ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------
KHƢƠNG THỊ HỒNG NHUNG
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHỤ NỮ BỊ MUA BÁN TRỞ
VỀ HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG TẠI HÀ NỘI
(Nghiên cứu trƣờng hợp tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên”
thuộc Trung tâm Phụ nữ và phát triển, quận Tây Hồ, Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Hà Nội, năm 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------
KHƢƠNG THỊ HỒNG NHUNG
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHỤ NỮ BỊ MUA BÁN TRỞ
VỀ HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG TẠI HÀ NỘI
(Nghiên cứu trƣờng hợp tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên”
thuộc Trung tâm Phụ nữ và phát triển, quận Tây Hồ, Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số : 60.90.01.019
Giáo viên hƣớng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà
Hà Nội, năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Để quá trình nghiên cứu và viết luận văn thành công, ngoài những nỗ lực
của bản thân, tôi đã nhận đƣợc sự hƣớng dẫn cụ thể tận tình của cô giáo PGS. TS
Nguyễn Thị Thu Hà, các thầy cô giáo trong Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH Khoa
học xã hội và nhân văn; sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú lãnh đạo, các anh
chị từ các cơ quan: Cục phòng chống tệ nạn xã hội, Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em
– Bộ Lao Động Thƣơng Binh và Xã hội, Trung tâm phụ nữ và phát triển thuộc
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam cụ thể là Quản lý dự án Ngôi nhà bình yên, cán
bộ dự án và các nhân viên xã hội, các bạn học viên lớp cao học Công tác xã hội
khóa 2012 đã luôn chia sẻ kinh nghiệm những bài học tiếp thu đƣợc trong thời
gian qua.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả các thầy cô giáo và các
cô chú anh chị đã giúp đỡ, dìu dắt và truyền đạt những điều đầu tiên và cơ bản
nhất để trở thành nhân viên xã hội chuyên nghiệp.
Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù cá nhân tôi đã luôn cố gắng để
hoàn thành tốt nhƣng do chƣa có nhiều kinh nghiệm cũng nhƣ kiến thức còn hạn
chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận đƣợc những
ý kiến góp ý từ quý thầy cô và các bạn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Học viên
Khƣơng Thị Hồng Nhung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 8 1.Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 8 2. Tổng quan những nghiên cứu, can thiệp liên quan đến vấn đề nghiên cứu ..... 11
3. Ý nghĩa của nghiên cứu .................................................................................... 17
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu: .......... ……………………….18
5. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu ................................................................. 18 6. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 19
7. Câu hỏi nghiên cứu .......................................................................................... 20
8. Giả thuyết nghiên cứu ...................................................................................... 20 9. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................. 20
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG TRỢ
GIÚP PHỤ NỮ BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG ......... 26
1.1. Các khái niệm liên quan ............................................................................. 26 1.1.1. Mua bán người ........................................................................................... 26
1.1.3. Hồi hương và tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ bị mua bán ................ 39
1.1.4. Khái niệm nhân viên công tác xã hội…………………………………….….. 31
1.1.5. Khái niệm hoạt động trợ giúp phụ nữ…………………………………….…..31
1.2. Các lý thuyết ứng dụng trong đề tài ......................................................... 32 1.2.1. Lý thuyết nhu cầu ....................................................................................... 35
1.2.2.Lý thuyết hệ thống – hệ thống sinh thái ...................................................... 35
1.2.3.Lý thuyết “Thân chủ trọng tâm” ................................................................. 36
1.3. Khái lƣợc về tình hình mua bán ngƣời và việc thực hiện chính sách trợ
giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng ...................................... 37 1.3.1. Tình hình mua bán người ........................................................................... 37 1.3.2. Các nguyên tắc cơ bản về hỗ trợ phục hồi, tái hòa nhập cho phụ nữ bị mua bán trở về: ............................................................................................................ 44 1.3.3. Các chính sách của Nhà nước với đối tượng phụ nữ bị mua bán trở về ........ 45 1.3.4. Khái lược công tác trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng
ở Việt Nam ............................................................................................................ 49 1.3.5. Một số mô hình hỗ trợ cho nạn nhân bị mua bán trở về……………... …50
2
1.4. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ..................................................................... 52 Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................... 57
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHỤ NỮ BỊ MUA
BÁN TRỞ VỀ HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG TẠI NHÀ TẠM LÁNH NGÔI
NHÀ BÌNH YÊN ................................................................................................ 58
2.1. Các hoạt động trợ giúp nhóm phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên” theo báo cáo của Ban quản lý Ngôi nhà bình yên
.............................................................................................................................. 58
2.2. Thực trạng các hoạt động trợ giúp của NNBY dƣới góc nhìn của ngƣời
thụ hƣởng ............................................................................................................ 67
2.3. Đánh giá mức độ hài lòng về các hoạt động đang đƣợc trợ giúp của
những phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên” .... 74 2.3.1. Nhận định chung về mức độ hài lòng với các hoạt động đang được trợ
giúp của những phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh Ngôi nhà bình
yên………………………………………………………………………….…………..…75
2.3.2. Nhóm dịch vụ về nhà ở, nước sạch, ăn uống, quần áo mặc, đồ dùng vệ
sinh cá nhân ......................................................................................................... 76
2.3.3.Chăm sóc sức khỏe: khám chữa bệnh ......................................................... 77
2.3.4. Hỗ trợ tâm lý .............................................................................................. 78
2.3.5. Hỗ trợ pháp lý ............................................................................................ 79
2.3.6. Đào tạo nâng cao kỹ năng sống .............................................................. 80
2.3.7. Dạy nghề, việc làm .................................................................................... 81
2.3.8. Hỗ trợ về tài chính……………………………………………………………….83
2.4. Những mong muốn khác của những phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà
tạm lánh Ngôi nhà bình yên: ............................................................................. 83 2.4.1. Mong muốn được tham gia Câu lạc bộ kết bạn……………………,,,,,,….84
2.4.2. Hỗ trợ tài chính để kinh doanh……………………………………….,,,,,,,,..85
2.4.3. Mong muốn được nâng cao kiến thức về các lĩnh vực khác………,,,,,,…86
Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................... 87
CHƢƠNG 3: ỨNG DỤNG CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN TRONG HỖ
TRỢ GIẢM THIỂU KHỦNG HOẢNG TÂM LÝ BAN ĐẦU CHO MỘT
PHỤ NỮ BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ…………………………………………….88
3.1. Lựa chọn đối tƣợng can thiệp: Trƣờng hợp Phụ nữ bị mua bán kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài trở về đang khủng hoảng về tâm lý......................................... 89
3
3.2. Các hoạt động can thiệp ................................................................................ 93
3.3. Kết quả chính trong can thiệp ..................................................................... 101
3.5. Bài học kinh nghiệm rút ra qua ứng dụng CTXH cá nhân với một phụ nữ bị mua bán trở về giảm thiểu khủng hoảng tâm lý ban đầu ................................... 102
Tiểu kết chƣơng 3…………………………………………………………… 103
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 103
KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................... 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 111
4
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 116
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ LĐTBXH: Bộ Lao động thƣơng binh và xã hội
CTXH: Công tác xã hội
NNBY: Ngôi nhà bình yên
UNIAP: Liên minh các tổ chức quốc tế về buôn bán ngƣời của Liên hợp quốc tại
tiểu vùng sông Mêkông
ILO: Tổ chức lao động quốc tế
TTPNPT – HLHPNVN: Trung tâm Phụ nữ và phát triển – Hội Liên hiệp phụ nữ
5
Việt Nam
DANH MỤC HỘP THÔNG TIN
Nội dung Trang TT
1.1 Cảm nhận của nạn nhân về sự kì thị 43
1.2 Các chế độ hỗ trợ với nạn nhân 48
2.1 Định hƣớng mục tiêu hoạt động của Ngôi nhà bình yên 60
2.2 Môi trƣờng thân thiện ở NNBY 64
2.3 Nhận định về đặc điểm tâm lý phổ biến của nạn nhân 74
3.1 Suy nghĩ của nạn nhân về hiệu quả của tham vấn 88
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Nội dung Trang TT
Sơ đồ 1.1 Sơ đồ xác định nạn nhân 28
Sơ đồ 1.2 Lý thuyết thang bậc nhu cầu của Maslow 35
Sơ đồ 1.3 Nhu cầu của nạn nhân bị mua bán trở về 36
Sơ đồ 1.4 Quy trình mua bán ngƣời và các hành vi liên quan 40
Sơ đồ 1.5 Tổ chức và nhân sự của Ngôi nhà bình yên 53
Sơ đồ 1.6 Mạng lƣới các dịch vụ hỗ trợ của mô hình Ngôi nhà bình yên 55
Sơ đồ 3.1 Sơ đồ phả hệ gia đình thân chủ Trần Thu M 90
6
Sơ đồ 3.2 Sơ đồ sinh thái của thân chủ Trần Thu M 92
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TT Nội dung Trang
Biểu đồ 1.1 Số lƣợng ngƣời tạm trú tại NNBY từ 2007 – 2013 56
Nhu cầu trƣớc khi ở nhà tạm lánh và các dịch vụ của nhà tạm lánh
Biểu đồ 2.1 Thống kê số lƣợng ngƣời tạm trú đƣợc học nghề 67
Bảng 2.2
NNBY đang đƣợc phụ nữ bị mua bán trở về thụ hƣởng
68
Bảng 2.3 Mức độ hài lòng với các dịch vụ của phụ nữ bị mua bán trở về
thụ hƣởng tại NNBY 75
Bảng 2.4 Cảm nhận về điều kiện sống của phụ nữ bị mua bán trở về thụ
hƣởng tại NNBY 77
Bảng 2.5 Cảm nhận về dịch vụ chăm sóc sức khỏe của phụ nữ bị mua
bán trở về thụ hƣởng tại NNBY 78
Cảm nhận về dịch vụ hỗ trợ tâm lý của phụ nữ bị mua bán trở
Bảng 2.6 về thụ hƣởng tại NNBY 79
Bảng 2.7 Cảm nhận về dịch vụ hỗ trợ pháp lý của phụ nữ bị mua bán
trở về thụ hƣởng tại NNBY 79
Bảng 2.8 Cảm nhận về dịch vụ đào tạo nâng cao kỹ năng sống của phụ
nữ bị mua bán trở về thụ hƣởng tại NNBY 80
Bảng 2.9 Cảm nhận về dịch vụ dạy nghề, việc làm của phụ nữ bị mua
bán trở về thụ hƣởng tại NNBY 81
Bảng 2.10 Cảm nhận về dịch vụ cho vay vốn của phụ nữ bị mua bán trở
7
về thụ hƣởng tại NNBY 83
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, tình trạng mua bán phụ nữ
đang gia tăng, có sự chuyển biến ngày càng phức tạp và mang tính toàn cầu. Đây
là một hình thức nô lệ hiện đại đối với phụ nữ. Họ đã và đang trở thành nạn nhân
của các tổ chức, đƣờng dây mua bán ngƣời hoạt động xuyên quốc gia. Theo báo
cáo Tổng kết thực hiện Đề án 3: “Báo cáo Tổng kết Đề án tiếp nhận và hỗ trợ tái
hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân là phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài
trở về giai đoạn 2005 -2010” của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (Bộ
LĐTBXH) thì: “Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO,
hàng năm nƣớc ta có khoảng 5 triệu lƣợt ngƣời nƣớc ngoài vào hợp tác, du lịch,
tham quan, ký kết và làm ăn kinh tế và khoảng 4 triệu lƣợt ngƣời Việt Nam đi du
lịch, tham quan, xuất khẩu lao động… Bên cạnh đó, hàng năm có hàng triệu
ngƣời ở tuổi lao động, học sinh, sinh viên ra trƣờng không tìm đƣợc việc làm...
đang là những điều kiện rất thuận lợi để tội phạm mua bán ngƣời triệt để lợi
dụng.
Theo “Báo cáo kết quả tổng điều tra, rà soát tình hình hoạt động tội
phạm mua bán người và các đối tượng khác có liên quan giai đoạn 2008 –
2013” của Ban chỉ đạo 138 – Bộ Công An thì: “Từ năm 2008 đến tháng 6 năm
2013, lực lƣợng công an, biên phòng cả nƣớc đã phát hiện 2.390 vụ việc, 3.961
đối tƣợng, lừa bán 4.721 nạn nhân của mua bán ngƣời. Trong đó, nam giới là 169
ngƣời (chiếm 3,6%), còn lại 4.552 ngƣời (chiếm 96,4%) nạn nhân là phụ nữ và
trẻ em gái.
Trƣớc thực trạng trên, Quốc hội đã ban hành các văn bản Pháp Luật liên
quan: Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng chống Bạo lực gia đình năm
2007 và Luật Phòng, chống mua bán ngƣời ngày 29/03/2011 và mới đây nhất,
ngày 18/08/2011 Thủ tƣớng Chính phủ đã có Quyết định số 1427/QĐ-TTg phê
duyệt Chƣơng trình hành động, phòng, chống tội phạm mua bán ngƣời giai đoạn
2011– 2015, đây là những cơ sở pháp lý vững chắc, tạo sự hợp tác chặt chẽ giữa
tất cả các bộ/ngành liên quan trong công tác phòng, chống mua bán ngƣời và hỗ
8
trợ nạn nhân. Trong những năm qua, nhờ sự cố gắng đó của các cơ quan chức
năng và các tổ chức xã hội, chúng ta đã giải thoát cho rất nhiều phụ nữ bị mua
bán trở về Việt Nam. Bên cạnh những nỗi đau trong quá khứ, những phụ nữ này
đang đối diện với rất nhiều những khó khăn trong đời sống cần sự giúp đỡ của
toàn xã hội. Trong đó đặc biệt là vấn đề tái hòa nhập cộng đồng. Chúng ta phải
giúp đỡ họ nhƣ thế nào để họ có thể quên đi quá khứ, giảm đi mặc cảm tự ti, giúp
đỡ họ có đƣợc những kiến thức, kỹ năng để họ có thể vƣợt qua khó khăn, hòa
nhập thành công? Để làm đƣợc điều này cần sự phối hợp chung tay của toàn xã
hội trong đó có ngành Công tác xã hội.
Công tác xã hội ở Việt Nam đã đƣợc công nhận là một ngành khoa học, là
một nghề có đặc thù trợ giúp những đối tƣợng yếu thế trong xã hội, trong đó có
phụ nữ bị mua bán. Nhân viên xã hội cần tìm hiểu về các chính sách của Đảng,
Nhà nƣớc với đối tƣợng này, tham khảo học tập những mô hình trợ giúp trên thế
giới và đặc biệt cần tìm hiểu sâu về đặc điểm và nhu cầu của chính đối tƣợng phụ
nữ bị mua bán trở về để tìm ra các biện pháp hỗ trợ họ hòa nhập cộng đồng một
cách hiệu quả. Trong quá trình tham dự một khóa tập huấn nâng cao năng lực về
phòng chống mua bán ngƣời các nƣớc tiểu vùng sông Mê kông tổ chức tại Thái
Lan, ngƣời nghiên cứu đã đƣợc thăm quan học tập hai mô hình nhà tạm lánh
dành cho nam giới và phụ nữ từng bị mua bán ngƣời trở về. Đó là mô hình toàn
diện cung cấp các dịch vụ cho nạn nhân, liên kết với các cơ quan tổ chức tạo
thành một mạng lƣới giúp đỡ nạn nhân mua bán ngƣời hòa nhập cộng đồng hiệu
quả. Hiện nay, Việt Nam đang học tập các mô hình trên thế giới và đã xây dựng
một số nhà tạm lánh cung cấp dịch vụ hỗ trợ về tâm lý xã hội và các dịch vụ khác
đáp ứng nhu cầu của nạn nhân trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng. Ví dụ nhƣ
Mô hình hỗ trợ tại Trung tâm nhƣ “nhà tạm lánh” (Hà Nội), “Nhà mở” (An
Giang, Cần Thơ,...) thông qua phối hợp của các ngành, đoàn thể và các tổ chức
Quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ, trẻ em bị mua bán có hoàn cảnh
khó khăn. Theo mô hình trên, các trƣờng hợp nạn nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn đƣợc cung cấp nơi ăn, nghỉ, tƣ vấn, tham vấn tâm lý xã hội và đƣợc tiếp cận
với các dịch vụ ngoài Trung tâm, để học văn hoá, học nghề, hoặc khám chữa
bệnh theo nhu cầu và khả năng của đối tƣợng. Các nạn nhân đƣợc hƣởng các
9
dịch vụ này đạt tỷ lệ cao về tái hoà nhập cộng đồng. Nhƣng thực tế các hoạt động
trợ giúp nạn nhân này đang diễn ra nhƣ thế nào, hoạt động có hiệu quả hay
không, có đáp ứng đúng nhu cầu, phù hợp với nguyện vọng và tình hình thực tế
hay không? Trên thực tế, đến nay các dịch vụ hỗ trợ chủ yếu tập trung cung cấp
chỗ ở tạm thời, các cơ sở hỗ trợ nạn nhân còn hạn chế trong việc đáp ứng các nhu
cầu cơ bản khác của nạn nhân. Sau khi họ rời những cơ sở hỗ trợ, tại cộng đồng
vẫn còn thiếu cơ chế chia sẻ thông tin và phối hợp giữa chính quyền địa phƣơng
đảm bảo họ đƣợc trợ giúp để trở về an toàn và tái hòa nhập. Đây là hoạt động còn
khá mới trong dịch vụ xã hội và hoạt động thiếu tính chuyên nghiệp trong trang
bị và cung cấp dịch vụ kịp thời đáp ứng nhu cầu của nạn nhân.
Hà Nội không phải là địa bàn có nhiều nạn nhân bị mua bán ngƣời nhƣng
là địa bàn trung chuyển và là điểm đến của nhiều nạn nhân ở các tỉnh thành khác
[9, tr.3]. Hà Nội là thủ đô, nơi tập trung các cơ quan ban ngành đoàn thể Trung
ƣơng của cả nƣớc và các cơ quan phi chính phủ nƣớc ngoài. Sau khi đƣợc giải
cứu qua con đƣờng chính thức, Bộ ngoại giao và Bộ Công An thƣờng đƣa nạn
nhân về Hà Nội tạm lánh trƣớc khi chính thức trở về địa phƣơng cƣ trú. Các mô
hình thí điểm dịch vụ về xã hội cũng đƣợc đầu tƣ sớm hơn các địa phƣơng khác.
Với sự hỗ trợ về tài chính và kĩ thuật của “Cơ quan hợp tác phát triển Tây Ban
Nha (AECID)”, Trung tâm phụ nữ và Phát triển thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam đã xây dựng mô hình “Ngôi nhà bình yên” (NNBY) từ tháng 3 năm 2007
tại Hà Nội để hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị mua bán từ nƣớc ngoài trở về giúp họ
bình ổn về tâm lý, sức khỏe, có kỹ năng nghề nghiệp để tự tin tái hòa nhập cộng
đồng. Ngôi nhà bình yên có các dịch vụ điển hình nhƣ: Cung cấp nơi ăn ở an
toàn; Chăm sóc sức khỏe; Hỗ trợ y tế, pháp lý, trang thiết bị phù hợp với nghề
đào tạo khi hồi gia; Tƣ vấn tâm lý, nghề và học nghề; Hoạt động trị liệu tâm
lý; Nâng cao kỹ năng sống; Trợ giúp sau khi rời Ngôi nhà Bình yên. Đây là một
mô hình điển hình cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân của mua bán ngƣời tiêu
biểu ở Việt Nam; là mô hình cụ thể thực hiện ứng dụng các phƣơng pháp công
tác xã hội trong việc trợ giúp nạn nhân [39, tr.10]. Sau 7 năm hoạt động, đến nay
“Ngôi nhà bình yên” đã trợ giúp cho 257 phụ nữ và trẻ em bị mua bán trở về
thuộc 15 dân tộc ở 43 tỉnh/ thành phố trong cả nƣớc. Nhà tạm lánh này đƣợc
10
đánh giá là một mô hình hiệu quả trong việc cung cấp các dịch vụ, hoạt động hỗ
trợ cho nạn nhân. Tuy nhiên, các hoạt động này đã đáp ứng đầy đủ các nhu cầu
cho tất cả các nạn nhân chƣa? Các dịch vụ đã toàn diện hay chƣa? Mức độ hài
lòng của nạn nhân với các dịch vụ nhƣ thế nào? Và sau khi ở trong “Ngôi nhà
bình yên” thì những phụ nữ này có mong muốn nào khác chƣa đƣợc đáp ứng hay
không? Ngƣời nghiên cứu nghĩ rằng rất cần sự đánh giá tổng quan để trả lời câu
hỏi trên, để rút ra những kinh nghiệm để các nhà tạm lánh khác học hỏi mô hình.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng tại Hà
Nội” (Nghiên cứu trường hợp tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên” thuộc
Trung tâm Phụ nữ và phát triển, quận Tây Hồ, Hà Nội).
2. Tổng quan những nghiên cứu, can thiệp liên quan đến vấn đề nghiên cứu
2.1. Vài nét về vấn đề nghiên cứu và mô hình can thiệp hỗ trợ phụ nữ bị mua
bán trở về hòa nhập cộng đồng trên thế giới
Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, thế giới bƣớc sang thế kỉ 21 với
nhiều bƣớc tiến quan trọng về khoa học kĩ thuật, công nghệ và môi trƣờng ngày
càng mở về giao lƣu tri thức, văn hóa, hội nhập kinh tế nhƣng vẫn còn nhiều tệ
nạn xã hội ngày càng biến chuyển phức tạp. Vấn đề mua bán ngƣời đặc biệt là
nạn mua bán phụ nữ, trẻ em đã trở thành đề tài nóng trong nhiều thập kỉ nay.
Nguyên nhân có thể từ nhiều phía – do khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa, do
giá trị đạo đức ở một bộ phận nào đó ngày càng đi xuống, do pháp luật chƣa chặt
chẽ hay do nhận thức của chính con ngƣời còn hạn chế. Đó mới là những nhận
định ban đầu, tuy nhiên, có thể thấy rõ ràng nạn mua bán ngƣời gia tăng đã và
đang ảnh hƣởng rất lớn tới xã hội, mà trực tiếp là nạn nhân và những đối tƣợng
có nguy cơ.
Vấn đề mua bán ngƣời đặc biệt là nạn mua bán phụ nữ, trẻ em đã trở
thành mối quan tâm của nhiều quốc gia trong nhiều thập kỉ nay. Liên hợp quốc
và các tổ chức quốc tế cũng nhƣ tất cả các quốc gia trên thế giới đều đặt sự quan
tâm rất cao đến vấn đề mua bán ngƣời trên hai lĩnh vực chủ yếu: phòng chống
nạn mua bán ngƣời và hỗ trợ nạn nhân của mua bán ngƣời. Đối với các ngành an
ninh – interpol quan tâm đến lĩnh vực phòng chống tội phạm của mua bán ngƣời.
11
Với các nhà khoa học về xã hội và nhân văn, các nhà hoạt động xã hội thì quan
tâm đến vấn đề trƣớc và sau quá trình mua bán ngƣời. Tức là nghiên cứu các giải
pháp giảm nguy cơ và giải pháp trợ giúp làm giảm hậu quả của tệ nạn này. Đối
tƣợng nghiên cứu và tác động trực tiếp là nạn nhân, cộng đồng nơi sinh sống và
vấn đề hỗ trợ họ tái hòa nhập cộng đồng nhƣ thế nào để hiệu quả. Trên thế giới
có rất nhiều mô hình dịch vụ xã hội để chúng ta tham khảo nhƣ: nhà tạm lánh,
trung tâm công tác xã hội… dành riêng cho đối tƣợng này.
Các nghiên cứu trên thế giới tập trung nhiều vào tìm hiểu thực trạng và
nguyên nhân của nạn mua bán ngƣời nhƣ:
Các nghiên cứu của Liên minh các tổ chức quốc tế về mua bán ngƣời của
Liên hợp quốc tại tiểu vùng sông Mêkông (UNIAP) đƣa ra cái nhìn toàn cảnh về
tình hình mua bán ngƣời của các nƣớc này. UNIAP chú trọng đến các hoạt động
về phát triển cơ sở dữ liệu, nghiên cứu, kết nối mạng lƣới thông tin… nghiên cứu
về yếu tố tƣ pháp và quyền con ngƣời trong hệ thống luật pháp của các nƣớc với
vai trò ngăn chặn nguy cơ buôn bán lao động, buôn bán ngƣời qua biên giới, vai
trò nâng cao nhận thức, hỗ trợ các nạn nhân.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng tập trung nghiên cứu mua bán ngƣời
theo hƣớng tiếp cận bóc lột tình dục vì mục đích thƣơng mại và du lịch tình dục,
mối quan hệ giữa di cƣ và mua bán ngƣời. ILO tổ chức nhiều hội thảo lấy ý kiến
và các nghiên cứu sâu rộng, điển hình ở tiểu vùng Mê kong.
Các quốc gia trên thế giới cũng có những nghiên cứu của bản thân họ để
phục vụ cho công tác phòng chống mua bán ngƣời mà cụ thể với đối tƣợng là
phụ nữ, tiêu biểu nhƣ: các quốc gia Đông Nam Á (Thái Lan, Campuchia, Lào,
Myanma…), Philippin, Nga, Nepan...
2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam liên quan đến hoạt động trợ giúp phụ nữ bị
mua bán trở về hòa nhập cộng đồng:
Ủy ban xóa bỏ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Ủy ban Cedaw) và Quỹ
phát triển phụ nữ Liên hợp quốc (Unifem) nghiên cứu phụ nữ với các vấn đề toàn
diện nhƣ: vấn đề giới, sức khỏe, kinh tế, việc làm… Trong đó cũng có nghiên
cứu vấn đề mua bán phụ nữ dƣới các góc độ khác nhau. Tác phẩm “Cedaw và
pháp luật: Nghiên cứu rà soát văn bản pháp luật ở Việt Nam trên cơ sở quyền và
12
giới qua lăng kính Cedaw” (Quỹ phát triển phụ nữ Liên hợp quốc (Unifem) đã
nghiên cứu rà soát tất cả các văn bản pháp luật liên quan đến phụ nữ; trong đó có
các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề mua bán ngƣời và công tác hỗ trợ nạn
nhân là phụ nữ từng bị mua bán trở về. Nghiên cứu này chỉ rõ trong các văn bản
pháp luật về phòng chống mua bán ngƣời đều khẳng định: “việc phục hồi và tái
hòa nhập bắt buộc phải bao gồm cung cấp chỗ ở tạm thời hoặc nơi ở thích hợp, tƣ
vấn, các dịch vụ y tế, tâm lý, trợ giúp pháp lý miễn phí, hỗ trợ giáo dục cho trẻ
em bị buôn bán, sinh kế và đào tạo kỹ năng, giúp đỡ trong vấn đề quốc tịch, giấy
chứng nhận nơi cƣ trú, giấy khai sinh và các vấn đề khác liên quan đến hộ tịch”
[14, tr.19]. Tuy nhiên, nghiên cứu này lại chƣa chỉ ra mô hình nào kể cả của
Chính phủ hay phi chính phủ đang thực hiện các hoạt động hỗ trợ này theo định
hƣớng của Nhà nƣớc.
Trong cuốn “Các nhận xét kết luận về Việt Nam của Ủy ban xóa bỏ phân
biệt đối xử chống lại phụ nữ (Ủy ban Cedaw) và Quỹ phát triển phụ nữ Liên hợp
quốc (Unifem) (năm 2009) đã khuyến nghị 35 điều tới Chính phủ nƣớc ta các
hoạt động để nâng cao vị thế của phụ nữ, giúp cho công tác phụ nữ tốt hơn, để
nƣớc ta sớm tiến lên bình đẳng giới. Trong đó có khuyến nghị số 18 [59, tr. 8] đề
cập đến các biện pháp phòng chống mua bán ngƣời và hỗ trợ nạn nhân sau quá
trình mua bán. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng không đề cập đến mô hình hỗ trợ
phụ nữ bị mua bán bao gồm các hoạt động tổng thể tại nhà tạm lánh nên đƣợc
thực hiện nhƣ thế nào.
Trong “Báo cáo của các tổ chức phi chính phủ về việc thực hiện công ƣớc
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Cedaw) tại Việt Nam” (2006)
quan tâm đến phụ nữ dƣới các góc độ: phụ nữ tham gia đời sống chính trị, bạo
lực với phụ nữ, phụ nữ trong giáo dục, sức khỏe, kinh tế; phụ nữ nông thôn để
phản ánh vấn đề Bình đẳng giới ở Việt Nam. Nhƣng báo cáo này cũng không đề
cập đến hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về. Trong cuốn sách “Đánh giá
giới tại Việt Nam” (Ngân hàng thế giới, năm 2012) cũng có mối quan tâm tƣơng
tự nhƣ vậy: vấn đề giới và đói nghèo, việc làm, phụ nữ tham gia hoạt động chính
trị mà chƣa quan tâm đến đời sống ngƣời phụ nữ sau quá trình bị mua bán cần
13
phải có những công tác hỗ trợ nhƣ thế nào.
Các nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay về vấn đề mua bán ngƣời cũng có
nhiều điểm tƣơng đồng với các nghiên cứu trên thế giới. Tiêu biểu nhƣ cuốn sách
“Ngăn chặn buôn bán phụ nữ ở Việt Nam” [43] của tác giả Lê Thị Quý. Bên
cạnh đó là: “Báo cáo đánh giá tình hình nạn nhân bị buôn bán trở về và các dịch
vụ hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng” của tác giả Từ Ngọc Châu [20] và “Báo cáo
khảo sát thực trạng những nạn nhân nữ trở về do buôn bán phụ nữ ở Tây Ninh”
của tác giả Lê Tiêu La [28]. Các nghiên cứu mới dừng lại ở khảo sát, đánh giá
thực trạng nạn nhân một vùng trên cả nƣớc, đƣa ra những số liệu và tình hình
thực tế ở địa phƣơng mà chƣa đề cập đến mô hình nhà tạm lánh cung cấp dịch vụ
hỗ trợ đối tƣợng này. Một số mô hình trợ giúp cho phụ nữ bị mua bán trở về hòa
nhập cộng đồng không phải ở nhà tạm lánh thì đi sâu đề cập đến vấn đề địa
phƣơng hỗ trợ nhƣ thế nào cho họ, tuyên truyền phổ biến không kỳ thị, phân biệt
đối xử với họ, giúp họ trở về với cuộc sống bình thƣờng.
Cuốn sách “Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam” do Lê
Bạch Dƣơng chủ biên [22] nghiên cứu những chính sách, chƣơng trình bảo trợ và
các dịch vụ xã hội cho các nhóm thiệt thòi nhƣ: nông dân nghèo, lao động di cƣ
từ nông thôn ra thành thị, ngƣời khuyết tật và ngƣời có HIV/AIDS. Nghiên cứu
này đã không đề cập đến các hoạt động hỗ trợ nhóm phụ nữ bị mua bán trở về
nhƣ một nhóm thiệt thòi ở Việt Nam.
Các nghiên cứu trƣớc đây về phụ nữ tập trung nhiều vào vấn đề giới và
tiến lên bình đẳng giới của Ủy ban vì sự tiến bộ của phụ nữ nay là Vụ Bình đẳng
giới (thuộc Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội). Các nghiên cứu này đều đề
cập đến vấn đề bạo lực với phụ nữ, trong đó xem hành vi mua bán phụ nữ có
nhiều yếu tố liên quan đến bạo lực. Và công tác hỗ trợ phụ nữ vị bạo lực có nhiều
điểm tƣơng đồng với hỗ trợ nạn nhân là phụ nữ sau quá trình bị buôn bán. Nhƣ
vậy, ở trong các nghiên cứu khác nhau thì có nghiên cứu tách riêng vấn đề bạo
lực với phụ nữ và vấn đề mua bán phụ nữ; nhƣng cũng có những nghiên cứu lại
gộp chung vấn đề bạo lực với phụ nữ và mua bán phụ nữ vì đều để lại những hậu
quả tƣơng đồng với họ.
Trong “Những phát hiện chính từ Báo cáo quốc gia: An sinh xã hội cho
14
phụ nữ và trẻ em gái ở Việt Nam” (Vụ Bình đẳng giới - thuộc Bộ Lao động –
Thƣơng binh và Xã hội, Cơ quan Liên hợp Quốc về phụ nữ tại Việt Nam UN
Women, năm 2013) có đánh giá về các chính sách về tiếp cận dịch vụ xã hội cơ
bản cho nhóm phụ nữ và trẻ em nghèo, dân tộc thiểu số, nông thôn và vùng khó
khăn. Các dịch vụ đó bao gồm: giáo dục, y tế, nhà ở, nƣớc sạch tối thiểu và thông
tin truyền thông. Đó là các chính sách xã hội cơ bản nói chung dành cho nhóm
phụ nữ yếu thế. Vì đây là báo cáo quốc gia mang tính tổng thể nên không đề cập
chi tiết đến nhóm phụ nữ bị buôn bán trở về. Tuy nhiên, ngƣời nghiên cứu dựa
vào Báo cáo này cũng ghi nhận đƣợc các dịch vụ xã hội cơ bản là gì, cách tổ
chức hoạt động trợ giúp.
Trong cuốn sách “Một mục tiêu độc lập mang tính chuyển biến nhằm đạt
đƣợc bình đẳng giới, quyền của phụ nữ và trao quyền cho phụ nữ: tính cấp bách
và các hợp phần chính” (Cơ quan Liên hợp Quốc về phụ nữ tại Việt Nam UN
Women, năm 2013) nhấn mạnh đến mục tiêu xây dựng một xã hội không còn bạo
lực đối với phụ nữ. Bên cạnh đó, chúng ta phải xây dựng “hệ thống vận hành tốt
các dịch vụ cho phụ nữ sự an toàn và chăm sóc kịp thời qua các dịch vụ y tế, chất
lƣợng về tinh thần, bảo vệ và nơi trú ẩn, cũng nhƣ các dịch vụ xã hội và tƣ pháp”
[60, tr. 24]. Thông qua cuốn sách này, ngƣời nghiên cứu vận dụng đƣợc cách xây
dựng các dịch vụ trợ giúp cho nhóm phụ nữ bị mua bán trở về cũng từng bị ảnh
hƣởng bởi bạo lực.
Một cuốn sách nữa nghiên cứu về dịch vụ trợ giúp xã hội của Ngân hàng
Thế giới trong Báo cáo phát triển thế giới “Cải thiện các dịch vụ để phục vụ
ngƣời nghèo” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2004) nghiên cứu toàn bộ
các dịch vụ có quan hệ trực tiếp đến sự phát triển con ngƣời là: giáo dục, y tế sức
khỏe, dinh dƣỡng, điều kiện vệ sinh, điện, nƣớc. Đây chính là các dịch vụ thiết
yếu để phục vụ con ngƣời phát triển, đặc biệt là điều kiện để ngƣời nghèo thoát
nghèo. Mục tiêu của việc thiết kế các dịch vụ đó là: “đẩy lùi HIV/AIDS và các
bệnh dịch khác, nạn mù chữ, đói ăn vì thiếu lƣơng thực và nƣớc bẩn đe dọa hàng
triệu ngƣời trên thế giới” [40, tr. 3]. Ngƣời nghiên cứu vận dụng cách thức liên
hệ từ mục đích cần đạt đƣợc để thiết kế dịch vụ xã hội đáp ứng phù hợp nhu cầu
của đối tƣợng. Và đặc biệt là công tác quản lý, thực hiện hoạt động trợ giúp nhƣ
15
thế nào để đạt hiệu quả cao.
Một số nghiên cứu theo hƣớng đề tài về các dịch vụ trợ giúp tại nhà tạm
lánh dành cho đối tƣợng yếu thế khác nhƣ: phụ nữ và trẻ em bị bạo lực gia đình;
hoặc cơ sở bảo trợ xã hội dành cho ngƣời cao tuổi, ngƣời không nơi nƣơng tựa,
trẻ em mồ côi, trẻ em lang thang, ngƣời mắc các bệnh tâm thần… cũng là cơ sở
để ngƣời nghiên cứu tham khảo so sánh trong nghiên cứu của mình. Luận văn
thạc sĩ Công tác xã hội năm 2014 “Vai trò của nhân viên CTXH trong việc hỗ trợ
cho phụ nữ bị bạo lực gia đình” thông qua nghiên cứu trƣờng hợp tại mô hình
“Ngôi nhà Bình Yên” – Trung Tâm Phụ Nữ và Phát Triển (NNBY có 2 mô hình
dành cho phụ nữ bị bạo lực gia đình và phụ nữ bị mua bán trở về) của Trƣơng
Thị Tâm, Đại học khoa học xã hội nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội tìm hiểu
những dịch vụ hỗ trợ của mô hình và kết quả can thiệp trực tiếp của tác giả với
một số nạn nhân đang tạm trú tại đây, đề tài đã tìm hiểu và chỉ ra đƣợc những vai
trò của Nhân viên xã hội khi trợ giúp cho phụ nữ bị bạo lực gia đình. Luận văn
này cũng là một tài liệu tham khảo cho tôi trong quá trình nghiên cứu của mình.
Nhƣ vậy, chúng ta có thể thấy, ở Việt Nam đã có rất nhiều những nghiên
cứu trƣớc đây về phụ nữ với các vấn đề xung quanh họ nhƣ: vấn đề nghèo đói,
việc làm của phụ nữ ở nông thôn – thành thị và các dịch vụ hỗ trợ nhóm phụ nữ
khó khăn thoát nghèo; các nghiên cứu về ảnh hƣởng của Bạo lực gia đình với
phụ nữ và các mô hình nhà tạm lánh có các dịch vụ cơ bản trợ giúp phụ nữ bị bạo
lực; các nghiên cứu về giới và phát triển: trong đó đề cập đến vai trò, vị thế của
phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, quá trình tiến lên bình đẳng giới của Việt Nam.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đánh giá này mới đề cập đến nhóm phụ nữ bị mua bán
trở về là một nhóm nhỏ trong các phụ nữ yếu thế; dƣờng nhƣ vẫn còn thiếu vắng
những nghiên cứu về các hoạt động trợ giúp cho đối tƣợng là nạn nhân mua bán
trở về hòa nhập cộng đồng, đặc biệt là các mô hình trợ giúp ứng dụng phƣơng
pháp đặc thù nhƣ Công tác xã hội với đối tƣợng này.
=> Chính vì vậy, nghiên cứu “Hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán
trở về hòa nhập cộng đồng tại Hà Nội” muốn đi sâu tìm hiểu với hoàn cảnh
thực tại phụ nữ bị mua bán trở về ở tại nhà tạm lánh đang đƣợc trợ giúp những
gì, đƣợc thụ hƣởng những dịch vụ xã hội nào để họ vƣợt qua khó khăn trƣớc khi
16
hòa nhập cộng đồng? Công tác hỗ trợ phụ nữ bị mua bán trở về hiện nay tại nhà
tạm lánh đƣợc triển khai nhƣ thế nào? Cụ thể là các nhân viên xã hội tại các nhà
tạm lánh đã có những hoạt động trợ giúp nào cho nhóm đối tƣợng này? Và những
hoạt động trợ giúp đó đã có hiệu quả tốt chƣa, có đáp ứng đúng nhu cầu của họ
không? Ngoài các dịch vụ đang đƣợc thụ hƣởng thì chính những nạn nhân là phụ
nữ bị mua bán trở về có đề xuất mong muốn thêm những dịch vụ nào khác
không. Sau khi nghiên cứu để trả lời các câu hỏi trên thì ngƣời nghiên cứu sẽ có
những khuyến nghị, đề xuất phù hợp để nhân rộng mô hình này.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
3.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu này có cơ hội đƣợc vận dụng một số lý thuyết của Công tác xã
hội, lý giải một số vấn đề của thực tiễn thông qua việc tìm hiểu và phân tích nhu
cầu hỗ trợ tái hòa nhập của phụ nữ bị mua bán trở về cũng nhƣ các hoạt động trợ
giúp hiện tại với đối tƣợng này. Điển hình nhƣ: lý thuyết hệ thống, lý thuyết nhu
cầu của Maslow,… Đồng thời, ngƣời nghiên cứu cũng vận dụng các phƣơng
pháp và kỹ năng can thiệp trong Công tác xã hội đƣợc ứng dụng trong quá trình
nghiên cứu, củng cố sâu sắc hơn những hiểu biết về các lý thuyết và các phƣơng
pháp, kỹ năng Công tác xã hội đã đƣợc học và thực hành.
Bên cạnh đó, kết quả của nghiên cứu tạo tiền đề cho các nhà nghiên cứu tiếp
tục nghiên cứu ứng dụng sâu hơn các lý thuyết Xã hội học và CTXH nhƣ: Công
tác xã hội cá nhân… vào việc trợ giúp cho các nhóm đối tƣợng đặc thù nhƣ
nhóm phụ nữ bị mua bán trở về này.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đối với địa bàn nghiên cứu: nghiên cứu “Hoạt động trợ giúp phụ nữ bị
mua bán trở về hòa nhập cộng đồng tại Hà Nội” nghiên cứu trƣờng hợp tại nhà
tạm lánh “Ngôi nhà bình yên” thuộc Trung tâm Phụ nữ và phát triển. Kết quả
nghiên cứu tìm hiểu, làm rõ hơn những nhu cầu của nạn nhân là phụ nữ bị mua
bán trở về và những nhu cầu đó đã đƣợc đáp ứng tại nhà tạm lánh này nhƣ thế
nào, tức là đã có những hoạt động hỗ trợ gì để đáp ứng nhu cầu đó? Nhà nghiên
cứu đƣa ra cái nhìn tổng thể về mô hình hỗ trợ nạn nhân của nhà tạm lánh Ngôi
nhà bình yên. Nghiên cứu đánh giá hiệu quả hoạt động của các dịch vụ trợ giúp ở
17
đây thông qua lăng kính của chính những ngƣời thụ hƣởng là ngƣời phụ nữ bị
mua bán trở về đang ở tại đây. Kết quả nghiên cứu góp phần vào việc hoàn thiện
và phát triển hơn mô hình hỗ trợ nạn nhân này, để đƣa chính sách hỗ trợ nhóm
đối tƣợng này trở thành dịch vụ chuyên nghiệp.
Đối với Nhà nƣớc và các cơ quan hoạt động về lĩnh vực bảo vệ và hỗ trợ
nạn nhân nói chung: Vì nghiên cứu chỉ đề cập đến một phạm vi nhỏ của một nhà
tạm lánh nên kết quả nghiên cứu không có ý nghĩa phổ biến hay đại diện cho
toàn bộ hoạt động của các nhà tạm lánh dành cho phụ nữ bị mua bán trở về trên
toàn quốc. Tuy nhiên, từ kết quả nghiên cứu cũng cho những gợi ý những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động trợ giúp, chất lƣợng của các dịch vụ
xã hội trong một nhà tạm lánh. Nói cách khác, kết quả nghiên cứu có thể giúp
cho quá trình hoạch định, điều chỉnh, bổ sung những chính sách, chiến lƣợc về
các đối tƣợng đặc biệt quan tâm trong xã hội. Đặc biệt là Nhà nƣớc cần tạo điều
kiện để nhân rộng mô hình nhà tạm lánh này trên cả nƣớc để nạn nhân của nạn
mua bán ngƣời có cơ hội để trở về hòa nhập cộng đồng hiệu quả…
Đối với bản thân nhà nghiên cứu: qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thực
tế nhà nghiên cứu có cơ hội áp dụng những lý thuyết và phƣơng pháp đã đƣợc
học vào thực tiễn cuộc sống, đặc biệt là những kỹ năng thực hành CTXH nói
chung và CTXH cá nhân nói riêng. Từ đó giúp nhà nghiên cứu nắm vững kiến
thức, rèn luyện kỹ năng và có thêm nhiều kinh nghiệm trong những nghiên cứu
tiếp theo và quá trình công tác của bản thân.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu:
4.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đƣợc thực hiện nhằm đánh giá lại các hoạt động đang đƣợc hỗ
trợ tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên” và mức độ hài lòng của phụ nữ bị mua
bán trở về với các hoạt động đƣợc trợ giúp đó. Bên cạnh đó tìm hiểu những mong
muốn khác của họ chƣa đƣợc đáp ứng. Để từ đó tìm ra các cách thức nâng cao
chất lƣợng dịch vụ của nhà tạm lánh, các giải pháp trợ giúp họ hòa nhập cộng
đồng một cách hiệu quả hơn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu, nhận định, đánh giá thực trạng hoạt động hỗ trợ tại nhà tạm lánh
18
“Ngôi nhà bình yên” thông qua các hoạt động chủ yếu: Cung cấp nơi ăn ở an
toàn; Chăm sóc sức khỏe - y tế; Hoạt động trị liệu tâm lý, tham vấn, tƣ vấn tâm
lý; Nâng cao kỹ năng sống; Hỗ trợ pháp lý; dạy nghề và giới thiệu việc làm; …
Đánh giá về mức độ hài lòng của những phụ nữ bị mua bán trở về đang
đƣợc nhận các hoạt động đƣợc trợ giúp tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên”.
Tìm hiểu những nhu cầu, những mong muốn khác của họ ngoài những
nhu cầu đã đƣợc nhà tạm lánh đáp ứng, để đề xuất một số khuyến nghị và giải
pháp nâng cao chất lƣợng dịch vụ của nhà tạm lánh.
Trong rất nhiều các hoạt động trợ giúp đang đƣợc thực hiện, ngƣời nghiên
cứu đóng vai một nhân viên Công tác xã hội ứng dụng Công tác xã hội cá nhân
vào can thiệp giảm thiểu khủng hoảng tâm lý trong một trƣờng hợp cụ thể tại
“Ngôi nhà bình yên”. Thông qua đó mô tả một hoạt động trợ giúp cụ thể.
5. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng tại nhà tạm
lánh Ngôi nhà bình yên thuộc Trung tâm phụ nữ và phát triển.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Nạn nhân là phụ nữ bị mua bán trở về đang tạm trú tại nhà tạm lánh Ngôi
nhà bình yên
Các nhà quản lý, hoạch định chính sách về bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân
Các nhà quản lý, điều hành tại nhà tạm lánh hỗ trợ nạn nhân
Nhân viên công tác xã hội đang làm việc tại nhà tạm lánh hỗ trợ nạn nhân
6. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Giới hạn về khách thể khảo sát và địa bàn nghiên cứu:
nhóm phụ nữ bị mua bán trở về và những ngƣời có liên quan tại nhà hỗ trợ “ngôi
nhà bình yên”.
Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Các hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở
về đã và đang đƣợc thực hiện tại nhà tạm lánh Ngôi nhà bình yên trƣớc khi họ trở
về hòa nhập cộng đồng.
Phạm vi thời gian:
19
Phạm vi thời gian nghiên cứu của vấn đề: từ năm 2007 đến tháng 10/ 2014
Phạm vi thời gian tiến hành khảo sát tại địa bàn nghiên cứu: từ tháng 01/02/2013
đến tháng 10/2014.
7. Câu hỏi nghiên cứu
(1) Tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên”, những phụ nữ bị mua bán trở
về đang đƣợc cung cấp những hoạt động hỗ trợ gì?
(2) Mức độ hài lòng của những phụ nữ bị mua bán trở về với các dịch vụ,
các hoạt động đƣợc trợ giúp tại Trung tâm nhƣ thế nào? Ngoài các dịch vụ hỗ trợ
ở nhà tạm lánh, nạn nhân có phát sinh những nhu cầu, hay mong muốn nào khác
chƣa đƣợc đáp ứng hay không?
(3) Vai trò của nhân viên công tác xã hội đƣợc thể hiện nhƣ thế nào trong
hoạt động can thiệp trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh?
8. Giả thuyết nghiên cứu
Ngôi nhà bình yên có rất nhiều các dịch vụ, hoạt động hỗ trợ cho phụ nữ
bị mua bán trở về tập trung chủ yếu vào các nhóm hoạt động nhƣ: Cung cấp nơi
ăn ở an toàn; Chăm sóc sức khỏe; Tƣ vấn tâm lý; Nâng cao kỹ năng sống; Dạy
nghề và tạo việc làm...
Về cơ bản, nhóm phụ nữ này đã khá hài lòng với các hỗ trợ đƣợc nhận.
Tuy nhiên, ngoài những nhu cầu đã đƣợc đáp ứng, họ vẫn còn những mong muốn
khác (Ví dụ nhƣ: học thêm nghề mà nhà tạm lánh chƣa có, mong muốn hỗ trợ về
tài chính để kinh doanh...; nghiên cứu này sẽ tìm hiểu thêm sau).
Vai trò của nhân viên Công tác xã hội tại nhà tạm lánh là rất quan trọng,
hỗ trợ nạn nhân tiếp cận với các dịch vụ ở Ngôi nhà bình yên, đặc biệt là vai trò
tham vấn tâm lý. Ngƣời nghiên cứu đã ứng dụng Công tác xã hội cá nhân vào can
thiệp thành công, giảm thiểu khủng hoảng tâm lý trong một trƣờng hợp cụ thể tại
nhà tạm lánh Ngôi nhà bình yên.
9. Phƣơng pháp nghiên cứu
9.1. Phương pháp thu thập thông tin
9.1.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Để có số liệu cụ thể, chính xác về các vấn đề liên quan, nhà nghiên cứu đã
20
tìm hiểu một số tài liệu nhƣ:
Các văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến vấn đề hỗ trợ nạn nhân
của mua bán ngƣời.
Tìm hiểu các công trình nghiên cứu đã và đang thực hiện về vấn đề hỗ trợ
nạn nhân bị mua bán trở về trong và ngoài nƣớc;
Báo cáo tổng kết thực trạng mua bán ngƣời hiện nay và tình hình công tác
phòng chống mua bán ngƣời của các Bộ Công An, Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam, Bộ ngoại giao, Bộ Lao động – Thƣơng binh và xã hội…
Tài liệu và các báo cáo thực trạng công tác hỗ trợ nạn nhân hòa nhập cộng
đồng của các cơ quan ban ngành trong nƣớc, các tổ chức Phi chính phủ; đặc biệt
là tài liệu, hồ sơ và các báo cáo của dự án “Ngôi nhà bình yên” thuộc Trung tâm
phụ nữ và phát triển – Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam … và các tài liệu liên quan
khác (xem phần Danh mục tài liệu tham khảo).
9.1.2. Phương pháp thu thập thông tin bằng phiếu khảo sát
Ngƣời nghiên cứu sử dụng 31 phiếu trƣng cầu ý kiến với khách thể là nạn
nhân phụ nữ bị mua bán trở về đang ở tại nhà tạm lánh Ngôi nhà bình yên tại thời
điểm năm 2014.
Phiếu trƣng cầu ý kiến hỏi tập trung tìm hiểu một số thông tin:
Những nhu cầu cần trợ giúp ở nhà tạm lánh trong quá trình trở về tái hòa
nhập cộng đồng.
Những dịch vụ đang đƣợc trợ giúp – đang đƣợc thụ hƣởng tại nhà tạm
lánh “Ngôi nhà bình yên” là gì? Đánh giá những dịch vụ, hoạt động đang đƣợc
trợ giúp có phù hợp không? Đánh giá về vai trò của nhân viên xã hội trong hoạt
động trợ giúp hiện tại.
Ngoài những dịch vụ, những hoạt động trợ giúp, nạn nhân còn mong
muốn đƣợc những hỗ trợ gì khác?
(Nội dung chi tiết bảng hỏi trong phần Phụ lục 1). Tất cả những dữ liệu
định lƣợng đƣợc xử lý và phân tích trên phần mềm SPSS.
9.1.3. Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân:
Để thu thập một số thông tin mang tính đa chiều và khai thác nhiều hơn
các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu; ngƣời nghiên cứu đã tiến hành 10 phỏng
21
vấn sâu với các đối tƣợng sau:
01 Cán bộ lãnh đạo cơ quan nhà nƣớc quản lý việc hỗ trợ nạn nhân: 01
lãnh đạo Cục Phòng chống tệ nạn xã hội – Bộ Lao động – Thƣơng binh và xã
hội, là đơn vị quản lý Nhà nƣớc trong công tác phòng chống mua bán ngƣời và
hỗ trợ nạn nhân của mua bán ngƣời. Đơn vị này định hƣớng chỉ đạo và quản lý
tất cả các cơ sở bảo trợ, nhà tạm lánh công lập, tƣ nhân, phi chính phủ và nƣớc
ngoài đang cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân là phụ nữ mua bán trở về. Nội
dung phỏng vấn sâu này tập trung chủ yếu vào các nội dung:
Thực tế việc xây dựng và thực hiện các chính sách về phòng chống mua
bán ngƣời và hỗ trợ phụ nữ là nạn nhân của mua bán ngƣời tái hòa nhập cộng
đồng.
Tìm hiểu thực trạng hoạt động trợ giúp của các cơ sở hỗ trợ nạn nhân, nhà
tạm lánh và các mô hình cung cấp dịch vụ hoạt động nhƣ thế nào? Có thuận lợi
và khó khăn gì? Hiệu quả ra sao?
Nhận định về vai trò của nhà tạm lánh hay các cơ sở cung cấp dịch vụ hỗ
trợ nạn nhân đối với việc giúp nạn nhân phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng.
Phỏng vấn 01 cán bộ quản lý một mô hình cung cấp dịch vụ trợ giúp nạn
nhân: ngƣời nghiên cứu tiến hành phỏng vấn quản lý nhà tạm lánh dành cho Phụ
nữ bị mua bán trở về “Ngôi nhà bình yên” để tìm hiểu:
Những dịch vụ, hoạt động trợ giúp đang đƣợc thực hiện tại nhà tạm lánh.
Thuận lợi và khó khăn của đơn vị trong quá trình trợ giúp nạn nhân
Định hƣớng các hoạt động tiếp theo trong thời gian tới của đơn vị.
Ngƣời nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 02 cán bộ là nhân viên Công
tác xã hội đang làm việc tại Ngôi nhà bình yên để tìm hiểu:
Nhận định của họ về những nhu cầu của nạn nhân là gì
Việc áp dụng các phƣơng pháp công tác xã hội hay quản lý trƣờng hợp
(quản lý ca) trong hoạt động hỗ trợ nạn nhân có hiệu quả nhƣ thế nào? (Đánh giá
của bản thân họ)
Họ có đề xuất giải pháp, cách thức cho các hoạt động đƣợc thực hiện hiệu
quả hơn trong thời gian tới?
Ngƣời nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu 06 Nạn nhân là phụ nữ bị
22
mua bán trở về đang ở tại Ngôi nhà bình yên, đang trong quá trình chuẩn bị tái
hòa nhập cộng đồng để tìm hiểu suy nghĩ, đời sống tâm tƣ, nguyện vọng của họ
khi ở tại đây. Thông tin cần thu thập nhƣ sau:
Sau quá trình bị mua bán ngƣời, họ đã và đang bị ảnh hƣởng đến đời sống
nhƣ thế nào? Có những cản trở gì trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng?
(Nguyên nhân của những khó khăn đang gặp phải)
Xác định các nhu cầu chung và riêng của họ: khi đến ở nhà tạm lánh, họ
mong muốn đƣợc hỗ trợ cái gì?
Tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên”, nạn nhân đƣợc cung cấp những
hoạt động hỗ trợ gì?
Mức độ hài lòng với các dịch vụ, các hoạt động đƣợc trợ giúp tại Trung
tâm?
Ngoài các dịch vụ hỗ trợ ở nhà tạm lánh, họ có phát sinh những nhu cầu,
hay mong muốn nào khác không đƣợc đáp ứng hay không?
Đánh giá, nhận định của họ về vai trò của nhân viên công tác xã hội trong
công tác trợ giúp nạn nhân tại nhà tạm lánh?
9.1.4. Phương pháp quan sát
Tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên”, ngƣời nghiên cứu quan sát cơ sở
vật chất và điều kiện sống của nạn nhân tại đây; quan sát các hoạt động trợ giúp
đang đƣợc thực hiện tại đây.
Ngƣời nghiên cứu tham dự một số buổi sinh hoạt nhóm của nhóm phụ nữ
bị mua bán trở về đang sống tại “Ngôi nhà bình yên” với tƣ cách ngƣời trợ giúp
nhân viên xã hội để hiểu cách thức nhân viên xã hội ở đây làm việc. Đồng thời,
ngƣời nghiên cứu có cơ hội đƣợc ghi nhận lại:
Những hoạt động, tình trạng cảm xúc của nạn nhân
Cùng tƣơng tác, chia sẻ cảm xúc giữa các nạn nhân là phụ nữ cùng cảnh ngộ
Ghi nhận lại những phản hồi của họ về các hoạt động đang đƣợc trợ giúp
Quan sát sự tƣơng tác giữa nạn nhân với nhân viên công tác xã hội
9.1.5. Phương pháp Thảo luận nhóm
Ngƣời nghiên cứu tiến hành thảo luận nhóm với một nhóm 06 phụ nữ bị
23
mua bán trở về. Nội dung cụ thể: Đƣa ra các trao đổi trong nhóm, kiểm soát mức
độ chân thực của các thông tin đƣợc thu thập về nhu cầu và các hoạt động đang
đƣợc hỗ trợ tại nhà tạm lánh.
Những câu trả lời định tính từ các bảng câu hỏi, phỏng vấn sâu, dữ liệu
thu thập từ các cuộc thảo luận nhóm đƣợc ghi chép cẩn thận, đƣợc mã hóa riêng
trong phần mềm Microsoft Word. Ngƣời nghiên cứu đảm bảo rằng các dữ liệu
đƣợc kiểm tra chéo từ các nguồn khác nhau chẳng hạn phỏng vấn cá nhân, thảo
luận nhóm, quan sát, xem xét tài liệu nhằm hạn chế sai số trong tiến trình phân
tích dữ liệu.
9.2. Phương pháp can thiệp:
Luận văn “Hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng
đồng” hƣớng đến nghiên cứu những giải pháp toàn diện xung quanh vấn đề trợ
giúp cho đối tƣợng là phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng. Sau khi
nghiên cứu về các hoạt động trợ giúp, các dịch vụ đang hỗ trợ phụ nữ bị mua bán
trở về tại Ngôi nhà bình yên, với tƣ cách là một nhân viên Công tác xã hội, tôi
muốn lựa chọn một vấn đề của thân chủ để ứng dụng phƣơng pháp cơ bản của
Công tác xã hội là phƣơng pháp Công tác xã hội cá nhân để rút ra những kinh
nghiệm làm việc với đối tƣợng này.
Ngƣời nghiên cứu ứng dụng phƣơng pháp Phƣơng pháp công tác xã hội cá
nhân để tham vấn giảm thiểu khủng hoảng tâm lý cho một trƣờng hợp thân chủ là
một phụ nữ bị mua bán đã trở về Việt Nam và đang đƣợc thụ hƣởng các dịch vụ
của dự án “Ngôi nhà bình yên” của Trung tâm phụ nữ và phát triển – Hội liên
24
hiệp phụ nữ Việt Nam.
Kết cấu của luận văn
Luận văn này ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, khuyến nghị và Phụ lục, nội
dung chính chia làm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu.
Chƣơng 1 nêu các khái niệm, hệ thống lý thuyết ứng dụng trong quá trình
nghiên cứu, khái lƣợc về tình hình thực hiện chính sách trợ giúp phụ nữ bị mua
bán trở về hòa nhập cộng đồng và giới thiệu về địa bàn nghiên cứu.
Chƣơng 2. Thực trạng hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về
hòa nhập cộng đồng tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên”.
Nội dung chƣơng 2 tập trung mô tả thực trạng các hoạt động trợ giúp nạn
nhân phục hồi trong quá trình tái hòa nhập thông qua điều tra thực tế; Đánh giá
về mức độ hài lòng của những phụ nữ bị mua bán trở về đang đƣợc nhận các hoạt
động đƣợc trợ giúp tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên”; Tìm hiểu những nhu
cầu, những mong muốn khác của họ ngoài những nhu cầu đã đƣợc nhà tạm lánh
đáp ứng.
Chƣơng 3. Ứng dụng công tác xã hội cá nhân trong hỗ trợ giảm thiểu
khủng hoảng tâm lý ban đầu cho một phụ nữ bị mua bán trở về
Chƣơng này chỉ rõ vai trò của nhân viên Công tác xã hội trong việc ứng
dụng Công tác xã hội cá nhân vào can thiệp giảm thiểu khủng hoảng tâm lý trong
một trƣờng hợp cụ thể tại “Ngôi nhà bình yên”; rút ra một số kinh nghiệm qua
quá trình ứng dụng đó. Bên cạnh đó, ngƣời nghiên cứu muốn nêu bật đƣợc hiệu
quả của phƣơng pháp này trong việc hỗ trợ nạn nhân phục hồi và tái hòa nhập
25
thành công.
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHỤ NỮ BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ
HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Mua bán người
Trên thế giới, các quốc gia thƣờng sử dụng cụm từ tiếng Anh: “human -
trafficking” – tạm dịch là “buôn bán ngƣời” để nói về vấn đề này [42].
Theo đó, buôn bán ngƣời là hành vi trái phép, mang tính chất tội phạm.
Theo điều 3 – Nghị định thƣ Chống buôn bán ngƣời của Liên hợp quốc thì:
“Buôn bán ngƣời đƣợc hiểu là hành vi tuyển chọn, chuyên chở, chuyển nhƣợng,
che dấu hoặc tiếp nhận ngƣời bằng thủ đoạn dùng vũ lực hoặc các hình thức nhƣ
ép buộc, bắt cóc, dối trá, lừa gạt, lạm dụng quyền hạn hoặc hoàn cảnh dễ bị tổn
hại, cho hay nhận tiền hoặc các lợi ích khác nhằm mục đích bóc lột lao động dƣới
các hình thức khác nhau nhƣ làm mại dâm, bóc lột tình dục khác, làm nô lệ hoặc
lấy đi bộ phận cơ thể” [42].
Buôn bán ngƣời gồm 3 giai đoạn: Tuyển dụng, vận chuyển và cuối cùng là
bóc lột và lạm dụng.
Tại Việt Nam, khái niệm “buôn bán ngƣời” trƣớc đây đƣợc sử dụng trong
các văn bản pháp luật và các nghiên cứu, đã đƣa ra giải thích gián tiếp về khái
niệm buôn bán/ mua bán phụ nữ, trẻ em. Sau đó, Quốc hội đã thông qua Luật
phòng chống mua bán ngƣời có hiệu lực từ ngày 01.01.2012. Đây là cơ sở pháp
lý quan trọng mở ra trang mới cho công cuộc phòng chống buôn bán ngƣời ở
nƣớc ta. Theo đó, chúng ta thống nhất sử dụng khái niệm “mua bán ngƣời”. Tuy
nhiên, do tôi sử dụng một số trích dẫn từ các tài liệu tham khảo từ trƣớc năm
2012 nên vẫn có cụm từ “buôn bán ngƣời” để tôn trọng tác giả khi sử dụng
nguồn tài liệu.
1.1.2. Phụ nữ bị mua bán
Khái niệm nạn nhân của mua bán ngƣời đƣợc xác định dựa trên cơ sở định
nghĩa về mua bán ngƣời. Theo Điều 4 – Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập
26
cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về ( ban hành theo
QĐ số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29/01/2007) thì “phụ nữ, trẻ em bị buôn bán”
đƣợc gọi là nạn nhân. “Nạn nhân của buôn bán ngƣời đƣợc hiểu là ngƣời (phụ
nữ, trẻ em, nam giới ) bị bọn tội phạm tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa
chấp, tiếp nhận vì mục đích bóc lột, bằng phƣơng thức đe dọa, sử dụng bạo lực
hay các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị
thƣơng tổn để mua bán đƣa ra nƣớc ngoài nhằm mục đích bóc lột ( cƣỡng bức
bán dâm hoặc các hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc dịch vụ cƣỡng
bức, nô lệ hoặc làm việc nhƣ tình trạng nô lệ, hoặc lấy đi các bộ phận cơ thể.”
[48]
Tiến trình
Phƣơng thức Bóc lột
Ép buộc
Tuyển chọn
Đe dọa hoặc ép buộc
Làm nô lệ hay các hoạt động khác tƣơng tự
Vận chuyển
Lạm dụng
Làm nô lệ
Chuyển giao
Lừa gạt, mánh khóe
Lấy bộ phận cơ thể
Ẩn náu
Lạm dung quyền lực
Nhận
Lợi dụng h.cảnh khó khăn
Mại dâm hoặc các hình thức bóc lột khác
Đƣa hoặc nhận tiền hoặc quyền lợi từ 1 ngƣời để có sự thỏa thuận từ 1 ngƣời mà có quyền kiểm soát ngƣời khác
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ xác định nạn nhân (Nguồn: tác giả N.T.Hồng Hoa-năm 2000
dẫn theo tài liệu tham khảo số [17])
Hiện nay, trên thế giới đã xuất hiện tình trạng mua bán nam giới và trẻ em
nam. Còn ở Việt Nam, tình trạng mua bán phụ nữ và trẻ em chiếm tỷ lệ cao hơn
27
rất nhiều so với mua bán nam giới.
Hiện nay chƣa có văn bản hay điều luật nào quy định cụ thể về độ tuổi của
phụ nữ. Tuy nhiên, nếu đặt tội mua bán phụ nữ “trong mối quan hệ với tội mua
bán trẻ em (Điều 120 BLHS) cũng như với quy định của Điều 1 Luật bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em có thể xác định người nữ từ đủ 16 tuổi trở lên được
coi là phụ nữ và có thể là đối tượng của tội phạm này” [53]. Nhƣ vậy, có thể
phân biệt phụ nữ với trẻ em gái là nữ giới trên 16 tuổi theo Luật Bảo vệ chăm sóc
trẻ em Việt Nam. Điều này phù hợp với Công ƣớc Quốc tế về Quyền trẻ em và
những điều luật Quốc tế khác. Về khái niệm phụ nữ, đây đƣợc coi là một giới để
phân biệt với nam giới và giới tính thứ ba. Cũng có cách hiểu phụ nữ là ngƣời
con gái đã từng quan hệ tình dục để phân biệt với ngƣời con gái còn trinh. Trong
nghiên cứu này, tôi coi nhóm phụ nữ bị mua bán trở về đang sống tại Ngôi nhà
bình yên bao gồm phụ nữ trên 16 tuổi, còn lại là nhóm trẻ em gái nếu dƣới 16
tuổi.
1.1.3. Hồi hương và tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ bị mua bán:
Sau quá trình bị mua bán, nạn nhân mà cụ thể ở đây là ngƣời phụ nữ sẽ
trải qua các giai đoạn: hồi hƣơng và tái hòa nhập cộng đồng. Để quá trình này
diễn ra thuận lợi và tạo điều kiện tốt nhất cho thân chủ, tôi nghiên cứu cụ thể
khung pháp lý và những đặc điểm cụ thể của quá trình này.
1.1.3.1. Hồi hương:
Theo cách hiểu của pháp luật quốc tế, hồi hƣơng nạn nhân bị buôn bán là
việc tiếp nhận và đƣa trở lại quốc gia nạn nhân của buôn bán ngƣời mà từ đó họ
đã bị chuyển giao, đƣa đi trái phép sang nƣớc khác.
Các thủ tục giúp hồi hƣơng an ninh và an toàn: Các thủ tục hợp tác giữa
các bên đƣợc thành lập nhằm tạo điều kiện cho việc chuyển tiếp nạn nhân về
nƣớc, về cộng đồng với sự đồng ý tự nguyện của nạn nhân. Việc này có thể cần
có các giấy tờ phù hợp, di chuyển quốc tế, liên biên giới hay nội địa đƣợc sắp
xếp, cung cấp các biện pháp an ninh và hộ tống thích hợp.
Sau hồi hƣơng (trở về nƣớc) là quá trình hồi gia (trở về nhà). Có thể với
nhiều quốc gia họ cho rằng chỉ cần giải cứu nạn nhân đƣa trở về nƣớc là hoàn
thành trách nhiệm, là đã giúp nạn nhân hồi hƣơng. Và nếu sau đó không có bất
28
kỳ trợ giúp nào khác thì họ không thể vƣợt qua khó khăn để hòa nhập cộng đồng
đƣợc và thực tế sau đó nhiều nạn nhân lại rơi vào vòng luẩn quẩn đói nghèo, bị
kỳ thị và bị tái mua bán. Trong nghiên cứu này, ngƣời nghiên cứu cho rằng, quá
trình chuẩn bị hồi phục cả về sức khỏe và tinh thần, trí lực, tâm thế để hồi gia gắn
liền với hòa nhập cộng đồng.
1.1.3.2. Hòa nhập cộng đồng:
Theo quan điểm Mac – xit: “Cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các cá
nhân, đƣợc quyết định bởi sự cộng đồng hóa lợi ích giống nhau của các thành
viên về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những ngƣời hợp thành cộng đồng
ấy, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ, sự
gần gũi cá nhân về tƣ tƣởng, tín ngƣỡng, hệ giá trị chuẩn mực cũng nhƣ các quan
niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và phƣơng tiện hoạt động”. [25]
Có thể hiểu cộng đồng là toàn thể những ngƣời cùng sống, có những điểm
giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội. Cộng đồng chăm sóc
cuộc sống của cá nhân, đảm bảo cho mọi ngƣời có điều kiện phát triển. Cộng
đồng giải quyết hợp lý mối quan hệ lợi ích riêng và chung, giữa lợi ích và trách
nhiệm, giữa quyền và nghĩa vụ.
Hòa nhập và tái hòa nhập
Sống hoà nhập là sống gần gũi, chan hoà với mọi ngƣời, có ý thức tham
gia và đƣợc tham gia các hoạt động xã hội, các hoạt động của cộng đồng, có đầy
đủ quyền và nghĩa vụ nhƣ các thành viên trong cộng đồng khác.
Sau khi bị mua bán trở về thì nạn nhân cần đƣợc trở về với gia đình, quê
hƣơng, đƣợc sống hòa nhập với cộng đồng của mình. Quá trình này đƣợc nhiều
chuyên gia sử dụng cụm từ “tái hòa nhập cộng đồng”. Sử dụng từ “tái hòa nhập”
cũng có nghĩa là nạn nhân đƣợc trở về cuộc sống cũ, nhƣ trƣớc khi bị mua bán.
“Tái hòa nhập cộng đồng là quá trình đối tƣợng trở về với cuộc sống của
cộng đồng, của gia đình sau khi đƣợc chữa bệnh giáo dục, phục hồi sức khỏe và
nhân cách”. [30]
Tái hòa nhập cộng đồng thành công là việc nạn nhân trở lại cuộc sống
bình thƣờng, không bị phân biệt đối xử, cảm thấy an toàn yên tâm, đƣợc tham gia
29
vào các hoạt động cộng đồng lành mạnh.
Quá trình tái hòa nhập cần có sự hỗ trợ của gia đình, cộng đồng và chính
quyền địa phƣơng. Đó là tình yêu thƣơng, không kì thị phân biệt đối xử của mọi
ngƣời xung quanh tạo niềm tin cho thân chủ phấn đấu vƣơn lên. Ngoài ra là các
chính sách xã hội của Đảng, nhà nƣớc để hỗ trợ họ ổn định cuộc sống nhƣ dạy
nghề, hƣớng nghiệp, tạo việc làm và có thu nhập ổn định.
Theo quan điểm tôi, trong nghiên cứu này, tôi sử dụng cụm từ “hòa nhập
cộng đồng” bởi sau khi trở về, nạn nhân là phụ nữ bị mua bán trở về phải hòa
nhập với một cuộc sống hoàn toàn mới với rất nhiều khó khăn trƣớc mắt.
Đặc điểm của hòa nhập cộng đồng với phụ nữ bị mua bán trở về:
Trong quá trình hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân là phụ nữ bị mua bán
trở về gắn liền với công tác chuyển tuyến dịch vụ hỗ trợ nạn nhân.
Chuyển tuyến là một hình thức giới thiệu, kết nối và tiếp thị về các loại
dịch vụ hỗ trợ nạn nhận. Chuyển tuyến đƣợc thực hiện bằng cách hỗ trợ nạn nhân
tiếp cận các dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của nạn nhân và các bên liên quan (
cung cấp thông tin, giới thiệu các dịch vụ hỗ trợ… )
Những nạn nhân bị mua bán đã đƣợc xác định nên đƣợc tạo các thủ tục
thuận lợi để chuyển đến những nơi thích hợp, không bị đe doạ nhƣ:
• “Nhà an toàn” hoặc
• Các nhà tạm lánh để phục hồi
• Trung tâm bảo trợ xã hội
Trong quá trình chuyển tuyến nạn nhân đƣợc tiếp cận với các dịch vụ hỗ
trợ về: tâm lý-xã hội, y tế, tƣ vấn pháp lý, phiên dịch, các hỗ trợ khác (vì mức độ
bị tổn thƣơng của nạn nhân cũng nhƣ nhu cầu của họ là rất khác nhau). Việc
thành lập một hệ thống chuyển tiếp tạo ra một bộ khung đa ngành có thể giải
quyết các tình huống cá nhân và nhu cầu của nạn nhân bị buôn bán, thông qua
việc kết nối những nguồn lực và khả năng sẵn có.
Sự giúp đỡ nạn nhân không kết thúc khi nạn nhân đã trở về nhà. Nạn nhân
có thể cần tiếp tục tƣ vấn hoặc chăm sóc y tế, hỗ trợ tái hoà nhập, đào tạo nghề,
... Chúng ta cần nỗ lực xác định các tổ chức có đủ điều kiện thích hợp có thể hỗ
30
trợ nạn nhân hoà nhập khi đã trở về cộng đồng.
Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc trợ giúp thân chủ là phụ
nữ bị mua bán trở về tái hòa nhập cộng đồng thể hiện đặc biệt trong công tác
chuyển tuyến, cụ thể là việc kết nối nguồn lực trợ giúp và cung cấp các dịch vụ
hỗ trợ nạn nhân, tạo điều kiện để nạn nhân tiếp cận và thụ hƣởng dịch vụ một
cách tốt nhất.
1.1.4. Khái niệm nhân viên công tác xã hội
Trong luận văn này, ngƣời nghiên cứu tìm hiểu trƣờng hợp hoạt động trợ
giúp phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh Ngôi nhà bình yên, tại cơ sở này
có các nhân viên xã hội làm việc trực tiếp, thực hiện hoạt động trợ giúp thân chủ.
Vì vậy, ngƣời nghiên cứu cũng tìm hiểu khái niệm về nhân viên công tác xã hội.
Theo Hiệp hội các nhà công tác xã hội chuyên nghiệp quốc tế - IASW định
nghĩa: “Nhân viên công tác xã hội là người được đào tạo và trang bị các kiến
thức và kỹ năng trong công tác xã hội, họ có nhiệm vụ: trợ giúp các đối tượng
nâng cao khả năng giải quyết và đối phó với vấn đề trong cuộc sống; tạo cơ hội
để đối tượng tiếp cận được các nguồn lực cần thiết; thúc đẩy sự tương tác giữa
các cá nhân, giữa cá nhân với môi trường, tạo ảnh hưởng tới chính sách xã hội,
các cơ quan, tổ chức vì lợi ích của cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng” [49].
Phụ nữ bị mua bán trở về là đối tƣợng yếu thế rất cần NVCTXH trợ giúp
họ và gia đình giải quyết các vấn đề khó khăn; nối kết họ với các dịch vụ và
nguồn lực trong xã hội; thúc đẩy sự tƣơng tác cá nhân và môi trƣờng; góp phần
vào xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội.
1.1.5. Khái niệm hoạt động trợ giúp phụ nữ
Theo quan điểm Triết học, hoạt động là quan hệ biện chứng của chủ thể
và khách thể. Trong quan hệ đó, chủ thể là con ngƣời, khách thể là hiện thực
khách quan.
Hoạt động đƣợc xem nhƣ là mối quan hệ tác động qua lại giữa con ngƣời
và con ngƣời hay sự vật để tạo ra sản phẩm.
Đặc điểm của hoạt động: Hoạt động bao giờ cũng có đối tƣợng (tác động
tới ai, cái gì?); có chủ thể (ai thực hiện hoạt động?); có mục đích (hƣớng tới điều gì,
để làm gì?).
Trên cơ sở phân tích những khái niệm về mua bán ngƣời, phụ nữ bị mua
bán, hoạt động, NVCTXH, hòa nhập và tái hòa nhập cộng đồng, tôi đƣa ra khái
31
niệm về hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng:
Hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về là toàn bộ những công việc
mà NVCTXH thực hiện để trợ giúp họ bao gồm: các giải pháp để họ giải quyết,
tháo gỡ khó khăn, đáp ứng được các nhu cầu trong hoàn cảnh khó khăn của họ;
giúp họ và gia đình tiếp cận được với dịch vụ và nguồn lực trong xã hội; thúc
đẩy sự tương tác giữa họ và gia đình với môi trường xã hội; giúp họ tạo dựng
một bản lĩnh, một sức mạnh nghị lực để vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Từ cách hiểu về khái niệm trên, có thể thấy khái niệm này bao gồm những
ý niệm cơ bản sau:
Đối tƣợng (khách thể) tác động của hoạt động là phụ nữ bị mua bán trở về.
Những hoạt động cụ thể là: hoạt động trợ giúp giải quyết các vấn đề khó
khăn; nối kết họ tiếp cận với các dịch vụ và nguồn lực trong xã hội; thúc đẩy sự
tƣơng tác giữa họ và gia đình với môi trƣờng, hệ thống chính sách, dịch vụ an
sinh xã hội để tạo cơ hội cho họ phát triển nội lực bản thân,... Các hoạt động cụ
thể mà nhà tạm lánh Ngôi nhà bình yên đã thực hiện đƣợc ngƣời nghiên cứu mô
tả cụ thể trong chƣơng 2: Thực trạng trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập
cộng đồng.
Chủ thể của hoạt động này là nhà quản lý cơ sở dịch vụ và NVCTXH, họ là
ngƣời đƣợc đào tạo và trang bị những kiến thức, kỹ năng chuyên môn qua các
hình thức đào tạo chính quy hay bồi dƣỡng nâng cao các kiến thức về tâm lý
và nhu cầu của phụ nữ bị mua bán trở về; luật pháp, chính sách liên quan tới
phòng chống và hỗ trợ nạn nhân của mua bán ngƣời; kỹ năng tạo lập mối
quan hệ, đánh giá vấn đề; kỹ năng điều phối các bên, làm việc với các cơ
quan tổ chức cung cấp dịch vụ trợ giúp; kỹ năng biện hộ quyền lợi cho thân
chủ. Cơ sở cung cấp dịch vụ có những chiến lƣợc, những chƣơng trình hoạt
động đƣợc thiết kế để thực hiện hoạt động trợ giúp.
Mục đích của hoạt động này là nhằm giúp họ và gia đình giải quyết đƣợc
vấn đề, tiếp cận đƣợc chính sách và dịch vụ xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu của họ
và gia đình; đồng thời tăng cƣờng năng lực cho hệ thống chính sách xã hội trong
quá trình đáp ứng nhu cầu của họ.
1.2. Các lý thuyết ứng dụng trong đề tài
1.2.1. Lý thuyết nhu cầu của Maslow - Tiếp cận dựa trên thuyết về nhu
32
cầu con người:
Là con ngƣời xã hội, mỗi ngƣời đều có những nhu cầu, nhu cầu về vật chất
và nhu cầu về tinh thần. Các nhu cầu của con ngƣời thƣờng rất đa dạng, phong
phú và phát triển. Nhu cầu của con ngƣời phản ánh mong muốn chủ quan hoặc
khách quan tuỳ theo hoàn cảnh sống, yếu tố văn hoá, nhận thức và vị trí xã hội
của họ. Để tồn tại, con ngƣời cần phải đƣợc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cơ bản
cần cho sự sống nhƣ: ăn, mặc, nhà ở và chăm sóc y tế,… Để phát triển con ngƣời
cần đƣợc đáp ứng các nhu cầu cao hơn nhƣ: nhu cầu an toàn, đƣợc học hành,
đƣợc yêu thƣơng, đƣợc tôn trọng và khẳng định.
Abraham Maslow (1908 – 1970) là nhà tâm lý học ngƣời Mỹ đƣợc thế
giới biết đến nhƣ là nhà tiên phong trong trƣờng phái Tâm lý học nhân văn bởi hệ
thống lý thuyết về Thang bậc nhu cầu (Hierarchy of Needs) của con ngƣời.
Theo thuyết động cơ của Abraham Maslow [37, tr.23] con ngƣời là một
thực thể sinh học – tâm lý xã hội. Do đó, con ngƣời có nhu cầu cá nhân cần cho
sự sống (nhu cầu về sinh học) và nhu cầu xã hội. Theo đó, ông chia nhu cầu con
ngƣời thành 5 thang bậc từ thấp đến cao: 1/ Nhu cầu sống còn, cơ bản bao gồm:
nhu cầu về không khí, nhu cầu thức ăn, quần áo, nhà ở, nghỉ ngơi, đi lại…;2/ Nhu
cầu an toàn: bảo đảm cơ thể, tình yêu thƣơng, nhà ở, việc làm…; đƣợc sống
trong một thế giới hoà bình, không có chiến tranh, không có bạo lực, kể cả trong
trƣờng hợp bị mất kế sinh nhai đƣợc Nhà nƣớc và xã hội bảo vệ và giúp đỡ. 3/
Nhu cầu thuộc vào một nhóm nào đó: là con ngƣời xã hội, con ngƣời có các nhu
cầu giao tiếp, nhu cầu sự yêu thƣơng, chia sẻ; đƣợc hòa nhập, đƣợc “thuộc về”…
Họ không muốn sự cô đơn, bị bỏ ra ngoài lề xã hội, họ mong muốn hạnh phúc
gia đình, sự tham gia và thuộc vào một nhóm nào đó (gia đình, bạn bè, cộng
đồng). 4/ Nhu cầu đƣợc tôn trọng: đƣợc chấp nhận có vị trí trong một nhóm
ngƣời, cộng đồng, xã hội… Sự tôn trọng là giá trị của chính cá nhân mỗi ngƣời;
đƣợc ngƣời khác tôn trọng là sự mong muốn đƣợc ngƣời khác thừa nhận giá trị
của mình.
5/ Nhu cầu hoàn thiện: mong muốn khẳng định mình, phát triển trí tuệ và
33
đƣợc xã hội tạo điều kiện để hoàn thiện và phát triển cá nhân.
Tự khẳng định và hoàn thiện bản thân
Việc thoả mãn nhu cầu này có thể dẫn đến ức chế, kìm nén các nhu cầu khác
Trong từng giai đoạn cá nhân sẽ ƣu tiên việc thoả mãn một số nhu cầu cần thiết, điều này đòi hỏi một sự điều chỉnh ở cá nhân
Nhu cầu đƣợc tôn trọng
Nhu cầu xã hội: giao tiếp, tình cảm
Nhu cầu an toàn
Nhu cầu sinh lý cơ bản (ăn, ngủ, nghỉ, ở, măc..)
Sơ đồ 1.2: Lý thuyết thang bậc nhu cầu của Maslow [16]
Đánh giá Nhu cầu nạn nhân là phụ nữ bị mua bán trở về nhƣ sau:
Ngay lập tức và cấp bách:
• An ninh: với những trƣờng hợp nhận đƣợc thông tin nạn nhân đang gặp
nguy hiểm, nhân viên xã hội cần liên lạc ngay với lực lƣợng Công an
phối hợp giải cứu.
• Các nhu cầu thiết yếu (ăn, uống, mặc)
• Các nhu cầu cấp bách về y tế/tâm lý
• Nơi ở
• Tình trạng pháp lý: giúp đỡ về xác minh nhân thân, khai lý lịch, làm
chứng minh nhân dân, hộ khẩu
Trung hạn:
• Chăm sóc y tế - bao gồm cả trợ giúp tâm lý
• Trợ giúp về giấy tờ
• Trợ giúp pháp luật (các thủ tục đang thực hiện)
• Hỗ trợ trở về cộng đồng/đất nƣớc của họ
Nhu cầu dài hạn: Nạn nhân đƣợc tiếp tục trợ giúp pháp luật và y tế; trợ
giúp tài chính; trợ giúp giáo dục; trợ giúp đào tạo hƣớng nghiệp/việc làm; có thể
34
hỗ trợ gia đình của nạn nhân
Hỗ trợ tài chính/ vốn
Hỗ trợ học nghề
Tƣ vấn tâm lý
Nhu cầu của nạn nhân
Khác/…
Tạo việc làm
Chăm sóc sức khỏe
Sơ đồ 1.3: Nhu cầu của nạn nhân bị mua bán trở về
Trong thực hành CTXH trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về, NVCTXH cần
hiểu rằng họ thƣờng gặp rất nhiều vấn đề. Trong can thiệp trợ giúp giải quyết vấn
đề cho họ, nếu tiếp cận theo phƣơng pháp này NVCTXH cần trả lời câu hỏi: Nhu
cầu của thân chủ xuất phát từ vấn đề này là gì? Sau đó xác lập bảng vấn đề theo
thứ tự ƣu tiên và chuyển vấn đề thành nhu cầu. Tiếp cận theo nhu cầu trong làm
việc trực tiếp với thân chủ sẽ giúp NVCTXH hiểu rằng, với mỗi ngƣời khác nhau
lại nảy sinh những nhu cầu khác biệt. Thậm chí, có những ngƣời gặp phải vấn đề
giống nhau, song nhu cầu của các em có thể là khác nhau và các nhu cầu cần đáp
ứng một cách hợp lý trong từng hoàn cảnh cụ thể.
1.2.2. Lý thuyết hệ thống – hệ thống sinh thái
Lý thuyết hệ thống dựa trên Quan điểm sinh học cho rằng “mọi tổ chức
hữu cơ đều là những hệ thống, đƣợc tạo nên từ các tiểu hệ thống và đồng thời
bản thân các tiểu hệ thống cũng là một phần của hệ thống lớn hơn” [17]. Trong
công tác xã hội, hai thuyết hệ thống nổi bật đƣợc đề cập là thuyết hệ thống Tổng
quát và thuyết hệ thống Sinh thái. Mục đích của công tác xã hội là nhằm tăng
cƣờng khả năng thích ứng và tạo ảnh hƣởng đến môi trƣờng của các cá nhân.
35
Nguyên tắc về cách tiếp cận hệ thống này chính là các cá nhân phụ thuộc vào hệ
thống trong môi trƣờng xã hội trung gian của họ nhằm thỏa mãn cuộc sống riêng,
do đó công tác xã hội phải nhấn mạnh đến các hệ thống để tìm kiếm sự trợ giúp.
Ba hình thức hệ thống tổng quát đó là: Hệ thống chính thức, hệ thống phi
chính thức và hệ thống xã hội.
Hệ thống chính thức gồm: gia đình, bạn bè, ngƣời thân, đồng nghiệp,…
Hệ thống phi chính thức: Các nhóm cộng đồng, các tổ chức công đoàn…
Hệ thống xã hội: Bệnh viện, cơ quan, tổ chức đoàn thể nhà nƣớc…
Thuyết hệ thống đƣợc ứng dụng trong việc xem xét hệ thống tồn tại xung
quanh nạn nhân của buôn bán ngƣời, nghiên cứu sự tác động của các hệ thống và
môi trƣờng xung quanh tới họ. Vận dụng thuyết hệ thống có ý nghĩa quan trọng
để tìm ra giải pháp tốt cho vấn đề hòa nhập cộng đồng của phụ nữ bị mua bán trở
về. Xác định các hệ thống là nguồn lực trợ giúp thân chủ, thân chủ có đƣợc
những hỗ trợ nào và liên kết các nguồn lực đó. Đồng thời xác định vị trí vai trò
của nhân viên xã hội trong hệ thống trợ giúp. Sử dụng thuyết hệ thống, nhân viên
xã hội có thể nhìn ra những điểm cần tƣơng tác trong hệ thống môi trƣờng xung
quanh thân chủ nhƣ: gia đình, cộng đồng, chính quyền…
Trong luận văn này, ngƣời nghiên cứu sử dụng lý thuyết Hệ thống sinh
thái – một lý thuyết đƣợc sử dụng nhiều trong Công tác xã hội. Thuyết hệ thống
sinh thái nhấn mạnh vào sự tƣơng tác của con ngƣời với môi trƣờng sống. Nó
nhìn nhận các cá nhân trong việc thích ứng, trao đổi lẫn nhau với nhiều khía cạnh
khác trong môi trƣờng sống của chính họ và tất cả đều biến đổi thông qua môi
trƣờng. Mỗi cá nhân đều cần có sự thích nghi với hệ thống xung quanh nhằm duy
trì cuộc sống và đảm bảo sự phát triển. Và vấn đề của cá nhân xảy ra khi các cá
nhân không thích ứng đƣợc với môi trƣờng sống của họ.
1.2.3. Lý thuyết “Thân chủ trọng tâm”
Carl Rogers là Tiến sĩ Tâm lý học ngƣời Mỹ. Lý thuyết “Thân chủ trọng
tâm” của ông ra đời, phát triển vào cuối thập kỉ 40, thuộc trƣờng phái tâm lý học
nhân văn – một trƣờng phái nhấn mạnh sự tự do, nhấn mạnh sự tiến bộ, nhấn
mạnh sự tự chủ, nhấn mạnh tiềm năng của con ngƣời.
Carl Rogers cho rằng những cá nhân có khó khăn về tâm lý là do họ tập
36
nhiễm những cách ứng xử không phù hợp. Do đó mà họ cần giúp đỡ để phát triển
những tiềm năng tâm lý một cách phù hợp. Bởi vậy, theo Carl Rogers, nhiệm vụ
của nhà tham vấn trong quá trình tham vấn phải giúp đỡ thân chủ của mình tháo
bỏ những rào cản tâm lý đang hạn chế những khuynh hƣớng tích cực vốn có của
thân chủ; giúp cho thân chủ hiểu đƣợc chính mình, chấp nhận hoàn cảnh, điều
chỉnh bản thân để đạt đƣợc trạng thái cân bằng.
Trong quá trình tham vấn hay trong Công tác xã hội cá nhân, thuyết “Thân
chủ trọng tâm” đƣợc ứng dụng rất hiệu quả. Nhà tham vấn hay nhân viên CTXH
sẽ tƣơng tác một cách tích cực với thân chủ để loại bỏ những cảm xúc tiêu cực,
tăng khả năng nhận thức cũng nhƣ giải quyết vấn đề của thân chủ. Và nhƣ vậy ở
đây, thân chủ đƣợc trao quyền chủ động trong giải quyết vấn đề. Bởi mục đích
cuối cùng của Công tác xã hội là “giúp thân chủ tự giúp chính mình”. Nhƣng có
đƣợc điều đó, nhân viên CTXH phải tạo đƣợc bầu không khí an toàn, tin tƣởng
để giúp cho thân chủ tự khám phá bản thân, tự ý thức đƣợc hoàn cảnh của chính
mình, tự ý thức đƣợc tiềm năng vốn có để giải quyết vấn đề. Do đó, Carl Roger
nhấn mạnh nhân cách của nhà CTXH – phải đặt mình vào hoàn cảnh của thân
chủ, trải nghiệm những cảm xúc của thân chủ để có đƣợc mối quan hệ tốt nhất.
Lý thuyết “Thân chủ trọng tâm” cũng đƣợc các nhà CTXH vận dụng sâu
sắc khi đƣa “Thân chủ trọng tâm” trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản
khi làm việc với thân chủ trong Công tác xã hội nói chung. Trong luận văn này,
ngƣời nghiên cứu sử dụng lý thuyết thân chủ trọng tâm để ứng dụng trong can
thiệp giải quyết vấn đề cho thân chủ.
1.3. Khái lƣợc về tình hình mua bán ngƣời và việc thực hiện chính
sách trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng
1.3.1. Tình hình mua bán người
Về số lượng:
Trên thế giới, trong tổng số 12,3 triệu lao động bị cƣỡng ép có khoảng 2,4
triệu ngƣời đã bị mua bán. Đây là một con số ƣớc lƣợng dựa trên cơ sở số nạn
nhân thực tế tại một thời điểm bất kỳ trong giai đoạn 10 năm. 32% số nạn nhân
của mua bán ngƣời đã bị cƣỡng ép lao động, trong đó 43% vì mục đích bóc lột
tình dục, còn 25% vừa bị bóc lột tình dục vừa bị cƣỡng ép lao động. Phụ nữ và
37
trẻ em gái chiếm 55% tổng số nạn nhân bị mua bán vì mục đích bóc lột sức lao
động và chiếm đa số (98%) nạn nhân bị mua bán vì mục đích bóc lột tình dục
[55; tr.2].
Tại Việt Nam, “sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức thƣơng mại thế giới WTO, hàng năm nƣớc ta có khoảng 5 triệu lƣợt ngƣời
nƣớc ngoài vào hợp tác, du lịch, tham quan, ký kết và làm ăn kinh tế và khoảng 4
triệu lƣợt ngƣời Việt Nam đi du lịch, tham quan, xuất khẩu lao động. Bên cạnh
đó, hàng năm có hàng triệu ngƣời ở tuổi lao động, học sinh, sinh viên ra trƣờng
không tìm đƣợc việc làm... đang là những điều kiện rất thuận lợi để tội phạm
buôn bán ngƣời triệt để lợi dụng. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, xu
thế hợp tác và phát triển thế giới với trình độ khoa học công nghệ phát triển, bọn
tội phạm đã lợi dụng thiết lập các đƣờng dây tội phạm mua bán ngƣời xuyên
quốc gia, có sự câu kết chặt chẽ giữa tội phạm trong nƣớc với ngƣời nƣớc ngoài
để đƣa nạn nhân sang nƣớc thứ hai hoặc thứ ba, với những phƣơng thức, thủ
đoạn tinh vi, trong khi quản lý nhà nƣớc còn thiếu các chế tài hình sự, hành chính
để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý triệt để, đặc biệt trong quản lý ngƣời nƣớc
ngoài, quản lý nhân hộ khẩu, quản lý xuất nhập cảnh, kết hôn với ngƣời nƣớc
ngoài, cho nhận con nuôi, du lịch... đã làm nhiều ngƣời dân, nhất là phụ nữ, trẻ
em bị lừa bán ra nƣớc ngoài để bán vào các động mại dâm, lao động cƣỡng bức,
ép buộc lấy chồng bất hợp pháp...” [10]
Theo “Báo cáo kết quả tổng điều tra, rà soát tình hình hoạt động tội
phạm mua bán người và các đối tượng khác có liên quan giai đoạn 2008 –
2013” của Ban chỉ đạo 138 – Bộ Công An thì: “Từ năm 2008 đến tháng 6 năm
2013, lực lƣợng công an, biên phòng cả nƣớc đã phát hiện 2.390 vụ việc, 3.961
đối tƣợng, lừa bán 4.721 nạn nhân của mua bán ngƣời. Trong đó, nam giới là 169
ngƣời (chiếm 3,6%), còn lại 4.552 ngƣời (chiếm 96,4%) nạn nhân là phụ nữ và
trẻ em gái” [7, tr.3] Qua số liệu trên, chúng ta có thể thấy đƣợc thực trạng và xu
thế của nạn buôn bán ngƣời ở Việt Nam hiện nay. Đây thực sự là những thách
thức cho các cấp, các ngành, chính quyền cơ sở và mối quan tâm của toàn xã hội.
Tội phạm mua bán ngƣời, đặc biệt là phụ nữ trẻ em đang trở thành vấn đề nóng
bỏng nhức nhối, là hiểm họa đối với loài ngƣời, không chỉ ảnh hƣởng xấu đến
38
đạo đức, nòi giống, lối sống, thuần phong mỹ tục, pháp luật của quốc gia, xâm
hại đến danh dự, nhân phẩm con ngƣời mà còn phá vỡ cấu trúc xã hội và ảnh
hƣởng đến an ninh quốc phòng.
Tham nhũng Tham gia vào nhóm tội phạm tổ chức
Tạo điều kiện cho cƣ trú trái phép
Bóc lột nạn nhân
Tuyển mộ (bắt cóc, cƣỡng ép,lừa gạt, dụ dỗ…)
Vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp, tiếp nhận
Cản trở công lý Tổ chức mại dâm,cƣỡng bức, lao động Giả mạo giấy tờ
Sơ đồ 1.4: Quy trình mua bán người và các hành vi liên quan [16]
Các hình thức mua bán phụ nữ
Mua bán ngƣời thƣờng xảy ra vào giai đoạn sau của quá trình di cƣ khi
ngƣời di cƣ rơi vào tình trạng bị buôn bán tại điểm đến. Nạn nhân có thể bị mua
bán ngay trong nƣớc (nội địa) hoặc phổ biến nhất là bị đƣa ra nƣớc ngoài để dễ
dàng cho việc bóc lột. Chính vì vậy, vấn đề mua bán ngƣời và những hậu quả của
nó mang tính chất quốc tế nghiêm trọng.
Trƣớc khi bị lừa gạt, nạn nhân vẫn nghĩ sẽ có việc làm tốt ở một thành phố
hoặc một đất nƣớc khác thông qua môi giới của bạn bè, ngƣời thân hoặc một ai
đó. Khi đến nơi, họ thấy điều kiện làm việc thật tồi tệ không nhƣ đã đƣợc hứa
hẹn và bị ép buộc phải làm những điều trái với ý muốn hoặc hiểu biết của họ. Họ
39
thƣờng không đƣợc tự do đi lại và không đƣợc trả lƣơng. Họ bị đối xử nhƣ nô lệ.
Họ bị bóc lột, lạm dụng và không thể tự thoát khỏi sự khống chế của bọn buôn
ngƣời. Thủ đoạn lừa gạt : kẻ buôn ngƣời dùng rất nhiều hình thức lừa gạt, thông
thƣờng là ép nợ: cá nhân hay gia đình của họ nợ bọn buôn ngƣời để chi trả những
chi phí cho việc đi lại và sắp xếp việc làm; chúng đe dọa nạn nhân và gia đình
họ, giữ toàn bộ giấy tờ tùy thân của họ và đòi trả thêm tiền, không cho nạn nhân
đƣợc tự do hoàn toàn, lạm dụng tình dục hoặc hành hạ các nạn nhân cả về thể xác
lẫn tinh thần (mức độ cao nhất ).
Sau đây là năm hình thức mà bọn buôn ngƣời thƣờng sử dụng để đƣa các
nạn nhân vào bẫy:
1. Ép buộc hoàn toàn thông qua lừa bắt hoặc bắt cóc
2. Đƣa ra những hứa hẹn về việc làm với mức lƣơng cao
3. Lừa dối môi giới hôn nhân
4. Lừa nạn nhân vào làm việc tại các khu vui chơi giải trí thiếu lành mạnh
(sàn nhảy, nhà hàng… )
5. Nói dối về điều kiện làm việc
Sau khi lừa bán đƣợc nạn nhân, tội phạm thƣờng bóc lột nạn nhân nhƣ
sau: ép đi ăn xin, môi giới mại dâm, ép buộc bán dâm, cƣỡng ép bắt buộc làm
giúp việc nhà mang tính chất bóc lột, lao động ép buộc tại các đồn điền, ngƣ
trƣờng, lấy đi các bộ phận cơ thể ngƣời, ép buộc/ lừa dối hôn nhân trái pháp luật.
Đặc điểm chung về độ tuổi của phụ nữ bị mua bán:
Đối tƣợng của tội phạm buôn bán phụ nữ thƣờng là “những phụ nữ trẻ từ
16 đến 25 tuổi” [20, tr.12]. Ở độ tuổi này, ngƣời phụ nữ đang là lực lƣợng lao
động quan trọng của gia đình và xã hội, phần lớn các nạn nhân còn chƣa kết hôn.
Vì tuổi còn trẻ, kinh nghiệm sống chƣa nhiều và trong hoàn cảnh có nhiều khó
khăn, phải bƣơn chải kiếm sống kết hợp với trình độ học vấn thấp, nhận thức
pháp luật thấp… nên các nạn nhân này đã rất dễ bị ngƣời phạm tội lợi dụng, lừa
dối để thực hiện việc mua bán.
Đặc điểm chung về trình độ học vấn của phụ nữ bị mua bán:
Trong Báo cáo số 298/BCA (C11) ngày 13/10/2005 của Bộ Công an gửi
Thủ tƣớng Chính phủ có nhận định:“Phần lớn phụ nữ bị mua bán…có trình độ
40
văn hoá thấp…” [8]. Trong Báo cáo số 380/BCA của Văn phòng Thƣờng trực
Ban Chỉ đạo 130/CP còn nêu rõ: “Về trình độ văn hoá: không biết chữ chiếm
26%, học cấp 1- cấp 2 chiếm 71%, cấp 3 chiếm 3%…” [1; 2]. Chính bởi trình độ
học vấn thấp, nhận thức thấp nên hoàn cảnh kinh tế khó khăn, phải đi xa buôn
bán, làm thuê… Trong khi đó, tình hình tội phạm lại diễn biến phức tạp với nhiều
thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt. Vì vậy, nhận thức hạn chế về pháp luật, học vấn
thấp của ngƣời phụ nữ là yếu tố giúp cho tội phạm dễ dàng lừa dối đƣa bán ngƣời
phụ nữ ra nƣớc ngoài.
Đặc điểm chung về Hoàn cảnh gia đình của phụ nữ bị mua bán:
Trong Báo cáo của Bộ Công an gửi Thủ tƣớng Chính phủ có khẳng định:
“phần lớn phụ nữ… bị buôn bán là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, điều
kiện kinh tế khó khăn, thiếu việc làm, hoàn cảnh gia đình éo le…”[8]. “Về hoàn
cảnh gia đình: 88% kinh tế khó khăn, 11,7% kinh tế trung bình, 0,3% kinh tế
khá…” [1;2].
Một đặc điểm cũng thƣờng bị ngƣời phạm tội lợi dụng đó là sự “quá lứa”,
“khó lấy chồng” của một số phụ nữ. Điều này kết hợp với hoàn cảnh kinh tế khó
khăn đã làm cho ngày càng nhiều phụ nữ Việt Nam có nhu cầu lấy chồng nƣớc
ngoài nhƣ Trung Quốc, Đài Loan… Kết quả tổng điều tra rà soát của công an các
địa phƣơng cho thấy: từ năm 1998 đến 2005 đã “phát hiện, lên danh sách
111.057 phụ nữ kết hôn với người nước ngoài, trong số đó có hơn 10.711 phụ nữ
tự ý vượt biên ra nước ngoài lấy chồng” [5]. Việc nhiều phụ nữ Việt Nam muốn
tìm kiếm cơ hội đổi đời hay có nhiều phụ nữ muốn “lấy chồng nƣớc ngoài” đã
trở thành cơ hội thuận lợi cho ngƣời phạm tội “mai mối”, lừa dối “gả chồng nƣớc
ngoài” để đƣa phụ nữ Việt Nam ra nƣớc ngoài bán.
Đặc điểm chung về Nghề nghiệp, việc làm của phụ nữ bị mua bán:
Các báo cáo cho thấy 70% số phụ nữ trƣớc khi bị bán sống bằng nghề làm
ruộng, trồng trọt; 33% số phụ nữ trƣớc khi bị bán không có nghề nghiệp hoặc chỉ
làm nghề tự do nhƣ làm thuê, làm mƣớn, buôn bán nhỏ, có thu nhập thấp, thu
nhập không ổn định. Báo cáo số 380 và Báo cáo số 43 của Văn phòng thƣờng
trực Ban chỉ đạo 130/CP khi phân tích đặc điểm các phụ nữ bị mua bán có nhận
định: “Về nghề nghiệp: 4% là học sinh, sinh viên, 63% làm ruộng, 33% không có
41
nghề nghiệp hoặc làm nghề tự do…” [1, tr.3].
Tình trạng không có việc làm, thiếu việc làm, thu nhập thấp, đời sống khó
khăn làm cho nhiều ngƣời lao động và phụ nữ ở khu vực nông thôn, miền núi
(trong đó có nhiều phụ nữ trẻ) di chuyển về khu vực thành thị tìm kiếm việc làm,
buôn bán, làm thuê… kết hợp với trình độ học vấn thấp, nhận thức thấp và sự
nhẹ dạ cả tin làm cho họ rất dễ bị lừa dối, là điều kiện để ngƣời phạm tội tiếp
cận, lừa dối các nạn nhân dƣới các hình thức khác nhau nhƣ rủ đi buôn bán, làm
ăn hoặc thuê nhân công với sự hứa hẹn trả lƣơng cao hoặc môi giới đi lao động ở
nƣớc ngoài… để đƣa bán ngƣời phụ nữ vào các ổ mại dâm ở thành thị hoặc đƣa
bán phụ nữ Việt Nam ra nƣớc ngoài.
Các đặc điểm của nạn nhân là phụ nữ đã phân tích trên đây có quan hệ
chặt chẽ với nhau và có quan hệ chặt chẽ với phương thức, thủ đoạn thực hiện
tội phạm của người phạm tội. Người phạm tội thường lợi dụng các đặc điểm hạn
chế, bất lợi của các nạn nhân để lừa dối và đưa bán họ ra nước ngoài. Hiểu
được những đặc điểm khiến họ trở thành nạn nhân, chúng ta có thể tạo điều kiện
giúp họ sau khi trở về có thể thay đổi cuộc sống khó khăn của mình, hòa nhập
hiệu quả hơn.
Những khó khăn, ảnh hưởng đối với phụ nữ sau khi bị mua bán
Khó khăn về thể chất và tinh thần
Những phụ nữ bị mua bán trở về trải qua và chịu đựng nhiều hình thức
bạo lực, hoàn cảnh khó khăn và các biến cố đau buồn khác nhau đã ảnh hƣởng
nhiều đến sức khỏe lâu dài cho đến khi tái hòa nhập cộng đồng, đặc biệt là sức
khỏe về thể chất, tâm thần, các nguy cơ và hậu quả về sức khỏe sinh sản, các
bệnh truyền nhiễm, HIV/AIDS…
Khó khăn về kinh tế
Những phụ nữ bị mua bán trở về phải đối mặt với những khó khăn kinh tế
trong thời gian tái hòa nhập cộng đồng. Phần lớn những phụ nữ bị mua bán đến
từ các gia đình nghèo. Sau khi thoát khỏi tình trạng bị mua bán thì họ trở về
nhƣng không có hoặc có rất ít tiền và thiếu cơ hội việc làm, trình độ học vấn thấp
và thiếu kỹ năng nghề nghiệp. “gần một nửa những ngƣời trở về đƣợc phỏng vấn
(41.6%) tự đánh giá là gia đình họ thuộc diện hộ nghèo. Mặc dù 43% nạn nhân
42
có sổ hộ nghèo nhƣng họ vẫn có rất ít cơ hội nhận đƣợc hỗ trợ về tài chính từ cơ
quan chính quyền địa phƣơng theo Chính sách xóa đói, giảm nghèo. 80.8% trả
lời là họ chƣa bao giờ tham gia các lớp dạy nghề, trong khi đó có 19.2% đã tham
gia các lớp dạy nghề. Trong số những ngƣời đã tham gia học nghề, khoảng hơn
một nửa (66.7%) nói rằng một trong những khó khăn trong việc đăng ký tham gia
các lớp dạy nghề là không có các dịch vụ dạy nghề tại địa phƣơng” [20, tr.27].
Các nạn nhân chia sẻ rằng họ gặp nhiều khó khăn về kinh tế. “Họ thật sự
mong muốn vƣợt qua những khó khăn đó và có một cuộc sống tốt hơn trong
tƣơng lai” [20, tr.28].
Khó khăn về quan hệ xã hội
Ngoài những khó khăn về kinh tế, các nạn nhân trở về đƣơng đầu với khó
khăn trong mối quan hệ xã hội. Vấn đề quan hệ xã hội của thân chủ là phụ nữ bị
mua bán trở về bao gồm các vấn đề về quan hệ gia đình, quan hệ với cộng đồng
nơi sinh sống, những định kiến xã hội với phụ nữ bị buôn bán và vấn đề hôn
nhân của họ. Nhiều ngƣời trở về đƣợc sự thông cảm từ gia đình của mình, từ họ
hàng, từ bạn bè và từ hàng xóm láng giềng. Tuy nhiên, có nhiều ngƣời trở về
nhận thấy thái độ không thiện cảm, không đƣợc tiếp đón ân cần từ những ngƣời
trong họ hàng và những ngƣời hàng xóm xung quanh. “Hầu hết phụ nữ trở về
cảm thấy tự ti mặc cảm, vì thế họ thiếu tự tin để tiếp xúc với mọi ngƣời trong
cộng đồng. Họ phải đối mặt với lời đồn đại, kỳ thị và phân biệt đối xử từ cộng
đồng nếu biết đƣợc họ đã bị buôn bán ra nƣớc ngoài. Một số phụ nữ chia sẻ rằng
mặc dù họ đã lập gia đình sau khi bị buôn bán trở về và có con cái nhƣng họ vẫn
không thể tránh khỏi tình trạng bị ngƣời chồng sỉ nhục hoặc đối xử tồi tệ do hoàn
cảnh bị buôn bán trƣớc đây” [17].
“Mọi người hàng xóm khinh thường tôi vì gia đình tôi rất nghèo. Họ bàn
Hộp thông tin số 1.1: Cảm nhận của nạn nhân về sự kì thị
tán với nhau là tôi đã từng bị buôn bán....”
“Bây giờ gia đình tôi đang mắc nợ. Tôi bị bạn bè phân biệt đối xử, vì thế tôi không có bạn bè nào cả. Người hàng xóm bàn tán về tình trạng của tôi bị buôn bán”
43
(PV sâu – chị T, 22 tuổi, Phụ nữ bị mua bán trở về)
1.3.2. Các nguyên tắc cơ bản về hỗ trợ phục hồi, tái hòa nhập cho phụ
nữ bị mua bán trở về:
Một số nguyên tắc cơ bản về phục hồi, tái hòa nhập của quốc tế
Các nguyên tắc về phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân bị buôn
bán đƣợc quy định trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã tham
gia kí kết nhƣ Công ƣớc chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia ( Điều 25),
Nghị định thƣ về phòng chống buôn bán ngƣời (Điều 6, điều 7, điều 8). Có thể
nêu lên một số nguyên tắc sau:
Các quốc gia đƣợc khuyến nghị ban hành các biện pháp lập pháp, hành
pháp và xã hội để hồi phục thể chất, tinh thần và xã hội cho nạn nhân của buôn
bán ngƣời. Đó là: chỗ ở thích hợp (với những ngƣời không có nơi ở, mất nhà
cửa…); những hƣớng dẫn và thông tin; hỗ trợ y tế, tinh thần và vật chất nhƣ
chăm sóc, điều trị y tế, tƣ vấn, hỗ trợ vật dụng sinh hoạt thiết yếu…; tạo cơ hội
việc làm, giáo dục và đào tạo dạy nghề. Các quốc gia cần phối hợp với các tổ
chức phi chính phủ và các tổ chức, các thành viên trong xã hội dân sự khi thực
hiện các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân.
Các dịch vụ đƣa ra cần có sự tƣ vấn, hợp tác và tham gia nhằm mục đích
phục hồi nhân phẩm và khả năng đƣa ra quyết định của bản thân nạn nhân. Đánh
giá cao vai trò của các dịch vụ tâm lý xã hội trong việc giúp đỡ để tạo ra môi
trƣờng “gia đình” và “cộng đồng” lành mạnh để có thể hỗ trợ quá trình phục hồi
và tái hòa nhập của nạn nhân. Sự cần thiết phải nâng cao nhận thức của cộng
đồng về ảnh hƣởng tâm lý đối với nạn nhân bị buôn bán và việc nâng cao nhận
thức này cần phải đƣợc thực hiện dƣới hình thức là đảm bảo không có sự kì thị
và phải phù hợp với ngôn ngữ, văn hóa của nạn nhân.
Việc tái hòa nhập cho nạn nhân hƣớng tới sự tái hòa nhập cộng đồng một
cách vững chắc. Đây là một quá trình với mục đích bù đắp những tổn thất mà nạn
nhân đã phải gánh chịu, tạo điều kiện để họ chủ động trở về với cuộc sống bình
thƣờng và phòng ngừa họ không bị buôn bán trở lại.
Một số nguyên tắc cơ bản về hỗ trợ phục hồi, tái hòa nhập ở Việt Nam
Các nguyên tắc về phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng nạn nhân bị buôn bán
44
đƣợc quy định trong các văn bản nhƣ quyết định 130/2004/QĐ-TTg ngày
14/07/2004 của thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt chƣơng trình hành động phòng,
chống buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến 2010; Quyết định
312/2007/QĐ-TTg ngày 29/01/2007 của thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt Quy chế
tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ
nƣớc ngoài trở về. Dựa vào các văn bản đó có thể nêu lên một số các nguyên tắc
sau:
Cơ chế đa ngành trong bảo vệ, giúp đỡ và phục hồi cho nạn nhân, trong
phỏng vấn nạn nhân để truy tố, xét xử tội phạm.
Việc bố trí nơi chăm sóc dựa vào cộng đồng hoặc gia đình phải đƣợc ƣu
tiên hơn các cơ sở chăm sóc tập trung.
Phục hồi và tái hòa nhập Cộng đồng phải đƣợc coi nhƣ một quá trình liên
tục, từ các cơ chế hoạt động để nhận diện và đánh giá nạn nhân đến một hệ thống
cung cấp các dịch vụ và giám sát các chƣơng trình tái hòa nhập có hiệu quả.
Lợi ích của nạn nhân vẫn phải đƣợc coi là vấn đề cần quan tâm trƣớc tiên.
Quan điểm, ý kiến của nạn nhân phải đƣợc xem xét và đƣợc tham khảo tích cực
trong suốt từng giai đoạn của quá trình phục hồi và tái hòa nhập.
Ngƣời hỗ trợ, giúp đỡ nạn nhân phải đƣợc đào tạo thích hợp và có kinh
nghiệm thực hiện phối hợp, liên kết các nguồn lực trong hỗ trợ nạn nhân tái hòa
nhập cộng đồng.
1.3.3. Các chính sách của Nhà nước với đối tượng phụ nữ bị mua bán trở về
Ở Việt Nam, Chính phủ đã và đang có nhiều biện pháp phòng chống nạn
mua bán ngƣời. Nhằm ngăn chặn và từng bƣớc đẩy lùi loại tội phạm nguy hiểm
này, ngay từ những năm 1990, Đảng, Nhà nƣớc, chính phủ, các bộ ngành địa
phƣơng đã quan tâm chỉ đạo ban hành nhiều văn bản chỉ thị liên quan đến công
tác phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em nói chung. Tuy nhiên trong giai đoạn
đó, do chƣa có cơ quan chủ trì để tổ chức các hoạt động liên ngành phối hợp
trong phòng, chống buôn bán phụ nữ nên hiệu quả đấu tranh vẫn còn nhiều hạn
chế.
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm kí kết, tham gia vào công ƣớc,
nghị định thƣ của Liên hợp quốc về chống buôn bán ngƣời. Đặc biệt Việt Nam là
45
quốc gia thành viên của tiến trình COMMIT, một sáng kiến phối hợp cấp Bộ
trƣởng về phòng, chống buôn bán ngƣời nói chung và phòng, chống buôn bán
phụ nữ nói riêng của 6 nƣớc tiểu vùng sông Mêkong mở rộng. Cũng nhƣ các
quốc gia khác, những nỗ lực trong công tác phòng chống buôn bán ngƣời ở Việt
Nam đòi hỏi một phƣơng án tiếp cận đa ngành, diện rộng. Biện pháp cùng phối
hợp mang tính chiến lƣợc giữa các cơ quan và tổ chức ở mọi cấp là hết sức cần
thiết. Những vấn đề cơ bản cần quan tâm là: truyền thông về phòng chống buôn
bán ngƣời; quan tâm đến việc xây dựng cơ sở tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân đặt
trong trung tâm bảo trợ xã hội. Nạn nhân đƣợc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ về tƣ
vấn tâm lý, khám sức khỏe, giáo dục kĩ năng sống nhằm chống lại việc bị tái
buôn bán, học văn hóa học nghề phù hợp với điều kiện và khả năng từng ngƣời,
cung cấp thông tin về chính sách hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán trở về … để họ ổn
định cuộc sống tái hòa nhập cộng đồng bền vững.
Quan điểm, biện pháp về phòng chống mua bán phụ nữ đƣợc thể hiện chủ
yếu trong các văn bản pháp luật sau:
1. Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa
đổi năm 2013.
2. Luật hôn nhân và gia đình.
3. Bộ luật Lao động
4. Pháp lệnh phòng chống mại dâm
5. Nghị quyết số 05/CP ngày 29/01/1993 của Chính phủ về ngăn chặn và
chống tệ nạn mại dâm.
6. Chỉ thị số 766/TTg ngày 17/09/1997 của thủ tƣớng Chính phủ phân
công trách nhiệm thực hiện các biện pháp ngăn chặn việc đƣa trái phép phụ nữ và
trẻ em ra nƣớc ngoài.
7. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài.
8. Ngày 14 tháng 7 năm 2004, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định
số 130/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm
buôn bán phụ nữ, trẻ em (gọi tắt là Chƣơng trình 130/CP); Đây là chƣơng trình
quốc gia lớn nhất về phòng chống buôn bán ngƣời và hỗ trợ toàn diện cho nạn
46
nhân.
9. Ngày 30 tháng 11 năm 2005 Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định
số 312/2005/QĐ-TTg phê duyệt các đề án thuộc Chƣơng trình hành động phòng,
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2005 – 2010. Chƣơng trình
130/CP gồm 4 đề án chủ yếu sau:
Đề án thứ nhất: Tuyên truyền, giáo dục trong cộng đồng về phòng chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em.
Đề án thứ 2: Đấu tranh phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em.
Đề án thứ 3: Tiếp nhận và hỗ trợ những phụ nữ, trẻ em bị buôn bán ra
nƣớc ngoài trở về.
Đề án thứ 4: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan
đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em.
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội chủ trì Đề án 3 - Tiếp nhận và hỗ
trợ những phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về với nội
dung chính của Đề án là tập trung vào công tác tiếp nhận, hồi hƣơng, tái hoà
nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về. Vai trò của
nhân viên Công tác xã hội thể hiện trực tiếp là vai trò trợ giúp cho nạn nhân tái
hòa nhập cộng đồng ở đề án 3.
Chƣơng trình 130/CP là chƣơng trình quan trọng nhất hiện nay của nƣớc
ta về công tác phòng chống mua bán ngƣời và hỗ trợ nạn nhân. Ngoài ra là những
quyết định, thông tƣ bổ sung cho đề án 3- chƣơng trình 130 nhƣ Công tác xác
minh, tiếp nhận nạn nhân đƣợc các bộ, ngành, địa phƣơng thực hiện theo Quyết
định 17/2007/QĐ-TTg và Thông tƣ liên tịch số 03/2008/TTLT-BCA-BQP-BNG-
BLĐTBXH ngày 08 tháng 5 năm 2008 của liên bộ Công an, Quốc phòng, Ngoại
giao, Lao động- Thƣơng binh và Xã hội về hƣớng dẫn trình tự, thủ tục xác minh
tiếp nhận phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về. Thông tƣ 05/2009 về
việc thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân; Thông tƣ 116/2007/TTLT-BTC-
BLĐTBXH và bổ sung mới nhất là thông tƣ 113/2010 về hƣớng dẫn nội dung chi
47
và mức chi cho nạn nhân trở về.
Hộp thông tin số 1.2: Các chế độ hỗ trợ với nạn nhân
Hỏi: “Thƣa bà, bà có thể cho biết: Nạn nhân là phụ nữ bị mua bán trở về khi đƣợc tiếp nhận tại cơ sở tiếp nhận ban đầu và tại cộng đồng đƣợc hƣởng các chế độ hỗ trợ gì?” Trả lời: “Theo Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg về quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về thì:
- Về nơi tiếp nhận ban đầu: Phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về đƣợc hỗ trợ các khoản tiền sau: tiền ăn ở, khám chữa bệnh ban đầu, quần áo, tiền tàu xe đi lại, tiền ăn đƣờng để trở về địa phƣơng nơi đối tƣợng cƣ trú.
- Tại cộng đồng: tất cả đối tƣợng phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về địa phƣơng cƣ trú đều đƣợc hƣởng các chế độ hỗ trợ, giáo dục để ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng; trợ giúp đối tƣợng trong việc làm giấy chứng minh nhân dân, nhập hộ khẩu, xóa mù chữ, làm giấy khai sinh, cho trẻ em đi học… Tùy từng đối tƣợng và khả năng của từng địa phƣơng mà hỗ trợ đối tƣợng đất đai canh tác, làm nhà ở…
Tùy theo số lƣợng, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng đối tƣợng và khả năng của địa phƣơng mà tổ chức các lớp dạy nghề cho phù hợp. Việc tổ chức dạy nghề này do các trung tâm dạy nghề tại địa phƣơng thực hiện.
Việc tạo việc làm cũng đƣợc tổ chức linh động phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đối tƣợng và địa phƣơng. Việc làm có thể tổ chức tại gia đình, cộng đồng hoặc cơ sở sản xuất kinh doanh.
Tạo điều kiện cho nạn nhân đƣợc tiếp cận với các nguồn vốn vay thông qua tổ chức Hội phụ nữ các cấp. Đây là đối tƣợng đƣợc ƣu tiên trong việc tiếp cận với các nguồn vốn vay của địa phƣơng. Đặc biệt là nguồn Quỹ Phụ nữ nghèo do Chính phủ hỗ trợ Trung ƣơng Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thành lập”.
(PV sâu –Cục phó Cục phòng chống tệ nạn xã hội - Bộ LĐ TBXH)
10. Tiếp nối chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ
nữ, trẻ em giai đoạn 2005 – 2010 (gọi tắt là Chƣơng trình 130/CP), năm 2011,
chính phủ ban hành chƣơng trình quốc gia hành động phòng, chống mua bán
ngƣời giai đoạn 2011 – 2015. Chƣơng trình này cũng kế thừa nội dung của
chƣơng trình cũ và tiếp tục thực hiện các hoạt động phòng chống mua bán ngƣời
và hỗ trợ nạn nhân của mua bán ngƣời.
11. Năm 2012, Quốc hội ban hành Luật phòng chống mua bán ngƣời. Kể
từ đây, công tác phòng chống mua bán ngƣời và hỗ trợ nạn nhân của mua bán
ngƣời thực sự đi vào hành lang pháp luật đƣợc quy định chặt chẽ. Theo điều 5 Bộ
Luật Phòng chống mua bán ngƣời khẳng định: “... Nhà nƣớc khuyến khích các tổ
chức, cá nhân thành lập các cơ sở hỗ trợ nạn nhân trên cơ sở Pháp luật Việt
Nam…”. Mô hình Ngôi nhà Bình yên đƣợc vận hành trong bối cảnh Luật phòng
48
chống mua bán ngƣời còn đang đƣợc xây dựng và lấy ý kiến rộng rãi. Trong quá
trình đó, Ngôi nhà Bình yên đã là một mô hình tham khảo để xây dựng các văn
bản Luật liên quan.
1.3.4. Khái lược công tác trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập
cộng đồng ở Việt Nam
Công tác xác minh, tiếp nhận nạn nhân đƣợc các bộ, ngành, địa phƣơng
thực hiện theo Quyết định 17/2007/QĐ-TTg và Thông tƣ liên tịch số
03/2008/TTLT-BCA-BQP-BNG-BLĐTBXH ngày 08 tháng 5 năm 2008 của liên
bộ Công an, Quốc phòng, Ngoại giao, Lao động- Thƣơng binh và Xã hội về
hƣớng dẫn trình tự, thủ tục xác minh tiếp nhận phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ
nƣớc ngoài trở về.
Theo báo cáo Sơ kết giai đoạn I (2011-2013) thực hiện Đề án 3, Chương
trình 130/CP về công tác tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về của Bộ
Lao động thƣơng binh và xã hội (Bộ LĐTBXH) thì: “giai đoạn 2011 - 2013,
ngành Lao động - Thƣơng binh và Xã hội các địa phƣơng đã tổ chức tiếp nhận và
hỗ trợ cho trên 1.200 nạn nhân bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng (trong đó
số nạn nhân tự trở về chiếm 65%; số nạn nhân đƣợc giải cứu chiếm 25% và còn
lại là số nạn nhân đƣợc trao trả qua kênh ngoại giao). Căn cứ theo nhu cầu và
nguyện vọng của nạn nhân, trên 50% số nạn nhân bị mua bán, sau khi tiếp nhận
đƣợc hỗ trợ các dịch vụ liên quan nhƣ: trợ cấp khó khăn ban đầu, học nghề, tạo
việc làm, khám chữa bệnh và trợ giúp pháp lý…
Sau khi tiếp nhận nạn nhân, các địa phƣơng đã lập hồ sơ, tiến hành các thủ
tục hỗ trợ cho nạn nhân bị mua bán trở về theo các quy định, tập trung vào hỗ trợ
học nghề và trợ cấp khó khăn ban đầu. Nhiều địa phƣơng đã phối hợp tích cực,
có hiệu quả với các dự án của các tổ chức quốc tế (Quỹ Châu Á, Tầm nhìn thế
giới, Tổ chức Vòng tay Thái bình, Tổ chức Di cƣ quốc tế, Liên minh Phòng,
chống mua bán ngƣời...) nhƣ: Thanh Hóa, Lào Cai, Bắc Giang, Thừa Thiên Huế,
Tây Ninh, An Giang, Đồng Tháp…
Một số hình thức hỗ trợ nạn nhân đƣợc thực hiện tại địa phƣơng, cụ thể:
Hỗ trợ nạn nhân gắn với công tác tiếp nhận: hầu hết các trƣờng hợp nạn nhân trở
về chính thức, tự trở về hoặc đƣợc giải cứu đều nhận đƣợc sự hỗ trợ phù hợp; Hỗ
49
trợ tại cộng đồng với các chế độ đồng bộ nhƣ hỗ trợ tâm lý xã hội, hỗ trợ pháp lý
(làm thủ tục về hộ khẩu, cấp chứng minh thƣ nhân dân, giấy khai sinh), y tế, học
nghề, hỗ trợ việc làm, học văn hoá và bảo vệ nạn nhân tố giác tội phạm; Hỗ trợ
tại Trung tâm, nhà tạm lánh dành cho nạn nhân: hình thức này đƣợc thực hiện
thông qua dự án tại Lào Cai, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, An Giang. Theo
mô hình trên, các trƣờng hợp nạn nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đƣợc
cung cấp nơi ăn, nghỉ, tƣ vấn tâm lý xã hội và đƣợc tiếp cận với các dịch vụ
ngoài Trung tâm, để học văn hoá, học nghề, hoặc khám chữa bệnh theo nhu cầu
và khả năng của đối tƣợng. Các nạn nhân đƣợc hƣởng các dịch vụ này đạt tỷ lệ
cao về hoà nhập cộng đồng; Hỗ trợ thông qua các hoạt động lồng ghép, phòng
ngừa và tái hoà nhập cộng đồng tại xã phƣờng nhƣ: tổ chức đƣợc các lớp dạy
nghề cho phụ nữ, trẻ em thuộc diện hộ nghèo, hỗ trợ tạo việc làm để có mức thu
nhập ổn định; hỗ trợ vay tín dụng, cấp phát học phí, học bổng, gắn với các hoạt
động truyền thông, nâng cao nhận thức về phòng chống mua bán ngƣời”. [11]
1.3.5. Một số mô hình hỗ trợ cho nạn nhân bị mua bán trở về
Trên thế giới, có một số xu hƣớng trợ giúp dành cho ngƣời yếu thế
nhƣ nạn nhân của mua bán ngƣời. Những xu hƣớng này có điểm hạn chế,
có ƣu nhƣợc điểm để Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm, ví dụ nhƣ:
Mô hình điều trị y tế: thì chủ yếu tập trung cho chữa trị bệnh tật, nhấn mạnh
vào các yếu tố thể chất hơn là tâm lý, xã hội; chăm sóc cụ thể hơn là chăm sóc tổng
thể.
Mô hình phúc lợi xã hội: tìm ra các giải pháp dài hạn đối với các vấn đề
tâm lý xã hội của thân chủ và đƣa họ tiếp cận các gói dịch vụ. Mô hình này
thƣờng coi thân chủ là ngƣời hƣởng lợi thụ động từ các chƣơng trình đƣợc thiết
kế.
Mô hình can thiệp dựa vào cộng đồng: các thành viên của gia đình và
cộng đồng đƣợc tham gia vào các chƣơng trình hành động do họ đề xuất và đóng
góp nguồn lực, đây là mô hình cần đƣợc khuyến khích.
Mô hình dựa vào quyền lợi và sự phát triển của nạn nhân: nhấn mạnh đến
các nhu cầu phát triển theo hoàn cảnh thực tế, liên quan đến độ tuổi, tính dễ bị
tổn thƣơng và xem xét đến sự tác động của các yếu tố xã hội, tinh thần, tôn trọng
50
sự chăm sóc hàng ngày và sự can thiệp có chuyên môn nhằm tác động đến hành
vi, thái độ và niềm tin, khả năng phục hồi, tạo giá trị cho đối tƣợng, nâng cao vị
thế của nạn nhân, gia đình, cộng đồng.
Tại Việt Nam, chúng ta đang hỗ trợ nạn nhân thông qua các mô hình:
Mô hình Nhóm tự lực: tranh thủ sự giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật của
các Tổ chức quốc tế, một số địa phƣơng đã xây dựng mô hình Nhóm tự lực hỗ
trợ sinh kế cho nạn nhân. Mô hình này tập trung tại các địa bàn có nhiều nạn
nhân bị mua bán trở về nhƣ: Tỉnh Thừa Thiên Huế đã thành lập đƣợc 03 nhóm tự
lực (TP. Huế 01 nhóm/10 thành viên nữ và huyện A Lƣới có 02 nhóm với 11
thành viên); tỉnh Bắc Giang xây dựng mô hình “Nhóm tự lực” cho nạn nhân bị
mua bán tại 07 huyện, thành phố: Tân Yên, Hiệp Hoà,Yên Dũng, Việt Yên, Yên
Thế, Sơn Động, Thành phố Bắc Giang.
Mô hình kết hợp hỗ trợ nạn nhân bị mua bán với phòng, chống mại dâm,
phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS. Điển hình tại Hải Phòng duy trì 2 câu lạc
bộ hỗ trợ phụ nữ mại dâm và bị mua bán trở về tái hòa nhập cộng đồng tại huyện
Kiến Thụy, Thủy Nguyên; tại Đà Nẵng triển khai mô hình “Phòng ngừa phụ nữ
có nguy cơ dẫn đến hoạt động mại dâm và dự phòng lây nhiễm HIV” tại 02
phƣờng Bình Hiên và Hải Châu I nhằm phòng ngừa và tiến đến đẩy lùi tệ nạn
mại dâm, phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em và dự phòng lây nhiễm
HIV/AIDS…
Mô hình hỗ trợ tại Trung tâm nhƣ “nhà tạm lánh” (Hà Nội), “Nhà mở”
(An Giang, Cần Thơ,...) thông qua phối hợp của các ngành, đoàn thể và các tổ
chức Quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán có hoàn
cảnh khó khăn. Theo mô hình trên, các trƣờng hợp nạn nhân có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn đƣợc cung cấp nơi ăn, nghỉ, tƣ vấn tâm lý xã hội và đƣợc tiếp cận
với các dịch vụ ngoài Trung tâm, để học văn hoá, học nghề, hoặc khám chữa
bệnh theo nhu cầu và khả năng của đối tƣợng. Các nạn nhân đƣợc hƣởng các
dịch vụ này đạt tỷ lệ cao về tái hoà nhập cộng đồng [10, tr.4].
Các mô hình này đã đƣợc đánh giá cao về tính hiệu quả và thực tiễn. Sự
thành công của các mô hình bƣớc đầu đã giúp đỡ đƣợc những nạn nhân có hoàn
51
cảnh khó khăn, thông qua việc sử dụng đồng vốn sinh kế hiệu quả đem lại thu
nhập ổn định cuộc sống, đƣợc tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ tái hòa nhập cộng
đồng bền vững.
Trong nghiên cứu này, tôi đi sâu vào nghiên cứu mô hình nhà tạm lánh
“Ngôi nhà bình yên” Trung tâm phụ nữ và Phát triển tại Hà Nội đang cung cấp
dịch vụ trợ giúp cho nạn nhân là phụ nữ và trẻ em gái bị mua bán trở về hòa nhập
cộng đồng thành công. Mô hình này có học tập và kết hợp các phƣơng pháp đã
trợ giúp trên thế giới.
1.4. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Trung tâm phụ nữ và Phát triển thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, có
chức năng hỗ trợ, nâng cao năng lực phát triển toàn diện cho phụ nữ thông qua
các hoạt động phục vụ nhiệm vụ Chính trị của Hội: tổ chức các khóa đào tạo, tƣ
vấn cung cấp dịch vụ và hỗ trợ nhóm yếu thế thiệt thòi. Đặc biệt là cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ nhóm phụ nữ trẻ em là nạn nhân bị mua bán. Với sự hỗ trợ về tài
chính và kĩ thuật của “Cơ quan hợp tác phát triển Tây Ban Nha (AECID)”, Trung
tâm Phụ nữ và phát triển đã xây dựng mô hình “Ngôi nhà bình yên” (NNBY) để
hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị mua bán từ nƣớc ngoài trở về giúp chị em bình ổn về
tâm lý, sức khỏe, có kỹ năng nghề nghiệp để tự tin tái hòa nhập cộng đồng.
“Ngôi nhà bình yên” đi vào hoạt động từ tháng 3 năm 2007. Đây là một mô hình
điển hình cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân của mua bán ngƣời tiêu biểu ở
Việt Nam; là mô hình cụ thể thực hiện ứng dụng các phƣơng pháp công tác xã
hội trong việc trợ giúp nạn nhân.
1.4.1. Tổ chức của Ngôi nhà bình yên
“Ngôi nhà bình yên” có đội ngũ nhân viên gồm: 1 Quản lý nhà, 03 Nhân
viên xã hội, 02 Quản gia và 02 bảo vệ có kinh nghiệm trong việc tƣ vấn, hỗ trợ
52
nạn nhân.
HLHPNVN
CƠ QUAN LIÊN QUAN
NHÀ TÀI TRỢ, TỔ CHỨC QUỐC TẾ
TRUNG TÂM PHỤ NỮ VÀ PHÁT TRIỂN
Ban quản lý Ngôi nhà Bình yên HỖ TRỢ PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM BỊ BUÔN BÁN TRỞ VỀ
PHÒNG THAM VẤN
NGÔI NHÀ BÌNH YÊN HỖ TRỢ NẠN NHÂN BỊ BUÔN BÁN
NHÀ TRẺ Hương Sen: Con của người tạm trú
ĐỊA PHƢƠNG, CỘNG ĐỒNG
Sơ đồ 1.5: Tổ chức và nhân sự của mô hình “Ngôi nhà bình yên”
(Nguồn: Trung tâm phụ nữ và phát triển – Hội LHPN Việt Nam – 2013)
1.4.2. Đối tượng tiếp nhận của Ngôi nhà bình yên
Phụ nữ và trẻ em Việt Nam từng bị mua bán (về tất cả các mục đích: bóc
lột sức lao động, bóc lột tình dục…) có nhu cầu đƣợc hỗ trợ vì có những vấn đề
sau: Tổn thƣơng về sức khỏe và tâm lý; Khó khăn về kinh tế, việc làm, cần nơi ở
an toàn và có nhu cầu đƣợc giúp đỡ; Mong muốn đƣợc hỗ trợ để tự tin tái hòa
nhập cộng đồng; thân nhân đƣợc xác minh rõ ràng (Có sự giới thiệu hoặc xác
nhận của chính quyền địa phƣơng, công an, Hội phụ nữ, các ngành liên quan).
1.4.3. Các dịch vụ trợ giúp của Ngôi nhà bình yên: Nhà tạm lánh “Ngôi
nhà bình yên” cung cấp gói dịch vụ hỗ trợ toàn diện dựa trên năng lực, nhu cầu
53
và nguyện vọng của ngƣời tạm trú. Các dịch vụ hoàn toàn miễn phí :
Cung cấp nơi ăn, ở an toàn 24/24 giờ: các em đƣợc chăm sóc nơi ăn chốn
ở, đƣợc bảo vệ, đƣợc cấp sinh hoạt phí 100.000/1 ngày để có thể mua các đồ
dùng cá nhân sinh hoạt.
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe- y tế và chuyển tuyến tới các cơ sở chăm sóc
Hỗ trợ Tƣ vấn tâm lý: Ngôi nhà bình yên có các Nhân viên xã hội, nhân viên
tham vấn, chuyên gia tâm lý tại nhà tạm lánh và có thể chuyển tuyến tới các cơ sở
hỗ trợ tâm lý phù hợp nhƣ: Văn phòng tƣ vấn và trị liệu tâm lý trẻ em (thuộc Đƣờng
dây Tƣ vấn và hỗ trợ trẻ em 18001567), các văn phòng tƣ vấn tâm lý khác…
sức khỏe
Đào tạo nâng cao kĩ năng sống cho các em: các em đƣợc tham gia tập
huấn các lớp phát triển kỹ năng sống cho mình nhƣ: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
tự bảo vệ trƣớc bạo lực,…
Giải trí, thể thao: các em đƣợc tham gia các hoạt động giải trí thể thao để
đời sống tinh thần thoải mái nhƣ: đi dã ngoại, sinh hoạt câu lạc bộ, học và tập
luyện Yoga và các môn thể thao khác.
Hỗ trợ pháp lý và chuyển tuyến tới các Văn phòng luật sƣ, các Trung tâm
hỗ trợ pháp lý phù hợp.
Học văn hóa: với những em chƣa biết chữ hoặc có nguyện vọng học tiếp,
hoặc con nhỏ của nạn nhân nhà tạm lánh sẽ chuyển gửi các em tới trƣờng học
phù hợp.
Đào tạo, dạy nghề và định hƣớng nghề: các nhân viên xã hội sẽ cùng tham
vấn cho các em, dựa trên nguyện vọng của các em để chuyển gửi đến các cơ sở
đào tạo nghề phù hợp
Giới thiệu việc làm: Ngôi nhà bình yên kết nối với các Doanh nghiệp, các
đơn vị tuyển dụng lao động để tạo cơ hội việc làm cho các em. Ngoài ra, Ngôi
nhà bình yên còn cung cấp một khoản vốn vay nhỏ hoặc trang thiết bị nghề để
các em có thể mở một cửa hàng, cửa hiệu nhỏ tự lập cuộc sống.
Theo dõi và hỗ trợ hồi gia: sau khi các em ở Ngôi nhà bình yên trở nên tự
tin, độc lập có mong muốn trở về gia đình hòa nhập cộng đồng, các nhân viên xã
hội vẫn duy trì liên hệ và có các hoạt động tƣ vấn hoặc hỗ trợ cần thiết.
54
Ngƣời tạm trú đƣợc ở tại NNBY tối đa 18 tháng.
Phòng tham vấn Đánh giá nhu cầu. Sàng lọc thông tin theo tiêu chí
NGÔI NHÀ BÌNH YÊN Mạng lƣới/Các dịch vụ Hỗ trợ
Ngôi nhà Bình Yên
Nơi ăn ở an toàn
QL nhà, NVXH, Bảo vệ, quản gia, chính quyền Địa phƣơng
Công an, Cảnh sát, Bộ ngành liên quan
Đăng kí tạm trú, xác minh nhân thân
Cơ sở y tế, Bệnh viện, nhân viên xã hội, quản gia
Khám ban đầu, Chăm sóc sức khỏe
NVXH, Chuyên gia tâm lý, 18001567
Hỗ trợ tâm lý
Hỗ trợ pháp lý
Chính quyền địa phƣơng, Công an, cảnh sát, Tòa án, bộ ngành chức năng
Vƣờn trẻ, trƣờng học
Nâng cao nhận thức cho cộng đồng và các bên liên quan Xây dựng mạng lƣới giao chuyển nạn nhân và mạng lƣới cung cấp dịch vụ
Trẻ đến trƣờng theo độ tuổi
Ngƣời tạm trú
Vui chơi giải trí, hòa nhập
Hoạt động vui chơi, giải trí trong và ngoài NHT
Nâng cao nhận thức
Tập huấn viên và nhân viên xã hội
hỗ trợ kỹ năng
Đào tạo nghề, phát triển kỹ năng nghề
Các trung tâm đào tạo nghề Hoa sữa, Koto, CWD
Cơ hội việc làm
Các doanh nghiệp, CWD
www.themegallery.com
Sơ đồ 7: Mạng lưới các dịch vụ hỗ trợ của mô hình “Ngôi nhà bình yên”
Hội PN, bộ ngành và đoàn thể, chính quyền và các NGOS trong nƣớc và quốc tế, các trƣờng, cơ sở y tế
Hỗ trợ tái hòa nhập: môi trƣờng an toàn, vốn hoặc thiết bị nghề…
(Nguồn: Trung tâm phụ nữ và phát triển – Hội LHPN Việt Nam – 2013)
Sơ đồ 1.6: Mạng lƣới các dịch vụ hỗ trợ của Ngôi nhà bình yên
1.4.4. Đặc điểm của người tạm trú tại Ngôi nhà bình yên
Ngƣời tạm trú tại NNBY là những phụ nữ và trẻ em gái bị mua bán trở về
đƣợc hỗ trợ để phục hồi sức khỏe, tìm lại hy vọng và có khả năng để bắt đầu
cuộc sống mới. Từ năm 2007 đến năm 2013, NNBY đã hỗ trợ đƣợc 257 ngƣời
55
tạm trú. Gần 40% trong số đó dƣới 18 tuổi, và ngày càng nhiều em dƣới 16 tuổi.
10% các em không biết chữ, và 60% mới học đến cấp 2 hoặc cấp 3. Phần lớn
ngƣời tạm trú đến các tỉnh phía Bắc, trong đó có một nửa là ngƣời dân tộc thiểu
số. 60% ngƣời tạm trú đến với NNBY bị mua bán vì mục đích bóc lột tình dục,
còn lại bị mua bán vì mục đích làm vợ hoặc bóc lột sức lao động. Gần một nửa
số ngƣời tạm trú đã chia sẻ rằng bạo lực gia đình, đổ vỡ trong tình cảm, sử dụng
chất kích thích và thiếu sự quan tâm của gia đình chính là những yếu tố đẩy các
em vào hoàn cảnh có nguy cơ bị mua bán. Ngoài ra là những yếu tố khác nhƣ đói
nghèo và mong muốn đổi đời… [39, tr.6]. Với sự đa dạng về độ tuổi, trình độ
học vấn, nghề nghiệp, thành phần dân tộc, hoàn cảnh xuất thân và địa bàn cƣ trú,
tạo nên một bức tranh chung về ngôi nhà.
Nhƣ vậy, ngƣời tạm trú là phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh Ngôi
nhà bình yên có các đặc điểm tƣơng đồng với đặc điểm và khó khăn của phụ nữ
bị mua bán trở về nói chung đã tìm hiểu ở phần 1.3.1.
Biểu đồ 1.1: Số lượng người tạm trú tại NNBY từ 2007 – 2013[39]
56
Tiểu kết chƣơng 1
Việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài “Hoạt động trợ giúp
phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng” có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc nghiên cứu đề tài.
Hệ thống các khái niệm, các lý thuyết đƣợc phân tích, làm sáng rõ giúp
tạo tiền đề cho việc nghiên cứu ở chƣơng II đƣợc thuận lợi hơn. Thông qua việc
tìm hiểu các đề tài nghiên cứu trƣớc đó về tình hình mua bán ngƣời và mua bán
phụ nữ, các đặc điểm về hoàn cảnh gia đình, độ tuổi, đặc điểm về nhận thức và
trình độ học vấn của nạn nhân trƣớc khi bị mua bán và các đặc điểm, những hậu
quả sau khi bị mua bán trở về để có cái nhìn chung nhất về chân dung xã hội của
nạn nhân. Ngƣời nghiên cứu tìm hiểu địa bàn nghiên cứu là NNBY để có hình
dung ban đầu về tổ chức, bộ máy và hoạt động của họ. Từ cơ sở đó, tôi tiến hành
nghiên cứu thực trạng hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập
57
cộng đồng tại nhà tạm lánh NNBY.
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHỤ NỮ BỊ
MUA BÁN TRỞ VỀ HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG TẠI NHÀ TẠM
LÁNH NGÔI NHÀ BÌNH YÊN
Nội dung chƣơng 2 tập trung mô tả thực trạng các hoạt động trợ giúp nạn
nhân phục hồi trong quá trình tái hòa nhập ở nhà tạm lánh thông qua các báo cáo
của Ngôi nhà bình yên và điều tra thực tế các hoạt động thông qua góc nhìn của
chính những ngƣời thụ hƣởng; Đánh giá về mức độ hài lòng của những phụ nữ bị
mua bán trở về đang đƣợc nhận các hoạt động đƣợc trợ giúp tại nhà tạm lánh
Ngôi nhà bình yên; Tìm hiểu những nhu cầu, những mong muốn khác của họ
ngoài những nhu cầu đã đƣợc nhà tạm lánh đáp ứng. Thông qua các nội dung
nghiên cứu đó để mô tả bức tranh thực trạng hoạt động trợ giúp cho phụ nữ bị
mua bán trở về của một mô hình nhà tạm lánh mang tính đại diện.
2.1. Các hoạt động trợ giúp nhóm phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm
lánh “Ngôi nhà bình yên” theo báo cáo của Ban quản lý Ngôi nhà bình yên
Ngƣời nghiên cứu tổng hợp các tài liệu, báo cáo hoạt động, số liệu của
NNBY để đƣa ra bức tranh thực trạng hoạt động trợ giúp nhóm phụ nữ bị mua
bán trở về tại đây.
Mục đích lớn nhất của NNBY khi đi vào hoạt động là: “Góp phần vào nỗ
lực của Việt Nam trong việc chấm dứt nạn mua bán ngƣời thông qua nâng cao
quyền năng và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ bị mua bán trở về; tiếp
tục hỗ trợ xây dựng và thực thi chính sách thông qua vai trò tích cực trong nâng
cao nhận thức của xã hội về tác động của bạo lực trên cơ sở giới dƣới hình thức
58
mua bán ngƣời” [39; tr.10]
Hộp thông tin số 2.1: Định hướng mục tiêu hoạt động của NNBY
Hỏi: “Thƣa bà, bà có thể cho biết: Định hƣớng mục tiêu hoạt động của NNBY là gì?” Trả lời: “Theo Định hƣớng mục tiêu hoạt động của NNBY đã đƣợc TW Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, ban giám đốc Trung tâm phụ nữ và phát triển từ năm 2007 đến năm 2014, đƣợc chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn I: (2007 – 3/2009): Thiết kế, vận hành mô hình điểm nhà tạm lánh hỗ trợ PN và TE bị mua bán trở về Giai đoạn II: (4/2009 - 3/2012): Duy trì, vận hành mô hình Ngôi nhà Bình yên cung cấp các dịch vụ hỗ trợ toàn diện cho PN và TE bị mua bán trở về và tăng cƣờng mạng lƣới giao chuyển. Giai đoạn III: (4/2012 – 11/2014): Cải thiện mô hình thông qua các đánh giá độc lập để nâng cao chất lƣợng dịch vụ theo tiêu chuẩn quốc tế. Khung thiết kế hoạt động cho NNBY giai đoạn 3 này có 5 Hợp phần: Hợp phần 1: Hệ thống Hỗ trợ: Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ toàn diện theo nhu cầu với một môi
trƣờng an toàn, đảm bảo bí mật và không phán xét, nhằm hỗ trợ PNTE bị mua bán trở về vƣơn lên và tái hòa nhập cộng đồng thành công. Hợp phần 2: Nâng cao tính bền vững về tài chính và Gây quỹ: Các nhu cầu về tài chính trong tƣơng lai của NNBY sẽ đƣợc đảm bảo 1 phần thông qua các chiến dịch và HĐ gây quỹ hiệu quả. Hợp phần 3: Hệ thống Giao chuyển và Hỗ trợ: Tính bền vững và hiệu quả trong việc giao chuyển để hỗ trợ PN&TE bị mua bán trở về. Hợp phần 4: Xây dựng năng lực tổ chức: Phát triển năng lực tổ chức thông qua các hoạt động của dự án. Hợp phần 5: Truyền thông và Vận động Chính sách: Các hoạt động truyền thông mang tính chiến lƣợc, tập trung, chủ động đƣợc mở rộng nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng, vận động chính sách và nâng cao vai trò của NNBY.
(PV sâu- lãnh đạo NNBY)
Nhà tạm lánh Ngôi nhà bình yên cung cấp gói dịch vụ hỗ trợ toàn diện
dựa trên năng lực, nhu cầu và nguyện vọng của ngƣời tạm trú. Bảng tổng hợp số
lƣợng phụ nữ bị mua bán trở về đã đƣợc cung cấp các dịch vụ trong thời gian qua
đƣợc thống kê chi tiết trong phụ lục 4. Khi đƣợc tiếp nhận vào Ngôi nhà bình
yên, nạn nhân đƣợc miễn phí hoàn toàn các dịch vụ:
2.1.1. Dịch vụ cung cấp nơi ăn, ở an toàn
NNBY cung cấp nơi ăn, ở an toàn 24/24 giờ cho 25-30 phụ nữ/ trẻ em có
thể trong cùng một thời điểm: các em đƣợc chăm sóc nơi ăn chốn ở, đƣợc bảo vệ,
đƣợc cấp sinh hoạt phí 100.000/1 ngày để có thể mua các đồ dùng cá nhân sinh
hoạt. Thời gian tối đa cho mỗi nạn nhân bị mua bán ở tạm trú tại “ Ngôi nhà bình
59
yên” là 18 tháng.
Từ năm 2007 đến năm 2013, NNBY tiếp nhận 257 nạn nhân là phụ nữ trẻ
“NNBY có khả năng hỗ trợ từ 20 - 30 ngƣời tại một thời điểm. NNBY KHÔNG mong muốn đón nhận nhiều ngƣời tạm trú. Tuy nhiên: khi tính mạng, sức khỏe, tâm lý, tài sản của phụ nữ bị đe dọa cần những hỗ trợ khẩn cấp trong môi trƣờng thực sự an toàn và chuyên nghiệp để phục hồi sức khỏe thể chất, tinh thần, củng cố các kỹ năng nhằm tái hòa nhập cộng đồng TỰ TIN, ĐỘC LẬP, BỀN VỮNG! ”
em gái bị mua bán trở về, tất cả họ đều đƣợc cung cấp dịch vụ này.
(PV sâu – quản lý nhà Ngôi nhà Bình yên )
2.1.2. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe- y tế và chuyển tuyến tới các cơ sở
chăm sóc sức khỏe
Nạn nhân khi bắt đầu vào tạm trú đƣợc kiểm tra sức khỏe toàn diện, và
trong suốt thời gian lƣu trú tiếp tục đƣợc tƣ vấn về sức khỏe, đƣợc chăm sóc và
điều trị theo bệnh lý. Hầu hết các nạn nhân bị mua bán trở về đều gặp những vấn
đề về sức khỏe thể chất, đặc biệt là bệnh phụ khoa và các bệnh lây qua đƣờng
tình dục. Việc ƣu tiên chăm sóc sức khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản nói
riêng cho họ rất quan trọng trong việc hỗ trợ ổn định và tái hồi gia. NNBY đã hỗ
trợ chăm sóc sức khỏe cho tất cả ngƣời tạm trú và chuyển tuyến 216 ngƣời tới
60
các cơ sở y tế.
2.1.3. Hỗ trợ Tư vấn tâm lý
Theo thống kê của Ngôi nhà bình yên thì hầu hết các nạn nhân đều có vấn
đề về Sức khỏe tinh thần như: Bất ổn về tâm lý (rối nhiễu tâm lý, mắc chứng bịa
chuyện, cấu trúc tâm lý ở thể histery, chậm phát triển trí tuệ… NNBY nhận thức
rằng: Hỗ trợ phục hồi tâm lý là quan trọng, cần nhiều thời gian và chuyên gia tâm
lý chuyên nghiệp. NNBY có các Nhân viên xã hội, nhân viên tham vấn, chuyên
gia tâm lý tại nhà tạm lánh thƣờng xuyên gặp gỡ, trò chuyện với ngƣời tạm trú,
giúp chị em bình ổn tâm lý, phục hồi sức khỏe tâm thần và giải quyết khó khăn
trong đời sống riêng. Khi cần thiết trong trƣờng hợp vƣợt quá khả năng hỗ trợ,
NNBY sẽ có sự hỗ trợ của các chuyên gia có chuyên môn sâu và giàu kinh
nghiệm trong các lĩnh vực mang tính chuyên ngành, có thể chuyển tuyến tới các
cơ sở hỗ trợ tâm lý phù hợp nhƣ: Văn phòng tƣ vấn và trị liệu tâm lý trẻ em
(thuộc Đƣờng dây Tƣ vấn và hỗ trợ trẻ em 18001567), các văn phòng tƣ vấn tâm
lý khác… Bên cạnh đó, NNBY cũng giữ mối liên hệ với gia đình, ngƣời thân của
họ để cùng trao đổi, phối hợp.
NNBY tổ chức các hoạt động trị liệu tâm lý, liệu pháp nhóm thông qua
việc làm một số sản phẩm thủ công đơn giản giúp chị em bình ổn về tâm lý và
tạo thu nhập. Thông qua các hoạt động hàng ngày nhƣ nấu ăn, sinh hoạt chung
giúp chị em có thêm kĩ năng làm việc, có cơ hội giao lƣu, chia sẻ và quá trình trị
61
liệu tâm lý tại Ngôi nhà bình yên đạt hiệu quả.
Ảnh: Quản gia cùng người tạm trú chuẩn bị bữa ăn tại NNBY
Hộp thông tin số 2.2: Môi trường thân thiện ở NNBY
Hỏi: Theo chị, NNBY có hoạt động hay đặc điểm gì là nổi bật, sáng tạo so với các mô hình nhà tạm lánh khác? Trả lời: “ Các nhân viên xã hội luôn luôn tạo bầu không khí niềm nở trong đó mọi ngƣời đƣợc tôn trọng, chăm sóc và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Để tăng cƣờng hiểu biết lẫn nhau, phá vỡ những khác biệt về văn hóa và tâm lý, cán bộ/ nhân viên Ngôi nhà bình yên cùng với những ngƣời tạm trú tổ chức các hoạt động khác nhau nhƣ làm thiếp chúc mừng và các sản phẩm thủ công khác.
Đƣợc bảo vệ và có một môi trƣờng an toàn rất quan trọng đặc biệt với ngƣời mới đến. Bằng sự tôn trọng lẫn nhau, các nhân viên Ngôi nhà bình yên, nhân viên xã hội cùng với những ngƣời tạm trú cùng nhau trang trí nhà cửa, nấu ăn…
Cuộc họp hàng tuần giữa những ngƣời sống trong NNBY và nhân viên xã hội đƣợc tổ chức định kì với mục đích giúp những ngƣời tạm trú đƣợc gặp gỡ, chia sẻ tình cảm, khó khăn với nhau, giải quyết xung đột tiềm ẩn… thông qua đó, nhân viên xã hội sẽ hiểu hơn thân chủ của mình, đánh giá nhu cầu nhằm đƣa ra sự hỗ trợ tốt nhất.
Tất cả các hoạt động trong thời gian rảnh rỗi, đào tạo kỹ năng sống, nâng cao quyền năng, học sáng tạo đều hƣớng đến mục đích giúp đỡ những ngƣời tạm trú tự tin hơn, tăng cƣờng khả năng làm chủ cuộc sống. CTXH - hoạt động hỗ trợ tâm lý đƣợc lồng ghép trong các hoạt động nhƣ trao đổi kinh nghiệm theo nhóm, làm đồ thủ công, thu xếp các chuyến vui chơi dã ngoại và mừng sinh nhật, tiệc sinh nhật, tiệc đầu năm, cuối năm cho ngƣời tạm trú”
(PV sâu – chị PĐQ – nhân viên tham vấn Ngôi nhà Bình yên)
2.1.4. Nhóm dịch vụ nâng cao kỹ năng sống
Giáo dục, hƣớng dẫn nâng cao kĩ năng sống cho các em là rất cần thiết
giúp ngƣời tạm trú tự tin, tự lập trong cuộc sống. Các em đƣợc tham gia tập huấn
các lớp phát triển kỹ năng sống cho mình nhƣ: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự bảo
vệ trƣớc bạo lực, kỹ năng tự chăm sóc sức khỏe, tổ chức cuộc sống gia đình, các
62
mối quan hệ xã hội... Đây là cơ sở tổ chức cuộc sống gia đình và giúp tự tin, tự
lập trong cuộc sống. Đã có 252 ngƣời (98%) ngƣời tạm trú đƣợc hƣớng dẫn kỹ
năng sống: bố trí thời gian học tập, làm việc, nghỉ ngơi; xắp xếp nơi ăn ở gọn
gàng; học kỹ năng giao tiếp, ứng xử; cách ứng phó trong một số tình huống…
Bên cạnh đó là 56 ngƣời đƣợc gửi tham gia các khóa tập huấn chuyên sâu hơn.
Ngoài ra, Ngƣời tạm trú tại NNBY đƣợc tham gia các hoạt động sinh hoạt
nhóm, giải trí, các hoạt động vui chơi giải trí thể thao để đời sống tinh thần thoải
mái nhƣ: dã ngoại (đi xem phim, công viên...), sinh hoạt câu lạc bộ, học và tập
luyện Yoga và các môn thể thao khác.
2.1.5. Hỗ trợ pháp lý
Tƣ vấn, hỗ trợ pháp lý và các hỗ trợ thủ tục pháp lý và chuyển tuyến tới
các Văn phòng luật sƣ, các Trung tâm hỗ trợ pháp lý phù hợp: Thân chủ đƣợc
tham vấn, cung cấp thông tin về luật pháp, chính sách liên quan đến quyền và lợi
ích hợp pháp của phụ nữ đƣợc cung cấp bởi nhân viên tham vấn và nhân viên xã
hội. 100% những ngƣời tạm trú đƣợc biết về quyền và trách nhiệm của mình
trong mọi mặt đời sống nhƣ: quyền con ngƣời, quyền phụ nữ, quyền nuôi con
cái,... Nạn nhân nếu có nhu cầu, sẽ đƣợc hƣớng dẫn các thủ tục pháp lý tố cáo tội
phạm, tham dự các phiên tòa xét xử tội phạm, có luật sƣ bảo vệ quyền lợi trƣớc
tòa hoặc đến các trung tâm trợ giúp pháp lý để đƣợc hỗ trợ miễn phí.
Thực tế theo báo cáo của NNBY : từ năm 2007 đến 2013, NNBY đã có
159 ngƣời đƣợc hỗ trợ pháp lý. Cụ thể là giúp họ hợp tác với công an cung cấp
lời khai, lập hồ sơ vụ án, nhận diện tội phạm. Có luật sƣ bảo vệ quyền lợi, viết
đơn tố cáo tội phạm, thủ tục làm giấy chứng nhận quyền sở hữu về nhà ở. Nhân
viên xã hội cùng ngƣời tạm trú tham dự các phiên tòa xét xử… Tuy nhiên, việc
thực thi quyết định của luật pháp về mua bán ngƣời còn thấp (chƣa có đền bù cho
nạn nhân).
2.1.6. Học văn hóa
Với những chị em chƣa biết chữ hoặc có nguyện vọng học tiếp, nhà tạm
lánh sẽ chuyển gửi các em tới trƣờng học phù hợp. Trƣờng hợp nạn nhân bị mua
bán trở về có con nhỏ đi theo thì trẻ nhỏ sẽ đƣợc tiếp nhận và đƣợc tạo điều kiện
để đến trƣờng, bảo đảm quyền lợi đƣợc học tập. Với các cháu từ 3 – 6 tuổi, sẽ
63
đƣợc gửi vào nhà trẻ Hƣơng Sen của Trung tâm. Các cháu đƣợc chăm sóc và
giáo dục toàn diện bởi giáo viên và chuyên gia nƣớc ngoài về giáo dục đặc biệt.
Với các cháu trên 6 tuổi, NNBY liên hệ với trƣờng phổ thông trên địa bàn để gửi
các cháu vào học. NNBY đã hỗ trợ 26 trƣờng hợp đƣợc đi học văn hóa.
Ảnh: góc học tập trong Ngôi nhà bình yên
Ảnh: trẻ em con nạn nhân học tập, vui chơi tại nhà trẻ Hƣơng Sen của NNBY
2.1.7. Đào tạo nghề, giới thiệu việc làm
Hỗ trợ định hƣớng nghề nghiệp, đào tạo, dạy nghề phù hợp với nhu cầu
của nạn nhân để nạn nhân khi rời NNBY có khả năng tự lập trong cuộc sống, đây
là điều kiện rất quan trọng để tái hòa nhập bền vững.
Các nhân viên xã hội đã cùng tham vấn với các em, có sự trao đổi với các
em để hỗ trợ các em lựa chọn theo học nghề phù hợp dựa vào nguyện vọng và
64
khả năng thực tế, điều kiện sức khỏe của mình. Nạn nhân có thể tự quyết định
nhu cầu của mình với những ngành nghề khác nhau nhƣ : may vá, nấu ăn, trang
điểm cô dâu, học làm tóc, làm hoa nghệ thuật, phục vụ bàn, pha chế đồ uống...
Sau đó, nạn nhân đƣợc chuyển gửi đến các cơ sở đào tạo nghề phù hợp. Đây là
các địa chỉ tin cậy hỗ trợ chi phí học nghề và các nguyên, phụ liệu cần thiết trong
quá trình học tập.
Ảnh: ngƣời tạm trú ở NNBY đƣợc học nghề may
Với nhiều trƣờng hợp đặc biệt, nhiều ngƣời có trình độ văn hóa thấp,
không đủ điều kiện tham gia các khóa học nghề kỹ thuật, chuyên môn cao nên
NNBY đã cùng với họ xây dựng kế hoạch tổ chức công ăn việc làm ngay tại địa
bàn cƣ trú sau khi hòa nhập nhƣ chăn nuôi, trồng trọt, nghề thủ công, buôn bán
nhỏ... Hoạt động này đã giúp phụ nữ tự tin hơn rất nhiều khi tạo dựng cuộc sống
mới. Ngôi nhà bình yên kết nối với các Doanh nghiệp, các đơn vị tuyển dụng lao
động để tạo cơ hội việc làm cho các em (Số liệu cụ thể trong phụ lục 3)
Biểu đồ 2.1: Thống kê số lƣợng ngƣời tạm trú đƣợc học nghề
65
2.1.8. Hỗ trợ vay vốn
Ngoài ra, sau khi hoàn thành khóa học nghề và có nhu cầu cần vay vốn để
lập nghiệp, nạn nhân đƣợc hỗ trợ để xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh
trong tƣơng lai. Sau đó, nạn nhân đƣợc hỗ trợ tìm nguồn vay vốn để lập nghiệp
khi rời khỏi nhà hỗ trợ. Ngôi nhà bình yên còn cung cấp một khoản vốn vay nhỏ
hoặc trang thiết bị nghề để các em có thể mở một cửa hàng, cửa hiệu nhỏ tự lập
cuộc sống. Khi hồi gia, ngƣời tạm trú cũng sẽ đƣợc hỗ trợ trang thiết bị phù hợp
với nghề đƣợc đào tạo để tự tin tái hòa nhập cộng đồng bằng chính sức lao động
của mình. Đến tháng 8/2013, NNBY đã hỗ trợ cho 25 chị em hồi gia đƣợc vay
vốn.
Ảnh: Phụ nữ bị mua bán trở về đƣợc NNBY tặng xe đạp và vốn vay nhỏ
2.1.8. Trợ giúp quá trình tái hòa nhập sau khi rời khỏi nhà hỗ trợ
Hoạt động hỗ trợ hồi gia và tái hòa nhập cộng đồng là hoạt động quan
trọng, bởi NNBY chỉ là nhà tạm lánh giúp thân chủ vƣợt qua giai đoạn khó khăn
ban đầu. Mục đích chính của quá trình hỗ trợ này là tạo sự độc lập tự chủ, thân
chủ không thể ở đây suốt đời. Sau khi các em ở Ngôi nhà bình yên trở nên tự tin,
độc lập có mong muốn trở về gia đình hòa nhập cộng đồng; trên cơ sở đánh giá
điều kiện, nhân viên xã hội tại NNBY cùng thân chủ xây dựng kế hoạch hỗ trợ
cho bản thân nạn nhân và cho nạn nhân sự tự tin, giúp nạn nhân trong quá trình
66
tái hòa nhập cộng đồng về sau, để hồi gia bền vững. Nhân viên xã hội phối hợp
với chính quyền tìm ngƣời hỗ trợ thân chủ ngay tại địa phƣơng (có thể là cán bộ
của các ngành công an, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội nông dân và một số
cơ quan khác…) nhằm giúp ngƣời tạm trú thực hiện kế hoạch tái hòa nhập bền
vững tại cộng đồng. NNBY có các gói hỗ trợ vật chất nhƣ vật dụng, các trang
thiết bị để ngƣời tạm trú thuận lợi trong việc lập nghiệp nhƣ máy may công
nghiệp, tiền mua cây, con giống để trồng trọt và chăn nuôi tại địa phƣơng,
nguyên vật liệu làm hƣơng, xe đạp, khởi sự doanh nghiệp nhỏ…
Sau khi hồi gia, hàng tháng nhân viên xã hội tại NNBY đã thực hiện lịch
theo dõi hồi gia theo quy định, tiếp tục liên hệ với những ngƣời tạm trú trong thời
gian 24 tháng tiếp theo để nắm tình hình sức khỏe, việc làm, thu nhập, đời sống,
gia đình... để tiếp tục hỗ trợ khi cần thiết, để có hƣớng dẫn tƣ vấn và đề xuất hỗ
trợ chị em tự tin, tái hòa nhập cộng đồng bằng chính sức lao động của mình và ổn
định cuộc sống. Nạn nhân cũng có thể gọi điện cho NNBY khi có nhu cầu.
Do khuôn khổ phạm vi nghiên cứu khảo sát các dịch vụ dành cho phụ nữ
bị mua bán trở về đang ở nhà tạm lánh nên trong nghiên cứu này tôi xin phép
không phân tích sâu hoạt động hỗ trợ của NNBY sau khi ngƣời tạm trú hồi gia.
Tóm lại, thông qua các báo cáo của ban quản lý Ngôi nhà bình yên, chúng
ta thấy đƣợc các dịch vụ khá toàn diện, hầu hết các dịch vụ NNBY có đều đƣợc
ngƣời tạm trú thụ hƣởng. Ngôi nhà bình yên đã hỗ trợ nạn nhân tối đa để họ hồi
phục sức khỏe và tinh thần, vƣợt qua khó khăn, tạo tiền đề để có một cuộc sống
ổn định trong tƣơng lai.
2.2. Thực trạng các hoạt động trợ giúp của NNBY dƣới góc nhìn của
ngƣời thụ hƣởng:
Khảo sát 31 phụ nữ bị mua bán trở về đang ở tại nhà tạm lánh NNBY thời
điểm tháng 10 năm 2014 về những nhu cầu của họ trƣớc khi đến ở NNBY, hầu
hết họ nói rằng họ có nhu cầu cơ bản về nhà ở, nƣớc sạch, ăn uống, quần áo mặc
và đồ dùng vệ sinh cá nhân. Ngoài ra là các nhu cầu khác liên quan đến các điều
kiện cho sự phát triển bản thân. Đây cũng là những nhu cầu phù hợp của ngƣời
67
phụ nữ có đời sống khó khăn sau quá trình bị mua bán.
Bảng 2.2 : Nhu cầu trước khi ở nhà tạm lánh và các dịch vụ của nhà tạm lánh NNBY đang được phụ nữ bị mua bán trở về thụ hưởng (%)
Dịch vụ đang đƣợc thụ hƣởng
Nhu cầu
Nội dung
lệ
Tỷ
Số
Tỷ
lệ
Số
%
lƣợng
lƣợng 31
Nhà ở
% 100
31
100
Nƣớc sạch
100
31
31
100
Ăn uống
100
31
31
100
Quần áo mặc
100
31
31
100
Đồ dùng vệ sinh cá nhân
100
31
31
100
Khám chữa bệnh
87,0
27
31
100
Tƣ vấn, tham vấn tâm lý
90,0
28
31
100
Làm hộ khẩu
42,0
13
16
52,0
Làm CMND
29,0
9
7
23,0
Làm thủ tục ly hôn
39,0
12
11
35,0
Công nhận quyền nuôi con
35,0
11
8
26,0
Tham gia vào sinh hoạt CLB
35,0
11
6
19,0
Học các kỹ năng sống
90,0
28
22
71,0
Đào tạo nghề
65,0
20
18
58,0
Vay vốn
16,0
5
3
9,7
68,0
21
23
74,0
Học các kỹ năng quan lý tài chính, sử dụng vốn vay hiệu quả
0
0
Không có hỗ trợ nào
0
0
(Nguồn số liệu: kết quả khảo sát 31 phụ nữ đang ở tại Ngôi nhà bình yên)
Nhƣ vậy, qua bảng số liệu trên có thể thấy phần lớn những ngƣời phụ nữ
đang ở tại nhà tạm lánh NNBY đƣợc phỏng vấn cho biết họ có các nhu cầu đƣợc
hỗ trợ để nhanh chóng ổn định cuộc sống. Các dịch vụ /chƣơng trình họ mong
muốn bao gồm tất cả các nội dung. Cao nhất là nhóm nhu cầu cơ bản nhƣ nhà ở,
nƣớc sạch, ăn uống, quần áo, đồ dùng cá nhân (100%). Chỉ có một số ít ngƣời đề
nghị được vay vốn (16%) nhƣng họ vẫn muốn đƣợc học các kỹ năng quan lý tài
chính, sử dụng vốn vay hiệu quả.
Tiếp theo là câu hỏi về các dịch vụ trợ giúp thực tế mà họ đang đƣợc thụ
hƣởng tại NNBY thì câu trả lời cũng không có nhiều sự khác biệt. Kết quả phân
tích số liệu định lƣợng cho thấy rằng 100% các nạn nhân đƣợc cung cấp ít nhất 7
68
trong số các dịch vụ hỗ trợ tại NNBY. Nhóm dịch vụ đƣợc thụ hƣởng cao liên
quan đến nhu cầu thiết yếu của đời sống nhƣ: nhà ở, nƣớc sạch, ăn uống, quần
áo, đồ dùng cá nhân, khám chữa bệnh, tham vấn tâm lý.
So sánh giữa nhu cầu của phụ nữ bị mua bán trở về trƣớc khi đến ở nhà
tạm lánh NNBY với dịch vụ hỗ trợ mà NNBY đã cung cấp cho họ thì:
Tỷ lệ lựa chọn các loại nhu cầu và thực tế họ đƣợc hỗ trợ không có nhiều
sự khác biệt. Qua kết quả điều tra cho thấy, nhóm nhu cầu cơ bản về Nhà ở,
Nƣớc sạch, Ăn uống, Quần áo mặc, Đồ dùng vệ sinh cá nhân, Khám chữa bệnh,
Tƣ vấn, tham vấn tâm lý đƣợc lựa chọn nhiều nhất và đƣợc đáp ứng 100% mặc
dù có một số ngƣời chƣa có nhu cầu. Ngoài ra, chúng ta có thể thấy nhu cầu trợ
giúp về đào tạo nghề, học kỹ năng sống, kỹ năng quản lý tài chính đối với nạn
nhân bị buôn bán trở về chiếm tỉ lệ cao hơn các nhu cầu khác Một số lƣợng rất
nhỏ những ngƣời trở về bày tỏ nhu cầu đƣợc hỗ trợ tham gia vào sinh hoạt câu
lạc bộ (35%), trợ giúp về pháp lý nhƣ công nhận quyền nuôi con (35%) vì chỉ có
một số ít ngƣời có con trở về cùng (35% số ngƣời đƣợc phỏng vấn có con trở về
cùng) .
2.2.1. Chăm sóc sức khỏe: khám chữa bệnh
Khi đƣợc hỏi về tình trạng sức khỏe của họ khi trở về, đa phần (74%) nói
rằng họ bị mắc bệnh và gặp nhiều triệu chứng sức khỏe xấu khi trở về, và hơn
50% bị mắc bệnh phụ khoa nhƣ: sùi mào gà, viêm cổ tử cung… Ngoài ra, các chị
có các triệu chứng liên quan đến sức khỏe thể chất nhƣ: các vết sẹo trên cơ
thể/da, đau thân thể, đau cơ/xương khớp, chân, đau đầu, đau bụng do từng bị
người buôn bán đánh đập bạo hành, suy nhược, suy dinh dưỡng, sốt, viêm
xoang…. và còn lại là các bệnh khác nhƣ: viêm họng, ho, đau dạ dày, đau đầu,
mất ngủ. Đó là hậu quả sức khỏe trong thời gian bị buôn bán. 43% trong số họ
cho biết các triệu chứng về sức khỏe liên quan đến sức khỏe tình dục và sức khỏe
sinh sản bao gồm HIV/AIDS, STDs, nhiễm trùng phụ khoa, nhiễm trùng tử cung,
không biết có mang thai…
Tuy vậy, nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu của họ rất khiêm tốn, chỉ có
87% các chị mong muốn đƣợc khám chữa bệnh. Nhƣng trên thực tế, tất cả 100%
các chị em ở Ngôi nhà bình yên đều đƣợc khám sức khỏe định kỳ 01 tháng một
69
lần ở bệnh viện tốt. Nếu họ có bệnh mãn tính sẽ đƣợc theo dõi và đƣa đi chữa trị
đến khi khỏi hẳn. Sau khi bị mua bán trở về nƣớc, các dấu vết về sức khỏe khiến
các chị đau khổ và khó khăn trong cuộc sống. NNBY chăm sóc sức khỏe cho các
chị cẩn thận chu đáo giúp các chị khỏe mạnh, là tiền đề để các chị bắt đầu một
cuộc sống mới. Chị T, 20 tuổi, ở NNBY đƣợc 6 tháng chia sẻ: “Ngày nào các chị
nhân viên xã hội cũng hỏi thăm em có khỏe không, có đau ốm ở đâu không? Nếu
đau thì không được giấu diếm, phải báo với chị để chị đưa đến bệnh viện nhé.
Em ở đây thấy rất khỏe mạnh vì được bác sĩ điều trị bệnh mà hơn cả là môi
trường sống yên lành và sự quan tâm tận tình của các chị”. Nhân viên xã hội ở
NNBY thì nói rằng: “Các chị em bị mua bán trở về hầu hết bị mua bán để bóc
lột tình dục nên bị mắc các bệnh phụ khoa rất nhiều, căn bệnh này khiến họ xấu
hổ, e dè không dám chia sẻ nên mình càng phải quan tâm hơn và đặc biệt tất cả
đều phải xét nghiệm kiểm tra HIV/AIDS, có trường hợp có HIV thì chúng tôi phải
tính phương án chăm sóc sức khỏe đặc biệt”.
2.2.2. Hỗ trợ tâm lý
Khi đƣợc hỏi về tình trạng tâm lý khi trở về thì có tới 91% nói rằng họ đã
bị khủng hoảng (họ nhận thức đƣợc mình bị khủng hoảng), chỉ còn lại số ít cho
rằng mình vẫn bình thƣờng. Bản thân họ đã nhận thức đƣợc mình có vấn đề về
tâm lý. Họ bị các triệu chứng khác nhau về sức khỏe tâm thần nhƣ: thường xuyên
đau đầu, tâm trí đau khổ, mệt mỏi, lo âu, sợ hãi, mất trí nhớ, ám ảnh và suy
nhược... Và tất cả 100% họ đều đƣợc tƣ vấn tham vấn tâm lý ở các mức độ khác
nhau ở NNBY.
Theo dữ liệu định tính, các chị nói rằng họ đã đƣợc tƣ vấn tâm lý ở mức
độ khác nhau từ các nhân viên xã hội của NNBY và các chuyên gia tâm lý khác
đƣợc mời đến hoặc nhân viên xã hội đƣa họ đi gặp chuyên gia tâm lý. Các hành
động cụ thể của hoạt động hỗ trợ này đƣợc các chị kể lại tóm tắt bao gồm những
hành động sau:
Gặp gỡ thăm hỏi hàng ngày và lắng nghe tâm sự từ những người trở về để
chia sẻ, thông cảm và quan tâm đến họ.
Đông viên, an ủi và cho lời khuyên để họ vượt qua những nỗi lo âu, sợ hãi
70
và tâm trí đau buồn
Trao đổi hoặc bàn bạc với những người trở về về cách đối phó hay giải
quyết với gia đình và cộng đồng để có thể giúp làm giảm kỳ thị và phân biệt đối
xử đối với họ
Hộp thông tin số 2.3: Nhận định về đặc điểm tâm lý phổ biến của nạn nhân
-
Hỏi: “Những đặc điểm tâm lý phổ biến của thân chủ (đặc biệt là trường hợp bị buôn
bán vì mục đích mại dâm) thì cán bộ tham vấn/ nhân viên xã hội cần chú ý là gì?”
-
Trả lời: “Theo kinh nghiệm làm việc, tôi nhận thấy thân chủ thường có các đặc điểm
sau:
- Nạn nhân thường sợ bị đơn độc, sợ những người khác biết được điều gì đã xảy ra; phải
ra tòa, bị mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS…
-
- Có mặc cảm tội lỗi vì sai lầm hoặc vì ngu dốt; vì vi phạm đạo đức, văn hóa; vì đã sa
-
ngã chỉ vì muốn hỗ trợ gia đình.
- Giận chính bản thân mình đã để điều đó xảy ra; giận những người không bảo vệ mình;
-
đau khổ vì sự tan vỡ cuộc đời mình.
- Xấu hổ: đó là cảm giác bị vấy bẩn, bị làm nhục; cảm giác những người khác biết được
-
điều gì đã xảy ra khi nhìn mình.
- Cảm giác bị phản bội: bởi những người giới thiệu mình với kẻ buôn người, bởi gia đình
- Thiếu lòng tin: Vào khả năng xét đoán của mình; vào những người khác kể cả những
-
người không phản bội mình.
- Bất lực và trầm cảm: mất kiểm soát, cảm giác rằng mọi chuyện sẽ không bao giờ tốt
- mình… -
- Bị sốc: cảm giác tê liệt và không thể nào khóc được. Họ thường nói: tại sao chuyện này
lại xảy ra với mình?
- lên. -
- Mất phương hướng: không thể ngồi yên, thấy từng ngày trôi qua nặng nề; mất trí nhớ
hoặc lẫn lộn về thời gian”.
-
(PV sâu – chị P. Đ. Q – nhân viên tham vấn
-
Ngôi nhà Bình yên – TT Phụ nữ và phát triển- Hội LHPNVN)
-
-
2.2.3. Hỗ trợ pháp lý
Kết quả khảo sát định lƣợng cho thấy: phụ nữ bị mua bán trở về có nhu
cầu trợ giúp về pháp lý nhƣ: làm hộ khẩu, làm chứng minh nhân dân, làm thủ tục
ly hôn, công nhận quyền nuôi con. Và thực tế họ đã đƣợc cung cấp các dịch vụ
trợ giúp đáp ứng nhu cầu đó. Đối với những ngƣời trở về với con dƣới 18 tuổi thì
các em đƣợc hỗ trợ cấp giấy khai sinh, nhập quốc tịch, đăng ký nhập học, làm sổ
hộ khẩu. Thông qua các cuộc trao đổi, phỏng vấn, họ cho biết đã đƣợc nhân viên
xã hội biện hộ chính sách và đƣa đến các cơ quan chức năng để nhận các hỗ trợ
71
pháp lý của Trung tâm Hỗ trợ pháp lý, Công an xã, ủy ban nhân dân xã, Chi cục
phòng chống tệ nạn xã hội. Các dịch vụ hỗ trợ pháp lý cụ thể đƣợc họ tóm tắt lại
nhƣ sau:
- Cấp lại giấy tờ hộ tịch , giấy chứng minh nhân dân và đăng ký khai sinh/ đăng ký
định cư cho các con cái của nạn nhân trở về
- Hướng dẫn và làm các thủ tục/ hồ sơ truy tố những kẻ buôn bán người/ tội phạm
- Tư vấn pháp lý liên quan đến nạn mua bán người.
2.2.4. Đào tạo nâng cao kỹ năng sống
Có 90% các chị em phụ nữ bị mua bán trở về muốn đƣợc học các kỹ
năng sống. Tuy nhiên, lại chỉ có 71% chị em đƣợc tham gia các khóa học về
kỹ năng sống nhƣ: phòng chống bạo lực gia đình, kỹ năng phòng vệ, kỹ năng
ứng xử, giao tiếp, kỹ năng của ngƣời phụ nữ trong gia đình. Khi ngƣời
nghiên cứu hỏi cán bộ quản lý NNBY về cách thức tổ chức chƣơng trình đào
tạo nâng cao kỹ năng sống thì đƣợc trả lời nhƣ sau: “Chương trình học kỹ
năng sống dành cho các chị em bị mua bán trở về nằm trong chương trình
tập huấn của NNBY. Ngoài ra, các chị còn có thể tham gia các cuộc hội
thảo, tập huấn dành cho đối tượng là phụ nữ bị mua bán trở về ở các cơ
quan khác tổ chức nếu phù hợp. Khi thiết kế nội dung học, chúng tôi chú ý
đến độ tuổi, hoàn cảnh của từng chị em để học chương trình phù hợp. Vì
vậy, ở thời điểm hiện tại có chị em chưa được học môn này môn kia, nhưng
trong thời gian sắp tới trước khi trở về hồi gia thì tất cả mọi người sẽ được
học ít nhất một chương trình kỹ năng nào đó”.
Chị B, 21 tuổi, bị mua bán trở về từ Trung Quốc ở tại NNBY chia sẻ:
“Chúng mình được tập huấn về kỹ năng sống, được định hướng cho cuộc sống
tương lai và được giải thích những câu hỏi liên quan đến việc phòng chống nạn
buôn bán người. Mình đã có thêm kiến thức về phòng chống nạn buôn bán
người. Những kỹ năng NNBY truyền đạt lại giúp mình vững tin, mình sẽ không sợ
sự kỳ thị và phân biệt đối xử khi trở về quê hương nữa”.
2.2.5. Dạy nghề và việc làm
Từ hai bảng thống kê số liệu trên cho thấy, 65% ngƣời trả lời có nhu cầu
về học nghề và tìm việc làm nhƣng thực tế thời điểm phỏng vấn mới có 58%
72
ngƣời đang ở tại NNBY đã nhận các hỗ trợ liên quan đến việc làm và dạy nghề.
Theo tìm hiểu của ngƣời nghiên cứu lý do là một số chị em mới đến ở NNBY
chƣa lâu (01 tháng) nên chƣa đƣợc thụ hƣởng dịch vụ này. Họ còn cần thời gian
đƣợc chăm sóc sức khỏe và bình ổn tâm lý. Điều này cho thấy, việc học nghề và
tìm việc làm là hoạt động lâu dài, cần ngƣời tạm trú bình ổn đời sống, có các điều
kiện tiên quyết mới tiến hành đƣợc hoạt động này. Theo mô tả của những ngƣời
đƣợc phỏng vấn thì họ đƣợc tƣ vấn và hỗ trợ tham gia các lớp học nghề theo sở
thích, khả năng của mình như làm tóc, may, làm móng tay, trang điểm…Tất cả
các chi phí đào tạo và tiền trợ cấp đều đƣợc miễn phí. Ngoài ra, sau khi đào tạo
họ đã đƣợc nhân viên xã hội ở NNBY tư vấn việc làm, định hướng việc làm và
giới thiệu việc làm.
2.2.6. Hỗ trợ về tài chính (Vay vốn trợ cấp khó khăn)
Thông qua thảo luận nhóm, ngƣời nghiên cứu nhận thấy các nhu cầu của
những ngƣời trở về thì tƣơng quan với thời gian họ trở về. Ở giai đoạn sớm của
trở về, thì các nhu cầu lớn nhất của các nạn nhân dƣờng nhƣ quan tâm đến tƣ vấn
tâm lý và trợ giúp pháp lý. Sau nhiều năm trở về địa phƣơng thì các nạn nhân đa
số mới có nhu cầu đƣợc hỗ trợ về tài chính để thực hiện các hoạt động tăng thu
nhập.
Vì vậy, từ bảng số liệu trên cho thấy, trên thực tế mới chỉ có hơn 9%
ngƣời đƣợc phỏng vấn đƣợc hỗ trợ về tài chính là trợ cấp vốn vay. Bởi vì đây là
những ngƣời đang học nghề và chuẩn bị lập nghiệp, sắp trở về hồi gia. Những
ngƣời khác chƣa đến thời điểm đƣợc trợ giúp hoạt động này. Theo quản lý
NNBY thì thông thƣờng sau khi hồi gia, NNBY mới cung cấp cho phụ nữ bị mua
bán trở về một khoản vay nhỏ theo nhu cầu của họ thông qua việc vận động gây
quỹ từ các nhà tài trợ và huy động sự tham gia của Hội phụ nữ tại địa phƣơng.
Tuy nhiên, số lƣợng ngƣời tạm trú thụ hƣởng hoạt động trợ giúp này vẫn còn rất
ít. Điều này phần nào nói lên dịch vụ này chƣa tiếp cận sâu đƣợc với các chị em,
hoặc chị em còn thụ động, chƣa có ý chí vƣơn lên làm giàu và sử dụng vốn vay
để lập nghiệp hay tạo dựng một cuộc sống mới. Tuy vậy, hiện tại NNBY vẫn tập
huấn cho các chị em kỹ năng quản lý tài chính, sử dụng vốn vay hiệu quả. Và các
chị em khác cũng đƣợc NNBY thông báo về dịch vụ hỗ trợ vay vốn khi trở về
73
hồi gia.
Tóm lại, so sánh những hoạt động trợ giúp thực tế từ góc nhìn người thụ
hưởng với những hoạt động thông qua báo cáo của quản lý Ngôi nhà bình yên
thì các hợp phần được trợ giúp không có nhiều sự khác biệt. Ngôi nhà bình yên
đã đạt mục đích là bao phủ tất cả các hoạt động dành cho nạn nhân. Tuy nhiên,
có hoạt động tiếp cận được nhiều nạn nhân hơn, có hoạt động tần suất ít hơn.
Nhưng để đo lường mức độ hoạt động nào được người thụ hưởng hài lòng hơn,
đáp ứng nhu cầu của phụ nữ mua bán trở về tốt hơn thì tôi đã tiến hành điều tra
phỏng vấn để đánh giá, phân tích mức độ hài lòng về các hoạt động đang được
trợ giúp của những phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh Ngôi nhà bình
yên.
2.3. Đánh giá mức độ hài lòng về các hoạt động đang đƣợc trợ giúp của
những phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên”
2.3.1. Nhận định chung về mức độ hài lòng với các hoạt động đang được trợ
giúp của những phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh Ngôi nhà bình yên Con ngƣời nói chung và phụ nữ bị mua bán trở về nói riêng có rất nhiều
những nhu cầu thiết yếu cần cho sự sinh tồn và phát triển, đặc biệt để vƣợt qua
khó khăn hiện tại. Từ kết quả khảo sát định lƣợng và định tính, phần lớn các nạn
nhân đang lƣu trú tại NNBY cho biết rằng họ hài lòng với các dịch vụ do Trung
tâm cung cấp. Tất cả các dịch vụ/hoạt động trợ giúp tại trung tâm đều miễn phí
và các nhân viên/cán bộ xã hội đối xử tốt, thân thiện. Dữ liệu khảo sát định tính
cho thấy rằng phần lớn những ngƣời đƣợc phỏng vấn đều cho rằng các dịch vụ
hỗ trợ trên là cần thiết và hữu ích trong thời gian trở về và trong quá trình tái hòa
nhập cộng đồng. Họ cũng xác nhận rằng các thủ tục, hồ sơ nhận hỗ trợ là khá đơn
giản, nhanh và thuận tiện.
Để đánh giá chi tiết về mức độ hài lòng của ngƣời tạm trú đang thụ hƣởng dịch vụ tại Ngôi nhà bình yên, ngƣời nghiên cứu đƣa ra thang điểm đánh giá bao gồm 4 mức điểm: Rất tốt (1 điểm), Tốt (2 điểm), Bình thƣờng (3 điểm), Chƣa tốt (4 điểm). Điểm Trung bình chung (TBC) của dịch vụ <2,5 đánh giá ngƣời thụ
hƣởng hài lòng dịch vụ, còn Điểm Trung bình chung (TBC) >2,5 chỉ ra rằng
ngƣời thụ hƣởng chƣa hài lòng với dịch vụ đó. Bảng thống kê số liệu dƣới đây cho thấy tất cả các dịch vụ đều có điểm TBC nhỏ hơn 2,5, tức là họ hài lòng với
74
tất cả các dịch vụ.
Bảng 2.3: Mức độ hài lòng với các dịch vụ của phụ nữ bị mua bán trở về thụ
hưởng tại NNBY (%)
Nội dung
Xếp hạng
Rất tốt(1đ) (%)
Chƣa tốt(4đ) (%)
Điểm trung bình (đ)
3
9.6
1.84
1
Nhóm dịch vụ hỗ trợ về nhà ở, điều kiện sinh hoạt
Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khỏe
9.6
1.87
2
Dịch vụ hỗ trợ về pháp lý
1.90
3
Dịch vụ nâng cao kỹ năng sống
2.03
4
Dịch vụ hỗ trợ tâm lý
2.06
5
Hỗ trợ vay vốn, trợ cấp khó khăn
2.10
6
2.23
7
3 3 3 3 3 3
13 13 13 13 13
Nhóm dịch vụ hỗ trợ tƣ vấn hƣớng nghiệp, dạy nghề, hoặc việc làm
(Nguồn số liệu: kết quả khảo sát 31 phụ nữ đang ở tại Ngôi nhà bình yên)
Trong bảng thống kê trên, nhóm dịch vụ hỗ trợ về nhà ở, điều kiện sinh hoạt
đƣợc đánh giá cao nhất, mức độ hài lòng cao nhất, với điểm TBC là 1.84 xếp
hạng 1. Tiếp đó là Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khỏe xếp hạng 2. Nhóm dịch vụ
kém hài lòng nhất là Nhóm dịch vụ hỗ trợ tư vấn hướng nghiệp, dạy nghề, hoặc
việc làm.
Khi đƣợc phỏng vấn về cảm nhận của ngƣời tạm lánh khi đƣợc sống ở
NNBY và đƣợc quan tâm trợ giúp thì ngƣời nghiên cứu nhận đƣợc các phản hồi
khá tích cực:
Chị L, 19 tuổi: “Khi đi xuống Trung tâm tôi vừa lo lắng, vừa tò mò không
biết cái Trung tâm ấy như thế nào? Ở đấy có dạy nghề, dạy văn hóa cho không
hay lại như đi cải tạo, phục hồi nhân phẩm? Tôi rất lo sợ và nghi ngờ. Nhưng,
khi đến tận nơi chứng kiến bằng mắt thật tôi không thể tin được tại sao lại có
người tốt như vậy! Các cô chú nhân viên ở đây rất nhiệt tình đưa đón chúng tôi về NNBY. Mới đầu nghe cái tên thấy là lạ, rất tò mò muốn biết đó là ngôi nhà như thế nào mà tại sao laị có cái tên như vậy. Khi bước chân vào nhà, tôi không nghĩ là tôi lại được ở một nơi khang trang đến như vậy. Ngôi nhà cao 5 tầng sơn
màu vàng, trong nhà đầy đủ tiện nghi sinh hoạt, thoải mái. Nói thật điều kiện ở NNBY còn tốt hơn ở nhà quê rất nhiều. Tôi gặp các chị em cũng có hoàn cảnh
75
giống tôi đang sinh sống tại ngôi nhà đó. Mọi người sống với nhau rất thân thiện, coi như chị em trong nhà.
Chúng tôi được cung cấp đồ dùng sinh hoạt cá nhân, khám chữa bệnh miễn
phí, hàng tháng được hỗ trợ tiền tiêu vặt, hỗ trợ cả pháp lý, học văn hóa và cả học nghề. Ngoài ra, NNBY còn tổ chức các buổi vui chơi giải trí, thăm Lăng Bác,
bảo tàng dân tộc học, tham gia các buổi tập thể dục thẩm mỹ, luyện tập Yoga trị
liệu tâm lý, tham gia các buổi học nâng cao quyền năng cho phụ nữ và tổ chức
sinh nhật cho các bạn cùng sinh sống trong ngôi nhà. Hàng tháng chúng tôi còn được hỗ trợ tiền tàu xe khi về thăm gia đình. Được tham gia các khóa học, tôi cảm thấy rất bổ ích và thầm nghĩ, kỹ năng sống tưởng chừng như đơn giản nhưng không ngờ lại khó khăn và cần thiết đối với mình như thế. Có rất nhiều
nội dung để học, tùy vào khả năng, nhu cầu và điều kiện sức khỏe từng người.
Tôi rất cảm ơn NNBY đã hỗ trợ tôi được học nghề, kỹ năng sống, nâng đỡ
tôi lúc tôi khó khăn vấp ngã, giúp tôi sống vui vẻ, tự tin giao tiếp với mọi người”.
Chị X, 18 tuổi, nói về môi trƣờng sống ở NNBY: “Cảm giác đầu tiên khi
ở NNBY là tôi thấy mọi người có cùng hoàn cảnh với nhau nên rất hiểu nhau và
rất thân thiện. Mọi người giúp đỡ tôi rất nhiều đặc biệt là các chị nhân viên xã
hội. Đôi lúc chị em có xích mích, cãi cọ nhau nhưng rồi lại làm lành vì hiểu mình
chung hoàn cảnh với nhau”.
Đã có rất nhiều lời cảm ơn đƣợc gửi tới NNBY: “Tôi xin cảm ơn các bác,
các cô tại NNBY, những người đã giúp đỡ tôi để tôi có cơ hội thay đổi cuộc sống
này. Tôi cảm ơn NNBY đã giúp tôi được học nghề, được đứng lên để tự mình
khẳng định cuộc sống tương lai của mình”.
Để đánh giá chi tiết từng nhu cầu và nhóm nhu cầu, ngƣời nghiên cứu
đánh giá mức độ hài lòng của những phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh
“Ngôi nhà bình yên” tập trung ở một số nhóm nhu cầu sau:
2.3.2. Nhóm dịch vụ về nhà ở, nước sạch, ăn uống, quần áo mặc, đồ dùng vệ sinh cá nhân
Bảng 2.4 : Cảm nhận về điều kiện sống của phụ nữ bị mua bán trở về thụ hưởng
tại NNBY
Có
Không
Nội dung
Số
Tỷ
lệ
Số
Tỷ
lệ
lƣợng 31
% 100
lƣợng 0
% 0
Cảm thấy an toàn, đƣợc bảo vệ bình yên
Cảm thấy yên tâm không bị đói
100
0
0
31
41,9
18
58,1
13
Cảm thấy yên tâm nhƣ mái ấm gia đình
Vẫn cảm thấy lo lắng bất an
9,7
28
90,3
3
76
3
9,7
28
90,3
Cảm thấy không gần gũi, không phải nhà của mình
4
Điều kiện sinh hoạt vẫn chƣa tốt
12,9
27
87,1
(Nguồn số liệu: kết quả khảo sát 31 phụ nữ đang ở tại Ngôi nhà bình yên) Đây là những trợ giúp thiết yếu về điều kiện sinh hoạt. 100% số ngƣời
đƣợc hỏi trả lời rằng khi ở NNBY họ cảm thấy an toàn, đƣợc bảo vệ, bình yên và yên tâm không bị đói. Nhƣ vậy mục đích lớn nhất khi thành lập NNBY dành cho
phụ nữ bị mua bán trở về là họ đƣợc an toàn đã đạt đƣợc, đúng nhƣ tên gọi: Ngôi
nhà bình yên. Tuy nhiên, chỉ có 41,9% số ngƣời đƣợc phỏng vấn nói rằng khi ở
NNBY họ cảm thấy yên tâm nhƣ mái ấm gia đình. Nghĩa là, số còn lại vẫn cảm nhận đây chƣa phải là nhà của mình nên 9,7% vẫn cảm thấy lo lắng, bất an, cảm
thấy không gần gũi, không phải nhà của mình. Đặc biệt, 12,9% trong số họ cho rằng điều kiện sinh hoạt vẫn chƣa tốt, nghĩa là họ mong muốn một chất lƣợng sống, điều kiện sinh hoạt tốt hơn nữa.
Chị C, 18 tuổi, ngƣời tạm trú sống ở NNBY đƣợc 3 tháng nói: “Chúng em
ở đây được sống trong một điều kiện rất tốt. Ăn uống thì được đổi món thường
xuyên, có đầy đủ chất dinh dưỡng. Em được biết NNBY đều mua thức ăn tốt cho
sức khỏe, bồi dưỡng cho chúng em. Thịt, cá, rau củ, hoa quả đều là đồ ăn an
toàn, mua của những nhà cung cấp tốt. Chúng em ở đây đều tăng cân cả”.
Chị Y, 20 tuổi, ngƣời tạm trú sống ở NNBY đƣợc 6 tháng nói: “Chúng em
ngoài giờ đi học, trị liệu tâm lý thì đều sinh hoạt chung, cùng các bác quản lý
nhà nấu cơm, dọn bữa rất ấm cúng. Nhưng em nghĩ nếu NNBY có được mảnh đất
rộng, chúng em sẽ tự trồng rau, nuôi gà để ăn, đỡ tốn tiền của NNBY. Em vẫn
cảm giác như chúng em nhờ ơn NNBY nhiều quá”. Thực sự ngƣời nghiên cứu
thấy rằng đây là một chia sẻ thú vị của ngƣời tạm trú và cũng là một gợi ý cho
quản lý NNBY.
2.3.3. Chăm sóc sức khỏe: khám chữa bệnh Bảng số liệu cho thấy tất cả phụ nữ bị mua bán trở về đều cảm nhận đƣợc sự chăm sóc chu đáo của dịch vụ chăm sóc sức khỏe khám chữa bệnh. Hiện tại, vẫn còn 9,7% trong số các chị chƣa chữa khỏi hoàn toàn đƣợc bệnh do đó là bệnh mãn tính, là hậu quả không thể khắc phục đƣợc hoàn toàn sau quá trình bị mua
bán trở về.
Theo số liệu định tính, đa số những ngƣời tiếp nhận hỗ trợ đều có những nhận xét tích cực về hỗ trợ chăm sóc sức khỏe. Các nạn nhân bị buôn bán trở về
77
có nhận định rằng “Kiểm tra sức khỏe là quan trọng bởi vì nó giúp tôi biết được có bị nhiễm HIV và/hoặc mắc các bệnh khác hay không. Vì thế tôi cảm thấy an
toàn và tự tin để trở về với gia đình mình. Cũng như các bệnh có thể phát hiện
sớm để điều trị sớm.”
Bảng 2.5 : Cảm nhận về dịch vụ chăm sóc sức khỏe của phụ nữ bị mua bán trở về thụ hưởng tại NNBY
Có
Không
Nội dung
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
%
%
Cảm thấy đƣợc chăm sóc chu đáo
lƣợng 31
100
lƣợng 0
0
Đƣợc chữa khỏi bệnh, khỏe mạnh hơn
28
90,3
3
9,7
Không đƣợc chữa khỏi bệnh
3
9,7
28
90,3
(Nguồn số liệu: kết quả khảo sát 31 phụ nữ đang ở tại Ngôi nhà bình yên)
Chị K,19 tuổi: “Sống ở NNBY, tôi cảm thấy như mình đang được thay đổi
và thoát khỏi cuộc sống khổ sở trước đó. NNBY đã trở thành ngôi nhà thứ hai
của tôi, cho tôi luôn cảm thấy ấm lòng. Tại đây, tôi được các bác, các chị quan
tâm, chăm sóc sức khỏe khi tôi ốm, mệt. Tôi vốn nhỏ bé, sức khỏe yếu, cứ thay
đổi thời tiết là da tôi nổi mẩn đỏ, sưng tấy, ngứa khắp người khiến tôi không ngủ
được. Các chị thường xuyên chăm sóc, quan tâm đến tôi, đưa tôi đi khám và điều
trị cả thuốc tây và thuốc bắc, nhưng mỗi lân hết thuốc thì tôi lại ngứa lại. Các
bác, các chị luôn động viên tôi kiên trì chữa bệnh”
Tuy nhiên, vẫn có chị nhận xét: “NNBY không có nhân viên y tế trực tiếp
tại nhà, có bệnh sẽ được đưa đến bệnh viện, nhưng nhiều khi chỉ là bệnh nhẹ hắt
hơi sổ mũi hoặc bệnh phát sinh cần chữa ngay lập tức mà đưa đi bệnh viện phải
chờ hơi lâu”. Đó là nhận xét khách quan của ngƣời tạm trú về hạn chế của dịch
vụ khám chữa bệnh tại NNBY.
2.3.4. Hỗ trợ tâm lý Bảng số liệu cho thấy, những ngƣời cảm thấy dịch vụ hỗ trợ tâm lý có ích với bản thân họ đạt tỷ lệ cao là 93,5%. Những ngƣời đƣợc phỏng vấn nói rằng tư
vấn, tham vấn tâm lý xã hội giúp họ giảm bớt căng thẳng, sợ hãi và lo âu.
Chị L.19 tuổi, nói: “Đến với NNBY, trong tôi dần vơi đi những nỗi buồn, sự mặc cảm, cô đơn trước đây. Tôi đã dần hòa nhập với mọi người, tôi suy nghĩ
78
về tương lai với niềm hy vọng tươi sáng hơn”.
Bảng 2.6: Cảm nhận về dịch vụ hỗ trợ tâm lý của phụ nữ bị mua bán trở về
thụ hưởng tại NNBY
Có
Không
Nội dung
Số lƣợng
Tỷ lệ %
Số lƣợng
Tỷ lệ %
Cảm thấy dịch vụ có ích với bản thân
29
93,5
2
6,5
Cảm thấy bình yên, hết khủng hoảng
9
29,0
22
71,0
Không có ích
0
0
31
100
(Nguồn số liệu: kết quả khảo sát 31 phụ nữ đang ở tại Ngôi nhà bình yên)
Tuy nhiên tƣ vấn tâm lý xã hội chƣa đƣợc thực hiện một cách bài
bản/chuyên nghiệp, đơn giản theo họ chỉ là nhân viên xã hội đến thăm hỏi, an ủi,
động viên. Vì vậy, chỉ có 29% cảm thấy bình yên, hết khủng hoảng. Số còn lại là vẫn bị ảnh hƣởng của khủng hoảng tâm lý.
2.3.5. Hỗ trợ pháp lý
Bảng 2.7: Cảm nhận về dịch vụ hỗ trợ pháp lý của phụ nữ bị mua bán trở về thụ hưởng tại NNBY
Có
Không
Nội dung
Số lƣợng
Tỷ lệ %
Số lƣợng
Tỷ lệ %
Thủ tục nhanh gọn
7
22,6
24
77,4
Thủ tục rƣờm rà
24
77,4
7
22,6
4
12,9
27
87,1
Hỗ trợ đƣợc các hoạt động liên quan đến pháp lý
2
6,5
29
93,5
Đƣợc trợ giúp nhập quốc tịch, làm giấy khai sinh cho con
Đƣợc làm hộ khẩu
2
6,5
29
93,5
Đƣợc trợ giúp làm thủ tục ly hôn
0
0
31
100
(Nguồn số liệu: kết quả khảo sát 31 phụ nữ đang ở tại Ngôi nhà bình yên)
Những ngƣời trở về nói rằng “dịch vụ này là rất có ích, nhờ vậy mà tôi biết tôi có làm điều gì sai trái hay không. Điều quan trọng là họ cho tôi nhiều thông tin về các vấn đề mua bán người và phòng chống nạn mua bán người, luật
79
pháp và tố giác người buôn bán người”. Tuy nhiên, chỉ có 22,6% số ngƣời đƣợc phỏng vấn cho rằng hỗ trợ pháp lý có thủ tục nhanh gọn, còn lại 77,4% cho là thủ
tục còn rƣờm rà. Theo ngƣời nghiên cứu, lý do là hoạt động hỗ trợ pháp lý này
liên quan đến các cơ quan chức năng khác, sự phối kết hợp với NNBY chƣa đồng bộ nên thực hiện hoạt động còn mất thời gian của nạn nhân bị mua bán trở về.
Thêm nữa, sau quá trình bị mua bán, các giấy tờ tùy thân của họ thƣờng không
còn nên cần thời gian để xác minh. Bên cạnh đó, hoạt động hỗ trợ pháp lý đôi khi
đi liền với việc đòi quyền lợi, đấu tranh tố giác tội phạm mà nạn nhân bị mua bán trở về thƣờng bị thiệt thòi.
Thực tế, chỉ có 12,9% số ngƣời trả lời công nhận rằng NNBY đã hỗ trợ đƣợc các hoạt động liên quan đến pháp lý. Nguyên nhân có thể do khách quan và
chủ quan hoặc do nhiều yếu tố từ nhiều phía.
2.3.6. Đào tạo nâng cao kỹ năng sống
Bảng 2.8: Cảm nhận về dịch vụ đào tạo nâng cao kỹ năng sống của phụ nữ bị
mua bán trở về thụ hưởng tại NNBY
Có
Không
Nội dung
Số lƣợng
Tỷ lệ %
Số lƣợng
Tỷ lệ %
Các hoạt động rất bổ ích, phù hợp
29
93,5
2
6,5
Cách dạy các kỹ năng khó tiếp thu
7
22,6
24
77,4
7
22,6
24
77,4
Cần tăng thêm các dịch vụ để nâng cao kỹ năng sống
1
3,2
30
96,8
Các hoạt động không bổ ích không phù hợp
14
45,2
17
54,8
Sau khi học các kỹ năng cảm thấy tự tin hơn
4
12,9
27
87,1
Sau khi học các kỹ năng bản thân cảm thấy không thay đổi gì
(Nguồn số liệu: kết quả khảo sát 31 phụ nữ đang ở tại Ngôi nhà bình yên)
Theo nhƣ bảng tống kết số liệu trên đây thì có tới 93,5% số ngƣời đƣợc phỏng vấn cho rằng các hoạt động đào tạo nâng cao kỹ năng sống rất bổ ích, phù hợp. Nhƣng có tới 22,6% cho rằng cách dạy các kỹ năng khó tiếp thu. NNBY cần cải thiện cách truyền giảng để đối tƣợng là phụ nữ bị mua bán trở về có trình độ
không cao có thể dễ dàng tiếp thu hơn. 22,6% số ngƣời đƣợc phỏng vấn đề nghị cần tăng thêm các dịch vụ để nâng cao kỹ năng sống; nghĩa là các dịch vụ đào tạo để nâng cao kỹ năng sống theo họ hiện nay còn ít. NNBY cần mở rộng thêm các dịch vụ đa dạng hơn. Đặc biệt, có 45,2% những ngƣời đƣợc phỏng vấn cho rằng: Sau khi học các kỹ năng cảm thấy tự tin hơn. Tuy nhiên con số này mới chỉ
80
đạt gần nửa số ngƣời đƣợc phỏng vấn. Và vẫn có 12,9% nói rằng sau khi học các
kỹ năng bản thân cảm thấy không thay đổi gì. Nhƣ vậy, dịch vụ đào tạo kỹ năng
sống là dịch vụ NNBY cần chú trọng phát triển hơn nữa về cả số lƣợng và chất lƣợng.
Chị Q, 21 tuổi, đã hồi gia, rời khỏi NNBY rồi nhƣng có thời gian rảnh vẫn
quay lại NNBY để học kỹ năng sống: “Bây giờ tôi đã học xong hệ trung cấp
trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc. Trong thời gian nghỉ hè tôi
lại quay lại NNBY để học tiếp lớp kỹ năng sống và được hỗ trợ tâm lý. Tôi sẽ cố
gắng hoàn thiện bản thân để có một tương lai tốt đẹp. Tôi sẽ cố gắng để mọi
người nhìn tôi bằng con mắt khác. Và tôi sẽ chứng minh cho mọi người thấy tôi
là người có ích cho xã hội chứ không phải người vô dụng.”
Chƣơng trình đào tạo nâng cao kỹ năng sống và “nâng cao quyền năng
cho phụ nữ” rất quan trọng. Chƣơng trình thiết kế để ngƣời tạm trú có đƣợc bản
lĩnh đối mặt với kỳ thị và phân biệt đối xử của một số ngƣời ở địa phƣơng và
cộng đồng sau khi trở về. Đây là tiền đề quan trọng của tái hòa nhập cộng đồng
thành công. Chị M, 20 tuổi: “Em đã rất lo lắng và sợ hãi, những gì đã trải qua
trong quá khứ khiến em rất tự ti, mặc cảm, em sợ phải đối mặt với sự kỳ thị của
cộng đồng. Nhưng em đã được các chị ở NNBY tiếp lửa cho em nghị lực mạnh
mẽ và em đã biết mình phải làm gì trước thái độ không tốt của những người xung
quanh. Em sẽ sống tốt để khẳng định bản thân mình”.
2.3.7. Dạy nghề, việc làm
bán trở về thụ hưởng tại NNBY
Bảng 2.9 : Cảm nhận về dịch vụ dạy nghề, việc làm của phụ nữ bị mua
Có
Không
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Nội dung
lƣợng
%
lƣợng
%
Đƣợc học nghề phù hợp
20
64,5
11
35,5
Đƣợc giới thiệu việc làm phù hợp
14
45,2
17
54,8
Học nghề quá khó với năng lực bản thân
3
9,7
28
90,3
Hiện tại vẫn chƣa tìm đƣợc việc làm phù hợp
5
16,1
26
83,9
Có nhiều nghề và việc làm để mình tự do lựa chọn
1
3,2
30
96.8
Có quá ít nghề và việc làm phù hợp để lựa chọn
4
12,9
27
87,1
(Nguồn số liệu: kết quả khảo sát 31 phụ nữ đang ở tại Ngôi nhà bình yên)
81
Từ bảng thống kê số liệu khảo sát trên cho thấy, số lƣợng lớn ngƣời tạm trú
tại NNBY đã đƣợc học nghề phù hợp (64,5%) và giới thiệu việc làm phù hợp
(45,2%). Đặc biệt, có tới 12,9% số ngƣời đƣợc phỏng vấn cho rằng có quá ít
nghề và việc làm phù hợp để lựa chọn. Nhƣ vậy, đây có thể là số liệu tham khảo
để NNBY phát huy dịch vụ hỗ trợ này
Chị H, 17 tuổi: “Khi vào NNBY tôi chưa có định hướng học nghề. Ở tuổi
17, các bạn vẫn cắp sách đến trường còn tôi đã bỏ học từ lớp 5. Ngày xưa, tôi rất
sợ nghề may. Vì nó gắn với ký ức đau buồn trước kia. Nhưng giờ thì tôi đã tự tin
khi ngồi may khăn và quần áo cho các bạn ở NNBY. Tôi đã hoàn thành hai khóa
học cắt may thời trang sơ cấp và trung cấp. Hiện tại tôi đang học khóa cắt may
thời trang nâng cao: dạy thiết kế áo dài. Tôi thực sự rất vui, hạnh phúc mỗi khi
mặc chiếc áo, váy do mình tự làm ra. Các bạn ở NNBY luôn động viên, khen ngợi
khi tôi may tặng cho các bạn. Một trong những sản phẩm đầu tay của tôi làm ra
được trưng bày ở NNBY khiến tôi cảm thấy rất tự hào”.
Chị Q, 18 tuổi nói: “Tôi sắp kết thúc khóa học nghề tại trường Hoa Sữa và
cũng đã được giới thiệu việc làm ở một nhà hàng lớn ở Hà Nội. Công việc chủ
yếu của tôi là phục vụ bàn bar, lương tháng bước đầu cũng đủ sống”.
NNBY cũng thành công với việc giới thiệu việc làm tốt cho ngƣời tạm trú
sau khi học nghề. Chị B nói rằng: “Sau khi học xong, tôi được nhận vào làm việc
tại công ty may trên phố Quán Sứ - Hà Nội với mức lương hơn 2 triệu đồng/
tháng. Đây là thu nhập rất lớn đối với tôi – một cô thợ may mới học xong và
chưa thạo tay nghề”. Ngƣời nghiên cứu mong rằng các chị sẽ cố gắng hơn nữa
để làm việc tăng thu nhập, bởi vì với mức lƣơng nhƣ vậy thì cuộc sống còn quá
khó khăn, vậy mà với các chị đó đã là niềm hạnh phúc lớn lao.
2.3.8. Hỗ trợ về tài chính (Vay vốn trợ cấp khó khăn)
Do số lƣợng ngƣời đƣợc phỏng vấn trực tiếp đƣợc hƣởng dịch vụ vốn vay
rất ít (chỉ chiếm 9,6%) nên việc họ nhận xét về dịch vụ này còn mang tính chủ
quan, chƣa đại diện đƣợc tất cả nói lên tính khách quan chất lƣợng của dịch vụ
này.
Những ngƣời tiếp nhận hỗ trợ có nhận xét rằng các dịch vụ hỗ trợ này
82
giúp cho nạn nhân giải quyết đƣợc phần nào khó khăn trƣớc măt. Đặc biệt, mức
hỗ trợ này đã đáp ứng cho các nhu cầu tài chính của các nạn nhân sau khi trở về
nhà và/hoặc trong thời gian họ đi tham gia học nghề. Tuy nhiên, một số ngƣời
đƣợc phỏng vấn nói rằng khoảng hỗ trợ trên là không đủ cho họ có đƣợc thu
nhập ổn định và ổn định cuộc sống. Chị H, 21 tuổi nói: “Số tiền như vậy thì quá
nhỏ và không đủ để mua thiết bị/cơ sở vật chất cho làm nghề hoặc không phù
hợp để bắt đầu mở một cửa hiệu.” (khoảng 3 triệu đồng). Có lẽ vì vậy mà chƣa
có nhiều ngƣời có nhu cầu tiếp cận nguốn vốn vay trợ cấp khó khăn này.
Bảng 2.10 : Cảm nhận về dịch vụ cho vay vốn của phụ nữ bị mua bán trở về
thụ hưởng tại NNBY
Có
Không
Số
Tỷ lệ
Số
Nội dung
lƣợng
%
lƣợng
Vốn vay đủ để lập nghiệp
3
90,3
28
9,7
Vốn vay quá ít không làm đƣợc việc
3
90,3
28
9,7
Đƣợc hƣớng dẫn quản lý tài chính và sử
1
96,8
30
3,2
dụng vốn vay hiệu quả
1
Không đƣợc hƣớng dẫn quản lý tài chính
3,2
30
96,8
và sử dụng vốn vay hiệu quả
Vốn vay lãi suất thấp có thời hạn dài
0
0
31
100
Vốn vay lãi suất cao có thời hạn ngắn
0
0
31
100
sớm phải đáo hạn
(Nguồn số liệu: kết quả khảo sát 31 phụ nữ đang ở tại Ngôi nhà bình yên)
Tất cả những người được phỏng vấn nói chung đều hài lòng và yêu thích
cuộc sống tốt đẹp ở NNBY. Điều này phản ánh chất lượng dịch vụ tốt nhưng
nhiều chị em ở một thời gian dài và chưa muốn trở về hồi gia phần nào thể hiện
tâm lý dựa dẫm, chưa muốn thoát khỏi sự hỗ trợ để tự lập. Vì vậy, kỹ năng sống
tự lập và định hướng ý chí phấn đấu vẫn cần được quan tâm hơn ở trong hoạt
động lồng ghép ở NNBY.
2.4. Những mong muốn khác của những phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà
tạm lánh Ngôi nhà bình yên:
Khi đƣợc hỏi về những mong muốn khác của những phụ nữ bị mua bán
trở về tại nhà tạm lánh Ngôi nhà bình yên, với ƣớc mong rằng sẽ có những đề
83
xuất nâng cao chất lƣợng dịch vụ của NNBY, nhƣng ngƣời nghiên cứu nhận
đƣợc rất ít những phản hồi chia sẻ. Nhiều chị em nói rằng: các dịch vụ trợ giúp
hiện tại ở NNBY đã quá tốt và họ không có mong muốn nào hơn. Có lẽ do xuất
thân từ hoàn cảnh khó khăn, lại từng bị mua bán, bị bóc lột và sống trong cảnh bị
áp bức, bóc lột cả về thể xác lẫn tinh thần, bị bôn ba nơi xứ lạ và quá khắc khổ
nên khi đƣợc trợ giúp tại NNBY với đầy đủ điều kiện sống về vật chất và tinh
thần khá tốt và toàn diện nên với họ đây đã là niềm hạnh phúc lớn và họ không
mạnh dạn đề xuất thêm điều gì.
Tuy nhiên, qua những cuộc phỏng vấn trò chuyện và thảo luận nhóm,
ngƣời nghiên cứu có khai thác phát hiện những mong muốn sâu kín của những
ngƣời phụ nữ từng trải qua đau khổ, giàu sức chịu đựng nhƣng cũng thật nhiều
khát khao, mong muốn đƣợc phấn đấu, đƣợc thay đổi số phận nghiệt ngã của
mình. Ngoài những nhu cầu đã đƣợc nhà tạm lánh đáp ứng, những phụ nữ bị mua
bán trở về tại nhà tạm lánh “Ngôi nhà bình yên còn có những nhu cầu, những
mong muốn khác nhƣ:
2.4.1. Mong muốn được tham gia Câu lạc bộ kết bạn
Kết quả khảo sát từ bảng phỏng vấn nhu cầu ban đầu cho thấy, phụ nữ bị
mua bán trở về có mong muốn đƣợc tham gia sinh hoạt câu lạc bộ (35%) nhƣng
nhu cầu này vì một nguyên nhân nào đó chƣa đƣợc đáp ứng hoặc đáp ứng chƣa
đầy đủ (chỉ có 19% đƣợc tham gia sinh hoạt câu lạc bộ). Khi phỏng vấn nhân
viên xã hội để tìm hiểu nguyên nhân thì đƣợc cho biết là NNBY là môi trƣờng
khép kín, an toàn, ít giao lƣu với môi trƣờng bên ngoài. Các chị muốn tham gia
câu lạc bộ thì NNBY có thể tổ chức câu lạc bộ cho những ngƣời cùng sở thích ở
bên trong NNBY, còn nếu câu lạc bộ bên ngoài NNBY thì hơi khó tham gia và
hiện tại chƣa tham gia đƣợc. Qua đây, ngƣời nghiên cứu thấy rằng, một hoạt
động của NNBY để nâng cao kỹ năng sống cho các chị nên khuyến khích là
NNBY tạo điều kiện cho các chị tham gia sinh hoạt câu lạc bộ. Bởi có lẽ các chị
muốn vừa đƣợc sống kín đáo, yên bình trong NNBY nhƣng cũng muốn đƣợc hòa
nhập với môi trƣờng bên ngoài để dần dần hòa nhập với cộng đồng. Chính vì
vậy, hoạt động dã ngoại, thăm quan đã đƣợc thực hiện tốt nhƣ: đi thăm bảo tàng
dân tộc, lăng Bác, các địa điểm lịch sử khác nên đƣợc ban quản lý NNBY phát
84
huy thực hiện.
2.4.2. Hỗ trợ tài chính để kinh doanh
Nhƣ đã phân tích ở trên, dịch vụ vay vốn trợ cấp khó khăn ban đầu chƣa
tiếp cận đƣợc nhiều với ngƣời tạm trú. Nguyên nhân có phải là do ngƣời tạm trú
không mong muốn đƣợc hỗ trợ tài chính? Theo nhƣ nhận định của ngƣời nghiên
cứu thì không phải nhƣ vậy. Khi chia sẻ về ƣớc mơ sau khi trở về nhà của nhiều
ngƣời tạm trú thì họ nói rằng: họ mong muốn vận dụng kiến thức và kỹ năng
đƣợc học từ NNBY để có thể làm đƣợc một cái gì đó. Nhƣng họ chƣa thực sự
mạnh dạn, đặc biệt là không dám khởi sự kinh doanh. Ngay từ chƣơng trình học
kỹ năng quản lý tài chính và sử dụng vốn vay hiệu quả, họ mong muốn rằng
NNBY sẽ hƣớng dẫn họ học về làm kinh tế, giúp họ nuôi lớn cảm hứng phát triển
kinh tế hoặc thƣơng mại.
Các nhu cầu của những ngƣời trở về ứng với thời gian họ trở về. Ở giai
đoạn sớm của trở về, thì các nhu cầu lớn nhất của các nạn nhân dƣờng nhƣ quan
tâm đến tƣ vấn tâm lý và trợ giúp pháp lý. Sau nhiều năm trở về địa phƣơng, các
nạn nhân đa số có nhu cầu đƣợc hỗ trợ về tài chính để thực hiện các hoạt động
tăng thu nhập.
Nhiều phụ nữ bị mua bán trở về không biết chắc về cuộc sống tƣơng lai
của mình. Khi đƣợc hỏi về kế hoạch tƣơng lai, nhiều ngƣời trả lời rằng họ
“không chắc chắn hoặc không quan tâm lắm về kế hoạch tương lai”. Nhìn
chung, những ngƣời trở về mong muốn có trƣớc tiên là một công việc có thu
nhập tại địa phƣơng. Công việc phù hợp cho nạn nhân trở về và các nhu cầu về
dạy nghề không đƣợc thể hiện rõ bởi vì họ cho rằng điều này còn tùy thuộc vào
khả năng của từng cá nhân, sở thích và trình độ học vấn. Nhu cầu của nạn nhân
trở về liên quan đến khởi nghiệp có thể tổng hợp theo các nhóm chính sau đây:
- Hỗ trợ tài chính/ cấp vốn vay để buôn bán nhỏ và làm ruộng/ chăn nuôi.
Các hoạt động buôn bán nhỏ có thể là bán vé số, mở cửa hàng bán tạp hóa, cửa hàng
bán rau trái cây, cửa hàng bán quần áo thời trang và những nghề phù hợp do họ lựa
chọn.
- Dạy nghề và các hỗ trợ nguồn tài chính để mở các dịch vụ tại nhà. Các
85
kỹ năng về nghề nghiệp phù hợp có thể là làm tóc, may, làm móng và mát-xa…
- Dạy nghề và giới thiệu việc làm. Những ngƣời trở về muốn đƣợc học
nghề, và tạo cơ hội có một công việc tại các nhà máy, xí nghiệp sẵn có tại cộng
đồng hoặc dự định di cƣ đến các thành phố lớn khác để xin việc. Các kỹ năng
nghề nghiệp mà họ muốn học bao gồm may, thêu công nghiệp.
2.4.3. Mong muốn được nâng cao kiến thức về các lĩnh vực khác
Nhu cầu của con ngƣời là không có giới hạn, chúng ta luôn mong muốn có
đƣợc những điều tốt đẹp hơn, ngày mai tốt hơn ngày hôm nay. Với những ngƣời
thiệt thòi nhƣ phụ nữ bị mua bán trở về, họ còn nhiều mộng mơ, mong ƣớc hơn.
Nhu cầu của họ cũng rất đa dạng. Có ngƣời mong ƣớc đƣợc trở thành họa sĩ,
ngƣời trở thành giáo viên. Tuy nhiên, nền tảng kiến thức ban đầu của họ không
tốt nên thật khó khăn để đạt đƣợc những ƣớc mơ đó.
Vận dụng lý thuyết nhu cầu của Maslow và thực tế nguyện vọng nhu cầu
của phụ nữ bị mua bán trở về, NVCTXH cần lắng nghe để tìm hiểu nhu cầu của
từng ngƣời để có những hỗ trợ phù hợp. Tiếp cận theo nhu cầu đòi hỏi NVCTXH
cần thực hiện tốt kỹ năng lắng nghe tích cực để khám phá những nhu cầu hợp lý
của mỗi cá nhân mà các em chƣa đƣợc thỏa mãn, ẩn sau những hành động mà xã
hội cho là không hợp lý. Bên cạnh đó, chúng ta cần phân tích định hƣớng cho họ
để họ thực hiện những ƣớc mơ phù hợp chứ không viển vông, thiếu thực tế, ƣớc
86
mơ không thể thực hiện đƣợc.
Tiểu kết chƣơng 2
Chƣơng 2 đã mô tả thực trạng hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở
về tại nhà tạm lánh NNBY qua các báo cáo của Ban quản lý NNBY và qua điều
tra khảo sát nhóm phụ nữ bị mua bán trở về đang ở tại NNBY. Theo đó, có thể
tổng kết các dịch vụ đang đƣợc trợ giúp ở đây bao gồm: Dịch vụ cung cấp nơi
ăn, ở an toàn, Dịch vụ chăm sóc sức khỏe- y tế và chuyển tuyến tới các cơ sở
chăm sóc sức khỏe, Hỗ trợ Tư vấn tâm lý, Nhóm dịch vụ nâng cao kỹ năng sống,
Hỗ trợ pháp lý, Học văn hóa, Đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, Hỗ trợ vay vốn,
Trợ giúp quá trình tái hòa nhập sau khi rời khỏi nhà hỗ trợ. Khi so sánh những
hoạt động trợ giúp thực tế từ góc nhìn ngƣời thụ hƣởng với những hoạt động
thông qua báo cáo của quản lý Ngôi nhà bình yên thì các hợp phần đƣợc trợ giúp
không có nhiều sự khác biệt. Chúng ta có thể thấy đƣợc các dịch vụ khá toàn
diện, hầu hết các dịch vụ NNBY có đều đƣợc ngƣời tạm trú thụ hƣởng. Tuy
nhiên, có hoạt động tiếp cận đƣợc nhiều nạn nhân hơn, có hoạt động tần suất ít
hơn. Tất cả những ngƣời đƣợc phỏng vấn nói chung đều hài lòng và yêu thích
cuộc sống tốt đẹp ở NNBY. Điều này phản ánh chất lƣợng dịch vụ tốt nhƣng
nhiều chị em ở một thời gian dài và chƣa muốn trở về hồi gia phần nào thể hiện
tâm lý dựa dẫm, chƣa muốn thoát khỏi sự hỗ trợ để tự lập. Vì vậy, kỹ năng sống
tự lập và định hƣớng ý chí phấn đấu vẫn cần đƣợc quan tâm hơn ở trong hoạt
động lồng ghép ở NNBY. Có thể thấy rằng, Ngôi nhà bình yên đã hỗ trợ nạn
nhân tối đa để họ hồi phục sức khỏe và tinh thần, vƣợt qua khó khăn, tạo tiền đề
để có một cuộc sống ổn định trong tƣơng lai.
Đây là phân tích thực trạng hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về
tại một mô hình nhà tạm lánh mang tính đại diện, không phải mang tính phổ biến
phản ánh tình hình chung của tất cả các nhà tạm lánh dành cho phụ nữ bị mua
bán trở về trên cả nƣớc. Tuy nhiên, theo quan điểm chủ quan của ngƣời nghiên
87
cứu thì đây là một mô hình nhà tạm lánh tiêu biểu, hoạt động hiệu quả có chất
lƣợng tốt, là địa chỉ có thể tham khảo học tập kinh nghiệm cho các nhà hoạt động
xã hội có mong muốn trợ giúp nạn nhân của mua bán ngƣời.
CHƢƠNG 3: ỨNG DỤNG CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
TRONG HỖ TRỢ GIẢM THIỂU KHỦNG HOẢNG TÂM LÝ
BAN ĐẦU CHO MỘT PHỤ NỮ BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ
Sự cần thiết của việc hỗ trợ, can thiệp hỗ trợ giảm thiểu khủng hoảng
tâm lý cho nạn nhân dƣới góc nhìn của ngành Công tác xã hội
Các dịch vụ xã hội trợ giúp cho thân chủ là nạn nhân bị buôn bán trở về
rất đa dạng nhƣng chúng ta cần tập trung vào bƣớc cơ bản đầu tiên trong quá
trình trợ giúp đó là can thiệp, hỗ trợ tâm lý xã hội. Vì thân chủ là ngƣời trải qua,
chịu đựng các tác động cả về thể chất và tinh thần rất nặng nề của quá trình bị
buôn bán. Việc hỗ trợ tâm lý, xã hội cho nạn nhân là một hoạt động cần đƣợc
quan tâm của gia đình, cộng đồng và các tổ chức liên quan. Đối với họ, cùng với
việc cung cấp các dịch vụ y tế, pháp lý, giáo dục, việc làm… việc giúp đỡ họ có
sức khỏe tinh thần là bƣớc quyết định của tái hòa nhập cộng đồng. Sức khỏe tinh
thần là năng lực cá nhân trong việc đối phó với các tình huống và khả năng tiếp
cận của cá nhân với các nguồn lực xã hội và mức độ tham gia đóng góp của cá
nhân với các hoạt động của cộng đồng, xã hội.
Những nạn nhân là phụ nữ bị mua bán trở về đƣợc phỏng vấn giải thích
rằng tham vấn tâm lý xã hội giúp các nạn nhân giảm bớt căng thẳng, sợ hãi và lo
âu. Vì vậy, điều quan trọng nhất ở khoảng thời gian ban đầu khi mới trở về là họ
cần đƣợc bình ổn về mặt tâm lý vì có một tinh thần tốt thì mới làm đƣợc những
công việc khác.
“Tôi nghĩ tham vấn thì rất hữu ích đối với tôi. Tôi đã rất sợ và lo lắng nếu tôi bị bắt và bỏ vào nhà tù, nếu công an phát hiện tôi dính líu vào mại dâm hay cho là phạm pháp, nhưng nó đã không xảy ra như vậy vì thế tôi đã rất an tâm.”
88
Hộp thông tin số 3.1: Suy nghĩ của nạn nhân về hiệu quả của tham vấn
“Các tham vấn viên đã giúp tôi rất nhiều. Tôi cảm thấy đỡ hơn và bớt bị căng thẳng hơn. Họ giúp tôi cách ứng phó với các vấn đề có thể xảy ra khi trở về lại với gia đình và cộng đồng của mình…Họ cũng đã chỉ dẫn cho tôi định hướng tương lai và tìm việc làm.”
(PV sâu- chị T, 19 tuổi, Phụ nữ bị mua bán trở về tại NNBY)
Vì vậy, ngƣời nghiên cứu ứng dụng Công tác xã hội cá nhân vào can thiệp
giảm thiểu khủng hoảng tâm lý trong một trƣờng hợp cụ thể tại “Ngôi nhà bình
yên” nhằm chỉ rõ vai trò của nhân viên Công tác xã hội trong hoạt động trợ giúp
đối tƣợng này.
3.1. Lựa chọn đối tƣợng can thiệp: Trƣờng hợp Phụ nữ bị mua bán kết hôn với
ngƣời nƣớc ngoài trở về đang khủng hoảng về tâm lý.
3.1.1. Tóm tắt trường hợp:
“Trần Thu M, 17 tuổi, bị lừa bán cho một ngƣời đàn ông Trung Quốc để
lấy làm chồng từ tháng 4 năm 2013. M trở về Việt Nam ngày 25/02/2014. Hai
ngày sau đó, M đƣợc đƣa vào Ngôi nhà bình yên do chƣa muốn trở về quê”
“Khi trở về Việt Nam, M đã mang thai 2 tháng, hiện giờ thai đã đƣợc 4
tháng- em không biết làm thế nào. Em đã đƣợc khám sức khỏe và xét nghiệm các
bệnh truyền nhiễm. Em mới xét nghiệm virut HIV một lần với kết quả âm tính
nhƣng chƣa thể xác định chính xác em có an toàn hay không. Em đang chờ xét
nghiệm HIV lần 2. Em đang khủng hoảng tâm lý”.
3.1.2. Thông tin cá nhân
Họ và tên: Trần Thu M (mã số 206) , 17 tuổi Giới tính: Nữ
Ngày tháng năm sinh: 1997
Nơi sinh sống trƣớc khi bị mua bán: Lạng Sơn
Nơi ở hiện tại: tạm trú tại Ngôi nhà bình yên
Trình độ học vấn: học hết lớp 6. Trình độ nghề nghiệp: không có
Nhân viên Công tác xã hội đang quản lý: Đỗ Thị T
Ngày tiếp nhận đầu tiên tại Ngôi nhà bình yên: 27/02/2014
Tình trạng sức khỏe thể chất; Tình trạng sức khỏe tâm thần; Các vấn đề
khác: (trình bày ở giai đoạn thu thập thông tin).
3.1.3. Thông tin về gia đình, người thân:
Nhân viên xã hội trƣớc đó đã cùng thân chủ Trần Thu M vẽ sơ đồ phả hệ
89
của mình nhƣ sau:
BỐ
VỢ 2
MẸ
EM GÁI
CHỊ CẢ
EM TRAI
TC
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ phả hệ gia đình thân chủ Trần Thu M
Ghi chú:
Đàn ông Phụ nữ Phụ nữ đã chết
Kết hôn Mâu thuẫn, sự chia rẽ
Thân chủ Mối quan hệ thân thiết
TC
Trần Thu M là con gái thứ 2 trong gia đình có 5 ngƣời con.
- Ông bà nội ngoại quê ở Thái Bình đều đã mất
- Họ tên bố: Trần Văn H – 52 tuổi ( đã lấy vợ thứ 2 năm 2012)
Nghề nghiệp: Nông dân
Địa chỉ hiện sinh sống: Hữu Lũng - Lạng Sơn
- Họ tên mẹ: Nguyễn thị L ( đã mất vì bị ung thƣ tháng 4/2006)
- Chị cả: Trần Thị D ( 25 tuổi - đã lấy chồng có 2 con trai – làm ruộng tại
Lạng Sơn)
- Em gái thứ 3: Trần Xuân L ( 19 tuổi đã lấy chồng ở Bắc Giang năm
2012)
- Em trai thứ 4: Trần Văn K ( 15 tuổi – đã bỏ học vào Tiền Giang làm
thuê)
90
- Em gái thứ 5: Trần Thanh V ( 13 tuổi – sống với bố và mẹ kế)
Nhìn chung gia đình thân chủ có hoàn cảnh rất khó khăn về kinh tế, có
nhiều khúc mắc éo le, các thành viên trong gia đình chia cách nhau, không có
điều kiện gần nhau. Kể từ khi đi lấy chồng Trung Quốc, Trần Thu M chƣa bao
giờ có điều kiện viết thƣ liên lạc với gia đình. Ngƣợc lại, M cũng không hề nhận
đƣợc liên lạc gì từ gia đình. Có thể gia đình có gửi thƣ cho cô nhƣng M không hề
nhận đƣợc.
Phân tích sơ đồ phả hệ trên:
Nhìn vào sơ đồ có thể thấy mối quan hệ giữa thân chủ Trần Thu M với các
thành viên trong gia đình. Sau khi mẹ mất, chị cả và em gái thứ 3 lấy chồng , M
bị bán đi lấy chồng Trung Quốc, em trai thứ 4 đi vào tiền Giang làm thuê, bố M
đã lấy vợ hai và đang sống cùng với em út. Trong gia đình, M thân thiết với chị
cả và em gái út.
3.1.4. Môi trường sống hiện tại:
Hiện nay, tại Ngôi nhà bình yên, thân chủ Nguyễn Thu M sống tập thể với
bạn, các chị và các em cùng hoàn cảnh. Tại trung tâm các bạn thƣờng xuyên
nhận đƣợc sự giúp đỡ chia sẻ của nhiều tổ chức khác nhau, những nhà hảo tâm
cũng nhƣ các đội tình nguyện…
M thân thiết hơn cả với L – 18 tuổi cũng là nạn nhân bị buôn bán trở về.
Và M hay nấu ăn cùng bác quản gia – thi thoảng tâm sự với bác. Môi trƣờng
sống giao tiếp chủ yếu của các bạn là bạn bè với nhau, giao tiếp với các nhân
viên của Ngôi nhà bình yên. Các bạn đƣợc khám sức khỏe định kì. M đƣợc sinh
hoạt, ăn uống tốt. Khi cuối tuần, cán bộ dự án đƣa đi dã ngoại và đi chơi cùng
các bạn … Môi trƣờng sống hiện tại tƣơng đối ổn định và tốt. Đây là môi trƣờng
thuận lợi giúp nạn nhân vƣợt qua khủng hoảng tốt hơn.
Tuy nhiên, do M là ngƣời mới đến ở đây. M đang trong giai đoạn tiếp xúc
trị liệu tâm lý. Còn các bạn khác, hàng ngày các bạn đều đi học thêm hoặc học
nghề tại trung tâm, tối mới trở về nhà. Vì vậy, M vẫn khép mình, các sinh hoạt
91
chung chưa sôi nổi, chưa hòa đồng tốt với mọi người xung quanh.
Các chị em Bố
bạn thân L
Ngôi nhà BY
Chính quyền địa phƣơng M
cô quản gia Thân chủ M
Cộng đồng, làng xóm ở quê
Chính sách Nhà nƣớc Nhân viên CTXH N
Sơ đồ 3.2: Sơ đồ sinh thái của thân chủ Trần Thu M
Ghi chú: Đƣờng mũi tên ngắn là gần gũi, đƣờng mũi tên dài hơn là xa cách hơn
Mối quan hệ qua lại thân thiết
Mối quan hệ một phía
Mối quan hệ xa cách
Không có quan hệ
Phân tích sơ đồ sinh thái trên:
Từ sơ đồ trên, có thể nhận thấy mối liên hệ của M với gia đình rất kém,
hiện tại M chƣa nhận đƣợc sự giúp đỡ nào từ gia đình. Nhu cầu của M là cải
thiện mối quan hệ với gia đình và gia đình trở thành nguồn lực giúp M vƣợt qua
khó khăn này. Ngôi nhà bình yên, nhân viên xã hội, cô quản gia và bạn gái L
hiện tại là ngƣời chia sẻ với M nhiều nhất, có tác động lớn với M. Cộng đồng
làng xóm và chính quyền địa phƣơng M cũng chƣa có ảnh hƣởng gì lớn. Bởi hiện
tại, M vẫn sống ở NNBY nên đƣợc thụ hƣởng các dịch vụ ở đây. Nhân viên xã
hội tại Ngôi nhà bình yên sẽ có trách nhiệm chính trong việc kết nối các nguồn
lực sẵn có cũng nhƣ các nguồn lực bên ngoài khác để trợ giúp M vƣợt qua khó
92
khăn
3.2. Các hoạt động can thiệp
3.2.1. Tiếp cận thân chủ
“Xin chào – tôi là một ngƣời bạn mới”
Mặc dù, thân chủ M đã sống ở Ngôi nhà bình yên đƣợc 2 tháng tính đến
ngày ngƣời nghiên cứu đóng vai trò là nhân viên xã hội (học viên thực tập N)
tiếp xúc với nạn nhân. Tuy nhiên, với đặc điểm tâm lý của một nạn nhân từng trải
qua nhiều biến cố thì giai đoạn này vẫn rất khó khăn. Đây vẫn đƣợc coi là lần đầu
tiếp xúc với nạn nhân của nhân viên xã hội N. Đây là thời điểm quan trọng, bởi
nó sẽ thiết lập cơ sở để xây dựng quá trình trợ giúp.
Thuận lợi: nhân viên xã hội đã đƣợc nghiên cứu hồ sơ của thân chủ, biết
đƣợc hoàn cảnh cũng nhƣ tiến trình thay đổi của thân chủ trong thời gian 2 tháng
qua.
Khó khăn: M đang quen với chị Trang – là nhân viên xã hội trƣớc đó giúp
đỡ, chia sẻ chị rất nhiều nên khó lòng chia sẻ với một ngƣời lạ mới đến.
Cách giải quyết: ở giai đoạn đầu của tiếp cận thân chủ này, chị Trang sẽ
giới thiệu về sự có mặt của nhân viên thực tập N với mục đích cùng chia sẻ khó
khăn, làm ngƣời bạn mới đồng hành với chúng ta. Đồng thời vẫn tiếp tục cùng
với nhân viên thực tập N gặp gỡ nạn nhân để thân chủ cảm thấy yên tâm, không
có cảm giác xa lạ. Dần dần, khi thân chủ M tỏ ra tin tƣởng hơn ở N thì chị Trang
sẽ tách dần ra với vai trò của một quản lý ca, giám sát toàn bộ tiến trình. Khi đó,
thân chủ M – nhân viên xã hội N sẽ làm việc cá nhân “một – một”.
Nhân viên xã hội N đƣa ra các mục tiêu của lần gặp đầu tiên:
– Cung cấp thông tin ban đầu về bản thân nhân viên xã hội N
– Xây dựng một mối quan hệ và bắt đầu thiết lập lòng tin
– Tạo ra một môi trƣờng an toàn và nhận đƣợc sự đồng thuận.
Lần thứ nhất (ngày 24/04/2014): mặc dù đã đƣợc nhân viên xã hội quản lý
trƣờng hợp này thông báo trƣớc về sự xuất hiện của một nhân viên xã hội khác –
nhân viên thực tập muốn chia sẻ và giúp đỡ em (chính là học viên thực tập N)
nhƣng M đã đóng cửa và nói với chị Trang – quản lý ca là “ em đang mệt và
chƣa muốn gặp ai”. Tôi đã viết vào một tờ giấy đƣa cho chị Trang đƣa cho M với
93
nội dung: “Chị biết rằng quả là khó khăn khi phải nói ra những điều làm mình
đau đớn. chị hiểu điều đó và sẵn sàng chia sẻ với em. Khi nào em thấy bất an và
cảm giác cần ai đó ở bên, hãy nói với chị, chị sẽ đến”.
Lần thứ 2 ( sáng ngày 28/04/2014): tôi nhận đƣợc cuộc gọi từ chị Trang
nói : M đang khóc rất nhiều và tôi có thể gặp M.
3.2.2. Nhận diện vấn đề của M
Khi tôi đến gặp M, em đang trong phòng chờ của phòng y tế. Chị Trang
cho biết M vừa lấy máu xét nghiệm HIV lần 2. Chị Trang cho biết vấn đề của M:
“Bây giờ, mặc dù em đang an toàn, các nhân viên xã hội đã cố gắng giúp
em cảm thấy vượt qua cơn khủng hoảng ấy nhưng vết thương trên thân thể vẫn
còn đó, vết thương còn bị nhiễm trùng và phải điều trị. Chưa thể xác định M có
nhiễm HIV hay không vì em mới xét nghiệm lần 1 với kết quả âm tính, em đang
chờ kết quả khám bệnh truyền nhiễm HIV/AIDS lần 2” .
“Hiện tại em đang mang thai 4 tháng. Em hiện chưa thể có việc làm,
chưa có thu nhập, M không muốn phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của anh em, còn
nhiều vấn đề khác đang ở phía trước mà M phải cố gắng vượt qua để ổn định
cuộc sống”.
Xác định các nhu cầu của M: Hỗ trợ khám sức khỏe và chữa bệnh; Hỗ
trợ tâm lý; Hỗ trợ pháp lý: nhập hộ khẩu, làm lại Chứng minh thƣ, khi sinh con
đƣợc làm giấy khai sinh; Hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm.
Nhƣ vậy, nhu cầu trước mắt của M là đƣợc tham vấn tâm lý ngay lập tức
để giúp em bình ổn tâm lý đón nhận kết quả dù tốt dù xấu. Giúp em tin tƣởng, cố
gắng sống khỏe mạnh, ổn định tinh thần để cho thai nhi sự phát triển tốt nhất.
Nhu cầu lâu dài: giúp em học nghề để có việc làm tự cải thiện cuộc sống của
mình. Nhân viên xã hội cần tham vấn tâm lý cho M với mục đích: để vƣợt qua
khủng hoảng, ổn định tinh thần và giúp đỡ nạn nhân học nghề phù hợp.
Ngay trong giai đoạn 2 – giai đoạn nhận diện vấn đề, nhân viên xã hội đã
phải nhận diện nhanh nhu cầu của thân chủ và có kế hoạch tham vấn ngay lập
tức. (cụ thể trong phụ lục: bản phúc trình lần đầu tiên – giúp thân chủ bình ổn
94
tâm lý đón nhận kết quả xét nghiệm HIV).
3.2.3.Thu thập thông tin
Nguồn thông tin đƣợc lấy hồ sơ trƣớc đó của thân chủ của quản lý ca,
thông tin đƣợc lấy trực tiếp từ thân chủ (thông qua giao tiếp, phúc trình vấn
đàm), từ gia đình của thân chủ (thông qua trao đổi nói chuyên), bạn bè cùng sinh
hoạt chung trong Ngôi nhà bình yên,…
Thông tin về thân chủ và gia đình thân chủ (đã trình bày ở phần I – Hồ
sơ cá nhân thân chủ)
Các vấn đề sức khỏe
Từ hồ sơ đã có của “Ngôi nhà bình yên” nhận định chung nhƣ sau: M là
một nạn nhân với sức khỏe thể chất và tinh thần đều có những trải nghiệm nhƣ
các nạn nhân khác. Tuy nhiên, do sinh ra trong một gia đình làm nông thôn, có
hoàn cảnh khó khăn nên không có nhiều điều kiện chăm sóc từ nhỏ M đã có thể
trạng nhỏ ngƣời. Tiền sử không có bệnh gì.
Sức khỏe thể chất:
Trần Thu M – 17 tuổi – nặng 42 kg – cao 1m53.
Có thai 16 tuần – thai nhi bình thƣờng – chƣa có dấu hiệu lạ.
Trên ngƣời có một số vết thƣơng đã liền sẹo ở vùng lƣng, chân, tay và cổ.
Kết quả chụp X – quang cho thấy: M không có tổn thƣơng ở xƣơng khớp.
Các bệnh truyền nhiễm: không có.
Xét nghiệm HIV lần 1: ngày 30/02/2014 kết quả âm tính.
Nỗi lo lắng của M: “Em từng nói rất sợ nhiễm HIV vì trong một tháng
trƣớc khi về Việt Nam em đã bị ép buộc phải tiếp rất nhiều khách và có nhiều lần
khách không dùng Bao cao su. Em đang lo sợ bị bệnh…” => em đã đƣợc tham
vấn giải tỏa tâm lý.
Xét nghiệm HIV lần 2: sau 2 tháng là ngày 28/04/2014 kết quả âm tính
với HIV.
Nhìn chung về thể chất, hiện tại M không có gì đáng lo ngại. M cần nghỉ
ngơi để chăm sóc thai nhi.
Sức khỏe tinh thần:
Bảng ghi lại các trải nghiệm cảm xúc của M đã trải qua sau 2 tháng trở
95
về được ghi lại trong hồ sơ quản lý ca ( những cảm xúc này đƣợc ghi lại sau các
cuộc tiếp xúc, các cuộc nói chuyện của nhân viên xã hội và phản hồi của các bạn
cùng phòng). (Từ khi trở về, tiếp nhận vào NNBY ngày 27/02/2014 đến
28/04/2014)
Những biểu hiện Những dấu hiệu Nhận thức Hành vi
cảm xúc khác nhau rối loạn hệ thần
kinh giao cảm
Hạnh phúc khi đƣợc Khó tập trung chú ý Không nghĩ ra vấn - Ngại tiếp chuyện
trở về Việt Nam Rụt vai đề nhân viên xã hội
(cảm nhận sự tự do, Khó nói Không biết quyết - Hai lần từ chối
không bị kiểm soát) Đau đầu định nhƣ thế nào không gặp ngƣời
Có Sợ hãi, Khó ngủ, hay bị Trí nhớ suy giảm khác
Những cảm xúc lẫn thức giấc Ý nghĩ quanh - Ở trong phòng
lộn: Ngộp thở quẩn không đi đâu (
Xấu hổ Căng thẳng Bị lẫn lộn cảnh giác – cần
Sợ bị từ chối Vã mồ hôi trán Suy nghĩ chậm luôn có ngƣời bên
Mất hy vọng trong Cồn cào ruột gan Nghi ngờ cạnh tránh nguy
cuộc sống Mệt lả ngƣời Hoang tƣởng cơ tự sát) => Cần
Cảm thấy không ai Đổ mồ hôi bàn tay Khó tập trung khuyến khích
yêu thƣơng mình Tay nắm chặt Hoài nghi tham gia công
Chóng mặt Hồi tƣởng liên việc chung: nấu Giận
Mặc cảm tội lỗi Đau cơ bắp miên ăn, dọn dẹp, làm
Má đỏ Suy nghĩ tiêu cực thiệp thủ công, Buồn
Thất vọng Đau đầu gối viết nhật kí.
Lo lắng, tủi hổ Khó thƣ giãn
Bị phản bội Thở gấp
Tức giận bị dồn nén
Cô đơn
Đôi lúc cảm thấy bị
96
bỏ rơi
Đánh giá về đặc điểm sức khỏe thể chất và tinh thần
Thông qua nhiều cuộc tiếp xúc, đƣợc M chia sẻ và quan sát những biểu
hiện của M, có thể tổng kết lại những đặc điểm M đang có:
Thể chất Tình cảm Tâm thần Hành vi
- Rối nhiễu trong giấc - Thay đổi tâm - kém tập trung - ăn quá ít
ngủ/ Mất ngủ trạng liên tục - bối rối và rối loạn ý - cô lập bản
- Thay đổi khẩu vị ăn - Có lúc quá xúc nghĩ thân, ít muốn
- Có vấn đề dạ dày động, hay khóc - khó khăn trong việc chia sẻ ( đang
- Nhịp tim nhanh - cáu kỉnh ra quyết định dần thay đổi
- Mệt mỏi - tức giận - hay gặp ác mộng tiếp xúc nhiều
- Sang chấn - Mệt mỏi - suy nghĩ tiêu cực hơn)
- Mỏi cơ bắp - Có lúc tê cứng - cảm giác trống trải, - rất ít khi cƣời
- Thai nhi yếu cảm xúc, im lặng cô đơn
- Đau lƣng, cổ, đau đầu không nói, không - thấy mình vô nghĩa
- Khó nghỉ ngơi, thƣ biết nói lên tâm - chán nản và mất hy
giãn trạng mình vọng
- Hay bị giật mình, - Hoài nghi
hoảng hốt - tức giận với trời đất
- xa lánh và phân vân
có nên liên hệ với gia
đình
Nhận xét: Những thông tin đƣợc ghi lại trong hồ sơ cho thấy M đang có
vấn đề nặng về sức khỏe tinh thần. Đây cũng là những đặc điểm chung của các
nạn nhân bị ảnh hƣởng của những dƣ chấn của quá khứ bị buôn bán trƣớc kia.
Ngoài ra, cũng cần tìm hiểu xem, ngoài nguyên nhân giống nhƣ các nạn nhân
khác thì thân chủ Trần Thu M còn bị ảnh hƣởng bởi những nguyên nhân nào
khác nữa.
Ƣớc mơ của M: Em muốn tìm việc làm để nuôi con. Em thấy mình hợp
97
với nghề may mặc.
3.2.4. Đánh giá, chẩn đoán
Nhân viên xã hội đã cùng thân chủ M xác định điểm mạnh, điểm yếu của
bản thân mình nhƣ sau:
Điểm yếu Điểm mạnh Giải pháp
Có lúc M rất tự ti, Nhƣng có lúc em cũng Giải pháp thống nhất: Khi bình ổn
mặc cảm. M hay băn rất tự tin, biết bản thân tâm lý và khỏe mạnh trở lại, nhân
khoăn: “Em có làm mình có thế mạnh gì. Nhân viên xã hội sẽ đƣa M đi thăm quan
được việc gì không? viên xã hội rất chú ý đến vài cơ sở học nghề may và học thử.
Liệu em có thể tìm điều này: “Từ lâu lắm rồi Nếu cơ sở nhận xét M có khả năng
việc làm không? Em em đã thích học nghề may, sẽ tiếp tục đào tạo M. Kết thúc khóa
kém cỏi và ngu dốt nhưng nhà không cho đi học, M đƣợc cấp chứng chỉ học
lắm!”. “Em biết em học. Em khéo cắt may lắm, nghề. Nếu M tạm thời chƣa thể về
mới học hết lớp 7 sẽ ở nhà ngày xưa quần áo quê, có thể xin cho M vào cơ sở may
khó tìm việc lắm. Em của mấy chị em đều là do gia công nào đó làm việc thêm thu
lại đang mang thai, em thức đêm tự cắt, tự khâu nhập và nâng cao tay nghề. Khi nào
sắp có con nhỏ rồi” mà mặc vẫn đẹp lắm”. em muốn tái hòa nhập cộng đồng,
muốn rời khỏi NNBY hoặc sau 18 Cần phải khôi Đánh giá khả năng
tháng tạm trú, em có thể lựa chọn về phục niềm tin cho của M: có năng
quê hoặc lập nghiệp nơi khác. M khiếu vẽ, cắt may,
Đề nghị nhà tạm lánh sẽ tặng em làm các đồ thú bông
món quà lập nghiệp là một chiếc theo mẫu đơn giản.
máy may nhỏ.
Nhu cầu: học nghề may (có thể cho học may làm công nhân trên thành phố
các khu công nghiệp trƣớc – sau đó có số vốn khá – về quê mở hiệu may).
“Em muốn xin miếng đất nhỏ sau nhà của bố mẹ và dựng cho một căn nhà
nhỏ để ở, em muốn mở một hiệu may nhỏ cho những người làng. Nhưng em sợ
gia đình của em không muốn cho em đất, không muốn cho em gì hết, không muốn
cho ai gặp mặt em, không muốn cho em tiếp xúc với người ngoài, cũng không
98
muốn kể cho ai biết”.
Giải pháp: M có thể viết thƣ cho em út hỏi thăm tình hình gia đình và tâm
sự về hoàn cảnh hiện nay của mình.
3.2.5. Lên kế hoạch giải quyết vấn đề
Khi đã xác định đƣợc thông tin và vấn đề của thân chủ, chúng tôi đã cùng
thân chủ lập lên kế hoạch trợ giúp giải quyết vấn đề cho thân chủ. Kế hoạch giải
quyết vấn đề đƣợc trình bày cụ thể dƣới đây:
Hoạt động của nhân viên CTXH và hoạt động của Nguồn lực Lượng giá kết
thân chủ M sử dụng quả
- liên hệ các Đã hoàn thành 1. Hỗ trợ khám bệnh và chữa bệnh:
- khám tổng thể cơ sở y tế và tiếp tục
- xét nghiệm HIV, các bệnh truyền nhiễm khác theo dõi
2. Hỗ trợ tâm lý: can thiệp khủng hoảng, khôi phục Nhân viên xã Đã can thiệp
niềm tin, chuẩn bị tâm thế trở về hòa nhập cộng hội, chuyên khủng hoảng
đồng… gia tâm lý và tiếp tục can
thiệp. Thân Các hoạt động cụ thể: - đan len, vẽ thủ công và làm
chủ M đã có thiệp cùng các bạn trong phòng.
những tiến bộ - cùng quản gia nấu cơm và dọn dẹp, trang trí phòng
nhất định ở.
- động viên M ghi nhật kí để giải tỏa cảm xúc (là cách
thân chủ tự động viên và định hƣớng suy nghĩ cho bản
thân, định hình lý tƣởng và quyết tâm).
- cùng các thành viên khác và nhân viên xã hội đi
thăm quan lăng Bác Hồ
- sử dụng các bài tập trị liệu đơn giản trong khi tham
vấn: hƣớng dẫn thân chủ các bài tập hít thở sâu liên
tƣởng những điều tốt đẹp; tập Yoga, đọc sách để thƣ
giãn; viết ra giấy những điều tốt đẹp, điều bản thân
phải làm đƣợc (viết đi viết lại nhiều lần).
Liên hệ các 3. Hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm:
- cùng thân chủ xác định việc học nghề gì, có thể làm cơ sở dạy
99
đƣợc nghề gì. nghề uy tín
- lập kế hoạch đi học và tìm việc làm dƣới sự tham và có nhiệt
vấn của Ngôi nhà bình yên. tình trong
việc trợ giúp
nạn nhân.
- liên hệ gia 4. Hỗ trợ pháp lý:
- Các thủ tục nhập hộ khẩu về địa phƣơng, làm lại đình.
Chứng minh thƣ, khi sinh con đƣợc làm giấy khai - Công an,
sinh. chính quyền
- muốn xin lại phần ruộng đất của bản thân. địa phƣơng
- Trung tâm
hỗ trợ pháp
lý
5. Vãng gia: nhân viên xã hội tìm về gặp gia đình, Nhân viên xã
chính quyền địa phƣơng để tạo điều kiện cho M trở hội sau này
sẽ tiếp tục về hòa nhập
Sau một thời gian tìm hiểu thu thập thông tin, đánh giá chẩn đoán vấn đề
thân chủ gặp phải; nhân viên xã hội cùng với thân chủ M cùng ngồi thống nhất
lập kế hoạch. (Cụ thể trong Phụ lục bản phúc trình vấn đàm ngày 13.05.2014).
3.2.6. Thực hiện kế hoạch (giải quyết vấn đề)
Do thời gian không cho phép nên nhân viên xã hội N mới cùng thân chủ
lập kế hoạch cho thời gian tới. Thân chủ Trần Thu M hiện tại sức khỏe tốt, thai
nhi phát triển bình thƣờng. M đã bắt đầu đi đến cơ sở học may và đƣợc đánh giá
là có khả năng rất tốt. NNBY đã tặng M một chiếc máy may phục vụ cho công
việc sau này. Thân chủ M viết thƣ về cho em gái ở quê và em đã nói với bố và
chị gái của mình. Cả nhà rất thƣơng M và rất mong M trở về nhà để sum họp gia
đình. Bố M nói M cứ về nhà ở và sau này sẽ dựng cho M một gian nhà cho M
sinh con và mở hiệu may riêng. Chị gái mong M về để giúp đỡ em chuyện sinh
nở.
Trong thời gian tới, M sẽ chuẩn bị kế hoạch sinh con; tốt nghiệp khóa học
100
nghề may; chuẩn bị trở về với gia đình ở quê và lên kế hoạch cho công việc mới.
Ảnh: Thân chủ học nghề may
3.2.7. Lượng giá
Kết quả của quá trình Công tác xã hội cá nhân với thân chủ Nguyễn Thu
M phù hợp với mục tiêu đặt ra trong kế hoạch. Nhân viên CTXH đã tuân thủ
đúng nguyên tắc làm việc, đạo đức nghề nghiệp và linh hoạt, nhanh nhạy trong
việc trợ giúp các nhu cầu của thân chủ. Thân chủ đã vƣợt qua khủng hoảng, chấp
nhận hoàn cảnh thực tế của mình, nhìn ra đƣợc khả năng vốn có, tích cực khắc
phục điểm yếu, thay đổi suy nghĩ và hành vi theo hƣớng tích cực hơn. Cuộc sống
mới tốt đẹp sau khi hòa nhập Cộng đồng đang mở ra trƣớc mắt thân chủ Trần
Thu M.
Tuy nhiên các hoạt động của nhân viên CTXH không phải là đã tốt nhất,
hợp lý nhất, có đôi lúc vẫn còn lúng túng và chƣa mang lại kết quả tuyệt đối. Tuy
nhiên nhờ những nỗ lực mạnh mẽ của bản thân thân chủ Trần Thu M đã mang lại
kết quả tốt đẹp cho chính bản thân M.
3.3. Kết quả chính trong can thiệp
Thân chủ Trần Thu M là một phụ nữ trẻ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài
(dƣới hình thức mua bán) đã chịu hậu quả nặng nề về tinh thần và thể chất. Ngoài
những nguyên nhân và đặc điểm chung giống các nạn nhân của buôn bán ngƣời
khác, thân chủ M cũng có hoàn cảnh và những đặc điểm tâm lý riêng. Bên cạnh
đó, do thời gian không cho phép nên quá trình làm việc với thân chủ Trần Thu M
101
có gián đoạn. Tuy nhiên, việc vận dụng phƣơng pháp Công tác xã hội cá nhân và
những kĩ năng cơ bản của Công tác xã hội với sự can thiệp nhƣ đã trình bày ở các
bƣớc trên cũng đã góp phần cải thiện sức khỏe tinh thần, nghị lực của M và các
mối quan hệ trong gia đình M. Tất nhiên để đạt đƣợc sự thành công đó không chỉ
có phƣơng pháp Công tác xã hội cá nhân mà còn ở các hoạt động khác nhƣ: sinh
hoạt nhóm, chế độ dinh dƣỡng, các hoạt động tập thể ở NNBY và các dịch vụ tốt
ở mô hình Ngôi nhà bình yên.
Các hoạt động của nhân viên xã hội đƣợc lập kế hoạch chi tiết và luôn tôn
trọng quyền tự quyết của thân chủ đúng với lý thuyết “thân chủ trọng tâm” của
Carl Roger. Nhân viên xã hội cũng vận dụng lý thuyết Nhu cầu của Maslow để
xác định những nhu cầu cơ bản, nhu cầu trƣớc mắt hay lâu dài của M. Ngoài ra
các lý thuyết khác của CTXH cá nhân cũng đƣợc vận dụng linh hoạt để trợ giúp
trƣờng hợp này một cách tốt nhất.
Với trƣờng hợp của thân chủ M, chúng ta có đầy đủ tất cả các dịch vụ trợ
giúp nhƣ đã phân tích lý thuyết ở trên. Nhƣng đây vẫn là một trƣờng hợp có thể
coi là điển hình trong việc ứng dụng phƣơng pháp CTXH vào việc trợ giúp thân
chủ là phụ nữ bị mua bán trở về giảm thiểu khủng hoảng tâm lý. Thông qua việc
nghiên cứu trƣờng hợp này để làm sáng rõ vai trò và nhiệm vụ của nhân viên xã
hội trong quá trình trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng hiệu
quả. Đặc biệt là các chính sách, dịch vụ hiện có để huy động, kết nối nguồn lực
trợ giúp họ tái hòa nhập cộng đồng một cách hiệu quả. Hoạt động của CTXH
chính là việc đƣa các chính sách của Nhà nƣớc, các dịch vụ của xã hội tiếp cận
với nạn nhân cần sự giúp đỡ một cách nhanh nhất và tốt nhất.
3.4. Bài học kinh nghiệm rút ra qua ứng dụng CTXH cá nhân với một phụ
nữ bị mua bán trở về giảm thiểu khủng hoảng tâm lý ban đầu
Có một bài học đƣợc rút ra trong quá trình tham vấn can thiệp, đó là: cần
tích cực khai thác suy nghĩ, cảm xúc của thân chủ nhiều hơn. Một nguyên tắc cơ
bản trong tham vấn giúp đỡ với nhân viên CTXH là khi không biết nói gì thì
không nên nói gì. Đôi khi im lặng và lắng nghe lại là cách chia sẻ tốt nhất. Thân
chủ rất giỏi, họ là chuyên gia trong chính vấn đề của họ. Nhân viên CTXH chỉ
cần “chạm nhẹ”, khơi gợi đúng lúc là tiềm năng của thân chủ sẽ phát huy tốt
102
nhất.
Tiểu kết chƣơng 3
Chƣơng 3 đã mô tả lại việc ứng dụng Công tác xã hội cá nhân vào can thiệp
giảm thiểu khủng hoảng tâm lý trong một trƣờng hợp cụ thể phụ nữ bị mua bán
trở về tại “Ngôi nhà bình yên”, nói lên vai trò của nhân viên Công tác xã hội
trong hoạt động trợ giúp đối tƣợng này. Đây là trƣờng hợp phụ nữ bị mua bán kết
hôn với ngƣời nƣớc ngoài trở về đang khủng hoảng về tâm lý. Trong vai trò của
một nhân viên xã hội, ngƣời nghiên cứu đã xây dựng đƣợc mối quan hệ và thiết
lập đƣợc lòng tin với thân chủ, tạo ra đƣợc môi trƣờng an toàn và nhận đƣợc sự
đồng thuận.
Trong các nhu cầu của thân chủ M nhƣ: hỗ trợ khám sức khỏe và chữa
bệnh, hỗ trợ tâm lý, hỗ trợ pháp lý: nhập hộ khẩu, làm lại Chứng minh thƣ, khi
sinh con đƣợc làm giấy khai sinh, hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm; nhân viên xã hội
đã xác định đƣợc nhu cầu trước mắt của M là đƣợc tham vấn tâm lý ngay lập tức
để giúp em bình ổn tâm lý đón nhận kết quả dù tốt dù xấu. Giúp em tin tƣởng, cố
gắng sống khỏe mạnh, ổn định tinh thần để cho thai nhi sự phát triển tốt nhất. bên
cạnh đó cũng có kế hoạch lâu dài: giúp em học nghề để có việc làm tự cải thiện
cuộc sống của mình. Thân chủ muốn học nghề may (có thể cho học may làm
công nhân trên thành phố các khu công nghiệp trƣớc – sau đó có số vốn khá – về
quê mở hiệu may). NNBY đã tặng thân chủ M một chiếc máy may phục vụ cho
công việc sau này. Kết quả của quá trình Công tác xã hội cá nhân với thân chủ
Nguyễn Thu M phù hợp với mục tiêu đặt ra trong kế hoạch. Nhân viên CTXH đã
tuân thủ đúng nguyên tắc làm việc, đạo đức nghề nghiệp và linh hoạt, nhanh
nhạy trong việc trợ giúp các nhu cầu của thân chủ. Thân chủ đã vƣợt qua khủng
hoảng, chấp nhận hoàn cảnh thực tế của mình, nhìn ra đƣợc khả năng vốn có, tích
cực khắc phục điểm yếu, thay đổi suy nghĩ và hành vi theo hƣớng tích cực hơn.
Với trƣờng hợp của thân chủ M, chúng ta có đầy đủ tất cả các dịch vụ trợ
giúp nhƣ đã phân tích lý thuyết ở trên. Nhƣng đây vẫn là một trƣờng hợp có thể
coi là điển hình trong việc ứng dụng phƣơng pháp CTXH vào việc trợ giúp thân
chủ là phụ nữ bị mua bán trở về giảm thiểu khủng hoảng tâm lý. Thông qua việc
nghiên cứu trƣờng hợp này để làm sáng rõ vai trò và nhiệm vụ của nhân viên xã
hội trong quá trình trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng hiệu
103
quả.
KẾT LUẬN
Đề tài “Hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng”
đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu nhƣ tìm hiểu các
đề tài nghiên cứu trƣớc đó về tình hình mua bán ngƣời và mua bán phụ nữ, các
đặc điểm về hoàn cảnh gia đình, độ tuổi, đặc điểm về nhận thức và trình độ học
vấn của nạn nhân trƣớc khi bị mua bán và các đặc điểm, những hậu quả sau khi
bị mua bán trở về để có cái nhìn chung nhất về chân dung xã hội của nạn nhân.
Từ cơ sở đó, tôi tiến hành nghiên cứu thực trạng hoạt động trợ giúp phụ nữ bị
mua bán trở về hòa nhập cộng đồng tại nhà tạm lánh NNBY thông qua các báo
cáo của Ban quản lý NNBY và qua điều tra khảo sát nhóm phụ nữ bị mua bán trở
về đang ở tại NNBY. Theo đó, có thể tổng kết các dịch vụ đang đƣợc trợ giúp ở
đây bao gồm: dịch vụ cung cấp nơi ăn, ở an toàn, dịch vụ chăm sóc sức khỏe- y
tế và chuyển tuyến tới các cơ sở chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ tư vấn tâm lý, nhóm
dịch vụ nâng cao kỹ năng sống, hỗ trợ pháp lý, học văn hóa, đào tạo nghề, giới
thiệu việc làm, hỗ trợ vay vốn, trợ giúp quá trình tái hòa nhập sau khi rời khỏi
nhà hỗ trợ. Khi so sánh những hoạt động trợ giúp thực tế từ góc nhìn ngƣời thụ
hƣởng với những hoạt động thông qua báo cáo của quản lý Ngôi nhà bình yên thì
các hợp phần đƣợc trợ giúp không có nhiều sự khác biệt. Tất cả những ngƣời
đƣợc phỏng vấn nói chung đều hài lòng và yêu thích cuộc sống tốt đẹp ở NNBY.
Điều này phản ánh chất lƣợng dịch vụ tốt nhƣng nhiều chị em ở một thời gian dài
và chƣa muốn trở về hồi gia phần nào thể hiện tâm lý dựa dẫm, chƣa muốn thoát
khỏi sự hỗ trợ để tự lập. Vì vậy, kỹ năng sống tự lập và định hƣớng ý chí phấn
đấu vẫn cần đƣợc quan tâm hơn ở trong hoạt động lồng ghép ở NNBY. Có thể
thấy rằng, Ngôi nhà bình yên đã hỗ trợ nạn nhân tối đa để họ hồi phục sức khỏe
và tinh thần, vƣợt qua khó khăn, tạo tiền đề để có một cuộc sống ổn định trong
tƣơng lai.
Đánh giá chất lượng dịch vụ hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về
dưới góc nhìn của người nghiên cứu:
Nhìn chung, ngƣời nghiên cứu nhận thấy những ngƣời nhận hỗ trợ hài lòng
với các dịch vụ hỗ trợ đƣợc cung cấp tại NNBY, trong khi đó các nhà cung cấp
104
dịch vụ ở NNBY đánh giá rằng trong một chừng mực nào đó, các dịch
vụ/chƣơng trình của họ phù hợp và đáp ứng kịp thời theo nhu cầu của nạn nhân.
Tuy nhiên, tính hiệu quả chƣa cao và khó có thể đo lƣờng, đánh giá đƣợc với lý
do là chƣa có công cụ theo dõi giám sát cụ thể, thiếu sự theo dõi ca sau khi cung
cấp dịch vụ hỗ trợ, hoặc chuyển gởi, mức hỗ trợ còn thấp và chƣa hợp lý với
hoàn cảnh thực tế.
Tóm lại, chúng ta có thể nhận định một số điểm về hoạt động trợ giúp phụ
nữ bị mua bán trở về ở NNBY nhƣ sau:
Tính kịp thời: Những ngƣời thụ hƣởng dịch vụ đánh giá rằng các dịch vụ
hỗ trợ đã đƣợc cung cấp một cách kịp thời cho ngƣời tạm trú vì họ đƣơc tiếp cận
một cách nhanh chóng, và dễ dàng. Do đó, họ đã nhận đƣợc những dịch vụ nhƣ
chăm sóc sức khỏe, tƣ vấn tâm lý, hỗ trợ pháp lý, đào tạo nghề… theo đúng
khung thời gian. Tuy nhiên, đôi khi dịch vụ chậm do có sự cứng nhắc trong việc
thực hiện nhiều thủ tục hành chính với các cơ quan liên quan khi chuyển gửi,
chuyển tuyến tới các cơ quan cung cấp dịch vụ khác.
Tính phù hợp. Từ kết quả phân tích định tính, những ngƣời đƣợc phỏng
vấn nhận xét rằng những dịch vụ hỗ trợ đã giúp cho họ vƣợt qua đƣợc những khó
khăn trƣớc mắt/ban đầu.
Hiệu quả. Các nhà cung cấp dịch vụ cũng đánh giá rằng những dịch vụ hỗ
trợ của họ đang được thực hiện hiệu quả. Và những ngƣời thụ hƣởng cũng cảm
thấy bản thân có sự chuyển biến tích cực sau khi đƣợc thụ hƣởng các dịch vụ.
Mô hình Ngôi nhà Bình Yên đã chứng minh đƣợc sự cần thiết trong đáp
ứng nhu cầu và thực hiện đƣợc quy trình hỗ trợ tổng thể đối với phụ nữ là nạn
nhân của mua bán trở về nói riêng và hoạt động hỗ trợ phụ nữ khó khăn nói
chung. Việc xây dựng và vận hành đƣợc mô hình cung cấp hỗ trợ toàn diện, dài
hạn và linh hoạt là đã bám sát chính sách của Chính phủ trong việc hỗ trợ thực
hiện các chƣơng trình ngăn ngừa nạn mua bán ngƣời do Hội LHPN Việt nam tiến
hành. Đội ngũ nhân viên của NNBY đƣợc đào tạo, có kinh nghiệm và cam kết
cao trong công việc. Đây là một mô hình nhà tạm lánh mang tính đại diện, không
phải mang tính phổ biến phản ánh tình hình chung của tất cả các nhà tạm lánh
dành cho phụ nữ bị mua bán trở về trên cả nƣớc. Tuy nhiên, theo quan điểm chủ
105
quan của ngƣời nghiên cứu thì đây là một mô hình nhà tạm lánh tiêu biểu, hoạt
động hiệu quả có chất lƣợng tốt, là địa chỉ có thể tham khảo học tập kinh nghiệm
cho các nhà hoạt động xã hội có mong muốn trợ giúp nạn nhân của mua bán
ngƣời.
Nhƣ vậy, trong thời gian tới cần đẩy mạnh các hoạt động chia sẻ thông tin,
kết nối với các hoạt động và mô hình của các địa phƣơng để phát triển, nhân rộng
mô hình hỗ trợ phụ nữ trong phòng chống mua bán phụ nữ. Đồng thời cần nghiên
cứu xây dựng kế hoạch duy trì mô hình phù hợp với điều kiện thực tế của từng
địa phƣơng.
Trên cơ sở nền tảng các dịch vụ trợ giúp sẵn có tại NNBY, ngƣời nghiên
cứu đã ứng dụng Công tác xã hội cá nhân vào can thiệp giảm thiểu khủng hoảng
tâm lý trong một trƣờng hợp cụ thể tại “Ngôi nhà bình yên”, chỉ rõ vai trò của
nhân viên Công tác xã hội trong hoạt động trợ giúp đối tƣợng này. Đây là trƣờng
hợp phụ nữ bị mua bán kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài trở về đang khủng hoảng
về tâm lý.
Trong vai trò của một nhân viên xã hội, ngƣời nghiên cứu đã xây dựng đƣợc
mối quan hệ và thiết lập đƣợc lòng tin với thân chủ, tạo ra đƣợc môi trƣờng an
toàn và nhận đƣợc sự đồng thuận. Nhân viên xã hội đã xác định đƣợc nhu cầu
trước mắt của M là đƣợc tham vấn tâm lý ngay lập tức để giúp em bình ổn tâm lý
đón nhận kết quả dù tốt dù xấu. Giúp em tin tƣởng, cố gắng sống khỏe mạnh, ổn
định tinh thần để cho thai nhi sự phát triển tốt nhất. bên cạnh đó cũng có kế
hoạch lâu dài: giúp em học nghề để có việc làm tự cải thiện cuộc sống của mình.
Với trƣờng hợp của thân chủ M, chúng ta có đầy đủ tất cả các dịch vụ trợ
giúp nhƣ đã phân tích lý thuyết ở trên. Nhƣng đây vẫn là một trƣờng hợp có thể
coi là điển hình trong việc ứng dụng phƣơng pháp CTXH vào việc trợ giúp thân
chủ là phụ nữ bị mua bán trở về giảm thiểu khủng hoảng tâm lý. Thông qua việc
nghiên cứu trƣờng hợp này để làm sáng rõ vai trò và nhiệm vụ của nhân viên xã
hội trong quá trình trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng hiệu
quả. Đặc biệt là các chính sách, dịch vụ hiện có để huy động, kết nối nguồn lực
trợ giúp họ tái hòa nhập cộng đồng một cách hiệu quả. Hoạt động của CTXH
chính là việc đƣa các chính sách của Nhà nƣớc, các dịch vụ của xã hội tiếp cận
106
với nạn nhân cần sự giúp đỡ một cách nhanh nhất và tốt nhất.
KHUYẾN NGHỊ
Bên cạnh những nỗ lực và thành quả trên, ngƣời nghiên cứu đã phát hiện
vẫn còn một vài khiếm khuyết liên quan nhu cầu của các nạn nhân và sự đáp ứng
của các dịch vụ hỗ trợ xã hội hiện đang có. Để cải thiện dịch vụ hỗ trợ nạn nhân
đƣợc hiệu quả hơn trong thời gian tới, ngƣời nghiên cứu đƣa ra các khuyến nghị
sau cũng là các giải pháp nâng cao chất lƣợng dịch vụ và hiệu quả của hoạt động
trợ giúp tại nhà tạm lánh Ngôi nhà bình yên:
Khuyến nghị 1. Tăng cƣờng sự tiếp cận của nạn nhân đến các dịch vụ
hỗ trợ và tăng số lƣợng các dịch vụ hỗ trợ cho các nạn nhân
Trong quá trình nghiên cứu về mô hình nhà tạm lánh NNBY dành cho phụ
nữ bị mua bán trở về, ngƣời nghiên cứu cũng nhận đƣợc những chia sẻ về những
khó khăn, thách thức phải đối mặt của NNBY dƣới góc nhìn của chính nhà quản
lý NNBY: NNBY tiếp đón tất cả các nạn nhân bị mua bán trở về và hiện nay,
ngày càng có nhiều đối tƣợng nạn nhân khác nhau, tính chất rất đa dạng và ngày
càng phức tạp. Có một số nhóm đối tƣợng đặc biệt rất khó khăn trong hỗ trợ (đẻ
thuê, trẻ sơ sinh, bất ổn về tâm lý, bệnh lý, thần kinh tâm thần…).. Đặc biệt nạn
nhân vị thành niên có xu hƣớng tăng, có hành vi “nổi loạn” nên việc hỗ trợ khó
đạt tới kết quả cuối cùng. Đòi hỏi phƣơng pháp tiếp cận và dịch vụ phù hợp với
đặc điểm của nhóm đối tƣợng.
Các nhà quản lý NNBY có thể lập kế hoạch và phƣơng án hỗ trợ nạn nhân
ở mức phù hợp với nhu cầu cơ bản của nạn nhân. Mức kinh phí trung bình cho
một nạn nhân có thể đƣợc tính toán dựa trên kế hoạch tái hòa nhập cộng động
của từng nạn nhân. Gói dịch vụ hỗ trợ nạn nhân nên mang tính toàn diện và mang
tính linh hoạt. Gói dịch vụ hỗ trợ cho một nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng bao
gồm các dịch vụ cần thiết cho ngắn hạn và dài hạn, thông thƣờng bao gồm dịch
vụ chăm sóc y tế/ sức khỏe, hoạt động tạo thu nhập, giới thiệu việc làm, nhà
ở,...tùy thuộc vào nhu cầu và ƣu tiên của từng nạn nhân, không nhất thiết người
tạm trú nào cũng có sự hỗ trợ giống nhau. Nhiều ngƣời tạm trú ỷ lại vào cuộc
sống bình yên ở NNBY vì thời gian đƣợc quan tâm khá lâu (tối đa 18 tháng). Vì
thế, nhân viên xã hội cần đề xuất quá trình hỗ trợ cho ngƣời tạm trú ở theo nhu
cầu hay chính vấn đề của họ? Bên cạnh đó các nhà quản lý NNBY cần củng cố
các hoạt động hỗ trợ hiện có và xem xét việc tăng số lƣợng các dịch vụ hỗ trợ.
107
Việc mở thêm các dịch vụ cần vận động thêm nguồn lực về kỹ thuật, về tài chính.
Khuyến nghị 2. Cải thiện, nâng cao chất lƣợng dịch vụ hỗ trợ hòa
nhập cộng đồng cho phụ nữ bị mua bán trở về
Về dịch vụ tư vấn, tham vấn tâm lý: Bên cạnh việc chuyển tuyến thân chủ
tới các văn phòng tƣ vấn chuyên sâu thì các nhà quản lý NNBY cần đề xuất đầu
tƣ chuyên gia tâm lý chuyên sâu hơn về các vấn đề để phục hồi tâm lý cho các
nạn nhân ngay sau khi trở về để giúp họ sớm vƣợt qua tâm lý khủng hoảng hoặc
bồi dƣỡng tập huấn thêm kiến thức cho nhân viên xã hội. Chính vì đối tƣợng trợ
giúp là phụ nữ bị mua bán trở về ngày càng đa dạng, phức tạp nên đội ngũ nhân
viên xã hội của NNBY cần đƣợc bồi dƣỡng kỹ năng làm việc trong các trƣờng
hợp đặc biệt. Ví dụ: làm việc với ngƣời tạm trú có nguy cơ tự tử, ngƣời tạm trú
có tiền sử khủng hoảng bệnh lý…
Nhân viên xã hội của NNBY cần chú trọng đặc biệt tới hướng dẫn đào tạo
kỹ năng sống (đối mặt với nguy cơ bị đối xử phân biệt, ám ảnh quá khứ; thiếu tự
tin, kỹ năng giao tiếp; bị lạm dụng và thiếu kỹ năng đối diện khó khăn, cô đơn, bi
quan…). Nhà quản lý NNBY cần tổ chức đào tạo kỹ năng sống tái hòa nhập hiệu
quả hơn nữa nhằm đóng vai trò chủ đạo để hỗ trợ tái hòa nhập thành công, vƣợt
qua sang chấn, phân biệt đối xử, tạo tự tin và khẳng định mình. Bên cạnh đó là
xây dựng các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức nhằm giảm sự kì thị
của xã hội, cộng đồng và của cả gia đình.
Về đào tạo nghề và tạo việc làm:
Việc đào tạo nghề là yếu tố cơ bản giúp họ có đƣợc nền tảng, bàn đạp lớn
để sống tốt, tuy nhiên, trình độ văn hóa, khả năng của ngƣời bị mua bán trở về
còn nhiều hạn chế, có rất ít nghề cho họ lựa chọn. Vì vậy, nhân viên xã hội của
NNBY cần liên kết nhiều hơn nữa với nhiều cơ sở đào tạo, cơ sở dạy nghề hơn,
phát triển mạng lƣới với nhiều lựa chọn ngành nghề đào tạo - giới thiệu việc làm
để đáp ứng nhu cầu đa dạng của ngƣời tạm trú, tạo nhiều cơ hội tiếp cận với các
nghề mới cho các chị em có sự lựa chọn rộng rãi hơn và tính phức hợp của nhiều
yếu tố liên quan. NNBY cần đánh giá thƣờng xuyên hiệu quả của đào tạo nghề
trong từng giai đoạn các chị em học. Đảm bảo hoạt động tiếp nối: dạy nghề - tạo
việc làm - có thu nhập ổn định.
Các nhân viên xã hội cộng đồng nên thực hiện đánh giá trƣờng hợp để
108
giúp nạn nhân xác định lại nhu cầu thật sự, ƣu tiên và nguyện vọng họ để cải
thiện điều kiện sinh sống tại cộng đồng. Nếu một trong số họ không thể học nghề
thì giúp đỡ nạn nhân xây dựng kế hoạch hành động cụ thể cải thiện sinh kế dựa
vào điều kiện thực tế của từng cá nhân và cung cấp các hỗ trợ về kỹ thuật và tài
chính cho các nạn nhân để giúp họ thực hiện kế hoạch.
Quá trình tái hòa nhập
Mặc dù một số đang ở NNBY những bản thân họ vẫn có mối liên hệ chặt
chẽ với yếu tố gia đình: môi trƣờng gia đình không thuận lợi (bố mẹ ly hôn, ly
thân; đặc biệt gia đình có bạo lực…). Phụ nữ bị mua bán thƣờng xuyên bị bạo lực
giới, sang chấn, vì vậy thiếu hỗ trợ xã hội và đoàn thể có thể dẫn họ rơi vào vòng
tái bị mua bán. Vì thế, việc giúp đỡ họ tăng sức mạnh của nội lực bản thân để có
thể trở về hòa nhập cộng đồng hiệu quả còn nhiều khó khăn.
Việc tái hòa nhập tại cộng đồng của ngƣời tạm trú sau khi trở về, ngoài
việc phục hồi sức khỏe và tạo dựng kiến thức bản lĩnh cho chính bản thân họ,
NNBY cũng nên xây dựng mạng lƣới hỗ trợ tại địa phƣơng, bao gồm cả gia đình
nhằm tránh đẩy nạn nhân trở lại vòng xoáy bị bạo lực/bị mua bán vì thiếu sự hỗ
trợ của cộng đồng và gia đình.
Nâng cao chất lƣợng dịch vụ thì phải nâng cao năng lực cho các cán bộ,
nhân viên xã hội làm việc với các phụ nữ bị mua bán trở về: Năng lực và kỹ năng
hạn chế của cơ sở cung cấp dịch vụ có ảnh hƣởng trực tiếp đến chất lƣợng dịch
vụ hỗ trợ cho các nạn nhân, vì vậy chúng ta cần:
Phát triển tài liệu hƣớng dẫn và tập huấn về các tiến trình hƣớng dẫn phối
hợp cho các đơn vị cung cấp dịch vụ và các cơ quan thi hành luật pháp liên quan
(ví dụ: công an, công tố viên, công an biên phòng, quản lý xuất nhập cảnh và
ngƣời có thẩm quyền xét xử...) nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động trợ giúp
pháp lý.
Tập huấn bổ sung cho các nhân viên xã hội về các văn bản hƣớng dẫn làm
việc với các nạn nhân. Đào tạo có thể tập trung vào các mẫu biễu thu thập, công
cụ đánh giá sức khỏe tâm thần, tóm tắt trường hợp, quản lý trường hợp.
Nâng cao năng lực cán bộ thông qua các hoạt động tham quan học tập,
chia sẻ kinh nghiệm về các mô hình/ dịch vụ hỗ trợ nạn nhân có hiệu quả trong
109
nƣớc và ngoài nƣớc.
Khuyến nghị 3. Tăng cƣờng phối hợp mạng lƣới giao chuyển và hỗ trợ
NNBY thƣờng xuyên chuyển gửi ngƣời tạm trú của mình đến các cơ sở
chuyên môn khác nên cần xây dựng và phát triển hệ thống hỗ trợ là một mạng
lƣới giao chuyển và hỗ trợ nạn nhân có sự phối hợp chặt chẽ, theo một hệ thống
trong mạng lƣới giao chuyển, chuỗi dịch vụ hỗ trợ. Hợp tác với các cơ quan
trong mạng lƣới giao chuyển (C45 Bộ Công an, ngành LĐTBXH, Tƣ pháp,
Ngoại giao, tòa án, các ban ngành địa phƣơng hỗ trợ nhu cầu pháp lý, Hội phụ nữ
các cấp, các đối tác khác) cần đƣợc tăng cƣờng và thể chế hóa. Việc phải làm của
quản lý NNBY chính là xây dựng cơ chế hợp tác/Biên bản ghi nhớ với các đơn vị
cung cấp dịch vụ để xác định rõ các vai trò, trách nhiệm/công việc của các bên.
Khuyến nghị 4. Thiết lập hệ thống lập kế hoạch, theo dõi, giám sát và
đánh giá dịch vụ hỗ trợ nạn nhân.
Kết quả đánh giá cho thấy, thách thức lớn nhất của các nhà cung cấp dịch
vụ hiện nay là đo lƣờng tính tính hiệu quả của các dịch vụ đã cung cấp cho các
nạn nhân. Ngoài ra, nhà cung cấp dịch vụ không thể theo dõi những ngƣời đã
nhận đƣợc các dịch vụ (khách hàng). Khuyến nghị: Dựa vào dữ liệu, cần xây
dựng một hệ thống lập kế hoạch hoạt động tổng thể, kế hoạch theo dõi/giám sát
và đánh giá chung cho cả quá trình trợ giúp, có chỉ số theo dõi, giám sát và đánh
giá và công cụ theo dõi giám sát và đánh giá hoạt động/ dịch vụ hỗ trợ, tập huấn
cho cán bộ xã hội trực tiếp theo dõi tình hình tái hòa nhập cộng đồng của nạn
nhân.
Khuyến nghị 5. Đảm bảo đầy đủ các nguồn lực cho nhà cung cấp dịch vụ
Nguồn lực về tài chính và kỹ thuật là yếu tố quan trọng để phát triển số
lƣợng và chất lƣợng dịch vụ nhà tạm lánh, để nâng cao năng lực cho các nhân
viên xã hội cơ sở có đủ trình độ, kiến thức, kỹ năng để làm việc với các nạn
110
nhân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban Chỉ đạo 130/CP, số 380 (21/12/2005), Báo cáo sơ kết một năm thực hiện
Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em. tr.1 và
tr.2;
[2]. Ban Chỉ đạo 130/CP, số 43/BCA (VPTT130/CP) ngày 28/02/2006, Báo cáo
kiểm điểm thực hiện Chương trình 130/CP năm 2005 và phương hướng công tác
năm 2006, tr. 1 và tr.2.
[3]. Ban Chỉ đạo 130/CP (2012), Các văn bản hướng dẫn chế độ quản lý và sử
dụng kinh phí thực hiện chương trình hành động phòng, chống tội phạm mua bán
người, Hà Nội.
[4]. Ban Chỉ đạo 130/CP, Chương trình hành động phòng, chống tội phạm mua
bán người giai đoạn 2011 – 2015 và các văn bản chỉ đạo, Hà Nội.
[5]. Ban Chỉ đạo 130/CP, số 380/BCA (VPTT130/CP) ngày 21/12/2005, Báo cáo
sơ kết một năm thực hiện Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn
bán phụ nữ, trẻ em. tr.1
[6]. Ban chỉ đạo COMMIT Việt Nam. Tài liệu tập huấn liên ngành về phòng,
chống buôn bán người. NXB Công an nhân dân. Năm 2008.
[7]. Ban chỉ đạo 138 – Bộ Công An. (2013). Báo cáo kết quả tổng điều tra, rà
soát tình hình hoạt động tội phạm mua bán người và các đối tượng khác có liên
quan giai đoạn 2008 – 2013.
[8]. Bộ Công an. Báo cáo số 298/BCA (C11) ngày 13/10/2005. Báo cáo gửi Thủ
tƣớng Chính phủ, tr.1
[9]. Bộ Lao động thƣơng binh xã hội. Báo cáo Tổng kết Đề án tiếp nhận và hỗ
trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân là phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước
ngoài trở về giai đoạn 2005 -2010 (Đề án 3, Chƣơng trình 130/CP). Năm 2010.
[10]. Bộ Lao động thƣơng binh xã hội. Báo cáo Sơ kết giai đoạn I (2011-2013)
thực hiện Đề án 3, Chương trình 130/CP về công tác tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân
111
bị mua bán trở về. Năm 2013
[11]. Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội, Cơ quan Liên hợp Quốc về phụ nữ
tại Việt Nam UN Women, năm 2013. Những phát hiện chính từ Báo cáo quốc
gia: An sinh xã hội cho phụ nữ và trẻ em gái ở Việt Nam”
[12]. Bộ Lao động, Thƣơng binh xã hội (2010), Đề án phát triển nghề CTXH giai
đoạn 2010 – 2020.
[13]. Công ƣớc của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Tháng 12/2000
[14]. Công ƣớc của Liên hợp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử
chống lại phụ nữ ( CEDAW ) đƣợc Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày
18/12/1979; Việt Nam phê chuẩn ngày 17/12/1982.
[15]. Cục phòng chống tệ nạn xã hội – Bộ Lao động thƣơng binh xã hội. Hỏi đáp
về phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. NXB Lao động – xã hội. Năm 2006.
[16]. Cục phòng chống tệ nạn xã hội – Bộ Lao động thƣơng binh xã hội. Hỗ trợ
tâm lý cho nạn nhân bị buôn bán tái hòa nhập cộng đồng. NXB Lao động xã hội.
Năm 2008.
[17]. Cục phòng chống tệ nạn xã hội – Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc Unicef. Quy
trình tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán
từ nước ngoài trở về. Tài liệu tập huấn. Năm 2007.
[18]. Cục phòng chống tệ nạn xã hội – AFESIP Việt Nam. Nâng cao kỹ năng hỗ
trợ tâm lý cho nạn nhân bị buôn bán trở về tái hòa nhập cộng đồng. Tài liệu tập
huấn. Tháng 6/ năm 2010.
[19]. Cục Phòng chống tệ nạn xã hội - Bộ lao động thƣơng binh xã hội. Chế độ
chính sách và các địa chỉ hỗ trợ dành cho những người bị buôn bán trở về. Công
ty in Quang Trung. ( 2009 )
[20]. Từ Ngọc Châu (2009). Báo cáo đánh giá tình hình nạn nhân bị buôn bán
trở về và các dịch vụ hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng. Trung Tâm Nâng Cao Chất
Lƣợng Cuộc Sống (Life).
[21]. Lê Bạch Dƣơng, Khuất Thu Hồng – Viện Nghiên cứu phát triển xã hội
ISDS (2008). Di dân và bảo trợ xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ sang
112
kinh tế thị trường. Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội.
[22]. Lê Bạch Dƣơng, Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng, Lê Hoài Trung,
Robert Leroy Bach – Viện Nghiên cứu phát triển xã hội ISDS (2005). Bảo trợ xã
hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam. Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội.
[23]. Trần Thị Minh Đức (2002), Tư vấn và tham vấn – thuật ngữ và cách tiếp
cận, Tạp chí Tâm lý học (số 8).
[24]. Trần Thị Minh Đức (2000), Quan niệm về tư vấn tâm lý, Tạp chí Đại học và
Giáo dục chuyên nghiệp (số 6).
[25]. Trần Thị Minh Đức. Kỹ năng tham vấn cho người chưa thành niên vi phạm
pháp luật. (2010). Tổ chức Plan tại Việt Nam.
[26]. Nguyễn Văn Hƣơng (2008). Vấn đề nạn nhân của tội mua bán phụ nữ ở
Việt Nam. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. (Tạp chí luật học, số 5/2008 tr. 32-38)
[27]. Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Nâng cao năng lực pháp luật về phòng,
chống buôn bán phụ nữ, trẻ em cho cán bộ hội liên hiệp phụ nữ các cấp. NXB
Phụ nữ. Năm 2007.
[28]. Lê Tiêu La (2002). Báo cáo khảo sát thực trạng những nạn nhân nữ trở về
do buôn bán phụ nữ ở Tây Ninh. Trung tâm Xã hội học, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh. Hà Nội.
[29]. Hồ Lê (2005). Từ điển Tiếng Việt. NXB Khoa học xã hội.
[30]. Nguyễn Kim Liên (2008). Phát triển Cộng đồng. NXB Lao động – xã hội.
Hà Nội.
[31]. Luật phòng chống mua bán người số 66/2011/QH12 của Quốc hội có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2012.
[32]. Bùi Thị Xuân Mai, Nguyễn Thị Thái Lan, Lim Shaw Hui (2008). Giáo
trình Tham vấn. NXB Lao động – xã hội.
[33]. Bùi Thị Xuân Mai (2009), Giải pháp nhằm hạn chế bạo lực gia đình với
phụ nữ và trẻ em.
[34]. Bùi Thị Xuân Mai, Tham vấn- một dịch vụ xã hội cần được phát triển ở
Việt Nam, Tạp chí Tâm lý học, số 2/2005.
[35]. Bùi Thị Xuân Mai (Chủ biên, 2008), Giáo trình tham vấn, Trƣờng Đại học
113
Lao động – Xã hội, NXB Lao động – Xã hội – 2008.
[36]. Nguyễn Duy Nhiên (2009). Công tác xã hội nhóm. Đại học Sƣ phạm Hà
Nội.
[37]. Nguyễn Duy Nhiên (2009) . Nhập môn Công tác xã hội. Đại học Sƣ phạm
Hà Nội.
[38]. Ngôi nhà bình yên – Trung tâm phụ nữ và phát triển (2013). Tự truyện của
nạn nhân bị mua bán trở về, Hà Nội
[39]. Ngôi nhà bình yên – Trung tâm phụ nữ và phát triển (2014). Báo cáo tổng
kết Ngôi nhà bình yên giai đoạn 2007-2013, Hà Nội
[40]. Ngân hàng Thế giới. Báo cáo phát triển thế giới “Cải thiện các dịch vụ để
phục vụ người nghèo” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2004)
[41]. Ngân hàng thế giới.(2012). Đánh giá giới tại Việt Nam
[42] Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Nghị định thư về phòng chống buôn bán
người. Năm 2001.
[43]. Lê Thị Quý (2000). Ngăn chặn buôn bán phụ nữ ở Việt Nam. NXB Lao
động-Xã hội, Hà Nội.
[44]. Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Bộ luật hình
sự.
[45]. Quỹ phát triển phụ nữ Liên hợp quốc (Unifem), (2013), Cedaw và pháp
luật: Nghiên cứu rà soát văn bản pháp luật ở Việt Nam trên cơ sở quyền và giới
qua lăng kính Cedaw
[46]. Quyết định 130/2004/QĐ-TTg ngày 14/07/2004 của Thủ tƣớng Chính phủ
phê duyệt Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ
em giai đoạn 2004 – 2010.
[47]. Quyết định 312/2005/QĐ-TTg ngày 30/11/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ
phê duyệt các đề án thuộc Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm buôn
bán phụ nữ, trẻ em.
[48]. Quyết định 17/2007/QĐ-TTg ngày 29/01/2007 của Thủ tƣớng chính phủ
phê duyệt Quy chế tiếp nhận tái hòa nhập Cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn
114
bán từ nƣớc ngoài trở về.
[49]. Trƣơng Thị Tâm, Luận văn thạc sĩ Công tác xã hội (2014).Vai trò của nhân
viên CTXH trong việc hỗ trợ cho phụ nữ bị bạo lực gia đình (nghiên cứu trường hợp tại mô hình “Ngôi nhà Bình Yên” – Trung Tâm Phụ Nữ và Phát Triển)
[50]. Trần Đình Tuấn (2002), Công tác xã hội-Lý thuyết và thực hành.
[51]. Nguyễn Thị Tuyết (Năm 2011). Công tác xã hội dành cho nhân viên làm
việc tại Ngôi nhà bình yên. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam- AECID. [52]. Thông tư 116/LB – TC – TBXH ngày 27/09/2007 của Liên bộ tài chính – Lao động thƣơng binh xã hội hƣớng dẫn về chế độ chính sách hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán trở về.
[53]. Thông tư 03/LT ngày 08/05/2008 của Liên bộ Công an – Quốc phòng –
Ngoại giao – Lao động Thƣơng binh Xã hội về hƣớng dẫn trình tự, thủ tục xác
minh tiếp nhận phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về.
[54]. Trƣờng đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I,
NXB Công An Nhân Dân. Năm 2005. Hà Nội. tr.428
[55]. Tổ chức Lao động thế giới ILO (2012). Ước tính số lao động bị ép buộc
toàn cầu.
[56]. Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em (2007). Tài liệu bồi dưỡng công tác xã
hội cho cán bộ cơ sở. Nhà xuất bản lao động. Hà Nội
[57] Ủy ban Cedaw. Báo cáo của các tổ chức phi chính phủ về việc thực hiện
công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Cedaw) tại Việt
Nam. (2006)
[58] Ủy ban Cedaw và Quỹ phát triển phụ nữ Liên hợp quốc (Unifem) (năm
2009). Các nhận xét kết luận về Việt Nam của Ủy ban xóa bỏ phân biệt đối xử
chống lại phụ nữ
[59] UN Women - Cơ quan Liên hợp Quốc về phụ nữ tại Việt Nam, năm 2013. Một mục tiêu độc lập mang tính chuyển biến nhằm đạt được bình đẳng giới,
quyền của phụ nữ và trao quyền cho phụ nữ: tính cấp bách và các hợp phần
chính” [60]. Andrew J.Dubrin (2001), Leadership Reseach Fidings, Pactive anh Skill, N.Y.Random House.
[61]. Chalse Zastrow (1996), Social Work and Social Welfare. [62] Malcolm Payne (Ngƣời dịch Trần Văn Kham) (1997), Mordem Social work
theory, NXB Lyceum Books, INC,. [63]. Phil Marshall (Năm 2006). Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện công tác tiếp nhận, phục hồi và tái hòa nhập đối với nạn nhân bị buôn bán ở Việt Nam.
115
Quỹ nhi đồng liên hợp quốc UNICEF.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: Bảng hỏi thu thập thông tin
PHIẾU KHẢO SÁT Phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh
Để giúp hoạt động của nhân viên công tác xã hội trong trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về tại nhà tạm lánh đạt kết quả cao; Hiện nay tôi đang triển khai đề tài nghiên cứu “Hoạt động trợ giúp phụ nữ bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng”. Đây là bảng câu hỏi sử dụng cho Luận văn của học viên cao học Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn. Mong chị/em tham gia trả lời những câu hỏi sau đây bằng việc đánh dấu vào các phương án trả lời phù hợp với suy nghĩ của chị/em (có thể có nhiều phương án trả lời).
CAM KẾT BẢO MẬT
Sự tham gia của chị/em vào khảo sát này sẽ được bảo mật. Không ai ngoại trừ người khảo sát được phép biết về thông tin mà chị/em chia sẻ. Khảo sát này chỉ dành cho mục đích nghiên cứu. Xin cảm ơn sự tham gia của chị/em!
A. Thông tin cơ bản
1. Năm sinh . . . . . . . . . . . . . . . . (nếu không nhớ thì ghi số tuổi):……………….. Nam
Nữ 2. Giới tính: 3. Dân tộc: ........................... 4. Nơi thƣờng trú (đăng ký hộ khẩu):
.........................................................................................
5. Tình trạng sức khỏe của chị/em khi trở về (chỉ chọn 1 câu trả lời)
Bình thƣờng
Mắc bệnh Bệnh gì (ghi rõ):……………………………………. Không trả lời
6. Tình trạng tâm lý khi trở về (chỉ chọn 1 câu trả lời)
Bình thƣờng
Khủng khoảng Khác (ghi rõ):……....…………….………………. Không trả lời 7. Khi mới đến ở nhà tạm lánh, chị/em có mong muốn (nhu cầu) nhận đƣợc những hỗ
trợ gì? (có thể chọn nhiều câu trả lời)
Nhà ở Quần áo mặc
Ăn uống Khám bệnh, chữa bệnh
Nƣớc sạch Đồ dùng vệ sinh cá nhân (xà phòng, dầu gội, vệ sinh phụ nữ…) Làm hộ khẩu
Làm CMND
Tƣ vấn, tham vấn tâm lý
116
Làm thủ tục ly hôn Công nhận quyền nuôi con Tham gia vào sinh hoạt câu lạc bộ, đƣợc đi dã ngoại, thăm quan… Vay vốn
Đào tạo nghề
Học các kỹ năng: giao tiếp, ứng xử, nấu ăn…
Học kỹ năng quản lý tài chính, sử dụng vốn vay hiệu quả
Các dịch vụ hỗ trợ khác (ghi rõ) ………….…………...……………………… ……...…………………………………...……
B. Các dịch vụ hỗ trợ đƣợc nhận tại nhà tạm lánh: 8. Những hỗ trợ chị/em nhận đƣợc khi ở nhà tạm lánh này là gì? (có thể chọn nhiều
câu trả lời)
Nhà ở Quần áo mặc
Ăn uống Khám bệnh, chữa bệnh
Nƣớc sạch Đồ dùng vệ sinh cá nhân (xà phòng, dầu gội, vệ sinh phụ nữ…) Làm hộ khẩu
Làm CMND
Tƣ vấn, tham vấn tâm lý
Làm thủ tục ly hôn Công nhận quyền nuôi con Tham gia vào sinh hoạt câu lạc bộ, đƣợc đi dã ngoại, thăm quan… Vay vốn
Đào tạo nghề
Học các kỹ năng: giao tiếp, ứng xử, nấu ăn…
Không có hỗ trợ nào
Học kỹ năng quản lý tài chính, sử dụng vốn vay hiệu quả
Các dịch vụ hỗ trợ khác (ghi rõ) …………………. …………...………… …
9. Chị/em có về chung với con dƣới 18 tuổi không?
Có
Không (chuyển sang câu 11)
10. Những dịch vụ hỗ trợ con chị nhận đƣợc là gì?
Nhà ở Quần áo mặc
Ăn uống Khám bệnh, chữa bệnh
Nƣớc sạch Đồ dùng vệ sinh cá nhân (xà phòng, dầu gội …) Nhập quốc tịch
Làm giấy khai sinh
Không có hỗ trợ nào
Tham gia vào sinh hoạt câu lạc bộ, vui chơi, giải trí
Tƣ vấn, tham vấn tâm lý Thủ tục nhập học, đi học
Dịch vụ khác (ghi rõ) …………………………………..…………………………
117
chị/em khác nhận đƣợc sự hỗ trợ này; chị/em có cảm giác gì?
Cảm thấy an toàn, đƣợc bảo vệ , bình yên
Cảm thấy yên tâm không bị đói
Cảm thấy không gần gũi, không phải nhà của mình
Vẫn cảm thấy lo lắng, bất an
Cảm thấy yên tâm nhƣ mái ấm gia đình, không bị lang thang Điều kiện sinh hoạt vẫn chƣa tốt Cảm giác khác (ghi rõ) ………………………………..……………………………
C. Nhóm dịch vụ hỗ trợ về nhà ở, điều kiện sinh hoạt 11. Nếu chị/ em từng đƣợc nhận trợ giúp về nhà ở, điều kiện sinh hoạt hoặc quan sát
D. Dịch vụ hỗ trợ về chăm sóc sức khỏe 12. Nếu chị/ em từng đƣợc nhận trợ giúp về chăm sóc sức khỏe hoặc quan sát chị/em
khác nhận đƣợc sự hỗ trợ này; chị/em có nhận xét gì?
Cảm thấy đƣợc chăm sóc chu đáo
Đƣợc chữa khỏi bệnh, khỏe mạnh hơn
Không chữa khỏi đƣợc bệnh Nhận xét khác (ghi rõ) ………………………………..……………………………
E. Dịch vụ hỗ trợ về tâm lý 13. Nếu chị/ em từng đƣợc nhận trợ giúp về tâm lý hoặc quan sát chị/em khác nhận đƣợc sự hỗ trợ này; chị/em có thể kể lại chị/em nhận đƣợc hỗ trợ nhƣ thế nào? …......................................................................................................................................... ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. …......................................................................................................................................... 14. Nếu chị/ em từng đƣợc nhận trợ giúp về tâm lý hoặc quan sát chị/em khác nhận
đƣợc sự hỗ trợ này; chị/em có cảm giác gì? Cảm thấy dịch vụ có ích với bản thân
Cảm thấy bình yên, hết khủng hoảng
Không có ích, không thay đổi đƣợc điều gì Cảm giác khác (ghi rõ) ………………………………..……………………………
G. Dịch vụ nâng cao kỹ năng sống: 15. Nếu chị/ em từng đƣợc nhận những hỗ trợ để nâng cao kỹ năng sống hoặc quan sát
Cách dạy các kỹ năng khó tiếp thu
chị/em khác nhận đƣợc sự hỗ trợ này; chị/em có nhận xét gì? Các hoạt động rất bổ ích, phù hợp
Các hoạt động không bổ ích, không phù hợp
Sau khi học các kỹ năng, cảm thấy tự tin hơn
Cần tăng thêm các dịch vụ để nâng cao kỹ năng sống Sau khi học các kỹ năng, bản thân cảm thấy không thay đổi gì Nhận xét khác (ghi rõ) ………………………………..………………………..
118
H. Dịch vụ hỗ trợ về pháp lý 16. Nếu chị/ em từng đƣợc nhận trợ giúp về pháp lý hoặc quan sát chị/em khác nhận
đƣợc sự hỗ trợ này; chị/em có nhận xét gì?
Thủ tục nhanh gọn
Thủ tục rƣờm rà
Hỗ trợ đƣợc các hoạt động liên quan đến pháp lý Đƣợc làm hộ khẩu Đƣợc trợ giúp làm thủ tục ly hôn
Đƣợc trợ giúp nhập quốc tịch, làm giấy khai sinh cho con
Nhận xét khác (ghi rõ) ………………………………..………………………..
I. Hỗ trợ về tƣ vấn hƣớng nghiệp, dạy nghề hoặc việc làm 17. Nếu chị/ em từng đƣợc nhận trợ giúp về dạy nghề hoặc việc làm hoặc quan sát
Học nghề quá khó với năng lực của bản thân mình Có quá ít nghề và việc làm phù hợp để chọn lựa
Hiện tại vẫn chƣa tìm đƣợc việc làm phù hợp
chị/em khác nhận đƣợc sự hỗ trợ này; chị/em có nhận xét gì? \ Đƣợc học nghề phù hợp Đƣợc giới thiệu việc làm phù hợp Có nhiều nghề và việc làm để mình tự do chọn lựa Nhận xét khác (ghi rõ) ………………………………..…………………..
K. Hỗ trợ về vay vốn, trợ cấp khó khăn 18. Nếu chị/ em từng đƣợc nhận trợ giúp về về vay vốn, trợ cấp khó khăn hoặc quan
sát chị/em khác nhận đƣợc sự hỗ trợ này; chị/em có nhận xét gì? Vốn vay đủ để lập nghiệp
Vốn vay quá ít không làm đƣợc việc
Vốn vay lãi suất thấp, có thời hạn lâu dài
Không đƣợc hƣớng dẫn quản lý tài chính, sử dụng vốn vay hiệu quả
Đƣợc hƣớng dẫn quản lý tài chính, sử dụng vốn vay hiệu quả Vốn vay lãi suất cao, có thời hạn ngắn, sớm phải đáo hạn Nhận xét khác (ghi rõ) ……………………………..………………………………… ………………………………………………………
M. Hỗ trợ khác 19. Nếu chị/ em có nhận đƣợc hỗ trợ nào khác (ngoài các hỗ trợ trên) hoặc quan sát chị/em khác nhận đƣợc các hỗ trợ khác; chị/em xin vui lòng cho biết nhận xét của mình. ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... .......................................................................................................................................
N. Đánh giá 20. Chị/ em hãy đánh giá mức độ hài lòng khi đƣợc thụ hƣởng các dịch vụ tại
Trung tâm.
119
TT
Dịch vụ hỗ trợ
Rất tốt (1)
Tốt (2)
Bình thường (3)
Chưa tốt (4)
1 Nhóm dịch vụ hỗ trợ về nhà ở, điều kiện
sinh hoạt
2 Dịch vụ hỗ trợ về chăm sóc sức khỏe 3 Dịch vụ hỗ trợ về tâm lý 4 Dịch vụ nâng cao kỹ năng sống 5 Dịch vụ hỗ trợ về pháp lý 6 Hỗ trợ về tƣ vấn hƣớng nghiệp, dạy nghề
hoặc việc làm
7 Hỗ trợ về vay vốn, trợ cấp khó khăn 8 Dịch vụ khác (ghi rõ) …………………….
L. Mong đợi 21. Chị/em có mong muốn đƣợc hỗ trợ thêm dịch vụ nào khác ở tại nhà tạm lánh này
không? (Nguyện vọng và đề xuất để nhà tạm lánh hoạt động tốt hơn. ) ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... .......................................................................................................................................
TT
Dịch vụ hỗ trợ
1 Nhóm dịch vụ hỗ trợ về nhà ở, điều kiện sinh hoạt
2 Dịch vụ hỗ trợ về chăm sóc sức khỏe
3 Dịch vụ hỗ trợ về tâm lý
4 Dịch vụ nâng cao kỹ năng sống
5 Dịch vụ hỗ trợ về pháp lý
6 Hỗ trợ về tƣ vấn hƣớng nghiệp, dạy nghề hoặc việc làm
7 Hỗ trợ về vay vốn, trợ cấp khó khăn
22. Chị/em có muốn đƣợc thay đổi việc hỗ trợ các dịch vụ nào sau đây không? Có
Không
Khác (ghi rõ):………………………………………………..
23. Chị /emcó cảm nhận gì về môi trƣờng sống ở nhà tạm lánh? Nhân viên xã hội ở
đây làm việc nhƣ thế nào? ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... .....................................................................................................................................
Cảm ơn chị em rất nhiều đã dành thời gian để chia sẻ ý kiến. Chúc chị em sức khỏe và may mắn. Ngày:…… ……..
120
PHỤ LỤC 2:
1. Biên bản Phúc trình vấn đàm 1:
Nội dung: tiếp cận thân chủ, giải tỏa khủng hoảng tâm lý ban đầu.
Thời gian: 9h sáng ngày 28/04/2014;
Địa điểm: phòng chờ y tế (Không gian yên tĩnh, thân mật)
Mô tả phản
Các hoạt động kĩ
ứng cảm xúc của
Nội dung vấn đàm
năng của nhân viên
thân chủ
CTXH
Cửa chính vẫn đang mở nhƣng nhân viên xã
- Ấn tượng ban
Thái độ tôn trọng
đầu: Thân chủ
hội (N) vẫn gõ tay lên cửa và cất tiếng chào:
ngồi quay lƣng lại
N: Chào M, hôm nay bạn có khỏe không?
với cửa chính,
M: Dạ, em chào chị. Em cũng tàm tạm vậy.
hƣớng mặt nhìn ra
N: Chị Trang giới thiệu M biết mình rồi
Giới thiệu
cửa sổ. Dáng ngồi
đúng không? Mình tên là N- là nhân viên
rụt vai.
thực tập ở đây. Mình rất vui khi đƣợc làm
Khi nhân viên
quen với bạn
CTXH N cất tiếng
M: Dạ, vâng.
chào, M giật mình
N: M vừa phải lấy máu xét nghiệm đúng
quay lại, có thoáng
không? Bạn có thấy mệt không?
chút hoảng hốt.
M: Dạ có thấy choáng váng đôi chút nhƣng
(mặc dù đã đƣợc
ngồi nghỉ một chút em thấy tỉnh hơn rồi.
biết trƣớc về cuộc
N: M đang ngồi chờ kết quả đúng không?
gặp – biết sẽ gặp
M: Dạ, chắc là sắp có kết quả rồi phải
ai)
không chị?
Khuyến khích sự
N: ừ, chắc một lát nữa thôi chúng mình sẽ
chia sẻ
biết kết quả. Không sao đâu mà, kết quả lần
trƣớc đã là âm tính, chị nghĩ lần này cũng sẽ
tốt thôi, M có đồng ý vậy không? Hì, nhƣng
mình vẫn thấy M lo lắng lắm nhé, phải
không?
M: vâng, em thấy sợ lắm. Vì các chị đã từng
phân tích là trong giai đoạn đầu sẽ khó phát
121
hiện HIV, lần trƣớc xét nghiệm âm tính
không có nghĩa là lần này cũng vậy. Em sợ
Phản hồi cảm
nhiễm HIV lắm vì một tháng trƣớc khi về
xúc: thấu hiểu
nƣớc em đã bị bắt tiếp rất nhiều khách và có
nhiều lần khách không dùng Bao cao su.
N: Mình hiểu điều đó, đó là cảm xúc chung
Động viên
của nhiều ngƣời ở hoàn cảnh nhƣ em.
- Khi nói chuyện,
Nhƣng M hãy vững tin lên nào, mình cũng
đôi mắt M thƣờng
biết có nhiều trƣờng hợp nhƣ M xét nghiệm
xuyên nhìn xuống,
2 lần đều âm tính mà, không đƣợc sợ, phải
Luôn lắng nghe
em hay rụt vai, có
học cách đối diện nào. Bạn đã trải qua biết
và giữ giao tiếp
lúc vừa nói vừa
bao khó khăn trƣớc đây, đã may mắn vƣợt
duy trì bằng ánh
gục mặt khóc.
qua đƣợc, mình tin may mắn sẽ lại đến với
mắt
bạn khi bạn biết đối diện. Bình tĩnh nào...
M: Em biết, em đã từng sống khổ nhƣ thế
nào, về đƣợc Việt Nam, đƣợc các chị cƣu
Khôi phục và giữ
mang ở đây là hạnh phúc lắm rồi, nhƣng nếu
vững niềm tin
em bị HIV là em sẽ chết, em chết thì không
sao nhƣng đâu có chết luôn đƣợc, em lại
sinh con ra, con lại nhiễm HIV thì sao?
N: Bạn đừng nghĩ tiêu cực nhƣ thế, mình tin
bạn là ngƣời biết cách đối diện và luôn lạc
quan phải không? Hãy nghĩ theo chiều
Chi tiết nói lên
hƣớng ấy đi, mọi chuyện đều có cách giải
dấu hiệu của
quyết. Hơn nữa, nếu trong tình huống xấu
khủng hoảng tâm
nhất, nếu bạn có HIV, thì chƣa chắc con bạn
lý.
sẽ có HIV, chúng ta sẽ tìm cách can thiệp y
Sử dụng ngôn
tế tốt nhất để giúp con bạn an toàn, đã có
ngữ cử chỉ
nhiều trƣờng hợp làm đƣợc rồi mà, hãy nghĩ
về điều tốt đẹp đó nhé M!
M: Dạ, em biết. Nhƣng em cảm thấy bế tắc
lắm. Khi đi ngủ, cứ nhắm mắt xuống là em
122
lại mơ thấy tiếng trẻ con khóc, thấy mình cứ
Suy nghĩ sâu
cách xa con từ từ... thật đáng sợ... (M gục
trong lòng thân
mặt xuống nức nở)
chủ bắt đầu đƣợc
N: (nhẹ nhàng cầm tay M và nâng khuôn
bộc lộ
mặt M lên): Nào M, bạn hãy nhìn lên đi,
nhìn thẳng vào mắt mình đi, đừng nghĩ nhƣ
vậy, hãy nghĩ về điều mình vừa nói, rồi tất
cả sẽ qua thôi, sẽ bình yên thôi!
M: Có những lúc em nghĩ, hay là mình bỏ
con đi. Mình không biết có nhiễm HIV
Hƣớng thân chủ
không, kể cả may mắn không nhiễm đi nữa
sang một suy
thì liệu em có khả năng nuôi con không chị?
nghĩ mới tích cực
Em chẳng có việc làm. Em có làm đƣợc việc
hơn.
gì không? Em có xin đƣợc việc không? Em
kém cỏi và ngu dốt lắm!
Bây giờ em chỉ có một thân một mình. Gia
đình không giúp đỡ đƣợc em điều gì đâu.
Em có nên sinh con không chị? Sinh con ra
mà em không biết làm gì để nuôi con, con
Lặp lại câu hỏi
không có cha, mà cha đứa bé em cũng
lần nữa để đào
không biết là ai nữa? ( cảm xúc của M
sâu suy nghĩ thân
dƣờng nhƣ đau đớn đến tột cùng, trong đôi
chủ.
mắt em tôi nhìn rõ ánh nhìn thảng thốt nhƣ
Giúp thân chủ
đang kiếm tìm một lối thoát).
hiểu đƣợc suy
N: Chị hiểu em đang đối diện với rất nhiều
nghĩ và hành
khó khăn. Nhƣng em đã vƣợt qua bao khó
động của chính
khăn để về đƣợc Việt Nam. Điều đó chứng
mình có ảnh
tỏ, em rất can đảm và cũng may mắn nữa,
hƣởng thế nào
đúng không nào? Hãy nghĩ có rất nhiều
đến tƣơng lai.
ngƣời chƣa đƣợc may mắn nhƣ em, nhƣ các
Nhân viên xã hội
chị em khác trong NNBY này!
N đôi lúc đan xen
M: Dạ, em biết.
123
những bài tập thƣ
N: Bình tĩnh nào để xác định xem điều gì là
giãn nhỏ cho thân
quan trọng nhất với cuộc sống của em lúc
chủ M nhƣ: “tập
này. Em hãy nghĩ đi, trong cuộc sống của
Phân tích sâu và
ngồi thẳng lƣng,
em hiện tại, ai là ngƣời quan trọng nhất?
khai thác suy
không rụt vai,
M: Em có gia đình, có bố thì lấy vợ rồi, mẹ
nghĩ của thân
nhắm mắt và hít
mất rồi, chị và em 3 cũng có chồng ổn định
chủ, để thân chủ
thở sâu, tƣởng
rồi, 2 em thì còn nhỏ đâu biết gì để chia sẻ
tự quyết.
tƣợng những điều
với em, còn con em nữa, em thấy tội lắm.
tốt đẹp – hạnh
N: Ai là ngƣời quan trọng nhất trong cuộc
phúc”. Những bài
sống của em hiện tại?
tập nhỏ này giúp
M: Em không biết! ( bối rối)
Khai thác cảm
M cảm thấy thƣ
N: Đó chính là bản thân em đấy. Em là vị trí
xúc
giãn và dễ dàng
quan trọng nhất trong cuộc sống của em.
tâm sự hơn. Nhân
Em suy nghĩ điều gì, quan tâm điều gì và
viên xã hội tránh
quyết định làm mọi việc ra sao sẽ ảnh
cho em bị kích
hƣởng tới chính cuộc sống của em.
động khi chạm đến
M: Em chƣa hiểu lắm chị ơi!
Động viên và
nỗi đau sâu kín,
N: Lúc nãy khi suy nghĩ về hoàn cảnh mình
khen ngợi thân
chạm đến quá khứ,
hiện nay, em đã lo sợ không nuôi đƣợc con
chủ giúp thân
tránh cho những
và đã từng phân vân có suy nghĩ hay là bỏ
chủ lạc quan
hình ảnh quá khứ
con đi đúng không?
trở về không ảnh
M: Em sợ mình nhiễm HIV nữa!
hƣởng đến tinh
N: Đúng vậy, sau khi có kết quả em nên suy
thần của M.
nghĩ nhiều hơn và có quyết định đúng đắn.
Chúng ta sẽ cùng bàn xem, tƣơng lai em sẽ
làm việc gì, có khả năng kinh tế bƣớc đầu
để một thân một mình nuôi con không. Nếu
em không muốn giữ con lại, thì phải quyết
định sớm, vì bây giờ thai nhi cũng đƣợc 4
tháng rồi. Em còn trẻ và tƣơng lai còn dài
lắm. Mình còn có rất nhiều cơ hội em à.
M: Dạ vâng, em sẽ suy nghĩ.
124
N: Từ nãy giờ nói chuyện, em cảm thấy thế
nào?
M: Em cảm thấy bớt lo lắng hơn. Khi bình
tâm lại, chắc em sẽ biết mình phải làm gì.
N: Đúng vậy, em phải thật bình tâm, không
nên căng thẳng hay hoảng sợ. Em đang ở
trong NNBY, mọi ngƣời ở đây đều yêu quý
em và sẽ giúp đỡ em hết lòng. Em sẽ vƣợt
qua khó khăn sớm thôi, vì em là ngƣời nghị
lực và giàu niềm tin. Và ngƣời có đức tính
nhƣ vậy sẽ luôn thành công, chị tin nhƣ vậy.
M: Thật thế không chị?
N: Lúc nào căng thẳng, hãy viết ra giấy
những điều mình nghĩ nhé.
M: Vâng , em cảm ơn chị.
Sau đó, nhân viên xã hội N giúp thân chủ
M tập vài động tác hít thở sâu thư giãn cơ
thể. Một lát sau, đã có kết quả xét nghiệm.
M âm tính với HIV. Cả hai đều rất vui.
Trong ánh mắt M thể hiện rõ ngập tràn
hạnh phúc. M cảm ơn mọi người rối rít.
125
2. Biên bản phúc trình vấn đàm 2
Nội dung: Bản phúc trình vấn đàm cùng thân chủ M khẳng định nhu cầu
và cùng thống nhất kế hoạch hoạt động:
Thời gian: 9h sáng ngày 13.05.2014
Địa điểm: văn phòng tƣ vấn và trị liệu tâm lý – Địa chỉ: 16A Ngô Tất Tố
Mô tả phản
ứng cảm xúc
Nội dung vấn đàm
của thân chủ
Lần gặp này,
N: Chào M, hôm nay bạn có khỏe không?
thân chủ cởi
M: Dạ, em chào chị, em khỏe ạ! Chị thế nào?
mở hơn với
N: cảm ơn em. Chị khỏe. Hôm nay chị em mình cùng bàn bạc về
nhân viên xã
việc làm của em sắp tới nhé. Em nghĩ mình có thể làm gì?
hội.
M: Dạ, em kém lắm, chẳng biết làm gì đâu. Từ nhỏ em chỉ theo mẹ
Thân chủ M
và các anh chị đi làm ruộng thôi. Sang Trung Quốc em cũng làm
thân thiện hơn,
ruộng.
cảm xúc tích
N: Em có thích đƣợc làm việc gì khác không?
cực hơn và
M: Dạ, có. Em thích nhiều chứ. Mơ ƣớc có nhiều nhƣng với hoàn
không né tránh
cảnh của em đâu có quyền mơ ƣớc.
những câu hỏi
N: Em không nên nghĩ vậy nhé, xem nào em mới có 21 tuổi, tƣơng
của nhân viên
lai còn dài, và chị thấy em cũng rất nhanh nhẹn và khéo léo nữa.
XH
Khi cùng đan len hay làm thiệp cùng các chị em trong nhà này, em
lúc nào cũng đan nhanh nhất và khéo nhất nữa. Những bức thiệp
em làm rất đẹp, mọi ngƣời đang có ý định làm nhiều hơn để đi bán
để các chị em trong nhà có thêm tiền tiêu vặt đấy!
M: Thế ạ! Em sẽ cố gắng. hì
N: NNBY đang có ý định giới thiệu em đi học thêm văn hóa hoặc
học nghề gì đó. Em có muốn học thêm không?
M: Dạ muốn chứ ạ! Em thích đi học lắm, nhƣng ngày trƣớc nhà
nghèo em chỉ đƣợc học hết lớp 7 thôi.
N: Bây giờ em muốn đi học tiếp lên không?
M: Dạ không, lâu rồi không học chữ nghĩa, em ngại học sợ không
126
tiếp thu đƣợc nữa đâu. Với lại bây giờ em bụng mang dạ chửa thế
này, sắp sinh con rồi học sao đƣợc
N: Lần trƣớc em nói với chị về ý nghĩ không muốn sinh con, giờ
em nghĩ thế nào?
M: Dạ, lần trƣớc em sợ có HIV rồi sợ sẽ lây cho con, sợ con không
cha nên em có ý nghĩ đó. Nhƣng thực sự từ trong tâm can em, em
không bao giờ muốn bỏ con cả chị à. Em chỉ sợ một thân một mình,
không có việc làm, không có tiền nuôi con thôi. Bây giờ con lại
chính là động lực cho em phấn đấu ấy, vì có lẽ đó là ngƣời thân tốt
nhất gắn bó máu mủ với em lúc này. Ngày nào em cũng nói chuyện
với con, mong con hiểu cho mẹ.
N: Chị hiểu, tình mẫu tử có ý nghĩa lớn lắm. Con em sẽ là động lực
giúp em vƣợt qua mọi khó khăn.
M: Chị à, em muốn đƣợc học nghề may đƣợc không chị?
N: Ồ, đƣợc em à. Chị thấy em rất khéo tay, có lẽ em rất hợp với
nghề may mặc đấy!
M: Từ bé em đã thích trở thành thợ may rồi chị à! Nhƣng không
đƣợc học.
N: vậy chị sẽ liên lạc với vài cơ sở học may rồi em sẽ đến đó thăm
quan và học thử, nếu cảm thấy thích và học tốt thì theo học nhé.
M: Dạ vâng, em cảm ơn chị nhiều lắm.
N: Em học nghề may là đã yên tâm về khoản học nghề rồi nhé.
Thời gian ở NNBY cùng không đƣợc lâu lắm, chỉ khoảng 18 tháng
thôi, chị em mình sẽ cùng bàn bạc kế hoạch sau này nhé. Sau khi
học xong, em có muốn trở về quê không hay sẽ tìm việc làm ở một
nơi nào khác?
M: Thực ra em muốn về quê lắm, em muốn xin miếng đất nhỏ sau
nhà của bố mẹ và dựng cho một căn nhà nhỏ để ở, em muốn mở
một hiệu may nhỏ cho những ngƣời làng. Em cũng muốn xin phần
ruộng của mình để trồng cấy, để em nuôi con. Nhƣng em sợ gia
đình của em không muốn cho em đất, không muốn cho em gì hết,
không muốn cho ai gặp mặt em, không muốn cho em tiếp xúc với
127
ngƣời ngoài, cũng không muốn kể cho ai biết về em nữa.
N: Em lo lắng điều đó là đúng, vì các chị khác có hoàn cảnh giống
em khi trở về nƣớc cũng có lo lắng nhƣ vậy. Nhƣng mình sẽ cùng
tìm cách để cải thiện hoàn cảnh nhé. Chị nghĩ gia đình em sẽ tốt với
em, chỉ vì gia đình em chƣa biết hoàn cảnh thực của em khi lấy
chồng nƣớc ngoài thôi.
M: Không đâu, em sợ lắm. Họ sẽ không tin em đâu. Họ nghĩ ngƣời
cô họ không lừa em, em đã lấy chồng Trung Quốc và sống cuộc
sống sung sƣớng. Em sợ bố sẽ nghĩ là do em sống không tốt nên bị
chồng đuổi về.
N: Em yên tâm nào, đã có chính quyền và NNBY – các chị ở đây
sẽ minh chứng cho em, mọi ngƣời sẽ hiểu em.
M: Có đƣợc thế không chị?
N: Các chị ở đây dự định thời gian sắp tới sẽ về gia đình em và chia
sẻ hoàn cảnh của em. Chị tin mọi ngƣời sẽ đón chào em trở về và
yêu thƣơng em hơn. Chị nghĩ em cũng có thể viết thƣ trƣớc cho bố
hoặc chị gái, em gái em ở nhà để chia sẻ xem hồi âm của mọi ngƣời
ra sao. Em thấy nhƣ vậy có đƣợc không?
M: Dạ, em cũng muốn viết thƣ từ lâu rồi chị ạ!
N: Nếu gia đình chào đón em trở về và em muốn trở về sớm, các
chị sẽ tạo điều kiện giúp em. Nếu bố không muốn cho em mảnh đất
nào thì em cứ học xong nghề may đi, các chị sẽ liên hệ với cơ sở đó
hoặc công ty may mặc khác để em làm việc một thời gian. Khi tay
nghề khá và có vốn, lúc đó em trở về quê hoặc đi nơi khác mở cửa
hiệu may cũng rất tốt mà.
M: Em cám ơn chị, đó là điều mà em mong ƣớc.
N: Vậy chị sẽ liên hệ để sắp xếp cho em đi học nhé! Cứ bình tâm
và chị em mình thống nhất sẽ làm những điều vừa bàn nhé.
M: Dạ vâng.
128
PHỤ LỤC 3: TỔNG HỢP SỐ LIỆU CÁC DỊCH VỤ HỖ TRỢ TẠI NNBY TỪ NĂM 2007 ĐẾN 31 08 2013 (Nguồn: Trung tâm phụ nữ và phát triển)
STT
Tên dịch vụ
Ghi chú
Số người được hỗ trợ
Tổng số lần hỗ trợ
Số lần hỗ trợ bình quân/người
257
1 Cung cấp
nơi ăn ở an toàn
Phụ nữ bị mua bán trở về Con đi cùng
15
216
515
2,4
2
Chăm sóc sức khỏe
Chuyển tuyến đến các cơ sở y tế Tại NNBY
257
899
3,2
2744 339
10,2 2,1
257 159 123
3 Hỗ trợ tâm lý 4 Hỗ trợ pháp lý 5
Số người trong diện đối tượng học nghề Tư vấn nghề
123
Tƣ vấn đào tạo nghề, tìm việc làm
Học nghề
65
Có việc làm
52
21
123/123 NTT có nhu cầu học nghề đƣợc tƣ vấn chiếm 100% số ngƣời trong diện đối tƣợng học nghề. 65/123 phụ nữ đi học nghề chiếm 52,8% so với số ngƣời đƣợc tƣ vấn. 52/65 phụ nữ có việc làm chiếm 80% so với số ngƣời học nghề.
6 Đào tạo văn hóa
56
7
Tại các trường lớp Tại NNBY
252
234
8
Đào tạo nâng cao kỹ năng sống Hoạt động vui chơi giải trí
123
Vui chơi giải trí/ dã ngoại Làm sản phẩm thủ công
25
9 Hỗ trợ hồi gia: vay vốn
129
130