
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài,
Đảng và Nhà nước ta đã đổi mới chính sách, pháp luật góp phần quan trọng vào
quá trình giao lưu dân sự quốc tế điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và
quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Cụ thể, để giải quyết vấn đề kết
hôn có yếu tố nước ngoài Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật: Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành: Nghị định
số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật hôn nhân và gia đình 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài (sau đây gọi tắt là Nghị định 68/NĐ-CP); Nghị định số
69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình 2000 về quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài (sau đây gọi tắt là Nghị định 69/NĐ-CP);... Bên
cạnh đó chúng ta còn ký kết rất nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp với các
nước để giải quyết vấn đề về kết hôn có yếu tố nước ngoài. Có thể nói đây là
một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối hoàn chỉnh điều chỉnh
quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, từ luật, các văn bản hướng dẫn và cả
các hiệp định tương trợ tư pháp. Các văn bản pháp luật này điều chỉnh toàn
diện vấn đề hôn nhân và gia đình từ kết hôn, ly hôn, quan hệ pháp lý giữa vợ
chồng, quan hệ cha mẹ và con, vấn đề nuôi con nuôi, giám hộ, xung đột pháp
luật và xung đột thẩm quyền. So với giai đoạn trước đó (giai đoạn trước năm
1986), pháp luật còn đơn giản, chưa có hệ thống, chưa điều chỉnh đầy đủ các
quan hệ một phần do trình độ lập pháp, một phần do hoàn cảnh lịch sử nước ta
khi đó mới đang dần củng cố quan hệ với các nước sau khi đất nước thoát khỏi
chiến tranh, các mối quan hệ quốc tế này cũng mới chỉ đặt ra với các nước
cùng chế độ xã hội chủ nghĩa, quan hệ với các nước tư bản hầu như chưa có.