BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

-------***-------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HOÀN THIỆN QUY TRÌNH QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH

NHÀ NƯỚC HẰNG NĂM TRÌNH QUỐC HỘI

Ngành: Tài chính - Ngân hàng

ĐỖ HUYỀN TRANG

Hà Nội - 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HOÀN THIỆN QUY TRÌNH QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC HẰNG NĂM TRÌNH QUỐC HỘI

Ngành: Tài chính-Ngân hàng

Mã số: 8340201

Họ và tên học viên: ĐỖ HUYỀN TRANG

Người hướng dẫn: TS.Nguyễn Phúc Hiền

Hà Nội - 2023

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đỗ Huyền Trang

ii

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian thực hiện đề tài “Hoàn thiện quy trình quyết toán ngân sách

nhà nước hằng năm trình Quốc hội”, tôi đã nhận được rất nhiều sự trợ giúp đến từ các

thầy, cô trong Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo của Khoa Sau đại học, trường Đại học

Ngoại Thương. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự trân quý và lòng biết ơn sâu sắc đến TS

Nguyễn Phúc Hiền, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình

nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới Ban lãnh đạo, các đồng nghiệp làm việc tại

Kho bạc Nhà nước -Bộ Tài chính đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình tìm kiếm

thông tin, dữ liệu và tư liệu để hoàn thành luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đỗ Huyền Trang

iii

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ ii

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYẾT TOÁN

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ QUY TRÌNH QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH

NHÀ NƯỚC .................................................................................................................. 8

1.1. Ngân sách nhà nước ............................................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước .................................................................... 8

1.1.2. Chu trình NS nhà nước ................................................................................. 9

1.2. Quyết toán ngân sách nhà nước ......................................................................... 10

1.2.1. Khái niệm quyết toán ngân sách nhà nước ................................................. 10

1.2.2. Vai trò của quyết toán ngân sách nhà nước ................................................ 12

1.2.3. Những nguyên tắc cơ bản của quyết toán ngân sách nhà nước .................. 13

1.3. Quy trình quyết toán ngân sách nhà nước ....................................................... 18

1.3.1. Khái niệm, nội dung quy trình quyết toán ngân sách nhà nước ................. 18

1.3.2.Các thành phần tham gia vào quy trình quyết toán NSNN ......................... 21

1.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy trình quyết toán ngân sách nhà nước . 26

1.4. Kinh nghiệm quốc tế về quyết toán NSNN và bài học cho Việt Nam ............ 28

1.4.1 Kinh nghiệm quốc tế .................................................................................... 28

1.4.2. Bài học kinh nghiệm ................................................................................... 32

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY TRÌNH QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH

NHÀ NƯỚC HẰNG NĂM GIAI ĐOẠN 2016-2020 ............................................... 34

2.1. Khái quát về Bộ Tài chính và bộ máy quyết toán ngân sách nhà nước ........ 34

2.1.1. Khái quát về Bộ Tài chính .......................................................................... 34

2.1.2. Bộ máy quyết toán NS nhà nước tại BTC .................................................. 37

2.2. Thực trạng quy trình quyết toán NS nhà nước hằng năm trình QH giai đoạn

2016-2020 ...................................................................................................................... 38

2.2.1 Tổng hợp, lập BCQT NSNN ....................................................................... 38

2.2.2 Kiểm toán quyết toán NSNN ....................................................................... 46

2.2.3 Thẩm tra quyết toán NSNN ......................................................................... 48

2.2.4 Phê chuẩn quyết toán NSNN ....................................................................... 50

2.2.5 Công khai quyết toán ngân sách nhà nước .................................................. 52

iv

2.3. Đánh giá việc thực hiện quy trình quyết toán NS nhà nước hằng năm ở Việt

Nam giai đoạn 2016-2020 ........................................................................................... 52

2.3.1 Ưu điểm ....................................................................................................... 52

2.3.2 Hạn chế ........................................................................................................ 53

2.3.3 Nguyên nhân ................................................................................................ 55

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH QUYẾT TOÁN NS

NHÀ NƯỚC HẰNG NĂM TRÌNH QUỐC HỘI .................................................... 60

3.1. Định hướng hoàn thiện quy trình quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm 60

3.2. Nguyên tắc hoàn thiện quy trình quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm .. 60

3.2.1 Nguyên tắc bảo đảm tính pháp lý ................................................................ 60

3.2.2. Nguyên tắc bảo đảm tính tuân thủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết

toán ngân sách nhà nước ....................................................................................... 61

3.2.3 Nguyên tắc thống nhất ................................................................................. 61

3.2.4 Nguyên tắc khoa học.................................................................................... 62

3.2.5 Nguyên tắc thực tiễn .................................................................................... 62

3.3 Giải pháp hoàn thiện quy trình quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm

trình Quốc hội .............................................................................................................. 63

3.3.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý ................................................................... 63

3.3.2. Xây dựng phương án rút ngắn quy trình, thời gian quyết toán NSNN

hằng năm .............................................................................................................. 63

3.3.3. Xây dựng, hoàn thiện chế độ kế toán nhà nước .......................................... 68

3.3.4. Công khai, minh bạch thông tin quản lý, điều hành và sử dụng ngân sách 70

3.3.5. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong thực hiện quy trình

quyết toán ngân sách nhà nước ............................................................................. 73

3.3.6. Nâng cao chất lượng thẩm tra quyết toán ngân sách nhà nước .................. 74

3.3.7. Tổ chức đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ ................................................. 75

3.3.8. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin ................................................ 75

3.4. Kiến nghị ............................................................................................................... 76

3.4.1. Quốc hội ...................................................................................................... 76

3.4.2 Chính phủ ..................................................................................................... 79

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 83

v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Nguyên nghĩa

1 BCQT Báo cáo quyết toán

2 CQTC CQTC

3 ĐTPT Đầu tư phát triển

4 ĐVDT Đơn vị dự toán

ĐVSDNS Đơn vị sử dụng ngân sách 5

6 HĐND Hội đồng nhân dân

7 KTNN Kiểm toán Nhà nước

8 KT-XH Kinh tế - Xã hội

9 NS Ngân sách

10 NSNN Ngân sách nhà nước

11 NSĐP Ngân sách địa phương

12 NSTW Ngân sách trung ương

13 TC Tài chính

14 QH Quốc hội

15 QT Quyết toán

16 UBND Uỷ ban nhân dân

17 UBTCNS Ủy ban Tài chính, Ngân sách

18 UBTVQH Uỷ ban thường vụ Quốc hội

vi

DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ

Bảng 2.1: Tổng hợp số liệu quyết toán NSNN giai đoạn 2016-2020 .......................... 38

Bảng 2.2: Tỷ lệ tán thành của Đại biểu QH đối với quyết toán NSNN năm 2016-2020 50

Hình 2.1: Quyết toán NS địa phương theo quy định của Luật NSNN ........................ 44

Hình 3.1: Quy trình quyết toán NS nhà nước hằng năm .............................................. 64

vii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

Để thực hiện đề tài “Hoàn thiện quy trình quyết toán ngân sách nhà nước hằng

năm trình Quốc hội”, trên cơ sở hệ thống hóa những lý luận cơ bản về NSNN và quyết

toán NSNN, tác giả đã phân tích và đánh giá quy trình quyết toán NSNN hằng năm

ở Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp để hoàn thiện quy trình quyết toán NSNN

hằng năm trình QH.

Thứ nhất, tác giả hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về quyết toán

NSNN và quy trình quyết toán NSNN, nghiên cứu các kinh nghiệm quốc tế để từ đó

rút ra bài học cho Việt Nam nhằm rút ngắn quy trình quyết toán NSNN hằng năm

trình QH.

Thứ hai, trên cơ sở giới thiệu khái quát về ngành Tài chính và bộ máy quyết

toán NSNN tại BTC, tác giả đã phân tích thực trạng quy trình quyết toán NSNN hằng

năm ở Việt Nam, bao gồm cả những đánh giá về ưu điểm, những hạn chế và nguyên

nhân của hạn chế.

Thứ ba, trên cở sở định hướng và nguyên tắc hoàn thiện quy trình QT NSNN

hằng năm trình QH, tác giả đã đưa ra các giải pháp về xây dựng phương án rút ngắn

quy trình QT NSNN hằng năm và mội số giải pháp về hoàn thiện môi trường pháp

lý, nâng cao chất lượng công tác thẩm tra QT NSNN, ứng dụng công nghệ thông

tin,... cũng như các kiến nghị với QH, CP nhằm hoàn thiện quy trình QT NSNN hằng

năm trình QH.

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. “Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu”

Ngân sách nhà nước (NSNN) là kế hoạch tài chính vĩ mô, là khâu tài chính

chủ đạo của nền tài chính quốc gia. NSNN phản ánh các mối quan hệ kinh tế giữa

nhà nước với các chủ thể trong nền KT-XH, phát sinh trong quá trình phân phối và

phân phối lại của cải xã hội, giúp nhà nước sử dụng nguồn tài chính để phục vụ các

nhu cầu chi tiêu nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Trong bối cảnh

hạn hẹp của nguồn lực tài chính quốc gia, việc quản lý và sử dụng NSNN tiết kiệm,

hiệu quả là đòi hỏi cấp thiết của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế - xã hội nhanh

và bền vững.

Trong quản lý NSNN, khâu quyết toán NSNN là khâu cuối cùng của chu trình

quản lý ngân sách, sau khâu lập, xây dựng dự toán NSNN và khâu phân bổ, sử dụng

NSNN. Sau một năm thực hiện NSNN, quyết toán NSNN giữ vai trò quan trọng

nhằm xem xét, đánh giá lại quá trình thu, chi NSNN. Quyết toán NSNN là việc so

sánh kết quả thu, chi NSNN với dự toán NSNN được cơ quan có thẩm quyền giao,

đồng thời đánh giá lại giai đoạn chấp hành, điều hành NSNN và các nội dung liên

quan đến quản lý, sử dụng NSNN. Trên cơ sở số liệu quyết toán NSNN, các cơ quan

quản lý sử dụng để phân tích tình hình TC-NS của đất nước, từ đó xây dựng cơ chế,

chính sách TC-NS phù hợp để quản lý, sử dụng nguồn lực TC quốc gia hiệu quả,

tối ưu. Có thể thấy, qua khâu quyết toán NSNN, các nhà quản lý tài chính, ngân

sách có cái nhìn đầy đủ, toàn diện về quá trình quản lý, sử dụng NSNN, từ đó đưa

ra các giải pháp góp phần quản lý một cách tiết kiệm, hiệu quả và minh bạch nguồn

lực TC nhà nước.

Trong thời gian qua, cùng với những tiến bộ trong quản lý tài chính và NS,

công tác tổng hợp, lập BCQT NSNN ở Việt Nam cũng dần được hoàn thiện. Số liệu

quyết toán NSNN về cơ bản đã phản ánh tình hình TC-NS và có cơ sở tin cậy. Nội

dung, quy trình quyết toán đã được quy định chặt chẽ hơn, nhất là trách nhiệm của

các đơn vị sử dụng ngân sách (ĐVSDNS), đơn vị dự toán (ĐVDT) cấp trên và cơ

quan NN các cấp đã được quy định cụ thể theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu

2

trách nhiệm của đơnvị cơ sở và cấp dưới trực thuộc. Tỷ lệ tán thành thông qua Nghị

Quyết về phê chuẩn quyết toán NSNN đạt mức cao: năm 2016 là 94,48%, năm 2017

là 91,53%, năm 2018 là 93,17%, năm 2019 là 95,99%, năm 2020 là 90,96%.

Bên cạnh những kết quả đạt được, quyết toán NSNN cũng bộc lộ nhiều bất cập

như: các đơn vị nộp báo cáo chậm; thời gian QT NSNN kéo dài làm ảnh hưởng đến

tính thời sự của số liệu QT NSNN, không hỗ trợ được việc xây dựng dự toán cho

năm sau và việc cung cấp số liệu cho Tổng Kế toán nhà nước cũng không kịp thời.

Theo quy định tại Khoản7 Điều 70 Luật NSNN, QH xem xét, phê chuẩn QT NSNN

chậm nhất là 18 tháng sau khi kết thúc năm NS. Quy định của Luật NSNN về thời

gian QH phê chuẩn quyết toán như trên là quá dài, làm giảm vai trò, ý nghĩa của

công tác quyết toán NSNN. Vì vậy, tại khoản 6 Điều 3 Nghị quyết số 53/2022/QH15

ngày 15/6/2022 của QH về phê chuẩn quyết toán NSNN năm 2020, QH giao CP

khẩn trương báo cáo QH lộ trình rút ngắn thời gian, quy trình QT NSNN hằng năm

theo Nghị quyết số 22/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của QH, trong đó nghiên cứu rút

ngắn thời gian, quy trình QT NSNN so với hiện hành để trình QH xem xét, phê

chuẩn QT NSNN hằng năm vào kỳ họp cuối năm tiếp theo, góp phần tăng cường kỷ

luật, kỷ cương và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng NSNN.

Theo yêu cầu của QH và từ thực tiễn công tác quyết toán NSNN các năm qua

cho thấy, việc hoàn thiện quy trình QT NSNN nhằm rút ngắn thời gian trình QH

phê chuẩn QT NSNN hằng năm là cần thiết, hướng tới mục đích quản lý NSNN

ngày càng công khai, minh bạch và hiệu quả. Đồng thời, giúp các cơ quan quản lý

NS có cái nhìn tổng thể về công tác quyết toán NSNN, nhanh chóng tiếp cận, triển

khai công việc và đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra.

Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Hoàn thiện quy trình quyết

toán ngân sách nhà nước hằng năm trình Quốc hội" để nghiên cứu.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Quyết toán NSNN là giai đoạn cuối cùng trong chu trình NS, nhằm đánh giá lại

toàn diện từ khâu lập, quyết định dự toán, khâu chấp hành dự toán và khâu kế toán

NS. Quyết toán NSNN là nội dung có tính chuyên môn đặc thù, với các bước cụ thể

3

về kiểm tra, đối chiếu số liệu để xác định chính thức số thu, chi, bội chi NSNN, từ đó

tổng hợp, lập báo cáo quyết toán (BCQT) NSNN hàng năm trình QH xem xét, phê

chuẩn.

Một số đề tài, chuyên đề đã nghiên cứu về quyết toán NSNN và có những thành

công nhất định:

- Bùi Tiến Hanh(2011) đã đưa ra những nội dung cơ bản mà một quyết toán

NSNN cần phải đạt được. Tác giả cũng đã nghiên cứu những nguyên tắc quyết toán

NSNN, yếu tố ảnh hưởng đến quyết toán NSNN, quy trình và các cơ quan nhà nước

tham gia QT NSNN. Trên cơ sở lý luận cơ bản về quyết toán NSNN, luận án đi sâu

nghiên cứu thực trạng của công tác quyết toán NSNN hiện hành từ đó phân tích những

kếtquả đạt được, những bất cập trong công tác QT NSNN, đồng thời làm rõ những

nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan của những yếu kém, bất cập đó. Từ

cơ sở lý luận và những bất cập của công tác QT NSNN, luận án đề xuất một số giải

pháp nhằm hoàn thiện công tác quyết toán NSNN.

- Ủy ban Tài chính, Ngân sách (UBTCNS) của QH(2012) đã trình bày các giai

đoạn phát triển của công tác QT kể từ khi chưa có Luật NSNN cho đến nay. Đề tài cho

thấy, mặc dù đã có nhiều thay đổi trong công tác QT NSNN nhưng có một số nội dung

có tính nguyên tắc không thay đổi đó là quy trình lập quyết toán NSNN từ dưới lên,

cùng với đó là việc CQTC luôn là cơ quan lập, tổng hợp BCQTNS trình cấp có

thẩmquyền xem xét,phê chuẩn. HĐND luôn là cơ quan phê chuẩn NS ở địa phương

và QH luôn là cơ quan phê chuẩn quyết toán NSNN. Trước nhiều vấn đề bất cập được

nêu trong đề tài, tác giả cũng đã trình bày nhiều giải pháp để khắc phục. Tất cả các

giải pháp đưa ra đều có tính hai mặt, có mặt ưu và mặt hạn chế và cũng chưa thể giải

quyết được triệt để các hạn chế phát sinh.

- Lê Thị Thúy (2017) đã khái quát các nguyên tắc của quyết toán NSNN và nêu

ra 1 số nét đặc trưng căn bản của quyết toán NSNN. Bài viết đã cung cấp những kiến

thức cơ bản về quyết toán NSNN ở Việt Nam.

- Trần Thị Hương Giang (2019) đã đánh giá công tác quản lý quyết toán NSNN

tại KBNN Việt Nam; phát hiện những thành công, hạn chế và nguyên nhân tình hình

4

quản lý quyết toán NSNN. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra các giải pháp hoàn thiện công

tác quản lý QT NSNN phù hợp với yêu cầu mới. Có những giải pháp có thể áp dụng

ngay trong ngắn hạn như các giải pháp liên quan đến cách hạch toán, báo cáo số chuyển

nguồn, trách nhiệm của các ĐVSDNS, ĐVDT cấp trên, về các báo cáo gửi kèm BCQT

NSNN... Có những giải pháp mang tính dài hạn và liên quan đến việc sửa đổi nhiều

văn bản khác như Hiến Pháp, Luật NSNN, Luật Kế toán,... đó là các vấn đề về thời hạn

phê chuẩn QT, về cơ chế quản lý NS lồng ghép, về nâng cao năng lực của các đại biểu

dân cử.

- Nguyễn Hồng Nhung (2020) đã nhận định, đánh giá về công tác quản lý TC-NS

qua hoạt động quyết toán NSNN năm 2018. Có thể nhận thấy, nhiệm vụ tài chính -

NSNN năm 2018 được triển khai trong bối cảnh tình hình kinh tế trong nước tiến triển

tích cực nhưng kinh tế thế giới tăng trưởng chậm và tiềm ẩn yếu tố khó lường, tăng

trưởng thương mại toàn cầu sụt giảm so với dự báo, lạm phát toàn cầu những tháng

đầu năm có xu hướng tăng cao do giá năng lượng, đặc biệt là giá dầu thô bình quân

tăng mạnh. Công tác quyết toán NSNN năm 2018 cho thấy, Chính phủ đã quyết liệt

trong công tác chỉ đạo, cùng với sự nỗ lực phấn đấu cao của cả hệ thống chính trị từ

trung ương đến địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, nhiệm vụ phát triển

KT-XH đã hoàn thành thắng lợi trên các lĩnh vực. Hơn lúc nào hết, việc nâng cao hiệu

quả trong quản lý tài chính - NSNN là một đòi hỏi cấp thiết đối với một đất nước đang

phát triển và tham gia hội nhập kinhtế quốc tế như Việt Nam.

- Nguyễn Hồng Nhung (2021) đã khái quát về tình hình thu, chi NSNN năm 2019

trong bối cảnh dịch Covid-19, qua đó cho thấy việc tăng cường hiệu quả trong quản lý

thu, chi NSNN phải được siết chặt. Cần thực hiện tốt công tác quản lý thu NSNN, tạo

môi trường thuận lợi, rõ ràng minh bạch cho người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ với

NSNN, đồng thời tiếp tục thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn một số khoản thu cho

các đối tượng gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Tiếp tục thực hiện triệt để tiết kiệm

chi thường xuyên, cắt giảm các khoản chi chưa thực sự cần thiết, thu hồi các khoản

kinh phí thường xuyên chậm triển khai; rà soát các khoản chi ĐTPT, đặc biệt là vốn

ODA chậm triển khai không có khả năng thực hiện để thu hồi, bổ sung nguồn, tập trung

chi phòng chống dịch Covid-19.

5

- Nguyễn Hồng Nhung (2022) đã nêu ra một số vướng mắc trong quyết toán

NSĐP liên quan đến KBNN các cấp. Qua đó nhận thấy rằng, để công tác quyết toán

NSĐP được thực hiện theo đúng thời gian, trình tự quy định của Luật NSNN, đòi hỏi

phải có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa BTC, cơ quan tài chính các cấp, KBNN

trung ương và KBNN nơi giao dịch để kiểm tra, đối chiếu số liệu thu, chi NSĐP đảm

bảo quy định của Luật NSNN, làm căn cứ tổng hợp BCQT NSĐP đầy đủ, chính xác,

kịp thời hạn và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt đúng quy định.

- Dự án của Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức GIZ(2015) đã trình bày các vấn đề về

thực tiễn cũng như tính cấp bách, cấp thiết đối với việc hoàn thiện công tác kế toán,

quyết toán NSNN để phục vụ cho việc xây dựng Dự án Luật NSNN sửa đổi và tổ chức

thực hiện Luật. Chuyên đề không đi sâu vào chi tiết chế độ kế toán, BCQT mà đặt ra

nhiệm vụ cho kế toán các nguyên tắc, yêu cầu, nội dung; đặt ra nội dung, trách nhiệm,

quy trình, thủ tục, thời hạn báo cáo, xét duyệt (hoặc thẩm định) quyết toán NSNN đáp

ứng yêu cầu quản lý NSNN.

Các chuyên đề, đề tài đã thành công trong việc xây dựng cái nhìn tổng quan về

công tác quyết toán NSNN, đã đề xuất được những giải pháp để hoàn thiện hoạt động

quyết toán NSNN trong điều kiện sửa LuậtNSNN năm 2002. Một số kiến nghị đã được

tiếp thu tại Luật NSNN năm 2015.

Tuy nhiên, các chuyên đề, đề tài về quyết toán NSNN phần lớn tập trung về lý

thuyết, chưa phân tích cụ thể về các nội dung, quy trình của công tác quyết toán NSNN,

chưa làm rõ những vướng mắc thường xảy ra cũng như chưa kiến nghị được các giải

pháp khắc phục về chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình thực hiện công tác quyết

toán NSNN.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu”

Thứ nhất, hệ thống hóa khung lý thuyết về NSNN, QT NSNN;

Thứ hai, nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy trình QT NSNN hằng năm giai

đoạn 2016-2020;

6

Thứ ba, đề xuất các giải pháp nhằm rút ngắn quy trình QT NSNN hằng năm.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về NSNN, quyết toán NSNN và quy trình

QT NSNN.

- Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về quy trình QT NSNN và rút ra bài học cho

Việt Nam.

- Đánh giá thực trạng quy trình quyết toán NSNN hằng năm ở Việt Nam giai

đoạn 2016-2020, phân tích các hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân dẫn đến các hạn

chế đó.

- Xác định rõ các quan điểm, mục tiêu và đề xuất các giải pháp cơ bản để hoàn

thiện quy trình QT NSNN hằng năm trình QH.

4. “Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về quy trình QT NSNN hằng năm ở Việt Nam.”

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu quy trình quyết toán NSNN ở cơ

quan quản lý NS, trong đó tập trung chủ yếu tại BTC.

- Về thời gian: Từ quyết toán NSNN năm 2016 đến năm 2020.

5. “Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng

thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:thu thập tài liệu, thống kê, xử lý

số liệu để phân tích, đánh giá,so sánh những thành công, hạn chế và nguyên nhân của

những hạn chế trong thực hiện quy trình quyết toán NSNN hằng năm ở Việt Nam, từ

đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình quyết toán NSNN hằng năm ở Việt

Nam. Luận văn cũng kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có

liên quan, sử dụng hệ thống văn bản chế độ có liên quan đến quyết toán NSNN để làm

rõ thêm về cơ sở lý luận và thực tiễn về quyết toán NSNN hằng năm ở Việt Nam.”

7

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quyết toán ngân sách nhà nước và quy

trình quyết toán NS nhà nước.

Chương 2: Thực trạng quy trình quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm ở

Việt Nam giai đoạn 2016-2020.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy trình quyết toán ngân sách nhà nước hằng

năm trình Quốc hội.

8

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYẾT TOÁN NGÂN

SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ QUY TRÌNH QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1.1. Ngân sách nhà nước

1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước

NS nhà nước là một phạm trù kinh tế, đồng thời là phạm trù lịch sử. NSNN là

một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính. Trong đời sống KT-XH ở mọi quốc

gia đều sử dụng phổ biến thuật ngữ “ngân sách nhà nước”. Vì vậy, tùy quan điểm và

lĩnh vực nghiên cứu sẽ đưa ra nhiều quan niệm về NSNN.

Theo quan niệm của các nhà kinh tế Nga: NSNN là bảng liệt kê các khoản thu,

chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia.

Luật NSNN năm 2002 của Việt Nam định nghĩa:

“NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước

có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện

các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.”

Đến nay, Luật NSNN của Việt Nam năm 2015 đã được QHthông qua ngày

25/06/2015, đã đưa ra khái niệm NSNN trên cơ sở kế thừa định nghĩa nêu trên và có

điều chỉnh cho phù hợp:

“NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện

trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định

để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.”

Đối với Việt Nam, NSNN bao gồm ngân sách trung ương (NSTW) và ngân sách

địa phương (NSĐP). Các khoản thu của NSTW là các khoản thu NSNN được phân

cấp cho cấp trung ương hưởng; các khoản chi NSTW là các khoản chi NSNN cho các

nhiệm vụ chi theo quy định của cấp trung ương. Các khoản thu của NSĐP là các

khoản thu NSNN được phân cấp cho cấp địa phương hưởng và các khoản thu của

NSĐP được bổ sung từ từ NSTW cho NSĐP; các khoản chi NSĐP là các khoản chi

NSNN cho các nhiệm vụ theo quy định của cấp địa phương.

9

1.1.2. Chu trình NS nhà nước

Chu trình NS (theo cách gọi khác là quá trình NS) là toàn bộ quá trình xảy ra từ

khi bắt đầu hình thành cho đến khi kết thúc của một hoạt động ngân sách và chuyển

sang hoạt động ngân sách mới. Thời gian và nội dung của chu trình NS có phạm vi

rộng và kéo dài hơn năm ngân sách. Năm NS thường được tính bằng một năm dương

lịch, bắt đầu từ 1/1 và kết thúc vào 31/12; một số nước quy định thời gian bắt đầu và

thời gian kết thúc năm NS khác với năm dương lịch, chẳng hạn từ 1/10 đến 30/9 năm

sau hoặc từ 1/4 đến 31/3 năm sau. Nội dung chu trình ngân sách gồm 3 khâu: Lập

NS, còn gọi là khâu hình thành NS; khâu chấp hành NS hay còn gọi là thực hiện NS

và cuối cùng là khâu QT NS.

Chu trình NS của nước ta được quy định cụ thể trongLuật NSNN.

Giai đoạn 1: Lập dự toán NS

Lập dự toán NSNN là giai đoạn đầu tiên quyết định đến hiệu quả trong quá trình

điều hành và quản lý NS. Giai đoạn này hướng đến mục tiêu xác định nhiệm vụ động

viên và phân phối các nguồn vốn tối ưu, từ đó bảo đảm tính vững chắc, khả thi của

NS. Kế hoạch NS được xây dựng một cách đúng đắn sẽ giúp cho các nhà quản lý xác

định được các mục tiêu trọng tâm cần đạt được. Mặt khác, thông qua lập dự toán NS

để thẩm tra tính đúng đắn, hiện thực và tính cân đối của kế hoạch KT-XH, đảm bảo

về mặt TC để thực hiện các chỉ tiêu KT-XH được đề ra trong kỳ kế hoạch. Từ phân

tích trên cho thấy, lập dự toán NS có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình điều hành

KT-XH cũng như NSNN.

Giai đoạn 2: Chấp hành NS

Dự toán NS được cơ quan có thẩm quyền xem xét, phê chuẩn để triển khai thực

hiện trong năm NS, bắt đầu từ ngày 01/01 đến ngày 31/12. Trường hợp khối lượng,

công việc đã thực hiện đến ngày 31/12, được thoàn thành thủ tục thanh toán đến ngày

31/01 năm sau. Nội dung của giai đoạn chấp hành NS là việc tập trung một cách đầy

đủ và kịp thời tất cả các nguồn thu vào NS, từ đó sử dụng cho các nhiệm vụ chi NS

đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép, nhằm động viên, phân phối và sử dụng

hiệu quả các nguồn tài chính quốc gia trong năm NS, góp phần hoàn thành các

10

mụctiêu phát triển KT -XH đã đề ra. Chấp hành NS được phân loại gồm chấp hành

thu NSNN và chấp hành chi NSNN.

Giai đoạn 3: Quyết toán NS

Quyết toán NSNN nhằm phản ảnh, đánh giá và kiểm tra lại quá trình hình thành

và chấp hành NSNN. Thông qua quyết toán NSNN, các ĐVSDNS biết được tình hình

thu NSNN và chi NSNN được thực hiện trong năm ngân sách, QH biết được việc

thực hiện các nhiệm vụ thu, chi của CP, tình hình thực hiện NSNN và chính sách tài

chính, NS trong năm. Quyết toán NSNN là căn cứ pháp lý quan trọng để QH thảo

luận, xem xét, phê chuẩn và giải toả trách nhiệm của Chính phủ trong việc quản lý,

điều hành NS của năm đã qua. Hoạt động quyết toán NSNN cũng cho thấy kết quả

triển khai chính sách tài khoá của CP trong một năm. Hằng năm, BCQT NSNN do

Chính phủ tổng hợp, lập và trình cấp có thẩm quyền phải được Kiểm toán Nhà nước

(KTNN) thực hiện kiểm toán để đảm bảo tính đầy đủ, chính xác, trung thực của số

liệu quyết toán NSNN, đồng thời đánh giá tính tuân thủ luật pháp và tính hiệu quả

của các khoản thu, chi NSNN.

1.2. Quyết toán ngân sách nhà nước

1.2.1. Khái niệm quyết toán ngân sách nhà nước

“Quyết toán NS nhà nước là việc tổng kết, đánh giá thực hiện NS và chính sách

tài chính NS trong một thời gian nhất định cũng như xem xét trách nhiệm pháp lý của

các cơ quan nhà nước trong quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính quốc gia để thực

hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước; được cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn”

(Bùi Tiến Hanh, 2011).

Trong chu trình NS, quyết toán NSNN là giai đoạn cuối cùng nhằm đánh giá lại

một cách đầy đủ, toàn diện từ khâu lập, quyết định dự toán, khâu chấp hành dự toán và

khâu kế toán; xác định chính thức số thu, chi, bội chi NSNN; số tồn NS chuyển năm

sau. Các cơ quan quản lý sử dụng số liệu quyết toán NSNN để phân tích tình hình tài

chính và NS của đất nước, từ đó xây dựngcơ chế, chính sách tài chính, NS phù hợp

để quản lý, sử dụng nguồn lực TC quốc gia hiệu quả, tối ưu. Có thể nhận thấy, quyết

toán NSNN đã góp phần hoàn thiện chu trình quản lý NSNN, giúp các nhà quản lý

11

đưa ra các giải pháp phù hợp để quản lý tiết kiệm, hiệu quả, minh bạch nguồn lực

TC của đất nước.

Để công tác quyết toán NSNN phản ánh đúng kết quả thực hiện thu, chi NS và

triển khai các chính sách TC, NS trong năm, quyết toán NSNN mang một số đặc điểm

cụ thể như sau:

- Một là, quyết toán NSNN phải phản ánh đầy đủ, chính xác số liệu thu, chi NS.

Các khoản thu phải được hạch toán và phản ánh đầy đủ khi báo cáo với cơ quan nhà

nước có thẩm quyền.Mức độ đầy đủ của quyết toán NSNN tuỳ thuộc vào quy định

pháp luật của từng quốc gia.

- Hai là, quyết toán NSNN phải thể hiện được tính tuân thủ trong việc thu NS

căn cứ theo các quy định của pháp luật. Bên cạnh việc giải trình về số liệu thu, chi

NS, CP còn phải giải trình về kết quả quản lý, điều hành thu, chi NSNN trong năm,

đảm bảo tuân thủ theo các quy định của pháp luật và mục tiêu, yêu cầu Quốc hội đặt

ra khi quyết định dự toán NSNN trong năm.

- Ba là, nội dung QT NSNN giúp cấp có thẩm quyền đánh giá được tính hiệu

quả của các khoản thu, chi NS. Bên cạnh việc báo cáo số liệu quyết toán thu, chi NS

và tính tuân thủ của các khoản thu, chi ngân sách, nội dung quyết toán NSNN cần

làm rõ tính hiệu quả trong quá trình điều hành, quản lý thu, chi NS và các chính sách

TC, NS trong năm. BCQT NSNN cần phải đánh giá mục tiêu đặt ra có hoàn thành

hay không, việc quản lý, sử dụng NS có phù hợp, hiệu quả hay không; từ đó đánh giá

việc phân bổ ngân sách có hợp lý, hiệu quả, bảo đảm được nguồn lực triển khai, thi

hành các chính sách một cách tốt nhất hay không.

- Bốn là, QT NSNN được xác định trong một khoảng thời gian nhất định, thường

là 1 năm (12 tháng - năm NS). Năm NS được hiểu là khoảng thời gian bắt đầu thực

hiện NS cho đến khi kết thúc NS và thường lấy khoảng thời gian là 1 năm (12 tháng)

để xác định. Những khoản thu, chi đúng chế độ của NS năm nào được hạch toán vào

NS năm đó. Ví dụ: Kỳ 13 của năm NS - được mở ra để hạch toán các khoản chi của

năm trước và được tổng hợp vào số liệu QT NSNN năm trước. Do đó, hình thành

nhiệm vụ trong quy trình quyết toán NSNN.

12

- Năm là, BCQT NSNN được trình các cơ quan có thẩm quyền để xem xét, phê

chuẩn theo quy định, nhằm giải tỏa trách nhiệm về tài chính, NS cho các cơ quan

quản lý, điều hành NS. QH (hoặc Hạ viện) với vai trò là cơ quan quyền lực NN cao

nhất, đại diện quyền lợi của người dân sẽ có thẩm quyền xem xét, phê chuẩn báo cáo

quyết toán NSNN hàng năm. Tuy nhiên do NSNN Việt Nam thực hiện theo cơ chế

quản lý ngân sách lồng ghép, NSNN bao gồm NSTW và NSĐP; vì vậy QH phê chuẩn

quyết toán NSNN bao gồm phê chuẩn NSTW và phê chuẩn NSĐP đã được HĐND

các cấp ở địa phương phê chuẩn.

1.2.2. Vai trò của quyết toán ngân sách nhà nước

Quyết toán NSNN cho biết toàn bộ số liệu thu chi NS và phản ánh được tình

hình quản lý, sử dụng các khoản thu, chi quỹ NSNN, các quỹ ngoài NS để cung cấp

thông tin cho các nhà quản lý, Quốc hội, Đại biểu Quốc hội và nhân dân.

Quyết toán NSNN thể hiện tính tuân thủ trong việc thu, chi NS đảm bảo đúng

các quy định pháp luật về NS; thể hiện việc thực hiện dự toán thu, chi và bội chi, cân

đối NS theo các Nghị quyết của QH.

Quyết toán NSNN giúp các cấp có thẩm quyền xem xét tính hiệu lực, hiệu quả

của các khoản thu, chi NS và quản lý điều hành NS.

Quyết toán NSNN đảm bảo trách nhiệm của CP trong việc giải trình về các

khoản thu, chi NS, điều hành chính sách tài khóa, bảo đảm bội chi, nợ công an toàn

theo các nghị quyết của QH.

Như vậy, quyết toán NSNN là giai đoạn cuối cùng của chu trình quản lý NSNN,

có ý nghĩa rất quan trọng nhằm xác định kết quả thực hiện NS trong năm tài khóa.

Khi so sánh, đối chiếu số liệu QT NSNN với dự toán được cấp có thẩm quyền giao

và số quyết toán của các năm trước, cho phép đánh giá kết quả về thực hiện NS so

với dự toán NS được cấp thẩm quyền quyết định và mức tăng trưởng so với năm

trước, cũng như mức độ tăng chi ngân sách so với tăng thu NSNN, làm cơ sở đánh

giá hiệu quả thực hiện NSNN. Số liệu và thuyết minh trong quyết toán NS cũng là

tổng kết và đánh giá chính sách tài khóa thực hiện trong một năm nhằm rút kinh

13

nghiệm của năm quyết toán và phục vụ cho quá trình quản lý, sử dụng NSNN và điều

hành chính sách tài khóa cho các năm tiếp theo.

1.2.3. Những nguyên tắc cơ bản của quyết toán ngân sách nhà nước

1.2.3.1. Nguyên tắc toàn diện

Nguyên tắc toàn diện thể hiện ở việc, tất cả các khoản thu, chi NS đều phải hạch

toán, quyết toán NSNN theo quy định. Ngoài việc báo cáo về các khoản thu ngân

sách, chi NS, BCQT còn phải báo cáo về các quỹ tài chính ngoài NS, quỹ được tiếp

vốn từ quỹ NSNN. Chẳng hạn như quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ dự trữ tài chính, quỹ

bảo hiểm xã hội,... Ngoài ra, khi quyết toán NSNN còn phải báo cáo cụ thể về các

khoản thuế được miễn giảm và các khoản thu ngân sách đơn vị được để lại chi tiêu

theo quy định.

Có thể thấy rằng, nguyên tắc toàn diện được xem là nguyên tắc quan trọng hàng

đầu trong quản lý, sử dụng NSNN. QT NSNN là một khâu của chu trình NS do vậy

cần phải tuân thủ nguyên tắc chung. Mặt khác, khi và chỉ khi quyết toán NS thể hiện

được toàn diện các khía cạnh của năm NS đã qua mới đảm bảo sức thuyết phục về

trách nhiệm giải trình của CP, cơ quan quản lý NS trong việc quản lý, sử dụng các

nguồn lực của đất nước.

1.2.3.2. Nguyên tắc thống nhất

Nguyên tắc này đòi hỏi sự thống nhất về số liệu QT NSNN từ ĐVSDNS đến

các cơ quan có thẩm quyền quản lý tài chính, NS. Tính thống nhất cũng thể hiện từ

khâu hạch toán, kế toán của ĐVSDNS, khâu tổng hợp, lập BCQT trình cơ quan có

thẩm quyền và thực hiện kiểm toán quyết toán NSNN theo quy định. Nguyên tắc

thống nhất trong quyết toán NSNN đòi hỏi các thông tin về NS phải thống nhất từ các

ĐVSDNS cho đến các cơ quan cấp trên quản lý, các cơ quan tài chính các cấp và

KBNN. Đồng thời, cần có sự thống nhất trong quy trình quyết toán NSNN, bắt đầu

từ khâu hạch toán, kế toán và lập BCQT NSNN của ĐVSDNS, đến các khâu thực

hiện xét duyệt quyết toán của các cơ quan quản lý cấp trên, khâu thẩm định quyết

toán của cơ quan tài chính các cấp, khâu kiểm toán quyết toán NSNN của Kiểm toán

Nhà nước, khâu thẩm tra quyết toán của cấp có thẩm quyền, khâu phê chuẩn quyết

14

toán đối với HĐND các cấp ở địa phương và phê chuẩn QT NSNN của QH. Sự thống

nhất trong hoạt động quyết toán NSNN cũng đòi hỏi sự thống nhất về hệ thống mẫu

biểu BCQT, nội dung của các chỉ tiêu quyết toán, nguyên tắc kế toán áp dụng trong

kỳ hạch toán, giúp các ĐVSDNS và CQTC các cấp tổng hợp, lập BCQT thuận lợi,

thống nhất.

Bên cạnh đó, để đảm bảo các nhà quản lý, các cấp có thẩm quyền có thể so sánh,

phân tích, đánh giá về công tác QT NSNN, cần có sự thống nhất về số liệu quyết toán

giữa các kỳ kế toán. Đồng thời, để đánh giá được tính tuân thủ của các ĐVSDNS, số

liệu QT phải đảm bảo so sánh được với dự toán các cấp có thẩm quyền đã giao, vì

vậy các chỉ tiêu quyết toán phải có sự thống nhất với các chỉ tiêu dự toán, làm căn cứ,

sở sở để phân tích, đánh giá, tìm nguyên nhân chênh lệch giữa dự toán được cấp có

thẩm quyền quyết định với kết quả thực hiện của ĐVSDNS.

1.2.3.3. Nguyên tắc cân đối

Cân đối NSNN hiểu theo cách thông thường, xét trong trạng thái tĩnh là việc

tính toán, so sánh giữa tổng thu và chi NSNN trong một khoảng thời gian nhất định,

thông thường là 1 năm. Nếu chi lớn hơn thu thì gọi là thâm hụt hay bội chi NS, nếu

thu lớn hơn chi gọi là bội thu hay thặng dư NSNN. Như vậy, việc xác định cân đối

NSNN trên cơ sở so sánh giữa nguồn thu và nhiệm vụ chi để xác định kết dư hay

thiếu hụt và cách xử lý. Tuy nhiên, vấn đề cần làm rõ là xem xét những khoản thu,

chi nào được tính vào cân đối, những khoản thu, chi nào không được tính vào cân

đối. Tùy thuộc vào trình độ phát triển KT-XH và điều kiện cụ thể của quốc gia, mà

các nhà hoạch định chính sách xác định NS thăng bằng, thặng dư hay là thâm hụt (ví

dụ: Thâm hụt có thể do mất cân đối NS về khả năng thu NS và nhu cầu chi NS, hoặc

là thực hiện NS thâm hụt có chủ ý). Một việc quan trọng trong cân đối NS là xem xét,

xử lý mức độ bội chi (thâm hụt) NS trong từng thời kỳ, bảo đảm phù hợp với cam kết

quốc tế và hoàn cảnh cụ thể của quốc gia.

Cân đối NSNN chính là nội dung quan trọng khi thực hiện QT NSNN nhằm so

sánh số thực thu, thực chi, đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu đã đặt ra của chính

sách NS và các chính sách KT-XH khác.

15

1.2.3.4. Nguyên tắc niên độ NS

Theo đó, các khoản thu, chi NS phải hạch toán và quyết toán đúng niên độ NS.

Niên độ NS nào quyết toán vào niên độ đó, không đưa các khoản thu chi của niên độ

NS này quyết toán vào niên độ NS khác. Quyết toán NSNN là báo cáo kết quả thực

hiện ngân sách trong một khoảng thời gian nhất định và được xác định bởi thời gian

thực hiện dự toán NS, thường là 1 năm (12 tháng). Kết thúc niên độ đòi hỏi CP phải

chỉ đạo cơ quan quản lý NS lập quyết toán, phục vụ cho việc kiểm toán, thẩm tra và

phê chuẩn quyết toán. Mỗi niên độ NS lập quyết toán riêng và không được lẫn lộn

giữa các niên độ. Cơ quan quản lý NS chịu trách nhiệm hướng dẫn lập quyết toán và

xử lý các vấn đề phát sinh khi kết thúc niên độ NS phục vụ cho việc lập quyết toán

NSNN.

Trường hợp những quốc gia thực hiện quản lý NS theo khuôn khổ chi tiêu trung

hạn hoặc thực hiện cam kết chi thì việc quyết toán cũng sẽ thực hiện theo niên độ NS.

Kết thúc niên độ, CP phải chỉ đạo việc lập quyết toán NSNN để đánh giá lại việc thực

hiện NS và chính sách NS đã thực hiện trong năm NS. Qua quyết toán NSNN sẽ là

điều kiện nhìn nhận lại các sự kiện NS đã qua kể cả các khoản chi cam kết và khuôn

khổ chi tiêu trung hạn.

1.2.3.5. Nguyên tắc công khai, minh bạch

Hoạt động thu, chi NSNN có ảnh hưởng lớn, tác động mạnh mẽ đến toàn bộ các

hoạt động KT-XH, các chính sách phúc lợi công cộng và các chính sách an sinh xã

hội do Nhà nước thực hiện. Công tác quyết toán NSNN đòi hỏi phải được công khai,

minh bạch với sự tham gia, kiểm tra, kiểm soát của các cấp có thẩm quyền về tình

hình quản lý, sử dụng NSNN. Để số liệu quyết toán NSNN của một đất nước đảm

bảo tính minh bạch, cần thỏa mãn một số điều kiện sau:

Thứ nhất, tính rõ ràng về vai trò và trách niệm của CP: Nghĩa là trách nhiệm

của CP cần được phân định rõ ràng và CP phải chịu trách nhiệm về các quyết định

của mình đối với các hoạt động NS đã diễn ra. Không có bất cứ lý do gì để CP chối

bỏ trách nhiệm của mình về các quyết định về thu, chi NS trái với quy định. Kể cả

trường hợp đã được kiểm toán, CP cũng không thể chối bỏ trách nhiệm của mình đối

16

với các hoạt động tài chính NS đã qua. Ngoài ra cũng cần có cơ chế rõ ràng đối với

các hoạt động NS và các hoạt động ngoài NS. Các quỹ ngoài NS cần được thực hiện

quản lý theo những cơ chế nhất định và phải được báo cáo kèm với hoạt động NS.

Thứ hai, thông tin phải được công bố rộng rãi: NS là tiền của dân, doanh nghiệp

đóng góp, vì vậy, phải công khai cho dân và xã hội biết. Công chúng phải được tiếp

cận với các thông tin NSNN không chỉ với năm NS quyết toán mà cả với các năm NS

đã qua và chính sách NS trong tương lai. Bên cạnh các thông tin về các hoạt động NS

của các cấp chính quyền, báo cáo NS hàng năm phải được công bố kèm theo các báo

cáo về các khoản có quan hệ mật thiết với NS như các khoản nợ, các khoản giảm, trừ,

miễn thuế.

Thứ ba, tính trung thực và toàn diện: Theo đó, các số liệu thu, chi NS bảo đảm

thực hiện theo đúng quy định về mức tiền thu hoặc đầu tư, đảm bảo có đủ căn cứ, chứng

từ kèm theo nhằm chứng minh cho các nghiệp vụ thu, chi ngân sách có phát sinh theo

thực tế, từ đó phản ánhthực trạng của tình hình KT-XH của quốc gia. Để bảo đảm tính

trung thực và toàn diện, cần xây dựng phương pháp tính toán, lập dự toán cũng như QT

NSNN các khoản thu, chi phải rõ ràng, rành mạch. Ngoài ra, để đảm bảo tính trung

thực và toàn diện của số liệu QT NSNN, cần thiết phải có một cơ quan độc lập với CP

thực hiện kiểm toán độc lập và báo cáo kịp thời cho cơ quan lập pháp và công chúng

về tính trung thực của các thông tin TC và các tài khoản của CP, nhằm xác nhận độ tin

cậy của thông tin, tính kinh tế, tính tuân thủ pháp luật và hiệu quả trong quản lý và sử

dụng NSNN.

1.2.3.6. Nguyên tắc lập quyết toán từ cơ sở

Số liệu QT thu, chi NSNN phải được tổng hợp, lập từ số liệu thực thu, thực chi

của cấp cơ sở, tức là từ các ĐVSDNS. Đây là nguyên tắc được đa số các nước áp

dụng trong QT NSNN.

Các ĐVSDNS có trách nhiệm tổng hợp, lập báo cáo thu, chi NSNN của đơn vị

mình để báo cáo cơ quan quản lý cấp trên. Cơ quan quản lý cấp trên xem xét tính

chính xác, mức độ đầy đủ của số liệu quyết toán của các đơn vị cơ sở, làm căn cứ để

cơ quan cấp trên tổng hợp, lập QT NS của cơ quan mình và gửi CQTC. CQTC thực

17

hiện thẩm định số liệu QT NS của các ĐVDT cấp I và thực hiện tổng hợp lập QT NS

trong phạm vi mình phụ trách.

Đối với NS địa phương, trình tự lập quyết toán cũng tương tự từ ĐVSDNS. Tuy

nhiên tùy từng quốc gia mà có quan niệm khác nhau về quyết toán NSĐP. Đối với

một số quốc gia, nhất là các quốc gia theo hình thức liên bang, thực hiện chế độ phân

cấp rộng rãi, NS của các cấp tách rời nhau. BTC chỉ lập quyết toán của nhà nước

trung ương trình Nghị viện. Quyết toán NSĐP (các Bang) do QH bang quyết định và

phê chuẩn độc lập với NS liên bang. Một số nước khác lại quy định giao cho cơ quan

KTNN hay cơ quan Tổng Kiểm toán và Kiểm soát (như Cộng hòa Áo, Cộng hòa Ấn

Độ...) chịu trách nhiệm việc lập QT NSNN trên cơ sở số liệu đã được kiểm toán. Với

những quốc gia tổ chức NN theo mô hình đơn nhất thì quyết toán NSĐP có thể là một

bộ phận của NSNN hoặc tách rời tuỳ quy định của từng quốc gia. Ở Việt Nam, quyết

toán NSĐP sẽ được tổng hợp từ NS cấp dưới và NS cấp mình và được chính quyền

địa phương trình HĐND cùng cấp phê chuẩn. BTC có trách nhiệm tổng hợp QT

NSTW và NSĐP để hình thành NSNN.

1.2.3.7. Nguyên tắc duy nhất

Theo nguyên tắc này, mỗi khoản thu, chi của NSNN chỉ tương ứng với một nội

dung kinh tế cụ thể và đều phải phản ánh đầy đủ, rõ ràng, không được phép vượt quá

dự toán NSNN được giao và không được phép bù trừ giữa các khoản thu, chi hay

dành riêng một khoản thu nào đó để trang trải cho một khoản chi nhất định. Các

ĐVDT không được tự động tạo ra nguồn thu cho mình, mọi khoản chi chỉ được thực

hiện trong khuôn khổ nguồn kinh phí đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định.

Nguyên tắc này có lý do chính trị đó là để bảo đảm quyền của cơ quan lập pháp

trong quyết định NS một cách toàn diện trên cơ sở đó phân bổ nguồn lực một cách

công bằng, hiệu quả. Ngoài ra việc tôn trọng nguyên tắc này cho phép biết được rõ

ràng tình trạng thâm hụt NS để có biện pháp phòng tránh phù hợp. Tuy nhiên cũng

cần nhận thấy rằng việc áp dụng nguyên tắc không bù trừ trong hoạt động NSNN

trong bối cảnh nền kinh tế thị trường có phần cứng nhắc, nếu không có những quy

định ngoại lệ có thể dẫn đến làm tăng thêm sự trì trệ của cơ quan NN và đáp ứng

18

không kịp thời nhu cầu phát triển KT-XH. Song cũng chính những trường hợp ngoại

lệ thường làm cho việc giám sát của cơ quan lập pháp đối với hoạt động NS trở nên

khó khăn hơn (như các quỹ ngoài NS hay nguồn thu phí được để lại cho các đơn vị

sự nghiệp bổ sung kinh phí hoạt động).

Thực hiện nguyên tắc này đảm bảo cho QT phản ánh số thực thu, thực chi của

nhà nước trong năm NS. Tránh tình trạng các khoản xuất quỹ NS nhưng chưa được

thực hiện tại các ĐVSDNS đã quyết toán với NSNN. Trong một số trường hợp tạo

nên các quỹ có nguồn gốc từ NSNN chưa sử dụng tại các cơ quan, đơn vị (một số

quốc gia còn gọi là quỹ NS tích luỹ) và điều này cũng phản ánh sai lệch tính tuân thủ

trong việc thực hiện NS đã được QH quyết định.

1.3. Quy trình quyết toán ngân sách nhà nước

1.3.1. Khái niệm, nội dung quy trình quyết toán ngân sách nhà nước

Mặc dù các quốc gia có quan niệm khác nhau về phạm vi NS, cách thức tiến

hành lập quyết toán, kiểm toán, phê chuẩn quyết toán. Song về cơ bản, quy trình quyết

toán NSNN được triển khai thực hiện theo những trình tự nhất định. Quy trình quyết

toán là việc xác định từng bước công việc với các nội dung cụ thể cần thực hiện khi

triển khai công tác quyết toán NSNN.

Có thể khái quát các bước của quy trình QT NSNN như sau:

(1) Lập BCQT NSNN

Kết thúc năm NS, phải thực hiện khoásổ kế toán và xử lý NS cuối năm để lập

quyết toán NSNN, tức là lập BCQT NSNN (gồm: các biểu số liệu quyết toán được

trình bày theo các nội dung chỉ tiêu dự toán đã được các cơ quan có thẩm quyền quyết

định và báo cáo thuyết minh, giải trình). Việc lập quyết toán NSNN cũng tuân theo

quy trình, chuẩn mực, hệ thống bảng biểu riêng và được cơ quan NN có thẩm quyền

quy định để đảm bảo tính thống nhất.

Theo quy định, CQTC các cấp được giao nhiệm vụ tổng hợp, lập BCQT NSNN.

Theo trình tự, các ĐVSDNS lập quyết toán các khoản kinh phí đã trực tiếp sử dụng

và báo cáo cơ quan quản lý cấp trên. Cơ quan cấp trên xét duyệt, tổng hợp, lập BCQT

19

các khoản kinh phí trong phạm vi được cơ quan có thẩm quyền giao quản lý và gửi

CQTC cùng cấp. Sau khi thẩm định, CQTC tổng hợp, lập BCQT NSNN của cấp mình

quản lý trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn theo trình tự: Ở địa phương,

CQTC địa phương báo cáo UBND để trình HĐND xem xét, phê chuẩn; ở cấp toàn

quốc, BTC sẽ lập BCQT NSNN trình CP, để trình Quốc hội xem xét và phê chuẩn.

(2) Kiểm toán BCQT NSNN

BCQT NSNN không chỉ là tài liệu quan trọng chứa đựng các yếu tố chính trị

quốc gia mà còn là tài liệu mang tính chuyên môn cao. Do vậy, cần thiết phải có một

cơ quan chuyên môn thực hiện thẩm tra quyết toán, giúp cấp có thẩm quyền phê chuẩn

quyết toán NSNN theo quy định, tránh tình trạng việc phê chuẩn quyết toán chỉ mang

ý nghĩa hợp thức hóa cho phù hợp với dự toán đã quyết định trước đó. Để quyết toán

NSNN trước khi trình QH, HĐND các cấp ở địa phương phê chuẩn có độ tin cậy cao,

đòi hỏi phải được cơ quan chuyên môn độc lập kiểm toán, nhằm xác nhận tính hợp

lý, trung thực, chính xác của số liệu QT, cũng như tính tuân thủ pháp luật về tài chính,

NS, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động thu, chi NSNN. Cơ quan này hoạt

động trên nguyên tắc độc lập và tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Các tài liệu,

số liệu mà cơ quan KTNN đưa ra đảm bảo độ tin cậy cao do tính độc lập của nó và

đây là nguồn thông tin quan trọng cung cấp cho QH xem xét, phê chuẩn BCQT

NSNN.

Hoạt động của KTNN được tiến hành bởi các kiểm toán viên có trình độ chuyên

môn cao, tuân thủ theo các chuẩn mực nghề nghiệp khắt khe, có tính độc lập và tuân

thủ theo các quy định của pháp luật, do đó thông tin do KTNN cung cấp có khả năng

mang lại tin cậy cao đáp ứng yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền và công chúng

về bức tranh toàn cảnh của NSNN. Hoạt động của KTNN cũng giúp nâng cao hiệu

lực pháp luật về quản lý kinh tế TC nói chung và quản lý NSNN nói riêng. Công tác

kiểm toán quyết toán NSNN sẽ “phơi bày” tình trạng yếu kém trong quản lý, sử dụng

nguồn lực NSNN trước cơ quan lập pháp và trước công chúng do đó có tác dụng ngăn

ngừa các tái phạm tương tự diễn ra. Theo Tuyên bố Lima của Tổ chức quốc tế các Cơ

quan kiểm toán tối cao (The International organization of Supereme Audit Institutions

- INTOSAI) thì, “trong bối cảnh việc sử dụng thống nhất và hiệu quả các khoản thu,

20

chi NSNN trở thành một trong những đòi hỏi cần thiết đầu tiên cho việc quản lý, sử

dụng các nguồn TC công phù hợp và hiệu năng các quyết định của các cơ quan có

thẩm quyền; … Để đạt được mục tiêu này, không thể phủ nhận được rằng, mỗi quốc

gia cần có một Cơ quan Kiểm toán Tối cao được pháp luật bảo đảm tính độc lập;

trong bối cảnh các Cơ quan Kiểm toán Tối cao đang ngày càng trở nên cần thiết hơn

khi nhà nước đã và đang mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực KT-XH và vì

vậy, phải hoạt động tuân theo những quy định của khuôn khổ TC vốn có”. Điều này

khẳng định, việc kiểm toán BCQT NSNN hàng năm là đòi hỏi nhất thiết đối với mỗi

quốc gia, đồng thời cũng là chức năng, nhiệm vụ quan trọng của KTNN. Cơ quan

KTNN là cơ quan chuyên môn độc lập với các cơ quan quản lý và điều hành NS.

(3) Thẩm tra quyết toán NSNN

Đây là nhiệm vụ thuộc chức năng của các cơ quan giúp việc cho QH và HĐND

các cấp. Việc thẩm tra dựa vào các BCQT NSNN của CP, UBND dựa vào các thông

tin do KTNN báo cáo, kết quả hoạt động kiểm tra, giám sát của các Uỷ ban và các

đại biểu QH, HĐND. Việc thẩm tra có thể qua nhiều bước và kết thúc sẽ có báo cáo

thẩm tra trình QH, HĐND. Do QH, HĐND đại diện cho cử tri, mỗi đại biểu hoặc

nhóm đại biểu sẽ đại diện cho một nhóm hoặc một bộ phận cử tri nhất định nên kiến

thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đại biểu QH, HĐND sẽ khác nhau ở những

lĩnh vực khác nhau. Mỗi đại biểu thường am hiểu một hoặc một vài lĩnh vực nhất

định. Bởi vậy, báo cáo thẩm tra của cơ quan tham mưu của QH, HĐND sẽ rất quan

trọng góp phần quyết định việc có xem xét, phê chuẩn QT hay không. Hoạt động

thẩm tra QT là một trong những nội dung quan trọng trong quy trình quyết toán

NSNN.

(4) Phê chuẩn quyết toán NSNN

Đây là nhiệm vụ của cơ quan dân cử đại diện cho nhân dân (QH, HĐND các

cấp). Dựa trên các báo cáo (báo cáo về thực hiện NS do CP, UBND trình; báo cáo

của cơ quan KTNN; và báo cáo thẩm tra của các ủy ban chức năng của QH, HĐND),

QH, HĐND sẽ thảo luận, xem xét, phê chuẩn QT NSNN. Việc phê chuẩn được thực

21

hiện thông qua hình thức nghị quyết về phê chuẩn quyết toán. Căn cứ ý kiến tán thành

của đa số Đại biểu QH, QH sẽ phê chuẩn quyết toán NSNN.

Việc quản lý NS các cấp chính quyền ở Việt Nam hiện nay là quản lý NS lồng

ghép, điều đó được thể hiện ở quy trình tổng hợp, xem xét, phê chuẩn quyết toán

NSNN như sau: NSNN được tổng hợp từ NSTW và NSĐP, trong đó HĐND cấp tỉnh

đã phê chuẩn quyết toán NSĐP. NSĐP được tổng hợp từ NS cấp tỉnh và NS huyện.

NS huyện được tổng hợp từ NS cấp huyện và NS cấp xã (NS cấp xã (gồm có xã,

phường, thị trấn) đã được HĐND cấp xã phê chuẩn).

(5) Công khai quyết toán NSNN

Là bước cuối cùng của quy trình QT NSNN. Sau khi quyết toán NSNN được

QH, HĐND phê chuẩn quyết toán; CP, UBND có nghĩa vụ công khai quyết toán

NSNN để xã hội và công chúng có thể tiếp cận với số liệu, tài liệu quyết toán NS.

Việc công bố công khai quyết toán NSNN phải kèm theo báo cáo kết quả kiểm toán

quyết toán NSNN.

Công chúng - những người nộp thuế - có quyền được biết đối với việc quản lý,

sử dụng tiền thuế mà CP đã thu, cũng như các nguồn lực tài chính khác được sử dụng

như thế nào. Việc công khai quyết toán NS sẽ kết thúc quá trình quyết toán NSNN,

kết thúc một chu trình NS. Trách nhiệm của CP trong việc điều hành NS của một năm

cũng sẽ được hoàn tất khi quyết toán NS năm đó được cơ quan có thẩm quyền phê

chuẩn và công bố công khai.

1.3.2.Các thành phần tham gia vào quy trình quyết toán NSNN

Quyết toán NSNN được thực hiện theo quy trình có sự tham gia của rất nhiều

các cơ quan, đơn vị tham gia. Mỗi cơ quan, đơn vị đều có vai trò, trách nhiệm riêng,

thực hiện chức năng riêng trong mối liên hệ chung là thực hiện quyết toán NSNN, vì

vậy mỗi cơ quan, đơn vị đều có trách nhiệm pháp lý riêng biệt..

1.3.2.1. ĐVSDNS và cơ quan cấp trên của ĐVSDNS

- ĐVSDNS được ĐVDT cấp trên giao dự toán nhằm thực hiện các nhiệm vụ chi

theo chức năng được giao. Khi hết năm NS, các ĐVSDNS chịu trách nhiệm lập

22

BCQT kinh phí sử dụng để trình ĐVDT cấp trên. Việc kế toán, QT các khoản kinh

phí phải đảm bảo đúng các chính sách, chế độ theo quy định, thông tin số liệu QT

đảm bảo tính trung thực, hợp pháp, làm cơ sở cho việc lập BCQT NSNN được đầy

đủ, chính xác. ĐVSDNS luôn phải chịu sự giám sát, kiểm tra, kiểm toán của các cơ

quan có thẩm quyền để đảm bảo mọi khoản chi NS đều thực hiện được mục đích nhất

định đã đề ra.

- Cơ quan cấp trên của ĐVSDNS là các cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực

trực thuộc một cấp chính quyền (như các Bộ đối với NSTW, các Sở đối với NS cấp

tỉnh...) và các ĐVDT cấp II, hàng năm được phân bổ một lượng kinh phí nhất định

để thực hiện nhiệm vụ được giao. Các cơ quan này tổ chức các ĐVDT trực thuộc để

thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ theo quy định. Để có nguồn lực thực hiện các

nhiệm vụ, cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực giao và phân bổ kinh phí NS cho các

ĐVSDNS trực thuộc.

Các cơ quan cấp trên phải có trách nhiệm kiểm tra, xét duyệt quyết toán của các

đơn vị trực thuộc và phải chịu trách nhiệm pháp lý về việc quản lý, sử dụng NS của

các ĐVSDNS trực thuộc, giải trình với cấp có thẩm quyền theo quy định. Kết thúc

năm NS, cơ quan quản lý cấp trên có trách nhiệm xét duyệt số liệu quyết toán của các

đơn vị cấp dưới trực thuộc, tổng hợp và lập BCQT kinh phí NS trong phạm vi mình

quản lý để báo cáo CQTC đồng cấp.

1.3.2.2. CQTC các cấp

CQTC các cấp là cơ quan trực thuộc một cấp chính quyền, được giao tham mưu

quản lý về tài chính - NSNN, gồm:

- BTC có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn đối với công tác kế toán và

công tác quyết toán NSNN, lập BCQT NSTW và tổng hợp, lập BCQT thu, chi NSNN.

BTC là cơ quan giúp CP quản lý và điều hành NSNN đảm bảo đúng quy định. Quyết

toán NSNN được BTC báo cáo tương đối đầy đủ và toàn diện về các mặt hoạt động

của tài chính nhà nước. Các khoản vay nợ, các quỹ ngoài NS cũng được theo dõi đầy

đủ nên việc lập BCQT được giao cho BTC là hợp lý. Trách nhiệm giải trình quyết

toán do BTC đảm nhận, mọi diễn biến của NS trong năm đều phải được BTC báo

23

cáo, giải trình. Cùng với việc BCQT và giải trình số liệu NS, BTC còn phải có trách

nhiệm giải trình việc quản lý và sử dụng tài sản được hình thành từ NSNN và các quỹ

công của NN theo quy định.

- CQTC các cấp ở địa phương có trách nhiệm chỉ đạo công tác kế toán, quyết

toán NSNN thuộc phạm vi quản lý; lập quyết toán thu, chi NS cấp mình; tổng hợp

BCQT thu NSNN trên địa bàn, chi NSĐP.

1.3.2.3. Cơ quan có nhiệm vụ thu NS nhà nước

Đây là các cơ quan có nhiệm vụ tổ chức thu NS, chẳng hạn như cơ quan Thuế,

cơ quan Hải quan. Trên cơ sở nhiệm vụ thu, cơ quan có nhiệm vụ thu tổ chức thực

hiện các khoản thu NS và hạch toán các khoản thu một cách đầy đủ. Số liệu do các

cơ quan này cung cấp sẽ được sử dụng trong quan hệ đối chiếu giữa các cấp NS cũng

như tổng số thu NSNN. Tuy nhiên, ở một số quốc gia, cơ quan có nhiệm vụ thu không

tham gia vào quy trình quyết toán. Mọi khoản thu NS sẽ được tổ chức hạch toán và

đây là cơ sở để lập quyết toán cũng như là căn cứ để kiểm toán quyết toán NSNN.

1.3.2.4. Cơ quan quản lý quỹ ngân sách nhà nước

Trách nhiệm hạch toán việc thu, chi quỹ NSNN thuộc về cơ quan quản lý quỹ

NS. Mọi khoản thu, chi quỹ NSNN phải được tổ chức hạch toán đầy đủ. Kết thúc

năm NS, cơ quan quản lý quỹ NS có trách nhiệm lập báo cáo các khoản thu, chi

NSNN. Một số quốc gia còn quy định cơ quan quản lý quỹ NS có nhiệm vụ tổ chức

hạch toán kế toán NSNN. Số liệu thu vào quỹ NS sẽ là số thực thu NS. Số chi ra khỏi

quỹ NS là số xuất quỹ NS. Trong một số trường hợp số xuất quỹ NS phù hợp với số

thực sử dụng, trong trường hợp khác, số xuất quỹ NS khác xa với số sử dụng do

ĐVSDNS chưa sử dụng nhưng đã rút khỏi quỹ NS. Số liệu của cơ quan quản lý quỹ

NSlà căn cứ quan trọng trong việc tổng hợp, lập BCQT NSNN. Số liệu quyết toán

ngân sách phản ánh được số thực thu vào NS và số thực chi xuất khỏi quỹ NS. Một

vài quốc gia quy định cơ quan quản lý quỹ NS chịu trách nhiệm lập quyết toán NSNN.

Tuy nhiên, việc việc này sẽ bị hạn chế do còn nhiều khoản phản ánh trong quyết toán

hoặc báo cáo kèm sẽ không thể hiện trên sổ kế toán của cơ quan quản lý quỹ NSNN.

24

1.3.2.5. Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ

Với tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm báo cáo, giải trình trước QH, trước

nhân dân về toàn bộ hoạt động thu, chi NSNN trong năm, do vậy CP phải xem xét

đầy đủ, toàn diện các khía cạnh của số liệu QT, đảm bảo trình QH đúng quy định.

Quyết toán phải được thảo luận rộng rãi trong nội các, đặc biệt là NS của từng ngành,

tiểu ngành cũng như các khía cạnh về tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực trong quản lý,

sử dụng NSNN. CP có trách nhiệm báo cáo, giải trình tất cả các vấn đề liên quan đến

quyết toán NSNN.

BTC là cơ quan giúp CP quản lý và điều hành NS theo quy định. Đa số các quốc

gia đều quy định BTC chịu trách nhiệm lập quyết toán NSNN. Số liệu của BTC quản

lý tương đối đầy đủ và toàn diện về các mặt hoạt động của tài chính NN. Các khoản

vay nợ, các quỹ ngoài NS cũng được theo dõi đầy đủ nên việc lập BCQT được giao

cho BTC là hợp lý.

1.3.2.6. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước

Theo quy định, BCQT NSNN trước khi trình QH sẽ được kiểm toán bởi KTNN.

Ngoài việc kiểm toán, xác nhận độ chính xác, tin cậy về số liệu và thông tin trên

BCQTNS. Cơ quan KTNN chịu trách nhiệm đánh giá tính hiệu quả, kinh tế và hiệu

lực trong quản lý, sử dụng NSNN cũng như tính tuân thủ pháp luật về các chính sách

TC, NS và kết quả thực hiện NS. Một vài quốc gia khác còn quy định KTNN sẽ lập

quyết toán NSNN do số liệu của KTNN sau khi được kiểm toán sẽ đảm bảo độ tin

cậy cao như trường hợp của Ấn Độ, Cộng hòa Áo... Việc kiểm toán QT NSNN về

nguyên tắc phải thực hiện trên cả ba phương diện: Kiểm toán tính trung thực, chính

xác của số liệu; kiểm toán đánh giá việc thực hiện NS đảm bảo tính tuân thủ pháp

luật; kiểm toán tính hiệu quả, kinh tế, hiệu lực trong quản lý, sử dụng NSNN. Sự tham

gia của KTNN với vai trò là cơ quan kiểm tra độc lập để đánh giá các khía cạnh của

vấn đề quyết toán NSNN. Hoạt động của KTNN phải luôn duy trì sự độc lập cần thiết,

tránh mọi sự can thiệp của các quyền năng từ bên ngoài đến hoạt động kiểm toán.

25

1.3.2.7. Quốc hội và các cơ quan tham mưu của Quốc hội

Các cơ quan của QH làm nhiệm vụ tham mưu cho QH trong việc xem xét phê

chuẩn QT NSNN. Đảm nhận chính trong việc thẩm tra QT trước khi trình QH là Uỷ

ban về các vấn đề kinh tế, NS. Uỷ ban này sẽ chủ trì cùng với các Uỷ ban khác của

QH xem xét quyết toán NS. Đồng thời, Uỷ ban này cũng là cơ quan tiếp nhận và sử

dụng báo cáo kiểm toán của cơ quan Kiểm toán đối với quyết toán NS nhà nước. Uỷ

ban sẽ có báo cáo thẩm tra để đưa ý kiến của Cơ quan mình về quyết toán NSNN

trình ra QH cùng với báo cáo kiểm toán của KTNN và BCQT NSNN. Những ý kiến

đánh giá của Uỷ ban sẽ giữ vị trí quan trọng về các khía cạnh của quyết toán NSNN.

Do vậy thông thường, các cơ quan của CP sẽ phải làm việc nhiều phiên với Uỷ ban

trước khi trình quyết toán ra QH. Sự đồng thuận của Uỷ ban là rất quan trọng đối với

việc phê chuẩn quyết toán NSNN.

Trên cơ sở báo cáo của KTNN và báo cáo của CP về quyết toán NSNN; báo cáo

của Ủy ban Tài chính, ngân sách về thẩm tra quyết toán NSNN, QH sẽ thảo luận, có

ý kiến về báo cáo quyết toán NSNN, đồng thời đặt ra các ý kiến chất vấn. Các cơ

quan của CP chuẩn bị các nội dung giải trình những vấn đề đặt ra và trong một số

trường hợp có thể sẽ tiếp thu ý kiến. Sau khi giải trình, tiếp thu quyết toán NSNN sẽ

trình QH để xem xét phê chuẩn. Việc phê chuẩn được tiến hành theo nguyên tắc bỏ

phiếu và ý kiến đa số (trên 50%) sẽ quyết định. Trường hợp quyết toán NSNN được

phê chuẩn, có nghĩa là trách nhiệm của CP được giải toả. Quyết toán NSNN sẽ được

công bố công khai. Trường hợp quyết toán NSNN chưa được phê chuẩn thì cơ quan

của CP cũng như cơ quan KTNN trong phạm vi trách nhiệm của mình phải làm rõ

những vấn đề QH đặt ra và trình QH vào thời gian quy định.

Hình thức văn bản pháp lý để QH phê chuẩn quyết toán ở mỗi nước cũng rất

khác nhau. Đa số các nước và có thể coi đây là thông lệ quốc tế là QH ban hành luật

phê chuẩn quyết toán NS thường niên tương tự như luật NS thường niên về dự toán

NSNN. Nội dung của luật quy định những nội dung phê chuẩn đồng thời là một văn

bản giải toả trách nhiệm cho CP về năm NS đã qua.

26

1.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy trình quyết toán ngân sách nhà nước

1.3.3.1. Đặc điểm chính trị, KT-XH

Đặc điểm chính trị, KT-XH của mỗi đất nước trước hết tác động đến việc điều

hành của NS quốc gia, đến phạm vi, tính minh bạch của các thông tin NS và từ đó tác

động đến quyết toán NS. Nếu một đất nước có nền kinh tế phát triển, cùng với trình

độ quản lý và trình độ ở mức phát triển thì có sự công khai, minh bạch ở mức cao về

số liệu quyết toán NSNN.

1.3.3.2. Sự phát triển của công nghệ thông tin và tổ chức hệ thống thông tin tài chính

Hệ thống thông tin tài chính là toàn bộ tổng thể các thông tin TC quốc gia, được

tập hợp để cung cấp cho các cơ quan quản lý NN trong việc quản lý TC, NS quốc gia.

Việc tổng hợp quyết toán NSNN sẽ nhanh chóng và thuận tiện khi có sự thống nhất

giữa các cơ quan quản lý NS, giữa các cấp NS, các ĐVSDNS về hệ thống thông tin

TC. Cùng với đó, hệ thống thông tin về tài chính, NS còn được xem xét về mức độ

phù hợp của hệ thống kế toán quốc gia. Các chỉ tiêu hạch toán kế toán của các cấp

NS phải phù hợp giữa hệ thống KBNN, cơ quan Thuế, Hải quan,tạo điều kiện thuận

lợi để tổng hợp, lập QT NSNN. Công tác QT NSNN sẽ phức tạp và khó khăn khi hệ

thống thông tin không phù hợp.

Một nhân tố khác tác động đến quyết toán NSNN là sự phát triển của công nghệ

thông tin, nhất là trong điều kiện sự bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay. Sự

phát triển của công nghệ thông tin giúp cung cấp một cách nhanh chóng, kịp thời, đầy

đủ cho hệ thống thông tin TC-NS. Cùng với sự phát triển về công nghệ thông tin, hệ

thống thông tin được kết nối thông qua các mạng thông tin sẽ cho phép cập nhật nhanh

chóng, tạo quan hệ đối chiếu giữa các cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng và cơ quan kiểm

tra, kiểm soát từ đó thuận lợi cho việc quyết toán NS, số liệu QT nhanh chóng, kịp thời

hơn. Sự trợ giúp của máy tính còn đảm bảo cho việc phân tích, tổng hợp thuận lợi,

giảm thời gian, nâng cao hiệu quả, chất lượng quyết toán NSNN.

1.3.3.3. Mức độ phân cấp quản lý ngân sách

Phân cấp quản lý NSNN là việc phân định phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của

các cấp chính quyền Nhà nước từ trung ương tới cơ sở trong quá trình xây dựng dự

27

toán, quản lý, điều hành và sử dụng NSNN, giúp đáp ứng các chức năng, nhiệm vụ

của nhà nước. Phân cấp quản lý NSNN là việc xác định có bao nhiêu cấp NS và mối

quan hệ giữa các cấp NS. Những khoản thu được phân cấp cho các cấp chính quyền

được sử dụng để đáp ứng những nhiệm vụ chi mà cấp đó phải đảm nhiệm. Cơ quan

nào có quyền quyết định đối với một cấp NS. Vì vậy về bản chất, phân cấp quản lý

NSNN là việc xử lý các mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến

các địa phương trong quản lý NSNN, từ đó hình thành cơ chế phân chia quyền lực,

trách nhiệm trong việc tạo lập, quản lý,sử dụng NSNN giữa các cấp chính quyền.

Hệ thống NS là hệ quả tất yếu của phân cấp NS. Hệ thống đó được tổ chức như

thế nào, có bao nhiêu cấp NS, trong mỗi cấp NS có quan hệ với nhau như thế nào.

Các nguồn lực, nhiệm vụ chi tiêu được phân giao như thế nào giữa các cấp NS.

Tuỳ theo tổ chức bộ máy NN khác nhau mà tổ chức hệ thống NS cũng khác

nhau. Yếu tố có tác động trực tiếp đến hệ thống NS là hình thức cấu trúc nhà nước,

tức là sự tổ chức bộ máy nhà nước theo các đơn vị hành chính lãnh thổ và tính chất

quan hệ giữa các bộ phận cấu thành NN, giữa các cơ quan trung ương với các cơ quan

ở địa phương. Hình thức cấu trúc nhà nước quyết định việc tổ chức bộ máy nhà nước

ở các cấp độ khác nhau, mỗi cấp độ gắn kết với một địa bàn lãnh thổ và phạm vi quản

lý nhất định và có phương tiện tài chính để thực thi các chức năng, nhiệm vụ của cấp

mình. Và đây là cơ sở để hình thành hệ thống NSNN.

Tóm lại, cấu trúc bộ máy nhà nước chi phối mạnh đến việc phân cấp quản lý

NS và đến lượt nó, phân cấp quản lý NS lại chi phối đến quyết toán NSNN. Với mỗi

hệ thống phân cấp quản lý NS sẽ có cách thức quyết toán NS riêng tương ứng.

1.3.3.4. Sự phát triển của hệ thống kế toán

Kế toán là công cụ quan trọng phục vụ cho công tác quản lý TC-NS nói chung

và NS nhà nước nói riêng. Sự phát triển của hệ thống kế toán có vai trò tiên quyết đối

với công tác quyết toán NSNN. Tính chính xác, trung thực của số liệu QT, sự thống

nhất trong công tác QT NSNN được đảm bảo khi hạch toán, kế toán thu, chi NSNN

được thực hiện tốt và được triển khai thống nhất trong các ĐVSDNS, các cơ quan có

nhiệm vụ thu, chi NSNN.

28

Việc kế toán không kịp thời, đầy đủ thì ảnh hưởng đến thời gian lập quyết toán

cũng như tính chính xác của quyết toán NSNN và ảnh hưởng đến các khâu khác trong

quy trình quyết toán NSNN như kiểm tra, kiểm toán, thẩm tra, phê chuẩn QT

NSNN… Do đó, sự phát triển của hệ thống kế toán quốc gia là điều kiện để cung cấp

đầy đủ, chính xác nhất các thông tin về ngân sách.

1.3.3.5. Mức độ phát triển của hệ thống kiểm toán quốc gia

Khi hệ thống kiểm toán của quốc gia phát triển thì mức độ tin cậy, chính xác,

trung thực của thông tin TC sẽ cao hơn, quyết toán NSNN sẽ bảo đảm chất lượng

hơn. Ngược lại ở các nước hệ thống kiểm toán phát triển kém, hệ thống thông tin TC-

NS sẽ không đảm bảo độ tin cậy và tính minh bạch và từ đó ảnh hưởng đến quyết

toán NS.

Mức độ phát triển của hệ thống kiểm toán mỗi quốc gia sẽ tác động đến mức độ

chính xác, tin cậy của số liệu QT NS, đánh giá được tính hiệu quả, kinh tế và hiệu lực

trong quản lý, sử dụng NS là cơ sở để cơ quan NN có thẩm quyền phê chuẩn quyết

toán NS. Việc kiểm toán công tác quyết toán NSNN là một nội dung trong quy trình

quyết toán NSNN, do đó sự phát triển hoạt động kiểm toán tác động trực tiếp đến độ

chính xác, tin cậy của thông tin quyết toán NSNN.

1.3.3.6. Năng lực và trình độ của cán bộ và đội ngũ quản lý

Yếu tố con người trong mọi hoạt động đều trở thành nhân tố có tính chất quyết

định. Quyết toán NSNN là một lĩnh vực khá rộng, liên quan đến nhiều đối tượng quản

lý, lĩnh vực, vì vậy, công việc này đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ chuyên sâu, am hiểu

Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn Luật. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ triển khai

thực hiện hoạt động QT NSNN có trách nhiệm, kinh nghiệm, trình độ có ý nghĩa quan

trọng trong việc thực hiện quy trình quyết toán NSNN, từ đó nâng cao chất lượng của

QT NSNN.

1.4. Kinh nghiệm quốc tế về quyết toán NSNN và bài học cho Việt Nam

1.4.1 Kinh nghiệm quốc tế

Hầu hết các nước trên thế giới (Đức, Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Hungary,

Malayxia, Trung Quốc, Thái Lan, Pháp, Hà Lan,…) có hệ thống NS độc lập; NS các

29

cấp chính quyền độc lập, ngân sách các cấp không lồng ghép với nhau. QH chỉ quyết

định NSTW, không quyết định NSNN. NS cấp nào do HĐND cấp đó quyết định và

giao cho UBND cùng cấp thực hiện. NSTW do QH quyết định và CP thực hiện. Bên

cạnh đó, quy trình lập quyết toán của đa số các nước đều được lập từ cơ sở, BTC là

cơ quan tổng hợp, lập báo cáo quyết toán NSTW trình QH (hoặc Hạ viện) kèm theo

các báo cáo giải trình, thuyết minh về việc thực hiện NSNN trong năm, tình hình chấp

hành dự toán và các chỉtiêu KT-XH đã đạt được so với mục tiêu ban đầu đề ra, tình

hình thu thuế, hoàn thuế, tình hình chi NS... Cơ quan dân bầu (QH, Hạ viện) là cơ

quan phê chuẩn quyết toán NSNN.

Hà Lan và Trung Quốc là 2 quốc gia điển hình mà Việt Nam có thể nghiên cứu,

học tập. Hà Lan là quốc gia có hệ thống NS độc lập, là nước quản lý tốt về NS, thời

gian phê chuẩn quyết toán rất ngắn (6 tháng). Vì vậy sẽ có những kinh nghiệm tốt

cho công tác quyết toán của Việt Nam. Trung Quốc là đất nước có nhiều điểm tương

đồng với Việt Nam, thời gian phê chuẩn quyết toán là 10 tháng, điều này gần với mục

tiêu hướng tới của Việt Nam (rút ngắn 6 tháng).

1.4.1.1 Kinh nghiệm của Hà Lan

Hà Lan được mệnh danh là “đất nước nhỏ với nhiều thành tựu lớn”. Nền kinh

tế Hà Lan có trình độ phát triển cao và độ mở lớn, trong đó ngoại thương đóng góp

tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế. Hà Lan nằm trong số 10 nước xuất khẩu lớn nhất

thế giới. Nền kinh tế của Hà Lan phát triển với nguồn lực NS dồi dào, Hà Lan thực

hiện phương thức quản lý NSNN theo kết quả “đầu ra”, ngân sách được quản lý theo

kế hoạch chi tiêu trung hạn. Đây là những phương thức quản lý NS tiên tiến, đòi hỏi

NS phải được sử dụng hiệu quả và minh bạch, công khai.

Hà Lan áp dụng chế độ kế toán NS theo nguyên tắc thực thu, thực chi. Để thực

hiện việc báo cáo QH quyết toán NSNN hàng năm, cần phải thực hiện theo quy trình

gồm nhiều bước đã được quy định cụ thể tại LuậtNSNN. Tại Hà Lan, thời gian QH

phê chuẩn QT NS là không quá 7 tháng sau khi kết thúc năm NS. QH xem xét, phê

chuẩn QT năm N-1, sau đó mới xem xét quyết định dự toán NS năm N+1.

Ví dụ: Quy trình, lịch biểu báo cáo đánh giá thực hiện và quyết toán NSNN năm

2017 như sau:

30

- Tháng 5/2017: Trình QH Báo cáo đánh giá, điều chỉnh bổ sung giữa năm NS;

- Tháng 11/2017: Trình QH báo cáo đánh giá cuối năm NS;

- Tháng 01/2018: Đối chiếu sổ sách;

- Tháng 02/2018: Các bộ thực hiện kiểm toán nội bộ;

- Tháng 3/2018: Các bộ nộp BCQT NSNN năm 2017 cho BTC để thẩm định;

- Tháng 4/2018: BTC tổng hợp trình CP.

- Trước ngày thứ 4, tuần thứ 3 của tháng 5/2018: CP trình QH quyết toán NSNN

năm 2017.

Về kiểm toán chi NS: Đối với Hà Lan, NS được phân cấp mạnh, giao nhiều

quyền tự chủ cho các bộ, ngành, địa phương, cũng như các ĐVSDNS. BTC không có

sự kiểm soát trước và sau đối với các khoản chi của các ĐVSDNS, mà các bộ, ngành,

địaphương và các ĐVSDNS tự chịu trách nhiệm về các khoản chi của mình, trực tiếp

giải trình trước các cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp CQTC phát hiện các bộ,

ngành, địa phương và các ĐVSDNS báo cáo không chính xác về việc sử dụng NS,

thì các bộ, ngành, địa phương và các ĐVSDNS sẽ mất đi quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm về sử dụng NS mà sẽ phải chịu sự chỉ đạo, can thiệt, giám sát trực tiếp của

CQTC.

Vụ Kiểm toán nội bộ của các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện kiểm tra các khoản

chi NS và chỉ kiểm tra ngẫu nhiên một số khoản chi đã thực hiện, không thực hiện

kiểm tra trước. Sau đó cơ quan kiểm toán độc lập (INC) thực hiện kiểm toán Báo cáo

kiểm toán của Vụ Kiểm toán nội bộ và cũng chỉ kiểm tra ngẫu nhiên một số khoản

chi trong số các khoản chi mà Vụ Kiểm toán nội bộ đã thực hiện kiểm toán.

Trong quá trình thực hiện chi NS, trường hợp có khoản chi vượt dự toán thì báo

cáo Vụ Tài chính của các bộ. Nếu khoản chi vượt dự toán ít thì đơn vị chỉ điều chỉnh

trong nội bộ, nếu khoản chi vượt dự toán lớn thì phải báo cáo BTC để xử lý. NS Hà

Lan không có khoản dự phòng, trường hợp NS năm N chi vượt dự toán thì sẽ bị kiểm

soát không được chi vượt dự toán vào năm N+1; trường hợp có phát sinh nhiệm vụ

chi đột xuất như thiên tai dẫn đến thu không bù đủ chi thì phải đi vay để bù đắp chi.

Việc phân quyền mạnh cho các bộ, ngành, địa phương, ĐVSDNS tự chịu trách

nhiệm về các khoản chi của mình như trên đòi hỏi phải có sự tăng cường trách nhiệm

31

quản lý NS tại các bộ, ngành, địa phương và các ĐVSDNS. Đây là một đặc điểm nổi

bật của Hà Lan trên cơ sở luật pháp quy định cụ thể, đồng bộ và sự tôn trọng, chấp

hành, tuân thủ pháp luật của các tổ chức,cá nhân.

1.4.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Theo sổ tay thẩm tra và giám sát dự toán do Uỷ ban công tác dự toán của Uỷ

ban Thường vụ QH Trung Quốc biên soạn thì “quyết toán NSNN là phản ánh cuối

cùng về tình hình thực hiện thu, chi theo dự toán hàng năm, cũng là sự phản ánh tập

trung về tài chính kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân và xã hội”.

Trung Quốc quan niệm rằng, quyết toán NSNN không chỉ phản ánh cuối cùng về kết

quả thực hiện thu, chi NSNN theo dự toán, mà còn là sự thể hiện về mặt tài chính đối

với kếtquả thực hiện của mỗi quốc gia về kế hoạch KT-XH.

Quy trình quyết toán của Trung Quốc như sau:

- Cuối năm NS, chính quyền các cấp, các cơ quan và đơn vị trong cơ quan CP

phải lập dự thảo quyết toán theo kế hoạch do Hội đồng nhà nước quy định.

- Mỗi cơ quan phải xác minh và tổng hợp dự thảo quyết toán của tất cả các đơn

vị trực thuộc cơ quan đó, và xây dựng dự thảo quyết toán của chính mình và trong

khoảng thời gian quy định, phải nộp dự thảo đó lên cho CQTC của chính quyền cấp

tương ứng để kiểm tra và xác minh.

- CQTC của chính quyền các cấp, khi kiểm tra và xác minh dự thảo quyết toán

của tất cả các cơ quan ở cấp tương ứng, có quyền sửa chữa bất kì điểm nào không

tuân thủ quy định của luật, quy định và nguyên tắc hành chính.

- CQTC thuộc Hội đồng nhà nước xây dựng dự thảo quyết toán trung ương, và

nộp dự thảo lên Hội đồng nhà nước để kiểm tra và quyết định, sau đó Hội đồng nhà

nước nộp dự thảo lên Ủy ban thường trực QH.

- Quyết toán NS được QH phê duyệt vào tháng 10 năm sau.

- CQTC của chính quyền địa phương xây dựng dự thảo quyết toán và trình chính

quyền ở cấp tương ứng để kiểm tra và quyết định, và chính quyền ở cấp tương ứng

nộp dự thảo lên Ủy ban thường trực cơ quan dân bầu cấp tương ứng để kiểm tra.

- Chính quyền xã, xây dựng dự thảo quyết toán ở cấp mình và nộp dự thảo lên

cơ quan dân bầu cấp đó để kiểm tra và phê duyệt.

32

- Sau khi QT của chính quyền các cấp đã được phê duyệt, các CQTC có liên

quan phải trả lời các cơ quan ở cấp tương ứng chính thức bằng văn bản về quyết toán.

- Chính quyền địa phương các cấp phải BCQT được phê duyệt lên chính quyền

cấp cao hơn kế tiếp để lưu hồ sơ.

- Cơ quan kiểm toán của chính quyền các cấp phải kiểm toán để giám sát việc

chấp hành và quyết toán NS của tất cả các cơ quan và đơn vị ở cấp tương ứng và

chính quyền các cấp dưới.

1.4.2. Bài học kinh nghiệm

- Hầu hết các quốc gia đều có quy trình QT NSNN đơn giản, số liệu QT NSNN

được tổng hợp độc lập ở các cấp ngân sách, không tổng hợp số liệu của toàn tỉnh và

số liệu toàn quốc như Việt Nam. Kết thúc năm NS, các ĐVSDNS in báo cáo từ sổ kế

toán nhà nước để trình cấp thẩm quyền của từng cấp NS. QH chỉ phê chuẩn quyết

toán NSTW thuộc cấp mình quản lý, Quốc hội không phê chuẩn đối với QT của các

cấp chính quyền ĐP. Quyết toán các cấp của NSĐP do HĐND các cấp ĐP phê chuẩn.

Với quy trình quyết toán như trên, thời gian Quốc hội phê chuẩn QT NS của các quốc

gia đều rất sớm.

- Về thời hạn QH xem xét, phê chuẩn QT của các nước sớm hơn rất nhiều so

với của Việt Nam: Hà Lan chậm nhất là 7 tháng, Trung Quốc chỉ mất 10 tháng sau

khi kết thúc năm NS. Hiện nay, thời gian QH Việt Nam phê chuẩn QT NSNN khoảng

18 tháng kể từ khi kết thúc năm NS là quá dài, không có nhiều ý nghĩa đối với công

tácxây dựng dự toán NSNN và quản lý, sử dụng NSNN. Do vậy, cần thiết xem xét

việc rút ngắn thời gian phê chuẩn BCQT để đảm bảo tính kịp thời.

- Ở các nước đều quy định tất cả các đơn vị nhận NS phải thực hiện kế toán,

hạch toán và QT NS, đồng thời phải có BCQT NS hàng năm. Việc kế toán, quyết

toán và biểu mẫu BCQT đều phải thực hiện theo quy định của BTC. Nội dung, chỉ

tiêu BCQT trình bày theo đúng dự toán NS được cấp có thẩm quyền quyết định và

theo cơ chế, chính sách quản lý NSNN đặc biệt phản ánh theo yêu cầu quản lý NSNN.

33

- BCQT trước khi phê chuẩn được kiểm tra, xem xét bởi cơ quan kiểm toán. BCQT

NSNN phải được cơ quan dân bầu xem xét, phê chuẩn. BCQT NSNN so sánh được với

các nước trên thế giới và khu vực.

- Tất cả các quốc gia BCQT NSNN đều phải gửi kèm các thuyết minh, giải trình

về các khoản chi, kết quả đạt được, ngoài ra còn có thể kèm theo một số tài liệu khác

tuỳ mỗi nước, như: Bảng cân đối tài khoản, bảng thuyết minh về các khoản hoàn trả

thuế… Các tài liệu này giúp cung cấp thông tin để QH có cơ sở phê chuẩn quyết toán

NSNN, QH không phê chuẩn các tài liệu này.

Có thể khẳng định, tăng cường hiệu quả quản lý tài chính - NSNN là một đòi

hỏi cấp thiết đối với mỗi quốc gia. Việc nhận biết xu hướng quản lý NSNN tiên tiến,

hiệu quả, cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển giúp Việt Nam

tránh được những tồn tại, hạn chế, góp phần quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn lực của

đất nước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững và đạt nhiều thành tựu trong thời

gian tới.

34

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY TRÌNH QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ

NƯỚC HẰNG NĂM GIAI ĐOẠN 2016-2020

2.1. Khái quát về Bộ Tài chính và bộ máy quyết toán ngân sách nhà nước

2.1.1. Khái quát về Bộ Tài chính

2.1.1.1. Lịch sử Tài chính Việt Nam

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản

Tuyên ngôn độc lập trước quốc dân đồng bào, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa. Trước đó, ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa đã ra Tuyên cáo về việc thành lập Chính phủ với 13 thành viên, đồng chí

Phạm Văn Đồng được chỉ định giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Tài chính. Đây là thời điểm

quan trọng, đánh dấu sự ra đời của ngành Tài chính cách mạng Việt Nam.

Sự kiện ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, một nhà nước công

nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á, đánh dấu một thời kỳ mới, chấm dứt ách đô

hộ thực dân kiểu mới của thực dân Pháp, tạo tiếng vang lớn trên thế giới và làm cho

hàng triệu người dân Việt Nam yêu nước, yêu cách mạng hân hoan cực độ vì từ nay

đã được sống trong một đất nước độc lập, tự do, thoát khỏi cảnh lầm than, nô lệ dưới

ách cai trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến hà khắc trước đây.

Nhưng đối với Đảng cộng sản Việt Nam và Chính phủ cách mạng, giành được

độc lập tự do cho đất nước mới chỉ là bước đầu, trước mắt còn vô vàn khó khăn thử

thách, nhất là trong bối cảnh thù trong giặc ngoài vẫn đang còn hiện hữu, đang tìm

mọi cách lăm le phá hoại để làm suy yếu chính quyền cách mạng non trẻ. Thêm vào

đó là sau gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp, với chính sách cai trị thâm độc và

vơ vét của cải, tài nguyên theo kiểu tận thu dưới mọi hình thức đã làm cho nền KT,

TC của đất nước ta suy kiệt, người dân phải sống trong cảnh lầm than cơ cực, vừa

phải chịu cảnh đói ăn, vừa chịu cảnh mặc rách và điều nguy hại hơn là bọn chúng

không hề quan tâm đến công tac giáo dục, chỉ mở một ít trường lớp cho con em thuộc

các tầng lớp giàu có, quan lại, địa chủ nên đã làm cho hều hết người dân phải chịu

cảnh thất học để dễ bề cai trị.

35

Trong bối cảnh như vậy, nhận thấy sự thất bại trước phong trào cách mạng Việt

Nam là không thể đảo ngược, thực dân Pháp đã tìm mọi cách vơ vét số tiền ít ỏi còn

lại trong ngân khố mang về chính quốc nhằm gây thêm khó khăn cho chính quyền

cách mạng non trẻ khi tiếp quản.

Chính vì vậy, sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ cách

mạng đã tiếp quản một nền kinh tế tài chính hầu như là con số 0, ngân quỹ trung ương

chỉ vỏn vẹn 1.250.000 đồng tiền Đông Dương, trong đó có tới 580.000 đồng tiền hào

rách nát chờ tiêu hủy; ngân sách Đông Dương mới thi hành đến tháng 8/1945 đã thâm

hụt tới 185 triệu đồng, ngoài ra còn nợ các khoản tới 564 triệu đồng Đông Dương.

Đứng trước tình cảnh nền chính trị, kinh tế tài chính tiền tệ và xã hội vô cùng

rối ren, phức tạp, tất cả đều như “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng và Chính phủ cách

mạng đã xác định, phải cùng đồng thời thực hiện những nhiệm vụ cấp bách và nặng

nề, một mặt phải tập trung xây dựng củng cố chính quyền cách mạng và lực lượng vũ

trang nhân dân để bảo vệ và giữ vững nền độc lập tư do, chống lại các âm mưu bạo

loạn và lật đổ cùng hành động xâm lược của các thế lực thù địch; mặt khác phải nhanh

chóng khôi phục sản xuất, thực hành tiết kiệm, giải quyết hậu quả của nạn đói, nạn lũ

lụt và phát động phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ..., từng bước xây dựng

một nền KT, TC, tiền tệ độc lập, tự chủ, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của một nhà

nước cách mạng là đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho các tầng lớp nhân dân.

Việc thành lập ngành Tài chính và các Bộ, ngành khác trong thành phần Chính

phủ cách mạng lâm thời là nhằm tạo ra các công cụ hữu hiệu để cụ thể hóa và thực

hiện các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ cách mạng đề ra.

Như vậy, nền Tài chính cách mạng Việt Nam ra đời ngay trong ngày đầu tiên

Chính phủ lâm thời thành lập, trong bối cảnh đất nước vừa trải qua những năm tháng

đấu tranh gian khổ để làm nên thắng lợi cách mạng tháng 8 thần kỳ, giành lại độc lập

tự do cho dân tộc, chấm dứt cảnh nô lệ lầm than để làm cho mọi người dân Việt Nam

đều hân hoan phấn khở, khí thế và tinh thần yêu nước dâng cao. Tuy vậy, trước mắt

vẫn còn vô vàn khó khăn thách thức, đòi hỏi Đảng, Chính phủ cách mạng, các cấp,

các ngành và các tầng lớp nhân dân phải vững vàng và tiếp tục phát huy tinh thần

cách mạng, tinh thần yêu nước của toàn dân tộc mới có thể vượt qua, trong đó một

36

trong những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách là phải nhanh chóng tạo ra nguồn lực

tài chính để phục vụ và đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Chính phủ cách mạng, để

khôi phục và phát triển sản xuất, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, lực

lượng vũ trang nhân dân, bảo vệ và giữ vững nền độc lập tự do mà cách mạng vừa

giành được, đấu tranh có hiệu quả với các thếlực thù địch trong vàngoài nước..., đồng

thời về lâu dài phải xây dựng được tiềm lực tài chính đủ mạnh để Việt Nam từng

bước phát triển trở thành một đất nước hưng thịnh, hùng cường.

Chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ cách mạng trong thời

kỳ đầu giành được độc lập không chỉ thể hiện việc giải quyết những khó khăn ban

đầu mà còn thể hiện chiến lược phát triển lâu dài. Điều này cũng đã thể hiện đầy đủ

quan điểm của Bác Hồ và Đảng cộng sản Việt Nam đối với công tác tài chính. Tại

thông báo của Trung ương Đảng gửi các cấp bộ Đảng ngày 29/9/1939 cũng đã chỉ rõ

“... Tài chính với Đảng cũng như đèn với dầu, nếu dầu không có thì đèn tắt, Đảng

không có tài chính thì công việc của Đảng phải đình trệ...”

Như vậy, việc ra đời ngành Tài chính cách mạng Việt Nam trong thời điểm

thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời ngày 28/8/1945 là một tất yếu khách quan,

thể hiện quan điểm đúng đắn của Đảng và Chính quyền cách mạng, cũng như quy

luật phát triển chung mà tất cả các nước trên thế giới đã và đang thực hiện.

2.1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của BTC

- BTC là cơ quan của CP, thực hiện chức năng quản lý NN về: TC-NS (bao

gồm: NSNN; thuế; phí, lệ phí và thu khác của NSNN; dự trữ nhà nước; các quỹ tài

chính nhà nước; đầu tư tài chính; tài chính doanh nghiệp; tài chính hợp tác xã và kinh

tế tập thể; tài sản công theo quy định của pháp luật); hải quan; kế toán; kiểm toán độc

lập; giá; chứng khoán; bảo hiểm; hoạt động dịch vụ tài chính và dịch vụ khác thuộc

phạm vi quản lý nhà nước của bộ; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước

tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

- Cơ cấu tổ chức của BTC theo Nghị định 87/2017/NĐ-CP ngày 26/7/2017 gồm

29 đơn vị trực thuộc.

37

2.1.2. Bộ máy quyết toán NS nhà nước tại BTC

Quyết định số 26/2015/QĐ-TTg ngày 08/7/2015 của Thủ tướng CP quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của KBNN trực thuộc BTC, trong

đó đã giao KBNN nhiệm vụ tổng hợp, lập BCQT NSNN hàng năm trình BTC để trình

CP theo quy định của pháp luật. Như vậy, KBNN thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu

của khâu thứ ba trong chu trình quản lý NSNN, đó là khâu kế toán và QT NSNN.

Thực hiện Quyết định số 26/2015/QĐ-TTg ngày 08/7/2015 của Thủ tướng CP,

BTC đã ban hành Quyết định số 1960/QĐ-BTC ngày 28/9/2015, trong đó quy định

từ ngày 01/10/2015,KBNN thực hiện nhiệm vụ tổng hợp, lập QT NSNN hàng năm,

cụ thể: “Chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ tổng hợp, lập quyết toán NSNN

hàng năm báo cáo CP để trình QH phê chuẩn”.

Trước tháng 9/2015, nhiệm vụ tổng hợp, lập quyết toán NSNN được BTC giao

cho VụNS nhà nước theo Quyết định số 2458/QĐ-BTC ngày 06/10/2009. Vì vậy,

ngay từ khi nhận nhiệm vụ mới (01/10/2015), KBNN và Vụ NSNN (BTC) đã thực

hiện bàn giao các nhiệm vụ liên quan về tổng hợp, lập QT NSNN hàng năm cả về

nhân sự, hồ sơ tài liệu. KBNN đã khẩn trương bắt tay ngay vào triển khai công tác

quyết toán NSNN năm 2014, đồng thời sắp xếp, bố trí cán bộ tiếp nhận các nhiệm vụ

được bàn giao, chuyển tiếp từ Vụ NSNN, bảo đảm công việc được thực hiện liên tục,

ổn định và không bị gián đoạn. Nhờ vậy, quyết toán NSNN được thực hiện theo đúng

các quy định củapháp luật.

Như vậy, bộ máy quyết toán NSNN tập trung chính tại KBNN, các Vụ, Cục

chuyên ngành tại BTC có vai trò phối hợp với KBNN trong công tác tổng hợp, lập

QT NSNN hằng năm.

38

2.2. Thực trạng quy trình quyết toán NS nhà nước hằng năm trình QH giai đoạn

2016-2020

2.2.1 Tổng hợp, lập BCQT NSNN

2.1.1.1Tổng quan về BCQTNS nhà nướcgiai đoạn 2016-2020

Bảng 2.1: Tổng hợp số liệu quyết toán NSNN giai đoạn 2016-2020

Đơn vị: Tỷ đồng

STT Chỉ tiêu 2016 2017 2018 2019 2020

Thu cân đối 1.407.572 1.683.045 1.880.029 2.139.639 2.279.736 1 NSNN

Trong đó: Thu 1.107.381 1.293.627 1.431.662 1.553.612 1.510.579 theo dự toán QH

Chi cân đối 1.574.448 1.681.414 1.869.792 2.119.542 2.352.930 2 NSNN

Trong đó: Chi 1.295.061 1.355.034 1.435.435 1.526.893 1.709.524 theo dự toán QH

3 Bội chi NSNN 248.728 136.963 153.110 161.491 216.406

Tỷ lệ bội chi

4 NSNN so với 5,52% 2,74% 2,80% 2,67% 3,44%

GDP thực tế

Kinh phí NSNN

5 chuyển nguồn 279.387 326.380 434.357 592.649 643.406

sang năm sau

39

BCQT NSNN từ năm 2016 đến năm 2020 trình QH đã tuân thủ đúng theo các

quy định của pháp luật về trình tự, thủ tụcquyết toán NSNN, được tổng hợp từ QT

NSNN của các bộ, cơ quan trung ương được CQTC thẩm định và QT NS các tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương đã được HĐND cấp tỉnh phê chuẩn. Số liệu QT NSNN

đã được đối chiếu, xác nhận của KBNN và được KTNN kiểm toán theo quy định.

Giai đoạn 2016-2020, bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều khó khăn, thách

thức như vấn đề khủng hoảng nợ công ở một số nước, cạnh tranh địa chính trị, kinh

tế, thương mại giữa một số nền kinh tế lớn; căng thẳng ở Biển Đông và gần đây là

đại dịch Covid-19, cùng với thiên tai, biến đổi khí hậu, môi trường... tác động tiêu

cực tới KT, thương mại và ổn định chính trị, XH ở các nước.

- Về thu NS nhà nước:

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ thu NSNN, BTC đã tích cực, chủ động triển khai

đồng bộ các giải pháp. Cụ thể, chính sách động viên NSNN tiếp tục được hoàn thiện

theo hướng mở rộng diện thu; điều tiết hợp lý thu nhập; khuyến khíchsử dụng tiết

kiệm, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường; giảm nghĩa vụ thu; giảm thuếquan theo

lộ trình hội nhập quốc tế; đơn giản hóa thủ tục hành chính; đẩy mạnh ứng dụng công

nghệ thông tin trong toàn ngành Tài chính.

Cùng với đó, ngành Tài chính đẩy mạnh chống thất thu, chuyển giá, buôn lậu,

gian lận thương mại, trốn thuế; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế, nhất là

thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề về chuyển giá, thương mại điện tử, kinh doanh qua

mạng; quyết liệt xử lý thu nợ thuế... qua đó vừa cải thiện môitrường đầu tư, khuyến

khích tích tụ vốn, phát triển sản xuất, kinh doanh, đồng thời động viên hợp lý, kịp

thời các nguồn thu vào NS.

Nhờ triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp trên, trong giai đoạn 2016-2020,

quy mô thu NSNN được cải thiện, tổng thu NSNN đạt 6,89 triệu tỷ đồng, bình quân

đạt khoảng 25,2% GDP. Tỷ lệ thu từ thuế, phí đạt khoảng 21% GDP. Đây là kết quả

tích cực khi mà tỷ trọng thu NSNN từ dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu giảm mạnh.

- Về chi NS nhà nước:

Trong giai 2016-2020, hoạt động chi NSNN tiếp tục hoàn thiện thể chế tăng

cường hiệuquả phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính gắn với các mục

tiêu KT-XH và mục tiêu cơ cấu lại chi NS, chi đầu tư công.

40

Trong giai đoạn này, QH đã thông qua một số luật quan trọng như: LuậtNSNN;

Luật Quản lý nợ công; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Luật Quản lý và đầu tư

vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Luật Đầu tư công... Nhờ đó, công tác phân bổ, sử

dụng nguồn lực công đã có nhiều đổi mới về phạm vi, thẩm quyền, phương thức thực

hiện, tiêu chuẩn, chế độ, định mức, vấn đề công khai, minh bạch và nâng caotrách

nhiệm giải trình...

Đặc biệt, việc áp dụng các kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia, kế hoạch đầu tư

công trung hạn giai đoạn 2016-2020 và kế hoạch tài chính - NSNN 03 năm cuốn

chiếu đã góp phần quản lý phân bổ nguồn lực trong phạm vi khả năng của nền kinh

tế, gắn với các mục tiêu KT-XH trung hạn, thực hiện các mục tiêu cơ cấu lại chi NS,

chi đầu tư công, cải thiện tính dự báo, tạo sự chủ động cho các ĐVDTNS, ĐVSDNS;

đẩy mạnh việc quản lý, sử dụng kinh phíNSNN theo phương thức khoán, đấu thầu,

đặt hàng; tăng cường phân cấp, trao quyền tự chủ khuyến khích sử dụng nguồn lực

phù hợp với đặc thù của các ngành, các cấp, đơn vị.

Trong giai đoạn này, quy mô chi NSNN được kiểm soát trong phạm vi thu NS

và giảm dần mức bội chi; tỷ trọng chi NSNN bình quân khoảng 28% GDP; ưu tiên

thực hiện các chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước. Đã cơ cấu lại một

bước chi NSNN, tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triên ngay từ khâu dự toán từ mức

25,7% năm 2017 lên 26,9% năm 2020 (mục tiêu đề ra là 25-26%).

Cùng với đó, giảm dần tỷ trọng dự toán chi thường xuyên từ mức 64,9% tổng

chi NSNN năm 2017 xuống dưới 64% năm 2020 theo đúng mục tiêu tại Nghị quyết

số 25/2016/QH14 của QH, trong điều kiện hàng năm vẫn bố trí nguồn tăng lương cơ

sở, lương hưu (đối tượng do NSNN bảo đảm) và trợ cấp người có công khoảng 7%,

thực hiện các chính sách an sinh xã hội gắn với lương cơ sở tăng tương ứng,...

- Về cân đối NS nhà nước:

Thể chế quản lý cân đối NS, bội chi dần được hoàn thiện phù hợp với thực tiễn

và thông lệ; NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải

lớn hơn tổng số chi thường xuyên; quy định bội chi NSNN gồm bội chi NSTW và

bội chi NSĐP, không bao gồm chi trả nợ gốc; vay bù đắp bội chi NSNN chỉ cho

ĐTPT, không sử dụng cho chi thường xuyên; quy định các giới hạn dư nợ vay của

41

NSĐP gắn với thu NSĐP được hưởng theo phân cấp, với khả năng trảnợ của địa

phương...

Bội chi NSNN được điều hành chặt chẽ, bình quân các năm 2016-2019, bội chi

NSNN ở mức 3,3% GDP, trong đó, các năm 2017-2019 bội chi còn 2,72% GDP,

giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 là 5,4%GDP. Riêng năm 2020, do tác động

tiêu cực của đại dịch Covid-19 đã làm giảm thu NS, trong khi phải tăng chi để phòng,

chống dịch và đảm bảo an sinh xã hội, mức bội chi NSNN bằng 3,99% GDP, cao hơn

dự toán (3,44% GDP).

Tính chung cả giai đoạn 2016-2020, bội chi NSNN bình quân khoảng 3,45%

GDP, đảm bảo mục tiệu không quá 3,9% GDP theo Nghị quyết số 25/2016/QH14

của QH.

Bội chi NSNN giảm mạnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện cơ cấu lại

nợ công theo hướng bền vững. Quy mô nợ công giảm mạnh từ mức 63,7% GDP cuối

năm 2016 xuống 55,2% GDP vào cuối năm 2020, các chỉ tiêu dư nợ CP, dư nợ nước

ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn.

2.1.1.2 Công tác quyết toán NS trung ương

2.1.1.2.1 Công tác quyết toán thu NS trung ương

Tổng cục Thuế (TCT) và Tổng cục Hải quan (TCHQ) có vai trò là cơ quan quản

lý thu NS, tổ chức quản lý và thực hiện thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác

nộp trực tiếp vào KBNN.Cuối năm, TCT và TCHQ có tráchnhiệm phối hợp với

KBNN để xác định số liệu quyết toán thu NSNN hàng năm.

Kết thúc năm NS, căn cứ số liệu thu NSTW trên hệ thống TABMIS, TCT và

TCHQ phối hợp với KBNN và Vụ NSNN để kiểm tra, đối chiếu và xác định chính

xác số liệu quyết toán thu NSTW. Sau khi kiểm tra, đối chiếu số liệu, TCT và TCHQ

tổng hợp số liệu thu NSTW, lập báo cáo thuyết minh, giải trình các nguyên nhân tăng,

giảm các khoản thu NSNN được phân công quản lý so với dự toán QH quyết định

báo cáo BTC, đồng thời gửi KBNN trước ngày 01 tháng 10 năm sau.

Thực tế trong các năm qua, TCT và TCHQ có sự phối hợp thường xuyên, chặt

chẽ với KBNN để kiểm tra, đối chiếu số liệu, vì vậy số liệu thu NSNN luôn đảm bảo

chính xác, kịp thời, thống nhất. Dựa trên số liệu quyết toán thu NSNN do KBNN tổng

42

hợp và lập, các cơ quan cấp trên, đại biểu QH có thể đánh giá được tình hình thực

hiện thu NSNN so với dự toán được giao, cụ thể đối với các lĩnh vực như thu từ dầu

thô, thu từ các loại thuế, phí, các khoản thu từ nhà đất, các khoản thu từ hoạt động

xuất nhập khẩu, thu từ viện trợ….từ đó có thể đánh giá được tình hình thu NSNN

trong năm thực hiện quyết toán. Tuy nhiên, quyết toán thu NSNN mới chỉ tập trung

chủ yếu về mặt số liệu, việc đề cập và đánh giá việc tuân thủ pháp luật về chính sách,

chế độ thu chưa rõ nét. Trong khi đó, trách nhiệm giải trình của CP trước QH về kết

quả thực hiện NS không chỉ là các số liệu về thu bao nhiêu, thu từ những nguồn nào

mà còn phải giải trình là các khoản thu đã tuân thủ theo các quy định về thuế, phí, lệ

phí chưa, tình hình thất thu, gian lận, nợ đọng thuế được xử lý thế nào... Để trả lời

được những câu hỏi nêu trên, cần phải có đầy đủ thông tin từ cấp cơ sở và có sự quan

tâm, chỉ đạo từ các cấp có thẩm quyền.

2.1.1.2.2 Công tác quyết toán chi thường xuyên

Theo quy định của Luật NSNN, kết thúc năm NS, các ĐVDT cấp I thuộc NSTW

lập BCQT chi thường xuyên thuộc phạm vi quản lý và gửi về BTC, KTNN trước

ngày 01 tháng 10 năm sau.

Căn cứ BCQT của các bộ, ngành gửi, BTC giao các Vụ, Cục quản lý chuyên

ngành thực hiện xét duyệt, thẩm định quyết toán chi thường xuyên NSTW. Thời hạn

BTC xét duyệt, thẩm định QT của các bộ, cơ quan trung ương tối đa 30 ngày kể từ

ngày nhận được BCQT theo quy định tại Thông tư số 342/2016/TT-BTC ngày

30/12/2016 của BTC hướng dẫn Luật NSNN.

Theo quy định trên thì trước ngày 01 tháng 11 năm sau, BTC sẽ hoàn thành

thông báo thẩm định QT chi thường xuyên NSTW và giao KBNN tổng hợp số liệu

QT NSNN hằng năm. Tuy nhiên, thực tế các năm qua còn tình trạng xét duyệt, thẩm

định QT chi thường xuyên NSTW kéo dài đến hết tháng 12 năm sau, thậm chí có một

số trường hợp kéo dài đến tháng 3, tháng 4 năm sau nữa.

2.1.1.2.3 Công tác quyết toán chi đầu tư

Theo quy định, các bộ, ngành tổng hợp BCQT và gửi cho BTC trước ngày 01/8

năm sau; thời điểm nêu trên đã rút ngắn 02 tháng so với quy định của Luật NSNN.

43

Tuy nhiên, thực tế đến hết tháng 12 năm sau, có năm sang đến tháng 01 năm sau nữa,

một số bộ, cơ quan trung ương rà soát, đối chiếu lại số liệu QT với các đơn vị có liên

quan. Vì vậy, làm ảnh hưởng đến tiến độ thẩm định và ra thông báo thẩm định QT

vốn đầu tư đối với bộ, ngành cơ quan trung ương, thường phải đến tháng 01 năm sau

nữa mới hoàn thành.

Cụ thể, đối với công tác quyết toán NSNN năm 2019, năm 2020, đến thời hạn

nộp BCQT NSNN cho KTNN (ngày 28/02 năm sau nữa), KBNN phải tổng hợp số

liệu QT NSNN theo số liệu thẩm định sơ bộ quyết toán NSTW của các bộ, ngành để

trình BTC duyệt số liệu quyết toán NSNN sơ bộ gửi KTNN. Trong quá trình thực

hiện kiểm toán BCQT NSNN, số liệu chi đầu tư xây dựng cơ bản còn tiếp tục điều

chỉnh, sửa đổi hoặc thay đổi theo kiến nghị của KTNN.

2.1.1.2.4 Công tác tổng hợp, lập quyết toán NS trung ương

Trong công tác quyết toán NSTW các năm vừa qua, một số bộ, cơ quan trung

ương gửi Bộ Tài chính BCQT NSNN rất chậm, các số liệu, tài liệu thuyết minh không

đầy đủ, phải gửi bổ sung nhiều lần, vì vậy BTC thẩm định và chậm ban hành Thông

báo thẩm định quyết toán NSNN, gây khó khăn, ảnh hưởng tới tiến độ và chất lượng

của công tác tổng hợp, lập số liệu BCQT NSNN hàng năm.

2.1.1.3 Công tác quyết toán NS địa phương

2.1.1.3.1 Công tác thẩm định quyết toán NS địa phương

Luật NSNN quy định, CQTC các cấp ở địa phương thẩm định QT năm của các

ĐVDT thuộc cấp mình, CQTC cấp tỉnh, cấp huyện thẩm định QT năm của NS cấp dưới.

Trong quá trình thẩm định QT NSNN của các ĐVDT thuộc cấp mình và thẩm

định QT NS cấp dưới, CQTC có quyền yêu cầu ĐVDT cấp I, CQTC cấp dưới bổ

sung thông tin và số liệu cần thiết cho việc thẩm định QT. Kết thúc quá trình thẩm

định QT NSNN, CQTC ra thông báo thẩm định QT kèm theo nhận xét, kiến nghị gửi

ĐVDT cấp I hoặc UBND cấp dưới để thực hiện. Trường hợp phát hiện có sai sót,

CQTC yêu cầu ĐVDT cấp I cùng cấp hoặc yêu cầu UBND cấp dưới trình HĐND

cùng cấp điều chỉnh lại số liệu quyết toán NSNN. Trường hợp phát hiện sai phạm,

44

CQTC xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị các cấp có thẩm quyền xử lý theo quy

định của pháp luật.

Đối với QT NS năm của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, BTC không

thẩm định và không ra thông báo thẩm định QT đối với các địa phương. Đây là quy

định mới của Luật NSNN giúp giảm bớt thủ tục hành chính. Trong quá trình BTC

tổng hợp quyết toán NSNN, chỉ đối với các địa phương có sai sót, BTC sẽ yêu cầu

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp điều chỉnh số liệu đảm bảo chính

xác; trường hợp phát hiện sai phạm sẽ xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị các cấp

có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

2.1.1.3.2 Công tác tổng hợp, lập quyết toán NS địa phương

Theo quy định của Luật NSNN, UBND cấp tỉnh tổng hợp, lập QT NSĐP trình

HĐND cấp tỉnh phê chuẩn quyết toán NSĐP trước ngày 31/12 năm sau. Để đảm bảo

thời hạn HĐND cấp tỉnh phê chuẩn BCQT NSĐP trước ngày 31/12 năm sau, HĐND

cấp tỉnh quy định cụ thể thời hạn phê chuẩn QT NS cấp xã, cấp huyện vàquy định cụ

thể thời hạn UBND gửi BCQT đến các cơ quan theo quy định.

Hình 2.1: Quyết toán NS địa phương theo quy định của Luật NSNN Về nguyên tắc, QT NSĐP được tổng hợp từ 3 cấp NS (NS xã, huyện, tỉnh) theo

thứ tự tổng hợp từ NS cấp thấp nhất (NS cấp xã) đến NS cấp cao (NS cấp tỉnh) của

mô hình NS lồng ghép. Quy trình, thời hạn tổng hợp QT NSĐP được thực hiện theo

từng cấp NS, theo đó, việc quyết toán NS hằng năm được thực hiện theo quy trình cụ

thể: UBND cấp xã lập BCQT gửi Ban KT-XH của HĐND cấp xã thẩm tra; sau khi

45

có ý kiến của thường trực HĐND cấp xã, UBND cấp xã trình HĐND cấp xã xem xét,

phê chuẩn quyết toán NS. Sau khi HĐND cấp xã phê duyệt BCQT, UBND xã sẽ gửi

cho UBND cấp huyện. UBND cấp huyện sẽ tổng hợp cùng với số quyết toán của các

ĐVDT cấp huyện để tổng hợp BCQTNS cấp huyện... Quy trình này được lặp lại

tương tự đối với cấp huyện và cấp tỉnh.

Như vậy, với mô hình tổ chức các cấp chính quyền theo cơ chế quản lý lồng

ghép làm cho quy trình xem xét, phê chuẩn QT NSĐP còn phức tạp và mất nhiều thời

gian xem xét, tổng hợp số liệu của NS cấp dưới. Điều này dẫn đến thực tế một số

địaphương chưa đảm bảo quy định về thời hạn nộp BCQT cho BTC, KTNN trước

ngày 01/10 năm sau. Ví dụ đối với quyết toán năm 2019, đến ngày 29/3/2021 HĐND

tỉnh Sóc Trăng mới ban hành Nghị quyết số 10/NQ-HĐND về phê chuẩn BCQTNS

tỉnh Sóc Trăng năm 2019, dẫn đến việc rà soát quyết toán NSĐP của BTC bị muộn;

tháng 3/2021 BTC mới có văn bản về rà soát số liệu quyết toán của Hà Nội, TP Hồ

Chí Minh, Gia Lai, Hậu Giang, Phú Yên, Ninh Thuận, Sóc Trăng.

2.1.1.4 Công tác tổng hợp, lập BCQTNS nhà nước

Số liệu tổng hợp, lập quyết toán NSNN hàng năm được căn cứ theo các Thông

báo duyệt, thẩm định QT NSNN của các bộ, cơ quan trung ương và Nghị quyết phê

chuẩn quyết toán NSNN của các địa phương. Vì vậy, tiến độ QT NSNN của các bộ,

ngành, địa phương ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ quyết toán NSNN hằng năm.

Thực tế các năm vừa qua, tiến độ QT NSNN của một số bộ, ngành, địa phương

thực hiện rất chậm, số liệu quyết toán NSNN còn điều chỉnh, sửa đổi nhiều lần, gây

khó khăn trong công tác tổng hợp BCQT NSNN trình các cấp có thẩm quyền theo

quy định. Một số cơ quan, đơn vị chưa chủ động BCQT đầy đủ các nguồn kinh phí

được giao, đến khi BTC có văn bản nhắc nhở mới thực hiện, đặc biệt đối với các

khoản kinh phí cấp bằng lệnh chi tiền.

Sau khi tổng hợp, lập BCQT NSNN hàng năm, BTC gửi KTNN chậm nhất là

14 tháng sau khi kết thúc năm NS để kiểm toán theo quy định tại Khoản 4 Điều 70

Luật NSNN năm 2015. Đồng thời, tại kỳ họp thường kỳ của CP tháng 3 hàng năm,

BTC báo cáo Thủ tướng CP về quyết toán NSNN niên độ NS năm trước, trình Thủ

46

tướng CP cho phép Bộ trưởng BTC thừa ủy quyền của Thủ tướng CP ký BCQT

NSNN để trình cáccấp có thẩm quyền theo quy định.

BCQT NSNN do CP trình UBTVQH và QH được UBTCNS của QH tổ chức

thẩm tra để đảm bảo tính chính xác, trung thực, đầy đủ của số liệu QT NSNN. Sau

phiên họp thẩm tra của UBTCNS của QH, CP tiếp thu ý kiến thẩm tra, hoàn chỉnh

báo cáo BCQT NSNN.

Căn cứ BCQT NSNN do CP trình, Báo cáo kiểm toán của KTNN, Báo cáo thẩm

tra của UBTCNS của QH, UBTVQH xem xét, cho ý kiến đối với quyết toán NSNN.

Căn cứ ý kiến của UBTVQH, BTC phối hợp với UBTCNS của QH hoàn chỉnh BCQT

NSNN, Báo cáo thẩm tra quyết toán NSNN trình QH và gửi đến các đại biểu QH

chậm nhất 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp QH.

Để đảm bảo đúng tiến độ tổng hợp, lập BCQT NSNN trình QH, Luật NSNN và

các văn bản hướng dẫn đã quy định về thời hạn các bộ, cơ quan trung ương, địa

phương gửi BCQT NSNN hàng năm về BTC trước ngày 01/10 năm sau. Thời hạn

nộp BCQT năm của ĐVDT cấp II, III thuộc bộ, cơ quan trung ương do ĐVDTcấp I

quy định. Thời hạn nộp BCQT năm của NS cấp dưới và các ĐVDT cấp I thuộc NS

các cấp ở địa phương do UBND tỉnh quy định.

Với thực trạng nêu trên, việc BTC tổng hợp BCQT NSNN hằng năm và gửi báo

cáo tổng hợp quyết toán cho KTNN trước 14 tháng sau khi kết thúc năm NS vẫn còn

gặp nhiều khó khăn. Mặc dù hàng năm, BTC đều phối hợp với KTNN cung cấp các

thông tin, số liệu quyết toán theo yêu cầu đúng thời điểm 28 tháng 02 năm sau nữa,

tức là 14 tháng sau khi kết thúc năm NS; tuy nhiên, trong khoảng thời gian trước và

sau thời điểm trên, số liệu quyết toán của một số đơn vị còn thay đổi do chưa thống

nhất số liệu quyết toán và chưa được xét duyệt, thẩm định theo quy định.

Như vậy, với quy định hiện hành (thời gian QH phê chuẩn quyết toán NSNN

chậm nhất 18 tháng kể từ thời điểm kết thúc năm NS), công tác quyết toán NSNN

hằng năm vẫn còn chậm, chưa đảm bảo đúng quy định.

2.2.2 Kiểm toán quyết toán NSNN

KTNN thực hiện kiểm toán và báo cáo kết quả kiểm toán quyết toán NSNN với

QH theo quy định của Luật NSNN năm 2015. Những năm qua, công tác kiểm toán

47

QT NSNN ngày càng được chú trọng. Các báo cáo kiểm toán của KTNN đã xác nhận

tính đúng đắn, trung thực của BCQT NSNN, đánh giá tính kinh tế, việc tuân thủ pháp

luật, tính hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng NS, tiền và tài sản của NN. QH

và HĐND đều sử dụng báo cáo kiểm toán trong quá trình phê chuẩn quyết toán

NSNN.

KTNN cung cấp thông tin cho QH cũng như các chủ thể khác được quy định cụ

thể tại Luật Kiểm toán Nhà nước, Luật NSNN và các văn bản phápluật khác có liên

quan. Các thông tin của KTNN có vai trò quan trọng đối với cơ quan lập pháp trong

hoạt động thẩm tra quyết toán NSNN. Đối với QH, các cơ quan của QH, thông tin

kiểm toán của KTNN là yếu tố không thể thiếu trong bối cảnh nền kinh tế như hiện

nay nhằm hỗ trợ cho hoạt động thẩm tra quyết toán NS ở cả cấp trung ương và địa

phương, là căn cứ quan trọng để QH thảo luận, phê chuẩn QT NSNN.

Theo quy định của Luật KTNN, KTNN có trách nhiệm gửi báo cáo kiểm toán

quyết toán NSNN, báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm đến QH, UBTVQH, Hội

đồng dân tộc, các Ủy ban của QH chậm nhất là 16 tháng sau khi năm NS kết thúc,

đồng thời gửi Chủ tịch nước, CP, và Thủ tướng CP. Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm

toán năm sau khi trình QH KTNN công bố công khai theo quy định của pháp luật.

Kiến nghị và kết quả kiểm toán của KTNN cung cấp thông tin cho QH, HĐND

để phê chuẩn quyết toán NSNN và NSĐP. Đây là một chức năng vốn có và mang tính

truyền thống của các cơ quan kiểm toán tối cao trên thế giới.

Ý kiến của KTNN được thể hiện chủ yếu thông qua báo cáo kiểm toán quyết

toán NSNN và báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm. Đối với báo cáo tổng hợp

kết quả kiểm toán năm, thực chất đây không phải là báo cáo kiểm toán mà là kết quả

tổng hợp hoạt động kiểmtoán trong thời gian một năm của KTNN.

Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm được lập trên cơ sở báo cáo kiểm toán

quyết toán NSNN và kết quả kiểm toán năm của các cuộc kiểm toán trong năm của

KTNN. Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm có thể được xem như là một bản

thông tin thẩm định, đánh giá trách nhiệm quản lý tài chính công, tài sản công của

các tổ chức, cá nhân trong phạm vi quốc gia. Báo cáo này phản ánh kết quả kiểm toán

quyết toán NSNN với các số liệu quyết toán thu, chỉ cân đối NSNN; các khoản thu,

48

chi quản lý qua NSNN, tình hình quản lý và sử dụng các quỹ tài chính ngoài NS, phần

vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Số liệu trong báo cáo mang tính tổng hợp ở tầm vĩ

mô, đưa lại cách nhìn khái quát về mức độ chấp hành pháp luật về NSNN. Qua đó

kiến nghị với CP, Thủ tướng CP chỉ đạo BTC, các Bộ, cơ quan trung ương, địa

phương, đơn vị được kiểm toán thực hiện đầy đủ, kịp thời kiến nghị của KTNN và

thực thi các biện pháp tích cực khắc phục những lỗi, sai sót mắc phải trong quá trình

quản lý, sử dụng nguồn lực công; kiến nghị với QH xem xét, phê chuẩn quyết toán

NSNN và nghiên cứu ban hành các văn bản theo thẩm quyền để nâng cao tính hiệu

lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng NSNN. Báo cáo tổnghợp kết quả kiểm toán năm

là một bản tổng hợp thông tin về kết quả kiểm toán của KTNN trong một năm, làm

cơ sở quan trọng giúp các cơ quan chuyên môn của QH thẩm tra quyết toán NSNN,

các đại biểu dân cử thực thi quyền và nhiệm vụ giám sát của mình và QH quyết định

phê chuẩn quyết toán NSNN.

KTNN giải trình về kết quả kiểm toán với QH và các cơ quan của QH theo quy

định của pháp luật. Việc giải trình kết quả kiểm toán nhằm làm rõ hơn một/một số

vấn đề cụ thể được QH quan tâm.

Ngoài việc cung cấp thông tin bằng cách gửi báo cáo kiểm toán, KTNN còn báo

cáo, giải trình, cung cấp tài liệu, nghiên cứu và trả lời các kiến nghị theo yêu cầu của

HĐDT, các Ủy ban của QH, Đoàn ĐBQH, ĐBQH; trả lời chất vấn của ĐBQH trước

QH hoặc UBTVQH về NSNN và quyết toán NSNN. Những thông tin này hỗ trợ đắc

lực cho các cơ quan của QH giám sát, thẩm tra quyết toán NSNN.

KTNN trình ý kiến để QH xem xét, quyết định phê chuẩn quyết toán NSNN

thông qua bản báo cáo kết quả kiểm toán QT NSNN hàng năm.

2.2.3 Thẩm tra quyết toán NSNN

Thẩm tra QT NSNN là một hoạt động mang tính chất chuyên môn được thực

hiện bởi các cơ quan của QH để phục vụ QH thực hiện nhiệm vụ phê chuẩn QT

NSNN.

Hiện nay trong các văn bản pháp luật chưa có định nghĩa về hoạt động thẩm tra

QT NSNN. Tuy nhiên, căn cứ vào tinh thần của các văn bản pháp luật hiện hành như

Luật NSNN năm 2015, Nghị quyết số 343/2017/UBTVQH14 ngày 19/01/2017,

49

UBTCNS của QH, HĐDT và các Ủy ban khác của QH tổ chức đánh giá, xem xét, có

ý kiến về BCQT NSNN do CP lập để phục vụ QH phê chuẩn quyết toán NSNN hằng

năm. Nội dung của báo cáo thẩm tra bao gồm những ý kiến thống nhất với báo cáo

của Chính phủ về quyết toán NSNN, ý kiến còn khác nhau và kiến nghị xử lý làm căn

cứ cho QH xem xét phê phuẩn quyết toán NSNN. Tuy nhiên vấn đề ở chỗ, trong khi

năng lực của cơ quan KTNN chưa được tăng cường thì bộ máy giúp việc cho

UBTCNS lại quá ít để có thể thực thi những nhiệm vụ nặng nề được giao (do các

thành viên làm nhiệm vụ chuyên trách quá ít trong khi phải đảm nhiệm rất nhiều công

việc liên quan đến tài chính NS kể cả việc thẩm tra các văn bản phápluật trình QH

liên quan đến TC-NS).

Đối với quyết toán NSNN năm 2017-2020, Ủy ban Tài chính, NS của QH đã

chủ trì thẩm tra BCQT NSNN của CP trình UBTVQH, QH.

Trên cơ sở đánh giá kết quả thu, chi và cân đối NSNN so với dự toán được QH

quyết định, đánh giá tính chính xác, trung thực, đầy đủ của số liệu quyết toán và việc

thực hiện chính sách tài khóa của năm NS, các báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính,

NS đã góp phần quan trọng để các Đại biểu QH, QH xem xét, phê chuẩn QT NSNN

hằng năm.

Trong công tác lập và giao dự toán NSNN, qua công tác thẩm tra quyết toán

NSNN các năm 2017-2020 đã chỉ ra rằng chất lượng công tác dự báo và xây dựng dự

toán còn hạn chế. Năm 2017, báo cáo thẩm tra đã chỉ ra rằng việc lập và giao dự toán

chưa sát thực tế, dẫn đến một số khoản thu vượt dự toán khá lớn song nhiều khoản

thu quan trọng từ sản xuất kinh doanh không đạt dự toán; một số khoản thu lập, giao

dự toán vượt quá khả năng thực hiện nên NS trung ương hụt thu năm thứ 3 liên tiếp,

tiếp tục có 33/63 địa phương hụt thu cân đối, tăng thêm so với năm 2016 là 21 địa

phương,...

Chi ĐTPT không đạt dự toán, sai phạm trong đầu tư xây dựng vẫn xảy ra khá

phổ biến ở hầu hết các khâu trong quá trình đầu tư. Giải ngân vốn đầu tư không đạt

kế hoạch; quản lý, sử dụng vốn đầu tư chưa đúng quy định vẫn diễn ra, thu hồi vốn

tạm ứng còn chậm.

50

Tỷ trọng chi thường xuyên vẫn ở mức cao, một số khoản chi quan trọng không

đạt dự toán (chi giáo dục, đào tạo và dạy nghề, chi sự nghiệp y tế, dân số và kế hoạch

hóa gia đình), chi chưa đúng chế độ vẫn còn tồn tại.

Chi chuyển nguồn NSNN lớn, có xu hướng gia tăng làm giảm hiệu quả sử dụng NS.

2.2.4 Phê chuẩn quyết toán NSNN

Phê chuẩn QT NSNN là nhiệm vụ của cơ quan dân cử đại diện cho nhân dân.

Dựa trên các báo cáo (báo cáo về thực hiện NS do CP, UBND trình; báo cáo của cơ

quan KTNN; và báo cáo thẩm tra của các ủy ban chức năng của QH, HĐND), QH,

HĐND sẽ thảo luận, xem xét, phê chuẩn QT NSNN. Việc phê chuẩn được thực hiện

thông qua hình thức Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán. Quyết toán NSNN được

phê chuẩn khi có đa số Đại biểu QH bỏ phiếu tán thành.

BCQT NSNN CP trình QH không chỉ bao gồm các biểu số liệu theo quy định,

mà CP phải có báo cáo thuyết minh, giải trình về tính hiệu lực, hiệu quả trong quản

lý, điều hành, sử dụng NS, đặc biệt đối với một số nhiệm vụ QH đã giao CP thực

hiện. Có thể thấy, các tài liệu thuyết minh, giải trình tính hiệu lực, hiệu quả trong

quản lý, sử dụng NS là tài liệu quan trọng để QH có bức tranh tổng thể về tình hình

NS trong năm, là căn cứ để QH xem xét, phê chuẩn QT NSNN.

BCQT NSNN được CP trình QH chậm nhất là 18 tháng sau khi kết thúc năm NS.

Sau khi BCQT được CP trình QH, các đại biểu QH xem xét, thảo luận tại tổ và

đưa ra ý kiến. Trên cơ sở ý kiến thẩm tra của UBTCNS tại báo cáo thẩm tra và ý kiến

thảo luận của các đại biểu QH tại Tổ về BCQT NSNN, Chính phủ sẽ có báo cáo tiếp

thu, giải trình làm rõ một số nội dung. Sau đó, Quốc hội cho biểu quyết đối với BCQT

do CP trình.

Bảng 2.2: Tỷ lệ tán thành của Đại biểu QH đối với quyết toán NSNN năm 2016-2020

Năm 2016 2017 2018 2019 2020

Tỷ lệ tán thành (%) 94,48 91,53 93,17 95,99 90,96

51

Đối với quyết toán NSNN năm 2020, ngày 15/6/2022 QH khóa XV, kỳ họp thứ

ba đã họp và biểu quyết với tỷ lệ 90,96% đại biểu đồng ý thông qua Nghị quyết số

53/2022/QH15 về phê chuẩn quyết toán NSNN năm 2020. Vẫn còn một số đại biểu

có ý kiến về quyết toán NSNN như: Có đại biểu cho rằng, dự toán chi ĐTPT phải

điều chỉnh 3 lần cho thấy công tác giao vốn kế hoạch còn chậm, ảnh hưởng tới việc

bố trí thanh toán cho các dự án đã hoàn thành; việc giao bổ sung cho một số bộ, ngành

vào thời điểm cuối năm cũng ảnh hưởng tới tiến độ giải ngân quyết toán. Nhiều ý

kiến cho rằng chuyển nguồn lớn, có xu hướng gia tăng, riêng chuyển nguồn năm 2020

sang năm 2021 chiếm tỷ trọng caotrong tổng chi NSNN (nếu tính theo số thực chi

chiếm tới 37,6% tổng chi NSNN), trong khi phải đi vay để bù đắp bội chi cho thấy

có sự lãng phí lớn trong hiệu quả sử dụng nguồn lực và làm giảm ý nghĩa của nguồn

vốn vay hằng năm,...

Năm NS 2020, Quốc hội đánh giá cao nỗ lực của CP trong điều kiện dịch Covid-

19 bùng phát, thiên tai,bão lũ xảy ra nghiêm trọng ở nhiều địa phương, đứt gãy chuỗi

cung ứng toàn cầu, tăng trưởng trên nhiều lĩnh vực chậm lại, giá dầu thô thấp hơn kế

hoạch, thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế, phí, gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền

thuê đất và nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, chính sách phòng chống

dịch, an sinh xã hội. Trong bối cảnh tình hình hết sức khó khăn nêu trên, kết quả thu

NSNN đạt xấp xỉ dự toán, bằng 98,1% dự toán, thu nội địa vượt 0,2% dự toán, tỷ

trọng thu nội địa đạt 85,6%, tăng so với năm trước, nợ thuế giảm 0,63%. Công tác

phân bổ, sử dụng, kiểm soátchi NSNN có nhiều đổi mới, đảm bảo chi các lĩnh vực

quan trọng, ưu tiên thực hiện các chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước

về an sinh xã hội, ứng phó kịp thời với dịch bệnh. Tỷ trọng chi thường xuyên giảm,

trả nợ vay đúng hạn, bội chi NS được điều hành quản lý chặt chẽ và thấp hơn dự toán

Quốc hội giao. Số liệu quyết toán NSNN năm 2020 cụ thể như sau:

- Thu NSNN: Dự toán thu NSNN 1.539.053 tỷ đồng, quyết toán 1.510.579 tỷ

đồng, giảm so với dự toán 1,9% (giảm 28.474 tỷ đồng).

- Chi NSNN: Dự toán chi NSNN 1.773.766 tỷ đồng, quyết toán 1.709.524 tỷ

đồng, bằng 96,4% (giảm 64.242 tỷ đồng) so với dựtoán, chủ yếu do một số khoản chi

52

triển khai chậm nên bị hủy dự toán hoặc chuyển nguồn sang năm sau chi tiếp theo

quy định của Luật NSNN.

- Bội chi NSNN: Dự toán bội chi NSNN 234.800 tỷ đồng, bằng 3,44% GDP;

quyết toán số bội chi NSNN là 216.406 tỷ đồng, bằng 3,44% GDP thực tế, giảm

18.394 tỷ đồng so với dự toán QH quyết định.

2.2.5 Công khai quyết toán ngân sách nhà nước

Theo quy định của Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn Luật về công khai

NS, sau khi Quyết toán NSNN được QH phê chuẩn, BTC sẽ ban hành Quyết định về

việc công bố công khai QT NSNN, đáp ứng yêu cầu về nội dung công khai (gồm

Quyết định của Bộ trưởng BTC, báo cáo thuyết minh và các biểu số liệu kèm theo);

hình thức công khai (đăng tải trên Cổng thông tin điện tử BTC, Công công khai

NSNN) và thời gian công khai (30 ngày kể từ ngày QH ban hành Nghị quyết phê

chuẩn quyết toán NSNN).

2.3. Đánh giá việc thực hiện quy trình quyết toán NS nhà nước hằng năm ở Việt

Nam giai đoạn 2016-2020

2.3.1 Ưu điểm

- KBNN với nhiệm vụ là kế toán thu, chi NSNN, định kỳ có trách nhiệm báo

cáo CQTC đồng cấp, Kho bạc cấp trên và các cơ quan liên quan. Nhờ có sự hỗ trợ

của hệ thống TABMIS, công tác hạch toán, kế toán thu, chi NSNN được thực hiện dễ

dàng, thuận lợi; các báo cáo thu, chi NSNN được gửi CQTC và các cơ quan liên quan

kịp thời, đầy đủ.

- Về số liệu QT, đảm bảo đầy đủ đối với các khoản mục thu và chi NSNN, số

liệu thu NSNN được tổng hợp vào quyết toán NSNN là số đã thực thu và hạch toán,

số liệu chi NSNN được tổng hợp vào quyết toán NSNN là số liệu đã thực chi đảm

bảo đủ các điều kiện chi của Luật NSNN. Việc thuyết minh số liệu quyết toán đã bảo

đảm được đầy đủ các nội dung về tình hình, bối cảnh kinh tế, tình hình thực hiện thu

NSNN và thực hiện các nhiệm vụ chi NSNN theo dự toán được giao, BCQT đã đánh

giá được bức tranh tổng thể về NSNN, thuyết minh về các nguyên nhân khách quan,

chủ quan đối với các lĩnh vực có số thu, chi tăng hoặc giảm so với dự toán được giao.

53

- Quyết toán NSNN đã được công khai, minh bạch

Cùng với xu thế hội nhập với nền kinh tế quốc tế, chúng ta đã dần cải thiện được

tính minh bạch đối với các thông tin về NS trong đó các thông tin về quyết toán

NSNN. Điều 15, Luật NSNN cũng đã quy định về công khai quyết toán NSNN. Quyết

toán NSNN đã được kiểm toán đảm bảo được mức độ tin cậy của thông tin trước khi

công bố. Báo cáo kết quả kiểm toán quyết toán NSNN được công bố công khai.

- Hệ thống mẫu biểu quyết toán NSNN rõ ràng, cụ thể và được hướng dẫn chi

tiết tại Nghị quyết số 343/2017/UBTVQH14 ngày 19/01/2017 của UBTVQH giúp

cho việc giám sát, thảo luận, xem xét của các cơ quan dân cử được dễ dàng hơn. Nội

dung, mẫu biểu BCQT đã cơ bản phản ánh được thực tế của ĐVDT và NS các cấp

chính quyền, các chỉ tiêu báo cáo khoa học dễ hiểu, đáp ứng phân tích đánh giá tình

hình thực hiện so với dự toán được cơ quan có thẩm quyền quyết định. Mẫu biểu báo

cáo vừa chi tiết, vừa tổng hợp đã cung cấp nhiều thông tin giúp cơ quan có thẩm

quyền xem xét, kiểm tra, duyệt, thẩm định QT cũng như thẩm tra, xem xét phê chuẩn

quyết toán.

2.3.2 Hạn chế

- Việc tổng hợp số liệu và thuyết minh, giải trình về quyết toán NSNN gặp khó

khăn do hệ thống các mẫu biểu báo cáo được tổng hợp từ nhiều đầu mối là các Vụ,

Cục, Tổng cục thuộc BTC như Vụ NSNN, Vụ Tài chính hành chính sự nghiệp, Vụ

Đầu tư, Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính, Vụ I, Cục Quản lý nợ và

TCĐN, Cục Quản lý công sản, Cục Tài chính doanh nghiệp, Tổng cục Hải quan,

Tổng cục Thuế, Tổng cục Dự trữ Nhà nước. Đồng thời, các chỉ tiêu của hệ thống mẫu

biểu QT được xem xét, đánh giá trên nhiều góc độ, do đó rất phức tạp khi tổng hợp,

thuyết minh, giải trình số liệu.

- Các chỉ tiêu của hệ thống mẫu biểu QT được tổng hợp từ kết quả thẩm định

quyết toán của CQTC, do đó thời gian tổng hợp đầy đủ các số liệu QT NSNN kéo

dài, vì vậy tác dụng của công tác thẩm định số liệu quyết toán đối với các bộ, ngành,

địa phương của CQTC không cao, không hữu ích đối với các cơ quan có thẩm quyền

khi xem xét quyết định dự toán cho các năm NS tiếp theo.

54

- Theo Luật NSNN 2015, phạm vi, nội dung quyết toán NSNN đã được quy

định đầy đủ hơn, các đơn vị đã có thuyết minh, giải trình hiệu quả sử dụng NS, tuy

nhiên chưa chưa thực sự đầy đủ, rõ ràng. Thực tế cho thấy, chức năng đôn đốc, hướng

dẫn các ĐVDT cấp I thuộc NSTW và NSĐP hoàn thành BCQT NSNN đúng thời hạn

vẫn chưa được quan tâm đúng mức. CQTC các cấp chưa sử dụng triệt để, hiệu quả

công cụ chế tài “tạm đình chỉ chi NS” của các cơ quan, tổ chức, ĐVDTNS cùng cấp

không chấp hành đúng chế độ báo cáo kế toán, BCQT theo quy định tại Khoản 2 Điều

63, Luật NSNN để thúc đẩy các đơn vị nộp báo cáo đầy đủ, đúng hạn.

-Với việc tăng đầu mối các đơn vị giao dịch với KBNN, các sai sót về mặt số

liệu trong khâu tổng hợp vẫn còn xảy ra, dẫn đến các báo cáo KBNN tổng hợp gửi

BTC vẫn phải cập nhật và thay đổi. Bên cạnh đó, các ĐVSDNS vẫn chưa quan tâm,

chú trọng tới việc rà soát, đối chiếu số liệu với KBNN giao dịch, không thông báo

với KBNN giao dịch khi có sự thay đổi, cần điều chỉnh số liệu thu, chi NSNN, từ đó

dẫn đến thực tế số liệu giữa báo cáo của đơn vị và số liệu hạch toán, kế toán trên hệ

thống TABMIS còn chênh lệch. KBNN cần rất nhiều thời gian để kiểm tra, rà soát và

điều chỉnh số liệu đảm bảo chính xác, vì vậy số liệu KBNN gửi CQTC và các cơ quan

liên quan phải thay đổi nhiều lần.

- Hầu hết các ĐVSDNS không thực hiện nhiệm vụ thuyết minh, giải trình số

liệu quyết toán NSNN, hoặc có thuyết minh nhưng không phân tích đầy đủ, thấu đáo

theo quy định gửi cơ quan cấp trên để tổng hợp gửi CQTC, dẫn đến hiệu quả, chất

lượng và mục đích của công tác QT không được đảm bảo. Bên cạnh đó, những vướng

mắc trong công tác quyết toán chậm được tháo gỡ do không có phản ánh rõ ràng từ

cơ quan thực hiện với cơ quan soạn thảo chính sách chế độ.

- Đối với những bộ, cơ quan trung ương có nhiều ĐVDT cấp II, III thì việc xét

duyệt quyết toán không bảo đảm đầy đủ về số lượng, chất lượng xét duyệt quyết toán

không cao do cán bộ ít, thời gian có hạn trong khi khối lượng xét duyệt từng khoản

thu, chi NSNN quá nhiều.

- Thời gian dành cho hoạt động thẩm tra còn rất hạn hẹp. Quy trình hiện nay

cho thấy, có sức ép về thời gian rất lớn để hoàn thành báo cáo thẩm tra trình ra QH.

55

Thời gian khoảng 1 tuần (thậm chí chỉ vài ngày) để UBTCNS chủ trì thẩm tra cùng

với HĐDT và các Ủy ban khác của QH là quá ngắn. Điều đó ảnh hưởng đến chất

lượng thẩm tra, trong khi kết quả thẩm tra làm cơ sở để các đại biểu QH thảo luận,

xem xét quyết định phê chuẩn QT NSNN, thảo luận tại Tổ và Hội trường.

- Theo quy định, QH thực hiện phê chuẩn QT NSNN, HĐND các cấp chịu trách

nhiệm phê chuẩn QT NSĐP mình. Trong khi quyết toán lại được tổng hợp từ cơ sở

trên cơ sở QT của cấp dưới đã được HĐND phê chuẩn và của các đơn vị thu hưởng

NS cấp mình. Quyết toán NSNN được tổng hợp từ NSĐP đã được HĐND cấp tỉnh

phê chuẩn và BCQT của các bộ, cơ quan trung ương sau khi được thẩm định hoặc

phê duyệt quyết toán. Nếu xét theo cơ cấu chi giữa NSTW và NSĐP, thì chi NSĐP

chiếm khoảng 48% tổng chi cân đối NSNN, có nghĩa là QH phê chuẩn quyết toán đã

có gần một nửa số chi đã được HĐND cấp dưới phê chuẩn. Sự phê chuẩn trùng lắp

này một mặt giảm hiệu lực phê chuẩn của cấp dưới mặt khác tạo nên sự chồng chéo

trong phê chuẩn quyết toán NSNN.

2.3.3 Nguyên nhân

2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan

- Nguyên nhân thứ nhất, mô hình quản lý NS của Việt Nam lồng ghép, quy trình

tổng hợp, lập BCQT NSNN phức tạp, được thực hiện ở nhiều cấp NS

Với mô hình quản lý NS lồng ghép, NSNN bao gồm NSTW và NSĐP. BCQT

NSNN được tổng hợp từ BCQT của các Bộ, ngành và các BCQT NSĐP đã được

HĐND phê chuẩn. Quy trình tổng hợp, lập BCQT NSNN nêu trên qua nhiều khâu,

mất rất nhiều thời gian.

Đối với NSTW, một số Bộ, cơ quan trung ương (ví dự như Bộ Tài chính, Bộ

Công an, Bộ Quốc phòng) là những cơ quan có cơ cấu tổ chức gồm nhiều cấp dự

toán, khoảng 03 đến 04 cấp dự toán; nhiều Bộ, cơ quan trung ương có các đơn vị trực

thuộc có trụ sở các tỉnh, thành phố khác nhau; trong khi đó, công tác tổng hợp, lập

báo cáo quyết toán NSNN của các Bộ, cơ quan trung ương được thực hiện bắt đầu từ

cấp cơ sở là đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách và thực hiện theo thứ tự lần lượt từ

56

đơn vị cấp dưới lên đơn vị cấp trên; vì vậy, mất rất nhiều thời gian, công sức và rất

khó đảm bảo thời hạn gửi Bộ Tài chính theo quy định.

Đối với NSĐP, gồm 3 cấp NS: NS cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh. Tương tự

NSTW, QT NSĐP cũng được thực hiện bắt đầu từ cấp cơ sở là ĐVSDNS và thực

hiện theo thứ tự lần lượt từ NS cấp dưới lên NS cấp trên, từ NS cấp xã tới NS cấp

huyện và NS cấp tỉnh. Ở mỗi cấp NS, HĐND thực hiện phê chuẩn quyết toán NS cấp

mình, đồng thời phê duyệt lại QT của NS cấp dưới đã được HĐND cấp dưới phê

chuẩn, rồi tổng hợp và gửi cấp trên xem xét, phê duyệt. Điều này cho thấy, quy trình

tổng hợp quyết toán NSĐP vừa chồng chéo, vừa phức tạp và mất rất nhiều thời gian.

- Nguyên nhân thứ hai, quy định về xét duyệt QT NSNN còn phức tạp, chồng

chéo, chưa hiệu quả, chưa đề cao trách nhiệm của đơn vị trực tiếp sử dụng NS

Theo quy định tại Điều 66 Luật NSNN, cơ quan thực hiện xét duyệt QT là

ĐVDT cấp trên xét duyệt quyết toán của ĐVDT cấp dưới trực thuộc; trường hợp

ĐVDT cấp I đồng thời là ĐVSDNS thì CQTC cùng cấp duyệt quyết toán NS đối với

ĐVDT cấp I cùng cấp. Nội dung xét duyệt quyết toán bao gồm việc xét duyệt từng

khoản thu, chi phát sinh tại đơn vị đảm bảo đúng quy định pháp luật và các chứng từ

thu, chi phải hợp pháp; do đó, tạo ra khối lượng công việc rất lớn cho ĐVDT cấp trên.

Đối với các Bộ, cơ quan trung ương có nhiều đơn vị trực thuộc ở các tỉnh, thành

phố khác nhau, một số đơn vị đặc thù có cơ quan đại diện ở nước ngoài có khoảng

cách địa lý, múi giờ chênh lệch lớn, nên rất khó khăn trong công tác xét duyệt quyết

toán NSNN.

Đối với các Bộ, cơ quan trung ương (ĐVDT cấp I) có cơ cấu tổ chức gồm nhiều

cấp dự toán (3 cấp dự toán trở lên): ĐVDT cấp I thực hiện xét duyệt tất cả các khoản

thu, chi của ĐVDT cấp II trực thuộc; ĐVDT cấp II xét duyệt tất cả các khoản thu, chi

của ĐVDT cấp III trực thuộc; ĐVDT cấp III xét duyệt tất cả các khoản thu, chi của

ĐVSDNS trực thuộc. Như vậy, các khoản thu, chi của ĐVSDNS chịu sự xét duyệt

của ĐVDT cấp III (ĐVDT cấp trên trực tiếp), ĐVDT cấp II và ĐVDT cấp I theo quy

định, trong khi ĐVDT cấp II và ĐVDT cấp I không thể kiểm tra tất cả các khoản thu,

chi của ĐVSDNS trực thuộc ĐVDT cấp III.

57

Theo quy định nêu trên, việc xét duyệt quyết toán còn đặt nặng trách nhiệm cho

các ĐVDT cấp trên và CQTC (trong trường hợp ĐVDT cấp I đồng thời là ĐVSDNS)

vừa trùng lắp trách nhiệm và mất rất nhiều thời gian; trong khi Luật NSNN 2015 đã

quy định rõ trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN.

- Nguyên nhân thứ ba, quy định về thẩm định quyết toán NSNN còn chồng chéo

giữa trách nhiệm của ĐVDT cấp trên, ĐVSDNS và CQTC các cấp

Theo quy định tại Điều 67 Luật NSNN, cơ quan thẩm định quyết toán là CQTC

các cấp thẩm định quyết toán của ĐVDT cấp I thuộc NS cấp mình; CQTC cấp tỉnh,

cấp huyện thẩm định QT của NS cấp dưới.

Thực tế, khi thẩm định quyết toán, CQTC chỉ kiểm tra số liệu quyết toán tăng,

giảm so với dự toán được cấp có thẩm quyền giao để đưa ra nhận xét về công tác

quyết toán, đồng thời xin ý kiến KBNN đồng cấp về số liệu đã được hạch toán, kế

toán trên hệ thống TABMIS theo quy định.

Khi thẩm định QT, trường hợp phát hiện có sai sót, CQTC yêu cầu đơn vị xét

duyệt quyết toán (ĐVDT cấp I) điều chỉnh lại số liệu QT; đối với QT NS cấp dưới,

CQTC cấp trên yêu cầu UBND cấp dưới trình HĐND cùng cấp điều chỉnh lại số liệu

QT. Việc điều chỉnh số liệu quyết toán làm kéo dài thời gian thực hiện hoạt động

quyết toán NSNN.

Mặt khác, BCQT NSNN của ĐVDT cấp I (đối với NSTW và NSĐP) đã được

Thủ trưởng ĐVDT cấp I phê duyệt, chịu trách nhiệm và được kiểm toán bởi KTNN;

BCQT của NS cấp dưới đã được HĐND cấp dưới phê chuẩn, chịu trách nhiệm và

được kiểm toán bởi KTNN. Do đó, quy định thẩm định quyết toán NSNN của CQTC

các cấp đối với ĐVDT cấp I thuộc NS cấp mình và CQTC cấp tỉnh, cấp huyện thẩm

định QT của NS cấp dưới làm tăng thêm khâu trung gian chịu trách nhiệm về công

tác quản lý, sử dụng NSNN của các đơn vị trực tiếp sử dụng NSNN; tạo sự chồng

chéo giữa trách nhiệm của ĐVDT cấp trên, ĐVSDNS và CQTC các cấp.

- Về việc ứng dụng công nghệ thông tin:

Hiện nay, mỗi Bộ, cơ quan trung ương, ĐP thực hiện công tác kế toán, QT

NSNN bằng các phần mềm kế toán khác nhau, chưa có sự kết nối liên thông, thống

nhất giữa ĐVDT, Bộ, ngành, địa phương (các cấp) với CQTC, KBNN.

58

Thực tế công tác quyết toán thời gian vừa qua, căn cứ số liệu QT NSTW của

các Bộ, cơ quan trung ương đã được Bộ Tài chính thẩm định và số liệu QT NSĐP đã

được HĐND cấp tỉnh phê chuẩn; Bộ Tài chính tổng hợp, lập BCQT NSNN bằng

phương pháp thủ công theo các mẫu biểu quy định tại Nghị quyết số

343/2017/UBTVQH14 của UBTVQH để trình QH phê chuẩn quyết toán NSNN, chưa

có phần mềm dành riêng cho công tác tổng hợp, lập BCQT NSNN trình các cơ quan

có thẩm quyền theo quy định. Vì vậy, để đảm bảo số liệu chính xác, cần rất nhiều

thời gian cho công tác tổng hợp quyết toán NSNN.

2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan

- Một số Vụ, Cục thuộc BTC chưa thực sự quan tâm đến công tác QT NSNN

Công tác thẩm định QT NSNN cho các bộ, cơ quan trung ương chưa đảm bảo

thời hạn quy định; việc triển khai, tổ chức phối hợp với bộ, cơ quan trung ương chưa

hiệu quả, dẫn đến việc rà soát, đối chiếu số liệu quyết toán còn chậm. Cùng một thời

điểm các cán bộ thường ưu tiên xử lý các nhiệm vụ về triển khai phân bổ dự toán

được giao, điều hành và quản lý NSNN, vì vậy dành rất ít thời gian để tập trung xử

lý các vướng mắc trong công tác QT NSNN.

- Một số Bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực và

thời gian cho công tác QT NSNN

Một số Bộ, ngành, địa phương chưa đảm bảo thời gian xét duyệt QT cho các

đơn vị cấp dưới trực thuộc, dẫn đến việc tổng hợp số liệu quyết toán ĐVDT cấp I

chậm và không đảm bảo thời gian nộp BCQT về BTC trước ngày 01/10 năm sau theo

quy định.

Không ít lãnh đạo các đơn vị liên quan thuộc các bộ, ngành, địa phương chưa

thật sự quan tâm chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực và thời gian cho công tác tổng hợp, lập

và thẩm định BCQT NSNN dẫn đến chất lượng, hiệu quả công tác quyết toán NS tại

một số đơn vị rất hạn chế, phải bổ sung hồ sơ, tài liệu nhiều lần trong quá trình BTC

thẩm định QT NSNN (ví dụ như như thiếu các Thông báo xét duyệt QT của các đơn vị

trực thuộc, thiếu xác nhận số dư của KBNN nơi giao dịch, chưa thuyết minh đầy đủ các

59

nội dung theo quy định...),làm ảnh hưởng đến tiến độ của công tác tổng hợp số liệu

QT NSNN.

Thực tế đối với công tác QT năm 2019: đến ngày 15/12/2020 Bộ Lao động

Thương binh Xã hội chưa gửi Thông báo thẩm định QT năm 2019 cho các đơn vị

trực thuộc; chưa ký biên bản thẩm định với BTC; đến hết ngày 28/2/2021 KBNN

chưa nhận được thông báo thẩm định quyết toán Chương trình Xúc tiến du lịch quốc

gia của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; đối với quyết năm 2020 đến hết ngày

28/2/2022 KBNN chưa nhận được Thông báo thẩm định quyết toán của Văn phòng

trung ương Đảng. Đối với một số bộ, cơ quan trung ương chưa chấp hành thời hạn

nộp báo cáo, BTC đã áp dụng chế tài tạm đình chỉ chi NSNN theo quy định tại Khoản

2, Điều 34 của Luật NSNN cho đến khi nhận được BCQT của đơn vị.

Một số bộ, cơ quan trung ương chưa chủ động phối hợp với các Vụ, Cục quản

lý tài chính chuyên ngành để kiểm tra, đốichiếu số liệu và chuẩn bị sớm cho công tác

QT NSNN, vì vậy số liệu QT NSNN còn chênh lệch nhiều và mất nhiều thời gian để

tìm ra nguyên nhân.

- Một số Bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm, chỉ đạo ĐVSDNS điều chỉnh

số liệu QT NSNN theo quy định

Thông tư số 137/2017/TT-BTC ngày 25/12/2017 của BTC quy định: ĐVSDNS

phải có trách nhiệm điều chỉnh số liệu quyết toán với KBNN nơi giao dịch theo Thông

báo xét duyệt quyết toán của ĐVDT cấp trên hoặc Thông báo xét duyệt quyết toán

của CQTC cùng cấp.

Tuy nhiên, trong thực tế công tác QT NSNN các năm qua, các Bộ, ngành, địa

phương chưa quan tâm, chỉ đạo ĐVSDNS phối hợp với KBNN nơi giao dịch thực

hiện điều chỉnh số liệu quyết toán theo quy định, dẫn đến số liệu trên hệ thống TAMIS

chênh lệch so với số liệu QT NSNN của các năm tiếp theo, gây khó khăn, vướng mắc

cho công tác quyết toán các năm tiếp theo.

60

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH QUYẾT TOÁN NS

NHÀ NƯỚC HẰNG NĂM TRÌNH QUỐC HỘI

3.1. Định hướng hoàn thiện quy trình quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm

Việc hoàn thiện quy trình QT NSNN hằng năm cần được tiến hành theo những

định hướng chủ yếu sau:

Một là, tăng tính chủ đạo của NSTW và tính chủ động của NSĐP.

Hai là, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng

NSNN.

Ba là, nâng cao tính chủ động, tự chịụ trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của

đơn vị trực tiếp sử dụng NSNN.

Bốn là, làm rõ trách nhiệm của ĐVDT cấp trên và CQTC các cấp trong việc xét

duyệt, thẩm định BCQT NSNN.

Năm là, đẩy mạnh công tác hậu kiểm sau quyết toán NSNN.

3.2. Nguyên tắc hoàn thiện quy trình quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm

3.2.1 Nguyên tắc bảo đảm tính pháp lý

Quy trình quyết toán NSNN được xây dựng bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý và

phải tôn trọng tính tối cao của hiến pháp, luật và các quy định khác của pháp luật.

Quy trình quyết toán NSNN được xây dựng căn cứ theo các quy định tại Luật NSNN,

Nghị quyết của UBTVQH, Nghị định của CP, các Thông tư hướng dẫn của BTC và

các bộ, cơ quan có liên quan. Mỗi bước trong quy trình quyết toán NSNN vừa độc

lập, vừa có mối liên hệ với nhau, không mâu thuẫn chồng chéo, bảo đảm tính hợp

pháp và phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Nguyên tắc bảo đảm tính pháp lý khi xây dựng quy trình quyết toán NSNN là

nguyên tắc quan trọng hàng đầu, nguyên tắc này nhằm bảo đảm tránh những sai sót

về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và trách nhiệm của mỗi cơ quan, đơn vị trong công

tác QT NSNN. Nguyên tắc bảo đảm tính pháp lý là nguyên tắc quyết định đến tính

khả thi của quy trình QT NSNN.

61

3.2.2. Nguyên tắc bảo đảm tính tuân thủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết

toán ngân sách nhà nước

Quy trình quyết toán NSNN được xây dựng căn cứ theo các quy định của Luật

NSNN, Nghị quyết của UBTVQH, Nghị định của CP, Thông tư của BTC về thẩm

quyền, trình tự, thủ tục của các cơ quan, đơn vị trong việc lập, gửi BCQT NSNN hàng

năm, cũng như trách nhiệm xét duyệt, thẩm định và tổng hợp, báo cáo, thuyết minh,

giải trình với các cấp có thẩm quyền.

Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, các cơ quan, đơn vị thực hiện theo đúng

thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định, đảm bảo không có sự mâu thuẫn, chồng

chéo. Đồng thời, trong quá trình triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình,

cần có sự kết hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên quan, giúp công tác quyết

toán NSNN hoàn thành đúng thời gian quy định, đảm bảo chất lượng, góp phần tăng

cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý TC, NS quốc gia.

3.2.3 Nguyên tắc thống nhất

Nguyên tắc thống nhất là một yêu cầu căn bản khi xây dựng quy trình quyết

toán NSNN, đảm bảo để nội dung từng bước trong quy trình được thực hiện nhất

quán, giúp cho công tác tổng hợp, lập BCQT được triển khai dễ dàng, phù hợp với

các quy định pháp luật, không mâu thuẫn, không chồng chéo, từ đó đảm bảo tính khả

thi và nâng cao chất lượng của công tác quyết toán NSNN.

Để đảm bảo tính thống nhất của quy trình quyết toán NSNN, đòi hỏi khi xây

dựng quy trình phải căn cứ vào các quy định của pháp luật như Hiến pháp, Luật, Nghị

quyết, Nghị định, Quyết định, Thông tư, đồng thời căn cứ vào các văn bản hướng dẫn

thực hiện của BTC. Theo đó, đối với từng bước trong quy trình, cần phải xác định rõ

ràng, cụ thể và hợp lý trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong việc tổng hợp, báo

cáo, cũng như thuyết minh, giải trình số liệu quyết toán NSNN. Tính thống nhất cần

được đảm bảo đối với quy trình QT NSNN của từng bộ, ngành, địa phương, đồng

thời cần có thống nhất giữa các cấp NS từ trung ương đến địa phương.

62

3.2.4 Nguyên tắc khoa học

Theo nguyên tắc này thì nội dung của các bước trong quy trình quyết toán

NSNN phải được xây dựng căn cứ theo các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời

về hình thức bố cục, cấu trúc, cách thức trình bày các bước trong quy trình phải mang

tính khoa học. Mỗi bước trong quy trình quyết toán NSNN phải được sắp xếp lôgíc,

hợp lý, mang tính hệ thống, thống nhất trong quy trình. Nội dung các bước trong quy

trình phải chính xác, biểu đạt rõ ràng, dễ hiểu.

Nguyên tắc khoa học là yêu cầu chung đối với quá trình thực hiện công tác QT

NSNN, giúp loại trừ những mâu thuẫn, bảo đảm tính thống nhất giữa các quy định

pháp luật. Tính khoa học trong xây dựng quy trình quyết toán NSNN đòi hỏi các bước

trong quy trình phải đầy đủ, chính xác, đúng quy định của pháp luật, giữa các bước

có mối quan hệ chặt chẽ, đảm bảo tính khả thi, giúp thu thập tin tức, xử lý thông tin,

tiếp thu ý kiến thuyết minh, giải trình của các cơ quan, đơn vị liên quan để nâng cao

chất lượng công tác quyết toán NSNN. Xâydựng quy trình QT NSNN trên cơ sở khoa

học chính là điều kiện để bảo đảm tính hiệu lực và hiệu quả thực tế của quy trình.

3.2.5 Nguyên tắc thực tiễn

Bất luận trong khía cạnh nào, các quy định pháp luật cũng là sự nhận thức chủ

quan của con người đối với thế giới khách quan, con người nhận thức tồn tại xã hội

rồi đưa ra các quy tắc xử sự chung là các quy định pháp luật. Do vậy, quy trình quyết

toán NSNN vừa phải căn cứ theo đúng các quy định của pháp luật, đồng thời vừa phải

đảm bảo phù hợp với thực tiễn, phát huy vai trò tích cực của pháp luật đối với hoạt

động thực tế vận động và phát triển của xã hội.

Để đảm bảo nguyên tắc thực tiễn trong xây dựng quy trình QT NSNN, cần thiết

phải nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị có liên quan, tổng hợp,

rút kinh nghiệm qua kết quả thực tế của công tác quyết toán NSNN các năm vừa qua,

làm cơ sở để xây dựng quytrình QT NSNN phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực

tiễn của các cơ quan, đơn vị có liên quan. Thực hiện tốt nguyên tắc thực tiễn sẽ giúp

quy trình quyết toán NSNN có tính khả thi và mang lại hiệu quả cao.

63

3.3 Giải pháp hoàn thiện quy trình quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm

trình Quốc hội

3.3.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý là yếu tố quan trọng tạo điều kiện để các giải pháp hoàn

thiện quy trình quyết toán NSNN được thực thi. Để hoàn thiện quy trình quyết toán

NSNN thì phải tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, sửa đổi, hoàn thiện một số

điều của Hiến pháp, Luật có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của các cơ quan có liên

quan đến quản lý NSNN nói chung và quyết toán NSNN nói riêng.

Theo quy định hiện hành, quy trình và thời gian quyết toán NSNN được quy

định cụ thể tại Luật NSNN, Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn Luật NSNN,

Luật Đầu tư công. Vì vậy, để thực hiện rút ngắn thời gian, quy trình QT NSNN, cần

trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung quy định của Luật NSNN, Luật Đầu tư công

và các văn bản hướng dẫn Luật NSNN, Luật Đầu tư công.

Bên cạnh đó, tiếp tục cải cách quản lý tài chính công, cải cách hành chính NN

để hoạt động của bộ máy NN hiệu quả. Để thực hiện được như vậy đòi hỏi phải đơn

giản các thủ tục, cải tiến quy trình làm việc, quy trình công tác. Trong quyết toán

NSNN điều này hết sức có ý nghĩa, đảm bảo cho công tác QT NSNN minh bạch,

giảm bớt các khâu trung gian, chống chồng chéo, trùng lắp trong lập quyết toán, phê

chuẩn quyết toán.

3.3.2. Xây dựng phương án rút ngắn quy trình, thời gian quyết toán NSNN

hằng năm

Theo quan niệm về quyết toán NSNN như đã trình bày ở phần trên cho thấy,

trình tự công tác quyết toán bao gồm công việc của nhiều cơ quan, đơn vị từ khâu

chuẩn bị quyết toán đến khâu phê chuẩn QT NSNN. Chỉ đến khi QT NSNN được QH

phê chuẩn và công bố công khai thì công việc quyết toán mới được hoàn tất và trách

nhiệm của CP về năm NS mới được giải toả.

64

Hình 3.1: Quy trình quyết toán NS nhà nước hằng năm

Để đảm bảo tính khả thi của phương án trình QH xem xét, phê chuẩn QT NSNN

hằng năm vào kỳ họp cuối năm tiếp theo, rút ngắn 6 tháng so với quy định hiện hành,

cần sửa đổi, bổ sung quy định của Luật NSNN, trong đó quy trình, thời gian QT

NSNN cụ thể như sau:

Bước 1: ĐVSDNS chốt số liệu quyết toán NSNN với KBNN và tổng hợp quyết

toán gửi ĐVDT cấp trên

Kết thúc năm NS, ĐVSDNS phải thực hiện khoá sổ kế toán NS, xử lý NS cuối

năm để lập quyết toán NSNN, tức là lập BCQT NSNN.

Số liệu ĐVSDNS thực hiện khóa sổ NS và tổng hợp, báo cáo số liệu QT NSNN

hằng năm: Hết ngày 31 tháng 01 năm sau.

BCQT NSNN gồm các biểu số liệu quyết toán được trình bày theo các nội dung

chỉ tiêu dự toán đã được các cơ quan có thẩm quyền quyết định và báo cáo thuyết

minh, giải trình số liệu quyết toán NSNN. Việc lập quyết toán NSNN cũng tuân theo

quy trình, chuẩn mực, hệ thống bảng biểu riêng và được quy định cụ thể để bảo đảm

tính thống nhất.

Bước 2: ĐVDT cấp trên xét duyệt BCQT cho ĐVDT cấp dưới trực thuộc

Sau khi khóa sổ kế toán NSNN, các ĐVDT cấp trên xét duyệt số liệu QT cho

các ĐVDT cấp dưới trực thuộc và đảm bảo thời hạn các Bộ, ngành, địa phương gửi

Bộ Tài chính BCQT NSNN chậm nhất ngày 01 tháng 8 năm sau.

65

Bước 3: Gửi Bộ Tài chính BCQT NSNN

a) Đối với NSTW:

Các ĐVDT cấp I thuộc NSTW lập BCQT thu, chi NS thuộc phạm vi quản lý

gửi về BTC chậm nhất ngày 01 tháng 8 năm sau.

Từ ngày 01 tháng 02 đến ngày 30 tháng 7 (06 tháng) là thời gian để ĐVDT cấp

I xét duyệt, tổng hợp BCQT NSNN của các ĐVSDNS cấp dưới và gửi BTC.

b) Đối với NSĐP:

UBND cấp tỉnh gửi Bộ Tài chính BCQT NSĐP đã được HĐND cấp tỉnh phê

chuẩn: Chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày HĐND cấp tỉnh phê chuẩn QT

NSĐP, UBND cấp tỉnh gửi QT NSĐP đến BTC chậm nhất ngày 01 tháng 8 năm sau.

HĐND cấp tỉnh quyđịnh cụ thể thời hạnphê chuẩn QT NSĐP, đảm bảo thời gian

gửi BTCBCQT NSĐP chậm nhất ngày 01 tháng 8 năm sau.

Để đảm bảo thời gian gửi Bộ Tài chính BCQT NSĐP đã được HĐND phê chuẩn

chậm nhất ngày 01 tháng 8 năm sau thì thời gian quyết toán các cấp NSĐP thực hiện

như sau:

- Từ ngày 01 tháng 02 đến ngày 31 tháng 5 năm sau (04 tháng): Thời gian để

NS cấp xã xét duyệt NS cấp xã, tổng hợp và trình HĐND cấp xã phê chuẩn để gửi

NS cấp huyện về chậm nhất ngày 01 tháng 6 năm sau.

- Từ ngày 01 tháng 02 đến ngày 30 tháng 6 năm sau (05 tháng): Thời gian để

NS cấp huyện xét duyệt NS cấp huyện, tổng hợp và trình HĐND cấp huyện phê chuẩn

để gửi NS cấp tỉnh chậm nhất ngày 01 tháng 7 năm sau.

- Từ ngày 01 tháng 02 đến ngày 31 tháng 7 năm sau (06 tháng): Thời gian để

NS cấp tỉnh xét duyệt NS cấp tỉnh, tổng hợp và trình HĐND cấp tỉnh phê chuẩn để

gửi BTC chậm nhất ngày 01 tháng 8 năm sau.

Để đảm bảo thời hạn các Bộ, ngành, địa phương gửi BCQT NSNN cho BTC

chậm nhất ngày 01 tháng 8 năm sau, cần bổ sung, sửa đổi Luật NSNN 2015 theo hướng

66

bỏ quy định CQTC các cấp thẩm định QT năm của các ĐVDT cấp I thuộc NS cấp mình

và bỏ quy định CQTC cấp tỉnh, cấp huyện thẩm định QT năm của NS cấp dưới.

Bước 4: BTC kiểm tra, rà soát số liệu QT của các Bộ, cơ quan trung ương,

địa phương

BTC không thẩm định QT của các Bộ, ngành. BTC xét duyệt QT đối với trường

hợp các Bộ, cơ quan trung ương (ĐVDT cấp I) đồng thời là ĐVSDNS.

BTC kiểm tra, rà soát số liệu QT của các Bộ, cơ quan trung ương và số liệu QT

NSĐP đã được HĐND tỉnh phê duyệt trong thời hạn 01 tháng: Từ ngày 01 tháng 8

đến hết 31 tháng 8 năm sau.

Bước 5: BTC tổng hợp, lập BCQT NSNN trình CP và gửi KTNN

BTC tổng hợp, lập BCQT NSNN trình CP và gửi KTNN chậm nhất 9 tháng sau

khi kết thúc năm NS.

Thời gian BTC thực hiện rà soát số liệu quyết toán NSTW, NSĐP và tổng hợp,

lập BCQT NSNN trong 02 tháng: Từ ngày 01 tháng 8 đến ngày 30 tháng 9 năm sau.

Bước 6: Kiểm toán BCQT NSNN

Quyết toán NSNN không chỉ là tài liệu quan trọng chứa đựng các yếu tố về tài

chính - NS quốc gia mà còn là tài liệu mang tính chuyên môn cao. Do đó, nếu thiếu

sự kiểm tra của một cơ quan chuyên môn độc lập với cơ quan chấp hành thì việc xem

xét, phê chuẩn QT NS của cơ quan quyền lực chỉ mang ý nghĩa hợp thức hóa cho phù

hợp với dựtoán đã quyết định trước đó. Vì vậy, để đảm bảo độ tin cậy của

BCQTNSNN trước khi trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê chuẩn, đòi hỏi phải

được kiểm toán để xác nhận tính đúng đắn, trungthực của số liệu QT NSNN, tính

kinh tế, tính tuân thủ pháp luật và hiệu quả của các hoạtđộng quản lý tài chính, NS.

KTNN thực hiện kiểm toán BCQT NSNN đã được BTC tổng hợp, lập: Từ ngày

01 tháng 10 năm sau, KTNN thực hiện việc kiểm toán BCQT NSNN để trình QH

cùng với BCQT NSNN. KTNN thực hiện kiểm toán sớm hơn 5 tháng so với quy định

hiện hành (Luật NSNN 2015 quy định, BTC tổng hợp, lập BCQT NSNN và gửi

67

KTNN chậm nhất là 14 tháng kể từ thời điểm kết thúc năm NS, vì vậy thời gian kiểm

toán BCQT NSNN do BTC gửi từ ngày 01 tháng 3 năm sau nữa).

Bước 7: BCQT NSNN trình các cấp có thẩm quyền

Trình UBTVQH:BCQT trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội chậm nhất là 10

tháng sau khi kết thúc năm NS.

Ủy ban Tài chính - NS của QH thực hiện thẩm tra BCQT NSNN CP trình

UBTVQH, trong đó xem xét về các mẫu biểu BCQT NSNN theo chỉ tiêu giao dự

toán được giao. CP lập BCQT NSNN trình QH gồm 19 biểu phụ lục theo quy định từ

mẫu biểu số 58 đến mẫu biểu số 76 quy định tại Nghị quyết số 974/2020 của

UBTVQH.

Trình QH: BCQT trình Quốc hội chậm nhất là 12 tháng sau khi kết thúc năm NS.

Phê chuẩn QT NSNN là trách nhiệm của cơ quan dân cử đại diện cho nhân dân.

Dựa trên các báo cáo (báo cáo về thực hiện NS do CP, UBND trình; báo cáo của cơ

quan KTNN; và báo cáo thẩm tra của các Ủy ban chức năng của QH, HĐND), QH,

HĐND sẽ thảo luận, xem xét, phê chuẩn QT NSNN. Việc phê chuẩn được thực hiện

thông qua hình thức Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán. Quyết toán NSNN được

phê chuẩn khi có đa số Đại biểu QH bỏ phiếu tán thành.

BCQT NSNN CP trình QH không chỉ bao gồm các biểu số liệu theo quy định,

mà CP phải có báo cáo thuyết minh, giải trình về tính hiệu lực, hiệu quả trong quản

lý, điều hành, sử dụng NS, đặc biệt đối với một số nhiệm vụ QH đã giao CP thực

hiện. Có thể thấy, các tài liệu thuyết minh, giải trình tính hiệu lực, hiệu quả trong

quản lý, sử dụng NS là tài liệu quan trọng để QH có bức tranh tổng thể về tình hình

NS trong năm, là căn cứ để QH xem xét, phê chuẩn quyết toán NSNN.

QH xem xét, phê chuẩn BCQT NSNN: Để giảm áp lực cho QH và các cơ

quan của QH tại kỳ họp cuối năm khi vừa phải xem xét, quyết định dự toán NS của

năm sau, đồng thời phải xem xét, phê chuẩn quyết toán NS của năm trước, CP trình

QH xem xét, phê chuẩn QT NS của năm trước vào kỳ họp bất thường sau kỳ họp

cuối năm.

68

Bước 8: Công khai QT NSNN

Công khai QT NSNN là bước cuối cùng của quy trình quyết toán NSNN. Sau

khi quyết toán NSNN được QH, HĐND phê chuẩn, CP, UBND có nghĩa vụ công

khai quyết toán NSNN để xã hội và công chúng có thể tiếp cận với số liệu, tài liệu

quyết toán NS. Việc công bố công khai quyết toán NSNN phải kèm theo báo cáo kết

quả kiểm toán quyết toán NSNN.

Phương án rút ngắn thời gian, quy trình quyết toán NSNN nêu trên có một số

điểm khác so với quy trình hiện tại, đó là việc bỏ quy định về tính lồng ghép của

NSNN, bỏ quy định về việc BTC thẩm định quyết toán của các bộ, cơ quan trung

ương; sửa đổi thời gian cácbước của quy trình QT NSNN hằng năm.

Có thể nhận thấy, việc rút ngắn thời gian, quy trình QT NSNN hằng năm có ảnh

hưởng, tác động từ ĐVSDNS đến các cơ quan quản lý cấp trên của tất cả các Bộ, cơ

quan trung ương và địa phương. Xuất phát từ yêu cầu của QH và từ thực tiễn công

tác quyết toán NSNN các năm qua cho thấy, việc hoàn thiện quy trình tổng hợp, lập

BCQT NSNN nhằm rút ngắn thời gian trình QH phê chuẩn quyết toán NSNN hằng

năm là cần thiết, hướng tới mục đích quản lý NSNN ngày càng công khai, minh bạch

và hiệu quả.

3.3.3. Xây dựng, hoàn thiện chế độ kế toán nhà nước

Để thực hiện quyết toán NSNN thì một khâu vô cùng quan trọng là kế toán các

khoản thu, chi NS diễn ra trong năm NS. Thực chất hoạt động kế toán các khoản thu

chi NS chính là việc ghi chép, phản ánh, tổng hợp đầy đủ, kịp thời, liên tục và có hệ

thống các khoản thu, chi NS. Nếu khâu hạch toán kế toán tốt sẽ làm cho số liệu rõ

ràng, chính xác, kịp thời, từ đó quyết định chất lượng của hoạt động QT và phân tích,

đánhgiá NSNN hay nó ảnh hưởng tới việc thực hiệnquy trình QT NSNN.

Kế toán NSNN cần phải được hoàn thiện theo các chuẩn mực về kế toán công

quốc tế. Hiện nay, hầu hết các quốc gia, tổ chức hạch toán và tổng hợp quyết toán

NSNN áp dụng theo chuẩn quốc tế của Quỹ tiền tệ thế giới đề ra trong cuốn sổ tay

thống kê tài chính CP. Các quốc gia sẽ sử dụng hệ thống số liệu theo tiêu chuẩn này

để thực hiện các công khai và giao dịch quốc tế.

69

Để hoàn thiện hệ thống kế toán cần phải nghiên cứu để thiết kế phù hợp, đáp

ứng được các yêu cầu quản lý theo hướng thống nhất giữa kế toán quỹNS, kế toán ở

các cấp NS, kế toán tại các ĐVSDNS. Phương án tối ưu là ban hành một chế độ tổng

kế toán nhà nước thống nhất để áp dụng đối với các đơn vị làm nhiệm vụ quản lý NS,

quản lý quỹNS và đơn vị chi tiêu NS.

Các chỉ tiêu hạch toán báo cáo cần được thiết kế đồng nhất giữa các cơ quan để

đảm bảo tính so sánh, đánh giá được. Việc thiết kế cũng tính tới mức độ chi tiết của

hệ thống số liệu báo cáo kể cả các chỉ tiêu cần kế toán theo nguyên tắc dồn tích như

các khoản nợ, các khoản chi cam kết, các khoản chuyển nguồn, các khoản thuế miễn

giảm, thuế nợ đọng, nguồn vốn hình thành các tài sản tại các ĐVSDNS.

Cụ thể, một số nội dung cần bổ sung vào chế độ kế toán như sau:

- Về kế toán nguồn lực TC:

Để phản ánh đầy đủ, kịp thời nguồn lực tài chính và số nguồn lực đã phân bổ,

số chưa phân bổ, cần kế toán hai nội dung sau: Kế toán tổng nguồn lực theo dự toán

thu được QH, HĐND quyết định và tình hình phân bổ sử dụng nguồn lực này. Với

việc kế toán hai nội dung trên, cho biết tổng nguồn lực của mỗi cấp NS, số đã phân

bổ, số chưa phân bổ, giúp cho các cấp có thẩm quyền có đầy đủ thông tin, minh bạch

về nguồn lực, từ đó có quyết định quản lý NS phù hợp, kịp thời.

- Về kế toán nguồn NS được chuyển năm sau:

Để kế toán NSNN lập được cân đối nguồn NSNN thì phải kế toán nguồn NSNN

được cấp có thẩm quyền cho phép (hoặc theo chế độ quy định) được chuyển sangnăm

sau. Chế độ kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN thực hiện theo Thông tư

số 77/2017/TT-BTC. Trong đó quy định hạch toán kế toán theo tổ hợp kế toán gồm

12 phân đoạn và 43 ký tự. Tuy nhiên, lại chưa có phân đoạn nào theo dõi mã niên độ.

Để theo dõi được chi tiết tạm ứng và tình hình thanh toán tạm ứng của năm trước

chuyển sang có thể sử dụng phân đoạn mã dự phòng như đã thực hiện với tài khoản

tiền gửi.

- Kế toán tài khoản tiền gửi có nguồn gốc từ NS:

70

Theo chế độ kế toán hiện nay tiền gửi không theo dõi tạm ứng, thực chi, không

chi tiết mục lục NS vì vậy khó xác định, bóc tách các nội dung được phép chuyển

nguồn. Công văn số 760/KBNN-KTNN ngày 28/2/2018 của KBNN để đảm bảo xác

định số dư kinh phí tài khoản tiền gửi NS thuộc diện được chuyển nguồn đã hướng

dẫn hạch toán bổ sung các phân đoạn mã nguồn, mã niên độ. Tuy nhiên, khi tổng hợp

từ cấp dưới lên cấp trên để thực hiện giảm chi năm trước, tăng chi năm sau rất khó

khăn vì việc cấp kinh phí có thể từ ĐVDT cấp 1 hoặc từ ĐVDT cấp 2, theo hình thức

rút dự toán hoặc lệnh chi tiền. Trước mắt, để thực hiện chuyển nguồn đối tài khoản

tiền gửi, căn cứ theo số tổng hợp của ĐVDT cấp 1, thực hiện điều chỉnh niên độ các

khoản chi tại KBNN nơi đơn vị cấp 1 mở tài khoản giao dịch theo hình thức dự toán

hoặc lệnh chi tiền. Lâu dài, tài khoản tiền gửi cũng theo dõi chi tiết như đối với tài

khoản dự toán.

- Về kế toán số tiền đã hạch toán chi NS nhưng chi sai chế độ:

Để bảo đảm kế toán NSNN lập được cân đối nguồn NSNN và quỹ NS, cần phải

“kế toán” được khoản chi đã hạch toán chi NSNN nhưng khi duyệt, kiểm tra, kiểm

toán, QT, cơ quan có thẩm quyền không cho QT, phải thu hồi đủ cho NSNN (coi đây

là khoản phải thu).

Thực tế, có một số các khoản chi đã thực chi tại KBNN nhưng đơn vị chưa đủ

điều kiện để quyết toán. Về nguyên tắc, các khoản chi này sẽ phải chuyển sang năm

sau để quyết toán. Để hạn chế tình trạng này, đề xuất hạn chế các khoản cấp bằng lệnh

chi tiền, chuyển dần sang hình thức dự toán. Đối với các khoản chi thuộc lĩnh vực bảo

mật, cần quy định chi tiết danh mục bảo mật để tăng cường việc kiểm soát chi qua

KBNN, xác định chính xác các khoản thực chi hay tạm ứng.

3.3.4. Công khai, minh bạch thông tin quản lý, điều hành và sử dụng ngân sách

Để đảm bảo hội nhập với khu vực và quốc tế, đòi hỏi quyết toán NSNN phải

minh bạch. Do vậy việc hoàn thiện quy trình quyết toán NSNN phải chú ý đến những

yếu tố minh bạch của NS. Khi quyết toán NSNN được minh bạch bảo đảm sự giám

sát của cộng đồng đối với NS. Quan điểm minh bạch đòi hỏi hệ thống BCQT phải

đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu. Báo cáo trước khi trình QH, HĐND xem xét phê chuẩn

71

phải được kiểm toán; việc kiểm toán phải được tuân theo chuẩn mực kiểm toán được

thừa nhận.

Đáp ứng yêu cầu công khai, minh bạch cũng là yêu cầu mà các chủ đầu tư, các

nhà tài trợ nước ngoài luôn đặt ra để CP phải đáp ứng. Minh bạch TC-NS còn là xu

thế tất yếu mà cơ quan lập pháp, xã hội và công chúng đặt ra, là yêu cầu đòi hỏi để

các đại biểu dân cử, các cử tri có thể tiếp cận thông tin quản lý TC của CP. Trong

điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao và tham

gia giám sát ngày càng sâu các hoạt động quản lý của NN, đặt ra cho các cấp có thẩm

quyền yêu cầu về tính minh bạch trong quản lý tài chính - NS. Các yêu cầu này đòi hỏi

việc hoàn thiện quy trình quyết toán NSNN luôn phải chú trọng đến tính minh bạch từ

việc thiết kế hệ thống mẫu biểu quyết toán đến việc thuyết minh, giải trình, tổ chức

kiểm toán, công bố công khai hệ thống thông tin quyết toán. Một số giải pháp nhằm

minh bạch thông tin liên quan đến phạm vi quyết toán thu, chi NSNN như sau:

- Về cơ sở số liệu để tổng hợp quyết toán NSNN:

Về thu NSNN: Tại Khoản 2, Điều 65, Luật NSNN số 83/2015/QH13 quy định:

Số QT thu NSNN là số thuđã thực nộpvà số thu đã hạch toán thu NSNN theo quy

định. Vì vậy, số QT thu NSNN lấy theo số KBNN báo cáo (có đối chiếu rà soát với

số quyết toán của địa phương, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế. Trường hợp không

khớp nhau, tìm nguyên nhân chênh lệch để xử lý).

Về chi NSNN: Tại Khoản 2, Điều 65, Luật NSNN số 83/2015/QH13 quy định:

Số QT chi NSNN là số chi đã thực thanh toán và số chi đã hạch toán chi NSNN theo

quy định. Vì vậy, về cơ sở số liệu để tổng hợp quyết toán NSNN, đề xuất lấy theo số

liệu báo cáo KBNN sau khi đã đối chiếu xác nhận với ĐVSDNS còn CQTC kiểm tra

sau. Như vậy sẽ rút ngắn thời gian so với trước kia và tăng trách nhiệm của đơn vị và

của KBNN.

- Về nội dung, phạm vi lập quyết toán NSNN:

Luật NSNN quy định lập BCQT theo đúng các nội dung ghi trong dự toán năm

được giao. Vì vậy, BTC lập, tổng hợp BCQT trình CP, QH phải dựa vào nội dung chỉ

tiêu thu, chi trong cân đối theo quy định tại Nghị quyết số 343/2017/NQ-UBTVQH14

72

ngày 19/01/2017 của UBTVQH và Nghị quyết của QH về dự toán NS hàng năm (ở

địa phương cũng thực hiện tương tự). Do NSNN, NSĐP không phải là một cấp NS,

mà được tổng hợp từ quyết toán NS các cấp chính quyền theo nội dung được cấp trên

giao dự toán, những khoản chi từ nguồn năm trước được chuyển sang không có trong

dự toán năm trước nên so sánh không cùng phạm vi, không có ý nghĩa quản lý. Đề

xuất số chi này đưa vào dự toán ngân sách năm mới, để khắc phục tồn tại trên.

- Các khoản khoán chi cho các ngành căn cứ vào số thu NSNN:

Các khoản khoán chi từ hoạt động nghiệp vụ của KBNN, NHNN hay một số

ngành khác căn cứ vào số thu NSNN nhằm tạo điều kiện để nâng cao cơ sở vật chất

cho ngành, đáp ứng xu thế hội nhập. Các khoản này cần phải được phản ánh trong

cân đối thu, chi NSNN hàng năm và trình cấp có thẩm quyền quyếtđịnh. Có như vậy

mới phản ánh đầy đủ số thực thu, chi NSNN hàng năm theo quy định của Luật NSNN.

- Các khoản chi ứng trước dự toán:

Các khoản chi ứng trước dự toán, về thực chất được xác định đây là khoản chi

của NSNN. Hiện nay các khoản chi ứng trước dự toán không được tập hợp và báo

cáo với QH, HĐND các cấp. Do đó, đề nghị trong thời gian trước mắt, các khoản chi

từ nguồn ứng trước dự toán cần phải lập báo cáo kèm với QT NSNN hàng năm. Báo

cáo phải chi tiết cho từng công trình, từng cơ quan TW, địa phương ứng trước dự toán

và thời hạn thu hồi của dự toán ứng trước. Các khoản ứng trước dự toán trước khi báo

cáo phải được kiểm toán để đảm bảo mức độ tin cậy của thông tin trước khi trình cơ

quan nhà nước có thẩm quyền.

Về lâu dài cần sửa đổi Luật NSNN, xoá bỏ quy định ứng trước dự toán NS năm

sau. Để đảm bảo đẩy nhanh việc thực hiện các công trình đầu tư từ nguồn vốn NSNN

cần xác định nhu cầu đầu tư rõ ràng, đảm bảo đầu tư tập trung trên cơ sở nguồn lực

hiện có và đảm bảo các thứ tự ưu tiên đối với các công trình xây dựng, tránh đầu tư

dàn trải nhiều công trình trong khi nguồn vốn NSNN luôn có hạn. Thực hiện giải

pháp này đảm bảo cho việc quản lý NS được chặt chẽ hơn. Quyết toán NSNN hàng

năm phản ánh một cách đầy đủ hơn số thực chi của NSNN cho việc thực hiện các

nhiệm vụ KT-XH của nhà nước trong năm NS.

73

3.3.5. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong thực hiện quy trình

quyết toán ngân sách nhà nước

3.3.5.1 Đối với CQTC

CQTC đảm nhận trách nhiệm quản lý tài chính - NS, chịu trách nhiệm quản lý

NS, kết thúc năm NS chịu trách nhiệm QT NS để trình cơ quan hành pháp xem xét

trước khi trình các cơ quan dân cử phê chuẩn. Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải nâng cao

năng lực và hiệu lực trong quản lý NSNN. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của

việc nâng cao năng lực quản lý là nâng cao trình độ và khả năng của cán bộ, cần tăng

cường đào tạo cán bộ nghiệp vụ để họ có khả năng tiếp cận với tư duy mới, công nghệ

mới trong quản lý NS, đồng thời tiếp cận với các chuẩn mựcquốc tế về quản trị tài

chính kế toán và có thể vận hành trong quản lý tài chính ở Việt Nam.

3.3.5.2 Đối với cơ quan KBNN

KBNN là cơ quan vừa thực hiện nhiệm vụ kế toán thu, chi NSNN, vừa thực hiện

lập, tổng hợp BCQT NSNN trình các cấp có thẩm quyền, vì vậy có vai trò rất lớn trong

công tác quyết toán NSNN. KBNN cần hướng dẫn các KBNN giao dịch phối hợp chặt

chẽ với ĐVSDNS để điều chỉnh số liệu kế toán, quyết toán NSNN theo đúng kiến nghị

của KTNN và đảm bảo chính xác với Thông báo thẩm định quyết toán của BTC.

Có thể nhận thấy, số liệu kế toán thu, chi NSNN trên hệ thống TABMIS ngày

càng trở thành yếu tố quan trọng để KBNN thẩm định số liệu QT NSNN của các bộ,

cơ quan trung ương và kiểm tra QT NSĐP. Để thành công trong hoạt động quyết toán

NSNN, đòi hỏi KBNN phải có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các Vụ, Cục, Tổng

cục thuộc Bộ để kiểm tra, đối chiếu số liệu thu, chi NSNN đảm bảo đúng quy định

của Luật NSNN, làm căn cứ tổng hợp BCQT NSNN đầy đủ, kịp thời,chính xác.

3.3.5.3 Tại các ĐVSDNS

Thủ trưởng các ĐVSDNS cần phải quán triệt cán bộ tôn trọng kỷ luật, kỷ cương

trong quản lý và sử dụng NSNN. Có thể thấy, tăng cường kỷ luật trong quản lý NS là

giải pháp quan trọng đảm bảo quyết toán NSNN được hoàn thiện hơn. Các ĐVSDNS

cần phối hợp chặt chẽ với KBNN giao dịch để kiểm tra, đối chiếu số liệu đảm bảo

chính xác, đặc biệt là các số liệu điều chỉnh theo kiến nghị của KTNN. Đồng thời,

74

khi nhận được Thông báo thẩm định quyết toán NSNN của BTC và cơ quan cấp trên,

các đơn vị cần phối hợp với KBNN giao dịch để điều chỉnh số liệu chính xác với số

liệu tại Thông báo thẩm định quyết toán NSNN theo quy định.

Các cấp NS, các ĐVSDNS phải tuân thủ đúng các quy định về quản lý NS nói

chung và quyết toán NSNN nói riêng, thực hiện đầy đủ các nguyên tắc quản lý NS,

các khoản thu, chi NS chỉ được thực hiện khi đảm bảo các quy định của pháp luật và

được kiểm soát chặt chẽ theo quy định.

Để tăng cường kỷ luật trong quản lý NS, ngoài việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản

lý, phổ biến pháp luật thì cần thiết phải tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát các

hoạt động quản lý NS. Việc tăng cường sự giám sát của các cơ quan dân cử, công

chúng và xã hội đối với quản lý NS cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu

nhằm nâng cao kỷ luật quản lý NS.

3.3.6. Nâng cao chất lượng thẩm tra quyết toán ngân sách nhà nước

Thẩm tra QT NSNN là một bước trong quy trình quyết toán NSNN. Để hoàn

thiện quy trình quyết toán NSNN đòi hỏi hoạt động thẩm tra phải được chú trọng,

cụ thể:

Một là, dành thời gian nhiều hơn cho công tác thẩm tra, thảo luận về NS. Cơ

quan thẩm tra cần phối hợp tham gia sớm, ngay từ đầu khi tổng hợp, xây dựng dự

toán và QT NSNN hằng năm để nắm bắt thông tin và kịp thời tham mưu trong công

tác thẩm tra.

Hai là, cần có định hướng trong công tác thẩm tra. Bám sát đường lối, chủ

trương của Đảng và các quy định của pháp luật để đề xuất chính sách vĩ mô đối với

những vấn đề quan trọng của quốc gia, gồm cả chính sách NS đã diễn ra trước khi

thẩm tra về những vấn đề cụ thể.

Ba là, cần nâng cao chất lượng thông tin một cách chính xác,đầy đủ; đổi mới

cung cấp thông tin cho QH thông qua lựa chọn thông tin qua hoạt động giám sát. Cần

sử dụng một cách có hiệu quả các kết quả giám sát của QH, kết quả của KTNN, Thanh

tra CP, Thanh tra chuyên ngành,... để có thông tin phục vụ thẩm tra.

Bốn là, cần có các cán bộ chuyên môn nghiệp vụ am hiểu nhiệm vụ phát triển

kinh tế - xã hội; các chế độ, chính sách, định mức phân bổ NS và tiêu chuẩn, định

75

mức chi NS; tình hình thực hiện NSNN của các bộ, cơ quan trung ương, tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương,... để tham mưu trong công tác thẩm tra.

Năm là, tăng cường trao đổi, làm việc giữa UBTCNS của QH và các bộ, ngành,

địa phương để thường xuyên nắm bắt thông tin làm cơ sở cho công tác thẩm tra.

UBTCNS của QH chủ động phối hợp với Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của QH,

BTC, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, KTNN và các cơ quan của CP để tiếp thu, giải trình ý

kiến có cơ sở khoa học và thực tiễn.

3.3.7. Tổ chức đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ

Để công tác kế toán, quyết toán NSNN phát huy vai trò trong quy trình quản lý

tài chính - NS, cần phải nâng cao năng lực đội ngũ kế toán tại các cơ quan quản lý

thu, chi NS, cơ quan quản lý quỹ NS và ĐVSDNS; chú trọng đào tạo, đào tạo lại, bồi

dưỡng các nghiệp vụ chuyên môn về kế toán tài chính, và quản lý NSNN như: chế độ

kế toán nhà nước áp dụng tại cơ sở, cách thức lập dự toán thu, chi NS, thực hiện, chấp

hành NS và các quy trình lập BCQT NSNN. Từ đó nâng cao năng lực của cán bộ làm

công tác NS, đặc biệt là ở cấp cơ sở (cấp xã). Đây là cấp còn nhiều bất cập trong quản

lý NS hiện nay.

Ngoài ra cũng cần phải xây dựng cơ chế khen thưởng, xử phạt trong thực hiện

nhiệm vụ. Việc khen thưởng phải thực hiện kịp thời để động viên, khuyến khích công

chức trong thi hành nhiệm vụ. Bên cạnh việc khen thưởng cũng cần có chế tài xử phạt

những trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ.

3.3.8. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin là yếu tố quan trọng để quy trình

quyết toán NSNN được thực hiện có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng công tác

quyết toán NSNN. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quyết toán

NSNN những năm qua đã đạt được một số kết quả đáng kể. Để công tác tin học hỗ

trợ tốt hơn cho công tác quyết toán NSNN trong thời gian tới, cần đẩy mạnh ứng dụng

công nghệ thông tin theo hướng sau:

- Hoàn thiện các chương trình ứng dụng phục vụ quản lý điều hành NSNN và

hoạt động nghiệp vụ KBNN. Riêng lĩnh vực quyết toán NSNN:

76

+ Xây dựng hệ thống mẫu biểu quyết toán NSNN áp dụng cho phần mềm kế

toán của các ĐVSDNS, đảm bảo thực hiện thống nhất, đúng mẫu biểu quy định, tạo

thuận lợi trong công tác tổng hợp quyết toán NSNN.

+ Xây dựng một kênh thông tin trên mạng máy tính để công khai quy trình, thủ

tục dự toán, quyết toán NSNN qua KBNN. Làm như vậy vừa công khai, minh bạch

quy trình quản lý quyết toán NSNN vừa có thể giúp các ĐVSDNS có thể cập nhật

ngay các thông tin mới khi có những thay đổi về quy trình, thủ tục quản lý quyết toán

NSNN.

+ Hiện nay, việc tổng hợp BCQT NSNN được thực hiện từ dưới lên trên nên

mất khá nhiều thời gian để tổng hợp tại các ĐVDT cấp 1 cũng như tại các cấp NS.

Tại CQTC, số liệu thu chi NSNN định kỳ được giao diện từ hệ thống TABMIS sang

chương trình quản lý NS để lập BCQT và các báo cáo phục vụ điều hành cho quản lý

NS. Việc xây dựng một hệ thống tích hợp giữa quản lý và quyết toán NSNN thì sẽ

tạo điều kiện để tổng hợp số liệu, phân tích tình hình TC-NS và là điều kiện quan

trọng đểnâng cao chất lượng quản lý TC-NS, quyết toán NSNN được nâng cao. Đây

cũng là một nhân tố để góp phần giảm thời gian tổng hợp và phê chuẩn BCQT NSNN.

- Các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các đơn vị cấp dưới trực thuộc và ĐVSDNS

phối hợp với KBNN để kiểm tra, đối chiếu số liệu QT NSNN của cơ quan, đơn vị

mình với số liệu thu, chi NSNN đã được hạch toán, kế toán trên hệ thống TABMIS.

Trường hợp số liệu chênh lệch, ĐVSDNS cần chủ động, khẩn trương phối hợp với

KBNN nơi giao dịch để điều chỉnh số liệu QT NSNN đảm bảo đầy đủ, chính xác,

đúng quy định.

- Các cán bộ làm công tác quyết toán cần được tăng cường đào tạo về công nghệ

thông tin để có thể khai thác, sử dụng tốt các chương trình phục vụ công tác quyết

toán NSNN.

3.4. Kiến nghị

3.4.1. Quốc hội

Hiện nay, các bước của quy trình tổng hợp, lập và trình BCQT NSNN đang

được quy định cụ thể tại LuậtNSNN năm 2015. Vì vậy, để thực hiện rút ngắn thời

77

gian, quy trình QT NSNN, QH cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật ngân

sách nhà nước, cụ thể như sau:

- Sửa đổi, bổ sung quy định để nâng cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của

các cấp chính quyền trong công tác tổng hợp, lập BCQT và phê chuẩn quyết toán NS

các cấp

Để giảm sự chồng chéo và nâng cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của mỗi

cấp chính quyền với NS của cấp mình trong công tác tổng hợp, lập và phê chuẩn

quyết toán NSNN, cần sửa đổi, bổ sung quy định của Luật NSNN để tăng tính độc

lập của các cấp NS, cụ thể:

+ Đối với QT NSĐP: Tại mỗi cấp NS, HĐND họp để xem xét, phê duyệt QT

của NS cấp tương ứng, không thực hiện phê duyệt lại QT của NS cấp dưới đã được

HĐND cấp dưới phê duyệt.

+ Đối với ngân sách trung ương: Quốc hội xem xét, phê chuẩn QT NSTW. Quốc

hội không phê duyệt lại QT NSĐP đã được HĐND các cấp phê duyệt.

- Bỏ quy định CQTC các cấp thẩm định quyết toán NSNN: để giảm sự chồng

chéo của các cấp trong việc thẩm định QT và tăng cường trách nhiệm của đơn vị trực

tiếp sử dụng NS, CQTC các cấp không thẩm định QT NSNN, cụ thể:

+ Đối với NSTW: BTC không thực hiện thẩm định QT của các Bộ, cơ quan

trung ương. Trường hợp ĐVDT cấp I đồng thời là ĐVSDNS thì BTC xét duyệt QT

cho đơn vị dự toán cấp I.

+ Đối với QT NSĐP: CQTC các cấp không thực hiện thẩm định QT của các

ĐVDT cấp I thuộc NS cấp mình. CQTC cấp tỉnh, cấp huyện không thực hiện thẩm

định QT của NS cấp dưới. CQTC cấp tỉnh, cấp huyện tổng hợp QT của NS cấp dưới;

trong quá trình tổng hợp QT NSĐP, trường hợp phát hiện có sai sót, CQTC cấp tỉnh,

cấp huyện yêu cầu UBND cấp dưới trình HĐND cùng cấp điều chỉnh lại số liệu.

- Sửa đổi, bổ sung quy định về xét duyệt QT NSNN hằng năm của hai Ngân

hàng chính sách

78

Bổ sung quy định đặc thù đối với việc xét duyệt QT NSNN hằng năm của hai

Ngân hàng chính sách, giao cho Hội đồng quản trị hai Ngân hàng chính sách chịu

trách nhiệm xét duyệt QT NSNN hằng năm.

Đồng thời, sửa đổi trách nhiệm của BTC thực hiện kiểm tra số cấp bù lãi suất

và phí quản lý theo quy định về chế độ quản lý TC đối với hai Ngân hàng chính sách.

- Sửa đổi, bổ sung quy định để tăng cường trách nhiệm của ĐVSDNS như sau:

“Thủ trưởng ĐVSDNS chịu trách nhiệm toàn bộ về việc quản lý, sử dụng

NSNN, đảm bảo sử dụng NS theo dự toán được giao, đánh giá kết quả thực hiện

nhiệm vụ, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức

chi NS; chứng từ chi NSNN đảm bảo đúng quy định của pháp luật.”

- Sửa đổi, bổ sung quy định để tăng trách nhiệm giải trình của các Bộ, ngành,

địa phương và ĐVSDNS như sau:

“Các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương và đơn vị trực tiếp sử dụng NSNN có

trách nhiệm giải trình trước KTNN, CP, cơ quan của QH, QH và các cơ quan có thẩm

quyền về việc quản lý, sử dụng NSNN theo quy định.”

- Sửa đổi thời gian thực hiện các bước của quy trình lập, xét duyệt, tổng hợp,

trình QT NSNN như đã nêu mục 3.3.2.

- Sửa đổi, bổ sung quy định của các Luật khác: Sửa đổi, bổ sung quy định của

Luật Bảo hiểm Y tế, Luật Đầu tư công..., đảm bảo đồng bộ, thống nhất với quy định

của Luật NSNN sửa đổi, cụ thể như sau:

+ Đối với Luật Bảo hiểm Y tế:

Sửa đổi quy định về thời gian thẩm định quyết toán năm đối với Quỹ Bảo hiểm

y tế tại điểm d Khoản 2 Điều 32 Luật Bảo hiểm Y tế, trong đó thời hạn xét quyết toán

năm của Quỹ Bảo hiểm y tế và thanh toán số kinh phí chưa sử dụng hết (nếu có) đối

với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được thực hiện phù hợp với quy

định của Luật NSNN sửa đổi, đảm bảo thời hạn Bảo hiểm Xã hội Việt Nam gửi

BTCBCQT NSNN trước ngày 01 tháng 8 năm sau.

+ Đối với Luật Đầu tư công:

79

Sửa đổi quy định tại Điều 68 Luật Đầu tư công năm 2019: “Thời gian thực hiện

và giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công hằng năm đến ngày 31/01 năm sau. Trường

hợp bất khả kháng, Thủ tướng CP quyết định đối với vốn NS trung ương, HĐND cấp

tỉnh quyết định đối với vốn NSĐP cho phép kéo dài thời gian thực hiện nhưng không

quá 31/12 năm sau”.

Luật Đầu tư công sửa đổi quy định thời gian Thủ tướng CP quyết định đối với

vốn NS trung ương, HĐND cấp tỉnh quyết định đối với vốn NSĐP cho phép kéo dài

thời gian thực hiện phù hợp với quy định của Luật NSNN sửa đổi, đảm bảo thời hạn

các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương gửi Bộ Tài chính BCQT NSNN trước ngày

01 tháng 8 năm sau.

+ Sửa đổi về thời gian KTNN gửi Báo cáo kiểm toán quyết toán NSNN, báo

cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm đến QH, UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các Ủy

ban của QH chậm nhất là 10 tháng sau khi kết thúc năm NS.

3.4.2 Chính phủ

- Tiếp tục cải cách quản lý tài chính công, cải cách hành chính NN để hoạt động

của bộ máy NN hiệu quả. Để thực hiện được như vậy đòi hỏi phải đơn giản các thủ

tục, cải tiến quy trình làm việc, quy trình công tác. Trong quyết toán NSNN điều này

hết sức có ý nghĩa, đảm bảo cho công tác QT NSNN minh bạch, giảm bớt các khâu

trung gian, chống chồng chéo, trùng lắp trong lập quyết toán, phê chuẩn quyết toán.

- Tuyên truyền, giáo dục để công chúng, dư luận hiểu rõ về quản lý tài chính

nhà nước, tham gia giám sát hoạt động của CP trong đó có hoạt động quản lý tài

chính, quyết toán NSNN từ đó tạo sức ép để CP cải tiến hoạt động của mình. Để dân

chúng hiểu được trách nhiệm giải trình của CP thì việc tuyên truyền, giáo dục để nhân

dân hiểu rõ, đón nhận những thông tin công khai của CP sẽ tác động quan trọng đến

quản lý tài chính của CP nói chung, công tác quyết toán NSNN nói riêng.

- Tăng cường công khai, minh bạch trong quản lý NS: Một trong những nguyên

tắc của quyết toán NS là minh bạch hệ thống thông tin quyết toán. Hệ thống báo cáo

phải rõ ràng, dễ hiểu để các đại biểu dân cử và mọi người dân đều có thể tiếp cận khi

có nhu cầu. Thông tin phải được công bố công khai và trách nhiệm giải trình phải

80

được nâng cao. Tuy nhiên chính việc công khai minh bạch cũng sẽ là điều kiện để

quyết toán NS được nâng cao chất lượng và ngày càng đi vào nề nếp. Trước sức ép,

yêu cầu của đại biểu dân cử các cấp, sức ép của dư luận về tính rõ ràng, chính xác

của thông tin sẽ là điều kiện để cơ quan quảnlý NS, CP và UBND các cấp phải cải

tiến công tác quản lý NS, cải tiến công tác quyết toán để có thể báo cáo trước cơ quan

dân cử một cách đầy đủ hơn, chi tiết và rõ ràng hơn các chỉ tiêu, các nội dung về quản

lý NS. Thông tin quyết toán được minh bạch cũng thúc đẩy đội ngũ cán bộ nghiệp vụ

quản lý tài chính, kế toán, NS phải luôn trau dồi trình độ, tăng cường trách nhiệm hơn

đối với những nhiệm vụ mà mình được giao phó, hạn chế được những sai sót hoặc

báo cáo thiếu thông tin quyết toán.

- Đối với các tổ chức, cá nhân không chấp hành đúng chế độ báo cáo tài chính,

quyết toán, CP cần xây dựng và áp dụng chế tài xử lý đối với các trường hợp này

cho đến khi nhận được báo cáo, đồng thời thông báo cho KBNN, tổ chức, cá nhân

có liên quan.

- Việc rút ngắn thời gian, quy trình QT NSNN có tác động lớn đến các Bộ, cơ

quan trung ương, địa phương, đặc biệt đối với các Bộ, cơ quan trung ương có cơ cấu

tổ chức gồm nhiều cấp dự toán. Vì vậy, trong thời gian chưa sửa Luật NSNN 2015,

CP trình QH giao CP thực hiện thí điểm Bước xét duyệt quyết toán tại một số Bộ, cơ

quan trung ương có nhiều cấp dự toán để bảo đảm cơ sở thực tiễn khi sửa Luật NSNN

2015 liên quan đến rút ngắn thời gian,quy trình QT NSNN.

81

KẾT LUẬN

Luận văn đã trình bày quy trình của hoạt động QT NSNN đảm bảo theo đúng

quy định của Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn thực hiện. Qua nội dung của đề

tài cho thấy, quy trình quyết toán NSNN được xây dựng với một số nội dung mang

tính nguyên tắc không thay đổi đó là, quy trình lập QT NSNN được thực hiện từ dưới

lên, cùng với đó là việc CQTC luôn là cơ quan lập, tổng hợp BCQTNS trình cấp có

thẩm quyền xem xét, phê chuẩn, HĐND là cơ quan phê chuẩn quyết toán NSĐP và

QH là cơ quan phê chuẩn quyết toán NSNN.

Thực tiễn cho thấy, hoạt động quyết toán NSNN đã có nhiều thành tựu, tuy

nhiên NS các cấp chính quyền hiện nay vẫn thực hiện theo cơ chế quản lý “lồng ghép”

với phương thức quản lý NS truyền thống là quản lý theo đầu vào, đó là việc kiểm

soát chi phí đầu vào của các ĐVSDNS theo các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NS

do cấp có thẩm quyền quy định. Cơ chế quản lý NS lồng ghép và phương thức kiểm

soát theo đầu vào như trên thể hiện rõ những hạn chế về quyền tự chủ, tự quyết, tự

chịu trách nhiệm của ĐVSDNS, thiếu đánh giá giữa dự toán chi NS và kết quả của

những dịch vụ công được cung cấp, không tạo động lực để ĐVSDNS chi tiêu tiết

kiệm, hiệu quả. Đồng thời, do cơ chế quản lý NS lồng ghép nên quy trình NS về lập,

phê chuẩn quyết toán NSNN hết sức phức tạp, có sự chồng chéo, trùng lắp, kém hiệu

quả, thời hạn phê chuẩn quyết toán 18 tháng là quá dài, làm giảm ý nghĩa, vai trò của

QT NSNN trong xây dựng dự toán và quản lý NSNN.

Việc rút ngắn thời gian trình QH phê chuẩn quyết toán NSNN khoảng 6 tháng

so với quy định hiện hành sẽ ảnh hưởng đến các ĐVSDNS, các cấp NS với mức độ

và phạm vi rất lớn, vì vậy cần có sự ủng hộ, quyết tâm của các cấp NSĐP và các Bộ,

ngành, đặc biệt là các bộ, ngành lớn có cơ cấu tổ chức quản lý nhiều cấp dự toán.

Đồng thời, việc rút ngắn thời gian, quy trình QT NSNN đòi hỏi phải tăng cường kỷ

luật, kỷ cương về tài chính NS, vì vậy các đơn vị trực thuộc BTC cần đôn đốc, phối

hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, ĐP đảm bảo việc nộp báo cáo, thẩm định, rà soát số

liệu quyết toán NS kịp thời, đáp ứng các thời hạn theo quy định.

82

Trong bối cảnh như trên, đề tài “Hoàn thiện quy trình quyết toán ngân sách nhà

nước hằng năm trình Quốc hội” đã đạt được các kết quả sau:

Luận văn đã đưa ra một cách có hệ thống các lý thuyết về NSNN và QT NSNN.

Luận văn cũng đưa ra kinh nghiệm về quy trình quyết toán NSNN ở một số quốc gia

trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Luận văn phân tích quy trình QT NSNN hằng năm ở Việt Nam, từ đó đưa ra

những đánh giá về ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong việc thực hiện

quy trình QT NSNN hằng năm ở Việt Nam.

Qua đó, luận văn nghiên cứu, đề xuất phương án nhằm rút ngắn thời gian trình

QH phê chuẩn QT NSNN hằng năm vào kỳ họp cuối năm tiếp theo, từ đó góp phần

chấn chỉnh từng bước công tác quyết toán NSNN, đưa ra những cảnh báo giúp ngăn

ngừa sai sót trong việc quản lý, điều hành NS, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương TC-NS quốc

gia. Luận văn cũng đã đề xuất các kiến nghị đối với QH và CP.

Mặc dù đã đầu tư thời gian nghiên cứu và qua kinh nghiệm làm việc thực tế

trong công tác QT NSNN, nhưng luận văn khó tránh khỏi hạn chế. Tác giả mong

muốn nhận được ý kiến đóng góp của các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà khoa

học để tiếp tục hoàn thiện nội dung luận văn.

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tài chính (2016), “Thông tư số 342/2016/TT-BTC ngày 30/12/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật NSNN”.

2. Bộ Tài chính (2016), “Thông tư số 343/2016/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ

Tài chính hướng dẫn thực hiện công khai NS”.

3. Bộ Tài chính (2016), “Thông tư số 09/2016/TT-BTC ngày 18/01/2016 của Bộ Tài chính quy định về quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn nhà nước”.

4. Bộ Tài chính (2017), “Thông tư số 77/2017/TT-BTC ngày 28/7/2017 của Bộ Tài

chính hướng dẫn chế độ kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN”.

5. Bộ Tài chính (2017), “Thông tư số 85/2017/TT-BTC ngày 15/8/2017 của Bộ Tài chính quy định việc quyết toán tình hình sử dụng vốn đầu tư nguồn NSNN theo niên độ NS hằng năm”.

6. Bộ Tài chính (2017), “Thông tư số 107/2017/TT-BTC ngày 10/10/2017 của Bộ

Tài chính hướng dẫn chế độ kế toán hành chính, sự nghiệp”.

7. Bộ Tài chính (2018), “Thông tư số 64/2018/TT-BTC ngày 30/7/2018 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số Điều của Thông tư số 09/2016/TT-BTC ngày 18/01/2016 của Bộ Tài chính quy định về quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn nhà nước”.

8. Bộ Tài chính (2018), “Thông tư số 107/2018/TT-BTC ngày 15/11/2018 của Bộ Tài chính quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư các dự án đầu tư xây dựng sử dụng nguồn vốn đầu tư công của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và các cơ quan khác của Việt Nam ở nước ngoài”.

9. Bộ Tài chính (2018), “Thông tư số 37/2018/TT-BTC ngày 16/4/2018 của Bộ Tài chính hướng dẫn về sắp xếp lại, xử lý nhà đất theo quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP quy định sắp xếp lại nhà, xử lý tài sản công”.

10. Bùi Tiến Hanh (2011), “Quyết toán NS nhà nước hàng năm ở Việt Nam - thực

trạng và giải pháp hoàn thiện”, luận án Tiến sĩ.

11. Chính phủ (2021), “Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11/11/2021 của CPquy

định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công”.

84

12. Lê Thị Thúy (2017), “Luận bàn về quyết toán NS Nhà nước và một số đề xuất”,

Tạp chí công thương.

13. Nguyễn Hồng Nhung (2020), “Một số nhận định, đánh giá về công tác quản lý tài chính - ngân sáchqua công tác quyết toán ngân sách nhà nước năm 2018”, Tạp chí quản lý ngân quỹ.

14. Nguyễn Hồng Nhung (2021), “Tăng cường trách nhiệm quản lý thu, chi NS nhà nước qua công tác quyết toán NSNN năm 2019”, Tạp chí quản lý ngân quỹ.

15. Nguyễn Hồng Nhung (2022), “Một số vướng mắc trong công tác quyết toán ngân

sách địa phươngliên quan đến KBNN các cấp”, Tạp chí quản lý ngân quỹ.

16. Quốc hội (2014), “Luật số 46/2014/QH13 ngày 13/6/2014 của Quốc hội về sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế”.

17. Quốc hội (2015), “Luật số 83/2015/QH13 ngày 25/6/2015 của Quốc hội về

NSNN”.

18. Quốc hội (2019), “Luật số 39/2019/QH14 ngày 13/6/2019 của Quốc hội về Đầu

tư công”.

19. Ủy ban Tài chính - NS của Quốc hội (2012), “Hoàn thiện công tác kế toán, quyết

toán NSNN trong bối cảnh sửa Luật NS nhà nước ở Việt Nam”.

20. Trần Thị Hương Giang (2019), “Quản lý hoạt động quyết toán NS nhà nước tại

KBNN Việt Nam”, luận văn Thạc sĩ kinh tế.

21. Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức GIZ (2015), “Kế toán, quyết toán NSNN”.

22. US TREASURY – OTA (2020), “BCQT và chuyển giao NS còn dư sang năm sau”.