VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ MINH CẢNH

HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – Năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ MINH CẢNH

HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN

Chuyên ngành Mã số

: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự : 838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG

HÀ NỘI – năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung

thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng

được công bố trong bất cứ công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Minh Cảnh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG

TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM

VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................................................ 7

1.1. Khái niệm và đặc điểm về hoạt động tranh tụng của kiểm sát viên tại

phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ........................................................................ 7

1.2. Cơ sở và các tiêu chí đánh giá về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát

viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ......................................................... 12

CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG

HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN

TOÀ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI HUYỆN TUY AN, TỈNH

PHÚ YÊN ....................................................................................................... 24

2.1. Quy định của pháp luật về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại

phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ...................................................................... 24

2.2. Thực trạng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ

thẩm vụ án hình sự tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên ...................................... 30

CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT

ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI HUYỆN TUY AN,

TỈNH PHÚ YÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ................. 51

3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và các văn bản

pháp luật khác liên quan .................................................................................. 51

3.2. Các giải pháp khác nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của

Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ......................................... 59

KẾT LUẬN .................................................................................................... 68

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT : Cơ quan điều tra

ĐTV : Điều tra viên

HĐXX : Hội đồng xét xử

KSV : Kiểm sát viên

STVAHS : Sơ thẩm vụ án hình sự

THQCT : Thực hành quyền công tố

TNHS : Trách nhiệm hình sự

TTHS : Tố tụng hình sự

TAND : Toà án nhân dân

VKS : Viện kiểm sát

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tranh tụng là thành tựu của nền văn minh nhân loại, không chỉ thể hiện

bản chất nhân đạo mà còn phản ánh xu hướng phát triển dân chủ và tiến bộ

của tố tụng hình sự. Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

là một trong những nội dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động tố

tụng hình sự, nhằm đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng và công khai giữa những

người tham gia tố tụng và kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên

tòa, là căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án, là cơ sở để Hội đồng

xét xử ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong hoạt động xét xử thì tranh tụng chiếm vị trí rất quan trọng. Nghị

quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ ra những quan

điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian

tới, trong đó có nêu: “…Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại

phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, Người bào chữa, và những

người tham gia tố tụng khác..., việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu

vào kết quả tranh tụng tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các

chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, Bị cáo, nhân chứng,

nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản

án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật

quy định…” [7, tr.3]. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “tranh tụng” được chính thức

ghi nhận và là điểm nhấn trong tiến trình cải cách tư pháp, tạo sự đổi mới về

“chất” của công tác xét xử, góp phần nâng cao tính công bằng, khách quan và

đúng pháp luật cho các phán quyết của Toà án.

Trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp

1

đến năm 2020” đã đề ra: “…nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, coi

đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…” [8, tr.5]. Rõ ràng các Nghị

quyết của Bộ Chính trị đã xác định tranh tụng tại phiên toà là rất quan trọng,

quyết định và phải khẩn trương nâng cao chất lượng tranh tụng.

Chủ trương mở rộng, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà

là chủ trương đúng đắn, nâng cao tinh thần trách nhiệm và chất lượng công

việc của các cơ quan tư pháp. Thực tiễn tranh tụng tại các phiên tòa sơ thẩm

vụ án hình sự nói chung và Tòa án nhân dân huyện Tuy An nói riêng cho thấy

tranh tụng tại phiên toà còn mang tính hình thức. Tranh tụng tại phiên toà

hình như được hiểu là chỉ bó gọn trong phần tranh luận và ngay trong phần

tranh luận này, chất lượng tranh tụng của các phiên toà cũng không đồng đều,

có phiên toà thực hiện tranh tụng tốt, nhưng cũng có nhiều phiên toà tranh

tụng còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được yêu cầu là các bản án, phán quyết của

Toà án phải dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên toà như tinh thần

Nghị quyết 08-NQ/TW đã nêu. Từ thực trạng trên đặt ra việc tiếp tục nghiên

cứu những vấn đề về tranh tụng trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiện nay nhằm

đề xuất một số giải phù hợp với thực tiễn góp phần nâng cao chất lượng và

hiệu quả hoạt động tranh tụng tại các phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự nói

chung và phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự của huyện Tuy An nói riêng là hết

sức cần thiết.

Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát

viên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Tuy An, tỉnh

Phú Yên” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ Luật.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 08-NQ/TW

của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời

gian tới”, đã có một số công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến

2

tranh tụng. Các công trình đó tập trung giải quyết các vấn đề như: khái niệm

tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng, so sánh để làm rõ ưu điểm, hạn chế của hai

hệ thống tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn trên thế giới, việc vận dụng

tranh tụng trong tố tụng hình sự ở Việt Nam…

Trong đó, đáng chú ý như:

Đề tài khoa học cấp bộ “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh

tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên”, Viện kiểm sát nhân tối cao, năm 2005;

Đề tài khoa học cấp bộ “Tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam theo tinh

thần cải cách tư pháp”, Viện kiểm sát nhân tối cao, năm 2008. Hai đề tài đã

bàn những vấn đề cơ bản về hệ tố tụng tranh tụng, hệ tố tụng thẩm vấn và đưa

ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng theo tinh

thần cải cách tư pháp.

Đề tài khoa học “Cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành các quy định của

Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến tranh tụng tại phiên toà”, Toà án nhân

dân tối cao, năm 2007 bàn về khái niệm tranh tụng, thực trạng của hoạt động

tranh tụng tại phiên tòa và một số giải pháp nâng cao chất lượng tại phiên tòa

xét xử hình sự.

Một số luận văn Thạc sỹ, như: “Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên

tắc tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn

Tiến Long, năm 2005; “Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành

quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang”, Bùi Trí

Dũng, năm 2008; “Chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử hình sự sơ

thẩm của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá hiện nay”,

Mai Thị Nam, năm 2008 bàn về một số vấn đề liên quan đến hoạt động

tranh tụng của KSV; “Tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ

thực tiễn TAND quận Hoàng Mai, Hà Nội”, Đặng Hoàng Tú, 2015; “Hoạt động

tranh tụng của KSV Viện kiểm sát viên nhân dân tỉnh Quãng Ngãi tại phiên tòa

3

xét xử hình sự sơ thẩm”, Võ Thị Hồng Luyến, năm 2010.

Ngoài ra, có một số bài viết của các nhà khoa học đăng trên các tạp

chí chuyên ngành như tạp chí Tòa án nhân dân, tạp chí Kiểm sát, tạp chí

Luật học, tạp chí Nhà nước và pháp luật viết về những vấn đề liên quan đến

tranh tụng như: Mô hình tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng, tranh tụng tại

phiên tòa… Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu tổng hợp về hoạt

động tranh tụng của Kiểm sát viên, cũng như chưa có công trình nào

nghiên cứu về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về tranh tụng và đánh giá thực trạng hoạt

động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân huyện Tuy An tại

phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự, đề xuất những giải pháp thiết thực nâng cao

hiệu quả hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

huyện Tuy An tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự, hướng tới xây dựng một

phiên tòa thực sự bình đẳng, dân chủ, công bằng, góp phần thực hiện quá

trình cải cách tư pháp.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về hoạt động tranh tụng

của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự;

+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ

2015 đến 2019;

+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tranh tụng của Kiểm sát

4

viên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Từ thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân

huyện Tuy An, Phú Yên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề về hoạt

động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tại

phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ năm 2015 đến 2019.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn không nghiên cứu hoạt động tranh tụng ở các VKS địa

phương khác, cũng như không đề cập đến tranh tụng trong lĩnh vực tố tụng

dân sự, trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử phúc thẩm và hoạt động

tranh tụng trong các cơ quan tư pháp quân sự.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ

Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp

luật, nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử. Phương pháp cụ thể được áp dụng là: Phương pháp so sánh, phân tích,

tổng hợp kết hợp với khảo sát thực tiễn, tổng kết để làm sáng tỏ các nội dung

nghiên cứu của luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn, trong chừng mực, góp phần làm cơ

sở tham khảo cho việc nghiên cứu, phục vụ yêu cầu thực tiễn đánh giá, nâng

cao chất lượng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm

5

vụ án hình sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo hoạt động tranh tụng của Kiểm

sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tại phiên toà sơ thẩm vụ án

hình sự.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục

chữ cái viết tắt, nội dung luận văn được kết cấu thành 03 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát

viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Chương 2. Quy định của pháp luật về hoạt động tranh tụng của Kiểm

sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thi hành tại huyện

Tuy An, tỉnh Phú Yên

Chương 3. Các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của

Kiểm sát viên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án

6

hình sự.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG

CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM VỤ ÁN

HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm và đặc điểm về hoạt động tranh tụng của kiểm sát

viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

1.1.1. Khái niệm

Tranh tụng hiểu theo nghĩa cơ bản nhất theo Từ điển tiếng Việt thì

chính là sự kiện cáo nhau [47, tr.1654]. Đó là tranh luận giữa hai bên có lập

trường tương phản nhau, yêu cầu Tòa án làm trọng tài phân xử . Tuy nhiên,

đây là cách hiểu thông thường, và ở khía cạnh này, thuật ngữ tranh tụng được

dùng để nói chung trong tất các các hình thức tố tụng như: dân sự, hình sự,

hành chính… [50, tr.10]. Tranh tụng trong tiếng Anh là từ “Adversarial” có

nghĩa là đối kháng, đương đầu. Xét về bản chất, tranh tụng là “cuộc đấu” giữa

hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà người đứng

ra phân xử trong cuộc tranh đấu này chính là Tòa án [50, tr.11].

Xét về mặt lịch sử, tranh tụng hình sự là một nội dung cụ thể của nền

tư pháp tranh tụng hình thành từ thời cổ đại mà tư tưởng của nó bắt nguồn từ

nhà triết học cổ đại nổi tiếng người Hy Lạp là Plato [53, tr.9]. Ông cho rằng

“Bằng cách nói chuyện (đối thoại) về một điều gì đó trong một thời gian dài,

một vài dấu hiệu hoặc hiểu biết sẽ xuất hiện, và cả hai bên sẽ cùng nhìn ra sự

thật” [53, tr.9]. Ý tưởng này của Plato được các Luật gia Hy Lạp cổ đại phát

triển và xây dựng thành một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS ở Nhà

nước Hy Lạp cổ đại. Sau đó, nguyên tắc này được đưa vào áp dụng ở La Mã

và các quốc gia khác ở Châu Âu, với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục” [16,

tr.3]. Như vậy, vấn đề tranh tụng đã được đề cập từ rất lâu trong lịch sử tư

7

pháp, bản chất của nó là hoạt động đối đáp liên tục giữa các bên có lợi ích đối

kháng nhau trước người trọng tài đóng vai trò phân xử để đi tìm chân lý.

Bên cạnh đó, xét về khía cạnh thuật ngữ pháp lý, tranh tụng được hiểu

theo ba nội dụng khác nhau: thứ nhất được hiểu là một mô hình tố tụng; thứ

hai được hiểu là một nguyên tắc thuộc tố tụng hình sự; thứ ba được hiểu là

phương thức, là giai đoạn thực hiện vai trò của các chức năng đối lập nhau và

có quyền ngang nhau trong tố tụng hình sự hay còn gọi là hoạt động tranh

tụng [49, tr.21]. Dù hiểu theo nghĩa nào thì tranh tụng luôn có bản chất là

cách thức đi tìm sự thật khách quan của vụ án mà hoạt động tố tụng hình sự

luôn muốn hướng tới. Theo nhiều luật gia, phương thức tranh tụng là phương

thức có ưu điểm nhất trong việc vừa có thể tìm ra sự thật khách quan của vụ

án vừa có thể bảo vệ hữu hiệu quyền con người của người buộc tội và chống

oan sai, có thể hiểu: “Tranh tụng là việc từng bên đưa ra các quan điểm của

mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía

bên kia” [45, tr.8].

Với ý nghĩa là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc

tranh tụng là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho các chủ thể trong việc

thực hiện quá trình tranh cãi bình đẳng dựa trên chứng cứ, quy định của pháp

luật nhằm thực hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa, từ đó tìm

ra sự thật khách quan của vụ án [45, tr.8]. Như vậy, tranh tụng trong tố tụng

hình sự thực chất là quá trình vận động tác động qua lại giữa hai chức năng cơ

bản của tố tụng hình sự: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa [38, tr.9].

Chủ thể thực hiện các chức năng tố tụng này được tạo điều kiện “bình đẳng”

với nhau trong việc bày tỏ ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình trong toàn bộ quá

trình giải quyết vụ án mà đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên tòa sơ

thẩm vụ án hình sự [38, tr.9].

Nguyên tắc này được thừa nhận rộng rãi trên thế giới không chỉ ở

8

những nước có mô hình tố tụng tranh tụng mà còn ở những nước có mô hình

tố tụng pha trộn (ví dụ như ở Việt Nam) [38, tr.9]. Tuy có sự thể hiện ở các

mức độ khác nhau, mặc dù có thể được thể hiện hoặc chưa thể hiện trong văn

bản pháp luật cụ thể là BLTTHS thì nguyên tắc tranh tụng vẫn đang là cơ sở

định hướng cho việc xây dựng quy định của BLTTHS cũng như thực hiện quá

trình giải quyết vụ án để tìm ra sự thật khách quan.

Mặc dù đã xuất hiện và được thừa nhận từ rất lâu trong lịch sử tư pháp

ở các nước phát triển khác, nhưng vấn đề tranh tụng cũng như nguyên tắc

tranh tụng rất ít được nghiên cứu ở Việt Nam và đặc biệt cho đến trước năm

2013 thì nó chưa được thừa nhận trong các văn bản pháp lý chính thức của

Nhà nước [50, tr.12]. Sự thừa nhận mang tính sơ khai đầu tiên về tranh tụng ở

Việt Nam trong các văn bản chính thức của Đảng đó chính là Nghị quyết

08/2002/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng

tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, xác định“…việc phán quyết của

tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở

xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào

chữa, bị cáo …để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết

phục và trong thời hạn pháp luật quy định” [50, tr.13]. Tiếp theo đó, vấn đề

tranh tụng tiếp tục được Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” thể hiện, theo đó:

“Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh

tụng tại tất cả phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan

tư pháp” [50, tr.13]. Quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động tranh

tụng tiếp tục được thể chế hóa ở Hiến Pháp 2013, tại khoản 5 Điều 103 quy

định” nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” [50, tr.11]. Nguyên

tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được cụ thể hóa tại Điều 26 và

Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định: “Bị cáo,

9

người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa

ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về

những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ

nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây

ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng,

giảm nhẹ trách nhiệm hinh sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật

chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết

khác có ý nghĩa đối với vụ án; Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố

tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra

chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo,

người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa… Hội đồng xét xử

phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào

chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn

diện sự thật của vụ án” [36, tr.274].

Từ đó chúng ta có thể đưa ra khái niệm Hoạt động tranh tụng của KSV

tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự" đó là, quá trình tác động qua lại bằng việc

tranh luận, đối đáp giữa KSV với các chủ thể khác từ khi khai mạc phiên tòa

cho đến khi kết thúc phần tranh luận nhằm làm sáng rõ sự thật khách quan,

làm rõ tất cả các tình tiết của vụ án, bảo vệ quan điểm của VKS trong Cáo

trạng, giúp cho HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

1.1.2. Đặc điểm

Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

(STVAHS) là một hoạt động đặc biệt, thể hiện ở một số đặc điểm sau đây:

- Khi tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, KSV là một chủ thể

tranh luận đặc biệt. Bởi vì KSV tranh luận với tư cách nhân danh công

quyền, đưa ra sự cáo buộc công khai đối với Bị cáo về hành vi nguy hiểm

cho xã hội bị coi là tội phạm, nhằm bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp

10

pháp của công dân bị xâm hại, bảo vệ pháp chế và kỷ cương xã hội. Trong

khi đó, Bị cáo, Người bào chữa, Bị hại, Nguyên đơn dân sự, Bị đơn dân sự,

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Người đại diện hợp pháp và

Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người tham gia tranh luận với tư

cách là cá nhân công dân, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân họ hoặc người họ đại diện mà thôi.

Sự đặc biệt còn thể hiện ở chỗ sự bắt buộc có mặt tại phiên tòa sơ thẩm

vụ án hình sự của KSV. Theo quy định của BLTTHS thì tại phiên tòa sơ thẩm

vụ án hình sự có mặt của những người tham gia tố tụng là không bắt buộc

100%, trong nhiều trường hợp tuy họ vắng mặt nhưng phiên tòa vẫn được tiến

hành xét xử. Nhưng sự có mặt của KSV là bắt buộc, nếu KSV vắng mặt thì

trong mọi trường hợp phải hoãn phiên tòa.

-Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, KSV không chỉ là chủ thể tranh

tụng mà còn là chủ thể kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tranh

tụng tại phiên tòa. Nhiệm vụ này xuất phát từ chức năng THQCT và kiểm sát

hoạt động tư pháp của VKSND. Những chủ thể tranh tụng khác như Bị cáo,

Người bào chữa, Người bị hại… là đối tượng của hoạt động kiểm sát việc

tuân theo pháp luật tại phiên tòa. KSV tiến hành kiểm sát việc tranh tụng theo

các nội dung như: tư cách chủ thể, trình tự, nội dung và phạm vi tranh tụng

theo quy định của BLTTHS. Như vậy, khi tranh tụng tại phiên tòa, KSV là

người áp dụng và tuân thủ pháp luật, đồng thời giám sát việc tuân thủ pháp

luật của các chủ thể khác.

- Phải tôn trọng sự thật khách quan của vụ án. Trong quá trình đối đáp

tranh luận, Kiểm sát viên không nên tranh luận theo ý thức chủ quan của

mình, mà phải dựa trên cơ sở, tình tiết, chứng cứ khách quan của vụ án đã

được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở căn cứ quy định của pháp luật để đưa

ra quan điểm tranh luận với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia

11

tố tụng khác.

- Phải bảo đảm quyền bình đẳng giữa KSV với người tham gia tố tụng.

HĐXX phải tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng trình bày đầy đủ ý

kiến của mình [50, tr.14]. Khi tranh luận, Kiểm sát viên phải bình tĩnh, khách

quan và tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng, ghi nhận ý kiến đúng

đắn và bác bỏ những ý kiến, đề nghị không có căn cứ pháp luật [50, tr.14].

- Quá trình tranh tụng phải đề cao và tôn trọng nguyên tắc “thượng tôn

pháp luật”. Khi đối đáp tranh luận, đòi hỏi các bên phải căn cứ trên cơ sơ pháp

luật. Nhất là đối với Kiểm sát viên thực hiện chức năng thực hành quyền công

tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, cũng là cơ quan bảo vệ pháp luật; bảo vệ

quyền, lợi ích chính đáng của công dân, đảm bảo việc xử lý phải đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, không để oan, sai thì càng đòi hỏi việc tranh luận phải

trên cơ sở các quy định của pháp luật. Tuyêt đối không được tranh luận theo

kiểu nể nang hay vì động cơ cá nhân khác mà suy diễn, áp đặt ý thức chủ quan

của mình khi đối đáp tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên tòa.

- Đảm bảo tính văn hóa trong đối đáp tranh luận. Kiểm sát viên khi

tranh luận sử dụng những ngôn từ có tính văn hóa, dễ hiểu. Nghĩa là phương

pháp đối đáp phải nhẹ nhàng, lịch sự, có sức thuyết phục cao đối với người

nghe. Không nên sử dụng ngôn từ mang tính đả kích, tự cao, xem thường

người phát biểu tranh luận với mình, hay có thái độ cau có, gay gắt, quát

nạt… Không được lợi dụng việc tranh luận để đã kích, cải vã tay đôi tại phiên

tòa, làm ảnh hưởng đến vị thế của Kiểm sát viên và của Ngành.

1.2. Cơ sở và các tiêu chí đánh giá về hoạt động tranh tụng của

Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

1.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động tranh tụng của Kiểm

sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Thứ nhất, về cơ sở lý luận

12

Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là

một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng hình

sự, là yêu cầu cấp bách trong việc đảm bảo tính công bằng dân chủ giữa

người tham gia tố tụng với Viện kiểm sát, là căn cứ để xác định sự thật vụ án

và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án đúng đắn, khách quan, đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật. Xác định tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng

tại phiên tòa, tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị

quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005,

Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 v.v… đã xác định tầm quan trọng của

tranh tụng trong xét xử, coi nội dung này là một trong những nội dung trọng

tâm của cải cách tư pháp, là khâu đột phá của cải cách tư pháp [8, tr.5].

Quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động tranh tụng đã được thể

chế hóa ở Hiến pháp 2013 [50, tr.15]. Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp quy

định“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [50, tr.15]. Như

vậy, lần đầu tiên, việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được ghi nhận thành

một nguyên tắc, thể hiện bước tiến lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật và

phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước ta [50, tr.15].

“Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được quy định tại Điều 26 Bộ

luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và cụ thể hóa tại Điều 322

BLTTHS năm 2015 quy định: “Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố

tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của

mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng

cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo

trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hinh sự, mức

hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên

nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; Bị

13

cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị

của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp

đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng

khác tại phiên tòa… Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến

của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại

phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án” [36, tr.274].

Như vậy, trên cơ sở chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng hoạt

động tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử hình sự; các qui định của Bộ

luật TTHS và qui định của Hiến pháp 2013, chúng tôi nhận thấy khái niệm

tranh tụng xuất hiện đầu tiên và chính thức là từ các Nghị quyết của Đảng về

cải cách tư pháp, gần đây được Hiến pháp qui định. Tranh tụng được hiểu với

nghĩa không phải là một kiểu mô hình tố tụng mà là hoạt động tranh luận của

KSV và những người tham gia tố tụng khác trong tố tụng hình sự, cụ thể là tại

phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự. Trong đó, KSV và người tham gia tố tụng

dựa trên các tài liệu, chứng cứ; các qui định của pháp luật; trên cơ sở tư duy

logic hình thức để đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng nhằm làm rõ

sự thật khách quan của vụ án [50, tr.16].

Từ khái niệm nêu trên, bản chất của khái niệm “tranh tụng” được nhìn

dưới hai góc độ pháp lý và nhận thức; dưới góc độ pháp lý, bản chất của tranh

tụng gồm có các nội dung cơ bản sau đây [50, tr.16]:

- Tranh tụng là hoạt động tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng

phải tuân theo các qui định của Bộ luật TTHS [39, tr.5].

- Chủ thể của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên và người tham gia tố

tụng khác; các chủ thể xuất phát từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng

bình đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan điểm

về giải quyết vụ án; Kiểm sát viên có thể tranh tụng với người bào chữa, với

bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật

14

khách quan của đối tượng tranh tụng [50, tr.19].

- Hoạt động tranh tụng tại phiên toà diễn ra dưới sự điều khiển của chủ

toạ phiên toà; Chủ tọa phiên toà có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh

tụng hoặc chấm dứt tranh tụng, điều chỉnh nội dung cũng như phương pháp

tranh tụng cho phù hợp với qui định của pháp luật và sự cần thiết làm rõ các

vấn đề của vụ án [50, tr.20].

- Mục tiêu của hoạt động tranh tụng là nhằm làm rõ sự thật khách quan

của vụ án; sự thật khách quan này bao gồm sự thật như nó đã diễn ra trên thực

tế và được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ pháp lý (dưói góc độ đánh giá

trên cơ sở pháp luật hình sự và TTHS) [50, tr.20].

- Đối tượng của hoạt động tranh tụng là các quan điểm, luận cứ và luận

chứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án [53, tr.7].

- Cách thức tranh tụng là các bên chủ thể tranh tụng sử dụng các chứng

cứ trong hồ sơ vụ án cũng như chứng cứ mới cung cấp đã được kiểm tra tại

phiên tòa, các qui định của pháp luật hiện hành để làm rõ các đối tượng tranh

tụng [29].

Dưới góc độ coi tranh tụng là hoạt động tư duy, nhận thức; bản chất

của tranh tụng có các nội dung sau [50, tr.14]:

+ Tranh tụng được tiến hành trên cơ sở tư duy logic hình thức. Các bên

tranh tụng có thể sử dụng các kỹ năng tranh tụng khác nhau để khẳng định

quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm hoặc thừa nhận quan điểm của bên

tranh tụng đối lập [50, tr.14].

+ Tranh tụng không chỉ là quyền, là trách nhiệm của các bên tham gia

tranh tụng mà còn là một phần của sự thật khách quan của vụ án. Nói cách

khác, tranh tụng không chỉ là phương tiện để đạt được sự thật khách quan mà

tranh tụng còn là một phần của sự thật khách quan của vụ án. Chân lý về vụ

án phải tìm thấy, có được thông qua tranh tụng. Tất nhiên, thuộc tính này của

15

tranh tụng là xét về nguyên tắc. Với những vụ án mà bị cáo nhận tội và có đủ

chứng cứ để khẳng định lời nhận tội của bị cáo là có cơ sở, tại phiên toà

không có những quan điểm xung đột thì không phát sinh tranh tụng hoặc nếu

có thì chỉ ở mức độ nhất định [50, tr.14].

* Nguyên tắc tranh tụng

Nguyên tắc là tư tưởng có giá trị làm nền tảng, làm cơ sở cho những

thiết chế và hoạt động. Nguyên tắc trong một quan hệ pháp luật tố tụng là

những tư tưởng pháp lý làm nền tảng, làm cơ sở cho việc xây dựng và thực thi

pháp luật trong lĩnh vực tố tụng đó [50, tr.14].

Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong

xét xử được bảo đảm”, đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, tranh tụng

được ghi nhận là một nguyên tắc [50, tr.15]. Nội hàm của nguyên tắc tranh

tụng có các nội dung cơ bản sau:

+Hoạt động xét xử phải bảo đảm tranh tụng giữa KSV với những người

tham gia tố tụng khác; tranh tụng là trọng tâm của hoạt động xét xử [50,

tr.15];

+Các bên tranh tụng bình đẳng với nhau về quyền đưa ra tài liệu, chứng

cứ, yêu cầu; đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng của mình; bình đẳng

trong đối đáp, tranh luận, chứng minh, bác bỏ quan điểm lần nhau [50, tr.15].

+ KSV và người tham gia tranh tụng phải tranh tụng với tinh thần trách

nhiệm, trên cơ sở chứng cứ khách quan và qui định của pháp luật; với tinh

thần tôn trọng lẫn nhau, có văn hoá ứng xử [50, tr.15].

+Bản án và quyết định của Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng

tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện các luận điểm, luận cứ và luận

chứng của các bên tranh tụng [50, tr.15].

+Toà án có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các qui định

của pháp luật theo qui định của BLTTHS để các bên tham gia tranh tụng [50,

16

tr.15].

Với các nội dung trên thì phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc tranh tụng

chủ yếu là tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự; bắt đầu từ khi Toà án mở

phiên toà cho đến khi kết thúc phiên toà và tập trung trong phần tranh luận

của KSV với những người tham gia tố tụng…[50, tr.16]

* Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

[50, tr.10]

KSV là chủ thể chính của tranh tụng. Tranh tụng vừa là quyền, vừa là

trách nhiệm của KSV [50, tr.13]. Mục đích của tranh tụng của KSV có mục

đích trước mắt và mục đích cuối cùng [50, tr.13]. KSV tranh tụng trước hết

nhằm mục đích bảo vệ tính đúng đắn, khách quan, tính hợp pháp và có căn cứ

của quan điểm truy tố (thể hiện trong bản cáo trạng). Nói cách khác, xuất phát

điểm của tranh tụng của KSV với những người tham gia tố tụng khác là nhằm

bảo vệ tính có căn cứ, hợp pháp của quan điểm truy tố [50, tr.29]. Tranh tụng

của KSV suy cho cùng là nhằm bảo vệ sự thật khách quan của vụ án (chân lý

về vụ án) [50, tr.29]. Khi tranh tụng, KSV xuất phát điểm là nhằm bảo vệ

quan điểm truy tố, do vậy các luận điểm, luận cứ và luận chứng là nhằm thực

hiện mục đích này. Tuy nhiên thông qua tranh tụng, KSV có thể phát hiện ra

những nội dung bất hợp lý, thiếu căn cứ hoặc không phù hợp pháp luật của

quan điểm truy tố [50, tr.29]. Nếu đủ cơ sở, KSV sẽ xử lý các tình huống phát

sinh nói trên theo qui định của pháp luật TTHS; cụ thể như: Có thể đề nghị

HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung; rút một phần hoặc toàn bộ quyết định

truy tố; chuyển tội danh nhẹ hơn hoặc thay đổi khung khoản truy tố phù hợp

với thẩm quyền xét xử của HĐXX (ở cấp sơ thẩm) [50, tr.30].

Hoạt động tranh tụng của KSV chủ yếu thực hiện tại phiên toà, tập

trung ở giai đoạn tranh luận. Tuy nhiên để tranh tụng tốt thì KSV phải thực

hiện đầy đủ và có chất lượng việc xét hỏi, vì xét hỏi chính là để làm rõ các

17

chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, làm rõ cơ sở để bảo vệ quan điểm truy tố.

Nhìn chung, để đảm bảo tranh tụng có chất lượng tốt thì KSV phải đáp ứng

được các điều kiện bắt buộc để tranh tụng, phải thực hiện tốt nhiều hoạt động

mang tính chất chuẩn bị trước khi tham gia phiên toà, phải có các kỹ năng

nghiệp vụ khi tham gia tranh tụng, có tinh thần trách nhiệm, có lương tâm và

danh dự nghề nghiệp [50, tr.30].

Cơ sở thực tiễn,

Để thực hiện tốt hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình

sự, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động tố tụng trong quá trình

giải quyết vụ án, nắm chắc các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, am hiểu kỹ

năng nghiệp vụ, vận dụng linh hoạt vào việc xử lý tình huống tại phiên tòa.

Nội dung tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa chủ yếu phụ thuộc vào

nội dung của những ý kiến, quan điểm, đề nghị của bị cáo, người bào chữa và

những người tham gia tố tụng khác đối với quan điểm luận tội của Kiểm sát

viên và đối với việc giải quyết vụ án.

Tuy nhiên, thực tiễn tại nhiều phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ở huyện

Tuy An thường xảy ra một số tình huống tranh tụng mà Kiểm sát viên phải xử

lý, đó là:

+ Trường hợp tranh luận đối với bị cáo và người bào chữa

Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, bị cáo, người bào chữa của bị cáo

thường tranh luận để tự bào chữa hoặc bào chữa, bảo vệ lợi ích của bị cáo

theo những hướng sau đây:

- Hướng thứ nhất: Bị cáo, người bào chữa đưa ra cơ sở chứng cứ và căn

cứ pháp luật để chứng minh bị cáo không phạm tội như Viện kiểm sát đã truy

tố trong bản Cáo trạng.

Để đối đáp, tranh luận lại, Kiểm sát viên phải đưa ra được những chứng

cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa kết hợp với những tài liệu, chứng cứ đã có

18

trong hồ sơ vụ án và những căn cứ pháp luật nhằm bác bỏ những chứng cứ,

căn cứ pháp lý mà bị cáo, người bào chữa đã nêu ra, phải vận dụng kiến thức

pháp lý về cấu thành tội phạm để phân tích, chứng minh bị cáo phạm tội như

Viện kiểm sát đã truy tố. Ví dụ: Để chứng minh bị cáo không phạm tội vi

phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí

(Điều 219 BLHS), người bào chữa đưa ra những chứng cứ chứng minh hành

vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản của bị cáo chỉ gây ra thất thoát

dưới 100 triệu đồng và chưa từng bị xử lý kỷ luật về hành vi này. Trong

trường hợp này, Kiểm sát viên phải đưa ra những chứng cứ chứng minh hành

vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản của bị cáo đã gây ra thất thoát về

tài sản (từ 100 triệu đồng trở lên).

- Hướng thứ hai: Bị cáo, người bào chữa đưa ra cơ sở chứng cứ và căn

cứ pháp luật để chứng minh bị cáo phạm tội khác nhẹ hơn hoặc bị cáo phạm

tội như Viện kiểm sát đã truy tố nhưng ở khoản khác nhẹ hơn trong cùng một

điều luật.

Trong trường hợp này, Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ tài liệu buộc

tội để kiểm tra, đối chứng ngay tại phiên tòa, nếu cần thiết, Kiểm sát viên có

thể đề nghị Hội đồng xét xử quay lại phần xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội

của bị cáo và những tình tiết của vụ án. Đồng thời vận dụng lý luận về cấu

thành tội phạm, các tình tiết định tội, định khung để phân tích, chứng minh

hành vi phạm tội của bị cáo hội đủ yếu tố cấu thành tội phạm, khoản của điều

luật mà Viện kiểm sát đã truy tố. Mặt khác, phải chứng minh rằng tội danh

hoặc khoản của điều luật mà bị cáo, người bào chữa đã nêu ra có ít nhất một

yếu tố cấu thành không được đáp ứng hoặc không được hiểu chính xác. Ví dụ:

Để chứng minh bị cáo không phạm tội “Cướp tài sản” như Viện kiểm sát đã

truy tố mà chỉ phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”, người bào chữa đưa ra chứng

cứ chứng minh bị cáo chỉ đe dọa dùng vũ lực chứ không phải là đe dọa dùng

19

vũ lực “ngay tức khắc”. Đối đáp lại, Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ

chứng minh các yếu tố liên quan đến hành vi của bị cáo như thời gian, không

gian, địa điểm xảy ra vụ việc, thái độ, cử chỉ, lời nói của bị cáo khi đe dọa,

tương quan lực lượng, trạng thái tâm lý của người bị hại... để có đủ cơ sở kết

luận hành vi của bị cáo là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho người bị

hại lâm vào tình trạng không thể chống cự được nên đủ yếu tố cấu thành tội

cướp tài sản.

- Hướng thứ ba: Bị cáo, người bào chữa đồng ý với Viện kiểm sát về

tội danh nhưng không thống nhất về cách đánh giá tính chất, mức độ phạm tội

của bị cáo và đưa ra một số tình tiết giảm nhẹ, tình tiết về nhân thân... để được

Hội dồng giảm nhẹ mức hình phạt, xin được hưởng án treo, giảm nhẹ trách

nhiệm bồi thường dân sự... Đối với tình huống này, Kiểm sát viên cần ghi

chép các tình tiết giảm nhẹ, các tình tiết về nhân thân mà người bào chữa nêu

ra, đối chiếu với các quy định của pháp luật xem tình tiết nào được luật quy

định, tình tiết nào chưa được luật quy định, tình tiết nào đã được Viện kiểm

sát áp dụng để từ đó chấp nhận hay không chấp nhận lời đề nghị của bị cáo,

người bào chữa.

- Hướng thứ tư: Bị cáo, người bào chữa nêu ra một số sai sót về trình

tự, thủ tục trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để đề nghị Hội đồng xét xử

trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Để xử lý tình huống này, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ nội dung đề

nghị của bị cáo, người bào chữa và đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ

án để xem xét đánh giá những sai sót được nêu ra có chính xác không? Có

thuộc trường hợp phải trả hồ sơ điều tra bổ sung không? Từ đó có quan điểm

chấp nhận hay không chấp nhận.

+ Trường hợp tranh luận đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị

đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền lợi

20

của đương sự [57, tr.8].

Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội

phạm gây ra nên khi tham gia tranh luận, người bị hại và người bảo vệ quyền

lợi cho họ có thể đưa ra đề nghị yêu cầu cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý

nghiêm khắc quá mức cần thiết đối với bị cáo (như đề nghị xét xử bị cáo về

tội danh nặng hơn, khung hình phạt nặng hơn...) hoặc có những yêu cầu đòi

bồi thường vật chất cao hơn so với thiệt hại thực tế đã xảy ra. Trong một số

trường hợp, phía bị hại còn đưa ra lý lẽ để chứng minh cơ quan tiến hành tố

tụng đã bỏ lọt người phạm tội hoặc bỏ lọt hành vi phạm tội của bị cáo.

Trong những trường hợp nêu trên, Kiểm sát viên phải xem xét kỹ

nhưng lý do mà phía bị hại đã đưa ra, đối chiếu với các chứng cứ trong hồ sơ

vụ án và kết quả thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa để xác định các yêu cầu, đề

nghị của phía bị hại là có cơ sở hay không để chấp nhận hay không chấp

nhận.

Đối với những người là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì thường đưa ra các lý lẽ nhằm làm tăng hoặc

giảm quyền lợi hay nghĩa vụ của họ. Trong trường hợp này, cách đối đáp,

tranh luận của Kiểm sát viên cũng tương tự như trường hợp bị cáo hay người

bị hại đề nghị giảm nhẹ hoặc tăng trách nhiệm, mức bồi thường thiệt hại.

Tóm lại, tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là một trong

những nhiệm vụ, nhưng là một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn đối với

Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa. Chính vì vậy, Kiểm

sát viên phải có kiến thức pháp luật sâu rộng, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, hiểu

được bản chất của vụ án, nắm vững từng tình tiết, hành vi phạm tội của bị

cáo, theo dõi sát diễn biến phiên tòa đồng thời phải có bản lĩnh chính trị vững

vàng, phản ứng linh hoạt, nhanh nhạy, kịp thời ứng phó đối với mọi tình

21

huống xảy ra.

1.2.2. Các tiêu chí đánh giá về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát

viên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự

Các tiêu chí đánh giá hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ

thẩm vụ án hình sự bao gồm:

+ Về trình tự thủ tục và phương pháp tranh tụng phải nghiêm minh, dân

chủ, công bằng, có văn hoá, đúng qui định của pháp luật [57, tr.8]. Các bên

tham gia tranh tụng với tinh thần trách nhiệm, có căn cứ, đúng pháp luật, tôn

trọng quyền và nghĩa vụ của nhau [50, tr.30];

+ Quan điểm, luận cứ và luận chứng của KSV được HĐXX chấp nhận

với tỷ lệ cao (chất lượng tốt) và ngược lại [57, tr.9];

+ Chất lượng giải quyết vụ án hình sự tốt, không oan, hạn chế sai. Chất

lượng giải quyết vụ án hình sự thể hiện qua các tiêu chí như: Không có bị cáo

bị truy tố, xét xử oan; hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp bị cáo bị

truy tố, xét xử sai; tỷ lệ án bị tòa trả hồ sơ điều tra bổ sung thấp; tỷ lệ án sơ

thẩm bị Toà án cấp phúc thẩm huỷ thấp.Tuy nhiên riêng với tiêu chí án huỷ

này cần đánh giá theo hai góc độ: Tỷ lệ án sơ thẩm bị Toà án cấp phúc thẩm

huỷ án là tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng của KSV ở phiên toà sơ

thẩm là kém chất lượng, bởi lẽ qua tranh tụng nhưng Kiểm sát viên cấp sơ

thẩm không phát hiện ra các vi phạm trong việc truy tố của VKS để khắc

phục; nhưng đồng thời đây lại là tiêu chí đánh giá tranh tụng của KSV ở cấp

phúc thẩm có chất lượng tốt, bởi lẽ qua tranh tụng, KSV cấp phúc thẩm đã

phát hiện ra vi phạm của VKS, Tòa án cấp sơ thẩm nên đã đề nghị và được

Toà án cấp phúc thẩm huỷ án để cấp sơ thẩm khắc phục vi phạm [57, tr.10].

+ KSV phải nắm vững và thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn xét

hỏi, luận tội và đối đáp tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.

+ KSV thực hiện tốt các hoạt động nghiệp vụ mang tính chuẩn bị cho

22

tranh tụng tại phiên toà (nghiên cứu nắm chắc hồ sơ vụ án, xây dựng hồ sơ

kiểm sát, xây dựng cáo trạng, xây dựng luận tội, xây dựng đề cương xét hỏi,

dự thảo những vấn đề có thể đối đáp tranh luận…Việc chuẩn bị tốt các công

việc nói trên không những để thực hiện đúng, đầy đủ qui định của Viện

trưởng VKSNDTC trong các qui chế nghiệp vụ mà còn thông qua đó góp

phần bảo đảm chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án

hình sự được tốt.

Tiểu kết Chương 1

Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề tranh

tụng, tranh tụng tại phiên tòa, hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà

sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy vậy, mọi người đều thấy được tầm quan trọng của

hoạt động tranh tụng trong TTHS. Hiện nay, yếu tố tranh tụng ngày càng được

quy định nhiều hơn, chặt chẽ hơn, thể hiện sự bình đẳng, dân chủ hơn giữa các

chủ thể tham gia tranh tụng.

Trong tiến trình cải cách tư pháp của nước ta, hoạt động tranh tụng

trong TTHS được sự quan tâm rất nhiều của Đảng, Nhà nước và của giới

nghiên cứu luật. Vì vậy, BLTTHS 2015 của nước ta cũng đã có sự thay đổi

đáng kể về những quy định về hoạt động tranh tụng so với BLTTHS 2003.

Trong tương lai những quy định về hoạt động tranh tụng chắc chắn sẽ có

nhiều thay đổi tiến bộ hơn. Chúng tôi là những người làm công tác thực tiễn,

tuy với tư cách là chủ thể buộc tội nhưng chúng tôi vẫn mong muốn BLTTHS

nước ta cần có nhiều quy định bảo đảm tranh tụng hơn, tạo điều kiện bình

đẳng, dân chủ hơn trong hoạt động tranh tụng, đặc biệt là trong hoạt động

tranh tụng của Kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, bảo đảm cho việc

23

xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội.

CHƯƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG

TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TOÀ SƠ

THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN

2.1. Quy định của pháp luật về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát

viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

2.1.1. Các quy định của pháp luật về bảo vệ cáo trạng

Theo quy định tại Điều 18 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm

2014 thì “ Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành

quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự: Công bố cáo trạng hoặc

quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối

với bị cáo tại phiên tòa; Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về

việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; …[34, tr.10];

Điều 320, 321 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “ Sau khi

kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị

kết luận bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết

luận tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết

định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội [36,

tr.273]. Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu,

đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia

tố tụng khác tại phiên tòa [57, tr.13].”

Điều 25 Quy chế số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác kiểm sát xét xử hình sự:”…

Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày bản luận tội và kết luận

24

vụ án theo hướng sau: đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội

dung bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn; kết luận về

khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố

trong cùng một điều luật; kết luận về một tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội

danh mà Viện kiểm sát đã truy tố nếu có căn cứ và các nội dung khác theo

Mẫu của Viện kiểm sát nhân dân tối cao [58, tr.6].

Luận tội của Kiểm sát viên chỉ căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ

vật đã được kiểm tra tại phiên tòa [58, tr.6].”

Luận tội theo từ điển tiếng Việt là “phân tích, cân nhắc để xét tội” [50,

tr.31]. Theo từ điển Luật học thì luận tội là “lời trình bày của Kiểm sát viên

sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa hình sự chuyển sang phần tranh luận

tại phiên tòa”.

Luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

là tiếp tục thực hành quyền công tố Nhà nước để bảo vệ quan điểm truy tố thể

hiện trong bản cáo trạng.

Mục đích của việc tham gia tranh luận của Kiểm sát viên là dựa vào

các quy định của pháp luật và các chứng cứ khách quan để làm sáng tỏ sự thật

khách quan của vụ án, bảo vệ tính có căn cứ và tính hợp pháp của quan điểm

truy tố. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối với Kiểm sát viên khi thực hành

quyền công tố tại phiên tòa.

Trường hợp Kiểm sát viên trình bày luận tội có tính thuyết phục cao

mà bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác không có ý

kiến trình bày và đưa ra đề nghị gì thêm thì Kiểm sát viên không phải đối đáp,

tranh luận.

Việc đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa thể hiện tính

công khai, dân chủ trong các phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng và

trong tố tụng hình sự nói chung. Kiểm sát viên đối đáp, tranh luận tốt sẽ nâng

25

cao vai trò, vị thế của người thực hành quyền công tố Nhà nước, góp phần

nâng cao uy tín của VKSND.

Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, sau lời luận tội của

Kiểm sát viên, Chủ tọa phiên tòa sẽ điều hành việc tranh luận theo trình tự

quy định tại Điều 319 và Điều 320 BLTTHS. Trong suốt quá trình tranh luận,

đối đáp, Kiểm sát viên phải có trách nhiệm bảo vệ quan điểm luận tội của

mình, bảo vệ quyết định truy tố của Viện kiểm sát [57, tr.9].

Trong hoạt động tranh tụng vai trò của Kiểm sát viên là rất quan trọng

nhằm bảo vệ cáo trạng và giúp tòa án có được những nhận định đúng đắn để

ra một phán quyết theo ý kiến đề nghị của mình. Nói cách khác, mục đích của

tranh tụng của Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng khác là nhằm

bảo vệ tính có căn cứ, hợp pháp của quan điểm truy tố [57, tr.9].

Bên cạnh đó thông qua tranh tụng, Kiểm sát viên có thể phát hiện ra

những nội dung bất hợp lý, thiếu căn cứ hoặc không phù hợp pháp luật của

quan điểm truy tố [50, tr.31]. Nếu đủ cơ sở, Kiểm sát viên sẽ xử lý các tình

huống phát sinh nói trên theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự như: đề

nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung; rút một phần hoặc toàn bộ

quyết định truy tố; chuyển tội danh nhẹ hơn hoặc thay đổi khung khoản truy tố

phù hợp với thẩm quyền xét xử của Hội đồng xét xử [50, tr.31].

2.1.2. Các quy định của pháp luật về đối đáp với người bào chữa

Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra phương châm: “Nâng cao chất

lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt

động tư pháp”; khoản 5 Điều 130 Hiến pháp 2013 quy định: Nguyên tắc tranh

tụng trong xét xử được đảm bảo; Điều 18 Luật Tổ chức VKSND năm 2014

phần về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành

quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, tại khoản 2 quy định: Xét

26

hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên

tòa; Điều 322 BLTTHS năm 2015 có quy định quyền được bào chữa của bị

cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác, đồng thời quy định trách

nhiệm của Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp

đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác

tại phiên tòa; Chỉ thị số 09/CT-VKSTC, ngày 06/4/2016 của Viện trưởng

VKSNDTC về tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của

Kiểm sát viên tại phiên tòa; Điều 26 Quy chế công tác Thực hành quyền công

tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-

VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSNDTC) quy định cụ thể về

trách nhiệm tranh luận của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm

sát xét xử tại phiên tòa

Theo quy định của pháp luật về Tố tụng hình sự 2015, việc “đối đáp,

tranh luận” được bắt đầu sau khi kết thúc giai đoạn thẩm vấn, xét hỏi công

khai. Đầu tiên, Kiểm sát viên phải trình bày “luận tội” (Điều 321); tiếp theo bị

cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác trình bày ý kiến,

đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận về luận tội của Kiểm sát viên. Dưới sự

chủ trì của Chủ tọa phiên tòa, Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và

lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những

người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa nhằm làm rõ các tình tiết khách

quan của vụ án (Điều 322).

Như vậy, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án

hình sự, bao gồm: Kiểm sát viên trình bày lời luận tội đối với bị cáo; Kiểm sát

viên đối đáp tranh luận với từng ý kiến, đề nghị của bị cáo, người bào chữa và

những người tham gia tố tụng khác, nếu họ có ý kiến về luận tội của Kiểm sát

viên và đưa ra đề nghị của mình.

Đối đáp theo từ điển tiếng Việt là “trả lời lại” và tranh luận là “bàn cãi

27

để tìm ra lẽ phải”. Như vậy, đối đáp của Kiểm sát viên là một phần trong giai

đoạn tranh luận của quá trình xét xử do Kiểm sát viên tại phiên tòa trả lời lại,

bàn cãi với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, nếu

họ có ý kiến và đưa ra đề nghị về luận tội của Kiểm sát viên. Mục đích của đối

đáp tranh luận là làm sáng tỏ những chứng cứ, tình tiết buộc tội, những chứng

cứ, tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm của bị cáo

nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.

Điểm m khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có

quyền “tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa” [36, tr.73].

Để đảm bảo cho người bào chữa thực hiện quyền tham gia hỏi, tranh

luận tại phiên tòa, BLTTHS có nhiều quy định liên quan về sự có mặt của

người bào chữa cũng như trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng tại phiên tòa. Cụ

thể như sau:

+ Tại Điều 291 BLTTHS yêu cầu người bào chữa phải có mặt tại

phiên tòa sơ thẩm để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa. Trường

hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở

ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý

xét xử vắng mặt người bào chữa [36, tr.258]. Nếu người bào chữa vắng mặt

không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được

triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét

xử [36, tr.258]. Đặc biệt, đối với các vụ án chỉ định người bào chữa, Hội đồng

xét xử phải hoãn phiên tòa nếu người bào chữa vắng mặt, trừ trường hợp bị cáo

hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Những

quy định nêu trên của BLTTHS thể hiện sự đề cao vai trò của người bào chữa

đối với hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, đánh giá đúng tầm quan trọng và sự

cần thiết có mặt người bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.

+ Điều 307, Điều 309 và Điều 310 BLTTHS quy định người bào chữa

28

được tham gia hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến

việc bào chữa và tình tiết khác của vụ án; hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại

diện của họ về những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ; hỏi người làm

chứng về những tình tiết của vụ án mà họ đã biết.

+ Điều 320 và Điều 322 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền

trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với

Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội;

tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do

hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm

dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội

và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; có quyền đưa ra đề nghị của

mình [36, tr.273]. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để

đối đáp đến cùng từng ý kiến của người bào chữa [36, tr.273]. Nếu những ý

kiến của người bào chữa chưa được Kiểm sát viên tranh luận thì Chủ tọa

phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến đó [36, tr.273].

Người bào chữa được tham gia tranh luận, trình bày ý kiến mà không bị hạn

chế về thời gian (nhưng Chủ tọa phiên tòa có quyền cắt những ý kiến không

liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại). Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi

nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia

tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án

[36, tr.273]. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia

phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án [36,

tr.273].

Những quy định của BLTTHS về trình tự, thủ tục tại phiên tòa nêu

trên thể hiện rõ nỗ lực của các nhà lập pháp nhằm đảm bảo thực hiện nguyên

tắc tranh tụng trong xét xử. Theo đó, Tòa án được đặt vào đúng vị trí là người

29

“xét xử” – đưa ra phán quyết trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai giữa bên

buộc tội là Kiểm sát viên và bên gỡ tội là người bào chữa và bị cáo. Những

quy định này cũng thể hiện rõ nét về quyền bình đẳng giữa người bào chữa và

Kiểm sát viên tại phiên tòa, nhận thức đúng đắn hơn về vị trí, vai trò của

người bào chữa trong tố tụng hình sự.

Việc đối đáp tranh luận của Kiểm sát viên đối với từng ý kiến, đề nghị

của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác là rất quan

trọng vì khi đối đáp tranh luận, Kiểm sát viên phải phân tích lý lẽ, phải lập

luận, phải đưa ra được các quy định của pháp luật và các chứng cứ, tài liệu đã

được kiểm tra công khai tại phiên tòa để chứng minh phản bác lại những ý

kiến không phù hợp của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố

tụng khác đã nhận xét về luận tội để bảo vệ tính có căn cứ và tính hợp pháp

quan điểm truy tố của Viện kiểm sát. Thông qua việc đối đáp tranh luận,

những chứng cứ, quan điểm về việc giải quyết vụ án do bên buộc tội và bên bị

buộc tội đưa ra nhằm làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án, góp phần

cùng Hội đồng xét xử giải quyết vụ án. Một phiên tòa có thể hiện tính chất

tranh tụng hay không, phụ thuộc phần lớn vào vai trò của Kiểm sát viên thực

hành quyền công tố tại phiên tòa thực hiện việc đối đáp tranh luận với bị cáo,

người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

2.2. Thực trạng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên

tòa sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên

2.2.1. Những kết quả đạt được

Theo số liệu thống kê từ năm 2015 đến 2019, thì số lượng án xảy ra tại

huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên hàng năm đều tăng, ngày càng xảy ra nhiều vụ

án nghiêm trọng, phức tạp. Song, với sự quyết tâm của toàn thể cán bộ KSV

của VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên nên công tác THQCT - kiểm sát

xét xử những năm qua đã đạt được kết quả đáng khích lệ. Theo báo cáo của

30

VKSND huyện Tuy An, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, trong 5 năm từ 2015

đến 2019, tổng số vụ án hình sự Tòa án huyện Tuy An thụ lý 293 vụ /434 bị

can. VKS đã THQCT và kiểm sát xét xử sơ thẩm 285 vụ/426 bị cáo (đạt lỷ lệ

97,26%) [62, tr.2].

Do có sự phối hợp chặt chẽ giữa VKSND cùng với Toà án nhân dân

(TAND) trong xét xử nên tỷ lệ án giải quyết đạt khá cao, số án xét xử của năm

sau cao hơn năm trước, tình trạng án tồn đọng, kéo dài về cơ bản đã được khắc

phục. Bên cạnh đó, VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên còn chủ động phối

hợp với các cơ quan trong khối nội chính của huyện (Công an, Tòa án) mở nhiều

phiên tòa lưu động. Tính từ năm 2015 đến năm 2019 đã đưa ra xét xử lưu động

32 vụ, chủ yếu là án điểm đối với các tội về Ma túy; các tội xâm phạm tính

mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người như, Cố ý gây thương tích,

tội, làm nhục người khác...; các tội xâm phạm sở hữu như Cướp tài sản, Cưỡng

đoạt tài sản, Cướp giật tài sản...; các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự

công cộng như Gây rối trật tự công cộng, Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc, Vi phạm

các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, Chứa mại dâm…

Đồng thời còn đưa ra xét xử nhiều vụ án trọng điểm, án nghiêm trọng, phục vụ

tốt nhiệm vụ chính trị địa phương và góp phần trong công tác đấu tranh phòng

chống tội phạm [62, tr.3].

Ngoài ra, VKSND huyện còn phối hợp với Toà án huyện đưa ra xét xử

19 vụ/ 48 bị cáo = 19 phiên tòa rút kinh nghiệm sơ thẩm vụ án hình sự theo

tinh thần Nghị quyết 08 - NQ/TW. Khi tiến hành xét xử các vụ án này, Lãnh

đạo hai ngành có mời KSV, Thẩm phán tỉnh, huyện, thành phố tham dự phiên

toà để rút kinh nghiệm chung [62,tr.3].

Qua nghiên cứu và theo dõi hoạt động tranh tụng của KSV VKSND

huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự, chúng tôi

31

xin nêu khái quát một số kết quả đạt được sau đây:

- Về nhận thức của KSV:

Từ khi có Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết 49-

NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị và Bộ luật TTHS 2015 đến nay,

ngành Kiểm sát nhân dân nói chung và VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên

nói riêng đã nhận thức thống nhất là việc tranh tụng của KSV tại phiên toà

vừa là quyền hạn, vừa là nhiệm vụ bắt buộc đối với KSV khi THQCT tại

phiên toà. Trong thực tiễn, hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên toà đã dần

dần đi vào nền nếp và thực sự có chuyển biến tiến bộ. Tại nhiều phiên toà, các

KSV đã thể hiện bản lĩnh chính trị, trình độ nghiệp vụ, chuyên môn vững

vàng, đã đưa ra những chứng cứ, căn cứ pháp lý để phân tích, chứng minh

hành vi phạm tội, thủ đoạn phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả

do hành vi phạm tội của Bị cáo gây ra để bác bỏ những quan điểm, căn cứ và

những đề nghị không đúng của Bị cáo, Người bào chữa nêu ra nhằm làm sáng

tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm truy tố đúng người, đúng tội, đúng

quy định của pháp luật.

- Về hoạt động tranh tụng của KSV trong từng giai đoạn cụ thể:

Một là, trong giai đoạn chuẩn bị tranh tụng:

Nhìn chung, các KSV làm tốt trách nhiệm THQCT và kiểm sát việc

chấp hành thủ tục tố tụng tại phiên toà, đảm bảo phiên toà diễn ra theo đúng

trình tự, thủ tục được quy định tại BLTTHS. Trong 5 năm qua, số vụ án KSV

đề nghị hoãn phiên toà vì vắng mặt những người tham gia tố tụng là 51 vụ/

tổng số 285 vụ xét xử; trong đó: số vụ án KSV đề nghị hoãn phiên toà vì

thành phần HĐXX không đúng với quy định của BLTTHS là 5 vụ.

Ví dụ: Vụ Nguyễn Vương Long phạm tội “Vi phạm về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ” xảy ra tại xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh

Phú Yên. Bị cáo Vũ là người chưa thành niên, theo quy định tại Điều 423

32

BLTTHS năm 2015 thành phần HĐXX phải có một Hội thẩm là giáo viên

hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có kinh

nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi. Nhưng HĐXX vụ án trên không

đúng theo quy định của BLTTHS, vì vậy KSV đã đề nghị hoãn phiên tòa,

thay đổi Hội thẩm nhân dân. Yêu cầu của KSV được HĐXX chấp nhận; số vụ

án KSV đề nghị hoãn phiên toà vì Bị cáo yêu cầu hoãn do chưa nhận được

Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử là 9 vụ; số vụ KSV đề nghị hoãn

phiên tòa vì vắng mặt những người tham gia tố tụng quan trọng là 37 vụ [62,

tr.2].

Ngoài ra, KSV đã phát hiện những vi phạm khác về thủ tục tố tụng

như: Chủ toạ phiên toà giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham

gia tố tụng chưa đầy đủ; Chủ toạ phiên toà chưa giải quyết các yêu cầu của

những người tham gia tố tụng hoặc Thư ký phiên toà không báo cáo sự có mặt

của những người tham gia tố tụng... Tất cả những yêu cầu khắc phục của

KSV đều được HĐXX chấp nhận và nghiêm túc thực hiện theo.

Hai là, trong giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án [57,

tr.10]:

+ KSV đã chú ý làm tốt việc công bố Cáo trạng như: đọc trôi chảy, dứt

khoát thu hút người tham dự phiên toà.

+ Phần lớn KSV trước khi tham gia phiên toà đều đã chuẩn bị dự thảo

đề cương tham gia xét hỏi và những nội dung cần làm sáng tỏ tại phiên toà.

+ Phần lớn KSV đã chủ động, tích cực tham gia xét hỏi Bị cáo và những

người tham gia tố tụng khác làm sáng tỏ hành vi của Bị cáo, xác định sự thật

khách quan của vụ án. Nội dung xét hỏi đi vào trọng tâm, toàn diện. KSV đã chú

ý các mâu thuẫn và cách xét hỏi để giải quyết mâu thuẫn, theo dõi nội dung và

hướng xét hỏi của Người bào chữa để chủ động chuẩn bị nội dung tranh luận.

+Tại phiên toà, phần lớn KSV đặt câu hỏi rõ ràng, dể hiểu; theo dõi, ghi

33

chép tương đối đầy đủ nội dung xét hỏi của HĐXX, của Người bào chữa, ý

kiến trả lời của những người được xét hỏi và những tình tiết mới phát sinh để

bổ sung vào bản Luận tội.

Ba là, trong giai đoạn thực hành tranh tụng:

+ Về nội dung bản Luận tôi:

Trước khi tham gia phiên toà hầu hết các KSV đều chuẩn bị bản dự

thảo luận tội theo mẫu hướng dẫn của VKSND tối cao. Phần lớn các bản Luận

tội đã phân tích đánh giá các chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn

diện, đầy đủ; đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội

phạm, hậu quả gây ra... Việc đề nghị áp dụng về hình phạt, bồi thường thiệt

hại... tương đối chính xác [57, tr.13].

Nếu như trước đây nội dung Luận tội của KSV chủ yếu là rập khuôn

Cáo trạng, nặng nề phân tích và phê phán hành vi phạm tội của Bị cáo và đề

xuất hình phạt thì nay do có sự chủ động chuẩn bị trước nên nội dung Luận

tội đã phân tích những chứng cứ được xét hỏi và công bố công khai tại phiên

tòa để chứng minh hành vi phạm tội của Bị cáo theo khoản và điều nào của

BLHS rồi mới phân tích, phê phán những thủ đoạn, động cơ, mục đích, hậu

quả, những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS, nhân thân của Bị cáo…

để đề xuất hình phạt.

+ Về chất lượng tranh luận đối đáp của KSV:

Theo chúng tôi, tranh luận - đối đáp của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ

án hình sự có vai trò trung tâm trong toàn bộ hoạt động tranh tụng của KSV

tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự. Vì vậy, để đánh giá những kết quả đạt

được của hoạt động tranh tụng của KSV VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú

Yên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự thì chúng ta chủ yếu đánh giá hoạt

động tranh luận, đối đáp của KSV, cụ thể ở mặt sau:

* Theo số liệu thống kê, trong 5 năm qua, KSV THQCT tại phiên toà đã

34

bảo vệ thành công 221 Cáo trạng/285 vụ án đưa ra xét xử, đạt tỷ lệ 77.54% [62,

tr.5]. Số vụ án có Luật sư tham gia là 134 vụ/ 285 vụ án đưa ra xét xử, trong

đó, KSV bảo vệ thành công Cáo trạng là 115 vụ, đạt tỷ lệ 85.82% [13, tr.2].

* Đến nay đã cơ bản chấm dứt được hiện tượng KSV không đối đáp

tranh luận đối với những ý kiến và đề nghị của Bị cáo, Người bào chữa và

những người tham gia tranh tụng khác. Các KSV tham gia phiên toà đã thể

hiện tính tích cực, chủ động đối đáp tranh luận đối với từng ý kiến nhận xét về

lời luận tội và những đề nghị của Bị cáo, Người bào chữa, đặc biệt là đối với

những ý kiến nhận xét không đúng của Bị cáo, Người bào chữa làm cho

người tham dự phiên tòa, dư luận xã hội hoài nghi, phân vân… đã được các

KSV bình tĩnh lập luận, chứng minh bằng các chứng cứ của vụ án đã được

kiểm tra tại phiên tòa và các căn cứ pháp luật có tình, có lý để làm sáng tỏ sự

thật của vụ án, bác bỏ những ý kiến, những lập luận không đúng của Bị cáo,

Người bào chữa để bảo vệ quan điểm truy tố đúng đắn của VKS. Bởi vậy, từ

năm 2015 đến năm 2019 chưa có vụ án nào VKS truy tố mà Tòa án cấp sơ

thẩm tuyên không phạm tội.

* Về phương pháp tranh luận, đối đáp: Khi luận tội, các KSV đã chú

ý thực hiện đầy đủ hai vấn đề của luận tội: Một là, luận chứng tức là phân

tích, đánh giá các chứng cứ của vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa để

chứng minh hành vi phạm tội của Bị cáo theo khoản và điều của BLHS.

Hai là, Luận tội tức là phân tích, phê phán tính chất hành vi phạm tội, thủ

đoạn phạm tội, mục đích và động cơ phạm tội, hậu quả gây ra, nguyên nhân

và điều kiện phạm tội, nhân thân của Bị cáo… và đề xuất hình phạt. KSV

đã gắn thực tiễn diễn biến của phiên tòa để bổ sung kịp thời những chứng

cứ, tài liệu đã được điều tra công khai tại phiên tòa vào dự thảo luận tội cho

phù hợp với diễn biến thực tế tại phiên tòa, nhất là khi phát hiện có có tình

tiết mới. Bởi vậy, Luận tội của KSV tại phiên tòa ngày càng được sinh

35

động và thuyết phục cao hơn.

Lời văn, thuật ngữ được KSV sử dụng khi luận tội khiêm tốn, dể hiểu

và chính xác, có lý, có tình, đấu tranh phê phán đúng mức những sai phạm

của Bị cáo có tác dụng hỗ trợ HĐXX ra một bản án đúng, đồng thời có sức

thuyết phục nhân dân đồng tình và tin tưởng vào cơ quan pháp luật. Bố cục

Luận tội nói chung vẫn theo mẫu hướng dẫn, có trường hợp vận dụng linh hoạt

nhất là phần mở đầu bảo đảm ngắn gọn, đúng trọng tâm thu hút người nghe.

Khi tranh luận đối đáp với những ý kiến và đề nghị của Bị cáo, Người

bào chữa nêu ra, các KSV đã viện dẫn có lý, có tình trên cơ sở các chứng cứ,

tài liệu của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và các căn cứ pháp lý để phân

tích, lập luận làm sáng tỏ sự thật, bác bỏ quan điểm sai trái của Bị cáo, Người

bào chữa để bảo vệ quan điểm truy tố đúng đắn của VKS.

Thái độ, phong cách trình bày lời luận tội và tranh luận đối đáp của

KSV thể hiện đúng đắn, khiêm tốn và tôn trọng ý kiến của những người tranh

luận. Hiện tượng “đao to búa lớn”, thiếu bình tĩnh, cay cú, hách dịch ít xảy ra

so với trước.

* Thông qua tranh luận, KSV đã lồng ghép việc xét xử vụ án hình sự cụ

thể với việc tuyên truyền ý thức chấp hành pháp luật [50, tr.32]. Trong quá

trình tranh luận KSV đã chú ý tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Khi phát biểu

quan điểm về việc giải quyết vụ án, cũng như khi đối đáp, tranh luận, KSV đã

dựa vào chứng cứ của vụ án gắn với tình hình thực tế ở địa phương để tuyên

truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước, nhằm nâng cao hơn nữa ý thức tuân thủ pháp luật cho

nhân dân, góp phần phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật ở địa phương.

KSV đã chú ý phân tích kỹ hơn, sâu hơn về chứng cứ của vụ án cũng như phê

phán mạnh mẽ hành vi phạm tội của Bị cáo, thủ đoạn phạm tội và động cơ,

mục đích phạm tội của Bị cáo, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

36

tội, hậu quả của tội phạm; đồng thời KSV còn chú ý phân tích nguyên nhân,

điều kiện làm phát sinh tội phạm, nên có tác dụng rất tốt đối với công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm [50, tr.33].

2.2.1.1. Nguyên nhân của kết quả đạt được

Để đạt được những kết quả nêu trên thì có nhiều nguyên nhân, song

nguyên nhân cơ bản đó là:

Thứ nhất, sự nhất quán về chủ trương của Đảng trong cải cách tư pháp.

Hệ thống văn bản pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật của Nhà nước

nói chung, của ngành Kiểm sát nói riêng ngày càng đầy đủ, cụ thể tạo điều

kiện cho việc áp dụng pháp luật thuận lợi.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến

công tác tư pháp, Đảng ta đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về cải cách

tư pháp, như Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/03/2000 của Bộ Chính trị về một

số công việc cấp bách các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000,

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm

công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày

02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010 [50, tr.25]. Thực

hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, Nhà nước đã sửa đổi, bổ sung

hoặc ban hành mới nhiều Bộ luật, Luật, Pháp lệnh… Trong lĩnh vực hình sự

và TTHS có Bộ luật hình sự (BLHS) 2015, BLTTHS 2015, Luật tổ chức

VKSND 2014, Luật tổ chức TAND 2014, Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình

sự năm 2015, Luật luật sư… Các cơ quan Tư pháp trung ương cũng đã ban

hành nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật để thực hiện thống nhất

trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đây là những văn bản tạo cơ sở pháp

lý quan trọng cho hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết án hình sự,

trong đó có hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa.

Bên cạnh việc chủ động phối hợp với các cơ quan Tư pháp trung ương

37

ban hành các Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành BLHS và BLTTHS,

VKSND tối cao đã ban hành nhiều Quyết định, Chỉ thị và các thông báo rút

kinh nghiệm trong hoạt động xét xử vụ án hình sự nhằm chấn chỉnh hoạt động

THQCT và kiểm sát xét xử hình sự trong ngành Kiểm sát. VKSND tối cao

cũng đã ban hành các Quy chế về công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động

tư pháp, đó là “Quy chế về công tác THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong việc điều tra các vụ án hình sự”; “Quy chế về công tác THQCT và

kiểm sát xét xử các vụ án hình sự”… Đây là những văn bản có ý nghĩa quan

trọng tạo cơ sở cho hoạt động THQCT và kiểm sát xét xử án hình sự của

VKSND, trong đó có hoạt động tranh tụng của KSV.

Ở VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, Chi bộ, Lãnh đạo VKSND đã

có sự quan tâm đặc biệt đến công tác THQCT- kiểm sát xét xử hình sự. Lãnh

đạo đã nghiên cứu sắp xếp, tổ chức bộ máy cho phù hợp và đáp ứng yêu cầu

thông khâu. Nhờ có kế hoạch bố trí cán bộ KSV phù hợp với năng lực, sở

trường nên đã đạt được những kết quả nêu trên. Định kỳ vào hàng quý, 6

tháng hoặc cuối năm Lãnh đạo VKSND huyện thành lập tổ để tự kiểm tra,

đánh giá chất lượng công tác THQCT và kiểm sát xét xử hình sự của các KSV

làm công tác giải quyết án hình sự. Qua đó kịp thời phát hiện và rút kinh

nghiệm, chấn chỉnh những thiếu sót, tồn tại trong lĩnh vực này.

Thứ hai, Cán bộ - KSV của VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã

nhận thức đúng, đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ của ngành cũng như vị trí,

vai trò của công tác THQCT và kiểm sát xét xử hình sự. Đến nay, trình độ và

năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, KSV VKSND huyện

Tuy An, tỉnh Phú Yên đã được nâng cao. Trong những năm qua, Chi bộ, Lãnh

đạo VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên luôn quan tâm chú trọng đến công

tác kiện toàn tổ chức, bố trí sắp xếp, rèn luyện bản lĩnh chính trị và đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ. Ngành Kiểm sát Phú Yên đã thực hiện việc tổng rà soát

38

đánh giá và quy hoạch cán bộ toàn ngành. Trên cơ sở đó ngành đã xây dựng

kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hàng năm theo kế hoạch chung của ngành

Kiểm sát nhân dân.

Từ năm 2015 đến năm 2019, ngành Kiểm sát huyện Tuy An, tỉnh Phú

Yên đã cử: 02 cán bộ học thạc sỹ, 4 cán bộ học lớp cao cấp lý luận chính trị, 8

cán bộ học lớp trung cấp lý luận chính trị, 09 cán bộ học lớp đào tạo nghiệp

vụ kiểm sát, 02 cán bộ học lớp quản lý nhà nước hệ chuyên viên chính, 02 dự

nguồn kiểm tra viên, 02 cán bộ tham dự lớp bồi dưỡng kiến thức về khoa học

điều tra tội phạm, 01 cán bộ tham gia lớp hội nhập kinh tế quốc tế, 03 cán bộ

tham dự lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh, 10 cán bộ được bồi

dưỡng nghiệp vụ hình sự, tập huấn thống kê tội phạm 03 cán bộ, tập huấn tội

phạm có tổ chức 01 người, 08 cán bộ được bồi dưỡng nghiệp vụ THQCT và

kiểm sát các hoạt động tư pháp cho KSV khối hình sự, 02 cán bộ học lớp bồi

dưỡng quản lý chỉ đạo điều hành dành cho lãnh đạo cấp huyện, 02 đ/c tham

dự lớp tin học theo đề án của Chính phủ, 01 đ/c bồi dưỡng nghiệp vụ văn thư

lưu trữ,… [63, tr.2].

Tóm lại, trong 5 năm qua, VKSND huyện đã làm tốt công tác cán bộ,

như rà soát, phân loại, đánh giá, quy hoạch cán bộ, bổ nhiệm, tuyển dụng cán

bộ, bồi dưỡng cán bộ… Nhờ vậy đã góp phần quan trọng trong việc hoàn thành

tốt nhiệm vụ THQCT của toàn ngành Kiểm sát tỉnh Phú Yên nói chung và hoạt

động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tuy An

nói riêng.

Thứ ba, VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã chủ động phối hợp

chặt chẽ với các CQĐT, làm tốt công tác THQCT và kiểm sát điều tra vụ án,

tiến hành kiểm sát điều tra vụ án chặt chẽ ngay từ đầu. Vì có sự phối hợp chặt

chẽ này nên KSV tham gia phiên tòa đã nắm chắc hồ sơ vụ án, có đủ điều

kiện để chủ động trong xét hỏi, tự tin trong tranh luận với Luật sư, Bị cáo và

39

những người tham gia tranh tụng khác. Ngoài ra, VKSND huyện Tuy An, tỉnh

Phú Yên đã chủ động phối hợp với các CQĐT, Tòa án để xác định được nhiều

vụ án trọng điểm, nhiều phiên tòa lưu động góp phần phục vụ tốt nhiệm vụ

chính trị của địa phương và trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm

[63]. Việc tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm theo tinh thần Nghị quyết 08

cũng được các cơ quan phối hợp chặt chẽ, thành công tốt đẹp được nhân dân

đánh giá cao.

Thứ tư, VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên quan tâm đến công tác

lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng quy chế phối hợp giữa Cơ quan Điều tra, Tòa Án.

Việc báo cáo, thỉnh thị và trả lời thỉnh thị của cấp trên cũng được quy định rõ

ràng về quyền hạn và trách nhiệm cụ thể, nhằm khắc phục tình trạng cấp dưới

chưa làm hết trách nhiệm của mình lại đùn đẩy trách nhiệm lên cấp trên hoặc

cấp trên thường kéo dài, nội dung trả lời chung chung, không rõ ràng [63].

Định kỳ hàng quý, Lãnh đạo VKSND tỉnh họp giao ban với các đơn vị

VKSND huyện, thành phố, các phòng nghiệp vụ để triển khai công tác, rút

kinh nghiệm những thiếu sót.

Thứ năm, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc và chế độ

chính sách đối với các cơ quan Tư pháp nói chung, đối với ngành Kiểm sát

nói riêng đã từng bước được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư hoàn thiện

[63]. Toàn ngành kiểm sát Phú Yên đã có trụ sở làm việc, được trang bị máy

photo, vi tính, phòng họp trực tuyến, xe máy, ô tô công phục vụ công tác

THQCT và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử. Những sự quan tâm trên đây

phần nào tạo được lòng tin và tư tưởng yên tâm công tác trong cán bộ, KSV.

Đó cũng là cơ sở góp phần bảo đảm hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên

tòa sơ thẩm vụ án hình sự.

2.2.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân hạn chế

Mặc dù VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã có nhiều cố gắng

40

phấn đấu để đạt được những kết quả như đã nêu trên nhưng vẫn còn tồn tại

một số hạn chế trong hoạt động tranh tụng như sau:

2.2.2.1. Những tồn tại, hạn chế

Một là, về chuyên môn, nghiệp vụ:

- Về việc nghiên cứu hồ sơ vụ án của KSV, trong những năm qua, do

chúng ta thực hiện thông khâu đã khắc phục được tình trạng KSV không đọc

hồ sơ chính của vụ án. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra và cũng là điểm yếu nổi

lên lâu nay của các KSV chưa được khắc phục đó là chất lượng nghiên cứu hồ

sơ vụ án. Một thực tế là việc nghiên cứu hồ sơ vụ án của các KSV từ khi kiểm

sát điều tra đến khi chuyển Tòa án để xét xử, vẫn còn xảy ra trường hợp

nghiên cứu sơ sài, chưa kỹ, chưa sâu, dễ thỏa mãn với kết quả điều tra của

CQĐT… nên một số trường hợp KSV không nắm được đầy đủ các chứng cứ,

tài liệu buộc tội, gỡ tội đối với Bị cáo; không phát hiện được những chứng cứ

còn thiếu, những mâu thuẫn của các chứng cứ buộc tội, gỡ tội để yêu cầu bổ

sung làm rõ… Chính vì nghiên cứu hồ sơ vụ án không sâu nên việc hệ thống,

tổng hợp và phân tích chứng cứ chưa được đầy đủ dẫn đến KSV chuẩn bị dự

thảo luận tội, đề cương xét hỏi và những vấn đề cần tranh luận còn sơ sài…

- Việc lập hồ sơ kiểm sát án hình sự của KSV có trường hợp vẫn còn sơ

sài, dẫn đến KSV khi tham gia phiên tòa không những không nắm được các

chứng cứ của vụ án mà còn rất khó khăn cho việc viện dẫn, đối chiếu các

chứng cứ khi luận tội và tranh luận đối đáp…

- Một số KSV chưa nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật, dẫn đến

khả năng tranh luận còn yếu hoặc quan điểm tranh luận thiếu thuyết phục,

không phản bác được các quan điểm phản biện của Luật sư và không được

HĐXX chấp nhận.

Hai là, về kỹ năng tranh tụng:

- Trong giai đoạn chuẩn bị tranh tụng:

41

Vẫn còn một số trường hợp KSV THQCT và kiểm sát việc chấp hành

thủ tục tố tụng tại phiên toà của HĐXX, Thư ký toà án và những người tham

gia tố tụng chưa nghiêm, đặc biệt chưa chặt chẽ trong những trường hợp hoãn

phiên toà, nên có trường hợp bị TAND cấp trên huỷ án vì lý do vi phạm thủ

tục tố tụng nghiêm trọng.

Ví dụ: Vụ Nguyễn Vinh Ngà phạm tội Cố ý gây thương tích (Điều 134

BLHS 2015) xảy ra tại xã An Xuân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Khi phạm

tội Nguyễn Vinh Ngà mới 17 tuổi 2 tháng, đến ngày mở phiên toà, Ngà mới

17 tuổi 8 tháng. Trường hợp này phải có người bào chữa bắt buộc. Đến ngày

xét xử, Luật sư vắng mặt có lý do chính đáng, Luật sư gửi cho HĐXX bản

bào chữa. KSV THQCT tại phiên toà không kiểm sát chặt chẽ nên không phát

hiện vi phạm. TAND tỉnh Phú Yên đã xét xử giám đốc thẩm tuyên huỷ án với

lý do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Vì trong trường hợp này, nếu

Luật sư vắng mặt thì phải hoãn phiên toà.

- Trong giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án [50, tr.40]:

Vẫn còn một số KSV trước khi tham gia phiên toà không dự thảo đề

cương tham gia xét hỏi nên xét hỏi không trọng tâm, không làm rõ được các

chứng cứ buộc tội, các mâu thuẫn của chứng cứ và các tình tiết khác có liên

quan. Một số KSV còn có tâm lý ỷ lại HĐXX nên chưa chủ động xét hỏi,

chưa làm rõ được hành vi phạm tội của Bị cáo; vẫn còn một số KSV không

ghi chép đầy đủ nội dung xét hỏi và kết quả xét hỏi nên không kịp thời sửa

đổi lời luận tội cho phù hợp với thực tế xảy ra tại phiên toà.

Chính vì không chủ động xét hỏi, không ghi chép diễn biến phiên toà nên

một số KSV đặt câu hỏi trùng lặp với câu hỏi của HĐXX hoặc của Luật sư.

- Trong giai đoạn thực hành tranh tụng:

* Về nội dung Luận tội của KSV, trong những năm qua còn bộc lộ

những thiếu sót ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng Luận tội của KSV, đó là:

42

có nhiều lời Luận tội của KSV không phân tích đánh giá chứng cứ chứng

minh tội phạm mà chỉ nêu diễn biến của tội phạm và đánh giá tính chất của vụ

án, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội… Có trường hợp bản Luận tội của

KSV chủ yếu nêu lại hành vi phạm tội của Bị cáo như Cáo trạng. Mặt khác,

do Luận tội được KSV chuẩn bị dự thảo trước khi tham gia phiên tòa, nhưng

tại phiên tòa lại không theo dõi, ghi chép diễn biến lời khai của Bị cáo, của Bị

hại, của Người làm chứng… nên không kịp thời bổ sung những lời khai của

những người này khi họ thay đổi lời khai so với lời khai tại CQĐT nên dự

thảo Luận tội của KSV như thế nào được KSV trình bày nguyên văn, như vậy

làm cho lời Luận tội của KSV không phù hợp với các chứng cứ của vụ án đã

được kiểm tra tại phiên tòa.

Ví dụ: vụ Trần Quang Vũ phạm tội “Cố ý gây thương tích” xảy ra tại

thị trấn Chí Thạnh. Trong giai đoạn điều tra, Bị can không nhận tội, có những

lời khai đánh lạc hướng điều tra. Khi chuẩn bị Luận tội KSV cho rằng Bị cáo

không nhận tội, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, vì vậy không được

hưởng tình tiết giảm nhẹ “thật thà khai báo”. Nhưng tại phiên tòa, Bị cáo thay

đổi lời khai, thật thà khai báo. Đáng lý ra KSV phải sửa đổi dự thảo Luận tội,

cho Bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ “thật thà khai báo”, nhưng ngược lại

KSV vẫn nói rằng Bị cáo không nhận tội, gây khó khăn cho hoạt động điều

tra.

Phương pháp luận tội của một số KSV bộc lộ điểm yếu là chưa thể hiện

được nguyên tắc luận chứng trước và luận tội sau – tức là phải phân tích, đánh

giá chứng cứ của vụ án để xác định tội phạm và kẻ phạm tội theo các điều,

khoản nào của BLHS trước rồi sau đó mới phân tích, phê phán tính chất hành

vi phạm tội, thủ đoạn phạm tội, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhân thân

người phạm tội, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS… để đề xuất

hình phạt. Bởi vậy, vẫn còn trường hợp Luận tội của KSV thể hiện bằng cách

43

không chứng minh đã kết luận hoặc ngược lại kết luận lại thiếu chứng minh

bằng chứng cứ nên chưa có sức thuyết phục. Việc tóm tắt nội dung vụ án theo

cách nêu diễn biến nội dung phạm tội, ít viện dẫn chứng cứ để chứng minh tội

phạm như BLTTHS đã quy định vẫn còn xảy ra khá phổ biến.

* Về tranh luận đối đáp của một số KSV chưa tích cực, chủ động đối

đáp tranh luận đối với Người bào chữa, với Bị cáo. Vẫn còn xảy ra một số

hiện tượng KSV không đối đáp, tranh luận mà chỉ phát biểu “nay có đủ căn

cứ để kết tội như cáo trạng truy tố”, hoặc “KSV vẫn giữ nguyên quan điểm

truy tố”. Vẫn còn trường hợp KSV đối đáp tranh luận chung chung không sử

dụng các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa để

phân tích, lập luận bác bỏ những ý kiến, những quan điểm không đúng của

Người bào chữa, của Bị cáo để làm sáng tỏ đúng, sai qua những lời chối cải,

biện bạch thiếu căn cứ tại tòa của Bị cáo và Người bào chữa. Một số KSV

chưa tận dụng những mâu thuẫn trong lời bào chữa đối với vụ án có nhiều

Người bào chữa để sử dụng tranh luận đối đáp cho sinh động và khách quan.

Phương pháp tranh luận đối đáp của KSV vẫn còn bộc lộ một số thiếu

sót như: Vẫn còn trường hợp tranh luận đối đáp miên man, dài dòng bộc lộ

nhiều sơ hở. Phong cách thái độ của một số KSV khi tranh luận đối đáp vẫn

chưa được bình tĩnh, lời văn ngôn ngữ thể hiện vẫn còn có trường hợp cường

điệu hành vi phạm tội của Bị cáo.

Một số KSV cho rằng tranh luận là quyền chứ không phải là nghĩa vụ,

có Bị cáo tranh luận lại thì KSV tỏ thái độ không hài lòng, nóng nảy, thậm chí

lại đồng nhất việc Bị cáo tranh luận lại là ngoan cố, không chịu nhận tội, cãi

quanh co, không thật thà gây khó khăn cho hoạt động xét xử.

Một số KSV ra phiên tòa thiếu bản lĩnh, không mạnh dạn, tự tin dẫn

đến hạn chế khả năng tranh tụng. Có KSV phương pháp diễn giải, trình bày

vấn đề chưa khoa học, thuyết phục, lúng túng trong việc sử dụng từ ngữ và

44

cách lập luận dẫn tới hiệu quả tranh tụng thấp.

Tất cả những thiếu sót về nghiệp vụ nêu trên đã trực tiếp ảnh hưởng

đến hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự. Theo

số liệu thống kê, trong 5 năm qua, KSV THQCT tại phiên toà đã bảo vệ

không thành công thành công 64 Cáo trạng / 285 vụ án đưa ra xét xử, chiếm

tỷ lệ 22.45% (trong đó, có số liệu số vụ án có Luật sư tham gia). Sự không

thành công thể hiện: số vụ HĐXX tuyên khác đề nghị của VKS 58 vụ, chiếm

tỷ lệ 90,62%, số vụ HĐXX trả điều tra bổ sung 6 vụ, chiếm tỷ lệ 9,37% [62,

tr.5].

Số vụ án có Luật sư tham gia là 134 vụ/ 285 vụ án đưa ra xét xử, trong

đó, KSV bảo vệ thành công quan điểm của mình và được HĐXX chấp nhận là

112 vụ, chiếm tỷ lệ 83,58%; số vụ HĐXX không chấp nhận quan điểm của

KSV là 22 vụ, chiếm tỷ lệ: 15,67 %, trong đó: số vụ HĐXX quyết định mức

hình phạt theo quan điểm của Luật sư: 17 vụ, chiếm tỷ lệ 77.277%, HĐXX trả

ĐTBS: 5 vụ, chiếm tỷ lệ 22.72% [13, tr.2].

Số liệu trên đã thể hiện KSV vẫn có nhiều sai sót trong nghiệp vụ nên

chưa hoàn thành nhiệm vụ, chức năng THQCT của mình.

2.2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

Những hạn chế về hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm

vụ án hình sự nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân

khách quan và nguyên nhân chủ quan. Song, theo chúng tôi, có những nguyên

nhân cơ bản sau:

Một là, Quy định pháp luật chưa đầy đủ, chưa phù hợp [50, tr.33].

Mặc dù pháp luật TTHS hiện hành của chúng ta đã có những quy định khá

tiến bộ về tranh tụng tại phiên toà, như: quy định về bảo đảm quyền bào chữa

của bị cáo tại phiên toà; quy định về nguyên tắc bình đẳng giữa kiểm sát viên

với người bào chữa, bị cáo trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và

45

tranh luận trước Toà án, nhằm bảo đảm tính khách quan của hoạt động xét

xử… Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định khi xét hỏi và tranh luận, chủ toạ

phiên toà không hạn chế thời gian để xét hỏi cũng như để tranh luận... [50,

tr.34] Những quy định này tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng có

điều kiện về thời gian để tranh luận bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình [50, tr.34].

Tuy nhiên, Mục V- Chương XXI Bộ luật TTHS qui định về thủ tục

tranh tụng tại phiên tòa chưa quy định tranh tụng là một nguyên tắc của hoạt

động xét xử, vì vậy, trong từng điều luật tại các chương về xét xử cũng chưa

thể hiện hết toàn bộ tinh thần của tranh tụng và như thế việc đảm bảo cho

tranh tụng tại phiên tòa chưa đạt hiệu quả cao nhất [50, tr.37].

Bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tranh tụng là một điều

kiện cơ bản của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Nó là cơ sở để xác định tư

cách tố tụng của người bào chữa, bị cáo không chỉ là một chủ thể mà còn là

một bên tham gia tranh tụng bình đẳng với bên buộc tội [50, tr.37]. Tuy

nhiên, việc thể hiện nội dung này tại các điều luật cụ thể vẫn chưa được quy

định tại Bộ luật TTHS năm 2015 [50, tr.38]. Ví dụ: tại các điều

289,290,291… Bộ luật TTHS quy định, trong mọi trường hợp kiểm sát viên

vắng mặt phải hoãn phiên tòa, trong khi đó người bào chữa hoặc bị cáo và các

chủ thể khác vắng mặt thì vẫn có thể tiến hành xét xử vụ án. Qui định như vậy

là chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên trong tranh tụng, sự vắng mặt của

luật sư và của bị cáo ở phiên tòa sẽ làm cho quá trình tranh tụng mất đi ý

nghĩa của nó, bởi thiếu một bên tham gia và một chức năng quan trọng là bào

chữa không được thực hiện [50, tr.38].

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, quy

định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, tuy nhiên cho đến nay

các thẩm phán và kiểm sát viên chưa được tập huấn chuyên sâu về kỹ năng

46

điều khiển tranh tụng của Chủ tọa phiên tòa, hay kỹ năng tranh tụng của kiểm

sát viên tại phiên tòa, và cũng chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng

nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm để bảo đảm áp dụng thống

nhất pháp luật.

Hai là, Cơ chế đảm bảo cho việc tranh tụng tại phiên tòa chưa hợp lý:

hiện nay cơ chế để đảm bảo cho việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa còn

nhiều vấn đề [50, tr.43]. Từ việc tạo hành lang pháp lý để tạo ra cơ chế, ý

thức của người tham gia tranh tụng đến những quy chế kiểm tra giám sát để

đảm bảo thực hiện, và rất nhiều vấn đề cần phải có sự quy định cụ thể để tạo

ra một cơ chế đồng bộ chuẩn xác cho việc thực hiện tranh tụng.

Ba là, nhận thức và trách nhiệm của Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ

thực hành quyền công tố tại phiên tòa chưa cao. Một số Kiểm sát viên nhận

thức không đầy đủ, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm

sát nhân dân trong hoạt động thực hành quyền công tố tại phiên tòa, vì vậy

thực hiện không đầy đủ các thao tác nghiệp vụ: nghiên cứu hồ sơ vụ án, về

chuẩn bị bản đề cương xét hỏi, dự thảo bản luận tội và bản dự thảo đối đáp

tranh luận; tại phiên tòa thì không tích cực, chủ động xét hỏi, đối đáp tranh

luận nên vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa rất mờ nhạt.

Thực tế những vụ án mà KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã

bảo vệ không thành công Cáo trạng không phải là những vụ án quá khó về

việc xem xét đánh giá chứng cứ mà trong những nguyên nhân là do Kiểm sát

viên khi nghiên cứu hồ sơ vụ án không kỹ, không khách quan, toàn diện nên

không nắm được đầy đủ các tình tiết, chứng cứ buộc tội và gỡ tội của bị cáo

nên không phát hiện được những mâu thuẫn của chứng cứ buộc tội và của

chứng cứ gỡ tội, những chứng cứ còn thiếu để yêu cầu điều tra bổ sung. Thậm

chí có vụ án Kiểm sát viên chỉ thiên về chứng cứ buộc tội, bỏ qua chứng cứ

gỡ tội của bị cáo… Tất cả những sai sót này ảnh hưởng đến chất lượng thực

47

hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.

- Một thời gian dài trước đây, vấn đề tranh tụng không được coi trọng.

KSV ra Tòa chỉ đọc Cáo trạng và Luận tội là xong nhiệm vụ, còn hoạt động

khác hầu như “không có ý kiến”. Tỷ lệ án có Luật sư tham gia trước đây quá

ít, KSV không tranh luận thường xuyên, do đó ít có kinh nghiệm trong hoạt

động tranh tụng, phản xạ tình huống kém [50, tr.43]. Rất nhiều KSV đã được

bổ nhiệm lâu năm và tham gia xét xử rất nhiều vụ án nhưng hoạt động tranh

tụng với Luật sư lại hoàn toàn mới mẻ [50, tr.43]. Hoạt động tranh tụng chỉ

trở thành kỹ năng khi nó được thực hiện thường xuyên, thuần thục và nâng

lên thành nghệ thuật [50, tr.43].

- Trình độ và năng lực nghiệp vụ của một số KSV còn nhiều hạn chế,

chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Đây là

nguyên nhân chính thuộc yếu tố chủ quan hạn chế việc thực hiện vai trò của

KSV trong hoạt động THQCT và kiểm sát xét xử nói chung, trong tranh tụng

tại phiên tòa nói riêng. Bởi lẽ, chất lượng tranh tụng có được là do con người,

phụ thuộc vào khả năng chuyên môn của những KSV trực tiếp thực hiện [50,

tr.44]. Phần lớn KSV huyện Tuy An có trình độ Cử nhân Luật nhưng đào tạo

không chính quy; số lượng KSV lại thiếu. Ngoài ra, trong thời gian qua số

lượng cán bộ - KSV chuyển sang các ngành khác cũng khá nhiều. Theo báo

cáo của VKSND huyện thì trong 5 năm qua có 5 cán bộ chuyển ngành, trong

đó có 4 KSV [63, tr.4]. Nguyên nhân họ chuyển ngành phần lớn là do áp lực

về công việc, nhất là từ khi có Nghị quyết 388/ 2003/NQ-UBTVQH ngày

17/03/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về “Bồi thường thiệt hại cho

người oan sai do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây

ra”, sau này nâng lên thành Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm

2009 và năm 2017, thì trách nhiệm của KSV, nhất là KSV được phân công

THQCT- kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử càng cao. Tuy trách nhiệm cao chế

48

độ đãi ngộ cho ngành lại chưa phù hợp. Với số lượng, trình độ và ý thức của

KSV như trên đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác THQCT của ngành Kiểm sát

huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, đặc biệt là hoạt động tranh tụng của KSV.

Bốn là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo có đôi lúc vẫn còn chưa kịp thời, chưa

triệt để. Công tác phối hợp, trao đổi ở từng bộ phận nghiệp vụ có lúc, có nơi

còn chưa thật sự đồng bộ [63]. Công tác kiểm tra, giám sát đối với KSV chưa

được thường xuyên nên việc phát hiện, uốn nắn những sai sót chưa kịp thời.

Bên cạnh đó công tác tổng kết, rút kinh nghiệm để VKSND huyện và KSV rút

kinh nghiệm tuy có thực hiện nhưng chưa được thường xuyên và quan tâm

đúng mức nên những thiếu sót về nghiệp vụ của KSV chậm khắc phục.

Việc phân công, bố trí và điều động cán bộ, KSV có lúc, có nơi vẫn còn

chưa hợp lý. Trong thời gian qua, Lãnh đạo VKS đã điều chỉnh, tăng cường

cán bộ cho khâu công tác THQCT – kiểm sát điều tra – kiểm sát xét xử. Tuy

nhiên, sự điều chỉnh, sắp xếp này nặng về số lượng, chưa thực chất đi vào vấn

đề chất lượng cán bộ. Ngoài ra cũng cần nói thêm, việc đào tạo, bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ THQCT tại phiên tòa cho các KSV đặc biệt là việc bồi

dưỡng kỹ năng đối đáp tranh luận còn nhiều hạn chế, chưa thành bài bản để

các KSV dựa vào đó thực hiện.

Năm là, công tác nghiên cứu khoa học chưa được quan tâm đúng mức.

Trong thời gian quan, VKSND tỉnh chỉ tổ chức một số hội nghị chuyên đề,

như chuyên đề hạn chế án trả điều tra bổ sung, án tạm đình chỉ, chuyên đề án

tai nạn giao thông... ; chưa có chuyên đề về tranh tụng, cũng như chưa có đề

tài khoa học nào. Chưa tổ chức được cuộc thi “Nâng cao kỹ năng tranh tụng

của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự” . Lực lượng cán bộ - KSV chưa có

nhiều sáng kiến trong công việc.

Sáu là, hiện nay, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của ngành Kiểm

sát huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên tuy đã được cải thiện hơn những năm qua,

49

nhưng vẫn còn thiếu thốn, nhất là so với sự phát triển chung của xã hội và

trong mối tương quan với các ngành khác. Điều này đã hạn chế rất nhiều hoạt

động tranh tụng của KSV tại phiên tòa. Chế độ, chính sách tiền lương cũng

như đãi ngộ đối với cán bộ - KSV ngành Kiểm sát so với những năm trước

đây đã có bước cải thiện đáng kể, tuy nhiên vẫn chưa tương xứng với công

việc và trách nhiệm của KSV [63]. Vì vậy, đã có một số cán bộ - KSV

chuyển ngành và nhiều cán bộ - KSV chưa toàn tâm, toàn ý vào công việc.

Tiểu kết Chương 2

Huyện Tuy An là một huyện nằm ở miền đất Duyên hải miền Trung ít

được thiên nhiên ưu đãi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, với sự quan

tâm của Đảng, Nhà nước và sự nổ lực phấn đấu của chính quyền, nhân dân

địa phương, huyện đã có nhiều cơ hội để phát triển, trở thành một trong

những huyện đứng thứ hai về phát triển kinh tế, dân số và diện tích tự nhiên

trong toàn tỉnh Phú Yên. Tuy nhiên sự phát triển kinh tế cũng luôn đi kèm

theo những tệ nạn xã hội và tội phạm phát triển. Trong thời gian qua, tình

hình tội phạm diễn ra tại huyện Tuy An ngày càng phức tạp, nhưng Viện

kiểm sát huyện Tuy An đã nổ lực phấn đấu mọi mặt hoàn thành tốt công tác

THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động tranh tụng

của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, góp phần giữ vững an

ninh chính trị, trật tự an toàn ở địa phương. Tuy nhiên, hoạt động THQCT nói

chung và hoạt động tranh tụng của KSV vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót,

chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp. Do vậy, để đảm bảo hoạt

động THQCT nói chung và hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ

thẩm vụ án hình sự nói riêng, chúng ta cần phải nghiêm túc đánh giá thực

trạng của ngành, đồng thời tìm ra những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế để

từ đó phát huy những mặt làm được và khắc phục những hạn chế, thiếu sót

50

nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG

TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI HUYỆN TUY AN, TỈNH

PHÚ YÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và các

văn bản pháp luật khác liên quan

3.1.1. Hoàn thiện các qui định của pháp luật tố tụng hình sự

Thứ nhất: Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: ‘Nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử được bảo đảm” [33, tr.24]. Lần đầu tiên, tranh tụng được qui

định là một nguyên tắc trong xét xử. Để thực hiện quy định này, cần thiết phải

rà soát các quy định hiện hành về hoạt động tranh tụng trong BLTTHS và các

văn bản pháp luật khác để kịp thời xây dựng các chế định làm rõ các nội

dung, phạm vi, quyền hạn và trách nhiệm của VKS, của Luật sư, của Thẩm

phán trong phiên tòa hình sự, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của KSV trong

tranh tụng tại phiên tòa, qui định rõ nguyên tắc KSV có trách nhiệm tham gia

xét hỏi và tranh luận, quy định rõ các trường hợp bắt buộc KSV phải tranh

luận… nhằm đảm bảo cơ chế để hoạt động tranh tụng thực sự dân chủ. Bộ

luật TTHS cần qui định cho KSV VKSTC có quyền tham gia phiên toà sơ

thẩm để THQCT vụ án do VKSNDTC truy tố, không uỷ quyền như hiện nay

[50, tr.45].

Thứ hai: Để nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, bên

cạnh việc ghi nhận nguyên tắc “bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa” cần hoàn

thiện, bổ sung những quy định khác nhằm cụ thể hoá những quy định về tranh

tụng tại phiên tòa, tạo ra cơ chế thích hợp và hiệu quả cho quá trình tranh tụng

trong xét xử, đó là [50, tr.45]:

51

- Điều 15 BLTTHS quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc

về các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có Tòa án, và tại phiên tòa trách

nhiệm chứng minh Bị cáo có tội hay không có tội là của HĐXX. Do vậy, hiện

nay tại phiên tòa, HĐXX cũng tiến hành một số hoạt động tố tụng để chứng

minh tội phạm [36, tr.17]. Ví dụ: HĐXX sẽ nhắc hoặc công bố những lời khai

tại CQĐT nếu lời khai của họ tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai tại

CQĐT, hoặc người được xét hỏi không khai hoặc không nhớ những lời khai

của mình trong giai đoạn điều tra, truy tố; hoặc người xét hỏi đề nghị công bố;

hoặc người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết (Điều 308 BLTTHS). Như

vậy, phải chăng Tòa án cũng là một cơ quan có chức năng buộc tội? [50,

tr.45]. Do việc quy định không rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm chứng minh tội

phạm của các chủ thể tại phiên tòa nên có quan điểm cho rằng TTHS Việt

Nam thuộc hệ tố tụng xét hỏi, các giai đoạn từ khởi tố, điều tra đến truy tố và

xét xử đều là các tầng nấc liên tiếp khác nhau của quá trình buộc tội. Chúng

tôi cho rằng để Tòa án đúng là “cơ quan xét xử, cầm cân nảy mực” và đảm

bảo cho việc tranh tụng tại phiên tòa diễn ra dân chủ, bình đẳng, khách quan

thì cần phải xác định rõ vai trò của HĐXX tại phiên tòa là người trọng tài

giữa bên buộc tội và bên bào chữa để phán quyết về vụ án [50, tr.45]. Vì vậy,

cần sửa đổi Điều 15 BLTTHS 2015 theo hướng xác định Tòa án là cơ quan

thực hiện chức năng xét xử không có trách nhiệm chứng minh tội phạm.

Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện

chức năng buộc tội là CQĐT và VKS [50, tr.46]. Tòa án chỉ có nghĩa vụ

chứng minh trong bản án lý do vì sao Tòa án chấp nhận Cáo trạng buộc tội

của VKS mà không chấp nhận lời biện hộ của Luật sư bào chữa hoặc ngược

lại, vì sao không chấp nhận Cáo trạng buộc tội mà chấp nhận lời biện hộ. Mặt

khác, việc phải chứng minh tội phạm sẽ ảnh hưởng tới tính khách quan của

Tòa án khi ra bản án và quyết của mình, đồng thời thêm chức “trọng tài anh

52

minh”, “người cầm cân nảy mực” của Tòa án dễ bị hiểu sai lệch. Vì vậy,

nguyên tắc này cũng nên sửa đổi theo hướng tòa án không có trách nhiệm

chứng minh tội phạm [50, tr.46].

- Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố vụ án và xử lý vụ án hình sự (Điều

18 BLTTHS 2015) [36, tr.18]. Nguyên tắc này quy định trách nhiệm khởi tố

vụ án hình sự thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Tuy nhiên,

theo tinh thần Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư

pháp thì phải “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ

chức, bộ máy các cơ quan tư pháp”; và tranh tụng tại phiên tòa phải được coi

là khâu đột phá. Với định hướng này cần cân nhắc có nên giao trách nhiệm

khởi tố vụ án hình sự cho tòa án hay không. Nếu phải thực thi trách nhiệm

khởi tố vụ án hình sự liệu có ảnh hưởng đến chức năng xét xử của Tòa án và

có lấn sân sang chức năng công tố không [8, tr.5]. Vì vậy, theo chúng tôi

không nên quy định thẩm quyền khởi tố vụ án cho tòa án, trong trường hợp

phát hiện tội phạm mới khi xét xử tại phiên tòa, Tòa án có thể kiến nghị để

Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố [50, tr.46].

- Quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã có nhiều đổi mới trong Luật

TTHS 2015 hiện hành nhằm đáp ứng được yêu cầu bình đẳng giữa bên buộc

tội và bên gỡ tội theo hướng bảo đảm hơn nữa quyền bình đẳng của luật sư

trước và trong phiên tòa để họ có thể tranh tụng dân chủ, bình đẳng với bên

buộc tội. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành chưa chú ý xây dựng

các quy định tạo ra các cơ chế, điều kiện để thực hiện quyền bình đẳng ấy, ví

dụ : Quyền được thu thập, xuất trình chứng cứ; Quyền đề xuất nhân chứng

cần triệu tập đến phiên tòa; Quyền hỏi nhân chứng, bác bỏ nhân chứng do

phía buộc tội đưa ra; Quyền tranh luận, đối đáp bình đẳng với bên buộc

tội, quyền của bị can, bị cáo hoặc người bị tình nghi là phạm tội khi bị bắt giữ

phải được thông báo về các quyền và lợi ích liên quan….

53

- Thực tế cho thấy, quyền nhờ người khác bào chữa cho bị can vẫn

chưa được cơ quan tiến hành tố tụng thật sự tôn trọng, nhất là đối với cơ quan

điều tra. Thậm chí ở một số nơi, việc thực hiện quyền này vẫn đang là sự

thách đố đối với bị can, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa.

Đặc biệt là đối với bị can đang bị tạm giam, bởi các lý do chủ yếu sau: Theo

quy định của Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003: “trước khi hỏi

cung, điều tra viên phải giải thích các quyền và nghĩa vụ cho bị can” . Trên

thực tế, hầu hết các bị can, nhất là bị can đang bị tạm giam (kể cả các trường

hợp bị can theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự) đều

không được điều tra viên giải thích hoặc giải thích không đầy đủ về quyền

được nhờ người khác bào chữa, quyền được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu

Đoàn Luật sư chỉ định Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho mình. Cho

nên, trong thời gian chưa kết thúc điều tra vụ án, hầu hết các bị can đang bị

tạm giam đều không nhờ người khác bào chữa cho mình thông qua cơ quan

điều tra hay được cơ quan điều tra yêu cầu Văn phòng luật sư cử người bào

chữa, mặc dù họ đang có nhu cầu này (nếu họ có người bào chữa là do người

khác mời). Vì vậy, để khắc phục tình trạng này trong mẫu giấy về quyết định

tạm giữ, khởi tố bị can, nên in sẵn thông báo cho người bị tạm giữ, bị can biết

quyền đó [50, tr.46].

Đối với trường hợp người đại diện hợp pháp của bị can đang bị tạm

giam mời người bào chữa: Hiện nay, do chưa có quy định thống nhất về trình

tự, thủ tục này, cũng như cơ quan điều tra không muốn người bào chữa tham

gia tố tụng khi vụ án chưa kết thúc điều tra, nên việc mời người bào chữa cho

bị can phải thông qua nhiều công đoạn với những thủ tục phức tạp [50, tr.46].

Trước hết, họ phải có đơn mời người bào chữa cho bị can (đơn phải được cơ

quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận về nhân thân pháp lý của họ). Đơn

này phải nộp cho cơ quan điều tra để lấy chữ ký của bị can đang bị tạm giam

54

trong việc chấp nhận người bào chữa (chỉ khi có chữ ký của bị can, đơn mới

hợp lệ). Khi có đủ các điều kiện này, luật sư mới “đủ tư cách” đến cơ quan

điều tra đăng ký bào chữa cho bị can [50, tr.47]. Để khắc phục tình trạng này

trong thủ tục mời người bào chữa chỉ cần có đơn có chữ ký của bị cáo là hợp

lệ còn ai mời cho bị cáo cũng không quan trọng.

Mặc dù đã có các thủ tục cần thiết, nhưng đối với các trường hợp đăng

ký bào chữa cho bị can trong thời gian điều tra vụ án đều bị cơ quan điều tra

tìm cách từ chối khéo việc chấp nhận người bào chữa [50, tr.47]. Còn nếu

được chấp nhận tham gia bào chữa từ giai đoạn này, họ cũng khó có cơ may

thực hiện được đầy đủ trách nhiệm bào chữa của mình vì: Việc tham dự các

buổi lấy lời khai bị can của điều tra viên đối với người bào chữa bị gặp nhiều

khó khăn. Mặc dù, pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã quy định người bào

chữa có quyền tham gia bào chữa cho bị can, nhưng hầu hết các điều tra viên

không muốn có người bào chữa tham gia tố tụng ở giai đoạn này. Vì theo họ,

sự có mặt của người bào chữa sẽ gây khó khăn, phức tạp trong việc lấy lời khai

bị can, thậm chí còn gây trở ngại cho công việc của họ [50, tr.47]. Cho nên các

điều tra viên đều không muốn người bào chữa biết thời gian họ lấy lời khai bị

can và các hoạt động tố tụng liên quan. Vì thế, người bào chữa thường phải

“đứng ngoài cuộc” trong các hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra. Nếu

trường hợp được tiếp xúc với bị can, thì do pháp luật không quy định và hướng

dẫn cụ thể trường hợp nào người bào chữa được gặp riêng bị can, trường hợp

nào việc gặp bị can phải có sự giám sát của người tiến hành tố tụng, giám thị

trại giam... Vì thế, mọi trường hợp người bào chữa tiếp xúc với bị can đều có

điều tra viên hoặc giám thị ngồi bên cạnh, nên nếu dù họ bị bức cung hoặc

dùng nhục hình thì vì thân phận và địa vị pháp lý của họ mà không dám thổ lộ

với người bào chữa [50, tr.48]. Vì vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự cần có quy

định rõ những trường hợp luật sư được tiếp xúc riêng với bị can mà không có

55

sự giám sát của giám thị trại giam hoặc của điều tra viên [50, tr.48].

- Chức năng bào chữa là một chức năng quan trọng trong quá trình tố

tụng, đây là trách nhiệm nghề nghiệp đồng thời cũng là nghĩa vụ của luật sư

trước bị can, bị cáo [50, tr.48]. Tuy nhiên trong Bộ luật Tố tụng hình sự và

các văn bản pháp luật hiện hành chưa xác định rõ tư cách tố tụng của luật sư

bào chữa trong tranh tụng và nghĩa vụ pháp lý của luật sư trước bị can, bị cáo;

các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, năng lực và sức khỏe đối với những

người hành nghề luật sư cũng chưa được quy định chặt chẽ. Điều đó làm hạn

chế đến khả năng thực hiện chức năng và nghĩa vụ của luật sư trong quá trình

tranh tụng [50, tr.49]. Cần thiết phải quy định rõ luật sư, bị cáo là một bên

tranh tụng bình đẳng trong suốt quá trình xét xử.

Bộ luật Tố tụng hình sự quy định trong mọi trường hợp đại diện

VKS vắng mặt phải hoãn phiên tòa trong khi đó người bào chữa hoặc bị cáo

và các chủ thể khác vắng mặt thì vẫn có thể tiến hành xét xử vụ án [50, tr.50].

Chúng tôi cho rằng quy định như vậy là chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các

bên trong tranh tụng, tuy tiện lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng nhưng sẽ

không bảo đảm được các quyền lợi của công dân đặc biệt là của bị cáo. Sự

vắng mặt của luật sư và của bị cáo ở phiên tòa sẽ làm cho quá trình tranh tụng

mất đi ý nghĩa của nó bởi thiếu một bên tham gia và một chức năng quan

trọng là bào chữa không được thực hiện [50, tr.50]. Vì vậy cần bổ sung: trong

những trường hợp luật sư vắng mặt vì trường hợp bất khả kháng ví dụ như tai

nạn, bị bệnh... [50, tr.50] thì Tòa án phải hoãn phiên tòa.Trong trường hợp đó

bị cáo có thể mời luật sư khác. Nếu Tòa án đã hoãn phiên tòa theo thời hạn

luật định mà luật sư vẫn không thể có mặt được và bị cáo không mời luật sư

khác thì Tòa án sẽ vẫn tiến hành xét xử [50, tr.50].

Trong Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác cần quy

định rõ trách nhiệm pháp lý của luật sư bào chữa trước bị can, bị cáo trong

56

những trường hợp luật sư không làm tròn nghĩa vụ và chức năng nghề nghiệp

của mình là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Trách

nhiệm đó phải là trách nhiệm vật chất dân sự: như phải hoàn trả lại cho thân

chủ tiền thù lao đã nhận và bị phạt một khoản tiền nào đó hoặc là trách nhiệm

kỷ luật - hành chính trước tổ chức đoàn luật sư (phê bình, cảnh cáo, tạm đình

chỉ hành nghề có thời hạn...) thậm chí cả trách nhiệm hình sự nếu để xảy ra hậu

quả nghiêm trọng ví dụ như bị cáo bị xử phạt oan, bị can bị bắt giam trái pháp

luật mà luật sư không can thiệp bảo vệ kịp thời dẫn đến bị can tự tử hoặc bị

dùng nhục hình dẫn đến chết người..) với hình phạt bổ sung cấm hành nghề

luật sư [50, tr.51]. Cũng cần xác định rõ thời điểm bắt đầu và kết thúc nghĩa vụ

của luật sư đối với bị can, bị cáo (Ví dụ từ thời điểm luật sư nhận làm người

bào chữa cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật). Để nâng cao chất lượng

của đội ngũ luật sư hiện nay cần quy định rõ tiêu chuẩn chuyên môn của người

hành nghề luật sư phải có bằng cử nhân luật, có thời gian làm thực tiễn từ 4 đến

6 năm trở lên, tuổi đời cũng cần giới hạn không quá 65 tuổi và phải qua sát

hạch thi tuyển trước khi cấp giấy phép hành nghề luật sư. Được như vậy thì

trình độ của luật sư mới được nâng lên, đảm bảo hoàn thành được một cách tốt

nhất nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo [57, tr.17].

- BLTTHS 2015 chưa cụ thể hóa đầy đủ tính chất tranh tụng tại phiên

tòa. Một số quy định của BLTTHS đặt gánh nặng trách nhiệm chứng minh tội

phạm lên vai HĐXX (ví dụ, Điều 307 BLTTHS quy định trình tự xét hỏi: “khi

xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm

phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi…” [36, tr.266]. Vì vậy, chính

các chủ thể tham gia tranh tụng (KSV, Luật sư…) cũng chưa ý thức đầy đủ về

quyền và nghĩa vụ của mình trong tranh tụng. Theo chúng tôi việc xét hỏi tại

phiên tòa là một giai đoạn của quá trình tranh tụng tại phiên tòa, cho nên cần

57

phải để các bên tranh tụng thực hiện trách nhiệm chứng minh (KSV, Người

bào chữa…) tiến hành xét hỏi là chủ yếu, còn HĐXX thực hiện việc giám sát,

duy trì trình tự xét hỏi [57, tr.17]. BLTTHS cần xác định rõ tại phiên tòa vai

trò của HĐXX chỉ là người “trọng tài” giữa bên buộc tội và bào chữa để ra

phán quyết về vụ án, còn việc xét hỏi là trách nhiệm chính của KSV và Người

bào chữa. Với những lý do trên, chúng tôi đề nghị sửa đổi các quy định xét

hỏi theo hướng: khi xét hỏi KSV hỏi trước, sau đó đến Người bào chữa, Người

bảo vệ quyền lợi của đương sự, các thành viên của HĐXX có thể hỏi bất kỳ ở

thời điểm nào nếu xét thấy cần thiết nhằm làm sáng tỏ các tình tiết về vụ án

hoặc mang tính chất nêu vấn đề để các bên tập trung xét hỏi làm rõ, còn việc

hỏi để buộc tội và gỡ tội dành cho KSV và Người bào chữa [50, tr.49].

3.1.2. Hoàn thiện các văn bản pháp luật khác liên quan

Giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa hình sự là hoạt động tố tụng và phải

tuân thủ các quy định của pháp luật. Các giải pháp pháp lý hướng tới tiếp tục

hoàn thiện pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan, những người tiến

hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đưa ra lý lẽ, bằng chứng làm

căn cứ cho việc tranh luận công khai tại phiên tòa. Khi tiến hành tranh tụng

tại phiên tòa, KSV không chỉ căn cứ vào các quy định của BLTTHS mà cả

các quy định của BLHS và Bộ luật dân sự… để xác định tình tiết của vụ án và

các vấn đề cần giải quyết trong vụ án, đưa ra chứng cứ, tài liệu chứng minh

làm rõ. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện không chỉ pháp luật TTHS mà cả pháp

luật hình sự, pháp luật dân sự... [50, tr.51] trong đó có các quy định pháp luật

có liên quan đến hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự của KSV.

Bên cạnh đó, các cơ quan tư pháp Trung ương tiếp tục khẩn trương ban

hành hướng dẫn các qui định của BLHS, BLTTHS, các quy định về giám

định, án phí… và các qui định còn có vướng mắc khác tạo sự thống nhất trong

nhận thức và áp dụng pháp luật giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở các cấp,

58

nhằm bảo đảm cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Cần ghi nhận nguyên tắc

trong các trường hợp quy định của pháp luật còn có vướng mắc mà chưa có

hướng dẫn thì việc nhận thức và áp dụng pháp luật phải theo hướng có lợi cho

bị can, bị cáo. Tư tưởng này xuất phát từ nguyên tắc đã được thừa nhận trong

quản lý Nhà nước là: “Công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm;

công chức khi thi hành công vụ chỉ được làm những gì mà pháp luật qui định.

[57, tr.16]”

3.2. Các giải pháp khác nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng

của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

3.2.1. Xây dựng cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện tranh tụng tại

phiên tòa

Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

không thể không đề cập đến cơ chế để đảm bảo thực hiện nó, trong đó có vấn

đề tổ chức phiên tòa. Việc tổ chức phiên tòa làm sao phải thể hiện rõ địa vị

pháp lý (quyền và nghĩa vụ tố tụng) của các cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Phiên tòa phải đảm bảo để không

những nghĩa vụ tố tụng mà các quyền tố tụng của những người tham gia tố

tụng, nhất là của bị cáo được thực hiện đầy đủ. Các cơ quan tiến hành tố tụng

như Viện kiểm sát, Tòa án (Hội đồng xét xử) thực hiện đúng chức năng của

mình được pháp luật quy định [57, tr.17]

Để đảm bảo cho việc tranh luận tại phiên tòa phát huy được tác dụng

đích thực của nó, theo chúng tôi [57, tr.17]:

- Thẩm phán, Kiểm sát viên phải nhận thức hồ sơ vụ án chỉ là tài liệu

do Cơ quan điều tra thu thập, chưa chắc đã là chính xác, lúc này nguyên tắc

giả định bị cáo vô tội phải được quán triệt [50, tr.62]. Cần thực hiện đúng

nguyên tắc “bản án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên

tòa” [50, tr.62]. Và thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số

59

08/NQ-TW việc giải quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh

tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến

của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị

đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để đưa ra những bản án,

quyết định đúng pháp luật có sức thuyết phục [50, tr.62].

- Bị cáo, các đương sự và người bào chữa cho bị cáo, bảo vệ quyền lợi

cho đương sự phải chủ động và tích cực đưa ra những chứng cứ, lý lẽ, cơ sở

pháp luật để tranh luận với Kiểm sát viên cũng như giữa các đương sự trong

vụ án. Để tạo điều kiện cho bị cáo tranh luận với kiểm sát viên tại phiên tòa,

các cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện cho bị cáo biết được cụ thể,

đầy đủ những chứng cứ, cơ sở pháp lý buộc tội bị cáo có thời gian chuẩn bị

hoặc nhờ luật sư tìm ra chứng cứ, lý lẽ, cơ sở pháp lý để thực hiện việc tranh

luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự [50, tr.51].

Diễn biến phiên tòa phải bám sát vào quy định của Bộ luật TTHS để

không bỏ sót quy trình và đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia tranh tụng,

nhưng để thực hiện như vậy cần có cơ chế giám sát và biên bản phiên tòa là

nơi thể hiện rõ nhất diễn biến của phiên tòa [50, tr.51].

Ngoài ra, cũng cần đề cao vai trò của người bào chữa với tư cách là một

bên có quyền bình đẳng tranh tụng tại phiên tòa [50, tr.51]. Từ kết quả tranh

tụng bình đẳng, công khai, dân chủ, HĐXX xem xét một cách toàn diện và

khách quan các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại

phiên tòa, cả những những cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, các tình tiết tăng

nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đã được đưa ra tranh luận, đối đáp

giữa phía Kiểm sát viên và người bào chữa để chứng minh tính sự thật khách

60

quan của vụ án [50, tr.52].

3.2.2. Đổi mới công tác tổ chức và tăng cường năng lực cán bộ kiểm

sát

Nhân tố con người chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong việc thực

hiện tốt các hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động tranh tụng nói riêng. Đối

với hoạt động của VKS, thì lực lượng KSV là lực lượng giữ vị trí then chốt,

quan trọng nhất. Để xây dựng được một đội ngũ KSV đảm bảo theo quy định

của pháp luật, đồng thời theo yêu cầu của thực tiễn hoạt động tranh tụng, chúng

ta cần phải tiến hành đồng thời các hoạt động sau:

- Thực hiện tốt công tác tuyển dụng và bổ nhiệm chức danh KSV [50,

tr.60]

Để làm tốt công tác này, theo chúng tôi, VKSND tối cao cần có cơ chế

thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho VKSND địa phương chủ động trong

việc tuyển chọn; khi tuyển chọn VKS phải chọn cán bộ đúng tiêu chuẩn về

trình độ, chính trị, sức khỏe… ngay từ đầu; chọn lựa, bổ nhiệm KSV đúng

người, đúng năng lực. Ngoài ra, chúng ta cần phải đổi mới thủ tục tuyển chọn

để nhanh chóng thu hút cán bộ, chọn được nhiều cán bộ ưu tú cho ngành.

- Nhanh chóng sắp xếp lại tổ chức, cán bộ, bố trí những KSV có năng

lực thật sự vào khâu THQCT- kiểm sát điều tra và THQCT- kiểm sát xét xử

Theo chúng tôi, KSV phải có một khả năng nhất định không chỉ về

chuyên môn, nghiệp vụ, mà kể cả về kiến thức xã hội lẫn khả năng hùng biện

mới có thể tham gia tranh tụng một cách có hiệu quả tại phiên tòa. Trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ cao, bản lĩnh chính trị vững vàng, khả năng viết, nói

là những yếu tố hội tụ bắt buộc ở KSV tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Để

có được đội ngũ KSV hội tụ đủ các yếu tố cần thiết nêu trên, phải có sự điều

chỉnh mạnh mẽ, khẩn trương, tích cực trong công tác tổ chức - cán bộ [50,

tr.63]. Do vậy, việc đầu tiên chúng ta cần phải giải quyết nhằm vào cái “gốc”

61

của vấn đề, đó là tổ chức - cán bộ [50, tr.63]. Phải mạnh dạn và kiên quyết

điều chuyển những cán bộ có năng lực thực sự bổ sung cho các khâu công tác

THQCT - kiểm sát điều tra và THQCT - kiểm sát xét xử. Nghị quyết 49-

NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị đã xác định việc nâng cao chất

lượng tại các phiên tòa xét xử là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [8, tr.1].

Do đó, đổi mới công tác tổ chức - cán bộ theo hướng tăng cường cho các khâu

công tác THQCT - kiểm sát điều tra và THQCT - kiểm sát xét xử phải được

xác định là hướng ưu tiên trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của

VKSND [50, tr.63].

- Rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ chính trị, chuyên

môn, nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm của KSV

Luôn luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ về chính trị

và chuyên môn, nghiệp vụ, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo lương tâm,

trách nhiệm là đòi hỏi không ngừng đối với KSV. Cùng với việc đánh giá

những kết quả đạt được trong quá trình cải cách tư pháp, Nghị quyết 49-

NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu rõ: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp

còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một số bộ phận cán bộ

còn yếu, thậm chí có một số bộ phận cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và

trách nhiệm nghề nghiệp” [8, tr.1]. Để tự rèn luyện ý thức chính trị, đòi hỏi

KSV phải luôn luôn nắm vững các Chủ trương, Nghị quyết của Đảng trong

lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như các Chủ trương, Nghị

quyết liên quan đến công tác của VKS. Rèn luyện nâng cao ý thức chính trị sẽ

giúp KSV thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành một cách một cách có

hiệu quả, có tình, có lý [8, tr.1].

Để nâng cao hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, cùng với việc rèn luyện

nâng cao ý thức chính trị, một đòi hỏi khách quan là phải tiếp tục nâng cao

trình độ pháp lý, chuyên môn, nghiệp vụ cho KSV. Trong điều kiện cải cách

62

tư pháp hiện nay, vấn đề nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho KSV

được đặt ra hết sức cấp bách [8, tr.1]. Thực tiễn hoạt động THQCT cho thấy,

hoạt động tranh tụng tại phiên tòa của KSV VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú

Yên vẫn còn hạn chế vì có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan

trọng nhất là do trình độ nói chung của KSV VKSND huyện Tuy An, tỉnh

Phú Yên còn chưa cao. Ở đây đề cập đến cả trình độ chính trị, nhận thức xã

hội, chuyên môn, nghiệp vụ. KSV không những phải học tập để nâng cao

trình độ học vấn của mình theo đúng tiêu chuẩn luật định mà còn phải trau dồi

nhiều hơn nữa kỹ năng nghiệp vụ về tham gia phiên tòa hình sự như kỹ năng

trình bày bản luận tội, kỹ năng diễn đạt, đối đáp, khả năng phản xạ linh hoạt

trước các vấn đề mới phát sinh tại phiên tòa… Phải thể hiện sự ứng xử có văn

hóa trong thái độ, trong cách xưng hô tại phiên tòa, tôn trọng sự điều khiển

của Chủ tọa phiên tòa, tôn trọng quyền và nghĩa vụ của những người tham gia

tố tụng, nhất là những người tham gia tranh tụng với KSV. Mỗi KSV phải tự

đánh giá lại kết quả hoạt động của mình sau mỗi phiên tòa, rút kinh nghiệm

một cách nghiêm túc những thiếu sót, chú ý lắng nghe các ý kiến góp ý của

đồng nghiệp, dư luận quần chúng tham dự phiên tòa với thái độ cầu thị để

không ngừng hoàn thiện hơn kỹ năng nghiệp vụ của mình trong công tác xét

xử tại phiên tòa [50, tr.63].

Hiện nay, đội ngũ KSV VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã

hoàn chỉnh trình độ cử nhân Luật. Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu cải

cách tư pháp, cần phải có kế hoạch định kỳ đào tạo, đào tạo lại và bồi

dưỡng cho KSV, khắc phục tình trạng nhiều KSV sau khi kết thúc đào tạo

trình độ cử nhân Luật mà nhiều năm sau không được đào tạo lại hoặc bồi

dưỡng nghiệp vụ [50, tr.66]. Các KSV cần được đào tạo chuyên sâu theo

các chuyên đề trực tiếp phục vụ cho nhu cầu công việc của họ hoặc theo

các chuyên đề nhu cầu thực tế đòi hỏi, ví dụ các chuyên đề kỹ năng tranh

63

tụng về án ma túy, án xâm phạm sở hữu, án xâm phạm sức khỏe, nhân

phẩm, danh dự... Ngoài ra, các KSV cần phải có tư tưởng “học - học nữa -

học mãi”, cần phải nâng cao trình độ thêm, không chỉ dừng lại ở trình độ

cử nhân mà phải học các lớp đào tạo sau đại học, tham gia các lớp như

Trung cấp, Cao cấp chính trị, các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ hình

sự. Bên cạnh đó, ngành cần quan tâm, động viên và có chính sách hỗ trợ

hợp lý cho vấn đề đào tạo kiến thức về tin học, ngoại ngữ [50, tr.66].

Để có thể tham gia tranh tụng một cách có chất lượng, đòi hỏi KSV

phải có trình độ toàn diện về nhiều lĩnh vực, không chỉ vững vàng về mặt

chính trị, nắm vững pháp luật và kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ mà phải có

trình độ nhận thức về các vấn đề kinh tế, xã hội, tâm lý, hành chính… Do đó,

việc đào tạo bồi dưỡng KSV phải thực sự toàn diện, không chỉ thu hẹp trong

việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thực chuyên môn, nghiệp vụ.

Theo chúng tôi, để cán bộ - KSV nhiệt tình, mạnh dạn tham gia các lớp

học nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ thì Lãnh đạo VKS cần phải có

nhiều biện pháp động viên, khuyến khích, nhất là các biện pháp liên quan đến

tiền lương, hỗ trợ kinh phí để họ yên tâm học tập. Bởi vì, hiện nay điều kiện

kinh tế của cán bộ - KSV VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên còn khó

khăn, nhưng chính sách hỗ trợ kinh phí học tập của ngành còn chưa được

thông thoáng, còn nhiều bất cập.

-Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học là một trong những giải pháp quan trọng để đảm

bảo, nâng cao chất lượng hoạt động của KSV. VKSND tỉnh Phú Yên cần tổ

chức nhiều hội nghị chuyên đề hơn, nhất là những chuyên đề liên quan đến

hoạt động tranh tụng tại phiên toà; tập hợp những cán bộ - KSV có năng lực

để xây dựng những đề tài khoa học cấp cơ sở, cấp bộ, đề xuất những giải pháp

vừa đúng lý luận vừa phù hợp với thực tiễn để nâng cao chất lượng hoạt động

64

của ngành trên các phương diện công tác, đặc biệt trên lĩnh vực THQCT và

kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.

-Tăng cường công tác lãnh đạo, kiểm tra

Cơ chế hoạt động của ngành Kiểm sát là: "VKSND do Viện trưởng

lãnh đạo. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng

VKSND cấp trên; Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện trưởng VKS

quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối

cao" [34, tr.11]. Điều 12 Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2014 quy

định: "KSV thực hiện nhiệm vụ THQCT, kiểm sát các hoạt động tư pháp

thuộc thẩm quyền VKS cấp mình theo phân công của Viện trưởng và chịu

trách nhiệm trước Viện trưởng" [50, tr.4]. Chính vì vậy, công tác lãnh đạo,

kiểm tra của Viện trưởng đóng vai trò quan trọng trong việc thành công của

KSV. Muốn cán bộ - KSV hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao thì

Lãnh đạo phải làm tốt công tác chỉ đạo, điều hành; đồng thời kết hợp với công

tác kiểm tra, khen thưởng, phê bình.

3.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng

- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc

[50, tr.67]

Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 đã khẳng định:

Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan Tư pháp khang

trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công

tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám

định tư pháp. Khẩn trương trong một vài năm xây xong trụ sở làm việc của

các cơ quan Tư pháp cấp huyện, nâng cấp các nhà tạm giam theo đề án đã

được Chính phủ phê duyệt. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào các

hoạt động của các cơ quan Tư pháp [8, tr.8].

65

Tuy Nghị quyết nêu như trên, nhưng như phần thực trạng đã trình bày,

hiện nay Phú Yên có 9 VKS huyện, thành phố và 9 phòng trực thuộc nhưng

chỉ có một số VKS có cơ sở vật chất, phương tiện đủ cho việc thực hiện chức

năng và nhiệm vụ của ngành Kiểm sát theo hướng tranh tụng tại Tòa. Còn

nhiều VKS, nhất là các VKS miền núi, hải đảo vẫn còn hiện tượng thiếu trang

thiết bị làm việc, trong đó có VKS huyện Tuy An. Vì vậy, việc thu thập

chứng cứ, thông tin thường chậm, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tranh

tụng của KSV. Xuất phát từ yêu cầu khách quan và điều kiện thực tiễn công

tác đặt ra nên cần phải sớm đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị và

phương tiện làm việc đầy đủ và hiện đại đồng thời đẩy mạnh ứng dụng khoa

học công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa các trang thiết bị của ngành

[50, tr.70].

- Quan tâm chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ cho cán bộ, KSV

[50, tr.70]

Chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ cho cán bộ, công chức nói

chung và cán bộ ngành Tư pháp nói riêng đã được Đảng, Nhà nước thường

xuyên quan tâm, chăm lo, không ngừng được cải thiện phù hợp với điều kiện

phát triển kinh tế đất nước qua các thời kỳ. Tuy nhiên, hiện nay đời sống vật

chất của phần lớn cán bộ, KSV VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên vẫn còn

nhiều khó khăn, nhất là các đồng chí ở địa phương khác điều động đến công

tác hoặc các đồng chí mới vào ngành. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng và

hiệu quả công tác. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 đã nêu: “Có chính

sách tiền lương, phụ cấp và chính sách đãi ngộ phù hợp cho cán bộ Tư pháp;

khen thưởng xứng đáng đối với những cán bộ có thành tích, chiến công trong

đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ công lý” [7, tr.7]. Và Nghị quyết

49-NQ/TW cũng nêu: “Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù

hợp với lao động của cán bộ tư pháp” [8, tr.7].

66

Tuy các Nghị quyết đã khẳng định như vậy, nhưng hiện nay, tiền lương

trung bình của cán bộ, KSV ngành Kiểm sát vẫn thấp hơn so với mặt bằng thu

nhập chung ở trong nước, các nước trong khu vực và trên thế giới; các chế độ

đãi ngộ còn thấp và thất thường không ổn định. Hiện nay, ở VKSND huyện

Tuy An, tỉnh Phú Yên, có nhiều cán bộ, KSV xin ra khỏi ngành, nhất là

những năm gần đây, khi huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên có nhiều nhà máy, công

ty mọc lên thì số lượng cán bộ - KSV xin ra khỏi ngành nhiều hơn.

Chính vì vậy, bên cạnh việc tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và

phương tiện làm việc thì cần phải quan tâm đến các chế độ chính sách một

cách thỏa đáng đối với cán bộ - KSV [50, tr.71]. Có như vậy, cán bộ - KSV

mới yên tâm công tác, giành hết tâm huyết vào công việc và có thời gian để

học tập, nghiên cứu; đồng thời, tránh được những ảnh hưởng tiêu cực của cơ

chế thị trường, chống lại được những cám dỗ vật chất, giữ vững phẩm chất

đạo đức cách mạng của người cán bộ Kiểm sát, xứng đáng là người chiến sĩ

thi đua trên mặt trận đấu tranh phòng chống tội phạm [50, tr.71].

Ngoài những biện pháp nêu trên, VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên

cần phải học tập, rút kinh nghiệm từ những biện pháp đảm bảo, nâng cao hoạt

động tranh tụng của KSV ở các VKSND huyện khác. Qua đó, chúng ta nhận

thấy các VKS này có nhiều biện pháp hay cần học tập. Trong thời gian tới,

VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên không những cần phải tiếp thu những

kinh nghiệm của các VKSND huyện bạn, mà phải chủ động, tích cực hơn nữa

trong việc tìm tòi, xây dựng nhiều biện pháp khác nhau phù hợp với thưc tiễn

để phấn đấu đạt được những yêu cầu cải cách tư pháp, đồng thời đảm bảo,

nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của đội ngũ KSV trong phiên toà

xét xử hình sự nói riêng và trong toàn bộ hoạt động giải quyết vụ án hình sự

67

nói chung.

KẾT LUẬN

Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án

hình sự là một trong những nội dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt

động tố tụng hình sự, là căn cứ để xác định sự thật của vụ án và là cơ sở để

Hội đồng xét xử ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong những

năm qua, Đảng ta có nhiều Nghị quyết định hướng về tiến trình cải cách tư

pháp. Trong đó vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng hoạt động tranh

tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là những vấn đề

cần nghiên cứu làm rõ và tìm giải pháp để nâng cao [50, tr.74].

Trong phạm vi đề tài luận văn góp phần nghiên cứu làm rõ thêm khái

niệm, đặc điểm về hoạt động tranh tranh của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án

hình sự; làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và các tiêu chí đánh giá về

hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.

Thực tiễn tranh tụng của KSV huyện Tuy An cho thấy bên cạnh những

kết quả đạt được như chất lượng, hiệu quả tranh tụng của KSV tại phiên tòa

sơ thẩm vụ án hình sự có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng xét hỏi, tranh

luận đã được nâng cao…, xong vẫn còn những tồn tại hạn chế nhất định như

vẫn còn tình trạng các vụ án không bảo vệ thành công Cáo trạng tại phiên tòa,

các vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy án để điều tra lại; chất lượng xét hỏi,

tranh luận của một số KSV còn hạn chế; công tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực

trình độ nói chung, bồi dưỡng về kỹ năng tranh tụng cho KSV tham gia phiên

tòa sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng chưa được quan tâm đúng mức; trình độ

năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận KSV,

Thẩm phán, Luật sư vẫn còn hạn chế nhất định; ý thức pháp luật của bị can, bị

68

cáo, của những người tham gia tố tụng khác còn hạn chế [50, tr.85].

Để góp phần đảm bảo hoạt động tranh tụng của KSV VKSND huyện

Tuy An, tỉnh Phú Yên đạt hiệu quả cao, chúng tôi đã cố gắng đề cập các vấn

đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động tranh tụng của KSV VKSND

huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, đồng thời đề

xuất một số giải pháp mang tính tổng thể như giải pháp hoàn thiện pháp luật

liên quan đến tranh tụng, đến chức năng nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành

tố tụng, người tiến hành tố tụng và một số giải pháp khác như xây dựng cơ

chế đảm bảo cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, đổi mới công tác tổ chức

và tăng cường năng lực cán bộ kiểm sát, tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ

quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Những giải pháp mà chúng tôi đưa ra

có thể chưa được toàn diện nhưng có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn [50,

tr.83]. Nếu thực hiện tốt những giải pháp này cũng sẽ góp phần giải quyết

được những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về hoạt động

tranh tụng nói chung và tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình

sự nói riêng; cũng như khắc phục được những hạn chế trong thực tiễn hoạt

động tranh tụng của KSV VKSND huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên tại phiên tòa

sơ thẩm vụ án hình sự.

Tóm lại, đề tài “Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm

vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên” đã được tác giả luận

văn ấp ủ nghiên cứu trong thời gian học tại trường, nhưng tác giả chính thức

nghiên cứu, sưu tầm tài liệu và viết luận văn chỉ trong 4 tháng nên Luận văn

sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả luận văn rất mong nhận

được sự tiếp tục chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, các thầy cô

69

và các bạn để Luận văn được hoàn thiện hơn [50, tr.90].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Đức Anh (2009), Một số kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng

tranh tụng của KSV tại phiên toà sơ thẩm hình sự”, Tạp chí Kiểm

sát, (3).

2. Lê Thúc Anh (2008), “Một số suy nghĩ về tranh tụng tại phiên toà trong

cải cách tư pháp”, Tạp chí Toà án nhân dân, (1).

3. Nguyễn Thị Bắc (2003), “Về tranh tụng trong tố tụng hình sự", Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, (9).

4. Dương Thanh Biểu (2007), “Vị trí, vai trò của KSV tại phiên toà sơ

thẩm”, Tạp chí Kiểm sát, (6).

5. Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

6. Bộ Chính trị BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị 53

CT/TW ngày 21/02/2000, một số công việc cấp bách của các cơ

quan tư pháp cần thực hiện năm 2000.

7. Bộ Chính trị BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số

08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công

tác tư pháp trong thời gian tới.

8. Bộ Chính trị BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Nghị quyết số

49/NQ-TW ngày 02/06/2006 về chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020.

9. Nguyễn Ngọc Chí (2003), “Tố tụng tranh tụng và vấn đề cải cách tư pháp

ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền”, Tạp

chí Nghiên cứu lập pháp, (11).

10. Bùi Trí Dũng (2008), Năng lực tranh tụng của KSV thực hành quyền công

tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang, Luận văn thạc sĩ

Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên (2015-2019), Báo cáo tổng hợp công tác của

các văn phòng luật sư hàng năm từ năm 2015 đến 2019.

14. Trần Văn Độ (2003), Bản chất của tranh tụng tại phiên toà, đề tài khoa

học cấp bộ, Học viện Tư pháp.

15. Trần Văn Độ (2003), Vai trò của tranh tụng trong hoạt động xét xử của

Toà án, đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Tư pháp.

16. Elisabetl Pelsez (2003), "Tố tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi", Thông

tin Khoa học kiểm sát, (1), tr.3.

17. Nguyễn Thanh Hạo, Trần thị Thuý An (2008), “Nâng cao trách nhiệm và

năng lực tranh luận của KSV tại phiên toà hình sự sơ thẩm”, Tạp

chí Kiểm sát, (1).

18. Phạm Hồng Hải (2003), “Tiến tới xây dựng tố tụng hình sự ở Việt Nam

theo kiểu tranh tụng”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (7).

19. Nguyễn Đức Khai (2008), “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS

hiện hành - nhằm nâng cao chấtt lượng tranh tụng tại phiên toà sơ

thẩm”, Tạp chí Luật học, (7).

20. Nguyễn Hiển Khanh (2006), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt

động tranh tụng của KSV tại phiên toà sơ thẩm hình sự”, Tạp chí

Toà án nhân dân, (23).

21. Ngô Quang Liễn (2004), “Cơ quan công tố và việc tranh tụng tại các

nước Austrilia và Newzealand”, Tạp chí Kiểm sát (11).

22. Nguyễn Tiến Long (2005), Thực hiện pháp luật bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng trong sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, Luận

văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

23. Nguyễn Đức Mai (2007), “Bàn về tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình

sự”, Tạp chí Kiểm sát, (9).

24. Nguyễn Đức Mai (2009), “Đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng và

phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam”,

Tạp chí Toà án nhân dân.

25. Mai Thị Nam (2008), Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà

XXSTHS của KSV VKSND tỉnh Thanh Hoá hiện nay, Luận văn thạc

sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

26. Từ Văn Nhũ (2002), “Nhận thức về tranh luận dân chủ tại phiên toà hình

sự và những kiến nghị, giải pháp”, Thông tin Khoa học pháp lý,

(5+6), Viện Khoa học kiểm sát VKSND tối cao.

27. Khuất Văn Nga (2008), “Những thay đổi lớn của tư pháp Việt Nam sau

20 năm đổi mới và tổ chức, hoạt động của VKS trong thời kỳ đó và

sau năm 2020”, Tạp chí Kiểm sát, (11).

28. Khuất Văn Nga (2008), “Một số vấn đề cơ bản của cải cách tư pháp liên

quan đến hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát,

(11), tr.1.

29. Nguyễn Nông (2003), “Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự

Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, (9).

30. Võ thị Kim Oanh (2006) “Nguyên tắc tranh tụng - giải pháp nâng cao

chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, (9).

31. Nguyễn Thái Phúc (2008), “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng

trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà

nước và pháp luật, (8).

32. Ngô Hồng Phúc (2003), “Vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên

toà hình sự”, Tạp chí Toà án nhân dân, (2).

33. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam 2013, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

34. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật tổ chức

VKSND, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật tố

tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Tài liệu truy cập trên mạng internet, vào lúc 15h ngày 15/02/2020, "Một

số biện pháp nâng cao hoạt động tranh tụng của KSV tại một số

VKSND tỉnh trong nước".

38. Trần Đại Thắng (2003), “Bàn về tranh tụng trong tố tụng hình sự”, Tạp

chí Kiểm sát số chuyên đề , (9).

39. Lê Hữu Thể (2002), “Vấn đề tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự

và việc thể chế hoá trong quá trình hoàn thiện BLTTHS Việt Nam”,

Thông tin khoa học pháp lý, (5+6), Viện Khoa học kiểm sát

VKSND tối cao.

40. Lê Hữu Thể (2005), “Vai trò của KSV trong hoạt động tranh tụng tại

phiên toà”, Tạp chí Kiểm sát, (6).

41. Nguyễn Mạnh Tiến (2005), “Bàn về một số quy định của BLTTHS về

tranh tụng tại phiên toà”, Tạp chí Toà án nhân dân, (9).

42. Trần Quang Tiệp (2007), “Những quy định về tranh tụng trong pháp luật

tố tụng hình sự một số nước trên thế giới”, Tạp chí Toà án nhân

dân, (6), tr.40-43.

43. Nguyễn Trương Tín (2008), “Một số vấn đề về sự tham gia tranh tụng

của KSV tại phiên toà hình sự sơ thẩm trong điều kiện cải cách tư

pháp”, Tạp chí Toà án nhân dân, (10).

44. Toà án nhân dân tối cao (2007), Cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành các

quy định của BLTTHS liên quan đến tranh tụng tại phiên toà- một

số kiến nghị và giải pháp, Đề tài cấp cơ sở.

45. Đỗ thị Ngọc Tuyết (2007), “Bàn về tranh tụng tại phiên toà XXSTHS và

các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên

toà”, Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, (6).

46. Trần Văn Trung (2008), “Một số ý kiến hoàn thiện BLTTHS theo yêu

cầu tăng cường tranh tụng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp

chí Kiểm sát, (11).

47. Trung tâm Khọc xã hội và nhân văn Quốc gia (2005), Từ điển tiếng Việt,

Nxb Văn hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh.

48. Nguyễn Văn Trượng (2008), “Thực trạng tranh tụng tại phiên toà hình sự

và việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần

cải cách tư pháp”, Tạp chí Toà án nhân dân, (7).

49. Nguyễn Văn Trượng (2008), “Bàn về vấn đề tranh tụng và các yếu tố

tranh tụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Toà

án nhân dân, (10), tr.21.

50. Đặng Hoàng Tú (2015), Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình

sự sơ thẩm từ thực tiễn quận Hoàng Mai, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ

Luật học, Học viện khoa học xã hội.

51. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2013), Pháp lệnh Kiểm sát viên, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Ủy ban nhân dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên (2020), Báo cáo tình hình

kinh tế - xã hội 5 năm 2015 – 2020.

53. Trịnh Tiến Việt (2003), “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà

hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (7).

54. Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

55. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Tranh tụng trong tố tụng hình sự

Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ.

56. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Những giải pháp xây dựng đội

ngũ KSV cấp huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Đề

tài khoa học cấp bộ.

57. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Những giải pháp nâng cao chất

lượng tranh tụng tại phiên tòa của KSV, Đề tài khoa học cấp bộ.

58. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Quy chế 505/QĐ-VKSTC về công

tác THQCT và kiểm sát xét xử vụ án hình sự.

59. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Quy chế 03/QĐ-VKSTC về công tác

THQCT, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố.

60. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020),

Các kế hoạch, chương trình thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW và

Nghị quyết 49-NQ/TW và các kế họach công tác kiểm sát hàng năm

nêu trên.

61. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Kỹ năng tranh luận của KSV tại

phiên tòa sơ thẩm hình sự liên quan đến phụ nữ, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

62. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên (2015, 2016, 2017,

2018, 2019), Thống kê công tác kiểm sát hàng năm từ năm 2015

đến năm 2019.

63. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên (2015, 2016, 2017,

2018, 2019), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát hàng năm từ năm

2005 đến năm 2019.

64. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên (2015, 2016, 2017,

2018, 2019), Báo cáo công tác tổ chức cán bộ hàng năm từ năm

2015 đến năm 2019.

65. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên (2015, 2019), Các

kế hoạch, chương trình thực công tác năm.

66. Viện Ngôn ngữ (2007), Từ điển tiếng việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà

Nội.