ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BÙI THỊ HUYỀN

HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BÙI THỊ HUYỀN

HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI Ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Nhung

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số

liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng

được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018

Tác giả

Bùi Thị Huyền

i

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i

MỤC LỤC ......................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU ............................. iii

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 9

4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 9

5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 9

6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 10

7. Đóng góp của đề tài ..................................................................................... 10

8. Bố cục luận văn ........................................................................................... 11

Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................. 12

1.1. Khái quát về phê bình sinh thái ................................................................ 12

1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái ................................................................ 12

1.1.2. Sự hình thành và phát triển của phê bình sinh thái ............................... 15

1.2. Thẩm mĩ sinh thái, thẩm mĩ phi sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái ....... 20

1.2.1. Thẩm mĩ sinh thái và thẩm mĩ phi sinh thái .......................................... 20

1.2.2. Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái ............................................................... 23

1.3. Quan hệ thiên nhiên - con người theo quan điểm Phật giáo, Nho giáo

và Đạo giáo ...................................................................................................... 24

1.3.1. Phật giáo ................................................................................................ 24

1.3.2. Nho giáo ................................................................................................ 26

1.3.3. Đạo giáo ................................................................................................ 28

1.3.4. Khái quát về tập thơ HĐQÂTT ............................................................. 29

Tiểu kết ............................................................................................................ 30

ii

Chương 2. HỆ SINH THÁI TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP .. 31

2.2. Hệ động vật .............................................................................................. 38

2.3. Nhịp thiên nhiên ....................................................................................... 43

2.3.1. Nhịp bốn mùa ........................................................................................ 43

2.3.2. Nhịp tháng năm ..................................................................................... 49

2.3.3. Nhịp ngày - đêm .................................................................................... 52

Tiểu kết ............................................................................................................ 55

Chương 3. MỐI QUAN HỆ THIÊN NHIÊN - CON NGƯỜI TRONG

HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP ............................................................ 56

3.1. Thiên nhiên - con người tương dung giao hòa ......................................... 56

3.2. Thiên nhiên - đối tượng đề vịnh ............................................................... 67

3.2.1. Thiên nhiên tượng trưng cho vẻ đẹp minh quân lương thần ................. 68

3.2.2. Thiên nhiên tượng trưng cho xã hội thịnh trị, an yên ........................... 73

3.2. 3. Thiên nhiên tượng trưng cho dân tộc ................................................... 76

Tiểu kết ............................................................................................................ 82

KẾT LUẬN .................................................................................................... 83

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 85

PHỤ LỤC

iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU

HĐQÂTT Hồng Đức quốc âm thi tập :

NXB : Nhà xuất bản

ĐHSP : Đại học Sư phạm

iii

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề liên quan mật thiết

đến sự sống trên toàn cầu, trong đó có sự tồn vong của bản thân mỗi chúng ta.

Nhận thức được nguy cơ sinh thái xảy ra ngày càng trầm trọng, nhân loại đã

có những giải pháp và cách thức khác nhau để góp phần “giải trừ nguy cơ

sinh thái”. Đề tài này được thực hiện chính là góp thêm tiếng nói nhỏ bé vào

mối quan tâm chung mang tính nhân loại ấy.

1.2. Phê bình sinh thái ra đời từ thập niên 90 của thế kỉ XX, là một trong

những bộ phận quan trọng của trào lưu tư tưởng sinh thái. Bên cạnh triết học

sinh thái, luân lí học sinh thái, chủ nghĩa nhân văn sinh thái, văn học sinh

thái... phê bình sinh thái đã ra đời “Không chỉ mang đến sự tươi mới cho lĩnh

vực nghiên cứu phê bình mà đây còn là khuynh hướng có sứ mệnh đặc thù với

lịch sử môi trường nhân loại. Thông qua văn học để tra vấn văn hóa, phê

phán văn hóa, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nguy cơ sinh thái; thay đổi cách

ứng xử của con người với tự nhiên đồng thời khẳng định vai trò của ngôn ngữ

trong việc hình thành diễn ngôn về văn minh sinh thái....”[36]. Với sứ mệnh

đặc thù như vậy, phê bình sinh thái đã lan tỏa rộng rãi trên toàn thế giới. Luận

văn vận dụng lí luận phê bình sinh thái vào nghiên cứu HĐQÂTT hy vọng sẽ

đem đến một cách nhìn mới về tác phẩm khá quen thuộc này, tìm ra ý nghĩa

sinh thái tiềm ẩn trong tập thơ, đồng thời chỉ ra hạn chế của nó trong tương

quan với chỉnh thể sinh thái.

1.3. HĐQÂTT là tập thơ viết bằng chữ Nôm của vua Lê Thánh Tông và

tập thể tác giả Hội Tao Đàn ở thế kỉ XV. Đây là một trong những tập thơ với

các sáng của những thi sĩ được coi là tinh tú ở triều đại thịnh trị Hồng Đức.

Trong tập thơ, số bài thơ đề vịnh về thiên nhiên chiếm tới hơn 1/3 tổng số bài.

Nghiên cứu những bài thơ đề vịnh về tự nhiên này từ góc nhìn phê bình sinh

thái, luận văn hy vọng sẽ phân tích hệ sinh thái và mối quan hệ con người - tự

1

nhiên trong HĐQÂTT, góp phần hiểu rõ hơn về thẩm mĩ sinh thái, chủ nghĩa

chỉnh thể sinh thái.

Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Hồng Đức quốc âm thi tập

dưới góc nhìn phê bình sinh thái để nghiên cứu

2. Lịch sử vấn đề

Nhằm khảo sát và làm rõ lịch sử nghiên cứu về HĐQÂTT, chúng tôi

dựa vào các nguồn tài liệu chính sau:

Các chuyên khảo: Văn học Việt Nam (thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII)

(Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1978); Lịch sử Văn học

Việt nam - tập 1(Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,

1980); Hồng Đức quốc âm thi tập (Phạm Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên

phiên âm - chú giải - giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1982); Việt Nam văn

học sử giản ước tân biên - tập 2 - văn học lịch triều Việt văn (Phạm Thế Ngũ

chủ biên, NXB Đồng Tháp, 1997); Thơ Nôm Đường luật (Lã Nhâm Thìn chủ

biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998); Tuyển tập Thơ nôm Lê Thánh Tông và

Hội Tao Đàn (Kiều Văn tuyển chọn, giới thiệu NXB Đồng Nai - 2000); Lược

khảo lịch sử văn học Việt Nam (Từ khởi thủy đến thế kỷ XX) (Bùi Đức Tịnh,

NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005); Lê Thánh Tông về tác

gia và tác phẩm (Hà Minh Đức chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007); Trên

hành trình văn học trung đại Việt Nam (Nguyễn Phạm Hùng chủ biên, NXB

Đại học quốc gia Hà Nội, 2008); Giáo trình văn học trung đại Việt Nam (Lã

Nhâm Thìn chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2015).

Các đề tài, luận văn, luận án: Hồng Đức quốc âm thi tập trong tiến

trình thơ Nôm Đường luật thời trung đại Việt Nam (Luận án Tiến sĩ, Trần

Văn Dũng, Hà Nội, 2006); Nghiên cứu thơ Nôm Lê Thánh Tông trong Hồng

Đức quốc âm thi tập (Luận án Tiến sĩ, Trần Thị Giáng Hoa, Hà Nội, 2013);

Tìm hiểu giá trị của phần phong cảnh môn trong Hồng Đức quốc âm thi tập

(Luận văn tốt nghiệp đại học, Phạm Mai Hương); Phương diện nội dung

trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập (Luận văn tốt nghiệp đại học,

Nguyễn Thị Nga, 2014)...

2

Các bài báo: Hồng Đức quốc âm thi tập một tác phẩm lớn của văn học

tiếng Việt thế kỷ XV (Bùi Duy Tân, Tạp chí văn học số 4 - 1983); Giá trị biểu

đạt nghệ thuật của ngôn ngữ đời sống trong Hồng Đức quốc âm thi tập (Trần

Quang Dũng, Tạp chí Khoa học ĐHSP TP HCM, số 23 năm 2010); Thơ đề

vịnh thiên nhiên trong Hồng Đức quốc âm thi tập (Trần Quang Dũng, Tạp chí

Khoa học ĐHSP TP HCM, số 55 năm 2014)...

Có thể thấy, HĐQÂTT tuy không phải là tập thơ đỉnh cao của văn học

trung đại, nhưng nó có những đặc sắc riêng và đã được không ít nhà nghiên

cứu quan tâm. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày lịch sử nghiên cứu vấn đề

qua hai phương diện chính:

2.1. Lịch sử nghiên cứu chung về HĐQÂTT

Những nghiên cứu chung về HĐQÂTT đã quan tâm đến vấn đề tác giả,

giá trị nội dung và đóng góp về nghệ thuật của HĐQÂTT.

Trong phần thứ 3 “Văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XV và Lê Thánh

Tông” của giáo trình Lịch sử Văn học Việt nam (tập 1), Ủy ban khoa học xã

hội Việt Nam do Đinh Gia Khánh chủ biên đã có những nhận định vừa cụ thể,

vừa khái quát về nghệ thuật của tập thơ: “Trong HĐQÂTT cũng có nhiều câu

thơ phản ánh được những nét chân thật về sinh hoạt của nhân dân...”, “Nói

chung ngôn ngữ văn học dân tộc trong HĐQÂTT đã thành thục và hình tượng

nhiều khi điêu luyện. Thể thơ trong HĐQÂTT là thể thơ thất ngôn và thơ lục

ngôn việc áp dụng niêm luật thơ Hàn luật nói chung khá vững vàng”[17,tr 92].

Những nhận định trên đã khái quát những thành tựu nghệ thuật nổi bật của tập

thơ, nhưng chưa phân tích sâu biểu hiện cụ thể.

Khi giới thiệu cuốn HĐQÂTT, Phạm Trọng Điềm đã có những nhận

xét khái quát về chủ đề chung của tập thơ. Ông cho rằng chủ đề chung của

tập thơ là: “Tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu chính nghĩa, yêu những

trí óc thông minh, yêu những tâm hồn trong sáng, và từ đó toát lên lòng tự

hào dân tộc, trong tổ quốc độc lập và thanh bình”[7, tr17]. Về hình thức

nghệ thuật của tập thơ thơ, tác giả cũng đưa ra ý kiến: “Hình thức và nghệ

3

thuật thơ ở đây có một bước tiến so với Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi...

trừ những chỗ khuôn sáo, gò bó, hình thức và nghệ thuật thơ Hồng Đức

Quốc âm thời Hồng Đức được mở rộng về nhiều mặt, phong phú về đề tài,

sinh động về hình tượng, uyển chuyển về lời văn”[7, tr28]. Bùi Văn

Nguyên trong cuốn sách này cũng cho rằng: “Hồng Đức quốc âm thi tập

cũng nêu lên được nhiều nét truyền thống tốt đẹp trong tinh thần dựng

nước và giữ nước của tổ tiên ta, cũng như về sự vững bền và sức vươn lên

của nền văn hiến Việt Nam”[7, tr67]. Tuy nhiên hai tác giả này mới chỉ nói

một cách chung chung về tập thơ chứ chưa chỉ ra phân tích cụ thể về sự gò

bó, khuôn sáo cũng như phong phú về mặt hình thức của tập thơ.

Luận án HĐQÂTT trong tiến trình thơ Nôm Đường luật thời trung đại

Việt Nam của tác giả Trần Văn Dũng đã có những nhận xét về nội dung của

tập thơ một cách ngắn gọn và đầy đủ như sau: “Hệ thống đề tài chủ đề của

HĐQÂTT khá phong phú và đa dạng, hướng tới nhiều bình diện của hiện thực

đời sống nửa sau thế kỉ XV, từ cuộc sống cung đình cho đến cảnh sống nơi

thôn quê, từ hình ảnh của minh quân lương tướng cho đến hạng ngư, tiều,

canh, mục”[6, tr10]. Về nghệ thuật, tác giá cũng có những nhận xét xác đáng

về việc các thi sĩ Tao Đàn sử dụng tỉ lệ cao lớp từ láy trong HĐQÂTT. Đây

được xem là sáng tạo bất ngờ của các tác giả trong hội Tao Đàn cùng với việc

“sáng tạo một hệ thống hình tượng nghệ thuật bắt nguồn trực tiếp từ cuộc

sống đầy đủ dân dã góp phần tạo đà cho bước phát triển mới trong nghệ

thuật sáng tạo hình tượng của các tác giả thơ Nôm trong giai đoạn khác

nhau”[6, tr16]. Luận án đã nghiên cứu một cách khá đầy đủ, tỉ mỉ và chi tiết

về chủ đề cũng như hình thức của tập thơ giúp người đọc có cái nhìn bao quát

hơn về HĐQÂTT.

Trong cuốn Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm, soạn giả đã tập hợp

nhiều bài viết với ý kiến đánh giá khách quan của nhiều nhà nghiên cứu,

Nguyễn Hồng Phong nhận xét: “HĐQÂTT một mặt phản ánh tư tưởng và

tâm lí của giai cấp phong kiến triều Lê, kiêu hãnh vì sự nghiệp dựng nước

4

của dòng họ nhà Lê, cũng kiêu hãnh về lịch sử oanh liệt của dân tộc”

[11,tr534]. Bùi Duy Tân lại đặc biệt chú ý đến hình thức nghệ thuật của tập

thơ. Tác giả đã có cái nhìn tổng quát, đa chiều về cách thức sử dụng tiếng

Việt dưới triều đại Hồng Đức:“HĐQÂTT là một tập thơ Tiếng Việt cỡ lớn,

lớn về số lượng thơ, về giá trị, về ý nghĩa thời đại của nó”,“tác phẩm là một

bằng chứng về một thời kì phát triển mạnh, một bước tiến mới của thơ tiếng

Việt”[11,tr589], “HĐQÂTT là kết tinh cố gắng của cả một thế hệ thi sĩ trên

lĩnh vực trau dồi và nâng cao sức biểu hiện của ngôn ngữ văn hóa dân

tộc”[11,tr590]. Cũng trong cuốn này, Vương Lộc đưa ra khẳng định về giá

trị của HĐQÂTT trong tiến trình phát triển văn học: “Lịch sử văn học Việt

Nam thế kỉ XV được đánh dấu bằng hai tác phẩm viết bằng chữ Nôm nổi

tiếng: nửa đầu thế kỉ là Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi và nửa sau thế kỉ

là Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và một số triều thần”.

[11,tr650]

Nguyễn Phạm Hùng trong Trên hành trình văn học trung đại Việt Nam

nhận định HĐQÂTT là tập thơ:“mang không khí lạc quan, sáng sủa, khẳng

định ca ngợi chế độ”[15, tr436]. Ông cũng cho rằng : “Tập thơ là kết quả của

cuộc sinh hoạt nghệ thuật cung đình mang tính công dân đầy trang trọng,

nghiêm trọng”. Về nội dung, HĐQÂTT“ca tụng vương triều, thuyết lí, giáo lí

nho gia, ngâm vịnh thù tạc trước cuộc sống thanh bình của non nước kì thú,

các nhân vật lịch sử và những phẩm vật của cuộc sống bình dị xung quanh

(…) với sự khẳng định vương quyền trong niềm tin và lạc quan cao độ”[15,

tr436]. Về nghệ thuật tác giả phân tích tập thơ với các đặc điểm: tính khuôn

sáo và sự phá vỡ khuôn sáo; yếu tố hài hước, chất tự sự trong thơ vịnh sử;

chất trữ tình đam mê và trang trọng; ngôn ngữ diễn đạt đậm đà tính dân tộc;

câu thơ lục ngôn. Nguyễn Phạm Hùng đã trình bày khá công phu và tỉ mỉ về

nghệ thuật của tập thơ. Đặc biệt tác giả còn so sánh tập thơ với Quốc Âm thi

tập (Nguyễn Trãi) và Bạch Vân Quốc ngữ thi tập (Nguyễn Bỉnh Khiêm) làm

nổi bật được sự độc đáo và khác biệt của HĐQÂTT.

5

Trong công trình nghiên cứu Thơ Nôm Đường luật, tác giả Lã Nhâm

Thìn nhận định: “Hồng Đức Quốc Âm thi tập vẫn tiếp tục nội dung dân tộc đã

có từ Quốc Âm thi tập, nhưng xu hướng xã hội hóa trong nội dung phản ánh

đã thể hiện khá rõ nét.” [28, tr41]“Đôi khi mộc mạc, chất phác, ngộ nghĩnh

nhưng đậm đà phong vị dân tộc” [28,tr42]. Tác giả có đề cập đến việc khai

thác đề tài, hình tượng, thể loại có liên quan đến tinh thần dân tộc như: việc

sử dụng nhuần nhuyễn thể loại thất ngôn xen lục ngôn, việc sử dụng thành

thạo các thành ngữ, khẩu ngữ... Tuy nhiên tất cả phân tích chủ yếu quan tâm

đến phương diện nghệ thuật.

Trong cuốn Văn học Việt Nam (thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII), do Đinh

Gia Khánh chủ biên có lời nhận xét: “HĐQÂTT đã đánh dấu một bước tiến rõ

rệt của văn học Nôm đặc biệt là về phương diện rèn giũa và nâng cao khả

năng biểu hiện của ngôn ngữ văn học dân tộc.” [17,tr284, 285]

Như vậy, các tác giả đã chỉ ra và phân tích khá rõ đặc điểm nội dung,

nghệ thuật của HĐQÂTT cũng như những đóng góp của tập thơ này trong

tiến trình văn học dân tộc.

2.2. Lịch sử nghiên cứu thiên nhiên trong HĐQÂTT

Trong HĐQÂTT, thơ viết về thiên nhiên chiếm số lượng phong phú và

đa dạng. Vì vậy, bên cạnh rất nhiều công trình nghiên cứu về tập thơ nói

chung, có một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến thiên nhiên trong tập

thơ này với tư cách là đối tượng nghiên cứu chính.

Trong lời giới thiệu cuốn Hồng Đức quốc âm thi tập của Bùi Văn

Nguyên và Phạm Trọng Điềm (phiên âm- chú giải- giới thiệu), các tác giả

cũng đã đề cập đến vấn đề thiên nhiên đất nước được thể hiện trong tập thơ:

“Điểm nổi bật đầu tiên trong tập thơ quốc âm, thời Hồng Đức là tình thơ của

các tác giả qua sự biến chuyển của thời khắc và qua vẻ mỹ lệ của thiên nhiên

mông lung vô cùng tận. Lòng người và cảnh vật, nhà thơ với thiên nhiên: một

đề tài có thể nói là “muôn thuở” từ “cổ chí kim” từ “đông sang tây”.[7,tr17]

6

Trong giáo trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 2) của

Phạm Thế Ngũ, tác giả nói về mối quan hệ giữa đề tài thiên nhiên trong tập

thơ với tư tưởng triết lí Nho giáo: “nhiều phần ở môn thiên đạo và phẩm vật

nói về thời tiết hay cây cỏ thường mang tư tưởng triết lí của đạo Nho về vũ

trụ, xã hội, nhân sinh”[22,tr129].

Tác giả Kiều Văn trong bài nghiên cứu “Thơ Nôm của Lê Thánh Tông và

hội Tao Đàn” nhận xét: “Thơ Nôm thời Hồng Đức dành một mảng đáng kể

chuyên miêu tả sinh hoạt dân dã với những sinh vật hết sức thông thường, nhỏ

mọn nhưng rất đỗi thân thương, gắn bó mật thiết với người Việt như hình với

bóng: khoai lang, quả dưa, cây chuối, cây cau, cái nón, cái quạt, ông đầu rau,

cối xay, thằng bù nhìn, nhà dột, con chó đá, con gà, con muỗi, con cóc, trứng

vịt...Những đề tài, đối tượng “rất tầm thường”mà văn chương chữ Hán thường

coi khinh và chối bỏ thì thơ Nôm Hồng Đức lại tiếp nhận và miêu tả một cách

say sưa khác thường”[34, tr8]. Tác giả một mặt đã chỉ ra những điểm khác biệt

giữa thơ thiên nhiên trong thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm của các tác giả trong hội

Tao Đàn, một mặt ca ngợi tình yêu thiên nhiên của các thi sĩ dưới triều đại Hồng

Đức. Tuy nhiên bài nghiên cứu mới kể ra những loại sinh vật đó một cách chung

chung chứ chưa thống kê số loài một cách đầy đủ và chi tiết. Trong đề tài này

chúng tôi sẽ thống kê, phân loại đầy đủ chi tiết các loài động vật và thực vật một

cách cụ thể để thấy rõ được sự khác nhau đó.

Gần đây nhất là Luận án Nghiên cứu thơ Nôm Lê Thánh Tông trong

HĐQÂTT của Trần Thị Giáng Hoa đã có những nhận xét khá chính xác về vai

trò của thiên nhiên trong thi tập: “Nội dung trong HĐQÂTT thể hiện cảm

hứng tự hào dân tộc thông qua việc miêu tả phong cảnh thiên nhiên đất nước,

ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị, và tưởng nhớ những nhân vật lịch sử có công

với triều đại, với dân tộc”[14, tr23]. Về nghệ thuật tác giả cũng đưa ra nhận

định việc các thi sĩ Tao Đàn trong việc sử dụng ngôn từ bằng cách Việt hóa từ

ngữ tiếng Hán một phần hoặc toàn bộ để vẽ nên bức tranh thiên nhiên bằng

ngôn từ sinh động:“khai thác triệt để giá trị của từ láy trong tiếng Việt để vẽ

nên những bức tranh nhiều màu sắc và âm thanh sống động”. [14, tr18,19]

7

Bài viết “Thơ đề vịnh Thiên nhiên trong HĐQÂTT” của Trần Quang

Dũng đã tiến hành thống kê, phân loại thơ thiên nhiên trong HĐQÂTT, chỉ ra

đặc điểm nội dung thơ đề vịnh thiên nhiên trong HĐQÂTT. Tác giả bài viết

khẳng định: “Thơ đề vịnh thiên nhiên trong HĐQÂTT mang đặc điểm phổ

quát này: Vừa hướng tới “đồng tâm” với thơ Đường luật, với văn chương

nhà Nho, mang nặng tính khuôn sáo, ước lệ, vừa hướng tới “li tâm”, phá vỡ

tính ước lệ, điển phạm theo tinh thần dân tộc hóa thể loại, hé mở những nỗi

niềm riêng của người làm thơ”. [5,tr22]

Nhận định trên đây của nhà nghiên cứu Trần Quang Dũng đã gặp gỡ

quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu khác. Chẳng hạn, Lã Nhâm Thìn trong

Giáo trình văn học trung đại Việt Nam nhận xét một cách xác đáng về việc

các thi sĩ Tao Đàn đã mượn hình ảnh thiên nhiên để tụng ca nhà vua: “Nhà

thơ mượn hình ảnh chúa xuân để ngợi ca đương kim hoàng thượng. Mùa xuân

của đất trời và mùa xuân của lòng người, dù có chuyển vần trong thời gian

hay không gian thì vẫn khắp hòa chốn chốn một trời xuân” [30,tr157].

Trong công trình nghiên cứu Thơ Nôm Đường luật, Lã Nhâm Thìn đã

nhận xét: “Chủ đề thiên nhiên là một chủ đề lớn trong HĐQÂTT. Qua những

vần thơ gợi tả sự mĩ lệ của thiên nhiên, các tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của non

sông cẩm tú”; “HĐQÂTT ngoài phong vị Đường thi, nhiều bức tranh thiên

nhiên trong tập thơ mang đậm sắc thái dân tộc bởi các tác giả cảm nhận

được cái hồn quê hương Việt”[28,tr159]. Trong công trình nghiên cứu này,

tác giả đánh giá khá đầy đủ về nội dung của tập thơ, chỉ ra sự khác biệt trong

việc sử dụng yếu tố thiên nhiên đậm chất Đường thi và đậm sắc thái dân tộc.

Tuy nhiên những nhận định này chỉ dừng lại ở cấp độ khái quát chứ chưa đi

sâu phân tích, thống kê, phân loại cụ thể từng bài có những hình ảnh thiên

nhiên nào để tạo ra sự khác biệt đó. Trong đề tài nghiên cứu của chúng tôi sẽ

thống kê, phân loại chi tiết để làm nổi bật được sự khác biệt đó.

8

Có thể nói, HĐQÂTT đã được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các

bài viết về thiên nhiên trong tập thơ cũng đã được đề cập ở nhiều góc độ khác

nhau, hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp. Tuy nhiên, những bài viết đó chưa đặt

thành vấn đề riêng biệt, chưa khảo sát toàn diện tập thơ từ góc nhìn phê bình

sinh thái. Chính vì vậy tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước

chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu đề tài “Hồng Đức Quốc âm thi tập dưới góc

nhìn phê bình sinh thái” với hi vọng sẽ đưa ra thêm một cách đọc mới về

tập thơ này.

3. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu HĐQÂTT từ góc nhìn phê bình sinh thái, luận văn sẽ làm rõ:

Hệ sinh thái trong HĐQÂTT; Mối quan hệ thiên nhiên - con người trong tập

thơ, từ đó định hướng thẩm mĩ sinh thái cho người đọc.

4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những thi phẩm viết về thiên nhiên

hoặc mang hình ảnh của thế giới tự nhiên trong HĐQÂTT.

- Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm sáng tỏ thuật ngữ phê bình sinh thái, thẩm

mĩ sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, thẩm mĩ phi sinh thái; Phân tích hệ

sinh thái qua tập thơ và mối quan hệ con người - thiên nhiên trong HĐQÂTT.

5. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi vấn đề:

Luận văn sẽ không đi sâu nghiên cứu toàn bộ những vấn đề xung quanh

HĐQÂTT mà chỉ tìm hiểu tập thơ từ góc nhìn phê bình sinh thái. Trong đó

chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu hệ sinh thái và mối quan hệ thiên nhiên - con

người qua HĐQÂTT.

- Phạm vi tư liệu: Hồng Đức quốc âm thi tập (Phạm Trọng Điềm - Bùi

Văn Nguyên phiên âm, chú giải, giới thiệu Nhà xuất bản văn hóa, Hà Nội

1962); Ngoài ra, để làm sáng tỏ vấn đề, trong chừng mực nhất định, luận văn

sẽ so sánh với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Bạch Vân quốc ngữ thi

tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

9

6. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã kết hợp sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu chính sau:

6.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Phương pháp liên ngành tức là tiếp cận một đối tượng bằng nhiều cách

thức, dựa trên dữ liệu của nhiều chuyên ngành. Trong luận văn này, chúng tôi

đã tiếp cận HĐQÂTT từ kiến thức chuyên ngành văn học, sinh thái học và

văn hóa học.

6.2. Phương pháp tiếp cận văn hóa học

Phương pháp này giúp cho việc phục nguyên không gian văn hóa tại thời

điểm HĐQÂTT ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm đạo đức, chính

trị, quan niệm về con người... từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác

định đến tác phẩm. Từ đó giải mã các hình tượng nghệ thuật để thấy rõ hơn về

mối quan hệ thiên nhiên - con người trong tập thơ.

6.3. Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại

Phương pháp này được dùng để thống kê các sáng tác viết về thiên

nhiên trong HĐQÂTT. Đồng thời, phương pháp này còn được dùng để khảo

sát và thống kê số loài, tần suất xuất hiện của các loài động vật và thực vật

trong tập thơ.

6.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp

Hai phương pháp này được vận dụng song song với nhau nhằm mục đích

làm rõ và chứng minh những luận điểm mà luận văn đưa ra.

6.5. Phương pháp so sánh

Chúng tôi sử dụng phương pháp này để đối chiếu sáng tác trong

HĐQÂTT với sáng tác của một số tác giả khác như: Nguyễn Trãi, Nguyễn

Bỉnh Khiêm... nhằm làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.

7. Đóng góp của đề tài

- Về khoa học: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần kiểm định

hướng tiếp cận phê bình sinh thái trong văn học, đồng thời thực nghiệm một

cách đọc văn bản văn học trung đại theo hướng nghiên cứu liên ngành.

10

- Về thực tiễn: Luận văn được hoàn thành sẽ góp thêm một tài liệu

tham khảo hữu ích cho cho việc giảng dạy và nghiên cứu HĐQÂTT. Luận

văn giúp người đọc hiểu rõ hơn về chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, về mối

quan hệ thiên nhiên - con người trong tập thơ, góp phần bồi dưỡng ý thức

sinh thái cho mỗi người.

8. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn: “Hồng

Đức quốc âm thi tập dưới góc nhìn phê bình sinh thái” gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Hệ sinh thái trong HĐQÂTT

Chương 3: Mối quan hệ thiên nhiên - con người trong HĐQÂTT

11

NỘI DUNG

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Khái quát về phê bình sinh thái

1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái

Từ khi ra đời đến nay, phê bình sinh thái được gọi với nhiều tên gọi khác

nhau: Chủ nghĩa phê bình sinh thái (Ecocriticism), Phê bình văn học sinh thái

(Ecological literary criticism), Phê bình xanh (Green studies), Phê bình văn

hóa xanh (Green cultural studies), Thi pháp sinh thái (Ecopoetics), Sinh thái

học văn học (Literary ecology), Phê bình văn học môi trường (Environmental

literary criticism), Nghiên cứu văn học và môi trường (Studies of literature

and environment). Trong đó, hai thuật ngữ được giới nghiên cứu sử dụng

nhiều nhất là Phê bình sinh thái (Ecocriticism) và Nghiên cứu văn học và môi

trường (Studies of literature and environment).

Hiện nay, giới nghiên cứu dường như thống nhất gọi khoa học liên

ngành này với tên gọi Phê bình sinh thái. Trong công trình nghiên cứu Rừng

khô, suối cạn, biển độc và văn chương phê bình sinh thái, Nguyễn Thị Tịnh

Thy đã dẫn lời giải thích của giáo sư Cheryll Glotfelty về tên gọi này như sau:

“phần lớn các học giả thích dùng thuật ngữ phê bình sinh thái (ecocriticism)

“vì nó ngắn gọn và có thể dễ dàng tạo thành dạng thức khác là ecocritical

(tính chất phê bình sinh thái) và ecocritic (nhà phê bình sinh thái). Hơn nữa,

họ thích tiền tố “eco-” (sinh thái) hơn tiền tố “enviro-” (môi trường) bởi vì...

theo nghĩa rộng, tiền tố “enviro-” (môi trường) mang quan điểm con người

là trung tâm và có tính nhị nguyên, ngụ ý rằng, con người chúng ta là trung

tâm, tất cả xung quanh chúng ta là môi trường. Ngược lại, tiền tố “eco-”

(sinh thái) ám chỉ vạn vật cộng đồng phụ thuộc lẫn nhau, tạo thành một hệ

thống và những yếu tố trong hệ thống đó luôn có sự hòa hợp, gắn bó chặt

chẽ với nhau”[32, tr139]

12

Các học giả phương Tây đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về phê

bình sinh thái, chẳng hạn, định nghĩa của Joseph Meeker, William Rueckert,

Cheryll Glotfelty, James S. Hans, Scott Slovic, Cheryll Glotfety, William

Howarth, Lawrence Buell... Trong đó, định nghĩa của Cheryll Glotfety là

định nghĩa được ghi nhận rộng rãi. Cheryll Glotfety cho rằng: “Nói đơn giản,

phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự

nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ

góc độ giới tính, phê bình Marxist mang lại ý thức của phương thức sản xuất

và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương

pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu

văn học”[2,tr89]

Học giả Trung Quốc là Vương Nặc định nghĩa: “Phê bình sinh thái là

phê bình văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định

hướng tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh

thái. Nó phải phơi bày nguồn gốc văn hóa tư tưởng của nguy cơ sinh thái

được phản ánh trong tác phẩm văn học, đồng thời khám phá thẩm mĩ sinh

thái và biểu hiện của nghệ thuật của nó trong tác phẩm”[32,tr153]

Nguyễn Thị Tịnh Thy đề xuất định nghĩa như sau: “Phê bình sinh thái là

phê bình văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định

hướng tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh

thái thông qua việc khám phá thẩm mĩ sinh thái và biểu hiện nghệ thuật của

nó trong tác phẩm” [32,tr157]

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân, hiện nay đang có hai cách hiểu

khác nhau về phê bình sinh thái. Theo cách hiểu thứ nhất, phê bình sinh thái

“ám chỉ mọi nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học với môi trường vật lý”.

Cách hiểu thứ hai, “mang tính đặc thù của thời đại toàn cầu hóa: nghiên cứu

số phận của môi trường sinh thái dưới tác động của con người từ góc nhìn

của văn học”[4,tr90]. Nhà nghiên cứu cũng khẳng định, “Phê bình sinh thái

trước hết là một phong trào hiện đại nằm trong phong trào văn hóa - xã hội

bảo vệ môi trường”. [4,tr93]

13

Tựu trung lại, có rất nhiều định nghĩa về phê bình sinh thái, tuy nhiên

phần lớn các học giả trên thế giới và Việt Nam đều thừa nhận và sử dụng

khái niệm của Cherlly Glottfelty - nhà phê bình sinh thái Mĩ, đồng thời là

học giả đầu tiên nhận được danh hiệu “Giáo sư văn học và môi trường”.

Bởi định nghĩa của bà thể hiện rõ mối quan hệ bình đẳng giữa con người

với tự nhiên. Khi con người hòa nhập vào mối quan hệ ấy đòi hỏi con

người đánh giá lại thái độ, điều chỉnh xem xét lại thái độ văn hóa, văn minh

với tự nhiên. Bởi vậy khi nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với sinh

thái thì con người- bản thân nó là phép tắc của tự nhiên. Khi con người

sống hài hòa, thân mật, hòa hợp với tự nhiên thì sự sống sẽ luôn phát triển.

Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với định nghĩa của tác giả Cherlly Glottfelty

và coi đây là định nghĩa quan trọng xuyên suốt quá trình nghiên cứu để

triển khai các nội dung trong đề tài.

Theo các nhà nghiên cứu, phê bình sinh thái có 6 đặc trưng cơ bản, đó là:

Chú ý đến đạo đức sinh thái; Đọc lại văn học kinh điển truyền thống từ góc

nhìn sinh thái; Giữ vững lập trường chủ nghĩa sinh thái trung tâm; Có tính

liên ngành; Thể hiện tinh thần văn hóa sinh thái thông qua “tính văn học”;

Hàm nghĩa của thuật ngữ rất phức tạp.

Phê bình sinh thái có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển văn hóa,

Karen Thornber khẳng định: “Đây là một lý thuyết liên ngành, kết hợp giữa

văn học và khoa học, giữa phân tích văn chương và rút ra những cảnh báo về

môi trường. Nó có thể không đưa ra được những giải pháp trực tiếp cho

những vấn đề môi trường nghiêm trọng hiện nay nhưng bằng cách phân tích

các diễn ngôn về thiên nhiên và môi trường, nó có thể tác động đến tâm thức

con người, điều chỉnh nhận thức, khắc phục những ngộ nhận về môi trường,

để từ đó, có những hành động đúng đắn hơn, hướng đến sự phát triển bền

vững và xa hơn, đồng thời quan trọng hơn cả, là hình thành một chủ nghĩa

nhân văn mới, ở đó, con người biết nghe tiếng nói của thiên nhiên để đối

thoại với nó.” [16, tr72]

14

Trên đây là những điểm khái quát nhất về khái niệm phê bình sinh thái.

Khái niệm này sẽ là tiền đề lí luận quan trọng đầu tiên giúp chúng tôi triển

khai luận văn này.

1.1.2. Sự hình thành và phát triển của phê bình sinh thái

Khí hậu trái đất nóng lên, sự thay đổi lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ thổ

nhưỡng, chuyển động tuần hoàn khí quyển, hạn hán, hoang mạc hóa, mưa lớn,

bão tuyết, sự tan chảy của các sông băng và băng ở Nam Bắc cực, sự hỗn loạn

của hệ thống các dòng chảy đại dương, mực nước biển dâng cao, sự rối loạn

mô thức sinh trưởng và sinh sản loài cũng như tuyệt chủng loài… những hiện

tượng bất thường này (hay nói cách khác là nguy cơ sinh thái) chính là

nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của phê bình sinh thái. Đỗ Văn Hiểu trong bài

viết Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách

tân khẳng định: “... một phần rất lớn là Phê bình sinh thái ra đời không phải

từ khát vọng sáng lập lí thuyết mới của các nhà phê bình, cũng không phải

xuất phát từ nội bộ nghiên cứu văn học, mà là từ sự thúc đẩy của nguy cơ

sinh thái”. [13, tr3]

Nguyễn Thùy Trang trong bài viết “Sự lật đổ quan niệm “nhân loại

trung tâm” trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại” đã giới thiệu một cách

ngắn gọn nhất bối cảnh dẫn đến sự ra đời của phê bình sinh thái như sau:

“Vào năm 1969, lần đầu tiên nhân loại được chiêm ngưỡng những hình ảnh

của Trái đất nhìn từ Mặt trăng. Sự kiện này khiến con người thực sự xúc động,

vì nó giúp chúng ta nhận thức được sự nhỏ bé và mong manh của Trái đất

giữa thiên hà. Rồi sau đó, hàng loạt những chấn động xảy ra, sóng thần, động

đất, sự cố hạt nhân Chernobyl… toàn nhân loại lâm vào “tai nạn sinh thái”,

đứng trước tình trạng báo động của ô nhiễm khí hậu, thủng tầng ozon, cạn

kiệt tài nguyên. Lúc này con người bắt đầu ý thức sâu hơn về trách nhiệm của

chính mình để bảo vệ hành tinh Xanh. Đây cũng là thời điểm manh nha lí

thuyết phê bình sinh thái.” [33, tr73]

Xét về ngọn nguồn, nguy cơ sinh thái chỉ là cái được biểu hiện ra bên

ngoài mà tất cả nhân loại đều đã và đang được chứng kiến, còn nguyên nhân

15

sâu xa dẫn đến phê bình sinh thái phải ra đời có lẽ chính là xuất phát từ chủ

nghĩa nhân loại trung tâm luận. Các nhà nghiên cứu lớn đều khẳng định, phê

bình sinh thái ra đời chính là để “xét lại quan điểm con người là trung tâm từ

thời Khai sáng.” [27, tr3] hay “phản ứng lại với truyền thống coi con người là

trung tâm, xem nhẹ, phủ nhận thiên nhiên” [9, tr2].

Như chúng ta đều biết, trên tổng thể, tư tưởng văn hóa chủ lưu của

phương Tây là “chủ nghĩa nhân loại trung tâm và tư tưởng chinh phục, khống

chế, cải tạo tự nhiên”. Tư tưởng này được thể hiện từ thời cổ đại cho đến thời

kì Phục Hưng và Khai Sáng. Theo Trần Nho Thìn: “Khái niệm anthropocentrism -

nhân loại trung tâm luận - chỉ một quan điểm cho rằng loài người (anthropos

trong tiếng Hy Lạp) chiếm vị trí trung tâm, có tầm quan trọng bậc nhất mà tất

cả mọi vật xung quanh đều châu tuần về nó”. Mục từ anthropocentrism được

giải thích: “Khái niệm diễn đạt quan niệm, công khai hay ngầm ẩn, đặt con

người vào vị trí trung tâm của thế giới và nhìn nhận tất cả mọi vật khác trong

thế giới này như là vật phụ thuộc hay phục vụ cho con người”[31,tr152]

Quan niệm nhân loại trung tâm luận đã ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các

lĩnh vực đời sống. Trong văn học: “Con người theo nhân loại trung tâm luận

với sự thống trị của nó đã áp đặt cho các cảnh trí thiên nhiên các phẩm chất,

hành vi, cảm xúc của mình. Thực tế văn học dẫn đến sự ra đời phương pháp

phân tích thơ châu Âu theo đó đối chiếu sự song hành con người và thiên

nhiên. Nếu ở phương Đông, con người hài hòa, tan biến vào thế giới thiên

nhiên xung quanh, thì trong thơ châu Âu, con người luôn là chủ thể mà thiên

nhiên là vật so sánh” [31,tr 155]

Một vài điều khái quát như vậy về chủ nghĩa nhân loại trung tâm luận

giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về bối cảnh ra đời của phê bình sinh thái: phê bình

sinh thái ra đời ở phương Tây, gắn với truyền thống văn hóa phương Tây,

việc vận dụng nó vào nghiên cứu văn học phương Đông, trong đó có văn học

Việt Nam là một việc không dễ dàng và cần thận trọng.

16

Tuy nhiên, chúng tôi cũng quan tâm đến nhận định sau đây của nhà

nghiên cứu Karen Thornber trong bài viết “ Những tương lai của phê bình

sinh thái và văn học”: “Những hình dung phổ biến ở trong và ngoài Đông Á

thường cho rằng tình trạng môi trường bị xuống cấp ở khu vực này bắt đầu

xảy ra từ cuối thế kỷ XIX, khi người dân Đông Á, dưới áp lực của các quốc

gia Tây phương, đã tiếp thu, đồng hóa kỹ thuật và các ngành công nghiệp của

họ. Song thực chất, các xã hội Đông Á đã kế thừa cả hàng ngàn năm môi

trường bị thoái hóa nghiêm trọng. Rhoades Murphey đã đi rất xa khi tranh

luận:“Tất cả những nền văn hóa châu Á thuộc khu vực ở phía đông

Afghanistan và phía nam khu vực thuộc Liên Xô cũ từ lâu đã được biết đến

như là những nền văn hóa tôn sùng thiên nhiên… Điều này được xem như đối

lập với quan điểm của phương Tây. Thế nhưng những tư liệu ở châu Á lại cho

thấy rõ rằng bất chấp những giá trị mà giới tinh hoa trí thức ở đây tuyên

xưng, người dân đã làm biến đổi hoặc phá hủy môi trường châu Á sớm hơn

và ở mức độ lớn hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới, thậm chí so với cả

phương Tây thế kỷ XX.” [16, tr320,321]

Khi nghiên cứu HĐQÂTT, một tập thơ ra đời trong bối cảnh“nền thơ

chịu sự chi phối của ecocentrism - thiên nhiên trung tâm luận”[31,tr157],

chúng tôi không thể không lưu tâm đến những lưu ý trên đây.

Về quá trình phát triển, phê bình sinh thái manh nha ra đời vào thập

kỷ 70 của thế kỉ XX và trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn hình thành (từ 1972

đến 1990), Giai đoạn phát triển (từ 1991 đến 2007), Giai đoạn chuyển

hướng (từ 2008 - nay). Tiến trình này đã được tổng thuật trong nhiều công

trình nghiên cứu của các học giả trên thế giới và Việt Nam. Vì vậy, chúng

tôi sẽ không tổng thuật lại tiến trình này mà chỉ khái quát bằng bảng sau để

có cái nhìn hệ thống về phê bình sinh thái.

17

Giai đoạn Học giả tiêu biểu Thành tựu chủ yếu

Francis W.Halsey, Joseph - Sự quan tâm của giới học

W.Meeker, Raymond thuật đến vấn đề văn học và

Williams, William môi trường ngày càng gia tăng. Từ 1972 đến

Rueckert, John Elder, - Thuật ngữ phê bình sinh thái 1990

Frederick O.Waage, Cheryll chính thức được đề xuất (1978) (Giai đoạn

Glotfelty, Glen A.Love,  Đây được xem là giai đoạn hình thành)

Peter A. Fritzell, Robert hình thành, là thời kỳ tiền sử

Finch, John Elder của phê bình sinh thái.

Harold Fromm, Jonathan - Các hội thảo về phê bình

Bate, Max Oelschlaeger, sinh thái được tổ chức và

Glen A. Love, Robert đón nhận rộng rãi.

Pogue, Kent C.Ryden, - Tạp chí chuyên ngành ra

Karl Kroeber, Derek Wall, đời, nhiều công trình giá trị

Melissa Waker, Terry được công bố.

Gifford, Cheryll Glotfelty, - Hội nghiên cứu văn học và

Jonh Elder, R. Kerridge, môi trường ra đời

Từ 1991 đến N. Sammells, Patrick D. - Phê bình sinh thái đã lan

2007 Murphy, Lorraine rộng ra các quốc gia ngoài

Anderson, Scott Slovic, khu vực Âu Mĩ. (Giai đoạn

Jonh P. O’Grady, Peter phát triển)

Quigley, Lawrence Buell,

William Slaymaker,

Patrick D. Murphy, David

Mazel, Rosendale Steven,

Richard L. Knight,

Thomas S. Edwards, Gred

Garrard, Michael P.

Branch, Jeffrey Myers...

18

Scott Slovic, Lindsey Claire - Đây là thời kỳ chuyển

Smith, Michael Bennet, David hướng của phê bình sinh thái

W.Teague, Kimberly về mọi mặt từ lí luận phê

N.Ruffin, Patrick D. Murphy, bình, phương pháp phê bình, Từ 2008 đến

Elizabeth Deloughrey, George đối tượng phê bình (bao nay

B. Handley, Karen Thronber, gồm cả thể loại và khu vực (Giai đoạn

Greg Garrard, Jeffrey Bilbro, phê bình) chuyển

Svend Erik Larsen, Annelise hướng)

Ballegaard Petersen,

Minikami Tsutom, Vương

Nặc, Trần Tiểu Hồng...

Theo Karen Thornber trong Những tương lai của phê bình sinh thái và văn

học, phê bình sinh thái đã trải qua hai giai đoạn quan trọng: “Giai đoạn thứ nhất

chủ yếu dựa vào lý thuyết sinh thái học chiều sâu (deep ecology)... coi trọng vấn

đề bảo tồn đa dạng sinh học và sự bình yên của môi trường sống ở các địa

phương. Đến giai đoạn sau, nhất là từ thế kỷ XXI đến nay, phê bình sinh thái

gắn với nhân học và văn hóa học, đặt bình diện xã hội làm trung tâm, đặc biệt

quan tâm đến vấn đề đô thị hóa và công lý môi trường” [16,tr39]

Như vậy phê bình sinh thái ra đời đầu tiên ở phương Tây, nó như một

phản ứng tích cực trước tình trạng môi trường đang ngày một xấu đi. Phê bình

sinh thái khai thác lợi thế của việc thông qua phê bình văn học nghệ thuật tìm

ra căn nguyên sâu xa của nguy cơ sinh thái ẩn tàng trong mô thức văn hóa

nhân loại, từ đó tiến tới điều chỉnh quan niệm giữa con người và tự nhiên, xây

dựng một phương thức sống đề cao chỉnh thể sinh thái.

So với thế giới, phê bình sinh thái xuất hiện ở Việt Nam khá muộn. Dù vậy

cho đến nay cũng đã đạt được những thành tựu bước đầu với sự xuất hiện của

một số chuyên khảo như: Rừng khô, suối cạn, biển độc và văn chương phê bình

sinh thái (Nguyễn Thị Tịnh Thy); Phê bình sinh thái là gì? (Hoàng Tố Mai chủ

biên); Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam bộ (Bùi Thanh Truyền chủ biên);

19

Một số hội thảo: (Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu; Phê

bình sinh thái trong Văn học Đông Nam Á: Lịch sử, Huyền thoại và Xã hội; Phê

bình sinh thái: Lí thuyết và ứng dụng); Một số bài dịch (của Đỗ Văn Hiểu, Đặng

Thị Thái Hà, Trần Ngọc Hiếu, Hải Ngọc...) và không ít các bài báo chuyên

ngành. Hiện tại, phê bình sinh thái đã thu hút được sự quan tâm của nhiều học

giả và đang phát triển ngày càng rộng rãi ở nước ta.

1.2. Thẩm mĩ sinh thái, thẩm mĩ phi sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái

1.2.1. Thẩm mĩ sinh thái và thẩm mĩ phi sinh thái

Giới nghiên cứu Việt Nam thường nhắc đến khái niệm thẩm mĩ sinh

thái, tuy nhiên, vẫn chưa có một khái niệm nào hoàn toàn đáp ứng yêu cầu

nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu Âu Mĩ thường sử dụng thuật ngữ

“aesthetics”, trong khi đó, các học giả Việt Nam và Trung Quốc đồng thời

sử dụng hai thuật ngữ “thẩm mĩ sinh thái” và “mĩ học sinh thái”. Về thẩm

mĩ sinh thái, học giả Cheng XiangZhan trong bài viết Luận về bốn điểm cốt

lõi của thẩm mĩ sinh thái cho rằng: “Thẩm mĩ sinh thái được hiểu như một

khái niệm thẩm mĩ mới, nó ngược lại với thẩm mĩ phi sinh thái. Nó là

phương thức thẩm mĩ và quan niệm thẩm mĩ nhằm ứng phó với nguy cơ

sinh thái toàn cầu, lấy luân lí học sinh thái làm cơ sở tư tưởng, dựa vào tri

thức sinh thái khơi gợi tưởng tượng và kích thích cảm xúc, để khắc phục

thẩm mĩ thiên về con người. Cần đặc biệt nhấn mạnh là, giữa thẩm mĩ sinh

thái và thẩm mĩ phi sinh thái tồn tại khác biệt cơ bản - ở một mức độ nào

đó có thể nói, quá trình xây dựng lí thuyết về thẩm mĩ sinh thái cũng chính

là quá trình phân tích sự khác biệt giữa thẩm mĩ sinh thái với thẩm mĩ

truyền thống”(thẩm mĩ coi con người là trung tâm)[1, tr120].

Trong bài viết này, Cheng XiangZhan cũng đã chỉ ra và phân tích bốn

điểm chính của thẩm mĩ sinh thái. Đó là:

1. Từ bỏ hoàn toàn mô hình thẩm mĩ chủ - khách nhị phân truyền thống,

đối lập con người và thế giới, thay vào đó là mô hình “thẩm mĩ giao dung”

đem con người và thế giới dung hợp làm một.

20

2. Thẩm mĩ sinh thái là hoạt động thẩm mĩ lấy luân lí học sinh thái làm

cơ sở, là sự cải tạo sinh thái và tăng cường mối quan hệ giữa luân lí và thẩm

mĩ trong lí luận mĩ học truyền thống, ý thức sinh thái là điều kiện tiền đề tất

yếu của thẩm mĩ sinh thái.

3. Thẩm mĩ sinh thái nhất định phải dựa vào tri thức khoa học tự nhiên,

đặc biệt là tri thức sinh thái học gợi ra sự hiếu kì và liên tưởng, tiến tới kích

thích tưởng tượng và tình cảm; không có những tri thức sinh thái cơ bản thì

không thể nào tiến tới thẩm mĩ sinh thái.

4. Tiêu chuẩn giá trị sinh thái chỉ đạo thẩm mĩ sinh thái là tính đa dạng

sinh học và cân bằng sinh học, tất yếu phải vượt qua tiêu chuẩn đánh giá giá

trị của chủ nghĩa nhân loại trung tâm và “thẩm mĩ thiên về con người”, phản

tư và phê bình thiên tính cũng như tập tính thẩm mĩ của chủ nghĩa nhân loại

trung tâm.

Đúc kết thành tựu nghiên cứu của giới nghiên cứu phê bình sinh thái

Trung Quốc, học giả Việt Nam là Đỗ Văn Hiểu đã tổng kết và chỉ ra ba đặc

trưng cơ bản của thẩm mĩ sinh thái. Đó là: thẩm mỹ sinh thái là thẩm mỹ

mang tính tự nhiên; thẩm mỹ sinh thái đề cao nguyên tắc dung nhập; thẩm mỹ

sinh thái đề cao tính chỉnh thể.

Trong bài viết Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn học

mang tính cách tân, Đỗ Văn Hiểu khẳng định: “Thẩm mỹ sinh thái là thẩm mỹ

mang tính tự nhiên, không phải là thông qua đối tượng cụ thể để thể hiện tư

tưởng tình cảm, nhân cách của chủ thể thẩm mỹ. Trong thẩm mỹ sinh thái

không tồn tại quan hệ chủ thể - khách thể, con người cảm nhận tự nhiên, thiết

lập quan hệ chủ thể tương giao với đối tượng thẩm mỹ”. [13, tr5] Như vậy

thẩm mĩ sinh thái từ bỏ quan niệm về mối quan hệ nhị phân chủ thể - khách

thể (con người - tự nhiên). Thay vào đó là mối quan hệ con người và tự nhiên

tương giao tương dung.

Đặc trưng thứ hai của thẩm mĩ sinh thái là tính chỉnh thể. Về đặc trưng

này, trong bài viết Phê bình sinh thái - khuynh hướng văn học mang tính cách

21

tân, Đỗ Văn Hiểu viết: “... thẩm mỹ sinh thái đề cao tính chỉnh thể, không chỉ

quan tâm đến đối tượng thẩm mỹ đơn nhất, mà còn đặt nó vào trong hệ thống

tự nhiên, từ đó khảo sát ảnh hưởng của nó đối với chỉnh thể sinh thái. Tiêu

chuẩn đánh giá cái đẹp của thẩm mỹ sinh thái cũng khác so với truyền thống.

Đối với thẩm mỹ sinh thái, cái gì có lợi cho sự ổn định, hài hòa của hệ thống

sinh thái mới là Đẹp; phá hoại chỉnh thể, phá hoại sự ổn định sinh thái sẽ bị

coi là Xấu.” [13,tr4]

Cuối cùng là nguyên tắc dung nhập: Là sự giao hòa giữa con người và

thiên nhiên. Con người quên đi bản ngã để đắm mình vào thiên nhiên, coi

mình với thiên nhiên là một: “Thẩm mỹ sinh thái yêu cầu tinh thần và thể xác

thấu nhập vào tự nhiên, có lúc, thậm chí còn phải quên đi bản ngã, hòa với tự

nhiên làm một. Muốn thực sự dung nhập vào tự nhiên, đặc biệt là muốn trong

sự dung nhập đó cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của tự nhiên thì trước hết phải

quên đi bản ngã của mình. Quên đi bản ngã để cảm nhận tự nhiên chính là

một phương thức của thẩm mỹ sinh thái.” [13, tr6]

Có thể thấy, thẩm mĩ sinh thái giúp con người nhận ra sai lầm trong quan

điểm nhân loại trung tâm - quan niệm coi con người là thước đo của vạn vật,

con người có quyền ngự trị giới tự nhiên, tuyệt đối hóa vai trò của con người

trong vũ trụ. Điều này hoàn toàn không có nghĩa là hạ thấp con người để độc

tôn tự nhiên mà nó chỉ ra những hành động xâm hại của con người vào tự nhiên

từ đó cảnh tỉnh để con người có ý thức, trách nhiệm cải thiện mối quan hệ hài

hòa, cộng sinh, cộng hưởng với tự nhiên. Điều này góp phần giúp con người có

cái nhìn bình đẳng, tôn trọng vạn vật.

Ngược lại với thẩm mĩ sinh thái là thẩm mĩ phi sinh thái. Thẩm mĩ phi

sinh thái chính là thẩm mĩ đặt thiên nhiên trong mối quan hệ nhị phân với con

người, là quan niệm thẩm mĩ lấy nhân loại làm trung tâm, cho phép nhân loại

có mọi quyền lực đối với tự nhiên, có quyền coi thiên nhiên là “công cụ biểu

hiện, ám thị, tượng trưng”, coi thiên nhiên là khách thể.

22

Theo nhà nghiên cứu Trần Hải Yến: “Thẩm mỹ sinh thái và thẩm mỹ phi

sinh thái được phân định ranh giới bởi nguyên tắc mỹ học. Trong truyền

thống, trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa nhân loại trung tâm, đối tượng thẩm

mỹ tự nhiên chỉ được coi là phông nền, phương tiện, biện pháp, kí hiệu, vật

đối ứng, công cụ biểu hiện, ám thị, tượng trưng… cho thế giới nội tâm, đặc

trưng cho nhân cách của con người. Phê bình sinh thái chủ trương không

dùng con mắt công cụ, công lợi để đối đãi đối tượng thẩm mỹ tự nhiên”[36]

Nói tóm lại, quan niệm thẩm mĩ “nhân loại trung tâm”, coi thiên nhiên

là công cụ của con người chính là quan niệm thẩm mĩ phi sinh thái.

1.2.2. Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái

Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái (Eco-holism) chính là tư tưởng cốt lõi, là

lập trường căn bản của phê bình sinh thái. Nó là một quan điểm mới của các

nhà phê bình sinh thái, đối thoại với chủ nghĩa nhân loại trung tâm coi con

người là linh hồn của vạn vật, thống trị vạn vật vốn rất thịnh hành trước đây.

Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái coi hệ sinh thái là một chỉnh thể, chủ trương

bảo vệ lợi ích của chỉnh thể hệ sinh thái, lấy việc có lợi hay không đối với sự

hài hòa, cân bằng, ổn định của chỉnh thể hệ sinh thái để đánh giá liệu hành vi

của cá nhân con người, xã hội, tập thể có phù hợp với tiêu chuẩn của chủ

nghĩa sinh thái hay không.

Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái trước hết phản đối chủ nghĩa nhân loại

trung tâm. Từ chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái nhìn nhận, con người và tất cả

các loài động vật, thực vật, núi non, sông ngòi, ao hồ, biển cả trong tự nhiên

đều chỉ là một bộ phận của chỉnh thể hệ sinh thái; tất cả vạn vật đều bình

đẳng, lợi ích của chỉnh thể sinh thái cao hơn lợi ích của mỗi cá thể.

Đặc biệt, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái không tán đồng chủ nghĩa sinh

thái trung tâm, bởi vì theo tiêu chí của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, chủ

nghĩa sinh thái trung tâm vẫn cứ giả định một cái là trung tâm. Nhưng bản

chất của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái chính là chủ trương vạn vật bình đẳng

trong hệ sinh thái và không tồn tại nhân tố trung tâm.

23

Theo tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy, tư tưởng chủ nghĩa chỉnh thể sinh

thái có ba nội dung chính: Mối liên hệ chặt chẽ giữa các thành viên trong hệ

thống sinh thái; tất cả đều có tác dụng của mình trong hệ thống sinh thái;

không có “bữa trưa miễn phí” trong hệ thống sinh thái.

Bà cũng cho rằng: “Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái nỗ lực đi tìm mối

quan hệ giữa con người và tự nhiên cho đến việc nhân loại nên xem xét lại

giá trị và định hướng hành vi của mình như thế nào. Tiếp nhận gợi ý của

sinh thái học hiện đại, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái yêu cầu quan tâm đến

toàn bộ hệ thống sinh thái từ phương diện đạo đức, tạo nên một thế giới

quan sinh thái, phương pháp luận sinh thái và giá trị quan sinh thái hoàn

toàn mới mẻ.” [32, tr38]

Đứng từ quan điểm của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái nghiên cứu, chúng

ta sẽ thấy được sự đa dạng sinh học được tái hiện trong HĐQÂTT. Chúng ta

cũng phần nào thấy được mối quan hệ bình đẳng giữa các loài động vật, thực

vật, con người trong hệ sinh thái.

1.3. Quan hệ thiên nhiên - con người theo quan điểm Phật giáo, Nho giáo

và Đạo giáo

Kể từ khi được khai sinh trong vũ trụ, loài người đã luôn được đặt trong

mối quan hệ với tự nhiên. Vì vậy, bàn về mối quan hệ giữa con người với tự

nhiên là một trong những nội dung quan trọng của tất cả các tôn giáo trên thế

giới. Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng của nhiều trường phái tư

tưởng tôn giáo khác nhau, trong đó Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo là ba tư

tưởng ảnh hưởng đậm nét nhất trong thời trung đại.

1.3.1. Phật giáo

Phật giáo là học thuyết bàn về nỗi khổ và sự giải thoát. Trên bề mặt, Phật

giáo không trực tiếp bàn về quan hệ giữa con người và tự nhiên hay đưa ra

những giáo huấn về cách ứng xử giữa con người và tự nhiên. Tuy nhiên, theo các

nhà nghiên cứu, trong kinh Tạp A Hàm, Vô lượng thọ, Pháp hoa, Duy Ma Cật sở

thuyết, Tạp A Hàm hay Đại trí độ có thể hiện “quan niệm “thương sinh”, “bác

ái” của Phật giáo đối với thế giới động thực vật.” Có thể truy nguyên các quan

24

niệm này “trong thuyết “Duyên khởi” (Duyên khởi luận) - có vai trò như một

nền tảng triết học cho hệ tư tưởng này - với ý niệm căn bản coi các hiện tượng

trong vũ trụ này là tương tác và tương hỗ, trong quan niệm nhân quả, mà ta có

thể coi là một dạng tuần hoàn sinh thái, hay trong quan niệm bình đẳng phổ

biến - có thể coi là cơ sở triết lý cho khái niệm “cân bằng sinh thái” hiện đại.

Thêm nữa, kinh điển Phật giáo cũng còn khẳng định một quan niệm về đạo đức

hành xử của từng cá thể với thế giới bên ngoài, bao gồm cả giới tự nhiên, là

“phá chấp ngã, đoạn tham dục”[36]. Khi bàn về mối quan hệ giữa con người và

tự nhiên, quan điểm của Phật giáo là thiên nhiên và con người bình đẳng.

Từ góc nhìn của sinh thái học giải thích tư tưởng Duyên khởi luận, chúng ta

có thể thấy, theo quan điểm của Phật giáo: con người không thể tồn tại độc lập

mà là tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với tự nhiên. Làm tổn hại tự nhiên là tổn

hại nhân loại; phá hoại tự nhiên là phá hoại bản thân và đồng loại.

Phật giáo còn tuyên dương Nhân - quả luận. Nhân là nguyên nhân, Quả

là kết quả, quả báo. Tư tưởng Nhân - quả của Phật giáo yêu cầu chúng sinh

làm việc thiện, yêu cầu con người giữ sự cân bằng với việc khai thác tự nhiên,

báo đáp tự nhiên, điều tiết ngược lại phù hợp với hệ sinh thái. Phật giáo

khuyên con người không nên tạo nghiệp ác, xét từ vấn đề sinh thái điều này

có ý nghĩa cảnh báo nhân loại.

Quan điểm bình đẳng cũng là một trong những đặc điểm quan trọng của

Phật giáo. Phật giáo quan niệm: “Chúng sinh tuy không giống nhau nhưng đều

có Phật tính”. Quan điểm “bình đẳng” này của Phật giáo có thể là cội nguồn

của nguyên tắc cân bằng giữa vạn vật trong hệ sinh thái.

Trần Văn Cường khi nghiên cứu về Phật giáo đã khẳng định, trong Phật

giáo, con người là một phần của thiên nhiên, con người sinh ra từ chính các yếu

tố của tự nhiên: “Con người là hợp thể của Lục giới (Lục đại). Lục giới

(saddhatvah) là sáu yếu tố hình thành con người gồm: đất, nước, gió, lửa,

không, thức” [3, tr 37]

Bên cạnh quan điểm bình đẳng, thương sinh, bác ái, Phật giáo thể hiện

rất rõ sự thấu nhập của con người vào thế giới tự nhiên.

25

1.3.2. Nho giáo

Khác với Phật giáo, Nho giáo là một học thuyết đạo đức, hướng đến lí

tưởng “tu kỷ, trị nhân”. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Nho giáo hoàn

toàn phủ nhận thiên nhiên. Ngược lại, trong kinh điển Nho gia cũng như suốt

tiến trình phát triển, Nho gia luôn hướng đến lí tưởng “thiên nhân tương dữ,

giao hòa”. Trong bài viết Mấy phương diện thẩm mĩ của Nho gia và Thiền gia

(Qua khảo sát một số trường hợp viết về thiên nhiên), nhà nghiên cứu Nguyễn

Kim Sơn nhận xét: Nếu như trong cuộc sống của các nhà Nho luôn tự buộc

mình không ngừng phải vươn lên, vượt qua sự chi phối của hoàn cảnh để tu

luyện nhân cách bản thân, thì thiên nhiên của họ cũng là một thiên nhiên luôn

phải khắc phục, chống đỡ khó khăn do môi trường xung quanh đem lại để

vươn lên. Từ quan điểm trên của Nho giáo, dễ hiểu vì sao trong thơ họ hình

tượng tùng, cúc, trúc, mai lại xuất hiện nhiều đến vậy” [25, tr5]

Tuy nhiên, liệu Nho giáo có đặt thiên nhiên và con người ngang hàng

nhau? Đây là một câu hỏi còn cần nhiều thời gian đào sâu tìm tòi. Nhưng rõ

ràng, trong quan niệm của Nho giáo, không phải tất cả con người đều giống

nhau. Nho giáo khẳng định, chỉ những cá nhân ưu tú, những “thánh nhân”

mới có khả năng hòa “khí” của mình vào “khí” của vũ trụ: “mọi sinh thể trong

vũ trụ đều là những thành phần của khí, gắn kết với nhau một cách hữu cơ, và

khác biệt nhau ở mức độ tính linh là do khác biệt về mức độ tiếp nhận khí.

Trong quan hệ sinh loài, con người không phải là kẻ cai quản việc sáng tạo

ra sinh loài hay vũ trụ, nhưng nếu muốn thành người canh giữ vũ trụ thì họ

phải có được sự khác biệt nổi trội thông qua tu dưỡng (5 đức hạnh mà con

người vươn tới, nhân-nghĩa-lễ-trí-tín, chính là ngũ hành của tự nhiên mà chỉ

con người, và chỉ những người đặc biệt, mới có khả năng tiếp nhận)”[35].

Bên cạnh đó, kinh điển Nho giáo rất coi trọng bộ ba khái niệm Thiên -

Địa - Nhân. Tư tưởng Trời - Người hài hòa trong Nho giáo truyền thống, một

mặt nhấn mạnh đến sự thống nhất và tương tác giữa Trời và Đất, mặt khác

nhấn mạnh đến tính đặc thù của con người, xác lập quan hệ giữa con người

26

với tự nhiên. Nho giáo khẳng định sức sáng tạo của đạo trời đầy rẫy trong vũ

trụ, và con người “cố gắng theo đức của Trời, Đất, phấn đấu theo sự sáng suốt

của nhật nguyệt, tuân theo trật tự của bốn mùa” (Dữ thiên địa hợp kì nhất, dữ

nhật nguyệt hợp kì minh, dữ tứ thời hợp kì tự).

Với mẫu nhà Nho hành đạo, thiên nhiên là nơi để bày tỏ quan điểm, nơi

nói chí cũng như cách hành xử trước cuộc đời, để truyền thụ giáo lí thánh hiền,

và để bộc lộ cái chí “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Những quan điểm ấy

phần nhiều chịu ảnh hưởng sâu sắc của nguyên tắc sáng tác “văn dĩ tải đạo”,

“thi dĩ ngôn chí”. Dựa trên những quan điểm và nguyên tắc này những sáng

tác về thiên nhiên phần lớn vì thế mà trở thành phương tiện để nói chí, để thể

hiện cốt cách của Nho gia.

Với mẫu nhà Nho ẩn dật, “thiên nhiên có tác dụng cân bằng lại thế giới

tinh thần”. Nhà Nho ẩn dật “đề cao vai trò của thiên nhiên hơn, mối quan hệ

giao hòa giữa thiên nhiên và con người cũng chặt chẽ hơn nhiều”[23, tr33].

Còn nhà Nho tài tử lại luôn hướng đến tư tưởng tự do, phóng khoáng.

Thiên nhiên trong thơ của các nhà Nho tài tử thường in dấu rất rõ cái tôi

cá nhân.

Dù mỗi loại hình nhà Nho có đặc trưng riêng, tuy nhiên, trong văn thơ

nhà Nho nói chung, thiên nhiên có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà nghiên cứu

Trần Nho Thìn trong Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu và

giảng dạy văn học đã dẫn lời của nhà nghiên cứu người Nga A. X. Martynov

như sau: “Sứ mạng đầu tiên của thiên nhiên mà nhân cách nhà Nho gặp gỡ là

sứ mạng của vũ trụ hoạt động một cách có quy luật và sinh ra tất cả. Trong

sứ mệnh này, thiên nhiên thực hiện một chức năng hai mặt đối với nhân cách

nhà Nho: nó sinh ra nhân cách nhà Nho như một nhân cách, như một “thiên

tài” và nó đóng vai trò quy luật thể hiện trong quá trình biến nhân cách này

thành nhân cách nhà Nho, bởi vì toàn bộ truyền thống tinh thần Khổng giáo

đều hướng đến thiên nhiên như hướng đến một mẫu mực cơ bản và hoàn hảo

nhất.” [31,tr138]

27

1.3.3. Đạo giáo

So với Nho giáo, Đạo giáo được coi là hệ tư tưởng có nhiều tư tưởng tiến

bộ khi bàn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Đạo giáo chủ trương

“Thiên nhân hợp nhất”, lấy tự nhiên làm khuôn mẫu cho con người, chủ

trương “vô vi”. Nhà nghiên cứu Trần Hải Yến nhận định: “Với Nho giáo, con

người có một gián cách nhất định với trời-đất; con người tham gia và tạo nên

trạng thái “trung hòa” giữa mình và trời đất, tự nhiên. Còn ở Đạo giáo, sự

nhất thể thiên-địa-nhân là vốn có của tự nhiên, sự cân bằng (tức “trung

hòa”) cũng là một trật tự của tự nhiên, tuy nhiên con người có thể làm cho nó

tốt lên hoặc xấu đi, tùy vào hành vi thiện hay ác của mình. Đây cũng chính là

lý do để Lão Tử chủ trương tự nhiên là tối cao, nên “người bắt chước đất, đất

bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên”, và chủ trương

con người không được làm gì trái tự nhiên (phải “vô vi”). Thậm chí, Lão Tử

còn chủ trương một vị thế mà ngôn từ hiện đại gọi là “sự bình đẳng” giữa

các sinh loài trong thế giới tự nhiên” [36].

Điểm khởi đầu cơ bản của văn hóa Đạo giáo trong mối quan hệ giữa con

người và thiên nhiên là tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”. Xuất phát từ tư tưởng

cơ bản này, Đạo giáo đề xuất thiên, địa, nhân đồng nhất nguyên khí. Nguyên

khí gồm có: Thái Dương, Thái Âm và Trung Hòa. Thể hiện qua ba hình thể:

Thiên, Địa, Nhân. Những nguyên khí và hình thể này “tương ái tương thống”,

“hợp lực đồng tâm, cộng sinh vạn vật” và vận hành theo quy luật “nhất khí

bất thông, vạn vật rối loạn”. Tư tưởng như vậy khiến cho Đạo giáo thừa nhận

vạn vật vạn sự trong vũ trụ đều có tính hợp lí của bản thân nó và đều bình

đẳng với nhau.

Với quan điểm “nhậm tự nhiên… tồn vong nhậm thiên” nên Đạo giáo

chủ trương “vô vi” và coi con người là một bộ phận của tự nhiên, nhấn mạnh

“đạo pháp tự nhiên” “tự nhiên chi đạo bất khả vi”. Từ đó, Đạo giáo chủ tương

con người nên yêu thương và bảo vệ thiên nhiên, duy trì mối quan hệ tương

giao hài hòa với thiên nhiên, thuận theo quy luật khách quan của tự nhiên.

Tóm lại, điểm khác biệt của tam giáo trong quan niệm về mối quan hệ

giữa con người với tự nhiên là cách đánh giá nhìn nhận về vị thế và vai trò

28

của con người trước tự nhiên. Còn đặc điểm chung của cả ba hệ tư tưởng là

đều nhấn mạnh vị trí đặc biệt quan trọng của tự nhiên. Cả Nho giáo, Đạo giáo

và Phật giáo đều khẳng định con người cần tạo mối quan hệ hài hòa với tự

nhiên vì sự tồn tại của chính bản thân mình. Đó là đạo đức sinh thái mà cả

Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo đều hướng con người đến.

1.3.4. Khái quát về tập thơ HĐQÂTT :

Tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập ra đời dưới thời Hồng Đức vào nửa

cuối thế kỉ XV. Thời đại Hồng Đức là niên hiệu dưới triều Lê Thánh Tông.

Ông được đánh giá là vị vua anh minh lỗi lạc và cũng chính là vị vua đã đưa

triều đại phong kiến phát triển lên tới đỉnh cao cực thịnh. Dưới thời đại Hồng

Đức đất nước phát triển về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa , xã hội, giáo

dục. Đặc biệt dưới thời đại Hồng Đức văn hóa nghệ thuật được nhà vua

khuyến khích phát triển nhất là sáng tác thơ Nôm Đường luật, bằng chứng cụ

thể là sự ra đời của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập.

Tác giả của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập là những nhân sĩ trong Hội Tao

đàn. Hội Tao đàn được thành lập vào năm 1495, là tổ chức sáng tác thơ và bình thơ

do vua Lê Thánh Tông đứng đầu. Sự ra đời của Hội Tao đàn đánh dấu một bước tiến

của thơ ca cung đình được gọi là “Tao đàn nhị thập bát tú” tức 28 ngôi sao trên đàn

văn chương. Vua Lê Thánh Tông là vị vua không chỉ có tài trị quốc mà còn là vị vua

có tâm hồn thi sĩ. Người đã cổ súy việc bình thơ và sáng tác thơ, tạo điều kiện cho thơ

ca phát triển. Được sự khuyến khích của nhà vua các nhân sĩ thời Hồng Đức đều

hăng say sáng tác thơ, những bài mang tính chất vịnh được xác định là của các văn

thân song rất khó xác định một cách chính xác ai đã viết bài nào.

Như vậy, có thể xác định tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập là tập hợp những

sáng tác của vua Lê Thánh Tông và nhiều tác giả trong Hội Tao Đàn. Toàn bộ tập thơ

gồm 328 bài thơ, chia thành 5 phần: Thiên địa môn gồm 59 bài vịnh về thời tiết, trời

đất; Nhân đạo môn gồm 46 bài vịnh các nhân vật lịch sử, nói về đạo trung hiếu;

Phong cảnh môn gồm 66 bài vịnh cảnh trí thiên nhiên, di tích lịch sử; Phẩm vật môn

gồm 69 bài vịnh cảnh vật nói chung như loài cây, loài vật, vật dụng; Nhàn ngâm chư

phẩm gồm 88 bài với đề tài phong phú, từ vịnh thiên nhiên đến vịnh nhân vật lịch sử.

29

Tiểu kết

Phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu liên ngành có ý nghĩa khá quan

trọng trong bối cảnh khủng hoảng môi trường toàn cầu. Phê bình sinh thái đã phát

triển ngày càng mạnh mẽ và lan rộng trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Ở

chương này, luận văn đã làm rõ khái niệm phê bình sinh thái cũng như vài nét về

tiến trình phát triển của phê bình sinh thái. Nghiên cứu phê bình sinh thái có thể

xuất phát từ rất nhiều khía cạnh khác nhau nhưng trong khuôn khổ của luận văn,

chúng tôi quan tâm đến ba vấn đề: thẩm mĩ sinh thái, thẩm mĩ phi sinh thái và chủ

nghĩa chỉnh thể sinh thái.

Trong thời kỳ từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Việt Nam đã ảnh hưởng

sâu sắc bởi ba hệ tư tưởng chính là Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Mối

quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong văn hóa, văn học thời kỳ này

cũng chịu sự tác động rõ rệt của hệ thống tư tưởng đó. Trong ba hệ tư tưởng

này, Đạo giáo được coi là hệ tư tưởng tiến bộ nhất trong mối quan hệ giữa con

người và tự nhiên: Đạo giáo thừa nhận vạn vật vạn sự trong vũ trụ đều có tính

hợp lí của bản thân nó và đều bình đẳng với nhau; Đạo giáo chủ trương “vô

vi” và coi con người là một bộ phận của tự nhiên; Đạo giáo chủ trương con

người nên yêu thương và bảo vệ thiên nhiên, duy trì mối quan hệ tương giao

hài hòa với thiên nhiên, thuận theo quy luật khách quan của tự nhiên. Ý thức

sinh thái tích cực của Phật giáo là quan điểm bình đẳng, thương sinh, bác ái,

thấu nhập. Ý thức sinh thái tích cực của Nho giáo là lí tưởng “thiên nhân

tương dữ, giao hòa”, là việc đề cao vị trí đặc biệt quan trọng của tự nhiên.

Nhưng cũng cần bổ sung rằng, cả Phật giáo và Nho giáo “đều lấy thiên nhiên

làm sự phản chiếu tưởng tượng, khát vọng và nhận thức của con người”. Và

như vậy, ít nhiều nó vẫn mang tính nhân loại, vì nhân loại.

HĐQÂTT là một tập thơ Nôm lớn của văn học Việt Nam trung đại ở thế

kỷ XV, trong một bối cảnh văn hóa, chính trị, giáo dục đặc biệt. Với hơn 1/3

số bài thơ viết về thiên nhiên, HĐQÂTT đối tượng nghiên cứu quan trọng của

luận văn này.

30

Chương 2

HỆ SINH THÁI TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP

Theo thống kê, HĐQÂTT có 141 bài thơ đề vịnh thiên nhiên, trong đó

gồm 4 bài vịnh Tết Nguyên Đán, 10 bài vịnh Năm canh, 16 bài vịnh Bốn mùa,

12 bài vịnh Mười hai tháng, 37 bài vịnh Phong hoa tuyết nguyệt, 17 bài vịnh

Tiêu Tương Đào Nguyên bát cảnh, 13 bài vịnh Sơn thủy, 9 bài liên quan đền

chùa miếu mạo, 23 bài vịnh loài cây cảnh. Như vậy, số bài thơ vịnh về thiên

nhiên chiếm tới 43% tổng số bài trong toàn tập thơ. Từ góc nhìn phê bình sinh

thái, ở chương này, luận văn sẽ đi sâu phân tích hệ sinh thái trong tập thơ thể

hiện ở sự đa dạng loài thực vật, động vật và đặc điểm của nhịp thiên nhiên.

2.1. Hệ thực vật

Những bài thơ trong HĐQÂTT hầu hết đều là các bài thơ đề vịnh. Tuy vậy,

qua những bài thơ đề vịnh này, chúng ta được biết đến một hệ sinh thái với nhiều

loài thực vật quen thuộc trong môi trường tự nhiên của Việt Nam. Giống QÂTT

của Nguyễn Trãi, số lượng bài viết về tùng, cúc, trúc, mai trong HĐQÂTT khá

nhiều (tùng được nhắc 8 lần, cúc: 5 lần, trúc: 15 lần, mai: 21 lần). Ví dụ các bài:

Hoa cúc, Mai thụ, Lão mai, Tảo mai, Họa mai, Lại vịnh hoa mai vẽ, Thủy

trung mai, Trúc thụ, Tùng thụ, Quân tử trúc trong phần “Phẩm vật môn”.

Chẳng hạn bài Mai thụ:

“Trội cành nam chiếm một chồi

Tin xuân mãi mãi điểm cây mai

Tinh thần sáng, thuở trăng tĩnh

Cốt cách đông khi gió thôi

Tiết cứng trượng phu thông ấy bạn

Nết trong quân tử trúc là đôi

Nhà truyền thanh bạch giăng từng khối

Phỉ xưng danh thơm đệ nhất khôi”.

(Mai thụ)

31

Trong bài thơ này, thi sĩ vịnh về cây mai và nhắc đến tên của ba loại thực

vật thường xuất hiện trong văn chương nhà Nho, đó là mai, trúc, thông. Cây

mai gốc già cằn cỗi, cành lá khẳng khiu mà cốt cách thanh cao, tinh thần cứng

cỏi được xem là hoa của bậc tiết tháo.

Ở một bài thơ khác, các thi sĩ nói về cây mai như là biểu tượng của mùa

xuân đến sau những ngày đông lạnh giá:

“Xuân thêm cốt cách hương càng bội

Tuyết giúp tinh thần ngọc hãy còn

Kể mặt hay thông đều bạn tác,

Theo chân chiếm bảng những em con

Tiết là đá sắt thêm khoe muộn,

Sực nức danh thơm kiếp chẳng mòn”.

(Cây mai già)

Bên cạnh tả về cây mai, bài thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng: Cây mai

ở đây chính là biểu tượng người quân tử, thể hiện qua các từ ngữ như: cốt

cách, tinh thần, tiết, danh thơm…

Trong HĐQÂTT hình ảnh trúc được khắc họa một cách nổi bật về hình

thức đồng thời được các tác giả thể hiện như một sinh thể có linh hồn, cốt cách:

“Kì viên dưỡng dục nẻo sơ đông

Dạn mặt đầu canh thuở gió rung.

Giá chẳng xâm, hay tiết cứng,

Trăng những tỏ, biết lòng không?

Đài Vương tử vắng, nhàn xoang phượng,

Chầm Cát pha thanh dễ hóa rồng

Thiên hạ tri âm, hay có mấy?

Mai thì ngự sử, đại phu tùng”.

(Cây trúc)

32

Hay:

“Giống lạ Giang - nam đã được dành,

Một mai năng chiếm được cao danh

Lòng không chẳng vả phô niềm tục

Khi cứng hằng thìn một tiết thanh

Sớm còn đeo chim phượng đỏ

Khuya chờ mọc cháu rồng xanh

Kham chi thế gọi là quân tử

Sương tuyết nào hề bén mình”.

(Trúc quân tử)

Trúc là loài thực vật được đề vịnh trong cả hai bài thơ kể trên. Loài trúc

có đặc điểm chung là: ruột rỗng, dáng thẳng, trong những ngày đông tháng

giá, khi các loài cây khác đều rụng hết lá, khô cằn tàn tạ thì trúc vẫn xanh tươi.

Đây là đặc điểm tự nhiên của loài trúc. Dưới con mắt của các nhà Nho, trúc

không chỉ có sức sống bền bỉ trước thiên nhiên khắc nghiệt mà còn là loài cây

thanh cao và tao nhã:“Dáng trúc thanh thoát, lá trúc mềm mại, hình ảnh trúc

luôn gợi lên nét đẹp thanh tú. Đốt trúc rỗng thể hiện sự trong sáng ngay

thẳng khiêm tốn không vụ lợi” [19].

Hình ảnh “Tùng” trong thơ Nguyễn Trãi là biểu tượng cho khí phách,

cho tài lương đống của bậc trượng phu:

“Lâm tuyền ai rặng già làm khách

Tài đống lương cao ắt cả dùng”

(Tùng)

“Tùng thụ” của tác giả thời Hồng Đức thể hiện tầm vóc sừng sững tạo

thành không gian rợp cả hư không đúng với đặc điểm sinh học của nó: “Loại

cây này mọc ở những mỏm núi chênh vênh, chịu nhiều sương gió, bão tuyết

mà không chết không đổ, sức chịu đựng khí hậu, mọc ở những nơi khô cằn,

đất thiếu dinh dưỡng, nhưng sức sống của cây thì rất mãnh liệt, luôn vươn

thẳng lên trời”.[12]

33

“Tán xanh rợp rợp ngợp hư không

Qua mấy trăm thu thuở bão bùng

Tiết cứng chẳng kín hương tuyết bẽn

Tài cao dương để miếu đường dùng

Kì viên giống lạ nào so kịp

Dữ Lĩnh danh thơm dễ sánh cùng?

Ngượng thấy tam công đeo chức trọng

“Đại phu” há những chịu Tần phong”

Cây tùng có tầm vóc thật hùng vĩ, tán lại xanh che rợp cả hư không

khiến người đứng ngoài nhìn vào thấy mình thật nhỏ bé.

Hoa cúc dưới con mắt tinh tế của các thi nhân thời Hồng Đức là loài hoa

đặc trưng của mùa thu, có hương, có sắc:

“Nết na nhẵn mịn khác chưng loài

Chiếm được thu chơi ít có hai

Hương ắt chín nhiều, vàng chín cỏ

Tuyết đà chăng nhiễm, bạc chăng phai”

(Cúc hoa)

Bên cạnh tùng, cúc, trúc, mai, trong HĐQÂTT, loài sen cũng được các thi sĩ

Tao Đàn đặc tả. Có tới 7 bài viết về sen: Liên, Lại vịnh sen, Phong liên, Tình liên,

Nội liên, Lão liên, Quan tử liên đồ.

Trong bài Phong liên tác giả viết:

“Chẳng bén lầm nhơ của khác thường

Nhìn khi gió cả lạ nhiều dường

Vật vờ Thái - dịch nghìn tầng biếc,

Sực nức Tây hồ mấy dặm hương.

Cá hớp nhị vàng lừa sóng,

Rùa giày nhương ngọc động gương.

Có phen trời thanh vằng vặc,

Chổng lên hàng tán lục giương”

34

Loài cây dân dã này đã có sự gắn bó mật thiết với cuộc sống mỗi gia đình

Việt. Dưới ngòi bút của các thi sĩ trong hội Tao Đàn loài sen hiện lên là một

loài cây mọc lên giữa chỗ bùn đất “lầm nhơ” nhưng lại có vẻ đẹp và hương

thơm thoát tục “Sực nức Tây hồ mấy dặm hương”, có nhị vàng đẹp đẽ và

những chồi lá xanh lục mát mắt. Dù là thơ đề vịnh nhưng các tác giả đã thâu

tóm được đặc điểm cốt lõi của loài thực vật này, đồng thời đặt nó trong môi

sinh của chính nó, trong mối quan hệ với loài cá, loài rùa. Rõ ràng các tác giả

phải có sự quan sát thực tế cuộc sống mới có được những vần thơ như thế về

loài sen.

Ngoài những hình ảnh về các loại cây mang màu sắc ước lệ của Đường

thi, chúng ta còn tìm thấy trong HĐQÂTT những loài thực vật nhỏ bé, “bình

dị”, những loài thực vật “lạ” có mối quan hệ mật thiết với đời sống của con

người Việt Nam như: cỏ (19 bài), hòe (4 bài), lau (4 bài), rêu (3 bài), dừa (2

bài), dưa (1 bài), mít (1 bài), cải (1 bài), chuối (1 bài), củ ráy (1 bài), mướp

đắng (1 bài), dâu (1 bài), măng (2 bài), me (1 bài), đào(1 bài), mận (1 bài),

cau (2 bài), tre (1 bài)… Những loài thực vật này không chỉ là đối tượng phản

ánh mà còn là đối tượng thẩm mĩ trong các bài thơ của HĐQÂTT. Dưới đây

là hình ảnh loài cải trong thơ các thi sĩ Hồng Đức:

“Nhà ta có cải vãi nơi nương

Đất phúc sinh thành của lạ thường

Áo đã tương xanh, tương thức lục

Đầu chăng đội bạc, đội hoa vàng”

(Rau cải)

Bài thơ vịnh về một trong những loài rau rất quen thuộc đối với người dân

Việt Nam: cây cải. Sự khéo léo đưa vào trong thơ hình ảnh “Áo đã tương xanh,

tương thức lục/ Đầu chăng đội bạc, đội hoa vàng” đã giúp người đọc hình dung

ra màu xanh lục quen thuộc của lá cải và màu hoa vàng rực rỡ của loài cây này.

Biện pháp nghệ thuật đối cấu trúc, đối từ loại được vận dụng đã làm nổi bật đặc

điểm của cây cải, đồng thời tô lên vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên.

35

Ngoài ra, các loài thực vật chưa từng xuất hiện hoặc số lần xuất hiện rất

ít ỏi trong văn chương trung đại cũng xuất hiện trong tập thơ của Hội Tao Đàn

với sự hóm hỉnh, tự nhiên, dung dị:

“Kẻ hái rau tần, nước bọt se

Chẳng thương bồ liễu phận le te”

(Lại vịnh nắng mùa hè)

“Nảy nảy khoai, chỉn giống làng

Vun trồng đã cậy cỏ xanh xanh”

(Khoai)

Các thi sĩ trong hội Tao Đàn đã phát hiện ra chất thơ trong những loại

quả hết sức bình thường gần gũi, gắn bó với đời sống của những người nông

dân dưới triều đại Hồng Đức như dưa, mít, dừa:

Ngọt bằng mít, mát bằng dừa,

Trợ khát nào qua một quả dưa?

Mùi mẻ ngon, người dễ trọng,

Tinh thần lạ, thế đều ưa.

Lòng son thờ chúa niềm chăng trễ,

Áo lục truyền nhà lộc có thừa.

Nhân quả nhiều, vì trồng đất phúc,

Đời đời con cháu thịnh hơn xưa.

(Quả dưa)

Những thuộc tính của quả dưa được các tác giả tái hiện khá chân

thực: “lá xanh, nhiều lộc”, “quả nhiều”, quả “ngọt”, “mát”, “trợ khát”,

“mùi mẻ ngon”, ruột đỏ. Như vậy, dù có được đề vịnh vì mục đích gì đi

chăng nữa thì trước hết các thi sĩ đã tái hiện được rất chân thực đặc điểm

của một loài cây ăn quả phổ biến, một đặc sản tiêu biểu của Việt Nam.

Tất nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận qua những bài thơ này,

ngoài việc nói về thực vật các tác giả Hồng Đức còn nói chí. Bài thơ vì

thế cũng mang tính khẩu khí.

36

Hay trong bài thơ Cây chuối tiêu, tác giả đã tái hiện hình ảnh cây chuối

tiêu vốn rất quen thuộc ở vùng khí hậu nhiệt đới:

Thú nửa lâm tuyền, nửa thị thành,

Vun trồng, toàn đội đức cao xanh.

Dọc giơ gươm đẩu kinh cuồng khấu,

Lá cuốn cờ xuân tượng thái bình.

Trong sạch xưa sau ấy tiết,

Móc mưa nhuần gội trong mình.

Đành hay giống cố phù nước,

Con cháu đời đời dõi đĩnh sinh.

(Cây chuối tiêu)

Cây chuối là một loài cây khá phổ biến, dễ trồng xuất hiện nhiều trong

vườn của nhà nông. Vậy mà những cây bút xuất thân từ tầng lớp trí thức,

trong không gian văn hóa cung đình lại miêu tả khá kĩ và chi tiết đến về nó:

môi trường sống của nó là “nửa lâm tuyền, nửa thị thành”, khi được chăm sóc

kĩ lưỡng thì cây trở nên xanh tươi, sống lá thẳng tắp để “lá cuốn cờ

xuân tượng thái bình” và khi mưa xuống đất đai ẩm là môi trường lí tưởng để

chuối non mọc ra “Con cháu đời đời dõi đĩnh sinh”.

Rồi đến cả những loài thực vật được cho là “thừa thãi”, không đem lại lợi

ích cho con người thì dưới tứ thơ của các thi nhân dưới triều Hồng Đức nó vẫn

mang nét hấp dẫn, đầy sức sống của một thực thể loài như: cỏ (được nhắc 20 lần

trên tổng số 20 bài thơ), lau (nhắc tới 4 lần), rêu (nhắc đến 2 lần):

Đầu ngàn, êu ểu cỏ xanh om,

Thả thả, chăn chăn, ít lại nom.

(Vịnh người chăn trâu)

Lau chổng bãi nam ngàn dặm rợp,

Nhạn về, ải bắc mấy hàng bày.

(Lại vịnh cảnh mùa thu)

37

Đồn rằng huyện Ngọc có kênh Trầm,

Tuy hẹp le vui hết mấy rằm.

Gò nổi xương trâu rêu lún phún,

(Kênh Trầm)

Cỏ là loài cây quen thuộc ở những vùng miền nhiệt đới. Sức sống của

loài cây này rất mãnh liệt: mọc ở bất cứ khu vực nào, sinh trưởng mạnh mẽ.

Nguyễn Du- một nhà thơ lớn của dân tộc ta cũng đã từng nhắc đến loài thực

vật này trong những trang thơ khi viết về Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

(Truyện Kiều)

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Như vậy HĐQÂTT đã tái hiện một số lượng không nhỏ các loài thực

vật vốn quen thuộc trong hệ sinh thái ở nước ta. Đó là những loài thực vật

phổ biến của vùng Bắc Bộ. Ở đây, các tác giả không chỉ tái hiện các loài

thực vật vốn thường xuyên xuất hiện trong văn chương nhà Nho mà còn

đưa vào tập thơ không ít loài thực vật vốn rất dân dã, đời thường. Đây

chính là cách ghi lại những loài thực vật trong hệ sinh thái Việt Nam đương

thời một cách độc đáo, nó cũng thể hiện rằng, các thi sĩ Tao Đàn dù có bận

bịu với công việc hành chính của vương triều nhưng vẫn rất gắn kết với

thiên nhiên, hiểu được đặc trưng của nhiều loài thực vật, trong đó có cả

những loài thực vật rất “tầm thường”.

2.2. Hệ động vật

Trong HĐQÂTT có 101/ 328 bài có nhắc đến hoặc miêu tả các loài

động vật. Trong đó có các loài như: hạc, rồng, loan, phượng, chim - là

những con vật thuộc về biểu tượng. Bên cạnh đó là những loài động vật

vốn ít được miêu tả trong văn chương cung đình như ve (5 bài), thỏ (5 bài),

rắn (3 bài), gà (3 bài), chim quốc (3 bài), chim tu hú (2 bài), vịt (2 bài),

kiến (2 bài), muỗi (1 bài), cóc (1 bài), rận (1 bài), ruồi (1 bài), chó (1 bài),

38

cá (20 bài với các loài khác nhau như: cá he, cá mập, cá voi, cá nược, cá đè

he…), ruốc biển (1 bài)…

Những loài động vật thuộc về biểu tượng trong văn học trung đại được

các thi nhân trong hội Tao Đàn nhắc đến khá nhiều: rồng (11 bài), loan (7 bài),

phượng (8 bài)…

Trong bài Lại bài cây cau các loài vật phượng, rồng được nhắc đến:

Được chốn đi về tốt lạ lùng

Vì người dễ khiến thức khoe hồng.

Mình cài xiêm lục phe đuôi phượng,

Bóng rỡn trì thanh uốn khúc rồng.

Tiết cứng khá phen quân tử trúc,

Thói cao chẳng nhượng đại phu tùng

Trời có ý sinh dù nên nữa,

Tàn rợp đời đời cửa tướng công

(Lại bài cây cau)

Hay trong bài Vịnh cảnh mùa đông:

Đòi phượng lạt sạt trận hàn phong,

Da diết người thay bấy hỡi đông!

Mốc rắc rêu tiền, xanh những tuyết,

Cát pha màu bạc, giá đầy sông.

Chuông vàng ngàn khói thông về hạc,

Canh diễn lầu châu nước ngán rồng.

Chớ chớ ngại rằng mai lạnh lẽo,

Kìa kìa mai đã thức xuân nồng.

(Vịnh cảnh mùa đông)

Thơ xưa đối tượng thẩm mĩ thường thanh cao, tao nhã vậy mà những con

vật nhỏ và bẩn như: muỗi, rận, ruồi, kiến “lọt” vào mảnh đất thi ca của các

nhà Nho là điều khá thú vị. Đây là hình ảnh con muỗi xuất hiện trong

HĐQÂTT:

39

“Muỗi hỡi mi sinh giáp tí nào?

Đêm đêm lẻn đến cửa phòng tao.

Ngày thì đủng đỉnh bên lầu ngọc,

Hôm đã thung thăng tiểu má đào.

Ghẹo Hằng Nga khi nguyệt hiện,

Trêu thần nữ thuở chiêm bao.

Canh khuya luẩn quất làm cho nhọc,

Châm đốt ngoài da có xuể nao”

(Con muỗi)

Còn đây là hình ảnh về Con rận:

Tạo hóa sinh mi được phận an

No lòng, ấm cật kẻo cơ hàn.

Lảu hay phong vị mùi thiên hạ,

Nhòm biết nhân tình sự thế gian.

Gióng (Chiêu hầu) khi cấp cự.

Thăm Vương Mãnh thuở thanh nhàn.

Hết lòng uống máu vì nhà chúa,

Khăn khắn trong niềm một điểm đan

(Con rận)

Và loài kiến:

“Phô loài cả, vóc nghênh ngang

Mòn mọn song màu, kiến mấy càng”

(Con kiến)

Và con rắn, con mèo, con ong, con dê cũng được nhắc đến trong bài thơ

Tương phùng, dù cho có thể đó chỉ là mọt hình thức của thơ khẩu khí:

“Ấy khuôn hay mẹo thợ nào lừa?

Mướp đắng khen ai đổi mạt cưa

Rắn đói đâu từ con cóc thối

Mèo thèm chi dỗi miếng nem thừa

40

Ong già buông nọc châm hoa rữa

Dê yếu văng sừng húc giậu thưa

Ơ hở tiền chì mua vải nối

Nồi nào vung ấy khéo in vừa”

(Tương phùng)

Những con vật nhỏ bé, thậm chí có phần “bình dân”, gắn bó với đời sống

sinh hoạt hằng ngày của người lao động bình dị cũng xuất hiện trong tập thơ:

“Buồn nghe dăng tiếng, tiếng cầm ve,

Gióng khách chào ai bấy hỡi hè?

Bẻo lẻo đầu ghềnh con bố cốc.

Lênh đênh mặt nước cái đè he

Ngày chầy phảng phất hồn hồ điệp.

Đêm nhắp mơ màng tiếng tử qui”

(Nắng mùa hè)

(bố cốc: có nghĩa là chim tu hú; đè he: có nghĩa là cá nược, hồ điệp: là

bươm bướm; tử quy: chim quốc)

Hay hình ảnh chim Gọi vịt, cá rô đồng, con chó, chim cuốc, con ve sầu

là loài động vật rất quen thuộc trong mùa hè của người Việt Nam xưa cũng

xuất hiện trong tập thơ với hình ảnh đặc trưng tiêu biểu:

Gọi vịt từ nghe ở ngọn tre

Mới hay tiết đã báo sang hè.

Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi,

Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè

Cuốc cuốc, cuốc hằng khua mõ cuốc,

Ve ve, ve lại gẩy cầm ve…

(Lại vịnh nắng mùa hè)

Như vậy có thể thấy, không ít loài động vật nhỏ bé không mang lại lợi

ích gì cho con người thậm chí là những loài côn trùng hôi hám, tanh bẩn mà

con người xua đuổi, xa lánh thì trong những trang thơ của các thi sĩ Tao Đàn

41

lại tái hiện những thuộc tính và đặc điểm của chúng. Chúng ta có thể đều

không thích những loài côn trùng nhỏ bé, bẩn thỉu đó. Nhưng đứng từ quan

điểm sinh thái học, tất cả những loài vật dù có nhỏ bé, có bẩn thỉu ra sao thì

chúng đều có vai trò nhất định trong chuỗi sinh học, trong việc điều tiết nhịp

sinh thái. Vì vậy, từ điểm nhìn sinh thái học, các loài này đồng đẳng với các

loài động vật khác. Là những thi sĩ cung đình, sống trong không gian đô thị

nhưng các thi sĩ Tao Đàn đã chú ý đến cả những loài côn trùng nhỏ bé như

vậy, đó là điều đáng quý.

Trong HĐQÂTT khi viết về động vật, các tác giả còn đưa loài cá vào

trong các trang viết của mình 20 lần. Nhưng loài cá được nhắc đến không phải

để biểu hiện cho thú nhàn câu cá của các nhà Nho mà nó xuất hiện trong

chuỗi sinh học đa dạng:

“Ngư hà song viết ngày hằng đủ,

Bạng duật đôi co thế ngại nhòm.

Chờ thuở nguồn Đào tiên lại gặp,

Cùng nhau cặn kẽ thưở đầu mom”.

(Họa bài người kiếm cá)

(Ngư hà: cá tôm, Bạng: con trai, Duật: con cò)

Chỉ với bốn câu thơ, nhưng các thi sĩ đã giúp người đọc thâu tóm vào

tầm mắt của mình những hoạt động thú vị của tự nhiên: Trên bãi cát, con trai

mở vỏ ra để hóng nắng, con cò đến mổ vào thịt con trai, con trai liền khép vỏ

lại ngậm chặt lấy mỏ con cò.[5, tr22] Nếu không quan sát tự nhiên, chắc chắn

các tác giả sẽ không thể tái hiện được hình ảnh thú vị như vậy.

Tóm lại, trong HĐQÂTT số lượng các loại động vật khá nhiều, tần

suất xuất hiện thường xuyên, đặc biệt là những sinh vật “tầm thường”,

“bình dân”. Qua tập thơ, chúng ta có thể tìm thấy các loài sinh vật vừa

quen vừa lạ. Các sinh vật quen thuộc được các tác giả ưu tiên lựa chọn đã

xuất hiện với tần suất khá nhiều và mang đậm tính biểu tượng, ước lệ trong

văn học trung đại. Bên cạnh đó còn có các “sinh vật thuộc hàng bình dân”.

42

Các sinh vật này vốn ít xuất hiện trong văn chương cung đình, nhưng lại rất

gần gũi với các hoạt động sản xuất của tầng lớp bình dân và trong đời sống

hằng ngày, chúng cũng góp phần quan trọng tạo nên chỉnh thể sinh thái.

HĐQÂTT được ra đời trong không gian văn hóa cung đình nhưng các tác

giả của nó vẫn rất gắn kết và gần gũi với thiên nhiên, với những động vật

thực vật bình dị trong cuộc sống hằng ngày.

2.3. Nhịp thiên nhiên

Nhịp thiên nhiên là một trong những vấn đề quan tâm của các nhà khí

hậu học, vật hậu học hiện đại. Nhịp thiên nhiên diễn ra theo quy luật của tự

nhiên và biến đổi một cách chậm chạp khiến chúng ta không thể nhận ra ngay.

Tuy nhiên, các nhà khí hậu học đã cảnh báo, ngày nay sự nóng lên toàn cầu

đã thay đổi nhịp điệu tự nhiên của một số loài thực vật, động vật. Trong công

trình nghiên cứu Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng dạy

văn học, tác giả Trần Nho Thìn đã nói đến vấn đề nhịp thiên nhiên ở thời

trung đại. Ông khẳng định: Trong cách người Việt Nam thời cổ đại và trung

đại hiểu về ý nghĩa của thiên nhiên có hàm chứa một nguyên lí triết học hay

vũ trụ luận nào đó. Trước tiên ta hãy quan sát cách chép sử của Đại Việt sử

ký toàn thư, một bộ sử ghi chép các sự kiện, hành vi, ngôn ngữ chính trị của

các bậc vương giả và triều đình. Không phải thường xuyên, nhưng đã thành

một định lệ, rất nhiều sự kiện được chép gắn liền với nhịp điệu thiên nhiên

bốn mùa... Ngoài các mùa, đánh dấu nhịp thiên nhiên còn có nhịp của tháng,

ngày.[31,tr111-112]

Điều này cũng được thể hiện trong HĐQÂTT. Hệ sinh thái trong tập thơ

luôn có sự vận động theo nhịp chu chuyển của vũ trụ cùng vạn vật, chúng

được đặt trong sự biến đổi không ngừng về thời gian: sự chuyển vần theo mùa

xuân - hạ - thu - đông, theo tháng, theo nhịp đêm - ngày.

2.3.1. Nhịp bốn mùa

Trong HĐQÂTT có tồn tại một nhịp luân chuyển tuần hoàn theo nhịp

luân chuyển của mặt trời, có thể gọi đó là nhịp bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông.

43

Trong tập thơ này, từ chỉ thời gian bốn mùa đã được sử dụng với tần suất

khá dày đặc như sau:

Từ chỉ thời gian Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông

Số lần 13 14 7 23 6

Toàn tập thơ có 28 bài thơ viết về thiên nhiên bốn mùa, đây là bộ phận

quan trọng góp phần tái hiện nhịp thiên nhiên đương thời.

Tập thơ gồm 4 bài thơ chính thức vịnh về mùa xuân: Vịnh cảnh mùa xuân

1, Lại vịnh cảnh mùa xuân, Vịnh cảnh mùa xuân 2 và Tàn xuân lữ thứ. Bên

cạnh đó là các bài không vịnh về mùa xuân nhưng lại gián tiếp nói về mùa

xuân như các bài vịnh về Tết Nguyên đán hay vịnh về các tháng trong năm.

Mùa xuân đến, vạn vật sinh sôi nảy nở bởi khí trời ấm áp, sự tốt tươi của

cảnh vật đầu xuân báo hiệu năm mới no đủ cho muôn loài:

“Một khí trời đắp đổi vần

Ba tháng đông lại ba tháng xuân

Sinh thành mọi vật đều tươi tốt

Đầm ấm ngày nào chẳng đượm nhuần

(Vịnh cảnh ngày xuân)

Các thi sĩ của Hội Tao Đàn đã rất tinh tế khi quan sát các loài động vật,

thực vật để thấy được chuyển vận của vũ trụ khi mùa xuân đến:

“Hiu hiu gió thổi hương lồng áo

Phơi phới mưa sa ngọc đượm chân

Liễu vẽ mày xanh oanh chấp chới,

Mai tô má phấn bướm xun xoăn”.

(Vịnh cảnh mùa xuân)

Ở đây, mưa xuân, lá liễu non, chim oanh, đàn bướm giữ vai trò như

“đồng hồ thiên nhiên” để con người nhận biết thời gian. Xuân đến xua tan cái

lạnh lẽo của mùa đông, chỉ có những cơn mưa phùn nhè nhẹ thấm vào chân

người đi đường. Xuân đến, cỏ cây hoa lá như cũng biết trang điểm giống

người: liễu “vẽ mày xanh” để “oanh chấp chới”, mai “tô má phấn” khiến

“bướm xun xoăn”. Bức tranh xuân hiện lên với đầy đủ sắc màu và sức sống.

44

Mùa xuân là mùa vận hội của muôn loài trong đó có cả con người:

“Đường hoa chấp chới tin ong dạo,

Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền.

Ả ngụy, nàng Diêu khoe đẹp đẽ,

Người thơ khách rượu rộn mời khuyên”.

(Lại vịnh cảnh mùa xuân)

Tiếp nối mùa xuân là mùa hè oi ả. Sự chuyển vận của mùa xuân sang

mùa hạ cũng được các thi sĩ miêu tả thật tinh tế:

“Thức xuân một khí hãy còn khoe,

Phút đã nam ngoa đến tiết hè.

Đằng đẵng ngày chầy giương tán nắng

Đùn đùn bóng rợp phủ màn hòe”

(Vịnh cảnh mùa hè)

Những ngày đầu hè đến, cảnh vật tươi vui của mùa xuân còn sót lại.

Thêm vào đó là nắng bắt đầu gay gắt hơn, cây hoa hòe đùn tán lá xanh lục rợp

bóng. Cách đong đếm thời gian quen thuộc của người xưa “Đêm tháng Năm

chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng Mười chưa cười đã tối” thể hiện rõ trong câu

thơ “Đằng đẵng ngày chầy giương tán nắng”. “Đằng đẵng” vốn đã gợi cảm

giác về sự kéo dài của thời gian, thêm vào đó là từ “chầy” khiến người đọc

hình dung ngày hè dài còn đêm ngắn. Đó chính là sự tinh tế của các thi sĩ Tao

Đàn khi viết về thiên nhiên.

Đặc trưng của mùa hè là nắng gay gắt. Và cái nắng ấy đã xuất hiện trong

HĐQÂTT với những hình ảnh vừa tinh tế, vừa chân thực:

“Cũng thì đất chở cũng trời che

Nóng nảy làm chi bấy hỡi hè

Khắc khoải đã đau lòng cái quốc,

Băn khoăn thêm tức ngực con ve

Người nằm trướng vóc mồ hôi mướt

Kẻ hái rau tần bọt nước se”.

(Lại vịnh nắng mùa hè - bài 2)

45

Gọi vịt từ nghe ở ngọn tre,

Mới hay tiết đã báo sang hè.

Nước lồng sừng sực đầu rô trỗi,

Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè.

Cuốc cuốc, cuốc hằng khua mõ cuốc,

Ve ve, ve lại gẩy cầm ve.

Mai lành còn có thu đông nữa,

Những thế còn ai chịu được e.

(Lại vịnh nắng mùa hè - bài 3)

Các tác giả đã vượt lên trên những khuôn sáo để đặc tả đặc trưng của

mùa hè với nắng nóng luôn thường trực. Chỉ với con mắt quan sát tinh tường,

các nhà thơ của HĐQÂTT mới vẽ nên bức tranh hè sinh động đến vậy.

Mùa hè trong HĐQÂTT hiện ra với những hình ảnh hết sức chân thực:

“Nghi ngút ngàn mây tán lửa che,

Rùng người thay bấy gọi là hè.

Hồng bay lựu, màn vây liễu,

Hương nức sen, bóng rợp hòe.

Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc,

Cành kia dắng dỏi gẩy cầm ve”.

(Vịnh cảnh mùa hè)

So với mùa thu và mùa xuân, mùa hè là mùa được ít tác giả trung đại

miêu tả hơn cả. Trước HĐQÂTT đã có QAATT của Nguyễn Trãi viết về

mùa hè:

“Rồi, hóng mát thuở ngày trường,

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tịn mùi hương”.

(Bảo kính cảnh giới, 43)

46

Đối sánh hai bài thơ ta có thể thấy mùa hè trong thơ Nguyễn Trãi được

miêu tả vào cuối hè, khi ấy “hồng liên trì đã tịn mùi hương”. Còn với các thi sĩ

trong Hội Tao Đàn lại miêu tả cảnh sắc, âm thanh, hương vị mùa hè vào những

ngày đầu tiên. Ở bức tranh cảnh ngày hè đó có hoa lựu đỏ tươi, sen thơm ngát,

tiếng cuốc vang vọng lúc nhanh lúc chậm, đặc biệt có hình dáng của con người

trước cái nắng vàng rực rỡ đến “rùng người”.

Hết hè về thì lại có thu sang. Cũng giống như nhiều tác giả khác của văn

học trung đại, các tác giả của HĐQÂTT nhắc đến mùa thu nhiều hơn cả. Bởi

“thơ là thu của lòng người, thu là thơ của trời đất”. Và khi “Thiên hạ cộng tri

thu” (cả gầm trời cũng biết thu sang) là khi nhìn thấy “Ngô đồng nhất diệp

lạc” (một chiếc lá ngô đồng rụng). Thu đến, cảnh vật không còn giữ được sự

căng tràn sức sống nữa mà tất cả như đang bước vào độ phai tàn sắp sửa:

“Lác đác ngô đồng mấy lá bay,

Tin thu hiu hắt lọt hơi may.

Ngàn kia cách nước xo le địch,

Mái nọ bên tường đủng đỉnh chày.

Lau chổng bãi nam ngàn dặm rợp,

Nhạn về ải bắc mấy hàng bày.

Quý Ưng, Tống Ngọc dường bao nữa,

Khi ấy nhiều người cám cảnh thay”

(Lại vịnh cảnh mùa thu)

Bức tranh giản dị, gần gũi với cảnh sắc làng quê Việt Nam nhưng lại

mang đậm chất Đường thi. Những hình ảnh xuất hiện đặc trưng cho mùa thu:

lá ngô đồng, cỏ lau, chim nhạn, hơi may. Tuy những hình ảnh này mang tính

tượng trưng cao nhưng khi đọc bài thơ ta vẫn thấy được cảm xúc chân thành

của thi nhân trước vẻ đẹp của mùa thu: Những chiếc lá ngô đồng “lác đác” rời

cành, khóm lau chuyển sang vàng úa, đàn chim nhạn bay đi tránh rét, hơi may

đã phủ kín không gian. Không còn cảnh nương dâu, còn ánh nắng rực rỡ của

mùa hè. Tất cả cảnh vật được phủ lên một lớp héo úa không còn chút sinh khí.

47

Rõ ràng, cả bài thơ ta không thấy chữ buồn nào xuất hiện vậy mà nỗi buồn cứ

thấm sâu cảnh vật, vào lòng người để lại những dư vị khó quên.

Trăng thu xuất hiện trong thơ các thi sĩ cũng thật nhẹ nhàng và tình tứ:

Bốn mùa no bốn thiếu mùa nào,

Trăng một thu chầy vặc vặc cao.

Hây hẩy gió vàng thông ải nhạn,

Làu làu bóng ngọc suốt nhà giao.

Dãi dầm chén khách kề hiên cúc,

Nhẹ chở thuyền ai ngược động đào.

(Thiên thu nguyệt lãng)

Nếu mùa xuân là mùa của sự “phơi phới mưa sa ngọc đượm chân”, với

“mai tô má phấn” thì đông, mùa hè đến với cái nóng lực và tiếng ve râm ran,

mùa thu đến nhẹ nhàng và tình tứ, thì mùa đông đến khiến con người ta rùng

mình bởi cái lạnh cắt da cắt thịt:

“Đôi phương lạt sạt trận hàn phong

Da diết người thay bấy hỡi đông”

(Lại vịnh cảnh mùa đông)

“Đòi phương lạt xạt trận hàn phong,

Da diết người thay bấy hỡi đông.

Mốc rắc rêu tiền xanh những tuyết,

Cát pha màu bạc giá đầy sông”.

(Vịnh cảnh mùa đông)

Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, Việt Nam là một đất nước không có tuyết.

Các tác giả Hội Tao Đàn bằng sự tưởng tượng của mình đã vẽ lên một bức

tranh mùa đông có tuyết. Làm cái lạnh của mùa đông được nhân lên gấp bội.

Nó thấm dần vào da thịt của con người vì thế mà tiết trời đông lại khiến người

ta buồn da diết.

Thế nhưng không ngưng đọng lại, vòng tuần hoàn của vũ trụ lại tiếp diễn

và sẽ lại xua đi sự lạnh lẽo đó để đón nhận một mùa xuân mới:

48

Vận bốn mùa này đã có công,

Đêm dài bởi một thuở ba đông.

Song mai nguyệt tỏ thanh bằng nước,

Cửa trúc sương xâm lạnh nữa đồng.

Điểm tuyết nào non đầu chẳng bạc,

Hóng lò có khách mặt thêm hồng.

Một mai sang đến xuân đầm ấm,

Đường tía xem hoa diễu ngựa rong.

(Vịnh cảnh mùa đông)

Với những cảm nhận về nhịp thiên nhiên bốn mùa tinh tế của các thi sĩ,

thiên nhiên hiện ra vừa sinh động lại vừa có nét nghĩa biểu trưng quen thuộc.

2.3.2. Nhịp tháng năm

Nhịp thiên nhiên trong HĐQÂTT còn được thể hiện qua thời gian chu

chuyển giữa các tháng trong năm. Các thi sĩ Tao Đàn đã rất tinh tế nắm bắt

được sự biến đổi xoay vần của tạo vật trong từng tháng và thể hiện rõ qua

chùm thơ vịnh mười hai tháng.

Tháng Một, tháng Hai, tháng Ba là ba tháng của mùa xuân. Nhưng mỗi

tháng lại có những chuyển vận của riêng mình thật uyển chuyển và tinh tế.

Tháng Một là thời khắc của đầu xuân, mọi thứ vừa chuyển mình từ giá

lạnh sang ấm áp nên cả bài thơ đều ngập tràn sự mới mẻ, sự khởi đầu và khí

xuân ấm áp:

Trong cơ giao thái khéo tương nhân,

Đầu bính kìa kìa đã chỉ dần.

Thế giới một bầu vây thụy khí,

Giang sơn tám bức đượm dương xuân.

(Tháng Giêng)

Những từ Hán Việt được đan xen vào bài thơ chữ Nôm như “giao thái”,

“tương nhân”, “thụy khí”, “dương xuân” đã gợi tả không khí trang trọng, ấm

áp của tháng Giêng mùa xuân.

49

Sau tháng Giêng rảnh rỗi và an nhàn là tháng Hai - tháng của lao động,

vun trồng cầy cấy, của những hoạt động chính sự tốt lành:

Thục khí hây hây chỉn lạ dường,

Trung hòa đầm ấm nức thiên hương.

Thị thành mừng thấy thì trinh chính,

Hải vũ đua chơi áng lệ quang

Ba lễ chí thành long cẩn niệm,

Trăm quan hội thưởng tiệc lừng vang…

(Tháng Hai)

Khi vì “tam tinh” bắt đầu mọc vào buổi tối ở phương Đông thì cũng là

lúc đến tiết Thanh minh:

“Chợt thấy tam tinh ánh phương đình,

Này này hẳn đã tới thanh minh.

Cảnh tình dãi tỏ điềm long thịnh,

Gia khánh vui vầy thuở thái bình”

(Tháng Ba)

Khi vạn vật bung nở, khắp nơi cây cỏ, hoa lá cứ sinh sôi nảy nở, tràn đầy

sức sống thì đó chính là khi tháng Tư đã về, báo hiệu những ngày cuối cùng

của mùa xuân và những dấu hiệu đầu tiên của mùa hạ:

Liễu phất phơ xanh mềm lướt lướt,

Hòe giương tán lục xếp trùng trùng

(Tháng tư)

Tháng Năm lại được thể hiện qua những dấu hiệu như:

Tam quang choi chói sắc chiêu minh,

Nay nảy đoan dương giữa tiết lành.

Rành rạnh tiền sen doanh bích thủy

Rỡ ràng gấm lựu chốn kinh thành

(Tháng Năm)

50

Cái nắng gắt của mùa hè qua đi, ngay lập tức “tin thu” đã về, những

luồng gió heo may dịu dàng, bóng dáng quen thuộc của loại cây ưa tiết thu là

ngô đồng đã hiện hữu:

Ngô giang sẩy đã lá ngô bay

Ngẫm thấy tin thu đích nhiệm thay.

Răm rắp hòa đoàn giong đuốc phượng,

Hui hui mấy phát hẩy hơi may.

(Tháng Bảy)

Thu đậm sắc hơn với tháng tám có không khí của Tết trung thu:

Vẻ thọ tinh xem ánh thức lồng,

Rành hay nam lữ chính thu trung.

Trời muôn thượng thẳm làu làu sạch,

Nguyệt một vầng in vặc vặc trong.

(Tháng Tám)

Thu là mùa thay lá, chính vì vậy thu đến, thu đi, thu để lại cho thi nhân

bao nhiêu cảm xúc. Vạn vật bị chi phối bởi tâm trạng nhà thơ vì thế mà luôn u

đạm, não nề. Nhưng dưới con mắt của các thi sĩ Tao Đàn vạn vật trong tiết

thu lại “khoe tán giương cành”:

Móc tưới kim anh mau chỗi tốt,

Mưa gieo thúy trúc đã khoe tươi.

(Tháng chín)

Cảnh vật cứ theo sự chuyển động của mặt trời mà thay đổi và mỗi tháng

lại được thể hiện qua sự quan sát vũ trụ vạn vật tinh tế của các thi nhân, kết

hợp với những tri thức về vũ trụ luận của người xưa:

Hoàng luật tự nhiên suốt vận hành,

Trời đông gặp cữ nhất dương sinh.

Tơ thêm độ khắc khoe tài lạ,

Mây vén trình điềm ứng trị lành.

(Tháng Mười Một)

51

Một chút không khí xuân chứa trong lòng những ngày cuối đông được

thể hiện qua cảm nhận tinh tế về bước chuyển của không gian đất trời:

Trải xem lịch kỷ vốn tinh tường,

Nhân phẩm xây nên thuở nhị dương.

Mai chiếm phau phau màu điểm ngọc,

Thông khoe ngột ngột chí lăng sương.

Muôn phương ấy khoản dương kì vật,

Một áng thanh điền đượm nhi dương.

(Tháng Mười Hai)

Sự chuyển biến của thời khắc giao mùa đó là lẽ tuần hoàn của vũ trụ. Theo

triết lí cổ phương Đông trong Kinh Dịch lẽ tuần hoàn này được nhắc tới nhiều

trong các bài thơ đặc tả về thiên nhiên. Tuy nhiên tâm tư của các thi sĩ trong Hội

Tao Đàn luôn tươi mới khác với vòng luẩn quẩn của tạo vật: lòng nhà thơ là cả

một mùa xuân, mùa xuân năm nay đi, thì mùa xuân năm sau trở lại:

“Ba dương đã gặp thuở thời vần

Bốn bề đều mừng một chúa xuân”…

(Họa nguyên đán, bài 3)

“Lật lật bình phong mở mấy lần,

Khắp hòa chốn chốn một trời xuân”.

(Xuân, bài 13)

“Chớ chớ ngại rằng mai lạnh lẽo,

Kìa kìa mai đã thức xuân hồng”

(Đông, bài 16)

Như vậy qua chùm thơ vịnh mười hai tháng các thi sĩ Tao Đàn đã vẽ ra

từng bước đi thật chậm của thời gian để thấy được sự vận động cũng như sự

chuyển biến đa dạng phong phú của thiên nhiên muôn loài.

2.3.3. Nhịp ngày - đêm

Thời gian vũ trụ tuần hoàn (đặc trưng cảm thức thời gian của văn học

trung đại) mặc dù chiếm ưu thế nhưng các tác giả thời Hồng Đức vẫn không

52

quên thời gian đời thường - thời gian gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của con

người. Đó là thời gian luân chuyển từ đêm (nhắc tới 25 lần) sang ngày (nhắc tới

26 lần). Nếu như nhịp bốn mùa chủ yếu dựa vào sự chuyển động của mặt trời

thì nhịp tháng năm và nhịp ngày - đêm dựa vào sự chuyển động của mặt trăng.

Về thời gian luân chuyển trong một đêm, HĐQÂTT thể hiện trôi chảy cụ

thể, chậm rãi qua chùm thơ “Vịnh năm canh”.

Như chúng ta được biết, người xưa tính thời gian đêm qua các canh.

Chính quyền thời phong kiến đặt ra các viên tuần kiểm nhằm báo hiệu giờ,

khắc theo từng thời gian trôi qua trong một đêm, bằng tiếng hiệu lệnh của

kẻng. Do vậy, đêm được chia thành 5 canh (từ canh 1 tới canh 5): Canh 1 từ

19 giờ đến 21 giờ (giờ Tuất); Canh 2 từ 21 giờ đến 23 giờ khuya (giờ Hợi);

Canh 3 từ 23 giờ đến 1 giờ sáng (giờ Tý); Canh 4 từ 1 giờ đến 3 giờ sáng (giờ

Sửu); Canh 5 từ 3 giờ đến 5 giờ sáng (giờ Dần). Sự chuyển vận của năm canh

này được thể hiện qua sự chuyển vận của cảnh vật thiên nhiên.

Canh một bắt đầu lúc chập tối. trên bầu trời cao thăm thẳm mênh mông,

sao Bắc Đẩu mỗi lúc thêm sáng.

“Chấp chảnh trời vừa mọc Đẩu Tinh

Ban khi trống một mới thu canh.

Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc,

Sườn núi chim gù ẩn lá xanh”

(Nhất canh)

Đến nhị canh, ánh trăng đã lên:

“Lầu treo cung nguyệt người yên giấc

Đường quạnh nhà thôn cửa chặt cài

Cảnh vật chòm chòm bay lửa đóm

Cỏ hoa gốc gốc đượm hương trang”

(Nhị canh)

Đây là những giờ khắc thăng hoa của cảnh vật: rất thơ mộng.

Sang canh ba thì cảnh vật trở nên tĩnh lặng khi đêm đã khuya:

53

“Đường quạnh phất phơ cây ngất gió

Trên không lác đác tuyết hoa bay

Bâng khuâng kẻ mệt hồn thần nữ

Phảng phất trời cao bóng Tố Nga”

(Tam canh)

Đến canh tư, những sinh hoạt của con người cho ngày mới đã phát sinh

tuy đêm vẫn còn bao trùm:

“Gió lay chồi ải khua chim thức

Nước giẫy trăng (tà) giục sóng đưa.

Vạc thẩn thơ tìm nội quạnh,

Trời lác đác vẻ sao thưa”

(Tứ canh)

Chuyển sang năm thì:

“Canh chày đèn lạnh lâm dâm,

Xao xác lậu canh trống điểm năm.

Nguyệt đầu non treo chênh chếch,

Sương mặt đất ướt đầm đầm.

Rừng kia bố cốc còn khuya going,

Làng nọ nông phu đã thức nằm.

Bóng ác rạng đông, trời đã sáng,

Tiếng gà sôi nổi, tiếng hàn châm”

(Ngũ canh)

Sự chuyển vận của vũ trụ từ đêm sang ngày thể hiện qua hình ảnh chim

bố cốc kêu ran rồi rạng đông bừng sáng trên nền trời. Bức tranh hừng đông

được tả tuần tự theo nhịp đi của thời gian từ gần đến xa, từ thấp đến cao. Tất

cả tạo nên bức tranh sinh hoạt sinh động của làng quê Việt Nam theo bước đi

của thời gian. Đúng như tác giả Trần Quang Dũng nhận định: “dòng chảy thời

gian vũ trụ khách quan đã được các nhà thơ tái hiện thông qua những tín hiệu

biến đổi của thiên nhiên cảnh vật và hoạt động của con người nơi làng quê.

Chất dân tộc đậm đà, xu hướng dân tộc hóa thể loại của bài thơ đã được lộ ra

từ đó.” [5,tr25]

54

Tiểu kết

Qua đặc điểm về hệ động vật, thực vật, nhịp thiên nhiên, chúng ta có thể

thấy HĐQÂTT đã tái hiện một hệ sinh thái khá phong phú và đa dạng. Dù là

những tác giả cung đình, sáng tác trong không gian văn hóa cung đình, nhưng

các thi sĩ của HĐQÂTT đã không từ chối hình ảnh những loài động vật, thực

vật bình dị đời thường. Trong tập thơ, ngoài các giống loài cao quý vẫn

thường xuất hiện trong thơ văn trung đại thì các loài thực vật, động vật dân dã

cũng được các tác giả miêu tả. Điều này thể hiện tính chỉnh thể cũng như tính

tự nhiên của thẩm mĩ sinh thái. Bởi lẽ “thẩm mĩ sinh thái là thẩm mĩ mang

tính tự nhiên”. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng cùng với việc tái

hiện số loài thực vật, động vật khá phong phú và đa dạng, tập thơ cũng còn

nhiều bài mang tính chất nói chí, khẩu khí khá rõ nét.

Bên cạnh đó, bằng ngôn ngữ mộc mạc các thi sĩ hội Tao Đàn đã tái hiện

bước đi của hiện thực cuộc sống theo nhịp thiên nhiên. Đó cũng chính là sự

tôn trọng tự nhiên, sự dung nhập giữa con người vào thiên nhiên một cách hài

hòa và thống nhất trong chỉnh thể sinh thái. Có thể thấy toàn bộ thế giới tự

nhiên mang tính biểu tượng hay gắn liền hiện thực cuộc sống nơi thôn dã thì

đó đều là những môi sinh gần gũi với con người Việt Nam xưa cả về mặt vật

chất lẫn tinh thần. Thế giới đó là nơi Lê Thánh Tông và các thi nhân Hồng

Đức vốn đã trải nghiệm, tận hưởng và tìm sự cân bằng cho tâm hồn sau những

hoạt động chính sự căng thẳng.

Đứng từ điểm nhìn phê bình sinh thái, việc tái hiện hệ sinh thái đa dạng

loài và sự tái hiện nhịp thiên nhiên dựa trên sự quan sát biểu hiện của vạn vật

là biểu hiện của thẩm mĩ sinh thái, của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái. Tất

nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý rằng, việc phân chia các loài động vật và thực

vật thành các loài “cao quý” và “bình dân” lại là quan điểm thẩm mĩ phi sinh

thái cần được loại bỏ trong văn chương nhà Nho nói chung và trong

HĐQÂTT nói riêng.

55

Chương 3

MỐI QUAN HỆ THIÊN NHIÊN - CON NGƯỜI TRONG

HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP

Từ thuở hồng hoang của loài người cho đến nay, giữa thiên nhiên và

con người luôn có mối quan hệ khăng khít và biện chứng. Vì vậy, nghiên

cứu mối quan hệ giữa nhiên nhiên và con người là một trong những vấn đề

trọng tâm của phê bình sinh thái. Ở chương này, chúng tôi sẽ phân tích mối

quan hệ thiên nhiên - con người trong HĐQÂTT thể hiện qua thiên nhiên -

con người tương dung giao hòa và thiên nhiên - đối tượng đề vịnh.

3.1. Thiên nhiên - con người tương dung giao hòa

Một trong những đặc điểm của con người phương Đông nói chung và

người Việt Nam nói riêng thời trung đại là cố gắng sống hòa hợp với thiên

nhiên. Điều này được thể hiện rất rõ rệt trong các sáng tác thơ văn Lý - Trần,

thơ văn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Trong HĐQÂTT, điều này

cũng được thể hiện. Con người trong tập thơ không tách rời tự nhiên mà luôn

hòa hợp cùng tự nhiên, dung nhập vào tự nhiên.

Sự tương dung giao hòa này được thể hiện trước hết ở sự hòa quyện của

con người vào nhịp thiên nhiên, vào “khí” của đất trời.

Trong bài Lại vịnh cảnh mùa xuân, ta bắt gặp bức tranh các thi sĩ rung

động trước cảnh đẹp của mùa xuân, ngắm vườn Thượng uyển, hòa nhịp cùng

nhựa sống căng tràn của vạn vật:

“Từ thuở Đông hoàng chịu lấy quyền,

Thiều quang làm cảnh rạng xuân thiên.

Đường hoa chấp chới tin ong dạo,

Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền.

Ả Ngụy, nàng Diêu khoe đẹp đẽ,

Người thơ khách rượu rộn mời khuyên”.

(Lại vịnh cảnh mùa xuân)

56

Đây là một trong những bài thơ vịnh mùa xuân rất hay của các thi sĩ Tao

Đàn. Mùa xuân đến, “Đông hoàng” nhượng quyền cho chúa Xuân. Trước ánh

sáng ấm áp, rạng rỡ, muôn hoa đua nở, ong bướm rập rờn hữu tình, con người

như được trở về với bản ngã của mình để trở thành “người thơ”, “khách rượu”

mà ngâm vịnh cảnh thần tiên. Thiên nhiên làm đẹp con người hay chính con

người với những “người thơ”, “khách rượu” đã làm cho bức tranh thiên nhiên

mùa xuân tươi trẻ hữu tình? Đó là câu hỏi khó trả lời, bởi lẽ ở đó, con người và

thiên nhiên đã giao hòa cùng nhau trong sự đổi thay của đất trời.

Không chỉ có mùa xuân ấm áp tươi vui con người mới giao dung cùng

nhịp điệu của thiên nhiên đất trời. Ngược lại, ngay cả mùa hè nhiệt đới nóng

bức, con người cũng hòa nhịp cùng thiên nhiên:

Từ thuở Chu minh chịu lệnh hè,

Thừa lương đình viếng sáng bằng the.

Ngày chầy, đêm kíp sầu hồn bướm,

Lá rụng, hoa tàn động xác ve.

Ngoài cửa đùn đùn tan bóng trúc,

Công dường thay thảy phủ màn hòe.

Thi nhân khi ấy chi làm bạn,

Một triện trầm hương một chén chè.

(Lại vịnh cảnh mùa hè)

Ngay cả khi mùa đông băng giá có kéo đến thì thi nhân cũng không hề

sợ hãi hay lo lắng. Bởi lẽ họ đã hiểu được vận khí của đất trời và hòa mình

vào vận khí ấy:

Từ thuở Huyền minh chịu lệnh đông,

Vù vù đòi chốn trận kim phong.

Canh chầy ngọc lậu trong băng tuyết,

Đêm lọt lưu tô lạnh nữa đồng.

Thượng uyển cúc tàn năm bảy lá,

La phù mai chiếng một hai bông.

57

Bốn mùa mựa chửa lầu canh hết.

Thanh Vũ đều làm phải đạo trung.

(Lại vịnh cảnh mùa đông)

Sự giao hòa tương dung giữa con người và thiên nhiên không chỉ thể

hiện qua sự hòa nhịp vào nhịp thiên nhiên, vào sự chuyển vận của đất trời mà

còn được thể hiện ở sự thả hồn vào những cảnh đẹp của tự nhiên.

Bài thơ “Bạch Nha Động” thể hiện sự thư thái khi thăm thú cảnh đẹp tự

nhiên của các thi sĩ Tao Đàn:

“Một chốn kiền khôn một chốn xuân,

Đã dành phong cảnh thú thanh tân.

Quanh co nước biếc doành muôn khảm,

Chồng chập non xanh đá mấy lần,

Quét bụi trần không một sở,

Xui lòng khách hứng mười phân.

Nhàn nào đấng thánh xem ngày trước,

Biết được hư không máy có thần”.

(Bạch Nha động)

Thiên nhiên được khắc họa qua những hình ảnh động vừa có vẻ đẹp lung

linh lại mang vẻ đẹp hoang sơ. Động Bạch Nha nằm ở huyện Nga Sơn, tỉnh

Thanh Hóa, nằm ở phía tả núi Thần Phù. Trong hang có rất nhiều dơi nên còn

được gọi là Bạch Ác động. Trong động có chùa và một tòa tượng phật có bia

đá dài một trượng sáu thước. Trên đó có khắc chữ phật to. Theo Lê Quý Đôn

đó là bút tích của vua Lê Thánh Tông. Điều đó thấy rằng cảnh ở hang động

này rất đẹp và linh thiêng mới khiến bậc đế vương dành thời gian để thăm thú

và làm thơ, để bút tích của mình lại trên đó. [10, tr44]

Con người trong tập thơ dung nhập vào thiên nhiên để tìm hiểu khám

phá nó, và thiên nhiên giúp cho tâm trạng con người trở nên thư thái:

“Ngước mặt trông lên Phật Tích san,

Non cao vòi vọi khác phàm giang.

58

Chim bay rặng liễu dường thoi dệt,

Nước chảy ao sen tựa suối đàn.

Thông bảy tám hàng che kiểu tán,

Mây năm ba thức phủ thay màn.

Thi nhân rằng có đâu hơn nữa.

Cho khách xin làm một bức đoan”.

(Phật Tích sơn tự)

Những nét vẽ hết sức giản dị bằng ngôn từ nhưng lại tôn lên vẻ đẹp bình dị,

mộc mạc mà không hề ảm đạm của chùa núi Phật Tích. Cảnh thiên nhiên đẹp

một cách thanh tĩnh khiến lòng người trở nên an yên, toàn tâm ngắm cảnh và hòa

mình vào vạn vật xung quanh để rồi thốt lên: “Thi nhân rằng có đâu hơn nữa/

Cho khách xin làm một bức đoan”.

Trong bài Ức hữu, ta lại thấy thiên nhiên và con người như có sự giao hòa,

đồng cảm:

“Thu tĩnh trời tà chiếc nhạn khơi

Chạnh lòng sẽ nhớ kẻ xa xôi”

(Ức hữu)

Trong bài thơ này, cảnh vật mang hơi hướng của giờ khắc “trời tà”,

không gian thu tĩnh lặng và mênh mông. Nhân vật trữ tình cũng có sự khắc

khoải vì “ức hữu” không yên. Giờ khắc ngày tàn lại thêm không gian thu lành

lạnh, với chút heo may làm thành chất xúc tác cực mạnh cho những cung bậc

cảm xúc trào dâng của con người.

Trong HĐQÂTT, thiên nhiên như một bức tranh sơn thủy hữu tình với

đầy những: phong, hoa, tuyết, nguyệt với đường nét vẽ thanh thoát, nhẹ nhàng

với màu sắc êm dịu, hài hòa không thua kém gì những bức tranh thủy mặc.

Các bài thơ như: “Tuyết”, “Nguyệt”, “Phong”, “Hoa”, “Vịnh năm canh”…

đều tái hiện những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp:

“Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc

Sườn núi chim gù ẩn lá xanh”

(Vịnh năm canh)

59

Hai câu thơ với màu sắc nhạt, nét vẽ thanh giống như một bức tranh lụa

mềm mại vừa hư vừa thực. Màu sắc nhạt lạnh, nét vẽ thanh nhưng lại ấm áp

hơi thở cuộc sống tạo nên cảnh vật vừa thơ mộng nhưng lại rất thực.

Số lượng các bài thơ viết về: phong, hoa, tuyết, nguyệt chiếm ưu thế

trong tập thơ HĐQÂTT. Trong đó số lượng bài viết về trăng là khá nhiều.

trong “Phẩm vật môn” và “Thiên địa môn” có 20 bài thơ viết về trăng như:

“Nguyệt”, “Trào nguyệt”, “Thu thiên nguyệt lãng”, “Nguyệt trung đan

quế ”…Trăng được miêu tả ở nhiều góc độ khác nhau:

“Gương soi vằng vặc soi muôn dặm,

Bóng tỏ làu làu suốt mấy canh.

Ngẫm xem khi tượng hình dung ấy

Chợt ló ra thì lạt chúng tinh”

(Nguyệt)

Ánh sáng của vầng trăng soi tỏ khắp nhân gian, các vì sao đều bị phai

mờ bởi ánh sáng của trăng làm mọi vật đều thơ mộng và huyền ảo.

Dưới ngòi bút của các thi sĩ Tao Đàn hoa cũng là một giống đẹp lạ, vừa

ngát hương thơm, vừa tinh khiết:

“Cửa ngọc sinh thành giống lạ dường

Hoa hoa đua nở nức mùi hương.

Má hồng mới học (dồi) phấn

Nhụy ngọc chưa hề bén sương…”

(Hoa)

Ở những cảnh trí núi non, sông biển thi nhân lại say sưa miêu tả cái hùng

vĩ bao la. Trong bài thơ vịnh “Núi Thần Phù” thì nhà thơ lại từ đỉnh cao

phóng tầm mắt bao quanh cả một vùng nước non ngút trời mây:

“Muối pha bãi bạc sông sâu hoáy,

Chàm nhuộm cây xanh núi tuyệt mù.

Khói quán, mây ngàn tuôn ngùn ngụt.

Chợ quê, sóng bể dức ù ù…

(Thần Phù Sơn)

60

Hay Động Bạch Nha trong bài thơ sau mở ra trước mắt ta một vùng non

xanh nước biếc:

“Quanh co nước biếc doành muôn khảm,

Chồng chập non xanh đá mấy lần.

(Bạch Nha động)

Phong cảnh tự nhiên hiện ra muôn hình vạn trạng dưới ngòi bút của các

thi nhân của hội Tao Đàn: “Tiếng chuông Phả Lại, cảnh nguyệt Bình Than,

những tua mây trắng, những ráng đỏ dưới bến sông Phù Thạch, những ngọn

núi đứng chon von ở xứ An Bang tất cả đều gợi lên lòng tự hào về đất nước

tươi đẹp của ta”.[20, tr34]

Trong phần đầu “Phong cảnh môn”, các tác giả đã vẽ lên tám bức tranh

Tiêu Tương bát cảnh với: một dòng sông đầy tuyết, một tiếng chuông chiều

vọng ra từ ngôi cổ tự ẩn mình trong mây khói, một bóng buồm về đêm, cảnh

chợ đầy tuyết lúc chiều về, một bãi cát trên sông, một vầng trăng thu trên Hồ

Động Đình. Dưới con mắt của các thi sĩ Tao Đàn, tất cả cảnh vật đều mang

phong vị thanh thoát tạo nên không gian rộng, đa chiều, đa sắc. Dưới đây là

một bài thơ miêu tả cảnh đẹp và thơ mộng của thiên nhiên:

“Thu cao hồ sạch nguyệt bằng ngày

Đáy nước trên không một dạng tày

Cây dựng non Yên xanh dễ thấy

Cát in bãi Sở bạc khôn thay.

Dòng lam nghìn dặm quyến phẳng,

Hương quê ba canh gió bay”

(Động Đình thu nguyệt)

Ánh trăng soi rọi làm không gian sáng chói như ban ngày “nguyệt bằng

ngày”. Con mắt nhà thơ như nương vào ánh trăng để chụp lại cảnh Động Đình

hồ. Cảnh như được kéo dài ra theo cái dòng lụa mỏng xanh lơ lững lờ trôi êm

đềm xa ngàn dặm. Từ Non Yên cây dựng đến bãi Sở cát in là kích thước mà

không phải ai cũng thu vào được trong hai dòng ngắn ngủi ấy. Các tác giả đã

61

làm được việc “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non mà không cần phải

“đăng cao” như các bậc nho sĩ thường làm.

Trong HĐQÂTT đã có trên 20 lần các thi sĩ viết về hình ảnh ánh trăng,

không gian trăng. Dường như các thi nhân mượn hình ảnh ánh trăng ấy để soi

chiếu vào vạn vật, để tô đậm cái bao la, kì vĩ của non nước Đại Việt mỹ tú:

“Lầu ngọc gương giơ soi mọi nước

Tán vàng xe gác ruổi năm canh”.

(Họa vần bài vịnh trăng bài 1)

“Khuôn cả treo lên khá hữu tình

Hòa cao hòa sáng vuỗn hòa thanh.

Gương giơ vằng vặc soi muôn dặm

Bóng tỏ làu làu suốt mấy canh”

(Nguyệt)

“Giang sơn thành thị soi muôn dặm

Thảo mộc côn trùng rỡ mấy canh”

(Họa vần bài vịnh trăng bài 5)

Không chỉ có phong, hoa, tuyết, nguyệt mới gợi cảm hứng cho các nhà

thơ thời Hồng Đức sáng tác. Mà cảnh sơn thủy hữu tình, non nước kì nhược

thơ mộng, trữ tình trong tập thơ cũng là những yếu tố tạo ra nguồn cảm hứng

cho thi nhân sáng tác. Trong những cảnh hùng vĩ, bao la ấy nhà thơ như hòa

vào thiên nhiên để say sưa vẽ các bức tranh tuyệt mĩ bằng ngôn từ sống động.

Sơn thủy so xem chốn hữu tình

Chưng đây mừng thấy lạ hòa thanh.

Dăng ngang biển, chờn vờn lớn,

Cao chọc trời, ngần ngật xanh.

Muôn kiếp chầu về đến Bắc- cực.

Ngàn thu chống khỏe cõi Nam- minh

Thiên hạ nào ai chẳng biết danh

(Song- Ngư sơn)

62

Các nhà thơ trong hội Tao Đàn đã thu hết vẻ đẹp hùng vĩ của núi Song

Ngư: núi như hai con cá khổng lồ đang bơi lội trên làn sóng bạc, ngàn năm

canh giữ cho cõi Nam được hòa bình, thịnh trị.

Vì hòa vào thiên nhiên vạn vật nên các thi sĩ của Hội Tao Đàn đã miêu tả

nhiều cảnh đẹp tự nhiên của núi sông hùng vĩ:

“Phân cõi Nam châu đất ái châu,

Bút Vương khôn mạc cảnh Thần Phù.

Muối pha bãi bạc sông sâu hoáy,

Chàm nhuộm cây xanh núi tuyệt mù.

Hói quán, mây ngàn tuôn ngùn ngụt,

Chợ quê, sóng biển dức ù ù.

Kìa ai rửa sạch trong niềm tục,

Một chiếc thuyền câu trở nguyệt thu”.

(Thần Phù Sơn)

Cảnh ngút ngàn của non nước trời mây Thần Phù được miêu tả hết sức

độc đáo. Núi non hòa quyện vào nhau làm bức tranh thủy mặc thêm sinh động.

Núi nằm ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Trong nét vẽ bức tranh ấy có sự

xuất hiện hoạt động con người, hình ảnh con người như một điểm nhấn, gợi

cảm giác núi non hiểm trở hung dữ nhưng rất thân thiện với con người “Một

chiếc thuyền câu trở nguyệt thu”.

Ngoài những hình ảnh thiên nhiên của núi sông là nơi để các thi nhân

thưởng ngoạn, thăm thú thì chùa chiền, miếu mạo cũng là nơi lí tưởng để các

thi sĩ trong hội Tao Đàn đắm mình, thả hồn mình vào đó:

“Vểnh mặt trông lên Phật Tích san

Non cao vòi vọi khác phàm giang.

Chim bay rặng liễu dường thoi dệt,

Nước chảy ao sen tựa suối đàn”.

(Chùa Phật Tích)

63

Khi con người có khả năng nghe được tiếng than thở hay tiếng nhạc vui

của thiên nhiên thì sẽ có cách cư xử đúng đắn với nó như những sinh thể có

tâm hồn và cuối cùng con người sẽ cảm nhận từ nó những điều tương tự. Các

thi nhân không chỉ lắng tai nghe “đàn nước” ở ao sen mà còn được “mãn

nhãn” với cái “xanh mát” của rừng thông bạt ngàn:

“Thông bảy tám hàng che kiểu tán,

Mây năm ba thức phủ thay màn.

Thi nhân răng có đâu hơn nữa,

Cho khách xin làm một bức đoan”.

(Phật Tích sơn tự)

Chốn thanh tịnh được khắc họa với những nét vẽ mộc mạc, giản dị

nhưng không hề ảm đạm. Ngược lại rất thanh tĩnh khiến tâm con người trở

nên thư thái hòa mình vào cảnh vật xung quanh.

Kiền khôn vạn thiểu một bầu đông

Nẩy nẩy siêu nhiên chỉn lạ lung.

Hương vũ trăng thiền soi vằng vặc,

Vân song tiu ngọc nện boong boong.

Trì thanh leo lẻo ngư long hội,

Non diễu trùng trùng cẩm tú phong.

(Chùa Thiên Phúc)

Tạo vật dưới ngòi bút của các thi sĩ trong hội Tao Đàn khi miêu tả về

chùa Thiên Phúc thật sinh động, từ đường nét, hình khối, màu sắc, âm thanh

quyện lấy nhau. Giống như thiên nhiên vạn vật nơi đây đang giao hòa với

nhau trong một điệu hợp xướng hài hòa, dưới một khung cảnh diễm lệ của tạo

hóa, khiến con người say sưa mà thưởng ngoạn ngây ngất.

Miêu tả ngôi chùa trên núi, các tác giả miêu tả vẻ đẹp thanh tịnh, ý nhị

nhưng mang vẻ đẹp kín đáo của một ngôi chùa cổ:

Hoa nở châu rơi màu hổ phách,

Rêu in cỏ mọc thức đồi mồi

(Lại vịnh chùa Pháp Vân)

64

Như vậy, dù là ngôi đền, cửa biển, ngọn núi hay dòng sông, trong cảm

quan của các nhà thơ, thiên nhiên vạn vật đều có linh hồn, vận mệnh và uy

linh. Các nhà thơ đã đắm mình vào cảnh vật, giao hòa cùng cảnh vật để cảm

nhận vẻ đẹp của thiên nhiên.

Bên cạnh sự giao hòa của nhân vật trữ tình với đất trời cảnh vật là sự

nhập cuộc của con người với môi sinh. Các thi sĩ đã phát hiện ra sự giao hòa

trong cuộc sống của người dân với môi sinh quanh họ, với những cảnh vật

giản dị trong cuộc sống hằng ngày:

“Pha lê muôn khảm thức lom om

Xảy thấy thằng chài đứng đấy nom.

Manh áo quàng, mang lụp xụp,

Quai chèo xách, đứng lom khom.

Ngư hà vẫy tay trú ẩn,

Âu lộ hay cơ ngó nhòm.

Có kẻ làm ơn nheo nhẻo mách,

Kìa kìa Phạm Lãi mái kia mom.

(Ngư)

Hình ảnh người ngư dân được thi nhân miêu tả một cách tỉ mỉ và chi tiết:

“Manh áo quàng, mang lụp xụp/ Quai chèo xách, đứng lom khom”. Đây

không phải là công việc xa lạ đối với người dân vì là những công việc hằng

ngày nhưng qua những nét vẽ của các thi sĩ Tao Đàn ta mới có dịp được ngắm

kĩ càng công việc của người ngư dân: Người ngư dân lom khom với manh áo

xộc xệch chèo lái con thuyền để làm công việc hàng ngày của mình. Hình ảnh

người lao động hiện lên trên nền trời sáng trong của bức tranh. Khoảng nước

sáng trong lấp lánh như pha lê, dưới làn nước ấy là từng đàn cá tôm quẫy

nước tìm nơi trú ẩn. Những hình ảnh này khiến người đọc dễ dàng liên tưởng

đến hình tượng người ngư dân được tác giả so sánh với Phạm Lãi - thời Xuân

Thu, làm quan nước Việt sau khi giúp Câu Tiễn diệt giặc Ngô báo thù cho

nước Việt thì buông thuyền đi ngao du ở ngũ hồ. Cách so sánh này khiến ta

65

liên tưởng đến hình ảnh người dân làng chài không phải đang lao động miệt

mài trên vùng sông nước mà đang ngao du, đang được “mẹ thiên nhiên” chiều

chuộng cho tôm cá.

Sự giao hòa giữa con người với môi sinh cũng được thể hiện rất độc đáo

qua bài thơ Ngư giang hiểu vọng:

Sông lồng lộng, nước mênh mênh,

Lườn lượn chèo qua nép nép mình.

Gió hiu hiu, thuyền bé bé,

Mưa phún phún, nón kềnh kềnh.

Chuông chiền mỗi mỗi coong coong going,

Mõ xã lâu lâu cốc cốc lềnh.

Bến liễu đâu đâu tìm mộng mộng,

Đường về than than, nguyệt chênh chênh.

(Ngư giang hiểu vọng)

Ngay cả việc đi cày vốn rất nặng nhọc nhưng cũng được các tác giả Hội

Tao Đàn miêu tả trong sự hòa hợp giữa con người với thế giới bên ngoài:

Năm canh bố cốc tiếng kêu om,

Leo lẻo canh phu sớm đã nom.

Gió ngàn xanh, xoay nón lệch,

Mưa núi lục, cúi lưng khom.

Lều Nam - dương đã khoan chân đứng,

Non Phú - xuân qua cất mặt nhòm.

Tấc đất, tấc vàng yêu bấy tá,

Mồ hôi dồn dọi thuở đầu mom.

(Canh)

Nói tóm lại, qua những bài thơ trong HĐQÂTT, chúng ta thấy được

mối quan hệ nhiên nhiên - con người giao hòa tương dung. Sự giao hòa ở đây

được thể hiện ở các khía cạnh: sự hòa quyện của con người vào nhịp thiên

nhiên, vào “khí” của đất trời; sự thả hồn vào những cảnh đẹp của tự nhiên và

66

sự nhập cuộc của con người trước môi sinh. Điều này thể hiện khá rõ nguyên

tắc dung nhập của thẩm mĩ sinh thái. Khi con người dung nhập vào tự nhiên,

họ sẽ thấu hiểu và biết lắng nghe tự nhiên, họ sẽ tôn trọng tự nhiên.

3.2. Thiên nhiên - đối tượng đề vịnh

Thiên nhiên trong thơ ca trung đại được cảm nhận như một chủ thể có

tâm sự, có phẩm chất, có đạo đức. Trong sáng tác của các nhà Nho, không

gian thiên nhiên trở thành môi trường lí tưởng để gửi gắm cảm xúc của các thi

sĩ. HĐQÂTT là một trong những tập thơ thể hiện điều này. Nhà vua Lê Thánh

Tông cùng các thi nhân của hội Tao Đàn coi thiên nhiên giống như một đối

tượng thẩm mĩ để qua đó gửi gắm những phát ngôn của mình về cuộc đời, thế

thái. Chính vì vậy mà trong tập thơ này ta thấy số lượng lớn các bài thơ vịnh

về thiên nhiên. Theo GS.TS Trần Nho Thìn, “Thơ đề vịnh trước hết là thơ nói

chí của nhà Nho, nhân vật đạo đức - chính trị, người nhìn thấy ở các hiện

tượng thiên nhiên một biếu tượng cho nhân cách đạo đức. Tùng (thông) giữa

tiết trời mùa đông lạnh giá vẫn ngạo nghễ xanh tươi; hoa cúc riêng nở vào

mùa thu khi các loài hoa khác tàn tạ; hoa lan là giống hoa đầu tiên báo hiệu

xuân về; cây trúc thân đứng thẳng, không cong vẹo uốn éo như các loài cây

khác… Các loài cây, loài hoa này dường như mỗi loài có một nét độc đáo,

song đều gặp gỡ nhau ở khí tiết hiên ngang, ở vẻ hiên ngang bất khuất, ở khả

năng dám đi ngược dòng đời đã được nhà Nho chọn làm biểu tượng cho

phẩm chất, nhân cách,bản lĩnh họ”.[31, tr 109]

Nói về thơ đề vịnh thiên nhiên trong HĐQÂTT, tác giả Trần Quang

Dũng trong bài viết Thơ đề vịnh Thiên nhiên trong HĐQÂTT nhận định: “Thơ

thiên nhiên trong HĐQÂTT phần nhiều được lựa chọn theo các khuôn mẫu

nghệ thuật ước lệ của văn chương Nho giáo, của thơ Đường luật … tuy số

lượng bài thơ thiên nhiên trong tập thơ khá phong phú nhưng đề tài lại hạn

định, đơn điệu… Hơn thế, trong nhiều trường hợp, thiên nhiên trong tập thơ

chỉ còn là cái cớ để các nhà thơ tán dương công đức của “minh quân lương

thần” hoặc ca tụng chế độ phong kiến…”[5, tr23]

67

3.2.1. Thiên nhiên tượng trưng cho vẻ đẹp minh quân lương thần

Thời vua Lê Thánh Tông được coi là thời đại hoàng kim của chế độ

phong kiến Việt Nam. Nhà vua đã tiến hành một loạt cải cách đưa đất nước

Đại Việt vào thời kì phát triển thịnh trị. Dưới triều Lê nhân dân ca ngợi cuộc

sống ấm no, hạnh phúc của đất nước:

“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông

Lúa tốt đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”

Nhà Lê được đánh giá là triều đại được lòng dân nhất trong các triều đại

phong kiến Việt Nam. Dưới triều Lê Thánh Tông đất nước thịnh trị, thái bình,

nhà vua anh minh, tài giỏi, yêu nước thương dân. Do đó muôn dân được

hưởng an vui, hạnh phúc. Tập thơ HĐQÂTT đã dành một phần lớn những

trang thơ để ca ngợi minh quân.

Mở đầu phần “Nhân đạo môn” là bức tự họa về một vị vua lí tưởng:

“Lòng vì thiên hạ những sơ âu,

Thay việc trời, dám trễ đâu.

Trống dời canh còn đọc sách,

Chiêng xế bóng, chửa thôi chầu.

Nhân khi cơ biến xem người biết,

Chửa thuở kinh quyền xét lẽ mầu,

Mựa biểu áo vàng chăng có việc,

Đã muôn sự nhiệm trước vào tâu.

(Tự thuật)

Đây là bài tự thuật của vua Lê Thánh Tông nói lên trách nhiệm của ông

vua trị vì một nước. Dưới chế độ phong kiến, vua được coi là sự thiêng liêng,

kính trọng của muôn dân vì nắm giữ toàn bộ quyền lực. Nhất là trong thời

loạn với thói xa hoa, trụy lạc và tàn bạo của vua chúa khiến muôn dân căm

ghét và oán giận. Nhưng ông vua trong bài Tự thuật này thì lại không như vậy

luôn canh cánh trong lòng nỗi lo cho muôn dân vì vậy mà canh cánh trong

lòng trách nhiệm lớn lao trên vai: “Trống dời canh còn đọc sách/ Chiêng xế

bóng chửa thôi chầu”. Phải là vị vua yêu dân yêu nước đến nhường nào thì

68

mới có thể hi sinh bản thân nhiều đến vậy. Thật đúng với lời ngợi ca của học

sĩ Đào Cừ: “Từ khi đức vua lên ngôi, trong ngoài đều phục, mưa nắng thuận

hòa, dân yên vật thịnh”[24, tr21]

Cũng giống như nhiều thi nhân khác, các tác giả thời Hồng Đức miêu

tả thiên nhiên cũng chính là để tưởng nhớ, ngợi ca các bậc anh hùng hào

kiệt của đất nước, để phát biểu những liên tưởng mang ý nghĩa triết học

về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, để suy tưởng về những vấn

đề lớn lao của dân tộc.

Trong nhiều trường hợp, thiên nhiên trong tập thơ là cái cớ để các thi

nhân tán dương “minh quân lương thần”. Ở chùm thơ xướng họa về trăng

(10 bài), các thi sĩ trong Hội Tao Đàn đã thông qua việc miêu tả ánh trăng,

xưng tụng trăng, ca ngợi trăng để ca ngợi vua, ca ngợi sự tài giỏi, cao cả vĩ

đại, sáng suốt của vua:

“Khuôn cả treo lên khéo hữu tình,

Hòa cao, hòa sáng vuỗn hòa thanh.

Gương giơ vằng vặc soi muôn dặm,

Bóng tỏ làu làu suốt mấy canh…

Ngẫm xem khí tượng hình dung ấy,

Chợt ló ra thì lạt chúng tinh”

(Nguyệt)

Hay:

“Suốt nhân gian khắp mọi tình,

Cao vòi vọi, sáng thanh thanh

Đúc muôn tượng lại và phần bóng,

Thu chín châu về một khắc canh.

Nhiều thưở rây vàng tương gác đỏ,

Ghê phen nhả ngọc thếp cung xanh.

Càng cao càng sáng trên ngôi ấy,

Càng tỏ huân danh đấng tướng tinh”.

(Họa vần bài vịnh trăng II)

69

Tả trăng với ánh sáng lan tỏa khắp mọi nơi, các nhà thơ Hồng Đức đã

tìm thấy mối giao hòa tuyệt đối giữa thiên nhiên và con người, giữa cái

“khuôn cả” với ngôi báu của bậc chí tôn nói cách khác là họ đang ca ngợi vị

minh quân của mình. Cái bóng tỏ “làu làu”, cái ánh sáng “vằng vặc” “ruổi

khắp năm canh” trùm lên khắp nhân gian ấy chính là mĩ đức của minh vương

đương triều chứ không phải là gì khác [5,tr22]

Bởi lẽ vào thời điểm đó Đại Việt đang trong giai đoạn hưng thịnh nhất,

nền kinh tế, văn hóa, xã hội có những bước tiến đáng kể nhờ vào vua sáng tôi

hiền. Công đức của nhà vua trải rộng khắp mọi nơi. Nói cách khác, xưng tụng

hay ca ngợi trăng đến tuyệt vời, tuyệt đỉnh như vậy không ngoài mục đích ca

ngợi sự thông minh, tài giỏi, cao cả, thấu suốt, thông minh của nhà vua.

Bên cạnh việc mượn hình ảnh trăng với lớp nghĩa biểu tượng để “tán dương

minh quân lương thần”. Trong HĐQÂTT, hệ thực vật phải kể đến các loài quen

thuộc đã từng xuất hiện trong văn học cổ như: tùng, cúc, trúc, mai là những hình

ảnh tượng trưng cho phẩm chất cao quý, tốt đẹp của người quân tử. Nhà nghiên

cứu Nguyễn Kim Sơn cho rằng: “Nhân cách ấy cứng cỏi như trúc, thanh khiết

như bông mai, ưu trội như cúc vàng trong tiết thu. Nhân cách ấy được nhìn nhận

là thiên tính bất biến như cây tùng, cây bách. Những tùng, cúc, trúc, mai với phẩm

chất thiên phú ưu việt thực chất là những phù hiệu nghệ thuật, là công cụ ngoại

hóa cho cái đẹp của tinh thần nội tại, cái đẹp nhân cách nhà Nho”.[26]

Trong tập thơ HĐQÂTT ta cũng thấy biểu tượng “Tùng” xuất hiện trong

thơ cũng có lớp nghĩa biểu đạt ấy:

“Tán xanh ngột ngột rợp hư không

Qua mấy trăm thu thuở bão bùng

Tiết cứng chẳng kinh sương tuyết bén,

Tài cao dưỡng để miếu đường dùng.

Kỳ- viên giống lạ nào so kịp,

Dữ lĩnh danh thơm dễ sánh cùng.

Ngượng thấy tam công đeo chức trọng,

Đại phu há những chịuTần phong”.

(Tùng thụ)

70

Tùng, cúc, trúc, mai là đề tài quen thuộc của thi ca trung đại. Bài thơ “tùng

thụ” của các tác giả Hồng Đức bên cạnh việc thể hiện khí phách quân tử:

“Tiết cứng chẳng kinh sương tuyết bén,

Tài cao dưỡng để miếu đường dùng”.

Tùng còn được họ nhìn với tầm vóc sừng sững tạo thành một không gian

rợp cả hư không:

“Tán xanh ngột ngột rợp hư không

Qua mấy trăm thu thuở bão bùng”.

Cây tùng có tầm vóc thật hùng vĩ, tán lại xanh che rợp cả hư không

khiến người đứng ngoài thấy mình thật nhỏ bé khi nhìn vào đó. Nhưng ta có

thể hiểu tả tùng nhưng cũng chính là tả khí phách của vua quan thời Hồng

Đức muốn tu tài dưỡng đức để phục vụ vương triều.

Ta cũng bắt gặp vần thơ đề vịnh để ca ngợi lương quân minh thần trong

bài “Tết nguyên đán 2”:

Âm dương hai khí mặc xoay vần,

Nẻo quá thì đông đến tiết xuân.

Chân ngựa rong khi tuyết tĩnh,

Hàng loan sắp thuở canh phân.

Chín trùng chăm chắm ngôi hoàng cực,

Năm phúc hây hây dưới thứ dân.

Mây họp đền nam chầu chực sớm,

Bên tai dường mảng tiếng thiều quân.

(Tết nguyên đán 2)

Mùa xuân đã đến, không khí xuân tràn ngập khắp nơi. Nhân dân dưới

thời Hồng Đức đang được hưởng sự thái bình, yên vui, hạnh phúc. Họ dâng

lên vua những lời chúc tụng tốt đẹp nhất. Bên cạnh lời ca chúc tụng đó hàm

chứ sự ca ngợi công lao to lớn của nhà vua. Nhờ có vị vua anh minh, sáng

suốt nên dân mới được an yên, thái bình:

“Chín trùng chăm chắm ngôi hoàng cực,

Năm phúc hây hây dưới thứ dân”.

71

Công đức lớn lao ấy được mọi người ngợi ca, ghi nhận bằng cả tấm lòng

chứ không phải là những lời nịnh bợ, sáo rỗng, giả tạo.

Trong bài “Họa vần Tết nguyên đán”:

“Ba dương đã gặp thuở thì vần,

Bốn bề đều mừng một chúa xuân.

Nức ngai vàng, hương mấy hộc,

Trang cửa phương, ngọc mười phân.

Trời lộng lộng hay lòng thánh,

Gió hây hây khắp muôn dân.

Nhờ ấm nhân khi hênh bóng nắng,

Ước dâng muôn tuổi chúc ngô quân”.

(Họa vần bài Vịnh Tết nguyên đán)

Các thi sĩ đã dành những lời chúc tụng, ngợi ca dâng lên vua nhân dịp

Tết nguyên đán: “Bốn bề đều mừng một chúa xuân”, “Nức ngai vàng, hương

mấy hộc, Trang cửa phương, ngọc mười phân”, “Ước dâng muôn tuổi chúc

ngô quân”. Đồng thời đó còn là sự ghi nhận công đức của đấng minh quân:

“Trời lồng lộng hay lòng thánh, Gió hây hây khắp muôn dân”.

Để một đất nước yên bình thịnh vượng như vậy chắc chắn không chỉ dựa

vào một mình “chúa xuân” mà đó còn là sự góp sức, tương hỗ của cả một

triều thần dưới quyền vua. Vì vậy vua anh minh là vị vua biết dùng người tài,

quy thuận được lòng người. Đó là niềm tự hào của tôi hiền chọn được vua

sáng. Những bài thơ vịnh về trăng non, về con cóc, hay về tùng trúc cúc mai

trong tập thơ chắc chắn là biểu tượng cho những vị quan cận thần của nhà vua

hay chí khí của những người quân tử đương thời.

Dưới sự ngự trị của nhà vua Lê Thánh Tông, đất nước Đại Việt cực kì

thịnh vượng, được coi là đỉnh cao của chế độ phong kiến, trong điều kiện đó

thơ ca phản ánh điều này là một điều tất yếu.

72

3.2.2. Thiên nhiên tượng trưng cho xã hội thịnh trị, an yên

Dưới thời kì vua Lê Thánh Tông trị vì, nhà nước Đại Việt đạt được

nhiều thành tựu trên mọi phương diện từ kinh tế, văn hóa, xã hội, đến quân

sự, giáo dục... Có thể coi đây là thời kì hoàng kim nhất của chế độ phong

kiến Việt Nam. Tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng đánh giá: “Lê Thánh

Tông là ông vua ở ngôi gần như lâu nhất trong lịch sử Việt Nam. Nhưng

điều đáng nói không phải vì ông ở ngôi lâu mà vì những đóng góp của

triều vua này vào đời sống mọi mặt của quốc gia Đại Việt cường thịnh thời

đó”[24, tr41]

Cũng dưới thời Hồng Đức, Bộ Luật Hồng Đức được ban hành và được

coi là bộ luật tiến bộ nhất trong thời kì chế độ phong kiến Việt Nam, không

những góp phần quan trọng làm hưng thịnh đất nước, mà còn xác lập những

trật tự mới trong xã hội. Nền giáo dục phong kiến thời kì này cũng phát triển

rất mạnh mẽ chính vì vậy mà văn học rất phát triển.

Đặc biệt, trong không khí thái bình thịnh trị của thời đại Hồng Đức văn

hóa nghệ thuật được nhà vua khuyến khích phát triển nhất là sáng tác thơ

Nôm đường luật. Trong HĐQÂTT có khá nhiều bài thơ được các thi nhân

trong Hội Tao Đàn gửi gắm vào các hình ảnh thiên nhiên để tụng ca chế độ

phong kiến.

Trong chùm thơ Vịnh năm canh các thi sĩ Tao Đàn đã thể hiện rõ điều

này. Chùm thơ không chỉ giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp, sự chuyển biến tinh

tế của thiên nhiên mà còn thấy được sự chuyển vận của con người trong đó

bằng những bức tranh sinh hoạt thường ngày của nhân dân dưới triều đại

Hồng Đức. Và chắc chắn, đó là một triều đại thịnh trị an yên:

“Chấp chảnh trời vừa mọc đẩu tinh,

Ban khi trống một mới thu canh.

Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc,

Sườn núi chim gù ẩn lá xanh.

Tuần điếm kìa ai khua mõ cá,

73

Dâng hương nọ kẻ nện chày kình.

Nhà nam nhà bắc đều no mặt,

Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”.

(Nhất canh)

Qua cách cảm nhận cụ thể về cảnh sắc của làng quê lúc chập tối ta dễ

dàng nhận thấy cảm xúc chủ đạo bao trùm cả bài thơ là tâm trạng vui vẻ. Mọi

hoạt động diễn ra tái hiện một xã hội thái bình, thịnh trị. Bức tranh làng quê ấy

có màu sắc (sương bạc, lá xanh), có âm thanh (tiếng trống thu canh, tiếng mõ

ngoài điếm canh, tiếng chim gù trong lá, tiếng chuông chùa niệm Phật…), có

sự chuyển vận của cảnh vật từ “trời mọc đẩu tinh” sang “đầu nhà lan khói tỏa”

và đến sườn núi chim gù, có cả hành động của con người (tuần điếm khua mõ,

kẻ nọ dâng hương…). Chỉ cần đọc hai câu thơ cuối: “Nhà nam nhà bắc đều no

mặt, Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình” ta cũng thấy được tư tưởng, thái độ của

tác giả trước hiện thực xã hội. Hai câu thơ không tả thực nhưng qua các hình

ảnh thiên nhiên được các thi nhân vẽ lên thì qua bức tranh ấy ta hiểu nói lên

một điều rất thực về xã hội: trong tất cả mọi người đều có một khúc ca của một

ngày mới cất lên ấy là khúc ca thái bình. Nếu cả bài thơ giống như một khúc ca

thái bình thịnh trị, thì hai câu thơ cuối giống như những nốt cao ở cuối bài hát,

đó là nốt cao trào với âm thanh tươi vui rộn rã nhất.

Cuộc sống thái bình thịnh trị của đất nước còn được ngợi ca thông qua

những bài thơ vịnh về các tháng trong năm:

Trong cơ giao thái khéo tương nhân,

Đẩu bính kìa kìa đã chỉ dần.

Thế giới một bầu vây thụy khí,

Giang sơn tám bức đượm dương xuân.

Dâng tâu tiếng nhạc ran đòi chập,

Tưới khắp mùi thơm biết mấy lần.

Cõi thọ thênh thênh, càng khỏe bước,

Muôn vàn toàn đội đúc hồng quân.

(Tháng Giêng)

74

Hay trong bài vịnh về tháng năm, thi sĩ miêu tả về cảnh vật tươi sáng,

cuộc sống tươi vui, rộn ràng không khác nào mùa xuân:

Tam quang choi chói sắc chiêu minh,

Nay nảy đoan dương giữa tiết lành.

Rành rạnh tiền sen doành bích thủy,

Rỡ ràng gấm lựu chốn kinh thành.

Gió nhân vỗ khắp nhuần muôn họ,

Cầm thuấn lừng đưa phỉ mọi tình.

Thay thảy dưới trên mừng náo nức,

Thơ dâng ca tụng động đạn đình.

(Tháng Năm)

Sự ấm no, hạnh phúc thuộc về mọi người, mọi nhà chứ không phải của

riêng ai: “Gió nhân vỗ khắp nhuần muôn họ”, “Thay thảy dưới trên mừng

náo nức”, “Giang sơn tám bức đượm dương xuân”. Khắp nơi chốn chốn cả

nhân gian dưới triều đại này đều sống trong bầu không khí náo nức, tưng

bừng khí thế của một cuộc sống hòa bình, thịnh vượng. Dưới triều đại

phong kiến được coi là hưng thịnh nhất trong các triều đại phong kiến ở

Việt Nam, người dân chính là đối tượng được vương triều quan tâm nhất

của vua chúa triều Lê. Nhân dân được hưởng hạnh phúc yên vui thực sự

chứ không phải sự giả tạo, phô trương do triều đình rêu rao. Bất cứ vào

thời gian nào, ở nơi đâu niềm vui ấy luôn có:

“Nghiêm minh đức ý vang rộng,

Nhuần gọi lừng lừng khắp bốn phương”

(Tháng Hai)

Tất cả mọi người chung với niềm vui sướng của đất nước:

“Nghêu ngao nọ lũ bơi chèo quế,

Đủng đỉnh kìa ai dõi tiếng chầy”

(Tháng Bảy)

75

Ngoài chùm thơ “Vịnh năm canh” và vịnh tháng, trong nhiều bài thơ

khác các tác giả dưới thời Hồng Đức cũng lấy hình ảnh thiên nhiên để ca tụng

triều đại mình:

“Ló lên thường thấy khác thường tình,

Có vẻ cao hòa, có vẻ thanh.

Lầu ngọc gương giơ soi mọi nước,

Tán vàng xe gác ruổi năm canh”.

(Họa vần bài vịnh trăng I)

Tập thơ HĐQÂTT có xu hướng đồng nhất đất nước, dân tộc với triều đại

phong kiến. Thực tế lịch sử đã chứng minh giai cấp phong kiến đương thời đã

đưa đất nước phát triển tới đỉnh cao của sự thịnh vượng. Vương triều phong

kiến dưới sự trị vì của vua Lê Thánh Tông xứng đáng được đề cao và tôn vinh

trong lịch sử dân tộc.

Có thể thấy âm hưởng chung của tập thơ HĐQÂTT là ngợi ca đất nước,

con người Đại Việt hay nói cách khác là tụng ca chế độ phong kiến thời kì

này với sự phát triển cực thịnh. Những hình ảnh và biểu tượng thiên nhiên đã

góp phần đắc lực vào việc thể hiện nội dung đó.

3.2. 3. Thiên nhiên tượng trưng cho dân tộc

HĐQÂTT ca ngợi sự giàu đẹp của đất nước thông qua những bài thơ miêu

tả thiên nhiên. Trong tập thơ này những bài thơ viết về thiên nhiên với mục đích

ngợi ca đất nước, dân tộc chiếm số lượng nhiều nhất: 42 bài. Miêu tả thiên nhiên,

dùng thiên nhiên để “tả cảnh ngụ tình”. Thiên nhiên trong HĐQÂTT gắn bó với

nhiều địa danh lịch sử, những chiến tích hào hùng của dân tộc. Những trang thơ

ấy giống như một cuốn nhật kí nhỏ, qua đó giúp ta nhận ra được những vẻ đẹp

của thiên nhiên, đất nước con người và hơn cả những hình ảnh thiên nhiên đó

mang một nét đẹp, một ý nghĩa riêng là ngợi ca dân tộc.

Thơ thiên nhiên trong HĐQÂTT có sự xuyên thấm, hòa đồng giữa tinh

thần dân tộc và tư tưởng Nho giáo, giữa vẻ đẹp mĩ lệ của đất nước với sự tự

hào, ngợi ca về truyền thống lịch sử dân tộc. Nói cách khác, niềm tự hào dân

76

tộc ở các thi sĩ trong Hội Tao Đàn có cơ sở từ truyền thống văn hóa - lịch sử

vững chắc và ở sự cổ kính, uy nghi vượng khí non sông:

“Dăng ngang biển chòn vờn lớn,

Cao chọc trời, ngần ngật xanh.

Muôn kiếp chầu về đến Bắc Cực,

Ngàn thu chống khỏe cõi Nam Minh”

(Song Ngư sơn)

Các bài thơ đề vịnh sơn thủy trong tập thơ HĐQÂTT đã vươn lên cái

tầm thời đại chứ không bó hẹp trong sự thưởng ngoạn phong cảnh thuần túy:

Đất nước hiện ra với tất cả vẻ đẹp của một kì quan hùng vĩ chan hòa âm thanh

và màu sắc của cảnh vật. Sức sống mãnh liệt trào dâng của một dân tộc đã

từng chiến thắng quân thù và đang xây dựng cuộc sống của mình. Điều này

được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ “Muôn kiếp chầu về đến Bắc Cực/ Ngàn thu

chống khỏe cõi Nam Minh”

Các bài thơ như “Nam Công sơn”, “Bạch Đằng giang”… đều là vịnh

về những cảnh trí non song gắn với sự kiện lịch sử, với những chiến tích

hào hùng của ông cha. Lòng tự hào dân tộc được gửi gắm vào từng câu chữ

của bài thơ.

“Lẻo lẻo doành xanh nước tựa dầu,

Trăm ngòi ngàn lạch chảy về đâu.

Rửa không thay thảy thằng Ngô dại,

Dịa mọi lâng lâng khách Việt hầu.

Nọ đỉnh Thái Sơn rành rạnh đó,

Nào hồn Ô Mã lạc loài đâu.

Bốn phương kình bằng thóc,

Thong thả dầu ta bủa lưới câu”.

(Bạch Đằng giang)

Bài thơ “Bạch Đằng giang” là một trong những bài thơ hay nhất trong cả

tập thơ. Sông Bạch Đằng là con sông thuộc thị xã Yên Hưng, tỉnh Quảng

Ninh. Bắt nguồn từ Lục Đầu Giang, chảy ra cửa biển Nam Triệu, đây là dòng

77

sông gắn với cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc ta.

Nơi đây đã ba lần vùi xác bọn phong kiến xâm lược phương Bắc. Con sông

Bạch Đằng được biết đến như một chúng nhân lịch sử. Vào năm 938, Ngô

Quyền giết được tướng nhà Nam Hán- Lưu Hoằng Tháo. Năm 980, cũng tại

nơi đây Lê Đại Hành giết được tướng nhà Tống- Hầu Nhân Bảo. Năm 1288-

Trùng Hưng thứ tư, Trần Quốc Tuấn bắt sống được Ô Mã Nhi, tướng nhà

Nguyên. Chúng đều là những danh tướng lừng lẫy lừng lẫy của Trung Quốc

sang Việt Nam với âm mưu xâm chiếm bờ cõi nhưng sông Bạch Đằng đã

chôn xác chúng và làm chúng được phen kinh hãi. Con sông đúng là “chốn

địa linh” đã ba lần chiến thắng chống giặc ngoại xâm thể hiện ý chí quật khởi

của dân tộc ta. Để một trăm năm sau chiến thắng sông Bạch Đằng các dân tộc

bước vào thời kì xây dựng kinh tế, vui hưởng thái bình đã đổi thay.

Hai câu thơ cuối:

“Bốn phương kình bằng thóc,

Thong thả dầu ta bủa lưới câu”

Là niềm tự hào về đất nước, dân tộc với tư cách là vị quân chủ nhưng

không hề thấy sự kiêu căng. Thay vào đó là tư thế thanh thản buông câu trên

dòng sông chiến địa có phần mang dáng dấp của một thi nhân minh triết.

Đọc những vần thơ trên ta lại nhớ đến câu thơ của Nguyễn Trãi:

“Sóc phong suy hải khí lăng lăng,

Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.

Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,

Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng”.

(Bạch Đằng giang khẩu)

Các thi sĩ trong hội Tao Đàn đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên kì vĩ

của đất nước với lịch sử hào hùng dân tộc. Sự kì vĩ của sông Bạch Đằng được

tô đậm bao nhiêu thì chiến tích của ông cha ta, sự tự hào, tự tôn của dân tộc ta

càng vẻ vang bấy nhiêu.

78

Nước ta đạo Phật khá phát triển, chùa chiền miếu mạo được xây dựng

trên cả nước. Những ngôi chùa đền ấy đã trở thành cảm hứng sáng tác cho các

thi sĩ thời Hồng Đức. Trong cảm quan lịch sử các thi nhân Tao Đàn ca ngợi

những công trình linh thiêng này như ngợi ca dân tộc, một triều đại mang đậm

dấu ấn của lịch sử:

“Kiền khôn vẹn thiểu một bầu đông,

Nây nẩy siêu nhiên chỉn lạ lung.

Hương vũ trăng thiền soi vặc vặc,

Vân song tiu ngọc nện boong boong.

Trì thanh leo lẻo ngư long hội,

Non diễu trùng trùng cẩm tú phong.

(Chùa Thiên Phúc)

Chùa Thiên Phúc tuy nhỏ nhưng đẹp vô cùng. Thiên nhiên hiện lên trong

cảm quan lịch sử vừa có nét siêu thoát, nghiêm trang mà khỏe khắn, chân chất.

Dưới ngòi bút tài hoa của các nhà thơ Tao Đàn tạo vật nơi này hiện lên vô

cùng sinh động từ màu sắc âm thanh, đến đường nét và hình khối. Chúng

quyện lấy nhau như một bản hợp xướng hài hòa trong một khung cảnh vừa

trang nghiêm song lại rất diễm lệ.

Ở một bài thơ khác ta lại bắt gặp giữa chốn phồn hoa đô hội một vẻ đẹp

lộng lẫy của một đạo quán:

“Là tuông dành quế chùa lai láng,

Gấm trải đường hoa khách dập dìu”.

(Quán Trấn Vũ)

Đó còn là nét đẹp của một ngôi chùa cổ:

“Hoa nở châu rơi màu hổ phách,

Rêu in cỏ mọc thức đồi mồi”.

(Lại vịnh chùa Pháp Vân)

79

Hay trong bài “Chùa Non Nước”

“Nơi gọi bồng nơi gọi nhược,

Hai bên hợp làm non nước.

Đá chồng hòn thấp hòn cao,

Sóng trục lớp sau lớp trước.

Phật hư vô cảnh thiếu thừa.

Khách danh lơi, buồm xuôi ngược.

Vẳng nghe trên gác boong boong,

Lẩn thẩn dưới chùa lần bước.”

Chùa Non Nước được lý giải khá độc đáo, đó là nơi bồng, nơi nhược hợp

nhau mà thành. Cảnh chùa được các thi nhân nhìn với con mắt yêu đời nên

mang một phong vị thật lạ lùng. Cảnh vật được nhìn với cặp mắt lạc quan nên

cấu trúc câu thơ cũng thật khỏe khoắn 3/3 khác với giọng u trầm chốn thiên

môn. Hai câu thơ: “Nơi gọi bồng nơi gọi nhược/ Hai bên hợp làm non

nước”giống như một bức tranh sơn thủy hùng tráng. Nước thì cuồn cuộn sóng

đuổi, non thì hùng vĩ cheo leo. Hai câu cuối tiếng chuông boong boong trên

mái chùa vẳng lên làm con người chợt tỉnh giấc mộng mà “lẩn thẩn bước”.

Đọc những vần thơ trong bài thơ này ta như thấy rõ được sự say đắm của họ

trước cảnh tươi đẹp của thiên nhiên. Lòng tự hào dân tộc như nhìn rõ được sự

đắm say của họ trước những thắng cảnh vừa mĩ lệ vừa hùng vĩ của tổ quốc.

Ngoài ra có thể kể đến nhiều những đền miêu, ngôi chùa trên lãnh thổ ở

nước ta như đền Trấn Vũ, chùa Pháp Vân, chùa Non Nước, chùa Thiên

Phúc…những công trình kiến trúc này không chỉ chứa yếu tố thẩm mĩ tráng

lệ: “Trân trâu tráng lệ tâng tầng xếp, Kim ngọc đoan trang rực rỡ in.” mà còn

thấy được sự linh thiêng cũng như dấu ấn chung của kiến trúc phương Đông.

Như vậy, bằng việc miêu tả hệ thống đền chùa trong tập thơ HĐQÂTT không

chỉ làm hiện lên cảnh đẹp giang sơn mà còn phần nào nói lên lòng tự hào về

bản sắc văn hóa dân tộc ta.

80

Niềm tự hào về non sông gấm vóc được thể hiện dải dọc khắp chiều dài

Đại Việt ta. Dù là cửa biển, dòng sông, ngọn núi, ngôi đền những cảnh vật ấy

đều có hồn và uy linh giống như linh hồn của cả một dân tộc nhỏ mà vô cùng

kiên cường gan góc, giàu đẹp. Có thể nói nhà vua Lê Thánh Tông và Hội Tao

đàn đã họa hình giang sơn bằng thơ văn. Đất nước trong hiện tại và trong quá

khứ: “Lê Thánh Tông đã là một con người không phải đi tìm hình của nước

mà là đi họa hình đất nước. Những bức tranh về Nam quốc, Nam thiên là một

hình tượng đầu tiên có giá trị gây ấn tượng về non sông Tổ quốc mà nhà thơ

đã đem đến cho người đọc”[25,tr 11]. Như vậy trong tập thơ HĐQÂTT đã thể

hiện được tình cảm chân thực của các thi sĩ với cảnh vật thiên nhiên. Vịnh về

thiên nhiên như một cách các thi sĩ gửi gắm tình yêu của mình vào đất nước,

quê hương. Thiên nhiên ở đây chính là một phần của dân tộc, tượng trưng cho

vẻ đẹp của dân tộc. Các nhà thơ đã có sự rung cảm chân thành để viết nên

những câu thơ với mục đích ngợi ca dân tộc là như vậy.

Qua nghiên cứu có thể thấy, trong HĐQÂTT, thiên nhiên có vị trí đặc

biệt quan trọng. Thiên nhiên không chỉ giao hòa cùng con người mà còn là

một phần quan trọng giúp các thi sĩ thể hiện những tâm tư, cảm xúc, tình ý

của mình. Thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho con người. Điều này thể

hiện tình yêu thiên nhiên của các thi sĩ cũng như vị trí đặc biệt quan trọng

của thiên nhiên đối với các thi sĩ của hội Tao Đàn. Tuy nhiên, xét từ điểm

nhìn phê bình sinh thái, dường như các thi sĩ Hồng Đức hầu như chưa có ý

thức tự giác sinh thái. Họ đề cao thiên nhiên, coi thiên nhiên là chuẩn mực

của cái đẹp, tìm thấy sự đồng nhất giữa thiên nhiên với vẻ đẹp của con người,

của thời đại, của dân tộc. Nhưng thực tế, họ chưa đặt ra vấn đề bảo vệ thiên

nhiên, chưa có ý thức sinh thái. Nếu như sự tương giao hài hòa giữa con

người và thiên nhiên thể hiện thẩm mĩ sinh thái đẹp đẽ của các thi sĩ hội Tao

Đàn thì những vần thơ đề vịnh phần nào vẫn mang đậm phong cách của nhà

Nho khi viết về thiên nhiên, thiên nhiên bên cạnh là chính nó thì còn là đối

tượng để các nhà Nho nói chí, tải đạo.

81

Tiểu kết

Tìm hiểu mối quan hệ thiên nhiên - con người trong HĐQÂTT, chúng

tôi nhận thấy: thiên nhiên trong tập thơ phần nhiều là thiên nhiên ước lệ mang

tính phổ biến của văn chương nhà Nho, của thơ Đường luật, nhưng vẫn mang

tính dân tộc khá đậm nét. Dưới ngòi bút của các thi sĩ trong hội Tao Đàn,

thiên nhiên - con người có mối quan hệ tương dung giao hòa cùng nhau. Điều

này thể hiện rất rõ tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”, tư tưởng hòa hợp “khí”

của con người vào “khí” của vũ trụ.

Thơ thiên nhiên trong HĐQÂTT có sự xuyên thấm, hòa đồng với tinh

thần dân tộc, với vẻ đẹp mĩ lệ của đất nước, với tinh thần triều đại Hồng

Đức. Các bài thơ đề vịnh trong tập thơ đã vươn lên tầm thời đại chứ không

bó hẹp trong sự thưởng ngoạn phong cảnh thuần túy. Xét từ quan điểm phê

bình sinh thái, điểm tiến bộ trong những vần thơ đề vịnh này là thiên nhiên

trong tập thơ được coi là biểu tượng cho những gì đẹp đẽ nhất của con

người, của thời đại, của dân tộc. Con người vì đó mà trân trọng, yêu mến

thiên nhiên, hướng tới sự hài hòa và thống nhất với vũ trụ và vạn vật. Đây

là đặc điểm phong cách của HĐQÂTT nói riêng và của thơ trung đại nói

riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng môi trường toàn cầu như

hiện nay, để bảo vệ thiên nhiên, để bảo vệ sự sống của chính mình, con

người cần có ý thức sinh thái rõ ràng hơn.

82

KẾT LUẬN

1. Phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu liên ngành đang phát triển

rộng rãi và năng động trên thế giới hiện nay. Với sứ mệnh đặc thù của mình,

phê bình sinh thái đã mở ra cho phê bình văn học một hướng phát triển mới

và thú vị. Những vấn đề mà phê bình sinh thái đang rất quan tâm hiện nay là

vấn đề luân lí học sinh thái, thẩm mĩ sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái,

mơ hồ sinh thái… Luận văn đã tiếp thu một số thành tựu của phê bình sinh

thái vào nghiên cứu HĐQÂTT, hy vọng bước đầu đã đem lại một số cách lí

giải mới về tập tác phẩm quen thuộc này.

2. Từ góc nhìn phê bình sinh thái, luận văn đã phân tích HĐQÂTT ở hai

khía cạnh chính: Hệ sinh thái trong tập thơ và Mối quan hệ thiên nhiên - con

người trong tập thơ. Bằng ngôn ngữ mộc mạc các thi sĩ trong hội Tao Đàn đã

tái hiện những bước chu chuyển của vũ trụ qua bức tranh thiên nhiên bốn mùa,

qua vòng tuần hoàn tháng năm, ngày - đêm. Điều đó thể hiện sự tôn trọng tự

nhiên, lắng nghe tiếng nói của tự nhiên của các thi sĩ trong tập thơ. HĐQÂTT

cũng đã tái hiện hệ thực vật, động vật tương đối đa dạng phong phú gần gũi,

đã phần nào thể hiện được sự đa dạng sinh học trong môi trường sống ở miền

Bắc nước ta đương thời. Chúng ta đều biết, các thi sĩ trong hội Tao Đàn đều là

những quần thần tin cậy của Lê Thánh Tông, đại đa số họ đều là quan chức

của triều đình, đều sống trong không gian văn hóa cung đình. Dù vậy, trong

những cuộc vui thi tửu của mình, họ vẫn ghi lại những loài động vật, thực vật

bình dị và quen thuộc, họ đã dùng ngòi bút của mình để tái hiện nhịp thiên

nhiên tuần hoàn… Điều này thể hiện rõ thẩm mĩ sinh thái đáng ghi nhận của

các tác giả tập thơ.

3. Phê bình sinh thái vốn rất quan tâm tới mối quan hệ giữa con người và

tự nhiên. Trong tập thơ này các thi nhân đã thể hiện rất rõ tình yêu thiên nhiên

của mình. Các bài thơ có chứa những hình tượng thiên nhiên đã thể hiện sự

dung nhập giao dung giữa thiên nhiên - con người. Vì dung nhập hài hòa với

83

vạn vật mà con người không chế ngự tự nhiên, trái lại họ luôn hòa vào môi

sinh, thuận theo nhịp chu chuyển của đất trời. Trong quan hệ thiên nhiên - con

người, các tác giả hội Tao Đàn coi thiên nhiên chính là tiêu chuẩn cho vẻ đẹp:

Thiên nhiên tượng trưng cho vẻ đẹp minh quân lương thần; Thiên nhiên

tượng trưng cho xã hội thái bình thịnh trị; Thiên nhiên tượng trưng cho vẻ đẹp

đất nước. Điều này thể hiện sự tôn sùng tự nhiên của văn hóa văn học Việt

Nam thời trung đại. Cũng cần lưu ý rằng, dù tôn sùng tự nhiên, yêu thiên

nhiên nhưng các tác giả hội Tao Đàn chưa đặt ra vấn đề sinh thái. Họ cũng

chưa có ý thức rõ ràng trong vấn đề bảo vệ môi sinh.

4. Cho dù những sáng tác của Lê Thánh Tông và các thi sĩ trong hội Tao

Đàn ra đời cách đây từ rất lâu, nhưng khi nhìn lại các tác phẩm ấy dưới góc

nhìn sinh thái chúng ta vẫn thấy được ý nghĩa thời sự của nó trong bối cảnh

khủng hoảng môi trường toàn cầu hiện nay. Trong bối cảnh xã hội hiện đại,

với lối hối hả của khoa học công nghệ, chúng ta đã phá hủy tự nhiên, đã coi

thiên nhiên là công cụ để phục vụ cho cuộc sống của mình. Những tác phẩm

trong HĐQÂTT góp phần hình thành trong chúng ta ý thức sinh thái tốt đẹp:

đề cao chỉnh thể sinh thái, tôn trọng sự đa dạng sinh học, tuân theo quy luật

tuần hoàn của tự nhiên, sống hài hòa tương giao cùng thiên nhiên, thấy được

vẻ đẹp của thiên nhiên và tôn trọng thiên nhiên. Bên cạnh đó, chúng ta cũng

nhận ra được hạn chế nhất định của văn chương nhà Nho khi viết về tự nhiên,

đó là tính chất đề vịnh, là việc mượn hình ảnh thiên nhiên để nói về cảm xúc

tình cảm của mình một cách thái quá. Để từ đó hình thành ý thức thẩm mĩ

sinh thái của con người hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa.

5. Vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứu các tác phẩm văn

học trung đại là việc làm không dễ dàng. Chúng tôi hi vọng đề tài này sẽ gợi

mở một hướng đi có ích trong đọc hiểu các tác phẩm của các tác giả văn học

Việt Nam từ góc nhìn sinh thái.

84

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cheng Xiangzhan (2013), “Luận về bốn điểm cốt lõi của thẩm mĩ sinh thái”,

Tạp chí Khoa học Xã hội Thiên Tân, (Số 5).

2. Cheryll Glotfelty (1996), “Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng

môi trường”, Trần Thị Ánh Nguyệt dịch, Tạp chí Sông Hương, (số 305).

3. Trần Văn Cường (2010), Quan niệm về con người trong Triết học Phật

giáo, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Phật giáo Việt Nam, Thành phố

Hồ Chí Minh.

4. Nguyễn Văn Dân (2017), “Phê bình sinh thái - một xu hướng nghiên cứu

liên ngành”, Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa - tiếng nói toàn cầu, Viện

Hàn Lâm KHXHVN, Nxb KHXH, Hà Nội.

5. Trần Quang Dũng (2014), “Thơ đề vịnh Thiên nhiên trong HĐQÂTT”, Tạp

chí Khoa học ĐHSP TP HCM, (số 55).

6. Trần Văn Dũng (2006), HĐQÂTT trong tiến trình thơ Nôm Đường luật thời

trung đại Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Nơi bảo vệ: Đại học sư phạm,

Hà Nội

7. Phạm Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên (1982), Hồng Đức quốc âm thi tập,

Nxb Văn học, Hà Nội.

8. Nguyễn Đăng Điệp (2014), “Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa”,

http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Tho-moi-tu-goc-nhin-

sinh-thai-hoc-van-hoa-4743.html, trích dẫn 09/08/2018.

9. Nguyễn Đăng Điệp (2017), “Thời đại khủng hoảng môi trường và vai trò, vị

thế của phê bình sinh thái”, Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa - tiếng nói

toàn cầu, Viện Hàn Lâm KHXHVN, Nxb KHXH, Hà Nội.

10. Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

11. Hà Minh Đức (2007), Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

12. Phùng Gia (2014), “Ý nghĩa cây tùng trong văn hóa tín ngưỡng người Việt”

http://gomsuphunggia.vn/112/print-article.html, trích dẫn 09/08/2018.

85

13. Đỗ Văn Hiểu (2012), “Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn

học mang tính cách tân”, http://tapchisonghuong.com.vn/tin-

tuc/p0/c7/n11088/Phe-binh-sinh-thai-khuynh-huong-nghien-cuu-van-hoc-

mang-tinh-cach-tan.html, trích dẫn 09/08/2018.

14. Trần Thị Giáng Hoa (2013), Nghiên cứu thơ Nôm Lê Thánh Tông trong

HĐQÂTT, Luận án tiến sĩ, Nơi bảo vệ: Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Nguyễn Phạm Hùng (2008), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb

ĐHQG, Hà Nội.

16. Karen Laura Thornber (2012), “Những tương lai của phê bình sinh thái và

văn học”, Trần Ngọc Hiếu dịch, Hoàng Tố Mai (chủ biên) (2017), Phê bình

sinh thái là gì, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

17. Đinh Gia Khánh (1980), Lịch sử Văn học Việt nam (tập 1), Ủy ban khoa

học xã hội Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

18. Đinh Gia Khánh (2010), Văn học Việt Nam, thế kỉ X- nửa đầu thế kỉ XVIII,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19. Lưu Văn Lâm (2012), “Biểu tượng trúc mai trong ca dao người Việt và thơ

quốc âm Nguyễn Trãi”, http://vhnt.org.vn/tin-tuc/tu-lieu-trong-nuoc/29001/-

bieu-tuong-truc-mai-trong-ca-dao-nguoi-viet-va-tho-quoc-am-nguyen-trai,

trích dẫn 09/8/2018.

20. Đặng Thanh Lê (1998), “Lê Thánh Tông và thể chế thời Hồng Đức", Tạp

chí Văn học, (số 5,6).

21. Hoàng Tố Mai (2017), Phê bình sinh thái là gì, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

22. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 2, Nxb

Đồng Tháp.

23. Đinh Thị Nhàn (2016), Thiên nhiên trong sáng tác của Nguyễn Khuyến

từ góc nhìn phê bình sinh thái, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn,

ĐHKHXH&NV Hà Nội.

24. Nhiều tác giả (1997), Hoàng đế Lê Thánh Tông, con người và sự nghiệp,

Nxb. Văn học, Hà Nội.

86

25. Nguyễn Kim Sơn - Trần Thị Mỹ Hòa, “Mấy phương diện thẩm mĩ của Nho

gia và Thiền gia” (Qua khảo sát một số trường hợp viết về thiên nhiên),

http://khoavanhoc.edu.vn/index.php/vh-vn/287-my-phng-din-thm-m-ca-th-

nho-gia-va-thin-gia-qua-kho-sat-mt-s-trng-hp-th-vit-v-thien-nhien, trích dẫn

09/08/2018.

26. Nguyễn Kim Sơn, “Tâm tính học Nho gia với đặc trưng thẩm mĩ của văn

chương nhà Nho”, http://khoavanhoc.edu.vn/index.php/vh-vn/264-tam-tinh-

hc-nho-gia-vi-c-trng-thm-m-ca-vn-chng-nha-nho, trích dẫn 09/08/2018.

27. Trần Đình Sử (2015), “Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn

học hiện nay”, https://trandinhsu.wordpress.com/2015/02/09/phe-binh-sinh-

thai-tinh-than-trong-nghien-cuu-van-hoc-hien-nay/, trích dẫn 09/08/2018.

28. Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm Đường luật, NXB Giáo dục , Hà Nội.

29. Lã Nhâm Thìn (2006), Bình giảng thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

30. Lã Nhâm Thìn (2015), Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại

học sư phạm, Hà Nội.

31. Trần Nho Thìn (2018), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu

giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục, Quảng Nam.

32. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017), Rừng khô, suối cạn, biển độc và văn chương

phê bình sinh thái, Nxb KHXH, Huế.

33. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Sự lật đổ quan niệm nhân loại trung tâm trong

tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí Khoa học KHXH &NV Trường

Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, tập 14, (số 4b).

34. Kiều Văn (tuyển chọn, giới thiệu) (2000), Tuyển tập Thơ Nôm của Lê

Thánh Tông và Hội Tao Đàn, NXB Đồng Nai, Đồng Nai.

35. Trần Hải Yến (2014), “Nghiên cứu, phê bình hiện đại và di sản văn hóa:

Nhìn từ sinh thái học tìm lại Tam giáo”.

36. Trần Hải Yến (2014), “Nhận diện hệ sinh thái đặc trưng - cấu trúc sinh thái

cân bằng trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”.

87

PHỤ LỤC

BẢNG THỐNG KÊ THỰC VẬT, ĐỘNG VẬT VÀ ĐỊA DANH ĐƯỢC NHẮC ĐẾN TRONG HĐQÂTT

STT TRANG TÊN BÀI

TẾT NGUYÊN ĐÁN LẠI THƠ TẾT NGUYÊN ĐÁN LẠI VỊNH CẢNH MÙA XUÂN VỊNH CẢNH MÙA HÈ ĐỘNG VẬT ngựa ong, ngựa ve 37 38 41 42 1 2 3 4 ĐỊA DANH Trường Yên

LẠI VỊNH CẢNH MÙA HÈ bướm, ve 43 5

VỊNH CẢNH MÙA THU VỊNH CẢNH MÙA THU VỊNH CẢNH MÙA ĐÔNG LẠI VỊNH CẢNH MÙA ĐÔNG VỊNH CẢNH MÙA XUÂN VỊNH CẢNH MÙA THU VỊNH CẢNH MÙA ĐÔNG TÂN NGUYỆT LẠI VỊNH TRĂNG NON 43 44 45 46 46 47 48 49 49 6 7 8 9 10 11 12 13 14 THỰC VẬT măng ngọc hoa, liễu hòe hoa, lá, trúc, hòe, trầm hương. cúc, lau ngô đồng, lau trúc cúc, mai mai ngô, cúc, lau rêu, mai La Phù

HỌA VẦN BÀI VỊNH TRĂNG (I) 51 15 nhạn nhạn ngựa oanh, bướm, ngựa nhạn, chim, cá hạc, rồng chim, cá cá, chim thước (chim khách),

STT TRANG TÊN BÀI THỰC VẬT ĐỊA DANH

ĐỘNG VẬT kình (cá lớn)

HỌA VẦN BÀI VỊNH TRĂNG (III) 52 16

HỌA VẦN BÀI VỊNH TRĂNG (V) mai, trúc, nam tinh (củ ráy) thảo mộc (cây cỏ) côn trùng 54 17

THU THIÊN NGUYỆT LÃNG cúc 58 18

NHẤT CANH chim, cá 60 19

NHỊ CANH rồng cỏ, hoa 61 20

TAM CANH gà cây, hoa 62 21

TỨ CANH chim, vạc 63 22

NGŨ CANH bố cốc, gà, ác 64 23

mai, tuyết,hoa 65 24 LẠI VỊNH NĂM TRỐNG CANH (NHẤT CANH)

TAM CANH hoa, lau 66 25

NGUYỆT TRUNG ĐAN QUẾ quế thỏ 68 26

69 HẠ THỬ 27

ve, bố cốc, đè he (cá he), hồ điệp, tử qui (chim cuốc)

28 69 LẠI VỊNH CẢNH MÙA HÈ mai, liễu,cỏ, đậu, lá cây, rau bươm bướm, ve, vịt, chó, cuốc

STT TRANG THỰC VẬT ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH

73 liễu, hòe 29

Núi Trĩ, sông Ô t

74 75 77 77 80 82 83 84 90 90 92 95 97 99 99 100 sen, lựu ngô, quề trúc lựu, hoa mai, thông liễu mai, liễu, trúc liễu cỏ nhạn trĩ, hươu, khỉ rồng, hươu rồng dê, rồng, nhạn ngựa rồng ngựa 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45

101 Hồ ma (vừng) gà 46 TÊN BÀI THƠ VỊNH MƯỜI HAI THÁNG (THÁNG TƯ) THÁNG NĂM THÁNG BẢY THÁNG CHÍN THÁNG MƯỜI THÁNG MƯỜI HAI VỊNH VUA CAO TỔ NHÀ HÁN LẠI VỊNH VUA CAO TỔ NHÀ HÁN LẠI VỊNH HẠNG VŨ LẠI VỊNH TÔ VŨ LĂNG MAU TỐNG SỨ GIẢ ĐIẾU (viếng) LÊ DU VỊNH MY Ê VỊNH NÀNG ĐIÊU THUYỀN CHIÊU QUÂN XUẤT TÁI CHIÊU QUÂN TỰ TÌNH LƯU, NGUYỄN NHẬP ĐỘNG LẠI VỊNH LƯU, NGUYỄN NHẬP ĐỘNG

STT TRANG THỰC VẬT ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH

chim, chó 101 47

TÊN BÀI LƯU, NGUYỄN NHẬP ĐỘNG NGỘ TIÊN TỬ TIÊN TỬ TỐNG LƯU NGUYỄN loan 102 48

LẠI BÀI TIÊN TỬ TỐNG LƯU NGUYỄN loan, phượng 103 49

TIÊN TỬ HOÀI (NHỚ) LƯU NGUYỄN cỏ, hoa đào 104 50

lan, huệ phượng, loan 105 51 LƯU NGUYỄN HOÀI (NHỚ) TIÊN TỬ

rêu 106 52 LƯU, NGUYỄN TÁI ĐÁO, BẤT KIẾN TIÊN TỬ

106 NGƯU LANG TỪ CHỨC NỮ chim khách 53

quế 107 54 LẠI BÀI CHỨC NỮ ỨC NGƯU LANG

HUYNH ĐỆ quế, tử kinh 110 55

GIÁO TỬ kiến 111 56

CỬU HẠN PHÙNG CAM VŨ hoa cá 114 57

THA HƯƠNG NGỘ CỐ TRI trúc, tùng nhạn, cá 115 58

ĐỘNG PHÒNG HOA CHÚC DẠ hoa, liễu loan, phượng 116 59

KIM BÁNG QUẢI DANH THÌ nhạn, beo 116 60

cá, hạc 118 61 SƠN THỊ TÌNH LAM cây, liễu, hoa sông Tiêu Tương

STT TRANG TÊN BÀI ĐỘNG VẬT

119 NGƯ THÔN TỊCH CHIẾU chim, cá 62 THỰC VẬT liễu, hoa, cây ĐỊA DANH sông Thương- Lương

120 121 122 123 124 124 126 126 127 128 128 129 130 hoa hoa liễu măng, trúc cây hoa, tuyết cỏ, mai, thóc cam, quýt cỏ, cây mai quế cây, hoa, tùng liễu Tiêu tương Hồ Động Đình Tiêu tương Đào- nguyên bãi cát Trà Thượng trại Nang Sa Động Lâm Liên Khê Trà Thượng nhạn nhạn cá chim, cá 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75

131 hoa ngư hà 76

132 132 GIANG THIÊN MỘ TUYẾT BÌNH SA LẠC NHẠN VIỄN PHỐ QUI PHÀM TIÊU - TƯƠNG DẠ VŨ ĐỘNG ĐÌNH THU NGUYỆT TỔNG TIÊU TƯƠNG BÁT CẢNH ĐÀO- NGUYÊN BÁT CẢNH TRÀ- THƯỢNG SA CƯ NANG - SA TRÚ DOANH ĐỘNG- LÂM HIỂU CẢNH LIÊN- KHÊ DẠ NGUYỆT TÙNG CỐI TÌNH VÂN TRÀ- THƯỢNG PHIỂM CHÂU SỞ HÀNH HỒNG LIỄU NHẤT NGƯ CHÂU LẠI BÀI TRÊN TÂN XUÂN LỮ XÁ hoa hoa cá, thỏ hồ điệp, tử qui 77 78

TÊN BÀI

STT TRANG 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 134 134 135 136 137 139 140 141 142 143 143 144 145 146 147 148 LIỄU DOANH THU NGUYỆT TRÙNG DƯƠNG CÚC TỬU THU NGUYỆT CHIẾU ĐÌNH THU PHẬT - TÍCH SƠN TỬ NGỌC - NỮ SƠN CHÍCH- TRỢ SƠN QUẢ SƠN NAM CÔNG SƠN THẦN PHÙ- SƠN TAM KÌ GIANG BẠCH ĐẰNG GIANG KÊNH TRẦM CHÙA THIÊN PHÚC QUÁN TRẤN - VŨ CHÙA PHÁP- VŨ CHÙA PHÁP - VÂN ĐỘNG VẬT thỏ chim kình (cá mập) thỏ cá, thuồng luồng cá voi ngư long thỏ ĐỊA DANH núi Ngọc Nữ Núi Chiếc Đũa Núi Quả Sơn Núi Nam Công Thần Phù Bạch Đằng, Thái Sơn Ngọc, Kênh Trầm Thiên Phúc Trấn Vũ Pháp Vũ Pháp Vân

95 149 LẠI VỊNH CHÙA PHÁP- VÂN Pháp Vân

96 150 LẠI VỊNH CHÙA PHÁP- VÂN Pháp Vân THỰC VẬT trúc cúc, cây, hoa cây liễu, sen hoa tuyết cỏ cây xanh rêu quế, hoa thông, hoa đồng nội xương bồ, thược dược hoa, hổ phách, rêu cỏ

THỰC VẬT hoa, cỏ liễu hoa ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH Trấn Quốc STT TRANG 97 98 99 151 152 153

phượng, lân Phả Lại, Bình Than 153 100

TÊN BÀI CHÙA TRẤN QUỐC NGƯ GIANG HIỂU VỌNG HOA VIÊN CẢNH CHUÔNG PHẢ- LẠI NGUYỆT BÌNH- THAN NGƯ TIỀU CANH

155 156 157 157 MỤC 101 102 103 104 cỏ, trúc Non canh Phú Xuân

105 158 HỌA BÀI NGƯỜI KIẾM CÁ trúc

106 107 108 109 110 161 162 163 163 164 sương, thông, quế thóc trúc ngư hà ( cá tôm) chim tu hú nghé, trâu ngư hà (cá tôm), trai, cò nghé trâu, cá Bàn Khê

110 167 quế, hòe

111 112 168 171 HỌA BÀI NGƯỜI CHĂN TRÂU TỨ THÚ TƯƠNG THOẠI VỊNH NGƯỜI HÁI CỦI VỊNH NGƯỜI ĐI CÀY VỊNH NGƯỜI CHĂN TRÂU LẠI VỊNH THUYỀN NGƯỜI ĐÁNH CÁ LAM KIỀU NGỘ TIÊN TUYẾT hoa hoa Lam Kiều

TÊN BÀI

STT TRANG 113 114 115 172 173 173 PHONG HOA CẦM THỰC VẬT thông, hoa hoa ĐỘNG VẬT cá, chim ĐỊA DANH

HOA 177 116 hoa

GIẢI NGỮ HOA 178 117 mai

CÚC HOA 179 118 cúc ong, điệp

180 MẪU ĐƠN 119 hoa

181 MAI THỤ 120 mai, thông, trúc

TẢO MAI 182 121 mai, đào, mận

183 122 THỦY TRUNG MAI mai

183 123 HỌA MAI mai

184 124 LẠI VỊNH HOA MAI VẼ mai, cây

184 125 TÙNG THỤ thông, mai

185 126 TRÚC THỤ trúc, thông rồng

186 127 QUÂN TỬ TRÚC trúc chim, phượng, rồng

187 128 CẤM TRUNG CỐC GIỐC me

187 129 NỘN LIÊN sen Lam Điền

188 130 HOA SEN LÚC TẠNH MƯA sen, cây Tây Hồ

189 131 PHONG LIÊN sen Tây Hồ, rùa,cá

STT TRANG TÊN BÀI THỰC VẬT ĐỘNG VẬT

ĐỊA DANH Thái Dịch

LÃO LIÊN 190 132 sen rùa

QUAN TỨ LIÊN ĐỒ 190 131 sen Hồ Thái

LẠI VỊNH SEN 191 132 sen, hoa

HÒE ỐC 192 134 ve

193 HẢI ĐƯỜNG THỤY 135

BA TIÊU ĐẾ NGỘ MỘC TÊ NƯƠNG QUA KHOAI GIỚI THIỀM THỪ BẠCH SẮT NGHĨ CHỈ DIÊN CÚ TÂN LANG LẠI BÀI CÂY CAU 193 194 195 195 196 201 202 202 203 205 206 206 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 hòe, hoa Hoa hải đường, hồng chuối tiêu mộc tê (đan quế) mít, dừa, dưa khoai, cỏ rau cải, hoa hoa cây cau cau, trúc con cóc con rận con kiến chim sấu, rồng, cá phượng, rồng

TÊN BÀI

STT TRANG 148 207 PHIẾN THỰC VẬT hoa, liễu ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH

VĂN 149 207 con muỗi

150 208 THẠCH KHUYỂN chó, ruồi

151 208 KÊ gà

152 209 ẤP NOÃN vịt

153 210 CÂY ĐÁNH ĐU cau, dừa

154 211 VOI voi

155 211 Ý THỰC đào, mận

156 215 CỐ THÀNH hoa, cỏ cáo

157 215 TƯỢNG BÀ BANH hoa

158 216 CUNG TẦN cỏ

159 217 HỨNG NGÂM cây chim

160 217 HOA NGUYỆT hoa

161 218 NGOẠN VỊNH hoa

Rắn, cóc, mèo, 162 218 TƯƠNG PHÙNG mướp đắng, hoa ong, dê

163 220 THẾ TÌNH cỏ

164 221 LẠC TỬU lan cáo, sóc

TÊN BÀI

STT TRANG 165 222 HOÀI VIỄN THỰC VẬT rêu, hoa, lá ĐỘNG VẬT én ĐỊA DANH

HOÀI VIỄN(Tạc lại bài trên) hoa, mai, cỏ 223 166

ỨC HỮU chim 224 167

TỰ DẬT ngựa 225 168

NHẤT THỦY quả khỉ, mèo 226 169

PHU XUẤT(Đáp lại bài trên) cỏ, hoa 226 170

TẢ HỮU TẤU ĐẾ hoa 232 171

VƯƠNG TƯỜNG, PHỤNG quế, hoa, liễu, 172 233 loan, phượng đào CHIẾU ĐĂNG TRÌNH

Trường Lạc 173 233 VƯƠNG TƯỜNG NHẬP CUNG cỏ, quế, tiêu Vị Ương

DIÊN THỌ HỌA ĐỒ rắn 234 174

tre CUNG NHÂN HIẾN SỦNG ong, bướm 235 175

VƯƠNG TƯỜNG THẤT SỦNG hoa, liễu loan, hồ, điệp, nhạn Gác Đằng 236 176

THUYỀN VU CẦU THÂN mai, sen, cỏ 237 177

VƯƠNG TƯỜNG BÁI YẾT hoa, liễu 240 178

VƯƠNG TƯỜNG DUNG MẠO hoa, đào, liễu, mai cá 241 179

ĐẾ VẤN VƯƠNG TƯỜNG hoa 242 180

TÊN BÀI

ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH STT TRANG 181 242 VƯƠNG TƯỜNG TẤU ĐÁP THỰC VẬT cỏ, hoa

ĐẾ HỈ VƯƠNG TƯƠNG hoa gà 242 182

VƯƠNG TƯỜNG TẠ MẪU hạc 242 183

VƯƠNG TƯỜNG XUẤT CUNG uyển, én Hành Dương hoa, quế 244 184

245 MẪU ỦY (yên ủy)VƯƠNG TƯỜNG mai, liễu 185 Thành Hồ

VƯƠNG TƯỜNG XUẤT Yên Nhiên 186 245 tằm, vượn ĐĂNG TRÌNH Câu Chú

VƯƠNG TƯỜNG XUẤT TÀI ngựa 245 187

VƯƠNG TƯỜNG OÁN TRIỀU ĐÌNH cỏ 246 188

VƯƠNG TƯỜNG OÁN GIANG SƠN liễu, dâu 246 189

VƯƠNG TƯỜNG NHẬP HỔ CUNG hoa, liễu 247 190

VƯƠNG TƯỜNG TỰ THÂN liễu, hoa 247 191

ỨC (nhớ) HÁN TỰ TÌNH loan, phượng 248 192

VƯƠNG TƯỜNG TỰ VẪN quế 248 193

THUYỀN VU THÂN TÍCH hoa chim quốc 249 194

249 195 NGUYÊN ĐẾ THÁN TƯỞNG cây, cỏ

PHỤ ĐIẾU VƯƠNG TƯỜNG MỘ THI hoa 196 251 Vị Lăng TẬP TUYỆT THỦ (I)

THỰC VẬT ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH STT TRANG

TÊN BÀI PHỤ ĐIẾU VƯƠNG TƯỜNG MỘ 197 251 lá chim THI TẬP TUYỆT THỦ (II)

PHỤ ĐIẾU VƯƠNG TƯỜNG MỘ 198 252 cỏ THI TẬP TUYỆT THỦ (III)

PHỤ ĐIẾU VƯƠNG TƯỜNG MỘ 199 253 THI TẬP TUYỆT THỦ (VII)

258 QUAN THÁNH đào rồng, phượng 200

260 LẠI BÀI QUÁN THÁNH đào ngựa 201

262 GIA CÁT LƯỢNG ruốc Ngọa Long Cương 202

269 TRIỆU ẨU voi 203