ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––
DƯƠNG THỊ NHÃ
HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
Ở KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG TỈNH THÁI NGUYÊN
TỪ NĂM 1985 ĐẾN NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––
DƯƠNG THỊ NHÃ
HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
Ở KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG TỈNH THÁI NGUYÊN
TỪ NĂM 1985 ĐẾN NĂM 2014
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HÀ THỊ THU THỦY
THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa được
sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Các tài liệu tham khảo có nguồn trích dẫn
rõ ràng.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2016
Tác giả
Dương Thị Nhã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn i
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo đã tham gia
giảng dạy lớp Cao học Lịch sử Việt Nam - những người thầy đã trang bị cho
tác giả tri thức và kinh nghiệm quý báu trong học tập, nghiên cứu khoa học.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo thuộc Phòng Đào Tạo;
khoa Lịch Sử trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các bạn bè
đồng nghiệp đã động viên, nhiệt tình giúp đỡ tác giả và tạo điều kiện thuận
lợi cho tác giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin cảm ơn Sở Công thương tỉnh Thái Nguyên, Liên đoàn lao
động tỉnh Thái Nguyên, Ban quản lý KCN Sông Công đã giúp đỡ tác giả
hoàn thành nghiên cứu này.
Đặc biệt, tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Hà Thị Thu
Thủy – người đã nhiệt thành, ân cần hướng dẫn, chỉ dạy và giúp đỡ tác giả
hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2016
Tác giả
Dương Thị Nhã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
Danh mục chữ viết tắt ......................................................................................... iv
Danh mục các bảng .............................................................................................. v
Danh mục các hình ............................................................................................. vi
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ..................................... 4
4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu ......................................................... 5
5. Đóng góp của đề tài ......................................................................................... 7
6. Kết cấu đề tài ................................................................................................... 8
Chương 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN Ở
KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG TỈNH THÁI NGUYÊN .................... 9
1.1. Vài nét về thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.................................... 9
1.2. Quá trình hình thành, phát triển khu công nghiệp Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên ..................................................................................................... 14
1.3. Sự hình thành tổ chức công đoàn ở khu công nghiệp Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên ...................................................................................................... 24
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 28
Chương 2: HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KHU CÔNG
NGHIỆP SÔNG CÔNG GIAI ĐOẠN 1985 – 2014 ...................................... 29
2.1. Giai đoạn 1985 - 1995 ................................................................................ 29
2.2. Giai đoạn 1996 - 2005 ................................................................................ 33 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii
2.3. Giai đoạn 2006 - 2014 ................................................................................ 39
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 62
Chương 3: ĐÁNH GIÁ VỊ THẾ, VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG
ĐOÀN KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG GIAI ĐOẠN 1985 - 2014 .. 64
3.1.Những kết quả đạt được............................................................................... 64
3.1.1. Chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho công nhân
viên chức lao động ............................................................................................. 64
3.1.2. Tuyên truyền giáo dục và thực hiện các phong trào thi đua yêu nước
trong công nhân, viên chức lao động ................................................................. 65
3.1.3. Kiểm tra tư vấn pháp luật, tài chính công đoàn ....................................... 66
3.2. Những khó khăn, hạn chế ........................................................................... 69
3.2.1. Trong lĩnh vực đào tạo nghề và giải quyết việc làm ............................... 69
3.2.2. Trong giải quyết chế độ tiền lương, ký kết và thực hiện thoả ước lao
động tập thể ........................................................................................................ 71
3.2.3. Trong lĩnh vực an toàn vệ sinh lao động và việc đóng, trả bảo hiểm
xã hội cho người lao động ................................................................................. 74
3.2.4. Trong việc giải quyết tranh chấp lao động và đình công ........................ 76
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và bài học kinh nghiệm .............................. 77
3.3.1. Nguyên nhân ............................................................................................. 77
3.3.2. Bài học kinh nghiệm ................................................................................ 82
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 84
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 89
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
: Trách nhiệm hữu hạn TNHH
: Bảo hiểm xã hội BHXH
: Bảo hiểm y tế BHYT
TLĐLĐVN : Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
: Khu công nghiệp KCN
: Thành phố TP
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
KT - XH : Kinh tế - Xã hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thống kê các doanh nghiệp, nhà máy hoạt động trong khu công
nghiệp Sông Công ............................................................................. 19
Bảng 2.1. Thống kê số lớp và số lượt người tham gia tập huấn (1991 -1995).. 30
Bảng 2.2. Thống kê giải quyết việc làm cho người lao động của tổ chức
công đoàn (1990 -1995) .................................................................... 31
Bảng 2.3. Thống kê số lớp và số lượt công đoàn viên được đào tạo, bồi dưỡng
về chuyên môn, nghiệp vụ của tổ chức công đoàn (1992-1995) ........... 32
Bảng 2.4. Thống kê số cây xanh được trồng của tổ chức công đoàn
(1990-1994) ....................................................................................... 33
Bảng 2.5. Lao động được giải quyết việc làm ở KCN Sông Công giai đoạn
2001- 2005 ......................................................................................... 33
Bảng 2.6. Thống kê số nhà được hỗ trợ làm mới ở TP. Sông Công do công
đoàn KCN Sông Công đầu tư giai đoạn 2000 -2005 ........................ 35
Bảng 2.7. Danh sách Mẹ Việt Nam anh hùng được công đoàn KCN Sông
Công tri ân và tặng quà năm 2005..................................................... 37
Bảng 2.8. Thống kê số nữ công đạt danh hiệu trong phong trào gỏi việc
nước, đảm việc nhà (2001 -2005) ..................................................... 38
Bảng 2.9. Thống kê số lượng người lao động KCN Sông Công giai đoạn
2006 – 2012 ....................................................................................... 41
Bảng 2.10. Thống kê lớp tập huấn cho cán bộ nữ KCN Sông Công về
chương trình dân số kế hoạch hóa, bình đẳng giới, chăm sóc sức
khỏe (2010- 2014) ............................................................................. 45
Bảng 2.11. Thống kê số lớp tập huấn về công tác an toàn vệ sinh lao động,
vệ sinh thực phẩm, bảo hiểm lao động, phòng chống cháy nổ
KCN Sông Công tham gia (2008 – 2012) ......................................... 51
Bảng 2.12. Thống kê gia đình công nhân, viên, lao động có hoàn cảnh khó
khăn được công đoàn KCN Sông Công tặng quà vào dịp Tết
(2009 – 2013) .................................................................................... 56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn v
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Bản đồ hành chính TP. Sông Công, tỉnh Thái Nguyên ..................... 10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn vi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đã và đang có
tác động mạnh mẽ tới vị trí, hoạt động của tổ chức công đoàn ở nhiều cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp nước ta. Phát triển kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa
bên cạnh những cơ hội, điểm mạnh thì cũng có nhiều thách thức, hạn chế tác
động đến hoạt động của công đoàn. Đặc biệt hiện nay, nước ta đang trên con
đường đổi mới theo xu hướng CNH, HĐH. Việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” luôn cần có sự song hành của tổ chức công đoàn không chỉ
trong cơ quan, tổ chức nhà nước mà tại các KCN có vốn đầu tư nước ngoài lại
càng trở nên cần thiết.
Trong sự phát triển của các KCN, việc xây dựng đội ngũ công nhân có
kiến thức, tay nghề, phẩm chất đạo đức tốt là cần thiết và cấp bách. Các KCN
ra đời nhằm thu hút dự án và vốn đầu tư nước ngoài để phát triển sản xuất,
kinh doanh, tăng năng suất lao động, khối lượng và chất lượng sản phẩm hàng
hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, phục vụ xuất khẩu. Trong số những
nhân tố chi phối tới hoạt động của các KCN, nhân tố con người được xem là
giữ vai trò quyết định. Để cho người lao động ở các KCN thực sự có đủ các yếu
tố cần thiết (thể lực, trí tuệ, kinh nghiệm sản xuất) đòi hỏi phải có một tổ chức
đứng ra để tập hợp, thu hút, tuyên truyền, giáo dục công nhân lao động thực
hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, quy định của Bộ Công thương, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và
các KCN. Đồng thời, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho
người lao động và đào tạo bồi dưỡng cho họ để họ thực sự làm chủ được các
thiết bị, KHCN hiện đại. Tổ chức đó chắc chắn phải là tổ chức công đoàn trong
các KCN và tổ chức công đoàn chỉ thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của
1
mình khi ở đơn vị, cơ sở, doanh nghiệp đó có tổ chức công đoàn. Vì vậy, sự
quan tâm, chú trọng của tổ chức công đoàn trong tất cả các hoạt động của
doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Đây là chủ trương lớn của Tổng Liên đoàn
lao động Việt Nam đã được liên đoàn lao động các tỉnh, TP duy trì và xây dựng
thành nghị quyết, chương trình công tác cụ thể để chỉ đạo thực hiện ở các
nhiệm kì. Đại hội Công đoàn tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIII, xác định rõ nhiệm
vụ của tổ chức công đoàn nhằm phát triển công đoàn viên và xây dựng tổ chức
công đoàn ngày càng vững mạnh, nhất là công đoàn trong các KCN, cụm công
nghiệp trên địa bàn tỉnh. Theo đó, tổ chức Công đoàn ở KCN Sông Công được
ra đời vào năm 1985 và đi vào hoạt động, không ngừng mở rộng số lượng,
nâng cao chất lượng đội ngũ công đoàn viên, hoạt động theo phương hướng,
nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội Công đoàn Việt Nam đề ra. Trải qua 30 năm xây
dựng và phát triển (1985-2014), tổ chức công đoàn nơi đây đã trở thành một tổ
chức cơ sở tiêu biểu, vững mạnh với nhiều năm liền đạt danh hiệu Công đoàn
xuất sắc.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn hướng nghiên cứu
“Hoạt động của tổ chức công đoàn ở khu công nghiệp Sông Công tỉnh Thái
Nguyên từ năm 1985 đến năm 2014” làm luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tổ chức công đoàn gắn chặt với các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã
hội như sản xuất- kinh doanh, quản lý, kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hóa, đời
sống vật chất và tinh thần của người lao động. Bởi vậy, đây là chủ đề và đối
tượng nghiên cứu của nhiều nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp.
Điển hình là cuốn sách mang tầm giá trị thế giới như “Lênin toàn tập”
được NXB Tiến Bộ ấn hành năm 1987. Tác phẩm nói về nguồn gốc ra đời của tổ
chức Công đoàn thế giới và mô hình hoạt động, tổ chức Công đoàn nói chung.
Tác phẩm “Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của Công đoàn khu
vực kinh tế ngoài quốc dân” (1997) do Ban tổ chức Tổng liên đoàn lao động
2
Việt Nam phát hành đã trình bày về một số vấn đề lớn trong công tác tổ chức,
hoạt động của công đoàn ở các doanh nghiệp hoạt động kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài.
Cuốn sách “Giáo trình lý luận và nghiệp vụ công đoàn’’ tập 1-2 của
Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, do NXB Lao động ấn hành năm 1999.
Trong công trình này, tác giả đã nêu rõ về hoạt động nói chung của công đoàn
như tổ chức phong trào thi đua trong công nhân, tuyên truyền giáo dục, hoạt
động văn hóa quần chúng trong công nhân, viên chức và lao động.
Trường Đại học Công đoàn với công trình nghiên cứu “Tổ chức và hoạt
động của Công đoàn trong công ty cổ phần” (2001) đã giới thiệu khái quát nội
dung hoạt động của công đoàn cơ sở, kinh nghiệm chỉ đạo, tổ chức hoạt động
công tác của công đoàn cơ sở.
Thị xã Sông Công (nay là TP. Sông Công) trực thuộc tỉnh Thái Nguyên
được thành lập năm 1985. Xét về đặc điểm vị trí địa lí và môi trường tự nhiên,
nhân văn thì TP có địa hình khá bằng phẳng, có dòng sông Công huyền thoại
và quốc lộ số 3 chạy qua cùng hệ thống giao thông nội thị dọc ngang thuận tiện
cùng những tiềm năng khác về đất và người sẽ là nền tảng, động lực vững chắc
cho sự phát triển của TP Sông Công nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung.
Trong lịch sử, địa danh này đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều tác
giả, điển hình như cuốn sách: “Lịch sử Đảng bộ thị xã Sông Công từ 1985 -
1995” do Ban tuyên giáo thị xã Sông Công phát hành năm 1996 đã đề cập tới
sự ra đời của Đảng bộ và quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân
dân, Đảng bộ thị xã Sông Công.
Tiếp đến là cuốn sách “Sông Công thị xã bên dòng sông huyền thoại”
(Xuất bản tại NXB Văn hóa thông tin năm 2006) của Ban Thường vụ Thị ủy
Sông Công – Thái Nguyên. Nội dung cuốn sách viết về lịch sử hình thành và
tiềm năng phát triển của thị xã Sông Công. Ấn phẩm “Sông Công thị xã tuổi
20” hay cuốn “Kỷ yếu 20 năm thị xã Sông Công”cũng là những nghiên cứu
3
điển hình về lịch sử hình thành và phát triển của địa phương này.
Như vậy, các nghiên cứu đều đề cập đến các khía cạnh, lĩnh vực cụ thể
trong tổ chức công đoàn. Tuy nhiên, những về lịch sử hình thành và tổ chức,
hoạt động của công đoàn tại KCN Sông Công còn bị tản mạn, chưa có công
trình nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện.
Trên cơ sở thực tiễn và kế thừa công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học, tác giả mạnh dạn nghiên cứu Hoạt động của tổ chức Công đoàn ở khu
công nghiệp Sông Công, tỉnh Thái Nguyên từ năm 1985 đến năm 2014.
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu quá trình hình thành và hoạt động của tổ chức công
đoàn, đề tài tập trung làm rõ việc chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công nhân, viên chức, lao động; tổ chức các phong trào thi đua, tuyên
truyền giáo dục, xây dựng công đoàn trong sạch vững mạnh trong công nhân, viên
chức, lao động của tổ chức công đoàn ở KCN Sông Công từ năm 1985-2014.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu khái quát sự thành lập KCN và tổ chức đoàn,
phân tích quá trình hoạt động tổ chức công đoàn KCN Sông Công giai đoạn
1985 – 2014, đề tài đánh giá một cách hệ thống và sâu sắc về vị thế, vai trò của
tổ chức công đoàn tại KCN, đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm trong
vận dụng và xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động ở KCN này trong giai đoạn CNH,
HĐH và hội nhập Quốc tế hiện nay.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát về TP Sông Công, sự thành lập KCN và tổ chức công đoàn.
- Phân tích quá trình hoạt động của tổ chức công đoàn KCN Sông Công
giai đoạn 1985 – 2014.
- Đánh giá vị thế, vai trò của tổ chức công đoàn KCN Sông Công giai
đoạn nghiên cứu, đúc rút một số bài học kinh nghiệm trong vận dụng và xây
4
dựng tổ chức công đoàn vững mạnh.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi KCN Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên.
- Về thời gian: Dữ liệu sử dụng trong đề tài từ năm 1985 đến năm 2014.
4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
- Tư liệu thành văn: Các giáo trình, luận văn, luận án, sách tham khảo,
đặc biệt là sách chuyên khảo viết về hoạt động của tổ chức công đoàn của các
tác giả trong và ngoài nước đã được công bố xuất bản.
- Tài liệu lưu trữ:
+ Các Văn kiện của Đảng, các chỉ thị, Nghị quyết; các bài viết của các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước liên quan tới nội dung nghiên cứu của đề tài;
+ Các báo cáo tổng kết, sơ kết của Sở Công thương, Liên đoàn lao động
tỉnh Thái Nguyên, Ban quản lý KCN Sông Công trong những năm gần đây;
- Tài liệu điền dã: Hệ thống các văn bản, tài liệu thu thập được trong quá
trình thực địa khảo sát tại KCN Sông Công, TP. Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử du ̣ng hai phương pháp nghiên
cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Phương pháp lịch sử: Trong nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và
hoạt động của tổ chức công đoàn ở KCN Sông Công, tác giả sử dụng phương
pháp này nhằm phân tích, đánh giá vị thế, tầm quan trọng của tổ chức công
đoàn ở KCN theo đúng trình tự thời gian. Thông qua các nguồn tư liệu, đề tài
luận chứng đầy đủ chủ trương của Đảng và Nhà nước, Tổng liên đoàn lao động
Việt Nam, Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên, … trong việc chăm lo đời
sống và nâng cao chất lượng công đoàn viên ở các cơ sở, doanh nghiệp. Đồng
thời, đặt quá trình thực hiện hoạt động, phát triển của tổ chức công đoàn ở
5
KCN Sông Công trong mối quan hệ tác động qua lại với các công đoàn bộ phận
trên địa bàn TP Sông Công nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung. Tác giả
tập trung phản ánh chi tiết, trung thực những kết quả đạt được, vai trò, vị trí
cùng những thành tựu, hạn chế cần khắc phục trong hoạt động của tổ chức công
đoàn ở KCN này.
Phương pháp logic: Trên cơ sở khái quát về KCN Sông Công, chủ trương
của Đảng và Nhà nước về phát triển tổ chức công đoàn trong các cơ quan, xí
nghiệp, doanh nghiệp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao
động, tác giả đúc kết và hệ thống hóa đặc điểm, nhiệm vụ, cách thức tổ chức
hoạt động của công đoàn ở các cơ sở nói chung và KCN Sông Công nói riêng.
Điều này giúp cho tác giả có cái nhìn biện chứng về quá trình hình thành, phát
triển của tổ chức công đoàn ở KCN, đánh giá được vai trò và chỉ ra những hạn
chế cùng với nguyên nhân, bài học kinh nghiệm trong phát triển công đoàn ở
KCN Sông Công.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác, tiêu biểu
như: Phương pháp thu thập, tổng hợp và xử lý tà i liê ̣u thố ng kê: Đây là phương pháp truyền thống được sử dụng trong các nghiên cứu nói chung và nghiên cứu
sử học nói riêng. Nguồn tài liệu liên quan tớ i đề tài nghiên cứ u được thu thập tương đối đa dạng, phong phú, bao gồm các tài liệu thành văn, lưu trữ và tài
liệu điền dã. Trong luâ ̣n văn, tác giả sử du ̣ng chủ yếu nguồ n dữ liê ̣u từ Liên
đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên, Sở Công thương tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo
của UBND TP Sông Công, Ban quản lý KCN Sông Công. Trên cơ sở đó , tiến hành xử lý, tổng hợp số liê ̣u có đủ độ tin cậy phu ̣c vụ mu ̣c đích nghiên cứ u đề tài và đưa ra những nhận định, kết luận cho đề tài ở các cách tiếp cận khác nhau
(đi từ cái chung tới cụ thể, từ dễ tới phức tạp)
Phương pháp phân tích hê ̣ thống: Quá trình hình thành, phát triển của tổ
chức công đoàn ở KCN Sông Công đươ ̣c nhâ ̣n diện và đánh giá khách quan
6
thông qua phân tích mố i liên hê ̣ không gian, thờ i gian, đội ngũ công đoàn viên ở các cụm công nghiệp, điểm công nghiệp và nhà máy, xí nghiệp. Ở đây, tác
giả chú ý đến các mố i quan hê ̣ kinh tế, nhân văn, các mố i liên hê ̣ nhân quả.
Trên cơ sở thu thập số liệu và tiến hành so sánh, đối chiếu các hoạt động của tổ
chức công đoàn trong KCN ở những giai đoạn khác nhau, tác giả rút ra được
những kết luận quan trọng, tìm ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm cho vấn
đề mà đề tài nghiên cứu.
Phương phá p điền dã: Trong nghiên cứu đề tài, tác giả vâ ̣n dụng phương
pháp này để khảo sát thư ̣c tế hoạt động của tổ chức công đoàn ở một số nhà
máy, xí nghiệp trong KCN nhằm phát hiê ̣n vấn đề và kiểm đi ̣nh các thông
tin thu thập được từ nhiều nguồ n khác nhau. Thư ̣c hiê ̣n đề tài này, tác giả đã
tiến hành quan sát, ghi chép, mô tả, chụp ảnh, trao đổi với một số Sở, Ban,
ngành, các lãnh đạo, các chuyên gia, ... về những vấn đề liên quan đến quy
trình hoạt động và cách thức tổ chức, đánh giá hiệu quả của công đoàn cơ sở.
Phương pháp chuyên gia: Khi nghiên cứu đề tài, tác giả tiến hành tham
khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học trong lĩnh vực công đoàn,
lãnh đạo các phòng, ban của Sở Công thương, Liên đoàn lao động tỉnh Thái
Nguyên, Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên, Ban quản lý KCN Sông
Công, … Từ đó, đưa ra những kết luận, nhận định xác thực cho đề tài.
Phương pháp bản đồ - GIS: Xã hội ngày càng phát triển, việc áp dụng
những thành tựu mới của nhân loại vào nghiên cứu khoa học nói chung và khoa
học xã hội nói riêng ngày càng được sử dụng nhiều, đặc biệt là sự phát triển
nhanh chóng của công nghệ thông tin. Phương pháp này được sử dụng để biên
vẽ bản đồ hành chính TP. Sông Công.
5. Đóng góp của đề tài
- Đề tài phân tích quá trình hoạt động, vị trí, vai trò của tổ chức công
đoàn ở KCN Sông Công.
- Góp phần bổ sung nguồn tư liệu giúp cho việc giải một số vấn đề liên
quan đến tác động của tổ chức công đoàn trong lịch sử hình thành, phát triển
7
của KCN Sông Công, tỉnh Thái Nguyên ở chặng đường 30 năm (1985 – 2014)
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Quá trình hình thành tổ chức công đoàn ở KCN Sông Công,
tỉnh Thái Nguyên.
Chương 2. Hoạt động của tổ chức công đoàn trong quá trình xây dựng
và phát triển của KCN Sông Công giai đoạn 1985 - 2014.
Chương 3. Đánh giá vị thế, vai trò của tổ chức công đoàn KCN Sông
8
Công giai đoạn 1985 – 2014.
Chương 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
Ở KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG TỈNH THÁI NGUYÊN
1.1. Vài nét về thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên
Về lịch sử hành chính thành phố Sông Công trước đây là thị xã Sông
Công thuộc tỉnh Bắc Thái. Thị xã này được thành lập từ thị trấn Mỏ Chè và các
xã Cải Đan, Tân Quang, Bá Xuyên của huyện Phổ Yên, theo quyết định số
113/HĐBT ngày 01/04/1985 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày mùng 01
tháng 07 năm 1985. Khi mới thành lập, Sông Công gồm 3 phường Lương
Châu, Mỏ chè, Thắng Lợi và 3 xã Bá Xuyên, Cải Đan, Tân Quang, trực thuộc
tỉnh Bắc Thái. Ngày 01/01/1997, tái lập tỉnh Thái Nguyên từ việc tách tỉnh Bắc
Thái, thị xã Sông Công trực thuộc tỉnh Thái Nguyên. Số đơn vị hành chính của
địa phương không ngừng được mở rộng. Ngày10/04/1999, Sông Công thành
lập phường Phố Cò và xã Vinh Sơn theo nghị định số 18/1999/NĐ-CP của
Chính phủ. Cũng theo quyết định này, xã Cải Đan đổi thành phường Cải Đan,
xã Bình Sơn thuộc huyện Phổ Yên chuyển cho Sông Công quản lý. Ngày
18/10/2010, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 925/ QĐ-BXĐ công nhận
thị xã Sông Công là đô thị loại III. Ngày 13/01/2011, Chính phủ ban hành
quyết định số 05 NQ-CP giải thể thị trấn Nông Trường và điều chỉnh địa giới
hành chính của thị xã Sông Công cùng các khu vực lân cận để thành lập thị
trấn thuộc các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ, Đại Từ. Trong đó, thị xã Sông
Công cũng thành lập thêm một số phường mới. Phường Bách Quang được
thành lập trên cơ sở điều chỉnh 852,5 ha diện tích tự nhiên và 9.260 nhân
khẩu của xã Tân Quang. Có thể nói thị xã Sông Công là một thị xã trẻ mang
dáng dấp của miền trung du và có những đặc thù riêng. Nói đến Sông Công
là nói đến một thị xã với sức sống công nghiệp với hàng chục nhà máy cơ
khí, luyện kim lớn có tuổi đời 35 - 40 năm; với nhiều dự án đầu tư mở rộng
9
sản xuất vào KCN Sông Công.
Ngày 15/05/2015, Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về
việc điều chỉnh địa giới hành chính TP.Thái Nguyên và TP. Sông Công. UBND
tỉnh Thái Nguyên đã giao toàn bộ 1.560,80 ha diện tích tự nhiên và 23.865
nhân khẩu của xã Lương Sơn (TP. Thái Nguyên) cho TP. Sông Công quản lý.
Đây là một bước chuyển mình góp phần quan trọng vào sự phát triển của tỉnh
Thái Nguyên - hạt nhân tạo vùng của khu vực phía Bắc.
Về vị trí địa lí, Sông Công có diện tích tự nhiên gần 85 km. Ba mặt:
Đông, Tây và Nam giáp huyện Phổ Yên; Phía Bắc giáp TP Thái Nguyên. Hiện
nay, TP có 7 phường và 4 xã; địa hình tương đối bằng phẳng, mang đặc điẻm
của miền trung du; nền dốc từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây, có và
ngọn núi cao vài trăm mét. Đây là vị trí địa lý khá thuận lợi vì thành phố chỉ
cách Thủ đô Hà Nội 65km về phía Bắc, cách TP Thái Nguyên 15 km về phía
Nam, cách sân bay quốc tế Nội Bài 45km, cách hồ Núi Cốc 17km.
Về điều kiện tự nhiên, TP Sông Công có tiềm năng đất đai phong phú,
quỹ đất để phát triển công nghiệp và đô thị dồi dào. Có hệ thống đường giao
thông thuận lợi bởi các tuyến quốc lộ số 3 và đường sắt Hà Nội – Quán Triều
chạy qua, phía Đông TP Sông Công nằm trong vùng công nghiệp vệ tinh quanh
thủ đô Hà Nội và công nghiệp vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ. Đây là lợi thế
để địa phương này tạo được sức hút và ảnh hưởng tới các địa bàn xung quanh,
là “vệ tinh” quan trọng của TP. Thái Nguyên.
Sông Công có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa và được chia làm hai mùa
nóng và lạnh. Mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10. Trong đó, tháng 8 là tháng
nhiệt độ trung bình cao nhất 28,10C và có những ngày nhiệt độ lên tới 41,10C.
Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 3 năm sau. Tháng 1 là
tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất. Tuy nhiên, Sông Công có độ ẩm khá
cao trên 80%. Những tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 3, 4, 8. Đây là những
10
tháng có mưa phùn, mưa ngâu, độ ẩm thường trên 80%.
Hình 1.1. Bản đồ hành chính TP. Sông Công, tỉnh Thái Nguyên
Nguồn: Tác giả biên vẽ 11
Trên địa bàn TP cũng có hai loại gió mùa, đó là gió mùa Đông Bắc và
gió mùa Đông Nam. Gió mùa Đông Bắc thổi có thời gian hình thành, ảnh
hưởng trùng với mùa lạnh. Mỗi khi có đợt gió mùa Đông Bắc tràn về, nhiệt độ
thường hạ xuống đột ngột làm cho thời tiết rất lạnh, đôi khi xuất hiện sương
muối có hại cho sức khỏe con người và sự phát triển của cây trồng, vật nuôi.
Còn gió mùa Đông Nam mang theo hơi nước từ biển Đông vào gây ra mưa lớn
trong mùa nóng, thời gian ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam trùng với mùa
nóng. Lượng mưa trung bình hàng năm của TP. Sông Công khoảng 2.168mm ;
số ngày mưa năm: 142 ngày; lượng mưa tháng lớn nhất: 443mm; số ngày mưa
tháng nhỏ nhất: 22mm; số ngày mưa trên 50mm: 12 ngày; số ngày trên 100mm:
2 -3 ngày; lượng mưa ngày cực đại: 1103mm; lượng mưa tăng dần từ đầu mùa
tới giữa mùa đạt tới cực đại vào tháng 8. Đồng thời phân bố không đều, mùa
nóng lượng mưa chiếm từ 85% đến 90% lượng mưa của cả năm. Những tháng
đầu mùa khô có khi cả tháng không có mưa gây nên tình trạng hạn hán. Tháng
7, 8 hàng năm mưa nhiều nhất.
Sông Công dài 95 km, bắt nguồn từ Định Hóa chảy qua Đại từ, TP. Sông
Công, Phổ Yên rồi nhập vào sông Cầu thị khu vực Đa Phúc. Trên Sông Công
đã xây dựng hồ Núi Cốc với dung tích hồ 175,5 triệu m2 khi mực nước bình
thường và dung tích hồ 240,5 triệu m2 khi mực nước lên cao.
Về địa chất: vùng Gò Đầm có nền đất tốt, cường độ chịu lực R = 2 – 2,5
Kg/cm3; vùng ven sông địa hình lòng chảo có cường độ chịu lực thấp hơn R = 1
– 1,5Kg/cm3. Mực nước ngầm thường xuất hiện ở độ sâu từ 4 - 5m. Quốc lộ số
3 chạy qua thành phố cùng với các tuyến đường nội thị chạy ngang dọc đã tạo
cho sông Công thuận tiện trong việc thông thương với các vùng xung quanh.
Như vậy, vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên như trên đã tác động mạnh mẽ
tới sự phát triển kinh tế trong vùng. Trong những năm qua, để khắc phục khó
khăn, hạn chế và phát huy tiềm năng sẵn có, nhân dân trong vùng luôn cố gắng
12
vươn lên phát triển kinh tế, đưa TP. Sông Công trở thành khu vực trọng điểm
trong phát triển công nghiệp của tỉnh. TP đã tập trung và huy động mọi nguồn
lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, dành nhiều nguồn
lực đầu tư xây dựng các công trình quan trọng tập trung xây dựng các tuyến
đường giao thông huyết mạch. Xây mới và nâng cấp hệ thống giao thông đô
thị. Đặc biệt, TP đang đẩy mạnh xây dựng hạ tầng các khu đô thị mới, khu
trung tâm hành chính các xã, phường, tiếp tục đầu tư hoàn thiện hệ thống điện
chiếu sáng, hệ thống thoát nước, xử lý nước thải dọc các tuyến nội thị, góp
phần đẩy nhanh tiến trình xây dựng đô thị xanh, sạch, đẹp. Huy động mọi
nguồn lực trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng nông
thôn mới. Cơ sở hạ tầng để phát triển KT-XH đã và đang từng bước hoàn
chỉnh, cải tạo và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Trải qua gần 30 năm xây dựng và phát triển với quá trình hình thành và
mở rộng đơn vị hành chính, TP. Sông Công hiện nay chính thức là TP công
nghiệp với tổng diện tích 98,37 km2 và dân số 109.409 người (năm 2014), mật
độ dân số là 1.112 người/km2.
Về kinh tế, TP Sông Công đã và đang thu hút nhiều dự án đầu tư trong
phát triển KCN và đô thị. Điển hình là KCN Sông Công I - một trong những
công trình trọng điểm với diện tích 320 ha, khu đô thị KOSY 40 ha, khu dân cư
đường Thống Nhất 20 ha. Những năm gần đây, kinh tế của TP phát triển nhanh,
tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt khá. Năm 2013, tốc độ tăng trưởng kinh tế
GDP đạt 14,8%, GTSX công nghiệp trên địa bàn đạt 4.705 tỷ đồng (tăng
9,6% so cùng kỳ năm 2012), GTSX ngành nông - lâm - thủy sản đạt 420 tỷ
đồng, giá trị xuất khẩu trên địa bàn đạt 35 triệu USD. Tổng thu ngân sách
trên địa bàn tăng bình quân trên 20%, GDP bình quân đầu người đạt trên 45
triệu đồng/người/năm. Phấn đấu tới năm 2020, TP. Sông Công được nâng
cấp lên đô thị loại II, nằm trong trục phát triển công nghiệp và đô thị phía
13
Nam tỉnh Thái Nguyên.
Trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục, TP. Sông Công luôn chú trọng đẩy
mạnh sự phát triển toàn diện, nâng cao đời sống cho nhân dân. Sông Công là
một trung tâm giáo dục - đào tạo của tỉnh Thái Nguyên (sau TP Thái Nguyên).
Nhiều trường phổ thông và chuyên nghiệp đóng trên địa bàn TP, tiêu biểu như
Trường Cao đằng Công nghiệp Việt Đức, Cao đẳng Công nghệ và kinh tế nông
nghiệp (cơ sở 2), Cao đẳng Cơ khí luyện kim, .... Trên địa bàn mỗi phường, xã
thuộc TP đều có một trường tiểu học và một trường THCS và ở TP có 2 trường
THPT (THPT Sông Công, THPT DL Lương Thế Vinh), Trường Văn hóa I (Bộ
Công an).
Những thuận lợi về điều kiện tự nhiên cùng những thành tựu về cơ sở hạ
tầng của TP đã góp phần thúc đẩy sự phát triển không ngừng KT-XH, góp phần
đưa Sông Công từ một thị xã trở thành TP lớn thứ hai trực thuộc tỉnh Thái
Nguyên. Một TP tuy diện tích không lớn nhưng đã góp phần đáng kể vào sự
phát triển của tỉnh Thái Nguyên.
1.2. Quá trình hình thành, phát triển khu công nghiệp Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên
Cùng với sự phát triển và lớn mạnh của TP. Sông Công, KCN Sông
Công cũng không ngừng phát triển. Đến nay, thuộc phạm vi quản lý của KCN
gồm nhiều đơn vị, doanh nghiệp được đầu tư, xây dựng và hội nhập với nền
kinh tế chung của tỉnh và cả nước.
KCN Sông Công nằm ở phía Bắc TP. Sông Công, cách TP. Thái
Nguyên 18 km về phía Nam và cách thủ đô Hà Nội 60 km theo quốc lộ 3. Đặc
biệt, KCN cách cảng Đa Phúc 15 km (từ đó đi cảng Cái Lân gần 100 km); cách
ga Lương Sơn của tuyến đường sắt Hà Nội – Quán Triều 1km và cách sân bay
Quốc tế Nội Bài 40 km. Đây là vị trí quan trọng nằm trong vành đai công
nghiệp Hà Nội, cùng với Thái Nguyên sẽ trở thành vùng thủ đô Hà Nội vào
14
năm 2030.
Ngày 01/9/1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
181/1999/QĐ – TTg về việc thành lập, phê duyệt dự án đầu tư và kinh doanh
kết cấu hạ tầng KCN Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Theo quyết định này, tổng
số vốn đầu tư để xây dựng các công trình hạ tầng KCN Sông Công giai đoạn I
với diện tích 69,37 ha và vốn đầu tư là 76 tỷ đồng. Ngày 16/9/2004, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 985/QĐ – TTg về việc điều chỉnh dự án đầu
tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN Sông Công I, tỉnh Thái
Nguyên. Theo đó, chủ đầu tư cũ là công ty Công trình giao thông I Thái
Nguyên được thay thế bằng chủ đầu tư mới là Công ty phát triển hạ tầng KCN
tỉnh Thái Nguyên trực thuộc Ban quản lý các KCN.
Sự hình thành và phát triển của KCN Sông Công mang ý nghĩa quan
trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện CNH, HĐH. Tỉnh uỷ tỉnh Thái
Nguyên thống nhất chủ trương mở rộng cửa đón các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại KCN Sông Công. Từ đó, KCN Sông
Công đã xây dựng được các công trình hạ tầng cơ bản đáp ứng được nhu cầu của
các nhà đầu tư như hệ thống cung cấp điện 22KV, hệ thống cung cấp nước, hệ
thống thoát nước mưa nước thải, hệ thống giao thông với lộ giới 42m và hệ thống
hàng rào bảo vệ nhà máy.
Cùng với KCN Gang thép Thái Nguyên nổi tiếng, KCN Sông Công với
mô hình hoạt động theo kiểu KCN, khu chế xuất đã thực sự trở thành điểm đến
của các nhà đầu tư khi đến với mảnh đất Thái Nguyên. Hoạt động hiệu quả của
KCN Sông Công với sự tăng trưởng khá nhanh được xây dựng và phát triển cả
về số lượng và quy mô dự án đã minh chứng tầm vóc và sức trỗi dậy mạnh mẽ
của một trung tâm công nghiệp lớn của tỉnh Thái Nguyên và của cả nước. Đầu
những năm 60 của thế kỷ XX, khu vực TP. Sông Công ngày nay đã được chọn
để xây dựng KCN cơ khí lớn với tên gọi KCN cơ khí Gò Đầm. Ngày 1- 9-
15
1999. Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 181/1999/QĐ-TTg về
việc thành lập và phê duyệt dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ
tầng KCN Sông Công tỉnh Thái Nguyên trên địa bàn TP. Sông Công. Theo đó,
KCN Sông Công hoạt động theo quy chế quản lý KCN, khu chế xuất.
Xuất phát từ tình hình thực tế Thái Nguyên đã lựa chọn phương án đầu
tư vào KCN Sông Công theo kiểu cuốn chiếu. Trong 69,37 ha giai đoạn I, tỉnh
chọn 30 ha tiếp giáp quốc lộ 3 (khu vực có mật độ dân cư thưa, phần lớn là đất
đồi bãi, chi phí đền bù thấp, san lấp mặt bằng thuận lợi) để tiến hành triển khai
đợt đầu. Kèm theo đó tỉnh ban hành các văn bản pháp lý thể hiện rõ chủ trương
và các chính sách ưu đãi đầu tư vào KCN này. Sau khi Chính phủ ban hành
quyết định thành lập KCN Sông Công, Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên
(trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh), cũng được thành lập. Với nhiệm vụ xây
dựng điều lệ quản lý khu công nghiệp, tổ chức xây dựng và quy hoạch chi tiết
các công trình kết cấu hạ tầng KCN, đồng thời theo sát tiến độ thực hiện, cấp
phép đầu tư cho các dự án vào khu công nghiệp và quản lý sau đầu tư theo cơ
chế “một cửa, tại chỗ”. Sau gần 5 năm đi vào hoạt động (1999 - 2004), thực
hiện chủ trương của tỉnh, Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên đã tạo được
môi trường thuận lợi, hấp dẫn các nhà đầu tư đến với KCN Sông Công.
Đến cuối năm 2004, Thái Nguyên đã hoàn thành công tác đền bù giải
phóng mặt bằng trên diện tích 30 ha (tiếp giáp quốc lộ 3 và nằm dọc bên trục
đường Cách mạng Tháng Mười – trục đường nối quốc lộ 3 với trung tâm TP.
Sông Công). Các công trình kết cấu hạ tầng về điện, đường, nước trong hàng
rào KCN cơ bản đã hoàn thành. Hệ thống giao thông được áp phan chất lượng
tốt, đường Cách Mạng Tháng Mười chạy suốt chiều dài KCN được nâng cấp
với lộ giới 42m, 4 làn xe chạy. Cùng với trạm biến áp 119 Kv – 25 MVA, KCN
Sông Công còn có tuyến đường điện Đông Anh – Thái Nguyên chạy qua, lưới
điện 2 Kv và 35 Kv được dẫn đến chân hàng rào các doanh nghiệp. Nhà máy
nước Sông Công cùng với hệ thống thoát nước và mạng lưới thông tin liên lạc
16
được lắp đặt đồng bộ, đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư.
Với những lợi thế đó, tính đến hết tháng 10 năm 2004, KCN Sông Công
đã thu hút 18 dự án đầu tư với số vốn đăng ký gần 560 tỷ đồng và 4,8 triệu
USD. Trong đó có 15 dự án đầu tư trong nước và 3 dự án có vốn đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài, tỷ lệ lấp đầy đạt 100%. Trong tổng số 18 dự án đầu tư, 8 dự
án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp sản xuất thử, 5
doanh nghiệp đang đầu tư xây dựng cơ bản, 4 doanh nghiệp đang triển khai các
thủ tục cần thiết. Riêng 8 dự án đi vào hoạt động đã thu hút trên 1.000 lao
động, doanh thu đạt gần 200 tỷ đồng/ năm, nộp ngân sách nhà nước 3 tỷ đồng,
thu nhập bình quân của người lao động đạt 0,75 – 2,8 triệu đồng/người/tháng.
Trong đó, các doanh nghiệp đạt chỉ tiêu tăng trưởng cao là Công ty cổ phần
thép Thái Nguyên (doanh thu 172 tỷ đồng); Hợp tác xã công nghiệp và vận tải
Chiến Công (doanh thu 47,9 tỷ đồng); Doanh nghiệp Hương Đông (doanh thu
4,7 tỷ đồng). Trong 5 năm qua mức tăng trưởng kinh tế bình quân tăng
17,56%/năm. Do tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế giá trị sản xuất công
nghiệp và xây dựng chiếm 65,9%, dịch vụ thương mại: 27,1%, còn lại là nông
nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người 600 USD/năm, góp phần tạo việc làm
và ổn định cuộc sống cho hàng trăm lao động địa phương. Cùng với đó các đơn
vị sản xuất lớn trên địa bàn như: Công ty diesel Sông Công, Công ty phụ tùng
máy số 1, Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí…đều đạt mức tăng trưởng bình quân
15 – 30%/năm. Hầu hết các doanh nghiệp luôn tạo đủ việc làm cho công nhân,
đời sống người lao động được cải thiện đáng kể với thu nhập bình quân cao.
Ngoài ra, các đơn vị đang tiếp tục tập trung đầu tư chiều sâu và mở rộng, hiện
đại hóa trang thiết bị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, sẵn sàng đáp ứng nhu
cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là nâng cao tỷ lệ nội địa hóa
sản phẩm. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng lên từng năm. Nếu như năm 2000
đạt gần 500 tỷ đồng, thì đến năm 2003 tăng trên 700 tỷ đồng và năm 2004 đạt
17
trên 1.100 tỷ đồng, năm 2005 đạt trên 1300 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng kinh tế
năm sau cao hơn năm trước. Như vậy, bằng những chính sách thu hút đầu tư
hấp dẫn và sự quan tâm, chú trọng xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng. KCN Sông
Công đã tạo ra môi trường thông thoáng cho các doanh nghiệp tiếp cận, đầu tư
vào xây dựng, kinh doanh góp phần thúc đẩy kinh tế công nghiệp không ngừng
phát triển mạnh hơn.
Trong 8 tháng đầu năm 2008, Ban quản lý các KCN Thái Nguyên đón
tiếp trên 20 lượt các nhà đầu tư đến tìm hiểu và xin đầu tư vào KCN Sông
Công. Những ngành nghề sử dụng nhiều lao động hoặc sử dụng công nghệ hiện
đại được ưu tiên đầu tư vào KCN, đặc biệt ưu tiên cho các nhà đầu tư góp vốn
cùng phát triển hạ tầng. Một số ngành nghề đang trên đà được đầu tư sản xuất,
mở rộng hơn nữa như sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, điện tử, may
mặc, … Khi tham gia vào KCN Sông Công, các nhà đầu tư sẽ được Ban quản
lý các KCN Thái Nguyên và Công ty Phát triển hạ tầng KCN tỉnh Thái Nguyên
chấp thuận thủ tục đầu tư đơn giản, gọn nhẹ “một cửa, tại chỗ”, thủ tục thuê đất
đơn giản, nhanh chóng. Các cơ quan, ban ngành luôn tạo mọi điều kiện hỗ trợ
tốt nhất cho các doanh nhân, doanh nghiệp đầu tư vào KCN Sông Công. Các
nhà đầu tư sẽ có mặt bằng sản xuất với đầy đủ công trình hạ tầng kỹ thuật, dịch
vụ logictics hiện đại cùng sự giúp đỡ tận tình, chu đáo trong suốt quá trình đầu
tư của cán bộ các cấp trực thuộc Ban quản lý các KCN Thái Nguyên và Công
ty Phát triển hạ tầng KCN tỉnh Thái Nguyên. Năm 2014, KCN Sông Công đã
thu hút được 32 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký gần 16.000 tỷ đồng,
trong đó đã thực hiện được gần 1000 tỷ đồng. Thuộc phạm vi quản lý KCN
có 22 doanh nghiệp đi vào sản xuất, thu hút trên 5.000 lao động, mức lương
bình quân từ 1 - 3 triệu đồng/người/tháng. Tính đến năm 2015, trên địa bàn
TP Sông Công có 64 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp (tăng 52 doanh
18
nghiệp so với năm 2000).
Bảng 1.1. Thống kê các doanh nghiệp, nhà máy hoạt động
trong khu công nghiệp Sông Công
STT Tên Chủ đầu tư
Đầu tư xưởng sản xuất TT Dịch vụ TN và Ngành nghề sản xuất kinh doanh chính Hàng tiêu 1 kho hàng XLTN dùng/kc thép
Nguyễn Xuân Tươi Sản xuất xỉ giầu Nguyễn Xuân Tốt, mangan, gang, Công ty TNHH 2 Nhà máy luyện xỉ giầu Mangan luyện kim, ferro Thương mại XNK silicon Đằng Tiến Long mângnnese Châu Quảng Tây
Công ty CP thép 3 Nhà máy cán thép Thăng Long Cán thép Thái Nguyên
Công ty kim loại 4 Nhà máy kẽm điện phân Kẽm thỏi H2SO4 màu TN
Công ty CP thép 5 Nhà máy luyện thép Sông Công Luyện thép Thái Nguyên
Công ty TNHH Gia Thành Công ty TNHH Gia Dịch vụ 6 Sông Công Thành
Công ty CP Đầu tư Vật liệu xây Nhà máy gạch ốp lát Việt Ý 7 SXCN dựng
Nhà máy đúc công nghệ cao Công ty TNHH Luyện thép 8 Hương Đông Hương Đông
Công ty TNHH Nhà máy thép Trường Sơn Luyện thép 9 Minh Bạch
19
CT TNHH khai 10 TTDV Du lịch và VP Kim Sơn Dịch vụ khoáng Bắc Kạn
CT CP Nhựa Nhà máy nhựa Việt Úc Nhựa PR 11 Việt Úc
Nhà máy pin quốc gia CT CP Pin quốc gia Pin các loại 12
Nhà bưu điện KCN Bưu điện Dịch vụ 13 Thái Nguyên Thái Nguyên
CTCP Đầu tư& May mặc 14 Nhà máy TNG Sông Công TM TNG
Cửa hàng xăng dầu KCN Công ty xăng dầu Dịch vụ 15 Sông Công Bắc Thái
CT TNHH Hiệp 16 Nhà máy luyện cán kéo thép Luyện, cán thép Hương
CT TNHH Hiệp 17 Nhà máy thép Hiệp Linh Luyện, cán thép Hương
CT CP thép Nam 18 Nhà máy thép Nam Phong Luyện, cán thép Phong
Nhà máy SX phôi thép CT CP Phác CT CP Phác Hương 19 Phác Hương Hương
Nhà máy thực phẩm CT CP thép Thái Sản xuất nước 20 đồ uống Time Nguyên uống
Nhà máy KC, cốp pha thép CT TNHH MTV Sx kinh doanh 21 Thái Hưng thép Thái Hưng cốp pha thép
CT CP thép Toàn Sx phôi thép, xỉ 22 Nhà máy Thép Toàn Thắng Thắng giầu mangan
Nhà máy cơ khí chế tạo Sx sản phẩm cơ CT CP Phong Phú 23 Sông Công khí
Nhà máy cơ khi Bình An CT CP Bình An Cơ khí 24
20
Phòng giao dịch KCN SC – CN Ngân hàng công Dịch vụ 25 ngân hàng TMCP CT Việt Nam thương Sông Công
CT TNHH cơ khí Sx gia công 26 Nhà máy cơ khí Vĩnh Thái Vĩnh Thái cơ khí
NM cơ khí luyện kim và sâu CT CP SX và gia Sx kc thép, 27 khoáng sản chế biến công KC thép TN cb sâu
Nhà máy thép Hiệp Linh CTCP Đầu tư và TM Luyện, cán thép 28 mở rộng Hiệp Linh
CTCP tư vấn ĐT và 29 Nhà máy SX gạch siêu nhẹ Sx sạch XD Hà Hồng
Nhà máy SX thiết bị nâng hạ Sx thiết bị CTCP Trường Minh 30 Trường Minh nâng hạ
31 Nhà máy cơ khí đúc Đại Phong CTCP Đại Phong Sx tôn, xà gồ
Nhà máy SX thiết bị nâng hạ CTTNHH SX cẩu Sx thiết bị 32 VNC trục và KC CN VNC nâng hạ
Nhà máy cơ khí Minh Phát CTCP Minh Phát Sx tôn, xà gồ 33
Nhà máy cơ khí Đúc Thiên CTCP Thiên Phú Đúc phôi các loại 34 Phú Thịnh Thịnh
CTCP công nghiệp Sx cơ khí đúc, 35 Nhà máy cơ khí Hải Âu Hải Âu KC thép
CTCP Kỹ Thuật và Sx cơ khí đúc, 36 Nhà máy kết cấu thép K24 TM K24 KC thép
Nhà máy sản xuất thiết bị điện CTCP đầu tư và SX Sx linh kiện điện, 37 Ánh Dương Ánh Dương điện tử
Nhà máy luyện cán thép CTTNHH SX&TM Sx phôi thép 38 Sông Công thép Quyết Hợp
Nhà máy cơ khí chế tạo CTCP Hà Thái Sxtôn, xà gồ 39 Hà Thái
21
Nhà máy cơ khí và K/C thép CTTNHHTM và VT Sx thép 40 Dũng Khánh Dũng Khánh
XD và lắp đặt dây chuyền CN CTCPĐT và SX thép Luyện, cán 41 luyện, cán thép An Khánh kéo thép
Nhà máy SX lõi thép Gia CTTNHH Thép Sx lõi thép GC 42 Cường và SP nội thất Kim Sơn và SP khác
Sx cơ khí đúc và 43 Nhà máy cơ khí đúc Sông Công CTCP Đầu Tư VHH KC thép
Nhà máy chế tạo thiết bị CN CTCP chế tạo Sx cơ khí chế 44 Việt Sơn Việt Sơn tạo, KC thép.
Nhà máy sản xuất đồ gỗ CTCP đầu tư Tấn Sx gỗ thanh 45 Sông Công xuất khẩu Lộc
Doanh nghiệp Trung Sx phôi đúc 46 Nhà máy cơ khí Trung Thư cơ khí Thư
Nhà máy cơ khí chế tạo CT CPCTM&DV Sx phôi đúc 47 Thái Dương Thái Dương cơ khí
Doanh nghiệp Tuân Sx phôi đúc cơ 48 Nhà máy cơ khí Tuân Dân Dân khí
Sx thiết bị 49 Nhà máy chế tạo Phúc Hương CT CP Phúc Hương nâng hạ
Chế tạo TN, sp 50 Nhà máy cơ khí Thắng Lợi CT CP Thắng Lợi cơ khí
CT CP cơ khí Huyền Sx cơ khí, 51 Nhà máy cơ khí Huyền Trang Trang kc thép
Nhà máy gạch không nung Sx gạch CT CP Cường Thịnh 52 Cường Thịnh không nung
CT CP giấy Sản xuất giấy Nhà máy giấy cao cấp 53 Bình Phong cao cấp
22
CT TNHH TM&CN Đúc phôi, sp 54 Nhà máy cơ khí đúc Cẩm Châu Cẩm Châu cơ khí
Cơ khí, sx kc 55 Nhà máy cơ khí Vĩnh Phát CTCP Vĩnh Phát thép
Nhà máy chế tạo cơ khí CTCP cơ khí ches Cơ khí, sx kc 56 Hoàng Hà tạo Hoàng Hà thép
Sx gạch lát nền 57 Nhà máy gạch ốp lát Như Long CT CP Như Long và ốp lát
CTCP Đầu tư & tm Sx bông tắm 58 Nhà máy Bông Tấm tng
CTCP khoáng sản Luyện kim màu 59 NM luyện kim màu Hà Thành Hà Thành chì, kẽm
Công ty TNHH Hiệp 60 Nhà máy thép Hiệp Hương Sx phôi thép Hương
Công ty cổ phần Sx sp hợp 61 Nhà máy luyện hợp kim sắt Nhật Anh kim sắt
Dự án đầu tư xây dựng dây CT TNHH Tiến Lộc Dụng cụ cầm tay 62 chuyền dụng cụ cầm tay
Công ty CP kinh
Nhà máy sản xuất, sửa chữa vỏ doanh & xuất nhập Chiết nạp gas 63 bình gas và chiết nạp gas khẩu khí gas hóa
lỏng Vạn Lộc
Công ty TNHH sản Sản xuất dụng cụ Đầu tư thiết bị cho sản xuất sản xuất kinh doanh cơ khí, dụng cụ 64 phẩm mới Trường Tín cầm tay
23
Nguồn: Ban quản lý Khu công nghiệp
1.3. Sự hình thành tổ chức công đoàn ở khu công nghiệp Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên
Công đoàn các KCN tỉnh Thái Nguyên được thành lập theo Quyết định
số 275/QĐ/CĐCĐT ngày 03/01/2006 của Liên đoàn lao động tỉnh Thái
Nguyên. Trong đó, có công đoàn cơ sở KCN Sông Công. Tổ chức công đoàn
KCN Sông Công đã nhen nhóm đi vào hoạt động từ rất nhiều năm nhưng phải
đến năm 2006 mới chính thức được hình thành. Từ khi đi vào hoạt động, công
đoàn luôn chấp hành sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, chịu sự chỉ đạo sát sao
của Liên đoàn lao động tỉnh và Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên. Nhờ
đó, phát huy vai trò của công đoàn, là sợi dây giữ vai trò cầu nối giữa chủ sử
dụng lao động với người lao động. Do vậy, cần tạo điều kiện, cơ sở giúp hai
bên hiểu về nhau cùng có lợi và thúc đẩy sự phát triển chung của KCN. Một
bên tích lũy lao động, một bên tích lũy tài sản nuôi sống bản thân và gia đình.
Đồng thời phản ánh tâm tư nguyện vọng của người lao động đối với giới chủ.
Trong suốt chặng đường 30 năm (1985-2014), tổ chức công đoàn ở KCN
Sông Công luôn đóng vai trò quan trọng vào sự phát triển của KCN nói chung
và sự ổn định về mọi mặt của công nhân, viên chức, lao động trong KCN nói
riêng. Công đoàn KCN Sông Công hoạt động dưới sự chỉ đạo của Đảng và nhà
nước nhưng không tách rời các chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu
của Công đoàn Việt Nam đề ra. Đồng thời, công đoàn chịu sự giám của Ban
quản lý các KCN Thái Nguyên được thành lập theo quyết định số 130/2000/QĐ
của Chính phủ. Ngày 20/11/2000, Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên
được thành lập và trụ sở đặt tại Sông Công, với chức năng chính là quản lý các
KCN tập trung trên địa bàn tỉnh. Trong đó có KCN Sông Công với diện tích
mặt bằng 320 ha, giai đoạn I đã triển khai là 69,37 ha, có 45 ha là diện tích đất
công nghiệp. Việc triển khai các dự án đi vào sản xuất kinh doanh đã có hiệu
24
quả bước đầu, nhiều sản phẩm được đưa ra thị trường. Trong quan hệ lao động
đến nay chưa có tranh chấp lớn xảy ra tại KCN. Tuy nhiên, việc thực hiện các
chế độ chính sách, quyền lợi của khu vực này chưa được quan tâm sâu sắc.
Năm 2006, KCN Sông Công có 08 công đoàn cơ sở hoạt động với tổng
số đoàn viên là 559. Trong đó, có 03 công đoàn cơ sở trực thuộc liên đoàn lao
động TP. Sông Công, 02 công đoàn cơ sở là đơn vị hành chính, 02 công đoàn
cơ sở thuộc công ty trung ương. Thực trạng về hoạt động công đoàn trong KCN
chưa đáp ứng được yêu cầu quy mô tập trung cao của KCN với đội ngũ lao
động chuyên về sản xuất công nghiệp. Do vậy, sự chỉ đạo giữa liên đoàn lao
động địa phương với các công đoàn doanh nghiệp trung ương chưa có sự thống
nhất đồng bộ, thiếu sự sâu sát. Mặt khác, khi xảy ra tranh chấp, đình công thì
không thể giải quyết nổi. Vì vậy, việc thành lập một tổ chức công đoàn các KCN
tỉnh Thái Nguyên là rất cần thiết. Với những đặc điểm, Ban thường vụ Liên đoàn
lao động tỉnh Thái Nguyên đã đặt ra kế hoạch và thỏa thuận với lãnh đạo ban quản
lý các KCN trong việc xem xét, xúc tiến thành lập công đoàn các khu công nghiệp
tỉnh Thái Nguyên.
Công đoàn đã thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của mình như
tuyên truyền, giáo dục, tổ chức các phong trào thi đua trong công nhân, viên
chức, lao động; phát triển đoàn viên, xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh;
Chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công
nhân, viên chức, lao động. Đến nay đã có 64 doanh nghiệp chịu sự quản lý của
công đoàn KCN Sông Công.
Từ khi đi vào hoạt động Công đoàn KCN đã trở thành tổ chức tiên phong
trong phong trào đấu tranh bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. Trước
hết là lãnh đạo công nhân đấu tranh đòi quyền lợi, góp phần đoàn kết công
nhân cùng với giai cấp, tầng lớp khác trong cả nước đấu tranh giải phóng
dân tộc. Cùng với sự phát triển xã hội, những chính sách trong lao động
cũng có nhiều thay đổi. Công đoàn KCN dần chiếm được vị trí quan trọng
25
trong hệ thống các tổ chức xã hội và trong đời sống của người lao động. Tại
Điều 1, Luật công đoàn năm 1990 ghi nhận: “Công đoàn là tổ chức chính trị-
xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam, tự nguyện
lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, là thành viên của hệ
thống chính trị Việt Nam, là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động”.
[11, tr3]. Còn ở Điều 10, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 cho rằng: “Công đoàn là tổ chức chính trị- xã hội của giai cấp công
nhân và người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân viên chức và những
người lao động khác, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra,
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ,
công nhân viên chức và người lao động xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.[8, tr7].
Như vậy, công đoàn là thành viên của hệ thống chính trị, là trung tâm tập
hợp đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân, lao
động. Công đoàn trở thành chỗ dựa vững chắc, là sợi dây nối liền, gắn kết giữa
chủ sử dụng lao động với người lao động. Với vai trò là tổ chức chính trị - xã
hội của giai cấp công nhân, người lao động, công đoàn luôn cố gắng tập hợp
toàn bộ quần chúng, công nhân, viên chức lao động, không phân biệt giới tính,
dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Trong suốt quá trình hoạt
động, công đoàn luôn là tổ chức đại diện cho người lao động, tham gia bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp cho họ và tham gia quản lý KT-XH. Xét về tính chất,
công đoàn là một tổ chức xã hội có tính chất nghiệp đoàn. Các thành viên công
đoàn thuộc về lực lượng lao động đã hoặc đang làm một công việc nhất định.
Do đó, công đoàn có thể coi là tổ chức nghề nghiệp rộng lớn nhất, là tổ chức
đáng tin cậy cho mọi tầng lớp lao động trong xã hội. Mặt khác, công đoàn KCN
còn tổ chức tuyên truyền chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước: Luật lao
động, BHXH, BHYT, bảo hộ lao động… đến với người lao động, có trách
nhiệm xây dựng công đoàn cơ sở, bồi dưỡng công nhân ưu tú kết nạp Đảng. Có
26
thể nói, công đoàn là cộng sự đắc lực, là sợi dây nối quan trọng của của giới
chủ và công nhân, viên chức, lao động. Bởi những hoạt động của công đoàn đã
thực sự góp phần xây dựng, phát triển các đơn vị, công ty, doanh nghiệp, … vì
mục đích tồn tại của các đơn vị, công ty, doanh nghiệp, vì lợi ích của người lao
động. Từ đó, có thể khẳng định vị trí của công đoàn và tạo ra điều kiện pháp lý
xã hội cho hoạt động công đoàn, giúp công đoàn thực hiện tốt chức năng nhiệm
vụ của mình đó là: “Không có một nền móng như các tổ chức công đoàn thì
không thể thực hiện được các chức năng cuả nhà nước”. [9, tr380].
Để thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình, yếu tố không
thể thiếu là nguyên tắc hoạt động của công đoàn. Đây là những chuẩn mực để
hướng dẫn nội dung, phương pháp, hình thức hoạt động của công đoàn. Vì vậy
mà công đoàn luôn phải giữ liên hệ mật thiết với giới chủ các doanh nghiệp và
người lao động, đảm bảo tính tự nguyện, tập trung dân chủ. Trong đó, sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo của Công đoàn cấp trên giữ vai trò quan
trọng hàng đầu. Lênin đã chỉ rõ “Giai cấp vô sản ở bất cứ nơi nào trên thế giới
cũng chỉ phát triển và chỉ có thể phát triển bằng con đường Công đoàn, bằng
sự tác động qua lại giữa Công đoàn và Đảng của giai cấp công nhân, chứ
không bằng con đường nào khác.” [10, tr.42]. Bên cạnh đó, sự liên hệ mật thiết
giữa công đoàn với quần chúng, người lao động được khẳng định trong Văn
kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X, đó là“Vai trò và sức mạnh
của các đoàn thể chính là ở khả năng tập hợp quần chúng, hiểu rõ tâm tư và
nguyện vọng của quần chúng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho quần
chúng, khởi động tinh thần tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của quần
chúng…” [28, tr.15]. Tính tự nguyện của nguời lao động trong hoạt động công
đoàn thể hiện ở chỗ người đoàn viên tự nguyện gia nhập tổ chức công đoàn,
tham gia hoạt động, thực hiện các nhiệm vụ được giao trên cơ sở nhận thức
được trách nhiệm và lợi ích công việc của mình. Tập trung dân chủ là xây dựng
chế độ làm chủ dựa trên sáng kiến của người lao động, tạo mọi điều kiện thu
27
hút người lao động tham gia hoạt động. Đảm bảo sự thống nhất giữa ý chí và
hành động chống lại sư “tập trung quan liêu” và “dân chủ vô tổ chức”. Phủ
nhận nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động sẽ phủ nhận về mặt bản chất
cách mạng của tổ chức công đoàn. Như vậy tổ chức công đoàn KCN Sông
Công ra đời có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của KCN Sông Công nói
riêng và của TP. Sông Công tỉnh Thái Nguyên nói chung.
Tiểu kết chương 1
Ở chương 1, tác giả đã giới thiệu khái quát về TP. Sông Công, quá trình
hình thành và phát triển của KCN Sông Công, sự ra đời của tổ chức công đoàn
ở KCN này. Sự ra đời và hoạt động của KCN Sông Công góp phần không nhỏ
trong sự phát triển kinh tế của TP Sông Công nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói
chung, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, người lao
động. KCN có vị trí khá thuận lợi, nằm ở phía Bắc TP Sông Công, cách TP.
Thái Nguyên 18 km về phía Nam và cách thủ đô Hà Nội 60 km - vị trí quan
trọng trong vành đai công nghiệp Hà Nội. Từ đây, có thể tỏa đi các KCN phía
Bắc. Tuy nhiên, để KCN Sông Công phát triển ổn định, lâu dài và ngày càng
vững mạnh, chất lượng đội ngũ công nhân luôn là vấn đề đặt lên hàng đầu.
Trong quá trình lao động sản xuất, người sử dụng lao động và người lao động
có nhiều quyền lợi khác nhau, đôi khi xảy ra mâu thuẫn và tranh chấp, ... Để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho cả hai bên, cần phải có một tổ chức đại
diện chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho chủ doanh nghiệp và
công nhân, viên chức, lao động. Vì vậy, tổ chức công đoàn KCN được hình
thành với vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng, mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp và người lao động, thúc đẩy sự phát triển của KCN, góp phần tạo
28
bước chuyển biến sâu sắc trong KT-XH TP. Sông Công.
Chương 2
HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KHU CÔNG NGHIỆP
SÔNG CÔNG GIAI ĐOẠN 1985 – 2014
2.1. Giai đoạn 1985 - 1995
Có thể nói vào cuối nhiệm kì Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của
Đảng, yêu cầu đổi mới đất nước được đặt ra cấp thiết. Đáp ứng yêu cầu đó,
tháng 12/1986, Đại hội VI của Đảng được triệu tập. Chủ trương Đổi mới toàn
diện đất nước đã được đề ra từ Đại hội này. Trước hết là đổi mới tư duy kinh tế
nhằm phát huy những năng lực và giải phóng những tiềm năng sẵn có, tạo
chuyển biến về nhận thức và hành động trong toàn xã hội nói chung và trong
hoạt động công đoàn nói riêng.
Trong bối cảnh đó, KCN Sông Công được thành lập. Những ngày đầu
thành lập, công đoàn KCN chưa là một tổ chức chính thức nhưng đã có những
hoạt động góp phần nâng cao chất lượng và bảo vệ lợi ích hợp pháp của giai
cấp công nhân, người lao động. Công đoàn luôn cố gắng tập hợp quần chúng,
công nhân, viên chức lao động, thu hút sự tham gia đông đảo của công nhân
viên chức, người lao động, không phân biệt giới tính, dân tộc, thành phần xã
hội, tín ngưỡng, tôn giáo, giữ vai trò quan trọng góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ Quốc.
Một trong những nội dung quan trọng mà Ban quản lý KCN thực hiện
được là chức năng giáo dục, giúp người lao động nhận thức đầy đủ về lợi ích cá
nhân phải gắn liền với kết quả sản xuất- kinh doanh của đơn vị. Từ đó, củng cố
kỷ luật lao động, học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, chuyên môn,
nghiêp vụ, xây dựng ý thức tự nguyện, tự giác trong lao động công tác. Năm
1991, công đoàn đã triển khai học tập Nghị quyết Công đoàn cho các cán bộ
29
Công đoàn chủ chốt, đoàn viên công đoàn. Tổ chức các buổi sinh hoạt tại cơ sở
hoặc thông qua các kỳ hội nghị, họp định kỳ của công đoàn để tuyên truyền
giáo dục cho công nhân, viên chức, lao động. Ngoài ra, để nâng cao trình độ
học vấn, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, viên chức, lao động, công đoàn
còn tổ chức ít nhất một đến hai lớp tập huấn mỗi năm.
Bảng 2.1. Thống kê số lớp và số lượt người tham gia tập huấn (1991 -1995)
Số lớp tập huấn Lượt người tham gia tập huấn Năm
1991 01 5
1992 01 7
1993 01 11
1994 02 15
1995 01 22
Nguồn: Công đoàn KCN Sông Công
Nhằm thực hiện tốt công tác tuyên truyền giáo dục trong công nhân, viên
chức và lao động, tổ chức công đoàn không ngừng giáo dục về vấn đề truyền
thông, tư vấn về dân số kế hoạch hóa gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội, …
Đồng thời, mỗi năm công đoàn đều tổ chức kỷ niệm chào mừng các ngày lễ lớn
như kỷ niệm ngày 8/3, 20/10 (thể hiện sự quan tâm chu đáo tới các nữ công
nhân), kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và ngày thành lập
công đoàn 28/7 để tuyên truyền về truyền thống, lịch sử đất nước trong công
nhân, viên chức, lao động. Hoạt động này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho
sự hoạt động của công đoàn mà còn góp phần nâng cao hiểu biết về tổ chức
công đoàn cho người lao động và doanh nghiệp. Công đoàn luôn luôn tuyên
truyền, giáo dục công nhân viên chức và lao động vững tin vào đường lối,
chính sách của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới; luôn tỉnh táo cảnh
giác và đấu tranh với những khuynh hướng sai lầm, tư tưởng tiểu tư sản, ảo
tưởng, mơ hồ, mị dân, cơ hội làm sai lệch mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, công đoàn luôn bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của công
30
nhân, viên chức và lao động, tạo điều kiện làm việc cho công nhân, lao động,
tham gia vào chế độ tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, ký hợp đồng lao động, giải
quyết tranh chấp lao động, … Kết quả cho thấy, công đoàn đã hỗ trợ và giải
quyết việc làm cho 8.705 người lao động (1990 -1995), giúp họ cải thiện đời
sống ngày càng tốt hơn.
Bảng 2.2. Thống kê giải quyết việc làm cho người lao động
của tổ chức công đoàn (1990 -1995)
Năm
1990 1991 1992 1993 1994 1995 Số người được giải quyết việc làm 611 730 1200 1450 1700 2000 Số người được hỗ trợ giải quyết việc làm 80 112 146 179 198 299
Nguồn: Công đoàn KCN Sông Công
Đặc biệt, công tác bảo hộ lao động cũng được tổ chức công đoàn chú
trọng, quan tâm. Cụ thể là các đơn vị, công ty, nhà máy xí nghiệp đều tổ chức
triển khai thực hiện tuyên truyền như gắn áp phích, bảng nội quy, quy định tại
nơi làm việc, treo băng zôn, khẩu hiệu nhằm tuyên truyền sâu rộng trong công
nhân, viên chức, lao động. Bên cạnh đó, công đoàn luôn phát huy vai trò của
mình trong các hoạt động xã hội từ thiện, tích cực tham gia ủng hộ nhiều loại
quỹ như “Qũy vì người nghèo”, “Quỹ ủng hộ trẻ em tàn tật, mồ côi”, …
Như vậy, hoạt động của công đoàn trong giai đoạn 1985-1995 luôn gắn
liền với lợi ích của người lao động và doanh nghiệp. Lợi ích của người lao
động không chỉ thuần túy là cơm ăn, áo mặc mà cao hơn là lợi ích kinh tế, lợi
ích văn hóa, lợi ích tinh thần, lợi ích trước mắt, hàng ngày, lâu dài, lợi ích cá
nhân, tập thể. Hoạt động của tổ chức công đoàn trong KCN giai đoạn này giúp
người lao động thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình trong đơn vị, thực
hiện tốt chế độ đóng góp và thụ thưởng, đấu tranh chống lại các thói hư tật xấu
của một số người, nhóm người, đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp
31
luật, bảo vệ cơ sở vật chất, bảo vệ quyền lợi cho giới chủ, cho doanh nghiệp.
Công đoàn cùng tham gia công tác quản lý với các cơ quan, đơn vị doanh
nghiệp theo đường lối và sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Để thực hiện tốt
chức năng này, công đoàn tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi trong công
nhân, viên chức và lao động – biện pháp tổng hợp nhất để công nhân, viên chức
và lao động trực tiếp tham gia quản lý. Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật áp
dụng KHKT vào sản xuất. Ngoài ra, các đơn vị, doanh nghiệp còn phát động
phong trào thi đua kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, phong trào học tập và
rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng công việc được
giao tại các công đoàn cơ sở. Từ đó, các công ty, doanh nghiệp lựa chọn được
một số đoàn viên công đoàn có đủ điều kiện để theo học các lớp đào tạo bồi
dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ cho công việc chuyên môn tại doanh
nghiệp, công ty, góp phần nâng cao chất lượng sản xuất, tăng thu nhập cho
công nhân, viên chức, lao động, đem lại lợi nhuận cao hơn và đẩy mạnh sự phát
triển của doanh ngiệp.
Bảng 2.3. Thống kê số lớp và số lượt công đoàn viên được đào tạo, bồi
dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ của tổ chức công đoàn (1992-1995)
Số lớp bồi dưỡng Lượt đoàn viên tham gia Năm
1992 01 3
1993 01 4
1994 01 6
1995 02 7
Nguồn: Công đoàn KCN Sông Công
Đặc biệt, công đoàn thường xuyên tổ chức phong trào Xanh – Sạch –
Đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và vệ sinh môi trường như trồng cây
xanh, quét dọn xung quanh công ty, doanh nghiệp, tổ chức trồng cây xanh mới
nhân ngày Môi trường thế giới 5/6. Trong 5 năm (1990 -1994), công đoàn đã
trồng được 11.504 cây xanh với tổng số tiền là 35 triệu, trồng và chăm sóc bồn
hoa tại các khu vực đất trống trong đơn vị tạo cảnh quan môi trường, vệ sinh
32
xanh - sạch – đẹp góp phần cải thiên môi trường làm việc.
Bảng 2.4. Thống kê số cây xanh được trồng
của tổ chức công đoàn (1990-1994)
Số cây xanh được trồng Số tiền (triệu đồng) Năm
1990 1.135 5
1991 1.779 6
1992 1.899 7
1993 2.991 7
1994 3.700 10
Nguồn: Công đoàn KCN Sông Công
Công đoàn luôn chú trọng đến việc phát triển tiềm năng lao động, phát
huy sáng kiến, cùng doanh nghiệp tìm nguồn vốn, thị trường mở rộng sản xuất
– kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động, kiểm tra, giám sát hoạt
động của chính quyền chống quan liêu, tham nhũng.
2.2. Giai đoạn 1996 - 2005
Trong giai đoạn 1996 - 2000, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy,
UBND TP, công tác lao động việc làm đã được triển khai ở các cơ sở sản xuất,
kinh doanh gắn với chương trình phát triển KT-XH của TP thông qua nhiều
giải pháp tích cực và thích hợp.
Bảng 2.5. Lao động được giải quyết việc làm ở KCN Sông Công
giai đoạn 2001- 2005
Số lao động được Số lao động có Số lao động có Năm giải quyết việc làm việc làm mới việc làm ổn định
2001 441 445 770
2002 578 554 891
2003 779 571 993
2004 975 589 1.100
2005 1.727 841 1.246
33
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của công đoàn KCN Sông Công (2001 -2005)
Mỗi năm, công đoàn KCN đã giải quyết việc làm cho hơn 4.500 người,
trong đó giải quyết việc làm mới cho 2.000 – 3.000 lao động; hơn 5.000 người
có việc làm ổn định và có thu nhập khá. Việc thực hiện phương hướng, nhiệm
vụ, mục tiêu của Đại hội Công đoàn Việt Nam của tổ chức công đoàn KCN
Sông Công có nhiều chuyển biến mới. Cùng với những chuyển biến tích cực
trong cơ cấu lao động, chất lượng lao động cũng không ngừng được nâng cao.
Trong những năm qua, cùng với Ban quản lý KCN Sông Công thì tổ chức công
đoàn trong KCN luôn xác định tiếp tục xây dựng và phát triển KCN, khuyến
khích các thành phần kinh tế nhất là những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, đẩy
mạnh phát triển sản xuất kinh doanh nhằm thu hút và tạo thêm nhiều việc làm
cho người lao động.
Trong mối quan hệ với chủ doanh nghiệp, nhà máy và xí nghiệp trong
KCN, công đoàn vừa phải xây dựng mối quan hệ đoàn kết hợp tác vừa phải bảo
vệ cho được quyền lợi của công nhân, lao động nhưng phải theo hướng góp
phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giải quyết vấn đề việc làm, đời
sống người lao động. Đây thực sự là mối quan hệ khó khăn, tế nhị và phức
tạp trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Để
thực hiện tốt mối quan hệ với người lao động, hoạt động công đoàn luôn
tuân theo hiến pháp và pháp luật, luật công đoàn, luật lao động và lấy đó làm
hành lang, căn cứ pháp lý để giải quyết mối quan hệ giữa công nhân, lao
động với người đứng đầu doanh nghiệp. Công đoàn còn giáo dục cho công
nhân lao động hiểu rõ và thực hiện tốt những quy định của pháp luật về lao
động, về quan hệ với giới chủ.
Có thể nói, khi nền kinh tế thị trường tiếp tục mở cửa với nhiều thành
phần kinh tế phong phú thì các hoạt động của công đoàn vẫn dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nhà nước. Thực hiện theo đúng vai trò, mục tiêu, phương hướng
nhiệm vụ của Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VIII (3-6/11/1998) đề ra.
34
Việc đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo hướng hướng xã hội chủ nghĩa đã làm cho giai cấp công nhân Việt
Nam nói chung và công nhân KCN Sông Công nói riêng có nhiều biến đổi về
cơ cấu số lượng và chất lượng.
Để thực hiện và hoàn thành mục tiêu Đại hội công đoàn VIII đề ra, công
đoàn KCN Sông Công luôn tham gia quản lý, chăm lo đời sống, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức, lao động. Thực hiện
theo đúng quy chế, nội quy, luật lao động, luật công đoàn… đảm bảo quyền lợi
cho cả người lao động và giới chủ. Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua
yêu nước, trọng tâm là thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo với mục tiêu
năng suất, chất lượng HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tích cực
hưởng ứng phong trào xanh – sạch – đẹp, đảm bảo an toàn lao động và vệ sinh
môi trường, phong trào học tập nâng cao rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên
môn. Thực hiện phong trào xây dựng văn hóa ở các doanh nghiệp thuộc cơ sở,
nâng cao chất lượng phong trào thi đua phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trình độ học vấn, tay nghề, góp phần làm ra những sản phẩm có sức cạnh tranh
trên thị trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.
Bảng 2.6. Thống kê số nhà được hỗ trợ làm mới ở TP. Sông Công
do công đoàn KCN Sông Công đầu tư giai đoạn 2000 -2005
Số nhà được hỗ Số tiền Số nhà được hỗ Số tiền Năm trợ làm mới (triệu đồng) trợ sửa chữa
2000 8 40 21 42
2001 10 50 29 58
2002 14 70 37 74
2003 15 75 41 82
2004 18 90 45 90
2005 21 105 49 98
35
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của công đoàn KCN Sông Công (2000 -2005)
Phong trào thi đua “Phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn” được
triển khai sâu rộng đến công nhân, viên chức, lao động. Tính riêng trong 2 năm
(2004, 2005) tổng số tiền vận động công đoàn viên trong KCN ủng hộ xóa nhà
dột nát của TP là 523 triệu đồng. Bên cạnh cuộc vận động trợ giúp xóa nhà dột
nát cho hộ nghèo, cuộc vận động đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trong
công nhân, viên chức, lao động vẫn diễn ra thường xuyên trong các đơn vị,
doanh nghiệp. Đây là cuộc vận động nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
của các cấp ủy Đảng cùng với sự tham gia tích cực, hăng hái của cán bộ, công
nhân, viên chức lao động và toàn dân. Cuộc vận động đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ, nhiều lao động được giải quyết việc làm, phát triển sản xuất,
xóa đói giảm nghèo…TP. Sông Công không còn hộ đói, hộ nghèo giảm mạnh
(năm 2000 là 13,5% xuống còn 4% vào năm 2005). Đời sống công nhân, viên
chức, lao động đã được nâng lên, nhiều gia đình vươn lên thoát nghèo, nhiều
gia đình vươn lên làm giàu bằng chính đôi tay và khối óc sáng tạo của mình.
Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Tương thân tương ái”
tổ chức công đoàn KCN đã có nhiều hoạt động nhân đạo với những việc làm
thiết thực như giúp đỡ các gia đình chính sách, thương binh liệt sỹ, những nạn
nhân chất độc màu da cam…; thực hiện phong trào tặng nhà tình nghĩa, vườn
cây tình nghĩa, …Ngoài ra, tổ chức công đoàn còn thực hiện cuộc vận động
“Ngày vì người nghèo” với trên 70 triệu đồng và hàng nghìn ngày công lao
động. Hỗ trợ được trên 200 suất quà, hỗ trợ mái lợp cho 2 gia đình, hỗ trợ xây
15 căn nhà và phương tiện sản xuất cho các gia đình nghèo với tổng số tiền trên
50 triệu đồng (năm 2005). Với lòng biết ơn sâu nặng, thể hiện truyền thống đạo
lý của dân tộc “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” mỗi cán bộ, công nhân, viên chức các
công đoàn cơ sở ở các đơn vị doanh nghiệp, công ty trong KCN tự nguyện
đóng góp một phần vật chất vào quỹ đền ơn đáp nghĩa. Nhờ đó, các bà Mẹ Việt
Nam anh hùng, các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn đặc
36
biệt, thương binh, bệnh binh, … được quan tâm chu đáo, tận tình hơn. Năm
2005, công đoàn KCN Sông Công đã tri ân và tặng quà cho ba Mẹ Việt Nam
anh hùng trên địa bàn TP.
Bảng 2.7. Danh sách Mẹ Việt Nam anh hùng
được công đoàn KCN Sông Công tri ân và tặng quà năm 2005
Họ và tên Địa chỉ Ghi chú
Mẹ Lương Thị Tường Xã Tân Quang Có con duy nhất là liệt sĩ
Mẹ Nguyễn Thị Hoành Xã Bình Sơn Có con duy nhất là liệt sĩ
Mẹ Cao Thị Hợi Xã Bá Xuyên Có con duy nhất là liệt sĩ
(Nguồn: Phòng Lao động, thương binh và xã hội TP. Sông Công)
Những việc làm thiết thực trên có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện lời
căn dặn của Bác Hồ đối với người có công với nước. Theo đó, đời sống của các
gia đình có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, thương binh, gia đình chính sách,…
trong công nhân, viên chức và lao động trên địa bàn cũng được nâng cao.
Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” ngày càng lan rộng
và đi vào chiều sâu, có ý nghĩa sâu sắc đối với việc giáo dục tinh thần yêu nước
phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, mang tính nhân văn sâu
sắc của dân tộc Việt Nam nói chung và của nhân dân Sông Công nói riêng. Đặc
biệt là đối với thế hệ trẻ nhằm góp phần xây dựng quê hương trong thời kỳ đẩy
mạnh sự nghiệp CNH, HĐH.
Cũng đến năm 2005, tổ chức công đoàn KCN Sông Công đã qua 5 kỳ đại
hội, đội ngũ cán bộ lãnh đạo , công nhân viên chức và tổ chức công đoàn ngày
càng vững mạnh. Trong KCN Sông Công có gần 50 công đoàn cơ sở và nghiệp
đoàn với trên 5.000 công nhân, viên chức, lao động. Hoạt động của tổ chức
công đoàn và các phong trào công nhân, viên chức, lao động góp phần đáng kể
vào việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở mỗi cơ quan, công ty, xí
nghiệp, cơ sở nói riêng và Sông Công nói chung.
Công đoàn KCN góp phần đảm bảo công ăn, việc làm và thu nhập của
37
đoàn viên , lao động không chỉ ổn định mà ngày càng được nâng cao. Trong
phong trào thi đua “Vì sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và phát triển nông
thôn”, các xí nghiệp nhà máy đã tăng các sản phẩm, tặng 15 máy tuốt lúa cho
các gia đình thuộc diện chính sách, khó khăn trong và ngoài KCN … Công
đoàn còn vận động công nhân, viên chức người lao động đóng góp 2 ngày
lương phục vụ cho việc xây dựng 200 m kênh mương nội đồng với giá trị trên
600 triệu đồng, tặng cho nhân dân Bá Xuyên và xây dựng 01 căn nhà “Mái ấm
công đoàn” với diện tích là 25 m2 trị giá trên 30 triệu đồng. Đồng thời, công
đoàn còn vận động công nhân, viên chức, lao động tham gia và thực hiện tốt
công tác từ thiện, nhân đạo. Những hoạt động này thực sự góp phần vào việc
tăng cường tinh thần đoàn kết đẩy mạnh phong trào xóa đói, giảm nghèo trong
đời sống gười lao động.
Trong giai đoạn 1996 -2005, phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”
trong nữ công nhân, viên chức lao động được duy trì thường xuyên ở hầu hết
các cơ sở. Nhiều nữ công đã đạt danh hiệu giỏi hàng năm. Trong 5 năm (2001 -
2005), phong trào giỏi việc nước, đảm việc nhà có 551/2002 nữ công đạt danh
hiệu, trong đó có 26 nữ công nhân đạt danh hiệu cấp Trung ương.
Bảng 2.8. Thống kê số nữ công đạt danh hiệu trong phong trào giỏi việc
nước, đảm việc nhà (2001 -2005)
Cấp Trung ương Cấp tỉnh Cấp cơ sở Năm
2001 3 35 25
2002 4 41 35
2003 5 53 56
2004 6 66 76
2005 8 81 82
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của công đoàn KCN Sông Công (2001 -2005)
Cùng với việc chăm lo lợi ích của người lao động, công đoàn còn quan
tâm chú trọng tới công tác phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức công đoàn
38
vững mạnh. Với trên 80% công đoàn đạt cơ sở vững mạnh, trong đó có 20% số
đoàn viên đạt xuất sắc. Song song với những thành tựu đã đạt được từ các hoạt
động thực tế hàng năm công đoàn đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền và
ngành dọc cấp trên ghi nhận và khen thưởng. Tính từ năm 2000 đến năm 2005,
công đoàn KCN Sông Công đã nhận được 02 giấy khen của UBND thị xã Sông
Công; 01 bằng khen của Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên do thành tích 5
năm xây dựng công đoàn vững mạnh (2000 -2005). Cùng với những hoạt động
khác công đoàn luôn đẩy mạnh hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên
truyền vận động công nhân, viên chức và lao động thực hiện tốt các chủ trương
đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, đi đầu tham gia thực
hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, xây dựng củng cố tổ chức Đoàn,
góp phần xây dựng khối đại đoàn kết,…
Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn, các công đoàn cơ sở trên toàn
KCN đã có nhiều cố gắng, đạt được những kết quả quan trọng, điển hình như
đề ra những chủ trương biện pháp tích cực nhằm phát huy thuận lợi, khắc phục
khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng thời, luôn bám sát sự lãnh đạo
của Đảng, tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ làm công tác đoàn
từ cấp cơ sở. Đặc biệt là công tác bồi dưỡng nguồn kế cận thường xuyên, tại
chỗ, chủ động, tích cực sáng tạo, đổi mới mô hình hoạt động theo từng khối,
từng địa bàn, … Bên cạnh đó, tổ chức công đoàn KCN Sông Công còn thường
xuyên nắm bắt diễn biến tư tưởng của công nhân, viên chức, lao động, mọi hoạt
động đều được xây dựng dựa trên nhu cầu nguyên vọng chính đáng của công
nhân, viên chức và lao động gắn chặt với nhiệm vụ của công đoàn.
2.3. Giai đoạn 2006 - 2014
Từ năm 2006 đến năm 2014 là giai đoạn KCN Sông Công được đầu tư
nhiều về cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, vẫn gặp nhiều khó khăn trong công tác giải
phóng mặt bằng, xây dựng tái định cư, môi trường… Năm 2008, KCN còn gặp
nhiều khó khăn về thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài gậy nhiều thiệt hại về tài sản
đã làm ảnh hưởng đến sản xuất. Song được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và các cấp
39
Đảng ủy, sự phối hợp và điều hành của các cấp chính quyền cộng với sự nỗ lực
của công nhân viên chức lao động và nhân dân các dân tộc trên địa bàn, hoạt
động sản xuất của KCN có bước phát triển theo chiều hướng tích cực, góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chủ yếu do Ban quản lý KCN đề ra. Đến năm
2009, do biến động của giá cả thị trường đặc biệt là vấn đề suy thoái kinh tế
toàn cầu ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất kinh doanh của đơn vị. Từ đó, có
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, thu nhập của công nhân viên chức lao động
nói chung và ảnh hưởng đến hoạt động của công đoàn nói riêng.
Đến năm 2012 và những năm tiếp theo với các chính sách về tiền tệ và
các giải pháp khác của Chính Phủ đã kiềm chế lạm phát trong nước. Đây là
những chính sách đúng đắn của Nhà nước và Chính phủ nhưng do chưa có sự
chủ động nên công tác quy hoạch xây dựng các KCN Thái Nguyên (trong đó có
KCN Sông Công) gặp phải không ít khó khăn trong công tác giải phóng mặt
bằng phát triển KCN, vận động thu hút đầu tư vào KCN.
Tuy nhiên, trong cả giai đoạn 2006 – 2014 nhằm khắc phục những khó
khăn và phát huy lợi thế, công đoàn KCN luôn luôn nhận được sự quan tâm chỉ
đạo sát sao của Liên đoàn lao động Tỉnh và chi bộ Ban quản lý các KCN tỉnh
Thái Nguyên. Bên cạnh đó, đội ngũ Ban chấp hành luôn có sự thống nhất cao
trong chỉ đạo công việc đặc biệt trong công tác phối hợp, chỉ đạo, có sự đoàn
kết, nhất trí, có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Chủ doanh nghiệp đã
không ngừng cố gắng tự mình vượt qua khó khăn và vươn lên, tạo được công
ăn việc làm cho người lao động. Một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp
thuận lợi hơn, việc làm cho người lao động cũng như thu nhập của họ cũng
được cải thiện, tạm thời có thu nhập ổn định.
Về tình hình công nhân viên chức, lao động KCN trong giai đoạn 2006-
2014: Do hầu hết các doanh nghiệp trong các KCN đều mới đi vào hoạt động
nên đã có sự tác động đến số lượng công nhân viên chức lao động trong từng
năm. Hơn nữa những đơn vị doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc quản
40
lý, tổ chức, điều hành sản xuất kinh doanh do còn thiếu kinh nghiệm , thiếu vốn
lưu động, … Tất cả đã ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh trong các
doanh nghiệp nên số lượng công nhân viên chức thay đổi theo từng năm.
Bảng 2.9. Thống kê số lượng người lao động KCN Sông Công
giai đoạn 2006 – 2012
Năm Lao động có việc làm thường xuyên (người) Tổng số công nhân viên lao động (người) Lao động không có việc làm thường xuyên (người)
1800 1705 95 2006
160.000 159.135 865 2008
5.443 4.890 553 2009
5.612 5.462 150 2010
6000 5.650 350 2012
(Nguồn: Tài liệu của Ban chấp hành Công đoàn các KCN Thái Nguyên)
Hiện nay, KCN Sông Công vẫn có sự biến đổi về cơ cấu, số lượng lao
động lúc vào lúc ra dẫn đến một vài doanh nghiệp gặp khó khăn, đồng thời thu
nhập của người lao động không ổn định. Tuy nhiên, công tác bảo hộ lao động
và điều kiện lao động ngày càng thuận lợi, đảm bảo an toàn hơn. Với những
hoạt động tích cực của tổ chức công đoàn cùng với sự quan tâm của các doanh
nghiệp nên quyền và lợi ích của người lao động ngày được cải thiện, đời sống
được nâng cao. Từ đó, giúp người lao động ngày càng yên tâm, tin tưởng vào
sự phát triển của các doanh nghiệp và công cuộc đổi mới của Đảng, nhà nước.
Thực hiện chỉ đạo của Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên, của chi bộ
Đảng Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên, công đoàn các KCN tỉnh Thái
Nguyên đã tuyên truyền và hoạt động tổ chức trong công nhân viên chức, lao
động chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước như Kỷ niệm 76 năm ngày thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/2/1930 – 03/2/2006), kỷ niệm 31 năm giải
phóng hoàn toàn miền nam thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2006), ngày
quốc tế lao động(1/5), kỷ niệm 115 năm ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí
41
Minh,… Đặc biệt, nội dung của Đại hội Công đoàn lần thứ X năm 2006 đã
giúp công đoàn KCN Sông Công có những hoạt động cụ thể dựa trên mục tiêu
và phương hướng tổng quát do Đại hội đề ra. Đó là xây dựng giai cấp công
nhân vững mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ
mới. Củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt
trận Tổ Quốc Việt Nam, trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước
sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và có hiệu quả trong công nhân, viên chức và lao
động. Tham gia quản lý, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng
của công nhân, viên chức, lao động. Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức
công đoàn trong các thành phần kinh tế, nâng cao năng lực và trình độ cán bộ
công đoàn, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức công
đoàn vững mạnh. Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh,
mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ phát triển KT-XH, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Hoạt động của công đoàn được thể hiện rõ nét ở các chức năng cơ bản
mà đầu tiên đó là công tác tuyên truyền, giáo dục và được tiến hành bằng nhiều
hoạt động cụ thể như tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng,
luật pháp của nhà nước, nhất là những chính sách có liên quan đến quyền, lợi
ích, nghĩa vụ của công nhân lao động như luật lao động, luật công đoàn, luật
doanh nghiệp, các văn bản dưới luật, các quy trình, quy phạm sản xuất, nội quy
của doanh nghiệp. Những hoạt động này giúp cho công nhân, lao động nắm
vững đường lối, chính sách của Đảng các chiến lược phát triển KT-XH, nắm
vững các chính sách luật pháp cũng như chủ trương phát triển của ngành, của
doanh nghiệp để tự giác chấp hành pháp luật và bảo vệ mình trước pháp luật.
Từ đó, xây dựng một khối liên minh trong nội bộ người lao động nói riêng và
42
khối đại đoàn kết dân tộc nói chung.
Được sự quan tâm chỉ đạo của Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên,
năm 2006 công đoàn các KCN tỉnh Thái Nguyên đã tổ chức lớp tập huấn cán
bộ công đoàn chủ chốt từ cơ sở đến Ban chấp hành công đoàn các KCN tỉnh
Thái Nguyên. Nội dung công tác tập huấn là về nghiệp vụ công tác công đoàn
và công tác bảo hộ lao động trong các khu công nghiệp toàn tỉnh. Hướng dẫn
và chỉ đạo các công đoàn cơ sở tổ chức triển khai Nghị quyết 4b của tổng liên
đoàn lao động Việt Nam về nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn, tham gia
xây dựng quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, chỉ đạo nâng cao
hiệu quả của ban thanh tra nhân dân. Thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 6
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X, công đoàn KCN Sông Công tích cực
tuyên truyền, triển khai thực hiện chương trình hành động của Tổng Liên đoàn
lao động Việt Nam“Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”. Họat động tuyên truyền, phổ biến pháp luật
tiếp tục được triển khai một cách có hiệu quả. Đồng thời, công đoàn KCN triển
khai Chỉ thị số 22 của Ban Bí thư về “tăng cường công tác lãnh đạo chỉ đạo
việc xây dựng quan hệ hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp”, góp phần
đẩy mạnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí, chống tiêu cực gắn với thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở.
Năm 2007, công đoàn KCN mở đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn trong
cán bộ công nhân, viên chức và lao động, đoàn viên công đoàn tổ chức học tập,
quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XII, nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Ngoài ra, công đoàn còn tổ chức vận động
công nhân, viên chức, lao động thực hiện thắng lợi chương trình hành động của
Nghị quyết Đại hội công đoàn các KCN Thái Nguyên lần thứ nhất, nghị quyết
Đại hội XIII công đoàn tỉnh, Nghị quyết IX Công đoàn Việt Nam đặc biệt là
thực hiện nghị quyết Đại hội của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên và nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
Ngày 16/9/2009, công đoàn KCN Sông Công tham gia lớp tập huấn
43
triển khai nghị quyết Đại hội X Công đoàn Việt Nam. Trong đó, nhấn mạnh
công tác phát triển đoàn viên và xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh cho cán
bộ công đoàn tổng số có 35 đồng chí từ cấp tổ công đoàn trở lên. Công đoàn
còn thực hiện tốt quy chế dân chủ, Đại hội công nhân, viên chức, lao động, hội
nghị cán bộ người lao động, xây dựng tốt các nội quy, quy chế của đơn vị.
Năm 2010, công đoàn KCN Sông Công còn triển khai học tập Nghị
quyết, đại hội công đoàn các cấp tới cán bộ công đoàn chủ chốt, đoàn viên công
đoàn, công nhân, viên chức, lao động thông qua các hội nghị, họp định kỳ của
công đoàn và các buổi sinh hoạt tại cơ sở. Ngoài ra, công đoàn còn thực hiện
chương trình phối hợp hoạt động với hội khuyến học thị xã Sông Công nâng
cao trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp trong công nhân, viên chức, lao
động góp phần xây dựng xã hội. Đồng thời, tiếp tục tuyên truyền đến công
nhân, viên chức, lao động trong các dịp diễn ra các sự kiện lịch sử trọng đại của
đất nước như hướng về đại lễ 1000 năm Thăng Long Hà Nội, tổ chức các hoạt
động chào mừng Đại hội Đảng các cấp tiến tới đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI, triển khai thực hiện Nghị quyết lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương về
“Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” và cuộc vận động “Xây dựng nếp sống văn hóa” trong
công nhân, viên chức, lao động.
Không chỉ dừng lại ở việc tổ chức học tập, phổ biến quán triệt nội dung
Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, các chế độ chính sách, pháp luật mới của nhà
nước, công đoàn KCN Sông Công còn đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở, tăng cường tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục,
thể thao. Công đoàn tổ chức các buổi nói chuyện về dân số, kế hoạch hóa gia
đình, luật bình đẳng giới, cách phòng chống bạo lực gia đình, …Từ đó, góp
phần nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động, tích cực tham gia các
họat động phòng chống tệ nạn xã hội. Tiếp tục duy trì tốt các chế độ sinh hoạt ở
44
cơ sở, nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của người lao động, kịp
thời tham gia giải quyết tốt các tranh chấp lao động, tăng cường các biện pháp
phòng ngừa đình công trong KCN.
Bảng 2.10. Thống kê lớp tập huấn cho cán bộ nữ KCN Sông Công
về chương trình dân số kế hoạch hóa, bình đẳng giới, chăm sóc sức khỏe
(2010- 2014)
Năm Số lớp tập huấn Lượt người tham gia
2010 04 200
2011 06 235
2012 08 300
2013 14 350
2014 18 410
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của công đoàn KCN Sông Công (2010 -2014)
Mặt khác, các cấp công đoàn đã tổ chức các giải thể thao như bóng đá,
cầu lông, bóng bàn,giao lưu văn nghệ tạo không khí vui tươi phấn khởi thi đua
lao động sản xuất kinh doanh trong đơn vị, góp phần làm phong phú thêm đời
sống tinh thần của công nhân viên, lao động. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của công
đoàn các KCN tỉnh Thái Nguyên, công đoàn KCN Sông Công đã tổ chức các
giải cầu lông công nhân viên chức, lao động năm 2006 nhân dịp kỷ niệm 31
năm ngày giải phòng miềm nam (30/4/1975 – 3/4/2006) và quốc tế lao động
1/5 và chào mừng đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Năm 2009, để chào mừng
kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam, công đoàn KCN tiếp tục
tổ chức thành công giải cầu lông cho công nhân viên chức lao động. Những
năm tiếp theo, giải cầu lông gần như trở thành môn thể thao truyền thống chào
chào mừng những ngày lễ lớn của đất nước và của tỉnh Thái Nguyên. Ngoài ra,
công đoàn KCN Sông Công còn tuyên truyền đến các công đoàn cơ sở về Dân
số - sức khỏe - môi trường, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống các tệ nạn
xã hội, tuyên truyền về dân số, kế hoạch hóa gia đình, phòng chống ma túy, trật
45
tự ATGT…trong công nhân viên chức, lao động. Công đoàn cơ sở còn chú
trọng đến các hoạt động nhân đạo, từ thiện như tổ chức thăm hỏi, tặng quà các
gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình chính sách, Mẹ Việt Nam anh hùng. Công
đoàn đã tổ chức tặng quà cho các gia đình công nhân viên chức, lao dộng có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhân ngày 27/7.
Công đoàn KCN đã triển khai sâu rộng tới công nhân, viên chức lao
động và đoàn viên Chỉ thị 03 CT/TW của bộ chính trị về “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thực hiện chỉ thị số 22-CT/TW của ban bí
thư khóa X về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao
động hài hòa ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp. Tuyên truyền thực hiện chỉ
tiêu và 4 chương trình hành động theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Công đoàn
Việt Nam lần thứ XI. Cùng với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” là cuộc vận động công nhân, viên chức, lao động tham
gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh. Hiện nay, hệ thống chính trị trong KCN được kiện toàn, củng cố. Công
đoàn cùng với các đoàn thể chính trị xã hội như Đoàn thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh, hội cựu cán bộ có trách nhiệm tuyên truyền, vận động, giáo dục
những đoàn viên ưu tú để giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp, trong năm 2013
có 12 đoàn viên công đoàn tham gia học tập cảm tình Đảng. Trong 5 năm thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa X) về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước” đã có nhiều công nhân lao động được trưởng thành,
được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo của
đơn vị, doanh nghiệp.
Dưới sự chỉ đạo của Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên về việc thực
hiện tốt 5 phong trào thi đua mà Đại hội công đoàn tỉnh Thái Nguyên lần thứ
XIII đã đề ra, công đoàn KCN Sông Công đã tiến hành tổ chức triển khai thực
hiện tốt các phong trào thi đua lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn trong
46
năm, đặc biệt là chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
Trước tiên là phong trào lao động giỏi sáng tạo thực hành tiết kiệm, hoàn
thành nhiệm vụ kế hoạch của đơn vị. Công đoàn KCN Sông Công luôn coi đây
là phong trào mũi nhọn chi phối các phong trào khác. Trong quá trình hoạt
động luôn bám sát nhiệm vụ, mục tiêu sản xuất kinh doanh trong đơn vị, động
viên khích lệ công nhân viên chức, lao động tích cực trong lao động sản xuất,
cải tiến kỹ thuật, áp dụng những kinh nghiệm vào quá trình sản xuất, nâng cao
ý thức tổ chức kỷ luật trong công nhân viên chức, lao động. Tham gia với chính
quyền đồng cấp xây dựng các quy chế khen thưởng, khuyến khích động viên
những công nhân lao động có tay nghề cao, có trình độ, có khả năng cải tiến kỹ
thuật, có sáng kiến áp dụng trong quá trình lao động sản xuất tiết kiệm nguyên
vật tư, vật liệu. Nhằm động viên kịp thời người lao động tạo không khí phấn
khởi trong lao động sản xuất và đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.
Công đoàn đã chú trọng thực hiện tốt phong trào, phấn đấu vượt trước kế hoạch
như nhà máy thép trường sơn – chi nhánh Minh Bạch: doanh thu đạt 40 tỷ
đồng, tiền thưởng trong sáng kiến lao động sản xuất và tiết kiệm vật tư, vật liệu
lên tới hàng trăm tỷ đồng trong năm. Nhiều cá nhân đạt danh hiệu lao động giỏi
được đơn vị, doanh nghiệp thưởng cuối năm hàng chục triệu đồng (với hình
thức thưởng tiền mặt và cổ phiếu).
Ngay từ những tháng đầu năm 2008, các phong trào thi đua yêu nước
trong công nhân, viên chức, lao động đã diễn ra sôi nổi. Công đoàn đặc biệt
quan tâm phát động phong trào “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” và gắn biển
các công trình, sản phẩm chào mừng Đại hội XIV Công đoàn tỉnh Thái
Nguyên, chào mừng Đại hội X Công đoàn Việt Nam. Trong đợt thi đua có 20
công trình được gắn biển trị giá trên 80 tỷ đồng, có 7 công trình được Liên
đoàn lao động tặng bằng khen, 5 cá nhân được tặng bằng lao động sáng tạo của
47
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Tổ chức hội thảo về công tác thi đua để
xây dựng chương trình thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động
giai đoạn 2008 – 2013. Xây dựng các tiêu chí doanh nghiệp xuất sắc năm 2008.
Tổ chức thành công hội thi sáng tạo kỹ thuật trong công nhân, viên chức, lao
động. Bước vào năm 2009, phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo,
phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật áp dụng các đề tài vào sản xuất, luôn được
công đoàn KCN duy trì và thực hiện tốt. Đến năm 2010, phong trào thi đua lao
động giỏi, lao động sáng tạo được công đoàn KCN phát động mạnh mẽ trong
công nhân, viên chức, lao động chào mừng Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng
tạo, tiết kiệm, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao tiếp tục được đẩy
mạnh ở công nhân viên chức, lao động trong những năm 2011, 2012. Công
đoàn KCN phối hợp với chính quyền chuyên môn đồng cấp triển khai phong
trào thi đua yêu nước với các nội dung thi đua cụ thể, phù hợp với tình hình
thực tế ở đơn vị, doanh nghiệp. Thi đua thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ
sản xuất năm 2012, thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến
cải tiến kỹ thuật, áp dụng các đề tài vào lao động sản xuất, thi đua thực hiện vì
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong 2 năm (2013,2014), công đoàn KCN
vẫn luôn lấy phong trào “Lao động giỏi, lao động sáng tạo, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao” là phong trào mang tính chủ đạo, mũi nhọn. Các hoạt
động công đoàn luôn gắn liền và bám sát nhiệm vụ của đơn vị, doanh nghiệp.
Học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề để đáp ứng yêu
cầu công tác, sản xuất kinh doanh tại các đơn vị, doanh nghiệp. Trong đó,
nhiệm vụ, kế hoạch của đơn vị, doanh nghiệp là các chỉ tiêu cụ thể về công tác,
về lao động và hiệu quả công việc trong cơ quan, đơn vị. Vì vậy, các phong
48
trào này luôn được các cấp công đoàn trong KCN đặt lên hàng đầu.
Tiêu biểu là phong trào “Vì sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và phát
triển nông thôn” được triển khai sâu rộng và dần đạt hiệu quả. Nhiều năm nay,
phong trào này được coi là một trong những phong trào chủ đạo của giai cấp
công nhân và tổ chức công đoàn các cấp. Đồng thời, đây cũng là một trong
những chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta nhằm thực hiện mục tiêu xóa
đói giảm nghèo trong các thôn xóm, làng bản, vùng sâu, vùng xa của Tổ Quốc.
Để phong trào đạt hiệu quả cao, công đoàn KCN đã phối hợp với phòng nông
nghiệp tổ chức nhiều lớp tập huấn, chuyển giao KHKT cho nông dân như lớp
tập huấn chuyển giao KHKT về trồng trọt, chăn nuôi, nông nghiệp, cung ứng
giống cây trồng các loại, triển khai dự án trồng cây…Đồng thời, tổ chức công
đoàn cùng với các cấp, các ngành xây dựng chương trình phối hợp hoạt động
tích cực quyên góp ủng hộ phong trào “Xóa nhà dột nát’’, ủng hộ người nghèo.
Tiếp đó là phong trào xanh – sạch – đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao
động và vệ sinh môi trường. Đây là một trong những phong trào không thể
thiếu được đối với mỗi đơn vị, cơ sở, doanh nghiệp trong các khu công nghiệp,
trang bị bảo hộ lao động cá nhân, cải thiện điều kiện làm việc trong các doanh
nghiệp, nơi sản xuất có liên quan trực tiếp đến tính mạng của người lao động và
tài sản chung. Vì vậy, tổ chức công đoàn KCN luôn chú trọng và quan tâm
cùng với nhiều đơn vị, doanh nghiệp xác định khẩu hiệu “Sản xuất phải an
toàn, an toàn để sản xuất” hay “An toàn là bạn, tai nạn là thù” để nhắc nhở
công nhân viên chức, lao động đảm bảo an toàn trong sản xuất. Bước đầu đã có
mộ số đơn vị trong KCN áp dụng quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO, thực
hiện mô hình “5S” trong quá trình quản lý, tổ chức sản xuất tại đơn vị. Các
doanh nghiệp đã chủ động trồng thêm cây xanh, cây cảnh, cải thiện điều kiện
nơi làm việc, tại phân xưởng tạo môi trường khang trang, sạch đẹp, thoáng mát.
Ngoài ra, công đoàn KCN còn triển khai tới công đoàn cơ sở thực hiện
trang bị bảo hộ lao động cá nhân theo đúng quy định và yêu cầu đòi hỏi từng
49
ngành nghề khác nhau. Phối hợp với phòng chuyên môn thành lập hội đồng
BHLĐ, tổ chức mạng lưới an toàn vệ sinh đến tổ sản xuất đồng thời bồi dưỡng
nâng cao về kiến thức về công tác vệ sinh an toàn lao động cho các thành viên
trong mạng lưới. Tuy nhiên, những năm qua KCN Sông Công vẫn để xảy ra
một số vụ tai nạn lao động trong đó có 01 vụ tai nạn lao động chết người do
thiếu ý thức về công tác bảo hộ lao động của công nhân lao động và do sơ xuất
của đơn vị mới đi vào sản xuất. Đây cũng là bài học cho các doanh nghiệp trong
các KCN cần xem xét, rút kinh nghiệm.
Năm 2008, phong trào “Xanh –sạch – đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao
động” được gắn với phong trào xây dựng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt
chuẩn văn hóa. Ngay từ đầu năm, công đoàn đã tổ chức 100% các cơ quan, đơn
vị doanh nghiệp trên địa bàn đăng ký thi đua. Đồng thời, thường xuyên quan
tâm, đôn đốc về công tác an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ nhất là
vào những tháng cao điểm cuối năm. Đến năm 2009, phong trào này vẫn luôn
được các đơn vị duy trì thường xuyên như trồng cây xanh, vệ sinh, quét dọn
xung quanh Công ty, doanh nghiệp, quét dọn vệ sinh môi trường các tuyến
đường trục chính của khu công nghiệp. Bên cạnh đó, tiến hành trồng mới được
4.700 cây xanh các loại nhân ngày môi trường thế giới 5/6... Cũng trong dịp
này, công đoàn KCN chỉ đạo tổ chức dọn vệ sinh, khơi thông cống rãnh, thu
gom, xử lý rác thải, trồng và chăm sóc cây xanh, bãi cỏ vườn hoa tại các khu
đất trống trong các đơn vị tạo cảnh quan môi trường, vệ sinh xanh -sạch - đẹp
góp phần cải thiện môi trường làm việc. Năm 2010, KCN có 3.100 cây xanh
mới được trồng và công đoàn còn tiến hành chỉ đạo các công đoàn bộ phận treo
băng zôn, panô, áp phích, khẩu hiệu tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.
Năm 2012, tiếp tục hưởng ứng phong trào Xanh - Sạch - Đẹp, đảm bảo an toàn
vệ sinh lao động và vệ sinh môi trường, công đoàn KCN còn tổ chức cho công
nhân, viên chức, lao động tham gia các lớp tập huấn, huấn luyện công tác an
50
toàn vệ sinh lao động và phòng chống cháy nổ, bảo hộ lao động.
Bảng 2.11. Thống kê số lớp tập huấn về công tác an toàn vệ sinh lao động,
vệ sinh thực phẩm, bảo hiểm lao động, phòng chống cháy nổ
KCN Sông Công tham gia (2008 – 2012)
Lượt cán bộ công nhân viên chức lao động Năm Số lớp tập huấn tham gia
2008 1 70
2009 2 120
2010 3 150
2011 4 180
2012 5 230
(Nguồn: Tài liệu của Ban chấp hành Công đoàn các KCN Thái Nguyên)
Đến nay, phong trào Xanh - Sạch Đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động
và vệ sinh môi trường vẫn luôn được các cấp công đoàn KCN Sông Công quan
tâm chỉ đạo sát xao. Tổ chức công đoàn luôn coi đây là một trong những phong
trào mũi nhọn để tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong công nhân, viên chức,
lao động. Bằng việc duy trì mở các lớp tập huấn về an toàn vệ sinh lao động, an
toàn thực phẩm, công tác bảo hộ lao động cũng được quan tâm chu đáo đảm
bảo an toàn cho công nhân, lao động, ra quân quét dọn vệ sinh môi trường tại
đơn vị, doanh nghiệp vào buổi sáng và trên các trục đường KCN ...Tích cực
chăm sóc và trồng mới cây xanh tạo môi trường làm việc lành mạnh cho người
lao động, góp phần đem lại nguồn thu cho các cơ quan, doanh nghiệp.
Tiếp tục hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước do công đoàn tổ chức,
công đoàn KCN Sông Công tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chương trình
“Nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp cho đoàn viên và người lao động”.
Với phong trào này, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động được
nâng cao, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Có thể nói, phong trào
51
này đã thực sự đi sâu vào cuộc sống công nhân, viên chức, lao động nơi đây
theo phương châm tự vươn lên khẳng định mình trước nhiệm vụ được giao
bằng nhiều hình thức vừa tự học vừa được đào tạo theo lộ trình.
Trong thời gian từ năm 2006 đến năm 2014, nhiều cá nhân là cán bộ,
công nhân, viên chức trong KCN Sông Công được theo học tại các lớp Đại học
tại chức, cao học, văn bằng 2, ngoại ngữ, … Đặc biệt năm 2008, phong trào
học tập “nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ”được công đoàn KCN quan
tâm tham mưu cho chính quyền, chuyên môn đồng cấp cử công nhân, viên
chức, lao độngvà cán bộ công đoàn tham gia các lớp đào tạo để nâng cao trình
độ, chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học. Năm 2009, công đoàn
KCN đã chọn cử một số đoàn viên công đoàn có đủ điều kiện để theo học các
lớp đào tạo, bồi dưỡng phục vụ cho công việc chuyên môn tại các công ty,
doanh nghiệp. Kết quả là có 06 đồng chí đoàn viên ưu tú tham gia lớp cảm tình
Đảng. Năm 2010, công đoàn KCN cử 07 đoàn viên ưu tú đi học lớp cảm tình
Đảng, 01 đồng chí đi học lớp Đảng viên mới, học thạc sĩ 01 đồng chí, cao cấp
chính trị 01 đồng chí, chuyên viên cao cấp 01 đồng chí. Năm 2012, công đoàn
đã cử 08 đồng chí theo học các lớp đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp
vụ để phục vụ cho công việc, cử 12 đồng chí là đoàn viên ưu tú tham gia học
lớp cảm tình Đảng...
Phong trào thi đua “Giỏi việc nước - Đảm việc nhà” trong công nhân
viên chức nữ lao động cũng được triển khai sâu rộng. Đây là phong trao mang
tính đặc thù về giới, tuy số nữ công nhân viên chức, lao động trong KCN chưa
đông, song hầu hết ở các đơn vị, cơ sở đều có nữ công nhân viên chức, lao
động. Việc làm này nhằm động viên chị em hăng hái trong lao động, sản xuất,
công tác hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tích cực tham gia các hoạt
động xã hôi, các chương trình như Dân số kế hoạch hóa gia đình, chương trình
chăm sóc sức khỏe sinh sản đồng thời làm tốt thiên chức của người phụ nữ
52
trong gia đình cùng với chồng con xây dựng gia đình văn hóa. Phòng chống các
tệ nạn xã hội, giúp nhau vươn lên xóa đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng
giới phát huy bản chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời, trong
thời gian dài công đoàn KCN tiếp tục triển khai phong trào “Giỏi việc nước –
Đảm việc nhà” trong nữ công nhân viên chức, lao động gắn với phong trào
“Phụ nữ tích cực hoạt động, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc
do TW hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động”. Năm 2008, KCN có 14 chị
được nhận bằng khen của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam,
142 chị được nhận bằng khen của Ban Thường vụ tỉnh Thái Nguyên, 19 chị
được Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trao kỷ niệm chương “Vì sự phát triển
cua phụ nữ Việt Nam”. Năm 2009,công tác tuyên truyền, giáo dục tiếp tục
được đẩy mạnh trong KCN, điển hình là việc triển khai học tập Nghị quyết Đại
hội công đoàn tới các cán bộ công đoàn chủ chốt, đoàn viên công đoàn, tổ chức
các buổi sinh hoạt với cán bộ, công nhân, viên chức, lao động tại cơ sở. Ngoài
ra, công đoàn còn phối hợp với hội khuyến học của Thị xã Sông Công nâng cao
trình độ, học vấn, kỹ năng nghề nghiệp trong công nhân, viên chức, lao động
góp phần xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2006 -2010. Năm 2009, tiếp tục
hưởng ứng thực hiện phong trào thi đua “Giỏi việc nước -Đảm việc nhà ” trong
công nhân, viên chức, lao động công đoàn đã tổ chức tốt các hoạt động xã hội,
các chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản,
phòng chống các tệ nạn xã hội... giúp chị em hăng hái trong lao động sản xuất,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và đặc biệt công đoàn đã tổ chức thành
công quỹ “Hậu phương Quân đội”... Năm 2010, công đoàn đã được Liên đoàn
lao động tỉnh Thái Nguyên khen thưởng cho 01 tập thể, 01 cá nhân và công
nhận cho 05 đồng chí đạt tiêu chuẩn 5 năm trong phong trào thi đua “Giỏi việc
nước - Đảm việc nhà”. Năm 2012, công đoàn KCN Sông Công có tổng số 198
chị đạt 2 giỏi các cấp. Năm 2013 phong trao giỏi việc nước, đảm việc nhà với
53
các hội thi văn nghệ, hội thi nấu ăn ...do công đoàn tổ chức chị em đã tham gia
tích cực tạo không khí vui tươi phấn khởi. Thông qua các hoạt động chị em
được trao đổi kinh nghiệm, từ đó chị em hiểu nhau hơn, có tinh thần tương trợ
giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng như trong công tác. Ngoài ra, chị em vẫn
tiếp tục tham gia tích cực, sôi nổi phong trào “Giỏi việc nước - Đảm việc nhà”
trong nữ công nhân, viên chức, lao động các khu công nghiệp Thái Nguyên giai
đoạn 2012 -2015. Đây là phong trào mang tính đặc thù về giới do đoàn chủ tịch
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam phát động gắn với phong trào “Phụ nữ tích
cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” do Trung ương
hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động. Phong trào tiếp tục được công đoàn
KCN mở rộng và trong những năm tiếp theo đạt được nhiều thành tích đáng kể,
góp phần động viên, khích lệ giúp cho chị em hăng hái trong lao động sản xuất,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tích cực tham gia các hoạt động xã hội,
chăm sóc sức khỏe sinh sản, đồng thời làm tốt thiên chức của người phụ nữ
trong gia đình cùng với chồng con xây dựng gia đình văn hóa. Phòng chống các
tệ nạ xã hội, giúp nhau vươn lên, xóa đói, giảm nghèo thực hiện bình đẳng giới
phát huy bản chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Một trong những hoạt động mang tính thiết thực và đạt hiệu quả cao
trong hoạt động của công đoàn KCN Sông Công trong giai đoạn này thực hiện
chức năng chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho
công nhân viên chức và lao động. Mọi hoạt động được tập trung vào việc công
đoàn đại diện cho người lao động thương lượng ký thỏa ước tập thể với người
sử dụng lao động. Công đoàn hướng dẫn, giúp đỡ người lao động giao kết hợp
đồng theo đúng quy định của pháp luật với đầy đủ quyền lợi được pháp luật
quy định. Công đoàn giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với
ngươi lao động như tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động,
thời gian làm việc, nghỉ ngơi và các phúc xã hội lợi khác…Bên cạnh việc bảo
vệ quyền lợi về kinh tế, công đoàn cần quan tâm bảo vệ cả quyền lợi chính trị,
54
lợi ích tinh thần, lợi ích lâu dài của người lao động, doanh nghiệp và xã hội,
Điển hình là công đoàn tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, thăm hỏi động
viên, giúp đỡ công nhân, lao động lúc khó khăn hoạn nạn. Đây cũng chính là
một trong những chức năng chủ yếu của tổ chức công đoàn. Do vậy, công tác
này luôn được công đoàn các KCN tỉnh Thái Nguyên quan tâm, chú trọng.
Công đoàn đại diện người lao động tham gia với chính quyền, với chủ doanh
nghiệp xây dựng các nội quy, quy chế trong đơn vị, doanh nghiệp đại diện
người lao động ký thỏa ước lao động tập thể, ký hợp đồng lao động với chủ
doanh nghiệp. Đồng thời tổ chức tốt việc chăm lo chế độ tiền lương, tiền
thưởng cho công nhân viên chức, lao động. Thường xuyên tổ chức kiểm tra,
nắm bắt tình hình việc thực hiện chế độ chính sách đối với người lao động, hoạt
động của hội đồng hòa giải ở cơ sở để giải quyết kịp thời đơn thư của công
nhân lao động. Ngoài ra, công đoàn còn xây dựng quy chế phối hợp hoạt động
với chính quyền đồng cấp, thống nhất các nội dung hoạt động trong đơn vị,
thực hiện tốt quy chế dân chủ trong cơ quan, đơn vị.
Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong các hoạt động xã hội từ
thiên, các công đoàn KCN Sông Công còn tích cực tham gia ủng hộ các quỹ
như “Qũy vì người nghèo”,“Qũy trẻ thơ”,“Qũy ngày Thương Binh liệt sỹ
27/7”, tham gia cuộc vận động mua sổ số ủng hộ quỹ “Xóa nhà dột nát”, ủng
hộ xây dựng tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng ở tỉnh Quảng Nam, tham và
tặng quà các gia đình chinh sách nhân ngày 27/7 với tổng só tiền là 5 triệu
đồng. Ngoài ra, công đoàn cơ sở trong KCN thường xuyên quan tâm thăm hỏi,
động viên công nhân viên chức, lao động lúc ốm đau, các gia đình công nhân
lao động, đoàn viên công đoàn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tổ chức tham
quan nghỉ mát cho công nhân viên chức, lao động. Đồng thời, tổ chức khám
sức khỏe định kỳ cho công nhân vien chức, lao dộng nhằm phát hiện bệnh sớm
để điều trị kịp thời, điển hình là Công đoàn công ty cổ phần thép Thái Nguyên,
55
Công đoàn Ban quản lý một số đơn vị khác.
Nhìn chung, công đoàn KCN luôn chủ động kiểm tra, giám sát việc thực
hiện chế độ chính sách đối với người lao động, chủ động phối hợp với chính
quyền, chuyên môn đồng cấp tổ chức Hội nghị cán bộ công chức, Đại hội công
nhân, viên chức. Hội nghị người lao động đúng thời gian và đảm bảo đúng quy
định góp phần thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, hướng dẫn người lao
động giao kết hợp đồng lao động, đại diện người lao động ký thỏa ước lao động
tập thể... Việc chấp hành pháp luật lao động, luật công đoàn, các chế độ chính
sách có liên quan tới người lao động cơ bản được quan tâm thực hiện tốt, vai
trò và hoạt động của tổ chức công đoàn được đề cao và phát huy có hiệu quả.
Tuy nhiên, một số nơi vẫn xảy ra việc chấp hành chưa nghiêm pháp luật lao
động, luật công đoàn về các chế độ chính sách, việc ký hợp đồng lao động, chế
độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh lao động, việc thay đổi bổ sung
những điều khoản trong nội quy lao động chưa tiến hành kịp thời, việc thỏa ước
lao động tập thể chưa đúng quy định pháp luật, …
Công đoàn KCN còn đẩy mạnh các hoạt động xã hội từ thiện. Nhân dịp
Tết Nguyên đán mỗi năm, các cấp công đoàn tổ chức đi thăm tặng quà với tổng
trị giá lên tới hàng trăm triệu đồng cho các gia đình chính sách, gia đình công
nhân, viên chức, lao động có hoàn cảnh khó khăn, bị tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp.
Bảng 2.12. Thống kê gia đình công nhân, viên, lao động có hoàn cảnh khó
khăn được công đoàn KCN Sông Công tặng quà vào dịp Tết
(2009 – 2013)
Xuất quà Số tiền (triệu đồng) Năm
2009 134 19
2010 145 20
2011 162 25
2012 162 30
2013 168 34
56
Nguồn: Tác giả thống kê theo báo cáo (2009-2013)
Năm 2009, công đoàn KCN tham gia xây dựng, tổ chức việc thực hiện và
giám sát thực hiện các chế độ chính sách liên quan trực tiếp đến công nhân,
viên chức, lao độngtheo quy định của luật lao động. Công đoàn phối hợp với
các phòng chức năng, nghiệp vụ của Ban quản lý KCN kiểm tra việc thực hiện
các chế độ chính sách liên quan đến người lao động theo định kỳ, ngoài ra còn
kiểm tra đột xuất các đơn vị, doanh nghiệp có dấu hiệu làm sai hoặc thực hiện
chưa đúng, chưa đầy đủ các chế độ chính sách của người lao động như là tiền
lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động...Bên cạnh
đó, công tác chăm lo, bồi dưỡng, đào tạo tay nghề cho người lao động đã được
các chủ doanh nghiệp quan tâm. Công đoàn cơ sở cũng chủ động tham mưu với
lãnh đạo các doanh nghiệp và chuyên môn đồng cấp thực hiện các chế độ tiền
lương, tiền thưởng cho công nhân, viên chức, lao động.
Về đời sống của công nhân, viên chức, lao động trong KCN, năm 2009 do
biến động của nền kinh tế thị trường nhìn chung đời sống, lao động, việc làm
của công nhân, viên chức, lao động còn gặp rất nhiều khó khăn. Do nguồn thu
nhập còn thấp, việc làm không ổn định, chế độ đãi ngộ, chế độ chính sách chưa
thực sự được giới chủ quan tâm, thu nhập của người lao động còn thấp so với
giá cả thị trường hiện nay chỉ đảm bảo sinh hoạt cá nhân ở mức trung bình,
chưa có tích lũy. Để giúp đỡ một phần cho cuộc sống của người lao động, công
đoàn KCN đứng ra bảo lãnh vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm cho
11 hộ đoàn viên công đoàn vay với tổng số vốn vay là 195 triệu đồng (thực
hiện từ tháng 9/2010).
Đến năm 2012, công đoàn KCN cũng đẩy mạnh các hoạt động xã hội,
nhân đạo, từ thiện bằng việc ủng hộ người nghèo, quyên góp, quỹ khuyến học,
nạn nhân chất độc da cam thị xã Sông Công trị giá 63.000.000 đồng, Công
đoàn nhà máy thép Trường sơn - Chi nhánh Minh Bạch ủng hộ 50.000.000
đồng,... Tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn cho người
57
lao động đạt ở mức 80 -90%, có một số doanh nghiệp đạt 100%. Công đoàn
vẫn tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ có liên quan
trực tiếp đến người lao động theo quy định của bộ luật lao động, luật công đoàn
nhất là các vấn đề tiền công, tiền lương, tiền thưởng. Tới năm 2012, không có
đơn vị nào nợ lương của công nhân, viên chức, lao động.
Về công tác bảo hộ lao động và tình hình tai nạn lao động vẫn được công
đoàn chú trọng chỉ đạo các công đoàn cơ sở phối hợp với chuyên môn đồng cấp
thực hiện tốt tuần lễ quốc gia về an toàn lao động - phòng chống cháy nổ. Các
đơn vị, doanh nghiệp đều triển khai thực hiện tuyên truyền như gắn panô, áp
phích, bảng nội quy, quy định tại nơi làm việc, treo băng zôn, khẩu hiệu nhân
tuần lễ Quốc gia An toàn vệ sinh lao động - Phòng chống cháy nổ. Công đoàn
còn phối hợp với phòng quản lý lao động, phòng quản lý đào tạo và doanh
nghiệp Ban quản lý các khu công nghiệp Thái Nguyên rà soát, nắm bắt tình
hình trong các đơn vị, doanh nghiệp về lao động, về an toàn vệ sinh lao động,
vệ sinh môi trường, bảo hộ lao động, việc thực hiện các chế độ chính sách đối
với người lao động của chủ doanh nghiệp. Năm 2013, ở KCN Sông Công
không xảy ra tranh chấp lao động, tuy nhiên vẫn có tai nạn lao động nhỏ xảy ra.
Có 85% đến 90% công nhân lao động được giới chủ đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn và có doanh nghiệp tham gia đóng 100% cho người
lao động như công ty TNHH Minh Bạch, công ty TNHH liên doanh Lửa Việt,...
Công đoàn còn đã và đang triển khai dự án vay vốn quỹ công nhân lao động
nghèo do liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên cho 12 đoàn viên công đoàn vay
để giải quyết việc làm cho 25 lao động với tổng số vốn là 100 triệu đồng.
Năm 2014, công đoàn KCN Sông Công đã phối hợp với phòng lao động
thuộc Ban quản lý các khu công nghiệp và phòng việc làm thuộc Sở lao động
Thương binh và xã hội tỉnh Thái Nguyên trong công tác hướng dẫn doanh
nghiệp đăng ký thang, bảng lương, nội quy lao động và thỏa ước lao động. Bên
cạnh đó, công đoàn KCN còn chỉ đạo công đoàn cơ sở phối hợp với ban lãnh
58
đạo 01 công ty trực thuộc để can thiệp, giúp đỡ và giả quyết về chế độ, chính
sách cho người lao động. Qua đó, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
cho người lao động. Ngoài ra, công đoàn còn tư vấn, trợ giúp pháp lý cho 05
trường hợp là đoàn viên công đoàn, người lao động và lồng ghép nội dung tư
vấn pháp luật trong các buổi đi kiểm tra, nắm bắt tình hình tại công đoàn cơ sở
trực thuộc, tại các buổi tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật cho công
nhân, viên chức trên địa bàn KCN. Năm 2014, công đoàn KCN vẫn tiếp tục chỉ
đạo các công đoàn cơ sở phối hợp với chuyên môn đồng cấp thực hiện tốt tuần
lễ Quốc gia về An toàn lao động - Phòng chống cháy nổ. Các đơn vị, cơ quan,
doanh nghiệp đều tổ chức, triển khai thực hiện tuyên truyền như gắn panô, áp
phích, bảng nội quy, quy định tại nơi làm việc, treo băng zôn, khẩu hiệu nhân
tuần lễ Quốc gia An toàn vệ sinh lao động - Phòng chống cháy nổ. Vì vậy, năm
2014 không xảy ra vụ tai nạn lao động chết người nào tại KCN.
Nhân dịp tết Giáp Ngọ năm 2014, các đơn vị đều có quà tết, thưởng tết
đặc biệt là cũng không có đơn vị nào nợ lương của công nhân, viên chức, lao
động. Qùa tết trị giá từ 200.000 đồng/xuất trở lên, có một số đơn vị còn chi
tháng lương thứ 13 cho công nhân, viên chức, lao động như công ty TNHH -
MTV phát triển hạ tầng KCN Thái Nguyên, Công ty liên doanh kim loại màu
Việt Bắc...Bên cạnh đó, các đơn vị còn tổ chức tặng quà cho các gia đình công
nhân lao động nghèo,gia đình chính sách, gia đình neo đơn, gia đình có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn là 150 xuất quà trị giá 25,8 triệu đồng như công đoàn cơ
sở nhà máy thép Trường Sơn, công ty liên doanh kim loại màu Việt Bắc...
Ngoài ra, công đoàn còn tặng 18 xuất quà cho các gia đình công nhân,viên
chức, lao động nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Tổ chức công đoàn ra đời không chỉ thực hiện tốt các chức năng, nhiệm
vụ của mình mà các hoạt động của công đoàn còn góp phần đưa tổ chức ngày
càng phát triển đi lên. Trong đó, công tác xây dựng tổ chức công đoàn vững
mạnh là một hoạt động mạnh mẽ và thiết thực của công đoàn. Các công đoàn
59
cơ sở KCN Sông Công đăng ký thi đua xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh
ngay từ đầu năm, chấm điểm xếp loại Công đoàn cở vững mạnh theo thang
bảng điểm do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Liên đoàn lao động tỉnh
Thái Nguyên hướng dẫn. Đồng thời, động viên các công đoàn cơ sở phối hợp
với chính quyền đồng cấp thực hiện tốt cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa góp phần xây dựng cơ quan văn hóa. Năm 2006 có: 03
công đoàn cơ sở đạt công đoàn cơ sở vững mạnh, có 03 đơn vị đạt cơ quan văn
hóa. Ngoài ra công tác bồi dưỡng cán bộ Công đoàn được các cấp công đoàn
quan tâm trú trọng nhằm nâng cao hiểu biết của cán công đoàn nhất là cán bộ
công đoàn cơ sở về tổ chức công đoàn, về phương pháp hoạt động, nghiệp vụ
công đoàn. Năm 2006, KCN Sông Công có 03 công đoàn cơ sở đạt danh hiệu
công đoàn cơ sở vững mạnh, có 03 đơn vị đạt cơ quan văn hóa. Công tác bồi
dưỡng cán bộ công đoàn được các cấp công đoàn quan tâm chú trọng nhằm
nâng cao hiểu biết của cán bộ công đoàn nhất là cán bộ công đoàn cơ sở về tổ
chức công đoàn, về phương pháp hoạt động, nghiệp vụ công đoàn. Riêng năm
này đã có 34 đồng chí cán bộ công đoàn cấp tổ công đoàn trở lên được tập huấn
nghiệp vụ công tác công đoàn.
Năm 2007, công đoàn KCN tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền phát
triển đoàn viên công đoàn, thành lập công đoàn cơ sở trong các thành phần kinh
tế mà Đại hội công đoàn các KCN tỉnh Thái Nguyên lần thứ I đề ra. Chỉ đạo
các công đoàn cơ sở đẩy mạnh công tác xây dựng và nâng cao chất lượng Công
đoàn cơ sở vững mạnh, làm tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ
công đoàn cho đội ngũ cán bộ công đoàn mới thành lập. Đặc biệt, chú trọng
việc tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ công tác Công đoàn cho cán bộ
làm công tác công đoàn trong các công ty, doanh nghiệp, các công đoàn bộ
phận và kịp thời bổ sung, sắp xếp cán bộ, kiện toàn tổ chức để duy trì và tổ
chức hoạt động công đoàn một cách có hiệu quả.
Năm 2014, thực hiện chương trình “Phát triển đoàn viên giai đoạn 2013 -
60
2018” và chương trình “Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội
ngũ cán bộ công đoàn” của Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên, công đoàn
KCN Sông Công liên tục tổ chức các buổi tập huấn, phổ biến Nghị quyết Công
đoàn Việt Nam khóa XI, Nghị quyết XV Công đoàn tỉnh Thái Nguyên trong
công nhân, viên chức, lao động và đoàn viên công đoàn. Công đoàn KCN xác
định muốn tổ chức vững mạnh thì khâu đầu tiên là phải đào tạo cán bộ, phải
xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ. Vì vậy liên tục cử các đồng chí
là cán bộ công đoàn tham gia các lớp đào tạo, tập huấn ngắn ngày, dài ngày do
Liên đoàn lao động tổ chức, xây dựng kế hoạch, hướng dẫn nghiệp vụ. Qua đó
không ngừng nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ công đoàn cấp trên cơ
sở và cán bộ công đoàn cơ sở.
Một trong những hoạt động cũng được công đoàn quan tâm, chú trọng là
công tác kiểm tra, tư vấn pháp luật, tài chính công đoàn. Đồng thời, công đoàn
KCN cũng tiếp tục xây dựng phương hướng, nhiệm vụ cụ thể cho những năm
tiếp theo với những nội dung cụ thể như kiện toàn về công tác tổ chức, phương
pháp hoạt động của ủy ban kiểm tra công đoàn các cấp nhằm nâng cao hiệu quả
trong công tác kiểm tra. Tăng cường công tác kiểm tra, nắm bắt tình hình diễn
biến tư tưởng trong công nhân viên chức lao động và trong hoạt động công
đoàn các cấp, nhất là cấp cơ sở. Xây dựng kế hoạch hoạt động phối hợp với ủy
ban kiểm tra công đoàn với các phòng ban chức năng đồng cấp để tiến hành
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động.
Chú trọng công tác bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ công đoàn các cấp về công
tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách trong các
doanh nghiêp, đơn vị.
Tuy nhiên, thực tế hoạt động cho thấy công tác tài chính còn là một trong
những vấn đề tồn đọng, nhiều hạn chế từ nhiều năm qua mà các cấp công đoàn
nhất là công đoàn cơ sở trong KCN cần làm rõ và khắc phục. Mặc dù đã có một
số công đoàn cơ sở tham mưu với lãnh đạo công ty, doanh nghiệp thực hiện
61
đầy đủ trích nộp kinh phí, đoàn phí công đoàn theo quy định như công đoàn
công ty TNHH liên doanh lửa Việt BETSTREF... Bên cạnh đó, còn một số
đông các công đoàn cơ sở trong KCN chưa thực hiện đầy đủ những quy định về
công tác thu - chi, trích nộp kinh phí, đoàn phí công đoàn điển hình năm 2012.
Năm 2014, được sự chỉ đạo và tổ chức của Ban quản lý các KCN tỉnh Thái
Nguyên, công đoàn KCN Sông Công đã tổ chức tập huấn cho cán bộ công
đoàn, nhất là cán bộ làm công tác tài chính. Thông qua công tác kiểm tra, giám
sát thực hiện công tác tài chính công đoàn tại một số công đoàn cơ sở cho thấy
hầu hết phần thu là chưa đủ, chưa đúng với quy định và dẫn đến phần chi còn
nhiều nội dung chưa thực hiện được. Các công đoàn cơ sở chưa xác định và cân
đối được tỷ lệ chi cho các hoạt động theo quy định, công tác dự toán, quyết
toán tại các công đoàn cơ sở thường chậm so với quy định.
Tiểu kết chương 2
Có thể nói, từ khi đi vào hoạt động tổ chức công đoàn dưới sự lãnh đạo
của công đoàn Việt Nam, Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên và Ban quản lý
các khu công nghiệp, Công đoàn KCN Sông Công đã thực hiện tốt các chức
năng, nhiệm vụ của mình. Từ khi còn chưa chính thức được thành lập, khi hoàn
cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn và mới bắt đầu bước vào đổi mới (1985-
1986), tổ chức công đoàn tại KCN Sông Công đã khẳng định khả năng thực
hiện trách nhiệm của mình. Trong thời kỳ đất nước chuyển từ nền kinh tế tập
trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, công đoàn KCN Sông Công
luôn cố gắng tập hợp quần chúng, người lao động để tuyên truyền giáo dục, tổ
chức các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng đất nước, bảo vệ quyền và lợi
ích cho người lao động. Công đoàn đã giúp người lao động nhận thức đầy đủ về
lợi ích cá nhân gắn liền với kết quả sản xuất, kinh doanh của đơn vị. Từ đó,
củng cố luật lao động, giúp người lao động luôn tận tình trong công việc, góp
phần vào công cuộc xây dựng đất nước ở thời kỳ đổi mới. Đến thời kỳ 1996 –
62
2005, vai trò của công đoàn KCN Sông Công lại càng được đề cao. Trên cơ sở
nền tảng giai đoạn trước, công đoàn KCN Sông Công luôn đẩy mạnh việc xây
dựng một đội ngũ lao động giỏi tay nghề, đạo đức tốt. Công đoàn tiến hành đổi
mới nội dung và hình thức hoạt động khi hướng về cơ sở, quan tâm nhiều hơn
đến lợi ích hợp pháp của người lao động. Hướng tới mục tiêu chung là xây
dựng giai cấp công nhân trở thành lực lượng đi đầu trong quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước. Đây cũng là nhiệm vụ hàng đầu trong việc xây dựng
nguồn lực đất nước, để tạo đà vươn ra nền kinh tế hội nhập. Bước sang giai
đoạn 2006 - 2014, đất nước đã có sự đổi thay nhiều về kinh tế- văn hóa- xã hội,
tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức công đoàn thực hiện thành công những mục
tiêu của mình. Có thể khẳng định, tất cả các hoạt động của tổ chức công đoàn
từ tuyên truyền giáo dục, thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, đến chăm
lo đời sống cho công nhân, viên chức lao động… ở giai đoạn này là thành công
nhất, đạt nhiều thành tích vượt trội so với các giai đoạn trước. Sau mỗi kỳ Đại
hội của Đảng, Đại hội Liên đoàn lao động các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn đều
được công đoàn KCN Sông Công triển khai kịp thời tới người lao động, giúp
công nhân lao động yên tâm sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng
được nâng cao. Trong những năm gần đây, công đoàn KCN còn mở rộng công
tác đối ngoại, hướng tới thực hiện mục tiêu “Đoàn kết, trí tuệ, dân chủ, đổi
mới”, thể hiện ý chí và nguyện vọng to lớn của giai cấp công nhân, của đội ngũ
công nhân, viên chức và lao động và tổ chức công đoàn bước vào thế kỷ mới.
Có thể nói, những hoạt động cụ thể tuyên truyền giáo dục, đến các phong
trào thi đua yêu nước, quan tâm chăm lo đời sống công nhân viên, lao động,
của công đoàn KCN Sông Công mặc dù còn những hạn chế, song tổ chức công
đoàn ở đây đã góp phần xây dựng giai cấp công nhân lao động vững mạnh, góp
phần không nhỏ trong xây dựng lực lượng lao động đi đầu trong sự nghiệp
63
CNH, HĐH đất nước, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động.
Chương 3
ĐÁNH GIÁ VỊ THẾ, VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG GIAI ĐOẠN 1985 - 2014
3.1.Những kết quả đạt được
3.1.1. Chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho công nhân
viên chức lao động
Có thể nói, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho
công nhân viên chức lao động là vai trò quan trọng hàng đầu của tổ chức công
đoàn đối với sự phát triển KCN Sông Công. Trong văn kiện đại hội Công đoàn
VI (10/1998) đã chỉ rõ “Công đoàn sinh ra, tồn tại, phát triển là để bảo vệ lợi
ích cơ bản, lâu dài và lợi ích hàng ngày của người lao động”. Để thực hiện tốt
chức năng bảo vệ lợi ích của người lao động, công đoàn luôn chủ động tham
gia cùng chính quyền tìm việc làm và tạo điều kiện làm việc cho công nhân, lao
động; đại diện cho tập thể công nhân, lao động ký kết thỏa ước lao động tập
thể; tham gia thương lượng, giải quyết tranh chấp lao động; tổ chức và lãnh đạo
đình công theo quy định của pháp luật. Công đoàn còn có vai trò trong quản lý
và sử dụng quỹ phúc lợi tập thể và sự nghiệp phúc lợi tập thể, bảo hiểm xã hội,
bảo hộ lao động. Đặc biệt trong việc khiếu nại tố cáo của công nhân viên chức
và lao động, công đoàn luôn là tổ chức đi đầu và làm việc khách quan. Để công
nhân, viên chức, lao động phát huy dân chủ, bình đẳng, công bằng xã hội thì
công đoàn luôn là tổ chức đứng ra thực hiện trước nhất.
Năm 2006, tổ chức công đoàn KCN Sông Công chính thức được thành
lập và hoạt động. Vai trò cuả công đoàn đối với sự phát triển của KCN càng
được đề cao và quan trọng hơn nữa. Bằng phương pháp hoạt động chủ yếu là
tuyên truyền, vận động, thuyết phục, công đoàn không chỉ mang lại những lợi
ích thiết thực cho người lao động như trên mà còn giải quyết được rất nhiều
64
những tranh chấp, những cuộc đình công ...trong công nhân, viên chức, lao
động. Thông qua các hoạt động đó công đoàn còn góp phần bồi dưỡng, rèn
luyện đạo đức, lối sống cho người lao động trong môi trường lao động và tập
thể. Bên cạnh đó, công đoàn luôn lấy người lao động và đoàn viên công đoàn là
mục tiêu, động lực phát triển và luôn chăm lo, quan tâm đến tâm tư, nguyện
vọng, việc làm, đời sống và bảo vệ quyền lợi cho người lao động ngay từ khi
họ mới đi làm. Như vậy, cán bộ công đoàn vừa là người bạn lại vừa là chỗ dựa
vững chắc cho người lao động.
3.1.2. Tuyên truyền giáo dục và thực hiện các phong trào thi đua yêu nước
trong công nhân, viên chức lao động
Song song với vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng cho công nhân, viên chức, lao động thì công tác tuyên truyền giáo dục và
thực hiện các phong trào thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động
cũng là một hoạt động giữ vai trò trọng tâm. Trong giai đoạn 1985 – 2005, khi
công đoàn KCN Sông Công còn chưa chính thức được thành lập nhưng những
hoạt động công đoàn đã nhen nhóm được thực hiện . Từ năm 2006 đến nay,
công đoàn luôn thực hiện tốt các chức năng của mình về công tác tuyên truyền
giáo dục trong công nhân, viên chức, lao động, góp phần nâng cao hiểu biết về
tổ chức công đoàn cho người lao động và giới chủ doanh nghiệp, tạo điều kiện
để người lao động hiểu được vấn đề truyền thông, những kiến thức về dân số,
kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, phòng chống các tệ nạn xã
hội và HIV/AIDS trong công nhân, viên chức, lao động. Công đoàn còn đóng
vai trò to lớn trong việc tổ chức các phong trào thi đua trong công nhân viên
chức, lao động như “Phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn” hay “Giỏi
việc nước - Đảm việc nhà” gắn với phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao
động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc do TW Hội LHPN Việt Nam phát
động” trong nữ công nhân, viên chức, lao động nhằm động viên chị em hăng
hái tham gia lao động, sản xuất, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, tích
65
cực tham gia các hoạt động xã hội. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện phòng
chống các tệ nạn xã hội, giúp nhau vươn lên xóa đói giảm nghèo, tổ chức các
phong trào thi đua trong công nhân, viên chức, lao động … Công đoàn thực
hiện chức năng giáo dục thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục thực
tiễn trong lao động, sản xuất. Bằng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau,
công đoàn tác động vào công nhân, viên chức giúp họ hiểu lợi ích của họ gắn
với lợi ích của tập thể, lợi ích của xã hội. Muốn có lợi ích và muốn lợi ích của
mình được bảo vệ, trước hết phải thực hiện tốt nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ của
người công nhân đối với cơ quan xí nghiệp và xã hội. Trên cơ sở đó, xây dựng
ý thức lao động mới, lao động có kỷ luật và có tác phong công nghiệp nâng cao
tinh thần tự giác học tập.
3.1.3. Kiểm tra tư vấn pháp luật, tài chính công đoàn
Công tác kiểm tra tư vấn pháp luật và tài chính công đoàn là một trong
những hoạt động thường xuyên của tổ chức công đoàn song công tác này lại
giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Trong hệ thống công đoàn, kiểm tra có tác dụng
thiết thực tới việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức công đoàn, góp
phần xây dựng, củng cố tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn, gắn bó
đoàn viên, công nhân, viên chức và lao động với tổ chức công đoàn.
Qúa trình kiểm tra, tư vấn được thông qua việc thực thi chế độ, chính
sách đối với người lao động, việc chấp hành pháp luật về hợp đồng lao động,
tuyển dụng, cho thôi việc, tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi xã hội, tập thể, bảo
hộ lao động, bảo hiểm xã hội và các chính sách khác liên quan đến quyền và lợi
ích của người lao động. Thông qua kiểm tra, kịp thời phát hiện những biểu hiện
vi phạm pháp luật, chính sách, đến quyền lợi ích hợp pháp chính đáng của công
nhân, viên chức và lao động, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền để được
xem xét và giải quyết. Thông qua công tác kiểm tra và tư vấn về pháp luật,
công đoàn thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ, đối thoại với người lao động và tìm
hiểu, nắm vững những thắc mắc, kiến nghị mà người lao động đặt ra. Đồng thời
66
qua công tác tư vấn, công đoàn cũng tuyên truyền, giải thích cho công nhân,
viên chức và lao động hiểu đúng về chủ trương, pháp luật, đường lối, chính
sách, chế độ của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, các Ban pháp luật và Văn phòng
tư vấn pháp luật của công đoàn KCN có thể giúp đỡ tư vấn cho đoàn viên, công
nhân, viên chức và lao động những vấn đề về pháp luật, liên quan đến quyền và
lợi ích của họ. Cùng với đó phối hợp với Ban chuyên đề của công đoàn giải
quyết những vướng mắc, kiến nghị của người lao động đối với công đoàn.
Ngoài công tác kiểm tra tư vấn pháp luật, công tác tài chính cũng được tổ
chức công đoàn KCN Sông Công quan tâm. Kiểm tra tài chính là một trong bốn
nhiệm vụ của Uỷ ban kiểm tra công đoàn nhằm thực hiện quyền kiểm tra của
công đoàn theo quy định của Điều lệ công đoàn Việt Nam. Vai trò quan trọng
trong việc kiểm tra tài chính công đoàn là nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ, khai
thác hết nguồn thu đã quy định và chi đúng nội dung, mục đích; quản lý chặt
chẽ đúng nguyên tắc, chế độ; thực hiện tốt dự toán thu, chi hàng năm đã được
Ban chấp hành thông qua. Việc thực hiện tốt công tác kiểm tra tài chính sẽ góp
phần tăng cường quản lý tài chính, tài sản, bảo vệ cán bộ nâng cao uy tín của tổ
chức, xây dựng tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh. Ngoài ra, công tác kiểm
tra tài chính diễn ra tốt còn giúp quỹ công đoàn được duy trì và đầy đủ luôn kịp
thời đáp ứng, bảo vệ tốt quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động.
Như vậy, có thể nói vai trò và hoạt động của tổ chức công đoàn có ảnh
hưởng rất lớn tới quá trình hoạt động, phát triển của KCN Sông Công. tạo ra
điều kiện pháp lý xã hội cho hoạt động công đoàn để công đoàn thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình “Không có một nền móng như các tổ chức công
đoàn thì không thể thực hiện được các chức năng của nhà nước”. [9, tr380].
Vai trò của công đoàn trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
không chỉ về mặt lý luận, thực tiễn mà còn cả mặt tư tưởng. Lênin nói: “...Công
đoàn có vai trò là trường học quản lý,trường học kinh tế, trường hoặc chủ
nghĩa cộng sản... ”[10, tr250]. Ngày nay trong quá trình hội nhập quốc tế, vai
trò của công đoàn KCN Sông Công càng được mở rộng và phát triển trên các
67
lĩnh vực, cụ thể là:
Trong lĩnh vực kinh tế: Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay,
tổ chức công đoàn KCN Sông Công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tham
gia đổi mới cơ chế quản lý, củng cố nguyên tắc tập trung dân chủ. Một mặt,
công đoàn đẩy mạnh hoạt động tại các doanh nghiệp. Mặt khác, công đoàn hỗ
trợ các thành phần kinh tế phát triển đúng hướng, giữ vai trò làm cầu nối giữa
chủ sử dụng lao động với người lao động, giúp hai bên hiểu về nhau cùng nhau
có lợi một bên tích lũy lao động, một bên phản ánh tâm tư nguyện vọng của
người lao động đối với giới chủ đem lại lợi ích kinh tế cho cả hai bên.
Trong lĩnh vực chính trị: Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu đặt ra là xây
dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong củng cố và
giữ vững bộ máy hoạt động trong doanh nghiệp. Để nâng cao vị thế chính trị
của mình, công đoàn KCN cần là cầu nối tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa
giới chủ và người công nhân, viên chức, lao động, đảm bảo và phát huy quyền
làm chủ của người lao động, từng bước hoàn thiện nền dân chủ, đảm bảo thực
thi pháp luật và để doanh nghiệp thực sự mang lại lợi ích chính đáng cho người
lao động. Trước diễn biến phức tạp của đời sống KT-XH hiện nay, công đoàn
KCN Sông Công góp phần cùng với doanh nghiệp đảm bảo sự ổn định về chính
trị, tạo cơ sở vững chắc để đổi mới kinh tế có hiệu quả và hoàn thành tốt các
mục tiêu kinh tế đặt ra trong quá trình hội nhập quốc tế.
Trong lĩnh vực xã hội: Kinh tế thị trường đã làm thay đổi bộ mặt nước
nhà song cũng đem lại không ít những tiêu cực, ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống
của người lao động. Vì vậy, công đoàn KCN phải góp phần xây dựng giai cấp
công nhân, bảo đảm sự thống nhất của giai cấp công nhân, không ngừng nâng
cao trình độ giác ngộ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn hoá, khoa học
kỹ thuật để giai cấp công nhân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển đất nước. Công đoàn phải tuyên truyền giáo dục người lao động
chống tiêu cực và tệ nạn xã hội, xây dựng phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm
68
đà bản sắc dân tộc, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật
và tính sáng tạo cho người lao động. Công đoàn góp phần củng cố liên minh
công - nông và trí thức xây dựng khối đoàn kết toàn dân.
Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: Nền kinh tế thị trường có nhiều ưu
điểm tích cực song nền kinh tế này còn là “mảnh đất” làm nảy sinh những tiêu
cực xã hội. Hơn lúc nào hết, công đoàn cần phát huy vai trò của mình trong
việc giáo dục công nhân, viên chức, người lao động nâng cao lập trường giai
cấp, phát huy những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu
những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân loại. Đó là yếu tố quan trọng làm
cho vai trò của công đoàn ngày càng mở rộng phát triển. Ngày nay, tổ chức
công đoàn đang, đã và sẽ thu hút được đông đảo lực lượng người lao động.
Công đoàn còn có vai trò thúc đẩy người lao động tích cực sáng tạo để trở
thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế chung.
3.2. Những khó khăn, hạn chế
3.2.1. Trong lĩnh vực đào tạo nghề và giải quyết việc làm
Được học nghề và có việc làm là quyền của mỗi người đã được Nhà
nước quy định trong Hiến pháp và được cụ thể hoá tại điều 5 của Luật lao
động: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do chọn việc làm và nghề nghiệp,
học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt về giới tính,
dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo”[6, tr5]. Nền kinh tế càng phát
triển càng đòi hỏi cao về trình độ học vấn. Cùng với đó, tình trạng thất nghiệp
gia tăng cũng đặt ra yêu cầu về giải quyết việc làm. Đây là một trong những
vấn đề bức xúc của toàn xã hội cần được các ngành, các cấp công đoàn quan
tâm. Công đoàn có quyền tham gia ý kiến với tổ chức có liên quan hoặc có thể
tự mình tổ chức tìm việc làm, dạy nghề nâng cao trình độ nghề nghiệp cho
người lao động theo quy định chung của Nhà nước.
Thực tế hoạt động cho thấy, tổ chức công đoàn KCN Sông Công cũng
69
còn nhiều hạn chế trong lĩnh vực đào tạo nghề và giải quyết việc làm. Công
nhân, viên chức, lao động trong KCN có nhiều người chỉ mới tốt nghiệp phổ
thông, chưa có chuyên môn và hiểu biết về công việc bước đầu học nghề còn
chậm và nhiều khó khăn, viên chức, cán bộ còn nhiều người trái nghành chưa
đúng với chuyên môn, nghiệp vụ của mình nên khả năng tiếp nhận công việc
chưa được chuyên sâu, chất lượng công việc đạt hiệu quả chưa cao. Mặt khác,
trình độ tay nghề của người lao động vẫn còn nhiều bất cập. Đa số công nhân
có trình độ, tay nghề, kỹ thuật còn thấp. Nhóm lao động đã qua đào tạo chỉ
chiếm khoảng 12,6%. Nếu tính cả số công nhân kỹ thuật được truyền nghề thực
tế (không bằng cấp) thì lao động kỹ thuật chỉ đạt tỷ lệ xấp xỉ 25%. Khả năng
thu hút và tạo việc làm của KCN hiện nay còn thấp trong đó số người cần việc
làm lên tới hàng triệu người.
Sở dĩ có tình trạng mất cân đối giữa việc làm và học nghề xuất phát từ
những quy định của Nhà nước. Nghị định 39/2003/NĐ-CP được Chính Phủ ban
hành ngày 18/04/2003 đã quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của luật lao động về việc làm. Trong khi đó, công đoàn Việt Nam nói chung và
công đoàn KCN Sông Công nói riêng với vai trò là tổ chức đại diện cho người
lao động thì chỉ được quyền tham gia giải quyết việc làm tại các doanh nghiệp,
đơn vị hữu quan mà không có vai trò trong việc tham gia hoạch định chính sách
việc làm như Bộ Lao động, thương binh xã hội.
Mặt khác, hoạt động của công đoàn cơ sở trong KCN còn hạn chế do
không có điều kiện cũng như không có đủ khả năng đào tạo nghề và giải quyết
việc làm cho người lao động. Công đoàn cơ sở cũng không có kinh phí để tổ
chức dạy nghề cho người lao động. Đoàn phí Công đoàn quá ít ỏi, đơn vị sử
dụng lao động không muốn tổ chức cho người lao động học nghề vì sợ tốn kém
thời gian, tiền bạc, ảnh hưởng đến năng suất lao động, chủ sử dụng lao động sợ
khi người lao động được nâng cao tay nghề sẽ chuyển sang đơn vị khác. Cán bộ
công đoàn không biết cách thuyết phục người sử dụng lao động tổ chức cho
70
người lao động được nâng cao trình độ, tay nghề. Mọi quyết định về việc làm,
học nghề cho người lao động đều do chủ sử dụng lên phương án, quy định chi
tiết. Ý kiến của công đoàn cũng chỉ mang tính hình thức. Ở nhiều doanh
nghiệp, cán bộ công đoàn còn không dám đề xuất ý kiến để giải quyết việc làm,
bố trí việc làm cho người lao động vì sợ chủ doanh nghiệp bằng cách này hay
cách khác phạt, cúp lương của chính mình hoặc những người lao động khác.
3.2.2. Trong giải quyết chế độ tiền lương, ký kết và thực hiện thoả ước lao
động tập thể
Theo điều 44 của Luật lao động ghi rõ: “Thoả ước lao động tập thể là
văn bản thoả thuận giữa tập thể người lao động và người sử dụng lao động về
các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên
trong quan hệ lao động” [6, tr55]. Trong ký kết thoả ước lao động tập thể, công
đoàn có vai trò quan trọng đại diện cho tập thể người lao động ký kết thoả ước
lao động tập thể với giám đốc xí nghiệp thuộc các thành phần kỹ thuật, giám sát
việc thực hiện thoả ước đó. Việc ký kết thoả ước lao động tập thể chỉ được tiến
hành khi có 50% số người của tập thể lao động trong doanh nghiệp tán thành
nội dung thoả ước đã thương lượng. Trong những năm qua, công đoàn KCN
Sông Công đã tham gia tích cực với vai trò đại diện cho tập thể người lao động
ký kết thoả ước lao động.
Mặc dù trong những năm gần đây, KCN Sông Công là một trong những
KCN có nhiều dự án đầu tư từ nước ngoài cũng như trong nước đi vào hoạt
động và thu hút số lượng lớn công nhân tham gia lao động nhưng trong thực tế,
tỷ lệ thoả ước tập thể được ký kết còn thấp. Vai trò của công đoàn cơ sở trong
quá trình thương lượng, ký kết thoả ước lao động còn hạn chế từ việc chuẩn bị
nội dung và dự thảo thoả ước tập thể; thu thập thông tin, tham khảo ý kiến của
các cơ quan, tổ chức và các chuyên gia; cử đại diện có năng lực, trình độ, uy tín
và có kỹ năng tham gia thương lượng thoả ước tập thể tới việc chuẩn bị nội
dung, hình thức và phương pháp lấy ý kiến tập thể lao động một cách hiệu quả,
71
thiết thực, phù hợp, kỹ năng của cán bộ công đoàn còn hạn chế. Cán bộ công
đoàn cơ sở chưa hiểu biết đầy đủ chính sách pháp luật, nhất là luật lao động.
Kỹ năng đàm phán, thương lượng của cán bộ công đoàn còn kém, chưa đáp
ứng được nhu cầu đặt ra. Trong quá trình chuẩn bị cho một cuộc thương lượng,
phần đông cán bộ công đoàn cơ sở chưa biết cách thu thập và xử lý thông tin,
xác định mục tiêu, nội dung cần thoả thuận trong thoả ước, lúng túng trong việc
lấy ý kiến tập thể lao động và thành lập ban đại diện lao động. Nhiều cán bộ
công đoàn không biết cách tổ chức lấy ý kiến, thuyết phục tập thể người lao
động nhất là những người còn phân vân, chưa có chính kiến. Cán bộ công đoàn
tại các doanh nghiệp “vừa thiếu, vừa yếu” nên sức thuyết phục của họ với chủ
doanh nghiệp còn hạn chế. Trước khi thương lượng rất ít trường hợp cán bộ
công đoàn tìm hiểu đặc điểm tâm lý, tư tưởng, quan điểm của đối tác (người sử
dụng lao động) và các trường hợp xảy ra trong quá trình đàm phán. Vì vậy, khi
đàm phán cán bộ công đoàn thường lúng túng trong việc đưa ra những yêu cầu
có lợi cho người lao động và xử lý các bế tắc về nội dung thương lượng. Do
vậy, phần lớn thoả ước lao động tập thể được ký kết chủ yếu rập khuôn theo Bộ
luật lao động, không đem lại kết quả có lợi hơn cho người lao động. Việc ký
kết thoả ước chỉ tăng về số lượng mà chất lượng không cao. Nhiều doanh
nghiệp ký kết thoả ước chỉ nhằm mục đích tránh sự rắc rối của cơ quan cấp trên
trong quá trình kiểm tra chứ không xuất phát từ việc bảo đảm quyền lợi cho
người lao động.
Tiền lương là vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người lao
động. Đây là nguồn sống chính của họ và gia đình họ. Căn cứ vào nhu cầu tiêu
dùng tối thiểu của người lao động, chỉ số sinh hoạt, cung cầu lao động. Chính
Phủ quy định mức lương tối thiểu và điều chỉnh theo từng thời kỳ sau khi lấy ý
kiến của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Bộ, ngành có liên quan. Hiện
nay, mức lương tối thiểu của công nhân viên chức Nhà nước là 450.000đ/tháng.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) từ ngày 01/01/2007
72
lương cho người lao động được nâng lên gồm ba mức 710.000 đồng, 790.000
đồng, 870.000 đồng [dẫn theo 25]. Đối với KCN Sông Công, mặc dù mức lương
tối thiểu cho người lao động cũng được tăng lên hàng năm nhưng chỉ đáp ứng sinh
hoạt cuộc sống hàng ngày cho người lao động mà chưa có tích lũy.
Ngoài lương cơ bản, theo quy định của pháp luật lao động, người lao
động còn có thể được hưởng các chế độ phụ cấp như phụ cấp thâm niên vượt
khung; phụ cấp chức vụ lãnh đạo; phụ cấp kiêm nhiệm chức vụ lãnh đạo; phụ
cấp khu vực; phụ cấp đặc biệt; phụ cấp thu hút; phụ cấp lưu động; phụ cấp đặc
thù theo nghề hoặc công việc. Trên thực tế, việc chi trả tiền lương cho người
lao động còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đời sống của họ trong khi mức
lạm phát tăng cao.
Vấn đề đáng quan tâm hiện nay là hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không xây dựng thang lương,
bảng lương theo quy định hoặc có xây dựng nhưng khi thực hiện còn nhiều bất
cập. Nhiều doanh nghiệp ở các công trình xây dựng cơ bản, thanh toán tiền
lương cho người lao động chậm, có nơi chậm 3-4 tháng. Một số doanh nghiệp
xây dựng định mức lao động quá cao so với khả năng của người lao động tại
doanh nghiệp. Do đó, người lao động rất khó hoàn thành theo thời gian quy
định. Để hoàn thành được thì người lao động phải làm việc với cường độ cao,
thời gian lao động kéo dài. Trong khi đó, công đoàn cơ sở trong KCN chưa có
nhiều biện pháp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. Nội dung
hoạt động của công đoàn trong lĩnh vực tiền lương rất nhiều, song việc thực
hiện còn nhiều thiếu sót, hoặc không thực hiện. Pháp luật quy định, người sử
dụng lao động phải thảo luận với Ban chấp hành công đoàn cơ sở khi khấu trừ
tiền lương của người lao động, việc khấu trừ không quá 30% tiền lương hàng
tháng. Nhưng thực tế, việc khấu trừ tiền lương của người lao động do chủ sử
dụng lao động quyết định. Cán bộ công đoàn không được tham gia trong việc
xây dựng mức lương tối thiểu tại doanh nghiệp cũng như xây dựng quy chế
73
phân phối tiền lương và thu nhập trong doanh nghiệp. Cán bộ công đoàn ở
nhiều đơn vị không có khả năng kiểm tra, giám sát số lượng, đơn giá tiền lương
của các phòng, ban, đội sản xuất, không thực hiện đề xuất tăng lương, nâng
lương với người sử dụng lao động. Nhiều trường hợp hội đồng xét nâng lương
của doanh nghiệp hàng năm không có mặt của đại diện Ban chấp hành công
đoàn. Nguyên nhân của vấn đề này được lý giải bởi cán bộ công đoàn cơ sở
trong KCN Sông Công cũng là người “làm công ăn lương” nên họ không dám
đứng lên bảo vệ lợi ích của người lao động vì sợ ảnh hưởng đến bản thân mình.
Mặt khác, hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp chưa thực sự mạnh,
không có phương pháp thuyết phục người sử dụng lao động để đòi tăng lương
cho công nhân. Khi có vi phạm của người sử dụng lao động trong lĩnh vực tiền
lương, cán bộ công đoàn cũng không báo cáo lên công đoàn, cấp trên. Do kiến
thức pháp luật còn hạn chế, kỹ năng hoạt động còn yếu kém nên công đoàn
chưa thực sự đóng vai trò “người bảo vệ” giới thợ trong lĩnh vực tiền lương.
3.2.3. Trong lĩnh vực an toàn vệ sinh lao động và việc đóng, trả bảo hiểm xã
hội cho người lao động
Trên thực tế, tình trạng doanh nghiệp nợ đóng, đóng thiếu hoặc không
đóng bảo hiểm xã hội xảy ra ở một số doanh nghiệp trong KCN Sông Công.
Một số doanh nghiệp không trích nộp được một phần kinh phí, công đoàn phí
đầy đủ và thậm chí có những doanh nghiệp ngừng hoạt động trong một thời
gian nào đó do đổi mới dây truyền sản xuất, máy móc mới chưa thu hút được
lao động làm việc trở lại còn không tham gia trích nộp, đóng góp bảo hiểm.
Bên cạnh những doanh nghệp tham gia 100% thì cũng có những đơn vị, doanh
nghiệp công nhân, viên chức, lao động chỉ tham gia được 80 -85%... Trong đó
có nhiều doanh nghiệp chỉ đóng bảo hiểm tượng trưng. Nhiều doanh nghiệp
không đóng bảo hiểm hoặc đóng bảo hiểm với mức lương tối thiểu để thu lợi vì
nếu bị phát hiện cũng chỉ phạt tối đa 20.000.000 đồng so với số tiền bảo hiểm
doanh nghiệp phải đóng lên tới tiền tỷ là quá ít.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do người sử dụng lao động
74
trốn tránh nghĩa vụ để đầu tư vào sản xuất, nhằm thu lợi nhiều nhất và xét tới
cùng cũng có một phần không nhỏ trách nhiệm thuộc về công đoàn cơ sở. Công
đoàn KCN chưa đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra giám sát việc đóng bảo hiểm của
người sử dụng lao động. Khi biết chủ doanh nghiệp cố tình không đóng bảo
hiểm chưa kịp thời báo cáo lên công đoàn cấp trên. Nhiều trường hợp xảy ra
tranh chấp về bảo hiểm xã hội, cán bộ công đoàn không biết hoặc có biết nhưng
không hướng dẫn cho người lao động các bước giải quyết, cơ quan có thẩm
quyền giải quyết để người lao động được hưởng đúng chế độ. Bên cạnh đó,
kiến thức về pháp luật bảo hiểm xã hội của cán bộ công đoàn còn hạn chế nên
khi người lao động có vướng mắc về bảo hiểm cán bộ công đoàn còn lúng túng,
không biết xử lý, không dám kiến nghị đề xuất với người sử dụng lao động. Vì
vậy, nhiều trường hợp người lao động bị mất việc làm, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, bị chết, bản thân họ cũng như gia đình họ không được hưởng các
chính sách bảo hiểm dẫn đến tình trạng kiện cáo kéo dài hàng năm trời.
Để đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, nhìn chung công đoàn cơ sở đã
tham mưu cho chủ các doanh nghiệp thực hiện tốt vấn đề này. Tuy nhiên, việc
các doanh nghiệp đảm bảo trang bị phương tiện bảo hộ lao động cho người lao
động; chế độ bồi dưỡng cho người lao động làm các công việc nặng nhọc, độc
hại; khám sức khỏe định kỳ cho người lao động còn hạn chế. Theo số liệu
thống kê của công đoàn có khoảng 22% công nhân làm thêm 1-2h; 19,92%
công nhân làm thêm 3-4h và 3,4% công nhân làm thêm 5-7h/tuần. Điều khó
khăn là các doanh nghiệp thường đưa ra định mức rất cao buộc người lao động
phải tăng cường mức độ công việc và tự nguyện làm thêm giờ.
Về điều kiện làm việc, đa số các doanh nghiệp người lao động phải làm
việc trong điều kiện chưa đảm bảo an toàn vệ sinh, thiếu ánh sáng và tiếng ồn
lớn. Một trong những nguyên nhân của tình trạng thiếu an toàn vệ sinh lao
động là do hoạt động công đoàn trong lĩnh vực này còn nhiều yếu kém, chưa
được quan tâm một cách thích đáng. Cán bộ công đoàn không có khả năng
75
thuyết phục người sử dụng lao động áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn, vệ
sinh lao động. Trong khi đó, kinh phí đảm bảo an toàn vệ sinh lao động được
hạch toán vào giá thành sản phẩm hoặc phí lưu thông cho nên doanh nghiệp
không muốn mất thêm một khoản tiền mà không thu lại lợi ích. Công đoàn ở
phần lớn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh
không tổ chức được các đợt huấn luyện về an toàn lao động do không có kinh
phí và không hiểu tầm quan trọng của công việc này. Mặt khác, theo quy định
của pháp luật hiện hành công đoàn không được phép tham gia thanh tra trong
lĩnh vực an toàn vệ sinh lao động. Vì vậy, hoạt động kiểm tra của công đoàn tại
các cơ sở chỉ mang tính chất hình thức, không được thực hiện thường xuyên.
Nhà nước chưa có quy định về việc thưởng cho các đơn vị hoặc cá nhân cán bộ
công đoàn hoạt động tốt trong lĩnh vực đảm bảo an toàn vệ sinh lao động nên
chưa khuyến khích được công đoàn thực hiện tốt công việc này.
3.2.4. Trong việc giải quyết tranh chấp lao động và đình công
Theo thống kê, ở KCN Sông Công vẫn xảy ra các vụ đình công và những
cuộc tranh chấp nhỏ song gần như 100% các cuộc đình công là bất hợp pháp.
Nguyên nhân là do không có công đoàn tham gia. Có thể thấy, ở khía cạnh này
thì hoạt động của công đoàn cơ sở còn kém, công đoàn tại các doanh nghiệp
chưa kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của người lao động đến
người sử dụng lao động và các cấp, ngành có liên quan. Tại nhiều doanh
nghiệp, công đoàn không nắm bắt kịp thời tình hình ở đơn vị mình, khi xảy ra
đình công công đoàn mới biết. Mặt khác, do thiếu bản lĩnh, không được trang
bị đầy đủ kiến thức pháp luật nên cán bộ công đoàn không dám đấu tranh bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. Một số cán bộ công đoàn bị chủ
doanh nghiệp sử dụng lôi kéo đứng về phía họ làm mất đoàn kết trong doanh
nghiệp, gây nên phản ứng tập thể của người lao động. Trong quá trình hoạt
động, công đoàn không tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật cho người
lao động nên nhận thức về pháp luật của người lao động còn hạn chế đã làm tỉ
lệ đình công gia tăng và gây thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp, cũng như
76
kinh tế xã hội.
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và bài học kinh nghiệm
3.3.1. Nguyên nhân
Trong giai đoạn 1985 – 2014, bên cạnh những mặt tích cực mà tổ chức
công đoàn ở KCN Sông Công đã đạt được trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động thì nhiều hạn chế trong quá trình hoạt động cũng là
nguyên nhân khiến cho uy tín và hiệu quả của hoạt động công đoàn đối với sự
phát triển KCN chưa được triệt để.
3.3.1.1. Do hạn chế của pháp luật lao động
Nhìn chung, hệ thống các quy định về quyền kiểm tra, giám sát, quyền bảo
vệ người lao động, quyền xử lý các vi phạm của công đoàn tương đối nhiều.
Nhưng một số văn bản đã có phần lạc hậu, không phù hợp với nhu cầu và xu
thế phát triển của thời đại cụ thể là:
Một số quy định không còn phù hợp với các quan hệ kinh tế xã hội trong
điều kiện nền kinh tế thị trường. Thể hiện rõ nhất là những quy định về hình
thức kiểm tra, giám sát, về việc thực hiện pháp luật lao động của công đoàn ở
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc doanh. Ví dụ, khoản
2, Điều 6 Luật Công đoàn quy định “Công đoàn phối hợp với cơ quan Nhà
nước nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động, xây dựng các
tiêu chuẩn quy phạm an toàn lao động và vệ sinh công nghiệp. Công đoàn có
trách nhiệm giáo dục, vận động người lao động chấp hành nghiêm chỉnh các
quy định về bảo hộ lao động và bảo vệ môi trường”.[11, tr4].
Một số văn bản gây khó khăn cho công tác công đoàn tại các doanh
nghiệp. Ví dụ, Luật công đoàn chỉ quy định về hoạt động công đoàn ở các quan
hệ lao động phát sinh ở các đơn vị Nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp mà
không có những quy định về vai trò của công đoàn trong các quan hệ lao động
diễn ra ở các doanh nghiệp. Một số văn bản dưới luật như Nghị định 06/NĐ-CP
ban hành 20/01/1995 quy định chi tiết về an toàn vệ sinh lao động quy định
77
công đoàn không được quyền thanh tra và xử phạt các vi phạm an toàn lao
động nên không có cơ sở pháp lý buộc chủ sử dụng thực hiện đúng điều kiện an
toàn vệ sinh lao động.
Mặc dù đã có những quy định về vai trò hoạt động của công đoàn, song
nhiều quy định chỉ mang tính hình thức. Ví dụ, như quyền tham gia xây dựng nội
quy lao động, quyền tham gia phiên họp xử lý kỷ luật đối với người lao động. Văn
bản quy định về thẩm quyền của công đoàn thì nhiều nhưng thiếu tính hệ thống,
nằm rải rác ở các văn bản khác nhau, nhiều quy định còn chung chung không
xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Công đoàn trong từng lĩnh vực cụ thể.
Một số quy định về quyền của công đoàn chỉ có tính chất là một quyền
chính trị hơn là một quyền pháp lý. Cụ thể, trong quyền kiểm tra giám sát của
công đoàn chỉ quy định về quyền tổ chức kiểm tra, giám sát mà chưa quy định
về trình tự, thủ tục thực hiện quyền đó cũng như quy chế pháp lý tạo điều kiện
cho công đoàn có khả năng thực hiện quyền đó. Trên thực tế, quyền kiểm tra
giám sát của công đoàn là một quyền quan trọng nhưng đến nay chưa có văn
bản nào quy định cụ thể về quyền này.
Những hạn chế của pháp luật lao động là nguyên nhân quan trọng nhất
dẫn đến hạn chế trong hoạt động công đoàn bởi dù công đoàn có cố gắng đến
đâu nhưng nếu không có một quy chế pháp lý rõ ràng vững thì tổ chức công
đoàn không thể hoạt động tốt được. Do vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
lao động khi quy định về thẩm quyền của công đoàn chính là tiền đề pháp lý
quan trọng cho công đoàn hoàn thành nhiệm vụ trong thời kỳ hiện nay.
3.3.1.2. Do công tác cán bộ của tổ chức công đoàn và phương thức hoạt động
của công đoàn còn yếu
Năng lực hoạt động của tổ chức công đoàn chính là năng lực hoạt động
của các cán bộ công đoàn. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, đội ngũ
người lao động có sự thay đổi nhanh chóng, đa dạng về cơ cấu, điều kiện sống,
làm việc còn gặp nhiều khó khăn, nhận thức xã hội, trình độ tiếp thu văn hoá xã
78
hội chưa cao. Trong khi đó, cán bộ công đoàn vừa thiếu, vừa yếu, chưa đáp ứng
được yêu cầu và sự chuyển biến nhanh chóng, đa dạng của tình hình mới.
Nhiều cán bộ công đoàn còn yếu về nghiệp vụ, trình độ nhận thức kém, không
tự giác học hỏi, nâng cao trình độ, kiến thức pháp luật. Cán bộ công đoàn ở
một số doanh nghiệp trong KCN còn xem nhẹ việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động. Nhiều cán bộ công đoàn cấp trên hoạt động thuần
tuý như cán bộ công chức, không coi trọng công tác bồi dưỡng, phát huy
năng lực của đoàn viên công đoàn. Hoạt động của người cán bộ có nơi, có
lúc còn biểu hiện quan liêu, chậm đổi mới về phương pháp. Nội dung hoạt
động công đoàn chưa đáp ứng kịp thời với đòi hỏi của phong trào công nhân
trong nền kinh tế thị trường.
Đại bộ phận cán bộ công đoàn cơ sở là kiêm nhiệm, phải trực tiếp lao
động, sản xuất, phải trực tiếp lao động, sản xuất phụ thuộc vào doanh nghiệp,
không có điều kiện hoạt động, ít có thời gian nghiên cứu các văn bản - chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của công
đoàn cấp trên. Thậm chí vì miếng cơm, manh áo sợ mất việc làm mà họ thiếu
bản lĩnh trong đấu tranh, bảo vệ đoàn viên công đoàn, người lao động tại doanh
nghiệp. Mặt khác, nhiệm kỳ của công đoàn cơ sở ngắn, cán bộ công đoàn
thường xuyên biến động nên nhiều người có tâm lý e ngại không muốn làm
công tác công đoàn.
Sự phối hợp của công đoàn các cấp với cơ quan quản lý về lao động, với
những hiệp hội, tổ chức đại diện người lao động, với cơ quan báo chí và tổ chức
hữu quan trong quá trình giải quyết những bức xúc của người lao động chưa
nhiều.cTrong việc giải quyết tranh chấp lao động, hoạt động của cán bộ công đoàn
còn yếu kém, lỏng lẻo. Nhiều cuộc đình công xảy ra rồi cán bộ công đoàn cơ sở
mới biết. Trong việc thương lượng với chủ doanh nghiệp để xây dựng thoả ước
lao động, năng lực của cán bộ công đoàn còn kém, hoạt động còn mờ nhạt, không
thật sự đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của người lao động.
Hoạt động của tổ chức công đoàn hiện nay nặng về vận động, giáo dục
79
và thuyết phục mà không có các biện pháp đấu tranh trực tiếp. Chức năng chính
của công đoàn là bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động. Tuy nhiên, với
phương thức hoạt động như hiện nay, công đoàn khó có thể đảm nhiệm được
vai trò của mình, nhất là trong bối cảnh mối quan hệ chủ - thợ ngày một phức
tạp và gay gắt. Việc bảo vệ quyền lợi của người lao động không chỉ bằng lời
nói mà phải bằng các biện pháp cụ thể, đấu tranh trực tiếp bằng các công cụ
pháp luật, bằng toà án.
Nội dung hoạt động công đoàn còn dàn trải, phương pháp hoạt động còn
quan liêu, hành chính, máy móc rập khuôn. Ở một số doanh nghiệp có tổ chức
công đoàn, nhưng nội dung, phương pháp hoạt động chưa được rõ ràng. Mặt
khác, hoạt động công đoàn trong KCN Sông Công chưa thật sự dân chủ. Sự
chỉ đạo của cấp trên với cấp dưới được thực hiện như một mệnh lệnh hành
chính, thụ động, máy móc, không có điều kiện trao đổi, thảo luận. Hình thức
hoạt động thiếu sự gắn kết, văn bản nhiều nhưng chất lượng văn bản không
cao. Hội nghị tổng kết 5 năm, 10 năm hiếm khi đề ra phương pháp hoạt động
mới. Công tác tổ chức chỉ đạo của các cấp công đoàn chủ yếu trên giấy tờ
không có nhiều hoạt động xuống cơ sở nắm bắt tình hình, điều kiện làm việc
của người lao động.
3.3.1.3. Do những yếu tố khách quan đảm bảo cho hoạt động của công đoàn
Yếu tố đảm bảo hoạt động ở các đơn vị nhất là các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân còn kém chưa được quan tâm thích
đáng. Theo điều 18 Nghị định 133/HĐBT-1991 quy định: Chủ tịch Công đoàn
được dành mỗi tháng từ 3-6 ngày hoạt động Công đoàn tuỳ theo số lượng lao
động và được hưởng nguyên lương. Thời gian hoạt động của cán bộ công đoàn
không chuyên trách, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức và Ban chấp hành
công đoàn quy định [12]. Trên thực tế, việc thực hiện các quy định này ở KCN
Sông Công còn gặp nhiều khó khăn. Cán bộ công đoàn cơ sở thường là cán bộ
kiêm nhiệm, người sử dụng lao động sợ cán bộ công đoàn nghỉ việc sẽ ảnh
80
hưởng đến năng suất lao động nên không tạo điều kiện cho cán bộ công đoàn
hoạt động công đoàn, nếu có thì thời gian hoạt động rất ít hoặc cán bộ công
đoàn phải làm thêm giờ để bù vào thời gian đã nghỉ.
Hiện nay, ở KCN vẫn chưa có một cơ chế đảm bảo quyền lợi cho cán bộ
công đoàn khi tham gia công tác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao
động. Khi tham gia hoạt động công đoàn, cán bộ công đoàn không chuyên trách
ngoài lương do doanh nghiệp trả, họ không được hưởng thêm một chính sách
nào. Bên cạnh đó, chính sách động viên, khuyến khích người lao động tham gia
công đoàn chưa cao, chưa hấp dẫn. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chủ doanh nghiệp không tạo điều kiện
cho thành lập công đoàn. Một số chủ tịch công đoàn tồn tại trên danh nghĩa,
mọi hoạt động phải thông qua ban giám đốc điều hành. Ở KCN Sông Công có
một số doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp Hàn Quốc, khi công đoàn báo
xuống làm việc thì thực tế công ty không sắp xếp để tiếp công đoàn hoặc báo là
chưa có sự chuẩn bị để tổ chức công đoàn có thể xuống làm việc. Mặt khác,
khả năng tài chính của tổ chức công đoàn chưa vững chắc. Hiện nay, nguồn thu
chính của công đoàn gồm kinh phí công đoàn, đoàn phí công đoàn và các
khoản thu khác. Nguồn thu chủ yếu là đoàn phí thu bằng 1% mức lương người
lao động và kinh phí công đoàn thu bằng 2% quỹ lương do chủ doanh nghiệp
đóng (trong đó trích 1% kinh phí công đoàn nộp lên công đoàn cấp trên).Vì
vậy, khả năng tài chính của công đoàn rất yếu, nhất là ở những cơ sở có ít đoàn
viên. Quỹ công đoàn eo hẹp nên hoạt động công đoàn chưa sôi nổi, chưa thu
hút được sự tham gia của đoàn viên. Nhiều nơi đoàn viên sau khi gia nhập tổ
chức công đoàn không đóng đoàn phí hoặc đóng không đầy đủ làm cho quỹ
công đoàn đã eo hẹp lại càng trở nên eo hẹp hơn. Từ đó, tạo tâm lý cho người
lao động không tin tưởng vào hoạt động công đoàn bởi nghèo nàn về hình thức
lẫn nội dung trong tổ chức hoạt động.
Do vậy, muốn hoạt động mông đoàn thu hút được đông đảo người lao
81
động, bên cạnh việc tuyên truyền, vận động người lao động phải đảm bảo kinh
phí cho hoạt động. Đây cũng là một trong những điều kiện cốt lõi để công đoàn
cơ sở thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
3.3.2. Bài học kinh nghiệm
Sự ra đời và hoạt động của tổ chức công đoàn tại KCN Sông Công cũng
để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá cho các tổ chức công đoàn cơ sở trong
tỉnh Thái Nguyên nói riêng và các KCN ở Việt Nam nói chung.
Để công đoàn cơ sở thật sự vững mạnh, cần tạo được sự đồng thuận về
nhận thức và tình cảm của cơ quan đơn vị. Công đoàn KCN Sông Công đã tạo
được mối quan hệ hài hòa về quyền lợi và nghĩa vụ giữa chủ sử dụng lao động
và người lao động. Hơn nữa, Ban chấp hành công đoàn và cán bộ doanh
nghiệp, cơ quan đơn vị, nhà máy, xí ngiệp, công nhân, viên chức và người lao
động dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy Đảng. Đây là công việc không hề
dễ dàng. Tuy nhiên, không giải quyết được mối quan hệ hài hòa ấy, sức mạnh
của cơ quan, đơn vị sẽ bị giảm sút, vai trò của công đoàn sẽ bị mai một. Tại
KCN Sông Công, công đoàn và các bên liên quan đã nhận thức đúng đắn mục
đích chung chân chính của đơn vị, xây dựng những tình cảm tích cực và hành
động một cách khoa học, mạnh mẽ. Đây là nền tảng cho sự phát triển của
doanh nghiệp, đơn vị, sự vững mạnh của công đoàn cơ sở, quyền lợi của giới
chủ và người lao động ngày càng được nâng cao.
Trải qua quá trình xây dựng và hình thành, công đoàn KCN Sông Công
đã chứng minh một điều rằng, phải xây dựng Ban chấp hành công đoàn cơ sở
có năng lực chuyên môn vững vàng; có kinh nghiệm hoạt động công đoàn;
nhiệt huyết với phong trào chung; có bản lĩnh cứng cỏi, đúng đắn nhất là vai trò
của Chủ tịch công đoàn. Có như vậy, Ban chấp hành công đoàn mới thực sự có
sức thu phục được quần chúng lao động và dễ có khả năng tạo sự hài hòa các
mối quan hệ.
Hoạt động công đoàn cơ sở cần có nội dung chương trình, kế hoạch rõ
82
ràng phù hợp với cơ quan đơn vị và mang màu sắc công đoàn. Nếu không có kế
hoạch cụ thể thì sẽ làm cho mục tiêu khó thành hiện thực. Các hoạt động có chủ
định, chủ điểm, hướng đến quyền, lợi ích chính đáng của người lao động và
mục tiêu chung của ngành, cơ quan đơn vị. Hoạt động không nên dàn trải và có
sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Chú trọng đôn đốc kiểm tra, động viên,
khuyến khích và rút kinh nghiệm kịp thời.
Ban chấp hành công đoàn luôn gần gũi, lắng nghe và tôn trọng ý kiến
quần chúng lao động. Mỗi cán bộ, nhân viên cần có năng lực dự cảm phân tích,
thuyết phục giới chủ và người lao động. Biết tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và
lãnh đạo của cấp Uỷ và lãnh đạo của công đoàn cấp trên trực tiếp. Từ đó tìm ra
những phương hướng hoạt động hiệu quả, thiết thực cho hoạt động công đoàn.
Trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, công đoàn cơ sở cần thực hiện
chế độ báo cáo thông tin chính xác, kịp thời đúng quy định với công đoàn cấp
trên và những bộ phận hữu quan. Để làm được điều đó, cần sự hoạt động tích
cực có nghiệp vụ của các Uỷ viên Ban chấp hành như văn thư, lưu trữ không
hoạt động theo hình thức kiêm nhiệm tránh chậm trễ và sai sót. Đồng thời, cần
làm tốt công tác tuyên truyền, vận động giáo dục để cán bộ, viên chức (nhất là
cán bộ trẻ) có nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của mình trong hoạt
động và xây dựng tổ chức công đoàn. Việc tổ chức các phong trào phải đi sâu
vào chất lượng, được duy trì lâu dài và phải đảm bảo tính công bằng để tạo
lòng tin cho cán bộ, công nhân, viên chưc, lao đông, tránh việc tổ chức qua loa
chỉ mang tính hình thức. Phải tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình thực
hiện phong trào và tiến hành biểu dương, nhân rộng những cá nhân, tập thể làm
tốt. Rút kinh nghiệm động viên những cá nhân và tập thể làm chưa tốt để để
thực hiện tốt hơn trong những lần sau. Ngoài ra, công đoàn phải thường xuyên
tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí, các hoạt động phong trào nhằm nâng
cao sức khỏe, tăng cường sự đoàn kết trong tập thể công nhân, viên chức và lao
động. Đặc biệt, Ban chấp hành KCN luôn tạo điều kiện và phản ánh tâm tư
nguyện vọng của công nhân, lao động để giúp họ an tâm làm việc, công tác,
83
chăm lo về vật chất và tinh thần cho họ.
Để triển khai thành công các cuộc vận động của chính quyền và công
đoàn cấp trên, cần cụ thể hóa nội dung các cuộc vận động thành các hoạt động,
các yêu cầu cụ thể bám sát với đặc điểm các doanh nghiệp, đơn vị. Thực tế cho
thấy, tổ chức công đoàn KCN Sông Công luôn có sự quan tâm đến công tác cán
bộ công đoàn từ khâu bầu chọn đến việc tổ chức bồi dưỡng năng lực công tác.
Một đội ngũ cán bộ công đoàn có nhiệt huyết cao, có năng lực tốt chắc sẽ giúp
hoạt động của công đoàn không ngừng khởi sắc. Cán bộ công đoàn các cấp cần
thường xuyên tranh thủ sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, phối hợp đồng bộ với
chính quyền các đoàn thể trong các đơn vị để có thể triển khai các hoạt động
công đoàn mang lại hiệu quả cao.
Trước yêu cầu của sự phát triển xã hội nói chung và tại KCN nói riêng,
tổ chức công đoàn ở KCN Sông Công đã tích cực hoạt động, đem lại nhiều bài
học kinh nghiệm quý giá trong xây dựng, tổ chức, thực hiện kế hoạch. Bởi vậy,
công đoàn KCN luôn nhận được nhiều sự khen ngợi từ Liên đoàn lao động tỉnh
Thái Nguyên và các cấp cao hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của KCN
Sông Công nói riêng và TP. Sông Công nói chung.
Tiểu kết chương 3
Ở chương này, tác giả đã đánh giá những kết quả đạt được cùng những
tồn tại, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong quá trình hoạt động của tổ chức
công đoàn KCN Sông Công. Trải qua chặng đường 30 năm xây dựng và phát
triển (1985 – 2014), tổ chức công đoàn KCN Sông Công luôn giữ một vị trí, vai
trò quan trọng, thực hiện tốt các vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình, góp
phần không nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển của KCN Sông Công, tạo đà
cho sự phát triển của TP. Sông Công.
Thông qua hoạt động tuyên truyền giáo dục, công đoàn đã tác động vào
công nhân, viên chức, lao động, làm họ hiểu lợi ích của họ gắn với lợi ích của
84
tập thể, lợi ích của xã hội. Công đoàn tham gia tìm và tạo điều kiện làm việc
cho người lao động thể hiện sự quan tâm chăm sóc tới đời sống người lao động,
giúp họ vượt qua khó khăn, tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng, nhà
nước và nhất là chính sách đãi ngộ từ các doanh nghiệp. Mặc dù quỹ phúc lợi
tập thể còn hạn chế, song công đoàn KCN luôn làm việc khách quan, dân chủ,
đúng đắn, phù hợp, từng bước tạo được niềm tin đối với trong người lao động,
khích lệ tinh thần để họ yên tâm sản xuất, lao động giỏi, lao động tốt. Đồng
thời, công đoàn đã thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước trong công
nhân, lao động giúp người lao động rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, phát huy năng lực, nhất là trong đội ngũ lao động giỏi. Cùng với đó
là phong trào xanh - sạch - đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và vệ sinh
môi trường. Nhằm giữ gìn pháp luật, kỷ cương xã hội, tăng cường trách nhiệm
quản lý kinh tế, quản lý xã hội, công đoàn luôn quan tâm tới việc kiểm tra tư
vấn pháp luật tài chính trong công nhân viên, lao động. Nếu không có hoạt
động này của công đoàn, người lao động không được đảm bảo đúng quyền lợi
trong thực hiện các chế độ chính sách về tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi xã
quan tới quyền lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức và lao
hội. Công đoàn đã phát hiện những biểu hiện vi phạm pháp luật, chính sách liên
động, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền để được xem xét và giải quyết, góp
phần xây dựng, củng cố tổ chức đội ngũ cán bộ công đoàn, gắn bó công nhân,
85
viên chức và lao động với tổ chức công đoàn.
KẾT LUẬN
Bằng việc phân tích hoạt động của tổ chức công đoàn ở KCN Sông Công,
tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1985-2014, đề tài rút ra một số kết luận sau:
Sông Công là một thành phố công nghiệp, trung tâm kinh tế, hành chính,
văn hóa - xã hội phía Nam của tỉnh Thái Nguyên. Với vị trí chuyển tiếp giữa
đồng bằng và trung du, Sông Công có các tuyến giao thông quốc lộ, tỉnh lộ
chạy qua nối với thủ đô Hà Nội ở phía Nam và thành phố Thái Nguyên ở phía
Bắc. Đây là điều kiện rất thuận lợi để đẩy mạnh giao thương với các vùng kinh
tế Bắc thủ đô Hà Nội, phía Nam vùng Trung du miền núi phía Bắc và các vùng
kinh tế Tam Đảo - Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang. Với lợi thế đặc biệt, Sông
Công từ lâu đã được xác định là trung tâm công nghiệp lớn và là đô thị bản lề,
trung chuyển kinh tế giữa các vùng trong và ngoài tỉnh Thái Nguyên.
Năm 1999, Sông Công đã nhanh chóng hình thành một KCN (KCN Sông
Công) có đầy tiềm năng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào xây
dựng các nhà máy, xí nghiệp, công ty cổ phần…Theo đó, lực lượng lao động
trong KCN ngày càng được củng cố, gia tăng về số lượng và chất lượng để phục
vụ quá trình lao động sản xuất. Các doanh nghiệp với số lượng lớn lao động góp
phần đẩy mạnh các hoạt động của tổ chức công đoàn KCN.
Được manh nha từ năm 1985 với những hoạt động điển hình của các xí
nghiệp, điểm công nghiệp ở Sông Công nhưng phải tới năm 2006, tổ chức công
đoàn KCN Sông Công mới chính thức được thành lập. Trong giai đoạn 1985 đến
1995, công đoàn KCN Sông Công đã thực hiện theo nội dung của Đại hội Công
đoàn Việt Nam lần thứ VI. Với hai nhiệm vụ chính là: Động viên công nhân, lao
động, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hăng hái đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết
kiệm; Chăm lo đời sống bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động. Nhờ có
phương hướng hoạt động rõ ràng, Công đoàn KCN còn giúp người lao động
thích nghi với công cuộc đổi mới của đất nước, yên tâm lao động sản xuất.
86
Đồng thời cho ra đời một tổ chức quan tâm trực tiếp, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng cho người lao động tại các xí nghiệp trong và ngoài nhà nước. Từ
khi Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên chính thức được thành lập
(20/11/2000) và chỉ đạo trực tiếp các KCN trên địa bàn, công đoàn KCN Sông
Công đã triển khai và thi hành nhiều hoạt động, hoàn thành vai trò, chức năng,
nhiệm vụ. Công đoàn đã tổ chức tuyên truyền giáo dục để người lao động và
giới chủ có hiểu biết cao về tổ chức công đoàn để họ tự nguyện ra nhập tổ chức
công đoàn và tạo điều kiện thuận lợi cho công đoàn hoạt động. Tổ chức các
phong trào thi đua yêu nước, tuyên truyền pháp luật, nâng cao ý thức tự giác
trong công việc. Đồng thời, xây dựng các chương trình học tập, thi đua nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho công nhân, viên chức, lao động, tạo
không khí vui tươi, phấn khởi, hăng hái trong lao động sản xuất. Chăm lo đời
sống, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân,
viên chức, lao động, mang lại lợi ích lớn cho chủ doanh nghiệp. Nhờ vào việc
thực hiện tốt vai trò của mình, công đoàn KCN Sông Công đã tạo ra sự ảnh
hưởng tích cực trong sự phát triển ổn định bền vững của KCN Sông Công nói
riêng và nền kinh tế tỉnh Thái Nguyên nói chung.
Thực tế hoạt động của tổ chức công đoàn trong KCN này cũng bộc lộ
nhiều hạn chế về luật pháp lao động, ngân sách hạn hẹp, cơ sở vật chất thiếu
thốn,… Cụ thể mức lương tối thiểu cho người lao động cũng được tăng lên hàng
năm nhưng chỉ đáp ứng sinh hoạt cuộc sống hàng chưa có tích lũy, thanh toán tiền
lương còn chậm hoặc không có khả năng chi trả (nhất là những năm 2008, 2009 -
khi kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới).
Mặc dù vậy, công đoàn KCN Sông Công từ khi chính thức thành lập vẫn
luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tiến tới xây dựng một khối công nhân,
viên lao động đoàn kết vững mạnh, luôn sẵn sàng bảo vệ quyền và lợi ích cho
cả người lao động và giới doanh nghiệp. Trong quan hệ lao động cho đến nay
87
chưa có tranh chấp lớn xảy ra tại KCN nhưng việc thực hiện các chế độ chính
sách, quyền lợi của người lao động cần được quan tâm nhiều hơn nữa, nhất là
trong vấn đề tiền lương.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, công đoàn Việt
Nam nói chung và công đoàn KCN Sông Công nói riêng cần có những giải
pháp góp phần cùng nhà nước, doanh nghiệp và toàn xã hội thực hiện thắng lợi
mục tiêu phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đặc biệt trước nhu cầu ngày càng cao của xã
hội, công đoàn cần có những giải pháp góp phần nâng cao trình độ về mọi mặt,
chăm lo, cải thiện đời sống, bảo đảm việc làm, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người lao động. Công đoàn phải chủ động phối hợp cùng các cơ
sở sản xuất, người sử dụng lao động và các doanh nghiệp trong KCN để giải
quyết các vấn đề lao động, tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động
theo hướng “Người lao động, đoàn viên công đoàn là trung tâm hoạt động công
đoàn”. Đồng thời, mở rộng và tăng cường các hoạt động của công đoàn khắc
phục những khó khăn còn thiếu sót góp phần thúc đẩy hoạt động của tổ chức
88
công đoàn ngày càng phát triển toàn diện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Ban đối ngoại TLĐLĐVN (2000), Toàn cầu hóa và phong trào công đoàn
thế giới, Nxb Lao động.
2. Ban thường vị thị xã Sông Công (2006), Sông Công thị xã tuổi 20 và kỷ yếu
20 năm thị xã Sông Công, Nxb Văn hóa thông tin.
3. Ban Thường vụ Thị uỷ thị xã Sông Công (2001), Sông Công thị xã bên dòng
sông huyền thoại, Nxb Văn hóa thông tin.
4. Ban tổ chức Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (1997), Một số vấn đề về tổ
chức và hoạt động của công đoàn khu vực kinh tế ngoài quốc dân.
5. Báo Lao động số 39+40 ngày 15/2/2007.
6. Bộ luật Lao động năm 1995 (2004), Nxb Lao động.
7. Phạm Quang Đồng (2004), Công đoàn tổ chức đại diện tập thể người lao
động lý luận và thực tiễn. Luận văn Thạc sĩ trường Đại học Công đoàn
8. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (2002) Nxb
Chính trị quốc gia.
9. Lênin (1987), Lê nin toàn tập, tập 38, NxbTiến Bộ.
10. Lênin (1987), Lê nin toàn tập, tập 42, Nxb Tiến Bộ.
11. Luật công đoàn năm 1990 (1995), Nxb Lao động
12. Nghị định 133/NĐ-HĐBT/ ban hành 20-4-1991 hướng dẫn chi tiết.
13. Nghị định 06/NĐ-CP ban hành ngày 20/1/1995 quy định chi tiết an toàn vệ
sinh lao động.
14. Nghị định 39/NĐ-CP ban hành ngày 18/4/2003 hướng dẫn thi hành một số
điều của Bộ luật Lao động.
15.Tạp chí Lao động và Công đoàn số 354 năm 2006.
16. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 360 năm 2006.
17. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 368 năm 2006.
89
18. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 369 năm 2006.
19. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 370 năm 2007.
20. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 371 năm 2007.
21. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 372 năm 2007.
22. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 373 năm 2007.
23. TLĐLĐVN (2003), Điều lệ Công đoàn, Nxb Lao động.
24. TLĐLĐVN (2005), Tài liệu bồi dưỡng cán bộ Công đoàn cơ sở, Nxb Lao động.
25. Trường Đại học Công đoàn (1999), Giáo trình lý luận và nghiệp vụ công
đoàn, Nxb Lao động.
26. Trường Đại học Công đoàn (2001), Tổ chức và hoạt động của tổ chức Công
đoàn trong công ty cổ phần, Nxb Lao động.
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình luật lao động, Nxb Công
an nhân dân.
28. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2002), Nxb Chính trị quốc gia.
29. Văn kiện đại hội công đoàn lần thứ IX (2003), Nxb Chính trị quốc gia.
30. Văn kiện hội nghị lần thứ 4 ban chấp hành Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam lần thứ IX (2004), Nxb Lao động.
31. Văn kiện hội nghị lần thứ 8 ban chấp hành Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam lần thứ IX (2006), NXB Lao động.
II. Website:
32. Trang Web Lao động Công đoàn.com.vn.
90
33. Trang Web VnExpress.com.vn.
PHỤ LỤC
CÁC ĐẠI HỘI, HỘI NGHỊ VÀ CÁC LỚP TẬP HUẤN
CỦA CÔNG ĐOÀN KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG
(Nguồn: Tác giả tự chụp tại Khu Công nghiệp Sông Công)
CÁC HOẠT ĐỘNG TỪ THIỆN CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG
(Nguồn: Tác giả tự chụp tại Khu Công nghiệp Sông Công)
LỄ KẾT NẠP ĐẢNG VIÊN CỦA CÔNG ĐOÀN
KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG
(Nguồn: Tác giả tự chụp tại Khu Công nghiệp Sông Công)