BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM -------------------------

XÂY DỰNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành: Kế toán

Mã ngành: 60340301

TP.Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TR TP. HCM

---------------

NGUY

XÂY DỰNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC S

Chuyên ngành: Kế toán

Mã ngành: 60340301

H

: TS TR

i

CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM Cán bộ hướng dẫn khoa học : TS. TR

(Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị và chữ ký)

Luận văn Thạc sĩ được bảo vệ tại Trường Đại học Công nghệ TP. HCM ngày 19

tháng 04 năm 2015.

Thành phần Hội đồng đánh giá Luận văn Thạc sĩ gồm:

1. PGS.TS. Phan Đình Nguyên - Chủ Tịch

2. TS. Nguy h -

3. -

4. -

5. -

Xác nhận của Chủ tịch Hội đồng đánh giá Luận sau khi Luận văn đã được sửa chữa

(nếu có).

Chủ tịch Hội đồng đánh giá LV

ii

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TP. HCM, ngày 20 tháng 03 năm 2015

PHÒNG QLKH – ĐTSĐH --------------------- --------------------------------- NHIỆM VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ Họ tên học viên: YÊN Giới tính:

Ngày, tháng, năm sinh: 01-01-1972 Nơi sinh:

Chuyên ngành: MSHV:1341850056

I- Tên đề tài:

-

II- Nhiệm vụ và nội dung: -

h -

-

-

-

III- Ngày giao nhiệm vụ: 27/08/2014

IV- Ngày hoàn thành nhiệm vụ: 20/03/2015

V- Cán bộ hƣớng dẫn: CÁN BỘ HƢỚNG DẪN KHOA QUẢN LÝ CHUYÊN NGÀNH (Họ tên và chữ ký) (Họ tên và chữ ký)

iii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan l

- khoa học của riêng tôi. Các số liệu

là công trình nghiên cứu trong luận văn là trung thực .

Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

iv

LỜI CẢM ƠN biết ơn sâu sắc đến

đã

hướng dẫn,

suốt quá trình

.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến

– , Trường Đại học Sài Gòn, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, Ban Kinh tế Trung ương, Tổng Cục Thuế, Cục Thống kê TP.HCM, Cục Thuế TP.HCM, Cục Thuế Tỉnh Đồng Nai, Cục Thuế Bà Rịa-Vũng Tàu, Cục Thuế Tỉnh Bình Dương đã

.

T

v

Trong cơ cấu hệ thống thuế hiện nay thì thuế tài sản ngày càng được quan tâm bởi

lẽ loại thuế này có số thu ổn định, bền vững, chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu

ngân sách nhà nước. Thuế tài sản góp phần điều tiết cung cầu tài sản trên thị trường.

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến nhanh và

thay đổi tích cực, v là hết sức cần thiết trong hệ thống thuế

của Việt Nam hiện nay, đáp ứng nhu cầu cấp thiết cho Ngân sách Nhà Nước.

ghiên cứu mô hình thuế tài sản ở các nước trên thế

giới, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt

Nam.

Phân tích và đánh giá thực trạng về chính sách thuế liên quan đến tài sản ở

Việt nam hiện nay, chỉ ra những ưu-nhược điểm của chính sách thuế hiện nay và so

sánh chính sách thuế t

tắc xây dựng mô hình thuế tài sản, xác định các nhân tố hình thành và tác động đến

mô hình. Phân tích và đề xuất mô hình thuế tài sản ở Việt nam theo hướng đảm bảo

tính hiệu quả và phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội hiện nay nhằm nâng tỷ trọng

thu ngân sách , ổn định và phát triển lành mạnh nền kinh tế, phù hợp với nền kinh tế

thị trường định hướng XHCN trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa.

vi

ABSTRACT

In the structure of the current tax system, the asset tax is increasingly interested

because this tax revenue is stable, sustainable, high proportion of total government

revenue. Asset tax contributes to control supply and demand about asset in the

market.

In the context of VietNam economy has made rapid and positive changes, asset tax

reform is urgently needed in the tax system of Vietnam today, meet the urgent need

for State budget. To do this, we should research asset tax model in countries around

the world to draw experiences for the construction of model asset tax in Vietnam.

Analysis and assessment of policies related to current asset tax in Vietnam, pointing

out the pros-cons of the current tax policy and compares asset tax policies in

countries of the world. Since then we can apply the principles of building asset tax

model to determine the factors of formation and affecting pattern of asset tax.

Analysis and proposed asset tax model in Vietnam towards ensuring effective and

consistent with the economic - society situation today to increase the percentage of

revenues to build stable and healthy development economy, consistent with the

market economy of socialist orientation according to the process of integration and

globalization.

vii

viii

ix

x

DANH MỤC

VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Tiếng việt Tiếng Anh

AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ASEAN Free Trade Area

Association of Southeast Asian

ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á Nations

BĐS Bất động sản

Hiệp định về Chương trình thuế

quan ưu đãi có hiệu lực chung CEPT

Chính phủ CP

CQSDĐ Chuyển quyền sử dụng đất

Tổng sản phẩm quốc nội GDP

Giá trị gia tăng GTGT

héc ta Ha

Ngân sách địa phương NSĐP

Ngân sách nhà nước NSNN

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh Organization for Economic Co-

operation and Development OECD tế

QH Quốc hội

SDĐ Sử dụng đất

SDĐNN Sử dụng đất nông nghiệp

SDĐPNN Sử dụng đất phi nông nghiệp

Sản xuất kinh doanh SXKD

Thu nhập cá nhân TNCN

Thu nhập doanh nghiệp TNDN

Trans-Pacific Strategic

Economic Partnership

TPP Agreement

TS Tài sản

TTĐB Tiêu thụ đặc biệt

UBND Ủy ban nhân dân

WTO Tổ chức Thương mại Thế giới World Trade Organization

XHCN Xã hội chủ nghĩa

XNK Xuất nhập khẩu

xi

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

Bảng Tên Bảng Trang

2.1 Tỷ lệ thuế tài sản trên GDP của nhóm các nước OECD 24

2.2 Thuế tài sản ở Liên bang Hoa kỳ 26

2.3 Thuế tài sản ở Cộng hòa Pháp 27

2.4 Thuế tài sản ở Thụy Điển 29

2.5 Thuế tài sản ở Đài Loan 29

2.6 Nhận xét về mô hình thuế tài sản ở các nước trên thế giới 30

3.1 Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp trên cả nước 33

3.2 Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp trên cả nước 34

3.3 Tình trạng nhà ở tính đến ngày 1/4/2009 37

3.4 Tình trạng phương tiện giao thông đường bộ giai đoạn 2002-2012 38

3.5 Kết cấu nguồn thu liên quan đến TS so với tổng thu NS (tỷ lệ %) 39

3.6 Kết cấu nguồn thu liên quan đến TS so với tổng thu thuế (tỷ lệ %) 40

3.7 Kết cấu nguồn thu từ thuế (%) 53

3.8 Kết cấu nguồn thu NSNN (%) 55

3.9 So sánh cán cân NSNN Việt nam và các nước đang phát triển 57

Các bước thực hiện trong nghiên cứu 61

4.1 4.2 Kết quả nghiên cứu đối tượng chịu thuế tài sản 63

4.3 Kết quả nghiên cứu hình thức đánh thuế tài sản 67

4.4 Kết quả nghiên cứu căn cứ tính thuế tài sản 70

4.5 Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả thuế tài sản 74

4.6 Mô tả các biến trong phương trình hồi quy đa biến 81

4.7 Độ tin cậy thang đo của 9 biến “Đối tượng chịu thuế tài sản” 83

4.8 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “D09” 84

4.9 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “D06” 84

4.10 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “D08” 85

4.11 Độ tin cậy thang đo của 8 biến “Hình thức đánh thuế tài sản” 85

4.12 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “H12” 86

4.13 Độ tin cậy thang đo của 6 biến “Căn cứ tính thuế tài sản” 86

xii

4.14 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “C19” 87

4.15 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “C23” 87

4.16 Độ tin cậy thang đo “Tính hiệu quả của thuế tài sản” 88

4.17 Kết quả phân tích hồi quy đa biến 90

4.18 Diễn giải Mô hình thuế tài sản 93

Hình Tên Hình Trang

1.1 6

2.1a Mô hình thuế tài sản của K. Rosengard (1998) 22

Mô hình thuế tài sản của Keputusan Menteri Keuangan Republik Indonesia Nomor (1988) 2.1b 23

4.1 Các bước xây dựng mô hình thuế tài sản 59

4.2 Mô hình nghiên cứu thuế tài sản 60

Các nhân tố ảnh hưởng mô hình thuế tài sản 4.3 91

Hệ thống thuế tài sản 4.4 93

Biểu đồ Tên Biểu đồ Trang

Thuế BĐS so với GDP của các nhóm nước 2.1 25

Tỷ lệ ngân sách thuế BĐS với chi tiêu của chính quyền địa phương 2.2 26

Kết cấu nguồn thu đối với tài sản 3.1 39

3.2 Mức phụ thuộc vào thuế tài sản ở một số Quốc gia 40

Kết cấu nguồn thu từ thuế (2003-2012) 3.3 52

Cấu trúc nguồn thu thuế của Việt Nam so với một số nước (2010) 3.4 54

Kết cấu nguồn thu NSNN (2003-2012) 3.5 54

Tỷ lệ thu NS so GDP của một số nền kinh tế mới nổi ở Châu Á 3.6 56

Kết quả nghiên cứu đối tượng chịu thuế tài sản 4.1 65

Kết quả nhận định đối tượng chịu thuế tài sản 4.2 66

Kết quả nghiên cứu hình thức đánh thuế tài sản 4.3 68

Kết quả nhận định hình thức đánh thuế tài sản 4.4 69

Kết quả nghiên cứu căn cứ tính thuế tài sản 4.5 71

Kết quả nhận định căn cứ tính thuế tài sản 4.6 72

Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả thuế tài sản 4.7 75

Sơ đồ Tên Sơ đồ Trang

15 2.1 Sơ đồ biểu diễn chu kỳ vận động của thu nhập

xiii

MỞ ĐẦU

Thuế là công cụ quan trọng của nhà nước nhằm để tạo nguồn thu cho ngân

sách, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo công bằng xã hội. Thuế trong nền kinh tế thị

trường luôn được các quốc gia quan tâm nghiên cứu, hoàn thiện. Trong cơ cấu hệ

thống thuế hiện nay bao gồm thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản thì thuế

tài sản ngày càng được quan tâm bởi lẽ loại thuế này có số thu ổn định, bền vững,

chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu ngân sách nhà nước, thuế tài sản góp phần điều

tiết cung cầu tài sản trên thị trường, tránh các hiện tượng đầu cơ tích trữ và góp

phần điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, hạn chế bất bình đẳng về thu nhập

và thực hiện công bằng xã hội. Thuế tài sản là một loại thuế ra đời rất sớm trong hệ

thống thuế khoá của đại đa số các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở những quốc

gia có nền kinh tế thị trường phát triển. Việc nghiên cứu và xây dựng mô hình thuế

tài sản ở Việt nam hướng theo các yêu cầu đổi mới sau:

- Thứ nhất, Việt nam đang trong quá trình hội nhập khu vực, hội nhập toàn

cầu dẫn đến nguồn thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giảm sút một cách đáng

kể, trong khi nhu cầu chi tiêu của ngân sách phục vụ các chức năng, nhiệm vụ kinh

tế-xã hội của Nhà nước không ngừng tăng lên. Vì vậy, việc cải cách đối với hệ

thống chính sách thuế nội địa nhằm khai thác thêm nguồn thu đáp ứng nhu cầu chi

tiêu không ngừng tăng lên của ngân sách nhà nước là điều rất cần thiết và cấp bách

trong giai đoạn hiện nay.

- Thứ hai, trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, các hoạt động kinh tế, các

quan hệ dân sự, đặc biệt là các quan hệ dân sự về tài sản, nhà, đất diễn ra khá phức

tạp, đa dạng không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trong phạm vi quốc tế. Vì

vậy, cần có một hệ thống thuế tài sản phù hợp hơn để góp phần đắc lực vào yêu cầu

quản lý, hòa hợp với cơ chế thị trường và hội nhập

- Thứ ba, qua thành tựu của 25 năm đổi mới, mức thu nhập của một số tầng

lớp dân cư tăng lên đáng kể, thành phần kinh tế tư nhân đã có những đóng góp tích

cực cho nền kinh tế và ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, việc xây dựng, mua sắm

tài sản đang phát triển với tốc độ nhanh chóng và đi liền theo đó là khoảng cách

giàu nghèo cũng ngày một gia tăng. Vì vậy, cần thiết phải xem xét, sửa đổi, bổ sung

chính sách thuế đối với tài sản cho phù hợp với tình hình mới. Qua đó, vừa khai

xiv

thác thêm nguồn thu hợp lý cho NSNN, vừa thực hiện được mục tiêu công bằng xã

hội.

Nhìn chung, chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam tuy đã phát

huy được nhiều điểm tích cực trên các phương diện kinh tế, xã hội. Song trước xu

thế hội nhập và những diễn biến phức tạp đa dạng về tài sản, thu nhập của dân cư,

hệ thống thuế tài sản hiện hành bộc lộ những nhược điểm cần phải có chính sách

thay đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu cải cách quản lý trong lĩnh

vực thuế.

Qua số liệu thống kê cho thấy, nguồn thu từ các loại thuế liên quan đến tài

sản chiếm một tỷ trọng thấp trong tổng nguồn thu NSNN và cũng chưa thực sự giữ

một vị trí quan trọng trong ngân sách địa phương như ở các quốc gia trên thế giới.

Kết quả nguồn thu liên quan đến tài sản chưa khuyên khích mọi người sử dụng tài

sản hợp lý có hiệu quả.

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, để có thể duy trì tốc độ tăng

trưởng kinh tế và phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020,

việc đối mặt và giải quyết những vấn đề của kinh tế thị trường phải luôn được quan

tâm, giải quyết bằng các chính sách kinh tế của nhà nước, trong đó có chính sách

thuế. Gần đây, nhà nước đã và đang thực hiện chiến lược cải cách thuế, nhiều sắc

thuế được sửa đổi bổ sung như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu

nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài nguyên và đang nghiên cứu để

ban hành nhiều sắc thuế mới như: thuế môi trường, thuế tài sản, thuế nhà, thuế sử

dụng đất

Trong bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam đã có những chuyển biến nhanh và

thay đổi tích cực, vấn đề cải cách thuế tài sản nhằm nâng tỷ trọng thu ngân sách từ

thuế tài sản, ổn định và phát triển lành mạnh nền kinh tế, phù hợp với nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN trong tiến trì

NAY” để -

nghiên cứu với mục đích tìm ra một mô hình thuế tài sản ở Việt Nam mới hơn, phù

1

CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam hiện đang tiến hành công cuộc hội nhập kinh tế thế giới, để quá trình

hội nhập được thuận lợi hơn, Chính phủ Việt Nam gần đây đã thực hiện một loạt cải

cách về kinh tế và chính sách thuế, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý tài chính. Kết

quả là Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng kinh tế ngoạn mục trong hai thập kỷ qua và

hầu hết các chỉ số kinh tế đều cho thấy xu hướng tăng nhanh chóng. Tình hình thu chi

ngân sách cũng đáng khích lệ, mức tăng thu ngân sách đạt được khá ấn tượng. Tuy

nhiên, do cần đầu tư nhiều cho hạ tầng cơ sở nên Việt Nam vẫn còn tỷ lệ nợ công

tương đối cao. Việt Nam cũng đang từng bước tiến hành cải cách pháp luật về thuế và

hiện đại hóa quản lý thuế. Cải cách chính sách và quản lý thuế là một bộ phận quan

trọng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển đổi này

đã dẫn đến những thay đổi cơ bản trong cơ cấu đối tượng nộp thuế. Quá trình chuyển

đổi kinh tế cũng dẫn đến một thay đổi không kém quan trọng về nguồn thu ngân sách

nhà nước, từ thuế đánh vào giao dịch ngoại thương và nguồn thu từ khai thác dầu thô

sang nguồn thuế nội địa, cụ thể là thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân

và thuế liên quan đến đất đai. Kế hoạch phát triển Kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-

2015 đã đặt ra một mục tiêu thu ngân sách nhà nước phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ

mô và đầu tư vào các hạng mục cơ sở hạ tầng cơ bản. Tổng mức thu ngân sách trung

bình phải đạt từ 25,1 đến 25,4% GDP, trong đó nguồn thu từ thuế và lệ phí đạt 23,0

đến 24,0% GDP. Tổng thu dự tính đạt khoảng 3.880 nghìn tỉ Đồng, tức là gấp 1,5 lần

so với thời kỳ 2006-2010. Như vậy mức tăng thu ngân sách nhà nước bình quân hàng

năm sẽ vào khoảng 15,6%.

Bên cạnh những thành quả đạt được qua các kỳ cải cách thuế, hệ thống thuế

Việt Nam vẫn còn bộc lộ những khuyết điểm theo đánh giá vào năm 2011 của tổ chức

Ngân hàng thế giới và đưa ra các khuyến nghị [9]:

Hiệu quả kinh tế. Hiện còn tồn tại một số điểm không trung lập trong chính

sách thuế và thực thi như thiếu sự hài hòa giữa các loại thuế, nhiều thuế suất, nhiều

trường hợp không chịu thuế và chính sách ưu đãi thuế đã tạo ra hiệu quả kinh tế thấp

trong phân bổ nguồn lực do các đối tượng nộp thuế đưa ra quyết định kinh doanh với

2

mục tiêu giảm thiểu gánh nặng thuế chứ không phải với mục tiêu tối đa hóa năng lực

sản xuất và sản lượng.

Công bằng. Sự công bằng chiều ngang (horizontal equity) bị vi phạm theo

nhiều cách. Nhiều loại miễn giảm khác nhau cũng dẫn đến vi phạm tính công bằng

theo chiều dọc (vertical equity). Điều tương tự cũng xảy ra đối với các sắc thuế gián

thu như tồn tại nhiều thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế tiêu thụ đặc biệt

(TTĐB) cùng với nhiều trường hợp không chịu thuế.

Minh bạch. Minh bạch được đảm bảo trước hết với điều kiện luật thuế phải

không được quá phức tạp và không phân biệt đối xử, còn các quy chế và đòi hỏi về

quản lý thì phải dễ tiếp cận và dễ tuân thủ. Với ý nghĩa đó, Việt Nam đã đạt nhiều tiến

bộ về minh bạch tuy vẫn còn nhiều việc cần cải thiện.

Tính phù hợp và ổn định của nguồn thu. Cần theo dõi chặt chẽ các khu vực

đang tăng trưởng trong nền kinh tế để mở rộng cơ sở thuế vào thời điểm thích hợp.

Thực ra ở Việt Nam, thuế liên quan đến tài sản đã được áp dụng từ khá lâu.

Tuy nhiên, Luật thuế của Việt Nam lại không gọi là thuế tài sản. Chính vì vậy vẫn còn

rất nhiều người xem đó là một loại thuế mới và chưa hiểu đó là loại thuế gì, đối tượng

chịu thuế ra sao và khái niệm thuế tài sản cũng chỉ được hiểu một cách chung chung.

Hiện tại, ở Việt Nam hiện đang có một số thuế, phí, lệ phí liên quan đến tài sản như:

thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế thu nhập từ

chuyển quyền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, tiền thuê đất và tiền bán nhà thuộc sở hữu

nhà nước.

Trên thế giới, thuế liên quan đến tài sản thường có phạm vi rộng hơn, chẳng

hạn như: nhà, đất, tàu thuyền, ôtô, máy bay, thuyền du lịch, chứng khoán và các động

sản tài chính khác. Tuy nhiên, mỗi nước lại có một cách xác định đối tượng chịu thuế

khác nhau và tùy thuộc vào điều kiện của từng nước mà người ta áp dụng ít hay nhiều,

sớm hay muộn. Tại các nước phát triển, thuế tài sản là nguồn thu chính chiếm 40 -

50% tổng số thu thuế tại các đô thị như Mexico, Brazil, Ấn Độ, Indonesia… và nó

thường chiếm từ 15% - 40% trong thu ngân sách địa phương. Tuy nhiên, ở Việt Nam,

loại thuế này mới chỉ chiếm khoảng nhỏ hơn 1% trên tổng thu ngân sách và chủ yếu

thu từ đất đai.

3

Có thể nói rằng cải cách thuế tài sản là hết sức cần thiết trong hệ thống thuế của

Việt Nam hiện nay, đáp ứng nhu cầu cấp thiết cho Ngân sách Nhà Nước và tinh thần

chủ trương của Đảng và Nhà Nước thông qua Quyết định 732/QĐ-TTg của Thủ

Tướng Chính Phủ ngày 17/5/2011 với nội dụng cần đạt được về chương trình cải cách

thuế: Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả,

phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mức động viên

hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công

cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước. Ngành thuế

Việt Nam phải vươn tới hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ

phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ

bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản,

khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng

dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao.

Vì lẽ trên, việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam hiện nay là cần thiết

bởi những lý do: Việt Nam đang trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực,

cần có một hệ thống thuế phù hợp thông lệ quốc tế. Quá trình hội nhập và các cam kết

đối với WTO, AFTA, ASEAN, TPP… dẫn đến giảm dần nguồn thu ngân sách từ thuế

nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu. Tốc độ tăng trưởng GDP

của Việt nam ổn định và thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng tốt, tích lũy tài sản

dần dần được nâng lên. Mục tiêu cải cách thuế của chính phủ tiến tới một hệ thống

thuế bền vững và hiệu quả nhằm cải thiện tình trạng thâm hụt kéo dài của cán cân

ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, trước tình trạng thị trường bất động sản ở Việt Nam rất

bất ổn mà nguyên nhân chủ yếu là do việc đầu cơ bất động sản, ví dụ như nhiều dự án

chưa khởi công, những người đầu cơ đã mua hết các suất nhà và đất. Hậu quả là,

những người có nhu cầu thực sự về nhà đất phải mua lại qua nhiều lần trung gian. Vì

vậy, chống đầu cơ nhà đất là một trong những mục tiêu quan trọng của dự thảo luật

trong cách tính thuế tài sản. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển điều này đồng nghĩa tài

sản có sự tập trung quá mức vào một nhóm người giàu có, dẫn đến khoảng cách chênh

lệch giàu nghèo khá lớn.

4

Vì vậy, để góp phần thực hiện công bằng xã hội tránh sự phân hóa giàu nghèo

một cách đáng kể thì những người có thu nhập và tài sản nhiều phải có một nghĩa vụ

chia sẽ trách nhiệm đối với xã hội.Thuế tài sản giúp hạn chế việc sử dụng tài sản lãng

phí, để góp phần thúc đẩy cho các thành phần kinh tế phát huy hiệu quả sử dụng tài

sản và cuối cùng là đem lại nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà Nước trong bối

cảnh thâm hụt Ngân sách kéo dài hiện nay. Thuế tài sản là nền tảng vững chắc cho

ngân sách địa phương từ các nguồn thu thuế BĐS để phát triển cơ sở hạ tầng và các

dịch vụ công, đặc biệt đối với các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh chuẩn

bị thí điểm cho mô hình chính quyền đô thị. Thuế tài sản phần nào sẽ góp phần bảo vệ

môi trường và quy hoạch giao thông trước tình trạng nan giải do số lượng phương tiện

giao thông tăng quá mức so với dự báo hiện nay.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Trước bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay có nhiều chuyển biến tích cực và đặc

biệt là tiến trình hội nhập toàn cầu hóa, chủ trương cải cách thuế của Chính phủ theo

lộ trình có kế thừa chính sách thuế hiện hành, mạnh dạn thay thế những điểm bất hợp

lý và bổ sung những điểm mới sao cho phát huy các vai trò của chính sách thuế, tăng

thu ngân sách, điều tiết vĩ mô, đảm bảo công bằng xã hội. Việc cải cách thuế cũng

phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng bộ với các chính sách khác nhằm

phát triển kinh tế của Việt nam. Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu nhằm vào các nội dung

sau:

- Nghiên cứu các mô hình thuế tài sản ở các nước trên thế giới, từ đó rút ra

những kinh nghiệm cho việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam

- Phân tích và đánh giá thực trạng về chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt

nam hiện nay, chỉ ra những ưu-nhược điểm của chính sách thuế hiện nay và so sánh

chính sách thuế tài sản với các nước trên thế giới.

- Vận dụng các nguyên tắc xây dựng mô hình thuế tài sản, xác định các nhân tố

hình thành và tác động đến mô hình. Phân tích và đề xuất mô hình thuế tài sản ở Việt

nam theo hướng đảm bảo tính hiệu quả và phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội hiện

nay.

5

1.3 và ph nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các nội dung lý luận về tài sản, thuế tài

sản, mô hình thuế tài sản và chính sách thuế tài sản ở một số quốc gia, chính sách thuế

và các khoản thu có liên quan đến tài sản ở Việt Nam. Với mỗi sắc thuế đều nghiên

cứu nội dung chủ yếu theo quy định của pháp luật, kết quả đạt được và những hạn chế.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến

thuế tài sản và xu hướng cải cách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam hiện nay, số

liệu nghiên cứu từ năm 2003 đến năm 2012. Riêng vấn đề tổ chức thực hiện các chính

sách thuế tài sản ra sao thì luận văn chỉ đưa ra những đánh giá tổng quát mà không đi

sâu nghiên cứu về phần tổ chức thực hiện các chính sách đó. Vì thời gian nghiên cứu

có hạn, nên phần dự báo doanh thu thuế tài sản từ mô hình thuế tài sản cũng không

được nghiên cứu sâu trong luận văn.

Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp

diễn giải, phân tích, điều tra xã hội học, tổng hợp…, Với phương pháp này, các chính

sách thuế về tài sản được đặt trong quá trình vận động, biến đổi không ngừng và được

hoàn thiện để phù hợp với xu thế phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và thế giới.

Dựa trên những lý luận cơ bản về tài sản và thuế tài sản, luận văn sử dụng các phương

pháp nghiên cứu cụ thể như sau:

- Tiếp cận lý thuyết về thuế nói chung và các sắc thuế liên quan đến tài sản nói

riêng, chú trọng đến vai trò và mục tiêu của chính sách thuế.

- Tham khảo các tài liệu về thuế tài sản tại một số quốc gia và các tài liệu góp ý

về chính sách thuế liên quan đến tài sản hiện hành.

- Thảo luận chuyên gia tìm ra các nhân tố hiệu quả cho mô hình thuế tài sản

- Lấy ý kiến điều tra từ các chuyên gia ngành thuế và tài chính.

- Thống kê số liệu có chọn lọc từ các tài liệu và trang thông tin điện tử có liên

quan (Chính phủ, Bộ tài chính, Tổng cục thống kê, Ngân hàng thế giới…)

- Phân tích mô tả, đánh giá những ưu điểm, nhược điểm của từng sắc thuế liên

quan đến tài sản. So sánh về mức độ đóng góp thu ngân sách, vai trò điều tiết của các

sắc thuế trong hệ thống chính sách thuế liên quan đến tài sản

- Tổng hợp các vấn đề nghiên cứu, suy diễn lô-gíc phục vụ đề xuất mô hình thuế

tài sản

6

Cơ sở lý thuyết về TS, Thuề TS

Cơ sở thực tiễn, số liệu thống kê, điều tra khảo sát

Phân tích định tính, tìm ra các nhân tố phù hợp cho mô hình thuế TS

Phân tích định lƣợng, tìm ra các nhân tố tác động mô hình thuế TS

Đánh giá tính phù hợp

Đánh giá mức độ tác động

Tác động của quá trình hội nhập

Chủ trƣơng, chính sách cải cách thuế

Tác động của điều kiện KT-XH

Kiến nghị

Đề xuất mô hình Thuế TS

Hình 1.1: Khung nghiên cứu của Luận văn

1.4

Luận văn được nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cải cách

thuế, trong đó có thuế tài sản. Việc đóng góp ý kiến cho nghiên cứu sửa đổi các văn

bản pháp luật của nhà nước về thuế tài sản là vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Luận văn đã nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện và hệ thống các vấn đề lý luận

về tài sản, chính sách thuế đánh vào tài sản, nghiên cứu mô hình thuế tài sản của các

quốc gia, phân tích chi tiết thực trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt

Nam hiện nay. Từ đó có những nhận xét, đánh giá về ưu-nhược điểm hiện nay và định

hướng cho mô hình thuế tài sản phù hợp với điều kiện và đặc điểm ở Việt Nam.

Những kết quả đạt được qua việc nghiên cứu mô hình thuế tài sản:

 Nhận dạng các nhân tố và xây dựng mô hình lý thuyết thuế tài sản.

 Hình thành khung nghiên cứu của Luận văn để giải quyết các nội dung và mục

tiêu đưa ra.

 Phân tích thực trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam

 Khảo sát điều tra các nhân tố cấu thành mô hình thuế tài sản và đề xuất mô

hình thuế tài sản trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay.

7

 Đề xuất định hướng xây dựng chính sách thuế tài sản trên mô hình mới nhằm

hoàn thiện thuế tài sản ở Việt Nam hoàn chỉnh hơn trong tiến trình công nghiệp

hóa-hiện đại hóa và hộp nhập Quốc tế.

1.5 văn

Với mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu nêu trên, ngoài phần mở đầu và

kết luận, gồm có 5 chương :

Chương 1: Giới thiệu

Chương 2: Tổng quan tài sản

Chương 3: Thực trạng chính sách tài sản ở Việt Nam

Chương 4: Phân tích và đề xuất mô hình thuế tài sản ở Việt Nam

Chương 5: huyến nghị ứng dụng mô hình thuế tài sản vào việc xây dựng

các chính sách thuế ở Việt Nam

chƣơng 1

Thực ra, ở Việt Nam đã có chính sách thu ngân sách đối với tài sản như đất đai

từ rất lâu. Cụ thể như thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi giao đất hoặc cho thuê đất.

Trong quá trình sử dụng đất có thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất (nay đã

chuyển thành thuế sử dụng đất phi nông nghiệp), khi chuyển nhượng đất có thuế

chuyển quyền sử dụng đất (nay đã chuyển thành thuế thu nhập). Trong thủ tục đăng

ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản có lệ phí trước bạ, khi được giải quyết một

số công việc liên quan đến địa chính phải nộp lệ phí địa chính. Đó là tám khoản thu

đối với tài sản được quy định bởi bốn luật thuế. Việc xây dựng mô hình Thuế tài sản

sẽ gộp các khoản thu trên vào một hệ thống thuế tài sản và mở rộng thêm cơ sở tính

thuế cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội hiện nay là vấn đề được Chính Phủ Việt

Nam đặc biệt quan tâm.

Cùng với thành tựu trên 25 năm đổi mới của đất nước, thu nhập và đời sống

của người dân ngày càng tăng lên nhanh chóng. Việc xây dựng nhà cửa khang trang,

mua sắm tài sản có giá trị lớn đang phát triển mạnh từ thành thị đến nông thôn cùng

với sự phát triển mạnh mẽ của thành phần kinh tế tư nhân. Theo đó, chênh lệch giàu

nghèo trong xã hội cũng ngày càng gia tăng. Do vậy, cần có một mô hình thuế tài sản

phù hợp tình hình mới, vừa khai thác thêm nguồn thu cho NSNN vừa đảm bảo mục

tiêu công bằng xã hội.

8

CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ THUẾ TÀI SẢN

2.1

2.1.1

Thuế tài sản là tên gọi chung của các sắc thuế đánh vào quyền sở hữu hoặc

quyền sử dụng tài sản. Sắc thuế tài sản phổ biến nhất là thuế bất động sản, ở một số

quốc gia, chính quyền tách bất động sản thành nhà ở và đất ở và tương ứng là hai sắc

thuế riêng. Thời phong kiến Việt Nam, thuế điền thổ, còn gọi là thuế ruộng đất là một

loại thuế tài sản phổ biến. Có một sắc thuế tài sản được thu khi phát sinh sự thay đổi

quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, như thuế trước bạ, thuế thừa kế.

Thuế tài sản là tên gọi để chỉ sắc thuế lấy tài sản làm đối tượng đánh thuế. Đây

là một trong ba cách phân loại theo nội dung của hệ thống thuế gồm: thuế đánh vào

thu nhập, thuế đánh vào tiêu dùng (sử dụng thu nhập) và thuế đánh vào tài sản (thu

nhập là được tích luỹ và vật chất hoá dưới dạng tài sản). Việc phân biệt rõ đối tượng

đánh thuế tài sản, đối tượng đánh thuế thu nhập và thuế tiêu dùng có ý nghĩa quan

trọng để có căn cứ xác định chính xác thời điểm cũng như cơ sở đánh thuế, tránh được

sự trùng lắp, chồng chéo về nội dung động viên thu nhập của đối tượng chịu thuế [14].

Thuế tài sản là loại thuế ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại với hình thức đầu

tiên là thuế đất được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các xã hội cổ đại, vì lúc đó đất đai hầu

như là tài sản duy nhất thật sự có giá trị và nhà nước có điều kiện thuận lợi để nắm

chắc, quản lý và đánh thuế. Khi nền kinh tế-xã hội của các quốc gia ngày càng phát

triển, trên thế giới dần dần xuất hiện nhiều loại của cải khác thuộc đối tượng đánh thuế

tài sản. Thông thường, việc đánh thuế vào tài sản không tính đến nguồn gốc thu nhập

tạo ra tài sản có từ đâu, lúc nào… mà chỉ quan tâm đến trị giá tài sản của chủ thể có

quyền sở hữu (hoặc quyền sử dụng) vào thời điểm nhất định.

Thuế tài sản được điều chỉnh theo quyền sở hữu, quyền sử dụng, khai thác hay

chuyển nhượng tài sản tại thời điểm nhất định, theo quy định của pháp luật, với nhiều

hình thức tên gọi khác nhau, chủ yếu là: thuế đăng ký tài sản (thuế trước bạ, lệ phí

trước bạ); thuế thừa kế; thuế quà biếu; thuế nhà đất; thuế tài sản (đánh tổng hợp trên

toàn bộ giá trị bất động sản, động sản và tài sản tài chính của một chủ thể); thuế

chuyển nhượng tài sản (nhà, đất, vốn, trái phiếu…); thuế khai thác tài nguyên quốc

gia. Thuế tài sản được đánh giá là loại thuế trực thu có thể động viên tương đối sát với

9

khả năng đóng góp thực tế của người chịu thuế vì thuế đánh vào những tài sản cụ thể,

nhất là nhà và đất, là những vật thực có, dễ nhận biết hơn các đối tượng đánh thuế thu

nhập hay tiêu dùng.

Thuế tài sản được thể hiện dưới nhiều hình thức với tên gọi khác nhau như thuế

mua tài sản, thuế nhà, thuế đất, thuế đăng ký tài sản, thuế chuyển nhượng tài sản…

với những đặc điểm như sau:

Thuế tài sản là loại thuế dựa trên quan điểm đánh thuế theo lợi ích, những

người được hưởng lợi ích nhiều thì phải nộp thuế nhiều hơn. Điều này xuất phát từ

thực tế là nhiều loại tài sản được bảo tồn, phát triển và sinh lợi là do được thừa hưởng

rất nhiều từ các dịch vụ công cộng của nhà nước. Thuế tài sản mang tính chất là loại

thuế h trợ cho thuế đánh trên thu nhập. Thu nhập từ tài sản thường khó xác định được

nếu chủ sở hữu cố tình che dấu, trong khi tài sản dù là động sản hay bất động sản khó

mà che dấu được. Thuế đánh vào tài sản cho phép khai thác hết khả năng của người

nộp thuế. Điều này, còn góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế vì nó khuyến khích chủ

sở hữu tài sản sử dụng tài sản có hiệu quả nhất. Thuế tài sản chỉ ảnh hưởng đến một

phần thiểu số dân cư thuộc diện giàu có nên dễ nhận được sự ủng hộ của đại đa số

người dân.

Thuế tài sản là một trong những biện pháp can thiệp của nhà nước trong việc

giải quyết sự không công bằng về phân phố giữa các tầng lớp dân cư. Thuế

tài sản là sắc thuế có thể phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa tiêu

dùng, đầu tư và tiết kiệm của các chủ thể trong nền kinh tế. Do việc đánh thuế tài sản

sẽ làm hạn chế ý thích tiết kiệm, tích lũy bằng tài sản và khuyến khích tăng tiêu dùng

hoặc đầu tư sản xuất, kinh doanh nên có thể sử dụng thuế tài sản làm công cụ kích

cầu, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội

Thuế tài sản, đặc biệt là loại thuế đăng ký, thường dễ thu vì loại thuế này được

xây dựng phù hợp với tâm lý của người có tài sản, muốn được xác định quyền sở hữu,

quyền sử dụng hợp pháp và bảo hộ đối với một số tài sản có giá trị.

2.1.2

Việc đánh thuế tài sản không đơn giản chỉ nhằm mục đích tạo nguồn thu cho

ngân sách nhà nước mà xuất phát từ nhiều lý do xét trên nhiều khía cạnh kinh tế, xã

hội. Thuế tài sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế cũng như hệ thống ngân sách

nhà nước, cụ thể:

10

t, Thuế tài sản là nguồn thu rất quan trọng cho ngân sách Nhà Nước:

thường chiếm một tỷ trọng rất cao trong tổng thu ngân sách của nhiều Quốc gia và

cũng chính là loại thuế dễ quản lý thu. Những bất động sản, nhà cửa không thể di dời

che dấu được. Máy bay, ô tô, tàu thuyền… thì không thể không đăng ký lưu thông.

Nhìn chung ở các Quốc gia áp dụng thuế tài sản thì nguồn thu rất cao cho ngân sách

Nhà Nước. Ví dụ như ở Canada, Mỹ, Úc, Ireland, Newzeland thuế tài sản chiếm trên

85% trong tổng thu ngân sách [4]

Thứ hai, Thuế tài sản góp phần đảm bảo công bằng xã hội: những người sở hữu

một lượng tài sản có giá trị lớn, những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập nhiều hơn,

ngoài những tài sản phục vụ cho đời sống sinh hoạt cá nhân họ còn có các tài sản tích

trữ, đầu tư sinh lợi thì những chủ thể này phải có một nghĩa vụ đóng góp cho ngân

sách Nhà nước và cuối cùng thì ngân sách này thực hiện chức năng phân phối và phân

phối lại. Bất kỳ một xã hội nào càng phát triển thì càng có sự phân cực giữa hai tầng

lớp người giàu và người nghèo. Vì vậy, đứng ở góc độ quản lý Nhà nước đảm bảo một

xã hội dân chủ, công bằng và văn minh thì chính sách thuế tài sản là một công cụ thực

hiện mục tiêu này. Bên cạnh đó, thuế tài sản còn có vai trò quan trọng trong mối quan

hệ giữa các thế hệ, tăng cường đoàn kết nội bộ, giảm đi sự chênh lệch quá đáng về thu

nhập trong các tầng lớp xã hội

Thứ ba, thuế tài sản còn được coi là công cụ hữu hiệu của Chính phủ nhằm

thực hiện việc quản lý, kiểm kê, kiểm soát đối với các loại tài sản có giá trị. Thông

qua đó thấy được sự chênh lệch giàu nghèo, mức sống của các tầng lớp dân cư, tiềm

năng nguồn lực xã hội... Từ đó Chính phủ có những quyết sách hợp lý cho việc phát

triển kinh tế xã hội trong mỗi thời kỳ nhất định.

Như vậy, xét trên khía cạnh việc đánh thuế tài sản là cần thiết vì nó khắc phục

các khiếm khuyết của thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt là đối với những nước mà mức

độ thu nhập cá nhân có diện đánh thuế hạn hẹp và bị hạn chế do năng lực thực hiện.

Cùng với các loại thuế khác, thuế tài sản cho phép thực hiện được các mục tiêu, yêu

cầu đề ra về tài chính, kinh tế, xã hội... đồng thời phát huy tác dụng hỗ trợ có hiệu quả

cho thuế đánh vào thu nhập và tiêu dùng trong hệ thống thuế. Tuy nhiên trong một hệ

thống thuế gồm nhiều loại thuế thu nhập có diện đánh thuế mở rộng thì hình thức thuế

tài sản đánh vào những tài sản do thu nhập tạo ra đã chịu thuế thu nhập có thể dẫn đến

tình trạng đánh thuế trùng vào khoản tiết kiệm và vì vậy sẽ không mang lại hiệu quả

11

kích thích các đối tượng tạo ra thu nhập trong xã hội. Do vậy, việc đánh thuế tài sản

cần phải được xem xét, phân tích thận trọng trong mối quan hệ với các loại thuế khác,

đặc biệt là đối với các loại thuế trực thu để thuế tài sản vừa đáp ứng yêu cầu tăng thu

cho Ngân sách nhà nước một cách hợp lý, vừa khắc phục được sự trùng lắp, chồng

chéo trong cách đánh thuế thu nhập, không kìm hãm phát triển sản xuất kinh doanh,

mua sắm tài sản của các tầng lớp dân cư.

Thứ tư, có tác dụng làm giảm nhẹ gánh nặng cho thuế thu nhập: Thuế tài sản

thực chất là một loại thuế bổ sung cho thuế thu nhập vì nó đánh vào một dạng tồn tại

khác của thu nhập để đảm bảo yêu cầu bao quát hết tất cả các nguồn thu. Việc đánh

thuế một lần vào thu nhập sẽ có khuynh hướng không đảm bảo công bằng vì khả năng

kiểm soát chặt chẽ các nguồn thu thường rất khó khăn đối với chính quyền thu thuế.

Vì vậy, việc đánh thuế tài sản thực chất cũng là đánh thuế vào phần thu nhập được tài

sản hoá. Diện đánh thuế tài sản rộng hơn diện đánh thuế thu nhập, bao gồm mọi tài

sản, không phân biệt tài sản đó mang lại thu nhập hay không, đảm bảo công bằng xã

hội. Việc đánh thuế tài sản sẽ có thêm cơ hội để hạ bớt thuế suất thuế thu nhập, làm

cho sắc thuế này dễ được đông đảo người dân chấp nhận.

Thứ năm, phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa tiêu dùng, đầu

tư và tiết kiệm của các tác nhân trong nền kinh tế. Việc đánh thuế tài sản sẽ làm hạn

chế ý thích tiết kiệm, tích luỹ bằng tài sản và khuyến khích tăng tiêu dùng hoặc đầu tư

sản xuất kinh doanh, qua đó góp phần thực hiện tốt chủ trương kích cầu để thúc đẩy

phát triển kinh tế - xã hội.

2.1.3

2.1.3.1 Quan điểm ủng hộ việc đánh thuế tài sản

Thứ nhất, về mặt lý thuyết chỉ cần đánh thuế trên thu nhập là đủ vì tất cả các

khoản thuế suy cho cùng đều động viên từ thu nhập của công chúng. Song nếu chỉ có

một loại thuế thì mức thuế này phải rất cao mới đảm bảo nguồn thu cần thiết cho

NSNN. Từ đó sẽ cản trở đến tinh thần hăng say lao động để có nhiều thu nhập vì phải

nộp thuế cao. Hơn nữa, nếu chỉ có thuế thu nhập thì khả năng rủi ro về thất thu sẽ rất

lớn. Việc đánh thuế vào tài sản vừa tạo điều kiện giảm bớt số thuế đánh vào thu nhập,

vừa cho phép động viên thêm phần thu nhập đã trốn hoặc tránh thuế.

Thứ hai, việc đánh thuế tài sản xuất phát từ nguyên tắc đánh thuế theo lợi ích.

Những người được hưởng lợi ích từ Nhà nước nhiều phải nộp thuế cao. Nhà, đất và

12

các tài sản khác được bảo tồn, phát triển và sinh lời là nhờ được thừa hưởng rất nhiều

lợi ích từ các dịch vụ công cộng của Nhà nước để làm tăng thêm giá trị của một số tài

sản. Chẳng hạn, giá trị nhà, đất có thể tăng lên nhiều do Nhà nước cải tạo, mở rộng cơ

sở hạ tầng không cần có sự đầu tư của chủ sở hữu. Từ đó, người có tài sản, đặc biệt

với tài sản có giá trị cần phải có trách nhiệm đóng góp để Nhà nước có thêm nguồn

trang trãi các khoản chi này.

Thứ ba, thuế tài sản mang tính chất là khoản thu bổ sung vào thuế đánh vào thu

nhập, đặc biệt ở các nước mà thuế thu nhập cá nhân còn bị hạn chế và trình độ quản lý

còn yếu kém. Thuế tài sản cho phép tính đến khả năng lớn lao của người nộp thuế,

được thể hiện bằng lượng của cải hơn là lượng tiền họ bỏ ra để tiêu dùng. Thuế tài sản

còn góp phần hướng dẫn, khuyến khích sử dụng tài sản có hiệu quả thông qua đầu tư

vào vốn kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế hơn là cất giữ tài sản, loại thuế này

thường động viên vào một số tầng lớp dân cư giàu có nên dễ được sự đồng tình, ủng

hộ của đại bộ phận quần chúng nhân dân.

Thứ tư, thuế tài sản là một công cụ có hiệu lực phục vụ yêu cầu quản lý của

Nhà nước trong hoàn cảnh sở hữu tài sản còn quá chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư.

Thông qua thuế tài sản, Nhà nước có thể thực hiện việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý

những loại tài sản quan trọng trong xã hội và động viên một phần đóng góp của chủ sở

hữu tài sản có giá trị lớn, có nhiều thu nhập từ tiền cho thuê, chuyển nhượng, góp

phần điều hoà thu nhập xã hội, thực hiện nghĩa vụ đóng góp công bằng, khuyến khích

sử dụng tài sản hợp lý, có hiệu quả.

Thứ năm, thuế tài sản thường dễ thu do người chủ sở hữu tài sản thường muốn

công khai đăng ký để được Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu hay quyền sử dụng hợp

pháp của mình khi có tranh chấp, kiện tụng… Vấn đề cần được quan tâm là mức đóng

góp của chủ tài sản phải được xây dựng hợp lý, phù hợp, nhất là với tài sản đã qua

nhiều lần luân chuyển và với tài sản có giá trị lớn khiến người nộp thuế phải bỏ ra

khoản tiền nhiều.

Thứ sáu, với tài nguyên thiên nhiên thuộc quyền sở hữu quốc gia, thì việc đánh

thuế mang tính chất chuyển nhượng tài nguyên cho người khai thác là một việc cần

thiết. Ngoài ra, việc đánh thuế vào việc sử dụng đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân

cũng là hợp lý và bảo đảm được sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân với

NSNN, kể cả trường hợp nộp thuế vào nhà đất để ở, không có thu nhập.

13

Thứ bảy, thuế tài sản còn phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa

tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm trong đời sống xã hội. Việc đánh thuế vào tài sản sẽ góp

phần hạn chế ý thích muốn tích luỹ bằng tài sản cất giữ, khuyến khích tăng tiêu dùng

hoặc đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Qua đó, góp phần thực hiện tốt chủ trương kích

cầu, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

Với những lý do đó, việc nghiên cứu mô hình thuế tài sản trong bối cảnh hiện

nay là cần thiết, nhằm phát huy tác dụng bổ sung cho thuế đánh vào thu nhập, đánh

vào tiêu dùng trong hệ thống chính sách thuế.

2.1.3.2 Quan điểm không ủng hộ việc đánh thuế tài sản

Bất kỳ một sắc thuế nào khi ban hành cũng có những ý kiến không đồng thuận

cần sửa đổi bổ sung. Lập luận phản đối về việc áp dụng thuế tài sản thường tập trung

các ý kiến sau:

Thứ nhất, tài sản được hình thành trong quá trình tích lũy thu nhập mà bản thân

thu nhập đó đã chịu thuế rồi, chưa tính đến những tài sản còn chịu các thứ thuế khác

khi mua sắm và khi đăng ký.

Thứ hai, nếu đánh thuế trên những tài sản cất trữ không dùng cho hoạt động tạo

ra thu nhập thì vô hình dung đã tướt đoạt dần giá trị tài sản của chủ sở hữu.

Thứ ba, thuế tài sản có thể gây ra sự ảnh hưởng nền kinh tế nếu như mức thuế

suất và giá tính thuế đưa ra áp dụng không hợp lý sẽ làm cho những người sở hữu tài

sản ngần ngại đầu tư tài sản [14].

2.1.4 Các hình thức đánh thuế tài sản

(a) Đánh thuế trên tất cả các tài sản

Theo phương pháp này, đối tượng đánh thuế tài sản là tất cả các loại tài sản mà

một chủ sở hữu có được (gồm cả bất động sản và động sản). Trị giá tài sản chịu thuế

là giá trị tài sản ròng, là khỏan chênh lệch giữa tổng giá trị các tài sản và các chi phí,

tiền vay tạo thành tài sản đó.

Hình thức thuế của cải đánh trên giá trị tài sản ròng thường thích hợp trong

điều kiện xã hội có mức thu nhập bình quân đầu người cao, khu vực kinh tế tư nhân

phát triển, tài sản có sự tập trung quá mức vào một nhóm người giàu có dẫn đến

khoảng cách chênh lệch đáng kể giữa giàu và nghèo, loại thuế này thường được áp

dụng ở các nhóm nước OECD.

14

Thuế suất thường sử dụng theo hình thức thuế suất lũy tiến, mức độ lũy tiến

phụ thuộc vào mức độ tập trung tài sản trong xã hội cao hay thấp vào một nhóm người

giàu có nhất định. Nếu khoảng cách chênh lệch giàu nghèo quá lớn thì mức lũy tiến

cần thiết kế cao hơn. Ngược lại, mức lũy tiến vừa phải hoặc đôi khi không cần sử

dụng loại thuế suất này.

(b) Đánh thuế vào một bộ phận tài sản

Theo phương pháp này, đối tượng đánh thuế tài sản chỉ là một bộ phận trong

toàn bộ tài sản của chủ sở hữu, có hai hình thức thuế phổ biến khi tính theo phương

pháp này:

- Thuế bất động sản: Đối tượng nộp thuế là chủ sở hữu đất, nhà và bất động sản

khác. Thuế suất thường là thuế suất lũy tiến áp dụng trên trị giá tài sản chịu thuế, với

mức động viên thấp và chỉ mang tính chất quản lý. Thuế bất động sản thường được

giao cho các cấp chính quyền địa phương quản lý và thu vào ngân sách địa phương.

- Thuế đánh một lần vào tài sản khi chuyển dịch quyền sở hữu: Thuế được thực

hiện khi đối tượng nộp thuế cần có chứng nhận quyền sở hữu khi mua bán, thừa kế,

chuyển dịch động sản hoặc bất động sản. Thuế chỉ đánh một lần khi đăng ký quyền sở

hữu, mức thuế thường là thuế suất tỷ lệ tính trên giá trị giá tài sản chịu thuế hoặc là

định suất thuế (giá trị tuyệt đối) theo đơn vị tài sản.

Mức thuế cao hay thấp tùy theo yêu cầu và mục đích điều tiết: Áp dụng mức

thuế thấp nếu ngoài việc nộp thuế chuyển dịch quyền sở hữu, hàng năm còn phải nộp

thuế tài sản. Áp dụng mức thuế cao nếu chỉ chịu một lần thuế tài sản khi đăng ký. Giá

tính thuế tài sản thường được căn cứ theo giá thị trường tại thời điểm đánh thuế tài

sản. Một số trường hợp khó xác định giá thị trường thì áp dụng giá tính thuế do nhà

nước quy định. Nguồn thu từ các loại thuế đăng ký tài sản khi chuyển dịch quyền sở

hữu thuộc các cấp ngân sách, trong đó có một phần cho ngân sách địa phương.

2.1.5

Nếu chúng ta phân loại hệ thống thuế theo các yếu tố kinh tế bị đánh thuế (đối

tượng đánh thuế) thì thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản là ba sắc thuế cấu

thành một hệ thống thuế. Cả ba loại i bằng thu nhập

của các cá nhân trong xã hội. Mỗi loại thuế đảm nhận thu cho nhà nước theo những

phương pháp thích hợp, đồng thời tạo ra hiệu ứng tối ưu nhất đối với nền sản xuất xã

hội. Thuế đánh vào thu nhập làm giảm bớt thu nhập khả dụng của người có thu nhập.

15

Thuế đánh vào tiêu dùng làm cho người tiêu dùng bị điều tiết một phần thu nhập mà

nếu không có nó người tiêu dùng đã có thể mua được nhiều hàng hoá, dịch vụ tiêu

dùng hơn. Thuế đánh vào tài sản làm giảm bớt sự giàu có hoặc lợi ích do tài sản mang

lại cho chủ sở hữu của chúng. Điều đó cho thấy sự tồn tại của ba loại thuế thu nhập,

tiêu dùng và tài sản là tất yếu, thể hiện sự phù hợp, tương ứng theo sát chu kỳ vận

động của thu nhập. Có thể minh hoạ điều này thông qua sơ đồ biểu diễn dưới đây:

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ biểu diễn chu kỳ vận động của thu nhập

(2) (5) Thu nhập tiêu dùng Thuế tiêu dùng

(1)

(3) (5)

Thu nhập hiện tại Thuế thu nhập Thu nhập tương lai Thuế thu nhập

Thu nhập tích lũy hiện vật hóa thành tài sản Thuế tài sản (5)

(4) (5)

Nguồn: Sử Đình Thành (2006), Tài chính công.

(5) Thu nhập tích lũy khác Tài sản tài chính hóa

Ghi chú:

(1) Thu nhập nhận được trong hiện tại chưa sử dụng sẽ bị đánh thuế thu nhập.

(2) Thu nhập còn lại (sau thuế thu nhập) khi tiêu dùng bị đánh thuế tiêu dùng.

(3) Thu nhập còn lại dùng cho mục đích tích luỹ tài sản bị đánh thuế tài sản.

(4)Tài sản tích lũy khác không hiện vật hoá (tài sản chính) thông thường không bị

đánh thuế tài sản vì thực chất chúng chỉ là những trái vụ phản ánh quyền nắm giữ tài

sản của chủ sở hữu. Phần tài sản thực đã tồn tại dưới dạng hiện vật như chứng khoán,

cổ phiếu,…tạo nên tài sản hiện vật của người vay vốn.

(5)Thu nhập dùng cho tiêu dùng, mua tài sản hoặc tích luỹ dưới dạng tài sản tài chính

đến lượt nó lại tạo ra thu nhập tiềm năng trong tương lai và một trình đánh thuế mới

lại bắt đầu (mũi tên đứt đoạn chỉ dòng thu nhập tương lai ở nhiều chu kỳ đánh thuế

16

sau đó).

Như vậy, hệ thống thuế là một thể thống nhất gồm nhiều loại thuế cấu thành,

được thiết kế dựa trên những nguyên lý và tiêu thức nhất định nhằm phát huy tối đa

những chức năng của mỗi sắc thuế đồng thời thực hiện một cách có hiệu quả mục tiêu

của toàn bộ hệ thống. Một hệ thống thuế hoàn chỉnh phải gồm đầy đủ các loại thuế cơ

bản là: thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản. Sự hiện diện của ba loại thuế nói

trên không đơn thuần là biện pháp cốt lõi để thu được thuế mà quan trọng hơn là một

sự tinh xảo, một kỹ nghệ trong việc thiết kế hệ thống các sắc thuế nhằm đảm bảo tiêu

thức công bằng và hiệu quả một cách tối ưu.

2.2 Thuế tài sản trong các lý thuyết kinh tế

Nghiên cứu đánh thuế tài sản từ lâu đã là một phần trong phát triển phân tích

kinh tế mà khởi đầu là những người theo thuyết trọng nông ở Pháp, sau đó là Ricardo

và tiếp theo là George, vì vậy các tài liệu kinh tế liên quan đến thuế tài sản là rất rộng.

Trong suốt 40 năm qua, ba lý thuyết đã được đưa ra để miêu tả ảnh hưởng kinh tế của

thuế tài sản. Những người theo “quan điểm truyền thống” đưa ra giả thuyết rằng, do

nguồn cung đất đai là cố định nên người sở hữu hoặc người thuê đất sẽ phải chịu thuế

đất. Tuy nhiên, những người theo “quan điểm mới” lại kết luận rằng thuế đất hoàn

toàn gần giống với một loại thuế tổng hợp đánh vào toàn bộ tiền vốn. Còn những

người theo “quan điểm lợi ích” lại đưa ra giả thuyết rằng thuế tài sản được xem xét

một cách đầy đủ thì nó không phải là thuế, mà là một loại phí hiệu quả đánh vào

người sử dụng dịch vụ công cộng ở địa phương. Cho đến nay, những nghiên cứu thực

nghiệm vẫn không xác định được liệu quan điểm mới hay quan điểm lợi ích là mô

hình đánh thuế tài sản phù hợp hơn [25].

Các loại thuế tài sản cơ bản được xác định bao hàm các loại thuế đánh vào

những bất động sản, động sản và phụ thuộc vào giá trị tài sản đó. Nhìn chung, thuế tài

sản được quản lý thông qua việc sử dụng mức thuế thống nhất đối với giá trị định giá

của tài sản chịu thuế. Trong phạm vi giới hạn nhất định, các mức thuế thường khác

nhau phụ thuộc vào loại hoặc nhóm tài sản bị đánh thuế. Hệ thống thuế tài sản khác

nhau đáng kể giữa các phạm vi pháp lý liên quan đến loại tài sản bao gồm cơ sở tính

thuế, kỹ thuật định giá được sử dụng để xác định giá trị tài sản chịu thuế và mức thuế

suất áp dụng đối với các nhóm tài sản khác nhau.

17

Tài liệu kinh tế xem xét mô hình thuế tài sản có phạm vi rất rộng, các nhà kinh

tế phát triển các giả thuyết khác nhau liên quan đến phạm vi tác động của thuế tài sản

và tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm để kiểm định các giả thuyết này. Nghiên cứu

về đánh thuế tài sản gắn chặt với nghiên cứu về cung cấp các dịch vụ công cũng như

việc phân tích cân bằng tổng thể về đánh thuế tài sản phải xem xét đến lợi ích công

cộng được đưa ra thông qua hệ thống đánh thuế tài sản. Những mô hình kinh tế về

đánh thuế tài sản đóng vai trò khá quan trọng, là cơ sở cho các đề xuất chính sách

công mà theo đó mức thuế tài sản khác nhau hoặc quy trình đánh giá khác nhau có thể

dùng để bảo vệ đất nông nghiệp hoặc khuyến khích phát triển ở khu vực thành thị.

Các nhà kinh tế cũng kiểm tra việc quản lý hệ thống thuế tài sản, bao gồm thủ tục

đánh giá thích hợp khi định giá tài sản nhằm mục đích tính thuế.

Theo như mô tả của Winfrey (1973) cũng như của Buchanan và Flowers

(1975), thuế tài sản là một trong những loại hình tính thuế sớm nhất được xem xét từ

góc độ kinh tế. Từ những người theo trường phái trọng nông ở Pháp giữa thế kỷ

XVIII, bao gồm cả Francois Quesnay– người đầu tiên mở ra học thuyết này, những

nhà kinh tế đầu tiên đã kết luận rằng: tài sản là cơ sở hợp lý nhất để tính thuế mà cụ

thể là đất đai. Những người theo trường phái trọng nông xem đất nông nghiệp là lĩnh

vực sản xuất duy nhất của nền kinh tế, tạo ra thặng dư lớn hơn chi phí sản xuất thực

tế. Tất cả các lĩnh vực kinh tế khác của nền kinh tế chỉ đơn giản cung cấp dịch vụ hoặc

biến đổi hàng hóa từ dạng này sang dạng khác.

David Ricardo, nhà kinh tế học cổ điển người Anh cũng cho rằng đất đai là yếu

tố sản xuất thích hợp bị đánh thuế. Theo Ricardo, tăng dân số sẽ làm tăng nhu cầu đối

với sản phẩm nông nghiệp, do đó sẽ dẫn đến nhiều đất đai được đưa vào sử dụng hơn.

Do cần nhiều lao động hơn để làm những vùng đất tăng thêm này hiệu quả, Ricardo lý

giải rằng chi phí lớn hơn sẽ được thể hiện trong việc giá cả sản phẩm nông nghiệp

tăng lên. Giá cả sản phẩm nông nghiệp tăng lên sẽ làm tăng thu nhập cho những người

sở hữu nhiều đất đai màu mỡ hơn, đây là những người không phải đối mặt với việc

tăng chi phí sản xuất đối với phần đất biên tăng thêm [25]. Cũng theo Ricardo, phần

thu nhập tăng thêm này hay gọi là “tô”, thặng dư này cần phải bị đánh thuế bởi vì nó

không thể hiện chi phí sản xuất thực tế [25].

Tại Mỹ, việc sử dụng thuế tài sản bị giới hạn trong phạm vi pháp lý bang và địa

phương. Thêm vào đó, doanh thu có được thông qua đánh thuế vào động sản giảm so

18

với đánh thuế vào bất động sản (Netzer, 1966). Mặc dù bước tiến về thuế duy nhất của

George chưa bao giờ được thực hiện đầy đủ chủ yếu do các khó khăn về hành chính

nhưng nó vẫn hiện hữu trong cơ chế thuế tài sản mà theo đó đất đai bị đánh thuế mạnh

hơn so với các dạng tài sản khác (Oates và Schwab, 1997).

Các nhà kinh tế phát triển ba lý thuyết cơ bản xem xét tác động của thuế tài

sản. Quan trọng hơn, mỗi lý thuyết đều phân biệt thuế đất đai và thuế vốn. Kết quả

quan sát cho rằng thuế tài sản có thể có tác động khác biệt đến đất đai trái ngược với

các hình thức vốn khác bắt nguồn từ khác biệt về tính co giãn về cung của mỗi đối

tượng. Dựa trên giả thiết rằng cung đất đai phụ thuộc vào thuế là cố định trong phạm

vi pháp lý cho trước, quan điểm truyền thống chỉ ra rằng thuế đất sẽ do người sử dụng

đất chịu, mà cụ thể đó là người sở hữu hoặc người thuê đất (Netzer, 1966). Tuy nhiên,

quan điểm mới lại đưa ra kết luận rằng thuế đất đai có thể tách ra thành hai phần là

thuế thu nhập và thuế tiêu thụ đặc biệt (Mieszkowski, 1972; Aaron 1975). Do phần

thuế thu nhập tương đương với thuế chung đánh vào vốn nên phần thuế tài sản đó sẽ

đánh vào người sở hữu vốn. Cuối cùng, quan điểm lợi ích giả thiết rằng thuế tài sản

được xem là phí đánh vào người sử dụng các dịch vụ công tại địa phương (Hamilton,

1992). Do người tiêu dùng các dịch vụ công là thay đổi nên quan điểm lợi ích cho

rằng thuế tài sản trong nhiều trường hợp là cơ cấu tài chính hiệu quả đối với các dịch

vụ công.

2.3 Những nguyên tắc xây dựng mô hình thuế tài sản

2.3.1 Nguyên tắc đảm bảo tính công bằng

Công bằng theo chiều dọc và chiều ngang là điều tối quan trọng nếu muốn giải

quyết yếu tố kinh tế và chính trị của cải cách thuế tài sản. Công bằng theo chiều dọc

và chiều ngang thể hiện ở chỗ các tài sản tương tự cần có nghĩa vụ thuế được xác định

và thanh toán tương tự nhau, trong khi đó sự khác biệt tương đối về giá trị tài sản cần

phải được phản ánh trong các mức khác biệt tương đối có thể so sánh được trong giá

trị tài sản chịu thuế và phần nộp thuế. Sự công bằng cũng đòi hỏi phải áp dụng một

cách rõ ràng, nhất quán và khách quan các chính sách và thủ tục được hiểu và chấp

nhận rộng rãi. Để công bằng, cần đánh thuế theo các quy tắc chung và khách quan

được thừa nhận là hợp lý và công bằng. Tổng số tiền thuế phải nộp cần chắc chắn và

không nên được xác định thông qua thương lượng hoặc yêu sách một cách tùy tiện.

19

Công bằng là một yêu cầu rất quan trọng trong việc xây dựng mô hình thuế,

tính công bằng của thuế thể hiện ở hai mặt pháp lý và kinh tế. Theo các nhà kinh tế

học, tính công bằng của thuế được xem xét ở hai giác độ, công bằng theo chiều ngang

và công bằng theo chiều dọc. Công bằng theo chiều ngang là các đối tượng có tình

trạng và khả năng nộp thuế ngang nhau thì phải được đối xử về thuế như nhau. Công

bằng theo chiều dọc là sự đối xử về thuế khác nhau đối với các đối tượng có tình trạng

và khả năng đóng thuế khác nhau. Tính công bằng về thuế còn được các nhà kinh tế

học xem xét ở khía cạnh khả năng đóng thuế, lợi ích của người nộp thuế.

2.3.2 Nguyên tắc bền vững và khả thi

Tính bền vững của hệ thống thuế tài sản là điều cần thiết vì chi tiêu thường

xuyên của chính quyền địa phương thường lấy từ nguồn thu thuế tài sản: chính quyền

địa phương yêu cầu một nguồn thu thuế ổn định nhằm phát triển và duy trì mức độ

cung cấp dịch vụ và cơ sở hạ tầng tại địa phương như mong muốn. Để bảo đảm tính

bền vững thì hệ thống thuế tài sản phải cân bằng giữa tính năng động và uyển chuyển

với tính ổn định và nhất quán để cho nó vừa có khả năng thay đổi thích nghi với tình

hình, đồng thời có thể dự báo trước trong quá trình áp dụng. Yếu tố then chốt nhất của

tính bền vững là hệ thống thông tin quản lý phải vận hành tốt để giảm thiểu khoảng

cách giữa chính sách và thực tiễn.

Nguyên tắc khả thi rất quan trọng trong việc xây dựng bất kỳ một sắc thuế nào,

nguyên tắc khả thi thể hiện ở những điểm sau:

- Nguyên tắc khả thi đòi hỏi sắc thuế phải tính đến khả năng đóng thuế của người

dân từ đó đưa ra cách thức điều chỉnh thích hợp. Nhà nước không thể bắt người dân

đóng thuế khi họ không có khả năng đóng góp. Khả năng đóng góp của người dân thể

hiện ở chỗ người dân chỉ phải đóng thuế khi mà thu nhập chịu thuế của họ là khoản

thu nhập còn dư ra sau khi chi cho những nhu cầu cần thiết. Thông thường các quốc

gia tính toán và đưa ra những định mức chi tiêu cần thiết áp dụng chung cho mọi

người dân. Nếu thu nhập của họ không vượt quá định mức này, họ không phải đóng

thuế.

- Nguyên tắc khả thi cũng thể hiện ở việc thi hành luật thuế, cơ quan thuế phải có

khả năng xác định đúng đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, số thuế phải thu.

Ngòai ra, cơ quan thuế cũng phải có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời các trường

hợp trốn thuế, tránh thuế.

20

2.3.3 Cơ sở thuế rộng và thuế suất thấp

Phạm vi thu thuế rộng là điều thiết yếu nếu muốn thuế tài sản phát huy hiệu

quả, công bằng và bền vững. Phạm vi thu thuế quan trọng bởi vì những trường hợp bất

công nhất và thất thu thuế nhiều nhất là do cơ sở thuế hẹp, bất kể “hẹp” là do luật định

hoặc do cách quản lý trong thực tế, danh mục tài sản chịu thuế thường chỉ bao gồm

một tỉ lệ nhỏ tài sản chịu thuế. Do vậy khi nhu cầu tiền thuế tăng mà lại không mở

rộng được danh mục tài sản chịu thuế thì xuất hiện cái vòng tròn lẩn quẩn từ định giá

tài sản chịu thuế cao hơn, giảm mức độ tuân thủ nộp thuế, cơ sở thuế hiệu dụng nhỏ

hơn, số thu thuế thấp hơn, và lại tiếp tục định giá tài sản chịu thuế cao hơn. Tuy nhiên,

thậm chí khi danh sách tài sản chịu thuế đầy đủ và chính xác đi chăng nữa thì sẽ

không tạo ra cơ sở thuế rộng trong thực tiễn nếu không có cơ chế hành thu hữu hiệu.

Theo nghiên cứu của Jay K. Rosengard (1998), hàng hóa có độ co giãn càng

cao thì tổn thất xã hội càng lớn, hàng hóa có thuế suất cao thì tổn thất xã hội lớn. Do

đó một hệ thống thuế có hiệu quả nên đánh thuế với mức thuế suất thấp và diện chịu

thuế rộng. Thuế hàng hóa tối ưu là phương án chọn các mức thuế suất giữa các loại

hàng hóa để tổn thất xã hội là nhỏ nhất trước một nhu cầu về doanh thu thuế cho

trước.

Ngoài ra, cơ sở thuế hẹp làm tăng nhu cầu cần có mức thuế suất tương đối cao.

Điều này không chỉ không có hiệu quả về mặt kinh tế do mất mát vô ích từ cải thiện

đất đai tăng theo bình phương thuế suất mà nó còn không có công bằng xã hội bởi vì

nó làm tăng gánh nặng thuế của các công dân khi tài sản của họ không bị loại bỏ khỏi

cơ sở thuế.

2.3.4 Nguyên tắc đơn giản

Nguyên tắc đơn giản phải được thể hiện trong cả khâu thiết kế và điều chỉnh

thực để hạn chế sự chủ quan và tình trạng tham nhũng trong công tác quản lý thuế.

Tính đơn giản trong thiết kế thuế tài sản đòi hỏi việc đánh thuế phải dựa trên cơ sở

rộng với các mức thuế suất thống nhất cho các loại tài sản. Tính đơn giản trong quản

lý thuế tài sản làm gia tăng tính hiệu quả về mặt chi phí và sự công bằng khi thực thi

chính sách thuế. Các thủ tục thuế đối với tài sản đơn giản sẽ được các cán bộ thuế và

người nộp thuế nhanh chóng nắm bắt, do vậy việc quản lý sẽ tương đối dễ dàng và ít

tốn kém – nếu có tình trạng lạm dụng thì cả hai bên đều dễ dàng biết được. Hơn nữa

các tác nghiệp khi đã được hợp lý hóa cho phép mở rộng phạm vi thu thuế chỉ với

21

nguồn lực hạn chế và khuyến khích người nộp thuế tự nguyện tuân thủ do dịch vụ

được cải thiện.

Nguyên tắc đơn giản, dễ hiểu phải được thể hiện ở cả khía cạnh kinh tế lẫn

pháp lý. Thông thường cơ quan thuế quan tâm nhiều đến số tiền thuế thu được cho

ngân sách, nhưng người chịu thuế luôn muốn biết xem ngoài thuế, họ còn phải chịu

thêm chí phí l như chi phí thuê khai thuế, chi phí

xin giấy phép ưu đãi đầu tư, thời gian mà họ phải bỏ ra để hoàn thành nghĩa vụ thuế

đối với nhà nước… Giảm bớt các chi phí liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế

rất quan trọng trong việc cải cách thuế. Hầu hết các quốc gia đều mong muốn luật thuế

của mình đơn giản và dễ hiểu. Tuy nhiên, nếu một sắc thuế quá đơn giản cũng không

phải luôn luôn là một điểm tích cực. Thuronyi (2008) đã chỉ ra rằng ở những nước

đang phát triển có luật thuế rất đơn giản và với luật thuế như thế, các nước này không

thể điều chỉnh những giao dịch phức tạp [28]. Cơ quan quản lý thuế không thể đưa ra

được hướng dẫn thích hợp cho người nộp thuế, người chịu thuế hoặc cơ quan quản lý

thuế không có khả năng kiểm tra những giao dịch đó dẫn đến tình trạng trốn, tránh

thuế và thất thu ngân sách.

2.3.5 Tính hiệu quả

Nguyên tắc này đòi hỏi sự kiểm tra của cơ quan lập pháp xem mục tiêu ban

hành sắc thuế có được đảm bảo không. Việc kiểm tra phải được tiến hành xuyên suốt

trong quá trình áp dụng. Nếu mục tiêu của việc ban hành sắc thuế nào đó là nhằm mục

tiêu tăng thu cho ngân sách nhà nước thì quốc hội phải kiểm tra xem số tiền thuế thu

được có nhiều hơn chi phí mà nhà nước phải bỏ ra để thu thuế hay không .Hiệu quả

phân bổ và quản lý là điều quan trọng để duy trì mối quan hệ hợp lý giữa nguồn thu

tạo ra được với chi phí kinh tế và tài chính để huy động được số thu đó.

2.4 Những nhân tố cơ bản của mô hình thuế tài sản

Để hình thành bất kỳ một mô hình thuế nào, điều cần thiết đầu tiên là phải xác

định các nhân tố cấu thành sắc thuế đó. K.Rosengard (1998) đúc kết từ lý thuyết và

kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia và cho rằng, các nhân tố cơ bản hình thành sắc

thuế tài sản bao gồm cơ sở thuế (tax base), thuế suất (tax rate) và hình thức (method)

đánh thuế.

- Cơ sở thuế (căn cứ tính thuế) bao gồm: phạm vi đối tượng chịu thuế tài sản, thu

nhập chịu thuế hoặc tài sản chịu thuế, tỷ lệ giá trị tài sản chịu thuế, ngưỡng chịu thuế.

22

- Thuế suất: sự đồng nhất hay khác biệt thuế suất; thuế suất lũy tiến, tỷ lệ hay lũy

thoái.

- Hình thức đánh thuế: thể hiện cách thức đánh thuế dựa trên giá trị hay thu

nhập; đánh thuế hàng năm hoặc đánh thuế một lần.

Hình 2.1a: Mô hình thuế tài sản của K. Rosengard (1998)

Nguồn: Jay K.Rosengard (1998), Property Tax Reform in Developing Countries,

Kluver Academic Publishers, Boston.

Thuế bất động sản Indonesia, PBB (pajak bumi dan bangunan, thuế đất và công

trình xây dựng) được áp dụng theo giá trị trên thị trường vốn đối với tất cả đất đai và

công trình xây dựng trên toàn quốc, ngoại trừ bất động sản thuộc các nhóm được miễn

thuế theo quy định cụ thể trong luật thuế bất động sản.

- Đất được định nghĩa là diện tích bề mặt của Indonesia, bao gồm đường thủy và

mặt biển, cùng với diện tích nằm bên dưới.

- Công trình xây dựng (building) được định nghĩa là các kiến trúc xây dựng cố

định trên mặt đất hay mặt nước có tạo ra lợi ích, bao gồm đường xá và các công trình

gắn liền với tổ hợp xây dựng; đường thu phí; hồ bơi; vườn và hàng rào đắt tiền; công

trình thể thao; bến tàu và cảng; đường ống, hồ chứa và các thiết bị chế biến dầu, khí

và nước.

23

Nguồn: Keputusan Menteri Keuangan Republik Indonesia Nomor (1988), Tentang Penentuan Klasifikasi dan Besarnya Nilai Jual Obyek Pajak Sebagai Dasar Pengenaan Pajak Bumi Dan Bangunan.

Hình 2.1b: Mô hình thuế tài sản của Keputusan Menteri Keuangan Republik Indonesia Nomor (1988)

2.5 Mô hình t

2.5.1

Thuế tài sản là loại thuế có lịch sử lâu đời nhất trên thế giới, sắc thuế này được

hình thành đầu tiên vào thời kỳ cổ đại ở Hy Lạp (năm 596 trước Công nguyên) và đến

thời Trung cổ được áp dụng tại Anh và một số nước châu Âu, Bộ luật Saladin năm

1188 có ghi rõ: thuế ra đời để phục vụ cuộc Thập tự chinh Thiên chúa giáo lần thứ 3

với thuế suất 10% áp dụng đối với tiền cho thuê bất động sản và động sản [14]. Thuế

tài sản được áp dụng sớm và rộng rãi, trước hết vì vào thời kỳ đó xã hội chủ yếu dựa

vào kinh tế nông nghiệp mà đất đai gần như là tài sản duy n

i qua các giai đoạn cùng với sự phát triển kinh tế, các động sản khác ngày càng

tăng và đất đai mất dần vị trí độc tôn ban đầu với tư cách là nguồn thu chủ yếu của

mỗi quốc gia.

Về lịch sử phát triển của thuế tài sản, có thể lấy Thụy Điển là một ví dụ điển

hình. Thuế tài sản đánh vào đất đai đã trở thành nguồn thu chủ yếu để Nhà Vua và

Hoàng tộc thoả mãn các nhu cầu chi tiêu, kể cả việc duy trì quân đội, bộ máy hành

chính ngay từ đầu thời kỳ trung cổ. Nhà Vua ban đất cho giới quý tộc, nên họ phải

24

cống nạp cho triều đình bằng sự phục vụ của chính bản thân và những sản phẩm do

nông nô trong các trang trại sản xuất ra. Đây cũng là nguồn cung cấp lương thực, thực

phẩm quan trọng và là một trong những hình thức nộp thuế tài sản bằng hiện vật đầu

tiên.

Một trong những xu hướng cải cách chính sách thuế đang diễn ra trên thế giới

liên quan đến tài sản là mở rộng diện đánh thuế trên tài sản thuộc quyền sở hữu tư

nhân bao gồm nhà đất, tài sản thừa kế, quà tặng, tài sản chuyển nhượng. Việc thu thuế

tem (gần như lệ phí trước bạ, công chứng ở Việt Nam) cũng đang được mở rộng qua

việc hợp pháp hoá quyền sở hữu, quyền sử dụng nhiều tài sản có giá trị lớn trong việc

chuyển nhượng ở các nước thuộc liên minh Châu Âu và nhiều nước khác. Thuế quà

tặng cũng đang phát triển ở một số nước, thuế này thường chiếm đến 3% tổng số thu

về thuế ở Thuỵ Điển, 10% ở các nước Nhật, Anh, Mỹ. Nếu xét trên số thuế thu cho

địa phương thì các loại thuế đánh vào tài sản đóng vai trò khá lớn. Tại úc, Ireland và

Anh, tỷ lệ số thu từ thuế đánh trên BĐS chiếm gần 100% số thuế thu cho địa phương;

ở New Zealand khoảng trên 90%, ở Mỹ, Canada, Hà Lan trên 70% [14].

Thuế tài sản ở các nước OECD chiếm một tỷ trọng khá đáng kể so với GDP,

đóng góp một nguồn thu tương đối ổn định cho ngân sách của các quốc gia này.

Bảng 2.1: Tỷ lệ thuế tài sản trên GDP các nƣớc nhóm OECD

Quốc gia

Australia Austria Belgium Canada Chile Czech Republic Denmark Finland France Germany Greece Hungary Iceland Ireland Israel Italy 2004 2,6 0,6 2,2 3,4 1,3 0,4 1,8 1,1 3,3 0,9 1,3 0,8 2,5 2,1 3,2 2,5 2005 2,6 0,6 2,1 3,4 1,4 0,4 1,9 1,2 3,4 0,9 1,3 0,9 2,7 2,4 3,3 2,0 2006 2,7 0,6 2,3 3,4 1,2 0,4 1,9 1,1 3,5 0,9 1,4 0,8 2,2 2,9 3,1 2,1 2007 2,6 0,6 2,2 3,4 1,2 0,4 1,9 1,1 3,5 0,9 1,4 0,8 2,5 2,5 3,3 2,1 2008 2,2 0,5 2,2 3,4 1,2 0,4 2,0 1,1 3,4 0,9 1,5 0,9 2,2 1,8 3,2 1,9 2009 ,, 0,5 2,0 3,5 0,6 0,4 1,9 1,1 3,4 0,8 1,3 0,8 2,1 2,3 3,0 2,7

25

Japan Korea Luxembourg Mexico Netherlands New Zealand Norway Poland Portugal Slovak Republic Slovenia Spain Sweden Switzerland Turkey United Kingdom United States 2,6 2,6 2,9 0,3 2,0 1,8 1,1 1,3 1,1 0,5 0,6 2,8 1,5 2,5 0,7 4,2 3,1 2,6 2,9 3,2 0,3 2,0 1,8 1,1 1,3 1,2 0,5 0,6 3,1 1,4 2,3 0,8 4,3 3,0 2,5 3,3 3,3 0,3 1,8 1,9 1,2 1,3 1,2 0,4 0,6 3,2 1,4 2,4 0,9 4,5 3,1 2,5 3,4 3,5 0,3 1,8 1,9 1,2 1,2 1,4 0,4 0,6 3,0 1,2 2,3 0,9 4,5 3,1 2,7 3,2 2,6 0,3 1,6 1,9 1,2 1,2 1,3 0,4 0,6 2,3 1,1 2,2 0,9 4,2 3,2 2,7 3,0 2,5 0,0 ,, 2,0 1,2 ,, ,, 0,4 0,6 2,0 1,1 2,4 0,9 4,2 3,3

Nguồn: Website của OECD (2010)

Riêng thuế bất động sản ở các quốc gia cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể so với

GDP và đóng góp một phần không nhỏ cho ngân sách của địa phương, cụ thể qua biểu

đồ 2.1 và 2.2.

Biểu đồ 2.1: Thuế BĐS so với GDP của các nhóm nƣớc

Nguồn: tổng hợp số liệu từ Website của OECD (2010)

26

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ ngân sách thuế BĐS với chi tiêu của chính quyền địa phƣơng

Nguồn: tổng hợp số liệu từ Website của OECD

2.5.2 M

Trên thế giới, thuế đánh trên tài sản là một trong những loại thuế ra đời sớm

nhất trong lịch sử nhân loại với hình thức đầu tiên là thuế đất được áp dụng rộng rãi ở

nhiều nước. Mô hình thuế tài sản ở một số nước trên thế giới được tóm lược ở các

bảng 2.2; bảng 2.3; bảng 2.4 và bảng 2.5.

(a) Thuế tài sản ở Liên bang Hoa kỳ [29]

Bảng 2.2: Thuế tài sản ở liên bang Hoa kỳ

Tài sản cá nhân: Máy móc, thiết bị, xe máy, ô tô, máy bay, tàu

thuyền, máy tính…

Đối tượng chịu Bất động sản: đất đai, cao ốc, nhà cửa, bãi đậu xe, công viên,

vườn cảnh… thuế tài sản

Tài sản vô hình: Bản quyền, bằng phát minh sáng chế, thương

hiệu, nhãn hiệu, chứng khoán…

Hình thức đánh Trên giá trị ròng của tài sản và giá thị trường thuế tài sản

Căn cứ tính Giá trị tính thuế của tài sản, thuế suất tỷ lệ và thuế suất lũy tiến. thuế tài sản

27

(b) Thuế tài sản ở Cộng Hoà Pháp [28]

Bảng 2.3: Thuế tài sản ở cộng hòa Pháp

- Tài sản cá nhân Đối tượng chịu - Tài sản đăng ký (trước bạ) thuế tài sản - Đất xây dựng và đất không xây dựng

- Thuế tài sản đánh hàng năm, thuế tài sản cá nhân đánh trên giá

trị ròng của tài sản

- Thuế đánh một lần khi có chuyển dịch tài sản (chuyển dịch cho

không hoặc chuyển dịch có thu tiền) như: thuế thừa kế, thuế

quà tặng, thuế trước bạ đánh vào chuyển nhượng đất đai, nhà

cửa hoặc lợi thế thương mại, thuế đánh vào các hợp đồng bảo

Hình thức đánh hiểm.

- Ngoài ra, còn có một số loại thuế tài sản dành riêng cho địa thuế tài sản

phương như: thuế đất đối với xây dựng (bao gồm cả đất xây

dựng, đất ở, đất kinh doanh) và thuế đất đối với đất không xây

dựng (đất nông nghiêp do các chủ sở hữu đất nộp hàng năm).

Nguồn thu từ các loại thuế này được dành toàn bộ cho ngân

sách địa phương. Địa phương có quyền quy định mức thuế

suất trên cơ sở khung thuế suất đã được quy định trong Luật.

Thuế tài sản cá nhân đánh hàng năm trên giá trị tài sản ròng của

cá nhân

- Tài sản chịu thuế: là toàn bộ tài sản bằng tiền, bằng hiện vật

cấu thành sản nghiệp của đối tượng nộp thuế tại thời điểm

ngày 01 tháng 01 của năm tính thuế (sản nghiệp được hiểu là

một tập hợp các tài sản có, tài sản nợ bao gồm toàn bộ tài sản Căn cứ tính hiện có cộng với số cho vay, cho mượn, trừ đi số tiền phải trả thuế tài sản nợ cho người khác).

- Đối tượng nộp thuế: các thể nhân là đối tượng cư trú tại

Pháp các thể nhân không là đối tượng cư trú tại Pháp nhưng

có sở hữu tài sản mà giá trị ròng vượt trên khởi điểm tính thuế.

- Căn cứ tính thuế: thuế tài sản được tính trên cơ sở giá trị tài

sản chịu thuế và thuế suất. Giá trị tài sản chịu thuế là giá trị tài

28

sản. Thuế suất được áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến (tương tự

như biểu thuế thu nhập cá nhân ở Việt nam).

- Thuế trước bạ (thuế đăng ký tài sản) đánh một lần khi chuyển

dịch tài sản: Đây là loại thuế đối với tổ chức, cá nhân có nhu

cầu được cơ quan thuế xác nhận tính pháp lý của các loại văn

tự liên quan đến tài sản chuyển nhượng, bao gồm cả chuyển

dịch cho không như tặng biếu, cho thừa kế và chuyển nhượng

có thu tiền. Giá tính thuế trước bạ là toàn bộ số tiền ghi trên

văn tự chuyển nhượng tài sản hoặc theo giá thị trường. Đối với

tài sản thừa kế, giá tính thuế trước bạ là toàn bộ tài sản được

thừa kế ghi trên di chúc sau khi đã trừ các khoản được giảm trừ

theo quy định của Luật, tuỳ theo mức độ quan hệ họ hàng với

người quá cố.

Về một số loại thuế tài sản dành riêng cho ngân sách địa

phương: Ngoài các loại thuế tài sản đánh thuế dành cho các cấp

ngân sách, ở Pháp còn có loại thuế đất dành riêng cho ngân sách

địa phương là thuế đối với đất xây dựng và thuế đối với đất

không xây dựng.

- Thuế đất đối với xây dựng: do các chủ sở hữu đất và các công

trình xây dựng gắn liền trên đất với nhà cố định dùng để ở, kinh

doanh, nhà máy, văn phòng ... nộp hàng năm. Giá tính thuế đất

được xác định bằng 50% giá trị lợi tức cho thuê đất hoặc giá trị

công trình thiết bị thuộc diện chịu thuế đất. Lợi tức cho thuê làm

căn cứ tính thuế đất được xác định theo định kỳ đánh giá giá trị

đất căn cứ vào hiện trạng của tài sản, được cố định trong nhiều

năm.

- Thuế đối với đất không xây dựng: do các chủ sở hữu đất nông

nghiệp nộp hàng năm. Thuế được xác định trên thu nhập ròng ghi

trên sổ địa chính của chủ sở hữu đất nông nghiệp và thuế suất.

Thu nhập ròng được xác định bằng 80% giá trị lợi tức cho thuê

vào ngày 01 tháng 01 năm tính thuế.

29

(c) Thuế tài sản ở Thụy Điển [28]

Thụy Điển hiện đang áp dụng 3 hình thức thuế tài sản chủ yếu theo mô hình

sau đây:

Bảng 2.4: Thuế tài sản ở Thụy Điển

- Tài sản cá nhân Đối tượng

chịu thuế tài - Bất động sản

sản - Tài sản thừa kế và qùa tặng

- Thuế tài sản: thực chất là loại thuế đánh trên trị giá tài sản ròng

(tổng trị giá tài sản sau khi trừ khoản tiền vay để mua tài sản) của

những người sở hữu tài sản mà trị giá ròng từ 800.000 SEK trở lên

bao gồm bất động sản (nhà và đất), xe ô-tô, tàu, thuyền, cổ phần

tiền gửi ở ngân hàng. Thuế nộp hàng năm, tính theo biểu luỹ tiến

từ 1.5% đến 3% trên tổng giá trị tài sản ròng thực có. Giá trị tài Hình thức sản càng lớn thì thuế suất càng cao. đánh thuế và - Thuế bất động sản: Là loại thuế thu trên giá trị nhà và đất, không căn cứ tính quy định mức khởi điểm tính thuế như tài sản. Như vậy, bất động thuế tài sản sản (nhà và đất) bị đánh thuế 2 lần: lần thứ nhất khi bị đánh thuế

thông qua thuế tài sản (nếu trị giá tài sản ròng đạt từ 800.000 SEK

trở lên và lần thứ hai, khi thu thuế đối với nhà đất riêng).

- Thuế quà tặng, thuế thừa kế tài sản: Là loại thuế đánh vào quà

tặng và tài sản thừa kế, có quy định mức khởi điểm đánh thuế cho

từng khoản tài sản là quà tặng hay thừa kế.

(d) Thuế tài sản ở Đài Loan [28]

Bảng 2.5: Thuế tài sản ở Đài Loan

- Tài sản thừa kế Đối tượng chịu - Tài sản quà tặng thuế tài sản - Đất đai

Thuế đối với tài sản thừa kế (thuế thừa kế) Hình thức đánh - Đối tượng đánh thuế: Tài sản thừa kế của người quá cố là công thuế và căn cứ dân Đài Loan hoặc là đối tượng cư trú tại Đài Loan phải chịu tính thuế tài sản thuế thừa kế không phân biệt tài sản thừa kế nằm trong hay

30

ngoài lãnh thổ Đài Loan. Các loại tài sản thừa kế bao gồm: bất

động sản, động sản có giá trị như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng,

chứng khoán, cổ phiếu, hàng hoá, ô-tô, tàu thuyền, đất đai,

quyền chủ nợ, quyền khai thác …

- Đối tượng nộp thuế: là người thực hiện di chúc, người được

thừa kế hoặc người quản lý tài sản được quy định theo luật

trong trường hợp không có người thừa kế, hoặc vợ hoặc chồng

còn sống của người quá cố và những người thừa kế tài sản hợp

pháp theo luật dân sự.

Thuế đối với quà tặng: là thuế đánh vào quà tặng và do người

tặng biếu chịu trách nhiệm nộp. Trong trường hợp không có mặt

người tặng biếu hoặc người tặng quà không nộp thuế trong thời

hạn quy định và không còn tài sản để cưỡng chế thì người nhận

quà tặng sẽ là người nộp thuế

Thuế đất: Thuế đất ở Đài Loan đã được hình thành với nhiều

hình thức khác nhau. Đến tháng 7/1977 mới có quy định thống

nhất thành luật thuế đất bao gồm: thuế đánh trên giá trị đất, thuế

đất canh tác nông nghiệp và thuế đánh vào trị giá đất tăng thêm

2.5.3 Nhận xét về các mô hình thuế tài sản ở một số nƣớc trên thế giới

Nghiên cứu các mô hình đánh thuế tài sản được áp dụng ở một số nước trên thế

giới, rút ra một số nhận xét về thuế tài sản như sau:

Bảng 2.6: Nhận xét về mô hình thuế tài sản ở các nƣớc trên thế giới

Các nhân tố cấu Nội dung các nhân tố thành thuế TS

Ở hầu hết các nước, đánh thuế trên tài sản thể hiện dưới nhiều

hình thức khác nhau, với các tên gọi khác nhau. Phổ biến là Tên gọi thuế tài không có một luật riêng về thuế tài sản bao quát tất cả các hình sản thức thuế tài sản, “Thuế tài sản” chỉ là tên gọi chung để chỉ các

sắc thuế lấy tài sản làm đối tượng đánh thuế.

Đối tượng chịu Tài sản chịu thuế phổ biến là bất động sản, có phân biệt đất đai

thuế và công trình trên đất, đây là tài sản khó có thể trốn thuế, khả

31

năng quản lý, kiểm soát dễ dàng; về mức động viên có thể linh

hoạt cao hay thấp tuỳ theo yêu cầu về ngân sách địa phương; số

thu có thể kế hoạch hoá một cách tương đối và là nguồn thu

quan trọng của các địa phương.

Đối tượng nộp thuế tài sản là đối tượng có quyền sở hữu tài sản,

cá biệt có nước quy định là đối tượng có quyền sử dụng (nếu

Đối tượng nộp quyền sử dụng đất được coi như tài sản). Ở các nước này, đất

thuế đai ngoài thuộc sở hữu cá nhân hoặc tổ chức, đất đai còn thuộc

sở hữu nhà nước nhưng được nhà nước giao cho tổ chức, cá

nhân quyền sử dụng ổn định, lâu dài.

Căn cứ tính thuế có thể được xác định trên cơ sở tổng trị giá các

tài sản thuộc sở hữu cá nhân (bất động sản, động sản, tiền vốn...)

trừ đi các khoản chi phí, tiền vay để tạo thành tài sản; có thể là

Căn cứ tính thuế giá trị riêng từng loại tài sản trong diện đánh thuế thuộc sở hữu

của một cá nhân. Giá tính thuế tài sản, thường được căn cứ theo

giá thị trường tại thời điểm đánh thuế tài sản, áp dụng giá

tính thuế do Chính phủ hay chính quyền địa phương quy định

Các loại thuế bất động sản thu hàng năm như thuế đất, thuế nhà,

thuế chuyển nhượng tài sản (trừ thuế quà biếu, quà tặng và thuế

thừa kế) thường đánh theo thuế suất tỷ lệ trên giá trị tài sản chịu

Thuế suất thuế, với mức động viên thấp. Thuế suất quy định đối với tài sản

thừa kế hoặc tài sản biếu tặng thường cao hơn và được đánh luỹ

tiến. Mức độ luỹ tiến phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người

nhận tài sản với người tặng quà hoặc người cho thừa kế.

Thực tế áp dụng tại các quốc gia đã cho thấy những ưu điểm rõ rệt của thuế

đánh vào tài sản là:

- Tài sản thông thường là BĐS nằm cố định, không thể di chuyển nên có căn cứ

tính thuế ổn định, bảo đảm chống thất thu có hiệu quả.

- Thuế suất có thể thay đổi trong phạm vi nhất định, không sợ bị ảnh hưởng đến

giá cả, tiền vốn, đời sống tuyệt đại bộ phận tầng lớp dân cư.

32

- Việc tổ chức quản lý thu thuế tương đối đơn giản.

- Số thuế tương đối ổn định mặc dù có biến động về việc định giá tài sản.

Kết luận chƣơng 2

Thuế tài sản là tên gọi chung cho các sắc thuế lấy tài sản làm đối tượng đánh

thuế. Tài sản và thuế tài sản là những khái niệm ra đời rất sớm và phổ biến ở hầu hết

các nước trên thế giới. Vấn đề là mỗi quốc gia vận dụng mô hình thuế tài sản nào

trong từng thời đoạn để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia đó, vì

bản chất của thuế vừa là một phạm trù kinh tế và vừa là một phạm trù lịch sử. Tuỳ

theo yêu cầu quản lý và tình hình thực tiễn, đặc thù của từng quốc gia về quản lý hành

chính nhà nước mà mỗi nước có những chính sách thuế tài sản thích hợp để khai thác

tối đa hiệu quả, công bằng xã hội và bổ sung nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ở

Việt Nam, thuế tài sản đã trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhà nước trong việc

xây dựng và áp dụng để bổ sung nguồn thu cho ngân sách nhà nước khi mà các vấn đề

về tài sản nhất là đất đai, nhà cửa đã được bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình

thực tế.

Để xây dựng mô hình thuế tài sản, điều quan trọng nhất là phải xác định các

yếu tố cấu thành sắc thuế tài sản, bao gồm cơ sở thuế (Tax base), thuế suất (Tax rate)

và hình thức đánh thuế cho phù hợp. Kinh nghiệm các nước trên thế giới vận dụng mô

hình thuế tài sản chỉ ra rằng:

Thứ nhất, cơ sở đánh thuế tài sản chỉ nên giới hạn ở những tài sản có giá trị lớn

và dễ kiểm tra, kiểm soát theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Nguyên lý này một mặt

đảm bảo tính khả thi của mô hình thuế tài sản, một mặt tạo ra hiệu ứng “luỹ tiến” so

với thu nhập.

Thứ hai, giá trị tính thuế của tài sản thường được tính theo thị trường tại thời

điểm tính thuế, cũng có nước quy định giá trị tính thuế là giá trị ròng của tài sản.

Thứ ba, thuế đánh vào tài sản có thể thực hiện một lần nhưng cũng có thể thực

hiện nhiều lần hoặc kết hợp. Việc đánh thuế một lần vào tài sản thường được áp dụng

đối với những tài sản lần đầu được xây dựng, mua sắm hay chuyển giao.

Thứ tư, việc đánh thuế tài sản cần phải được kết hợp một cách chặt chẽ với các

hình thức thuế thu nhập từ tài sản và phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với các

loại thuế thu nhập khác.

33

CHƢƠNG 3:

3.1 và p

3.1.1

3.1.1.1 Tình trạng sử dụng đất đai đến năm 2012

Theo số liệu báo cáo tổng điều tra đất đai năm 2010, tổng diện tích các loại đất

kiểm kê của cả nước là 33.093.857 ha. Theo mục đích sử dụng, đất được phân thành 3

nhóm chính: đất nông nghiệp; đất phi nông nghiệp; đất chưa sử dụng. Tình hình sử

dụng đất của nước ta cụ thể như sau:

(1) đất nông nghiệp: Tổng diện tích nhóm đất nông nghiệp của cả nước năm 2010 là

26.100.160 ha, tăng 5.179.385 ha (gấp 1,25 lần) so với năm 2000. Trong đó, lượng

tăng chủ yếu ở loại đất lâm nghiệp (tăng 3.673.998 ha) và loại đất sản xuất nông

nghiệp (tăng 1.140.393 ha).

Bảng 3.1 Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp trên cả nƣớc

Diện tích (ha)

Biến động (ha)

Chỉ tiêu

Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010

2000-2005

2005-2010

2000-2010

20.939.679 24.822.560 26.100.160

3.882.881

1.277.600

5.160.481

Tổng diện tích đất nông nghiệp

8.977.500

9.415.568 10.117.893

438.068

702.325

1.140.393

Đất sản xuất nông nghiệp

Đất lâm nghiệp

11.575.027 14.677.409 15.249.025

3.102.382

571.616

3.673.998

367.846

700.061

690.218

332.215

-9.843

322.372

Đất nuôi trồng thuỷ sản

Đất làm muối

18.904

14.075

17.562

-4.829

3.487

-1.342

402

15.447

25.462

15.045

10.015

25.060

Đất nông nghiệp khác

Nguồn: Tổng điều tra đất đai năm 2000, năm 2005 và năm 2010

34

(2) đất phi nông nghiệp: Diện tích đất phi nông nghiệp trên cả nước có mức tăng

trưởng tương đối nhanh và tuyến tính trong vòng một thập niên qua. Trung bình mỗi

năm, diện tích đất phi nông nghiệp gia tăng thêm khoảng 82.000 ha và tốc độ tăng

trưởng bình quân hằng năm ở mức xấp xỉ 29%. Tổng diện tích nhóm đất chuyên dùng

gia tăng mạnh nhất trong giai đoạn 2005-2010 (722.277 ha); tiếp theo là diện tích đất

ở, tăng 237.300 ha; đất nghĩa trang, nghĩa địa tăng 7.200 ha; đặc biệt, nhóm đất sông

suối và mặt nước chuyên dùng giảm mạnh xuống chỉ còn khoảng trên 1 triệu ha vào

năm 2010. Đất tôn giáo, tín ngưỡng cũng có sự gia tăng đáng kể, tăng trên 1.800 ha

sau giai đoạn 2005-2010.

Bảng 3.2 Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp trên cả nƣớc

Biến động (ha) Diện tích (ha) tăng (+), giảm (-). Chỉ tiêu

Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010 2000- 2005 2005- 2010 2000- 2010

2.850.298

3.232.715 3.670.186

+382.417 + 437.471 +819.888

Tổng diện tích

443.178

598.428

680.477

+155.250

+ 82.049 +237.299

Đất ở

1.072.202

1.383.766 1.794.479

+311.564 + 410.713 +722.277

12.804

14.620

+1.816

Đất chuyên dùng

93.741

97.052

100.939

+3.311

+3.887

+7.198

Đất tôn giáo, tín ngưỡng

1.143.087

1.137.445 1.075.736

-5.642

-61.709

-67.351

Đất nghĩa trang, nghĩa địa

3.221

3.936

+3.221

+715

+3.936

Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng

Đất phi nông nghiệp khác

Nguồn: Tổng điều tra đất đai năm 2000, năm 2005 và năm 2010

35

(3) đất chƣa sử dụng: Thực tế, diện tích đất chưa sử dụng đã giảm nhanh, mạnh và

đáng kể sau một thập niên. Chỉ sau 5 năm từ năm 2000-2005, diện tích đất chưa sử

dụng đã giảm một nửa từ 10.027.265 ha xuống còn 5.065.884 ha. Năm 2000, diện tích

đất chưa sử dụng chiếm tới 30,5% trong tổng cơ cấu đất đai (gần 2/3 diện tích cả

nước), thì năm 2005 con số này chỉ còn 15,3%, đến năm 2010 con số này là 10%.

3.1.1.2 Chính sách quản lý đất đai

Bộ luật Dân sự (2005) quy định "Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,

quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp

luật”. Từ khi Luật đất đai (1993) thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại tài sản dân

sự đặc biệt thì quyền sở hữu đất đai thực chất cũng là quyền sở hữu một loại tài sản

dân sự đặc biệt. Vì vậy khi nghiên cứu về quan hệ đất đai, cho thấy các quyền năng

của sở hữu nhà nước về đất đai bao gồm: quyền chiếm hữu đất đai, quyền sử dụng đất

đai, quyền định đoạt đất đai. Các quyền năng này được Nhà nước thực hiện trực tiếp

bằng việc xác lập các chế độ pháp lý về quản lý và sử dụng đất đai. Nhà nước không

trực tiếp thực hiện các quyền năng này mà thông qua hệ thống các cơ quan nhà nước

do Nhà nước thành lập ra và thông qua các tổ chức, cá nhân sử dụng đất theo những

quy định và theo sự giám sát của Nhà nước.

Hoạt động trên thực tế của các cơ quan nhà nước nhằm bảo vệ và thực hiện

quyền sở hữu nhà nước về đất đai rất phong phú và đa dạng, bao gồm 13 nội dung đã

quy định ở Điều 6, Luật Đất đai 2003 như sau:

- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ

chức thực hiện các văn bản đó;

- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản

đồ hành chính;

- Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện

trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;

- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;

- Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất;

- Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất;

- Thống kê, kiểm kế đất đai;

- Quản lý tài chính về đất đai;

- Quản lý và phát triển thị trường quyền SDĐ trong thị trường bất động sản;

36

- Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất;

- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử

lý vi phạm pháp luật về đất đai

- Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong

việc quản lý và sử dụng đất đai;

- Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.

Mười ba nội dung trên nhằm bảo vệ và thực hiện quyền sở hữu nhà nước về đất

đai, được tập trung vào bốn lĩnh vực cơ bản sau đây:

Thứ nhất: Nhà nước nắm chắc tình hình đất đai, tức là Nhà nước biết rõ các

thông tin chính xác về số lượng đất đai, về chất lượng đất đai, về tình hình hiện trạng

của việc quản lý và sử dụng đất đai.

Thứ hai: Nhà nước thực hiện việc phân phối và phân phối lại đất đai theo quy

hoạch và kế hoạch chung thống nhất. Nhà nước chiếm hữu toàn bộ quỹ đất đai, nhưng

lại không trực tiếp sử dụng mà giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng. Trong quá trình

phát triển của đất nước, ở từng giai đoạn cụ thể, nhu cầu sử dụng đất đai của các

ngành, các cơ quan, tổ chức cũng khác nhau. Nhà nước với vai trò chủ quản lý đất đai

thực hiện phân phối đất đai cho các chủ sử dụng theo quá trình phát triển của xã hội.

Thứ ba: Nhà nước thường xuyên thanh tra, kiểm tra chế độ quản lý và sử dụng

đất đai. Hoạt động phân phối và sử dụng đất do các cơ quan nhà nước và do người sử

dụng cụ thể thực hiện. Để việc phân phối và sử dụng được phù hợp với yêu cầu và lợi

ích của Nhà nước, Nhà nước tiến hành kiểm tra giám sát quá trình phân phối và sử

dụng đất Trong khi kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện các vi phạm và bất cập trong

phân phối và sử dụng, Nhà nước sẽ xử lý và giải quyết các vi phạm, bất cập đó.

Thứ tư: Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai, hoạt động

này được thực hiện thông qua các chính sách tài chính về đất đai như: thu tiền sử dụng

đất (có thể dưới dạng tiền giao đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, có

thể dưới dạng tiền thuê đất, có thể dưới dạng tiền chuyển mục đích sử dụng đất), thu

các loại thuế liên quan đến việc sử dụng đất (như thuế sử dụng đất, thuế chuyển quyền

sử dụng đất, thuế thu nhập có được từ việc chuyển quyền sử dụng đất...) nhằm điều

tiết các nguồn lợi hoặc phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử

dụng đất mang lại.

3.1.2

37

Theo Nghị Định 90/2006/NĐ-CP ban hành ngày 6/9/2006, vai trò quản lý Nhà

nuớc về nhà ở tập trung vào các vấn đề sau:

- Xây dựng định hướng phát triển nhà ở quốc gia

- Xây dựng chương trình phát triển nhà ở của các địa phương

- Quản lý và cung cấp thông tin về nhà ở

- Điều tra, thống kê, xây dựng dữ liệu về nhà ở

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác phát triển và quản lý nhà ở

- Quản lý hoạt động môi giới bất động sản nhà ở

- Trách nhiệm quản lý nhà nước về nhà ở của Bộ Tài nguyên và môi trường

- Trách nhiệm quản lý nhà nước về nhà ở của các Bộ, ngành liên quan

- Trách nhiệm quản lý nhà nước về nhà ở của địa phương

- Ban Chỉ đạo về chính sách nhà ở

- Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận

trong lĩnh vực nhà ở

Tính đến thời điểm 1/4/2009 cả nước có đến 20.866.630 nhà ở, với tốc độ đô

thị hóa phát triển nhanh hiện nay thì số lượng sẽ còn tăng đáng kể trong tương lai.

Bảng 3.3: Tình trạng nhà ở tính đến ngày 1/4/2009

Khu vực Nhà kiên cố Nhà bán kiên cố Nhà đơn sơ Khác Tổng

Cả nước 9.667.917 9.565.747 1.628.667 4.299 20.866.630

Thành thị 2.536.259 3.383.594 172.595 2.291 6.094.739

Nông thôn 7.131.658 6.182.153 1.456.072 2.008 14.771.891

Nguồn:Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê

3.1.3 Đối với các tài sản khác

Ngoài chế độ quản lý đối với đất đai thuộc tài sản quốc gia, Nhà nước đã có

những quy định về chế độ quản lý với một số tài sản khác như: nhà, công trình kiến

trúc, phương tiện vận tải ( mô tô, ô tô, tàu, thuyền...). Các tổ chức, cá nhân có các tài sản trên phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng theo quy định của nhà nước. Số

liệu ở bảng 3.4 thể hiện tình trạng gia tăng phương tiên giao giai đoạn 2002-2012, số lượng xe máy tăng nhanh quá mức đã phá vỡ kế hoạch mà “Quy hoạch phát triển giao

thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030” đặt ra, đã được phê duyệt theo Quyết định 356/QĐ-TTg của Chính phủ vào cuối tháng

2/2013. Theo đó, đến năm 2020 Việt Nam ở mức 36 triệu xe máy và 3,2-3,5 triệu ô tô.

38

Bảng 3.4: Tình trạng phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ giai đoạn 2002-2012

Ô tô Xe máy Tổng số Năm

607.401 10.273.000 10.880.401 2002

675.000 774.824 11.379.000 13.375.992 12.054.000 14.150.816 2003 2004

891.104 972.912 16.086.644 18.615.960 16.977.748 19.588.872 2005 2006

1.106.617 21.721.282 22.827899 2007

1.361.645 25.481.039 26.842.684 2008

1.535.987 28.431.079 29.967.066 2009

1.713.908 31.452.503 33.166.411 2010

1.882.972 33.925.839 35.808.811 2011

2.033.265 37.023.078 39.056.343 2012

Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu Cục Giao thông đường bộ

3.2 :

3.2.1

Cho đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam tuy chưa có sắc thuế nào có tên là thuế

tài sản, nhưng đối chiếu với cơ sở lý luận về tài sản và thuế tài sản ở nhiều nước trên

thế giới thì có một số sắc thuế và lệ phí hiện hành mang tính chất của thuế tài sản như

thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (thay thế thuế nhà đất

trước năm 2012) và lệ phí trước bạ.

Thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp là hai sắc

thuế đều thuộc loại thu hàng năm, nhằm động viên một phần thu nhập của tổ chức, cá

nhân được giao quyền sử dụng đất thuộc sở hữu quốc gia vào các mục đích khác nhau.

Tương tự như vậy, lệ phí trước bạ là khoản thu một lần đánh vào tổ chức, cá nhân có

tài sản thuộc diện Nhà nước quản lý khi thực hiện thủ tục để công nhận tính pháp lý

về quyền sử dụng hay quyền sở hữu tài sản đó. Ngoài ra, còn có một số khoản thuế

hoặc thu khác có liên quan đến đất đai, tài sản nhưng không mang tính chất của thuế

tài sản như: tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế tài nguyên…

Nhìn tổng quát, các sắc thuế liên quan đến tài sản hiện nay của nước ta có

nhiều điểm chưa rõ nét, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, trong một số trường hợp,

có sự lẫn lộn giữa thuế và lệ phí. Nguồn thu từ các khoản thuế liên quan đến tài sản

chưa đóng góp nhiều cho NSNN và chưa chiếm vị trí quan trọng trong ngân sách địa

39

phương như hầu hết ở các nước khác… Đó là những điểm cơ bản cần lưu ý khi xây dựng thuế tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.

3.2.2 Thực trạng về các chính sách thuế liên quan đến tài sản

3.2.2.1 Nguồn thu liên quan đến tài sản

Qua biểu đồ 3.1, nguồn thu liên quan đến tài sản chủ yếu tập trung vào khoản

thu tiền sử dụng đất và lệ phí trước bạ, các khoản thu khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ.

Biểu đồ 3.1: Kết cấu nguồn thu đối với tài sản

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính

Kết quả nguồn thu (bảng 3.5) chỉ ra rằng trong giai đoạn 2003-2012, thuế

SDĐNN chiếm tỷ lệ rất nhỏ 0,04% so với tổng thu NSNN, kế đến là thuế nhà đất

0,22% và lệ phí trước bạ 1,56%. Riêng chỉ có khoản thu tiền sử dụng đất có tỷ lệ

tương đối 6,91%, tuy nhiên khoản thu này thật sự chỉ liên quan đến tài sản đất đai chứ

không mang rõ nét thuế tài sản.

Bảng 3.5: Kết cấu nguồn thu liên quan đến TS so với tổng thu NS (tỷ lệ %)

Chỉ tiêu

2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 TB

0,10 0,07 0,06 0,04 0,03 0,02 0,01 0,01 0,01 0,01 0,04

0,26 0,32 0,41 0,43 0,69 0,69 0,06

0,41

Thuế SDĐNN

0,23 0,22 0,22 0,21 0,21 0,21 0,26 0,24 0,22 0,16 0,22

Thuế CQSDĐ

Thuế nhà đất

1,15 1,31 1,17 1,16 1,68 1,69 2,07 2,14 1,55 1,71 1,56

Thu tiền thuê đất 0,32 0,52 0,42 0,56 0,65 0,81 0,72 0,64 0,81 1,04 0,65

5,16 7,15 5,94 5,33 8,53 7,27 8,08 8,39 7,18 6,07 6,91

Lệ phí trước bạ

Thu tiền SDĐ

Nguồn:Tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính

40

Tương tự, kết quả nguồn thu (bảng 3.6) cũng chỉ ra rằng thuế SDĐNN chiếm tỷ

lệ nhỏ nhất 0,04% so với tổng số thu thuế, kế đến là thuế nhà đất 0,27% và lệ phí

trước bạ 1,92%. Thuế chuyển quyền sử dụng đất chiếm tỷ lệ 0,51%, tuy nhiên từ năm

2010 sắc thuế này được chuyển sang chịu thuế TNCN.

Bảng 3.6:Kết cấu nguồn thu liên quan đến tài sản so với tổng thu thuế (tỷ lệ %)

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

TB

Chỉ tiêu

Thuế SDĐNN

0,12 0,08

0,07

0,05

0,04 0,03

0,02

0,01 0,01 0,01 0,04

Thuế CQ SDĐ

0,32 0,41

0,51

0,53

0,87 0,83

0,07

0,51

Thuế nhà đất

0,28 0,28

0,27

0,25

0,26 0,25

0,32

0,29 0,26 0,19 0,27

Thu tiền thuê đất

0,40 0,67

0,52

0,69

0,81 0,97

0,90

0,78 0,97 1,24 0,80

Lệ phí trước bạ

1,42 1,68

1,46

1,42

2,10 2,03

2,59

2,61 1,86 2,03 1,92

Thu tiền SDĐ

6,37 9,13

7,39

6,52 10,68 8,70 10,10 10,22 8,59 7,21 8,49

Nguồn: tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính

So sánh kết quả trên với tỷ trọng thuế tài sản ở một số quốc gia (Biểu đồ 3.2)

cũng đủ thấy rằng tỷ trọng thuế tài sản ở Việt Nam còn ở mức rất khiêm tốn, chỉ

chiếm 2,58% trên tổng thu thuế và 2,12% trên tổng thu ngân sách . Điều này cho thấy

hệ thống thuế tài sản Việt nam còn quá kém so với các nước, chưa thể hiện được tính

hiệu quả và không tạo ra được một mắc xích đồng bộ trong hệ thống thuế quốc gia

gồm thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản.

Biểu đồ 3.2: Mức phụ thuộc vào thuế tài sản ở một số Quốc gia

Nguồn: tổng hợp theo số liệu của website Bộ tài chính và Tạp chí Dillinger, Thuế bất

động sản thành thị tại các nước đang phát triển (2010)

41

3.2.2.2 Thuế sử dụng đất nông nghiệp

Thuế SDĐNN được thực hiện từ 01/01/1994 theo quy định tại Luật thuế

SDĐNN (QH thông qua năm 1993), Pháp lệnh thuế bổ sung đối với hộ gia đình

SDĐNN vượt quá hạn mức diện tích (UBTVQH thông qua ngày 15/03/1994). Nội

dung cơ bản của thuế SDĐNN như sau:

- Đối tượng chịu thuế: là đất dùng vào sản xuất nông nghiệp gồm đất trồng trọt,

đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản, đất rừng trồng.

- Căn cứ tính thuế: được xác định theo diện tích đất, hạng đất và định suất thuế

tính bằng kg thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất.

Kết quả đạt đƣợc từ thuế SDĐNN nhƣ sau: - Thuế SDĐNN góp phần tăng thu cho NSNN trong thời kỳ đổi mới, thuế

SDĐNN tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước khi mà các ngành công nghiệp chưa

phát triển mạnh và thu ngân sách thấp trong khi chi ngân sách không ngừng tăng qua

các năm. Với quy định của Luật NSNN hiện hành, thuế SDĐNN được để lại 100%

cho địa phương, trong đó cấp xã được tối thiểu 70%, đã tạo điều kiện cho NSĐP có

nguồn thu ổn định, đảm bảo cho hoạt động của bộ máy hành chính và phát triển cơ sở

hạ tầng nông thôn.

- Thuế SDĐNN giúp nhà nước quản lý được quỹ đất nông nghiệp, tình hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi nên thuế SDĐNN giúp quản lý và thúc đẩy sự

phát triển thị trường BĐS ở nông thôn. Thực tế cho thấy, khi một ngành nào đó thuộc

lĩnh vực nông nghiệp phát triển sẽ kéo theo thị trường BĐS ở khu vực nông thôn phát

triển. So với những năm thuộc thập niên 1980, việc cho thuê, cho thuê lại đất nông

nghiệp, thế chấp quyền SDĐNN để vay vốn… diễn ra khá phổ biến.

- Thuế SDĐNN góp phần thúc đẩy việc SDĐ có hiệu quả, từ đó làm gia tăng hàng hóa BĐS trên thị trường. Điều này được minh chứng qua quy định mọi cá nhân

được giao đất có sử dụng hoặc không sử dụng đều phải nộp thuế, nên bắt buộc mọi người nắm giữ đất đều phải tăng cường đầu tư thâm canh tăng năng suất vật nuôi, cây

trồng để làm tăng thu nhập và hoàn thành nghĩa vụ thuế. Nếu không sử dụng hoặc SDĐ không hiệu quả thì để tiết kiệm chi phí thuế, người SDĐ có thể cho thuê lại đất

hoặc chuyển nhượng quyền SDĐ cho người khác.

- Do đất đai có đặc điểm là không di chuyển được nên việc đánh thuế cao đối với

những ruộng, đất gần đường giao thông, tiện lợi tưới tiêu, độ màu mỡ tự nhiên cao đã đảm bảo được sự công bằng giữa những người SDĐ thuộc các tầng lớp dân cư, tổ

42

chức khác nhau. Từ đó giúp nhà nước ổn định và điều tiết thị trường BĐS khu vực nông thôn.

Đánh giá về chính sách thuế SDĐNN - Tỷ trọng thuế SDĐNN hiện nay chưa đạt mục tiêu ngân sách, chưa phát huy

vai trò của thuế BĐS trong hệ thống thuế tài sản.

- Cách thức phân loại hạng đất hiện nay làm căn cứ tính thuế quá lạc hậu so với

nến kinh tế thị trường. Chính sách thuế SDĐNN ban hành vào những năm đầu thập niên 90, khi đó cả xã hội đang quen với việc xác định hạng đất, mức thuế suất rất ổn

định. Hiện nay, nước ta đã chuyển sang kinh tế thị trường nhưng lại vẫn dùng tiêu chí là dựa trên hạng đất và diện tích để đánh thuế thì không còn phù hợp. Trên thực tế,

việc xác định hạng đất để áp thuế suất tính thuế SDĐNN cho hợp lý và công bằng là khó thực hiện được do việc xác định hạng đất dựa vào các yếu tố về độ phì tự nhiên,

nhưng hầu hết các địa phương đều không có bản đồ nông hóa thổ nhưỡng, số lượng

các mảnh ruộng của người dân bị chia phân tán và manh mún tại nhiều vị trí khác

nhau, trong khi thời gian phân hạng quá ngắn. Từ đó nhiều địa phương phải phân hạng

đất chủ yếu dựa vào năng suất thu hoạch canh tác hàng năm hoặc theo cách cũ là căn

cứ kế hoạch được giao, phân bổ nhiệm vụ thu cho từng huyện, xã và thuế được tính

chung cho từng hộ nông dân. Do vậy, việc xác định hạng đất thường thiếu khách

quan, dễ phát sinh những tiêu cực, nảy sinh nhiều trường hợp cùng một diện tích đất

nhưng được xếp là hạng đất thấp để đóng thuế SDĐNN thấp nhưng khi bị thu hồi lại

được xếp hạng đất cao để nhận đền bù cao.

- Việc sử dụng định suất thuế được tính dựa trên kg thóc/ha. Do nền kinh tế nước

ta trước đây dựa trên sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, việc thu thuế theo giá thóc là

hợp lý. Nhưng hiện nay, tốc độ công nghiệp hóa - hiện đại hóa ngày càng nhanh, các

quan hệ tiền tệ phát triển mạnh thì giá thóc thường xuyên biến động trên thị trường

nên việc tính thuế sẽ không còn phù hợp nữa.

- Về chính sách miễn, chính sách thuế lại gắn liền với quá nhiều chính sách xã hội làm nội dung chính sách thuế phức tạp, gây nhiều vướng mắc trong quá trình thực

hiện.

- Tính khoa học của việc quản lý thu thuế SDĐNN hiện nay là chưa cao. Công

tác quản lý, thu thuế SDĐNN chủ yếu dựa vào chính quyền thôn, xã, thông qua ủy

nhiệm thu nhưng trình độ, năng lực của cán bộ thôn, xã có phần bị hạn chế nên thực tế

ở một số nơi đã phát sinh những sai phạm, khiếu kiện kéo dài và phức tạp. Mặt khác,

chính sách đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ thôn, xã ngành thuế chưa được quan

43

tâm đầy đủ, phụ cấp quá thấp nên chưa động viên khuyến khích họ hăng hái khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

3.2.2.3 Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có hiệu lực từ 01/01/2012 và thay thế

Pháp lệnh thuế nhà đất với những nội dung cơ bản như sau:

Đối tượng chịu thuế:

- Đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị - Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp bao gồm: đất xây dựng khu công

nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất khai thác, chế biến khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm.

- Đất phi nông nghiệp quy định tại Điều 3 của Luật Thuế sử dụng đất phi nông

nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh.

Căn cứ tính thuế: gồm có giá tính thuế và thuế suất, giá tính thuế đối với đất được xác định bằng diện tích đất tính thuế nhân với giá của 1m2 đất với thuế suất gồm có 3 bậc.

3.2.2.4 Thuế nhà đất

Pháp lệnh về thuế nhà đất được ban hành ngày 14/9/1991 và được sửa đổi, bổ

sung vào các năm 1992, 1994, 2003. Pháp lệnh thuế nhà đất quy định: thuế đất thu

hàng năm đối với các đối tượng có quyền sử dụng đất để ở hoặc để xây dựng công

trình, mang ý nghĩa là thuế đánh vào việc sử dụng đất cho mục đích phi sản xuất nông

nghiệp. Tuy nhiên, trong thời gian qua nhà nước chưa thực hiện việc thu thuế nhà,

riêng thuế đất được chuyển sang loại thuế sử dụng đất phi nông nghiệp từ ngày

1/1/2012.

Căn cứ tính thuế đất là diện tích đất ở, đất xây dựng công trình, hạng đất và

định suất thuế tính trên đơn vị diện tích. Trong đó diện tích đất tính thuế là toàn bộ

diện tích đất thực tế sử dụng vào mục đích ở, xây dựng công trình theo giấy cấp đất;

hạng đất được xác định căn cứ vào các yếu tố chủ yếu như: loại đô thị (từ I đến VI),

loại đường phố hoặc khu phố dựa theo vị trí của đất ở từng khu vực và các điều kiện

thuận lợi trong sản xuất kinh doanh; mức thuế suất được xác định theo định suất và

được xác định từ 1 đến 32 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp. Pháp lệnh về thuế

nhà đất cũng quy định miễn giảm cho loại đất sử dụng cho các mục đích công cộng,

an ninh quốc phòng, vùng sâu, vùng xa, gia đình chính sách, khó khăn.

Mặc dù là thuế nhà đất, nhưng trên thực tế trong thời gian qua nhà nước chỉ có

thu thuế đất và kết quả đạt được từ thuế đất như sau:

44

- Thuế đất trong thời gian qua có chiều hướng tăng tốc qua các năm, đóng góp

phần nao cho nguồn thu ngân sách địa phương

- Thuế đất góp phần tăng cường quản lý nhà nước đối với việc SDĐ. Bên cạnh việc thu thuế đất ổn định, nhà nước cũng quản lý được các diện tích đất ở, đất vườn,

đất xây dựng các công trình của các tổ chức và cá nhân do các tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm kê khai tình hình SDĐ với cơ quan thuế. Điều này vừa giúp nhà nước

có kế hoạch tổng thể trong việc quy hoạch các cơ sở hạ tầng, các khu kinh tế trọng điểm… vừa làm cho việc SDĐ của tổ chức, cá nhân trở nên hiệu quả hơn (vì nếu

không SDĐ vẫn phải nộp thuế, nên người sử dụng sẽ cho thuê lại, trả lại nhà nước, chuyển nhượng). Điều này giúp nhà nước có thêm căn cứ thực tế để nghiên cứu, xây

dựng chính sách thuế SDĐ hợp lý hơn.

- Thuế đất góp phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân SDĐ tiết kiệm phù hợp

với pháp luật về đất đai.

- Thuế đất góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do giá đất tính thuế được xây

dựng trên cơ sở lý thuyết địa tô nên khác nhau giữa các khu vực, vị trí các trục đường

khác nhau. Mức thuế phải nộp căn cứ vào khả năng có thể sinh lợi của đất, mức độ

tiện ích của đất đối với người sử dụng. Qua đó, thuế đất góp phần điều tiết thị trường

BĐS thực hiện công bằng xã hội.

Bên cạnh kết quả đạt được, chính sách thuế đất hiện hành một số hạn chế

như sau:

- Thuế đất là loại thuế tỏ ra kém hiệu quả, chi phí quản lý thu thuế lớn, trong khi số thu hằng năm chỉ khoảng trên một nửa diện tích đất ở, đất xây dựng công trình và

số thu bình quân hàng năm chỉ đạt 962 tỷ đồng, chiếm bình quân khỏang 0,22% so với

tổng thu NSNN.

- Cách phân loại hạng đất hiện nay làm căn cứ tính thuế quá lạc hậu so với nền

kinh tế thị trường.

- Về đối tượng chịu thuế nhà đất hiện nay, theo quy định của Pháp lệnh thuế nhà đất năm 1992, đối tượng chịu thuế là nhà và đất ở, đất xây dựng công trình. Tuy nhiên,

do tình hình kinh tế xã hội vào những năm này chưa cho phép thu thuế đối với nhà.

Những năm gần đây, Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích, phát triển nhà ở.

Luật đất đai năm 2003 tạo điều kiện cho phát triển nhà, Luật nhà ở năm 2005 và Luật

kinh doanh BĐS năm 2006 đã tạo hành lang pháp lý để các tổ chức, cá nhân tham

gia đầu tư phát triển nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua,… Theo đó, thị trường BĐS

về nhà, đất đã được hình thành và đang trên đà phát triển. Trên thị trường đã xuất hiện

45

nhiều loại nhà như chung cư cao cấp, văn phòng cho thuê, các loại hình nhà liền kề, nhà biệt thự… và xuất hiện tình trạng đầu cơ về nhà, đất, đẩy giá nhà, đất lên cao

không hợp lý mà chưa có công cụ điều tiết từ phía nhà nước.

- Việc quy định giá tính thuế từ 1 đến 32 lần thuế SDĐNN, định suất thuế tính

trên kg thóc trên 1 ha. Ngay cả việc xác định hạng đất tính thuế được xác định căn cứ vào các yếu tố chất đất, vị trí, địa hình, khí hậu, thời tiết và điều kiện tưới tiêu... là phù

hợp với việc phân loại để thu thuế SDĐNN nhưng không phù hợp với đất ở, đất xây dựng công trình (đất phi nông nghiệp).

- Hơn nữa, thuế đất chưa có sự điều tiết cao đối với những đối tượng có quyền SDĐ với diện tích lớn để khuyến khích SDĐ tiết kiệm, hiệu quả và hạn chế đầu cơ về

đất, cụ thể là không phân biệt giữa việc SDĐ trong hạn mức và vượt hạn mức; không phân biệt giữa người có một nhà hoặc một thửa đất với người có nhiều nhà hoặc sử

dụng nhiều thửa đất. Với những hạn chế về căn cứ tính thuế, có thể thấy thuế đất hiện

nay chưa thật sự phát huy được vai trò điều tiết đối với thị trường BĐS.

- Chính sách miễn giảm thuế hiện nay vì chưa tạo sự công bằng. Việc xét miễn, giảm thuế do thiên tai tính theo tỷ lệ về tài sản bị thiệt hại so với toàn bộ tài sản (tài

sản cố định, tài sản lưu động) có trên lô đất chịu thuế thường khó xác định chính xác

nên rất ít trường hợp được xem xét miễn giảm theo đúng luật.

3.2.2.5 Lệ phí trƣớc bạ

Lệ phí trước bạ là khoản thu khi đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng với cơ

quan nhà nước có thẩm quyền đối với một số tài sản. Theo Thông tư 68/2010/TT-BTC

ban hành ngày 26/4/2010, được quy định như sau:  Đối tượng chịu lệ phí trước bạ bao gồm : nhà, đất, phương tiện vận tải, súng săn,

súng thể thao.

 Mức thu lệ phí trước bạ - Nhà, đất: 0,5%

- Phương tiện vận tải cơ giới đường thuỷ, phưong tiện đánh bắt và vận chuyển thuỷ sản (kể cả vỏ, khung, tổng thành máy thuỷ): 1%; riêng tàu đánh cá xa bờ (kể cả

vỏ, khung, tổng thành máy lắp thay thế) là 0,5%

- Súng săn, súng thể thao: 2%

- Xe máy mức thu như sau: Kê khai nộp lệ phí trước bạ xe máy lần đầu thì nộp lệ phí trước bạ theo tỷ lệ: 5%, kê khai nộp lệ phí trước bạ xe máy từ lần thứ 2 trở đi nộp

lệ phí trước bạ theo tỷ lệ: 1%

- Xe ôtô mức thu như sau: mức thu từ 2% đến 15%

46

Nhìn chung, Lệ phí trước bạ là khoản thu tương đối ổn định và tăng ổn định hàng năm, chiếm khoảng 17% số thu từ BĐS và 1,56% số thu NSNN. Việc thu lệ phí

trước bạ đã phục vụ tốt yêu cầu kiểm kê, kiểm soát đối với tài sản. Thông qua việc thu lệ phí trước bạ, cán bộ thuế cũng đã phát hiện một số tài sản của Nhà nước, của tập thể

hay tư nhân bị chiếm dụng trái pháp luật, góp phần ngăn chặn các hiện tượng xã hội tiêu cực.

Lệ phí trước bạ được áp dụng từ lâu và đã trở thành khoản đóng góp khá quen thuộc và nề nếp trong nhân dân. Hơn nữa, lệ phí trước bạ đáp ứng được nguyện vọng

của người nộp, muốn được xác định quyền sở hữu tài sản hợp pháp, thuận tiện cho việc tra cứu khi có kiện tụng, tranh chấp nên lệ phí trước bạ là khoản thu tương đối

thuận lợi, nhất là với tỷ lệ động viên tương đối thấp.

- Lệ phí trước bạ đóng góp một phần đáng kể cho nguồn thu ngân sách, chiếm tỷ

trọng 2% trên tổng thu NSNN.

- Tuy nhiên, lệ phí trước bạ không thuần túy là lệ phí hành chính mà mang tính

chất của một sắc thuế có tác dụng điều tiết đối với một số loại tài sản, nên tên gọi lệ

phí trước bạ là chưa hợp lý. Mức động viên từ lệ phí trước bạ khá cao, nhưng với danh

nghĩa là một khoản lệ phí nên căn cứ pháp lý chưa cao, chưa phù hợp với tính chất của

khoản thu. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp mua bán nhà đất chỉ làm giấy viết tay

hoặc chỉ cần có xác nhận của chính quyền phường, xã, không chịu làm thủ tục đăng

ký trước bạ nhưng việc xử lý sai phạm có nhiều khó khăn vì biện pháp chế tài chưa đủ

hiệu lực cần thiết.

- Bên cạnh đó, căn cứ tính lệ phí trước bạ hiện nay là chưa khoa học và hợp lý.

Hiện nay, Nhà nước chưa có quy định rõ ràng, cụ thể về những tài sản thuộc diện quản

lý của Nhà nước phải làm đầy đủ thủ tục đăng ký trước bạ để việc thực hiện chế độ

thu lệ phí trước bạ thuận lợi. Ví dụ đối với nhà, chỉ mới phải đăng ký trước bạ đối với

nhà chuyển dịch. Trên thực tế đã có không ít trường hợp mua đất với diện tích rộng

chỉ có nhà cấp 4 trên đất với giá không đáng bao nhiêu. Nhưng sau khi mua đất, chủ

nhà đã phá toàn bộ nhà cũ, xây dựng lại nhà cao tầng, nhà biệt thự với giá mới gấp

chục lần, thậm chí gấp hàng trăm lần giá cũ khi làm thủ tục trước bạ. Nếu không có

quy định rõ ràng về nguyên tắc phải đăng ký trước bạ đối với nhà xây dựng mới hoặc

nhà sửa chữa lớn mà giá trị tăng đến mức độ nhất định thì Nhà nước không thể nắm

được giá nhà thực tế đã có nhiều thay đổi, đặc biệt ở các đô thị lớn, gây thất thu nhiều

về tiềm năng lệ phí trước bạ.

- Giá tính lệ trước bạ hiện nay còn nhiều bất cập như:

47

 Giá trị của BĐS làm căn cứ tính lệ phí trước bạ khó hợp lý nếu được tính theo giá thị trường tại thời điểm chuyển dịch tài sản, vì giá thị trường lại biến

động phức tạp, khó xác định; ngược lại nếu tính theo giá quy định của Nhà nước thì phổ biến là thấp, lạc hậu so với giá thị trường.

 Việc xác định tỷ lệ khấu hao hữu hình và vô hình đối với nhà thường khó khăn vì thiếu những tiêu chuẩn rõ ràng mang tính pháp lý. Tình trạng giá ghi trên

hóa đơn rất thấp diễn ra phổ biến nên việc đấu tranh, thuyết phục để xác định giá tính lệ phí trước bạ vừa khó khăn, vừa có nhiều sơ hở.

 Quy định tổ chức thực hiện về cơ chế, trách nhiệm trong việc phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng, với chính quyền cơ sở trong việc xác

định quyền sở hữu, quyền sử dụng BĐS; về nội dung, giá trị của BĐS đăng ký trước bạ, về xử lý vi phạm là không rõ ràng, dẫn đến tình trạng thất thu về lệ phí trước bạ

đang xảy ra phổ biến ở hầu hết các địa phương, kể cả việc quy định khống chế mức

thu tối đa 500 triệu đồng/vụ đối với những tài sản có giá trị lớn.

3.2.2.6 Tiền sử dụng đất

Chính sách thu tiền SDĐ hiện hành được thực hiện theo Nghị định số

98/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 các Nghị định bổ sung sửa đổi như Nghị định số

17/2006/NĐ-CP, 84/2007/NĐ-CP, 44/2008/NĐ-CP. Nội dung cơ bản của chính sách

thu tiền SDĐ như sau:

 Về đối tượng nộp tiền SDĐ bao gồm: Người được nhà nước giao đất để sử

dụng vào các mục đích ở, kinh doanh nhà ở, SXKD, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng

để chuyển nhượng hoặc cho thuê, xây dựng công trình công cộng có mục đích kinh

doanh, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; Người đang

SDĐ nông nghiệp, phi nông nghiệp được chuyển mục đích SDĐ trong một số trường

hợp theo quy định của Chính phủ.

 Về căn cứ tính thu tiền SDĐ: là diện tích đất, giá đất và thời hạn SDĐ, trong

đó:

- Giá đất: là giá theo mục đích SDĐ được giao tại thời điểm giao đất do UBND

cấp tỉnh ban hành (trong khung giá đất của Chính phủ).

- Thời hạn SDĐ: gồm đất có thời hạn không quá 50 năm, không quá 70 năm với

đất có thời hạn sử dụng ổn định lâu dài.

- Đối với trường hợp SDĐ lâu dài và đất được giao có thời hạn sử dụng 70 năm,

thu tiền SDĐ bằng 100% giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành. Đối với trường hợp có

48

thời hạn SDĐ dưới 70 năm, thì trừ tiền SDĐ của mỗi năm không được giao đất sử dụng là 1,2% của mức thu 70 năm. Tiền thuê đất 3.2.2.7

Chế độ thu tiền thuê đất hiện nay được quy định tại Nghị định 142/2005/NĐ-

CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ. Nhà nước cho thuê đất là việc nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất. Tiền thuê đất

là khoản thu đối với tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước thuê đất một thời gian để hoạt động kinh doanh mà không phải là sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ

sản, làm muối. Tiền thuê đất (bao gồm cả tiền thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển) là khoản thu ổn định hàng năm nhằm điều tiết vào thu nhập do sử dụng đất mang lại.

Theo Nghị định 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 thì đơn giá thuê đất là 0.5% giá đất theo mục đích sử dụng đất thuê do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương quy định hoặc là đơn giá theo trúng thầu theo dự án; đối với giá thuê mặt nước

thì trong trường hợp thuê mặt nước cố định: giá thuê từ 10 triệu đồng đến 100 triệu

2 đồng/km 2 đồng/km

/năm; mặt nước không cố định: từ 50 triệu đồng đến 250 triệu

/năm. Như vậy, xét về mặt hiệu quả kinh tế, các tổ chức, cá nhân được nhà

nước cho thuê đất sẽ có lợi hơn khi được giao đất vì khi được được giao đất phải nộp

tiền sử dụng đất một lần theo giá đất quy định dựa vào giá thị trường, nếu giao đất có

thời hạn 50 năm thì tỷ lệ khấu hao là 2%/năm, nếu thời hạn 20 năm thì tỷ lệ khấu hao

là 5%/năm trong khi đó nếu thuê đất thì chỉ trả 0.5% giá đất hàng năm.

Thu tiền thuê đất trong thời gian qua đạt được kết quả sau:

- Tiền thuê đất đóng góp nguồn thu ổn định cho NSNN do điều tiết vào thu nhập

từ việc SDĐ. Khoản thu này chiếm tỷ trọng tuy không cao nhưng ổn định trong tổng

thu NSNN (bình quân 0,73%).

- Tiền thuê đất góp phần điều tiết thị trường BĐS. Thông qua chính sách thu này, nếu người có đất sử dụng không hiệu quả sẽ vẫn phải nộp tiền thuê đất, do đó họ sẽ

chuyển sang cho người khác thuê lại hoặc chuyển nhượng.

3.2.2.8 Thuế chuyển quyền sử dụng đất

Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất được ban hành ngày 22/6/1994 và được

sửa đổi bổ sung vào ngày 21/12/1999; Nghị định số 114-CP ngày 05/9/1994 hướng

dẫn thi hành Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất năm 1994 và Nghị định số

19/2000/NĐ-CP ngày 08/06/2000 quy định chi tiết thi hành Luật thuế chuyển quyền

sử dụng đất (năm 1994) và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế chuyển

quyền sử dụng đất. Đây là loại thuế thu một lần đối với tổ chức, cá nhân có quyền sử

49

dụng đất nông nghiệp, đất ở, đất công trình,… khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình cho người khác. Căn cứ tính thuế gồm đơn giá đất, diện

tích đất chuyển quyền và thuế suất. Trong đó, giá đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định trên cơ sở khung

giá đất do Chính phủ ban hành; thuế suất gồm có hai mức: 2% áp dụng đối với đất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và 4% áp dụng đối với

các loại đất khác (đất ở, đất xây dựng công trình).

Kể từ ngày 01/01/2009 khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thổ cư) bên

chuyển nhượng phải nộp thuế thu nhập cá nhân và bên nhận chuyển nhượng nộp thuế trước bạ (nếu không có thỏa thuận khác). Theo quy định tại Nghị định 100/NĐ-CP

ngày 8/9/2008 của Chính phủ thì thuế suất đối với thu nhập từ chuyển nhượng BĐS là 25% trên thu nhập tính thuế và trường hợp không xác định được giá vốn và các chi phí

liên quan làm cơ sở xác định thu nhập tính thuế thì áp dụng thuế suất 2% trên giá

chuyển nhượng.

3.2.2.9 Thuế thu nhập đối với hoạt động chuyển nhƣợng bất động sản

Đối với các cơ sở kinh doanh có hoạt động chuyển nhượng BĐS, từ ngày

01/01/2009 nộp thuế thu nhập theo quy định của Luật thuế TNDN (QH thông qua

ngày 03/06/2008). Căn cứ tính thuế là thu nhập chịu thuế và thuế suất. Trong đó, thu

nhập chịu thuế từ chuyển nhượng BĐS được xác định bằng doanh thu từ hoạt động

chuyển nhượng BĐS trừ giá vốn của BĐS và các khoản chi phí được trừ liên quan đến

hoạt động chuyển nhượng BĐS, thuế suất là 25% trên thu nhập chịu thuế.

Đối với cá nhân kinh doanh hoạt động chuyển nhượng BĐS, từ ngày

01/01/2009 nộp thuế TNCN theo quy định tại Luật thuế TNCN (QH thông qua ngày

21/11/2007). Theo đó, cá nhân nộp thuế theo một trong hai cách: Nếu xác định được

thu nhập tính thuế (giá chuyển nhượng trừ giá mua và các chi phí liên quan) thì áp

dụng mức thuế suất 25% trên thu nhập tính thuế, nếu không xác định được giá mua và

các chi phí liên quan thì áp dụng mức thuế suất 2% trên giá chuyển nhượng BĐS.

3.2.2.10 Thuế tài nguyên

Pháp lệnh thuế tài nguyên được ban hành ngày 30/03/1990 của Hội đồng Bộ

trưởng và được Quốc hội sửa đổi, bổ sung vào ngày 16/4/1998. Theo đó, thuế tài

nguyên thu vào các tổ chức, cá nhân có thực hiện khai thác các loại tài nguyên thiên

nhiên thuộc chủ quyền quốc gia như: khoáng sản kim loại hoặc không kim loại, dầu

mỏ, khì đốt, sản phẩm rừng tự nhiên, thuỷ sản tự nhiên, nước thiên nhiên. Căn cứ tính

50

thuế: là sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế và thuế suất. Thuế suất: được chia theo 9 nhóm tài nguyên khác nhau.

3.2.2.11 Lệ phí địa chính

Được quản lý thu theo Nghị định số 68-CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ. Lệ

phí địa chính là khoản thu đối với tổ chức, cá nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết một số công việc có liên quan đến địa chính như: chứng nhận biến

động về đất đai, trích lục hồ sơ địa chính,... lệ phí địa chính thu theo mức quy định cụ thể cho từng công việc nói trên, có sự phân biệt giữa tổ chức, hộ gia đình và cá nhân

sử dụng đất theo loại xã hoặc đô thị.

Nhìn chung, đây là khoản thu chiếm tỷ trọng thấp nhất trong tất cả các khoản

thu về liên quan đến tài sản trong ngân sách. Đây là khoản lệ phí tương đối hợp lý và không gây cản trở, không làm tăng chi phí của đời sống xã hội cũng như hoạt động

sản xuất.

3.2.3 Đánh giá chung về chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt nam

Qua phân tích trên, thực trạng chỉ ra rằng về cơ sở pháp lý liên quan đến tài sản

đã dần dầ và có định hướng khoa học hơn, đó chính là

tiên đề pháp lý cho việc hình thành mô hình đánh thuế tài sản ở Việt nam được hoàn

hảo hơn, cụ thể:

- Chế độ quản lý của nhà nước về tài sản, nhất là luật đất đai đã quy định cụ thể về quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, xác định thời điểm sử dụng đất và đặc biệt là

những quy định về định giá đất. Đây cũng là căn cứ tính thuế đối với các sắc thuế như

như thuế sử dụng đất, thuế trước bạ. Do đó, khi có sự điều chỉnh từ các chế độ quản lý

đối với tài sản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách thuế về tài sản

- Các quy định về việc đăng ký sở hữu tài sản như nhà ở, nhà kinh doanh, tàu

bay, ô tô, tàu thuyền…, quyền sử dụng tài sản như quyền sử dụng đất đã có những

thay đổi tích cực, nhằm quản lý và sử dụng tài sản hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn.

- Tuy nhiên, Việt nam cũng cần sớm xây dựng dự thảo và bàn hành Luật tài sản,

vì đã có nhiều quốc gia trên thế giới đã có Luật tài sản từ rất sớm.

- Tóm lại, qua thực trạng và phân tích về chính sách thuế liên quan đến tài sản ở

Việt Nam đã nêu trên, chỉ ra những tồn tại chủ yếu của các sắc thuế này như sau:

 Nguồn thu từ các loại thuế có liên quan đến tài sản chỉ chiếm một tỷ trọng thấp so với tổng số thu ngân sách nhà nước và cũng chưa thật sự giữ một vị trí quan

trọng trong ngân sách địa phương như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới,

51

đó cũng là một điểm khác biệt về chính sách thuế tài sản nước ta so với các nước khác trên thế giới.

 Chưa có một sự phân loại, sắp xếp các sắc thuế liên quan đến tài sản một cách có hệ thống và khoa học, trong đó có sự nhầm lẫn giữa các sắc thuế mang tính

chất là thuế tài sản và các sắc thuế không mang tính chất là thuế tài sản. Điều này dễ tạo tâm lý đối với người nộp thuế là khi phát sinh các vấn đề liên quan

đến tài sản.

 Căn cứ tính thuế gồm nhiều yếu tố phức tạp và bất hợp lý như thuế sử dụng đất

nông nghiệp, thuế nhà đất. Điều này vừa gây khó khăn cho công tác hành thu, vừa dễ gây tiêu cực cho người thực hiện, tạo tâm lý không yên tâm cho người

nộp thuế.

 Trong hầu hết các sắc thuế tài sản đều quy định nhiều chế độ miễn giảm thuế,

khiến chính sách thuế trở nên phức tạp và khó giải thích đối với người nộp thuế

(lồng ghép nhiều chính sách xã hội vào chính sách thuế).

 Các văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện các loại thuế này được ban hành quá nhiều nhưng không cụ thể, đôi khi nội dung chồng chéo nhau và thiếu sự

nhất quán giữa các cơ quan ban hành, khiến việc triển khai thực hiện thiếu

đồng bộ ở những cơ quan thuế. Qua đó cho thấy, quan điểm về các sắc thuế

mang tính chất là thuế tài sản ớ Việt nam chưa thật sự rõ ràng.

 Chính sách thuế liên quan đến tài sản của Việt nam chưa phù hợp với thông lệ

quốc tế, trong một số trường hợp còn có sự lẫn lộn giữa thuế và lệ phí. Việc hội

nhập kinh tế quốc tế cũng đã đặt ra cho ngành thuế Việt nam những thách thức

không nhỏ trong tiến trình cải cách kinh tế-xã hội và xây dựng các chính sách

thuế phù hợp hơn. Các nguyên tắc của WTO chi phối mạnh mẽ đến việc xây

dựng chính sách thuế trên các nguyên tắc trọng yếu như không phân biệt đối

xử, thực hiện tự do hóa và tính công khai, minh bạch, thực hiện các cam kết

chính sách thuế của Việt Nam đối với WTO. Chính sách thuế của Việt nam nói

chung, thuế tài sản nói riêng đang đứng trước yêu cầu thay đổi cơ bản sau khi

Việt Nam bắt đầu thực hiện sâu và rộng các cam kết WTO, CEPT/AFTA,

ASEAN- Trung Quốc... và các cam kết khác trong tương lai.

3.3 Thuế và ngân sách Việt nam giai đoạn 2003-2012

3.3.1 Cấu trúc nguồn thu từ thuế

Biểu đồ 3.3 cho thấy, kết cấu nguồn thu từ thuế lệ thuộc chủ yếu vào thuế

TNDN (35,97%), Thuế GTGT (27,33%) và thuế nhập khẩu, thuế TTĐB đối với hàng

52

nhập khẩu (14,67%). Các khoản thuế liên quan đến tài sản có tỷ lệ cực thấp như thuế hệ thống thuế tài sản SDĐNN (0,04%) và thuế nhà đất (0,27%), điều này

chưa thật sự phát huy vai trò chủ lực như các quốc gia khác. Biểu đồ 3.3: Kết cấu nguồn thu từ thuế (2003-2012)

Nguồn: tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính

- Bảng 3.7 trình bày danh mục các sắc thuế và số thu hàng năm của từng loại thuế từ

năm 2003, tổng số thu huy động từ thuế chiếm từ trung bình khoảng 22,2% GDP.

- Trong số các sắc thuế chính, thuế TNDN giữ vai trò chủ đạo nhất với tỷ lệ

8,02% GDP, kế đến là thuế GTGT đang chiếm khoảng 6,04% GDP, một mức đóng

góp đáng kể đối với một sắc thuế với thuế suất chỉ bằng 10%.

- Một điều đáng chú ý nữa là sự suy giảm tương đối trong số thu từ các loại thuế

thương mại, từ hơn 4% GDP vào đầu những năm 2000 xuống còn khoảng 2% GDP

vào thời điểm hiện nay. Điều này xảy ra mặc dù lượng hàng hoá nhập khẩu của Việt

Nam tăng rất nhanh so với GDP và phản ánh tốc độ suy giảm nhanh chóng của thuế

nhập khẩu trung bình do cắt giảm thuế nhập khẩu từ các nước ASEAN.

- Nguồn thu thuế lớn thứ ba là từ thuế nhập khẩu, thuế TTĐB đối vời hàng nhập

khẩu 3,25% GDP

- Thuế thu nhập cá nhân chỉ chiếm khoảng hơn 0,83% GDP và chiếm 3,81%

nguồn thu từ thuế, đây là con số thay đổi rất nhỏ trong thập kỷ vừa qua.

- Qua số liệu phân tích trên, Việt Nam sẽ phải đối mặt với một số khó khăn trong

việc duy trì số thu thuế hiện nay (so với GDP), do số thu từ thuế TNDN và thuế xuất

nhập khẩu được dự báo là sẽ giảm tương đối. Sự suy giảm trong sản xuất dầu thô

trong hai năm qua khiến cho số thu thuế từ dầu thô không thể đạt mức đỉnh điểm.

53

Bảng 3.7: Kết cấu nguồn thu từ thuế (%)

Chỉ tiêu

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

TB

Tổng thu từ thuế

100

100

100

100

100

100

100

100

100

100

100

Thuế TNDN

37,05 36,63 39,56 42,23 38,93 37,80 30,05 30,78 32,51 34,18 35,97

Thuế GTGT

25,89 24,95 23,93 23,34 26,00 25,21 29,09 32,09 31,84 30,96 27,33

Thuế XK, NK,TTĐB

17,49 13,89 12,34 11,12 14,26 16,66 20,63 15,33 13,50 11,51 14,67

(hàng NK)

Thuế tài nguyên

7,60 11,18 11,08 11,26

7,99

7,26

5,12

5,45

6,32

6,75

8,00

Thuế TTĐB

6,92

8,21

8,20

7,28

6,47

6,09

7,97

7,72

7,08

6,93

7,29

Thuế TNCN

2,31

2,26

2,21

2,19

2,76

3,56

3,84

5,44

6,38

7,19

3,81

Lệ phí trước bạ

1,42

1,68

1,46

1,42

2,10

2,03

2,59

2,61

1,86

2,03

1,92

Thuế Môn bài

0,61

0,42

0,38

0,34

0,33

0,28

0,31

0,27

0,25

0,25

0,34

Thuế nhà đất

0,28

0,28

0,27

0,25

0,26

0,25

0,32

0,29

0,26

0,19

0,27

Thuế CQ SDĐ

0,32

0,41

0,51

0,53

0,87

0,83

0,07

0,51

Thuế SDĐNN

0,12

0,08

0,07

0,05

0,04

0,03

0,02

0,01

0,01

0,01

0,04

Chỉ tiêu

Kết cấu nguồn thu so với GDP (%) 2005

2003

2004

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

TB

21,13 21,75 22,85 24,27 23,48 24,57 20,63 22,39 21,70 19,29 22,20

Tổng thu thuế

Thuế GTGT

5,47

5,43

5,47

5,66

6,10

6,19

6,00

7,18

6,91

5,97

6,04

Thuế TTĐB

1,46

1,79

1,87

1,77

1,52

1,50

1,64

1,73

1,54

1,34

1,61

Thuế XK, NK ,TTĐB

3,70

3,02

2,82

2,70

3,35

4,09

4,26

3,43

2,93

2,22

3,25

Thuế TNDN

7,83

7,97

9,04 10,25

9,14

9,29

6,20

6,89

7,05

6,59

8,02

Thuế tài nguyên

1,61

2,43

2,53

2,73

1,88

1,78

1,06

1,22

1,37

1,30

1,79

Thuế TNCN

0,49

0,49

0,50

0,53

0,65

0,88

0,79

1,22

1,38

1,39

0,83

Thuế SDĐNN

0,02

0,02

0,02

0,01

0,01

0,01

0,00

0,00

0,00

0,00

0,01

Thuế nhà đất

0,06

0,06

0,06

0,06

0,06

0,06

0,07

0,06

0,06

0,04

0,06

Thuế CQSDĐ

0,07

0,09

0,12

0,13

0,20

0,20

0,01

0,12

Thuế Môn bài

0,13

0,09

0,09

0,08

0,08

0,07

0,06

0,06

0,05

0,05

0,08

Lệ phí trước bạ

0,30

0,36

0,33

0,35

0,49

0,50

0,53

0,58

0,40

0,39

0,42

Thu tiền thuê đất

0,08

0,14

0,12

0,17

0,19

0,24

0,19

0,18

0,21

0,24

0,18

Thu tiền SDĐ

1,35

1,99

1,69

1,58

2,51

2,14

2,08

2,29

1,86

1,39

1,89

Thu bán nhà thuộc SHNN

0,18

0,19

0,15

0,20

0,22

0,09

0,10

0,10

0,09

0,04

0,14

Thu phí xăng dầu

0,53

0,50

0,47

0,41

0,39

0,31

0,50

0,49

0,56

0,36

0,45

Thu phí và lệ phí

0,54

0,58

0,50

0,51

0,57

0,53

0,52

0,46

0,37

0,25

0,48

Thu viện trợ

0,49

0,40

0,45

0,81

0,53

0,64

0,44

0,55

0,44

0,24

0,50

Thu Khác

1,80

2,21

2,21

1,74

1,52

0,92

1,32

0,82

0,73

1,09

1,44

Nguồn: tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính

54

So với một số nền kinh tế mới nổi ở Châu Á năm 2010, biểu đồ 3.4 chỉ ra rằng

mặc dù Chính phủ Việt nam đã nhiều lần thực hiện chương trình cải cách thuế, tuy

nhiên, kết quả đạt được của thuế TNCN và thuế tài sản thấp hơn rất nhi

được gánh nặng với các loại thuế khác, điều này chưa phù hợp với

các học thuyết kinh tế đánh thuế.

Biểu đồ 3.4: Cấu trúc nguồn thu thuế của Việt Nam so với một số nƣớc (2010)

Nguồn: [22]

3.3.2 Cấu trúc nguồn thu ngân sách

Thu NSNN là một trong các nhiệm vụ quan trọng của ngành tài chính để tạo

nguồn quỹ cho thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ.

Biểu đồ 3.5: Kết cấu nguồn thu NSNN (2003-2012)

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính

55

Có thể thấy quy mô thu NSNN của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh trong

giai đoạn từ 2003-2008, chỉ sụt giảm nhẹ trong hai năm 2009 và 2012 do những khó

khăn về kinh tế và do việc áp dụng các biện pháp kích cầu nhằm kích thích tăng

trưởng kinh tế. Nếu sử dụng số liệu của IMF thì tổng thu NSNN của Việt Nam giai

đoạn 2006-2012 đạt trên 28% GDP, một mức khá cao so với các nước đang phát triển.

Chẳng hạn nếu so sánh mức thu này với các nước đang phát triển có thu nhập thấp thì

quy mô thu ngân sách của Việt Nam là tương đương mức trung bình các nước có xuất

khẩu dầu và cao hơn nhiều mức độ trung bình của nhóm các nước có thu nhập thấp

(trung bình 2006-2011 thu thuế /GDP là khoảng 23,7%) [9]. Ngay cả khi kinh tế gặp

khó khăn như năm 2012 thì tổng thu cân đối NSNN so với GDP vẫn đạt 25,3 %, cao

hơn mức trung bình của các nước đang phát triển châu Á giai đoạn 2006-2011 (quy

mô thu ngân sách đạt 21,4 % GDP). Vì vậy, việc so sánh với quy mô thu trung bình

của các nhóm nước cũng cho phép đánh giá nhanh về quy mô thu ngân sách của Việt

Nam.

Bảng 3.8: Kết cấu nguồn thu NSNN (%)

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

TB

Chỉ tiêu

Tổng thu ngân sách

100

100

100

100

100

100

100

100

100

100

100

Thuế TNDN

30,00 28,69 31,78 34,51 31,09 31,57 24,05 25,26 27,16 28,79 29,29

Thuế GTGT

20,96 19,54 19,22 19,07 20,76 21,05 23,28 26,35 26,61 26,08 22,29

Thuế XK, NK,TTĐB NK

14,16 10,88

9,91

9,09 11,39 13,91 16,51 12,59 11,28

9,69 11,94

Thu tiền thuê đất, SDĐ

5,48

7,67

6,36

5,89

9,18

8,08

8,81

9,03

7,99

7,11

7,56

Thuế tài nguyên

6,15

8,76

8,90

9,21

6,38

6,06

4,09

4,47

5,28

5,69

6,50

5,60

6,43

6,58

5,95

5,16

5,09

6,38

6,34

5,91

5,83

5,93

Thuế TTĐB

7,59

8,64

8,32

6,55

5,91

3,43

5,53

3,37

3,16

4,92

5,74

Thu Khác

1,87

1,77

1,77

1,79

2,21

2,98

3,07

4,47

5,33

6,05

3,13

Thuế TNCN

4,10

3,91

3,41

3,10

3,25

2,83

3,93

3,49

3,61

2,69

3,43

Phí và lệ phí

1,88

1,45

1,59

2,73

1,79

2,17

1,70

2,02

1,68

1,05

1,80

Thu viện trợ

Lệ phí trước bạ

1,15

1,31

1,17

1,16

1,68

1,69

2,07

2,14

1,55

1,71

1,56

0,49

0,33

0,30

0,27

0,26

0,23

0,25

0,23

0,20

0,21

0,28

Thuế Môn bài

0,23

0,22

0,22

0,21

0,21

0,21

0,26

0,24

0,22

0,16

0,22

Thuế nhà đất

0,26

0,32

0,41

0,43

0,69

0,69

0,06

0,41

Thuế CQ SDĐ

0,10

0,07

0,06

0,04

0,03

0,02

0,01

0,01

0,01

0,01

0,04

Thuế SDĐNN

Nguồn: tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính

56

Phân tích cơ cấu thu NSNN theo sắc thuế (bảng 3.8) cho thấy thu NSNN đến từ

ba nguồn chính là thuế TNDN, thuế GTGT và thuế trên hàng hóa xuất nhập khẩu

(gồm thuế XNK, thuế GTGT và thuế TTĐB trên hàng nhập khẩu). Có thể thấy thuế

với hoạt động XNK vẫn giữ vai trò rất quan trọng khi đóng góp trung bình hơn 11%

số thu NSNN trong năm năm gần đây dù nhiều dòng thuế đã được cắt giảm, nguồn thu

này tăng lên chủ yếu do kim ngạch hàng hóa XNK tăng mạnh và công tác hải quan

được cải thiện hơn. Tuy nhiên, nguồn thu này sẽ giảm đi khi Việt Nam thực hiện đầy

đủ các cam kết với WTO, do vậy cần phải tìm kiếm nguồn thu thay thế để đảm bảo

ngân sách không bị thâm hụt trầm trọng hơn.

So sánh ở Biểu đồ 3.4 phần trên cho thấy tỷ lệ thu thuế GTGT, thuế TNDN và

thuế XNK của Việt Nam trong tổng thu NSNN đã cao hơn mức trung bình của các

nước đang phát triển châu Á nên những nguồn thuế này khó có thể tiếp tục tăng lên.

Ngược lại, để cạnh tranh, Việt Nam cần giảm thuế suất với TNDN điều này cũng giúp

sự cạnh tranh về thuế của Việt Nam cao hơn khi xem xét đến thực tế là hầu hết các

nước trong khu vực áp dụng thuế suất thuế TNDN đa dạng với nhiều mức thuế suất từ

10-30% thậm chí 2% như ở Philippines trong một số trường hợp.

Ba loại thuế mà Việt Nam có thể kỳ vọng tăng thu trong tương lai là thuế

TNCN, thuế TTĐB và thuế đối với tài sản. Hiện nay thu thuế từ BĐS (không tính lệ

phí trước bạ) chỉ chiếm 0,25% tổng thu NSNN so với mức trung bình trên 1% ở các

nước đang phát triển trong khi đây là nguồn thu rất quan trọng cho NSĐP.

Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ thu ngân sách so GDP của một số nền kinh tế ở Châu Á

Nguồn: [22]

57

Một điểm khác biệt nữa để có cái nhìn toàn diện hơn về bức tranh ngân sách

Việt Nam qua Biểu đồ 3.6. Mặc dù tỷ lệ thu ngân sách trên GDP của Việt nam gần

thuộc hàng cao nhất so với một số nền kinh tế mới nổi ở Châu Á. Tuy nhiên, cấu trúc

thu thuế của Việt nam không cân đối, đặc biệt là thuế tài sản và thuế TNCN tỏ ra kém

hiệu quả (xem biểu đồ 3.4). Trong khi đó cán cân thâm hụt ngân sách của Việt nam là

khá cao trong những năm gần đây so với các nước (xem bảng 3.9). Theo số liệu của

IMF năm 2012, cho thấy trong năm năm gần đây Việt Nam luôn có tỷ lệ thâm hụt

NSNN cao hơn trung bình các nước đang phát triển có thu nhập thấp trên thế giới và

cao hơn tỷ lệ trung bình của tất cả các nhóm nước đang phát triển thấp chia theo khu

vực. Đây là vấn đề mà Chính phủ Việt nam cần lưu ý vì thâm hụt ngân sách cao, liên

tục có ảnh hưởng tiêu cực đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế như tăng trưởng kinh

tế, lạm phát, lãi suất, cán cân thanh toán, tỷ giá.

Bảng 3.9: So sánh cán cân NSNN Việt nam và các nƣớc đang phát triển (%GDP)

Kết luận chƣơng 3

Cho đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam tuy chưa có sắc thuế nào có tên là thuế

tài sản, nhưng đối chiếu với cơ sở lý luận về tài sản và thuế tài sản ở nhiều nước trên

thế giới thì có một số sắc thuế và lệ phí hiện hành mang tính chất của thuế tài sản như

thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (thay thế thuế nhà đất

trước năm 2012) và lệ phí trước bạ.

Qua hai cuộc cải cách thuế quan trọng đầu tiên thực hiện năm 1990 và 1998

nhằm mục đích điều chỉnh theo quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Một

khung pháp lý tổng thể đã được xây dựng nhằm tái cấu trúc hệ thống thuế trong nền

kinh tế chỉ huy tập trung cũ. Tuy nhiên, qua phân tích thực trạng ở Chương 3 chỉ ra

58

rằng, hệ thống thuế Việt nam chưa thật sự đồng bộ, nguồn thu chủ yếu tập trung vào

thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng, các sắc thuế khác không được

phát huy, một vài sắc thuế mang lại nguồn thu rất thấp (dưới 1% trong tổng thu).

Trong khi nguồn lực tài chính của nền kinh tế là giới hạn, do vậy mức huy động của

thuế cũng phải có sự giới hạn. Với thực trạng là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu

chi tiêu của ngân sách rất lớn và áp lực cân đối ngân sách là không nhỏ, nhưng không

phải thế là tận thu để bao chi, vì làm như vậy sẽ phá vỡ tính kỷ luật tài chính tổng thể.

Thuế không vì mục tiêu cân đối ngân sách trước mắt, mà quan trọng phải hướng vào

mục tiêu cao hơn và xa hơn. Cải cách thuế cần tập trung vào việc thu hẹp những bóp

méo của thuế, đi đôi với việc mở rộng cơ sở thuế và hạ thấp thuế suất. Đồng thời,

chính sách thuế phải bao quát hết tất cả nguồn thu, cần đưa vào áp dụng các loại thuế

mới để quản lý nguồn thu và nâng cao vai trò điều tiết như thuế tài sản, thuế môi

trường. Trong xu hướng hội nhập, thuế đánh vào thương mại quốc tế sẽ giảm dần,

thay vào đó chính sách thuế cần nỗ lực gia tăng thuế thu nhập cá nhân và thuế tài sản

để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Chính sách thuế phải góp phần

nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hóa trong điều kiện Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới. Thực

hiện cải cách thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, minh bạch, trung lập,

không phân biệt các thành phần kinh tế; đồng thời tháo dỡ dần chính sách bảo hộ bằng

việc xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ là những bước đi quan

trọng nhằm gây sức ép, buộc các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường đổi mới công

nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh.

59

CHƢƠNG 4: PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ XUẤT

MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG B

4.1

4.1.1 Các bƣớc xây dựng mô hình thuế tài sản

Từ những nghiên cứu lý luận và thực tiễn, mô hình thuế tài sản ở đây được rút

ra từ việc kết tinh những kinh nghiệm thực tiễn thành lý thuyết. Mô hình thuế tài sản

được xây dựng thành bốn bước như sau:

Bƣớc 4 : Mô hình được xây dựng lại dựa trên các kết quả kiểm định.

Bƣớc 3 : Mô hình chỉ ra các điểm tương đồng và dị biệt giữa mô hình và các tình huống nghiên cứu để xác định những ưu-nhược điểm của mô hình hoặc những phần mà các trường hợp nghiên cứu đã vượt ra khỏi phạm vi của mô hình.

Bƣớc 2 : Mô hình được áp dụng để nghiên cứu các nhân tố cấu thành thuế tài sản

Bƣớc 1 : Giới thiệu về mô hình – mô hình được xây dựng với một loạt các giả thuyết dựa trên sự tổng hợp các tài liệu phổ biến và kết quả điều tra thực tiễn.

Hình 4.1 Các bƣớc xây dựng mô hình thuế tài sản

4.1.2 Mô hình nghiên cứu thuế tài sản

60

Mục tiêu cần đạt được của mô hình nghiên cứu là nhận dạng các đối tượng chịu

thuế tài sản, phạm vi đối tượng chịu thuế; lựa chọn hình thức nào để đánh thuế cho

phù hợp và căn cứ tính thuế của mỗi loại tài sản ra sao. Đó chính là những nội dung

cốt lõi mà kết quả nghiên cứu cần có được trong việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở

Việt Nam nhằm đạt được hiệu quả và tối ưu nhất.

Từ cơ sơ lý thuyết và mô hình thuế tài sản thực tiễn của một số quốc gia, tác

giả đưa ra các giả thuyết và mô hình nghiên cứu sau:

Hình 4.2 Mô hình nghiên cứu thuế tài sản

K. Rosengard

thảo luận, phỏng vấn v được kiểm định bằng việc phân tích tương quan và hồi quy

tuyến tính dữ liệu thu thập được, các giả thuyết trong nghiên cứu này bao gồm:

- H1: Phạm vi của đối tượng chịu thuế tài sản có mối quan hệ tương quan với

tính hiệu quả của thuế tài sản, hay nói cách khác là khi có sự thay đổi về quy mô của

đối tượng chịu thuế thì cũng tạo ra sự thay đổi về tính hiệu quả của thuế tài sản.

- H2: Hình thức đánh thuế tài sản có mối quan hệ tương quan với tính hiệu quả

của thuế tài sản, khi hình thức đánh thuế có sự thay đổi thì tính hiệu quả của thuế tài

sản cũng thay đổi.

- H3: Căn cứ tính thuế tài sản có mối quan hệ tương quan với tính hiệu quả của

thuế tài sản, nếu nội dung căn cứ tính thuế tài sản thay đổi thì tính hiệu quả của thuế

tài sản cũng thay đổi theo.

61

4.1.3 Phƣơng pháp nghiên cứu đối với xây dựng mô hình

Nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp định tính và định lượng, áp dụng

cả hai quy trình suy diễn và quy nạp. Phép suy diễn dựa trên các lý thuyết có sẵn để

xây dựng các giả thuyết, còn phép quy nạp dựa vào các quan sát để kiểm định giả

thuyết đã đưa ra. Cơ sở lý thuyết được tổng hợp từ các tài liệu nghiên cứu về thuế tài

sản, từ đó xây dựng nên mô hình và các giả thuyết cho nghiên cứu.Với phương pháp

này, các chính sách thuế về tài sản được đặt trong quá trình vận động, biến đổi không

ngừng và được hoàn thiện để phù hợp với xu thế phát triển kinh tế-xã hội của đất nước

và thế giới. Dựa trên những lý luận cơ bản về tài sản, thuế tài sản và mô hình thuế tài

sản, nghiên cứu sử dụng các phương pháp cụ thể như sau:

- Tiếp cận lý thuyết về thuế nói chung và các sắc thuế liên quan đến tài sản nói

riêng, chú trọng đến vai trò và mục tiêu của chính sách thuế.

- Tham khảo các tài liệu về thuế tài sản tại một số quốc gia và các tài liệu liên

quan về chính sách thuế tài sản hiện hành.

- Thống kê số liệu thứ cấp, có chọn lọc từ các tài liệu và website có liên quan

(Chính phủ, Bộ tài chính, Tổng cục thống kê)

- Thảo luận nhóm, Phỏng vấn sâu

- Lấy ý kiến điều tra từ các chuyên gia ngành thuế và tài chính.

- Phân tích mô tả, đánh giá các nhân tố hình thành mô hình thuế tài sản

- Tổng hợp các vấn đề nghiên cứu trên đề xuất mô hình thuế tài sản.

4.1.4 Thiết kế nghiên cứu

Mô hình nghiên cứu thuế tài sản được thực hiện thông qua hai bước chính là

nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức, mỗi bước được tiến hành với kỹ thuật

tương ứng.

Bảng 4.1: Các bƣớc thực hiện trong nghiên cứu

Bước Dạng Phương pháp Kỹ thuật

Thảo luận nhóm, phỏng vấn và nghiên 1 Sơ bộ Định tính cứu tình huống

Phỏng vấn qua bảng câu hỏi, và phân 2 Chính thức Định lượng tích kết quả định lượng

62

4.1.5 Nghiên cứu định tính

4.1.5.1 Giới thiệu

Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua phương pháp chuyên gia với

hình thức thảo luận nhóm (full group), thảo luận nhóm là kỹ thuật phổ biến trong

nghiên cứu định tính (Morgan, 1996). Việc thu thập dữ liệu thông qua các đối tượng

tham dự thảo luận là các giảng viên, chuyên viên ngành thuế, ngành tài chính từ các

trường Đại học, cơ quan Thuế và Tài chính. Mục đích của các nhóm thảo luận nhằm

thu thập thông tin để xây dựng các giả thuyết cho mô hình thuế tài sản ở Việt Nam và

chứng minh các giả thuyết này.

Từ kết quả thảo luận nhóm sẽ nhận diện những yếu tố cấu thành các nhân tố

ảnh hưởng đến tính hiệu quả của thuế tài sản. Sau đó những yếu tố này sẽ được trình

bày lại thành những nhóm nhân tố phù hợp và hình thành nên một bảng câu hỏi để

phục vụ cho bước nghiên cứu chính thức thông qua nghiên cứu định lượng. Bảng câu

hỏi này sẽ được tham khảo ý kiến chuyên gia nhằm chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp và

dễ hiểu đối với người trả lời. Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua thảo luận

nhóm chuyên gia kết hợp phỏng vấn sâu nhằm tìm ra các chỉ báo thuộc các nhân tố

của mô hình nghiên cứu thuế tài sản:

 Đối tượng chịu thuế tài sản: phạm vi đối tượng chịu thuế tài sản là những tài

sản nào cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt nam

 Hình thức đánh thuế tài sản: lựa chọn hình thức đánh thuế phù hợp đối với mô

hình thuế tài sản.

 Căn cứ tính thuế tài sản: nội dung nhân tố này khá quan trọng trong việc xây

dựng mô hình thuế tài sản, cần xác định giá trị tính thuế và phương pháp thuế

suất cho phù hợp với mô hình.

 Tính hiệu quả của thuế tài sản: mô hình thuế tài sản được xây dựng phải đảm

bảo các tiêu chí của một hệ thống thuế hiệu quả và tối ưu.

4.1.5.2 Kết quả nghiên cứu thảo luận nhóm chuyên gia

Nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành thông qua 3 nhóm thảo luận độc lập

với mục tiêu nhận diện những nội dung cấu thành các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu

quả của thuế tài sản cho việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam trong bối

63

cảnh kinh tế-xã hội hiện nay, những nội dung câu hỏi thảo luận đã được chuẩn bị sẵn

(Phụ lục 1)

- Nhóm 1: Được tổ chức tại Viện Kế Toán-Kiểm Toán và Tài Chính Doanh

Nghiệp do TS. Bùi Hồng Điệp - Viện trưởng làm trưởng nhóm với 07 thành viên là

các chuyên viên ngành Tài chính, Thuế, Kinh tế Luật và Bất động sản.

- Nhóm 2: Được tổ chức tại Trường Đại Học Sài Gòn do TS. Nguyễn Đình

Luận- Trưởng phòng ĐTTC và TNGV làm trưởng nhóm với 10 thành viên là các

Giảng viên, chuyên viên ngành Tài chính công, Kế Toán, Thuế, Kinh tế Luật…

- Nhóm 3: Được tổ chức tại Chi Cục Thuế Quận 6 - Cục Thuế TP.Hồ Chí Minh

do Chuyên viên Lê Minh Đức – Phó Chi Cục trưởng làm trưởng nhóm với 8 thành

viên là các chuyên viên, cán bộ ngành Thuế và Tài chính.

(a) Đối tƣợng chịu thuế tài sản

- Phần thảo luận các chuyên gia cho rằng thuế tài sản là một trong ba mắt xích

quan trọng trong hệ thống thuế của mỗi quốc gia, một hệ thống thuế hoàn chỉnh phải

bao gồm thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản.

- Thuế tài sản có khả năng bổ trợ cho thuế thu nhập khi thuế thu nhập không thể

bao quát hết đối tượng đánh thuế, thuế tài sản có khả năng đem lại một nguồn thu hiệu

quả cao cho ngân sách nhà nước và đặc biệt là cho ngân sách địa phương. Chính vì

vậy, việc xác định phạm vi và đối tượng chịu thuế tài sản cho mô hình thuế tài sản là

điều quan trọng và có ý nghĩa tác động đến tính hiệu quả của thuế tài sản.

- Hiện tại ở Việt Nam tuy chưa có quy định Pháp luật về thuế tài sản nhưng đã

có các Luật thuế SDĐNN, thuế SDĐPNN và lệ phí trước bạ. Việc mở rộng đối tượng

đánh thuế tài sản là trường hợp khá phổ biến đối với các nền kinh tế đang phát triển và

nó hoàn toàn phù hợp với lý thuyết thuế tối ưu dựa trên một cơ sở thuế rộng.

- Kết quả từ bảng 4.2 và biểu đồ 4.1 cho thấy, nhóm chuyên gia thứ nhất nhận

định có 8 yếu tố thuộc đối tượng chịu thuế; nhóm thứ hai có 8 yếu tố và nhóm thứ 3

có 7 yếu tố. Tuy nhiên, kết quả nhận định của 3 nhóm thảo luận chỉ trùng khớp ở 6

yếu tố D01, D02, D03, D04, D05, D07.

Bảng 4.2: Kết quả nghiên cứu đối tƣợng chịu thuế tài sản

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 1

TT Đối tượng chịu thuế tài sản Mã hóa

1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp D01

2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp D02

64

3 Nhà D03

Công trình xây dựng gắn liền trên đất (khu nghỉ dưỡng, hồ bơi,

4 công viên, vườn cảnh, các công trình kiến trúc khác… không D04

sử dụng cho mục đích kinh doanh)

D05 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) 5

D06 Tài nguyên (quyền khai thác) 6

D07 Phương tiện giao thông 7

D08 Tài sản vô hình 8

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 2

Mã hóa Đối tượng chịu thuế tài sản TT

D01 1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp

D02 2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp

D03 3 Nhà

Công trình xây dựng gắn liền trên đất (khu nghỉ dưỡng, hồ bơi,

4 công viên, vườn cảnh, các công trình kiến trúc khác… không D04

sử dụng cho mục đích kinh doanh)

D05 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) 5

D06 Tài nguyên (quyền khai thác) 6

D07 Phương tiện giao thông 7

D09 8 Chứng khoán

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 3

TT Đối tượng chịu thuế tài sản Mã hóa

D01 1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp

D02 2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp

D03 3 Nhà

D04 Công trình xây dựng gắn liền trên đất (khu nghỉ dưỡng, hồ bơi,

4 công viên, vườn cảnh, các công trình kiến trúc khác… không

sử dụng cho mục đích kinh doanh)

D05 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) 5

D07 Phương tiện giao thông 6

D08 Tài sản vô hình 7

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả thảo luận nhóm chuyên gia

65

Biểu đồ 4.1: Kết quả nghiên cứu đối tƣợng chịu thuế tài sản

Nhóm chuyên gia nhận định phạm vi và các đối tượng chịu thuế tài sản gồm

có:

- Quyền sử dụng đất nông nghiệp: đất trồng trọt, đất có mặt nước nuôi trồng thủy

sản, đất rừng trồng.

- Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp: đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị, đất

sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp

- Nhà: nhà ở, nhà làm việc, nhà dùng vào sản xuất, kinh doanh và nhà dùng vào

các mục đích khác.

- Công trình xây dựng gắn liền trên đất: khu nghỉ dưỡng, hồ bơi, công viên, vườn

cảnh, các công trình kiến trúc khác… (ngoại trừ đối tượng sử dụng vào mục đích công

cộng, phúc lợi xã hội)

- Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ): quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình kiến

trúc, máy bay, tàu, thuyền, ô tô, mô tô, các tài sản vô hình khác đăng ký thương hiệu,

bản quyền…

- Tài nguyên: quyền khai thác tài nguyên

- Phương tiện giao thông: tàu bay, ô tô, mô tô, tàu, thuyền

- Tài sản vô hình: bản quyền, bằng phát minh, sáng chế, thương hiệu… khi có

thu nhập từ việc chuyển giao, cho thuê…

- Chứng khoán: thu nhập từ lãi trái phiếu, cổ phiếu; thu nhập từ việc chuyển

nhượng chứng khoán.

66

- Riêng đối với thu nhập từ tài sản thừa kế, tài sản cho, biếu, tặng: Kết quả

nghiên cứu thảo luận từ các nhóm chuyên gia cho rằng đây là một dạng thu nhập, vì

vậy đối tượng này nên bị chi phối bởi thuế thu nhập. Tuy nhiên, nếu là tài sản theo

quy định phải đăng ký thì vẫn chịu thuế đăng ký tài sản cũng như các sắc thuế liên

quan đến tài sản như thuế nhà, thuế đất, thuế phương tiện vận tải…

Biểu đồ 4.2: Kết quả nhận định đối tƣợng chịu thuế tài sản

Nguồn: tổng hợp từ kết quả khảo sát nhóm chuyên gia

Các ý kiến không đánh giá cao về khả năng chịu thuế của các đối tượng như tài

nguyên, tài sản vô hình (bản quyền, bằng phát minh, sáng chế, thương hiệu), chứng

khoán bởi lẽ:

- Tài nguyên (quyền khai thác tài nguyên): Theo Bộ luật Dân sự Việt Nam

(2005), đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở

vùng biển, thềm lục địa và vùng trời và các tài sản khác mà pháp luật quy định là của

Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân (Điều 205). Quyền khai thác tài nguyên được

giao cho đối tượng khai thác có thời hạn, không thuộc quyền sử dụng và sở hữu để

đánh thuế mà chỉ có thể chi phối bởi thuế tài nguyên và thuế thu nhập đối với đối

tượng được quyền khai thác. Vì vậy kết quả nghiên cứu cho thấy quan điểm đa phần

không ủng hộ đối với đối tượng này là phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam.

- Tài sản vô hình, tài sản trí tuệ như bản quyền, bằng phát minh sáng chế, thương

hiệu… Kết quả nghiên cứu thảo luận cho thấy, tài sản vô hình ở Việt nam (ngoại trừ

quyền sử dụng đất) luôn được khuyến khích phát triển, đa số các ý kiến không đồng

tình về việc đánh thuế tài sản đối với đối tượng này. Khác với ở Mỹ và một số nước

67

OECD, ở Việt Nam chỉ có thể áp dụng thuế thu nhập đối với việc chuyển nhượng một

số tài sản vô hình trên nếu vượt ngưỡng thu nhập phải chịu thuế.

- Chứng khoán: Kết quả nghiên cứu cho thấy quan điểm không ủng hộ đối với

đối tượng này có thể lý giải rằng ở Việt Nam rất khó áp dụng đánh thuế trên giá trị tài

sản ròng như một số quốc gia phát triển và cũng rất khó xác định tổng giá trị tài sản

cũng như kiểm soát thu nhập của mỗi cá nhân. Vì vậy, thu nhập từ chứng khoán có thể

được xem như là một đối tượng chịu thuế thu nhập.

Kết quả thảo luận đưa ra các yếu tố đại diện cho phạm vi đối tượng chịu thuế

tài sản có ảnh hưởng đến tính hiệu quả của mô hình thuế tài sản. Đối chiếu với cơ sở

lý thuyết, nếu đối tượng chịu thuế càng rộng thì cơ sở thuế sẽ rộng và điều này hoàn

toàn phù hợp với lý thuyết thuế tối ưu. Tuy nhiên, việc xác định cơ sở thuế còn tùy

thuộc vào điều kiện và đặc điểm kinh tế-xã hội của mỗi Quốc gia. Vì vậy, việc đánh

thuế tài sản cần phải tính đến việc giảm thiểu tối đa tổn thất xã hội do thuế gây ra. Tổn

thất xã hội đo lường tính không hiệu quả của việc đánh thuế, mức tổn thất quyết định

bởi sự thay đổi số lượng hàng hóa khi đánh thuế. Độ co giãn cung và cầu quyết định

sự phân phối gánh nặng thuế, thì chúng cũng quyết định tính không hiệu quả của việc

đánh thuế. Độ co giãn càng cao thì những thay đổi càng lớn về số lượng và tổn thất xã

hội càng lớn và ngược lại.

(b) Hình thức đánh thuế tài sản

Kết quả từ bảng 4.3 và biểu đồ 4.3 cho thấy, nhóm chuyên gia thứ nhất nhận

định có 8 yếu tố liên quan đến hình thức đánh thuế tài sản; nhóm thứ hai có 7 yếu tố

và nhóm thứ 3 có 6 yếu tố. Tuy nhiên, kết quả nhận định của 3 nhóm chỉ trùng khớp ở

6 yếu tố H10, H13, H14, H15, H16 và H17. Bảng 4.3:Kết quả nghiên cứu hình thức đánh thuế tài sản

Hình thức đánh thuế tài sản

Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản lý Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 1 TT 1 2 3 Dựa trên thu nhập của tài sản 4 Dựa trên giá trị của tài sản 5 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) 6 Quy định ngưỡng chịu thuế 7 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài sản 8 Đánh thuế hàng năm đối với tài sản Mã hóa H10 H11 H12 H13 H14 H15 H16 H17

68

Hình thức đánh thuế tài sản

Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản lý Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 2 TT 1 2 3 Dựa trên giá trị của tài sản 4 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) 5 Quy định ngưỡng chịu thuế 6 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài sản 7 Đánh thuế hàng năm đối với tài sản Mã hóa H10 H11 H13 H14 H15 H16 H17

Hình thức đánh thuế tài sản

Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản lý

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 3 TT 1 2 Dựa trên giá trị của tài sản 3 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) 4 Quy định ngưỡng chịu thuế 5 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài sản 6 Đánh thuế hàng năm đối với tài sản Mã hóa H10 H13 H14 H15 H16 H17

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả thảo luận nhóm chuyên gia

Biểu đồ 4.3: Kết quả nghiên cứu hình thức đánh thuế tài sản

Kết quả thảo luận nhóm chuyên gia đã đưa ra những nhận định về hình thức đánh thuế

tài sản như sau:

- Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản lý: tùy theo đặc điểm kinh tế-

xã hội từng giai đoạn, nhà nước quy định phạm vi tài sản cần phải đăng ký, hiện nay

gồm các tài sản như: nhà cửa, đất đai, một số tài sản vô hình, phương tiện giao thông

69

- Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn: tài sản này không nhất thiết nằm

trong danh mục tài sản mà nhà nước cần quản lý. Tùy theo đặc điểm kinh tế-xã hội

từng giai đoạn, mức độ tích lũy tài sản và mức thu nhập người dân, chính sách thuế có

sự điều chỉnh phạm vi chịu thuế cho phù hợp.

- Dựa trên thu nhập của tài sản: thu nhập từ việc đầu tư tài sản, cho thuê tài sản,

chuyển nhượng tài sản

- Dựa trên giá trị của tài sản

- Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản): giá tính thuế có thể được tính

hoàn toàn trên giá trị tài sản, tuy nhiên giá tính thuế cũng có thể được tính trên một tỷ

lệ chịu thuế do chính sách từng loại thuế quy định ở những thời điểm khác nhau.

- Quy định ngưỡng chịu thuế: việc xác định mức khởi điểm chịu thuế đối với

từng loại tài sản là điều cần thiết và phổ biến ở các Quốc gia, nó phải phù hợp với điều

kiện kinh tế-xã hội và có sự ảnh hưởng trực tiếp đến cơ sở tính thuế.

- Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài sản

- Đánh thuế hàng năm đối với tài sản

Biểu đồ 4.4: Kết quả nhận định hình thức đánh thuế tài sản

Nguồn: tổng hợp từ kết quả khảo sát nhóm chuyên gia

Biểu đồ 4.4 cho thấy đa phần các ý kiến cho rằng, hình thức đánh thuế tài sản

nên:

- Tập trung vào những tài sản nhà nước cần quản lý vì đây chính là những tài sản

cần phải đăng ký nên nhà nước dễ dàng trong việc kiểm soát và quản lý hành chánh,

nhà nước quy định danh mục tài sản thuộc diện phải đăng ký.

70

- Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài sản áp dụng cho thuế đăng ký

tài sản

- Đánh thuế hàng năm áp dụng cho thuế SDĐNN, thuế SDĐPNN, thuế nhà, thuế

công trình xây dựng gắn liền trên đất, thuế phương tiện giao thông

- Chính sách thuế xây dựng và ban hành tỷ lệ chịu thuế tài sản, mức khởi điểm

của từng loại tài sản cho việc xây dựng cơ sơ thuế mang lại hiệu quả thu ngân sách

nhưng tránh làm biến dạng thị trường và giảm thiểu tổn thất xã hội ở mức thấp nhất.

Riêng hình thức đánh thuế “dựa trên thu nhập của tài sản” không nhận được sự

đánh giá cao từ các nhận định về khả năng áp dụng. Điều này có thể lý giải rằng ở

Việt nam, việc kiểm soát thu nhập từ tài sản là điều không đơn giản để đánh thuế, rất

khó khả thi và bền vững. Vì thế hiện nay chỉ áp dụng thuế thu nhập trên khoản thu

nhập từ việc cho thuê tài sản và thu nhập từ việc chuyển nhượng tài sản.

Kết quả thảo luận nhóm đưa ra các yếu tố đại diện cho hình thức đánh thuế có

tác động trực tiếp đến tính hiệu quả của mô hình thuế tài sản. Việc lựa chọn hình thức

đánh thuế, đánh trên thu nhập hay trên vốn, mức khởi điểm của tài sản chịu thuế đều

có ảnh hưởng đến khả năng thu thuế và chủ sở hữu tài sản. Tùy theo đặc điểm kinh tế-

xã hội từng giai đoạn, mức độ tích lũy tài sản và mức thu nhập người dân mà chính

sách thuế lựa chọn hình thức đánh thuế cho phù hợp.

(c) Căn cứ tính thuế tài sản

Kết quả từ bảng 4.4 và biểu đồ 4.5 cho thấy, nhóm chuyên gia thứ nhất và

nhóm thứ hai đều nhận định có 5 yếu tố và nhóm thứ ba có 4 yếu tố. Tuy nhiên, kết

quả nhận định của 3 nhóm chỉ trùng khớp ở 4 yếu tố C18, C20, C21 và C22.

Bảng 4.4: Kết quả nghiên cứu căn cứ tính thuế tài sản

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 1

Căn cứ tính thuế tài sản Mã hóa TT

1 Giá thị trường của tài sản C18

2 Giá trị ròng của tài sản chịu thuế C19

3 Giá trị tài sản ấn định C20

Thuế suất lũy tiến 4 C21

Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 5 C22

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 2

Căn cứ tính thuế tài sản TT Mã hóa

1 Giá thị trường của tài sản C18

71

2 Giá trị tài sản ấn định C20

Thuế suất lũy tiến 3 C21

Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 4 C22

Thuế suất lũy thoái 5 C23

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 3

TT Căn cứ tính thuế tài sản Mã hóa

1 Giá thị trường của tài sản C18

2 Giá trị tài sản ấn định C20

Thuế suất lũy tiến 3 C21

Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 4 C22

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả thảo luận nhóm chuyên gia

Biểu đồ 4.5: Kết quả nghiên cứu căn cứ tính thuế tài sản

Các nhóm chuyên gia đã đưa ra những nhận định về căn cứ tính thuế tài sản

dựa trên:

- Giá thị trường của tài sản

- Giá trị ròng của tài sản chịu thuế: giá trị của tài sản trừ đi các khoản nợ, chí phí

và lãi vay…

- Giá trị tài sản ấn định: trong một số trường hợp không xác định được giá thị

trường của tài sản thì áp dụng giá tính thuế theo khung quy định của nhà nước.

- Thuế suất lũy tiến: là loại thuế áp dụng tỷ lệ tăng dần theo các mức tăng của cơ

sở tính thuế, cơ sở tính thuế càng tăng thì mức thuế suất càng cao. Trong thuế lũy tiến

có hai hình thức, (1) thuế lũy tiến từng phần và (2) thuế lũy tiến toàn phần.

 Đối với thuế lũy tiến từng phần, áp dụng mức thuế suất tăng dần theo

từng phần tăng lên của cơ sở đánh thuế. Với các sắc thuế áp dụng loại thuế suất này

72

trong biểu thuế suất, cơ sở đánh thuế được chia thành nhiều bậc theo mức độ tăng dần.

Ứng với mỗi phần tăng lên trong từng bậc thuế đó là một mức thuế suất. Số thuế mà

đối tượng nộp thuế phải nộp bằng tổng số thuế tính theo từng bậc. Việc tính toán và

kiểm tra loại thuế này nhìn chung khá phức tạp, nhưng nó đảm bảo số thuế phải nộp

tăng từ từ, không bị đột biến cùng tốc độ tăng của cơ sở đánh thuế. Do đó, đảm bảo

được tính công bằng theo chiều dọc và có tác dụng lớn trong việc điều tiết thu nhập.

 Đối với thuế lũy tiến toàn phần, biểu thuế suất cũng chia làm nhiều bậc

với mỗi mức tăng lên của thuế suất, nhưng toàn bộ cơ sở đánh thuế được áp dụng một

mức thuế suất chung tương ứng. Thuế suất luỹ tiến toàn phần cho phép xác định số

thuế phải nộp khá đơn giản và nhanh chóng. Tuy vậy, nó cũng có nhược điểm là gây

ra sự thay đổi có tính chất đột biến về tổng số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế ở

những mức thu nhập cận biên giữa hai bậc thuế. Mặc dù gía trị của cơ sở đánh thuế

thay đổi không đáng kể, nhưng sự thay đổi về số thuế phải nộp rất đáng kể do phải áp

dụng các mức thuế khác nhau trên toàn bộ cơ sở đánh thuế. Chính vì vậy, áp dụng

thuế suất luỹ tiến toàn phần dễ dẫn đến sự phản ứng từ phía các người nộp thuế và như

vậy tất yếu làm giảm vai trò của thuế. Hiện nay, thuế suất luỹ tiến toàn phần rất ít

được áp dụng trên thế giới.

- Thuế suất tỷ lệ (trung bình): là loại thuế áp dụng một thuế suất cố định trên cơ

sở tính thuế mà không phụ thuộc vào quy mô cũng như sự tăng, giảm của cơ sở tính

thuế.

- Thuế suất lũy thoái: là loại thuế mà mức thuế suất giảm dần trong khi cơ sở

đánh thuế lại tăng dần, cơ sở tính thuế càng tăng thì mức thuế suất càng giảm. Tương

tự với thuế lũy tiến, thuế lũy thoái cũng có hai hình thức là lũy thoái toàn phần và lũy

thoái từng phần.

Biểu đồ 4.6: Kết quả nhận định căn cứ tính thuế tài sản

Nguồn: tổng hợp từ kết quả khảo sát nhóm chuyên gia

73

Biểu đồ 4.6 cho thấy đa phần các ý kiến cho rằng:

- Về giá tính thuế: Chính quyền địa phương cần phải xây dựng giá tính thuế sát

với giá thị trường cho các loại tài sản chịu thuế, trong một số trường hợp không thể

xác định theo giá thị trường thì áp dụng theo khung giá quy định riêng.

- Thuế suất tỷ lệ cố định nên áp dụng cho thuế đăng ký tài sản, thuế phương tiện

giao thông

- Thuế suất lũy tiến từng phần nên áp dụng cho thuế SDĐNN, thuế SDĐPNN,

thuế nhà, thuế công trình xây dựng gắn liền trên đất

Tuy nhiên, các ý kiến không đánh giá cao về căn cứ tính thuế dựa trên “giá trị

ròng của tài sản” và “thuế suất lũy thoái” bởi lẽ:

- Căn cứ tính thuế dựa trên “giá trị ròng của tài sản chịu thuế” cần phải xác định

giá trị thực của tài sản trừ đi các khoản chi phí đầu từ, tiền lãi, tiền vay, khấu

hao…Điều này rất khó khả thi đối với Việt nam trong bối cảnh hiện nay khi công

nghệ và khả năng quản lý thuế còn nhiều hạn chế cũng như ý thức kê khai và theo dõi

tài sản của người dân còn nhiều hạn chế.

- Tương tự, việc áp dụng “thuế suất lũy thoái” cũng không nhận được nhiều sự

ủng hộ. Thuế suất lũy thoái là loại thuế suất giảm dần trong khi cơ sở đánh thuế lại

tăng dần. Thông thường các nước áp dụng thuế suất lũy thoái để khuyến khích các đối

tượng kê khai thu nhập nhiều, trong khi các ý kiến cho rằng thuế tài sản nên đánh vào

giá trị tài sản hơn là dựa vào thu nhập tài sản. Ngoài ra thuế suất luỹ thoái cũng là loại

thuế suất không được áp dụng phổ biến ở các nước.

Kết quả thảo luận nhóm đưa ra các yếu tố đại diện cho căn cứ tính thuế tài sản,

giá tính thuế và thuế suất có ảnh hưởng trực tiếp đến tính hiệu quả của mô hình thuế

tài sản. Mức thuế thể hiện mức độ động viên của Nhà nước trên một đơn vị so với cơ

sở tính thuế và được biểu hiện dưới hình thức thuế suất hay định suất thuế. Có thể nói,

thuế suất hay định suất thuế là linh hồn của một sắc thuế, vì nó thể hiện nhu cầu cần

tập trung nguồn tài chính cho NSNN và biểu hiện chính sách điều chỉnh kinh tế xã hội

của Nhà nước, đồng thời cũng là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế. Vì vậy,

việc xác định thuế suất hay định suất thuế trong một sắc thuế phải quán triệt quan

điểm vừa coi trọng lợi ích quốc gia, vừa chú ý đến lợi ích thích đáng của người nộp

thuế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung và tích tụ trong việc sử dụng công cụ

thuế. Thuế suất cần được thiết kế phù hợp với khả năng thu thuế của mọi đối tượng để

74

người chịu thuế bớt cảm thấy gánh nặng từ thuế, thuế suất mang lại nguồn thu lớn cho

NSNN nhưng không cản trở, thậm chí có thể kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội

nói chung và sự tăng trưởng của doanh nghiệp nói riêng.

(d) Tính hiệu quả của thuế tài sản

Kết quả từ bảng 4.5 và biểu đồ 4.7 cho thấy, nhóm chuyên gia thứ nhất nhận

định có 5 yếu tố; nhóm thứ hai có 4 yếu tố và nhóm thứ ba có 5 yếu tố. Tuy nhiên, kết

quả nhận định của 3 nhóm chỉ trùng khớp ở 4 yếu tố T24, T25, T27 và T28.

Bảng 4.5: Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả thuế tài sản

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 1

TT Tính hiệu quả của thuế tài sản Mã hóa

1 Hiệu quả kinh tế T24

2 Tính bền vững và khả thi T25

3 Độ đàn hồi ổn định T26

Thể hiện tính công bằng T27 4

Giảm chi phí thực thi khi thực hiện (đơn giản, minh bạch, linh T28 5 hoạt)

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 2

Tính hiệu quả của thuế tài sản Mã hóa TT

1 Hiệu quả kinh tế T24

Tính bền vững và khả thi T25 2

Thể hiện tính công bằng T27 3

4 Giảm chi phí thực thi khi thực hiện T28

Kết quả nghiên cứu từ nhóm 3

Tính hiệu quả của thuế tài sản Mã hóa TT

1 Hiệu quả kinh tế T24

2 Tính bền vững và khả thi T25

3 Độ đàn hồi ổn định T26

Thể hiện tính công bằng T27 4

Giảm chi phí thực thi khi thực hiện (đơn giản, minh bạch, linh T28 5 hoạt)

Nguồn: tổng hợp từ kết quả thảo luận nhóm chuyên gia

75

Biểu đồ 4.7: Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả thuế tài sản

 Hiệu quả kinh tế

Thứ nhất, xét trên phương diện kinh tế, hành vi đánh thuế của Nhà nước bao

giờ cũng ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn lực của xã hội và chịu sự chi phối của hai

tác nhân có xu hướng vận động không đồng nhất là Nhà nước và các lực lượng thị

trường. Sự phân bổ nguồn lực dưới tác động của các lực lượng thị trường thường dựa

trên yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường, còn sự phân bổ nguồn lực dưới tác

động của Nhà nước thường dựa trên yêu cầu của xã hội và yêu cầu của quản lý, điều

chỉnh theo chức năng của Nhà nước. Nói chung sự phân bổ các nguồn lực dưới tác

động của các lực lượng thị trường thường đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên do động cơ chủ

yếu là lợi nhuận, nên xét ở tầm vĩ mô việc phân bổ nguồn lực dưới tác động của các

lực lượng thị trường, trong nhiều trường hợp không đem lại hiệu quả chung cho nền

kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, tất yếu cần phải có sự kết hợp với hệ thống phân bổ

nguồn lực của Nhà nước, trong đó có công cụ thuế để điều chỉnh các xu hướng vận

động khác nhau nhằm đạt hiệu quả chung của nền kinh tế quốc dân. Như vậy tính hiệu

quả của hệ thống thuế được xét dưới hai góc độ: giảm tối thiểu những tác động tiêu

cực của thuế trong phân bổ các nguồn lực vốn đã đạt hiệu quả dưới tác động của các

lực lượng thị trường; tăng cường vai trò của thuế đối với việc phân bổ các nguồn lực

chưa đạt được hiệu quả dưới tác động của các lực lượng thị trường.

Thứ hai, thể hiện tính hiệu quả của thuế tài sản là tổng số thuế thu được là lớn

nhất với chi phí hành chính thuế là thấp nhất. Chi phí hành chính thuế bao gồm các

khoản chi phí trực tiếp quản lý của cơ quan thuế và những chi phí gián tiếp do người

nộp thuế gánh chịu, các khoản chi phí này phụ thuộc vào tính phức tạp hay đơn giản

76

của hệ thống thuế. Nói chung các loại thuế có cơ sở tính thuế phức tạp, yêu cầu quản

lý cao thường có chi phí hành chính lớn. Nhằm giảm bớt chi phí hành chính đòi hỏi hệ

thống thuế phải đơn giản, chứa đựng ít mục tiêu. Mặt khác hệ thống thuế đơn giản, dễ

hiểu thì việc quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với người nộp thuế mới dễ

dàng thuận lợi.

 Tính bền vững và khả thi

Tính bền vững của hệ thống là điều cần thiết vì chi tiêu thường xuyên của

chính quyền địa phương thường lấy từ nguồn thu thuế tài sản, chính quyền địa phương

yêu cầu một nguồn thu thuế ổn định nhằm phát triển và duy trì mức độ cung cấp dịch

vụ và cơ sở hạ tầng tại địa phương như mong muốn. Để bảo đảm tính bền vững thì hệ

thống thuế tài sản phải cân bằng giữa tính năng động và uyển chuyển với tính ổn định

và nhất quán để cho nó vừa có khả năng thay đổi thích nghi với tình hình, đồng thời

có thể dự báo trước trong quá trình áp dụng.

Nguyên tắc khả thi đòi hỏi sắc thuế phải tính đến khả năng đóng thuế của người

dân từ đó đưa ra cách thức điều chỉnh thích hợp. Nhà nước không thể bắt người dân

đóng thuế khi họ không có khả năng đóng góp. Khả năng đóng góp của người dân thể

hiện ở chỗ người dân chỉ phải đóng thuế khi mà thu nhập chịu thuế của họ là khoản

thu nhập còn dư ra sau khi chi cho những nhu cầu cần thiết. Thông thường các quốc

gia tính toán và đưa ra những định mức chi tiêu cần thiết áp dụng chung cho mọi

người dân. Nếu thu nhập của họ không vượt quá định mức này, họ không phải đóng

thuế.

 Thể hiện tính công bằng

Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong việc phân chia gánh nặng của

thuế khoá đối với các tầng lớp dân cư trong xã hội. Có công bằng trong nghĩa vụ nộp

thuế mới động viên các thành phần kinh tế trong xã hội hăng hái lao động, do đó mới

đảm bảo được các mục tiêu kinh tế và chính trị của đất nước. Tính công bằng của thuế

phải dựa trên nguyên tắc công bằng theo chiều ngang và nguyên tắc công bằng theo

chiều dọc. Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang, nếu các cá nhân có

điều kiện về mọi mặt đều như nhau thì được đối xử như nhau trong việc thực hiện

nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, nguyên tắc này khó áp dụng trong thực tiễn không thể chỉ rõ

được tiêu thức nào để xác định hai cá nhân có điều kiện về mọi mặt như nhau, mặt

khác cũng khó xác định việc đối xử như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế là

như thế nào. Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều dọc, nếu người có khả

77

năng nộp thuế nhiều hơn thì phải nộp thuế cao hơn những người khác có khả năng nộp

thuế ít hơn. Trong thực tế, để áp dụng nguyên tắc này cần xác định rõ hai vấn đề: tiêu

thức xác định khả năng và mức độ nộp thuế cao hơn. Hiện nay, người ta thường dùng

tiêu thức thu nhập hoặc tiêu dùng để đánh giá khả năng nộp thuế của người nộp thuế.

Có thể nói, vấn đề công bằng trong thuế khoá là một đòi hỏi khách quan, nhưng việc

đánh giá một hệ thống thuế được coi là công bằng không phải là công việc dễ dàng.

Do đó, công bằng trong thuế khoá vẫn thuộc về nhận thức và quan điểm của mỗi quốc

gia.

 Giảm chi phí thực thi khi thực hiện (đơn giản, minh bạch, linh hoạt)

Tính đơn giản trong quản lý thuế tài sản làm gia tăng tính hiệu quả về mặt chi

phí và sự công bằng khi thực thi chính sách thuế. Một hệ thống thuế rõ ràng và minh

bạch trước hết phải chỉ rõ ai chịu thuế, mức thuế phải nộp và thời hạn nộp thuế, qua

đó người nộp thuế có thể tính toán chính xác được hiệu quả kinh doanh, nghĩa vụ nộp

thuế cũng như dễ dàng thực hiện các thủ tục về thuế. Đây là yếu tố quan trọng để giảm

bớt các chi phí hành chính thuế cũng như tăng cường thu hút vốn đầu tư trong nước và

đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế. Hệ thống thuế phải linh hoạt, tức là có khả

năng thích ứng dễ dàng với những hoàn cảnh kinh tế thay đổi. Hệ thống thuế phải đảm

bảo có khả năng dễ thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế thì mới phát huy

được vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế. Bởi vì Nhà nước ban hành ra chính

sách thuế, nhưng người thực hiện chính sách thuế ấy là các tầng lớp dân cư trong xã

hội, cho nên khi hoạch định chính sách thuế phải đảm bảo can thiệp ở mức độ, thời

điểm và đối tượng thích hợp mới có thể tạo ra sự ổn định và đáp ứng mục tiêu tăng

trưởng của nền kinh tế.

4.1.6 Nghiên cứu định lƣợng

Qua kết quả thảo luận nhóm được tổng hợp trong bước nghiên cứu sơ bộ,

nghiên cứu đã chỉ ra các nhân tố tác động đến mô hình thuế tài sản ở Việt Nam và các

biến quan sát cần thu thập cho bước nghiên cứu chính thức tiếp theo. Nghiên cứu

chính thức được thực hiện bằng phương pháp định lượng. Sau khi hoàn chỉnh bảng

câu hỏi, thỏa mãn với tiêu chí: ngôn từ dễ hiểu, không gây hiểu nhầm về ý nghĩa, các

phát biểu không bị trùng lắp, cấu t ng câu hỏi hợp lý thì tiến hành thực

hiện thu thập dữ liệu. Toàn bộ dữ liệu hồi đáp sẽ được xử lý với sự hỗ trợ của phần

mềm SPSS 18.0

78

Xây dựng thang đo

Thang đo các nhân tố trong mô hình thuế tài sản được kế thừa và hiệu chỉnh để

phù hợp từ các nghiên cứu trước đây. Bước nghiên cứu đầu tiên là nghiên cứu định

tính, dùng kỹ thuật thảo luận nhóm và diễn dịch về tất cả các khái niệm liên quan.

Nghiên cứu định tính nhằm khám phá, điều chỉnh và bổ sung các biến quan sát dùng

để đo lường các khái niệm trong mô hình. Từ đó, các thang đo sơ bộ khái niệm được

điều chỉnh phù hợp. Thông tin có được từ thảo luận sẽ được tổng hợp và là cơ sở cho

việc hiệu chỉnh, bổ sung các biến thang đo.

Các biến quan sát sử dụng cho các khái niệm liên quan được đo bằng thang đo

Likert 5 điểm.

(1) Hoàn toàn không đồng ý

(2) Không đồng ý

(3) Không ý kiến

(4) Đồng ý

(5) Hoàn toàn đồng ý

Bảng câu hỏi trong nghiên cứu định lƣợng

Nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua phiếu điều

tra khảo sát, sử dụng dạng câu hỏi đóng theo thang likert 5 điểm để tìm ra các biến

quan sát cần thiết và tối ưu cho mô hình nghiên cứu (Phụ lục 3.1)

Thiết kế mẫu

Mẫu được chọn trong nghiên cứu theo phương pháp phi xác suất hay còn gọi là

chọn mẫu phi ngẫu nhiên, là phương pháp chọn mẫu mà các đơn vị trong tổng thể

chung không có khả năng ngang nhau để được chọn vào mẫu nghiên cứu. Phiếu điều

tra sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện là một trong các phương pháp của chọn

mẫu phi xác suất, có nghĩa là lấy mẫu dựa trên sự thuận lợi hay dựa trên tính dễ tiếp

cận của đối tượng, ở những nơi mà nhân viên điều tra có nhiều khả năng gặp được đối

tượng. Lấy mẫu thuận tiện thường được dùng trong nghiên cứu khám phá để xác định

ý nghĩa thực tiễn của vấn đề nghiên cứu; hoặc để kiểm tra trước bảng câu hỏi nhằm

hoàn chỉnh bảng; hoặc khi muốn ước lượng sơ bộ về vấn đề đang quan tâm mà không

muốn mất nhiều thời gian và chi phí. Kích thước của mẫu áp dụng trong nghiên cứu

được dựa theo yêu cầu của phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor

Analysis) và hồi quy đa biến. Phân tích nhân tố khám phá EFA là một trong những

phương pháp phân tích thống kê dùng để rút gọn một tập hợp nhiều biến quan sát phụ

79

thuộc lẫn nhau thành một tập biến (gọi là các nhân tố) ít hơn để chúng có ý nghĩa hơn

nhưng vẫn chứa đựng hầu hết thông tin của tập biến ban đầu (Hair và cộng sự, 1998).

- Đối với phân tích nhân tố khám phá EFA: Dựa theo nghiên cứu của Hair,

Anderson, Tatham và Black (1998) cho tham khảo về kích thước mẫu dự kiến. Theo

đó kích thước mẫu tối thiểu là gấp 5 lần tổng biến quan sát. Trong mô hình nghiên cứu

dự kiến có tổng số biến quan sát là 28, cỡ mẫu cần đạt là 28*5=140 mẫu.

- Đối với phân tích hồi quy đa biến: cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được tính theo công

thức là 50 +8*m (m: số biến độc lập) (Tabachnick và Fidell, 1996). Trong nghiên cứu

này, dự kiến số biến độc lập là 3 thì cỡ mẫu tối thiểu là 50 + 8*3 = 74 mẫu.

- Nghiên cứu về cỡ mẫu do Roger thực hiện (2006) cho thấy cỡ mẫu tối thiểu áp

dụng được trong các nghiên cứu thực hành là từ 150 -200

Thu thập dữ liệu

Nghiên cứu được tiến hành thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua phiếu điều tra

khảo sát đối với cán bộ ngành thuế, ngành tài chính, giảng viên chuyên ngành tài

chính Nhà Nước tại TP.Hồ Chí Minh, TP.Biên Hòa và TP. Bà Rịa-Vũng Tàu.

Cỡ mẫu được sử dụng trong nghiên cứu là 200 mẫu. Do giới hạn về thời gian

, phương pháp thu thập dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu là phương

pháp lấy mẫu thuận tiện, một trong các phương pháp chọn mẫu phi xác suất dựa trên

bảng câu hỏi in sẵn.

Đánh giá độ tin cậy thang đo

Độ tin cậy của thang đo được đánh giá bằng phương pháp nhất quán nội tại qua

hệ số Cronbach’s Alpha. Sử dụng phương pháp hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha trước

khi phân tích nhân tố EFA để loại các biến không phù hợp vì các biến rác này có thể

tạo ra các yếu tố giả (Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2009).

Hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha chỉ ra các đo lường có liên kết với nhau hay

không, nhưng không cho biết biến quan sát nào cần bỏ đi và biến quan sát nào cần giữ

lại. Khi đó, việc tính toán hệ số tương quan giữa biến-tổng sẽ giúp loại ra những biến

quan sát nào không đóng góp nhiều cho sự mô tả của khái niệm cần đo (Hoàng Trọng

và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2005).

Các tiêu chí được sử dụng khi thực hiện đánh giá độ tin cậy thang đo:

- Loại các biến quan sát có hệ số tương quan biến-tổng nhỏ (nhỏ hơn 0.4), tiêu

chuẩn chọn thang đo khi có độ tin cậy Alpha lớn hơn 0.6 (Alpha càng lớn thì độ tin

80

cậy nhất quán nội tại càng cao) (Nunally & Burnstein 1994, dẫn theo Nguyễn Đình

Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2009).

- Các mức giá trị của Alpha: lớn hơn 0.8 là thang đo lường tốt, từ 0.7 đến 0.8 là

sử dụng được, từ 0.6 trở lên là có thể sử dụng trong trường hợp khái niệm nghiên cứu

là mới hoặc là mới trong bối cảnh nghiên cứu (Nunally, 1978; Peterson, 1994; Slater,

1995; dẫn theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2005).

- Loại các biến quan sát có hệ số tương quan biến-tổng nhỏ hơn 0.4 (đây là

những biến không đóng góp nhiều cho sự mô tả của khái niệm cần đo và nhiều nghiên

cứu trước đây đã sử dụng tiêu chí này).

- Chọn thang đo có độ tin cậy Alpha lớn hơn 0.6 (các khái niệm trong nghiên

cứu này là tương đối mới đối với đối tượng nghiên cứu khi tham gia trả lời).

Phân tích nhân tố khám phá EFA

Các thang đo đạt yêu cầu về độ tin cậy sẽ được sử dụng phân tích nhân tố để

rút gọn một tập gồm nhiều biến quan sát thành một tập biến (gọi là nhân tố) ít hơn; các

nhân tố được rút gọn này sẽ có ý nghĩa quan trọng hơn nhưng vẫn chứa đựng hầu hết

nội dung thông tin của tập biến quan sát ban đầu (Hair, Anderson, Tatham & Black,

1998). Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA được dùng để kiểm định giá trị

khái niệm thang đo (Lê Ngọc Đức, 2008).

Phân tích hồi quy đa biến

Sau quá trình thực hiện kiểm định thang đo, đánh giá độ tin cậy thang đo (sử

dụng hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha) và kiểm định giá trị khái niệm của thang đo

(phân tích nhân tố khám phá EFA), tiến hành tính toán nhân số của nhân tố (giá trị của

các nhân tố trích được trong nhân tố phân tích nhân tố EFA) bằng cách tính trung bình

cộng của các biến quan sát thuốc nhân tố tương ứng. Các nhân tố được trích ra trong

phân tích nhân tố được sử dụng cho phân tích nhân tố hồi quy đa biến để kiểm định

mô hình nghiên cứu và các giả thuyết kèm theo. Các kiểm định giả thuyết thống kê

đều áp dụng mức ý nghĩa là 5%.

Phân tích tƣơng quan:

- Kiểm định mối tương quan tuyến tính giũa các biến trong mô hình: giữa biến

phụ thuộc với từng biến độc lập và giữa các biến độc lập với nhau. Đồ thị phân tán

cũng cung cấp thông tin trực quan về mối tương quan tuyến tính giữa hai biến. Sử

dụng hệ số tương quan Pearson để lượng hóa mức độ chặt chẽ mối liên hệ tuyến tính

giữa hai biến định lượng: giá trị tuyệt đối của hệ số Peason càng gần đến 1 thì hai biến

81

này có mối tương quan tuyến tính càng chặt chẽ (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng

Ngọc, 2005).

- Trong mô hình nghiên cứu, kỳ vọng có mối tương quan tuyến tính chặt chẽ

giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập; đồng thời cũng xem xét mối tương quan giữa

các biến độc lập với nhau để nhận dạng hiện tượng đa cộng tuyến.

Phân tích hồi quy đa biến:

- Sau khi kết luận là hai biến có mối liên hệ tuyến tính thì có thể mô hình hóa

mối quan hệ nhân quả của hai biến này bằng hồi quy tuyến tính (Hoàng Trọng và Chu

Nguyễn Mộng Ngọc, 2005).

- Nghiên cứu thực hiện hồi quy đa biến theo phương pháp “Enter”: tất cả các

biến được đưa và một lần và xem xét các kết quả thống kê liên quan.

- Phương trình hồi quy đa biến cho mô hình nghiên cứu đề xuất ban đầu :

Bảng 4.6: Mô tả các biến trong phƣơng trình hồi quy đa biến

Biến Ý nghĩa Loại biến

F_Hieuqua Tính hiệu quả của thuế tài sản Phụ thuộc

F_Doituong Đối tượng chịu thuế tài sản Độc lập

F_Hinhthuc Hình thức đánh thuế tài sản Độc lập

F_Cancu Căn cứ tính thuế tài sản Độc lập

4.2 Phân tích và đánh giá mô hình thuế tài sản

4.2.1 Giới thiệu

Mục đích của phần này là phân tích mô hình nghiên cứu thuế tài sản, trình bày

các kết quả kiểm định thang đo và các giả thuyết đưa ra trong mô hình.

Nội dung của phần này gồm có các phần chính. Trước tiên là phần mô tả mẫu

khảo sát, kế đến là kết quả kiểm định thang đo thông qua hệ số tin cậy Cronbach’s

Alpha và phân tích nhân tố EFA, phân tích hồi quy và cuối cùng là kết quả kiểm định

các giả thuyết trong mô hình nghiên cứu.

4.2.2 Mô tả mẫu và xử lý dữ liệu

- Nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua phiếu điều

tra khảo sát, sử dụng dạng câu hỏi đóng theo thang likert.

- Nghiên cứu này sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện (thuộc một trong

những phương pháp chọn mẫu phi xác suất).

82

- Khung mẫu dựa vào danh sách cán bộ ngành thuế, ngành tài chính, giảng viên

chuyên ngành tài chính Nhà Nước.

- Khu vực chọn mẫu là TP.Hồ Chí Minh, TP.Biên Hòa và TP. Bà Rịa-Vũng Tàu.

- Kích cỡ mẫu trong phân tích nhân tố EFA, cần 5 quan sát cho 1 biến đo lường

và cỡ mẫu không nên ít hơn 100. Nghiên cứu có 28 biến về đánh giá mô hình thuế tài

sản. Như vậy số mẫu cần thiết là 28 x 5 = 140. Tuy nhiên tác giả mong muốn thu thập

trên 170 mẫu, do đó số bảng khảo sát phát ra là 200 bảng được gửi trực tiếp đến đối

tượng cần thăm dò ý kiến điều tra

- Số bảng câu hỏi được phát ra là 200, sau khi thu về và loại bỏ những bảng

không hợp lệ, kết quả còn lại 180 mẫu hợp lệ được dùng cho tiến trình phân tích.

- Hai mươi tám (28) biến quan sát đo lường 4 khái niệm trong nghiên cứu được

tiến hành mã hóa để nhập liệu và phân tích, sử dụng phần mềm thống kê SPSS phiên

bản 18.0 để xử lý (Phụ lục 3.2).

Toàn bộ dữ liệu hồi đáp sẽ được xử lý với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 18.0.

Khởi đầu, dữ liệu được mã hóa và làm sạch, sau đó qua các bước phân tích sau:

Bước 1: Đánh giá độ tin cậy và giá trị thang đo. Các thang đo được đánh giá độ tin

cậy qua hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha. Hệ số này cho biết mức độ tương quan giữa

các biến trong bảng câu hỏi, được dùng để tính sự thay đổi của từng biến và mối

tương quan giữa các biến. Qua đó, các biến quan sát có tương quan biến-tổng nhỏ,

Corrected Item Total Corelation (<0,4) bị loại và thang đo được chấp nhận khi hệ số

tin cậy Cronbach’s Alpha đạt yêu cầu (>0,6).

Bước 2: Phân tích nhân tố (phân tích EFA). Phân tích này được dùng để kiểm định

giá trị khái niệm của thang đo nhằm rút gọn dữ liệu và biến bằng cách nhóm chúng lại

với các nhân tố đại diện. Thông qua phương pháp này, có thể xác định cấu trúc cơ bản

của bộ dữ liệu, giảm thứ nguyên và rút gọn tập dữ liệu. Các biến chỉ được chấp nhận

khi nó có trọng số lớn hơn 0,5 và các trọng số tải của chính nó ở factor khác nhỏ hơn

0,35 (Igbaria et al, 1995) hoặc khoảng cách giữa 2 trọng số tải của cùng 1 biến ở hai

factor khác nhau lớn hơn 0,3 (theo kinh nghiệm từ chuyên gia). Thang đo chỉ được

chấp nhận khi cumulative của phần “extraction sum of square loading” > 50%.

Bước 3: Sử dụng phương pháp hồi quy đa biến nhằm kiểm định mô hình và các giả

thuyết đã đưa ra với mức ý nghĩa dự kiến α = 5%.

4.2.3 Phân tích độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach’s Alpha

83

Để kết quả đánh giá có ý nghĩa thì thang đo phải đạt được một mức tin cậy nhất

định. Độ tin cậy là mức độ mà phép đo tránh được các sai số ngẫu nhiên. Độ tin cậy

liên quan đến tính chính xác, tính nhất quán của kết quả. Ở đây những mục hỏi đo

lường cùng một khái niệm tiềm ẩn thì phải có liên quan đến những cái còn lại trong

nhóm đó. Điều này liên quan đến 2 phép tính toán tương quan giữa bản thân các mục

hỏi và tương quan của các điểm số của từng mục hỏi với điểm số toàn bộ các mục hỏi

cho mỗi người trả lời. Nghiên cứu có thể đánh giá độ tin cậy của thang đo dựa vào hệ

số Cronbach’s Alpha. Hệ số Cronbach’s Alpha là một phép kiểm định thống kê về

mức độ chặt chẽ mà các mục hỏi trong thang đo tương quan với nhau. Theo đó, thang

đo được chấp nhận khi hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0.6 và hệ số tương quan biến-

tổng (Corrected Item – Total Correlation) lớn hơn 0.4. Qua kiểm định, hệ số Cronbach

lần lượt cho các nhóm biến như sau:

Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Đối tượng chịu thuế tài sản”

Bảng 4.7: Độ tin cậy thang đo của 9 biến “Đối tƣợng chịu thuế tài sản” Cronbach's Alpha: 0.803

Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến

Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 25.948 25.730 25.827 26.370 25.353 28.750 24.925 27.039 29.132 Tương quan biến- tổng .579 .527 .582 .618 .586 .284 .629 .461 .231 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .773 .780 .772 .770 .771 .810 .765 .788 .817 29.61 29.58 29.48 29.38 29.72 29.44 29.64 29.33 29.46 D01 D02 D03 D04 D05 D06 D07 D08 D09

Kết quả cho thấy hệ số tương quan biến-tổng của biến thành phần “D09” có hệ

số nhỏ nhất, tương quan biến-tổng là 0.231 nhỏ hơn 0.4 nên sẽ loại biến này do không

thỏa điều kiện. Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là “chứng khoán”, điều

này có thể lý giải rằng ở Việt Nam rất khó áp dụng đánh thuế trên giá trị tài sản ròng

như một số quốc gia phát triển và rất khó xác định tổng giá trị tài sản của mỗi cá nhân.

Vì vậy, thu nhập từ chứng khoán có thể được xem như là một đối tượng chịu thuế thu

nhập.

84

Bảng 4.8: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến“D09” Cronbach's Alpha: 0.817

Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến

Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 22.176 21.994 21.973 22.648 21.547 26.998 21.351 24.412 Tương quan biến- tổng .636 .575 .649 .672 .648 .108 .668 .378 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .782 .790 .780 .780 .779 .851 .776 .817 25.86 25.83 25.73 25.63 25.97 25.69 25.89 25.58 D01 D02 D03 D04 D05 D06 D07 D08

Kết quả cho hệ số tương quan Cronbach’s Alpha của nhóm biến cao (> 0.6), hệ

số tương quan biến-tổng của các thành phần đều lớn hơn 0.4 trừ biến thành phần

“D06” có hệ số tương quan biến-tổng là 0.108 và “D08” có hệ số tương quan biến-

tổng là 0.378 nhỏ hơn 0.4 nên nghiên cứu sẽ loại biến “D06” trước tiên do không thỏa

điều kiện. Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là “tài nguyên”, điều này có thể

lý giải quyền khai thác tài nguyên được giao cho đối tượng khái thác có thời hạn,

không thuộc quyền sử dụng và sở hữu để đánh thuế mà chỉ có thể chi phối bởi thuế tài

nguyên. Bảng 4.9: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “D06” Cronbach's Alpha: 0.851

Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến

Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 20.030 19.928 19.809 20.567 19.349 19.393 23.212 Tương quan biến- tổng .671 .597 .687 .699 .691 .683 .290 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .822 .833 .819 .820 .818 .820 .874 22.09 22.07 21.97 21.86 22.21 22.12 21.82 D01 D02 D03 D04 D05 D07 D08

Kết quả từ bảng 4.9 cho thấy hệ số tương quan biến-tổng của biến thành phần

“D08” có hệ số tương quan biến-tổng là 0.290 nhỏ hơn 0.4 nên nghiên cứu sẽ loại biến

85

này do không thỏa điều kiện. Sau khi loại sẽ chạy lại Cronbach’s Alpha và cho độ tin

cậy là 0.874. Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là “tài sản vô hình” như bản

quyền, bằng phát minh sáng chế… Điều này cho thấy, tài sản vô hình ở Việt nam

(ngoại trừ quyền sử dụng đất) luôn được khuyến khích phát triển, các ý kiến không

đồng tình về việc đánh thuế tài sản đối với đối tượng này như ở Mỹ và một số nước

OECD. Bảng 4.10: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “D08” Cronbach's Alpha: 0.874

Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến

Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 16.900 16.716 16.332 17.039 16.145 16.021 Tương quan biến- tổng .650 .588 .719 .733 .689 .703 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .857 .869 .845 .846 .850 .848 18.22 18.19 18.09 17.99 18.33 18.25 D01 D02 D03 D04 D05 D07

Sau khi loại bỏ 3 biến thành phần “D09”, “D06” và “D08”, các biến còn lại đều

đạt yêu cầu kiểm định Cronbach's Alpha. Vì vậy 6 biến quan sát còn lại được chấp

nhận và đưa vào phần phân tích nhân tố tiếp theo sau gồm có: quyền sử dụng đất nông

nghiệp, quyền sử dụng đất phi nông nghiệp, nhà ở, công trình xây dựng gắn liền trên

đất, tài sản đăng ký sử dụng và phương tiện giao thông.

Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Hình thức đánh thuế tài sản” Bảng 4.11: Độ tin cậy thang đo của 8 biến “Hình thức đánh thuế tài sản” Cronbach's Alpha: 0.862

Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến

Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 25.323 28.206 31.094 28.964 27.742 27.819 27.046 27.238 Tương quan biến- tổng .771 .595 .317 .598 .602 .649 .658 .692 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .824 .846 .876 .846 .846 .840 .839 .835 25.97 25.92 25.42 25.69 25.92 25.83 25.93 25.86 H10 H11 H12 H13 H14 H15 H16 H17

86

Hệ số tương quan Cronbach’s Alpha của nhóm biến cao (> 0.6) và hệ số tương

quan biến-tổng của các thành phần đều lớn hơn 0.4 trừ biến thành phần “H12” có hệ

số tương quan biến-tổng là 0.317 nhỏ hơn 0.4 nên nghiên cứu sẽ loại biến này.Sau khi

loại sẽ chạy lại Cronbach’s Alpha và cho độ tin cậy là 0.876.

Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là hình thức đánh thuế “dựa trên

thu nhập của tài sản”. Điều này lý giải việc kiểm soát thu nhập từ tài sản là điều không

đơn giản để đánh thuế, rất khó khả thi mà hiện nay chỉ áp dụng thuế thu nhập trên

khoản thu nhập từ việc cho thuê tài sản và thu nhập từ việc chuyển nhượng tài sản. Bảng 4.12: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “H12” Cronbach's Alpha: 0.876

Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến

Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 21.322 23.950 24.845 23.641 23.557 22.881 23.026 Tương quan biến- tổng .778 .604 .585 .597 .663 .667 .706 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .841 .865 .867 .866 .857 .857 .852 21.88 21.83 21.60 21.83 21.74 21.84 21.77 H10 H11 H13 H14 H15 H16 H17

Sau khi loại bỏ biến thành phần “H12”, các biến còn lại đều đạt yêu cầu kiểm

định Cronbach's Alpha. Vì vậy 7 biến quan sát còn lại được chấp nhận và đưa vào

phần phân tích nhân tố tiếp theo sau gồm có: Tập trung vào những tài sản Nhà nước

cần quản lý, tập trung vào những tài sản có giá trị lớn, dựa trên giá trị của tài sản, Dựa

trên tỷ lệ chịu thuế , quy định ngưỡng chịu thuế, đánh thuế một lần khi thiết lập quyền

sở hữu tài sản và đánh thuế hàng năm đối với tài sản.

Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Căn cứ tính thuế tài sản”

Bảng 4.13: Độ tin cậy thang đo của 6 biến “Căn cứ tính thuế tài sản” Cronbach's Alpha: 0.582

Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến

C18 C19 C20 C21 20.37 20.76 20.21 20.57 Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 9.352 10.485 9.061 9.811 Tương quan biến- tổng .475 .067 .570 .403 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .478 .672 .445 .509

87

C22 C23 20.08 20.71 9.458 9.661 .523 .161 .469 .630

Kết quả cho thấy hệ số tương quan Cronbach’s Alpha của nhóm biến cao (>

0.6), hệ số tương quan biến-tổng của các thành phần đều lớn hơn 0.4 trừ biến thành

phần “C19” có hệ số tương quan biến-tổng là 0.067 nhỏ hơn 0.4 nên sẽ loại biến này

do không thỏa điều kiện. Sau khi loại sẽ chạy lại Cronbach’s Alpha và cho độ tin cậy

là 0.672. Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là căn cứ tính thuế dựa trên “giá

trị ròng của tài sản chịu thuế”. Để thực hiện điều này cần phải xác định giá trị thực của

tài sản trừ đi các khoản chi phí đầu tư, tiền lãi, khấu hao…và điều này rất khó khả thi

đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

Bảng 4.14: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến“C19” Cronbach's Alpha: 0.672

Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến

C18 C20 C21 C22 C23 16.59 16.43 16.79 16.30 16.93 Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 7.058 6.996 7.508 7.373 7.363 Tương quan biến- tổng .541 .593 .456 .539 .181 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .573 .554 .611 .581 .783

Kết quả cho hệ số tương quan Cronbach’s Alpha của nhóm biến cao (> 0.6), hệ

số tương quan biến-tổng của các thành phần đều lớn hơn 0.4 trừ biến thành phần

“C23” có hệ số tương quan biến-tổng là 0.181 nhỏ hơn 0.4 nên nghiên cứu sẽ loại biến

này do không thỏa điều kiện. Sau khi loại sẽ chạy Cronbach’s Alpha lại và cho độ tin

cậy là 0.783. Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là căn cứ tính thuế dựa trên

“thuế suất lũy thoái”. Thông thường các nước áp dụng thuế suất lũy thoái để khuyến

khích các đối tượng nộp thuế kê khai thu nhập nhiều.

Bảng 4.15: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến“C23” Cronbach's Alpha: 0.783

Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến

C18 C20 C21 C22 12.76 12.60 12.96 12.47 Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 4.239 4.264 4.724 4.541 Tương quan biến- tổng .617 .651 .487 .606 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .715 .697 .781 .722

88

Sau khi loại bỏ biến thành phần “C19” và “C23”, các biến còn lại đều đạt yêu

cầu kiểm định Cronbach's Alpha. Vì vậy 4 biến quan sát còn lại được chấp nhận và

đưa vào phần phân tích nhân tố tiếp theo sau gồm có: giá thị trường của tài sản, giá trị

tài sản ấn định, thuế suất lũy tiến, thuế suất tỷ lệ (trung bình).

Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Tính hiệu quả của thuế TS”

Bảng 4.16: Độ tin cậy thang đo “Tính hiệu quả của thuế tài sản” Cronbach's Alpha: 0.813

Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến

T24 T25 T26 T27 T28 14.99 15.24 15.08 15.11 15.01 Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 9.827 10.652 11.145 10.363 10.419 Tương quan biến- tổng .661 .523 .528 .612 .694 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .757 .801 .797 .773 .751

Bảng 4.16 cho thấy hệ số tương quan Cronbach’s Alpha của nhóm biến cao (>

0.6), và hệ số tương quan biến-tổng của các thành phần đều lớn hơn 0.4. Vì vậy cả 5

biến quan sát đều được chấp nhận và đưa vào phần phân tích nhân tố tiếp theo sau.

Qua kết quả phân tích Cronbach’s Alpha, ngoài các biến thành phần không phù hợp

với mô hình bị loại bỏ thì 22 biến còn lại (Phụ lục 3.3) được đưa vào bước phân tích

nhân tố tiếp theo.

4.2.4 Phân tích nhân tố

Phương pháp phân tích nhân tố (phân tích EFA) được dùng để kiểm định tính

đơn nguyên và giá trị hội tụ của từng thang đo, theo đó liên hệ giữa các nhóm biến có

quan hệ qua lại lẫn nhau được xem xét và trình bày dưới dạng một số ít các nhân tố cơ

bản. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp Principal Component Analysis với phép

quay Varimax với các điều kiện thực hiện là:

- Trị số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) lớn hơn 0.5 (Garson, 2003)

- Điểm dừng khi trích các yếu tố có trị riêng (eigenvalue) ≥ 1 (Gerbing &

Anderson, 1988), trị riêng là tổng lệch bình phương của một nhân tố, đại lượng đại

diện cho lượng biến thiên giải thích bởi nhân tố hay phương sai của một nhân tố.

- “Varience extracted” lớn hơn 50%, nghĩa là phần trăm phương sai tích lũy giải

thích được trên 50% biến thiên của dữ liệu.

- Sig. < 0.05 nhằm đảm bảo kiểm định có ý nghĩa với độ tin cậy 95%.

89

- Các biến chỉ được chấp nhận khi nó có trọng số lớn hơn 0.5 và các trọng số tải

của chính nó ở factor khác phải nhỏ hơn 0.35, hoặc khoảng cách giữa hai trọng số tải

của cùng một biến ở hai factor khác nhau lớn hơn 0.3 nhằm đảm bảo nhân tố và biến

có liên hệ chặt chẽ với nhau.

Trong quá trình tiến hành, các biến không đạt yêu cầu sẽ bị loại bỏ và phân tích

nhân tố sẽ được thực hiện lại cho đến khi nào đạt được kết quả tốt nhất.

 Phân tích nhân tố đối với các biến độc lập

Từ kết quả phân tích độ tin cậy thang đo ở phần trên, việc phân tích nhân tố

trước tiên được tiến hành trên 17 biến quan sát của các biến độc lập ảnh hưởng đến

“tính hiệu quả của thuế tài sản”. Kết quả phân tích (phụ lục 3.4) cho hệ số KMO là

0.824, lớn hơn 0.5 cho thấy giả thuyết là đúng. Trong kiểm dịnh Barlett’s, p = 0.000

(bác bỏ giả thuyết H0: các biến quan sát không có tương quan với nhau trong tổng thể) như vậy giả thuyết về ma trận tương quan giữa các biến là ma trận đồng nhất bị bác

bỏ, tức là các biến có tương quan với nhau và thỏa điều kiện phân tích nhân tố. Bước

tiếp theo là thực hiện phân tích nhân tố theo Principal components với phép quay

Varimax, kết quả (phụ lục 3.4) cho thấy 3 nhóm nhân tố và 17 biến quan sát đạt yêu

cầu sau khi phân tích.

Như vậy, sau khi tiến hành phân tích nhân tố 17 biến được giữ nguyên vì có giá

trị lớn hơn 0.5 và được được xác định với trị riêng lớn hơn (>) 1. Kết quả cho thấy 3

nhân tố “đối tượng chịu thuế”, “Căn cứ tính thuế” và “Hình thức đánh thuế” giải thích

được 60,80% biến thiên của dữ liệu và đạt yêu cầu phân tích dữ liệu.

 Phân tích nhân tố đối với biến phụ thuộc

Kết quả sau khi đưa các biến quan sát phụ thuộc vào phân tích nhân tố (phụ lục

3.4) cho thấy rằng tất cả các biến đều đạt mức độ phù hợp với điều kiện đã nêu ở trên

và kết quả cho một nhóm nhân tố duy nhất.

Như vậy, sau khi tiến hành phân tích nhân tố 5 biến được giữ nguyên vì có giá

trị lớn hơn 0.5 và được được xác định với trị riêng lớn hơn 1. Kết quả cho thấy nhân tố

“ tính hiệu quả của thuế tài sản” trên giải thích được 57,66% biến thiên của dữ liệu và

đạt yêu cầu phân tích dữ liệu.

4.2.5 Phân tích hồi quy

 Tạo biến mới

90

Sau khi phân tích nhân tố các biến mới được hình thành từ các biến mô tả và

các biến này được sử dụng để phân tích hồi quy nhằm khẳng định các giả thuyết của

mô hình nghiên cứu. Kết quả và mã hóa các biến đại diện như sau:

Variables Entered/Removedb

Variables Removed Method

. Enter

Model Variables Entered F_Cancu, 1 F_Hinhthuc, F_Doituonga

a. Tất cả các biến được đưa vào “enter” b. Biến phụ thuộc: “F_Hieuqua”

 Hồi quy đa biến

Hồi quy đa biến được tiến hành với mức ý nghĩa α = 5%. Bảng mô tả tương

quan sau khi phân tích hồi quy với biến độc lập là “đối tượng chịu thuế tài sản”, “hình

thức đánh thuế tài sản”, “căn cứ tính thuế tài sản” và biến phụ thuộc là “tính hiệu quả

của thuế tài sản”.

Bảng 4.17: Kết quả phân tích hồi quy đa biến

Model Summary

Model 1 R .725a R Square .526 Adjusted R Square .518 Std. Error of the Estimate .54904

Coefficientsa

Collinearity Statistics Standardized Coefficients Model t Sig. B Tolerance VIF Beta

1

Unstandardized Coefficients Std. Error .303 .055 .055 .064 (Constant) -.269 F_Doituong .387 F_Hinhthuc .294 .370 F_Cancu -.889 7.075 5.378 5.761 .375 .000 .000 .000 .871 .889 .888 1.148 1.125 1.126 .393 .296 .317

Kết quả trong bảng 4.20 cho thấy R2 = 0,526, như vậy 52,6% sự biến thiên của biến phụ thuộc được giải thích bằng các biến độc lập đã đưa vào bên trên. Đối với

hiện tượng đa cộng tuyến, giả thiết đặt ra là không có mối tương quan giữa các biến

độc lập. Yêu cầu là chỉ số VIF trên cột Collinerity Statistics phải nhỏ hơn 2. Kết quả

đã cho thấy tất cả các thành phần đều có chỉ số VIF nhỏ hơn 2, như vậy là không có

mối tương quan giữa các thành phần, phân tích hồi quy được chấp nhận.

91

Kết quả hồi quy cũng cho thấy hệ số “sig” nhỏ hơn 0.05 ở tất cả các nhân tố

đưa vào, như vậy các biến trong các nhân tố này đều có ý nghĩa về mặt thống kê,

nghĩa là các biến có ý nghĩa trong việc giải thích cho sự biến thiên của biến phụ thuộc

“F_Hieuqua”. Như vậy các giả thuyết trong mô hình nghiên cứu đã được chứng minh

cho thấy mô hình này phù hợp với nghiên cứu của đề tài .

Kết quả cũng cho thấy rằng nhân tố “F_Doituong” với hệ số β = 0.387 ảnh

hưởng mạnh nhất đến “Tính hiệu quả của thuế tài sản”, kế tiếp là nhân tố “F_Cancu”

với hệ số β = 0.370 và nhân tố “F_Hinhthuc” với hệ số β = 0.294 có mức tác động ý

nghĩa đến “tính hiệu quả của thuế tài sản”.

4.2.6 Kết quả nghiên cứu định lƣợng

Kết quả phân tích cho thấy, mô hình thuế tài sản được cấu thành và chịu tác

động bởi các nhóm nhân tố trọng yếu như đối tượng chịu thuế, hình thức tính thuế và

căn cứ tính thuế (Hình 4.3).

Như vậy, trong mô hình nghiên cứu ban đầu đưa ra 3 nhân tố độc lập với 23

biến để đánh giá tính hiệu quả của thuế tài sản. Sau khi phân tích độ tin cậy và nhân

tố, kết quả vẫn giữ nguyên 3 nhân tố và 17 biến. Trong 3 nhân tố thì nhân tố “đối

92

tượng chịu thuế tài sản” có tác động mạnh nhất đến “tính hiệu quả thuế của thuế tài

sản” và gần ngang bằng nhân tố trên là “căn cứ tính thuế”. Điều này cũng đã phản ánh

khá đúng thực trạng vì đối tượng chịu thuế tài sản càng được mở rộng phạm vi thì khả

năng thu thuế tài sản càng cao và cuối cùng là “hình thức đánh thuế tài sản”cũng có

tác động ý nghĩa đến tính hiệu quả của thuế tài sản.

(a) Đối tƣợng chịu thuế tài sản

Đối tượng chịu thuế tài sản là các tài sản thuộc phạm vi điều chỉnh của thuế tài sản,

các tài sản nằm trong danh mục cần phải có sự điều tiết của chính sách thuế. Tùy theo

đặc điểm của nền kinh tế - xã hội, mục tiêu, yêu cầu quản lý, tình trạng thu nhập xã

hội, mục đích sử dụng tài sản, tình trạng chủ sở hữu tài sản mà chính sách thuế thiết

lập phạm vi đối tượng chịu thuế tài sản. Tài sản chịu thuế phổ biến là bất động sản,

đây là tài sản khó có thể trốn hay lậu thuế, khả năng quản lý, kiểm soát dễ dàng; về

mức động viên có thể linh hoạt cao hay thấp tuỳ theo yêu cầu về ngân sách địa

phương; số thu có thể kế hoạch hoá một cách tương đối và là nguồn thu quan trọng

của các địa phương.

Kết quả phân tích đã chỉ ra phạm vị chịu thuế tài sản chủ yếu là bất động sản và

tài sản có giá trị cao như: Quyền sử dụng đất nông nghiệp, quyền sử dụng đất phi

nông nghiệp, nhà, công trình xây dựng gắn liền trên đất, tài sản đăng ký sử dụng và

phương tiện giao thông. Với hệ số β lớn nhất, bằng 0.387 và là nhân tố tác động mạnh

nhất đến “tính hiệu quả của thuế tài sản”. Điều này chứng tỏ nhân tố “đối tượng chịu

thuế” có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả thu thuế tài sản.

(b) Hình thức đánh thuế tài sản

Với hệ số β = 0.294, cho thấy nhân tố “hình thức đánh thuế” có mức tác động ý

nghĩa đến tính hiệu quả của thuế tài . Tùy theo đối tượng chịu thuế mà mỗi quốc

gia có thể lựa chọn hình thức đánh thuế phù hợp. Quá trình phân tích kết quả cho thấy

hình thức đánh thuế nghiêng về hướng tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản

lý, những tài sản có giá trị lớn, cũng như việc kết hợp 2 phương thức đánh thuế một

lần và đánh thuế hàng năm.

(c) Căn cứ tính thuế tài sản

tính thuế trong mô hình thuế tài sản là điều rất quan trọng

đòi hỏi phải được nghiên cứu và cân nhắc thật kỹ lưỡng. Kết quả nghiên cứu chỉ ra

rằng, giá tính tính thuế của tài sản phải là giá thị trường của tải sản, trong một số

trường hợp thì cần sử dụng giá trị tài sản ấn định. Về thuế suất thì mô hình nên áp

93

dụng thuế suất lũy tiến và thuế suất tỷ lệ. Với hệ số β = 0.370, cho thấy căn cứ tính

thuế cũng có mức tác động ý nghĩa đến tính hiệu quả của thuế tài sản.

4.3

Dựa trên kết quả phân tích vá đánh giá mô hình thuế tài sản, qua phân tích thực

trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam. đã chỉ ra các điểm

tương đồng và dị biệt giữa mô hình để xác định những ưu-nhược điểm của mô hình

đồng thời, xuất phát từ những mục tiêu và định hướng của mô hình thuế tài sản đã

trình bày, kết hợp từ những kinh nghiệm áp dụng mô hình thuế tài sản của các quốc

gia trên thế giới, đề xuất mô hình thuế tài sản gồm những sắc thuế như sau:

Hình 4.4: Hệ thống thuế tài sản

Tóm lại, mô hình thuế tài sản được xây dựng dựa trên khuôn khổ các lý thuyết

về tài sản và thuế tài sản, dựa trên kinh nghiệm thuế tài sản của một số quốc gia khác

và đồng thời qua phân tích đánh giá thực trạng chính sách thuế tài sản ở Việt nam có

đối chiếu so sánh với các nước khác. Đặc biệt là qua kết quả kiểm định, phân tích mô

hình thông qua phương pháp định lượng cho kết quả nghiên cứu đáng tin cậy. Từ

những kết quả phân tích trên, xin đưa ra bảng kết luận mô hình thuế tài sản,

bao gồm những điểm sau:

Bảng 4.18: Diễn giải mô hình thuế tài sản đề xuất Các sắc thuế Căn cứ tính thuế Hình thức đánh thuế Tài sản Đối tượng chịu thuế

Thuế đăng ký tài sản Nhà, đất, tàu thuyền, máy Thuế được thu một lần tài sản nằm đối với Giá trị tài sản tính thuế là giá thị trường hoặc khung

94

giá quy định tại thời điểm tính thuế đăng ký tài sản. Áp dụng Thuế suất tỷ lệ.

bay, ô tô, mô tô, một số tài sản vô hình khác khi đăng ký.

trong danh mục tài sản nhà nước cần quản lý khi thực hiện các thủ tục đăng ký, hoặc xác nhận tính pháp lý của các văn tự liên quan đến chuyển nhượng quyền sở hữu đối với các tài sản

Ðất trồng trọt, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản, đất rừng trồng. Thuế sử dụng đất nông nghiệp

Là loại thuế động viên vào người chủ sở hữu quyền sử dụng đất nông nghiệp. Thuế được thu hàng năm, với mức động viên không quá cao. Quy định ngưỡng chịu thuế và tỷ lệ chịu thuế.

Cách tính thuế dựa trên giá tính thuế, thuế suất và diện tích đất tính thuế, có phân biệt theo hạng đất, mục đích sử dụng đất. Giá một mét vuông đất (m2) theo khung giá của chính quyền địa phương được xây dựng theo chu kỳ khoảng 3 năm.

Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

tại Đất nông thôn, đất ở tại đô thị, đất sản kinh xuất, doanh phi nông nghiệp Là loại thuế động viên vào người chủ sở hữu quyền sử dụng đất phi nông nghiệp. Thuế được thu hàng năm, với mức động viên cao hơn nhiều so với đất nông nghiệp.

Cách tính thuế dựa trên giá tính thuế, thuế suất và diện tích đất tính thuế. Giá một mét vuông đất (m2) theo khung giá của chính quyền địa phương được xây dựng theo chu kỳ khoảng 3 năm.

Thuế nhà

Các loại nhà thuộc đối này tượng bao gồm nhà làm ở, nhà việc, nhà dùng vào sản kinh xuất, doanh và nhà Thuế nhà về bản chất là thuế tài sản. Thuế được thu hàng năm, với mức động viên thấp vào các đối tượng có quyền sở hữu nhà. Xây dựng mức giá tính thuế khởi điểm đối với tài sản này, tức là trị giá tính thuế dưới Cách tính thuế dựa trên giá tính thuế, thuế suất và diện tích nhà tính thuế. Giá một mét vuông nhà (m2) theo khung giá của chính quyền địa phương được xây dựng theo chu kỳ khoảng 3 năm, có tính đến phân hạng. Áp dụng

95

thuế thuế suất lũy tiến từng phần.

dùng vào các đích mục khác. mức khởi điểm thuế sẽ suất bằng có không.

Khu nghỉ dưỡng, công viên, vườn cảnh, hồ bơi, các công trình kiến trúc khác

Thuế công trình xây dựng gắn liền trên đất

Chính sách thuế này được xây dựng nhằm mục đích đánh thuế trên các tài sản là vật kiến trúc gắn liền trên đất. Thuế được thu hàng năm nhằm quản lý các tài sản, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng tài sản.

Cách tính thuế dựa trên giá tính thuế, thuế suất và diện tích công trình. Giá một mét vuông công trình (m2) theo khung giá của chính quyền địa phương được xây dựng theo chu kỳ khoảng 3 năm, có tính đến phân hạng công trình. Vận dụng thuế suất lũy tiến từng phần.

Tàu bay, tàu, du thuyền, xe ô tô, mô tô Thuế phương tiện giao thông Là sắc thuế đánh hàng năm vào việc sử dụng và sở hữu các phương tiện giao thông Giá tính thuế là giá thị trường hoặc theo khung giá quy định.Vận dụng thuế suất tỷ lệ.

Kết luận chƣơng 4

Mục tiêu cần đạt được của mô hình nghiên cứu là nhận diện các đối tượng chịu

thuế tài sản, phạm vi đối tượng chịu thuế; lựa chọn hình thức nào để đánh thuế cho

phù hợp và căn cứ tính thuế của mỗi loại tài sản ra sao. Đó chính là n

nghiên cứu có được trong việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt

Nam nhằm đạt được hiệu quả và tối ưu. mô hình thuế tài sản của một số quốc

gia và qua phân tích thực trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt nam.

Chương 4 của

phân tích các nhân tố tác động đến mô hình thuế tài sản thông qua các bước kiểm định

Cronbach’s alpha, phân tích hồi quy. Kết quả phân tích cho thấy các nhân tố tác động

đến tính hiệu quả thuế tài sản đạt mức độ tin cậy chấp nhận được. Mô hình nghiên cứu

có khả năng ứng dụng vào thực tiễn cho việc xây dựng chính sách thuế tài sản và dự

báo khả năng thu ngân sách.

96

CHƢƠNG 5: KHUYẾN NGHỊ ỨNG DỤNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN

VÀO VIỆC XÂY DỰNG CÁC CHÍNH SÁCH

THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM

5.1 Những khuyến nghị ứng dụng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam

Để vận dụng mô hình thuế tài sản một cách hiệu quả đem lại nguồn thu ổn định

cho ngân sách, thể hiện tính công bằng và đơn gian trong vận dụng chính sách thuế tài

sản, tác giả xin được nêu ra một số khuyến nghị sau:

Thứ nhất, cần thiết phải xác định phạm vi đối tượng chịu thuế tài sản (cơ sở

thuế), từ đó dự thảo và ban hành các Luật thuế liên quan đến tài sản chịu thuế. Ngoài

ra cũng nên sớm ban hành Luật tài sản như một số nước trên thế giới.

Thứ hai, cần nghiên cứu và xác định mức thuế suất phù hợp khi đánh thuế tài

sản thông qua các phương pháp dự báo doanh thu thuế.

Thứ ba, dựa trên nền tảng mô hình thuế tài sản, ban hành các chính sách thuế

tài sản phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại ở Việt Nam.

Thứ tư, vận dụng mô hình thuế tài sản trong công tác dự báo ngân sách hàng

năm và dài hạn phục vụ cho công tác quản lý và thực thi NSNN.

5.2 Những khuyến nghị xây dựng chính sách thuế tài sản dựa trên mô hình

5.2.1 Thuế đăng ký tài sản

Thuế đăng ký tài sản là khoản thu mà các tổ chức, cá nhân khi nộp sẽ được nhà

nước cung cấp dịch vụ hành chính, pháp lý tương ứng… điều này có ý nghĩa rằng nhà

nước công nhận và bảo vệ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản hợp pháp

Quan điểm xây dựng chính sách thuế đăng ký tài sản

- Thuế đăng ký tài sản được xây dựng trên quan điểm phát triển tính chất thuế

của lệ phí trước bạ, thuế đánh một lần vào các tài sản chịu thuế khi các chủ thể đăng

ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản. Việc phát triển lệ phí trước bạ theo hướng này có ưu

điểm là kết hợp một cách hợp lý tính chất phí và tính chất thuế của lệ phí trước bạ

hình thành một sắc thuế thống nhất. Như vậy, thuế đăng ký tài sản sẽ kế thừa có bổ

sung, sửa đổi chính sách hiện hành về lệ phí trước bạ. Thông qua thuế đăng ký tài sản,

nhà nước quản lý, kiểm soát được các tài sản quan trọng, từng bước bảo đảm trật tự kỷ

cương trong chuyển dịch tài sản, tạo căn cứ cho việc xây dựng một số chính sách về

kinh tế - xã hội.

97

- Thuế đăng ký tài sản vừa động viên được nguồn thu, đảm bảo tính chất điều tiết

thu nhập của sắc thuế này, đảm bảo được tính hiệu quả và công bằng.

- Với những quan điểm này, đối chiếu với hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, đây là

sắc thuế phù hợp và có tính khả thi.

Nội dung chủ yếu của thuế đăng ký tài sản

 Đối tƣợng tài sản chịu thuế đăng ký tài sản: Là các tài sản thuộc danh mục nhà

nước cần quản lý và thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng. Có thể vẫn

quy định như các tài sản hiện đang chịu lệ phí trước bạ hiện nay, bao gồm các loại

tài sản: đất đai, nhà cửa, vật kiến trúc và những tài sản gắn liền với đất, phương

tiện giao thông.

 Tài sản không thuộc diện chịu thuế: được xác lập căn cứ vào tính chất, mục đích

của việc sử dụng tài sản; chủ thể sở hữu, sử dụng tài sản và đặt trong mối quan hệ

với các chính sách kinh tế xã hội khác. Trước mắt, có thể quy định các tài sản

không thuộc diện chịu thuế đăng ký tài sản giống như các tài sản không thuộc diện

chịu lệ phí trước bạ như hiện nay như: đất đai, các tài sản sử dụng cho mục đích

công cộng; an ninh, quốc phòng; nghiên cứu khoa học, tài sản của một số đối

tượng chính sách xã hội…

 Đối tƣợng nộp thuế: tổ chức, cá nhân khi mua sắm, xây dựng mới, khi chuyển

nhượng các tài sản thuộc danh mục nhà nước quản lý muốn xác lập quyền sở hữu

hợp pháp là đối tượng phải nộp thuế.

 Căn cứ tính thuế: là giá trị tài sản tính thuế đăng ký tài sản và thuế suất.

Thuế đăng ký tài Giá trị tài sản = X Thuế suất sản phải nộp tính thuế

- Giá trị tài sản tính thuế là giá chuyển nhượng tài sản thực tế trên thị trường

trong nước tại thời điểm tính thuế đăng ký tài sản. Việc xác định giá trị tài sản tính

thuế đăng ký tài sản trong một số trường hợp thực hiện như sau:

o Giá trị đất tính thuế đăng ký tài sản là giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất

thực tế do người nộp thuế kê khai, được xác định như sau:

Giá trị đất tính Diện tích đất chịu = X thuế đăng ký tài thuế đăng ký tài sản Giá một mét vuông đất (m2)

sản

o Giá trị nhà tính thuế đăng ký tài sản là giá trị nhà thực tế chuyển nhượng trên

thị trường tại thời điểm tính đăng ký tài sản như sau:

98

= x x Giá một (01) mét vuông (m2) nhà Tỷ lệ (%) chất lượng còn lại của nhà chịu thuế đăng ký tài sản Giá trị nhà tính thuế đăng ký tài sản Diện tích nhà chịu thuế đăng ký tài sản

Trường hợp không xác định được giá trị thực tế chuyển nhượng hoặc kê khai

giá trị thực tế chuyển nhượng thấp hơn giá thị trường thì áp dụng giá nhà tính

thuế đăng ký tài sản do nhà nước quy định tại thời điểm đăng ký tài sản.

o Giá trị tài sản là tàu thuyền, xe ôtô, xe gắn máy tính thuế đăng ký tài sản là giá

trị tài sản thực tế chuyển nhượng trên thị trường trong nước tại thời điểm tính

thuế đăng ký tài sản.

- Trong quá trình quản lý thu thuế đăng ký tài sản, nếu cơ quan thuế phát hiện

các trường hợp giá tính thuế đăng ký tài sản quy định chưa phù hợp với giá thị trường

hoặc tài sản đã xuất hiện trên thị trường địa phương đăng ký nộp thuế trước bạ nhưng

chưa được quy định trong bảng gía tính thuế đăng ký tài sản của địa phương thì phải

có ý kiến đề xuất kịp thời gửi Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc cơ quan được uỷ quyền ban

hành bảng giá để sửa đổi, bổ sung bảng giá tính thuế đăng ký tài sản

- Thuế suất dùng làm căn cứ tính thuế đăng ký tài sản được quy định theo tỷ lệ

phần trăm trên trị giá tính thuế tuỳ thuộc vào tính chất từng loại tài sản, chủ sở hữu tài

sản, địa bàn sử dụng tài sản nhằm đảm bảo động viên hợp lý phần thu nhập của các

chủ thể và phù hợp với các chính sách kinh tế - xã hội khác của nhà nước. Do vậy có

thể quy định thuế suất thấp đối với các tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp và các

tài sản có giá trị lớn thuộc diện chịu các sắc thuế hàng năm (như thuế nhà, thuế sử

dụng đất); quy định thuế suất cao đối với những tài sản chỉ chịu thuế một lần hoặc của

các cá nhân ở các đô thị lớn…

5.2.2 Thuế sử dụng đất nông nghiệp

Quan điểm xây dựng chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp

Trong thời gian qua, Nhà nước thu từ nông dân sử dụng đất nông nghiệp các

khoản: tiền thuê đất, thuế sử dụng đất và một số lệ phí quản lý đất đai. Nhìn chung,

tổng thuế sử dụng đất nông nghiệp không lớn. Từ năm 2003 đến năm 2013, Chính phủ

đã quyết định miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho tất cả hộ nông

dân và miễn hoàn toàn thuế sử dụng đất cho hộ nông dân nghèo, giảm 50% cho diện

tích vượt hạn điền. Tiền thuê đất chỉ áp dụng đối với diện tích đất vượt hạn điền hoặc

99

đất đấu thầu. Các khoản lệ phí về đất không lớn, thường là phí cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, phí trích lục bản đồ, phí đăng ký đất...

Xét tổng thể, chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp của Việt Nam được

giảm nhẹ ở nhiều khâu, kể cả việc Nhà nước không thu thuế chuyển nhượng đất nông

nghiệp giữa những người nông dân với nhau nhằm khuyến khích tập trung đất và chưa

thu thuế giá trị gia tăng từ đất. Trước thực trạng hiện nay có quá nhiều diện tích đất

nông nghiệp bị bỏ hoang phí, bên cạnh tốc độ đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ như hiện

nay, dẫn đến tình trạng lãng phí và không hiệu quả trong sử dụng đất nông nghiệp, có

khá nhiều trường hợp các nhà đầu tư mua đất nông nghiệp bỏ hoang nhằm mục đích

đón đầu quy hoạch để hưởng đền bù hoặc chờ cơ hội tăng giá, mở đường và chuyển

sang đất thổ cư để bán. Qua đó, chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp trong giai

đoạn tới cần tập trung các vấn đề sau:

- Cần xây dựng hạng đất trong từng giai đoạn để xác định giá tính thuế theo hạng

đất phù hợp hơn để loại bỏ định suất thuế tính bằng kg thóc đang áp dụng hiện nay.

Điều này sẽ giúp cho việc tính thuế đơn giản hơn, dễ tính toán, dễ quản lý và dễ hiểu

- Thuế sử dụng đất nông nghiệp phải đảm bảo tốt về mặt quản lý đất đai, khuyến

khích sử dụng đất đai có hiệu quả, thúc đẩy phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu sử

dụng đất hợp lý, góp phần quan trọng trong việc quản lý và ổn định thị trường bất

động sản, công bằng, hợp lý và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

- Thuế sử dụng đất nông nghiệp phải bao quát được tất cả các đối tượng chịu

thuế và đối tượng nộp thuế, xây dựng cách tính thuế khoa học, hợp lý, vận dụng hiệu

quả, thể hiện được tính minh bạch và công bằng.

Nội dung chủ yếu của chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp

- Đối tƣợng chịu thuế: Việc xác định đối tượng chịu thuế sử dụng đất nông

nghiệp được thực hiện trên nguyên tắc đất dùng vào sản xuất nông nghiệp, lâm

nghiệp, nuôi trồng thủy sản thì phải chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp. Dựa theo

nguyên tắc này, chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp quy định đối tượng chịu

Ðất trồng trọt.

Ðất có mặt nước nuôi trồng thủy sản.

Ðất rừng trồng.

thuế bao gồm:

- Đối tƣợng không thuộc diện chịu thuế: Nhằm phân biệt rõ phạm vi đất chịu

thuế sử dụng đất nông nghiệp, Nhà nước quy định các loại đất sau đây không chịu sự

100

điều chỉnh của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp: đất có rừng tự nhiên, đất đồng cỏ

tự nhiên, đất ở, đất chuyên dùng.

- Căn cứ tính thuế: Số thuế sử dụng đất nông nghiệp phải nộp được xác định

dựa trên những căn cứ nhất định, đó là: diện tích đất, giá tính thuế theo hạng đất và

thuế suất.

o Diện tích tinh thuế: là diện tích giao cho hộ sử dụng đất phù hợp với sổ địa

chính Nhà nước. Trường hợp chưa lập sổ địa chính thì diện tích tính thuế là

diện tích ghi trên tờ khai của hộ sử dụng đất.

o Giá tính thuế theo hạng đất: Căn cứ để xác định giá của từng loại hạng đất

gồm các yếu tố sau: chất đất, vị trí, địa hình, điều kiện khí hậu, thời tiết, điều

kiện tưới tiêu.

Giá tính thuế theo hạng đất được ổn định 3 năm (theo thông lệ quốc tế) thay vì

10 năm như trước đây, bởi lẽ đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa và hiện

đại hóa và có nhiều biến chuyển nhanh chóng trong cơ cấu kinh tế sẽ dẫn đến những

thay đồi nhanh chóng. Ðối với những vùng Nhà nước có đầu tư lớn, đem lại hiệu qủa

kinh tế cao, Chính phủ sẽ điều chỉnh lại hạng đất. Căn cứ vào tiêu chuẩn của từng

hạng đất và hướng dẫn của UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Sự chỉ đạo

của UBND cấp huyện; UBND cấp xã xác định hạng đất tính thuế cho từng hộ nộp

thuế sau đó trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.

Chính quyền địa phương cần thiết phải lập Hội đồng tư vấn thuế nhằm xây

dựng khung giá tính thuế đất cho phù hợp với từng địa phương, thay thế cho định suất

thuế một năm tính bằng kg thóc trên 1 hec-ta của từng hạng đất đã áp dụng trong

khoảng thời gian khá dài vừa qua.

o Thuế suất: Thuế suất lũy tiến, trong hạn mức sử dụng thì áp dụng thuế suất

thấp, vượt hạn mức thì áp dụng thuế suất cao hơn.

Giá tính thuế SDĐ Diện tích đất X = nông nghiệp tính thuế Giá một mét vuông đất (m2) theo hạng đất

Thuế SDĐ nông nghiệp Giá tính thuế SDĐ Thuế suất X = phải nộp nông nghiệp

5.2.3 Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

Quan điểm xây dựng chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

Chính sách thuế SDĐ phi nông nghiệp được xây dựng trên cơ sở kế thừa có

chọn lọc hai loại thuế sử dụng đất hiện hành để áp dụng cho các mục đích sử dụng đất.

101

Chúng ta xác định đất đai là nguồn tài sản quốc gia quý hiếm, do đó cần phải được

quản lý chặt chẽ, khuyến khích sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả, ngăn chặn

đầu cơ, lũng đoạn đất đai.

Thông qua chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thực hiện kiểm kê,

kiểm soát quỹ đất đai với từng đối tượng sử dụng đất và tạo nguồn thu quan trọng cho

ngân sách địa phương. Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp khi thực hiện phải bảo đảm

công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ kinh tế của người sử dụng đất, phù hợp với Luật

đất đai.

Nội dung chủ yếu của sắc thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

 Đối tƣợng chịu thuế

o Đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị. o Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp bao gồm: đất xây dựng khu công

nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất khai thác,

chế biến khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm.

 Đối tƣợng không chịu thuế: Đất phi nông nghiệp sử dụng không vào mục đích

kinh doanh, bao gồm:

- Đất sử dụng vào mục đích công cộng bao gồm: đất giao thông, thủy lợi; đất xây

dựng công trình văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích

công cộng; đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất xây dựng công

trình công cộng khác theo quy định của Chính phủ;

- Đất do cơ sở tôn giáo sử dụng;

- Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa;

- Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng;

- Đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ;

- Đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp, đất sử dụng vào

mục đích quốc phòng, an ninh;

- Đất phi nông nghiệp khác theo quy định của pháp luật.

 Ngƣời nộp thuế

- Người nộp thuế là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất thuộc đối

tượng chịu thuế.

- Trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân chưa được cấp Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì người đang

sử dụng đất là người nộp thuế.

102

Căn cứ tính thuế gồm giá tính thuế và thuế suất

Thuế SDĐ phi nông Giá tính thuế SDĐ Thuế suất X = nghiệp phải nộp phi nông nghiệp

 Giá tính thuế: Giá tính thuế đối với SDĐ phi nông nghiệp được xác định như sau

Giá tính thuế Diện tích đất SDĐ = X tính thuế Giá một mét vuông đất (m2) phi nông nghiệp

 Diện tích đất tính thuế đƣợc quy định nhƣ sau:

- Diện tích đất tính thuế là diện tích đất thực tế sử dụng.

- Trường hợp có quyền sử dụng nhiều thửa đất ở thì diện tích đất tính thuế là

tổng diện tích các thửa đất tính thuế.

- Trường hợp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để xây dựng khu công

nghiệp thì diện tích đất tính thuế không bao gồm diện tích đất xây dựng kết cấu hạ

tầng sử dụng chung.

- Đối với đất ở nhà nhiều tầng nhiều hộ ở, nhà chung cư bao gồm cả trường hợp

vừa để ở, vừa để kinh doanh thì diện tích đất tính thuế được xác định bằng hệ số phân

bổ nhân với diện tích nhà của từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng. Hệ số phân

bổ được xác định bằng diện tích đất xây dựng nhà nhiều tầng nhiều hộ ở, nhà chung

cư chia cho tổng diện tích nhà của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng.

- Đối với công trình xây dựng dưới mặt đất thì áp dụng hệ số phân bổ nhân với

diện tích đất xây dựng và chia cho tổng diện tích công trình của các tổ chức, hộ gia

đình, cá nhân sử dụng.

- Giá của 1m2 đất là giá đất theo mục đích sử dụng do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định và được ổn định theo chu kỳ khoảng 3 năm. Chính

phủ cần có hướng dẫn cho Ủy ban cấp tỉnh, thành xây dựng khung giá đất từng thời kỳ

cho từng khu vực địa lý khác nhau.

 Thuế suất: Thuế suất đối với đất ở bao gồm cả trường hợp sử dụng để kinh doanh

áp dụng theo biểu thuế lũy tiến từng phần.

5.2.4 Thuế nhà

Thuế nhà, đất về bản chất là thuế tài sản, một loại thuế trực thu đánh vào các tài

sản. Không thể cho rằng, đánh thuế đối với nhà ở là “thuế chồng lên thuế” như một số

ý kiến không đồng tình. Bởi mỗi sắc thuế có một đối tượng điều chỉnh và mục tiêu

103

riêng. Đây là loại thuế thu hàng năm, với mức động viên thấp vào các đối tượng có

quyền sở hữu nhà.

Ở các nước phát triển như Đức, Singapore, Mỹ… sắc thuế này là phổ biến.

Nguyên lý chung để hình thành loại thuế này là tiền, tài sản của bất cứ cá nhân nào,

suy cho cùng cũng là tài sản của xã hội và chúng phải được huy động vào sản xuất,

kinh doanh, hạn chế việc tồn trữ, không sử dụng như đầu cơ, làm vật trang trí không

cần thiết…

Tuy nhiên, sử dụng tài sản cá nhân như thế nào lại thuộc quyền của từng cá

nhân, pháp luật không thể quy định cứng nhắc. Vì vậy chỉ có thể sử dụng chính sách

thuế để hạn chế những hành vi nói trên. Với nguyên lý đó, thuế tài sản là loại thuế

đánh vào các tài sản cá nhân đến một mức nhất định, người có tài sản có trách nhiệm

nộp thuế cho nhà nước. Khi đó, tình trạng đầu cơ và sử dụng lãng phí tài sản xã hội sẽ

được hạn chế. Hiện nay tình trạng đầu cơ nhà, đất ở nước ta đang rất nghiêm trọng. Vì

vậy, rất cần những biện pháp để hạn chế tình trạng này, huy động tất cả nguồn lực vào

phát triển kinh tế. Tất nhiên, cũng cần khẳng định thuế không phải là công cụ duy nhất

mà chỉ là một trong những công cụ có hiệu quả nhằm ngăn chặn tình trạng đầu cơ trên

thị trường bất động sản. Nguồn thu ngân sách của nước ta sẽ bị giảm khá nhiều trong

những năm tới. Vì vậy, rất cần tạo ra nguồn thu hợp pháp để phục vụ cho kế hoạch

phát triển kinh tế, tránh tình trạng dồn nhiều khoản thu vào doanh nghiệp.

Quan điểm xây dựng chính sách thu thuế nhà

- Luật thuế nhà phải thực hiện được yêu cầu kiểm kê, kiểm soát, quản lý của nhà

nước đối với quỹ nhà. Từ đó, làm căn cứ hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô về

sử dụng nhà ở, khuyến khích sử dụng quỹ nhà ở tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả trong

phát triển kinh tế - xã hội.

- Luật thuế nhà ra đời nhằm góp phần thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp

khoảng cách chênh lệch về thu nhập, tài sản, đời sống của các tầng lớp dân cư.

- Cũng như các sắc thuế khác, Luật thuế nhà phải từng bước bao quát nguồn thu

trong lĩnh vực nhà ở, động viên sự đóng góp cho ngân sách nhà nước, phù hợp với yêu

cầu của chương trình cải cách thuế, tạo điều kiện mở rộng đầu tư, xây dựng cơ sở hạ

tầng, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

- Chế độ thu đối với thuế nhà phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra,

phù hợp với trình độ dân trí trung bình trong xã hội.

104

- Luật thuế nhà khi triển khai thực hiện phải có bước đi thích hợp với điều kiện

kinh tế - xã hội ở thành thị và nông thôn, phù hợp với khả năng đóng góp của người

nộp thuế, gắn với yêu cầu khuyến khích phát triển nông nghiệp nông thôn và nâng cao

dần đời sống nhân dân

Nội dung chủ yếu của chính sách thuế nhà

 Đối tƣợng chịu thuế: Là các loại nhà thuộc đối tượng này bao gồm nhà ở, nhà làm

việc, nhà dùng vào sản xuất, kinh doanh và nhà dùng vào các mục đích khác.

 Đối tƣợng không chịu thuế: Chính sách thuế nhà không thu thuế đối với nhà sử

dụng vào mục đích công cộng, phúc lợi xã hội hoặc từ thiện không vì mục đích

kinh doanh; Nhà chuyên dùng vào việc thờ cúng của các tôn giáo, các tổ chức

không vì mục đích kinh doanh.

 Đối tƣợng nộp thuế:

- Tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất thuộc đối tượng chịu

thuế được quy định là người nộp thuế;

- Trường hợp chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng

nhận quyền sở hữu nhà nhưng có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy định của pháp luật thì người có đủ điều kiện

được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà là người nộp thuế.

- Trường hợp người có quyền sở hữu nhà, quyền SDĐ đem góp vốn bằng quyền

sở hữu nhà, quyền SDĐ mà hình thành pháp nhân mới có quyền sở hữu nhà, quyền sử

dụng đất thuộc đối tượng chịu thuế theo quy định thì pháp nhân mới được hình thành

do các bên góp vốn bằng quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất là người nộp thuế.

- Trường hợp trong năm có thay đổi quyền sở hữu nhà, quyền SDĐ mà người có

quyền sở hữu nhà, quyền SDĐ trước đó chưa nộp hoặc mới nộp 50% số thuế phải nộp

vào lần đầu của năm thì người sau có quyền sở hữu nhà, quyền SDĐ là đối tượng phải

nộp số thuế còn lại. Trường hợp người sở hữu nhà, sử dụng đất trước đó đã nộp đủ số

thuế phải nộp trong năm thì người sau sở hữu nhà, sử dụng đất không phải nộp thuế.

Căn cứ tính thuế nhà là giá tính thuế và thuế suất.

 Giá tính thuế: Giá tính thuế của nhà được xác định như sau

Giá tính thuế Diện tích nhà

= X đối với nhà chịu thuế Giá tính thuế một mét vuông nhà (m2)

- Diện tích nhà chịu thuế là toàn bộ diện tích sàn xây dựng thuộc quyền sở hữu

hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

105

- Giá tính thuế của 1m2 nhà được xác định như sau: Đối với nhà mới xây dựng là đơn giá 1m2 nhà xây dựng mới của nhà ở cùng loại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; đối với nhà đã sử dụng là đơn giá 1m2 nhà xây dựng mới của nhà ở cùng loại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, trừ đi tỷ lệ % đơn giá cho mỗi

năm đã sử dụng. Nhà nước quy định cụ thể việc xác định thời gian đã sử dụng của

nhà, tỷ lệ giảm trừ đối với từng loại, cấp, hạng nhà để tính thuế theo quy định tại điểm

này

- Đối với nhà nhiều tầng, nhiều hộ ở, nhà chung cư (bao gồm cả trường hợp vừa

để ở vừa để kinh doanh), giá tính thuế được xác định bằng việc áp dụng hệ số phân bổ

cho các tầng theo quy định của Nhà nước

- Giá tính thuế đối với nhà được ổn định trong vòng 3 năm kể từ năm tính thuế

đầu tiên theo quy định của chính sách thuế.

 Thuế suất: Áp dụng thuế suất theo biểu thuế lũy tiến từng phần dựa theo phân loại

và hạn mức chịu thuế.

5.2.5 Thuế công trình xây dựng gắn liền trên đất

Quan điểm xây dựng chính sách thuế công trình xây dựng gắn liền trên

đất

Chính sách thuế này được xây dựng nhằm mục đích đánh thuế trên các công

trình và vật kiến trúc gắn liền trên đất, nhằm quản lý các tài sản, bảo vệ quyền lợi hợp

pháp của người sử dụng tài sản, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước

Nội dung chủ yếu của chính sách thuế công trình xây dựng gắn liền trên đất

 Đối tƣợng chịu thuế: Khu nghỉ dưỡng, công viên, vườn cảnh, hồ bơi, công trình

kiến trúc khác …

 Đối tƣợng không chịu thuế: Chính sách thuế công trình xây dựng không thu thuế

đối với đối tượng sử dụng vào mục đích công cộng, phúc lợi xã hội hoặc từ thiện

không vì mục đích kinh doanh

 Đối tƣợng nộp thuế: Tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu công trình xây dựng gắn

liền trên đất thuộc đối tượng chịu thuế được quy định là người nộp thuế.

Căn cứ tính thuế nhà là giá tính thuế và thuế suất.

 Gía tính thuế: Giá tính thuế của công trình xây dựng được xác định như sau

Giá tính thuế Diện tích công Giá tính thuế một mét

đối công trình xây trình xây dựng = X

dựng chịu thuế vuông công trình xây dựng (m2)

106

Giá tính thuế của 1m2 nhà được xác định như sau: - Đơn giá 1m2 do chính quyền địa phương quy định.

- Nhà nước quy định cụ thể việc xác định thời gian sử dụng của công trình xây

dựng, tỷ lệ giảm trừ đối với từng loại, cấp, hạng công trình xây dựng để tính thuế theo

quy định tại điểm này.

 Thuế suất: Áp dụng thuế suất lũy tiến từng phần dựa theo phân loại và hạn mức

chịu thuế.

5.2.6 Thuế phƣơng tiện giao thông

Quan điểm xây dựng chính sách thuế phƣơng tiện giao thông

- Thuế phương tiện giao thông là sắc thuế thu hàng năm đánh vào việc sở hữu và

sử dụng các phương tiện giao thông

- Phương tiện giao thông được xem là khá phổ biến và là tài sản nhiều nhất được

sử dụng hiện nay. Việc đánh thuế phương tiện giao thông nhằm giúp cho công tác

quản lý phương tiện giao thông được chặt chẽ hơn, kiểm soát sự an toàn của các

phương tiện này, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người sử dụng tài sản, có tác động

đến chính sách bảo vệ môi trường, khuyến khích người sử dụng phương tiện hợp lý và

hiệu quả, đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân sách địa phương cho việc quy hoạch

và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông.

- Thuế phương tiện giao thông phải được xây dựng trên nền tảng đơn giản, dễ

hiểu, rõ ràng, tính hiệu quả cao, cần nghiên cứu mối quan hệ chặt chẽ giữa chính sách

thuế này với các chính sách thuế đăng ký tài sản, chính sách môi trường, chính sách

đăng kiểm an toàn phương tiện giao thông…

Nội dung chủ yếu của chính sách thuế phƣơng tiện giao thông

- Đối tƣợng chịu thuế: bao gồm các phương tiện giao thông như tàu bay, tàu,

thuyền, xe ô tô, mô tô.

- Đối tƣợng không chịu thuế: là các phương tiện giao thông thuộc sở hữu nhà

nước, tài sản sử dụng cho các tổ chức nhà nước, tổ chức nước ngoài, tổ chức tôn giáo

và các phương tiện giao thông sử dụng phi kinh doanh

- Đối tƣợng nộp thuế: là các tổ chức và cá nhân sở hữu phương tiện giao thông

theo quy định

- Căn cứ tính thuế: giá tính thuế và thuế suất

107

 Giá tính thuế: được xác định theo giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm tính

thuế hoặc theo giá quy định của Nhà nước cho từng loại phương tiên giao

thông

 Thuế suất: áp dụng thuế tỷ lệ, nên xây dựng mức thuế suất thấp vì đây là loại

tài sản khá phổ biến, thuế suất cần phân ra nhiều mức khác nhau cho từng loại

tài sản

5.3 Một số điều kiện để triển khai mô hình thuế tài sản ở Việt nam đạt hiệu quả

Thuế tài sản nằm trong mối quan hệ với các loại thuế khác trong toàn bộ hệ

thống thuế ở nước ta và là loại thuế ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống mọi tầng lớp

nhân dân, đặc biệt với hơn chục triệu hộ nông dân phải nộp thuế sử dụng đất nông

nghiệp, đất ở và đất kinh doanh. Vì vậy, khi thực hiện thuế tài sản phải giải quyết

đồng bộ các điều kiện chủ yếu để có thể bảo đảm triển khai thuế tài sản một cách

thuận lợi, đó là:

- Cần có sự chủ động và quyết tâm cao từ phía chính phủ đối với chương trình

cải cách, bao gồm cả việc cụ thể hóa trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai

đoạn 2011-2020.

- Việc xây dựng chính sách, chế độ được thực hiện trên cơ sở điều tra, khảo sát

thận trọng, phân tích khách quan, toàn diện, tiếp thu được nhiều ý kiến đóng góp để có

những quy định khả thi.

- Xây dựng các văn bản pháp quy nhằm xác định rõ những tài sản thuộc đối

tượng Nhà nước phải quản lý làm cơ sở để đánh thuế.

- Nhanh chóng hoàn thành việc đo đạc, lập bản đồ và hồ sơ địa chính, cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đó, thực hiện phân loại đất theo các mục

đích sử dụng đất khác nhau.

- Thành lập Hội đồng tư vấn thuế địa phương nhằm xây dựng khung giá tính

thuế tài sản, phân hạng tài sản chịu thuế, hạn mức chịu thuế...

- Ứng dụng công nghệ thông tin để cập nhật và theo dõi những biến động về tình

hình sử dụng những tài sản mà nhà nước cần quản lý. Hiện đại hóa quản lý thuế tài

sản theo phương thức quản lý thu thuế tài sản trên mạng vi tính thống nhất cả nước

bằng cách cấp "mã số" của thửa đất, lô đất theo bản đồ địa chính cho từng tổ chức, cá

nhân sử dụng đất để quản lý tổng diện tích đất tính thuế của cả nước, từng địa phương,

từng chủ sử dụng đất, theo dõi tình hình biến động của từng thửa đất (thay đổi chủ sử

dụng đất, thay đổi mục đích sử dụng đất…)

108

- Thiết lập hệ thống chứng từ hợp pháp về những tài sản nhà nước cần quản lý và

có quy định chế tài phù hợp. Thực hiện chế độ báo cáo và quản lý thuế tài sản từ các

cơ quan quản lý về thu thuế tài sản theo yêu cầu, biểu mẫu thống nhất.

- Phân định rõ trách nhiệm cho các cấp chính quyền trong việc quản lý các tài

sản thuộc diện nhà nước quản lý. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế tài sản theo

hướng trực tiếp hành thu phân cấp cho các chi cục, ở Cục thuế và Tổng Cục thuế có

bộ phận chỉ đạo, hướng dẫn quản lý thuế tài sản.

- Hạn chế việc lồng ghép chính sách xã hội vào trong chính sách thuế để đảm

bảo sự đơn giản trong chính sách thuế.

- Văn bản Luật thuế tài sản cần được ban hành đồng bộ với các Nghị định,

Thông tư quy định và hướng dẫn thi hành cụ thể theo những quan điểm nhất quán, gắn

chính sách thuế với các quy định pháp lý về quản lý tài sản.

- Thực hiện đào tạo cán bộ công chức thuế thành thạo về chuyên môn, nghiệp

vụ, quy trình quản lý thu thuế tài sản. Cải tiến thủ tục hành chính theo hướng đơn

giản, đặc biệt là bồi dưỡng đạo đức, phong cách làm việc lịch sự, chu đáo, tận tình với

người nộp thuế, đồng thời phải có quy chế xử lý nghiêm minh với cán bộ thuế có hành

vi vi phạm đạo đức cán bộ thuế.

- Mở rộng và đa đạng hóa các hình thức tuyên truyền để nâng cao trình độ hiểu

biết về chính sách thuế của đông đảo các tầng lớp dân cư, qua đó làm cho mọi người

thấy rõ trách nhiệm, tự giác làm tốt nghĩa vụ thuế tài sản.

- Tăng cường cơ sở vật chất đối với bộ phận tổ chức thu thuế tài sản tại cơ quan

thu thuế. Văn phòng giao dịch nơi trực tiếp thu thuế phải đảm bảo khang trang, có đủ

phương tiện, trang thiết bị đảm bảo cho cán bộ thuế làm việc giao dịch với người nộp thuế văn minh, lịch sự.

Kết luận chƣơng 5

Qua đối chiếu giữa cơ sở lý luận về thuế tài sản và thực trạng về chính sách

thuế liên quan đến tài sản ở Việt nam. Tác giả nhận thấy, việc xây dựng chính sách

thuế tài sản thật sự là một yêu cầu cần thiết mang tính khách quan bởi lẽ:

- Đất nước đang trong quá trình đổi mới và phát triển, thu nhập và đời sống của

đa số nhân dân tăng lên nhanh chóng. Cùng với quá trình đô thị hóa, việc mở rộng

diện tích đất ở, xây dựng nhà cửa, mua sắm tài sản phát triển nhanh, kéo theo sự gia

tăng khoảng cách giàu nghèo của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Để góp phần thực

hiện phân phối lại thu nhập trong dân cư, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, nhưng

109

vẫn bảo đảm sự tăng trưởng vững chắc, ổn định của nền kinh tế, các nhà nghiên cứu

cần thiết phải xem xét, sửa đổi, bổ sung chính sách thuế hiện hành. Trong đó, chế độ

thu ngân sách đối với đất đai, nhà cửa, tài sản được điều chỉnh chủ yếu thông qua

chính sách thuế đối với tài sản.

- Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các quan hệ tài sản, nhà cửa, đất đai

đang biến động khá phức tạp, đa dạng không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trong

phạm vi quốc tế. Vì vậy, chính sách thuế đối với tài sản cần rõ ràng hơn và phù hợp

hơn với thông lệ quốc tế để góp phần đắc lực vào yêu cầu quản lý tài sản quốc gia,

phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập.

- Quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế tất yếu dẫn đến sự giảm sút

nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế nhập khẩu… Chính sách thuế được hoàn thiện

theo hướng tăng tỷ trọng thu trong nước, trên cơ sở phát triển sản xuất kinh doanh,

nâng dần tỷ lệ thuế trực thu trong tổng thu ngân sách. Vì vậy, cần xem xét việc cải

cách các sắc thuế nội địa, trong đó có thuế đối với tài sản nhằm khai thác thêm nguồn

thu, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước.

- Việc hoàn thiện mô hình thuế tài sản sẽ góp phần bảo đảm mối quan hệ hữu cơ

với các sắc thuế khác trong quá trình cải cách hệ thống chính sách thuế, tiến dần đến

việc xây dựng một hệ thống thuế hoàn chỉnh và đồng bộ.

110

KẾT LUẬN

“Xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam

” được hoàn thiện dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với thực tiễn nhằm

nghiên cứu các nội dung cốt lõi để xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam trong

những năm tới. Trong phạm vi nghiên cứu có hạn, đã thực hiện các nội dung

và kết quả đạt được chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống các vấn đề lý luận liên

quan đến tài sản và thuế tài sản, làm rõ các yếu tố cấu thành thuế tài sản, tầm quan

trọng của thuế tài sản, vai trò và vị trị chiến lược của thuế tài sản trong hệ thống thuế

quốc gia, những nhân tố cốt lỗi cấu thành mô hình thuế tài sản.

Thứ hai, đã phân tích và chỉ rõ thực trạng về việc quản lý tài sản hiện nay, các

chính sách thuế có liên quan đến tài sản đang được áp dụng hiện tại, những mặt đã đạt

được và những mặt còn hạn chế trong quá trình vận dụng của nước ta hiện nay.

Thứ ba, đã tìm hiểu và đúc kết những kinh nghiệm vận dụng mô hình

thuế thuế tài sản ở một số quốc gia khác như Thụy Điển, Đài Loan, Cộng Hòa Pháp…

từ đó vận dụng cho việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam.

Thứ tư, qua nghiên cứu bối cảnh tình hình kinh tế-xã hội ở Việt nam, đề xuất

mô hình thuế tài sản trong giai đoạn tới cho Việt Nam cũng như các điều kiện để

chính sách thuế tài sản thực hiện được hoàn chỉnh.

Như vậy, trong chiến lược cải cách thuế ở nước ta từ nay đến 2020, đề

xuất mô hình thuế tài sản gồm các sắc thuế: Thuế đăng ký tài sản, thuế sử dụng đất

nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế nhà, thuế công trình xây dựng

gắn liền trên đất, thuế phương tiện giao thông. Các sắc thuế này có mối quan hệ tương

thích, bổ sung và phụ thuộc nhau theo ý nghĩa hệ thống. Sự kết hợp chặt chẽ và hợp lý

giữa các loại thuế tài sản không những thực hiện mục tiêu toàn bộ hệ thống thuế một

cách hữu hiệu nhất mà còn tạo điều kiện nâng cao hiệu quả của công tác hành thu.

Trong điều kiện thời gian có hạn, chỉ tập trung nghiên cứu việc xây

dựng mô hình thuế tài sản, chủ yếu nghiên cứu các nhân tố mô hình thuế tài

sản sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam. Tác giả mong muốn

trong tương lai gần sẽ tiếp tục hoàn tất phần tiếp theo của mô hình nhằm đóng góp

một phần nghiên cứu khoa học cho ngành tài chính nhà nước trong công cuộc cải cách

thuế./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Vũ Đình Ánh, “Chính sách thuế, phí, lệ phí đối với thị trường bất động sản: Để

vừa quản lý hiệu quả, vừa thúc đẩy thị trường phát triển?”, Tạp chí Tài chính

(số 02/2008), trang 26-30.

2. Đinh Văn Ân – Trần Kim Chung, “Phát triển thị trường bất động sản: Phải

phối hợp đồng bộ các chính sách”, Tạp chí Tài chính , (số 03/2008), trang 41-

44.

3. Bộ Tài chính (2006), Hệ thống văn bản mới nhất về quản lý, kinh doanh và tài

chính đối với bất động sản, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.

4. Nguyễn Đình Chiến (2006), “Thuế tài sản và khả năng áp dụng ở Việt Nam”,

Thuế Nhà Nước, (kỳ 1 tháng 3), Tr 9-11.

5. Nguyễn Đình Chiến (2006), “Xây dựng chính sách thuế đánh vào tài sản ở

Việt Nam trong thời gian tới”, Nghiên cứu tài chính kế toán, (1/18), tr 22-24.

6. ETV2 – Bộ Tài chính (2008), Cách đánh thuế tài sản ở Việt Nam, Tài liệu Hội

thảo ngày 22,23/8/2008 tại Hải Phòng.

7. ETV2 – Bộ Tài chính (2009), Cải cách thuế của Việt Nam, Tài liệu Hội thảo

ngày 26,27/2/2009 tại TP. Hồ Chí Minh.

8. Hoàng Thị Giang, “Xây dựng luật thuế tài sản hay pháp luật thuế tài sản ở Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu tài chính kế toán (số 10/2008), trang 66-

67.

9. Gangadha Prasad Shukla-Phạm Minh Đức-Michael Engelschalk-Lê Minh

Tuấn (2011), Cải cách thuế ở Việt Nam: Hướng tới một hệ thống hiệu quả và

công bằng hơn, Ban quản lý kinh tế và xóa đói giảm nghèo Khu vực Châu Á

Thái Bình Dương.

10. Nguyễn Văn Hiệu – Lê Xuân Trường (2008), Hệ thống thuế một số nước

Asean và Trung Quốc, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.

11. Học viện Tài chính (2005), Giáo trình Quản lý tài chính công, NXB Tài chính.

12. Đàm Văn Huệ (2006), Thuế đất đai – công cụ quản lý và điều tiết thị trường

BĐS, Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.

13. Ngô Văn Khương, “Góp ý xây dựng luật thuế tài sản ở Việt Nam”, Tạp chí

Nghiên cứu tài chính kế toán (số 01/2009), trang 53-56.

14. Quách Đức Pháp (2002), Nghiên cứu thuế tài sản áp dụng tại Việt Nam trong

những năm tới, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.

15. Huỳnh Huy Quế, “Góp ý hoàn thiện Dự luật thuế tài sản”, Tạp chí Thuế nhà

nước (các số 38,39,40/2008)

16. Nguyễn Hồng Thắng, PGS.TS Sử Đình Thành, Mô hình tài chính công, tài liệu

lưu hành nội bộ, Trường ĐH Kinh tế TP.HCM

17. Sử Đình Thành – TS. Bùi Thị Mai Hoài (2006), Lý thuyết Tài chính công, Nhà

xuất bản Đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

18. Tổng cục thuế (2006), Cẩm nang pháp luật về thuế nhà đất, Nhà xuất bản Tài

chính, Hà Nội.

19. Việt Tuấn, “Xây dựng dự thảo Luật thuế tài sản ở Việt Nam: Những đề xuất từ

thực tế”, Tạp chí Thuế Nhà nước (số 33/2008), trang 8-9.

20. Website Bộ Tài chính Việt Nam: http://www.mof.gov.vn

Số liệu công khai dự toán, quyết toán NSNN hàng năm

“Hội thảo cách đánh thuế tài sản ở Việt Nam” (25/08/2008)

“Đánh thuế tài sản để bình ổn thị trường bất động sản” (02/11/2010)

“Thuế tài sản đang đi sau cuộc sống” (17/09/2008)

“Thuế tài sản-Kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng tại Việt nam”

(09/04/2008)

“Dự thảo Luật thuế nhà, đất” (16/04/2009)

“Dự thảo Luật thuế nhà, đất: Hướng tới rõ ràng, công bằng và minh bạch”

(20/05/2009)

21. Website Chương trình cải cách thuế tài sản. www.etv2.vn, “Thuế tài sản - Các

phương thức quốc tế tốt nhất và khả năng thực hiện ở Việt Nam” (29/05/2009).

22. Website Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright http://www.fetp.edu.vn/

23. Website Tổng cục thuế: http://www.gdt.gov.vn:

“Phương pháp xác định giá tính thuế bất động sản” (03/10/2008)

“Thuế nhà và thuế đất: Cần cải cách toàn diện” (07/08/2008)

“Chính sách thuế trong quản lý Nhà nước về đất đai” (13/04/2009)

“Tác động của thuế đối với thị trường bất động sản” (13/04/2009)

“Thuế tài sản và khả năng áp dụng tại Việt Nam” (10/04/2008)

“Định hướng chính sách tài chính liên quan đến đất đai” (31/05/2009)

“Thuế Tài Sản ở Việt Nam nên xây dựng theo hướng nào?” (31/05/2009)

24. Website Tổng cục Thống kê Việt Nam: http://www.gso.gov.vn

Tiếng Anh

25. David L. Cameron, Property taxex, Willamette University Publishers, USA.

26. Harvey S.Rosen, Public Finance, Bản dịch Tiếng Việt của Khoa Tài chính nhà

nước – Đại học Kinh tế (2004), TP. Hồ Chí Minh.

27. Jonathan Gruber (2005), Puclic Finace and Public Policy, Worth Publishers.

28. Jay K.Rosengard (1998), Property Tax Reform in Developing Countries,

Kluver Academic Publishers, Boston.

29. Murphy Higgins (2007), Concepts in Federal Taxation, Thomson Publishers,

USA.

DANH MỤC PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Nội dung thảo luận

1

Phụ lục 2: Phiếu phỏng vấn chuyên gia

2

Phụ lục 3.1: Phiếu điều tra

4

Phụ lục 3.2: Mã hóa các biến quan sát của mô hình

6

Phụ lục 3.3: Các biến còn lại sau khi kiểm định Cronbach’s Alpha

7

Phụ lục 3.4: Kết quả phân tích từ SPSS 18.0

8

Phụ lục 4: Thu ngân sách Nhà nước

20

1

Phụ lục 1:

NỘI DUNG THẢO LUẬN

ĐỀ TÀI: XÂY DỰNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM

Nhằm để thu thập thông tin và dữ liệu cho việc nghiên cứu mô hình thuế tài

sản ở Việt Nam trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay với định hướng mô hình thuế

tài sản cần phải đảm bảo tính hiệu quả, nên tổ chức buổi thảo luận chuyên đề với

những nội dung sau:

- Tại sao phải đánh thuế tài sản?

- Thuế TS có vai trò và sự ảnh hưởng thế nào? A. Thuế tài sản - Dưới góc độ Luật thuế của Việt Nam hiện nay

quy định như thế nào về thuế tài sản?

- Những đối tượng tài sản nào thuộc phạm vi

đánh thuế tài sản?

- Tại sao phải mở rộng đối tượng chịu thuế TS?

- TS nào nên chịu thuế trong nhóm? Tại sao?

B. Đối tượng chịu thuế tài sản  Bất động sản

 Động sản

 Tài sản tài chính

 Tài sản vô hình

 Tài sản khác

- Nên áp dụng hình thức đánh thuế nàophù hợp?

- Tại sao không đánh thuế thu nhập từ tài sản? C. Hình thức đánh thuế tài sản - Tập trung vào những tài sản nào để đánh thuế?

- Đánh thuế định kỳ hay thường xuyên?

- Nên áp dụng giá tính thuế như thế nào? D. Căn cứ tính thuế tài sản - Dạng thuế suất nào cho phù hợp?

- Để cho mô hình thuế TS ở Việt Nam đạt hiệu

E. Tính hiệu quả thuế tài sản quả thì cần dựa trên những tiêu chí nào để xây

dựng.

2

Phụ lục 2:

PHIẾU PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA

ĐỀ TÀI: XÂY DỰNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM

Tôi xin chân thành cám ơn quý vị đã đến tham dự buổi thảo luận chuyên đề.

Sau khi tổng hợp kết quả thảo luận nhóm, nhằm để thu thập thông tin và dữ liệu cho

việc nghiên cứu mô hình thuế TS ở Việt Nam trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay

với định hướng mô hình thuế tài sản cần phải đảm bảo tính hiệu quả, xin ông/bà vui

lòng cho biết những nhận định sau:

Theo ông/bà nên hay không đánh thuế tài sản đối với: Đồng ý Không đồng ý

1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp

2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp

3 Nhà

4

Công trình xây dựng gắn liền trên đất (khu nghỉ dưỡng, hồ bơi, công viên, vườn cảnh, các công trình kiến trúc khác… không sử dụng cho mục đích kinh doanh)

5 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ)

6 Tài nguyên (quyền khai thác)

7 Phương tiện giao thông (máy bay, ô tô, mô tô, tàu thuyền)

8 Tài sản vô hình (bản quyền, bằng phát minh, sáng chế)

9 Chứng khoán

Theo ông/bà đánh thuế tài sản thì nên:

10 Tập trung vào những TS Nhà nước cần quản lý Đồng ý Không đồng ý

11 Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn 12 Dựa trên thu nhập của tài sản

13 Dựa trên giá trị của tài sản 14 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản)

15 Quy định ngưỡng chịu thuế 16 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu TS

3

17 Đánh thuế hàng năm đối với TS

Theo ông/bà về căn cứ tính thuế tài sản thì nên dựa vào: Đồng ý Không đồng ý

Giá thị trường của tài sản 18

Giá trị ròng của tài sản chịu thuế 19

Giá trị tài sản ấn định 20

Thuế suất lũy tiến 21

Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 22

Thuế suất lũy thoái 23

Theo ông/bà để có một hệ thống thuế tài sản hiệu quả thì cần dựa vào

Hiệu quả kinh tế Đồng ý Không đồng ý 24

Tính bền vững và khả thi 25

Độ đàn hồi ổn định 26

Thể hiện tính công bằng 27

28

Giảm chi phí thực thi khi thực hiện (đơn giản, minh bạch, linh hoạt)

Xin cám ơn

4

Phụ lục 3.1

PHIẾU ĐIỀU TRA

MỘT SỐ THÔNG TIN CÁ NHÂN :

Giới tính : Nam Nữ

Trình độ: Đại học Trên đại học

Nghề nghiệp:.................................................................................................................

Đơn vị công tác:............................................................................................................

Thâm niên công tác < 5 năm Từ 5 năm đến < 10 năm

   Từ 10 năm đến <15 năm  Từ 15 năm trở lên

Nhằm để thu thập thông tin và dữ liệu cho việc nghiên cứu mô hình thuế tài

sản ở Việt Nam trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay, xin Ông/Bà vui lòng

tham gia đóng góp ý kiến nhận định theo những nội dung sau:

ý

g n ồ đ

ý

ý

g n ô h k

g n ồ đ

n ế i k

g n ồ đ

ý

ý

n à o t

n à o t

n à o H

g n ô h K

g n ô h K

g n ồ Đ

n à o H

NỘI DUNG THU THẬP THÔNG TIN

1 1 1 2 2 2 3 3 3 4 4 4 5 5 5

1 2 3 4 5

Xin cho biết mức độ tán thành của Anh/Chị đối với các vấn đề sau đây 1 2 3 4 5 Hoàn toàn không đồng ý Hoàn toàn đồng ý Trả lời bằng cách khoanh tròn vào ô tương ứng, nghĩa là: Chọn ô số (1): khi Hoàn toàn không đồng ý Chọn ô số (5): khi Hoàn toàn đồng ý Chọn một trong các ô số (2), (3), (4) tương ứng với các mức độ trung gian. Theo ông/bà nên đánh thuế tài sản đối với: 1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp 2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp 3 Nhà 4 Công trình xây dựng gắn liền trên đất (khu nghỉ dưỡng, hồ bơi, công viên, vườn cảnh, các công trình kiến trúc khác… không sử dụng cho mục

5

đích kinh doanh)

1 1 2 2 3 3 4 4 5 5

5 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) 6 Tài nguyên (quyền khai thác) 7 Phương tiện giao thông (máy bay, ô tô, mô tô, tàu 1 2 3 4 5 thuyền)

8 Tài sản vô hình (bản quyền, bằng phát minh, sáng 1 2 3 4 5 chế, thương hiệu)

1 2 3 4 5

1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 2 2 2 2 2 2 3 3 3 3 3 3 3 3 4 4 4 4 4 4 4 4 5 5 5 5 5 5 5 5

2 2 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1 3 3 3 3 3 3 4 4 4 4 4 4 5 5 5 5 5 5

1 1 1 1 2 2 2 2 3 3 3 3 4 4 4 4 5 5 5 5

9 Chứng khoán Theo ông/bà đánh thuế tài sản thì nên: 10 Tập trung vào những TS Nhà nước cần quản lý 11 Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn 12 Dựa trên thu nhập của tài sản 13 Dựa trên giá trị của tài sản 14 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) 15 Quy định ngưỡng chịu thuế 16 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu TS 17 Đánh thuế hàng năm đối với TS Theo ông/bà về căn cứ tính thuế tài sản thì nên dựa vào: 18 Giá thị trường của tài sản 19 Giá trị ròng của tài sản chịu thuế 20 Giá trị tài sản ấn định 21 Thuế suất lũy tiến 22 Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 23 Thuế suất lũy thoái Theo ông/bà để có một hệ thống thuế tài sản hiệu quả thì cần dựa vào : 24 Hiệu quả kinh tế 25 Tính bền vững và khả thi 26 Độ đàn hồi ổn định 27 Thể hiện tính công bằng 28 Giảm chi phí thực thi khi thực hiện (đơn giản, 1 2 3 4 5 minh bạch, linh hoạt)

Xin cám ơn.

6

Phụ lục 3.2: Mã hóa các biến quan sát của mô hình Thành phần

Biến quan sát

Đối tượng chịu thuế tài sản Mã hóa D01 D02 D03 D04 D05 D06 D07

TT 1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp 2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp 3 Nhà ở 4 Công trình xây dựng gắn liền trên đất 5 6 7 8 D08 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) Tài nguyên (quyền khai thác) Phương tiện giao thông Tài sản vô hình (bản quyền, bằng phát minh, sáng chế, thương hiệu)

D09

9 Chứng khoán 10 Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần H10 quản lý

Hình thức đánh thuế tài sản H11 H12 H13 H14 H15

11 Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn 12 Dựa trên thu nhập của tài sản 13 Dựa trên giá trị của tài sản 14 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) 15 Quy định ngưỡng chịu thuế 16 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu H16 tài sản

Căn cứ tính thuế tài sản

Tính hiệu quả của thuế tài sản

17 Đánh thuế hàng năm đối với tài sản 18 Giá thị trường của tài sản 19 Giá trị ròng của tài sản chịu thuế 20 Giá trị tài sản ấn định 21 Thuế suất lũy tiến 22 Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 23 Thuế suất lũy thoái 24 Hiệu quả kinh tế 25 Tính bền vững và khả thi 26 Độ đàn hồi ổn định 27 Thể hiện tính công bằng 28 Giảm chi phí thực thi khi thực hiện H17 C18 C19 C20 C21 C22 C23 T24 T25 T26 T27 T28

7

Phụ lục 3.3: Các biến còn lại của mô hình sau khi kiểm định Hệ số Cronbach’s Alpha

Mã hóa Biến Thành phần

1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp D01

2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp D02 Đối tượng 3 Nhà ở D03 chịu thuế 4 Công trình xây dựng gắn liền trên đất D04 tài sản 5 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) D05

6 Phương tiện giao thông D07

7 Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản lý H10

8 Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn H11

9 Dựa trên giá trị của tài sản H13 Hình thức 10 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) H14 đánh thuế 11 Quy định ngưỡng chịu thuế H15 tài sản 12 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài H16 sản

13 Đánh thuế hàng năm đối với tài sản H17

14 Giá thị trường của tài sản tại thời điểm tính thuế C18

15 Giá trị tài sản ấn định C20 Căn cứ tính

thuế tài sản 16 Thuế suất lũy tiến C21

17 Thuế suất tỷ lệ (trung bình) C22

18 Hiệu quả kinh tế T24

19 Tính bền vững và khả thi T25 Tính hiệu

quả của 20 Độ đàn hồi ổn định T26

thuế tài sản 21 Thể hiện tính công bằng T27

22 Giảm chi phí thực thi khi thực hiện T28

8

Phụ lục 3.4: Kết quả phân tích từ SPSS 18.0

Descriptive Statistics

N Minimum Maximum Mean Std. Deviation

.996 1.099 1.009 .890 1.070 1.003 1.073 .997 1.040 1.169 1.030 1.026 .924 1.082 1.012 1.099 1.034 .906 1.323 .871 .881 .828 1.343 1.107 1.105 .995 1.056 .960

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 3.59 3.62 3.72 3.83 3.48 3.77 3.57 3.87 3.75 3.53 3.58 4.09 3.82 3.59 3.68 3.57 3.64 4.17 3.78 4.33 3.97 4.46 3.83 3.86 3.62 3.78 3.75 3.85 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 D01 D02 D03 D04 D05 D06 D07 D08 D09 H10 H11 H12 H13 H14 H15 H16 H17 C18 C19 C20 C21 C22 C23 T24 T25 T26 T27 T28 Valid N (listwise)

9

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

.803 9

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted

29.61 29.58 29.48 29.38 29.72 29.44 29.64 29.33 29.46 25.948 25.730 25.827 26.370 25.353 28.750 24.925 27.039 29.132 .579 .527 .582 .618 .586 .284 .629 .461 .231 .773 .780 .772 .770 .771 .810 .765 .788 .817 D01 D02 D03 D04 D05 D06 D07 D08 D09

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

.817 8

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted

25.86 25.83 25.73 25.63 22.176 21.994 21.973 22.648 .636 .575 .649 .672 .782 .790 .780 .780 D01 D02 D03 D04

10

21.547 26.998 21.351 24.412 25.97 25.69 25.89 25.58 .648 .108 .668 .378 .779 .851 .776 .817 D05 D06 D07 D08

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

.851 7

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted

22.09 22.07 21.97 21.86 22.21 22.12 21.82 20.030 19.928 19.809 20.567 19.349 19.393 23.212 .671 .597 .687 .699 .691 .683 .290 .822 .833 .819 .820 .818 .820 .874 D01 D02 D03 D04 D05 D07 D08

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

.874 6

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted

D01 D02 D03 18.22 18.19 18.09 16.900 16.716 16.332 .650 .588 .719 .857 .869 .845

11

D04 D05 D07 17.99 18.33 18.25 17.039 16.145 16.021 .733 .689 .703 .846 .850 .848

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

.862 8

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted

25.97 25.92 25.42 25.69 25.92 25.83 25.93 25.86 25.323 28.206 31.094 28.964 27.742 27.819 27.046 27.238 .771 .595 .317 .598 .602 .649 .658 .692 .824 .846 .876 .846 .846 .840 .839 .835 H10 H11 H12 H13 H14 H15 H16 H17

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

.876 7

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted

H10 H11 21.88 21.83 21.322 23.950 .778 .604 .841 .865

12

24.845 23.641 23.557 22.881 23.026 21.60 21.83 21.74 21.84 21.77 .585 .597 .663 .667 .706 .867 .866 .857 .857 .852 H13 H14 H15 H16 H17

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

.582 6

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted

20.37 20.76 20.21 20.57 20.08 20.71 9.352 10.485 9.061 9.811 9.458 9.661 .475 .067 .570 .403 .523 .161 .478 .672 .445 .509 .469 .630

C18 C19 C20 C21 C22 C23

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

.672 5

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted

C18 C20 16.59 16.43 7.058 6.996 .541 .593 .573 .554

13

C21 C22 C23 16.79 16.30 16.93 7.508 7.373 7.363 .456 .539 .181 .611 .581 .783

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

.783 4

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted

C18 C20 C21 C22 12.76 12.60 12.96 12.47 4.239 4.264 4.724 4.541 .617 .651 .487 .606 .715 .697 .781 .722

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

.813 5

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted

14.99 15.24 15.08 15.11 15.01 9.827 10.652 11.145 10.363 10.419 .661 .523 .528 .612 .694 .757 .801 .797 .773 .751 T24 T25 T26 T27 T28

14

KMO and Bartlett's Test

.824

Approx. Chi-Square 1.471

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity df 136

Sig. .000

Communalities

Initial Extraction

1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 .580 .506 .692 .703 .625 .672 .751 .529 .511 .502 .596 .581 .651 .636 .672 .500 .630 D01 D02 D03 D04 D05 D07 H10 H11 H13 H14 H15 H16 H17 C18 C20 C21 C22

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Total Variance Explained

Comp onent Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared Loadings Rotation Sums of Squared Loadings

15

% of Variance Cumulati ve % Total % of Variance Cumula tive % Total % of Variance Cumula tive % Total

32.139 32.139 4.058 23.872 23.872 16.849 48.988 3.798 22.341 46.213 11.821 60.809 2.481 14.596 60.809

5.464 2.864 2.010 .862 .797 .656 .602 .582 .532 .523 .437 .422 .345 .279 .260 .229 .135 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17

32.139 32.139 5.464 16.849 48.988 2.864 11.821 60.809 2.010 65.877 5.068 70.565 4.688 74.425 3.860 77.968 3.542 81.393 3.426 84.526 3.132 87.600 3.075 90.171 2.571 92.656 2.485 94.688 2.032 96.331 1.643 97.861 1.530 99.207 1.346 .793 100.000

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Rotated Component Matrixa

Component

1 2 3

.863 .801 .768 .749 .697 .681 .637

.813 .810 H10 H17 H15 H16 H11 H14 H13 D04 D03

16

.810 .785 .752 .653

D07 D05 D01 D02 C20 C18 C22 C21 .804 .770 .768 .705

KMO and Bartlett's Test

.788

Approx. Chi-Square 297.386

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity df 10

Sig. .000

Communalities

Initial Extraction

1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 .651 .476 .492 .581 .683 T24 T25 T26 T27 T28

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Total Variance Explained

Comp Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared Loadings

17

onent % of

Total Variance Cumulative % Total % of Variance Cumulative %

57.661

2.883 .742 .634 .394 .347 57.661 14.844 12.671 7.878 6.946 1 2 3 4 5

57.661 72.505 85.176 93.054 100.000 2.883 57.661

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Component Matrixa Component

1

.827 .807 .762 .701 .690 T28 T24 T27 T26 T25

Extraction Method: Principal Component Analysis. a. 1 components extracted.

Correlations

F_Doituong F_Hinhthuc F_Cancu F_Hieuqua

F_Doituong Pearson 1 .283** .284** .567** Correlation

Sig. (2-tailed) .000 .000 .000

N 180 180 180 180

F_Hinhthuc Pearson .283** 1 .250** .486** Correlation

Sig. (2-tailed) .001 .000

N .000 180 180 180 180

18

F_Cancu .284** .250** 1 .503** Pearson Correlation

.000 .001 .000 Sig. (2-tailed)

180 180 180 180 N

F_Hieuqua Pearson .567** .486** .503** 1 Correlation

.000 .000 .000 Sig. (2-tailed)

180 180 N

180 180 **. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

Variables Entered/Removedb

Variables Entered Variables Removed Method Model

1

. Enter

F_Cancu, F_Hinhthuc, F_Doituonga

a. All requested variables entered. b. Dependent Variable: F_Hieuqua

Model Summary

Model R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate

1 R .725a .526 .518 .54904

a. Predictors: (Constant), F_Cancu, F_Hinhthuc, F_Doituong

ANOVAb

19

Sum of Squares Model df Mean Square F Sig.

1 Regression 65.194 .000a 58.956 3

Residual 53.053

19.652 .301 Total 112.010 176 179

a. Predictors: (Constant), F_Cancu, F_Hinhthuc, F_Doituong b. Dependent Variable: F_Hieuqua

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients Standardize d Coefficients Collinearity Statistics

Model B Std. Error Beta t Sig. Tolerance VIF

1 (Constant) -.269 .303 -.889 .375

F_Doituong .387 .055 .393 7.075 .000 .871 1.148

F_Hinhthuc .294 .055 .296 5.378 .000 .889 1.125

F_Cancu .370 1.126

.064 .317 5.761 .000 .888

a. Dependent Variable: F_Hieuqua

Collinearity Diagnosticsa

Variance Proportions

Mode l Dimen sion Eigenvalue Condition Index (Constant) F_Doituong F_Hinhthuc F_Cancu

1 3.928 1.000 .00 .00 .00 .00 1

.033 10.909 .00 .57 .66 .00 2

.027 12.002 .10 .42 .31 .29 3

.012 .71 4

17.965 .90 .01 .03 a. Dependent Variable: F_Hieuqua

20