BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM -------------------------
XÂY DỰNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành: Kế toán
Mã ngành: 60340301
TP.Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TR TP. HCM
---------------
NGUY
XÂY DỰNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC S
Chuyên ngành: Kế toán
Mã ngành: 60340301
H
: TS TR
i
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM Cán bộ hướng dẫn khoa học : TS. TR
(Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị và chữ ký)
Luận văn Thạc sĩ được bảo vệ tại Trường Đại học Công nghệ TP. HCM ngày 19
tháng 04 năm 2015.
Thành phần Hội đồng đánh giá Luận văn Thạc sĩ gồm:
1. PGS.TS. Phan Đình Nguyên - Chủ Tịch
2. TS. Nguy h -
3. -
4. -
5. -
Xác nhận của Chủ tịch Hội đồng đánh giá Luận sau khi Luận văn đã được sửa chữa
(nếu có).
Chủ tịch Hội đồng đánh giá LV
ii
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TP. HCM, ngày 20 tháng 03 năm 2015
PHÒNG QLKH – ĐTSĐH --------------------- --------------------------------- NHIỆM VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ Họ tên học viên: YÊN Giới tính:
Ngày, tháng, năm sinh: 01-01-1972 Nơi sinh:
Chuyên ngành: MSHV:1341850056
I- Tên đề tài:
-
II- Nhiệm vụ và nội dung: -
h -
-
-
-
III- Ngày giao nhiệm vụ: 27/08/2014
IV- Ngày hoàn thành nhiệm vụ: 20/03/2015
V- Cán bộ hƣớng dẫn: CÁN BỘ HƢỚNG DẪN KHOA QUẢN LÝ CHUYÊN NGÀNH (Họ tên và chữ ký) (Họ tên và chữ ký)
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan l
- khoa học của riêng tôi. Các số liệu
là công trình nghiên cứu trong luận văn là trung thực .
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
iv
LỜI CẢM ƠN biết ơn sâu sắc đến
đã
hướng dẫn,
suốt quá trình
.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến
–
– , Trường Đại học Sài Gòn, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, Ban Kinh tế Trung ương, Tổng Cục Thuế, Cục Thống kê TP.HCM, Cục Thuế TP.HCM, Cục Thuế Tỉnh Đồng Nai, Cục Thuế Bà Rịa-Vũng Tàu, Cục Thuế Tỉnh Bình Dương đã
.
T
v
Trong cơ cấu hệ thống thuế hiện nay thì thuế tài sản ngày càng được quan tâm bởi
lẽ loại thuế này có số thu ổn định, bền vững, chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu
ngân sách nhà nước. Thuế tài sản góp phần điều tiết cung cầu tài sản trên thị trường.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến nhanh và
thay đổi tích cực, v là hết sức cần thiết trong hệ thống thuế
của Việt Nam hiện nay, đáp ứng nhu cầu cấp thiết cho Ngân sách Nhà Nước.
ghiên cứu mô hình thuế tài sản ở các nước trên thế
giới, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt
Nam.
Phân tích và đánh giá thực trạng về chính sách thuế liên quan đến tài sản ở
Việt nam hiện nay, chỉ ra những ưu-nhược điểm của chính sách thuế hiện nay và so
sánh chính sách thuế t
tắc xây dựng mô hình thuế tài sản, xác định các nhân tố hình thành và tác động đến
mô hình. Phân tích và đề xuất mô hình thuế tài sản ở Việt nam theo hướng đảm bảo
tính hiệu quả và phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội hiện nay nhằm nâng tỷ trọng
thu ngân sách , ổn định và phát triển lành mạnh nền kinh tế, phù hợp với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa.
vi
ABSTRACT
In the structure of the current tax system, the asset tax is increasingly interested
because this tax revenue is stable, sustainable, high proportion of total government
revenue. Asset tax contributes to control supply and demand about asset in the
market.
In the context of VietNam economy has made rapid and positive changes, asset tax
reform is urgently needed in the tax system of Vietnam today, meet the urgent need
for State budget. To do this, we should research asset tax model in countries around
the world to draw experiences for the construction of model asset tax in Vietnam.
Analysis and assessment of policies related to current asset tax in Vietnam, pointing
out the pros-cons of the current tax policy and compares asset tax policies in
countries of the world. Since then we can apply the principles of building asset tax
model to determine the factors of formation and affecting pattern of asset tax.
Analysis and proposed asset tax model in Vietnam towards ensuring effective and
consistent with the economic - society situation today to increase the percentage of
revenues to build stable and healthy development economy, consistent with the
market economy of socialist orientation according to the process of integration and
globalization.
vii
viii
ix
x
DANH MỤC
VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tiếng việt Tiếng Anh
AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ASEAN Free Trade Area
Association of Southeast Asian
ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á Nations
BĐS Bất động sản
Hiệp định về Chương trình thuế
quan ưu đãi có hiệu lực chung CEPT
Chính phủ CP
CQSDĐ Chuyển quyền sử dụng đất
Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giá trị gia tăng GTGT
héc ta Ha
Ngân sách địa phương NSĐP
Ngân sách nhà nước NSNN
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh Organization for Economic Co-
operation and Development OECD tế
QH Quốc hội
SDĐ Sử dụng đất
SDĐNN Sử dụng đất nông nghiệp
SDĐPNN Sử dụng đất phi nông nghiệp
Sản xuất kinh doanh SXKD
Thu nhập cá nhân TNCN
Thu nhập doanh nghiệp TNDN
Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership
TPP Agreement
TS Tài sản
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt
UBND Ủy ban nhân dân
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới World Trade Organization
XHCN Xã hội chủ nghĩa
XNK Xuất nhập khẩu
xi
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Bảng Tên Bảng Trang
2.1 Tỷ lệ thuế tài sản trên GDP của nhóm các nước OECD 24
2.2 Thuế tài sản ở Liên bang Hoa kỳ 26
2.3 Thuế tài sản ở Cộng hòa Pháp 27
2.4 Thuế tài sản ở Thụy Điển 29
2.5 Thuế tài sản ở Đài Loan 29
2.6 Nhận xét về mô hình thuế tài sản ở các nước trên thế giới 30
3.1 Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp trên cả nước 33
3.2 Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp trên cả nước 34
3.3 Tình trạng nhà ở tính đến ngày 1/4/2009 37
3.4 Tình trạng phương tiện giao thông đường bộ giai đoạn 2002-2012 38
3.5 Kết cấu nguồn thu liên quan đến TS so với tổng thu NS (tỷ lệ %) 39
3.6 Kết cấu nguồn thu liên quan đến TS so với tổng thu thuế (tỷ lệ %) 40
3.7 Kết cấu nguồn thu từ thuế (%) 53
3.8 Kết cấu nguồn thu NSNN (%) 55
3.9 So sánh cán cân NSNN Việt nam và các nước đang phát triển 57
Các bước thực hiện trong nghiên cứu 61
4.1 4.2 Kết quả nghiên cứu đối tượng chịu thuế tài sản 63
4.3 Kết quả nghiên cứu hình thức đánh thuế tài sản 67
4.4 Kết quả nghiên cứu căn cứ tính thuế tài sản 70
4.5 Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả thuế tài sản 74
4.6 Mô tả các biến trong phương trình hồi quy đa biến 81
4.7 Độ tin cậy thang đo của 9 biến “Đối tượng chịu thuế tài sản” 83
4.8 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “D09” 84
4.9 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “D06” 84
4.10 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “D08” 85
4.11 Độ tin cậy thang đo của 8 biến “Hình thức đánh thuế tài sản” 85
4.12 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “H12” 86
4.13 Độ tin cậy thang đo của 6 biến “Căn cứ tính thuế tài sản” 86
xii
4.14 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “C19” 87
4.15 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “C23” 87
4.16 Độ tin cậy thang đo “Tính hiệu quả của thuế tài sản” 88
4.17 Kết quả phân tích hồi quy đa biến 90
4.18 Diễn giải Mô hình thuế tài sản 93
Hình Tên Hình Trang
1.1 6
2.1a Mô hình thuế tài sản của K. Rosengard (1998) 22
Mô hình thuế tài sản của Keputusan Menteri Keuangan Republik Indonesia Nomor (1988) 2.1b 23
4.1 Các bước xây dựng mô hình thuế tài sản 59
4.2 Mô hình nghiên cứu thuế tài sản 60
Các nhân tố ảnh hưởng mô hình thuế tài sản 4.3 91
Hệ thống thuế tài sản 4.4 93
Biểu đồ Tên Biểu đồ Trang
Thuế BĐS so với GDP của các nhóm nước 2.1 25
Tỷ lệ ngân sách thuế BĐS với chi tiêu của chính quyền địa phương 2.2 26
Kết cấu nguồn thu đối với tài sản 3.1 39
3.2 Mức phụ thuộc vào thuế tài sản ở một số Quốc gia 40
Kết cấu nguồn thu từ thuế (2003-2012) 3.3 52
Cấu trúc nguồn thu thuế của Việt Nam so với một số nước (2010) 3.4 54
Kết cấu nguồn thu NSNN (2003-2012) 3.5 54
Tỷ lệ thu NS so GDP của một số nền kinh tế mới nổi ở Châu Á 3.6 56
Kết quả nghiên cứu đối tượng chịu thuế tài sản 4.1 65
Kết quả nhận định đối tượng chịu thuế tài sản 4.2 66
Kết quả nghiên cứu hình thức đánh thuế tài sản 4.3 68
Kết quả nhận định hình thức đánh thuế tài sản 4.4 69
Kết quả nghiên cứu căn cứ tính thuế tài sản 4.5 71
Kết quả nhận định căn cứ tính thuế tài sản 4.6 72
Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả thuế tài sản 4.7 75
Sơ đồ Tên Sơ đồ Trang
15 2.1 Sơ đồ biểu diễn chu kỳ vận động của thu nhập
xiii
MỞ ĐẦU
Thuế là công cụ quan trọng của nhà nước nhằm để tạo nguồn thu cho ngân
sách, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo công bằng xã hội. Thuế trong nền kinh tế thị
trường luôn được các quốc gia quan tâm nghiên cứu, hoàn thiện. Trong cơ cấu hệ
thống thuế hiện nay bao gồm thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản thì thuế
tài sản ngày càng được quan tâm bởi lẽ loại thuế này có số thu ổn định, bền vững,
chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu ngân sách nhà nước, thuế tài sản góp phần điều
tiết cung cầu tài sản trên thị trường, tránh các hiện tượng đầu cơ tích trữ và góp
phần điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, hạn chế bất bình đẳng về thu nhập
và thực hiện công bằng xã hội. Thuế tài sản là một loại thuế ra đời rất sớm trong hệ
thống thuế khoá của đại đa số các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở những quốc
gia có nền kinh tế thị trường phát triển. Việc nghiên cứu và xây dựng mô hình thuế
tài sản ở Việt nam hướng theo các yêu cầu đổi mới sau:
- Thứ nhất, Việt nam đang trong quá trình hội nhập khu vực, hội nhập toàn
cầu dẫn đến nguồn thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giảm sút một cách đáng
kể, trong khi nhu cầu chi tiêu của ngân sách phục vụ các chức năng, nhiệm vụ kinh
tế-xã hội của Nhà nước không ngừng tăng lên. Vì vậy, việc cải cách đối với hệ
thống chính sách thuế nội địa nhằm khai thác thêm nguồn thu đáp ứng nhu cầu chi
tiêu không ngừng tăng lên của ngân sách nhà nước là điều rất cần thiết và cấp bách
trong giai đoạn hiện nay.
- Thứ hai, trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, các hoạt động kinh tế, các
quan hệ dân sự, đặc biệt là các quan hệ dân sự về tài sản, nhà, đất diễn ra khá phức
tạp, đa dạng không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trong phạm vi quốc tế. Vì
vậy, cần có một hệ thống thuế tài sản phù hợp hơn để góp phần đắc lực vào yêu cầu
quản lý, hòa hợp với cơ chế thị trường và hội nhập
- Thứ ba, qua thành tựu của 25 năm đổi mới, mức thu nhập của một số tầng
lớp dân cư tăng lên đáng kể, thành phần kinh tế tư nhân đã có những đóng góp tích
cực cho nền kinh tế và ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, việc xây dựng, mua sắm
tài sản đang phát triển với tốc độ nhanh chóng và đi liền theo đó là khoảng cách
giàu nghèo cũng ngày một gia tăng. Vì vậy, cần thiết phải xem xét, sửa đổi, bổ sung
chính sách thuế đối với tài sản cho phù hợp với tình hình mới. Qua đó, vừa khai
xiv
thác thêm nguồn thu hợp lý cho NSNN, vừa thực hiện được mục tiêu công bằng xã
hội.
Nhìn chung, chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam tuy đã phát
huy được nhiều điểm tích cực trên các phương diện kinh tế, xã hội. Song trước xu
thế hội nhập và những diễn biến phức tạp đa dạng về tài sản, thu nhập của dân cư,
hệ thống thuế tài sản hiện hành bộc lộ những nhược điểm cần phải có chính sách
thay đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu cải cách quản lý trong lĩnh
vực thuế.
Qua số liệu thống kê cho thấy, nguồn thu từ các loại thuế liên quan đến tài
sản chiếm một tỷ trọng thấp trong tổng nguồn thu NSNN và cũng chưa thực sự giữ
một vị trí quan trọng trong ngân sách địa phương như ở các quốc gia trên thế giới.
Kết quả nguồn thu liên quan đến tài sản chưa khuyên khích mọi người sử dụng tài
sản hợp lý có hiệu quả.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, để có thể duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế và phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020,
việc đối mặt và giải quyết những vấn đề của kinh tế thị trường phải luôn được quan
tâm, giải quyết bằng các chính sách kinh tế của nhà nước, trong đó có chính sách
thuế. Gần đây, nhà nước đã và đang thực hiện chiến lược cải cách thuế, nhiều sắc
thuế được sửa đổi bổ sung như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài nguyên và đang nghiên cứu để
ban hành nhiều sắc thuế mới như: thuế môi trường, thuế tài sản, thuế nhà, thuế sử
dụng đất
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam đã có những chuyển biến nhanh và
thay đổi tích cực, vấn đề cải cách thuế tài sản nhằm nâng tỷ trọng thu ngân sách từ
thuế tài sản, ổn định và phát triển lành mạnh nền kinh tế, phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN trong tiến trì
NAY” để -
nghiên cứu với mục đích tìm ra một mô hình thuế tài sản ở Việt Nam mới hơn, phù
1
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam hiện đang tiến hành công cuộc hội nhập kinh tế thế giới, để quá trình
hội nhập được thuận lợi hơn, Chính phủ Việt Nam gần đây đã thực hiện một loạt cải
cách về kinh tế và chính sách thuế, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý tài chính. Kết
quả là Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng kinh tế ngoạn mục trong hai thập kỷ qua và
hầu hết các chỉ số kinh tế đều cho thấy xu hướng tăng nhanh chóng. Tình hình thu chi
ngân sách cũng đáng khích lệ, mức tăng thu ngân sách đạt được khá ấn tượng. Tuy
nhiên, do cần đầu tư nhiều cho hạ tầng cơ sở nên Việt Nam vẫn còn tỷ lệ nợ công
tương đối cao. Việt Nam cũng đang từng bước tiến hành cải cách pháp luật về thuế và
hiện đại hóa quản lý thuế. Cải cách chính sách và quản lý thuế là một bộ phận quan
trọng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển đổi này
đã dẫn đến những thay đổi cơ bản trong cơ cấu đối tượng nộp thuế. Quá trình chuyển
đổi kinh tế cũng dẫn đến một thay đổi không kém quan trọng về nguồn thu ngân sách
nhà nước, từ thuế đánh vào giao dịch ngoại thương và nguồn thu từ khai thác dầu thô
sang nguồn thuế nội địa, cụ thể là thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân
và thuế liên quan đến đất đai. Kế hoạch phát triển Kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-
2015 đã đặt ra một mục tiêu thu ngân sách nhà nước phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
mô và đầu tư vào các hạng mục cơ sở hạ tầng cơ bản. Tổng mức thu ngân sách trung
bình phải đạt từ 25,1 đến 25,4% GDP, trong đó nguồn thu từ thuế và lệ phí đạt 23,0
đến 24,0% GDP. Tổng thu dự tính đạt khoảng 3.880 nghìn tỉ Đồng, tức là gấp 1,5 lần
so với thời kỳ 2006-2010. Như vậy mức tăng thu ngân sách nhà nước bình quân hàng
năm sẽ vào khoảng 15,6%.
Bên cạnh những thành quả đạt được qua các kỳ cải cách thuế, hệ thống thuế
Việt Nam vẫn còn bộc lộ những khuyết điểm theo đánh giá vào năm 2011 của tổ chức
Ngân hàng thế giới và đưa ra các khuyến nghị [9]:
Hiệu quả kinh tế. Hiện còn tồn tại một số điểm không trung lập trong chính
sách thuế và thực thi như thiếu sự hài hòa giữa các loại thuế, nhiều thuế suất, nhiều
trường hợp không chịu thuế và chính sách ưu đãi thuế đã tạo ra hiệu quả kinh tế thấp
trong phân bổ nguồn lực do các đối tượng nộp thuế đưa ra quyết định kinh doanh với
2
mục tiêu giảm thiểu gánh nặng thuế chứ không phải với mục tiêu tối đa hóa năng lực
sản xuất và sản lượng.
Công bằng. Sự công bằng chiều ngang (horizontal equity) bị vi phạm theo
nhiều cách. Nhiều loại miễn giảm khác nhau cũng dẫn đến vi phạm tính công bằng
theo chiều dọc (vertical equity). Điều tương tự cũng xảy ra đối với các sắc thuế gián
thu như tồn tại nhiều thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế tiêu thụ đặc biệt
(TTĐB) cùng với nhiều trường hợp không chịu thuế.
Minh bạch. Minh bạch được đảm bảo trước hết với điều kiện luật thuế phải
không được quá phức tạp và không phân biệt đối xử, còn các quy chế và đòi hỏi về
quản lý thì phải dễ tiếp cận và dễ tuân thủ. Với ý nghĩa đó, Việt Nam đã đạt nhiều tiến
bộ về minh bạch tuy vẫn còn nhiều việc cần cải thiện.
Tính phù hợp và ổn định của nguồn thu. Cần theo dõi chặt chẽ các khu vực
đang tăng trưởng trong nền kinh tế để mở rộng cơ sở thuế vào thời điểm thích hợp.
Thực ra ở Việt Nam, thuế liên quan đến tài sản đã được áp dụng từ khá lâu.
Tuy nhiên, Luật thuế của Việt Nam lại không gọi là thuế tài sản. Chính vì vậy vẫn còn
rất nhiều người xem đó là một loại thuế mới và chưa hiểu đó là loại thuế gì, đối tượng
chịu thuế ra sao và khái niệm thuế tài sản cũng chỉ được hiểu một cách chung chung.
Hiện tại, ở Việt Nam hiện đang có một số thuế, phí, lệ phí liên quan đến tài sản như:
thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế thu nhập từ
chuyển quyền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, tiền thuê đất và tiền bán nhà thuộc sở hữu
nhà nước.
Trên thế giới, thuế liên quan đến tài sản thường có phạm vi rộng hơn, chẳng
hạn như: nhà, đất, tàu thuyền, ôtô, máy bay, thuyền du lịch, chứng khoán và các động
sản tài chính khác. Tuy nhiên, mỗi nước lại có một cách xác định đối tượng chịu thuế
khác nhau và tùy thuộc vào điều kiện của từng nước mà người ta áp dụng ít hay nhiều,
sớm hay muộn. Tại các nước phát triển, thuế tài sản là nguồn thu chính chiếm 40 -
50% tổng số thu thuế tại các đô thị như Mexico, Brazil, Ấn Độ, Indonesia… và nó
thường chiếm từ 15% - 40% trong thu ngân sách địa phương. Tuy nhiên, ở Việt Nam,
loại thuế này mới chỉ chiếm khoảng nhỏ hơn 1% trên tổng thu ngân sách và chủ yếu
thu từ đất đai.
3
Có thể nói rằng cải cách thuế tài sản là hết sức cần thiết trong hệ thống thuế của
Việt Nam hiện nay, đáp ứng nhu cầu cấp thiết cho Ngân sách Nhà Nước và tinh thần
chủ trương của Đảng và Nhà Nước thông qua Quyết định 732/QĐ-TTg của Thủ
Tướng Chính Phủ ngày 17/5/2011 với nội dụng cần đạt được về chương trình cải cách
thuế: Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả,
phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mức động viên
hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công
cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước. Ngành thuế
Việt Nam phải vươn tới hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ
phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ
bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản,
khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng
dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao.
Vì lẽ trên, việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam hiện nay là cần thiết
bởi những lý do: Việt Nam đang trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực,
cần có một hệ thống thuế phù hợp thông lệ quốc tế. Quá trình hội nhập và các cam kết
đối với WTO, AFTA, ASEAN, TPP… dẫn đến giảm dần nguồn thu ngân sách từ thuế
nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu. Tốc độ tăng trưởng GDP
của Việt nam ổn định và thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng tốt, tích lũy tài sản
dần dần được nâng lên. Mục tiêu cải cách thuế của chính phủ tiến tới một hệ thống
thuế bền vững và hiệu quả nhằm cải thiện tình trạng thâm hụt kéo dài của cán cân
ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, trước tình trạng thị trường bất động sản ở Việt Nam rất
bất ổn mà nguyên nhân chủ yếu là do việc đầu cơ bất động sản, ví dụ như nhiều dự án
chưa khởi công, những người đầu cơ đã mua hết các suất nhà và đất. Hậu quả là,
những người có nhu cầu thực sự về nhà đất phải mua lại qua nhiều lần trung gian. Vì
vậy, chống đầu cơ nhà đất là một trong những mục tiêu quan trọng của dự thảo luật
trong cách tính thuế tài sản. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển điều này đồng nghĩa tài
sản có sự tập trung quá mức vào một nhóm người giàu có, dẫn đến khoảng cách chênh
lệch giàu nghèo khá lớn.
4
Vì vậy, để góp phần thực hiện công bằng xã hội tránh sự phân hóa giàu nghèo
một cách đáng kể thì những người có thu nhập và tài sản nhiều phải có một nghĩa vụ
chia sẽ trách nhiệm đối với xã hội.Thuế tài sản giúp hạn chế việc sử dụng tài sản lãng
phí, để góp phần thúc đẩy cho các thành phần kinh tế phát huy hiệu quả sử dụng tài
sản và cuối cùng là đem lại nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà Nước trong bối
cảnh thâm hụt Ngân sách kéo dài hiện nay. Thuế tài sản là nền tảng vững chắc cho
ngân sách địa phương từ các nguồn thu thuế BĐS để phát triển cơ sở hạ tầng và các
dịch vụ công, đặc biệt đối với các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh chuẩn
bị thí điểm cho mô hình chính quyền đô thị. Thuế tài sản phần nào sẽ góp phần bảo vệ
môi trường và quy hoạch giao thông trước tình trạng nan giải do số lượng phương tiện
giao thông tăng quá mức so với dự báo hiện nay.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Trước bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay có nhiều chuyển biến tích cực và đặc
biệt là tiến trình hội nhập toàn cầu hóa, chủ trương cải cách thuế của Chính phủ theo
lộ trình có kế thừa chính sách thuế hiện hành, mạnh dạn thay thế những điểm bất hợp
lý và bổ sung những điểm mới sao cho phát huy các vai trò của chính sách thuế, tăng
thu ngân sách, điều tiết vĩ mô, đảm bảo công bằng xã hội. Việc cải cách thuế cũng
phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng bộ với các chính sách khác nhằm
phát triển kinh tế của Việt nam. Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu nhằm vào các nội dung
sau:
- Nghiên cứu các mô hình thuế tài sản ở các nước trên thế giới, từ đó rút ra
những kinh nghiệm cho việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam
- Phân tích và đánh giá thực trạng về chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt
nam hiện nay, chỉ ra những ưu-nhược điểm của chính sách thuế hiện nay và so sánh
chính sách thuế tài sản với các nước trên thế giới.
- Vận dụng các nguyên tắc xây dựng mô hình thuế tài sản, xác định các nhân tố
hình thành và tác động đến mô hình. Phân tích và đề xuất mô hình thuế tài sản ở Việt
nam theo hướng đảm bảo tính hiệu quả và phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội hiện
nay.
5
1.3 và ph nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các nội dung lý luận về tài sản, thuế tài
sản, mô hình thuế tài sản và chính sách thuế tài sản ở một số quốc gia, chính sách thuế
và các khoản thu có liên quan đến tài sản ở Việt Nam. Với mỗi sắc thuế đều nghiên
cứu nội dung chủ yếu theo quy định của pháp luật, kết quả đạt được và những hạn chế.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
thuế tài sản và xu hướng cải cách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam hiện nay, số
liệu nghiên cứu từ năm 2003 đến năm 2012. Riêng vấn đề tổ chức thực hiện các chính
sách thuế tài sản ra sao thì luận văn chỉ đưa ra những đánh giá tổng quát mà không đi
sâu nghiên cứu về phần tổ chức thực hiện các chính sách đó. Vì thời gian nghiên cứu
có hạn, nên phần dự báo doanh thu thuế tài sản từ mô hình thuế tài sản cũng không
được nghiên cứu sâu trong luận văn.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
diễn giải, phân tích, điều tra xã hội học, tổng hợp…, Với phương pháp này, các chính
sách thuế về tài sản được đặt trong quá trình vận động, biến đổi không ngừng và được
hoàn thiện để phù hợp với xu thế phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và thế giới.
Dựa trên những lý luận cơ bản về tài sản và thuế tài sản, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
- Tiếp cận lý thuyết về thuế nói chung và các sắc thuế liên quan đến tài sản nói
riêng, chú trọng đến vai trò và mục tiêu của chính sách thuế.
- Tham khảo các tài liệu về thuế tài sản tại một số quốc gia và các tài liệu góp ý
về chính sách thuế liên quan đến tài sản hiện hành.
- Thảo luận chuyên gia tìm ra các nhân tố hiệu quả cho mô hình thuế tài sản
- Lấy ý kiến điều tra từ các chuyên gia ngành thuế và tài chính.
- Thống kê số liệu có chọn lọc từ các tài liệu và trang thông tin điện tử có liên
quan (Chính phủ, Bộ tài chính, Tổng cục thống kê, Ngân hàng thế giới…)
- Phân tích mô tả, đánh giá những ưu điểm, nhược điểm của từng sắc thuế liên
quan đến tài sản. So sánh về mức độ đóng góp thu ngân sách, vai trò điều tiết của các
sắc thuế trong hệ thống chính sách thuế liên quan đến tài sản
- Tổng hợp các vấn đề nghiên cứu, suy diễn lô-gíc phục vụ đề xuất mô hình thuế
tài sản
6
Cơ sở lý thuyết về TS, Thuề TS
Cơ sở thực tiễn, số liệu thống kê, điều tra khảo sát
Phân tích định tính, tìm ra các nhân tố phù hợp cho mô hình thuế TS
Phân tích định lƣợng, tìm ra các nhân tố tác động mô hình thuế TS
Đánh giá tính phù hợp
Đánh giá mức độ tác động
Tác động của quá trình hội nhập
Chủ trƣơng, chính sách cải cách thuế
Tác động của điều kiện KT-XH
Kiến nghị
Đề xuất mô hình Thuế TS
Hình 1.1: Khung nghiên cứu của Luận văn
1.4
Luận văn được nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cải cách
thuế, trong đó có thuế tài sản. Việc đóng góp ý kiến cho nghiên cứu sửa đổi các văn
bản pháp luật của nhà nước về thuế tài sản là vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Luận văn đã nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện và hệ thống các vấn đề lý luận
về tài sản, chính sách thuế đánh vào tài sản, nghiên cứu mô hình thuế tài sản của các
quốc gia, phân tích chi tiết thực trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt
Nam hiện nay. Từ đó có những nhận xét, đánh giá về ưu-nhược điểm hiện nay và định
hướng cho mô hình thuế tài sản phù hợp với điều kiện và đặc điểm ở Việt Nam.
Những kết quả đạt được qua việc nghiên cứu mô hình thuế tài sản:
Nhận dạng các nhân tố và xây dựng mô hình lý thuyết thuế tài sản.
Hình thành khung nghiên cứu của Luận văn để giải quyết các nội dung và mục
tiêu đưa ra.
Phân tích thực trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam
Khảo sát điều tra các nhân tố cấu thành mô hình thuế tài sản và đề xuất mô
hình thuế tài sản trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay.
7
Đề xuất định hướng xây dựng chính sách thuế tài sản trên mô hình mới nhằm
hoàn thiện thuế tài sản ở Việt Nam hoàn chỉnh hơn trong tiến trình công nghiệp
hóa-hiện đại hóa và hộp nhập Quốc tế.
1.5 văn
Với mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu nêu trên, ngoài phần mở đầu và
kết luận, gồm có 5 chương :
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Tổng quan tài sản
Chương 3: Thực trạng chính sách tài sản ở Việt Nam
Chương 4: Phân tích và đề xuất mô hình thuế tài sản ở Việt Nam
Chương 5: huyến nghị ứng dụng mô hình thuế tài sản vào việc xây dựng
các chính sách thuế ở Việt Nam
chƣơng 1
Thực ra, ở Việt Nam đã có chính sách thu ngân sách đối với tài sản như đất đai
từ rất lâu. Cụ thể như thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi giao đất hoặc cho thuê đất.
Trong quá trình sử dụng đất có thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất (nay đã
chuyển thành thuế sử dụng đất phi nông nghiệp), khi chuyển nhượng đất có thuế
chuyển quyền sử dụng đất (nay đã chuyển thành thuế thu nhập). Trong thủ tục đăng
ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản có lệ phí trước bạ, khi được giải quyết một
số công việc liên quan đến địa chính phải nộp lệ phí địa chính. Đó là tám khoản thu
đối với tài sản được quy định bởi bốn luật thuế. Việc xây dựng mô hình Thuế tài sản
sẽ gộp các khoản thu trên vào một hệ thống thuế tài sản và mở rộng thêm cơ sở tính
thuế cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội hiện nay là vấn đề được Chính Phủ Việt
Nam đặc biệt quan tâm.
Cùng với thành tựu trên 25 năm đổi mới của đất nước, thu nhập và đời sống
của người dân ngày càng tăng lên nhanh chóng. Việc xây dựng nhà cửa khang trang,
mua sắm tài sản có giá trị lớn đang phát triển mạnh từ thành thị đến nông thôn cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của thành phần kinh tế tư nhân. Theo đó, chênh lệch giàu
nghèo trong xã hội cũng ngày càng gia tăng. Do vậy, cần có một mô hình thuế tài sản
phù hợp tình hình mới, vừa khai thác thêm nguồn thu cho NSNN vừa đảm bảo mục
tiêu công bằng xã hội.
8
CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ THUẾ TÀI SẢN
2.1
2.1.1
Thuế tài sản là tên gọi chung của các sắc thuế đánh vào quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng tài sản. Sắc thuế tài sản phổ biến nhất là thuế bất động sản, ở một số
quốc gia, chính quyền tách bất động sản thành nhà ở và đất ở và tương ứng là hai sắc
thuế riêng. Thời phong kiến Việt Nam, thuế điền thổ, còn gọi là thuế ruộng đất là một
loại thuế tài sản phổ biến. Có một sắc thuế tài sản được thu khi phát sinh sự thay đổi
quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, như thuế trước bạ, thuế thừa kế.
Thuế tài sản là tên gọi để chỉ sắc thuế lấy tài sản làm đối tượng đánh thuế. Đây
là một trong ba cách phân loại theo nội dung của hệ thống thuế gồm: thuế đánh vào
thu nhập, thuế đánh vào tiêu dùng (sử dụng thu nhập) và thuế đánh vào tài sản (thu
nhập là được tích luỹ và vật chất hoá dưới dạng tài sản). Việc phân biệt rõ đối tượng
đánh thuế tài sản, đối tượng đánh thuế thu nhập và thuế tiêu dùng có ý nghĩa quan
trọng để có căn cứ xác định chính xác thời điểm cũng như cơ sở đánh thuế, tránh được
sự trùng lắp, chồng chéo về nội dung động viên thu nhập của đối tượng chịu thuế [14].
Thuế tài sản là loại thuế ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại với hình thức đầu
tiên là thuế đất được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các xã hội cổ đại, vì lúc đó đất đai hầu
như là tài sản duy nhất thật sự có giá trị và nhà nước có điều kiện thuận lợi để nắm
chắc, quản lý và đánh thuế. Khi nền kinh tế-xã hội của các quốc gia ngày càng phát
triển, trên thế giới dần dần xuất hiện nhiều loại của cải khác thuộc đối tượng đánh thuế
tài sản. Thông thường, việc đánh thuế vào tài sản không tính đến nguồn gốc thu nhập
tạo ra tài sản có từ đâu, lúc nào… mà chỉ quan tâm đến trị giá tài sản của chủ thể có
quyền sở hữu (hoặc quyền sử dụng) vào thời điểm nhất định.
Thuế tài sản được điều chỉnh theo quyền sở hữu, quyền sử dụng, khai thác hay
chuyển nhượng tài sản tại thời điểm nhất định, theo quy định của pháp luật, với nhiều
hình thức tên gọi khác nhau, chủ yếu là: thuế đăng ký tài sản (thuế trước bạ, lệ phí
trước bạ); thuế thừa kế; thuế quà biếu; thuế nhà đất; thuế tài sản (đánh tổng hợp trên
toàn bộ giá trị bất động sản, động sản và tài sản tài chính của một chủ thể); thuế
chuyển nhượng tài sản (nhà, đất, vốn, trái phiếu…); thuế khai thác tài nguyên quốc
gia. Thuế tài sản được đánh giá là loại thuế trực thu có thể động viên tương đối sát với
9
khả năng đóng góp thực tế của người chịu thuế vì thuế đánh vào những tài sản cụ thể,
nhất là nhà và đất, là những vật thực có, dễ nhận biết hơn các đối tượng đánh thuế thu
nhập hay tiêu dùng.
Thuế tài sản được thể hiện dưới nhiều hình thức với tên gọi khác nhau như thuế
mua tài sản, thuế nhà, thuế đất, thuế đăng ký tài sản, thuế chuyển nhượng tài sản…
với những đặc điểm như sau:
Thuế tài sản là loại thuế dựa trên quan điểm đánh thuế theo lợi ích, những
người được hưởng lợi ích nhiều thì phải nộp thuế nhiều hơn. Điều này xuất phát từ
thực tế là nhiều loại tài sản được bảo tồn, phát triển và sinh lợi là do được thừa hưởng
rất nhiều từ các dịch vụ công cộng của nhà nước. Thuế tài sản mang tính chất là loại
thuế h trợ cho thuế đánh trên thu nhập. Thu nhập từ tài sản thường khó xác định được
nếu chủ sở hữu cố tình che dấu, trong khi tài sản dù là động sản hay bất động sản khó
mà che dấu được. Thuế đánh vào tài sản cho phép khai thác hết khả năng của người
nộp thuế. Điều này, còn góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế vì nó khuyến khích chủ
sở hữu tài sản sử dụng tài sản có hiệu quả nhất. Thuế tài sản chỉ ảnh hưởng đến một
phần thiểu số dân cư thuộc diện giàu có nên dễ nhận được sự ủng hộ của đại đa số
người dân.
Thuế tài sản là một trong những biện pháp can thiệp của nhà nước trong việc
giải quyết sự không công bằng về phân phố giữa các tầng lớp dân cư. Thuế
tài sản là sắc thuế có thể phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa tiêu
dùng, đầu tư và tiết kiệm của các chủ thể trong nền kinh tế. Do việc đánh thuế tài sản
sẽ làm hạn chế ý thích tiết kiệm, tích lũy bằng tài sản và khuyến khích tăng tiêu dùng
hoặc đầu tư sản xuất, kinh doanh nên có thể sử dụng thuế tài sản làm công cụ kích
cầu, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội
Thuế tài sản, đặc biệt là loại thuế đăng ký, thường dễ thu vì loại thuế này được
xây dựng phù hợp với tâm lý của người có tài sản, muốn được xác định quyền sở hữu,
quyền sử dụng hợp pháp và bảo hộ đối với một số tài sản có giá trị.
2.1.2
Việc đánh thuế tài sản không đơn giản chỉ nhằm mục đích tạo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước mà xuất phát từ nhiều lý do xét trên nhiều khía cạnh kinh tế, xã
hội. Thuế tài sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế cũng như hệ thống ngân sách
nhà nước, cụ thể:
10
t, Thuế tài sản là nguồn thu rất quan trọng cho ngân sách Nhà Nước:
thường chiếm một tỷ trọng rất cao trong tổng thu ngân sách của nhiều Quốc gia và
cũng chính là loại thuế dễ quản lý thu. Những bất động sản, nhà cửa không thể di dời
che dấu được. Máy bay, ô tô, tàu thuyền… thì không thể không đăng ký lưu thông.
Nhìn chung ở các Quốc gia áp dụng thuế tài sản thì nguồn thu rất cao cho ngân sách
Nhà Nước. Ví dụ như ở Canada, Mỹ, Úc, Ireland, Newzeland thuế tài sản chiếm trên
85% trong tổng thu ngân sách [4]
Thứ hai, Thuế tài sản góp phần đảm bảo công bằng xã hội: những người sở hữu
một lượng tài sản có giá trị lớn, những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập nhiều hơn,
ngoài những tài sản phục vụ cho đời sống sinh hoạt cá nhân họ còn có các tài sản tích
trữ, đầu tư sinh lợi thì những chủ thể này phải có một nghĩa vụ đóng góp cho ngân
sách Nhà nước và cuối cùng thì ngân sách này thực hiện chức năng phân phối và phân
phối lại. Bất kỳ một xã hội nào càng phát triển thì càng có sự phân cực giữa hai tầng
lớp người giàu và người nghèo. Vì vậy, đứng ở góc độ quản lý Nhà nước đảm bảo một
xã hội dân chủ, công bằng và văn minh thì chính sách thuế tài sản là một công cụ thực
hiện mục tiêu này. Bên cạnh đó, thuế tài sản còn có vai trò quan trọng trong mối quan
hệ giữa các thế hệ, tăng cường đoàn kết nội bộ, giảm đi sự chênh lệch quá đáng về thu
nhập trong các tầng lớp xã hội
Thứ ba, thuế tài sản còn được coi là công cụ hữu hiệu của Chính phủ nhằm
thực hiện việc quản lý, kiểm kê, kiểm soát đối với các loại tài sản có giá trị. Thông
qua đó thấy được sự chênh lệch giàu nghèo, mức sống của các tầng lớp dân cư, tiềm
năng nguồn lực xã hội... Từ đó Chính phủ có những quyết sách hợp lý cho việc phát
triển kinh tế xã hội trong mỗi thời kỳ nhất định.
Như vậy, xét trên khía cạnh việc đánh thuế tài sản là cần thiết vì nó khắc phục
các khiếm khuyết của thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt là đối với những nước mà mức
độ thu nhập cá nhân có diện đánh thuế hạn hẹp và bị hạn chế do năng lực thực hiện.
Cùng với các loại thuế khác, thuế tài sản cho phép thực hiện được các mục tiêu, yêu
cầu đề ra về tài chính, kinh tế, xã hội... đồng thời phát huy tác dụng hỗ trợ có hiệu quả
cho thuế đánh vào thu nhập và tiêu dùng trong hệ thống thuế. Tuy nhiên trong một hệ
thống thuế gồm nhiều loại thuế thu nhập có diện đánh thuế mở rộng thì hình thức thuế
tài sản đánh vào những tài sản do thu nhập tạo ra đã chịu thuế thu nhập có thể dẫn đến
tình trạng đánh thuế trùng vào khoản tiết kiệm và vì vậy sẽ không mang lại hiệu quả
11
kích thích các đối tượng tạo ra thu nhập trong xã hội. Do vậy, việc đánh thuế tài sản
cần phải được xem xét, phân tích thận trọng trong mối quan hệ với các loại thuế khác,
đặc biệt là đối với các loại thuế trực thu để thuế tài sản vừa đáp ứng yêu cầu tăng thu
cho Ngân sách nhà nước một cách hợp lý, vừa khắc phục được sự trùng lắp, chồng
chéo trong cách đánh thuế thu nhập, không kìm hãm phát triển sản xuất kinh doanh,
mua sắm tài sản của các tầng lớp dân cư.
Thứ tư, có tác dụng làm giảm nhẹ gánh nặng cho thuế thu nhập: Thuế tài sản
thực chất là một loại thuế bổ sung cho thuế thu nhập vì nó đánh vào một dạng tồn tại
khác của thu nhập để đảm bảo yêu cầu bao quát hết tất cả các nguồn thu. Việc đánh
thuế một lần vào thu nhập sẽ có khuynh hướng không đảm bảo công bằng vì khả năng
kiểm soát chặt chẽ các nguồn thu thường rất khó khăn đối với chính quyền thu thuế.
Vì vậy, việc đánh thuế tài sản thực chất cũng là đánh thuế vào phần thu nhập được tài
sản hoá. Diện đánh thuế tài sản rộng hơn diện đánh thuế thu nhập, bao gồm mọi tài
sản, không phân biệt tài sản đó mang lại thu nhập hay không, đảm bảo công bằng xã
hội. Việc đánh thuế tài sản sẽ có thêm cơ hội để hạ bớt thuế suất thuế thu nhập, làm
cho sắc thuế này dễ được đông đảo người dân chấp nhận.
Thứ năm, phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa tiêu dùng, đầu
tư và tiết kiệm của các tác nhân trong nền kinh tế. Việc đánh thuế tài sản sẽ làm hạn
chế ý thích tiết kiệm, tích luỹ bằng tài sản và khuyến khích tăng tiêu dùng hoặc đầu tư
sản xuất kinh doanh, qua đó góp phần thực hiện tốt chủ trương kích cầu để thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.3
2.1.3.1 Quan điểm ủng hộ việc đánh thuế tài sản
Thứ nhất, về mặt lý thuyết chỉ cần đánh thuế trên thu nhập là đủ vì tất cả các
khoản thuế suy cho cùng đều động viên từ thu nhập của công chúng. Song nếu chỉ có
một loại thuế thì mức thuế này phải rất cao mới đảm bảo nguồn thu cần thiết cho
NSNN. Từ đó sẽ cản trở đến tinh thần hăng say lao động để có nhiều thu nhập vì phải
nộp thuế cao. Hơn nữa, nếu chỉ có thuế thu nhập thì khả năng rủi ro về thất thu sẽ rất
lớn. Việc đánh thuế vào tài sản vừa tạo điều kiện giảm bớt số thuế đánh vào thu nhập,
vừa cho phép động viên thêm phần thu nhập đã trốn hoặc tránh thuế.
Thứ hai, việc đánh thuế tài sản xuất phát từ nguyên tắc đánh thuế theo lợi ích.
Những người được hưởng lợi ích từ Nhà nước nhiều phải nộp thuế cao. Nhà, đất và
12
các tài sản khác được bảo tồn, phát triển và sinh lời là nhờ được thừa hưởng rất nhiều
lợi ích từ các dịch vụ công cộng của Nhà nước để làm tăng thêm giá trị của một số tài
sản. Chẳng hạn, giá trị nhà, đất có thể tăng lên nhiều do Nhà nước cải tạo, mở rộng cơ
sở hạ tầng không cần có sự đầu tư của chủ sở hữu. Từ đó, người có tài sản, đặc biệt
với tài sản có giá trị cần phải có trách nhiệm đóng góp để Nhà nước có thêm nguồn
trang trãi các khoản chi này.
Thứ ba, thuế tài sản mang tính chất là khoản thu bổ sung vào thuế đánh vào thu
nhập, đặc biệt ở các nước mà thuế thu nhập cá nhân còn bị hạn chế và trình độ quản lý
còn yếu kém. Thuế tài sản cho phép tính đến khả năng lớn lao của người nộp thuế,
được thể hiện bằng lượng của cải hơn là lượng tiền họ bỏ ra để tiêu dùng. Thuế tài sản
còn góp phần hướng dẫn, khuyến khích sử dụng tài sản có hiệu quả thông qua đầu tư
vào vốn kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế hơn là cất giữ tài sản, loại thuế này
thường động viên vào một số tầng lớp dân cư giàu có nên dễ được sự đồng tình, ủng
hộ của đại bộ phận quần chúng nhân dân.
Thứ tư, thuế tài sản là một công cụ có hiệu lực phục vụ yêu cầu quản lý của
Nhà nước trong hoàn cảnh sở hữu tài sản còn quá chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư.
Thông qua thuế tài sản, Nhà nước có thể thực hiện việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý
những loại tài sản quan trọng trong xã hội và động viên một phần đóng góp của chủ sở
hữu tài sản có giá trị lớn, có nhiều thu nhập từ tiền cho thuê, chuyển nhượng, góp
phần điều hoà thu nhập xã hội, thực hiện nghĩa vụ đóng góp công bằng, khuyến khích
sử dụng tài sản hợp lý, có hiệu quả.
Thứ năm, thuế tài sản thường dễ thu do người chủ sở hữu tài sản thường muốn
công khai đăng ký để được Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu hay quyền sử dụng hợp
pháp của mình khi có tranh chấp, kiện tụng… Vấn đề cần được quan tâm là mức đóng
góp của chủ tài sản phải được xây dựng hợp lý, phù hợp, nhất là với tài sản đã qua
nhiều lần luân chuyển và với tài sản có giá trị lớn khiến người nộp thuế phải bỏ ra
khoản tiền nhiều.
Thứ sáu, với tài nguyên thiên nhiên thuộc quyền sở hữu quốc gia, thì việc đánh
thuế mang tính chất chuyển nhượng tài nguyên cho người khai thác là một việc cần
thiết. Ngoài ra, việc đánh thuế vào việc sử dụng đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân
cũng là hợp lý và bảo đảm được sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân với
NSNN, kể cả trường hợp nộp thuế vào nhà đất để ở, không có thu nhập.
13
Thứ bảy, thuế tài sản còn phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa
tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm trong đời sống xã hội. Việc đánh thuế vào tài sản sẽ góp
phần hạn chế ý thích muốn tích luỹ bằng tài sản cất giữ, khuyến khích tăng tiêu dùng
hoặc đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Qua đó, góp phần thực hiện tốt chủ trương kích
cầu, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Với những lý do đó, việc nghiên cứu mô hình thuế tài sản trong bối cảnh hiện
nay là cần thiết, nhằm phát huy tác dụng bổ sung cho thuế đánh vào thu nhập, đánh
vào tiêu dùng trong hệ thống chính sách thuế.
2.1.3.2 Quan điểm không ủng hộ việc đánh thuế tài sản
Bất kỳ một sắc thuế nào khi ban hành cũng có những ý kiến không đồng thuận
cần sửa đổi bổ sung. Lập luận phản đối về việc áp dụng thuế tài sản thường tập trung
các ý kiến sau:
Thứ nhất, tài sản được hình thành trong quá trình tích lũy thu nhập mà bản thân
thu nhập đó đã chịu thuế rồi, chưa tính đến những tài sản còn chịu các thứ thuế khác
khi mua sắm và khi đăng ký.
Thứ hai, nếu đánh thuế trên những tài sản cất trữ không dùng cho hoạt động tạo
ra thu nhập thì vô hình dung đã tướt đoạt dần giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Thứ ba, thuế tài sản có thể gây ra sự ảnh hưởng nền kinh tế nếu như mức thuế
suất và giá tính thuế đưa ra áp dụng không hợp lý sẽ làm cho những người sở hữu tài
sản ngần ngại đầu tư tài sản [14].
2.1.4 Các hình thức đánh thuế tài sản
(a) Đánh thuế trên tất cả các tài sản
Theo phương pháp này, đối tượng đánh thuế tài sản là tất cả các loại tài sản mà
một chủ sở hữu có được (gồm cả bất động sản và động sản). Trị giá tài sản chịu thuế
là giá trị tài sản ròng, là khỏan chênh lệch giữa tổng giá trị các tài sản và các chi phí,
tiền vay tạo thành tài sản đó.
Hình thức thuế của cải đánh trên giá trị tài sản ròng thường thích hợp trong
điều kiện xã hội có mức thu nhập bình quân đầu người cao, khu vực kinh tế tư nhân
phát triển, tài sản có sự tập trung quá mức vào một nhóm người giàu có dẫn đến
khoảng cách chênh lệch đáng kể giữa giàu và nghèo, loại thuế này thường được áp
dụng ở các nhóm nước OECD.
14
Thuế suất thường sử dụng theo hình thức thuế suất lũy tiến, mức độ lũy tiến
phụ thuộc vào mức độ tập trung tài sản trong xã hội cao hay thấp vào một nhóm người
giàu có nhất định. Nếu khoảng cách chênh lệch giàu nghèo quá lớn thì mức lũy tiến
cần thiết kế cao hơn. Ngược lại, mức lũy tiến vừa phải hoặc đôi khi không cần sử
dụng loại thuế suất này.
(b) Đánh thuế vào một bộ phận tài sản
Theo phương pháp này, đối tượng đánh thuế tài sản chỉ là một bộ phận trong
toàn bộ tài sản của chủ sở hữu, có hai hình thức thuế phổ biến khi tính theo phương
pháp này:
- Thuế bất động sản: Đối tượng nộp thuế là chủ sở hữu đất, nhà và bất động sản
khác. Thuế suất thường là thuế suất lũy tiến áp dụng trên trị giá tài sản chịu thuế, với
mức động viên thấp và chỉ mang tính chất quản lý. Thuế bất động sản thường được
giao cho các cấp chính quyền địa phương quản lý và thu vào ngân sách địa phương.
- Thuế đánh một lần vào tài sản khi chuyển dịch quyền sở hữu: Thuế được thực
hiện khi đối tượng nộp thuế cần có chứng nhận quyền sở hữu khi mua bán, thừa kế,
chuyển dịch động sản hoặc bất động sản. Thuế chỉ đánh một lần khi đăng ký quyền sở
hữu, mức thuế thường là thuế suất tỷ lệ tính trên giá trị giá tài sản chịu thuế hoặc là
định suất thuế (giá trị tuyệt đối) theo đơn vị tài sản.
Mức thuế cao hay thấp tùy theo yêu cầu và mục đích điều tiết: Áp dụng mức
thuế thấp nếu ngoài việc nộp thuế chuyển dịch quyền sở hữu, hàng năm còn phải nộp
thuế tài sản. Áp dụng mức thuế cao nếu chỉ chịu một lần thuế tài sản khi đăng ký. Giá
tính thuế tài sản thường được căn cứ theo giá thị trường tại thời điểm đánh thuế tài
sản. Một số trường hợp khó xác định giá thị trường thì áp dụng giá tính thuế do nhà
nước quy định. Nguồn thu từ các loại thuế đăng ký tài sản khi chuyển dịch quyền sở
hữu thuộc các cấp ngân sách, trong đó có một phần cho ngân sách địa phương.
2.1.5
Nếu chúng ta phân loại hệ thống thuế theo các yếu tố kinh tế bị đánh thuế (đối
tượng đánh thuế) thì thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản là ba sắc thuế cấu
thành một hệ thống thuế. Cả ba loại i bằng thu nhập
của các cá nhân trong xã hội. Mỗi loại thuế đảm nhận thu cho nhà nước theo những
phương pháp thích hợp, đồng thời tạo ra hiệu ứng tối ưu nhất đối với nền sản xuất xã
hội. Thuế đánh vào thu nhập làm giảm bớt thu nhập khả dụng của người có thu nhập.
15
Thuế đánh vào tiêu dùng làm cho người tiêu dùng bị điều tiết một phần thu nhập mà
nếu không có nó người tiêu dùng đã có thể mua được nhiều hàng hoá, dịch vụ tiêu
dùng hơn. Thuế đánh vào tài sản làm giảm bớt sự giàu có hoặc lợi ích do tài sản mang
lại cho chủ sở hữu của chúng. Điều đó cho thấy sự tồn tại của ba loại thuế thu nhập,
tiêu dùng và tài sản là tất yếu, thể hiện sự phù hợp, tương ứng theo sát chu kỳ vận
động của thu nhập. Có thể minh hoạ điều này thông qua sơ đồ biểu diễn dưới đây:
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ biểu diễn chu kỳ vận động của thu nhập
(2) (5) Thu nhập tiêu dùng Thuế tiêu dùng
(1)
(3) (5)
Thu nhập hiện tại Thuế thu nhập Thu nhập tương lai Thuế thu nhập
Thu nhập tích lũy hiện vật hóa thành tài sản Thuế tài sản (5)
(4) (5)
Nguồn: Sử Đình Thành (2006), Tài chính công.
(5) Thu nhập tích lũy khác Tài sản tài chính hóa
Ghi chú:
(1) Thu nhập nhận được trong hiện tại chưa sử dụng sẽ bị đánh thuế thu nhập.
(2) Thu nhập còn lại (sau thuế thu nhập) khi tiêu dùng bị đánh thuế tiêu dùng.
(3) Thu nhập còn lại dùng cho mục đích tích luỹ tài sản bị đánh thuế tài sản.
(4)Tài sản tích lũy khác không hiện vật hoá (tài sản chính) thông thường không bị
đánh thuế tài sản vì thực chất chúng chỉ là những trái vụ phản ánh quyền nắm giữ tài
sản của chủ sở hữu. Phần tài sản thực đã tồn tại dưới dạng hiện vật như chứng khoán,
cổ phiếu,…tạo nên tài sản hiện vật của người vay vốn.
(5)Thu nhập dùng cho tiêu dùng, mua tài sản hoặc tích luỹ dưới dạng tài sản tài chính
đến lượt nó lại tạo ra thu nhập tiềm năng trong tương lai và một trình đánh thuế mới
lại bắt đầu (mũi tên đứt đoạn chỉ dòng thu nhập tương lai ở nhiều chu kỳ đánh thuế
16
sau đó).
Như vậy, hệ thống thuế là một thể thống nhất gồm nhiều loại thuế cấu thành,
được thiết kế dựa trên những nguyên lý và tiêu thức nhất định nhằm phát huy tối đa
những chức năng của mỗi sắc thuế đồng thời thực hiện một cách có hiệu quả mục tiêu
của toàn bộ hệ thống. Một hệ thống thuế hoàn chỉnh phải gồm đầy đủ các loại thuế cơ
bản là: thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản. Sự hiện diện của ba loại thuế nói
trên không đơn thuần là biện pháp cốt lõi để thu được thuế mà quan trọng hơn là một
sự tinh xảo, một kỹ nghệ trong việc thiết kế hệ thống các sắc thuế nhằm đảm bảo tiêu
thức công bằng và hiệu quả một cách tối ưu.
2.2 Thuế tài sản trong các lý thuyết kinh tế
Nghiên cứu đánh thuế tài sản từ lâu đã là một phần trong phát triển phân tích
kinh tế mà khởi đầu là những người theo thuyết trọng nông ở Pháp, sau đó là Ricardo
và tiếp theo là George, vì vậy các tài liệu kinh tế liên quan đến thuế tài sản là rất rộng.
Trong suốt 40 năm qua, ba lý thuyết đã được đưa ra để miêu tả ảnh hưởng kinh tế của
thuế tài sản. Những người theo “quan điểm truyền thống” đưa ra giả thuyết rằng, do
nguồn cung đất đai là cố định nên người sở hữu hoặc người thuê đất sẽ phải chịu thuế
đất. Tuy nhiên, những người theo “quan điểm mới” lại kết luận rằng thuế đất hoàn
toàn gần giống với một loại thuế tổng hợp đánh vào toàn bộ tiền vốn. Còn những
người theo “quan điểm lợi ích” lại đưa ra giả thuyết rằng thuế tài sản được xem xét
một cách đầy đủ thì nó không phải là thuế, mà là một loại phí hiệu quả đánh vào
người sử dụng dịch vụ công cộng ở địa phương. Cho đến nay, những nghiên cứu thực
nghiệm vẫn không xác định được liệu quan điểm mới hay quan điểm lợi ích là mô
hình đánh thuế tài sản phù hợp hơn [25].
Các loại thuế tài sản cơ bản được xác định bao hàm các loại thuế đánh vào
những bất động sản, động sản và phụ thuộc vào giá trị tài sản đó. Nhìn chung, thuế tài
sản được quản lý thông qua việc sử dụng mức thuế thống nhất đối với giá trị định giá
của tài sản chịu thuế. Trong phạm vi giới hạn nhất định, các mức thuế thường khác
nhau phụ thuộc vào loại hoặc nhóm tài sản bị đánh thuế. Hệ thống thuế tài sản khác
nhau đáng kể giữa các phạm vi pháp lý liên quan đến loại tài sản bao gồm cơ sở tính
thuế, kỹ thuật định giá được sử dụng để xác định giá trị tài sản chịu thuế và mức thuế
suất áp dụng đối với các nhóm tài sản khác nhau.
17
Tài liệu kinh tế xem xét mô hình thuế tài sản có phạm vi rất rộng, các nhà kinh
tế phát triển các giả thuyết khác nhau liên quan đến phạm vi tác động của thuế tài sản
và tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm để kiểm định các giả thuyết này. Nghiên cứu
về đánh thuế tài sản gắn chặt với nghiên cứu về cung cấp các dịch vụ công cũng như
việc phân tích cân bằng tổng thể về đánh thuế tài sản phải xem xét đến lợi ích công
cộng được đưa ra thông qua hệ thống đánh thuế tài sản. Những mô hình kinh tế về
đánh thuế tài sản đóng vai trò khá quan trọng, là cơ sở cho các đề xuất chính sách
công mà theo đó mức thuế tài sản khác nhau hoặc quy trình đánh giá khác nhau có thể
dùng để bảo vệ đất nông nghiệp hoặc khuyến khích phát triển ở khu vực thành thị.
Các nhà kinh tế cũng kiểm tra việc quản lý hệ thống thuế tài sản, bao gồm thủ tục
đánh giá thích hợp khi định giá tài sản nhằm mục đích tính thuế.
Theo như mô tả của Winfrey (1973) cũng như của Buchanan và Flowers
(1975), thuế tài sản là một trong những loại hình tính thuế sớm nhất được xem xét từ
góc độ kinh tế. Từ những người theo trường phái trọng nông ở Pháp giữa thế kỷ
XVIII, bao gồm cả Francois Quesnay– người đầu tiên mở ra học thuyết này, những
nhà kinh tế đầu tiên đã kết luận rằng: tài sản là cơ sở hợp lý nhất để tính thuế mà cụ
thể là đất đai. Những người theo trường phái trọng nông xem đất nông nghiệp là lĩnh
vực sản xuất duy nhất của nền kinh tế, tạo ra thặng dư lớn hơn chi phí sản xuất thực
tế. Tất cả các lĩnh vực kinh tế khác của nền kinh tế chỉ đơn giản cung cấp dịch vụ hoặc
biến đổi hàng hóa từ dạng này sang dạng khác.
David Ricardo, nhà kinh tế học cổ điển người Anh cũng cho rằng đất đai là yếu
tố sản xuất thích hợp bị đánh thuế. Theo Ricardo, tăng dân số sẽ làm tăng nhu cầu đối
với sản phẩm nông nghiệp, do đó sẽ dẫn đến nhiều đất đai được đưa vào sử dụng hơn.
Do cần nhiều lao động hơn để làm những vùng đất tăng thêm này hiệu quả, Ricardo lý
giải rằng chi phí lớn hơn sẽ được thể hiện trong việc giá cả sản phẩm nông nghiệp
tăng lên. Giá cả sản phẩm nông nghiệp tăng lên sẽ làm tăng thu nhập cho những người
sở hữu nhiều đất đai màu mỡ hơn, đây là những người không phải đối mặt với việc
tăng chi phí sản xuất đối với phần đất biên tăng thêm [25]. Cũng theo Ricardo, phần
thu nhập tăng thêm này hay gọi là “tô”, thặng dư này cần phải bị đánh thuế bởi vì nó
không thể hiện chi phí sản xuất thực tế [25].
Tại Mỹ, việc sử dụng thuế tài sản bị giới hạn trong phạm vi pháp lý bang và địa
phương. Thêm vào đó, doanh thu có được thông qua đánh thuế vào động sản giảm so
18
với đánh thuế vào bất động sản (Netzer, 1966). Mặc dù bước tiến về thuế duy nhất của
George chưa bao giờ được thực hiện đầy đủ chủ yếu do các khó khăn về hành chính
nhưng nó vẫn hiện hữu trong cơ chế thuế tài sản mà theo đó đất đai bị đánh thuế mạnh
hơn so với các dạng tài sản khác (Oates và Schwab, 1997).
Các nhà kinh tế phát triển ba lý thuyết cơ bản xem xét tác động của thuế tài
sản. Quan trọng hơn, mỗi lý thuyết đều phân biệt thuế đất đai và thuế vốn. Kết quả
quan sát cho rằng thuế tài sản có thể có tác động khác biệt đến đất đai trái ngược với
các hình thức vốn khác bắt nguồn từ khác biệt về tính co giãn về cung của mỗi đối
tượng. Dựa trên giả thiết rằng cung đất đai phụ thuộc vào thuế là cố định trong phạm
vi pháp lý cho trước, quan điểm truyền thống chỉ ra rằng thuế đất sẽ do người sử dụng
đất chịu, mà cụ thể đó là người sở hữu hoặc người thuê đất (Netzer, 1966). Tuy nhiên,
quan điểm mới lại đưa ra kết luận rằng thuế đất đai có thể tách ra thành hai phần là
thuế thu nhập và thuế tiêu thụ đặc biệt (Mieszkowski, 1972; Aaron 1975). Do phần
thuế thu nhập tương đương với thuế chung đánh vào vốn nên phần thuế tài sản đó sẽ
đánh vào người sở hữu vốn. Cuối cùng, quan điểm lợi ích giả thiết rằng thuế tài sản
được xem là phí đánh vào người sử dụng các dịch vụ công tại địa phương (Hamilton,
1992). Do người tiêu dùng các dịch vụ công là thay đổi nên quan điểm lợi ích cho
rằng thuế tài sản trong nhiều trường hợp là cơ cấu tài chính hiệu quả đối với các dịch
vụ công.
2.3 Những nguyên tắc xây dựng mô hình thuế tài sản
2.3.1 Nguyên tắc đảm bảo tính công bằng
Công bằng theo chiều dọc và chiều ngang là điều tối quan trọng nếu muốn giải
quyết yếu tố kinh tế và chính trị của cải cách thuế tài sản. Công bằng theo chiều dọc
và chiều ngang thể hiện ở chỗ các tài sản tương tự cần có nghĩa vụ thuế được xác định
và thanh toán tương tự nhau, trong khi đó sự khác biệt tương đối về giá trị tài sản cần
phải được phản ánh trong các mức khác biệt tương đối có thể so sánh được trong giá
trị tài sản chịu thuế và phần nộp thuế. Sự công bằng cũng đòi hỏi phải áp dụng một
cách rõ ràng, nhất quán và khách quan các chính sách và thủ tục được hiểu và chấp
nhận rộng rãi. Để công bằng, cần đánh thuế theo các quy tắc chung và khách quan
được thừa nhận là hợp lý và công bằng. Tổng số tiền thuế phải nộp cần chắc chắn và
không nên được xác định thông qua thương lượng hoặc yêu sách một cách tùy tiện.
19
Công bằng là một yêu cầu rất quan trọng trong việc xây dựng mô hình thuế,
tính công bằng của thuế thể hiện ở hai mặt pháp lý và kinh tế. Theo các nhà kinh tế
học, tính công bằng của thuế được xem xét ở hai giác độ, công bằng theo chiều ngang
và công bằng theo chiều dọc. Công bằng theo chiều ngang là các đối tượng có tình
trạng và khả năng nộp thuế ngang nhau thì phải được đối xử về thuế như nhau. Công
bằng theo chiều dọc là sự đối xử về thuế khác nhau đối với các đối tượng có tình trạng
và khả năng đóng thuế khác nhau. Tính công bằng về thuế còn được các nhà kinh tế
học xem xét ở khía cạnh khả năng đóng thuế, lợi ích của người nộp thuế.
2.3.2 Nguyên tắc bền vững và khả thi
Tính bền vững của hệ thống thuế tài sản là điều cần thiết vì chi tiêu thường
xuyên của chính quyền địa phương thường lấy từ nguồn thu thuế tài sản: chính quyền
địa phương yêu cầu một nguồn thu thuế ổn định nhằm phát triển và duy trì mức độ
cung cấp dịch vụ và cơ sở hạ tầng tại địa phương như mong muốn. Để bảo đảm tính
bền vững thì hệ thống thuế tài sản phải cân bằng giữa tính năng động và uyển chuyển
với tính ổn định và nhất quán để cho nó vừa có khả năng thay đổi thích nghi với tình
hình, đồng thời có thể dự báo trước trong quá trình áp dụng. Yếu tố then chốt nhất của
tính bền vững là hệ thống thông tin quản lý phải vận hành tốt để giảm thiểu khoảng
cách giữa chính sách và thực tiễn.
Nguyên tắc khả thi rất quan trọng trong việc xây dựng bất kỳ một sắc thuế nào,
nguyên tắc khả thi thể hiện ở những điểm sau:
- Nguyên tắc khả thi đòi hỏi sắc thuế phải tính đến khả năng đóng thuế của người
dân từ đó đưa ra cách thức điều chỉnh thích hợp. Nhà nước không thể bắt người dân
đóng thuế khi họ không có khả năng đóng góp. Khả năng đóng góp của người dân thể
hiện ở chỗ người dân chỉ phải đóng thuế khi mà thu nhập chịu thuế của họ là khoản
thu nhập còn dư ra sau khi chi cho những nhu cầu cần thiết. Thông thường các quốc
gia tính toán và đưa ra những định mức chi tiêu cần thiết áp dụng chung cho mọi
người dân. Nếu thu nhập của họ không vượt quá định mức này, họ không phải đóng
thuế.
- Nguyên tắc khả thi cũng thể hiện ở việc thi hành luật thuế, cơ quan thuế phải có
khả năng xác định đúng đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, số thuế phải thu.
Ngòai ra, cơ quan thuế cũng phải có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời các trường
hợp trốn thuế, tránh thuế.
20
2.3.3 Cơ sở thuế rộng và thuế suất thấp
Phạm vi thu thuế rộng là điều thiết yếu nếu muốn thuế tài sản phát huy hiệu
quả, công bằng và bền vững. Phạm vi thu thuế quan trọng bởi vì những trường hợp bất
công nhất và thất thu thuế nhiều nhất là do cơ sở thuế hẹp, bất kể “hẹp” là do luật định
hoặc do cách quản lý trong thực tế, danh mục tài sản chịu thuế thường chỉ bao gồm
một tỉ lệ nhỏ tài sản chịu thuế. Do vậy khi nhu cầu tiền thuế tăng mà lại không mở
rộng được danh mục tài sản chịu thuế thì xuất hiện cái vòng tròn lẩn quẩn từ định giá
tài sản chịu thuế cao hơn, giảm mức độ tuân thủ nộp thuế, cơ sở thuế hiệu dụng nhỏ
hơn, số thu thuế thấp hơn, và lại tiếp tục định giá tài sản chịu thuế cao hơn. Tuy nhiên,
thậm chí khi danh sách tài sản chịu thuế đầy đủ và chính xác đi chăng nữa thì sẽ
không tạo ra cơ sở thuế rộng trong thực tiễn nếu không có cơ chế hành thu hữu hiệu.
Theo nghiên cứu của Jay K. Rosengard (1998), hàng hóa có độ co giãn càng
cao thì tổn thất xã hội càng lớn, hàng hóa có thuế suất cao thì tổn thất xã hội lớn. Do
đó một hệ thống thuế có hiệu quả nên đánh thuế với mức thuế suất thấp và diện chịu
thuế rộng. Thuế hàng hóa tối ưu là phương án chọn các mức thuế suất giữa các loại
hàng hóa để tổn thất xã hội là nhỏ nhất trước một nhu cầu về doanh thu thuế cho
trước.
Ngoài ra, cơ sở thuế hẹp làm tăng nhu cầu cần có mức thuế suất tương đối cao.
Điều này không chỉ không có hiệu quả về mặt kinh tế do mất mát vô ích từ cải thiện
đất đai tăng theo bình phương thuế suất mà nó còn không có công bằng xã hội bởi vì
nó làm tăng gánh nặng thuế của các công dân khi tài sản của họ không bị loại bỏ khỏi
cơ sở thuế.
2.3.4 Nguyên tắc đơn giản
Nguyên tắc đơn giản phải được thể hiện trong cả khâu thiết kế và điều chỉnh
thực để hạn chế sự chủ quan và tình trạng tham nhũng trong công tác quản lý thuế.
Tính đơn giản trong thiết kế thuế tài sản đòi hỏi việc đánh thuế phải dựa trên cơ sở
rộng với các mức thuế suất thống nhất cho các loại tài sản. Tính đơn giản trong quản
lý thuế tài sản làm gia tăng tính hiệu quả về mặt chi phí và sự công bằng khi thực thi
chính sách thuế. Các thủ tục thuế đối với tài sản đơn giản sẽ được các cán bộ thuế và
người nộp thuế nhanh chóng nắm bắt, do vậy việc quản lý sẽ tương đối dễ dàng và ít
tốn kém – nếu có tình trạng lạm dụng thì cả hai bên đều dễ dàng biết được. Hơn nữa
các tác nghiệp khi đã được hợp lý hóa cho phép mở rộng phạm vi thu thuế chỉ với
21
nguồn lực hạn chế và khuyến khích người nộp thuế tự nguyện tuân thủ do dịch vụ
được cải thiện.
Nguyên tắc đơn giản, dễ hiểu phải được thể hiện ở cả khía cạnh kinh tế lẫn
pháp lý. Thông thường cơ quan thuế quan tâm nhiều đến số tiền thuế thu được cho
ngân sách, nhưng người chịu thuế luôn muốn biết xem ngoài thuế, họ còn phải chịu
thêm chí phí l như chi phí thuê khai thuế, chi phí
xin giấy phép ưu đãi đầu tư, thời gian mà họ phải bỏ ra để hoàn thành nghĩa vụ thuế
đối với nhà nước… Giảm bớt các chi phí liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế
rất quan trọng trong việc cải cách thuế. Hầu hết các quốc gia đều mong muốn luật thuế
của mình đơn giản và dễ hiểu. Tuy nhiên, nếu một sắc thuế quá đơn giản cũng không
phải luôn luôn là một điểm tích cực. Thuronyi (2008) đã chỉ ra rằng ở những nước
đang phát triển có luật thuế rất đơn giản và với luật thuế như thế, các nước này không
thể điều chỉnh những giao dịch phức tạp [28]. Cơ quan quản lý thuế không thể đưa ra
được hướng dẫn thích hợp cho người nộp thuế, người chịu thuế hoặc cơ quan quản lý
thuế không có khả năng kiểm tra những giao dịch đó dẫn đến tình trạng trốn, tránh
thuế và thất thu ngân sách.
2.3.5 Tính hiệu quả
Nguyên tắc này đòi hỏi sự kiểm tra của cơ quan lập pháp xem mục tiêu ban
hành sắc thuế có được đảm bảo không. Việc kiểm tra phải được tiến hành xuyên suốt
trong quá trình áp dụng. Nếu mục tiêu của việc ban hành sắc thuế nào đó là nhằm mục
tiêu tăng thu cho ngân sách nhà nước thì quốc hội phải kiểm tra xem số tiền thuế thu
được có nhiều hơn chi phí mà nhà nước phải bỏ ra để thu thuế hay không .Hiệu quả
phân bổ và quản lý là điều quan trọng để duy trì mối quan hệ hợp lý giữa nguồn thu
tạo ra được với chi phí kinh tế và tài chính để huy động được số thu đó.
2.4 Những nhân tố cơ bản của mô hình thuế tài sản
Để hình thành bất kỳ một mô hình thuế nào, điều cần thiết đầu tiên là phải xác
định các nhân tố cấu thành sắc thuế đó. K.Rosengard (1998) đúc kết từ lý thuyết và
kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia và cho rằng, các nhân tố cơ bản hình thành sắc
thuế tài sản bao gồm cơ sở thuế (tax base), thuế suất (tax rate) và hình thức (method)
đánh thuế.
- Cơ sở thuế (căn cứ tính thuế) bao gồm: phạm vi đối tượng chịu thuế tài sản, thu
nhập chịu thuế hoặc tài sản chịu thuế, tỷ lệ giá trị tài sản chịu thuế, ngưỡng chịu thuế.
22
- Thuế suất: sự đồng nhất hay khác biệt thuế suất; thuế suất lũy tiến, tỷ lệ hay lũy
thoái.
- Hình thức đánh thuế: thể hiện cách thức đánh thuế dựa trên giá trị hay thu
nhập; đánh thuế hàng năm hoặc đánh thuế một lần.
Hình 2.1a: Mô hình thuế tài sản của K. Rosengard (1998)
Nguồn: Jay K.Rosengard (1998), Property Tax Reform in Developing Countries,
Kluver Academic Publishers, Boston.
Thuế bất động sản Indonesia, PBB (pajak bumi dan bangunan, thuế đất và công
trình xây dựng) được áp dụng theo giá trị trên thị trường vốn đối với tất cả đất đai và
công trình xây dựng trên toàn quốc, ngoại trừ bất động sản thuộc các nhóm được miễn
thuế theo quy định cụ thể trong luật thuế bất động sản.
- Đất được định nghĩa là diện tích bề mặt của Indonesia, bao gồm đường thủy và
mặt biển, cùng với diện tích nằm bên dưới.
- Công trình xây dựng (building) được định nghĩa là các kiến trúc xây dựng cố
định trên mặt đất hay mặt nước có tạo ra lợi ích, bao gồm đường xá và các công trình
gắn liền với tổ hợp xây dựng; đường thu phí; hồ bơi; vườn và hàng rào đắt tiền; công
trình thể thao; bến tàu và cảng; đường ống, hồ chứa và các thiết bị chế biến dầu, khí
và nước.
23
Nguồn: Keputusan Menteri Keuangan Republik Indonesia Nomor (1988), Tentang Penentuan Klasifikasi dan Besarnya Nilai Jual Obyek Pajak Sebagai Dasar Pengenaan Pajak Bumi Dan Bangunan.
Hình 2.1b: Mô hình thuế tài sản của Keputusan Menteri Keuangan Republik Indonesia Nomor (1988)
2.5 Mô hình t
2.5.1
Thuế tài sản là loại thuế có lịch sử lâu đời nhất trên thế giới, sắc thuế này được
hình thành đầu tiên vào thời kỳ cổ đại ở Hy Lạp (năm 596 trước Công nguyên) và đến
thời Trung cổ được áp dụng tại Anh và một số nước châu Âu, Bộ luật Saladin năm
1188 có ghi rõ: thuế ra đời để phục vụ cuộc Thập tự chinh Thiên chúa giáo lần thứ 3
với thuế suất 10% áp dụng đối với tiền cho thuê bất động sản và động sản [14]. Thuế
tài sản được áp dụng sớm và rộng rãi, trước hết vì vào thời kỳ đó xã hội chủ yếu dựa
vào kinh tế nông nghiệp mà đất đai gần như là tài sản duy n
i qua các giai đoạn cùng với sự phát triển kinh tế, các động sản khác ngày càng
tăng và đất đai mất dần vị trí độc tôn ban đầu với tư cách là nguồn thu chủ yếu của
mỗi quốc gia.
Về lịch sử phát triển của thuế tài sản, có thể lấy Thụy Điển là một ví dụ điển
hình. Thuế tài sản đánh vào đất đai đã trở thành nguồn thu chủ yếu để Nhà Vua và
Hoàng tộc thoả mãn các nhu cầu chi tiêu, kể cả việc duy trì quân đội, bộ máy hành
chính ngay từ đầu thời kỳ trung cổ. Nhà Vua ban đất cho giới quý tộc, nên họ phải
24
cống nạp cho triều đình bằng sự phục vụ của chính bản thân và những sản phẩm do
nông nô trong các trang trại sản xuất ra. Đây cũng là nguồn cung cấp lương thực, thực
phẩm quan trọng và là một trong những hình thức nộp thuế tài sản bằng hiện vật đầu
tiên.
Một trong những xu hướng cải cách chính sách thuế đang diễn ra trên thế giới
liên quan đến tài sản là mở rộng diện đánh thuế trên tài sản thuộc quyền sở hữu tư
nhân bao gồm nhà đất, tài sản thừa kế, quà tặng, tài sản chuyển nhượng. Việc thu thuế
tem (gần như lệ phí trước bạ, công chứng ở Việt Nam) cũng đang được mở rộng qua
việc hợp pháp hoá quyền sở hữu, quyền sử dụng nhiều tài sản có giá trị lớn trong việc
chuyển nhượng ở các nước thuộc liên minh Châu Âu và nhiều nước khác. Thuế quà
tặng cũng đang phát triển ở một số nước, thuế này thường chiếm đến 3% tổng số thu
về thuế ở Thuỵ Điển, 10% ở các nước Nhật, Anh, Mỹ. Nếu xét trên số thuế thu cho
địa phương thì các loại thuế đánh vào tài sản đóng vai trò khá lớn. Tại úc, Ireland và
Anh, tỷ lệ số thu từ thuế đánh trên BĐS chiếm gần 100% số thuế thu cho địa phương;
ở New Zealand khoảng trên 90%, ở Mỹ, Canada, Hà Lan trên 70% [14].
Thuế tài sản ở các nước OECD chiếm một tỷ trọng khá đáng kể so với GDP,
đóng góp một nguồn thu tương đối ổn định cho ngân sách của các quốc gia này.
Bảng 2.1: Tỷ lệ thuế tài sản trên GDP các nƣớc nhóm OECD
Quốc gia
Australia Austria Belgium Canada Chile Czech Republic Denmark Finland France Germany Greece Hungary Iceland Ireland Israel Italy 2004 2,6 0,6 2,2 3,4 1,3 0,4 1,8 1,1 3,3 0,9 1,3 0,8 2,5 2,1 3,2 2,5 2005 2,6 0,6 2,1 3,4 1,4 0,4 1,9 1,2 3,4 0,9 1,3 0,9 2,7 2,4 3,3 2,0 2006 2,7 0,6 2,3 3,4 1,2 0,4 1,9 1,1 3,5 0,9 1,4 0,8 2,2 2,9 3,1 2,1 2007 2,6 0,6 2,2 3,4 1,2 0,4 1,9 1,1 3,5 0,9 1,4 0,8 2,5 2,5 3,3 2,1 2008 2,2 0,5 2,2 3,4 1,2 0,4 2,0 1,1 3,4 0,9 1,5 0,9 2,2 1,8 3,2 1,9 2009 ,, 0,5 2,0 3,5 0,6 0,4 1,9 1,1 3,4 0,8 1,3 0,8 2,1 2,3 3,0 2,7
25
Japan Korea Luxembourg Mexico Netherlands New Zealand Norway Poland Portugal Slovak Republic Slovenia Spain Sweden Switzerland Turkey United Kingdom United States 2,6 2,6 2,9 0,3 2,0 1,8 1,1 1,3 1,1 0,5 0,6 2,8 1,5 2,5 0,7 4,2 3,1 2,6 2,9 3,2 0,3 2,0 1,8 1,1 1,3 1,2 0,5 0,6 3,1 1,4 2,3 0,8 4,3 3,0 2,5 3,3 3,3 0,3 1,8 1,9 1,2 1,3 1,2 0,4 0,6 3,2 1,4 2,4 0,9 4,5 3,1 2,5 3,4 3,5 0,3 1,8 1,9 1,2 1,2 1,4 0,4 0,6 3,0 1,2 2,3 0,9 4,5 3,1 2,7 3,2 2,6 0,3 1,6 1,9 1,2 1,2 1,3 0,4 0,6 2,3 1,1 2,2 0,9 4,2 3,2 2,7 3,0 2,5 0,0 ,, 2,0 1,2 ,, ,, 0,4 0,6 2,0 1,1 2,4 0,9 4,2 3,3
Nguồn: Website của OECD (2010)
Riêng thuế bất động sản ở các quốc gia cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể so với
GDP và đóng góp một phần không nhỏ cho ngân sách của địa phương, cụ thể qua biểu
đồ 2.1 và 2.2.
Biểu đồ 2.1: Thuế BĐS so với GDP của các nhóm nƣớc
Nguồn: tổng hợp số liệu từ Website của OECD (2010)
26
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ ngân sách thuế BĐS với chi tiêu của chính quyền địa phƣơng
Nguồn: tổng hợp số liệu từ Website của OECD
2.5.2 M
Trên thế giới, thuế đánh trên tài sản là một trong những loại thuế ra đời sớm
nhất trong lịch sử nhân loại với hình thức đầu tiên là thuế đất được áp dụng rộng rãi ở
nhiều nước. Mô hình thuế tài sản ở một số nước trên thế giới được tóm lược ở các
bảng 2.2; bảng 2.3; bảng 2.4 và bảng 2.5.
(a) Thuế tài sản ở Liên bang Hoa kỳ [29]
Bảng 2.2: Thuế tài sản ở liên bang Hoa kỳ
Tài sản cá nhân: Máy móc, thiết bị, xe máy, ô tô, máy bay, tàu
thuyền, máy tính…
Đối tượng chịu Bất động sản: đất đai, cao ốc, nhà cửa, bãi đậu xe, công viên,
vườn cảnh… thuế tài sản
Tài sản vô hình: Bản quyền, bằng phát minh sáng chế, thương
hiệu, nhãn hiệu, chứng khoán…
Hình thức đánh Trên giá trị ròng của tài sản và giá thị trường thuế tài sản
Căn cứ tính Giá trị tính thuế của tài sản, thuế suất tỷ lệ và thuế suất lũy tiến. thuế tài sản
27
(b) Thuế tài sản ở Cộng Hoà Pháp [28]
Bảng 2.3: Thuế tài sản ở cộng hòa Pháp
- Tài sản cá nhân Đối tượng chịu - Tài sản đăng ký (trước bạ) thuế tài sản - Đất xây dựng và đất không xây dựng
- Thuế tài sản đánh hàng năm, thuế tài sản cá nhân đánh trên giá
trị ròng của tài sản
- Thuế đánh một lần khi có chuyển dịch tài sản (chuyển dịch cho
không hoặc chuyển dịch có thu tiền) như: thuế thừa kế, thuế
quà tặng, thuế trước bạ đánh vào chuyển nhượng đất đai, nhà
cửa hoặc lợi thế thương mại, thuế đánh vào các hợp đồng bảo
Hình thức đánh hiểm.
- Ngoài ra, còn có một số loại thuế tài sản dành riêng cho địa thuế tài sản
phương như: thuế đất đối với xây dựng (bao gồm cả đất xây
dựng, đất ở, đất kinh doanh) và thuế đất đối với đất không xây
dựng (đất nông nghiêp do các chủ sở hữu đất nộp hàng năm).
Nguồn thu từ các loại thuế này được dành toàn bộ cho ngân
sách địa phương. Địa phương có quyền quy định mức thuế
suất trên cơ sở khung thuế suất đã được quy định trong Luật.
Thuế tài sản cá nhân đánh hàng năm trên giá trị tài sản ròng của
cá nhân
- Tài sản chịu thuế: là toàn bộ tài sản bằng tiền, bằng hiện vật
cấu thành sản nghiệp của đối tượng nộp thuế tại thời điểm
ngày 01 tháng 01 của năm tính thuế (sản nghiệp được hiểu là
một tập hợp các tài sản có, tài sản nợ bao gồm toàn bộ tài sản Căn cứ tính hiện có cộng với số cho vay, cho mượn, trừ đi số tiền phải trả thuế tài sản nợ cho người khác).
- Đối tượng nộp thuế: các thể nhân là đối tượng cư trú tại
Pháp các thể nhân không là đối tượng cư trú tại Pháp nhưng
có sở hữu tài sản mà giá trị ròng vượt trên khởi điểm tính thuế.
- Căn cứ tính thuế: thuế tài sản được tính trên cơ sở giá trị tài
sản chịu thuế và thuế suất. Giá trị tài sản chịu thuế là giá trị tài
28
sản. Thuế suất được áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến (tương tự
như biểu thuế thu nhập cá nhân ở Việt nam).
- Thuế trước bạ (thuế đăng ký tài sản) đánh một lần khi chuyển
dịch tài sản: Đây là loại thuế đối với tổ chức, cá nhân có nhu
cầu được cơ quan thuế xác nhận tính pháp lý của các loại văn
tự liên quan đến tài sản chuyển nhượng, bao gồm cả chuyển
dịch cho không như tặng biếu, cho thừa kế và chuyển nhượng
có thu tiền. Giá tính thuế trước bạ là toàn bộ số tiền ghi trên
văn tự chuyển nhượng tài sản hoặc theo giá thị trường. Đối với
tài sản thừa kế, giá tính thuế trước bạ là toàn bộ tài sản được
thừa kế ghi trên di chúc sau khi đã trừ các khoản được giảm trừ
theo quy định của Luật, tuỳ theo mức độ quan hệ họ hàng với
người quá cố.
Về một số loại thuế tài sản dành riêng cho ngân sách địa
phương: Ngoài các loại thuế tài sản đánh thuế dành cho các cấp
ngân sách, ở Pháp còn có loại thuế đất dành riêng cho ngân sách
địa phương là thuế đối với đất xây dựng và thuế đối với đất
không xây dựng.
- Thuế đất đối với xây dựng: do các chủ sở hữu đất và các công
trình xây dựng gắn liền trên đất với nhà cố định dùng để ở, kinh
doanh, nhà máy, văn phòng ... nộp hàng năm. Giá tính thuế đất
được xác định bằng 50% giá trị lợi tức cho thuê đất hoặc giá trị
công trình thiết bị thuộc diện chịu thuế đất. Lợi tức cho thuê làm
căn cứ tính thuế đất được xác định theo định kỳ đánh giá giá trị
đất căn cứ vào hiện trạng của tài sản, được cố định trong nhiều
năm.
- Thuế đối với đất không xây dựng: do các chủ sở hữu đất nông
nghiệp nộp hàng năm. Thuế được xác định trên thu nhập ròng ghi
trên sổ địa chính của chủ sở hữu đất nông nghiệp và thuế suất.
Thu nhập ròng được xác định bằng 80% giá trị lợi tức cho thuê
vào ngày 01 tháng 01 năm tính thuế.
29
(c) Thuế tài sản ở Thụy Điển [28]
Thụy Điển hiện đang áp dụng 3 hình thức thuế tài sản chủ yếu theo mô hình
sau đây:
Bảng 2.4: Thuế tài sản ở Thụy Điển
- Tài sản cá nhân Đối tượng
chịu thuế tài - Bất động sản
sản - Tài sản thừa kế và qùa tặng
- Thuế tài sản: thực chất là loại thuế đánh trên trị giá tài sản ròng
(tổng trị giá tài sản sau khi trừ khoản tiền vay để mua tài sản) của
những người sở hữu tài sản mà trị giá ròng từ 800.000 SEK trở lên
bao gồm bất động sản (nhà và đất), xe ô-tô, tàu, thuyền, cổ phần
tiền gửi ở ngân hàng. Thuế nộp hàng năm, tính theo biểu luỹ tiến
từ 1.5% đến 3% trên tổng giá trị tài sản ròng thực có. Giá trị tài Hình thức sản càng lớn thì thuế suất càng cao. đánh thuế và - Thuế bất động sản: Là loại thuế thu trên giá trị nhà và đất, không căn cứ tính quy định mức khởi điểm tính thuế như tài sản. Như vậy, bất động thuế tài sản sản (nhà và đất) bị đánh thuế 2 lần: lần thứ nhất khi bị đánh thuế
thông qua thuế tài sản (nếu trị giá tài sản ròng đạt từ 800.000 SEK
trở lên và lần thứ hai, khi thu thuế đối với nhà đất riêng).
- Thuế quà tặng, thuế thừa kế tài sản: Là loại thuế đánh vào quà
tặng và tài sản thừa kế, có quy định mức khởi điểm đánh thuế cho
từng khoản tài sản là quà tặng hay thừa kế.
(d) Thuế tài sản ở Đài Loan [28]
Bảng 2.5: Thuế tài sản ở Đài Loan
- Tài sản thừa kế Đối tượng chịu - Tài sản quà tặng thuế tài sản - Đất đai
Thuế đối với tài sản thừa kế (thuế thừa kế) Hình thức đánh - Đối tượng đánh thuế: Tài sản thừa kế của người quá cố là công thuế và căn cứ dân Đài Loan hoặc là đối tượng cư trú tại Đài Loan phải chịu tính thuế tài sản thuế thừa kế không phân biệt tài sản thừa kế nằm trong hay
30
ngoài lãnh thổ Đài Loan. Các loại tài sản thừa kế bao gồm: bất
động sản, động sản có giá trị như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng,
chứng khoán, cổ phiếu, hàng hoá, ô-tô, tàu thuyền, đất đai,
quyền chủ nợ, quyền khai thác …
- Đối tượng nộp thuế: là người thực hiện di chúc, người được
thừa kế hoặc người quản lý tài sản được quy định theo luật
trong trường hợp không có người thừa kế, hoặc vợ hoặc chồng
còn sống của người quá cố và những người thừa kế tài sản hợp
pháp theo luật dân sự.
Thuế đối với quà tặng: là thuế đánh vào quà tặng và do người
tặng biếu chịu trách nhiệm nộp. Trong trường hợp không có mặt
người tặng biếu hoặc người tặng quà không nộp thuế trong thời
hạn quy định và không còn tài sản để cưỡng chế thì người nhận
quà tặng sẽ là người nộp thuế
Thuế đất: Thuế đất ở Đài Loan đã được hình thành với nhiều
hình thức khác nhau. Đến tháng 7/1977 mới có quy định thống
nhất thành luật thuế đất bao gồm: thuế đánh trên giá trị đất, thuế
đất canh tác nông nghiệp và thuế đánh vào trị giá đất tăng thêm
2.5.3 Nhận xét về các mô hình thuế tài sản ở một số nƣớc trên thế giới
Nghiên cứu các mô hình đánh thuế tài sản được áp dụng ở một số nước trên thế
giới, rút ra một số nhận xét về thuế tài sản như sau:
Bảng 2.6: Nhận xét về mô hình thuế tài sản ở các nƣớc trên thế giới
Các nhân tố cấu Nội dung các nhân tố thành thuế TS
Ở hầu hết các nước, đánh thuế trên tài sản thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, với các tên gọi khác nhau. Phổ biến là Tên gọi thuế tài không có một luật riêng về thuế tài sản bao quát tất cả các hình sản thức thuế tài sản, “Thuế tài sản” chỉ là tên gọi chung để chỉ các
sắc thuế lấy tài sản làm đối tượng đánh thuế.
Đối tượng chịu Tài sản chịu thuế phổ biến là bất động sản, có phân biệt đất đai
thuế và công trình trên đất, đây là tài sản khó có thể trốn thuế, khả
31
năng quản lý, kiểm soát dễ dàng; về mức động viên có thể linh
hoạt cao hay thấp tuỳ theo yêu cầu về ngân sách địa phương; số
thu có thể kế hoạch hoá một cách tương đối và là nguồn thu
quan trọng của các địa phương.
Đối tượng nộp thuế tài sản là đối tượng có quyền sở hữu tài sản,
cá biệt có nước quy định là đối tượng có quyền sử dụng (nếu
Đối tượng nộp quyền sử dụng đất được coi như tài sản). Ở các nước này, đất
thuế đai ngoài thuộc sở hữu cá nhân hoặc tổ chức, đất đai còn thuộc
sở hữu nhà nước nhưng được nhà nước giao cho tổ chức, cá
nhân quyền sử dụng ổn định, lâu dài.
Căn cứ tính thuế có thể được xác định trên cơ sở tổng trị giá các
tài sản thuộc sở hữu cá nhân (bất động sản, động sản, tiền vốn...)
trừ đi các khoản chi phí, tiền vay để tạo thành tài sản; có thể là
Căn cứ tính thuế giá trị riêng từng loại tài sản trong diện đánh thuế thuộc sở hữu
của một cá nhân. Giá tính thuế tài sản, thường được căn cứ theo
giá thị trường tại thời điểm đánh thuế tài sản, áp dụng giá
tính thuế do Chính phủ hay chính quyền địa phương quy định
Các loại thuế bất động sản thu hàng năm như thuế đất, thuế nhà,
thuế chuyển nhượng tài sản (trừ thuế quà biếu, quà tặng và thuế
thừa kế) thường đánh theo thuế suất tỷ lệ trên giá trị tài sản chịu
Thuế suất thuế, với mức động viên thấp. Thuế suất quy định đối với tài sản
thừa kế hoặc tài sản biếu tặng thường cao hơn và được đánh luỹ
tiến. Mức độ luỹ tiến phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người
nhận tài sản với người tặng quà hoặc người cho thừa kế.
Thực tế áp dụng tại các quốc gia đã cho thấy những ưu điểm rõ rệt của thuế
đánh vào tài sản là:
- Tài sản thông thường là BĐS nằm cố định, không thể di chuyển nên có căn cứ
tính thuế ổn định, bảo đảm chống thất thu có hiệu quả.
- Thuế suất có thể thay đổi trong phạm vi nhất định, không sợ bị ảnh hưởng đến
giá cả, tiền vốn, đời sống tuyệt đại bộ phận tầng lớp dân cư.
32
- Việc tổ chức quản lý thu thuế tương đối đơn giản.
- Số thuế tương đối ổn định mặc dù có biến động về việc định giá tài sản.
Kết luận chƣơng 2
Thuế tài sản là tên gọi chung cho các sắc thuế lấy tài sản làm đối tượng đánh
thuế. Tài sản và thuế tài sản là những khái niệm ra đời rất sớm và phổ biến ở hầu hết
các nước trên thế giới. Vấn đề là mỗi quốc gia vận dụng mô hình thuế tài sản nào
trong từng thời đoạn để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia đó, vì
bản chất của thuế vừa là một phạm trù kinh tế và vừa là một phạm trù lịch sử. Tuỳ
theo yêu cầu quản lý và tình hình thực tiễn, đặc thù của từng quốc gia về quản lý hành
chính nhà nước mà mỗi nước có những chính sách thuế tài sản thích hợp để khai thác
tối đa hiệu quả, công bằng xã hội và bổ sung nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ở
Việt Nam, thuế tài sản đã trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhà nước trong việc
xây dựng và áp dụng để bổ sung nguồn thu cho ngân sách nhà nước khi mà các vấn đề
về tài sản nhất là đất đai, nhà cửa đã được bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình
thực tế.
Để xây dựng mô hình thuế tài sản, điều quan trọng nhất là phải xác định các
yếu tố cấu thành sắc thuế tài sản, bao gồm cơ sở thuế (Tax base), thuế suất (Tax rate)
và hình thức đánh thuế cho phù hợp. Kinh nghiệm các nước trên thế giới vận dụng mô
hình thuế tài sản chỉ ra rằng:
Thứ nhất, cơ sở đánh thuế tài sản chỉ nên giới hạn ở những tài sản có giá trị lớn
và dễ kiểm tra, kiểm soát theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Nguyên lý này một mặt
đảm bảo tính khả thi của mô hình thuế tài sản, một mặt tạo ra hiệu ứng “luỹ tiến” so
với thu nhập.
Thứ hai, giá trị tính thuế của tài sản thường được tính theo thị trường tại thời
điểm tính thuế, cũng có nước quy định giá trị tính thuế là giá trị ròng của tài sản.
Thứ ba, thuế đánh vào tài sản có thể thực hiện một lần nhưng cũng có thể thực
hiện nhiều lần hoặc kết hợp. Việc đánh thuế một lần vào tài sản thường được áp dụng
đối với những tài sản lần đầu được xây dựng, mua sắm hay chuyển giao.
Thứ tư, việc đánh thuế tài sản cần phải được kết hợp một cách chặt chẽ với các
hình thức thuế thu nhập từ tài sản và phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với các
loại thuế thu nhập khác.
33
CHƢƠNG 3:
3.1 và p
3.1.1
3.1.1.1 Tình trạng sử dụng đất đai đến năm 2012
Theo số liệu báo cáo tổng điều tra đất đai năm 2010, tổng diện tích các loại đất
kiểm kê của cả nước là 33.093.857 ha. Theo mục đích sử dụng, đất được phân thành 3
nhóm chính: đất nông nghiệp; đất phi nông nghiệp; đất chưa sử dụng. Tình hình sử
dụng đất của nước ta cụ thể như sau:
(1) đất nông nghiệp: Tổng diện tích nhóm đất nông nghiệp của cả nước năm 2010 là
26.100.160 ha, tăng 5.179.385 ha (gấp 1,25 lần) so với năm 2000. Trong đó, lượng
tăng chủ yếu ở loại đất lâm nghiệp (tăng 3.673.998 ha) và loại đất sản xuất nông
nghiệp (tăng 1.140.393 ha).
Bảng 3.1 Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp trên cả nƣớc
Diện tích (ha)
Biến động (ha)
Chỉ tiêu
Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010
2000-2005
2005-2010
2000-2010
20.939.679 24.822.560 26.100.160
3.882.881
1.277.600
5.160.481
Tổng diện tích đất nông nghiệp
8.977.500
9.415.568 10.117.893
438.068
702.325
1.140.393
Đất sản xuất nông nghiệp
Đất lâm nghiệp
11.575.027 14.677.409 15.249.025
3.102.382
571.616
3.673.998
367.846
700.061
690.218
332.215
-9.843
322.372
Đất nuôi trồng thuỷ sản
Đất làm muối
18.904
14.075
17.562
-4.829
3.487
-1.342
402
15.447
25.462
15.045
10.015
25.060
Đất nông nghiệp khác
Nguồn: Tổng điều tra đất đai năm 2000, năm 2005 và năm 2010
34
(2) đất phi nông nghiệp: Diện tích đất phi nông nghiệp trên cả nước có mức tăng
trưởng tương đối nhanh và tuyến tính trong vòng một thập niên qua. Trung bình mỗi
năm, diện tích đất phi nông nghiệp gia tăng thêm khoảng 82.000 ha và tốc độ tăng
trưởng bình quân hằng năm ở mức xấp xỉ 29%. Tổng diện tích nhóm đất chuyên dùng
gia tăng mạnh nhất trong giai đoạn 2005-2010 (722.277 ha); tiếp theo là diện tích đất
ở, tăng 237.300 ha; đất nghĩa trang, nghĩa địa tăng 7.200 ha; đặc biệt, nhóm đất sông
suối và mặt nước chuyên dùng giảm mạnh xuống chỉ còn khoảng trên 1 triệu ha vào
năm 2010. Đất tôn giáo, tín ngưỡng cũng có sự gia tăng đáng kể, tăng trên 1.800 ha
sau giai đoạn 2005-2010.
Bảng 3.2 Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp trên cả nƣớc
Biến động (ha) Diện tích (ha) tăng (+), giảm (-). Chỉ tiêu
Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010 2000- 2005 2005- 2010 2000- 2010
2.850.298
3.232.715 3.670.186
+382.417 + 437.471 +819.888
Tổng diện tích
443.178
598.428
680.477
+155.250
+ 82.049 +237.299
Đất ở
1.072.202
1.383.766 1.794.479
+311.564 + 410.713 +722.277
12.804
14.620
+1.816
Đất chuyên dùng
93.741
97.052
100.939
+3.311
+3.887
+7.198
Đất tôn giáo, tín ngưỡng
1.143.087
1.137.445 1.075.736
-5.642
-61.709
-67.351
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
3.221
3.936
+3.221
+715
+3.936
Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng
Đất phi nông nghiệp khác
Nguồn: Tổng điều tra đất đai năm 2000, năm 2005 và năm 2010
35
(3) đất chƣa sử dụng: Thực tế, diện tích đất chưa sử dụng đã giảm nhanh, mạnh và
đáng kể sau một thập niên. Chỉ sau 5 năm từ năm 2000-2005, diện tích đất chưa sử
dụng đã giảm một nửa từ 10.027.265 ha xuống còn 5.065.884 ha. Năm 2000, diện tích
đất chưa sử dụng chiếm tới 30,5% trong tổng cơ cấu đất đai (gần 2/3 diện tích cả
nước), thì năm 2005 con số này chỉ còn 15,3%, đến năm 2010 con số này là 10%.
3.1.1.2 Chính sách quản lý đất đai
Bộ luật Dân sự (2005) quy định "Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp
luật”. Từ khi Luật đất đai (1993) thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại tài sản dân
sự đặc biệt thì quyền sở hữu đất đai thực chất cũng là quyền sở hữu một loại tài sản
dân sự đặc biệt. Vì vậy khi nghiên cứu về quan hệ đất đai, cho thấy các quyền năng
của sở hữu nhà nước về đất đai bao gồm: quyền chiếm hữu đất đai, quyền sử dụng đất
đai, quyền định đoạt đất đai. Các quyền năng này được Nhà nước thực hiện trực tiếp
bằng việc xác lập các chế độ pháp lý về quản lý và sử dụng đất đai. Nhà nước không
trực tiếp thực hiện các quyền năng này mà thông qua hệ thống các cơ quan nhà nước
do Nhà nước thành lập ra và thông qua các tổ chức, cá nhân sử dụng đất theo những
quy định và theo sự giám sát của Nhà nước.
Hoạt động trên thực tế của các cơ quan nhà nước nhằm bảo vệ và thực hiện
quyền sở hữu nhà nước về đất đai rất phong phú và đa dạng, bao gồm 13 nội dung đã
quy định ở Điều 6, Luật Đất đai 2003 như sau:
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ
chức thực hiện các văn bản đó;
- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản
đồ hành chính;
- Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện
trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất;
- Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất;
- Thống kê, kiểm kế đất đai;
- Quản lý tài chính về đất đai;
- Quản lý và phát triển thị trường quyền SDĐ trong thị trường bất động sản;
36
- Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử
lý vi phạm pháp luật về đất đai
- Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong
việc quản lý và sử dụng đất đai;
- Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
Mười ba nội dung trên nhằm bảo vệ và thực hiện quyền sở hữu nhà nước về đất
đai, được tập trung vào bốn lĩnh vực cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Nhà nước nắm chắc tình hình đất đai, tức là Nhà nước biết rõ các
thông tin chính xác về số lượng đất đai, về chất lượng đất đai, về tình hình hiện trạng
của việc quản lý và sử dụng đất đai.
Thứ hai: Nhà nước thực hiện việc phân phối và phân phối lại đất đai theo quy
hoạch và kế hoạch chung thống nhất. Nhà nước chiếm hữu toàn bộ quỹ đất đai, nhưng
lại không trực tiếp sử dụng mà giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng. Trong quá trình
phát triển của đất nước, ở từng giai đoạn cụ thể, nhu cầu sử dụng đất đai của các
ngành, các cơ quan, tổ chức cũng khác nhau. Nhà nước với vai trò chủ quản lý đất đai
thực hiện phân phối đất đai cho các chủ sử dụng theo quá trình phát triển của xã hội.
Thứ ba: Nhà nước thường xuyên thanh tra, kiểm tra chế độ quản lý và sử dụng
đất đai. Hoạt động phân phối và sử dụng đất do các cơ quan nhà nước và do người sử
dụng cụ thể thực hiện. Để việc phân phối và sử dụng được phù hợp với yêu cầu và lợi
ích của Nhà nước, Nhà nước tiến hành kiểm tra giám sát quá trình phân phối và sử
dụng đất Trong khi kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện các vi phạm và bất cập trong
phân phối và sử dụng, Nhà nước sẽ xử lý và giải quyết các vi phạm, bất cập đó.
Thứ tư: Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai, hoạt động
này được thực hiện thông qua các chính sách tài chính về đất đai như: thu tiền sử dụng
đất (có thể dưới dạng tiền giao đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, có
thể dưới dạng tiền thuê đất, có thể dưới dạng tiền chuyển mục đích sử dụng đất), thu
các loại thuế liên quan đến việc sử dụng đất (như thuế sử dụng đất, thuế chuyển quyền
sử dụng đất, thuế thu nhập có được từ việc chuyển quyền sử dụng đất...) nhằm điều
tiết các nguồn lợi hoặc phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử
dụng đất mang lại.
3.1.2
37
Theo Nghị Định 90/2006/NĐ-CP ban hành ngày 6/9/2006, vai trò quản lý Nhà
nuớc về nhà ở tập trung vào các vấn đề sau:
- Xây dựng định hướng phát triển nhà ở quốc gia
- Xây dựng chương trình phát triển nhà ở của các địa phương
- Quản lý và cung cấp thông tin về nhà ở
- Điều tra, thống kê, xây dựng dữ liệu về nhà ở
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác phát triển và quản lý nhà ở
- Quản lý hoạt động môi giới bất động sản nhà ở
- Trách nhiệm quản lý nhà nước về nhà ở của Bộ Tài nguyên và môi trường
- Trách nhiệm quản lý nhà nước về nhà ở của các Bộ, ngành liên quan
- Trách nhiệm quản lý nhà nước về nhà ở của địa phương
- Ban Chỉ đạo về chính sách nhà ở
- Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
trong lĩnh vực nhà ở
Tính đến thời điểm 1/4/2009 cả nước có đến 20.866.630 nhà ở, với tốc độ đô
thị hóa phát triển nhanh hiện nay thì số lượng sẽ còn tăng đáng kể trong tương lai.
Bảng 3.3: Tình trạng nhà ở tính đến ngày 1/4/2009
Khu vực Nhà kiên cố Nhà bán kiên cố Nhà đơn sơ Khác Tổng
Cả nước 9.667.917 9.565.747 1.628.667 4.299 20.866.630
Thành thị 2.536.259 3.383.594 172.595 2.291 6.094.739
Nông thôn 7.131.658 6.182.153 1.456.072 2.008 14.771.891
Nguồn:Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê
3.1.3 Đối với các tài sản khác
Ngoài chế độ quản lý đối với đất đai thuộc tài sản quốc gia, Nhà nước đã có
những quy định về chế độ quản lý với một số tài sản khác như: nhà, công trình kiến
trúc, phương tiện vận tải ( mô tô, ô tô, tàu, thuyền...). Các tổ chức, cá nhân có các tài sản trên phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng theo quy định của nhà nước. Số
liệu ở bảng 3.4 thể hiện tình trạng gia tăng phương tiên giao giai đoạn 2002-2012, số lượng xe máy tăng nhanh quá mức đã phá vỡ kế hoạch mà “Quy hoạch phát triển giao
thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030” đặt ra, đã được phê duyệt theo Quyết định 356/QĐ-TTg của Chính phủ vào cuối tháng
2/2013. Theo đó, đến năm 2020 Việt Nam ở mức 36 triệu xe máy và 3,2-3,5 triệu ô tô.
38
Bảng 3.4: Tình trạng phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ giai đoạn 2002-2012
Ô tô Xe máy Tổng số Năm
607.401 10.273.000 10.880.401 2002
675.000 774.824 11.379.000 13.375.992 12.054.000 14.150.816 2003 2004
891.104 972.912 16.086.644 18.615.960 16.977.748 19.588.872 2005 2006
1.106.617 21.721.282 22.827899 2007
1.361.645 25.481.039 26.842.684 2008
1.535.987 28.431.079 29.967.066 2009
1.713.908 31.452.503 33.166.411 2010
1.882.972 33.925.839 35.808.811 2011
2.033.265 37.023.078 39.056.343 2012
Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu Cục Giao thông đường bộ
3.2 :
3.2.1
Cho đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam tuy chưa có sắc thuế nào có tên là thuế
tài sản, nhưng đối chiếu với cơ sở lý luận về tài sản và thuế tài sản ở nhiều nước trên
thế giới thì có một số sắc thuế và lệ phí hiện hành mang tính chất của thuế tài sản như
thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (thay thế thuế nhà đất
trước năm 2012) và lệ phí trước bạ.
Thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp là hai sắc
thuế đều thuộc loại thu hàng năm, nhằm động viên một phần thu nhập của tổ chức, cá
nhân được giao quyền sử dụng đất thuộc sở hữu quốc gia vào các mục đích khác nhau.
Tương tự như vậy, lệ phí trước bạ là khoản thu một lần đánh vào tổ chức, cá nhân có
tài sản thuộc diện Nhà nước quản lý khi thực hiện thủ tục để công nhận tính pháp lý
về quyền sử dụng hay quyền sở hữu tài sản đó. Ngoài ra, còn có một số khoản thuế
hoặc thu khác có liên quan đến đất đai, tài sản nhưng không mang tính chất của thuế
tài sản như: tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế tài nguyên…
Nhìn tổng quát, các sắc thuế liên quan đến tài sản hiện nay của nước ta có
nhiều điểm chưa rõ nét, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, trong một số trường hợp,
có sự lẫn lộn giữa thuế và lệ phí. Nguồn thu từ các khoản thuế liên quan đến tài sản
chưa đóng góp nhiều cho NSNN và chưa chiếm vị trí quan trọng trong ngân sách địa
39
phương như hầu hết ở các nước khác… Đó là những điểm cơ bản cần lưu ý khi xây dựng thuế tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.
3.2.2 Thực trạng về các chính sách thuế liên quan đến tài sản
3.2.2.1 Nguồn thu liên quan đến tài sản
Qua biểu đồ 3.1, nguồn thu liên quan đến tài sản chủ yếu tập trung vào khoản
thu tiền sử dụng đất và lệ phí trước bạ, các khoản thu khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
Biểu đồ 3.1: Kết cấu nguồn thu đối với tài sản
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính
Kết quả nguồn thu (bảng 3.5) chỉ ra rằng trong giai đoạn 2003-2012, thuế
SDĐNN chiếm tỷ lệ rất nhỏ 0,04% so với tổng thu NSNN, kế đến là thuế nhà đất
0,22% và lệ phí trước bạ 1,56%. Riêng chỉ có khoản thu tiền sử dụng đất có tỷ lệ
tương đối 6,91%, tuy nhiên khoản thu này thật sự chỉ liên quan đến tài sản đất đai chứ
không mang rõ nét thuế tài sản.
Bảng 3.5: Kết cấu nguồn thu liên quan đến TS so với tổng thu NS (tỷ lệ %)
Chỉ tiêu
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 TB
0,10 0,07 0,06 0,04 0,03 0,02 0,01 0,01 0,01 0,01 0,04
0,26 0,32 0,41 0,43 0,69 0,69 0,06
0,41
Thuế SDĐNN
0,23 0,22 0,22 0,21 0,21 0,21 0,26 0,24 0,22 0,16 0,22
Thuế CQSDĐ
Thuế nhà đất
1,15 1,31 1,17 1,16 1,68 1,69 2,07 2,14 1,55 1,71 1,56
Thu tiền thuê đất 0,32 0,52 0,42 0,56 0,65 0,81 0,72 0,64 0,81 1,04 0,65
5,16 7,15 5,94 5,33 8,53 7,27 8,08 8,39 7,18 6,07 6,91
Lệ phí trước bạ
Thu tiền SDĐ
Nguồn:Tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính
40
Tương tự, kết quả nguồn thu (bảng 3.6) cũng chỉ ra rằng thuế SDĐNN chiếm tỷ
lệ nhỏ nhất 0,04% so với tổng số thu thuế, kế đến là thuế nhà đất 0,27% và lệ phí
trước bạ 1,92%. Thuế chuyển quyền sử dụng đất chiếm tỷ lệ 0,51%, tuy nhiên từ năm
2010 sắc thuế này được chuyển sang chịu thuế TNCN.
Bảng 3.6:Kết cấu nguồn thu liên quan đến tài sản so với tổng thu thuế (tỷ lệ %)
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
TB
Chỉ tiêu
Thuế SDĐNN
0,12 0,08
0,07
0,05
0,04 0,03
0,02
0,01 0,01 0,01 0,04
Thuế CQ SDĐ
0,32 0,41
0,51
0,53
0,87 0,83
0,07
0,51
Thuế nhà đất
0,28 0,28
0,27
0,25
0,26 0,25
0,32
0,29 0,26 0,19 0,27
Thu tiền thuê đất
0,40 0,67
0,52
0,69
0,81 0,97
0,90
0,78 0,97 1,24 0,80
Lệ phí trước bạ
1,42 1,68
1,46
1,42
2,10 2,03
2,59
2,61 1,86 2,03 1,92
Thu tiền SDĐ
6,37 9,13
7,39
6,52 10,68 8,70 10,10 10,22 8,59 7,21 8,49
Nguồn: tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính
So sánh kết quả trên với tỷ trọng thuế tài sản ở một số quốc gia (Biểu đồ 3.2)
cũng đủ thấy rằng tỷ trọng thuế tài sản ở Việt Nam còn ở mức rất khiêm tốn, chỉ
chiếm 2,58% trên tổng thu thuế và 2,12% trên tổng thu ngân sách . Điều này cho thấy
hệ thống thuế tài sản Việt nam còn quá kém so với các nước, chưa thể hiện được tính
hiệu quả và không tạo ra được một mắc xích đồng bộ trong hệ thống thuế quốc gia
gồm thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản.
Biểu đồ 3.2: Mức phụ thuộc vào thuế tài sản ở một số Quốc gia
Nguồn: tổng hợp theo số liệu của website Bộ tài chính và Tạp chí Dillinger, Thuế bất
động sản thành thị tại các nước đang phát triển (2010)
41
3.2.2.2 Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Thuế SDĐNN được thực hiện từ 01/01/1994 theo quy định tại Luật thuế
SDĐNN (QH thông qua năm 1993), Pháp lệnh thuế bổ sung đối với hộ gia đình
SDĐNN vượt quá hạn mức diện tích (UBTVQH thông qua ngày 15/03/1994). Nội
dung cơ bản của thuế SDĐNN như sau:
- Đối tượng chịu thuế: là đất dùng vào sản xuất nông nghiệp gồm đất trồng trọt,
đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản, đất rừng trồng.
- Căn cứ tính thuế: được xác định theo diện tích đất, hạng đất và định suất thuế
tính bằng kg thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất.
Kết quả đạt đƣợc từ thuế SDĐNN nhƣ sau: - Thuế SDĐNN góp phần tăng thu cho NSNN trong thời kỳ đổi mới, thuế
SDĐNN tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước khi mà các ngành công nghiệp chưa
phát triển mạnh và thu ngân sách thấp trong khi chi ngân sách không ngừng tăng qua
các năm. Với quy định của Luật NSNN hiện hành, thuế SDĐNN được để lại 100%
cho địa phương, trong đó cấp xã được tối thiểu 70%, đã tạo điều kiện cho NSĐP có
nguồn thu ổn định, đảm bảo cho hoạt động của bộ máy hành chính và phát triển cơ sở
hạ tầng nông thôn.
- Thuế SDĐNN giúp nhà nước quản lý được quỹ đất nông nghiệp, tình hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi nên thuế SDĐNN giúp quản lý và thúc đẩy sự
phát triển thị trường BĐS ở nông thôn. Thực tế cho thấy, khi một ngành nào đó thuộc
lĩnh vực nông nghiệp phát triển sẽ kéo theo thị trường BĐS ở khu vực nông thôn phát
triển. So với những năm thuộc thập niên 1980, việc cho thuê, cho thuê lại đất nông
nghiệp, thế chấp quyền SDĐNN để vay vốn… diễn ra khá phổ biến.
- Thuế SDĐNN góp phần thúc đẩy việc SDĐ có hiệu quả, từ đó làm gia tăng hàng hóa BĐS trên thị trường. Điều này được minh chứng qua quy định mọi cá nhân
được giao đất có sử dụng hoặc không sử dụng đều phải nộp thuế, nên bắt buộc mọi người nắm giữ đất đều phải tăng cường đầu tư thâm canh tăng năng suất vật nuôi, cây
trồng để làm tăng thu nhập và hoàn thành nghĩa vụ thuế. Nếu không sử dụng hoặc SDĐ không hiệu quả thì để tiết kiệm chi phí thuế, người SDĐ có thể cho thuê lại đất
hoặc chuyển nhượng quyền SDĐ cho người khác.
- Do đất đai có đặc điểm là không di chuyển được nên việc đánh thuế cao đối với
những ruộng, đất gần đường giao thông, tiện lợi tưới tiêu, độ màu mỡ tự nhiên cao đã đảm bảo được sự công bằng giữa những người SDĐ thuộc các tầng lớp dân cư, tổ
42
chức khác nhau. Từ đó giúp nhà nước ổn định và điều tiết thị trường BĐS khu vực nông thôn.
Đánh giá về chính sách thuế SDĐNN - Tỷ trọng thuế SDĐNN hiện nay chưa đạt mục tiêu ngân sách, chưa phát huy
vai trò của thuế BĐS trong hệ thống thuế tài sản.
- Cách thức phân loại hạng đất hiện nay làm căn cứ tính thuế quá lạc hậu so với
nến kinh tế thị trường. Chính sách thuế SDĐNN ban hành vào những năm đầu thập niên 90, khi đó cả xã hội đang quen với việc xác định hạng đất, mức thuế suất rất ổn
định. Hiện nay, nước ta đã chuyển sang kinh tế thị trường nhưng lại vẫn dùng tiêu chí là dựa trên hạng đất và diện tích để đánh thuế thì không còn phù hợp. Trên thực tế,
việc xác định hạng đất để áp thuế suất tính thuế SDĐNN cho hợp lý và công bằng là khó thực hiện được do việc xác định hạng đất dựa vào các yếu tố về độ phì tự nhiên,
nhưng hầu hết các địa phương đều không có bản đồ nông hóa thổ nhưỡng, số lượng
các mảnh ruộng của người dân bị chia phân tán và manh mún tại nhiều vị trí khác
nhau, trong khi thời gian phân hạng quá ngắn. Từ đó nhiều địa phương phải phân hạng
đất chủ yếu dựa vào năng suất thu hoạch canh tác hàng năm hoặc theo cách cũ là căn
cứ kế hoạch được giao, phân bổ nhiệm vụ thu cho từng huyện, xã và thuế được tính
chung cho từng hộ nông dân. Do vậy, việc xác định hạng đất thường thiếu khách
quan, dễ phát sinh những tiêu cực, nảy sinh nhiều trường hợp cùng một diện tích đất
nhưng được xếp là hạng đất thấp để đóng thuế SDĐNN thấp nhưng khi bị thu hồi lại
được xếp hạng đất cao để nhận đền bù cao.
- Việc sử dụng định suất thuế được tính dựa trên kg thóc/ha. Do nền kinh tế nước
ta trước đây dựa trên sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, việc thu thuế theo giá thóc là
hợp lý. Nhưng hiện nay, tốc độ công nghiệp hóa - hiện đại hóa ngày càng nhanh, các
quan hệ tiền tệ phát triển mạnh thì giá thóc thường xuyên biến động trên thị trường
nên việc tính thuế sẽ không còn phù hợp nữa.
- Về chính sách miễn, chính sách thuế lại gắn liền với quá nhiều chính sách xã hội làm nội dung chính sách thuế phức tạp, gây nhiều vướng mắc trong quá trình thực
hiện.
- Tính khoa học của việc quản lý thu thuế SDĐNN hiện nay là chưa cao. Công
tác quản lý, thu thuế SDĐNN chủ yếu dựa vào chính quyền thôn, xã, thông qua ủy
nhiệm thu nhưng trình độ, năng lực của cán bộ thôn, xã có phần bị hạn chế nên thực tế
ở một số nơi đã phát sinh những sai phạm, khiếu kiện kéo dài và phức tạp. Mặt khác,
chính sách đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ thôn, xã ngành thuế chưa được quan
43
tâm đầy đủ, phụ cấp quá thấp nên chưa động viên khuyến khích họ hăng hái khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
3.2.2.3 Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có hiệu lực từ 01/01/2012 và thay thế
Pháp lệnh thuế nhà đất với những nội dung cơ bản như sau:
Đối tượng chịu thuế:
- Đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị - Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp bao gồm: đất xây dựng khu công
nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất khai thác, chế biến khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm.
- Đất phi nông nghiệp quy định tại Điều 3 của Luật Thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh.
Căn cứ tính thuế: gồm có giá tính thuế và thuế suất, giá tính thuế đối với đất được xác định bằng diện tích đất tính thuế nhân với giá của 1m2 đất với thuế suất gồm có 3 bậc.
3.2.2.4 Thuế nhà đất
Pháp lệnh về thuế nhà đất được ban hành ngày 14/9/1991 và được sửa đổi, bổ
sung vào các năm 1992, 1994, 2003. Pháp lệnh thuế nhà đất quy định: thuế đất thu
hàng năm đối với các đối tượng có quyền sử dụng đất để ở hoặc để xây dựng công
trình, mang ý nghĩa là thuế đánh vào việc sử dụng đất cho mục đích phi sản xuất nông
nghiệp. Tuy nhiên, trong thời gian qua nhà nước chưa thực hiện việc thu thuế nhà,
riêng thuế đất được chuyển sang loại thuế sử dụng đất phi nông nghiệp từ ngày
1/1/2012.
Căn cứ tính thuế đất là diện tích đất ở, đất xây dựng công trình, hạng đất và
định suất thuế tính trên đơn vị diện tích. Trong đó diện tích đất tính thuế là toàn bộ
diện tích đất thực tế sử dụng vào mục đích ở, xây dựng công trình theo giấy cấp đất;
hạng đất được xác định căn cứ vào các yếu tố chủ yếu như: loại đô thị (từ I đến VI),
loại đường phố hoặc khu phố dựa theo vị trí của đất ở từng khu vực và các điều kiện
thuận lợi trong sản xuất kinh doanh; mức thuế suất được xác định theo định suất và
được xác định từ 1 đến 32 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp. Pháp lệnh về thuế
nhà đất cũng quy định miễn giảm cho loại đất sử dụng cho các mục đích công cộng,
an ninh quốc phòng, vùng sâu, vùng xa, gia đình chính sách, khó khăn.
Mặc dù là thuế nhà đất, nhưng trên thực tế trong thời gian qua nhà nước chỉ có
thu thuế đất và kết quả đạt được từ thuế đất như sau:
44
- Thuế đất trong thời gian qua có chiều hướng tăng tốc qua các năm, đóng góp
phần nao cho nguồn thu ngân sách địa phương
- Thuế đất góp phần tăng cường quản lý nhà nước đối với việc SDĐ. Bên cạnh việc thu thuế đất ổn định, nhà nước cũng quản lý được các diện tích đất ở, đất vườn,
đất xây dựng các công trình của các tổ chức và cá nhân do các tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm kê khai tình hình SDĐ với cơ quan thuế. Điều này vừa giúp nhà nước
có kế hoạch tổng thể trong việc quy hoạch các cơ sở hạ tầng, các khu kinh tế trọng điểm… vừa làm cho việc SDĐ của tổ chức, cá nhân trở nên hiệu quả hơn (vì nếu
không SDĐ vẫn phải nộp thuế, nên người sử dụng sẽ cho thuê lại, trả lại nhà nước, chuyển nhượng). Điều này giúp nhà nước có thêm căn cứ thực tế để nghiên cứu, xây
dựng chính sách thuế SDĐ hợp lý hơn.
- Thuế đất góp phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân SDĐ tiết kiệm phù hợp
với pháp luật về đất đai.
- Thuế đất góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do giá đất tính thuế được xây
dựng trên cơ sở lý thuyết địa tô nên khác nhau giữa các khu vực, vị trí các trục đường
khác nhau. Mức thuế phải nộp căn cứ vào khả năng có thể sinh lợi của đất, mức độ
tiện ích của đất đối với người sử dụng. Qua đó, thuế đất góp phần điều tiết thị trường
BĐS thực hiện công bằng xã hội.
Bên cạnh kết quả đạt được, chính sách thuế đất hiện hành một số hạn chế
như sau:
- Thuế đất là loại thuế tỏ ra kém hiệu quả, chi phí quản lý thu thuế lớn, trong khi số thu hằng năm chỉ khoảng trên một nửa diện tích đất ở, đất xây dựng công trình và
số thu bình quân hàng năm chỉ đạt 962 tỷ đồng, chiếm bình quân khỏang 0,22% so với
tổng thu NSNN.
- Cách phân loại hạng đất hiện nay làm căn cứ tính thuế quá lạc hậu so với nền
kinh tế thị trường.
- Về đối tượng chịu thuế nhà đất hiện nay, theo quy định của Pháp lệnh thuế nhà đất năm 1992, đối tượng chịu thuế là nhà và đất ở, đất xây dựng công trình. Tuy nhiên,
do tình hình kinh tế xã hội vào những năm này chưa cho phép thu thuế đối với nhà.
Những năm gần đây, Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích, phát triển nhà ở.
Luật đất đai năm 2003 tạo điều kiện cho phát triển nhà, Luật nhà ở năm 2005 và Luật
kinh doanh BĐS năm 2006 đã tạo hành lang pháp lý để các tổ chức, cá nhân tham
gia đầu tư phát triển nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua,… Theo đó, thị trường BĐS
về nhà, đất đã được hình thành và đang trên đà phát triển. Trên thị trường đã xuất hiện
45
nhiều loại nhà như chung cư cao cấp, văn phòng cho thuê, các loại hình nhà liền kề, nhà biệt thự… và xuất hiện tình trạng đầu cơ về nhà, đất, đẩy giá nhà, đất lên cao
không hợp lý mà chưa có công cụ điều tiết từ phía nhà nước.
- Việc quy định giá tính thuế từ 1 đến 32 lần thuế SDĐNN, định suất thuế tính
trên kg thóc trên 1 ha. Ngay cả việc xác định hạng đất tính thuế được xác định căn cứ vào các yếu tố chất đất, vị trí, địa hình, khí hậu, thời tiết và điều kiện tưới tiêu... là phù
hợp với việc phân loại để thu thuế SDĐNN nhưng không phù hợp với đất ở, đất xây dựng công trình (đất phi nông nghiệp).
- Hơn nữa, thuế đất chưa có sự điều tiết cao đối với những đối tượng có quyền SDĐ với diện tích lớn để khuyến khích SDĐ tiết kiệm, hiệu quả và hạn chế đầu cơ về
đất, cụ thể là không phân biệt giữa việc SDĐ trong hạn mức và vượt hạn mức; không phân biệt giữa người có một nhà hoặc một thửa đất với người có nhiều nhà hoặc sử
dụng nhiều thửa đất. Với những hạn chế về căn cứ tính thuế, có thể thấy thuế đất hiện
nay chưa thật sự phát huy được vai trò điều tiết đối với thị trường BĐS.
- Chính sách miễn giảm thuế hiện nay vì chưa tạo sự công bằng. Việc xét miễn, giảm thuế do thiên tai tính theo tỷ lệ về tài sản bị thiệt hại so với toàn bộ tài sản (tài
sản cố định, tài sản lưu động) có trên lô đất chịu thuế thường khó xác định chính xác
nên rất ít trường hợp được xem xét miễn giảm theo đúng luật.
3.2.2.5 Lệ phí trƣớc bạ
Lệ phí trước bạ là khoản thu khi đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đối với một số tài sản. Theo Thông tư 68/2010/TT-BTC
ban hành ngày 26/4/2010, được quy định như sau: Đối tượng chịu lệ phí trước bạ bao gồm : nhà, đất, phương tiện vận tải, súng săn,
súng thể thao.
Mức thu lệ phí trước bạ - Nhà, đất: 0,5%
- Phương tiện vận tải cơ giới đường thuỷ, phưong tiện đánh bắt và vận chuyển thuỷ sản (kể cả vỏ, khung, tổng thành máy thuỷ): 1%; riêng tàu đánh cá xa bờ (kể cả
vỏ, khung, tổng thành máy lắp thay thế) là 0,5%
- Súng săn, súng thể thao: 2%
- Xe máy mức thu như sau: Kê khai nộp lệ phí trước bạ xe máy lần đầu thì nộp lệ phí trước bạ theo tỷ lệ: 5%, kê khai nộp lệ phí trước bạ xe máy từ lần thứ 2 trở đi nộp
lệ phí trước bạ theo tỷ lệ: 1%
- Xe ôtô mức thu như sau: mức thu từ 2% đến 15%
46
Nhìn chung, Lệ phí trước bạ là khoản thu tương đối ổn định và tăng ổn định hàng năm, chiếm khoảng 17% số thu từ BĐS và 1,56% số thu NSNN. Việc thu lệ phí
trước bạ đã phục vụ tốt yêu cầu kiểm kê, kiểm soát đối với tài sản. Thông qua việc thu lệ phí trước bạ, cán bộ thuế cũng đã phát hiện một số tài sản của Nhà nước, của tập thể
hay tư nhân bị chiếm dụng trái pháp luật, góp phần ngăn chặn các hiện tượng xã hội tiêu cực.
Lệ phí trước bạ được áp dụng từ lâu và đã trở thành khoản đóng góp khá quen thuộc và nề nếp trong nhân dân. Hơn nữa, lệ phí trước bạ đáp ứng được nguyện vọng
của người nộp, muốn được xác định quyền sở hữu tài sản hợp pháp, thuận tiện cho việc tra cứu khi có kiện tụng, tranh chấp nên lệ phí trước bạ là khoản thu tương đối
thuận lợi, nhất là với tỷ lệ động viên tương đối thấp.
- Lệ phí trước bạ đóng góp một phần đáng kể cho nguồn thu ngân sách, chiếm tỷ
trọng 2% trên tổng thu NSNN.
- Tuy nhiên, lệ phí trước bạ không thuần túy là lệ phí hành chính mà mang tính
chất của một sắc thuế có tác dụng điều tiết đối với một số loại tài sản, nên tên gọi lệ
phí trước bạ là chưa hợp lý. Mức động viên từ lệ phí trước bạ khá cao, nhưng với danh
nghĩa là một khoản lệ phí nên căn cứ pháp lý chưa cao, chưa phù hợp với tính chất của
khoản thu. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp mua bán nhà đất chỉ làm giấy viết tay
hoặc chỉ cần có xác nhận của chính quyền phường, xã, không chịu làm thủ tục đăng
ký trước bạ nhưng việc xử lý sai phạm có nhiều khó khăn vì biện pháp chế tài chưa đủ
hiệu lực cần thiết.
- Bên cạnh đó, căn cứ tính lệ phí trước bạ hiện nay là chưa khoa học và hợp lý.
Hiện nay, Nhà nước chưa có quy định rõ ràng, cụ thể về những tài sản thuộc diện quản
lý của Nhà nước phải làm đầy đủ thủ tục đăng ký trước bạ để việc thực hiện chế độ
thu lệ phí trước bạ thuận lợi. Ví dụ đối với nhà, chỉ mới phải đăng ký trước bạ đối với
nhà chuyển dịch. Trên thực tế đã có không ít trường hợp mua đất với diện tích rộng
chỉ có nhà cấp 4 trên đất với giá không đáng bao nhiêu. Nhưng sau khi mua đất, chủ
nhà đã phá toàn bộ nhà cũ, xây dựng lại nhà cao tầng, nhà biệt thự với giá mới gấp
chục lần, thậm chí gấp hàng trăm lần giá cũ khi làm thủ tục trước bạ. Nếu không có
quy định rõ ràng về nguyên tắc phải đăng ký trước bạ đối với nhà xây dựng mới hoặc
nhà sửa chữa lớn mà giá trị tăng đến mức độ nhất định thì Nhà nước không thể nắm
được giá nhà thực tế đã có nhiều thay đổi, đặc biệt ở các đô thị lớn, gây thất thu nhiều
về tiềm năng lệ phí trước bạ.
- Giá tính lệ trước bạ hiện nay còn nhiều bất cập như:
47
Giá trị của BĐS làm căn cứ tính lệ phí trước bạ khó hợp lý nếu được tính theo giá thị trường tại thời điểm chuyển dịch tài sản, vì giá thị trường lại biến
động phức tạp, khó xác định; ngược lại nếu tính theo giá quy định của Nhà nước thì phổ biến là thấp, lạc hậu so với giá thị trường.
Việc xác định tỷ lệ khấu hao hữu hình và vô hình đối với nhà thường khó khăn vì thiếu những tiêu chuẩn rõ ràng mang tính pháp lý. Tình trạng giá ghi trên
hóa đơn rất thấp diễn ra phổ biến nên việc đấu tranh, thuyết phục để xác định giá tính lệ phí trước bạ vừa khó khăn, vừa có nhiều sơ hở.
Quy định tổ chức thực hiện về cơ chế, trách nhiệm trong việc phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng, với chính quyền cơ sở trong việc xác
định quyền sở hữu, quyền sử dụng BĐS; về nội dung, giá trị của BĐS đăng ký trước bạ, về xử lý vi phạm là không rõ ràng, dẫn đến tình trạng thất thu về lệ phí trước bạ
đang xảy ra phổ biến ở hầu hết các địa phương, kể cả việc quy định khống chế mức
thu tối đa 500 triệu đồng/vụ đối với những tài sản có giá trị lớn.
3.2.2.6 Tiền sử dụng đất
Chính sách thu tiền SDĐ hiện hành được thực hiện theo Nghị định số
98/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 các Nghị định bổ sung sửa đổi như Nghị định số
17/2006/NĐ-CP, 84/2007/NĐ-CP, 44/2008/NĐ-CP. Nội dung cơ bản của chính sách
thu tiền SDĐ như sau:
Về đối tượng nộp tiền SDĐ bao gồm: Người được nhà nước giao đất để sử
dụng vào các mục đích ở, kinh doanh nhà ở, SXKD, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
để chuyển nhượng hoặc cho thuê, xây dựng công trình công cộng có mục đích kinh
doanh, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; Người đang
SDĐ nông nghiệp, phi nông nghiệp được chuyển mục đích SDĐ trong một số trường
hợp theo quy định của Chính phủ.
Về căn cứ tính thu tiền SDĐ: là diện tích đất, giá đất và thời hạn SDĐ, trong
đó:
- Giá đất: là giá theo mục đích SDĐ được giao tại thời điểm giao đất do UBND
cấp tỉnh ban hành (trong khung giá đất của Chính phủ).
- Thời hạn SDĐ: gồm đất có thời hạn không quá 50 năm, không quá 70 năm với
đất có thời hạn sử dụng ổn định lâu dài.
- Đối với trường hợp SDĐ lâu dài và đất được giao có thời hạn sử dụng 70 năm,
thu tiền SDĐ bằng 100% giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành. Đối với trường hợp có
48
thời hạn SDĐ dưới 70 năm, thì trừ tiền SDĐ của mỗi năm không được giao đất sử dụng là 1,2% của mức thu 70 năm. Tiền thuê đất 3.2.2.7
Chế độ thu tiền thuê đất hiện nay được quy định tại Nghị định 142/2005/NĐ-
CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ. Nhà nước cho thuê đất là việc nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất. Tiền thuê đất
là khoản thu đối với tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước thuê đất một thời gian để hoạt động kinh doanh mà không phải là sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản, làm muối. Tiền thuê đất (bao gồm cả tiền thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển) là khoản thu ổn định hàng năm nhằm điều tiết vào thu nhập do sử dụng đất mang lại.
Theo Nghị định 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 thì đơn giá thuê đất là 0.5% giá đất theo mục đích sử dụng đất thuê do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quy định hoặc là đơn giá theo trúng thầu theo dự án; đối với giá thuê mặt nước
thì trong trường hợp thuê mặt nước cố định: giá thuê từ 10 triệu đồng đến 100 triệu
2 đồng/km 2 đồng/km
/năm; mặt nước không cố định: từ 50 triệu đồng đến 250 triệu
/năm. Như vậy, xét về mặt hiệu quả kinh tế, các tổ chức, cá nhân được nhà
nước cho thuê đất sẽ có lợi hơn khi được giao đất vì khi được được giao đất phải nộp
tiền sử dụng đất một lần theo giá đất quy định dựa vào giá thị trường, nếu giao đất có
thời hạn 50 năm thì tỷ lệ khấu hao là 2%/năm, nếu thời hạn 20 năm thì tỷ lệ khấu hao
là 5%/năm trong khi đó nếu thuê đất thì chỉ trả 0.5% giá đất hàng năm.
Thu tiền thuê đất trong thời gian qua đạt được kết quả sau:
- Tiền thuê đất đóng góp nguồn thu ổn định cho NSNN do điều tiết vào thu nhập
từ việc SDĐ. Khoản thu này chiếm tỷ trọng tuy không cao nhưng ổn định trong tổng
thu NSNN (bình quân 0,73%).
- Tiền thuê đất góp phần điều tiết thị trường BĐS. Thông qua chính sách thu này, nếu người có đất sử dụng không hiệu quả sẽ vẫn phải nộp tiền thuê đất, do đó họ sẽ
chuyển sang cho người khác thuê lại hoặc chuyển nhượng.
3.2.2.8 Thuế chuyển quyền sử dụng đất
Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất được ban hành ngày 22/6/1994 và được
sửa đổi bổ sung vào ngày 21/12/1999; Nghị định số 114-CP ngày 05/9/1994 hướng
dẫn thi hành Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất năm 1994 và Nghị định số
19/2000/NĐ-CP ngày 08/06/2000 quy định chi tiết thi hành Luật thuế chuyển quyền
sử dụng đất (năm 1994) và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế chuyển
quyền sử dụng đất. Đây là loại thuế thu một lần đối với tổ chức, cá nhân có quyền sử
49
dụng đất nông nghiệp, đất ở, đất công trình,… khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình cho người khác. Căn cứ tính thuế gồm đơn giá đất, diện
tích đất chuyển quyền và thuế suất. Trong đó, giá đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định trên cơ sở khung
giá đất do Chính phủ ban hành; thuế suất gồm có hai mức: 2% áp dụng đối với đất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và 4% áp dụng đối với
các loại đất khác (đất ở, đất xây dựng công trình).
Kể từ ngày 01/01/2009 khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thổ cư) bên
chuyển nhượng phải nộp thuế thu nhập cá nhân và bên nhận chuyển nhượng nộp thuế trước bạ (nếu không có thỏa thuận khác). Theo quy định tại Nghị định 100/NĐ-CP
ngày 8/9/2008 của Chính phủ thì thuế suất đối với thu nhập từ chuyển nhượng BĐS là 25% trên thu nhập tính thuế và trường hợp không xác định được giá vốn và các chi phí
liên quan làm cơ sở xác định thu nhập tính thuế thì áp dụng thuế suất 2% trên giá
chuyển nhượng.
3.2.2.9 Thuế thu nhập đối với hoạt động chuyển nhƣợng bất động sản
Đối với các cơ sở kinh doanh có hoạt động chuyển nhượng BĐS, từ ngày
01/01/2009 nộp thuế thu nhập theo quy định của Luật thuế TNDN (QH thông qua
ngày 03/06/2008). Căn cứ tính thuế là thu nhập chịu thuế và thuế suất. Trong đó, thu
nhập chịu thuế từ chuyển nhượng BĐS được xác định bằng doanh thu từ hoạt động
chuyển nhượng BĐS trừ giá vốn của BĐS và các khoản chi phí được trừ liên quan đến
hoạt động chuyển nhượng BĐS, thuế suất là 25% trên thu nhập chịu thuế.
Đối với cá nhân kinh doanh hoạt động chuyển nhượng BĐS, từ ngày
01/01/2009 nộp thuế TNCN theo quy định tại Luật thuế TNCN (QH thông qua ngày
21/11/2007). Theo đó, cá nhân nộp thuế theo một trong hai cách: Nếu xác định được
thu nhập tính thuế (giá chuyển nhượng trừ giá mua và các chi phí liên quan) thì áp
dụng mức thuế suất 25% trên thu nhập tính thuế, nếu không xác định được giá mua và
các chi phí liên quan thì áp dụng mức thuế suất 2% trên giá chuyển nhượng BĐS.
3.2.2.10 Thuế tài nguyên
Pháp lệnh thuế tài nguyên được ban hành ngày 30/03/1990 của Hội đồng Bộ
trưởng và được Quốc hội sửa đổi, bổ sung vào ngày 16/4/1998. Theo đó, thuế tài
nguyên thu vào các tổ chức, cá nhân có thực hiện khai thác các loại tài nguyên thiên
nhiên thuộc chủ quyền quốc gia như: khoáng sản kim loại hoặc không kim loại, dầu
mỏ, khì đốt, sản phẩm rừng tự nhiên, thuỷ sản tự nhiên, nước thiên nhiên. Căn cứ tính
50
thuế: là sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế và thuế suất. Thuế suất: được chia theo 9 nhóm tài nguyên khác nhau.
3.2.2.11 Lệ phí địa chính
Được quản lý thu theo Nghị định số 68-CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ. Lệ
phí địa chính là khoản thu đối với tổ chức, cá nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết một số công việc có liên quan đến địa chính như: chứng nhận biến
động về đất đai, trích lục hồ sơ địa chính,... lệ phí địa chính thu theo mức quy định cụ thể cho từng công việc nói trên, có sự phân biệt giữa tổ chức, hộ gia đình và cá nhân
sử dụng đất theo loại xã hoặc đô thị.
Nhìn chung, đây là khoản thu chiếm tỷ trọng thấp nhất trong tất cả các khoản
thu về liên quan đến tài sản trong ngân sách. Đây là khoản lệ phí tương đối hợp lý và không gây cản trở, không làm tăng chi phí của đời sống xã hội cũng như hoạt động
sản xuất.
3.2.3 Đánh giá chung về chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt nam
Qua phân tích trên, thực trạng chỉ ra rằng về cơ sở pháp lý liên quan đến tài sản
đã dần dầ và có định hướng khoa học hơn, đó chính là
tiên đề pháp lý cho việc hình thành mô hình đánh thuế tài sản ở Việt nam được hoàn
hảo hơn, cụ thể:
- Chế độ quản lý của nhà nước về tài sản, nhất là luật đất đai đã quy định cụ thể về quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, xác định thời điểm sử dụng đất và đặc biệt là
những quy định về định giá đất. Đây cũng là căn cứ tính thuế đối với các sắc thuế như
như thuế sử dụng đất, thuế trước bạ. Do đó, khi có sự điều chỉnh từ các chế độ quản lý
đối với tài sản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách thuế về tài sản
- Các quy định về việc đăng ký sở hữu tài sản như nhà ở, nhà kinh doanh, tàu
bay, ô tô, tàu thuyền…, quyền sử dụng tài sản như quyền sử dụng đất đã có những
thay đổi tích cực, nhằm quản lý và sử dụng tài sản hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn.
- Tuy nhiên, Việt nam cũng cần sớm xây dựng dự thảo và bàn hành Luật tài sản,
vì đã có nhiều quốc gia trên thế giới đã có Luật tài sản từ rất sớm.
- Tóm lại, qua thực trạng và phân tích về chính sách thuế liên quan đến tài sản ở
Việt Nam đã nêu trên, chỉ ra những tồn tại chủ yếu của các sắc thuế này như sau:
Nguồn thu từ các loại thuế có liên quan đến tài sản chỉ chiếm một tỷ trọng thấp so với tổng số thu ngân sách nhà nước và cũng chưa thật sự giữ một vị trí quan
trọng trong ngân sách địa phương như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới,
51
đó cũng là một điểm khác biệt về chính sách thuế tài sản nước ta so với các nước khác trên thế giới.
Chưa có một sự phân loại, sắp xếp các sắc thuế liên quan đến tài sản một cách có hệ thống và khoa học, trong đó có sự nhầm lẫn giữa các sắc thuế mang tính
chất là thuế tài sản và các sắc thuế không mang tính chất là thuế tài sản. Điều này dễ tạo tâm lý đối với người nộp thuế là khi phát sinh các vấn đề liên quan
đến tài sản.
Căn cứ tính thuế gồm nhiều yếu tố phức tạp và bất hợp lý như thuế sử dụng đất
nông nghiệp, thuế nhà đất. Điều này vừa gây khó khăn cho công tác hành thu, vừa dễ gây tiêu cực cho người thực hiện, tạo tâm lý không yên tâm cho người
nộp thuế.
Trong hầu hết các sắc thuế tài sản đều quy định nhiều chế độ miễn giảm thuế,
khiến chính sách thuế trở nên phức tạp và khó giải thích đối với người nộp thuế
(lồng ghép nhiều chính sách xã hội vào chính sách thuế).
Các văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện các loại thuế này được ban hành quá nhiều nhưng không cụ thể, đôi khi nội dung chồng chéo nhau và thiếu sự
nhất quán giữa các cơ quan ban hành, khiến việc triển khai thực hiện thiếu
đồng bộ ở những cơ quan thuế. Qua đó cho thấy, quan điểm về các sắc thuế
mang tính chất là thuế tài sản ớ Việt nam chưa thật sự rõ ràng.
Chính sách thuế liên quan đến tài sản của Việt nam chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế, trong một số trường hợp còn có sự lẫn lộn giữa thuế và lệ phí. Việc hội
nhập kinh tế quốc tế cũng đã đặt ra cho ngành thuế Việt nam những thách thức
không nhỏ trong tiến trình cải cách kinh tế-xã hội và xây dựng các chính sách
thuế phù hợp hơn. Các nguyên tắc của WTO chi phối mạnh mẽ đến việc xây
dựng chính sách thuế trên các nguyên tắc trọng yếu như không phân biệt đối
xử, thực hiện tự do hóa và tính công khai, minh bạch, thực hiện các cam kết
chính sách thuế của Việt Nam đối với WTO. Chính sách thuế của Việt nam nói
chung, thuế tài sản nói riêng đang đứng trước yêu cầu thay đổi cơ bản sau khi
Việt Nam bắt đầu thực hiện sâu và rộng các cam kết WTO, CEPT/AFTA,
ASEAN- Trung Quốc... và các cam kết khác trong tương lai.
3.3 Thuế và ngân sách Việt nam giai đoạn 2003-2012
3.3.1 Cấu trúc nguồn thu từ thuế
Biểu đồ 3.3 cho thấy, kết cấu nguồn thu từ thuế lệ thuộc chủ yếu vào thuế
TNDN (35,97%), Thuế GTGT (27,33%) và thuế nhập khẩu, thuế TTĐB đối với hàng
52
nhập khẩu (14,67%). Các khoản thuế liên quan đến tài sản có tỷ lệ cực thấp như thuế hệ thống thuế tài sản SDĐNN (0,04%) và thuế nhà đất (0,27%), điều này
chưa thật sự phát huy vai trò chủ lực như các quốc gia khác. Biểu đồ 3.3: Kết cấu nguồn thu từ thuế (2003-2012)
Nguồn: tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính
- Bảng 3.7 trình bày danh mục các sắc thuế và số thu hàng năm của từng loại thuế từ
năm 2003, tổng số thu huy động từ thuế chiếm từ trung bình khoảng 22,2% GDP.
- Trong số các sắc thuế chính, thuế TNDN giữ vai trò chủ đạo nhất với tỷ lệ
8,02% GDP, kế đến là thuế GTGT đang chiếm khoảng 6,04% GDP, một mức đóng
góp đáng kể đối với một sắc thuế với thuế suất chỉ bằng 10%.
- Một điều đáng chú ý nữa là sự suy giảm tương đối trong số thu từ các loại thuế
thương mại, từ hơn 4% GDP vào đầu những năm 2000 xuống còn khoảng 2% GDP
vào thời điểm hiện nay. Điều này xảy ra mặc dù lượng hàng hoá nhập khẩu của Việt
Nam tăng rất nhanh so với GDP và phản ánh tốc độ suy giảm nhanh chóng của thuế
nhập khẩu trung bình do cắt giảm thuế nhập khẩu từ các nước ASEAN.
- Nguồn thu thuế lớn thứ ba là từ thuế nhập khẩu, thuế TTĐB đối vời hàng nhập
khẩu 3,25% GDP
- Thuế thu nhập cá nhân chỉ chiếm khoảng hơn 0,83% GDP và chiếm 3,81%
nguồn thu từ thuế, đây là con số thay đổi rất nhỏ trong thập kỷ vừa qua.
- Qua số liệu phân tích trên, Việt Nam sẽ phải đối mặt với một số khó khăn trong
việc duy trì số thu thuế hiện nay (so với GDP), do số thu từ thuế TNDN và thuế xuất
nhập khẩu được dự báo là sẽ giảm tương đối. Sự suy giảm trong sản xuất dầu thô
trong hai năm qua khiến cho số thu thuế từ dầu thô không thể đạt mức đỉnh điểm.
53
Bảng 3.7: Kết cấu nguồn thu từ thuế (%)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
TB
Tổng thu từ thuế
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
Thuế TNDN
37,05 36,63 39,56 42,23 38,93 37,80 30,05 30,78 32,51 34,18 35,97
Thuế GTGT
25,89 24,95 23,93 23,34 26,00 25,21 29,09 32,09 31,84 30,96 27,33
Thuế XK, NK,TTĐB
17,49 13,89 12,34 11,12 14,26 16,66 20,63 15,33 13,50 11,51 14,67
(hàng NK)
Thuế tài nguyên
7,60 11,18 11,08 11,26
7,99
7,26
5,12
5,45
6,32
6,75
8,00
Thuế TTĐB
6,92
8,21
8,20
7,28
6,47
6,09
7,97
7,72
7,08
6,93
7,29
Thuế TNCN
2,31
2,26
2,21
2,19
2,76
3,56
3,84
5,44
6,38
7,19
3,81
Lệ phí trước bạ
1,42
1,68
1,46
1,42
2,10
2,03
2,59
2,61
1,86
2,03
1,92
Thuế Môn bài
0,61
0,42
0,38
0,34
0,33
0,28
0,31
0,27
0,25
0,25
0,34
Thuế nhà đất
0,28
0,28
0,27
0,25
0,26
0,25
0,32
0,29
0,26
0,19
0,27
Thuế CQ SDĐ
0,32
0,41
0,51
0,53
0,87
0,83
0,07
0,51
Thuế SDĐNN
0,12
0,08
0,07
0,05
0,04
0,03
0,02
0,01
0,01
0,01
0,04
Chỉ tiêu
Kết cấu nguồn thu so với GDP (%) 2005
2003
2004
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
TB
21,13 21,75 22,85 24,27 23,48 24,57 20,63 22,39 21,70 19,29 22,20
Tổng thu thuế
Thuế GTGT
5,47
5,43
5,47
5,66
6,10
6,19
6,00
7,18
6,91
5,97
6,04
Thuế TTĐB
1,46
1,79
1,87
1,77
1,52
1,50
1,64
1,73
1,54
1,34
1,61
Thuế XK, NK ,TTĐB
3,70
3,02
2,82
2,70
3,35
4,09
4,26
3,43
2,93
2,22
3,25
Thuế TNDN
7,83
7,97
9,04 10,25
9,14
9,29
6,20
6,89
7,05
6,59
8,02
Thuế tài nguyên
1,61
2,43
2,53
2,73
1,88
1,78
1,06
1,22
1,37
1,30
1,79
Thuế TNCN
0,49
0,49
0,50
0,53
0,65
0,88
0,79
1,22
1,38
1,39
0,83
Thuế SDĐNN
0,02
0,02
0,02
0,01
0,01
0,01
0,00
0,00
0,00
0,00
0,01
Thuế nhà đất
0,06
0,06
0,06
0,06
0,06
0,06
0,07
0,06
0,06
0,04
0,06
Thuế CQSDĐ
0,07
0,09
0,12
0,13
0,20
0,20
0,01
0,12
Thuế Môn bài
0,13
0,09
0,09
0,08
0,08
0,07
0,06
0,06
0,05
0,05
0,08
Lệ phí trước bạ
0,30
0,36
0,33
0,35
0,49
0,50
0,53
0,58
0,40
0,39
0,42
Thu tiền thuê đất
0,08
0,14
0,12
0,17
0,19
0,24
0,19
0,18
0,21
0,24
0,18
Thu tiền SDĐ
1,35
1,99
1,69
1,58
2,51
2,14
2,08
2,29
1,86
1,39
1,89
Thu bán nhà thuộc SHNN
0,18
0,19
0,15
0,20
0,22
0,09
0,10
0,10
0,09
0,04
0,14
Thu phí xăng dầu
0,53
0,50
0,47
0,41
0,39
0,31
0,50
0,49
0,56
0,36
0,45
Thu phí và lệ phí
0,54
0,58
0,50
0,51
0,57
0,53
0,52
0,46
0,37
0,25
0,48
Thu viện trợ
0,49
0,40
0,45
0,81
0,53
0,64
0,44
0,55
0,44
0,24
0,50
Thu Khác
1,80
2,21
2,21
1,74
1,52
0,92
1,32
0,82
0,73
1,09
1,44
Nguồn: tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính
54
So với một số nền kinh tế mới nổi ở Châu Á năm 2010, biểu đồ 3.4 chỉ ra rằng
mặc dù Chính phủ Việt nam đã nhiều lần thực hiện chương trình cải cách thuế, tuy
nhiên, kết quả đạt được của thuế TNCN và thuế tài sản thấp hơn rất nhi
được gánh nặng với các loại thuế khác, điều này chưa phù hợp với
các học thuyết kinh tế đánh thuế.
Biểu đồ 3.4: Cấu trúc nguồn thu thuế của Việt Nam so với một số nƣớc (2010)
Nguồn: [22]
3.3.2 Cấu trúc nguồn thu ngân sách
Thu NSNN là một trong các nhiệm vụ quan trọng của ngành tài chính để tạo
nguồn quỹ cho thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ.
Biểu đồ 3.5: Kết cấu nguồn thu NSNN (2003-2012)
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính
55
Có thể thấy quy mô thu NSNN của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh trong
giai đoạn từ 2003-2008, chỉ sụt giảm nhẹ trong hai năm 2009 và 2012 do những khó
khăn về kinh tế và do việc áp dụng các biện pháp kích cầu nhằm kích thích tăng
trưởng kinh tế. Nếu sử dụng số liệu của IMF thì tổng thu NSNN của Việt Nam giai
đoạn 2006-2012 đạt trên 28% GDP, một mức khá cao so với các nước đang phát triển.
Chẳng hạn nếu so sánh mức thu này với các nước đang phát triển có thu nhập thấp thì
quy mô thu ngân sách của Việt Nam là tương đương mức trung bình các nước có xuất
khẩu dầu và cao hơn nhiều mức độ trung bình của nhóm các nước có thu nhập thấp
(trung bình 2006-2011 thu thuế /GDP là khoảng 23,7%) [9]. Ngay cả khi kinh tế gặp
khó khăn như năm 2012 thì tổng thu cân đối NSNN so với GDP vẫn đạt 25,3 %, cao
hơn mức trung bình của các nước đang phát triển châu Á giai đoạn 2006-2011 (quy
mô thu ngân sách đạt 21,4 % GDP). Vì vậy, việc so sánh với quy mô thu trung bình
của các nhóm nước cũng cho phép đánh giá nhanh về quy mô thu ngân sách của Việt
Nam.
Bảng 3.8: Kết cấu nguồn thu NSNN (%)
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
TB
Chỉ tiêu
Tổng thu ngân sách
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
Thuế TNDN
30,00 28,69 31,78 34,51 31,09 31,57 24,05 25,26 27,16 28,79 29,29
Thuế GTGT
20,96 19,54 19,22 19,07 20,76 21,05 23,28 26,35 26,61 26,08 22,29
Thuế XK, NK,TTĐB NK
14,16 10,88
9,91
9,09 11,39 13,91 16,51 12,59 11,28
9,69 11,94
Thu tiền thuê đất, SDĐ
5,48
7,67
6,36
5,89
9,18
8,08
8,81
9,03
7,99
7,11
7,56
Thuế tài nguyên
6,15
8,76
8,90
9,21
6,38
6,06
4,09
4,47
5,28
5,69
6,50
5,60
6,43
6,58
5,95
5,16
5,09
6,38
6,34
5,91
5,83
5,93
Thuế TTĐB
7,59
8,64
8,32
6,55
5,91
3,43
5,53
3,37
3,16
4,92
5,74
Thu Khác
1,87
1,77
1,77
1,79
2,21
2,98
3,07
4,47
5,33
6,05
3,13
Thuế TNCN
4,10
3,91
3,41
3,10
3,25
2,83
3,93
3,49
3,61
2,69
3,43
Phí và lệ phí
1,88
1,45
1,59
2,73
1,79
2,17
1,70
2,02
1,68
1,05
1,80
Thu viện trợ
Lệ phí trước bạ
1,15
1,31
1,17
1,16
1,68
1,69
2,07
2,14
1,55
1,71
1,56
0,49
0,33
0,30
0,27
0,26
0,23
0,25
0,23
0,20
0,21
0,28
Thuế Môn bài
0,23
0,22
0,22
0,21
0,21
0,21
0,26
0,24
0,22
0,16
0,22
Thuế nhà đất
0,26
0,32
0,41
0,43
0,69
0,69
0,06
0,41
Thuế CQ SDĐ
0,10
0,07
0,06
0,04
0,03
0,02
0,01
0,01
0,01
0,01
0,04
Thuế SDĐNN
Nguồn: tổng hợp số liệu từ website Bộ Tài chính
56
Phân tích cơ cấu thu NSNN theo sắc thuế (bảng 3.8) cho thấy thu NSNN đến từ
ba nguồn chính là thuế TNDN, thuế GTGT và thuế trên hàng hóa xuất nhập khẩu
(gồm thuế XNK, thuế GTGT và thuế TTĐB trên hàng nhập khẩu). Có thể thấy thuế
với hoạt động XNK vẫn giữ vai trò rất quan trọng khi đóng góp trung bình hơn 11%
số thu NSNN trong năm năm gần đây dù nhiều dòng thuế đã được cắt giảm, nguồn thu
này tăng lên chủ yếu do kim ngạch hàng hóa XNK tăng mạnh và công tác hải quan
được cải thiện hơn. Tuy nhiên, nguồn thu này sẽ giảm đi khi Việt Nam thực hiện đầy
đủ các cam kết với WTO, do vậy cần phải tìm kiếm nguồn thu thay thế để đảm bảo
ngân sách không bị thâm hụt trầm trọng hơn.
So sánh ở Biểu đồ 3.4 phần trên cho thấy tỷ lệ thu thuế GTGT, thuế TNDN và
thuế XNK của Việt Nam trong tổng thu NSNN đã cao hơn mức trung bình của các
nước đang phát triển châu Á nên những nguồn thuế này khó có thể tiếp tục tăng lên.
Ngược lại, để cạnh tranh, Việt Nam cần giảm thuế suất với TNDN điều này cũng giúp
sự cạnh tranh về thuế của Việt Nam cao hơn khi xem xét đến thực tế là hầu hết các
nước trong khu vực áp dụng thuế suất thuế TNDN đa dạng với nhiều mức thuế suất từ
10-30% thậm chí 2% như ở Philippines trong một số trường hợp.
Ba loại thuế mà Việt Nam có thể kỳ vọng tăng thu trong tương lai là thuế
TNCN, thuế TTĐB và thuế đối với tài sản. Hiện nay thu thuế từ BĐS (không tính lệ
phí trước bạ) chỉ chiếm 0,25% tổng thu NSNN so với mức trung bình trên 1% ở các
nước đang phát triển trong khi đây là nguồn thu rất quan trọng cho NSĐP.
Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ thu ngân sách so GDP của một số nền kinh tế ở Châu Á
Nguồn: [22]
57
Một điểm khác biệt nữa để có cái nhìn toàn diện hơn về bức tranh ngân sách
Việt Nam qua Biểu đồ 3.6. Mặc dù tỷ lệ thu ngân sách trên GDP của Việt nam gần
thuộc hàng cao nhất so với một số nền kinh tế mới nổi ở Châu Á. Tuy nhiên, cấu trúc
thu thuế của Việt nam không cân đối, đặc biệt là thuế tài sản và thuế TNCN tỏ ra kém
hiệu quả (xem biểu đồ 3.4). Trong khi đó cán cân thâm hụt ngân sách của Việt nam là
khá cao trong những năm gần đây so với các nước (xem bảng 3.9). Theo số liệu của
IMF năm 2012, cho thấy trong năm năm gần đây Việt Nam luôn có tỷ lệ thâm hụt
NSNN cao hơn trung bình các nước đang phát triển có thu nhập thấp trên thế giới và
cao hơn tỷ lệ trung bình của tất cả các nhóm nước đang phát triển thấp chia theo khu
vực. Đây là vấn đề mà Chính phủ Việt nam cần lưu ý vì thâm hụt ngân sách cao, liên
tục có ảnh hưởng tiêu cực đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế như tăng trưởng kinh
tế, lạm phát, lãi suất, cán cân thanh toán, tỷ giá.
Bảng 3.9: So sánh cán cân NSNN Việt nam và các nƣớc đang phát triển (%GDP)
Kết luận chƣơng 3
Cho đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam tuy chưa có sắc thuế nào có tên là thuế
tài sản, nhưng đối chiếu với cơ sở lý luận về tài sản và thuế tài sản ở nhiều nước trên
thế giới thì có một số sắc thuế và lệ phí hiện hành mang tính chất của thuế tài sản như
thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (thay thế thuế nhà đất
trước năm 2012) và lệ phí trước bạ.
Qua hai cuộc cải cách thuế quan trọng đầu tiên thực hiện năm 1990 và 1998
nhằm mục đích điều chỉnh theo quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Một
khung pháp lý tổng thể đã được xây dựng nhằm tái cấu trúc hệ thống thuế trong nền
kinh tế chỉ huy tập trung cũ. Tuy nhiên, qua phân tích thực trạng ở Chương 3 chỉ ra
58
rằng, hệ thống thuế Việt nam chưa thật sự đồng bộ, nguồn thu chủ yếu tập trung vào
thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng, các sắc thuế khác không được
phát huy, một vài sắc thuế mang lại nguồn thu rất thấp (dưới 1% trong tổng thu).
Trong khi nguồn lực tài chính của nền kinh tế là giới hạn, do vậy mức huy động của
thuế cũng phải có sự giới hạn. Với thực trạng là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu
chi tiêu của ngân sách rất lớn và áp lực cân đối ngân sách là không nhỏ, nhưng không
phải thế là tận thu để bao chi, vì làm như vậy sẽ phá vỡ tính kỷ luật tài chính tổng thể.
Thuế không vì mục tiêu cân đối ngân sách trước mắt, mà quan trọng phải hướng vào
mục tiêu cao hơn và xa hơn. Cải cách thuế cần tập trung vào việc thu hẹp những bóp
méo của thuế, đi đôi với việc mở rộng cơ sở thuế và hạ thấp thuế suất. Đồng thời,
chính sách thuế phải bao quát hết tất cả nguồn thu, cần đưa vào áp dụng các loại thuế
mới để quản lý nguồn thu và nâng cao vai trò điều tiết như thuế tài sản, thuế môi
trường. Trong xu hướng hội nhập, thuế đánh vào thương mại quốc tế sẽ giảm dần,
thay vào đó chính sách thuế cần nỗ lực gia tăng thuế thu nhập cá nhân và thuế tài sản
để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Chính sách thuế phải góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa trong điều kiện Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới. Thực
hiện cải cách thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, minh bạch, trung lập,
không phân biệt các thành phần kinh tế; đồng thời tháo dỡ dần chính sách bảo hộ bằng
việc xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ là những bước đi quan
trọng nhằm gây sức ép, buộc các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường đổi mới công
nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh.
59
CHƢƠNG 4: PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ XUẤT
MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG B
–
4.1
4.1.1 Các bƣớc xây dựng mô hình thuế tài sản
Từ những nghiên cứu lý luận và thực tiễn, mô hình thuế tài sản ở đây được rút
ra từ việc kết tinh những kinh nghiệm thực tiễn thành lý thuyết. Mô hình thuế tài sản
được xây dựng thành bốn bước như sau:
Bƣớc 4 : Mô hình được xây dựng lại dựa trên các kết quả kiểm định.
Bƣớc 3 : Mô hình chỉ ra các điểm tương đồng và dị biệt giữa mô hình và các tình huống nghiên cứu để xác định những ưu-nhược điểm của mô hình hoặc những phần mà các trường hợp nghiên cứu đã vượt ra khỏi phạm vi của mô hình.
Bƣớc 2 : Mô hình được áp dụng để nghiên cứu các nhân tố cấu thành thuế tài sản
Bƣớc 1 : Giới thiệu về mô hình – mô hình được xây dựng với một loạt các giả thuyết dựa trên sự tổng hợp các tài liệu phổ biến và kết quả điều tra thực tiễn.
Hình 4.1 Các bƣớc xây dựng mô hình thuế tài sản
4.1.2 Mô hình nghiên cứu thuế tài sản
60
Mục tiêu cần đạt được của mô hình nghiên cứu là nhận dạng các đối tượng chịu
thuế tài sản, phạm vi đối tượng chịu thuế; lựa chọn hình thức nào để đánh thuế cho
phù hợp và căn cứ tính thuế của mỗi loại tài sản ra sao. Đó chính là những nội dung
cốt lõi mà kết quả nghiên cứu cần có được trong việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở
Việt Nam nhằm đạt được hiệu quả và tối ưu nhất.
Từ cơ sơ lý thuyết và mô hình thuế tài sản thực tiễn của một số quốc gia, tác
giả đưa ra các giả thuyết và mô hình nghiên cứu sau:
Hình 4.2 Mô hình nghiên cứu thuế tài sản
K. Rosengard
thảo luận, phỏng vấn v được kiểm định bằng việc phân tích tương quan và hồi quy
tuyến tính dữ liệu thu thập được, các giả thuyết trong nghiên cứu này bao gồm:
- H1: Phạm vi của đối tượng chịu thuế tài sản có mối quan hệ tương quan với
tính hiệu quả của thuế tài sản, hay nói cách khác là khi có sự thay đổi về quy mô của
đối tượng chịu thuế thì cũng tạo ra sự thay đổi về tính hiệu quả của thuế tài sản.
- H2: Hình thức đánh thuế tài sản có mối quan hệ tương quan với tính hiệu quả
của thuế tài sản, khi hình thức đánh thuế có sự thay đổi thì tính hiệu quả của thuế tài
sản cũng thay đổi.
- H3: Căn cứ tính thuế tài sản có mối quan hệ tương quan với tính hiệu quả của
thuế tài sản, nếu nội dung căn cứ tính thuế tài sản thay đổi thì tính hiệu quả của thuế
tài sản cũng thay đổi theo.
61
4.1.3 Phƣơng pháp nghiên cứu đối với xây dựng mô hình
Nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp định tính và định lượng, áp dụng
cả hai quy trình suy diễn và quy nạp. Phép suy diễn dựa trên các lý thuyết có sẵn để
xây dựng các giả thuyết, còn phép quy nạp dựa vào các quan sát để kiểm định giả
thuyết đã đưa ra. Cơ sở lý thuyết được tổng hợp từ các tài liệu nghiên cứu về thuế tài
sản, từ đó xây dựng nên mô hình và các giả thuyết cho nghiên cứu.Với phương pháp
này, các chính sách thuế về tài sản được đặt trong quá trình vận động, biến đổi không
ngừng và được hoàn thiện để phù hợp với xu thế phát triển kinh tế-xã hội của đất nước
và thế giới. Dựa trên những lý luận cơ bản về tài sản, thuế tài sản và mô hình thuế tài
sản, nghiên cứu sử dụng các phương pháp cụ thể như sau:
- Tiếp cận lý thuyết về thuế nói chung và các sắc thuế liên quan đến tài sản nói
riêng, chú trọng đến vai trò và mục tiêu của chính sách thuế.
- Tham khảo các tài liệu về thuế tài sản tại một số quốc gia và các tài liệu liên
quan về chính sách thuế tài sản hiện hành.
- Thống kê số liệu thứ cấp, có chọn lọc từ các tài liệu và website có liên quan
(Chính phủ, Bộ tài chính, Tổng cục thống kê)
- Thảo luận nhóm, Phỏng vấn sâu
- Lấy ý kiến điều tra từ các chuyên gia ngành thuế và tài chính.
- Phân tích mô tả, đánh giá các nhân tố hình thành mô hình thuế tài sản
- Tổng hợp các vấn đề nghiên cứu trên đề xuất mô hình thuế tài sản.
4.1.4 Thiết kế nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu thuế tài sản được thực hiện thông qua hai bước chính là
nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức, mỗi bước được tiến hành với kỹ thuật
tương ứng.
Bảng 4.1: Các bƣớc thực hiện trong nghiên cứu
Bước Dạng Phương pháp Kỹ thuật
Thảo luận nhóm, phỏng vấn và nghiên 1 Sơ bộ Định tính cứu tình huống
Phỏng vấn qua bảng câu hỏi, và phân 2 Chính thức Định lượng tích kết quả định lượng
62
4.1.5 Nghiên cứu định tính
4.1.5.1 Giới thiệu
Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua phương pháp chuyên gia với
hình thức thảo luận nhóm (full group), thảo luận nhóm là kỹ thuật phổ biến trong
nghiên cứu định tính (Morgan, 1996). Việc thu thập dữ liệu thông qua các đối tượng
tham dự thảo luận là các giảng viên, chuyên viên ngành thuế, ngành tài chính từ các
trường Đại học, cơ quan Thuế và Tài chính. Mục đích của các nhóm thảo luận nhằm
thu thập thông tin để xây dựng các giả thuyết cho mô hình thuế tài sản ở Việt Nam và
chứng minh các giả thuyết này.
Từ kết quả thảo luận nhóm sẽ nhận diện những yếu tố cấu thành các nhân tố
ảnh hưởng đến tính hiệu quả của thuế tài sản. Sau đó những yếu tố này sẽ được trình
bày lại thành những nhóm nhân tố phù hợp và hình thành nên một bảng câu hỏi để
phục vụ cho bước nghiên cứu chính thức thông qua nghiên cứu định lượng. Bảng câu
hỏi này sẽ được tham khảo ý kiến chuyên gia nhằm chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp và
dễ hiểu đối với người trả lời. Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua thảo luận
nhóm chuyên gia kết hợp phỏng vấn sâu nhằm tìm ra các chỉ báo thuộc các nhân tố
của mô hình nghiên cứu thuế tài sản:
Đối tượng chịu thuế tài sản: phạm vi đối tượng chịu thuế tài sản là những tài
sản nào cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt nam
Hình thức đánh thuế tài sản: lựa chọn hình thức đánh thuế phù hợp đối với mô
hình thuế tài sản.
Căn cứ tính thuế tài sản: nội dung nhân tố này khá quan trọng trong việc xây
dựng mô hình thuế tài sản, cần xác định giá trị tính thuế và phương pháp thuế
suất cho phù hợp với mô hình.
Tính hiệu quả của thuế tài sản: mô hình thuế tài sản được xây dựng phải đảm
bảo các tiêu chí của một hệ thống thuế hiệu quả và tối ưu.
4.1.5.2 Kết quả nghiên cứu thảo luận nhóm chuyên gia
Nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành thông qua 3 nhóm thảo luận độc lập
với mục tiêu nhận diện những nội dung cấu thành các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu
quả của thuế tài sản cho việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam trong bối
63
cảnh kinh tế-xã hội hiện nay, những nội dung câu hỏi thảo luận đã được chuẩn bị sẵn
(Phụ lục 1)
- Nhóm 1: Được tổ chức tại Viện Kế Toán-Kiểm Toán và Tài Chính Doanh
Nghiệp do TS. Bùi Hồng Điệp - Viện trưởng làm trưởng nhóm với 07 thành viên là
các chuyên viên ngành Tài chính, Thuế, Kinh tế Luật và Bất động sản.
- Nhóm 2: Được tổ chức tại Trường Đại Học Sài Gòn do TS. Nguyễn Đình
Luận- Trưởng phòng ĐTTC và TNGV làm trưởng nhóm với 10 thành viên là các
Giảng viên, chuyên viên ngành Tài chính công, Kế Toán, Thuế, Kinh tế Luật…
- Nhóm 3: Được tổ chức tại Chi Cục Thuế Quận 6 - Cục Thuế TP.Hồ Chí Minh
do Chuyên viên Lê Minh Đức – Phó Chi Cục trưởng làm trưởng nhóm với 8 thành
viên là các chuyên viên, cán bộ ngành Thuế và Tài chính.
(a) Đối tƣợng chịu thuế tài sản
- Phần thảo luận các chuyên gia cho rằng thuế tài sản là một trong ba mắt xích
quan trọng trong hệ thống thuế của mỗi quốc gia, một hệ thống thuế hoàn chỉnh phải
bao gồm thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản.
- Thuế tài sản có khả năng bổ trợ cho thuế thu nhập khi thuế thu nhập không thể
bao quát hết đối tượng đánh thuế, thuế tài sản có khả năng đem lại một nguồn thu hiệu
quả cao cho ngân sách nhà nước và đặc biệt là cho ngân sách địa phương. Chính vì
vậy, việc xác định phạm vi và đối tượng chịu thuế tài sản cho mô hình thuế tài sản là
điều quan trọng và có ý nghĩa tác động đến tính hiệu quả của thuế tài sản.
- Hiện tại ở Việt Nam tuy chưa có quy định Pháp luật về thuế tài sản nhưng đã
có các Luật thuế SDĐNN, thuế SDĐPNN và lệ phí trước bạ. Việc mở rộng đối tượng
đánh thuế tài sản là trường hợp khá phổ biến đối với các nền kinh tế đang phát triển và
nó hoàn toàn phù hợp với lý thuyết thuế tối ưu dựa trên một cơ sở thuế rộng.
- Kết quả từ bảng 4.2 và biểu đồ 4.1 cho thấy, nhóm chuyên gia thứ nhất nhận
định có 8 yếu tố thuộc đối tượng chịu thuế; nhóm thứ hai có 8 yếu tố và nhóm thứ 3
có 7 yếu tố. Tuy nhiên, kết quả nhận định của 3 nhóm thảo luận chỉ trùng khớp ở 6
yếu tố D01, D02, D03, D04, D05, D07.
Bảng 4.2: Kết quả nghiên cứu đối tƣợng chịu thuế tài sản
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 1
TT Đối tượng chịu thuế tài sản Mã hóa
1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp D01
2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp D02
64
3 Nhà D03
Công trình xây dựng gắn liền trên đất (khu nghỉ dưỡng, hồ bơi,
4 công viên, vườn cảnh, các công trình kiến trúc khác… không D04
sử dụng cho mục đích kinh doanh)
D05 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) 5
D06 Tài nguyên (quyền khai thác) 6
D07 Phương tiện giao thông 7
D08 Tài sản vô hình 8
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 2
Mã hóa Đối tượng chịu thuế tài sản TT
D01 1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp
D02 2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp
D03 3 Nhà
Công trình xây dựng gắn liền trên đất (khu nghỉ dưỡng, hồ bơi,
4 công viên, vườn cảnh, các công trình kiến trúc khác… không D04
sử dụng cho mục đích kinh doanh)
D05 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) 5
D06 Tài nguyên (quyền khai thác) 6
D07 Phương tiện giao thông 7
D09 8 Chứng khoán
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 3
TT Đối tượng chịu thuế tài sản Mã hóa
D01 1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp
D02 2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp
D03 3 Nhà
D04 Công trình xây dựng gắn liền trên đất (khu nghỉ dưỡng, hồ bơi,
4 công viên, vườn cảnh, các công trình kiến trúc khác… không
sử dụng cho mục đích kinh doanh)
D05 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) 5
D07 Phương tiện giao thông 6
D08 Tài sản vô hình 7
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả thảo luận nhóm chuyên gia
65
Biểu đồ 4.1: Kết quả nghiên cứu đối tƣợng chịu thuế tài sản
Nhóm chuyên gia nhận định phạm vi và các đối tượng chịu thuế tài sản gồm
có:
- Quyền sử dụng đất nông nghiệp: đất trồng trọt, đất có mặt nước nuôi trồng thủy
sản, đất rừng trồng.
- Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp: đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị, đất
sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp
- Nhà: nhà ở, nhà làm việc, nhà dùng vào sản xuất, kinh doanh và nhà dùng vào
các mục đích khác.
- Công trình xây dựng gắn liền trên đất: khu nghỉ dưỡng, hồ bơi, công viên, vườn
cảnh, các công trình kiến trúc khác… (ngoại trừ đối tượng sử dụng vào mục đích công
cộng, phúc lợi xã hội)
- Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ): quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình kiến
trúc, máy bay, tàu, thuyền, ô tô, mô tô, các tài sản vô hình khác đăng ký thương hiệu,
bản quyền…
- Tài nguyên: quyền khai thác tài nguyên
- Phương tiện giao thông: tàu bay, ô tô, mô tô, tàu, thuyền
- Tài sản vô hình: bản quyền, bằng phát minh, sáng chế, thương hiệu… khi có
thu nhập từ việc chuyển giao, cho thuê…
- Chứng khoán: thu nhập từ lãi trái phiếu, cổ phiếu; thu nhập từ việc chuyển
nhượng chứng khoán.
66
- Riêng đối với thu nhập từ tài sản thừa kế, tài sản cho, biếu, tặng: Kết quả
nghiên cứu thảo luận từ các nhóm chuyên gia cho rằng đây là một dạng thu nhập, vì
vậy đối tượng này nên bị chi phối bởi thuế thu nhập. Tuy nhiên, nếu là tài sản theo
quy định phải đăng ký thì vẫn chịu thuế đăng ký tài sản cũng như các sắc thuế liên
quan đến tài sản như thuế nhà, thuế đất, thuế phương tiện vận tải…
Biểu đồ 4.2: Kết quả nhận định đối tƣợng chịu thuế tài sản
Nguồn: tổng hợp từ kết quả khảo sát nhóm chuyên gia
Các ý kiến không đánh giá cao về khả năng chịu thuế của các đối tượng như tài
nguyên, tài sản vô hình (bản quyền, bằng phát minh, sáng chế, thương hiệu), chứng
khoán bởi lẽ:
- Tài nguyên (quyền khai thác tài nguyên): Theo Bộ luật Dân sự Việt Nam
(2005), đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở
vùng biển, thềm lục địa và vùng trời và các tài sản khác mà pháp luật quy định là của
Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân (Điều 205). Quyền khai thác tài nguyên được
giao cho đối tượng khai thác có thời hạn, không thuộc quyền sử dụng và sở hữu để
đánh thuế mà chỉ có thể chi phối bởi thuế tài nguyên và thuế thu nhập đối với đối
tượng được quyền khai thác. Vì vậy kết quả nghiên cứu cho thấy quan điểm đa phần
không ủng hộ đối với đối tượng này là phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam.
- Tài sản vô hình, tài sản trí tuệ như bản quyền, bằng phát minh sáng chế, thương
hiệu… Kết quả nghiên cứu thảo luận cho thấy, tài sản vô hình ở Việt nam (ngoại trừ
quyền sử dụng đất) luôn được khuyến khích phát triển, đa số các ý kiến không đồng
tình về việc đánh thuế tài sản đối với đối tượng này. Khác với ở Mỹ và một số nước
67
OECD, ở Việt Nam chỉ có thể áp dụng thuế thu nhập đối với việc chuyển nhượng một
số tài sản vô hình trên nếu vượt ngưỡng thu nhập phải chịu thuế.
- Chứng khoán: Kết quả nghiên cứu cho thấy quan điểm không ủng hộ đối với
đối tượng này có thể lý giải rằng ở Việt Nam rất khó áp dụng đánh thuế trên giá trị tài
sản ròng như một số quốc gia phát triển và cũng rất khó xác định tổng giá trị tài sản
cũng như kiểm soát thu nhập của mỗi cá nhân. Vì vậy, thu nhập từ chứng khoán có thể
được xem như là một đối tượng chịu thuế thu nhập.
Kết quả thảo luận đưa ra các yếu tố đại diện cho phạm vi đối tượng chịu thuế
tài sản có ảnh hưởng đến tính hiệu quả của mô hình thuế tài sản. Đối chiếu với cơ sở
lý thuyết, nếu đối tượng chịu thuế càng rộng thì cơ sở thuế sẽ rộng và điều này hoàn
toàn phù hợp với lý thuyết thuế tối ưu. Tuy nhiên, việc xác định cơ sở thuế còn tùy
thuộc vào điều kiện và đặc điểm kinh tế-xã hội của mỗi Quốc gia. Vì vậy, việc đánh
thuế tài sản cần phải tính đến việc giảm thiểu tối đa tổn thất xã hội do thuế gây ra. Tổn
thất xã hội đo lường tính không hiệu quả của việc đánh thuế, mức tổn thất quyết định
bởi sự thay đổi số lượng hàng hóa khi đánh thuế. Độ co giãn cung và cầu quyết định
sự phân phối gánh nặng thuế, thì chúng cũng quyết định tính không hiệu quả của việc
đánh thuế. Độ co giãn càng cao thì những thay đổi càng lớn về số lượng và tổn thất xã
hội càng lớn và ngược lại.
(b) Hình thức đánh thuế tài sản
Kết quả từ bảng 4.3 và biểu đồ 4.3 cho thấy, nhóm chuyên gia thứ nhất nhận
định có 8 yếu tố liên quan đến hình thức đánh thuế tài sản; nhóm thứ hai có 7 yếu tố
và nhóm thứ 3 có 6 yếu tố. Tuy nhiên, kết quả nhận định của 3 nhóm chỉ trùng khớp ở
6 yếu tố H10, H13, H14, H15, H16 và H17. Bảng 4.3:Kết quả nghiên cứu hình thức đánh thuế tài sản
Hình thức đánh thuế tài sản
Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản lý Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 1 TT 1 2 3 Dựa trên thu nhập của tài sản 4 Dựa trên giá trị của tài sản 5 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) 6 Quy định ngưỡng chịu thuế 7 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài sản 8 Đánh thuế hàng năm đối với tài sản Mã hóa H10 H11 H12 H13 H14 H15 H16 H17
68
Hình thức đánh thuế tài sản
Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản lý Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 2 TT 1 2 3 Dựa trên giá trị của tài sản 4 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) 5 Quy định ngưỡng chịu thuế 6 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài sản 7 Đánh thuế hàng năm đối với tài sản Mã hóa H10 H11 H13 H14 H15 H16 H17
Hình thức đánh thuế tài sản
Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản lý
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 3 TT 1 2 Dựa trên giá trị của tài sản 3 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) 4 Quy định ngưỡng chịu thuế 5 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài sản 6 Đánh thuế hàng năm đối với tài sản Mã hóa H10 H13 H14 H15 H16 H17
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả thảo luận nhóm chuyên gia
Biểu đồ 4.3: Kết quả nghiên cứu hình thức đánh thuế tài sản
Kết quả thảo luận nhóm chuyên gia đã đưa ra những nhận định về hình thức đánh thuế
tài sản như sau:
- Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản lý: tùy theo đặc điểm kinh tế-
xã hội từng giai đoạn, nhà nước quy định phạm vi tài sản cần phải đăng ký, hiện nay
gồm các tài sản như: nhà cửa, đất đai, một số tài sản vô hình, phương tiện giao thông
69
- Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn: tài sản này không nhất thiết nằm
trong danh mục tài sản mà nhà nước cần quản lý. Tùy theo đặc điểm kinh tế-xã hội
từng giai đoạn, mức độ tích lũy tài sản và mức thu nhập người dân, chính sách thuế có
sự điều chỉnh phạm vi chịu thuế cho phù hợp.
- Dựa trên thu nhập của tài sản: thu nhập từ việc đầu tư tài sản, cho thuê tài sản,
chuyển nhượng tài sản
- Dựa trên giá trị của tài sản
- Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản): giá tính thuế có thể được tính
hoàn toàn trên giá trị tài sản, tuy nhiên giá tính thuế cũng có thể được tính trên một tỷ
lệ chịu thuế do chính sách từng loại thuế quy định ở những thời điểm khác nhau.
- Quy định ngưỡng chịu thuế: việc xác định mức khởi điểm chịu thuế đối với
từng loại tài sản là điều cần thiết và phổ biến ở các Quốc gia, nó phải phù hợp với điều
kiện kinh tế-xã hội và có sự ảnh hưởng trực tiếp đến cơ sở tính thuế.
- Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài sản
- Đánh thuế hàng năm đối với tài sản
Biểu đồ 4.4: Kết quả nhận định hình thức đánh thuế tài sản
Nguồn: tổng hợp từ kết quả khảo sát nhóm chuyên gia
Biểu đồ 4.4 cho thấy đa phần các ý kiến cho rằng, hình thức đánh thuế tài sản
nên:
- Tập trung vào những tài sản nhà nước cần quản lý vì đây chính là những tài sản
cần phải đăng ký nên nhà nước dễ dàng trong việc kiểm soát và quản lý hành chánh,
nhà nước quy định danh mục tài sản thuộc diện phải đăng ký.
70
- Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài sản áp dụng cho thuế đăng ký
tài sản
- Đánh thuế hàng năm áp dụng cho thuế SDĐNN, thuế SDĐPNN, thuế nhà, thuế
công trình xây dựng gắn liền trên đất, thuế phương tiện giao thông
- Chính sách thuế xây dựng và ban hành tỷ lệ chịu thuế tài sản, mức khởi điểm
của từng loại tài sản cho việc xây dựng cơ sơ thuế mang lại hiệu quả thu ngân sách
nhưng tránh làm biến dạng thị trường và giảm thiểu tổn thất xã hội ở mức thấp nhất.
Riêng hình thức đánh thuế “dựa trên thu nhập của tài sản” không nhận được sự
đánh giá cao từ các nhận định về khả năng áp dụng. Điều này có thể lý giải rằng ở
Việt nam, việc kiểm soát thu nhập từ tài sản là điều không đơn giản để đánh thuế, rất
khó khả thi và bền vững. Vì thế hiện nay chỉ áp dụng thuế thu nhập trên khoản thu
nhập từ việc cho thuê tài sản và thu nhập từ việc chuyển nhượng tài sản.
Kết quả thảo luận nhóm đưa ra các yếu tố đại diện cho hình thức đánh thuế có
tác động trực tiếp đến tính hiệu quả của mô hình thuế tài sản. Việc lựa chọn hình thức
đánh thuế, đánh trên thu nhập hay trên vốn, mức khởi điểm của tài sản chịu thuế đều
có ảnh hưởng đến khả năng thu thuế và chủ sở hữu tài sản. Tùy theo đặc điểm kinh tế-
xã hội từng giai đoạn, mức độ tích lũy tài sản và mức thu nhập người dân mà chính
sách thuế lựa chọn hình thức đánh thuế cho phù hợp.
(c) Căn cứ tính thuế tài sản
Kết quả từ bảng 4.4 và biểu đồ 4.5 cho thấy, nhóm chuyên gia thứ nhất và
nhóm thứ hai đều nhận định có 5 yếu tố và nhóm thứ ba có 4 yếu tố. Tuy nhiên, kết
quả nhận định của 3 nhóm chỉ trùng khớp ở 4 yếu tố C18, C20, C21 và C22.
Bảng 4.4: Kết quả nghiên cứu căn cứ tính thuế tài sản
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 1
Căn cứ tính thuế tài sản Mã hóa TT
1 Giá thị trường của tài sản C18
2 Giá trị ròng của tài sản chịu thuế C19
3 Giá trị tài sản ấn định C20
Thuế suất lũy tiến 4 C21
Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 5 C22
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 2
Căn cứ tính thuế tài sản TT Mã hóa
1 Giá thị trường của tài sản C18
71
2 Giá trị tài sản ấn định C20
Thuế suất lũy tiến 3 C21
Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 4 C22
Thuế suất lũy thoái 5 C23
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 3
TT Căn cứ tính thuế tài sản Mã hóa
1 Giá thị trường của tài sản C18
2 Giá trị tài sản ấn định C20
Thuế suất lũy tiến 3 C21
Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 4 C22
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả thảo luận nhóm chuyên gia
Biểu đồ 4.5: Kết quả nghiên cứu căn cứ tính thuế tài sản
Các nhóm chuyên gia đã đưa ra những nhận định về căn cứ tính thuế tài sản
dựa trên:
- Giá thị trường của tài sản
- Giá trị ròng của tài sản chịu thuế: giá trị của tài sản trừ đi các khoản nợ, chí phí
và lãi vay…
- Giá trị tài sản ấn định: trong một số trường hợp không xác định được giá thị
trường của tài sản thì áp dụng giá tính thuế theo khung quy định của nhà nước.
- Thuế suất lũy tiến: là loại thuế áp dụng tỷ lệ tăng dần theo các mức tăng của cơ
sở tính thuế, cơ sở tính thuế càng tăng thì mức thuế suất càng cao. Trong thuế lũy tiến
có hai hình thức, (1) thuế lũy tiến từng phần và (2) thuế lũy tiến toàn phần.
Đối với thuế lũy tiến từng phần, áp dụng mức thuế suất tăng dần theo
từng phần tăng lên của cơ sở đánh thuế. Với các sắc thuế áp dụng loại thuế suất này
72
trong biểu thuế suất, cơ sở đánh thuế được chia thành nhiều bậc theo mức độ tăng dần.
Ứng với mỗi phần tăng lên trong từng bậc thuế đó là một mức thuế suất. Số thuế mà
đối tượng nộp thuế phải nộp bằng tổng số thuế tính theo từng bậc. Việc tính toán và
kiểm tra loại thuế này nhìn chung khá phức tạp, nhưng nó đảm bảo số thuế phải nộp
tăng từ từ, không bị đột biến cùng tốc độ tăng của cơ sở đánh thuế. Do đó, đảm bảo
được tính công bằng theo chiều dọc và có tác dụng lớn trong việc điều tiết thu nhập.
Đối với thuế lũy tiến toàn phần, biểu thuế suất cũng chia làm nhiều bậc
với mỗi mức tăng lên của thuế suất, nhưng toàn bộ cơ sở đánh thuế được áp dụng một
mức thuế suất chung tương ứng. Thuế suất luỹ tiến toàn phần cho phép xác định số
thuế phải nộp khá đơn giản và nhanh chóng. Tuy vậy, nó cũng có nhược điểm là gây
ra sự thay đổi có tính chất đột biến về tổng số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế ở
những mức thu nhập cận biên giữa hai bậc thuế. Mặc dù gía trị của cơ sở đánh thuế
thay đổi không đáng kể, nhưng sự thay đổi về số thuế phải nộp rất đáng kể do phải áp
dụng các mức thuế khác nhau trên toàn bộ cơ sở đánh thuế. Chính vì vậy, áp dụng
thuế suất luỹ tiến toàn phần dễ dẫn đến sự phản ứng từ phía các người nộp thuế và như
vậy tất yếu làm giảm vai trò của thuế. Hiện nay, thuế suất luỹ tiến toàn phần rất ít
được áp dụng trên thế giới.
- Thuế suất tỷ lệ (trung bình): là loại thuế áp dụng một thuế suất cố định trên cơ
sở tính thuế mà không phụ thuộc vào quy mô cũng như sự tăng, giảm của cơ sở tính
thuế.
- Thuế suất lũy thoái: là loại thuế mà mức thuế suất giảm dần trong khi cơ sở
đánh thuế lại tăng dần, cơ sở tính thuế càng tăng thì mức thuế suất càng giảm. Tương
tự với thuế lũy tiến, thuế lũy thoái cũng có hai hình thức là lũy thoái toàn phần và lũy
thoái từng phần.
Biểu đồ 4.6: Kết quả nhận định căn cứ tính thuế tài sản
Nguồn: tổng hợp từ kết quả khảo sát nhóm chuyên gia
73
Biểu đồ 4.6 cho thấy đa phần các ý kiến cho rằng:
- Về giá tính thuế: Chính quyền địa phương cần phải xây dựng giá tính thuế sát
với giá thị trường cho các loại tài sản chịu thuế, trong một số trường hợp không thể
xác định theo giá thị trường thì áp dụng theo khung giá quy định riêng.
- Thuế suất tỷ lệ cố định nên áp dụng cho thuế đăng ký tài sản, thuế phương tiện
giao thông
- Thuế suất lũy tiến từng phần nên áp dụng cho thuế SDĐNN, thuế SDĐPNN,
thuế nhà, thuế công trình xây dựng gắn liền trên đất
Tuy nhiên, các ý kiến không đánh giá cao về căn cứ tính thuế dựa trên “giá trị
ròng của tài sản” và “thuế suất lũy thoái” bởi lẽ:
- Căn cứ tính thuế dựa trên “giá trị ròng của tài sản chịu thuế” cần phải xác định
giá trị thực của tài sản trừ đi các khoản chi phí đầu từ, tiền lãi, tiền vay, khấu
hao…Điều này rất khó khả thi đối với Việt nam trong bối cảnh hiện nay khi công
nghệ và khả năng quản lý thuế còn nhiều hạn chế cũng như ý thức kê khai và theo dõi
tài sản của người dân còn nhiều hạn chế.
- Tương tự, việc áp dụng “thuế suất lũy thoái” cũng không nhận được nhiều sự
ủng hộ. Thuế suất lũy thoái là loại thuế suất giảm dần trong khi cơ sở đánh thuế lại
tăng dần. Thông thường các nước áp dụng thuế suất lũy thoái để khuyến khích các đối
tượng kê khai thu nhập nhiều, trong khi các ý kiến cho rằng thuế tài sản nên đánh vào
giá trị tài sản hơn là dựa vào thu nhập tài sản. Ngoài ra thuế suất luỹ thoái cũng là loại
thuế suất không được áp dụng phổ biến ở các nước.
Kết quả thảo luận nhóm đưa ra các yếu tố đại diện cho căn cứ tính thuế tài sản,
giá tính thuế và thuế suất có ảnh hưởng trực tiếp đến tính hiệu quả của mô hình thuế
tài sản. Mức thuế thể hiện mức độ động viên của Nhà nước trên một đơn vị so với cơ
sở tính thuế và được biểu hiện dưới hình thức thuế suất hay định suất thuế. Có thể nói,
thuế suất hay định suất thuế là linh hồn của một sắc thuế, vì nó thể hiện nhu cầu cần
tập trung nguồn tài chính cho NSNN và biểu hiện chính sách điều chỉnh kinh tế xã hội
của Nhà nước, đồng thời cũng là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế. Vì vậy,
việc xác định thuế suất hay định suất thuế trong một sắc thuế phải quán triệt quan
điểm vừa coi trọng lợi ích quốc gia, vừa chú ý đến lợi ích thích đáng của người nộp
thuế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung và tích tụ trong việc sử dụng công cụ
thuế. Thuế suất cần được thiết kế phù hợp với khả năng thu thuế của mọi đối tượng để
74
người chịu thuế bớt cảm thấy gánh nặng từ thuế, thuế suất mang lại nguồn thu lớn cho
NSNN nhưng không cản trở, thậm chí có thể kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội
nói chung và sự tăng trưởng của doanh nghiệp nói riêng.
(d) Tính hiệu quả của thuế tài sản
Kết quả từ bảng 4.5 và biểu đồ 4.7 cho thấy, nhóm chuyên gia thứ nhất nhận
định có 5 yếu tố; nhóm thứ hai có 4 yếu tố và nhóm thứ ba có 5 yếu tố. Tuy nhiên, kết
quả nhận định của 3 nhóm chỉ trùng khớp ở 4 yếu tố T24, T25, T27 và T28.
Bảng 4.5: Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả thuế tài sản
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 1
TT Tính hiệu quả của thuế tài sản Mã hóa
1 Hiệu quả kinh tế T24
2 Tính bền vững và khả thi T25
3 Độ đàn hồi ổn định T26
Thể hiện tính công bằng T27 4
Giảm chi phí thực thi khi thực hiện (đơn giản, minh bạch, linh T28 5 hoạt)
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 2
Tính hiệu quả của thuế tài sản Mã hóa TT
1 Hiệu quả kinh tế T24
Tính bền vững và khả thi T25 2
Thể hiện tính công bằng T27 3
4 Giảm chi phí thực thi khi thực hiện T28
Kết quả nghiên cứu từ nhóm 3
Tính hiệu quả của thuế tài sản Mã hóa TT
1 Hiệu quả kinh tế T24
2 Tính bền vững và khả thi T25
3 Độ đàn hồi ổn định T26
Thể hiện tính công bằng T27 4
Giảm chi phí thực thi khi thực hiện (đơn giản, minh bạch, linh T28 5 hoạt)
Nguồn: tổng hợp từ kết quả thảo luận nhóm chuyên gia
75
Biểu đồ 4.7: Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả thuế tài sản
Hiệu quả kinh tế
Thứ nhất, xét trên phương diện kinh tế, hành vi đánh thuế của Nhà nước bao
giờ cũng ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn lực của xã hội và chịu sự chi phối của hai
tác nhân có xu hướng vận động không đồng nhất là Nhà nước và các lực lượng thị
trường. Sự phân bổ nguồn lực dưới tác động của các lực lượng thị trường thường dựa
trên yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường, còn sự phân bổ nguồn lực dưới tác
động của Nhà nước thường dựa trên yêu cầu của xã hội và yêu cầu của quản lý, điều
chỉnh theo chức năng của Nhà nước. Nói chung sự phân bổ các nguồn lực dưới tác
động của các lực lượng thị trường thường đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên do động cơ chủ
yếu là lợi nhuận, nên xét ở tầm vĩ mô việc phân bổ nguồn lực dưới tác động của các
lực lượng thị trường, trong nhiều trường hợp không đem lại hiệu quả chung cho nền
kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, tất yếu cần phải có sự kết hợp với hệ thống phân bổ
nguồn lực của Nhà nước, trong đó có công cụ thuế để điều chỉnh các xu hướng vận
động khác nhau nhằm đạt hiệu quả chung của nền kinh tế quốc dân. Như vậy tính hiệu
quả của hệ thống thuế được xét dưới hai góc độ: giảm tối thiểu những tác động tiêu
cực của thuế trong phân bổ các nguồn lực vốn đã đạt hiệu quả dưới tác động của các
lực lượng thị trường; tăng cường vai trò của thuế đối với việc phân bổ các nguồn lực
chưa đạt được hiệu quả dưới tác động của các lực lượng thị trường.
Thứ hai, thể hiện tính hiệu quả của thuế tài sản là tổng số thuế thu được là lớn
nhất với chi phí hành chính thuế là thấp nhất. Chi phí hành chính thuế bao gồm các
khoản chi phí trực tiếp quản lý của cơ quan thuế và những chi phí gián tiếp do người
nộp thuế gánh chịu, các khoản chi phí này phụ thuộc vào tính phức tạp hay đơn giản
76
của hệ thống thuế. Nói chung các loại thuế có cơ sở tính thuế phức tạp, yêu cầu quản
lý cao thường có chi phí hành chính lớn. Nhằm giảm bớt chi phí hành chính đòi hỏi hệ
thống thuế phải đơn giản, chứa đựng ít mục tiêu. Mặt khác hệ thống thuế đơn giản, dễ
hiểu thì việc quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với người nộp thuế mới dễ
dàng thuận lợi.
Tính bền vững và khả thi
Tính bền vững của hệ thống là điều cần thiết vì chi tiêu thường xuyên của
chính quyền địa phương thường lấy từ nguồn thu thuế tài sản, chính quyền địa phương
yêu cầu một nguồn thu thuế ổn định nhằm phát triển và duy trì mức độ cung cấp dịch
vụ và cơ sở hạ tầng tại địa phương như mong muốn. Để bảo đảm tính bền vững thì hệ
thống thuế tài sản phải cân bằng giữa tính năng động và uyển chuyển với tính ổn định
và nhất quán để cho nó vừa có khả năng thay đổi thích nghi với tình hình, đồng thời
có thể dự báo trước trong quá trình áp dụng.
Nguyên tắc khả thi đòi hỏi sắc thuế phải tính đến khả năng đóng thuế của người
dân từ đó đưa ra cách thức điều chỉnh thích hợp. Nhà nước không thể bắt người dân
đóng thuế khi họ không có khả năng đóng góp. Khả năng đóng góp của người dân thể
hiện ở chỗ người dân chỉ phải đóng thuế khi mà thu nhập chịu thuế của họ là khoản
thu nhập còn dư ra sau khi chi cho những nhu cầu cần thiết. Thông thường các quốc
gia tính toán và đưa ra những định mức chi tiêu cần thiết áp dụng chung cho mọi
người dân. Nếu thu nhập của họ không vượt quá định mức này, họ không phải đóng
thuế.
Thể hiện tính công bằng
Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong việc phân chia gánh nặng của
thuế khoá đối với các tầng lớp dân cư trong xã hội. Có công bằng trong nghĩa vụ nộp
thuế mới động viên các thành phần kinh tế trong xã hội hăng hái lao động, do đó mới
đảm bảo được các mục tiêu kinh tế và chính trị của đất nước. Tính công bằng của thuế
phải dựa trên nguyên tắc công bằng theo chiều ngang và nguyên tắc công bằng theo
chiều dọc. Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang, nếu các cá nhân có
điều kiện về mọi mặt đều như nhau thì được đối xử như nhau trong việc thực hiện
nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, nguyên tắc này khó áp dụng trong thực tiễn không thể chỉ rõ
được tiêu thức nào để xác định hai cá nhân có điều kiện về mọi mặt như nhau, mặt
khác cũng khó xác định việc đối xử như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế là
như thế nào. Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều dọc, nếu người có khả
77
năng nộp thuế nhiều hơn thì phải nộp thuế cao hơn những người khác có khả năng nộp
thuế ít hơn. Trong thực tế, để áp dụng nguyên tắc này cần xác định rõ hai vấn đề: tiêu
thức xác định khả năng và mức độ nộp thuế cao hơn. Hiện nay, người ta thường dùng
tiêu thức thu nhập hoặc tiêu dùng để đánh giá khả năng nộp thuế của người nộp thuế.
Có thể nói, vấn đề công bằng trong thuế khoá là một đòi hỏi khách quan, nhưng việc
đánh giá một hệ thống thuế được coi là công bằng không phải là công việc dễ dàng.
Do đó, công bằng trong thuế khoá vẫn thuộc về nhận thức và quan điểm của mỗi quốc
gia.
Giảm chi phí thực thi khi thực hiện (đơn giản, minh bạch, linh hoạt)
Tính đơn giản trong quản lý thuế tài sản làm gia tăng tính hiệu quả về mặt chi
phí và sự công bằng khi thực thi chính sách thuế. Một hệ thống thuế rõ ràng và minh
bạch trước hết phải chỉ rõ ai chịu thuế, mức thuế phải nộp và thời hạn nộp thuế, qua
đó người nộp thuế có thể tính toán chính xác được hiệu quả kinh doanh, nghĩa vụ nộp
thuế cũng như dễ dàng thực hiện các thủ tục về thuế. Đây là yếu tố quan trọng để giảm
bớt các chi phí hành chính thuế cũng như tăng cường thu hút vốn đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế. Hệ thống thuế phải linh hoạt, tức là có khả
năng thích ứng dễ dàng với những hoàn cảnh kinh tế thay đổi. Hệ thống thuế phải đảm
bảo có khả năng dễ thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế thì mới phát huy
được vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế. Bởi vì Nhà nước ban hành ra chính
sách thuế, nhưng người thực hiện chính sách thuế ấy là các tầng lớp dân cư trong xã
hội, cho nên khi hoạch định chính sách thuế phải đảm bảo can thiệp ở mức độ, thời
điểm và đối tượng thích hợp mới có thể tạo ra sự ổn định và đáp ứng mục tiêu tăng
trưởng của nền kinh tế.
4.1.6 Nghiên cứu định lƣợng
Qua kết quả thảo luận nhóm được tổng hợp trong bước nghiên cứu sơ bộ,
nghiên cứu đã chỉ ra các nhân tố tác động đến mô hình thuế tài sản ở Việt Nam và các
biến quan sát cần thu thập cho bước nghiên cứu chính thức tiếp theo. Nghiên cứu
chính thức được thực hiện bằng phương pháp định lượng. Sau khi hoàn chỉnh bảng
câu hỏi, thỏa mãn với tiêu chí: ngôn từ dễ hiểu, không gây hiểu nhầm về ý nghĩa, các
phát biểu không bị trùng lắp, cấu t ng câu hỏi hợp lý thì tiến hành thực
hiện thu thập dữ liệu. Toàn bộ dữ liệu hồi đáp sẽ được xử lý với sự hỗ trợ của phần
mềm SPSS 18.0
78
Xây dựng thang đo
Thang đo các nhân tố trong mô hình thuế tài sản được kế thừa và hiệu chỉnh để
phù hợp từ các nghiên cứu trước đây. Bước nghiên cứu đầu tiên là nghiên cứu định
tính, dùng kỹ thuật thảo luận nhóm và diễn dịch về tất cả các khái niệm liên quan.
Nghiên cứu định tính nhằm khám phá, điều chỉnh và bổ sung các biến quan sát dùng
để đo lường các khái niệm trong mô hình. Từ đó, các thang đo sơ bộ khái niệm được
điều chỉnh phù hợp. Thông tin có được từ thảo luận sẽ được tổng hợp và là cơ sở cho
việc hiệu chỉnh, bổ sung các biến thang đo.
Các biến quan sát sử dụng cho các khái niệm liên quan được đo bằng thang đo
Likert 5 điểm.
(1) Hoàn toàn không đồng ý
(2) Không đồng ý
(3) Không ý kiến
(4) Đồng ý
(5) Hoàn toàn đồng ý
Bảng câu hỏi trong nghiên cứu định lƣợng
Nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua phiếu điều
tra khảo sát, sử dụng dạng câu hỏi đóng theo thang likert 5 điểm để tìm ra các biến
quan sát cần thiết và tối ưu cho mô hình nghiên cứu (Phụ lục 3.1)
Thiết kế mẫu
Mẫu được chọn trong nghiên cứu theo phương pháp phi xác suất hay còn gọi là
chọn mẫu phi ngẫu nhiên, là phương pháp chọn mẫu mà các đơn vị trong tổng thể
chung không có khả năng ngang nhau để được chọn vào mẫu nghiên cứu. Phiếu điều
tra sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện là một trong các phương pháp của chọn
mẫu phi xác suất, có nghĩa là lấy mẫu dựa trên sự thuận lợi hay dựa trên tính dễ tiếp
cận của đối tượng, ở những nơi mà nhân viên điều tra có nhiều khả năng gặp được đối
tượng. Lấy mẫu thuận tiện thường được dùng trong nghiên cứu khám phá để xác định
ý nghĩa thực tiễn của vấn đề nghiên cứu; hoặc để kiểm tra trước bảng câu hỏi nhằm
hoàn chỉnh bảng; hoặc khi muốn ước lượng sơ bộ về vấn đề đang quan tâm mà không
muốn mất nhiều thời gian và chi phí. Kích thước của mẫu áp dụng trong nghiên cứu
được dựa theo yêu cầu của phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor
Analysis) và hồi quy đa biến. Phân tích nhân tố khám phá EFA là một trong những
phương pháp phân tích thống kê dùng để rút gọn một tập hợp nhiều biến quan sát phụ
79
thuộc lẫn nhau thành một tập biến (gọi là các nhân tố) ít hơn để chúng có ý nghĩa hơn
nhưng vẫn chứa đựng hầu hết thông tin của tập biến ban đầu (Hair và cộng sự, 1998).
- Đối với phân tích nhân tố khám phá EFA: Dựa theo nghiên cứu của Hair,
Anderson, Tatham và Black (1998) cho tham khảo về kích thước mẫu dự kiến. Theo
đó kích thước mẫu tối thiểu là gấp 5 lần tổng biến quan sát. Trong mô hình nghiên cứu
dự kiến có tổng số biến quan sát là 28, cỡ mẫu cần đạt là 28*5=140 mẫu.
- Đối với phân tích hồi quy đa biến: cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được tính theo công
thức là 50 +8*m (m: số biến độc lập) (Tabachnick và Fidell, 1996). Trong nghiên cứu
này, dự kiến số biến độc lập là 3 thì cỡ mẫu tối thiểu là 50 + 8*3 = 74 mẫu.
- Nghiên cứu về cỡ mẫu do Roger thực hiện (2006) cho thấy cỡ mẫu tối thiểu áp
dụng được trong các nghiên cứu thực hành là từ 150 -200
Thu thập dữ liệu
Nghiên cứu được tiến hành thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua phiếu điều tra
khảo sát đối với cán bộ ngành thuế, ngành tài chính, giảng viên chuyên ngành tài
chính Nhà Nước tại TP.Hồ Chí Minh, TP.Biên Hòa và TP. Bà Rịa-Vũng Tàu.
Cỡ mẫu được sử dụng trong nghiên cứu là 200 mẫu. Do giới hạn về thời gian
, phương pháp thu thập dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu là phương
pháp lấy mẫu thuận tiện, một trong các phương pháp chọn mẫu phi xác suất dựa trên
bảng câu hỏi in sẵn.
Đánh giá độ tin cậy thang đo
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá bằng phương pháp nhất quán nội tại qua
hệ số Cronbach’s Alpha. Sử dụng phương pháp hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha trước
khi phân tích nhân tố EFA để loại các biến không phù hợp vì các biến rác này có thể
tạo ra các yếu tố giả (Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2009).
Hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha chỉ ra các đo lường có liên kết với nhau hay
không, nhưng không cho biết biến quan sát nào cần bỏ đi và biến quan sát nào cần giữ
lại. Khi đó, việc tính toán hệ số tương quan giữa biến-tổng sẽ giúp loại ra những biến
quan sát nào không đóng góp nhiều cho sự mô tả của khái niệm cần đo (Hoàng Trọng
và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2005).
Các tiêu chí được sử dụng khi thực hiện đánh giá độ tin cậy thang đo:
- Loại các biến quan sát có hệ số tương quan biến-tổng nhỏ (nhỏ hơn 0.4), tiêu
chuẩn chọn thang đo khi có độ tin cậy Alpha lớn hơn 0.6 (Alpha càng lớn thì độ tin
80
cậy nhất quán nội tại càng cao) (Nunally & Burnstein 1994, dẫn theo Nguyễn Đình
Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2009).
- Các mức giá trị của Alpha: lớn hơn 0.8 là thang đo lường tốt, từ 0.7 đến 0.8 là
sử dụng được, từ 0.6 trở lên là có thể sử dụng trong trường hợp khái niệm nghiên cứu
là mới hoặc là mới trong bối cảnh nghiên cứu (Nunally, 1978; Peterson, 1994; Slater,
1995; dẫn theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2005).
- Loại các biến quan sát có hệ số tương quan biến-tổng nhỏ hơn 0.4 (đây là
những biến không đóng góp nhiều cho sự mô tả của khái niệm cần đo và nhiều nghiên
cứu trước đây đã sử dụng tiêu chí này).
- Chọn thang đo có độ tin cậy Alpha lớn hơn 0.6 (các khái niệm trong nghiên
cứu này là tương đối mới đối với đối tượng nghiên cứu khi tham gia trả lời).
Phân tích nhân tố khám phá EFA
Các thang đo đạt yêu cầu về độ tin cậy sẽ được sử dụng phân tích nhân tố để
rút gọn một tập gồm nhiều biến quan sát thành một tập biến (gọi là nhân tố) ít hơn; các
nhân tố được rút gọn này sẽ có ý nghĩa quan trọng hơn nhưng vẫn chứa đựng hầu hết
nội dung thông tin của tập biến quan sát ban đầu (Hair, Anderson, Tatham & Black,
1998). Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA được dùng để kiểm định giá trị
khái niệm thang đo (Lê Ngọc Đức, 2008).
Phân tích hồi quy đa biến
Sau quá trình thực hiện kiểm định thang đo, đánh giá độ tin cậy thang đo (sử
dụng hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha) và kiểm định giá trị khái niệm của thang đo
(phân tích nhân tố khám phá EFA), tiến hành tính toán nhân số của nhân tố (giá trị của
các nhân tố trích được trong nhân tố phân tích nhân tố EFA) bằng cách tính trung bình
cộng của các biến quan sát thuốc nhân tố tương ứng. Các nhân tố được trích ra trong
phân tích nhân tố được sử dụng cho phân tích nhân tố hồi quy đa biến để kiểm định
mô hình nghiên cứu và các giả thuyết kèm theo. Các kiểm định giả thuyết thống kê
đều áp dụng mức ý nghĩa là 5%.
Phân tích tƣơng quan:
- Kiểm định mối tương quan tuyến tính giũa các biến trong mô hình: giữa biến
phụ thuộc với từng biến độc lập và giữa các biến độc lập với nhau. Đồ thị phân tán
cũng cung cấp thông tin trực quan về mối tương quan tuyến tính giữa hai biến. Sử
dụng hệ số tương quan Pearson để lượng hóa mức độ chặt chẽ mối liên hệ tuyến tính
giữa hai biến định lượng: giá trị tuyệt đối của hệ số Peason càng gần đến 1 thì hai biến
81
này có mối tương quan tuyến tính càng chặt chẽ (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng
Ngọc, 2005).
- Trong mô hình nghiên cứu, kỳ vọng có mối tương quan tuyến tính chặt chẽ
giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập; đồng thời cũng xem xét mối tương quan giữa
các biến độc lập với nhau để nhận dạng hiện tượng đa cộng tuyến.
Phân tích hồi quy đa biến:
- Sau khi kết luận là hai biến có mối liên hệ tuyến tính thì có thể mô hình hóa
mối quan hệ nhân quả của hai biến này bằng hồi quy tuyến tính (Hoàng Trọng và Chu
Nguyễn Mộng Ngọc, 2005).
- Nghiên cứu thực hiện hồi quy đa biến theo phương pháp “Enter”: tất cả các
biến được đưa và một lần và xem xét các kết quả thống kê liên quan.
- Phương trình hồi quy đa biến cho mô hình nghiên cứu đề xuất ban đầu :
Bảng 4.6: Mô tả các biến trong phƣơng trình hồi quy đa biến
Biến Ý nghĩa Loại biến
F_Hieuqua Tính hiệu quả của thuế tài sản Phụ thuộc
F_Doituong Đối tượng chịu thuế tài sản Độc lập
F_Hinhthuc Hình thức đánh thuế tài sản Độc lập
F_Cancu Căn cứ tính thuế tài sản Độc lập
4.2 Phân tích và đánh giá mô hình thuế tài sản
4.2.1 Giới thiệu
Mục đích của phần này là phân tích mô hình nghiên cứu thuế tài sản, trình bày
các kết quả kiểm định thang đo và các giả thuyết đưa ra trong mô hình.
Nội dung của phần này gồm có các phần chính. Trước tiên là phần mô tả mẫu
khảo sát, kế đến là kết quả kiểm định thang đo thông qua hệ số tin cậy Cronbach’s
Alpha và phân tích nhân tố EFA, phân tích hồi quy và cuối cùng là kết quả kiểm định
các giả thuyết trong mô hình nghiên cứu.
4.2.2 Mô tả mẫu và xử lý dữ liệu
- Nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua phiếu điều
tra khảo sát, sử dụng dạng câu hỏi đóng theo thang likert.
- Nghiên cứu này sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện (thuộc một trong
những phương pháp chọn mẫu phi xác suất).
82
- Khung mẫu dựa vào danh sách cán bộ ngành thuế, ngành tài chính, giảng viên
chuyên ngành tài chính Nhà Nước.
- Khu vực chọn mẫu là TP.Hồ Chí Minh, TP.Biên Hòa và TP. Bà Rịa-Vũng Tàu.
- Kích cỡ mẫu trong phân tích nhân tố EFA, cần 5 quan sát cho 1 biến đo lường
và cỡ mẫu không nên ít hơn 100. Nghiên cứu có 28 biến về đánh giá mô hình thuế tài
sản. Như vậy số mẫu cần thiết là 28 x 5 = 140. Tuy nhiên tác giả mong muốn thu thập
trên 170 mẫu, do đó số bảng khảo sát phát ra là 200 bảng được gửi trực tiếp đến đối
tượng cần thăm dò ý kiến điều tra
- Số bảng câu hỏi được phát ra là 200, sau khi thu về và loại bỏ những bảng
không hợp lệ, kết quả còn lại 180 mẫu hợp lệ được dùng cho tiến trình phân tích.
- Hai mươi tám (28) biến quan sát đo lường 4 khái niệm trong nghiên cứu được
tiến hành mã hóa để nhập liệu và phân tích, sử dụng phần mềm thống kê SPSS phiên
bản 18.0 để xử lý (Phụ lục 3.2).
Toàn bộ dữ liệu hồi đáp sẽ được xử lý với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 18.0.
Khởi đầu, dữ liệu được mã hóa và làm sạch, sau đó qua các bước phân tích sau:
Bước 1: Đánh giá độ tin cậy và giá trị thang đo. Các thang đo được đánh giá độ tin
cậy qua hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha. Hệ số này cho biết mức độ tương quan giữa
các biến trong bảng câu hỏi, được dùng để tính sự thay đổi của từng biến và mối
tương quan giữa các biến. Qua đó, các biến quan sát có tương quan biến-tổng nhỏ,
Corrected Item Total Corelation (<0,4) bị loại và thang đo được chấp nhận khi hệ số
tin cậy Cronbach’s Alpha đạt yêu cầu (>0,6).
Bước 2: Phân tích nhân tố (phân tích EFA). Phân tích này được dùng để kiểm định
giá trị khái niệm của thang đo nhằm rút gọn dữ liệu và biến bằng cách nhóm chúng lại
với các nhân tố đại diện. Thông qua phương pháp này, có thể xác định cấu trúc cơ bản
của bộ dữ liệu, giảm thứ nguyên và rút gọn tập dữ liệu. Các biến chỉ được chấp nhận
khi nó có trọng số lớn hơn 0,5 và các trọng số tải của chính nó ở factor khác nhỏ hơn
0,35 (Igbaria et al, 1995) hoặc khoảng cách giữa 2 trọng số tải của cùng 1 biến ở hai
factor khác nhau lớn hơn 0,3 (theo kinh nghiệm từ chuyên gia). Thang đo chỉ được
chấp nhận khi cumulative của phần “extraction sum of square loading” > 50%.
Bước 3: Sử dụng phương pháp hồi quy đa biến nhằm kiểm định mô hình và các giả
thuyết đã đưa ra với mức ý nghĩa dự kiến α = 5%.
4.2.3 Phân tích độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach’s Alpha
83
Để kết quả đánh giá có ý nghĩa thì thang đo phải đạt được một mức tin cậy nhất
định. Độ tin cậy là mức độ mà phép đo tránh được các sai số ngẫu nhiên. Độ tin cậy
liên quan đến tính chính xác, tính nhất quán của kết quả. Ở đây những mục hỏi đo
lường cùng một khái niệm tiềm ẩn thì phải có liên quan đến những cái còn lại trong
nhóm đó. Điều này liên quan đến 2 phép tính toán tương quan giữa bản thân các mục
hỏi và tương quan của các điểm số của từng mục hỏi với điểm số toàn bộ các mục hỏi
cho mỗi người trả lời. Nghiên cứu có thể đánh giá độ tin cậy của thang đo dựa vào hệ
số Cronbach’s Alpha. Hệ số Cronbach’s Alpha là một phép kiểm định thống kê về
mức độ chặt chẽ mà các mục hỏi trong thang đo tương quan với nhau. Theo đó, thang
đo được chấp nhận khi hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0.6 và hệ số tương quan biến-
tổng (Corrected Item – Total Correlation) lớn hơn 0.4. Qua kiểm định, hệ số Cronbach
lần lượt cho các nhóm biến như sau:
Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Đối tượng chịu thuế tài sản”
Bảng 4.7: Độ tin cậy thang đo của 9 biến “Đối tƣợng chịu thuế tài sản” Cronbach's Alpha: 0.803
Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến
Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 25.948 25.730 25.827 26.370 25.353 28.750 24.925 27.039 29.132 Tương quan biến- tổng .579 .527 .582 .618 .586 .284 .629 .461 .231 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .773 .780 .772 .770 .771 .810 .765 .788 .817 29.61 29.58 29.48 29.38 29.72 29.44 29.64 29.33 29.46 D01 D02 D03 D04 D05 D06 D07 D08 D09
Kết quả cho thấy hệ số tương quan biến-tổng của biến thành phần “D09” có hệ
số nhỏ nhất, tương quan biến-tổng là 0.231 nhỏ hơn 0.4 nên sẽ loại biến này do không
thỏa điều kiện. Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là “chứng khoán”, điều
này có thể lý giải rằng ở Việt Nam rất khó áp dụng đánh thuế trên giá trị tài sản ròng
như một số quốc gia phát triển và rất khó xác định tổng giá trị tài sản của mỗi cá nhân.
Vì vậy, thu nhập từ chứng khoán có thể được xem như là một đối tượng chịu thuế thu
nhập.
84
Bảng 4.8: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến“D09” Cronbach's Alpha: 0.817
Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến
Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 22.176 21.994 21.973 22.648 21.547 26.998 21.351 24.412 Tương quan biến- tổng .636 .575 .649 .672 .648 .108 .668 .378 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .782 .790 .780 .780 .779 .851 .776 .817 25.86 25.83 25.73 25.63 25.97 25.69 25.89 25.58 D01 D02 D03 D04 D05 D06 D07 D08
Kết quả cho hệ số tương quan Cronbach’s Alpha của nhóm biến cao (> 0.6), hệ
số tương quan biến-tổng của các thành phần đều lớn hơn 0.4 trừ biến thành phần
“D06” có hệ số tương quan biến-tổng là 0.108 và “D08” có hệ số tương quan biến-
tổng là 0.378 nhỏ hơn 0.4 nên nghiên cứu sẽ loại biến “D06” trước tiên do không thỏa
điều kiện. Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là “tài nguyên”, điều này có thể
lý giải quyền khai thác tài nguyên được giao cho đối tượng khái thác có thời hạn,
không thuộc quyền sử dụng và sở hữu để đánh thuế mà chỉ có thể chi phối bởi thuế tài
nguyên. Bảng 4.9: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “D06” Cronbach's Alpha: 0.851
Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến
Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 20.030 19.928 19.809 20.567 19.349 19.393 23.212 Tương quan biến- tổng .671 .597 .687 .699 .691 .683 .290 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .822 .833 .819 .820 .818 .820 .874 22.09 22.07 21.97 21.86 22.21 22.12 21.82 D01 D02 D03 D04 D05 D07 D08
Kết quả từ bảng 4.9 cho thấy hệ số tương quan biến-tổng của biến thành phần
“D08” có hệ số tương quan biến-tổng là 0.290 nhỏ hơn 0.4 nên nghiên cứu sẽ loại biến
85
này do không thỏa điều kiện. Sau khi loại sẽ chạy lại Cronbach’s Alpha và cho độ tin
cậy là 0.874. Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là “tài sản vô hình” như bản
quyền, bằng phát minh sáng chế… Điều này cho thấy, tài sản vô hình ở Việt nam
(ngoại trừ quyền sử dụng đất) luôn được khuyến khích phát triển, các ý kiến không
đồng tình về việc đánh thuế tài sản đối với đối tượng này như ở Mỹ và một số nước
OECD. Bảng 4.10: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “D08” Cronbach's Alpha: 0.874
Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến
Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 16.900 16.716 16.332 17.039 16.145 16.021 Tương quan biến- tổng .650 .588 .719 .733 .689 .703 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .857 .869 .845 .846 .850 .848 18.22 18.19 18.09 17.99 18.33 18.25 D01 D02 D03 D04 D05 D07
Sau khi loại bỏ 3 biến thành phần “D09”, “D06” và “D08”, các biến còn lại đều
đạt yêu cầu kiểm định Cronbach's Alpha. Vì vậy 6 biến quan sát còn lại được chấp
nhận và đưa vào phần phân tích nhân tố tiếp theo sau gồm có: quyền sử dụng đất nông
nghiệp, quyền sử dụng đất phi nông nghiệp, nhà ở, công trình xây dựng gắn liền trên
đất, tài sản đăng ký sử dụng và phương tiện giao thông.
Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Hình thức đánh thuế tài sản” Bảng 4.11: Độ tin cậy thang đo của 8 biến “Hình thức đánh thuế tài sản” Cronbach's Alpha: 0.862
Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến
Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 25.323 28.206 31.094 28.964 27.742 27.819 27.046 27.238 Tương quan biến- tổng .771 .595 .317 .598 .602 .649 .658 .692 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .824 .846 .876 .846 .846 .840 .839 .835 25.97 25.92 25.42 25.69 25.92 25.83 25.93 25.86 H10 H11 H12 H13 H14 H15 H16 H17
86
Hệ số tương quan Cronbach’s Alpha của nhóm biến cao (> 0.6) và hệ số tương
quan biến-tổng của các thành phần đều lớn hơn 0.4 trừ biến thành phần “H12” có hệ
số tương quan biến-tổng là 0.317 nhỏ hơn 0.4 nên nghiên cứu sẽ loại biến này.Sau khi
loại sẽ chạy lại Cronbach’s Alpha và cho độ tin cậy là 0.876.
Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là hình thức đánh thuế “dựa trên
thu nhập của tài sản”. Điều này lý giải việc kiểm soát thu nhập từ tài sản là điều không
đơn giản để đánh thuế, rất khó khả thi mà hiện nay chỉ áp dụng thuế thu nhập trên
khoản thu nhập từ việc cho thuê tài sản và thu nhập từ việc chuyển nhượng tài sản. Bảng 4.12: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến “H12” Cronbach's Alpha: 0.876
Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến
Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 21.322 23.950 24.845 23.641 23.557 22.881 23.026 Tương quan biến- tổng .778 .604 .585 .597 .663 .667 .706 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .841 .865 .867 .866 .857 .857 .852 21.88 21.83 21.60 21.83 21.74 21.84 21.77 H10 H11 H13 H14 H15 H16 H17
Sau khi loại bỏ biến thành phần “H12”, các biến còn lại đều đạt yêu cầu kiểm
định Cronbach's Alpha. Vì vậy 7 biến quan sát còn lại được chấp nhận và đưa vào
phần phân tích nhân tố tiếp theo sau gồm có: Tập trung vào những tài sản Nhà nước
cần quản lý, tập trung vào những tài sản có giá trị lớn, dựa trên giá trị của tài sản, Dựa
trên tỷ lệ chịu thuế , quy định ngưỡng chịu thuế, đánh thuế một lần khi thiết lập quyền
sở hữu tài sản và đánh thuế hàng năm đối với tài sản.
Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Căn cứ tính thuế tài sản”
Bảng 4.13: Độ tin cậy thang đo của 6 biến “Căn cứ tính thuế tài sản” Cronbach's Alpha: 0.582
Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến
C18 C19 C20 C21 20.37 20.76 20.21 20.57 Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 9.352 10.485 9.061 9.811 Tương quan biến- tổng .475 .067 .570 .403 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .478 .672 .445 .509
87
C22 C23 20.08 20.71 9.458 9.661 .523 .161 .469 .630
Kết quả cho thấy hệ số tương quan Cronbach’s Alpha của nhóm biến cao (>
0.6), hệ số tương quan biến-tổng của các thành phần đều lớn hơn 0.4 trừ biến thành
phần “C19” có hệ số tương quan biến-tổng là 0.067 nhỏ hơn 0.4 nên sẽ loại biến này
do không thỏa điều kiện. Sau khi loại sẽ chạy lại Cronbach’s Alpha và cho độ tin cậy
là 0.672. Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là căn cứ tính thuế dựa trên “giá
trị ròng của tài sản chịu thuế”. Để thực hiện điều này cần phải xác định giá trị thực của
tài sản trừ đi các khoản chi phí đầu tư, tiền lãi, khấu hao…và điều này rất khó khả thi
đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Bảng 4.14: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến“C19” Cronbach's Alpha: 0.672
Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến
C18 C20 C21 C22 C23 16.59 16.43 16.79 16.30 16.93 Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 7.058 6.996 7.508 7.373 7.363 Tương quan biến- tổng .541 .593 .456 .539 .181 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .573 .554 .611 .581 .783
Kết quả cho hệ số tương quan Cronbach’s Alpha của nhóm biến cao (> 0.6), hệ
số tương quan biến-tổng của các thành phần đều lớn hơn 0.4 trừ biến thành phần
“C23” có hệ số tương quan biến-tổng là 0.181 nhỏ hơn 0.4 nên nghiên cứu sẽ loại biến
này do không thỏa điều kiện. Sau khi loại sẽ chạy Cronbach’s Alpha lại và cho độ tin
cậy là 0.783. Biến thành phần bị loại khỏi mô hình chính là căn cứ tính thuế dựa trên
“thuế suất lũy thoái”. Thông thường các nước áp dụng thuế suất lũy thoái để khuyến
khích các đối tượng nộp thuế kê khai thu nhập nhiều.
Bảng 4.15: Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến“C23” Cronbach's Alpha: 0.783
Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến
C18 C20 C21 C22 12.76 12.60 12.96 12.47 Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 4.239 4.264 4.724 4.541 Tương quan biến- tổng .617 .651 .487 .606 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .715 .697 .781 .722
88
Sau khi loại bỏ biến thành phần “C19” và “C23”, các biến còn lại đều đạt yêu
cầu kiểm định Cronbach's Alpha. Vì vậy 4 biến quan sát còn lại được chấp nhận và
đưa vào phần phân tích nhân tố tiếp theo sau gồm có: giá thị trường của tài sản, giá trị
tài sản ấn định, thuế suất lũy tiến, thuế suất tỷ lệ (trung bình).
Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Tính hiệu quả của thuế TS”
Bảng 4.16: Độ tin cậy thang đo “Tính hiệu quả của thuế tài sản” Cronbach's Alpha: 0.813
Biến quan sát Trung bình thang đó nếu loại bỏ biến
T24 T25 T26 T27 T28 14.99 15.24 15.08 15.11 15.01 Phương sai thang đó nếu loại bỏ biến 9.827 10.652 11.145 10.363 10.419 Tương quan biến- tổng .661 .523 .528 .612 .694 Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến .757 .801 .797 .773 .751
Bảng 4.16 cho thấy hệ số tương quan Cronbach’s Alpha của nhóm biến cao (>
0.6), và hệ số tương quan biến-tổng của các thành phần đều lớn hơn 0.4. Vì vậy cả 5
biến quan sát đều được chấp nhận và đưa vào phần phân tích nhân tố tiếp theo sau.
Qua kết quả phân tích Cronbach’s Alpha, ngoài các biến thành phần không phù hợp
với mô hình bị loại bỏ thì 22 biến còn lại (Phụ lục 3.3) được đưa vào bước phân tích
nhân tố tiếp theo.
4.2.4 Phân tích nhân tố
Phương pháp phân tích nhân tố (phân tích EFA) được dùng để kiểm định tính
đơn nguyên và giá trị hội tụ của từng thang đo, theo đó liên hệ giữa các nhóm biến có
quan hệ qua lại lẫn nhau được xem xét và trình bày dưới dạng một số ít các nhân tố cơ
bản. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp Principal Component Analysis với phép
quay Varimax với các điều kiện thực hiện là:
- Trị số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) lớn hơn 0.5 (Garson, 2003)
- Điểm dừng khi trích các yếu tố có trị riêng (eigenvalue) ≥ 1 (Gerbing &
Anderson, 1988), trị riêng là tổng lệch bình phương của một nhân tố, đại lượng đại
diện cho lượng biến thiên giải thích bởi nhân tố hay phương sai của một nhân tố.
- “Varience extracted” lớn hơn 50%, nghĩa là phần trăm phương sai tích lũy giải
thích được trên 50% biến thiên của dữ liệu.
- Sig. < 0.05 nhằm đảm bảo kiểm định có ý nghĩa với độ tin cậy 95%.
89
- Các biến chỉ được chấp nhận khi nó có trọng số lớn hơn 0.5 và các trọng số tải
của chính nó ở factor khác phải nhỏ hơn 0.35, hoặc khoảng cách giữa hai trọng số tải
của cùng một biến ở hai factor khác nhau lớn hơn 0.3 nhằm đảm bảo nhân tố và biến
có liên hệ chặt chẽ với nhau.
Trong quá trình tiến hành, các biến không đạt yêu cầu sẽ bị loại bỏ và phân tích
nhân tố sẽ được thực hiện lại cho đến khi nào đạt được kết quả tốt nhất.
Phân tích nhân tố đối với các biến độc lập
Từ kết quả phân tích độ tin cậy thang đo ở phần trên, việc phân tích nhân tố
trước tiên được tiến hành trên 17 biến quan sát của các biến độc lập ảnh hưởng đến
“tính hiệu quả của thuế tài sản”. Kết quả phân tích (phụ lục 3.4) cho hệ số KMO là
0.824, lớn hơn 0.5 cho thấy giả thuyết là đúng. Trong kiểm dịnh Barlett’s, p = 0.000
(bác bỏ giả thuyết H0: các biến quan sát không có tương quan với nhau trong tổng thể) như vậy giả thuyết về ma trận tương quan giữa các biến là ma trận đồng nhất bị bác
bỏ, tức là các biến có tương quan với nhau và thỏa điều kiện phân tích nhân tố. Bước
tiếp theo là thực hiện phân tích nhân tố theo Principal components với phép quay
Varimax, kết quả (phụ lục 3.4) cho thấy 3 nhóm nhân tố và 17 biến quan sát đạt yêu
cầu sau khi phân tích.
Như vậy, sau khi tiến hành phân tích nhân tố 17 biến được giữ nguyên vì có giá
trị lớn hơn 0.5 và được được xác định với trị riêng lớn hơn (>) 1. Kết quả cho thấy 3
nhân tố “đối tượng chịu thuế”, “Căn cứ tính thuế” và “Hình thức đánh thuế” giải thích
được 60,80% biến thiên của dữ liệu và đạt yêu cầu phân tích dữ liệu.
Phân tích nhân tố đối với biến phụ thuộc
Kết quả sau khi đưa các biến quan sát phụ thuộc vào phân tích nhân tố (phụ lục
3.4) cho thấy rằng tất cả các biến đều đạt mức độ phù hợp với điều kiện đã nêu ở trên
và kết quả cho một nhóm nhân tố duy nhất.
Như vậy, sau khi tiến hành phân tích nhân tố 5 biến được giữ nguyên vì có giá
trị lớn hơn 0.5 và được được xác định với trị riêng lớn hơn 1. Kết quả cho thấy nhân tố
“ tính hiệu quả của thuế tài sản” trên giải thích được 57,66% biến thiên của dữ liệu và
đạt yêu cầu phân tích dữ liệu.
4.2.5 Phân tích hồi quy
Tạo biến mới
90
Sau khi phân tích nhân tố các biến mới được hình thành từ các biến mô tả và
các biến này được sử dụng để phân tích hồi quy nhằm khẳng định các giả thuyết của
mô hình nghiên cứu. Kết quả và mã hóa các biến đại diện như sau:
Variables Entered/Removedb
Variables Removed Method
. Enter
Model Variables Entered F_Cancu, 1 F_Hinhthuc, F_Doituonga
a. Tất cả các biến được đưa vào “enter” b. Biến phụ thuộc: “F_Hieuqua”
Hồi quy đa biến
Hồi quy đa biến được tiến hành với mức ý nghĩa α = 5%. Bảng mô tả tương
quan sau khi phân tích hồi quy với biến độc lập là “đối tượng chịu thuế tài sản”, “hình
thức đánh thuế tài sản”, “căn cứ tính thuế tài sản” và biến phụ thuộc là “tính hiệu quả
của thuế tài sản”.
Bảng 4.17: Kết quả phân tích hồi quy đa biến
Model Summary
Model 1 R .725a R Square .526 Adjusted R Square .518 Std. Error of the Estimate .54904
Coefficientsa
Collinearity Statistics Standardized Coefficients Model t Sig. B Tolerance VIF Beta
1
Unstandardized Coefficients Std. Error .303 .055 .055 .064 (Constant) -.269 F_Doituong .387 F_Hinhthuc .294 .370 F_Cancu -.889 7.075 5.378 5.761 .375 .000 .000 .000 .871 .889 .888 1.148 1.125 1.126 .393 .296 .317
Kết quả trong bảng 4.20 cho thấy R2 = 0,526, như vậy 52,6% sự biến thiên của biến phụ thuộc được giải thích bằng các biến độc lập đã đưa vào bên trên. Đối với
hiện tượng đa cộng tuyến, giả thiết đặt ra là không có mối tương quan giữa các biến
độc lập. Yêu cầu là chỉ số VIF trên cột Collinerity Statistics phải nhỏ hơn 2. Kết quả
đã cho thấy tất cả các thành phần đều có chỉ số VIF nhỏ hơn 2, như vậy là không có
mối tương quan giữa các thành phần, phân tích hồi quy được chấp nhận.
91
Kết quả hồi quy cũng cho thấy hệ số “sig” nhỏ hơn 0.05 ở tất cả các nhân tố
đưa vào, như vậy các biến trong các nhân tố này đều có ý nghĩa về mặt thống kê,
nghĩa là các biến có ý nghĩa trong việc giải thích cho sự biến thiên của biến phụ thuộc
“F_Hieuqua”. Như vậy các giả thuyết trong mô hình nghiên cứu đã được chứng minh
cho thấy mô hình này phù hợp với nghiên cứu của đề tài .
Kết quả cũng cho thấy rằng nhân tố “F_Doituong” với hệ số β = 0.387 ảnh
hưởng mạnh nhất đến “Tính hiệu quả của thuế tài sản”, kế tiếp là nhân tố “F_Cancu”
với hệ số β = 0.370 và nhân tố “F_Hinhthuc” với hệ số β = 0.294 có mức tác động ý
nghĩa đến “tính hiệu quả của thuế tài sản”.
4.2.6 Kết quả nghiên cứu định lƣợng
Kết quả phân tích cho thấy, mô hình thuế tài sản được cấu thành và chịu tác
động bởi các nhóm nhân tố trọng yếu như đối tượng chịu thuế, hình thức tính thuế và
căn cứ tính thuế (Hình 4.3).
Như vậy, trong mô hình nghiên cứu ban đầu đưa ra 3 nhân tố độc lập với 23
biến để đánh giá tính hiệu quả của thuế tài sản. Sau khi phân tích độ tin cậy và nhân
tố, kết quả vẫn giữ nguyên 3 nhân tố và 17 biến. Trong 3 nhân tố thì nhân tố “đối
92
tượng chịu thuế tài sản” có tác động mạnh nhất đến “tính hiệu quả thuế của thuế tài
sản” và gần ngang bằng nhân tố trên là “căn cứ tính thuế”. Điều này cũng đã phản ánh
khá đúng thực trạng vì đối tượng chịu thuế tài sản càng được mở rộng phạm vi thì khả
năng thu thuế tài sản càng cao và cuối cùng là “hình thức đánh thuế tài sản”cũng có
tác động ý nghĩa đến tính hiệu quả của thuế tài sản.
(a) Đối tƣợng chịu thuế tài sản
Đối tượng chịu thuế tài sản là các tài sản thuộc phạm vi điều chỉnh của thuế tài sản,
các tài sản nằm trong danh mục cần phải có sự điều tiết của chính sách thuế. Tùy theo
đặc điểm của nền kinh tế - xã hội, mục tiêu, yêu cầu quản lý, tình trạng thu nhập xã
hội, mục đích sử dụng tài sản, tình trạng chủ sở hữu tài sản mà chính sách thuế thiết
lập phạm vi đối tượng chịu thuế tài sản. Tài sản chịu thuế phổ biến là bất động sản,
đây là tài sản khó có thể trốn hay lậu thuế, khả năng quản lý, kiểm soát dễ dàng; về
mức động viên có thể linh hoạt cao hay thấp tuỳ theo yêu cầu về ngân sách địa
phương; số thu có thể kế hoạch hoá một cách tương đối và là nguồn thu quan trọng
của các địa phương.
Kết quả phân tích đã chỉ ra phạm vị chịu thuế tài sản chủ yếu là bất động sản và
tài sản có giá trị cao như: Quyền sử dụng đất nông nghiệp, quyền sử dụng đất phi
nông nghiệp, nhà, công trình xây dựng gắn liền trên đất, tài sản đăng ký sử dụng và
phương tiện giao thông. Với hệ số β lớn nhất, bằng 0.387 và là nhân tố tác động mạnh
nhất đến “tính hiệu quả của thuế tài sản”. Điều này chứng tỏ nhân tố “đối tượng chịu
thuế” có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả thu thuế tài sản.
(b) Hình thức đánh thuế tài sản
Với hệ số β = 0.294, cho thấy nhân tố “hình thức đánh thuế” có mức tác động ý
nghĩa đến tính hiệu quả của thuế tài . Tùy theo đối tượng chịu thuế mà mỗi quốc
gia có thể lựa chọn hình thức đánh thuế phù hợp. Quá trình phân tích kết quả cho thấy
hình thức đánh thuế nghiêng về hướng tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản
lý, những tài sản có giá trị lớn, cũng như việc kết hợp 2 phương thức đánh thuế một
lần và đánh thuế hàng năm.
(c) Căn cứ tính thuế tài sản
tính thuế trong mô hình thuế tài sản là điều rất quan trọng
đòi hỏi phải được nghiên cứu và cân nhắc thật kỹ lưỡng. Kết quả nghiên cứu chỉ ra
rằng, giá tính tính thuế của tài sản phải là giá thị trường của tải sản, trong một số
trường hợp thì cần sử dụng giá trị tài sản ấn định. Về thuế suất thì mô hình nên áp
93
dụng thuế suất lũy tiến và thuế suất tỷ lệ. Với hệ số β = 0.370, cho thấy căn cứ tính
thuế cũng có mức tác động ý nghĩa đến tính hiệu quả của thuế tài sản.
4.3
Dựa trên kết quả phân tích vá đánh giá mô hình thuế tài sản, qua phân tích thực
trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam. đã chỉ ra các điểm
tương đồng và dị biệt giữa mô hình để xác định những ưu-nhược điểm của mô hình
đồng thời, xuất phát từ những mục tiêu và định hướng của mô hình thuế tài sản đã
trình bày, kết hợp từ những kinh nghiệm áp dụng mô hình thuế tài sản của các quốc
gia trên thế giới, đề xuất mô hình thuế tài sản gồm những sắc thuế như sau:
Hình 4.4: Hệ thống thuế tài sản
Tóm lại, mô hình thuế tài sản được xây dựng dựa trên khuôn khổ các lý thuyết
về tài sản và thuế tài sản, dựa trên kinh nghiệm thuế tài sản của một số quốc gia khác
và đồng thời qua phân tích đánh giá thực trạng chính sách thuế tài sản ở Việt nam có
đối chiếu so sánh với các nước khác. Đặc biệt là qua kết quả kiểm định, phân tích mô
hình thông qua phương pháp định lượng cho kết quả nghiên cứu đáng tin cậy. Từ
những kết quả phân tích trên, xin đưa ra bảng kết luận mô hình thuế tài sản,
bao gồm những điểm sau:
Bảng 4.18: Diễn giải mô hình thuế tài sản đề xuất Các sắc thuế Căn cứ tính thuế Hình thức đánh thuế Tài sản Đối tượng chịu thuế
Thuế đăng ký tài sản Nhà, đất, tàu thuyền, máy Thuế được thu một lần tài sản nằm đối với Giá trị tài sản tính thuế là giá thị trường hoặc khung
94
giá quy định tại thời điểm tính thuế đăng ký tài sản. Áp dụng Thuế suất tỷ lệ.
bay, ô tô, mô tô, một số tài sản vô hình khác khi đăng ký.
trong danh mục tài sản nhà nước cần quản lý khi thực hiện các thủ tục đăng ký, hoặc xác nhận tính pháp lý của các văn tự liên quan đến chuyển nhượng quyền sở hữu đối với các tài sản
Ðất trồng trọt, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản, đất rừng trồng. Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Là loại thuế động viên vào người chủ sở hữu quyền sử dụng đất nông nghiệp. Thuế được thu hàng năm, với mức động viên không quá cao. Quy định ngưỡng chịu thuế và tỷ lệ chịu thuế.
Cách tính thuế dựa trên giá tính thuế, thuế suất và diện tích đất tính thuế, có phân biệt theo hạng đất, mục đích sử dụng đất. Giá một mét vuông đất (m2) theo khung giá của chính quyền địa phương được xây dựng theo chu kỳ khoảng 3 năm.
ở
Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
tại Đất nông thôn, đất ở tại đô thị, đất sản kinh xuất, doanh phi nông nghiệp Là loại thuế động viên vào người chủ sở hữu quyền sử dụng đất phi nông nghiệp. Thuế được thu hàng năm, với mức động viên cao hơn nhiều so với đất nông nghiệp.
Cách tính thuế dựa trên giá tính thuế, thuế suất và diện tích đất tính thuế. Giá một mét vuông đất (m2) theo khung giá của chính quyền địa phương được xây dựng theo chu kỳ khoảng 3 năm.
Thuế nhà
Các loại nhà thuộc đối này tượng bao gồm nhà làm ở, nhà việc, nhà dùng vào sản kinh xuất, doanh và nhà Thuế nhà về bản chất là thuế tài sản. Thuế được thu hàng năm, với mức động viên thấp vào các đối tượng có quyền sở hữu nhà. Xây dựng mức giá tính thuế khởi điểm đối với tài sản này, tức là trị giá tính thuế dưới Cách tính thuế dựa trên giá tính thuế, thuế suất và diện tích nhà tính thuế. Giá một mét vuông nhà (m2) theo khung giá của chính quyền địa phương được xây dựng theo chu kỳ khoảng 3 năm, có tính đến phân hạng. Áp dụng
95
thuế thuế suất lũy tiến từng phần.
dùng vào các đích mục khác. mức khởi điểm thuế sẽ suất bằng có không.
Khu nghỉ dưỡng, công viên, vườn cảnh, hồ bơi, các công trình kiến trúc khác
Thuế công trình xây dựng gắn liền trên đất
Chính sách thuế này được xây dựng nhằm mục đích đánh thuế trên các tài sản là vật kiến trúc gắn liền trên đất. Thuế được thu hàng năm nhằm quản lý các tài sản, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng tài sản.
Cách tính thuế dựa trên giá tính thuế, thuế suất và diện tích công trình. Giá một mét vuông công trình (m2) theo khung giá của chính quyền địa phương được xây dựng theo chu kỳ khoảng 3 năm, có tính đến phân hạng công trình. Vận dụng thuế suất lũy tiến từng phần.
Tàu bay, tàu, du thuyền, xe ô tô, mô tô Thuế phương tiện giao thông Là sắc thuế đánh hàng năm vào việc sử dụng và sở hữu các phương tiện giao thông Giá tính thuế là giá thị trường hoặc theo khung giá quy định.Vận dụng thuế suất tỷ lệ.
Kết luận chƣơng 4
Mục tiêu cần đạt được của mô hình nghiên cứu là nhận diện các đối tượng chịu
thuế tài sản, phạm vi đối tượng chịu thuế; lựa chọn hình thức nào để đánh thuế cho
phù hợp và căn cứ tính thuế của mỗi loại tài sản ra sao. Đó chính là n
nghiên cứu có được trong việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt
Nam nhằm đạt được hiệu quả và tối ưu. mô hình thuế tài sản của một số quốc
gia và qua phân tích thực trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt nam.
Chương 4 của
phân tích các nhân tố tác động đến mô hình thuế tài sản thông qua các bước kiểm định
Cronbach’s alpha, phân tích hồi quy. Kết quả phân tích cho thấy các nhân tố tác động
đến tính hiệu quả thuế tài sản đạt mức độ tin cậy chấp nhận được. Mô hình nghiên cứu
có khả năng ứng dụng vào thực tiễn cho việc xây dựng chính sách thuế tài sản và dự
báo khả năng thu ngân sách.
96
CHƢƠNG 5: KHUYẾN NGHỊ ỨNG DỤNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN
VÀO VIỆC XÂY DỰNG CÁC CHÍNH SÁCH
THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
5.1 Những khuyến nghị ứng dụng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam
Để vận dụng mô hình thuế tài sản một cách hiệu quả đem lại nguồn thu ổn định
cho ngân sách, thể hiện tính công bằng và đơn gian trong vận dụng chính sách thuế tài
sản, tác giả xin được nêu ra một số khuyến nghị sau:
Thứ nhất, cần thiết phải xác định phạm vi đối tượng chịu thuế tài sản (cơ sở
thuế), từ đó dự thảo và ban hành các Luật thuế liên quan đến tài sản chịu thuế. Ngoài
ra cũng nên sớm ban hành Luật tài sản như một số nước trên thế giới.
Thứ hai, cần nghiên cứu và xác định mức thuế suất phù hợp khi đánh thuế tài
sản thông qua các phương pháp dự báo doanh thu thuế.
Thứ ba, dựa trên nền tảng mô hình thuế tài sản, ban hành các chính sách thuế
tài sản phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại ở Việt Nam.
Thứ tư, vận dụng mô hình thuế tài sản trong công tác dự báo ngân sách hàng
năm và dài hạn phục vụ cho công tác quản lý và thực thi NSNN.
5.2 Những khuyến nghị xây dựng chính sách thuế tài sản dựa trên mô hình
5.2.1 Thuế đăng ký tài sản
Thuế đăng ký tài sản là khoản thu mà các tổ chức, cá nhân khi nộp sẽ được nhà
nước cung cấp dịch vụ hành chính, pháp lý tương ứng… điều này có ý nghĩa rằng nhà
nước công nhận và bảo vệ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản hợp pháp
Quan điểm xây dựng chính sách thuế đăng ký tài sản
- Thuế đăng ký tài sản được xây dựng trên quan điểm phát triển tính chất thuế
của lệ phí trước bạ, thuế đánh một lần vào các tài sản chịu thuế khi các chủ thể đăng
ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản. Việc phát triển lệ phí trước bạ theo hướng này có ưu
điểm là kết hợp một cách hợp lý tính chất phí và tính chất thuế của lệ phí trước bạ
hình thành một sắc thuế thống nhất. Như vậy, thuế đăng ký tài sản sẽ kế thừa có bổ
sung, sửa đổi chính sách hiện hành về lệ phí trước bạ. Thông qua thuế đăng ký tài sản,
nhà nước quản lý, kiểm soát được các tài sản quan trọng, từng bước bảo đảm trật tự kỷ
cương trong chuyển dịch tài sản, tạo căn cứ cho việc xây dựng một số chính sách về
kinh tế - xã hội.
97
- Thuế đăng ký tài sản vừa động viên được nguồn thu, đảm bảo tính chất điều tiết
thu nhập của sắc thuế này, đảm bảo được tính hiệu quả và công bằng.
- Với những quan điểm này, đối chiếu với hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, đây là
sắc thuế phù hợp và có tính khả thi.
Nội dung chủ yếu của thuế đăng ký tài sản
Đối tƣợng tài sản chịu thuế đăng ký tài sản: Là các tài sản thuộc danh mục nhà
nước cần quản lý và thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng. Có thể vẫn
quy định như các tài sản hiện đang chịu lệ phí trước bạ hiện nay, bao gồm các loại
tài sản: đất đai, nhà cửa, vật kiến trúc và những tài sản gắn liền với đất, phương
tiện giao thông.
Tài sản không thuộc diện chịu thuế: được xác lập căn cứ vào tính chất, mục đích
của việc sử dụng tài sản; chủ thể sở hữu, sử dụng tài sản và đặt trong mối quan hệ
với các chính sách kinh tế xã hội khác. Trước mắt, có thể quy định các tài sản
không thuộc diện chịu thuế đăng ký tài sản giống như các tài sản không thuộc diện
chịu lệ phí trước bạ như hiện nay như: đất đai, các tài sản sử dụng cho mục đích
công cộng; an ninh, quốc phòng; nghiên cứu khoa học, tài sản của một số đối
tượng chính sách xã hội…
Đối tƣợng nộp thuế: tổ chức, cá nhân khi mua sắm, xây dựng mới, khi chuyển
nhượng các tài sản thuộc danh mục nhà nước quản lý muốn xác lập quyền sở hữu
hợp pháp là đối tượng phải nộp thuế.
Căn cứ tính thuế: là giá trị tài sản tính thuế đăng ký tài sản và thuế suất.
Thuế đăng ký tài Giá trị tài sản = X Thuế suất sản phải nộp tính thuế
- Giá trị tài sản tính thuế là giá chuyển nhượng tài sản thực tế trên thị trường
trong nước tại thời điểm tính thuế đăng ký tài sản. Việc xác định giá trị tài sản tính
thuế đăng ký tài sản trong một số trường hợp thực hiện như sau:
o Giá trị đất tính thuế đăng ký tài sản là giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất
thực tế do người nộp thuế kê khai, được xác định như sau:
Giá trị đất tính Diện tích đất chịu = X thuế đăng ký tài thuế đăng ký tài sản Giá một mét vuông đất (m2)
sản
o Giá trị nhà tính thuế đăng ký tài sản là giá trị nhà thực tế chuyển nhượng trên
thị trường tại thời điểm tính đăng ký tài sản như sau:
98
= x x Giá một (01) mét vuông (m2) nhà Tỷ lệ (%) chất lượng còn lại của nhà chịu thuế đăng ký tài sản Giá trị nhà tính thuế đăng ký tài sản Diện tích nhà chịu thuế đăng ký tài sản
Trường hợp không xác định được giá trị thực tế chuyển nhượng hoặc kê khai
giá trị thực tế chuyển nhượng thấp hơn giá thị trường thì áp dụng giá nhà tính
thuế đăng ký tài sản do nhà nước quy định tại thời điểm đăng ký tài sản.
o Giá trị tài sản là tàu thuyền, xe ôtô, xe gắn máy tính thuế đăng ký tài sản là giá
trị tài sản thực tế chuyển nhượng trên thị trường trong nước tại thời điểm tính
thuế đăng ký tài sản.
- Trong quá trình quản lý thu thuế đăng ký tài sản, nếu cơ quan thuế phát hiện
các trường hợp giá tính thuế đăng ký tài sản quy định chưa phù hợp với giá thị trường
hoặc tài sản đã xuất hiện trên thị trường địa phương đăng ký nộp thuế trước bạ nhưng
chưa được quy định trong bảng gía tính thuế đăng ký tài sản của địa phương thì phải
có ý kiến đề xuất kịp thời gửi Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc cơ quan được uỷ quyền ban
hành bảng giá để sửa đổi, bổ sung bảng giá tính thuế đăng ký tài sản
- Thuế suất dùng làm căn cứ tính thuế đăng ký tài sản được quy định theo tỷ lệ
phần trăm trên trị giá tính thuế tuỳ thuộc vào tính chất từng loại tài sản, chủ sở hữu tài
sản, địa bàn sử dụng tài sản nhằm đảm bảo động viên hợp lý phần thu nhập của các
chủ thể và phù hợp với các chính sách kinh tế - xã hội khác của nhà nước. Do vậy có
thể quy định thuế suất thấp đối với các tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp và các
tài sản có giá trị lớn thuộc diện chịu các sắc thuế hàng năm (như thuế nhà, thuế sử
dụng đất); quy định thuế suất cao đối với những tài sản chỉ chịu thuế một lần hoặc của
các cá nhân ở các đô thị lớn…
5.2.2 Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Quan điểm xây dựng chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp
Trong thời gian qua, Nhà nước thu từ nông dân sử dụng đất nông nghiệp các
khoản: tiền thuê đất, thuế sử dụng đất và một số lệ phí quản lý đất đai. Nhìn chung,
tổng thuế sử dụng đất nông nghiệp không lớn. Từ năm 2003 đến năm 2013, Chính phủ
đã quyết định miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho tất cả hộ nông
dân và miễn hoàn toàn thuế sử dụng đất cho hộ nông dân nghèo, giảm 50% cho diện
tích vượt hạn điền. Tiền thuê đất chỉ áp dụng đối với diện tích đất vượt hạn điền hoặc
99
đất đấu thầu. Các khoản lệ phí về đất không lớn, thường là phí cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, phí trích lục bản đồ, phí đăng ký đất...
Xét tổng thể, chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp của Việt Nam được
giảm nhẹ ở nhiều khâu, kể cả việc Nhà nước không thu thuế chuyển nhượng đất nông
nghiệp giữa những người nông dân với nhau nhằm khuyến khích tập trung đất và chưa
thu thuế giá trị gia tăng từ đất. Trước thực trạng hiện nay có quá nhiều diện tích đất
nông nghiệp bị bỏ hoang phí, bên cạnh tốc độ đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ như hiện
nay, dẫn đến tình trạng lãng phí và không hiệu quả trong sử dụng đất nông nghiệp, có
khá nhiều trường hợp các nhà đầu tư mua đất nông nghiệp bỏ hoang nhằm mục đích
đón đầu quy hoạch để hưởng đền bù hoặc chờ cơ hội tăng giá, mở đường và chuyển
sang đất thổ cư để bán. Qua đó, chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp trong giai
đoạn tới cần tập trung các vấn đề sau:
- Cần xây dựng hạng đất trong từng giai đoạn để xác định giá tính thuế theo hạng
đất phù hợp hơn để loại bỏ định suất thuế tính bằng kg thóc đang áp dụng hiện nay.
Điều này sẽ giúp cho việc tính thuế đơn giản hơn, dễ tính toán, dễ quản lý và dễ hiểu
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp phải đảm bảo tốt về mặt quản lý đất đai, khuyến
khích sử dụng đất đai có hiệu quả, thúc đẩy phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu sử
dụng đất hợp lý, góp phần quan trọng trong việc quản lý và ổn định thị trường bất
động sản, công bằng, hợp lý và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp phải bao quát được tất cả các đối tượng chịu
thuế và đối tượng nộp thuế, xây dựng cách tính thuế khoa học, hợp lý, vận dụng hiệu
quả, thể hiện được tính minh bạch và công bằng.
Nội dung chủ yếu của chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Đối tƣợng chịu thuế: Việc xác định đối tượng chịu thuế sử dụng đất nông
nghiệp được thực hiện trên nguyên tắc đất dùng vào sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thủy sản thì phải chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp. Dựa theo
nguyên tắc này, chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp quy định đối tượng chịu
Ðất trồng trọt.
Ðất có mặt nước nuôi trồng thủy sản.
Ðất rừng trồng.
thuế bao gồm:
- Đối tƣợng không thuộc diện chịu thuế: Nhằm phân biệt rõ phạm vi đất chịu
thuế sử dụng đất nông nghiệp, Nhà nước quy định các loại đất sau đây không chịu sự
100
điều chỉnh của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp: đất có rừng tự nhiên, đất đồng cỏ
tự nhiên, đất ở, đất chuyên dùng.
- Căn cứ tính thuế: Số thuế sử dụng đất nông nghiệp phải nộp được xác định
dựa trên những căn cứ nhất định, đó là: diện tích đất, giá tính thuế theo hạng đất và
thuế suất.
o Diện tích tinh thuế: là diện tích giao cho hộ sử dụng đất phù hợp với sổ địa
chính Nhà nước. Trường hợp chưa lập sổ địa chính thì diện tích tính thuế là
diện tích ghi trên tờ khai của hộ sử dụng đất.
o Giá tính thuế theo hạng đất: Căn cứ để xác định giá của từng loại hạng đất
gồm các yếu tố sau: chất đất, vị trí, địa hình, điều kiện khí hậu, thời tiết, điều
kiện tưới tiêu.
Giá tính thuế theo hạng đất được ổn định 3 năm (theo thông lệ quốc tế) thay vì
10 năm như trước đây, bởi lẽ đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa và hiện
đại hóa và có nhiều biến chuyển nhanh chóng trong cơ cấu kinh tế sẽ dẫn đến những
thay đồi nhanh chóng. Ðối với những vùng Nhà nước có đầu tư lớn, đem lại hiệu qủa
kinh tế cao, Chính phủ sẽ điều chỉnh lại hạng đất. Căn cứ vào tiêu chuẩn của từng
hạng đất và hướng dẫn của UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Sự chỉ đạo
của UBND cấp huyện; UBND cấp xã xác định hạng đất tính thuế cho từng hộ nộp
thuế sau đó trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
Chính quyền địa phương cần thiết phải lập Hội đồng tư vấn thuế nhằm xây
dựng khung giá tính thuế đất cho phù hợp với từng địa phương, thay thế cho định suất
thuế một năm tính bằng kg thóc trên 1 hec-ta của từng hạng đất đã áp dụng trong
khoảng thời gian khá dài vừa qua.
o Thuế suất: Thuế suất lũy tiến, trong hạn mức sử dụng thì áp dụng thuế suất
thấp, vượt hạn mức thì áp dụng thuế suất cao hơn.
Giá tính thuế SDĐ Diện tích đất X = nông nghiệp tính thuế Giá một mét vuông đất (m2) theo hạng đất
Thuế SDĐ nông nghiệp Giá tính thuế SDĐ Thuế suất X = phải nộp nông nghiệp
5.2.3 Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Quan điểm xây dựng chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Chính sách thuế SDĐ phi nông nghiệp được xây dựng trên cơ sở kế thừa có
chọn lọc hai loại thuế sử dụng đất hiện hành để áp dụng cho các mục đích sử dụng đất.
101
Chúng ta xác định đất đai là nguồn tài sản quốc gia quý hiếm, do đó cần phải được
quản lý chặt chẽ, khuyến khích sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả, ngăn chặn
đầu cơ, lũng đoạn đất đai.
Thông qua chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thực hiện kiểm kê,
kiểm soát quỹ đất đai với từng đối tượng sử dụng đất và tạo nguồn thu quan trọng cho
ngân sách địa phương. Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp khi thực hiện phải bảo đảm
công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ kinh tế của người sử dụng đất, phù hợp với Luật
đất đai.
Nội dung chủ yếu của sắc thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Đối tƣợng chịu thuế
o Đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị. o Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp bao gồm: đất xây dựng khu công
nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất khai thác,
chế biến khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm.
Đối tƣợng không chịu thuế: Đất phi nông nghiệp sử dụng không vào mục đích
kinh doanh, bao gồm:
- Đất sử dụng vào mục đích công cộng bao gồm: đất giao thông, thủy lợi; đất xây
dựng công trình văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích
công cộng; đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất xây dựng công
trình công cộng khác theo quy định của Chính phủ;
- Đất do cơ sở tôn giáo sử dụng;
- Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa;
- Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng;
- Đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ;
- Đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp, đất sử dụng vào
mục đích quốc phòng, an ninh;
- Đất phi nông nghiệp khác theo quy định của pháp luật.
Ngƣời nộp thuế
- Người nộp thuế là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất thuộc đối
tượng chịu thuế.
- Trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân chưa được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì người đang
sử dụng đất là người nộp thuế.
102
Căn cứ tính thuế gồm giá tính thuế và thuế suất
Thuế SDĐ phi nông Giá tính thuế SDĐ Thuế suất X = nghiệp phải nộp phi nông nghiệp
Giá tính thuế: Giá tính thuế đối với SDĐ phi nông nghiệp được xác định như sau
Giá tính thuế Diện tích đất SDĐ = X tính thuế Giá một mét vuông đất (m2) phi nông nghiệp
Diện tích đất tính thuế đƣợc quy định nhƣ sau:
- Diện tích đất tính thuế là diện tích đất thực tế sử dụng.
- Trường hợp có quyền sử dụng nhiều thửa đất ở thì diện tích đất tính thuế là
tổng diện tích các thửa đất tính thuế.
- Trường hợp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để xây dựng khu công
nghiệp thì diện tích đất tính thuế không bao gồm diện tích đất xây dựng kết cấu hạ
tầng sử dụng chung.
- Đối với đất ở nhà nhiều tầng nhiều hộ ở, nhà chung cư bao gồm cả trường hợp
vừa để ở, vừa để kinh doanh thì diện tích đất tính thuế được xác định bằng hệ số phân
bổ nhân với diện tích nhà của từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng. Hệ số phân
bổ được xác định bằng diện tích đất xây dựng nhà nhiều tầng nhiều hộ ở, nhà chung
cư chia cho tổng diện tích nhà của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng.
- Đối với công trình xây dựng dưới mặt đất thì áp dụng hệ số phân bổ nhân với
diện tích đất xây dựng và chia cho tổng diện tích công trình của các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân sử dụng.
- Giá của 1m2 đất là giá đất theo mục đích sử dụng do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định và được ổn định theo chu kỳ khoảng 3 năm. Chính
phủ cần có hướng dẫn cho Ủy ban cấp tỉnh, thành xây dựng khung giá đất từng thời kỳ
cho từng khu vực địa lý khác nhau.
Thuế suất: Thuế suất đối với đất ở bao gồm cả trường hợp sử dụng để kinh doanh
áp dụng theo biểu thuế lũy tiến từng phần.
5.2.4 Thuế nhà
Thuế nhà, đất về bản chất là thuế tài sản, một loại thuế trực thu đánh vào các tài
sản. Không thể cho rằng, đánh thuế đối với nhà ở là “thuế chồng lên thuế” như một số
ý kiến không đồng tình. Bởi mỗi sắc thuế có một đối tượng điều chỉnh và mục tiêu
103
riêng. Đây là loại thuế thu hàng năm, với mức động viên thấp vào các đối tượng có
quyền sở hữu nhà.
Ở các nước phát triển như Đức, Singapore, Mỹ… sắc thuế này là phổ biến.
Nguyên lý chung để hình thành loại thuế này là tiền, tài sản của bất cứ cá nhân nào,
suy cho cùng cũng là tài sản của xã hội và chúng phải được huy động vào sản xuất,
kinh doanh, hạn chế việc tồn trữ, không sử dụng như đầu cơ, làm vật trang trí không
cần thiết…
Tuy nhiên, sử dụng tài sản cá nhân như thế nào lại thuộc quyền của từng cá
nhân, pháp luật không thể quy định cứng nhắc. Vì vậy chỉ có thể sử dụng chính sách
thuế để hạn chế những hành vi nói trên. Với nguyên lý đó, thuế tài sản là loại thuế
đánh vào các tài sản cá nhân đến một mức nhất định, người có tài sản có trách nhiệm
nộp thuế cho nhà nước. Khi đó, tình trạng đầu cơ và sử dụng lãng phí tài sản xã hội sẽ
được hạn chế. Hiện nay tình trạng đầu cơ nhà, đất ở nước ta đang rất nghiêm trọng. Vì
vậy, rất cần những biện pháp để hạn chế tình trạng này, huy động tất cả nguồn lực vào
phát triển kinh tế. Tất nhiên, cũng cần khẳng định thuế không phải là công cụ duy nhất
mà chỉ là một trong những công cụ có hiệu quả nhằm ngăn chặn tình trạng đầu cơ trên
thị trường bất động sản. Nguồn thu ngân sách của nước ta sẽ bị giảm khá nhiều trong
những năm tới. Vì vậy, rất cần tạo ra nguồn thu hợp pháp để phục vụ cho kế hoạch
phát triển kinh tế, tránh tình trạng dồn nhiều khoản thu vào doanh nghiệp.
Quan điểm xây dựng chính sách thu thuế nhà
- Luật thuế nhà phải thực hiện được yêu cầu kiểm kê, kiểm soát, quản lý của nhà
nước đối với quỹ nhà. Từ đó, làm căn cứ hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô về
sử dụng nhà ở, khuyến khích sử dụng quỹ nhà ở tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả trong
phát triển kinh tế - xã hội.
- Luật thuế nhà ra đời nhằm góp phần thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp
khoảng cách chênh lệch về thu nhập, tài sản, đời sống của các tầng lớp dân cư.
- Cũng như các sắc thuế khác, Luật thuế nhà phải từng bước bao quát nguồn thu
trong lĩnh vực nhà ở, động viên sự đóng góp cho ngân sách nhà nước, phù hợp với yêu
cầu của chương trình cải cách thuế, tạo điều kiện mở rộng đầu tư, xây dựng cơ sở hạ
tầng, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
- Chế độ thu đối với thuế nhà phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra,
phù hợp với trình độ dân trí trung bình trong xã hội.
104
- Luật thuế nhà khi triển khai thực hiện phải có bước đi thích hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội ở thành thị và nông thôn, phù hợp với khả năng đóng góp của người
nộp thuế, gắn với yêu cầu khuyến khích phát triển nông nghiệp nông thôn và nâng cao
dần đời sống nhân dân
Nội dung chủ yếu của chính sách thuế nhà
Đối tƣợng chịu thuế: Là các loại nhà thuộc đối tượng này bao gồm nhà ở, nhà làm
việc, nhà dùng vào sản xuất, kinh doanh và nhà dùng vào các mục đích khác.
Đối tƣợng không chịu thuế: Chính sách thuế nhà không thu thuế đối với nhà sử
dụng vào mục đích công cộng, phúc lợi xã hội hoặc từ thiện không vì mục đích
kinh doanh; Nhà chuyên dùng vào việc thờ cúng của các tôn giáo, các tổ chức
không vì mục đích kinh doanh.
Đối tƣợng nộp thuế:
- Tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất thuộc đối tượng chịu
thuế được quy định là người nộp thuế;
- Trường hợp chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà nhưng có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy định của pháp luật thì người có đủ điều kiện
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà là người nộp thuế.
- Trường hợp người có quyền sở hữu nhà, quyền SDĐ đem góp vốn bằng quyền
sở hữu nhà, quyền SDĐ mà hình thành pháp nhân mới có quyền sở hữu nhà, quyền sử
dụng đất thuộc đối tượng chịu thuế theo quy định thì pháp nhân mới được hình thành
do các bên góp vốn bằng quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất là người nộp thuế.
- Trường hợp trong năm có thay đổi quyền sở hữu nhà, quyền SDĐ mà người có
quyền sở hữu nhà, quyền SDĐ trước đó chưa nộp hoặc mới nộp 50% số thuế phải nộp
vào lần đầu của năm thì người sau có quyền sở hữu nhà, quyền SDĐ là đối tượng phải
nộp số thuế còn lại. Trường hợp người sở hữu nhà, sử dụng đất trước đó đã nộp đủ số
thuế phải nộp trong năm thì người sau sở hữu nhà, sử dụng đất không phải nộp thuế.
Căn cứ tính thuế nhà là giá tính thuế và thuế suất.
Giá tính thuế: Giá tính thuế của nhà được xác định như sau
Giá tính thuế Diện tích nhà
= X đối với nhà chịu thuế Giá tính thuế một mét vuông nhà (m2)
- Diện tích nhà chịu thuế là toàn bộ diện tích sàn xây dựng thuộc quyền sở hữu
hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
105
- Giá tính thuế của 1m2 nhà được xác định như sau: Đối với nhà mới xây dựng là đơn giá 1m2 nhà xây dựng mới của nhà ở cùng loại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; đối với nhà đã sử dụng là đơn giá 1m2 nhà xây dựng mới của nhà ở cùng loại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, trừ đi tỷ lệ % đơn giá cho mỗi
năm đã sử dụng. Nhà nước quy định cụ thể việc xác định thời gian đã sử dụng của
nhà, tỷ lệ giảm trừ đối với từng loại, cấp, hạng nhà để tính thuế theo quy định tại điểm
này
- Đối với nhà nhiều tầng, nhiều hộ ở, nhà chung cư (bao gồm cả trường hợp vừa
để ở vừa để kinh doanh), giá tính thuế được xác định bằng việc áp dụng hệ số phân bổ
cho các tầng theo quy định của Nhà nước
- Giá tính thuế đối với nhà được ổn định trong vòng 3 năm kể từ năm tính thuế
đầu tiên theo quy định của chính sách thuế.
Thuế suất: Áp dụng thuế suất theo biểu thuế lũy tiến từng phần dựa theo phân loại
và hạn mức chịu thuế.
5.2.5 Thuế công trình xây dựng gắn liền trên đất
Quan điểm xây dựng chính sách thuế công trình xây dựng gắn liền trên
đất
Chính sách thuế này được xây dựng nhằm mục đích đánh thuế trên các công
trình và vật kiến trúc gắn liền trên đất, nhằm quản lý các tài sản, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của người sử dụng tài sản, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Nội dung chủ yếu của chính sách thuế công trình xây dựng gắn liền trên đất
Đối tƣợng chịu thuế: Khu nghỉ dưỡng, công viên, vườn cảnh, hồ bơi, công trình
kiến trúc khác …
Đối tƣợng không chịu thuế: Chính sách thuế công trình xây dựng không thu thuế
đối với đối tượng sử dụng vào mục đích công cộng, phúc lợi xã hội hoặc từ thiện
không vì mục đích kinh doanh
Đối tƣợng nộp thuế: Tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu công trình xây dựng gắn
liền trên đất thuộc đối tượng chịu thuế được quy định là người nộp thuế.
Căn cứ tính thuế nhà là giá tính thuế và thuế suất.
Gía tính thuế: Giá tính thuế của công trình xây dựng được xác định như sau
Giá tính thuế Diện tích công Giá tính thuế một mét
đối công trình xây trình xây dựng = X
dựng chịu thuế vuông công trình xây dựng (m2)
106
Giá tính thuế của 1m2 nhà được xác định như sau: - Đơn giá 1m2 do chính quyền địa phương quy định.
- Nhà nước quy định cụ thể việc xác định thời gian sử dụng của công trình xây
dựng, tỷ lệ giảm trừ đối với từng loại, cấp, hạng công trình xây dựng để tính thuế theo
quy định tại điểm này.
Thuế suất: Áp dụng thuế suất lũy tiến từng phần dựa theo phân loại và hạn mức
chịu thuế.
5.2.6 Thuế phƣơng tiện giao thông
Quan điểm xây dựng chính sách thuế phƣơng tiện giao thông
- Thuế phương tiện giao thông là sắc thuế thu hàng năm đánh vào việc sở hữu và
sử dụng các phương tiện giao thông
- Phương tiện giao thông được xem là khá phổ biến và là tài sản nhiều nhất được
sử dụng hiện nay. Việc đánh thuế phương tiện giao thông nhằm giúp cho công tác
quản lý phương tiện giao thông được chặt chẽ hơn, kiểm soát sự an toàn của các
phương tiện này, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người sử dụng tài sản, có tác động
đến chính sách bảo vệ môi trường, khuyến khích người sử dụng phương tiện hợp lý và
hiệu quả, đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân sách địa phương cho việc quy hoạch
và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông.
- Thuế phương tiện giao thông phải được xây dựng trên nền tảng đơn giản, dễ
hiểu, rõ ràng, tính hiệu quả cao, cần nghiên cứu mối quan hệ chặt chẽ giữa chính sách
thuế này với các chính sách thuế đăng ký tài sản, chính sách môi trường, chính sách
đăng kiểm an toàn phương tiện giao thông…
Nội dung chủ yếu của chính sách thuế phƣơng tiện giao thông
- Đối tƣợng chịu thuế: bao gồm các phương tiện giao thông như tàu bay, tàu,
thuyền, xe ô tô, mô tô.
- Đối tƣợng không chịu thuế: là các phương tiện giao thông thuộc sở hữu nhà
nước, tài sản sử dụng cho các tổ chức nhà nước, tổ chức nước ngoài, tổ chức tôn giáo
và các phương tiện giao thông sử dụng phi kinh doanh
- Đối tƣợng nộp thuế: là các tổ chức và cá nhân sở hữu phương tiện giao thông
theo quy định
- Căn cứ tính thuế: giá tính thuế và thuế suất
107
Giá tính thuế: được xác định theo giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm tính
thuế hoặc theo giá quy định của Nhà nước cho từng loại phương tiên giao
thông
Thuế suất: áp dụng thuế tỷ lệ, nên xây dựng mức thuế suất thấp vì đây là loại
tài sản khá phổ biến, thuế suất cần phân ra nhiều mức khác nhau cho từng loại
tài sản
5.3 Một số điều kiện để triển khai mô hình thuế tài sản ở Việt nam đạt hiệu quả
Thuế tài sản nằm trong mối quan hệ với các loại thuế khác trong toàn bộ hệ
thống thuế ở nước ta và là loại thuế ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống mọi tầng lớp
nhân dân, đặc biệt với hơn chục triệu hộ nông dân phải nộp thuế sử dụng đất nông
nghiệp, đất ở và đất kinh doanh. Vì vậy, khi thực hiện thuế tài sản phải giải quyết
đồng bộ các điều kiện chủ yếu để có thể bảo đảm triển khai thuế tài sản một cách
thuận lợi, đó là:
- Cần có sự chủ động và quyết tâm cao từ phía chính phủ đối với chương trình
cải cách, bao gồm cả việc cụ thể hóa trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai
đoạn 2011-2020.
- Việc xây dựng chính sách, chế độ được thực hiện trên cơ sở điều tra, khảo sát
thận trọng, phân tích khách quan, toàn diện, tiếp thu được nhiều ý kiến đóng góp để có
những quy định khả thi.
- Xây dựng các văn bản pháp quy nhằm xác định rõ những tài sản thuộc đối
tượng Nhà nước phải quản lý làm cơ sở để đánh thuế.
- Nhanh chóng hoàn thành việc đo đạc, lập bản đồ và hồ sơ địa chính, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đó, thực hiện phân loại đất theo các mục
đích sử dụng đất khác nhau.
- Thành lập Hội đồng tư vấn thuế địa phương nhằm xây dựng khung giá tính
thuế tài sản, phân hạng tài sản chịu thuế, hạn mức chịu thuế...
- Ứng dụng công nghệ thông tin để cập nhật và theo dõi những biến động về tình
hình sử dụng những tài sản mà nhà nước cần quản lý. Hiện đại hóa quản lý thuế tài
sản theo phương thức quản lý thu thuế tài sản trên mạng vi tính thống nhất cả nước
bằng cách cấp "mã số" của thửa đất, lô đất theo bản đồ địa chính cho từng tổ chức, cá
nhân sử dụng đất để quản lý tổng diện tích đất tính thuế của cả nước, từng địa phương,
từng chủ sử dụng đất, theo dõi tình hình biến động của từng thửa đất (thay đổi chủ sử
dụng đất, thay đổi mục đích sử dụng đất…)
108
- Thiết lập hệ thống chứng từ hợp pháp về những tài sản nhà nước cần quản lý và
có quy định chế tài phù hợp. Thực hiện chế độ báo cáo và quản lý thuế tài sản từ các
cơ quan quản lý về thu thuế tài sản theo yêu cầu, biểu mẫu thống nhất.
- Phân định rõ trách nhiệm cho các cấp chính quyền trong việc quản lý các tài
sản thuộc diện nhà nước quản lý. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế tài sản theo
hướng trực tiếp hành thu phân cấp cho các chi cục, ở Cục thuế và Tổng Cục thuế có
bộ phận chỉ đạo, hướng dẫn quản lý thuế tài sản.
- Hạn chế việc lồng ghép chính sách xã hội vào trong chính sách thuế để đảm
bảo sự đơn giản trong chính sách thuế.
- Văn bản Luật thuế tài sản cần được ban hành đồng bộ với các Nghị định,
Thông tư quy định và hướng dẫn thi hành cụ thể theo những quan điểm nhất quán, gắn
chính sách thuế với các quy định pháp lý về quản lý tài sản.
- Thực hiện đào tạo cán bộ công chức thuế thành thạo về chuyên môn, nghiệp
vụ, quy trình quản lý thu thuế tài sản. Cải tiến thủ tục hành chính theo hướng đơn
giản, đặc biệt là bồi dưỡng đạo đức, phong cách làm việc lịch sự, chu đáo, tận tình với
người nộp thuế, đồng thời phải có quy chế xử lý nghiêm minh với cán bộ thuế có hành
vi vi phạm đạo đức cán bộ thuế.
- Mở rộng và đa đạng hóa các hình thức tuyên truyền để nâng cao trình độ hiểu
biết về chính sách thuế của đông đảo các tầng lớp dân cư, qua đó làm cho mọi người
thấy rõ trách nhiệm, tự giác làm tốt nghĩa vụ thuế tài sản.
- Tăng cường cơ sở vật chất đối với bộ phận tổ chức thu thuế tài sản tại cơ quan
thu thuế. Văn phòng giao dịch nơi trực tiếp thu thuế phải đảm bảo khang trang, có đủ
phương tiện, trang thiết bị đảm bảo cho cán bộ thuế làm việc giao dịch với người nộp thuế văn minh, lịch sự.
Kết luận chƣơng 5
Qua đối chiếu giữa cơ sở lý luận về thuế tài sản và thực trạng về chính sách
thuế liên quan đến tài sản ở Việt nam. Tác giả nhận thấy, việc xây dựng chính sách
thuế tài sản thật sự là một yêu cầu cần thiết mang tính khách quan bởi lẽ:
- Đất nước đang trong quá trình đổi mới và phát triển, thu nhập và đời sống của
đa số nhân dân tăng lên nhanh chóng. Cùng với quá trình đô thị hóa, việc mở rộng
diện tích đất ở, xây dựng nhà cửa, mua sắm tài sản phát triển nhanh, kéo theo sự gia
tăng khoảng cách giàu nghèo của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Để góp phần thực
hiện phân phối lại thu nhập trong dân cư, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, nhưng
109
vẫn bảo đảm sự tăng trưởng vững chắc, ổn định của nền kinh tế, các nhà nghiên cứu
cần thiết phải xem xét, sửa đổi, bổ sung chính sách thuế hiện hành. Trong đó, chế độ
thu ngân sách đối với đất đai, nhà cửa, tài sản được điều chỉnh chủ yếu thông qua
chính sách thuế đối với tài sản.
- Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các quan hệ tài sản, nhà cửa, đất đai
đang biến động khá phức tạp, đa dạng không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trong
phạm vi quốc tế. Vì vậy, chính sách thuế đối với tài sản cần rõ ràng hơn và phù hợp
hơn với thông lệ quốc tế để góp phần đắc lực vào yêu cầu quản lý tài sản quốc gia,
phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập.
- Quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế tất yếu dẫn đến sự giảm sút
nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế nhập khẩu… Chính sách thuế được hoàn thiện
theo hướng tăng tỷ trọng thu trong nước, trên cơ sở phát triển sản xuất kinh doanh,
nâng dần tỷ lệ thuế trực thu trong tổng thu ngân sách. Vì vậy, cần xem xét việc cải
cách các sắc thuế nội địa, trong đó có thuế đối với tài sản nhằm khai thác thêm nguồn
thu, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước.
- Việc hoàn thiện mô hình thuế tài sản sẽ góp phần bảo đảm mối quan hệ hữu cơ
với các sắc thuế khác trong quá trình cải cách hệ thống chính sách thuế, tiến dần đến
việc xây dựng một hệ thống thuế hoàn chỉnh và đồng bộ.
110
KẾT LUẬN
“Xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam
” được hoàn thiện dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với thực tiễn nhằm
nghiên cứu các nội dung cốt lõi để xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam trong
những năm tới. Trong phạm vi nghiên cứu có hạn, đã thực hiện các nội dung
và kết quả đạt được chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống các vấn đề lý luận liên
quan đến tài sản và thuế tài sản, làm rõ các yếu tố cấu thành thuế tài sản, tầm quan
trọng của thuế tài sản, vai trò và vị trị chiến lược của thuế tài sản trong hệ thống thuế
quốc gia, những nhân tố cốt lỗi cấu thành mô hình thuế tài sản.
Thứ hai, đã phân tích và chỉ rõ thực trạng về việc quản lý tài sản hiện nay, các
chính sách thuế có liên quan đến tài sản đang được áp dụng hiện tại, những mặt đã đạt
được và những mặt còn hạn chế trong quá trình vận dụng của nước ta hiện nay.
Thứ ba, đã tìm hiểu và đúc kết những kinh nghiệm vận dụng mô hình
thuế thuế tài sản ở một số quốc gia khác như Thụy Điển, Đài Loan, Cộng Hòa Pháp…
từ đó vận dụng cho việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam.
Thứ tư, qua nghiên cứu bối cảnh tình hình kinh tế-xã hội ở Việt nam, đề xuất
mô hình thuế tài sản trong giai đoạn tới cho Việt Nam cũng như các điều kiện để
chính sách thuế tài sản thực hiện được hoàn chỉnh.
Như vậy, trong chiến lược cải cách thuế ở nước ta từ nay đến 2020, đề
xuất mô hình thuế tài sản gồm các sắc thuế: Thuế đăng ký tài sản, thuế sử dụng đất
nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế nhà, thuế công trình xây dựng
gắn liền trên đất, thuế phương tiện giao thông. Các sắc thuế này có mối quan hệ tương
thích, bổ sung và phụ thuộc nhau theo ý nghĩa hệ thống. Sự kết hợp chặt chẽ và hợp lý
giữa các loại thuế tài sản không những thực hiện mục tiêu toàn bộ hệ thống thuế một
cách hữu hiệu nhất mà còn tạo điều kiện nâng cao hiệu quả của công tác hành thu.
Trong điều kiện thời gian có hạn, chỉ tập trung nghiên cứu việc xây
dựng mô hình thuế tài sản, chủ yếu nghiên cứu các nhân tố mô hình thuế tài
sản sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam. Tác giả mong muốn
trong tương lai gần sẽ tiếp tục hoàn tất phần tiếp theo của mô hình nhằm đóng góp
một phần nghiên cứu khoa học cho ngành tài chính nhà nước trong công cuộc cải cách
thuế./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Vũ Đình Ánh, “Chính sách thuế, phí, lệ phí đối với thị trường bất động sản: Để
vừa quản lý hiệu quả, vừa thúc đẩy thị trường phát triển?”, Tạp chí Tài chính
(số 02/2008), trang 26-30.
2. Đinh Văn Ân – Trần Kim Chung, “Phát triển thị trường bất động sản: Phải
phối hợp đồng bộ các chính sách”, Tạp chí Tài chính , (số 03/2008), trang 41-
44.
3. Bộ Tài chính (2006), Hệ thống văn bản mới nhất về quản lý, kinh doanh và tài
chính đối với bất động sản, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
4. Nguyễn Đình Chiến (2006), “Thuế tài sản và khả năng áp dụng ở Việt Nam”,
Thuế Nhà Nước, (kỳ 1 tháng 3), Tr 9-11.
5. Nguyễn Đình Chiến (2006), “Xây dựng chính sách thuế đánh vào tài sản ở
Việt Nam trong thời gian tới”, Nghiên cứu tài chính kế toán, (1/18), tr 22-24.
6. ETV2 – Bộ Tài chính (2008), Cách đánh thuế tài sản ở Việt Nam, Tài liệu Hội
thảo ngày 22,23/8/2008 tại Hải Phòng.
7. ETV2 – Bộ Tài chính (2009), Cải cách thuế của Việt Nam, Tài liệu Hội thảo
ngày 26,27/2/2009 tại TP. Hồ Chí Minh.
8. Hoàng Thị Giang, “Xây dựng luật thuế tài sản hay pháp luật thuế tài sản ở Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu tài chính kế toán (số 10/2008), trang 66-
67.
9. Gangadha Prasad Shukla-Phạm Minh Đức-Michael Engelschalk-Lê Minh
Tuấn (2011), Cải cách thuế ở Việt Nam: Hướng tới một hệ thống hiệu quả và
công bằng hơn, Ban quản lý kinh tế và xóa đói giảm nghèo Khu vực Châu Á
Thái Bình Dương.
10. Nguyễn Văn Hiệu – Lê Xuân Trường (2008), Hệ thống thuế một số nước
Asean và Trung Quốc, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
11. Học viện Tài chính (2005), Giáo trình Quản lý tài chính công, NXB Tài chính.
12. Đàm Văn Huệ (2006), Thuế đất đai – công cụ quản lý và điều tiết thị trường
BĐS, Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
13. Ngô Văn Khương, “Góp ý xây dựng luật thuế tài sản ở Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu tài chính kế toán (số 01/2009), trang 53-56.
14. Quách Đức Pháp (2002), Nghiên cứu thuế tài sản áp dụng tại Việt Nam trong
những năm tới, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
15. Huỳnh Huy Quế, “Góp ý hoàn thiện Dự luật thuế tài sản”, Tạp chí Thuế nhà
nước (các số 38,39,40/2008)
16. Nguyễn Hồng Thắng, PGS.TS Sử Đình Thành, Mô hình tài chính công, tài liệu
lưu hành nội bộ, Trường ĐH Kinh tế TP.HCM
17. Sử Đình Thành – TS. Bùi Thị Mai Hoài (2006), Lý thuyết Tài chính công, Nhà
xuất bản Đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
18. Tổng cục thuế (2006), Cẩm nang pháp luật về thuế nhà đất, Nhà xuất bản Tài
chính, Hà Nội.
19. Việt Tuấn, “Xây dựng dự thảo Luật thuế tài sản ở Việt Nam: Những đề xuất từ
thực tế”, Tạp chí Thuế Nhà nước (số 33/2008), trang 8-9.
20. Website Bộ Tài chính Việt Nam: http://www.mof.gov.vn
Số liệu công khai dự toán, quyết toán NSNN hàng năm
“Hội thảo cách đánh thuế tài sản ở Việt Nam” (25/08/2008)
“Đánh thuế tài sản để bình ổn thị trường bất động sản” (02/11/2010)
“Thuế tài sản đang đi sau cuộc sống” (17/09/2008)
“Thuế tài sản-Kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng tại Việt nam”
(09/04/2008)
“Dự thảo Luật thuế nhà, đất” (16/04/2009)
“Dự thảo Luật thuế nhà, đất: Hướng tới rõ ràng, công bằng và minh bạch”
(20/05/2009)
21. Website Chương trình cải cách thuế tài sản. www.etv2.vn, “Thuế tài sản - Các
phương thức quốc tế tốt nhất và khả năng thực hiện ở Việt Nam” (29/05/2009).
22. Website Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright http://www.fetp.edu.vn/
23. Website Tổng cục thuế: http://www.gdt.gov.vn:
“Phương pháp xác định giá tính thuế bất động sản” (03/10/2008)
“Thuế nhà và thuế đất: Cần cải cách toàn diện” (07/08/2008)
“Chính sách thuế trong quản lý Nhà nước về đất đai” (13/04/2009)
“Tác động của thuế đối với thị trường bất động sản” (13/04/2009)
“Thuế tài sản và khả năng áp dụng tại Việt Nam” (10/04/2008)
“Định hướng chính sách tài chính liên quan đến đất đai” (31/05/2009)
“Thuế Tài Sản ở Việt Nam nên xây dựng theo hướng nào?” (31/05/2009)
24. Website Tổng cục Thống kê Việt Nam: http://www.gso.gov.vn
Tiếng Anh
25. David L. Cameron, Property taxex, Willamette University Publishers, USA.
26. Harvey S.Rosen, Public Finance, Bản dịch Tiếng Việt của Khoa Tài chính nhà
nước – Đại học Kinh tế (2004), TP. Hồ Chí Minh.
27. Jonathan Gruber (2005), Puclic Finace and Public Policy, Worth Publishers.
28. Jay K.Rosengard (1998), Property Tax Reform in Developing Countries,
Kluver Academic Publishers, Boston.
29. Murphy Higgins (2007), Concepts in Federal Taxation, Thomson Publishers,
USA.
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Nội dung thảo luận
1
Phụ lục 2: Phiếu phỏng vấn chuyên gia
2
Phụ lục 3.1: Phiếu điều tra
4
Phụ lục 3.2: Mã hóa các biến quan sát của mô hình
6
Phụ lục 3.3: Các biến còn lại sau khi kiểm định Cronbach’s Alpha
7
Phụ lục 3.4: Kết quả phân tích từ SPSS 18.0
8
Phụ lục 4: Thu ngân sách Nhà nước
20
1
Phụ lục 1:
NỘI DUNG THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI: XÂY DỰNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
Nhằm để thu thập thông tin và dữ liệu cho việc nghiên cứu mô hình thuế tài
sản ở Việt Nam trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay với định hướng mô hình thuế
tài sản cần phải đảm bảo tính hiệu quả, nên tổ chức buổi thảo luận chuyên đề với
những nội dung sau:
- Tại sao phải đánh thuế tài sản?
- Thuế TS có vai trò và sự ảnh hưởng thế nào? A. Thuế tài sản - Dưới góc độ Luật thuế của Việt Nam hiện nay
quy định như thế nào về thuế tài sản?
- Những đối tượng tài sản nào thuộc phạm vi
đánh thuế tài sản?
- Tại sao phải mở rộng đối tượng chịu thuế TS?
- TS nào nên chịu thuế trong nhóm? Tại sao?
B. Đối tượng chịu thuế tài sản Bất động sản
Động sản
Tài sản tài chính
Tài sản vô hình
Tài sản khác
- Nên áp dụng hình thức đánh thuế nàophù hợp?
- Tại sao không đánh thuế thu nhập từ tài sản? C. Hình thức đánh thuế tài sản - Tập trung vào những tài sản nào để đánh thuế?
- Đánh thuế định kỳ hay thường xuyên?
- Nên áp dụng giá tính thuế như thế nào? D. Căn cứ tính thuế tài sản - Dạng thuế suất nào cho phù hợp?
- Để cho mô hình thuế TS ở Việt Nam đạt hiệu
E. Tính hiệu quả thuế tài sản quả thì cần dựa trên những tiêu chí nào để xây
dựng.
2
Phụ lục 2:
PHIẾU PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA
ĐỀ TÀI: XÂY DỰNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
Tôi xin chân thành cám ơn quý vị đã đến tham dự buổi thảo luận chuyên đề.
Sau khi tổng hợp kết quả thảo luận nhóm, nhằm để thu thập thông tin và dữ liệu cho
việc nghiên cứu mô hình thuế TS ở Việt Nam trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay
với định hướng mô hình thuế tài sản cần phải đảm bảo tính hiệu quả, xin ông/bà vui
lòng cho biết những nhận định sau:
Theo ông/bà nên hay không đánh thuế tài sản đối với: Đồng ý Không đồng ý
1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp
2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp
3 Nhà
4
Công trình xây dựng gắn liền trên đất (khu nghỉ dưỡng, hồ bơi, công viên, vườn cảnh, các công trình kiến trúc khác… không sử dụng cho mục đích kinh doanh)
5 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ)
6 Tài nguyên (quyền khai thác)
7 Phương tiện giao thông (máy bay, ô tô, mô tô, tàu thuyền)
8 Tài sản vô hình (bản quyền, bằng phát minh, sáng chế)
9 Chứng khoán
Theo ông/bà đánh thuế tài sản thì nên:
10 Tập trung vào những TS Nhà nước cần quản lý Đồng ý Không đồng ý
11 Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn 12 Dựa trên thu nhập của tài sản
13 Dựa trên giá trị của tài sản 14 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản)
15 Quy định ngưỡng chịu thuế 16 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu TS
3
17 Đánh thuế hàng năm đối với TS
Theo ông/bà về căn cứ tính thuế tài sản thì nên dựa vào: Đồng ý Không đồng ý
Giá thị trường của tài sản 18
Giá trị ròng của tài sản chịu thuế 19
Giá trị tài sản ấn định 20
Thuế suất lũy tiến 21
Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 22
Thuế suất lũy thoái 23
Theo ông/bà để có một hệ thống thuế tài sản hiệu quả thì cần dựa vào
Hiệu quả kinh tế Đồng ý Không đồng ý 24
Tính bền vững và khả thi 25
Độ đàn hồi ổn định 26
Thể hiện tính công bằng 27
28
Giảm chi phí thực thi khi thực hiện (đơn giản, minh bạch, linh hoạt)
Xin cám ơn
4
Phụ lục 3.1
PHIẾU ĐIỀU TRA
MỘT SỐ THÔNG TIN CÁ NHÂN :
Giới tính : Nam Nữ
Trình độ: Đại học Trên đại học
Nghề nghiệp:.................................................................................................................
Đơn vị công tác:............................................................................................................
Thâm niên công tác < 5 năm Từ 5 năm đến < 10 năm
Từ 10 năm đến <15 năm Từ 15 năm trở lên
Nhằm để thu thập thông tin và dữ liệu cho việc nghiên cứu mô hình thuế tài
sản ở Việt Nam trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay, xin Ông/Bà vui lòng
tham gia đóng góp ý kiến nhận định theo những nội dung sau:
ý
g n ồ đ
ý
ý
g n ô h k
g n ồ đ
n ế i k
g n ồ đ
ý
ý
n à o t
n à o t
n à o H
g n ô h K
g n ô h K
g n ồ Đ
n à o H
NỘI DUNG THU THẬP THÔNG TIN
1 1 1 2 2 2 3 3 3 4 4 4 5 5 5
1 2 3 4 5
Xin cho biết mức độ tán thành của Anh/Chị đối với các vấn đề sau đây 1 2 3 4 5 Hoàn toàn không đồng ý Hoàn toàn đồng ý Trả lời bằng cách khoanh tròn vào ô tương ứng, nghĩa là: Chọn ô số (1): khi Hoàn toàn không đồng ý Chọn ô số (5): khi Hoàn toàn đồng ý Chọn một trong các ô số (2), (3), (4) tương ứng với các mức độ trung gian. Theo ông/bà nên đánh thuế tài sản đối với: 1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp 2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp 3 Nhà 4 Công trình xây dựng gắn liền trên đất (khu nghỉ dưỡng, hồ bơi, công viên, vườn cảnh, các công trình kiến trúc khác… không sử dụng cho mục
5
đích kinh doanh)
1 1 2 2 3 3 4 4 5 5
5 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) 6 Tài nguyên (quyền khai thác) 7 Phương tiện giao thông (máy bay, ô tô, mô tô, tàu 1 2 3 4 5 thuyền)
8 Tài sản vô hình (bản quyền, bằng phát minh, sáng 1 2 3 4 5 chế, thương hiệu)
1 2 3 4 5
1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 2 2 2 2 2 2 3 3 3 3 3 3 3 3 4 4 4 4 4 4 4 4 5 5 5 5 5 5 5 5
2 2 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1 3 3 3 3 3 3 4 4 4 4 4 4 5 5 5 5 5 5
1 1 1 1 2 2 2 2 3 3 3 3 4 4 4 4 5 5 5 5
9 Chứng khoán Theo ông/bà đánh thuế tài sản thì nên: 10 Tập trung vào những TS Nhà nước cần quản lý 11 Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn 12 Dựa trên thu nhập của tài sản 13 Dựa trên giá trị của tài sản 14 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) 15 Quy định ngưỡng chịu thuế 16 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu TS 17 Đánh thuế hàng năm đối với TS Theo ông/bà về căn cứ tính thuế tài sản thì nên dựa vào: 18 Giá thị trường của tài sản 19 Giá trị ròng của tài sản chịu thuế 20 Giá trị tài sản ấn định 21 Thuế suất lũy tiến 22 Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 23 Thuế suất lũy thoái Theo ông/bà để có một hệ thống thuế tài sản hiệu quả thì cần dựa vào : 24 Hiệu quả kinh tế 25 Tính bền vững và khả thi 26 Độ đàn hồi ổn định 27 Thể hiện tính công bằng 28 Giảm chi phí thực thi khi thực hiện (đơn giản, 1 2 3 4 5 minh bạch, linh hoạt)
Xin cám ơn.
6
Phụ lục 3.2: Mã hóa các biến quan sát của mô hình Thành phần
Biến quan sát
Đối tượng chịu thuế tài sản Mã hóa D01 D02 D03 D04 D05 D06 D07
TT 1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp 2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp 3 Nhà ở 4 Công trình xây dựng gắn liền trên đất 5 6 7 8 D08 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) Tài nguyên (quyền khai thác) Phương tiện giao thông Tài sản vô hình (bản quyền, bằng phát minh, sáng chế, thương hiệu)
D09
9 Chứng khoán 10 Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần H10 quản lý
Hình thức đánh thuế tài sản H11 H12 H13 H14 H15
11 Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn 12 Dựa trên thu nhập của tài sản 13 Dựa trên giá trị của tài sản 14 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) 15 Quy định ngưỡng chịu thuế 16 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu H16 tài sản
Căn cứ tính thuế tài sản
Tính hiệu quả của thuế tài sản
17 Đánh thuế hàng năm đối với tài sản 18 Giá thị trường của tài sản 19 Giá trị ròng của tài sản chịu thuế 20 Giá trị tài sản ấn định 21 Thuế suất lũy tiến 22 Thuế suất tỷ lệ (trung bình) 23 Thuế suất lũy thoái 24 Hiệu quả kinh tế 25 Tính bền vững và khả thi 26 Độ đàn hồi ổn định 27 Thể hiện tính công bằng 28 Giảm chi phí thực thi khi thực hiện H17 C18 C19 C20 C21 C22 C23 T24 T25 T26 T27 T28
7
Phụ lục 3.3: Các biến còn lại của mô hình sau khi kiểm định Hệ số Cronbach’s Alpha
Mã hóa Biến Thành phần
1 Quyền sử dụng đất nông nghiệp D01
2 Quyền sử dụng đất phi nông nghiệp D02 Đối tượng 3 Nhà ở D03 chịu thuế 4 Công trình xây dựng gắn liền trên đất D04 tài sản 5 Tài sản đăng ký sử dụng (trước bạ) D05
6 Phương tiện giao thông D07
7 Tập trung vào những tài sản Nhà nước cần quản lý H10
8 Tập trung vào những tài sản có giá trị lớn H11
9 Dựa trên giá trị của tài sản H13 Hình thức 10 Dựa trên tỷ lệ chịu thuế (% trên giá trị tài sản) H14 đánh thuế 11 Quy định ngưỡng chịu thuế H15 tài sản 12 Đánh thuế một lần khi thiết lập quyền sở hữu tài H16 sản
13 Đánh thuế hàng năm đối với tài sản H17
14 Giá thị trường của tài sản tại thời điểm tính thuế C18
15 Giá trị tài sản ấn định C20 Căn cứ tính
thuế tài sản 16 Thuế suất lũy tiến C21
17 Thuế suất tỷ lệ (trung bình) C22
18 Hiệu quả kinh tế T24
19 Tính bền vững và khả thi T25 Tính hiệu
quả của 20 Độ đàn hồi ổn định T26
thuế tài sản 21 Thể hiện tính công bằng T27
22 Giảm chi phí thực thi khi thực hiện T28
8
Phụ lục 3.4: Kết quả phân tích từ SPSS 18.0
Descriptive Statistics
N Minimum Maximum Mean Std. Deviation
.996 1.099 1.009 .890 1.070 1.003 1.073 .997 1.040 1.169 1.030 1.026 .924 1.082 1.012 1.099 1.034 .906 1.323 .871 .881 .828 1.343 1.107 1.105 .995 1.056 .960
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 3.59 3.62 3.72 3.83 3.48 3.77 3.57 3.87 3.75 3.53 3.58 4.09 3.82 3.59 3.68 3.57 3.64 4.17 3.78 4.33 3.97 4.46 3.83 3.86 3.62 3.78 3.75 3.85 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 180 D01 D02 D03 D04 D05 D06 D07 D08 D09 H10 H11 H12 H13 H14 H15 H16 H17 C18 C19 C20 C21 C22 C23 T24 T25 T26 T27 T28 Valid N (listwise)
9
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
.803 9
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
29.61 29.58 29.48 29.38 29.72 29.44 29.64 29.33 29.46 25.948 25.730 25.827 26.370 25.353 28.750 24.925 27.039 29.132 .579 .527 .582 .618 .586 .284 .629 .461 .231 .773 .780 .772 .770 .771 .810 .765 .788 .817 D01 D02 D03 D04 D05 D06 D07 D08 D09
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
.817 8
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
25.86 25.83 25.73 25.63 22.176 21.994 21.973 22.648 .636 .575 .649 .672 .782 .790 .780 .780 D01 D02 D03 D04
10
21.547 26.998 21.351 24.412 25.97 25.69 25.89 25.58 .648 .108 .668 .378 .779 .851 .776 .817 D05 D06 D07 D08
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
.851 7
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
22.09 22.07 21.97 21.86 22.21 22.12 21.82 20.030 19.928 19.809 20.567 19.349 19.393 23.212 .671 .597 .687 .699 .691 .683 .290 .822 .833 .819 .820 .818 .820 .874 D01 D02 D03 D04 D05 D07 D08
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
.874 6
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
D01 D02 D03 18.22 18.19 18.09 16.900 16.716 16.332 .650 .588 .719 .857 .869 .845
11
D04 D05 D07 17.99 18.33 18.25 17.039 16.145 16.021 .733 .689 .703 .846 .850 .848
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
.862 8
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
25.97 25.92 25.42 25.69 25.92 25.83 25.93 25.86 25.323 28.206 31.094 28.964 27.742 27.819 27.046 27.238 .771 .595 .317 .598 .602 .649 .658 .692 .824 .846 .876 .846 .846 .840 .839 .835 H10 H11 H12 H13 H14 H15 H16 H17
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
.876 7
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
H10 H11 21.88 21.83 21.322 23.950 .778 .604 .841 .865
12
24.845 23.641 23.557 22.881 23.026 21.60 21.83 21.74 21.84 21.77 .585 .597 .663 .667 .706 .867 .866 .857 .857 .852 H13 H14 H15 H16 H17
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
.582 6
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
20.37 20.76 20.21 20.57 20.08 20.71 9.352 10.485 9.061 9.811 9.458 9.661 .475 .067 .570 .403 .523 .161 .478 .672 .445 .509 .469 .630
C18 C19 C20 C21 C22 C23
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
.672 5
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
C18 C20 16.59 16.43 7.058 6.996 .541 .593 .573 .554
13
C21 C22 C23 16.79 16.30 16.93 7.508 7.373 7.363 .456 .539 .181 .611 .581 .783
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
.783 4
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
C18 C20 C21 C22 12.76 12.60 12.96 12.47 4.239 4.264 4.724 4.541 .617 .651 .487 .606 .715 .697 .781 .722
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
.813 5
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
14.99 15.24 15.08 15.11 15.01 9.827 10.652 11.145 10.363 10.419 .661 .523 .528 .612 .694 .757 .801 .797 .773 .751 T24 T25 T26 T27 T28
14
KMO and Bartlett's Test
.824
Approx. Chi-Square 1.471
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity df 136
Sig. .000
Communalities
Initial Extraction
1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 .580 .506 .692 .703 .625 .672 .751 .529 .511 .502 .596 .581 .651 .636 .672 .500 .630 D01 D02 D03 D04 D05 D07 H10 H11 H13 H14 H15 H16 H17 C18 C20 C21 C22
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Total Variance Explained
Comp onent Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared Loadings Rotation Sums of Squared Loadings
15
% of Variance Cumulati ve % Total % of Variance Cumula tive % Total % of Variance Cumula tive % Total
32.139 32.139 4.058 23.872 23.872 16.849 48.988 3.798 22.341 46.213 11.821 60.809 2.481 14.596 60.809
5.464 2.864 2.010 .862 .797 .656 .602 .582 .532 .523 .437 .422 .345 .279 .260 .229 .135 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17
32.139 32.139 5.464 16.849 48.988 2.864 11.821 60.809 2.010 65.877 5.068 70.565 4.688 74.425 3.860 77.968 3.542 81.393 3.426 84.526 3.132 87.600 3.075 90.171 2.571 92.656 2.485 94.688 2.032 96.331 1.643 97.861 1.530 99.207 1.346 .793 100.000
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Rotated Component Matrixa
Component
1 2 3
.863 .801 .768 .749 .697 .681 .637
.813 .810 H10 H17 H15 H16 H11 H14 H13 D04 D03
16
.810 .785 .752 .653
D07 D05 D01 D02 C20 C18 C22 C21 .804 .770 .768 .705
KMO and Bartlett's Test
.788
Approx. Chi-Square 297.386
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity df 10
Sig. .000
Communalities
Initial Extraction
1.000 1.000 1.000 1.000 1.000 .651 .476 .492 .581 .683 T24 T25 T26 T27 T28
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Total Variance Explained
Comp Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared Loadings
17
onent % of
Total Variance Cumulative % Total % of Variance Cumulative %
57.661
2.883 .742 .634 .394 .347 57.661 14.844 12.671 7.878 6.946 1 2 3 4 5
57.661 72.505 85.176 93.054 100.000 2.883 57.661
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Component Matrixa Component
1
.827 .807 .762 .701 .690 T28 T24 T27 T26 T25
Extraction Method: Principal Component Analysis. a. 1 components extracted.
Correlations
F_Doituong F_Hinhthuc F_Cancu F_Hieuqua
F_Doituong Pearson 1 .283** .284** .567** Correlation
Sig. (2-tailed) .000 .000 .000
N 180 180 180 180
F_Hinhthuc Pearson .283** 1 .250** .486** Correlation
Sig. (2-tailed) .001 .000
N .000 180 180 180 180
18
F_Cancu .284** .250** 1 .503** Pearson Correlation
.000 .001 .000 Sig. (2-tailed)
180 180 180 180 N
F_Hieuqua Pearson .567** .486** .503** 1 Correlation
.000 .000 .000 Sig. (2-tailed)
180 180 N
180 180 **. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
Variables Entered/Removedb
Variables Entered Variables Removed Method Model
1
. Enter
F_Cancu, F_Hinhthuc, F_Doituonga
a. All requested variables entered. b. Dependent Variable: F_Hieuqua
Model Summary
Model R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate
1 R .725a .526 .518 .54904
a. Predictors: (Constant), F_Cancu, F_Hinhthuc, F_Doituong
ANOVAb
19
Sum of Squares Model df Mean Square F Sig.
1 Regression 65.194 .000a 58.956 3
Residual 53.053
19.652 .301 Total 112.010 176 179
a. Predictors: (Constant), F_Cancu, F_Hinhthuc, F_Doituong b. Dependent Variable: F_Hieuqua
Coefficientsa
Unstandardized Coefficients Standardize d Coefficients Collinearity Statistics
Model B Std. Error Beta t Sig. Tolerance VIF
1 (Constant) -.269 .303 -.889 .375
F_Doituong .387 .055 .393 7.075 .000 .871 1.148
F_Hinhthuc .294 .055 .296 5.378 .000 .889 1.125
F_Cancu .370 1.126
.064 .317 5.761 .000 .888
a. Dependent Variable: F_Hieuqua
Collinearity Diagnosticsa
Variance Proportions
Mode l Dimen sion Eigenvalue Condition Index (Constant) F_Doituong F_Hinhthuc F_Cancu
1 3.928 1.000 .00 .00 .00 .00 1
.033 10.909 .00 .57 .66 .00 2
.027 12.002 .10 .42 .31 .29 3
.012 .71 4
17.965 .90 .01 .03 a. Dependent Variable: F_Hieuqua
20