VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------
BÙI XUÂN TUÂN
DI TÍCH KHẢO CỔ HỌC ĐẠI TRẠCH (BẮC NINH)
Chuyên ngành: Khảo cổ học
Mã số: 8.22.90.17
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHẢO CỔ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI VĂN LIÊM
HÀ NỘI, 2020
1
Lời cảm ơn
Trong quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ này, tôi đã gặp phải rất nhiều khó khăn, song nhờ có sự giúp đỡ, động viên nhiệt tình của các thầy, cô, anh, chị, bạn bè và gia đình, tôi đã hoàn thành theo kế hoạch đặt ra.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự cảm kích đặc biệt tới người hướng dẫn của tôi – PGS.TS Bùi Văn Liêm đã định hướng, cố vấn cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS Trịnh Hoàng Hiệp - người đã dành thời gian quý báu định hướng và cố vấn cho tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn những tài liệu của anh đã giúp cho tôi mở mang thêm nhiều kiến thức về thời đại kim khí nói chung và Khảo cổ học nói riêng. Đồng thời, anh cũng là người luôn cho tôi những lời khuyên vô cùng quý giá về cả kiến thức chuyên môn, định hướng phát triển sự nghiệp cũng như kỹ năng mềm cho một nhà nghiên cứu. Một lần nữa, tôi xin gửi lời cảm ơn đến anh bằng tất cả tấm lòng và sự biết ơn của mình.
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy, cô trong khoa Khảo cổ học – Học viện Khoa học Xã hội đã truyền đạt cho tôi những kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành trong suốt thời gian học tập để tôi có được nền tảng kiến thức, điều này hỗ trợ rất lớn cho tôi trong quá trình làm luận văn thạc sĩ.
Sau cùng, tôi xin tỏ lòng biết ơn đến cha mẹ, người thân và bạn bè đã luôn bên cạnh ủng hộ, động viên tôi trong cuộc sống cũng như trong thời gian thực hiện luận văn thạc sĩ.
Trong luận văn, chắc hẳn không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, tôi mong muốn sẽ nhận được nhiều đóng góp quý báu đến từ các quý thầy cô, và bạn đọc để luận văn được hoàn thiện hơn nữa.
Xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người!
2
Cam Đoan
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Bùi Văn Liêm. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác.
Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
lời cam đoan này.
Học viên
Bùi Xuân Tuân
3
MỤC LỤC
Lời cảm ơn ........................................................................................................................................ 2
Cam Đoan ......................................................................................................................................... 3
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................................................. 7
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................... 8
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................................................. 8
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................................................................. 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 9
3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................... 9
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................................... 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 10
4.1. Đối tượng nghiên cứu: ............................................................................................... 10
4.2. Phạm vi nghiên cứu: ................................................................................................... 10
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 10
5.1. Phương pháp luận ...................................................................................................... 10
5.2. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................................................ 11
7. Cơ cấu của luận văn ................................................................................................................... 11
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TƯ LIỆU ........................................................................................ 12
1.1.Vài nét về điều kiện tự nhiên và môi trường di tích Đại Trạch ........................................... 12
1.2. Quá trình phát hiện và nghiên cứu ........................................................................................ 13
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................................................ 19
CHƯƠNG 2: DI TÍCH VÀ DI VẬT ............................................................................................. 21
2.1. Cấu tạo tầng văn hóa .............................................................................................................. 21
2.1.1. Cấu tạo địa tầng các hố thám sát, khai quật ........................................................... 21
2.1.2. Đặc điểm chung về địa tầng di tích Đại Trạch ....................................................... 22
2.2. Di tích ....................................................................................................................................... 22
2.2.1. Di tích động vật, thực vật ......................................................................................... 22
2.2.1.1 Di tích động vật ........................................................................................... 22
2.2.1.2 Di tích thực vật ............................................................................................ 24
2.2.2. Di tích mộ táng ......................................................................................................... 26
4
2.2.3. Các loại hình di tích khác ........................................................................................ 28
2.3. Di vật ........................................................................................................................................ 30
2.3.1. Đồ đá ......................................................................................................................... 30
2.3.1.1. Nguyên liệu ................................................................................................... 30
2.3.1.2. Kỹ thuật chế tác ............................................................................................ 32
2.3.1.3. Loại hình đồ đá ............................................................................................ 33
2.3.2. Hiện vật kim loại ...................................................................................................... 37
2.3.2.1. Di vật đồng trong văn hóa Đồng Đậu .......................................................... 37
2.3.2.2. Di vật đồng thuộc văn hóa Đông Sơn .......................................................... 42
2.3.2.2. Di vật sắt thuộc văn hóa Đông Sơn .............................................................. 46
2.3.3. Di vật xương. ............................................................................................................ 46
2.3.4. Đồ gốm ...................................................................................................................... 46
2.3.4.1 Chất liệu ........................................................................................................ 46
2.3.4.2. Kỹ thuật tạo gốm .......................................................................................... 47
2.3.4.2. Về kỹ thuật tạo hoa văn ................................................................................ 47
2.3.4.3. Các loại hình hoa văn .................................................................................. 48
2.3.4.4. Loại hình đồ gốm .......................................................................................... 52
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................................................ 60
CHƯƠNG 3: NIÊN ĐẠI, CHỦ NHÂN, NGUỒN GỐC, ĐỜI SỐNG VÀ MỐI QUAN HỆ VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN ĐẠI TRẠCH ..................................................................................... 62
3.1. Niên đại, đặc trưng các giai đoạn phát triển của di tích Đại Trạch ................................... 62
3.1.1 Niên đại ..................................................................................................................... 62
3.1.2. Đặc trưng các giai đoạn phát triển .......................................................................... 63
3.2. Chủ nhân, nguồn gốc của di tích Đại Trạch. ........................................................................ 64
3.2.1. Chủ nhân .................................................................................................................. 64
3.2.2. Nguồn gốc của di chỉ Đại Trạch ............................................................................. 66
3.3. Đời sống của cư dân cổ Đại Trạch ......................................................................................... 67
3.4. Mối quan hệ văn hóa của cư dân Đại Trạch ......................................................................... 70
3.4.1 Mối quan hệ với di tích Dương Xá ........................................................................... 70
3.4.2. Mối quan hệ với di tích Đông Lâm .......................................................................... 73
3.4.3. Mối quan hệ với di tích Đình Tràng ........................................................................ 76
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................................................ 81
KẾT LUẬN ..................................................................................................................................... 82
5
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................. 85
PHỤ LỤC ........................................................................................................................................ 92
6
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BTLSQG Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia
BTLSVN Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
ĐHKHXHNVHN Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội
GS Giáo sư
KCH Khảo cổ học
Nxb. Nhà xuất bản
Nxb. KHKT Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật
Nxb. KHXH Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Nxb. VHDT Nhà xuất bản văn hóa Dân tộc
NPHMKCH Những phát hiện mới Khảo cổ học
PGS Phó giáo sư
TCKCH Tạp chí Khảo cổ học
TCDTH Tạp chí Dân tộc học
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại Trạch là di chỉ cư trú - mộ táng thuộc thời đại Kim khí ở Việt Nam,
phân bố trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Từ cuối năm 1990, những dấu tích đầu tiên của di chỉ khảo cổ học Đại Trạch được phát hiện đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khảo cổ học Tiền sử. Từ năm 1999 đến năm 2013, di chỉ Đại Trạch đã trải qua 1 đợt thám sát và 2 đợt khai quật lớn.
Ngay từ khi mới phát hiện, các nhà nghiên cứu đã nhận định đây là một di chỉ thuộc văn hóa Đồng Đậu điển hình có giai đoạn chuyển tiếp lên văn hóa Gò Mun và khu mộ táng thuộc văn hóa Đông Sơn. Những di tích, di vật phát hiện ở di chỉ Đại Trạch đã góp phần làm sáng tỏ hơn không gian văn hóa của văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Kết quả đào thám sát, khai quật đã được công bố bước đầu trong kỷ yếu Hội nghị NPHMVKCH, báo cáo khoa học về kết quả thám sát và khai quật khảo cổ học. Tuy nhiên, những công bố này còn lẻ tẻ chưa mang tính hệ thống về di tích Đại Trạch, chưa đi sâu nghiên cứu về đời sống của cư dân Đại Trạch, chưa làm rõ vai trò, vị trí của di tích trong bối cảnh thời đại Kim khí vùng sông Hồng nói chung và vùng Kinh Bắc nói riêng.
Tôi may mắn là một trong những thành viên tham gia chỉnh lý di tích, di vật lần khai quật lần thứ 2 năm 2013, có mong muốn tập hợp đầy đủ, hệ thống hóa toàn bộ tư liệu về di tích Đại Trạch, nhằm góp thêm tư liệu phục vụ nghiên cứu giai đoạn Tiền Đông Sơn, Đông Sơn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng, miền Bắc Việt Nam nói chung. Dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Bùi Văn Liêm cùng với sự giúp đỡ tận tình của TS. Trịnh Hoàng Hiệp, tôi mạnh dạn chọn đề tài "Di tích khảo cổ học Đại Trạch (Bắc Ninh)" làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Khảo cổ học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Di chỉ khảo cổ học Đại Trạch thuộc thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, có tọa độ 21003’12” vĩ độ Bắc, 106003’09” kinh độ Đông, cách sông Đuống 1,5km về phía Đông.
8
Di chỉ Đại Trạch được phát hiện cuối năm 1990 do ông Nguyễn Văn Trịnh trong quá trình đào đất làm gạch đã phát hiện được 2 ngôi mộ cùng một số đồ đồng thuộc văn hóa Đông Sơn. Nhận được thông tin này Viện Khảo cổ học đã cử cán bộ đến xác minh, từ đó Đại Trạch được biết đến là một khu di chỉ cư trú - mộ táng thuộc giai đoạn tiền Đông Sơn và Đông Sơn.
Năm 1996, trong chương trình điều tra khảo cổ học hai huyện Thuận Thành, huyện Gia Lương (huyện Gia Lương nay là huyện Lương Tài và huyện Gia Bình), Phạm Minh Huyền và Nishimura Masanari đến thăm di chỉ đã phát hiện những mảnh gốm Đường Cồ, gốm Gò Mun.
Năm 1999, trong chương trình nghiên cứu "Khảo cổ học Đông Sơn ở miền Bắc Việt Nam" giữa Viện Khảo cổ học với trường Đại học Pitsburgh (Hoa Kỳ), Đại học Ottago (New Zealand) và Đại học Belfast (Ireland), các nhà khoa học đã đến khảo sát và đào thám sát 8m2. Đợt khảo sát này phát hiện thêm những mảnh gốm Đồng Đậu và những mảnh gốm mang phong cách Hán.
Năm 2001, Viện Khảo cổ học phối hợp với Bảo tàng Bắc Ninh khai
quật lần thứ nhất với diện tích 60m2.
Năm 2013, Bảo tàng Bắc Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học khai quật lần thứ hai với diện tích 135m2. Như vậy, tổng diện tích qua 1 đợt thám sát và 2 đợt khai quật di chỉ Đại Trạch là 203m2.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Hệ thống hóa các tư liệu khảo cổ học về di tích Đại Trạch qua các cuộc khảo sát và khai quật khảo cổ học. Tìm ra nét đặc trưng của di tích, di vật và vị trí của nó trong thời đại Kim khí ở Bắc Ninh nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tập hợp tài liệu và hệ thống hóa toàn bộ tư liệu, kết quả điều tra khảo sát, khai quật khảo cổ học từ trước đến nay về di tích Đại Trạch. Phân tích, đánh giá các di tích, di vật để chỉ ra đặc điểm cơ bản của di tích và di vật, các giai đoạn phát triển của địa điểm khảo cổ học này, cũng như vấn đề về cấu tạo địa tầng.
9
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đó, bước đầu đưa ra những nhận định về niên đại, nguồn gốc, đời sống của cư dân cổ Đại Trạch cũng như mối quan hệ văn hóa trong bối cảnh rộng hơn ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng chính của đề tài là di tích, di vật phát hiện được qua các đợt
thám sát, khai quật Đại Trạch.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các nguồn tư liệu ở các di tích khảo cổ khác ở đồng bằng châu thổ sông Hồng làm đối tượng so sánh, đánh giá vị trí cũng như giá trị lịch sử - văn hóa của di tích Đại Trạch.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Tác giả tập trung chủ yếu vào ở di tích Đại Trạch. Trên cơ sở đó, tác giả so sánh về đồng đại hay lịch đại với một vài di tích Tiền sơ sử khác ở vùng Kinh Bắc và vùng lân cận.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu các giai đoạn văn hóa cụ thể ở Đại Trạch thuộc thời đại Kim khí. Tác giả có so sánh với một số di tích khác nhằm tìm hiểu vấn đề lịch đại và đồng đại liên quan đến di tích.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Tác giả vận dụng phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng trong khảo cổ học là nền tảng khoa học của luận văn trong việc nhìn nhận đánh giá các hiện tượng về biến đổi kinh tế, xã hội, các mối giao lưu và hội nhập văn hóa của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử trong phạm vi liên quan đế đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khảo cổ học truyền thống như: thống kê, phân loại loại hình học, mô tả, đo vẽ, chụp ảnh di tích, di vật điển hình, phân tích so sánh di tích, di vật khảo cổ học, phương pháp phân tích địa tầng... Đồng thời, áp dụng các phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích tổng hợp những đặc trưng về kỹ thuật, nghệ thuật trang trí trên đồ gốm...
Bên cạnh các phương pháp khảo cổ học truyền thống, luận văn còn kết hợp các phương pháp nghiên cứu đa ngành, liên ngành như: địa chất, địa hình
10
địa mạo, nhân chủng học, động vật học.., thu thập những tài liệu, thông tin khác bổ trợ cho việc nghiên cứu khảo cổ học.
Để có được kết quả nghiên cứu khoa học một cách toàn diện thì phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp nghiên cứu không thể thiếu. Tác giả tập hợp những công trình nghiên cứu về di tích Đại trạch từ các nguồn khác nhau như: Sách chuyên khảo, kỷ yếu hội nghị, thông báo, báo cáo khai quật….. Các tài liệu thứ cấp như những nghiên cứu về địa chất, môi trường hay các địa điểm có mối quan hệ với di tích Đại Trạch cũng được phân tích làm cơ sở để nghiên cứu, so sánh. Ngoài ra, luận văn còn áp dụng công cụ hỗ trợ như xử lý ảnh, bản vẽ bằng chương trình Autocad, Coreldraw và một số chương trình khác cũng được áp dụng trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn đóng góp những tư liệu quan trọng về mặt khoa học, khẳng định về hệ thống di tích, di vật tiền Đông Sơn ở vùng châu thổ sông Hồng, góp phần rất quan trọng trong sự hình thành nền văn hoá Đông Sơn độc đáo: “Thống nhất trong đa dạng”. Điều này cũng khẳng định sự phát triển liên tục, nội tại bản địa của văn hoá Đông Sơn, văn hoá vật chất nền tảng thời dựng nước: Quốc gia Văn Lang - Âu Lạc.
Đại Trạch nằm không xa di tích Luy Lâu, cách Luy Lâu khoảng 3km. Đây là thủ phủ của nhà Hán trong gần một nghìn năm Bắc thuộc, giữa một vùng dấu ấn của văn hóa Hán nổi trội, Đại Trạch như một điểm sáng Đông Sơn có gốc rễ bền chắc từ gần 2000 năm trước, đứng vững để tồn tại.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ cung cấp và góp thêm tư liệu khẳng định di tích Đại Trạch là một di tích khảo cổ học quan trọng thuộc các giai đoạn tiền Đông Sơn, Đông Sơn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng, đồng bằng châu thổ sông Hồng nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tư liệu (… trang)
Chương 2. Di tích và di vật (… trang)
Chương 3. Niên đại, chủ nhân, nguồn gốc, đời sống và mối quan hệ văn
hóa của cư dân Đại Trạch (… trang)
11
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TƯ LIỆU
1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên và môi trường di tích Đại Trạch
Di tích Đại Trạch thuộc xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đất Thuận Thành xưa là một trung tâm tụ cư của dân Việt cổ trong quá trình từ miền cao tiến xuống khai phá đồng bằng.
Về mặt địa lý cảnh quan, Thuận Thành là một vùng đất có ý nghĩa khá đặc biệt. Theo trục Bắc - Nam, đây là vùng chuyển tiếp giữa miền cao Vĩnh Phúc trải qua vùng Tiên Sơn với những núi sót là điểm cuối nối với đồng bằng phía Nam. Theo trục Đông - Tây, Thuận Thành là vùng chuyển tiếp giữa miền đồng bằng lưu vực sông Hồng, với miền đồng bằng lưu vực sông Thái Bình - hai miền đồng bằng quan trọng nhất hợp thành châu thổ Bắc Bộ. Sông Dâu, sau này là sông Đuống, cùng với các tuyến đường bộ dọc theo hệ thống các tuyến sông ấy, chính là mạch máu giao thông giữ vai trò giao lưu chuyển tiếp rất quan trọng và sinh động của vùng đất này.
Nhờ điều kiện thuận lợi, nên ngay sau khi được khai mở, Thuận Thành đã trở thành địa bàn có sức hút mạnh mẽ cư dân Việt cổ từ các miền về đây tụ cư, xây dựng vùng đất này từ rất sớm trở thành một trung tâm kinh tế, văn hoá phát triển.
Di tích Đại Trạch phân bố trên vùng đất cổ Đình Tổ, nằm bên bờ Nam sông Đuống, về phía Tây Bắc huvện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Phía Tây giáp xã Lệ Chi thuộc huyện Gia Lâm (thành phố Hà Nội), phía Bắc giáp xã Tân Chi, huyện Tiên Du, phía Nam giáp xã Trí Quả, phía Đông giáp xã Đại Đồng Thành (huyện Thuận Thành). Diện tích đất tự nhiên xã Đình Tổ là 962.38 ha. Trong đó đất canh tác nông nghiệp là 566,77 ha. đất ở là 67.97 ha, các loại đất khác là 327.64 ha. Dân số của xã là 11.129 người, đều là dân tộc Kinh. Đình Tổ được gồm 4 thôn: Đại Trạch. Bút Tháp, Phú Mỹ, Đình Tổ.
Là một xã thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, địa hình Đình Tổ tương đối bằng phẳng. Đất đai gồm 2 loại cơ bản: Đất phù sa cổ và đất phù sa mới bồi đắp. Đất phù sa cổ - tức là đất trong đồng, chiếm phần lớn trong tổng diện tích đất canh tác của xã. Qua các công trình nghiên cứu về khảo sát địa chất, Đình Tổ được xác định là vùng đất hình thành từ trước Công nguyên (cách đây hơn 3.000 năm) trong quá trình biển lùi. Trên loại đất này, cây trồng được canh tác chủ yếu là lúa nước. Ngoài ra, ở một số khu đồng cao và một số mảnh ruộng ven làng còn được trồng xen canh hoa màu (chủ yếu là khoai lang, đỗ,
12
lạc). Đất phù sa mới bồi đắp, được hình thành nhờ dòng sông Đuống. Khi con đê hiện nay hình thành, khu bãi được mở rộng hơn so với trước, đất bãi chủ yếu trồng hoa màu như: mía, ngô, khoai, các loại đỗ, lạc...
Về đường giao thông, vùng đất Đình Tổ nằm giữa một mạng lưới giao thông thủy - bộ quan trọng của vùng. Đó là đường 283, chạy theo hướng từ Đình Tổ qua Trí Quả về Thanh Khương, Song Liễu rồi đến huyện Mỹ Văn (tỉnh Hưng Yên). Đường giao thông bộ quan trọng thứ hai là đê sông Đuống, chạy theo hướng Tây - Đông, từ Gia Lâm (Hà Nội) vào hết địa phận Gia Lương (nơi tiếp giáp đê sông Thái Bình).
Giao thông đường thủy cũng có tầm rất quan trọng đối với Đình Tổ. Hoạt động giao thông này được diễn ra trên dòng sông Đuống - một nhánh nối sông Hồng với sông Thái Bình. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu hầu như đã thống nhất trong việc xác định sông Đuống xưa chỉ là một dòng sông nhỏ, cùng với sông Dâu (chảy qua địa phận Đình Tổ, Thanh Khương...), hợp thành một mạng lưới giao thông đường thủy quan trọng của miền đất cổ Thuận Thành xưa kia [Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Đình Tổ].
Từ xa xưa, Đình Tổ nổi lên với thế mạnh của những điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là trồng lúa nước và phát triển các làng nghề, giao lưu buôn bán.
Do sự bồi đắp của tự nhiên đã tạo cho vùng đất Đình Tổ vừa có sông, có đường giao thông thủy bộ thuận tiện, đồng ruộng tương đối, tạo nên phong cảnh thật thơ mộng, hữu tình...
1.2. Quá trình phát hiện và nghiên cứu
Di chỉ khảo cổ học Đại Trạch có vị trí tọa độ 21003’12” vĩ độ Bắc, 106003’09” kinh độ Đông, cách sông Đuống 1,5km về phía Đông Bắc (Bản đồ 1).
Di chỉ Đại Trạch được phát hiện cuối năm 1990 do ông Nguyễn Văn Trịnh trong quá trình đào đất làm gạch đã phát hiện được 2 ngôi mộ cùng một số đồ đồng thuộc văn hóa Đông Sơn. Nhận được thông tin này Viện Khảo cổ cử cán bộ đến xác minh, từ đó Đại Trạch được biết đến là một khu di chỉ cư trú - mộ táng thuộc giai đoạn tiền Đông Sơn và Đông Sơn.
Năm 1996, trong chương trình điều tra khảo cổ học hai huyện Thuận Thành, huyện Gia Lương (huyện Gia Lương nay là huyện Lương Tài, huyện
13
Gia Bình) Phạm Minh Huyền và Nishimura Masanari đến thăm di chỉ đã phát hiện những mảnh gốm Đường Cồ, gốm Gò Mun [65, 66].
Cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm 1999, Viện Khảo cổ học và các nhà khoa học trường Đại học Pitsburgh (Hoa Kỳ), Đại học Ottago (New Zealand), Đại học Belfast (Ireland) đào hai hố thám sát với diện tích 8m2. Kết quả thám sát cho thấy khu vực này là di chỉ cư trú và lò nung. Tuy nhiên, chức năng của lò nung chưa rõ ràng [66].
Địa tầng các hố thám sát ghi nhận tầng văn hóa ken dày mảnh gốm,
than tro, xương động vật. Hiện vật thu được gồm:
+ Đồ đồng: 1 mũi tên, 2 dùi, 3 mảnh đồng, 1 cục đồng;
+ Đồ đá: 1 hạt chuỗi, 3 bàn mài.
+ Đồ xương: 2 công cụ xương.
+ Đồ gốm: Đồ gốm tương đối nguyên dạng gồm 1 nồi, 11 bi gốm, 2 dọi xe chỉ, 1 tượng đầu chim? 1 mảnh nồi nấu đồng cùng rất nhiều mảnh gốm vỡ.
Trong báo cáo về kết quả đợt đào thám sát, các tác giả mới chỉ nhận xét
về loại gốm thô ở di chỉ Đại Trạch như sau:
- Gốm Gò Mun - Đồng Đậu: Căn cứ vào diễn biến của đồ gốm theo độ sâu thì thấy, về hoa văn hình học nổi trội nhất là hoa văn kẻ khuông nhạc, ở các lớp trên văn khuông nhạc có các mô tip đơn giản, càng xuống sâu càng nhiều mô tip phức tạp, đẹp.
- Gốm Đường Cồ: Số lượng ít, chỉ thấy từ lớp mặt cho đến lớp 3 của hố đào. Đây là gốm của văn hoá Đông Sơn, tuy nhiên, sự có mặt của đồ gốm Đường Cồ ở đây là do bị xáo trộn ở lớp trên đã bị xâm hại mất.
Kết quả thám sát cho thấy di chỉ có hai giai đoạn phát triển liên tục: giai đoạn sớm từ lớp đất III đến lớp dưới lớp đất I ở độ sâu 90cm đến 40cm. Giai đoạn sớm hoàn toàn thuộc văn hóa Đồng Đậu. Giai đoạn muộn từ độ sâu 40cm trở lên, gồm phần lớn lớp đất I. Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ văn hóa Đồng Đậu sang văn hóa Gò Mun với tính chất Đồng Đậu là chủ yếu.
Đồ gốm di chỉ Đại Trạch có nhiều nét giống với di chỉ quanh vùng như Từ Sơn (Từ Sơn, Bắc Ninh), Đình Tràng (Đông Anh, Hà Nội) [66: tr.170-174].
14
Từ ngày 6/11 đến ngày 1/12/2001, Viện Khảo cổ học phối hợp với Bảo tàng Bắc Ninh và nhà khảo cổ học Nhật Bản Nishimura Masanari tiến hành khai quật lần thứ nhất di chỉ Đại Trạch với diện tích 60m2 (10m x 6m) (ảnh 1 - 2)[67].
Tầng văn hóa được chia thành hai lớp: Lớp trên ký hiệu LI, dày 30cm -
50cm, đất màu đen (ảnh 5-8).
Lớp dưới ký hiệu LII, đất màu hơi xanh vàng, ẩm ướt, dày 2,5cm - 3cm.
Sinh thổ là đất sét màu nâu đỏ sẫm.
Di tích phát hiện được là mộ táng, hố cột, vết tích lò. Mộ giai đoạn văn hóa Đông Sơn có 3 mộ và 1 mộ thuộc giai đoạn văn hóa Đồng Đậu. Mộ táng giai đoạn Đông Sơn ở di chỉ Đại Trạch là những mộ giàu có. Hiện vật trong mộ đều là những hiện vật Đông Sơn điển hình, bóng dáng của những hiện vật Hán trong những ngôi mộ này mờ nhạt hoặc không có. Ngoài những hiện vật được chôn làm đồ tùy táng, còn phát hiện được những mảnh vỡ của những đồ đồng khác, những mảnh đồng này được chôn một cách có chủ ý. Liên hệ với hiện tượng phát hiện trong trống đồng Cổ Loa I, có thể những hiện vật này là nguyên liệu để đúc đồ đồng. Như vậy, phải chăng chủ nhân của những ngôi mộ này cũng là những người thợ đúc đồng?
Hiện vật văn hóa Đông Sơn: Đồ đồng (1 họng giáo, 4 giáo, 8 rìu, 2 đục). Ngoài ra còn có dùi, lưỡi câu và nhiều mảnh đồng vỡ. Đồ đá (2 chiếc khuyên tai); đồ gốm: ngoài đồ gốm tìm được trong mộ, trong tầng văn hóa cũng tìm được nhiều mảnh gốm thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn. Tuy nhiên, số lượng rất ít và chỉ tồn tại ở những lớp đất trên (LI-1, 2, 3). Đó là những mảnh gốm Đường Cồ phân biệt dễ dàng với đồ gốm giai đoạn văn hóa Đồng Đậu.
Hiện vật giai đoạn văn hóa Đồng Đậu:
+ Đồ đồng 68 hiện vật gồm 4 búa tán, 4 đục, 2 dao xén, 6 lưỡi câu, 10 mũi khoan, 5 mũi tên, 2 giáo/lao, 2 rìu và nhiều hiện vật khác dựa vào hình dáng được gọi là dao, nạo, chuôi vũ khí, vũ khí, đục vũm...
+ Đồ đá gồm 2 bôn tứ giác, 1 chì lưới, 12 mảnh khuôn đúc đồng. Ngoài ra còn có bàn mài, hòn ghè, chày nghiền, đá nguyên liệu..,và đồ trang sức (2 vòng tay, 2 hạt chuỗi).
+ Đồ xương: 2 chiếc bùa đeo
15
+ Đồ gốm gồm 81 bi gốm, 3 dọi xe chỉ, 1 bàn đập, 1 nồi, 5 mảnh nồi nấu và rót đồng cùng nhiều mảnh gốm vỡ mang đặc trưng văn hóa Đồng Đậu. Ở lớp trên (LI) có một số mảnh mang đặc trưng của đồ gốm văn hóa Gò Mun.
Các tác giả báo cáo kết quả khai quật di chỉ Đại Trạch năm 2001 đã đưa
ra nhận xét như sau:
+ Đại Trạch là một di chỉ thuộc văn hoá Đồng Đậu rất điển hình. Văn
hoá Đồng Đậu ở đây có thể chia thành hai giai đoạn phát triển.
- Giai đoạn 1 biểu hiện những đặc trưng nổi trội nhất của văn hoá Đồng Đậu. Kỹ thuật đúc đồng phát triển, các khuôn đúc đồng, mảnh nồi nấu đồng đều phát hiện được ở lớp văn hoá LII. Bộ đồ đồng đặc trưng cho văn hoá Đồng Đậu đã định hình, đó là búa tán, mũi tên cánh én, lao hình lá, dao khắc, nạo? Về đồ gốm nét nổi bật nhất là những mô típ hoa văn đẹp nhất của kỹ thuật tạo hoa văn băng que nhiều răng xuất hiện ở giai đoạn này.
- Giai đoạn 2 có sự phát triển vượt trội về số lượng đồ đồng, cũng như số lượng đồ gốm được biểu hiện bởi số mảnh gốm thu được. Giai đoạn 2 đánh dấu một sự chuyển biến về nhiều mặt. Một số loại miệng đồ gốm chỉ thấy ở lớp văn hoá LI, màu sắc của đồ gốm cũng thay đổi, tiêu biểu là nhóm miệng gốm đỏ cứng. Số lượng hiện vật nhiều, biểu hiện cho đời sống kinh tế phong phú. Ở giai đoạn này cũng thấy những yếu tố của sự giao lưu với những vùng xa xôi như vùng sông Mã, sông Chu ở Thanh Hoá được biểu hiện ở một số kiểu dáng đồ gốm cùng hoa văn trang trí.
- Trong giai đoạn 2 cũng có thể phân thành hai giai đoạn nhỏ, giai đoạn 2a có thể tính từ lớp LI-6 đến lớp LI-4, giai đoạn 2b là ba lớp đất trên cùng. Ở giai đoạn 2b bắt đầu manh nha xuất hiện những yếu tố của giai đoạn văn hoá muộn hơn - văn hoá Gò Mun. Những mảnh gốm kiểu Gò Mun xuất hiện, màu sắc của loại gốm đỏ cứng sẽ là đặc trưng sau này của đồ gốm Gò Mun. Đây là một trong những minh chứng cho sự ra đời của văn hoá Gò Mun là từ trong lòng văn hoá Đồng Đậu [67: tr.167 - 171].
+ Cư dân Đồng Đậu ở di chỉ Đại Trạch cư trú trên nhà sàn, với những hố dày đặc trong tất cả các lớp đất là minh chứng cho điều này. Kết quả phân tích bào tử phấn hoa cũng cho thấy với môi trường đầm lầy ẩm ướt người thời đó phải chọn cách cư trú trên nhà sàn. Với những tài liệu hiện biết, chúng ta chưa có tài liệu về kỹ thuật làm nhà sàn ở đây, nhưng với những bằng chứng của các hố cột thì có thể nhận thấy nhà sàn được sửa chữa nhiều lần với các hố cột
16
chằng chịt. Khu vực này hiếm đá nên người ta phải chèn cột bằng những cục đất nung hoặc đất sét. Để tăng sức bền người ta chôn hai ba cột chụm lại một chỗ.
+ Nhiều hiện tượng có liên quan đến lò hay bếp lò đã được phát hiện. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn chưa xác định được chức năng của những di tích này. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là cư dân giai đoạn văn hóa Đồng Đậu ở Đại Trạch nói riêng hay cư dân Đồng Đậu nói chung đã có những hoạt động kinh tế khá phong phú, hiểu được những hiện tượng khảo cổ học này sẽ giúp chúng ta đánh giá được trình độ kinh tế xã hội của giai đoạn văn hoá Đồng Đậu.
+ Ở di tích Đại Trạch là những ngôi mộ táng F8 và F13 thuộc về giai đoạn văn hoá Đông Sơn. Nhìn lại những ngôi mộ do nhân dân phát hiện ngẫu nhiên và các ngôi mộ khai quật được chúng ta đều nhận thấy đây là những ngôi mộ Đông Sơn giàu có, có những ngôi mộ rất giàu như ngôi mộ F8. Những hiện vật thu được trong mộ đều là những hiện vật Đông Sơn rất điển hình, bóng dáng của những hiện vật Hán trong những ngôi mộ này mờ nhạt hoặc hầu như không có. Ở hai ngôi mộ F8 và F13, ngoài những hiện vật được chôn làm đồ tuỳ táng, chúng tôi còn tìm được những mảnh vỡ của những đồ đồng khác, những mảnh này được chôn một cách có chủ ý. Liên hệ với hiện tượng phát hiện trong trống Cổ Loa I, có thể cho rằng những mảnh đồng này là nguyên liệu để đúc đồ đồng.
Đáng chú ý, kết quả nghiên cứu cuộc khai quật năm 2001 đã cung cấp cho giới khảo cổ học 2 mẫu niên đại tuyệt đối về lớp văn hoá Đồng Đậu. Tuổi của 2 mẫu niên đại rất phù hợp với các di tích Đồng Đậu phát hiện ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ [67: tr.167 - 171].
Với mục đích tiếp tục tìm hiểu về tính chất văn hóa, diện phân bố các di chỉ khảo cổ học thuộc giai đoạn đồng thau - sắt sớm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Thực hiện Quyết định số 108/QĐ-SVHTTDL, ngày 15/05/2013 của Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh về việc cho phép Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học khai quật khẩn cấp di chỉ Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học khai quật lần thứ 2 di chỉ Đại Trạch theo với diện tích 135m2 (18m x 7,5m) [63] (ảnh 3 - 4).
17
Kết quả khai quật cho thấy tầng văn hóa dày từ 40cm đến 60cm, đất mềm màu đen ken dày đồ gốm, đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, xương răng động vật và than tro... Sinh thổ là đất sét màu nâu đỏ sẫm, màu vàng xám (ảnh 9 - 12).
Đợt khai quật năm 2013 đã thu được một số lượng hiện vật khá phong
phú, bao gồm:
+ Đồ đá: 79 hiện vật gồm 2 rìu, 1 vòng, 2 hạt chuỗi, 1 đục?, 1 lưỡi cưa,
51 bàn mài, 23 hòn nghiền...
+ Đồ gốm gồm 3 chì lưới, 3 tượng đất nung, 91 thỏi đất nung, 3 dọi xe chỉ, 34 bi gốm, 8.762 cục đất nung, 13 bàn xoa, 313 khuôn đúc đồng?... và 34.798 mảnh gốm.
+ Đồ đồng có 1 lưỡi câu, 4 dây đồng, 80 cục xỉ đồng.
+ Đồ sắt với 1 tiêu bản.
Ngoài số hiện vật trên, các nhà khảo cổ còn thu được nhiều xương động vật và vỏ nhuyễn thể, trong đó có 345 mảnh xương động vật gồm các loài họ mèo, hươu, nai, trâu, bò v.v..
Cùng với kết quả đợt khai quật năm 2001 thì lần khai quật thứ hai năm 2013 đã góp thêm tư liệu, khẳng định di chỉ Đại Trạch thuộc giai đoạn văn hóa Đồng Đậu, lớp trên của di chỉ đã bắt đầu có sự chuyển biến sang giai đoạn văn hóa Gò Mun.
- Giai đoạn 1: là giai đoạn biểu hiện những đặc trưng nổi trội nhất của văn hóa Đồng Đậu. Kỹ thuật đúc đồng phát triển, các mảnh khuôn đúc đồng, mảnh nồi nấu đồng đều phát hiện được ở lớp văn hóa sớm. Về đồ gốm nổi nét nhất là những mô típ hoa văn đẹp nhất của kỹ thuật tạo hoa văn băng que nhiều răng xuất hiện ở giai đoạn này.
- Giai đoạn 2: có sự phát triển vượt trội về số lượng mảnh xỉ đồng, cũng như số lượng đồ gốm thu được. Giai đoạn này xuất hiện những yếu tố của giai đoạn văn hóa Gò Mun. Những mảnh gốm kiểu Gò Mun xuất hiện với những loại hình miệng và hoa văn trang trí mang đặc trưng của đồ gốm Gò Mun. Đây là một trong những minh chứng cho sự ra đời của văn hóa Gò Mun từ trong lòng văn hóa Đồng Đậu.
Yếu tố văn hóa Đông Sơn, giai đoạn Đường Cồ ở lần khai quật này được phát hiện tuy số lượng không nhiều, nhưng góp phần khẳng định cư dân
18
Đại Trạch xưa đã cư tụ tại đây từ giai đoạn văn hoá Đồng Đậu, phát triển qua giai đoạn Gò Mun đến văn hoá Đông Sơn [59,tr.140 - 141; 63].
Tóm lại, qua các đợt đào thám sát và khai quật, các nhà khảo cổ đã phát
hiện một số lượng di tích, di vật rất phong phú.
Căn cứ vào kết quả khai quật và nghiên cứu, bước đầu các nhà nhận định Đại Trạch là một di chỉ thuộc văn hóa Đồng Đậu điển hình có giai đoạn chuyển tiếp lên văn hóa Gò Mun và có sự hiện diện của khu mộ táng thuộc văn hóa Đông Sơn.
Kết quả nghiên cứu di chỉ Đại Trạch đã bước đầu được công bố trong một số Hội nghị thông báo Khảo cổ học thường niên của Ngành Khảo cổ học và được in trong Kỷ yếu Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1999, 2002, 2013. Ngoài ra, 2 báo cáo kết quả khai quật di chỉ Đại Trạch năm 2001 và 2013 được lưu giữ tại Thư viện Viện Khảo cổ học.
Điều đáng lưu ý là trong các công bố nói trên, việc nghiên cứu về chủ nhân, đời sống, về mối quan hệ văn hoá của cư dân Đại Trạch xưa với các cư dân lân cận ít được đề cập đến. Trong bản luận văn này, ngoài việc hệ thống hoá tài liệu khảo cổ học, chúng tôi sẽ cố gắng đề cập đến vấn đề nêu trên.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Di chỉ khảo cổ học Đại Trạch là di chỉ cư trú - mộ táng thuộc thời đại Kim khí ở Việt Nam, nằm tại thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Di chỉ phát hiện năm 1990, năm 1999 di tích được thám sát, năm 2001 là cuộc khai quật lần thứ nhất; năm 2013, di chỉ được khai quật lần thứ 2. Tổng diện tích thám sát và khai quật là 203m2..
Qua các đợt đào thám sát và khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện một số lượng di tích, di vật rất phong phú và đã được công bố bước đầu trên các ấn phẩm chuyên ngành.
Qua quá trình khai quật và nghiên cứu, các nhà nghiên cứu nhận định đây là một di chỉ thuộc văn hóa Đồng Đậu điển hình có giai đoạn chuyển tiếp lên văn hóa Gò Mun và có sự hiện diện của khu mộ táng thuộc văn hóa Đông Sơn.
19
Những di tích, di vật phát hiện ở di chỉ Đại Trạch đã góp phần làm sáng tỏ hơn không gian văn hóa của văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun và văn hóa Đông Sơn ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.
20
CHƯƠNG 2: DI TÍCH VÀ DI VẬT
Căn cứ vào kết quả các đợt đào thám sát và khai quật, về cơ bản chúng ta thấy thống nhất của các loại hình di tích và di vật. Tuy nhiên, kết quả các cuộc khảo sát và khai quật có sự khác nhau đôi chút về cấu tạo địa tầng, về số lượng di tích, di vật.
2.1. Cấu tạo tầng văn hóa
2.1.1. Cấu tạo địa tầng các hố thám sát, khai quật
+ Địa tầng hố thám sát năm 1999
- Lớp I: dày 34cm, có nơi chỉ dày 22cm, đất màu đen, mềm, ẩm. Trong
tập trung nhiều mảnh gốm, đất nung, than tro, xương động vật.
- Lớp II: dày 30cm - 36cm, đất màu vàng xám, mềm, ẩm hơn lớp trên.
Trong có nhiều mảnh gốm, đất nung, than tro, xương động vật.
- Lớp III: đất màu nâu đốm vàng. Lớp này ngang với mặt nước ngầm nên rất ướt. Đây là lớp sát sinh thổ nên đất chuyển màu. Hiện vật gốm và đất nung giảm nhiều.
- Sinh thổ: đất sét màu vàng, quánh [66,tr.170-174]
+ Địa tầng hố khai quật lần thứ nhất năm 2001 (ảnh 5 - 6, bản vẽ 1 - 2)
- Lớp mặt: dày 10cm - 20cm, đất màu nâu tối. Thực chất đây cũng là
lớp đất của tầng văn hóa, trong lớp này cũng tìm được nhiều mảnh gốm.
- Tầng văn hóa chia thành hai lớp theo màu sắc đất:
* Lớp trên (LI): dày 40cm - 60cm, đất màu nâu tối, đất mềm.
* Lớp dưới (LII): đất màu đen hơi nâu, càng xuống gần sinh thổ đất càng đen. Trên mặt cắt vách Tây ô B5 có một dải đất mỏng, dày 1cm, màu nâu hơi vàng sẫm.
- Sinh thổ: đất sét màu nâu đỏ tối [67].
+ Địa tầng hố khai quật lần thứ hai năm 2013(ảnh 12, bản vẽ 3-4)
- Lớp mặt: dày 10cm - 20cm, đất màu nâu tối.
- Tầng văn hóa: dày 40cm - 60cm, đất mềm màu đen, ken dày mảnh
gốm, đồ đất nung, đồ đá, hiện vật đồng, sắt, xương răng động vật...
21
- Sinh thổ: đất sét màu nâu đỏ sẫm, màu vàng xám [49, tr.140-141].
2.1.2. Đặc điểm chung về địa tầng di tích Đại Trạch
Theo tác giả luận văn, địa tầng ở di chỉ Đại Trạch có đặc điểm chung
như sau:
- Lớp mặt: dày 10cm - 20cm, đất màu nâu tối, lẫn mảnh gốm, đất nung, đồ đồng, đồ sắt, xương răng động vật, than tro... và di tích mộ táng thuộc giai đoạn Đông Sơn. Sở dĩ có hiện tượng này vì cư dân trong quá trình canh tác, làm nhà... đã bóc mất lớp đất mặt. Do vậy, lớp này được coi là lớp trên của tầng văn hóa.
- Tầng văn hóa: dày 30cm - 60cm, đất mềm màu đen, đen hơi nâu, vàng xám, vàng xanh ken dày mảnh gốm, đất nung, đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, xương răng động vật, than tro... và di tích mộ táng giai đoạn Đồng Đậu, Đông Sơn.
- Sinh thổ: đất sét màu nâu đỏ sẫm, màu vàng xám.
2.2. Di tích
2.2.1. Di tích động vật, thực vật
2.2.1.1 Di tích động vật
Di cốt động vật là một trong những bằng chứng phản ánh nguồn dinh dưỡng, cũng như trình độ phát triển văn hóa - kinh tế của cộng đồng cư dân cổ ở đây. Cuộc khai quật năm 2013 phát hiện di cốt động vật phân bố ở cả 5 lớp đào. Tuy nhiên, số lượng không nhiều, nhưng tỷ lệ những mảnh xương còn đặc điểm có thể giám định được loài chiếm tỷ lệ khá cao 35,5%. Xương cốt động vật phân bố theo số lượng cũng như thành phần loài tập trung ở các lớp giữa tầng văn hóa, số liệu này có thể phản ánh phần nào sự phát triển của khu vực trong mối tương quan với các giai đoạn văn hóa của di tích (Bảng 1). Sự thay đổi số lượng xương cốt động vật ở các giai đoạn văn hóa cho thấy nguồn dinh dưỡng cho cuộc sống hàng ngày của cư dân Đại Trạch cổ có sự thay đổi nhất định.
Theo nhận định của các nhà nghiên cứu: “ Về thành phần loài động vật, các nhóm thú ăn cỏ như trâu,bò, hươu nai, lợn có tỷ lệ lớn. Như vậy, có thể chúng đóng vai trò quan trọng trong nguồn thực phẩm của cư dân Đại Trạch cổ. Đây cũng là đặc điểm chung của cư dân văn hóa thời kỳ đồng thau là sự tập trung săn bắt/bắn các nhóm thú lớn - trung bình có khả năng cung cấp nhiều lượng thịt. Ngoài ra có thể đã có sự thuần hóa ban đầu?. Bên cạnh đó
22
cư dân cổ Đại Trạch cũng khai thác nguồn lợi sinh vật từ môi trường sông hồ, đầm lầy quanh khu vực như cá, rùa...
So với các di chỉ thuộc văn hóa Đồng Đậu giai đoạn sớm, ở Đại Trạch không có nhiều công cụ xương. Chỉ có 3 mảnh ngà voi, các mảnh ngà voi này có thể là mảnh vòng vỡ. Những hiện vật này được cắt ngang thân ngà, dày từ 1,5cm - 3cm. Sự vắng mặt công cụ xương phần nào cho thấy trình độ phát triển sản xuất đồ đồng của cư dân cổ ở đây” [45, tr.141 - 142].
Bảng 1: Tổng hợp kết quả giám định và số lượng di cốt động vật.
[45, tr.141 - 142]
Lớp khai quật 1 2 3 4 5 Tổng
Phân loại
Lớp thú - Mammalia 2 4 5 2 5 8 6 4 5 1 222
Họ người - Hominidae
Người - Homo sapiens 4 2 3 1 10
Họ mèo - Felidae
Mèo? - Felis sp. 1 1
Họ hươu - Cervidae
4 Hươu - Cervus sp. 1 6 5 16
Nai - Rusa unicolor 1 1
Họ sừng gẫy - Bovidae
Trâu/bò - Bovidae 3 6 5 9 23
Họ lợn - Suidae
1
Lợn - Sus sp. 1 1 1 4 0 3 8 46
23
Họ tê giác Rhinocerotidae
Loài tê giác Rhinoceros sp. 1
Họ voi-Elephantidae
Voi châu á - Elephas maximus 3 1 1 5
Lớp cá vây tia - Actinopterygii 2 1 3
Bộ Rùa - Testudinata 4 3 5 5 17
3 345 Tổng 3 6 8 12 1 5 8 0 2
2.2.1.2 Di tích thực vật
Dựa theo kết quả phân tích tại phòng thí nghiệm Viện Địa Chất, Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, tác giả Nguyễn Mai Hương cho rằng:
“Dựa trên màu sắc và thành phần của trầm tích trong địa tầng là sét, sét bột, các hạt mịn có màu xám sẫm, xám đen có lẫn nhiều tàn tích thực vật và than bùn chúng tôi cho rằng đây là những trầm tích có tuổi thuộc địa tầng Hải 1-2(khoảng 4.000 - 6000 năm cách ngày nay). Duy chỉ có mẫu kí hiệu Hưng QIv sinh thổ(8)ĐT có thành phần sét bột và cát biển màu vàng. Rất tiếc thành phần bào tử phấn hoa thu được ít không thể thành lập được sơ đồ phổ phấn. Đặc biệt, số lượng bào tử tìm được rất ít, có thể do môi trường đầm lấy nước mặn không phù hợp cho điều kiện sống của loài cây này. Tuy vậy, các hạt phấn và bào tử thu được đều thuộc các loài thực vật nhiệt đới, ưa nóng ẩm.
- Sự có mặt phong phú của các loài tảo nước lợ ở các mẫu có kí hiệu L1(3)ĐT trên, L1(3)ĐT dưới, L2(4)ĐT, L2(7)ĐT, tảo nước mặn và Foramifera (Trùng lỗ) ở mẫu có kí hiệu sinh thổ(8)ĐT chứng tỏ môi trường của khu vực là môi trường đầm lầy nước lợ ven biển (Nguyễn Mai Hương, 2003, kết quả phân tích bảo tử phấn hoa di tích Đại Trạch (Đình Tổ, Thuận Thành, Bắc Ninh)”. [61: tr.360 - 362].
24
Bảng 2: Kết quả phân tích bảo tử phấn hoa di chỉ Đại Trạch (xã Đình Tổ,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) [61: tr.360 - 362].
1. Mẫu kí hiệu L1(2)(ĐT)
Taxodium sp. 3 hạt Bụt mọc
Poaceae gen indet. 3 hạt Hoà Thảo
Chenopodiaceae gen indet. 2 hạt Rau Muối
Quercus sp. 2 hạt Họ Dẻ
Palmae gen indet. 1 hạt Họ Cau dừa
Fabaceae gen indet. 1 hạt Họ Đậu
2. Mẫu kí hiệu L1(2)ĐT
Taxus sp. 2 hạt Thông Đỏ
Tadodium sp. 1 hạt Họ Bụt Mọc
Poaceae gen indet. 1 hạt Họ Hoà Thảo
Tảo nước lợ
3. Mẫu kí hiệu L1(3)ĐT dưới
Palmae gen indet. 3 hạt Họ Cau Dừa
Poaceae gen indet. 2 hạt Họ Hoà Thảo
Chenopodium sp. 1 hạt Họ Rau Muối
Tảo nước lợ
4. Mẫu kí hiệu L2(4)ĐT
Polypodium sp. 1 hạt Họ Dương Xỉ
Irix sp. 1 hạt Họ Lay ơn
25
Họ Thiên Tuế Cycas sp. 1 hạt
Họ Thông Đỏ Taxus sp. 3 hạt
Họ Bụt Mọc Taxodium sp. 4 hạt
Họ Hoà Thảo Poaceae gen indet. 2 hạt
Tảo nước lợ
5. Mẫu kí hiệu L2(7)ĐT
Họ Dương Xỉ Polypodium sp. 2 hạt
Họ Bụt mọc Taxodium sp. 2 hạt
Họ Hoà thảo Poaceae gen indet. 3 hạt
Họ Đỗ quyên Ericaceae gen indet. 1 hạt
Tảo nước lợ
6. Mẫu kí hiệu: Sinh thổ(8) ĐT
Họ Dương xỉ Gleichenia sp. 2 hạt
Họ Dương xỉ Polypodium sp. 1 hạt
Foramifera (Trùng lỗ)
Tảo nước mặn, nước lợ
2.2.2. Di tích mộ táng
Cuộc khai quật năm 2001 phát hiện 4 di tích mộ táng thuộc hai giai đoạn văn hóa khác nhau đó là 1 mộ thuộc giai đoạn văn hóa Đồng Đậu và 3 mộ thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn:
+ Giai đoạn văn hóa Đồng Đậu: 1 mộ.
26
- Mộ 4 (ký hiệu F12) nằm trong ô C5, D5. Huyệt mộ hình gần chữ nhật, một đầu rộng hơn, một đầu hẹp hơn, dài 210cm, rộng 60cm - 75cm, sâu so với mặt đất hiện tại 70cm. Căn cứ vào mảnh xương sọ còn lại đầu di cốt hướng Đông Bắc, chân di cốt hướng Tây Nam. Mộ nằm ở độ sâu khoảng 40cm, đáy mộ sâu 90cm. Hiện vật trong mộ có 3 cụm gốm, một ở phần ngực, một ở khoảng tay phải và cụm còn lại ở khoảng chân. Tuy nhiên, do tất cả đều vỡ nát nên không phục nguyên được. Đất trong mộ màu nâu hơi vàng, lẫn rất nhiều than tro.
+ Giai đoạn văn hóa Đông Sơn: 3 mộ.
- Mộ 1 (ký hiệu F5) nằm trong ô C4, D4. Sau khi bóc hết lớp mặt thấy ô C4 có một vùng đất xáo trộn do bị đào bới dài 140cm, rộng 96cm, sâu 35cm - 55cm. Trong đó có một chỗ đào sâu hơn, hình gần bầu dục, dài 50cm, rộng 35cm, sâu 71cm. Trong hố này có 1 mảnh vòng đồng, 1 mảnh đồng ở độ sâu 55cm; xương và răng người ở độ sâu 49cm - 71cm. Sau khi làm sạch mặt bằng khu vực hố đào đã xuất lộ biên mộ. Biên mộ hình gần chữ nhật, hướng Đông Bắc - Tây Nam, đầu Đông Bắc hẹp, cong hình cung. Đầu Tây Nam rộng hơn, một bên cong vát. Huyệt mộ rộng 50cm - 75cm, dài 150cm.
- Mộ 2 (ký hiệu F8). Khi đào tới độ sâu 40cm tại ô B2 phát hiện một hố rộng 60cm, dài 80cm, sâu 65cm - 71cm. Trong hố phát hiện được mảnh đồng và mảnh xương sọ vỡ. Mộ nằm trong ô B2 và B3, đồ tùy táng gồm: 2 nồi gốm đặt ở phần đầu và chân, khuyên tai đá ở phần cổ. Đồ đồng được đặt dọc thân người gồm 3 giáo, 3 rìu, 2 đục, 1 lưỡi câu. Huyệt mộ hình chữ nhật, đầu mộ hướng Đông Nam, chân mộ hướng Tây Bắc.
Huyệt mộ có ba lớp đất có màu sắc khác nhau. Lớp ngoài cùng hình chữ nhật, có kích thước lớn nhất, dài 295cm, rộng 102cm, biên rộng 10cm - 20cm, đất màu đen. Đầu huyệt tương đối vuông vức, phía chân huyệt cắt vào một hố cột to của tầng văn hóa, một góc huyệt lõm hình cung. Vách huyệt phía Bắc cắt 3 hố cột nhỏ. Đáy huyệt cũng là đáy mộ nằm trên lớp sinh thổ, sâu 76cm. Lớp thứ hai hình chữ nhật thu hẹp hơn, dài 285cm, rộng 75cm, biên rộng 6cm - 10cm, đất màu nâu hơi vàng. Lớp trong cùng hẹp nhất, dài 270cm, rộng 60cm, bề rộng của lớp này đồng thời là trong lòng của huyệt mộ. Đất màu nâu hơi vàng (ảnh 13, bản vẽ 14).
Căn cứ vào mặt cắt và hiện tượng huyệt mộ có 3 lớp đất có thể nghĩ tới ngôi mộ này có quan tài là thân cây khoét rỗng. Đáy huyệt cong lõm ở giữa
27
thích ứng với quan tài có mặt cắt ngang hình tròn. Lớp đất ngoài cùng của huyệt mộ là đất của tầng văn hóa, lớp đất thứ hai có thể lẫn với vật chất của thân cây làm quan tài đã bị mục nát. Lớp đất trong cùng lẫn vật chất từ cơ thể người chết.
Toàn bộ di cốt và đồ tuỳ táng đều nằm ở độ sâu từ 60cm - 70cm. Như trên đã trình bày đây là một ngôi mộ đã bị đào trộm, nên từ phần xương sọ tới phần xương ngực bị phá hủy nhiều, vị trí xương không đúng với vị trí giải phẫu. Từ phần bụng trở xuống xương còn khá tốt. Người chết được chôn nằm thẳng, hai tay duỗi thẳng dọc thân, hai bàn chân để sát nhau.
- Mộ 3 (ký hiệu F13), nằm trong ô D1, 2. Huyệt mộ hình chữ nhật, dài khoảng 270cm, rộng khoảng 80cm - 100cm, sâu 70cm. Đầu mộ hướng Đông Bắc, chân mộ hướng Tây Nam. Mặt cắt ngang mộ thể hiện trên vách Bắc cho thấy huyệt mộ cũng có 3 lớp như huyệt Mộ 2. Lớp ngoài cùng có vách gần thẳng, đáy lệch về một bên, cong lõm về phía bên lệch. Lớp giữa có vách gần thẳng, một bên vách trùng với vách của lớp ngoài cùng, đáy cong lõm ở giữa, trùng với đáy của lớp ngoài cùng. Lớp trong cùng hai vách xiên dần xuống đáy, đáy cong đều. Mộ 3 cũng có khả năng là mộ quan tài thân cây khoét rỗng. (ảnh 14, bản vẽ 15)
Di cốt còn khá nguyên vẹn, riêng xương sọ bị nhân công vô tình đào mất phần mặt, xương bàn chân không thấy. Người chết được đặt nằm ngửa, hai tay, hai chân duỗi thẳng, bàn tay đặt ở phần bụng. Đồ tuỳ táng gồm: 2 giáo, 3 rìu và nhiều mảnh đồng vỡ.
Các ngôi mộ Đông Sơn đều là những ngôi mộ rất giàu. Ngoài số hiện vật tìm được trong cuộc khai quật, đoàn khai quật còn được biết những hiện vật bị đào trộm có thố, thạp, tấm che ngực, trống minh khí [65; 67].
2.2.3. Các loại hình di tích khác
+ Lò nung: Xuất lộ trong lớp I cho đến mặt lớp II. Đó là một vùng đất tập trung rất nhiều đất nung đỏ và đất sét vàng chồng lên nhau thành cụm lớn. Không có hình dáng rõ ràng. Xung quanh cụm đất này cũng có nhiều đất nung và đất sét vàng. Trong cụm đất và xung quanh có nhiều than tro. Chúng tôi cho rằng có nhiều khả năng là vết tích của lò nung. Tuy nhiên, lò nung này để nung gì thì chưa thể xác định được (ảnh 15).
28
+ Bếp: Là một vùng đất đen lẫn nhiều than tro, một phần còn nằm trong vách nam và vách tây. Trong di tích này thu được mảnh gốm, xương trâu bò. Di tích có khả năng là bếp [66, tr.170 - 174].
+ Di tích chưa xác định:
Theo nhà khảo cổ học Nishimura Masanari cho biết, trong hố khai quật năm 2001, xuất hiện nhiều khối đất màu vàng hay nâu đỏ phân bố rải rác ở mặt bằng hố, có khối đã qua lửa nhưng chưa xác định được chúng là gì. Sau khi đào xuống đến lớp 1- 4, mới xác định được là hố cột. Tại lớp 2-1, thấy nhiều hố cột ở khu vực phía Tây, hàng cột xếp theo đường vuông góc. Cấu trúc lò F16 ở ô B4 không rõ hàng cột hình vuông góc và lò F16 tồn tại đồng thời hay không.
“Khu vực phía Tây lớp 2-2, cụm hố cột được xếp hàng thành hình vuông. Tại đáy hố cột góc phía Đông Nam, có một đồ trang sức hình giọt nước có lỗ bằng đá ngọc (nepherite). Đồ trang sức này có thể do con người cố ý chôn trong hố cột. Khu vực phía Đông của hố cũng thấy những hố cột xếp hàng theo đường vuông góc, quy mô to hơn và phức tạp hơn. Tại lớp 2.3, mặt bằng lớp đào cuối cùng, vẫn xác định được hố cột và các cấu trúc khác nhưng số lượng hố cột ít hơn lớp trước. Trong đó, có một hố (đường kính 32cm, sâu 7cm) chứa đất sét màu đen do nhiều than ở ô B2. Trong đất sét màu đen đó thấy một chiếc búa đồng. Trường hợp này được lý giải rằng búa đồng được cố ý chôn trong hố. Hiện nay những trường hợp phát hiện đồ đồng trong di chỉ cư trú chưa được quan sát kỹ. Như trường hợp búa đồng này chắc phải có hiện tượng khảo cổ học liên quan. Nếu không có hiện tượng liên quan, phải giải thích rằng những đồ đồng ấy được để trên mặt bằng cư trú và tự nhiên lớp đất phủ lên.
- Cấu trúc F16 và F19: Tại ô F16 khoảng 1m2, ở ô B4 của lớp 2-2, khu F19 và khu phía Tây của lớp 2-3, xuất hiện một loại cấu trúc khảo cổ học khó lý giải. Cấu trúc này do mấy hố kết hợp với những khối đất qua lửa và đất màu vàng cứng.
Nhìn chung, cấu trúc này có 2 phần trên và dưới. Còn cấu trúc trên của F19 được chia thành 2 phần, một là dùng đất sét màu vàng hay nâu làm mép ngoài hố. Có chỗ qua lửa có màu đỏ. Vì bị mấy hố cột từ lớp trên ăn vào không xác định được mép hố chính xác, nhưng mép hố hình gần tròn có mấy hố liền nhau. Phần thứ hai là đất bên trong mép hố. Phần lớn đất bên trong
29
hố màu xám đen chứa nhiều than tro. Do có khối đất màu đỏ và màu vàng hay lớp than tro lẫn vào nên được chia thành mấy lớp nhỏ. Đất màu đỏ và màu vàng, nhiều khi qua lửa, phân bố ở lớp trên và thành hố. Trong đó, có mảnh đất bở màu đỏ có mấy lỗ nhỏ. Ở cấu trúc dưới thấy nhiều hố liền nhau. Nhiều hố có độ sâu hơn 40cm - 50cm và trong các hố cũng xác định được hố nhỏ. Còn xung quanh hố có mấy chỗ than tro tập trung. Về chức năng của những cấu trúc này rất khó đoán. Vì có hiện tượng nhiều than tro và qua lửa” [63, tr.226 - 231] (ảnh 7, bản vẽ 11 - 13).
2.3. Di vật
2.3.1. Đồ đá
2.3.1.1. Nguyên liệu
Cư dân Đại Trạch sử dụng nhiều loại nguyên liệu và chất liệu đá khác nhau để làm công cụ như: đá bazalt, diabazer, nepherite, quartzite, spilite, sa thạch và cuội sông. Cư dân Đại Trạch không những biết lựa chọn các loại đá tốt mà đã có ý thức sử dụng từng loại đá sao cho thích hợp với từng loại công cụ hay đồ trang sức. Ví dụ, đá bazalt được sử dụng chế tác công cụ có kích thước lớn như rìu, bôn; đá nepherite chủ yếu để chế tạo đồ trang sức; sa thạch cát kết sử dụng làm bàn mài. Phải nói thêm rằng đá nepherite còn được sử dụng làm rìu, bôn có kích to, vừa và nhỏ. Như vậy, rõ ràng người Đại Trạch phải biết rõ các thuộc tính của từng loại đá thì mới có thể sử dụng chúng để chế tác từng loại công cụ thích hợp. Tất nhiên, không loại trừ khả năng cư dân Đại Trạch đã sử dụng một số loại hình công cụ hay đồ trang sức do quá trình giao lưu trao đổi mà có.
Đá sa thạch (gress) màu nâu với các độ mịn hạt khác nhau dùng sản xuất ra các loại hình cưa đá, bàn mài rãnh, mài trong hay mài bằng… Trong số các di vật này đáng chú ý hơn cả là hệ thống lưỡi cưa đá, chúng được tạo ra bằng đá sa thạch mịn hạt, được mài rất mỏng, rìa lưỡi sử dụng rõ rệt, có những lưỡi cưa kích thước rìa lưỡi dài hơn 5cm, nhưng cũng có những lưỡi cưa chỉ dài và rộng 1cm, được sử dụng rõ rệt với các đường xước nhỏ, chạy đều đặn theo bề ngang rìa lưỡi.
Cho đến nay, chúng ta chưa biết người Đại Trạch khai thác đá ở đâu để làm công cụ. Phải chăng người Đại Trạch lấy nguyên liệu từ các vỉa cuội có sẵn ở địa phương. Những vỉa cuội có sẵn ở vùng sông Đuống. Tất nhiên, việc lựa chọn nguồn cuội tại chỗ - một loại nguyên liệu dễ chế tác, có độ rắn cao,
30
có nhiều màu sắc đẹp, không nằm ngoài chủ đích trong việc lựa chọn nguyên liệu để chế tạo công cụ. Việc sử dụng đá spilite là loại đá cứng (độ cứng xấp xỉ 7 trong cương giai Mohs) thích hợp cho việc chế tạo công cụ có kích thước lớn như rìu, bôn, vòng, trang sức. Cư dân Đại Trạch không phải là người đầu tiên nhận biết về tính năng của loại đá này mà cư dân thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên đã biết sử dụng loại đá này để chế tạo ra nhiều loại công cụ khác nhau.
Đá ngọc hay đá nepherite cơ bản là dạng tremolite ở dạng ẩn tính, hạt rất mịn (có độ cứng 6 theo cương giai Mohs). Ưu điểm của loại đá này nó vừa cứng lại vừa dẻo, thích hợp với chế tạo các công cụ có quy mô vừa và nhỏ như rìu, bôn, đục, vòng đeo tay, khuyên đeo tai, hạt chuỗi. Ở góc độ địa chất sự hình thành đá jade (nepherite) đòi hỏi có những kiến tạo sâu và lâu dài trong lòng những dãy núi đá vôi, với một nhiệt độ thích hợp rất cao, tới 700 - 8000C. Khi đã hình thành, loại đá này không dễ khai thác lộ thiên trên bề mặt trái đất, trừ những vùng có nguồn đá phun trào sau núi lửa và do đó đá jade tìm thấy trong các di chỉ, cho thấy tuyệt đại đá số nguyên liệu khai thác là đá gốc [51, tr.66]. Những bằng chứng tìm thấy nguồn đá jade hình thành hàng vạn năm trước nằm trong các vùng núi đá vôi, trong những điều kiện địa lý đặc biệt của vỏ trái đất tại khu vực ven biển Đông thuộc Đài Loan (Trung Quốc) [ 52].
Đá nepherite được sử dụng rộng rãi trong văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn để chế tác nhiều loại rìu, bôn, đục với quy mô kích thước vừa và nhỏ, nhất là các loại đồ trang sức. Đặc biệt, chúng ta còn phát hiện một số công xưởng chế tạo đá nepherite với quy mô khá lớn, như Bãi Tự (Bắc Ninh), Đông Lâm (Bắc Giang), Bồ Chuyến (Quảng Ninh), Tràng Kênh (Hải Phòng) [52]. Như vậy, cư dân Đại Trạch cũng như cư dân văn hóa giai đoạn Đồng Đậu với những công xưởng như Bãi Tự, Đông Lâm, Bồ Chuyến, Tràng Kênh đã khai thác nguồn đá nepherite ở đâu?. Liệu đó có phải là sản phẩm của quá trình giao lưu trao đổi với các cư dân khác trong khu vực?.
Cư dân Đại Trạch nhờ có đá cứng, màu sắc đẹp, bàn mài phong phú cả loại thô lẫn mịn, bàn mài phẳng, bàn mài lõm, bàn mài rãnh... cùng với khuôn đúc đã tạo ra nhiều loại hình công cụ, vũ khí và đồ trang sức tinh tế và đa dạng.
31
2.3.1.2. Kỹ thuật chế tác
Thông qua sưu tập di vật đá, có thể nhận thấy cư dân Đại Trạch có trình độ kỹ thuật chế tạo đồ đá rất tinh xảo. Ngay từ giai đoạn sớm đã có những hiểu biết rất sâu sắc về tính chất và đặc điểm của từng loại đá để chọn và chế tác từng loại công cụ, vũ khí, hay đồ trang sức phù hợp. Bên cạnh những công cụ đá được chế tạo bằng kỹ thuật đơn giản như ghè, đẽo thì cư dân Đại Trạch đã biết đến việc kết hợp các kỹ thuật cưa, cắt, mài, khoan, tu chỉnh ép trực tiếp… trong chế tác công cụ đá mài và đặc biệt là kỹ thuật khoan tách lõi trong chế tác vòng đá.
Các kỹ thuật cưa, khoan, cắt gọt, với sự hỗ trợ rất phổ biến của các thiết bị chế tạo bằng gỗ, tre, nứa. Ở Đại Trạch không tìm thấy những di vật hữu cơ này do chúng đã bị hủy hoại trong hàng nghìn năm trong nằm trong lòng đất. Điều này khiến chúng ta không thể biết đích xác hình thức, cấu tạo của chúng nhưng qua nghiên cứu dân tộc học so sánh có thể hình dung ra phần nào những bộ phận thiết bị hỗ trợ này.
Kỹ thuật tu chỉnh ép trực tiếp để tạo ra những mũi khoan bằng đá cứng jasper màu đỏ nâu hay màu vàng gan gà và kỹ thuật cưa đá. Tuy ở Đại Trạch không tìm thấy những mũi khoan nhưng dựa trên những công bố của Nguyễn Kim Dung cho chúng ta biết “…nguồn nguyên liệu đá này được khai thác từ cuội sông, suối. Với độ cứng tới 7/8 theo cương giai Mohs, những mũi khoan bằng đá này dường như đủ sức bền cho những thao tác kỹ thuật rất tinh xảo, trên những đối tượng nguyên liệu mềm hơn nó: khoan lỗ hạt chuỗi đá, khoan tách lõi vòng đá bằng phương pháp sử dụng bàn xoay tay... Thêm vào đó, việc sử dụng mũi khoan này thao tác trên đồ gỗ cũng rất phổ biến, hơn 2/3 số mũi khoan có dấu vết sử dụng trong cuộc khai quật Tràng Kênh lần II đều có dấu mòn bóng, những dấu mòn bóng đó đã được chứng minh rằng chúng được sử dụng trên đồ gỗ, tre qua thực nghiệm tái tạo dấu vết sử dụng” [53]. Đây là một kỹ thuật rất khó khăn và tỷ lệ thành công trong quá trình chế tạo và sử dụng mũi khoan còn là một vấn đề lớn đối với những người chế tác làm đồ ngọc ở khu vực này thời cổ xưa.
Kỹ thuật cưa cắt đá cũng là một kỹ thuật đặc biệt nổi trội ở các công xưởng này. Tại Đại Trạch, đã tìm thấy một số mảnh đá nguyên liệu Nephrite có dấu cưa cắt rất điêu luyện. Thậm chí, quá trình khai quật còn phát hiện một lưỡi cưa đá. Cũng như các di chỉ khác lưỡi cưa thường ít được tìm thấy bởi nguồn đá ngọc nephrite thường quý hiếm, khó tìm kiếm, nhưng dễ cưa hơn là
32
ghè đẽo, và cưa bao giờ cùng tiết kiệm được tối đa nguyên liệu, do vậy cư dân cổ đã chọn được giải pháp kỹ thuật tối ưu nhất trong sản xuất.
Kỹ thuật khoan tách lõi vòng đá cũng là một kỹ thuật cốt lõi và quan trọng nhất ở các di chỉ xưởng này. Ở Đại Trạch đã tìm thấy được 3 lõi vòng, qua quan sát và nghiên cứu dấu vết còn lại, có thể thấy rằng kỹ thuật khoan của người thợ đạt trình độ cao, chuẩn xác của quá trình tách lõi vòng. Mặc dù, đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến kỹ thuật khoan tách lõi, nhưng thực tế vẫn còn nhiều giả thuyết chưa thể giải mã.
2.3.1.3. Loại hình đồ đá
Văn hóa Đông Sơn
+ Đồ trang sức
- Khuyên tai: 2 chiếc cùng loại. Hình tròn, có khe hở, một mặt bằng, một mặt ở khoảng 1/3 ngoài rìa mài vát tạo cho trên bề mặt có gờ mờ, mặt cắt ngang gần có hình thang. Ở hai bên khe hở và cạnh những chỗ bị vỡ có các lỗ khoan thủng hình. Những lỗ khoan này để dùng dây đồng gắn các mảnh vỡ lại với nhau. Khuyên tai số 01.ĐT.F8:8 bị vỡ, đường kính ngoài 5,5cm, đường kính trong 2,5cm, bản vòng rộng 1,5cm (ảnh 17, bản vẽ 24)
Văn hóa Đồng Đậu
+ Công cụ sản xuất:
- Rìu: 2 chiếc, chia làm 2 loại. Hình chữ nhật, lưỡi mài vát một bên, lưỡi mòn không đều nên rìa lưỡi cong xéo, mặt cắt ngang hình chữ nhật, mài nhẵn toàn thân.
Rìu loại 1 (13.ĐT.H1.L1.g17:14) hình chữ nhật, lưỡi cân, rìa lưỡi sứt. Mặt cắt ngang thân hình chữ nhật, mài nhẵn toàn thân, đá màu đen, ghi. Hiện vật có kích thước dài 3,9cm, rộng đốc 3,3cm, rộng lưỡi 3,4cm, dày 0,55cm, góc lưỡi 120 (bản ảnh 18, bản vẽ 26 ).
Rìu loại 2: (13.ĐT.H1.L2.h17: 15) hình chữ nhật, lưỡi cân, đốc và mặt bụng bị vỡ. Mặt cắt ngang thân hình chữ nhật, mài nhẵn toàn thân, đá màu xám đen, xám trăng. Rìu dài còn lại 5,8cm, rộng đốc 4,5cm, rộng lưỡi 4,7cm, dày 1cm, góc lưỡi 230 (bản ảnh 19, bản vẽ 25).
- Bôn : 2 chiếc cùng một loại. Hiện vật hình chữ nhật, lưỡi mài vát một bên, lưỡi mòn không đều nên rìa lưỡi cong xéo. Mặt cắt ngang hình chữ nhật.
33
Mài nhẵn toàn thân. Phần đốc bị vỡ nên mỏng. Đá màu đen xám, xám trắng. Hiện vật (01.ĐT.C3.L2-1: 141) có kích thước dài 5,8 cm, rộng 4,1cm, dày 0,4cm (bản ảnh 20).
- Đục: 7 hiện vật , hình chữ nhật, lưỡi mài vát, mặt cắt ngang thân hình thang. Mài nhẵn toàn thân. Đốc và lưỡi bị sứt. Đá màu xám đen, xám xanh. Đục (13.ĐT.H1.L3.b14: 49) dài 4,6cm, rộng 0,6cm, dày 0,5cm; góc lưỡi 330 (bản ảnh 21, bản vẽ 30).
- Bàn mài: 75 hiện vật, được chia thành 4 loại: bàn mài phẳng, bàn mài
lõm, bàn mài rãnh, bàn mài trong và bàn mài kết hợp (bản ảnh 22, ).
- Bàn mài phẳng: 24 hiện vật, chủ yếu bị vỡ, phần còn lại giống hình tam giác, trên một mặt có vết mài phẳng. Đá cát màu tím. Bàn mài ký hiệu 01.ĐT.B4.L1-3: 51 dài 13cm, rộng 2cm - 7,5cm, dày 2,3cm (bản ảnh 23, bản vẽ 18).
- Bàn mài lõm: 6 hiện vật, chủ yếu bị vỡ, phần còn lại hình chữ nhật, một đầu hơi hẹp hơn, trên hai mặt có vết mài hơi lõm, màu xám xanh. Hiện vật 01.ĐT.C2.L1-2: 60 dài còn lại 6cm, rộng 3cm - 3,8cm (bản ảnh 24, bản vẽ 17).
- Bàn mài kết hợp: 24 hiện vật, có hình dạng gần hình chữ nhật, trên một mặt rộng và hai mặt bên là vết mài phẳng, trên mặt rộng còn lại có 3 rãnh mài hình lòng máng. Bàn mài ký hiệu 01.ĐT.C1.L1-5: 104 có kích thước dài còn lại 7,7cm, rộng 9cm, dày 4,8cm.
- Chì lưới: 1 hiện vật, gần hình chữ nhật, hai đầu bóp vào, giữa phình ra. Hai đường rãnh lõm chạy quanh thân. Một đường rãnh chạy dọc giữa thân ở cả hai mặt. Được chế tác bằng đá cát, màu nâu (Bản ảnh 27).
- Khuôn đúc đồng: 12 mảnh, hầu hết đều bị vỡ, 6 chiếc khó nhận dạng được hình vật đúc, 6 chiếc còn có thể nhận dạng được hình vật đúc, tác giả mô tả một số khuôn này.
Khuôn đúc 01.ĐT.C3.L2-3:193 là một mang khuôn còn khá nguyên vẹn, hình chữ nhật, mặt ngoài cong khum, mặt đúc bằng, mặt cắt ngang hình chữ D, mặt ráp khuôn được mài rất phẳng, hình vật đúc lõm xuống. Vật đúc hình chữ nhật, ăn sâu dần từ đầu dưới lên đầu trên, gần đầu trên có có một đường chỉ lõm nằm ngang vật đúc. Đá cát màu hồng trắng. Hiện vật có kích thước dài 4,2cm, rộng 3,2cm, dày 1,5cm; vật đúc dài 4cm, rộng 1,7cm. (ảnh 28).
34
Khuôn đúc 01.ĐT.C2. L2-2:168 là một khuôn đúc lao có ngạnh. Khuôn bị vỡ, còn lại một phần có hình chữ nhật, mặt ngoài cong khum, mặt đúc bằng, mặt cắt ngang hình chữ D; mặt giáp khuôn được mài rất bằng. Trên mặt đúc còn để lại hai hình vật đúc. Vật đúc thứ nhất là lao có hai ngạnh, thân lao thẳng, lõm sâu hơn, hai ngạnh ở cùng một phía, song song với nhau, ngạnh lao ăn nông dần về phía mũi nhọn của ngạnh; lao có xu hướng nhọn ở một đầu, rộng ở dưới ngạnh thứ hai. Hình vật đúc thứ hai hiện thấy là một rãnh ăn sâu hơn thân của vật đúc thứ nhất. Hiện vật chế tác bằng đá cát, mặt ngoài nâu vàng xám, mặt đúc màu hồng. Kích thước dài còn lại 6,2cm, rộng còn lại 5cm, dày 2,8cm (ảnh 29).
Hiện vật 01.ĐT.C3.L2-3:197 bị vỡ, còn lại hai mảnh gắn lại được, mặt ngoài cong vồng, mép ráp khuôn còn lại một bên, được mài nhẵn, được chế tác bằng đá cát màu nâu đen. Hình vật đúc còn lại một đoạn lõm hình lòng máng, có thể là phần họng rìu. Hiện vật có kích thước dài còn lại 5cm. (ảnh 30).
- Hiện vật đá hình nón cụt (01.ĐT.C4.L1-2:1), còn nguyên, giống một trục hình nón cụt, một đáy to, một đáy nhỏ, ở giữa có lỗ khoan thủng tròn theo chiều dọc của hiện vật, bề mặt mài nhẵn, được chế tác bằng đá màu xám hồng. Kích thước hiện vật : cao 3,7cm, đường kính 5cm - 6,2cm (ảnh 32).
- Đá có vết gia công: 10 mảnh được chia làm 2 loại.
Loại 1: 6 hiện vật. Loại này gồm những mảnh đá hình gần chữ nhật, hai mặt và một cạnh bên được cưa phẳng, màu trắng ngà. Hiện vật 01.ĐT.C5.L2- 1.F13 có kích thước: dài 5cm, rộng 3,1cm, dày 2,5cm.
Loại 2: 4 hiện vật. Hiện vật hình chữ nhật, hai mặt, một cạnh bên và một đầu mài nhẵn, trên cạnh mài nhẵn có một rãnh chạy dọc và trên mặt nổi một vệt gờ mờ, đây có lẽ là dấu vết của việc cưa; màu trắng hồng và nâu. Hiện vật 01.ĐT.B5.L2-1.F13 có kích thước: dài 5,2cm, rộng 3,5cm, dày 3cm. (ảnh 40).
- Hòn nghiền: 23 hiện vật. Hòn nghiền có dạng gần giống quả lê, màu xám xanh, toàn bộ bề mặt hiện vật nhẵn bóng. Trên hiện vật còn lưu lại vết nghiền ở hai đầu và 2 bên cạnh. Hiện vật (13.ĐT.H1.L4.a13.M1:15) kích thước dài từ 1,1cm - 4,2cm, rộng từ 0,9cm - 1,7cm (ảnh 38, bản vẽ 19).
- Mảnh lưỡi cưa: 1 hiện vật. Hiện vật đã bị vỡ, một đầu vỡ thẳng ngang, đầu còn lại vỡ vát có dạng chữ "V" lệch. Bề mặt hiện vật nhẵn, phần lưỡi khá sắc và đã bị mẻ nhỏ ở giữa. Hiện vật có màu xám trắng. Hiện vật
35
(13.ĐT.H1.L3:18) có kích thước (cm): dài còn lại 6,1cm, rộng 5,5cm, dày 0,9cm (ảnh 39, bản vẽ 28).
+ Đồ trang sức
- Vòng tay: 2 chiếc, chia làm 2 loại
Loại 1: 1 hiện vật (01.ĐT.D5.L2-2:177) hình tròn, mặt cắt ngang hình tam giác, bản vòng mài vát từ trong ra ngoài. Vòng còn nguyên, to, nặng. Đá màu xám xanh. Đường kính trong 5,3cm, đường kính ngoài 10,5cm, bản vòng rộng 2,5cm, dày 1,7cm (bản vẽ 23).
Loại 2: 1 hiện vật (01.ĐT.B1.L2-2:166) còn một mảnh khoảng 1/3, mặt cắt ngang hình chữ nhật, màu tím nhạt vân trắng vàng ngà. Hiện vật có kích thước đường kính trong 5cm, đường kính ngoài 5,6cm, bản vòng rộng 1cm, dày 0,3cm (bản vẽ 23).
- Hạt chuỗi: gồm 2 chiếc được chia làm 2 loại.
Loại 1: 1 hiện vật, hình ống, hai đầu được cắt hơi vát, ở giữa có lỗ nhỏ xuyên suốt chiều dài của hạt chuỗi, mài nhẵn. Đá màu vàng nhạt, vân màu đen nâu. Hạt chuỗi 01.ĐT.D2.L2-1:148, dài 2cm, đường kính 1,2cm, đường kính lỗ thủng 0,2cm - 0,3cm (bản vẽ 20).
Loại 2: 1 hiện vật hình giọt nước, hai đầu thu lại, đầu dưới nhọn, đầu trên tròn, có sâu lỗ. Đá màu vàng, mài bóng rất đẹp. Hạt chuỗi 01.ĐT.C4.L2- 2:156, dài 1,3cm, rộng 0,9cm(bản vẽ 21).
- Mảnh đá có khoan lỗ: 1 hiện vật (01.ĐT.C3.L1-4) còn nguyên hình chữ nhật, một đầu hơi hẹp, có 3 lỗ khoan tròn thủng cả hai mặt, gần cách đều nhau, cạnh lỗ khoan thứ nhất có một lỗ khoan dở. Đá màu trắng ngà, hơi vàng. Hiện vật dài 2,8cm, rộng 0,7 - 0,8cm, dày 0,3cm (bản vẽ 22).
- Lõi vòng: 3 chiếc, chia làm 3 loại
Loại 1: 1 hiện vật (01.ĐT.C3.L2-1:138) hình tròn, hai mặt và xung quanh mài nhẵn. Được khoan từ hai mặt xuống nên ở giữa hơi phình, nơi gặp nhau của hai mũi khoan không có gờ do đã được mài nhẵn. Đá màu tím vàng, vân xanh ngà. Đường kính 3,2cm, dày 1,4cm.
Loại 2: 1 hiện vật (01.ĐT.A4.L1-3:4) hình tròn, hai mặt mài bằng, một mặt bị vỡ nên bề mặt sần sùi. Khoan từ hai mặt xuống nên tạo thành một gờ ở
36
gần giữa do đường khoan không khớp nhau. Đá màu vàng nâu. Đường kính 4,5cm, dày 0,9cm.
Loại 3: 1 hiện vật (01.ĐT.B2.L1-2:13) chỉ còn lại một phần của lõi vòng hình tròn, hai mặt mài nhẵn, rìa vát từ mặt nhỏ xuống mặt lớn. Đá màu gan gà vân trắng. Dày 0,6cm.
2.3.2. Hiện vật kim loại
Theo các tài liệu khảo cổ học cho thấy, bước vào giai đoạn văn hoá Đồng Đậu, cư dân Việt cổ đã bắt đầu phát triển kỹ thuật luyện kim và chế tác đồ đồng thau. Qua các tài liệu ở di chỉ Tiên Hội và Gò Diễn là những di tích thuộc giai đoạn phát triển sớm của văn hoá Đồng Đậu, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy công cụ kiểu mũi nhọn và mũi tên đồng khá hoàn chỉnh, được đúc bằng khuôn hai mang. Điều này cho thấy, ngay từ giai đoạn đầu của văn hoá Đồng Đậu, việc đúc và luyện đồng không còn là sự mày mò thể nghiệm nữa.
Ở vào giai đoạn phát triển của văn hoá Đồng Đậu, cư dân đương thời đã
nhanh chóng vươn lên làm chủ được kỹ thuật đúc luyện và chế tác đồ đồng.
2.3.2.1. Di vật đồng trong văn hóa Đồng Đậu
Không kể những mảnh đồng vỡ, cuộc khai quật đã thu được 63 hiện vật đồng thau (bảng 4). Tên gọi của những đồ đồng được sử dụng ở đây trong khi phân loại, chúng tôi căn cứ chủ yếu vào hình dáng của hiện vật, một số hiện vật chỉ còn lại một phần nhưng có thể biết chắc chắn đó là hiện vật có công dụng nào đó, chúng tôi cũng thống kê trong danh sách hiện vật, hy vọng sẽ có cơ hội tìm được những hiện vật nguyên dạng để khẳng định chức năng của chúng.
+ Công cụ sản xuất
- Búa tán: 4 chiếc, cùng một loại, hình dáng và kích thước gần giống nhau, hình thang, trên loe, dưới thu vào. Đầu loe là họng hình bầu dục. Đầu thu vào đặc, bị toè ra do sử dụng. Kích thước hiện vât: cao 3cm - 4,3cm, rộng 2,5cm - 3cm. Có người gọi hiện vật này là chuôi dao. Căn cứ vào một đầu hiện vật bị toè do bị đập nhiều nên hiện vật này được nhiều người cho là có công dụng như một loại búa dùng trong việc tán những đồ kim loại nhỏ, có thể là lưỡi câu chẳng hạn (ảnh 45).
- Đục: 4 chiếc, cùng một loại, kích thước nhỏ nhắn. Hình chữ nhật, mặt dưới bằng hoặc hơi cong vồng, mặt trên hẹp hơn, hơi lõm, hai cạnh bên xiên
37
vát xuống mặt dưới, lưỡi thẳng hoặc hơi cong hình cung, không có họng. Kích thước: dài 3,5cm - 5,2cm, rộng 1,6cm - 2,4cm, dày 0,2cm - 0,3cm. Loại hiện vật này rất giống những chiếc bôn bằng đá ngọc của văn hóa Phùng Nguyên, nên chúng tôi cho rằng loại hiện vật này có tác dụng như đục (ảnh 35, bản vẽ 35).
- Dao xéo: 2 chiếc. Gần hình thang, phần chuôi hẹp loe dần xuồng thân và lưỡi, một bên lưỡi kéo dài hơn tạo lưỡi xéo không cân xứng, đầu mũi dài và hơi chúc xuống, đầu lưỡi bên kia cao hơn, rìa lưỡi xiên chéo. Mặt dưới bằng và rộng hơn, mặt trên hẹp hơn do có hai đường gân ở hai bên thân.
Hiện vật (01.ĐT.C5.L1-4:194) có đường gờ nổi ở dưới phần chuôi. Kích
thước: dài 3,7cm, rộng chuôi 1,4cm, rộng lưỡi 2,2cm, dày 0,2cm (ảnh 48).
Hiện vật (01.ĐT.B1.L1-4:73) có 4 đường chỉ nổi ở phần lưỡi. Kích
thước: dài 5,7cm, rộng chuôi 1,7cm, rộng lưỡi 2,8cm.
- Dao ? 1 chiếc (01.ĐT.B5.L1-4:71), hai đầu bị gẫy, phần còn lại gần có hình chữ nhật dài, một đầu rộng có khả năng là bằng, một đầu hẹp hơn một chút có xu hướng tạo thành mũi cong hoặc nhọn, hai rìa lưỡi dày bằng nhau. Kích thước: dài còn lại 5,5cm, rộng 1,2cm - 1,4cm, dày 0,1cm (ảnh 47). Hiện vật này về hình dáng có khả năng là dao, nhưng hai rìa lưỡi mỏng hơn thân không đáng kể. Tuy nhiên, chúng tôi tạm gọi là dao để ghi nhận có loại hiện vật này.
- Nạo?: 3 chiếc (ảnh 57).
Hiện vật (01.ĐT.C5.L2-1:195) bị vỡ nhiều mảnh không gắn lại được hoàn chỉnh nhưng vẫn có thể hình dung được hình dáng. Hiện vật dài, cong khum lòng máng, một đầu hẹp một đầu rộng, một cạnh gần thẳng, một cạnh cong và dài hơn cạnh kia; cạnh ngắn có rìa dày có thể là sống, cạnh dài có rìa mỏng như rìa lưỡi, mặt cắt ngang hình lòng máng. Hiện vật có kích thước dài 6,5cm, rộng 1cm - 2,4cm. Căn cứ vào lưỡi hiện vật có thể được sử dụng như nạo, nên chúng tôi tạm gọi là nạo.
Hiện vật (01.ĐT.B1.L1-4:217), còn lại phần mũi hình tam giác, mũi nhọn, một cạnh ở mũi thu vào ít và dày hơn, một cạnh ở mũi thu vào nhiều thành một đường xiên, cạnh này mỏng hơn là rìa lưỡi. Hiện vật có thể là nạo. Kích thước dài còn lại 2,4cm, rộng 1,2cm.
38
Hiện vật 01.ĐT.B4.L1-3:218, còn lại đầu mũi nhọn hình tam giác, khum cao, ở giữa gần thành một đường sống, hai rìa cạnh vát sắc. Kích thước: dài còn lại 1,3cm. Hiện vật này có thể là đầu mũi nạo nhưng cũng có thể là đầu mũi lao.
- Dùi: 4 hiện vật, chia thành 2 loại.
Loại 1: 2 hiện vật. Mặt cắt ngang hình vuông, thân hình chóp thu dần từ trên xuống đầu mũi nhọn, thân đặc. Hiện vật (01.ĐT.B3.L1-6:112) có kích thước: dài 4cm, dày đầu trên, dày đầu mũi 0,2cm (ảnh 54).
Loại 2: 2 hiện vật. Mặt cắt ngang hình tam giác, một đầu thu nhỏ thành mũi nhọn. Hiện vật (01.ĐT.B4.L1-5:93) đầu trên to thu dần xuỗng mũi nhọn, kích thước: dài 4,2cm (ảnh 55).
- Lưỡi câu: 6 hiện vật. Thân uốn cong, đầu dưới nhọn, bên dưới mũi nhọn có ngạnh về phía trong, đầu trên uốn cong thành lỗ để làm chỗ buộc dây. Trong đó, 5 chiếc mặt cắt ngang hình chữ nhật hoặc hình vuông,1 chiếc mặt cắt hình tròn, đầu dưới đã uốn cong nhưng không có ngạnh, thân thẳng, đầu trên chưa uốn thành lỗ, có thể chiếc này đang chế tác dở. Hầu hết đều gẫy. Hiện vật (01.ĐT.C3L1-3:58) còn tương đối nguyên vẹn, có kích thước cao 3cm (ảnh 41, 70, bản vẽ 49).
- Lưỡi câu đang chế tác ?: 2 chiếc cùng 1 loại. Hiện vật là một que đồng thẳng, mặt cắt ngang hình vuông. Đầu dưới nhỏ, ở đầu mũi nhọn như kim, đầu trên đã được uốn cong thành lỗ để buộc dây. Hiện vật (01.ĐT.D2.L1- 4:90) có kích thước: dài 4,6cm.
- Que đồng để làm lưỡi câu?: 14 chiếc là những đoạn que đồng thẳng, mặt cắt ngang hình vuông hoặc hình chữ nhật. Phần lớn chưa được gia công. 2 chiếc ở một đầu đã được tạo thành mũi nhọn. Những que đồng này có thể là dùi hoặc kim. Tuy nhiên, với mặt cắt là hình vuông và hình chữ nhật thì chúng nhiều khả năng là để làm lưỡi câu. Hiện vật (01.ĐT.B3.L1-2:10) có kích thước dài 5,9cm (ảnh 33,71).
- Mũi nhọn: 13 hiện vật được chia làm hai loại.
Loại 1: 9 chiếc, mũi nhọn có họng tra cán. Hình chóp, thu dần từ họng xuống mũi nhọn, mặt cắt ngang hình tròn, thân rỗng, đầu nhọn đặc. Những hiện vật còn nguyên, có kích thước dài 4,5cm - 11cm (ảnh 44).
39
Loại 2: 4 chiếc, mũi nhọn không có họng. Hình chóp, thu hẹp dần từ trên xuống mũi nhọn, mặt cắt ngang hình vuông, thân đặc. Hiện vật còn nguyên, dài 4,4cm - 4,5cm (ảnh 72).
- Rìu: 2 hiện vật được chia làm 2 loại.
Loại 1: 1 hiện vật (01.ĐT.C3.L1-2:3), còn lại một bên rìa của thân rìu, gần họng và lưỡi loe, ở giữa bóp vào, mặt cắt họng hình bầu dục. Có khả năng là thuộc loại rìu lưỡi xoè cân xứng, hai mặt phồng đều. Kích thước dài 4,3cm.
Loại 2: 1 hiện vật (01.ĐT.C3.L1-2:2), còn lại một phần họng rìu, có thể biết được phần họng rìu hình chữ nhật, mặt cắt họng hình lục giác. Gần mép họng có đường chỉ nổi. Có khả năng đây là loại rìu lưỡi cân, hai mặt bằng, mặt dưới rộng, mặt trên hẹp, lưỡi xoè. Kích thước dài còn lại 2,5cm, rộng còn lại 2cm (bản vẽ 2).
+ Vũ khí
- Mũi tên: 5 hiện vật được chia thành hai loại.
Loại 1: 3 chiếc, đây là mũi tên hình cánh én. Phần thân hình tam giác cân, giữa thân nổi cao thành sống, hai cạnh bên mỏng dần ra tới rìa. Đầu mũi nhọn, hai cạnh kéo dài tạo thành hình cánh én, đầu nhọn. Phần chuôi ngắn, ăn sâu vào trong thân thành một phần lõm, nhưng cũng có khi không lõm, mặt cắt ngang chuôi hình chữ nhật hoặc hình tròn. Hiện vật (01.ĐT.D5.L1-3:63), còn nguyên ven, chuôi ăn sâu vào thân không bị lõm. Kích thước dài 3,1cm (ảnh 60).
Loại 2: 2 chiếc, đây là mũi tên hình lá. Phần thân gần có hình tam giác, đầu mũi nhọn thuôn bầu dần xuống phía chuôi, sống ở giữa hơi cao. Chuôi ngắn, dẹt. Mũi tên gần hình chiếc lá. Hiện vật (01.ĐT.D4.L1-3:66) có lẽ là hai mũi tên chồng dính lên nhau, còn thấy được hình dáng 1 chiếc. Hiện vật có kích thước dài 3,9cm.
- Giáo - lao?: 2 chiếc chỉ còn lại phần họng. Hiện vật (01.ĐT.D2.L1- 2:37) còn lại một nửa theo chiều dọc của phần họng giáo. Trên một mặt có hai gân theo dọc chiều dài của phần họng. Họng dày ở giữa, mặt cắt họng có khả năng là hình bầu dục. Kích thước dài.
- Lao: 1 chiếc (01.ĐT.A2.L1-3), hiện vật bị gẫy một đầu. Phần còn lại hình thang, đầu hẹp còn nguyên, dày hơn, đầu rộng bị gẫy, mỏng hơn, có xu
40
hướng rộng dần, mặt cắt ngang hình chữ nhật. Hiện vật có kích thước dài còn lại 4,5cm, rộng 0,5cm-0,7cm, dày 0,1cm-0,3cm.
- Hiện vật giống đục vũm?: 1 chiếc (01.ĐT.B3.L1-2:19), giống đục đồng, mặt trên lõm thành hình lòng máng giống như kiểu lõm của đục vũm, mặt dưới cong khum, mặt cắt ngang hình chữ C, một đầu bằng, một đầu có xu hướng thu nhỏ. Hiện vật dày, nặng, có kích thước dài 6cm, rộng 0,8cm - 1,4cm. Hiện vật không thể là đục vũm được vì đường lõm không chỉ giới hạn ở phần lưỡi mà chạy suốt theo chiều dài của hiện vật. Có khả năng là một loại vũ khí.
- Chuôi vũ khí?: 1 chiếc (01.ĐT.B2.L2-1:140), hình thang, đầu rộng là họng, đầu hẹp là đốc bịt kín và đặc, thân rỗng để tra cán. Mặt cắt ngang hình bầu dục. Không rõ công dụng, dự đoán là chuôi tra cán của vũ khí. Kích thước: dài 5,8cm, rộng họng 1cmx2,2cm, rộng đốc 1,2 (ảnh 77).
+ Hiện vật không rõ công dụng
- Hiện vật hình khâu dao?: 2 chiếc. Không rõ công dụng, dựa vào hình dáng nên tạm gọi là khâu giống như khâu dao. Tuy nhiên vì hiện vật rất nhỏ lại mỏng mảnh nên không thể có công dụng là khâu dao.
- Hiện vật (01.ĐT.B3.L2-1:139), gẫy, gắn lại được. Là một dây đồng mỏng và hẹp bề ngang, uốn thành khâu hình chữ nhật có kích thước 1,7cmx1cm. Dây đồng rộng 0,3cm, dày 0,1cm (ảnh 33).
- Hiện vật (01.ĐT.C3.L2-2:216), gẫy chỉ còn lại một mảnh.
- Hiện vật (01.ĐT.L2-2:219), bị vỡ, phần còn lại hình gần tam giác. Một đầu có lẽ là mũi nhọn, sứt mũi. Phía dưới rộng , một bên rìa còn lại được thêm một đoạn, đoạn này hơi cong ra. Hai rìa mỏng hơn thân. Dài còn lại 4cm, rộng 0,6cm - 1,4cm, dày 0,2cm.
* Nhận xét về kỹ thuật đúc đồng và những hiện vật đồng thuộc giai đoạn
Đồng Đậu ở Đại Trạch, tôi đưa ra vài nhận xét sau:
- Thông thường, để chế hiện vật kim loại, người thợ thủ công có thể sử dụng các kỹ thuật đúc khác nhau như đúc bằng khuôn đá hoặc đất nung, đúc khuôn sáp. Trong giai đoạn văn hóa Đồng Đậu ở Đại Trạch tới nay mới chỉ tìm thấy bằng chứng của kỹ thuật đúc hiện vật bằng khuôn đá.
- Mặc dù, chưa tìm thấy được những bằng chứng về lò nấu kim loại được đắp ở di chỉ Đại Trạch, nhưng trong tầng văn hóa đã phát hiện được 8.853
41
cục/thỏi đất nung rắn chắc, mầu đỏ gạch, hoặc màu xám đen ám khói. Liệu có phải chúng là những mảng vỡ của lò nung? Đáng chú ý là việc tìm thấy nhiều mảnh nồi nấu - rót đồng bằng gốm ở trong tầng văn hóa Đại Trạch. Điều này chứng tỏ cư dân Đại Trạch đã nắm vững kỹ thuật luyện và đúc đồng, đúc bằng khuôn và đã có lò nung với nhiệt độ cao để đúc.
- Các sản phẩm đúc đồng của người Đồng Đậu ở Đại Trạch chủ yếu là
công cụ sản xuất, số ít là vũ khí. Chúng đều có kích thước nhỏ.
2.3.2.2. Di vật đồng thuộc văn hóa Đông Sơn
A. Nhóm hiện vật phát hiện trong tầng văn hoá (ảnh 64) + Công cụ sản xuất
- Rìu lưỡi xéo: 6 chiếc, được chia làm 2 loại.
Loại 1: 4 chiếc. Rìu lưỡi xéo hình dao xén của thợ dày. Một bên lưỡi kéo dài hơn, đầu lưỡi bên này nhọn, cong hất lên một chút hoặc chúc xuống. Bên lưỡi kéo dài ít cao hơn đầu lưỡi bên kia, góc lưỡi rộng, rìa lưỡi hình cung, mặt cắt họng hình bầu dục. Có chiếc giữa phần họng và phần lưỡi có lỗ thủng hình tam giác. Rìu có kích thước nhỏ. Rìu (01.ĐT.F13:3) còn nguyên, có kích thước cao 5,5cm, rộng lưỡi 4,2cm (ảnh 51, bản vẽ 32).
Loại 2: 2 chiếc còn nguyên vẹn. Rìu lưỡi xéo hình bàn chân. Lưỡi một bên kéo dài nhiều hơn, đầu lưỡi nhọn, hất lên. Bên lưỡi kéo dài ít hơn cong tròn hoặc gần vuông góc. Phần họng dài, mặt cắt họng hình bầu dục. Rìa lưỡi hình cung cong ít. Rìu này ở dạng trung gian giữa rìu hình bàn chân với rìu hình dao xén. Rìu (01.ĐT.F8:5) có kích thước cao 6,8cm, rộng lưỡi 7,2 cm (ảnh 52, bản vẽ 33).
- Rìu lưỡi cân: 2 chiếc, được chia thành 2 loại.
Loại 1: 1 chiếc (01.ĐT.F8:2). Rìu hình thang, lưỡi xòe đều sang hai bên, rìa lưỡi hình cung cong ít. Mặt cắt họng hình lục giác. Giữa thân rìu có một lỗ thủng nhỏ. Kích thước: cao 9cm, rộng họng 2,6cm - 5,6cm, rộng lưỡi 7cm (ảnh 49, bản vẽ 31).
Loại 2: 1chiếc (01.ĐT.F8:9). Rìu gần hình thang, lưỡi xoè đều sang hai bên rộng hơn họng. Rìa lưỡi hình cung hất lên ở hai đầu. Một mặt rộng một mặt hẹp. Trên mặt hẹp ở phần họng có hoa văn băng răng lược ở trên, băng tam giác ở dưới, giữa thân có một lỗ thủng nhỏ. Mặt cắt họng hình thang.
42
Họng vỡ, trên rìu có dính vết vải. Rìu có kích thước: cao 6,5cm, rộng lưỡi 4,7cm (ảnh 50, bản vẽ 31).
- Đục: 2 hiện vật, chia thành 2 loại.
Loại 1: 1 chiếc (01.ĐT.F8:3), loại đục bằng, hình thang, rộng ở phần họng, hẹp ở lưỡi, giữa thân hơi thót vào, cong về một bên. Lưỡi bẹt, rìa lưỡi gần thẳng, mặt cắt họng hình lục giác. Dưới họng có một lỗ thủng nhỏ cả hai mặt. Còn nguyên, gỉ nhiều. Dài 9,5cm, rộng họng 1,2cmx2cm, rộng lưỡi 1,2cm (ảnh 69, bản vẽ 35).
Loại 2: 1 chiếc, (01.ĐT.F8:4), loại đục vũm. Hình thang, rộng ở họng thu dần xuống dưới, mặt trên phần họng bằng, ở thân cho tới lưỡi lõm ở giữa, mặt dưới cong hình cung. Dưới họng trên phần mặt có một lỗ thủng nhỏ. Mặt cắt họng hình tròn, mặt cắt thân và lưỡi hình long máng. Còn nguyên. Dài 11,7cm, đường kính họng 1,7cm, rộng lưỡi 0,6cm (ảnh 36, bản vẽ 36).
- Dùi: 2 chiếc (01.ĐT.F14:2), 2 chiếc dính chặt với nhau không tách được do bị gỉ. Giống như một que đồng tròn một đầu nhọn, mặt cắt ngang hình tròn. Dài còn lại 4,3cm và 3cm, đường kính 0,2cm (ảnh 54, bản vẽ 37).
+ Vũ khí
- Giáo: 5 chiếc còn khá nguyên vẹn, chia thành 2 loại.
Loại 1: 4 chiếc. Đây là những chiếc giáo có phần họng bằng khoảng 1/3 chiều dài cả giáo, sống giáo nổi cao, hai cánh dẹt, mặt cắt ngang là hình thoi cạnh lõm, mặt cắt họng hình tròn. Giáo (01.ĐT.F8:12) có dính vết vải trên lưỡi, còn nguyên vẹn, dài 18cm, đường kính họng 2,2cm (ảnh 58, bản vẽ 34).
Loại 2: 1 chiếc. Giáo có phần họng bằng 2/3 chiều dài cả giáo, phần lưỡi bầu, mũi giáo không nhọn, hai bên sống phần lưỡi gần phần họng có hai lỗ thủng nhỏ. Sống lưỡi nổi cao. Mặt cắt lưỡi hình thoi, mặt cắt họng hình tròn. Giáo (01.ĐT.F8:7) còn khá nguyên vẹn, có kích thước: dài 14cm, đường kính họng 2cm (ảnh 59, bản vẽ 38).
Ngoài 5 chiếc giáo nguyên vẹn được phân loại trên còn có 2 chiếc chỉ
còn lại phần họng xin mô tả cụ thể dưới đây.
Hiện vật (01.ĐT.F5:2) còn lại toàn bộ phần họng, họng dẹt, mặt cắt ngang hình bầu dục. Đây có thể là loại lao vì kích thước nhỏ. Hiện vật có kích thước dài 3cm, họng rộng 0,7cm - 1,2cm.
43
Hiện vật 01.ĐT.A1.L1-2:22, hiện vật này không nằm trong mộ nhưng tìm được trong ô bị xáo trộn, về hình dáng không khác gì hiện vật trên nên chúng tôi cho là đây là hiện vật của văn hóa Đông Sơn. Rộng ở trên thu hẹp một chút ở dưới, mặt cắt ngang hình bầu dục. Kích thước: dài 3cm, rộng họng 1,2cm - 2cm.
+ Đồ trang sức
- Vòng tay: 1 chiếc (01.ĐT.F5:1), vòng bị vỡ chỉ còn khoảng 1/3. Hình tròn, mặt cắt ngang hình tròn. Kích thước: đường kính 6,2cm, đường kính bản vòng 0,3cm (ảnh 79, bản vẽ 40).
- Mảnh đồng: Trong 3 ngôi mộ đã thu được 29 mảnh đồng vỡ không kể những mảnh đồng dính chặt trên rìu đồng. Trong số những mảnh đồng này có hai mảnh có hoa văn. Mảnh (01.ĐT.F13: 8) trên một mặt có hoa văn đúc nổi, còn thấy một vòng văn răng lược và một vòng văn có những đường cong và đường thẳng, rất có thể đây là mảnh trống Đông Sơn (ảnh 62, bản vẽ 41).
B. Nhóm hiện vật được Bảo tàng Bắc Ninh thu mua tại khu vực di
chỉ Đại Trạch
Trong quá trình khảo sát và khai quật di chỉ Đại Trạch, ngoài những di vật đồ đồng phát hiện được trong tầng văn hóa, cán bộ Bảo tàng Bắc Ninh đã thu mua được một số hiện hiện đồ đồng Đông Sơn do người dân thu lượm được trong quá trình canh tác trồng trọt tại khu vực di chỉ trước đó. Những hiện vật này được xếp gộp vào đồ đồng Đông Sơn ở Đại Trạch có 7 hiện vật, gồm các loại hình như sau (bảng 4):
+ Công cụ sản xuất
- Rìu lưỡi xéo thuộc loại 1, mũi bị gẫy ở đầu nhưng có thể biết được là mũi chúc hoặc hơi hất lên một chút, gót cao, nhọn, mặt cắt hình bầu dục. Kích thước: dài 7cm, rông 8,4cm.
- Rìu lưỡi cân thuộc loại 1, lưỡi xoè rộng sang hai bên, rìa lưỡi hình cung cong ít. Một mặt rìu rộng, một mặt hẹp. Mặt cắt họng hình thang. Giữa thân rìu có lỗ thủng nhỏ. Kích thước: dài 8,7cm, rộng 8.
+ Vũ khí
- Tấm che ngực: hình vuông, ở bốn góc đều có lỗ thủng nhỏ. Ở giữa có hoa văn chữ X, giữa hình chữ X có hai vòng tròn chấm giữa, bên trong chữ X là hai hàng chấm nhỏ theo hình chữ X. Viền theo rìa cạnh của tấm che ngực là
44
hàng hoa văn vòng tròn chấm giữa bên trong hai đường chỉ chìm. Hiện vật có kích thước 16,6cm x 16,6cm, dày 1mm - 1,5mm.
- Lao hình ngòi bút, đầu hình tam giác, thân hình chữ nhật, mặt cắt
ngang hình chữ V. Kích thước lao: dài 9,6cm, rộng 2,8cm.
+ Đồ dùng sinh hoạt
- Thạp: Miệng hơi bóp vào một chút, phần thân ngay dưới miệng rộng rồi thu dần lại ở phần dưới. Hai đôi quai hình mui thuyền ở phía dưới miệng. Hoa văn bố cục thành 4 nhóm. Hoa văn rất mờ, nhiều chỗ không rõ. Nhóm trên có 6 cặp đường chỉ song song, giữa cặp đường chỉ thứ 4 và thứ 5 là vòng hoa văn vòng tròn tiếp tuyến có chấm giữa. Nhóm giữa có 4 cặp đường chỉ song song, giữa cặp đường chỉ thứ 2 và 3 là vòng hoa văn vòng tròn kép có chấm giữa tiếp tuyến, tiếp tuyên là 3 đường chỉ. Nhóm dưới gồm 5 cặp đường chỉ song song, giữa cặp đường chỉ thứ 2 và 3 là vòng hoa văn vòng tròn tiếp tuyến giống như vòng trên. Thạp cao 19,2cm, đường kính miệng 19,6cm.
+ Đồ tùy táng
- Trống minh khí, là trống Đông Sơn dáng lùn, lưng choãi giữa mặt trống có một quai hình chữ U, 4 quai đối xứng nhau nối giữa tang và lưng. Mặt trống có hoa văn các nhóm vạch gồm 3, 4 đường vạch kết hợp với nhau. Tang có một vòng hoa văn hình hạt gạo. Lưng có các băng trang trí dọc ở dưới 4 quai, gồm các đường chỉ dọc và băng đường vạch ngang song song. Phần tiếp giáp với chân trống có hai vòng hoa văn hình hạt gạo ngược nhau. Trống có kích thước: cao 6,5cm, đường kính mặt 6,7cm.
+ Nhạc khí
- Chuông: phình cong và thu hẹp dần từ miệng tới đỉnh, quai hình bán nguyệt gắn ở đỉnh chuông. Mặt cắt ngang hình bầu dục. Chuông cao 14,5cm, rộng 10,6cm.
* Nhận xét về kỹ thuật đúc đồng và những hiện vật đồng thuộc giai đoạn
Đông Sơn ở Đại Trạch, tác giả có mấy nhận xét sau:
- Đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn, người thợ thủ công Đại Trạch đã làm chủ và rất thuần thục việc luyện đúc kim loại. Căn cứ vào độ chau chuốt, hoàn thiện của các sản phẩm đồ đồng giai đoạn này, có thể người thợ thủ công sử dụng các kỹ thuật đúc khác nhau như đúc bằng khuôn đá hoặc đất nung, đúc khuôn sáp.
45
- Các sản phẩm đúc đồng của người Đông Sơn ở Đại Trạch đã đa dạng hóa về chức năng như công cụ sản xuất, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt và đồ trang sức. So với hiện vật đồ đồng giai đoạn Đồng Đậu, kích thước đồ đồng giai đoạn Đông Sơn đã to hơn nhiều như các loại thạp, chuông.
2.3.2.2. Di vật sắt thuộc văn hóa Đông Sơn
Tại Đại Trạch, trong đợt khai quật năm 2013 phát hiện 1 hiện vật sắt duy nhất. Hiện vật có ký hiệu (13.ĐT.H1.OT). Hiện vật có màu nâu đỏ, bề mặt sần sùi và đang trong quá trình oxy hóa nặng. Quan sát cho thấy hiện vật có hình dáng của một lưỡi dao găm hơi cong với một đầu nhọn tù và một đầu loe cắt thẳng. Hiện vật có kích thước: dài 8,4cm, rộng 3,2cm, dày 1,5cm và có một lớp patin màu nâu đỏ dày bám xung quanh [49: tr.140 - 141].
2.3.3. Di vật xương.
- Bùa đeo: 1 hiện vật còn nguyên (01.ĐT.B4.L1-6:123) là một chiếc răng nanh chó hình dấu phẩy, đầu chân răng mài bằng có một lỗ khoan tròn. Phần chân răng màu nâu, phần thân răng màu trắng ngà, bóng nhẵn. Kích thước: dài 3,7cm, rộng 0,7cm.
- Răng nanh để chế tác làm bùa đeo (?): 2 chiếc được xếp vào cùng 1 loại. Đây là những chiếc răng nanh chó gần giống chiếc bùa đeo nói trên về kích thước. Hình dấu phẩy, phần đầu chân răng màu nâu, phần chân răng màu trắng, răng trắng bóng. Hiện vật (01.ĐT.B5.L1-2) còn nguyên, kích thước: dài 3cm, rộng 0,6cm.
2.3.4. Đồ gốm
Trong tầng văn hóa, đồ gốm tìm thấy với khối lượng lớn. Tại di chỉ Đại Trạch, qua các đợt khảo sát và khai quật đã phát hiện 115.670 hiện vật, trong đó có 3.178 hiện vật gốm nguyên, 103.639 mảnh gốm và 8.853 mảnh đất nung. Căn cứ vào đồ gốm nguyên và mảnh gốm, tác giả nghiên cứu gốm Đại Trạch trên một số khía cạnh sau:
2.3.4.1 Chất liệu
Đồ gốm Đại Trạch được chế tạo bằng loại đất thịt nhẹ, pha cát; một số ít được chế tạo bằng loại đất sét thô có pha nhiều tạp chất thực vật, do đó xương gốm thường có màu đen tro, gốm rất mủn, dễ vỡ. Nguồn đất sét nguyên liệu để làm gốm có thể được khai thác tại chỗ. Mặt ngoài của một số đồ gốm được xoa thêm một lớp đất sét mịn, nên có màu đỏ nhạt, loại gốm này ít hơn loại
46
gốm để mộc. Do đa số các mảnh gốm ở đây đã bị vỡ nát, các cạnh đã bị mòn nên rất ít mảnh gốm có thể lắp ghép được. Những mảnh gốm ở các lớp trên, có màu trắng vàng nhạt, xương gốm cứng và chắc hơn gốm ở các lớp dưới.
2.3.4.2. Kỹ thuật tạo gốm
Đồ gốm ở Đại Trạch đa số bị vỡ nát, chỉ còn lại rất ít hiện vật nguyên/gần nguyên. Tuy nhiên, căn cứ vào chất liệu, kiểu dáng của các hiện vật gốm, chúng ta có thể biết được cách chế tác hay là kỹ thuật tạo hình gốm ở đây.
Chúng tôi cho rằng, đồ gốm tiền - sơ sử ở Đại Trạch phần lớn có thể được chế tác bằng bàn xoay, người xoay, dấu vết của bàn xoay còn để lại rất rõ trên miệng và chân đế của đồ gốm. Gốm được tạo hình khá đẹp, cân xứng, thành gốm khá mỏng và đều đặn.
Một số loại đồ gốm khả năng được tạo hình bằng bàn xoay kết hợp với tu sửa bằng tay nên xương gốm rất mỏng, vết gia công thường ở phần đáy và nửa thân phía dưới.
Cùng với việc chế tạo bằng bàn xoay, có một số đồ gốm được nặn bằng tay như các loại chạc gốm, các thỏi đất nung, các loại bi gốm và tượng động vật, chì lưới, dọi xe chỉ… Những loại đồ gốm nặn bằng tay này thường có kích thước nhỏ và hình dáng khá đa dạng.
2.3.4.2. Về kỹ thuật tạo hoa văn
Đồ gốm Đồng Đậu ở di chỉ Đại Trạch được tạo ra bằng cách sử dụng các loại dụng cụ và và kỹ thuật khác nhau như đập, lăn, khắc vạch, in, chải. Gốm giai đoạn Đồng Đậu ở Đại Trạch dường như như không còn kỹ thuật miết láng như gốm giai đoạn Phùng Nguyên. Nhiều đồ án hoa văn phức tạp có sự kết hợp của nhiều loại kỹ thuật.
- Kỹ thuật đập, lăn
Kỹ thuật này sử dụng bàn đập để tạo ra các loại hoa văn gốm được xem là kỹ thuật phổ biến trong thời tiền sử. Bằng các bàn đập khác nhau, người xưa tạo ra các loại văn thừng, văn in ô vuông, văn in hình nan chiếu.
- Kỹ thuật chải
Người Đại Trạch sử dụng những dụng cụ có nhiều răng nhọn như lược gốm bằng tre, hay lược gỗ chải lên bề mặt đồ gốm, tạo ra các đường chải dọc
47
phần thân, hoặc bằng các đường chỉ chìm bên trong miệng, bên ngoài thành miệng, quanh chân đế hay thân.
- Kỹ thuật khắc vạch
Người Đại Trạch sử dụng cụ bằng tre hoặc gỗ có một hoặc nhiều đầu nhọn để tạo ra loại văn khắc vạch. Loại hoa văn khuông nhạc được tạo ra bằng cách sử dung loại bút có nhiều răng nhọn.
- Kỹ thuật in
Thủ pháp kỹ thuật này tạo ra các loại văn như văn in chấm, văn in hình
tròn, văn in dấu dấu đan.
2.3.4.3. Các loại hình hoa văn
Kết hợp giữa loại hình hoa văn kỹ thuật và hoa văn trang trí, tác giả chia
hoa văn đồ gốm ở Đại Trạch gồm những loại hình sau (bảng 18):
+ Văn thừng
Văn thừng trên gốm Đồng Đậu: Phần lớn là văn thừng có kích thước trung bình. Văn thừng mịn nét thừng sâu rõ ràng. Có loại văn thừng thô, nét in rất sâu, vết vặn thừng dày, có lẽ kiểu văn thừng này là vặn thừng kép, tức là có hai dây thừng bện vào nhau cuốn trên bàn đập. Các loại văn thừng song song hoặc cắt nhau thành ô trám nhỏ, có một số mảnh văn thừng cắt nhau thành hình trám lồng.
Văn thừng trên gốm Đông Sơn: Trước hết phải nói rằng trên gốm Đông Sơn chỉ có loại văn thừng, không có loại văn khắc vạch. Văn thừng cỡ trung bình chiếm tuyệt đối, không có loại văn thừng mịn. Loại văn thừng nhăn tổ ong có rất ít, hầu như không đáng kể, đây cũng là một đặc điểm khác với những địa điểm Đông Sơn khác ở vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ. Tuy nhiên loại gốm Đông Sơn ở khu vực đào liên quan đến những hiện tượng chôn cất mộ táng của người Đông Sơn, do vậy, sự khác biệt này không phản ánh đồ gốm Đông Sơn ở những di chỉ cư trú (ảnh 100).
+ Văn in ô vuông
Loại hoa văn này chỉ có 146 mảnh, xuất hiện ngay từ lớp sớm nhất, nhưng số lượng không đáng kể cho đến lớp LI-5, tăng đột xuất ở lớp LI-4, nhiều nhất ở lớp LI-2 (ảnh 97).
+ Văn đan
48
Văn đan chỉ thấy trên mảnh đáy bằng. Tất cả đều là kiểu đan lóng hai, rõ
ràng và đẹp (bản dập 23,24,25 (hình 3,4).
+ Văn khắc vạch bằng que nhọn
Hoa văn được vẽ bằng que có đầu nhọn tạo để tạo ra những đường vạch thẳng, vạch xiên, những đường cong. Trong nhóm hoa văn này bao gồm cả những hoa văn chấm dải và hoa văn chấm tròn cuống rạ. Loại hoa văn chấm dải có thể được vẽ bằng những que có đầu nhọn nhỏ để chấm nên những chấm nhỏ xít nhau. Tuy nhiên, cũng không loại trừ những hoa văn chấm dải được tạo bằng cách in của một loại dụng cụ có nhiều răng nhỏ như răng lược, nhưng chắc chắn không phải được vẽ như kiểu dùng bút có nhiều răng. Loại hoa văn chấm tròn cuống rạ không phải được vẽ bằng que nhọn mà được in bằng một loại dụng cụ có đầu tròn và rỗng ở giữa như cuống rạ hoặc ống tre nhỏ. Hoa văn khắc vạch bằng que nhọn được trang trí ở phần trên của đồ gốm, từ cổ cho tới vai (ảnh 98).
Trong loại hoa văn khắc vạch bằng que nhọn, mô típ đơn giản nhất là những đường xiên song song kết hợp với đường đắp nổi thành gờ ngăn cách giữa hai hàng vạch xiên. Mô típ thường gặp nhất là các vạch xiên cắt nhau thành hình ô trám to nhỏ, nông sâu khác nhau, có khi kết hợp với những đường chỉ chìm giới hạn ở phía trên hoặc phía dưới, loại hoa văn này còn trang trí cả trên đồ gốm có vai gẫy thành gờ. Những mô típ phức tạp và ít gặp hơn là các vạch xiên sắp xếp thành hình xương cá, đường zíc zắc. Ngoài ra, cũng có những mô típ chưa gặp được những bố cục hoàn chỉnh nào như những đường khắc vạch hình vòng cung bên trong có những vạch xiên song song, bên ngoài những hình vòng cung này để trơn, đây cũng là cách gây hiệu quả thẩm mỹ.
+ Hoa văn chấm dải
Nhiều nhất là những mô típ những khung được giới hạn bằng những đường cong bên trong có chấm dải kết hợp với những khung để trơn, mô típ này nhắc lại kiểu trang trí chấm dải miết láng của đồ gốm Phùng Nguyên, nhưng nét thô, to, không được mềm mại tỷ mỷ như của Phùng Nguyên. Trong số những mảnh gốm có kiểu trang trí này có hai mảnh trong khung chấm dải và đường cong giới hạn khung có phủ một lớp màu trắng như vôi.
Thứ hai là mô típ những khung chấm dải kết hợp với mô típ khắc vạch cắt nhau thành hình ô trám. Những mô típ ít gặp hơn là chấm dải thành
49
những hàng xiên song song kết hợp phía trên và phía dưới đường gờ nổi. Trên vai gãy có hoa văn chấm dải kết hợp với văn khắc vạch cắt nhau thành hình ô trám.
+ Hoa văn chấm cuống rạ: Những vòng tròn cuống rạ được in cách đều nhau thành hàng, thành băng riêng biệt kết hợp với những băng khắc vạch những đường xiên song song, những đường xiên cắt nhau, những đường gấp khúc hoặc kết hợp với những mô típ sóng nước, mô típ xoắn ốc được vẽ bằng que nhiều răng.
+ Văn khắc vạch bằng que nhiều răng: Hoa văn được vẽ bằng que có nhiều răng như kiểu bút kẻ khuông nhạc, ít nhất là có 2 răng, thông thường có 4, 5 răng, có khi tới 8 răng. Hoa văn khắc vạch bằng que nhiều răng là đặc trưng cho phong cách trang trí của đồ gốm giai đoạn văn hóa Đồng Đậu.
+ Hoa văn vẽ bằng que nhiều răng: Tạo thành các đường khuông nhạc, tức là những đường thẳng không uốn khúc. Các đường khuông nhạc cắt nhau hoặc gấp khúc, có khi song song với nhau. Nhiều khi các mô típ đường khuông nhạc được kết hợp với hoa văn sóng nước, mô típ đường khuông nhạc gấp khúc thường kết hợp với đường sóng nước ở phía trên hoặc dưới, mô típ đường khuông nhạc song song thường có các đường sóng nước cắt ngang và giới hạn ở trên.
+ Hoa văn sóng thưa: Chỉ gồm 1, 2 làn sóng, mỗi làn sóng gồm 2, 5 đường sóng uốn nhẹ nhàng, đơn giản được trang trí ở phần cổ đồ gốm, ở thân có văn thừng. Đường sóng chạy ngang, có khi lộn xộn, được vẽ bằng que có 2 - 5 răng, uốn lượn ít, nét không được sắc, có chỗ rất mờ, một số mảnh đường sóng đè lên văn thừng.
+ Hoa văn sóng dày: Gồm nhiều làn sóng chạy quanh thân đồ gốm, phần lớn trang trí được giới hạn ở phần cổ, một số lan rộng xuống cả phần thân, thân đồ gốm có văn thừng. Loại này có cái tương đối giống với loại trên, đường sóng uốn nhẹ nhàng, nhưng khác với loại trên là đường sóng dày, làm thành cả mảng trên phần trên của đồ gốm, đường sóng uốn lượn nhiều hơn, nét sâu hơn.
+ Hoa văn sóng chạy theo đường gấp khúc: Được trang trí ở trên và dưới cổ đồ gốm. Một làn sóng vẽ bằng que 3 hoặc 5 răng có khi tới 8 răng, làn sóng chạy theo đường gấp khúc trong một băng giới hạn bằng đường khuông nhạc.
50
+ Hoa văn sóng uốn khúc hình chữ S đơn giản: Thực ra chỉ có một số mô típ giống chữ S, một số mô típ gần giống hình chữ S. Loại chữ S đơn giản được vẽ bằng que có 3 răng, ít khi có 4 răng, thông thường nét vẽ rất nông nên mờ. Một số mô típ còn nhận biết được trang trí trên phần cổ của đồ gốm. Một số mô típ còn được kết hợp với các đường khuông nhạc tạo thành băng, nhiều mô típ không biết hình dáng hoàn chỉnh của mô típ (ảnh 99).
+ Hoa văn sóng uốn khúc hình chữ S phức tạp: Chữ S được vẽ bằng bút có nhiều răng, nét vẽ sâu, rõ nét. Nhiều nhất là mô típ những hàng chữ S nối liền nhau kết hợp với những hoa văn sóng nước hoặc văn khuông nhạc tạo thành các băng chạy ngang. Đẹp nhất là những mô típ chữ S có đầu xoắn ốc, có những mô típ chữ S đứng, có mô típ chữ S nằm, rất nhiều mô típ chỉ còn lại phần đầu xoắn chúng tôi tạm xếp chúng vào loại hoa văn này (ảnh 107).
+ Hoa văn sóng cuộn hình số 8: Phần lớn hoa văn này được vẽ bằng bút nhiều răng, 4 - 6 răng, số ít có 2 răng. Hai hàng văn sóng cuộn lấy nhau tạo thành hình số 8 liền nhau, có khi là hai hàng số 8 song song. Văn sóng cuộn hình số 8 thường kết hợp với văn sóng uốn khúc.
* Nhận xét chung về hoa văn
Nhìn chung tỷ lệ hoa văn khắc vạch bằng que nhọn rất ít so với số hoa văn khắc vạch bằng que nhiều răng. Lối trang trí hoa văn khắc vạch bằng que nhọn cũng như những mô típ hình ô trám rất phổ biến trong văn hóa Gò Mun, điều này cho thấy ở di chỉ Đại Trạch đã bắt đầu có sự chuyển biến. Đối với loại hoa văn khắc vạch chấm dải chúng ta thấy có điểm gì đó phảng phất của những mô típ trang trí trên gốm Phùng Nguyên ở những mô típ những đường uốn lượn bên trong phủ đầy chấm dải, tuy nhiên, nét vẽ thô, đường uốn cứng và đặc biệt là những chấm dải to, thô. Điều này cho thấy đây là một sự trở lại với truyền thống cũ ở giai đoạn cuối của văn hóa Đồng Đậu.
Loại hoa văn vẽ bằng que nhiều răng rất đặc trưng cho cách trang trí của đồ gốm giai đoạn văn Đồng Đậu đã được chứng thực rõ ràng ở di chỉ Đại Trạch. Với việc theo dõi diễn biến của các mô típ hoa văn theo địa tầng, chúng tôi nhận thấy rằng loại hoa văn phổ biến nhất trong tất cả các lớp là hoa văn sóng thưa và sóng dày, đây cũng là hoa văn chiếm số lượng áp đảo, tiêu biểu cho văn hóa Đồng Đậu. Những hoa văn đẹp và phức tạp hơn bao giờ cũng ít như loại hoa văn sóng uốn hình số 8, sóng uốn hình chữ S phức tạp, những mô típ này lại có nhiều ở lớp dưới.
51
2.3.4.4. Loại hình đồ gốm
A. Hiện vật còn nguyên hoặc gần nguyên
Tại Đại Trạch, đã phát hiện được 3.178 hiện vật hiện vật nguyên, gần
nguyên (Bảng 5).
Các loại gốm nguyên hoặc gần nguyên dạng gồm:
+ Dọi xe sợi: 2 hiện vật, được chia làm 2 loại.
Loại 1 (01.ĐT.C5.L2-1:146 ) hình bánh xe, hai mặt bằng, phình ở giữa gần thành gờ, giữa mặt có lỗ xuyên dọc thân. Trên hai mặt và có hoa văn những chấm lõm xít nhau thành các vòng tròn quanh mặt và thân, màu đen xám. Hiện vật bị vỡ còn khoảng ½, có kích thước đường kính 2,4cm, cao 1cm (ảnh 85, bản vẽ 51).
Loại 2: Hình bánh xe, hai mặt tròn ở giữa hơi cao một chút, có lỗ xuyên thủng cả hai mặt, màu đen. Hiện vật 01.ĐT.B1.L2-1:144 còn nguyên, có kích thước đường kính 2,9cm, cao 0,6cm (ảnh 86, bản vẽ 54).
+ Bàn xoa gốm: 13 hiện vật. Hình nấm, giữa thân thắt lại, hai đầu phình tròn, một đầu to, một đầu nhỏ, mặt đầu to bằng, mặt đầu nhỏ tròn. Màu trắng hơi hồng, màu xám (ảnh 87, 43, 42).
+ Bi gốm: 115 hiện vật. Được nặn bằng tay, không đều nhau, có viên tròn, có viên không được tròn. Viên lớn có đường kính 2,3cm, viên trung bình có đường kính 1,5cm, viên nhỏ có đường kính 1cm, có viên chỉ có 0,8cm (ảnh 88, bản vẽ 48).
+ Đồ gốm không rõ công dụng: 92 hiện vật. Hiện vật là một khối trụ, một đầu loe nhiều, một đầu loe ít, thân đặc. Đầu loe nhiều bằng, có lẽ là đế, trên mặt bị bong lớp áo ngoài. Đầu loe ít lõm ở giữa. Trên hiện vật còn để lại vết ngón tay do chưa xoa hết. Màu xám, đất sét pha nhiều tạp chất. Kích thước: cao 9,5cm, đường kính 5,5cm - 8cm. Cũng có khả năng là một dạng của chân chạc?
+ Nồi con: 1 hiện vật (01.ĐT.D5.L1- 4:74), miệng loe xiên ra ngoài, mép xiên xuống phía ngoài, có một phần cổ thẳng, thân phình ở giữa, đáy bằng. Cổ và miệng màu trắng xám, thân và đáy màu đen, không có áo gốm. Hiện vật bị vỡ một phần, đáy thủng một miếng, có kích thước cao 4,8cm, miệng rộng 7cm (ảnh 93, bản vẽ 44).
52
+ Bàn đập: 1 hiện vật. Hai đầu loe tròn, thân giữa thắt vào thành rãnh, hai đầu có mặt hơi phồng, nhẵn, một đầu to, một đầu nhỏ. Đất sét pha rất ít cát. Mặt ngoài màu vàng hơi hồng thành một lớp mỏng, xương màu nâu. Hiện vật (01.ĐT.B3L1-2.20) bị vỡ còn một nửa, có kích thước cao 4,6cm.
+ Hiện vật hình chày: 1 hiện vật. Hình chày, giữa thân thắt lại, hai đầu phình tròn, một đầu to, một đầu nhỏ, mặt đầu to bằng, mặt đầu nhỏ tròn. Màu trắng hơi hồng. Hiện vật (01.ĐT.D5.L1-5:190) còn nguyên, kích thước: cao 3,5cm (ảnh 95).
+ Chì lưới: 3 hiện vật, được chia thành 2 loại
Loại 1: 2 hiện vật. Chì lưới được làm từ đất nung, màu xám trắng lẫn xám đen. Hiện vật có dạng gần hình bầu dục, còn nguyên trạng, hai đầu của chì lưới được đục lỗ nhỏ để buộc dây lưới. Hiện vật (13.ĐT.H1.L2:17) có kích thước: dài 2,7cm, rộng 1,7cm, dày 1,1cm (ảnh 96).
Loại 2: 1 hiện vật. Chì lưới được làm từ đất nung, màu nâu đỏ. Hiện vật có hình dạng không xác định, còn nguyên trạng, hai đầu của chì lưới và giữa thân (chạy dọc theo chiều dài của hiện vật) được tạo các rãnh để buộc dây lưới. Hiện vật (13.ĐT.H1.L4:27) có kích thước: dài 2,6cm, rộng 1,6cm, dày 1,3cm (ảnh 81).
+ Mảnh gốm ghè: 3 hiện vật được chia làm 2 loại.
Loại 1: 2 hiện vật. Mảnh gốm được ghè tròn như hình đồng xu, một mặt có văn thừng, là mặt ngoài của một đồ gốm vỡ. Màu trắng ngà hơi vàng. Hiện vật (01.ĐT.B2L2-1.207) còn nguyên, có kích thước đường kính 2,8cm, dày 0,4cm (ảnh 82).
Loại 2: 1 hiện vật. Mảnh gốm được ghè giống hình tim, hơi cong khum, màu trắng bạc hơi xám. Một đầu lõm xuống do được khoan, một đầu ghè nhọn, vết ghè không chuẩn nên đầu nhọn không ở chính giữa. Kích thước: cao 2,5cm, rộng 4cm, dày 0,6cm.
- Chân chạc: 2.564 mảnh. Trong đó: 1.037 mảnh chân chạc còn phần đế và phần miệng, 1.572 mảnh chân chạc vỡ không nhận dạng đã được tác giả thống kê trong bảng tổng hợp. Tuy nhiên, chỉ có 5 mảnh miệng chân chạc có thể phân thành 3 loại (ảnh 73 - 76, bản vẽ 56 - 57)
Loại 1: 2 chiếc. Miệng loe giống chiếc thứ hai ở trên nhưng thành mỏng hơn nên dễ nhầm với chân đế của đồ gốm. Màu vàng hồng, một chiếc
53
có văn thừng, một chiếc có văn sóng nước ở phần dưới mép miệng. Kích thước: cao còn lại 5cm - 3,8cm, đường kính miệng 13cm - 16cm.
Loại 2: 2 chiếc. Miệng hơi khum. Loại này giống miệng loe nhưng ở gần mép bên ngoài khum vào tạo thành gờ nhẹ. Màu trắng phớt hồng, hoa văn thừng. Bên trong còn vết tay nặn gốm. Kích thước: cao còn lại 3,7cm - 4,3cm, đường kính miệng 5,5cm - 6,5cm.
Loại 3: 1 chiếc. Miệng khum đều vào, mép bằng. Màu trắng bạc hơi xám. Bên ngoài có một đường chỉ chìm, phía dưới đường chỉ chìm là văn thừng mịn in dọc song song. Kích thước: cao còn lại 2,5cm, đường kính miệng 12cm (ảnh 74).
+ Mảnh nồi nấu - rót đồng: gồm 5 mảnh. Đây là những mảnh vỡ của những nồi nấu - rót đồng. Mặt ngoài gần giống những mảnh gốm thô, mặt trong có một lớp áo bằng sét mịn, chịu nhiệt độ cao nên có màu xám trắng, lớp sét này có khi được đắp hai hoặc ba lần, chứng tỏ rằng nồi đã được sửa chữa để tiếp tục sử dụng. Làm bằng đất sét pha vỏ trấu hoặc bã thực vật nên xốp và nhẹ hơn các mảnh gốm (ảnh 94, bản vẽ 55).
+ Khuôn đất nung: 313 hiện vật được chia làm 3 loại (bản vẽ 45)
Loại 1: 160 hiện vật. Mảnh khuôn được làm từ đất nung, bề mặt màu nâu đỏ. Hiện vật đã bị vỡ, chỉ còn lại một phần và có hình dạng không xác định. Một mặt hiện vật có 4 rãnh hình chữ nhật nằm cạnh nhau, mặt rãng trơn mịn, đáy rãnh phẳng, rộng từ 0,2 - 0,6cm, chạy song song nhau theo chiều dài hiện vật; các mặt còn lại gồ ghề không có dấu vết gì. Xương gốm màu nâu đỏ, khá thô và có nhiều lỗ khí. Mảnh khuôn đất nung (13.ĐT.H1.L1:89) có kích thước còn lại của hiện vật là: dài 10 cm, rộng 8,8cm, dày 6,3cm (ảnh 83).
Loại 2: 117 hiện vật. Mảnh khuôn được làm từ đất nung, bề mặt màu nâu đỏ. Hiện vật đã bị vỡ, chỉ còn lại một phần và có dạng gần giống hình tứ giác. Một mặt hiện vật có 4 rãnh nằm cạnh nhau, mặt rãng trơn mịn, đáy rãnh hình tròn, chạy dài theo chiều dài của mảnh khuôn; các mặt còn lại gồ ghề. Xương gốm màu nâu đỏ, khá mịn. Khuôn kí hiệu (13.ĐT.H1.L2:93) có kích thước: dài 12,9cm, rộng 11,4cm, dày 5,2cm (ảnh 84).
Loại 3: 313 hiện vật. Mảnh khuôn được làm từ đất nung, bề mặt màu nâu đỏ. Hiện vật đã bị vỡ, chỉ còn lại một phần và có hình dạng không xác định. Một mặt hiện vật có rãnh sâu hình chữ V, mặt rãnh trơn mịn, đáy rãnh nhọn, dài 3,4cm; các mặt còn lại gồ ghề không có dấu vết gì. Xương gốm màu
54
xám đen có nhiều lỗ khí nhỏ. Hiện vật (13.ĐT.H1.L2:95) có kích thước: dài còn lại 7,2cm, rộng còn lại 5cm, dày 3,4cm (ảnh 101).
+ Tượng đất nung: 3 hiện vật, chia thành 2 loại.
Loại 1: 2 hiện vật. Tượng được làm từ đất nung, bề mặt tương có màu xám đen. Tượng vẫn còn nguyên trạng và có dạng gần giống hình chiếc gối (hoặc hình khúc xương), giữa thân hơi phình và mỗi đầu tượng có 2 nganh nhô cao ra hai phía. Bề mặt tượng được miết khá trơn, loang lổ lớp patin mỏng màu xám trắng. Tượng được nung ở nhiệt độ cao, gốm đanh và khá nặng. Hiện vật (13.ĐT.H1.L4:30) có kích thước dài 3,3cm, rộng 2,1cm, dày 1,4cm (ảnh 103, bản vẽ 46).
Loại 2: 1 hiện vật. Tượng được làm từ đất nung, một phần màu xám đen, phần còn lại màu xám trắng. Hiện vật đã bị gãy và có hình dáng không xác định, bề mặt tượng trơn nhẵn. Hiện vật (13.ĐT.H1.L2:29) có kích thước: dài 2,8cm, rộng 2cm, dày 1,2cm (ảnh 104, bản vẽ 47).
B. Mảnh gốm
Tại di chỉ Đại Trạch, qua các đợt khảo sát và khai quật đã phát hiện được 103.639 mảnh gốm (Bảng 6). Trong đó mảnh gốm Đồng Đậu là 102.174 mảnh chiếm 98,59% và 1.465 mảnh gốm Đông Sơn chiếm 1,41%.
Bảng 6: Thống kê số lượng mảnh gốm ở di tích Đại Trạch
Năm khai quật
Giai đoạn Số lượng mảnh Tổng 2001 2013
Số lượng 1.248 217 1.465
Văn hóa Đông Sơn
Tỷ lệ 85,18% 14,82% 100%
Số lượng 72.776 29.398 102.174
Văn hóa Đồng Đậu
Tỷ lệ 71,23% 28,77% 100%
Tổng 74.024 29.615 103.639
55
Trong số mảnh gốm rất phong phú ở Đại Trạch, dù gốm giai đoạn Đồng Đậu hay Đông Sơn, loại hình mảnh miệng gốm chiếm số lượng nhiều nhất. Do vậy, mảnh miệng gốm được xem như đối tượng chính để nghiên cứu trong các báo cáo khai quật năm 2001 và 2013.
Với việc so sánh chúng ta có thể dễ dàng nhận ra những nhóm miệng
gốm Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn.
a. Mảnh gốm Đồng Đậu
Trong nhóm mảnh gốm Đồng Đậu số loại miệng gốm rất nhiều. Để dễ theo dõi và cũng để theo dõi diễn biến của các loại hình liên quan đến chất liệu và hoa văn trang trí, các nhà khai quật đã phân ra thành các nhóm: miệng gốm Đồng Đậu không hoa văn, miệng gốm Đồng Đậu có hoa văn bên trong, miệng gốm Đồng Đậu có hoa văn bên trong và bên ngoài, miệng gốm Đồng Đậu có hoa văn bên ngoài, miệng gốm đỏ cứng có cổ, miệng gốm đỏ cứng không có cổ, miệng có cổ cao, miệng bát đĩa (bản vẽ 58).
+ Nhóm miệng gốm Đồng Đậu không hoa văn
Nhóm miệng gốm Đồng Đậu không hoa văn có 3.280 mảnh. Đặc điểm chung của nhóm miệng này là không có hoa văn trang trí nhưng đều có áo gốm màu hồng, màu đen, nâu hồng, nâu vàng, màu xám, đỏ hồng, nâu đen… Căn cứ vào độ loe của miệng gốm như loe bẻ, loe xiên, loe ưỡn, loe gẫy, loe miệng ngắn, loe miệng rộng..., mà nhóm này được chia làm 41 kiểu khác nhau [63; 65] (Bảng 7).
Qua bảng thống kê nhóm miệng Đồng Đậu không có hoa văn có thể thấy, loại miệng loại 1, 2, 3, 4 là miệng đặc trưng cho lớp văn hóa LII, miệng loại 5, 6, 8, 10 là miệng của giai đoạn chuyển tiếp giữa lớp văn hóa LI và lớp văn hóa LII. Miệng đặc trưng cho lớp văn hóa LI là kiểu 11,13.
+ Nhóm miệng gốm Đồng Đậu có hoa văn bên trong
Số miệng gốm Đồng Đậu có hoa văn bên trong không nhiều, chỉ có 1.112 mảnh. Đặc điểm chung của nhóm miệng này là trang trí hoa văn khắc vạch với các họa tiết như hình sóng nước, ô trám, hoa văn chữ S đơn, chữ S liên hoàn, hoa văn hình số 8, văn khuông nhạc, đường vạch xiên song song… Một số mảnh miệng có kết hợp cả văn thừng đập và văn khắc vạch. Căn cứ vào độ loe của miệng gốm như loe bẻ, loe xiên, loe ưỡn, loe gẫy, loe miệng
56
ngắn, loe miệng rộng..., mà nhóm này được chia làm 25 kiểu miệng khác nhau [63; 65] (Bảng 8).
Miệng gốm Đồng Đậu có trang trí bên trong xuất hiện ngay từ lớp sớm nhất, đó là các loại miệng 25, 14, 13 và có lác đác trong các kiểu miệng loại 17, 11, 9, 8. Tất cả các loại này ở lớp trên cũng có nhưng rất ít. Còn lại đều thuộc lớp văn hóa LI tức lớp trên, phần lớn đều có số lượng không đáng kể. Đáng chú ý nhất là loại 12c và loại 5, đây là hai loại chủ yếu số lượng tăng vọt so với những loại khác và phát triển theo chiều tăng dần từ dưới lên đến lớp LI-3, hai lớp trên số lượng giảm đáng kể. Qua đây có thể thấy rằng cách trang trí bên trong miệng có từ lớp văn hóa LII, phát triển ở lớp văn hóa LI.
Những hoa văn trang trí trên loại miệng ở lớp dưới chúng ta gặp loại hoa văn vẽ bằng que nhiều răng thành hoa văn sóng nước, chữ S, số 8, những mô típ này cũng sẽ gặp ở các miệng ở lớp trên, chỉ có loại hoa văn hình hạt gạo in lõm trên miệng loại 25 không hề gặp ở lớp trên. Loại hoa văn khắc vạch vẽ bằng que nhọn không có trên các loại miệng ở lớp dưới. Kiểu hoa văn này sẽ phát triển trong giai đoạn văn hóa Gò Mun.
Qua miệng loại 7 và loại 15 của nhóm miệng có hoa văn bên trong đã nhận thấy mối quan hệ giữa văn hóa Đồng Đậu ở vùng sông hồng với giai đoạn văn Qùy Chử ở vùng sông Mã, mối quan hệ này diễn ra từ giai đoạn sớm của lớp văn hóa LI ở di tích Đại Trạch, diễn ra mạnh hơn ở giai đoạn sau của lớp văn hóa LI.
+ Nhóm miệng gốm Đồng Đậu có hoa văn bên ngoài
Những miệng có hoa văn bên ngoài có 221 mảnh. Đặc điểm chung của nhóm miệng này là vị trí hoa văn được tạo ra ở vị trí giữa cổ đồ gốm và miệng gốm. Trang trí hoa văn khắc vạch với các họa tiết như hình sóng nước, ô trám, hoa văn chữ S đơn, chữ S liên hoàn, văn khuông nhạc, đường vạch xiên song song… Căn cứ vào độ loe của miệng gốm như loe bẻ, loe xiên, loe ưỡn, loe gẫy, loe miệng ngắn, loe miệng rộng..., mà nhóm này được chia làm 10 kiểu miệng khác nhau [63; 65] (Bảng 9).
Cách trang trí hoa văn ngoài miệng gốm không phổ biến. Ở lớp văn hóa LII hầu như chỉ có loại 8, còn lại là thuộc lớp văn hóa LI. Các loại đều có số lượng rất ít ỏi, riêng loại 9 có số lượng tăng đột biến từ dưới lên trên.
+ Nhóm miệng gốm Đồng Đậu có hoa văn bên trong và bên ngoài
57
Nhóm miệng này chỉ có 30 mảnh. Đặc điểm chung của nhóm miệng này là vị trí hoa văn được tạo ra ở cả trong và ngoài miệng gốm. Phần trang trí trong miệng gốm thường nằm ngay sát miệng, phần trang trí bên ngoài thường nằm vị trí giữa cổ đồ gốm và miệng gốm. Trang trí hoa văn khắc vạch với các họa tiết chủ yếu là hình sóng nước và hình chữ V. Kết hợp giữa hình dáng miệng gốm và hoa văn trang trí, nhóm này được chia làm 6 kiểu loại miệng khác nhau [63; 65] (Bảng 10). Lối trang trí cả bên trong và bên ngoài miệng có từ lớp trên của lớp văn hóa LII với miệng loại 2 với số lượng ít, ở các lớp trên chỉ lớp LI-3 là tập trung hơn cả trong các loại 1, 3, 5. Tuy nhiên, những con số thống kê này chỉ nói lên được rằng những miệng gốm có trang trí hoa văn bên trong và bên ngoài chỉ là hiện tượng khá hiếm hoi của đồ gốm Đồng Đậu ở di chỉ Đại Trạch.
+ Nhóm miệng gốm Đồng Đậu đỏ cứng có cổ
Nhóm miệng gốm đỏ cứng có cổ không nhiều, chỉ có 308 mảnh. Loại miệng gốm trong nhóm này được các nhà khai quật tách thành một nhóm riêng vì một đặc điểm rất dễ nhận thấy ở những miệng gốm này là chất liệu của gốm. Gốm cứng, có màu đỏ nâu khác với những màu đỏ trên gốm Đồng Đậu hay gốm Gò Mun. Sự khác biệt này là đánh dấu sự chuyển tiếp giai đoạn hay là yếu tố mang dấu ấn vùng sản xuất chúng tôi chưa thể xác định được. Bước đầu, các nhà khảo cổ tạm thời tách thành 10 loại riêng để tiện theo dõi [63; 65] (Bảng 11).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhóm miệng gốm Đồng Đậu đỏ cứng có cổ tập trung trong các loại 1, 2, 3, 4 với số lượng xấp xỉ nhau, các loại còn lại có số lượng không đáng kể. Hầu như miệng gốm đỏ cứng có cổ chỉ có ở lớp văn hóa LI, tập trung trong lớp LI-2,3. Lớp văn hóa LII có ở loại 9 và loại 5, nhưng là hiện tượng cá biệt.
+ Nhóm miệng gốm Đồng Đậu đỏ cứng khum không có cổ.
Nhóm miệng gốm đỏ cứng khum không có cổ có số lượng không đáng kể: 29 mảnh, hoàn toàn chỉ có ở lớp văn hóa LI. Kết hợp giữa hình dáng miệng gốm và hoa văn trang trí, nhóm này được chia làm 7 loại miệng khác nhau [63; 65] (Bảng 12).
+ Nhóm miệng gốm Đồng Đậu có cổ cao.
58
Nhóm miệng Đồng Đậu có số lượng 1.744 mảnh. Kết hợp giữa hình dáng miệng gốm và hoa văn trang trí, nhóm này được chia làm 21 loại khác nhau [63; 65] (Bảng 13).
Có thể nói rằng nhóm miệng này chỉ có ở lớp văn hóa LI. Loại 1 chiếm số lượng nhiều nhất, sau đó đến loại 2, các loại 5, 6, 8, 18 ít hơn, còn lại đều với số lượng ít hơn. Các loại 1, 2, 3, 6, 8, 9, 18, 19 có sự phát triển theo hướng tăng dần từ lớp dưới lên trên.
Qua bảng thống kê có thể thấy nhóm miệng gốm Đồng Đậu có cổ cao
chỉ xuất hiện ở giai đoạn muộn, trở thành đặc trưng cho giai đoạn này.
+ Nhóm chân đế Đồng Đậu.
Đại Trạch có 836 mảnh chân đế Đồng Đậu. Căn cứ vào hình dáng của chân đế như choãi ít, choãi nhiều, đế thẳng, chân đế cao, chân đế thấp…nhóm chân đế Đồng Đậu được chia làm 49 loại [63; 65] (Bảng 16). Đặc điểm chung là phần lớn có áo gốm phủ, không hoa văn trang trí, không có trổ lỗ (bản vẽ 58).
+ Nhóm đáy - đế gốm Đồng Đậu
Nhóm này có 345 hiện vật, được chia làm 3 loại [63; 65]. Đặc điểm
chung là phần đáy thường có hoa văn thừng đập.
b. Mảnh gốm Gò Mun
Nhóm miệng gốm Gò Mun có 132 mảnh. Có thể xem 7 loại miệng có trang trí và 2 loại không trang trí là những loại miệng gốm sớm nhất của văn hóa Gò Mun (bảng 14). Sự xuất hiện của gốm Gò Mun trong di chỉ Đại Trạch được các nhà khai quật giải thích rằng điều này không có nghĩa là đã có một tầng văn hóa thuộc văn hóa Gò Mun ở đây. Về mặt địa tầng có thể xem lớp trên của lớp văn hóa LI là bắt đầu có sự chuyển tiếp để tiến lên văn hóa Gò Mun.
+ Nhóm miệng gốm Gò Mun không có hoa văn.
Qua các đợt khai quật thu được 63 mảnh, được chia làm 2 loại.
Loại 1: Miệng loe xiên nhiều, gần thành loe ngang, bên trong gẫy góc ở cổ, bên ngoài gần mép thành miệng gập lên tạo thành gờ nhẹ, phía dưới gần cổ hơi lõm, có thể xuất hiện vài mảnh bên trong rãnh lõm có vết chải dọc, bên trong mặt thành miệng phẳng, hoặc hơi lõm. Mép bằng hoặc tràn vào trong
59
thành gờ. Bên trong thành miệng có 3 hoặc 4 đường chỉ nổi. Áo gốm màu xám, hồng xám, xương đen, pha cát.
Loại 2: Miệng loe xiên gần thành loe ngang, gẫy góc thành gờ ở cổ, mép xiên lên, hoặc gần mép thành miệng gập lên. Mặt thành miệng phẳng, có các đường chỉ nổi. Áo gốm đen xám, xám đen, nâu hồng, xương đen, pha cát có hạt sạn trắng.
+ Nhóm miệng gốm Gò Mun có hoa văn
Nhóm miệng này có 69 mảnh. Kết hợp hình dáng miệng và hoa văn
trang trí nhóm này được chia thành 7 loại (Bảng 14).
c. Mảnh gốm Đông Sơn
+ Nhóm miệng gốm Đông Sơn
Nhóm miệng gốm Đông Sơn có 404 mảnh tập trung ở lớp trên trong những ô có mộ Đông Sơn. Kết hợp hình dáng miệng và hoa văn trang trí nhóm này được chia thành 13 loại (Bảng 15).
+ Nhóm chân đế gốm Đông Sơn.
Nhóm chân đế Đông Sơn gồm 57 mảnh. Kết hợp hình dáng miệng và
hoa văn trang trí nhóm này được chia thành 3 loại (Bảng 17).
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Qua các đợt khai quật và đào thám sát di chỉ Đại Trạch, các nhà khảo cổ đã phát hiện một khối lượng hiện vật rất phong phú, gồm đủ các loại loại đồ đá, đồ kim loại, đồ xương.
Về đồ đá, cư dân Đại Trạch sử dụng nhiều loại nguyên liệu và chất liệu đá khác nhau để chế tác công cụ lao động và đồ trang sức. Ngoài những công cụ tiêu biểu trên còn có những hiện vật khác như bàn mài, chì lưới và khuôn đúc đồng.
Về đồ đồng, ở vào giai đoạn văn hóa Đồng Đậu, cư dân Đại Trạch đã nắm vững kỹ thuật luyện và đúc đồng. Dựa vào những bằng chứng khảo cổ, có thể cho rằng vào thời Đồng Đậu, cư dân Đại Trạch đã có lò nấu kim loại. Các sản phẩm đúc đồng của người Đồng Đậu ở Đại Trạch chủ yếu là công cụ sản xuất, số ít là vũ khí, các hiện vật này đều có kích thước nhỏ. Đây là một sự phát triển có nguồn gốc tại chỗ, bản địa.
60
Ở vào giai đoạn văn hóa Đông Sơn, người thợ thủ công Đại Trạch đã làm chủ và rất thuần thục việc luyện đúc kim loại. Các sản phẩm đúc đồng của người Đông Sơn ở Đại Trạch đã đa dạng hóa về chức năng như công cụ sản xuất, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt và đồ trang sức. Kích thước đồ đồng giai đoạn Đông Sơn đã to hơn nhiều so với giai đoạn Đồng Đậu.
Về đồ gốm, với số lượng vô cùng phong phú, bao gồm gốm Đồng Đậu, gốm Gò Mun, gốm Đông Sơn cho thấy đồ gốm thuộc giai đoạn Đồng Đậu có sự đa dạng về kiểu dáng loại hình, hoa văn trang trí. Trong giai đoạn đầu, gốm ít nhiều vẫn tiếp tục theo truyền thống Phùng Nguyên, song đã có những thay đổi rõ rệt.
Ở Đại Trạch, gốm giai đoạn Gò Mun, gốm Đông Sơn giảm về số lượng, loại hình hoa văn trang trí đơn giản hơn so với gốm giai đoạn Đồng Đậu. Đồ gốm Đông Sơn ở Đại Trạch mang đặc trưng của gốm Đường Cồ.
61
CHƯƠNG 3: NIÊN ĐẠI, CHỦ NHÂN, NGUỒN GỐC, ĐỜI SỐNG
VÀ MỐI QUAN HỆ VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN ĐẠI TRẠCH
3.1. Niên đại, đặc trưng các giai đoạn phát triển của di tích Đại Trạch
3.1.1 Niên đại
Di chỉ Đại Trạch thuộc giai đoạn văn hóa Đồng Đậu, trung kỳ thời đại Đồng thau, lớp trên của di chỉ đã bắt đầu có sự chuyển biến sang giai đoạn văn hóa Gò Mun. Những yếu tố văn hóa Đông Sơn cũng được ghi nhận qua di tích mộ táng và di vật. Qua nghiên cứu diễn biến của đồ gốm chúng tôi cho rằng giai đoạn văn hóa Đồng Đậu ở di chỉ Đại Trạch sớm nhất thuộc vào giai đoạn phát triển và đã xuất hiện những yếu tố của giai đoạn văn hóa tiếp theo: giai đoạn Gò Mun, giai đoạn Đông Sơn.
Kết quả xác định niên đại các mẫu lấy từ cuộc khai quật năm 2001 bằng phương pháp phân tích C14 có kết quả như sau: mẫu thứ nhất lấy ở ĐT.D4.LI- 2, độ sâu 0,44m, số hiệu mẫu HNK-132, kết quả tính theo các tiêu chuẩn truyền thống (T1/2 = 5.570 năm và các chỉ tiêu tương ứng). Tuổi C14 theo mẫu chuẩn 0.95 NBS Ox. Ac. Std 3.210 ± 50 yr BP. Tuổi C14 tính theo hiệu chỉnh dendro 3.390 ± 50 yr BP.
Các kết quả tính theo tiêu chuẩn T1/2 mới (5.730 ± 30 năm), cùng với việc áp dụng hợp lý các hiệu chỉnh thế kỷ. Theo H.N Michael và E.K Ralph tại hội nghị quốc tế lần thứ 8 về xác định tuổi bằng phương pháp carbon phóng xạ. Tuổi 14C theo mẫu chuẩn 0.95 NBS Ox. Ac.Std 3.300 ± 50 yr BP. Tuổi 14C tính theo hiệu chỉnh dendro 3.450 ± 50 yr BP.
Mẫu thứ hai lấy ở ĐT.C4.LII-1, độ sâu 0,82m, số hiệu mẫu HNK- 133. Kết quả tính theo các tiêu chuẩn truyền thống (T1/2 = 5.570 năm và các chỉ tiêu tương ứng). Tuổi 14C theo mẫu chuẩn 0.95 NBS Ox. Ac. Std 3.280 ± 50 yr BP. Tuổi 14C tính theo hiệu chỉnh dendro 3450 ± 50 yr BP.
Các kết quả tính theo tiêu chuẩn T1/2 mới (5.730 ± 30 năm), cùng với việc áp dụng hợp lý các hiệu chỉnh thế kỷ. Theo H.N Michael và E.K Ralph tại hội nghị quốc tế lần thứ 8 về xác định tuổi bằng phương pháp carbon phóng xạ. Tuổi 14C theo mẫu chuẩn 0.95 NBS Ox. Ac. Std 3.370 ± 50 yr BP. Tuổi 14C tính theo hiệu chỉnh dendro 3.580 ± 50 yr BP [67: tr.167 - 171].
62
Như vậy, dựa trên kết quả phân tích C14 của di chỉ Đại Trạch và so sánh niên đại các di tích khác, tác giả cho rằng niên đại cơ bản của di chỉ này vào khoảng 3.500 - 2.000 năm cách ngày nay. Đại Trạch là một trong những di chỉ có giá trị nghiên cứu khoa học cao, có địa tầng dày chứa đựng hiện vật của 3 nền văn hóa: Văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun và văn hóa Đông Sơn. Dù ở trong giai đoạn nào thì di tích cũng giữ vai trò như một di chỉ cư trú - mộ táng.
3.1.2. Đặc trưng các giai đoạn phát triển
- Về văn hóa Đồng Đậu: Đại Trạch là một di chỉ thuộc văn hóa Đồng Đậu rất điển hình. Văn hóa Đồng Đậu ở đây có thể chia thành hai giai đoạn phát triển. Về niên đại tuyệt đối có thể tham khảo niên đại của hai mẫu phân tích niên đại carbon phóng xạ 14C như trên đã trình bày. Mẫu ĐT.D4.LI-2 đại diện cho lớp văn hóa trên, thuộc giai đoạn muộn, có thể gọi là giai đoạn 2. Mẫu ĐTC4LII-1 đại diện cho lớp văn hóa dưới, thuộc giai đoạn sớm hơn, có thể gọi là giai đoạn 1.
Giai đoạn 1: Biểu hiện những đặc trưng nổi trội nhất của văn hóa Đồng Đậu. Kỹ thuật đúc đồng phát triển, các khuôn đúc đồng, mảnh nồi nấu đồng đều phát hiện được ở lớp văn hóa LII. Bộ đồ đồng đặc trưng cho văn hóa Đồng Đậu đã định hình, đó là búa tán, mũi tên cánh én, lao hình lá, dao khắc, nạo? Về đồ gốm nổi nét nhất là những mô típ hoa văn đẹp nhất của kỹ thuật tạo hoa văn băng que nhiều răng xuất hiện ở giai đoạn này.
Giai đoạn 2: Có sự phát triển vượt trội về số lượng đồ đồng, cũng như số lượng đồ gốm được biểu hiện bởi số mảnh gốm thu được. Giai đoạn 2 đánh dấu một sự chuyển biến về nhiều mặt. Một số loại miệng đồ gốm chỉ thấy ở lớp văn hóa LI, màu sắc của đồ gốm cũng thay đổi, tiêu biểu là nhóm miệng gốm đỏ cứng. Số lượng hiện vật nhiều, biểu hiện cho đời sống kinh tế phong phú. Ở giai đoạn này, cũng xuất hiện những yếu tố của sự giao lưu với những vùng xa xôi như vùng Sông Mã, Sông Chu ở Thanh Hóa được biểu hiện ở một số kiểu dáng đồ gốm cùng hoa văn trang trí.
Trong giai đoạn 2 cũng có thể phân thành hai giai đoạn nhỏ, giai 2a có thể tính từ lớp LI-6 đến lớp LI-4, giai đoạn 2b là ba lớp đất trên cùng. Ở giai đoạn 2b bắt đầu manh nha xuất hiện những yếu tố của giai đoạn văn hóa muộn hơn - văn hóa Gò Mun. Những mảnh gốm kiểu Gò Mun xuất hiện, màu sắc của loại gốm đỏ cứng sẽ là đặc trưng sau này của đồ gốm Gò Mun. Đây là
63
một trong những minh chứng cho sự ra đời của văn hóa Gò Mun là từ trong lòng văn hóa Đồng Đậu.
- Về văn hóa Đông Sơn: Tại di tích Đại Trạch có những ngôi mộ táng F8 và F13 (năm 2000) thuộc về giai đoạn văn hóa Đông Sơn. Nhìn lại những ngôi mộ do nhân dân phát hiện ngẫu nhiên và các ngôi mộ khai quật được chúng ta đều nhận thấy đây là những ngôi mộ Đông Sơn giàu có, có những ngôi mộ rất giàu như ngôi mộ F8. Những hiện vật thu được trong mộ đều là những hiện vật Đông Sơn rất điển hình, bóng dáng của những hiện vật Hán trong những ngôi mộ này mờ nhạt hoặc hầu như không có. Ở hai ngôi mộ F8 và F13, ngoài những hiện vật được chôn làm đồ tuỳ táng, chúng tôi còn tìm được những mảnh vỡ của những đồ đồng khác, những mảnh này được chôn một cách có chủ ý. Liên hệ với hiện tượng phát hiện trong trống Cổ Loa I, chúng tôi cho rằng những mảnh đồng này có thể là nguyên liệu để đúc đồ đồng. Phải chăng chủ nhân của những ngôi mộ này cũng là những người thợ đúc đồng?.
Tầng văn hóa của văn hóa Đông Sơn có biểu hiện ở khu vực gần khu nhà dân. Tuy nhiên, do các yếu tố khách quan nên chưa thể đào thám sát, cũng như khai quật khảo cổ học để kiểm chứng. Cùng với những di vật Đông Sơn tìm thấy trên chính địa bàn Đại Trạch, kết quả khảo sát khảo cổ cho thấy, chủ nhân của những hiện vật này là những chủ nhân văn hóa Đông Sơn trên vùng đất Đình Tổ, Thuận Thành. Như vậy, có thể khẳng định rằng: ít nhất từ thời Hùng Vương dựng nước, đất Đại Trạch, Đình Tổ xưa đã hình thành và là một địa bàn, một trung tâm Đông Sơn khá lớn thời các vua Hùng.
Với các bằng chứng về di tích bao gồm các dấu tích về nhà sàn, bếp, mộ táng cùng hệ thống di vật gồm bộ sưu tập công cụ sản xuất, công cụ sinh hoạt, di cốt động vật, đặc biệt là các mảnh khuôn đúc đồng có thể cho rằng: Đại Trạch ở một giai đoạn nào đó di tích cũng giữ vai trò như một di chỉ cư trú - mộ táng.
3.2. Chủ nhân, nguồn gốc của di tích Đại Trạch.
3.2.1. Chủ nhân
Cho đến nay, đã phát hiện được 4 ngôi mộ, trong đó, 1 mộ thuộc về văn hóa Đồng Đậu và 3 mộ thuộc về văn hóa Đông Sơn, nhưng việc nghiên cứu về nhân chủng học vẫn chưa được thực hiện. Nguyên nhân cơ bản là hầu hết những di cốt này phần lớn đã bị vỡ, gẫy đặc biệt là phần xương sọ.
64
Tài liệu đáng quý ở đây là qua tình trạng mộ táng ta biết được phần nào
táng tục của người Đại Trạch xưa.
Chủ nhân mộ táng giai đoạn Đồng Đậu được chôn cất theo hướng đầu di cốt hướng Đông Bắc, chân hướng Tây Nam. Chủ nhân ngôi mộ được chôn theo đồ tùy táng là những đồ gốm được đặt trên cơ thể mà nay dấu tích để lại là những cụm gốm.
Trong 3 ngôi mộ Đông Sơn thì mộ thứ nhât (mộ F1) phần xương cốt gần
như gẫy vỡ hoàn toàn, chỉ còn một ít xương chi, xương sọ và răng người.
Mộ thứ hai (mộ F8) có dấu hiệu bị đào trộm, nên từ phần xương sọ tới phần xương ngực bị phá hủy nhiều, vị trí xương không đúng với vị trí giải phẫu. Từ phần bụng trở xuống xương còn khá tốt. Người chết được chôn nằm thẳng, hai tay duỗi thẳng dọc thân, hai bàn chân để sát nhau. Đáng chú ý là căn cứ vào mặt cắt và hiện tượng huyệt mộ có 3 lớp đất có thể nghĩ tới ngôi mộ này có quan tài là thân cây khoét rỗng. Mộ táng thân cây khoét rỗng là một trong những hình thức mai táng chủ yếu của cư dân văn hóa Đông Sơn.
Riêng mộ thứ 3 (mộ F13) di cốt còn khá nguyên vẹn, tuy nhiên, bộ phận quan trọng nhất để nghiên cứu nhân chủng học là phần sọ đã bị nhân công vô tình đào mất phần mặt, xương bàn chân không thấy. Người chết được đặt nằm ngửa, hai tay, hai chân duỗi thẳng, bàn tay đặt ở phần bụng. Mộ 3 cũng có khả năng là mộ quan tài thân cây khoét rỗng.
Hiện tượng mộ F8 và F13 có dấu hiệu của mộ thuyền là một vấn đề rất cần được quan tâm và nghiên cứu sâu hơn nữa, vì đây không phải là vùng đất phân bố của mộ thuyền.
Các ngôi mộ Đông Sơn đều được được chôn theo số hiện vật tùy táng rất
phong phú, chứng tỏ chủ nhân của những ngôi mộ là những người giầu có.
Mặc dù, các di cốt Đại Trạch chưa được nghiên cứu về mặt nhân chủng học, nhưng dựa vào kết quả nghiên cứu nhân chủng học thời đại kim khí ở Bắc Việt Nam, chúng ta có thể hình dung được phần nào thành phần nhân chủng của cư dân văn hóa Đồng Đậu và văn hóa Đông Sơn ở Đại Trạch.
Tại di chỉ Đồng Đậu, xã Minh Tân, huyện Yên Lạc (Vĩnh Phúc) trong lần khai quật năm 1990, Bảo tàng lịch sử Việt Nam và Sở Văn hóa thông tin Vĩnh Phúc đã phát hiện “một ngôi mộ cổ nằm trong lớp văn hóa Phùng Nguyên, có niên đại khoảng 3.500BP. Trên xương cẳng tay phải có đeo một
65
vòng đá đường kính 106mm. Đây là di cốt người đàn ông khoảng 40 - 45 tuổi, thuộc nhóm loại hình nhân chủng Indonesien” [58: 322]. Từ tài liệu mộ táng di chỉ Đồng Đậu, tôi cho rằng có nhiều khả năng, cư dân Đại Trạch thời văn hóa Đồng Đậu cũng thuộc vào nhóm loại hình nhân chủng Indonesien. Đây là một giả thuyết công tác, cần được tiếp tục nghiên cứu.
Đối với những di cốt thời Đông Sơn ở Đại Trạch, dựa vào kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Lân Cường về đặc điểm nhân chủng cư dân văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam cho thấy “cư dân thời văn hóa Đông Sơn mang hai yếu tố nhân chủng: Indonesien và Đông Nam Á. Indonesien là một nhóm thuộc loại hình thuộc ngành Mongoloid, nhưng còn lưu lại nhiều đặc điểm Australoid. Nhóm loại hình Đông Nam Á chủ yếu là cư dân thời đại kim khí mang đậm yếu tố Mogoloid nằm trong chủng tộc Nam Á của ngành Mogoloid” [57: 153]. Theo tôi, yếu tố nhân chủng của cư dân Đại Trạch thời Đông Sơn cũng không nằm ngoài hai yếu tố nhân chủng Indonesien và Đông Nam Á. Trong thực tế khảo cổ học, ở các di chỉ Đọi Sơn và Núi Nấp, chúng ta thấy cả hai nhóm loại hình nhân chủng Indonesien và Đông Nam Á cùng trong một địa điểm. Hiện tượng này có diễn ra ở Đại Trạch hay không, theo tôi cần phải có thêm nhiều tài liệu hơn nữa.
3.2.2. Nguồn gốc của di chỉ Đại Trạch
Qua các tài liệu di vật khảo cổ học ở di chỉ Đại Trạch, đặc biệt về đồ gốm, chúng ta thấy có nhiều mối liên hệ về nguồn gốc của di chỉ Đại Trạch với văn hóa Phùng Nguyên.
Đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên được tạo hình bằng các kỹ thuật: bàn xoay, nặn tay, dải cuộn kết hợp hòn kê, trong đó phần lớn đồ gốm được tạo hình bằng bàn xoay nên mảnh gốm có độ dày mỏng đồng đều, hình dáng cân đối. Hầu hết đồ gốm ở di chỉ Đại Trạch cũng được làm bàn xoay.
Hoa văn trang trí trên gốm Phùng Nguyên đa dạng về kiểu loại và các họa tiết. Những hoa văn bắt nguồn từ kỹ thuật như văn thừng, văn chải chiếm số lượng lớn trong đồ gốm, Loại hoa văn kỹ thuật như văn thừng trong đồ gốm Đại Trạch cũng cũng chiếm tỷ lệ khoảng 2/3 đồ gốm.
Điểm nổi bật trong gốm Phùng Nguyên là khối lượng lớn những hoa văn mang tính nghệ thuật - hoa văn trang trí. Hoa văn trang trí đa dạng và phong phú về họa tiết. Loại hoa văn trang trí trên đồ gốm Đại Trạch, đặc biệt ở giai đoạn Đồng Đậu cũng khá phong phú về họa tiết.
66
Đáng chú ý là đa số họa tiết hoa văn đồ gốm Phùng Nguyên được tạo nên bằng kỹ thuật khắc vạch. Những đường nét khắc vạch tạo hình chữ S các kiểu, những chiếc lá, hình chữ C, hình tam giác, đường nét cong… đều được tạo ra bằng kỹ thuật tạo hoa văn này [6: 73]. Trong di chỉ Đại Trạch, những đồ gốm có họa tiết chữ S đơn giản và chữ S phức tạp nối liền nhau thành dải có khối lượng lớn. Có thể tìm thấy rất nhiều điểm tương đồng giữa gốm giai đoạn Đồng Đậu ở Đại Trạch với đồ gốm Phùng Nguyên qua những tiêu bản gốm cho hoa văn họa tiết hình chữ S và biến thể của chúng.
Đồ gốm Đại Trạch cũng có loại hoa văn được tạo ra từ kỹ thuật in chấm
(hoa văn chấm dải) rất phổ biến ở đồ gốm Phùng Nguyên.
Từ những so sánh, đối chiếu trên và liên hệ với một số di tích khảo cổ học đã phát hiện được ở một số nơi, tác giả cho rằng: có nhiều khả năng chủ nhân của di tích Đại Trạch là hậu duệ của văn hóa cư dân văn hóa Phùng Nguyên sinh sống ở vùng đồng bằng Sông Hồng trước đó. Họ di cư đến Đại Trạch trong quá trình mở mang địa bàn sinh sống. Theo niên đại của di tích thì có thể họ đã di cư đến Đại Trạch vào giai đoạn phát triển của văn hóa Đồng Đậu.
Và cũng tại di chỉ Đại Trạch đã xuất hiện những yếu tố của giai đoạn văn hóa tiếp theo - giai đoạn Gò Mun như chúng ta đã thấy qua tư liệu địa tầng và di vật khảo cổ học.
3.3. Đời sống của cư dân cổ Đại Trạch
Cư dân Đại Trạch cổ đã biết lựa chọn những nơi cư trú có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để sinh sống. Những nơi có đồng bằng bẳng phẳng, sông ngòi, đầm nước bao quanh, thuận lợi cho trồng trọt, chăn nuôi và khai thác sản phẩm sẵn có của tự nhiên là những nơi con người tập trung sinh sống đông đúc nhất.
Về đặc điểm các khu cư trú cổ thuộc giai đoạn văn hóa Đồng Đậu chúng ta thấy, đa số các làng xóm của người Đồng Đậu thường nằm ven các dòng sông, đầm hồ. Chẳng hạn như di tích Thành Dền nằm trên gò đát cao giữa đồng bằng gần sông Cà Lồ, di tích Đồng Đậu gần sông Loan cổ, xung quanh có nhiều đầm hồ, di tích Chùa Gio nằm trên gò cao, gần sông Đáy, các di tích chùa Gio, Gò Cây Muỗm, Gò Mỏ Phượng, Gò Rền Rắn, Vườn Chuối đều nằm trên những gò cao nổi giữa đồng bằng, gần sông Lễ Khê, các di tích Tiên Hội, Bãi Mèn, Đình Tràng, Xuân Kiều cùng tọa lạc ở ven sông Hoàng Giang,
67
di tích Bãi Tự phân bố gần sườn một đồi núi sót, ven sông Tiêu Tương cổ… Di tích Đại Trạch phân bố trên khu đất cao ven sông Dâu cổ.
Cố GS. Trần Quốc Vượng cho rằng: Người Phùng Nguyên tạo lập truyền thống làng đồi ở trung du và “người Đồng Đậu đã tạo dựng truyền thống lập làng ven sông ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Phải nói thêm rằng, thói quen sống ven sông đã xuất hiện ở giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, nhưng chưa bao giờ, một hệ thống làng ven sông ở vùng đồng bằng lại được hình thành dày đặc như ở giai đoạn văn hóa Đồng Đậu. Đặc điểm này cần phải được xem như một nét đặc trưng của văn hóa Đồng Đậu. Rõ ràng, cư dân Đồng Đậu đã đóng góp thêm một nét độc đáo cho truyền thống văn hóa Việt cổ. Truyền thống đó sau này tiếp tục được cư dân Gò Mun, Đông Sơn kế thừa, phát triển” [77: 498].
Cư dân Đồng Đậu đã biết dựng nhà trên gò cao, doi đất cao để tránh mưa lũ. Nhà làm bằng gỗ, tranh tre nứa lá, mà dấu tích là những lỗ cột có đường kính 15 - 20cm có mặt trong các tầng văn hóa, và đặc biệt là một số nền đất nện mịn màu vàng được đắp nện cẩn thận cũng đã được tìm thấy ở Đồng Đậu, Vườn Chuối, Từ Sơn… Ở di tích Đồng Đậu, dấu tích nền nhà đo được mỗi cạnh dài khoảng 3 - 5m, dày 10 - 20cm, trên có nhiều lỗ cột, đã được các nhà khảo cổ cho là dấu tích của các nền nhà đương thời. Điều này, cho thấy con người đã chủ động trong việc cải tạo môi trường sống, khắc phục những khó khăn do điều kiện về khí hậu và thổ nhưỡng tạo ra.
Di tích Đại Trạch lại cho chúng ta thấy một cách thích nghi khác trong việc tạo dựng nhà trong điều kiện môi trường thấp trũng, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi sự xâm thực của dòng Dâu cổ. Khu vực này cũng chính là bờ châu thổ trong giai đoạn Đồng Đậu. Cuộc khai quật Đại Trạch năm 2001 đã phát hiện được khá nhiều hàng cột mà có khả năng là vết tích của một kiến trúc dạng nhà sàn. Qua phân tích bào tử phấn hoa của các lớp đất của tầng văn hóa ở Đại Trạch cho thấy sự phong phú của các loại tảo nước lợ, trong lớp đất sinh thổ còn có tảo nước mặn và trùng lỗ. Với môi trường còn nhiều đầm lầy, ẩm ướt thì việc người Đại Trạch cư trú trên nhà sàn là khá hợp lý.
Điều tác giả muốn nhấn mạnh ở đây là cư dân giai đoạn văn hóa Đồng Đậu ở Đại Trạch nói riêng hay cư dân Đồng Đậu nói chung đã có những hoạt động kinh tế khá phong phú, những tài liệu khảo cổ học tìm thấy trong di chỉ sẽ giúp chúng ta đánh giá được trình độ kinh tế xã hội của giai đoạn văn hóa Đồng Đậu. Phần lớn những hiện vật ở đây đều là những công cụ sản xuất như:
68
rìu, bôn, công cụ chặt đập, nạo, chày bằng đá; dùi, đục, lưỡi câu… và những dụng cụ dùng trong sinh hoạt như đồ đựng bằng gốm, chén, bát… Điều này đã chứng minh, cư dân Đại Trạch đã sớm biết tận dụng nguồn lợi tự nhiên cùng với bàn tay và khối óc của mình sáng tạo ra nhiều loại công cụ phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt.
Dựa vào hệ thống di tích và di vật thu được, chúng ta có thể nhận thấy tại đây đã có những ngành nghề chính như: sản xuất nông nghiệp, săn bắn, đúc đồng và có thể bước đầu đã có thuần dưỡng vật nuôi.
Sản xuất nông nghiệp được xem là một ngành kinh tế chủ đạo của người Đại Trạch. Cư dân Đại Trạch sống gần sông nước, rất thuận tiện cho việc canh tác, phát triển cây lúa nước - một loại cây lương thực chính yếu và quan trọng bậc nhất của cư dân Việt cổ. Lúa nước khác hẳn lúa nương ở nhu cầu cần độ ẩm. Để cây lúa sinh trưởng và phát triển được thì chân ruộng cần có nước. Gần dòng sông Dâu cổ, con người có thể chủ động trong việc tưới tiêu, mở rộng diện tích canh tác, giảm bớt phụ thuộc vào tự nhiên. Mặt khác, nước từ dòng sông cũng mang lại bao sự trù phú, tươi tốt cho các mùa vụ. Điều này góp phần quan trọng để nâng cao năng suất các loại cây trồng. Hơn nữa, do cư trú gần sông nước, người Đại Trạch có thể dễ dàng khai thác các loại thủy sản. Trong di tích Đại Trạch phát hiện được nhiều xương răng của các loài động vật dưới nước như cá, rùa.., trong các lớp văn hóa đã phát hiện được nhiều lưỡi câu đồng và và chì lưới bằng gốm. Việc khai thác các loài thủy sản sống dưới nước đã bổ sung một nguồn thức ăn giàu chất đạm cho bữa ăn của người Đồng Đậu. Thêm vào đó, việc đi lại bằng đường sông và giao lưu, trao đổi cũng thuận lợi hơn.
Ngoài kinh tế trồng lúa nước, viêc săn bắt thú rừng cũng là một thế mạnh của cư dân cổ Đại Trạch. Với số lượng không nhỏ những mảnh xương thú rừng như hoẵng, hươu, lợn rừng, khỉ…cùng với bộ vũ khí như mũi giáo, mũi lao, mũi tên bằng đá, đồng được tìm thấy trong di tích, ta có thể hình dung được phần nào hoạt động săn bắt của cư dân cổ nơi đây.
Đáng chú ý là, đã có những bằng chứng về hoạt động chăn nuôi gia súc của cư dân Đại Trạch. Ở giai đoạn sớm, dù chỉ với số lượng ít xương động vật nuôi được tìm thấy song điều đó cũng đủ để cho ta thấy những bằng chứng ban đầu về việc thuần dưỡng động vật cách đây hơn 3.200 năm. Sang giai đoạn muộn, nghề chăn nuôi đã được định hình một cách rõ nét với nhiều loài vật nuôi hơn như chó, gà, dê, lợn…
69
Ngoài ra, cư dân nơi đây còn đặc biệt chú ý phát triển các nghề thủ công như: đúc đồng, làm gốm, đan lát, làm mộc…Nghề đúc đồng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với đời sống kinh tế của xã hội thời kỳ Kim khí. Bằng chứng về nghề đúc đồng ở Đại Trạch là các mảnh nồi rót đồng, các cục đất nung, mảnh đồng nguyên liệu, các thỏi gốm hình trụ nằm trong tầng văn hóa Đông Sơn. Như vậy, có thể nhận định bước sang giai đoạn văn hóa Đông Sơn, cư dân cổ Đại Trạch đã thuần thục và phát triển cao kỹ nghệ đúc đồng. Nghề đúc đồng tương đối phát triển, kỹ thuật đúc đồng ngày càng nâng cao với nhiều sản phẩm có chất lượng như các loại: giáo, lao, mũi tên; lưỡi câu, kim khâu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nhờ vậy, năng suất lao động được nâng cao và giải quyết được nhiều mặt của đời sống mà nguyên liệu đá không thể thay thế được. Nghề đúc đồng phát triển đồng thời thúc đẩy các nghề thủ công khác cũng phát triển theo như: nghề đan lát, mộc, rèn.
Nghề làm gốm được coi là nghề quan trọng đối với đời sống của các cư dân thời kỳ Tiền - Sơ sử. Đồ gốm được sản xuất để phục vụ nhu cầu của họ là chủ yếu, nhưng quan trọng hơn, nó còn thể hiện được trình độ kỹ thuật, tư duy, thẩm mỹ của chính cư dân ấy. Ở Đại Trạch, nghề làm gốm cũng đóng một vai trò khá quan trọng khi ở cả hai giai đoạn: Đồng Đậu và Đông Sơn. Số lượng mảnh gốm thu được rất nhiều, đại đa số là những mảnh đồ đựng (bình), hay đun nấu (nồi)… với nhiều kiểu dáng và loại hình cân xứng, hài hòa với nhưng đồ án hoa văn trang trí rất đẹp và sinh động. Người Đại Trạch đã làm chủ được quy trình và kỹ thuật làm gốm, từ chọn nguyên liệu, pha chế nguyên liệu, tạo dáng, trang trí, phơi và nung gốm để tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng phục vụ nhu cầu đời sống của mình.
Nghề đan lát và dệt vải cũng đã hiện diện ở Đại Trạch. Bằng chứng ở đây là sự hiện diện của các mảnh gốm có hoa văn in dấu đan và các dọi xe chỉ cũng tìm được ở di chỉ này. Những nghề thủ công này góp phần nâng cao cuộc sống tinh thần của cư dân cổ nơi đây.
3.4. Mối quan hệ văn hóa của cư dân Đại Trạch
3.4.1 Mối quan hệ với di tích Dương Xá
Di chỉ Dương Xá có toạ độ 210 00’06” vĩ độ Bắc và 105058’18” kinh độ Đông thuộc khu đất Mả Cả, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Di chỉ Dương Xá gần như nằm trọn trong vùng trung tâm của châu thổ sông Hồng, độ cao trung bình 5 - 20m so với mực nước biển.
70
Di chỉ Dương Xá được phát hiện một cách ngẫu nhiên. Trong quá trình cải tạo và quy hoạch đất đai, nhân dân địa phương phát hiện những ngôi mộ gạch và những đồ đồng, đồ gốm mang phong cách Đông Sơn [34].
Tháng 4 năm 1987, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội kết hợp với Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật di chỉ này. Cuộc khai quật lần này đã phát hiện một ngôi mộ mang phong cách Đông Sơn giai đoạn muộn. Hiện vật bao gồm: đồ đồng (3 chiếc lưỡi câu có ngạnh, 3 đoạn kim đồng, 1 mũi nhọn đồng, 1 chiếc đục và một chiếc búa đồng); đồ đá (1 mảnh vòng bằng đá nephrit màu xanh ngọc, 1 chiếc đe bị vỡ làm đôi); đồ gốm (hơn 10000 mảnh gốm các loại). Ngoài ra, trong quá trình khai quật, các nhà khảo cổ còn sưu tầm được một số hiện vật trong nhân dân như 1 chiếc trống đồng loại nhỏ có 4 hình chim bay, 1 liễn đồng có nắp hoa văn hổ phù, một số mũi tên, mũi giáo, tiền ngũ thù thời Đông Sơn...[6, tr.65].
Kết quả khai quật này cho thấy, Dương Xá là di chỉ cư trú kết hợp mộ táng, rộng khoảng 30.000 m2, có tầng văn hóa dày và khá ổn định, nếu tính cả phần đất bị san ủi thì tầng văn hóa dày trên dưới 2m. Diễn biến đồ đá, đồng, gốm…có thể chia tầng văn hóa thành hai lớp: Gò Mun lớp dưới và Đông Sơn lớp trên, không có lớp vô sinh ngăn cách giữa hai lớp này. Cư dân Dương Xá cổ làm nhiều nghề khác nhau, đặc biệt là nghề gốm, nghề luyện đồng và nghề cá khá phát triển. Tuy nhiên, các dấu tích nghề nông không rõ nét. Có nhiều lý do để giải thích hiện tượng này hoặc có thể do diện đào chưa rộng [34].
Tháng 1 năm 1998, Viện Khảo cổ học đã đào thám sát di chỉ Dương Xá. Hiện vật đào được chỉ gồm đồ đá và đồ gốm: Đồ đá gồm 11 hiện vật trong đó có 2 mảnh vòng, 5 cục đá nguyên liệu, 3 viên cuội và 1 mảnh tước cuội. Đồ gốm gồm 1 chì lưới, 164 mảnh chạc, 1057 cục đất nung, 15360 mảnh gốm (gốm Đông Sơn và Gò Mun). Kết quả của lần đào thám sát năm 1998 cho thấy Dương Xá là di chỉ cư trú có 1 tầng văn hóa chia thành 2 lớp phát triển liên tục, không có lớp vô sinh ngăn cách: lớp dưới là nơi cư trú của cư dân Gò Mun; lớp trên là nơi cư trú của cư dân Đông Sơn và mộ táng Đông Sơn. Trong hố thám sát không phát hiện được đồng, đồ đá nghèo nàn, đồ gốm (các mảnh vỡ) có số lượng lớn. Diễn biến đồ gốm rất phù hợp với sự phân chia các lớp văn hóa. Từ lớp I đến lớp III: Gốm Đông Sơn mang đặc trưng loại hình Đường Cồ có số lượng áp đảo. Qua diễn biến hiện vật, đặc biệt là đồ gốm, cho thấy đồ gốm Gò Mun - Đông Sơn ở di chỉ Dương Xá có chất liệu, màu sắc, hoa văn trang trí và loại hình rất giống với đồ gốm Gò Mun ở lớp văn hóa
71
II di chỉ Đình Tràng và đồ gốm di chỉ Đường Mây, Đình Tràng (lớp văn hóa I), thuộc loại hình Đường Cồ [34].
Tháng 12 năm 2008, đoàn thực tập của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã tiến hành khai quật 50m2. Kết quả cho thấy, tầng văn hóa của di chỉ khá dày. Nếu tính cả phần đất đã bị san ủi thì tầng văn hóa dày đến gần 2m. Điều đó chứng tỏ, cư dân cổ đã sinh sống ở đây trong một thời gian dài. Khoảng thời gian sinh sống đó được chia làm hai giai đoạn là Gò Mun lớp dưới và Đông Sơn lớp trên.
Hiện vật tìm thấy chủ yếu là đồ đá, đồng và đồ gốm. Trong đó, gốm chiếm số lượng lớn nhất nhưng ít hiện vật nguyên. Không tìm thấy đồ xương. Đồ đá cũng như đồ đồng có số lượng không nhiều, loại hình đơn điệu. Riêng đồ đá chỉ có tổng cộng 60 tiêu bản, trong đó: 22 tiêu bản đá không định hình; công cụ sản xuất bao gồm chày đá (12 tiêu bản), bàn mài (17 tiêu bản); đồ trang sức bao gồm khuyên tai (8 tiêu bản) và hạt chuỗi (1 tiêu bản). Đồ đồng có 51 tiêu bản: vũ khí có 3 mũi lao và 1 mũi giáo, công cụ sản xuất chỉ có lưỡi câu (18 tiêu bản), 5 tiêu bản dây đồng và 24 tiêu bản mảnh đồng. Đồ gốm chỉ có các mảnh vỡ của đồ đựng, đồ đun nấu và các mảnh chân giò, thỏi đất nung. Hiện vật gốm đặc biệt là một mảnh gốm vỡ có vòi và một mảnh chì lưới. Xương, răng cũng được tìm thấy nhưng đã bị vụn nát hầu hết nên không có ít giá trị nghiên cứu.
Như vậy, sau 3 mùa thám sát và khai quật, có thể đưa ra một số nhận
định về di chỉ khảo cổ học Dương Xá như sau:
Di chỉ khảo cổ học Dương Xá là một loại hình di chỉ cư trú kết hợp với mộ táng. Ban đầu, đây là nơi sinh sống của người Gò Mun. Sau đó, người Đông Sơn đến sinh sống và người chết đã được chôn ở đây. Chính ngôi mộ được phát hiện ở lớp 2 đã nói lên điều này.
Cư dân ở đây sống chủ yếu bằng nghề săn bắt và đánh, bắt, câu cá. Chế tác đồ gốm cũng là một nghề quan trọng. Tuy loại hình tìm được không nhiều, nhưng số lượng các mảnh gốm lớn, chất liệu gốm cứng, mịn. Gốm mang đặc trưng của văn hóa Gò Mun và Đông Sơn rõ rệt về cả hoa văn và màu sắc.
Chế tác đá, luyện đồng cũng đóng góp vào hoạt động sản xuất và sinh hoạt của cư dân Dương Xá cổ. Những chiếc lưỡi câu, mũi giáo, mũi lao đã được làm ra khá công phu. Riêng đối với đồ đá, tuy công cụ sản xuất không
72
nhiều nhưng các loại hình trang sức như khuyên tai, hạt chuỗi cũng đã cho ta thấy sự hoàn thiện về kỹ thuật chế tác đá của cư dân Dương Xá cổ.
Di chỉ Dương Xá cùng với các di chỉ Đường Cồ, Đình Tràng, Chiền Vậy có những mối quan hệ văn hóa, đặc biệt là đồ gốm. Đây là sự giao lưu văn hóa giữa các di chỉ khảo cổ học ở khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Dương Xá là một địa điểm khảo cổ học thuộc giai đoạn chuyển tiếp từ Gò Mun lên Đông Sơn. Chủ nhân của nó chính là những người Gò Mun sau đó người Đông Sơn tiếp tục kế thừa và phát triển thêm một bước cao hơn.
Qua các cuộc khai quật di chỉ Dương Xá, chúng ta đã thu thập được những tư liệu quan trọng về thời đại tiền Đông Sơn và Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng, góp phần làm rõ hơn về thời sơ sử ở đây. Tuy nhiên, ở di chỉ Dương Xá nói riêng và các di chỉ khác ở lưu vực sông Hồng nói chung, chúng ta cần tiến hành nhiều hơn nữa các cuộc khảo sát, khai quật nhằm hoàn thiện nhận thức của chúng ta về thời kỳ sơ sử ở đây.
So sánh giữa Đại Trạch và Dương Xá về địa tầng và di tích di vật chúng
tôi nhận thấy có một số điểm tương đồng như:
Về địa tầng: Lớp văn hóa phía trên (lớp Đông Sơn) đã bị san bạt và xáo trộn, đều có vết tích của mộ táng Đông Sơn. Tuy nhiên, vết tích tại Dương Xá rõ ràng hơn với sự xuất hiện của 1 cụm gốm với đồ gốm Đông Sơn loại hình Đường Cồ có kích thước lớn.
Về di vật: Cả 2 địa điểm này đều có xuất hiện những hiện vật mang đặc trưng của văn hóa Gò Mun và Đông Sơn như: mũi lao, mũi giáo mang đặc trưng Gò Mun; những mảnh gốm màu xám hồng, mảnh miệng gốm loe ngang bên trong có trang trí hoa văn Gò Mun. Ở lớp trên gần lớp đất mặt, đều tìm thấy rất nhiều mảnh gốm mang phong cách Đông Sơn loại hình Đường Cồ.
3.4.2. Mối quan hệ với di tích Đông Lâm
Di tích Đông Lâm phân bố trên một khu đất cao, vốn là một quả đồi thấp, phân bố rộng khoảng 10.000 m2, thuộc Xóm Chùa, thôn Đông Lâm, xã Hương lâm, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Di tích nằm cách sông Cầu khoảng 2 km về phía Bắc - Tây bắc.
Di tích Đông Lâm được phát hiện và khai quật lần đầu vào năm 1968. Các loại di vật phát hiện được trong lần khai quật này gồm 283 hiện vật ,trong đó
73
có 59 đồ đá, 56 đồ đồng, 116 đồ gốm nguyên/gần nguyên, một số đồ trang sức bằng xương răng động vật và 16.643 mảnh gốm.
Trong lần khai quật này, các nhà nghiên cứu đã cho rằng di tích Đông Lâm có niên đại thuộc thời kỳ đồng thau, về tính chất địa điểm này gần gũi loại hình di tích Gò Mun.
Năm 2002, Viện Khảo cố học tiến hành khai di tích Đông Lâm lần thứ hai với diện tích 101m2 (3 hố khai quật và 3 hố thám sát). Hố khai quật có diện tích 36m2 [86; 87,tr.20 - 43].
+ Cấu tạo địa tầng và tầng văn hóa:
- Lớp đất canh tác: dày trung bình 10cm - 20cm, hiện nay đang được trồng rau, khoai lang, dâu… Trong lớp đất này có gạch, ngói, gốm sứ thời Bắc thuộc. Không có gốm thô hay hiện vật.
- Tầng văn hóa: Có màu nâu xẫm, độ dày trung bình 1m - 1,2m, chứa nhiều hiện vật gồm: đồ gốm, đá, xương… Một số chỗ trong tầng văn hóa có những mảng đất sét vàng, vàng nghệ, một số hố đất đen.
- Sinh thổ: Đất sét vàng, rắn chắc. Có một số hố đất đen ăn sâu xuống sinh thổ. Nhìn chung, những hố đất đen không có hình thù nhất định, kích thước trung bình khoảng 30 - 40cm, có hố dài khoảng 90cm. Một số hố có chứa mảnh gốm, than tro và một số mảnh xương động vật.
+ Di tích: gồm có di tích nền đất sét vàng và di tích hố đất đen.
+ Di vật Cuộc khai quật lần thứ hai thu được 165 hiện vật, trong đó có 30 hiện vật đá, 46 hiện vật đồng, 88 hiện vật gốm, 1 hiện vật bằng xương và một số lượng lớn các mảnh gốm vụn. Ngoài ra, trong các hố khai quật phát hiện được 6 cục quặng sắt và nhiều mảnh nhỏ; 271 viên đá nguyên liệu để chế tác công cụ, đồ trang sức; 18 mảnh bàn mài, khuôn đúc; 121 cục đất nung; 40 mảnh gạch có chất liệu và kích thước kiểu gạch Hán và 36 mảnh sành sứ. Trong số hiện vật, mảnh gốm và đồ gốm nguyên có số lượng nhiều nhất chiếm 53,3%, sau đó đến đồ đồng và đồ đá.
- Đồ đá: 30 hiện vật, bao gồm các loại: 2 rìu (tìm được do sưu tầm), 4 bôn, 12 bàn mài, 1 hòn ghè, 1 mảnh khuôn đúc, 1 vòng tay, 6 khuyên tai, 2 khuy đá, 1 trang sức bằng viên đá thạch anh.
- Đồ đồng: phát hiện được 46 hiện vật, bao gồm các loại hình: 1 lưỡi qua, 7 mũi tên, 1 mũi lao, 5 lưỡi câu, 1 mũi rìu, 1 lưỡi dao, 4 mũi nhọn, 3 kim
74
đồng, 1 búa đồng, 1 hiện vật đồng chưa rõ chức năng, 2 tiền đồng, 12 đoạn dây đồng.
- Đồ gốm: Gồm có 88 hiện vật còn xác định được chức năng: 9 bi gốm, 1 chì lưới, 1 dọi xe chỉ, 12 thỏi đất nung, 54 mảnh chạc gốm, 2 nồi rót đồng, 6 nồi gốm, 1 tai gốm, 2 mảnh gạch có chữ Hán và 15.337 mảnh gốm vỡ.
Căn cứ vào diễn biến lớp đất của hố khai quật có 7 lớp: gốm màu nâu đỏ chỉ có mặt ở những lớp đất mới, niên đại sớm chủ yếu từ lớp 4 đến lớp 7. Gồm màu trắng nhạt lại chủ yếu có mặt ở những lớp đất trên, niên đại muộn, chủ yếu từ lớp 1 đến lớp 4. Hai loại gốm màu hồng và gốm màu xám đen có mặt ở hầu khắp các lớp. Qua nghiên cứu, so sánh, ta có thể thấy gốm màu nâu đỏ thường gắn với văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun và gốm màu trắng vàng nhạt thường gắn với văn hóa Gò Mun và loại hình Đường Cồ của văn hóa Đông Sơn.
Hoa văn trang trí trên đồ gốm: hoa văn thừng rất thô giống như ô trám thô, hoa văn thừng thô, hoa văn thừng mịn, hoa văn khắc vạch, hoa văn song nước, hoa văn “nhăn tàn ong”, hoa văn ô vuông bản địa, hoa văn dấu đan, hoa văn trổ lỗ
- Đồ xương: đã bị mủn nát hết, chỉ còn nhận được hình dáng của 1 mũi
nhọn bằng xương động vật
+ Niên đại và giai đoạn phát triển
Qua so sánh hiện vật, phân tích địa tầng, di chỉ Đông Lâm được xếp vào 3 giai đoạn phát triển liên tục của thời đại kim khí vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ: Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn. Diễn biến địa tầng cho thấy, mặc dù 3 giai đoạn văn hóa này có sự phát triển kế thừa nhưng không thấy có sự phân biệt rõ rệt về mầu sắc các lớp đất. Việc nhận ra đặc trưng văn hóa chú yếu dựa vào diễn biến gốm, đặc biệt về hoa văn, chất liệu, màu sắc, loại hình và nhiều hiện vật đồng, đá. Phân tích diễn biến và so sánh đồ gốm trong lớp Đông Sơn cũng cho thấy niên đại thuộc giai đoạn Đông Sơn sớm.
So sánh giữa Đại Trạch và Đông Lâm về di tích, di vật chúng tôi nhận
thấy có một số điểm tương đồng như:
Về địa tầng: Ở di chỉ Đại Trạch, lớp văn hóa phía trên (lớp Đông Sơn) đã bị san bạt và xáo trộn, đều có vết tích của mộ táng Đông Sơn, tuy nhiên, căn cứ vào các di vật tìm thấy trong mộ táng Đông Sơn cho thấy tại Đại Trạch
75
đã tồn tại 3 văn hóa kế tiếp nhau: Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn. Trong khi đó, ở di chỉ Đông Lâm, tầng văn hóa có 3 lớp biểu hiện sự phát triển khá rõ nét từ văn hóa Đồng Đậu qua Gò Mun đến văn hóa Đông Sơn.
Về di tích trong tầng văn hóa: Cả hai nơi đều có các loại di tích xuất lộ trong các hố khai quật như: hố đất đen; mộ táng; di tích bếp; tàn tích xương, răng động vật.
Về di vật: Cả 2 địa điểm này đều có xuất hiện những hiện vật đồ đá giống nhau, từ công cụ sản xuất đến đồ trang sức. Về đồ đồng đều có những di vật mang đặc trưng của văn hóa Gò Mun và Đông Sơn như: mũi lao, mũi giáo, lưỡi rìu, búa, lưỡi câu… Đồ gốm cũng có những mảnh gốm màu xám hồng, mảnh miệng gốm loe ngang bên trong có trang trí hoa văn Gò Mun. Ở lớp trên gần lớp đất mặt, đều tìm thấy rất nhiều mảnh gốm mang phong cách Đông Sơn loại hình Đường Cồ.
Niên đại của 2 di chỉ Đại Trạch và Đông Lâm cho thấy cả 2 di chỉ chủ yếu được xếp vào 3 giai đoạn phát triển liên tục của thời đại kim khí vùng đồng bằng và trung du Bắc bộ: Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn (loại hình Đường Cồ). Trong đó, đậm nét hơn là giai đoạn văn hóa Đồng Đậu và Gò Mun.
3.4.3. Mối quan hệ với di tích Đình Tràng
Khu di tích khảo cổ học Đình Tràng thuộc thôn Đình Tràng, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, có diện tích rộng khoảng 15.000 - 20.000m2, nằm về phía đông bắc Hà Nội, cách trung tâm Thành phố Hà Nội khoảng 12,5km theo đường chim bay.
Đã hơn 50 năm trôi qua kể từ ngày đầu tiên phát hiện, di tích Đình Tràng đã trải qua tổng cộng 8 lần khai quật. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy Đình Tràng là một di tích đặc biệt quan trọng của thời đại kim khí ở lưu vực sông Hồng [31,tr.213 - 217; 32: tr.197 - 200; 33].
Trong các cuộc khai quật trên, đáng chú ý là cuộc khai quật lần thứ VII của Viện Khảo cổ kết hợp cùng Bảo tàng Hà Nội nhân dịp 1000 năm Thăng Long. Cuộc khai quật đã thu được kết quả vô cùng to lớn, đã phát hiện ra rất nhiều di tích mà các cuộc khai quật trước đó chưa tìm thấy, như dấu tích lòng sông cổ, hệ thống bếp lò, mộ Phùng Nguyên… Từ đó có thể đưa ra nhiều nhận định rõ ràng và chính xác hơn như Đình Tràng không chỉ là di chỉ cư trú - mộ táng mà còn là di chỉ xưởng, chế tạo công cụ đá và đồng với quy mô lớn.
76
Cuộc khai quật đã đưa lên khỏi lòng đất rất nhiều di vật quý phục vụ cho việc trưng bày và nghiên cứu khoa học.
Qua các lần khai quật, các nhà khảo cổ đã đưa ra khỏi lòng đất Đình Tràng hàng vạn hiện vật có giá trị, gồm đồ đá, đồ kim loại, đồ xương với nhiều kiểu loại vô cùng phong phú. Đến nay, hầu hết các nhà khảo cổ đưa ra kết luận về niên đại của Đình Tràng như sau:
Ở Đình Tràng tồn tại 4 giai đoạn văn hóa nối tiếp nhau với kết quả
nghiên cứu niên đại như sau:
- Giai đoạn sơ kỳ thời đại đồng thau - giai đoạn Phùng Nguyên
Qua tư liệu đồ đá và đồ gốm, có thể thấy ở Đình Tràng rõ ràng tồn tại
giai đoạn Phùng Nguyên muộn - sơ kỳ thời đại đồng thau Việt Nam.
- Giai đoạn trung kỳ thời đại đồng thau - giai đoạn Đồng Đậu.
Ở Đình Tràng, chúng ta thấy sự phát triển liên tục từ Phùng Nguyên lên Đồng Đậu qua các di vật thu được trong tầng văn hoá. Phân biệt giữa Đồng Đậu và Phùng Nguyên được thể hiện ở đồ gốm, đồ đá và đồ đồng.
Gốm Đồng Đậu được phát hiện nhiều tại Đình Tràng. Đồ đá, tuy vẫn mang hình dáng quen thuộc của đồ đá Phùng Nguyên, song về các loại công cụ sản xuất bắt đầu giảm sút về kỹ thuật. Sự tinh mỹ của kỹ nghệ đá được dồn sang cho đồ trang sức. Rìu đá chiếm số lượng ít hơn hăn bôn đá, đồ trang sức vẫn được làm tinh xảo từ các loại đá ngọc với nhiều màu sắc khác nhau.
Giai đoạn Đồng Đậu, kỹ thuật chế tạo đồng đã phát triển. Chẳng những đồng chiếm tỷ lệ khá cao về số lượng mà về hình loại cũng phong phú. Các loại giáo búp đa, mũi nhọn, mũi tên, lưỡi câu, rìu là những hiện vật thường gặp Trong di chỉ phát hiện nhiều cục đất nung, xỉ đồng và một số mảnh khuân đúc là bằng chứng của phương pháp đúc đồng. Những sản phẩm đồng nhiều về số lượng và phong phú về loại hình: các kiểu mũi tên, lưỡi câu, rất nhiều mũi nhọn, mảnh đồng, vòng đồng, dây đồng, rìu lưỡi xéo, rìu gót mũi chúc, rìu xèo cân.
Như vậy, ở Đình Tràng có một giai đoạn Đồng Đậu hoàn chỉnh, phát
triển từ giai đoạn Phùng Nguyên lên.
- Giai đoạn hậu kỳ thời đại đồng thau - giai đoạn văn hoá Gò Mun.
77
Ở Đình Tràng, giai đoạn hậu kỳ thời đại đồng thau hay còn gọi là giai
đoạn văn hoá Gò Mun được phản ánh chủ yếu ở địa tầng văn hóa.
Đồ gốm Gò Mun khá cứng gần với sành, được làm bằng đất sét pha cát và nhiều tạp chất khác, thường có màu xám đen, nâu, xám mốc, vàng nhạt rất gần gũi với gốm Đương Cồ. Hoa văn được trang trí trên bản rộng của loại miệng loe gãy, trên vai, thân và chân đế bằng các đường khắc vạch, in đắp nổi. Kiểu phổ biến và được ưa chuộng là loại hình hoa văn khắc vạch được trang trí trong miệng. Đặc trưng nổi bật của gốm Gò Mun là loại hình miệng loe ngang, gẫy góc ở phần cổ so với thân tạo thành miệng rộng và có gờ ở mép miệng.
Đồ đá: sang giai đoạn Gò Mun, số lượng đồ đá giảm xuống rõ rệt nhưng kỹ thuật chế tạo vẫn ở đỉnh cao. Đồ đá mất dần ý nghĩa trong sản xuất, số lượng giảm, loại hình thu hẹp, đồ trang sức tập trung vào những loại hình đòi hỏi kỹ thuật cao.
Đồ đồng: trong lớp văn hoá Gò Mun vẫn bắt gặp các loại hình di vật đồng quen thuộc của giai đoạn Đồng Đậu như mũi tên, mũi nhọn, rìu gót tròn mũi chúc, nhưng kỹ thuật đúc đã phát triển cao hơn. Nhưng di vật đồng đặc trưng Gò Mun là rìu đồng lưỡi xéo dạng góc vuông nhưng đế gót tròn, rìu xoè cân, rìu xéo gót tròn mũi hất… Ở Đình Tràng có một giai đoạn Gò Mun độc lập, nó phát triển kế tiếp giai đoạn Đồng Đậu.
- Giai sơ kỳ thời đại đồ sắt - giai đoạn Đông Sơn sớm
Giai sơ kỳ thời đại đồ sắt - Giai đoạn Đông Sơn sớm là sự chuyển tiếp của Đồng Đậu, Gò Mun sang giai đoạn Đường Cồ. Những di vật chứng minh Đình Tràng tồn tại giai đoạn Đông Sơn sớm được phát hiện ở các lớp văn hóa trên.
Bước sang giai đoạn Đông Sơn rất hiếm gặp các đồ đá như rìu, bôn cả trong nơi cư trú và mộ táng, thay vào đó là sự nở rộ của các loại hình di vật đồng. Kỹ thuật đúc đồng đã đạt đến đỉnh cao, đồ đồng phổ biến cả về công cụ sản xuất, vũ khí và đồ trang sức. Loại hình di vật đồng thì vô cùng phong phú: giáo, lao, rìu, đục, lưỡi câu, mũi tên, mũi nhọn, dao găm, lưỡi cày, kim, dây đồng v.v… trong đó có số lượng nhiều nhất phải kể đến loại hình giáo và rìu lưỡi xéo. Cũng phát hiện được một số di vật sắt.
Đồ gốm Đông Sơn phát hiện được về cơ bản thuộc loại hình Đường Cồ, có màu trắng mới hoặc hơi hồng, xương gốm mịn màu đen hoặc xám đen, độ
78
cứng cao, chất liệu chủ yếu là đất sét pha cát. Có 4 loại miệng: miệng đứng, miệng loe thẳng, miệng loe cong, miệng loe khum lòng máng. Đồ gốm thường có dáng bụng phình đáy tròn, chân đế choãi. Hoa văn trang trí nghèo nàn: văn thừng, khắc vạch văn chải và nhiều loại văn thừng thô.
Niên đại tuyệt đối:
Việc nghiên cứu toàn bộ di vật qua các lớp đất văn hoá đã chứng minh Đình Tràng là một di tích có sự phát triển liên tục của 4 giai đoạn văn hoá: Giai đoạn muộn Phùng Nguyên có niên đại 3500 - 3400 năm cách ngày nay; giai đoạn Đồng Đậu 3400 - 3000 năm cách ngày nay; giai đoạn Gò Mun 3000 - 2700 năm cách ngày nay; và giai đoạn Đông Sơn sớm 2700 - những năm đầu thế kỷ I sau CN.
So sánh giữa Đại Trạch và Đình Tràng về địa tầng và di tích di vật
chúng tôi nhận thấy có một số điểm như sau:
Về địa tầng: Rõ ràng không thể so sánh về mặt địa tầng Đại Trạch với Đình Tràng. Ở Đình Tràng, địa tầng văn hóa có sự diễn biến rất rõ rệt, từ giai đoạn Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn. Trong khi đó ở Đại Trạch chỉ có 3 giai đoạn văn hóa Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn những sự diễn tiến về mặt địa tầng không rõ ràng. Sự nhận biết 3 giai đoạn văn hóa ở Đại Trạch phần lớn nhờ vào sự có mặt của những loại hình di vật tiêu biểu Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn. Ở Đại Trạch, lớp văn hóa phía trên có vết tích của mộ táng Đông Sơn.
Về di tích: Ở Đại Trạch các di tích như hố đất đen, bếp, mộ táng xuất hiện ít, và thiếu các di tích như bếp lò nung, nền đất đắp, mộ Phùng Nguyên như ở Đình Tràng.
Về di vật: Cả 2 địa điểm này đều xuất hiện những hiện vật đồ đá, đồng mang đặc trưng của các văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn. Đặc biệt về đồ gốm, cả hai nơi đều tìm thấy những loại hình đồ gốm mang đặc trưng gốm Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn. Ở lớp trên gần lớp đất mặt, đều tìm thấy rất nhiều mảnh gốm mang phong cách Đông Sơn loại hình Đường Cồ.
Kết quả so sánh cho thấy mối quan hệ sâu sắc giữa cư dân di tích Đại
Trạch và cư dân Đình Tràng.
Đình Tràng nằm ở vị trí đồng bằng trung tâm của châu thổ sông Hông, được bao bọc bời hệ thống sông hồ. Đó là sông Cầu, sông Cà Lồ, sông Hồng,
79
sông Đuống và sông Ngũ huyện Khê chảy qua Cổ Loa về Đình Tràng. Rất có thể dòng sông Dâu cổ - sông Đuống ngày nay là mạch huyết giao thông thời kim khí, nối liên kết cư dân Đại Trạch và cư dân Đình Tràng.
80
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Di tích Đại Trạch là một di tích quan trọng trong khu vực Đồng bằng sông Hồng. Qua nghiên cứu diễn biến của đồ gốm chúng ta thấy, ở di chỉ Đại Trạch giai đoạn văn hóa sớm nhất thuộc về giai đoạn văn hóa Đồng Đậu phát triển. Ở những lớp văn hóa trên đã xuất hiện những yếu tố của giai đoạn văn hóa tiếp theo, giai đoạn Gò Mun. Yếu tố văn hóa Đông Sơn cũng được ghi nhận qua di tích mộ táng và qua những di vật đồ đồng, đồ gốm trong di chỉ.
Dựa trên kết quả phân tích C14 của di chỉ Đại Trạch và so sánh niên đại các di tích khác, tác giả đoán định niên đại cơ bản của di chỉ này vào khoảng 3.500 - 2.000 năm cách ngày nay. Có thể nhận định rằng, Đại Trạch là một di chỉ thuộc văn hóa Đồng Đậu điển hình có giai đoạn chuyển tiếp lên văn hóa Gò Mun và có sự hiện diện của văn hóa Đông Sơn thông qua các di tích mộ táng và di vật đồ đồng.
Dù ở trong giai đoạn nào thì di tích cũng giữ vai trò như một di chỉ cư trú - mộ táng với phương thức khai thác kinh tế khá phong phú, từ làm nông nghiệp, săn bắt thú rừng, khai thác thủy sản, thuần dưỡng động vật, làm gốm, chế tác đồ đá, đồng và mở rộng giao lưu trao đổi với các nơi khác.
Khi so sánh di tích mộ táng, di cốt với những di tich và di cốt khác cùng thời trong cùng khu vực, tác giả giả thuyết rằng chủ nhân mộ Đồng Đậu ở Đại Trạch thuộc nhóm loại hình nhân chủng Indonesien, chủ nhân mộ Đông Sơn ở Đại Trạch thuộc nhóm Indonesien hoặc Đông Nam Á.
Qua phân tích di vật, đặc biệt là đồ gốm, có thể cho rằng di tích Đại
Trạch có nguồn gốc từ văn hóa Phùng Nguyên.
Cư dân Đại Trạch có những mối quan hệ tương đồng, gần gũi với nhóm
cư dân Dương Xá, Đông Lâm, Đình Tràng, Từ Sơn, Nội Gầm…
81
KẾT LUẬN
Đại Trạch, một di tích quan trọng thuộc thời đại Kim khí, có vai trò và vị thế quan trọng trong nghiên cứu sự chuyển tiếp văn hóa Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn, cung cấp những chứng cứ quan trọng để nghiên cứu những khía cạnh đời sống của cư dân Tiền Đông Sơn ở khu vực đồng bằng sông Hồng.
Qua các đợt khai quật và đào thám sát di chỉ Đại Trạch, các nhà khảo cổ đã phát hiện một khối lượng hiện vật rất phong phú gồm đủ các loại hình đồ đá, đồ kim loại, đồ xương với nhiều kiểu loại hình khác nhau.
Chế tác đồ đá và công cụ đá vẫn có vai trò nổi bật trong giai đoạn đầu của cư dân Đại Trạch. Họ sử dụng nhiều loại nguyên liệu và chất liệu đá khác nhau để chế tác công cụ lao động và đồ trang sức. Ngoài những công cụ tiêu biểu trên còn có những hiện vật khác như bàn mài, chì lưới và khuôn đúc đồng.
Ở vào giai đoạn văn hóa Đồng Đậu phát triển, cư dân Đại Trạch đã nắm vững kỹ thuật luyện và đúc đồng. Dựa vào những bằng chứng khảo cổ, có thể cho rằng vào thời kỳ đầu, cư dân Đại Trạch đã có lò nấu kim loại. Các sản phẩm đúc đồng của người Đồng Đậu ở Đại Trạch chủ yếu là công cụ sản xuất, số ít là vũ khí, các hiện vật này đều có kích thước nhỏ. Ở vào giai đoạn văn hóa Đông Sơn, người thợ thủ công Đại Trạch đã làm chủ và rất thuần thục việc luyện đúc kim loại. Các sản phẩm đúc đồng của người Đông Sơn ở Đại Trạch đã đa dạng hóa về chức năng như công cụ sản xuất, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt và đồ trang sức.
Về đồ gốm, với số lượng vô cùng phong phú, bao gồm gốm Đồng Đậu, gốm Gò Mun, gốm Đông Sơn cho thấy đồ gốm thuộc giai đoạn Đồng Đậu có sự đa dạng về kiểu dáng loại hình, hoa văn trang trí. Ở Đại Trạch, gốm giai đoạn Gò Mun, gốm Đông Sơn giảm về số lượng, loại hình hoa văn trang trí đơn giản hơn so với gốm giai đoạn Đồng Đậu. Đồ gốm Đông Sơn ở Đại Trạch mang đặc trưng của gốm Đường Cồ.
Qua nghiên cứu diễn biến của đồ gốm chúng ta thấy, ở di chỉ Đại Trạch giai đoạn văn hóa sớm nhất thuộc về giai đoạn văn hóa Đồng Đậu phát triển. Ở những lớp văn hóa muộn đã xuất hiện những yếu tố của giai đoạn văn hóa tiếp theo - giai đoạn Gò Mun. Yếu tố văn hóa Đông Sơn cũng được ghi nhận qua di tích mộ táng và qua những di vật đồ đồng, đồ gốm trong di chỉ. Qua
82
phân tích di vật, đặc biệt là đồ gốm, có thể cho rằng di tích Đại Trạch có nguồn gốc từ văn hóa Phùng Nguyên.
Dựa trên kết quả phân tích C14 của di chỉ Đại Trạch và so sánh niên đại các di tích khác cho thấy, Đại Trạch có niên đại từ khoảng 3.500 - 2.000 năm cách ngày nay. Có thể nhận định rằng, Đại Trạch là một di chỉ thuộc văn hóa Đồng Đậu điển hình có giai đoạn chuyển tiếp lên văn hóa Gò Mun và có sự hiện diện của văn hóa Đông Sơn thông qua các di tích mộ táng và di vật đồ đồng. Dù ở trong giai đoạn nào thì di tích cũng giữ vai trò như một di chỉ cư trú - mộ táng.
Cư dân Đại Trạch sinh sống trên nhà sàn, phân bố ở các vùng đất ven sông Dâu cổ. Dựa vào hệ thống di tích và di vật thu được, chúng ta có thể nhận thấy cư dân Đại Trạch đã có những ngành nghề chính như: sản xuất nông nghiệp, săn bắn, đúc đồng và có thể bước đầu đã có thuần dưỡng vật nuôi.
Sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước được xem là một ngành kinh tế chủ đạo của người Đại Trạch. Ngoài kinh tế nông nghiệp trồng lúa, việc đánh cá, săn bắt thú rừng cũng là một thế mạnh của cư dân cổ Đại Trạch. Ở vào giai đoạn muộn, nghề chăn nuôi đã được định hình một cách rõ nét với nhiều loài vật nuôi hơn như chó, gà, dê, lợn…
Cư dân Đại Trạch còn chú ý phát triển các nghề thủ công khác như: đúc đồng, làm gốm, đan lát, làm mộc… Đối với cư dân Đại Trạch cổ, nghề đúc đồng tương đối phát triển, kỹ thuật đúc đồng ngày càng nâng cao với nhiều sản phẩm các loại. Ở Đại Trạch, nghề làm gốm đóng vai trò khá quan trọng. Nghề đan lát và dệt vải cũng đã hiện diện ở Đại Trạch. Những nghề thủ công này góp phần nâng cao cuộc sống tinh thần của cư dân cổ nơi đây.
Trong quá trình phát triển, cư dân cổ Đại Trạch đã không ngừng tiến hành giao lưu văn hóa, kinh tế với các cư dân khác trong hệ thống di tích thời đại Kim khí ở đồng bằng sông Hồng. Đại Trạch có mối quan hệ gần gũi nhất với nhóm di tích thời đại Kim khí ở lưu vực sông Cầu và sông Đuống: Dương Xá, Nội Gầm, Tiên Sơn (Bắc Ninh), Đông Lâm (Bắc Giang), Đình Tràng (Hà Nội)…
Tóm lại, Đại Trạch là một điểm sáng, quan trọng trong các di tích Kim khí của đồng bằng sông Hồng. Với những thành tựu quan trọng đạt được, cư dân Đại Trạch cổ đã góp phần làm giàu thêm lịch sử và truyền thống của vùng đất Bắc Ninh nói riêng, cũng như quá trình dựng nước và giữ nước
83
thuở sơ khai của dân tộc. Tuy nhiên, hiện tại di tích Đại Trạch đang trong tình trạng bị phá hủy khá trầm trọng bởi quá trình đô thị hóa cũng như canh tác nông nghiệp của người dân. Rất mong các cấp chính quyền, các nhà nghiên cứu và nhân dân cùng nhau góp tiếng nói bảo vệ, giữ gìn và phát huy các giá trị của di tích để phục vụ du lịch cũng như phát huy truyền thống văn hóa quê hương Xứ Bắc.
84
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bản đồ phân bố các di chỉ khảo cổ học văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam (1989), Phòng tư liệu viện Khảo cổ học: A311. 2. Ban Quản lý di tích danh thắng Hà Nội (1998), Báo cáo khai quật Bãi Mèn lần thứ ba 12 - 1997, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội. 3. Bảo tàng lịch sử quốc gia (2014), Văn hóa Đông Sơn 90 năm phát hiện & nghiên cứu, Nxb. Văn hóa dân tộc. 4. Bùi Hữu Tiến (2014), Hoa văn gốm văn hóa Đồng Đậu. Nxb. Thế giới.
5. Bùi Hữu Tiến (2014), Nghề luyện kim văn hóa Đồng Đậu. Nxb. Thế giới.
6. Bùi Thu Phương (2015), Đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 7. Bùi Văn Liêm (1988), Báo cáo khai quật Kim Đường (Hà Sơn Bình). Tư liệu Viện Khảo cổ học: HS 176. 8. Bùi Văn Liêm (2009), Quá trình chiếm lĩnh và làm chủ đồng bằng châu thổ sông Hồng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Tư liệu Viện Khảo cổ học. 9. Bùi Văn Liêm (2011), Đánh giá giá trị lịch sử văn hóa các di tích thời đại sắt sớm phát hiện và nghiên cứu ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1998 đến 2008, Đề tài nghiên cấp Bộ. Tư liệu Viện Khảo cổ học. 10. Bùi Văn Liêm, Hà Văn Phùng (1988), Di chỉ Phú Lương qua hai lần khai quật, trong tạp chí Khảo cổ học, số 4, tr. 32 - 43. 11. Bùi Văn Lợi, Phạm Quốc Quân (1991), Di chỉ Thành Dền (Hà Nội), trong Thông báo Khoa học của Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam năm 1991, tr.103 - 125. 12. Cameron J, Bellowood P, Bùi Văn Liêm, Nguyễn Việt (2009), Kết quả nghiên cứu vải trong văn hóa Đông Sơn tại di tích Động Xá (Hưng Yên) trong hợp tác khoa học Việt Nam - Úc lần thứ nhất, trong tạp chí Khảo cổ học, số 2, tr. 20 - 25. 13. Chử Văn Tần (1985), Báo cáo khai quật lần thứ tư Đồng Đậu (Vĩnh Phú), Tư liệu Viện Khảo cổ học: HS 322. 14. Chử Văn Tần (2003), Văn hóa Đông Sơn văn minh Việt cổ, Nxb. Khoa học Xã Hội, Hà Nội. 15. Diệp Đình Hoa, Phạm Minh Huyền (1981), Về những trung tâm khai khoáng luyện kim ở nước ta thời dựng nước, trong Những phát hiện mới về
85
khảo cổ học năm 1981, Viện Khảo cổ học - Uỷ ban Khoa học Xã Hội , Hà Nội, tr. 112. 16. Đào Thế Tuấn (1983), Sự tiến triển của cây lúa Việt Nam, trong tạp chí Khảo cổ học, số 3, tr. 1 - 6. 17. Đào Thế Tuấn (1986), Về sự phân hóa các dạng lúa ở Việt Nam, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1986, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 84. 18. Đinh Văn Thuận (1991), Dao động mực nước biển trong thời kỳ Holocene ở châu thổ sông Hồng, trong tạp chí Khảo cổ học số 1, tr 3 - 11. 19. Hà Văn Phùng (1980), Bước đầu tìm hiểu di tích khai quặng thời cổ Việt Nam, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1980, Viện Khảo cổ học - Uỷ ban Khoa học Xã Hội, Hà Nội, tr. 174. 20. Hà Văn Phùng (1994), Tìm hiểu nghề xe sợi và diệt vải trong thời đại Đồng thau Việt Nam, trong tạp chí Khảo cổ học, số 2, tr. 48 - 58. 21. Hà Văn Phùng (1996), Văn hóa Gò Mun, Nxb. Khoa học Xã Hội, Hà Nội. 22. Hà Văn Tấn (1993), Văn hóa và Ngôn ngữ ở Việt Nam thời Tiền sử, trong tạp chí Khảo cổ học số 1: 1 - 6. 23. Hà Văn Tấn (1997), Theo dấu các văn hóa cổ, Nxb. Khoa học xã hội. 24. Hà Văn Tấn (chủ biên) (1994), Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 25. Hà Văn Tấn (Chủ biên), Khảo cổ học Việt Nam (3 tập), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988, 1999, 2002. 26. Hà Văn Tấn, Nguyễn Xuân Mạnh (1986), Khai quật lần thứ ba di chỉ Đình Chàng (Hà Nội), trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm năm 1985, tr. 77 - 78. 27. Hán Văn Khẩn (Chủ biên) (2008), Cơ sở Khảo cổ học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 28. Hoàng Văn Khoán (2002), Cổ Loa - trung tâm hội tụ văn minh sông Hồng, Nxb. Khoa học Xã Hội, Hà Nội. 29. Hoàng Xuân Chinh (2005), Các nền văn hóa cổ Việt Nam (từ thời nguyên thủy đến thế kỷ 19). Nxb. Văn hóa thông tin.
30. Hoàng Xuân Chinh và Bùi Văn Tiến (1979), Văn hóa Đông Sơn và các trung tâm văn hóa trong thời đại Kim khí ở Việt Nam, trong tạp chí Khảo cổ học, số 3, tr.40 - 48.
86
30. Khương Thị Phương, Nguyễn Việt (2008), Giám định tàn tích hạt quả trong văn hóa Đông Sơn, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2006, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 291- 293. 31. Lại Văn Tới (1999), Đào thám sát di chỉ Đường Rú (Trung Màu, Gia Lâm, Hà Nội), trong trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm năm 1998, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 213 - 217. 32. Lại Văn Tới (2000), Di chỉ Đình Tràng: Tư liệu và nhận thức, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1999, tr. 197 - 200. 33. Lại Văn Tới (2014), Đền Thượng Cổ Loa và những bí ẩn trong lòng đất, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Lại Văn Tới, Doãn Quang (1998), Báo cáo điều tra thám sát di chỉ Dương Xá và Trung Màu (Gia Lâm, Hà Nội 1998), Tư liệu Viện Khảo cổ học. 35. Lâm Thị Mỹ Dung (2004), Thời đại đồ đồng, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 36. Nguyễn Văn Hảo (1974), Nghề gốm thời Hùng Vương, in trong: Hùng Vương thời dựng nước, tập III, Hà Nội, tr. 193 - 199. 37. Lê Thị Kim Tước (2016), Văn hóa Đông Sơn ở Hà Nội, Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội. 38. Lê Văn Lan (1970), Trang phục thời Hùng Vương, trong tạp chí Khảo cổ học, số 7 - 8, tr. 169 - 181. 39. Lê Văn Lan, Văn Trọng (1971), Đời sống vật chất và tinh thần thời Hùng Vương, trong tạp chí Khảo cổ học, số 9 - 10, tr. 103 - 110. 40. Lê Viết Nga (Chủ biên) (2010), Địa danh, địa giới hành chính tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử. Nxb Công ty Cổ phần Văn hóa Hà Nội, tr. 35 - 59. 41. Lưu Trần Tiêu (1971), Nông nghiệp thời Hùng Vương, trong tạp chí Khảo cổ học, số 9 - 10, tr. 69 - 74. 42. Niên đại các di tích khảo cổ học Việt Nam đã được xác định bằng phương pháp C14, trong tạp chí Khảo cổ học số 18: 94 - 96. 43. Nishimura (1999), Khuôn đúc trống đồng được phát hiện trong thành cổ Liên Lâu, trong tạp chí Khảo cổ học, số 4, tr. 99 - 100. 44. Ngô Đức Thịnh (1989), Về các công cụ gặt thời đại Đá và Kim khí ở Việt Nam và Đông Nam Á, trong tạp chí Khảo cổ học, số 2, tr. 22 - 30. 45. Nguyễn Anh Tuấn, Trịnh Hoàng Hiệp, Lê Viết Nga, Nguyễn Hữu Mạo, Vũ Viết Truyền (2014), Di cốt động vật, vỏ nhuyễn thể ở di chỉ Đại Trạch, xã
87
Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2013. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nôi, tr 141 - 142 . 46. Nguyễn Duy Tỳ, Trịnh Dương, Nguyễn Thành Trai (1978), Khai quật Làng Cả (Vĩnh Phú) năm 1976, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1977. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nôi, tr. 131 - 133. 47. Nguyễn Dương Bình (1977), Trung du Bắc Bộ, cái nôi của người Việt, trong tạp chí Dân tộc học, số 3. 48. Nguyễn Giang Hải, Nguyễn Đình Hiển (1983), Khuôn - khâu kỹ thuật then chốt trong quá trình đúc đồ kim loại, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1983, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 150. 49. Nguyễn Hữu Mạo, Lê Viết Nga, Vũ Viết Truyền, Nguyễn Hồng Minh, Khúc Mạnh Hà, Nguyễn Văn An, Nguyễn Thị Biển, Trịnh Hoàng Hiệp, Nguyễn Thị Hảo, Đào Xuân Ngọc (2014), Kết quả khai quật di chỉ Đại Trạch năm 2013, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2013, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nôi, tr. 140 - 141. 50. Nguyễn Kim Dung (1992), Nghề thủ công làm đá và vị trí của nó trong kinh tế sản xuất thời đại Đồng thau Việt Nam, trong tạp chí Khảo cổ học, số 4, tr. 12-18. 51. Nguyễn Kim Dung (1994), Các trung tâm chế tạo đá trong thời đại Đồng thau Việt Nam, trong tạp chí Khảo cổ học, số 2, tr. 59 - 72. 52. Nguyễn Kim Dung (1996), Công xưởng và kỹ thuật chế tạo đồ trang sức bàng đá thời đại đồng thau Việt Nam, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội. 53. Nguyễn Kim Dung (2015), Một số vấn đề về loại hình di chỉ xưởng ở vùng biển Đông Bắc Việt Nam, trong tạp chí Khảo cổ học số 3, 2015. 54. Nguyễn Kim Dung, Trần Quốc Vượng (1976), Xưởng làm đồ đá Bãi Tự (Hà Bắc), trong tạp chí Khảo cổ học, số 17, tr. 70 - 71. 55. Nguyễn Kim Thủy (1993), Sọ cổ Minh Đức- Hà Sơn Bình, trong tạp chí Khảo cổ học, số 3,tr. 1 - 9. 56. Nguyễn Lân Cường (1978), Chỉ tiêu nhân trắc và những sọ thời đại kim khí mới phát hiện ở nước ta, trong tạp chí Khảo cổ học, số 2: 70 - 79. 57. Nguyễn Lân Cường (1996), Đặc điểm nhân chủng cư dân văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 58. Nguyễn Lân Cường (2004), Cổ nhân học Việt Nam trong thế kỷ XX, trong Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam, Tập I. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 315 - 333.
88
59. Nguyễn Thị Bích Hường, Lâm Mỹ Dung và nnk (2014), Thám sát di chỉ khảo cổ học thành Dền, trong Những phát hiện mới khảo cổ học năm 2013, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 150 - 152. 60. Nguyễn Thị Mai Hương (2012), Hệ thực vật và môi trường di chỉ Đông Sơn qua kết quả phân tích lõi khoan 05DS, trong tạp chí Khảo cổ học, số 6, tr. 34 - 40. 61. Nguyễn Thị Mai Hương và Đinh Văn Thuận (2003), Kết quả phân tích bào tử phấn hoa di chỉ Đại Trạch (Đình Tổ, Thuận Thành, Bắc Ninh), trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2002, tr. 360 - 362. 62. Nishimura Masanari (2003), Vài nhận xét về những hiện tượng khảo cổ học ở di chỉ Đại Trạch, Bắc Ninh, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2002, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 226 - 231. 63. Sở Văn hóa Thể thao và Du Lịch Bắc Ninh, Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh, Viện Khảo cổ học (2013), Báo cáo khoa học kết quả khai quật khảo cổ học di chỉ Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Tư liệu Sở
Văn hóa Thể thao Du lịch Bắc Ninh.
64. Phạm Minh Huyền (1996), Văn hóa Đông Sơn, tính thống nhất đa dạng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
65. Phạm Minh Huyền, Nishimura (2001), Báo cáo kết quả khai quật di tích Đại Trạch (Bắc Ninh), Tư liệu Viện Khảo cổ học.
66. Phạm Minh Huyền, Hà Nguyên Điểm, Brian Vincent, Nguyễn Văn Đáp (2000), Đào thám sát di chỉ Đồng Gio (Tiên Sơn) và Đại Trạch (Thuận Thành) tỉnh Bắc Ninh, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1999, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 170 - 174. 67. Phạm Minh Huyền, Bùi Văn Liêm, Nishimura Masanari (2003), Khai quật di chỉ Đại Trạch (Bắc Ninh) tháng 11 năm 2001, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm năm 2002, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 167 - 171. 68. Phạm Như Hồ (1968), Báo cáo khai quật di tích Đông Lâm lần thứ nhất, Tư liệu Viện Khảo cổ học. 69. Phạm Quốc Quân (1994), Về những khu lò luyện sắt ở Việt Nam, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1994, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 441. 70. Phạm Quốc Quân và Quàng Văn Cậy (1979), Khai quật di chỉ Thọ Vực (Hà Sơn Bình), trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1978, tr. 227 -229.
89
71. Tạp chí Khảo cổ học (1990, Danh sách niên đại C14 (1990, trong tạp chí Khảo cổ học, số 4: 78 - 79. 72. Trần Mạnh Phú (1971), Những bước phát triển của nghệ thuật tạo hình thời Hùng Vương, trong tạp chí Khảo cổ học, số 9 - 10, tr. 111 - 116. 73. Trần Quốc Vượng (1973), Đôi bờ Ngũ huyện Khê (Hà Bắc), trong tạp chí Khảo cổ học, số 16, tr. 90 - 92. 74. Trần Quốc Vượng, Mai Đình Yên (1994), Các hệ sinh thái Đông Sơn, trong tạp chí Khảo cổ học số 2: 17 - 22. 75. Trần Quốc Vượng, Phạm Quốc Quân (1974), Điều tra khảo cổ học Hà Bắc, trong tạp chí Khảo cổ học, số 17, tr. 68 - 69. 76. Trần Quốc Vượng, Trần Đình Luyện, Nguyễn Ngọc Bích (1981), Một Hà Bắc cổ trong lòng đất, Ty Văn hóa và Thông tin Hà Bắc. 77. Trần Quốc Vượng (2003), Tầm thức văn hóa cư dân châu thổ Bắc Bộ. Trong Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm. Nxb. Văn hóa Văn học, Hà Nội. 78. Trần Văn Trị và cộng sự (1977), Địa chất Việt Nam phần miền Bắc, Nxb. Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. 77. Trịnh Dương, Trịnh Sinh (1997), Vài nhận xét về đồ đồng vùng ngã ba sông Mã, sông Chu, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1997: 245 - 246. 78. Trịnh Hoàng Hiệp (2008), Kỹ thuật chế tạo đồ gốm ở Mán Bạc (Ninh Bình) và một vài yếu tố kỹ thuật chế tạo đồ gốm tiền - sơ sử trên bán đảo Hàn Quốc, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2006, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 279 - 281. 79. Trình Năng Chung (2009), Mối quan hệ văn hóa thời tiền sử giữa Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 80. Trình Năng Chung (2015), Mối quan hệ văn hóa Đông Sơn với các văn hóa thời đại kim khí ở Nam Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 81. Trịnh Sinh (1977), Báo cáo khai quật Làng Cả (Vĩnh Phú), Phòng tư liệu viện Khảo cổ học: HS 246. 82. Trịnh Sinh (1978), Khai quật Làng Cả (Vĩnh Phú) lần thứ II, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1978: 266 - 268. 83. Trịnh Sinh (1983), Điêu khắc Đông Sơn: truyền thống và tính độc đáo, trong tạp chí Khảo cổ học số 4: 24 - 41. 84. Trịnh Sinh (1992), Những tác động kinh tế xã hội của nghề luyện kim, trong tạp chí Khảo cổ học số 4: 19 - 26.
90
85. Trịnh Sinh (1996), Hoa văn hình học trên đồ đồng Đông Sơn, trong tạp chí Văn Hóa Nghệ thuật số 7: 62. 86. Trịnh Sinh (2002), Báo cáo sơ bộ kết quả khai quật di chỉ khảo cổ học Đông Lâm 2002. Tư liệu Viện Khảo cổ học. 87. Trịnh Sinh (2006), Di chỉ Đông Lâm(Bắc Giang), trong Khảo cổ học số 2, tr. 20 - 43. 88. Trịnh Sinh (2011), Sự hình thành nhà nước sơ khai ở miền Bắc Việt Nam (qua tài liệu khảo cổ học), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 89. Trịnh Sinh, Phạm Bá Khiêm, Nguyễn Thị Tuyết Hạnh, Nguyễn Anh Tuấn (2003), Báo cáo khai quật địa điểm khảo cổ học Gò De năm 2003, Tài liệu lưu tại Khu quản lý di tích Đền Hùng, Phú Thọ. 90. Viện Khảo cổ học (1994), Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã Hội, Hà Nội. 91. Viện Khảo cổ học (2004 - 2005), Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam (2 tập), Nxb, Khoa học xã hội, Hà Nội. 92. Viện Khảo cổ học (1970, 1972, 1973, 1974), Hùng Vương dựng nước, tập (4 tập), Hà Nội.
91
PHỤ LỤC
BẢNG BIỂU
Nguồn: Phạm Minh Huyền
Nishimura Masanari
Trịnh Hoàng Hiệp
Bùi Xuân Tuân
BẢN ĐỒ
Nguồn: Phạm Minh Huyền
Nishimura Masanari
Nguyễn Bích Hường
Nguyễn Văn Anh
Nguyễn Đăng Cường
BẢN VẼ
Nguồn: Phạm Minh Huyền
Nishimura Masanari
Nguyễn Bích Hường
Nguyễn Văn Anh
Nguyễn Đăng Cường
Đào Xuân Ngọc
Khúc Mạnh Hà
Nguyễn Văn An
Nguyễn Thị Biển
BẢN ẢNH
Nguồn: Phạm Minh Huyền
Nishimura Masanari
Trịnh Hoàng Hiệp
Bùi Xuân Tuân
92
93