
3
Mở đầu
Bài toán tìm điều kiện tồn tại cận sai số cho khoảng cách từ một điểm
tới một tập mức của hàm nửa liên tục dưới đã được Hoffman nghiên cứu
lần đầu trong [10]. Bài toán được phát biểu như sau: Cho một hàm nửa
liên tục dưới f:X→R∪ {+∞} xác định trên không gian metric đủ X,
chúng ta nói rằng fcó một cận sai số toàn cục tại mức αnếu tồn tại số
thực dương τthỏa mãn
τd(x, [f(x)≤α]) ≤(f(x)−α)+,∀x∈X,
trong đó [f≤α] := {x∈X:f(x)≤α}, d(x, [f≤α]) là khoảng cách từ
điểm x đến tập [f≤α], và t+= sup(t, 0).
Năm 1952, Hoffman đã đạt được các kết quả cho các hàm lồi đa
diện dạng f(x) = max1≤j≤m(aT
jx+bj), trong đó a1,· · · , am∈Rmvà
b1,· · · , bm∈R. Robinson [11] đã xét các hàm lồi không đa diện trong
không gian định chuẩn thỏa mãn điều kiện Slater (infXf < α) với tập
[f≤α]bị chặn và thu được kết quả sau
d(x, [f≤α]) ≤r+||x0||
θ(f(x)−α),
trong
đó
θ
>
0,
f
(x0)
<
α
−
θ,
r
là
bán
kính
hình
cầu
gốc
0
chứa
tập
[f
≤
α].
Tiếp
đó
Mangasarian
[12],
Auslender
-
Crouzeix
[13]
và
Klatte
-
Ly
[14]
đã
thu
được
một
điều
kiện
đủ
cho
sự
tồn
tại
cận
sai
số
của
hệ
tuyến
tính
với
điều
kiện
tiệm
cận.
Trong
trường
hợp
không
lồi,
kết
quả
đầu
tiên
về
cận
sai
số
thuộc
về
Ioffe
[15],
Ng-Zheng
[16]
và
Wu-Ye
[5].
Năm
1998,
Penot
nhận
được
kết
quả
trong
trường
hợp
hàm
tựa
lồi.
Các
tính
chất
đầu
tiên
về
cận
sai
số
trong
trường
hợp
hàm
lồi
được
chứng
minh
bởi
Corneia-jourari-Zalinesco
[17],
một
số
tính
chất
khác
được
thiết
lập
bởi
Lewis-Pang
[18],
Lemaire[19],Zalinesco
[20].
Sau
đó,
D.Aze
nhận
được
một
.