ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––

DƯƠNG THỊ NHÃ

HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN

Ở KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG TỈNH THÁI NGUYÊN

TỪ NĂM 1985 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

THÁI NGUYÊN - 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––

DƯƠNG THỊ NHÃ

HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN

Ở KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG TỈNH THÁI NGUYÊN

TỪ NĂM 1985 ĐẾN NĂM 2014

Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM

Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HÀ THỊ THU THỦY

THÁI NGUYÊN - 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa được

sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Các tài liệu tham khảo có nguồn trích dẫn

rõ ràng.

Thái Nguyên, tháng 06 năm 2016

Tác giả

Dương Thị Nhã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn i

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo đã tham gia

giảng dạy lớp Cao học Lịch sử Việt Nam - những người thầy đã trang bị cho

tác giả tri thức và kinh nghiệm quý báu trong học tập, nghiên cứu khoa học.

Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo thuộc Phòng Đào Tạo;

khoa Lịch Sử trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các bạn bè

đồng nghiệp đã động viên, nhiệt tình giúp đỡ tác giả và tạo điều kiện thuận

lợi cho tác giả hoàn thành luận văn này.

Tác giả xin cảm ơn Sở Công thương tỉnh Thái Nguyên, Liên đoàn lao

động tỉnh Thái Nguyên, Ban quản lý KCN Sông Công đã giúp đỡ tác giả

hoàn thành nghiên cứu này.

Đặc biệt, tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Hà Thị Thu

Thủy – người đã nhiệt thành, ân cần hướng dẫn, chỉ dạy và giúp đỡ tác giả

hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 06 năm 2016

Tác giả

Dương Thị Nhã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

Danh mục chữ viết tắt ......................................................................................... iv

Danh mục các bảng .............................................................................................. v

Danh mục các hình ............................................................................................. vi

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2

3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ..................................... 4

4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu ......................................................... 5

5. Đóng góp của đề tài ......................................................................................... 7

6. Kết cấu đề tài ................................................................................................... 8

Chương 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN Ở

KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG TỈNH THÁI NGUYÊN .................... 9

1.1. Vài nét về thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.................................... 9

1.2. Quá trình hình thành, phát triển khu công nghiệp Sông Công, tỉnh

Thái Nguyên ..................................................................................................... 14

1.3. Sự hình thành tổ chức công đoàn ở khu công nghiệp Sông Công, tỉnh

Thái Nguyên ...................................................................................................... 24

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 28

Chương 2: HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KHU CÔNG

NGHIỆP SÔNG CÔNG GIAI ĐOẠN 1985 – 2014 ...................................... 29

2.1. Giai đoạn 1985 - 1995 ................................................................................ 29

2.2. Giai đoạn 1996 - 2005 ................................................................................ 33 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii

2.3. Giai đoạn 2006 - 2014 ................................................................................ 39

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 62

Chương 3: ĐÁNH GIÁ VỊ THẾ, VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG

ĐOÀN KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG GIAI ĐOẠN 1985 - 2014 .. 64

3.1.Những kết quả đạt được............................................................................... 64

3.1.1. Chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho công nhân

viên chức lao động ............................................................................................. 64

3.1.2. Tuyên truyền giáo dục và thực hiện các phong trào thi đua yêu nước

trong công nhân, viên chức lao động ................................................................. 65

3.1.3. Kiểm tra tư vấn pháp luật, tài chính công đoàn ....................................... 66

3.2. Những khó khăn, hạn chế ........................................................................... 69

3.2.1. Trong lĩnh vực đào tạo nghề và giải quyết việc làm ............................... 69

3.2.2. Trong giải quyết chế độ tiền lương, ký kết và thực hiện thoả ước lao

động tập thể ........................................................................................................ 71

3.2.3. Trong lĩnh vực an toàn vệ sinh lao động và việc đóng, trả bảo hiểm

xã hội cho người lao động ................................................................................. 74

3.2.4. Trong việc giải quyết tranh chấp lao động và đình công ........................ 76

3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và bài học kinh nghiệm .............................. 77

3.3.1. Nguyên nhân ............................................................................................. 77

3.3.2. Bài học kinh nghiệm ................................................................................ 82

Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 84

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 89

PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iv

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

: Trách nhiệm hữu hạn TNHH

: Bảo hiểm xã hội BHXH

: Bảo hiểm y tế BHYT

TLĐLĐVN : Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

: Khu công nghiệp KCN

: Thành phố TP

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

KT - XH : Kinh tế - Xã hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iv

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Thống kê các doanh nghiệp, nhà máy hoạt động trong khu công

nghiệp Sông Công ............................................................................. 19

Bảng 2.1. Thống kê số lớp và số lượt người tham gia tập huấn (1991 -1995).. 30

Bảng 2.2. Thống kê giải quyết việc làm cho người lao động của tổ chức

công đoàn (1990 -1995) .................................................................... 31

Bảng 2.3. Thống kê số lớp và số lượt công đoàn viên được đào tạo, bồi dưỡng

về chuyên môn, nghiệp vụ của tổ chức công đoàn (1992-1995) ........... 32

Bảng 2.4. Thống kê số cây xanh được trồng của tổ chức công đoàn

(1990-1994) ....................................................................................... 33

Bảng 2.5. Lao động được giải quyết việc làm ở KCN Sông Công giai đoạn

2001- 2005 ......................................................................................... 33

Bảng 2.6. Thống kê số nhà được hỗ trợ làm mới ở TP. Sông Công do công

đoàn KCN Sông Công đầu tư giai đoạn 2000 -2005 ........................ 35

Bảng 2.7. Danh sách Mẹ Việt Nam anh hùng được công đoàn KCN Sông

Công tri ân và tặng quà năm 2005..................................................... 37

Bảng 2.8. Thống kê số nữ công đạt danh hiệu trong phong trào gỏi việc

nước, đảm việc nhà (2001 -2005) ..................................................... 38

Bảng 2.9. Thống kê số lượng người lao động KCN Sông Công giai đoạn

2006 – 2012 ....................................................................................... 41

Bảng 2.10. Thống kê lớp tập huấn cho cán bộ nữ KCN Sông Công về

chương trình dân số kế hoạch hóa, bình đẳng giới, chăm sóc sức

khỏe (2010- 2014) ............................................................................. 45

Bảng 2.11. Thống kê số lớp tập huấn về công tác an toàn vệ sinh lao động,

vệ sinh thực phẩm, bảo hiểm lao động, phòng chống cháy nổ

KCN Sông Công tham gia (2008 – 2012) ......................................... 51

Bảng 2.12. Thống kê gia đình công nhân, viên, lao động có hoàn cảnh khó

khăn được công đoàn KCN Sông Công tặng quà vào dịp Tết

(2009 – 2013) .................................................................................... 56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn v

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1. Bản đồ hành chính TP. Sông Công, tỉnh Thái Nguyên ..................... 10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn vi

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đã và đang có

tác động mạnh mẽ tới vị trí, hoạt động của tổ chức công đoàn ở nhiều cơ quan,

tổ chức, doanh nghiệp nước ta. Phát triển kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa

bên cạnh những cơ hội, điểm mạnh thì cũng có nhiều thách thức, hạn chế tác

động đến hoạt động của công đoàn. Đặc biệt hiện nay, nước ta đang trên con

đường đổi mới theo xu hướng CNH, HĐH. Việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược

xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh” luôn cần có sự song hành của tổ chức công đoàn không chỉ

trong cơ quan, tổ chức nhà nước mà tại các KCN có vốn đầu tư nước ngoài lại

càng trở nên cần thiết.

Trong sự phát triển của các KCN, việc xây dựng đội ngũ công nhân có

kiến thức, tay nghề, phẩm chất đạo đức tốt là cần thiết và cấp bách. Các KCN

ra đời nhằm thu hút dự án và vốn đầu tư nước ngoài để phát triển sản xuất,

kinh doanh, tăng năng suất lao động, khối lượng và chất lượng sản phẩm hàng

hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, phục vụ xuất khẩu. Trong số những

nhân tố chi phối tới hoạt động của các KCN, nhân tố con người được xem là

giữ vai trò quyết định. Để cho người lao động ở các KCN thực sự có đủ các yếu

tố cần thiết (thể lực, trí tuệ, kinh nghiệm sản xuất) đòi hỏi phải có một tổ chức

đứng ra để tập hợp, thu hút, tuyên truyền, giáo dục công nhân lao động thực

hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước, quy định của Bộ Công thương, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và

các KCN. Đồng thời, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho

người lao động và đào tạo bồi dưỡng cho họ để họ thực sự làm chủ được các

thiết bị, KHCN hiện đại. Tổ chức đó chắc chắn phải là tổ chức công đoàn trong

các KCN và tổ chức công đoàn chỉ thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của

1

mình khi ở đơn vị, cơ sở, doanh nghiệp đó có tổ chức công đoàn. Vì vậy, sự

quan tâm, chú trọng của tổ chức công đoàn trong tất cả các hoạt động của

doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Đây là chủ trương lớn của Tổng Liên đoàn

lao động Việt Nam đã được liên đoàn lao động các tỉnh, TP duy trì và xây dựng

thành nghị quyết, chương trình công tác cụ thể để chỉ đạo thực hiện ở các

nhiệm kì. Đại hội Công đoàn tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIII, xác định rõ nhiệm

vụ của tổ chức công đoàn nhằm phát triển công đoàn viên và xây dựng tổ chức

công đoàn ngày càng vững mạnh, nhất là công đoàn trong các KCN, cụm công

nghiệp trên địa bàn tỉnh. Theo đó, tổ chức Công đoàn ở KCN Sông Công được

ra đời vào năm 1985 và đi vào hoạt động, không ngừng mở rộng số lượng,

nâng cao chất lượng đội ngũ công đoàn viên, hoạt động theo phương hướng,

nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội Công đoàn Việt Nam đề ra. Trải qua 30 năm xây

dựng và phát triển (1985-2014), tổ chức công đoàn nơi đây đã trở thành một tổ

chức cơ sở tiêu biểu, vững mạnh với nhiều năm liền đạt danh hiệu Công đoàn

xuất sắc.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn hướng nghiên cứu

“Hoạt động của tổ chức công đoàn ở khu công nghiệp Sông Công tỉnh Thái

Nguyên từ năm 1985 đến năm 2014” làm luận văn thạc sĩ.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Tổ chức công đoàn gắn chặt với các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã

hội như sản xuất- kinh doanh, quản lý, kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hóa, đời

sống vật chất và tinh thần của người lao động. Bởi vậy, đây là chủ đề và đối

tượng nghiên cứu của nhiều nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp.

Điển hình là cuốn sách mang tầm giá trị thế giới như “Lênin toàn tập”

được NXB Tiến Bộ ấn hành năm 1987. Tác phẩm nói về nguồn gốc ra đời của tổ

chức Công đoàn thế giới và mô hình hoạt động, tổ chức Công đoàn nói chung.

Tác phẩm “Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của Công đoàn khu

vực kinh tế ngoài quốc dân” (1997) do Ban tổ chức Tổng liên đoàn lao động

2

Việt Nam phát hành đã trình bày về một số vấn đề lớn trong công tác tổ chức,

hoạt động của công đoàn ở các doanh nghiệp hoạt động kinh tế có vốn đầu tư

nước ngoài.

Cuốn sách “Giáo trình lý luận và nghiệp vụ công đoàn’’ tập 1-2 của

Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, do NXB Lao động ấn hành năm 1999.

Trong công trình này, tác giả đã nêu rõ về hoạt động nói chung của công đoàn

như tổ chức phong trào thi đua trong công nhân, tuyên truyền giáo dục, hoạt

động văn hóa quần chúng trong công nhân, viên chức và lao động.

Trường Đại học Công đoàn với công trình nghiên cứu “Tổ chức và hoạt

động của Công đoàn trong công ty cổ phần” (2001) đã giới thiệu khái quát nội

dung hoạt động của công đoàn cơ sở, kinh nghiệm chỉ đạo, tổ chức hoạt động

công tác của công đoàn cơ sở.

Thị xã Sông Công (nay là TP. Sông Công) trực thuộc tỉnh Thái Nguyên

được thành lập năm 1985. Xét về đặc điểm vị trí địa lí và môi trường tự nhiên,

nhân văn thì TP có địa hình khá bằng phẳng, có dòng sông Công huyền thoại

và quốc lộ số 3 chạy qua cùng hệ thống giao thông nội thị dọc ngang thuận tiện

cùng những tiềm năng khác về đất và người sẽ là nền tảng, động lực vững chắc

cho sự phát triển của TP Sông Công nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung.

Trong lịch sử, địa danh này đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều tác

giả, điển hình như cuốn sách: “Lịch sử Đảng bộ thị xã Sông Công từ 1985 -

1995” do Ban tuyên giáo thị xã Sông Công phát hành năm 1996 đã đề cập tới

sự ra đời của Đảng bộ và quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân

dân, Đảng bộ thị xã Sông Công.

Tiếp đến là cuốn sách “Sông Công thị xã bên dòng sông huyền thoại”

(Xuất bản tại NXB Văn hóa thông tin năm 2006) của Ban Thường vụ Thị ủy

Sông Công – Thái Nguyên. Nội dung cuốn sách viết về lịch sử hình thành và

tiềm năng phát triển của thị xã Sông Công. Ấn phẩm “Sông Công thị xã tuổi

20” hay cuốn “Kỷ yếu 20 năm thị xã Sông Công”cũng là những nghiên cứu

3

điển hình về lịch sử hình thành và phát triển của địa phương này.

Như vậy, các nghiên cứu đều đề cập đến các khía cạnh, lĩnh vực cụ thể

trong tổ chức công đoàn. Tuy nhiên, những về lịch sử hình thành và tổ chức,

hoạt động của công đoàn tại KCN Sông Công còn bị tản mạn, chưa có công

trình nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện.

Trên cơ sở thực tiễn và kế thừa công trình nghiên cứu của các nhà khoa

học, tác giả mạnh dạn nghiên cứu Hoạt động của tổ chức Công đoàn ở khu

công nghiệp Sông Công, tỉnh Thái Nguyên từ năm 1985 đến năm 2014.

3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Từ việc nghiên cứu quá trình hình thành và hoạt động của tổ chức công

đoàn, đề tài tập trung làm rõ việc chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của công nhân, viên chức, lao động; tổ chức các phong trào thi đua, tuyên

truyền giáo dục, xây dựng công đoàn trong sạch vững mạnh trong công nhân, viên

chức, lao động của tổ chức công đoàn ở KCN Sông Công từ năm 1985-2014.

3.2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu khái quát sự thành lập KCN và tổ chức đoàn,

phân tích quá trình hoạt động tổ chức công đoàn KCN Sông Công giai đoạn

1985 – 2014, đề tài đánh giá một cách hệ thống và sâu sắc về vị thế, vai trò của

tổ chức công đoàn tại KCN, đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm trong

vận dụng và xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh nhằm bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động ở KCN này trong giai đoạn CNH,

HĐH và hội nhập Quốc tế hiện nay.

3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Khái quát về TP Sông Công, sự thành lập KCN và tổ chức công đoàn.

- Phân tích quá trình hoạt động của tổ chức công đoàn KCN Sông Công

giai đoạn 1985 – 2014.

- Đánh giá vị thế, vai trò của tổ chức công đoàn KCN Sông Công giai

đoạn nghiên cứu, đúc rút một số bài học kinh nghiệm trong vận dụng và xây

4

dựng tổ chức công đoàn vững mạnh.

3.4. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi KCN Sông Công, tỉnh

Thái Nguyên.

- Về thời gian: Dữ liệu sử dụng trong đề tài từ năm 1985 đến năm 2014.

4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tư liệu

- Tư liệu thành văn: Các giáo trình, luận văn, luận án, sách tham khảo,

đặc biệt là sách chuyên khảo viết về hoạt động của tổ chức công đoàn của các

tác giả trong và ngoài nước đã được công bố xuất bản.

- Tài liệu lưu trữ:

+ Các Văn kiện của Đảng, các chỉ thị, Nghị quyết; các bài viết của các đồng

chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước liên quan tới nội dung nghiên cứu của đề tài;

+ Các báo cáo tổng kết, sơ kết của Sở Công thương, Liên đoàn lao động

tỉnh Thái Nguyên, Ban quản lý KCN Sông Công trong những năm gần đây;

- Tài liệu điền dã: Hệ thống các văn bản, tài liệu thu thập được trong quá

trình thực địa khảo sát tại KCN Sông Công, TP. Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử du ̣ng hai phương pháp nghiên

cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.

Phương pháp lịch sử: Trong nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và

hoạt động của tổ chức công đoàn ở KCN Sông Công, tác giả sử dụng phương

pháp này nhằm phân tích, đánh giá vị thế, tầm quan trọng của tổ chức công

đoàn ở KCN theo đúng trình tự thời gian. Thông qua các nguồn tư liệu, đề tài

luận chứng đầy đủ chủ trương của Đảng và Nhà nước, Tổng liên đoàn lao động

Việt Nam, Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên, … trong việc chăm lo đời

sống và nâng cao chất lượng công đoàn viên ở các cơ sở, doanh nghiệp. Đồng

thời, đặt quá trình thực hiện hoạt động, phát triển của tổ chức công đoàn ở

5

KCN Sông Công trong mối quan hệ tác động qua lại với các công đoàn bộ phận

trên địa bàn TP Sông Công nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung. Tác giả

tập trung phản ánh chi tiết, trung thực những kết quả đạt được, vai trò, vị trí

cùng những thành tựu, hạn chế cần khắc phục trong hoạt động của tổ chức công

đoàn ở KCN này.

Phương pháp logic: Trên cơ sở khái quát về KCN Sông Công, chủ trương

của Đảng và Nhà nước về phát triển tổ chức công đoàn trong các cơ quan, xí

nghiệp, doanh nghiệp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao

động, tác giả đúc kết và hệ thống hóa đặc điểm, nhiệm vụ, cách thức tổ chức

hoạt động của công đoàn ở các cơ sở nói chung và KCN Sông Công nói riêng.

Điều này giúp cho tác giả có cái nhìn biện chứng về quá trình hình thành, phát

triển của tổ chức công đoàn ở KCN, đánh giá được vai trò và chỉ ra những hạn

chế cùng với nguyên nhân, bài học kinh nghiệm trong phát triển công đoàn ở

KCN Sông Công.

Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác, tiêu biểu

như: Phương pháp thu thập, tổng hợp và xử lý tà i liê ̣u thố ng kê: Đây là phương pháp truyền thống được sử dụng trong các nghiên cứu nói chung và nghiên cứu

sử học nói riêng. Nguồn tài liệu liên quan tớ i đề tài nghiên cứ u được thu thập tương đối đa dạng, phong phú, bao gồm các tài liệu thành văn, lưu trữ và tài

liệu điền dã. Trong luâ ̣n văn, tác giả sử du ̣ng chủ yếu nguồ n dữ liê ̣u từ Liên

đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên, Sở Công thương tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo

của UBND TP Sông Công, Ban quản lý KCN Sông Công. Trên cơ sở đó , tiến hành xử lý, tổng hợp số liê ̣u có đủ độ tin cậy phu ̣c vụ mu ̣c đích nghiên cứ u đề tài và đưa ra những nhận định, kết luận cho đề tài ở các cách tiếp cận khác nhau

(đi từ cái chung tới cụ thể, từ dễ tới phức tạp)

Phương pháp phân tích hê ̣ thống: Quá trình hình thành, phát triển của tổ

chức công đoàn ở KCN Sông Công đươ ̣c nhâ ̣n diện và đánh giá khách quan

6

thông qua phân tích mố i liên hê ̣ không gian, thờ i gian, đội ngũ công đoàn viên ở các cụm công nghiệp, điểm công nghiệp và nhà máy, xí nghiệp. Ở đây, tác

giả chú ý đến các mố i quan hê ̣ kinh tế, nhân văn, các mố i liên hê ̣ nhân quả.

Trên cơ sở thu thập số liệu và tiến hành so sánh, đối chiếu các hoạt động của tổ

chức công đoàn trong KCN ở những giai đoạn khác nhau, tác giả rút ra được

những kết luận quan trọng, tìm ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm cho vấn

đề mà đề tài nghiên cứu.

Phương phá p điền dã: Trong nghiên cứu đề tài, tác giả vâ ̣n dụng phương

pháp này để khảo sát thư ̣c tế hoạt động của tổ chức công đoàn ở một số nhà

máy, xí nghiệp trong KCN nhằm phát hiê ̣n vấn đề và kiểm đi ̣nh các thông

tin thu thập được từ nhiều nguồ n khác nhau. Thư ̣c hiê ̣n đề tài này, tác giả đã

tiến hành quan sát, ghi chép, mô tả, chụp ảnh, trao đổi với một số Sở, Ban,

ngành, các lãnh đạo, các chuyên gia, ... về những vấn đề liên quan đến quy

trình hoạt động và cách thức tổ chức, đánh giá hiệu quả của công đoàn cơ sở.

Phương pháp chuyên gia: Khi nghiên cứu đề tài, tác giả tiến hành tham

khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học trong lĩnh vực công đoàn,

lãnh đạo các phòng, ban của Sở Công thương, Liên đoàn lao động tỉnh Thái

Nguyên, Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên, Ban quản lý KCN Sông

Công, … Từ đó, đưa ra những kết luận, nhận định xác thực cho đề tài.

Phương pháp bản đồ - GIS: Xã hội ngày càng phát triển, việc áp dụng

những thành tựu mới của nhân loại vào nghiên cứu khoa học nói chung và khoa

học xã hội nói riêng ngày càng được sử dụng nhiều, đặc biệt là sự phát triển

nhanh chóng của công nghệ thông tin. Phương pháp này được sử dụng để biên

vẽ bản đồ hành chính TP. Sông Công.

5. Đóng góp của đề tài

- Đề tài phân tích quá trình hoạt động, vị trí, vai trò của tổ chức công

đoàn ở KCN Sông Công.

- Góp phần bổ sung nguồn tư liệu giúp cho việc giải một số vấn đề liên

quan đến tác động của tổ chức công đoàn trong lịch sử hình thành, phát triển

7

của KCN Sông Công, tỉnh Thái Nguyên ở chặng đường 30 năm (1985 – 2014)

6. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung

của luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1. Quá trình hình thành tổ chức công đoàn ở KCN Sông Công,

tỉnh Thái Nguyên.

Chương 2. Hoạt động của tổ chức công đoàn trong quá trình xây dựng

và phát triển của KCN Sông Công giai đoạn 1985 - 2014.

Chương 3. Đánh giá vị thế, vai trò của tổ chức công đoàn KCN Sông

8

Công giai đoạn 1985 – 2014.

Chương 1

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN

Ở KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG TỈNH THÁI NGUYÊN

1.1. Vài nét về thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên

Về lịch sử hành chính thành phố Sông Công trước đây là thị xã Sông

Công thuộc tỉnh Bắc Thái. Thị xã này được thành lập từ thị trấn Mỏ Chè và các

xã Cải Đan, Tân Quang, Bá Xuyên của huyện Phổ Yên, theo quyết định số

113/HĐBT ngày 01/04/1985 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày mùng 01

tháng 07 năm 1985. Khi mới thành lập, Sông Công gồm 3 phường Lương

Châu, Mỏ chè, Thắng Lợi và 3 xã Bá Xuyên, Cải Đan, Tân Quang, trực thuộc

tỉnh Bắc Thái. Ngày 01/01/1997, tái lập tỉnh Thái Nguyên từ việc tách tỉnh Bắc

Thái, thị xã Sông Công trực thuộc tỉnh Thái Nguyên. Số đơn vị hành chính của

địa phương không ngừng được mở rộng. Ngày10/04/1999, Sông Công thành

lập phường Phố Cò và xã Vinh Sơn theo nghị định số 18/1999/NĐ-CP của

Chính phủ. Cũng theo quyết định này, xã Cải Đan đổi thành phường Cải Đan,

xã Bình Sơn thuộc huyện Phổ Yên chuyển cho Sông Công quản lý. Ngày

18/10/2010, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 925/ QĐ-BXĐ công nhận

thị xã Sông Công là đô thị loại III. Ngày 13/01/2011, Chính phủ ban hành

quyết định số 05 NQ-CP giải thể thị trấn Nông Trường và điều chỉnh địa giới

hành chính của thị xã Sông Công cùng các khu vực lân cận để thành lập thị

trấn thuộc các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ, Đại Từ. Trong đó, thị xã Sông

Công cũng thành lập thêm một số phường mới. Phường Bách Quang được

thành lập trên cơ sở điều chỉnh 852,5 ha diện tích tự nhiên và 9.260 nhân

khẩu của xã Tân Quang. Có thể nói thị xã Sông Công là một thị xã trẻ mang

dáng dấp của miền trung du và có những đặc thù riêng. Nói đến Sông Công

là nói đến một thị xã với sức sống công nghiệp với hàng chục nhà máy cơ

khí, luyện kim lớn có tuổi đời 35 - 40 năm; với nhiều dự án đầu tư mở rộng

9

sản xuất vào KCN Sông Công.

Ngày 15/05/2015, Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về

việc điều chỉnh địa giới hành chính TP.Thái Nguyên và TP. Sông Công. UBND

tỉnh Thái Nguyên đã giao toàn bộ 1.560,80 ha diện tích tự nhiên và 23.865

nhân khẩu của xã Lương Sơn (TP. Thái Nguyên) cho TP. Sông Công quản lý.

Đây là một bước chuyển mình góp phần quan trọng vào sự phát triển của tỉnh

Thái Nguyên - hạt nhân tạo vùng của khu vực phía Bắc.

Về vị trí địa lí, Sông Công có diện tích tự nhiên gần 85 km. Ba mặt:

Đông, Tây và Nam giáp huyện Phổ Yên; Phía Bắc giáp TP Thái Nguyên. Hiện

nay, TP có 7 phường và 4 xã; địa hình tương đối bằng phẳng, mang đặc điẻm

của miền trung du; nền dốc từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây, có và

ngọn núi cao vài trăm mét. Đây là vị trí địa lý khá thuận lợi vì thành phố chỉ

cách Thủ đô Hà Nội 65km về phía Bắc, cách TP Thái Nguyên 15 km về phía

Nam, cách sân bay quốc tế Nội Bài 45km, cách hồ Núi Cốc 17km.

Về điều kiện tự nhiên, TP Sông Công có tiềm năng đất đai phong phú,

quỹ đất để phát triển công nghiệp và đô thị dồi dào. Có hệ thống đường giao

thông thuận lợi bởi các tuyến quốc lộ số 3 và đường sắt Hà Nội – Quán Triều

chạy qua, phía Đông TP Sông Công nằm trong vùng công nghiệp vệ tinh quanh

thủ đô Hà Nội và công nghiệp vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ. Đây là lợi thế

để địa phương này tạo được sức hút và ảnh hưởng tới các địa bàn xung quanh,

là “vệ tinh” quan trọng của TP. Thái Nguyên.

Sông Công có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa và được chia làm hai mùa

nóng và lạnh. Mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10. Trong đó, tháng 8 là tháng

nhiệt độ trung bình cao nhất 28,10C và có những ngày nhiệt độ lên tới 41,10C.

Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 3 năm sau. Tháng 1 là

tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất. Tuy nhiên, Sông Công có độ ẩm khá

cao trên 80%. Những tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 3, 4, 8. Đây là những

10

tháng có mưa phùn, mưa ngâu, độ ẩm thường trên 80%.

Hình 1.1. Bản đồ hành chính TP. Sông Công, tỉnh Thái Nguyên

Nguồn: Tác giả biên vẽ 11

Trên địa bàn TP cũng có hai loại gió mùa, đó là gió mùa Đông Bắc và

gió mùa Đông Nam. Gió mùa Đông Bắc thổi có thời gian hình thành, ảnh

hưởng trùng với mùa lạnh. Mỗi khi có đợt gió mùa Đông Bắc tràn về, nhiệt độ

thường hạ xuống đột ngột làm cho thời tiết rất lạnh, đôi khi xuất hiện sương

muối có hại cho sức khỏe con người và sự phát triển của cây trồng, vật nuôi.

Còn gió mùa Đông Nam mang theo hơi nước từ biển Đông vào gây ra mưa lớn

trong mùa nóng, thời gian ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam trùng với mùa

nóng. Lượng mưa trung bình hàng năm của TP. Sông Công khoảng 2.168mm ;

số ngày mưa năm: 142 ngày; lượng mưa tháng lớn nhất: 443mm; số ngày mưa

tháng nhỏ nhất: 22mm; số ngày mưa trên 50mm: 12 ngày; số ngày trên 100mm:

2 -3 ngày; lượng mưa ngày cực đại: 1103mm; lượng mưa tăng dần từ đầu mùa

tới giữa mùa đạt tới cực đại vào tháng 8. Đồng thời phân bố không đều, mùa

nóng lượng mưa chiếm từ 85% đến 90% lượng mưa của cả năm. Những tháng

đầu mùa khô có khi cả tháng không có mưa gây nên tình trạng hạn hán. Tháng

7, 8 hàng năm mưa nhiều nhất.

Sông Công dài 95 km, bắt nguồn từ Định Hóa chảy qua Đại từ, TP. Sông

Công, Phổ Yên rồi nhập vào sông Cầu thị khu vực Đa Phúc. Trên Sông Công

đã xây dựng hồ Núi Cốc với dung tích hồ 175,5 triệu m2 khi mực nước bình

thường và dung tích hồ 240,5 triệu m2 khi mực nước lên cao.

Về địa chất: vùng Gò Đầm có nền đất tốt, cường độ chịu lực R = 2 – 2,5

Kg/cm3; vùng ven sông địa hình lòng chảo có cường độ chịu lực thấp hơn R = 1

– 1,5Kg/cm3. Mực nước ngầm thường xuất hiện ở độ sâu từ 4 - 5m. Quốc lộ số

3 chạy qua thành phố cùng với các tuyến đường nội thị chạy ngang dọc đã tạo

cho sông Công thuận tiện trong việc thông thương với các vùng xung quanh.

Như vậy, vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên như trên đã tác động mạnh mẽ

tới sự phát triển kinh tế trong vùng. Trong những năm qua, để khắc phục khó

khăn, hạn chế và phát huy tiềm năng sẵn có, nhân dân trong vùng luôn cố gắng

12

vươn lên phát triển kinh tế, đưa TP. Sông Công trở thành khu vực trọng điểm

trong phát triển công nghiệp của tỉnh. TP đã tập trung và huy động mọi nguồn

lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, dành nhiều nguồn

lực đầu tư xây dựng các công trình quan trọng tập trung xây dựng các tuyến

đường giao thông huyết mạch. Xây mới và nâng cấp hệ thống giao thông đô

thị. Đặc biệt, TP đang đẩy mạnh xây dựng hạ tầng các khu đô thị mới, khu

trung tâm hành chính các xã, phường, tiếp tục đầu tư hoàn thiện hệ thống điện

chiếu sáng, hệ thống thoát nước, xử lý nước thải dọc các tuyến nội thị, góp

phần đẩy nhanh tiến trình xây dựng đô thị xanh, sạch, đẹp. Huy động mọi

nguồn lực trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng nông

thôn mới. Cơ sở hạ tầng để phát triển KT-XH đã và đang từng bước hoàn

chỉnh, cải tạo và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

Trải qua gần 30 năm xây dựng và phát triển với quá trình hình thành và

mở rộng đơn vị hành chính, TP. Sông Công hiện nay chính thức là TP công

nghiệp với tổng diện tích 98,37 km2 và dân số 109.409 người (năm 2014), mật

độ dân số là 1.112 người/km2.

Về kinh tế, TP Sông Công đã và đang thu hút nhiều dự án đầu tư trong

phát triển KCN và đô thị. Điển hình là KCN Sông Công I - một trong những

công trình trọng điểm với diện tích 320 ha, khu đô thị KOSY 40 ha, khu dân cư

đường Thống Nhất 20 ha. Những năm gần đây, kinh tế của TP phát triển nhanh,

tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt khá. Năm 2013, tốc độ tăng trưởng kinh tế

GDP đạt 14,8%, GTSX công nghiệp trên địa bàn đạt 4.705 tỷ đồng (tăng

9,6% so cùng kỳ năm 2012), GTSX ngành nông - lâm - thủy sản đạt 420 tỷ

đồng, giá trị xuất khẩu trên địa bàn đạt 35 triệu USD. Tổng thu ngân sách

trên địa bàn tăng bình quân trên 20%, GDP bình quân đầu người đạt trên 45

triệu đồng/người/năm. Phấn đấu tới năm 2020, TP. Sông Công được nâng

cấp lên đô thị loại II, nằm trong trục phát triển công nghiệp và đô thị phía

13

Nam tỉnh Thái Nguyên.

Trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục, TP. Sông Công luôn chú trọng đẩy

mạnh sự phát triển toàn diện, nâng cao đời sống cho nhân dân. Sông Công là

một trung tâm giáo dục - đào tạo của tỉnh Thái Nguyên (sau TP Thái Nguyên).

Nhiều trường phổ thông và chuyên nghiệp đóng trên địa bàn TP, tiêu biểu như

Trường Cao đằng Công nghiệp Việt Đức, Cao đẳng Công nghệ và kinh tế nông

nghiệp (cơ sở 2), Cao đẳng Cơ khí luyện kim, .... Trên địa bàn mỗi phường, xã

thuộc TP đều có một trường tiểu học và một trường THCS và ở TP có 2 trường

THPT (THPT Sông Công, THPT DL Lương Thế Vinh), Trường Văn hóa I (Bộ

Công an).

Những thuận lợi về điều kiện tự nhiên cùng những thành tựu về cơ sở hạ

tầng của TP đã góp phần thúc đẩy sự phát triển không ngừng KT-XH, góp phần

đưa Sông Công từ một thị xã trở thành TP lớn thứ hai trực thuộc tỉnh Thái

Nguyên. Một TP tuy diện tích không lớn nhưng đã góp phần đáng kể vào sự

phát triển của tỉnh Thái Nguyên.

1.2. Quá trình hình thành, phát triển khu công nghiệp Sông Công, tỉnh

Thái Nguyên

Cùng với sự phát triển và lớn mạnh của TP. Sông Công, KCN Sông

Công cũng không ngừng phát triển. Đến nay, thuộc phạm vi quản lý của KCN

gồm nhiều đơn vị, doanh nghiệp được đầu tư, xây dựng và hội nhập với nền

kinh tế chung của tỉnh và cả nước.

KCN Sông Công nằm ở phía Bắc TP. Sông Công, cách TP. Thái

Nguyên 18 km về phía Nam và cách thủ đô Hà Nội 60 km theo quốc lộ 3. Đặc

biệt, KCN cách cảng Đa Phúc 15 km (từ đó đi cảng Cái Lân gần 100 km); cách

ga Lương Sơn của tuyến đường sắt Hà Nội – Quán Triều 1km và cách sân bay

Quốc tế Nội Bài 40 km. Đây là vị trí quan trọng nằm trong vành đai công

nghiệp Hà Nội, cùng với Thái Nguyên sẽ trở thành vùng thủ đô Hà Nội vào

14

năm 2030.

Ngày 01/9/1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số

181/1999/QĐ – TTg về việc thành lập, phê duyệt dự án đầu tư và kinh doanh

kết cấu hạ tầng KCN Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Theo quyết định này, tổng

số vốn đầu tư để xây dựng các công trình hạ tầng KCN Sông Công giai đoạn I

với diện tích 69,37 ha và vốn đầu tư là 76 tỷ đồng. Ngày 16/9/2004, Thủ tướng

Chính phủ ban hành Quyết định số 985/QĐ – TTg về việc điều chỉnh dự án đầu

tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN Sông Công I, tỉnh Thái

Nguyên. Theo đó, chủ đầu tư cũ là công ty Công trình giao thông I Thái

Nguyên được thay thế bằng chủ đầu tư mới là Công ty phát triển hạ tầng KCN

tỉnh Thái Nguyên trực thuộc Ban quản lý các KCN.

Sự hình thành và phát triển của KCN Sông Công mang ý nghĩa quan

trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên góp

phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện CNH, HĐH. Tỉnh uỷ tỉnh Thái

Nguyên thống nhất chủ trương mở rộng cửa đón các nhà đầu tư trong và ngoài

nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại KCN Sông Công. Từ đó, KCN Sông

Công đã xây dựng được các công trình hạ tầng cơ bản đáp ứng được nhu cầu của

các nhà đầu tư như hệ thống cung cấp điện 22KV, hệ thống cung cấp nước, hệ

thống thoát nước mưa nước thải, hệ thống giao thông với lộ giới 42m và hệ thống

hàng rào bảo vệ nhà máy.

Cùng với KCN Gang thép Thái Nguyên nổi tiếng, KCN Sông Công với

mô hình hoạt động theo kiểu KCN, khu chế xuất đã thực sự trở thành điểm đến

của các nhà đầu tư khi đến với mảnh đất Thái Nguyên. Hoạt động hiệu quả của

KCN Sông Công với sự tăng trưởng khá nhanh được xây dựng và phát triển cả

về số lượng và quy mô dự án đã minh chứng tầm vóc và sức trỗi dậy mạnh mẽ

của một trung tâm công nghiệp lớn của tỉnh Thái Nguyên và của cả nước. Đầu

những năm 60 của thế kỷ XX, khu vực TP. Sông Công ngày nay đã được chọn

để xây dựng KCN cơ khí lớn với tên gọi KCN cơ khí Gò Đầm. Ngày 1- 9-

15

1999. Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 181/1999/QĐ-TTg về

việc thành lập và phê duyệt dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ

tầng KCN Sông Công tỉnh Thái Nguyên trên địa bàn TP. Sông Công. Theo đó,

KCN Sông Công hoạt động theo quy chế quản lý KCN, khu chế xuất.

Xuất phát từ tình hình thực tế Thái Nguyên đã lựa chọn phương án đầu

tư vào KCN Sông Công theo kiểu cuốn chiếu. Trong 69,37 ha giai đoạn I, tỉnh

chọn 30 ha tiếp giáp quốc lộ 3 (khu vực có mật độ dân cư thưa, phần lớn là đất

đồi bãi, chi phí đền bù thấp, san lấp mặt bằng thuận lợi) để tiến hành triển khai

đợt đầu. Kèm theo đó tỉnh ban hành các văn bản pháp lý thể hiện rõ chủ trương

và các chính sách ưu đãi đầu tư vào KCN này. Sau khi Chính phủ ban hành

quyết định thành lập KCN Sông Công, Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên

(trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh), cũng được thành lập. Với nhiệm vụ xây

dựng điều lệ quản lý khu công nghiệp, tổ chức xây dựng và quy hoạch chi tiết

các công trình kết cấu hạ tầng KCN, đồng thời theo sát tiến độ thực hiện, cấp

phép đầu tư cho các dự án vào khu công nghiệp và quản lý sau đầu tư theo cơ

chế “một cửa, tại chỗ”. Sau gần 5 năm đi vào hoạt động (1999 - 2004), thực

hiện chủ trương của tỉnh, Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên đã tạo được

môi trường thuận lợi, hấp dẫn các nhà đầu tư đến với KCN Sông Công.

Đến cuối năm 2004, Thái Nguyên đã hoàn thành công tác đền bù giải

phóng mặt bằng trên diện tích 30 ha (tiếp giáp quốc lộ 3 và nằm dọc bên trục

đường Cách mạng Tháng Mười – trục đường nối quốc lộ 3 với trung tâm TP.

Sông Công). Các công trình kết cấu hạ tầng về điện, đường, nước trong hàng

rào KCN cơ bản đã hoàn thành. Hệ thống giao thông được áp phan chất lượng

tốt, đường Cách Mạng Tháng Mười chạy suốt chiều dài KCN được nâng cấp

với lộ giới 42m, 4 làn xe chạy. Cùng với trạm biến áp 119 Kv – 25 MVA, KCN

Sông Công còn có tuyến đường điện Đông Anh – Thái Nguyên chạy qua, lưới

điện 2 Kv và 35 Kv được dẫn đến chân hàng rào các doanh nghiệp. Nhà máy

nước Sông Công cùng với hệ thống thoát nước và mạng lưới thông tin liên lạc

16

được lắp đặt đồng bộ, đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư.

Với những lợi thế đó, tính đến hết tháng 10 năm 2004, KCN Sông Công

đã thu hút 18 dự án đầu tư với số vốn đăng ký gần 560 tỷ đồng và 4,8 triệu

USD. Trong đó có 15 dự án đầu tư trong nước và 3 dự án có vốn đầu tư trực

tiếp từ nước ngoài, tỷ lệ lấp đầy đạt 100%. Trong tổng số 18 dự án đầu tư, 8 dự

án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp sản xuất thử, 5

doanh nghiệp đang đầu tư xây dựng cơ bản, 4 doanh nghiệp đang triển khai các

thủ tục cần thiết. Riêng 8 dự án đi vào hoạt động đã thu hút trên 1.000 lao

động, doanh thu đạt gần 200 tỷ đồng/ năm, nộp ngân sách nhà nước 3 tỷ đồng,

thu nhập bình quân của người lao động đạt 0,75 – 2,8 triệu đồng/người/tháng.

Trong đó, các doanh nghiệp đạt chỉ tiêu tăng trưởng cao là Công ty cổ phần

thép Thái Nguyên (doanh thu 172 tỷ đồng); Hợp tác xã công nghiệp và vận tải

Chiến Công (doanh thu 47,9 tỷ đồng); Doanh nghiệp Hương Đông (doanh thu

4,7 tỷ đồng). Trong 5 năm qua mức tăng trưởng kinh tế bình quân tăng

17,56%/năm. Do tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế giá trị sản xuất công

nghiệp và xây dựng chiếm 65,9%, dịch vụ thương mại: 27,1%, còn lại là nông

nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người 600 USD/năm, góp phần tạo việc làm

và ổn định cuộc sống cho hàng trăm lao động địa phương. Cùng với đó các đơn

vị sản xuất lớn trên địa bàn như: Công ty diesel Sông Công, Công ty phụ tùng

máy số 1, Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí…đều đạt mức tăng trưởng bình quân

15 – 30%/năm. Hầu hết các doanh nghiệp luôn tạo đủ việc làm cho công nhân,

đời sống người lao động được cải thiện đáng kể với thu nhập bình quân cao.

Ngoài ra, các đơn vị đang tiếp tục tập trung đầu tư chiều sâu và mở rộng, hiện

đại hóa trang thiết bị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, sẵn sàng đáp ứng nhu

cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là nâng cao tỷ lệ nội địa hóa

sản phẩm. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng lên từng năm. Nếu như năm 2000

đạt gần 500 tỷ đồng, thì đến năm 2003 tăng trên 700 tỷ đồng và năm 2004 đạt

17

trên 1.100 tỷ đồng, năm 2005 đạt trên 1300 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng kinh tế

năm sau cao hơn năm trước. Như vậy, bằng những chính sách thu hút đầu tư

hấp dẫn và sự quan tâm, chú trọng xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng. KCN Sông

Công đã tạo ra môi trường thông thoáng cho các doanh nghiệp tiếp cận, đầu tư

vào xây dựng, kinh doanh góp phần thúc đẩy kinh tế công nghiệp không ngừng

phát triển mạnh hơn.

Trong 8 tháng đầu năm 2008, Ban quản lý các KCN Thái Nguyên đón

tiếp trên 20 lượt các nhà đầu tư đến tìm hiểu và xin đầu tư vào KCN Sông

Công. Những ngành nghề sử dụng nhiều lao động hoặc sử dụng công nghệ hiện

đại được ưu tiên đầu tư vào KCN, đặc biệt ưu tiên cho các nhà đầu tư góp vốn

cùng phát triển hạ tầng. Một số ngành nghề đang trên đà được đầu tư sản xuất,

mở rộng hơn nữa như sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, điện tử, may

mặc, … Khi tham gia vào KCN Sông Công, các nhà đầu tư sẽ được Ban quản

lý các KCN Thái Nguyên và Công ty Phát triển hạ tầng KCN tỉnh Thái Nguyên

chấp thuận thủ tục đầu tư đơn giản, gọn nhẹ “một cửa, tại chỗ”, thủ tục thuê đất

đơn giản, nhanh chóng. Các cơ quan, ban ngành luôn tạo mọi điều kiện hỗ trợ

tốt nhất cho các doanh nhân, doanh nghiệp đầu tư vào KCN Sông Công. Các

nhà đầu tư sẽ có mặt bằng sản xuất với đầy đủ công trình hạ tầng kỹ thuật, dịch

vụ logictics hiện đại cùng sự giúp đỡ tận tình, chu đáo trong suốt quá trình đầu

tư của cán bộ các cấp trực thuộc Ban quản lý các KCN Thái Nguyên và Công

ty Phát triển hạ tầng KCN tỉnh Thái Nguyên. Năm 2014, KCN Sông Công đã

thu hút được 32 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký gần 16.000 tỷ đồng,

trong đó đã thực hiện được gần 1000 tỷ đồng. Thuộc phạm vi quản lý KCN

có 22 doanh nghiệp đi vào sản xuất, thu hút trên 5.000 lao động, mức lương

bình quân từ 1 - 3 triệu đồng/người/tháng. Tính đến năm 2015, trên địa bàn

TP Sông Công có 64 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp (tăng 52 doanh

18

nghiệp so với năm 2000).

Bảng 1.1. Thống kê các doanh nghiệp, nhà máy hoạt động

trong khu công nghiệp Sông Công

STT Tên Chủ đầu tư

Đầu tư xưởng sản xuất TT Dịch vụ TN và Ngành nghề sản xuất kinh doanh chính Hàng tiêu 1 kho hàng XLTN dùng/kc thép

Nguyễn Xuân Tươi Sản xuất xỉ giầu Nguyễn Xuân Tốt, mangan, gang, Công ty TNHH 2 Nhà máy luyện xỉ giầu Mangan luyện kim, ferro Thương mại XNK silicon Đằng Tiến Long mângnnese Châu Quảng Tây

Công ty CP thép 3 Nhà máy cán thép Thăng Long Cán thép Thái Nguyên

Công ty kim loại 4 Nhà máy kẽm điện phân Kẽm thỏi H2SO4 màu TN

Công ty CP thép 5 Nhà máy luyện thép Sông Công Luyện thép Thái Nguyên

Công ty TNHH Gia Thành Công ty TNHH Gia Dịch vụ 6 Sông Công Thành

Công ty CP Đầu tư Vật liệu xây Nhà máy gạch ốp lát Việt Ý 7 SXCN dựng

Nhà máy đúc công nghệ cao Công ty TNHH Luyện thép 8 Hương Đông Hương Đông

Công ty TNHH Nhà máy thép Trường Sơn Luyện thép 9 Minh Bạch

19

CT TNHH khai 10 TTDV Du lịch và VP Kim Sơn Dịch vụ khoáng Bắc Kạn

CT CP Nhựa Nhà máy nhựa Việt Úc Nhựa PR 11 Việt Úc

Nhà máy pin quốc gia CT CP Pin quốc gia Pin các loại 12

Nhà bưu điện KCN Bưu điện Dịch vụ 13 Thái Nguyên Thái Nguyên

CTCP Đầu tư& May mặc 14 Nhà máy TNG Sông Công TM TNG

Cửa hàng xăng dầu KCN Công ty xăng dầu Dịch vụ 15 Sông Công Bắc Thái

CT TNHH Hiệp 16 Nhà máy luyện cán kéo thép Luyện, cán thép Hương

CT TNHH Hiệp 17 Nhà máy thép Hiệp Linh Luyện, cán thép Hương

CT CP thép Nam 18 Nhà máy thép Nam Phong Luyện, cán thép Phong

Nhà máy SX phôi thép CT CP Phác CT CP Phác Hương 19 Phác Hương Hương

Nhà máy thực phẩm CT CP thép Thái Sản xuất nước 20 đồ uống Time Nguyên uống

Nhà máy KC, cốp pha thép CT TNHH MTV Sx kinh doanh 21 Thái Hưng thép Thái Hưng cốp pha thép

CT CP thép Toàn Sx phôi thép, xỉ 22 Nhà máy Thép Toàn Thắng Thắng giầu mangan

Nhà máy cơ khí chế tạo Sx sản phẩm cơ CT CP Phong Phú 23 Sông Công khí

Nhà máy cơ khi Bình An CT CP Bình An Cơ khí 24

20

Phòng giao dịch KCN SC – CN Ngân hàng công Dịch vụ 25 ngân hàng TMCP CT Việt Nam thương Sông Công

CT TNHH cơ khí Sx gia công 26 Nhà máy cơ khí Vĩnh Thái Vĩnh Thái cơ khí

NM cơ khí luyện kim và sâu CT CP SX và gia Sx kc thép, 27 khoáng sản chế biến công KC thép TN cb sâu

Nhà máy thép Hiệp Linh CTCP Đầu tư và TM Luyện, cán thép 28 mở rộng Hiệp Linh

CTCP tư vấn ĐT và 29 Nhà máy SX gạch siêu nhẹ Sx sạch XD Hà Hồng

Nhà máy SX thiết bị nâng hạ Sx thiết bị CTCP Trường Minh 30 Trường Minh nâng hạ

31 Nhà máy cơ khí đúc Đại Phong CTCP Đại Phong Sx tôn, xà gồ

Nhà máy SX thiết bị nâng hạ CTTNHH SX cẩu Sx thiết bị 32 VNC trục và KC CN VNC nâng hạ

Nhà máy cơ khí Minh Phát CTCP Minh Phát Sx tôn, xà gồ 33

Nhà máy cơ khí Đúc Thiên CTCP Thiên Phú Đúc phôi các loại 34 Phú Thịnh Thịnh

CTCP công nghiệp Sx cơ khí đúc, 35 Nhà máy cơ khí Hải Âu Hải Âu KC thép

CTCP Kỹ Thuật và Sx cơ khí đúc, 36 Nhà máy kết cấu thép K24 TM K24 KC thép

Nhà máy sản xuất thiết bị điện CTCP đầu tư và SX Sx linh kiện điện, 37 Ánh Dương Ánh Dương điện tử

Nhà máy luyện cán thép CTTNHH SX&TM Sx phôi thép 38 Sông Công thép Quyết Hợp

Nhà máy cơ khí chế tạo CTCP Hà Thái Sxtôn, xà gồ 39 Hà Thái

21

Nhà máy cơ khí và K/C thép CTTNHHTM và VT Sx thép 40 Dũng Khánh Dũng Khánh

XD và lắp đặt dây chuyền CN CTCPĐT và SX thép Luyện, cán 41 luyện, cán thép An Khánh kéo thép

Nhà máy SX lõi thép Gia CTTNHH Thép Sx lõi thép GC 42 Cường và SP nội thất Kim Sơn và SP khác

Sx cơ khí đúc và 43 Nhà máy cơ khí đúc Sông Công CTCP Đầu Tư VHH KC thép

Nhà máy chế tạo thiết bị CN CTCP chế tạo Sx cơ khí chế 44 Việt Sơn Việt Sơn tạo, KC thép.

Nhà máy sản xuất đồ gỗ CTCP đầu tư Tấn Sx gỗ thanh 45 Sông Công xuất khẩu Lộc

Doanh nghiệp Trung Sx phôi đúc 46 Nhà máy cơ khí Trung Thư cơ khí Thư

Nhà máy cơ khí chế tạo CT CPCTM&DV Sx phôi đúc 47 Thái Dương Thái Dương cơ khí

Doanh nghiệp Tuân Sx phôi đúc cơ 48 Nhà máy cơ khí Tuân Dân Dân khí

Sx thiết bị 49 Nhà máy chế tạo Phúc Hương CT CP Phúc Hương nâng hạ

Chế tạo TN, sp 50 Nhà máy cơ khí Thắng Lợi CT CP Thắng Lợi cơ khí

CT CP cơ khí Huyền Sx cơ khí, 51 Nhà máy cơ khí Huyền Trang Trang kc thép

Nhà máy gạch không nung Sx gạch CT CP Cường Thịnh 52 Cường Thịnh không nung

CT CP giấy Sản xuất giấy Nhà máy giấy cao cấp 53 Bình Phong cao cấp

22

CT TNHH TM&CN Đúc phôi, sp 54 Nhà máy cơ khí đúc Cẩm Châu Cẩm Châu cơ khí

Cơ khí, sx kc 55 Nhà máy cơ khí Vĩnh Phát CTCP Vĩnh Phát thép

Nhà máy chế tạo cơ khí CTCP cơ khí ches Cơ khí, sx kc 56 Hoàng Hà tạo Hoàng Hà thép

Sx gạch lát nền 57 Nhà máy gạch ốp lát Như Long CT CP Như Long và ốp lát

CTCP Đầu tư & tm Sx bông tắm 58 Nhà máy Bông Tấm tng

CTCP khoáng sản Luyện kim màu 59 NM luyện kim màu Hà Thành Hà Thành chì, kẽm

Công ty TNHH Hiệp 60 Nhà máy thép Hiệp Hương Sx phôi thép Hương

Công ty cổ phần Sx sp hợp 61 Nhà máy luyện hợp kim sắt Nhật Anh kim sắt

Dự án đầu tư xây dựng dây CT TNHH Tiến Lộc Dụng cụ cầm tay 62 chuyền dụng cụ cầm tay

Công ty CP kinh

Nhà máy sản xuất, sửa chữa vỏ doanh & xuất nhập Chiết nạp gas 63 bình gas và chiết nạp gas khẩu khí gas hóa

lỏng Vạn Lộc

Công ty TNHH sản Sản xuất dụng cụ Đầu tư thiết bị cho sản xuất sản xuất kinh doanh cơ khí, dụng cụ 64 phẩm mới Trường Tín cầm tay

23

Nguồn: Ban quản lý Khu công nghiệp

1.3. Sự hình thành tổ chức công đoàn ở khu công nghiệp Sông Công, tỉnh

Thái Nguyên

Công đoàn các KCN tỉnh Thái Nguyên được thành lập theo Quyết định

số 275/QĐ/CĐCĐT ngày 03/01/2006 của Liên đoàn lao động tỉnh Thái

Nguyên. Trong đó, có công đoàn cơ sở KCN Sông Công. Tổ chức công đoàn

KCN Sông Công đã nhen nhóm đi vào hoạt động từ rất nhiều năm nhưng phải

đến năm 2006 mới chính thức được hình thành. Từ khi đi vào hoạt động, công

đoàn luôn chấp hành sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, chịu sự chỉ đạo sát sao

của Liên đoàn lao động tỉnh và Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên. Nhờ

đó, phát huy vai trò của công đoàn, là sợi dây giữ vai trò cầu nối giữa chủ sử

dụng lao động với người lao động. Do vậy, cần tạo điều kiện, cơ sở giúp hai

bên hiểu về nhau cùng có lợi và thúc đẩy sự phát triển chung của KCN. Một

bên tích lũy lao động, một bên tích lũy tài sản nuôi sống bản thân và gia đình.

Đồng thời phản ánh tâm tư nguyện vọng của người lao động đối với giới chủ.

Trong suốt chặng đường 30 năm (1985-2014), tổ chức công đoàn ở KCN

Sông Công luôn đóng vai trò quan trọng vào sự phát triển của KCN nói chung

và sự ổn định về mọi mặt của công nhân, viên chức, lao động trong KCN nói

riêng. Công đoàn KCN Sông Công hoạt động dưới sự chỉ đạo của Đảng và nhà

nước nhưng không tách rời các chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu

của Công đoàn Việt Nam đề ra. Đồng thời, công đoàn chịu sự giám của Ban

quản lý các KCN Thái Nguyên được thành lập theo quyết định số 130/2000/QĐ

của Chính phủ. Ngày 20/11/2000, Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên

được thành lập và trụ sở đặt tại Sông Công, với chức năng chính là quản lý các

KCN tập trung trên địa bàn tỉnh. Trong đó có KCN Sông Công với diện tích

mặt bằng 320 ha, giai đoạn I đã triển khai là 69,37 ha, có 45 ha là diện tích đất

công nghiệp. Việc triển khai các dự án đi vào sản xuất kinh doanh đã có hiệu

24

quả bước đầu, nhiều sản phẩm được đưa ra thị trường. Trong quan hệ lao động

đến nay chưa có tranh chấp lớn xảy ra tại KCN. Tuy nhiên, việc thực hiện các

chế độ chính sách, quyền lợi của khu vực này chưa được quan tâm sâu sắc.

Năm 2006, KCN Sông Công có 08 công đoàn cơ sở hoạt động với tổng

số đoàn viên là 559. Trong đó, có 03 công đoàn cơ sở trực thuộc liên đoàn lao

động TP. Sông Công, 02 công đoàn cơ sở là đơn vị hành chính, 02 công đoàn

cơ sở thuộc công ty trung ương. Thực trạng về hoạt động công đoàn trong KCN

chưa đáp ứng được yêu cầu quy mô tập trung cao của KCN với đội ngũ lao

động chuyên về sản xuất công nghiệp. Do vậy, sự chỉ đạo giữa liên đoàn lao

động địa phương với các công đoàn doanh nghiệp trung ương chưa có sự thống

nhất đồng bộ, thiếu sự sâu sát. Mặt khác, khi xảy ra tranh chấp, đình công thì

không thể giải quyết nổi. Vì vậy, việc thành lập một tổ chức công đoàn các KCN

tỉnh Thái Nguyên là rất cần thiết. Với những đặc điểm, Ban thường vụ Liên đoàn

lao động tỉnh Thái Nguyên đã đặt ra kế hoạch và thỏa thuận với lãnh đạo ban quản

lý các KCN trong việc xem xét, xúc tiến thành lập công đoàn các khu công nghiệp

tỉnh Thái Nguyên.

Công đoàn đã thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của mình như

tuyên truyền, giáo dục, tổ chức các phong trào thi đua trong công nhân, viên

chức, lao động; phát triển đoàn viên, xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh;

Chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công

nhân, viên chức, lao động. Đến nay đã có 64 doanh nghiệp chịu sự quản lý của

công đoàn KCN Sông Công.

Từ khi đi vào hoạt động Công đoàn KCN đã trở thành tổ chức tiên phong

trong phong trào đấu tranh bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. Trước

hết là lãnh đạo công nhân đấu tranh đòi quyền lợi, góp phần đoàn kết công

nhân cùng với giai cấp, tầng lớp khác trong cả nước đấu tranh giải phóng

dân tộc. Cùng với sự phát triển xã hội, những chính sách trong lao động

cũng có nhiều thay đổi. Công đoàn KCN dần chiếm được vị trí quan trọng

25

trong hệ thống các tổ chức xã hội và trong đời sống của người lao động. Tại

Điều 1, Luật công đoàn năm 1990 ghi nhận: “Công đoàn là tổ chức chính trị-

xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam, tự nguyện

lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, là thành viên của hệ

thống chính trị Việt Nam, là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động”.

[11, tr3]. Còn ở Điều 10, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 1992 cho rằng: “Công đoàn là tổ chức chính trị- xã hội của giai cấp công

nhân và người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã

hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân viên chức và những

người lao động khác, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra,

giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ,

công nhân viên chức và người lao động xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.[8, tr7].

Như vậy, công đoàn là thành viên của hệ thống chính trị, là trung tâm tập

hợp đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân, lao

động. Công đoàn trở thành chỗ dựa vững chắc, là sợi dây nối liền, gắn kết giữa

chủ sử dụng lao động với người lao động. Với vai trò là tổ chức chính trị - xã

hội của giai cấp công nhân, người lao động, công đoàn luôn cố gắng tập hợp

toàn bộ quần chúng, công nhân, viên chức lao động, không phân biệt giới tính,

dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Trong suốt quá trình hoạt

động, công đoàn luôn là tổ chức đại diện cho người lao động, tham gia bảo vệ

quyền lợi ích hợp pháp cho họ và tham gia quản lý KT-XH. Xét về tính chất,

công đoàn là một tổ chức xã hội có tính chất nghiệp đoàn. Các thành viên công

đoàn thuộc về lực lượng lao động đã hoặc đang làm một công việc nhất định.

Do đó, công đoàn có thể coi là tổ chức nghề nghiệp rộng lớn nhất, là tổ chức

đáng tin cậy cho mọi tầng lớp lao động trong xã hội. Mặt khác, công đoàn KCN

còn tổ chức tuyên truyền chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước: Luật lao

động, BHXH, BHYT, bảo hộ lao động… đến với người lao động, có trách

nhiệm xây dựng công đoàn cơ sở, bồi dưỡng công nhân ưu tú kết nạp Đảng. Có

26

thể nói, công đoàn là cộng sự đắc lực, là sợi dây nối quan trọng của của giới

chủ và công nhân, viên chức, lao động. Bởi những hoạt động của công đoàn đã

thực sự góp phần xây dựng, phát triển các đơn vị, công ty, doanh nghiệp, … vì

mục đích tồn tại của các đơn vị, công ty, doanh nghiệp, vì lợi ích của người lao

động. Từ đó, có thể khẳng định vị trí của công đoàn và tạo ra điều kiện pháp lý

xã hội cho hoạt động công đoàn, giúp công đoàn thực hiện tốt chức năng nhiệm

vụ của mình đó là: “Không có một nền móng như các tổ chức công đoàn thì

không thể thực hiện được các chức năng cuả nhà nước”. [9, tr380].

Để thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình, yếu tố không

thể thiếu là nguyên tắc hoạt động của công đoàn. Đây là những chuẩn mực để

hướng dẫn nội dung, phương pháp, hình thức hoạt động của công đoàn. Vì vậy

mà công đoàn luôn phải giữ liên hệ mật thiết với giới chủ các doanh nghiệp và

người lao động, đảm bảo tính tự nguyện, tập trung dân chủ. Trong đó, sự lãnh

đạo của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo của Công đoàn cấp trên giữ vai trò quan

trọng hàng đầu. Lênin đã chỉ rõ “Giai cấp vô sản ở bất cứ nơi nào trên thế giới

cũng chỉ phát triển và chỉ có thể phát triển bằng con đường Công đoàn, bằng

sự tác động qua lại giữa Công đoàn và Đảng của giai cấp công nhân, chứ

không bằng con đường nào khác.” [10, tr.42]. Bên cạnh đó, sự liên hệ mật thiết

giữa công đoàn với quần chúng, người lao động được khẳng định trong Văn

kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X, đó là“Vai trò và sức mạnh

của các đoàn thể chính là ở khả năng tập hợp quần chúng, hiểu rõ tâm tư và

nguyện vọng của quần chúng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho quần

chúng, khởi động tinh thần tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của quần

chúng…” [28, tr.15]. Tính tự nguyện của nguời lao động trong hoạt động công

đoàn thể hiện ở chỗ người đoàn viên tự nguyện gia nhập tổ chức công đoàn,

tham gia hoạt động, thực hiện các nhiệm vụ được giao trên cơ sở nhận thức

được trách nhiệm và lợi ích công việc của mình. Tập trung dân chủ là xây dựng

chế độ làm chủ dựa trên sáng kiến của người lao động, tạo mọi điều kiện thu

27

hút người lao động tham gia hoạt động. Đảm bảo sự thống nhất giữa ý chí và

hành động chống lại sư “tập trung quan liêu” và “dân chủ vô tổ chức”. Phủ

nhận nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động sẽ phủ nhận về mặt bản chất

cách mạng của tổ chức công đoàn. Như vậy tổ chức công đoàn KCN Sông

Công ra đời có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của KCN Sông Công nói

riêng và của TP. Sông Công tỉnh Thái Nguyên nói chung.

Tiểu kết chương 1

Ở chương 1, tác giả đã giới thiệu khái quát về TP. Sông Công, quá trình

hình thành và phát triển của KCN Sông Công, sự ra đời của tổ chức công đoàn

ở KCN này. Sự ra đời và hoạt động của KCN Sông Công góp phần không nhỏ

trong sự phát triển kinh tế của TP Sông Công nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói

chung, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, người lao

động. KCN có vị trí khá thuận lợi, nằm ở phía Bắc TP Sông Công, cách TP.

Thái Nguyên 18 km về phía Nam và cách thủ đô Hà Nội 60 km - vị trí quan

trọng trong vành đai công nghiệp Hà Nội. Từ đây, có thể tỏa đi các KCN phía

Bắc. Tuy nhiên, để KCN Sông Công phát triển ổn định, lâu dài và ngày càng

vững mạnh, chất lượng đội ngũ công nhân luôn là vấn đề đặt lên hàng đầu.

Trong quá trình lao động sản xuất, người sử dụng lao động và người lao động

có nhiều quyền lợi khác nhau, đôi khi xảy ra mâu thuẫn và tranh chấp, ... Để

đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho cả hai bên, cần phải có một tổ chức đại

diện chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho chủ doanh nghiệp và

công nhân, viên chức, lao động. Vì vậy, tổ chức công đoàn KCN được hình

thành với vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng, mang lại lợi ích cho

doanh nghiệp và người lao động, thúc đẩy sự phát triển của KCN, góp phần tạo

28

bước chuyển biến sâu sắc trong KT-XH TP. Sông Công.

Chương 2

HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG QUÁ TRÌNH

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KHU CÔNG NGHIỆP

SÔNG CÔNG GIAI ĐOẠN 1985 – 2014

2.1. Giai đoạn 1985 - 1995

Có thể nói vào cuối nhiệm kì Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của

Đảng, yêu cầu đổi mới đất nước được đặt ra cấp thiết. Đáp ứng yêu cầu đó,

tháng 12/1986, Đại hội VI của Đảng được triệu tập. Chủ trương Đổi mới toàn

diện đất nước đã được đề ra từ Đại hội này. Trước hết là đổi mới tư duy kinh tế

nhằm phát huy những năng lực và giải phóng những tiềm năng sẵn có, tạo

chuyển biến về nhận thức và hành động trong toàn xã hội nói chung và trong

hoạt động công đoàn nói riêng.

Trong bối cảnh đó, KCN Sông Công được thành lập. Những ngày đầu

thành lập, công đoàn KCN chưa là một tổ chức chính thức nhưng đã có những

hoạt động góp phần nâng cao chất lượng và bảo vệ lợi ích hợp pháp của giai

cấp công nhân, người lao động. Công đoàn luôn cố gắng tập hợp quần chúng,

công nhân, viên chức lao động, thu hút sự tham gia đông đảo của công nhân

viên chức, người lao động, không phân biệt giới tính, dân tộc, thành phần xã

hội, tín ngưỡng, tôn giáo, giữ vai trò quan trọng góp phần xây dựng và bảo vệ

Tổ Quốc.

Một trong những nội dung quan trọng mà Ban quản lý KCN thực hiện

được là chức năng giáo dục, giúp người lao động nhận thức đầy đủ về lợi ích cá

nhân phải gắn liền với kết quả sản xuất- kinh doanh của đơn vị. Từ đó, củng cố

kỷ luật lao động, học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, chuyên môn,

nghiêp vụ, xây dựng ý thức tự nguyện, tự giác trong lao động công tác. Năm

1991, công đoàn đã triển khai học tập Nghị quyết Công đoàn cho các cán bộ

29

Công đoàn chủ chốt, đoàn viên công đoàn. Tổ chức các buổi sinh hoạt tại cơ sở

hoặc thông qua các kỳ hội nghị, họp định kỳ của công đoàn để tuyên truyền

giáo dục cho công nhân, viên chức, lao động. Ngoài ra, để nâng cao trình độ

học vấn, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, viên chức, lao động, công đoàn

còn tổ chức ít nhất một đến hai lớp tập huấn mỗi năm.

Bảng 2.1. Thống kê số lớp và số lượt người tham gia tập huấn (1991 -1995)

Số lớp tập huấn Lượt người tham gia tập huấn Năm

1991 01 5

1992 01 7

1993 01 11

1994 02 15

1995 01 22

Nguồn: Công đoàn KCN Sông Công

Nhằm thực hiện tốt công tác tuyên truyền giáo dục trong công nhân, viên

chức và lao động, tổ chức công đoàn không ngừng giáo dục về vấn đề truyền

thông, tư vấn về dân số kế hoạch hóa gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội, …

Đồng thời, mỗi năm công đoàn đều tổ chức kỷ niệm chào mừng các ngày lễ lớn

như kỷ niệm ngày 8/3, 20/10 (thể hiện sự quan tâm chu đáo tới các nữ công

nhân), kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và ngày thành lập

công đoàn 28/7 để tuyên truyền về truyền thống, lịch sử đất nước trong công

nhân, viên chức, lao động. Hoạt động này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho

sự hoạt động của công đoàn mà còn góp phần nâng cao hiểu biết về tổ chức

công đoàn cho người lao động và doanh nghiệp. Công đoàn luôn luôn tuyên

truyền, giáo dục công nhân viên chức và lao động vững tin vào đường lối,

chính sách của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới; luôn tỉnh táo cảnh

giác và đấu tranh với những khuynh hướng sai lầm, tư tưởng tiểu tư sản, ảo

tưởng, mơ hồ, mị dân, cơ hội làm sai lệch mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

Đặc biệt, công đoàn luôn bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của công

30

nhân, viên chức và lao động, tạo điều kiện làm việc cho công nhân, lao động,

tham gia vào chế độ tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, ký hợp đồng lao động, giải

quyết tranh chấp lao động, … Kết quả cho thấy, công đoàn đã hỗ trợ và giải

quyết việc làm cho 8.705 người lao động (1990 -1995), giúp họ cải thiện đời

sống ngày càng tốt hơn.

Bảng 2.2. Thống kê giải quyết việc làm cho người lao động

của tổ chức công đoàn (1990 -1995)

Năm

1990 1991 1992 1993 1994 1995 Số người được giải quyết việc làm 611 730 1200 1450 1700 2000 Số người được hỗ trợ giải quyết việc làm 80 112 146 179 198 299

Nguồn: Công đoàn KCN Sông Công

Đặc biệt, công tác bảo hộ lao động cũng được tổ chức công đoàn chú

trọng, quan tâm. Cụ thể là các đơn vị, công ty, nhà máy xí nghiệp đều tổ chức

triển khai thực hiện tuyên truyền như gắn áp phích, bảng nội quy, quy định tại

nơi làm việc, treo băng zôn, khẩu hiệu nhằm tuyên truyền sâu rộng trong công

nhân, viên chức, lao động. Bên cạnh đó, công đoàn luôn phát huy vai trò của

mình trong các hoạt động xã hội từ thiện, tích cực tham gia ủng hộ nhiều loại

quỹ như “Qũy vì người nghèo”, “Quỹ ủng hộ trẻ em tàn tật, mồ côi”, …

Như vậy, hoạt động của công đoàn trong giai đoạn 1985-1995 luôn gắn

liền với lợi ích của người lao động và doanh nghiệp. Lợi ích của người lao

động không chỉ thuần túy là cơm ăn, áo mặc mà cao hơn là lợi ích kinh tế, lợi

ích văn hóa, lợi ích tinh thần, lợi ích trước mắt, hàng ngày, lâu dài, lợi ích cá

nhân, tập thể. Hoạt động của tổ chức công đoàn trong KCN giai đoạn này giúp

người lao động thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình trong đơn vị, thực

hiện tốt chế độ đóng góp và thụ thưởng, đấu tranh chống lại các thói hư tật xấu

của một số người, nhóm người, đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp

31

luật, bảo vệ cơ sở vật chất, bảo vệ quyền lợi cho giới chủ, cho doanh nghiệp.

Công đoàn cùng tham gia công tác quản lý với các cơ quan, đơn vị doanh

nghiệp theo đường lối và sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Để thực hiện tốt

chức năng này, công đoàn tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi trong công

nhân, viên chức và lao động – biện pháp tổng hợp nhất để công nhân, viên chức

và lao động trực tiếp tham gia quản lý. Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật áp

dụng KHKT vào sản xuất. Ngoài ra, các đơn vị, doanh nghiệp còn phát động

phong trào thi đua kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, phong trào học tập và

rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng công việc được

giao tại các công đoàn cơ sở. Từ đó, các công ty, doanh nghiệp lựa chọn được

một số đoàn viên công đoàn có đủ điều kiện để theo học các lớp đào tạo bồi

dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ cho công việc chuyên môn tại doanh

nghiệp, công ty, góp phần nâng cao chất lượng sản xuất, tăng thu nhập cho

công nhân, viên chức, lao động, đem lại lợi nhuận cao hơn và đẩy mạnh sự phát

triển của doanh ngiệp.

Bảng 2.3. Thống kê số lớp và số lượt công đoàn viên được đào tạo, bồi

dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ của tổ chức công đoàn (1992-1995)

Số lớp bồi dưỡng Lượt đoàn viên tham gia Năm

1992 01 3

1993 01 4

1994 01 6

1995 02 7

Nguồn: Công đoàn KCN Sông Công

Đặc biệt, công đoàn thường xuyên tổ chức phong trào Xanh – Sạch –

Đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và vệ sinh môi trường như trồng cây

xanh, quét dọn xung quanh công ty, doanh nghiệp, tổ chức trồng cây xanh mới

nhân ngày Môi trường thế giới 5/6. Trong 5 năm (1990 -1994), công đoàn đã

trồng được 11.504 cây xanh với tổng số tiền là 35 triệu, trồng và chăm sóc bồn

hoa tại các khu vực đất trống trong đơn vị tạo cảnh quan môi trường, vệ sinh

32

xanh - sạch – đẹp góp phần cải thiên môi trường làm việc.

Bảng 2.4. Thống kê số cây xanh được trồng

của tổ chức công đoàn (1990-1994)

Số cây xanh được trồng Số tiền (triệu đồng) Năm

1990 1.135 5

1991 1.779 6

1992 1.899 7

1993 2.991 7

1994 3.700 10

Nguồn: Công đoàn KCN Sông Công

Công đoàn luôn chú trọng đến việc phát triển tiềm năng lao động, phát

huy sáng kiến, cùng doanh nghiệp tìm nguồn vốn, thị trường mở rộng sản xuất

– kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động, kiểm tra, giám sát hoạt

động của chính quyền chống quan liêu, tham nhũng.

2.2. Giai đoạn 1996 - 2005

Trong giai đoạn 1996 - 2000, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy,

UBND TP, công tác lao động việc làm đã được triển khai ở các cơ sở sản xuất,

kinh doanh gắn với chương trình phát triển KT-XH của TP thông qua nhiều

giải pháp tích cực và thích hợp.

Bảng 2.5. Lao động được giải quyết việc làm ở KCN Sông Công

giai đoạn 2001- 2005

Số lao động được Số lao động có Số lao động có Năm giải quyết việc làm việc làm mới việc làm ổn định

2001 441 445 770

2002 578 554 891

2003 779 571 993

2004 975 589 1.100

2005 1.727 841 1.246

33

Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của công đoàn KCN Sông Công (2001 -2005)

Mỗi năm, công đoàn KCN đã giải quyết việc làm cho hơn 4.500 người,

trong đó giải quyết việc làm mới cho 2.000 – 3.000 lao động; hơn 5.000 người

có việc làm ổn định và có thu nhập khá. Việc thực hiện phương hướng, nhiệm

vụ, mục tiêu của Đại hội Công đoàn Việt Nam của tổ chức công đoàn KCN

Sông Công có nhiều chuyển biến mới. Cùng với những chuyển biến tích cực

trong cơ cấu lao động, chất lượng lao động cũng không ngừng được nâng cao.

Trong những năm qua, cùng với Ban quản lý KCN Sông Công thì tổ chức công

đoàn trong KCN luôn xác định tiếp tục xây dựng và phát triển KCN, khuyến

khích các thành phần kinh tế nhất là những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, đẩy

mạnh phát triển sản xuất kinh doanh nhằm thu hút và tạo thêm nhiều việc làm

cho người lao động.

Trong mối quan hệ với chủ doanh nghiệp, nhà máy và xí nghiệp trong

KCN, công đoàn vừa phải xây dựng mối quan hệ đoàn kết hợp tác vừa phải bảo

vệ cho được quyền lợi của công nhân, lao động nhưng phải theo hướng góp

phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giải quyết vấn đề việc làm, đời

sống người lao động. Đây thực sự là mối quan hệ khó khăn, tế nhị và phức

tạp trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Để

thực hiện tốt mối quan hệ với người lao động, hoạt động công đoàn luôn

tuân theo hiến pháp và pháp luật, luật công đoàn, luật lao động và lấy đó làm

hành lang, căn cứ pháp lý để giải quyết mối quan hệ giữa công nhân, lao

động với người đứng đầu doanh nghiệp. Công đoàn còn giáo dục cho công

nhân lao động hiểu rõ và thực hiện tốt những quy định của pháp luật về lao

động, về quan hệ với giới chủ.

Có thể nói, khi nền kinh tế thị trường tiếp tục mở cửa với nhiều thành

phần kinh tế phong phú thì các hoạt động của công đoàn vẫn dưới sự lãnh đạo

của Đảng, nhà nước. Thực hiện theo đúng vai trò, mục tiêu, phương hướng

nhiệm vụ của Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VIII (3-6/11/1998) đề ra.

34

Việc đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần theo hướng hướng xã hội chủ nghĩa đã làm cho giai cấp công nhân Việt

Nam nói chung và công nhân KCN Sông Công nói riêng có nhiều biến đổi về

cơ cấu số lượng và chất lượng.

Để thực hiện và hoàn thành mục tiêu Đại hội công đoàn VIII đề ra, công

đoàn KCN Sông Công luôn tham gia quản lý, chăm lo đời sống, bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức, lao động. Thực hiện

theo đúng quy chế, nội quy, luật lao động, luật công đoàn… đảm bảo quyền lợi

cho cả người lao động và giới chủ. Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua

yêu nước, trọng tâm là thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo với mục tiêu

năng suất, chất lượng HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tích cực

hưởng ứng phong trào xanh – sạch – đẹp, đảm bảo an toàn lao động và vệ sinh

môi trường, phong trào học tập nâng cao rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên

môn. Thực hiện phong trào xây dựng văn hóa ở các doanh nghiệp thuộc cơ sở,

nâng cao chất lượng phong trào thi đua phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

trình độ học vấn, tay nghề, góp phần làm ra những sản phẩm có sức cạnh tranh

trên thị trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.

Bảng 2.6. Thống kê số nhà được hỗ trợ làm mới ở TP. Sông Công

do công đoàn KCN Sông Công đầu tư giai đoạn 2000 -2005

Số nhà được hỗ Số tiền Số nhà được hỗ Số tiền Năm trợ làm mới (triệu đồng) trợ sửa chữa

2000 8 40 21 42

2001 10 50 29 58

2002 14 70 37 74

2003 15 75 41 82

2004 18 90 45 90

2005 21 105 49 98

35

Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của công đoàn KCN Sông Công (2000 -2005)

Phong trào thi đua “Phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn” được

triển khai sâu rộng đến công nhân, viên chức, lao động. Tính riêng trong 2 năm

(2004, 2005) tổng số tiền vận động công đoàn viên trong KCN ủng hộ xóa nhà

dột nát của TP là 523 triệu đồng. Bên cạnh cuộc vận động trợ giúp xóa nhà dột

nát cho hộ nghèo, cuộc vận động đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trong

công nhân, viên chức, lao động vẫn diễn ra thường xuyên trong các đơn vị,

doanh nghiệp. Đây là cuộc vận động nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo

của các cấp ủy Đảng cùng với sự tham gia tích cực, hăng hái của cán bộ, công

nhân, viên chức lao động và toàn dân. Cuộc vận động đã đạt được những kết

quả đáng khích lệ, nhiều lao động được giải quyết việc làm, phát triển sản xuất,

xóa đói giảm nghèo…TP. Sông Công không còn hộ đói, hộ nghèo giảm mạnh

(năm 2000 là 13,5% xuống còn 4% vào năm 2005). Đời sống công nhân, viên

chức, lao động đã được nâng lên, nhiều gia đình vươn lên thoát nghèo, nhiều

gia đình vươn lên làm giàu bằng chính đôi tay và khối óc sáng tạo của mình.

Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Tương thân tương ái”

tổ chức công đoàn KCN đã có nhiều hoạt động nhân đạo với những việc làm

thiết thực như giúp đỡ các gia đình chính sách, thương binh liệt sỹ, những nạn

nhân chất độc màu da cam…; thực hiện phong trào tặng nhà tình nghĩa, vườn

cây tình nghĩa, …Ngoài ra, tổ chức công đoàn còn thực hiện cuộc vận động

“Ngày vì người nghèo” với trên 70 triệu đồng và hàng nghìn ngày công lao

động. Hỗ trợ được trên 200 suất quà, hỗ trợ mái lợp cho 2 gia đình, hỗ trợ xây

15 căn nhà và phương tiện sản xuất cho các gia đình nghèo với tổng số tiền trên

50 triệu đồng (năm 2005). Với lòng biết ơn sâu nặng, thể hiện truyền thống đạo

lý của dân tộc “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” mỗi cán bộ, công nhân, viên chức các

công đoàn cơ sở ở các đơn vị doanh nghiệp, công ty trong KCN tự nguyện

đóng góp một phần vật chất vào quỹ đền ơn đáp nghĩa. Nhờ đó, các bà Mẹ Việt

Nam anh hùng, các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn đặc

36

biệt, thương binh, bệnh binh, … được quan tâm chu đáo, tận tình hơn. Năm

2005, công đoàn KCN Sông Công đã tri ân và tặng quà cho ba Mẹ Việt Nam

anh hùng trên địa bàn TP.

Bảng 2.7. Danh sách Mẹ Việt Nam anh hùng

được công đoàn KCN Sông Công tri ân và tặng quà năm 2005

Họ và tên Địa chỉ Ghi chú

Mẹ Lương Thị Tường Xã Tân Quang Có con duy nhất là liệt sĩ

Mẹ Nguyễn Thị Hoành Xã Bình Sơn Có con duy nhất là liệt sĩ

Mẹ Cao Thị Hợi Xã Bá Xuyên Có con duy nhất là liệt sĩ

(Nguồn: Phòng Lao động, thương binh và xã hội TP. Sông Công)

Những việc làm thiết thực trên có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện lời

căn dặn của Bác Hồ đối với người có công với nước. Theo đó, đời sống của các

gia đình có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, thương binh, gia đình chính sách,…

trong công nhân, viên chức và lao động trên địa bàn cũng được nâng cao.

Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” ngày càng lan rộng

và đi vào chiều sâu, có ý nghĩa sâu sắc đối với việc giáo dục tinh thần yêu nước

phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, mang tính nhân văn sâu

sắc của dân tộc Việt Nam nói chung và của nhân dân Sông Công nói riêng. Đặc

biệt là đối với thế hệ trẻ nhằm góp phần xây dựng quê hương trong thời kỳ đẩy

mạnh sự nghiệp CNH, HĐH.

Cũng đến năm 2005, tổ chức công đoàn KCN Sông Công đã qua 5 kỳ đại

hội, đội ngũ cán bộ lãnh đạo , công nhân viên chức và tổ chức công đoàn ngày

càng vững mạnh. Trong KCN Sông Công có gần 50 công đoàn cơ sở và nghiệp

đoàn với trên 5.000 công nhân, viên chức, lao động. Hoạt động của tổ chức

công đoàn và các phong trào công nhân, viên chức, lao động góp phần đáng kể

vào việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở mỗi cơ quan, công ty, xí

nghiệp, cơ sở nói riêng và Sông Công nói chung.

Công đoàn KCN góp phần đảm bảo công ăn, việc làm và thu nhập của

37

đoàn viên , lao động không chỉ ổn định mà ngày càng được nâng cao. Trong

phong trào thi đua “Vì sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và phát triển nông

thôn”, các xí nghiệp nhà máy đã tăng các sản phẩm, tặng 15 máy tuốt lúa cho

các gia đình thuộc diện chính sách, khó khăn trong và ngoài KCN … Công

đoàn còn vận động công nhân, viên chức người lao động đóng góp 2 ngày

lương phục vụ cho việc xây dựng 200 m kênh mương nội đồng với giá trị trên

600 triệu đồng, tặng cho nhân dân Bá Xuyên và xây dựng 01 căn nhà “Mái ấm

công đoàn” với diện tích là 25 m2 trị giá trên 30 triệu đồng. Đồng thời, công

đoàn còn vận động công nhân, viên chức, lao động tham gia và thực hiện tốt

công tác từ thiện, nhân đạo. Những hoạt động này thực sự góp phần vào việc

tăng cường tinh thần đoàn kết đẩy mạnh phong trào xóa đói, giảm nghèo trong

đời sống gười lao động.

Trong giai đoạn 1996 -2005, phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”

trong nữ công nhân, viên chức lao động được duy trì thường xuyên ở hầu hết

các cơ sở. Nhiều nữ công đã đạt danh hiệu giỏi hàng năm. Trong 5 năm (2001 -

2005), phong trào giỏi việc nước, đảm việc nhà có 551/2002 nữ công đạt danh

hiệu, trong đó có 26 nữ công nhân đạt danh hiệu cấp Trung ương.

Bảng 2.8. Thống kê số nữ công đạt danh hiệu trong phong trào giỏi việc

nước, đảm việc nhà (2001 -2005)

Cấp Trung ương Cấp tỉnh Cấp cơ sở Năm

2001 3 35 25

2002 4 41 35

2003 5 53 56

2004 6 66 76

2005 8 81 82

Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của công đoàn KCN Sông Công (2001 -2005)

Cùng với việc chăm lo lợi ích của người lao động, công đoàn còn quan

tâm chú trọng tới công tác phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức công đoàn

38

vững mạnh. Với trên 80% công đoàn đạt cơ sở vững mạnh, trong đó có 20% số

đoàn viên đạt xuất sắc. Song song với những thành tựu đã đạt được từ các hoạt

động thực tế hàng năm công đoàn đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền và

ngành dọc cấp trên ghi nhận và khen thưởng. Tính từ năm 2000 đến năm 2005,

công đoàn KCN Sông Công đã nhận được 02 giấy khen của UBND thị xã Sông

Công; 01 bằng khen của Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên do thành tích 5

năm xây dựng công đoàn vững mạnh (2000 -2005). Cùng với những hoạt động

khác công đoàn luôn đẩy mạnh hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên

truyền vận động công nhân, viên chức và lao động thực hiện tốt các chủ trương

đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, đi đầu tham gia thực

hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, xây dựng củng cố tổ chức Đoàn,

góp phần xây dựng khối đại đoàn kết,…

Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn, các công đoàn cơ sở trên toàn

KCN đã có nhiều cố gắng, đạt được những kết quả quan trọng, điển hình như

đề ra những chủ trương biện pháp tích cực nhằm phát huy thuận lợi, khắc phục

khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng thời, luôn bám sát sự lãnh đạo

của Đảng, tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ làm công tác đoàn

từ cấp cơ sở. Đặc biệt là công tác bồi dưỡng nguồn kế cận thường xuyên, tại

chỗ, chủ động, tích cực sáng tạo, đổi mới mô hình hoạt động theo từng khối,

từng địa bàn, … Bên cạnh đó, tổ chức công đoàn KCN Sông Công còn thường

xuyên nắm bắt diễn biến tư tưởng của công nhân, viên chức, lao động, mọi hoạt

động đều được xây dựng dựa trên nhu cầu nguyên vọng chính đáng của công

nhân, viên chức và lao động gắn chặt với nhiệm vụ của công đoàn.

2.3. Giai đoạn 2006 - 2014

Từ năm 2006 đến năm 2014 là giai đoạn KCN Sông Công được đầu tư

nhiều về cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, vẫn gặp nhiều khó khăn trong công tác giải

phóng mặt bằng, xây dựng tái định cư, môi trường… Năm 2008, KCN còn gặp

nhiều khó khăn về thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài gậy nhiều thiệt hại về tài sản

đã làm ảnh hưởng đến sản xuất. Song được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và các cấp

39

Đảng ủy, sự phối hợp và điều hành của các cấp chính quyền cộng với sự nỗ lực

của công nhân viên chức lao động và nhân dân các dân tộc trên địa bàn, hoạt

động sản xuất của KCN có bước phát triển theo chiều hướng tích cực, góp phần

thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chủ yếu do Ban quản lý KCN đề ra. Đến năm

2009, do biến động của giá cả thị trường đặc biệt là vấn đề suy thoái kinh tế

toàn cầu ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất kinh doanh của đơn vị. Từ đó, có

ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, thu nhập của công nhân viên chức lao động

nói chung và ảnh hưởng đến hoạt động của công đoàn nói riêng.

Đến năm 2012 và những năm tiếp theo với các chính sách về tiền tệ và

các giải pháp khác của Chính Phủ đã kiềm chế lạm phát trong nước. Đây là

những chính sách đúng đắn của Nhà nước và Chính phủ nhưng do chưa có sự

chủ động nên công tác quy hoạch xây dựng các KCN Thái Nguyên (trong đó có

KCN Sông Công) gặp phải không ít khó khăn trong công tác giải phóng mặt

bằng phát triển KCN, vận động thu hút đầu tư vào KCN.

Tuy nhiên, trong cả giai đoạn 2006 – 2014 nhằm khắc phục những khó

khăn và phát huy lợi thế, công đoàn KCN luôn luôn nhận được sự quan tâm chỉ

đạo sát sao của Liên đoàn lao động Tỉnh và chi bộ Ban quản lý các KCN tỉnh

Thái Nguyên. Bên cạnh đó, đội ngũ Ban chấp hành luôn có sự thống nhất cao

trong chỉ đạo công việc đặc biệt trong công tác phối hợp, chỉ đạo, có sự đoàn

kết, nhất trí, có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Chủ doanh nghiệp đã

không ngừng cố gắng tự mình vượt qua khó khăn và vươn lên, tạo được công

ăn việc làm cho người lao động. Một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp

thuận lợi hơn, việc làm cho người lao động cũng như thu nhập của họ cũng

được cải thiện, tạm thời có thu nhập ổn định.

Về tình hình công nhân viên chức, lao động KCN trong giai đoạn 2006-

2014: Do hầu hết các doanh nghiệp trong các KCN đều mới đi vào hoạt động

nên đã có sự tác động đến số lượng công nhân viên chức lao động trong từng

năm. Hơn nữa những đơn vị doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc quản

40

lý, tổ chức, điều hành sản xuất kinh doanh do còn thiếu kinh nghiệm , thiếu vốn

lưu động, … Tất cả đã ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh trong các

doanh nghiệp nên số lượng công nhân viên chức thay đổi theo từng năm.

Bảng 2.9. Thống kê số lượng người lao động KCN Sông Công

giai đoạn 2006 – 2012

Năm Lao động có việc làm thường xuyên (người) Tổng số công nhân viên lao động (người) Lao động không có việc làm thường xuyên (người)

1800 1705 95 2006

160.000 159.135 865 2008

5.443 4.890 553 2009

5.612 5.462 150 2010

6000 5.650 350 2012

(Nguồn: Tài liệu của Ban chấp hành Công đoàn các KCN Thái Nguyên)

Hiện nay, KCN Sông Công vẫn có sự biến đổi về cơ cấu, số lượng lao

động lúc vào lúc ra dẫn đến một vài doanh nghiệp gặp khó khăn, đồng thời thu

nhập của người lao động không ổn định. Tuy nhiên, công tác bảo hộ lao động

và điều kiện lao động ngày càng thuận lợi, đảm bảo an toàn hơn. Với những

hoạt động tích cực của tổ chức công đoàn cùng với sự quan tâm của các doanh

nghiệp nên quyền và lợi ích của người lao động ngày được cải thiện, đời sống

được nâng cao. Từ đó, giúp người lao động ngày càng yên tâm, tin tưởng vào

sự phát triển của các doanh nghiệp và công cuộc đổi mới của Đảng, nhà nước.

Thực hiện chỉ đạo của Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên, của chi bộ

Đảng Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên, công đoàn các KCN tỉnh Thái

Nguyên đã tuyên truyền và hoạt động tổ chức trong công nhân viên chức, lao

động chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước như Kỷ niệm 76 năm ngày thành

lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/2/1930 – 03/2/2006), kỷ niệm 31 năm giải

phóng hoàn toàn miền nam thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2006), ngày

quốc tế lao động(1/5), kỷ niệm 115 năm ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí

41

Minh,… Đặc biệt, nội dung của Đại hội Công đoàn lần thứ X năm 2006 đã

giúp công đoàn KCN Sông Công có những hoạt động cụ thể dựa trên mục tiêu

và phương hướng tổng quát do Đại hội đề ra. Đó là xây dựng giai cấp công

nhân vững mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ

mới. Củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt

trận Tổ Quốc Việt Nam, trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với

giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước

sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và có hiệu quả trong công nhân, viên chức và lao

động. Tham gia quản lý, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng

của công nhân, viên chức, lao động. Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức

công đoàn trong các thành phần kinh tế, nâng cao năng lực và trình độ cán bộ

công đoàn, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức công

đoàn vững mạnh. Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh,

mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm

vụ phát triển KT-XH, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa.

Hoạt động của công đoàn được thể hiện rõ nét ở các chức năng cơ bản

mà đầu tiên đó là công tác tuyên truyền, giáo dục và được tiến hành bằng nhiều

hoạt động cụ thể như tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng,

luật pháp của nhà nước, nhất là những chính sách có liên quan đến quyền, lợi

ích, nghĩa vụ của công nhân lao động như luật lao động, luật công đoàn, luật

doanh nghiệp, các văn bản dưới luật, các quy trình, quy phạm sản xuất, nội quy

của doanh nghiệp. Những hoạt động này giúp cho công nhân, lao động nắm

vững đường lối, chính sách của Đảng các chiến lược phát triển KT-XH, nắm

vững các chính sách luật pháp cũng như chủ trương phát triển của ngành, của

doanh nghiệp để tự giác chấp hành pháp luật và bảo vệ mình trước pháp luật.

Từ đó, xây dựng một khối liên minh trong nội bộ người lao động nói riêng và

42

khối đại đoàn kết dân tộc nói chung.

Được sự quan tâm chỉ đạo của Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên,

năm 2006 công đoàn các KCN tỉnh Thái Nguyên đã tổ chức lớp tập huấn cán

bộ công đoàn chủ chốt từ cơ sở đến Ban chấp hành công đoàn các KCN tỉnh

Thái Nguyên. Nội dung công tác tập huấn là về nghiệp vụ công tác công đoàn

và công tác bảo hộ lao động trong các khu công nghiệp toàn tỉnh. Hướng dẫn

và chỉ đạo các công đoàn cơ sở tổ chức triển khai Nghị quyết 4b của tổng liên

đoàn lao động Việt Nam về nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn, tham gia

xây dựng quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, chỉ đạo nâng cao

hiệu quả của ban thanh tra nhân dân. Thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 6

Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X, công đoàn KCN Sông Công tích cực

tuyên truyền, triển khai thực hiện chương trình hành động của Tổng Liên đoàn

lao động Việt Nam“Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ

đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”. Họat động tuyên truyền, phổ biến pháp luật

tiếp tục được triển khai một cách có hiệu quả. Đồng thời, công đoàn KCN triển

khai Chỉ thị số 22 của Ban Bí thư về “tăng cường công tác lãnh đạo chỉ đạo

việc xây dựng quan hệ hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp”, góp phần

đẩy mạnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí, chống tiêu cực gắn với thực hiện

quy chế dân chủ ở cơ sở.

Năm 2007, công đoàn KCN mở đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn trong

cán bộ công nhân, viên chức và lao động, đoàn viên công đoàn tổ chức học tập,

quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XII, nghị quyết

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Ngoài ra, công đoàn còn tổ chức vận động

công nhân, viên chức, lao động thực hiện thắng lợi chương trình hành động của

Nghị quyết Đại hội công đoàn các KCN Thái Nguyên lần thứ nhất, nghị quyết

Đại hội XIII công đoàn tỉnh, Nghị quyết IX Công đoàn Việt Nam đặc biệt là

thực hiện nghị quyết Đại hội của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên và nghị quyết Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ X.

Ngày 16/9/2009, công đoàn KCN Sông Công tham gia lớp tập huấn

43

triển khai nghị quyết Đại hội X Công đoàn Việt Nam. Trong đó, nhấn mạnh

công tác phát triển đoàn viên và xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh cho cán

bộ công đoàn tổng số có 35 đồng chí từ cấp tổ công đoàn trở lên. Công đoàn

còn thực hiện tốt quy chế dân chủ, Đại hội công nhân, viên chức, lao động, hội

nghị cán bộ người lao động, xây dựng tốt các nội quy, quy chế của đơn vị.

Năm 2010, công đoàn KCN Sông Công còn triển khai học tập Nghị

quyết, đại hội công đoàn các cấp tới cán bộ công đoàn chủ chốt, đoàn viên công

đoàn, công nhân, viên chức, lao động thông qua các hội nghị, họp định kỳ của

công đoàn và các buổi sinh hoạt tại cơ sở. Ngoài ra, công đoàn còn thực hiện

chương trình phối hợp hoạt động với hội khuyến học thị xã Sông Công nâng

cao trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp trong công nhân, viên chức, lao

động góp phần xây dựng xã hội. Đồng thời, tiếp tục tuyên truyền đến công

nhân, viên chức, lao động trong các dịp diễn ra các sự kiện lịch sử trọng đại của

đất nước như hướng về đại lễ 1000 năm Thăng Long Hà Nội, tổ chức các hoạt

động chào mừng Đại hội Đảng các cấp tiến tới đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

XI, triển khai thực hiện Nghị quyết lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương về

“Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước”, cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh” và cuộc vận động “Xây dựng nếp sống văn hóa” trong

công nhân, viên chức, lao động.

Không chỉ dừng lại ở việc tổ chức học tập, phổ biến quán triệt nội dung

Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, các chế độ chính sách, pháp luật mới của nhà

nước, công đoàn KCN Sông Công còn đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống

văn hóa ở cơ sở, tăng cường tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục,

thể thao. Công đoàn tổ chức các buổi nói chuyện về dân số, kế hoạch hóa gia

đình, luật bình đẳng giới, cách phòng chống bạo lực gia đình, …Từ đó, góp

phần nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động, tích cực tham gia các

họat động phòng chống tệ nạn xã hội. Tiếp tục duy trì tốt các chế độ sinh hoạt ở

44

cơ sở, nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của người lao động, kịp

thời tham gia giải quyết tốt các tranh chấp lao động, tăng cường các biện pháp

phòng ngừa đình công trong KCN.

Bảng 2.10. Thống kê lớp tập huấn cho cán bộ nữ KCN Sông Công

về chương trình dân số kế hoạch hóa, bình đẳng giới, chăm sóc sức khỏe

(2010- 2014)

Năm Số lớp tập huấn Lượt người tham gia

2010 04 200

2011 06 235

2012 08 300

2013 14 350

2014 18 410

Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của công đoàn KCN Sông Công (2010 -2014)

Mặt khác, các cấp công đoàn đã tổ chức các giải thể thao như bóng đá,

cầu lông, bóng bàn,giao lưu văn nghệ tạo không khí vui tươi phấn khởi thi đua

lao động sản xuất kinh doanh trong đơn vị, góp phần làm phong phú thêm đời

sống tinh thần của công nhân viên, lao động. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của công

đoàn các KCN tỉnh Thái Nguyên, công đoàn KCN Sông Công đã tổ chức các

giải cầu lông công nhân viên chức, lao động năm 2006 nhân dịp kỷ niệm 31

năm ngày giải phòng miềm nam (30/4/1975 – 3/4/2006) và quốc tế lao động

1/5 và chào mừng đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Năm 2009, để chào mừng

kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam, công đoàn KCN tiếp tục

tổ chức thành công giải cầu lông cho công nhân viên chức lao động. Những

năm tiếp theo, giải cầu lông gần như trở thành môn thể thao truyền thống chào

chào mừng những ngày lễ lớn của đất nước và của tỉnh Thái Nguyên. Ngoài ra,

công đoàn KCN Sông Công còn tuyên truyền đến các công đoàn cơ sở về Dân

số - sức khỏe - môi trường, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống các tệ nạn

xã hội, tuyên truyền về dân số, kế hoạch hóa gia đình, phòng chống ma túy, trật

45

tự ATGT…trong công nhân viên chức, lao động. Công đoàn cơ sở còn chú

trọng đến các hoạt động nhân đạo, từ thiện như tổ chức thăm hỏi, tặng quà các

gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình chính sách, Mẹ Việt Nam anh hùng. Công

đoàn đã tổ chức tặng quà cho các gia đình công nhân viên chức, lao dộng có

hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhân ngày 27/7.

Công đoàn KCN đã triển khai sâu rộng tới công nhân, viên chức lao

động và đoàn viên Chỉ thị 03 CT/TW của bộ chính trị về “Học tập và làm theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thực hiện chỉ thị số 22-CT/TW của ban bí

thư khóa X về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao

động hài hòa ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp. Tuyên truyền thực hiện chỉ

tiêu và 4 chương trình hành động theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Công đoàn

Việt Nam lần thứ XI. Cùng với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh” là cuộc vận động công nhân, viên chức, lao động tham

gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững

mạnh. Hiện nay, hệ thống chính trị trong KCN được kiện toàn, củng cố. Công

đoàn cùng với các đoàn thể chính trị xã hội như Đoàn thanh niên cộng sản Hồ

Chí Minh, hội cựu cán bộ có trách nhiệm tuyên truyền, vận động, giáo dục

những đoàn viên ưu tú để giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp, trong năm 2013

có 12 đoàn viên công đoàn tham gia học tập cảm tình Đảng. Trong 5 năm thực

hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(khóa X) về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước” đã có nhiều công nhân lao động được trưởng thành,

được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo của

đơn vị, doanh nghiệp.

Dưới sự chỉ đạo của Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên về việc thực

hiện tốt 5 phong trào thi đua mà Đại hội công đoàn tỉnh Thái Nguyên lần thứ

XIII đã đề ra, công đoàn KCN Sông Công đã tiến hành tổ chức triển khai thực

hiện tốt các phong trào thi đua lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn trong

46

năm, đặc biệt là chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

Trước tiên là phong trào lao động giỏi sáng tạo thực hành tiết kiệm, hoàn

thành nhiệm vụ kế hoạch của đơn vị. Công đoàn KCN Sông Công luôn coi đây

là phong trào mũi nhọn chi phối các phong trào khác. Trong quá trình hoạt

động luôn bám sát nhiệm vụ, mục tiêu sản xuất kinh doanh trong đơn vị, động

viên khích lệ công nhân viên chức, lao động tích cực trong lao động sản xuất,

cải tiến kỹ thuật, áp dụng những kinh nghiệm vào quá trình sản xuất, nâng cao

ý thức tổ chức kỷ luật trong công nhân viên chức, lao động. Tham gia với chính

quyền đồng cấp xây dựng các quy chế khen thưởng, khuyến khích động viên

những công nhân lao động có tay nghề cao, có trình độ, có khả năng cải tiến kỹ

thuật, có sáng kiến áp dụng trong quá trình lao động sản xuất tiết kiệm nguyên

vật tư, vật liệu. Nhằm động viên kịp thời người lao động tạo không khí phấn

khởi trong lao động sản xuất và đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.

Công đoàn đã chú trọng thực hiện tốt phong trào, phấn đấu vượt trước kế hoạch

như nhà máy thép trường sơn – chi nhánh Minh Bạch: doanh thu đạt 40 tỷ

đồng, tiền thưởng trong sáng kiến lao động sản xuất và tiết kiệm vật tư, vật liệu

lên tới hàng trăm tỷ đồng trong năm. Nhiều cá nhân đạt danh hiệu lao động giỏi

được đơn vị, doanh nghiệp thưởng cuối năm hàng chục triệu đồng (với hình

thức thưởng tiền mặt và cổ phiếu).

Ngay từ những tháng đầu năm 2008, các phong trào thi đua yêu nước

trong công nhân, viên chức, lao động đã diễn ra sôi nổi. Công đoàn đặc biệt

quan tâm phát động phong trào “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” và gắn biển

các công trình, sản phẩm chào mừng Đại hội XIV Công đoàn tỉnh Thái

Nguyên, chào mừng Đại hội X Công đoàn Việt Nam. Trong đợt thi đua có 20

công trình được gắn biển trị giá trên 80 tỷ đồng, có 7 công trình được Liên

đoàn lao động tặng bằng khen, 5 cá nhân được tặng bằng lao động sáng tạo của

47

Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Tổ chức hội thảo về công tác thi đua để

xây dựng chương trình thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động

giai đoạn 2008 – 2013. Xây dựng các tiêu chí doanh nghiệp xuất sắc năm 2008.

Tổ chức thành công hội thi sáng tạo kỹ thuật trong công nhân, viên chức, lao

động. Bước vào năm 2009, phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo,

phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật áp dụng các đề tài vào sản xuất, luôn được

công đoàn KCN duy trì và thực hiện tốt. Đến năm 2010, phong trào thi đua lao

động giỏi, lao động sáng tạo được công đoàn KCN phát động mạnh mẽ trong

công nhân, viên chức, lao động chào mừng Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng

tạo, tiết kiệm, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao tiếp tục được đẩy

mạnh ở công nhân viên chức, lao động trong những năm 2011, 2012. Công

đoàn KCN phối hợp với chính quyền chuyên môn đồng cấp triển khai phong

trào thi đua yêu nước với các nội dung thi đua cụ thể, phù hợp với tình hình

thực tế ở đơn vị, doanh nghiệp. Thi đua thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ

sản xuất năm 2012, thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến

cải tiến kỹ thuật, áp dụng các đề tài vào lao động sản xuất, thi đua thực hiện vì

sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong 2 năm (2013,2014), công đoàn KCN

vẫn luôn lấy phong trào “Lao động giỏi, lao động sáng tạo, hoàn thành xuất sắc

nhiệm vụ được giao” là phong trào mang tính chủ đạo, mũi nhọn. Các hoạt

động công đoàn luôn gắn liền và bám sát nhiệm vụ của đơn vị, doanh nghiệp.

Học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề để đáp ứng yêu

cầu công tác, sản xuất kinh doanh tại các đơn vị, doanh nghiệp. Trong đó,

nhiệm vụ, kế hoạch của đơn vị, doanh nghiệp là các chỉ tiêu cụ thể về công tác,

về lao động và hiệu quả công việc trong cơ quan, đơn vị. Vì vậy, các phong

48

trào này luôn được các cấp công đoàn trong KCN đặt lên hàng đầu.

Tiêu biểu là phong trào “Vì sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và phát

triển nông thôn” được triển khai sâu rộng và dần đạt hiệu quả. Nhiều năm nay,

phong trào này được coi là một trong những phong trào chủ đạo của giai cấp

công nhân và tổ chức công đoàn các cấp. Đồng thời, đây cũng là một trong

những chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta nhằm thực hiện mục tiêu xóa

đói giảm nghèo trong các thôn xóm, làng bản, vùng sâu, vùng xa của Tổ Quốc.

Để phong trào đạt hiệu quả cao, công đoàn KCN đã phối hợp với phòng nông

nghiệp tổ chức nhiều lớp tập huấn, chuyển giao KHKT cho nông dân như lớp

tập huấn chuyển giao KHKT về trồng trọt, chăn nuôi, nông nghiệp, cung ứng

giống cây trồng các loại, triển khai dự án trồng cây…Đồng thời, tổ chức công

đoàn cùng với các cấp, các ngành xây dựng chương trình phối hợp hoạt động

tích cực quyên góp ủng hộ phong trào “Xóa nhà dột nát’’, ủng hộ người nghèo.

Tiếp đó là phong trào xanh – sạch – đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao

động và vệ sinh môi trường. Đây là một trong những phong trào không thể

thiếu được đối với mỗi đơn vị, cơ sở, doanh nghiệp trong các khu công nghiệp,

trang bị bảo hộ lao động cá nhân, cải thiện điều kiện làm việc trong các doanh

nghiệp, nơi sản xuất có liên quan trực tiếp đến tính mạng của người lao động và

tài sản chung. Vì vậy, tổ chức công đoàn KCN luôn chú trọng và quan tâm

cùng với nhiều đơn vị, doanh nghiệp xác định khẩu hiệu “Sản xuất phải an

toàn, an toàn để sản xuất” hay “An toàn là bạn, tai nạn là thù” để nhắc nhở

công nhân viên chức, lao động đảm bảo an toàn trong sản xuất. Bước đầu đã có

mộ số đơn vị trong KCN áp dụng quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO, thực

hiện mô hình “5S” trong quá trình quản lý, tổ chức sản xuất tại đơn vị. Các

doanh nghiệp đã chủ động trồng thêm cây xanh, cây cảnh, cải thiện điều kiện

nơi làm việc, tại phân xưởng tạo môi trường khang trang, sạch đẹp, thoáng mát.

Ngoài ra, công đoàn KCN còn triển khai tới công đoàn cơ sở thực hiện

trang bị bảo hộ lao động cá nhân theo đúng quy định và yêu cầu đòi hỏi từng

49

ngành nghề khác nhau. Phối hợp với phòng chuyên môn thành lập hội đồng

BHLĐ, tổ chức mạng lưới an toàn vệ sinh đến tổ sản xuất đồng thời bồi dưỡng

nâng cao về kiến thức về công tác vệ sinh an toàn lao động cho các thành viên

trong mạng lưới. Tuy nhiên, những năm qua KCN Sông Công vẫn để xảy ra

một số vụ tai nạn lao động trong đó có 01 vụ tai nạn lao động chết người do

thiếu ý thức về công tác bảo hộ lao động của công nhân lao động và do sơ xuất

của đơn vị mới đi vào sản xuất. Đây cũng là bài học cho các doanh nghiệp trong

các KCN cần xem xét, rút kinh nghiệm.

Năm 2008, phong trào “Xanh –sạch – đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao

động” được gắn với phong trào xây dựng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt

chuẩn văn hóa. Ngay từ đầu năm, công đoàn đã tổ chức 100% các cơ quan, đơn

vị doanh nghiệp trên địa bàn đăng ký thi đua. Đồng thời, thường xuyên quan

tâm, đôn đốc về công tác an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ nhất là

vào những tháng cao điểm cuối năm. Đến năm 2009, phong trào này vẫn luôn

được các đơn vị duy trì thường xuyên như trồng cây xanh, vệ sinh, quét dọn

xung quanh Công ty, doanh nghiệp, quét dọn vệ sinh môi trường các tuyến

đường trục chính của khu công nghiệp. Bên cạnh đó, tiến hành trồng mới được

4.700 cây xanh các loại nhân ngày môi trường thế giới 5/6... Cũng trong dịp

này, công đoàn KCN chỉ đạo tổ chức dọn vệ sinh, khơi thông cống rãnh, thu

gom, xử lý rác thải, trồng và chăm sóc cây xanh, bãi cỏ vườn hoa tại các khu

đất trống trong các đơn vị tạo cảnh quan môi trường, vệ sinh xanh -sạch - đẹp

góp phần cải thiện môi trường làm việc. Năm 2010, KCN có 3.100 cây xanh

mới được trồng và công đoàn còn tiến hành chỉ đạo các công đoàn bộ phận treo

băng zôn, panô, áp phích, khẩu hiệu tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.

Năm 2012, tiếp tục hưởng ứng phong trào Xanh - Sạch - Đẹp, đảm bảo an toàn

vệ sinh lao động và vệ sinh môi trường, công đoàn KCN còn tổ chức cho công

nhân, viên chức, lao động tham gia các lớp tập huấn, huấn luyện công tác an

50

toàn vệ sinh lao động và phòng chống cháy nổ, bảo hộ lao động.

Bảng 2.11. Thống kê số lớp tập huấn về công tác an toàn vệ sinh lao động,

vệ sinh thực phẩm, bảo hiểm lao động, phòng chống cháy nổ

KCN Sông Công tham gia (2008 – 2012)

Lượt cán bộ công nhân viên chức lao động Năm Số lớp tập huấn tham gia

2008 1 70

2009 2 120

2010 3 150

2011 4 180

2012 5 230

(Nguồn: Tài liệu của Ban chấp hành Công đoàn các KCN Thái Nguyên)

Đến nay, phong trào Xanh - Sạch Đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động

và vệ sinh môi trường vẫn luôn được các cấp công đoàn KCN Sông Công quan

tâm chỉ đạo sát xao. Tổ chức công đoàn luôn coi đây là một trong những phong

trào mũi nhọn để tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong công nhân, viên chức,

lao động. Bằng việc duy trì mở các lớp tập huấn về an toàn vệ sinh lao động, an

toàn thực phẩm, công tác bảo hộ lao động cũng được quan tâm chu đáo đảm

bảo an toàn cho công nhân, lao động, ra quân quét dọn vệ sinh môi trường tại

đơn vị, doanh nghiệp vào buổi sáng và trên các trục đường KCN ...Tích cực

chăm sóc và trồng mới cây xanh tạo môi trường làm việc lành mạnh cho người

lao động, góp phần đem lại nguồn thu cho các cơ quan, doanh nghiệp.

Tiếp tục hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước do công đoàn tổ chức,

công đoàn KCN Sông Công tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chương trình

“Nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp cho đoàn viên và người lao động”.

Với phong trào này, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động được

nâng cao, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Có thể nói, phong trào

51

này đã thực sự đi sâu vào cuộc sống công nhân, viên chức, lao động nơi đây

theo phương châm tự vươn lên khẳng định mình trước nhiệm vụ được giao

bằng nhiều hình thức vừa tự học vừa được đào tạo theo lộ trình.

Trong thời gian từ năm 2006 đến năm 2014, nhiều cá nhân là cán bộ,

công nhân, viên chức trong KCN Sông Công được theo học tại các lớp Đại học

tại chức, cao học, văn bằng 2, ngoại ngữ, … Đặc biệt năm 2008, phong trào

học tập “nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ”được công đoàn KCN quan

tâm tham mưu cho chính quyền, chuyên môn đồng cấp cử công nhân, viên

chức, lao độngvà cán bộ công đoàn tham gia các lớp đào tạo để nâng cao trình

độ, chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học. Năm 2009, công đoàn

KCN đã chọn cử một số đoàn viên công đoàn có đủ điều kiện để theo học các

lớp đào tạo, bồi dưỡng phục vụ cho công việc chuyên môn tại các công ty,

doanh nghiệp. Kết quả là có 06 đồng chí đoàn viên ưu tú tham gia lớp cảm tình

Đảng. Năm 2010, công đoàn KCN cử 07 đoàn viên ưu tú đi học lớp cảm tình

Đảng, 01 đồng chí đi học lớp Đảng viên mới, học thạc sĩ 01 đồng chí, cao cấp

chính trị 01 đồng chí, chuyên viên cao cấp 01 đồng chí. Năm 2012, công đoàn

đã cử 08 đồng chí theo học các lớp đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp

vụ để phục vụ cho công việc, cử 12 đồng chí là đoàn viên ưu tú tham gia học

lớp cảm tình Đảng...

Phong trào thi đua “Giỏi việc nước - Đảm việc nhà” trong công nhân

viên chức nữ lao động cũng được triển khai sâu rộng. Đây là phong trao mang

tính đặc thù về giới, tuy số nữ công nhân viên chức, lao động trong KCN chưa

đông, song hầu hết ở các đơn vị, cơ sở đều có nữ công nhân viên chức, lao

động. Việc làm này nhằm động viên chị em hăng hái trong lao động, sản xuất,

công tác hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tích cực tham gia các hoạt

động xã hôi, các chương trình như Dân số kế hoạch hóa gia đình, chương trình

chăm sóc sức khỏe sinh sản đồng thời làm tốt thiên chức của người phụ nữ

52

trong gia đình cùng với chồng con xây dựng gia đình văn hóa. Phòng chống các

tệ nạn xã hội, giúp nhau vươn lên xóa đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng

giới phát huy bản chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời, trong

thời gian dài công đoàn KCN tiếp tục triển khai phong trào “Giỏi việc nước –

Đảm việc nhà” trong nữ công nhân viên chức, lao động gắn với phong trào

“Phụ nữ tích cực hoạt động, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc

do TW hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động”. Năm 2008, KCN có 14 chị

được nhận bằng khen của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam,

142 chị được nhận bằng khen của Ban Thường vụ tỉnh Thái Nguyên, 19 chị

được Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trao kỷ niệm chương “Vì sự phát triển

cua phụ nữ Việt Nam”. Năm 2009,công tác tuyên truyền, giáo dục tiếp tục

được đẩy mạnh trong KCN, điển hình là việc triển khai học tập Nghị quyết Đại

hội công đoàn tới các cán bộ công đoàn chủ chốt, đoàn viên công đoàn, tổ chức

các buổi sinh hoạt với cán bộ, công nhân, viên chức, lao động tại cơ sở. Ngoài

ra, công đoàn còn phối hợp với hội khuyến học của Thị xã Sông Công nâng cao

trình độ, học vấn, kỹ năng nghề nghiệp trong công nhân, viên chức, lao động

góp phần xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2006 -2010. Năm 2009, tiếp tục

hưởng ứng thực hiện phong trào thi đua “Giỏi việc nước -Đảm việc nhà ” trong

công nhân, viên chức, lao động công đoàn đã tổ chức tốt các hoạt động xã hội,

các chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản,

phòng chống các tệ nạn xã hội... giúp chị em hăng hái trong lao động sản xuất,

hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và đặc biệt công đoàn đã tổ chức thành

công quỹ “Hậu phương Quân đội”... Năm 2010, công đoàn đã được Liên đoàn

lao động tỉnh Thái Nguyên khen thưởng cho 01 tập thể, 01 cá nhân và công

nhận cho 05 đồng chí đạt tiêu chuẩn 5 năm trong phong trào thi đua “Giỏi việc

nước - Đảm việc nhà”. Năm 2012, công đoàn KCN Sông Công có tổng số 198

chị đạt 2 giỏi các cấp. Năm 2013 phong trao giỏi việc nước, đảm việc nhà với

53

các hội thi văn nghệ, hội thi nấu ăn ...do công đoàn tổ chức chị em đã tham gia

tích cực tạo không khí vui tươi phấn khởi. Thông qua các hoạt động chị em

được trao đổi kinh nghiệm, từ đó chị em hiểu nhau hơn, có tinh thần tương trợ

giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng như trong công tác. Ngoài ra, chị em vẫn

tiếp tục tham gia tích cực, sôi nổi phong trào “Giỏi việc nước - Đảm việc nhà”

trong nữ công nhân, viên chức, lao động các khu công nghiệp Thái Nguyên giai

đoạn 2012 -2015. Đây là phong trào mang tính đặc thù về giới do đoàn chủ tịch

Tổng liên đoàn lao động Việt Nam phát động gắn với phong trào “Phụ nữ tích

cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” do Trung ương

hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động. Phong trào tiếp tục được công đoàn

KCN mở rộng và trong những năm tiếp theo đạt được nhiều thành tích đáng kể,

góp phần động viên, khích lệ giúp cho chị em hăng hái trong lao động sản xuất,

hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tích cực tham gia các hoạt động xã hội,

chăm sóc sức khỏe sinh sản, đồng thời làm tốt thiên chức của người phụ nữ

trong gia đình cùng với chồng con xây dựng gia đình văn hóa. Phòng chống các

tệ nạ xã hội, giúp nhau vươn lên, xóa đói, giảm nghèo thực hiện bình đẳng giới

phát huy bản chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Một trong những hoạt động mang tính thiết thực và đạt hiệu quả cao

trong hoạt động của công đoàn KCN Sông Công trong giai đoạn này thực hiện

chức năng chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho

công nhân viên chức và lao động. Mọi hoạt động được tập trung vào việc công

đoàn đại diện cho người lao động thương lượng ký thỏa ước tập thể với người

sử dụng lao động. Công đoàn hướng dẫn, giúp đỡ người lao động giao kết hợp

đồng theo đúng quy định của pháp luật với đầy đủ quyền lợi được pháp luật

quy định. Công đoàn giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với

ngươi lao động như tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động,

thời gian làm việc, nghỉ ngơi và các phúc xã hội lợi khác…Bên cạnh việc bảo

vệ quyền lợi về kinh tế, công đoàn cần quan tâm bảo vệ cả quyền lợi chính trị,

54

lợi ích tinh thần, lợi ích lâu dài của người lao động, doanh nghiệp và xã hội,

Điển hình là công đoàn tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, thăm hỏi động

viên, giúp đỡ công nhân, lao động lúc khó khăn hoạn nạn. Đây cũng chính là

một trong những chức năng chủ yếu của tổ chức công đoàn. Do vậy, công tác

này luôn được công đoàn các KCN tỉnh Thái Nguyên quan tâm, chú trọng.

Công đoàn đại diện người lao động tham gia với chính quyền, với chủ doanh

nghiệp xây dựng các nội quy, quy chế trong đơn vị, doanh nghiệp đại diện

người lao động ký thỏa ước lao động tập thể, ký hợp đồng lao động với chủ

doanh nghiệp. Đồng thời tổ chức tốt việc chăm lo chế độ tiền lương, tiền

thưởng cho công nhân viên chức, lao động. Thường xuyên tổ chức kiểm tra,

nắm bắt tình hình việc thực hiện chế độ chính sách đối với người lao động, hoạt

động của hội đồng hòa giải ở cơ sở để giải quyết kịp thời đơn thư của công

nhân lao động. Ngoài ra, công đoàn còn xây dựng quy chế phối hợp hoạt động

với chính quyền đồng cấp, thống nhất các nội dung hoạt động trong đơn vị,

thực hiện tốt quy chế dân chủ trong cơ quan, đơn vị.

Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong các hoạt động xã hội từ

thiên, các công đoàn KCN Sông Công còn tích cực tham gia ủng hộ các quỹ

như “Qũy vì người nghèo”,“Qũy trẻ thơ”,“Qũy ngày Thương Binh liệt sỹ

27/7”, tham gia cuộc vận động mua sổ số ủng hộ quỹ “Xóa nhà dột nát”, ủng

hộ xây dựng tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng ở tỉnh Quảng Nam, tham và

tặng quà các gia đình chinh sách nhân ngày 27/7 với tổng só tiền là 5 triệu

đồng. Ngoài ra, công đoàn cơ sở trong KCN thường xuyên quan tâm thăm hỏi,

động viên công nhân viên chức, lao động lúc ốm đau, các gia đình công nhân

lao động, đoàn viên công đoàn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tổ chức tham

quan nghỉ mát cho công nhân viên chức, lao động. Đồng thời, tổ chức khám

sức khỏe định kỳ cho công nhân vien chức, lao dộng nhằm phát hiện bệnh sớm

để điều trị kịp thời, điển hình là Công đoàn công ty cổ phần thép Thái Nguyên,

55

Công đoàn Ban quản lý một số đơn vị khác.

Nhìn chung, công đoàn KCN luôn chủ động kiểm tra, giám sát việc thực

hiện chế độ chính sách đối với người lao động, chủ động phối hợp với chính

quyền, chuyên môn đồng cấp tổ chức Hội nghị cán bộ công chức, Đại hội công

nhân, viên chức. Hội nghị người lao động đúng thời gian và đảm bảo đúng quy

định góp phần thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, hướng dẫn người lao

động giao kết hợp đồng lao động, đại diện người lao động ký thỏa ước lao động

tập thể... Việc chấp hành pháp luật lao động, luật công đoàn, các chế độ chính

sách có liên quan tới người lao động cơ bản được quan tâm thực hiện tốt, vai

trò và hoạt động của tổ chức công đoàn được đề cao và phát huy có hiệu quả.

Tuy nhiên, một số nơi vẫn xảy ra việc chấp hành chưa nghiêm pháp luật lao

động, luật công đoàn về các chế độ chính sách, việc ký hợp đồng lao động, chế

độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh lao động, việc thay đổi bổ sung

những điều khoản trong nội quy lao động chưa tiến hành kịp thời, việc thỏa ước

lao động tập thể chưa đúng quy định pháp luật, …

Công đoàn KCN còn đẩy mạnh các hoạt động xã hội từ thiện. Nhân dịp

Tết Nguyên đán mỗi năm, các cấp công đoàn tổ chức đi thăm tặng quà với tổng

trị giá lên tới hàng trăm triệu đồng cho các gia đình chính sách, gia đình công

nhân, viên chức, lao động có hoàn cảnh khó khăn, bị tai nạn lao động, bệnh

nghề nghiệp.

Bảng 2.12. Thống kê gia đình công nhân, viên, lao động có hoàn cảnh khó

khăn được công đoàn KCN Sông Công tặng quà vào dịp Tết

(2009 – 2013)

Xuất quà Số tiền (triệu đồng) Năm

2009 134 19

2010 145 20

2011 162 25

2012 162 30

2013 168 34

56

Nguồn: Tác giả thống kê theo báo cáo (2009-2013)

Năm 2009, công đoàn KCN tham gia xây dựng, tổ chức việc thực hiện và

giám sát thực hiện các chế độ chính sách liên quan trực tiếp đến công nhân,

viên chức, lao độngtheo quy định của luật lao động. Công đoàn phối hợp với

các phòng chức năng, nghiệp vụ của Ban quản lý KCN kiểm tra việc thực hiện

các chế độ chính sách liên quan đến người lao động theo định kỳ, ngoài ra còn

kiểm tra đột xuất các đơn vị, doanh nghiệp có dấu hiệu làm sai hoặc thực hiện

chưa đúng, chưa đầy đủ các chế độ chính sách của người lao động như là tiền

lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động...Bên cạnh

đó, công tác chăm lo, bồi dưỡng, đào tạo tay nghề cho người lao động đã được

các chủ doanh nghiệp quan tâm. Công đoàn cơ sở cũng chủ động tham mưu với

lãnh đạo các doanh nghiệp và chuyên môn đồng cấp thực hiện các chế độ tiền

lương, tiền thưởng cho công nhân, viên chức, lao động.

Về đời sống của công nhân, viên chức, lao động trong KCN, năm 2009 do

biến động của nền kinh tế thị trường nhìn chung đời sống, lao động, việc làm

của công nhân, viên chức, lao động còn gặp rất nhiều khó khăn. Do nguồn thu

nhập còn thấp, việc làm không ổn định, chế độ đãi ngộ, chế độ chính sách chưa

thực sự được giới chủ quan tâm, thu nhập của người lao động còn thấp so với

giá cả thị trường hiện nay chỉ đảm bảo sinh hoạt cá nhân ở mức trung bình,

chưa có tích lũy. Để giúp đỡ một phần cho cuộc sống của người lao động, công

đoàn KCN đứng ra bảo lãnh vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm cho

11 hộ đoàn viên công đoàn vay với tổng số vốn vay là 195 triệu đồng (thực

hiện từ tháng 9/2010).

Đến năm 2012, công đoàn KCN cũng đẩy mạnh các hoạt động xã hội,

nhân đạo, từ thiện bằng việc ủng hộ người nghèo, quyên góp, quỹ khuyến học,

nạn nhân chất độc da cam thị xã Sông Công trị giá 63.000.000 đồng, Công

đoàn nhà máy thép Trường sơn - Chi nhánh Minh Bạch ủng hộ 50.000.000

đồng,... Tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn cho người

57

lao động đạt ở mức 80 -90%, có một số doanh nghiệp đạt 100%. Công đoàn

vẫn tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ có liên quan

trực tiếp đến người lao động theo quy định của bộ luật lao động, luật công đoàn

nhất là các vấn đề tiền công, tiền lương, tiền thưởng. Tới năm 2012, không có

đơn vị nào nợ lương của công nhân, viên chức, lao động.

Về công tác bảo hộ lao động và tình hình tai nạn lao động vẫn được công

đoàn chú trọng chỉ đạo các công đoàn cơ sở phối hợp với chuyên môn đồng cấp

thực hiện tốt tuần lễ quốc gia về an toàn lao động - phòng chống cháy nổ. Các

đơn vị, doanh nghiệp đều triển khai thực hiện tuyên truyền như gắn panô, áp

phích, bảng nội quy, quy định tại nơi làm việc, treo băng zôn, khẩu hiệu nhân

tuần lễ Quốc gia An toàn vệ sinh lao động - Phòng chống cháy nổ. Công đoàn

còn phối hợp với phòng quản lý lao động, phòng quản lý đào tạo và doanh

nghiệp Ban quản lý các khu công nghiệp Thái Nguyên rà soát, nắm bắt tình

hình trong các đơn vị, doanh nghiệp về lao động, về an toàn vệ sinh lao động,

vệ sinh môi trường, bảo hộ lao động, việc thực hiện các chế độ chính sách đối

với người lao động của chủ doanh nghiệp. Năm 2013, ở KCN Sông Công

không xảy ra tranh chấp lao động, tuy nhiên vẫn có tai nạn lao động nhỏ xảy ra.

Có 85% đến 90% công nhân lao động được giới chủ đóng bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn và có doanh nghiệp tham gia đóng 100% cho người

lao động như công ty TNHH Minh Bạch, công ty TNHH liên doanh Lửa Việt,...

Công đoàn còn đã và đang triển khai dự án vay vốn quỹ công nhân lao động

nghèo do liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên cho 12 đoàn viên công đoàn vay

để giải quyết việc làm cho 25 lao động với tổng số vốn là 100 triệu đồng.

Năm 2014, công đoàn KCN Sông Công đã phối hợp với phòng lao động

thuộc Ban quản lý các khu công nghiệp và phòng việc làm thuộc Sở lao động

Thương binh và xã hội tỉnh Thái Nguyên trong công tác hướng dẫn doanh

nghiệp đăng ký thang, bảng lương, nội quy lao động và thỏa ước lao động. Bên

cạnh đó, công đoàn KCN còn chỉ đạo công đoàn cơ sở phối hợp với ban lãnh

58

đạo 01 công ty trực thuộc để can thiệp, giúp đỡ và giả quyết về chế độ, chính

sách cho người lao động. Qua đó, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp

cho người lao động. Ngoài ra, công đoàn còn tư vấn, trợ giúp pháp lý cho 05

trường hợp là đoàn viên công đoàn, người lao động và lồng ghép nội dung tư

vấn pháp luật trong các buổi đi kiểm tra, nắm bắt tình hình tại công đoàn cơ sở

trực thuộc, tại các buổi tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật cho công

nhân, viên chức trên địa bàn KCN. Năm 2014, công đoàn KCN vẫn tiếp tục chỉ

đạo các công đoàn cơ sở phối hợp với chuyên môn đồng cấp thực hiện tốt tuần

lễ Quốc gia về An toàn lao động - Phòng chống cháy nổ. Các đơn vị, cơ quan,

doanh nghiệp đều tổ chức, triển khai thực hiện tuyên truyền như gắn panô, áp

phích, bảng nội quy, quy định tại nơi làm việc, treo băng zôn, khẩu hiệu nhân

tuần lễ Quốc gia An toàn vệ sinh lao động - Phòng chống cháy nổ. Vì vậy, năm

2014 không xảy ra vụ tai nạn lao động chết người nào tại KCN.

Nhân dịp tết Giáp Ngọ năm 2014, các đơn vị đều có quà tết, thưởng tết

đặc biệt là cũng không có đơn vị nào nợ lương của công nhân, viên chức, lao

động. Qùa tết trị giá từ 200.000 đồng/xuất trở lên, có một số đơn vị còn chi

tháng lương thứ 13 cho công nhân, viên chức, lao động như công ty TNHH -

MTV phát triển hạ tầng KCN Thái Nguyên, Công ty liên doanh kim loại màu

Việt Bắc...Bên cạnh đó, các đơn vị còn tổ chức tặng quà cho các gia đình công

nhân lao động nghèo,gia đình chính sách, gia đình neo đơn, gia đình có hoàn

cảnh đặc biệt khó khăn là 150 xuất quà trị giá 25,8 triệu đồng như công đoàn cơ

sở nhà máy thép Trường Sơn, công ty liên doanh kim loại màu Việt Bắc...

Ngoài ra, công đoàn còn tặng 18 xuất quà cho các gia đình công nhân,viên

chức, lao động nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Tổ chức công đoàn ra đời không chỉ thực hiện tốt các chức năng, nhiệm

vụ của mình mà các hoạt động của công đoàn còn góp phần đưa tổ chức ngày

càng phát triển đi lên. Trong đó, công tác xây dựng tổ chức công đoàn vững

mạnh là một hoạt động mạnh mẽ và thiết thực của công đoàn. Các công đoàn

59

cơ sở KCN Sông Công đăng ký thi đua xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh

ngay từ đầu năm, chấm điểm xếp loại Công đoàn cở vững mạnh theo thang

bảng điểm do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Liên đoàn lao động tỉnh

Thái Nguyên hướng dẫn. Đồng thời, động viên các công đoàn cơ sở phối hợp

với chính quyền đồng cấp thực hiện tốt cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hóa góp phần xây dựng cơ quan văn hóa. Năm 2006 có: 03

công đoàn cơ sở đạt công đoàn cơ sở vững mạnh, có 03 đơn vị đạt cơ quan văn

hóa. Ngoài ra công tác bồi dưỡng cán bộ Công đoàn được các cấp công đoàn

quan tâm trú trọng nhằm nâng cao hiểu biết của cán công đoàn nhất là cán bộ

công đoàn cơ sở về tổ chức công đoàn, về phương pháp hoạt động, nghiệp vụ

công đoàn. Năm 2006, KCN Sông Công có 03 công đoàn cơ sở đạt danh hiệu

công đoàn cơ sở vững mạnh, có 03 đơn vị đạt cơ quan văn hóa. Công tác bồi

dưỡng cán bộ công đoàn được các cấp công đoàn quan tâm chú trọng nhằm

nâng cao hiểu biết của cán bộ công đoàn nhất là cán bộ công đoàn cơ sở về tổ

chức công đoàn, về phương pháp hoạt động, nghiệp vụ công đoàn. Riêng năm

này đã có 34 đồng chí cán bộ công đoàn cấp tổ công đoàn trở lên được tập huấn

nghiệp vụ công tác công đoàn.

Năm 2007, công đoàn KCN tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền phát

triển đoàn viên công đoàn, thành lập công đoàn cơ sở trong các thành phần kinh

tế mà Đại hội công đoàn các KCN tỉnh Thái Nguyên lần thứ I đề ra. Chỉ đạo

các công đoàn cơ sở đẩy mạnh công tác xây dựng và nâng cao chất lượng Công

đoàn cơ sở vững mạnh, làm tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ

công đoàn cho đội ngũ cán bộ công đoàn mới thành lập. Đặc biệt, chú trọng

việc tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ công tác Công đoàn cho cán bộ

làm công tác công đoàn trong các công ty, doanh nghiệp, các công đoàn bộ

phận và kịp thời bổ sung, sắp xếp cán bộ, kiện toàn tổ chức để duy trì và tổ

chức hoạt động công đoàn một cách có hiệu quả.

Năm 2014, thực hiện chương trình “Phát triển đoàn viên giai đoạn 2013 -

60

2018” và chương trình “Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội

ngũ cán bộ công đoàn” của Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên, công đoàn

KCN Sông Công liên tục tổ chức các buổi tập huấn, phổ biến Nghị quyết Công

đoàn Việt Nam khóa XI, Nghị quyết XV Công đoàn tỉnh Thái Nguyên trong

công nhân, viên chức, lao động và đoàn viên công đoàn. Công đoàn KCN xác

định muốn tổ chức vững mạnh thì khâu đầu tiên là phải đào tạo cán bộ, phải

xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ. Vì vậy liên tục cử các đồng chí

là cán bộ công đoàn tham gia các lớp đào tạo, tập huấn ngắn ngày, dài ngày do

Liên đoàn lao động tổ chức, xây dựng kế hoạch, hướng dẫn nghiệp vụ. Qua đó

không ngừng nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ công đoàn cấp trên cơ

sở và cán bộ công đoàn cơ sở.

Một trong những hoạt động cũng được công đoàn quan tâm, chú trọng là

công tác kiểm tra, tư vấn pháp luật, tài chính công đoàn. Đồng thời, công đoàn

KCN cũng tiếp tục xây dựng phương hướng, nhiệm vụ cụ thể cho những năm

tiếp theo với những nội dung cụ thể như kiện toàn về công tác tổ chức, phương

pháp hoạt động của ủy ban kiểm tra công đoàn các cấp nhằm nâng cao hiệu quả

trong công tác kiểm tra. Tăng cường công tác kiểm tra, nắm bắt tình hình diễn

biến tư tưởng trong công nhân viên chức lao động và trong hoạt động công

đoàn các cấp, nhất là cấp cơ sở. Xây dựng kế hoạch hoạt động phối hợp với ủy

ban kiểm tra công đoàn với các phòng ban chức năng đồng cấp để tiến hành

kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động.

Chú trọng công tác bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ công đoàn các cấp về công

tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách trong các

doanh nghiêp, đơn vị.

Tuy nhiên, thực tế hoạt động cho thấy công tác tài chính còn là một trong

những vấn đề tồn đọng, nhiều hạn chế từ nhiều năm qua mà các cấp công đoàn

nhất là công đoàn cơ sở trong KCN cần làm rõ và khắc phục. Mặc dù đã có một

số công đoàn cơ sở tham mưu với lãnh đạo công ty, doanh nghiệp thực hiện

61

đầy đủ trích nộp kinh phí, đoàn phí công đoàn theo quy định như công đoàn

công ty TNHH liên doanh lửa Việt BETSTREF... Bên cạnh đó, còn một số

đông các công đoàn cơ sở trong KCN chưa thực hiện đầy đủ những quy định về

công tác thu - chi, trích nộp kinh phí, đoàn phí công đoàn điển hình năm 2012.

Năm 2014, được sự chỉ đạo và tổ chức của Ban quản lý các KCN tỉnh Thái

Nguyên, công đoàn KCN Sông Công đã tổ chức tập huấn cho cán bộ công

đoàn, nhất là cán bộ làm công tác tài chính. Thông qua công tác kiểm tra, giám

sát thực hiện công tác tài chính công đoàn tại một số công đoàn cơ sở cho thấy

hầu hết phần thu là chưa đủ, chưa đúng với quy định và dẫn đến phần chi còn

nhiều nội dung chưa thực hiện được. Các công đoàn cơ sở chưa xác định và cân

đối được tỷ lệ chi cho các hoạt động theo quy định, công tác dự toán, quyết

toán tại các công đoàn cơ sở thường chậm so với quy định.

Tiểu kết chương 2

Có thể nói, từ khi đi vào hoạt động tổ chức công đoàn dưới sự lãnh đạo

của công đoàn Việt Nam, Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên và Ban quản lý

các khu công nghiệp, Công đoàn KCN Sông Công đã thực hiện tốt các chức

năng, nhiệm vụ của mình. Từ khi còn chưa chính thức được thành lập, khi hoàn

cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn và mới bắt đầu bước vào đổi mới (1985-

1986), tổ chức công đoàn tại KCN Sông Công đã khẳng định khả năng thực

hiện trách nhiệm của mình. Trong thời kỳ đất nước chuyển từ nền kinh tế tập

trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, công đoàn KCN Sông Công

luôn cố gắng tập hợp quần chúng, người lao động để tuyên truyền giáo dục, tổ

chức các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng đất nước, bảo vệ quyền và lợi

ích cho người lao động. Công đoàn đã giúp người lao động nhận thức đầy đủ về

lợi ích cá nhân gắn liền với kết quả sản xuất, kinh doanh của đơn vị. Từ đó,

củng cố luật lao động, giúp người lao động luôn tận tình trong công việc, góp

phần vào công cuộc xây dựng đất nước ở thời kỳ đổi mới. Đến thời kỳ 1996 –

62

2005, vai trò của công đoàn KCN Sông Công lại càng được đề cao. Trên cơ sở

nền tảng giai đoạn trước, công đoàn KCN Sông Công luôn đẩy mạnh việc xây

dựng một đội ngũ lao động giỏi tay nghề, đạo đức tốt. Công đoàn tiến hành đổi

mới nội dung và hình thức hoạt động khi hướng về cơ sở, quan tâm nhiều hơn

đến lợi ích hợp pháp của người lao động. Hướng tới mục tiêu chung là xây

dựng giai cấp công nhân trở thành lực lượng đi đầu trong quá trình công nghiệp

hóa hiện đại hóa đất nước. Đây cũng là nhiệm vụ hàng đầu trong việc xây dựng

nguồn lực đất nước, để tạo đà vươn ra nền kinh tế hội nhập. Bước sang giai

đoạn 2006 - 2014, đất nước đã có sự đổi thay nhiều về kinh tế- văn hóa- xã hội,

tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức công đoàn thực hiện thành công những mục

tiêu của mình. Có thể khẳng định, tất cả các hoạt động của tổ chức công đoàn

từ tuyên truyền giáo dục, thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, đến chăm

lo đời sống cho công nhân, viên chức lao động… ở giai đoạn này là thành công

nhất, đạt nhiều thành tích vượt trội so với các giai đoạn trước. Sau mỗi kỳ Đại

hội của Đảng, Đại hội Liên đoàn lao động các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn đều

được công đoàn KCN Sông Công triển khai kịp thời tới người lao động, giúp

công nhân lao động yên tâm sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng

được nâng cao. Trong những năm gần đây, công đoàn KCN còn mở rộng công

tác đối ngoại, hướng tới thực hiện mục tiêu “Đoàn kết, trí tuệ, dân chủ, đổi

mới”, thể hiện ý chí và nguyện vọng to lớn của giai cấp công nhân, của đội ngũ

công nhân, viên chức và lao động và tổ chức công đoàn bước vào thế kỷ mới.

Có thể nói, những hoạt động cụ thể tuyên truyền giáo dục, đến các phong

trào thi đua yêu nước, quan tâm chăm lo đời sống công nhân viên, lao động,

của công đoàn KCN Sông Công mặc dù còn những hạn chế, song tổ chức công

đoàn ở đây đã góp phần xây dựng giai cấp công nhân lao động vững mạnh, góp

phần không nhỏ trong xây dựng lực lượng lao động đi đầu trong sự nghiệp

63

CNH, HĐH đất nước, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động.

Chương 3

ĐÁNH GIÁ VỊ THẾ, VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN

KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG GIAI ĐOẠN 1985 - 2014

3.1.Những kết quả đạt được

3.1.1. Chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho công nhân

viên chức lao động

Có thể nói, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho

công nhân viên chức lao động là vai trò quan trọng hàng đầu của tổ chức công

đoàn đối với sự phát triển KCN Sông Công. Trong văn kiện đại hội Công đoàn

VI (10/1998) đã chỉ rõ “Công đoàn sinh ra, tồn tại, phát triển là để bảo vệ lợi

ích cơ bản, lâu dài và lợi ích hàng ngày của người lao động”. Để thực hiện tốt

chức năng bảo vệ lợi ích của người lao động, công đoàn luôn chủ động tham

gia cùng chính quyền tìm việc làm và tạo điều kiện làm việc cho công nhân, lao

động; đại diện cho tập thể công nhân, lao động ký kết thỏa ước lao động tập

thể; tham gia thương lượng, giải quyết tranh chấp lao động; tổ chức và lãnh đạo

đình công theo quy định của pháp luật. Công đoàn còn có vai trò trong quản lý

và sử dụng quỹ phúc lợi tập thể và sự nghiệp phúc lợi tập thể, bảo hiểm xã hội,

bảo hộ lao động. Đặc biệt trong việc khiếu nại tố cáo của công nhân viên chức

và lao động, công đoàn luôn là tổ chức đi đầu và làm việc khách quan. Để công

nhân, viên chức, lao động phát huy dân chủ, bình đẳng, công bằng xã hội thì

công đoàn luôn là tổ chức đứng ra thực hiện trước nhất.

Năm 2006, tổ chức công đoàn KCN Sông Công chính thức được thành

lập và hoạt động. Vai trò cuả công đoàn đối với sự phát triển của KCN càng

được đề cao và quan trọng hơn nữa. Bằng phương pháp hoạt động chủ yếu là

tuyên truyền, vận động, thuyết phục, công đoàn không chỉ mang lại những lợi

ích thiết thực cho người lao động như trên mà còn giải quyết được rất nhiều

64

những tranh chấp, những cuộc đình công ...trong công nhân, viên chức, lao

động. Thông qua các hoạt động đó công đoàn còn góp phần bồi dưỡng, rèn

luyện đạo đức, lối sống cho người lao động trong môi trường lao động và tập

thể. Bên cạnh đó, công đoàn luôn lấy người lao động và đoàn viên công đoàn là

mục tiêu, động lực phát triển và luôn chăm lo, quan tâm đến tâm tư, nguyện

vọng, việc làm, đời sống và bảo vệ quyền lợi cho người lao động ngay từ khi

họ mới đi làm. Như vậy, cán bộ công đoàn vừa là người bạn lại vừa là chỗ dựa

vững chắc cho người lao động.

3.1.2. Tuyên truyền giáo dục và thực hiện các phong trào thi đua yêu nước

trong công nhân, viên chức lao động

Song song với vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính

đáng cho công nhân, viên chức, lao động thì công tác tuyên truyền giáo dục và

thực hiện các phong trào thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động

cũng là một hoạt động giữ vai trò trọng tâm. Trong giai đoạn 1985 – 2005, khi

công đoàn KCN Sông Công còn chưa chính thức được thành lập nhưng những

hoạt động công đoàn đã nhen nhóm được thực hiện . Từ năm 2006 đến nay,

công đoàn luôn thực hiện tốt các chức năng của mình về công tác tuyên truyền

giáo dục trong công nhân, viên chức, lao động, góp phần nâng cao hiểu biết về

tổ chức công đoàn cho người lao động và giới chủ doanh nghiệp, tạo điều kiện

để người lao động hiểu được vấn đề truyền thông, những kiến thức về dân số,

kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, phòng chống các tệ nạn xã

hội và HIV/AIDS trong công nhân, viên chức, lao động. Công đoàn còn đóng

vai trò to lớn trong việc tổ chức các phong trào thi đua trong công nhân viên

chức, lao động như “Phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn” hay “Giỏi

việc nước - Đảm việc nhà” gắn với phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao

động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc do TW Hội LHPN Việt Nam phát

động” trong nữ công nhân, viên chức, lao động nhằm động viên chị em hăng

hái tham gia lao động, sản xuất, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, tích

65

cực tham gia các hoạt động xã hội. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện phòng

chống các tệ nạn xã hội, giúp nhau vươn lên xóa đói giảm nghèo, tổ chức các

phong trào thi đua trong công nhân, viên chức, lao động … Công đoàn thực

hiện chức năng giáo dục thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục thực

tiễn trong lao động, sản xuất. Bằng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau,

công đoàn tác động vào công nhân, viên chức giúp họ hiểu lợi ích của họ gắn

với lợi ích của tập thể, lợi ích của xã hội. Muốn có lợi ích và muốn lợi ích của

mình được bảo vệ, trước hết phải thực hiện tốt nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ của

người công nhân đối với cơ quan xí nghiệp và xã hội. Trên cơ sở đó, xây dựng

ý thức lao động mới, lao động có kỷ luật và có tác phong công nghiệp nâng cao

tinh thần tự giác học tập.

3.1.3. Kiểm tra tư vấn pháp luật, tài chính công đoàn

Công tác kiểm tra tư vấn pháp luật và tài chính công đoàn là một trong

những hoạt động thường xuyên của tổ chức công đoàn song công tác này lại

giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Trong hệ thống công đoàn, kiểm tra có tác dụng

thiết thực tới việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức công đoàn, góp

phần xây dựng, củng cố tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn, gắn bó

đoàn viên, công nhân, viên chức và lao động với tổ chức công đoàn.

Qúa trình kiểm tra, tư vấn được thông qua việc thực thi chế độ, chính

sách đối với người lao động, việc chấp hành pháp luật về hợp đồng lao động,

tuyển dụng, cho thôi việc, tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi xã hội, tập thể, bảo

hộ lao động, bảo hiểm xã hội và các chính sách khác liên quan đến quyền và lợi

ích của người lao động. Thông qua kiểm tra, kịp thời phát hiện những biểu hiện

vi phạm pháp luật, chính sách, đến quyền lợi ích hợp pháp chính đáng của công

nhân, viên chức và lao động, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền để được

xem xét và giải quyết. Thông qua công tác kiểm tra và tư vấn về pháp luật,

công đoàn thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ, đối thoại với người lao động và tìm

hiểu, nắm vững những thắc mắc, kiến nghị mà người lao động đặt ra. Đồng thời

66

qua công tác tư vấn, công đoàn cũng tuyên truyền, giải thích cho công nhân,

viên chức và lao động hiểu đúng về chủ trương, pháp luật, đường lối, chính

sách, chế độ của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, các Ban pháp luật và Văn phòng

tư vấn pháp luật của công đoàn KCN có thể giúp đỡ tư vấn cho đoàn viên, công

nhân, viên chức và lao động những vấn đề về pháp luật, liên quan đến quyền và

lợi ích của họ. Cùng với đó phối hợp với Ban chuyên đề của công đoàn giải

quyết những vướng mắc, kiến nghị của người lao động đối với công đoàn.

Ngoài công tác kiểm tra tư vấn pháp luật, công tác tài chính cũng được tổ

chức công đoàn KCN Sông Công quan tâm. Kiểm tra tài chính là một trong bốn

nhiệm vụ của Uỷ ban kiểm tra công đoàn nhằm thực hiện quyền kiểm tra của

công đoàn theo quy định của Điều lệ công đoàn Việt Nam. Vai trò quan trọng

trong việc kiểm tra tài chính công đoàn là nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ, khai

thác hết nguồn thu đã quy định và chi đúng nội dung, mục đích; quản lý chặt

chẽ đúng nguyên tắc, chế độ; thực hiện tốt dự toán thu, chi hàng năm đã được

Ban chấp hành thông qua. Việc thực hiện tốt công tác kiểm tra tài chính sẽ góp

phần tăng cường quản lý tài chính, tài sản, bảo vệ cán bộ nâng cao uy tín của tổ

chức, xây dựng tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh. Ngoài ra, công tác kiểm

tra tài chính diễn ra tốt còn giúp quỹ công đoàn được duy trì và đầy đủ luôn kịp

thời đáp ứng, bảo vệ tốt quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động.

Như vậy, có thể nói vai trò và hoạt động của tổ chức công đoàn có ảnh

hưởng rất lớn tới quá trình hoạt động, phát triển của KCN Sông Công. tạo ra

điều kiện pháp lý xã hội cho hoạt động công đoàn để công đoàn thực hiện tốt

chức năng, nhiệm vụ của mình “Không có một nền móng như các tổ chức công

đoàn thì không thể thực hiện được các chức năng của nhà nước”. [9, tr380].

Vai trò của công đoàn trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng

không chỉ về mặt lý luận, thực tiễn mà còn cả mặt tư tưởng. Lênin nói: “...Công

đoàn có vai trò là trường học quản lý,trường học kinh tế, trường hoặc chủ

nghĩa cộng sản... ”[10, tr250]. Ngày nay trong quá trình hội nhập quốc tế, vai

trò của công đoàn KCN Sông Công càng được mở rộng và phát triển trên các

67

lĩnh vực, cụ thể là:

Trong lĩnh vực kinh tế: Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay,

tổ chức công đoàn KCN Sông Công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tham

gia đổi mới cơ chế quản lý, củng cố nguyên tắc tập trung dân chủ. Một mặt,

công đoàn đẩy mạnh hoạt động tại các doanh nghiệp. Mặt khác, công đoàn hỗ

trợ các thành phần kinh tế phát triển đúng hướng, giữ vai trò làm cầu nối giữa

chủ sử dụng lao động với người lao động, giúp hai bên hiểu về nhau cùng nhau

có lợi một bên tích lũy lao động, một bên phản ánh tâm tư nguyện vọng của

người lao động đối với giới chủ đem lại lợi ích kinh tế cho cả hai bên.

Trong lĩnh vực chính trị: Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu đặt ra là xây

dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong củng cố và

giữ vững bộ máy hoạt động trong doanh nghiệp. Để nâng cao vị thế chính trị

của mình, công đoàn KCN cần là cầu nối tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa

giới chủ và người công nhân, viên chức, lao động, đảm bảo và phát huy quyền

làm chủ của người lao động, từng bước hoàn thiện nền dân chủ, đảm bảo thực

thi pháp luật và để doanh nghiệp thực sự mang lại lợi ích chính đáng cho người

lao động. Trước diễn biến phức tạp của đời sống KT-XH hiện nay, công đoàn

KCN Sông Công góp phần cùng với doanh nghiệp đảm bảo sự ổn định về chính

trị, tạo cơ sở vững chắc để đổi mới kinh tế có hiệu quả và hoàn thành tốt các

mục tiêu kinh tế đặt ra trong quá trình hội nhập quốc tế.

Trong lĩnh vực xã hội: Kinh tế thị trường đã làm thay đổi bộ mặt nước

nhà song cũng đem lại không ít những tiêu cực, ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống

của người lao động. Vì vậy, công đoàn KCN phải góp phần xây dựng giai cấp

công nhân, bảo đảm sự thống nhất của giai cấp công nhân, không ngừng nâng

cao trình độ giác ngộ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn hoá, khoa học

kỹ thuật để giai cấp công nhân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình

phát triển đất nước. Công đoàn phải tuyên truyền giáo dục người lao động

chống tiêu cực và tệ nạn xã hội, xây dựng phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm

68

đà bản sắc dân tộc, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật

và tính sáng tạo cho người lao động. Công đoàn góp phần củng cố liên minh

công - nông và trí thức xây dựng khối đoàn kết toàn dân.

Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: Nền kinh tế thị trường có nhiều ưu

điểm tích cực song nền kinh tế này còn là “mảnh đất” làm nảy sinh những tiêu

cực xã hội. Hơn lúc nào hết, công đoàn cần phát huy vai trò của mình trong

việc giáo dục công nhân, viên chức, người lao động nâng cao lập trường giai

cấp, phát huy những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu

những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân loại. Đó là yếu tố quan trọng làm

cho vai trò của công đoàn ngày càng mở rộng phát triển. Ngày nay, tổ chức

công đoàn đang, đã và sẽ thu hút được đông đảo lực lượng người lao động.

Công đoàn còn có vai trò thúc đẩy người lao động tích cực sáng tạo để trở

thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế chung.

3.2. Những khó khăn, hạn chế

3.2.1. Trong lĩnh vực đào tạo nghề và giải quyết việc làm

Được học nghề và có việc làm là quyền của mỗi người đã được Nhà

nước quy định trong Hiến pháp và được cụ thể hoá tại điều 5 của Luật lao

động: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do chọn việc làm và nghề nghiệp,

học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt về giới tính,

dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo”[6, tr5]. Nền kinh tế càng phát

triển càng đòi hỏi cao về trình độ học vấn. Cùng với đó, tình trạng thất nghiệp

gia tăng cũng đặt ra yêu cầu về giải quyết việc làm. Đây là một trong những

vấn đề bức xúc của toàn xã hội cần được các ngành, các cấp công đoàn quan

tâm. Công đoàn có quyền tham gia ý kiến với tổ chức có liên quan hoặc có thể

tự mình tổ chức tìm việc làm, dạy nghề nâng cao trình độ nghề nghiệp cho

người lao động theo quy định chung của Nhà nước.

Thực tế hoạt động cho thấy, tổ chức công đoàn KCN Sông Công cũng

69

còn nhiều hạn chế trong lĩnh vực đào tạo nghề và giải quyết việc làm. Công

nhân, viên chức, lao động trong KCN có nhiều người chỉ mới tốt nghiệp phổ

thông, chưa có chuyên môn và hiểu biết về công việc bước đầu học nghề còn

chậm và nhiều khó khăn, viên chức, cán bộ còn nhiều người trái nghành chưa

đúng với chuyên môn, nghiệp vụ của mình nên khả năng tiếp nhận công việc

chưa được chuyên sâu, chất lượng công việc đạt hiệu quả chưa cao. Mặt khác,

trình độ tay nghề của người lao động vẫn còn nhiều bất cập. Đa số công nhân

có trình độ, tay nghề, kỹ thuật còn thấp. Nhóm lao động đã qua đào tạo chỉ

chiếm khoảng 12,6%. Nếu tính cả số công nhân kỹ thuật được truyền nghề thực

tế (không bằng cấp) thì lao động kỹ thuật chỉ đạt tỷ lệ xấp xỉ 25%. Khả năng

thu hút và tạo việc làm của KCN hiện nay còn thấp trong đó số người cần việc

làm lên tới hàng triệu người.

Sở dĩ có tình trạng mất cân đối giữa việc làm và học nghề xuất phát từ

những quy định của Nhà nước. Nghị định 39/2003/NĐ-CP được Chính Phủ ban

hành ngày 18/04/2003 đã quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của luật lao động về việc làm. Trong khi đó, công đoàn Việt Nam nói chung và

công đoàn KCN Sông Công nói riêng với vai trò là tổ chức đại diện cho người

lao động thì chỉ được quyền tham gia giải quyết việc làm tại các doanh nghiệp,

đơn vị hữu quan mà không có vai trò trong việc tham gia hoạch định chính sách

việc làm như Bộ Lao động, thương binh xã hội.

Mặt khác, hoạt động của công đoàn cơ sở trong KCN còn hạn chế do

không có điều kiện cũng như không có đủ khả năng đào tạo nghề và giải quyết

việc làm cho người lao động. Công đoàn cơ sở cũng không có kinh phí để tổ

chức dạy nghề cho người lao động. Đoàn phí Công đoàn quá ít ỏi, đơn vị sử

dụng lao động không muốn tổ chức cho người lao động học nghề vì sợ tốn kém

thời gian, tiền bạc, ảnh hưởng đến năng suất lao động, chủ sử dụng lao động sợ

khi người lao động được nâng cao tay nghề sẽ chuyển sang đơn vị khác. Cán bộ

công đoàn không biết cách thuyết phục người sử dụng lao động tổ chức cho

70

người lao động được nâng cao trình độ, tay nghề. Mọi quyết định về việc làm,

học nghề cho người lao động đều do chủ sử dụng lên phương án, quy định chi

tiết. Ý kiến của công đoàn cũng chỉ mang tính hình thức. Ở nhiều doanh

nghiệp, cán bộ công đoàn còn không dám đề xuất ý kiến để giải quyết việc làm,

bố trí việc làm cho người lao động vì sợ chủ doanh nghiệp bằng cách này hay

cách khác phạt, cúp lương của chính mình hoặc những người lao động khác.

3.2.2. Trong giải quyết chế độ tiền lương, ký kết và thực hiện thoả ước lao

động tập thể

Theo điều 44 của Luật lao động ghi rõ: “Thoả ước lao động tập thể là

văn bản thoả thuận giữa tập thể người lao động và người sử dụng lao động về

các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên

trong quan hệ lao động” [6, tr55]. Trong ký kết thoả ước lao động tập thể, công

đoàn có vai trò quan trọng đại diện cho tập thể người lao động ký kết thoả ước

lao động tập thể với giám đốc xí nghiệp thuộc các thành phần kỹ thuật, giám sát

việc thực hiện thoả ước đó. Việc ký kết thoả ước lao động tập thể chỉ được tiến

hành khi có 50% số người của tập thể lao động trong doanh nghiệp tán thành

nội dung thoả ước đã thương lượng. Trong những năm qua, công đoàn KCN

Sông Công đã tham gia tích cực với vai trò đại diện cho tập thể người lao động

ký kết thoả ước lao động.

Mặc dù trong những năm gần đây, KCN Sông Công là một trong những

KCN có nhiều dự án đầu tư từ nước ngoài cũng như trong nước đi vào hoạt

động và thu hút số lượng lớn công nhân tham gia lao động nhưng trong thực tế,

tỷ lệ thoả ước tập thể được ký kết còn thấp. Vai trò của công đoàn cơ sở trong

quá trình thương lượng, ký kết thoả ước lao động còn hạn chế từ việc chuẩn bị

nội dung và dự thảo thoả ước tập thể; thu thập thông tin, tham khảo ý kiến của

các cơ quan, tổ chức và các chuyên gia; cử đại diện có năng lực, trình độ, uy tín

và có kỹ năng tham gia thương lượng thoả ước tập thể tới việc chuẩn bị nội

dung, hình thức và phương pháp lấy ý kiến tập thể lao động một cách hiệu quả,

71

thiết thực, phù hợp, kỹ năng của cán bộ công đoàn còn hạn chế. Cán bộ công

đoàn cơ sở chưa hiểu biết đầy đủ chính sách pháp luật, nhất là luật lao động.

Kỹ năng đàm phán, thương lượng của cán bộ công đoàn còn kém, chưa đáp

ứng được nhu cầu đặt ra. Trong quá trình chuẩn bị cho một cuộc thương lượng,

phần đông cán bộ công đoàn cơ sở chưa biết cách thu thập và xử lý thông tin,

xác định mục tiêu, nội dung cần thoả thuận trong thoả ước, lúng túng trong việc

lấy ý kiến tập thể lao động và thành lập ban đại diện lao động. Nhiều cán bộ

công đoàn không biết cách tổ chức lấy ý kiến, thuyết phục tập thể người lao

động nhất là những người còn phân vân, chưa có chính kiến. Cán bộ công đoàn

tại các doanh nghiệp “vừa thiếu, vừa yếu” nên sức thuyết phục của họ với chủ

doanh nghiệp còn hạn chế. Trước khi thương lượng rất ít trường hợp cán bộ

công đoàn tìm hiểu đặc điểm tâm lý, tư tưởng, quan điểm của đối tác (người sử

dụng lao động) và các trường hợp xảy ra trong quá trình đàm phán. Vì vậy, khi

đàm phán cán bộ công đoàn thường lúng túng trong việc đưa ra những yêu cầu

có lợi cho người lao động và xử lý các bế tắc về nội dung thương lượng. Do

vậy, phần lớn thoả ước lao động tập thể được ký kết chủ yếu rập khuôn theo Bộ

luật lao động, không đem lại kết quả có lợi hơn cho người lao động. Việc ký

kết thoả ước chỉ tăng về số lượng mà chất lượng không cao. Nhiều doanh

nghiệp ký kết thoả ước chỉ nhằm mục đích tránh sự rắc rối của cơ quan cấp trên

trong quá trình kiểm tra chứ không xuất phát từ việc bảo đảm quyền lợi cho

người lao động.

Tiền lương là vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người lao

động. Đây là nguồn sống chính của họ và gia đình họ. Căn cứ vào nhu cầu tiêu

dùng tối thiểu của người lao động, chỉ số sinh hoạt, cung cầu lao động. Chính

Phủ quy định mức lương tối thiểu và điều chỉnh theo từng thời kỳ sau khi lấy ý

kiến của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Bộ, ngành có liên quan. Hiện

nay, mức lương tối thiểu của công nhân viên chức Nhà nước là 450.000đ/tháng.

Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) từ ngày 01/01/2007

72

lương cho người lao động được nâng lên gồm ba mức 710.000 đồng, 790.000

đồng, 870.000 đồng [dẫn theo 25]. Đối với KCN Sông Công, mặc dù mức lương

tối thiểu cho người lao động cũng được tăng lên hàng năm nhưng chỉ đáp ứng sinh

hoạt cuộc sống hàng ngày cho người lao động mà chưa có tích lũy.

Ngoài lương cơ bản, theo quy định của pháp luật lao động, người lao

động còn có thể được hưởng các chế độ phụ cấp như phụ cấp thâm niên vượt

khung; phụ cấp chức vụ lãnh đạo; phụ cấp kiêm nhiệm chức vụ lãnh đạo; phụ

cấp khu vực; phụ cấp đặc biệt; phụ cấp thu hút; phụ cấp lưu động; phụ cấp đặc

thù theo nghề hoặc công việc. Trên thực tế, việc chi trả tiền lương cho người

lao động còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đời sống của họ trong khi mức

lạm phát tăng cao.

Vấn đề đáng quan tâm hiện nay là hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc

doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không xây dựng thang lương,

bảng lương theo quy định hoặc có xây dựng nhưng khi thực hiện còn nhiều bất

cập. Nhiều doanh nghiệp ở các công trình xây dựng cơ bản, thanh toán tiền

lương cho người lao động chậm, có nơi chậm 3-4 tháng. Một số doanh nghiệp

xây dựng định mức lao động quá cao so với khả năng của người lao động tại

doanh nghiệp. Do đó, người lao động rất khó hoàn thành theo thời gian quy

định. Để hoàn thành được thì người lao động phải làm việc với cường độ cao,

thời gian lao động kéo dài. Trong khi đó, công đoàn cơ sở trong KCN chưa có

nhiều biện pháp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. Nội dung

hoạt động của công đoàn trong lĩnh vực tiền lương rất nhiều, song việc thực

hiện còn nhiều thiếu sót, hoặc không thực hiện. Pháp luật quy định, người sử

dụng lao động phải thảo luận với Ban chấp hành công đoàn cơ sở khi khấu trừ

tiền lương của người lao động, việc khấu trừ không quá 30% tiền lương hàng

tháng. Nhưng thực tế, việc khấu trừ tiền lương của người lao động do chủ sử

dụng lao động quyết định. Cán bộ công đoàn không được tham gia trong việc

xây dựng mức lương tối thiểu tại doanh nghiệp cũng như xây dựng quy chế

73

phân phối tiền lương và thu nhập trong doanh nghiệp. Cán bộ công đoàn ở

nhiều đơn vị không có khả năng kiểm tra, giám sát số lượng, đơn giá tiền lương

của các phòng, ban, đội sản xuất, không thực hiện đề xuất tăng lương, nâng

lương với người sử dụng lao động. Nhiều trường hợp hội đồng xét nâng lương

của doanh nghiệp hàng năm không có mặt của đại diện Ban chấp hành công

đoàn. Nguyên nhân của vấn đề này được lý giải bởi cán bộ công đoàn cơ sở

trong KCN Sông Công cũng là người “làm công ăn lương” nên họ không dám

đứng lên bảo vệ lợi ích của người lao động vì sợ ảnh hưởng đến bản thân mình.

Mặt khác, hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp chưa thực sự mạnh,

không có phương pháp thuyết phục người sử dụng lao động để đòi tăng lương

cho công nhân. Khi có vi phạm của người sử dụng lao động trong lĩnh vực tiền

lương, cán bộ công đoàn cũng không báo cáo lên công đoàn, cấp trên. Do kiến

thức pháp luật còn hạn chế, kỹ năng hoạt động còn yếu kém nên công đoàn

chưa thực sự đóng vai trò “người bảo vệ” giới thợ trong lĩnh vực tiền lương.

3.2.3. Trong lĩnh vực an toàn vệ sinh lao động và việc đóng, trả bảo hiểm xã

hội cho người lao động

Trên thực tế, tình trạng doanh nghiệp nợ đóng, đóng thiếu hoặc không

đóng bảo hiểm xã hội xảy ra ở một số doanh nghiệp trong KCN Sông Công.

Một số doanh nghiệp không trích nộp được một phần kinh phí, công đoàn phí

đầy đủ và thậm chí có những doanh nghiệp ngừng hoạt động trong một thời

gian nào đó do đổi mới dây truyền sản xuất, máy móc mới chưa thu hút được

lao động làm việc trở lại còn không tham gia trích nộp, đóng góp bảo hiểm.

Bên cạnh những doanh nghệp tham gia 100% thì cũng có những đơn vị, doanh

nghiệp công nhân, viên chức, lao động chỉ tham gia được 80 -85%... Trong đó

có nhiều doanh nghiệp chỉ đóng bảo hiểm tượng trưng. Nhiều doanh nghiệp

không đóng bảo hiểm hoặc đóng bảo hiểm với mức lương tối thiểu để thu lợi vì

nếu bị phát hiện cũng chỉ phạt tối đa 20.000.000 đồng so với số tiền bảo hiểm

doanh nghiệp phải đóng lên tới tiền tỷ là quá ít.

Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do người sử dụng lao động

74

trốn tránh nghĩa vụ để đầu tư vào sản xuất, nhằm thu lợi nhiều nhất và xét tới

cùng cũng có một phần không nhỏ trách nhiệm thuộc về công đoàn cơ sở. Công

đoàn KCN chưa đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra giám sát việc đóng bảo hiểm của

người sử dụng lao động. Khi biết chủ doanh nghiệp cố tình không đóng bảo

hiểm chưa kịp thời báo cáo lên công đoàn cấp trên. Nhiều trường hợp xảy ra

tranh chấp về bảo hiểm xã hội, cán bộ công đoàn không biết hoặc có biết nhưng

không hướng dẫn cho người lao động các bước giải quyết, cơ quan có thẩm

quyền giải quyết để người lao động được hưởng đúng chế độ. Bên cạnh đó,

kiến thức về pháp luật bảo hiểm xã hội của cán bộ công đoàn còn hạn chế nên

khi người lao động có vướng mắc về bảo hiểm cán bộ công đoàn còn lúng túng,

không biết xử lý, không dám kiến nghị đề xuất với người sử dụng lao động. Vì

vậy, nhiều trường hợp người lao động bị mất việc làm, tai nạn lao động, bệnh

nghề nghiệp, bị chết, bản thân họ cũng như gia đình họ không được hưởng các

chính sách bảo hiểm dẫn đến tình trạng kiện cáo kéo dài hàng năm trời.

Để đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, nhìn chung công đoàn cơ sở đã

tham mưu cho chủ các doanh nghiệp thực hiện tốt vấn đề này. Tuy nhiên, việc

các doanh nghiệp đảm bảo trang bị phương tiện bảo hộ lao động cho người lao

động; chế độ bồi dưỡng cho người lao động làm các công việc nặng nhọc, độc

hại; khám sức khỏe định kỳ cho người lao động còn hạn chế. Theo số liệu

thống kê của công đoàn có khoảng 22% công nhân làm thêm 1-2h; 19,92%

công nhân làm thêm 3-4h và 3,4% công nhân làm thêm 5-7h/tuần. Điều khó

khăn là các doanh nghiệp thường đưa ra định mức rất cao buộc người lao động

phải tăng cường mức độ công việc và tự nguyện làm thêm giờ.

Về điều kiện làm việc, đa số các doanh nghiệp người lao động phải làm

việc trong điều kiện chưa đảm bảo an toàn vệ sinh, thiếu ánh sáng và tiếng ồn

lớn. Một trong những nguyên nhân của tình trạng thiếu an toàn vệ sinh lao

động là do hoạt động công đoàn trong lĩnh vực này còn nhiều yếu kém, chưa

được quan tâm một cách thích đáng. Cán bộ công đoàn không có khả năng

75

thuyết phục người sử dụng lao động áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn, vệ

sinh lao động. Trong khi đó, kinh phí đảm bảo an toàn vệ sinh lao động được

hạch toán vào giá thành sản phẩm hoặc phí lưu thông cho nên doanh nghiệp

không muốn mất thêm một khoản tiền mà không thu lại lợi ích. Công đoàn ở

phần lớn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh

không tổ chức được các đợt huấn luyện về an toàn lao động do không có kinh

phí và không hiểu tầm quan trọng của công việc này. Mặt khác, theo quy định

của pháp luật hiện hành công đoàn không được phép tham gia thanh tra trong

lĩnh vực an toàn vệ sinh lao động. Vì vậy, hoạt động kiểm tra của công đoàn tại

các cơ sở chỉ mang tính chất hình thức, không được thực hiện thường xuyên.

Nhà nước chưa có quy định về việc thưởng cho các đơn vị hoặc cá nhân cán bộ

công đoàn hoạt động tốt trong lĩnh vực đảm bảo an toàn vệ sinh lao động nên

chưa khuyến khích được công đoàn thực hiện tốt công việc này.

3.2.4. Trong việc giải quyết tranh chấp lao động và đình công

Theo thống kê, ở KCN Sông Công vẫn xảy ra các vụ đình công và những

cuộc tranh chấp nhỏ song gần như 100% các cuộc đình công là bất hợp pháp.

Nguyên nhân là do không có công đoàn tham gia. Có thể thấy, ở khía cạnh này

thì hoạt động của công đoàn cơ sở còn kém, công đoàn tại các doanh nghiệp

chưa kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của người lao động đến

người sử dụng lao động và các cấp, ngành có liên quan. Tại nhiều doanh

nghiệp, công đoàn không nắm bắt kịp thời tình hình ở đơn vị mình, khi xảy ra

đình công công đoàn mới biết. Mặt khác, do thiếu bản lĩnh, không được trang

bị đầy đủ kiến thức pháp luật nên cán bộ công đoàn không dám đấu tranh bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. Một số cán bộ công đoàn bị chủ

doanh nghiệp sử dụng lôi kéo đứng về phía họ làm mất đoàn kết trong doanh

nghiệp, gây nên phản ứng tập thể của người lao động. Trong quá trình hoạt

động, công đoàn không tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật cho người

lao động nên nhận thức về pháp luật của người lao động còn hạn chế đã làm tỉ

lệ đình công gia tăng và gây thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp, cũng như

76

kinh tế xã hội.

3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và bài học kinh nghiệm

3.3.1. Nguyên nhân

Trong giai đoạn 1985 – 2014, bên cạnh những mặt tích cực mà tổ chức

công đoàn ở KCN Sông Công đã đạt được trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của người lao động thì nhiều hạn chế trong quá trình hoạt động cũng là

nguyên nhân khiến cho uy tín và hiệu quả của hoạt động công đoàn đối với sự

phát triển KCN chưa được triệt để.

3.3.1.1. Do hạn chế của pháp luật lao động

Nhìn chung, hệ thống các quy định về quyền kiểm tra, giám sát, quyền bảo

vệ người lao động, quyền xử lý các vi phạm của công đoàn tương đối nhiều.

Nhưng một số văn bản đã có phần lạc hậu, không phù hợp với nhu cầu và xu

thế phát triển của thời đại cụ thể là:

Một số quy định không còn phù hợp với các quan hệ kinh tế xã hội trong

điều kiện nền kinh tế thị trường. Thể hiện rõ nhất là những quy định về hình

thức kiểm tra, giám sát, về việc thực hiện pháp luật lao động của công đoàn ở

khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc doanh. Ví dụ, khoản

2, Điều 6 Luật Công đoàn quy định “Công đoàn phối hợp với cơ quan Nhà

nước nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động, xây dựng các

tiêu chuẩn quy phạm an toàn lao động và vệ sinh công nghiệp. Công đoàn có

trách nhiệm giáo dục, vận động người lao động chấp hành nghiêm chỉnh các

quy định về bảo hộ lao động và bảo vệ môi trường”.[11, tr4].

Một số văn bản gây khó khăn cho công tác công đoàn tại các doanh

nghiệp. Ví dụ, Luật công đoàn chỉ quy định về hoạt động công đoàn ở các quan

hệ lao động phát sinh ở các đơn vị Nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp mà

không có những quy định về vai trò của công đoàn trong các quan hệ lao động

diễn ra ở các doanh nghiệp. Một số văn bản dưới luật như Nghị định 06/NĐ-CP

ban hành 20/01/1995 quy định chi tiết về an toàn vệ sinh lao động quy định

77

công đoàn không được quyền thanh tra và xử phạt các vi phạm an toàn lao

động nên không có cơ sở pháp lý buộc chủ sử dụng thực hiện đúng điều kiện an

toàn vệ sinh lao động.

Mặc dù đã có những quy định về vai trò hoạt động của công đoàn, song

nhiều quy định chỉ mang tính hình thức. Ví dụ, như quyền tham gia xây dựng nội

quy lao động, quyền tham gia phiên họp xử lý kỷ luật đối với người lao động. Văn

bản quy định về thẩm quyền của công đoàn thì nhiều nhưng thiếu tính hệ thống,

nằm rải rác ở các văn bản khác nhau, nhiều quy định còn chung chung không

xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Công đoàn trong từng lĩnh vực cụ thể.

Một số quy định về quyền của công đoàn chỉ có tính chất là một quyền

chính trị hơn là một quyền pháp lý. Cụ thể, trong quyền kiểm tra giám sát của

công đoàn chỉ quy định về quyền tổ chức kiểm tra, giám sát mà chưa quy định

về trình tự, thủ tục thực hiện quyền đó cũng như quy chế pháp lý tạo điều kiện

cho công đoàn có khả năng thực hiện quyền đó. Trên thực tế, quyền kiểm tra

giám sát của công đoàn là một quyền quan trọng nhưng đến nay chưa có văn

bản nào quy định cụ thể về quyền này.

Những hạn chế của pháp luật lao động là nguyên nhân quan trọng nhất

dẫn đến hạn chế trong hoạt động công đoàn bởi dù công đoàn có cố gắng đến

đâu nhưng nếu không có một quy chế pháp lý rõ ràng vững thì tổ chức công

đoàn không thể hoạt động tốt được. Do vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật

lao động khi quy định về thẩm quyền của công đoàn chính là tiền đề pháp lý

quan trọng cho công đoàn hoàn thành nhiệm vụ trong thời kỳ hiện nay.

3.3.1.2. Do công tác cán bộ của tổ chức công đoàn và phương thức hoạt động

của công đoàn còn yếu

Năng lực hoạt động của tổ chức công đoàn chính là năng lực hoạt động

của các cán bộ công đoàn. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, đội ngũ

người lao động có sự thay đổi nhanh chóng, đa dạng về cơ cấu, điều kiện sống,

làm việc còn gặp nhiều khó khăn, nhận thức xã hội, trình độ tiếp thu văn hoá xã

78

hội chưa cao. Trong khi đó, cán bộ công đoàn vừa thiếu, vừa yếu, chưa đáp ứng

được yêu cầu và sự chuyển biến nhanh chóng, đa dạng của tình hình mới.

Nhiều cán bộ công đoàn còn yếu về nghiệp vụ, trình độ nhận thức kém, không

tự giác học hỏi, nâng cao trình độ, kiến thức pháp luật. Cán bộ công đoàn ở

một số doanh nghiệp trong KCN còn xem nhẹ việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của người lao động. Nhiều cán bộ công đoàn cấp trên hoạt động thuần

tuý như cán bộ công chức, không coi trọng công tác bồi dưỡng, phát huy

năng lực của đoàn viên công đoàn. Hoạt động của người cán bộ có nơi, có

lúc còn biểu hiện quan liêu, chậm đổi mới về phương pháp. Nội dung hoạt

động công đoàn chưa đáp ứng kịp thời với đòi hỏi của phong trào công nhân

trong nền kinh tế thị trường.

Đại bộ phận cán bộ công đoàn cơ sở là kiêm nhiệm, phải trực tiếp lao

động, sản xuất, phải trực tiếp lao động, sản xuất phụ thuộc vào doanh nghiệp,

không có điều kiện hoạt động, ít có thời gian nghiên cứu các văn bản - chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của công

đoàn cấp trên. Thậm chí vì miếng cơm, manh áo sợ mất việc làm mà họ thiếu

bản lĩnh trong đấu tranh, bảo vệ đoàn viên công đoàn, người lao động tại doanh

nghiệp. Mặt khác, nhiệm kỳ của công đoàn cơ sở ngắn, cán bộ công đoàn

thường xuyên biến động nên nhiều người có tâm lý e ngại không muốn làm

công tác công đoàn.

Sự phối hợp của công đoàn các cấp với cơ quan quản lý về lao động, với

những hiệp hội, tổ chức đại diện người lao động, với cơ quan báo chí và tổ chức

hữu quan trong quá trình giải quyết những bức xúc của người lao động chưa

nhiều.cTrong việc giải quyết tranh chấp lao động, hoạt động của cán bộ công đoàn

còn yếu kém, lỏng lẻo. Nhiều cuộc đình công xảy ra rồi cán bộ công đoàn cơ sở

mới biết. Trong việc thương lượng với chủ doanh nghiệp để xây dựng thoả ước

lao động, năng lực của cán bộ công đoàn còn kém, hoạt động còn mờ nhạt, không

thật sự đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của người lao động.

Hoạt động của tổ chức công đoàn hiện nay nặng về vận động, giáo dục

79

và thuyết phục mà không có các biện pháp đấu tranh trực tiếp. Chức năng chính

của công đoàn là bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động. Tuy nhiên, với

phương thức hoạt động như hiện nay, công đoàn khó có thể đảm nhiệm được

vai trò của mình, nhất là trong bối cảnh mối quan hệ chủ - thợ ngày một phức

tạp và gay gắt. Việc bảo vệ quyền lợi của người lao động không chỉ bằng lời

nói mà phải bằng các biện pháp cụ thể, đấu tranh trực tiếp bằng các công cụ

pháp luật, bằng toà án.

Nội dung hoạt động công đoàn còn dàn trải, phương pháp hoạt động còn

quan liêu, hành chính, máy móc rập khuôn. Ở một số doanh nghiệp có tổ chức

công đoàn, nhưng nội dung, phương pháp hoạt động chưa được rõ ràng. Mặt

khác, hoạt động công đoàn trong KCN Sông Công chưa thật sự dân chủ. Sự

chỉ đạo của cấp trên với cấp dưới được thực hiện như một mệnh lệnh hành

chính, thụ động, máy móc, không có điều kiện trao đổi, thảo luận. Hình thức

hoạt động thiếu sự gắn kết, văn bản nhiều nhưng chất lượng văn bản không

cao. Hội nghị tổng kết 5 năm, 10 năm hiếm khi đề ra phương pháp hoạt động

mới. Công tác tổ chức chỉ đạo của các cấp công đoàn chủ yếu trên giấy tờ

không có nhiều hoạt động xuống cơ sở nắm bắt tình hình, điều kiện làm việc

của người lao động.

3.3.1.3. Do những yếu tố khách quan đảm bảo cho hoạt động của công đoàn

Yếu tố đảm bảo hoạt động ở các đơn vị nhất là các doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân còn kém chưa được quan tâm thích

đáng. Theo điều 18 Nghị định 133/HĐBT-1991 quy định: Chủ tịch Công đoàn

được dành mỗi tháng từ 3-6 ngày hoạt động Công đoàn tuỳ theo số lượng lao

động và được hưởng nguyên lương. Thời gian hoạt động của cán bộ công đoàn

không chuyên trách, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức và Ban chấp hành

công đoàn quy định [12]. Trên thực tế, việc thực hiện các quy định này ở KCN

Sông Công còn gặp nhiều khó khăn. Cán bộ công đoàn cơ sở thường là cán bộ

kiêm nhiệm, người sử dụng lao động sợ cán bộ công đoàn nghỉ việc sẽ ảnh

80

hưởng đến năng suất lao động nên không tạo điều kiện cho cán bộ công đoàn

hoạt động công đoàn, nếu có thì thời gian hoạt động rất ít hoặc cán bộ công

đoàn phải làm thêm giờ để bù vào thời gian đã nghỉ.

Hiện nay, ở KCN vẫn chưa có một cơ chế đảm bảo quyền lợi cho cán bộ

công đoàn khi tham gia công tác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao

động. Khi tham gia hoạt động công đoàn, cán bộ công đoàn không chuyên trách

ngoài lương do doanh nghiệp trả, họ không được hưởng thêm một chính sách

nào. Bên cạnh đó, chính sách động viên, khuyến khích người lao động tham gia

công đoàn chưa cao, chưa hấp dẫn. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chủ doanh nghiệp không tạo điều kiện

cho thành lập công đoàn. Một số chủ tịch công đoàn tồn tại trên danh nghĩa,

mọi hoạt động phải thông qua ban giám đốc điều hành. Ở KCN Sông Công có

một số doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp Hàn Quốc, khi công đoàn báo

xuống làm việc thì thực tế công ty không sắp xếp để tiếp công đoàn hoặc báo là

chưa có sự chuẩn bị để tổ chức công đoàn có thể xuống làm việc. Mặt khác,

khả năng tài chính của tổ chức công đoàn chưa vững chắc. Hiện nay, nguồn thu

chính của công đoàn gồm kinh phí công đoàn, đoàn phí công đoàn và các

khoản thu khác. Nguồn thu chủ yếu là đoàn phí thu bằng 1% mức lương người

lao động và kinh phí công đoàn thu bằng 2% quỹ lương do chủ doanh nghiệp

đóng (trong đó trích 1% kinh phí công đoàn nộp lên công đoàn cấp trên).Vì

vậy, khả năng tài chính của công đoàn rất yếu, nhất là ở những cơ sở có ít đoàn

viên. Quỹ công đoàn eo hẹp nên hoạt động công đoàn chưa sôi nổi, chưa thu

hút được sự tham gia của đoàn viên. Nhiều nơi đoàn viên sau khi gia nhập tổ

chức công đoàn không đóng đoàn phí hoặc đóng không đầy đủ làm cho quỹ

công đoàn đã eo hẹp lại càng trở nên eo hẹp hơn. Từ đó, tạo tâm lý cho người

lao động không tin tưởng vào hoạt động công đoàn bởi nghèo nàn về hình thức

lẫn nội dung trong tổ chức hoạt động.

Do vậy, muốn hoạt động mông đoàn thu hút được đông đảo người lao

81

động, bên cạnh việc tuyên truyền, vận động người lao động phải đảm bảo kinh

phí cho hoạt động. Đây cũng là một trong những điều kiện cốt lõi để công đoàn

cơ sở thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

3.3.2. Bài học kinh nghiệm

Sự ra đời và hoạt động của tổ chức công đoàn tại KCN Sông Công cũng

để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá cho các tổ chức công đoàn cơ sở trong

tỉnh Thái Nguyên nói riêng và các KCN ở Việt Nam nói chung.

Để công đoàn cơ sở thật sự vững mạnh, cần tạo được sự đồng thuận về

nhận thức và tình cảm của cơ quan đơn vị. Công đoàn KCN Sông Công đã tạo

được mối quan hệ hài hòa về quyền lợi và nghĩa vụ giữa chủ sử dụng lao động

và người lao động. Hơn nữa, Ban chấp hành công đoàn và cán bộ doanh

nghiệp, cơ quan đơn vị, nhà máy, xí ngiệp, công nhân, viên chức và người lao

động dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy Đảng. Đây là công việc không hề

dễ dàng. Tuy nhiên, không giải quyết được mối quan hệ hài hòa ấy, sức mạnh

của cơ quan, đơn vị sẽ bị giảm sút, vai trò của công đoàn sẽ bị mai một. Tại

KCN Sông Công, công đoàn và các bên liên quan đã nhận thức đúng đắn mục

đích chung chân chính của đơn vị, xây dựng những tình cảm tích cực và hành

động một cách khoa học, mạnh mẽ. Đây là nền tảng cho sự phát triển của

doanh nghiệp, đơn vị, sự vững mạnh của công đoàn cơ sở, quyền lợi của giới

chủ và người lao động ngày càng được nâng cao.

Trải qua quá trình xây dựng và hình thành, công đoàn KCN Sông Công

đã chứng minh một điều rằng, phải xây dựng Ban chấp hành công đoàn cơ sở

có năng lực chuyên môn vững vàng; có kinh nghiệm hoạt động công đoàn;

nhiệt huyết với phong trào chung; có bản lĩnh cứng cỏi, đúng đắn nhất là vai trò

của Chủ tịch công đoàn. Có như vậy, Ban chấp hành công đoàn mới thực sự có

sức thu phục được quần chúng lao động và dễ có khả năng tạo sự hài hòa các

mối quan hệ.

Hoạt động công đoàn cơ sở cần có nội dung chương trình, kế hoạch rõ

82

ràng phù hợp với cơ quan đơn vị và mang màu sắc công đoàn. Nếu không có kế

hoạch cụ thể thì sẽ làm cho mục tiêu khó thành hiện thực. Các hoạt động có chủ

định, chủ điểm, hướng đến quyền, lợi ích chính đáng của người lao động và

mục tiêu chung của ngành, cơ quan đơn vị. Hoạt động không nên dàn trải và có

sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Chú trọng đôn đốc kiểm tra, động viên,

khuyến khích và rút kinh nghiệm kịp thời.

Ban chấp hành công đoàn luôn gần gũi, lắng nghe và tôn trọng ý kiến

quần chúng lao động. Mỗi cán bộ, nhân viên cần có năng lực dự cảm phân tích,

thuyết phục giới chủ và người lao động. Biết tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và

lãnh đạo của cấp Uỷ và lãnh đạo của công đoàn cấp trên trực tiếp. Từ đó tìm ra

những phương hướng hoạt động hiệu quả, thiết thực cho hoạt động công đoàn.

Trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, công đoàn cơ sở cần thực hiện

chế độ báo cáo thông tin chính xác, kịp thời đúng quy định với công đoàn cấp

trên và những bộ phận hữu quan. Để làm được điều đó, cần sự hoạt động tích

cực có nghiệp vụ của các Uỷ viên Ban chấp hành như văn thư, lưu trữ không

hoạt động theo hình thức kiêm nhiệm tránh chậm trễ và sai sót. Đồng thời, cần

làm tốt công tác tuyên truyền, vận động giáo dục để cán bộ, viên chức (nhất là

cán bộ trẻ) có nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của mình trong hoạt

động và xây dựng tổ chức công đoàn. Việc tổ chức các phong trào phải đi sâu

vào chất lượng, được duy trì lâu dài và phải đảm bảo tính công bằng để tạo

lòng tin cho cán bộ, công nhân, viên chưc, lao đông, tránh việc tổ chức qua loa

chỉ mang tính hình thức. Phải tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình thực

hiện phong trào và tiến hành biểu dương, nhân rộng những cá nhân, tập thể làm

tốt. Rút kinh nghiệm động viên những cá nhân và tập thể làm chưa tốt để để

thực hiện tốt hơn trong những lần sau. Ngoài ra, công đoàn phải thường xuyên

tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí, các hoạt động phong trào nhằm nâng

cao sức khỏe, tăng cường sự đoàn kết trong tập thể công nhân, viên chức và lao

động. Đặc biệt, Ban chấp hành KCN luôn tạo điều kiện và phản ánh tâm tư

nguyện vọng của công nhân, lao động để giúp họ an tâm làm việc, công tác,

83

chăm lo về vật chất và tinh thần cho họ.

Để triển khai thành công các cuộc vận động của chính quyền và công

đoàn cấp trên, cần cụ thể hóa nội dung các cuộc vận động thành các hoạt động,

các yêu cầu cụ thể bám sát với đặc điểm các doanh nghiệp, đơn vị. Thực tế cho

thấy, tổ chức công đoàn KCN Sông Công luôn có sự quan tâm đến công tác cán

bộ công đoàn từ khâu bầu chọn đến việc tổ chức bồi dưỡng năng lực công tác.

Một đội ngũ cán bộ công đoàn có nhiệt huyết cao, có năng lực tốt chắc sẽ giúp

hoạt động của công đoàn không ngừng khởi sắc. Cán bộ công đoàn các cấp cần

thường xuyên tranh thủ sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, phối hợp đồng bộ với

chính quyền các đoàn thể trong các đơn vị để có thể triển khai các hoạt động

công đoàn mang lại hiệu quả cao.

Trước yêu cầu của sự phát triển xã hội nói chung và tại KCN nói riêng,

tổ chức công đoàn ở KCN Sông Công đã tích cực hoạt động, đem lại nhiều bài

học kinh nghiệm quý giá trong xây dựng, tổ chức, thực hiện kế hoạch. Bởi vậy,

công đoàn KCN luôn nhận được nhiều sự khen ngợi từ Liên đoàn lao động tỉnh

Thái Nguyên và các cấp cao hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của KCN

Sông Công nói riêng và TP. Sông Công nói chung.

Tiểu kết chương 3

Ở chương này, tác giả đã đánh giá những kết quả đạt được cùng những

tồn tại, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong quá trình hoạt động của tổ chức

công đoàn KCN Sông Công. Trải qua chặng đường 30 năm xây dựng và phát

triển (1985 – 2014), tổ chức công đoàn KCN Sông Công luôn giữ một vị trí, vai

trò quan trọng, thực hiện tốt các vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình, góp

phần không nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển của KCN Sông Công, tạo đà

cho sự phát triển của TP. Sông Công.

Thông qua hoạt động tuyên truyền giáo dục, công đoàn đã tác động vào

công nhân, viên chức, lao động, làm họ hiểu lợi ích của họ gắn với lợi ích của

84

tập thể, lợi ích của xã hội. Công đoàn tham gia tìm và tạo điều kiện làm việc

cho người lao động thể hiện sự quan tâm chăm sóc tới đời sống người lao động,

giúp họ vượt qua khó khăn, tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng, nhà

nước và nhất là chính sách đãi ngộ từ các doanh nghiệp. Mặc dù quỹ phúc lợi

tập thể còn hạn chế, song công đoàn KCN luôn làm việc khách quan, dân chủ,

đúng đắn, phù hợp, từng bước tạo được niềm tin đối với trong người lao động,

khích lệ tinh thần để họ yên tâm sản xuất, lao động giỏi, lao động tốt. Đồng

thời, công đoàn đã thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước trong công

nhân, lao động giúp người lao động rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ, phát huy năng lực, nhất là trong đội ngũ lao động giỏi. Cùng với đó

là phong trào xanh - sạch - đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và vệ sinh

môi trường. Nhằm giữ gìn pháp luật, kỷ cương xã hội, tăng cường trách nhiệm

quản lý kinh tế, quản lý xã hội, công đoàn luôn quan tâm tới việc kiểm tra tư

vấn pháp luật tài chính trong công nhân viên, lao động. Nếu không có hoạt

động này của công đoàn, người lao động không được đảm bảo đúng quyền lợi

trong thực hiện các chế độ chính sách về tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi xã

quan tới quyền lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức và lao

hội. Công đoàn đã phát hiện những biểu hiện vi phạm pháp luật, chính sách liên

động, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền để được xem xét và giải quyết, góp

phần xây dựng, củng cố tổ chức đội ngũ cán bộ công đoàn, gắn bó công nhân,

85

viên chức và lao động với tổ chức công đoàn.

KẾT LUẬN

Bằng việc phân tích hoạt động của tổ chức công đoàn ở KCN Sông Công,

tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1985-2014, đề tài rút ra một số kết luận sau:

Sông Công là một thành phố công nghiệp, trung tâm kinh tế, hành chính,

văn hóa - xã hội phía Nam của tỉnh Thái Nguyên. Với vị trí chuyển tiếp giữa

đồng bằng và trung du, Sông Công có các tuyến giao thông quốc lộ, tỉnh lộ

chạy qua nối với thủ đô Hà Nội ở phía Nam và thành phố Thái Nguyên ở phía

Bắc. Đây là điều kiện rất thuận lợi để đẩy mạnh giao thương với các vùng kinh

tế Bắc thủ đô Hà Nội, phía Nam vùng Trung du miền núi phía Bắc và các vùng

kinh tế Tam Đảo - Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang. Với lợi thế đặc biệt, Sông

Công từ lâu đã được xác định là trung tâm công nghiệp lớn và là đô thị bản lề,

trung chuyển kinh tế giữa các vùng trong và ngoài tỉnh Thái Nguyên.

Năm 1999, Sông Công đã nhanh chóng hình thành một KCN (KCN Sông

Công) có đầy tiềm năng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào xây

dựng các nhà máy, xí nghiệp, công ty cổ phần…Theo đó, lực lượng lao động

trong KCN ngày càng được củng cố, gia tăng về số lượng và chất lượng để phục

vụ quá trình lao động sản xuất. Các doanh nghiệp với số lượng lớn lao động góp

phần đẩy mạnh các hoạt động của tổ chức công đoàn KCN.

Được manh nha từ năm 1985 với những hoạt động điển hình của các xí

nghiệp, điểm công nghiệp ở Sông Công nhưng phải tới năm 2006, tổ chức công

đoàn KCN Sông Công mới chính thức được thành lập. Trong giai đoạn 1985 đến

1995, công đoàn KCN Sông Công đã thực hiện theo nội dung của Đại hội Công

đoàn Việt Nam lần thứ VI. Với hai nhiệm vụ chính là: Động viên công nhân, lao

động, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hăng hái đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết

kiệm; Chăm lo đời sống bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động. Nhờ có

phương hướng hoạt động rõ ràng, Công đoàn KCN còn giúp người lao động

thích nghi với công cuộc đổi mới của đất nước, yên tâm lao động sản xuất.

86

Đồng thời cho ra đời một tổ chức quan tâm trực tiếp, bảo vệ quyền và lợi ích

chính đáng cho người lao động tại các xí nghiệp trong và ngoài nhà nước. Từ

khi Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên chính thức được thành lập

(20/11/2000) và chỉ đạo trực tiếp các KCN trên địa bàn, công đoàn KCN Sông

Công đã triển khai và thi hành nhiều hoạt động, hoàn thành vai trò, chức năng,

nhiệm vụ. Công đoàn đã tổ chức tuyên truyền giáo dục để người lao động và

giới chủ có hiểu biết cao về tổ chức công đoàn để họ tự nguyện ra nhập tổ chức

công đoàn và tạo điều kiện thuận lợi cho công đoàn hoạt động. Tổ chức các

phong trào thi đua yêu nước, tuyên truyền pháp luật, nâng cao ý thức tự giác

trong công việc. Đồng thời, xây dựng các chương trình học tập, thi đua nâng

cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho công nhân, viên chức, lao động, tạo

không khí vui tươi, phấn khởi, hăng hái trong lao động sản xuất. Chăm lo đời

sống, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân,

viên chức, lao động, mang lại lợi ích lớn cho chủ doanh nghiệp. Nhờ vào việc

thực hiện tốt vai trò của mình, công đoàn KCN Sông Công đã tạo ra sự ảnh

hưởng tích cực trong sự phát triển ổn định bền vững của KCN Sông Công nói

riêng và nền kinh tế tỉnh Thái Nguyên nói chung.

Thực tế hoạt động của tổ chức công đoàn trong KCN này cũng bộc lộ

nhiều hạn chế về luật pháp lao động, ngân sách hạn hẹp, cơ sở vật chất thiếu

thốn,… Cụ thể mức lương tối thiểu cho người lao động cũng được tăng lên hàng

năm nhưng chỉ đáp ứng sinh hoạt cuộc sống hàng chưa có tích lũy, thanh toán tiền

lương còn chậm hoặc không có khả năng chi trả (nhất là những năm 2008, 2009 -

khi kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới).

Mặc dù vậy, công đoàn KCN Sông Công từ khi chính thức thành lập vẫn

luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tiến tới xây dựng một khối công nhân,

viên lao động đoàn kết vững mạnh, luôn sẵn sàng bảo vệ quyền và lợi ích cho

cả người lao động và giới doanh nghiệp. Trong quan hệ lao động cho đến nay

87

chưa có tranh chấp lớn xảy ra tại KCN nhưng việc thực hiện các chế độ chính

sách, quyền lợi của người lao động cần được quan tâm nhiều hơn nữa, nhất là

trong vấn đề tiền lương.

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, công đoàn Việt

Nam nói chung và công đoàn KCN Sông Công nói riêng cần có những giải

pháp góp phần cùng nhà nước, doanh nghiệp và toàn xã hội thực hiện thắng lợi

mục tiêu phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức

cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đặc biệt trước nhu cầu ngày càng cao của xã

hội, công đoàn cần có những giải pháp góp phần nâng cao trình độ về mọi mặt,

chăm lo, cải thiện đời sống, bảo đảm việc làm, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp,

chính đáng của người lao động. Công đoàn phải chủ động phối hợp cùng các cơ

sở sản xuất, người sử dụng lao động và các doanh nghiệp trong KCN để giải

quyết các vấn đề lao động, tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động

theo hướng “Người lao động, đoàn viên công đoàn là trung tâm hoạt động công

đoàn”. Đồng thời, mở rộng và tăng cường các hoạt động của công đoàn khắc

phục những khó khăn còn thiếu sót góp phần thúc đẩy hoạt động của tổ chức

88

công đoàn ngày càng phát triển toàn diện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Ban đối ngoại TLĐLĐVN (2000), Toàn cầu hóa và phong trào công đoàn

thế giới, Nxb Lao động.

2. Ban thường vị thị xã Sông Công (2006), Sông Công thị xã tuổi 20 và kỷ yếu

20 năm thị xã Sông Công, Nxb Văn hóa thông tin.

3. Ban Thường vụ Thị uỷ thị xã Sông Công (2001), Sông Công thị xã bên dòng

sông huyền thoại, Nxb Văn hóa thông tin.

4. Ban tổ chức Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (1997), Một số vấn đề về tổ

chức và hoạt động của công đoàn khu vực kinh tế ngoài quốc dân.

5. Báo Lao động số 39+40 ngày 15/2/2007.

6. Bộ luật Lao động năm 1995 (2004), Nxb Lao động.

7. Phạm Quang Đồng (2004), Công đoàn tổ chức đại diện tập thể người lao

động lý luận và thực tiễn. Luận văn Thạc sĩ trường Đại học Công đoàn

8. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (2002) Nxb

Chính trị quốc gia.

9. Lênin (1987), Lê nin toàn tập, tập 38, NxbTiến Bộ.

10. Lênin (1987), Lê nin toàn tập, tập 42, Nxb Tiến Bộ.

11. Luật công đoàn năm 1990 (1995), Nxb Lao động

12. Nghị định 133/NĐ-HĐBT/ ban hành 20-4-1991 hướng dẫn chi tiết.

13. Nghị định 06/NĐ-CP ban hành ngày 20/1/1995 quy định chi tiết an toàn vệ

sinh lao động.

14. Nghị định 39/NĐ-CP ban hành ngày 18/4/2003 hướng dẫn thi hành một số

điều của Bộ luật Lao động.

15.Tạp chí Lao động và Công đoàn số 354 năm 2006.

16. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 360 năm 2006.

17. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 368 năm 2006.

89

18. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 369 năm 2006.

19. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 370 năm 2007.

20. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 371 năm 2007.

21. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 372 năm 2007.

22. Tạp chí Lao động và Công đoàn số 373 năm 2007.

23. TLĐLĐVN (2003), Điều lệ Công đoàn, Nxb Lao động.

24. TLĐLĐVN (2005), Tài liệu bồi dưỡng cán bộ Công đoàn cơ sở, Nxb Lao động.

25. Trường Đại học Công đoàn (1999), Giáo trình lý luận và nghiệp vụ công

đoàn, Nxb Lao động.

26. Trường Đại học Công đoàn (2001), Tổ chức và hoạt động của tổ chức Công

đoàn trong công ty cổ phần, Nxb Lao động.

27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình luật lao động, Nxb Công

an nhân dân.

28. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2002), Nxb Chính trị quốc gia.

29. Văn kiện đại hội công đoàn lần thứ IX (2003), Nxb Chính trị quốc gia.

30. Văn kiện hội nghị lần thứ 4 ban chấp hành Tổng liên đoàn lao động Việt

Nam lần thứ IX (2004), Nxb Lao động.

31. Văn kiện hội nghị lần thứ 8 ban chấp hành Tổng liên đoàn lao động Việt

Nam lần thứ IX (2006), NXB Lao động.

II. Website:

32. Trang Web Lao động Công đoàn.com.vn.

90

33. Trang Web VnExpress.com.vn.

PHỤ LỤC

CÁC ĐẠI HỘI, HỘI NGHỊ VÀ CÁC LỚP TẬP HUẤN

CỦA CÔNG ĐOÀN KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG

(Nguồn: Tác giả tự chụp tại Khu Công nghiệp Sông Công)

CÁC HOẠT ĐỘNG TỪ THIỆN CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN

KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG

(Nguồn: Tác giả tự chụp tại Khu Công nghiệp Sông Công)

LỄ KẾT NẠP ĐẢNG VIÊN CỦA CÔNG ĐOÀN

KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG

(Nguồn: Tác giả tự chụp tại Khu Công nghiệp Sông Công)