc
giải quyết khiếu nại, tố cáo; chưa tổ chức thực hiện kịp thời các yêu cầu của
cấp trên trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Trình độ năng lực của cán bộ trực tiếp làm công tác tham mưu giải
quyết khiếu nại, tố cáo ở các cơ quan thanh tra (Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở
Tư pháp) còn hạn chế. Nhiều cán bộ chưa tích cực nghiên cứu, nắm vững các
cán bộ dưới quyền trong công tác tiếp dân, tham gia xác minh đơn, tham mưu
80
quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu
giá tài sản và pháp luật có liên quan nên khi áp dụng để tham mưu giải quyết
khiếu nại, tố cáo còn lúng túng, sai sót, thậm chí sai phạm. Một số thanh tra
viên có thái độ không đúng mực, gây bức xúc cho đương sự hoặc có hành vi
vi phạm pháp luật. Điều này không chỉ vì do yếu kém về nghiệp vụ mà còn do
cố ý hoặc do đạo đức kém, thái độ coi thường, nhũng nhiễu, thậm chí vô cảm
trước quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Quá trình giải quyết khiếu nại,
tố cáo của thủ trưởng cơ quan thanh tra không ít trường hợp còn có tâm lý
bênh vực cán bộ cơ quan mình hoặc cán bộ cấp dưới nên bác đơn khiếu nại
của đương sự, kết luận tố cáo không có cơ sở… Đây là một trong những
Công tác tuyên truyền pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung,
nguyên nhân chính dẫn tới bức xúc của đương sự.
pháp luật về bán đấu giá tài sản nói riêng chưa được các Sở Tư pháp thực sự
chú trọng. Trong quá trình tổ bán đấu giá tài sản, các Sở Tư pháp chưa quan
tâm giải thích và giáo dục thuyết phục cho các bên đương sự hiểu và tự
nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình khi đăng ký tham gia đấu
giá tài sản nhằm góp phần hạn chế khiếu nại, tố cáo ngay từ cơ sở.
Công tác tổng kết, rút kinh nghiệm và đào tạo bồi dưỡng cán bộ về
nghiệp vụ, kỹ năng giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài
sản tuy ngày càng được chú ý, thực hiện thường xuyên nhưng nội dung chưa
chuyên sâu; thời gian mỗi kỳ tập huấn hàng năm quá ngắn (chỉ từ 01 đến 02
để trao đổi thảo luận và giải đáp thấu đáo những vướng mắc nghiệp vụ.
Ý thức chấp hành pháp luật của một số tổ chức bán đấu giá chuyên
nghiệp còn còn thấp, trong quá trình tổ chức bán đấu giá đã móc nối với các
khách hàng, thậm chí đưa người nhà vào đăng ký để mua tài sản, cố tình
không niêm yết, đăng thông tin bán đấu giá trên phương tiện thông tin đại
ngày). Với thời gian này chỉ đủ để giới thiệu những vấn đề mới, chứ không đủ
81
chúng để hạn chế khách hàng tham gia đấu giá, khi có khách hàng đăng ký
đấu giá thì không bán hồ sơ, kéo dài thời gian bán đấu giá nhằm giảm giá tài
sản gây thiệt hại cho người có tài sản bán đấu giá.
Nhiều trường hợp, đối tượng gửi đơn khiếu nại, tố cáo hiểu rõ khiếu
nại, tố cáo của mình là thiếu căn cứ pháp luật nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố
cáo để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ giao tài sản cho người trúng đấu
giá hoặc gây rối, cản trở quá trình tổ chức bán đấu giá khiến cho việc tổ chức
đấu giá tài sản chậm được thi hành. Trong khi đó, các quy định của pháp luật
hiện hành mới chỉ có chế tài đối với hành vi cố tình tố cáo sai sự thật (vu
khống), còn đối với hành vi cố tình khiếu nại không có căn cứ để trì hoãn việc
trúng đấu giá thì chưa có biện pháp hữu hiệu để xử lý.
bán đấu giá tài sản hoặc gây rối trong quá trình bàn giao tài sản cho người
Cấp ủy Đảng, chính quyền ở một số địa phương chưa thực sự quan tâm
đúng mức đến hoạt động bán đấu giá tài sản ở địa phương, trong đó có công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về bán đấu giá tài sản. Trong một số trường
hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo các cơ quan hữu quan còn thiếu sự phối hợp
kịp thời, chặt chẽ, hiệu quả, thậm chí đùn đẩy, né tránh trách nhiệm giải quyết
khiếu nại, tố cáo, dẫn đến các đương sự khiếu nại vượt cấp, kéo dài, có nguy
cơ tạo thành (điểm nóng) gây bất ổn tình hình an ninh chính trị trên địa bàn.
* Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
tố cáo nói chung, về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài
sản nói riêng, đặc biệt là các tài sản liên quan đến các quyết định, bản án mà
các cơ quan thi hành án dân sự tổ chức cưỡng chế, bán đấu giá. Trước mắt cần
hoàn thiện quy định về những vấn đề pháp luật về giải quyết giải quyết khiếu
nại, tố cáo chưa quy định nêu trên, gắn với hoàn thiện thể chế về hoạt động
Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại,
82
bán đấu giá tài sản và đổi mới quy trình giải quyết giải quyết khiếu nại, tố
cáo. Vì nếu thể chế về hoạt động bán đấu giá tài sản có bất cập sẽ là một trong
những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả công tác này.
Nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực của thủ trưởng và công chức
làm công tác thanh tra tại Thanh tra Bộ Tư pháp và các cơ quan thanh tra
thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung, giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản nói riêng. Thủ trưởng cơ quan thanh tra
(Thanh tra Bộ), Giám đốc Sở Tư pháp cần trực tiếp phụ trách công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo và trực tiếp tiếp công dân định kỳ, đột xuất theo quy
cáo biết quyền và nghĩa vụ của đương sự; trách nhiệm của các tổ chức bán
định của pháp luật. Cán bộ tiếp dân kiên trì giải thích cho người khiếu nại, tố
đấu giá tài sản trong việc tổ chức bán đấu giá, đặc biệt chú trọng đến những
tài sản do cơ quan thi hành án dân sự ký hợp đồng bán đấu giá.
Thực hiện thường xuyên công tác bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ, trau dồi bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp cho thủ
trưởng, thanh tra viên và đặc biệt là đội ngũ công chức trực tiếp tham mưu
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo phải chú
trọng ngay từ khâu tiếp công dân để tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Trong quá trình thanh tra xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo phải thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ
khách quan, làm cơ sở cho việc kết luận, từ đó ra quyết định giải quyết khiếu
nại, tố cáo cho phù hợp. Quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo phải tuân thủ
đúng trình tự, thủ tục luật định, nhất là tuân thủ đúng các quy định của pháp
luật về quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo, người bị khiếu nại, tố
bán đấu giá tài sản, Trưởng đoàn, các thành viên đoàn thanh tra, người làm
83
cáo. Đồng thời, cần làm rõ nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo để có biện
pháp chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước, xác định rõ trách nhiệm, xử lý
nghiêm minh những cán bộ, công chức do thiếu trách nhiệm gây nên khiếu
nại, tố cáo cũng như thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản như: tăng cường công tác
hướng dẫn nghiệp vụ, đôn đốc, kiểm tra, thanh tra về giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản; chú trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm về giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực bán đấu giá
tài sản; thực hiện thường xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ giải
pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về bán đấu giá tài sản; tăng cường
quyết khiếu nại, tố cáo về bán đấu giá tài sản; đẩy mạnh công tác tuyên truyền
công tác thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp,
đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
Tăng cường công tác phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực bán đấu giá tài sản (giữa Thanh tra Bộ Tư pháp và Thanh tra Sở Tư pháp
các tỉnh, thành): xác định công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
bán đấu giá tài sản là hoạt động khó khăn, phức tạp, cần phải có sự phối hợp
giải quyết của nhiều ban, ngành, đoàn thể. Trong thời gian tới, để nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài
khiếu nại, tố cáo là một giải pháp quan trọng. Trong quá trình ấy, nếu phát
sinh khiếu nại, tố cáo mà sự phối hợp giữa cơ quan Thanh tra Bộ và Thanh tra
Sở không kịp thời, chặt chẽ thì chắc chắn hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo
sẽ không cao, dẫn đến hiện tượng chồng chéo trong hoạt động thanh tra xác
minh giải quyết khiếu nại, tố cáo, hiệu quả thực hiện pháp luật về giải quyết
sản, vấn đề tăng cường sự phối hợp liên ngành trong quá trình giải quyết
84
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản vì thế cũng bị hạn chế.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, huy động sức mạnh của hệ thống
chính trị tham gia vào công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản: Các cấp ủy Đảng ở địa phương phải quan tâm lãnh đạo công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Bên cạnh
đó, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị ở địa phương vào
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Sự
tham gia của cả hệ thống chính trị biểu hiện cụ thể nhất là công tác giám sát
hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản của
các Sở Tư pháp địa phương. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức cần vận động
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản thuộc tổ chức nào thì tổ
đoàn viên, hội viên của tổ chức mình sống và làm việc theo pháp luật. Người
chức đó phối hợp với Sở Tư pháp địa phương để nắm bắt tình hình, xử lý
thông tin, thống nhất kế hoạch hành động; lấy tuyên truyền, giáo dục, thuyết
phục là chính để thành viên của tổ chức mình thực hiện đúng quyền và nghĩa
vụ của người khiếu nại, tố cáo theo luật định, góp phần nâng cao hiệu quả
85
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản.
Kết luận chương 2
Trong những năm qua, Thanh tra Bộ Tư pháp đã chú trọng, từng bước
nâng cao tinh thần, trách nhiệm trong hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Mặc dù, pháp luật về bán đấu giá tài
sản đã cơ bản được hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của hoạt động bán đấu giá
trong xu thế phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, qua quá trình thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản, Thanh tra Bộ Tư pháp đã phát hiện nhiều bất cập, quy định
của pháp luật không phù hợp, các chế tài chưa đủ tính răn đe nên dẫn đến việc
bán đấu giá tài sản không được khách quan, minh bạch, gây thiệt hại cho
người có tài sản bán đấu giá. Đồng thời, cũng làm phát sinh nhiều đơn thư
khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động bán đấu giá tài sản nói chung và bán đấu
giá tài sản thi hành án nói riêng. Do vậy, cần có những giải pháp cụ thể để
hoàn thiện khung khổ pháp luật về bán đấu giá tài sản, nhằm đảm bảo việc
bán đấu giá được công khai, minh bạch, khách quan, các chế tài xử lý đủ sức
86
răn đe nhằm đảm bảo tính thượng tôn pháp luật trong bán đấu giá tài sản.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ THANH TRA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG LĨNH VỰC BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Trong những năm qua, vị trí, vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong
việc quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản đã được cải thiện và nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong một chừng mực nhất
định, công tác quản lý nhà nước của Thanh tra Bộ Tư pháp trong lĩnh vực này
còn có một số những hạn chế, tồn tại nhất định như biên chế mỏng, hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ dẫn đến còn có nhiều cách hiểu
khác nhau trong việc thực thi và áp dụng pháp luật.
Luật Thanh tra quy định thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan, tổ chức, cá nhân... Với bản chất đó, hoạt động thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản là hoạt động của cơ quan
nhà nước, luôn mang tính quyền lực và là một bộ phận cấu thành không thể
động được thực hiện rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có lĩnh vực bán đấu giá tài sản theo nguyên tắc quản lý nhà nước đến
đâu thì thanh tra đến đó.
Trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản nói riêng, Bộ Tư pháp là cơ quan
chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước bán đấu giá tài
thiếu của quản lý nhà nước nói chung. Hay nói cách khác, thanh tra là hoạt
sản. Do đó, ngoài đơn vị Thanh tra Bộ chịu trách nhiệm tham mưu cho Lãnh
87
đạo Bộ giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, còn có
các đơn vị khác như Thanh tra Sở Tư pháp, Cục Bổ trợ tư pháp. Tuy nhiên,
đơn vị chủ công để thực hiện thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực bán đấu giá tài sản vẫn là Thanh tra Bộ.
Luật đấu giá tài sản năm 2016 quy định về chức năng, nhiệm vụ của Bộ
Tư pháp như sau:
Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm về tổ chức và hoạt động của tổ
chức đấu giá tài sản; hoạt động đấu giá của tổ chức mà Nhà nước sở
hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của
tổ chức tín dụng; tổ chức và hoạt động của tổ chức xã hội - nghề
Theo quy định này và được sự phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ
nghiệp của đấu giá viên theo thẩm quyền [22].
Tư pháp, Thanh tra Bộ Tư pháp thực hiện việc thanh tra toàn diện đối với các
tổ chức bán đấu giá tài sản (bao gồm 63 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá và gần
500 Công ty đấu giá trên toàn quốc) trong đó bao gồm cả thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo đối với nghiệp vụ bán đấu giá, thành lập Công ty đấu giá,
thẩm tra hồ sơ, cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá, theo dõi hoạt động của các
tổ chức bán đấu giá tài sản.
Tuy nhiên, sau khi Luật đấu giá tài sản năm 2016 có hiệu lực, thẩm
quyền của thanh tra trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản bị thu hẹp. Việc thanh
tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản chủ yếu thực
nộp tiền đặt trước, tổ chức bán đấu giá, thanh toán tiền trúng đấu giá,… Trong
quá trình thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Bộ Tư pháp đã phát
hiện rất nhiều trường hợp lợi dụng kẽ hở của Luật để thực hiện hành vi thông
đồng giữa các khách hàng tham gia đấu giá, thỏa thuận giá tài sản trước khi
bước vào phiên bán đấu giá, nhờ người khác nộp tiền đặt cọc khi đăng ký
hiện ở các khâu như: ký kết hợp đồng, niêm yết thông báo bán đấu giá, thu
88
tham gia đấu giá, có sự chuyển tiền cho nhau giữa các tổ chức khi tham gia
đấu giá…, nhưng Luật đấu giá tài sản lại hạn chế quyền hủy kết quả bán đấu
giá của Thanh tra Bộ, chỉ được hủy kết quả bán đấu giá tài sản của nhà nước
nên dẫn đến hiện tượng nhờn luật.
Chính vì Luật đấu giá tài sản không cho phép hủy kết quả bán đấu giá
(nếu không phải bán đấu giá tài sản của nhà nước) dẫn đến rất nhiều vi phạm
trong quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản cũng như khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực này. Do vậy, qua công tác thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo liên
quan đến việc bán đấu giá trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản của các Cơ quan
thi hành án dân sự, nếu phát hiện có những hành vi vi phạm trong quá trình tổ
thực hiện việc khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền để xem xét hủy
chức bán đấu giá tài sản thì Thanh tra Bộ kiến nghị yêu cầu Chấp hành viên
kết quả bán đấu giá tài sản theo quy định tại Khoản 2 Điều 102 Luật THADS
năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 “Người mua được tài sản bán đấu giá,
Chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về
kết quả bán đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá
trình bán đấu giá tài sản”.
Như vậy, Luật đấu giá tài sản năm 2016 đã hạn chế quyền hủy kết quả
bán đấu giá tài sản trong khi đó đây là kết quả quan trọng nhất của cả một quá
trình tổ chức bán đấu giá tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan tổ chức cá nhân. Ngoài ra,
cơ phát sinh khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện và gây mất ổn định về tình hình
chính trị tại địa phương.
Bên cạnh đó, mức xử phạt vi phạm trong lĩnh vực bán đấu giá tại Nghị
định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 và Nghị định 67/2015/NĐ-CP của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư
hoạt động bán đấu giá cũng là một trong những hoạt động tiềm ẩn nhiều nguy
89
pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã còn chưa đủ sức răn đe, dẫn đến một số tổ
chức bán đấu giá chấp nhận chịu phạt để tổ chức bán đấu giá không đúng
quy định pháp luật.
3.2. Những phương hướng chung về hoạt động thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Tăng cường chỉ đạo định hướng đối với hoạt động thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, thường xuyên nắm chắc
tình hình để xây dựng kế hoạch thanh tra trình cấp có thẩm quyền phê duyệt,
đồng thời tiến hành thanh tra đột xuất, thanh tra lại khi phát hiện dấu hiệu vi
hiện, chấn chỉnh và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật; kiến nghị khắc phục
phạm. Định hướng chung cho hoạt động thanh tra là hướng vào việc phát
những sơ hở, bất cập trong công tác quản lý và cơ chế, chính sách; thúc đẩy
và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước.
Nội dung thanh tra thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
bán đấu giá tài sản phải có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các lĩnh vực
quan trọng, dễ xảy ra các hiện tượng tiêu cực, vi phạm, tham nhũng, như: cố
tình không bán hồ sơ tham gia đấu giá, không niêm yết thông báo bán đấu
giá, không đăng thông tin bán đấu giá trên phương tiện thông tin đại chúng
theo đúng quy định, vi phạm quy định về thu nộp tiền đặt trước, trả tiền đặt
cọc, thông đồng, dìm giá, không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán tiền
Trong đó, Thanh tra Bộ Tư pháp tập trung thanh tra giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản thuộc thẩm quyền xem xét giải
quyết của Bộ Tư pháp, tăng cường hướng dẫn các cơ quan thanh tra địa
phương (Thanh tra Sở Tư pháp) tiến hành thanh tra theo chuyên đề diện rộng
trên các lĩnh vực quản lý nhà nước mà dư luận đang bức xúc, hoặc theo yêu
trúng đấu giá tài sản.
90
cầu lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ
để, một mặt, phát hiện, xử lý, khắc phục những vi phạm, bất cập; kiến nghị
hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách trên lĩnh vực được thanh tra; mặt khác,
phát hiện những sáng kiến mới, có hiệu quả trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
để kiến nghị, sửa đổi bổ sung.
Tăng cường thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố
cáo và phòng, chống tham nhũng của thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà
nước, qua đó phát hiện, xử lý vi phạm và chấn chỉnh quản lý, nâng cao trách
nhiệm của các ngành, các cấp trong công tác này. Bên cạnh việc thanh tra
theo kế hoạch là chủ động nắm tình hình dư luận và đơn, thư khiếu nại, tố
thanh tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, từ đó kịp thời phát hiện,
cáo, phản ánh của công dân để nghiên cứu, đề xuất và tiến hành các cuộc
xử lý các vi phạm pháp luật, tham nhũng.
Hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu
giá tài sản mang tính chất đặc thù được thực hiện rộng khắp trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc quản lý nhà nước đến đâu thì
thanh tra, kiểm tra đến đó. Bởi vậy, các cơ quan được giao nhiệm vụ thanh
tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản cần
tập trung thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định
về chuyên môn, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực.
giá tài sản phải được tiến hành theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục pháp
luật quy định. Quá trình thanh tra, bên cạnh việc tuân thủ các quy định của
pháp luật, nhất là quy định của Luật Thanh tra, Luật khiếu nại, Luật Tố cáo,
Luật đấu giá tài sản và các nghị định hướng dẫn thi hành còn phải bảo đảm
đúng theo quy trình thanh tra và quy chế tổ chức và hoạt động của đoàn thanh
Hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu
91
tra. Việc ban hành kết luận thanh tra, các kiến nghị và các quyết định xử lý
kết quả thanh tra phải đúng pháp luật, khách quan, kịp thời, nghiêm minh,
nhưng cũng phải bảo đảm phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi. Đối với
các trường hợp vi phạm nghiêm trọng, có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự
thì phải kịp thời phối hợp với cơ quan công an và viện kiểm sát nhân dân để
đánh giá, làm thủ tục chuyển hồ sơ ngay cho cơ quan công an điều tra làm rõ.
Thời điểm ban hành các quyết định xử lý về thanh tra cần phải được quan tâm
sớm hơn và nên thực hiện ngay trong quá trình thanh tra, trong đó các quyết
định xử lý thu hồi về kinh tế và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc khắc
phục hậu quả vi phạm pháp luật cũng cần phải tiến hành kịp thời, đồng bộ
khi kết luận thanh tra.
ngay sau khi phát hiện và có đầy đủ căn cứ mà không nhất thiết phải chờ đến
Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thanh tra để phát hiện, chấn
chỉnh, xử lý kịp thời các thiếu sót, vi phạm trong hoạt động thanh tra; tổ chức
thẩm định dự thảo kết luận thanh tra một cách chặt chẽ, nhất là các nội dung
về kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra. Việc thẩm định dự
thảo kết luận thanh tra là một hoạt động mới, hiện chưa có quy trình quy định,
nhưng cán bộ được giao nhiệm vụ thẩm định kết luận thanh tra phải có năng
lực, trình độ, hiểu biết nhiều về hoạt động thanh tra, và căn cứ để thẩm định
là các quy định của pháp luật, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và các nội
dung được phản ánh tại báo cáo kết quả thanh tra của đoàn thanh tra. Trong
thiếu sót, bất cập của dự thảo kết luận thanh tra để kiến nghị người ký kết
luận xem xét, điều chỉnh kịp thời. Bên cạnh đó, cần phải tổ chức thực hiện
nghiêm túc, triệt để các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra,
trong đó tăng tỷ lệ thu hồi tiền, tài sản, đất đai bị tham nhũng, chiếm đoạt,
thất thoát; làm rõ nguyên nhân tham nhũng và có biện pháp xử lý nghiêm
quá trình thẩm định, cần phải quan tâm phát hiện, khắc phục những hạn chế,
92
minh, đúng pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp
luật, bảo đảm nâng cao trật tự, kỷ cương, kỷ luật trong nền hành chính và
trong hoạt động thanh tra.
Quan tâm nâng cao chất lượng, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ,
công chức thanh tra, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ,
công chức thanh tra, nhất là về kỹ năng tác nghiệp thanh tra, kỹ năng tham
mưu kết luận và kiến nghị xử lý vi phạm được phát hiện qua thanh tra. Chú
trọng việc giáo dục chính trị - tư tưởng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho
đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra; thực hiện tốt văn hóa thanh tra; xây dựng
người cán bộ, công chức thanh tra có đạo đức, có văn hóa, cần, kiệm, liêm,
phạm nguyên tắc trong hoạt động thanh tra thì phải có biện pháp chấn chỉnh
chính, chí công vô tư. Khi phát hiện cán bộ thanh tra có biểu hiện lệch lạc, vi
kịp thời, nếu vi phạm pháp luật thì phải xử lý nghiêm. Các cơ quan thanh tra
tích cực, gương mẫu triển khai tổ chức thực hiện quy định và các giải pháp về
phòng, chống tham nhũng trong hoạt động thanh tra.
Đổi mới phương pháp, cách thức chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh
tra; nâng cao chất lượng định hướng chương trình thanh tra và kế hoạch thanh
tra, trong đó cần đánh giá, khảo sát, nghiên cứu sâu sắc các nhiệm vụ quản lý
nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp và tình hình dư
luận, những vấn đề bức xúc trong xã hội đang nổi lên, từ đó xác định rõ vấn
đề, nội dung phải thanh tra; phân công trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị,
pháp tổ chức thực hiện trong từng cuộc thanh tra. Đồng thời, quan tâm thực
hiện việc công khai các kết luận thanh tra theo quy định của pháp luật, trừ
những nội dung thuộc bí mật nhà nước, để cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân
biết, giám sát và thực hiện.
Tăng cường sự phối hợp giữa Thanh tra Bộ với Thanh tra Sở và các cơ
cán bộ, công chức thanh tra, xác định thời gian, cách thức tiến hành và biện
93
quan hữu quan để hạn chế sự chồng chéo trong hoạt động thanh tra, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả kết luận thanh tra; chú trọng việc phối hợp trong hoạt động
thanh tra và áp dụng phương thức sử dụng kết quả của nhau, quyết tâm giảm
mật độ thanh tra, kiểm tra, tại các doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số
35/NQ-CP, ngày 16-5-2016, của Chính phủ, “Về hỗ trợ và phát triển doanh
nghiệp đến năm 2020”. Định kỳ sơ kết, tổng kết, đánh giá từng nội dung, lĩnh
vực và việc triển khai thực hiện định hướng chương trình thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kế hoạch thanh tra để kịp thời rút kinh nghiệm, xác định rõ
phương hướng, nhiệm vụ tiếp theo. Đổi mới công tác thi đua - khen thưởng
theo hướng tăng khen thưởng đột xuất đối với các đoàn thanh tra, thành viên
khiếu nại, tố cáo để động viên, khích lệ kịp thời.
đoàn thanh tra đã có thành tích xuất sắc trong hoạt động thanh tra giải quyết
3.3. Những giải pháp hoàn thiện cụ thể
3.3.1. Hoàn thiện khung khổ pháp lý
Nhằm tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật đấu giá tài sản và các văn
bản hướng dẫn thi hành trong thời gian tới, Bộ Tư pháp chủ trì tiếp tục phối
hợp với các Bộ, ngành và địa phương tham mưu cho Chính phủ, đề xuất và tổ
chức thực hiện các nhóm giải pháp sau:
* Giải pháp trước mắt
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả, tăng cường tuyên truyền, phổ biến
Luật đấu giá tài sản năm 2016 và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm nâng
của hoạt động bán đấu giá tài sản trong sự phát triển kinh tế-xã hội.
- Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền để chủ động
hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong thực hiện Luật đấu giá tài sản
năm 2016 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp
cao nhận thức của cá nhân, tổ chức về chủ trương xã hội hóa, vai trò, vị trí
94
vụ, ý thức pháp luật, nâng cao chất lượng đội ngũ đấu giá viên nhằm đáp ứng
ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn của hoạt động bán đấu giá, nghiên cứu,
xây dựng quy tắc đạo đức nghề đấu giá.
- Rà soát, đánh giá hệ thống pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản,
đề xuất hoàn thiện một bước các quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản;
tăng cường thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh sai phạm và những biểu hiện tiêu
cực trong hoạt động bán đấu giá tài sản.
* Giải pháp lâu dài
- Rà soát, hoàn thiện thể chế về đấu giá tài sản, nghiên cứu, chỉ ra
những tồn tại, bất cập trong việc áp dụng Luật đấu giá tài sản, đồng thời,
hội hóa, chuyên nghiệp hóa, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động
xây dựng, sửa đổi bổ sung Luật Đấu giá tài sản theo hướng đẩy mạnh xã
bán đấu giá tài sản.
- Xem xét, sửa đổi, hoàn thiện quy định pháp luật về lĩnh vực bán đấu
giá tái sản theo hướng tăng thẩm quyền, tăng trách nhiệm của cơ quan thanh
tra đối với lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo về đấu giá tài sản cũng như
thẩm quyền xem xét xử lý kết quả đấu giá đối với tất cả các loại tài sản. Ngoài
ra, cần xem xét, quy định cho Thanh tra được áp dụng các biện pháp nghiệp
vụ để làm rõ được hành vi thông đồng trên cơ sở đảm bảo đúng quy định pháp
luật như mở rộng phạm vi hủy kết quả đấu giá vì:
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 72 Luật đấu giá tài sản quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp đấu giá tài sản nhà nước khi có
một trong các căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 33 của Luật này”.
Khoản 6 Điều 33 Luật đấu giá tài sản:
a) Tổ chức không có chức năng hoạt động đấu giá tài sản mà tiến
hành cuộc đấu giá hoặc cá nhân không phải là đấu giá viên mà điều
hủy kết quả bán đấu giá tài sản: “Theo quyết định của người có thẩm quyền
tài sản thực hiện;
95
hành cuộc đấu giá, trừ trường hợp cuộc đấu giá do Hội đồng đấu giá
b) Tổ chức đấu giá tài sản cố tình cho phép người không đủ điều
kiện tham gia đấu giá theo quy định của pháp luật tham gia đấu giá
và trúng đấu giá;
c) Tổ chức đấu giá tài sản có một trong các hành vi: không thực
hiện việc niêm yết đấu giá tài sản; không thông báo công khai việc
đấu giá tài sản; thực hiện không đúng quy định về bán hồ sơ đăng
ký tham gia đấu giá, tổ chức đăng ký tham gia đấu giá; cản trở, hạn
chế người tham gia đấu giá đăng ký tham gia đấu giá;
d) Tổ chức đấu giá tài sản thông đồng, móc nối với người tham
thông tin tài sản đấu giá hoặc hồ sơ tham gia đấu giá hoặc kết quả
gia đấu giá trong quá trình tổ chức đấu giá dẫn đến làm sai lệch
đấu giá tài sản;
đ) Tổ chức đấu giá tài sản tổ chức cuộc đấu giá không đúng quy
định về hình thức đấu giá, phương thức đấu giá theo Quy chế cuộc
đấu giá dẫn đến làm sai lệch kết quả đấu giá tài sản.
Như vậy, theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản hiện hành thì
người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (Chánh Thanh tra Bộ Tư
pháp) chỉ được hủy kết quả đấu giá đối với việc bán tài sản của nhà nước. Do
vậy, cần sửa đổi bổ sung Luật đấu giá tài sản năm 2016 theo hướng: tăng
thẩm quyền xem xét xử lý hủy kết quả bán đấu giá đối với tất cả các loại tài
trình tố tụng thực hiện yêu cầu Tòa án xét xử, khởi kiện hủy kết quả đấu giá
đối với các trường hợp không thuộc tài sản của Nhà nước.
- Xem xét, sửa đổi Luật Thanh tra theo hướng tạo cơ chế đặc thù cho cơ
quan thanh tra trong việc xác minh những vụ việc đấu giá tài sản có liên quan
đến việc thu hồi tiền trong các vụ án tham nhũng.
sản hoặc quy định Thanh tra có quyền đại diện hoặc là một bên trong quá
96
- Hiện nay, Thanh tra Bộ Tư pháp được giao làm đơn vị chủ trì phối
hợp với các đơn vị có liên quan soạn thảo Dự thảo nghị định thay thế Nghị
định 110/2013/NĐ-CP và Nghị định 67/2015/NĐ-CP đã trình Chính phủ xem
xét thông qua. Do vậy, đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định thay thế
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 và Nghị định 67/2015/NĐ-CP
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư
pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã để tạo cơ sở pháp lý thực thi pháp luật trong lĩnh
vực bán đấu giá tài sản.
- Rà soát, hoàn thiện quy định về trách nhiệm thực hiện Kết luận thanh
chặt chẽ có chế tài để đảm bảo việc thực hiện Kết luận thanh tra theo đúng
tra của các đơn vị là đối tượng thanh tra và các đơn vị liên quan theo hướng
quy định pháp luật.
- Hiện nay, chúng ra đang xây dựng Chính phủ điện tử và bước vào
thời kỳ công nghệ 4.0. Do vậy, việc xây dựng hệ thống mạng và cơ sở dữ liệu
để công dân, tổ chức có thể gửi đơn khiếu nại, tố cáo nói chung và lĩnh vực
bán đấu giá tài sản nói riêng và tương tác trực tuyến với cơ quan có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo là cần thiết. Việc xây dựng hệ thống mạng
nói trên, giúp công dân và tổ chức có điều kiện gửi các khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực bán đấu giá tài sản một cách đơn giản, thuận tiện và cũng giúp các cơ
quan nhà nước tiếp cận, nắm bắt những nội dung khiếu nại, tố cáo của người
dân một cách nhanh chóng, kịp thời.
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế thực hiện
Nhằm thực hiện tốt việc thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực bán đấu giá tài sản thì cần tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật Đấu giá tài
sản và các văn bản hướng dẫn thi hành trong thời gian tới tổ chức thực hiện
các nhóm giải pháp sau:
97
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến Luật Đấu giá tài sản và các văn bản
hướng dẫn thi hành và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm nâng cao nhận
thức của cá nhân, tổ chức về chủ trương xã hội hóa, vai trò, vị trí của hoạt
động bán đấu giá tài sản trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền để chủ động
hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong thực hiện Luật Đấu giá tài sản
và các văn bản hướng dẫn thi hành
Rà soát, đánh giá hệ thống pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản,
đề xuất hoàn thiện một bước các quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản;
Nghiên cứu, xây dựng quy tắc đạo đức nghề đấu giá.
hiện tiêu cực trong hoạt động bán đấu giá tài sản.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh sai phạm và những biểu
Quy định rõ hơn định hướng chuyển đổi Trung tâm bán đấu giá tài sản
sang các doanh nghiệp bán đấu giá tài sản. Tạo sự bình đẳng, cạnh tranh lành
mạnh giữa các tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp.
Tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
đấu giá viên, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò tự quản của tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của đấu giá viên. Nghiên cứu và thí điểm thành lập hội đấu giá ở
một số thành phố lớn tiến tới thành lập Hiệp hội đấu giá toàn quốc, phát huy
cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của đấu giá viên và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan.
bán đấu giá. Xác định rõ cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm giúp Chính phủ
thống nhất quản lý Nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản, trong đó
thống nhất đầu mối quản lý đối với doanh nghiệp bán đấu giá; cơ chế phối
hợp giữa các Bộ, ngành có liên quan. Nâng cao vai trò của UBND cấp tỉnh và
cơ quan chủ trì giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thống nhất quản lý nhà nước
- Bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với các hoạt động
98
đối với hoạt động bán đấu giá tài sản ở địa phương.
- Xây dựng đội ngũ đấu giá viên có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu
thực tiễn của hoạt động bán đấu giá tài sản. Nâng cao chất lượng đấu giá viên
theo hướng tập trung đào tạo theo chiều sâu, tăng cường kiến thức chuyên
môn nghiệp vụ, kỹ năng, kinh nghiệm hành nghề. Tăng cường bồi dưỡng, tập
huấn nghiệp vụ cho các đấu giá viên.
- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đấu giá: Đầu tư
thỏa đáng về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất cho đội ngũ cán bộ tư pháp ở
Trung ương và địa phương thực hiện công tác quản lý nhà nước về đấu giá.
Tăng cường kiểm tra, thanh tra để nắm bắt tình hình về tổ chức và hoạt động
và chấn chỉnh, đưa hoạt động đấu giá vào nề nếp. Xây dựng và thực hiện
đấu giá, kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc, sai phạm để tháo gỡ
thường xuyên cơ chế thông tin, phối hợp quản lý giữa các cơ quan quản lý
nhà nước về đấu giá ở Trung ương với địa phương.
Tổ chức đấu giá hướng tới việc chỉ thành lập doanh nghiệp đấu giá
chuyên nghiệp mà không tồn tại các Trung tâm bán đấu giá (hiện nay đã giải thể
03 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tại tỉnh Trà Vinh, Long An và Tiền Giang)
3.3.3. Các đề xuất khác
* Kiến nghị đối với Bộ Tư pháp và một số đơn vị thuộc Bộ
- Đảm bảo đủ số lượng biên chế cần thiết để bảo đảm đội ngũ cán bộ
được giao nhiệm vụ làm công tác thanh tra, kiểm tra đủ về số lượng, đáp ứng
- Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh
tra cho đội ngũ công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành; trong
đó có lớp bồi dưỡng riêng cho các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp các
địa phương, theo đó chú trọng vào phương pháp, trình tự/quy trình tiến hành
hoạt động thanh tra (bao gồm các kỹ năng trong hoạt động thanh tra: kỹ năng
được yêu cầu về chất lượng;
99
nghiên cứu hồ sơ, các tình huống phát sinh trong quá trình thanh tra…); thu
thập tài liệu trong hoạt động thanh tra; xử lý vi phạm hành chính; trình tự giải
quyết khiếu nại hành chính; trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo và soạn thảo
văn bản trong hoạt động thanh tra (xây dựng các quyết định thanh tra, kế
hoạch thanh tra, các mẫu kết luận, biên bản trong quá trình thanh tra…);
- Tăng mức kinh phí hỗ trợ đối với người được giao nhiệm vụ thanh tra,
có chính sách đãi ngộ thích đáng và trang bị đầy đủ phương tiện làm việc cần
thiết cho công chức được giao thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra.
* Kiến nghị đối với các đơn vị thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra
(Thanh tra Sở Tư pháp, Cục Bổ trợ tư pháp)
tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, chú trọng
- Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng của hoạt động thanh
việc thanh tra, kiểm tra và việc thực hiện kết luận thanh tra;
- Tăng cường mạnh mẽ công tác thanh tra, kiểm tra cả ở Trung ương
(Thanh tra Bộ, Cục Bổ trợ tư pháp) và địa phương (Thanh tra Sở); xử phạt
nghiêm để răn đe các vi phạm trong các lĩnh vực và kịp thời nắm tình hình,
hướng dẫn, giải quyết khó khăn, vướng mắc, tăng cường chấn chỉnh thiếu sót
đối với các cá nhân, tổ chức trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Bộ Tư pháp;
- Tích cực phối hợp với cơ quan liên quan lựa chọn địa bàn thanh tra
đúng trọng tâm, trọng điểm, không chồng chéo, trùng lắp;
quyết khiếu nại, tố cáo; xây dựng Kế hoạch chi tiết đối với từng nội dung, vấn
đề thanh tra được xác định bước chuẩn bị quan trọng góp phần bảo đảm cho
mỗi cuộc thanh tra chuyên ngành đạt được kết quả tốt;
- Trong quá trình thanh tra, việc thực hiện những trình tự, thủ tục thanh
tra như: thông báo quyền, nghĩa vụ của Đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra,
- Thu thập thông tin đầy đủ, chính xác trước mỗi đợt thanh tra, giải
tra luôn được thực hiện đúng quy định pháp luật.
100
thiết lập hồ sơ, Biên bản làm việc, Dự thảo Kết luận thanh tra, Kết luận thanh
* Đối với UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Tiếp tục chỉ đạo, triển khai có hiệu quả Luật đấu giá tài sản năm 2016
và các văn bản hướng dẫn thi hành. Chỉ đạo các Sở, ban, ngành có liên quan
rà soát các Quy chế bán đấu giá tài sản và các văn bản liên quan khác do địa
phương ban hành để phát hiện, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những quy
định không phù hợp với Luật đấu giá tài sản năm 2016 và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá
tài sản trên địa bàn; kiện toàn Phòng Bổ trợ tư pháp tại những nơi chưa có
đấu giá tài sản; có kế hoạch củng cố, kiện toàn nâng cao năng lực của Trung
Phòng Bổ trợ tư pháp và tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động bán
tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản.
Sở Tư pháp các địa phương cần chủ động, thực hiện tốt vai trò tham
mưu cho Uỷ ban nhân các tỉnh, thành phố trong việc chỉnh sửa, ban hành quy
chế bán đấu giá tài sản, quy chế bán đấu giá quyền sử dụng đất và các văn bản
quy phạm khác liên quan đến hoạt động bán đấu giá tài sản; làm tốt việc
hướng dẫn nghiệp vụ cho các tổ chức bán đấu giá tài sản; tăng cường thanh
tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý sai phạm theo thẩm quyền; phối hợp
với các sở ngành và các cơ quan liên quan ở địa phương thực hiện tốt công tác
101
quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản trên địa bàn.
Kết luận chương 3
Trong những năm qua, Bộ Tư pháp đã thường xuyên quan tâm, chú
trọng nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Qua công tác thanh tra giải quyết khiếu nại,
tố cáo đã phát hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức bán đấu giá,
đấu giá viên và khách hàng tham gia đấu giá, xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Đồng thời, thông qua hoạt động thanh tra
giải quyết khiếu nại, tố cáo đã phát hiện những bất cập của các văn bản pháp
luật về bán đấu giá tài sản như: hiện tượng thông đồng, dìm giá tài sản, chiếm
dụng tiền đặt trước của khách hàng khi đăng ký tham gia đấu giá; người có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng lại không có thẩm quyền hủy
kết quả bán đấu giá khi phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật (trừ trường
hợp bán đấu giá tài sản nhà nước); chế tài xử phạt vi phạm hành chính theo
quy định tại Nghị định 110/2010/NĐ-CP và Nghị định 67/2015/NĐ-CP chưa
đủ sức răn đe, vẫn còn hiện tượng nhờn luật.
Do vậy, để đảm bảo việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán
đấu giá tuân thủ theo đúng quy định pháp luật và để việc tổ chức bán đấu giá
khách quan, minh bạch, hạn chế những tiêu cực trong quá trình bán đấu giá
nên cần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu
hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá.
102
nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản và các chế tài xử phạt vi phạm
KẾT LUẬN CHUNG
Pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu đi chăng nữa nhưng nếu như áp
dụng pháp luật không đúng thì vẫn bị coi là còn hạn chế. Chính vì vậy, song
hành cùng công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật, cần quan tâm chú,
trọng công tác áp dụng pháp luật. Bởi, áp dụng pháp luật có đúng thì quyền,
lợi ích của cá nhân, cơ quan – tổ chức và của nhà nước mới được đảm bảo,
góp phần hỗ trợ đắc lực cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Ngược lại, nếu pháp luật được áp dụng không đúng thì sẽ gây tác hại không
nhỏ đến quyền, lợi ích của các chủ thể được nhà nước bảo vệ. Từ đó tạo nên
xung đột, ảnh hưởng đến trật tự an toàn chính trị - xã hội, ngăn cản sự phát
triển của kinh tế…
Từ thực tiễn công tác thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực bán đấu giá tài sản cho thấy, trong nhiều năm qua, việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát
sao của Đảng, Chính phủ. Nhờ đó, hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh về
bán đấu giá tài sản được xây dựng và ban hành tương đối đầy đủ, tạo hành
lang pháp lý vững chắc để hoạt động bán đấu giá tài sản đạt kết quả cao. Tuy
nhiên, hiện nay, trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản vẫn đang tồn tại nhiều hạn
chế, bất cập như: tổ chức bán đấu giá cố tình không thực hiện đúng quy định
theo đúng quy định; chiếm dụng tiền đặt cọc của khách hàng tham gia đấu
giá; còn có hiện tượng thông đồng, dìm giá tài sản; đấu giá viên điều hành
phiên đấu giá không đúng quy định; người có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính không có thẩm quyền hủy kết quả bán đấu giá (trừ bán đấu giá tài
sản nhà nước); chế tài xử phạt vi phạm hành chính còn nhẹ, chưa mang tính
pháp luật về bán đấu giá; không thực hiện niêm yết, thông báo bán đấu giá
103
răn đe và tương xứng với các hành vi vi phạm pháp luật trong bán đấu giá.
Chính vì vậy, để hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực bán đấu giá tài sản đạt hiệu quả cao, đảm bảo tốt các quyền, lợi ích
hợp pháp cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức thì cần sửa đổi, bổ sung các quy
định về giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là sửa đổi bổ sung Luật đấu giá
tài sản năm 2016 theo hướng tăng thẩm quyền cho các cơ quan thanh tra (hủy
kết quả bán đấu giá đối với mọi loại tài sản); tăng mức xử phạt vi phạm hành
chính để tương xứng với tính chất và mức độ vi phạm của tổ chức đấu giá và
đấu giá viên; Chính phủ sớm xem xét thông qua Dự thảo Nghị định sửa đổi
Nghị định 110/2010 và Nghị định 167/2015/NĐ-CP. Việc sửa đổi, bổ sung
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo định hướng Nhà nước pháp quyền xã
các quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản sẽ góp phần vào công cuộc hoàn
104
hội chủ nghĩa mà Đảng, Chính phủ đã đề ra./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Phi Anh (2016), Quản lý nhà nước trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Học Viện khoa học xã hội – Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW, ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng năm 2020, Hà Nội.
3. Chính phủ (2010), Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 quy
định về bán đấu giá tài sản, Hà Nội.
4. Chính phủ (2011), Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra, Hà Nội.
5. Chính phủ (2013), Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, Hà Nội.
6. Chính phủ (2014), Nghị định số 54/2014/NĐ-CP ngày 29/5/2014 quy định tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp, Hà Nội.
7. Chính phủ (2017), Nghị quyết số 21/2009/NQ-CP ngày 12/5/2009 ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, Hà Nội.
9. Chính phủ (2017), Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, Hà Nội.
10. Lê Viết Cường (2016), Một số giải pháp hoàn thiện công tác bán đấu giá tài sản tại Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Hà Tĩnh, Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đại học Bách Khoa Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII
8. Chính phủ (2017), Nghị định số 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản, Hà Nội.
105
ngày 28 tháng 01 năm 2016, Hà Nội.
12. Bùi Thị Thu Hiền (2014), Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo
pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật – ĐHQGHN.
13. Hồ Chủ tịch (1945), Sắc lệnh số 64/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945
thành lập Ban Thanh tra đặc biệt.
14. Đỗ Thị Hoa (2010), Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện
nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật – ĐHQGHN.
15. Hội đồng Nhà nước (1990), Pháp lệnh Thanh tra, Hà Nội.
16. Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
17. Hoàng Thị Kim Quế (chủ biên) (2015), Giáo trình lý luận nhà nước và
pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
18. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Hiến pháp,
Hà Nội.
19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp,
Hà Nội.
20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Thanh
tra, Hà Nội.
21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Khiếu
nại, Hà Nội.
22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật Đấu
giá tài sản, Hà Nội.
cáo, Hà Nội.
24. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
26. Đào Trí Úc, Hoàng Thị Kim Quế (đồng chủ biên) (2017), Đại cương về
nhà nước pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
106
23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Luật Tố
PHỤ LỤC
KẾT QUẢ THANH TRA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG
LĨNH VỰC BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
1. Kết quả thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2017 đối với
một số tổ chức bán đấu giá tài sản tại các tỉnh, thành phố (Phú Yên,
Thanh Hóa)
Hành vi vi phạm
Tên tổ chức bán đấu giá tài sản
Số Quyết định xử phạt
Số TT
Hình thức xử phạt-mức phát
01
Phạt tiền
Thông báo bán đấu giá tài sản không đúng quy định
DNTN DVBĐGTS Tân Sông Cầu(tỉnh Phú Yên)
38/QĐ- XPVPHC ngày 30/11/2017
17.000.000đ (Mười bảy triệu đồng chẵn)
02
Phạt tiền
Trần Thanh Trung (Đấu giá viên tỉnh Phú Yên)
39/QĐ- XPVPHC ngày 30/11/2017
Ghi biên bản phiên đấu giá ko đầy đủ chi tiết diễn biến của phiên đấu giá
5.000.000đ (Năm triệu đồng chẵn)
03
Phạt tiền
CT BĐGTS Triệu Sơn (tỉnh Thanh Hóa)
01/QĐ- XPVPHC ngày 01/2/2018
Thực hiện không đúng quy định về thông báo bán đấu giá tài sản
15.000.000đ (Mười năm triệu đồng chẵn, có tình tiết giảm nhẹ)
04
Phạt tiền
Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản (tỉnh Thanh Hóa)
02/QĐ- XPVPHC ngày 01/2/2018
Thực hiện không đúng quy định về thông báo bán đấu giá tài sản
17.000.000đ (Mười bảy triệu đồng chẵn, có tình tiết tăng nặng nhiều lần)
107
2. Kết quả thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2018 đối với
một số tổ chức bán đấu giá tài sản tại các tỉnh, thành phố (Hải Phòng,
KonTum, Quảng Trị, Hà Nam)
Hành vi vi phạm
Số TT
Tên tổ chức bán đấu giá tài sản
Số Quyết định xử phạt
Hình thức xử phạt-mức phát
Không thực hiện đúng chế độ báo cáo
01 Công ty TNHH Một thành viên dịch vụ đấu giá MSEC (thành phố Hải Phòng)
32/QĐ- XPVPHC ngày 09/7/2018
Thực hiện không đúng quy định về việc niêm yết bán đấu giá tài sản
Phạt tiền 7.000.000đ (Bảy triệu đồng chẵn, tình tiểt giảm nhẹ) Phạt tiền 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng chẵn)
02 Công ty TNHH Một thành viên dịch vụ đấu giá MSEC (thành phố Hải Phòng)
33/QĐ- XPVPHC ngày 09/7/2018
Phạt tiền 8.000.000đ (Tám triệu đồng chẵn)
03 Công ty TNHH Một thành viên dịch vụ đấu giá MSEC (thành phố Hải Phòng)
34/QĐ- XPVPHC ngày 09/7/2018
tiền đặt trước không Thu đúng quy định tại hồ sơ hợp đồng số 23/2017/HĐ-BĐG ngày 08/8/2017
04 Công ty TNHH Một thành viên dịch vụ đấu giá MSEC (thành phố Hải Phòng)
35/QĐ- XPVPHC ngày 09/7/2018
Ghi biên bản không đầy đủ chi tiết diễn biến phiên đấu giá tại hồ sơ hợp đồng số 13/2018 ngày 04/5/2018
05 Công ty TNHH Một thành viên dịch vụ đấu giá MSEC (thành phố Hải Phòng)
36/QĐ- XPVPHC ngày 09/7/2018
sản
giá
Phạt tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần) Phạt tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần)
Thực hiện không đúng quy định về việc thông báo bán đấu giá tài sản đối với Hợp đồng cung cấp dịch vụ bán đấu số tài 24/2017/HĐ-UQBDG ngày 29/8/2017
06 Công ty Cổ phần Đấu giá và dịch vụ tư vấn Hải Phòng
số
37/QĐ- XPVPHC ngày 09/7/2018
Thu tiền đặt trước không đúng quy định tại hồ sơ hợp 56/2028/HĐ- đồng HP.Auserco ngày 15/6/2018
Phạt tiền 8.000.000đ (Tám triệu đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần)
108
Hành vi vi phạm
Số TT
Tên tổ chức bán đấu giá tài sản
Số Quyết định xử phạt
Hình thức xử phạt-mức phát
07 Công ty Cổ phần Đấu giá và dịch vụ tư vấn Hải Phòng
Thực hiện không đúng quy định về việc niêm yết thông báo bán đấu giá tài sản
38/QĐ- XPVPHC ngày 09/7/2018
tiền đặt trước không
Thu đúng quy định
08 Công ty Cổ phần Đấu giá và dịch vụ tư vấn Hải Phòng
39/QĐ- XPVPHC ngày 09/7/2018
09 Trung
Sử dụng không đúng các loại sổ sách
tâm dịch vụ đấu giá tài sản tỉnh Hà Nam
40/QĐ- XPVPHC ngày 27/9/2018
tiền đặt trước không
Thu đúng quy định
10 Công ty Đấu giá hợp danh Tây Nguyên Kon Tum
41/QĐ- XPVPHC ngày 04/10/2018
11 Công ty Đấu giá hợp danh Tây Nguyên Kon Tum
Thực hiện không đúng quy định về việc thông báo bán đấu giá tài sản
42/QĐ- XPVPHC ngày 04/10/2018
12 Trung
tâm dịch vụ đấu giá tài sản tỉnh Kon Tum
Thực hiện không đúng quy định về việc thông báo bán đấu giá tài sản
43/QĐ- XPVPHC ngày 04/10/2018
Phạt tiền 15.000.000đ (Tám triệu đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần) Phạt tiền 8.000.000đ (Tám triệu đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần) Phạt tiền 7.000.000đ (Tám triệu đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần) Phạt tiền 7.000.000đ (Tám triệu đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần) Phạt tiền 15.000.000đ (Mười năm triệu đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần) Phạt tiền 15.000.000đ (Mười năm triệu đồng,có tình tiết giảm nhẹ)
109
Hành vi vi phạm
Số TT
Tên tổ chức bán đấu giá tài sản
Số Quyết định xử phạt
Hình thức xử phạt-mức phát
13 Công ty cổ phần dịch vụ và bán đấu giá tài sản
Thực hiện không đúng quy định về việc niêm yết bán đấu giá tài sản.
44/QĐ- XPVPHC ngày 25/10/2018
Phạt tiền 18.000.000đ (Mười năm triệu đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần)
Miền Trung nay là Cty đấu giá hợp danh Miền Trung
14 Công ty cổ phần dịch vụ và bán đấu giá tài sản
Thực hiện không đúng quy định về việc thông báo bán đấu giá tài sản
45/QĐ- XPVPHC ngày 25/10/2018
Phạt tiền 18.000.000đ (Mười năm triệu đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần)
Miền Trung nay là Cty đấu giá hợp danh Miền Trung
Điều hành cuộc bán đấu giá không đúng trình tự
15 Công ty cổ phần dịch vụ và bán đấu giá tài sản
46/QĐ- XPVPHC ngày 25/10/2018
là Miền Trung nay Cty đấu giá hợp danh Miền Trung
16 Công ty cổ phần dịch vụ bán đấu giá tài sản Đất Việt
Thực hiện không đúng quy định về việc niêm yết bán đấu giá tài sản.
47/QĐ- XPVPHC ngày 26/10/2018
17 Công ty cổ phần dịch vụ bán đấu giá tài sản Đất Việt
Thực hiện không đúng quy định về việc thông báo bán đấu giá tài sản
48/QĐ- XPVPHC ngày 26/10/2018
Phạt tiền 8.500.000đ (Tám triệu năm trăm nghìn đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần nhưng cũng có tình tiết giảm nhẹ) Phạt tiền 15.000.000đ (Mười năm triệu đồng,có tình tiết tăng nặng nhiều lần) Phạt tiền 15.000.000đ (Mười năm triệu đồng,có tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ)
110
Hành vi vi phạm
Số TT
Tên tổ chức bán đấu giá tài sản
Số Quyết định xử phạt
Hình thức xử phạt-mức phát
18 Công ty cổ phần dịch vụ bán đấu giá tài sản Đất Việt
Ghi biên bản không đầy đủ chi tiết diễn biến của phiên đấu giá
49/QĐ- XPVPHC ngày 26/10/2018
19 Trung
tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản Đất Việt
Thực hiện không đúng quy định về việc thông báo bán đấu giá tài sản
50/QĐ- XPVPHC ngày 26/10/2018
210 Trung
tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản Đất Việt
Thực hiện không đúng quy định về việc niêm yết bán đấu giá tài sản.
51/QĐ- XPVPHC ngày 26/10/2018
Phạt tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng,có tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ) Phạt tiền 16.000.000đ (Mười sáu triệu đồng,có tình tiết tăng nặng) Phạt tiền 16.000.000đ (Mười sáu triệu đồng,có tình tiết tăng nặng)
111