ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
BÙI THỊ HUYỀN
HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
BÙI THỊ HUYỀN
HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI Ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Nhung
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018
Tác giả
Bùi Thị Huyền
i
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
MỤC LỤC ......................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU ............................. iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 9
4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 9
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 9
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 10
7. Đóng góp của đề tài ..................................................................................... 10
8. Bố cục luận văn ........................................................................................... 11
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................. 12
1.1. Khái quát về phê bình sinh thái ................................................................ 12
1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái ................................................................ 12
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của phê bình sinh thái ............................... 15
1.2. Thẩm mĩ sinh thái, thẩm mĩ phi sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái ....... 20
1.2.1. Thẩm mĩ sinh thái và thẩm mĩ phi sinh thái .......................................... 20
1.2.2. Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái ............................................................... 23
1.3. Quan hệ thiên nhiên - con người theo quan điểm Phật giáo, Nho giáo
và Đạo giáo ...................................................................................................... 24
1.3.1. Phật giáo ................................................................................................ 24
1.3.2. Nho giáo ................................................................................................ 26
1.3.3. Đạo giáo ................................................................................................ 28
1.3.4. Khái quát về tập thơ HĐQÂTT ............................................................. 29
Tiểu kết ............................................................................................................ 30
ii
Chương 2. HỆ SINH THÁI TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP .. 31
2.2. Hệ động vật .............................................................................................. 38
2.3. Nhịp thiên nhiên ....................................................................................... 43
2.3.1. Nhịp bốn mùa ........................................................................................ 43
2.3.2. Nhịp tháng năm ..................................................................................... 49
2.3.3. Nhịp ngày - đêm .................................................................................... 52
Tiểu kết ............................................................................................................ 55
Chương 3. MỐI QUAN HỆ THIÊN NHIÊN - CON NGƯỜI TRONG
HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP ............................................................ 56
3.1. Thiên nhiên - con người tương dung giao hòa ......................................... 56
3.2. Thiên nhiên - đối tượng đề vịnh ............................................................... 67
3.2.1. Thiên nhiên tượng trưng cho vẻ đẹp minh quân lương thần ................. 68
3.2.2. Thiên nhiên tượng trưng cho xã hội thịnh trị, an yên ........................... 73
3.2. 3. Thiên nhiên tượng trưng cho dân tộc ................................................... 76
Tiểu kết ............................................................................................................ 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 85
PHỤ LỤC
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU
HĐQÂTT Hồng Đức quốc âm thi tập :
NXB : Nhà xuất bản
ĐHSP : Đại học Sư phạm
iii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề liên quan mật thiết
đến sự sống trên toàn cầu, trong đó có sự tồn vong của bản thân mỗi chúng ta.
Nhận thức được nguy cơ sinh thái xảy ra ngày càng trầm trọng, nhân loại đã
có những giải pháp và cách thức khác nhau để góp phần “giải trừ nguy cơ
sinh thái”. Đề tài này được thực hiện chính là góp thêm tiếng nói nhỏ bé vào
mối quan tâm chung mang tính nhân loại ấy.
1.2. Phê bình sinh thái ra đời từ thập niên 90 của thế kỉ XX, là một trong
những bộ phận quan trọng của trào lưu tư tưởng sinh thái. Bên cạnh triết học
sinh thái, luân lí học sinh thái, chủ nghĩa nhân văn sinh thái, văn học sinh
thái... phê bình sinh thái đã ra đời “Không chỉ mang đến sự tươi mới cho lĩnh
vực nghiên cứu phê bình mà đây còn là khuynh hướng có sứ mệnh đặc thù với
lịch sử môi trường nhân loại. Thông qua văn học để tra vấn văn hóa, phê
phán văn hóa, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nguy cơ sinh thái; thay đổi cách
ứng xử của con người với tự nhiên đồng thời khẳng định vai trò của ngôn ngữ
trong việc hình thành diễn ngôn về văn minh sinh thái....”[36]. Với sứ mệnh
đặc thù như vậy, phê bình sinh thái đã lan tỏa rộng rãi trên toàn thế giới. Luận
văn vận dụng lí luận phê bình sinh thái vào nghiên cứu HĐQÂTT hy vọng sẽ
đem đến một cách nhìn mới về tác phẩm khá quen thuộc này, tìm ra ý nghĩa
sinh thái tiềm ẩn trong tập thơ, đồng thời chỉ ra hạn chế của nó trong tương
quan với chỉnh thể sinh thái.
1.3. HĐQÂTT là tập thơ viết bằng chữ Nôm của vua Lê Thánh Tông và
tập thể tác giả Hội Tao Đàn ở thế kỉ XV. Đây là một trong những tập thơ với
các sáng của những thi sĩ được coi là tinh tú ở triều đại thịnh trị Hồng Đức.
Trong tập thơ, số bài thơ đề vịnh về thiên nhiên chiếm tới hơn 1/3 tổng số bài.
Nghiên cứu những bài thơ đề vịnh về tự nhiên này từ góc nhìn phê bình sinh
thái, luận văn hy vọng sẽ phân tích hệ sinh thái và mối quan hệ con người - tự
1
nhiên trong HĐQÂTT, góp phần hiểu rõ hơn về thẩm mĩ sinh thái, chủ nghĩa
chỉnh thể sinh thái.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Hồng Đức quốc âm thi tập
dưới góc nhìn phê bình sinh thái để nghiên cứu
2. Lịch sử vấn đề
Nhằm khảo sát và làm rõ lịch sử nghiên cứu về HĐQÂTT, chúng tôi
dựa vào các nguồn tài liệu chính sau:
Các chuyên khảo: Văn học Việt Nam (thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII)
(Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1978); Lịch sử Văn học
Việt nam - tập 1(Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
1980); Hồng Đức quốc âm thi tập (Phạm Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên
phiên âm - chú giải - giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1982); Việt Nam văn
học sử giản ước tân biên - tập 2 - văn học lịch triều Việt văn (Phạm Thế Ngũ
chủ biên, NXB Đồng Tháp, 1997); Thơ Nôm Đường luật (Lã Nhâm Thìn chủ
biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998); Tuyển tập Thơ nôm Lê Thánh Tông và
Hội Tao Đàn (Kiều Văn tuyển chọn, giới thiệu NXB Đồng Nai - 2000); Lược
khảo lịch sử văn học Việt Nam (Từ khởi thủy đến thế kỷ XX) (Bùi Đức Tịnh,
NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005); Lê Thánh Tông về tác
gia và tác phẩm (Hà Minh Đức chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007); Trên
hành trình văn học trung đại Việt Nam (Nguyễn Phạm Hùng chủ biên, NXB
Đại học quốc gia Hà Nội, 2008); Giáo trình văn học trung đại Việt Nam (Lã
Nhâm Thìn chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2015).
Các đề tài, luận văn, luận án: Hồng Đức quốc âm thi tập trong tiến
trình thơ Nôm Đường luật thời trung đại Việt Nam (Luận án Tiến sĩ, Trần
Văn Dũng, Hà Nội, 2006); Nghiên cứu thơ Nôm Lê Thánh Tông trong Hồng
Đức quốc âm thi tập (Luận án Tiến sĩ, Trần Thị Giáng Hoa, Hà Nội, 2013);
Tìm hiểu giá trị của phần phong cảnh môn trong Hồng Đức quốc âm thi tập
(Luận văn tốt nghiệp đại học, Phạm Mai Hương); Phương diện nội dung
trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập (Luận văn tốt nghiệp đại học,
Nguyễn Thị Nga, 2014)...
2
Các bài báo: Hồng Đức quốc âm thi tập một tác phẩm lớn của văn học
tiếng Việt thế kỷ XV (Bùi Duy Tân, Tạp chí văn học số 4 - 1983); Giá trị biểu
đạt nghệ thuật của ngôn ngữ đời sống trong Hồng Đức quốc âm thi tập (Trần
Quang Dũng, Tạp chí Khoa học ĐHSP TP HCM, số 23 năm 2010); Thơ đề
vịnh thiên nhiên trong Hồng Đức quốc âm thi tập (Trần Quang Dũng, Tạp chí
Khoa học ĐHSP TP HCM, số 55 năm 2014)...
Có thể thấy, HĐQÂTT tuy không phải là tập thơ đỉnh cao của văn học
trung đại, nhưng nó có những đặc sắc riêng và đã được không ít nhà nghiên
cứu quan tâm. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày lịch sử nghiên cứu vấn đề
qua hai phương diện chính:
2.1. Lịch sử nghiên cứu chung về HĐQÂTT
Những nghiên cứu chung về HĐQÂTT đã quan tâm đến vấn đề tác giả,
giá trị nội dung và đóng góp về nghệ thuật của HĐQÂTT.
Trong phần thứ 3 “Văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XV và Lê Thánh
Tông” của giáo trình Lịch sử Văn học Việt nam (tập 1), Ủy ban khoa học xã
hội Việt Nam do Đinh Gia Khánh chủ biên đã có những nhận định vừa cụ thể,
vừa khái quát về nghệ thuật của tập thơ: “Trong HĐQÂTT cũng có nhiều câu
thơ phản ánh được những nét chân thật về sinh hoạt của nhân dân...”, “Nói
chung ngôn ngữ văn học dân tộc trong HĐQÂTT đã thành thục và hình tượng
nhiều khi điêu luyện. Thể thơ trong HĐQÂTT là thể thơ thất ngôn và thơ lục
ngôn việc áp dụng niêm luật thơ Hàn luật nói chung khá vững vàng”[17,tr 92].
Những nhận định trên đã khái quát những thành tựu nghệ thuật nổi bật của tập
thơ, nhưng chưa phân tích sâu biểu hiện cụ thể.
Khi giới thiệu cuốn HĐQÂTT, Phạm Trọng Điềm đã có những nhận
xét khái quát về chủ đề chung của tập thơ. Ông cho rằng chủ đề chung của
tập thơ là: “Tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu chính nghĩa, yêu những
trí óc thông minh, yêu những tâm hồn trong sáng, và từ đó toát lên lòng tự
hào dân tộc, trong tổ quốc độc lập và thanh bình”[7, tr17]. Về hình thức
nghệ thuật của tập thơ thơ, tác giả cũng đưa ra ý kiến: “Hình thức và nghệ
3
thuật thơ ở đây có một bước tiến so với Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi...
trừ những chỗ khuôn sáo, gò bó, hình thức và nghệ thuật thơ Hồng Đức
Quốc âm thời Hồng Đức được mở rộng về nhiều mặt, phong phú về đề tài,
sinh động về hình tượng, uyển chuyển về lời văn”[7, tr28]. Bùi Văn
Nguyên trong cuốn sách này cũng cho rằng: “Hồng Đức quốc âm thi tập
cũng nêu lên được nhiều nét truyền thống tốt đẹp trong tinh thần dựng
nước và giữ nước của tổ tiên ta, cũng như về sự vững bền và sức vươn lên
của nền văn hiến Việt Nam”[7, tr67]. Tuy nhiên hai tác giả này mới chỉ nói
một cách chung chung về tập thơ chứ chưa chỉ ra phân tích cụ thể về sự gò
bó, khuôn sáo cũng như phong phú về mặt hình thức của tập thơ.
Luận án HĐQÂTT trong tiến trình thơ Nôm Đường luật thời trung đại
Việt Nam của tác giả Trần Văn Dũng đã có những nhận xét về nội dung của
tập thơ một cách ngắn gọn và đầy đủ như sau: “Hệ thống đề tài chủ đề của
HĐQÂTT khá phong phú và đa dạng, hướng tới nhiều bình diện của hiện thực
đời sống nửa sau thế kỉ XV, từ cuộc sống cung đình cho đến cảnh sống nơi
thôn quê, từ hình ảnh của minh quân lương tướng cho đến hạng ngư, tiều,
canh, mục”[6, tr10]. Về nghệ thuật, tác giá cũng có những nhận xét xác đáng
về việc các thi sĩ Tao Đàn sử dụng tỉ lệ cao lớp từ láy trong HĐQÂTT. Đây
được xem là sáng tạo bất ngờ của các tác giả trong hội Tao Đàn cùng với việc
“sáng tạo một hệ thống hình tượng nghệ thuật bắt nguồn trực tiếp từ cuộc
sống đầy đủ dân dã góp phần tạo đà cho bước phát triển mới trong nghệ
thuật sáng tạo hình tượng của các tác giả thơ Nôm trong giai đoạn khác
nhau”[6, tr16]. Luận án đã nghiên cứu một cách khá đầy đủ, tỉ mỉ và chi tiết
về chủ đề cũng như hình thức của tập thơ giúp người đọc có cái nhìn bao quát
hơn về HĐQÂTT.
Trong cuốn Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm, soạn giả đã tập hợp
nhiều bài viết với ý kiến đánh giá khách quan của nhiều nhà nghiên cứu,
Nguyễn Hồng Phong nhận xét: “HĐQÂTT một mặt phản ánh tư tưởng và
tâm lí của giai cấp phong kiến triều Lê, kiêu hãnh vì sự nghiệp dựng nước
4
của dòng họ nhà Lê, cũng kiêu hãnh về lịch sử oanh liệt của dân tộc”
[11,tr534]. Bùi Duy Tân lại đặc biệt chú ý đến hình thức nghệ thuật của tập
thơ. Tác giả đã có cái nhìn tổng quát, đa chiều về cách thức sử dụng tiếng
Việt dưới triều đại Hồng Đức:“HĐQÂTT là một tập thơ Tiếng Việt cỡ lớn,
lớn về số lượng thơ, về giá trị, về ý nghĩa thời đại của nó”,“tác phẩm là một
bằng chứng về một thời kì phát triển mạnh, một bước tiến mới của thơ tiếng
Việt”[11,tr589], “HĐQÂTT là kết tinh cố gắng của cả một thế hệ thi sĩ trên
lĩnh vực trau dồi và nâng cao sức biểu hiện của ngôn ngữ văn hóa dân
tộc”[11,tr590]. Cũng trong cuốn này, Vương Lộc đưa ra khẳng định về giá
trị của HĐQÂTT trong tiến trình phát triển văn học: “Lịch sử văn học Việt
Nam thế kỉ XV được đánh dấu bằng hai tác phẩm viết bằng chữ Nôm nổi
tiếng: nửa đầu thế kỉ là Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi và nửa sau thế kỉ
là Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và một số triều thần”.
[11,tr650]
Nguyễn Phạm Hùng trong Trên hành trình văn học trung đại Việt Nam
nhận định HĐQÂTT là tập thơ:“mang không khí lạc quan, sáng sủa, khẳng
định ca ngợi chế độ”[15, tr436]. Ông cũng cho rằng : “Tập thơ là kết quả của
cuộc sinh hoạt nghệ thuật cung đình mang tính công dân đầy trang trọng,
nghiêm trọng”. Về nội dung, HĐQÂTT“ca tụng vương triều, thuyết lí, giáo lí
nho gia, ngâm vịnh thù tạc trước cuộc sống thanh bình của non nước kì thú,
các nhân vật lịch sử và những phẩm vật của cuộc sống bình dị xung quanh
(…) với sự khẳng định vương quyền trong niềm tin và lạc quan cao độ”[15,
tr436]. Về nghệ thuật tác giả phân tích tập thơ với các đặc điểm: tính khuôn
sáo và sự phá vỡ khuôn sáo; yếu tố hài hước, chất tự sự trong thơ vịnh sử;
chất trữ tình đam mê và trang trọng; ngôn ngữ diễn đạt đậm đà tính dân tộc;
câu thơ lục ngôn. Nguyễn Phạm Hùng đã trình bày khá công phu và tỉ mỉ về
nghệ thuật của tập thơ. Đặc biệt tác giả còn so sánh tập thơ với Quốc Âm thi
tập (Nguyễn Trãi) và Bạch Vân Quốc ngữ thi tập (Nguyễn Bỉnh Khiêm) làm
nổi bật được sự độc đáo và khác biệt của HĐQÂTT.
5
Trong công trình nghiên cứu Thơ Nôm Đường luật, tác giả Lã Nhâm
Thìn nhận định: “Hồng Đức Quốc Âm thi tập vẫn tiếp tục nội dung dân tộc đã
có từ Quốc Âm thi tập, nhưng xu hướng xã hội hóa trong nội dung phản ánh
đã thể hiện khá rõ nét.” [28, tr41]“Đôi khi mộc mạc, chất phác, ngộ nghĩnh
nhưng đậm đà phong vị dân tộc” [28,tr42]. Tác giả có đề cập đến việc khai
thác đề tài, hình tượng, thể loại có liên quan đến tinh thần dân tộc như: việc
sử dụng nhuần nhuyễn thể loại thất ngôn xen lục ngôn, việc sử dụng thành
thạo các thành ngữ, khẩu ngữ... Tuy nhiên tất cả phân tích chủ yếu quan tâm
đến phương diện nghệ thuật.
Trong cuốn Văn học Việt Nam (thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII), do Đinh
Gia Khánh chủ biên có lời nhận xét: “HĐQÂTT đã đánh dấu một bước tiến rõ
rệt của văn học Nôm đặc biệt là về phương diện rèn giũa và nâng cao khả
năng biểu hiện của ngôn ngữ văn học dân tộc.” [17,tr284, 285]
Như vậy, các tác giả đã chỉ ra và phân tích khá rõ đặc điểm nội dung,
nghệ thuật của HĐQÂTT cũng như những đóng góp của tập thơ này trong
tiến trình văn học dân tộc.
2.2. Lịch sử nghiên cứu thiên nhiên trong HĐQÂTT
Trong HĐQÂTT, thơ viết về thiên nhiên chiếm số lượng phong phú và
đa dạng. Vì vậy, bên cạnh rất nhiều công trình nghiên cứu về tập thơ nói
chung, có một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến thiên nhiên trong tập
thơ này với tư cách là đối tượng nghiên cứu chính.
Trong lời giới thiệu cuốn Hồng Đức quốc âm thi tập của Bùi Văn
Nguyên và Phạm Trọng Điềm (phiên âm- chú giải- giới thiệu), các tác giả
cũng đã đề cập đến vấn đề thiên nhiên đất nước được thể hiện trong tập thơ:
“Điểm nổi bật đầu tiên trong tập thơ quốc âm, thời Hồng Đức là tình thơ của
các tác giả qua sự biến chuyển của thời khắc và qua vẻ mỹ lệ của thiên nhiên
mông lung vô cùng tận. Lòng người và cảnh vật, nhà thơ với thiên nhiên: một
đề tài có thể nói là “muôn thuở” từ “cổ chí kim” từ “đông sang tây”.[7,tr17]
6
Trong giáo trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 2) của
Phạm Thế Ngũ, tác giả nói về mối quan hệ giữa đề tài thiên nhiên trong tập
thơ với tư tưởng triết lí Nho giáo: “nhiều phần ở môn thiên đạo và phẩm vật
nói về thời tiết hay cây cỏ thường mang tư tưởng triết lí của đạo Nho về vũ
trụ, xã hội, nhân sinh”[22,tr129].
Tác giả Kiều Văn trong bài nghiên cứu “Thơ Nôm của Lê Thánh Tông và
hội Tao Đàn” nhận xét: “Thơ Nôm thời Hồng Đức dành một mảng đáng kể
chuyên miêu tả sinh hoạt dân dã với những sinh vật hết sức thông thường, nhỏ
mọn nhưng rất đỗi thân thương, gắn bó mật thiết với người Việt như hình với
bóng: khoai lang, quả dưa, cây chuối, cây cau, cái nón, cái quạt, ông đầu rau,
cối xay, thằng bù nhìn, nhà dột, con chó đá, con gà, con muỗi, con cóc, trứng
vịt...Những đề tài, đối tượng “rất tầm thường”mà văn chương chữ Hán thường
coi khinh và chối bỏ thì thơ Nôm Hồng Đức lại tiếp nhận và miêu tả một cách
say sưa khác thường”[34, tr8]. Tác giả một mặt đã chỉ ra những điểm khác biệt
giữa thơ thiên nhiên trong thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm của các tác giả trong hội
Tao Đàn, một mặt ca ngợi tình yêu thiên nhiên của các thi sĩ dưới triều đại Hồng
Đức. Tuy nhiên bài nghiên cứu mới kể ra những loại sinh vật đó một cách chung
chung chứ chưa thống kê số loài một cách đầy đủ và chi tiết. Trong đề tài này
chúng tôi sẽ thống kê, phân loại đầy đủ chi tiết các loài động vật và thực vật một
cách cụ thể để thấy rõ được sự khác nhau đó.
Gần đây nhất là Luận án Nghiên cứu thơ Nôm Lê Thánh Tông trong
HĐQÂTT của Trần Thị Giáng Hoa đã có những nhận xét khá chính xác về vai
trò của thiên nhiên trong thi tập: “Nội dung trong HĐQÂTT thể hiện cảm
hứng tự hào dân tộc thông qua việc miêu tả phong cảnh thiên nhiên đất nước,
ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị, và tưởng nhớ những nhân vật lịch sử có công
với triều đại, với dân tộc”[14, tr23]. Về nghệ thuật tác giả cũng đưa ra nhận
định việc các thi sĩ Tao Đàn trong việc sử dụng ngôn từ bằng cách Việt hóa từ
ngữ tiếng Hán một phần hoặc toàn bộ để vẽ nên bức tranh thiên nhiên bằng
ngôn từ sinh động:“khai thác triệt để giá trị của từ láy trong tiếng Việt để vẽ
nên những bức tranh nhiều màu sắc và âm thanh sống động”. [14, tr18,19]
7
Bài viết “Thơ đề vịnh Thiên nhiên trong HĐQÂTT” của Trần Quang
Dũng đã tiến hành thống kê, phân loại thơ thiên nhiên trong HĐQÂTT, chỉ ra
đặc điểm nội dung thơ đề vịnh thiên nhiên trong HĐQÂTT. Tác giả bài viết
khẳng định: “Thơ đề vịnh thiên nhiên trong HĐQÂTT mang đặc điểm phổ
quát này: Vừa hướng tới “đồng tâm” với thơ Đường luật, với văn chương
nhà Nho, mang nặng tính khuôn sáo, ước lệ, vừa hướng tới “li tâm”, phá vỡ
tính ước lệ, điển phạm theo tinh thần dân tộc hóa thể loại, hé mở những nỗi
niềm riêng của người làm thơ”. [5,tr22]
Nhận định trên đây của nhà nghiên cứu Trần Quang Dũng đã gặp gỡ
quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu khác. Chẳng hạn, Lã Nhâm Thìn trong
Giáo trình văn học trung đại Việt Nam nhận xét một cách xác đáng về việc
các thi sĩ Tao Đàn đã mượn hình ảnh thiên nhiên để tụng ca nhà vua: “Nhà
thơ mượn hình ảnh chúa xuân để ngợi ca đương kim hoàng thượng. Mùa xuân
của đất trời và mùa xuân của lòng người, dù có chuyển vần trong thời gian
hay không gian thì vẫn khắp hòa chốn chốn một trời xuân” [30,tr157].
Trong công trình nghiên cứu Thơ Nôm Đường luật, Lã Nhâm Thìn đã
nhận xét: “Chủ đề thiên nhiên là một chủ đề lớn trong HĐQÂTT. Qua những
vần thơ gợi tả sự mĩ lệ của thiên nhiên, các tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của non
sông cẩm tú”; “HĐQÂTT ngoài phong vị Đường thi, nhiều bức tranh thiên
nhiên trong tập thơ mang đậm sắc thái dân tộc bởi các tác giả cảm nhận
được cái hồn quê hương Việt”[28,tr159]. Trong công trình nghiên cứu này,
tác giả đánh giá khá đầy đủ về nội dung của tập thơ, chỉ ra sự khác biệt trong
việc sử dụng yếu tố thiên nhiên đậm chất Đường thi và đậm sắc thái dân tộc.
Tuy nhiên những nhận định này chỉ dừng lại ở cấp độ khái quát chứ chưa đi
sâu phân tích, thống kê, phân loại cụ thể từng bài có những hình ảnh thiên
nhiên nào để tạo ra sự khác biệt đó. Trong đề tài nghiên cứu của chúng tôi sẽ
thống kê, phân loại chi tiết để làm nổi bật được sự khác biệt đó.
8
Có thể nói, HĐQÂTT đã được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các
bài viết về thiên nhiên trong tập thơ cũng đã được đề cập ở nhiều góc độ khác
nhau, hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp. Tuy nhiên, những bài viết đó chưa đặt
thành vấn đề riêng biệt, chưa khảo sát toàn diện tập thơ từ góc nhìn phê bình
sinh thái. Chính vì vậy tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước
chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu đề tài “Hồng Đức Quốc âm thi tập dưới góc
nhìn phê bình sinh thái” với hi vọng sẽ đưa ra thêm một cách đọc mới về
tập thơ này.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu HĐQÂTT từ góc nhìn phê bình sinh thái, luận văn sẽ làm rõ:
Hệ sinh thái trong HĐQÂTT; Mối quan hệ thiên nhiên - con người trong tập
thơ, từ đó định hướng thẩm mĩ sinh thái cho người đọc.
4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những thi phẩm viết về thiên nhiên
hoặc mang hình ảnh của thế giới tự nhiên trong HĐQÂTT.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm sáng tỏ thuật ngữ phê bình sinh thái, thẩm
mĩ sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, thẩm mĩ phi sinh thái; Phân tích hệ
sinh thái qua tập thơ và mối quan hệ con người - thiên nhiên trong HĐQÂTT.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề:
Luận văn sẽ không đi sâu nghiên cứu toàn bộ những vấn đề xung quanh
HĐQÂTT mà chỉ tìm hiểu tập thơ từ góc nhìn phê bình sinh thái. Trong đó
chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu hệ sinh thái và mối quan hệ thiên nhiên - con
người qua HĐQÂTT.
- Phạm vi tư liệu: Hồng Đức quốc âm thi tập (Phạm Trọng Điềm - Bùi
Văn Nguyên phiên âm, chú giải, giới thiệu Nhà xuất bản văn hóa, Hà Nội
1962); Ngoài ra, để làm sáng tỏ vấn đề, trong chừng mực nhất định, luận văn
sẽ so sánh với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Bạch Vân quốc ngữ thi
tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
9
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã kết hợp sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu chính sau:
6.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Phương pháp liên ngành tức là tiếp cận một đối tượng bằng nhiều cách
thức, dựa trên dữ liệu của nhiều chuyên ngành. Trong luận văn này, chúng tôi
đã tiếp cận HĐQÂTT từ kiến thức chuyên ngành văn học, sinh thái học và
văn hóa học.
6.2. Phương pháp tiếp cận văn hóa học
Phương pháp này giúp cho việc phục nguyên không gian văn hóa tại thời
điểm HĐQÂTT ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm đạo đức, chính
trị, quan niệm về con người... từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác
định đến tác phẩm. Từ đó giải mã các hình tượng nghệ thuật để thấy rõ hơn về
mối quan hệ thiên nhiên - con người trong tập thơ.
6.3. Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại
Phương pháp này được dùng để thống kê các sáng tác viết về thiên
nhiên trong HĐQÂTT. Đồng thời, phương pháp này còn được dùng để khảo
sát và thống kê số loài, tần suất xuất hiện của các loài động vật và thực vật
trong tập thơ.
6.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Hai phương pháp này được vận dụng song song với nhau nhằm mục đích
làm rõ và chứng minh những luận điểm mà luận văn đưa ra.
6.5. Phương pháp so sánh
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để đối chiếu sáng tác trong
HĐQÂTT với sáng tác của một số tác giả khác như: Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm... nhằm làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.
7. Đóng góp của đề tài
- Về khoa học: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần kiểm định
hướng tiếp cận phê bình sinh thái trong văn học, đồng thời thực nghiệm một
cách đọc văn bản văn học trung đại theo hướng nghiên cứu liên ngành.
10
- Về thực tiễn: Luận văn được hoàn thành sẽ góp thêm một tài liệu
tham khảo hữu ích cho cho việc giảng dạy và nghiên cứu HĐQÂTT. Luận
văn giúp người đọc hiểu rõ hơn về chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, về mối
quan hệ thiên nhiên - con người trong tập thơ, góp phần bồi dưỡng ý thức
sinh thái cho mỗi người.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn: “Hồng
Đức quốc âm thi tập dưới góc nhìn phê bình sinh thái” gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Hệ sinh thái trong HĐQÂTT
Chương 3: Mối quan hệ thiên nhiên - con người trong HĐQÂTT
11
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về phê bình sinh thái
1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái
Từ khi ra đời đến nay, phê bình sinh thái được gọi với nhiều tên gọi khác
nhau: Chủ nghĩa phê bình sinh thái (Ecocriticism), Phê bình văn học sinh thái
(Ecological literary criticism), Phê bình xanh (Green studies), Phê bình văn
hóa xanh (Green cultural studies), Thi pháp sinh thái (Ecopoetics), Sinh thái
học văn học (Literary ecology), Phê bình văn học môi trường (Environmental
literary criticism), Nghiên cứu văn học và môi trường (Studies of literature
and environment). Trong đó, hai thuật ngữ được giới nghiên cứu sử dụng
nhiều nhất là Phê bình sinh thái (Ecocriticism) và Nghiên cứu văn học và môi
trường (Studies of literature and environment).
Hiện nay, giới nghiên cứu dường như thống nhất gọi khoa học liên
ngành này với tên gọi Phê bình sinh thái. Trong công trình nghiên cứu Rừng
khô, suối cạn, biển độc và văn chương phê bình sinh thái, Nguyễn Thị Tịnh
Thy đã dẫn lời giải thích của giáo sư Cheryll Glotfelty về tên gọi này như sau:
“phần lớn các học giả thích dùng thuật ngữ phê bình sinh thái (ecocriticism)
“vì nó ngắn gọn và có thể dễ dàng tạo thành dạng thức khác là ecocritical
(tính chất phê bình sinh thái) và ecocritic (nhà phê bình sinh thái). Hơn nữa,
họ thích tiền tố “eco-” (sinh thái) hơn tiền tố “enviro-” (môi trường) bởi vì...
theo nghĩa rộng, tiền tố “enviro-” (môi trường) mang quan điểm con người
là trung tâm và có tính nhị nguyên, ngụ ý rằng, con người chúng ta là trung
tâm, tất cả xung quanh chúng ta là môi trường. Ngược lại, tiền tố “eco-”
(sinh thái) ám chỉ vạn vật cộng đồng phụ thuộc lẫn nhau, tạo thành một hệ
thống và những yếu tố trong hệ thống đó luôn có sự hòa hợp, gắn bó chặt
chẽ với nhau”[32, tr139]
12
Các học giả phương Tây đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về phê
bình sinh thái, chẳng hạn, định nghĩa của Joseph Meeker, William Rueckert,
Cheryll Glotfelty, James S. Hans, Scott Slovic, Cheryll Glotfety, William
Howarth, Lawrence Buell... Trong đó, định nghĩa của Cheryll Glotfety là
định nghĩa được ghi nhận rộng rãi. Cheryll Glotfety cho rằng: “Nói đơn giản,
phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự
nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ
góc độ giới tính, phê bình Marxist mang lại ý thức của phương thức sản xuất
và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương
pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu
văn học”[2,tr89]
Học giả Trung Quốc là Vương Nặc định nghĩa: “Phê bình sinh thái là
phê bình văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định
hướng tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh
thái. Nó phải phơi bày nguồn gốc văn hóa tư tưởng của nguy cơ sinh thái
được phản ánh trong tác phẩm văn học, đồng thời khám phá thẩm mĩ sinh
thái và biểu hiện của nghệ thuật của nó trong tác phẩm”[32,tr153]
Nguyễn Thị Tịnh Thy đề xuất định nghĩa như sau: “Phê bình sinh thái là
phê bình văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định
hướng tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh
thái thông qua việc khám phá thẩm mĩ sinh thái và biểu hiện nghệ thuật của
nó trong tác phẩm” [32,tr157]
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân, hiện nay đang có hai cách hiểu
khác nhau về phê bình sinh thái. Theo cách hiểu thứ nhất, phê bình sinh thái
“ám chỉ mọi nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học với môi trường vật lý”.
Cách hiểu thứ hai, “mang tính đặc thù của thời đại toàn cầu hóa: nghiên cứu
số phận của môi trường sinh thái dưới tác động của con người từ góc nhìn
của văn học”[4,tr90]. Nhà nghiên cứu cũng khẳng định, “Phê bình sinh thái
trước hết là một phong trào hiện đại nằm trong phong trào văn hóa - xã hội
bảo vệ môi trường”. [4,tr93]
13
Tựu trung lại, có rất nhiều định nghĩa về phê bình sinh thái, tuy nhiên
phần lớn các học giả trên thế giới và Việt Nam đều thừa nhận và sử dụng
khái niệm của Cherlly Glottfelty - nhà phê bình sinh thái Mĩ, đồng thời là
học giả đầu tiên nhận được danh hiệu “Giáo sư văn học và môi trường”.
Bởi định nghĩa của bà thể hiện rõ mối quan hệ bình đẳng giữa con người
với tự nhiên. Khi con người hòa nhập vào mối quan hệ ấy đòi hỏi con
người đánh giá lại thái độ, điều chỉnh xem xét lại thái độ văn hóa, văn minh
với tự nhiên. Bởi vậy khi nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với sinh
thái thì con người- bản thân nó là phép tắc của tự nhiên. Khi con người
sống hài hòa, thân mật, hòa hợp với tự nhiên thì sự sống sẽ luôn phát triển.
Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với định nghĩa của tác giả Cherlly Glottfelty
và coi đây là định nghĩa quan trọng xuyên suốt quá trình nghiên cứu để
triển khai các nội dung trong đề tài.
Theo các nhà nghiên cứu, phê bình sinh thái có 6 đặc trưng cơ bản, đó là:
Chú ý đến đạo đức sinh thái; Đọc lại văn học kinh điển truyền thống từ góc
nhìn sinh thái; Giữ vững lập trường chủ nghĩa sinh thái trung tâm; Có tính
liên ngành; Thể hiện tinh thần văn hóa sinh thái thông qua “tính văn học”;
Hàm nghĩa của thuật ngữ rất phức tạp.
Phê bình sinh thái có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển văn hóa,
Karen Thornber khẳng định: “Đây là một lý thuyết liên ngành, kết hợp giữa
văn học và khoa học, giữa phân tích văn chương và rút ra những cảnh báo về
môi trường. Nó có thể không đưa ra được những giải pháp trực tiếp cho
những vấn đề môi trường nghiêm trọng hiện nay nhưng bằng cách phân tích
các diễn ngôn về thiên nhiên và môi trường, nó có thể tác động đến tâm thức
con người, điều chỉnh nhận thức, khắc phục những ngộ nhận về môi trường,
để từ đó, có những hành động đúng đắn hơn, hướng đến sự phát triển bền
vững và xa hơn, đồng thời quan trọng hơn cả, là hình thành một chủ nghĩa
nhân văn mới, ở đó, con người biết nghe tiếng nói của thiên nhiên để đối
thoại với nó.” [16, tr72]
14
Trên đây là những điểm khái quát nhất về khái niệm phê bình sinh thái.
Khái niệm này sẽ là tiền đề lí luận quan trọng đầu tiên giúp chúng tôi triển
khai luận văn này.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của phê bình sinh thái
Khí hậu trái đất nóng lên, sự thay đổi lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ thổ
nhưỡng, chuyển động tuần hoàn khí quyển, hạn hán, hoang mạc hóa, mưa lớn,
bão tuyết, sự tan chảy của các sông băng và băng ở Nam Bắc cực, sự hỗn loạn
của hệ thống các dòng chảy đại dương, mực nước biển dâng cao, sự rối loạn
mô thức sinh trưởng và sinh sản loài cũng như tuyệt chủng loài… những hiện
tượng bất thường này (hay nói cách khác là nguy cơ sinh thái) chính là
nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của phê bình sinh thái. Đỗ Văn Hiểu trong bài
viết Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách
tân khẳng định: “... một phần rất lớn là Phê bình sinh thái ra đời không phải
từ khát vọng sáng lập lí thuyết mới của các nhà phê bình, cũng không phải
xuất phát từ nội bộ nghiên cứu văn học, mà là từ sự thúc đẩy của nguy cơ
sinh thái”. [13, tr3]
Nguyễn Thùy Trang trong bài viết “Sự lật đổ quan niệm “nhân loại
trung tâm” trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại” đã giới thiệu một cách
ngắn gọn nhất bối cảnh dẫn đến sự ra đời của phê bình sinh thái như sau:
“Vào năm 1969, lần đầu tiên nhân loại được chiêm ngưỡng những hình ảnh
của Trái đất nhìn từ Mặt trăng. Sự kiện này khiến con người thực sự xúc động,
vì nó giúp chúng ta nhận thức được sự nhỏ bé và mong manh của Trái đất
giữa thiên hà. Rồi sau đó, hàng loạt những chấn động xảy ra, sóng thần, động
đất, sự cố hạt nhân Chernobyl… toàn nhân loại lâm vào “tai nạn sinh thái”,
đứng trước tình trạng báo động của ô nhiễm khí hậu, thủng tầng ozon, cạn
kiệt tài nguyên. Lúc này con người bắt đầu ý thức sâu hơn về trách nhiệm của
chính mình để bảo vệ hành tinh Xanh. Đây cũng là thời điểm manh nha lí
thuyết phê bình sinh thái.” [33, tr73]
Xét về ngọn nguồn, nguy cơ sinh thái chỉ là cái được biểu hiện ra bên
ngoài mà tất cả nhân loại đều đã và đang được chứng kiến, còn nguyên nhân
15
sâu xa dẫn đến phê bình sinh thái phải ra đời có lẽ chính là xuất phát từ chủ
nghĩa nhân loại trung tâm luận. Các nhà nghiên cứu lớn đều khẳng định, phê
bình sinh thái ra đời chính là để “xét lại quan điểm con người là trung tâm từ
thời Khai sáng.” [27, tr3] hay “phản ứng lại với truyền thống coi con người là
trung tâm, xem nhẹ, phủ nhận thiên nhiên” [9, tr2].
Như chúng ta đều biết, trên tổng thể, tư tưởng văn hóa chủ lưu của
phương Tây là “chủ nghĩa nhân loại trung tâm và tư tưởng chinh phục, khống
chế, cải tạo tự nhiên”. Tư tưởng này được thể hiện từ thời cổ đại cho đến thời
kì Phục Hưng và Khai Sáng. Theo Trần Nho Thìn: “Khái niệm anthropocentrism -
nhân loại trung tâm luận - chỉ một quan điểm cho rằng loài người (anthropos
trong tiếng Hy Lạp) chiếm vị trí trung tâm, có tầm quan trọng bậc nhất mà tất
cả mọi vật xung quanh đều châu tuần về nó”. Mục từ anthropocentrism được
giải thích: “Khái niệm diễn đạt quan niệm, công khai hay ngầm ẩn, đặt con
người vào vị trí trung tâm của thế giới và nhìn nhận tất cả mọi vật khác trong
thế giới này như là vật phụ thuộc hay phục vụ cho con người”[31,tr152]
Quan niệm nhân loại trung tâm luận đã ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các
lĩnh vực đời sống. Trong văn học: “Con người theo nhân loại trung tâm luận
với sự thống trị của nó đã áp đặt cho các cảnh trí thiên nhiên các phẩm chất,
hành vi, cảm xúc của mình. Thực tế văn học dẫn đến sự ra đời phương pháp
phân tích thơ châu Âu theo đó đối chiếu sự song hành con người và thiên
nhiên. Nếu ở phương Đông, con người hài hòa, tan biến vào thế giới thiên
nhiên xung quanh, thì trong thơ châu Âu, con người luôn là chủ thể mà thiên
nhiên là vật so sánh” [31,tr 155]
Một vài điều khái quát như vậy về chủ nghĩa nhân loại trung tâm luận
giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về bối cảnh ra đời của phê bình sinh thái: phê bình
sinh thái ra đời ở phương Tây, gắn với truyền thống văn hóa phương Tây,
việc vận dụng nó vào nghiên cứu văn học phương Đông, trong đó có văn học
Việt Nam là một việc không dễ dàng và cần thận trọng.
16
Tuy nhiên, chúng tôi cũng quan tâm đến nhận định sau đây của nhà
nghiên cứu Karen Thornber trong bài viết “ Những tương lai của phê bình
sinh thái và văn học”: “Những hình dung phổ biến ở trong và ngoài Đông Á
thường cho rằng tình trạng môi trường bị xuống cấp ở khu vực này bắt đầu
xảy ra từ cuối thế kỷ XIX, khi người dân Đông Á, dưới áp lực của các quốc
gia Tây phương, đã tiếp thu, đồng hóa kỹ thuật và các ngành công nghiệp của
họ. Song thực chất, các xã hội Đông Á đã kế thừa cả hàng ngàn năm môi
trường bị thoái hóa nghiêm trọng. Rhoades Murphey đã đi rất xa khi tranh
luận:“Tất cả những nền văn hóa châu Á thuộc khu vực ở phía đông
Afghanistan và phía nam khu vực thuộc Liên Xô cũ từ lâu đã được biết đến
như là những nền văn hóa tôn sùng thiên nhiên… Điều này được xem như đối
lập với quan điểm của phương Tây. Thế nhưng những tư liệu ở châu Á lại cho
thấy rõ rằng bất chấp những giá trị mà giới tinh hoa trí thức ở đây tuyên
xưng, người dân đã làm biến đổi hoặc phá hủy môi trường châu Á sớm hơn
và ở mức độ lớn hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới, thậm chí so với cả
phương Tây thế kỷ XX.” [16, tr320,321]
Khi nghiên cứu HĐQÂTT, một tập thơ ra đời trong bối cảnh“nền thơ
chịu sự chi phối của ecocentrism - thiên nhiên trung tâm luận”[31,tr157],
chúng tôi không thể không lưu tâm đến những lưu ý trên đây.
Về quá trình phát triển, phê bình sinh thái manh nha ra đời vào thập
kỷ 70 của thế kỉ XX và trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn hình thành (từ 1972
đến 1990), Giai đoạn phát triển (từ 1991 đến 2007), Giai đoạn chuyển
hướng (từ 2008 - nay). Tiến trình này đã được tổng thuật trong nhiều công
trình nghiên cứu của các học giả trên thế giới và Việt Nam. Vì vậy, chúng
tôi sẽ không tổng thuật lại tiến trình này mà chỉ khái quát bằng bảng sau để
có cái nhìn hệ thống về phê bình sinh thái.
17
Giai đoạn Học giả tiêu biểu Thành tựu chủ yếu
Francis W.Halsey, Joseph - Sự quan tâm của giới học
W.Meeker, Raymond thuật đến vấn đề văn học và
Williams, William môi trường ngày càng gia tăng. Từ 1972 đến
Rueckert, John Elder, - Thuật ngữ phê bình sinh thái 1990
Frederick O.Waage, Cheryll chính thức được đề xuất (1978) (Giai đoạn
Glotfelty, Glen A.Love, Đây được xem là giai đoạn hình thành)
Peter A. Fritzell, Robert hình thành, là thời kỳ tiền sử
Finch, John Elder của phê bình sinh thái.
Harold Fromm, Jonathan - Các hội thảo về phê bình
Bate, Max Oelschlaeger, sinh thái được tổ chức và
Glen A. Love, Robert đón nhận rộng rãi.
Pogue, Kent C.Ryden, - Tạp chí chuyên ngành ra
Karl Kroeber, Derek Wall, đời, nhiều công trình giá trị
Melissa Waker, Terry được công bố.
Gifford, Cheryll Glotfelty, - Hội nghiên cứu văn học và
Jonh Elder, R. Kerridge, môi trường ra đời
Từ 1991 đến N. Sammells, Patrick D. - Phê bình sinh thái đã lan
2007 Murphy, Lorraine rộng ra các quốc gia ngoài
Anderson, Scott Slovic, khu vực Âu Mĩ. (Giai đoạn
Jonh P. O’Grady, Peter phát triển)
Quigley, Lawrence Buell,
William Slaymaker,
Patrick D. Murphy, David
Mazel, Rosendale Steven,
Richard L. Knight,
Thomas S. Edwards, Gred
Garrard, Michael P.
Branch, Jeffrey Myers...
18
Scott Slovic, Lindsey Claire - Đây là thời kỳ chuyển
Smith, Michael Bennet, David hướng của phê bình sinh thái
W.Teague, Kimberly về mọi mặt từ lí luận phê
N.Ruffin, Patrick D. Murphy, bình, phương pháp phê bình, Từ 2008 đến
Elizabeth Deloughrey, George đối tượng phê bình (bao nay
B. Handley, Karen Thronber, gồm cả thể loại và khu vực (Giai đoạn
Greg Garrard, Jeffrey Bilbro, phê bình) chuyển
Svend Erik Larsen, Annelise hướng)
Ballegaard Petersen,
Minikami Tsutom, Vương
Nặc, Trần Tiểu Hồng...
Theo Karen Thornber trong Những tương lai của phê bình sinh thái và văn
học, phê bình sinh thái đã trải qua hai giai đoạn quan trọng: “Giai đoạn thứ nhất
chủ yếu dựa vào lý thuyết sinh thái học chiều sâu (deep ecology)... coi trọng vấn
đề bảo tồn đa dạng sinh học và sự bình yên của môi trường sống ở các địa
phương. Đến giai đoạn sau, nhất là từ thế kỷ XXI đến nay, phê bình sinh thái
gắn với nhân học và văn hóa học, đặt bình diện xã hội làm trung tâm, đặc biệt
quan tâm đến vấn đề đô thị hóa và công lý môi trường” [16,tr39]
Như vậy phê bình sinh thái ra đời đầu tiên ở phương Tây, nó như một
phản ứng tích cực trước tình trạng môi trường đang ngày một xấu đi. Phê bình
sinh thái khai thác lợi thế của việc thông qua phê bình văn học nghệ thuật tìm
ra căn nguyên sâu xa của nguy cơ sinh thái ẩn tàng trong mô thức văn hóa
nhân loại, từ đó tiến tới điều chỉnh quan niệm giữa con người và tự nhiên, xây
dựng một phương thức sống đề cao chỉnh thể sinh thái.
So với thế giới, phê bình sinh thái xuất hiện ở Việt Nam khá muộn. Dù vậy
cho đến nay cũng đã đạt được những thành tựu bước đầu với sự xuất hiện của
một số chuyên khảo như: Rừng khô, suối cạn, biển độc và văn chương phê bình
sinh thái (Nguyễn Thị Tịnh Thy); Phê bình sinh thái là gì? (Hoàng Tố Mai chủ
biên); Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam bộ (Bùi Thanh Truyền chủ biên);
19
Một số hội thảo: (Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu; Phê
bình sinh thái trong Văn học Đông Nam Á: Lịch sử, Huyền thoại và Xã hội; Phê
bình sinh thái: Lí thuyết và ứng dụng); Một số bài dịch (của Đỗ Văn Hiểu, Đặng
Thị Thái Hà, Trần Ngọc Hiếu, Hải Ngọc...) và không ít các bài báo chuyên
ngành. Hiện tại, phê bình sinh thái đã thu hút được sự quan tâm của nhiều học
giả và đang phát triển ngày càng rộng rãi ở nước ta.
1.2. Thẩm mĩ sinh thái, thẩm mĩ phi sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái
1.2.1. Thẩm mĩ sinh thái và thẩm mĩ phi sinh thái
Giới nghiên cứu Việt Nam thường nhắc đến khái niệm thẩm mĩ sinh
thái, tuy nhiên, vẫn chưa có một khái niệm nào hoàn toàn đáp ứng yêu cầu
nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu Âu Mĩ thường sử dụng thuật ngữ
“aesthetics”, trong khi đó, các học giả Việt Nam và Trung Quốc đồng thời
sử dụng hai thuật ngữ “thẩm mĩ sinh thái” và “mĩ học sinh thái”. Về thẩm
mĩ sinh thái, học giả Cheng XiangZhan trong bài viết Luận về bốn điểm cốt
lõi của thẩm mĩ sinh thái cho rằng: “Thẩm mĩ sinh thái được hiểu như một
khái niệm thẩm mĩ mới, nó ngược lại với thẩm mĩ phi sinh thái. Nó là
phương thức thẩm mĩ và quan niệm thẩm mĩ nhằm ứng phó với nguy cơ
sinh thái toàn cầu, lấy luân lí học sinh thái làm cơ sở tư tưởng, dựa vào tri
thức sinh thái khơi gợi tưởng tượng và kích thích cảm xúc, để khắc phục
thẩm mĩ thiên về con người. Cần đặc biệt nhấn mạnh là, giữa thẩm mĩ sinh
thái và thẩm mĩ phi sinh thái tồn tại khác biệt cơ bản - ở một mức độ nào
đó có thể nói, quá trình xây dựng lí thuyết về thẩm mĩ sinh thái cũng chính
là quá trình phân tích sự khác biệt giữa thẩm mĩ sinh thái với thẩm mĩ
truyền thống”(thẩm mĩ coi con người là trung tâm)[1, tr120].
Trong bài viết này, Cheng XiangZhan cũng đã chỉ ra và phân tích bốn
điểm chính của thẩm mĩ sinh thái. Đó là:
1. Từ bỏ hoàn toàn mô hình thẩm mĩ chủ - khách nhị phân truyền thống,
đối lập con người và thế giới, thay vào đó là mô hình “thẩm mĩ giao dung”
đem con người và thế giới dung hợp làm một.
20
2. Thẩm mĩ sinh thái là hoạt động thẩm mĩ lấy luân lí học sinh thái làm
cơ sở, là sự cải tạo sinh thái và tăng cường mối quan hệ giữa luân lí và thẩm
mĩ trong lí luận mĩ học truyền thống, ý thức sinh thái là điều kiện tiền đề tất
yếu của thẩm mĩ sinh thái.
3. Thẩm mĩ sinh thái nhất định phải dựa vào tri thức khoa học tự nhiên,
đặc biệt là tri thức sinh thái học gợi ra sự hiếu kì và liên tưởng, tiến tới kích
thích tưởng tượng và tình cảm; không có những tri thức sinh thái cơ bản thì
không thể nào tiến tới thẩm mĩ sinh thái.
4. Tiêu chuẩn giá trị sinh thái chỉ đạo thẩm mĩ sinh thái là tính đa dạng
sinh học và cân bằng sinh học, tất yếu phải vượt qua tiêu chuẩn đánh giá giá
trị của chủ nghĩa nhân loại trung tâm và “thẩm mĩ thiên về con người”, phản
tư và phê bình thiên tính cũng như tập tính thẩm mĩ của chủ nghĩa nhân loại
trung tâm.
Đúc kết thành tựu nghiên cứu của giới nghiên cứu phê bình sinh thái
Trung Quốc, học giả Việt Nam là Đỗ Văn Hiểu đã tổng kết và chỉ ra ba đặc
trưng cơ bản của thẩm mĩ sinh thái. Đó là: thẩm mỹ sinh thái là thẩm mỹ
mang tính tự nhiên; thẩm mỹ sinh thái đề cao nguyên tắc dung nhập; thẩm mỹ
sinh thái đề cao tính chỉnh thể.
Trong bài viết Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn học
mang tính cách tân, Đỗ Văn Hiểu khẳng định: “Thẩm mỹ sinh thái là thẩm mỹ
mang tính tự nhiên, không phải là thông qua đối tượng cụ thể để thể hiện tư
tưởng tình cảm, nhân cách của chủ thể thẩm mỹ. Trong thẩm mỹ sinh thái
không tồn tại quan hệ chủ thể - khách thể, con người cảm nhận tự nhiên, thiết
lập quan hệ chủ thể tương giao với đối tượng thẩm mỹ”. [13, tr5] Như vậy
thẩm mĩ sinh thái từ bỏ quan niệm về mối quan hệ nhị phân chủ thể - khách
thể (con người - tự nhiên). Thay vào đó là mối quan hệ con người và tự nhiên
tương giao tương dung.
Đặc trưng thứ hai của thẩm mĩ sinh thái là tính chỉnh thể. Về đặc trưng
này, trong bài viết Phê bình sinh thái - khuynh hướng văn học mang tính cách
21
tân, Đỗ Văn Hiểu viết: “... thẩm mỹ sinh thái đề cao tính chỉnh thể, không chỉ
quan tâm đến đối tượng thẩm mỹ đơn nhất, mà còn đặt nó vào trong hệ thống
tự nhiên, từ đó khảo sát ảnh hưởng của nó đối với chỉnh thể sinh thái. Tiêu
chuẩn đánh giá cái đẹp của thẩm mỹ sinh thái cũng khác so với truyền thống.
Đối với thẩm mỹ sinh thái, cái gì có lợi cho sự ổn định, hài hòa của hệ thống
sinh thái mới là Đẹp; phá hoại chỉnh thể, phá hoại sự ổn định sinh thái sẽ bị
coi là Xấu.” [13,tr4]
Cuối cùng là nguyên tắc dung nhập: Là sự giao hòa giữa con người và
thiên nhiên. Con người quên đi bản ngã để đắm mình vào thiên nhiên, coi
mình với thiên nhiên là một: “Thẩm mỹ sinh thái yêu cầu tinh thần và thể xác
thấu nhập vào tự nhiên, có lúc, thậm chí còn phải quên đi bản ngã, hòa với tự
nhiên làm một. Muốn thực sự dung nhập vào tự nhiên, đặc biệt là muốn trong
sự dung nhập đó cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của tự nhiên thì trước hết phải
quên đi bản ngã của mình. Quên đi bản ngã để cảm nhận tự nhiên chính là
một phương thức của thẩm mỹ sinh thái.” [13, tr6]
Có thể thấy, thẩm mĩ sinh thái giúp con người nhận ra sai lầm trong quan
điểm nhân loại trung tâm - quan niệm coi con người là thước đo của vạn vật,
con người có quyền ngự trị giới tự nhiên, tuyệt đối hóa vai trò của con người
trong vũ trụ. Điều này hoàn toàn không có nghĩa là hạ thấp con người để độc
tôn tự nhiên mà nó chỉ ra những hành động xâm hại của con người vào tự nhiên
từ đó cảnh tỉnh để con người có ý thức, trách nhiệm cải thiện mối quan hệ hài
hòa, cộng sinh, cộng hưởng với tự nhiên. Điều này góp phần giúp con người có
cái nhìn bình đẳng, tôn trọng vạn vật.
Ngược lại với thẩm mĩ sinh thái là thẩm mĩ phi sinh thái. Thẩm mĩ phi
sinh thái chính là thẩm mĩ đặt thiên nhiên trong mối quan hệ nhị phân với con
người, là quan niệm thẩm mĩ lấy nhân loại làm trung tâm, cho phép nhân loại
có mọi quyền lực đối với tự nhiên, có quyền coi thiên nhiên là “công cụ biểu
hiện, ám thị, tượng trưng”, coi thiên nhiên là khách thể.
22
Theo nhà nghiên cứu Trần Hải Yến: “Thẩm mỹ sinh thái và thẩm mỹ phi
sinh thái được phân định ranh giới bởi nguyên tắc mỹ học. Trong truyền
thống, trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa nhân loại trung tâm, đối tượng thẩm
mỹ tự nhiên chỉ được coi là phông nền, phương tiện, biện pháp, kí hiệu, vật
đối ứng, công cụ biểu hiện, ám thị, tượng trưng… cho thế giới nội tâm, đặc
trưng cho nhân cách của con người. Phê bình sinh thái chủ trương không
dùng con mắt công cụ, công lợi để đối đãi đối tượng thẩm mỹ tự nhiên”[36]
Nói tóm lại, quan niệm thẩm mĩ “nhân loại trung tâm”, coi thiên nhiên
là công cụ của con người chính là quan niệm thẩm mĩ phi sinh thái.
1.2.2. Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái
Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái (Eco-holism) chính là tư tưởng cốt lõi, là
lập trường căn bản của phê bình sinh thái. Nó là một quan điểm mới của các
nhà phê bình sinh thái, đối thoại với chủ nghĩa nhân loại trung tâm coi con
người là linh hồn của vạn vật, thống trị vạn vật vốn rất thịnh hành trước đây.
Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái coi hệ sinh thái là một chỉnh thể, chủ trương
bảo vệ lợi ích của chỉnh thể hệ sinh thái, lấy việc có lợi hay không đối với sự
hài hòa, cân bằng, ổn định của chỉnh thể hệ sinh thái để đánh giá liệu hành vi
của cá nhân con người, xã hội, tập thể có phù hợp với tiêu chuẩn của chủ
nghĩa sinh thái hay không.
Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái trước hết phản đối chủ nghĩa nhân loại
trung tâm. Từ chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái nhìn nhận, con người và tất cả
các loài động vật, thực vật, núi non, sông ngòi, ao hồ, biển cả trong tự nhiên
đều chỉ là một bộ phận của chỉnh thể hệ sinh thái; tất cả vạn vật đều bình
đẳng, lợi ích của chỉnh thể sinh thái cao hơn lợi ích của mỗi cá thể.
Đặc biệt, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái không tán đồng chủ nghĩa sinh
thái trung tâm, bởi vì theo tiêu chí của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, chủ
nghĩa sinh thái trung tâm vẫn cứ giả định một cái là trung tâm. Nhưng bản
chất của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái chính là chủ trương vạn vật bình đẳng
trong hệ sinh thái và không tồn tại nhân tố trung tâm.
23
Theo tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy, tư tưởng chủ nghĩa chỉnh thể sinh
thái có ba nội dung chính: Mối liên hệ chặt chẽ giữa các thành viên trong hệ
thống sinh thái; tất cả đều có tác dụng của mình trong hệ thống sinh thái;
không có “bữa trưa miễn phí” trong hệ thống sinh thái.
Bà cũng cho rằng: “Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái nỗ lực đi tìm mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên cho đến việc nhân loại nên xem xét lại
giá trị và định hướng hành vi của mình như thế nào. Tiếp nhận gợi ý của
sinh thái học hiện đại, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái yêu cầu quan tâm đến
toàn bộ hệ thống sinh thái từ phương diện đạo đức, tạo nên một thế giới
quan sinh thái, phương pháp luận sinh thái và giá trị quan sinh thái hoàn
toàn mới mẻ.” [32, tr38]
Đứng từ quan điểm của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái nghiên cứu, chúng
ta sẽ thấy được sự đa dạng sinh học được tái hiện trong HĐQÂTT. Chúng ta
cũng phần nào thấy được mối quan hệ bình đẳng giữa các loài động vật, thực
vật, con người trong hệ sinh thái.
1.3. Quan hệ thiên nhiên - con người theo quan điểm Phật giáo, Nho giáo
và Đạo giáo
Kể từ khi được khai sinh trong vũ trụ, loài người đã luôn được đặt trong
mối quan hệ với tự nhiên. Vì vậy, bàn về mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên là một trong những nội dung quan trọng của tất cả các tôn giáo trên thế
giới. Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng của nhiều trường phái tư
tưởng tôn giáo khác nhau, trong đó Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo là ba tư
tưởng ảnh hưởng đậm nét nhất trong thời trung đại.
1.3.1. Phật giáo
Phật giáo là học thuyết bàn về nỗi khổ và sự giải thoát. Trên bề mặt, Phật
giáo không trực tiếp bàn về quan hệ giữa con người và tự nhiên hay đưa ra
những giáo huấn về cách ứng xử giữa con người và tự nhiên. Tuy nhiên, theo các
nhà nghiên cứu, trong kinh Tạp A Hàm, Vô lượng thọ, Pháp hoa, Duy Ma Cật sở
thuyết, Tạp A Hàm hay Đại trí độ có thể hiện “quan niệm “thương sinh”, “bác
ái” của Phật giáo đối với thế giới động thực vật.” Có thể truy nguyên các quan
24
niệm này “trong thuyết “Duyên khởi” (Duyên khởi luận) - có vai trò như một
nền tảng triết học cho hệ tư tưởng này - với ý niệm căn bản coi các hiện tượng
trong vũ trụ này là tương tác và tương hỗ, trong quan niệm nhân quả, mà ta có
thể coi là một dạng tuần hoàn sinh thái, hay trong quan niệm bình đẳng phổ
biến - có thể coi là cơ sở triết lý cho khái niệm “cân bằng sinh thái” hiện đại.
Thêm nữa, kinh điển Phật giáo cũng còn khẳng định một quan niệm về đạo đức
hành xử của từng cá thể với thế giới bên ngoài, bao gồm cả giới tự nhiên, là
“phá chấp ngã, đoạn tham dục”[36]. Khi bàn về mối quan hệ giữa con người và
tự nhiên, quan điểm của Phật giáo là thiên nhiên và con người bình đẳng.
Từ góc nhìn của sinh thái học giải thích tư tưởng Duyên khởi luận, chúng ta
có thể thấy, theo quan điểm của Phật giáo: con người không thể tồn tại độc lập
mà là tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với tự nhiên. Làm tổn hại tự nhiên là tổn
hại nhân loại; phá hoại tự nhiên là phá hoại bản thân và đồng loại.
Phật giáo còn tuyên dương Nhân - quả luận. Nhân là nguyên nhân, Quả
là kết quả, quả báo. Tư tưởng Nhân - quả của Phật giáo yêu cầu chúng sinh
làm việc thiện, yêu cầu con người giữ sự cân bằng với việc khai thác tự nhiên,
báo đáp tự nhiên, điều tiết ngược lại phù hợp với hệ sinh thái. Phật giáo
khuyên con người không nên tạo nghiệp ác, xét từ vấn đề sinh thái điều này
có ý nghĩa cảnh báo nhân loại.
Quan điểm bình đẳng cũng là một trong những đặc điểm quan trọng của
Phật giáo. Phật giáo quan niệm: “Chúng sinh tuy không giống nhau nhưng đều
có Phật tính”. Quan điểm “bình đẳng” này của Phật giáo có thể là cội nguồn
của nguyên tắc cân bằng giữa vạn vật trong hệ sinh thái.
Trần Văn Cường khi nghiên cứu về Phật giáo đã khẳng định, trong Phật
giáo, con người là một phần của thiên nhiên, con người sinh ra từ chính các yếu
tố của tự nhiên: “Con người là hợp thể của Lục giới (Lục đại). Lục giới
(saddhatvah) là sáu yếu tố hình thành con người gồm: đất, nước, gió, lửa,
không, thức” [3, tr 37]
Bên cạnh quan điểm bình đẳng, thương sinh, bác ái, Phật giáo thể hiện
rất rõ sự thấu nhập của con người vào thế giới tự nhiên.
25
1.3.2. Nho giáo
Khác với Phật giáo, Nho giáo là một học thuyết đạo đức, hướng đến lí
tưởng “tu kỷ, trị nhân”. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Nho giáo hoàn
toàn phủ nhận thiên nhiên. Ngược lại, trong kinh điển Nho gia cũng như suốt
tiến trình phát triển, Nho gia luôn hướng đến lí tưởng “thiên nhân tương dữ,
giao hòa”. Trong bài viết Mấy phương diện thẩm mĩ của Nho gia và Thiền gia
(Qua khảo sát một số trường hợp viết về thiên nhiên), nhà nghiên cứu Nguyễn
Kim Sơn nhận xét: Nếu như trong cuộc sống của các nhà Nho luôn tự buộc
mình không ngừng phải vươn lên, vượt qua sự chi phối của hoàn cảnh để tu
luyện nhân cách bản thân, thì thiên nhiên của họ cũng là một thiên nhiên luôn
phải khắc phục, chống đỡ khó khăn do môi trường xung quanh đem lại để
vươn lên. Từ quan điểm trên của Nho giáo, dễ hiểu vì sao trong thơ họ hình
tượng tùng, cúc, trúc, mai lại xuất hiện nhiều đến vậy” [25, tr5]
Tuy nhiên, liệu Nho giáo có đặt thiên nhiên và con người ngang hàng
nhau? Đây là một câu hỏi còn cần nhiều thời gian đào sâu tìm tòi. Nhưng rõ
ràng, trong quan niệm của Nho giáo, không phải tất cả con người đều giống
nhau. Nho giáo khẳng định, chỉ những cá nhân ưu tú, những “thánh nhân”
mới có khả năng hòa “khí” của mình vào “khí” của vũ trụ: “mọi sinh thể trong
vũ trụ đều là những thành phần của khí, gắn kết với nhau một cách hữu cơ, và
khác biệt nhau ở mức độ tính linh là do khác biệt về mức độ tiếp nhận khí.
Trong quan hệ sinh loài, con người không phải là kẻ cai quản việc sáng tạo
ra sinh loài hay vũ trụ, nhưng nếu muốn thành người canh giữ vũ trụ thì họ
phải có được sự khác biệt nổi trội thông qua tu dưỡng (5 đức hạnh mà con
người vươn tới, nhân-nghĩa-lễ-trí-tín, chính là ngũ hành của tự nhiên mà chỉ
con người, và chỉ những người đặc biệt, mới có khả năng tiếp nhận)”[35].
Bên cạnh đó, kinh điển Nho giáo rất coi trọng bộ ba khái niệm Thiên -
Địa - Nhân. Tư tưởng Trời - Người hài hòa trong Nho giáo truyền thống, một
mặt nhấn mạnh đến sự thống nhất và tương tác giữa Trời và Đất, mặt khác
nhấn mạnh đến tính đặc thù của con người, xác lập quan hệ giữa con người
26
với tự nhiên. Nho giáo khẳng định sức sáng tạo của đạo trời đầy rẫy trong vũ
trụ, và con người “cố gắng theo đức của Trời, Đất, phấn đấu theo sự sáng suốt
của nhật nguyệt, tuân theo trật tự của bốn mùa” (Dữ thiên địa hợp kì nhất, dữ
nhật nguyệt hợp kì minh, dữ tứ thời hợp kì tự).
Với mẫu nhà Nho hành đạo, thiên nhiên là nơi để bày tỏ quan điểm, nơi
nói chí cũng như cách hành xử trước cuộc đời, để truyền thụ giáo lí thánh hiền,
và để bộc lộ cái chí “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Những quan điểm ấy
phần nhiều chịu ảnh hưởng sâu sắc của nguyên tắc sáng tác “văn dĩ tải đạo”,
“thi dĩ ngôn chí”. Dựa trên những quan điểm và nguyên tắc này những sáng
tác về thiên nhiên phần lớn vì thế mà trở thành phương tiện để nói chí, để thể
hiện cốt cách của Nho gia.
Với mẫu nhà Nho ẩn dật, “thiên nhiên có tác dụng cân bằng lại thế giới
tinh thần”. Nhà Nho ẩn dật “đề cao vai trò của thiên nhiên hơn, mối quan hệ
giao hòa giữa thiên nhiên và con người cũng chặt chẽ hơn nhiều”[23, tr33].
Còn nhà Nho tài tử lại luôn hướng đến tư tưởng tự do, phóng khoáng.
Thiên nhiên trong thơ của các nhà Nho tài tử thường in dấu rất rõ cái tôi
cá nhân.
Dù mỗi loại hình nhà Nho có đặc trưng riêng, tuy nhiên, trong văn thơ
nhà Nho nói chung, thiên nhiên có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà nghiên cứu
Trần Nho Thìn trong Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu và
giảng dạy văn học đã dẫn lời của nhà nghiên cứu người Nga A. X. Martynov
như sau: “Sứ mạng đầu tiên của thiên nhiên mà nhân cách nhà Nho gặp gỡ là
sứ mạng của vũ trụ hoạt động một cách có quy luật và sinh ra tất cả. Trong
sứ mệnh này, thiên nhiên thực hiện một chức năng hai mặt đối với nhân cách
nhà Nho: nó sinh ra nhân cách nhà Nho như một nhân cách, như một “thiên
tài” và nó đóng vai trò quy luật thể hiện trong quá trình biến nhân cách này
thành nhân cách nhà Nho, bởi vì toàn bộ truyền thống tinh thần Khổng giáo
đều hướng đến thiên nhiên như hướng đến một mẫu mực cơ bản và hoàn hảo
nhất.” [31,tr138]
27
1.3.3. Đạo giáo
So với Nho giáo, Đạo giáo được coi là hệ tư tưởng có nhiều tư tưởng tiến
bộ khi bàn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Đạo giáo chủ trương
“Thiên nhân hợp nhất”, lấy tự nhiên làm khuôn mẫu cho con người, chủ
trương “vô vi”. Nhà nghiên cứu Trần Hải Yến nhận định: “Với Nho giáo, con
người có một gián cách nhất định với trời-đất; con người tham gia và tạo nên
trạng thái “trung hòa” giữa mình và trời đất, tự nhiên. Còn ở Đạo giáo, sự
nhất thể thiên-địa-nhân là vốn có của tự nhiên, sự cân bằng (tức “trung
hòa”) cũng là một trật tự của tự nhiên, tuy nhiên con người có thể làm cho nó
tốt lên hoặc xấu đi, tùy vào hành vi thiện hay ác của mình. Đây cũng chính là
lý do để Lão Tử chủ trương tự nhiên là tối cao, nên “người bắt chước đất, đất
bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên”, và chủ trương
con người không được làm gì trái tự nhiên (phải “vô vi”). Thậm chí, Lão Tử
còn chủ trương một vị thế mà ngôn từ hiện đại gọi là “sự bình đẳng” giữa
các sinh loài trong thế giới tự nhiên” [36].
Điểm khởi đầu cơ bản của văn hóa Đạo giáo trong mối quan hệ giữa con
người và thiên nhiên là tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”. Xuất phát từ tư tưởng
cơ bản này, Đạo giáo đề xuất thiên, địa, nhân đồng nhất nguyên khí. Nguyên
khí gồm có: Thái Dương, Thái Âm và Trung Hòa. Thể hiện qua ba hình thể:
Thiên, Địa, Nhân. Những nguyên khí và hình thể này “tương ái tương thống”,
“hợp lực đồng tâm, cộng sinh vạn vật” và vận hành theo quy luật “nhất khí
bất thông, vạn vật rối loạn”. Tư tưởng như vậy khiến cho Đạo giáo thừa nhận
vạn vật vạn sự trong vũ trụ đều có tính hợp lí của bản thân nó và đều bình
đẳng với nhau.
Với quan điểm “nhậm tự nhiên… tồn vong nhậm thiên” nên Đạo giáo
chủ trương “vô vi” và coi con người là một bộ phận của tự nhiên, nhấn mạnh
“đạo pháp tự nhiên” “tự nhiên chi đạo bất khả vi”. Từ đó, Đạo giáo chủ tương
con người nên yêu thương và bảo vệ thiên nhiên, duy trì mối quan hệ tương
giao hài hòa với thiên nhiên, thuận theo quy luật khách quan của tự nhiên.
Tóm lại, điểm khác biệt của tam giáo trong quan niệm về mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên là cách đánh giá nhìn nhận về vị thế và vai trò
28
của con người trước tự nhiên. Còn đặc điểm chung của cả ba hệ tư tưởng là
đều nhấn mạnh vị trí đặc biệt quan trọng của tự nhiên. Cả Nho giáo, Đạo giáo
và Phật giáo đều khẳng định con người cần tạo mối quan hệ hài hòa với tự
nhiên vì sự tồn tại của chính bản thân mình. Đó là đạo đức sinh thái mà cả
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo đều hướng con người đến.
1.3.4. Khái quát về tập thơ HĐQÂTT :
Tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập ra đời dưới thời Hồng Đức vào nửa
cuối thế kỉ XV. Thời đại Hồng Đức là niên hiệu dưới triều Lê Thánh Tông.
Ông được đánh giá là vị vua anh minh lỗi lạc và cũng chính là vị vua đã đưa
triều đại phong kiến phát triển lên tới đỉnh cao cực thịnh. Dưới thời đại Hồng
Đức đất nước phát triển về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa , xã hội, giáo
dục. Đặc biệt dưới thời đại Hồng Đức văn hóa nghệ thuật được nhà vua
khuyến khích phát triển nhất là sáng tác thơ Nôm Đường luật, bằng chứng cụ
thể là sự ra đời của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập.
Tác giả của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập là những nhân sĩ trong Hội Tao
đàn. Hội Tao đàn được thành lập vào năm 1495, là tổ chức sáng tác thơ và bình thơ
do vua Lê Thánh Tông đứng đầu. Sự ra đời của Hội Tao đàn đánh dấu một bước tiến
của thơ ca cung đình được gọi là “Tao đàn nhị thập bát tú” tức 28 ngôi sao trên đàn
văn chương. Vua Lê Thánh Tông là vị vua không chỉ có tài trị quốc mà còn là vị vua
có tâm hồn thi sĩ. Người đã cổ súy việc bình thơ và sáng tác thơ, tạo điều kiện cho thơ
ca phát triển. Được sự khuyến khích của nhà vua các nhân sĩ thời Hồng Đức đều
hăng say sáng tác thơ, những bài mang tính chất vịnh được xác định là của các văn
thân song rất khó xác định một cách chính xác ai đã viết bài nào.
Như vậy, có thể xác định tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập là tập hợp những
sáng tác của vua Lê Thánh Tông và nhiều tác giả trong Hội Tao Đàn. Toàn bộ tập thơ
gồm 328 bài thơ, chia thành 5 phần: Thiên địa môn gồm 59 bài vịnh về thời tiết, trời
đất; Nhân đạo môn gồm 46 bài vịnh các nhân vật lịch sử, nói về đạo trung hiếu;
Phong cảnh môn gồm 66 bài vịnh cảnh trí thiên nhiên, di tích lịch sử; Phẩm vật môn
gồm 69 bài vịnh cảnh vật nói chung như loài cây, loài vật, vật dụng; Nhàn ngâm chư
phẩm gồm 88 bài với đề tài phong phú, từ vịnh thiên nhiên đến vịnh nhân vật lịch sử.
29
Tiểu kết
Phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu liên ngành có ý nghĩa khá quan
trọng trong bối cảnh khủng hoảng môi trường toàn cầu. Phê bình sinh thái đã phát
triển ngày càng mạnh mẽ và lan rộng trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Ở
chương này, luận văn đã làm rõ khái niệm phê bình sinh thái cũng như vài nét về
tiến trình phát triển của phê bình sinh thái. Nghiên cứu phê bình sinh thái có thể
xuất phát từ rất nhiều khía cạnh khác nhau nhưng trong khuôn khổ của luận văn,
chúng tôi quan tâm đến ba vấn đề: thẩm mĩ sinh thái, thẩm mĩ phi sinh thái và chủ
nghĩa chỉnh thể sinh thái.
Trong thời kỳ từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Việt Nam đã ảnh hưởng
sâu sắc bởi ba hệ tư tưởng chính là Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Mối
quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong văn hóa, văn học thời kỳ này
cũng chịu sự tác động rõ rệt của hệ thống tư tưởng đó. Trong ba hệ tư tưởng
này, Đạo giáo được coi là hệ tư tưởng tiến bộ nhất trong mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên: Đạo giáo thừa nhận vạn vật vạn sự trong vũ trụ đều có tính
hợp lí của bản thân nó và đều bình đẳng với nhau; Đạo giáo chủ trương “vô
vi” và coi con người là một bộ phận của tự nhiên; Đạo giáo chủ trương con
người nên yêu thương và bảo vệ thiên nhiên, duy trì mối quan hệ tương giao
hài hòa với thiên nhiên, thuận theo quy luật khách quan của tự nhiên. Ý thức
sinh thái tích cực của Phật giáo là quan điểm bình đẳng, thương sinh, bác ái,
thấu nhập. Ý thức sinh thái tích cực của Nho giáo là lí tưởng “thiên nhân
tương dữ, giao hòa”, là việc đề cao vị trí đặc biệt quan trọng của tự nhiên.
Nhưng cũng cần bổ sung rằng, cả Phật giáo và Nho giáo “đều lấy thiên nhiên
làm sự phản chiếu tưởng tượng, khát vọng và nhận thức của con người”. Và
như vậy, ít nhiều nó vẫn mang tính nhân loại, vì nhân loại.
HĐQÂTT là một tập thơ Nôm lớn của văn học Việt Nam trung đại ở thế
kỷ XV, trong một bối cảnh văn hóa, chính trị, giáo dục đặc biệt. Với hơn 1/3
số bài thơ viết về thiên nhiên, HĐQÂTT đối tượng nghiên cứu quan trọng của
luận văn này.
30
Chương 2
HỆ SINH THÁI TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
Theo thống kê, HĐQÂTT có 141 bài thơ đề vịnh thiên nhiên, trong đó
gồm 4 bài vịnh Tết Nguyên Đán, 10 bài vịnh Năm canh, 16 bài vịnh Bốn mùa,
12 bài vịnh Mười hai tháng, 37 bài vịnh Phong hoa tuyết nguyệt, 17 bài vịnh
Tiêu Tương Đào Nguyên bát cảnh, 13 bài vịnh Sơn thủy, 9 bài liên quan đền
chùa miếu mạo, 23 bài vịnh loài cây cảnh. Như vậy, số bài thơ vịnh về thiên
nhiên chiếm tới 43% tổng số bài trong toàn tập thơ. Từ góc nhìn phê bình sinh
thái, ở chương này, luận văn sẽ đi sâu phân tích hệ sinh thái trong tập thơ thể
hiện ở sự đa dạng loài thực vật, động vật và đặc điểm của nhịp thiên nhiên.
2.1. Hệ thực vật
Những bài thơ trong HĐQÂTT hầu hết đều là các bài thơ đề vịnh. Tuy vậy,
qua những bài thơ đề vịnh này, chúng ta được biết đến một hệ sinh thái với nhiều
loài thực vật quen thuộc trong môi trường tự nhiên của Việt Nam. Giống QÂTT
của Nguyễn Trãi, số lượng bài viết về tùng, cúc, trúc, mai trong HĐQÂTT khá
nhiều (tùng được nhắc 8 lần, cúc: 5 lần, trúc: 15 lần, mai: 21 lần). Ví dụ các bài:
Hoa cúc, Mai thụ, Lão mai, Tảo mai, Họa mai, Lại vịnh hoa mai vẽ, Thủy
trung mai, Trúc thụ, Tùng thụ, Quân tử trúc trong phần “Phẩm vật môn”.
Chẳng hạn bài Mai thụ:
“Trội cành nam chiếm một chồi
Tin xuân mãi mãi điểm cây mai
Tinh thần sáng, thuở trăng tĩnh
Cốt cách đông khi gió thôi
Tiết cứng trượng phu thông ấy bạn
Nết trong quân tử trúc là đôi
Nhà truyền thanh bạch giăng từng khối
Phỉ xưng danh thơm đệ nhất khôi”.
(Mai thụ)
31
Trong bài thơ này, thi sĩ vịnh về cây mai và nhắc đến tên của ba loại thực
vật thường xuất hiện trong văn chương nhà Nho, đó là mai, trúc, thông. Cây
mai gốc già cằn cỗi, cành lá khẳng khiu mà cốt cách thanh cao, tinh thần cứng
cỏi được xem là hoa của bậc tiết tháo.
Ở một bài thơ khác, các thi sĩ nói về cây mai như là biểu tượng của mùa
xuân đến sau những ngày đông lạnh giá:
“Xuân thêm cốt cách hương càng bội
Tuyết giúp tinh thần ngọc hãy còn
Kể mặt hay thông đều bạn tác,
Theo chân chiếm bảng những em con
Tiết là đá sắt thêm khoe muộn,
Sực nức danh thơm kiếp chẳng mòn”.
(Cây mai già)
Bên cạnh tả về cây mai, bài thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng: Cây mai
ở đây chính là biểu tượng người quân tử, thể hiện qua các từ ngữ như: cốt
cách, tinh thần, tiết, danh thơm…
Trong HĐQÂTT hình ảnh trúc được khắc họa một cách nổi bật về hình
thức đồng thời được các tác giả thể hiện như một sinh thể có linh hồn, cốt cách:
“Kì viên dưỡng dục nẻo sơ đông
Dạn mặt đầu canh thuở gió rung.
Giá chẳng xâm, hay tiết cứng,
Trăng những tỏ, biết lòng không?
Đài Vương tử vắng, nhàn xoang phượng,
Chầm Cát pha thanh dễ hóa rồng
Thiên hạ tri âm, hay có mấy?
Mai thì ngự sử, đại phu tùng”.
(Cây trúc)
32
Hay:
“Giống lạ Giang - nam đã được dành,
Một mai năng chiếm được cao danh
Lòng không chẳng vả phô niềm tục
Khi cứng hằng thìn một tiết thanh
Sớm còn đeo chim phượng đỏ
Khuya chờ mọc cháu rồng xanh
Kham chi thế gọi là quân tử
Sương tuyết nào hề bén mình”.
(Trúc quân tử)
Trúc là loài thực vật được đề vịnh trong cả hai bài thơ kể trên. Loài trúc
có đặc điểm chung là: ruột rỗng, dáng thẳng, trong những ngày đông tháng
giá, khi các loài cây khác đều rụng hết lá, khô cằn tàn tạ thì trúc vẫn xanh tươi.
Đây là đặc điểm tự nhiên của loài trúc. Dưới con mắt của các nhà Nho, trúc
không chỉ có sức sống bền bỉ trước thiên nhiên khắc nghiệt mà còn là loài cây
thanh cao và tao nhã:“Dáng trúc thanh thoát, lá trúc mềm mại, hình ảnh trúc
luôn gợi lên nét đẹp thanh tú. Đốt trúc rỗng thể hiện sự trong sáng ngay
thẳng khiêm tốn không vụ lợi” [19].
Hình ảnh “Tùng” trong thơ Nguyễn Trãi là biểu tượng cho khí phách,
cho tài lương đống của bậc trượng phu:
“Lâm tuyền ai rặng già làm khách
Tài đống lương cao ắt cả dùng”
(Tùng)
“Tùng thụ” của tác giả thời Hồng Đức thể hiện tầm vóc sừng sững tạo
thành không gian rợp cả hư không đúng với đặc điểm sinh học của nó: “Loại
cây này mọc ở những mỏm núi chênh vênh, chịu nhiều sương gió, bão tuyết
mà không chết không đổ, sức chịu đựng khí hậu, mọc ở những nơi khô cằn,
đất thiếu dinh dưỡng, nhưng sức sống của cây thì rất mãnh liệt, luôn vươn
thẳng lên trời”.[12]
33
“Tán xanh rợp rợp ngợp hư không
Qua mấy trăm thu thuở bão bùng
Tiết cứng chẳng kín hương tuyết bẽn
Tài cao dương để miếu đường dùng
Kì viên giống lạ nào so kịp
Dữ Lĩnh danh thơm dễ sánh cùng?
Ngượng thấy tam công đeo chức trọng
“Đại phu” há những chịu Tần phong”
Cây tùng có tầm vóc thật hùng vĩ, tán lại xanh che rợp cả hư không
khiến người đứng ngoài nhìn vào thấy mình thật nhỏ bé.
Hoa cúc dưới con mắt tinh tế của các thi nhân thời Hồng Đức là loài hoa
đặc trưng của mùa thu, có hương, có sắc:
“Nết na nhẵn mịn khác chưng loài
Chiếm được thu chơi ít có hai
Hương ắt chín nhiều, vàng chín cỏ
Tuyết đà chăng nhiễm, bạc chăng phai”
(Cúc hoa)
Bên cạnh tùng, cúc, trúc, mai, trong HĐQÂTT, loài sen cũng được các thi sĩ
Tao Đàn đặc tả. Có tới 7 bài viết về sen: Liên, Lại vịnh sen, Phong liên, Tình liên,
Nội liên, Lão liên, Quan tử liên đồ.
Trong bài Phong liên tác giả viết:
“Chẳng bén lầm nhơ của khác thường
Nhìn khi gió cả lạ nhiều dường
Vật vờ Thái - dịch nghìn tầng biếc,
Sực nức Tây hồ mấy dặm hương.
Cá hớp nhị vàng lừa sóng,
Rùa giày nhương ngọc động gương.
Có phen trời thanh vằng vặc,
Chổng lên hàng tán lục giương”
34
Loài cây dân dã này đã có sự gắn bó mật thiết với cuộc sống mỗi gia đình
Việt. Dưới ngòi bút của các thi sĩ trong hội Tao Đàn loài sen hiện lên là một
loài cây mọc lên giữa chỗ bùn đất “lầm nhơ” nhưng lại có vẻ đẹp và hương
thơm thoát tục “Sực nức Tây hồ mấy dặm hương”, có nhị vàng đẹp đẽ và
những chồi lá xanh lục mát mắt. Dù là thơ đề vịnh nhưng các tác giả đã thâu
tóm được đặc điểm cốt lõi của loài thực vật này, đồng thời đặt nó trong môi
sinh của chính nó, trong mối quan hệ với loài cá, loài rùa. Rõ ràng các tác giả
phải có sự quan sát thực tế cuộc sống mới có được những vần thơ như thế về
loài sen.
Ngoài những hình ảnh về các loại cây mang màu sắc ước lệ của Đường
thi, chúng ta còn tìm thấy trong HĐQÂTT những loài thực vật nhỏ bé, “bình
dị”, những loài thực vật “lạ” có mối quan hệ mật thiết với đời sống của con
người Việt Nam như: cỏ (19 bài), hòe (4 bài), lau (4 bài), rêu (3 bài), dừa (2
bài), dưa (1 bài), mít (1 bài), cải (1 bài), chuối (1 bài), củ ráy (1 bài), mướp
đắng (1 bài), dâu (1 bài), măng (2 bài), me (1 bài), đào(1 bài), mận (1 bài),
cau (2 bài), tre (1 bài)… Những loài thực vật này không chỉ là đối tượng phản
ánh mà còn là đối tượng thẩm mĩ trong các bài thơ của HĐQÂTT. Dưới đây
là hình ảnh loài cải trong thơ các thi sĩ Hồng Đức:
“Nhà ta có cải vãi nơi nương
Đất phúc sinh thành của lạ thường
Áo đã tương xanh, tương thức lục
Đầu chăng đội bạc, đội hoa vàng”
(Rau cải)
Bài thơ vịnh về một trong những loài rau rất quen thuộc đối với người dân
Việt Nam: cây cải. Sự khéo léo đưa vào trong thơ hình ảnh “Áo đã tương xanh,
tương thức lục/ Đầu chăng đội bạc, đội hoa vàng” đã giúp người đọc hình dung
ra màu xanh lục quen thuộc của lá cải và màu hoa vàng rực rỡ của loài cây này.
Biện pháp nghệ thuật đối cấu trúc, đối từ loại được vận dụng đã làm nổi bật đặc
điểm của cây cải, đồng thời tô lên vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên.
35
Ngoài ra, các loài thực vật chưa từng xuất hiện hoặc số lần xuất hiện rất
ít ỏi trong văn chương trung đại cũng xuất hiện trong tập thơ của Hội Tao Đàn
với sự hóm hỉnh, tự nhiên, dung dị:
“Kẻ hái rau tần, nước bọt se
Chẳng thương bồ liễu phận le te”
(Lại vịnh nắng mùa hè)
“Nảy nảy khoai, chỉn giống làng
Vun trồng đã cậy cỏ xanh xanh”
(Khoai)
Các thi sĩ trong hội Tao Đàn đã phát hiện ra chất thơ trong những loại
quả hết sức bình thường gần gũi, gắn bó với đời sống của những người nông
dân dưới triều đại Hồng Đức như dưa, mít, dừa:
Ngọt bằng mít, mát bằng dừa,
Trợ khát nào qua một quả dưa?
Mùi mẻ ngon, người dễ trọng,
Tinh thần lạ, thế đều ưa.
Lòng son thờ chúa niềm chăng trễ,
Áo lục truyền nhà lộc có thừa.
Nhân quả nhiều, vì trồng đất phúc,
Đời đời con cháu thịnh hơn xưa.
(Quả dưa)
Những thuộc tính của quả dưa được các tác giả tái hiện khá chân
thực: “lá xanh, nhiều lộc”, “quả nhiều”, quả “ngọt”, “mát”, “trợ khát”,
“mùi mẻ ngon”, ruột đỏ. Như vậy, dù có được đề vịnh vì mục đích gì đi
chăng nữa thì trước hết các thi sĩ đã tái hiện được rất chân thực đặc điểm
của một loài cây ăn quả phổ biến, một đặc sản tiêu biểu của Việt Nam.
Tất nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận qua những bài thơ này,
ngoài việc nói về thực vật các tác giả Hồng Đức còn nói chí. Bài thơ vì
thế cũng mang tính khẩu khí.
36
Hay trong bài thơ Cây chuối tiêu, tác giả đã tái hiện hình ảnh cây chuối
tiêu vốn rất quen thuộc ở vùng khí hậu nhiệt đới:
Thú nửa lâm tuyền, nửa thị thành,
Vun trồng, toàn đội đức cao xanh.
Dọc giơ gươm đẩu kinh cuồng khấu,
Lá cuốn cờ xuân tượng thái bình.
Trong sạch xưa sau ấy tiết,
Móc mưa nhuần gội trong mình.
Đành hay giống cố phù nước,
Con cháu đời đời dõi đĩnh sinh.
(Cây chuối tiêu)
Cây chuối là một loài cây khá phổ biến, dễ trồng xuất hiện nhiều trong
vườn của nhà nông. Vậy mà những cây bút xuất thân từ tầng lớp trí thức,
trong không gian văn hóa cung đình lại miêu tả khá kĩ và chi tiết đến về nó:
môi trường sống của nó là “nửa lâm tuyền, nửa thị thành”, khi được chăm sóc
kĩ lưỡng thì cây trở nên xanh tươi, sống lá thẳng tắp để “lá cuốn cờ
xuân tượng thái bình” và khi mưa xuống đất đai ẩm là môi trường lí tưởng để
chuối non mọc ra “Con cháu đời đời dõi đĩnh sinh”.
Rồi đến cả những loài thực vật được cho là “thừa thãi”, không đem lại lợi
ích cho con người thì dưới tứ thơ của các thi nhân dưới triều Hồng Đức nó vẫn
mang nét hấp dẫn, đầy sức sống của một thực thể loài như: cỏ (được nhắc 20 lần
trên tổng số 20 bài thơ), lau (nhắc tới 4 lần), rêu (nhắc đến 2 lần):
Đầu ngàn, êu ểu cỏ xanh om,
Thả thả, chăn chăn, ít lại nom.
(Vịnh người chăn trâu)
Lau chổng bãi nam ngàn dặm rợp,
Nhạn về, ải bắc mấy hàng bày.
(Lại vịnh cảnh mùa thu)
37
Đồn rằng huyện Ngọc có kênh Trầm,
Tuy hẹp le vui hết mấy rằm.
Gò nổi xương trâu rêu lún phún,
(Kênh Trầm)
Cỏ là loài cây quen thuộc ở những vùng miền nhiệt đới. Sức sống của
loài cây này rất mãnh liệt: mọc ở bất cứ khu vực nào, sinh trưởng mạnh mẽ.
Nguyễn Du- một nhà thơ lớn của dân tộc ta cũng đã từng nhắc đến loài thực
vật này trong những trang thơ khi viết về Kiều:
“Cỏ non xanh rợn chân trời,
(Truyện Kiều)
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Như vậy HĐQÂTT đã tái hiện một số lượng không nhỏ các loài thực
vật vốn quen thuộc trong hệ sinh thái ở nước ta. Đó là những loài thực vật
phổ biến của vùng Bắc Bộ. Ở đây, các tác giả không chỉ tái hiện các loài
thực vật vốn thường xuyên xuất hiện trong văn chương nhà Nho mà còn
đưa vào tập thơ không ít loài thực vật vốn rất dân dã, đời thường. Đây
chính là cách ghi lại những loài thực vật trong hệ sinh thái Việt Nam đương
thời một cách độc đáo, nó cũng thể hiện rằng, các thi sĩ Tao Đàn dù có bận
bịu với công việc hành chính của vương triều nhưng vẫn rất gắn kết với
thiên nhiên, hiểu được đặc trưng của nhiều loài thực vật, trong đó có cả
những loài thực vật rất “tầm thường”.
2.2. Hệ động vật
Trong HĐQÂTT có 101/ 328 bài có nhắc đến hoặc miêu tả các loài
động vật. Trong đó có các loài như: hạc, rồng, loan, phượng, chim - là
những con vật thuộc về biểu tượng. Bên cạnh đó là những loài động vật
vốn ít được miêu tả trong văn chương cung đình như ve (5 bài), thỏ (5 bài),
rắn (3 bài), gà (3 bài), chim quốc (3 bài), chim tu hú (2 bài), vịt (2 bài),
kiến (2 bài), muỗi (1 bài), cóc (1 bài), rận (1 bài), ruồi (1 bài), chó (1 bài),
38
cá (20 bài với các loài khác nhau như: cá he, cá mập, cá voi, cá nược, cá đè
he…), ruốc biển (1 bài)…
Những loài động vật thuộc về biểu tượng trong văn học trung đại được
các thi nhân trong hội Tao Đàn nhắc đến khá nhiều: rồng (11 bài), loan (7 bài),
phượng (8 bài)…
Trong bài Lại bài cây cau các loài vật phượng, rồng được nhắc đến:
Được chốn đi về tốt lạ lùng
Vì người dễ khiến thức khoe hồng.
Mình cài xiêm lục phe đuôi phượng,
Bóng rỡn trì thanh uốn khúc rồng.
Tiết cứng khá phen quân tử trúc,
Thói cao chẳng nhượng đại phu tùng
Trời có ý sinh dù nên nữa,
Tàn rợp đời đời cửa tướng công
(Lại bài cây cau)
Hay trong bài Vịnh cảnh mùa đông:
Đòi phượng lạt sạt trận hàn phong,
Da diết người thay bấy hỡi đông!
Mốc rắc rêu tiền, xanh những tuyết,
Cát pha màu bạc, giá đầy sông.
Chuông vàng ngàn khói thông về hạc,
Canh diễn lầu châu nước ngán rồng.
Chớ chớ ngại rằng mai lạnh lẽo,
Kìa kìa mai đã thức xuân nồng.
(Vịnh cảnh mùa đông)
Thơ xưa đối tượng thẩm mĩ thường thanh cao, tao nhã vậy mà những con
vật nhỏ và bẩn như: muỗi, rận, ruồi, kiến “lọt” vào mảnh đất thi ca của các
nhà Nho là điều khá thú vị. Đây là hình ảnh con muỗi xuất hiện trong
HĐQÂTT:
39
“Muỗi hỡi mi sinh giáp tí nào?
Đêm đêm lẻn đến cửa phòng tao.
Ngày thì đủng đỉnh bên lầu ngọc,
Hôm đã thung thăng tiểu má đào.
Ghẹo Hằng Nga khi nguyệt hiện,
Trêu thần nữ thuở chiêm bao.
Canh khuya luẩn quất làm cho nhọc,
Châm đốt ngoài da có xuể nao”
(Con muỗi)
Còn đây là hình ảnh về Con rận:
Tạo hóa sinh mi được phận an
No lòng, ấm cật kẻo cơ hàn.
Lảu hay phong vị mùi thiên hạ,
Nhòm biết nhân tình sự thế gian.
Gióng (Chiêu hầu) khi cấp cự.
Thăm Vương Mãnh thuở thanh nhàn.
Hết lòng uống máu vì nhà chúa,
Khăn khắn trong niềm một điểm đan
(Con rận)
Và loài kiến:
“Phô loài cả, vóc nghênh ngang
Mòn mọn song màu, kiến mấy càng”
(Con kiến)
Và con rắn, con mèo, con ong, con dê cũng được nhắc đến trong bài thơ
Tương phùng, dù cho có thể đó chỉ là mọt hình thức của thơ khẩu khí:
“Ấy khuôn hay mẹo thợ nào lừa?
Mướp đắng khen ai đổi mạt cưa
Rắn đói đâu từ con cóc thối
Mèo thèm chi dỗi miếng nem thừa
40
Ong già buông nọc châm hoa rữa
Dê yếu văng sừng húc giậu thưa
Ơ hở tiền chì mua vải nối
Nồi nào vung ấy khéo in vừa”
(Tương phùng)
Những con vật nhỏ bé, thậm chí có phần “bình dân”, gắn bó với đời sống
sinh hoạt hằng ngày của người lao động bình dị cũng xuất hiện trong tập thơ:
“Buồn nghe dăng tiếng, tiếng cầm ve,
Gióng khách chào ai bấy hỡi hè?
Bẻo lẻo đầu ghềnh con bố cốc.
Lênh đênh mặt nước cái đè he
Ngày chầy phảng phất hồn hồ điệp.
Đêm nhắp mơ màng tiếng tử qui”
(Nắng mùa hè)
(bố cốc: có nghĩa là chim tu hú; đè he: có nghĩa là cá nược, hồ điệp: là
bươm bướm; tử quy: chim quốc)
Hay hình ảnh chim Gọi vịt, cá rô đồng, con chó, chim cuốc, con ve sầu
là loài động vật rất quen thuộc trong mùa hè của người Việt Nam xưa cũng
xuất hiện trong tập thơ với hình ảnh đặc trưng tiêu biểu:
Gọi vịt từ nghe ở ngọn tre
Mới hay tiết đã báo sang hè.
Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi,
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè
Cuốc cuốc, cuốc hằng khua mõ cuốc,
Ve ve, ve lại gẩy cầm ve…
(Lại vịnh nắng mùa hè)
Như vậy có thể thấy, không ít loài động vật nhỏ bé không mang lại lợi
ích gì cho con người thậm chí là những loài côn trùng hôi hám, tanh bẩn mà
con người xua đuổi, xa lánh thì trong những trang thơ của các thi sĩ Tao Đàn
41
lại tái hiện những thuộc tính và đặc điểm của chúng. Chúng ta có thể đều
không thích những loài côn trùng nhỏ bé, bẩn thỉu đó. Nhưng đứng từ quan
điểm sinh thái học, tất cả những loài vật dù có nhỏ bé, có bẩn thỉu ra sao thì
chúng đều có vai trò nhất định trong chuỗi sinh học, trong việc điều tiết nhịp
sinh thái. Vì vậy, từ điểm nhìn sinh thái học, các loài này đồng đẳng với các
loài động vật khác. Là những thi sĩ cung đình, sống trong không gian đô thị
nhưng các thi sĩ Tao Đàn đã chú ý đến cả những loài côn trùng nhỏ bé như
vậy, đó là điều đáng quý.
Trong HĐQÂTT khi viết về động vật, các tác giả còn đưa loài cá vào
trong các trang viết của mình 20 lần. Nhưng loài cá được nhắc đến không phải
để biểu hiện cho thú nhàn câu cá của các nhà Nho mà nó xuất hiện trong
chuỗi sinh học đa dạng:
“Ngư hà song viết ngày hằng đủ,
Bạng duật đôi co thế ngại nhòm.
Chờ thuở nguồn Đào tiên lại gặp,
Cùng nhau cặn kẽ thưở đầu mom”.
(Họa bài người kiếm cá)
(Ngư hà: cá tôm, Bạng: con trai, Duật: con cò)
Chỉ với bốn câu thơ, nhưng các thi sĩ đã giúp người đọc thâu tóm vào
tầm mắt của mình những hoạt động thú vị của tự nhiên: Trên bãi cát, con trai
mở vỏ ra để hóng nắng, con cò đến mổ vào thịt con trai, con trai liền khép vỏ
lại ngậm chặt lấy mỏ con cò.[5, tr22] Nếu không quan sát tự nhiên, chắc chắn
các tác giả sẽ không thể tái hiện được hình ảnh thú vị như vậy.
Tóm lại, trong HĐQÂTT số lượng các loại động vật khá nhiều, tần
suất xuất hiện thường xuyên, đặc biệt là những sinh vật “tầm thường”,
“bình dân”. Qua tập thơ, chúng ta có thể tìm thấy các loài sinh vật vừa
quen vừa lạ. Các sinh vật quen thuộc được các tác giả ưu tiên lựa chọn đã
xuất hiện với tần suất khá nhiều và mang đậm tính biểu tượng, ước lệ trong
văn học trung đại. Bên cạnh đó còn có các “sinh vật thuộc hàng bình dân”.
42
Các sinh vật này vốn ít xuất hiện trong văn chương cung đình, nhưng lại rất
gần gũi với các hoạt động sản xuất của tầng lớp bình dân và trong đời sống
hằng ngày, chúng cũng góp phần quan trọng tạo nên chỉnh thể sinh thái.
HĐQÂTT được ra đời trong không gian văn hóa cung đình nhưng các tác
giả của nó vẫn rất gắn kết và gần gũi với thiên nhiên, với những động vật
thực vật bình dị trong cuộc sống hằng ngày.
2.3. Nhịp thiên nhiên
Nhịp thiên nhiên là một trong những vấn đề quan tâm của các nhà khí
hậu học, vật hậu học hiện đại. Nhịp thiên nhiên diễn ra theo quy luật của tự
nhiên và biến đổi một cách chậm chạp khiến chúng ta không thể nhận ra ngay.
Tuy nhiên, các nhà khí hậu học đã cảnh báo, ngày nay sự nóng lên toàn cầu
đã thay đổi nhịp điệu tự nhiên của một số loài thực vật, động vật. Trong công
trình nghiên cứu Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng dạy
văn học, tác giả Trần Nho Thìn đã nói đến vấn đề nhịp thiên nhiên ở thời
trung đại. Ông khẳng định: Trong cách người Việt Nam thời cổ đại và trung
đại hiểu về ý nghĩa của thiên nhiên có hàm chứa một nguyên lí triết học hay
vũ trụ luận nào đó. Trước tiên ta hãy quan sát cách chép sử của Đại Việt sử
ký toàn thư, một bộ sử ghi chép các sự kiện, hành vi, ngôn ngữ chính trị của
các bậc vương giả và triều đình. Không phải thường xuyên, nhưng đã thành
một định lệ, rất nhiều sự kiện được chép gắn liền với nhịp điệu thiên nhiên
bốn mùa... Ngoài các mùa, đánh dấu nhịp thiên nhiên còn có nhịp của tháng,
ngày.[31,tr111-112]
Điều này cũng được thể hiện trong HĐQÂTT. Hệ sinh thái trong tập thơ
luôn có sự vận động theo nhịp chu chuyển của vũ trụ cùng vạn vật, chúng
được đặt trong sự biến đổi không ngừng về thời gian: sự chuyển vần theo mùa
xuân - hạ - thu - đông, theo tháng, theo nhịp đêm - ngày.
2.3.1. Nhịp bốn mùa
Trong HĐQÂTT có tồn tại một nhịp luân chuyển tuần hoàn theo nhịp
luân chuyển của mặt trời, có thể gọi đó là nhịp bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông.
43
Trong tập thơ này, từ chỉ thời gian bốn mùa đã được sử dụng với tần suất
khá dày đặc như sau:
Từ chỉ thời gian Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông
Số lần 13 14 7 23 6
Toàn tập thơ có 28 bài thơ viết về thiên nhiên bốn mùa, đây là bộ phận
quan trọng góp phần tái hiện nhịp thiên nhiên đương thời.
Tập thơ gồm 4 bài thơ chính thức vịnh về mùa xuân: Vịnh cảnh mùa xuân
1, Lại vịnh cảnh mùa xuân, Vịnh cảnh mùa xuân 2 và Tàn xuân lữ thứ. Bên
cạnh đó là các bài không vịnh về mùa xuân nhưng lại gián tiếp nói về mùa
xuân như các bài vịnh về Tết Nguyên đán hay vịnh về các tháng trong năm.
Mùa xuân đến, vạn vật sinh sôi nảy nở bởi khí trời ấm áp, sự tốt tươi của
cảnh vật đầu xuân báo hiệu năm mới no đủ cho muôn loài:
“Một khí trời đắp đổi vần
Ba tháng đông lại ba tháng xuân
Sinh thành mọi vật đều tươi tốt
Đầm ấm ngày nào chẳng đượm nhuần
(Vịnh cảnh ngày xuân)
Các thi sĩ của Hội Tao Đàn đã rất tinh tế khi quan sát các loài động vật,
thực vật để thấy được chuyển vận của vũ trụ khi mùa xuân đến:
“Hiu hiu gió thổi hương lồng áo
Phơi phới mưa sa ngọc đượm chân
Liễu vẽ mày xanh oanh chấp chới,
Mai tô má phấn bướm xun xoăn”.
(Vịnh cảnh mùa xuân)
Ở đây, mưa xuân, lá liễu non, chim oanh, đàn bướm giữ vai trò như
“đồng hồ thiên nhiên” để con người nhận biết thời gian. Xuân đến xua tan cái
lạnh lẽo của mùa đông, chỉ có những cơn mưa phùn nhè nhẹ thấm vào chân
người đi đường. Xuân đến, cỏ cây hoa lá như cũng biết trang điểm giống
người: liễu “vẽ mày xanh” để “oanh chấp chới”, mai “tô má phấn” khiến
“bướm xun xoăn”. Bức tranh xuân hiện lên với đầy đủ sắc màu và sức sống.
44
Mùa xuân là mùa vận hội của muôn loài trong đó có cả con người:
“Đường hoa chấp chới tin ong dạo,
Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền.
Ả ngụy, nàng Diêu khoe đẹp đẽ,
Người thơ khách rượu rộn mời khuyên”.
(Lại vịnh cảnh mùa xuân)
Tiếp nối mùa xuân là mùa hè oi ả. Sự chuyển vận của mùa xuân sang
mùa hạ cũng được các thi sĩ miêu tả thật tinh tế:
“Thức xuân một khí hãy còn khoe,
Phút đã nam ngoa đến tiết hè.
Đằng đẵng ngày chầy giương tán nắng
Đùn đùn bóng rợp phủ màn hòe”
(Vịnh cảnh mùa hè)
Những ngày đầu hè đến, cảnh vật tươi vui của mùa xuân còn sót lại.
Thêm vào đó là nắng bắt đầu gay gắt hơn, cây hoa hòe đùn tán lá xanh lục rợp
bóng. Cách đong đếm thời gian quen thuộc của người xưa “Đêm tháng Năm
chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng Mười chưa cười đã tối” thể hiện rõ trong câu
thơ “Đằng đẵng ngày chầy giương tán nắng”. “Đằng đẵng” vốn đã gợi cảm
giác về sự kéo dài của thời gian, thêm vào đó là từ “chầy” khiến người đọc
hình dung ngày hè dài còn đêm ngắn. Đó chính là sự tinh tế của các thi sĩ Tao
Đàn khi viết về thiên nhiên.
Đặc trưng của mùa hè là nắng gay gắt. Và cái nắng ấy đã xuất hiện trong
HĐQÂTT với những hình ảnh vừa tinh tế, vừa chân thực:
“Cũng thì đất chở cũng trời che
Nóng nảy làm chi bấy hỡi hè
Khắc khoải đã đau lòng cái quốc,
Băn khoăn thêm tức ngực con ve
Người nằm trướng vóc mồ hôi mướt
Kẻ hái rau tần bọt nước se”.
(Lại vịnh nắng mùa hè - bài 2)
45
Gọi vịt từ nghe ở ngọn tre,
Mới hay tiết đã báo sang hè.
Nước lồng sừng sực đầu rô trỗi,
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè.
Cuốc cuốc, cuốc hằng khua mõ cuốc,
Ve ve, ve lại gẩy cầm ve.
Mai lành còn có thu đông nữa,
Những thế còn ai chịu được e.
(Lại vịnh nắng mùa hè - bài 3)
Các tác giả đã vượt lên trên những khuôn sáo để đặc tả đặc trưng của
mùa hè với nắng nóng luôn thường trực. Chỉ với con mắt quan sát tinh tường,
các nhà thơ của HĐQÂTT mới vẽ nên bức tranh hè sinh động đến vậy.
Mùa hè trong HĐQÂTT hiện ra với những hình ảnh hết sức chân thực:
“Nghi ngút ngàn mây tán lửa che,
Rùng người thay bấy gọi là hè.
Hồng bay lựu, màn vây liễu,
Hương nức sen, bóng rợp hòe.
Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc,
Cành kia dắng dỏi gẩy cầm ve”.
(Vịnh cảnh mùa hè)
So với mùa thu và mùa xuân, mùa hè là mùa được ít tác giả trung đại
miêu tả hơn cả. Trước HĐQÂTT đã có QAATT của Nguyễn Trãi viết về
mùa hè:
“Rồi, hóng mát thuở ngày trường,
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương”.
(Bảo kính cảnh giới, 43)
46
Đối sánh hai bài thơ ta có thể thấy mùa hè trong thơ Nguyễn Trãi được
miêu tả vào cuối hè, khi ấy “hồng liên trì đã tịn mùi hương”. Còn với các thi sĩ
trong Hội Tao Đàn lại miêu tả cảnh sắc, âm thanh, hương vị mùa hè vào những
ngày đầu tiên. Ở bức tranh cảnh ngày hè đó có hoa lựu đỏ tươi, sen thơm ngát,
tiếng cuốc vang vọng lúc nhanh lúc chậm, đặc biệt có hình dáng của con người
trước cái nắng vàng rực rỡ đến “rùng người”.
Hết hè về thì lại có thu sang. Cũng giống như nhiều tác giả khác của văn
học trung đại, các tác giả của HĐQÂTT nhắc đến mùa thu nhiều hơn cả. Bởi
“thơ là thu của lòng người, thu là thơ của trời đất”. Và khi “Thiên hạ cộng tri
thu” (cả gầm trời cũng biết thu sang) là khi nhìn thấy “Ngô đồng nhất diệp
lạc” (một chiếc lá ngô đồng rụng). Thu đến, cảnh vật không còn giữ được sự
căng tràn sức sống nữa mà tất cả như đang bước vào độ phai tàn sắp sửa:
“Lác đác ngô đồng mấy lá bay,
Tin thu hiu hắt lọt hơi may.
Ngàn kia cách nước xo le địch,
Mái nọ bên tường đủng đỉnh chày.
Lau chổng bãi nam ngàn dặm rợp,
Nhạn về ải bắc mấy hàng bày.
Quý Ưng, Tống Ngọc dường bao nữa,
Khi ấy nhiều người cám cảnh thay”
(Lại vịnh cảnh mùa thu)
Bức tranh giản dị, gần gũi với cảnh sắc làng quê Việt Nam nhưng lại
mang đậm chất Đường thi. Những hình ảnh xuất hiện đặc trưng cho mùa thu:
lá ngô đồng, cỏ lau, chim nhạn, hơi may. Tuy những hình ảnh này mang tính
tượng trưng cao nhưng khi đọc bài thơ ta vẫn thấy được cảm xúc chân thành
của thi nhân trước vẻ đẹp của mùa thu: Những chiếc lá ngô đồng “lác đác” rời
cành, khóm lau chuyển sang vàng úa, đàn chim nhạn bay đi tránh rét, hơi may
đã phủ kín không gian. Không còn cảnh nương dâu, còn ánh nắng rực rỡ của
mùa hè. Tất cả cảnh vật được phủ lên một lớp héo úa không còn chút sinh khí.
47
Rõ ràng, cả bài thơ ta không thấy chữ buồn nào xuất hiện vậy mà nỗi buồn cứ
thấm sâu cảnh vật, vào lòng người để lại những dư vị khó quên.
Trăng thu xuất hiện trong thơ các thi sĩ cũng thật nhẹ nhàng và tình tứ:
Bốn mùa no bốn thiếu mùa nào,
Trăng một thu chầy vặc vặc cao.
Hây hẩy gió vàng thông ải nhạn,
Làu làu bóng ngọc suốt nhà giao.
Dãi dầm chén khách kề hiên cúc,
Nhẹ chở thuyền ai ngược động đào.
(Thiên thu nguyệt lãng)
Nếu mùa xuân là mùa của sự “phơi phới mưa sa ngọc đượm chân”, với
“mai tô má phấn” thì đông, mùa hè đến với cái nóng lực và tiếng ve râm ran,
mùa thu đến nhẹ nhàng và tình tứ, thì mùa đông đến khiến con người ta rùng
mình bởi cái lạnh cắt da cắt thịt:
“Đôi phương lạt sạt trận hàn phong
Da diết người thay bấy hỡi đông”
(Lại vịnh cảnh mùa đông)
“Đòi phương lạt xạt trận hàn phong,
Da diết người thay bấy hỡi đông.
Mốc rắc rêu tiền xanh những tuyết,
Cát pha màu bạc giá đầy sông”.
(Vịnh cảnh mùa đông)
Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, Việt Nam là một đất nước không có tuyết.
Các tác giả Hội Tao Đàn bằng sự tưởng tượng của mình đã vẽ lên một bức
tranh mùa đông có tuyết. Làm cái lạnh của mùa đông được nhân lên gấp bội.
Nó thấm dần vào da thịt của con người vì thế mà tiết trời đông lại khiến người
ta buồn da diết.
Thế nhưng không ngưng đọng lại, vòng tuần hoàn của vũ trụ lại tiếp diễn
và sẽ lại xua đi sự lạnh lẽo đó để đón nhận một mùa xuân mới:
48
Vận bốn mùa này đã có công,
Đêm dài bởi một thuở ba đông.
Song mai nguyệt tỏ thanh bằng nước,
Cửa trúc sương xâm lạnh nữa đồng.
Điểm tuyết nào non đầu chẳng bạc,
Hóng lò có khách mặt thêm hồng.
Một mai sang đến xuân đầm ấm,
Đường tía xem hoa diễu ngựa rong.
(Vịnh cảnh mùa đông)
Với những cảm nhận về nhịp thiên nhiên bốn mùa tinh tế của các thi sĩ,
thiên nhiên hiện ra vừa sinh động lại vừa có nét nghĩa biểu trưng quen thuộc.
2.3.2. Nhịp tháng năm
Nhịp thiên nhiên trong HĐQÂTT còn được thể hiện qua thời gian chu
chuyển giữa các tháng trong năm. Các thi sĩ Tao Đàn đã rất tinh tế nắm bắt
được sự biến đổi xoay vần của tạo vật trong từng tháng và thể hiện rõ qua
chùm thơ vịnh mười hai tháng.
Tháng Một, tháng Hai, tháng Ba là ba tháng của mùa xuân. Nhưng mỗi
tháng lại có những chuyển vận của riêng mình thật uyển chuyển và tinh tế.
Tháng Một là thời khắc của đầu xuân, mọi thứ vừa chuyển mình từ giá
lạnh sang ấm áp nên cả bài thơ đều ngập tràn sự mới mẻ, sự khởi đầu và khí
xuân ấm áp:
Trong cơ giao thái khéo tương nhân,
Đầu bính kìa kìa đã chỉ dần.
Thế giới một bầu vây thụy khí,
Giang sơn tám bức đượm dương xuân.
(Tháng Giêng)
Những từ Hán Việt được đan xen vào bài thơ chữ Nôm như “giao thái”,
“tương nhân”, “thụy khí”, “dương xuân” đã gợi tả không khí trang trọng, ấm
áp của tháng Giêng mùa xuân.
49
Sau tháng Giêng rảnh rỗi và an nhàn là tháng Hai - tháng của lao động,
vun trồng cầy cấy, của những hoạt động chính sự tốt lành:
Thục khí hây hây chỉn lạ dường,
Trung hòa đầm ấm nức thiên hương.
Thị thành mừng thấy thì trinh chính,
Hải vũ đua chơi áng lệ quang
Ba lễ chí thành long cẩn niệm,
Trăm quan hội thưởng tiệc lừng vang…
(Tháng Hai)
Khi vì “tam tinh” bắt đầu mọc vào buổi tối ở phương Đông thì cũng là
lúc đến tiết Thanh minh:
“Chợt thấy tam tinh ánh phương đình,
Này này hẳn đã tới thanh minh.
Cảnh tình dãi tỏ điềm long thịnh,
Gia khánh vui vầy thuở thái bình”
(Tháng Ba)
Khi vạn vật bung nở, khắp nơi cây cỏ, hoa lá cứ sinh sôi nảy nở, tràn đầy
sức sống thì đó chính là khi tháng Tư đã về, báo hiệu những ngày cuối cùng
của mùa xuân và những dấu hiệu đầu tiên của mùa hạ:
Liễu phất phơ xanh mềm lướt lướt,
Hòe giương tán lục xếp trùng trùng
(Tháng tư)
Tháng Năm lại được thể hiện qua những dấu hiệu như:
Tam quang choi chói sắc chiêu minh,
Nay nảy đoan dương giữa tiết lành.
Rành rạnh tiền sen doanh bích thủy
Rỡ ràng gấm lựu chốn kinh thành
(Tháng Năm)
50
Cái nắng gắt của mùa hè qua đi, ngay lập tức “tin thu” đã về, những
luồng gió heo may dịu dàng, bóng dáng quen thuộc của loại cây ưa tiết thu là
ngô đồng đã hiện hữu:
Ngô giang sẩy đã lá ngô bay
Ngẫm thấy tin thu đích nhiệm thay.
Răm rắp hòa đoàn giong đuốc phượng,
Hui hui mấy phát hẩy hơi may.
(Tháng Bảy)
Thu đậm sắc hơn với tháng tám có không khí của Tết trung thu:
Vẻ thọ tinh xem ánh thức lồng,
Rành hay nam lữ chính thu trung.
Trời muôn thượng thẳm làu làu sạch,
Nguyệt một vầng in vặc vặc trong.
(Tháng Tám)
Thu là mùa thay lá, chính vì vậy thu đến, thu đi, thu để lại cho thi nhân
bao nhiêu cảm xúc. Vạn vật bị chi phối bởi tâm trạng nhà thơ vì thế mà luôn u
đạm, não nề. Nhưng dưới con mắt của các thi sĩ Tao Đàn vạn vật trong tiết
thu lại “khoe tán giương cành”:
Móc tưới kim anh mau chỗi tốt,
Mưa gieo thúy trúc đã khoe tươi.
(Tháng chín)
Cảnh vật cứ theo sự chuyển động của mặt trời mà thay đổi và mỗi tháng
lại được thể hiện qua sự quan sát vũ trụ vạn vật tinh tế của các thi nhân, kết
hợp với những tri thức về vũ trụ luận của người xưa:
Hoàng luật tự nhiên suốt vận hành,
Trời đông gặp cữ nhất dương sinh.
Tơ thêm độ khắc khoe tài lạ,
Mây vén trình điềm ứng trị lành.
(Tháng Mười Một)
51
Một chút không khí xuân chứa trong lòng những ngày cuối đông được
thể hiện qua cảm nhận tinh tế về bước chuyển của không gian đất trời:
Trải xem lịch kỷ vốn tinh tường,
Nhân phẩm xây nên thuở nhị dương.
Mai chiếm phau phau màu điểm ngọc,
Thông khoe ngột ngột chí lăng sương.
Muôn phương ấy khoản dương kì vật,
Một áng thanh điền đượm nhi dương.
(Tháng Mười Hai)
Sự chuyển biến của thời khắc giao mùa đó là lẽ tuần hoàn của vũ trụ. Theo
triết lí cổ phương Đông trong Kinh Dịch lẽ tuần hoàn này được nhắc tới nhiều
trong các bài thơ đặc tả về thiên nhiên. Tuy nhiên tâm tư của các thi sĩ trong Hội
Tao Đàn luôn tươi mới khác với vòng luẩn quẩn của tạo vật: lòng nhà thơ là cả
một mùa xuân, mùa xuân năm nay đi, thì mùa xuân năm sau trở lại:
“Ba dương đã gặp thuở thời vần
Bốn bề đều mừng một chúa xuân”…
(Họa nguyên đán, bài 3)
“Lật lật bình phong mở mấy lần,
Khắp hòa chốn chốn một trời xuân”.
(Xuân, bài 13)
“Chớ chớ ngại rằng mai lạnh lẽo,
Kìa kìa mai đã thức xuân hồng”
(Đông, bài 16)
Như vậy qua chùm thơ vịnh mười hai tháng các thi sĩ Tao Đàn đã vẽ ra
từng bước đi thật chậm của thời gian để thấy được sự vận động cũng như sự
chuyển biến đa dạng phong phú của thiên nhiên muôn loài.
2.3.3. Nhịp ngày - đêm
Thời gian vũ trụ tuần hoàn (đặc trưng cảm thức thời gian của văn học
trung đại) mặc dù chiếm ưu thế nhưng các tác giả thời Hồng Đức vẫn không
52
quên thời gian đời thường - thời gian gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của con
người. Đó là thời gian luân chuyển từ đêm (nhắc tới 25 lần) sang ngày (nhắc tới
26 lần). Nếu như nhịp bốn mùa chủ yếu dựa vào sự chuyển động của mặt trời
thì nhịp tháng năm và nhịp ngày - đêm dựa vào sự chuyển động của mặt trăng.
Về thời gian luân chuyển trong một đêm, HĐQÂTT thể hiện trôi chảy cụ
thể, chậm rãi qua chùm thơ “Vịnh năm canh”.
Như chúng ta được biết, người xưa tính thời gian đêm qua các canh.
Chính quyền thời phong kiến đặt ra các viên tuần kiểm nhằm báo hiệu giờ,
khắc theo từng thời gian trôi qua trong một đêm, bằng tiếng hiệu lệnh của
kẻng. Do vậy, đêm được chia thành 5 canh (từ canh 1 tới canh 5): Canh 1 từ
19 giờ đến 21 giờ (giờ Tuất); Canh 2 từ 21 giờ đến 23 giờ khuya (giờ Hợi);
Canh 3 từ 23 giờ đến 1 giờ sáng (giờ Tý); Canh 4 từ 1 giờ đến 3 giờ sáng (giờ
Sửu); Canh 5 từ 3 giờ đến 5 giờ sáng (giờ Dần). Sự chuyển vận của năm canh
này được thể hiện qua sự chuyển vận của cảnh vật thiên nhiên.
Canh một bắt đầu lúc chập tối. trên bầu trời cao thăm thẳm mênh mông,
sao Bắc Đẩu mỗi lúc thêm sáng.
“Chấp chảnh trời vừa mọc Đẩu Tinh
Ban khi trống một mới thu canh.
Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc,
Sườn núi chim gù ẩn lá xanh”
(Nhất canh)
Đến nhị canh, ánh trăng đã lên:
“Lầu treo cung nguyệt người yên giấc
Đường quạnh nhà thôn cửa chặt cài
Cảnh vật chòm chòm bay lửa đóm
Cỏ hoa gốc gốc đượm hương trang”
(Nhị canh)
Đây là những giờ khắc thăng hoa của cảnh vật: rất thơ mộng.
Sang canh ba thì cảnh vật trở nên tĩnh lặng khi đêm đã khuya:
53
“Đường quạnh phất phơ cây ngất gió
Trên không lác đác tuyết hoa bay
Bâng khuâng kẻ mệt hồn thần nữ
Phảng phất trời cao bóng Tố Nga”
(Tam canh)
Đến canh tư, những sinh hoạt của con người cho ngày mới đã phát sinh
tuy đêm vẫn còn bao trùm:
“Gió lay chồi ải khua chim thức
Nước giẫy trăng (tà) giục sóng đưa.
Vạc thẩn thơ tìm nội quạnh,
Trời lác đác vẻ sao thưa”
(Tứ canh)
Chuyển sang năm thì:
“Canh chày đèn lạnh lâm dâm,
Xao xác lậu canh trống điểm năm.
Nguyệt đầu non treo chênh chếch,
Sương mặt đất ướt đầm đầm.
Rừng kia bố cốc còn khuya going,
Làng nọ nông phu đã thức nằm.
Bóng ác rạng đông, trời đã sáng,
Tiếng gà sôi nổi, tiếng hàn châm”
(Ngũ canh)
Sự chuyển vận của vũ trụ từ đêm sang ngày thể hiện qua hình ảnh chim
bố cốc kêu ran rồi rạng đông bừng sáng trên nền trời. Bức tranh hừng đông
được tả tuần tự theo nhịp đi của thời gian từ gần đến xa, từ thấp đến cao. Tất
cả tạo nên bức tranh sinh hoạt sinh động của làng quê Việt Nam theo bước đi
của thời gian. Đúng như tác giả Trần Quang Dũng nhận định: “dòng chảy thời
gian vũ trụ khách quan đã được các nhà thơ tái hiện thông qua những tín hiệu
biến đổi của thiên nhiên cảnh vật và hoạt động của con người nơi làng quê.
Chất dân tộc đậm đà, xu hướng dân tộc hóa thể loại của bài thơ đã được lộ ra
từ đó.” [5,tr25]
54
Tiểu kết
Qua đặc điểm về hệ động vật, thực vật, nhịp thiên nhiên, chúng ta có thể
thấy HĐQÂTT đã tái hiện một hệ sinh thái khá phong phú và đa dạng. Dù là
những tác giả cung đình, sáng tác trong không gian văn hóa cung đình, nhưng
các thi sĩ của HĐQÂTT đã không từ chối hình ảnh những loài động vật, thực
vật bình dị đời thường. Trong tập thơ, ngoài các giống loài cao quý vẫn
thường xuất hiện trong thơ văn trung đại thì các loài thực vật, động vật dân dã
cũng được các tác giả miêu tả. Điều này thể hiện tính chỉnh thể cũng như tính
tự nhiên của thẩm mĩ sinh thái. Bởi lẽ “thẩm mĩ sinh thái là thẩm mĩ mang
tính tự nhiên”. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng cùng với việc tái
hiện số loài thực vật, động vật khá phong phú và đa dạng, tập thơ cũng còn
nhiều bài mang tính chất nói chí, khẩu khí khá rõ nét.
Bên cạnh đó, bằng ngôn ngữ mộc mạc các thi sĩ hội Tao Đàn đã tái hiện
bước đi của hiện thực cuộc sống theo nhịp thiên nhiên. Đó cũng chính là sự
tôn trọng tự nhiên, sự dung nhập giữa con người vào thiên nhiên một cách hài
hòa và thống nhất trong chỉnh thể sinh thái. Có thể thấy toàn bộ thế giới tự
nhiên mang tính biểu tượng hay gắn liền hiện thực cuộc sống nơi thôn dã thì
đó đều là những môi sinh gần gũi với con người Việt Nam xưa cả về mặt vật
chất lẫn tinh thần. Thế giới đó là nơi Lê Thánh Tông và các thi nhân Hồng
Đức vốn đã trải nghiệm, tận hưởng và tìm sự cân bằng cho tâm hồn sau những
hoạt động chính sự căng thẳng.
Đứng từ điểm nhìn phê bình sinh thái, việc tái hiện hệ sinh thái đa dạng
loài và sự tái hiện nhịp thiên nhiên dựa trên sự quan sát biểu hiện của vạn vật
là biểu hiện của thẩm mĩ sinh thái, của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái. Tất
nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý rằng, việc phân chia các loài động vật và thực
vật thành các loài “cao quý” và “bình dân” lại là quan điểm thẩm mĩ phi sinh
thái cần được loại bỏ trong văn chương nhà Nho nói chung và trong
HĐQÂTT nói riêng.
55
Chương 3
MỐI QUAN HỆ THIÊN NHIÊN - CON NGƯỜI TRONG
HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
Từ thuở hồng hoang của loài người cho đến nay, giữa thiên nhiên và
con người luôn có mối quan hệ khăng khít và biện chứng. Vì vậy, nghiên
cứu mối quan hệ giữa nhiên nhiên và con người là một trong những vấn đề
trọng tâm của phê bình sinh thái. Ở chương này, chúng tôi sẽ phân tích mối
quan hệ thiên nhiên - con người trong HĐQÂTT thể hiện qua thiên nhiên -
con người tương dung giao hòa và thiên nhiên - đối tượng đề vịnh.
3.1. Thiên nhiên - con người tương dung giao hòa
Một trong những đặc điểm của con người phương Đông nói chung và
người Việt Nam nói riêng thời trung đại là cố gắng sống hòa hợp với thiên
nhiên. Điều này được thể hiện rất rõ rệt trong các sáng tác thơ văn Lý - Trần,
thơ văn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Trong HĐQÂTT, điều này
cũng được thể hiện. Con người trong tập thơ không tách rời tự nhiên mà luôn
hòa hợp cùng tự nhiên, dung nhập vào tự nhiên.
Sự tương dung giao hòa này được thể hiện trước hết ở sự hòa quyện của
con người vào nhịp thiên nhiên, vào “khí” của đất trời.
Trong bài Lại vịnh cảnh mùa xuân, ta bắt gặp bức tranh các thi sĩ rung
động trước cảnh đẹp của mùa xuân, ngắm vườn Thượng uyển, hòa nhịp cùng
nhựa sống căng tràn của vạn vật:
“Từ thuở Đông hoàng chịu lấy quyền,
Thiều quang làm cảnh rạng xuân thiên.
Đường hoa chấp chới tin ong dạo,
Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền.
Ả Ngụy, nàng Diêu khoe đẹp đẽ,
Người thơ khách rượu rộn mời khuyên”.
(Lại vịnh cảnh mùa xuân)
56
Đây là một trong những bài thơ vịnh mùa xuân rất hay của các thi sĩ Tao
Đàn. Mùa xuân đến, “Đông hoàng” nhượng quyền cho chúa Xuân. Trước ánh
sáng ấm áp, rạng rỡ, muôn hoa đua nở, ong bướm rập rờn hữu tình, con người
như được trở về với bản ngã của mình để trở thành “người thơ”, “khách rượu”
mà ngâm vịnh cảnh thần tiên. Thiên nhiên làm đẹp con người hay chính con
người với những “người thơ”, “khách rượu” đã làm cho bức tranh thiên nhiên
mùa xuân tươi trẻ hữu tình? Đó là câu hỏi khó trả lời, bởi lẽ ở đó, con người và
thiên nhiên đã giao hòa cùng nhau trong sự đổi thay của đất trời.
Không chỉ có mùa xuân ấm áp tươi vui con người mới giao dung cùng
nhịp điệu của thiên nhiên đất trời. Ngược lại, ngay cả mùa hè nhiệt đới nóng
bức, con người cũng hòa nhịp cùng thiên nhiên:
Từ thuở Chu minh chịu lệnh hè,
Thừa lương đình viếng sáng bằng the.
Ngày chầy, đêm kíp sầu hồn bướm,
Lá rụng, hoa tàn động xác ve.
Ngoài cửa đùn đùn tan bóng trúc,
Công dường thay thảy phủ màn hòe.
Thi nhân khi ấy chi làm bạn,
Một triện trầm hương một chén chè.
(Lại vịnh cảnh mùa hè)
Ngay cả khi mùa đông băng giá có kéo đến thì thi nhân cũng không hề
sợ hãi hay lo lắng. Bởi lẽ họ đã hiểu được vận khí của đất trời và hòa mình
vào vận khí ấy:
Từ thuở Huyền minh chịu lệnh đông,
Vù vù đòi chốn trận kim phong.
Canh chầy ngọc lậu trong băng tuyết,
Đêm lọt lưu tô lạnh nữa đồng.
Thượng uyển cúc tàn năm bảy lá,
La phù mai chiếng một hai bông.
57
Bốn mùa mựa chửa lầu canh hết.
Thanh Vũ đều làm phải đạo trung.
(Lại vịnh cảnh mùa đông)
Sự giao hòa tương dung giữa con người và thiên nhiên không chỉ thể
hiện qua sự hòa nhịp vào nhịp thiên nhiên, vào sự chuyển vận của đất trời mà
còn được thể hiện ở sự thả hồn vào những cảnh đẹp của tự nhiên.
Bài thơ “Bạch Nha Động” thể hiện sự thư thái khi thăm thú cảnh đẹp tự
nhiên của các thi sĩ Tao Đàn:
“Một chốn kiền khôn một chốn xuân,
Đã dành phong cảnh thú thanh tân.
Quanh co nước biếc doành muôn khảm,
Chồng chập non xanh đá mấy lần,
Quét bụi trần không một sở,
Xui lòng khách hứng mười phân.
Nhàn nào đấng thánh xem ngày trước,
Biết được hư không máy có thần”.
(Bạch Nha động)
Thiên nhiên được khắc họa qua những hình ảnh động vừa có vẻ đẹp lung
linh lại mang vẻ đẹp hoang sơ. Động Bạch Nha nằm ở huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa, nằm ở phía tả núi Thần Phù. Trong hang có rất nhiều dơi nên còn
được gọi là Bạch Ác động. Trong động có chùa và một tòa tượng phật có bia
đá dài một trượng sáu thước. Trên đó có khắc chữ phật to. Theo Lê Quý Đôn
đó là bút tích của vua Lê Thánh Tông. Điều đó thấy rằng cảnh ở hang động
này rất đẹp và linh thiêng mới khiến bậc đế vương dành thời gian để thăm thú
và làm thơ, để bút tích của mình lại trên đó. [10, tr44]
Con người trong tập thơ dung nhập vào thiên nhiên để tìm hiểu khám
phá nó, và thiên nhiên giúp cho tâm trạng con người trở nên thư thái:
“Ngước mặt trông lên Phật Tích san,
Non cao vòi vọi khác phàm giang.
58
Chim bay rặng liễu dường thoi dệt,
Nước chảy ao sen tựa suối đàn.
Thông bảy tám hàng che kiểu tán,
Mây năm ba thức phủ thay màn.
Thi nhân rằng có đâu hơn nữa.
Cho khách xin làm một bức đoan”.
(Phật Tích sơn tự)
Những nét vẽ hết sức giản dị bằng ngôn từ nhưng lại tôn lên vẻ đẹp bình dị,
mộc mạc mà không hề ảm đạm của chùa núi Phật Tích. Cảnh thiên nhiên đẹp
một cách thanh tĩnh khiến lòng người trở nên an yên, toàn tâm ngắm cảnh và hòa
mình vào vạn vật xung quanh để rồi thốt lên: “Thi nhân rằng có đâu hơn nữa/
Cho khách xin làm một bức đoan”.
Trong bài Ức hữu, ta lại thấy thiên nhiên và con người như có sự giao hòa,
đồng cảm:
“Thu tĩnh trời tà chiếc nhạn khơi
Chạnh lòng sẽ nhớ kẻ xa xôi”
(Ức hữu)
Trong bài thơ này, cảnh vật mang hơi hướng của giờ khắc “trời tà”,
không gian thu tĩnh lặng và mênh mông. Nhân vật trữ tình cũng có sự khắc
khoải vì “ức hữu” không yên. Giờ khắc ngày tàn lại thêm không gian thu lành
lạnh, với chút heo may làm thành chất xúc tác cực mạnh cho những cung bậc
cảm xúc trào dâng của con người.
Trong HĐQÂTT, thiên nhiên như một bức tranh sơn thủy hữu tình với
đầy những: phong, hoa, tuyết, nguyệt với đường nét vẽ thanh thoát, nhẹ nhàng
với màu sắc êm dịu, hài hòa không thua kém gì những bức tranh thủy mặc.
Các bài thơ như: “Tuyết”, “Nguyệt”, “Phong”, “Hoa”, “Vịnh năm canh”…
đều tái hiện những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp:
“Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc
Sườn núi chim gù ẩn lá xanh”
(Vịnh năm canh)
59
Hai câu thơ với màu sắc nhạt, nét vẽ thanh giống như một bức tranh lụa
mềm mại vừa hư vừa thực. Màu sắc nhạt lạnh, nét vẽ thanh nhưng lại ấm áp
hơi thở cuộc sống tạo nên cảnh vật vừa thơ mộng nhưng lại rất thực.
Số lượng các bài thơ viết về: phong, hoa, tuyết, nguyệt chiếm ưu thế
trong tập thơ HĐQÂTT. Trong đó số lượng bài viết về trăng là khá nhiều.
trong “Phẩm vật môn” và “Thiên địa môn” có 20 bài thơ viết về trăng như:
“Nguyệt”, “Trào nguyệt”, “Thu thiên nguyệt lãng”, “Nguyệt trung đan
quế ”…Trăng được miêu tả ở nhiều góc độ khác nhau:
“Gương soi vằng vặc soi muôn dặm,
Bóng tỏ làu làu suốt mấy canh.
Ngẫm xem khi tượng hình dung ấy
Chợt ló ra thì lạt chúng tinh”
(Nguyệt)
Ánh sáng của vầng trăng soi tỏ khắp nhân gian, các vì sao đều bị phai
mờ bởi ánh sáng của trăng làm mọi vật đều thơ mộng và huyền ảo.
Dưới ngòi bút của các thi sĩ Tao Đàn hoa cũng là một giống đẹp lạ, vừa
ngát hương thơm, vừa tinh khiết:
“Cửa ngọc sinh thành giống lạ dường
Hoa hoa đua nở nức mùi hương.
Má hồng mới học (dồi) phấn
Nhụy ngọc chưa hề bén sương…”
(Hoa)
Ở những cảnh trí núi non, sông biển thi nhân lại say sưa miêu tả cái hùng
vĩ bao la. Trong bài thơ vịnh “Núi Thần Phù” thì nhà thơ lại từ đỉnh cao
phóng tầm mắt bao quanh cả một vùng nước non ngút trời mây:
“Muối pha bãi bạc sông sâu hoáy,
Chàm nhuộm cây xanh núi tuyệt mù.
Khói quán, mây ngàn tuôn ngùn ngụt.
Chợ quê, sóng bể dức ù ù…
(Thần Phù Sơn)
60
Hay Động Bạch Nha trong bài thơ sau mở ra trước mắt ta một vùng non
xanh nước biếc:
“Quanh co nước biếc doành muôn khảm,
Chồng chập non xanh đá mấy lần.
(Bạch Nha động)
Phong cảnh tự nhiên hiện ra muôn hình vạn trạng dưới ngòi bút của các
thi nhân của hội Tao Đàn: “Tiếng chuông Phả Lại, cảnh nguyệt Bình Than,
những tua mây trắng, những ráng đỏ dưới bến sông Phù Thạch, những ngọn
núi đứng chon von ở xứ An Bang tất cả đều gợi lên lòng tự hào về đất nước
tươi đẹp của ta”.[20, tr34]
Trong phần đầu “Phong cảnh môn”, các tác giả đã vẽ lên tám bức tranh
Tiêu Tương bát cảnh với: một dòng sông đầy tuyết, một tiếng chuông chiều
vọng ra từ ngôi cổ tự ẩn mình trong mây khói, một bóng buồm về đêm, cảnh
chợ đầy tuyết lúc chiều về, một bãi cát trên sông, một vầng trăng thu trên Hồ
Động Đình. Dưới con mắt của các thi sĩ Tao Đàn, tất cả cảnh vật đều mang
phong vị thanh thoát tạo nên không gian rộng, đa chiều, đa sắc. Dưới đây là
một bài thơ miêu tả cảnh đẹp và thơ mộng của thiên nhiên:
“Thu cao hồ sạch nguyệt bằng ngày
Đáy nước trên không một dạng tày
Cây dựng non Yên xanh dễ thấy
Cát in bãi Sở bạc khôn thay.
Dòng lam nghìn dặm quyến phẳng,
Hương quê ba canh gió bay”
(Động Đình thu nguyệt)
Ánh trăng soi rọi làm không gian sáng chói như ban ngày “nguyệt bằng
ngày”. Con mắt nhà thơ như nương vào ánh trăng để chụp lại cảnh Động Đình
hồ. Cảnh như được kéo dài ra theo cái dòng lụa mỏng xanh lơ lững lờ trôi êm
đềm xa ngàn dặm. Từ Non Yên cây dựng đến bãi Sở cát in là kích thước mà
không phải ai cũng thu vào được trong hai dòng ngắn ngủi ấy. Các tác giả đã
61
làm được việc “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non mà không cần phải
“đăng cao” như các bậc nho sĩ thường làm.
Trong HĐQÂTT đã có trên 20 lần các thi sĩ viết về hình ảnh ánh trăng,
không gian trăng. Dường như các thi nhân mượn hình ảnh ánh trăng ấy để soi
chiếu vào vạn vật, để tô đậm cái bao la, kì vĩ của non nước Đại Việt mỹ tú:
“Lầu ngọc gương giơ soi mọi nước
Tán vàng xe gác ruổi năm canh”.
(Họa vần bài vịnh trăng bài 1)
“Khuôn cả treo lên khá hữu tình
Hòa cao hòa sáng vuỗn hòa thanh.
Gương giơ vằng vặc soi muôn dặm
Bóng tỏ làu làu suốt mấy canh”
(Nguyệt)
“Giang sơn thành thị soi muôn dặm
Thảo mộc côn trùng rỡ mấy canh”
(Họa vần bài vịnh trăng bài 5)
Không chỉ có phong, hoa, tuyết, nguyệt mới gợi cảm hứng cho các nhà
thơ thời Hồng Đức sáng tác. Mà cảnh sơn thủy hữu tình, non nước kì nhược
thơ mộng, trữ tình trong tập thơ cũng là những yếu tố tạo ra nguồn cảm hứng
cho thi nhân sáng tác. Trong những cảnh hùng vĩ, bao la ấy nhà thơ như hòa
vào thiên nhiên để say sưa vẽ các bức tranh tuyệt mĩ bằng ngôn từ sống động.
Sơn thủy so xem chốn hữu tình
Chưng đây mừng thấy lạ hòa thanh.
Dăng ngang biển, chờn vờn lớn,
Cao chọc trời, ngần ngật xanh.
Muôn kiếp chầu về đến Bắc- cực.
Ngàn thu chống khỏe cõi Nam- minh
Thiên hạ nào ai chẳng biết danh
(Song- Ngư sơn)
62
Các nhà thơ trong hội Tao Đàn đã thu hết vẻ đẹp hùng vĩ của núi Song
Ngư: núi như hai con cá khổng lồ đang bơi lội trên làn sóng bạc, ngàn năm
canh giữ cho cõi Nam được hòa bình, thịnh trị.
Vì hòa vào thiên nhiên vạn vật nên các thi sĩ của Hội Tao Đàn đã miêu tả
nhiều cảnh đẹp tự nhiên của núi sông hùng vĩ:
“Phân cõi Nam châu đất ái châu,
Bút Vương khôn mạc cảnh Thần Phù.
Muối pha bãi bạc sông sâu hoáy,
Chàm nhuộm cây xanh núi tuyệt mù.
Hói quán, mây ngàn tuôn ngùn ngụt,
Chợ quê, sóng biển dức ù ù.
Kìa ai rửa sạch trong niềm tục,
Một chiếc thuyền câu trở nguyệt thu”.
(Thần Phù Sơn)
Cảnh ngút ngàn của non nước trời mây Thần Phù được miêu tả hết sức
độc đáo. Núi non hòa quyện vào nhau làm bức tranh thủy mặc thêm sinh động.
Núi nằm ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Trong nét vẽ bức tranh ấy có sự
xuất hiện hoạt động con người, hình ảnh con người như một điểm nhấn, gợi
cảm giác núi non hiểm trở hung dữ nhưng rất thân thiện với con người “Một
chiếc thuyền câu trở nguyệt thu”.
Ngoài những hình ảnh thiên nhiên của núi sông là nơi để các thi nhân
thưởng ngoạn, thăm thú thì chùa chiền, miếu mạo cũng là nơi lí tưởng để các
thi sĩ trong hội Tao Đàn đắm mình, thả hồn mình vào đó:
“Vểnh mặt trông lên Phật Tích san
Non cao vòi vọi khác phàm giang.
Chim bay rặng liễu dường thoi dệt,
Nước chảy ao sen tựa suối đàn”.
(Chùa Phật Tích)
63
Khi con người có khả năng nghe được tiếng than thở hay tiếng nhạc vui
của thiên nhiên thì sẽ có cách cư xử đúng đắn với nó như những sinh thể có
tâm hồn và cuối cùng con người sẽ cảm nhận từ nó những điều tương tự. Các
thi nhân không chỉ lắng tai nghe “đàn nước” ở ao sen mà còn được “mãn
nhãn” với cái “xanh mát” của rừng thông bạt ngàn:
“Thông bảy tám hàng che kiểu tán,
Mây năm ba thức phủ thay màn.
Thi nhân răng có đâu hơn nữa,
Cho khách xin làm một bức đoan”.
(Phật Tích sơn tự)
Chốn thanh tịnh được khắc họa với những nét vẽ mộc mạc, giản dị
nhưng không hề ảm đạm. Ngược lại rất thanh tĩnh khiến tâm con người trở
nên thư thái hòa mình vào cảnh vật xung quanh.
Kiền khôn vạn thiểu một bầu đông
Nẩy nẩy siêu nhiên chỉn lạ lung.
Hương vũ trăng thiền soi vằng vặc,
Vân song tiu ngọc nện boong boong.
Trì thanh leo lẻo ngư long hội,
Non diễu trùng trùng cẩm tú phong.
(Chùa Thiên Phúc)
Tạo vật dưới ngòi bút của các thi sĩ trong hội Tao Đàn khi miêu tả về
chùa Thiên Phúc thật sinh động, từ đường nét, hình khối, màu sắc, âm thanh
quyện lấy nhau. Giống như thiên nhiên vạn vật nơi đây đang giao hòa với
nhau trong một điệu hợp xướng hài hòa, dưới một khung cảnh diễm lệ của tạo
hóa, khiến con người say sưa mà thưởng ngoạn ngây ngất.
Miêu tả ngôi chùa trên núi, các tác giả miêu tả vẻ đẹp thanh tịnh, ý nhị
nhưng mang vẻ đẹp kín đáo của một ngôi chùa cổ:
Hoa nở châu rơi màu hổ phách,
Rêu in cỏ mọc thức đồi mồi
(Lại vịnh chùa Pháp Vân)
64
Như vậy, dù là ngôi đền, cửa biển, ngọn núi hay dòng sông, trong cảm
quan của các nhà thơ, thiên nhiên vạn vật đều có linh hồn, vận mệnh và uy
linh. Các nhà thơ đã đắm mình vào cảnh vật, giao hòa cùng cảnh vật để cảm
nhận vẻ đẹp của thiên nhiên.
Bên cạnh sự giao hòa của nhân vật trữ tình với đất trời cảnh vật là sự
nhập cuộc của con người với môi sinh. Các thi sĩ đã phát hiện ra sự giao hòa
trong cuộc sống của người dân với môi sinh quanh họ, với những cảnh vật
giản dị trong cuộc sống hằng ngày:
“Pha lê muôn khảm thức lom om
Xảy thấy thằng chài đứng đấy nom.
Manh áo quàng, mang lụp xụp,
Quai chèo xách, đứng lom khom.
Ngư hà vẫy tay trú ẩn,
Âu lộ hay cơ ngó nhòm.
Có kẻ làm ơn nheo nhẻo mách,
Kìa kìa Phạm Lãi mái kia mom.
(Ngư)
Hình ảnh người ngư dân được thi nhân miêu tả một cách tỉ mỉ và chi tiết:
“Manh áo quàng, mang lụp xụp/ Quai chèo xách, đứng lom khom”. Đây
không phải là công việc xa lạ đối với người dân vì là những công việc hằng
ngày nhưng qua những nét vẽ của các thi sĩ Tao Đàn ta mới có dịp được ngắm
kĩ càng công việc của người ngư dân: Người ngư dân lom khom với manh áo
xộc xệch chèo lái con thuyền để làm công việc hàng ngày của mình. Hình ảnh
người lao động hiện lên trên nền trời sáng trong của bức tranh. Khoảng nước
sáng trong lấp lánh như pha lê, dưới làn nước ấy là từng đàn cá tôm quẫy
nước tìm nơi trú ẩn. Những hình ảnh này khiến người đọc dễ dàng liên tưởng
đến hình tượng người ngư dân được tác giả so sánh với Phạm Lãi - thời Xuân
Thu, làm quan nước Việt sau khi giúp Câu Tiễn diệt giặc Ngô báo thù cho
nước Việt thì buông thuyền đi ngao du ở ngũ hồ. Cách so sánh này khiến ta
65
liên tưởng đến hình ảnh người dân làng chài không phải đang lao động miệt
mài trên vùng sông nước mà đang ngao du, đang được “mẹ thiên nhiên” chiều
chuộng cho tôm cá.
Sự giao hòa giữa con người với môi sinh cũng được thể hiện rất độc đáo
qua bài thơ Ngư giang hiểu vọng:
Sông lồng lộng, nước mênh mênh,
Lườn lượn chèo qua nép nép mình.
Gió hiu hiu, thuyền bé bé,
Mưa phún phún, nón kềnh kềnh.
Chuông chiền mỗi mỗi coong coong going,
Mõ xã lâu lâu cốc cốc lềnh.
Bến liễu đâu đâu tìm mộng mộng,
Đường về than than, nguyệt chênh chênh.
(Ngư giang hiểu vọng)
Ngay cả việc đi cày vốn rất nặng nhọc nhưng cũng được các tác giả Hội
Tao Đàn miêu tả trong sự hòa hợp giữa con người với thế giới bên ngoài:
Năm canh bố cốc tiếng kêu om,
Leo lẻo canh phu sớm đã nom.
Gió ngàn xanh, xoay nón lệch,
Mưa núi lục, cúi lưng khom.
Lều Nam - dương đã khoan chân đứng,
Non Phú - xuân qua cất mặt nhòm.
Tấc đất, tấc vàng yêu bấy tá,
Mồ hôi dồn dọi thuở đầu mom.
(Canh)
Nói tóm lại, qua những bài thơ trong HĐQÂTT, chúng ta thấy được
mối quan hệ nhiên nhiên - con người giao hòa tương dung. Sự giao hòa ở đây
được thể hiện ở các khía cạnh: sự hòa quyện của con người vào nhịp thiên
nhiên, vào “khí” của đất trời; sự thả hồn vào những cảnh đẹp của tự nhiên và
66
sự nhập cuộc của con người trước môi sinh. Điều này thể hiện khá rõ nguyên
tắc dung nhập của thẩm mĩ sinh thái. Khi con người dung nhập vào tự nhiên,
họ sẽ thấu hiểu và biết lắng nghe tự nhiên, họ sẽ tôn trọng tự nhiên.
3.2. Thiên nhiên - đối tượng đề vịnh
Thiên nhiên trong thơ ca trung đại được cảm nhận như một chủ thể có
tâm sự, có phẩm chất, có đạo đức. Trong sáng tác của các nhà Nho, không
gian thiên nhiên trở thành môi trường lí tưởng để gửi gắm cảm xúc của các thi
sĩ. HĐQÂTT là một trong những tập thơ thể hiện điều này. Nhà vua Lê Thánh
Tông cùng các thi nhân của hội Tao Đàn coi thiên nhiên giống như một đối
tượng thẩm mĩ để qua đó gửi gắm những phát ngôn của mình về cuộc đời, thế
thái. Chính vì vậy mà trong tập thơ này ta thấy số lượng lớn các bài thơ vịnh
về thiên nhiên. Theo GS.TS Trần Nho Thìn, “Thơ đề vịnh trước hết là thơ nói
chí của nhà Nho, nhân vật đạo đức - chính trị, người nhìn thấy ở các hiện
tượng thiên nhiên một biếu tượng cho nhân cách đạo đức. Tùng (thông) giữa
tiết trời mùa đông lạnh giá vẫn ngạo nghễ xanh tươi; hoa cúc riêng nở vào
mùa thu khi các loài hoa khác tàn tạ; hoa lan là giống hoa đầu tiên báo hiệu
xuân về; cây trúc thân đứng thẳng, không cong vẹo uốn éo như các loài cây
khác… Các loài cây, loài hoa này dường như mỗi loài có một nét độc đáo,
song đều gặp gỡ nhau ở khí tiết hiên ngang, ở vẻ hiên ngang bất khuất, ở khả
năng dám đi ngược dòng đời đã được nhà Nho chọn làm biểu tượng cho
phẩm chất, nhân cách,bản lĩnh họ”.[31, tr 109]
Nói về thơ đề vịnh thiên nhiên trong HĐQÂTT, tác giả Trần Quang
Dũng trong bài viết Thơ đề vịnh Thiên nhiên trong HĐQÂTT nhận định: “Thơ
thiên nhiên trong HĐQÂTT phần nhiều được lựa chọn theo các khuôn mẫu
nghệ thuật ước lệ của văn chương Nho giáo, của thơ Đường luật … tuy số
lượng bài thơ thiên nhiên trong tập thơ khá phong phú nhưng đề tài lại hạn
định, đơn điệu… Hơn thế, trong nhiều trường hợp, thiên nhiên trong tập thơ
chỉ còn là cái cớ để các nhà thơ tán dương công đức của “minh quân lương
thần” hoặc ca tụng chế độ phong kiến…”[5, tr23]
67
3.2.1. Thiên nhiên tượng trưng cho vẻ đẹp minh quân lương thần
Thời vua Lê Thánh Tông được coi là thời đại hoàng kim của chế độ
phong kiến Việt Nam. Nhà vua đã tiến hành một loạt cải cách đưa đất nước
Đại Việt vào thời kì phát triển thịnh trị. Dưới triều Lê nhân dân ca ngợi cuộc
sống ấm no, hạnh phúc của đất nước:
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Lúa tốt đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”
Nhà Lê được đánh giá là triều đại được lòng dân nhất trong các triều đại
phong kiến Việt Nam. Dưới triều Lê Thánh Tông đất nước thịnh trị, thái bình,
nhà vua anh minh, tài giỏi, yêu nước thương dân. Do đó muôn dân được
hưởng an vui, hạnh phúc. Tập thơ HĐQÂTT đã dành một phần lớn những
trang thơ để ca ngợi minh quân.
Mở đầu phần “Nhân đạo môn” là bức tự họa về một vị vua lí tưởng:
“Lòng vì thiên hạ những sơ âu,
Thay việc trời, dám trễ đâu.
Trống dời canh còn đọc sách,
Chiêng xế bóng, chửa thôi chầu.
Nhân khi cơ biến xem người biết,
Chửa thuở kinh quyền xét lẽ mầu,
Mựa biểu áo vàng chăng có việc,
Đã muôn sự nhiệm trước vào tâu.
(Tự thuật)
Đây là bài tự thuật của vua Lê Thánh Tông nói lên trách nhiệm của ông
vua trị vì một nước. Dưới chế độ phong kiến, vua được coi là sự thiêng liêng,
kính trọng của muôn dân vì nắm giữ toàn bộ quyền lực. Nhất là trong thời
loạn với thói xa hoa, trụy lạc và tàn bạo của vua chúa khiến muôn dân căm
ghét và oán giận. Nhưng ông vua trong bài Tự thuật này thì lại không như vậy
luôn canh cánh trong lòng nỗi lo cho muôn dân vì vậy mà canh cánh trong
lòng trách nhiệm lớn lao trên vai: “Trống dời canh còn đọc sách/ Chiêng xế
bóng chửa thôi chầu”. Phải là vị vua yêu dân yêu nước đến nhường nào thì
68
mới có thể hi sinh bản thân nhiều đến vậy. Thật đúng với lời ngợi ca của học
sĩ Đào Cừ: “Từ khi đức vua lên ngôi, trong ngoài đều phục, mưa nắng thuận
hòa, dân yên vật thịnh”[24, tr21]
Cũng giống như nhiều thi nhân khác, các tác giả thời Hồng Đức miêu
tả thiên nhiên cũng chính là để tưởng nhớ, ngợi ca các bậc anh hùng hào
kiệt của đất nước, để phát biểu những liên tưởng mang ý nghĩa triết học
về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, để suy tưởng về những vấn
đề lớn lao của dân tộc.
Trong nhiều trường hợp, thiên nhiên trong tập thơ là cái cớ để các thi
nhân tán dương “minh quân lương thần”. Ở chùm thơ xướng họa về trăng
(10 bài), các thi sĩ trong Hội Tao Đàn đã thông qua việc miêu tả ánh trăng,
xưng tụng trăng, ca ngợi trăng để ca ngợi vua, ca ngợi sự tài giỏi, cao cả vĩ
đại, sáng suốt của vua:
“Khuôn cả treo lên khéo hữu tình,
Hòa cao, hòa sáng vuỗn hòa thanh.
Gương giơ vằng vặc soi muôn dặm,
Bóng tỏ làu làu suốt mấy canh…
Ngẫm xem khí tượng hình dung ấy,
Chợt ló ra thì lạt chúng tinh”
(Nguyệt)
Hay:
“Suốt nhân gian khắp mọi tình,
Cao vòi vọi, sáng thanh thanh
Đúc muôn tượng lại và phần bóng,
Thu chín châu về một khắc canh.
Nhiều thưở rây vàng tương gác đỏ,
Ghê phen nhả ngọc thếp cung xanh.
Càng cao càng sáng trên ngôi ấy,
Càng tỏ huân danh đấng tướng tinh”.
(Họa vần bài vịnh trăng II)
69
Tả trăng với ánh sáng lan tỏa khắp mọi nơi, các nhà thơ Hồng Đức đã
tìm thấy mối giao hòa tuyệt đối giữa thiên nhiên và con người, giữa cái
“khuôn cả” với ngôi báu của bậc chí tôn nói cách khác là họ đang ca ngợi vị
minh quân của mình. Cái bóng tỏ “làu làu”, cái ánh sáng “vằng vặc” “ruổi
khắp năm canh” trùm lên khắp nhân gian ấy chính là mĩ đức của minh vương
đương triều chứ không phải là gì khác [5,tr22]
Bởi lẽ vào thời điểm đó Đại Việt đang trong giai đoạn hưng thịnh nhất,
nền kinh tế, văn hóa, xã hội có những bước tiến đáng kể nhờ vào vua sáng tôi
hiền. Công đức của nhà vua trải rộng khắp mọi nơi. Nói cách khác, xưng tụng
hay ca ngợi trăng đến tuyệt vời, tuyệt đỉnh như vậy không ngoài mục đích ca
ngợi sự thông minh, tài giỏi, cao cả, thấu suốt, thông minh của nhà vua.
Bên cạnh việc mượn hình ảnh trăng với lớp nghĩa biểu tượng để “tán dương
minh quân lương thần”. Trong HĐQÂTT, hệ thực vật phải kể đến các loài quen
thuộc đã từng xuất hiện trong văn học cổ như: tùng, cúc, trúc, mai là những hình
ảnh tượng trưng cho phẩm chất cao quý, tốt đẹp của người quân tử. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Kim Sơn cho rằng: “Nhân cách ấy cứng cỏi như trúc, thanh khiết
như bông mai, ưu trội như cúc vàng trong tiết thu. Nhân cách ấy được nhìn nhận
là thiên tính bất biến như cây tùng, cây bách. Những tùng, cúc, trúc, mai với phẩm
chất thiên phú ưu việt thực chất là những phù hiệu nghệ thuật, là công cụ ngoại
hóa cho cái đẹp của tinh thần nội tại, cái đẹp nhân cách nhà Nho”.[26]
Trong tập thơ HĐQÂTT ta cũng thấy biểu tượng “Tùng” xuất hiện trong
thơ cũng có lớp nghĩa biểu đạt ấy:
“Tán xanh ngột ngột rợp hư không
Qua mấy trăm thu thuở bão bùng
Tiết cứng chẳng kinh sương tuyết bén,
Tài cao dưỡng để miếu đường dùng.
Kỳ- viên giống lạ nào so kịp,
Dữ lĩnh danh thơm dễ sánh cùng.
Ngượng thấy tam công đeo chức trọng,
Đại phu há những chịuTần phong”.
(Tùng thụ)
70
Tùng, cúc, trúc, mai là đề tài quen thuộc của thi ca trung đại. Bài thơ “tùng
thụ” của các tác giả Hồng Đức bên cạnh việc thể hiện khí phách quân tử:
“Tiết cứng chẳng kinh sương tuyết bén,
Tài cao dưỡng để miếu đường dùng”.
Tùng còn được họ nhìn với tầm vóc sừng sững tạo thành một không gian
rợp cả hư không:
“Tán xanh ngột ngột rợp hư không
Qua mấy trăm thu thuở bão bùng”.
Cây tùng có tầm vóc thật hùng vĩ, tán lại xanh che rợp cả hư không
khiến người đứng ngoài thấy mình thật nhỏ bé khi nhìn vào đó. Nhưng ta có
thể hiểu tả tùng nhưng cũng chính là tả khí phách của vua quan thời Hồng
Đức muốn tu tài dưỡng đức để phục vụ vương triều.
Ta cũng bắt gặp vần thơ đề vịnh để ca ngợi lương quân minh thần trong
bài “Tết nguyên đán 2”:
Âm dương hai khí mặc xoay vần,
Nẻo quá thì đông đến tiết xuân.
Chân ngựa rong khi tuyết tĩnh,
Hàng loan sắp thuở canh phân.
Chín trùng chăm chắm ngôi hoàng cực,
Năm phúc hây hây dưới thứ dân.
Mây họp đền nam chầu chực sớm,
Bên tai dường mảng tiếng thiều quân.
(Tết nguyên đán 2)
Mùa xuân đã đến, không khí xuân tràn ngập khắp nơi. Nhân dân dưới
thời Hồng Đức đang được hưởng sự thái bình, yên vui, hạnh phúc. Họ dâng
lên vua những lời chúc tụng tốt đẹp nhất. Bên cạnh lời ca chúc tụng đó hàm
chứ sự ca ngợi công lao to lớn của nhà vua. Nhờ có vị vua anh minh, sáng
suốt nên dân mới được an yên, thái bình:
“Chín trùng chăm chắm ngôi hoàng cực,
Năm phúc hây hây dưới thứ dân”.
71
Công đức lớn lao ấy được mọi người ngợi ca, ghi nhận bằng cả tấm lòng
chứ không phải là những lời nịnh bợ, sáo rỗng, giả tạo.
Trong bài “Họa vần Tết nguyên đán”:
“Ba dương đã gặp thuở thì vần,
Bốn bề đều mừng một chúa xuân.
Nức ngai vàng, hương mấy hộc,
Trang cửa phương, ngọc mười phân.
Trời lộng lộng hay lòng thánh,
Gió hây hây khắp muôn dân.
Nhờ ấm nhân khi hênh bóng nắng,
Ước dâng muôn tuổi chúc ngô quân”.
(Họa vần bài Vịnh Tết nguyên đán)
Các thi sĩ đã dành những lời chúc tụng, ngợi ca dâng lên vua nhân dịp
Tết nguyên đán: “Bốn bề đều mừng một chúa xuân”, “Nức ngai vàng, hương
mấy hộc, Trang cửa phương, ngọc mười phân”, “Ước dâng muôn tuổi chúc
ngô quân”. Đồng thời đó còn là sự ghi nhận công đức của đấng minh quân:
“Trời lồng lộng hay lòng thánh, Gió hây hây khắp muôn dân”.
Để một đất nước yên bình thịnh vượng như vậy chắc chắn không chỉ dựa
vào một mình “chúa xuân” mà đó còn là sự góp sức, tương hỗ của cả một
triều thần dưới quyền vua. Vì vậy vua anh minh là vị vua biết dùng người tài,
quy thuận được lòng người. Đó là niềm tự hào của tôi hiền chọn được vua
sáng. Những bài thơ vịnh về trăng non, về con cóc, hay về tùng trúc cúc mai
trong tập thơ chắc chắn là biểu tượng cho những vị quan cận thần của nhà vua
hay chí khí của những người quân tử đương thời.
Dưới sự ngự trị của nhà vua Lê Thánh Tông, đất nước Đại Việt cực kì
thịnh vượng, được coi là đỉnh cao của chế độ phong kiến, trong điều kiện đó
thơ ca phản ánh điều này là một điều tất yếu.
72
3.2.2. Thiên nhiên tượng trưng cho xã hội thịnh trị, an yên
Dưới thời kì vua Lê Thánh Tông trị vì, nhà nước Đại Việt đạt được
nhiều thành tựu trên mọi phương diện từ kinh tế, văn hóa, xã hội, đến quân
sự, giáo dục... Có thể coi đây là thời kì hoàng kim nhất của chế độ phong
kiến Việt Nam. Tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng đánh giá: “Lê Thánh
Tông là ông vua ở ngôi gần như lâu nhất trong lịch sử Việt Nam. Nhưng
điều đáng nói không phải vì ông ở ngôi lâu mà vì những đóng góp của
triều vua này vào đời sống mọi mặt của quốc gia Đại Việt cường thịnh thời
đó”[24, tr41]
Cũng dưới thời Hồng Đức, Bộ Luật Hồng Đức được ban hành và được
coi là bộ luật tiến bộ nhất trong thời kì chế độ phong kiến Việt Nam, không
những góp phần quan trọng làm hưng thịnh đất nước, mà còn xác lập những
trật tự mới trong xã hội. Nền giáo dục phong kiến thời kì này cũng phát triển
rất mạnh mẽ chính vì vậy mà văn học rất phát triển.
Đặc biệt, trong không khí thái bình thịnh trị của thời đại Hồng Đức văn
hóa nghệ thuật được nhà vua khuyến khích phát triển nhất là sáng tác thơ
Nôm đường luật. Trong HĐQÂTT có khá nhiều bài thơ được các thi nhân
trong Hội Tao Đàn gửi gắm vào các hình ảnh thiên nhiên để tụng ca chế độ
phong kiến.
Trong chùm thơ Vịnh năm canh các thi sĩ Tao Đàn đã thể hiện rõ điều
này. Chùm thơ không chỉ giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp, sự chuyển biến tinh
tế của thiên nhiên mà còn thấy được sự chuyển vận của con người trong đó
bằng những bức tranh sinh hoạt thường ngày của nhân dân dưới triều đại
Hồng Đức. Và chắc chắn, đó là một triều đại thịnh trị an yên:
“Chấp chảnh trời vừa mọc đẩu tinh,
Ban khi trống một mới thu canh.
Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc,
Sườn núi chim gù ẩn lá xanh.
Tuần điếm kìa ai khua mõ cá,
73
Dâng hương nọ kẻ nện chày kình.
Nhà nam nhà bắc đều no mặt,
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”.
(Nhất canh)
Qua cách cảm nhận cụ thể về cảnh sắc của làng quê lúc chập tối ta dễ
dàng nhận thấy cảm xúc chủ đạo bao trùm cả bài thơ là tâm trạng vui vẻ. Mọi
hoạt động diễn ra tái hiện một xã hội thái bình, thịnh trị. Bức tranh làng quê ấy
có màu sắc (sương bạc, lá xanh), có âm thanh (tiếng trống thu canh, tiếng mõ
ngoài điếm canh, tiếng chim gù trong lá, tiếng chuông chùa niệm Phật…), có
sự chuyển vận của cảnh vật từ “trời mọc đẩu tinh” sang “đầu nhà lan khói tỏa”
và đến sườn núi chim gù, có cả hành động của con người (tuần điếm khua mõ,
kẻ nọ dâng hương…). Chỉ cần đọc hai câu thơ cuối: “Nhà nam nhà bắc đều no
mặt, Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình” ta cũng thấy được tư tưởng, thái độ của
tác giả trước hiện thực xã hội. Hai câu thơ không tả thực nhưng qua các hình
ảnh thiên nhiên được các thi nhân vẽ lên thì qua bức tranh ấy ta hiểu nói lên
một điều rất thực về xã hội: trong tất cả mọi người đều có một khúc ca của một
ngày mới cất lên ấy là khúc ca thái bình. Nếu cả bài thơ giống như một khúc ca
thái bình thịnh trị, thì hai câu thơ cuối giống như những nốt cao ở cuối bài hát,
đó là nốt cao trào với âm thanh tươi vui rộn rã nhất.
Cuộc sống thái bình thịnh trị của đất nước còn được ngợi ca thông qua
những bài thơ vịnh về các tháng trong năm:
Trong cơ giao thái khéo tương nhân,
Đẩu bính kìa kìa đã chỉ dần.
Thế giới một bầu vây thụy khí,
Giang sơn tám bức đượm dương xuân.
Dâng tâu tiếng nhạc ran đòi chập,
Tưới khắp mùi thơm biết mấy lần.
Cõi thọ thênh thênh, càng khỏe bước,
Muôn vàn toàn đội đúc hồng quân.
(Tháng Giêng)
74
Hay trong bài vịnh về tháng năm, thi sĩ miêu tả về cảnh vật tươi sáng,
cuộc sống tươi vui, rộn ràng không khác nào mùa xuân:
Tam quang choi chói sắc chiêu minh,
Nay nảy đoan dương giữa tiết lành.
Rành rạnh tiền sen doành bích thủy,
Rỡ ràng gấm lựu chốn kinh thành.
Gió nhân vỗ khắp nhuần muôn họ,
Cầm thuấn lừng đưa phỉ mọi tình.
Thay thảy dưới trên mừng náo nức,
Thơ dâng ca tụng động đạn đình.
(Tháng Năm)
Sự ấm no, hạnh phúc thuộc về mọi người, mọi nhà chứ không phải của
riêng ai: “Gió nhân vỗ khắp nhuần muôn họ”, “Thay thảy dưới trên mừng
náo nức”, “Giang sơn tám bức đượm dương xuân”. Khắp nơi chốn chốn cả
nhân gian dưới triều đại này đều sống trong bầu không khí náo nức, tưng
bừng khí thế của một cuộc sống hòa bình, thịnh vượng. Dưới triều đại
phong kiến được coi là hưng thịnh nhất trong các triều đại phong kiến ở
Việt Nam, người dân chính là đối tượng được vương triều quan tâm nhất
của vua chúa triều Lê. Nhân dân được hưởng hạnh phúc yên vui thực sự
chứ không phải sự giả tạo, phô trương do triều đình rêu rao. Bất cứ vào
thời gian nào, ở nơi đâu niềm vui ấy luôn có:
“Nghiêm minh đức ý vang rộng,
Nhuần gọi lừng lừng khắp bốn phương”
(Tháng Hai)
Tất cả mọi người chung với niềm vui sướng của đất nước:
“Nghêu ngao nọ lũ bơi chèo quế,
Đủng đỉnh kìa ai dõi tiếng chầy”
(Tháng Bảy)
75
Ngoài chùm thơ “Vịnh năm canh” và vịnh tháng, trong nhiều bài thơ
khác các tác giả dưới thời Hồng Đức cũng lấy hình ảnh thiên nhiên để ca tụng
triều đại mình:
“Ló lên thường thấy khác thường tình,
Có vẻ cao hòa, có vẻ thanh.
Lầu ngọc gương giơ soi mọi nước,
Tán vàng xe gác ruổi năm canh”.
(Họa vần bài vịnh trăng I)
Tập thơ HĐQÂTT có xu hướng đồng nhất đất nước, dân tộc với triều đại
phong kiến. Thực tế lịch sử đã chứng minh giai cấp phong kiến đương thời đã
đưa đất nước phát triển tới đỉnh cao của sự thịnh vượng. Vương triều phong
kiến dưới sự trị vì của vua Lê Thánh Tông xứng đáng được đề cao và tôn vinh
trong lịch sử dân tộc.
Có thể thấy âm hưởng chung của tập thơ HĐQÂTT là ngợi ca đất nước,
con người Đại Việt hay nói cách khác là tụng ca chế độ phong kiến thời kì
này với sự phát triển cực thịnh. Những hình ảnh và biểu tượng thiên nhiên đã
góp phần đắc lực vào việc thể hiện nội dung đó.
3.2. 3. Thiên nhiên tượng trưng cho dân tộc
HĐQÂTT ca ngợi sự giàu đẹp của đất nước thông qua những bài thơ miêu
tả thiên nhiên. Trong tập thơ này những bài thơ viết về thiên nhiên với mục đích
ngợi ca đất nước, dân tộc chiếm số lượng nhiều nhất: 42 bài. Miêu tả thiên nhiên,
dùng thiên nhiên để “tả cảnh ngụ tình”. Thiên nhiên trong HĐQÂTT gắn bó với
nhiều địa danh lịch sử, những chiến tích hào hùng của dân tộc. Những trang thơ
ấy giống như một cuốn nhật kí nhỏ, qua đó giúp ta nhận ra được những vẻ đẹp
của thiên nhiên, đất nước con người và hơn cả những hình ảnh thiên nhiên đó
mang một nét đẹp, một ý nghĩa riêng là ngợi ca dân tộc.
Thơ thiên nhiên trong HĐQÂTT có sự xuyên thấm, hòa đồng giữa tinh
thần dân tộc và tư tưởng Nho giáo, giữa vẻ đẹp mĩ lệ của đất nước với sự tự
hào, ngợi ca về truyền thống lịch sử dân tộc. Nói cách khác, niềm tự hào dân
76
tộc ở các thi sĩ trong Hội Tao Đàn có cơ sở từ truyền thống văn hóa - lịch sử
vững chắc và ở sự cổ kính, uy nghi vượng khí non sông:
“Dăng ngang biển chòn vờn lớn,
Cao chọc trời, ngần ngật xanh.
Muôn kiếp chầu về đến Bắc Cực,
Ngàn thu chống khỏe cõi Nam Minh”
(Song Ngư sơn)
Các bài thơ đề vịnh sơn thủy trong tập thơ HĐQÂTT đã vươn lên cái
tầm thời đại chứ không bó hẹp trong sự thưởng ngoạn phong cảnh thuần túy:
Đất nước hiện ra với tất cả vẻ đẹp của một kì quan hùng vĩ chan hòa âm thanh
và màu sắc của cảnh vật. Sức sống mãnh liệt trào dâng của một dân tộc đã
từng chiến thắng quân thù và đang xây dựng cuộc sống của mình. Điều này
được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ “Muôn kiếp chầu về đến Bắc Cực/ Ngàn thu
chống khỏe cõi Nam Minh”
Các bài thơ như “Nam Công sơn”, “Bạch Đằng giang”… đều là vịnh
về những cảnh trí non song gắn với sự kiện lịch sử, với những chiến tích
hào hùng của ông cha. Lòng tự hào dân tộc được gửi gắm vào từng câu chữ
của bài thơ.
“Lẻo lẻo doành xanh nước tựa dầu,
Trăm ngòi ngàn lạch chảy về đâu.
Rửa không thay thảy thằng Ngô dại,
Dịa mọi lâng lâng khách Việt hầu.
Nọ đỉnh Thái Sơn rành rạnh đó,
Nào hồn Ô Mã lạc loài đâu.
Bốn phương kình bằng thóc,
Thong thả dầu ta bủa lưới câu”.
(Bạch Đằng giang)
Bài thơ “Bạch Đằng giang” là một trong những bài thơ hay nhất trong cả
tập thơ. Sông Bạch Đằng là con sông thuộc thị xã Yên Hưng, tỉnh Quảng
Ninh. Bắt nguồn từ Lục Đầu Giang, chảy ra cửa biển Nam Triệu, đây là dòng
77
sông gắn với cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc ta.
Nơi đây đã ba lần vùi xác bọn phong kiến xâm lược phương Bắc. Con sông
Bạch Đằng được biết đến như một chúng nhân lịch sử. Vào năm 938, Ngô
Quyền giết được tướng nhà Nam Hán- Lưu Hoằng Tháo. Năm 980, cũng tại
nơi đây Lê Đại Hành giết được tướng nhà Tống- Hầu Nhân Bảo. Năm 1288-
Trùng Hưng thứ tư, Trần Quốc Tuấn bắt sống được Ô Mã Nhi, tướng nhà
Nguyên. Chúng đều là những danh tướng lừng lẫy lừng lẫy của Trung Quốc
sang Việt Nam với âm mưu xâm chiếm bờ cõi nhưng sông Bạch Đằng đã
chôn xác chúng và làm chúng được phen kinh hãi. Con sông đúng là “chốn
địa linh” đã ba lần chiến thắng chống giặc ngoại xâm thể hiện ý chí quật khởi
của dân tộc ta. Để một trăm năm sau chiến thắng sông Bạch Đằng các dân tộc
bước vào thời kì xây dựng kinh tế, vui hưởng thái bình đã đổi thay.
Hai câu thơ cuối:
“Bốn phương kình bằng thóc,
Thong thả dầu ta bủa lưới câu”
Là niềm tự hào về đất nước, dân tộc với tư cách là vị quân chủ nhưng
không hề thấy sự kiêu căng. Thay vào đó là tư thế thanh thản buông câu trên
dòng sông chiến địa có phần mang dáng dấp của một thi nhân minh triết.
Đọc những vần thơ trên ta lại nhớ đến câu thơ của Nguyễn Trãi:
“Sóc phong suy hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng”.
(Bạch Đằng giang khẩu)
Các thi sĩ trong hội Tao Đàn đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên kì vĩ
của đất nước với lịch sử hào hùng dân tộc. Sự kì vĩ của sông Bạch Đằng được
tô đậm bao nhiêu thì chiến tích của ông cha ta, sự tự hào, tự tôn của dân tộc ta
càng vẻ vang bấy nhiêu.
78
Nước ta đạo Phật khá phát triển, chùa chiền miếu mạo được xây dựng
trên cả nước. Những ngôi chùa đền ấy đã trở thành cảm hứng sáng tác cho các
thi sĩ thời Hồng Đức. Trong cảm quan lịch sử các thi nhân Tao Đàn ca ngợi
những công trình linh thiêng này như ngợi ca dân tộc, một triều đại mang đậm
dấu ấn của lịch sử:
“Kiền khôn vẹn thiểu một bầu đông,
Nây nẩy siêu nhiên chỉn lạ lung.
Hương vũ trăng thiền soi vặc vặc,
Vân song tiu ngọc nện boong boong.
Trì thanh leo lẻo ngư long hội,
Non diễu trùng trùng cẩm tú phong.
(Chùa Thiên Phúc)
Chùa Thiên Phúc tuy nhỏ nhưng đẹp vô cùng. Thiên nhiên hiện lên trong
cảm quan lịch sử vừa có nét siêu thoát, nghiêm trang mà khỏe khắn, chân chất.
Dưới ngòi bút tài hoa của các nhà thơ Tao Đàn tạo vật nơi này hiện lên vô
cùng sinh động từ màu sắc âm thanh, đến đường nét và hình khối. Chúng
quyện lấy nhau như một bản hợp xướng hài hòa trong một khung cảnh vừa
trang nghiêm song lại rất diễm lệ.
Ở một bài thơ khác ta lại bắt gặp giữa chốn phồn hoa đô hội một vẻ đẹp
lộng lẫy của một đạo quán:
“Là tuông dành quế chùa lai láng,
Gấm trải đường hoa khách dập dìu”.
(Quán Trấn Vũ)
Đó còn là nét đẹp của một ngôi chùa cổ:
“Hoa nở châu rơi màu hổ phách,
Rêu in cỏ mọc thức đồi mồi”.
(Lại vịnh chùa Pháp Vân)
79
Hay trong bài “Chùa Non Nước”
“Nơi gọi bồng nơi gọi nhược,
Hai bên hợp làm non nước.
Đá chồng hòn thấp hòn cao,
Sóng trục lớp sau lớp trước.
Phật hư vô cảnh thiếu thừa.
Khách danh lơi, buồm xuôi ngược.
Vẳng nghe trên gác boong boong,
Lẩn thẩn dưới chùa lần bước.”
Chùa Non Nước được lý giải khá độc đáo, đó là nơi bồng, nơi nhược hợp
nhau mà thành. Cảnh chùa được các thi nhân nhìn với con mắt yêu đời nên
mang một phong vị thật lạ lùng. Cảnh vật được nhìn với cặp mắt lạc quan nên
cấu trúc câu thơ cũng thật khỏe khoắn 3/3 khác với giọng u trầm chốn thiên
môn. Hai câu thơ: “Nơi gọi bồng nơi gọi nhược/ Hai bên hợp làm non
nước”giống như một bức tranh sơn thủy hùng tráng. Nước thì cuồn cuộn sóng
đuổi, non thì hùng vĩ cheo leo. Hai câu cuối tiếng chuông boong boong trên
mái chùa vẳng lên làm con người chợt tỉnh giấc mộng mà “lẩn thẩn bước”.
Đọc những vần thơ trong bài thơ này ta như thấy rõ được sự say đắm của họ
trước cảnh tươi đẹp của thiên nhiên. Lòng tự hào dân tộc như nhìn rõ được sự
đắm say của họ trước những thắng cảnh vừa mĩ lệ vừa hùng vĩ của tổ quốc.
Ngoài ra có thể kể đến nhiều những đền miêu, ngôi chùa trên lãnh thổ ở
nước ta như đền Trấn Vũ, chùa Pháp Vân, chùa Non Nước, chùa Thiên
Phúc…những công trình kiến trúc này không chỉ chứa yếu tố thẩm mĩ tráng
lệ: “Trân trâu tráng lệ tâng tầng xếp, Kim ngọc đoan trang rực rỡ in.” mà còn
thấy được sự linh thiêng cũng như dấu ấn chung của kiến trúc phương Đông.
Như vậy, bằng việc miêu tả hệ thống đền chùa trong tập thơ HĐQÂTT không
chỉ làm hiện lên cảnh đẹp giang sơn mà còn phần nào nói lên lòng tự hào về
bản sắc văn hóa dân tộc ta.
80
Niềm tự hào về non sông gấm vóc được thể hiện dải dọc khắp chiều dài
Đại Việt ta. Dù là cửa biển, dòng sông, ngọn núi, ngôi đền những cảnh vật ấy
đều có hồn và uy linh giống như linh hồn của cả một dân tộc nhỏ mà vô cùng
kiên cường gan góc, giàu đẹp. Có thể nói nhà vua Lê Thánh Tông và Hội Tao
đàn đã họa hình giang sơn bằng thơ văn. Đất nước trong hiện tại và trong quá
khứ: “Lê Thánh Tông đã là một con người không phải đi tìm hình của nước
mà là đi họa hình đất nước. Những bức tranh về Nam quốc, Nam thiên là một
hình tượng đầu tiên có giá trị gây ấn tượng về non sông Tổ quốc mà nhà thơ
đã đem đến cho người đọc”[25,tr 11]. Như vậy trong tập thơ HĐQÂTT đã thể
hiện được tình cảm chân thực của các thi sĩ với cảnh vật thiên nhiên. Vịnh về
thiên nhiên như một cách các thi sĩ gửi gắm tình yêu của mình vào đất nước,
quê hương. Thiên nhiên ở đây chính là một phần của dân tộc, tượng trưng cho
vẻ đẹp của dân tộc. Các nhà thơ đã có sự rung cảm chân thành để viết nên
những câu thơ với mục đích ngợi ca dân tộc là như vậy.
Qua nghiên cứu có thể thấy, trong HĐQÂTT, thiên nhiên có vị trí đặc
biệt quan trọng. Thiên nhiên không chỉ giao hòa cùng con người mà còn là
một phần quan trọng giúp các thi sĩ thể hiện những tâm tư, cảm xúc, tình ý
của mình. Thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho con người. Điều này thể
hiện tình yêu thiên nhiên của các thi sĩ cũng như vị trí đặc biệt quan trọng
của thiên nhiên đối với các thi sĩ của hội Tao Đàn. Tuy nhiên, xét từ điểm
nhìn phê bình sinh thái, dường như các thi sĩ Hồng Đức hầu như chưa có ý
thức tự giác sinh thái. Họ đề cao thiên nhiên, coi thiên nhiên là chuẩn mực
của cái đẹp, tìm thấy sự đồng nhất giữa thiên nhiên với vẻ đẹp của con người,
của thời đại, của dân tộc. Nhưng thực tế, họ chưa đặt ra vấn đề bảo vệ thiên
nhiên, chưa có ý thức sinh thái. Nếu như sự tương giao hài hòa giữa con
người và thiên nhiên thể hiện thẩm mĩ sinh thái đẹp đẽ của các thi sĩ hội Tao
Đàn thì những vần thơ đề vịnh phần nào vẫn mang đậm phong cách của nhà
Nho khi viết về thiên nhiên, thiên nhiên bên cạnh là chính nó thì còn là đối
tượng để các nhà Nho nói chí, tải đạo.
81
Tiểu kết
Tìm hiểu mối quan hệ thiên nhiên - con người trong HĐQÂTT, chúng
tôi nhận thấy: thiên nhiên trong tập thơ phần nhiều là thiên nhiên ước lệ mang
tính phổ biến của văn chương nhà Nho, của thơ Đường luật, nhưng vẫn mang
tính dân tộc khá đậm nét. Dưới ngòi bút của các thi sĩ trong hội Tao Đàn,
thiên nhiên - con người có mối quan hệ tương dung giao hòa cùng nhau. Điều
này thể hiện rất rõ tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”, tư tưởng hòa hợp “khí”
của con người vào “khí” của vũ trụ.
Thơ thiên nhiên trong HĐQÂTT có sự xuyên thấm, hòa đồng với tinh
thần dân tộc, với vẻ đẹp mĩ lệ của đất nước, với tinh thần triều đại Hồng
Đức. Các bài thơ đề vịnh trong tập thơ đã vươn lên tầm thời đại chứ không
bó hẹp trong sự thưởng ngoạn phong cảnh thuần túy. Xét từ quan điểm phê
bình sinh thái, điểm tiến bộ trong những vần thơ đề vịnh này là thiên nhiên
trong tập thơ được coi là biểu tượng cho những gì đẹp đẽ nhất của con
người, của thời đại, của dân tộc. Con người vì đó mà trân trọng, yêu mến
thiên nhiên, hướng tới sự hài hòa và thống nhất với vũ trụ và vạn vật. Đây
là đặc điểm phong cách của HĐQÂTT nói riêng và của thơ trung đại nói
riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng môi trường toàn cầu như
hiện nay, để bảo vệ thiên nhiên, để bảo vệ sự sống của chính mình, con
người cần có ý thức sinh thái rõ ràng hơn.
82
KẾT LUẬN
1. Phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu liên ngành đang phát triển
rộng rãi và năng động trên thế giới hiện nay. Với sứ mệnh đặc thù của mình,
phê bình sinh thái đã mở ra cho phê bình văn học một hướng phát triển mới
và thú vị. Những vấn đề mà phê bình sinh thái đang rất quan tâm hiện nay là
vấn đề luân lí học sinh thái, thẩm mĩ sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái,
mơ hồ sinh thái… Luận văn đã tiếp thu một số thành tựu của phê bình sinh
thái vào nghiên cứu HĐQÂTT, hy vọng bước đầu đã đem lại một số cách lí
giải mới về tập tác phẩm quen thuộc này.
2. Từ góc nhìn phê bình sinh thái, luận văn đã phân tích HĐQÂTT ở hai
khía cạnh chính: Hệ sinh thái trong tập thơ và Mối quan hệ thiên nhiên - con
người trong tập thơ. Bằng ngôn ngữ mộc mạc các thi sĩ trong hội Tao Đàn đã
tái hiện những bước chu chuyển của vũ trụ qua bức tranh thiên nhiên bốn mùa,
qua vòng tuần hoàn tháng năm, ngày - đêm. Điều đó thể hiện sự tôn trọng tự
nhiên, lắng nghe tiếng nói của tự nhiên của các thi sĩ trong tập thơ. HĐQÂTT
cũng đã tái hiện hệ thực vật, động vật tương đối đa dạng phong phú gần gũi,
đã phần nào thể hiện được sự đa dạng sinh học trong môi trường sống ở miền
Bắc nước ta đương thời. Chúng ta đều biết, các thi sĩ trong hội Tao Đàn đều là
những quần thần tin cậy của Lê Thánh Tông, đại đa số họ đều là quan chức
của triều đình, đều sống trong không gian văn hóa cung đình. Dù vậy, trong
những cuộc vui thi tửu của mình, họ vẫn ghi lại những loài động vật, thực vật
bình dị và quen thuộc, họ đã dùng ngòi bút của mình để tái hiện nhịp thiên
nhiên tuần hoàn… Điều này thể hiện rõ thẩm mĩ sinh thái đáng ghi nhận của
các tác giả tập thơ.
3. Phê bình sinh thái vốn rất quan tâm tới mối quan hệ giữa con người và
tự nhiên. Trong tập thơ này các thi nhân đã thể hiện rất rõ tình yêu thiên nhiên
của mình. Các bài thơ có chứa những hình tượng thiên nhiên đã thể hiện sự
dung nhập giao dung giữa thiên nhiên - con người. Vì dung nhập hài hòa với
83
vạn vật mà con người không chế ngự tự nhiên, trái lại họ luôn hòa vào môi
sinh, thuận theo nhịp chu chuyển của đất trời. Trong quan hệ thiên nhiên - con
người, các tác giả hội Tao Đàn coi thiên nhiên chính là tiêu chuẩn cho vẻ đẹp:
Thiên nhiên tượng trưng cho vẻ đẹp minh quân lương thần; Thiên nhiên
tượng trưng cho xã hội thái bình thịnh trị; Thiên nhiên tượng trưng cho vẻ đẹp
đất nước. Điều này thể hiện sự tôn sùng tự nhiên của văn hóa văn học Việt
Nam thời trung đại. Cũng cần lưu ý rằng, dù tôn sùng tự nhiên, yêu thiên
nhiên nhưng các tác giả hội Tao Đàn chưa đặt ra vấn đề sinh thái. Họ cũng
chưa có ý thức rõ ràng trong vấn đề bảo vệ môi sinh.
4. Cho dù những sáng tác của Lê Thánh Tông và các thi sĩ trong hội Tao
Đàn ra đời cách đây từ rất lâu, nhưng khi nhìn lại các tác phẩm ấy dưới góc
nhìn sinh thái chúng ta vẫn thấy được ý nghĩa thời sự của nó trong bối cảnh
khủng hoảng môi trường toàn cầu hiện nay. Trong bối cảnh xã hội hiện đại,
với lối hối hả của khoa học công nghệ, chúng ta đã phá hủy tự nhiên, đã coi
thiên nhiên là công cụ để phục vụ cho cuộc sống của mình. Những tác phẩm
trong HĐQÂTT góp phần hình thành trong chúng ta ý thức sinh thái tốt đẹp:
đề cao chỉnh thể sinh thái, tôn trọng sự đa dạng sinh học, tuân theo quy luật
tuần hoàn của tự nhiên, sống hài hòa tương giao cùng thiên nhiên, thấy được
vẻ đẹp của thiên nhiên và tôn trọng thiên nhiên. Bên cạnh đó, chúng ta cũng
nhận ra được hạn chế nhất định của văn chương nhà Nho khi viết về tự nhiên,
đó là tính chất đề vịnh, là việc mượn hình ảnh thiên nhiên để nói về cảm xúc
tình cảm của mình một cách thái quá. Để từ đó hình thành ý thức thẩm mĩ
sinh thái của con người hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa.
5. Vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứu các tác phẩm văn
học trung đại là việc làm không dễ dàng. Chúng tôi hi vọng đề tài này sẽ gợi
mở một hướng đi có ích trong đọc hiểu các tác phẩm của các tác giả văn học
Việt Nam từ góc nhìn sinh thái.
84
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cheng Xiangzhan (2013), “Luận về bốn điểm cốt lõi của thẩm mĩ sinh thái”,
Tạp chí Khoa học Xã hội Thiên Tân, (Số 5).
2. Cheryll Glotfelty (1996), “Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng
môi trường”, Trần Thị Ánh Nguyệt dịch, Tạp chí Sông Hương, (số 305).
3. Trần Văn Cường (2010), Quan niệm về con người trong Triết học Phật
giáo, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Phật giáo Việt Nam, Thành phố
Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Văn Dân (2017), “Phê bình sinh thái - một xu hướng nghiên cứu
liên ngành”, Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa - tiếng nói toàn cầu, Viện
Hàn Lâm KHXHVN, Nxb KHXH, Hà Nội.
5. Trần Quang Dũng (2014), “Thơ đề vịnh Thiên nhiên trong HĐQÂTT”, Tạp
chí Khoa học ĐHSP TP HCM, (số 55).
6. Trần Văn Dũng (2006), HĐQÂTT trong tiến trình thơ Nôm Đường luật thời
trung đại Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Nơi bảo vệ: Đại học sư phạm,
Hà Nội
7. Phạm Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên (1982), Hồng Đức quốc âm thi tập,
Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Nguyễn Đăng Điệp (2014), “Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa”,
http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Tho-moi-tu-goc-nhin-
sinh-thai-hoc-van-hoa-4743.html, trích dẫn 09/08/2018.
9. Nguyễn Đăng Điệp (2017), “Thời đại khủng hoảng môi trường và vai trò, vị
thế của phê bình sinh thái”, Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa - tiếng nói
toàn cầu, Viện Hàn Lâm KHXHVN, Nxb KHXH, Hà Nội.
10. Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
11. Hà Minh Đức (2007), Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
12. Phùng Gia (2014), “Ý nghĩa cây tùng trong văn hóa tín ngưỡng người Việt”
http://gomsuphunggia.vn/112/print-article.html, trích dẫn 09/08/2018.
85
13. Đỗ Văn Hiểu (2012), “Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn
học mang tính cách tân”, http://tapchisonghuong.com.vn/tin-
tuc/p0/c7/n11088/Phe-binh-sinh-thai-khuynh-huong-nghien-cuu-van-hoc-
mang-tinh-cach-tan.html, trích dẫn 09/08/2018.
14. Trần Thị Giáng Hoa (2013), Nghiên cứu thơ Nôm Lê Thánh Tông trong
HĐQÂTT, Luận án tiến sĩ, Nơi bảo vệ: Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Nguyễn Phạm Hùng (2008), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb
ĐHQG, Hà Nội.
16. Karen Laura Thornber (2012), “Những tương lai của phê bình sinh thái và
văn học”, Trần Ngọc Hiếu dịch, Hoàng Tố Mai (chủ biên) (2017), Phê bình
sinh thái là gì, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
17. Đinh Gia Khánh (1980), Lịch sử Văn học Việt nam (tập 1), Ủy ban khoa
học xã hội Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
18. Đinh Gia Khánh (2010), Văn học Việt Nam, thế kỉ X- nửa đầu thế kỉ XVIII,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Lưu Văn Lâm (2012), “Biểu tượng trúc mai trong ca dao người Việt và thơ
quốc âm Nguyễn Trãi”, http://vhnt.org.vn/tin-tuc/tu-lieu-trong-nuoc/29001/-
bieu-tuong-truc-mai-trong-ca-dao-nguoi-viet-va-tho-quoc-am-nguyen-trai,
trích dẫn 09/8/2018.
20. Đặng Thanh Lê (1998), “Lê Thánh Tông và thể chế thời Hồng Đức", Tạp
chí Văn học, (số 5,6).
21. Hoàng Tố Mai (2017), Phê bình sinh thái là gì, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
22. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 2, Nxb
Đồng Tháp.
23. Đinh Thị Nhàn (2016), Thiên nhiên trong sáng tác của Nguyễn Khuyến
từ góc nhìn phê bình sinh thái, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn,
ĐHKHXH&NV Hà Nội.
24. Nhiều tác giả (1997), Hoàng đế Lê Thánh Tông, con người và sự nghiệp,
Nxb. Văn học, Hà Nội.
86
25. Nguyễn Kim Sơn - Trần Thị Mỹ Hòa, “Mấy phương diện thẩm mĩ của Nho
gia và Thiền gia” (Qua khảo sát một số trường hợp viết về thiên nhiên),
http://khoavanhoc.edu.vn/index.php/vh-vn/287-my-phng-din-thm-m-ca-th-
nho-gia-va-thin-gia-qua-kho-sat-mt-s-trng-hp-th-vit-v-thien-nhien, trích dẫn
09/08/2018.
26. Nguyễn Kim Sơn, “Tâm tính học Nho gia với đặc trưng thẩm mĩ của văn
chương nhà Nho”, http://khoavanhoc.edu.vn/index.php/vh-vn/264-tam-tinh-
hc-nho-gia-vi-c-trng-thm-m-ca-vn-chng-nha-nho, trích dẫn 09/08/2018.
27. Trần Đình Sử (2015), “Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn
học hiện nay”, https://trandinhsu.wordpress.com/2015/02/09/phe-binh-sinh-
thai-tinh-than-trong-nghien-cuu-van-hoc-hien-nay/, trích dẫn 09/08/2018.
28. Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm Đường luật, NXB Giáo dục , Hà Nội.
29. Lã Nhâm Thìn (2006), Bình giảng thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Lã Nhâm Thìn (2015), Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại
học sư phạm, Hà Nội.
31. Trần Nho Thìn (2018), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu
giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục, Quảng Nam.
32. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017), Rừng khô, suối cạn, biển độc và văn chương
phê bình sinh thái, Nxb KHXH, Huế.
33. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Sự lật đổ quan niệm nhân loại trung tâm trong
tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí Khoa học KHXH &NV Trường
Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, tập 14, (số 4b).
34. Kiều Văn (tuyển chọn, giới thiệu) (2000), Tuyển tập Thơ Nôm của Lê
Thánh Tông và Hội Tao Đàn, NXB Đồng Nai, Đồng Nai.
35. Trần Hải Yến (2014), “Nghiên cứu, phê bình hiện đại và di sản văn hóa:
Nhìn từ sinh thái học tìm lại Tam giáo”.
36. Trần Hải Yến (2014), “Nhận diện hệ sinh thái đặc trưng - cấu trúc sinh thái
cân bằng trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”.
87
PHỤ LỤC
BẢNG THỐNG KÊ THỰC VẬT, ĐỘNG VẬT VÀ ĐỊA DANH ĐƯỢC NHẮC ĐẾN TRONG HĐQÂTT
STT TRANG TÊN BÀI
TẾT NGUYÊN ĐÁN LẠI THƠ TẾT NGUYÊN ĐÁN LẠI VỊNH CẢNH MÙA XUÂN VỊNH CẢNH MÙA HÈ ĐỘNG VẬT ngựa ong, ngựa ve 37 38 41 42 1 2 3 4 ĐỊA DANH Trường Yên
LẠI VỊNH CẢNH MÙA HÈ bướm, ve 43 5
VỊNH CẢNH MÙA THU VỊNH CẢNH MÙA THU VỊNH CẢNH MÙA ĐÔNG LẠI VỊNH CẢNH MÙA ĐÔNG VỊNH CẢNH MÙA XUÂN VỊNH CẢNH MÙA THU VỊNH CẢNH MÙA ĐÔNG TÂN NGUYỆT LẠI VỊNH TRĂNG NON 43 44 45 46 46 47 48 49 49 6 7 8 9 10 11 12 13 14 THỰC VẬT măng ngọc hoa, liễu hòe hoa, lá, trúc, hòe, trầm hương. cúc, lau ngô đồng, lau trúc cúc, mai mai ngô, cúc, lau rêu, mai La Phù
HỌA VẦN BÀI VỊNH TRĂNG (I) 51 15 nhạn nhạn ngựa oanh, bướm, ngựa nhạn, chim, cá hạc, rồng chim, cá cá, chim thước (chim khách),
STT TRANG TÊN BÀI THỰC VẬT ĐỊA DANH
ĐỘNG VẬT kình (cá lớn)
HỌA VẦN BÀI VỊNH TRĂNG (III) 52 16
HỌA VẦN BÀI VỊNH TRĂNG (V) mai, trúc, nam tinh (củ ráy) thảo mộc (cây cỏ) côn trùng 54 17
THU THIÊN NGUYỆT LÃNG cúc 58 18
NHẤT CANH chim, cá 60 19
NHỊ CANH rồng cỏ, hoa 61 20
TAM CANH gà cây, hoa 62 21
TỨ CANH chim, vạc 63 22
NGŨ CANH bố cốc, gà, ác 64 23
mai, tuyết,hoa 65 24 LẠI VỊNH NĂM TRỐNG CANH (NHẤT CANH)
TAM CANH hoa, lau 66 25
NGUYỆT TRUNG ĐAN QUẾ quế thỏ 68 26
69 HẠ THỬ 27
ve, bố cốc, đè he (cá he), hồ điệp, tử qui (chim cuốc)
28 69 LẠI VỊNH CẢNH MÙA HÈ mai, liễu,cỏ, đậu, lá cây, rau bươm bướm, ve, vịt, chó, cuốc
STT TRANG THỰC VẬT ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH
73 liễu, hòe 29
Núi Trĩ, sông Ô t
74 75 77 77 80 82 83 84 90 90 92 95 97 99 99 100 sen, lựu ngô, quề trúc lựu, hoa mai, thông liễu mai, liễu, trúc liễu cỏ nhạn trĩ, hươu, khỉ rồng, hươu rồng dê, rồng, nhạn ngựa rồng ngựa 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45
101 Hồ ma (vừng) gà 46 TÊN BÀI THƠ VỊNH MƯỜI HAI THÁNG (THÁNG TƯ) THÁNG NĂM THÁNG BẢY THÁNG CHÍN THÁNG MƯỜI THÁNG MƯỜI HAI VỊNH VUA CAO TỔ NHÀ HÁN LẠI VỊNH VUA CAO TỔ NHÀ HÁN LẠI VỊNH HẠNG VŨ LẠI VỊNH TÔ VŨ LĂNG MAU TỐNG SỨ GIẢ ĐIẾU (viếng) LÊ DU VỊNH MY Ê VỊNH NÀNG ĐIÊU THUYỀN CHIÊU QUÂN XUẤT TÁI CHIÊU QUÂN TỰ TÌNH LƯU, NGUYỄN NHẬP ĐỘNG LẠI VỊNH LƯU, NGUYỄN NHẬP ĐỘNG
STT TRANG THỰC VẬT ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH
chim, chó 101 47
TÊN BÀI LƯU, NGUYỄN NHẬP ĐỘNG NGỘ TIÊN TỬ TIÊN TỬ TỐNG LƯU NGUYỄN loan 102 48
LẠI BÀI TIÊN TỬ TỐNG LƯU NGUYỄN loan, phượng 103 49
TIÊN TỬ HOÀI (NHỚ) LƯU NGUYỄN cỏ, hoa đào 104 50
lan, huệ phượng, loan 105 51 LƯU NGUYỄN HOÀI (NHỚ) TIÊN TỬ
rêu 106 52 LƯU, NGUYỄN TÁI ĐÁO, BẤT KIẾN TIÊN TỬ
106 NGƯU LANG TỪ CHỨC NỮ chim khách 53
quế 107 54 LẠI BÀI CHỨC NỮ ỨC NGƯU LANG
HUYNH ĐỆ quế, tử kinh 110 55
GIÁO TỬ kiến 111 56
CỬU HẠN PHÙNG CAM VŨ hoa cá 114 57
THA HƯƠNG NGỘ CỐ TRI trúc, tùng nhạn, cá 115 58
ĐỘNG PHÒNG HOA CHÚC DẠ hoa, liễu loan, phượng 116 59
KIM BÁNG QUẢI DANH THÌ nhạn, beo 116 60
cá, hạc 118 61 SƠN THỊ TÌNH LAM cây, liễu, hoa sông Tiêu Tương
STT TRANG TÊN BÀI ĐỘNG VẬT
119 NGƯ THÔN TỊCH CHIẾU chim, cá 62 THỰC VẬT liễu, hoa, cây ĐỊA DANH sông Thương- Lương
120 121 122 123 124 124 126 126 127 128 128 129 130 hoa hoa liễu măng, trúc cây hoa, tuyết cỏ, mai, thóc cam, quýt cỏ, cây mai quế cây, hoa, tùng liễu Tiêu tương Hồ Động Đình Tiêu tương Đào- nguyên bãi cát Trà Thượng trại Nang Sa Động Lâm Liên Khê Trà Thượng nhạn nhạn cá chim, cá 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75
131 hoa ngư hà 76
132 132 GIANG THIÊN MỘ TUYẾT BÌNH SA LẠC NHẠN VIỄN PHỐ QUI PHÀM TIÊU - TƯƠNG DẠ VŨ ĐỘNG ĐÌNH THU NGUYỆT TỔNG TIÊU TƯƠNG BÁT CẢNH ĐÀO- NGUYÊN BÁT CẢNH TRÀ- THƯỢNG SA CƯ NANG - SA TRÚ DOANH ĐỘNG- LÂM HIỂU CẢNH LIÊN- KHÊ DẠ NGUYỆT TÙNG CỐI TÌNH VÂN TRÀ- THƯỢNG PHIỂM CHÂU SỞ HÀNH HỒNG LIỄU NHẤT NGƯ CHÂU LẠI BÀI TRÊN TÂN XUÂN LỮ XÁ hoa hoa cá, thỏ hồ điệp, tử qui 77 78
TÊN BÀI
STT TRANG 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 134 134 135 136 137 139 140 141 142 143 143 144 145 146 147 148 LIỄU DOANH THU NGUYỆT TRÙNG DƯƠNG CÚC TỬU THU NGUYỆT CHIẾU ĐÌNH THU PHẬT - TÍCH SƠN TỬ NGỌC - NỮ SƠN CHÍCH- TRỢ SƠN QUẢ SƠN NAM CÔNG SƠN THẦN PHÙ- SƠN TAM KÌ GIANG BẠCH ĐẰNG GIANG KÊNH TRẦM CHÙA THIÊN PHÚC QUÁN TRẤN - VŨ CHÙA PHÁP- VŨ CHÙA PHÁP - VÂN ĐỘNG VẬT thỏ chim kình (cá mập) thỏ cá, thuồng luồng cá voi ngư long thỏ ĐỊA DANH núi Ngọc Nữ Núi Chiếc Đũa Núi Quả Sơn Núi Nam Công Thần Phù Bạch Đằng, Thái Sơn Ngọc, Kênh Trầm Thiên Phúc Trấn Vũ Pháp Vũ Pháp Vân
95 149 LẠI VỊNH CHÙA PHÁP- VÂN Pháp Vân
96 150 LẠI VỊNH CHÙA PHÁP- VÂN Pháp Vân THỰC VẬT trúc cúc, cây, hoa cây liễu, sen hoa tuyết cỏ cây xanh rêu quế, hoa thông, hoa đồng nội xương bồ, thược dược hoa, hổ phách, rêu cỏ
THỰC VẬT hoa, cỏ liễu hoa ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH Trấn Quốc STT TRANG 97 98 99 151 152 153
phượng, lân Phả Lại, Bình Than 153 100
TÊN BÀI CHÙA TRẤN QUỐC NGƯ GIANG HIỂU VỌNG HOA VIÊN CẢNH CHUÔNG PHẢ- LẠI NGUYỆT BÌNH- THAN NGƯ TIỀU CANH
155 156 157 157 MỤC 101 102 103 104 cỏ, trúc Non canh Phú Xuân
105 158 HỌA BÀI NGƯỜI KIẾM CÁ trúc
106 107 108 109 110 161 162 163 163 164 sương, thông, quế thóc trúc ngư hà ( cá tôm) chim tu hú nghé, trâu ngư hà (cá tôm), trai, cò nghé trâu, cá Bàn Khê
110 167 quế, hòe
111 112 168 171 HỌA BÀI NGƯỜI CHĂN TRÂU TỨ THÚ TƯƠNG THOẠI VỊNH NGƯỜI HÁI CỦI VỊNH NGƯỜI ĐI CÀY VỊNH NGƯỜI CHĂN TRÂU LẠI VỊNH THUYỀN NGƯỜI ĐÁNH CÁ LAM KIỀU NGỘ TIÊN TUYẾT hoa hoa Lam Kiều
TÊN BÀI
STT TRANG 113 114 115 172 173 173 PHONG HOA CẦM THỰC VẬT thông, hoa hoa ĐỘNG VẬT cá, chim ĐỊA DANH
HOA 177 116 hoa
GIẢI NGỮ HOA 178 117 mai
CÚC HOA 179 118 cúc ong, điệp
180 MẪU ĐƠN 119 hoa
181 MAI THỤ 120 mai, thông, trúc
TẢO MAI 182 121 mai, đào, mận
183 122 THỦY TRUNG MAI mai
183 123 HỌA MAI mai
184 124 LẠI VỊNH HOA MAI VẼ mai, cây
184 125 TÙNG THỤ thông, mai
185 126 TRÚC THỤ trúc, thông rồng
186 127 QUÂN TỬ TRÚC trúc chim, phượng, rồng
187 128 CẤM TRUNG CỐC GIỐC me
187 129 NỘN LIÊN sen Lam Điền
188 130 HOA SEN LÚC TẠNH MƯA sen, cây Tây Hồ
189 131 PHONG LIÊN sen Tây Hồ, rùa,cá
STT TRANG TÊN BÀI THỰC VẬT ĐỘNG VẬT
ĐỊA DANH Thái Dịch
LÃO LIÊN 190 132 sen rùa
QUAN TỨ LIÊN ĐỒ 190 131 sen Hồ Thái
LẠI VỊNH SEN 191 132 sen, hoa
HÒE ỐC 192 134 ve
193 HẢI ĐƯỜNG THỤY 135
BA TIÊU ĐẾ NGỘ MỘC TÊ NƯƠNG QUA KHOAI GIỚI THIỀM THỪ BẠCH SẮT NGHĨ CHỈ DIÊN CÚ TÂN LANG LẠI BÀI CÂY CAU 193 194 195 195 196 201 202 202 203 205 206 206 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 hòe, hoa Hoa hải đường, hồng chuối tiêu mộc tê (đan quế) mít, dừa, dưa khoai, cỏ rau cải, hoa hoa cây cau cau, trúc con cóc con rận con kiến chim sấu, rồng, cá phượng, rồng
TÊN BÀI
STT TRANG 148 207 PHIẾN THỰC VẬT hoa, liễu ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH
VĂN 149 207 con muỗi
150 208 THẠCH KHUYỂN chó, ruồi
151 208 KÊ gà
152 209 ẤP NOÃN vịt
153 210 CÂY ĐÁNH ĐU cau, dừa
154 211 VOI voi
155 211 Ý THỰC đào, mận
156 215 CỐ THÀNH hoa, cỏ cáo
157 215 TƯỢNG BÀ BANH hoa
158 216 CUNG TẦN cỏ
159 217 HỨNG NGÂM cây chim
160 217 HOA NGUYỆT hoa
161 218 NGOẠN VỊNH hoa
Rắn, cóc, mèo, 162 218 TƯƠNG PHÙNG mướp đắng, hoa ong, dê
163 220 THẾ TÌNH cỏ
164 221 LẠC TỬU lan cáo, sóc
TÊN BÀI
STT TRANG 165 222 HOÀI VIỄN THỰC VẬT rêu, hoa, lá ĐỘNG VẬT én ĐỊA DANH
HOÀI VIỄN(Tạc lại bài trên) hoa, mai, cỏ 223 166
ỨC HỮU chim 224 167
TỰ DẬT ngựa 225 168
NHẤT THỦY quả khỉ, mèo 226 169
PHU XUẤT(Đáp lại bài trên) cỏ, hoa 226 170
TẢ HỮU TẤU ĐẾ hoa 232 171
VƯƠNG TƯỜNG, PHỤNG quế, hoa, liễu, 172 233 loan, phượng đào CHIẾU ĐĂNG TRÌNH
Trường Lạc 173 233 VƯƠNG TƯỜNG NHẬP CUNG cỏ, quế, tiêu Vị Ương
DIÊN THỌ HỌA ĐỒ rắn 234 174
tre CUNG NHÂN HIẾN SỦNG ong, bướm 235 175
VƯƠNG TƯỜNG THẤT SỦNG hoa, liễu loan, hồ, điệp, nhạn Gác Đằng 236 176
THUYỀN VU CẦU THÂN mai, sen, cỏ 237 177
VƯƠNG TƯỜNG BÁI YẾT hoa, liễu 240 178
VƯƠNG TƯỜNG DUNG MẠO hoa, đào, liễu, mai cá 241 179
ĐẾ VẤN VƯƠNG TƯỜNG hoa 242 180
TÊN BÀI
ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH STT TRANG 181 242 VƯƠNG TƯỜNG TẤU ĐÁP THỰC VẬT cỏ, hoa
ĐẾ HỈ VƯƠNG TƯƠNG hoa gà 242 182
VƯƠNG TƯỜNG TẠ MẪU hạc 242 183
VƯƠNG TƯỜNG XUẤT CUNG uyển, én Hành Dương hoa, quế 244 184
245 MẪU ỦY (yên ủy)VƯƠNG TƯỜNG mai, liễu 185 Thành Hồ
VƯƠNG TƯỜNG XUẤT Yên Nhiên 186 245 tằm, vượn ĐĂNG TRÌNH Câu Chú
VƯƠNG TƯỜNG XUẤT TÀI ngựa 245 187
VƯƠNG TƯỜNG OÁN TRIỀU ĐÌNH cỏ 246 188
VƯƠNG TƯỜNG OÁN GIANG SƠN liễu, dâu 246 189
VƯƠNG TƯỜNG NHẬP HỔ CUNG hoa, liễu 247 190
VƯƠNG TƯỜNG TỰ THÂN liễu, hoa 247 191
ỨC (nhớ) HÁN TỰ TÌNH loan, phượng 248 192
VƯƠNG TƯỜNG TỰ VẪN quế 248 193
THUYỀN VU THÂN TÍCH hoa chim quốc 249 194
249 195 NGUYÊN ĐẾ THÁN TƯỞNG cây, cỏ
PHỤ ĐIẾU VƯƠNG TƯỜNG MỘ THI hoa 196 251 Vị Lăng TẬP TUYỆT THỦ (I)
THỰC VẬT ĐỘNG VẬT ĐỊA DANH STT TRANG
TÊN BÀI PHỤ ĐIẾU VƯƠNG TƯỜNG MỘ 197 251 lá chim THI TẬP TUYỆT THỦ (II)
PHỤ ĐIẾU VƯƠNG TƯỜNG MỘ 198 252 cỏ THI TẬP TUYỆT THỦ (III)
PHỤ ĐIẾU VƯƠNG TƯỜNG MỘ 199 253 THI TẬP TUYỆT THỦ (VII)
258 QUAN THÁNH đào rồng, phượng 200
260 LẠI BÀI QUÁN THÁNH đào ngựa 201
262 GIA CÁT LƯỢNG ruốc Ngọa Long Cương 202
269 TRIỆU ẨU voi 203