VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG TRỌNG LƯỢNG

KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG TRỌNG LƯỢNG

KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH TUYÊN

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN.

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và

trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công

bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và

đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Trọng Lượng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………...1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài………………………………...3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………...5

3.1. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………….5

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………6

4.1. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………...6

4.2. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………..6

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu………………………………..6

6. Ý nghĩa luận và thực tiến của Luận văn…………………………………..6

7. Kết cấu của Luận văn……………………………………………………...7

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO

YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI ........................................................................................... 8

1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu

của bị hại ............................................................................................................... 8

1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại ............... 13

1.3. Cơ sở việc quy định chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu củabị

hại trong pháp luật hình sự Việt Nam................................................................. 17

1.4. Quy định của PLTTHS Việt Nam về chế định khởi tố vụ án theo yêu

cầu của bị hại từ năm 1945 đến nay ................................................................... 20

Chương 2: KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI

TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH BẮC NINH .................................................................................................... 25

2.1. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong pháp luật hiện hành .. 25

2.2. Khái quát tình hình giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu

bị hại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ........................................................................ 38

2.3. Những kết quả đạt được và một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải quyết

vụ án hình sự liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại ................................... 39

2.4. Nguyên nhân của một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải quyết vụ

án hình sự khởi tố theo yêu cầu bị hại ................................................................ 56

Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI

QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ KHỞI TỐ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI ................ 59

3.1. Một số yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự khởi tố theo

yêu cầu của bị hại ............................................................................................... 59

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự khởi tố

theo yêu cầu của bị hại ....................................................................................... 60

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 74

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS: Bộ luật dân sự

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS: Trách nhiệm hình sự

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

PLTTHS: Pháp luật tố tụng hình sự

CQĐT: Cơ quan điều tra

VKS: Viện kiểm sát

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân

TA: Tòa án

TAND: Tòa án nhân dân.

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị

hại với tình hình tội phạm hình sự nói chung trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai

đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.

Bảng 2.2: Bảng so sánh số lượng vụ án và bị cáo theo các tội danh bị

khởi tố theo yêu cầu bị hại giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.

Bảng 2.3: Bảng so sánh số vụ án bị đình chỉ do bị hại rút đơn với số vụ

án khởi tố theo yêu cầu bị hại đưa ra xét xử giai đoạn từ năm 2015 đến năm

2019.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp

pháp của bị hại, pháp luật quy định cho phép bị hại lựa chọn quyền yêu cầu

khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, những trường hợp này nếu khởi tố

vụ án, lợi ích về mặt xã hội có thể không lớn mà còn có khả năng làm tổn

thương thêm về mặt tinh thần cho bị hại. Vì vậy, nhà làm luật đã xác lập một

khả năng, điều kiện để bị hại cân nhắc, quyết định có quyền yêu cầu cơ quan

nhà nước có thẩm quyền xử lý về mặt hình sự đối với hành vi phạm tội hay

không. Đây là quy định có tính chất đặc trưng, thông qua việc cho phép bị hại

được lựa chọn cách xử lý đối với người gây thiệt hại cho mình, quy định này

trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị

hại trong tố tụng hình sự.

Quy định này được ghi nhận lần đầu tiên trong BLTTHS năm 1988 và

tiếp tục được hoàn thiện, bổ sung qua BLTTHS năm 2003, và gần đây nhất là

BLTTHS năm 2015. Trong đó, BLTTHS năm 2015 ra đời thay thế BLTTHS

năm 2003, đã bổ sung nhiều điểm mới tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn về chế

định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại, góp phần bảo vệ quyền con người,

quyền của cơ quan, tổ chức bị thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu quy định của pháp luật và thực tiễn đấu

tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy chế định

khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại vẫn còn nhiều điểm tồn tại, hạn chế như

phạm vi, chủ thể thực hiện quyền, thời điểm rút yêu cầu khởi tố, hậu quả pháp

lý của việc thực hiện khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, quyền và

nghĩa vụ của bị hại so với trường hợp thông thường... Theo thống kê của

TAND tỉnh Bắc Ninh trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 số

lượng các vụ án được khởi tố trong nhóm này chiếm tỉ lệ cao trong số tội đưa

1

ra xét xử, cao nhất là vào năm 2017 với 197 vụ án, 238 bị cáo, chiếm tỉ lệ

23,2 % về số vụ và 14,1 % về số bị cáo. Bên cạnh những kết quả đạt được thì

vẫn còn một số trường hợp bị hại không hợp tác trong quá trình giải quyết vụ

án hình sự, đặc biệt đối với những vụ việc liên quan đến các tội cố ý gây

thương tích, hiếp dâm khi bị hại không hợp tác giám định, có trường hợp

CQĐT không thể ra quyết định khởi tố vụ án vì chưa có yêu cầu khởi tố của

bị hại, cũng không thể ra quyết định không khởi tố vụ án vì không có căn cứ,

vẫn còn thiếu sót trong quá trình thu thập chứng cứ, đặc biệt là tội danh như

hiếp dâm, cưỡng dâm, việc đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS

và quyết định hình phạt một số vụ án chưa tương xứng với tính chất và mức

độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, trong các vụ án khởi tố theo

yêu cầu của bị hại...đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức và áp dụng

pháp luật trong thực tiễn, làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm,

bảo vệ quyền con người.

Trong khi, quy định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại cũng đã được

nghiên cứu trong một số công trình khoa học như luận án, luận văn, sách

chuyên khảo...nhưng các công trình này chủ yếu được thể hiện một phần

trong kết quả của các công trình nghiên cứu khác về khởi tố vụ án hình sự, địa

vị pháp lý của bị hại, hoặc nghiên cứu trên phạm vi cả nước, hoặc trong bối

cảnh BLTTHS năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật. Tính đến nay, chưa có

công trình nào nghiên cứu chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại theo

quy định của BLTTHS năm 2015 trên địa bản một tỉnh là Bắc Ninh, trong

phạm vi từ năm 2015 đến năm 2019.

Xuất phát từ nhận thức và thực tế nêu trên, tác giả đã chọn đề tài:

“Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để

làm để tài nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ.

2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Liên quan tới đề tài trên, cũng đã có nhiều tác giả đề cập trong nhiều

công trình nghiên cứu khác nhau như:

(i) Các công trình như sách chuyên khảo, giáo trình, bình luận khoa học

BLTTHS: Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), “Giáo trình Luật tố tụng hình

sự Việt Nam”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật thành

phố Hồ Chí Minh (2018),“Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb

Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội; GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ

biên, 2011), “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”, Nxb Tư pháp, Hà

Nội; PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn (chủ biên, 2005), “Bình luận khoa học Bộ

luật tố tụng hình sự”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Trần Văn Biên,

TS. Đinh Thế Hưng (2017), “ Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”,

Nxb. Thế giới, Hà Nội; TS. Nguyễn Đức Mai (chủ biên, 2018), “Bình luận

khoa học Bộ luật tố tụng hình sự (hiện hành)”, Nxb Chính trị Quốc gia sự

thật, Hà Nội; TS. Phạm Mạnh Hùng (chủ biên, 2018) “Bình luận khoa học Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015”, Nxb Lao động, Hà Nội; v.v...

(ii) Ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ, Tiến sĩ có một số đề tài tiêu biểu như:

Lê Nguyên Thanh (2013), “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong

tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật

thành phố Hồ Chí Minh; Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong

tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã

hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội; Nguyễn Đức Thái

(2015), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng

hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật thành phố

Hồ Chí Minh; Lưu Bình Dương (2017), “Pháp luật về khởi tố vụ án hình sự

theo yêu cầu của người bị hại trong Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay”,

Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa

học Xã hội Việt Nam, Hà Nội; Hoàng Lan Phương (2009), “Khởi tố vụ án

3

hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”,

Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;

Phạm Văn Huân (2013), “Những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự trong

luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn Đức Thái (2009), “Khởi tố vụ án hình

sự theo yêu cầu người bị hại, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn

Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; Ma

Thị Thắm (2015), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong

luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; v.v…

(iii) Các công trình khoa học đăng trên các báo, tạp chí: Ths. Phạm

Mạnh Hùng (2003), “Những bất cập và việc hoàn thiện quy định của pháp

luật tố tụng hình sự về khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí Kiểm

sát số 01/2003, tr.32, Hà Nội; Mai Văn Minh (2005), “Bàn về việc khởi tố và

không khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp

chí Kiểm sát số 09/2005, Hà Nội; Hoàng Thị Liên (2006), “Người bị hại đã

yêu cầu khởi tố trình bày lời buộc tội tại phiên toà theo trình tự, thủ tục nào”

và “Cần sửa đổi các quy định liên quan đến quyền khởi tố theo yêu cầu của

người bị hại trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật số 8/2006 và Tạp chí Kiểm sát số 2/2008; Lê Văn Cân (2008),

“Một số vướng mắc khi giải quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người

bị hại”, Tạp chí Kiểm sát số 4/2008, Hà Nội; Mai Thế Bày (2009),“Đình chỉ

điều tra vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại khi họ rút đơn theo quy

định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Kiểm

sát số 20 tháng 10/2009, Hà Nội; TS. Đinh Quang Tiệp (2010), “Một số vấn

đề về người bị hại, nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm

2003”, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2010; Phạm Thái (2012), “Bàn về một số vấn

4

đề về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí Khoa học

pháp lý (số 5/2012); v.v...

Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở khái quát

chung hoặc được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên

cứu khác về khởi tố vụ án hình sự, có công trình đã triển khai nghiên cứu độc

lập chế định này nhưng trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật

(từ ngày 01/01/2018); đồng thời, các công trình trên chưa có công trình nào

nghiên cứu cụ thể đề tài trên trong phạm vi một tỉnh là tỉnh Bắc Ninh, trong

khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.

Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu

của bị hại từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có

tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý

luận, thực tiễn về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại từ thực tiễn

tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở đó, Luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện

pháp luật, giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về khởi tố

vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về khởi tố vụ án theo

yêu cầu của bị hại.

- Làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án theo yêu

cầu của bị hại.

- Đánh giá thực trạng khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại từ thực tiễn tỉnh

Bắc Ninh và đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, giải pháp đảm

bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo yêu

cầu của bị hại.

5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề lý luận xung quanh

chế định ‘‘Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại’’. Thực tế việc điều

tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Ninh và những tồn

tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đồng thời đưa ra các giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự khởi tố theo yêu cầu

của bị hại.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu trong phạm vi quy định của PLTTHS Việt Nam

về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại, mà trọng tâm là BLTTHS năm 2015 hiện

hành, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, trong phạm vi tỉnh

Bắc Ninh.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy

vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm, định hướng của

Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự,

đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của Nhà nước ta.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương

pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: So sánh, đối chiếu, diễn

dịch, quy nạp, phân tích và tổng hợp…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn

Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương

diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu mà trong đó giải

quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới chế định

khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

6

Về mặt lý luận: Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật, áp

dụng pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại; góp phần hoàn thiện hơn

nữa lý luận và pháp luật về chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

trong pháp luật nước ta.

Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của Luận văn là cơ sở để cơ

quan, người có thẩm quyền đặc biệt là cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng ở tỉnh Bắc Ninh nghiên cứu, vận dụng trong quá trình áp dụng

pháp luật. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được sử dụng

làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và

tài liệu tham khảo đối với người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về hình

sự và tố tụng hình sự, những người làm công tác thực tiễn...

7. Kết cấu của Luận văn

Nội dung chính của Luận văn gồm 03 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu

của bị hại.

Chương 2. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong pháp

luật hiện hành và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Chương 3. Một số yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết vụ

án hình sự khởi tố theo yêu cầu của bị hại.

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN

THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI

1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình sự theo

yêu cầu của bị hại

1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự

Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, xác định

một hành vi xảy ra trong thực tế có dấu hiệu tội phạm hay không, theo đó, mở

đầu cho việc thực hiện những hành vi tố tụng cần thiết để làm rõ sự thật khách

quan về sự kiện pháp lý đó (khởi tố vụ án hình sự), hoặc chấm dứt quan hệ tố

tụng hình sự (không khởi tố vụ án hình sự). Tuy nhiên, về khái niệm “khởi tố

vụ án hình sự”, hiện nay trong khoa học luật tố tụng hình sự, vẫn còn có nhiều

quan niệm khác nhau như:

Theo từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp): Khởi

tố vụ án hình sự là hoạt động của CQTHTT xác định có sự việc phạm tội để

tiến hành điều tra phát hiện tội phạm [42, tr.429].

Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật

Hà Nội đưa ra khái niệm: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của trình

tự tố tụng, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu

hiệu của tội phạm hay không để quyết định khởi tố hay quyết định không khởi

tố vụ án hình sự [34, tr.233].

Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật

thành phố Hồ Chí Minh có quan điểm: Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn

độc lập của quá trình chứng minh vụ án hình sự, trong đó cơ quan có thẩm

quyền xác định có hay không dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc

quyết định không khởi tố vụ án. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ việc tiếp nhận

thông tin về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội phạm và kết thúc bằng một

quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự [35, tr.330].

8

GS.TS Võ Khánh Vinh đưa ra khái niệm về quyết định khởi tố vụ án

hình sự, trong đó có bao hàm nội dung khởi tố vụ án hình sự, một cách cụ thể

hơn, theo đó: Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hành vi tố tụng hình sự của

một pháp nhân (chủ thể tiến hành tố tụng) có thẩm quyền khởi tố vụ án hình

sự biểu hiện bằng một văn bản tố tụng hình sự xác định một sự kiện pháp lý

xảy ra trong thực tế có dấu hiệu của tội phạm cụ thể được quy định trong

BLHS nhằm khởi phát những quan hệ tố tụng, mở đầu cho việc thực hiện

những hành vi tố tụng cần thiết để làm rõ sự thật khách quan về sự kiện đó.

Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền

nhận được tin báo về tội phạm, kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra được

một trong hai quyết định là quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định

không khởi tố vụ án hình sự [43, tr.268, 269].

Có thể thấy, mỗi khái niệm đều có những nhân tố hợp lý và đều thống

nhất cho rằng: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, mở

đầu cho quá trình tố tụng hình sự; trong giai đoạn này, cơ quan và người có

thẩm quyền phải xác định sự việc xảy ra có phải là hành vi phạm tội hay

không? Kết quả thể hiện bằng việc quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc

không khởi tố vụ án hình sự (nếu xác định không có hành vi phạm tội).

Nghiên cứu và tiếp thu một số quan điểm trên, tác giả cho rằng, khái

niệm khởi tố vụ án hình sự ngoài việc thể hiện được các yếu tố như: Là giai

đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, chủ thể có thẩm quyền (các CQTHTT, các

cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và người có

thẩm quyền của cơ quan đó), kết quả giải quyết (khởi tố hoặc không khởi tố

vụ án hình sự), cần bao hàm thêm các yếu tố sau:

- Khái niệm cần phải thể hiện được căn cứ pháp lý về nội dung là

BLHS nhằm xác định sự việc, hành vi diễn ra có hành vi phạm tội xảy ra hay

không; căn cứ về hình thức là BLTTHS quy định về trình tự, thủ tục tiến hành

9

các biện pháp kiểm tra, xác minh, quyết định tính có căn cứ và hợp pháp của

hoạt động này.

- Khái niệm cần phải thể hiện được căn cứ thực tế đó là kết quả kiểm

tra, xác minh nguồn tin (tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố, lời khai của người

phạm tội tự thú và thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng trực tiếp phát hiện) để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án

hình sự.

- Khái niệm cần phải nêu được thời điểm bắt đầu và kết thúc của giai

đoạn này, để phân biệt với giai đoạn khác của quá trình TTHS.

Tiếp thu những nhân tố hợp lý trên, kết quả nghiên cứu liên quan, tác

giả đưa ra khái niệm khởi tố vụ án hình sự như sau: Khởi tố vụ án hình sự là

giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, có tính độc lập tương đối, trong đó cơ

quan, người có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và

tố tụng hình sự, nhằm xác định sự việc xảy ra có hay không có hành vi phạm

tội để làm căn cứ quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình

sự.

1.1.2. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

1.1.2.1. Khái niệm bị hại

Khoa học PLTTHS Việt Nam từ trước khi BLTTHS năm 2015 được

ban hành và có hiệu lực đều xác định bị hại chỉ là thể nhân, đó là người bị

thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Tuy nhiên,

trong BLTTHS năm 2015 thuật ngữ “Người bị hại” đã được thay thế bằng

thuật ngữ “Bị hại” trong đó khái niệm bị hại mở rộng hơn đối tượng bao gồm

cả thể nhân và cơ quan, tổ chức. Theo đó, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt

hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài

sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra [22, Điều 62].

Như vậy, bị hại trong BLTTHS hiện hành có đặc điểm sau đây:

10

- Thứ nhất, bị hại là cá nhân thì cá nhân đó phải đang sống và tồn tại

vào thời điểm bị thiệt hại. Nếu bị hại là cơ quan, tổ chức phải được thành lập

hợp pháp và đang hoạt động. Nếu bị hại là người chưa thành niên, người có

nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham

gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại. Trong trường

hợp bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của bị hại tham gia tố tụng với tư

cách là đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Nếu bị hại

là cơ quan, tổ chức thì đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức tham gia

với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại. Trường hợp người đại diện theo

pháp luật của cơ quan, tổ chức không thể tham gia tố tụng được thì cơ quan,

tổ chức phải cử người khác làm đại diện hợp pháp của bị hại và có những

quyền của bị hại. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi người đại diện thì

pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

- Thứ hai, thiệt hại của bị hại phải là hậu quả trực tiếp và có mối quan

hệ nhân quả với hành vi phạm tội. Bị hại phải là đối tượng tác động mà hành

vi phạm tội hướng tới xâm hại, đồng thời hành vi phạm tội phải trực tiếp gây

ra thiệt hại, đe dọa gây ra thiệt hại cho bị hại, và các thiệt hại này có mối quan

hệ nhân quả với hành vi phạm tội.

- Thứ ba, thiệt hại của bị hại phải là những thiệt hại cụ thể về thể chất,

tinh thần, tài sản (cá nhân), tài sản, uy tín (tổ chức), do hành vi phạm tội gây

ra hoặc đe dọa gây ra.

- Thứ tư, hành vi xâm hại đến bị hại phải là hành vi phạm tội, được quy

định trong BLHS, còn nếu hậu quả chưa đến mức xử lý hình sự hoặc người

xâm hại chưa đủ (hoặc không có) năng lực TNHS thì hành vi xâm hại là hành

vi vi phạm hành chính, vi phạm nghĩa vụ dân sự, lao động… trong trường hợp

này người bị xâm hại không phải là bị hại.

- Thứ năm, xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh

thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do hành vi

11

phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra chỉ trở thành bị hại trong tố tụng hình sự

khi họ được cơ quan có thẩm quyền công nhận là bị hại (thông qua giấy triệu

tập).

Từ những phân tích nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm bị hại như sau: Bị

hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ

quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa

gây ra.

1.1.2.2. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

Về nguyên tắc chung khi có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan có thẩm

quyền khởi tố vụ án hình sự để tất cả các tội phạm đều bị xử lí kịp thời. Tuy

nhiên, trong thực tế không ít trường hợp tội phạm xảy ra đã gây thiệt hại cho

bị hại không chỉ về lợi ích vật chất mà cả về tinh thần, danh dự, nhân phẩm.

Việc khởi tố vụ án hình sự để truy cứu trong trường hợp này có thể lại gây

thêm những tổn thất khác cho bị hại. Chính vì vậy, để phù hợp với thực tiễn

đấu tranh phòng chống tội phạm, các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền,

chế định ‘’Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại” được quy định, với những

điều kiện do luật định. Do vậy, khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là trường

hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự. Về bản chất của hoạt động khởi tố vụ

án hình sự theo yêu cầu của bị hại không chỉ đơn thuần là một trường hợp

khởi tố có điều kiện (phải có yêu cầu của bị hại) mà cao hơn, trong trường

hợp khởi tố theo yêu cầu bị hại quyền buộc tội không chỉ do CQĐT hoặc

VKS đơn phương thực hiện mà quyền buộc tội còn do bị hại quyết định.

Từ nhận thức, phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về khởi tố vụ án

theo yêu cầu của bị hại như sau: Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là

trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự, trong đó cơ quan, người có

thẩm quyền xác định được có hành vi phạm tội trên cơ sở các quy định của

pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, kết quả kiểm tra, xác minh nguồn tin về

tội phạm, nhưng chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu khởi tố của bị

12

hại trong một số trường hợp PLTTHS quy định và phải đình chỉ điều tra,

hoặc đình chỉ vụ án khi bị hại rút yêu cầu khởi tố trong những trường hợp do

PLTTHS quy định.

1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại

1.2.1. Đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự

1.2.1.1. Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự

Với tính chất là một giai đoạn tố tụng độc lập, khởi tố vụ án hình sự có

những đặc điểm riêng biệt như sau:

- Thứ nhất, giai đoạn này bắt đầu khi phát hiện những nguồn thông tin

về tội phạm và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền xác định một sự việc xảy

ra trong thực tế có hay không có hành vi phạm tội để quyết định khởi tố hay

không khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp

lý đầu tiên để các CQTHTT thực hiện những hoạt động tố tụng trong các giai

đoạn tố tụng hình sự kế tiếp là điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự,

trừ trường hợp đặc biệt cần ngăn chặn ngay tội phạm hoặc đảm bảo cho việc

điều tra sau này được tiến hành thuận lợi thì một số hoạt động điều tra như

giữ người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, khám nghiệm hiện

trường, khám nghiệm tử thi… có thể thực hiện trước khi khởi tố vụ án. Giữa

các giai đoạn này có mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau mà trong đó,

giai đoạn tố tụng trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của

giai đoạn tố tụng sau còn giai đoạn tố tụng sau sẽ kiểm nghiệm kết quả của

giai đoạn tố tụng trước đó. Trong khi đó, quyết định không khởi tố vụ án hình

sự là sự kiện pháp lý làm chấm dứt các quan hệ tố tụng hình sự đã phát sinh

trước đó.

- Thứ hai, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi

tố vụ án hình sự rất đa dạng. Theo quy định của BLTTHS hiện hành, các cơ

quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự bao gồm các CQTHTT và cơ quan

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

13

+ CQTHTT gồm: CQĐT, VKS và TA.

+ Cơ quan tiến hành một số hoạt động điều tra: gồm các cơ quan của

Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư

và cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp được PLTTHS, Luật

Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự quy định cụ thể.

- Thứ ba, căn cứ khởi tố vụ án hình sự là sự việc “có hành vi phạm tội

xảy ra”. Quyết định khởi tố vụ án chưa có nghĩa là buộc tội bất kỳ một ai, mà

chỉ là mở đầu của hoạt động tố tụng để CQĐT có căn cứ tiến hành các hoạt

động điều tra cụ thể được PLTTHS quy định nhằm xác định sự thật khách

quan của vụ án, do vậy cơ quan, người có thẩm quyền chỉ cần xác định “có

hành vi phạm tội xảy ra”. Kết thúc thời gian này, cơ quan có thẩm quyền phải

ra quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu xác định có hành vi phạm tội xảy ra

hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự nếu không có có hành vi phạm

tội xảy ra. Giai đoạn khởi tố kết thúc có thể là sự khởi đầu của các giai đoạn

tố tụng tiếp theo hoặc cũng có thể là sự chấm dứt quá trình tố tụng hình sự.

- Thứ tư, trình tự, thủ tục và thời hạn tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ

án hình sự được luật tố tụng hình sự quy định chặt chẽ, và chỉ được tiến hành

một số biện pháp được quy định trong PLTTHS. Quy định này nhằm hạn chế

việc kéo dài, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người chịu

tác động của hành vi phạm tội, đặc biệt là bị hại, cũng như sớm lập lại trật tự

kỷ cương pháp luật.

- Thứ năm, hình thức pháp lý của kết quả giải quyết trong giai đoạn này

là quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình

sự, được ban hành theo biểu mẫu do cơ quan có thẩm quyền ban hành.

1.2.1.2. Ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự

- Khởi tố vụ án hình sự góp phần bảo đảm cho việc phát hiện nhanh

chóng mọi hành vi phạm tội, thông qua việc tiếp nhận, kiểm tra, xác minh kịp

14

thời các nguồn tin về tội phạm mới có điều kiện làm rõ sự việc xảy ra có dấu

hiệu tội phạm hay không.

- Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của quá trình tố tụng, tạo

cơ sở pháp lý để thực hiện các hoạt động tố tụng trong các giai đoạn tiếp theo

để giải quyết vụ án hình sự trong trường hợp các cơ quan có thẩm quyền xác

định sự việc xảy ra trên thực tế có dấu hiệu tội phạm. Mọi hoạt động tố tụng

hình sự (trừ một số trường hợp đặc biệt như khám nghiệm hiện trường, tử thi,

bắt quả tang...) chỉ có thể được tiến hành khi có quyết định khởi tố vụ án hình

sự. Khởi tố vụ án hình sự tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tố tụng

tiếp theo. Đồng thời, việc khởi tố vụ án hình sự sẽ làm phát sinh quyền và

nghĩa vụ của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng. Sau khi xác định dấu hiệu

tội phạm và khởi tố vụ án, hoạt động tố tụng ở giai đoạn điều tra sẽ tập trung

làm rõ các hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm. Kể từ thời điểm

này, quan hệ PLTTHS giữa Nhà nước và người thực hiện tội phạm sẽ phát

sinh.

- Khởi tố vụ án hình sự là một trong những biện pháp quan trọng góp

phần bảo vệ quyền con người, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Khởi tố vụ án hình sự liên

quan chặt chẽ với việc bảo đảm pháp chế, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ

của công dân được pháp luật bảo hộ. Cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự

khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong

toàn xã hội.

1.2.2. Đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

1.2.2.1. Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại là trường hợp đặc biệt

của khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, nó có những đặc điểm chung của khởi tố

vụ án hình sự. Ngoài ra, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại có những

đặc điểm riêng sau:

15

- Để khởi tố vụ án hình sự phải có yêu cầu khởi tố của bị hại. Nghĩa là

nếu bị hại không yêu cầu thì cơ quan có thẩm quyền không được khởi tố vụ

án. Đây là sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung của toàn xã hội và lợi ích của

bị hại, khi lợi ích của bị hại không mâu thuẫn với lợi ích chung.

- Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại chỉ áp dụng đối với

một số tội phạm nhất định. Đó là các tội phạm mà tính chất của sự xâm hại

không nghiêm trọng, khách thể của tội phạm là những mối quan hệ xã hội có

liên quan trực tiếp đến bản thân người bị hại như sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm và quyền sở hữu trí tuệ, hoặc tội phạm nghiêm trọng nhưng việc xử lý

bằng biện pháp hình sự có thể mang lại những hậu quả không mong muốn cho

bị hại.

- Điều kiện để khởi tố vụ án hình sự, cũng như chấm dứt việc giải quyết

vụ án hình sự phụ thuộc ý chí của bị hại. Chỉ bị hại (hoặc người đại diện trong

trường hợp luật định) có yêu cầu thì vụ án mới được khởi tố. Ngoài ra, khi bị

hại rút yêu cầu thì đó là cơ sở để chấm dứt việc truy cứu TNHS đối với người

thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, nhưng giới hạn ở một số giai đoạn tố

tụng nhất định. Yêu cầu của bị hại có thể thể hiện qua đơn yêu cầu hoặc biên

bản ghi lời khai.

1.2.2.2. Ý nghĩa của việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

Có những ý nghĩa chung của khởi tố vụ án. Ngoài ra, khởi tố vụ án

hình sự theo yêu cầu bị hại có những ý nghĩa riêng sau:

- Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại nhằm đáp ứng lợi ích

của bị hại, phù hợp với lợi ích chung toàn xã hội. Trong nhiều trường hợp,

đưa người phạm tội ra xử lý sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của bị hại, hoặc

ảnh hưởng đến mối quan hệ đặc biệt vốn có giữa bị hại và người phạm tội,

không có lợi cho lợi ích chung của toàn xã hội.

16

- Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại đảm bảo tôn trọng

quyền con người, quyền và lợi ích của cá nhân. Không mâu thuẫn với nguyên

tắc pháp chế, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

- Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại vừa đạt mục tiêu ổn

định xã hội, vừa bảo vệ và thỏa mãn lợi ích của bị hại. Đây là sự kết hợp giữa

lợi ích chung của toàn xã hội và lợi ích của bị hại.

1.3. Cơ sở việc quy định chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu

cầu của bị hại trong pháp luật hình sự Việt Nam

Chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại lần đầu tiên

được ghi nhận trong BLTTHS năm 1988, sau đó được phát triển, và hoàn

thiện hơn trong BLTTHS năm 2003, đến thời điểm hiện tại là BLTTHS năm

2015. Việc ghi nhận chế định này xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn sau

đây.

1.3.1. Cơ sở lý luận

Pháp luật hình sự và tố tụng hình sự của bất cứ quốc gia nào cũng đều

có nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm, trong đó trách nhiệm của cơ

quan, người có thẩm quyền tố tụng là phát hiện và xử lý kịp thời mọi hành vi

phạm tội, nhằm bảo vệ chế độ chính trị, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất

định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, pháp luật quy định

cho phép bị hại lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố vụ án đối

với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. sau đó vụ án

được giải quyết theo thủ tục chung. “Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà

nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện

hành vi có dấu hiệu tội phạm. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước

giao cho một cơ quan thay mặt Nhà nước thực hiện để phát hiện tội phạm và

truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội” [17, tr 40].

17

Từ nội hàm khái niệm “quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước

thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc tội) đối với người thực hiện

hành vi có dấu hiệu tội phạm” đã nêu trên, có thể thấy “tư tố” chính là hoạt

động buộc tội do cá nhân (tư nhân) thực hiện, và quyền “tư tố” là quyền của

cá nhân được Nhà nước cho phép nhằm thực hiện việc buộc tội đối với người

thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm. Tuy nhiên quyền “tư tố” nằm trong

giới hạn và không làm mất đi quyền công tố của Nhà nước.

PLTTHS Việt Nam, khi quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại qua

lịch sử lập pháp các giai đoạn đều có sự tiếp thu, kế thừa những điểm tiến bộ

trong quy định của pháp luật của các quốc gia trên thế giới, thường được áp

dụng đối với hành vi phạm tội có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp, thuộc

nhóm tội xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và một số quyền nhân

thân của con người. Khi CQTHTT ban hành quyết định khởi tố vụ án thì sẽ

tiến hành để giải quyết theo thủ tục thông thường và quyền công tố của Nhà

nước chính thức phát sinh, và nếu bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì

CQTHTT sẽ đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật nếu bị hại hoàn toàn

tự nguyện, không bị ép buộc. Đây là quy định nhằm thực hiện bảo vệ quyền

con người.

1.3.2. Cơ sở thực tiễn

Từ năm 1986, sau một thời gian dài đất nước trải qua chiến tranh và

thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Đảng ta đã thực hiện chính sách

đổi mới cả kinh tế và chính trị. Nền kinh tế tập trung được chuyển hướng theo

kinh tế thị trường, trong lĩnh vực chính trị, tiến trình dân chủ hoá đã được

triển khai cả về bề rộng và chiều sâu, tính công khai, dân chủ, ý thức về công

bằng xã hội đã được xây dựng và phát triển mạnh mẽ trong toàn xã hội.

Những thay đổi của kinh tế và chính trị, kéo theo những thay đổi về hệ thống

pháp luật, trong đó có PLTTHS. Lần đầu tiên, trong lịch sử lập pháp, Nhà

nước ta đã pháp điển hóa BLTTHS năm 1988, có hiệu lực thi hành từ ngày

18

01/01/1989, tổng kết kinh nghiệm của hơn 40 năm lập pháp tố tụng hình sự

sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập từ năm 1945 đến

năm 1988. Đồng thời các nhà lập pháp Việt Nam đã có sự học hỏi kinh

nghiệm, tiếp thu những tiến bộ của các hệ thống pháp luật trên thế giới về tố

tụng hình sự trong đó có chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại và

vận dụng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh Việt Nam, với mục đích mở rộng

dân chủ, quyền của bị hại trong tố tụng hình sự nói riêng, góp phần vào việc

phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo cân bằng lợi ích giữa chung

và riêng, giữa lợi ích công và lợi ích của cá nhân.

Mặc khác, sau đổi mới bên cạnh mở rộng dân chủ, xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN thì việc hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi hệ thống pháp

luật của các quốc gia có sự giao thoa, học hỏi, tiếp nhận lẫn nhau, cân nhắc

cho phù hợp với truyền thống chính trị - pháp lý, điều kiện thực tiễn của nền

tư pháp đang từng bước chuyển đổi và tính chất của nền dân chủ XHCN Việt

Nam đáp ứng yêu cầu mở rộng dân chủ là hết sức cần thiết, nhưng vẫn phải

đảm bảo mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện và xử lý kịp thời, bảo vệ

chế độ chính trị, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân, tổ chức, bị hại không thể thay thế Nhà nước quyết định việc buộc tội,

đưa một người ra xét xử tại TA. Vì vậy, phương án cho phép bị hại có quyền

yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố đối với một số vụ án, còn việc giải quyết

vụ án tiếp theo vẫn được tiến hành theo thủ tục chung là phương án phù hợp

với điều kiện kinh tế - xã hội và thực trạng nền tư pháp Việt Nam.

- Thực tiễn tố tụng hình sự và về mặt xã hội cho thấy, việc quy định

chế định khởi tố theo yêu cầu của bị hại tạo nên sự ổn định về mặt xã hội, do

thông thường những trường hợp này gây thiệt hại không lớn về thể chất và

tinh thần cho bị hại và trật tự xã hội. Nếu đưa người phạm tội ra xử lý mà việc

xử lý này trái ý muốn bị hại thì gây bất ổn trong mối quan hệ xã hội, gây ra

nhiều hệ lụy không tốt, thậm chỉ gây ra sự cản trở, không hợp tác từ các bên.

19

Nói cách khác, trong một số trường hợp quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu

của bị hại đạt được nhiều lợi ích, phù hợp với nguyện vọng của bị hại, không

gây tốn kém sức lực của cơ quan, người tiến hành tố tụng, đảm bảo ổn định xã

hội và không ảnh hưởng lớn tới trật tự công, pháp chế XHCN.

1.4. Quy định của PLTTHS Việt Nam về chế định khởi tố vụ án

theo yêu cầu của bị hại từ năm 1945 đến trước khi có BLTTHS năm 2015

1.4.1. Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại trong PLTTHS thời

kỳ sau Cách mạng Tháng 8/1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm

1988

Thời gian đầu, do Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được

thành lập, để bảo đảm an ninh trật tự, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc

lệnh số 47 ngày 10/10/1945 cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ

Luật hình An Nam, Hoàng Việt hình luật và Hình luật pháp tu chỉnh, với điều

kiện “chỉ thi hành khi nào không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt

Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”. Giai đoạn sau này, Nhà nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa đã dần ban hành các văn bản mới về hình sự và tố tụng để

thay thế pháp luật chế độ cũ, trong đó có một số quy định liên quan đến yêu

cầu của đương sự, người bị hại. Ví dụ: Điều 17, Điều 18 Sắc lệnh số 85/SL

ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về cải cách

bộ máy Tư pháp.

Ngày 27/9/1974, TA tối cao ban hành Thông tư số 16/TATC, người bị

hại có quyền: Được đề xuất chứng cứ và những lời thỉnh cầu; được yêu cầu

bồi thường và yêu cầu áp dụng những biện pháp nhằm đảm bảo bồi thường;

được xin thay đổi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân; được tham gia các cuộc

thẩm vấn và tranh luận tại phiên tòa về những sự việc đã gây thiệt hại cho

mình; được kháng tố theo những quy định của pháp luật để xin tăng hình phạt

đối với bị cáo và tăng tiền bồi thường. Có trường hợp người bị hại không yêu

cầu bồi thường, nhưng trong trường hợp người bị hại có yêu cầu bồi thường

20

thì họ cũng có quyền của nguyên đơn dân sự. Nếu việc phạm pháp đã gây ra

chết người thì cha, mẹ, vợ, con, anh, chị, em ruột của người bị hại đều có

những quyền của người bị hại nói trên [26, tr. 46].

Ngoải ra, Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ 76 thẩm về hình sự ban

hành theo Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TA tối cao, xác định:

Người bị hại là công dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất,

tài sản, hoặc xâm hại về tinh thần (như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp, lừa

đảo...). Người đã can thiệp để ngăn cản bị cáo đánh, giết người khác nhưng

bản thân cũng bị kẻ phạm pháp gây thương tích, hoặc người có nhà cửa bị

cháy vì bị cáo đốt nhà của người khác nhưng đám cháy lan sang nhà của họ,

cũng là người bị xâm hại trực tiếp đến thể chất, tài sản [26, tr. 46].

Như vậy, trước khi BLTTHS năm 1988 được ban hành thì hệ thống

pháp luật nhà nước ta tuy có một số văn bản pháp luật nói về người bị hại

trong vụ án hình sự nhưng về cơ bản vai trò của người bị hại trong giải quyết

vụ án hình sự không được đề cập nhiều, chưa có một chế định cụ thể nào quy

định về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại, do quan niệm: Quan hệ pháp

luật hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội và chỉ có Nhà nước

mới có quyền khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội, buộc người

phạm tội phải chịu trách nhiệm tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm

của tội phạm mà họ đã gây ra.

1.4.2. Quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

trong BLTTHS năm 1988 và năm 2003

* Quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại theo BLTTHS năm

1988

BLTTHS năm 1988 đã chính thức ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình

sự theo yêu cầu của người bị hại tại Chương 7, Điều 88 cụ thể:

“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 109;

đoạn 1, khoản 1 Điều 112; đoạn 1, khoản 1 Điều 113; khoản 1 Điều 116;

21

khoản 1 Điều 117 và Điều 126 Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu

cầu của người bị hại.

2. Trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà

thì vụ án phải được đình chỉ.” [20].

Việc BLTTHS năm 1988, ghi nhận chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu

của người bị hại có ý nghĩa lớn lao về mặt pháp lý và xã hội, kết hợp hài hòa

giữa quyền lợi của người bị hại với lợi ích công. Tuy nhiên, quy định của

BLTTHS năm 1988 về chế định này vẫn còn khá đơn giản, chưa chặt chẽ, và

còn khá chung chung, đòi hỏi cần được tiếp tục hoàn thiện.

* Quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại theo BLTTHS năm

2003

Trong BLTTHS năm 2003 thì khởi tố theo yêu cầu bị hại được quy

định tại Điều 105:

“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều

104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình

sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện

hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về

tâm thần hoặc thể chất.

2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày

mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ. Trong trường hợp có căn

cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn

của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu,

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng

đối với vụ án.

Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ

trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức”. [21].

Như vậy, BLTTHS năm 2003 đã mở rộng hơn các tội khởi tố vụ án

theo yêu cầu của người bị hại thành 11 tội. Bên cạnh các tội được quy định

22

trong BLTTHS năm 1988 thì bổ sung thêm các tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người

khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; tội vô ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tội vô ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc

quy tắc hành chính. Phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự

theo quy định của BLTTHS năm 2003 rộng hơn so với BLTTHS năm 1988

chỉ quy định người bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Đồng thời có quy định mới so với BLTTHS 1988, đó là người bị hại rút

yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do

bị ép buộc, cưỡng bức.

Như vậy, BLTTHS năm 2003 đã có những sửa đổi mới, chặt chẽ và

đầy đủ hơn so với quy định của BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên, quy định của

BLTTHS năm 2003 về khởi tố theo yêu cầu người bị hại vẫn hạn chế quyền

của người bị hại, chưa phù hợp với thực tiễn như: BLTTHS năm 2003 chưa

quy định trường hợp bị hại đã chết thì người đại diện của họ có quyền yêu cầu

khởi tố vụ án hình sự, chưa quy định cơ quan, tổ chức cũng là bị hại trong vụ

án hình sự.

Tiểu kết Chương 1

Thông qua Chương 1 của Luận văn, tác giả đã lần lượt phân tích làm rõ

khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình

sự theo yêu cầu của bị hại, cũng như phân tích cơ sở của việc quy định chế

định này trong PLTTHS. Đồng thời, tác giả cũng phân tích làm rõ lịch sử quá

trình lập pháp quy định chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong

PLTTHS Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi có BLTTHS năm 2015.

Những phân tích trong Chương 1 của Luận văn là cơ sở để tác giả phân tích

quy định của BLTTHS hiện hành về chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu

23

cầu của bị hại và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh tại Chương 2 của Luận

văn.

24

Chương 2

KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI TRONG

PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH BẮC NINH

2.1. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong pháp luật

hiện hành

Trong pháp luật hiện hành, thì chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị

hại được quy định tại Điều 105 BLTTHS năm 2015:

“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều

104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình

sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện

hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về

tâm thần hoặc thể chất.

2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày

mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút

yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người

đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn

có thể tiếp tục tiến hành quá trình tố tụng.

Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ

trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức” [22].

Khoản 1, khoản 3 Điều 62 của BLTTHS năm 2015 quy định: “Bị hại là

cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ

chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”.

“Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người

đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa” [22].

Như vậy, trong BLTTHS năm 2015 quy định “rộng và mở” hơn về khái

niệm bị hại không chỉ gồm cá nhân như PLTTHS trước đó, mà còn bao gồm

25

cả cơ quan, tổ chức; mở rộng thời điểm thực hiện quyền rút yêu cầu khởi tố

thì vụ án phải được đình chỉ so với trước đây nhằm khắc phục nhiều điểm hạn

chế, bất cập, gây ra những khó khăn nhất định cho các CQTHTT trong quá

trình áp dụng vào thực tiễn. Quy định này đã mở rộng quyền con người,

quyền công dân trong tố tụng hình sự, người đã yêu cầu khởi tố có quyền rút

yêu cầu khởi tố ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (bao gồm cả xét

xử phúc thẩm). Trong bốn giai đoạn này, nếu người đã yêu cầu khởi tố rút yêu

cầu khởi tố thì vụ án phải được đình chỉ (nếu họ tự nguyện và không bị ai ép

buộc).

Ngoài ra, một quy định mới khác của BLTTHS năm 2015 về khởi tố vụ

án theo yêu cầu của người bị hại là tại khoản 1 Điều 155 đã bỏ một tội được

khởi tố theo yêu cầu người bị hại là tội “Xâm phạm quyền tác giả” (Khoản 1

Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định tội này chỉ được khởi tố khi có yêu

cầu của người bị hại). Quy định này là hợp lý vì hiện nay quyền tác giả đang

bị xâm phạm ngày càng nhiều và nghiêm trọng cần được bảo vệ mà không

cần phải có yêu cầu của người bị hại nhằm bảo vệ tốt hơn quyền tác giả,

quyền liên quan và phù hợp với tình hình mới.

Ngoài ra nội hàm từng tội danh khởi tố theo yêu cầu bị hại cũng được

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bổ sung để phù hợp với thực

tiễn đấu tranh, phòng chống những tội phạm này. Đồng thời, BLTTHS năm

2015 còn bổ sung trường hợp nếu bị hại từ chối giám định theo quyết định

trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất

khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải (điểm b

khoản 2 Điều 127 BLTTHS năm 2015), quy định này đã khắc phục được thực

tế trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại, đặc biệt là các vụ liên quan đến

cố ý gây thương tích, hiếp dâm…bị hại từ chối giám định, gây khó khăn cho

các cơ quan tố tụng.

26

2.1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu

bị hại

Điều 62 BLTTHS năm 2015, quy định “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị

thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về

tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”.

Tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố

vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138,

139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại

hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về

tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết” [22].

Như vậy, chủ thể có quyền yêu cầu theo BLTTHS năm 2015 hiện nay

là cá nhân (trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản); cơ quan, tổ

chức (bị thiệt hại về tài sản, uy tín) và đại diện của bị hại là người dưới 18

tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

* Về chủ thể là cá nhân và người đại diện của bị hại là người dưới 18

tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

- Về bị hại là cá nhân:

Khi thực hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại, cần

đảm bảo hai yếu tố sau:

+ Về khách quan: Là người trực tiếp bị tội phạm gây ra thiệt hại về thể

chất, tinh thần, tài sản hoặc đe dọa gây ra. Đây là yếu tố mang tính khách

quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của CQTHTT. Nói cách khác, đây

là người bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm

tội là trực tiếp gây ra hoặc đe dọa gây thiệt hại cho chủ thể này (đối tượng mà

người phạm tội trực tiếp hướng đến để gây thiệt hại. Đây là điểm cơ bản để

phân biệt với nguyên đơn dân sự bị thiệt hại gián tiếp từ hành vi phạm tội,

mục đích của người phạm tội không nhằm trực tiếp gây ra thiệt hại cho họ.

27

+ Về chủ quan: Họ (người trực tiếp bị tội phạm gây ra thiệt hại về thể

chất, tinh thần, tài sản hoặc đe dọa gây ra) phải được CQTHTT (CQĐT, VKS,

TA) xác nhận, công nhận họ với tư cách bị hại và đưa vào tham gia tố tụng

trong vụ án. CQTHTT phải thừa nhận cá nhân là bị hại trước khi chấp nhận

các yêu cầu của họ. Vì chỉ sau khi đã xác định tư cách pháp lý của người bị

hại (thừa nhận, công nhận là người bị hại) thì mới xem xét giải quyết yêu cầu

của người bị hại (yêu cầu khởi tố vụ án hình sự hay không yêu cầu khởi tố vụ

án hình sự) theo quy định của BLTTHS năm 2015.

- Người đại diện của người bị hại là người dưới 18 tuổi, người có

nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết:

Đây là những trường hợp đặc biệt mà theo đó bị hại đều là những người

chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tâm, sinh lý, hoặc do có đặc điểm về

tâm thần và thể chất nên gặp khó khăn trong việc điều chỉnh, làm chủ hành vi

của mình, chưa có đủ năng lực để cân nhắc quyết định các quyền của mình

mà pháp luật cho phép trong tố tụng hình sự liên quan đến trường hợp khởi tố

vụ án hình sự theo yêu cầu của họ.

Về điều kiện để có thể yêu cầu khởi tố vụ án:

+ Đối với người đại diện cho người dưới 18 tuổi. Quy định này cần

được hiểu là người đại diện theo pháp luật của người dưới 18 tuổi. Theo quy

định của BLDS năm 2015 có thể là cha, mẹ đối với người chưa thành niên;

người giám hộ đối với người được giám hộ là người dưới 18 tuổi và đáp ứng

các yêu cầu theo BLDS năm 2015 (Ví dụ: Cá nhân có đủ các điều kiện sau

đây có thể làm người giám hộ: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Có tư cách

đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người

giám hộ; Không phải là người đang bị truy cứu TNHS hoặc người bị kết án

nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng,

sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác; Không phải là người

bị TA tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.

28

Việc xác định tuổi của bị hại dưới 18 tuổi được xác định theo quy định

tại Điều 417 BLTTHS năm 2015.

“1. Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới

18 tuổi do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định

của pháp luật.

2. Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác

định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định:

a) Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày

thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.

b) Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày,

tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày,

tháng sinh.

c) Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được

ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó

làm ngày, tháng sinh.

d) Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày,

tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày,

tháng sinh.

3. Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám

định để xác định tuổi” [22].

+ Trường hợp thứ hai: Người bị hại là người có nhược điểm về tâm

thần hoặc thể chất.

Người có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì hiện nay BLTTHS năm

2015 không có quy định và cũng không có văn bản nào hướng dẫn. Tuy

nhiên, có thể hiểu người có nhược điểm về tâm thần, thể chất là người có khó

khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, tức là người do tình trạng thể chất

(như mù, câm, điếc, tàn tật…) hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận

thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi, vì thế cần

29

thiết phải có người đại diện. Việc xác nhận dấu hiệu người có nhược điểm về

thể chất hoặc tâm thần phải thực hiện theo quy định của BLDS.

* Bị hại là cơ quan, tổ chức

Để trở thành bị hại trong tố tụng hình sự thì cơ quan, tổ chức cần đảm

bảo điều kiện sau đây:

+ Về khách quan: Thiệt hại gây ra cho cơ quan, tổ chức là tài sản, uy

tín, là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân

quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại. Đây là điều kiện

quan trọng để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự

khác trong vụ án hình sự.

+ Về chủ quan: Cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng

với tư cách là bị hại khi và chỉ khi được CQTHTT công nhận.

+ Nếu bị hại là cơ quan, tổ chức thì đại diện theo pháp luật của cơ quan,

tổ chức tham gia với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại. Trường hợp

người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức không thể tham gia tố tụng

được thì cơ quan, tổ chức phải cử người khác làm đại diện hợp pháp của bị

hại và có những quyền của bị hại. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi

người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng.

Đối chiếu với quy định tại Điều 105 BLTTHS năm 2015 về khởi tố vụ

án theo yêu cầu bị hại thì cơ quan, tổ chức chỉ có thể là chủ thể yêu cầu khởi

tố trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 226 BLHS năm 2015 (tội xâm

phạm quyền sở hữu công nghiệp) vì các tội khác đối tượng chỉ có thể là cá

nhân.

30

2.1.2. Phạm vi các tội phạm được yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu

của bị hại

Khoản 1 Điều 155 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội

phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155,

156 và 226 của Bộ luật hình sự...” [22].

Cụ thể: + Khoản 1 Điều 134 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác): Đây là trường hợp một người có hành vi cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các

trường hợp: a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ

02 người trở lên; b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; c) Gây cố tật nhẹ

cho nạn nhân; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;

e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm

đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; g) Đối với ông, bà, cha, mẹ,

người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình; h) Có tổ chức; i) Lợi

dụng chức vụ, quyền hạn; k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm

giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt

buộc; l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích

hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê; m) Có tính chất côn đồ; n) Tái phạm

nguy hiểm; o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của

nạn nhân. Đây là tội phạm ít nghiêm trọng, người phạm tôi thì bị phạt cải tạo

không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

+ Khoản 1 Điều 135 BLHS (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh):

Đây là trường hợp một người có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% nhưng

31

ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật

nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích

của người đó. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình phạt tiền từ 10.000.000 đồng

đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

+ Khoản 1 Điều 136 BLHS (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc

do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội): Đây là trường hợp

một người có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn

phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm

tội. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo

vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của

mình hoặc của người khác, đã có hành vi chống trả lại người đang có hành vi

xâm phạm các lợi ích nói trên nhưng sự chống trả đó rõ ràng quá mức cần

thiết, không phù hợp, không tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm cho

xã hội của hành vi xâm hại. Vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm

tội là hành vi gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của người bị bắt giữ,

nhưng đã sử dụng vũ lực vượt quá mức độ cần thiết khi bắt giữ người phạm

tội. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến

20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

+ Khoản 1 Điều 138 BLHS (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác): Là trường hợp một người vô ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ

31% đến 60%. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình phạt cảnh cáo, phạt tiền từ

5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến

03 năm.

+ Khoản 1 Điều 139 BLHS (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc

32

hành chính): Là trường hợp một người có hành vi vô ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp

hoặc quy tắc hành chính mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên. Đây là tội ít

nghiêm trọng, hình phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt

cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

+ Khoản 1 Điều 141 BLHS (Tội hiếp dâm): Là trường hợp một người

dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ

được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi

quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. Đây là trường hợp tội

nghiêm trọng, hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

+ Khoản 1 Điều 143 BLHS (Tội cưỡng dâm): Là trường hợp một người

có hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở

trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực

hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Đây là tội nghiêm trọng, hình phạt tù từ

01 năm đến 05 năm.

+ Khoản 1 Điều 155 BLHS (Tội làm nhục người khác): Là trường hợp

một người có hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người

khác. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, bị phạt cảnh cáo, phạt tiền

từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ

đến 03 năm.

+ Khoản 1 Điều 156 BLHS (Tội vu khống): Là trường hợp một người

có hành vi: Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm

xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi

ích hợp pháp của người khác; Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước

cơ quan có thẩm quyền. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, hình

phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam

giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

33

+ Khoản 1 Điều 226 BLHS (Tội xâm phạm quyền sở hữu công

nghiệp): Là trường hợp một người cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam, thu lợi

bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại

cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới

500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến

dưới 500.000.000 đồng. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, hình

phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không

giam giữ đến 03 năm.

2.1.3. Nội dung, hình thức và hậu quả pháp lý của việc yêu cầu khởi

tố vụ án hình sự của bị hại

* Nội dung yêu cầu khởi tố vụ án hình sự

Hiện nay, PLTTHS hiện hành chưa có quy định về nội dung yêu cầu khởi

tố vụ án hình sự, mẫu đơn yêu cầu khởi tố cũng chưa được quy định. Nói cách

khác, bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự liên quan đến họ, giới hạn của

quyền yêu cầu là quyết định khởi tố vụ án (nếu có căn cứ) đối với các tội danh

theo khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015; sau quyết định khởi tố vụ án người bị

hại trong quy định pháp luật khởi tố vụ án hình sự không có quyền riêng biệt, toàn

bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành theo thủ tục chung. Yêu cầu

khởi tố là điều kiện bắt buộc, do đó trong trường hợp phạm vào các tội khởi tố

theo yêu cầu của người bị hại nêu trên, nếu khởi tố khi không có yêu cầu của

người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của họ được xem là vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

* Hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự

Đây là hình thức phản ánh yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại, là

một trong những tài liệu quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất

mà thiếu nó hoặc không có nó thì không thể xử lý vụ án được. Trong

BLTTHS không đề cập đến hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, tuy

34

nhiên tại Thông tư Liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày

07/9/2018, về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một

số quy định của BLTTHS năm 2015 có quy định về vấn đề này tại khoản 5

Điều 7: “Trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, thì yêu

cầu khởi tố của bị hại hoặc người đại diện của bị hại phải thể hiện bằng văn

bản có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ; trường hợp bị hại hoặc người đại diện

của bị hại đến trực tiếp trình bày thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải lập

biên bản ghi rõ nội dung yêu cầu khởi tố để họ ký hoặc điểm chỉ vào biên bản.

Biên bản do Viện kiểm sát lập phải được chuyển ngay cho Cơ quan điều tra

để xem xét việc khởi tố vụ án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án” [40].

Mặc dù, PLTTHS chưa quy định cụ thể nhưng yêu cầu khởi tố vụ án

hình sự của bị hại phải đảm bảo các nội dụng sau:

+ Chủ thể yêu cầu phải là bị hại hoặc đại diện của bị hại là người dưới

18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất hoặc đã chết

+ Phải có các thông tin sau: Nơi cư trú của bị hại, ngày, tháng, năm

sinh, trình bày tóm tắt nội dung vụ án yêu cầu khởi tố.

+ Bị hại phải điểm chỉ hoặc ký xác nhận cho yêu cầu của mình để thể

hiện sự tự nguyện.

* Hậu quả pháp lý của yêu cầu khởi tố

Khi bị hại có yêu cầu khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định

khởi tố vụ án hình sự (khi đã đảm bảo các yêu cầu chung để khởi tố vụ án

hình sự), và từ đây vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục chung của BLTTHS.

Trong trường hợp khởi tố vụ án thì tại phiên toà xét xử sơ thẩm, bị hại hoặc

người đại diện hợp pháp của họ sẽ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.

BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ, sau khi Kiểm sát viên tiến hành luận tội

thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm

sát viên trình bày luận tội. (khoản 4 Điều 320 BLTTHS năm 2015).

35

Trong tố tụng hình sự chức năng buộc tội tồn tại song song với chức

năng gỡ tội (bào chữa) như là nhu cầu tất yếu khách quan [8, tr.92,93]. “Khi

chưa xác định ai là người thực hiện tội phạm hoặc chưa bắt giữ người trong

trường hợp khẩn cấp thì tố tụng hình sự chưa xuất hiện chức năng bào chữa”

[11, tr.53].

Nói cách khác, hậu quả pháp lý của yêu cầu khởi tố đó là mở ra một

giai đoạn điều tra vụ án hình sự. So với các trường hợp thông thường thì

quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp này cần căn cứ vào căn cứ

pháp lý là yêu cầu của bị hại trong quyết định khởi tố vụ án hình sự, đây là

căn cứ pháp lý quan trọng nhất nên phải được thể hiện rõ trong quyết định

khởi tố vụ án hình sự.

Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự khởi tố

theo yêu cầu của bị hại phải tuân theo các quy định chung về điều tra, truy tố

và xét xử, do đó nếu có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ thì cơ quan có thẩm

quyền vẫn tiến hành theo thủ tục bình thường (trừ trường hợp đình chỉ do bị

hại rút yêu cầu khởi tố, có những quy định riêng tại khoản 2 Điều 155). Đồng

thời, ngoài việc cho phép bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình

bày lời buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm như đã nêu trên thì những vấn đề còn lại

của vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục chung.

2.1.4. Nội dung, hình thức và phạm vi quyền rút yêu cầu khởi tố vụ

án hình sự của bị hại

* Nội dung rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại

BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành không đề cập đến nội

dung và hình thức rút yêu cầu khởi tố vụ án như thế nào. Tuy nhiên, có thể

hiểu nội dung rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là yêu cầu chấm dứt tố tụng

đối với vụ án hình sự đã khởi tố trước đó trên cơ sở khởi tố của của bị hại

hoặc đại diện của bị hại (là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm

thần, thể chất hoặc đã chết).

36

* Về hình thức rút yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại hoặc của người đại

diện hợp pháp của họ

Hình thức phải thể hiện bằng đơn rút yêu cầu có chữ ký hoặc điểm chỉ

của họ. Trường hợp việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự được trình bày trực

tiếp thì CQĐT, VKS và TA phải lập biên bản ghi rõ việc rút yêu cầu khởi tố, có

chữ ký hoặc điểm chỉ của người rút yêu cầu. Tuy nhiên, nội hàm này cần phải

được hiểu thống nhất là việc rút yêu cầu phải được thể hiện bằng một trong hai

cách trên, mà không phải là việc rút (lấy lại) đơn đã yêu cầu trước đó.

- Hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu: Trường hợp người đã yêu cầu

khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác

định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép

buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, CQĐT, VKS,

TA vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án [22, Điều 105].

+ Về thẩm quyền đình chỉ: Sau khi khởi tố vụ án hình sự mà bị hại

hoặc người đại diện của họ rút yêu cầu khởi tố, nếu đang điều tra hoặc đã có

bản kết luận điều tra nhưng hồ sơ chưa chuyển cho VKS thì CQĐT xem xét,

quyết định việc đình chỉ điều tra; nếu đã chuyển hồ sơ cho VKS thì VKS xem

xét, quyết định việc đình chỉ vụ án.

Căn cứ Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của

TANDTC, về việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo

quy định tại Điều 155 BLTTHS nêu rõ “Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: Người

đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm

thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45, điểm a khoản 1 Điều

282 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp

người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng

xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ

vào khoản 2 Điều 155, Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định

đình chỉ vụ án; Trường hợp sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm vẫn còn thời

37

hạn kháng cáo, kháng nghị mà người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu

cầu thì Tòa án phải hướng dẫn họ làm đơn kháng cáo để Tòa án cấp phúc

thẩm xem xét giải quyết việc rút yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm”.

+ Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không

có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

[22, Điều 105].

2.2. Khái quát tình hình giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo

yêu cầu bị hại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh các vụ án trong nhóm tội khởi tố theo yêu

cầu bị hại luôn chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng số các vụ án hình sự. Theo

số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh trong 05 năm, từ năm 2015 đến

năm 2019, TAND tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra xét xử tổng số 4.945 vụ án, 9.879

bị cáo. Trong số đó các vụ án liên quan đến khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị

hại, được thống kê (Xem bảng 2.1 phần Phụ lục)

Xét tương quan giữa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội

phạm khởi tố theo yêu cầu bị hại trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến

năm 2019 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy số lượng các vụ án được khởi

tố trong nhóm này chiếm tỉ lệ cao trong số tội đưa ra xét xử. Trong đó, cao

nhất vào năm 2017 với 197 vụ án, 238 bị cáo, chiếm tỉ lệ 23,2 % về số vụ và

14,1 % về số bị cao, thấp nhất vào năm 2019 với 177 vụ án và 216 bị cáo

chiếm tỉ lệ 12,7 % về số vụ và 9,6 % về số bị cáo. Nguyên nhân do tỉ lệ tội

phạm đưa ra xét xử năm 2019 tăng mạnh, một phần chủ yếu do bị hại thỏa

thuận được với người bị tình nghi phạm tội nên đã không yêu cầu khởi tố,

nguyên nhân khác do tội phạm chủ yếu thuộc cấu thành tăng nặng theo khoản

2 trở lên không còn thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại.

Qua bảng thống kê (xem bảng 2.2 phần phụ lục) nêu trên cho thấy,

trong nhóm tội khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì tội cố ý gây thương tích và

gây tổn hại cho sức khỏe người khác luôn chiếm tỉ lệ cao nhất so với các tội

38

phạm khác. Cụ thể, năm 2015 có 49 vụ với 93 bị cáo, năm 2016 có 47 vụ với

84 bị cáo, năm 2017 có 42 vụ với 61 bị cáo, đến năm 2018 tăng lên 45 vụ với

80 bị cáo, năm 2019 có giảm đi nhưng không đáng kể với 43 vụ và 61 bị cáo.

Sau đó đến các tội khác như tội hiếp dâm, tội vô ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điều này cho thấy sự phức tạp của hai

loại tội này trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

Qua bảng số liệu (bảng 2.3 phần phụ lục) trên cho thấy, số vụ án bị

đình chỉ do bị hại rút đơn chiếm tỉ lệ cao trong số các vụ án khởi tố theo yêu

bị hại đưa ra xét xử. Nguyên nhân là do phía người phạm tội và gia đình họ

trong giai đoạn xét xử đã bồi thường thiệt hại một cách thỏa đáng. Cá biệt có

trường hợp bị hại lợi dụng quyền yêu cầu khởi tố vụ án, rút yêu cầu khởi tố vụ

án để trục lợi. Một số trường hợp, bị hại bị đe dọa buộc phải rút yêu cầu khởi

tố. Trường hợp này, theo quy định dù người bị hại rút yêu cầu song CQTHTT

vẫn tiếp tục giải quyết vụ án. Tuy nhiên, thực tế việc chứng minh bị hại bị đe

dọa, ép buộc không phải là vấn đề đơn giản.

2.3. Những kết quả đạt được và một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn

giải quyết vụ án hình sự liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại

2.3.1. Những kết quả đạt được

- Việc vận dụng pháp luật trong áp dụng các quy định về khởi tố theo

yêu cầu của bị hại đạt nhiều kết quả tích cực, qua khảo sát các vụ án mà

CQTHTT giải quyết liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại đều giải quyết

đúng trình tự, thủ tục, định tội danh đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

- Năng lực trình độ, ý thức trách nhiệm của lãnh đạo, cán bộ, công chức

của Cơ quan tố tụng tỉnh ngày càng được nâng cao. Cơ sở vật chất, trang thiết

bị, phương tiện làm việc và chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức đã

được quan tâm đầu tư, hoàn thiện. Tất cả những lý do đó góp phần tạo lòng

tin và tư tưởng yên tâm công tác của cán bộ, công chức cơ quan tư pháp.

39

- Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp được củng cố và tăng

cường, đã giải quyết dứt điểm, nghiêm minh nhiều vụ việc, vụ án khó khăn.

Các CQTHTT tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy

định của pháp luật, hạn chế oan, sai và bỏ lọt tội phạm, bảo đảm tốt quyền và

lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị bắt, người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo, bảo đảm tính minh bạch, khách quan trong tố tụng

hình sự.

- Qua thực tiễn giải quyết các vụ án tại tỉnh Bắc Ninh cho thấy, đa số

các trường hợp CQTHTT tỉnh Bắc Ninh, đặc biệt là Cơ quan Cảnh sát điều tra

luôn nhận được sự tích cực phối hợp của bị hại trong việc cung cấp hồ sơ, tài

liệu và lấy lời khai, đặc biệt là công tác giám định liên quan đến việc cố ý gây

thương tích và gây tổn hại sức khỏe.

Ví dụ: Bản án số 32/2019/HSST ngày 23/01/2019 về tội cố ý gây

thương tích của TAND thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh [28]

Thực hiện Kế hoạch số 28/KH-ATGT ngày 10/8/2018 của UBND

thành phố Bắc Ninh, về việc tổ chức tháng cao điểm bảo đảm an toàn giao

thông (tháng 9/2018); Kế hoạch số 04/KH/QLTTĐT ngày 29/6/2018 của Đội

quản lý trật tự đô thị thành phố Bắc Ninh, về việc thực hiện công tác trật tự đô

thị, trật tự xây dựng trên địa bàn thành phố Bắc Ninh và Kế hoạch số 29/KH-

QLĐT, ngày 27/8/2018 của UBND phường Vân Dương thành phố Bắc Ninh,

về việc thực hiện Thông báo số 83/TB-UBND ngày 23/8/2018 của UBND

phường Vân Dương và lịch ra quân đảm bảo trật tự đô thị, trật tự xây dựng và

an toàn giao thông tháng 9/2018. Ngày21/9/2018 Đội quản lý trật tự đô thị

thành phố Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh đã phân công đồng chí: Nguyễn Văn D

làm Tổ trưởng; các đồng chí: Nguyễn Văn Th, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Chung

C và Trần Đức Tr làm tổ viên phối hợp cùng UBND phường Vân Dương thực

hiện kiểm tra, xử lý vi phạm về trật tự đô thị trên địa bàn phường Vân Dương.

Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 21/9/2018, tổ công tác có mặt tại chợ Lãm

40

Làng, phường Vân Dương để làm nhiệm vụ. Tổ công tác phát hiện có 04 hộ

bày bán hàng ở vỉa hè phía trước cổng chợ (khu vực cấm bán hàng), trong đó

có hộ bà Nguyễn Thị Đ đang bày bán thịt lợn. Tổ công tác đã tuyên truyền,

giải thích, nhắc nhở và yêu cầu các hộ vi phạm di chuyển vào trong chợ bán

hàng, nếu không chấp hành thì sẽ bị xử lý theo quy định. Sau đó Tổ công tác

tiếp tục di chuyển đến địa điểm khác để thực hiện nhiệm vụ. Đến khoảng hơn

09 giờ cùng ngày, tổ công tác quay lại cổng chợ Lãm Làng thì thấy 03 hộ đã

di chuyển vào trong khu vực bán hàng theo quy định. Bà Đ vẫn bán hàng tại

khu vực cấm bán hàng. Tổ công tác tiếp tục nhắc nhở bà Đ nhưng bà Đ vẫn

không chấp hành. Tổ công tác đã lập biên bản vi phạm hành chính, thu của bà

Đ: 01 chiếc ô, ghế, cân, quạt và 01 con dao chọc tiết lợn, mũi dao đã bị sứt để

lên thùng xe chuyên dụng. Bà Đ đứng đằng sau thùng xe giằng co để lấy lại

đồ vật bị thu. Lúc này, Nguyễn Xuân H là con trai bà Đ thấy Tổ công tác thu

giữ tài sản của mẹ mình đã xông vào lấy được 01 con dao (loại dao chọc tiết

lợn) có lưỡi dao dài khoảng 30cm, chuôi dao bằng nhựa, dài khoảng 07cm,

chỗ rộng nhất của lưỡi dao rộng khoảng 06cm, mũi dao đã bị cụt (con dao này

là dao của bà Đ dùng để thái thịt đã bị Tổ công tác thu), để ở trên xe của Tổ

công tác. H đã dùng tay trái cầm con dao trên chém 01 phát từ trái sang phải

vào vùng chẩm cổ của anh Nguyễn Chung C làm anh C bị thương, rách da,

chảy máu ở vùng chẩm cổ. Anh C bỏ chạy. Sau đó H tiếp tục dùng dao đuổi

các thành viên trong Tổ công tác đến ngã tư Lãm Làng, phường Vân Dương

nhưng H không đuổi kịp. Sau đó H quay lại đưa con dao dùng để đuổi, đánh

các thành viên Tổ công tác lại cho bà Đ. Bà Đ để dao ở cổng chợ Làm Làng,

sau đó ai cầm dao thì bà Đ không biết. Sau khi sự việc xảy ra, Tổ công tác đã

thông báo cho lực lượng Công an đến giải quyết.

Ngày 29/9/2018, anh Nguyễn Chung C đã có đơn trình báo sự việc và

yêu cầu khởi tố vụ án đối với sự việc trên và tích cực hợp tác với Cơ quan

Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh.

41

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 167/Tgt ngày

18/10/2018 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bắc Ninh kết luận: Sẹo

vùng chẩm cổ dài 03cm, rộng 0,2cm. Áp dụng chương 9, tổn thương cơ thể

do tổn thương phần mềm. Phần I, sẹo vết thương phần mềm. Mục I, số lượng

sẹo ít, kích thước nhỏ = 2%. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích

gây nên tại thời điểm giám định đối với anh Nguyễn Chung C là 2%. Cơ chế

hình thành vết thương do tác động ngoại lực bởi vật sắc.

Với nội dung trên tại Bản cáo trạng số 303 ngày 30/11/2018 của

VKSND thành phố Bắc Ninh đã truy tố Nguyễn Xuân H về tội "Cố ý gây

thương tích "Theo điểm a, i, k khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ

sung năm 2017.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã

được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã ra bản án tuyên bị cáo

Nguyễn Xuân H phạm tội "Cố ý gây thương tích "theo điểm a, i, k khoản 1

Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ

sung năm 2017; Điều 329 BLTTHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Xuân H 10

(Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 21/9/2018.

Nhận xét: Trên đây là một vụ án điển hình về khởi tố vụ án theo yêu

cầu bị hại mà CQTHTT ở tỉnh Bắc Ninh giải quyết vụ án rất nhanh và thuận

lợi do nhận được sự hợp tác của bị hại, đặc biệt trong vấn đề giám định xác

định tỷ lệ thương tật.

2.3.2. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn quá trình giải quyết vụ

án hình sự liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại

Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, trong quá trình giải quyết vụ án liên

quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại. CQĐT nói riêng và CQTHTT của

tỉnh Bắc Ninh vẫn gặp phải những khó khăn, vướng mắc phổ biến như:

- Một số trường hợp trong quá trình giải quyết nguồn tin tội phạm và

điều tra vụ án hình sự, đặc biệt đối với những vụ việc liên quan đến cố ý gây

42

thương tích, bị hại không hợp tác, không đi giám định để xác định tỉ lệ thương

tích, đã gây khó khăn cho hoạt động điều tra của CQĐT, nhiều trường hợp

CQĐT không có căn cứ để xử lý hình sự mà chỉ có thể xử phạt vi phạm hành

chính.

Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy vẫn còn một số trường

hợp “lạm quyền” và “vượt quyền” của CQTHTT khi khởi tố điều tra các vụ

án mà theo quy định tại Điều 104 BLTTHS năm 2003 (Điều 134 BLTTHS

năm 2015), đặc biệt là các vụ việc liên quan đến cố ý gây thương tích, án hiếp

dâm. CQTHTT khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm, đặc biệt là vụ việc cố ý

gây thương tích có sử dụng công cụ, phương tiện nguy hiểm (dao, kiếm...),

mặc dù chưa có kết luận giám định tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức

khỏe của nạn nhân, nhưng qua nhận định ban đầu về tính chất thương tích,

tình trạng nạn nhân và công cụ, phương tiện có tính nguy hiểm nên CQTHTT

vẫn tiến hành khởi tố vụ án hình sự để điều tra, áp dụng một số hoạt động

điều tra theo quy định mà giai đoạn giải quyết nguồn tin không được áp dụng

như nhận dạng, thực nghiệm điều tra...về mặt pháp lý đây là trường hợp ‘‘lạm

quyền” do khi chưa có kết quả giám định pháp y về tỷ lệ phần trăm tỷ lệ

thương tích của nạn nhân thì không thể có cơ sở kết luận hành vi thuộc khoản

1, khoản 2 để tiến hành khởi tố vụ án và nếu hành vi thuộc khoản 1 thì bắt

buộc phải có yêu cầu của bị hại mới được tiến hành khởi tố vụ án hình sự.

Bên cạnh đó, cũng có trường hợp để lách quy định về yêu cầu khởi tố bị hại,

CQTHTT khởi tố vụ án hình sự theo khoản 2, sau khi có quyết định trưng cầu

giám định và căn cứ kết quả giám định xác định vụ việc được khởi tố, điều tra

theo yêu cầu bị hại hay theo thủ tục chung. Đây là những trường hợp “lạm

quyền”, “vượt quyền” của CQTHTT, nguyên nhân xuất phát từ việc một số

trường hợp bị hại không hợp tác, không đi giám định, buộc CQTHTT phải

khởi tố vụ án làm cơ sở áp dụng biện pháp dẫn giải bị hại; hoặc đây là biện

pháp nghiệp vụ để điều tra đối với những vụ việc đối tượng có lai lịch bất

43

minh cần phải khởi tố vụ án để áp dụng biện pháp điều tra, biện pháp cưỡng

chế.... hoặc xuất phát từ nhận thức pháp luật còn hạn chế của một số cán bộ

cơ quan tư pháp.

Ví dụ: Bản án số 271/2018/HS-ST ngày 14/9/2018 về tội cố ý gây

thương tích của TAND thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh [30].

Khoảng 19h30’ ngày 07/3/2018, tại khu T, phường K, thành phố Bắc

Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Văn M (sinh năm 1983; hộ khẩu thường trú:

Khu T, phường K, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh), có hành vi dùng chân

tay không đánh chị Đinh Thị T (sinh năm 1982, hộ khẩu thường trú khu 3 A,

thành phố T, tỉnh Tuyên Quang) và dùng dao loại dao bầu và dao nhọn có

chuôi bằng gỗ đâm, chém vào vùng lưng, tay, chân của chị T và gây thương

tích cho chị Đinh Thị T là 14% (không tính phần thương tích rách niệu quản).

Bị M đánh, chị T bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh

Bắc Ninh từ ngày 07/3/2018 đến ngày 18/3/2018, sau đó chị T được chuyển

đến Bệnh viện Việt Đ tại Hà Nội để tiếp tục điều trị từ ngày 18/3/2018 đến

ngày 28/3/2018, sau đó chị T được chuyển về Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên

Quang điều trị từ ngày 28/3/2018 đến ngày 03/4/2018 thì ra viện.

Tại Giấy chứng nhận thương tích số 06 ngày 08/3/2018 của Bệnh viện

đa khoa tỉnh Bắc Ninh xác định chị T có các thương tích như sau: 01 vết

thương đùi bẹn trái, 01 vết thương đùi phải, 01 vết thương cổ chân trái, 01 vết

thương gối phải, 01 vết thương cẳng chân trái, 01 vết thương cổ chân trái, 01

vết thương gối phải, 01 vết thương mông phải; các vết thương bờ mép sắc

gọn, tổn thương sâu. Chụp Xquang tim phổi thẳng: Tràn khí màng phổi trái.

Xét nghiệm thiếu máu mức độ nặng. Phẫu thuật mổ cấp cứu: Cắt lọc, khâu nối

gân cơ, khâu vết thương.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 25/TgT

ngày 12/3/2018 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Bắc Ninh kết luận về

thương tích của chị T như sau: Vết thương đùi bẹn trái dài 12cm, rộng 0,2cm;

44

vết thương đùi phải dài 3cm, rộng 0,2cm; vết thương gối trái dài 04cm, rộng

0,2cm; vết thương mặt trước cẳng chân trái dài 05cm, rộng 0,2cm; vết thương

cổ chân trái dài 05cm, rộng 0,2cm; vết thương gối phải dài 05cm, rộng 02cm;

vết thương mông phải dài 02cm, rộng 0,2cm, tất cả vết thương đang đóng vẩy

còn chỉ khâu. Tổng tỷ lệ thương tích là 10%. Cơ chế là do tác động bởi vật

cứng, sắc. Ngoài ra, còn một số vết thương chưa có trong giấy chứng thương

như vết thương vùng ngang lưng trái dài 13cm, vết thương dưới thắt lưng

ngang qua cột sống dài 07cm, vết thương khuỷu tay trái dài 03 cm; chưa xác

định được tổn thương tràn khí màng phổi vì còn đang dẫn lưu.

Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc

Ninh phát hiện Giấy chứng nhận thương tích số 06 ngày 08/3/2018 của Bệnh

viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh có ghi thiếu thương tích của chị T, CQĐT đã tiến

hành làm việc với Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh đã xác nhận Giấy chứng

nhận thương tích số 06 ngày 08/3/2018 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh

ghi thiếu thương tích của chị T và có cung cấp Giấy chứng nhận thương tích

mới ghi đầy đủ thương tích của chị T khi vào viện và quá trình điều trị. Tại

Giấy chứng nhận thương tích số 69/KH ngày 03/5/2018 của Bệnh viện đa

khoa tỉnh Bắc Ninh xác định chị T có các thương tích như sau: 01 vết thương

đùi trái kích thước 10x3cm; 01 vết thương cẳng chân trái; 01 vết thương bẹn

trái gần môi lớn kích thước 3x2cm; 01 vết thương gối trái mặt trước ngoài

kích thước 2x0,5x1cm; 01 vết thương cổ chân trái kích thước 3x2cm; 01 vết

thương gối phải kích thước 2x0,5x1cm; 01 vết thương mông phải kích thước

4x2cm; 01 vết thương thắt lưng trái kích thước 6x2cm; 01 vết thương mặt

trong mông trái kích thước 3x1cm; 01 vết thương khuỷu trái kích thước

2x1cm và 01 vết thương ngực phía sau tương ứng xương sườn 11 bên trái dài

5cm. Chụp Xquang tim phổi: Hình ảnh dịch màng phổi trái xẹp, nhiều dịch ổ

bụng. Điều trị: Cắt lọc khâu nối gân cơ khâu vết thương, dẫn lưu màng phổi

trái, khâu vết thương tay, vết thương đùi, vết thương mông...

45

Tại Giấy chứng thương số 1835/18/KHTH ngày 02/5/2018 của Bệnh

viện Việt Đ xác định chị T nhập viện trong tình trạng: Khai bị đâm đã dẫn lưu

màng phổi trái, khâu vết thương phần mềm tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc

Ninh; rì rào phế nang phổi trái. Ngày 03/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra

Công an thành phố Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh quyết định trưng cầu giám định

bổ sung số 288 về thương tích của chị Đinh Thị T nhưng chị T có đơn từ chối

giám định thương tích, đồng thời Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành

phố Bắc Ninh đã tiến hành dẫn giải chị T đi giám định nhưng chị T kiên quyết

từ chối đi giám định thương tích.

Ngày 04/5/2018, Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh có Bản kết luận giám

định pháp y về thương tích bổ sung số 61/TgT/BS kết luận tỷ lệ thương tích

của chị T như sau:

- Vết thương đùi bẹn trái dài 12cm, rộng 0,2cm; vết thương đùi phải

dài 3cm, rộng 0,2cm; vết thương gối trái dài 04cm, rộng 0,2cm; vết thương

mặt trước cẳng chân trái dài 05cm, rộng 0,2cm; vết thương cổ chân trái dài

05cm, rộng 0,2cm; vết thương gối phải dài 05cm, rộng 02cm; vết thương

mông phải dài 02cm, rộng 0,2cm. Phần bổ sung về thương tích đã khám: Vết

thương vùng lưng trái dài 13cm, rộng 0,2cm; vết thương vùng dưới thắt lưng

ngang qua cột sống dài 07cm, rộng 0,2cm; vết thương khuỷu tay trái dài

03cm, rộng 0,2cm. Áp dụng Chương 9, tổn thương cơ thể do tổn thương phần

mềm, Phần I, sẹo vết thương phần mềm; Mục 3, số lượng sẹo nhiều, kích

thước trung bình = 10%.

Phần bổ sung: Vết thương thấu phổi đã dẫn lưu. Áp dụng Chương 4, tổn

thương cơ thể do tổn thương hệ hô hấp; Phần III, tổn thương màng phổi; Mục 1,

tổn thương màng phổi đơn thuần không phẫu thuật hoặc có phẫu thuật = 04%.

Rách niệu quản tiến hành cắm lại vào bàng quang. Áp dụng Chương 6,

tổn thương cơ thể do tổn thương hệ tiết niệu sinh dục; Phần II, niệu quản một

bên; Mục 1, tổn thương niệu quản cắt dưới 5cm đã phục hồi = 21%.

46

Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời

điểm giám định là 32%. Cơ chế là do tác động va chạm bởi vật sắc nhọn.

Ngày 08/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc

Ninh ban hành Công văn số 341/CV gửi Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh có

nội dung: Ngày 12/3/2018, Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh có Kết luận số

25/TgT kết luận tỷ lệ thương tích của chị Đinh Thị T là 10%, đồng thời xác

định các vết thương trên người chị T gồm: Vết thương vùng ngang lưng trái

dài 13cm, vết thương vùng dưới thắt lưng ngang qua cột sống dài 7cm, vết

thương khuỷu tay trái dài 3cm chưa có trong giấy chứng thương. Chưa xác

định được tổn thương tràn khí màng phổi vì còn đang dẫn lưu. Cơ quan Cảnh

sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đề nghị Trung tâm pháp y tỉnh Bắc

Ninh cho biết đối với thương tích của chị Đinh Thị T như trên, trong trường

hợp chị T không đi giám định bổ sung mà căn cứ giấy chứng thương và hồ sơ

bệnh án thì có giám định bổ sung tỷ lệ thương tích của chị T được không?.

Ngày 28/5/2018, Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh ban hành Công văn

số 46/PY gửi cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh có nội

dung như sau: Trong quá trình khám cho thấy giấy chứng thương thể hiện

chưa đầy đủ như thương tích trong thực tế trên người nạn nhân. Căn cứ Điều

29, khoản 1 của Luật giám định tư pháp năm 2012 có phát sinh vấn đề liên

quan đến tình tiết của vụ án (liên quan đến Giấy chứng nhân thương tích số

06/KH ký ngày 08/3/2018 của Bệnh viện đa khoa tỉnh cung cấp chưa đầy đủ).

Căn cứ vào khám giám định ngày 12/3/2018:

+ Vết thương đùi bẹn trái dài 12cm, rộng 0,2cm; vết thương đùi phải

dài 3cm, rộng 0,2cm; vết thương gối trái dài 04cm, rộng 0,2cm; vết thương

mặt trước cẳng chân trái dài 05cm, rộng 0,2cm; vết thương cổ chân trái dài

05cm, rộng 0,2cm; vết thương gối phải dài 05cm, rộng 02cm; vết thương

mông phải dài 02cm, rộng 0,2cm. Phần bổ sung về thương tích đã khám: Vết

thương vùng lưng trái dài 13cm, rộng 0,2cm; vết thương vùng dưới thắt lưng

47

ngang qua cột sống dài 07cm, rộng 0,2cm; vết thương khuỷu tay trái dài

03cm, rộng 0,2cm. Áp dụng Chương 9, tổn thương cơ thể do tổn thương phần

mềm, Phần I, sẹo vết thương phần mềm; Mục 3, số lượng sẹo nhiều, kích

+ Phần bổ sung: Vết thương thấu phổi đã dẫn lưu. Áp dụng Chương 4,

thước trung bình = 10%.

tổn thương cơ thể do tổn thương hệ hô hấp; Phần III, tổn thương màng phổi;

Mục 1, tổn thương màng phổi đơn thuần không phẫu thuật hoặc có phẫu thuật

= 04%. Vậy thương tích là 4%.

Và kết luận tổng thương tích sẹo vết thương phần mềm và vết thương

gây tràn khí màng phổi làm tổn thương màng phổi của chị Đinh Thị T tại thời

điểm giám định là 14%.

+ Tại Giấy chứng thương số 1835/18/KHTH của Bệnh viện Việt Đ Hà

Nội ngày 02/5/2018. Niệu quản trái rách 01cm sát chỗ đổ vào bàng quang.

Căn cứ Điều 2, điểm 2, Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/4/2014 của Bộ

Y tế, được xác định trên hồ sơ trường hợp người cần giám định cho tỷ lệ thấp

nhất. Rách niệu quản tiến hành cắt và cắm lại vào bàng quang. Áp dụng

Chương 6, tổn thương cơ thể do tổn thương hệ tiết niệu sinh dục; Phần II,

niệu quản một bên; Mục 1, tổn thương niệu quản cắt dưới 5cm đã phục hồi =

21%.

Với nội dung trên, Cáo trạng số 173/CTr - VKS-TPBN ngày 12/7/2018

của VKSND thành phố Bắc Ninh truy tố Nguyễn Văn M về tội “Cố ý gây

thương tích” theo điểm đ khoản 2, Điều 134 BLHS.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã

được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử TAND thành phố Bắ Ninh đã

ra bản án tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Cố ý gây thương tích”,

theo điểm đ khoản 2, Điều 134; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h

khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS; Xử phạt: Nguyễn Văn M 36 (Ba mươi sáu)

tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2018.

48

Nhận xét: Trong vụ án nêu trên do Đinh Thị T không phối hợp với

CQĐT để đi giám định bổ sung nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành

phố Bắc Ninh đã phải đề nghị Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh cho biết, trong

trường hợp chị T không đi giám định bổ sung mà căn cứ giấy chứng thương

và hồ sơ bệnh án thì có giám định bổ sung tỷ lệ thương tích của chị T được

không. Cuối cùng, Cơ quan Cảnh sát điều tra phải căn cứ vào Giấy chứng

thương bổ sung và bệnh án để xác định tỷ lệ thương tật, đã làm ảnh hưởng

nhiều đến tính chính xác của kết luận giám định tỷ lệ thương tật.

Vụ thứ 02: Bản án số 150/2017/HSST ngày 28/9/2017 về tội cố ý gây

thương tích của TAND huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh [31].

Buổi chiều ngày 19/5/2017, Nguyễn Văn B rủ bạn là Nguyễn Văn L:

Lê Quốc A; Nguyễn Văn Th và Nguyễn Bá K; Lê Văn Tr đến phòng trọ của

B tại thôn Ấp Đồn - xã Yên Trung - huyện Yên Phong - tỉnh Bắc Ninh để

mừng sinh nhật B. B cùng các bạn uống hết hai thùng bia lon. Đến khoảng 21

giờ cùng ngày thì ăn uống xong, B rủ mọi người đến quán karaoke New

Queen ở thôn Ấp Đồn - xã Yên Trung - huyện Yên Phong - tỉnh Bắc Ninh do

anh Nguyễn Văn Q làm chủ để hát karaoke. Khi đến quán thì nhóm của B vào

phòng 402 để hát. Cùng thời điểm này có anh Bùi Văn T cùng nhóm bạn cũng

đến quán karaoke New Queen và vào phòng 401 để hát. Khoảng 22 giờ 30

phút cùng ngày, anh Bùi Văn T từ phòng hát ra ngoài thì thấy Nguyễn Văn B

đang ngồi ở cửa phòng hát. Anh T nói chuyện làm quen với B và mời B vào

phòng 401 giao lưu uống bia. Anh T hỏi tên thì B giới thiệu tên là Nh, quê ở

tỉnh Nghệ An, hiện đang làm việc tại Công ty Samsung Display - Khu công

nghiệp Yên Phong. Sau đó B quay về phòng 402, còn anh T đi ra ngoài. Một

lúc sau B cùng anh Nguyễn Văn L sang phòng 401 giao lưu. B mời anh Kiều

Văn V uống bia thì anh V bảo không quen biết nên không uống và đuổi B ra

khỏi phòng. Lúc này anh T đi về phòng thấy B cùng bạn B đang trong phòng

mình thì anh T mời B tiếp tục uống bia. Sau đó B mời anh T sang phòng B

49

giao lưu nên anh T đi cùng B sang phòng 402. Quá trình giao lưu B cho anh T

số điện thoại của B là 0969.166.381 để liên lạc. Sau đó anh T về phòng 401

và bảo mọi người đi về, lúc này là khoảng gần 23 giờ, nhóm của B cũng tính

tiền ra về. B thanh toán tiền cho anh Q tại tầng 1 của quán xong thì đi ra chỗ

các bạn đang chờ ở vỉa hè ngoài quán. B nói với Th: “Đánh thằng này” rồi đi

xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu vàng đen một mình quay lại đỗ trước cửa quán

karaoke New Queen, Th cũng đi bộ theo sau. Lúc này anh Kiều Văn V từ

trong quán đi ra đến vỉa hè thì bị B cầm mũ bảo hiểm, Th xông vào đấm đá

vào người anh V làm anh V bị ngã. K và Tr cũng xông vào dùng chân tay

đấm đá anh V. B cầm chổi lau nhà ở quán vụt vào người anh V. Th cũng nhặt

một ống tuýp sắt tròn loại phi 75, dài khoảng gần 02m ở cửa quán xông vào

định đánh anh V thì anh Q ra can ngăn và giằng được tuýp sắt trên tay Th.

Lúc này một số nhân viên của quán cũng chạy ra đuổi đánh nên B, Th và K

bỏ chạy. Tr không chạy kịp nên bị anh Q và một số nhân viên của quán túm

được lôi vào trong quán, sau đó Tr chạy thoát. Th, B và K chạy ra chỗ L và A

đang đứng đợi. Th nói: “Tr bị bắt quay lại đi”. Sau đó Th cùng B và K quay

lại quán để cứu Tr. Th và K mỗi người nhặt một ống tuýp sắt dạng vuông

cạnh khoảng 04cm, chiều dài mỗi ống khoảng gần 02m có sẵn ở vỉa hè. B

nhặt một viên gạch cầm trên tay rồi cả ba đi đến trước cửa quán. Lúc này anh

Q cùng một số nhân viên của quán đang đứng ở cửa thấy vậy liền bỏ chạy.

Anh Q chạy đến gần đoạn quầy tính tiền tầng 1 thì bị B và K đuổi kịp, cách

anh Q khoảng 01m. B đầu đội mũ lưỡi trai màu đen, hai tay cầm ống tuýp sắt

tròn loại phi 75 dài khoảng gần 02m giơ lên cao vụt nhiều phát theo chiều từ

trên xuống dưới trúng vào đầu và người anh Q. Trong lúc B vụt anh Q thì

chiếc mũ lưỡi trai trên đầu B bị rơi xuống nền nhà. K cũng xông vào cầm ống

tuýp sắt vuông cạnh khoảng 04cm, dài khoảng gần 02m giơ lên cao vụt theo

chiều từ trên xuống trúng vào đầu và người anh Q làm anh Q bị thương, đầu

chảy nhiều máu và bị ngất, sau đó B và K vứt tuýp sắt xuống nền nhà rồi đi

50

về. Anh Q sau đó được mọi người đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh

cấp cứu và điều trị từ ngày 20/5/2017 đến ngày 26/5/2017 thì ra viện.

Ngay sau khi nhận tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện

Yên Phong cùng các cơ quan chức năng đã tiến hành khám nghiệm hiện

trường, thu giữ vật chứng của vụ án.

Ngày 30/5/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong

đã ra quyết định trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh giám định tỷ lệ

thương tích của anh Nguyễn Văn Q.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 69/TgT ngày

13/6/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh đối với thương tích của anh

Nguyễn Văn Q kết luận:

- Sẹo đầu vùng giữa đỉnh dài 6cm, rộng 0,2cm. Sẹo vùng đỉnh dài 3cm

x 0,2cm. Áp dụng chương 9, tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm.

Phần I. Sẹo vết thương phần mềm. Mục 1, số lượng sẹo ít kích thước sẹo nhỏ

= 03%.

- Khám chuyên khoa thần kinh: PGS.TS Nguyễn Công Hoan - Bệnh

viện Trường đại học Y Hà Nội kết luận: Đau đầu choáng tiền đình, chấn động

não sau va chạm. Áp dụng Chương 2, tổn thương cơ thể do tổn thương xương

sọ và hệ thần kinh. Phần II. Chấn động não. Mục 1. Chấn động não điều trị ổn

định = 03%.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định

= 06% (Sáu phần trăm). Cơ chế hình thành vết thương do tác động ngoại lực

bởi vật cứng, sắc. Đến ngày 02/6/2017, Nguyễn Văn Q đã có đơn yêu cầu

khởi tố đối với vụ án nêu trên gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện

Yên Phong.

Ngoài ra Nguyễn Văn B, Nguyễn Bá K, Nguyễn Văn Th, Lê Văn Tr còn

có hành vi dùng mũ bảo hiểm và chân tay không, gây thương tích cho anh

Kiều Văn V. Tuy nhiên anh V từ chối đi giám định tỷ lệ thương tích và không

51

có đề nghị gì đối với thương tích của mình. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra

Công an huyện Yên Phong không có cơ sở xử lý hình sự trường hợp này, và

do vậy đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Bá K về

hành vi nêu trên. Đối với Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn Th do chưa lấy được lời

khai nên Cơ quan điều tra đã tách hành vi liên quan để xem xét xử lý sau.

Bản cáo trạng số 123/CTr -VKS ngày 06/9/2017 của VKSND huyện

Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Nguyễn Bá K về tội “Cố ý gây thương

tích” theo điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã

được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã ra Bản án tuyên bố bị cáo:

Nguyễn Bá K phạm tội “Cố ý gây thương tích, theo điểm a khoản 1 Điều 104;

điểm b, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS năm 1999, xử phạt: Nguyễn Bá

K 10 tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ 10/7/2017.

Nhận xét: Trong vụ án nêu trên, có căn cứ xác định Nguyễn Văn B,

Nguyễn Bá K, Nguyễn Văn Th, Lê Văn Tr còn có hành vi dùng mũ bảo hiểm

và chân tay không, gây thương tích cho anh Kiều Văn V. Tuy nhiên, do anh V

từ chối đi giám định tỷ lệ thương tích và không có đề nghị gì đối với thương

tích của mình. Vì vậy Công an huyện Yên Phong không có cơ sở xử lý hình

sự trường hợp này, và do vậy đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính

đối với Nguyễn Bá K về hành vi nêu trên. Chính sự không hợp tác của bị hại

đã làm CQĐT không có căn cứ xác định tỷ lệ thương tật của V làm căn cứ xử

lý hình sự và áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng đối với B, K, Th và

Tr để xử lý theo quy định.

- Chưa thống nhất trong việc xác định hình thức yêu cầu khởi tố theo

yêu cầu của bị hại.

Qua khảo sát các vụ án có yêu cầu khởi tố theo yêu cầu bị hại,

CQTHTT một số nơi trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có hướng dẫn khác nhau

trong việc thể hiện hình thức yêu cầu khởi tố vụ án.

52

Có địa phương xác định đơn tố cáo hoặc đơn tố giác tội phạm được

xem là đơn yêu cầu khởi tố, vì tuy tiêu đề là đơn tố cáo, tố giác tội phạm

nhưng trong nội dung chứa đựng yêu cầu xử lý người phạm tội.

Có địa phương lại xác định đơn tố cáo, tố giác tội phạm là cơ sở ban

đầu để cơ quan có thẩm quyền xác minh, sau khi tiến hành xác minh nếu có

dấu hiệu tội phạm thì người bị hại phải làm tiếp đơn yêu cầu khởi tố vụ án.

Chính sự chưa thống nhất về hình thức yêu cầu của Cơ quan tố tụng các

nơi trong địa bàn tỉnh sẽ gây khó khăn cho công dân, cũng như làm cho việc

giải quyết vụ án gặp khó khăn, phức tạp, vì sẽ dẫn đến tình trạng trả hồ sơ

điều tra bổ sung hoặc hủy án.

- Nhiều trường hợp, CQĐT không thể ra quyết định khởi tố vụ án vì

chưa có yêu cầu khởi tố của bị hại, cũng không thể ra quyết định không khởi

tố vụ án vì không có căn cứ, và CQĐT buộc phải chấp nhận vi phạm thời hạn

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm vì liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố

vụ án của bị hại.

Điều 155 BLTTHS không quy định thời hạn bị hại được quyền yêu cầu

khởi tố, nghĩa là về nguyên tắc họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án bất cứ lúc

nào, hoàn toàn không bị giới hạn về mặt thời gian. Trong khi đó theo quy

định của BLTTHS thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là 20

ngày, trường hợp phức tạp có thể tới hai tháng. Thực tế có nhiều trường hợp

quá 02 tháng nhưng người bị hại vẫn chưa yêu cầu không tố, cũng không thể

hiện ý chí là không yêu cầu khởi tố vụ án, dấn đến hệ quả là vụ án chưa thể

giải quyết được, CQĐT không thể ra quyết định khởi tố vụ án vì chưa có yêu

cầu khởi tố của bị hại, cũng không thể ra quyết định không khởi tố vụ án vì

không có căn cứ, và CQĐT buộc phải chấp nhận vi phạm thời hạn giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm vì liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố vụ án của

bị hại.

53

* Về chủ thể yêu cầu khởi tố là người đại diện hợp pháp của bị hại.

Theo quy định tại Điều 155 BLTTHS bị hại là người chưa thành niên,

người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện của họ thực

hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Vậy trong trường hợp không xác

định được người đại diện của người chưa thành niên, người có nhược điểm về

tâm thần hoặc thể chất, thì ai sẽ đại diện cho những người này thực hiện

quyền yêu cầu?

- Chưa có hướng dẫn đối với trường hợp có nhiều người là đại diện cho bị

hại (cha mẹ đối với con chưa thành niên....) trong vụ án đã khởi tố theo yêu cầu

của bị hại, sau khi khởi tố họ có yêu cầu khác nhau đối lập nhau (người yêu cầu

rút, người vẫn giữ ý kiến đề nghị khởi tố) hiện chưa có căn cứ pháp luật để

CQTHTT giải quyết theo yêu cầu của ai trong vụ án. PLTTHS hiện hành cũng

chưa có hướng dẫn đối với trường hợp bị hại là người chưa thành niên đại diện

của họ đã có yêu cầu khởi tố vụ án, trong quá trình tố tụng với vụ án người bị hại

đã thành niên. Quy định pháp luật hiện hành chưa quy định rõ về trường hợp này.

Hình thức rút yêu cầu cũng chưa được quy định rõ ràng trong luật?

- Việc xác định tư cách bị hại vẫn còn gặp nhiều khó khăn, chưa có sự

thống nhất về lý luận và thực tiễn, thẩm quyền để công nhận người bị hại là

rất đa dạng và không có tính ràng buộc cao, nên cơ sở để xác định chính xác

ai là người bị hại trong vụ án chính là việc đánh giá chứng cứ toàn bộ vụ án

để xác định chính thức. Vậy, phải coi văn bản pháp lý nào ghi nhận quyền yêu

cầu của người bị hại (như biên bản tiếp nhận tin báo, đơn trình báo, biên bản

ghi lời khai...) các giấy triệu tập, giấy gọi, giấy báo... là cơ sở để xác định họ

là người bị hại hoặc đại diện của người bị hại trong vụ án

Trong khi nếu dựa vào tư cách mà họ được người tiến hành tố tụng ghi

trong các biên bản hoạt động tố tụng nhiều khi không chính xác và tùy tiện vì

thành phần hồ sơ được lập ở nhiều giai đoạn và chủ thể khác nhau như biên

bản phạm pháp quả tang, biên bản hiện trường... Do vậy để xác định người bị

54

hại có tư cách trong vụ án chính thức từ khi nào là khó khăn. Hay nói cách

khác, BLTTHS hiện nay cần khắc phục bằng việc thể chế hóa một quyết định

tố tụng công nhận bị hại trong vụ án.

- Về nội dung rút yêu cầu khởi tố của bị hại: Khi bị hại rút yêu cầu khởi

tố với một số bị can, bị cáo (thực chất là rút yêu cầu khởi tố bị can, yêu cầu

truy cứu TNHS bị cáo) thì CQTHTT giải quyết khác nhau: Có CQĐT đã ra

quyết định đình chỉ cả vụ án, có nơi CQĐT chỉ ra quyết định đình chỉ điều tra

hoặc đình chỉ vụ án với các bị can, bị cáo được người bị hại rút yêu cầu, vẫn

truy cứu trách nhiệm pháp lý với các bị can, bị cáo khác trong vụ án. Lý do

dẫn đến cách hiểu này là:

Một là, đối với trường hợp CQTHTT đình chỉ cả vụ án, họ cho rằng

người bị hại chỉ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án, không có quyền yêu cầu khởi

tố bị can, nên bị hại rút yêu cầu thì phải đình chỉ cả vụ án. Hai là, trường hợp

CQTHTT chỉ ra quyết định đình chỉ đối với bị can, bị cáo được bị hại rút yêu

cầu, vì cho rằng bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án và yêu cầu khởi tố đối

với bị can, nên họ rút yêu cầu khởi tố bị can, bị cáo nào thì chỉ người đó được

hưởng. Nhận thức thiếu thống nhất trên dẫn đến việc phát sinh khiếu nại, tố

cáo trong vụ án làm mất đi tính nghiêm minh của pháp luật. [8, tr. 122,123]

- Bất cập vướng mắc từ chính quy định của BLTTHS

Thứ nhất: Về vấn đề án phí

Tại khoản 3 Điều 136 BLTTHS quy định: “Trường hợp vụ án khởi tố

theo yêu cầu của bị hại. Nếu Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội hoặc vụ án

bị đình chỉ khi có căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật này thì bị

hại phải trả án phí”

Tuy nhiên, thực tiễn không phải vụ án nào cũng do bị hại yêu cầu khởi tố

mà là người đại diện hợp pháp của bị hai yêu cầu khởi tố sau đó lại rút yêu cầu

khởi tố và vụ án được đình chỉ. Trong trường hợp này ai là người phải chịu án phí

thì Luật lại không quy định, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất.

55

Thứ hai: Về việc bị hại rút yêu cầu khởi tố tại cấp phúc thẩm.

Tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS có quy định “Trường hợp người đã yêu

cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ…”. Quy định tại khoản 2

Điều 155 đã mở rộng hơn so với quy định tại khoản 2 Điều 105 BLTTHS

2003. Theo quy định tại khoản 2 Điều 155 thì trong bất cứ giai đoạn nào của

hoạt động tố tụng nếu người yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được

đình chỉ. Chính vì vậy, tại Công văn số 254/TANDTC ngày 26/11/2018 có

hướng dẫn “Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: Trường hợp có kháng cáo, kháng

nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình

sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử

theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của Bộ luật Tố

tụng hình sự hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Trong bản án phúc thẩm,

Tòa án phải nhận định rõ lý do hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là do

người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu, không phải do lỗi của Tòa

án cấp sơ thẩm”. Chúng tôi cũng hoàn toàn đồng tình với hướng dẫn trên. Tuy

nhiên đối chiếu theo quy định của pháp luật tại Điều 359 BLTTHS về căn cứ

để hủy bản án sơ thẩm thì lại không có quy định nào! Đây cũng là vướng mắc

cần phải bổ sung trong BLTTHS.

- Ngoài ra, còn một số tồn tại hạn chế khác như vẫn còn thiếu sót trong

quá trình thu thập chứng cứ, đặc biệt là tội danh như hiếp dâm, cưỡng dâm,

việc đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và quyết định hình phạt

một số vụ án chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội

của hành vi phạm tội, trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại.

2.4. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải quyết

vụ án hình sự khởi tố theo yêu cầu bị hại

* Nguyên nhân khách quan:

- Một số quy định của pháp luật liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của

bị hại vẫn còn hạn chế, bất cập, nhiều quy định chưa có hướng dẫn cụ thể để

56

áp dụng trong thực tiễn như: Trường hợp không xác định được người đại diện

hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc

thể chất, thì ai sẽ đại diện cho những người này thực hiện quyền yêu cầu?

Thời hạn người bị hại được quyền yêu cầu khởi tố có bị giới hạn về mặt thời

gian hay không? Hình thức yêu cầu khởi tố được thể hiện như thế nào? Khi

người bị hại là người chưa thành niên đại diện của họ đã có yêu cầu khởi tố

vụ án, trong quá trình tố tụng với vụ án người bị hại đã thành niên. Vậy, họ

rút yêu cầu thì vụ án có bị đình chỉ hay không? v.v...

- Do sự bất hợp tác của bị hại trong quá trình giải quyết vụ án có liên

quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại. Trong số 10 tội danh khởi tố theo yêu

cầu của bị hại thì có tới 07 tội danh bắt buộc phải tiến hành giám định pháp y

tình dục hoặc tình trạng sức khỏe của bị hại mới có căn cứ xác định tội danh

đó là (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác (Khoản 1 Điều 134); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Khoản

1 Điều 135); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức

cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản 1 Điều 136); Tội vô ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 Điều 138); Tội

vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi

phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Khoản 1 Điều 139); Tội

hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141); Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143)). Tuy

nhiên rất nhiều vụ án, do các nguyên nhân khác nhau mà bị hại không hợp

tác, không đi giám định, hoặc khi có kết quả giám định thuộc trường hợp khởi

tố theo yêu cầu bị hại nhưng bị hại cố tình chưa yêu cầu...gây khó khăn cho

công tác điều tra. Quy định của BLTTHS năm 2015 về dẫn giải bị hại trong

trường hợp này chưa cụ thể, khó áp dụng trên thực tế.

57

* Nguyên nhân chủ quan

- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm của người tiến

hành tố tụng còn hạn chế, chưa cao. Chế độ, chính sách đối với người tiến

hành tố tụng, đặc biệt là Kiểm sát viên, Thẩm phán còn thấp.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn tỉnh Bắc

Ninh về những nội dung liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại chưa được

sâu rộng mạnh mẽ, còn có một số hạn chế, thiếu sót như phổ biến, giáo dục

pháp luật còn sơ sài, chung chung, chưa bám sát chương trình xây dựng

luật…

Tiểu kết Chương 2

Thông qua Chương 2 của Luận văn tác giả đã phân tích những quy

định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại. Cũng như

thực tiễn giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại, trên

cơ sở đó tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế

liên quan đến hoạt động này. Trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra những nguyên

nhân của những tồn tại, hạn chế, làm tiền đề để tác giả đưa ra những giải pháp

nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án liên quan

đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại tại Chương 3 của Luận văn.

58

Chương 3

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI

QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ KHỞI TỐ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI

3.1. Một số yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự

khởi tố theo yêu cầu của bị hại

- Thứ nhất, yêu cầu của việc bảo vệ trật tự pháp luật, nguyên tắc pháp

chế, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và của công tác

đấu tranh phòng chống tội phạm.

Do vậy, quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại phải có sự

kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung của toàn xã hội và lợi ích của bị hại, khi lợi

ích của bị hại không mâu thuẫn với lợi ích chung. Quy định khởi tố vụ án theo

yêu cầu của bị hại nhằm đáp ứng lợi ích của bị hại nhưng không đặt lợi ích bị

hại cao hơn lợi ích chung toàn xã hội và chỉ được áp dụng đối với hành vi

phạm tội có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp, thuộc nhóm tội xâm phạm

sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và một số quyền nhân thân của con người.

- Thứ hai, yêu cầu của hoạt động bảo vệ quyền con người, quyền của bị

hại trong tố tụng hình sự.

Việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại

phải góp phần bảo vệ quyền con người, cụ thể là quyền và lợi ích hợp pháp

của bị hại. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu

bị hại cũng chính là nhằm bảo vệ quyền của bị hại. Cho nên, việc quy định hoàn

thiện pháp luật cần phải có sự kết hợp giữa lợi ích chung của toàn xã hội và

quyền lợi của bị hại, đạt mục tiêu ổn định xã hội, vừa bảo vệ và thỏa mãn lợi ích

của bị hại.

- Thứ ba, yêu cầu của hội nhập quốc tế

Trong xây dựng chính sách pháp luật, cơ chế và biện pháp đối ngoại,

trong giai đoạn hội nhập sâu rộng chúng ta cần thấy rõ tính gắn kết, tác động

qua lại giữa nhân tố, lợi ích kinh tế và nhân tố, lợi ích chính trị để từ đó tạo

59

cho hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của chúng ta sự uyển chuyển,

linh hoạt và hiệu quả cao hơn. Nói cách khác, trong thời đại quốc tế hóa,

không một nền tư pháp, hệ thống pháp luật nào có thể phát triển trong sự khép

kín biệt lập. Vì vậy, việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả

giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại phải đặt trong sự

giao thoa, tiếp thu và học hỏi các quốc gia trên thế giới.

Cho đến nay, ở một số quốc gia trên thế giới, “khởi tố theo yêu cầu bị

hại” vẫn tồn tại song song với khởi tố vụ án theo thủ tục chung, nhưng vai trò và

phạm vi áp dụng tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia mà “khởi tố theo yêu

cầu bị hại” được ghi nhận ở những mức độ khác nhau. Do vậy, cần vận dụng để

áp dụng phù hợp với thực tiễn và truyền thống pháp lý của dân tộc và cần tuân

thủ nguyên tắc bị hại tuy vẫn giữ vai trò quan trọng, có tính chất quyết định

trong việc xử lý người phạm tội bằng biện pháp hình sự nhưng chỉ được đưa ra

yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh Việt Nam.

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự

khởi tố theo yêu cầu của bị hại

3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về khởi tố vụ án theo

yêu cầu bị hại

BLHS năm 2015 đã pháp điển hóa nhiều quy định của các nghị

quyết, thông tư liên tịch hướng dẫn các quy định của BLHS năm 1999. Tuy

nhiên, vẫn còn một số nghị quyết, thông tư liên tịch chưa được pháp điển hóa

mà đến nay chưa có văn bản khác thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung. Theo quy

định tại Điều 21 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì

Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành nghị quyết để hướng dẫn việc

áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử thông qua tổng kết việc áp dụng

pháp luật, giám đốc việc xét xử. Điều 25 Luật này cũng nêu rõ thông tư liên

tịch giữa Chánh án TAND tối cao với Viện trưởng VKSND tối cao; thông tư

liên tích giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với Chánh án TAND

60

tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao để quy định về việc phối hợp giữa các

cơ quan này trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tố tụng, không phải để

hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp luật. Do vậy, cần đề nghị TAND

tối cao tiến hành rà soát các văn bản nêu trên để ban hành Nghị quyết của Hội

đồng Thẩm phán TAND tối cao cho phù hợp.

* Về phạm vi các tội danh khởi tố theo yêu cầu của bị hại

Theo quy định hiện hành, có 10 tội khởi tố vụ án theo yêu cầu của

người bị hại, tập trung vào nhóm tội xâm phạm sức khoẻ, danh dự nhân phẩm

con người và quyền sở hữu công nghiệp, thuộc loại tội ít nghiêm trọng, chỉ có

2 trường hợp thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Ngược lại, theo tác giả có

một số hành vi thuộc loại tội ít nghiêm trọng, tính chất nguy hiểm cho xã hội

không đáng kể, xâm phạm quyền sở hữu, khi chủ sở hữu tài sản được bồi

thường thiệt hại thì cũng không cần thiết phải xử lý người phạm tội bằng biện

pháp hình sự, những tội này tuy gây thiệt hại về tài sản nhưng không có tính

chất chiếm đoạt hoặc vụ lợi. Ví dụ: Tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử

dụng trái phép tài sản, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, tội vô ý

gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.

Đối với những tội này, tác giả kiến nghị nhà làm luật cần nghiên cứu

toàn diện các tội danh theo quy định của BLHS để bổ sung vào trường hợp

khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại, để có thể chấm dứt việc truy cứu TNHS

khi bị hại rút yêu cầu khởi tố.

* Bổ sung quy định nhằm giải quyết trường hợp có sự thay đổi quyết

định khởi tố vụ án về tội danh, điều khoản BLHS cần áp dụng liên quan đến

quyền yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại.

- Về xử lý trong trường hợp quá trình điều tra tội phạm và điều khoản

BLHS có sự thay đổi liên quan đến trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của

bị hại: [16, tr. 137-140]

+ Đối với trường hợp khi quyết định khởi tố, cơ quan có thẩm quyền

61

xác định loại tội phạm khởi tố là tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng

hoặc đặc biệt nghiêm trọng nhưng qua điều tra, nhận thấy loại tội phạm chính

xác chỉ là tội phạm ít nghiêm trọng và thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu

của bị hại theo quy định của BLTTHS: Trường hợp này cần xuất phát từ bản

chất quy định về khởi tố theo yêu cầu của bị hại và mục tiêu của quy định

này. Bản chất quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là quyền yêu cầu xử lý đối

với sự việc phạm tội. Với các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại, Nhà

nước "ưu tiên" cho quyền của bị hại để bị hại lựa chọn phương thức giải quyết

phù hợp nhất cho mình. Vì vậy, nếu qua điều tra cho thấy hành vi phạm tội

thuộc các loại tội mà BLTTHS quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị

hại nên được hỏi ý kiến về việc có đề nghị tiếp tục giải quyết vụ án hay

không, trường hợp bị hại đề nghị không tiếp tục giải quyết vụ án (đình chỉ

điều tra, đình chỉ vụ án) thì cơ quan có thẩm quyền sẽ đình chỉ vụ án để bảo

vệ quyền và lợi ích của bị hại theo yêu cầu của họ.

+ Đối với trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại nhưng

trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng tội danh, điều khoản BLHS cần áp

dụng không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại cần

được thông báo về điều này và vụ án được tiếp tục giải quyết theo thủ tục

chung, việc bị hại "rút yêu cầu" trong trường hợp này không phải là căn cứ để

đình chỉ vụ án.

Như vậy, cần bổ sung vào Điều 155 BLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu

cầu của bị hại nội dung như sau: [16, tr. 137-140]

"Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại.

3. Trong quá trình điều tra, truy tố vụ án theo thủ tục tố tụng chung, xét

thấy có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, CQĐT, VKS ra quyết định thay

đổi quyết định khởi tố vụ án và thông báo cho người bị hại biết quyền yêu cầu

tiếp tục xử lý vụ án hoặc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Trong thời hạn 03

ngày kể từ khi nhận được thông báo, bị hại phải gửi đơn yêu cầu tiếp tục xử lý

62

vụ án hoặc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án tới CQĐT hoặc VKS.

4. Trong trường hợp vụ án đã được khởi tố theo yêu cầu của bị hại

nhưng qua quá trình điều tra, truy tố, xét thấy không còn căn cứ khởi tố vụ án

theo yêu cầu của bị hại, CQĐT, VKS phải ra quyết định thay đổi quyết định

khởi tố vụ án và thông báo cho người bị buộc tội, bị hại biết về việc vụ án sẽ

được giải quyết theo thủ tục chung.".

Đồng thời, bổ sung vào khoản 1 Điều 230, khoản 1 Điều 240 căn cứ

đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án khi "bị hại thuộc trường hợp quy định tại

khoản 3 Điều 155 BLTTHS yêu cầu đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án." [16, tr.

137-140]

* Bổ sung quy định về quyền của bị hại đối với những vụ án khởi tố

theo yêu cầu bị hại.

BLTTHS năm 2015 quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại như

trường hợp bị hại trong vụ án thông thường là chưa hợp lý, thiếu những quy

định bảo đảm cho bị hại tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để thực hiện

và bảo vệ yêu cầu khởi tố của họ, đặc biệt những quyền hạn gắn với yêu cầu

khởi tố của họ như: Thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ

án; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám

định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; Đọc, ghi chép và sao chụp

những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến luận tội tại phiên tòa từ khi kết

thúc điều tra. Quy định này nhằm bảo đảm cho bị hại đảm bảo được quyền lợi

đối với vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại.

- Cần có hướng dẫn về nghĩa vụ phải chịu án phí trong trường hợp

người yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là người đại diện hợp pháp của bị hại,

yêu cầu khởi tố sau đó lại rút yêu cầu khởi tố thì vụ án được đình chỉ và người

đại diện hợp pháp phải chịu án phí.

63

Cần bổ sung thêm căn cứ để hủy bản án vào quy đinh tại Điều 359 là

“Khi người yêu cầu khởi tố tự nguyện rút lại yêu cầu khởi tố”, để việc áp

dụng pháp luật có căn cứ và thống nhất trong toàn quốc.

3.2.2. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ

Yêu cầu đặt ra đối với mỗi công chức Cơ quan tư pháp phải chủ động

hơn, trách nhiệm và bản lĩnh hơn; công tác tổ chức cán bộ của Cơ quan tư

pháp đòi hỏi phải đổi mới để đảm bảo hiệu quả hơn, sáng tạo hơn, đáp ứng

đầy đủ yêu cầu giải quyết các vụ án hình sự nói chung và khởi tố vụ án theo

yêu cầu bị hại nói riêng trong tình hình mới. Đây chính là đòi hỏi tất yếu

khách quan về tổ chức, bộ máy, về con người phải thật sự tinh gọn, hiệu quả.

Các đơn vị và đội ngũ cán bộ, công chức phải được rà soát đầy đủ để bố trị,

sắp xếp, sử dụng, điều động, chuyển đổi vị trí công tác phù hợp với năng lực,

sở trường, kinh nghiệm công tác nhằm phát huy khả năng của từng công

chức; đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt về hiệu quả công tác xây

dựng đội ngũ Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán trong sạch, vững

mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tinh hình mới. Có như vậy mới tăng

cường, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình

mới.

- Tổ chức bộ máy, cán bộ ở VKSND các cấp phải đổi mới theo hướng

VKSND tối cao tập trung làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổng kết, hướng

dẫn, đôn đốc, kiểm tra, với nhiều chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực; VKS cấp

dưới tổ chức thực hiện có hiệu quả, tập trung đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ

năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

các vụ án hình sự trong đó có những vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại,

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Ngành Kiểm sát cần đề nghị

TA ban hành văn bản hướng dẫn các quy định của BLHS năm 2015 để tháo

gỡ những vướng mắc, khó khăn cho các CQTHTT, người tiến hành tố tụng

trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự.

64

- Hoàn thiện quy định về CQĐT cần trên cơ sở khẳng định chức năng,

nhiệm vụ và vai trò quan trọng của CQĐT trong mô hình tố tụng hình sự Việt

Nam, xác định rõ CQĐT có trách nhiệm cùng với VKS phát hiện tội phạm,

đưa kẻ phạm tội ra trước TA để xét xử. Hoạt động điều tra phải chịu sự chỉ

đạo của công tố như là một nguyên tắc bắt buộc song CQĐT vẫn cần có vai

trò chủ động, Kiểm sát viên không làm thay công việc của Điều tra viên mà

đóng vai trò dẫn đường trong việc thu thập chứng cứ, chứng minh sự thật vụ

án trong giai đoạn điều tra. Về lâu dài, cần "xây dựng hệ thống CQĐT độc

lập, thống nhất từ trung ương đến địa phương, đặt dưới sự chỉ đạo của Chính

phủ hoặc Quốc hội" [39, tr.135] nhằm khắc phục sự phân tán, chồng chéo

trong hoạt động của hệ thống CQĐT đồng thời tăng cường tính độc lập của

CQĐT và các chủ thể tố tụng thuộc CQĐT khi giải quyết vụ án hình sự.

- Tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử, không để xảy ra việc xét xử oan,

sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, hạn chế thấp nhất các bản án bị hủy, bị

sửa do lỗi chủ quan. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII, các TA

phải sắp xếp lại tổ chức tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với yêu cầu

của thực tiễn. Trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng, TA phải

mở rộng và nâng cao chất lượng hợp tác với các thiết chế xét xử và trọng tài

quốc tế để đủ năng lực giải quyết các vụ án, vụ việc xuyên quốc gia; qua đó

nâng cao vị thế của TA Việt Nam trên trường quốc tế. Ngành TA cần tiến

hành rà soát các nghị quyết, thông tư hướng dẫn các quy định của BLHS năm

2015 để ban hành Nghị quyết của Hội đồng Thẩm Phán TAND tối cao cho

phù hợp, khắc phục thực tiễn, vướng mắc hiện nay. Tiến hành rà soát các quy

định có tính định tính trong BLHS năm 2015. Ban hành văn bản hướng dẫn

các quy định còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng trong toàn bộ BLHS.

- Các Đảng bộ của Cơ quan tư pháp các cấp phải nghiêm túc thực hiện

Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII,

về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về

65

tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự

chuyển hoá" trong nội bộ. Cần đổi mới mạnh mẽ phương thức tổ chức chỉ

đạo, điều hành và thủ tục hành chính - tư pháp trong các CQTHTT theo

hướng nhanh, gọn, hiệu quả và thuận lợi cho công dân; cải tiến phương pháp

và lề lối làm việc, đề cao chế độ trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nội bộ, hoàn thiện cơ chế

kiểm soát lẫn nhau giữa các cán bộ điều tra, kiểm sát, xét xử, thi hành án, luật

sư… trong hoạt động tư pháp. Người đứng đầu CQTHTT cần xem xét đến

trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực thực tế của người tiến hành tố tụng

để có thể phân công cho phù hợp, vừa phát huy được khả năng chuyên môn

nghiệp vụ, sở trường của mỗi người, đồng thời đáp ứng được yêu cầu, nhiệm

vụ của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nâng cao hiệu quả công tác

chỉ đạo của lãnh đạo cơ quan tư pháp các cấp. Làm tốt công tác quản lý, chỉ

đạo, điều hành việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của cấp dưới với

tác phong sâu sát, cụ thể, kịp thời và điều hành quyết liệt. Phải luôn xác định

bản thân phải chịu trách nhiệm trước hết về mọi khuyết điểm, vi phạm xảy ra

đối với công tác mà mình phụ trách. Bản thân người quản lý, lãnh đạo cần

phải nhìn nhận, lựa chọn, phân công cán bộ, công chức phù hợp để giải quyết

công việc này.

3.2.3. Tăng cường phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp

vụ của đội ngũcán bộ, công chức cơ quan tố tụng

- Tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, phẩm

chất đạo đức cho đội ngũ công chức thuộc CQĐT, VKS, Cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đặc biệt là Điều tra viên, Kiểm

sát viên, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

- Nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ

năng nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ thuộc CQĐT, VKS, cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

66

+ Về phía các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ của ngành cần

phải đổi mới nội dung, chương trình theo hướng tập trung đào tạo bồi dưỡng

kỹ năng điều tra, kỹ năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong đó có kỹ năng

giải quyết các công việc thực tế trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; tránh

tình trạng các Điều tra viên, Kiểm sát viên chỉ nắm lý thuyết mà không có

được các kỹ năng thực hiện công việc trên thực tế.

+ Khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát

viên đi học để nâng cao trình độ, có chế độ ưu đãi phù hợp đối với họ nhằm

xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên giỏi, có khả năng và tâm huyết với

công việc. Bên cạnh đó, vấn đề xây dựng, rèn luyện phẩm chất đạo đức là đòi

hỏi có tính thường xuyên, liên tục đối với cán bộ tư pháp nói chung và đội

ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên nói riêng.

- Chú trọng xây dựng đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán

thanh liêm, chính trực, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về nghiệp vụ, tinh

thông về pháp luật, có tấm lòng nhân ái, làm cho họ phải thấy rõ hơn trách

nhiệm chính trị của mình trước Đảng, trước nhân dân. Đẩy mạnh công tác đào

tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ công chức cơ

quan tư pháp. Tăng cường công tác quản lý, giáo dục và rèn luyện cán bộ,

công chức. Làm tốt công tác thi tuyển, nâng ngạch, bổ nhiệm công chức cơ

quan tư pháp. Chú trọng kiện toàn đội ngũ lãnh đạo Cơ quan tư pháp các cấp

có đủ năng lực, phẩm chất, uy tín, kinh nghiệm quản lý, lãnh đạo. Làm tốt

việc luân chuyển cán bộ, thử thách trong môi trường thực tế khác nhau đối

với những cán bộ thuộc diện quy hoạch chức vụ lãnh đạo ở các cấp của cơ

quan tư pháp. Tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện những yếu

kém trong công tác nghiệp vụ để khắc phục; kiên quyết xử lý những cán bộ vi

phạm phẩm chất, đạo đức, lối sống để xây dựng Cơ quan tư pháp trong sạch,

vững mạnh.

- Cần có chế độ lương và phụ cấp mang tính ưu đãi hơn, thỏa đáng hơn

67

dành cho những người tiến hành tố tụng, nhất là đối với đội ngũ Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán. Cùng với đó là việc xử lí nghiêm minh các trường

hợp sai phạm, cụ thể hóa trách nhiệm cá nhân đối với người thực hiện hành vi tố

tụng sai, ra quyết định tố tụng sai trong hoạt động khởi tố vụ án hình sự.

3.2.4. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, hướng dẫn, giải đáp

vướng mắc, thông báo rút kinh nghiệm

Để áp dụng đúng, chính xác các quy định của BLHS năm 2015 trong

quá trình giải quyết các vụ án hình sự đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải

tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, hướng dẫn, giải đáp những khó khăn,

vướng mắc của địa phương trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ nói

chung và trong những vụ án liên quan đến khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại.

Về việc xác đinh chủ thể yêu cầu khởi tố là người đại diện hợp pháp

Tác giả kiến nghị cần ban hành văn bản hướng dẫn đối với trường hợp

này theo hướng: Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định về việc khởi tố vụ án

hình sự theo yêu cầu của bị hại, khoản 2 Điều 155 quy định về việc rút yêu

cầu thì cần phải hiểu đây là rút yêu cầu khởi tố vụ án. Theo quy định tại các

Điều 230, 248 và 282 BLTTHS năm 2015, một trong những căn cứ để quyết

định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án là bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án.

Trong trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại, vụ án lại có nhiều bị

can, bị cáo mà bị hại chỉ có đơn rút yêu cầu khởi tố đối với một hoặc một số

bị can, bị cáo, không rút yêu cầu khởi tố vụ án, thì việc ra quyết định đình chỉ

điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo đó là không có căn cứ. Do vậy,

nếu bị hại có đơn rút yêu cầu khởi tố đối với bị can, bị cáo thì CQTHTT giải

thích cho bị hại biết bị hại chỉ có quyền rút yêu cầu khởi tố đối với vụ án. Nếu

bị hại và bị can, bị cáo tự nguyện hòa giải; bị hại có đơn đề nghị miễn TNHS;

bị can, bị cáo đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu

quả (trong trường hợp bị can, bị cáo thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng) thì

68

CQTHTT căn cứ khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 có thể miễn TNHS, đình

chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo đó.

- Hằng năm cần tổ chức sở kết, tổng kết, tổ chức kiểm tra và tập huấn

về công tác thỉnh thị, trả lời thỉnh thị trong toàn ngành, thông báo rút kinh

nghiệm đối với những địa phương, đơn vị thực hiện không tốt vấn đề thỉnh

thị, trả lời thỉnh thị dẫn đến vi phạm thời hạn tố tụng, vụ án, vụ việc tồn đọng,

không giải quyết được theo đúng quy định của pháp luật để có biện pháp chấn

chỉnh kịp thời.

3.2.5. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các đơn vị, bộ, ngành có

liên quan trong triển khai thi hành BLHS

Thứ nhất, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS, nâng

cao vai trò của VKS trong chỉ đạo, giám sát hoạt động kiểm tra, xác minh

nguồn tin tội phạm và khởi tố vụ án liên quan đến yêu cầu của bị hại. Công

tác kiểm sát khởi tố vụ án hình sự đạt kết quả cao nhất khi VKS luôn đảm bảo

bám sát quá trình giải quyết của CQĐT, và để làm tốt điều này đòi hỏi giữa

CQĐT và VKS phải có sự phối hợp thường xuyên. Giữa CQĐT và VKS luôn

phải đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả từ việc giải quyết vụ việc đơn lẻ, đến

việc họp liên ngành, tổng kết rút kinh nghiệm, cùng nhau tháo gỡ những khó

khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi nhiệm vụ, từ đó đưa ra giải pháp

giải quyết phù hợp.

- Phải thường xuyên sàng lọc, xử lí nghiêm minh những trường hợp can

thiệp bằng công văn của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, ngành có cán bộ vi

phạm để “xử lý nội bộ”, “rút kinh nghiệm sâu sắc” nhằm bao che, bênh vực

cho nhau nhân danh “uy tín, danh dự của ngành” sẽ dẫn tới sự dung túng và

lệch lạc về nhận thức, ý thức trách nhiệm cũng như gây mất niềm tin vào sự

nghiêm minh của pháp luật từ người dân. Phải xử lý hình sự đối với những cá

nhân có hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp như không truy cứu TNHS

người có tội, ra quyết định trái pháp luật, ép buộc nhân viên tư pháp làm trái

69

pháp luật, làm sai lệch hồ sơ vụ án… để răn đe mạnh mẽ trong toàn bộ hệ

thống tư pháp.

Bên cạnh đó, phải tăng cường các cơ chế thanh tra, kiểm tra nội bộ,

đặc biệt là hoạt động thanh tra các hành vi, quyết định tố tụng trong giai đoạn khởi

tố vụ án hình sự. Những hành vi, quyết định tố tụng không có căn cứ hoặc trái

pháp luật của CQĐT trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự như: Quyết định khởi

tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự… có thể bị phát hiện

song hành cùng với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS.

- CQĐT, VKS các cấp cần tiến hành các buổi họp giao ban kết hợp với

việc phổ biến tới các Điều tra viên, Kiểm sát viên những văn bản pháp luật

mới liên quan đến công tác của ngành, các hướng dẫn, thông báo rút kinh

nghiệm. Qua đó để các Điều tra viên, Kiểm sát viên có điều kiện trao đổi, rút

kinh nghiệm và học tập lẫn nhau góp phần nâng cao năng lực, chuyên môn

nghiệp vụ trong công tác khởi tố vụ án hình sự;

3.2.6. Một số giải pháp khác

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, góp phần nâng cao năng

lực trong các hoạt động của ngành trong cả nước. Nghị quyết số 08 -NQ/TW

ngày ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, về một số nhiệm vụ trọng tâm công

tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất

bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có

cơ chế chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp. Tăng cường đầu tư cơ sở vật

chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin,

từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư pháp...”. Trong giai đoạn sắp tới,

CQĐT và VKS cần phải được trang bị các phương tiện đảm bảo hoạt động

kiểm tra, xác minh và điều tra vụ án hình sự liên quan đến yêu cầu bị hại đặc

biệt là vụ án liên quan đến giám định, khám nghiệm hiện trường...đảm bảo

việc xác định có dấu hiệu của tội phạm trong giai đoạn đặc biệt này. Thực

hiện cam kết trong Cộng đồng ASEAN, chúng ta phải hoàn thành việc xây

70

dựng TA điện tử trước năm 2025. Nghiên cứu để đề xuất xây dựng chủ

trương, hành lang pháp lý hướng tới xây dựng TA điện tử, phù hợp với xu thế

chung của các quốc gia có nền tư pháp phát triển trên thế giới và thực tiễn

Việt Nam.

- Thống nhất về hệ thống biểu mẫu, sổ sách ghi chép việc tiếp nhận, xử

lý thông tin về tội phạm để bảo đảm tính thống nhất, gọn nhẹ của các loại sổ

sách, tạo điều kiện cho công tác kiểm sát, giám sát việc tuân theo pháp luật

trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.

- Các CQTHTT cần áp dụng mô hình tiếp nhận tố giác, tin báo về tội

phạm qua mạng Internet với hình thức hòm thư điện tử tiếp nhận tin báo, tố

giác. Hình thức cung cấp thông tin về tội phạm này tương đối phổ biến ở một

số nước có trình độ phát triển cao về công nghệ thông tin.

Tiểu kết Chương 3

Tại Chương 3 của Luận văn tác giả đã phân tích làm rõ những yêu

cầu và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án

khởi tố theo yêu cầu của bị hại như: Hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn tổng kết

thực tiễn xét xử, giải pháp về nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ.... góp

phần đảm bảo việc định tội danh và quyết định hình phạt đúng người, đúng

tội, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm của cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng trong đó có tỉnh Bắc Ninh đối với các vụ án hình sự

nói chung và khởi tố theo yêu cầu bị hại nói riêng.

71

KẾT LUẬN

Thông qua 03 chương của Luận văn, tác giả đã phân tích làm rõ mục

đích và giải quyết được những nhiệm vụ đã đặt ra. Tại Chương 1 của Luận

văn, tác giả đã lần lượt phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của

khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, cũng

như phân tích cơ sở của việc quy định chế định này trong PLTTHS. Đồng

thời, tác giả cũng phân tích làm rõ lịch sử quá trình lập pháp quy định chế

định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong PLTTHS Việt Nam từ năm

1945 đến BLTTHS năm 2015. Tại Chương 2 của Luận văn tác giả đã phân

tích những quy định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị

hại. Cũng như thực tiễn giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu

của bị hại, trên cơ sở đó tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt được và những tồn

tại, hạn chế liên quan đến hoạt động này. Trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra

những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, làm tiền đề để tác giả đưa ra

những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết

vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Tại Chương 3 của Luận

văn tác giả đã phân tích làm rõ những yêu cầu và đưa ra một số giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại

như: Hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn tổng kết thực tiễn xét xử, giải pháp về

nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ....nhằm góp phần đảm bảo việc định

tội danh và quyết định hình phạt đúng người, đúng tội, không làm oan người

vô tội, không bỏ lọt tội phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

trong đó có tỉnh Bắc Ninh đối với các vụ án hình sự nói chung và khởi tố theo

yêu cầu bị hại nói riêng.

Tác giả hy vọng, các kiến nghị của Luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn

thiện pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án

liên quan đến khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại. Tuy nhiên, Luận văn được

nghiên cứu trong bối cảnh BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật từ ngày

72

01/01/2018 với nhiều quy định mới về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại,

nhiều văn bản hướng dẫn chưa được sửa đổi, bổ sung theo quy định của văn

bản pháp luật mới. Trong khi đó, kiến thức tác giả còn hạn chế, do vậy Luận

văn khó tránh khỏi khiếm khuyết, thiếu sót. Tác giả Luận văn mong nhận

được đóng góp, chỉ dẫn cụ thể của các Thầy giáo, Cô giáo, các nhà khoa học,

đồng nghiệp và những ai quan tâm đến Đề tài để giúp Luận văn được hoàn

chỉnh hơn. /.

73

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

(2002), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, về chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật.

2. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

(2002), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020.

3. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), “Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ

đổi mới và hội nhập”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. TS. Trần Văn Biên, TS. Đinh Thế Hưng (2017), “ Bình luận khoa

học Bộ luật tố tụng hình sự”, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

5. Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1950), Sắc lệnh số

85/SL ngày 22/5/1950, về cải cách bộ máy Tư pháp và Luật Tố tụng, Hà Nội.

6. Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Sắc lệnh số 47

ngày 10/10/1945, Hà Nội.

7. Lê Cảm (2004), “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố

tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát (02), Hà Nội.

8. Lưu Bình Dương (2017), “Pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo

yêu cầu của người bị hại trong Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay”, Luận án

Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội

Việt Nam, Hà Nội.

9. Phạm Văn Huân (2013), “Những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình

sự trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa

Luật - ĐHQGHN, Hà Nội;

10. Ths. Phạm Mạnh Hùng (2003), “Những bất cập và việc hoàn thiện

quy định của pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố theo yêu cầu của người bị

hại”, Tạp chí Kiểm sát số 01/2003, tr.32, Hà Nội.

74

11. TS. Phan Trung Hoài (2016), “Những điểm mới về chế định bào

chữa trong BLTTHS năm 2015”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

12. Bùi Thị Hạnh (2019), “Về việc rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa

trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại”, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2019,

Hà Nội

13. Mai Văn Minh (2005), “Bàn về việc khởi tố và không khởi tố vụ án

hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số

09/2005, Hà Nội; Hoàng Thị Liên (2006).

14. Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong tố tụng hình

sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn

lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

15. TS. Nguyễn Đức Mai (chủ biên, 2018), “Bình luận khoa học Bộ

luật tố tụng hình sự (hiện hành)”, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.

16. Lê Thị Thúy Nga (2019), “Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự

Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học,Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

17. Nguyễn Thái Phúc (2007),“Mô hình tố tụng Việt Nam - Những vấn

đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (số 05), Hà Nội.

18. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

19. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

20. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

21. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nôi.

22. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội .

23. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội .

24. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công

an, Bộ Tư pháp (2008), Thông tư Liên tịch số 01/2008/TTLT-TANDTC-

VKSNDTC-BCA-BTP ngày 29/02/2008, Hà Nội.

75

25. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Công văn số 16/1999/KHXX ngày

01/02/1999 giải đáp một số vấn đề hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành

chính và tố tụng, Hà Nội.

26. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng

hình sự, Hà Nội.

27. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Công văn số 254/TANDTC-PC

ngày 26/11/2018, hướng dẫn về việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự

rút yêu cầu theo quy định tại phiên tòa.

28. Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (2019), Bản án

số 32/2019/HSST ngày 23/01/2019, Bắc Ninh.

29. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2016), Bản án số 44/2016/HSST

ngày 26 - 30/8/2016, Bắc Ninh.

30. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2018), Bản án số 271/2018/HS-

ST ngày 14/9/2018, Bắc Ninh.

31. Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (2018), Bản án

số 150/2017/HSST ngày 28/9/2017, Bắc Ninh.

32. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (2018), Bản án số

99/2017/HSST ngày 18/12/2017, Bắc Ninh.

33. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2018), Bản án số

32/2018/HSST ngày 25/9/2018, Bắc Ninh.

34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Tố tụng hình

sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

35. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình

Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

36. TS. Đinh Quang Tiệp (2010), “Một số vấn đề về người bị hại,

nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Kiểm

sát, số 9/2010, Hà Nội.

76

37. Ma Thị Thắm (2015), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của

người bị hại trong luật tố tụng hình sự”.

38. Nguyễn Đức Thái (2009), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu

người bị hại, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

39. Bùi Thế Tỉnh (2018), “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều

tra và Điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật

học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng (2018),

Thông tư Liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2018 về

quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định

của BLTTHS năm 2015, Hà Nội.

41. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng (2005),

Thông tư Liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005,

về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong thực hiện

một số quy định của BLTTHS năm 2003, Hà Nội.

42. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển

Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.429).

43. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2012), “Bình luận khoa học Bộ luật tố

tụng hình sự”, NXB Tư pháp, Hà Nội.

44. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Công văn số 5024/VKSTC-

V14 ngày 19/11/2018, về giải đáp vướng mắc liên quan đến quy định của

BLTTHS và nghiệp vụ thi hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án

hình sự trong ngành KSND, Hà Nội.

77

PHỤ LỤC

Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị

hại với tình hình tội phạm hình sự nói chung trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019

Tội phạm hình sự

Nhóm tội khởi tố

Tỷ lệ

theo yêu cầu bị hại

(%)

Năm

Số vụ án

Số bị cáo Số vụ án

Số bị cáo Số vụ án

Số bị cáo

2015

976

181

242

18,5

11,4

2.114

2016

872

177

234

20,2

10,8

2.158

2017

846

197

238

23,2

14,1

1.681

2018

866

183

234

21,1

14,0

1.668

2019

1.385

177

216

12,7

9,5

2.258

Tổng số

4.945

915

1164

18,5

11,7

9.879

Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh

78

Bảng 2.2: Bảng so sánh số lượng vụ án và bị cáo theo các tội danh bị khởi

tố theo yêu cầu bị hại giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019

Tội (Điều luật)

Số vụ/Số bị

Năm

cáo

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

49/93.

người khác (Khoản 1 Điều 134)

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

13/13

người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

(Khoản 1 Điều 135).

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

10/10

người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc

do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản

1 Điều 136).

Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

36/36

2015

người khác (Khoản 1 Điều 138).

Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

11/11

người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc

hành chính (Khoản 1 Điều 139).

Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).

36/45

Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).

13/15

Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).

8/14

Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)

5/5

0/0

Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều

226).

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

47/84

người khác (Khoản 1 Điều 134)

2016

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

15/15

người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

79

(Khoản 1 Điều 135).

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

8/8

người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc

do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản

1 Điều 136).

Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

33/33

người khác (Khoản 1 Điều 138).

Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

8/8

người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc

hành chính (Khoản 1 Điều 139).

Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).

37/48

Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).

15/18

Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).

11/16

Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)

3/4

0/0

Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều

226).

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

42/61

người khác (Khoản 1 Điều 134)

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

17/17

người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

(Khoản 1 Điều 135).

2017

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

9/9

người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc

do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản

1 Điều 136).

Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

42/49

người khác (Khoản 1 Điều 138).

Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

11/11

người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc

80

hành chính (Khoản 1 Điều 139).

Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).

42/51

Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).

12/14

Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).

13/15

Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)

9/11

0/0

Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều

226).

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

45/80

người khác (Khoản 1 Điều 134)

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

19/19

người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

(Khoản 1 Điều 135).

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

6/6

người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc

2018

do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản

1 Điều 136).

Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

38/38

người khác (Khoản 1 Điều 138).

Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

5/5

người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc

hành chính (Khoản 1 Điều 139).

42/47

Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).

13/17

Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).

9/13

Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).

5/8

Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)

1/1

Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều

226).

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

43/61

người khác (Khoản 1 Điều 134)

81

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

13/13

người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

(Khoản 1 Điều 135).

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

5/5

người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc

do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản

1 Điều 136).

Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

40/46

2019

người khác (Khoản 1 Điều 138).

Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

8/8

người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc

hành chính (Khoản 1 Điều 139).

Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).

39/44

Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).

14/17

Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).

9/14

Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)

6/8

Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều

0/0

226).

Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh

82

Bảng 2.3: Bảng so sánh số vụ án bị đình chỉ do bị hại rút đơn với số vụ án

khởi tố theo yêu cầu bị hại đưa ra xét xử giai đoạn từ năm 2015 đến năm

2019

Năm

Số vụ án bị đình chỉ do bị hại rút đơn

Số vụ án khởi tố theo yêu

cầu bị hại đưa ra xét xử

45

181

2015

40

177

2016

55

197

2017

49

183

2018

43

177

2019

Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh

83