BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thu Lành
HỨNG THÚ GIAO TIẾP VỚI CHA MẸ CỦA
HỌC SINH LỚP 12 TẠI HUYỆN TÂN HIỆP
TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thu Lành
HỨNG THÚ GIAO TIẾP VỚI CHA MẸ CỦA
HỌC SINH LỚP 12 TẠI HUYỆN TÂN HIỆP
TỈNH KIÊN GIANG
Chuyên ngành : Tâm lí học
Mã số
: 8310401
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRƯƠNG CÔNG THANH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp
12 tại Huyện Tân Hiệp, Tỉnh Kiên Giang” là công trình khoa học do tôi thực
hiện. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự khiếu nại, tố cáo về bản
quyền tác giả.
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 8 năm 2018
Tác giả
Nguyễn Thu Lành
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn “Hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh
lớp 12 tại huyện Tân Hiệp tỉnh Kiên Giang” tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành đến:
Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; Các
Phòng ban Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; và quý thầy cô
của Khoa Tâm lý Giáo dục đã giảng dạy trong khóa học.
Tôi cũng xin tri ân sâu sắc TS. Trương Công Thanh – người thầy
đã tận tâm hướng dẫn, đốc thúc và ủng hộ, khích lệ tinh thần tôi trong
suốt thời gian thực hiện đề tài. Nếu không có sự giúp đỡ nhiệt tình và
những lời động viên đúng lúc của thầy, tôi sẽ không thể hoàn thành
được luận văn này. Tôi xin gửi đến Thầy lòng biết ơn sâu sắc và những
lời chúc tốt đẹp nhất.
Tôi cũng xin cảm ơn quý Thầy (cô) và các em học sinh trường
trung học phổ thông Tân Hiệp, Thạnh Đông và Thạnh Tây đã tạo điều
kiện, hỗ trợ và nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn gia đình, các anh chị và các bạn đã
động viên, giúp đỡ, chia sẻ trong quá trình tôi thực hiện đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Thu Lành
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Lời cảm ơn
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỨNG THÚ GIAO TIẾP
VỚI CHA MẸ CỦA HỌC SINH LỚP 12 ................................. 7
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề..................................................................... 7
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài .................................................................... 7
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam ..................................................................... 10
1.2. Một số khái niệm cơ bản .......................................................................... 13
1.2.1. Hứng thú ............................................................................................ 13
1.2.2. Giao tiếp ............................................................................................ 26
1.2.3. Hứng thú giao tiếp, hứng thú giao tiếp về định hướng
nghề nghiệp ....................................................................................... 32
Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 45
Chương 2. THỰC TRẠNG HỨNG THÚ GIAO TIẾP VỚI CHA
MẸ CỦA HỌC SINH LỚP 12 TẠI HUYỆN TÂN HIỆP,
TỈNH KIÊN GIANG ................................................................. 46
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu và thể thức nghiên cứu ........................ 46
2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ............................................................ 46
2.1.2. Thể thức nghiên cứu .......................................................................... 47
2.2. Thực trạng hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 tại
huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang ........................................................... 54
2.2.1. Nhận thức về giao tiếp với cha mẹ .................................................... 54
2.2.2. Những biểu hiện về xúc cảm đối với việc giao tiếp với cha mẹ ....... 64
2.2.3. Hành vi giao tiếp với cha mẹ ............................................................. 69
2.2.4. Hứng thú giao tiếp với cha mẹ .......................................................... 75
2.2.5. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trường, theo
giới tính và theo trình độ học vấn của cha mẹ .................................. 79
2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của
học sinh lớp 12 .................................................................................. 84
2.2.7. Đề xuất biện pháp nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ về
định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 ................................... 88
Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 91
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 95
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐTB : Điểm trung bình
ĐLC : Độ lệch chuẩn
HS : Học sinh
THPT : Trung học phổ thông
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Phân loại năm nhóm nghề cơ bản ............................................... 33
Bảng 2.1. Mẫu nghiên cứu học sinh ............................................................ 48
Bảng 2.2. Cách chia biên giới liên tục của ĐTB mặt nhận thức – ĐTB
xúc cảm và ĐTB hành vi ............................................................. 51
Bảng 2.3. Quy đổi sang điểm trung bình ..................................................... 51
Bảng 2.4. Cách quy đổi điểm trung bình sang các mức độ ......................... 52
Bảng 2.5. Quy tắc xác định mức độ hứng thú ............................................. 52
Bảng 2.6. Nhận thức về tầm quan trọng của việc giao tiếp với cha mẹ ...... 54
Bảng 2.7. Lý do học sinh lựa chọn mức độ quan trọng của hứng thú
giao tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp ........... 55
Bảng 2.8. Nhận thức về nhu cầu giao tiếp với cha mẹ về định hướng
nghề nghiệp của học sinh lớp 12: ................................................ 57
Bảng 2.9. Nhận thức về ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với cha mẹ
trong việc định hướng nghề nghiệp của học sinh ....................... 58
Bảng 2.10. Mức độ nhận thức của học sinh về ý nghĩa của hoạt động
giao tiếp với cha mẹ .................................................................... 63
Bảng 2.11. Những biểu hiện xúc cảm đối với việc giao tiếp với cha mẹ ...... 64
Bảng 2.12. Mức độ biểu hiện xúc cảm của học sinh đối với hoạt động
giao tiếp với cha mẹ .................................................................... 69
Bảng 2.13. Hành vi giao tiếp với cha mẹ ...................................................... 70
Bảng 2.14. Mức độ hành động giao tiếp với cha mẹ của học sinh ................ 74
Bảng 2.15. Mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ ....................................... 75
Bảng 2.16. Tương quan giữa ba biểu hiện nhận thức, xúc cảm và hành
vi theo điểm trung bình ............................................................... 76
Bảng 2.17. Tương quan giữa mức độ hứng thú với mức độ nhận thức,
mức độ xúc cảm và mức độ hành vi............................................ 78
Bảng 2.18. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo giới tính ................. 79
Bảng 2.19. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trường .................... 81
Bảng 2.20. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn
của cha ......................................................................................... 82
Bảng 2.21. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn
của mẹ .......................................................................................... 83
Bảng 2.22. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ
của học sinh lớp 12 ...................................................................... 84
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tâm lý học, hứng thú là một vấn đề hấp dẫn và cũng rất phức tạp,
như L.X Vygotsky đã khẳng định “Đối với việc nghiên cứu hầu như không có
vấn đề nào rắc rối hơn vấn đề tìm hiểu hứng thú thực sự của một con người”
(Nguyễn Thị Thu Cúc, 2008). Hứng thú có những tác động mạnh mẽ đến rất
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như cá nhân. Hứng thú là động lực
thúc đẩy sự phát triển của cá nhân, từ đó góp phần phát triển xã hội. Vì thế,
vấn đề hứng thú được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trên rất
nhiều mặt của tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội, gắn liền với đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội của mỗi con người.
“Hứng thú là một thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó
vừa có ý nghĩa trong đời sống vừa có khả năng mang lại sự khoái cảm cho cá
nhân trong hoạt động” (Lê Thị Bừng và Nguyễn Đức Sơn, 2008). Như vậy để
có hứng thú với một đối tượng nào đó, con người cần nhận thức rõ đối tượng
đó có ý nghĩa hay không đối với đời sống của bản thân, cũng như có nảy sinh
một tình cảm, xúc cảm đặc biệt với nó. Từ đây, hứng thú sẽ thúc đẩy hoạt
động nhận thức con người ngày càng tích cực hơn, nâng cao năng lực trí tuệ
của con người với đối tượng hứng thú, làm nảy sinh khát vọng tìm tòi, đi sâu
nghiên cứu, tìm hiểu đối tượng. Như vậy hứng thú có một tác động mạnh mẽ
đến hoạt động của con người nói chung và hoạt động nhận thức nói riêng.
Học sinh lớp 12 là những học sinh ở độ tuổi đầu thanh niên. Ở tuổi này,
các em đứng trước những đòi hỏi của xã hội về các vấn đề lựa chọn nghề
nghiệp, ngành học. Các em còn bị chi phối bởi yếu tố tâm – sinh lý, bước
ngoặt của sự trưởng thành, của tinh thần trách nhiệm. Lúc này cha mẹ đóng
vai trò to lớn trong việc giáo dục và định hướng cho con nhận thức về cái tôi
của chính mình cũng như xây dựng một hệ thống nhân sinh quan, thế giới
quan mạnh mẽ để đối đầu với mọi khó khăn và phức tạp của cuộc sống.
2
Thế nhưng, bức tranh xã hội hiện nay phản ánh tình trạng “lỏng lẻo” của
sợi dây liên kết gia đình. Cha mẹ và con cái không có tiếng nói chung. Các
em học sinh 12 hoang mang và ngơ ngác trước cánh cửa vào đời. Đặc biệt
trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp. Các em tham gia rất nhiều hội thảo,
chương trình hướng nghiệp, điều các em băn khoăn không chỉ là sở thích và
năng lực cá nhân mà là làm sao dung hòa được sở thích và quan điểm của bố
mẹ với tương lai của chính mình. Dường như, cha mẹ và con cái đang dần trở
nên xa cách nhau. Nhiều phương tiện thông tin đại chúng đặt câu hỏi lớn
rằng: con cái có thật sự hứng thú khi giao tiếp với cha mẹ không? Điều gì chi
phối, ngăn cách các em trò chuyện và chia sẻ với cha mẹ về những khó khăn
của bản thân.
Trong khi, các em đang bước vào thời điểm giao thời với bản sắc cái tôi
tương đối tự do, muốn khẳng định và thể hiện sự độc lập của bản thân. Xã hội
trong giai đoạn mở cửa, giao lưu văn hóa, đa dạng về ngành nghề đã mở ra
nhiều cơ hội cho thanh niên đi kèm với đó là rất nhiều thách thức. Nếu không
có sự định hướng, ủng hộ và giúp đỡ của cha mẹ, các em có thể đưa ra những
quyết định sai lầm cho tương lai của chính mình.
Để các bậc cha mẹ có thể hoàn thành tốt vai trò của mình, thì việc khơi
gợi sự hứng thú trong giao tiếp của cha mẹ với học sinh lớp 12 là vô cùng
quan trọng, từ đó xây dựng được một sự liên kết gia đình vững mạnh với đầy
đủ sự sẻ chia và thấu hiểu, để gia đình thật sự là một tổ ấm, là bến cảng neo
đậu an toàn cho các em, giúp các em xác định hướng đi tiếp sau khi học xong
lớp 12, chuẩn bị tâm lý sẵn sàng để đối đầu với những sự kiện sẽ xảy ra trong
tương lai, sẵn sàng đưa ra quyết định trọng đại của đời mình là chọn nghề gì,
trường nào, ở đâu, để các em có thể phát huy hết tiềm năng và đam mê, lý
tưởng của tuổi trẻ, cũng như để các em có đủ điều kiện phát triển hoàn thiện
nhân cách.
3
Có nhiều công trình nghiên cứu về hứng thú như: “Hứng thú học tập
môn giáo dục học đại cương của sinh viên trường cao đẳng Cộng đồng Hậu
Giang”, “Hứng thú nghề nghiệp của học sinh một số trường trung học phổ
thông tại huyện Bến Lức Tỉnh Long An”, “ Hứng thú học đọc của học sinh
lớp 3 một số trường tiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh”, “Hứng thú môn học
kỹ năng giao tiếp của sinh viên trường Đại học Nha Trang”. Tuy nhiên, hầu
như chưa có nghiên cứu nào về hứng thú trong giao tiếp của học sinh 12. Vậy
hứng thú giao tiếp với cha mẹ có ảnh hưởng như thế nào đến những lựa chọn
trong tương lai của các em học sinh lớp 12, có những yếu tố nào sẽ ảnh hưởng
đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12, hứng thú giao tiếp với
cha mẹ ở hiện tại có thay đổi gì so với giai đoạn trước, làm thế nào để tác
động đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12, đây là những vấn
đề chúng ta cần làm rõ để có thể thiết lập được sợi dây tình cảm thiêng liêng
của học sinh 12 và cha mẹ, để cha mẹ có thể hướng dẫn, định hướng tháo gỡ
những khúc mắc của các em trước ngưỡng cửa tương lai. Cha mẹ trở thành
những người thầy, những người bạn giúp các em tự tin bước vào đời.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài “Hứng thú
giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 tại huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên
Giang”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp của HS lớp 12 tại một số trường THPT thuộc huyện Tân Hiệp, tỉnh
Kiên Giang cũng như tìm hiểu một số yếu tố tác động đến hứng thú giao tiếp
với cha mẹ của HS lớp 12 tại huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hứng thú giao tiếp với cha mẹ.
4
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể chính: học sinh lớp 12
Khách thể phụ trợ: cha mẹ HS
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học
sinh thể hiện trong vấn đề định hướng nghề nghiệp.
4.2. Về khách thể nghiên cứu
239 học sinh lớp 12 năm học 2017 – 2018 tại 3 trường THPT (Tân Hiệp,
Thạnh Tây, Thạnh Đông) thuộc huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
5. Giả thuyết khoa học
Hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của HS lớp 12
ở mức độ trung bình.
Có sự khác biệt trong hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp giữa nam và nữ.
Có sự khác biệt trong hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp giữa HS có cha mẹ có trình độ văn hóa khác nhau.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lý luận về hứng thú, giao tiếp, hứng thú giao tiếp với
cha mẹ của HS trung học phổ thông nói chung và HS lớp 12 nói riêng.
6.2. Nghiên cứu mức độ biểu hiện hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS
lớp 12 huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang đối với việc thoả mãn nhu cầu định
hướng nghề nghiệp trong tương lai của bản thân sau THPT.
6.3. Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha
mẹ về định hướng nghề nghiệp của HS lớp 12 huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên
Giang.
5
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, luận văn sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp nghiên cứu lý luận để xây dựng cơ sở lý luận và phương
pháp nghiên cứu của đề tài. Cung cấp các thông tin, dữ liệu cơ bản về mặt lý
thuyết làm nền tảng vững chắc cho việc tiến hành các điều tra, nghiên cứu
trong thực tiễn.
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận cụ thể như tham khảo, nghiên
cứu, phân tích và tổng hợp tài liệu liên quan đến hứng thú giao tiếp với cha
mẹ của HS lớp 12.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Mục đích: Thu thập thông tin từ HS lớp 12 thể hiện hứng thú giao tiếp
với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.
- Nội dụng: Gồm 2 bảng hỏi
Bảng 1: Người nghiên cứu xây dựng bảng hỏi gồm những câu hỏi mở
để thăm dò ý kiến của HS lớp 12 về hứng thú giao tiếp với cha mẹ. Từ đó đưa
ra một số chỉ báo trong các mặt: nhận thức, xúc cảm, hành vi của HS lớp 12
thể hiện hứng thú giao tiếp với cha mẹ.
Bảng 2: Người nghiên cứu xây dựng bảng hỏi khảo sát để tìm hiểu các
vấn đề liên quan đến hứng thú giao tiếp của HS lớp 12 với cha mẹ về định
hướng nghề nghiệp. Bảng hỏi sẽ xây dựng theo những chỉ báo từ bảng hỏi 1.
- Cách thức thực hiện:
+ Giai đoạn 1: Phát phiếu thăm dò gồm các câu hỏi mở ở bảng 1.
+ Giai đoạn 2: Phát phiếu thăm dò với câu hỏi có nhiều lựa chọn cho HS
tại các buổi học của các lớp 12 để thăm dò ý kiến.
6
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
- Mục đích: Nhằm thu thập thêm thông tin sâu hơn về vấn đề hứng thú
giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 về định hướng nghề nghiệp.
- Nội dung: Người nghiên cứu xây dựng bảng hỏi phỏng vấn gồm những
câu hỏi mở để lấy ý kiến của phụ huynh và HS về vấn đề hứng thú giao tiếp
với cha mẹ của HS lớp 12.
- Cách thực hiện: Phỏng vấn trực tiếp trong những giờ giải lao và các
buổi họp phụ huynh tại trường học.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê toán học với sự hỗ trợ của phần mềm
SPSS for Window 13.0.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỨNG THÚ GIAO TIẾP
VỚI CHA MẸ CỦA HỌC SINH LỚP 12
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Từ thế kỷ XVIII đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu về hứng thú. Trong đó, phải kể đến các nghiên cứu sau:
Herbart (1776-1841) nhà tâm lý học, nhà giáo dục học, nhà triết học,
người Đức đã sáng tạo ra trường phái giáo dục hiện đại ở Đức thế kỷ 19. Ông
đã đưa ra 4 mức độ của dạy học đó là tính sáng tạo, tính liên tưởng, tính thống
nhất phong phú và đặc biệt hứng thú là yếu tố quyết định hiệu quả học tập của
môn học (Nguyễn Thị Thanh Mai, 2015).
Năm 1931, nhà tâm lý học người Mỹ I.K.Strong đã tìm hiểu về “Sự biến
đổi tâm lý theo lứa tuổi” và ông cho rằng sự phát triển của hứng thú thường
gắn liền với sự phát triển lứa tuổi. Điều này dễ hiểu vì muốn hình thành một
hứng thú nào đó, cần phải có mức độ phát triển tâm lý cũng như một mức độ
trí tuệ và kinh nghiệm nhất định (Trần Phi Hùng, 2014).
Năm 1938 Ch.Buher đã nghiên cứu công trình “Phát triển hứng thú ở trẻ
em”. Từ những năm 1940 của thế kỷ XX một số nhà tâm lý học Nga như
S.L.Rubinstein, N.G.Morodov, A.F.Beliep,… Đã có những công trình nghiên
cứu về hứng thú, con đường hình thành hứng thú (Nguyễn Thị Ái, 2011).
Năm 1944, A.F.Believ đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về vấn đề
“Tâm lý học hứng thú” nội dung cơ bản của luận án là những vấn đề về lý
luận tổng quát về hứng thú trong khoa học tâm lý (Bùi Hiền, Nguyễn Văn
Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo, 2005).
Năm 1946, E.Clapade với vấn đề “ Tâm lý trẻ em và thực nghiệm sư
phạm” đã đưa ra khái niệm hứng thú dựa trên bản chất sinh học. Clapade đã
8
nhấn mạnh tầm quan trọng của hứng thú trong hoạt động của con người và
cho rằng quy luật của hứng thú là cái trục duy nhất mà tất cả hệ thống phải
xoay quanh nó (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).
John Dewey (1859-1952) nhà giáo dục học, nhà tâm lý học người Mỹ
năm 1896 sáng lập ra trường thực nghiệm trong đó ưu tiên hứng thú của HS
và nhu cầu của HS trong từng lứa tuổi (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).
Năm 1967, N.G.Marozova nghiên cứu sự khác nhau trong việc hình
thành hứng thú của trẻ em trong sự phát triển bình thường và sự phát triển
không bình thường. Ông đã nghiên cứu vấn đề “Tác dụng của việc giảng dạy
nêu vấn đề đối với hứng thú nhận thức của sinh viên”. Năm 1976 tác giả đã
đưa ra cấu trúc tâm lý của hứng thú đồng thời còn phân tích những điều kiện
và khả năng giáo dục hứng thú trong quá trình học tập và lao động của HS
(Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).
Năm 1972, I.G.Sukina với công trình nghiên cứu vấn đề “Hứng thú trong
khoa học giáo dục” đã đưa ra khái niệm về hứng thú cùng với biểu hiện của
nó. Đồng thời, tác giả còn nêu lên nguồn gốc cơ bản của hứng thú nhận thức
là nội dung tài liệu và hoạt động của người học (Nguyễn Thị Bích Thủy,
2010).
J.Piaget (1896-1996), nhà tâm lý học người Thụy Sĩ đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu về trí tuệ trẻ em và giáo dục. Ông rất chú trọng đến hứng thú
của HS, ông cho rằng “Nhà trường kiểu mới đòi hỏi phải hoạt động thực sự,
phải làm việc một cách chủ động dựa trên nhu cầu và hứng thú cá nhân”. Ông
nhấn mạnh: cũng giống như người lớn trẻ em là một thực thể mà hoạt động
cũng bị chi phối bởi quy luật hứng thú hoặc nhu cầu. Nó sẽ không đem lại
hiệu suất đầy đủ nếu người ta không khiêu gợi những động cơ nội tại của hoạt
động đó. Ông cho rằng mọi việc làm của trí thông minh đều dựa trên hứng
thú, hưng thú chẳng qua chỉ là một trạng thái chức năng của sự đồng hóa
(Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).
9
Nghiên cứu về nhu cầu giao tiếp, A.V. Vedenov cho rằng nhu cầu giao
tiếp chỉ có ở con người, có tính bẩm sinh và di truyền. Cùng quan điểm với
ông, trong tác phẩm “Tâm Lý học tình bạn tuổi trẻ” L.X Côn đã viết: “Con
người là một thực thể xã hội, có nhu cầu giao tiếp và tiếp xúc về tình cảm với
người khác là một nhu cầu bẩm sinh”. Trong đó, bằng các thực nghiệm tâm lý
học mô tả L.X. Cono cũng chứng minh quá trình phát triển nhu cầu giao tiếp
của con người từ 2, 3 tháng tuổi đến lứa tuổi thiếu niên và đặc điểm nhu cầu
giao tiếp của từng độ tuổi (Nguyễn Thị Xuân Phương, 2015).
Ngoài ra, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của nhu cầu giao tiếp
của trẻ em trong mối quan hệ với người lớn, các tác giả V.V. Vetrova, Đ.B.
Godovicop, M.G.Elagila, M.I.Lixima, A.F.Reystay, A.G. Rutxcaia, đã chỉ ra:
Nhu cầu giao tiếp sẽ thay đổi tùy theo nội dung, tính chất của hoạt động
chung giữa trẻ em và người lớn. Trong mỗi giai đoạn phát triển nhu cầu giao
tiếp được thừa nhận như là nhu cầu có được nhờ sự tham gia của người lớn,
sự tham gia này vô cùng cần thiết để trẻ em giải quyết các vấn đề cơ bản, đặc
thù đối với lứa tuổi này (Nguyễn Thị Xuân Phương, 2015).
Như vậy, trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về hứng thú
xuất hiện rất sớm và rất phong phú, chúng ta có thể khái quát theo ba xu
hướng:
Thứ nhất là xu hướng giải thích bản chất tâm lý của hứng thú, người đại
diện cho xu hướng này là A.F.Beliep với luận án “Tâm lý học hứng thú”.
Thứ hai là xu hướng xem xét hứng thú trong mối quan hệ với sự phát
triển nhân cách nói chung và vốn tri thức của cá nhân nói riêng, đại diện là
L.L.Bôgiôvich, Lukin, LêviTốp,…
Thứ ba là xu hướng nghiên cứu sự hình thành và phát triển hứng thú theo
các giai đoạn lứa tuổi, đại diện là G.I.Sukina,…
10
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hứng thú ở các
khía cạnh khác nhau như: Nghiên cứu hứng thú học các môn học, nghiên cứu
hứng thú học nghề phổ thông và nghề nghiệp,…
Năm 1960, các tác giả Minh Đức, Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân trong cuốn
tâm lý học giảng dạy ở Đại học Sư phạm Hà Nội đã đề cập đến vấn đề chung
về hứng thú. Kế đến trong các nghiên cứu của mình, các tác giả Phạm Minh
Hạc, Trần Trọng Thủy, Nguyễn Quang Uẩn,… cũng đã trình bày về hứng thú,
vai trò của hứng thú với học tập và các hoạt động khác.
Năm 1973, Phạm Tất Dong trong luận án phó tiến sĩ “Một số đặc điểm
hứng thú nghề của học sinh lớn và nhiệm vụ hướng nghiệp”. Đã khẳng định
sự khác biệt về hứng thú học tập giữa nam và nữ, hứng thú nghề nghiệp
không thống nhất với xu hướng phát triển nghề của xã hội, công tác hướng
nghiệp ở trường phổ thông không được thực hiện nên các em học sinh chịu
nhiều thiệt thòi. Hứng thú học tập các bộ môn của học sinh là cơ sở để đề ra
nhiệm vụ hướng nghiệp một các khoa học (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).
Năm 1980, Nguyễn Thanh Bình nghiên cứu đề tài: “Bước đầu tìm hiểu
nguyên nhân gây hứng thú học tập tâm lý học của sinh viên khoa tự nhiên
trường Đại học Sư phạm Hà Nội I”. Tác giả đề xuất 5 biện pháp giáo dục
hứng thú cho sinh viên: Giáo dục mục đích, động cơ học tập cho học sinh
thấy rõ ý nghĩa của môn học, giáo dục gắn với thực tiễn có đủ tài liệu tham
khảo cho sinh viên và tổ chuyên môn, bồi dưỡng năng lực giảng dạy cho giáo
viên( Nguyễn Thị Thanh Mai, 2015).
Năm 1981, Phùng Minh Nguyệt trong nghiên cứu: “Bước đầu tìm hiểu
thực trạng hứng thú đối với nghề sư phạm của giáo sinh trường Cao Đẳng Sư
phạm Nghĩa Bình”. Cho rằng, muốn nâng cao hứng thú nghề nghiệp cho giáo
sinh phải tổ chức các đợt thực tập nhằm thâm nhập vào thực tiễn, thực hành
công việc của mình (Nguyễn Thị Mai, 2015).
11
Năm 1982, Đinh Thị Chiến với nghiên cứu “Bước đầu tìm hiểu hứng thú
với nghề sư phạm của giáo sinh cao đẳng sư phạm Nghĩa Bình” đã đưa ra 3
biện pháp để giáo dục hứng thú đối với nghề sư phạm cho giáo sinh, trong đó
tác giả nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của dư luận xã hội (Nguyễn Thị
Bích Thủy 2010).
Năm 1986, Hoàng Kim Thu nghiên cứu “Hình thành hứng thú nghề
nghiệp cho học sinh thông qua giảng dạy môn Vật Lý”. Kết quả nghiên cứu
thực nghiệm nói lên rằng hình thức học ngoại khóa có tác động lớn đến hình
thành hứng thú nghề nghiệp lấy kiến thức vật lý làm cơ sở cho học sinh
(Nguyễn Thị Mai 2015).
Năm 1987, Nguyễn Khắc Mai với đề tài “Bước đầu tìm hiểu thực trạng
hứng thú với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên của sinh
viên khoa tâm lý giáo dục”. Tác giả đưa ra những nguyên nhân gây hứng thú
là do ý nghĩa môn học, trình độ của sinh viên, phương pháp giảng dạy của
giảng viên (Nguyễn Thị Mai, 2015).
Năm 2005, Vương Thị Thu Hằng với đề tài: “Tìm hiểu hứng thú nghiên
cứu khoa học của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn”.
Phan Thị Thơm với đề tài: “Hứng thú học tập môn tâm lí học của sinh viên
trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng”. Tác giả kết luận hứng thú học môn tâm lí
học chưa phát triển cao, chưa đồng đều, có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến
hứng thú học tập của sinh viên, trong đó yếu tố giảng viên giữ vai trò quan
trọng (Nguyễn Thị Mai, 2015).
Năm 2003, Nguyễn Hải Yến - Đặng Thị Thanh Tùng nghiên cứu “Một
số yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú nghiên cứu khoa học của sinh viên trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đề tài đã chỉ ra một số yếu tố ảnh
hưởng đến hứng thú nghiên cứu khoa học là do chưa nhận thức được vai trò
của hoạt động nghiên cứu khoa học, do bản thân chưa nỗ lực vượt khó trong
quá trình nghiên cứu (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).
12
Năm 2009, Đặng Quốc Thành trong luận án tiến sĩ tâm lý học “Hứng thú
học tập các môn khoa học xã hội và nhân văn của Học viện sĩ quan” có đề cập
đến các con đường hình thành hứng thú, các giai đoạn và các điều kiện hình
thành, phát triển hứng thú nhận thức (Đặng Quốc Thành, 2009).
Năm 2009, Phạm Thị Ngọc Châu nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp
kích thích hứng thú cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động khám phá thiên
nhiên vô sinh”. Tác giả đã đề xuất ra các biện pháp sau:
- Biện pháp 1: Sử dụng câu hỏi “mở, câu đố, truyện kể, thơ ca, lời động
viên…
- Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi mang tính chất khám phá thử nghiệm
- Biện pháp 3: Thiết kế, sử dụng môi trường hoạt động hấp dẫn để kích
thích trẻ tích cực khám phá.
- Biện pháp 4: Tổ chức cho thí nghiệm đơn giản (Nguyễn Thị Thanh
Mai, 2015).
Năm 2010, Nguyễn Thị Bích Thủy với luận văn thạc sĩ “Hứng thú học
tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến thành phố Hồ Chí
Minh”. Hứng thú học tập của sinh viên năm nhất được biểu hiện qua nhận
thức, thái độ và hành vi chưa cao. Tác giả có đề xuất một số biện pháp nâng
cao hứng thú học tập cho sinh viên (Nguyễn Thị Thanh Mai, 2015).
Năm 2012, trong luận án “Mối tương quan giữa phong cách giáo dục của
cha mẹ và tính tích cực giao tiếp với cha mẹ của thiếu niên”, tác giả Vũ Thị
Khánh Linh đã xác định được mối tương quan giữa phong cách giáo dục của
cha mẹ và tính khả thi của một số biện pháp tác động tâm lí học nhằm tăng
tính dân chủ trong phong cách giáo dục của cha mẹ (Nguyễn Thị Xuân
Phương, 2015).
Năm 2012, Phạm Nguyễn Lan Phương trong luận văn “Quan hệ cha mẹ
với con tuổi thiếu niên thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương” có đề cập đến vấn đề
13
ứng xử cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ cha mẹ và con (Phạm
Nguyễn Lan Phương, 2012).
Năm 2013, Đinh Thị Sen trong luận văn thạc sĩ tâm lý học “Hứng thú
môn học kỹ năng giao tiếp của sinh viên trường Đại học Nha Trang”. Đưa ra
kết luận như sau: “Đa số sinh viên trường Đại học Nha Trang chưa có hứng
thú thực sự khi học môn kỹ năng giao tiếp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
thực trạng này, trong đó nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phía giáo viên
(Đinh Thị Sen, 2013).
Năm 2014, Trần Phi Hùng trong luận văn thạc sĩ tâm lý học “Hứng thú
nghề nghiệp của học sinh ở một số trường trung học phổ thông tại huyện Bến
Lức, tỉnh Long An” đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú nghề
nghiệp của các em HS (Trần Phi Hùng, 2014).
Năm 2015, Tác giả Nguyễn Thị Xuân Phương nghiên cứu đề tài “Tính
tích cực giao tiếp của học sinh cuối tiểu học trong mối quan hệ với cha mẹ tại
thành phố Hồ Chí Minh” đã rút ra kết luận mức độ tích cực giao tiếp của học
sinh cuối tiểu học đạt mức cao (Nguyễn Thị Xuân Phương, 2015).
Tóm lại, ở nước ta đã có nhiều luận văn, luận án và đề tài nghiên cứu về
hứng thú. Ở nhiều khía cạnh khác nhau, cung cấp nhiều dữ liệu giúp đề tài
luận văn xác định hướng nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận và công cụ
nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Hứng thú
1.2.1.1. Khái niệm
Quan điểm về hứng thú theo các nhà tâm lý học Phương Tây
Một số nhà tâm lý học phương tây nghiên cứu hứng thú dựa trên cơ sở
bản chất sinh học của con người, họ cho rằng hứng thú là thuộc tính có sẵn
của con người. Hứng thú sẽ dần được bộc lộ theo quá trình trưởng thành và
phát triển của mỗi cá nhân.
14
Nhà tâm lý học I.PH. Shecbac cho rằng: “Hứng thú là thuộc tính bẩm
sinh vốn có của con người”. Nó được biểu hiện thông qua thái độ, tình cảm
của con người vào một đối tượng nào đó trong thế giới khách quan. (Phan Thị
Kim Ngân, 2013).
Annoi, nhà tâm lý học người Mỹ lại cho rằng: “Hứng thú là một sự sáng
tạo của tinh thần với đối tượng mà con người hứng thú tham gia vào” (Phan
Thị Kim Ngân, 2013).
Còn Harlette Buller thì quan niệm: “Hứng thú là một hiện tượng phức
hợp cho đến nay vẫn chưa được xác định, hứng thú là một từ không những chỉ
toàn bộ những hành động khác nhau mà hứng thú còn thể hiện cấu trúc bao
gồm các nhu cầu” (Phan Thị Kim Ngân, 2013).
Nhà tâm lý học người Mỹ Guilford đã cho rằng: “Hứng thú là trong bảy
mặt cấu tạo nên nhân cách, hứng thú là những ham muốn ổn định trong các
hoạt động nhất định” (Nguyễn Huy Tú, 1996).
Tác giả K.Strong và W.James cho rằng: “Hứng thú là một trường hợp
riêng của thiên hướng biểu hiện trong xu thế hoạt động của con người như là
một nét tính cách” (Phan Thị Kim Ngân, 2013).
Tác giả D.Super cho rằng: “Hứng thú không phải là thiên hướng, không
phải là nét tính cách của cá nhân nó là một cái gì khác, riêng rẽ với thiên
hướng, riêng rẽ với tính cách, riêng rẽ với cá nhân”. Như vậy,hứng thú được
coi như một thuộc tính có tính độc lập tương đối của nhân cách, nó có bản
chất riêng. Tuy nhiên ông lại không đưa ra một quan niệm rõ ràng về hứng
thú. (Nguyễn Đức Nhân, 2016)
Tác giả Klapalet nghiên cứu thực nghiệm và đi đến kết luận “Hứng thú
là dấu hiệu của nhu cầu bản năng khát vọng đòi hỏi cần được thỏa mãn của cá
nhân” (Phan Thị Kim Ngân, 2013).
Nhìn chung, các nhà tâm lí học Phương Tây đều thống nhất ở quan điểm
coi hứng thú là một hiện tượng đặc biệt, có ý nghĩa to lớn đối với mỗi cá
15
nhân. Hứng thú là một hiện tượng gắn liền và có quan hệ chặt chẽ với các
hiện tượng tâm lí khác. Hứng thú là sự kết hợp đặc biệt và sự tác động qua lại
của nhiều quá trình tâm lí với nhau (Nguyễn Thị Ái, 2011). Một số nhà tâm lý
học đề cập ở trên đều có quan điểm là duy tâm, sinh vật hoặc là phiến diện
siêu hình về hứng thú. Các nhà tâm lý học Phương Tây cho rằng hứng thú là
thuộc tính có sẵn trong mỗi cá nhân và sẽ được bộc lộ dần, hoàn thiện dần
trong suốt quá trình phát triển của cá nhân đó. Như vậy thì hứng thú dựa trên
cơ sở sinh học. Mặt hạn chế của những quan điểm này là xem nhẹ vai trò của
giáo dục cũng như tính tích cực của cá nhân trong sự hình thành và phát triển
hứng thú. Tuy nhiên, không thể phủ nhận đã có những quan điểm tiến bộ về
hứng thú của Hidi và Renninger khi cho rằng hứng thú cần có sự hỗ trợ từ các
yếu tố bên ngoài.
Quan điểm về hứng thú theo các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ)
Các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) đứng trên lập trường duy vật biện
chứng, coi hứng thú không phải là cái có sẵn hay thuộc tính bên trong của mỗi
cá nhân mà đó là kết quả của quá trình hình thành và phát triển nhân cách, nó
phản ánh một cách khách quan thái độ đang tồn tại ở một nhân cách. Thái độ
này nảy sinh trong quá trình tác động qua lại giữa điều kiện bên ngoài và hoạt
động của mỗi cá nhân, chính vì thế hứng thú có rất nhiều nguyên nhân khác
nhau và khái niệm “hứng thú” được rất nhiều tác giả lí giải với nhiều khía
cạnh khác nhau.
Một số nhà tâm lý học đã cho rằng: Hứng thú là khuynh hướng lựa chọn,
khuynh hướng chú ý ở con người (T. Ribô, N.P. Đôbrưnhin) hay hứng thú là
khuynh hướng ưu tiên chú ý vào một khách thể nào đó (B.N. Cheplov); hứng
thú có biểu hiện như là khuynh hướng tác động một cách có hiểu biết, có ý
thức đối với các khách thể mà con người định hướng vào đó (X. L.
Rubinstein), V.G.Ivanôv, …(Nguyễn Thu Cúc, 2008).
16
Trong “Đề cương bài giảng tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm”
cho rằng: “Hứng thú là sự định hướng có lựa chọn của cá nhân vào những sự
vật, hiện tượng của thực tế xung quanh. Sự định hướng đó được đặc trưng bởi
sự vươn lên thường trực tới nhận thức, tới những kiến thức mới ngày càng
đầy đủ và sâu sắc hơn” (Nguyễn Thu Cúc, 2008). Trong định nghĩa này, các
tác giả nhấn mạnh đến việc cá nhân nảy sinh thái độ đặc biệt cũng như hoạt
động đi sâu tìm hiểu đối tượng, trên cơ bản đây là định nghĩa về hứng thú
nhận thức.
A.N.Leonchiev xem hứng thú là thái độ nhận thức đặc biệt đối với đối
tượng hoặc hiện tượng của hiện thực khách quan; A.A.Liublinxkaia cho rằng
“Hứng thú là thái độ nhận thức của con người đối với xung quanh, với mặt
nào đó của chính nó, đối với một lĩnh vực nhất định mà trong đó con người
luôn muốn đi sâu hơn”. A.G. Côvaliôv định nghĩa rằng “Hứng thú là thái độ
đặc thù của cá nhân đối với một đối tượng nào đó, do ý nghĩa của nó trong đời
sống và sự hấp dẫn về tình cảm của nó”,… (Nguyễn Thu Cúc, 2008). Ở đây
các nhà tâm lý học đã xem hứng thú như hoạt đông nhận thức, hoạt động tình
cảm, cảm xúc của con người người. Định nghĩa này cũng chưa làm rõ được
nguồn gốc, nguyên nhân của hứng thú cũng như đã thu hẹp phạm vi hứng thú.
Định nghĩa hứng thú theo khía cạnh của sự chú ý
Tác giả P.A. Rucdich coi “Hứng thú biểu hiện một xu hướng đặc biệt
của cá nhân nhằm nhận thức những hiện tượng nhất định của cuộc sống xung
quanh, đồng thời biểu hiện thiên hướng tương đối cố định của con người đối
với các loại hoạt động nhất định” (Trần Phi Hùng, 2014).
Tác giả A.V.Daparozet viết “Hứng thú là khuynh hướng của sự chú ý tới
những đối tượng nhất định, là nguyện vọng tìm hiểu chúng càng tỉ mỉ càng
hay” (Nguyễn Tiến Đạt, 2004).
Tác giả V.A. Cruteski coi hứng thú đó là “Khuynh hướng nhận thức tích
cực của con người đối với đối tượng này hay kia, hiện tượng hay hoạt động
17
cái có liên hệ với thái độ cảm xúc dương tính đối với con người (Nguyễn
Quang Uẩn, 2011). Hơn nữa, hứng thú nhận thức sẽ kích thích chủ thể đi sâu
tìm hiểu, khám phá bản chất bên trong của đối tượng, nhưng không thể đồng
nhất hứng thú với sự chú ý.
Định nghĩa hứng thú theo khía cạnh gắn liền với sự hình thành và phát
triển của các hiện tượng tâm lý khác.
Các nhà tâm lý học hoạt động như: S.L.Rubinstein, N.Ph.Gonolobolin,
A.V.Petrovxki… coi hứng thú không phải là cái gì đó trừu tượng, có sẵn khi
sinh ra, mà là cái tự tạo trong quá trình cá thể sống và hoạt động, nó gắn liền
với sự hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý khác nên có quan hệ
với các hiện tượng tâm lý đó; nó là kết quả của sự hình thành nhân cách, phản
ánh khách quan thái độ của con người với thế giới xung quanh và hoạt động
có ý thức của con người trực tiếp quyết định (Nguyễn Quang Uẩn, 2011)
Như vậy, các định nghĩa về hứng thú mà các nhà tâm lý học đã sử dụng
có các điểm chung sau đây:
- Hứng thú là quá trình nhận thức đối tượng có ý nghĩa, hấp dẫn đối với
cá nhân, đi kèm với đó là quá trình xúc cảm ý chí.
- Hứng thú là sự lựa chọn khách quan của cá nhân với các đối tượng cụ
thể, hứng thú cũng là thái độ, xu hướng lựa chọn mà cá nhân thể hiện.
- Hứng thú là định hướng mà các cá nhân lựa chọn tích cực các đối
tượng cụ thể nhằm mục đích chiếm lĩnh đối tượng.
Các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) đã xem xét hứng thú trong các mối
tương quan với các thuộc tính khác của nhân cách như: nhu cầu, xúc cảm, ý
chí, trí tuệ,… Lý giải khá đầy đủ bản chất tâm lý của hứng thú thông qua việc
nghiên cứu hứng thú dưới quan điểm duy vật biện chứng.
+ Quan điểm về hứng thú theo các nhà tâm lý học Việt Nam:
Theo từ điển tâm lý học của Vũ Dũng, “Hứng thú thể hiện nhu cầu nhận
thức nhằm đảm bảo cho nhân cách ý thức được mục đích hoạt động và tạo
18
điều kiện cho việc định hướng, làm quen với những sự việc mới, cho việc
phản ứng hiện thực một cách đầy đủ và sâu sắc hơn. Về mặt chủ quan, hứng
thú được thể hiện thông qua xúc cảm gắn với quá trình nhận thức, qua sự chú
ý của chủ thể đến đối tượng hứng thú. Việc thỏa mãn hứng thú không dập tắt
hứng thú mà tạo ra những hứng thú mới đáp ứng mức độ cao hơn của hoạt
động nhận thức. Trong quá trình phát triển, hứng thú có thể biến thành năng
khiếu như là sự thể hiện nhu cầu thực hiện hoạt động đã gây ra hứng thú.
Người ta phân biệt hứng thú trực tiếp – hứng thú do tính chất lôi cuốn của đối
tượng tạo nên và hứng thú gián tiếp đối tượng là công cụ để đạt được mục
đích hoạt động. Tính bền vững của hứng thú được biểu hiện ở độ dài thời gian
duy trì hứng thú ở cường độ của hứng thú. Việc cá nhân khắc phục những khó
khăn đó là điều kiện để cá nhân thực hiện hoạt động hứng thú cho thấy tính
bền vững của hứng thú. Đánh giá độ rộng hay hẹp của hứng thú được xác
định bởi nội dung và giá trị của hứng thú đối với nhân cách” (Vũ Dũng,
2008). Các tác giả Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng Thủy cho rằng:
Khi ta có hứng thú về một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta
hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình
cảm đặc biệt đối với nó, do đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối
tượng của nó, tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận đi sâu vào nó (Phạm Thị Kim
Ngân, 20120).
Theo từ điển tâm lý học của Nguyễn Văn Lũy, Lê Quang Sơn (2009),
“Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng vừa có ý nghĩa
đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá
trình hoạt động. Có thể coi hứng thú là động cơ hay trạng thái hoạt động cơ
thúc đẩy hoạt động”. (Nguyễn Văn Lũy, Lê Quang Sơn, 2009).
Tác giả Nguyễn Phúc Ân trong khi nghiên cứu mối quan hệ giữa hứng
thú với nhu cầu đã đưa ra quan điểm về hứng thú như sau: “Hứng thú là sự
19
ham thích, sự tập trung cao độ, sự say mê mãnh liệt với những xúc cảm tích
cực của cá nhân”. (Nguyễn Phúc Ân, 1994).
Theo tác giả Huỳnh Văn Sơn: Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân
đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong đời sống vừa có khả năng
mang lại khoái cảm. Hứng thú luôn có hai yếu tố: Đối tượng phải có ý nghĩa
đối với đời sống cá nhân (yếu tố nhận thức). Đối tượng có khả năng hấp dẫn,
tạo ra những khoái cảm (yếu tố cảm xúc). Chính vì đặc điểm này mà hứng thú
lôi cuốn con người hướng về phía nó, tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận và đi
sâu tìm hiểu nó. Đây là đặc trưng quan trọng của hứng thú giúp ta phân biệt
nhu cầu và hứng thú và không thể đồng nhất nhu cầu và hứng thú tuy nhu cầu
và hứng thú có mối quan hệ mật thiết. (Huỳnh Văn Sơn, 2012).
Theo Nguyễn Khắc Viện hứng thú là biểu hiện của nhu cầu, làm cho chủ
thể tìm cách thỏa mãn tạo ra khoái cảm thích thú. Nói đến hứng thú tức nói
đến một mục tiêu, huy động sinh lực (thể chất và tâm lý) để cố gắng thực
hiện. Có những hứng thú đòi hỏi thỏa mãn trước mắt, như muốn ăn một món
gì, có những hứng thú gián tiếp phải thông qua một hoạt động, thường không
thú vị mới thỏa mãn, như học toán để cuối năm thi đỗ. Hứng thú gây chú ý và
làm cho chủ thể cố gắng hành động. Như vậy Nguyễn Khắc Viện coi hứng
thú có bản chất như nhu cầu, là biểu hiện của nhu cầu. Dù không thú vị học
toán nhưng vì cần thiết để cuối năm thi đỗ nên vẫn nỗ lực và khi đỗ mới cảm
thấy thỏa mãn, tạo khoái cảm, thích thú. (Nguyễn Khắc Viện, Lê Văn Luyện.
1995).
Theo Nguyễn Quang Uẩn “Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối
với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng
mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động” (Nguyễn Quang
Uẩn, 2015), định nghĩa này cho thấy hứng thú thể hiện mối quan hệ giữa chủ
thể với thế giới khách quan. Chủ thể chỉ nảy sinh hứng thú và cảm thấy hấp
dẫn với đối tượng trong quá trình hoạt động chiếm lĩnh đối tượng cũng như
20
hiểu được ý nghĩa, giá trị của đối tượng. Thái độ đặc biệt: sự lựa chọn tích
cực, mang khuynh hướng cá nhân, riêng biệt của từng chủ thể. Hơn nữa hứng
thú còn là sự đặc biệt chú ý, đi sâu tìm tòi sáng tạo cũng như say mê chiếm
lĩnh đối tượng. Mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng đó là đối tượng phải có
ý nghĩa và hấp dẫn mới tạo nên hứng thú cho chủ thể.
Căn cứ vào những đặc điểm cơ bản về hứng thú cũng như các nghiên
cứu trong và ngoài nước, trong đề tài này người nghiên cứu tiếp cận khái
niệm của Nguyễn Quang Uẩn: “Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối
với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng
mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động”.
1.2.1.2. Cấu trúc hứng thú
L.A.Gôđơn coi “Hứng thú là sự kết hợp độc đáo của các quá trình tình
cảm – ý chí và các quá trình trí tuệ, khiến cho tính tích cực nhận thức và hoạt
động của con người được nâng cao” (Nguyễn Thu Cúc, 2008).
Phân tích cấu trúc của hứng thú, N. G. Marôzôva đã nêu ít nhất ba yếu
tố, đặc trưng cho hứng thú (Nguyễn Thu Cúc, 2008).
- Có xúc cảm đúng đắn đối với hoạt động,
- Có khía cạnh nhận thức của xúc cảm này (được gọi là niềm vui tìm
hiểu và nhận thức),
- Có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt động, tức là hoạt động
tự nó lôi cuốn và kích thích, không phụ thuộc vào các hoạt động cơ bản khác.
Những động cơ khác (động cơ tinh thần, nghĩa vụ phải thực hiện, yêu cầu của
xã hội,…) có thể hỗ trợ, làm nảy sinh và duy trì hứng thú, nhưng những động
cơ đó không xác định được bản chất của hứng thú.
Ba thành tố trên liên quan chặt chẽ với nhau trong hứng thú của cá nhân.
Ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của hứng thú, mỗi thành tố có thể nổi
lên mạnh hay yếu, ít hay nhiều.
21
Những năm gần đây, có nhiều nhà tâm lý học đã nghiên cứu về cách
giải thích cấu trúc hứng thú của N.G.Môrôzôva. Một số tác giả thấy rằng,
trong rất nhiều trường hợp, hứng thú phải có ba yếu tố kể trên.
Kết hợp khái niệm công cụ của đề tài theo Nguyễn Quang Uẩn và tiếp
cận các phân tích cấu trúc của hứng thú theo N.G. Marozova. Đề tài tiếp nhận
và diễn giải cấu trúc của hứng thú như sau:
Nhận thức là một khía cạnh không thể thiếu trong các loại hứng thú,
trong một mức độ nhất định nhận thức bao hàm thái độ nhận thức của một cá
nhân với một đối tượng nhất định, vì khi cá nhân thích thú với một đối tượng
sẽ đi sâu tìm hiểu đối tượng và khi không có nhận thức thì sẽ không có hứng
thú. Ngược lại, hứng thú cũng là điều kiện để cá nhân nảy sinh hành động tìm
tòi khám phá về đối tượng. Nhiều khi cá nhân nảy sinh hành động hướng tới
đối tượng không chỉ vì sự hấp dẫn về tình cảm của đối tượng, mà còn do cá
nhân nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của đối tượng trong đời sống
xã hội cũng như đối với cá nhân. A.G.Covaliop đã nhận xét: “Hứng thú có thể
hình thành một cách tự phát và không ý thức, do sự hấp dẫn về tình cảm, sau
đó mới dẫn đến nhận thức ý nghĩa của đối tượng. Qua đó, hình thành hứng
thú có thể theo hướng ngược lại: từ chỗ có ý thức về ý nghĩa của đối tượng
đến chỗ bị đối tượng hấp dẫn” (Covaliop A.G., 1971),
Thái độ cũng làm một dấu hiệu không thể thiếu của hứng thú cần có sự
kết hợp chặt chẽ giữa thái độ nhận thức và thái độ xúc cảm của cá nhân với
đối tượng. Nhưng không phải tất cả thái độ xúc cảm đều là gây hứng thú.
Những niềm vui nhất thời xảy ra trong chốc lát chưa phải biểu hiện của hứng
thú. “Chỉ có những biểu hiện xúc cảm tích cực, bền vững của cá nhân đối với
đối tượng mới có thể trở thành một dấu hiệu không thể thiếu được, một mặt
của hứng thú” (Covaliop A.G., 1971).
Hành động là sự thể hiện ra bên ngoài của hứng thú đây là yếu tố có thể
quan sát và nhận định một cách tương đối rõ ràng. Từ đó có thể đưa ra các cơ
22
sở để đánh giá mức độ hứng thú của chủ thế với đối tượng. Tuy nhiên ta cũng
cần lưu ý với khoảng thời gian khác nhau hoặc những chủ thể khác nhau với
cùng một đối tượng có thể gây ra những xúc cảm, phản ứng khác nhau.Vấn đề
là ở chỗ những đặc điểm, thuộc tính đối tượng, hoạt động có đáp ứng hoặc có
tương ứng với đặc điểm, phẩm chất của cá nhân hay không.
Như vậy, nhà tâm lý học N.G. Marozova đã tiếp cận cấu trúc của hứng
thú và làm rõ các nội hàm của hứng thú khi đặt để hứng thú gắn với hoạt
động, hoạt động là biểu hiện của hứng thú mà cá nhân thể hiện. Ông cũng đề
cập đến khía cạnh nhận thức và thái độ như là những tiền đề để góp phần hình
thành hứng thú. Đây là cách lý giải đầy tính biện chứng, chính vì vậy nó
mang sức thuyết phục cao cho các nhà nghiên cứu sâu rộng trong tâm lý học
nói chung và trong tâm lý học nói riêng. Do đó trong khuôn khổ đề tài này
chúng tôi tiếp cận khái niệm hứng thú theo ba mặt nhận thức thái độ và hành
vi, đây là căn cứ quan trọng đề tài xây dựng đo lường hứng thú.
1.2.1.3. Phân loại hứng thú
Hứng thú được hình thành và biểu hiện thông qua mối quan hệ qua lại
giữa chủ thể với khách thể. Ở mỗi cá nhân có những hứng thú khác nhau,
đồng thời mang tính chủ thể rất sâu sắc. Dựa trên tiêu chuẩn phân loại khác
nhau có thể phân chia hứng thú thành các loại chủ yếu sau đây:
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, có: hứng thú học tập, hứng thú lao
động, hứng thú vui chơi – giải trí v.v...
Hứng thú học tập là hứng thú trong hoạt động học tập, trong tiếp thu tri
thức. Nếu phân chia theo môn học, hứng thú này có thể có nhiều loại như:
hứng thú học tập các môn khoa học tự nhiên; hứng thú học tập các môn khoa
học xã hội và nhân văn; hứng thú học Toán; hứng thú học Văn v.v...
Hứng thú lao động là hứng thú làm việc liên quan đến các nghành nghề
cụ thể như hứng thú với nghề nghiệp quân sự.
23
Hứng thú vui chơi – giải trí, như hứng thú chơi games; hứng thú thể dục,
hứng thú chơi thể thao (theo các môn cụ thể)…
* Căn cứ vào đối tượng của hứng thú liên quan đến lĩnh vực nhận thức
xúc cảm – tình cảm hay hành vi, có:
Hứng thú hoạt động nhận thức (còn gọi là hứng thú nhận thức). Đó là
hứng thú muốn được hiểu biết về các quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan.
Hứng thú với các loại hình hoạt động giàu xúc cảm – tình cảm như: âm
nhạc, hội họa, phim ảnh..
Căn cứ vào phạm vi bao quát đối tượng người ta phân chia thành:
hứng thú rộng và hứng thú hẹp.
Hứng thú rộng là loại hứng thú bao quát nhiều đối tượng nhưng thường
lướt qua không đi sâu vào bản chất của các đối tượng. Chẳng hạn, hứng thú
chơi thể thao, hứng thú học tập, hứng thú nhận thức.
Hứng thú hẹp là hứng thú mà chủ thể bị cuốn hút, đi sâu vào một hoặc
vài đối tượng cụ thể nào đó. Ví dụ: hứng thú học môn Toán, hứng thú học
môn Văn,…
Căn cứ vào tính bền vững của hứng thú, người ta phân chia thành
hứng thú bền vững và hứng thú không bền vững:
Hứng thú bền vững thường là những hứng thú gắn liền với năng lực hoạt
động nào đó của chủ thể, dựa trên sự nhận thức sâu sắc nghĩa vụ, quyền lợi và
sức hấp dẫn của hoạt động, kết hợp với thiên hướng của bản thân. Chẳng hạn
như: hứng thú nghiên cứu về tâm lý học trẻ em; hứng thú chơi bóng đá; hứng
thú chơi bóng bàn…
Hứng thú không bền vững thường là hứng thú bắt nguồn từ sự nhận thức
hời hợt về đối tượng với những cảm xúc mang tính nhất thời bởi sự hấp dẫn
bên ngoài của đối tượng. Ví dụ: hứng thú khi được tham gia chơi một trò chơi
nào đó.
24
Căn cứ vào mức độ chủ động hay thụ động của chủ thể, người ta chia
hứng thú thành: hứng thú chủ động và hứng thú thụ động.
Hứng thú chủ động là hứng thú mà chủ thể có nhận thức và thái độ khá
rõ ràng về đối tượng trước khi biểu hiện hành động – hành vi tương ứng đối
với đối tượng. Khi đó, cá nhân không dừng ở việc quan sát mà còn hành động
với mục đích làm chủ đối tượng hay hứng thú. Ví dụ như: Học sinh cảm thấy
có hứng thú trước khi được học tập môn học nào đó.
Hứng thú thụ động là loại hứng thú hình thành một cách ngẫu nhiên hoặc
khi cá nhân chỉ giới hạn ở việc tri giác đối tượng gây nên hứng thú. Chẳng
hạn như, thích thú, khoái cảm khi tình cờ nghe một bản nhạc hoặc xem một
bức tranh,…
Căn cứ vào cách thức, con đường tạo nên hứng thú, có thể phân hứng
thú thành hai loại: hứng thú trực tiếp và hứng thú gián tiếp:
Hứng thú trực tiếp là hứng thú hướng vào bản thân hoạt động đi đến đối
tượng nhằm thỏa mãn nhu cầu. Ví dụ: hứng thú với việc chơi trò chơi, đồ chơi
của trẻ,…
Hứng thú gián tiếp là hứng thú hướng vào kết quả của hoạt động. Chẳng
hạn, hứng thú muốn có học vấn, muốn có nghề nghiệp, có cương vị, địa vị xã
hội. Sự kết hợp giữa hứng thú trực tiếp với hứng thú gián tiếp sẽ tạo nên động
lực mạnh mẽ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của cá nhân.
Ngoài ra, còn có nhiều cách phân loại hứng thú khác nhau và trên thực
tế, hứng thú ở mỗi cá nhân có thể là sự kết hợp giữa các kiểu loại hứng thú
theo một cách riêng tiêu biểu cho cá nhân đó, vì vậy việc phân loại hứng thú
chỉ mang tích chất tương đối.
Dựa trên các cách phân loại trên, đề tài thống nhất chọn cách phân loại
hứng thú theo cách thức, con đường tạo nên hứng thú:
Hứng thú trực tiếp: là hứng thú hướng vào bản thân hoạt động đi đến đối
tượng nhằm thỏa mãn nhu cầu, hứng thú đối với quá trình hoạt động, hứng
25
thú với quá trình nhận thức, quá trình lao động và hoạt động sáng tạo. Thể
hiện ở thái độ thận trọng và có trách nhiệm đối với công việc, học tập,…
Những người này mong muốn đi sâu vào đối tượng nhận thức, đi sâu nắm
vững đến mức hoàn hảo đối tượng hứng thú của mình.
Hứng thú gián tiếp: là loại hứng thú do những yếu tố bên ngoài và đối
tượng của hoạt động gây nên và gián tiếp liên quan đến đối tượng ấy. Hứng
thú hướng vào kết quả của hoạt động, rất dễ bị dao động và thay đổi khi gặp
các trở ngại, khó khăn. Chẳng hạn, hứng thú muốn có học vấn, muốn có nghề
nghiệp, có cương vị, địa vị xã hội,… Sự kết hợp giữa hứng thú trực tiếp với
hứng thú gián tiếp sẽ tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy tính tích cực hoạt
động của cá nhân.
1.2.1.4. Con đường hình thành hứng thú
Sự hình thành hứng thú làm một quá trình và thường diễn ra theo hai con
đường cơ bản sau đây:
Thứ nhất, con đường tự phát. Theo con đường này, hứng thú được hình
thành một cách ngẫu nhiên do sự hấp dẫn bởi một vài đặc điểm vốn có bên
ngoài hoặc bên trong của đối tượng, mà trước đó chủ thể hoàn toàn chưa ý
thức được. Khi đó, chủ thể sẽ nảy sinh những rung động (xúc cảm) gần như
tức thời, trên cơ sở của sự rung động đã thu hút cá nhân đi vào tìm hiểu, nhận
thức về đối tượng. Tùy thuộc vào mức độ thu hút của đối tượng, mà hứng thú
có thể chuyển từ tự phát sang tự giác (chủ thể chủ động đi sâu nhận thức đối
tượng). Đối với trẻ nhỏ, hứng thú được hình thành chủ yếu thông qua con
đường tự giác. Tức là bắt đầu từ sự hấp dẫn bởi hình thức bên ngoài của đối
tượng, sau đó mới dẫn đến việc đi sâu tìm hiểu, khám phá đặc điểm bên trong
của nó. Chẳng hạn, những vật có màu sắc sặc sỡ, vui mắt, hình ảnh, âm thanh
sống động thường nhanh chóng gây cho trẻ nhỏ sự thích thú, hấp dẫn, sau đó
làm cho trẻ tò mò và từng bước khám phá những đặc tính bên trong của đối
tượng, A.G.Covaliov đã viết: “ Hứng thú có thể được hình thành một cách tự
26
phát và không có ý thức, do sự vật hấp dẫn về tình cảm, sau đó mới dẫn đến
nhận thức ý nghĩa cần thiết của đối tượng đó” (Vũ Dũng, 2008).
Thứ hai, con đường tự giác. Đây là con đường chủ yếu của sự hình thành
và phát triển hứng thú. Cụ thể là, dựa trên cơ sở chủ thể nhận thức được vị trí,
ý nghĩa và sự hấp dẫn của đối tượng đối với bản thân, từ đó hình thành thái độ
và hành vi tích cực của chủ thể đối với đối tượng. Theo con đường này, hứng
thú thường diễn ra theo một quá trình từ thấp đến cao và phụ thuộc vào nhận
thức, thái độ, cũng như mức độ mối quan hệ qua lại giữa chủ thể và đối
tượng. Đối với người lớn sự hình thành và phát triển hứng thú phần lớn diễn
ra theo con đường tự giác. Đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa nhận thức được giá
trị, ý nghĩa bên trong với sự hấp dẫn bởi những biểu hiện hình thức bên ngoài
của đối tượng, trong đó sự hiểu biết giá trị ý nghĩa bên trong của đối tượng
thường giữ vai trò quyết định, nó đảm bảo tính ổn định, bền vững của hứng
thú. Nói về con đường này, A.G.Covaliov đã viết: “Quá trình hình thành hứng
thú có thể theo hướng ngược lại: từ chỗ có ý thức về ý nghĩa của đối tượng
đến chỗ bị đối tượng hấp dẫn” (Vũ Vũng, 2008).
Như vậy, sự hình thành hứng thú ở mỗi lứa tuổi có sự khác nhau, đối với
trẻ nhỏ sự hình thành hứng thú chủ yếu theo con đường tự phát. Trong khi đó,
ở những người trưởng thành sự hình thành hứng thú thường là kết hợp giữa
con đường tự giác và tự phát, nhưng con đường tự giác là chủ yếu. Điều này,
đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của hứng thú.
1.2.2. Giao tiếp
1.2.2.1. Khái niệm giao tiếp:
A.A.Leonchiev cho rằng “Đó là một hệ thống những quá trình có mục
đích và động cơ trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân
cách, các quan hệ tâm lý và sử dụng những phương tiện đặc thù, mà trước hết
là ngôn ngữ” theo đó giao tiếp là một dạng của hoạt động hoặc có thể là một
27
phương tiện, điều kiện của hoạt động (Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu và Nguyễn
Thạc, 2016).
Theo tác giả Đỗ Long “Giao tiếp là sự trao đổi thông tin, tác động qua
lại, ảnh hưởng và hiểu biết lẫn nhau, giữa cá nhân với tập thể, giữa tập thể và
tập thể”. (Vũ Dũng, 2008). Qua giao tiếp con người trao đổi, truyền đạt tri
thức, kinh nghiệm với nhau. Mỗi cá nhân vừa là nguồn phát thông tin, vừa là
nơi tiếp nhận thông tin. Thu nhận và xử lý thông tin, tri giác lẫn nhau là một
con đường quan trọng để phát triển nhân cách.
Tác giả Hoàng Anh ngoài khía cạnh tâm lý và quan hệ liên nhân cách
còn nêu thêm chức năng xã hội của giao tiếp. Bà đưa ra định nghĩa “Giao tiếp
là sự tiếp xúc tâm lý, tạo nên quan hệ giữa hai hoặc nhiều người với nhau,
chứa đựng một nội dung xã hội hoặc lịch sử nhất định, có nhiều chức năng tác
động, hỗ trợ cùng nhau: thông báo, điều khiển, nhận thức, hành động và tình
cảm, nhằm thực hiện một mục đích nhất định của một hoạt động nhất định”
(Hoàng Anh, 1992).
Tác giả Phạm Minh Hạc nhấn mạnh vào khía cạnh thiết lập quan hệ liên
nhân cách của giao tiếp, ông định nghĩa: “Giao tiếp là hoạt động xác lập và
vận hành các quan hệ người – người để hiện thực các quan hệ xã hội giữa
người ta với nhau”(Phạm Minh Hạc, 1988).
Theo từ điển Tâm lí giáo dục: “Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát
triển sự tiếp xúc giữa cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động. Giao
tiếp bao gồm hàng loạt các yếu tố như: trao đổi thông tin, xây dựng chiến
lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác” (Vũ Dũng, 2000).
Như vậy, giao tiếp có thể hiểu là một quá trình trong đó con người trao
đổi với nhau các ý tưởng, cảm xúc, tình cảm và thông tin nhằm xác lập và vận
hành các mối quan hệ giữa người và người trong xã hội vì những mục đích
khác nhau. Trong giao tiếp thường diễn ra ba quá trình: quá trình trao đổi
28
thông tin, cảm xúc; quá trình nhận thức lẫn nhau; quá trình tác động và ảnh
hưởng lẫn nhau.
Theo tác giả Nguyễn Ánh Hồng “Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát
triển sự tiếp xúc giữa các cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động.
Giao tiếp bao gồm hàng loạt các yếu tố như trao đổi thông tin, xây dựng chiến
lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác” (Nguyễn Ánh
Hồng, 2007).
Tác giả Nguyễn Ngọc Bích “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều
người thông qua phương tiện ngôn ngữ nhằm trao đổi thông tin, tình cảm,
hiểu biết, tác động qua lại và điều chỉnh lẫn nhau” (Huỳnh Văn Sơn, 2011).
Như vậy có thể thấy các định nghĩa giao tiếp trên nhấn mạnh vào các đặc
điểm của giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý; giao tiếp là một sự tương tác hai
chiều (hoặc nhiều) giữa người với người; chức năng giao tiếp là thông tin,
nhận thức, trao đổi, tình cảm, phối hợp hoạt động và thiết lập, vận hành quan
hệ liên nhân cách; phương tiện giao tiếp là phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn
ngữ.
Theo tác giả Nguyễn Văn Đồng “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí đa chiều
giữa người với người được quy định bởi các yếu tố tính cách cá nhân, văn hóa
và xã hội. Giao tiếp có chức năng thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của
con người, trao đổi thông tin, cảm xúc, định hướng và điều chỉnh nhận thức,
hành vi của bản thân và của nhau, tri giác lẫn nhau, tạo dựng quan hệ với
nhau và tác động qua lại lẫn nhau (Nguyễn Văn Đồng, 2006). Định nghĩa giao
tiếp trên bao gồm tính đồng chủ thể và đa chiều của giao tiếp, đặc trưng tâm
lý cá nhân, đặc trưng văn hóa xã hội của giao tiếp và các chức năng của giao
tiếp
Chúng tôi lựa chọn quan điểm của tác giả Nguyễn Văn Đồng làm hướng
tiếp cận cho đề tài từ đó đề tài xác lập khái niệm giao tiếp như sau:
29
Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người được quy định bởi
các yếu tố tâm lý cá nhân nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, trao đổi
thông tin, cảm xúc, điều chỉnh nhận thức, hành vi của cá nhân và người khác.
1.2.2.2. Chức năng giao tiếp
Theo tác giả Nguyễn Văn Đồng, giao tiếp bao gồm sáu chức năng như
sau:
- Chức năng thỏa mãn nhu cầu của con người
- Chức năng thông tin
- Chức năng nhận thức
- Chức năng cảm xúc
- Chức năng định hứng, tổ chức, phối hợp hoạt động và điều chỉnh hành
vi của bản thân và của người khác.
- Chức năng hình thành và phát triển các quan hệ liên nhân cách.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu của con người là chức năng quan trọng
nhất của giao tiếp. Đây là chức năng được hình thành sớm nhất trên cả
phương diện phát triển cá thể và phương diện lịch sử. Song song với sự xuất
hiện của con người, giao tiếp cũng xuất hiện như là nhu cầu cơ bản và nền
tảng nhất, từ đó ngôn ngữ được hình thành để thỏa mãn nhu cầu giao tiếp. Chỉ
khi giao tiếp được thỏa mãn thì những phẩm chất, năng lực, tính cách mỗi cá
nhân phát triển đồng thời cùng với sự phát triển của người khác trong quá
trình giao tiếp.
Xét dưới góc độ cá nhân, theo B.Ph.Lomov giao tiếp có 3 chức năng
sau:
Chức năng thông tin: Con người trao đổi thông tin cho nhau qua giao
tiếp. Nội dung thông tin có thể là hiện tượng, vấn đề trong đời sống sinh hoạt
hằng ngày, những suy nghĩ, tâm tư, tri thức…
Chức năng điều chỉnh: Qua giao tiếp con người có thể điểu chỉnh thái độ,
hành vi, nhận thức của bản thân, của đối tượng giao tiếp. Sự điều chỉnh hành
30
vi lẫn nhau là nhân tố quan trọng trong các chủ thể tham giao tiếp thành chủ
thể hoạt động chung.
Chức năng cảm xúc: Con người biểu lộ tình cảm, thái độ, tác động đến
trạng thái cảm xúc của nhau, nhờ đó mà con người ta có thể thay đổi trạng
thái tình cảm của mình, hiểu thái độ của người khác làm cho hiệu quả giao
tiếp tốt hơn.
Xét dưới góc độ nhóm, giao tiếp có những chức năng
Chức năng nhận thức lẫn nhau và đánh giá lẫn nhau: Thông qua giao tiếp
con người nhận thức lận nhau, so sánh, đối chiếu mình với người khác, do đó
biết được mình là người như thế nào.
Chức năng tổ chức hoạt động chung: giao tiếp có ảnh hưởng đến việc lựa
chọn mục đích, hình thành kế hoạch chung, phân công, phân nhiệm vụ cụ thể
cho từng người. Trong quá trình hoạt động chung có sự trao đổi thông tin,
khích lệ, kiểm tra, uốn nắn hành động của nhau.
Chức năng thiết lập quan hệ: Trong giao tiếp có thể hình thành các quan
hệ đồng chí, bạn bè, hay quan hệ thù địch…. Các mối quan hệ này có ảnh
hưởng tới sự phát triển cá nhân.
Xét dưới góc độ tâm lý học xã hội, giao tiếp có hai chức năng
Chức năng liên kết: Nhờ chức năng này con người hiểu được nhau, liên
hệ, xây dựng mối quan hệ với nhau.
Chức năng đồng nhất: Thực hiện sự hòa hợp của cá nhân vào nhóm xã
hội.
Xét dưới góc độ giao tiếp là một phạm trù của tâm lý học hiện đại,
giao tiếp có các chức năng sau
Chức năng định hướng hoạt động con người, bao gồm cả việc xác định
mục đích, nhu cầu, động cơ giao tiếp.
Chức năng điều chỉnh hành vi: Chủ thể giao tiếp điều chỉnh nhu cầu, tình
cảm… cho phù hợp mục đích, nhiệm vụ giao tiếp.
31
Chức năng truyền đạt tri thức, kỹ năng trong hoạt động….
Qua cách phân loại các chức năng giao tiếp như trên chứng tỏ giao tiếp
có nhiều chức năng, nhưng tất cả đều thực hiện chức năng chung đó là giao
tiếp làm diễn ra các hoạt động của con người một cách hợp lý.
Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm khác nhau trong cách phân loại
chức năng giao tiếp, chúng tôi rút ra một số chức năng cơ bản của giao tiếp
như sau:
+ Chức năng phối hợp các hoạt động: trong giao tiếp con người cùng đối
tượng giao tiếp của mình có thể trao đổi, phối hợp hoạt động với nhau để giải
quyết một nhiệm vụ nào đó, đạt tới mục đích đã định.
+ Chức năng thông tin: Trong quá trình giao tiếp mỗi cá nhân có thể vừa
là nguồn phát thông tin tới đối tượng giao tiếp nhưng đồng thời cũng là nơi
tiếp nhận thông tin từ đối tượng giao tiếp.
+ Chức năng cảm xúc: Trong giao tiếp chủ thể bộc lộ quan điểm của
mình đối với một vấn đề, hiện tượng nào đó, đồng thời biểu lộ rung cảm, thái
độ, tâm trạng của mình đối với chủ thể khác. Những trạng thái cảm xúc này
không tồn tại độc lập mà bị ảnh hưởng qua lại lẫn nhau trong quá trình giao
tiếp.
+ Chức năng nhận thức, đánh giá lẫn nhau: Trong giao tiếp mỗi cá nhân
tự bộc nhận thức, tình cảm, tư tưởng, quan điểm của mình, đó là cơ sở để đối
tượng giao tiếp đánh giá, nhận xét và ngược lại đối phương cũng đánh giá,
nhận xét lại chính bản thân.
+ Chức năng điều chỉnh hành vi: Trong giao tiếp con người có thể điều
chỉnh hành vi của mình và tác động đến động cơ, quá trình ra quyết định,
hành động của đối tượng giao tiếp nên đối tượng giao tiếp cũng phải điều
chỉnh hành vi của đối tượng giao tiếp nên đối tượng giao tiếp cũng phải điều
chỉnh hành vi của họ cho phù hợp mục đích giao tiếp.
32
Trong khuôn khổ đề tài luận văn chúng tôi quan tâm đến 2 chức năng
của giao tiếp đó là chức năng thông tin và chức năng thỏa mãn cảm xúc.
1.2.3. Hứng thú giao tiếp, hứng thú giao tiếp về định hướng nghề
nghiệp
1.2.3.1. Khái niệm hứng thú giao tiếp
Dựa trên các khái niệm về hứng thú và giao tiếp tác giả xác lập khái
niệm hứng thú giao tiếp như sau:
Hứng thú giao tiếp là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với sự
tiếp xúc tâm lý giữa người với người do sự tiếp xúc này có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong sự phát triển của cá nhân và mang lại những cảm xúc tích
cực.
1.2.3.2. Khái niệm hứng thú giao tiếp về định hướng nghề nghiệp
a. Khái niệm nghề nghiệp
Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê biên soạn, nghề (nghề nghiệp) là
công việc chuyên làm theo sự phân công lao động của xã hội, có rất nhiều
nghề thuộc những nhóm ngành khác nhau. (Hoàng Phê, 1994).
Theo Nguyễn Văn Hộ: “Nghề nghiệp như là một dạng lao động vừa
mang tính xã hội sự phân công xã hội, vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản
thân) trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thỏa mãn
những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân” (dẫn theo Trần Đình Chiến,
2008).
Theo tác giả Klimov “Nghề là một lĩnh vực sử dụng sức lao động vật
chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do
sự phân công lao động mà có), nó tạo khả năng cho con người sử dụng lao
động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát
triển” (dẫn theo Nguyễn Thị Trường Hân, 2010), cũng theo Kimov ông phân
loại nghề nghiệp gồm năm nhóm chính:
33
Bảng 1.1. Phân loại năm nhóm nghề cơ bản
Nhóm nghề Đối tượng lao động chủ yếu Ví dụ
Người - thiên Các tổ chức hữu cơ, các quá Trồng lúa, chăn nuôi,
nhiên trình sinh vật và vi sinh vật bác sĩ thú y..
Thợ máy, thợ rèn, thợ Người - Kỹ Hệ thống các thiết bị kỹ thuật, nguội, thợ xây, lái thuật đối tượng vật chất xe…
Bác sĩ, y tá, giáo Người - người Con người, nhóm tập thể viên, bán hàng…
Nhân viên, kế toán Người - hệ Những dấu hiệu, con số, mã số, thủ quỹ, đánh máy, thống kí hiệu công thức, ngôn ngữ.. thợ xếp chữ in…
Người - nghệ Các hình ảnh nghệ thuật, các bộ Sơn mài, điêu khắc,
thuật phận và thuộc tính của nó nhạc sĩ, họa sĩ…
Như vậy khái niệm nghề nghiệp có những nội dung cơ bản sau:
Nghề nghiệp là một nghề trong xã hội, đó là công việc chuyên môn trong
lĩnh vực hoạt động nhất định, đòi hỏi người làm phải có kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo để lao động hiệu quả.
Hoạt động nghề nghiệp phải có mục đích rõ ràng, nó không những mang
lại lợi ích cho xã hội mà thỏa mãn nhu cầu cơ bản để tồn tại và phát triển.
Nghề nghiệp là một phạm trù lịch sử, nó ra đời và gắn liền với những
phân công lao động xã hội, phụ thuộc vào tính chất xã hội và sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
Tóm lại trong đề tài của mình tác giả lựa chọn cách tiếp cận nghề và
phân loại nghề theo Klimov vì trong nhiều cách phân loại nghề thì cách phân
34
loại của Klimov là phù hợp hơn cả bởi lẽ chọn nghề là chọn đối tượng lao
động và có nhiều quan điểm cho rằng “hướng nghiệp là hướng đến thế giới
việc làm, không chỉ hướng đến một nghề mà hướng đến nhóm nghề và rộng
hơn (Nguyễn Thị Trường Hân, 2010), tuy nhiên cách phân loại trên cũng chỉ
mang tính chất tương đối.
b. Khái niệm định hướng nghề nghiệp
Định hướng nghề nghiệp là một khái niệm rộng được tiếp cận từ nhiều
góc độ khác nhau.
Theo tác giả Nguyễn Thị Uyên Thy định hướng nghề từ góc độ cá nhân
là sự hướng vào và lựa chọn chủ quan của cá nhân đối với các nghề nghiệp
trong xã hội, là hệ thống các giá trị, hứng thú, sở thích của cá nhân về nghành
nghề trong xã hội, về nhu cầu của hệ thống phân công lao động xã hội hiện
hành, về năng lực và nguyện vọng của bản thân (Nguyễn Thị Uyên Thy,
2002).
Theo tác giả Nguyễn Thị Trường Hân, một trong những nhiệm vụ cơ bản
của giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông là định hướng nghề nghiệp
cho học sinh, theo đó định hướng nghề là việc thông tin cho học sinh về đặc
điểm hoạt động và yêu cầu phát triển của các nghề trong xã hội, đặc biệt là
những nghề và những nơi đang thiếu lao động trẻ tuổi có văn hóa, về yêu cầu
tâm sinh lý của mỗi nghề, về tình hình phân công và yêu cầu điều chỉnh lao
động ở cộng đồng dân cư về hệ thống trường lớp đào tạo nghề của nhà nước,
tập thể và tư nhân (Nguyễn Thị Trường Hân, 2010).
Công tác hướng nghiệp trong nhà trường phải đảm bảo cung cấp đầy đủ
các thông tin sau cho HS THPT: Tri thức về các nghành nghề trong xã hội
hoặc địa phương, đặc điểm về nghề nghiệp, tri thức về nhu cầu lao động của
xã hội hoặc địa phương, những hiểu biết về nhân cách, đặc biệt là năng lực
của bản thân.
35
Dưới góc độ tâm lý học, định hướng nghề là quá trình trang bị cho cá
nhân sự hiểu biết rõ ràng hơn về bản thân và khả năng phát triển sự nghiệp
trong tương lai của họ là quá trình giáo viên trợ giúp HS điều chỉnh và tự điều
chỉnh hành động chọn nghề của mình trên cơ sở nhận thức về nghề nghiệp và
về bản thân (Phạm Tất Dong, 2012). Quá trình này nhằm hình thành cho HS
xu hướng nghề nghiệp, năng lực tự giác lựa chọn nghề nghiệp có tính đến
những nhu cầu của xã hội, trên cơ sở đó tự xác định nghề nghiệp của mình
(Trần Trọng Thủy, 1987).
Nhìn chung công tác hướng nghiệp, định hướng nghề nghiệp cho HS cần
có sự phối hợp của nhà trường, gia đình và bản thân HS. Trong khuôn khổ đề
tài của tác giả, định hướng nghề nghiệp đứng dưới góc độ gia đình, nhấn
mạnh mối tương quan giữa cha mẹ và con trong việc lựa chọn nghề, xác định
công việc sau khi tốt nghiệp. Vì vậy tác giả đưa ra khái niệm định hướng nghề
nghiệp như sau:
“Định hướng nghề nghiệp là sự điều chỉnh quá trình chọn nghề thông
qua hỗ trợ của nhà trường hoặc gia đình để đưa ra những thông tin nghề
nghiệp phù hợp năng lực của cá nhân và thị trường lao động tương lai từ đó
học sinh xác định nghề nghiệp của mình”.
Tóm lại dựa trên khái niệm hứng thú giao tiếp và định hướng nghề
nghiệp ở trên chúng tôi quan niệm: “Hứng thú giao tiếp về định hướng nghề
nghiệp là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với sự tiếp xúc tâm lý giữa
người với người trong lĩnh vực định hướng nghề do sự tiếp xúc này có ý
nghĩa quan trọng trong trong hoạt động điều chỉnh quá trình chọn nghề, tìm
kiếm những thông tin nghề nghiệp phù hợp năng lực bản thân và thị trường
lao động tương lai, đồng thời mang lại những cảm xúc tích cực cho chính cá
nhân đó”.
36
1.2.4. Hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của
học sinh lớp 12
Dựa trên những nội dung trình bày ở trên, chúng tôi quan niệm: Hứng
thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề của HS lớp 12 là thái độ lựa
chọn đặc biệt của HS lớp 12 đối với sự tiếp xúc tâm lý giữa bản thân với cha
mẹ trong lĩnh vực định hướng nghề do sự tiếp xúc này có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình điều chỉnh định hướng nghề nghiệp, tìm kiếm thông tin nghề
phù hợp với bản thân và thị trường lao động tương lai của HS lớp 12 và mang
lại những cảm xúc tích cực.
1.2.4.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 12
a. Một số đặc điểm lứa tuổi
Hoạt động của thanh niên ngày càng phong phú và phức tạp, nên vai trò
của xã hội và hứng thú xã hội của thanh niên không chỉ mở rộng về số lượng
và phạm vi, mà còn biến đổi cả về chất lượng. Ở thanh niên ngày càng xuất
hiện nhiều các vai trò của người lớn, và họ thực hiện các vai trò đó ngày càng
có tính độc lập và có tinh thần trách nhiệm hơn. Nhiệm vụ xã hội chủ yếu của
lứa tuổi này là chọn nghề.
Lứa tuổi HS THPT đã có những nét của người lớn, nhưng chưa phải là
người lớn. Người lớn bắt đầu đòi hỏi ở các em phải có tính độc lập, ý thức
trách nhiệm và thái độ hợp lý… Đồng thời lại không xác định (ở mặt này các
em được coi là người lớn, nhưng ở mặt khác lại không). Tính chất đó và
những yêu cầu đề ra cho thanh niên ở lứa tuổi này được phản ánh một cách
độc đáo vào tâm lý thanh niên.
Nội dung và tính chất của hoạt động học tập ở thanh niên HS khác rất
nhiều so với hoạt động học tập của thiếu niên; hoạt động học tập của thanh
niên HS đi sâu vào những tri thức cơ bản, những quy luật của các bộ môn
khoa học. HS càng trưởng thành, kinh nghiệm sống càng phong phú, các em
càng ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Do vậy ,
37
thái độ có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển . Các em
hiểu được rằng, vốn tri thức kỹ năng, kỉ xảo là điều kiện cần thiết để các em
bước vào cuộc sống tương lai. Từ đó, nhu cầu tri thức của các em tăng lên.
Thái độ của thanh niên HS đối với các môn học trở nên có lựa chọn hơn.
Ở các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng
nghề nghiệp. Cuối bậc THPT, các em đã xác định được cho mình hứng thú ổn
định đối với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri thức nhất định,
hứng thú này thường liên quan tới việc chọn một nghề nhất định của HS. Thái
độ học tập của thanh niên HS được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc
khác với động cơ học tập ở tuổi trước. Đối với học sinh THPT thì có ý nghĩa
nhất là động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa xã hội của
môn học, rồi mới đến các động cơ cụ thể khác…
Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển các
năng lực trí tuệ, tính chủ định được phát triển mạnh nhất ở tất cả các quá trình
nhận thức. Tuy nhiên, thiếu sót cơ bản trong hoạt động tư duy của nhiều em là
thiếu tính độc lập, chưa chú ý phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản
thân, kết luận vội vàng theo cảm tính, hoặc thiên về tái hiện tư tưởng của
người khác, các luận chứng của người khác… (Đỗ Thị Lệ Hằng, 2010)
THPT đã trưởng thành như một người lớn nhưng các em chưa phải là
người lớn. Mặc dù trong nhận thức của các em đã có tính chủ định nhưng các
em chưa hoàn toàn độc lập suy nghĩ mà còn lệ thuộc vào người lớn rất nhiều.
Chính vì vậy, nhận thức của các em về chọn nghề cũng như xu hướng chọn
nghề mang những nét đặc trưng riêng của lứa tuổi.
Ở học sinh THPT có một số nét tính cách đặc biệt như sự độc lập. Đây là
nét tính cách rất điển hình, các em luôn muốn thể hiện lập trường, quan điểm
và tự quyết định vấn đề của bản thân. Cá tính độc lập giúp các em có thêm
lòng can đảm, dám nghĩ dám làm. Tuy nhiên, những hành động và quyết định
của các em còn thiếu sự cẩn trọng chưa quan tâm đến hậu quả. Các em có
38
lòng tự trọng cao và luôn để tâm đến sự đánh giá của người khác. Bên cạnh
đó, các em luôn tích cực chủ động trong các hoạt động tập thể. Các em thích
khẳng định bản thân thông qua các hoạt động của lớp, của nhà trường và xã
hội.
Quan hệ bạn bè giữ vai trò quan trọng trong đời sống tình cảm của các
em. Tuy sự ảnh hưởng của bạn bè không còn nhiều như giai đoạn thiếu niên,
nhưng tình bạn vẫn chiếm vị trí đặc biệt trong lòng các em. Các em thường
trò chuyện, chia sẻ tâm tư tình cảm, những khó khăn vướng mắc cũng như vui
buồn của mình cho bạn thân. Lời khuyên của bạn thân đôi khi có ý nghĩa
quyết định đối với việc giải quyết những vấn đề quan trọng của các em.
Giai đoạn này, gia đình ảnh hưởng trực tiếp đến những quyết định quan
trọng của các em trong tương lai. Sự hướng dẫn, chia sẻ của cha mẹ sẽ giúp
các em tự tin bước vào cuộc đời. Đặc biệt giúp các em tự tin chọn lựa nghề
nghiệp thích hợp nhất đối với bản thân.
Ngày nay, một số gia đình có quan niệm “Đại học là cánh cửa duy nhất
bước vào đời”, do vậy một số bậc cha mẹ có xu hướng đầu tư cho con từ học
chính đến học thêm để có thể vượt qua các kì thi mà đôi khi quên đi sự chia sẻ
và quan tâm đến những khó khăn mà các em đang gặp phải trong học tập và
hướng nghiệp. Điều này khiến mối quan hệ của cha mẹ và các em dần trở nên
xa cách. Áp lực học tập, áp lực thi cử, áp lực từ thầy cô và nhà trường cộng
với những đòi hỏi quá cao từ cha mẹ sẽ làm các em cảm thấy áp lực và mệt
mỏi dẫn đến bi quan, chán nản.
Trong giai đoạn này, các em đã tự quyết định những vấn đề của mình
dưới sự hướng dẫn, chia sẻ của cha mẹ và thầy cô để hạn chế sự nôn nóng và
hấp tập nơi các em. Cha mẹ không nên áp đặt ý muốn của bản thân lên ước
mơ và hoài bão của các em. Để các em tự do trong những khuôn khổ nhất
định, chuẩn bị cho các em hành trang về kiến thức, về niềm tin để có thể
chuẩn bị sẵn sàng cho tương lai sắp tới.
39
b. Nhận thức về việc chọn nghề và xu hướng chọn nghề, yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình chọn nghề
Ở lứa tuổi học sinh THPT, nhu cầu tự ý thức được phát triển mạnh mẽ,
khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và
năng lực riêng, và sự tự ý thức này xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt
động. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận
thức về vị trí của mình trong xã hội, tương lai; và các em coi trọng những
phẩm chất bên trong. Ở lứa tuổi này, các em có thể xây dựng được thế giới
quan hoàn chỉnh với tư cách là một hệ thống quan điểm; và sự hình thành thế
giới quan này được thể hiện ở tính tích cực nhận thức. Một vấn đề quan trọng
cần được nhắc đến trong thế giới quan của các em đó là việc chọn nghề một
cách có ý thức, đây là công việc khẩn thiết đối với các em; các em hiểu được
rằng: cuộc sống tương lai phụ thuộc vào chỗ các em có biết lựa chọn nghề
một cách đúng đắn hay không. Dù vô tâm đến đâu thì các em cũng phải quan
tâm, suy nghĩ đến việc chọn nghề. Việc quyết định chọn một nghề nào đó ở
nhiều em đã có căn cứ. Nhiều em biết so sánh đặc điểm riêng về thể chất, tâm
lý, khả năng của mình với yêu cầu của nghề nghiệp, mặc dù sự hiểu biết của
các em về yêu cầu của nghề còn phiến diện, chưa đầy đủ.
Học sinh khi bắt đầu định hướng chọn nghề thì điều trước tiên đòi hỏi
các em phải hiểu biết về nghề định chọn. Hiện nay, đa số các em còn định
hướng một cách phiến diện, đó là việc học tập ở đại học, các em hướng vào
các trường đại học nhiều hơn là học nghề, tâm thế này sẽ dễ có ảnh hưởng
tiêu cực đối với các em (vô tình hoặc cố ý) đã không chú ý đến nhu cầu của
xã hội đối với các nghành nghề khác nhau và mức độ đào tạo của các nghề
trong khi quyết định đường đời cho minh (Đỗ Thị Lệ Hằng, 2010).
Ở lứa tuổi này, các em luôn đặt ra những câu hỏi như: học đại học hay
học nghề, học trường đại học nào, chọn nghành nghề nào, .v.v… Việc lựa
chọn nghề nghiệp sẽ có ảnh hưởng đến tương lai của các em về sau. Do vậy,
40
khác với lứa tuổi trước, nhu cầu định hướng nghề nghiệp là nhu cầu cấp bách
và đòi hỏi có sự đầu tư nghiêm túc về cả thời gian và tâm sức.
Xu hướng nghề nghiệp là thiên hướng chọn một nghề ổn định, và xu
hướng nghề nghiệp này sẽ thúc đẩy toàn bộ hoạt động của cá nhân để đạt kết
quả như mong muốn. Thế nhưng xu hướng chọn nghề hiện nay của HS
thường là theo những suy nghĩ chủ quan mà không căn cứ vào năng lực, sở
trường của bản thân, cũng như nhu cầu địa phương và xã hội. Các em lại
thành kiến với một số nghề trong xã hội và ý kiến của người khác. Chính vì
không đánh giá, không có đầy đủ thông tin chống chỉ định y học trong nghề
từ đó gây nên nhiều cản trở cho các em trong hoạt động nghề nghiệp.
1.2.4.2. Biểu hiện hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp của học sinh lớp 12
Hứng thú giao tiếp với cha mẹ được nảy sinh từ nhu cầu định hướng
nghề nghiệp của học sinh lớp 12. Trên thực tế, hầu hết HS lớp 12 đều có
mong muốn lựa chọn nghề nghiệp tương lai cho bản thân, mỗi HS sẽ có nhận
thức khác nhau về lĩnh vực nghề nghiệp tuy nhiên trước thế giới nghề nghiệp
rộng lớn các em thường hoang mang về các thông tin xã hội đem đến vì vậy
hoạt động tư vấn, hướng nghiệp được nhà trường thúc đẩy nhằm hỗ trợ cho
HS có cái nhìn đúng đắn nhất về nghề nghiệp tương lai. Tuy nhiên bên cạnh
yếu tố nhà trường, xã hội gia đình cũng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng vì
sự lựa chọn tương lai các em còn phụ thuộc kinh tế gia đình, mong muốn cha
mẹ… Vì vậy để thỏa mãn nhu cầu xác định thông tin nghề nghiệp các em cần
tham gia hoạt động giao tiếp với cha mẹ, trao đổi qua lại về định hướng nghề
nghiệp tương lai, nhờ thỏa mãn nhu cầu này dẫn đến nảy sinh hứng thú trong
quá trình giao tiếp giữa cha mẹ và con của học sinh lớp 12.
Trong luận văn này chúng tôi nghiên cứu hứng thú giao tiếp với cha mẹ
của học sinh lớp 12 thể hiện qua hứng thú giao tiếp về định hướng nghề
nghiệp ở ba mặt với những biểu hiện cụ thể trong từng mặt như sau:
41
Nhóm biểu hiện nhận thức
Nhận thức tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc
định hướng nghề nghiệp. Nhận thức nhu cầu định hướng nghề nghiệp của bản
thân thông qua hoạt động giao tiếp với cha mẹ.
Nhận thức ý nghĩa của quá trình giao tiếp giữa cha mẹ và con: Thông
qua quá trình giao tiếp nhằm trao đổi thông tin về đối tượng nghề nghiệp mà
con lựa chọn, cơ sở đào tạo nghề nghiệp, loại hình đào tạo, sự phù hợp năng
lực bản thân, nguồn lực hỗ trợ từ phía gia đình…
Nhóm biểu hiện xúc cảm
Hứng thú giao tiếp thể hiện bằng việc đồng ý hay không đồng ý với
những thông tin, nhận xét và thái độ của cha mẹ đưa ra trong quá trình giao
tiếp, hài lòng hay không hài lòng với biểu hiện cảm xúc mà cha mẹ thể
hiện,… Từ đó định hướng cho hành động cũng như nảy sinh những xúc cảm
dương tính với hoạt động.
Nhóm các biểu hiện về mặt hành động
Con cái biểu hiện bằng các hành động tích cực chủ động tham gia hoạt
động giao tiếp như mức độ thường xuyên tiếp xúc, trao đổi thông tin với cha
mẹ, có những hành động tích cực thu thập thông tin về nghề nghiệp bàn luận
với cha mẹ. Đi sâu tìm hiểu thêm thông tin mà cha mẹ cung cấp, chủ động
nêu ra quan điểm của bản thân và tìm kiếm sự đồng thuận nhất trí từ phía cha
mẹ.
1.2.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng
Học sinh lớp 12 đang ở độ tuổi đầu thanh niên (từ 17 đến 18 tuổi). Theo
tâm lý học lứa tuổi, tuổi thanh niên là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy
thì và kết thúc khi bước vào tuổi mới lớn. Ở độ tuổi này có rất nhiều yếu tố
ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của
các em.
42
a. Các yếu tố từ phía học sinh
Hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 về định hướng nghề
nghiệp chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố nhận
thức về tầm quan trọng của việc chọn nghề được xem là một trong những yếu
tố quan trọng. Ở lứa tuổi đầu thanh niên nhu cầu chọn ngành, chọn nghề đã
trở thành một nhu cầu cấp bách và cần thiết đối với các em để có thể đưa ra
một hướng đi cho bản thân sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.
Cũng xuất phát từ nhu cầu định hướng nghề nghiệp ở lứa tuổi này sự
mong muốn tìm hiểu thêm kiến thức kiên quan đến việc định hướng nghề
nghiệp cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến hứng thú giao tiếp với cha
mẹ về định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12. Nhờ vào hoạt động này
sẽ cung cấp cho các em nhiều thông tin, kinh nghiệm sống từ cha mẹ cũng
như nhận được những lời khuyên, chỉ dẫn đúng đắn khi các em cảm thấy
hoang mang vì chịu quá nhiều tác động, đòi hỏi từ bên ngoài.
Sự hình thành tự ý thức là một quá trình lâu dài và trải qua nhiều mức độ
khác nhau. Ở học sinh lớp 12, quá trình tự ý thức diễn ra mạnh mẽ và có
những nét đặc thù riêng. Đặc diểm nổi bật trong sự tự ý thức xuất phát từ yêu
cầu của cuộc sống và hoạt động cá nhân. Học sinh lớp 12 có mong muốn tìm
hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo quan điểm và mục
đích sống của bản thân. Nội dung của tự ý thức ở lứa tuổi này khá phức tạp.
Các em không chỉ tự ý thức, đánh giá về hình thể mà còn nhận thức được cái
tôi của mình trong hiện tại, vị trí của mình trong tương lai.
Sự nhận thức cái tôi trong hiện tại và vị trí trong tương lai giúp các em
xây dựng cá tính mạnh mẽ hay yếu đuối của bản thân, điều này ít nhiều ảnh
hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của các em. Thêm vào đó các yếu tố
như nhu cầu nhận thức về hoàn cảnh kinh tế gia đình, lòng tin, sự tôn trọng
với cha mẹ cũng thúc đẩy các em chủ động và tích cực hơn trong việc giao
tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.
43
b. Các yếu tố từ phía cha mẹ
Việc tìm hiểu các yếu tố từ phía cha mẹ có ảnh hưởng rất to lớn đến
hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp
12. Những yếu tố này cho ta thấy cha mẹ có tác động như thế nào đến hứng
thú giao tiếp của các em cũng như cung cấp thêm thông tin hữu ích góp phần
nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12.
Gia đình là yếu tố quan trọng, đóng vai trò quyết định trong định hướng
nghề nghiệp của con. Cha mẹ và những người thân trong gia đình là người
luôn gần gũi, hiểu rõ các em. Họ có thể giúp đỡ các em trong việc đánh giá
đúng năng lực của bản thân để chọn nghề phù hợp với sở thích của mình. Bên
cạnh đó, cha mẹ là người có kinh nghiệm sống, có sự hiểu biết về xã hội, nghề
nghiệp, có các mối quan hệ xã hội rộng rãi, vì thế họ có thể tư vấn hay nhờ sự
hỗ trợ của người khác. Từ đó các em có nhận thức nhiều hơn về thế giới nghề
nghiệp. Hơn nữa truyền thống văn hóa của nước ta con cái thường nghe theo
cha mẹ, luôn mong muốn đáp ứng những kỳ vọng mà cha mẹ đặt ra vì tin
tưởng và muốn cha mẹ vui lòng. Điều kiện kinh tế của gia đình, nghề nghiệp,
trình độ học vấn của cha mẹ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hứng thú giao
tiếp của các em. Ngoài ra sự quan tâm ủng hộ của cha mẹ tới bản thân các em
cũng như những ước mơ nguyện vọng, ngành nghề mà các em lựa chọn cũng
tác động rất lớn đến quyết định của các em.
Cha mẹ của học sinh lớp 12 phần lớn đang ở độ tuổi từ 35 – 50 là độ tuổi
chín muồi về tài năng, sự kết tinh trí tuệ, đã có nghề nghiệp ổn định và có
nhiều cơ hội thăng tiến trong công việc, điều này đồng nghĩa với việc cha mẹ
phải dành phần lớn thời gian cho công việc nên ít có thời gian quan tâm đến
con. Hơn nữa cha mẹ tuổi trưởng thành còn phải đối diện với những vấn đề
khác của chính họ và những vấn đề này của cha mẹ cũng phần nào ảnh hưởng
đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của học sinh
lớp 12.
44
Một trong những yếu tố có ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ đến hứng thú
giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 là cha mẹ vẫn giữ nguyên thái độ
trước đây đối với trẻ. Những lý do khiến cha mẹ vẫn giữ nguyên thái độ đó
chính là: trẻ ở lứa tuổi này dù sao vẫn còn đi học, còn phụ thuộc vào cha mẹ
về nhiều điều kiện (kinh tế, kinh nghiệm sống…), cha mẹ vốn có thói quen
điều khiển và kiểm soát trẻ, thậm chí cho đó là điều tất yếu, rất khó phá vỡ
thói quen ấy…Tất cả những điều đó làm cho cha mẹ ứng xử với trẻ lớp 12
như ứng xử với một đứa trẻ. Cách cha mẹ ứng xử với con còn chịu ảnh hưởng
bởi những yếu tố chủ quan (thói quen, kiến thức, kinh nghiệm, quan điểm ứng
xử…) và yếu tố khách quan (công việc, khoảng cách thế hệ…). Tất cả các yếu
tố trên đều có những tác động nhất định đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về
định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12.
45
Tiểu kết Chương 1
Hứng thú là một hiện tượng tâm lý rất quan trọng của con người do đó
đã xuất hiện rất nhiều các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài
nước về đề tài này. Hứng thú được nghiên cứu từ rất sớm trên rất nhiều khía
cạnh và ngày càng được quan tâm.
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa
có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá
nhân trong quá trình hoạt động.
Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người được quy định bởi
các yếu tố tâm lý cá nhân nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, trao đổi
thông tin qua lại, cảm xúc, điều chỉnh nhận thức, hành vi của cá nhân và
người khác.
Hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề của học sinh lớp 12
là thái độ lựa chọn đặc biệt của học sinh lớp 12 đối với sự tiếp xúc tâm lý giữa
bản thân với cha mẹ trong lĩnh vực định hướng nghề do sự tiếp xúc này có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình điều chỉnh định hướng nghề nghiệp, tìm
kiếm thông tin nghề phù hợp với bản thân và thị trường lao động tương lai
của học sinh lớp 12 và mang lại những cảm xúc tích cực.
Dựa trên những cơ sở lý luận đó, chúng tôi nghiên cứu thực trạng hứng
thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12.
46
Chương 2
THỰC TRẠNG HỨNG THÚ GIAO TIẾP VỚI CHA MẸ
CỦA HỌC SINH LỚP 12 TẠI HUYỆN TÂN HIỆP,
TỈNH KIÊN GIANG
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu và thể thức nghiên cứu
2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Huyện Tân hiệp là cửa ngõ của tỉnh Kiên Giang có diện tích 42.288 ha
với 1 thị trấn và 10 xã cùng mức dân số 34.609 hộ.
Huyện có địa hình đồng bằng và hệ thống kênh chằng chịt. Hàng năm bị
lũ chi phối từ tháng 8 đến hết tháng 11 nên đất luôn có được lượng phù sa
màu mỡ bồi đắp. Đời sống nhân dân chủ yếu là nông nghiệp (trồng 2 vụ
lúa/năm). (Trích: Báo cáo tổng kết năm tình hình phát triển kinh tế văn hóa
xã hội huyện Tân Hiệp – 2016).
Huyện Tân Hiệp cũng rất chú trọng đến việc đầu tư phát triển hệ thống
giáo dục. Tân hiệp có 11/11 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi (có 07 xã đạt mức độ 2 và 04 xã đạt mức độ 3. Toàn
huyện có 1.725 cán bộ giáo viên và nhân viên, trong đó có 01 thạc sĩ và 1.345
đại học (Trích báo cáo tổng kết công tác giáo dục huyện Tân Hiệp 2016-
2017).
Hiện tại Huyện Tân Hiệp có 4 trường THPH là: THPT Tân Hiệp, THPT
Thạnh Tây, THPT Thạnh Đông và THPT Cây Dương.
Trong đề tài này, người nghiên cứu tiến hành khảo sát 3 trường là THPT
Tân Hiệp, THPT Thạnh Tây, THPT Thạnh Đông.
Trường THPT Tân Hiệp thuộc Thị trấn Tân Hiệp, có tổng số HS lớp 12
trong năm học 2017 – 2018 là 585 em. Trong đó có 500 em đăng ký thi vào
các trường ĐH, CĐ và 85 em chỉ thi tốt nghiệp THPT. Công tác hướng
nghiệp tại trường gồm các họat động:
47
- Tổ chức 2 tiết học môn hướng nghiệp/ tuần cho các em HS vào đầu
năm lớp 12.
- Tổ chức các buổi tham quan đến các trường ĐH như: ĐH Cửu Long,
ĐH Kiên Giang.
- Liên kết với một số trường ĐH, CĐ ở địa phương đến chia sẻ và tư vấn
hướng nghiệp cho các em (ĐH Cửu Long, ĐH Kiên Giang)
Năm học 2017 – 2018, trường THPT Thạnh Tây có tổng số 89 HS lớp
12, trong đó có 63 HS đăng ký nguyện vọng vào các trường ĐH, CĐ; 26 HS
chỉ đăng ký thi tốt nghiệp THPT.
- Nhà trường đưa vào thời khóa biểu 2 tiết hướng nghiệp/ 1 tháng.
- Tổ chức cho HS đi trải nghiệm thực tế tại các trường ĐH, CĐ vào
tháng 3 hàng năm.
Trường THPT Thạnh Đông năm học 2017 – 2018 có tổng số 172 HS,
trong đó có 145 HS đăng ký thi vào các trường ĐH, CĐ; 27 HS đăng ký thi
tốt nghiệp. Các thông tin về hướng nghiệp sẽ được lồng ghép vào sinh hoạt
dưới cờ hàng tuần. Tạo điều kiện cho các trường ĐH, CĐ đến giao lưu, chia
sẻ về các ngành mà trường đang đào tạo (ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Kỹ thuật
Vĩnh Long, ĐH Công nghệ TP. Hồ Chí Minh).
2.1.2. Thể thức nghiên cứu
2.1.2.1. Mẫu nghiên cứu
Đề tài tiến hành khảo sát học sinh của ba trường: trường THPT Thạnh
Đông, trường THPT Thạnh Tây và trường THPT Tân Hiệp. Với khách thể
học sinh, trong quá trình thực hiện khảo sát, người nghiên cứu hướng dẫn học
sinh trả lời những nội dung trong phiếu thăm dò ý kiến.
Số phiếu phát ra là 300 phiếu.
Số phiếu thu về là 263 phiếu.
Số phiếu hợp lệ của học sinh là 239 phiếu.
Đặc điểm cụ thể của mẫu nghiên cứu được thể hiện trong bảng dưới đây:
48
Bảng 2.1. Mẫu nghiên cứu học sinh
Đặc điểm Số lượng Phần trăm (%)
THPT Thạnh Tây 70 29,3
Trường THPT Thạnh Đông 53 22,2
THPT Tân Hiệp 116 48,5
Nam 102 42,7 Giới tính Nữ 137 57,3
Dưới 12/12 156 65,3 Trình độ học vấn 12/12 49 20,5 của cha Trên 12/12 34 14,2
Dưới 12/12 175 73,2 Trình độ học vấn 12/12 40 16,7 của mẹ Trên 12/12 24 10,0
Tổng 239 100
2.1.2.2. Công cụ nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi và phương pháp phỏng vấn dành cho các đối tượng khách thể
là học sinh và cha mẹ học sinh. Trong đó phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
là phương pháp chính của đề tài.
Dưới đây là nội dung chi tiết các công cụ khảo sát.
a. Bảng hỏi
Bảng hỏi dành cho học sinh
Bảng hỏi bao gồm 2 phần: thông tin cá nhân và nội dung khảo sát.
Phần nội dung khảo sát, chúng tôi tìm hiểu
- Biểu hiện nhận thức: học sinh nhận thức được ý nghĩa của việc trao
đổi với cha mẹ (Câu 1, 2, 3)
49
Câu 1: Tìm hiểu về tầm quan trọng của việc trao đổi với cha mẹ có 3
mức độ để học sinh có thể lựa chọn: Rất quan trọng, quan trọng và không
quan trọng. Tương ứng từ 2 đến 0 điểm.
Câu 2: Tìm hiểu nhu cầu trao đổi với cha mẹ với câu hỏi này có 3 mức
độ: Có, không và không quan tâm, tương ứng với số điểm từ 2 đến 0
Câu 3: Tìm hiểu nhận thức của học sinh về việc trao đổi với cha mẹ gồm
có 15 câu nhỏ, từ câu 3.1 đến câu 3.15 trong đó gồm có hai loại câu hỏi là câu
hỏi thuận và câu hỏi nghịch. Trong đó câu hỏi thuận là câu 3.1, 3.4, 3.5, 3.6,
3.7, 3.8, 3.9, 3.10, 3.11, 3.12, 3.13, 3.14, 3.15 và câu hỏi nghịch 3.2 và 3.3 các
câu hỏi này được đánh giá theo năm mức độ: Rất đúng, đúng, phân vân,
không đúng và hoàn toàn không đúng tương ứng với 5 đến 1 điểm.
- Biểu hiện Xúc cảm: (Câu 4)
Câu 4: Tìm hiểu thái độ thể hiện qua xúc cảm, tình cảm của học sinh về
việc trao đổi với cha mẹ, câu hỏi này gồm 13 câu hỏi nhỏ trong đó các câu
4.1, 4.5, 4.10, 4.11, 4.13 là các câu hỏi thuận và các câu 4.2, 4.3, 4.4, 4.6, 4.7,
4.8, 4.9, 4,12 là các câu hỏi nghịch. Các câu hỏi này được đánh giá theo năm
mức độ: Hoàn toàn đồng ý, đồng ý, phân vân, không đồng ý, hoàn toàn không
đồng ý, được tính điểm từ 5 đến 1 điểm.
- Biểu hiện hành động: (Câu 5)
Câu 5: Tìm hiểu biểu hiện về hành vi, hứng thú trao đổi với cha mẹ. Câu
hỏi này gồm 15 câu hỏi nhỏ từ câu 5.1 đến 5.15. Câu hỏi này được đánh giá
theo năm mức độ: Rất thường xuyên, thường xuyên, thỉnh thoảng, ít khi,
không bao giờ, tương ứng từ 5 tới 1 điểm.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học
sinh
Câu 6: Tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha
mẹ của học sinh từ câu 6.1 đến câu 6.12 được đánh giá theo năm mức độ. Các
câu 6.1, 6.2, 6.3, 6.4, 6.5, 6.6 là yếu tố từ phía cha mẹ, các câu 6.7, 6.8, 6.9,
50
6.10, 6.11, 6.12 tương ứng với các yếu tố từ phía con. Câu hỏi này được đánh
giá theo 5 mức độ từ: Rất ảnh hưởng, ảnh hưởng, bình thường, ít ảnh hưởng
và không ảnh hưởng, được tính điểm từ 5 đến 1 điểm.
Độ tin cậy của hệ thống nội dung các câu hỏi:
Người nghiên cứu kiểm tra độ tin cậy của phiếu thăm dò ý kiến bằng
phiếu kiểm nghiệm Crobach Alpha và thu được kết quả sau đây:
+ Hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo nhận thức (câu 3) là 0,853.
+ Hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo mặt mặt xúc cảm (câu 4) là
0,843.
+ Hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo mặt hành động (câu 5) là 0,875.
Hệ số Cronbach’s Alpha các phần của thang đo nằm trong khoảng 0,6 –
0,9. Nhận thấy kết quả thang đo là khá cao vì vậy có thể kết luận thang đo là
phù hợp và đáng tin cậy.
Tiêu chí đánh giá mức độ hứng thú
Các tiêu chí:
Để đánh giá mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS chúng tôi tiến
hành tích hợp cả 3 tiêu chí (Nhận thức, xúc cảm và hành vi) trên mỗi học
sinh. Chúng tôi quy ước, nếu HS không đáp ứng được 3 tiêu chí này thì không
có hứng thú giao tiếp với cha mẹ. Và trong hai mặt xúc cảm và hành vi nếu
HS không nảy sinh xúc cảm dương tính mạnh mẽ cũng như không tích cực
giao tiếp với cha mẹ thì coi như HS đó chưa có hứng thú giao tiếp với cha mẹ:
Các mức độ đánh giá:
Mức độ - 3 hứng thú cao: Ở mức độ này, HS có nhận thức tương đối đầy
đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động cũng như có xúc cảm dương tính
mạnh mẽ với hoạt động giao tiếp với cha mẹ và hoạt động phải có ý nghĩa với
bản thân HS. Từ đó, HS có hành động tích cực, chủ động giao tiếp với cha
mẹ.
51
Mức độ 2 - hứng thú trung bình: HS có xúc cảm dương tính ở mức vừa
phải với hoạt động giao tiếp và có hành động tích cực giao tiếp. Nhận thức có
thể ở mức độ tương đối đầy đủ về hoạt động.
Mức độ 1 - hứng thú thấp: Ở mức độ này HS không nảy sinh xúc cảm
dương tính với hoạt động giao tiếp, chưa nhận thức được ý nghĩa của hoạt
động và chưa có hành động giao tiếp với cha mẹ. Hoặc giữa 3 mặt nhận thức
– xúc cảm - hành vi chưa có sự tương quan với nhau.
* Cách tính điểm:
Câu 3,4,5 tương ứng với các mặt nhận thức, xúc cảm và hành vi, người
nghiên cứu tính tổng điểm từng câu và chia mức thành 3 mức độ cao, thấp,
trung bình từng mặt như sau:
Bảng 2.2. Cách chia biên giới liên tục của ĐTB mặt nhận thức – ĐTB xúc
cảm và ĐTB hành vi
ĐTB nhận thức, ĐTB xúc cảm, ĐTB hành vi Mức độ
1 – 2,32 Thấp
2,33 – 3,65 Trung bình
3,66 - 5 Cao
Cách qui đổi điểm trung bình với thang đo năm mức độ khi xử lý điểm
trung bình như sau:
Bảng 2.3. Quy đổi sang điểm trung bình
ĐTB Câu 3 Câu 4 Câu 5 Câu 6
Hoàn toàn Rất thường Rất ảnh 4,2 – 5 Rất đúng đồng ý xuyên hưởng
3,4 – 4,19 Đúng Đồng ý Thường xuyên Ảnh hưởng
2,6 – 3,39 Phân vân Phân vân Thỉnh thoảng Bình thường
1,8 – 2,59 Không đúng Không đồng ý Ít khi Ít ảnh hưởng
Hoàn toàn Hoàn toàn Không ảnh 1 – 1,79 Không bao giờ không đúng không đồng ý hưởng
52
Bảng 2.4. Cách quy đổi điểm trung bình sang các mức độ
Mức độ
Nhận thức (15 câu)
Xúc cảm (13 câu)
Hành vi (15 câu)
Điểm trung bình 3,66 -5 2,33 -3,65 1 – 2,32 3,66 -5 2,33 -3,65 1 – 2,32 3,66 -5 2,33 -3,65 1 – 2,32 Mức độ Cao Trung bình Thấp Cao Trung bình Thấp Cao Trung bình Thấp
Bảng 2.5. Quy tắc xác định mức độ hứng thú
Quy tắc Các trường hợp Mức độ
Cả ba mặt đều cao Cao - Cao - Cao
Cao Trung bình - Cao - Cao
Hai mặt xúc cảm và hành vi ở mức độ cao, nhận thức ở mức trung bình
Cả ba mặt đều trung bình Trung bình - Trung bình - Trung bình
Cao - Trung bình - Trung bình
Trung bình - Cao - Trung bình
Trung bình - Trung bình - Cao Trung bình Cao - Trung bình - Cao
Hai mặt trung bình trở lên, trong đó xúc cảm và hành vi ở mức trung bình hoặc cao Cao - Cao - Trung bình
Thấp – Trung bình – Trung bình
Trung bình - Trung bình - Thấp Xúc cảm hoặc hành vi ở Cao - Trung bình - Thấp mức thấp Thấp Thấp - Trung bình - Thấp
Hai mặt thấp Trung bình - Thấp - Thấp
53
b. Phiếu phỏng vấn
Người viết tiến hành phỏng vấn HS và cha mẹ HS về các vấn đề liên
quan đến nội dung bảng hỏi cũng như hứng thú giao tiếp với cha mẹ để làm rõ
kết quả nghiên cứu qua phương pháp điều tra.
c. Phương pháp xử lý số liệu khảo sát
Người nghiên cứu sử dụng phần mềm thống kê SPSS để xử lý các dữ
liệu thu được, bao gồm một số phép thống kê như:
- Kiểm định độ tin cậy
- Tính tần số
- Điểm trung bình
- Độ lệch chuẩn: dùng để mô tả mức độ phân tán hay tập trung của các
câu trả lời được lựa chọn
- Phân tích so sánh: trong việc nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu dùng so
sánh điểm trung bình. Các điểm trung bình được coi là khác nhau và có ý
nghĩa về mặt thống kê với xác suất p<0.05. Trong đó, chúng tôi dùng kiểm
định kiểm định Chi – bình phương (chi-square) để kiểm định mức độ hứng
thú.
- Phân tích tương quan: chúng tôi sử dụng tương quan pearson để tìm
hiểu mối tương quan giữa ba mặt nhận thức, xúc cảm và hành vi theo điểm
trung bình của từng mặt.
2.1.2.3. Quá trình tổ chức nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu làm 4 giai đoạn
Giai đoạn 1: Nghiên cứu lý luận
Giai đoạn 2: Xây dựng phiếu khảo sát ý kiến mở. Căn cứ vào giả thuyết
và nhiệm vụ nghiên cứu, người nghiên cứu đã phát phiếu khảo sát ý kiến sử
dụng câu hỏi mở về những nội dung có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Người nghiên cứu đã phát 30 phiếu thăm dò bằng câu hỏi mở cho HS trường
THPT Tân Hiệp.
54
Giai đoạn 3: Xây dựng phiếu khảo sát thử nghiệm. Sau khi thu được 30
phiếu thăm dò ý kiến bằng câu hỏi mở và tham khảo ý kiến của giảng viên
hướng dẫn, người nghiên cứu đã xây dựng phiếu thăm dò ý kiến thử nghiệm.
Ở giai đoạn này, người nghiên cứu đã phát ra 30 phiếu cho HS.
Giai đoạn 4: Từ kết quả thu được, người nghiên cứu xây dựng, phiếu
thăm dò ý kiến chính thức phát cho HS.
2.2. Thực trạng hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 tại
huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang
2.2.1. Nhận thức về giao tiếp với cha mẹ
2.2.1.1. Nhận thức về tầm quan trọng của việc giao tiếp với cha mẹ
Câu hỏi 1 chúng tôi tìm hiểu nhận thức của HS về tầm quan trọng của
hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp, chúng tôi
dựa trên câu hỏi 1 với ba mức độ rất quan trọng, quan trọng và không quan
trọng. Kết quả được trình bày ở bảng 2.6.
Bảng 2.6. Nhận thức về tầm quan trọng của việc giao tiếp với cha mẹ
Tầm quan trọng của việc giao Số lượng Phần trăm (%) tiếp với cha mẹ
Rất quan trọng 115 48,1%
Quan trọng 119 49,8%
Không quan trọng 5 2,1%
Kết quả ở bảng 2.6 cho thấy có 119 HS cho rằng việc giao tiếp với cha
mẹ đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng nghề nghiệp chiếm tỉ lệ
49,8% , có 48,1% HS cho rằng việc giao tiếp với cha mẹ là rất quan trọng
trong việc định hướng nghề nghiệp và chỉ có 2,1% HS cho rằng hoạt động
này không quan trọng. Từ đó ta thấy đa số các em HS đã nhận thức đúng và
đánh giá rất cao về tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong
việc định hướng nghề nghiệp. Các em đã phần nào hiểu được việc trao đổi và
55
chia sẻ với cha mẹ về những vấn đề liên quan đến định hướng nghề nghiệp
cho bản thân đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp các em có thể chọn được
một hướng đi phù hợp sau khi học xong 12. Bạn VTKP chia sẻ: “Em và các
bạn đều biết để định hướng nghề nghiệp một cách tốt nhất, thì cha mẹ có vai
trò vô cùng quan trọng, vì cha mẹ có nhiều kinh nghiệm sống cũng như có
nhiều hiểu biết để giúp em đưa ra quyết định một cách đúng đắn nhất.
Thêm vào đó người nghiên cứu có thu thập được một số ý kiến về lý do
vì sao HS lựa chọn mức độ quan trọng của hứng thú giao tiếp trong việc định
hướng nghề nghiệp cụ thể được trình bày trong bảng sau:
Bảng 2.7. Lý do học sinh lựa chọn mức độ quan trọng của hứng thú giao
tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp
STT Nội dung Tần số Phần trăm (%)
1 Định hướng nghề nghiệp 21 2.1%
2 Cha mẹ hiểu được ước mơ, nguyện vọng 5 5.2%
3 Quyết định tương lai 19 19.8%
4 Tự lựa chọn nghề phù hợp với bản thân 5 5.2%
5 Cha mẹ là người có kinh nghiệm 24 25.0%
Phù hợp với hoàn cảnh gia đình 6 12 12.5%
Cha mẹ mong muốn con chọn nghề phù 7 3 3.1% hợp
8 Tin tưởng ý kiến của cha mẹ 4 4.2%
Cha mẹ giúp chon tự tin lựa chọn nghề 9 1 1.0% nghiệp
10 Chọn nghề phù hợp với bản thân 16 16.7%
11 Chọn nghề nghiệp phù hợp với sở thích 1 1.0%
12 Có được sự ủng hộ của cha mẹ 4 4.2%
13 Hiểu được mong muốn của bản thân 3 3.1%
14 Có thêm nhiều sự chọn về nghề nghiệp 2 2.1%
56
Qua bảng 2.7 ta thấy, học sinh có hứng thú giao tiếp với cha mẹ vì các
em tin tưởng vào kinh nghiệm của cha mẹ, bằng chứng trong 120 lượt trả lời,
có 24 lượt lựa chọn lý do vì “cha mẹ là người có kinh nghiệm”. Các em cho
rằng kinh nghiệm của cha mẹ sẽ hỗ trợ rất nhiều cho các em trong việc định
hướng nghề nghiệp.
Kế đến là ý kiến “định hướng nghề nghiệp” 21 lượt lựa chọn, ở đây việc
định hướng nghề thông qua hoạt động giao tiếp được các em chú trọng và
quan tâm. Có 19 lượt trả lời lý do là “quyết định tương lai” các em cho rằng
việc trao đổi với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp sẽ có những tác động đến
tương lai của các em sau này. Sự lựa chọn này phần nào khẳng định vai trò và
vị trí của cha mẹ đối với tương lai của các em. Yếu tố “chọn nghề phù hợp
với bản thân” có 16 lượt lựa chọn. “Phù hợp với hoàn cảnh gia đình” có 12
lượt lựa chọn như vậy việc trao đổi với cha mẹ sẽ giúp các em có thể chọn
được nghề phù hợp với bản thân cũng như hoàn cảnh gia đình. Kế tiếp là “Tự
lựa chọn nghề phù hợp với bản thân” với 5 lượt lựa chọn, một số em cũng cho
rằng các em cần tự lựa chọn nghề nghiệp cho mình. Xếp kế có cùng có 4 lượt
lựa chọn là “Có được sự ủng hộ của cha mẹ” và “Tin tưởng ý kiến của cha
mẹ”, ta thấy thông qua hoạt động giao tiếp với cha mẹ, các em có được sự ủng
hộ và tin tưởng từ phía cha mẹ. Tiếp theo cùng có 1 lượt lựa chọn là “Chọn
nghề nghiệp phù hợp với sở thích” và “Cha mẹ giúp con tự tin lựa chọn nghề
nghiệp”.
Nhìn chung có rất nhiều lý do để các em đánh giá mức độ quan trọng của
hoạt động giao tiếp, nhưng những lý do này hầu hết đều xuất phát từ nhận
thức đúng đắn của các em về hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc định
hướng nghề nghiệp của các em. Hầu hết các lý do mà các em đưa ra đều cho
thấy các em có sự tin tưởng vào kinh nghiệm, khả năng, cách nhìn nhận của
cha mẹ. Các em tin tưởng rằng cha mẹ sẽ giúp đỡ các em rất nhiều trong việc
57
định hướng nghề nghiệp, lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai và những lựa
chọn này sẽ phù hợp với khả năng, năng lực của bản thân, cũng như phù hợp
với điều kiện kinh tế gia đình, một số em cũng thể hiện mong muốn tự lựa
chọn nghề nghiệp theo ý nguyện của bản thân. Tuy nhiên, các em vẫn đề cập
đến vai trò định hướng của cha mẹ.
2.2.1.2. Nhận thức về nhu cầu giao tiếp với cha mẹ về định hướng
nghề nghiệp của học sinh lớp 12
Yếu tố nhu cầu là một yếu tố vô cùng quan trọng vì khi các em nhận
thức được nhu cầu giao tiếp với cha mẹ, cũng như nảy sinh những xúc cảm
dương tính với hoạt động giao tiếp với cha mẹ, thì sẽ thúc đẩy các em có hành
động giao tiếp với cha mẹ.
Bảng 2.8. Nhận thức về nhu cầu giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp của học sinh lớp 12:
Nhu cầu giao tiếp với cha mẹ Số lượng Phần trăm (%)
Có 218 91,2
Không 18 7,5
Không quan tâm 3 1,3
Qua bảng 2.8 ta thấy phần lớn các em đều có nhu cầu giao tiếp với cha
mẹ, chiếm 91,2%, số lượng HS không có nhu cầu chiếm 7,5% và không quan
tâm chỉ chiếm 1,3%.
Nhìn chung các em đều nhận thức được nhu cầu giao tiếp với cha mẹ về
vấn đề định hướng nghề nghiệp. Các em hiểu rằng thông qua việc trao đổi và
trò chuyện với cha mẹ sẽ giúp các em dễ dàng hơn trong việc chọn nghề cho
bản thân. Tuy nhiên, trong thực tế một số bậc cha mẹ nhận định con mình
chưa có nhu cầu giao tiếp với cha mẹ. Ông VNP cho biết: “Con tôi không nói
với tôi nhiều về những nguyện vọng hay mong muốn của nó về nghề nghiệp
trong tương lai. Tôi nghĩ nó cảm thấy điều đó không cần thiết”. Ở đây ta thấy
58
có sự mâu thuẫn giữa nhận thức của HS lớp 12 với những nhận định của cha
mẹ về nhu cầu giao tiếp. Vậy điều gì khiến các em chưa thể hiện những nhu
cầu của bản thân để cha mẹ có thể hiểu, hay nói cách khác điều gì làm cha mẹ
chưa cảm nhận được nhu cầu giao tiếp của con cái mình.
2.2.1.3. Nhận thức về ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với cha mẹ
trong việc định hướng nghề nghiệp
Việc giao tiếp trao đổi với cha mẹ có rất nhiều ý nghĩa cho HS lớp 12
trong việc định hướng nghề nghiệp, vậy đó là những ý nghĩa nào và các em có
đánh giá như thế nào về những ý nghĩa này. Kết quả thể hiện trong bảng 2.9.
Bảng 2.9. Nhận thức về ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong
việc định hướng nghề nghiệp của học sinh
STT Ý nghĩa ĐTB ĐLC
1 Cung cấp rất nhiều thông tin về nghề nghiệp. 3,76 0,860
Khiến em gặp khó khăn hơn trong việc lựa chọn 2 3,56 0,857 nghề nghiệp.
Không hỗ trợ được gì cho em trong việc định 3 3,95 0,831 hướng nghề nghiệp.
Giúp em biết được tỷ lệ chọi của nghề ở các 4 3,22 0,989 trường khác nhau.
Được cha mẹ tạo cơ hội cho em tham gia nhiều 5 3,55 1,047 chương trình hướng nghiệp, tư vấn nghề.
Giúp em nhận ra sở trường của bản thân, từ đó 6 3,77 0,921 em nhận ra nhiều nghề có thể lựa chọn.
Được cha mẹ giới thiệu thêm nhiều trường khác 7 3,38 1,026 nhau có đào tạo nghề mà em đã lựa chọn.
59
STT Ý nghĩa ĐTB ĐLC
Giúp em nhận ra cơ hội việc làm trong tương lai 8 3,77 0,772 của nhiều nghề khác nhau.
Giúp em biết thêm nhiều loại hình đào tạo như 9 3,37 0,920 đào tạo từ xa, chính quy, tại chức…
Giúp em đánh giá được tính cách của em có phù
10 hợp với yêu cầu nghề nghiệp mà em đã lựa chọn 3,80 0,846
hay không.
Giúp em lựa chọn được loại hình đào tạo phù 11 3,64 0,808 hợp.
Giúp em chọn trường học phù hợp với điều kiện 12 4,06 0,719 kinh tế gia đình. ?
13 Giúp em biết thêm nhiều lĩnh vực nghề nghiệp. 3,58 0,870
Giúp em ý thức được rằng, không nên dựa hoàn 14 3,91 0,942 toàn vào ý kiến của bạn bè khi chọn nghề.
Định hướng cho em tự quyết định nghề trong 15 4,13 0,815 tương lai.
Trung bình chung 3,69
Kết quả ở bảng 2.9 cho ta thấy nhận thức của HS về ý nghĩa của hoạt
động giao tiếp với cha mẹ là mức “đúng” với ĐTB chung là 3,69 trong
khoảng (ĐTB = 3,4 – 4,19). Nghĩa là HS đã nhận thức tương đối đầy đủ về ý
nghĩa, vai trò của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề
nghiệp. Trong đó hoạt động giao tiếp với cha mẹ giữ vai trò “Định hướng cho
HS tự quyết định nghề trong tương lai” có ĐTB = 4,13 xếp thứ hạng cao nhất,
60
cho thấy HS đã nhận thức được ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với cha mẹ có
tính chất định hướng giúp các em tự chọn ngành, chọn nghề. Ta thấy, được
các em có mong muốn tự lựa chọn nghành nghề cho bản thân dựa trên sự định
hướng của cha mẹ. Khi chúng tôi tiến hành phỏng vấn một số em HS về vấn
đề này, hầu hết các em đều chia sẻ rằng bản thân hi vọng được tự quyết định
nghề nghiệp theo mong muốn của bản thân và cha mẹ sẽ giữ vai trò định
hướng để các em tránh được những sai lầm vì chưa nhìn nhận được nhiều mặt
của vấn đề.
Tiếp theo “Giúp em chọn trường học phù hợp với điều kiện kinh tế gia
đình” có ĐTB = 4,06, xếp thứ hai. Điều này cho thấy khi giao tiếp với cha mẹ
các em sẽ hiểu rõ hơn về nguồn lực và sự hỗ trợ từ phía gia đình. Các em
nhận thức được thông qua việc giao tiếp với cha mẹ sẽ xác định được những
nguồn lực của gia đình và chọn được nghề phù hợp như ông VTT (phụ huynh
em VTKP trường THPT Thạnh Đông) cho biết: “Điều kiện kinh tế gia đình sẽ
có rất nhiều ảnh hưởng đến quyết định chọn trường chọn nghề cho con tôi vì
tôi phải biết được mình có đủ khả năng đóng học phí cho con mỗi năm hay
không”. Chính cha mẹ sẽ là người hiểu rõ nhất về khả năng kinh tế của bản
thân từ đó sẽ giúp con xác định và lựa chọn trường học, nghành học phù hợp
nhất để việc đi học của con không tạo thành một gánh nặng quá lớn lên kinh
tế gia đình. Ông bà ta có câu: “Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh” với mỗi
điều kiện hoàn cảnh gia đình khác nhau cha mẹ sẽ là người có thể gợi ý cho
con hướng đi nào là phù hợp nhất với điều kiện gia đình ở từng thời điểm
khác nhau.
Ở vị trí thứ ba là “Không hỗ trợ được gì cho em trong việc định hướng
nghề nghiệp” với ĐTB = 3,95. Đây là câu hỏi gần như phủ định hoàn toàn vai
trò của cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp cho con với cách tính điểm
ngược ta nhận thấy các em hầu như không đồng ý với quan điểm này. Khi
chúng tôi tiến hành phỏng vấn HS lớp 12 tại trường THPT Tân Hiệp về vấn
61
đề này bạn NAQ cho biết: “Dù có như thế nào thì ý kiến của cha mẹ vẫn có
vai trò quan trọng trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai của chúng em
sau này”. Có thể trong thực tế các em chưa chủ động chia sẻ với cha mẹ
nhưng các em vẫn luôn hiểu được rằng cha mẹ đóng vai trò quan trọng trong
việc định hướng nghề nghiệp cho bản thân cũng như những ý kiến mà cha mẹ
đưa ra sẽ giúp đỡ, hỗ trợ các em lựa chọn được hướng đi phù hợp nhất trong
tương lai sắp tới.
“Giúp em ý thức được rằng, không nên dựa hoàn toàn vào ý kiến của
bạn bè khi chọn nghề” xếp vị trí thứ tư với ĐTB= 3,91. Quan hệ bạn bè giữ
vai trò quan trọng trong đời sống tình cảm của các em. Đối với các em, bạn bè
trở thành chỗ dựa tinh thần, là chỗ tâm tình thổ lộ những vướng mắc thầm
kín. Lời khuyên của bạn bè đôi khi có ý nghĩa quyết định đối với việc giải
quyết những vấn đề quan trọng của các em. Từ điểm này ta thấy được mặc dù
bạn bè là nơi các em chia sẻ tâm tình nhưng các em vẫn ý thức việc lựa chọn
nghề nghiệp định hướng tương lai không nên hoàn toàn dựa vào những lời
khuyên, góp ý của bạn bè mà cần có sự hỗ trợ từ phía gia đình. Bởi vì, việc
định hướng nghề nghiệp cần có sự hiểu biết sâu rộng về nhiều mặt của xã hội
cũng như cần có nhiều kinh nghiệm sống, để giúp các em tránh được những
sai lầm hấp tấp do suy nghĩ chưa đủ chín chắn.
Theo các em đánh giá việc giao tiếp, trò chuyện với cha mẹ còn hỗ trợ
các em trong việc chọn nghề phù hợp với tính cách ( ĐTB= 3.80), nhận ra
những cơ hội việc làm trong tương lai cũng như biết thêm nhiều nghề phù hợp
với sở trường của bản thân ( ĐTB= 3.77). Thêm vào đó thông qua cha mẹ các
em sẽ biết thêm nhiều thông tin về nghề nghiệp, các loại hình đào tạo khác
nhau, các lĩnh vực đào tạo khác nhau. Những thông tin này rất hữu ích với các
em để có cái nhìn đầy đủ và toàn vẹn hơn về thế giới nghề nghiệp, nhờ đó
việc lựa chọn một hướng đi một nghề nghiệp cho tương lai sẽ trở nên dễ dàng
hơn.
62
Tiếp theo vị trí thứ mười với ĐTB= 3,56 “Khiến em gặp khó khăn hơn
trong việc lựa chọn nghề nghiệp”. Đây là một câu hỏi nghịch với ĐTB không
thấp những cũng chưa thật sự cao ta thấy được cha mẹ tuy là người giúp đỡ và
hỗ trợ các em nhưng đôi khi vẫn sẽ gây cho các em những khó khăn nhất định
trong việc định hướng nghề nghiệp. Bạn NHN cho biết: “Cha mẹ đã có những
định hướng riêng cho mình nhưng đối với em thì lại không mong muốn rằng
mình sẽ học và làm theo những gì mà cha mẹ đã định hướng như vậy”. Trong
gia đình sẽ luôn tồn tại những mâu thuẫn (lứa tuổi, thế hệ, quan điểm sống,…)
điều này ít nhiều gây khó khăn để tìm thấy một tiếng nói chung cho cả cha mẹ
và con cái.
Từ vị trí thứ mười một trở lên là các nhóm câu hỏi liên quan đến những
chương trình hướng nghiệp mà xã hội và nhà trường đang quan tâm. Nhu cầu:
“Được cha mẹ tạo cơ hội cho em tham gia nhiều chương trình hướng nghiệp,
tư vấn nghề” có ĐTB= 3,55 ở vị trí mười một. Có ĐTB= 3,38 “Được cha mẹ
giới thiệu thêm nhiều trường khác nhau có đào tạo nghề mà em đã lựa chọn”
được xếp hạng thứ mười hai. “Giúp em biết thêm nhiều loại hình đào tạo như
đào tạo từ xa, chính quy, tại chức…” có ĐTB= 3,37 có vị trí kế cuối trong
bảng xếp hạng. Về các loại hình đào tạo các em chưa có được nhiều thông tin
từ hoạt động giao tiếp với cha mẹ, có thể do trong thực tế các em hầu như chỉ
quan tâm đến hệ đào tạo chính quy. Một số gia đình có quan niệm “Đại học là
cánh cửa duy nhất bước vào đời”, do vậy một số bậc cha mẹ có xu hướng đầu
tư cho con từ học chính đến học thêm để có thể vượt qua các kì thi mà đôi khi
quên đi sự chia sẻ và quan tâm đến những khó khăn mà các em đang gặp phải
trong học tập và hướng nghiệp.
Xếp vị trí cuối cùng với ĐTB= 3,22 là “Giúp em biết được tỷ lệ chọi của
nghề ở các trường khác nhau”. Trong thực tế, cha mẹ cũng ít quan tâm tới vấn
đề tỷ lệ chọi của các trường. Cha mẹ luôn định hướng các em vào những vấn
đề quan trọng hơn như sự phù hợp của nghề với tính cách, sở thích, hay sự
63
phát triển của nghề trong tương lai. Theo bạn PNN (trường THPT Thạnh Tây)
chia sẻ: “Cha mẹ không nói gì nên em cũng không suy nghĩ nhiều đến vấn đề
này”. Các em có thể trò chuyện với bạn bè, thầy cô cũng như tìm kiếm thông
tin này qua các trang mạng xã hội.
Tóm lại HS lớp 12 đã có nhận thức tương đối đầy đủ về ý nghĩa, tầm
quan trọng và vai trò của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc định
hướng nghề nghệp.
Để tìm hiểu rõ hơn về mức độ nhận thức của các em HS lớp 12 về ý
nghĩa và tầm quan trọng của giao tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề
nghiệp, chúng tôi tiến hành phân tích và đưa ra kết quả như bảng 2.10.
Bảng 2.10. Mức độ nhận thức của học sinh về ý nghĩa của hoạt động giao
tiếp với cha mẹ
Mức độ nhận thức Tần số Phần trăm (%)
Cao 160 66,9
Trung bình 75 31,4
Thấp 4 1,7
Tổng 239 100%
Trong bảng 2.10 Có 160 em đạt nhận thức ở mức cao, chiếm 66,9%, ở
mức trung bình có 75 em tương ứng với 31,4% và chỉ có 4 em tương ứng với
1,7% là có nhận thức ở mức thấp. Về mặt ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với
cha mẹ ta thấy được mức độ nhận thức của HS là khá cao, hầu hết các em đã
nhận thức được tương đối đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng và vai trò của
hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp. Điều này
phù hợp với thực tế như lời bạn NQĐ: “Cha mẹ có nhiều trải nghiệm và nhiều
kinh nghiệm sống trong xã hội nên họ sẽ phần nào đó giúp em được trong
việc chọn ngành nghề trong tương lai sắp tới”. Tuy vậy một số bậc cha mẹ khi
được hỏi về vấn đề này lại có những suy nghĩ khác biệt như ông NVM chia
64
sẻ: “Con ít trao đổi với cha mẹ về vấn đề này vì con cái nghĩ rằng có thể độc
lập, tự quyết định được”. Ở đây ta thấy có sự mâu thuẫn giữa nhận thức của
HS và những suy nghĩ của cha mẹ. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng
tôi tiến hành nghiên cứu thêm biểu hiện xúc cảm và biểu hiện hành vi của
hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.
2.2.2. Những biểu hiện về xúc cảm đối với việc giao tiếp với cha mẹ
Bảng 2.11.
Những biểu hiện xúc cảm đối với việc giao tiếp với cha mẹ
Thứ STT Biểu hiện xúc cảm ĐTB ĐLC bậc
4 1 Chăm chú lắng nghe ý kiến của cha mẹ 4,00 0,664
5 2 Cảm thấy nhàm chán 3,92 0,831
Thích nghe ý kiến của bạn bè hơn là ý 7 3 3,80 0,831 kiến cha mẹ
Không hài lòng với những quan điểm 4 3,68 0,889 10 của cha mẹ
Cảm thấy được tôn trọng khi trao đổi ý 5 4,00 0,770 4 kiến với cha mẹ về việc chọn nghề.
Khi được cha mẹ hỏi về việc chọn nghề, 6 3,76 0,873 9 em thường trả lời miễn cưỡng.
Không thể chấp nhận những điều cha mẹ 7 4,02 0,830 3 nói
Thích xin ý kiến chuyên gia hơn là ý 8 3,35 0,944 12 kiến cha mẹ
Lảng tránh trò chuyện với cha mẹ về 9 3,90 0,824 6 việc hướng nghiệp
65
Thứ STT Biểu hiện xúc cảm ĐTB ĐLC bậc
Luôn mong đợi được chia sẻ những
10 thông tin về vấn đề nghề nghiệp với cha 3,79 0,819 8
mẹ
Cảm thấy hào hứng khi trao đổi với cha
11 mẹ về thông tin liên quan đến nghề 3,63 0,835 11
nghiệp.
Không quan tâm đến những ý kiến của 12 4,18 0,724 1 cha mẹ
Sẵn sàng nói lên suy nghĩ ý kiến cho cha 13 4,12 0,817 2 mẹ hiểu hơn về em
Điểm trung bình chung 3,85
Từ kết quả của bảng 2.11 Ta thấy mặt xúc cảm có ĐTB chung cao nhất
trong cả ba mặt nhận thức, xúc cảm và hành vi, với ĐTB chung là 3,85 thuộc
khoảng (ĐTB = 3,4 – 4,19) tương ứng với mức “đồng ý”. Ta nhận thấy HS có
xúc cảm dương tính đối với hoạt động giao tiếp với cha mẹ, cụ thể như sau:
Có ĐTB cao nhất= 4,18 “Không quan tâm đến những ý kiến của cha
mẹ”. Ở đây ta thấy được các em có sự quan tâm đến những thông tin, những ý
kiến và những quan điểm mà cha mẹ nói đến trong quá trình giao tiếp. Có thể
tại thời điểm mà cha mẹ nói các em tỏ ra không quan tâm, thậm chí đôi khi
còn cảm thấy khó chịu vì cha mẹ nói quá nhiều, nói quá dài dòng… Nhưng sự
thật là sau này, khi gặp những tình huống cần xử lý hay khi các em suy nghĩ
đến những vấn đề liên quan, các em vẫn sẽ nhớ đến và suy ngẫm về những gì
mà cha mẹ nói với mình, về những quan điểm, những cách xử lý mà cha mẹ
đã từng đề cập tới.
66
Nằm ở vị trí thứ hai là “Sẵn sàng nói lên suy nghĩ ý kiến cho cha mẹ hiểu
hơn về em” với ĐTB= 4,12. Các em luôn trong tâm thế sẵn sàng chia sẻ thông
tin với cha mẹ về những mong muốn và cảm xúc của bản thân trong quá trình
giao tiếp để cha mẹ hiểu hơn về mình, từ đó có thể đưa đến sự thống nhất và
đồng ý trong quá trình giao tiếp. Thế nhưng, nhiều bậc cha mẹ nghĩ rằng, con
cái không sẵn sàng để trò chuyện hay chia sẻ với mình. Ví dụ như bà VTB
(phụ huynh trường THPT Thạnh Đông) cho biết: “Con tôi cũng có nói lên
những quan điểm của mình nhưng thường là trong lúc tranh luận, con có
chính kiến riêng và bảo vệ ý kiến của mình”. Để giải thích vấn đề này có rất
nhiều nguyên nhân có thể do các em cảm thấy chưa đủ an toàn, hoặc các em
cảm thấy lo lắng, e ngại những phản ứng tiêu cực từ phía cha mẹ… Vì thế,
cha mẹ cần dành thêm nhiều thời gian để lắng nghe và thấu hiểu con mình.
Tiếp theo với ĐTB= 4,02 “Không thể chấp nhận những điều cha mẹ nói”
nằm ở vị trí thứ ba. Đây là một câu hỏi phủ định với cách tính điểm ngược, ta
có thể nhận thấy HS chấp nhận những ý kiến mà cha mẹ đưa ra trong một
mức độ nhất định, sẽ không cảm thấy khó chịu hay có thái độ tiêu cực với
những gì cha mẹ nói. Điều này một lần nữa khẳng định, dù các bậc cha mẹ
đôi khi cảm thấy con cái không lắng nghe những gì họ nói, nhưng thật ra các
em vẫn rất để tâm, rất chú ý đến những quan điểm và đánh giá của cha mẹ
mình và những ý kiến này thường sẽ có rất nhiều ảnh hưởng đến những quyết
định của các em, nhất là trong việc các em lựa chọn ngành nghề, hướng đi cho
bản thân trong tương lai.
“Cảm thấy được tôn trọng khi trao đổi ý kiến với cha mẹ về việc chọn
nghề” và “Chăm chú lắng nghe ý kiến của cha mẹ” có ĐTB ngang nhau là
4,00 xếp thứ 4 trong tất cả các yếu tố. Đây là một dấu hiệu cho thấy mối giao
tiếp giữa cha mẹ và con cái vẫn còn rất chặt chẽ. Khi giữa cha mẹ và con cái,
có sự trao đổi và chia sẻ trên cơ sở tôn trọng ý kiến của cả hai bên, cũng như
dành đủ thời gian để lắng nghe và thấu hiểu lẫn nhau thì sẽ rất dễ dàng để có
67
được sự thống nhất và đồng thuận trong các vấn đề của cuộc sống, cũng như
việc định hướng nghề nghiệp cho các em sau này.
Trong quá trình giao tiếp, trò chuyện với cha mẹ các em không cảm thấy
nhàm chán (ĐTB = 3.92), các em cũng không có sự lảng tránh việc trò
chuyện với cha mẹ cũng như phần nào thích xin ý kiến của cha mẹ về định
hướng nghề nghiệp (ĐTB = 3,80). Như lời bạn NTH có chia sẻ “Nếu như cha
mẹ hiểu được ý nguyện, mong muốn của em thì em có thể trò chuyện với cha
mẹ một cách tích cực và rút kinh nghiệm từ những ý kiến đó của cha mẹ”. Ta
có thể nhận thấy, tuy các em không thể hiện sự nhàm chán hay lảng tránh
trong việc giao tiếp với cha mẹ nhưng có lẽ các em cũng cần có sự thấu hiểu
và chấp nhận của cha mẹ với những nguyện vọng và mong muốn của bản
thân. Khi ấy sẽ tạo được sự thoải mái, dễ chịu trong cuộc trò chuyện giữa cha
mẹ và con cái về định hướng nghề nghiệp.
Có ĐTB= 3,79 “Luôn mong đợi được chia sẻ những thông tin về vấn đề
nghề nghiệp với cha mẹ” nằm ở vị trí thứ tám. Xếp ở vị trí thứ chín “Khi được
cha mẹ hỏi về việc chọn nghề, em thường trả lời miễn cưỡng” có ĐTB= 3,76.
Tuy rằng khi cha mẹ chủ động trò chuyện, hỏi han về các vấn đề hướng
nghiệp các em sẽ không trả lời một cách miễn cưỡng nhưng các em cũng chưa
có nhiều mong đợi và kỳ vọng trong việc trao đổi với cha mẹ về định hướng
nghề nghiệp. Có thể trong thực tế cha mẹ chưa hiểu hết những sở thích, ý
nguyện của các em, hơn nữa còn khiến các em cảm thấy bị áp đặt bởi những
quan điểm mà cha mẹ đưa ra. Do vậy các em chưa đạt được những gì mà bản
thân mong muốn từ cha mẹ. Điều này dẫn đến việc các em chưa thật sự mong
đợi được trao đổi với cha mẹ về những định hướng nghề nghiệp cho tương lai.
Ở vị trí thứ mười “Không hài lòng với những quan điểm của cha mẹ” có
ĐTB= 3,68. Có vị trí gần cuối là “Cảm thấy hào hứng khi trao đổi với cha mẹ
về thông tin liên quan đến nghề nghiệp” với ĐTB= 3,63. Tuy xếp ở những vị
trí gần cuối nhưng ĐTB vẫn nằm trong khoảng 3,4 – 4,19 thuộc mức độ
68
“đúng”, có nghĩa là các em vẫn cảm thấy hài lòng với những quan điểm mà
cha mẹ đưa ra cũng như có sự hào hứng nhất định trong việc trao đổi với cha
mẹ về định hướng nghề nghiệp.
Vị trí cuối cùng với ĐTB= 3,35 “Thích xin ý kiến chuyên gia hơn là ý
kiến cha mẹ”. Đây là nội dung duy nhất trong tất cả các câu có ĐTB thuộc
khoảng (2,6 – 3,39) ở mức độ “phân vân”. Có thể thấy, trong lĩnh vực định
hướng nghề nghiệp các em sẽ thích nghe ý kiến chuyên gia hơn là ý kiến cha
mẹ, vì chuyên gia sẽ có nhiều thông tin chính xác và đầy đủ hơn cha mẹ.
Thêm vào đó chuyên gia thường sẽ không có sự áp đặt các em vào một hướng
đi nào đó mà sẽ cho các em nhìn thấy nhiều con đường để có thể lựa chọn,
cân nhắc. Tuy nhiên do đặc trưng địa bàn huyện Tân Hiệp, công tác hướng
nghiệp cho học sinh chủ yếu là do trường học tổ chức với sự hướng dẫn của
giáo viên chủ nhiệm mà chưa có bộ phận tư vấn học đường đảm nhiệm, do
vậy các em chưa có nhiều cơ hội để được tiếp xúc với những chuyên gia trong
lĩnh vực hướng nghiệp. Điều này cho thấy các em cảm thấy phân vân với câu
hỏi này là hoàn toàn hợp lý.
Nhìn chung, với những biểu hiện về mặt xúc cảm trong hoạt động giao
tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp, các em đã có được sự quan tâm
đồng thuận và những xúc cảm dương tính như hài lòng, thích thú,… Trong
bảng hỏi này có 13 mục hỏi với 5 mục hỏi là tích cực và 8 mục hỏi là tiêu
cực, dường như với những mục tiêu cực các em dễ dàng đưa ra lựa chọn hơn
và có số ĐTB tương đối cao so với các mục tích cực.
69
Bảng 2.12. Mức độ biểu hiện xúc cảm của học sinh đối với hoạt động giao
tiếp với cha mẹ
Mức độ biểu Tần số Phần trăm (%) hiện xúc cảm
178 Cao 74,5
60 Trung bình 25,1
1 Thấp 0,4
239 Tổng 100%
Dựa vào kết quả của bảng 2.12 Ta thấy được về mặt biểu hiện xúc cảm
các em đều ở mức khá cao. Với 178 em ở mức độ cao chiếm 74,5%, ở mức độ
trung bình chỉ có 60 em chiếm tỉ lệ 25,1% và cuối cùng, với tỷ lệ 0,4% có 1
em có biểu hiện xúc cảm ở mức độ thấp. Hầu hết các em đều có những xúc
cảm tích cực với hoạt động giao tiếp với cha mẹ, các em cảm thấy đồng ý và
hài lòng với những ý kiến mà cha mẹ đưa ra, cũng như hào hứng và chú ý
lắng nghe trong quá trình giao tiếp với cha mẹ. Trong thực tế khi cha mẹ trao
đổi với con cái về những vấn đề chọn ngành, chọn nghề, chọn trường,… Vẫn
luôn có sự trái ngược về quan điểm, xu hướng, điều này đôi khi dẫn đến sự
tranh luận trong lúc trò chuyện. Có thể những tranh luận này sẽ làm các em
cảm thấy khó chịu không thoải mái. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận ở một mức độ
khác những tranh luận này là cơ hội để cha mẹ và con cái nói lên ý kiến, quan
điểm của mình. Từ đó, sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn trong giao tiếp với
cha mẹ. Điều này cũng giúp cha mẹ và con cái dễ dàng có được tiếng nói
chung trong việc định hướng nghề nghiệp cho các em
2.2.3. Hành vi giao tiếp với cha mẹ
Để xác định mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp của HS lớp 12, ngoài hai mặt biểu hiện nhận thức và biểu hiện xúc
cảm thì biểu hiện về mặt hành vi cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Có
70
thể các em có nhận thức đầy đủ, có nảy sinh xúc cảm dương tính với hoạt
động giao tiếp với cha mẹ. Nhưng liệu rằng trong mặt hành động các em có
chủ động tích cực trong việc giao tiếp với cha mẹ không? Kết quả được thể
hiện trong bảng 2.13.
Bảng 2.13. Hành vi giao tiếp với cha mẹ
Thứ STT Hành vi giao tiếp với cha mẹ ĐTB ĐLC bậc
Chủ động hỏi cha mẹ nghề mà em lựa chọn có 1 3,16 0,980 9 đặc điểm công việc như thế nào
Cùng cha mẹ tích cực tìm kiếm loại hình đào 2 3,05 1,086 11 tạo nghề nghiệp phù hợp
Chia sẻ với cha mẹ về quan điểm nghề nghiệp 3 3,47 0,916 3 của bản thân
Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về điều kiện kinh 4 3,54 1,036 2 tế gia đình khi chọn trường theo học
Tìm hiểu kỹ hơn các thông tin mà cha mẹ gợi 5 3,31 0,972 6 ý
Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về sự phù hợp
6 giữa năng lực của bản thân và ngành nghề em 3,28 1,041 7
lựa chọn
7 Phản đối gay gắt những ý kiến của cha mẹ 4,21 1,004 1
Tham gia các hoạt động hướng nghiệp để có 8 3,00 1,023 13 nhiều thông tin trò chuyện với cha mẹ
Chủ động tìm hiểu các thông tin về trường 9 3,38 0,948 5 đào tạo để trao đổi với cha mẹ
Cố gắng thuyết phục cha mẹ đồng ý với quyết 10 3,21 1,031 8 định nghề nghiệp của bản thân
71
Thứ STT Hành vi giao tiếp với cha mẹ ĐTB ĐLC bậc
Chia sẻ ngay với cha mẹ khi vừa nhận được
11 một thông tin mới liên quan đến trường đào 3,40 0,925 4
tạo, hoặc nghề mà em đã chọn
Cùng cha mẹ gặp gỡ chuyên gia tư vấn hướng 12 2,02 1,109 15 nghiệp
Chủ động dành thời gian trò chuyện với cha 13 3,15 0,997 10 mẹ về việc chọn nghề
Chia sẻ cho cha mẹ nghe chuyện chọn nghề 14 3,03 1,117 12 của bạn bè
Chủ động tham gia các trắc nghiệm tính cách 15 2,58 1,230 14 để có thêm dẫn chứng trò chuyện cùng cha mẹ
ĐTB Chung 3,18
Kết quả bảng 2.13. Cho thấy về mặt hành vi, các em chưa thật sự chủ
động và tích cực giao tiếp với cha mẹ, với ĐTB chung là 3,18 nằm trong
khoảng (ĐTB= 2,6 – 3,39) trong mức “thỉnh thoảng”. Mặc dù các em đã có
nhận thức tương đối đầy đủ cũng như có nảy sinh những xúc cảm dương tính
trong hoạt động giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp. Nhưng
những hành vi giao tiếp với cha mẹ các em không thường xuyên thể hiện.
Xếp hạng cao nhất “Phản đối gay gắt những ý kiến của cha mẹ” có
ĐTB= 4,21. Ở câu này điểm trung bình cao hơn hẳn các câu khác, cho thấy
HS sẽ không phản đối một cách tiêu cực với những ý kiến của cha mẹ. Trong
thực tế không thể tránh được những trường hợp cha mẹ thể hiện những quan
điểm khác với nguyện vọng, ý muốn của con. Có thể tại thời điểm đó các em
72
chưa hiểu và chấp nhận được những quan điểm này, nhưng các em cũng
không phản đối một cách gay gắt.
Nằm ở vị trí thứ hai có ĐTB= 3,54 “Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về điều
kiện kinh tế gia đình khi chọn trường theo học” và ĐTB= 3,47 “Chia sẻ với
cha mẹ về quan điểm nghề nghiệp của bản thân” xếp vị trí thứ 3. Cả hai câu
này nằm trong khoảng “thường xuyên” cho thấy các em có sự tích cực chủ
động trong việc giao tiếp với cha mẹ về điều kiện kinh tế gia đình và những
quan điểm mong muốn của các em về nghề nghiệp trong tương lai. Điều kiện
kinh tế gia đình có rất nhiều ảnh hưởng đến việc lựa chọn hướng đi của HS
lớp 12 sau khi tốt nghiệp. Để có thể đưa ra lựa chọn phù hợp nhất cho bản
thân các em đã có sự chủ động trao đổi với cha mẹ về vấn đề này, thêm vào
đó các em cũng có sự chủ động chia sẻ với cha mẹ về những quan điểm của
bản thân về nghề nghiệp trong tương lai. Trong thực tế, có thể các em chưa
chủ động chia sẻ và tâm tình với cha mẹ về những suy nghĩ, nguyện vọng của
bản thân. Nhưng các em vẫn luôn sẵn sàng để nói với cha mẹ những suy nghĩ,
những quan điểm của mình. Và dường như, các em cần có sự quan tâm, hỏi
han, lắng nghe nhiều hơn từ phía cha mẹ để các em có thể nói lên những
nguyện vọng, tâm tư của mình. Bạn VVT trường THPT Thạnh Đông chia sẻ:
“Em có thể nói ra cho cha mẹ nghe về những quan điểm của mình, nhưng em
cũng không chắc ý kiến của em có được cha mẹ đồng ý hay không”.
Xếp vị trí thứ tư “Chủ động tìm hiểu các thông tin về trường đào tạo để
trao đổi với cha mẹ” với ĐTB= 3,38. “Tìm hiểu kỹ hơn các thông tin mà cha
mẹ gợi ý” với ĐTB= 3,31 xếp thứ năm. Từ hai yếu tố nêu trên ta nhận thấy
các em chưa có nhiều sự chủ động tìm kiếm thông tin để có thêm dữ liệu trao
đổi với cha mẹ cũng như chưa có sự đi sâu tìm hiểu những gì mà cha mẹ gợi
ý. Do vậy việc trao đổi giữa các em với cha mẹ chưa mang lại nhiều hiệu quả
như mong muốn cũng như chưa hỗ trợ được nhiều cho các em trong việc định
hướng nghề nghiệp.
73
Thông qua những biểu hiện về mặt hành vi như hỏi cha mẹ về sự phù
hợp của nghề nghiệp với bản thân (ĐTB = 3,28), thuyết phục cha mẹ (ĐTB =
3,21), chủ động trò chuyện với cha mẹ (ĐTB = 3,15), cùng cha mẹ tìm kiếm
các loại hình đào tạo (ĐTB = 3,05). Ta nhận thấy mối quan hệ, sự tương tác
giữa cha mẹ và con cái chưa thật sự chặt chẽ, tuy nhiên HS vẫn có sự chủ
động giao tiếp với cha mẹ về những vấn đề mà các em cho là quan trọng.
Ở vị trí thứ mười có ĐTB= 3,03 “Chia sẻ cho cha mẹ nghe chuyện chọn
nghề của bạn bè”. Đây là một thực tế của đa số học sinh hiện nay, bản thân
các em với mối liên hệ gia đình chưa thật sự chặt chẽ nên việc tâm sự, chia sẻ
những câu chuyện chọn nghề của bạn bè cho cha mẹ còn nhiều hạn chế. Tuy
nhiên, nếu trong quá trình chọn nghề ước mơ và lý tưởng của các em bị cha
mẹ phản đối, các em có thể chọn lựa hình thức đi “đường vòng” chia sẻ
những câu chuyện của bạn bè, của anh chị, kinh nghiệm từ những người đi
trước cho cha mẹ hiểu và thông cảm, từ đó sẽ có cái nhìn thoáng hơn trong
việc định hướng chọn nghề cho các em.
Với ĐTB= 3,00, yếu tố “Tham gia các hoạt động hướng nghiệp để có
nhiều thông tin trò chuyện với cha mẹ” ở vị trí mười một. Có mức ĐTB= 2,58
xếp vị trí thứ mười hai là “Chủ động tham gia các trắc nghiệm tính cách để có
thêm dẫn chứng trò chuyện cùng cha mẹ”. Vị trí cuối cùng là câu “Cùng cha
mẹ gặp gỡ chuyên gia tư vấn hướng nghiệp” với ĐTB= 2,02. Như vậy, về mặt
hướng nghiệp, việc gặp gỡ chuyên gia cùng cha mẹ hay tham gia các trắc
nghiệm, tính cách để có thêm thông tin trao đổi với cha mẹ là rất ít. Có thể do
tính chất địa phương chưa tiếp cận được nhiều với các hình thức này hoặc do
các em chưa thật sự chủ động tích cực trong việc thu thập thông tin để trao
đổi với cha mẹ.
Nhìn chung về mặt hành vi, HS chưa có sự chủ động tích cực trong việc
giao tiếp với cha mẹ. Tuy các em không có hành vi phản đối gay gắt với
những gì cha mẹ nói trong quá trình giao tiếp, cũng như có trao đổi chia sẻ
74
với cha mẹ về điều kiện kinh tế gia đình và những quan điểm của bản thân,
nhưng các em chưa có sự chủ động đi sâu khai thác thông tin cha mẹ cung cấp
cũng như chủ động tìm kiếm thêm thông tin từ các phương tiện khác để có thể
trao đổi lại với cha mẹ, cuộc trao đổi chỉ diễn ra với tính chất một chiều và
chưa có những phản hồi tích cực. Ở đây xin trích lời của một bậc cha mẹ tại
trường THPT Thạnh Tây bà VTQ chia sẻ: “Con thường ít trò chuyện cởi mở
với cha mẹ, hỏi gì thì nói đó nhưng mà chỉ trả lời bằng câu rút gọn là “Có”,
“Không” và “Dạ vâng”, nên cha mẹ sẽ không thể nào hiểu được tâm tư, tình
cảm và nguyện vọng của bản thân các con, có những trường hợp khác là con
sẽ không bao giờ chia sẽ về tâm tư nguyện vọng và khi cha mẹ hỏi thì con
chưa xác định được mong muốn của mình vì thế nên phụ thuộc vào quyết
định của cha mẹ”.
Bảng 2.14. Mức độ hành động giao tiếp với cha mẹ của học sinh
Mức độ hành động Tần số Phần trăm (%)
Cao 72 30,1
Trung bình 142 59,4
Thấp 25 10,5
Tổng 239 100%
Từ bảng 2.14 ta thấy được có sự khác biệt giữa mức độ biểu hiện hành vi
so với hai mức độ biểu hiện xúc cảm và mức độ biểu hiện nhận thức. Khi mà
ở mặt hành vi chỉ có 72 em ở mức độ hành vi cao, tương ứng với 30,1%, mức
độ trung bình có 142 em với 59,4% và mức độ thấp có đến 25 em tương ứng
với 10,5%. Các em có nhận thức tương đối đầy đủ, có nảy sinh xúc cảm
dương tính, nhưng về mặt hành vi thì chưa có hành động chủ động tích cực
trong giao tiếp với cha mẹ hoặc chỉ dừng lại ở việc không phản đối gay gắt và
chia sẻ quan điểm cá nhân, còn đi sâu tìm hiểu thông tin và có sự tìm tòi chủ
động thì chưa có. Trong thực tế hoạt động giao tiếp giữa cha mẹ và con cái
75
chưa hỗ trợ được nhiều cho các em trong việc định hướng nghề nghiệp. Điều
này có thể do cha mẹ và con cái chưa tìm thấy một tiếng nói chung, mối quan
hệ giữa cha mẹ và con cái chưa thật sự chặt chẽ. Cha mẹ chưa dành đủ thời
gian để quan tâm, tìm hiểu những mong muốn, nguyện vọng của con.
2.2.4. Hứng thú giao tiếp với cha mẹ
2.2.4.1. Mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12
Ta thấy được hầu hết các em có nhận thức tương đối đầy đủ, có nảy sinh
xúc cảm dương tính nhưng chưa có hành động chủ động tích cực trong hoạt
động giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp. Để đưa ra mức độ
hứng thú cho HS lớp 12, chúng tôi tiến hành tích hợp cả biểu hiện nhận thức,
xúc cảm và hành vi theo nguyên tắc như sau:
Hứng thú ở mức độ cao khi có nhận thức ở mức tương đối đầy đủ, có
nảy sinh xúc cảm dương tính một cách mạnh mẽ và có hành vi chủ động tích
cực trong giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.
Hứng thú ở mức độ trung bình khi nhận thức có thể chưa đầy đủ nhưng
đã có nảy sinh xúc cảm dương tính cũng như có những hành vi chủ động
trong hoạt động giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.
Hứng thú ở mức độ thấp khi không có nảy sinh những xúc cảm dương
tính và không có hoạt động tích cực chủ động trong giao tiếp với cha mẹ về
định hướng nghề nghiệp.
Sau khi tiến hành tích hợp, chúng tôi thu được kết quả như bảng 2.15
Bảng 2.15. Mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ
Mức độ hứng thú Tần số Phần trăm (%)
Cao 66 27,6
Trung bình 148 61,9
Thấp 25 10,5
Tổng 239 100
76
Điểm trung bình chung của mức độ hứng thú là 2,17 nằm ở mức độ
trung bình trong khoảng biên giới liên tục (1,67 - 2,33) vì vậy ta có thể thấy
mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 nằm ở mức độ trung
bình chiếm 61,9% (tức 148 HS), mức độ cao chiếm 27,6% và mức độ hứng
thú thấp chiếm 10,5%. Nhìn chung về hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS
lớp 12 ở mức trung bình. Hầu hết các em có nhận thức tương đối đầy đủ, có
nảy sinh xúc cảm dương tính trong quá trình giao tiếp, tuy nhiên lại chưa có
sự chủ động và tích cực trong việc giao tiếp với cha mẹ. Do đó, hứng thú chỉ
đạt mức độ trung bình.
Trong thực tế cha mẹ vẫn nhận định là con cái chưa có hứng thú giao
tiếp với mình, các em chưa thể hiện hứng thú giao tiếp với cha mẹ qua hành
vi. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này như: luôn tồn tại những rào
cản, khó khăn giữa cha mẹ và con cái, việc trao đổi với cha mẹ chưa hỗ trợ
được nhiều cho các em trong việc định hướng nghề nghiệp. Do vậy các em
chưa có sự mong đợi, kỳ vọng đối với hoạt động này; học sinh lớp 12 đã có
nhận định, hướng đi riêng theo mong muốn của bản thân nhưng cha mẹ chưa
dành đủ thời gian để chia sẻ, quan tâm đến những nguyện vọng này của các
em.
2.2.4.2. So sánh tương quan giữa hứng thú, nhận thức, xúc cảm và
hành vi
a. Tương quan về điểm trung bình giữa ba biểu hiện nhận thức, xúc
cảm và hành vi.
Bảng 2.16. Tương quan giữa ba biểu hiện nhận thức, xúc cảm và hành vi
theo điểm trung bình
STT 1 2 3 Nhận thức r=0.000** r=0.000** Xúc cảm Hành vi r=0.000** r=0,000** r=0.000** r=0.000** Biến số Nhận thức Xúc cảm Hành vi
77
Từ kết quả bảng 2.16 ta nhận thấy:
Giữa mặt nhận thức với mặt xúc cảm có tương quan hai chiều mạnh mẽ
với mức ý nghĩa = 0,00. Điều này có nghĩa là khi HS có nhận thức đầy đủ ý
nghĩa về vai trò và tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp với cha mẹ trong
việc định hướng nghề nghiệp, thì lúc này các em sẽ nảy sinh xúc cảm dương
tính, có sự đồng thuận và hài lòng với hoạt động giao tiếp với cha mẹ. Ngược
lại khi HS có xúc cảm dương tính và sự đồng thuận cũng như hài lòng trong
quá trình giao tiếp với cha mẹ thì các em sẽ nhận thức đầy đủ hơn về ý nghĩa
của hoạt động giao tiếp đối với việc định hướng nghề nghiệp.
Tiếp theo giữa mặt nhận thức và hành vi với mức ý nghĩa = 0,000 ta thấy
được có sự tương quan hai chiều giữa hai mặt này. Tức là khi HS nhận thức
được ý nghĩa của hoạt động giao tiếp trong việc định hướng nghề nghiệp thì
sẽ có động lực giúp các em chủ động tích cực hơn trong giao tiếp với cha mẹ
về định hướng nghề nghiệp. Ngược lại khi các em đã có hành động tích cực
chủ động trong giao tiếp với cha mẹ thì sẽ giúp các em có nhận thức đầy đủ
hơn về vai trò và ý nghĩa của giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp.
Khi so sánh về xúc cảm và nhận thức ta thấy với mức ý nghĩa = 0,000 thì
có sự tương quan hai chiều giữa xúc cảm và hành vi, như vậy khi các em có
những xúc cảm dương tính, sự đồng thuận và hài lòng với hoạt động giao tiếp
với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp thì điều này cũng sẽ thúc đẩy các em
có sự chủ động tích cực hơn trong việc giao tiếp với cha mẹ. Thêm vào đó khi
các em có những hành động chủ động và tích cực trong giao tiếp với cha mẹ
thì các em dễ dàng nảy sinh xúc cảm dương tính, sự đồng thuận và hài lòng
với hoạt động này.
Tóm lại giữa ba biểu hiện xúc cảm, nhận thức và hành vi có sự tương
quan thuận một cách mạnh mẽ. Khi một trong ba biểu hiện có sự biến động,
các biểu hiện còn lại sẽ chịu sự ảnh hưởng nhất định.
78
b. Tương quan giữa mức độ hứng thú với mức độ nhận thức, mức
độ xúc cảm và mức độ hành vi
Bảng 2.17. Tương quan giữa mức độ hứng thú với mức độ nhận thức,
mức độ xúc cảm và mức độ hành vi
Nhận STT Biến số Hứng thú Xúc cảm Hành vi thức
r=0.000** r=0,000** r=0.000** 1 Hứng thú
r=0.000** r=0.000** r=0.000** 2 Nhận thức
r=0.000** r=0.000** r=0.000** 3 Xúc cảm
r=0.000** r=0.000** r=0.000** 4 Hành vi
Kết quả bảng 2.17 cho thấy có sự tương quan hai chiều giữa mức độ
hứng thú với các mức độ nhận thức, xúc cảm, hành vi cũng như giữa các mức
độ này cũng có sự tương quan lẫn nhau với mức ý nghĩa = 0,00.
Mức độ hứng thú có mối tương quan chặt chẽ với cả ba biểu hiện nhận
thức, xúc cảm và hành vi, nghĩa là khi có sự thay đổi ở ba biểu hiện này, mức
độ hứng thú sẽ có những ảnh hưởng nhất định. Khi HS có nhận thức càng đầy
đủ và đúng đắn hơn về ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp, khi
HS có xúc cảm ngày càng mạnh mẽ với hoạt động này cũng như có hành
động ngày càng chủ động tích cực thì mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ
của HS ngày càng tăng. Ngược lại khi HS có sự hứng thú với hoạt động giao
tiếp cao, các em sẽ đi sâu tìm hiểu về ý nghĩa hoạt động, nảy sinh những xúc
cảm tích cực cũng như chủ động hơn, tích cực hơn trong hoạt động giao tiếp
với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.
Giữa ba biểu hiện nhận thức, xúc cảm và hành vi cũng có mối tương
quan hai chiều mạnh mẽ với nhau. Điều này cho thấy khi có sự thay đổi về
mức độ ở một trong ba biểu hiện sẽ có những ảnh hưởng đến mức độ của các
79
biểu hiện còn lại. Đây là ba biểu hiện không thể tách rời của hứng thú và khi
tác động vào một trong ba biểu hiện thì sẽ có những thay đổi nhất định về
mức độ hứng thú cũng như các mức độ của hai biểu hiện còn lại.
2.2.5. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trường, theo giới
tính và theo trình độ học vấn của cha mẹ
2.2.5.1. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo giới tính
Bảng 2.18. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo giới tính
Kiểm nghiệm Hứng thú Hứng thú Hứng thú cao chi bình Mức độ thấp trung bình phương hứng thú
SL % % SL % SL
60 10,8 11 58,8 31 30,4 Nam Mức ý 88 10,2 14 64,2 35 25,5 Nữ nghĩa=0,673 25 10,5 148 61,9 66 27,6 Tổng
Dựa vào kết quả bảng 2.18 ta thấy với mức ý nghĩa = 0,673 thì không có
sự khác biệt về ý nghĩa giữa nam và nữ trong hứng thú giao tiếp với cha mẹ
về định hướng nghề nghiệp ở HS lớp 12. Đối với HS nam có 30,4% (tương
ứng 31 em) có hứng thú ở mức cao, đạt mức hứng thú trung bình có 58,8%
(tương ứng 60 em) và ở mức hứng thú thấp có 10,8% (tương ứng 11 em). Đối
với nữ có 25,5% ở mức hứng thú cao (tương ứng 35 em), đạt mức hứng thú
trung bình có 64,2% (tương ứng 88 em) và ở mức hứng thú thấp có 10,5%
(tương ứng 25 em).
Ta có thể nhận thấy hứng thú giao tiếp không chịu tác động bởi yếu tố
giới tính. Một số người có quan điểm rằng các bạn nữ sẽ thể hiện tình cảm,
chủ động chia sẻ với cha mẹ nhiều hơn các bạn nam, nhưng điều này không
đồng nghĩa với việc các bạn nữ có hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định
hướng nghề nghiệp cao hơn các bạn nam. Có thể về vấn đề định hướng nghề
80
nghiệp là vấn đề mang tính quyết định, có ảnh hưởng to lớn đến tương lai sau
này của các em. Do vậy hầu hết hết các em đều có nhu cầu cũng như quan
tâm đến vấn đề này.
2.2.5.2. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trường
Địa bàn Huyện Tân Hiệp có 3 trường THPT, với trường THPT Tân Hiệp
trực thuộc thị trấn Tân Hiệp, với nhiều lợi thế về vị trí địa lý, bề dày lịch sử
gần 40 năm thành lập, có sự đầu tư về cơ sở hạ tầng với đội ngũ giáo viên lâu
năm nhiều kinh nghiệm đây là trường có nhiều HS nhất trong toàn huyện.
Tiếp theo là trường THPT Thạnh Đông, với vị trí địa lý nằm ngay trên
tuyến quốc lộ 80 của tỉnh, được thành lập cách đây khoảng 20 năm, với cơ sở
hạ tầng đã gần như hoàn thiện và có chất lượng giáo dục ổn định.
Riêng đối với trường THPT Thạnh Tây là một trường còn khá mới trong
địa bàn huyện, thành lập vào năm 2009, với vị trí địa lý thuộc khu vực vùng
sâu, chủ yếu hỗ trợ các em HS THPT trong khu vực không phải đi học quá
xa… với đội ngũ giáo viên và công nhân viên trẻ trung và nhiệt huyết với
nghề cũng như sự quan tâm hỗ trợ của các bộ ngành liên quan, trường đang
dần mở rộng quy mô, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và ngày càng nâng cao
chất lượng giáo dục.
Dù trong ba trường vẫn có những điểm đặc trưng khác nhau, tuy nhiên
mỗi trường vẫn luôn đặt việc đào tạo giáo dục và hỗ trợ HS lên hàng đầu.
Riêng đối với HS lớp 12 mỗi năm các trường luôn có những hoạt động hướng
nghiệp để kết hợp với gia đình trong việc hỗ trợ các em trong việc định hướng
nghề nghiệp.
Tìm hiểu kỹ hơn sự khác biệt về hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định
hướng nghề nghiệp ở mỗi trường, chúng tôi đã tiến hành phân tích số liệu như
bảng 2.19.
81
Bảng 2.19. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trường
Kiểm
Hứng thú Hứng thú Hứng thú nghiệm Chi
bình thấp trung bình cao Mức độ hứng thú
phương
SL % SL % SL %
THPT Thạnh Tây 7 10,0 41 58,6 22 31,4 Mức ý THPT Thạnh nghĩa=0,125 10 18,9 28 52,8 15 28,3 Đông
THPT Tân Hiệp 8 6,9 79 68,1 29 25,0
25 8,4 148 64,0 66 27,6 Tổng
Theo bảng 2.19 ta thấy với mức ý nghĩa mức ý nghĩa = 0,125 thì không
có sự khác biệt về hứng giao tiếp với cha mẹ ở các trường trong địa bàn
huyện Tân Hiệp. Ở mức độ hứng thú cao, đứng đầu là trường THPT Thạnh
Tây với 31,4% (tương ứng 21 em), ở mức hứng thú trung bình đứng đầu là
trường THPT Tân Hiệp có tỉ lệ 68,1% (tương ứng 79 em) và ở mức hứng thú
thấp có tỉ lệ cao nhất là trường THPT Thạnh Đông với tỉ lệ phần trăm là
18,9% (tương ứng 10 em). Nhìn chung các tỉ lệ chênh lệch không nhiều và
chưa có sự khác biệt đáng kể giữa các trường về hứng thú giao tiếp với cha
mẹ của HS lớp 12. Điều này cho thấy, với những địa bàn khác nhau của
huyện, những sự khác biệt về điều kiện kinh tế thì không có quá nhiều tác
động đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của học
sinh lớp 12. Cả ba trường trong huyện, dù mỗi trường có những điểm mạnh
điểm yếu khác nhau nhưng công tác hướng nghiệp cho các em thì luôn được
nhà trường kết hợp với các bậc cha mẹ HS quan tâm và hỗ trợ hết mình. Như
vậy, dù ở thị trấn hay vùng sâu, vùng xa thì các em vẫn có hứng thú giao tiếp
với cha mẹ tương tự nhau về định hướng nghề nghiệp.
82
2.2.5.3. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn
của cha mẹ
a. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn
của cha
Bảng 2.20. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn
của cha
Kiểm nghiệm Hứng thú Hứng thú Mức độ Hứng thú cao Chi bình thấp trung bình hứng phương thú SL % SL % SL %
Dưới 16 10,3 98 62,8 42 26,9 12/12 Mức ý
nghĩa=0,041 12/12 7 14,3 34 69,4 8 16,3
Trên 2 5,9 16 47,1 16 47,1 12/12
Tông 25 8,4 148 64,0 66 27,6
Từ kết quả bảng 2.20 ta thấy với mức ý nghĩa = 0,041<0.05 có sự khác
biệt ý nghĩa về hứng thú giao tiếp với cha mẹ giữa các trình độ học vấn khác
nhau của cha. Ở mức hứng thú cao có tỉ lệ phần trăm cao nhất là trình độ học
vấn của cha trên 12/12 với 47,1% (tương ứng 16 em). Ở mức hứng thú trung
bình và thấp với tỉ lệ cao nhất là trình độ học vấn 12/12 có tỉ lệ phần trăm lần
lượt như sau 69,4% (tương ứng 34 em) và 14,3% (tương ứng 7 em). Ta nhận
thấy khi trình độ học vấn của cha càng cao thì HS lớp 12 càng có hứng thú
giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.
Với trình độ học vấn của cha là 12/12, HS có thể chưa có nhiều hứng thú
khi giao tiếp với cha mẹ và khi trình độ học vấn của cha là dưới 12/12 HS vẫn
83
có hứng thú nhất định trong việc giao tiếp với cha mẹ. Trong thực tế, những
thông tin mà cha cung cấp thường mang tính lí trí, thiên về con số và thực tế,
vì thế trình độ học vấn của cha sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến hứng
thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12. Bạn NQT đang học tại trường THPT
Thạnh Đông cho biết: “Cha em thường nói gắn gọn, chỉ nói những vấn đề
chính”.
b. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn của
mẹ
Bảng 2.21. So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học vấn
của mẹ
Kiểm nghiệm Hứng thú Hứng thú Mức độ Hứng thú cao Chi bình thấp trung bình hứng phương thú SL % SL % SL %
Dưới 19 10,9 111 63,4 45 25,7 12/12 Mức ý
nghĩa=0,58 12/12 5 12,5 22 55,0 13 32,5
Trên 1 4,2 15 62,5 8 33,3 12/12
Dựa vào bảng 2.21. ta thấy với mức ý nghĩa = 0,58 cho thấy không có sự
Tổng 25 8,4 148 64,0 66 27,6
khác biệt về hứng thú giao tiếp với cha mẹ giữa các trình độ học vấn khác
nhau của mẹ.
Cụ thể như sau: Với trình độ học vấn của mẹ là dưới 12/12 có 5,7%
(tương ứng 45 em) ở mức hứng thú cao, ở mức độ hứng thú trung bình có
63,4% (tương ứng 111 em), và ở mức độ hứng thú thấp 10,9% (tương ứng 19
84
em); Đối với trình độ học vấn của mẹ là 12/12 ở mức hứng thú cao có 32,5%
(tương ứng 13 em), tiếp theo có 55,0% (tương ứng 22 em) có mức hứng thú
trung bình, ở mức độ hứng thú thấp có 12,5% (tương ứng 5 em); Còn ở trình
độ học vấn của mẹ là trên 12/12 ở mức hứng thú cao có 33,3% (tương ứng 8
em), có 62,5% (tương ứng 15 em) ở mức độ hứng thú trung bình và ở mức độ
hứng thú thấp có 4,2% (tương ứng 1 em).
Ta thấy rằng dù trình độ học vấn của mẹ như thế nào cũng ít có ảnh
hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của HS
lớp 12. Trong thực tế, người mẹ thường là nơi con gửi gắm và chia sẻ những
tâm tư tình cảm của bản thân về những ước mơ, mong đợi, dự định trong
tương lai... Và sẽ là người cho con những những gợi ý thiên về cảm xúc nhiều
hơn, có lẽ vì thế trình độ học vấn không có nhiều ảnh hưởng đến hứng thú
giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12.
2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của
học sinh lớp 12
Bảng 2.22. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của
học sinh lớp 12
Từ phía Cha mẹ Từ phía con
STT
Yếu tố ĐTB STT Yếu tố ĐTB Thứ bậc Thứ bậc
1 3,28 3 6.7 3,31 5
Sự quan tâm của cha mẹ dành cho con.
Mong muốn tìm hiểu kiến thức liên quan đến việc định hướng nghề
2 3,54 1 6.8 3,35 4
Sự kỳ vọng của cha mẹ về tương lai của con. tôn Luôn trọng ý kiến của cha mẹ
85
Từ phía Cha mẹ Từ phía con
STT
Yếu tố ĐTB STT Yếu tố ĐTB Thứ bậc Thứ bậc
3 3,18 5 6.9 3,27 6
Thói quen chia sẻ, trò chuyện của cha mẹ và con. Sự tin tưởng của con đối với cha mẹ
4 3,07 6 6.10 3,66 2
Thời gian cha mẹ trò để dành chuyện cùng con. Quan tâm đến hoàn cảnh gia đình
5 3,44 2 6.11 3,80 1 lúc
Thái độ của cha mẹ đối với con trong trò chuyện thức Nhận tầm được quan trọng của việc chọn nghề
6 3,26 4 6.12 3,50 3
Cá tính mạnh mẽ hay yếu đuối của bản thân
Kiến thức của cha mẹ về các vấn đề liên quan định sự đến hướng nghề nghiệp
3,3 ĐTB chung 3,48
ĐTB chung
Qua bảng 2.22. ta thấy, các yếu tố từ phía cha mẹ có ĐTB chung là 3,3
nằm trong khoảng (ĐTB = 2,6 – 3,39) thuộc khoảng “bình thường”, có nghĩa
là theo HS các yếu tố từ phía cha mẹ chưa có ảnh hưởng lớn đến hứng thú
giao tiếp với cha mẹ các em.
HS cho là ảnh hướng nhất đó là “Sự kỳ vọng của cha mẹ về tương lai
của con” với ĐTB= 3,54. Yếu tố này có ảnh hưởng đến các em nhiều nhất, có
thể vì các em cảm thấy bị áp lực với những điều mà cha mẹ hy vọng các em
làm được (đạt được thành tích học tập cao, ngoan ngoãn, không cãi lời cha
86
mẹ…). Tuy nhiên ở một góc độ khác, theo các em những kỳ vọng này cũng sẽ
giúp các em nỗ lực và cố gắng hơn trong học tập, cố gắng để đạt được những
gì mà cha mẹ mong muốn. Bạn BTPM đang học tại trường THPT Tân Hiệp
chia sẻ: “Khi bị cha mẹ la rầy em thấy rất áp lực nhưng như vậy em mới cố
gắng học tập hơn”.
“Thái độ của cha mẹ đối với con trong lúc trò chuyện” với ĐTB= 3,44, ở
vị trí thứ hai. Yếu tố này cũng có những ảnh hưởng nhất định đến hứng thứ
giao tiếp với cha mẹ của các em, khi mà từng thời điểm, từng hoàn cảnh với
thái độ khác nhau của cha mẹ sẽ tạo cho các em hứng thú không giống nhau
trong khi trò chuyện, chia sẻ với cha mẹ. Bạn PTN ở trường THPT Thạnh Tây
chia sẻ: “Em nói chuyện với cha mẹ cũng tùy lúc, có lúc vui thì nói nhiều chứ
khi cha mẹ đang tức giận thì nói gì được ạ”.
HS có sự đánh giá với các yếu tố khác chỉ ở mức bình thường. Sự quan
tâm của cha mẹ (ĐTB= 3.28), kiến thức của cha mẹ (ĐTB= 3,26), thói quen
chia sẻ (ĐTB= 3,18). Ta có thể hiểu được với các em thì trình độ học vấn,
thói quen chia sẻ hay là sự quan tâm của cha mẹ chưa có ảnh hưởng quá lớn
đến hứng thú giao tiếp của các em với cha mẹ. Có thể, điều mà các em cần ở
cha mẹ là sự thông cảm và chấp nhận với những nguyện vọng tâm tư của bản
thân. Dù có những lúc các em mắc phải những sai lầm hay suy nghĩ chưa
đúng đắn thì điều mà các em cần ở các bậc cha mẹ đó là sự lắng nghe, chia sẻ
và phân tích chứ không phải là sự chỉ trích, rầy la.
Ở vị trí cuối cùng là yếu tố “Thời gian cha mẹ dành để trò chuyện cùng
con” có ĐTB= 3,07. Theo các em, yếu tố thời gian ít ảnh hưởng đến hứng thú
giao tiếp, quan trọng không phải là việc mỗi ngày cha mẹ có thể dành cho các
em bao nhiêu thời gian để trò chuyện, mà quan trọng là các em cảm thấy như
thế nào trong những khoảng thời gian đó, không phải là trò chuyện với nhau
bao lâu mỗi ngày mà là cuộc trò chuyện có đạt được sự thống nhất, hài lòng
hay không và hài lòng ở mức độ nào.
87
Đối với yếu tố từ phía con có ĐTB chung= 3,48 nằm trong khoảng (ĐTB
= 3,4 – 4,19) thuộc khoảng “ảnh hưởng”, ở đây ta thấy được theo nhận định
của các em HS, những yếu tố từ chính các em sẽ có ảnh hưởng nhất định đến
hứng thú giao tiếp với cha mẹ, cụ thể như sau:
Yếu tố quan trọng nhất đó là “Nhận thức được tầm quan trọng của việc
chọn nghề” với ĐTB= 3,80. Khi các em nhận thức được tầm quan trọng của
việc định hướng nghề, cũng như hoạt động giao tiếp với cha mẹ có vai trò
quan trọng trong việc giúp các em định hướng nghề nghiệp, điều này sẽ có
ảnh hưởng đến mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiềp của các em.
Với ĐTB= 3,66, yếu tố “Quan tâm đến hoàn cảnh gia đình” ở vị trí thứ
hai. Các em có quan tâm đến những nguồn lực từ phía gia đình và sự phù hợp
của nghề nghiệp với kinh tế gia đình, và việc giao tiếp với cha mẹ giúp các
em có được những thông tin này, vì thế yếu tố này cũng có những ảnh hưởng
nhất định đến hoạt động giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12. Bạn NAQ là HS
tại trường THPT Tân Hiệp cho biết: “Em sẽ chọn trường và mức chi tiêu mà
cha mẹ em có thể lo được cho em”.
Xếp thứ bậc ba “Cá tính mạnh mẽ hay yếu đuối của bản thân” có ĐTB =
3,50. Ta thấy đối với HS lớp 12 việc các em có tính cách như thế nào sẽ có
những ảnh hưởng nhất định đến mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ về
định hướng nghề nghiệp. Có thể với những em có cá tính mạnh mẽ sẽ dễ nảy
sinh những mâu thuẫn, tranh luận trong cuộc trò chuyện với cha mẹ còn
những em có cá tính yếu đuối hơn thì sẽ dễ dàng chấp nhận những quan điểm
hay những quyết định mà cha mẹ đặt ra. Mỗi cá tính đều sẽ có những điểm
mạnh và điểm yếu khác nhau cần có sự tinh tế, khéo léo của cha mẹ để việc
trao đổi giao tiếp với con về định hướng nghề nghiệp đạt được hiệu quả cao
nhất.
88
Theo nhận định của các em yếu tố tôn trọng ý kiến của cha mẹ (ĐTB=
3.35) và yếu tố mong muốn tìm hiểu kiến thức (ĐTB= 3.31) là chưa có nhiều
ảnh hưởng đến mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp của HS lớp 12. Có thể các em cho rằng con cái tôn trọng cha mẹ là
điều đương nhiên, vì cha mẹ là người đã sinh thành, nuôi nấng bản thân. Cũng
như cha mẹ có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, sẽ giúp các em có được sự
lựa chọn đúng đắn nhất. Thêm vào đó, những thông tin về nghề nghiệp các
em có thể tìm thấy ở nhiều nguồn khác nhau như thầy (cô), bạn bè, mạng xã
hội,….
Xếp ở vị trí cuối cùng “Sự tin tưởng của con đối với cha mẹ” có ĐTB=
3,27. Yếu tố này nằm trong khoảng ít ảnh hưởng cho thấy chưa có mối liên
hệ giữa việc cha mẹ có tin tưởng vào con hay không với việc con có hứng thú
giao tiếp với cha mẹ hay không.
Nhìn chung, những yếu tố từ phía cha mẹ ít ảnh hưởng đến hoạt động
giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 hơn so với các yếu tố từ phía con, Tuy
nhiên những yếu tố này vẫn có phần nào tác động đến hứng thú ở các em, có
thể tích cực hay tiêu cực, tùy vào mỗi hoàn cảnh và mức độ khác nhau. Thông
qua những yếu tố này ta có thể nhận thấy hầu hết các em đều đã nhận thức
được về ý nghĩa của hoạt động hướng nghiệp, có quan tâm đến hoàn cảnh gia
đình và những kỳ vọng của cha mẹ.
2.2.7. Đề xuất biện pháp nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ về
định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi chưa thể nghiên cứu tính
khả thi và ứng dụng của các biện pháp, tuy nhiên đây là một số biện pháp
chúng tôi có thể rút ra trong quá trình nghiên cứu thực tiễn hứng thú giao tiếp
với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 tại huyện Tân
Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
89
a. Nhóm biện pháp về phía học sinh
Theo như nghiên cứu trong thực tế ta thấy hầu hết học sinh đều có nhận
thức tương đối đầy đủ và có xúc cảm dương tính với hoạt động giao tiếp với
cha mẹ, tuy nhiên về mặt hành vi chưa có hành động chủ động tích cực trong
việc giao tiếp với cha mẹ, điều này làm ảnh hưởng nhiều đến mức độ hứng
thú. Do vậy để nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 ta
cần tác động vào mặt hành vi để các em chủ động tích cực hơn trong việc chia
sẻ, trao đổi với cha mẹ về những vấn đề hướng nghiệp mà mình đang quan
tâm hoặc những lo lắng khúc mắc mà các em đang gặp phải trong quá trình
định hướng nghề nghiệp.
Chủ động trò chuyện với cha mẹ là một biện pháp cần thiết để nâng cao
hứng thú giao tiếp với cha mẹ cho học sinh lớp 12. Ở giai đoạn đầu có thể các
em còn nhiều e ngại chưa tự nhiên vì thế có thể bắt đầu bằng những vấn đề
đơn giản về sở thích, về mong muốn, về ước mơ, để dễ dàng chia sẻ cũng như
xây dựng nền tảng, thiết lập thói quen trò chuyện với cha mẹ. Thông qua việc
trò chuyện cha mẹ có thể hiểu được những tâm tư tình cảm của con, có được
sự gần gũi về mặt tâm lý, tinh thần với trẻ.
Khi trò chuyện với cha mẹ học sinh nên có thái độ chủ động và thành
khẩn ngay cả khi không hài lòng hoặc đang xảy ra mâu thuẫn về mặt quan
điểm với cha mẹ. Các em có thể chủ động nói ra bản thân đang cảm thấy như
thế nào cũng như nói nên quan điểm, lý luận của mình để thuyết phục cha mẹ
từ đó tìm thấy tiếng nói chung. Điều này còn giúp các em rèn luyện khả năng
diễn đạt, bộc lộ suy nghĩ, ý tưởng của mình với người khác.
Các em có thể dành nhiều thời gian hơn để cùng cha mẹ tham, gia các
hoạt động về hướng nghiệp như các buổi hội thảo, tọa đàm hay các buổi tư
vấn hướng nghiệp do nhà trường và địa phương tổ chức. Đây là cơ hội để cha
mẹ và con cái gần gũi và gắn bó với nhau hơn cũng như có thêm nhiều chủ
đề, thông tin để cùng nhau bàn bạc, trao đổi, cũng như tháo gỡ những vướng
90
mắc, khó khăn mà con đang gặp phải trong quá trình hướng nghiệp. Ngoài ra
những hoạt động này cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích về nghề nghiệp, thị
trường lao động ở địa phương, giúp các em có thể đưa ra lựa chọn phù hợp
cho bản thân trong tương lai.
b. Nhóm biện pháp về phía cha mẹ
Để nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp
của học sinh lớp 12 thì vai trò của cha mẹ là vô cùng thiết yếu. Đầu tiên để
con có thể dễ dàng tâm sự, chia sẻ với cha mẹ cần tạo ra một bầu không khí
thoải mái và dễ chịu trong gia đình, thái độ của cha mẹ khi trò chuyện với con
là vô cùng quan trọng, được thể hiện thông qua sự chủ động lắng nghe cũng
như sự chấp nhận khoan dung của cha mẹ với những quan điểm, suy nghĩ của
con mình. Cha mẹ không nên vội vàng đưa ra kết luận khi chưa dành đủ thời
gian để lắng nghe và tìm hiểu những tâm tư tình cảm của con mình.
Trong quá trình giao tiếp cha mẹ cần trao đổi một cách bình đẳng như
những người bạn, cha mẹ không nên nói quá nhiều, không cho con cơ hội để
đưa ra quan điểm, suy nghĩ của bản thân hơn nữa quyết định sẽ được đặt ra
dựa trên nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng và có sự thống nhất từ hai phía. Điều
này sẽ tránh được sự áp đặt của cha mẹ cũng như những bất mãn của con.
Trong trường hợp cha mẹ cảm thấy quan điểm của con là chưa đúng đắn thì
cần có sự phân tích lý giải để con hiểu, tránh sự phê phán, và chỉ trích những
suy nghĩ hay những quan điểm của con mình làm con cảm thấy tổn thương và
không tự tin để bộc lộ suy nghĩ của mình.
Tóm lại, để nâng cao hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12
có rất nhiều biện pháp tuy nhiên quan trọng nhất vẫn cần có sự kết hợp và nỗ
lực từ cả hai phía cha mẹ và con cái.
91
Tiểu kết Chương 2
Việc tìm hiểu hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 cần được tìm
hiểu trên các mặt nhận thức, xúc cảm và hành vi. Qua tìm hiểu thực trạng
hứng thú trên 239 HS tại ba trường THPT ở huyện Tân Hiệp tỉnh Kiên Giang
chúng tôi thu được kết quả như sau.
HS có nhận thức tương đối đầy đủ về ý nghĩa của hoạt động giao tiếp
với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp cũng như có nảy sinh xúc cảm dương
tính với hoạt động này song HS chưa có hành động chủ động và tích cực giao
tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp. Từ đó dẫn đến hứng thú giao tiếp
với cha mẹ chỉ thuộc mức độ trung bình.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS
lớp 12, trong đó các em cũng đã nhận thức được về tầm quan trọng của việc
hướng nghiệp, có sự quan tâm đến những nguồn lực từ phía gia đình cũng như
chịu sự tác động từ những kỳ vọng của cha mẹ.
Có sự tương quan thuận hai chiều giữa các yếu tố nhận thức xúc cảm và
hành vi trong hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12, khi một trong ba
yếu tố có sự biến đổi sẽ có sự tác động ảnh hưởng đến các yếu tố còn lại.
Như vậy, luận văn đã giải quyết được các nhiệm vụ trọng tâm đặt ra, các
vấn đề về mức độ hứng thú giao tiếp đã được chứng minh và làm sáng tỏ
trong phạm vi nghiên cứu. Thêm vào đó khi so sánh với các giả thuyết nghiên
cứu ta thấy có sự khác biệt trước và sau khi nghiên cứu thực tiễn. Điều này có
thể do đặc trưng địa bàn nông thôn với trình độ phát triển kinh tế chưa cao
cũng như trình độ học vấn của cha mẹ và điều kiện kinh tế gia đình còn tồn tại
nhiều khó khăn vất vả, do vậy kết quả thu được cho thấy chưa có sự khác biệt
về hứng thú giao tiếp với cha mẹ giữa nam và nữ, cũng như giữa học sinh có
mẹ với trình độ học vấn khác nhau.
92
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng hứng thú giao tiếp với cha
mẹ của HS một số trường THPT huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang chúng tôi
xin rút ra một số kết luận về các mặt như sau:
1.1. Về lý luận
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa
có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá
nhân trong quá trình hoạt động.
Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người được quy định bởi
các yếu tố tâm lý cá nhân nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, trao đổi
thông tin qua lại, cảm xúc, điều chỉnh nhận thức, hành vi của cá nhân và
người khác.
Hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề của HS lớp 12 là thái
độ lựa chọn đặc biệt của HS lớp 12 đối với sự tiếp xúc tâm lý giữa bản thân
với cha mẹ trong lĩnh vực định hướng nghề, do sự tiếp xúc này có ý nghĩa
quan trọng trong quá trình điều chỉnh định hướng nghề nghiệp, tìm kiếm
thông tin nghề phù hợp với bản thân và thị trường lao động tương lai của HS
lớp 12 và mang lại những cảm xúc tích cực.
1.2. Về thực trạng
Nhận thức: Đa số HS được nghiên cứu có nhận thức tương đối đầy đủ về
ý nghĩa, tầm quan trọng cũng như vai trò của hoạt động giao tiếp với cha mẹ
trong việc định hướng nghề nghiệp. Hoạt động này hỗ trợ các em trong việc
định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp cũng như xác định những nguồn
lực từ phía gia đình.
Xúc cảm: Hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 ở huyện Tân
Hiệp, tỉnh Kiên Giang biểu hiện qua xúc cảm ở mức độ cao. Hầu hết các em
có nảy sinh xúc cảm dương tính với hoạt động giao tiếp với cha mẹ về định
93
hướng nghề nghiệp, các em có sự đồng thuận và hài lòng khi giao tiếp với cha
mẹ về định hướng nghề nghiệp
Hành động: Mặc dù đa số các em HS có sự nhận thức đúng đắn về ý
nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp cũng như có nảy sinh những
xúc cảm dương tính, có sự đồng thuận và hài lòng khi giao tiếp với cha mẹ.
Tuy nhiên về mặt hoạt động, các em chưa có hành động chủ động tích cực
trong giao tiếp với cha mẹ, dẫn đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định
hướng nghề nghiệp của các em chỉ ở mức độ trung bình.
2. Kiến nghị
2.1. Về phía nhà trường
Nhà trường cần có mối liên hệ chặt chẽ với cha mẹ HS để có thể cùng
đưa ra những hỗ trợ đúng đắn và kịp thời giúp các em HS khi có những vấn
đề khó khăn hoặc có nhu cầu về những thông tin nghề nghiệp, thị trường lao
động… Giúp cha mẹ và các em có thể định hướng nghề nghiệp một cách dễ
dàng và hợp lý.
Nhà trường cần tổ chức thêm những buổi tọa đàm, hội thảo, hoặc những
chương trình cho cha mẹ và HS cùng tham gia, khi đó vừa giúp các em cải
thiện tình cảm với cha mẹ, vừa có thể cung cấp thêm những thông tin về nghề
nghiệp , xây dựng ước mơ hoài bão cho các em.
2.2. Về phía cha mẹ học sinh
Cha mẹ cần dành nhiều thời gian để tìm hiểu những thông tin về nghề
nghiệp, xu hướng nghề nghiệp của xã hội, những trường, những nghề phù hợp
với điều kiện kinh tế gia đình…
Thêm vào đó cha mẹ cũng cần quan quan tâm và lắng nghe tâm tư
nguyện vọng ước mơ của con để có thể tư vấn cho con nghành nghề phù hợp.
Cha mẹ cũng cần tìm hiểu về những khả năng, năng lực của con, những sở
trường sở đoản của con để có thể cùng con chọn được một nghề phù hợp.
94
Xây dựng bầu không khí gia đình thoải mái, giúp con dễ dàng chia sẻ để
hiểu con hơn, tránh sự áp đặt những hoài bão hay ước mơ mà bản thân chưa
thực hiện được và bắt con phải làm theo.
Nên tôn trọng những suy nghĩ và lựa chọn của con, nếu có phát sinh sự
mâu thuẫn nên từ từ phân tích và cùng đi đến thống nhất chung trên cơ sở tôn
trọng ý kiến từ hai phía.
Nên có sự tham gia của cả cha và mẹ trong việc trao đổi chia sẻ và giúp
con định hướng nghề nghiệp vì mỗi giới sẽ có cách nhìn và nhận định khác
nhau, giúp con có cái nhìn đa chiều hơn.
2.3. Về phía học sinh
Đối với bản thân HS cần chủ động tìm kiếm thông tin về những nghề
nghiệp mà mình quan tâm, những năng lực mà bản thân có được cũng như
những ước mơ hoài bão của chính mình.
Các em cũng cần chủ động hơn trong việc chia sẻ với cha mẹ, chia sẻ về
những tâm tư tình cảm của bản thân, chia sẻ về những thông tin nghề nghiệp
mà em quan tâm, chia sẻ về ước mơ hoài bão của mình để cha mẹ hiểu hơn và
có sự giúp đỡ kịp thời và đúng đắn cho các em trong việc định hướng nghề
nghiệp cho tương lai.
Các em cũng có thể chủ động nói lên cảm nhận của mình với cha mẹ khi
trò chuyện, những gì em cảm thấy chưa hài lòng hay những áp lực mà cha mẹ
đặt ra cho mình. Đây cũng là cách để cha mẹ hiểu em hơn cũng như tìm được
tiếng nói chung với cha mẹ.
Các em cũng nên dành nhiều thời gian hơn cho gia đình, dành thời gian
trò chuyện với cha mẹ, cùng tham gia những hoạt động về định hướng nghề
nghiệp như các buổi hội thảo, tọa đàm…
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo. (2005). Từ
điển giáo dục học. Nxb Từ điển Bách khoa.
Bùi Ngọc Oánh. (1993). Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Tập 3.
Hồ Chí Minh: Nxb Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh.
Covaliop A.G. (1971), Tâm Lý học cá nhân tập 1. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Châu Thúy Kiều. (2010). Kỹ năng giao tiếp của sinh viên sư phạm trường
Cao Đẳng Cần Thơ. Luận văn Thạc sĩ. Chuyên nghành Tâm lý học.
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí
Minh.
Dương Thiệu Tống. (2012). Phương pháp nghiên cứu khoa học và tâm lý.
Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia.
Đinh Thị Sen. (2013). Hứng thú môn học kỹ năng giao tiếp của sinh viên
trường Đại Học Nha Trang. Luận văn thạc sĩ. Chuyên ngành Tâm lý
học. .Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố
Hồ Chí Minh.
Đỗ Thị Lệ Hằng. (2010). Lịch sử phát triển và các mô hình tham vấn hướng
nghiệp trên thế giới. Tạp chí Tâm lý học số 6/2010.
Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu, Nguyễn Thạc. (2016). Hoạt động – giao tiếp –
nhân cách. Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm.
Hoàng Phê. (1994). Từ điển Tiếng Việt. Nxb Trung tâm Từ điển ngôn ngữ.
Hoàng Thị Anh. (1992). Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên. Luận án
phó tiến sĩ. Chuyên ngành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội. Hà Nội
Huỳnh Văn Sơn, Nguyễn Thị Tứ, Bùi Hồng Quân, Nguyễn Hoàng Khắc
Hiếu. ( 2011). Giáo trình Tâm lý học giao tiếp. Hồ Chí Minh: Nxb Đại
học Sư phạm.
96
Huỳnh Văn Sơn. (2012). Tâm lý học đại cương. Thành phố Hồ Chí Minh:
Nxb Đại học Sư phạm.
J. Piaget (1996). Tuyển tập Tâm lý học. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Lê Khánh Vân. (2011). Hứng thú học tập môn giáo dục học đại cương của
sinh viên trường Cao đẳng Cộng Đồng Hậu Giang. Luận văn Thạc sĩ
Tâm lý học. Chuyên nghành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Thị Bừng, Nguyễn Thị Huệ, Nguyễn Đức Sơn. (2008). Các thuộc tính tâm
lý điển hình của nhân cách. Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm.
Luật Hôn nhân và gia đình, số 22/2000/QH10 ngày 09 tháng 06 năm 2000.
Lương Duy Thiện. (2013). Chọn nghề cho tương lai. Nxb Dân Trí.
Nguyễn Đức Nhân. (2016). Hứng thú học đọc của học sinh lớp 3 một số
Trường Tiểu học tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ Tâm
lý học. Chuyên ngành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Huy Tú. (1996). Tâm lý học giáo dục, Tài liệu dành cho học viên Cao
học Tâm lý học, Viện Khoa học Giáo dục Hà Nội.
Nguyễn Khắc Viện, Lê Văn Luyện. (1995). Từ điển Tâm lý học. Nxb Trung
tâm nghiên cứu Tâm lý trẻ em.
Nguyễn Phúc Ân. (1994), Một số khía cạnh tâm lý xã hội cần được lưu ý đối
với công tác lãnh đạo và quản lý trong cơ chế thị trường. Nxb Trẻ.
Nguyễn Quang Uẩn. (2011). Tâm lý học đại cương. Hà Nội: Nxb Đại học
Quốc gia.
Nguyễn Tiến Đạt. (2004). Các thuật ngữ “nghề”, “nghề nghiệp”, “chuyên
nghiệp” và “nghề đạo tạo” trong giáo dục. Tạp chí phát triển giáo dục,
4 (64).
Nguyễn Thị Ái. (2011). Hứng thú học tập môn giáo dục công dân của học
sinh ở một số trường THPT tại TP. Hồ Chí Minh.Luận văn Tâm lý
97
học. chuyên nghành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Bích Thủy. (2010). Hứng thú học tập của sinh viên năm nhất
trường Đại học Văn Hiến Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn Thạc sĩ
Tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Mai. (2015). Hứng thú học môn Tiếng Anh của sinh viên không
chuyên Anh TP. Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ tâm lý học. Chuyên
ngành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Thanh Mai. (2015). Hứng thú học tập môn giáo dục công dân
của học sinh một số trường Trung Học Cơ Sở thị xã LAGI tỉnh Bình
Thuận. Luận văn thạc sĩ tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học.
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ
Chí Minh.
Nguyễn Thị Thu Cúc. (2008). Nghiên cứu đặc điểm hứng thú học môn toán
của học sinh tiểu học và biện pháp tâm lý sư phạm nâng cao hứng thú
học môn toán ở các em. Luận án Tiến sĩ Tâm lý học. Chuyên ngành
Tâm lý học. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Hà Nội.
Nguyễn Thị Trường Hân. (2010). Xu hướng nghề của học sinh và công tác tư
vấn hướng nghiệp ở các trường THPT quận 12 thành phố Hồ Chí
Minh. Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học.
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí
Minh.
Nguyễn Thị Xuân Phương. (2015). Tính tích cực giao tiếp của học sinh cuối
tuổi tiểu học trong mối quan hệ với cha mẹ tại TP. Hồ Chí Minh. Luận
văn thạc sĩ Tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học. Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
98
Nguyễn Văn Đồng. (2006). Một số đặc điểm giao tiếp ngoài giảng đường của
sinh viên. Luận án Tiến sĩ Tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học.
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Hà Nội.
Nguyễn Văn Hộ. (2000). Thích ứng sư phạm. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Nguyễn Văn Lũy, Lê Quang Sơn. (2009), Từ điển Tâm lý học. Nxb Giáo dục.
Phạm Minh Hạc, Đặng Xuân Hòa, Trần trọng Thủy. (2002). Hoạt động – giao
tiếp và chất lượng giáo dục. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia.
Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy. (1988). Tâm lí học. Hà Nội:
Nxb Giáo dục tập 1.
Phạm Nguyễn Lan Phương. (2012). Quan hệ cha mẹ với con cái tuổi thiếu
niên Thị xã Dĩ An, Tỉnh Bình Dương. Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học.
Chuyên ngành Tâm lý học . Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM.
Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm Văn Dinh, Phạm Thị Kim Ngân. (2014). Giáo trình tâm lý học đại
cương. Hà Nội : Nxb Hồng Đức – Hội luật Gia Việt Nam.
Quang Ngọc. (2008). Bí quyết chọn nghề theo năng lực. Nxb Thanh niên.
Trần Đình Chiến. (2008). Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp
12 trường trung học phổ thông dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị
trường. Luận văn Thạc sĩ Giáo dục. Chuyên nghành Giáo dục học.
Trường đại học Sư phạm Thái Nguyên. Thái Nguyên.
Trần Phi Hùng. (2014). Hứng thú nghề nghiệp của học sinh ở một số trường
trung học phổ thông tại huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Luận văn Thạc
sĩ Tâm lý học. Chuyên ngành Tâm lý học. Trường Đại học Sư phạm
Tp.HCM. Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Thị Thanh Trà. (2016). Tâm lý học Đại Cương. TP.HCM: Nxb Đại Học
Quốc gia.
99
Trương Thị Thu Thủy, Trần Thị Thanh Loan. (2012). Cách ứng xử của trẻ vị
thành niên đối với cha mẹ trong quá tình giao tiếp: phân tích từ một
khảo sát thực địa. Viện nghên cứu gia đình và giới.
Vũ Dũng. (2008). Từ điểm Tâm lý học. Hà Nội: Nxb Từ điển Bách Khoa.
Vũ Dũng. (chủ biên), (2000). Từ điển tâm ý học, Nxb KHXH HN.
Vũ Thị Nho. (2008). Tâm lý học phát triển. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia.
PL1
PHỤ LỤC 01
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Dành cho học sinh)
Nhằm tìm hiểu về hoạt động giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12,
rất mong các em trả lời những câu hỏi dưới đây. Thông tin thu thập được
chúng tôi chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu của đề tài.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các em!
Đánh dấu () vào đáp án phù hợp nhất với em.
THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Trường đang theo học:
□ THPT Thạnh Tây □ THPT Thạnh Đông □ THPT Tân Hiệp
2. Giới tính:
□ Nam □ Nữ
3. Trình độ học vấn của Cha:
□ Dưới 12/12 □ 12/12 □ Trên 12/12
4. Trình độ học vấn của Mẹ:
□ Dưới 12/12 □ 12/12 □ Trên 12/12
NỘI DUNG BẢNG HỎI
Câu 1. Theo em, việc trao đổi ý kiến với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp có quan trọng không?
□ Rất quan trọng
□ Quan trọng
□ Không quan trọng
Lý do:………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………….......
PL2
Câu 2. Em có nhu cầu trao đổi ý kiến với cha mẹ trong việc định hướng
nghề nghiệp không?
□ Có
□ Không
□ Không quan tâm
Câu 3. Theo em, việc trao đổi ý kiến với cha mẹ có giúp được gì cho em
trong việc định hướng nghề nghiệp của bản thân.
(Vui lòng đánh dấu vào cột tương ứng với từng câu hỏi)
Mức độ
STT
Đúng
Những điều thu nhận được từ việc trao đổi với cha mẹ
Rất đúng
Phân vân
Không đúng
Hoàn toàn không đúng
1 Cung cấp rất nhiều thông tin về nghề nghiệp.
2 Khiến em gặp khó khăn hơn trong việc lựa chọn nghề nghiệp.
3 Không hỗ trợ được gì cho em trong việc định hướng nghề nghiệp.
4 Giúp em biết được tỷ lệ chọi của nghề ở các trường khác nhau.
5
Được cha mẹ tạo cơ hội cho em tham gia nhiều chương trình hướng nghiệp, tư vấn nghề.
6
Giúp em nhận ra sở trường của bản thân, từ đó em nhận ra nhiều nghề có thể lựa chọn.
7
Được cha mẹ giới thiệu thêm nhiều trường khác nhau có đào tạo nghề mà em đã lựa chọn.
PL3
Mức độ
STT
Đúng
Những điều thu nhận được từ việc trao đổi với cha mẹ
Rất đúng
Phân vân
Không đúng
Hoàn toàn không đúng
8
Giúp em nhận ra cơ hội việc làm trong tương lai của nhiều nghề khác nhau.
9
Giúp em biết thêm nhiều loại hình đào tạo như đào tạo từ xa, chính quy, tại chức…
10
Giúp em đánh giá được tính cách của em có phù hợp với yêu cầu nghề nghiệp mà em đã lựa chọn hay không.
11 Giúp em lựa chọn được loại hình đào tạo phù hợp.
12 Giúp em chọn trường học phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình. ?
13 Giúp em biết thêm nhiều lĩnh vực nghề nghiệp.
14
Giúp em ý thức được rằng, không nên dựa hoàn toàn vào ý kiến của bạn bè khi chọn nghề.
15 Định hướng cho em tự quyết định nghề trong tương lai.
PL4
Câu 4. Trong quá trình nói chuyện với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp em thường cảm thấy thế nào?
Mức độ
S
Thái độ của em khi trao đổi với cha mẹ
Đồng ý
Phân vân
Không đồng ý
T T
Hoàn toàn đồng ý
1 Chăm chú lắng nghe ý kiến của cha mẹ
Hoàn toàn không đồng ý
2 Cảm thấy nhàm chán
3 Thích nghe ý kiến của bạn bè hơn là ý kiến cha mẹ
4 Không hài lòng với những quan điểm của cha mẹ
5 Cảm thấy được tôn trọng khi trao đổi ý kiến với cha mẹ về việc chọn nghề.
6
7
8 Khi được cha mẹ hỏi về việc chọn nghề, em thường trả lời miễn cưỡng. Không thể chấp nhận những điều cha mẹ nói Thích xin ý kiến chuyên gia hơn là ý kiến cha mẹ
9
10
11
12 Lảng tránh trò chuyện với cha mẹ về việc hướng nghiệp Luôn mong đợi được chia sẻ những thông tin về vấn đề nghề nghiệp với cha mẹ Cảm thấy hào hứng khi trao đổi với cha mẹ về thông tin liên quan đến nghề nghiệp. Không quan tâm đến những ý kiến của cha mẹ
13 Sẵn sàng nói lên suy nghĩ ý kiến cho cha mẹ hiểu hơn về em
PL5
Câu 5. Trong quá trình nói chuyện với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp, em trao đổi các thông tin sau ở mức độ nào ?
Mức độ
S
Rất
T
Hành vi trao đổi với cha mẹ
Thường
Thỉnh
Không
thường
ít khi
xuyên
thoảng
bao giờ
T
xuyên
Chủ động hỏi cha mẹ nghề mà em
1 lựa chọn có đặc điểm công việc
như thế nào
Cùng cha mẹ tích cực tìm kiếm loại 2 hình đào tạo nghề nghiệp phù hợp
Chia sẻ với cha mẹ về quan điểm 3 nghề nghiệp của bản thân
Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về
4 điều kiện kinh tế gia đình khi
chọntrường theo học
Tìm hiểu kỹ hơn các thông tin mà 5 cha mẹ gợi ý
Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về sự
6 phù hợp giữa năng lực của bản thân
và ngành nghề em lựa chọn
Phản đối gay gắt những ý kiến của 7 cha mẹ
Tham gia các hoạt động hướng
nghiệp để có nhiều thông tin trò 8 chuyện với cha mẹ
PL6
Mức độ
S
Rất
T
Hành vi trao đổi với cha mẹ
Thường
Thỉnh
Không
thường
ít khi
xuyên
thoảng
bao giờ
T
xuyên
Chủ động tìm hiểu các thông tin về
9 trường đào tạo để trao đổi với cha
mẹ
Cố gắng thuyết phục cha mẹ đồng
10 ý với quyết định nghề nghiệp của
bản thân
Chia sẻ ngay với cha mẹ khi vừa
nhận được một thông tin mới liên 11 quan đến trường đào tạo, hoặc nghề
mà em đã chọn
Cùng cha mẹ gặp gỡ chuyên gia 12 tư vấn hướng nghiệp
Chủ động dành thời gian trò
13 chuyện với cha mẹ về việc chọn
nghề
Chia sẻ cho cha mẹ nghe chuyện 14 chọn nghề của bạn bè
Chủ động tham gia các trắc
15 nghiệm tính cách để có thêm dẫn
chứng trò chuyện cùng cha mẹ
PL7
Câu 6. Một số yếu tố dưới đây ảnh hưởng đến việc trao đổi giữa em và
cha mẹ về định hướng nghề nghiệp. Em hãy chọn mức độ ảnh hưởng mà em
cho là phù hợp nhất.
Không Rất Các yếu tố ảnh Ít ảnh Bình Ảnh TTT ảnh ảnh hưởng hưởng thường hưởng hưởng hưởng
Yếu tố từ phía cha mẹ
Sự quan tâm của cha mẹ 1 dành cho con.
Sự kỳ vọng của cha mẹ 2 về tương lai của con.
Thói quen chia sẻ, trò
3 chuyện của cha mẹ và
con.
Thời gian cha mẹ dành để 4 trò chuyện cùng con.
Thái độ của cha mẹ đối
5 với con trong lúc trò
chuyện
Kiến thức của cha mẹ về
các vấn đề liên quan đến 6 sự định hướng nghề
nghiệp
Yếu tố từ phía con
Mong muốn tìm hiểu kiến
7 thức liên quan đến việc
định hướng nghề
PL8
Luôn tôn trọng ý kiến của 8 cha mẹ
Sự tin tưởng của con đối 9 với cha mẹ
Quan tâm đến hoàn cảnh 10 gia đình
Nhận thức được tầm quan 11 trọng của việc chọn nghề
Cá tính mạnh mẽ hay yếu 12 đuối của bản thân
Xin chân thành cảm ơn các em!
PL9
PHỤ LỤC 2
CÂU HỎI PHỎNG VẤN HỌC SINH
Nhằm tìm hiểu hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp của học sinh lớp 12 tại huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang cũng
như hổ trợ thêm kết quả nghiên cứu, tác giả đã tiến hành phỏng vấn một
số sinh viên.
Câu 1: Theo bạn việc trao đổi với cha mẹ có vai trò như thế nào
trong định hướng nghề nghiệp cho bản thân?
Câu 2: Bạn cảm thấy như thế nào khi trao đổi định hướng nghề
nghiệp cho bản thân?
Câu 3: Theo bạn hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp thể hiện như thế nào?
Câu 4: Theo bạn những yếu tố nào sẽ ảnh hưởng đến hứng thú giao
tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.
Câu 5: Bạn thường trò chuyện với cha hay mẹ nhiều hơn và thường
trò chuyện vì những điều gì về định hướng nghề nghiệp của bản thân?
PL10
PHỤ LỤC 3
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN
Câu 1: Theo bạn việc trao đổi với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp có tầm quan trọng như thế nào? Vì sao?
.............................................................................................................
.....................................................................................................................
Câu 2: Bạn cảm thấy như thế nào khi trò chuyện, trao đổi với cha
mẹ về định hướng nghề nghiệp của bản thân?
.............................................................................................................
.....................................................................................................................
Câu 3: Theo bạn biểu hiện của hứng thú giao tiếp với cha mẹ về
định hướng nghề nghiệp là nhứ thế nào?
.............................................................................................................
.....................................................................................................................
Câu 4: Theo bạn những yếu tố nào sẽ ảnh hưởng đến hứng thú giao
tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp?
.............................................................................................................
.....................................................................................................................
Câu 5: Trong thời gian sắp tới bạn cần những thông tin gì để có thể
chọn được nghề phù hợp với bản thân?
...........................................................................................................
.....................................................................................................................
PL11
PHỤ LỤC 4
Một số bảng thống kê
Descriptive
C1 Theo em, việc trao đổi ý kiến với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp có quan trọng không
Frequency
Percent
Valid Percent Cumulative
Percent
0 Không quan trọng
2.1
5
2.0
2.1
1 Quan trọng
51.9
119
46.5
49.8
Valid
2 Rất quan trọng
100.0
115
44.9
48.1
Total
239
93.4
100.0
Missing
System
17
6.6
Total
256
100.0
C2 Em có nhu cầu trao đổi ý kiến với cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp không?
Frequency
Percent
Valid Percent Cumulative
Percent
0 Không quan tâm
3
1.2
1.3
1.3
1 Không
18
7.0
7.5
8.8
Valid
2 Có
218
85.2
91.2
100.0
Total
239
93.4
100.0
Missing
System
17
6.6
Total
256
100.0
C3: nhận thức về ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12
Descriptive Statistics
N Minimu
Maxim
Mean
Std.
m
um
Deviation
C3.1 Cung cấp rất nhiều thông tin về nghề nghiệp. 239
1
5
3.76
.860
C3.2 Khiến em gặp khó khăn hơn trong việc lựa
1
239
5
3.56
.857
chọn nghề nghiệp
C3.3 Không hỗ trợ được gì cho em trong việc định
1
239
5
3.95
.831
hướng nghề nghiệp
C3.4 Giúp em biết được tỷ lệ chọi của nghề ở các
239
1
3.22
.989
5
trường khác nhau.
C3.5 Được cha mẹ tạo cơ hội cho em tham gia
239
1
3.55
1.047
5
nhiều chương trình hướng nghiệp, tư vấn nghề
C3.6 Giúp em nhận ra sở trường của bản thân, từ
239
1
3.77
.921
5
đó em nhận ra nhiều nghề có thể lựa chọn.
C3.7 Được cha mẹ giới thiệu thêm nhiều trường
239
1
3.38
1.026
5
khác nhau có đào tạo nghề mà em đã lựa chọn.
C3.8 Giúp em nhận ra cơ hội việc làm trong
239
1
3.77
.772
5
tương lai của nhiều nghề khác nhau.
C3.9 Giúp em biết thêm nhiều loại hình đào tạo
239
1
3.37
.920
5
như đào tạo từ xa, chính quy, tại chức…
C3.10 Giúp em đánh giá được tính cách của em
có phù hợp với yêu cầu nghề nghiệp mà em đã lựa
239
1
3.80
.846
5
chọn hay không.
C3.11 Giúp em lựa chọn được loại hình đào tạo
239
1
3.64
.808
5
phù hợp.
C3.12 Giúp em chọn trường học phù hợp với điều
239
2
4.06
.719
5
kiện kinh tế gia đình.
C3.13 Giúp em biết thêm nhiều lĩnh vực nghề
239
1
3.58
.870
5
nghiệp
C3.14 Giúp em ý thức được rằng, không nên dựa
239
1
3.91
.942
5
hoàn toàn vào ý kiến của bạn bè khi chọn nghề
C3.15 Định hướng cho em tự quyết định nghề
239
1
4.13
.815
5
trong tương lai
2
Valid N (listwise)
39
PL12
C4: Thái độ của học sinh lớp 12 với hoạt động giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề
nghiệp
Descriptive Statistics
N Minimum Maximum Mean
Std. Deviation
C4.1 Chăm chú lắng nghe ý kiến của
239
1
5
4.00
.664
cha mẹ
C4.2 Cảm thấy nhàm chán
239
1
5
3.92
.831
C4.3 Thích nghe ý kiến của bạn bè hơn
239
1
5
3.80
.831
là ý kiến cha mẹ
C4.4 Không hài lòng với những quan
239
1
5
3.68
.889
điểm của cha mẹ
C4.5 Cảm thấy được tôn trọng khi trao
239
1
5
4.00
.770
đổi ý kiến với cha mẹ về việc chọn nghề.
C4.6 Khi được cha mẹ hỏi về việc chọn
239
1
5
3.76
.873
nghề, em thường trả lời miễn cưỡng
C4.7 Không thể chấp nhận những điều
239
1
5
4.02
.830
cha mẹ nói
C4.8 Thích xin ý kiến chuyên gia hơn là
239
1
5
3.35
.944
ý kiến cha mẹ
C4.9 Lảng tránh trò chuyện với cha mẹ
239
1
5
3.90
.824
về việc hướng nghiệp
C4.10 Luôn mong đợi được chia sẻ
1
5
những thông tin về vấn đề nghề nghiệp
239
3.79
.819
với cha mẹ
C4.11 Cảm thấy hào hứng khi trao đổi
1
5
với cha mẹ về thông tin liên quan đến
239
3.63
.835
nghề nghiệp.
C4.12 Không quan tâm đến những ý
239
1
5
4.18
.724
kiến của cha mẹ
C4.13 Sẵn sàng nói lên suy nghĩ ý kiến
239
1
5
4.12
.817
cho cha mẹ hiểu hơn về em
Valid N (listwise)
239
PL13
C5: Hành vi giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12
Descriptive Statistics
N Minimu
Maxim
Mean Std.
m
um
Deviation
C5.1 Chủ động hỏi cha mẹ nghề mà em lựa chọn có
239
1
5
3.16
.980
đặc điểm công việc như thế nào
C5.2 Cùng cha mẹ tích cực tìm kiếm loại hình đào
239
1
5
3.05
1.086
tạo nghề nghiệp phù hợp
C5.3 Chia sẻ với cha mẹ về quan điểm nghề nghiệp
239
1
5
3.47
.916
của bản thân
C5.4 Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về điều kiện kinh
239
1
5
3.54
1.036
tế gia đình khi chọn trường theo học
C5.5 Tìm hiểu kỹ hơn các thông tin mà cha mẹ gợi ý
239
3.31
.972
1
5
C5.6 Chủ động hỏi ý kiến cha mẹ về sự phù hợp giữa
239
1
5
3.28
1.041
năng lực của bản thân và ngành nghề em lựa chọn
C5.7 Phản đối gay gắt những ý kiến của cha mẹ
239
1
5
4.21
1.004
C5.8 Tham gia các hoạt động hướng nghiệp để có
239
1
5
3.00
1.023
nhiều thông tin trò chuyện với cha mẹ
C5.9 Chủ động tìm hiểu các thông tin về trường đào
239
1
5
3.38
.948
tạo để trao đổi với cha mẹ
C5.10 Cố gắng thuyết phục cha mẹ đồng ý với quyết
5
239
1
3.21
1.031
định nghề nghiệp của bản thân
C5.11 Chia sẻ ngay với cha mẹ khi vừa nhận được
một thông tin mới liên quan đến trường đào tạo, hoặc
239
1
5
3.40
.925
nghề mà em đã chọn
C5.12 Cùng cha mẹ gặp gỡ chuyên gia tư vấn hướng
239
1
5
2.02
1.109
nghiệp
C5.13 Chủ động dành thời gian trò chuyện với cha
239
1
5
3.15
.997
mẹ về việc chọn nghề
C5.14 Chia sẻ cho cha mẹ nghe chuyện chọn nghề
239
1
5
3.03
1.117
của bạn bè
C5.15 Chủ động tham gia các trắc nghiệm tính cách
239
1
5
2.58
1.230
để có thêm dẫn chứng trò chuyện cùng cha mẹ
Valid N (listwise)
239
C6: Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của
học sinh lớp 12
PL14
Descriptive Statistics
N Mini
Maxim
Mean Std.
mum
um
Deviation
C6.1 Sự quan tâm của cha mẹ dành cho con
3.28
1.270
239
1
5
C6.2 Sự kỳ vọng của cha mẹ về tương lai của con.
3.54
1.133
239
1
5
C6.3 Thói quen chia sẻ, trò chuyện của cha mẹ và
33
3.18
2.204
239
1
con.
C6.4 Thời gian cha mẹ dành để trò chuyện cùng con.
239
3.07
1.083
1
5
C6.5 Thái độ của cha mẹ đối với con trong lúc trò
239
1
5
3.44
1.051
chuyện
C6.6 Kiến thức của cha mẹ về các vấn đề liên quan
239
1
5
3.26
1.087
đến sự định hướng nghề nghiệp
C6.7 Mong muốn tìm hiểu kiến thức liên quan đến
239
1
5
3.31
1.190
việc định hướng nghề
239
1
5
3.35
1.065
C6.8 Luôn tôn trọng ý kiến của cha mẹ
239
1
5
3.27
1.140
C6.9 Sự tin tưởng của con đối với cha mẹ
239
1
5
3.66
1.088
C6.10 Quan tâm đến hoàn cảnh gia đình
C6.11 Nhận thức được tầm quan trọng của việc chọn
238
1
5
3.80
.985
nghề
239
1
5
3.50
1.107
C6.12 Cá tính mạnh mẽ hay yếu đuối của bản thân
238
Valid N (listwise)
PL15
Những nguyên nhân học sinh đánh giá tầm quan trọng của việc giao tiếp với cha mẹ về định
hướng nghề nghiệp
$lydo Frequencies
Responses Percent of
Cases
Percent
N
1 Định hướng nghề nghiệp
17.5%
21.9%
21
2 Cha mẹ hiểu được ước mơ, nguyện vọng
4.2%
5.2%
5
3 Quyết định tương lai
15.8%
19.8%
19
$lydo lý doa
4 Tự lựa chọn nghề phù hợp với bản thân
4.2%
5.2%
5
5 Cha mẹ là người có kinh nghiệm
20.0%
25.0%
24
6 Phù hợp với hoàn cảnh gia đình
10.0%
12.5%
12
7 Cha mẹ mong muốn con chọn nghề phù hợp
2.5%
3.1%
3
8 Tin tưởng ý kiến của cha mẹ
4
3.3%
4.2%
9 Cha mẹ giúp con có tự tin lựa chọn nghề nghiệp
1
0.8%
1.0%
10 Chọn nghề phù hợp với bản thân
16
13.3%
16.7%
1
0.8%
1.0%
11 Chọn nghề phù hợp với sở thích
4
3.3%
4.2%
12 Có được sự ủng hộ của cha mẹ
3
2.5%
3.1%
13 Hiểu được mong muốn của bản thân
2
1.7%
2.1%
14 Có thêm nhiều sự chọn về nghề nghiệp
Total
120
100.0%
125.0%
PL16
MDnhanthuc Mức độ nhận thức
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative
Percent
1 NT_thap
4
1.7
1.3
1.3
2 NT_trungbinh
75
31.4
31.8
33.1
Valid
3 NT_Cao
160
66.9
66.9
100.0
Total
100.0
100.0
239
MDThaido Mức độ Thái độ
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative
Percent
1 Thaido_Thap
1
0,4
2.5
2.5
2 Thaido_trungbinh
60
25,1
78.7
81.2
Valid
3 Thaido_Cao
178
74,5
18.8
100.0
Total
239
100.0
100.0
MD_Hanhvi Mức độ hành vi
Frequenc
Percent
Valid
Cumulative
y
Percent
Percent
1 Hanhvi_thap
25
10,5
8.8
8.8
2 Hanhvi_trungbinh
142
59,4
61.1
69.9
Valid
3 Hanhvi_cao
72
30.1
30.1
100.0
Total
239
100.0
100.0
PL17
Tương quan giữa mức độ hứng thú, mức độ thái độ và mức độ hành vi
Correlations
MD_hungthu
MDNT
MDTD
MDHV
Mức độ hứng
MUCDONHA
MUCDOTHAI
MUCDOH
thú
NTHUC
DO
ANHVI
Pearson
1
.460**
.420**
.943**
Correlation
MD_hungthu Mức độ
.000
.000
.000
hứng thú
Sig. (2-tailed)
239
239
239
N
239
Pearson
1
.522**
.438**
.460**
MDNT
Correlation
MUCDONHANTHU
.000
.000
Sig. (2-tailed)
.000
C
239
239
239
N
239
Pearson
.420**
.522**
1
.311**
Correlation
MDTD
.000
.000
MUCDOTHAIDO
Sig. (2-tailed)
.000
239
239
239
N
239
Pearson
1
.943**
.438**
.311**
Correlation
MDHV
.000
.000
.000
MUCDOHANHVI
Sig. (2-tailed)
239
239
239
N
239
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).