BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thu Lành

HỨNG THÚ GIAO TIẾP VỚI CHA MẸ CỦA

HỌC SINH LỚP 12 TẠI HUYỆN TÂN HIỆP

TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thu Lành

HỨNG THÚ GIAO TIẾP VỚI CHA MẸ CỦA

HỌC SINH LỚP 12 TẠI HUYỆN TÂN HIỆP

TỈNH KIÊN GIANG

Chuyên ngành : Tâm lí học

Mã số

: 8310401

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRƯƠNG CÔNG THANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp

12 tại Huyện Tân Hiệp, Tỉnh Kiên Giang” là công trình khoa học do tôi thực

hiện. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự khiếu nại, tố cáo về bản

quyền tác giả.

Tp.Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 8 năm 2018

Tác giả

Nguyễn Thu Lành

LỜI CẢM ƠN

Hoàn thành luận văn “Hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh

lớp 12 tại huyện Tân Hiệp tỉnh Kiên Giang” tôi xin bày tỏ lòng biết ơn

chân thành đến:

Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; Các

Phòng ban Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; và quý thầy cô

của Khoa Tâm lý Giáo dục đã giảng dạy trong khóa học.

Tôi cũng xin tri ân sâu sắc TS. Trương Công Thanh – người thầy

đã tận tâm hướng dẫn, đốc thúc và ủng hộ, khích lệ tinh thần tôi trong

suốt thời gian thực hiện đề tài. Nếu không có sự giúp đỡ nhiệt tình và

những lời động viên đúng lúc của thầy, tôi sẽ không thể hoàn thành

được luận văn này. Tôi xin gửi đến Thầy lòng biết ơn sâu sắc và những

lời chúc tốt đẹp nhất.

Tôi cũng xin cảm ơn quý Thầy (cô) và các em học sinh trường

trung học phổ thông Tân Hiệp, Thạnh Đông và Thạnh Tây đã tạo điều

kiện, hỗ trợ và nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn gia đình, các anh chị và các bạn đã

động viên, giúp đỡ, chia sẻ trong quá trình tôi thực hiện đề tài này.

Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả

Nguyễn Thu Lành

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Lời cảm ơn

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỨNG THÚ GIAO TIẾP

VỚI CHA MẸ CỦA HỌC SINH LỚP 12 ................................. 7

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề..................................................................... 7

1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài .................................................................... 7

1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam ..................................................................... 10

1.2. Một số khái niệm cơ bản .......................................................................... 13

1.2.1. Hứng thú ............................................................................................ 13

1.2.2. Giao tiếp ............................................................................................ 26

1.2.3. Hứng thú giao tiếp, hứng thú giao tiếp về định hướng

nghề nghiệp ....................................................................................... 32

Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 45

Chương 2. THỰC TRẠNG HỨNG THÚ GIAO TIẾP VỚI CHA

MẸ CỦA HỌC SINH LỚP 12 TẠI HUYỆN TÂN HIỆP,

TỈNH KIÊN GIANG ................................................................. 46

2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu và thể thức nghiên cứu ........................ 46

2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ............................................................ 46

2.1.2. Thể thức nghiên cứu .......................................................................... 47

2.2. Thực trạng hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 tại

huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang ........................................................... 54

2.2.1. Nhận thức về giao tiếp với cha mẹ .................................................... 54

2.2.2. Những biểu hiện về xúc cảm đối với việc giao tiếp với cha mẹ ....... 64

2.2.3. Hành vi giao tiếp với cha mẹ ............................................................. 69

2.2.4. Hứng thú giao tiếp với cha mẹ .......................................................... 75

2.2.5. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trường, theo

giới tính và theo trình độ học vấn của cha mẹ .................................. 79

2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của

học sinh lớp 12 .................................................................................. 84

2.2.7. Đề xuất biện pháp nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ về

định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 ................................... 88

Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 91

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................... 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 95

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐTB : Điểm trung bình

ĐLC : Độ lệch chuẩn

HS : Học sinh

THPT : Trung học phổ thông

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Phân loại năm nhóm nghề cơ bản ............................................... 33

Bảng 2.1. Mẫu nghiên cứu học sinh ............................................................ 48

Bảng 2.2. Cách chia biên giới liên tục của ĐTB mặt nhận thức – ĐTB

xúc cảm và ĐTB hành vi ............................................................. 51

Bảng 2.3. Quy đổi sang điểm trung bình ..................................................... 51

Bảng 2.4. Cách quy đổi điểm trung bình sang các mức độ ......................... 52

Bảng 2.5. Quy tắc xác định mức độ hứng thú ............................................. 52

Bảng 2.6. Nhận thức về tầm quan trọng của việc giao tiếp với cha mẹ ...... 54

Bảng 2.7. Lý do học sinh lựa chọn mức độ quan trọng của hứng thú

giao tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp ........... 55

Bảng 2.8. Nhận thức về nhu cầu giao tiếp với cha mẹ về định hướng

nghề nghiệp của học sinh lớp 12: ................................................ 57

Bảng 2.9. Nhận thức về ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với cha mẹ

trong việc định hướng nghề nghiệp của học sinh ....................... 58

Bảng 2.10. Mức độ nhận thức của học sinh về ý nghĩa của hoạt động

giao tiếp với cha mẹ .................................................................... 63

Bảng 2.11. Những biểu hiện xúc cảm đối với việc giao tiếp với cha mẹ ...... 64

Bảng 2.12. Mức độ biểu hiện xúc cảm của học sinh đối với hoạt động

giao tiếp với cha mẹ .................................................................... 69

Bảng 2.13. Hành vi giao tiếp với cha mẹ ...................................................... 70

Bảng 2.14. Mức độ hành động giao tiếp với cha mẹ của học sinh ................ 74

Bảng 2.15. Mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ ....................................... 75

Bảng 2.16. Tương quan giữa ba biểu hiện nhận thức, xúc cảm và hành

vi theo điểm trung bình ............................................................... 76

Bảng 2.17. Tương quan giữa mức độ hứng thú với mức độ nhận thức,

mức độ xúc cảm và mức độ hành vi............................................ 78

Bảng 2.18. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo giới tính ................. 79

Bảng 2.19. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trường .................... 81

Bảng 2.20. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn

của cha ......................................................................................... 82

Bảng 2.21. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn

của mẹ .......................................................................................... 83

Bảng 2.22. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ

của học sinh lớp 12 ...................................................................... 84

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong tâm lý học, hứng thú là một vấn đề hấp dẫn và cũng rất phức tạp,

như L.X Vygotsky đã khẳng định “Đối với việc nghiên cứu hầu như không có

vấn đề nào rắc rối hơn vấn đề tìm hiểu hứng thú thực sự của một con người”

(Nguyễn Thị Thu Cúc, 2008). Hứng thú có những tác động mạnh mẽ đến rất

nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như cá nhân. Hứng thú là động lực

thúc đẩy sự phát triển của cá nhân, từ đó góp phần phát triển xã hội. Vì thế,

vấn đề hứng thú được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trên rất

nhiều mặt của tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội, gắn liền với đời sống kinh tế,

chính trị, xã hội của mỗi con người.

“Hứng thú là một thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó

vừa có ý nghĩa trong đời sống vừa có khả năng mang lại sự khoái cảm cho cá

nhân trong hoạt động” (Lê Thị Bừng và Nguyễn Đức Sơn, 2008). Như vậy để

có hứng thú với một đối tượng nào đó, con người cần nhận thức rõ đối tượng

đó có ý nghĩa hay không đối với đời sống của bản thân, cũng như có nảy sinh

một tình cảm, xúc cảm đặc biệt với nó. Từ đây, hứng thú sẽ thúc đẩy hoạt

động nhận thức con người ngày càng tích cực hơn, nâng cao năng lực trí tuệ

của con người với đối tượng hứng thú, làm nảy sinh khát vọng tìm tòi, đi sâu

nghiên cứu, tìm hiểu đối tượng. Như vậy hứng thú có một tác động mạnh mẽ

đến hoạt động của con người nói chung và hoạt động nhận thức nói riêng.

Học sinh lớp 12 là những học sinh ở độ tuổi đầu thanh niên. Ở tuổi này,

các em đứng trước những đòi hỏi của xã hội về các vấn đề lựa chọn nghề

nghiệp, ngành học. Các em còn bị chi phối bởi yếu tố tâm – sinh lý, bước

ngoặt của sự trưởng thành, của tinh thần trách nhiệm. Lúc này cha mẹ đóng

vai trò to lớn trong việc giáo dục và định hướng cho con nhận thức về cái tôi

của chính mình cũng như xây dựng một hệ thống nhân sinh quan, thế giới

quan mạnh mẽ để đối đầu với mọi khó khăn và phức tạp của cuộc sống.

2

Thế nhưng, bức tranh xã hội hiện nay phản ánh tình trạng “lỏng lẻo” của

sợi dây liên kết gia đình. Cha mẹ và con cái không có tiếng nói chung. Các

em học sinh 12 hoang mang và ngơ ngác trước cánh cửa vào đời. Đặc biệt

trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp. Các em tham gia rất nhiều hội thảo,

chương trình hướng nghiệp, điều các em băn khoăn không chỉ là sở thích và

năng lực cá nhân mà là làm sao dung hòa được sở thích và quan điểm của bố

mẹ với tương lai của chính mình. Dường như, cha mẹ và con cái đang dần trở

nên xa cách nhau. Nhiều phương tiện thông tin đại chúng đặt câu hỏi lớn

rằng: con cái có thật sự hứng thú khi giao tiếp với cha mẹ không? Điều gì chi

phối, ngăn cách các em trò chuyện và chia sẻ với cha mẹ về những khó khăn

của bản thân.

Trong khi, các em đang bước vào thời điểm giao thời với bản sắc cái tôi

tương đối tự do, muốn khẳng định và thể hiện sự độc lập của bản thân. Xã hội

trong giai đoạn mở cửa, giao lưu văn hóa, đa dạng về ngành nghề đã mở ra

nhiều cơ hội cho thanh niên đi kèm với đó là rất nhiều thách thức. Nếu không

có sự định hướng, ủng hộ và giúp đỡ của cha mẹ, các em có thể đưa ra những

quyết định sai lầm cho tương lai của chính mình.

Để các bậc cha mẹ có thể hoàn thành tốt vai trò của mình, thì việc khơi

gợi sự hứng thú trong giao tiếp của cha mẹ với học sinh lớp 12 là vô cùng

quan trọng, từ đó xây dựng được một sự liên kết gia đình vững mạnh với đầy

đủ sự sẻ chia và thấu hiểu, để gia đình thật sự là một tổ ấm, là bến cảng neo

đậu an toàn cho các em, giúp các em xác định hướng đi tiếp sau khi học xong

lớp 12, chuẩn bị tâm lý sẵn sàng để đối đầu với những sự kiện sẽ xảy ra trong

tương lai, sẵn sàng đưa ra quyết định trọng đại của đời mình là chọn nghề gì,

trường nào, ở đâu, để các em có thể phát huy hết tiềm năng và đam mê, lý

tưởng của tuổi trẻ, cũng như để các em có đủ điều kiện phát triển hoàn thiện

nhân cách.

3

Có nhiều công trình nghiên cứu về hứng thú như: “Hứng thú học tập

môn giáo dục học đại cương của sinh viên trường cao đẳng Cộng đồng Hậu

Giang”, “Hứng thú nghề nghiệp của học sinh một số trường trung học phổ

thông tại huyện Bến Lức Tỉnh Long An”, “ Hứng thú học đọc của học sinh

lớp 3 một số trường tiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh”, “Hứng thú môn học

kỹ năng giao tiếp của sinh viên trường Đại học Nha Trang”. Tuy nhiên, hầu

như chưa có nghiên cứu nào về hứng thú trong giao tiếp của học sinh 12. Vậy

hứng thú giao tiếp với cha mẹ có ảnh hưởng như thế nào đến những lựa chọn

trong tương lai của các em học sinh lớp 12, có những yếu tố nào sẽ ảnh hưởng

đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12, hứng thú giao tiếp với

cha mẹ ở hiện tại có thay đổi gì so với giai đoạn trước, làm thế nào để tác

động đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12, đây là những vấn

đề chúng ta cần làm rõ để có thể thiết lập được sợi dây tình cảm thiêng liêng

của học sinh 12 và cha mẹ, để cha mẹ có thể hướng dẫn, định hướng tháo gỡ

những khúc mắc của các em trước ngưỡng cửa tương lai. Cha mẹ trở thành

những người thầy, những người bạn giúp các em tự tin bước vào đời.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài “Hứng thú

giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 tại huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên

Giang”.

2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp của HS lớp 12 tại một số trường THPT thuộc huyện Tân Hiệp, tỉnh

Kiên Giang cũng như tìm hiểu một số yếu tố tác động đến hứng thú giao tiếp

với cha mẹ của HS lớp 12 tại huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Hứng thú giao tiếp với cha mẹ.

4

3.2. Khách thể nghiên cứu

Khách thể chính: học sinh lớp 12

Khách thể phụ trợ: cha mẹ HS

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

4.1. Về đối tượng nghiên cứu

Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học

sinh thể hiện trong vấn đề định hướng nghề nghiệp.

4.2. Về khách thể nghiên cứu

239 học sinh lớp 12 năm học 2017 – 2018 tại 3 trường THPT (Tân Hiệp,

Thạnh Tây, Thạnh Đông) thuộc huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

5. Giả thuyết khoa học

Hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của HS lớp 12

ở mức độ trung bình.

Có sự khác biệt trong hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp giữa nam và nữ.

Có sự khác biệt trong hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp giữa HS có cha mẹ có trình độ văn hóa khác nhau.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

6.1. Nghiên cứu lý luận về hứng thú, giao tiếp, hứng thú giao tiếp với

cha mẹ của HS trung học phổ thông nói chung và HS lớp 12 nói riêng.

6.2. Nghiên cứu mức độ biểu hiện hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS

lớp 12 huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang đối với việc thoả mãn nhu cầu định

hướng nghề nghiệp trong tương lai của bản thân sau THPT.

6.3. Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha

mẹ về định hướng nghề nghiệp của HS lớp 12 huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên

Giang.

5

7. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, luận văn sử dụng một

số phương pháp nghiên cứu sau:

7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

- Phương pháp nghiên cứu lý luận để xây dựng cơ sở lý luận và phương

pháp nghiên cứu của đề tài. Cung cấp các thông tin, dữ liệu cơ bản về mặt lý

thuyết làm nền tảng vững chắc cho việc tiến hành các điều tra, nghiên cứu

trong thực tiễn.

- Các phương pháp nghiên cứu lý luận cụ thể như tham khảo, nghiên

cứu, phân tích và tổng hợp tài liệu liên quan đến hứng thú giao tiếp với cha

mẹ của HS lớp 12.

7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

- Mục đích: Thu thập thông tin từ HS lớp 12 thể hiện hứng thú giao tiếp

với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.

- Nội dụng: Gồm 2 bảng hỏi

 Bảng 1: Người nghiên cứu xây dựng bảng hỏi gồm những câu hỏi mở

để thăm dò ý kiến của HS lớp 12 về hứng thú giao tiếp với cha mẹ. Từ đó đưa

ra một số chỉ báo trong các mặt: nhận thức, xúc cảm, hành vi của HS lớp 12

thể hiện hứng thú giao tiếp với cha mẹ.

 Bảng 2: Người nghiên cứu xây dựng bảng hỏi khảo sát để tìm hiểu các

vấn đề liên quan đến hứng thú giao tiếp của HS lớp 12 với cha mẹ về định

hướng nghề nghiệp. Bảng hỏi sẽ xây dựng theo những chỉ báo từ bảng hỏi 1.

- Cách thức thực hiện:

+ Giai đoạn 1: Phát phiếu thăm dò gồm các câu hỏi mở ở bảng 1.

+ Giai đoạn 2: Phát phiếu thăm dò với câu hỏi có nhiều lựa chọn cho HS

tại các buổi học của các lớp 12 để thăm dò ý kiến.

6

7.2.2. Phương pháp phỏng vấn

- Mục đích: Nhằm thu thập thêm thông tin sâu hơn về vấn đề hứng thú

giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 về định hướng nghề nghiệp.

- Nội dung: Người nghiên cứu xây dựng bảng hỏi phỏng vấn gồm những

câu hỏi mở để lấy ý kiến của phụ huynh và HS về vấn đề hứng thú giao tiếp

với cha mẹ của HS lớp 12.

- Cách thực hiện: Phỏng vấn trực tiếp trong những giờ giải lao và các

buổi họp phụ huynh tại trường học.

7.3. Phương pháp xử lý số liệu

Sử dụng phương pháp thống kê toán học với sự hỗ trợ của phần mềm

SPSS for Window 13.0.

7

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỨNG THÚ GIAO TIẾP

VỚI CHA MẸ CỦA HỌC SINH LỚP 12

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài

Từ thế kỷ XVIII đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên

cứu về hứng thú. Trong đó, phải kể đến các nghiên cứu sau:

Herbart (1776-1841) nhà tâm lý học, nhà giáo dục học, nhà triết học,

người Đức đã sáng tạo ra trường phái giáo dục hiện đại ở Đức thế kỷ 19. Ông

đã đưa ra 4 mức độ của dạy học đó là tính sáng tạo, tính liên tưởng, tính thống

nhất phong phú và đặc biệt hứng thú là yếu tố quyết định hiệu quả học tập của

môn học (Nguyễn Thị Thanh Mai, 2015).

Năm 1931, nhà tâm lý học người Mỹ I.K.Strong đã tìm hiểu về “Sự biến

đổi tâm lý theo lứa tuổi” và ông cho rằng sự phát triển của hứng thú thường

gắn liền với sự phát triển lứa tuổi. Điều này dễ hiểu vì muốn hình thành một

hứng thú nào đó, cần phải có mức độ phát triển tâm lý cũng như một mức độ

trí tuệ và kinh nghiệm nhất định (Trần Phi Hùng, 2014).

Năm 1938 Ch.Buher đã nghiên cứu công trình “Phát triển hứng thú ở trẻ

em”. Từ những năm 1940 của thế kỷ XX một số nhà tâm lý học Nga như

S.L.Rubinstein, N.G.Morodov, A.F.Beliep,… Đã có những công trình nghiên

cứu về hứng thú, con đường hình thành hứng thú (Nguyễn Thị Ái, 2011).

Năm 1944, A.F.Believ đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về vấn đề

“Tâm lý học hứng thú” nội dung cơ bản của luận án là những vấn đề về lý

luận tổng quát về hứng thú trong khoa học tâm lý (Bùi Hiền, Nguyễn Văn

Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo, 2005).

Năm 1946, E.Clapade với vấn đề “ Tâm lý trẻ em và thực nghiệm sư

phạm” đã đưa ra khái niệm hứng thú dựa trên bản chất sinh học. Clapade đã

8

nhấn mạnh tầm quan trọng của hứng thú trong hoạt động của con người và

cho rằng quy luật của hứng thú là cái trục duy nhất mà tất cả hệ thống phải

xoay quanh nó (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).

John Dewey (1859-1952) nhà giáo dục học, nhà tâm lý học người Mỹ

năm 1896 sáng lập ra trường thực nghiệm trong đó ưu tiên hứng thú của HS

và nhu cầu của HS trong từng lứa tuổi (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).

Năm 1967, N.G.Marozova nghiên cứu sự khác nhau trong việc hình

thành hứng thú của trẻ em trong sự phát triển bình thường và sự phát triển

không bình thường. Ông đã nghiên cứu vấn đề “Tác dụng của việc giảng dạy

nêu vấn đề đối với hứng thú nhận thức của sinh viên”. Năm 1976 tác giả đã

đưa ra cấu trúc tâm lý của hứng thú đồng thời còn phân tích những điều kiện

và khả năng giáo dục hứng thú trong quá trình học tập và lao động của HS

(Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).

Năm 1972, I.G.Sukina với công trình nghiên cứu vấn đề “Hứng thú trong

khoa học giáo dục” đã đưa ra khái niệm về hứng thú cùng với biểu hiện của

nó. Đồng thời, tác giả còn nêu lên nguồn gốc cơ bản của hứng thú nhận thức

là nội dung tài liệu và hoạt động của người học (Nguyễn Thị Bích Thủy,

2010).

J.Piaget (1896-1996), nhà tâm lý học người Thụy Sĩ đã có rất nhiều công

trình nghiên cứu về trí tuệ trẻ em và giáo dục. Ông rất chú trọng đến hứng thú

của HS, ông cho rằng “Nhà trường kiểu mới đòi hỏi phải hoạt động thực sự,

phải làm việc một cách chủ động dựa trên nhu cầu và hứng thú cá nhân”. Ông

nhấn mạnh: cũng giống như người lớn trẻ em là một thực thể mà hoạt động

cũng bị chi phối bởi quy luật hứng thú hoặc nhu cầu. Nó sẽ không đem lại

hiệu suất đầy đủ nếu người ta không khiêu gợi những động cơ nội tại của hoạt

động đó. Ông cho rằng mọi việc làm của trí thông minh đều dựa trên hứng

thú, hưng thú chẳng qua chỉ là một trạng thái chức năng của sự đồng hóa

(Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).

9

Nghiên cứu về nhu cầu giao tiếp, A.V. Vedenov cho rằng nhu cầu giao

tiếp chỉ có ở con người, có tính bẩm sinh và di truyền. Cùng quan điểm với

ông, trong tác phẩm “Tâm Lý học tình bạn tuổi trẻ” L.X Côn đã viết: “Con

người là một thực thể xã hội, có nhu cầu giao tiếp và tiếp xúc về tình cảm với

người khác là một nhu cầu bẩm sinh”. Trong đó, bằng các thực nghiệm tâm lý

học mô tả L.X. Cono cũng chứng minh quá trình phát triển nhu cầu giao tiếp

của con người từ 2, 3 tháng tuổi đến lứa tuổi thiếu niên và đặc điểm nhu cầu

giao tiếp của từng độ tuổi (Nguyễn Thị Xuân Phương, 2015).

Ngoài ra, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của nhu cầu giao tiếp

của trẻ em trong mối quan hệ với người lớn, các tác giả V.V. Vetrova, Đ.B.

Godovicop, M.G.Elagila, M.I.Lixima, A.F.Reystay, A.G. Rutxcaia, đã chỉ ra:

Nhu cầu giao tiếp sẽ thay đổi tùy theo nội dung, tính chất của hoạt động

chung giữa trẻ em và người lớn. Trong mỗi giai đoạn phát triển nhu cầu giao

tiếp được thừa nhận như là nhu cầu có được nhờ sự tham gia của người lớn,

sự tham gia này vô cùng cần thiết để trẻ em giải quyết các vấn đề cơ bản, đặc

thù đối với lứa tuổi này (Nguyễn Thị Xuân Phương, 2015).

Như vậy, trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về hứng thú

xuất hiện rất sớm và rất phong phú, chúng ta có thể khái quát theo ba xu

hướng:

Thứ nhất là xu hướng giải thích bản chất tâm lý của hứng thú, người đại

diện cho xu hướng này là A.F.Beliep với luận án “Tâm lý học hứng thú”.

Thứ hai là xu hướng xem xét hứng thú trong mối quan hệ với sự phát

triển nhân cách nói chung và vốn tri thức của cá nhân nói riêng, đại diện là

L.L.Bôgiôvich, Lukin, LêviTốp,…

Thứ ba là xu hướng nghiên cứu sự hình thành và phát triển hứng thú theo

các giai đoạn lứa tuổi, đại diện là G.I.Sukina,…

10

1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam

Tại Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hứng thú ở các

khía cạnh khác nhau như: Nghiên cứu hứng thú học các môn học, nghiên cứu

hứng thú học nghề phổ thông và nghề nghiệp,…

Năm 1960, các tác giả Minh Đức, Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân trong cuốn

tâm lý học giảng dạy ở Đại học Sư phạm Hà Nội đã đề cập đến vấn đề chung

về hứng thú. Kế đến trong các nghiên cứu của mình, các tác giả Phạm Minh

Hạc, Trần Trọng Thủy, Nguyễn Quang Uẩn,… cũng đã trình bày về hứng thú,

vai trò của hứng thú với học tập và các hoạt động khác.

Năm 1973, Phạm Tất Dong trong luận án phó tiến sĩ “Một số đặc điểm

hứng thú nghề của học sinh lớn và nhiệm vụ hướng nghiệp”. Đã khẳng định

sự khác biệt về hứng thú học tập giữa nam và nữ, hứng thú nghề nghiệp

không thống nhất với xu hướng phát triển nghề của xã hội, công tác hướng

nghiệp ở trường phổ thông không được thực hiện nên các em học sinh chịu

nhiều thiệt thòi. Hứng thú học tập các bộ môn của học sinh là cơ sở để đề ra

nhiệm vụ hướng nghiệp một các khoa học (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).

Năm 1980, Nguyễn Thanh Bình nghiên cứu đề tài: “Bước đầu tìm hiểu

nguyên nhân gây hứng thú học tập tâm lý học của sinh viên khoa tự nhiên

trường Đại học Sư phạm Hà Nội I”. Tác giả đề xuất 5 biện pháp giáo dục

hứng thú cho sinh viên: Giáo dục mục đích, động cơ học tập cho học sinh

thấy rõ ý nghĩa của môn học, giáo dục gắn với thực tiễn có đủ tài liệu tham

khảo cho sinh viên và tổ chuyên môn, bồi dưỡng năng lực giảng dạy cho giáo

viên( Nguyễn Thị Thanh Mai, 2015).

Năm 1981, Phùng Minh Nguyệt trong nghiên cứu: “Bước đầu tìm hiểu

thực trạng hứng thú đối với nghề sư phạm của giáo sinh trường Cao Đẳng Sư

phạm Nghĩa Bình”. Cho rằng, muốn nâng cao hứng thú nghề nghiệp cho giáo

sinh phải tổ chức các đợt thực tập nhằm thâm nhập vào thực tiễn, thực hành

công việc của mình (Nguyễn Thị Mai, 2015).

11

Năm 1982, Đinh Thị Chiến với nghiên cứu “Bước đầu tìm hiểu hứng thú

với nghề sư phạm của giáo sinh cao đẳng sư phạm Nghĩa Bình” đã đưa ra 3

biện pháp để giáo dục hứng thú đối với nghề sư phạm cho giáo sinh, trong đó

tác giả nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của dư luận xã hội (Nguyễn Thị

Bích Thủy 2010).

Năm 1986, Hoàng Kim Thu nghiên cứu “Hình thành hứng thú nghề

nghiệp cho học sinh thông qua giảng dạy môn Vật Lý”. Kết quả nghiên cứu

thực nghiệm nói lên rằng hình thức học ngoại khóa có tác động lớn đến hình

thành hứng thú nghề nghiệp lấy kiến thức vật lý làm cơ sở cho học sinh

(Nguyễn Thị Mai 2015).

Năm 1987, Nguyễn Khắc Mai với đề tài “Bước đầu tìm hiểu thực trạng

hứng thú với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên của sinh

viên khoa tâm lý giáo dục”. Tác giả đưa ra những nguyên nhân gây hứng thú

là do ý nghĩa môn học, trình độ của sinh viên, phương pháp giảng dạy của

giảng viên (Nguyễn Thị Mai, 2015).

Năm 2005, Vương Thị Thu Hằng với đề tài: “Tìm hiểu hứng thú nghiên

cứu khoa học của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn”.

Phan Thị Thơm với đề tài: “Hứng thú học tập môn tâm lí học của sinh viên

trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng”. Tác giả kết luận hứng thú học môn tâm lí

học chưa phát triển cao, chưa đồng đều, có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến

hứng thú học tập của sinh viên, trong đó yếu tố giảng viên giữ vai trò quan

trọng (Nguyễn Thị Mai, 2015).

Năm 2003, Nguyễn Hải Yến - Đặng Thị Thanh Tùng nghiên cứu “Một

số yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú nghiên cứu khoa học của sinh viên trường

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đề tài đã chỉ ra một số yếu tố ảnh

hưởng đến hứng thú nghiên cứu khoa học là do chưa nhận thức được vai trò

của hoạt động nghiên cứu khoa học, do bản thân chưa nỗ lực vượt khó trong

quá trình nghiên cứu (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).

12

Năm 2009, Đặng Quốc Thành trong luận án tiến sĩ tâm lý học “Hứng thú

học tập các môn khoa học xã hội và nhân văn của Học viện sĩ quan” có đề cập

đến các con đường hình thành hứng thú, các giai đoạn và các điều kiện hình

thành, phát triển hứng thú nhận thức (Đặng Quốc Thành, 2009).

Năm 2009, Phạm Thị Ngọc Châu nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp

kích thích hứng thú cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động khám phá thiên

nhiên vô sinh”. Tác giả đã đề xuất ra các biện pháp sau:

- Biện pháp 1: Sử dụng câu hỏi “mở, câu đố, truyện kể, thơ ca, lời động

viên…

- Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi mang tính chất khám phá thử nghiệm

- Biện pháp 3: Thiết kế, sử dụng môi trường hoạt động hấp dẫn để kích

thích trẻ tích cực khám phá.

- Biện pháp 4: Tổ chức cho thí nghiệm đơn giản (Nguyễn Thị Thanh

Mai, 2015).

Năm 2010, Nguyễn Thị Bích Thủy với luận văn thạc sĩ “Hứng thú học

tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến thành phố Hồ Chí

Minh”. Hứng thú học tập của sinh viên năm nhất được biểu hiện qua nhận

thức, thái độ và hành vi chưa cao. Tác giả có đề xuất một số biện pháp nâng

cao hứng thú học tập cho sinh viên (Nguyễn Thị Thanh Mai, 2015).

Năm 2012, trong luận án “Mối tương quan giữa phong cách giáo dục của

cha mẹ và tính tích cực giao tiếp với cha mẹ của thiếu niên”, tác giả Vũ Thị

Khánh Linh đã xác định được mối tương quan giữa phong cách giáo dục của

cha mẹ và tính khả thi của một số biện pháp tác động tâm lí học nhằm tăng

tính dân chủ trong phong cách giáo dục của cha mẹ (Nguyễn Thị Xuân

Phương, 2015).

Năm 2012, Phạm Nguyễn Lan Phương trong luận văn “Quan hệ cha mẹ

với con tuổi thiếu niên thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương” có đề cập đến vấn đề

13

ứng xử cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ cha mẹ và con (Phạm

Nguyễn Lan Phương, 2012).

Năm 2013, Đinh Thị Sen trong luận văn thạc sĩ tâm lý học “Hứng thú

môn học kỹ năng giao tiếp của sinh viên trường Đại học Nha Trang”. Đưa ra

kết luận như sau: “Đa số sinh viên trường Đại học Nha Trang chưa có hứng

thú thực sự khi học môn kỹ năng giao tiếp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến

thực trạng này, trong đó nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phía giáo viên

(Đinh Thị Sen, 2013).

Năm 2014, Trần Phi Hùng trong luận văn thạc sĩ tâm lý học “Hứng thú

nghề nghiệp của học sinh ở một số trường trung học phổ thông tại huyện Bến

Lức, tỉnh Long An” đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú nghề

nghiệp của các em HS (Trần Phi Hùng, 2014).

Năm 2015, Tác giả Nguyễn Thị Xuân Phương nghiên cứu đề tài “Tính

tích cực giao tiếp của học sinh cuối tiểu học trong mối quan hệ với cha mẹ tại

thành phố Hồ Chí Minh” đã rút ra kết luận mức độ tích cực giao tiếp của học

sinh cuối tiểu học đạt mức cao (Nguyễn Thị Xuân Phương, 2015).

Tóm lại, ở nước ta đã có nhiều luận văn, luận án và đề tài nghiên cứu về

hứng thú. Ở nhiều khía cạnh khác nhau, cung cấp nhiều dữ liệu giúp đề tài

luận văn xác định hướng nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận và công cụ

nghiên cứu.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Hứng thú

1.2.1.1. Khái niệm

 Quan điểm về hứng thú theo các nhà tâm lý học Phương Tây

Một số nhà tâm lý học phương tây nghiên cứu hứng thú dựa trên cơ sở

bản chất sinh học của con người, họ cho rằng hứng thú là thuộc tính có sẵn

của con người. Hứng thú sẽ dần được bộc lộ theo quá trình trưởng thành và

phát triển của mỗi cá nhân.

14

Nhà tâm lý học I.PH. Shecbac cho rằng: “Hứng thú là thuộc tính bẩm

sinh vốn có của con người”. Nó được biểu hiện thông qua thái độ, tình cảm

của con người vào một đối tượng nào đó trong thế giới khách quan. (Phan Thị

Kim Ngân, 2013).

Annoi, nhà tâm lý học người Mỹ lại cho rằng: “Hứng thú là một sự sáng

tạo của tinh thần với đối tượng mà con người hứng thú tham gia vào” (Phan

Thị Kim Ngân, 2013).

Còn Harlette Buller thì quan niệm: “Hứng thú là một hiện tượng phức

hợp cho đến nay vẫn chưa được xác định, hứng thú là một từ không những chỉ

toàn bộ những hành động khác nhau mà hứng thú còn thể hiện cấu trúc bao

gồm các nhu cầu” (Phan Thị Kim Ngân, 2013).

Nhà tâm lý học người Mỹ Guilford đã cho rằng: “Hứng thú là trong bảy

mặt cấu tạo nên nhân cách, hứng thú là những ham muốn ổn định trong các

hoạt động nhất định” (Nguyễn Huy Tú, 1996).

Tác giả K.Strong và W.James cho rằng: “Hứng thú là một trường hợp

riêng của thiên hướng biểu hiện trong xu thế hoạt động của con người như là

một nét tính cách” (Phan Thị Kim Ngân, 2013).

Tác giả D.Super cho rằng: “Hứng thú không phải là thiên hướng, không

phải là nét tính cách của cá nhân nó là một cái gì khác, riêng rẽ với thiên

hướng, riêng rẽ với tính cách, riêng rẽ với cá nhân”. Như vậy,hứng thú được

coi như một thuộc tính có tính độc lập tương đối của nhân cách, nó có bản

chất riêng. Tuy nhiên ông lại không đưa ra một quan niệm rõ ràng về hứng

thú. (Nguyễn Đức Nhân, 2016)

Tác giả Klapalet nghiên cứu thực nghiệm và đi đến kết luận “Hứng thú

là dấu hiệu của nhu cầu bản năng khát vọng đòi hỏi cần được thỏa mãn của cá

nhân” (Phan Thị Kim Ngân, 2013).

Nhìn chung, các nhà tâm lí học Phương Tây đều thống nhất ở quan điểm

coi hứng thú là một hiện tượng đặc biệt, có ý nghĩa to lớn đối với mỗi cá

15

nhân. Hứng thú là một hiện tượng gắn liền và có quan hệ chặt chẽ với các

hiện tượng tâm lí khác. Hứng thú là sự kết hợp đặc biệt và sự tác động qua lại

của nhiều quá trình tâm lí với nhau (Nguyễn Thị Ái, 2011). Một số nhà tâm lý

học đề cập ở trên đều có quan điểm là duy tâm, sinh vật hoặc là phiến diện

siêu hình về hứng thú. Các nhà tâm lý học Phương Tây cho rằng hứng thú là

thuộc tính có sẵn trong mỗi cá nhân và sẽ được bộc lộ dần, hoàn thiện dần

trong suốt quá trình phát triển của cá nhân đó. Như vậy thì hứng thú dựa trên

cơ sở sinh học. Mặt hạn chế của những quan điểm này là xem nhẹ vai trò của

giáo dục cũng như tính tích cực của cá nhân trong sự hình thành và phát triển

hứng thú. Tuy nhiên, không thể phủ nhận đã có những quan điểm tiến bộ về

hứng thú của Hidi và Renninger khi cho rằng hứng thú cần có sự hỗ trợ từ các

yếu tố bên ngoài.

 Quan điểm về hứng thú theo các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ)

Các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) đứng trên lập trường duy vật biện

chứng, coi hứng thú không phải là cái có sẵn hay thuộc tính bên trong của mỗi

cá nhân mà đó là kết quả của quá trình hình thành và phát triển nhân cách, nó

phản ánh một cách khách quan thái độ đang tồn tại ở một nhân cách. Thái độ

này nảy sinh trong quá trình tác động qua lại giữa điều kiện bên ngoài và hoạt

động của mỗi cá nhân, chính vì thế hứng thú có rất nhiều nguyên nhân khác

nhau và khái niệm “hứng thú” được rất nhiều tác giả lí giải với nhiều khía

cạnh khác nhau.

Một số nhà tâm lý học đã cho rằng: Hứng thú là khuynh hướng lựa chọn,

khuynh hướng chú ý ở con người (T. Ribô, N.P. Đôbrưnhin) hay hứng thú là

khuynh hướng ưu tiên chú ý vào một khách thể nào đó (B.N. Cheplov); hứng

thú có biểu hiện như là khuynh hướng tác động một cách có hiểu biết, có ý

thức đối với các khách thể mà con người định hướng vào đó (X. L.

Rubinstein), V.G.Ivanôv, …(Nguyễn Thu Cúc, 2008).

16

Trong “Đề cương bài giảng tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm”

cho rằng: “Hứng thú là sự định hướng có lựa chọn của cá nhân vào những sự

vật, hiện tượng của thực tế xung quanh. Sự định hướng đó được đặc trưng bởi

sự vươn lên thường trực tới nhận thức, tới những kiến thức mới ngày càng

đầy đủ và sâu sắc hơn” (Nguyễn Thu Cúc, 2008). Trong định nghĩa này, các

tác giả nhấn mạnh đến việc cá nhân nảy sinh thái độ đặc biệt cũng như hoạt

động đi sâu tìm hiểu đối tượng, trên cơ bản đây là định nghĩa về hứng thú

nhận thức.

A.N.Leonchiev xem hứng thú là thái độ nhận thức đặc biệt đối với đối

tượng hoặc hiện tượng của hiện thực khách quan; A.A.Liublinxkaia cho rằng

“Hứng thú là thái độ nhận thức của con người đối với xung quanh, với mặt

nào đó của chính nó, đối với một lĩnh vực nhất định mà trong đó con người

luôn muốn đi sâu hơn”. A.G. Côvaliôv định nghĩa rằng “Hứng thú là thái độ

đặc thù của cá nhân đối với một đối tượng nào đó, do ý nghĩa của nó trong đời

sống và sự hấp dẫn về tình cảm của nó”,… (Nguyễn Thu Cúc, 2008). Ở đây

các nhà tâm lý học đã xem hứng thú như hoạt đông nhận thức, hoạt động tình

cảm, cảm xúc của con người người. Định nghĩa này cũng chưa làm rõ được

nguồn gốc, nguyên nhân của hứng thú cũng như đã thu hẹp phạm vi hứng thú.

 Định nghĩa hứng thú theo khía cạnh của sự chú ý

Tác giả P.A. Rucdich coi “Hứng thú biểu hiện một xu hướng đặc biệt

của cá nhân nhằm nhận thức những hiện tượng nhất định của cuộc sống xung

quanh, đồng thời biểu hiện thiên hướng tương đối cố định của con người đối

với các loại hoạt động nhất định” (Trần Phi Hùng, 2014).

Tác giả A.V.Daparozet viết “Hứng thú là khuynh hướng của sự chú ý tới

những đối tượng nhất định, là nguyện vọng tìm hiểu chúng càng tỉ mỉ càng

hay” (Nguyễn Tiến Đạt, 2004).

Tác giả V.A. Cruteski coi hứng thú đó là “Khuynh hướng nhận thức tích

cực của con người đối với đối tượng này hay kia, hiện tượng hay hoạt động

17

cái có liên hệ với thái độ cảm xúc dương tính đối với con người (Nguyễn

Quang Uẩn, 2011). Hơn nữa, hứng thú nhận thức sẽ kích thích chủ thể đi sâu

tìm hiểu, khám phá bản chất bên trong của đối tượng, nhưng không thể đồng

nhất hứng thú với sự chú ý.

 Định nghĩa hứng thú theo khía cạnh gắn liền với sự hình thành và phát

triển của các hiện tượng tâm lý khác.

Các nhà tâm lý học hoạt động như: S.L.Rubinstein, N.Ph.Gonolobolin,

A.V.Petrovxki… coi hứng thú không phải là cái gì đó trừu tượng, có sẵn khi

sinh ra, mà là cái tự tạo trong quá trình cá thể sống và hoạt động, nó gắn liền

với sự hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý khác nên có quan hệ

với các hiện tượng tâm lý đó; nó là kết quả của sự hình thành nhân cách, phản

ánh khách quan thái độ của con người với thế giới xung quanh và hoạt động

có ý thức của con người trực tiếp quyết định (Nguyễn Quang Uẩn, 2011)

Như vậy, các định nghĩa về hứng thú mà các nhà tâm lý học đã sử dụng

có các điểm chung sau đây:

- Hứng thú là quá trình nhận thức đối tượng có ý nghĩa, hấp dẫn đối với

cá nhân, đi kèm với đó là quá trình xúc cảm ý chí.

- Hứng thú là sự lựa chọn khách quan của cá nhân với các đối tượng cụ

thể, hứng thú cũng là thái độ, xu hướng lựa chọn mà cá nhân thể hiện.

- Hứng thú là định hướng mà các cá nhân lựa chọn tích cực các đối

tượng cụ thể nhằm mục đích chiếm lĩnh đối tượng.

Các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) đã xem xét hứng thú trong các mối

tương quan với các thuộc tính khác của nhân cách như: nhu cầu, xúc cảm, ý

chí, trí tuệ,… Lý giải khá đầy đủ bản chất tâm lý của hứng thú thông qua việc

nghiên cứu hứng thú dưới quan điểm duy vật biện chứng.

+ Quan điểm về hứng thú theo các nhà tâm lý học Việt Nam:

Theo từ điển tâm lý học của Vũ Dũng, “Hứng thú thể hiện nhu cầu nhận

thức nhằm đảm bảo cho nhân cách ý thức được mục đích hoạt động và tạo

18

điều kiện cho việc định hướng, làm quen với những sự việc mới, cho việc

phản ứng hiện thực một cách đầy đủ và sâu sắc hơn. Về mặt chủ quan, hứng

thú được thể hiện thông qua xúc cảm gắn với quá trình nhận thức, qua sự chú

ý của chủ thể đến đối tượng hứng thú. Việc thỏa mãn hứng thú không dập tắt

hứng thú mà tạo ra những hứng thú mới đáp ứng mức độ cao hơn của hoạt

động nhận thức. Trong quá trình phát triển, hứng thú có thể biến thành năng

khiếu như là sự thể hiện nhu cầu thực hiện hoạt động đã gây ra hứng thú.

Người ta phân biệt hứng thú trực tiếp – hứng thú do tính chất lôi cuốn của đối

tượng tạo nên và hứng thú gián tiếp đối tượng là công cụ để đạt được mục

đích hoạt động. Tính bền vững của hứng thú được biểu hiện ở độ dài thời gian

duy trì hứng thú ở cường độ của hứng thú. Việc cá nhân khắc phục những khó

khăn đó là điều kiện để cá nhân thực hiện hoạt động hứng thú cho thấy tính

bền vững của hứng thú. Đánh giá độ rộng hay hẹp của hứng thú được xác

định bởi nội dung và giá trị của hứng thú đối với nhân cách” (Vũ Dũng,

2008). Các tác giả Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng Thủy cho rằng:

Khi ta có hứng thú về một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta

hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình

cảm đặc biệt đối với nó, do đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối

tượng của nó, tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận đi sâu vào nó (Phạm Thị Kim

Ngân, 20120).

Theo từ điển tâm lý học của Nguyễn Văn Lũy, Lê Quang Sơn (2009),

“Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng vừa có ý nghĩa

đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá

trình hoạt động. Có thể coi hứng thú là động cơ hay trạng thái hoạt động cơ

thúc đẩy hoạt động”. (Nguyễn Văn Lũy, Lê Quang Sơn, 2009).

Tác giả Nguyễn Phúc Ân trong khi nghiên cứu mối quan hệ giữa hứng

thú với nhu cầu đã đưa ra quan điểm về hứng thú như sau: “Hứng thú là sự

19

ham thích, sự tập trung cao độ, sự say mê mãnh liệt với những xúc cảm tích

cực của cá nhân”. (Nguyễn Phúc Ân, 1994).

Theo tác giả Huỳnh Văn Sơn: Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân

đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong đời sống vừa có khả năng

mang lại khoái cảm. Hứng thú luôn có hai yếu tố: Đối tượng phải có ý nghĩa

đối với đời sống cá nhân (yếu tố nhận thức). Đối tượng có khả năng hấp dẫn,

tạo ra những khoái cảm (yếu tố cảm xúc). Chính vì đặc điểm này mà hứng thú

lôi cuốn con người hướng về phía nó, tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận và đi

sâu tìm hiểu nó. Đây là đặc trưng quan trọng của hứng thú giúp ta phân biệt

nhu cầu và hứng thú và không thể đồng nhất nhu cầu và hứng thú tuy nhu cầu

và hứng thú có mối quan hệ mật thiết. (Huỳnh Văn Sơn, 2012).

Theo Nguyễn Khắc Viện hứng thú là biểu hiện của nhu cầu, làm cho chủ

thể tìm cách thỏa mãn tạo ra khoái cảm thích thú. Nói đến hứng thú tức nói

đến một mục tiêu, huy động sinh lực (thể chất và tâm lý) để cố gắng thực

hiện. Có những hứng thú đòi hỏi thỏa mãn trước mắt, như muốn ăn một món

gì, có những hứng thú gián tiếp phải thông qua một hoạt động, thường không

thú vị mới thỏa mãn, như học toán để cuối năm thi đỗ. Hứng thú gây chú ý và

làm cho chủ thể cố gắng hành động. Như vậy Nguyễn Khắc Viện coi hứng

thú có bản chất như nhu cầu, là biểu hiện của nhu cầu. Dù không thú vị học

toán nhưng vì cần thiết để cuối năm thi đỗ nên vẫn nỗ lực và khi đỗ mới cảm

thấy thỏa mãn, tạo khoái cảm, thích thú. (Nguyễn Khắc Viện, Lê Văn Luyện.

1995).

Theo Nguyễn Quang Uẩn “Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối

với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng

mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động” (Nguyễn Quang

Uẩn, 2015), định nghĩa này cho thấy hứng thú thể hiện mối quan hệ giữa chủ

thể với thế giới khách quan. Chủ thể chỉ nảy sinh hứng thú và cảm thấy hấp

dẫn với đối tượng trong quá trình hoạt động chiếm lĩnh đối tượng cũng như

20

hiểu được ý nghĩa, giá trị của đối tượng. Thái độ đặc biệt: sự lựa chọn tích

cực, mang khuynh hướng cá nhân, riêng biệt của từng chủ thể. Hơn nữa hứng

thú còn là sự đặc biệt chú ý, đi sâu tìm tòi sáng tạo cũng như say mê chiếm

lĩnh đối tượng. Mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng đó là đối tượng phải có

ý nghĩa và hấp dẫn mới tạo nên hứng thú cho chủ thể.

Căn cứ vào những đặc điểm cơ bản về hứng thú cũng như các nghiên

cứu trong và ngoài nước, trong đề tài này người nghiên cứu tiếp cận khái

niệm của Nguyễn Quang Uẩn: “Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối

với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng

mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động”.

1.2.1.2. Cấu trúc hứng thú

L.A.Gôđơn coi “Hứng thú là sự kết hợp độc đáo của các quá trình tình

cảm – ý chí và các quá trình trí tuệ, khiến cho tính tích cực nhận thức và hoạt

động của con người được nâng cao” (Nguyễn Thu Cúc, 2008).

Phân tích cấu trúc của hứng thú, N. G. Marôzôva đã nêu ít nhất ba yếu

tố, đặc trưng cho hứng thú (Nguyễn Thu Cúc, 2008).

- Có xúc cảm đúng đắn đối với hoạt động,

- Có khía cạnh nhận thức của xúc cảm này (được gọi là niềm vui tìm

hiểu và nhận thức),

- Có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt động, tức là hoạt động

tự nó lôi cuốn và kích thích, không phụ thuộc vào các hoạt động cơ bản khác.

Những động cơ khác (động cơ tinh thần, nghĩa vụ phải thực hiện, yêu cầu của

xã hội,…) có thể hỗ trợ, làm nảy sinh và duy trì hứng thú, nhưng những động

cơ đó không xác định được bản chất của hứng thú.

Ba thành tố trên liên quan chặt chẽ với nhau trong hứng thú của cá nhân.

Ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của hứng thú, mỗi thành tố có thể nổi

lên mạnh hay yếu, ít hay nhiều.

21

Những năm gần đây, có nhiều nhà tâm lý học đã nghiên cứu về cách

giải thích cấu trúc hứng thú của N.G.Môrôzôva. Một số tác giả thấy rằng,

trong rất nhiều trường hợp, hứng thú phải có ba yếu tố kể trên.

Kết hợp khái niệm công cụ của đề tài theo Nguyễn Quang Uẩn và tiếp

cận các phân tích cấu trúc của hứng thú theo N.G. Marozova. Đề tài tiếp nhận

và diễn giải cấu trúc của hứng thú như sau:

Nhận thức là một khía cạnh không thể thiếu trong các loại hứng thú,

trong một mức độ nhất định nhận thức bao hàm thái độ nhận thức của một cá

nhân với một đối tượng nhất định, vì khi cá nhân thích thú với một đối tượng

sẽ đi sâu tìm hiểu đối tượng và khi không có nhận thức thì sẽ không có hứng

thú. Ngược lại, hứng thú cũng là điều kiện để cá nhân nảy sinh hành động tìm

tòi khám phá về đối tượng. Nhiều khi cá nhân nảy sinh hành động hướng tới

đối tượng không chỉ vì sự hấp dẫn về tình cảm của đối tượng, mà còn do cá

nhân nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của đối tượng trong đời sống

xã hội cũng như đối với cá nhân. A.G.Covaliop đã nhận xét: “Hứng thú có thể

hình thành một cách tự phát và không ý thức, do sự hấp dẫn về tình cảm, sau

đó mới dẫn đến nhận thức ý nghĩa của đối tượng. Qua đó, hình thành hứng

thú có thể theo hướng ngược lại: từ chỗ có ý thức về ý nghĩa của đối tượng

đến chỗ bị đối tượng hấp dẫn” (Covaliop A.G., 1971),

Thái độ cũng làm một dấu hiệu không thể thiếu của hứng thú cần có sự

kết hợp chặt chẽ giữa thái độ nhận thức và thái độ xúc cảm của cá nhân với

đối tượng. Nhưng không phải tất cả thái độ xúc cảm đều là gây hứng thú.

Những niềm vui nhất thời xảy ra trong chốc lát chưa phải biểu hiện của hứng

thú. “Chỉ có những biểu hiện xúc cảm tích cực, bền vững của cá nhân đối với

đối tượng mới có thể trở thành một dấu hiệu không thể thiếu được, một mặt

của hứng thú” (Covaliop A.G., 1971).

Hành động là sự thể hiện ra bên ngoài của hứng thú đây là yếu tố có thể

quan sát và nhận định một cách tương đối rõ ràng. Từ đó có thể đưa ra các cơ

22

sở để đánh giá mức độ hứng thú của chủ thế với đối tượng. Tuy nhiên ta cũng

cần lưu ý với khoảng thời gian khác nhau hoặc những chủ thể khác nhau với

cùng một đối tượng có thể gây ra những xúc cảm, phản ứng khác nhau.Vấn đề

là ở chỗ những đặc điểm, thuộc tính đối tượng, hoạt động có đáp ứng hoặc có

tương ứng với đặc điểm, phẩm chất của cá nhân hay không.

Như vậy, nhà tâm lý học N.G. Marozova đã tiếp cận cấu trúc của hứng

thú và làm rõ các nội hàm của hứng thú khi đặt để hứng thú gắn với hoạt

động, hoạt động là biểu hiện của hứng thú mà cá nhân thể hiện. Ông cũng đề

cập đến khía cạnh nhận thức và thái độ như là những tiền đề để góp phần hình

thành hứng thú. Đây là cách lý giải đầy tính biện chứng, chính vì vậy nó

mang sức thuyết phục cao cho các nhà nghiên cứu sâu rộng trong tâm lý học

nói chung và trong tâm lý học nói riêng. Do đó trong khuôn khổ đề tài này

chúng tôi tiếp cận khái niệm hứng thú theo ba mặt nhận thức thái độ và hành

vi, đây là căn cứ quan trọng đề tài xây dựng đo lường hứng thú.

1.2.1.3. Phân loại hứng thú

Hứng thú được hình thành và biểu hiện thông qua mối quan hệ qua lại

giữa chủ thể với khách thể. Ở mỗi cá nhân có những hứng thú khác nhau,

đồng thời mang tính chủ thể rất sâu sắc. Dựa trên tiêu chuẩn phân loại khác

nhau có thể phân chia hứng thú thành các loại chủ yếu sau đây:

 Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, có: hứng thú học tập, hứng thú lao

động, hứng thú vui chơi – giải trí v.v...

Hứng thú học tập là hứng thú trong hoạt động học tập, trong tiếp thu tri

thức. Nếu phân chia theo môn học, hứng thú này có thể có nhiều loại như:

hứng thú học tập các môn khoa học tự nhiên; hứng thú học tập các môn khoa

học xã hội và nhân văn; hứng thú học Toán; hứng thú học Văn v.v...

Hứng thú lao động là hứng thú làm việc liên quan đến các nghành nghề

cụ thể như hứng thú với nghề nghiệp quân sự.

23

Hứng thú vui chơi – giải trí, như hứng thú chơi games; hứng thú thể dục,

hứng thú chơi thể thao (theo các môn cụ thể)…

* Căn cứ vào đối tượng của hứng thú liên quan đến lĩnh vực nhận thức

xúc cảm – tình cảm hay hành vi, có:

Hứng thú hoạt động nhận thức (còn gọi là hứng thú nhận thức). Đó là

hứng thú muốn được hiểu biết về các quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế

giới khách quan.

Hứng thú với các loại hình hoạt động giàu xúc cảm – tình cảm như: âm

nhạc, hội họa, phim ảnh..

 Căn cứ vào phạm vi bao quát đối tượng người ta phân chia thành:

hứng thú rộng và hứng thú hẹp.

Hứng thú rộng là loại hứng thú bao quát nhiều đối tượng nhưng thường

lướt qua không đi sâu vào bản chất của các đối tượng. Chẳng hạn, hứng thú

chơi thể thao, hứng thú học tập, hứng thú nhận thức.

Hứng thú hẹp là hứng thú mà chủ thể bị cuốn hút, đi sâu vào một hoặc

vài đối tượng cụ thể nào đó. Ví dụ: hứng thú học môn Toán, hứng thú học

môn Văn,…

 Căn cứ vào tính bền vững của hứng thú, người ta phân chia thành

hứng thú bền vững và hứng thú không bền vững:

Hứng thú bền vững thường là những hứng thú gắn liền với năng lực hoạt

động nào đó của chủ thể, dựa trên sự nhận thức sâu sắc nghĩa vụ, quyền lợi và

sức hấp dẫn của hoạt động, kết hợp với thiên hướng của bản thân. Chẳng hạn

như: hứng thú nghiên cứu về tâm lý học trẻ em; hứng thú chơi bóng đá; hứng

thú chơi bóng bàn…

Hứng thú không bền vững thường là hứng thú bắt nguồn từ sự nhận thức

hời hợt về đối tượng với những cảm xúc mang tính nhất thời bởi sự hấp dẫn

bên ngoài của đối tượng. Ví dụ: hứng thú khi được tham gia chơi một trò chơi

nào đó.

24

 Căn cứ vào mức độ chủ động hay thụ động của chủ thể, người ta chia

hứng thú thành: hứng thú chủ động và hứng thú thụ động.

Hứng thú chủ động là hứng thú mà chủ thể có nhận thức và thái độ khá

rõ ràng về đối tượng trước khi biểu hiện hành động – hành vi tương ứng đối

với đối tượng. Khi đó, cá nhân không dừng ở việc quan sát mà còn hành động

với mục đích làm chủ đối tượng hay hứng thú. Ví dụ như: Học sinh cảm thấy

có hứng thú trước khi được học tập môn học nào đó.

Hứng thú thụ động là loại hứng thú hình thành một cách ngẫu nhiên hoặc

khi cá nhân chỉ giới hạn ở việc tri giác đối tượng gây nên hứng thú. Chẳng

hạn như, thích thú, khoái cảm khi tình cờ nghe một bản nhạc hoặc xem một

bức tranh,…

 Căn cứ vào cách thức, con đường tạo nên hứng thú, có thể phân hứng

thú thành hai loại: hứng thú trực tiếp và hứng thú gián tiếp:

Hứng thú trực tiếp là hứng thú hướng vào bản thân hoạt động đi đến đối

tượng nhằm thỏa mãn nhu cầu. Ví dụ: hứng thú với việc chơi trò chơi, đồ chơi

của trẻ,…

Hứng thú gián tiếp là hứng thú hướng vào kết quả của hoạt động. Chẳng

hạn, hứng thú muốn có học vấn, muốn có nghề nghiệp, có cương vị, địa vị xã

hội. Sự kết hợp giữa hứng thú trực tiếp với hứng thú gián tiếp sẽ tạo nên động

lực mạnh mẽ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của cá nhân.

Ngoài ra, còn có nhiều cách phân loại hứng thú khác nhau và trên thực

tế, hứng thú ở mỗi cá nhân có thể là sự kết hợp giữa các kiểu loại hứng thú

theo một cách riêng tiêu biểu cho cá nhân đó, vì vậy việc phân loại hứng thú

chỉ mang tích chất tương đối.

Dựa trên các cách phân loại trên, đề tài thống nhất chọn cách phân loại

hứng thú theo cách thức, con đường tạo nên hứng thú:

Hứng thú trực tiếp: là hứng thú hướng vào bản thân hoạt động đi đến đối

tượng nhằm thỏa mãn nhu cầu, hứng thú đối với quá trình hoạt động, hứng

25

thú với quá trình nhận thức, quá trình lao động và hoạt động sáng tạo. Thể

hiện ở thái độ thận trọng và có trách nhiệm đối với công việc, học tập,…

Những người này mong muốn đi sâu vào đối tượng nhận thức, đi sâu nắm

vững đến mức hoàn hảo đối tượng hứng thú của mình.

Hứng thú gián tiếp: là loại hứng thú do những yếu tố bên ngoài và đối

tượng của hoạt động gây nên và gián tiếp liên quan đến đối tượng ấy. Hứng

thú hướng vào kết quả của hoạt động, rất dễ bị dao động và thay đổi khi gặp

các trở ngại, khó khăn. Chẳng hạn, hứng thú muốn có học vấn, muốn có nghề

nghiệp, có cương vị, địa vị xã hội,… Sự kết hợp giữa hứng thú trực tiếp với

hứng thú gián tiếp sẽ tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy tính tích cực hoạt

động của cá nhân.

1.2.1.4. Con đường hình thành hứng thú

Sự hình thành hứng thú làm một quá trình và thường diễn ra theo hai con

đường cơ bản sau đây:

Thứ nhất, con đường tự phát. Theo con đường này, hứng thú được hình

thành một cách ngẫu nhiên do sự hấp dẫn bởi một vài đặc điểm vốn có bên

ngoài hoặc bên trong của đối tượng, mà trước đó chủ thể hoàn toàn chưa ý

thức được. Khi đó, chủ thể sẽ nảy sinh những rung động (xúc cảm) gần như

tức thời, trên cơ sở của sự rung động đã thu hút cá nhân đi vào tìm hiểu, nhận

thức về đối tượng. Tùy thuộc vào mức độ thu hút của đối tượng, mà hứng thú

có thể chuyển từ tự phát sang tự giác (chủ thể chủ động đi sâu nhận thức đối

tượng). Đối với trẻ nhỏ, hứng thú được hình thành chủ yếu thông qua con

đường tự giác. Tức là bắt đầu từ sự hấp dẫn bởi hình thức bên ngoài của đối

tượng, sau đó mới dẫn đến việc đi sâu tìm hiểu, khám phá đặc điểm bên trong

của nó. Chẳng hạn, những vật có màu sắc sặc sỡ, vui mắt, hình ảnh, âm thanh

sống động thường nhanh chóng gây cho trẻ nhỏ sự thích thú, hấp dẫn, sau đó

làm cho trẻ tò mò và từng bước khám phá những đặc tính bên trong của đối

tượng, A.G.Covaliov đã viết: “ Hứng thú có thể được hình thành một cách tự

26

phát và không có ý thức, do sự vật hấp dẫn về tình cảm, sau đó mới dẫn đến

nhận thức ý nghĩa cần thiết của đối tượng đó” (Vũ Dũng, 2008).

Thứ hai, con đường tự giác. Đây là con đường chủ yếu của sự hình thành

và phát triển hứng thú. Cụ thể là, dựa trên cơ sở chủ thể nhận thức được vị trí,

ý nghĩa và sự hấp dẫn của đối tượng đối với bản thân, từ đó hình thành thái độ

và hành vi tích cực của chủ thể đối với đối tượng. Theo con đường này, hứng

thú thường diễn ra theo một quá trình từ thấp đến cao và phụ thuộc vào nhận

thức, thái độ, cũng như mức độ mối quan hệ qua lại giữa chủ thể và đối

tượng. Đối với người lớn sự hình thành và phát triển hứng thú phần lớn diễn

ra theo con đường tự giác. Đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa nhận thức được giá

trị, ý nghĩa bên trong với sự hấp dẫn bởi những biểu hiện hình thức bên ngoài

của đối tượng, trong đó sự hiểu biết giá trị ý nghĩa bên trong của đối tượng

thường giữ vai trò quyết định, nó đảm bảo tính ổn định, bền vững của hứng

thú. Nói về con đường này, A.G.Covaliov đã viết: “Quá trình hình thành hứng

thú có thể theo hướng ngược lại: từ chỗ có ý thức về ý nghĩa của đối tượng

đến chỗ bị đối tượng hấp dẫn” (Vũ Vũng, 2008).

Như vậy, sự hình thành hứng thú ở mỗi lứa tuổi có sự khác nhau, đối với

trẻ nhỏ sự hình thành hứng thú chủ yếu theo con đường tự phát. Trong khi đó,

ở những người trưởng thành sự hình thành hứng thú thường là kết hợp giữa

con đường tự giác và tự phát, nhưng con đường tự giác là chủ yếu. Điều này,

đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của hứng thú.

1.2.2. Giao tiếp

1.2.2.1. Khái niệm giao tiếp:

A.A.Leonchiev cho rằng “Đó là một hệ thống những quá trình có mục

đích và động cơ trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân

cách, các quan hệ tâm lý và sử dụng những phương tiện đặc thù, mà trước hết

là ngôn ngữ” theo đó giao tiếp là một dạng của hoạt động hoặc có thể là một

27

phương tiện, điều kiện của hoạt động (Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu và Nguyễn

Thạc, 2016).

Theo tác giả Đỗ Long “Giao tiếp là sự trao đổi thông tin, tác động qua

lại, ảnh hưởng và hiểu biết lẫn nhau, giữa cá nhân với tập thể, giữa tập thể và

tập thể”. (Vũ Dũng, 2008). Qua giao tiếp con người trao đổi, truyền đạt tri

thức, kinh nghiệm với nhau. Mỗi cá nhân vừa là nguồn phát thông tin, vừa là

nơi tiếp nhận thông tin. Thu nhận và xử lý thông tin, tri giác lẫn nhau là một

con đường quan trọng để phát triển nhân cách.

Tác giả Hoàng Anh ngoài khía cạnh tâm lý và quan hệ liên nhân cách

còn nêu thêm chức năng xã hội của giao tiếp. Bà đưa ra định nghĩa “Giao tiếp

là sự tiếp xúc tâm lý, tạo nên quan hệ giữa hai hoặc nhiều người với nhau,

chứa đựng một nội dung xã hội hoặc lịch sử nhất định, có nhiều chức năng tác

động, hỗ trợ cùng nhau: thông báo, điều khiển, nhận thức, hành động và tình

cảm, nhằm thực hiện một mục đích nhất định của một hoạt động nhất định”

(Hoàng Anh, 1992).

Tác giả Phạm Minh Hạc nhấn mạnh vào khía cạnh thiết lập quan hệ liên

nhân cách của giao tiếp, ông định nghĩa: “Giao tiếp là hoạt động xác lập và

vận hành các quan hệ người – người để hiện thực các quan hệ xã hội giữa

người ta với nhau”(Phạm Minh Hạc, 1988).

Theo từ điển Tâm lí giáo dục: “Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát

triển sự tiếp xúc giữa cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động. Giao

tiếp bao gồm hàng loạt các yếu tố như: trao đổi thông tin, xây dựng chiến

lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác” (Vũ Dũng, 2000).

Như vậy, giao tiếp có thể hiểu là một quá trình trong đó con người trao

đổi với nhau các ý tưởng, cảm xúc, tình cảm và thông tin nhằm xác lập và vận

hành các mối quan hệ giữa người và người trong xã hội vì những mục đích

khác nhau. Trong giao tiếp thường diễn ra ba quá trình: quá trình trao đổi

28

thông tin, cảm xúc; quá trình nhận thức lẫn nhau; quá trình tác động và ảnh

hưởng lẫn nhau.

Theo tác giả Nguyễn Ánh Hồng “Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát

triển sự tiếp xúc giữa các cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động.

Giao tiếp bao gồm hàng loạt các yếu tố như trao đổi thông tin, xây dựng chiến

lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác” (Nguyễn Ánh

Hồng, 2007).

Tác giả Nguyễn Ngọc Bích “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều

người thông qua phương tiện ngôn ngữ nhằm trao đổi thông tin, tình cảm,

hiểu biết, tác động qua lại và điều chỉnh lẫn nhau” (Huỳnh Văn Sơn, 2011).

Như vậy có thể thấy các định nghĩa giao tiếp trên nhấn mạnh vào các đặc

điểm của giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý; giao tiếp là một sự tương tác hai

chiều (hoặc nhiều) giữa người với người; chức năng giao tiếp là thông tin,

nhận thức, trao đổi, tình cảm, phối hợp hoạt động và thiết lập, vận hành quan

hệ liên nhân cách; phương tiện giao tiếp là phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn

ngữ.

Theo tác giả Nguyễn Văn Đồng “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí đa chiều

giữa người với người được quy định bởi các yếu tố tính cách cá nhân, văn hóa

và xã hội. Giao tiếp có chức năng thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của

con người, trao đổi thông tin, cảm xúc, định hướng và điều chỉnh nhận thức,

hành vi của bản thân và của nhau, tri giác lẫn nhau, tạo dựng quan hệ với

nhau và tác động qua lại lẫn nhau (Nguyễn Văn Đồng, 2006). Định nghĩa giao

tiếp trên bao gồm tính đồng chủ thể và đa chiều của giao tiếp, đặc trưng tâm

lý cá nhân, đặc trưng văn hóa xã hội của giao tiếp và các chức năng của giao

tiếp

Chúng tôi lựa chọn quan điểm của tác giả Nguyễn Văn Đồng làm hướng

tiếp cận cho đề tài từ đó đề tài xác lập khái niệm giao tiếp như sau:

29

Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người được quy định bởi

các yếu tố tâm lý cá nhân nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, trao đổi

thông tin, cảm xúc, điều chỉnh nhận thức, hành vi của cá nhân và người khác.

1.2.2.2. Chức năng giao tiếp

Theo tác giả Nguyễn Văn Đồng, giao tiếp bao gồm sáu chức năng như

sau:

- Chức năng thỏa mãn nhu cầu của con người

- Chức năng thông tin

- Chức năng nhận thức

- Chức năng cảm xúc

- Chức năng định hứng, tổ chức, phối hợp hoạt động và điều chỉnh hành

vi của bản thân và của người khác.

- Chức năng hình thành và phát triển các quan hệ liên nhân cách.

Chức năng thỏa mãn nhu cầu của con người là chức năng quan trọng

nhất của giao tiếp. Đây là chức năng được hình thành sớm nhất trên cả

phương diện phát triển cá thể và phương diện lịch sử. Song song với sự xuất

hiện của con người, giao tiếp cũng xuất hiện như là nhu cầu cơ bản và nền

tảng nhất, từ đó ngôn ngữ được hình thành để thỏa mãn nhu cầu giao tiếp. Chỉ

khi giao tiếp được thỏa mãn thì những phẩm chất, năng lực, tính cách mỗi cá

nhân phát triển đồng thời cùng với sự phát triển của người khác trong quá

trình giao tiếp.

 Xét dưới góc độ cá nhân, theo B.Ph.Lomov giao tiếp có 3 chức năng

sau:

Chức năng thông tin: Con người trao đổi thông tin cho nhau qua giao

tiếp. Nội dung thông tin có thể là hiện tượng, vấn đề trong đời sống sinh hoạt

hằng ngày, những suy nghĩ, tâm tư, tri thức…

Chức năng điều chỉnh: Qua giao tiếp con người có thể điểu chỉnh thái độ,

hành vi, nhận thức của bản thân, của đối tượng giao tiếp. Sự điều chỉnh hành

30

vi lẫn nhau là nhân tố quan trọng trong các chủ thể tham giao tiếp thành chủ

thể hoạt động chung.

Chức năng cảm xúc: Con người biểu lộ tình cảm, thái độ, tác động đến

trạng thái cảm xúc của nhau, nhờ đó mà con người ta có thể thay đổi trạng

thái tình cảm của mình, hiểu thái độ của người khác làm cho hiệu quả giao

tiếp tốt hơn.

 Xét dưới góc độ nhóm, giao tiếp có những chức năng

Chức năng nhận thức lẫn nhau và đánh giá lẫn nhau: Thông qua giao tiếp

con người nhận thức lận nhau, so sánh, đối chiếu mình với người khác, do đó

biết được mình là người như thế nào.

Chức năng tổ chức hoạt động chung: giao tiếp có ảnh hưởng đến việc lựa

chọn mục đích, hình thành kế hoạch chung, phân công, phân nhiệm vụ cụ thể

cho từng người. Trong quá trình hoạt động chung có sự trao đổi thông tin,

khích lệ, kiểm tra, uốn nắn hành động của nhau.

Chức năng thiết lập quan hệ: Trong giao tiếp có thể hình thành các quan

hệ đồng chí, bạn bè, hay quan hệ thù địch…. Các mối quan hệ này có ảnh

hưởng tới sự phát triển cá nhân.

 Xét dưới góc độ tâm lý học xã hội, giao tiếp có hai chức năng

Chức năng liên kết: Nhờ chức năng này con người hiểu được nhau, liên

hệ, xây dựng mối quan hệ với nhau.

Chức năng đồng nhất: Thực hiện sự hòa hợp của cá nhân vào nhóm xã

hội.

 Xét dưới góc độ giao tiếp là một phạm trù của tâm lý học hiện đại,

giao tiếp có các chức năng sau

Chức năng định hướng hoạt động con người, bao gồm cả việc xác định

mục đích, nhu cầu, động cơ giao tiếp.

Chức năng điều chỉnh hành vi: Chủ thể giao tiếp điều chỉnh nhu cầu, tình

cảm… cho phù hợp mục đích, nhiệm vụ giao tiếp.

31

Chức năng truyền đạt tri thức, kỹ năng trong hoạt động….

Qua cách phân loại các chức năng giao tiếp như trên chứng tỏ giao tiếp

có nhiều chức năng, nhưng tất cả đều thực hiện chức năng chung đó là giao

tiếp làm diễn ra các hoạt động của con người một cách hợp lý.

Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm khác nhau trong cách phân loại

chức năng giao tiếp, chúng tôi rút ra một số chức năng cơ bản của giao tiếp

như sau:

+ Chức năng phối hợp các hoạt động: trong giao tiếp con người cùng đối

tượng giao tiếp của mình có thể trao đổi, phối hợp hoạt động với nhau để giải

quyết một nhiệm vụ nào đó, đạt tới mục đích đã định.

+ Chức năng thông tin: Trong quá trình giao tiếp mỗi cá nhân có thể vừa

là nguồn phát thông tin tới đối tượng giao tiếp nhưng đồng thời cũng là nơi

tiếp nhận thông tin từ đối tượng giao tiếp.

+ Chức năng cảm xúc: Trong giao tiếp chủ thể bộc lộ quan điểm của

mình đối với một vấn đề, hiện tượng nào đó, đồng thời biểu lộ rung cảm, thái

độ, tâm trạng của mình đối với chủ thể khác. Những trạng thái cảm xúc này

không tồn tại độc lập mà bị ảnh hưởng qua lại lẫn nhau trong quá trình giao

tiếp.

+ Chức năng nhận thức, đánh giá lẫn nhau: Trong giao tiếp mỗi cá nhân

tự bộc nhận thức, tình cảm, tư tưởng, quan điểm của mình, đó là cơ sở để đối

tượng giao tiếp đánh giá, nhận xét và ngược lại đối phương cũng đánh giá,

nhận xét lại chính bản thân.

+ Chức năng điều chỉnh hành vi: Trong giao tiếp con người có thể điều

chỉnh hành vi của mình và tác động đến động cơ, quá trình ra quyết định,

hành động của đối tượng giao tiếp nên đối tượng giao tiếp cũng phải điều

chỉnh hành vi của đối tượng giao tiếp nên đối tượng giao tiếp cũng phải điều

chỉnh hành vi của họ cho phù hợp mục đích giao tiếp.

32

Trong khuôn khổ đề tài luận văn chúng tôi quan tâm đến 2 chức năng

của giao tiếp đó là chức năng thông tin và chức năng thỏa mãn cảm xúc.

1.2.3. Hứng thú giao tiếp, hứng thú giao tiếp về định hướng nghề

nghiệp

1.2.3.1. Khái niệm hứng thú giao tiếp

Dựa trên các khái niệm về hứng thú và giao tiếp tác giả xác lập khái

niệm hứng thú giao tiếp như sau:

Hứng thú giao tiếp là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với sự

tiếp xúc tâm lý giữa người với người do sự tiếp xúc này có ý nghĩa vô cùng

quan trọng trong sự phát triển của cá nhân và mang lại những cảm xúc tích

cực.

1.2.3.2. Khái niệm hứng thú giao tiếp về định hướng nghề nghiệp

a. Khái niệm nghề nghiệp

Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê biên soạn, nghề (nghề nghiệp) là

công việc chuyên làm theo sự phân công lao động của xã hội, có rất nhiều

nghề thuộc những nhóm ngành khác nhau. (Hoàng Phê, 1994).

Theo Nguyễn Văn Hộ: “Nghề nghiệp như là một dạng lao động vừa

mang tính xã hội sự phân công xã hội, vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản

thân) trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thỏa mãn

những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân” (dẫn theo Trần Đình Chiến,

2008).

Theo tác giả Klimov “Nghề là một lĩnh vực sử dụng sức lao động vật

chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do

sự phân công lao động mà có), nó tạo khả năng cho con người sử dụng lao

động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát

triển” (dẫn theo Nguyễn Thị Trường Hân, 2010), cũng theo Kimov ông phân

loại nghề nghiệp gồm năm nhóm chính:

33

Bảng 1.1. Phân loại năm nhóm nghề cơ bản

Nhóm nghề Đối tượng lao động chủ yếu Ví dụ

Người - thiên Các tổ chức hữu cơ, các quá Trồng lúa, chăn nuôi,

nhiên trình sinh vật và vi sinh vật bác sĩ thú y..

Thợ máy, thợ rèn, thợ Người - Kỹ Hệ thống các thiết bị kỹ thuật, nguội, thợ xây, lái thuật đối tượng vật chất xe…

Bác sĩ, y tá, giáo Người - người Con người, nhóm tập thể viên, bán hàng…

Nhân viên, kế toán Người - hệ Những dấu hiệu, con số, mã số, thủ quỹ, đánh máy, thống kí hiệu công thức, ngôn ngữ.. thợ xếp chữ in…

Người - nghệ Các hình ảnh nghệ thuật, các bộ Sơn mài, điêu khắc,

thuật phận và thuộc tính của nó nhạc sĩ, họa sĩ…

Như vậy khái niệm nghề nghiệp có những nội dung cơ bản sau:

Nghề nghiệp là một nghề trong xã hội, đó là công việc chuyên môn trong

lĩnh vực hoạt động nhất định, đòi hỏi người làm phải có kiến thức, kỹ năng,

kỹ xảo để lao động hiệu quả.

Hoạt động nghề nghiệp phải có mục đích rõ ràng, nó không những mang

lại lợi ích cho xã hội mà thỏa mãn nhu cầu cơ bản để tồn tại và phát triển.

Nghề nghiệp là một phạm trù lịch sử, nó ra đời và gắn liền với những

phân công lao động xã hội, phụ thuộc vào tính chất xã hội và sự phát triển của

lực lượng sản xuất.

Tóm lại trong đề tài của mình tác giả lựa chọn cách tiếp cận nghề và

phân loại nghề theo Klimov vì trong nhiều cách phân loại nghề thì cách phân

34

loại của Klimov là phù hợp hơn cả bởi lẽ chọn nghề là chọn đối tượng lao

động và có nhiều quan điểm cho rằng “hướng nghiệp là hướng đến thế giới

việc làm, không chỉ hướng đến một nghề mà hướng đến nhóm nghề và rộng

hơn (Nguyễn Thị Trường Hân, 2010), tuy nhiên cách phân loại trên cũng chỉ

mang tính chất tương đối.

b. Khái niệm định hướng nghề nghiệp

Định hướng nghề nghiệp là một khái niệm rộng được tiếp cận từ nhiều

góc độ khác nhau.

Theo tác giả Nguyễn Thị Uyên Thy định hướng nghề từ góc độ cá nhân

là sự hướng vào và lựa chọn chủ quan của cá nhân đối với các nghề nghiệp

trong xã hội, là hệ thống các giá trị, hứng thú, sở thích của cá nhân về nghành

nghề trong xã hội, về nhu cầu của hệ thống phân công lao động xã hội hiện

hành, về năng lực và nguyện vọng của bản thân (Nguyễn Thị Uyên Thy,

2002).

Theo tác giả Nguyễn Thị Trường Hân, một trong những nhiệm vụ cơ bản

của giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông là định hướng nghề nghiệp

cho học sinh, theo đó định hướng nghề là việc thông tin cho học sinh về đặc

điểm hoạt động và yêu cầu phát triển của các nghề trong xã hội, đặc biệt là

những nghề và những nơi đang thiếu lao động trẻ tuổi có văn hóa, về yêu cầu

tâm sinh lý của mỗi nghề, về tình hình phân công và yêu cầu điều chỉnh lao

động ở cộng đồng dân cư về hệ thống trường lớp đào tạo nghề của nhà nước,

tập thể và tư nhân (Nguyễn Thị Trường Hân, 2010).

Công tác hướng nghiệp trong nhà trường phải đảm bảo cung cấp đầy đủ

các thông tin sau cho HS THPT: Tri thức về các nghành nghề trong xã hội

hoặc địa phương, đặc điểm về nghề nghiệp, tri thức về nhu cầu lao động của

xã hội hoặc địa phương, những hiểu biết về nhân cách, đặc biệt là năng lực

của bản thân.

35

Dưới góc độ tâm lý học, định hướng nghề là quá trình trang bị cho cá

nhân sự hiểu biết rõ ràng hơn về bản thân và khả năng phát triển sự nghiệp

trong tương lai của họ là quá trình giáo viên trợ giúp HS điều chỉnh và tự điều

chỉnh hành động chọn nghề của mình trên cơ sở nhận thức về nghề nghiệp và

về bản thân (Phạm Tất Dong, 2012). Quá trình này nhằm hình thành cho HS

xu hướng nghề nghiệp, năng lực tự giác lựa chọn nghề nghiệp có tính đến

những nhu cầu của xã hội, trên cơ sở đó tự xác định nghề nghiệp của mình

(Trần Trọng Thủy, 1987).

Nhìn chung công tác hướng nghiệp, định hướng nghề nghiệp cho HS cần

có sự phối hợp của nhà trường, gia đình và bản thân HS. Trong khuôn khổ đề

tài của tác giả, định hướng nghề nghiệp đứng dưới góc độ gia đình, nhấn

mạnh mối tương quan giữa cha mẹ và con trong việc lựa chọn nghề, xác định

công việc sau khi tốt nghiệp. Vì vậy tác giả đưa ra khái niệm định hướng nghề

nghiệp như sau:

“Định hướng nghề nghiệp là sự điều chỉnh quá trình chọn nghề thông

qua hỗ trợ của nhà trường hoặc gia đình để đưa ra những thông tin nghề

nghiệp phù hợp năng lực của cá nhân và thị trường lao động tương lai từ đó

học sinh xác định nghề nghiệp của mình”.

Tóm lại dựa trên khái niệm hứng thú giao tiếp và định hướng nghề

nghiệp ở trên chúng tôi quan niệm: “Hứng thú giao tiếp về định hướng nghề

nghiệp là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với sự tiếp xúc tâm lý giữa

người với người trong lĩnh vực định hướng nghề do sự tiếp xúc này có ý

nghĩa quan trọng trong trong hoạt động điều chỉnh quá trình chọn nghề, tìm

kiếm những thông tin nghề nghiệp phù hợp năng lực bản thân và thị trường

lao động tương lai, đồng thời mang lại những cảm xúc tích cực cho chính cá

nhân đó”.

36

1.2.4. Hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của

học sinh lớp 12

Dựa trên những nội dung trình bày ở trên, chúng tôi quan niệm: Hứng

thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề của HS lớp 12 là thái độ lựa

chọn đặc biệt của HS lớp 12 đối với sự tiếp xúc tâm lý giữa bản thân với cha

mẹ trong lĩnh vực định hướng nghề do sự tiếp xúc này có ý nghĩa quan trọng

trong quá trình điều chỉnh định hướng nghề nghiệp, tìm kiếm thông tin nghề

phù hợp với bản thân và thị trường lao động tương lai của HS lớp 12 và mang

lại những cảm xúc tích cực.

1.2.4.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 12

a. Một số đặc điểm lứa tuổi

Hoạt động của thanh niên ngày càng phong phú và phức tạp, nên vai trò

của xã hội và hứng thú xã hội của thanh niên không chỉ mở rộng về số lượng

và phạm vi, mà còn biến đổi cả về chất lượng. Ở thanh niên ngày càng xuất

hiện nhiều các vai trò của người lớn, và họ thực hiện các vai trò đó ngày càng

có tính độc lập và có tinh thần trách nhiệm hơn. Nhiệm vụ xã hội chủ yếu của

lứa tuổi này là chọn nghề.

Lứa tuổi HS THPT đã có những nét của người lớn, nhưng chưa phải là

người lớn. Người lớn bắt đầu đòi hỏi ở các em phải có tính độc lập, ý thức

trách nhiệm và thái độ hợp lý… Đồng thời lại không xác định (ở mặt này các

em được coi là người lớn, nhưng ở mặt khác lại không). Tính chất đó và

những yêu cầu đề ra cho thanh niên ở lứa tuổi này được phản ánh một cách

độc đáo vào tâm lý thanh niên.

Nội dung và tính chất của hoạt động học tập ở thanh niên HS khác rất

nhiều so với hoạt động học tập của thiếu niên; hoạt động học tập của thanh

niên HS đi sâu vào những tri thức cơ bản, những quy luật của các bộ môn

khoa học. HS càng trưởng thành, kinh nghiệm sống càng phong phú, các em

càng ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Do vậy ,

37

thái độ có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển . Các em

hiểu được rằng, vốn tri thức kỹ năng, kỉ xảo là điều kiện cần thiết để các em

bước vào cuộc sống tương lai. Từ đó, nhu cầu tri thức của các em tăng lên.

Thái độ của thanh niên HS đối với các môn học trở nên có lựa chọn hơn.

Ở các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng

nghề nghiệp. Cuối bậc THPT, các em đã xác định được cho mình hứng thú ổn

định đối với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri thức nhất định,

hứng thú này thường liên quan tới việc chọn một nghề nhất định của HS. Thái

độ học tập của thanh niên HS được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc

khác với động cơ học tập ở tuổi trước. Đối với học sinh THPT thì có ý nghĩa

nhất là động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa xã hội của

môn học, rồi mới đến các động cơ cụ thể khác…

Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển các

năng lực trí tuệ, tính chủ định được phát triển mạnh nhất ở tất cả các quá trình

nhận thức. Tuy nhiên, thiếu sót cơ bản trong hoạt động tư duy của nhiều em là

thiếu tính độc lập, chưa chú ý phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản

thân, kết luận vội vàng theo cảm tính, hoặc thiên về tái hiện tư tưởng của

người khác, các luận chứng của người khác… (Đỗ Thị Lệ Hằng, 2010)

THPT đã trưởng thành như một người lớn nhưng các em chưa phải là

người lớn. Mặc dù trong nhận thức của các em đã có tính chủ định nhưng các

em chưa hoàn toàn độc lập suy nghĩ mà còn lệ thuộc vào người lớn rất nhiều.

Chính vì vậy, nhận thức của các em về chọn nghề cũng như xu hướng chọn

nghề mang những nét đặc trưng riêng của lứa tuổi.

Ở học sinh THPT có một số nét tính cách đặc biệt như sự độc lập. Đây là

nét tính cách rất điển hình, các em luôn muốn thể hiện lập trường, quan điểm

và tự quyết định vấn đề của bản thân. Cá tính độc lập giúp các em có thêm

lòng can đảm, dám nghĩ dám làm. Tuy nhiên, những hành động và quyết định

của các em còn thiếu sự cẩn trọng chưa quan tâm đến hậu quả. Các em có

38

lòng tự trọng cao và luôn để tâm đến sự đánh giá của người khác. Bên cạnh

đó, các em luôn tích cực chủ động trong các hoạt động tập thể. Các em thích

khẳng định bản thân thông qua các hoạt động của lớp, của nhà trường và xã

hội.

Quan hệ bạn bè giữ vai trò quan trọng trong đời sống tình cảm của các

em. Tuy sự ảnh hưởng của bạn bè không còn nhiều như giai đoạn thiếu niên,

nhưng tình bạn vẫn chiếm vị trí đặc biệt trong lòng các em. Các em thường

trò chuyện, chia sẻ tâm tư tình cảm, những khó khăn vướng mắc cũng như vui

buồn của mình cho bạn thân. Lời khuyên của bạn thân đôi khi có ý nghĩa

quyết định đối với việc giải quyết những vấn đề quan trọng của các em.

Giai đoạn này, gia đình ảnh hưởng trực tiếp đến những quyết định quan

trọng của các em trong tương lai. Sự hướng dẫn, chia sẻ của cha mẹ sẽ giúp

các em tự tin bước vào cuộc đời. Đặc biệt giúp các em tự tin chọn lựa nghề

nghiệp thích hợp nhất đối với bản thân.

Ngày nay, một số gia đình có quan niệm “Đại học là cánh cửa duy nhất

bước vào đời”, do vậy một số bậc cha mẹ có xu hướng đầu tư cho con từ học

chính đến học thêm để có thể vượt qua các kì thi mà đôi khi quên đi sự chia sẻ

và quan tâm đến những khó khăn mà các em đang gặp phải trong học tập và

hướng nghiệp. Điều này khiến mối quan hệ của cha mẹ và các em dần trở nên

xa cách. Áp lực học tập, áp lực thi cử, áp lực từ thầy cô và nhà trường cộng

với những đòi hỏi quá cao từ cha mẹ sẽ làm các em cảm thấy áp lực và mệt

mỏi dẫn đến bi quan, chán nản.

Trong giai đoạn này, các em đã tự quyết định những vấn đề của mình

dưới sự hướng dẫn, chia sẻ của cha mẹ và thầy cô để hạn chế sự nôn nóng và

hấp tập nơi các em. Cha mẹ không nên áp đặt ý muốn của bản thân lên ước

mơ và hoài bão của các em. Để các em tự do trong những khuôn khổ nhất

định, chuẩn bị cho các em hành trang về kiến thức, về niềm tin để có thể

chuẩn bị sẵn sàng cho tương lai sắp tới.

39

b. Nhận thức về việc chọn nghề và xu hướng chọn nghề, yếu tố ảnh

hưởng đến quá trình chọn nghề

Ở lứa tuổi học sinh THPT, nhu cầu tự ý thức được phát triển mạnh mẽ,

khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và

năng lực riêng, và sự tự ý thức này xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt

động. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận

thức về vị trí của mình trong xã hội, tương lai; và các em coi trọng những

phẩm chất bên trong. Ở lứa tuổi này, các em có thể xây dựng được thế giới

quan hoàn chỉnh với tư cách là một hệ thống quan điểm; và sự hình thành thế

giới quan này được thể hiện ở tính tích cực nhận thức. Một vấn đề quan trọng

cần được nhắc đến trong thế giới quan của các em đó là việc chọn nghề một

cách có ý thức, đây là công việc khẩn thiết đối với các em; các em hiểu được

rằng: cuộc sống tương lai phụ thuộc vào chỗ các em có biết lựa chọn nghề

một cách đúng đắn hay không. Dù vô tâm đến đâu thì các em cũng phải quan

tâm, suy nghĩ đến việc chọn nghề. Việc quyết định chọn một nghề nào đó ở

nhiều em đã có căn cứ. Nhiều em biết so sánh đặc điểm riêng về thể chất, tâm

lý, khả năng của mình với yêu cầu của nghề nghiệp, mặc dù sự hiểu biết của

các em về yêu cầu của nghề còn phiến diện, chưa đầy đủ.

Học sinh khi bắt đầu định hướng chọn nghề thì điều trước tiên đòi hỏi

các em phải hiểu biết về nghề định chọn. Hiện nay, đa số các em còn định

hướng một cách phiến diện, đó là việc học tập ở đại học, các em hướng vào

các trường đại học nhiều hơn là học nghề, tâm thế này sẽ dễ có ảnh hưởng

tiêu cực đối với các em (vô tình hoặc cố ý) đã không chú ý đến nhu cầu của

xã hội đối với các nghành nghề khác nhau và mức độ đào tạo của các nghề

trong khi quyết định đường đời cho minh (Đỗ Thị Lệ Hằng, 2010).

Ở lứa tuổi này, các em luôn đặt ra những câu hỏi như: học đại học hay

học nghề, học trường đại học nào, chọn nghành nghề nào, .v.v… Việc lựa

chọn nghề nghiệp sẽ có ảnh hưởng đến tương lai của các em về sau. Do vậy,

40

khác với lứa tuổi trước, nhu cầu định hướng nghề nghiệp là nhu cầu cấp bách

và đòi hỏi có sự đầu tư nghiêm túc về cả thời gian và tâm sức.

Xu hướng nghề nghiệp là thiên hướng chọn một nghề ổn định, và xu

hướng nghề nghiệp này sẽ thúc đẩy toàn bộ hoạt động của cá nhân để đạt kết

quả như mong muốn. Thế nhưng xu hướng chọn nghề hiện nay của HS

thường là theo những suy nghĩ chủ quan mà không căn cứ vào năng lực, sở

trường của bản thân, cũng như nhu cầu địa phương và xã hội. Các em lại

thành kiến với một số nghề trong xã hội và ý kiến của người khác. Chính vì

không đánh giá, không có đầy đủ thông tin chống chỉ định y học trong nghề

từ đó gây nên nhiều cản trở cho các em trong hoạt động nghề nghiệp.

1.2.4.2. Biểu hiện hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp của học sinh lớp 12

Hứng thú giao tiếp với cha mẹ được nảy sinh từ nhu cầu định hướng

nghề nghiệp của học sinh lớp 12. Trên thực tế, hầu hết HS lớp 12 đều có

mong muốn lựa chọn nghề nghiệp tương lai cho bản thân, mỗi HS sẽ có nhận

thức khác nhau về lĩnh vực nghề nghiệp tuy nhiên trước thế giới nghề nghiệp

rộng lớn các em thường hoang mang về các thông tin xã hội đem đến vì vậy

hoạt động tư vấn, hướng nghiệp được nhà trường thúc đẩy nhằm hỗ trợ cho

HS có cái nhìn đúng đắn nhất về nghề nghiệp tương lai. Tuy nhiên bên cạnh

yếu tố nhà trường, xã hội gia đình cũng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng vì

sự lựa chọn tương lai các em còn phụ thuộc kinh tế gia đình, mong muốn cha

mẹ… Vì vậy để thỏa mãn nhu cầu xác định thông tin nghề nghiệp các em cần

tham gia hoạt động giao tiếp với cha mẹ, trao đổi qua lại về định hướng nghề

nghiệp tương lai, nhờ thỏa mãn nhu cầu này dẫn đến nảy sinh hứng thú trong

quá trình giao tiếp giữa cha mẹ và con của học sinh lớp 12.

Trong luận văn này chúng tôi nghiên cứu hứng thú giao tiếp với cha mẹ

của học sinh lớp 12 thể hiện qua hứng thú giao tiếp về định hướng nghề

nghiệp ở ba mặt với những biểu hiện cụ thể trong từng mặt như sau:

41

 Nhóm biểu hiện nhận thức

Nhận thức tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc

định hướng nghề nghiệp. Nhận thức nhu cầu định hướng nghề nghiệp của bản

thân thông qua hoạt động giao tiếp với cha mẹ.

Nhận thức ý nghĩa của quá trình giao tiếp giữa cha mẹ và con: Thông

qua quá trình giao tiếp nhằm trao đổi thông tin về đối tượng nghề nghiệp mà

con lựa chọn, cơ sở đào tạo nghề nghiệp, loại hình đào tạo, sự phù hợp năng

lực bản thân, nguồn lực hỗ trợ từ phía gia đình…

 Nhóm biểu hiện xúc cảm

Hứng thú giao tiếp thể hiện bằng việc đồng ý hay không đồng ý với

những thông tin, nhận xét và thái độ của cha mẹ đưa ra trong quá trình giao

tiếp, hài lòng hay không hài lòng với biểu hiện cảm xúc mà cha mẹ thể

hiện,… Từ đó định hướng cho hành động cũng như nảy sinh những xúc cảm

dương tính với hoạt động.

 Nhóm các biểu hiện về mặt hành động

Con cái biểu hiện bằng các hành động tích cực chủ động tham gia hoạt

động giao tiếp như mức độ thường xuyên tiếp xúc, trao đổi thông tin với cha

mẹ, có những hành động tích cực thu thập thông tin về nghề nghiệp bàn luận

với cha mẹ. Đi sâu tìm hiểu thêm thông tin mà cha mẹ cung cấp, chủ động

nêu ra quan điểm của bản thân và tìm kiếm sự đồng thuận nhất trí từ phía cha

mẹ.

1.2.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng

Học sinh lớp 12 đang ở độ tuổi đầu thanh niên (từ 17 đến 18 tuổi). Theo

tâm lý học lứa tuổi, tuổi thanh niên là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy

thì và kết thúc khi bước vào tuổi mới lớn. Ở độ tuổi này có rất nhiều yếu tố

ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của

các em.

42

a. Các yếu tố từ phía học sinh

Hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 về định hướng nghề

nghiệp chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố nhận

thức về tầm quan trọng của việc chọn nghề được xem là một trong những yếu

tố quan trọng. Ở lứa tuổi đầu thanh niên nhu cầu chọn ngành, chọn nghề đã

trở thành một nhu cầu cấp bách và cần thiết đối với các em để có thể đưa ra

một hướng đi cho bản thân sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.

Cũng xuất phát từ nhu cầu định hướng nghề nghiệp ở lứa tuổi này sự

mong muốn tìm hiểu thêm kiến thức kiên quan đến việc định hướng nghề

nghiệp cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến hứng thú giao tiếp với cha

mẹ về định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12. Nhờ vào hoạt động này

sẽ cung cấp cho các em nhiều thông tin, kinh nghiệm sống từ cha mẹ cũng

như nhận được những lời khuyên, chỉ dẫn đúng đắn khi các em cảm thấy

hoang mang vì chịu quá nhiều tác động, đòi hỏi từ bên ngoài.

Sự hình thành tự ý thức là một quá trình lâu dài và trải qua nhiều mức độ

khác nhau. Ở học sinh lớp 12, quá trình tự ý thức diễn ra mạnh mẽ và có

những nét đặc thù riêng. Đặc diểm nổi bật trong sự tự ý thức xuất phát từ yêu

cầu của cuộc sống và hoạt động cá nhân. Học sinh lớp 12 có mong muốn tìm

hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo quan điểm và mục

đích sống của bản thân. Nội dung của tự ý thức ở lứa tuổi này khá phức tạp.

Các em không chỉ tự ý thức, đánh giá về hình thể mà còn nhận thức được cái

tôi của mình trong hiện tại, vị trí của mình trong tương lai.

Sự nhận thức cái tôi trong hiện tại và vị trí trong tương lai giúp các em

xây dựng cá tính mạnh mẽ hay yếu đuối của bản thân, điều này ít nhiều ảnh

hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của các em. Thêm vào đó các yếu tố

như nhu cầu nhận thức về hoàn cảnh kinh tế gia đình, lòng tin, sự tôn trọng

với cha mẹ cũng thúc đẩy các em chủ động và tích cực hơn trong việc giao

tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.

43

b. Các yếu tố từ phía cha mẹ

Việc tìm hiểu các yếu tố từ phía cha mẹ có ảnh hưởng rất to lớn đến

hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp

12. Những yếu tố này cho ta thấy cha mẹ có tác động như thế nào đến hứng

thú giao tiếp của các em cũng như cung cấp thêm thông tin hữu ích góp phần

nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12.

Gia đình là yếu tố quan trọng, đóng vai trò quyết định trong định hướng

nghề nghiệp của con. Cha mẹ và những người thân trong gia đình là người

luôn gần gũi, hiểu rõ các em. Họ có thể giúp đỡ các em trong việc đánh giá

đúng năng lực của bản thân để chọn nghề phù hợp với sở thích của mình. Bên

cạnh đó, cha mẹ là người có kinh nghiệm sống, có sự hiểu biết về xã hội, nghề

nghiệp, có các mối quan hệ xã hội rộng rãi, vì thế họ có thể tư vấn hay nhờ sự

hỗ trợ của người khác. Từ đó các em có nhận thức nhiều hơn về thế giới nghề

nghiệp. Hơn nữa truyền thống văn hóa của nước ta con cái thường nghe theo

cha mẹ, luôn mong muốn đáp ứng những kỳ vọng mà cha mẹ đặt ra vì tin

tưởng và muốn cha mẹ vui lòng. Điều kiện kinh tế của gia đình, nghề nghiệp,

trình độ học vấn của cha mẹ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hứng thú giao

tiếp của các em. Ngoài ra sự quan tâm ủng hộ của cha mẹ tới bản thân các em

cũng như những ước mơ nguyện vọng, ngành nghề mà các em lựa chọn cũng

tác động rất lớn đến quyết định của các em.

Cha mẹ của học sinh lớp 12 phần lớn đang ở độ tuổi từ 35 – 50 là độ tuổi

chín muồi về tài năng, sự kết tinh trí tuệ, đã có nghề nghiệp ổn định và có

nhiều cơ hội thăng tiến trong công việc, điều này đồng nghĩa với việc cha mẹ

phải dành phần lớn thời gian cho công việc nên ít có thời gian quan tâm đến

con. Hơn nữa cha mẹ tuổi trưởng thành còn phải đối diện với những vấn đề

khác của chính họ và những vấn đề này của cha mẹ cũng phần nào ảnh hưởng

đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của học sinh

lớp 12.

44

Một trong những yếu tố có ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ đến hứng thú

giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 là cha mẹ vẫn giữ nguyên thái độ

trước đây đối với trẻ. Những lý do khiến cha mẹ vẫn giữ nguyên thái độ đó

chính là: trẻ ở lứa tuổi này dù sao vẫn còn đi học, còn phụ thuộc vào cha mẹ

về nhiều điều kiện (kinh tế, kinh nghiệm sống…), cha mẹ vốn có thói quen

điều khiển và kiểm soát trẻ, thậm chí cho đó là điều tất yếu, rất khó phá vỡ

thói quen ấy…Tất cả những điều đó làm cho cha mẹ ứng xử với trẻ lớp 12

như ứng xử với một đứa trẻ. Cách cha mẹ ứng xử với con còn chịu ảnh hưởng

bởi những yếu tố chủ quan (thói quen, kiến thức, kinh nghiệm, quan điểm ứng

xử…) và yếu tố khách quan (công việc, khoảng cách thế hệ…). Tất cả các yếu

tố trên đều có những tác động nhất định đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về

định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12.

45

Tiểu kết Chương 1

Hứng thú là một hiện tượng tâm lý rất quan trọng của con người do đó

đã xuất hiện rất nhiều các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài

nước về đề tài này. Hứng thú được nghiên cứu từ rất sớm trên rất nhiều khía

cạnh và ngày càng được quan tâm.

Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa

có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá

nhân trong quá trình hoạt động.

Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người được quy định bởi

các yếu tố tâm lý cá nhân nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, trao đổi

thông tin qua lại, cảm xúc, điều chỉnh nhận thức, hành vi của cá nhân và

người khác.

Hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề của học sinh lớp 12

là thái độ lựa chọn đặc biệt của học sinh lớp 12 đối với sự tiếp xúc tâm lý giữa

bản thân với cha mẹ trong lĩnh vực định hướng nghề do sự tiếp xúc này có ý

nghĩa quan trọng trong quá trình điều chỉnh định hướng nghề nghiệp, tìm

kiếm thông tin nghề phù hợp với bản thân và thị trường lao động tương lai

của học sinh lớp 12 và mang lại những cảm xúc tích cực.

Dựa trên những cơ sở lý luận đó, chúng tôi nghiên cứu thực trạng hứng

thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12.

46

Chương 2

THỰC TRẠNG HỨNG THÚ GIAO TIẾP VỚI CHA MẸ

CỦA HỌC SINH LỚP 12 TẠI HUYỆN TÂN HIỆP,

TỈNH KIÊN GIANG

2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu và thể thức nghiên cứu

2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

Huyện Tân hiệp là cửa ngõ của tỉnh Kiên Giang có diện tích 42.288 ha

với 1 thị trấn và 10 xã cùng mức dân số 34.609 hộ.

Huyện có địa hình đồng bằng và hệ thống kênh chằng chịt. Hàng năm bị

lũ chi phối từ tháng 8 đến hết tháng 11 nên đất luôn có được lượng phù sa

màu mỡ bồi đắp. Đời sống nhân dân chủ yếu là nông nghiệp (trồng 2 vụ

lúa/năm). (Trích: Báo cáo tổng kết năm tình hình phát triển kinh tế văn hóa

xã hội huyện Tân Hiệp – 2016).

Huyện Tân Hiệp cũng rất chú trọng đến việc đầu tư phát triển hệ thống

giáo dục. Tân hiệp có 11/11 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo

dục tiểu học đúng độ tuổi (có 07 xã đạt mức độ 2 và 04 xã đạt mức độ 3. Toàn

huyện có 1.725 cán bộ giáo viên và nhân viên, trong đó có 01 thạc sĩ và 1.345

đại học (Trích báo cáo tổng kết công tác giáo dục huyện Tân Hiệp 2016-

2017).

Hiện tại Huyện Tân Hiệp có 4 trường THPH là: THPT Tân Hiệp, THPT

Thạnh Tây, THPT Thạnh Đông và THPT Cây Dương.

Trong đề tài này, người nghiên cứu tiến hành khảo sát 3 trường là THPT

Tân Hiệp, THPT Thạnh Tây, THPT Thạnh Đông.

Trường THPT Tân Hiệp thuộc Thị trấn Tân Hiệp, có tổng số HS lớp 12

trong năm học 2017 – 2018 là 585 em. Trong đó có 500 em đăng ký thi vào

các trường ĐH, CĐ và 85 em chỉ thi tốt nghiệp THPT. Công tác hướng

nghiệp tại trường gồm các họat động:

47

- Tổ chức 2 tiết học môn hướng nghiệp/ tuần cho các em HS vào đầu

năm lớp 12.

- Tổ chức các buổi tham quan đến các trường ĐH như: ĐH Cửu Long,

ĐH Kiên Giang.

- Liên kết với một số trường ĐH, CĐ ở địa phương đến chia sẻ và tư vấn

hướng nghiệp cho các em (ĐH Cửu Long, ĐH Kiên Giang)

Năm học 2017 – 2018, trường THPT Thạnh Tây có tổng số 89 HS lớp

12, trong đó có 63 HS đăng ký nguyện vọng vào các trường ĐH, CĐ; 26 HS

chỉ đăng ký thi tốt nghiệp THPT.

- Nhà trường đưa vào thời khóa biểu 2 tiết hướng nghiệp/ 1 tháng.

- Tổ chức cho HS đi trải nghiệm thực tế tại các trường ĐH, CĐ vào

tháng 3 hàng năm.

Trường THPT Thạnh Đông năm học 2017 – 2018 có tổng số 172 HS,

trong đó có 145 HS đăng ký thi vào các trường ĐH, CĐ; 27 HS đăng ký thi

tốt nghiệp. Các thông tin về hướng nghiệp sẽ được lồng ghép vào sinh hoạt

dưới cờ hàng tuần. Tạo điều kiện cho các trường ĐH, CĐ đến giao lưu, chia

sẻ về các ngành mà trường đang đào tạo (ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Kỹ thuật

Vĩnh Long, ĐH Công nghệ TP. Hồ Chí Minh).

2.1.2. Thể thức nghiên cứu

2.1.2.1. Mẫu nghiên cứu

Đề tài tiến hành khảo sát học sinh của ba trường: trường THPT Thạnh

Đông, trường THPT Thạnh Tây và trường THPT Tân Hiệp. Với khách thể

học sinh, trong quá trình thực hiện khảo sát, người nghiên cứu hướng dẫn học

sinh trả lời những nội dung trong phiếu thăm dò ý kiến.

Số phiếu phát ra là 300 phiếu.

Số phiếu thu về là 263 phiếu.

Số phiếu hợp lệ của học sinh là 239 phiếu.

Đặc điểm cụ thể của mẫu nghiên cứu được thể hiện trong bảng dưới đây:

48

Bảng 2.1. Mẫu nghiên cứu học sinh

Đặc điểm Số lượng Phần trăm (%)

THPT Thạnh Tây 70 29,3

Trường THPT Thạnh Đông 53 22,2

THPT Tân Hiệp 116 48,5

Nam 102 42,7 Giới tính Nữ 137 57,3

Dưới 12/12 156 65,3 Trình độ học vấn 12/12 49 20,5 của cha Trên 12/12 34 14,2

Dưới 12/12 175 73,2 Trình độ học vấn 12/12 40 16,7 của mẹ Trên 12/12 24 10,0

Tổng 239 100

2.1.2.2. Công cụ nghiên cứu

Trong đề tài nghiên cứu tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp điều tra

bằng bảng hỏi và phương pháp phỏng vấn dành cho các đối tượng khách thể

là học sinh và cha mẹ học sinh. Trong đó phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

là phương pháp chính của đề tài.

Dưới đây là nội dung chi tiết các công cụ khảo sát.

a. Bảng hỏi

Bảng hỏi dành cho học sinh

Bảng hỏi bao gồm 2 phần: thông tin cá nhân và nội dung khảo sát.

Phần nội dung khảo sát, chúng tôi tìm hiểu

- Biểu hiện nhận thức: học sinh nhận thức được ý nghĩa của việc trao

đổi với cha mẹ (Câu 1, 2, 3)

49

Câu 1: Tìm hiểu về tầm quan trọng của việc trao đổi với cha mẹ có 3

mức độ để học sinh có thể lựa chọn: Rất quan trọng, quan trọng và không

quan trọng. Tương ứng từ 2 đến 0 điểm.

Câu 2: Tìm hiểu nhu cầu trao đổi với cha mẹ với câu hỏi này có 3 mức

độ: Có, không và không quan tâm, tương ứng với số điểm từ 2 đến 0

Câu 3: Tìm hiểu nhận thức của học sinh về việc trao đổi với cha mẹ gồm

có 15 câu nhỏ, từ câu 3.1 đến câu 3.15 trong đó gồm có hai loại câu hỏi là câu

hỏi thuận và câu hỏi nghịch. Trong đó câu hỏi thuận là câu 3.1, 3.4, 3.5, 3.6,

3.7, 3.8, 3.9, 3.10, 3.11, 3.12, 3.13, 3.14, 3.15 và câu hỏi nghịch 3.2 và 3.3 các

câu hỏi này được đánh giá theo năm mức độ: Rất đúng, đúng, phân vân,

không đúng và hoàn toàn không đúng tương ứng với 5 đến 1 điểm.

- Biểu hiện Xúc cảm: (Câu 4)

Câu 4: Tìm hiểu thái độ thể hiện qua xúc cảm, tình cảm của học sinh về

việc trao đổi với cha mẹ, câu hỏi này gồm 13 câu hỏi nhỏ trong đó các câu

4.1, 4.5, 4.10, 4.11, 4.13 là các câu hỏi thuận và các câu 4.2, 4.3, 4.4, 4.6, 4.7,

4.8, 4.9, 4,12 là các câu hỏi nghịch. Các câu hỏi này được đánh giá theo năm

mức độ: Hoàn toàn đồng ý, đồng ý, phân vân, không đồng ý, hoàn toàn không

đồng ý, được tính điểm từ 5 đến 1 điểm.

- Biểu hiện hành động: (Câu 5)

Câu 5: Tìm hiểu biểu hiện về hành vi, hứng thú trao đổi với cha mẹ. Câu

hỏi này gồm 15 câu hỏi nhỏ từ câu 5.1 đến 5.15. Câu hỏi này được đánh giá

theo năm mức độ: Rất thường xuyên, thường xuyên, thỉnh thoảng, ít khi,

không bao giờ, tương ứng từ 5 tới 1 điểm.

- Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học

sinh

Câu 6: Tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha

mẹ của học sinh từ câu 6.1 đến câu 6.12 được đánh giá theo năm mức độ. Các

câu 6.1, 6.2, 6.3, 6.4, 6.5, 6.6 là yếu tố từ phía cha mẹ, các câu 6.7, 6.8, 6.9,

50

6.10, 6.11, 6.12 tương ứng với các yếu tố từ phía con. Câu hỏi này được đánh

giá theo 5 mức độ từ: Rất ảnh hưởng, ảnh hưởng, bình thường, ít ảnh hưởng

và không ảnh hưởng, được tính điểm từ 5 đến 1 điểm.

 Độ tin cậy của hệ thống nội dung các câu hỏi:

Người nghiên cứu kiểm tra độ tin cậy của phiếu thăm dò ý kiến bằng

phiếu kiểm nghiệm Crobach Alpha và thu được kết quả sau đây:

+ Hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo nhận thức (câu 3) là 0,853.

+ Hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo mặt mặt xúc cảm (câu 4) là

0,843.

+ Hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo mặt hành động (câu 5) là 0,875.

Hệ số Cronbach’s Alpha các phần của thang đo nằm trong khoảng 0,6 –

0,9. Nhận thấy kết quả thang đo là khá cao vì vậy có thể kết luận thang đo là

phù hợp và đáng tin cậy.

 Tiêu chí đánh giá mức độ hứng thú

Các tiêu chí:

Để đánh giá mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS chúng tôi tiến

hành tích hợp cả 3 tiêu chí (Nhận thức, xúc cảm và hành vi) trên mỗi học

sinh. Chúng tôi quy ước, nếu HS không đáp ứng được 3 tiêu chí này thì không

có hứng thú giao tiếp với cha mẹ. Và trong hai mặt xúc cảm và hành vi nếu

HS không nảy sinh xúc cảm dương tính mạnh mẽ cũng như không tích cực

giao tiếp với cha mẹ thì coi như HS đó chưa có hứng thú giao tiếp với cha mẹ:

Các mức độ đánh giá:

Mức độ - 3 hứng thú cao: Ở mức độ này, HS có nhận thức tương đối đầy

đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động cũng như có xúc cảm dương tính

mạnh mẽ với hoạt động giao tiếp với cha mẹ và hoạt động phải có ý nghĩa với

bản thân HS. Từ đó, HS có hành động tích cực, chủ động giao tiếp với cha

mẹ.

51

Mức độ 2 - hứng thú trung bình: HS có xúc cảm dương tính ở mức vừa

phải với hoạt động giao tiếp và có hành động tích cực giao tiếp. Nhận thức có

thể ở mức độ tương đối đầy đủ về hoạt động.

Mức độ 1 - hứng thú thấp: Ở mức độ này HS không nảy sinh xúc cảm

dương tính với hoạt động giao tiếp, chưa nhận thức được ý nghĩa của hoạt

động và chưa có hành động giao tiếp với cha mẹ. Hoặc giữa 3 mặt nhận thức

– xúc cảm - hành vi chưa có sự tương quan với nhau.

* Cách tính điểm:

Câu 3,4,5 tương ứng với các mặt nhận thức, xúc cảm và hành vi, người

nghiên cứu tính tổng điểm từng câu và chia mức thành 3 mức độ cao, thấp,

trung bình từng mặt như sau:

Bảng 2.2. Cách chia biên giới liên tục của ĐTB mặt nhận thức – ĐTB xúc

cảm và ĐTB hành vi

ĐTB nhận thức, ĐTB xúc cảm, ĐTB hành vi Mức độ

1 – 2,32 Thấp

2,33 – 3,65 Trung bình

3,66 - 5 Cao

Cách qui đổi điểm trung bình với thang đo năm mức độ khi xử lý điểm

trung bình như sau:

Bảng 2.3. Quy đổi sang điểm trung bình

ĐTB Câu 3 Câu 4 Câu 5 Câu 6

Hoàn toàn Rất thường Rất ảnh 4,2 – 5 Rất đúng đồng ý xuyên hưởng

3,4 – 4,19 Đúng Đồng ý Thường xuyên Ảnh hưởng

2,6 – 3,39 Phân vân Phân vân Thỉnh thoảng Bình thường

1,8 – 2,59 Không đúng Không đồng ý Ít khi Ít ảnh hưởng

Hoàn toàn Hoàn toàn Không ảnh 1 – 1,79 Không bao giờ không đúng không đồng ý hưởng

52

Bảng 2.4. Cách quy đổi điểm trung bình sang các mức độ

Mức độ

Nhận thức (15 câu)

Xúc cảm (13 câu)

Hành vi (15 câu)

Điểm trung bình 3,66 -5 2,33 -3,65 1 – 2,32 3,66 -5 2,33 -3,65 1 – 2,32 3,66 -5 2,33 -3,65 1 – 2,32 Mức độ Cao Trung bình Thấp Cao Trung bình Thấp Cao Trung bình Thấp

Bảng 2.5. Quy tắc xác định mức độ hứng thú

Quy tắc Các trường hợp Mức độ

Cả ba mặt đều cao Cao - Cao - Cao

Cao Trung bình - Cao - Cao

Hai mặt xúc cảm và hành vi ở mức độ cao, nhận thức ở mức trung bình

Cả ba mặt đều trung bình Trung bình - Trung bình - Trung bình

Cao - Trung bình - Trung bình

Trung bình - Cao - Trung bình

Trung bình - Trung bình - Cao Trung bình Cao - Trung bình - Cao

Hai mặt trung bình trở lên, trong đó xúc cảm và hành vi ở mức trung bình hoặc cao Cao - Cao - Trung bình

Thấp – Trung bình – Trung bình

Trung bình - Trung bình - Thấp Xúc cảm hoặc hành vi ở Cao - Trung bình - Thấp mức thấp Thấp Thấp - Trung bình - Thấp

Hai mặt thấp Trung bình - Thấp - Thấp

53

b. Phiếu phỏng vấn

Người viết tiến hành phỏng vấn HS và cha mẹ HS về các vấn đề liên

quan đến nội dung bảng hỏi cũng như hứng thú giao tiếp với cha mẹ để làm rõ

kết quả nghiên cứu qua phương pháp điều tra.

c. Phương pháp xử lý số liệu khảo sát

Người nghiên cứu sử dụng phần mềm thống kê SPSS để xử lý các dữ

liệu thu được, bao gồm một số phép thống kê như:

- Kiểm định độ tin cậy

- Tính tần số

- Điểm trung bình

- Độ lệch chuẩn: dùng để mô tả mức độ phân tán hay tập trung của các

câu trả lời được lựa chọn

- Phân tích so sánh: trong việc nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu dùng so

sánh điểm trung bình. Các điểm trung bình được coi là khác nhau và có ý

nghĩa về mặt thống kê với xác suất p<0.05. Trong đó, chúng tôi dùng kiểm

định kiểm định Chi – bình phương (chi-square) để kiểm định mức độ hứng

thú.

- Phân tích tương quan: chúng tôi sử dụng tương quan pearson để tìm

hiểu mối tương quan giữa ba mặt nhận thức, xúc cảm và hành vi theo điểm

trung bình của từng mặt.

2.1.2.3. Quá trình tổ chức nghiên cứu

Quá trình nghiên cứu làm 4 giai đoạn

Giai đoạn 1: Nghiên cứu lý luận

Giai đoạn 2: Xây dựng phiếu khảo sát ý kiến mở. Căn cứ vào giả thuyết

và nhiệm vụ nghiên cứu, người nghiên cứu đã phát phiếu khảo sát ý kiến sử

dụng câu hỏi mở về những nội dung có liên quan đến đề tài nghiên cứu.

Người nghiên cứu đã phát 30 phiếu thăm dò bằng câu hỏi mở cho HS trường

THPT Tân Hiệp.

54

Giai đoạn 3: Xây dựng phiếu khảo sát thử nghiệm. Sau khi thu được 30

phiếu thăm dò ý kiến bằng câu hỏi mở và tham khảo ý kiến của giảng viên

hướng dẫn, người nghiên cứu đã xây dựng phiếu thăm dò ý kiến thử nghiệm.

Ở giai đoạn này, người nghiên cứu đã phát ra 30 phiếu cho HS.

Giai đoạn 4: Từ kết quả thu được, người nghiên cứu xây dựng, phiếu

thăm dò ý kiến chính thức phát cho HS.

2.2. Thực trạng hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 tại

huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang

2.2.1. Nhận thức về giao tiếp với cha mẹ

2.2.1.1. Nhận thức về tầm quan trọng của việc giao tiếp với cha mẹ

Câu hỏi 1 chúng tôi tìm hiểu nhận thức của HS về tầm quan trọng của

hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp, chúng tôi

dựa trên câu hỏi 1 với ba mức độ rất quan trọng, quan trọng và không quan

trọng. Kết quả được trình bày ở bảng 2.6.

Bảng 2.6. Nhận thức về tầm quan trọng của việc giao tiếp với cha mẹ

Tầm quan trọng của việc giao Số lượng Phần trăm (%) tiếp với cha mẹ

Rất quan trọng 115 48,1%

Quan trọng 119 49,8%

Không quan trọng 5 2,1%

Kết quả ở bảng 2.6 cho thấy có 119 HS cho rằng việc giao tiếp với cha

mẹ đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng nghề nghiệp chiếm tỉ lệ

49,8% , có 48,1% HS cho rằng việc giao tiếp với cha mẹ là rất quan trọng

trong việc định hướng nghề nghiệp và chỉ có 2,1% HS cho rằng hoạt động

này không quan trọng. Từ đó ta thấy đa số các em HS đã nhận thức đúng và

đánh giá rất cao về tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong

việc định hướng nghề nghiệp. Các em đã phần nào hiểu được việc trao đổi và

55

chia sẻ với cha mẹ về những vấn đề liên quan đến định hướng nghề nghiệp

cho bản thân đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp các em có thể chọn được

một hướng đi phù hợp sau khi học xong 12. Bạn VTKP chia sẻ: “Em và các

bạn đều biết để định hướng nghề nghiệp một cách tốt nhất, thì cha mẹ có vai

trò vô cùng quan trọng, vì cha mẹ có nhiều kinh nghiệm sống cũng như có

nhiều hiểu biết để giúp em đưa ra quyết định một cách đúng đắn nhất.

Thêm vào đó người nghiên cứu có thu thập được một số ý kiến về lý do

vì sao HS lựa chọn mức độ quan trọng của hứng thú giao tiếp trong việc định

hướng nghề nghiệp cụ thể được trình bày trong bảng sau:

Bảng 2.7. Lý do học sinh lựa chọn mức độ quan trọng của hứng thú giao

tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp

STT Nội dung Tần số Phần trăm (%)

1 Định hướng nghề nghiệp 21 2.1%

2 Cha mẹ hiểu được ước mơ, nguyện vọng 5 5.2%

3 Quyết định tương lai 19 19.8%

4 Tự lựa chọn nghề phù hợp với bản thân 5 5.2%

5 Cha mẹ là người có kinh nghiệm 24 25.0%

Phù hợp với hoàn cảnh gia đình 6 12 12.5%

Cha mẹ mong muốn con chọn nghề phù 7 3 3.1% hợp

8 Tin tưởng ý kiến của cha mẹ 4 4.2%

Cha mẹ giúp chon tự tin lựa chọn nghề 9 1 1.0% nghiệp

10 Chọn nghề phù hợp với bản thân 16 16.7%

11 Chọn nghề nghiệp phù hợp với sở thích 1 1.0%

12 Có được sự ủng hộ của cha mẹ 4 4.2%

13 Hiểu được mong muốn của bản thân 3 3.1%

14 Có thêm nhiều sự chọn về nghề nghiệp 2 2.1%

56

Qua bảng 2.7 ta thấy, học sinh có hứng thú giao tiếp với cha mẹ vì các

em tin tưởng vào kinh nghiệm của cha mẹ, bằng chứng trong 120 lượt trả lời,

có 24 lượt lựa chọn lý do vì “cha mẹ là người có kinh nghiệm”. Các em cho

rằng kinh nghiệm của cha mẹ sẽ hỗ trợ rất nhiều cho các em trong việc định

hướng nghề nghiệp.

Kế đến là ý kiến “định hướng nghề nghiệp” 21 lượt lựa chọn, ở đây việc

định hướng nghề thông qua hoạt động giao tiếp được các em chú trọng và

quan tâm. Có 19 lượt trả lời lý do là “quyết định tương lai” các em cho rằng

việc trao đổi với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp sẽ có những tác động đến

tương lai của các em sau này. Sự lựa chọn này phần nào khẳng định vai trò và

vị trí của cha mẹ đối với tương lai của các em. Yếu tố “chọn nghề phù hợp

với bản thân” có 16 lượt lựa chọn. “Phù hợp với hoàn cảnh gia đình” có 12

lượt lựa chọn như vậy việc trao đổi với cha mẹ sẽ giúp các em có thể chọn

được nghề phù hợp với bản thân cũng như hoàn cảnh gia đình. Kế tiếp là “Tự

lựa chọn nghề phù hợp với bản thân” với 5 lượt lựa chọn, một số em cũng cho

rằng các em cần tự lựa chọn nghề nghiệp cho mình. Xếp kế có cùng có 4 lượt

lựa chọn là “Có được sự ủng hộ của cha mẹ” và “Tin tưởng ý kiến của cha

mẹ”, ta thấy thông qua hoạt động giao tiếp với cha mẹ, các em có được sự ủng

hộ và tin tưởng từ phía cha mẹ. Tiếp theo cùng có 1 lượt lựa chọn là “Chọn

nghề nghiệp phù hợp với sở thích” và “Cha mẹ giúp con tự tin lựa chọn nghề

nghiệp”.

Nhìn chung có rất nhiều lý do để các em đánh giá mức độ quan trọng của

hoạt động giao tiếp, nhưng những lý do này hầu hết đều xuất phát từ nhận

thức đúng đắn của các em về hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc định

hướng nghề nghiệp của các em. Hầu hết các lý do mà các em đưa ra đều cho

thấy các em có sự tin tưởng vào kinh nghiệm, khả năng, cách nhìn nhận của

cha mẹ. Các em tin tưởng rằng cha mẹ sẽ giúp đỡ các em rất nhiều trong việc

57

định hướng nghề nghiệp, lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai và những lựa

chọn này sẽ phù hợp với khả năng, năng lực của bản thân, cũng như phù hợp

với điều kiện kinh tế gia đình, một số em cũng thể hiện mong muốn tự lựa

chọn nghề nghiệp theo ý nguyện của bản thân. Tuy nhiên, các em vẫn đề cập

đến vai trò định hướng của cha mẹ.

2.2.1.2. Nhận thức về nhu cầu giao tiếp với cha mẹ về định hướng

nghề nghiệp của học sinh lớp 12

Yếu tố nhu cầu là một yếu tố vô cùng quan trọng vì khi các em nhận

thức được nhu cầu giao tiếp với cha mẹ, cũng như nảy sinh những xúc cảm

dương tính với hoạt động giao tiếp với cha mẹ, thì sẽ thúc đẩy các em có hành

động giao tiếp với cha mẹ.

Bảng 2.8. Nhận thức về nhu cầu giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp của học sinh lớp 12:

Nhu cầu giao tiếp với cha mẹ Số lượng Phần trăm (%)

Có 218 91,2

Không 18 7,5

Không quan tâm 3 1,3

Qua bảng 2.8 ta thấy phần lớn các em đều có nhu cầu giao tiếp với cha

mẹ, chiếm 91,2%, số lượng HS không có nhu cầu chiếm 7,5% và không quan

tâm chỉ chiếm 1,3%.

Nhìn chung các em đều nhận thức được nhu cầu giao tiếp với cha mẹ về

vấn đề định hướng nghề nghiệp. Các em hiểu rằng thông qua việc trao đổi và

trò chuyện với cha mẹ sẽ giúp các em dễ dàng hơn trong việc chọn nghề cho

bản thân. Tuy nhiên, trong thực tế một số bậc cha mẹ nhận định con mình

chưa có nhu cầu giao tiếp với cha mẹ. Ông VNP cho biết: “Con tôi không nói

với tôi nhiều về những nguyện vọng hay mong muốn của nó về nghề nghiệp

trong tương lai. Tôi nghĩ nó cảm thấy điều đó không cần thiết”. Ở đây ta thấy

58

có sự mâu thuẫn giữa nhận thức của HS lớp 12 với những nhận định của cha

mẹ về nhu cầu giao tiếp. Vậy điều gì khiến các em chưa thể hiện những nhu

cầu của bản thân để cha mẹ có thể hiểu, hay nói cách khác điều gì làm cha mẹ

chưa cảm nhận được nhu cầu giao tiếp của con cái mình.

2.2.1.3. Nhận thức về ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với cha mẹ

trong việc định hướng nghề nghiệp

Việc giao tiếp trao đổi với cha mẹ có rất nhiều ý nghĩa cho HS lớp 12

trong việc định hướng nghề nghiệp, vậy đó là những ý nghĩa nào và các em có

đánh giá như thế nào về những ý nghĩa này. Kết quả thể hiện trong bảng 2.9.

Bảng 2.9. Nhận thức về ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong

việc định hướng nghề nghiệp của học sinh

STT Ý nghĩa ĐTB ĐLC

1 Cung cấp rất nhiều thông tin về nghề nghiệp. 3,76 0,860

Khiến em gặp khó khăn hơn trong việc lựa chọn 2 3,56 0,857 nghề nghiệp.

Không hỗ trợ được gì cho em trong việc định 3 3,95 0,831 hướng nghề nghiệp.

Giúp em biết được tỷ lệ chọi của nghề ở các 4 3,22 0,989 trường khác nhau.

Được cha mẹ tạo cơ hội cho em tham gia nhiều 5 3,55 1,047 chương trình hướng nghiệp, tư vấn nghề.

Giúp em nhận ra sở trường của bản thân, từ đó 6 3,77 0,921 em nhận ra nhiều nghề có thể lựa chọn.

Được cha mẹ giới thiệu thêm nhiều trường khác 7 3,38 1,026 nhau có đào tạo nghề mà em đã lựa chọn.

59

STT Ý nghĩa ĐTB ĐLC

Giúp em nhận ra cơ hội việc làm trong tương lai 8 3,77 0,772 của nhiều nghề khác nhau.

Giúp em biết thêm nhiều loại hình đào tạo như 9 3,37 0,920 đào tạo từ xa, chính quy, tại chức…

Giúp em đánh giá được tính cách của em có phù

10 hợp với yêu cầu nghề nghiệp mà em đã lựa chọn 3,80 0,846

hay không.

Giúp em lựa chọn được loại hình đào tạo phù 11 3,64 0,808 hợp.

Giúp em chọn trường học phù hợp với điều kiện 12 4,06 0,719 kinh tế gia đình. ?

13 Giúp em biết thêm nhiều lĩnh vực nghề nghiệp. 3,58 0,870

Giúp em ý thức được rằng, không nên dựa hoàn 14 3,91 0,942 toàn vào ý kiến của bạn bè khi chọn nghề.

Định hướng cho em tự quyết định nghề trong 15 4,13 0,815 tương lai.

Trung bình chung 3,69

Kết quả ở bảng 2.9 cho ta thấy nhận thức của HS về ý nghĩa của hoạt

động giao tiếp với cha mẹ là mức “đúng” với ĐTB chung là 3,69 trong

khoảng (ĐTB = 3,4 – 4,19). Nghĩa là HS đã nhận thức tương đối đầy đủ về ý

nghĩa, vai trò của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề

nghiệp. Trong đó hoạt động giao tiếp với cha mẹ giữ vai trò “Định hướng cho

HS tự quyết định nghề trong tương lai” có ĐTB = 4,13 xếp thứ hạng cao nhất,

60

cho thấy HS đã nhận thức được ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với cha mẹ có

tính chất định hướng giúp các em tự chọn ngành, chọn nghề. Ta thấy, được

các em có mong muốn tự lựa chọn nghành nghề cho bản thân dựa trên sự định

hướng của cha mẹ. Khi chúng tôi tiến hành phỏng vấn một số em HS về vấn

đề này, hầu hết các em đều chia sẻ rằng bản thân hi vọng được tự quyết định

nghề nghiệp theo mong muốn của bản thân và cha mẹ sẽ giữ vai trò định

hướng để các em tránh được những sai lầm vì chưa nhìn nhận được nhiều mặt

của vấn đề.

Tiếp theo “Giúp em chọn trường học phù hợp với điều kiện kinh tế gia

đình” có ĐTB = 4,06, xếp thứ hai. Điều này cho thấy khi giao tiếp với cha mẹ

các em sẽ hiểu rõ hơn về nguồn lực và sự hỗ trợ từ phía gia đình. Các em

nhận thức được thông qua việc giao tiếp với cha mẹ sẽ xác định được những

nguồn lực của gia đình và chọn được nghề phù hợp như ông VTT (phụ huynh

em VTKP trường THPT Thạnh Đông) cho biết: “Điều kiện kinh tế gia đình sẽ

có rất nhiều ảnh hưởng đến quyết định chọn trường chọn nghề cho con tôi vì

tôi phải biết được mình có đủ khả năng đóng học phí cho con mỗi năm hay

không”. Chính cha mẹ sẽ là người hiểu rõ nhất về khả năng kinh tế của bản

thân từ đó sẽ giúp con xác định và lựa chọn trường học, nghành học phù hợp

nhất để việc đi học của con không tạo thành một gánh nặng quá lớn lên kinh

tế gia đình. Ông bà ta có câu: “Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh” với mỗi

điều kiện hoàn cảnh gia đình khác nhau cha mẹ sẽ là người có thể gợi ý cho

con hướng đi nào là phù hợp nhất với điều kiện gia đình ở từng thời điểm

khác nhau.

Ở vị trí thứ ba là “Không hỗ trợ được gì cho em trong việc định hướng

nghề nghiệp” với ĐTB = 3,95. Đây là câu hỏi gần như phủ định hoàn toàn vai

trò của cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp cho con với cách tính điểm

ngược ta nhận thấy các em hầu như không đồng ý với quan điểm này. Khi

chúng tôi tiến hành phỏng vấn HS lớp 12 tại trường THPT Tân Hiệp về vấn

61

đề này bạn NAQ cho biết: “Dù có như thế nào thì ý kiến của cha mẹ vẫn có

vai trò quan trọng trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai của chúng em

sau này”. Có thể trong thực tế các em chưa chủ động chia sẻ với cha mẹ

nhưng các em vẫn luôn hiểu được rằng cha mẹ đóng vai trò quan trọng trong

việc định hướng nghề nghiệp cho bản thân cũng như những ý kiến mà cha mẹ

đưa ra sẽ giúp đỡ, hỗ trợ các em lựa chọn được hướng đi phù hợp nhất trong

tương lai sắp tới.

“Giúp em ý thức được rằng, không nên dựa hoàn toàn vào ý kiến của

bạn bè khi chọn nghề” xếp vị trí thứ tư với ĐTB= 3,91. Quan hệ bạn bè giữ

vai trò quan trọng trong đời sống tình cảm của các em. Đối với các em, bạn bè

trở thành chỗ dựa tinh thần, là chỗ tâm tình thổ lộ những vướng mắc thầm

kín. Lời khuyên của bạn bè đôi khi có ý nghĩa quyết định đối với việc giải

quyết những vấn đề quan trọng của các em. Từ điểm này ta thấy được mặc dù

bạn bè là nơi các em chia sẻ tâm tình nhưng các em vẫn ý thức việc lựa chọn

nghề nghiệp định hướng tương lai không nên hoàn toàn dựa vào những lời

khuyên, góp ý của bạn bè mà cần có sự hỗ trợ từ phía gia đình. Bởi vì, việc

định hướng nghề nghiệp cần có sự hiểu biết sâu rộng về nhiều mặt của xã hội

cũng như cần có nhiều kinh nghiệm sống, để giúp các em tránh được những

sai lầm hấp tấp do suy nghĩ chưa đủ chín chắn.

Theo các em đánh giá việc giao tiếp, trò chuyện với cha mẹ còn hỗ trợ

các em trong việc chọn nghề phù hợp với tính cách ( ĐTB= 3.80), nhận ra

những cơ hội việc làm trong tương lai cũng như biết thêm nhiều nghề phù hợp

với sở trường của bản thân ( ĐTB= 3.77). Thêm vào đó thông qua cha mẹ các

em sẽ biết thêm nhiều thông tin về nghề nghiệp, các loại hình đào tạo khác

nhau, các lĩnh vực đào tạo khác nhau. Những thông tin này rất hữu ích với các

em để có cái nhìn đầy đủ và toàn vẹn hơn về thế giới nghề nghiệp, nhờ đó

việc lựa chọn một hướng đi một nghề nghiệp cho tương lai sẽ trở nên dễ dàng

hơn.

62

Tiếp theo vị trí thứ mười với ĐTB= 3,56 “Khiến em gặp khó khăn hơn

trong việc lựa chọn nghề nghiệp”. Đây là một câu hỏi nghịch với ĐTB không

thấp những cũng chưa thật sự cao ta thấy được cha mẹ tuy là người giúp đỡ và

hỗ trợ các em nhưng đôi khi vẫn sẽ gây cho các em những khó khăn nhất định

trong việc định hướng nghề nghiệp. Bạn NHN cho biết: “Cha mẹ đã có những

định hướng riêng cho mình nhưng đối với em thì lại không mong muốn rằng

mình sẽ học và làm theo những gì mà cha mẹ đã định hướng như vậy”. Trong

gia đình sẽ luôn tồn tại những mâu thuẫn (lứa tuổi, thế hệ, quan điểm sống,…)

điều này ít nhiều gây khó khăn để tìm thấy một tiếng nói chung cho cả cha mẹ

và con cái.

Từ vị trí thứ mười một trở lên là các nhóm câu hỏi liên quan đến những

chương trình hướng nghiệp mà xã hội và nhà trường đang quan tâm. Nhu cầu:

“Được cha mẹ tạo cơ hội cho em tham gia nhiều chương trình hướng nghiệp,

tư vấn nghề” có ĐTB= 3,55 ở vị trí mười một. Có ĐTB= 3,38 “Được cha mẹ

giới thiệu thêm nhiều trường khác nhau có đào tạo nghề mà em đã lựa chọn”

được xếp hạng thứ mười hai. “Giúp em biết thêm nhiều loại hình đào tạo như

đào tạo từ xa, chính quy, tại chức…” có ĐTB= 3,37 có vị trí kế cuối trong

bảng xếp hạng. Về các loại hình đào tạo các em chưa có được nhiều thông tin

từ hoạt động giao tiếp với cha mẹ, có thể do trong thực tế các em hầu như chỉ

quan tâm đến hệ đào tạo chính quy. Một số gia đình có quan niệm “Đại học là

cánh cửa duy nhất bước vào đời”, do vậy một số bậc cha mẹ có xu hướng đầu

tư cho con từ học chính đến học thêm để có thể vượt qua các kì thi mà đôi khi

quên đi sự chia sẻ và quan tâm đến những khó khăn mà các em đang gặp phải

trong học tập và hướng nghiệp.

Xếp vị trí cuối cùng với ĐTB= 3,22 là “Giúp em biết được tỷ lệ chọi của

nghề ở các trường khác nhau”. Trong thực tế, cha mẹ cũng ít quan tâm tới vấn

đề tỷ lệ chọi của các trường. Cha mẹ luôn định hướng các em vào những vấn

đề quan trọng hơn như sự phù hợp của nghề với tính cách, sở thích, hay sự

63

phát triển của nghề trong tương lai. Theo bạn PNN (trường THPT Thạnh Tây)

chia sẻ: “Cha mẹ không nói gì nên em cũng không suy nghĩ nhiều đến vấn đề

này”. Các em có thể trò chuyện với bạn bè, thầy cô cũng như tìm kiếm thông

tin này qua các trang mạng xã hội.

Tóm lại HS lớp 12 đã có nhận thức tương đối đầy đủ về ý nghĩa, tầm

quan trọng và vai trò của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc định

hướng nghề nghệp.

Để tìm hiểu rõ hơn về mức độ nhận thức của các em HS lớp 12 về ý

nghĩa và tầm quan trọng của giao tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề

nghiệp, chúng tôi tiến hành phân tích và đưa ra kết quả như bảng 2.10.

Bảng 2.10. Mức độ nhận thức của học sinh về ý nghĩa của hoạt động giao

tiếp với cha mẹ

Mức độ nhận thức Tần số Phần trăm (%)

Cao 160 66,9

Trung bình 75 31,4

Thấp 4 1,7

Tổng 239 100%

Trong bảng 2.10 Có 160 em đạt nhận thức ở mức cao, chiếm 66,9%, ở

mức trung bình có 75 em tương ứng với 31,4% và chỉ có 4 em tương ứng với

1,7% là có nhận thức ở mức thấp. Về mặt ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với

cha mẹ ta thấy được mức độ nhận thức của HS là khá cao, hầu hết các em đã

nhận thức được tương đối đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng và vai trò của

hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp. Điều này

phù hợp với thực tế như lời bạn NQĐ: “Cha mẹ có nhiều trải nghiệm và nhiều

kinh nghiệm sống trong xã hội nên họ sẽ phần nào đó giúp em được trong

việc chọn ngành nghề trong tương lai sắp tới”. Tuy vậy một số bậc cha mẹ khi

được hỏi về vấn đề này lại có những suy nghĩ khác biệt như ông NVM chia

64

sẻ: “Con ít trao đổi với cha mẹ về vấn đề này vì con cái nghĩ rằng có thể độc

lập, tự quyết định được”. Ở đây ta thấy có sự mâu thuẫn giữa nhận thức của

HS và những suy nghĩ của cha mẹ. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng

tôi tiến hành nghiên cứu thêm biểu hiện xúc cảm và biểu hiện hành vi của

hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.

2.2.2. Những biểu hiện về xúc cảm đối với việc giao tiếp với cha mẹ

Bảng 2.11.

Những biểu hiện xúc cảm đối với việc giao tiếp với cha mẹ

Thứ STT Biểu hiện xúc cảm ĐTB ĐLC bậc

4 1 Chăm chú lắng nghe ý kiến của cha mẹ 4,00 0,664

5 2 Cảm thấy nhàm chán 3,92 0,831

Thích nghe ý kiến của bạn bè hơn là ý 7 3 3,80 0,831 kiến cha mẹ

Không hài lòng với những quan điểm 4 3,68 0,889 10 của cha mẹ

Cảm thấy được tôn trọng khi trao đổi ý 5 4,00 0,770 4 kiến với cha mẹ về việc chọn nghề.

Khi được cha mẹ hỏi về việc chọn nghề, 6 3,76 0,873 9 em thường trả lời miễn cưỡng.

Không thể chấp nhận những điều cha mẹ 7 4,02 0,830 3 nói

Thích xin ý kiến chuyên gia hơn là ý 8 3,35 0,944 12 kiến cha mẹ

Lảng tránh trò chuyện với cha mẹ về 9 3,90 0,824 6 việc hướng nghiệp

65

Thứ STT Biểu hiện xúc cảm ĐTB ĐLC bậc

Luôn mong đợi được chia sẻ những

10 thông tin về vấn đề nghề nghiệp với cha 3,79 0,819 8

mẹ

Cảm thấy hào hứng khi trao đổi với cha

11 mẹ về thông tin liên quan đến nghề 3,63 0,835 11

nghiệp.

Không quan tâm đến những ý kiến của 12 4,18 0,724 1 cha mẹ

Sẵn sàng nói lên suy nghĩ ý kiến cho cha 13 4,12 0,817 2 mẹ hiểu hơn về em

Điểm trung bình chung 3,85

Từ kết quả của bảng 2.11 Ta thấy mặt xúc cảm có ĐTB chung cao nhất

trong cả ba mặt nhận thức, xúc cảm và hành vi, với ĐTB chung là 3,85 thuộc

khoảng (ĐTB = 3,4 – 4,19) tương ứng với mức “đồng ý”. Ta nhận thấy HS có

xúc cảm dương tính đối với hoạt động giao tiếp với cha mẹ, cụ thể như sau:

Có ĐTB cao nhất= 4,18 “Không quan tâm đến những ý kiến của cha

mẹ”. Ở đây ta thấy được các em có sự quan tâm đến những thông tin, những ý

kiến và những quan điểm mà cha mẹ nói đến trong quá trình giao tiếp. Có thể

tại thời điểm mà cha mẹ nói các em tỏ ra không quan tâm, thậm chí đôi khi

còn cảm thấy khó chịu vì cha mẹ nói quá nhiều, nói quá dài dòng… Nhưng sự

thật là sau này, khi gặp những tình huống cần xử lý hay khi các em suy nghĩ

đến những vấn đề liên quan, các em vẫn sẽ nhớ đến và suy ngẫm về những gì

mà cha mẹ nói với mình, về những quan điểm, những cách xử lý mà cha mẹ

đã từng đề cập tới.

66

Nằm ở vị trí thứ hai là “Sẵn sàng nói lên suy nghĩ ý kiến cho cha mẹ hiểu

hơn về em” với ĐTB= 4,12. Các em luôn trong tâm thế sẵn sàng chia sẻ thông

tin với cha mẹ về những mong muốn và cảm xúc của bản thân trong quá trình

giao tiếp để cha mẹ hiểu hơn về mình, từ đó có thể đưa đến sự thống nhất và

đồng ý trong quá trình giao tiếp. Thế nhưng, nhiều bậc cha mẹ nghĩ rằng, con

cái không sẵn sàng để trò chuyện hay chia sẻ với mình. Ví dụ như bà VTB

(phụ huynh trường THPT Thạnh Đông) cho biết: “Con tôi cũng có nói lên

những quan điểm của mình nhưng thường là trong lúc tranh luận, con có

chính kiến riêng và bảo vệ ý kiến của mình”. Để giải thích vấn đề này có rất

nhiều nguyên nhân có thể do các em cảm thấy chưa đủ an toàn, hoặc các em

cảm thấy lo lắng, e ngại những phản ứng tiêu cực từ phía cha mẹ… Vì thế,

cha mẹ cần dành thêm nhiều thời gian để lắng nghe và thấu hiểu con mình.

Tiếp theo với ĐTB= 4,02 “Không thể chấp nhận những điều cha mẹ nói”

nằm ở vị trí thứ ba. Đây là một câu hỏi phủ định với cách tính điểm ngược, ta

có thể nhận thấy HS chấp nhận những ý kiến mà cha mẹ đưa ra trong một

mức độ nhất định, sẽ không cảm thấy khó chịu hay có thái độ tiêu cực với

những gì cha mẹ nói. Điều này một lần nữa khẳng định, dù các bậc cha mẹ

đôi khi cảm thấy con cái không lắng nghe những gì họ nói, nhưng thật ra các

em vẫn rất để tâm, rất chú ý đến những quan điểm và đánh giá của cha mẹ

mình và những ý kiến này thường sẽ có rất nhiều ảnh hưởng đến những quyết

định của các em, nhất là trong việc các em lựa chọn ngành nghề, hướng đi cho

bản thân trong tương lai.

“Cảm thấy được tôn trọng khi trao đổi ý kiến với cha mẹ về việc chọn

nghề” và “Chăm chú lắng nghe ý kiến của cha mẹ” có ĐTB ngang nhau là

4,00 xếp thứ 4 trong tất cả các yếu tố. Đây là một dấu hiệu cho thấy mối giao

tiếp giữa cha mẹ và con cái vẫn còn rất chặt chẽ. Khi giữa cha mẹ và con cái,

có sự trao đổi và chia sẻ trên cơ sở tôn trọng ý kiến của cả hai bên, cũng như

dành đủ thời gian để lắng nghe và thấu hiểu lẫn nhau thì sẽ rất dễ dàng để có

67

được sự thống nhất và đồng thuận trong các vấn đề của cuộc sống, cũng như

việc định hướng nghề nghiệp cho các em sau này.

Trong quá trình giao tiếp, trò chuyện với cha mẹ các em không cảm thấy

nhàm chán (ĐTB = 3.92), các em cũng không có sự lảng tránh việc trò

chuyện với cha mẹ cũng như phần nào thích xin ý kiến của cha mẹ về định

hướng nghề nghiệp (ĐTB = 3,80). Như lời bạn NTH có chia sẻ “Nếu như cha

mẹ hiểu được ý nguyện, mong muốn của em thì em có thể trò chuyện với cha

mẹ một cách tích cực và rút kinh nghiệm từ những ý kiến đó của cha mẹ”. Ta

có thể nhận thấy, tuy các em không thể hiện sự nhàm chán hay lảng tránh

trong việc giao tiếp với cha mẹ nhưng có lẽ các em cũng cần có sự thấu hiểu

và chấp nhận của cha mẹ với những nguyện vọng và mong muốn của bản

thân. Khi ấy sẽ tạo được sự thoải mái, dễ chịu trong cuộc trò chuyện giữa cha

mẹ và con cái về định hướng nghề nghiệp.

Có ĐTB= 3,79 “Luôn mong đợi được chia sẻ những thông tin về vấn đề

nghề nghiệp với cha mẹ” nằm ở vị trí thứ tám. Xếp ở vị trí thứ chín “Khi được

cha mẹ hỏi về việc chọn nghề, em thường trả lời miễn cưỡng” có ĐTB= 3,76.

Tuy rằng khi cha mẹ chủ động trò chuyện, hỏi han về các vấn đề hướng

nghiệp các em sẽ không trả lời một cách miễn cưỡng nhưng các em cũng chưa

có nhiều mong đợi và kỳ vọng trong việc trao đổi với cha mẹ về định hướng

nghề nghiệp. Có thể trong thực tế cha mẹ chưa hiểu hết những sở thích, ý

nguyện của các em, hơn nữa còn khiến các em cảm thấy bị áp đặt bởi những

quan điểm mà cha mẹ đưa ra. Do vậy các em chưa đạt được những gì mà bản

thân mong muốn từ cha mẹ. Điều này dẫn đến việc các em chưa thật sự mong

đợi được trao đổi với cha mẹ về những định hướng nghề nghiệp cho tương lai.

Ở vị trí thứ mười “Không hài lòng với những quan điểm của cha mẹ” có

ĐTB= 3,68. Có vị trí gần cuối là “Cảm thấy hào hứng khi trao đổi với cha mẹ

về thông tin liên quan đến nghề nghiệp” với ĐTB= 3,63. Tuy xếp ở những vị

trí gần cuối nhưng ĐTB vẫn nằm trong khoảng 3,4 – 4,19 thuộc mức độ

68

“đúng”, có nghĩa là các em vẫn cảm thấy hài lòng với những quan điểm mà

cha mẹ đưa ra cũng như có sự hào hứng nhất định trong việc trao đổi với cha

mẹ về định hướng nghề nghiệp.

Vị trí cuối cùng với ĐTB= 3,35 “Thích xin ý kiến chuyên gia hơn là ý

kiến cha mẹ”. Đây là nội dung duy nhất trong tất cả các câu có ĐTB thuộc

khoảng (2,6 – 3,39) ở mức độ “phân vân”. Có thể thấy, trong lĩnh vực định

hướng nghề nghiệp các em sẽ thích nghe ý kiến chuyên gia hơn là ý kiến cha

mẹ, vì chuyên gia sẽ có nhiều thông tin chính xác và đầy đủ hơn cha mẹ.

Thêm vào đó chuyên gia thường sẽ không có sự áp đặt các em vào một hướng

đi nào đó mà sẽ cho các em nhìn thấy nhiều con đường để có thể lựa chọn,

cân nhắc. Tuy nhiên do đặc trưng địa bàn huyện Tân Hiệp, công tác hướng

nghiệp cho học sinh chủ yếu là do trường học tổ chức với sự hướng dẫn của

giáo viên chủ nhiệm mà chưa có bộ phận tư vấn học đường đảm nhiệm, do

vậy các em chưa có nhiều cơ hội để được tiếp xúc với những chuyên gia trong

lĩnh vực hướng nghiệp. Điều này cho thấy các em cảm thấy phân vân với câu

hỏi này là hoàn toàn hợp lý.

Nhìn chung, với những biểu hiện về mặt xúc cảm trong hoạt động giao

tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp, các em đã có được sự quan tâm

đồng thuận và những xúc cảm dương tính như hài lòng, thích thú,… Trong

bảng hỏi này có 13 mục hỏi với 5 mục hỏi là tích cực và 8 mục hỏi là tiêu

cực, dường như với những mục tiêu cực các em dễ dàng đưa ra lựa chọn hơn

và có số ĐTB tương đối cao so với các mục tích cực.

69

Bảng 2.12. Mức độ biểu hiện xúc cảm của học sinh đối với hoạt động giao

tiếp với cha mẹ

Mức độ biểu Tần số Phần trăm (%) hiện xúc cảm

178 Cao 74,5

60 Trung bình 25,1

1 Thấp 0,4

239 Tổng 100%

Dựa vào kết quả của bảng 2.12 Ta thấy được về mặt biểu hiện xúc cảm

các em đều ở mức khá cao. Với 178 em ở mức độ cao chiếm 74,5%, ở mức độ

trung bình chỉ có 60 em chiếm tỉ lệ 25,1% và cuối cùng, với tỷ lệ 0,4% có 1

em có biểu hiện xúc cảm ở mức độ thấp. Hầu hết các em đều có những xúc

cảm tích cực với hoạt động giao tiếp với cha mẹ, các em cảm thấy đồng ý và

hài lòng với những ý kiến mà cha mẹ đưa ra, cũng như hào hứng và chú ý

lắng nghe trong quá trình giao tiếp với cha mẹ. Trong thực tế khi cha mẹ trao

đổi với con cái về những vấn đề chọn ngành, chọn nghề, chọn trường,… Vẫn

luôn có sự trái ngược về quan điểm, xu hướng, điều này đôi khi dẫn đến sự

tranh luận trong lúc trò chuyện. Có thể những tranh luận này sẽ làm các em

cảm thấy khó chịu không thoải mái. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận ở một mức độ

khác những tranh luận này là cơ hội để cha mẹ và con cái nói lên ý kiến, quan

điểm của mình. Từ đó, sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn trong giao tiếp với

cha mẹ. Điều này cũng giúp cha mẹ và con cái dễ dàng có được tiếng nói

chung trong việc định hướng nghề nghiệp cho các em

2.2.3. Hành vi giao tiếp với cha mẹ

Để xác định mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp của HS lớp 12, ngoài hai mặt biểu hiện nhận thức và biểu hiện xúc

cảm thì biểu hiện về mặt hành vi cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Có

70

thể các em có nhận thức đầy đủ, có nảy sinh xúc cảm dương tính với hoạt

động giao tiếp với cha mẹ. Nhưng liệu rằng trong mặt hành động các em có

chủ động tích cực trong việc giao tiếp với cha mẹ không? Kết quả được thể

hiện trong bảng 2.13.

Bảng 2.13. Hành vi giao tiếp với cha mẹ

Thứ STT Hành vi giao tiếp với cha mẹ ĐTB ĐLC bậc

Chủ động hỏi cha mẹ nghề mà em lựa chọn có 1 3,16 0,980 9 đặc điểm công việc như thế nào

Cùng cha mẹ tích cực tìm kiếm loại hình đào 2 3,05 1,086 11 tạo nghề nghiệp phù hợp

Chia sẻ với cha mẹ về quan điểm nghề nghiệp 3 3,47 0,916 3 của bản thân

Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về điều kiện kinh 4 3,54 1,036 2 tế gia đình khi chọn trường theo học

Tìm hiểu kỹ hơn các thông tin mà cha mẹ gợi 5 3,31 0,972 6 ý

Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về sự phù hợp

6 giữa năng lực của bản thân và ngành nghề em 3,28 1,041 7

lựa chọn

7 Phản đối gay gắt những ý kiến của cha mẹ 4,21 1,004 1

Tham gia các hoạt động hướng nghiệp để có 8 3,00 1,023 13 nhiều thông tin trò chuyện với cha mẹ

Chủ động tìm hiểu các thông tin về trường 9 3,38 0,948 5 đào tạo để trao đổi với cha mẹ

Cố gắng thuyết phục cha mẹ đồng ý với quyết 10 3,21 1,031 8 định nghề nghiệp của bản thân

71

Thứ STT Hành vi giao tiếp với cha mẹ ĐTB ĐLC bậc

Chia sẻ ngay với cha mẹ khi vừa nhận được

11 một thông tin mới liên quan đến trường đào 3,40 0,925 4

tạo, hoặc nghề mà em đã chọn

Cùng cha mẹ gặp gỡ chuyên gia tư vấn hướng 12 2,02 1,109 15 nghiệp

Chủ động dành thời gian trò chuyện với cha 13 3,15 0,997 10 mẹ về việc chọn nghề

Chia sẻ cho cha mẹ nghe chuyện chọn nghề 14 3,03 1,117 12 của bạn bè

Chủ động tham gia các trắc nghiệm tính cách 15 2,58 1,230 14 để có thêm dẫn chứng trò chuyện cùng cha mẹ

ĐTB Chung 3,18

Kết quả bảng 2.13. Cho thấy về mặt hành vi, các em chưa thật sự chủ

động và tích cực giao tiếp với cha mẹ, với ĐTB chung là 3,18 nằm trong

khoảng (ĐTB= 2,6 – 3,39) trong mức “thỉnh thoảng”. Mặc dù các em đã có

nhận thức tương đối đầy đủ cũng như có nảy sinh những xúc cảm dương tính

trong hoạt động giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp. Nhưng

những hành vi giao tiếp với cha mẹ các em không thường xuyên thể hiện.

Xếp hạng cao nhất “Phản đối gay gắt những ý kiến của cha mẹ” có

ĐTB= 4,21. Ở câu này điểm trung bình cao hơn hẳn các câu khác, cho thấy

HS sẽ không phản đối một cách tiêu cực với những ý kiến của cha mẹ. Trong

thực tế không thể tránh được những trường hợp cha mẹ thể hiện những quan

điểm khác với nguyện vọng, ý muốn của con. Có thể tại thời điểm đó các em

72

chưa hiểu và chấp nhận được những quan điểm này, nhưng các em cũng

không phản đối một cách gay gắt.

Nằm ở vị trí thứ hai có ĐTB= 3,54 “Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về điều

kiện kinh tế gia đình khi chọn trường theo học” và ĐTB= 3,47 “Chia sẻ với

cha mẹ về quan điểm nghề nghiệp của bản thân” xếp vị trí thứ 3. Cả hai câu

này nằm trong khoảng “thường xuyên” cho thấy các em có sự tích cực chủ

động trong việc giao tiếp với cha mẹ về điều kiện kinh tế gia đình và những

quan điểm mong muốn của các em về nghề nghiệp trong tương lai. Điều kiện

kinh tế gia đình có rất nhiều ảnh hưởng đến việc lựa chọn hướng đi của HS

lớp 12 sau khi tốt nghiệp. Để có thể đưa ra lựa chọn phù hợp nhất cho bản

thân các em đã có sự chủ động trao đổi với cha mẹ về vấn đề này, thêm vào

đó các em cũng có sự chủ động chia sẻ với cha mẹ về những quan điểm của

bản thân về nghề nghiệp trong tương lai. Trong thực tế, có thể các em chưa

chủ động chia sẻ và tâm tình với cha mẹ về những suy nghĩ, nguyện vọng của

bản thân. Nhưng các em vẫn luôn sẵn sàng để nói với cha mẹ những suy nghĩ,

những quan điểm của mình. Và dường như, các em cần có sự quan tâm, hỏi

han, lắng nghe nhiều hơn từ phía cha mẹ để các em có thể nói lên những

nguyện vọng, tâm tư của mình. Bạn VVT trường THPT Thạnh Đông chia sẻ:

“Em có thể nói ra cho cha mẹ nghe về những quan điểm của mình, nhưng em

cũng không chắc ý kiến của em có được cha mẹ đồng ý hay không”.

Xếp vị trí thứ tư “Chủ động tìm hiểu các thông tin về trường đào tạo để

trao đổi với cha mẹ” với ĐTB= 3,38. “Tìm hiểu kỹ hơn các thông tin mà cha

mẹ gợi ý” với ĐTB= 3,31 xếp thứ năm. Từ hai yếu tố nêu trên ta nhận thấy

các em chưa có nhiều sự chủ động tìm kiếm thông tin để có thêm dữ liệu trao

đổi với cha mẹ cũng như chưa có sự đi sâu tìm hiểu những gì mà cha mẹ gợi

ý. Do vậy việc trao đổi giữa các em với cha mẹ chưa mang lại nhiều hiệu quả

như mong muốn cũng như chưa hỗ trợ được nhiều cho các em trong việc định

hướng nghề nghiệp.

73

Thông qua những biểu hiện về mặt hành vi như hỏi cha mẹ về sự phù

hợp của nghề nghiệp với bản thân (ĐTB = 3,28), thuyết phục cha mẹ (ĐTB =

3,21), chủ động trò chuyện với cha mẹ (ĐTB = 3,15), cùng cha mẹ tìm kiếm

các loại hình đào tạo (ĐTB = 3,05). Ta nhận thấy mối quan hệ, sự tương tác

giữa cha mẹ và con cái chưa thật sự chặt chẽ, tuy nhiên HS vẫn có sự chủ

động giao tiếp với cha mẹ về những vấn đề mà các em cho là quan trọng.

Ở vị trí thứ mười có ĐTB= 3,03 “Chia sẻ cho cha mẹ nghe chuyện chọn

nghề của bạn bè”. Đây là một thực tế của đa số học sinh hiện nay, bản thân

các em với mối liên hệ gia đình chưa thật sự chặt chẽ nên việc tâm sự, chia sẻ

những câu chuyện chọn nghề của bạn bè cho cha mẹ còn nhiều hạn chế. Tuy

nhiên, nếu trong quá trình chọn nghề ước mơ và lý tưởng của các em bị cha

mẹ phản đối, các em có thể chọn lựa hình thức đi “đường vòng” chia sẻ

những câu chuyện của bạn bè, của anh chị, kinh nghiệm từ những người đi

trước cho cha mẹ hiểu và thông cảm, từ đó sẽ có cái nhìn thoáng hơn trong

việc định hướng chọn nghề cho các em.

Với ĐTB= 3,00, yếu tố “Tham gia các hoạt động hướng nghiệp để có

nhiều thông tin trò chuyện với cha mẹ” ở vị trí mười một. Có mức ĐTB= 2,58

xếp vị trí thứ mười hai là “Chủ động tham gia các trắc nghiệm tính cách để có

thêm dẫn chứng trò chuyện cùng cha mẹ”. Vị trí cuối cùng là câu “Cùng cha

mẹ gặp gỡ chuyên gia tư vấn hướng nghiệp” với ĐTB= 2,02. Như vậy, về mặt

hướng nghiệp, việc gặp gỡ chuyên gia cùng cha mẹ hay tham gia các trắc

nghiệm, tính cách để có thêm thông tin trao đổi với cha mẹ là rất ít. Có thể do

tính chất địa phương chưa tiếp cận được nhiều với các hình thức này hoặc do

các em chưa thật sự chủ động tích cực trong việc thu thập thông tin để trao

đổi với cha mẹ.

Nhìn chung về mặt hành vi, HS chưa có sự chủ động tích cực trong việc

giao tiếp với cha mẹ. Tuy các em không có hành vi phản đối gay gắt với

những gì cha mẹ nói trong quá trình giao tiếp, cũng như có trao đổi chia sẻ

74

với cha mẹ về điều kiện kinh tế gia đình và những quan điểm của bản thân,

nhưng các em chưa có sự chủ động đi sâu khai thác thông tin cha mẹ cung cấp

cũng như chủ động tìm kiếm thêm thông tin từ các phương tiện khác để có thể

trao đổi lại với cha mẹ, cuộc trao đổi chỉ diễn ra với tính chất một chiều và

chưa có những phản hồi tích cực. Ở đây xin trích lời của một bậc cha mẹ tại

trường THPT Thạnh Tây bà VTQ chia sẻ: “Con thường ít trò chuyện cởi mở

với cha mẹ, hỏi gì thì nói đó nhưng mà chỉ trả lời bằng câu rút gọn là “Có”,

“Không” và “Dạ vâng”, nên cha mẹ sẽ không thể nào hiểu được tâm tư, tình

cảm và nguyện vọng của bản thân các con, có những trường hợp khác là con

sẽ không bao giờ chia sẽ về tâm tư nguyện vọng và khi cha mẹ hỏi thì con

chưa xác định được mong muốn của mình vì thế nên phụ thuộc vào quyết

định của cha mẹ”.

Bảng 2.14. Mức độ hành động giao tiếp với cha mẹ của học sinh

Mức độ hành động Tần số Phần trăm (%)

Cao 72 30,1

Trung bình 142 59,4

Thấp 25 10,5

Tổng 239 100%

Từ bảng 2.14 ta thấy được có sự khác biệt giữa mức độ biểu hiện hành vi

so với hai mức độ biểu hiện xúc cảm và mức độ biểu hiện nhận thức. Khi mà

ở mặt hành vi chỉ có 72 em ở mức độ hành vi cao, tương ứng với 30,1%, mức

độ trung bình có 142 em với 59,4% và mức độ thấp có đến 25 em tương ứng

với 10,5%. Các em có nhận thức tương đối đầy đủ, có nảy sinh xúc cảm

dương tính, nhưng về mặt hành vi thì chưa có hành động chủ động tích cực

trong giao tiếp với cha mẹ hoặc chỉ dừng lại ở việc không phản đối gay gắt và

chia sẻ quan điểm cá nhân, còn đi sâu tìm hiểu thông tin và có sự tìm tòi chủ

động thì chưa có. Trong thực tế hoạt động giao tiếp giữa cha mẹ và con cái

75

chưa hỗ trợ được nhiều cho các em trong việc định hướng nghề nghiệp. Điều

này có thể do cha mẹ và con cái chưa tìm thấy một tiếng nói chung, mối quan

hệ giữa cha mẹ và con cái chưa thật sự chặt chẽ. Cha mẹ chưa dành đủ thời

gian để quan tâm, tìm hiểu những mong muốn, nguyện vọng của con.

2.2.4. Hứng thú giao tiếp với cha mẹ

2.2.4.1. Mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12

Ta thấy được hầu hết các em có nhận thức tương đối đầy đủ, có nảy sinh

xúc cảm dương tính nhưng chưa có hành động chủ động tích cực trong hoạt

động giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp. Để đưa ra mức độ

hứng thú cho HS lớp 12, chúng tôi tiến hành tích hợp cả biểu hiện nhận thức,

xúc cảm và hành vi theo nguyên tắc như sau:

Hứng thú ở mức độ cao khi có nhận thức ở mức tương đối đầy đủ, có

nảy sinh xúc cảm dương tính một cách mạnh mẽ và có hành vi chủ động tích

cực trong giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.

Hứng thú ở mức độ trung bình khi nhận thức có thể chưa đầy đủ nhưng

đã có nảy sinh xúc cảm dương tính cũng như có những hành vi chủ động

trong hoạt động giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.

Hứng thú ở mức độ thấp khi không có nảy sinh những xúc cảm dương

tính và không có hoạt động tích cực chủ động trong giao tiếp với cha mẹ về

định hướng nghề nghiệp.

Sau khi tiến hành tích hợp, chúng tôi thu được kết quả như bảng 2.15

Bảng 2.15. Mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ

Mức độ hứng thú Tần số Phần trăm (%)

Cao 66 27,6

Trung bình 148 61,9

Thấp 25 10,5

Tổng 239 100

76

Điểm trung bình chung của mức độ hứng thú là 2,17 nằm ở mức độ

trung bình trong khoảng biên giới liên tục (1,67 - 2,33) vì vậy ta có thể thấy

mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 nằm ở mức độ trung

bình chiếm 61,9% (tức 148 HS), mức độ cao chiếm 27,6% và mức độ hứng

thú thấp chiếm 10,5%. Nhìn chung về hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS

lớp 12 ở mức trung bình. Hầu hết các em có nhận thức tương đối đầy đủ, có

nảy sinh xúc cảm dương tính trong quá trình giao tiếp, tuy nhiên lại chưa có

sự chủ động và tích cực trong việc giao tiếp với cha mẹ. Do đó, hứng thú chỉ

đạt mức độ trung bình.

Trong thực tế cha mẹ vẫn nhận định là con cái chưa có hứng thú giao

tiếp với mình, các em chưa thể hiện hứng thú giao tiếp với cha mẹ qua hành

vi. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này như: luôn tồn tại những rào

cản, khó khăn giữa cha mẹ và con cái, việc trao đổi với cha mẹ chưa hỗ trợ

được nhiều cho các em trong việc định hướng nghề nghiệp. Do vậy các em

chưa có sự mong đợi, kỳ vọng đối với hoạt động này; học sinh lớp 12 đã có

nhận định, hướng đi riêng theo mong muốn của bản thân nhưng cha mẹ chưa

dành đủ thời gian để chia sẻ, quan tâm đến những nguyện vọng này của các

em.

2.2.4.2. So sánh tương quan giữa hứng thú, nhận thức, xúc cảm và

hành vi

a. Tương quan về điểm trung bình giữa ba biểu hiện nhận thức, xúc

cảm và hành vi.

Bảng 2.16. Tương quan giữa ba biểu hiện nhận thức, xúc cảm và hành vi

theo điểm trung bình

STT 1 2 3 Nhận thức r=0.000** r=0.000** Xúc cảm Hành vi r=0.000** r=0,000** r=0.000** r=0.000** Biến số Nhận thức Xúc cảm Hành vi

77

Từ kết quả bảng 2.16 ta nhận thấy:

Giữa mặt nhận thức với mặt xúc cảm có tương quan hai chiều mạnh mẽ

với mức ý nghĩa = 0,00. Điều này có nghĩa là khi HS có nhận thức đầy đủ ý

nghĩa về vai trò và tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong

việc định hướng nghề nghiệp, thì lúc này các em sẽ nảy sinh xúc cảm dương

tính, có sự đồng thuận và hài lòng với hoạt động giao tiếp với cha mẹ. Ngược

lại khi HS có xúc cảm dương tính và sự đồng thuận cũng như hài lòng trong

quá trình giao tiếp với cha mẹ thì các em sẽ nhận thức đầy đủ hơn về ý nghĩa

của hoạt động giao tiếp đối với việc định hướng nghề nghiệp.

Tiếp theo giữa mặt nhận thức và hành vi với mức ý nghĩa = 0,000 ta thấy

được có sự tương quan hai chiều giữa hai mặt này. Tức là khi HS nhận thức

được ý nghĩa của hoạt động giao tiếp trong việc định hướng nghề nghiệp thì

sẽ có động lực giúp các em chủ động tích cực hơn trong giao tiếp với cha mẹ

về định hướng nghề nghiệp. Ngược lại khi các em đã có hành động tích cực

chủ động trong giao tiếp với cha mẹ thì sẽ giúp các em có nhận thức đầy đủ

hơn về vai trò và ý nghĩa của giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp.

Khi so sánh về xúc cảm và nhận thức ta thấy với mức ý nghĩa = 0,000 thì

có sự tương quan hai chiều giữa xúc cảm và hành vi, như vậy khi các em có

những xúc cảm dương tính, sự đồng thuận và hài lòng với hoạt động giao tiếp

với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp thì điều này cũng sẽ thúc đẩy các em

có sự chủ động tích cực hơn trong việc giao tiếp với cha mẹ. Thêm vào đó khi

các em có những hành động chủ động và tích cực trong giao tiếp với cha mẹ

thì các em dễ dàng nảy sinh xúc cảm dương tính, sự đồng thuận và hài lòng

với hoạt động này.

Tóm lại giữa ba biểu hiện xúc cảm, nhận thức và hành vi có sự tương

quan thuận một cách mạnh mẽ. Khi một trong ba biểu hiện có sự biến động,

các biểu hiện còn lại sẽ chịu sự ảnh hưởng nhất định.

78

b. Tương quan giữa mức độ hứng thú với mức độ nhận thức, mức

độ xúc cảm và mức độ hành vi

Bảng 2.17. Tương quan giữa mức độ hứng thú với mức độ nhận thức,

mức độ xúc cảm và mức độ hành vi

Nhận STT Biến số Hứng thú Xúc cảm Hành vi thức

r=0.000** r=0,000** r=0.000** 1 Hứng thú

r=0.000** r=0.000** r=0.000** 2 Nhận thức

r=0.000** r=0.000** r=0.000** 3 Xúc cảm

r=0.000** r=0.000** r=0.000** 4 Hành vi

Kết quả bảng 2.17 cho thấy có sự tương quan hai chiều giữa mức độ

hứng thú với các mức độ nhận thức, xúc cảm, hành vi cũng như giữa các mức

độ này cũng có sự tương quan lẫn nhau với mức ý nghĩa = 0,00.

Mức độ hứng thú có mối tương quan chặt chẽ với cả ba biểu hiện nhận

thức, xúc cảm và hành vi, nghĩa là khi có sự thay đổi ở ba biểu hiện này, mức

độ hứng thú sẽ có những ảnh hưởng nhất định. Khi HS có nhận thức càng đầy

đủ và đúng đắn hơn về ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp, khi

HS có xúc cảm ngày càng mạnh mẽ với hoạt động này cũng như có hành

động ngày càng chủ động tích cực thì mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ

của HS ngày càng tăng. Ngược lại khi HS có sự hứng thú với hoạt động giao

tiếp cao, các em sẽ đi sâu tìm hiểu về ý nghĩa hoạt động, nảy sinh những xúc

cảm tích cực cũng như chủ động hơn, tích cực hơn trong hoạt động giao tiếp

với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.

Giữa ba biểu hiện nhận thức, xúc cảm và hành vi cũng có mối tương

quan hai chiều mạnh mẽ với nhau. Điều này cho thấy khi có sự thay đổi về

mức độ ở một trong ba biểu hiện sẽ có những ảnh hưởng đến mức độ của các

79

biểu hiện còn lại. Đây là ba biểu hiện không thể tách rời của hứng thú và khi

tác động vào một trong ba biểu hiện thì sẽ có những thay đổi nhất định về

mức độ hứng thú cũng như các mức độ của hai biểu hiện còn lại.

2.2.5. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trường, theo giới

tính và theo trình độ học vấn của cha mẹ

2.2.5.1. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo giới tính

Bảng 2.18. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo giới tính

Kiểm nghiệm Hứng thú Hứng thú Hứng thú cao chi bình Mức độ thấp trung bình phương hứng thú

SL % % SL % SL

60 10,8 11 58,8 31 30,4 Nam Mức ý 88 10,2 14 64,2 35 25,5 Nữ nghĩa=0,673 25 10,5 148 61,9 66 27,6 Tổng

Dựa vào kết quả bảng 2.18 ta thấy với mức ý nghĩa = 0,673 thì không có

sự khác biệt về ý nghĩa giữa nam và nữ trong hứng thú giao tiếp với cha mẹ

về định hướng nghề nghiệp ở HS lớp 12. Đối với HS nam có 30,4% (tương

ứng 31 em) có hứng thú ở mức cao, đạt mức hứng thú trung bình có 58,8%

(tương ứng 60 em) và ở mức hứng thú thấp có 10,8% (tương ứng 11 em). Đối

với nữ có 25,5% ở mức hứng thú cao (tương ứng 35 em), đạt mức hứng thú

trung bình có 64,2% (tương ứng 88 em) và ở mức hứng thú thấp có 10,5%

(tương ứng 25 em).

Ta có thể nhận thấy hứng thú giao tiếp không chịu tác động bởi yếu tố

giới tính. Một số người có quan điểm rằng các bạn nữ sẽ thể hiện tình cảm,

chủ động chia sẻ với cha mẹ nhiều hơn các bạn nam, nhưng điều này không

đồng nghĩa với việc các bạn nữ có hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định

hướng nghề nghiệp cao hơn các bạn nam. Có thể về vấn đề định hướng nghề

80

nghiệp là vấn đề mang tính quyết định, có ảnh hưởng to lớn đến tương lai sau

này của các em. Do vậy hầu hết hết các em đều có nhu cầu cũng như quan

tâm đến vấn đề này.

2.2.5.2. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trường

Địa bàn Huyện Tân Hiệp có 3 trường THPT, với trường THPT Tân Hiệp

trực thuộc thị trấn Tân Hiệp, với nhiều lợi thế về vị trí địa lý, bề dày lịch sử

gần 40 năm thành lập, có sự đầu tư về cơ sở hạ tầng với đội ngũ giáo viên lâu

năm nhiều kinh nghiệm đây là trường có nhiều HS nhất trong toàn huyện.

Tiếp theo là trường THPT Thạnh Đông, với vị trí địa lý nằm ngay trên

tuyến quốc lộ 80 của tỉnh, được thành lập cách đây khoảng 20 năm, với cơ sở

hạ tầng đã gần như hoàn thiện và có chất lượng giáo dục ổn định.

Riêng đối với trường THPT Thạnh Tây là một trường còn khá mới trong

địa bàn huyện, thành lập vào năm 2009, với vị trí địa lý thuộc khu vực vùng

sâu, chủ yếu hỗ trợ các em HS THPT trong khu vực không phải đi học quá

xa… với đội ngũ giáo viên và công nhân viên trẻ trung và nhiệt huyết với

nghề cũng như sự quan tâm hỗ trợ của các bộ ngành liên quan, trường đang

dần mở rộng quy mô, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và ngày càng nâng cao

chất lượng giáo dục.

Dù trong ba trường vẫn có những điểm đặc trưng khác nhau, tuy nhiên

mỗi trường vẫn luôn đặt việc đào tạo giáo dục và hỗ trợ HS lên hàng đầu.

Riêng đối với HS lớp 12 mỗi năm các trường luôn có những hoạt động hướng

nghiệp để kết hợp với gia đình trong việc hỗ trợ các em trong việc định hướng

nghề nghiệp.

Tìm hiểu kỹ hơn sự khác biệt về hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định

hướng nghề nghiệp ở mỗi trường, chúng tôi đã tiến hành phân tích số liệu như

bảng 2.19.

81

Bảng 2.19. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trường

Kiểm

Hứng thú Hứng thú Hứng thú nghiệm Chi

bình thấp trung bình cao Mức độ hứng thú

phương

SL % SL % SL %

THPT Thạnh Tây 7 10,0 41 58,6 22 31,4 Mức ý THPT Thạnh nghĩa=0,125 10 18,9 28 52,8 15 28,3 Đông

THPT Tân Hiệp 8 6,9 79 68,1 29 25,0

25 8,4 148 64,0 66 27,6 Tổng

Theo bảng 2.19 ta thấy với mức ý nghĩa mức ý nghĩa = 0,125 thì không

có sự khác biệt về hứng giao tiếp với cha mẹ ở các trường trong địa bàn

huyện Tân Hiệp. Ở mức độ hứng thú cao, đứng đầu là trường THPT Thạnh

Tây với 31,4% (tương ứng 21 em), ở mức hứng thú trung bình đứng đầu là

trường THPT Tân Hiệp có tỉ lệ 68,1% (tương ứng 79 em) và ở mức hứng thú

thấp có tỉ lệ cao nhất là trường THPT Thạnh Đông với tỉ lệ phần trăm là

18,9% (tương ứng 10 em). Nhìn chung các tỉ lệ chênh lệch không nhiều và

chưa có sự khác biệt đáng kể giữa các trường về hứng thú giao tiếp với cha

mẹ của HS lớp 12. Điều này cho thấy, với những địa bàn khác nhau của

huyện, những sự khác biệt về điều kiện kinh tế thì không có quá nhiều tác

động đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của học

sinh lớp 12. Cả ba trường trong huyện, dù mỗi trường có những điểm mạnh

điểm yếu khác nhau nhưng công tác hướng nghiệp cho các em thì luôn được

nhà trường kết hợp với các bậc cha mẹ HS quan tâm và hỗ trợ hết mình. Như

vậy, dù ở thị trấn hay vùng sâu, vùng xa thì các em vẫn có hứng thú giao tiếp

với cha mẹ tương tự nhau về định hướng nghề nghiệp.

82

2.2.5.3. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn

của cha mẹ

a. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn

của cha

Bảng 2.20. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn

của cha

Kiểm nghiệm Hứng thú Hứng thú Mức độ Hứng thú cao Chi bình thấp trung bình hứng phương thú SL % SL % SL %

Dưới 16 10,3 98 62,8 42 26,9 12/12 Mức ý

nghĩa=0,041 12/12 7 14,3 34 69,4 8 16,3

Trên 2 5,9 16 47,1 16 47,1 12/12

Tông 25 8,4 148 64,0 66 27,6

Từ kết quả bảng 2.20 ta thấy với mức ý nghĩa = 0,041<0.05 có sự khác

biệt ý nghĩa về hứng thú giao tiếp với cha mẹ giữa các trình độ học vấn khác

nhau của cha. Ở mức hứng thú cao có tỉ lệ phần trăm cao nhất là trình độ học

vấn của cha trên 12/12 với 47,1% (tương ứng 16 em). Ở mức hứng thú trung

bình và thấp với tỉ lệ cao nhất là trình độ học vấn 12/12 có tỉ lệ phần trăm lần

lượt như sau 69,4% (tương ứng 34 em) và 14,3% (tương ứng 7 em). Ta nhận

thấy khi trình độ học vấn của cha càng cao thì HS lớp 12 càng có hứng thú

giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.

Với trình độ học vấn của cha là 12/12, HS có thể chưa có nhiều hứng thú

khi giao tiếp với cha mẹ và khi trình độ học vấn của cha là dưới 12/12 HS vẫn

83

có hứng thú nhất định trong việc giao tiếp với cha mẹ. Trong thực tế, những

thông tin mà cha cung cấp thường mang tính lí trí, thiên về con số và thực tế,

vì thế trình độ học vấn của cha sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến hứng

thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12. Bạn NQT đang học tại trường THPT

Thạnh Đông cho biết: “Cha em thường nói gắn gọn, chỉ nói những vấn đề

chính”.

b. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn của

mẹ

Bảng 2.21. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn

của mẹ

Kiểm nghiệm Hứng thú Hứng thú Mức độ Hứng thú cao Chi bình thấp trung bình hứng phương thú SL % SL % SL %

Dưới 19 10,9 111 63,4 45 25,7 12/12 Mức ý

nghĩa=0,58 12/12 5 12,5 22 55,0 13 32,5

Trên 1 4,2 15 62,5 8 33,3 12/12

Dựa vào bảng 2.21. ta thấy với mức ý nghĩa = 0,58 cho thấy không có sự

Tổng 25 8,4 148 64,0 66 27,6

khác biệt về hứng thú giao tiếp với cha mẹ giữa các trình độ học vấn khác

nhau của mẹ.

Cụ thể như sau: Với trình độ học vấn của mẹ là dưới 12/12 có 5,7%

(tương ứng 45 em) ở mức hứng thú cao, ở mức độ hứng thú trung bình có

63,4% (tương ứng 111 em), và ở mức độ hứng thú thấp 10,9% (tương ứng 19

84

em); Đối với trình độ học vấn của mẹ là 12/12 ở mức hứng thú cao có 32,5%

(tương ứng 13 em), tiếp theo có 55,0% (tương ứng 22 em) có mức hứng thú

trung bình, ở mức độ hứng thú thấp có 12,5% (tương ứng 5 em); Còn ở trình

độ học vấn của mẹ là trên 12/12 ở mức hứng thú cao có 33,3% (tương ứng 8

em), có 62,5% (tương ứng 15 em) ở mức độ hứng thú trung bình và ở mức độ

hứng thú thấp có 4,2% (tương ứng 1 em).

Ta thấy rằng dù trình độ học vấn của mẹ như thế nào cũng ít có ảnh

hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của HS

lớp 12. Trong thực tế, người mẹ thường là nơi con gửi gắm và chia sẻ những

tâm tư tình cảm của bản thân về những ước mơ, mong đợi, dự định trong

tương lai... Và sẽ là người cho con những những gợi ý thiên về cảm xúc nhiều

hơn, có lẽ vì thế trình độ học vấn không có nhiều ảnh hưởng đến hứng thú

giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12.

2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của

học sinh lớp 12

Bảng 2.22. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của

học sinh lớp 12

Từ phía Cha mẹ Từ phía con

STT

Yếu tố ĐTB STT Yếu tố ĐTB Thứ bậc Thứ bậc

1 3,28 3 6.7 3,31 5

Sự quan tâm của cha mẹ dành cho con.

Mong muốn tìm hiểu kiến thức liên quan đến việc định hướng nghề

2 3,54 1 6.8 3,35 4

Sự kỳ vọng của cha mẹ về tương lai của con. tôn Luôn trọng ý kiến của cha mẹ

85

Từ phía Cha mẹ Từ phía con

STT

Yếu tố ĐTB STT Yếu tố ĐTB Thứ bậc Thứ bậc

3 3,18 5 6.9 3,27 6

Thói quen chia sẻ, trò chuyện của cha mẹ và con. Sự tin tưởng của con đối với cha mẹ

4 3,07 6 6.10 3,66 2

Thời gian cha mẹ trò để dành chuyện cùng con. Quan tâm đến hoàn cảnh gia đình

5 3,44 2 6.11 3,80 1 lúc

Thái độ của cha mẹ đối với con trong trò chuyện thức Nhận tầm được quan trọng của việc chọn nghề

6 3,26 4 6.12 3,50 3

Cá tính mạnh mẽ hay yếu đuối của bản thân

Kiến thức của cha mẹ về các vấn đề liên quan định sự đến hướng nghề nghiệp

3,3 ĐTB chung 3,48

ĐTB chung

Qua bảng 2.22. ta thấy, các yếu tố từ phía cha mẹ có ĐTB chung là 3,3

nằm trong khoảng (ĐTB = 2,6 – 3,39) thuộc khoảng “bình thường”, có nghĩa

là theo HS các yếu tố từ phía cha mẹ chưa có ảnh hưởng lớn đến hứng thú

giao tiếp với cha mẹ các em.

HS cho là ảnh hướng nhất đó là “Sự kỳ vọng của cha mẹ về tương lai

của con” với ĐTB= 3,54. Yếu tố này có ảnh hưởng đến các em nhiều nhất, có

thể vì các em cảm thấy bị áp lực với những điều mà cha mẹ hy vọng các em

làm được (đạt được thành tích học tập cao, ngoan ngoãn, không cãi lời cha

86

mẹ…). Tuy nhiên ở một góc độ khác, theo các em những kỳ vọng này cũng sẽ

giúp các em nỗ lực và cố gắng hơn trong học tập, cố gắng để đạt được những

gì mà cha mẹ mong muốn. Bạn BTPM đang học tại trường THPT Tân Hiệp

chia sẻ: “Khi bị cha mẹ la rầy em thấy rất áp lực nhưng như vậy em mới cố

gắng học tập hơn”.

“Thái độ của cha mẹ đối với con trong lúc trò chuyện” với ĐTB= 3,44, ở

vị trí thứ hai. Yếu tố này cũng có những ảnh hưởng nhất định đến hứng thứ

giao tiếp với cha mẹ của các em, khi mà từng thời điểm, từng hoàn cảnh với

thái độ khác nhau của cha mẹ sẽ tạo cho các em hứng thú không giống nhau

trong khi trò chuyện, chia sẻ với cha mẹ. Bạn PTN ở trường THPT Thạnh Tây

chia sẻ: “Em nói chuyện với cha mẹ cũng tùy lúc, có lúc vui thì nói nhiều chứ

khi cha mẹ đang tức giận thì nói gì được ạ”.

HS có sự đánh giá với các yếu tố khác chỉ ở mức bình thường. Sự quan

tâm của cha mẹ (ĐTB= 3.28), kiến thức của cha mẹ (ĐTB= 3,26), thói quen

chia sẻ (ĐTB= 3,18). Ta có thể hiểu được với các em thì trình độ học vấn,

thói quen chia sẻ hay là sự quan tâm của cha mẹ chưa có ảnh hưởng quá lớn

đến hứng thú giao tiếp của các em với cha mẹ. Có thể, điều mà các em cần ở

cha mẹ là sự thông cảm và chấp nhận với những nguyện vọng tâm tư của bản

thân. Dù có những lúc các em mắc phải những sai lầm hay suy nghĩ chưa

đúng đắn thì điều mà các em cần ở các bậc cha mẹ đó là sự lắng nghe, chia sẻ

và phân tích chứ không phải là sự chỉ trích, rầy la.

Ở vị trí cuối cùng là yếu tố “Thời gian cha mẹ dành để trò chuyện cùng

con” có ĐTB= 3,07. Theo các em, yếu tố thời gian ít ảnh hưởng đến hứng thú

giao tiếp, quan trọng không phải là việc mỗi ngày cha mẹ có thể dành cho các

em bao nhiêu thời gian để trò chuyện, mà quan trọng là các em cảm thấy như

thế nào trong những khoảng thời gian đó, không phải là trò chuyện với nhau

bao lâu mỗi ngày mà là cuộc trò chuyện có đạt được sự thống nhất, hài lòng

hay không và hài lòng ở mức độ nào.

87

Đối với yếu tố từ phía con có ĐTB chung= 3,48 nằm trong khoảng (ĐTB

= 3,4 – 4,19) thuộc khoảng “ảnh hưởng”, ở đây ta thấy được theo nhận định

của các em HS, những yếu tố từ chính các em sẽ có ảnh hưởng nhất định đến

hứng thú giao tiếp với cha mẹ, cụ thể như sau:

Yếu tố quan trọng nhất đó là “Nhận thức được tầm quan trọng của việc

chọn nghề” với ĐTB= 3,80. Khi các em nhận thức được tầm quan trọng của

việc định hướng nghề, cũng như hoạt động giao tiếp với cha mẹ có vai trò

quan trọng trong việc giúp các em định hướng nghề nghiệp, điều này sẽ có

ảnh hưởng đến mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiềp của các em.

Với ĐTB= 3,66, yếu tố “Quan tâm đến hoàn cảnh gia đình” ở vị trí thứ

hai. Các em có quan tâm đến những nguồn lực từ phía gia đình và sự phù hợp

của nghề nghiệp với kinh tế gia đình, và việc giao tiếp với cha mẹ giúp các

em có được những thông tin này, vì thế yếu tố này cũng có những ảnh hưởng

nhất định đến hoạt động giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12. Bạn NAQ là HS

tại trường THPT Tân Hiệp cho biết: “Em sẽ chọn trường và mức chi tiêu mà

cha mẹ em có thể lo được cho em”.

Xếp thứ bậc ba “Cá tính mạnh mẽ hay yếu đuối của bản thân” có ĐTB =

3,50. Ta thấy đối với HS lớp 12 việc các em có tính cách như thế nào sẽ có

những ảnh hưởng nhất định đến mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ về

định hướng nghề nghiệp. Có thể với những em có cá tính mạnh mẽ sẽ dễ nảy

sinh những mâu thuẫn, tranh luận trong cuộc trò chuyện với cha mẹ còn

những em có cá tính yếu đuối hơn thì sẽ dễ dàng chấp nhận những quan điểm

hay những quyết định mà cha mẹ đặt ra. Mỗi cá tính đều sẽ có những điểm

mạnh và điểm yếu khác nhau cần có sự tinh tế, khéo léo của cha mẹ để việc

trao đổi giao tiếp với con về định hướng nghề nghiệp đạt được hiệu quả cao

nhất.

88

Theo nhận định của các em yếu tố tôn trọng ý kiến của cha mẹ (ĐTB=

3.35) và yếu tố mong muốn tìm hiểu kiến thức (ĐTB= 3.31) là chưa có nhiều

ảnh hưởng đến mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp của HS lớp 12. Có thể các em cho rằng con cái tôn trọng cha mẹ là

điều đương nhiên, vì cha mẹ là người đã sinh thành, nuôi nấng bản thân. Cũng

như cha mẹ có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, sẽ giúp các em có được sự

lựa chọn đúng đắn nhất. Thêm vào đó, những thông tin về nghề nghiệp các

em có thể tìm thấy ở nhiều nguồn khác nhau như thầy (cô), bạn bè, mạng xã

hội,….

Xếp ở vị trí cuối cùng “Sự tin tưởng của con đối với cha mẹ” có ĐTB=

3,27. Yếu tố này nằm trong khoảng ít ảnh hưởng cho thấy chưa có mối liên

hệ giữa việc cha mẹ có tin tưởng vào con hay không với việc con có hứng thú

giao tiếp với cha mẹ hay không.

Nhìn chung, những yếu tố từ phía cha mẹ ít ảnh hưởng đến hoạt động

giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 hơn so với các yếu tố từ phía con, Tuy

nhiên những yếu tố này vẫn có phần nào tác động đến hứng thú ở các em, có

thể tích cực hay tiêu cực, tùy vào mỗi hoàn cảnh và mức độ khác nhau. Thông

qua những yếu tố này ta có thể nhận thấy hầu hết các em đều đã nhận thức

được về ý nghĩa của hoạt động hướng nghiệp, có quan tâm đến hoàn cảnh gia

đình và những kỳ vọng của cha mẹ.

2.2.7. Đề xuất biện pháp nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ về

định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi chưa thể nghiên cứu tính

khả thi và ứng dụng của các biện pháp, tuy nhiên đây là một số biện pháp

chúng tôi có thể rút ra trong quá trình nghiên cứu thực tiễn hứng thú giao tiếp

với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 tại huyện Tân

Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

89

a. Nhóm biện pháp về phía học sinh

Theo như nghiên cứu trong thực tế ta thấy hầu hết học sinh đều có nhận

thức tương đối đầy đủ và có xúc cảm dương tính với hoạt động giao tiếp với

cha mẹ, tuy nhiên về mặt hành vi chưa có hành động chủ động tích cực trong

việc giao tiếp với cha mẹ, điều này làm ảnh hưởng nhiều đến mức độ hứng

thú. Do vậy để nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 ta

cần tác động vào mặt hành vi để các em chủ động tích cực hơn trong việc chia

sẻ, trao đổi với cha mẹ về những vấn đề hướng nghiệp mà mình đang quan

tâm hoặc những lo lắng khúc mắc mà các em đang gặp phải trong quá trình

định hướng nghề nghiệp.

Chủ động trò chuyện với cha mẹ là một biện pháp cần thiết để nâng cao

hứng thú giao tiếp với cha mẹ cho học sinh lớp 12. Ở giai đoạn đầu có thể các

em còn nhiều e ngại chưa tự nhiên vì thế có thể bắt đầu bằng những vấn đề

đơn giản về sở thích, về mong muốn, về ước mơ, để dễ dàng chia sẻ cũng như

xây dựng nền tảng, thiết lập thói quen trò chuyện với cha mẹ. Thông qua việc

trò chuyện cha mẹ có thể hiểu được những tâm tư tình cảm của con, có được

sự gần gũi về mặt tâm lý, tinh thần với trẻ.

Khi trò chuyện với cha mẹ học sinh nên có thái độ chủ động và thành

khẩn ngay cả khi không hài lòng hoặc đang xảy ra mâu thuẫn về mặt quan

điểm với cha mẹ. Các em có thể chủ động nói ra bản thân đang cảm thấy như

thế nào cũng như nói nên quan điểm, lý luận của mình để thuyết phục cha mẹ

từ đó tìm thấy tiếng nói chung. Điều này còn giúp các em rèn luyện khả năng

diễn đạt, bộc lộ suy nghĩ, ý tưởng của mình với người khác.

Các em có thể dành nhiều thời gian hơn để cùng cha mẹ tham, gia các

hoạt động về hướng nghiệp như các buổi hội thảo, tọa đàm hay các buổi tư

vấn hướng nghiệp do nhà trường và địa phương tổ chức. Đây là cơ hội để cha

mẹ và con cái gần gũi và gắn bó với nhau hơn cũng như có thêm nhiều chủ

đề, thông tin để cùng nhau bàn bạc, trao đổi, cũng như tháo gỡ những vướng

90

mắc, khó khăn mà con đang gặp phải trong quá trình hướng nghiệp. Ngoài ra

những hoạt động này cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích về nghề nghiệp, thị

trường lao động ở địa phương, giúp các em có thể đưa ra lựa chọn phù hợp

cho bản thân trong tương lai.

b. Nhóm biện pháp về phía cha mẹ

Để nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp

của học sinh lớp 12 thì vai trò của cha mẹ là vô cùng thiết yếu. Đầu tiên để

con có thể dễ dàng tâm sự, chia sẻ với cha mẹ cần tạo ra một bầu không khí

thoải mái và dễ chịu trong gia đình, thái độ của cha mẹ khi trò chuyện với con

là vô cùng quan trọng, được thể hiện thông qua sự chủ động lắng nghe cũng

như sự chấp nhận khoan dung của cha mẹ với những quan điểm, suy nghĩ của

con mình. Cha mẹ không nên vội vàng đưa ra kết luận khi chưa dành đủ thời

gian để lắng nghe và tìm hiểu những tâm tư tình cảm của con mình.

Trong quá trình giao tiếp cha mẹ cần trao đổi một cách bình đẳng như

những người bạn, cha mẹ không nên nói quá nhiều, không cho con cơ hội để

đưa ra quan điểm, suy nghĩ của bản thân hơn nữa quyết định sẽ được đặt ra

dựa trên nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng và có sự thống nhất từ hai phía. Điều

này sẽ tránh được sự áp đặt của cha mẹ cũng như những bất mãn của con.

Trong trường hợp cha mẹ cảm thấy quan điểm của con là chưa đúng đắn thì

cần có sự phân tích lý giải để con hiểu, tránh sự phê phán, và chỉ trích những

suy nghĩ hay những quan điểm của con mình làm con cảm thấy tổn thương và

không tự tin để bộc lộ suy nghĩ của mình.

Tóm lại, để nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12

có rất nhiều biện pháp tuy nhiên quan trọng nhất vẫn cần có sự kết hợp và nỗ

lực từ cả hai phía cha mẹ và con cái.

91

Tiểu kết Chương 2

Việc tìm hiểu hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 cần được tìm

hiểu trên các mặt nhận thức, xúc cảm và hành vi. Qua tìm hiểu thực trạng

hứng thú trên 239 HS tại ba trường THPT ở huyện Tân Hiệp tỉnh Kiên Giang

chúng tôi thu được kết quả như sau.

HS có nhận thức tương đối đầy đủ về ý nghĩa của hoạt động giao tiếp

với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp cũng như có nảy sinh xúc cảm dương

tính với hoạt động này song HS chưa có hành động chủ động và tích cực giao

tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp. Từ đó dẫn đến hứng thú giao tiếp

với cha mẹ chỉ thuộc mức độ trung bình.

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS

lớp 12, trong đó các em cũng đã nhận thức được về tầm quan trọng của việc

hướng nghiệp, có sự quan tâm đến những nguồn lực từ phía gia đình cũng như

chịu sự tác động từ những kỳ vọng của cha mẹ.

Có sự tương quan thuận hai chiều giữa các yếu tố nhận thức xúc cảm và

hành vi trong hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12, khi một trong ba

yếu tố có sự biến đổi sẽ có sự tác động ảnh hưởng đến các yếu tố còn lại.

Như vậy, luận văn đã giải quyết được các nhiệm vụ trọng tâm đặt ra, các

vấn đề về mức độ hứng thú giao tiếp đã được chứng minh và làm sáng tỏ

trong phạm vi nghiên cứu. Thêm vào đó khi so sánh với các giả thuyết nghiên

cứu ta thấy có sự khác biệt trước và sau khi nghiên cứu thực tiễn. Điều này có

thể do đặc trưng địa bàn nông thôn với trình độ phát triển kinh tế chưa cao

cũng như trình độ học vấn của cha mẹ và điều kiện kinh tế gia đình còn tồn tại

nhiều khó khăn vất vả, do vậy kết quả thu được cho thấy chưa có sự khác biệt

về hứng thú giao tiếp với cha mẹ giữa nam và nữ, cũng như giữa học sinh có

mẹ với trình độ học vấn khác nhau.

92

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Qua kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng hứng thú giao tiếp với cha

mẹ của HS một số trường THPT huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang chúng tôi

xin rút ra một số kết luận về các mặt như sau:

1.1. Về lý luận

Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa

có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá

nhân trong quá trình hoạt động.

Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người được quy định bởi

các yếu tố tâm lý cá nhân nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, trao đổi

thông tin qua lại, cảm xúc, điều chỉnh nhận thức, hành vi của cá nhân và

người khác.

Hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề của HS lớp 12 là thái

độ lựa chọn đặc biệt của HS lớp 12 đối với sự tiếp xúc tâm lý giữa bản thân

với cha mẹ trong lĩnh vực định hướng nghề, do sự tiếp xúc này có ý nghĩa

quan trọng trong quá trình điều chỉnh định hướng nghề nghiệp, tìm kiếm

thông tin nghề phù hợp với bản thân và thị trường lao động tương lai của HS

lớp 12 và mang lại những cảm xúc tích cực.

1.2. Về thực trạng

Nhận thức: Đa số HS được nghiên cứu có nhận thức tương đối đầy đủ về

ý nghĩa, tầm quan trọng cũng như vai trò của hoạt động giao tiếp với cha mẹ

trong việc định hướng nghề nghiệp. Hoạt động này hỗ trợ các em trong việc

định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp cũng như xác định những nguồn

lực từ phía gia đình.

Xúc cảm: Hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 ở huyện Tân

Hiệp, tỉnh Kiên Giang biểu hiện qua xúc cảm ở mức độ cao. Hầu hết các em

có nảy sinh xúc cảm dương tính với hoạt động giao tiếp với cha mẹ về định

93

hướng nghề nghiệp, các em có sự đồng thuận và hài lòng khi giao tiếp với cha

mẹ về định hướng nghề nghiệp

Hành động: Mặc dù đa số các em HS có sự nhận thức đúng đắn về ý

nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp cũng như có nảy sinh những

xúc cảm dương tính, có sự đồng thuận và hài lòng khi giao tiếp với cha mẹ.

Tuy nhiên về mặt hoạt động, các em chưa có hành động chủ động tích cực

trong giao tiếp với cha mẹ, dẫn đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định

hướng nghề nghiệp của các em chỉ ở mức độ trung bình.

2. Kiến nghị

2.1. Về phía nhà trường

Nhà trường cần có mối liên hệ chặt chẽ với cha mẹ HS để có thể cùng

đưa ra những hỗ trợ đúng đắn và kịp thời giúp các em HS khi có những vấn

đề khó khăn hoặc có nhu cầu về những thông tin nghề nghiệp, thị trường lao

động… Giúp cha mẹ và các em có thể định hướng nghề nghiệp một cách dễ

dàng và hợp lý.

Nhà trường cần tổ chức thêm những buổi tọa đàm, hội thảo, hoặc những

chương trình cho cha mẹ và HS cùng tham gia, khi đó vừa giúp các em cải

thiện tình cảm với cha mẹ, vừa có thể cung cấp thêm những thông tin về nghề

nghiệp , xây dựng ước mơ hoài bão cho các em.

2.2. Về phía cha mẹ học sinh

Cha mẹ cần dành nhiều thời gian để tìm hiểu những thông tin về nghề

nghiệp, xu hướng nghề nghiệp của xã hội, những trường, những nghề phù hợp

với điều kiện kinh tế gia đình…

Thêm vào đó cha mẹ cũng cần quan quan tâm và lắng nghe tâm tư

nguyện vọng ước mơ của con để có thể tư vấn cho con nghành nghề phù hợp.

Cha mẹ cũng cần tìm hiểu về những khả năng, năng lực của con, những sở

trường sở đoản của con để có thể cùng con chọn được một nghề phù hợp.

94

Xây dựng bầu không khí gia đình thoải mái, giúp con dễ dàng chia sẻ để

hiểu con hơn, tránh sự áp đặt những hoài bão hay ước mơ mà bản thân chưa

thực hiện được và bắt con phải làm theo.

Nên tôn trọng những suy nghĩ và lựa chọn của con, nếu có phát sinh sự

mâu thuẫn nên từ từ phân tích và cùng đi đến thống nhất chung trên cơ sở tôn

trọng ý kiến từ hai phía.

Nên có sự tham gia của cả cha và mẹ trong việc trao đổi chia sẻ và giúp

con định hướng nghề nghiệp vì mỗi giới sẽ có cách nhìn và nhận định khác

nhau, giúp con có cái nhìn đa chiều hơn.

2.3. Về phía học sinh

Đối với bản thân HS cần chủ động tìm kiếm thông tin về những nghề

nghiệp mà mình quan tâm, những năng lực mà bản thân có được cũng như

những ước mơ hoài bão của chính mình.

Các em cũng cần chủ động hơn trong việc chia sẻ với cha mẹ, chia sẻ về

những tâm tư tình cảm của bản thân, chia sẻ về những thông tin nghề nghiệp

mà em quan tâm, chia sẻ về ước mơ hoài bão của mình để cha mẹ hiểu hơn và

có sự giúp đỡ kịp thời và đúng đắn cho các em trong việc định hướng nghề

nghiệp cho tương lai.

Các em cũng có thể chủ động nói lên cảm nhận của mình với cha mẹ khi

trò chuyện, những gì em cảm thấy chưa hài lòng hay những áp lực mà cha mẹ

đặt ra cho mình. Đây cũng là cách để cha mẹ hiểu em hơn cũng như tìm được

tiếng nói chung với cha mẹ.

Các em cũng nên dành nhiều thời gian hơn cho gia đình, dành thời gian

trò chuyện với cha mẹ, cùng tham gia những hoạt động về định hướng nghề

nghiệp như các buổi hội thảo, tọa đàm…

95

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo. (2005). Từ

điển giáo dục học. Nxb Từ điển Bách khoa.

Bùi Ngọc Oánh. (1993). Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Tập 3.

Hồ Chí Minh: Nxb Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí

Minh.

Covaliop A.G. (1971), Tâm Lý học cá nhân tập 1. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Châu Thúy Kiều. (2010). Kỹ năng giao tiếp của sinh viên sư phạm trường

Cao Đẳng Cần Thơ. Luận văn Thạc sĩ. Chuyên nghành Tâm lý học.

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí

Minh.

Dương Thiệu Tống. (2012). Phương pháp nghiên cứu khoa học và tâm lý.

Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia.

Đinh Thị Sen. (2013). Hứng thú môn học kỹ năng giao tiếp của sinh viên

trường Đại Học Nha Trang. Luận văn thạc sĩ. Chuyên ngành Tâm lý

học. .Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố

Hồ Chí Minh.

Đỗ Thị Lệ Hằng. (2010). Lịch sử phát triển và các mô hình tham vấn hướng

nghiệp trên thế giới. Tạp chí Tâm lý học số 6/2010.

Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu, Nguyễn Thạc. (2016). Hoạt động – giao tiếp –

nhân cách. Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm.

Hoàng Phê. (1994). Từ điển Tiếng Việt. Nxb Trung tâm Từ điển ngôn ngữ.

Hoàng Thị Anh. (1992). Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên. Luận án

phó tiến sĩ. Chuyên ngành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm Hà

Nội. Hà Nội

Huỳnh Văn Sơn, Nguyễn Thị Tứ, Bùi Hồng Quân, Nguyễn Hoàng Khắc

Hiếu. ( 2011). Giáo trình Tâm lý học giao tiếp. Hồ Chí Minh: Nxb Đại

học Sư phạm.

96

Huỳnh Văn Sơn. (2012). Tâm lý học đại cương. Thành phố Hồ Chí Minh:

Nxb Đại học Sư phạm.

J. Piaget (1996). Tuyển tập Tâm lý học. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Lê Khánh Vân. (2011). Hứng thú học tập môn giáo dục học đại cương của

sinh viên trường Cao đẳng Cộng Đồng Hậu Giang. Luận văn Thạc sĩ

Tâm lý học. Chuyên nghành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.

Lê Thị Bừng, Nguyễn Thị Huệ, Nguyễn Đức Sơn. (2008). Các thuộc tính tâm

lý điển hình của nhân cách. Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm.

Luật Hôn nhân và gia đình, số 22/2000/QH10 ngày 09 tháng 06 năm 2000.

Lương Duy Thiện. (2013). Chọn nghề cho tương lai. Nxb Dân Trí.

Nguyễn Đức Nhân. (2016). Hứng thú học đọc của học sinh lớp 3 một số

Trường Tiểu học tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ Tâm

lý học. Chuyên ngành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm Thành

phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Huy Tú. (1996). Tâm lý học giáo dục, Tài liệu dành cho học viên Cao

học Tâm lý học, Viện Khoa học Giáo dục Hà Nội.

Nguyễn Khắc Viện, Lê Văn Luyện. (1995). Từ điển Tâm lý học. Nxb Trung

tâm nghiên cứu Tâm lý trẻ em.

Nguyễn Phúc Ân. (1994), Một số khía cạnh tâm lý xã hội cần được lưu ý đối

với công tác lãnh đạo và quản lý trong cơ chế thị trường. Nxb Trẻ.

Nguyễn Quang Uẩn. (2011). Tâm lý học đại cương. Hà Nội: Nxb Đại học

Quốc gia.

Nguyễn Tiến Đạt. (2004). Các thuật ngữ “nghề”, “nghề nghiệp”, “chuyên

nghiệp” và “nghề đạo tạo” trong giáo dục. Tạp chí phát triển giáo dục,

4 (64).

Nguyễn Thị Ái. (2011). Hứng thú học tập môn giáo dục công dân của học

sinh ở một số trường THPT tại TP. Hồ Chí Minh.Luận văn Tâm lý

97

học. chuyên nghành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố

Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Bích Thủy. (2010). Hứng thú học tập của sinh viên năm nhất

trường Đại học Văn Hiến Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn Thạc sĩ

Tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Mai. (2015). Hứng thú học môn Tiếng Anh của sinh viên không

chuyên Anh TP. Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ tâm lý học. Chuyên

ngành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí

Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Thanh Mai. (2015). Hứng thú học tập môn giáo dục công dân

của học sinh một số trường Trung Học Cơ Sở thị xã LAGI tỉnh Bình

Thuận. Luận văn thạc sĩ tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học.

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ

Chí Minh.

Nguyễn Thị Thu Cúc. (2008). Nghiên cứu đặc điểm hứng thú học môn toán

của học sinh tiểu học và biện pháp tâm lý sư phạm nâng cao hứng thú

học môn toán ở các em. Luận án Tiến sĩ Tâm lý học. Chuyên ngành

Tâm lý học. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Hà Nội.

Nguyễn Thị Trường Hân. (2010). Xu hướng nghề của học sinh và công tác tư

vấn hướng nghiệp ở các trường THPT quận 12 thành phố Hồ Chí

Minh. Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học.

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí

Minh.

Nguyễn Thị Xuân Phương. (2015). Tính tích cực giao tiếp của học sinh cuối

tuổi tiểu học trong mối quan hệ với cha mẹ tại TP. Hồ Chí Minh. Luận

văn thạc sĩ Tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học. Trường Đại học

Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.

98

Nguyễn Văn Đồng. (2006). Một số đặc điểm giao tiếp ngoài giảng đường của

sinh viên. Luận án Tiến sĩ Tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học.

Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Hà Nội.

Nguyễn Văn Hộ. (2000). Thích ứng sư phạm. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Nguyễn Văn Lũy, Lê Quang Sơn. (2009), Từ điển Tâm lý học. Nxb Giáo dục.

Phạm Minh Hạc, Đặng Xuân Hòa, Trần trọng Thủy. (2002). Hoạt động – giao

tiếp và chất lượng giáo dục. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia.

Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy. (1988). Tâm lí học. Hà Nội:

Nxb Giáo dục tập 1.

Phạm Nguyễn Lan Phương. (2012). Quan hệ cha mẹ với con cái tuổi thiếu

niên Thị xã Dĩ An, Tỉnh Bình Dương. Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học.

Chuyên ngành Tâm lý học . Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM.

Thành phố Hồ Chí Minh.

Phạm Văn Dinh, Phạm Thị Kim Ngân. (2014). Giáo trình tâm lý học đại

cương. Hà Nội : Nxb Hồng Đức – Hội luật Gia Việt Nam.

Quang Ngọc. (2008). Bí quyết chọn nghề theo năng lực. Nxb Thanh niên.

Trần Đình Chiến. (2008). Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp

12 trường trung học phổ thông dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị

trường. Luận văn Thạc sĩ Giáo dục. Chuyên nghành Giáo dục học.

Trường đại học Sư phạm Thái Nguyên. Thái Nguyên.

Trần Phi Hùng. (2014). Hứng thú nghề nghiệp của học sinh ở một số trường

trung học phổ thông tại huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Luận văn Thạc

sĩ Tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm

Tp.HCM. Thành phố Hồ Chí Minh.

Trần Thị Thanh Trà. (2016). Tâm lý học Đại Cương. TP.HCM: Nxb Đại Học

Quốc gia.

99

Trương Thị Thu Thủy, Trần Thị Thanh Loan. (2012). Cách ứng xử của trẻ vị

thành niên đối với cha mẹ trong quá tình giao tiếp: phân tích từ một

khảo sát thực địa. Viện nghên cứu gia đình và giới.

Vũ Dũng. (2008). Từ điểm Tâm lý học. Hà Nội: Nxb Từ điển Bách Khoa.

Vũ Dũng. (chủ biên), (2000). Từ điển tâm ý học, Nxb KHXH HN.

Vũ Thị Nho. (2008). Tâm lý học phát triển. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia.

PL1

PHỤ LỤC 01

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

(Dành cho học sinh)

Nhằm tìm hiểu về hoạt động giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12,

rất mong các em trả lời những câu hỏi dưới đây. Thông tin thu thập được

chúng tôi chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu của đề tài.

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các em!

 Đánh dấu () vào đáp án phù hợp nhất với em.

THÔNG TIN CÁ NHÂN

1. Trường đang theo học:

□ THPT Thạnh Tây □ THPT Thạnh Đông □ THPT Tân Hiệp

2. Giới tính:

□ Nam □ Nữ

3. Trình độ học vấn của Cha:

□ Dưới 12/12 □ 12/12 □ Trên 12/12

4. Trình độ học vấn của Mẹ:

□ Dưới 12/12 □ 12/12 □ Trên 12/12

NỘI DUNG BẢNG HỎI

Câu 1. Theo em, việc trao đổi ý kiến với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp có quan trọng không?

□ Rất quan trọng

□ Quan trọng

□ Không quan trọng

Lý do:………………………………………………………………………....

…………………………………………………………………………….......

PL2

Câu 2. Em có nhu cầu trao đổi ý kiến với cha mẹ trong việc định hướng

nghề nghiệp không?

□ Có

□ Không

□ Không quan tâm

Câu 3. Theo em, việc trao đổi ý kiến với cha mẹ có giúp được gì cho em

trong việc định hướng nghề nghiệp của bản thân.

(Vui lòng đánh dấu  vào cột tương ứng với từng câu hỏi)

Mức độ

STT

Đúng

Những điều thu nhận được từ việc trao đổi với cha mẹ

Rất đúng

Phân vân

Không đúng

Hoàn toàn không đúng

1 Cung cấp rất nhiều thông tin về nghề nghiệp.

2 Khiến em gặp khó khăn hơn trong việc lựa chọn nghề nghiệp.

3 Không hỗ trợ được gì cho em trong việc định hướng nghề nghiệp.

4 Giúp em biết được tỷ lệ chọi của nghề ở các trường khác nhau.

5

Được cha mẹ tạo cơ hội cho em tham gia nhiều chương trình hướng nghiệp, tư vấn nghề.

6

Giúp em nhận ra sở trường của bản thân, từ đó em nhận ra nhiều nghề có thể lựa chọn.

7

Được cha mẹ giới thiệu thêm nhiều trường khác nhau có đào tạo nghề mà em đã lựa chọn.

PL3

Mức độ

STT

Đúng

Những điều thu nhận được từ việc trao đổi với cha mẹ

Rất đúng

Phân vân

Không đúng

Hoàn toàn không đúng

8

Giúp em nhận ra cơ hội việc làm trong tương lai của nhiều nghề khác nhau.

9

Giúp em biết thêm nhiều loại hình đào tạo như đào tạo từ xa, chính quy, tại chức…

10

Giúp em đánh giá được tính cách của em có phù hợp với yêu cầu nghề nghiệp mà em đã lựa chọn hay không.

11 Giúp em lựa chọn được loại hình đào tạo phù hợp.

12 Giúp em chọn trường học phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình. ?

13 Giúp em biết thêm nhiều lĩnh vực nghề nghiệp.

14

Giúp em ý thức được rằng, không nên dựa hoàn toàn vào ý kiến của bạn bè khi chọn nghề.

15 Định hướng cho em tự quyết định nghề trong tương lai.

PL4

Câu 4. Trong quá trình nói chuyện với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp em thường cảm thấy thế nào?

Mức độ

S

Thái độ của em khi trao đổi với cha mẹ

Đồng ý

Phân vân

Không đồng ý

T T

Hoàn toàn đồng ý

1 Chăm chú lắng nghe ý kiến của cha mẹ

Hoàn toàn không đồng ý

2 Cảm thấy nhàm chán

3 Thích nghe ý kiến của bạn bè hơn là ý kiến cha mẹ

4 Không hài lòng với những quan điểm của cha mẹ

5 Cảm thấy được tôn trọng khi trao đổi ý kiến với cha mẹ về việc chọn nghề.

6

7

8 Khi được cha mẹ hỏi về việc chọn nghề, em thường trả lời miễn cưỡng. Không thể chấp nhận những điều cha mẹ nói Thích xin ý kiến chuyên gia hơn là ý kiến cha mẹ

9

10

11

12 Lảng tránh trò chuyện với cha mẹ về việc hướng nghiệp Luôn mong đợi được chia sẻ những thông tin về vấn đề nghề nghiệp với cha mẹ Cảm thấy hào hứng khi trao đổi với cha mẹ về thông tin liên quan đến nghề nghiệp. Không quan tâm đến những ý kiến của cha mẹ

13 Sẵn sàng nói lên suy nghĩ ý kiến cho cha mẹ hiểu hơn về em

PL5

Câu 5. Trong quá trình nói chuyện với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp, em trao đổi các thông tin sau ở mức độ nào ?

Mức độ

S

Rất

T

Hành vi trao đổi với cha mẹ

Thường

Thỉnh

Không

thường

ít khi

xuyên

thoảng

bao giờ

T

xuyên

Chủ động hỏi cha mẹ nghề mà em

1 lựa chọn có đặc điểm công việc

như thế nào

Cùng cha mẹ tích cực tìm kiếm loại 2 hình đào tạo nghề nghiệp phù hợp

Chia sẻ với cha mẹ về quan điểm 3 nghề nghiệp của bản thân

Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về

4 điều kiện kinh tế gia đình khi

chọntrường theo học

Tìm hiểu kỹ hơn các thông tin mà 5 cha mẹ gợi ý

Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về sự

6 phù hợp giữa năng lực của bản thân

và ngành nghề em lựa chọn

Phản đối gay gắt những ý kiến của 7 cha mẹ

Tham gia các hoạt động hướng

nghiệp để có nhiều thông tin trò 8 chuyện với cha mẹ

PL6

Mức độ

S

Rất

T

Hành vi trao đổi với cha mẹ

Thường

Thỉnh

Không

thường

ít khi

xuyên

thoảng

bao giờ

T

xuyên

Chủ động tìm hiểu các thông tin về

9 trường đào tạo để trao đổi với cha

mẹ

Cố gắng thuyết phục cha mẹ đồng

10 ý với quyết định nghề nghiệp của

bản thân

Chia sẻ ngay với cha mẹ khi vừa

nhận được một thông tin mới liên 11 quan đến trường đào tạo, hoặc nghề

mà em đã chọn

Cùng cha mẹ gặp gỡ chuyên gia 12 tư vấn hướng nghiệp

Chủ động dành thời gian trò

13 chuyện với cha mẹ về việc chọn

nghề

Chia sẻ cho cha mẹ nghe chuyện 14 chọn nghề của bạn bè

Chủ động tham gia các trắc

15 nghiệm tính cách để có thêm dẫn

chứng trò chuyện cùng cha mẹ

PL7

Câu 6. Một số yếu tố dưới đây ảnh hưởng đến việc trao đổi giữa em và

cha mẹ về định hướng nghề nghiệp. Em hãy chọn mức độ ảnh hưởng mà em

cho là phù hợp nhất.

Không Rất Các yếu tố ảnh Ít ảnh Bình Ảnh TTT ảnh ảnh hưởng hưởng thường hưởng hưởng hưởng

Yếu tố từ phía cha mẹ

Sự quan tâm của cha mẹ 1 dành cho con.

Sự kỳ vọng của cha mẹ 2 về tương lai của con.

Thói quen chia sẻ, trò

3 chuyện của cha mẹ và

con.

Thời gian cha mẹ dành để 4 trò chuyện cùng con.

Thái độ của cha mẹ đối

5 với con trong lúc trò

chuyện

Kiến thức của cha mẹ về

các vấn đề liên quan đến 6 sự định hướng nghề

nghiệp

Yếu tố từ phía con

Mong muốn tìm hiểu kiến

7 thức liên quan đến việc

định hướng nghề

PL8

Luôn tôn trọng ý kiến của 8 cha mẹ

Sự tin tưởng của con đối 9 với cha mẹ

Quan tâm đến hoàn cảnh 10 gia đình

Nhận thức được tầm quan 11 trọng của việc chọn nghề

Cá tính mạnh mẽ hay yếu 12 đuối của bản thân

Xin chân thành cảm ơn các em!

PL9

PHỤ LỤC 2

CÂU HỎI PHỎNG VẤN HỌC SINH

Nhằm tìm hiểu hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp của học sinh lớp 12 tại huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang cũng

như hổ trợ thêm kết quả nghiên cứu, tác giả đã tiến hành phỏng vấn một

số sinh viên.

Câu 1: Theo bạn việc trao đổi với cha mẹ có vai trò như thế nào

trong định hướng nghề nghiệp cho bản thân?

Câu 2: Bạn cảm thấy như thế nào khi trao đổi định hướng nghề

nghiệp cho bản thân?

Câu 3: Theo bạn hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp thể hiện như thế nào?

Câu 4: Theo bạn những yếu tố nào sẽ ảnh hưởng đến hứng thú giao

tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.

Câu 5: Bạn thường trò chuyện với cha hay mẹ nhiều hơn và thường

trò chuyện vì những điều gì về định hướng nghề nghiệp của bản thân?

PL10

PHỤ LỤC 3

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN

Câu 1: Theo bạn việc trao đổi với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp có tầm quan trọng như thế nào? Vì sao?

.............................................................................................................

.....................................................................................................................

Câu 2: Bạn cảm thấy như thế nào khi trò chuyện, trao đổi với cha

mẹ về định hướng nghề nghiệp của bản thân?

.............................................................................................................

.....................................................................................................................

Câu 3: Theo bạn biểu hiện của hứng thú giao tiếp với cha mẹ về

định hướng nghề nghiệp là nhứ thế nào?

.............................................................................................................

.....................................................................................................................

Câu 4: Theo bạn những yếu tố nào sẽ ảnh hưởng đến hứng thú giao

tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp?

.............................................................................................................

.....................................................................................................................

Câu 5: Trong thời gian sắp tới bạn cần những thông tin gì để có thể

chọn được nghề phù hợp với bản thân?

...........................................................................................................

.....................................................................................................................

PL11

PHỤ LỤC 4

Một số bảng thống kê

Descriptive

C1 Theo em, việc trao đổi ý kiến với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp có quan trọng không

Frequency

Percent

Valid Percent Cumulative

Percent

0 Không quan trọng

2.1

5

2.0

2.1

1 Quan trọng

51.9

119

46.5

49.8

Valid

2 Rất quan trọng

100.0

115

44.9

48.1

Total

239

93.4

100.0

Missing

System

17

6.6

Total

256

100.0

C2 Em có nhu cầu trao đổi ý kiến với cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp không?

Frequency

Percent

Valid Percent Cumulative

Percent

0 Không quan tâm

3

1.2

1.3

1.3

1 Không

18

7.0

7.5

8.8

Valid

2 Có

218

85.2

91.2

100.0

Total

239

93.4

100.0

Missing

System

17

6.6

Total

256

100.0

C3: nhận thức về ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12

Descriptive Statistics

N Minimu

Maxim

Mean

Std.

m

um

Deviation

C3.1 Cung cấp rất nhiều thông tin về nghề nghiệp. 239

1

5

3.76

.860

C3.2 Khiến em gặp khó khăn hơn trong việc lựa

1

239

5

3.56

.857

chọn nghề nghiệp

C3.3 Không hỗ trợ được gì cho em trong việc định

1

239

5

3.95

.831

hướng nghề nghiệp

C3.4 Giúp em biết được tỷ lệ chọi của nghề ở các

239

1

3.22

.989

5

trường khác nhau.

C3.5 Được cha mẹ tạo cơ hội cho em tham gia

239

1

3.55

1.047

5

nhiều chương trình hướng nghiệp, tư vấn nghề

C3.6 Giúp em nhận ra sở trường của bản thân, từ

239

1

3.77

.921

5

đó em nhận ra nhiều nghề có thể lựa chọn.

C3.7 Được cha mẹ giới thiệu thêm nhiều trường

239

1

3.38

1.026

5

khác nhau có đào tạo nghề mà em đã lựa chọn.

C3.8 Giúp em nhận ra cơ hội việc làm trong

239

1

3.77

.772

5

tương lai của nhiều nghề khác nhau.

C3.9 Giúp em biết thêm nhiều loại hình đào tạo

239

1

3.37

.920

5

như đào tạo từ xa, chính quy, tại chức…

C3.10 Giúp em đánh giá được tính cách của em

có phù hợp với yêu cầu nghề nghiệp mà em đã lựa

239

1

3.80

.846

5

chọn hay không.

C3.11 Giúp em lựa chọn được loại hình đào tạo

239

1

3.64

.808

5

phù hợp.

C3.12 Giúp em chọn trường học phù hợp với điều

239

2

4.06

.719

5

kiện kinh tế gia đình.

C3.13 Giúp em biết thêm nhiều lĩnh vực nghề

239

1

3.58

.870

5

nghiệp

C3.14 Giúp em ý thức được rằng, không nên dựa

239

1

3.91

.942

5

hoàn toàn vào ý kiến của bạn bè khi chọn nghề

C3.15 Định hướng cho em tự quyết định nghề

239

1

4.13

.815

5

trong tương lai

2

Valid N (listwise)

39

PL12

C4: Thái độ của học sinh lớp 12 với hoạt động giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề

nghiệp

Descriptive Statistics

N Minimum Maximum Mean

Std. Deviation

C4.1 Chăm chú lắng nghe ý kiến của

239

1

5

4.00

.664

cha mẹ

C4.2 Cảm thấy nhàm chán

239

1

5

3.92

.831

C4.3 Thích nghe ý kiến của bạn bè hơn

239

1

5

3.80

.831

là ý kiến cha mẹ

C4.4 Không hài lòng với những quan

239

1

5

3.68

.889

điểm của cha mẹ

C4.5 Cảm thấy được tôn trọng khi trao

239

1

5

4.00

.770

đổi ý kiến với cha mẹ về việc chọn nghề.

C4.6 Khi được cha mẹ hỏi về việc chọn

239

1

5

3.76

.873

nghề, em thường trả lời miễn cưỡng

C4.7 Không thể chấp nhận những điều

239

1

5

4.02

.830

cha mẹ nói

C4.8 Thích xin ý kiến chuyên gia hơn là

239

1

5

3.35

.944

ý kiến cha mẹ

C4.9 Lảng tránh trò chuyện với cha mẹ

239

1

5

3.90

.824

về việc hướng nghiệp

C4.10 Luôn mong đợi được chia sẻ

1

5

những thông tin về vấn đề nghề nghiệp

239

3.79

.819

với cha mẹ

C4.11 Cảm thấy hào hứng khi trao đổi

1

5

với cha mẹ về thông tin liên quan đến

239

3.63

.835

nghề nghiệp.

C4.12 Không quan tâm đến những ý

239

1

5

4.18

.724

kiến của cha mẹ

C4.13 Sẵn sàng nói lên suy nghĩ ý kiến

239

1

5

4.12

.817

cho cha mẹ hiểu hơn về em

Valid N (listwise)

239

PL13

C5: Hành vi giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12

Descriptive Statistics

N Minimu

Maxim

Mean Std.

m

um

Deviation

C5.1 Chủ động hỏi cha mẹ nghề mà em lựa chọn có

239

1

5

3.16

.980

đặc điểm công việc như thế nào

C5.2 Cùng cha mẹ tích cực tìm kiếm loại hình đào

239

1

5

3.05

1.086

tạo nghề nghiệp phù hợp

C5.3 Chia sẻ với cha mẹ về quan điểm nghề nghiệp

239

1

5

3.47

.916

của bản thân

C5.4 Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về điều kiện kinh

239

1

5

3.54

1.036

tế gia đình khi chọn trường theo học

C5.5 Tìm hiểu kỹ hơn các thông tin mà cha mẹ gợi ý

239

3.31

.972

1

5

C5.6 Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về sự phù hợp giữa

239

1

5

3.28

1.041

năng lực của bản thân và ngành nghề em lựa chọn

C5.7 Phản đối gay gắt những ý kiến của cha mẹ

239

1

5

4.21

1.004

C5.8 Tham gia các hoạt động hướng nghiệp để có

239

1

5

3.00

1.023

nhiều thông tin trò chuyện với cha mẹ

C5.9 Chủ động tìm hiểu các thông tin về trường đào

239

1

5

3.38

.948

tạo để trao đổi với cha mẹ

C5.10 Cố gắng thuyết phục cha mẹ đồng ý với quyết

5

239

1

3.21

1.031

định nghề nghiệp của bản thân

C5.11 Chia sẻ ngay với cha mẹ khi vừa nhận được

một thông tin mới liên quan đến trường đào tạo, hoặc

239

1

5

3.40

.925

nghề mà em đã chọn

C5.12 Cùng cha mẹ gặp gỡ chuyên gia tư vấn hướng

239

1

5

2.02

1.109

nghiệp

C5.13 Chủ động dành thời gian trò chuyện với cha

239

1

5

3.15

.997

mẹ về việc chọn nghề

C5.14 Chia sẻ cho cha mẹ nghe chuyện chọn nghề

239

1

5

3.03

1.117

của bạn bè

C5.15 Chủ động tham gia các trắc nghiệm tính cách

239

1

5

2.58

1.230

để có thêm dẫn chứng trò chuyện cùng cha mẹ

Valid N (listwise)

239

C6: Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của

học sinh lớp 12

PL14

Descriptive Statistics

N Mini

Maxim

Mean Std.

mum

um

Deviation

C6.1 Sự quan tâm của cha mẹ dành cho con

3.28

1.270

239

1

5

C6.2 Sự kỳ vọng của cha mẹ về tương lai của con.

3.54

1.133

239

1

5

C6.3 Thói quen chia sẻ, trò chuyện của cha mẹ và

33

3.18

2.204

239

1

con.

C6.4 Thời gian cha mẹ dành để trò chuyện cùng con.

239

3.07

1.083

1

5

C6.5 Thái độ của cha mẹ đối với con trong lúc trò

239

1

5

3.44

1.051

chuyện

C6.6 Kiến thức của cha mẹ về các vấn đề liên quan

239

1

5

3.26

1.087

đến sự định hướng nghề nghiệp

C6.7 Mong muốn tìm hiểu kiến thức liên quan đến

239

1

5

3.31

1.190

việc định hướng nghề

239

1

5

3.35

1.065

C6.8 Luôn tôn trọng ý kiến của cha mẹ

239

1

5

3.27

1.140

C6.9 Sự tin tưởng của con đối với cha mẹ

239

1

5

3.66

1.088

C6.10 Quan tâm đến hoàn cảnh gia đình

C6.11 Nhận thức được tầm quan trọng của việc chọn

238

1

5

3.80

.985

nghề

239

1

5

3.50

1.107

C6.12 Cá tính mạnh mẽ hay yếu đuối của bản thân

238

Valid N (listwise)

PL15

Những nguyên nhân học sinh đánh giá tầm quan trọng của việc giao tiếp với cha mẹ về định

hướng nghề nghiệp

$lydo Frequencies

Responses Percent of

Cases

Percent

N

1 Định hướng nghề nghiệp

17.5%

21.9%

21

2 Cha mẹ hiểu được ước mơ, nguyện vọng

4.2%

5.2%

5

3 Quyết định tương lai

15.8%

19.8%

19

$lydo lý doa

4 Tự lựa chọn nghề phù hợp với bản thân

4.2%

5.2%

5

5 Cha mẹ là người có kinh nghiệm

20.0%

25.0%

24

6 Phù hợp với hoàn cảnh gia đình

10.0%

12.5%

12

7 Cha mẹ mong muốn con chọn nghề phù hợp

2.5%

3.1%

3

8 Tin tưởng ý kiến của cha mẹ

4

3.3%

4.2%

9 Cha mẹ giúp con có tự tin lựa chọn nghề nghiệp

1

0.8%

1.0%

10 Chọn nghề phù hợp với bản thân

16

13.3%

16.7%

1

0.8%

1.0%

11 Chọn nghề phù hợp với sở thích

4

3.3%

4.2%

12 Có được sự ủng hộ của cha mẹ

3

2.5%

3.1%

13 Hiểu được mong muốn của bản thân

2

1.7%

2.1%

14 Có thêm nhiều sự chọn về nghề nghiệp

Total

120

100.0%

125.0%

PL16

MDnhanthuc Mức độ nhận thức

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative

Percent

1 NT_thap

4

1.7

1.3

1.3

2 NT_trungbinh

75

31.4

31.8

33.1

Valid

3 NT_Cao

160

66.9

66.9

100.0

Total

100.0

100.0

239

MDThaido Mức độ Thái độ

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative

Percent

1 Thaido_Thap

1

0,4

2.5

2.5

2 Thaido_trungbinh

60

25,1

78.7

81.2

Valid

3 Thaido_Cao

178

74,5

18.8

100.0

Total

239

100.0

100.0

MD_Hanhvi Mức độ hành vi

Frequenc

Percent

Valid

Cumulative

y

Percent

Percent

1 Hanhvi_thap

25

10,5

8.8

8.8

2 Hanhvi_trungbinh

142

59,4

61.1

69.9

Valid

3 Hanhvi_cao

72

30.1

30.1

100.0

Total

239

100.0

100.0

PL17

Tương quan giữa mức độ hứng thú, mức độ thái độ và mức độ hành vi

Correlations

MD_hungthu

MDNT

MDTD

MDHV

Mức độ hứng

MUCDONHA

MUCDOTHAI

MUCDOH

thú

NTHUC

DO

ANHVI

Pearson

1

.460**

.420**

.943**

Correlation

MD_hungthu Mức độ

.000

.000

.000

hứng thú

Sig. (2-tailed)

239

239

239

N

239

Pearson

1

.522**

.438**

.460**

MDNT

Correlation

MUCDONHANTHU

.000

.000

Sig. (2-tailed)

.000

C

239

239

239

N

239

Pearson

.420**

.522**

1

.311**

Correlation

MDTD

.000

.000

MUCDOTHAIDO

Sig. (2-tailed)

.000

239

239

239

N

239

Pearson

1

.943**

.438**

.311**

Correlation

MDHV

.000

.000

.000

MUCDOHANHVI

Sig. (2-tailed)

239

239

239

N

239

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).