VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG TRỌNG LƯỢNG
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG TRỌNG LƯỢNG
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH TUYÊN
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN.
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Trọng Lượng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………...1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài………………………………...3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………...5
3.1. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………….5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………6
4.1. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………...6
4.2. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………..6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu………………………………..6
6. Ý nghĩa luận và thực tiến của Luận văn…………………………………..6
7. Kết cấu của Luận văn……………………………………………………...7
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO
YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI ........................................................................................... 8
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của bị hại ............................................................................................................... 8
1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại ............... 13
1.3. Cơ sở việc quy định chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu củabị
hại trong pháp luật hình sự Việt Nam................................................................. 17
1.4. Quy định của PLTTHS Việt Nam về chế định khởi tố vụ án theo yêu
cầu của bị hại từ năm 1945 đến nay ................................................................... 20
Chương 2: KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI
TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC NINH .................................................................................................... 25
2.1. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong pháp luật hiện hành .. 25
2.2. Khái quát tình hình giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu
bị hại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ........................................................................ 38
2.3. Những kết quả đạt được và một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải quyết
vụ án hình sự liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại ................................... 39
2.4. Nguyên nhân của một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải quyết vụ
án hình sự khởi tố theo yêu cầu bị hại ................................................................ 56
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ KHỞI TỐ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI ................ 59
3.1. Một số yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự khởi tố theo
yêu cầu của bị hại ............................................................................................... 59
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự khởi tố
theo yêu cầu của bị hại ....................................................................................... 60
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 74
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS: Trách nhiệm hình sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
PLTTHS: Pháp luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
TA: Tòa án
TAND: Tòa án nhân dân.
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị
hại với tình hình tội phạm hình sự nói chung trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.2: Bảng so sánh số lượng vụ án và bị cáo theo các tội danh bị
khởi tố theo yêu cầu bị hại giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.3: Bảng so sánh số vụ án bị đình chỉ do bị hại rút đơn với số vụ
án khởi tố theo yêu cầu bị hại đưa ra xét xử giai đoạn từ năm 2015 đến năm
2019.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, pháp luật quy định cho phép bị hại lựa chọn quyền yêu cầu
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, những trường hợp này nếu khởi tố
vụ án, lợi ích về mặt xã hội có thể không lớn mà còn có khả năng làm tổn
thương thêm về mặt tinh thần cho bị hại. Vì vậy, nhà làm luật đã xác lập một
khả năng, điều kiện để bị hại cân nhắc, quyết định có quyền yêu cầu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý về mặt hình sự đối với hành vi phạm tội hay
không. Đây là quy định có tính chất đặc trưng, thông qua việc cho phép bị hại
được lựa chọn cách xử lý đối với người gây thiệt hại cho mình, quy định này
trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại trong tố tụng hình sự.
Quy định này được ghi nhận lần đầu tiên trong BLTTHS năm 1988 và
tiếp tục được hoàn thiện, bổ sung qua BLTTHS năm 2003, và gần đây nhất là
BLTTHS năm 2015. Trong đó, BLTTHS năm 2015 ra đời thay thế BLTTHS
năm 2003, đã bổ sung nhiều điểm mới tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn về chế
định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại, góp phần bảo vệ quyền con người,
quyền của cơ quan, tổ chức bị thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu quy định của pháp luật và thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy chế định
khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại vẫn còn nhiều điểm tồn tại, hạn chế như
phạm vi, chủ thể thực hiện quyền, thời điểm rút yêu cầu khởi tố, hậu quả pháp
lý của việc thực hiện khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, quyền và
nghĩa vụ của bị hại so với trường hợp thông thường... Theo thống kê của
TAND tỉnh Bắc Ninh trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 số
lượng các vụ án được khởi tố trong nhóm này chiếm tỉ lệ cao trong số tội đưa
1
ra xét xử, cao nhất là vào năm 2017 với 197 vụ án, 238 bị cáo, chiếm tỉ lệ
23,2 % về số vụ và 14,1 % về số bị cáo. Bên cạnh những kết quả đạt được thì
vẫn còn một số trường hợp bị hại không hợp tác trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, đặc biệt đối với những vụ việc liên quan đến các tội cố ý gây
thương tích, hiếp dâm khi bị hại không hợp tác giám định, có trường hợp
CQĐT không thể ra quyết định khởi tố vụ án vì chưa có yêu cầu khởi tố của
bị hại, cũng không thể ra quyết định không khởi tố vụ án vì không có căn cứ,
vẫn còn thiếu sót trong quá trình thu thập chứng cứ, đặc biệt là tội danh như
hiếp dâm, cưỡng dâm, việc đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS
và quyết định hình phạt một số vụ án chưa tương xứng với tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, trong các vụ án khởi tố theo
yêu cầu của bị hại...đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức và áp dụng
pháp luật trong thực tiễn, làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm,
bảo vệ quyền con người.
Trong khi, quy định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại cũng đã được
nghiên cứu trong một số công trình khoa học như luận án, luận văn, sách
chuyên khảo...nhưng các công trình này chủ yếu được thể hiện một phần
trong kết quả của các công trình nghiên cứu khác về khởi tố vụ án hình sự, địa
vị pháp lý của bị hại, hoặc nghiên cứu trên phạm vi cả nước, hoặc trong bối
cảnh BLTTHS năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật. Tính đến nay, chưa có
công trình nào nghiên cứu chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại theo
quy định của BLTTHS năm 2015 trên địa bản một tỉnh là Bắc Ninh, trong
phạm vi từ năm 2015 đến năm 2019.
Xuất phát từ nhận thức và thực tế nêu trên, tác giả đã chọn đề tài:
“Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để
làm để tài nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan tới đề tài trên, cũng đã có nhiều tác giả đề cập trong nhiều
công trình nghiên cứu khác nhau như:
(i) Các công trình như sách chuyên khảo, giáo trình, bình luận khoa học
BLTTHS: Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), “Giáo trình Luật tố tụng hình
sự Việt Nam”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh (2018),“Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội; GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ
biên, 2011), “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”, Nxb Tư pháp, Hà
Nội; PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn (chủ biên, 2005), “Bình luận khoa học Bộ
luật tố tụng hình sự”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Trần Văn Biên,
TS. Đinh Thế Hưng (2017), “ Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”,
Nxb. Thế giới, Hà Nội; TS. Nguyễn Đức Mai (chủ biên, 2018), “Bình luận
khoa học Bộ luật tố tụng hình sự (hiện hành)”, Nxb Chính trị Quốc gia sự
thật, Hà Nội; TS. Phạm Mạnh Hùng (chủ biên, 2018) “Bình luận khoa học Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015”, Nxb Lao động, Hà Nội; v.v...
(ii) Ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ, Tiến sĩ có một số đề tài tiêu biểu như:
Lê Nguyên Thanh (2013), “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong
tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh; Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong
tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội; Nguyễn Đức Thái
(2015), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng
hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh; Lưu Bình Dương (2017), “Pháp luật về khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại trong Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay”,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam, Hà Nội; Hoàng Lan Phương (2009), “Khởi tố vụ án
3
hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
Phạm Văn Huân (2013), “Những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn Đức Thái (2009), “Khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu người bị hại, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; Ma
Thị Thắm (2015), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; v.v…
(iii) Các công trình khoa học đăng trên các báo, tạp chí: Ths. Phạm
Mạnh Hùng (2003), “Những bất cập và việc hoàn thiện quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí Kiểm
sát số 01/2003, tr.32, Hà Nội; Mai Văn Minh (2005), “Bàn về việc khởi tố và
không khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp
chí Kiểm sát số 09/2005, Hà Nội; Hoàng Thị Liên (2006), “Người bị hại đã
yêu cầu khởi tố trình bày lời buộc tội tại phiên toà theo trình tự, thủ tục nào”
và “Cần sửa đổi các quy định liên quan đến quyền khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật số 8/2006 và Tạp chí Kiểm sát số 2/2008; Lê Văn Cân (2008),
“Một số vướng mắc khi giải quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người
bị hại”, Tạp chí Kiểm sát số 4/2008, Hà Nội; Mai Thế Bày (2009),“Đình chỉ
điều tra vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại khi họ rút đơn theo quy
định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Kiểm
sát số 20 tháng 10/2009, Hà Nội; TS. Đinh Quang Tiệp (2010), “Một số vấn
đề về người bị hại, nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003”, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2010; Phạm Thái (2012), “Bàn về một số vấn
4
đề về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí Khoa học
pháp lý (số 5/2012); v.v...
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở khái quát
chung hoặc được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên
cứu khác về khởi tố vụ án hình sự, có công trình đã triển khai nghiên cứu độc
lập chế định này nhưng trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật
(từ ngày 01/01/2018); đồng thời, các công trình trên chưa có công trình nào
nghiên cứu cụ thể đề tài trên trong phạm vi một tỉnh là tỉnh Bắc Ninh, trong
khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của bị hại từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có
tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận, thực tiễn về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại từ thực tiễn
tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở đó, Luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật, giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về khởi tố
vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về khởi tố vụ án theo
yêu cầu của bị hại.
- Làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án theo yêu
cầu của bị hại.
- Đánh giá thực trạng khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại từ thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh và đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, giải pháp đảm
bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của bị hại.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề lý luận xung quanh
chế định ‘‘Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại’’. Thực tế việc điều
tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Ninh và những tồn
tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đồng thời đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự khởi tố theo yêu cầu
của bị hại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi quy định của PLTTHS Việt Nam
về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại, mà trọng tâm là BLTTHS năm 2015 hiện
hành, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, trong phạm vi tỉnh
Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm, định hướng của
Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự,
đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của Nhà nước ta.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: So sánh, đối chiếu, diễn
dịch, quy nạp, phân tích và tổng hợp…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu mà trong đó giải
quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới chế định
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
6
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật, áp
dụng pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại; góp phần hoàn thiện hơn
nữa lý luận và pháp luật về chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
trong pháp luật nước ta.
Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của Luận văn là cơ sở để cơ
quan, người có thẩm quyền đặc biệt là cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng ở tỉnh Bắc Ninh nghiên cứu, vận dụng trong quá trình áp dụng
pháp luật. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và
tài liệu tham khảo đối với người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về hình
sự và tố tụng hình sự, những người làm công tác thực tiễn...
7. Kết cấu của Luận văn
Nội dung chính của Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của bị hại.
Chương 2. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong pháp
luật hiện hành và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Một số yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết vụ
án hình sự khởi tố theo yêu cầu của bị hại.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN
THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của bị hại
1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, xác định
một hành vi xảy ra trong thực tế có dấu hiệu tội phạm hay không, theo đó, mở
đầu cho việc thực hiện những hành vi tố tụng cần thiết để làm rõ sự thật khách
quan về sự kiện pháp lý đó (khởi tố vụ án hình sự), hoặc chấm dứt quan hệ tố
tụng hình sự (không khởi tố vụ án hình sự). Tuy nhiên, về khái niệm “khởi tố
vụ án hình sự”, hiện nay trong khoa học luật tố tụng hình sự, vẫn còn có nhiều
quan niệm khác nhau như:
Theo từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp): Khởi
tố vụ án hình sự là hoạt động của CQTHTT xác định có sự việc phạm tội để
tiến hành điều tra phát hiện tội phạm [42, tr.429].
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
Hà Nội đưa ra khái niệm: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của trình
tự tố tụng, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu
hiệu của tội phạm hay không để quyết định khởi tố hay quyết định không khởi
tố vụ án hình sự [34, tr.233].
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh có quan điểm: Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn
độc lập của quá trình chứng minh vụ án hình sự, trong đó cơ quan có thẩm
quyền xác định có hay không dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc
quyết định không khởi tố vụ án. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ việc tiếp nhận
thông tin về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội phạm và kết thúc bằng một
quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự [35, tr.330].
8
GS.TS Võ Khánh Vinh đưa ra khái niệm về quyết định khởi tố vụ án
hình sự, trong đó có bao hàm nội dung khởi tố vụ án hình sự, một cách cụ thể
hơn, theo đó: Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hành vi tố tụng hình sự của
một pháp nhân (chủ thể tiến hành tố tụng) có thẩm quyền khởi tố vụ án hình
sự biểu hiện bằng một văn bản tố tụng hình sự xác định một sự kiện pháp lý
xảy ra trong thực tế có dấu hiệu của tội phạm cụ thể được quy định trong
BLHS nhằm khởi phát những quan hệ tố tụng, mở đầu cho việc thực hiện
những hành vi tố tụng cần thiết để làm rõ sự thật khách quan về sự kiện đó.
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền
nhận được tin báo về tội phạm, kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra được
một trong hai quyết định là quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định
không khởi tố vụ án hình sự [43, tr.268, 269].
Có thể thấy, mỗi khái niệm đều có những nhân tố hợp lý và đều thống
nhất cho rằng: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, mở
đầu cho quá trình tố tụng hình sự; trong giai đoạn này, cơ quan và người có
thẩm quyền phải xác định sự việc xảy ra có phải là hành vi phạm tội hay
không? Kết quả thể hiện bằng việc quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc
không khởi tố vụ án hình sự (nếu xác định không có hành vi phạm tội).
Nghiên cứu và tiếp thu một số quan điểm trên, tác giả cho rằng, khái
niệm khởi tố vụ án hình sự ngoài việc thể hiện được các yếu tố như: Là giai
đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, chủ thể có thẩm quyền (các CQTHTT, các
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và người có
thẩm quyền của cơ quan đó), kết quả giải quyết (khởi tố hoặc không khởi tố
vụ án hình sự), cần bao hàm thêm các yếu tố sau:
- Khái niệm cần phải thể hiện được căn cứ pháp lý về nội dung là
BLHS nhằm xác định sự việc, hành vi diễn ra có hành vi phạm tội xảy ra hay
không; căn cứ về hình thức là BLTTHS quy định về trình tự, thủ tục tiến hành
9
các biện pháp kiểm tra, xác minh, quyết định tính có căn cứ và hợp pháp của
hoạt động này.
- Khái niệm cần phải thể hiện được căn cứ thực tế đó là kết quả kiểm
tra, xác minh nguồn tin (tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố, lời khai của người
phạm tội tự thú và thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trực tiếp phát hiện) để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
hình sự.
- Khái niệm cần phải nêu được thời điểm bắt đầu và kết thúc của giai
đoạn này, để phân biệt với giai đoạn khác của quá trình TTHS.
Tiếp thu những nhân tố hợp lý trên, kết quả nghiên cứu liên quan, tác
giả đưa ra khái niệm khởi tố vụ án hình sự như sau: Khởi tố vụ án hình sự là
giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, có tính độc lập tương đối, trong đó cơ
quan, người có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và
tố tụng hình sự, nhằm xác định sự việc xảy ra có hay không có hành vi phạm
tội để làm căn cứ quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình
sự.
1.1.2. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
1.1.2.1. Khái niệm bị hại
Khoa học PLTTHS Việt Nam từ trước khi BLTTHS năm 2015 được
ban hành và có hiệu lực đều xác định bị hại chỉ là thể nhân, đó là người bị
thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Tuy nhiên,
trong BLTTHS năm 2015 thuật ngữ “Người bị hại” đã được thay thế bằng
thuật ngữ “Bị hại” trong đó khái niệm bị hại mở rộng hơn đối tượng bao gồm
cả thể nhân và cơ quan, tổ chức. Theo đó, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài
sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra [22, Điều 62].
Như vậy, bị hại trong BLTTHS hiện hành có đặc điểm sau đây:
10
- Thứ nhất, bị hại là cá nhân thì cá nhân đó phải đang sống và tồn tại
vào thời điểm bị thiệt hại. Nếu bị hại là cơ quan, tổ chức phải được thành lập
hợp pháp và đang hoạt động. Nếu bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham
gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại. Trong trường
hợp bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của bị hại tham gia tố tụng với tư
cách là đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Nếu bị hại
là cơ quan, tổ chức thì đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức tham gia
với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại. Trường hợp người đại diện theo
pháp luật của cơ quan, tổ chức không thể tham gia tố tụng được thì cơ quan,
tổ chức phải cử người khác làm đại diện hợp pháp của bị hại và có những
quyền của bị hại. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi người đại diện thì
pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Thứ hai, thiệt hại của bị hại phải là hậu quả trực tiếp và có mối quan
hệ nhân quả với hành vi phạm tội. Bị hại phải là đối tượng tác động mà hành
vi phạm tội hướng tới xâm hại, đồng thời hành vi phạm tội phải trực tiếp gây
ra thiệt hại, đe dọa gây ra thiệt hại cho bị hại, và các thiệt hại này có mối quan
hệ nhân quả với hành vi phạm tội.
- Thứ ba, thiệt hại của bị hại phải là những thiệt hại cụ thể về thể chất,
tinh thần, tài sản (cá nhân), tài sản, uy tín (tổ chức), do hành vi phạm tội gây
ra hoặc đe dọa gây ra.
- Thứ tư, hành vi xâm hại đến bị hại phải là hành vi phạm tội, được quy
định trong BLHS, còn nếu hậu quả chưa đến mức xử lý hình sự hoặc người
xâm hại chưa đủ (hoặc không có) năng lực TNHS thì hành vi xâm hại là hành
vi vi phạm hành chính, vi phạm nghĩa vụ dân sự, lao động… trong trường hợp
này người bị xâm hại không phải là bị hại.
- Thứ năm, xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do hành vi
11
phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra chỉ trở thành bị hại trong tố tụng hình sự
khi họ được cơ quan có thẩm quyền công nhận là bị hại (thông qua giấy triệu
tập).
Từ những phân tích nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm bị hại như sau: Bị
hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa
gây ra.
1.1.2.2. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
Về nguyên tắc chung khi có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan có thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự để tất cả các tội phạm đều bị xử lí kịp thời. Tuy
nhiên, trong thực tế không ít trường hợp tội phạm xảy ra đã gây thiệt hại cho
bị hại không chỉ về lợi ích vật chất mà cả về tinh thần, danh dự, nhân phẩm.
Việc khởi tố vụ án hình sự để truy cứu trong trường hợp này có thể lại gây
thêm những tổn thất khác cho bị hại. Chính vì vậy, để phù hợp với thực tiễn
đấu tranh phòng chống tội phạm, các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền,
chế định ‘’Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại” được quy định, với những
điều kiện do luật định. Do vậy, khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là trường
hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự. Về bản chất của hoạt động khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu của bị hại không chỉ đơn thuần là một trường hợp
khởi tố có điều kiện (phải có yêu cầu của bị hại) mà cao hơn, trong trường
hợp khởi tố theo yêu cầu bị hại quyền buộc tội không chỉ do CQĐT hoặc
VKS đơn phương thực hiện mà quyền buộc tội còn do bị hại quyết định.
Từ nhận thức, phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về khởi tố vụ án
theo yêu cầu của bị hại như sau: Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là
trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự, trong đó cơ quan, người có
thẩm quyền xác định được có hành vi phạm tội trên cơ sở các quy định của
pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, kết quả kiểm tra, xác minh nguồn tin về
tội phạm, nhưng chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu khởi tố của bị
12
hại trong một số trường hợp PLTTHS quy định và phải đình chỉ điều tra,
hoặc đình chỉ vụ án khi bị hại rút yêu cầu khởi tố trong những trường hợp do
PLTTHS quy định.
1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại
1.2.1. Đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự
1.2.1.1. Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự
Với tính chất là một giai đoạn tố tụng độc lập, khởi tố vụ án hình sự có
những đặc điểm riêng biệt như sau:
- Thứ nhất, giai đoạn này bắt đầu khi phát hiện những nguồn thông tin
về tội phạm và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền xác định một sự việc xảy
ra trong thực tế có hay không có hành vi phạm tội để quyết định khởi tố hay
không khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp
lý đầu tiên để các CQTHTT thực hiện những hoạt động tố tụng trong các giai
đoạn tố tụng hình sự kế tiếp là điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự,
trừ trường hợp đặc biệt cần ngăn chặn ngay tội phạm hoặc đảm bảo cho việc
điều tra sau này được tiến hành thuận lợi thì một số hoạt động điều tra như
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi… có thể thực hiện trước khi khởi tố vụ án. Giữa
các giai đoạn này có mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau mà trong đó,
giai đoạn tố tụng trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của
giai đoạn tố tụng sau còn giai đoạn tố tụng sau sẽ kiểm nghiệm kết quả của
giai đoạn tố tụng trước đó. Trong khi đó, quyết định không khởi tố vụ án hình
sự là sự kiện pháp lý làm chấm dứt các quan hệ tố tụng hình sự đã phát sinh
trước đó.
- Thứ hai, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự rất đa dạng. Theo quy định của BLTTHS hiện hành, các cơ
quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự bao gồm các CQTHTT và cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
13
+ CQTHTT gồm: CQĐT, VKS và TA.
+ Cơ quan tiến hành một số hoạt động điều tra: gồm các cơ quan của
Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư
và cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp được PLTTHS, Luật
Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự quy định cụ thể.
- Thứ ba, căn cứ khởi tố vụ án hình sự là sự việc “có hành vi phạm tội
xảy ra”. Quyết định khởi tố vụ án chưa có nghĩa là buộc tội bất kỳ một ai, mà
chỉ là mở đầu của hoạt động tố tụng để CQĐT có căn cứ tiến hành các hoạt
động điều tra cụ thể được PLTTHS quy định nhằm xác định sự thật khách
quan của vụ án, do vậy cơ quan, người có thẩm quyền chỉ cần xác định “có
hành vi phạm tội xảy ra”. Kết thúc thời gian này, cơ quan có thẩm quyền phải
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu xác định có hành vi phạm tội xảy ra
hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự nếu không có có hành vi phạm
tội xảy ra. Giai đoạn khởi tố kết thúc có thể là sự khởi đầu của các giai đoạn
tố tụng tiếp theo hoặc cũng có thể là sự chấm dứt quá trình tố tụng hình sự.
- Thứ tư, trình tự, thủ tục và thời hạn tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ
án hình sự được luật tố tụng hình sự quy định chặt chẽ, và chỉ được tiến hành
một số biện pháp được quy định trong PLTTHS. Quy định này nhằm hạn chế
việc kéo dài, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người chịu
tác động của hành vi phạm tội, đặc biệt là bị hại, cũng như sớm lập lại trật tự
kỷ cương pháp luật.
- Thứ năm, hình thức pháp lý của kết quả giải quyết trong giai đoạn này
là quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình
sự, được ban hành theo biểu mẫu do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
1.2.1.2. Ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự
- Khởi tố vụ án hình sự góp phần bảo đảm cho việc phát hiện nhanh
chóng mọi hành vi phạm tội, thông qua việc tiếp nhận, kiểm tra, xác minh kịp
14
thời các nguồn tin về tội phạm mới có điều kiện làm rõ sự việc xảy ra có dấu
hiệu tội phạm hay không.
- Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của quá trình tố tụng, tạo
cơ sở pháp lý để thực hiện các hoạt động tố tụng trong các giai đoạn tiếp theo
để giải quyết vụ án hình sự trong trường hợp các cơ quan có thẩm quyền xác
định sự việc xảy ra trên thực tế có dấu hiệu tội phạm. Mọi hoạt động tố tụng
hình sự (trừ một số trường hợp đặc biệt như khám nghiệm hiện trường, tử thi,
bắt quả tang...) chỉ có thể được tiến hành khi có quyết định khởi tố vụ án hình
sự. Khởi tố vụ án hình sự tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tố tụng
tiếp theo. Đồng thời, việc khởi tố vụ án hình sự sẽ làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng. Sau khi xác định dấu hiệu
tội phạm và khởi tố vụ án, hoạt động tố tụng ở giai đoạn điều tra sẽ tập trung
làm rõ các hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm. Kể từ thời điểm
này, quan hệ PLTTHS giữa Nhà nước và người thực hiện tội phạm sẽ phát
sinh.
- Khởi tố vụ án hình sự là một trong những biện pháp quan trọng góp
phần bảo vệ quyền con người, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Khởi tố vụ án hình sự liên
quan chặt chẽ với việc bảo đảm pháp chế, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ
của công dân được pháp luật bảo hộ. Cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự
khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong
toàn xã hội.
1.2.2. Đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
1.2.2.1. Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại là trường hợp đặc biệt
của khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, nó có những đặc điểm chung của khởi tố
vụ án hình sự. Ngoài ra, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại có những
đặc điểm riêng sau:
15
- Để khởi tố vụ án hình sự phải có yêu cầu khởi tố của bị hại. Nghĩa là
nếu bị hại không yêu cầu thì cơ quan có thẩm quyền không được khởi tố vụ
án. Đây là sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung của toàn xã hội và lợi ích của
bị hại, khi lợi ích của bị hại không mâu thuẫn với lợi ích chung.
- Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại chỉ áp dụng đối với
một số tội phạm nhất định. Đó là các tội phạm mà tính chất của sự xâm hại
không nghiêm trọng, khách thể của tội phạm là những mối quan hệ xã hội có
liên quan trực tiếp đến bản thân người bị hại như sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và quyền sở hữu trí tuệ, hoặc tội phạm nghiêm trọng nhưng việc xử lý
bằng biện pháp hình sự có thể mang lại những hậu quả không mong muốn cho
bị hại.
- Điều kiện để khởi tố vụ án hình sự, cũng như chấm dứt việc giải quyết
vụ án hình sự phụ thuộc ý chí của bị hại. Chỉ bị hại (hoặc người đại diện trong
trường hợp luật định) có yêu cầu thì vụ án mới được khởi tố. Ngoài ra, khi bị
hại rút yêu cầu thì đó là cơ sở để chấm dứt việc truy cứu TNHS đối với người
thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, nhưng giới hạn ở một số giai đoạn tố
tụng nhất định. Yêu cầu của bị hại có thể thể hiện qua đơn yêu cầu hoặc biên
bản ghi lời khai.
1.2.2.2. Ý nghĩa của việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
Có những ý nghĩa chung của khởi tố vụ án. Ngoài ra, khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu bị hại có những ý nghĩa riêng sau:
- Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại nhằm đáp ứng lợi ích
của bị hại, phù hợp với lợi ích chung toàn xã hội. Trong nhiều trường hợp,
đưa người phạm tội ra xử lý sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của bị hại, hoặc
ảnh hưởng đến mối quan hệ đặc biệt vốn có giữa bị hại và người phạm tội,
không có lợi cho lợi ích chung của toàn xã hội.
16
- Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại đảm bảo tôn trọng
quyền con người, quyền và lợi ích của cá nhân. Không mâu thuẫn với nguyên
tắc pháp chế, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
- Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại vừa đạt mục tiêu ổn
định xã hội, vừa bảo vệ và thỏa mãn lợi ích của bị hại. Đây là sự kết hợp giữa
lợi ích chung của toàn xã hội và lợi ích của bị hại.
1.3. Cơ sở việc quy định chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của bị hại trong pháp luật hình sự Việt Nam
Chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại lần đầu tiên
được ghi nhận trong BLTTHS năm 1988, sau đó được phát triển, và hoàn
thiện hơn trong BLTTHS năm 2003, đến thời điểm hiện tại là BLTTHS năm
2015. Việc ghi nhận chế định này xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn sau
đây.
1.3.1. Cơ sở lý luận
Pháp luật hình sự và tố tụng hình sự của bất cứ quốc gia nào cũng đều
có nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm, trong đó trách nhiệm của cơ
quan, người có thẩm quyền tố tụng là phát hiện và xử lý kịp thời mọi hành vi
phạm tội, nhằm bảo vệ chế độ chính trị, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất
định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, pháp luật quy định
cho phép bị hại lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố vụ án đối
với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. sau đó vụ án
được giải quyết theo thủ tục chung. “Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà
nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện
hành vi có dấu hiệu tội phạm. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước
giao cho một cơ quan thay mặt Nhà nước thực hiện để phát hiện tội phạm và
truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội” [17, tr 40].
17
Từ nội hàm khái niệm “quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc tội) đối với người thực hiện
hành vi có dấu hiệu tội phạm” đã nêu trên, có thể thấy “tư tố” chính là hoạt
động buộc tội do cá nhân (tư nhân) thực hiện, và quyền “tư tố” là quyền của
cá nhân được Nhà nước cho phép nhằm thực hiện việc buộc tội đối với người
thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm. Tuy nhiên quyền “tư tố” nằm trong
giới hạn và không làm mất đi quyền công tố của Nhà nước.
PLTTHS Việt Nam, khi quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại qua
lịch sử lập pháp các giai đoạn đều có sự tiếp thu, kế thừa những điểm tiến bộ
trong quy định của pháp luật của các quốc gia trên thế giới, thường được áp
dụng đối với hành vi phạm tội có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp, thuộc
nhóm tội xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và một số quyền nhân
thân của con người. Khi CQTHTT ban hành quyết định khởi tố vụ án thì sẽ
tiến hành để giải quyết theo thủ tục thông thường và quyền công tố của Nhà
nước chính thức phát sinh, và nếu bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì
CQTHTT sẽ đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật nếu bị hại hoàn toàn
tự nguyện, không bị ép buộc. Đây là quy định nhằm thực hiện bảo vệ quyền
con người.
1.3.2. Cơ sở thực tiễn
Từ năm 1986, sau một thời gian dài đất nước trải qua chiến tranh và
thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Đảng ta đã thực hiện chính sách
đổi mới cả kinh tế và chính trị. Nền kinh tế tập trung được chuyển hướng theo
kinh tế thị trường, trong lĩnh vực chính trị, tiến trình dân chủ hoá đã được
triển khai cả về bề rộng và chiều sâu, tính công khai, dân chủ, ý thức về công
bằng xã hội đã được xây dựng và phát triển mạnh mẽ trong toàn xã hội.
Những thay đổi của kinh tế và chính trị, kéo theo những thay đổi về hệ thống
pháp luật, trong đó có PLTTHS. Lần đầu tiên, trong lịch sử lập pháp, Nhà
nước ta đã pháp điển hóa BLTTHS năm 1988, có hiệu lực thi hành từ ngày
18
01/01/1989, tổng kết kinh nghiệm của hơn 40 năm lập pháp tố tụng hình sự
sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập từ năm 1945 đến
năm 1988. Đồng thời các nhà lập pháp Việt Nam đã có sự học hỏi kinh
nghiệm, tiếp thu những tiến bộ của các hệ thống pháp luật trên thế giới về tố
tụng hình sự trong đó có chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại và
vận dụng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh Việt Nam, với mục đích mở rộng
dân chủ, quyền của bị hại trong tố tụng hình sự nói riêng, góp phần vào việc
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo cân bằng lợi ích giữa chung
và riêng, giữa lợi ích công và lợi ích của cá nhân.
Mặc khác, sau đổi mới bên cạnh mở rộng dân chủ, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN thì việc hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi hệ thống pháp
luật của các quốc gia có sự giao thoa, học hỏi, tiếp nhận lẫn nhau, cân nhắc
cho phù hợp với truyền thống chính trị - pháp lý, điều kiện thực tiễn của nền
tư pháp đang từng bước chuyển đổi và tính chất của nền dân chủ XHCN Việt
Nam đáp ứng yêu cầu mở rộng dân chủ là hết sức cần thiết, nhưng vẫn phải
đảm bảo mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện và xử lý kịp thời, bảo vệ
chế độ chính trị, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức, bị hại không thể thay thế Nhà nước quyết định việc buộc tội,
đưa một người ra xét xử tại TA. Vì vậy, phương án cho phép bị hại có quyền
yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố đối với một số vụ án, còn việc giải quyết
vụ án tiếp theo vẫn được tiến hành theo thủ tục chung là phương án phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội và thực trạng nền tư pháp Việt Nam.
- Thực tiễn tố tụng hình sự và về mặt xã hội cho thấy, việc quy định
chế định khởi tố theo yêu cầu của bị hại tạo nên sự ổn định về mặt xã hội, do
thông thường những trường hợp này gây thiệt hại không lớn về thể chất và
tinh thần cho bị hại và trật tự xã hội. Nếu đưa người phạm tội ra xử lý mà việc
xử lý này trái ý muốn bị hại thì gây bất ổn trong mối quan hệ xã hội, gây ra
nhiều hệ lụy không tốt, thậm chỉ gây ra sự cản trở, không hợp tác từ các bên.
19
Nói cách khác, trong một số trường hợp quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu
của bị hại đạt được nhiều lợi ích, phù hợp với nguyện vọng của bị hại, không
gây tốn kém sức lực của cơ quan, người tiến hành tố tụng, đảm bảo ổn định xã
hội và không ảnh hưởng lớn tới trật tự công, pháp chế XHCN.
1.4. Quy định của PLTTHS Việt Nam về chế định khởi tố vụ án
theo yêu cầu của bị hại từ năm 1945 đến trước khi có BLTTHS năm 2015
1.4.1. Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại trong PLTTHS thời
kỳ sau Cách mạng Tháng 8/1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm
1988
Thời gian đầu, do Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được
thành lập, để bảo đảm an ninh trật tự, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc
lệnh số 47 ngày 10/10/1945 cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ
Luật hình An Nam, Hoàng Việt hình luật và Hình luật pháp tu chỉnh, với điều
kiện “chỉ thi hành khi nào không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt
Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”. Giai đoạn sau này, Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã dần ban hành các văn bản mới về hình sự và tố tụng để
thay thế pháp luật chế độ cũ, trong đó có một số quy định liên quan đến yêu
cầu của đương sự, người bị hại. Ví dụ: Điều 17, Điều 18 Sắc lệnh số 85/SL
ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về cải cách
bộ máy Tư pháp.
Ngày 27/9/1974, TA tối cao ban hành Thông tư số 16/TATC, người bị
hại có quyền: Được đề xuất chứng cứ và những lời thỉnh cầu; được yêu cầu
bồi thường và yêu cầu áp dụng những biện pháp nhằm đảm bảo bồi thường;
được xin thay đổi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân; được tham gia các cuộc
thẩm vấn và tranh luận tại phiên tòa về những sự việc đã gây thiệt hại cho
mình; được kháng tố theo những quy định của pháp luật để xin tăng hình phạt
đối với bị cáo và tăng tiền bồi thường. Có trường hợp người bị hại không yêu
cầu bồi thường, nhưng trong trường hợp người bị hại có yêu cầu bồi thường
20
thì họ cũng có quyền của nguyên đơn dân sự. Nếu việc phạm pháp đã gây ra
chết người thì cha, mẹ, vợ, con, anh, chị, em ruột của người bị hại đều có
những quyền của người bị hại nói trên [26, tr. 46].
Ngoải ra, Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ 76 thẩm về hình sự ban
hành theo Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TA tối cao, xác định:
Người bị hại là công dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất,
tài sản, hoặc xâm hại về tinh thần (như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp, lừa
đảo...). Người đã can thiệp để ngăn cản bị cáo đánh, giết người khác nhưng
bản thân cũng bị kẻ phạm pháp gây thương tích, hoặc người có nhà cửa bị
cháy vì bị cáo đốt nhà của người khác nhưng đám cháy lan sang nhà của họ,
cũng là người bị xâm hại trực tiếp đến thể chất, tài sản [26, tr. 46].
Như vậy, trước khi BLTTHS năm 1988 được ban hành thì hệ thống
pháp luật nhà nước ta tuy có một số văn bản pháp luật nói về người bị hại
trong vụ án hình sự nhưng về cơ bản vai trò của người bị hại trong giải quyết
vụ án hình sự không được đề cập nhiều, chưa có một chế định cụ thể nào quy
định về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại, do quan niệm: Quan hệ pháp
luật hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội và chỉ có Nhà nước
mới có quyền khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội, buộc người
phạm tội phải chịu trách nhiệm tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm
của tội phạm mà họ đã gây ra.
1.4.2. Quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
trong BLTTHS năm 1988 và năm 2003
* Quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại theo BLTTHS năm
1988
BLTTHS năm 1988 đã chính thức ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu của người bị hại tại Chương 7, Điều 88 cụ thể:
“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 109;
đoạn 1, khoản 1 Điều 112; đoạn 1, khoản 1 Điều 113; khoản 1 Điều 116;
21
khoản 1 Điều 117 và Điều 126 Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu
cầu của người bị hại.
2. Trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà
thì vụ án phải được đình chỉ.” [20].
Việc BLTTHS năm 1988, ghi nhận chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu
của người bị hại có ý nghĩa lớn lao về mặt pháp lý và xã hội, kết hợp hài hòa
giữa quyền lợi của người bị hại với lợi ích công. Tuy nhiên, quy định của
BLTTHS năm 1988 về chế định này vẫn còn khá đơn giản, chưa chặt chẽ, và
còn khá chung chung, đòi hỏi cần được tiếp tục hoàn thiện.
* Quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại theo BLTTHS năm
2003
Trong BLTTHS năm 2003 thì khởi tố theo yêu cầu bị hại được quy
định tại Điều 105:
“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều
104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình
sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện
hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày
mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ. Trong trường hợp có căn
cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn
của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng
đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ
trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức”. [21].
Như vậy, BLTTHS năm 2003 đã mở rộng hơn các tội khởi tố vụ án
theo yêu cầu của người bị hại thành 11 tội. Bên cạnh các tội được quy định
22
trong BLTTHS năm 1988 thì bổ sung thêm các tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; tội vô ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tội vô ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính. Phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
theo quy định của BLTTHS năm 2003 rộng hơn so với BLTTHS năm 1988
chỉ quy định người bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Đồng thời có quy định mới so với BLTTHS 1988, đó là người bị hại rút
yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do
bị ép buộc, cưỡng bức.
Như vậy, BLTTHS năm 2003 đã có những sửa đổi mới, chặt chẽ và
đầy đủ hơn so với quy định của BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên, quy định của
BLTTHS năm 2003 về khởi tố theo yêu cầu người bị hại vẫn hạn chế quyền
của người bị hại, chưa phù hợp với thực tiễn như: BLTTHS năm 2003 chưa
quy định trường hợp bị hại đã chết thì người đại diện của họ có quyền yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự, chưa quy định cơ quan, tổ chức cũng là bị hại trong vụ
án hình sự.
Tiểu kết Chương 1
Thông qua Chương 1 của Luận văn, tác giả đã lần lượt phân tích làm rõ
khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu của bị hại, cũng như phân tích cơ sở của việc quy định chế
định này trong PLTTHS. Đồng thời, tác giả cũng phân tích làm rõ lịch sử quá
trình lập pháp quy định chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong
PLTTHS Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi có BLTTHS năm 2015.
Những phân tích trong Chương 1 của Luận văn là cơ sở để tác giả phân tích
quy định của BLTTHS hiện hành về chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu
23
cầu của bị hại và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh tại Chương 2 của Luận
văn.
24
Chương 2
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI TRONG
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC NINH
2.1. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong pháp luật
hiện hành
Trong pháp luật hiện hành, thì chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị
hại được quy định tại Điều 105 BLTTHS năm 2015:
“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều
104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình
sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện
hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày
mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút
yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người
đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn
có thể tiếp tục tiến hành quá trình tố tụng.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ
trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức” [22].
Khoản 1, khoản 3 Điều 62 của BLTTHS năm 2015 quy định: “Bị hại là
cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ
chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”.
“Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người
đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa” [22].
Như vậy, trong BLTTHS năm 2015 quy định “rộng và mở” hơn về khái
niệm bị hại không chỉ gồm cá nhân như PLTTHS trước đó, mà còn bao gồm
25
cả cơ quan, tổ chức; mở rộng thời điểm thực hiện quyền rút yêu cầu khởi tố
thì vụ án phải được đình chỉ so với trước đây nhằm khắc phục nhiều điểm hạn
chế, bất cập, gây ra những khó khăn nhất định cho các CQTHTT trong quá
trình áp dụng vào thực tiễn. Quy định này đã mở rộng quyền con người,
quyền công dân trong tố tụng hình sự, người đã yêu cầu khởi tố có quyền rút
yêu cầu khởi tố ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (bao gồm cả xét
xử phúc thẩm). Trong bốn giai đoạn này, nếu người đã yêu cầu khởi tố rút yêu
cầu khởi tố thì vụ án phải được đình chỉ (nếu họ tự nguyện và không bị ai ép
buộc).
Ngoài ra, một quy định mới khác của BLTTHS năm 2015 về khởi tố vụ
án theo yêu cầu của người bị hại là tại khoản 1 Điều 155 đã bỏ một tội được
khởi tố theo yêu cầu người bị hại là tội “Xâm phạm quyền tác giả” (Khoản 1
Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định tội này chỉ được khởi tố khi có yêu
cầu của người bị hại). Quy định này là hợp lý vì hiện nay quyền tác giả đang
bị xâm phạm ngày càng nhiều và nghiêm trọng cần được bảo vệ mà không
cần phải có yêu cầu của người bị hại nhằm bảo vệ tốt hơn quyền tác giả,
quyền liên quan và phù hợp với tình hình mới.
Ngoài ra nội hàm từng tội danh khởi tố theo yêu cầu bị hại cũng được
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bổ sung để phù hợp với thực
tiễn đấu tranh, phòng chống những tội phạm này. Đồng thời, BLTTHS năm
2015 còn bổ sung trường hợp nếu bị hại từ chối giám định theo quyết định
trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất
khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải (điểm b
khoản 2 Điều 127 BLTTHS năm 2015), quy định này đã khắc phục được thực
tế trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại, đặc biệt là các vụ liên quan đến
cố ý gây thương tích, hiếp dâm…bị hại từ chối giám định, gây khó khăn cho
các cơ quan tố tụng.
26
2.1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
bị hại
Điều 62 BLTTHS năm 2015, quy định “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về
tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”.
Tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố
vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138,
139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại
hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết” [22].
Như vậy, chủ thể có quyền yêu cầu theo BLTTHS năm 2015 hiện nay
là cá nhân (trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản); cơ quan, tổ
chức (bị thiệt hại về tài sản, uy tín) và đại diện của bị hại là người dưới 18
tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
* Về chủ thể là cá nhân và người đại diện của bị hại là người dưới 18
tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
- Về bị hại là cá nhân:
Khi thực hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại, cần
đảm bảo hai yếu tố sau:
+ Về khách quan: Là người trực tiếp bị tội phạm gây ra thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản hoặc đe dọa gây ra. Đây là yếu tố mang tính khách
quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của CQTHTT. Nói cách khác, đây
là người bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm
tội là trực tiếp gây ra hoặc đe dọa gây thiệt hại cho chủ thể này (đối tượng mà
người phạm tội trực tiếp hướng đến để gây thiệt hại. Đây là điểm cơ bản để
phân biệt với nguyên đơn dân sự bị thiệt hại gián tiếp từ hành vi phạm tội,
mục đích của người phạm tội không nhằm trực tiếp gây ra thiệt hại cho họ.
27
+ Về chủ quan: Họ (người trực tiếp bị tội phạm gây ra thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản hoặc đe dọa gây ra) phải được CQTHTT (CQĐT, VKS,
TA) xác nhận, công nhận họ với tư cách bị hại và đưa vào tham gia tố tụng
trong vụ án. CQTHTT phải thừa nhận cá nhân là bị hại trước khi chấp nhận
các yêu cầu của họ. Vì chỉ sau khi đã xác định tư cách pháp lý của người bị
hại (thừa nhận, công nhận là người bị hại) thì mới xem xét giải quyết yêu cầu
của người bị hại (yêu cầu khởi tố vụ án hình sự hay không yêu cầu khởi tố vụ
án hình sự) theo quy định của BLTTHS năm 2015.
- Người đại diện của người bị hại là người dưới 18 tuổi, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết:
Đây là những trường hợp đặc biệt mà theo đó bị hại đều là những người
chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tâm, sinh lý, hoặc do có đặc điểm về
tâm thần và thể chất nên gặp khó khăn trong việc điều chỉnh, làm chủ hành vi
của mình, chưa có đủ năng lực để cân nhắc quyết định các quyền của mình
mà pháp luật cho phép trong tố tụng hình sự liên quan đến trường hợp khởi tố
vụ án hình sự theo yêu cầu của họ.
Về điều kiện để có thể yêu cầu khởi tố vụ án:
+ Đối với người đại diện cho người dưới 18 tuổi. Quy định này cần
được hiểu là người đại diện theo pháp luật của người dưới 18 tuổi. Theo quy
định của BLDS năm 2015 có thể là cha, mẹ đối với người chưa thành niên;
người giám hộ đối với người được giám hộ là người dưới 18 tuổi và đáp ứng
các yêu cầu theo BLDS năm 2015 (Ví dụ: Cá nhân có đủ các điều kiện sau
đây có thể làm người giám hộ: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Có tư cách
đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người
giám hộ; Không phải là người đang bị truy cứu TNHS hoặc người bị kết án
nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác; Không phải là người
bị TA tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.
28
Việc xác định tuổi của bị hại dưới 18 tuổi được xác định theo quy định
tại Điều 417 BLTTHS năm 2015.
“1. Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới
18 tuổi do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định
của pháp luật.
2. Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác
định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định:
a) Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày
thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
b) Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày,
tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày,
tháng sinh.
c) Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được
ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó
làm ngày, tháng sinh.
d) Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày,
tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày,
tháng sinh.
3. Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám
định để xác định tuổi” [22].
+ Trường hợp thứ hai: Người bị hại là người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất.
Người có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì hiện nay BLTTHS năm
2015 không có quy định và cũng không có văn bản nào hướng dẫn. Tuy
nhiên, có thể hiểu người có nhược điểm về tâm thần, thể chất là người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, tức là người do tình trạng thể chất
(như mù, câm, điếc, tàn tật…) hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi, vì thế cần
29
thiết phải có người đại diện. Việc xác nhận dấu hiệu người có nhược điểm về
thể chất hoặc tâm thần phải thực hiện theo quy định của BLDS.
* Bị hại là cơ quan, tổ chức
Để trở thành bị hại trong tố tụng hình sự thì cơ quan, tổ chức cần đảm
bảo điều kiện sau đây:
+ Về khách quan: Thiệt hại gây ra cho cơ quan, tổ chức là tài sản, uy
tín, là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân
quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại. Đây là điều kiện
quan trọng để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự
khác trong vụ án hình sự.
+ Về chủ quan: Cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng
với tư cách là bị hại khi và chỉ khi được CQTHTT công nhận.
+ Nếu bị hại là cơ quan, tổ chức thì đại diện theo pháp luật của cơ quan,
tổ chức tham gia với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại. Trường hợp
người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức không thể tham gia tố tụng
được thì cơ quan, tổ chức phải cử người khác làm đại diện hợp pháp của bị
hại và có những quyền của bị hại. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi
người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng.
Đối chiếu với quy định tại Điều 105 BLTTHS năm 2015 về khởi tố vụ
án theo yêu cầu bị hại thì cơ quan, tổ chức chỉ có thể là chủ thể yêu cầu khởi
tố trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 226 BLHS năm 2015 (tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp) vì các tội khác đối tượng chỉ có thể là cá
nhân.
30
2.1.2. Phạm vi các tội phạm được yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu
của bị hại
Khoản 1 Điều 155 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội
phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155,
156 và 226 của Bộ luật hình sự...” [22].
Cụ thể: + Khoản 1 Điều 134 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác): Đây là trường hợp một người có hành vi cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các
trường hợp: a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ
02 người trở lên; b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; c) Gây cố tật nhẹ
cho nạn nhân; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;
e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm
đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; g) Đối với ông, bà, cha, mẹ,
người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình; h) Có tổ chức; i) Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn; k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm
giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt
buộc; l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê; m) Có tính chất côn đồ; n) Tái phạm
nguy hiểm; o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của
nạn nhân. Đây là tội phạm ít nghiêm trọng, người phạm tôi thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
+ Khoản 1 Điều 135 BLHS (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh):
Đây là trường hợp một người có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% nhưng
31
ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích
của người đó. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình phạt tiền từ 10.000.000 đồng
đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
+ Khoản 1 Điều 136 BLHS (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc
do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội): Đây là trường hợp
một người có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm
tội. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của
mình hoặc của người khác, đã có hành vi chống trả lại người đang có hành vi
xâm phạm các lợi ích nói trên nhưng sự chống trả đó rõ ràng quá mức cần
thiết, không phù hợp, không tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi xâm hại. Vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm
tội là hành vi gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của người bị bắt giữ,
nhưng đã sử dụng vũ lực vượt quá mức độ cần thiết khi bắt giữ người phạm
tội. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
+ Khoản 1 Điều 138 BLHS (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác): Là trường hợp một người vô ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
31% đến 60%. Đây là tội ít nghiêm trọng, hình phạt cảnh cáo, phạt tiền từ
5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm.
+ Khoản 1 Điều 139 BLHS (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
32
hành chính): Là trường hợp một người có hành vi vô ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
hoặc quy tắc hành chính mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên. Đây là tội ít
nghiêm trọng, hình phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
+ Khoản 1 Điều 141 BLHS (Tội hiếp dâm): Là trường hợp một người
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. Đây là trường hợp tội
nghiêm trọng, hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
+ Khoản 1 Điều 143 BLHS (Tội cưỡng dâm): Là trường hợp một người
có hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở
trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Đây là tội nghiêm trọng, hình phạt tù từ
01 năm đến 05 năm.
+ Khoản 1 Điều 155 BLHS (Tội làm nhục người khác): Là trường hợp
một người có hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người
khác. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, bị phạt cảnh cáo, phạt tiền
từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm.
+ Khoản 1 Điều 156 BLHS (Tội vu khống): Là trường hợp một người
có hành vi: Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm
xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người khác; Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước
cơ quan có thẩm quyền. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, hình
phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam
giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
33
+ Khoản 1 Điều 226 BLHS (Tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp): Là trường hợp một người cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam, thu lợi
bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại
cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến
dưới 500.000.000 đồng. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, hình
phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm.
2.1.3. Nội dung, hình thức và hậu quả pháp lý của việc yêu cầu khởi
tố vụ án hình sự của bị hại
* Nội dung yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Hiện nay, PLTTHS hiện hành chưa có quy định về nội dung yêu cầu khởi
tố vụ án hình sự, mẫu đơn yêu cầu khởi tố cũng chưa được quy định. Nói cách
khác, bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự liên quan đến họ, giới hạn của
quyền yêu cầu là quyết định khởi tố vụ án (nếu có căn cứ) đối với các tội danh
theo khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015; sau quyết định khởi tố vụ án người bị
hại trong quy định pháp luật khởi tố vụ án hình sự không có quyền riêng biệt, toàn
bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành theo thủ tục chung. Yêu cầu
khởi tố là điều kiện bắt buộc, do đó trong trường hợp phạm vào các tội khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại nêu trên, nếu khởi tố khi không có yêu cầu của
người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của họ được xem là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
* Hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Đây là hình thức phản ánh yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại, là
một trong những tài liệu quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất
mà thiếu nó hoặc không có nó thì không thể xử lý vụ án được. Trong
BLTTHS không đề cập đến hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, tuy
34
nhiên tại Thông tư Liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày
07/9/2018, về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một
số quy định của BLTTHS năm 2015 có quy định về vấn đề này tại khoản 5
Điều 7: “Trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, thì yêu
cầu khởi tố của bị hại hoặc người đại diện của bị hại phải thể hiện bằng văn
bản có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ; trường hợp bị hại hoặc người đại diện
của bị hại đến trực tiếp trình bày thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải lập
biên bản ghi rõ nội dung yêu cầu khởi tố để họ ký hoặc điểm chỉ vào biên bản.
Biên bản do Viện kiểm sát lập phải được chuyển ngay cho Cơ quan điều tra
để xem xét việc khởi tố vụ án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án” [40].
Mặc dù, PLTTHS chưa quy định cụ thể nhưng yêu cầu khởi tố vụ án
hình sự của bị hại phải đảm bảo các nội dụng sau:
+ Chủ thể yêu cầu phải là bị hại hoặc đại diện của bị hại là người dưới
18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất hoặc đã chết
+ Phải có các thông tin sau: Nơi cư trú của bị hại, ngày, tháng, năm
sinh, trình bày tóm tắt nội dung vụ án yêu cầu khởi tố.
+ Bị hại phải điểm chỉ hoặc ký xác nhận cho yêu cầu của mình để thể
hiện sự tự nguyện.
* Hậu quả pháp lý của yêu cầu khởi tố
Khi bị hại có yêu cầu khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự (khi đã đảm bảo các yêu cầu chung để khởi tố vụ án
hình sự), và từ đây vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục chung của BLTTHS.
Trong trường hợp khởi tố vụ án thì tại phiên toà xét xử sơ thẩm, bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của họ sẽ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ, sau khi Kiểm sát viên tiến hành luận tội
thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm
sát viên trình bày luận tội. (khoản 4 Điều 320 BLTTHS năm 2015).
35
Trong tố tụng hình sự chức năng buộc tội tồn tại song song với chức
năng gỡ tội (bào chữa) như là nhu cầu tất yếu khách quan [8, tr.92,93]. “Khi
chưa xác định ai là người thực hiện tội phạm hoặc chưa bắt giữ người trong
trường hợp khẩn cấp thì tố tụng hình sự chưa xuất hiện chức năng bào chữa”
[11, tr.53].
Nói cách khác, hậu quả pháp lý của yêu cầu khởi tố đó là mở ra một
giai đoạn điều tra vụ án hình sự. So với các trường hợp thông thường thì
quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp này cần căn cứ vào căn cứ
pháp lý là yêu cầu của bị hại trong quyết định khởi tố vụ án hình sự, đây là
căn cứ pháp lý quan trọng nhất nên phải được thể hiện rõ trong quyết định
khởi tố vụ án hình sự.
Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự khởi tố
theo yêu cầu của bị hại phải tuân theo các quy định chung về điều tra, truy tố
và xét xử, do đó nếu có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ thì cơ quan có thẩm
quyền vẫn tiến hành theo thủ tục bình thường (trừ trường hợp đình chỉ do bị
hại rút yêu cầu khởi tố, có những quy định riêng tại khoản 2 Điều 155). Đồng
thời, ngoài việc cho phép bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình
bày lời buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm như đã nêu trên thì những vấn đề còn lại
của vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục chung.
2.1.4. Nội dung, hình thức và phạm vi quyền rút yêu cầu khởi tố vụ
án hình sự của bị hại
* Nội dung rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại
BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành không đề cập đến nội
dung và hình thức rút yêu cầu khởi tố vụ án như thế nào. Tuy nhiên, có thể
hiểu nội dung rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là yêu cầu chấm dứt tố tụng
đối với vụ án hình sự đã khởi tố trước đó trên cơ sở khởi tố của của bị hại
hoặc đại diện của bị hại (là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm
thần, thể chất hoặc đã chết).
36
* Về hình thức rút yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại hoặc của người đại
diện hợp pháp của họ
Hình thức phải thể hiện bằng đơn rút yêu cầu có chữ ký hoặc điểm chỉ
của họ. Trường hợp việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự được trình bày trực
tiếp thì CQĐT, VKS và TA phải lập biên bản ghi rõ việc rút yêu cầu khởi tố, có
chữ ký hoặc điểm chỉ của người rút yêu cầu. Tuy nhiên, nội hàm này cần phải
được hiểu thống nhất là việc rút yêu cầu phải được thể hiện bằng một trong hai
cách trên, mà không phải là việc rút (lấy lại) đơn đã yêu cầu trước đó.
- Hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu: Trường hợp người đã yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác
định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép
buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, CQĐT, VKS,
TA vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án [22, Điều 105].
+ Về thẩm quyền đình chỉ: Sau khi khởi tố vụ án hình sự mà bị hại
hoặc người đại diện của họ rút yêu cầu khởi tố, nếu đang điều tra hoặc đã có
bản kết luận điều tra nhưng hồ sơ chưa chuyển cho VKS thì CQĐT xem xét,
quyết định việc đình chỉ điều tra; nếu đã chuyển hồ sơ cho VKS thì VKS xem
xét, quyết định việc đình chỉ vụ án.
Căn cứ Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của
TANDTC, về việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo
quy định tại Điều 155 BLTTHS nêu rõ “Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: Người
đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm
thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45, điểm a khoản 1 Điều
282 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp
người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng
xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ
vào khoản 2 Điều 155, Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định
đình chỉ vụ án; Trường hợp sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm vẫn còn thời
37
hạn kháng cáo, kháng nghị mà người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu
cầu thì Tòa án phải hướng dẫn họ làm đơn kháng cáo để Tòa án cấp phúc
thẩm xem xét giải quyết việc rút yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm”.
+ Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không
có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
[22, Điều 105].
2.2. Khái quát tình hình giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo
yêu cầu bị hại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh các vụ án trong nhóm tội khởi tố theo yêu
cầu bị hại luôn chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng số các vụ án hình sự. Theo
số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh trong 05 năm, từ năm 2015 đến
năm 2019, TAND tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra xét xử tổng số 4.945 vụ án, 9.879
bị cáo. Trong số đó các vụ án liên quan đến khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị
hại, được thống kê (Xem bảng 2.1 phần Phụ lục)
Xét tương quan giữa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội
phạm khởi tố theo yêu cầu bị hại trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến
năm 2019 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy số lượng các vụ án được khởi
tố trong nhóm này chiếm tỉ lệ cao trong số tội đưa ra xét xử. Trong đó, cao
nhất vào năm 2017 với 197 vụ án, 238 bị cáo, chiếm tỉ lệ 23,2 % về số vụ và
14,1 % về số bị cao, thấp nhất vào năm 2019 với 177 vụ án và 216 bị cáo
chiếm tỉ lệ 12,7 % về số vụ và 9,6 % về số bị cáo. Nguyên nhân do tỉ lệ tội
phạm đưa ra xét xử năm 2019 tăng mạnh, một phần chủ yếu do bị hại thỏa
thuận được với người bị tình nghi phạm tội nên đã không yêu cầu khởi tố,
nguyên nhân khác do tội phạm chủ yếu thuộc cấu thành tăng nặng theo khoản
2 trở lên không còn thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại.
Qua bảng thống kê (xem bảng 2.2 phần phụ lục) nêu trên cho thấy,
trong nhóm tội khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì tội cố ý gây thương tích và
gây tổn hại cho sức khỏe người khác luôn chiếm tỉ lệ cao nhất so với các tội
38
phạm khác. Cụ thể, năm 2015 có 49 vụ với 93 bị cáo, năm 2016 có 47 vụ với
84 bị cáo, năm 2017 có 42 vụ với 61 bị cáo, đến năm 2018 tăng lên 45 vụ với
80 bị cáo, năm 2019 có giảm đi nhưng không đáng kể với 43 vụ và 61 bị cáo.
Sau đó đến các tội khác như tội hiếp dâm, tội vô ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điều này cho thấy sự phức tạp của hai
loại tội này trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Qua bảng số liệu (bảng 2.3 phần phụ lục) trên cho thấy, số vụ án bị
đình chỉ do bị hại rút đơn chiếm tỉ lệ cao trong số các vụ án khởi tố theo yêu
bị hại đưa ra xét xử. Nguyên nhân là do phía người phạm tội và gia đình họ
trong giai đoạn xét xử đã bồi thường thiệt hại một cách thỏa đáng. Cá biệt có
trường hợp bị hại lợi dụng quyền yêu cầu khởi tố vụ án, rút yêu cầu khởi tố vụ
án để trục lợi. Một số trường hợp, bị hại bị đe dọa buộc phải rút yêu cầu khởi
tố. Trường hợp này, theo quy định dù người bị hại rút yêu cầu song CQTHTT
vẫn tiếp tục giải quyết vụ án. Tuy nhiên, thực tế việc chứng minh bị hại bị đe
dọa, ép buộc không phải là vấn đề đơn giản.
2.3. Những kết quả đạt được và một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn
giải quyết vụ án hình sự liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại
2.3.1. Những kết quả đạt được
- Việc vận dụng pháp luật trong áp dụng các quy định về khởi tố theo
yêu cầu của bị hại đạt nhiều kết quả tích cực, qua khảo sát các vụ án mà
CQTHTT giải quyết liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại đều giải quyết
đúng trình tự, thủ tục, định tội danh đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Năng lực trình độ, ý thức trách nhiệm của lãnh đạo, cán bộ, công chức
của Cơ quan tố tụng tỉnh ngày càng được nâng cao. Cơ sở vật chất, trang thiết
bị, phương tiện làm việc và chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức đã
được quan tâm đầu tư, hoàn thiện. Tất cả những lý do đó góp phần tạo lòng
tin và tư tưởng yên tâm công tác của cán bộ, công chức cơ quan tư pháp.
39
- Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp được củng cố và tăng
cường, đã giải quyết dứt điểm, nghiêm minh nhiều vụ việc, vụ án khó khăn.
Các CQTHTT tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy
định của pháp luật, hạn chế oan, sai và bỏ lọt tội phạm, bảo đảm tốt quyền và
lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, bảo đảm tính minh bạch, khách quan trong tố tụng
hình sự.
- Qua thực tiễn giải quyết các vụ án tại tỉnh Bắc Ninh cho thấy, đa số
các trường hợp CQTHTT tỉnh Bắc Ninh, đặc biệt là Cơ quan Cảnh sát điều tra
luôn nhận được sự tích cực phối hợp của bị hại trong việc cung cấp hồ sơ, tài
liệu và lấy lời khai, đặc biệt là công tác giám định liên quan đến việc cố ý gây
thương tích và gây tổn hại sức khỏe.
Ví dụ: Bản án số 32/2019/HSST ngày 23/01/2019 về tội cố ý gây
thương tích của TAND thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh [28]
Thực hiện Kế hoạch số 28/KH-ATGT ngày 10/8/2018 của UBND
thành phố Bắc Ninh, về việc tổ chức tháng cao điểm bảo đảm an toàn giao
thông (tháng 9/2018); Kế hoạch số 04/KH/QLTTĐT ngày 29/6/2018 của Đội
quản lý trật tự đô thị thành phố Bắc Ninh, về việc thực hiện công tác trật tự đô
thị, trật tự xây dựng trên địa bàn thành phố Bắc Ninh và Kế hoạch số 29/KH-
QLĐT, ngày 27/8/2018 của UBND phường Vân Dương thành phố Bắc Ninh,
về việc thực hiện Thông báo số 83/TB-UBND ngày 23/8/2018 của UBND
phường Vân Dương và lịch ra quân đảm bảo trật tự đô thị, trật tự xây dựng và
an toàn giao thông tháng 9/2018. Ngày21/9/2018 Đội quản lý trật tự đô thị
thành phố Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh đã phân công đồng chí: Nguyễn Văn D
làm Tổ trưởng; các đồng chí: Nguyễn Văn Th, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Chung
C và Trần Đức Tr làm tổ viên phối hợp cùng UBND phường Vân Dương thực
hiện kiểm tra, xử lý vi phạm về trật tự đô thị trên địa bàn phường Vân Dương.
Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 21/9/2018, tổ công tác có mặt tại chợ Lãm
40
Làng, phường Vân Dương để làm nhiệm vụ. Tổ công tác phát hiện có 04 hộ
bày bán hàng ở vỉa hè phía trước cổng chợ (khu vực cấm bán hàng), trong đó
có hộ bà Nguyễn Thị Đ đang bày bán thịt lợn. Tổ công tác đã tuyên truyền,
giải thích, nhắc nhở và yêu cầu các hộ vi phạm di chuyển vào trong chợ bán
hàng, nếu không chấp hành thì sẽ bị xử lý theo quy định. Sau đó Tổ công tác
tiếp tục di chuyển đến địa điểm khác để thực hiện nhiệm vụ. Đến khoảng hơn
09 giờ cùng ngày, tổ công tác quay lại cổng chợ Lãm Làng thì thấy 03 hộ đã
di chuyển vào trong khu vực bán hàng theo quy định. Bà Đ vẫn bán hàng tại
khu vực cấm bán hàng. Tổ công tác tiếp tục nhắc nhở bà Đ nhưng bà Đ vẫn
không chấp hành. Tổ công tác đã lập biên bản vi phạm hành chính, thu của bà
Đ: 01 chiếc ô, ghế, cân, quạt và 01 con dao chọc tiết lợn, mũi dao đã bị sứt để
lên thùng xe chuyên dụng. Bà Đ đứng đằng sau thùng xe giằng co để lấy lại
đồ vật bị thu. Lúc này, Nguyễn Xuân H là con trai bà Đ thấy Tổ công tác thu
giữ tài sản của mẹ mình đã xông vào lấy được 01 con dao (loại dao chọc tiết
lợn) có lưỡi dao dài khoảng 30cm, chuôi dao bằng nhựa, dài khoảng 07cm,
chỗ rộng nhất của lưỡi dao rộng khoảng 06cm, mũi dao đã bị cụt (con dao này
là dao của bà Đ dùng để thái thịt đã bị Tổ công tác thu), để ở trên xe của Tổ
công tác. H đã dùng tay trái cầm con dao trên chém 01 phát từ trái sang phải
vào vùng chẩm cổ của anh Nguyễn Chung C làm anh C bị thương, rách da,
chảy máu ở vùng chẩm cổ. Anh C bỏ chạy. Sau đó H tiếp tục dùng dao đuổi
các thành viên trong Tổ công tác đến ngã tư Lãm Làng, phường Vân Dương
nhưng H không đuổi kịp. Sau đó H quay lại đưa con dao dùng để đuổi, đánh
các thành viên Tổ công tác lại cho bà Đ. Bà Đ để dao ở cổng chợ Làm Làng,
sau đó ai cầm dao thì bà Đ không biết. Sau khi sự việc xảy ra, Tổ công tác đã
thông báo cho lực lượng Công an đến giải quyết.
Ngày 29/9/2018, anh Nguyễn Chung C đã có đơn trình báo sự việc và
yêu cầu khởi tố vụ án đối với sự việc trên và tích cực hợp tác với Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh.
41
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 167/Tgt ngày
18/10/2018 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bắc Ninh kết luận: Sẹo
vùng chẩm cổ dài 03cm, rộng 0,2cm. Áp dụng chương 9, tổn thương cơ thể
do tổn thương phần mềm. Phần I, sẹo vết thương phần mềm. Mục I, số lượng
sẹo ít, kích thước nhỏ = 2%. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích
gây nên tại thời điểm giám định đối với anh Nguyễn Chung C là 2%. Cơ chế
hình thành vết thương do tác động ngoại lực bởi vật sắc.
Với nội dung trên tại Bản cáo trạng số 303 ngày 30/11/2018 của
VKSND thành phố Bắc Ninh đã truy tố Nguyễn Xuân H về tội "Cố ý gây
thương tích "Theo điểm a, i, k khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã ra bản án tuyên bị cáo
Nguyễn Xuân H phạm tội "Cố ý gây thương tích "theo điểm a, i, k khoản 1
Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017; Điều 329 BLTTHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Xuân H 10
(Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 21/9/2018.
Nhận xét: Trên đây là một vụ án điển hình về khởi tố vụ án theo yêu
cầu bị hại mà CQTHTT ở tỉnh Bắc Ninh giải quyết vụ án rất nhanh và thuận
lợi do nhận được sự hợp tác của bị hại, đặc biệt trong vấn đề giám định xác
định tỷ lệ thương tật.
2.3.2. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn quá trình giải quyết vụ
án hình sự liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, trong quá trình giải quyết vụ án liên
quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại. CQĐT nói riêng và CQTHTT của
tỉnh Bắc Ninh vẫn gặp phải những khó khăn, vướng mắc phổ biến như:
- Một số trường hợp trong quá trình giải quyết nguồn tin tội phạm và
điều tra vụ án hình sự, đặc biệt đối với những vụ việc liên quan đến cố ý gây
42
thương tích, bị hại không hợp tác, không đi giám định để xác định tỉ lệ thương
tích, đã gây khó khăn cho hoạt động điều tra của CQĐT, nhiều trường hợp
CQĐT không có căn cứ để xử lý hình sự mà chỉ có thể xử phạt vi phạm hành
chính.
Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy vẫn còn một số trường
hợp “lạm quyền” và “vượt quyền” của CQTHTT khi khởi tố điều tra các vụ
án mà theo quy định tại Điều 104 BLTTHS năm 2003 (Điều 134 BLTTHS
năm 2015), đặc biệt là các vụ việc liên quan đến cố ý gây thương tích, án hiếp
dâm. CQTHTT khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm, đặc biệt là vụ việc cố ý
gây thương tích có sử dụng công cụ, phương tiện nguy hiểm (dao, kiếm...),
mặc dù chưa có kết luận giám định tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức
khỏe của nạn nhân, nhưng qua nhận định ban đầu về tính chất thương tích,
tình trạng nạn nhân và công cụ, phương tiện có tính nguy hiểm nên CQTHTT
vẫn tiến hành khởi tố vụ án hình sự để điều tra, áp dụng một số hoạt động
điều tra theo quy định mà giai đoạn giải quyết nguồn tin không được áp dụng
như nhận dạng, thực nghiệm điều tra...về mặt pháp lý đây là trường hợp ‘‘lạm
quyền” do khi chưa có kết quả giám định pháp y về tỷ lệ phần trăm tỷ lệ
thương tích của nạn nhân thì không thể có cơ sở kết luận hành vi thuộc khoản
1, khoản 2 để tiến hành khởi tố vụ án và nếu hành vi thuộc khoản 1 thì bắt
buộc phải có yêu cầu của bị hại mới được tiến hành khởi tố vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, cũng có trường hợp để lách quy định về yêu cầu khởi tố bị hại,
CQTHTT khởi tố vụ án hình sự theo khoản 2, sau khi có quyết định trưng cầu
giám định và căn cứ kết quả giám định xác định vụ việc được khởi tố, điều tra
theo yêu cầu bị hại hay theo thủ tục chung. Đây là những trường hợp “lạm
quyền”, “vượt quyền” của CQTHTT, nguyên nhân xuất phát từ việc một số
trường hợp bị hại không hợp tác, không đi giám định, buộc CQTHTT phải
khởi tố vụ án làm cơ sở áp dụng biện pháp dẫn giải bị hại; hoặc đây là biện
pháp nghiệp vụ để điều tra đối với những vụ việc đối tượng có lai lịch bất
43
minh cần phải khởi tố vụ án để áp dụng biện pháp điều tra, biện pháp cưỡng
chế.... hoặc xuất phát từ nhận thức pháp luật còn hạn chế của một số cán bộ
cơ quan tư pháp.
Ví dụ: Bản án số 271/2018/HS-ST ngày 14/9/2018 về tội cố ý gây
thương tích của TAND thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh [30].
Khoảng 19h30’ ngày 07/3/2018, tại khu T, phường K, thành phố Bắc
Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Văn M (sinh năm 1983; hộ khẩu thường trú:
Khu T, phường K, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh), có hành vi dùng chân
tay không đánh chị Đinh Thị T (sinh năm 1982, hộ khẩu thường trú khu 3 A,
thành phố T, tỉnh Tuyên Quang) và dùng dao loại dao bầu và dao nhọn có
chuôi bằng gỗ đâm, chém vào vùng lưng, tay, chân của chị T và gây thương
tích cho chị Đinh Thị T là 14% (không tính phần thương tích rách niệu quản).
Bị M đánh, chị T bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh
Bắc Ninh từ ngày 07/3/2018 đến ngày 18/3/2018, sau đó chị T được chuyển
đến Bệnh viện Việt Đ tại Hà Nội để tiếp tục điều trị từ ngày 18/3/2018 đến
ngày 28/3/2018, sau đó chị T được chuyển về Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên
Quang điều trị từ ngày 28/3/2018 đến ngày 03/4/2018 thì ra viện.
Tại Giấy chứng nhận thương tích số 06 ngày 08/3/2018 của Bệnh viện
đa khoa tỉnh Bắc Ninh xác định chị T có các thương tích như sau: 01 vết
thương đùi bẹn trái, 01 vết thương đùi phải, 01 vết thương cổ chân trái, 01 vết
thương gối phải, 01 vết thương cẳng chân trái, 01 vết thương cổ chân trái, 01
vết thương gối phải, 01 vết thương mông phải; các vết thương bờ mép sắc
gọn, tổn thương sâu. Chụp Xquang tim phổi thẳng: Tràn khí màng phổi trái.
Xét nghiệm thiếu máu mức độ nặng. Phẫu thuật mổ cấp cứu: Cắt lọc, khâu nối
gân cơ, khâu vết thương.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 25/TgT
ngày 12/3/2018 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Bắc Ninh kết luận về
thương tích của chị T như sau: Vết thương đùi bẹn trái dài 12cm, rộng 0,2cm;
44
vết thương đùi phải dài 3cm, rộng 0,2cm; vết thương gối trái dài 04cm, rộng
0,2cm; vết thương mặt trước cẳng chân trái dài 05cm, rộng 0,2cm; vết thương
cổ chân trái dài 05cm, rộng 0,2cm; vết thương gối phải dài 05cm, rộng 02cm;
vết thương mông phải dài 02cm, rộng 0,2cm, tất cả vết thương đang đóng vẩy
còn chỉ khâu. Tổng tỷ lệ thương tích là 10%. Cơ chế là do tác động bởi vật
cứng, sắc. Ngoài ra, còn một số vết thương chưa có trong giấy chứng thương
như vết thương vùng ngang lưng trái dài 13cm, vết thương dưới thắt lưng
ngang qua cột sống dài 07cm, vết thương khuỷu tay trái dài 03 cm; chưa xác
định được tổn thương tràn khí màng phổi vì còn đang dẫn lưu.
Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc
Ninh phát hiện Giấy chứng nhận thương tích số 06 ngày 08/3/2018 của Bệnh
viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh có ghi thiếu thương tích của chị T, CQĐT đã tiến
hành làm việc với Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh đã xác nhận Giấy chứng
nhận thương tích số 06 ngày 08/3/2018 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh
ghi thiếu thương tích của chị T và có cung cấp Giấy chứng nhận thương tích
mới ghi đầy đủ thương tích của chị T khi vào viện và quá trình điều trị. Tại
Giấy chứng nhận thương tích số 69/KH ngày 03/5/2018 của Bệnh viện đa
khoa tỉnh Bắc Ninh xác định chị T có các thương tích như sau: 01 vết thương
đùi trái kích thước 10x3cm; 01 vết thương cẳng chân trái; 01 vết thương bẹn
trái gần môi lớn kích thước 3x2cm; 01 vết thương gối trái mặt trước ngoài
kích thước 2x0,5x1cm; 01 vết thương cổ chân trái kích thước 3x2cm; 01 vết
thương gối phải kích thước 2x0,5x1cm; 01 vết thương mông phải kích thước
4x2cm; 01 vết thương thắt lưng trái kích thước 6x2cm; 01 vết thương mặt
trong mông trái kích thước 3x1cm; 01 vết thương khuỷu trái kích thước
2x1cm và 01 vết thương ngực phía sau tương ứng xương sườn 11 bên trái dài
5cm. Chụp Xquang tim phổi: Hình ảnh dịch màng phổi trái xẹp, nhiều dịch ổ
bụng. Điều trị: Cắt lọc khâu nối gân cơ khâu vết thương, dẫn lưu màng phổi
trái, khâu vết thương tay, vết thương đùi, vết thương mông...
45
Tại Giấy chứng thương số 1835/18/KHTH ngày 02/5/2018 của Bệnh
viện Việt Đ xác định chị T nhập viện trong tình trạng: Khai bị đâm đã dẫn lưu
màng phổi trái, khâu vết thương phần mềm tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc
Ninh; rì rào phế nang phổi trái. Ngày 03/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an thành phố Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh quyết định trưng cầu giám định
bổ sung số 288 về thương tích của chị Đinh Thị T nhưng chị T có đơn từ chối
giám định thương tích, đồng thời Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành
phố Bắc Ninh đã tiến hành dẫn giải chị T đi giám định nhưng chị T kiên quyết
từ chối đi giám định thương tích.
Ngày 04/5/2018, Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh có Bản kết luận giám
định pháp y về thương tích bổ sung số 61/TgT/BS kết luận tỷ lệ thương tích
của chị T như sau:
- Vết thương đùi bẹn trái dài 12cm, rộng 0,2cm; vết thương đùi phải
dài 3cm, rộng 0,2cm; vết thương gối trái dài 04cm, rộng 0,2cm; vết thương
mặt trước cẳng chân trái dài 05cm, rộng 0,2cm; vết thương cổ chân trái dài
05cm, rộng 0,2cm; vết thương gối phải dài 05cm, rộng 02cm; vết thương
mông phải dài 02cm, rộng 0,2cm. Phần bổ sung về thương tích đã khám: Vết
thương vùng lưng trái dài 13cm, rộng 0,2cm; vết thương vùng dưới thắt lưng
ngang qua cột sống dài 07cm, rộng 0,2cm; vết thương khuỷu tay trái dài
03cm, rộng 0,2cm. Áp dụng Chương 9, tổn thương cơ thể do tổn thương phần
mềm, Phần I, sẹo vết thương phần mềm; Mục 3, số lượng sẹo nhiều, kích
thước trung bình = 10%.
Phần bổ sung: Vết thương thấu phổi đã dẫn lưu. Áp dụng Chương 4, tổn
thương cơ thể do tổn thương hệ hô hấp; Phần III, tổn thương màng phổi; Mục 1,
tổn thương màng phổi đơn thuần không phẫu thuật hoặc có phẫu thuật = 04%.
Rách niệu quản tiến hành cắm lại vào bàng quang. Áp dụng Chương 6,
tổn thương cơ thể do tổn thương hệ tiết niệu sinh dục; Phần II, niệu quản một
bên; Mục 1, tổn thương niệu quản cắt dưới 5cm đã phục hồi = 21%.
46
Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời
điểm giám định là 32%. Cơ chế là do tác động va chạm bởi vật sắc nhọn.
Ngày 08/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc
Ninh ban hành Công văn số 341/CV gửi Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh có
nội dung: Ngày 12/3/2018, Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh có Kết luận số
25/TgT kết luận tỷ lệ thương tích của chị Đinh Thị T là 10%, đồng thời xác
định các vết thương trên người chị T gồm: Vết thương vùng ngang lưng trái
dài 13cm, vết thương vùng dưới thắt lưng ngang qua cột sống dài 7cm, vết
thương khuỷu tay trái dài 3cm chưa có trong giấy chứng thương. Chưa xác
định được tổn thương tràn khí màng phổi vì còn đang dẫn lưu. Cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đề nghị Trung tâm pháp y tỉnh Bắc
Ninh cho biết đối với thương tích của chị Đinh Thị T như trên, trong trường
hợp chị T không đi giám định bổ sung mà căn cứ giấy chứng thương và hồ sơ
bệnh án thì có giám định bổ sung tỷ lệ thương tích của chị T được không?.
Ngày 28/5/2018, Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh ban hành Công văn
số 46/PY gửi cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh có nội
dung như sau: Trong quá trình khám cho thấy giấy chứng thương thể hiện
chưa đầy đủ như thương tích trong thực tế trên người nạn nhân. Căn cứ Điều
29, khoản 1 của Luật giám định tư pháp năm 2012 có phát sinh vấn đề liên
quan đến tình tiết của vụ án (liên quan đến Giấy chứng nhân thương tích số
06/KH ký ngày 08/3/2018 của Bệnh viện đa khoa tỉnh cung cấp chưa đầy đủ).
Căn cứ vào khám giám định ngày 12/3/2018:
+ Vết thương đùi bẹn trái dài 12cm, rộng 0,2cm; vết thương đùi phải
dài 3cm, rộng 0,2cm; vết thương gối trái dài 04cm, rộng 0,2cm; vết thương
mặt trước cẳng chân trái dài 05cm, rộng 0,2cm; vết thương cổ chân trái dài
05cm, rộng 0,2cm; vết thương gối phải dài 05cm, rộng 02cm; vết thương
mông phải dài 02cm, rộng 0,2cm. Phần bổ sung về thương tích đã khám: Vết
thương vùng lưng trái dài 13cm, rộng 0,2cm; vết thương vùng dưới thắt lưng
47
ngang qua cột sống dài 07cm, rộng 0,2cm; vết thương khuỷu tay trái dài
03cm, rộng 0,2cm. Áp dụng Chương 9, tổn thương cơ thể do tổn thương phần
mềm, Phần I, sẹo vết thương phần mềm; Mục 3, số lượng sẹo nhiều, kích
+ Phần bổ sung: Vết thương thấu phổi đã dẫn lưu. Áp dụng Chương 4,
thước trung bình = 10%.
tổn thương cơ thể do tổn thương hệ hô hấp; Phần III, tổn thương màng phổi;
Mục 1, tổn thương màng phổi đơn thuần không phẫu thuật hoặc có phẫu thuật
= 04%. Vậy thương tích là 4%.
Và kết luận tổng thương tích sẹo vết thương phần mềm và vết thương
gây tràn khí màng phổi làm tổn thương màng phổi của chị Đinh Thị T tại thời
điểm giám định là 14%.
+ Tại Giấy chứng thương số 1835/18/KHTH của Bệnh viện Việt Đ Hà
Nội ngày 02/5/2018. Niệu quản trái rách 01cm sát chỗ đổ vào bàng quang.
Căn cứ Điều 2, điểm 2, Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/4/2014 của Bộ
Y tế, được xác định trên hồ sơ trường hợp người cần giám định cho tỷ lệ thấp
nhất. Rách niệu quản tiến hành cắt và cắm lại vào bàng quang. Áp dụng
Chương 6, tổn thương cơ thể do tổn thương hệ tiết niệu sinh dục; Phần II,
niệu quản một bên; Mục 1, tổn thương niệu quản cắt dưới 5cm đã phục hồi =
21%.
Với nội dung trên, Cáo trạng số 173/CTr - VKS-TPBN ngày 12/7/2018
của VKSND thành phố Bắc Ninh truy tố Nguyễn Văn M về tội “Cố ý gây
thương tích” theo điểm đ khoản 2, Điều 134 BLHS.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử TAND thành phố Bắ Ninh đã
ra bản án tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Cố ý gây thương tích”,
theo điểm đ khoản 2, Điều 134; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h
khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS; Xử phạt: Nguyễn Văn M 36 (Ba mươi sáu)
tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2018.
48
Nhận xét: Trong vụ án nêu trên do Đinh Thị T không phối hợp với
CQĐT để đi giám định bổ sung nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành
phố Bắc Ninh đã phải đề nghị Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh cho biết, trong
trường hợp chị T không đi giám định bổ sung mà căn cứ giấy chứng thương
và hồ sơ bệnh án thì có giám định bổ sung tỷ lệ thương tích của chị T được
không. Cuối cùng, Cơ quan Cảnh sát điều tra phải căn cứ vào Giấy chứng
thương bổ sung và bệnh án để xác định tỷ lệ thương tật, đã làm ảnh hưởng
nhiều đến tính chính xác của kết luận giám định tỷ lệ thương tật.
Vụ thứ 02: Bản án số 150/2017/HSST ngày 28/9/2017 về tội cố ý gây
thương tích của TAND huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh [31].
Buổi chiều ngày 19/5/2017, Nguyễn Văn B rủ bạn là Nguyễn Văn L:
Lê Quốc A; Nguyễn Văn Th và Nguyễn Bá K; Lê Văn Tr đến phòng trọ của
B tại thôn Ấp Đồn - xã Yên Trung - huyện Yên Phong - tỉnh Bắc Ninh để
mừng sinh nhật B. B cùng các bạn uống hết hai thùng bia lon. Đến khoảng 21
giờ cùng ngày thì ăn uống xong, B rủ mọi người đến quán karaoke New
Queen ở thôn Ấp Đồn - xã Yên Trung - huyện Yên Phong - tỉnh Bắc Ninh do
anh Nguyễn Văn Q làm chủ để hát karaoke. Khi đến quán thì nhóm của B vào
phòng 402 để hát. Cùng thời điểm này có anh Bùi Văn T cùng nhóm bạn cũng
đến quán karaoke New Queen và vào phòng 401 để hát. Khoảng 22 giờ 30
phút cùng ngày, anh Bùi Văn T từ phòng hát ra ngoài thì thấy Nguyễn Văn B
đang ngồi ở cửa phòng hát. Anh T nói chuyện làm quen với B và mời B vào
phòng 401 giao lưu uống bia. Anh T hỏi tên thì B giới thiệu tên là Nh, quê ở
tỉnh Nghệ An, hiện đang làm việc tại Công ty Samsung Display - Khu công
nghiệp Yên Phong. Sau đó B quay về phòng 402, còn anh T đi ra ngoài. Một
lúc sau B cùng anh Nguyễn Văn L sang phòng 401 giao lưu. B mời anh Kiều
Văn V uống bia thì anh V bảo không quen biết nên không uống và đuổi B ra
khỏi phòng. Lúc này anh T đi về phòng thấy B cùng bạn B đang trong phòng
mình thì anh T mời B tiếp tục uống bia. Sau đó B mời anh T sang phòng B
49
giao lưu nên anh T đi cùng B sang phòng 402. Quá trình giao lưu B cho anh T
số điện thoại của B là 0969.166.381 để liên lạc. Sau đó anh T về phòng 401
và bảo mọi người đi về, lúc này là khoảng gần 23 giờ, nhóm của B cũng tính
tiền ra về. B thanh toán tiền cho anh Q tại tầng 1 của quán xong thì đi ra chỗ
các bạn đang chờ ở vỉa hè ngoài quán. B nói với Th: “Đánh thằng này” rồi đi
xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu vàng đen một mình quay lại đỗ trước cửa quán
karaoke New Queen, Th cũng đi bộ theo sau. Lúc này anh Kiều Văn V từ
trong quán đi ra đến vỉa hè thì bị B cầm mũ bảo hiểm, Th xông vào đấm đá
vào người anh V làm anh V bị ngã. K và Tr cũng xông vào dùng chân tay
đấm đá anh V. B cầm chổi lau nhà ở quán vụt vào người anh V. Th cũng nhặt
một ống tuýp sắt tròn loại phi 75, dài khoảng gần 02m ở cửa quán xông vào
định đánh anh V thì anh Q ra can ngăn và giằng được tuýp sắt trên tay Th.
Lúc này một số nhân viên của quán cũng chạy ra đuổi đánh nên B, Th và K
bỏ chạy. Tr không chạy kịp nên bị anh Q và một số nhân viên của quán túm
được lôi vào trong quán, sau đó Tr chạy thoát. Th, B và K chạy ra chỗ L và A
đang đứng đợi. Th nói: “Tr bị bắt quay lại đi”. Sau đó Th cùng B và K quay
lại quán để cứu Tr. Th và K mỗi người nhặt một ống tuýp sắt dạng vuông
cạnh khoảng 04cm, chiều dài mỗi ống khoảng gần 02m có sẵn ở vỉa hè. B
nhặt một viên gạch cầm trên tay rồi cả ba đi đến trước cửa quán. Lúc này anh
Q cùng một số nhân viên của quán đang đứng ở cửa thấy vậy liền bỏ chạy.
Anh Q chạy đến gần đoạn quầy tính tiền tầng 1 thì bị B và K đuổi kịp, cách
anh Q khoảng 01m. B đầu đội mũ lưỡi trai màu đen, hai tay cầm ống tuýp sắt
tròn loại phi 75 dài khoảng gần 02m giơ lên cao vụt nhiều phát theo chiều từ
trên xuống dưới trúng vào đầu và người anh Q. Trong lúc B vụt anh Q thì
chiếc mũ lưỡi trai trên đầu B bị rơi xuống nền nhà. K cũng xông vào cầm ống
tuýp sắt vuông cạnh khoảng 04cm, dài khoảng gần 02m giơ lên cao vụt theo
chiều từ trên xuống trúng vào đầu và người anh Q làm anh Q bị thương, đầu
chảy nhiều máu và bị ngất, sau đó B và K vứt tuýp sắt xuống nền nhà rồi đi
50
về. Anh Q sau đó được mọi người đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh
cấp cứu và điều trị từ ngày 20/5/2017 đến ngày 26/5/2017 thì ra viện.
Ngay sau khi nhận tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện
Yên Phong cùng các cơ quan chức năng đã tiến hành khám nghiệm hiện
trường, thu giữ vật chứng của vụ án.
Ngày 30/5/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong
đã ra quyết định trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh giám định tỷ lệ
thương tích của anh Nguyễn Văn Q.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 69/TgT ngày
13/6/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh đối với thương tích của anh
Nguyễn Văn Q kết luận:
- Sẹo đầu vùng giữa đỉnh dài 6cm, rộng 0,2cm. Sẹo vùng đỉnh dài 3cm
x 0,2cm. Áp dụng chương 9, tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm.
Phần I. Sẹo vết thương phần mềm. Mục 1, số lượng sẹo ít kích thước sẹo nhỏ
= 03%.
- Khám chuyên khoa thần kinh: PGS.TS Nguyễn Công Hoan - Bệnh
viện Trường đại học Y Hà Nội kết luận: Đau đầu choáng tiền đình, chấn động
não sau va chạm. Áp dụng Chương 2, tổn thương cơ thể do tổn thương xương
sọ và hệ thần kinh. Phần II. Chấn động não. Mục 1. Chấn động não điều trị ổn
định = 03%.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định
= 06% (Sáu phần trăm). Cơ chế hình thành vết thương do tác động ngoại lực
bởi vật cứng, sắc. Đến ngày 02/6/2017, Nguyễn Văn Q đã có đơn yêu cầu
khởi tố đối với vụ án nêu trên gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện
Yên Phong.
Ngoài ra Nguyễn Văn B, Nguyễn Bá K, Nguyễn Văn Th, Lê Văn Tr còn
có hành vi dùng mũ bảo hiểm và chân tay không, gây thương tích cho anh
Kiều Văn V. Tuy nhiên anh V từ chối đi giám định tỷ lệ thương tích và không
51
có đề nghị gì đối với thương tích của mình. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an huyện Yên Phong không có cơ sở xử lý hình sự trường hợp này, và
do vậy đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Bá K về
hành vi nêu trên. Đối với Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn Th do chưa lấy được lời
khai nên Cơ quan điều tra đã tách hành vi liên quan để xem xét xử lý sau.
Bản cáo trạng số 123/CTr -VKS ngày 06/9/2017 của VKSND huyện
Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Nguyễn Bá K về tội “Cố ý gây thương
tích” theo điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã ra Bản án tuyên bố bị cáo:
Nguyễn Bá K phạm tội “Cố ý gây thương tích, theo điểm a khoản 1 Điều 104;
điểm b, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS năm 1999, xử phạt: Nguyễn Bá
K 10 tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ 10/7/2017.
Nhận xét: Trong vụ án nêu trên, có căn cứ xác định Nguyễn Văn B,
Nguyễn Bá K, Nguyễn Văn Th, Lê Văn Tr còn có hành vi dùng mũ bảo hiểm
và chân tay không, gây thương tích cho anh Kiều Văn V. Tuy nhiên, do anh V
từ chối đi giám định tỷ lệ thương tích và không có đề nghị gì đối với thương
tích của mình. Vì vậy Công an huyện Yên Phong không có cơ sở xử lý hình
sự trường hợp này, và do vậy đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
đối với Nguyễn Bá K về hành vi nêu trên. Chính sự không hợp tác của bị hại
đã làm CQĐT không có căn cứ xác định tỷ lệ thương tật của V làm căn cứ xử
lý hình sự và áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng đối với B, K, Th và
Tr để xử lý theo quy định.
- Chưa thống nhất trong việc xác định hình thức yêu cầu khởi tố theo
yêu cầu của bị hại.
Qua khảo sát các vụ án có yêu cầu khởi tố theo yêu cầu bị hại,
CQTHTT một số nơi trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có hướng dẫn khác nhau
trong việc thể hiện hình thức yêu cầu khởi tố vụ án.
52
Có địa phương xác định đơn tố cáo hoặc đơn tố giác tội phạm được
xem là đơn yêu cầu khởi tố, vì tuy tiêu đề là đơn tố cáo, tố giác tội phạm
nhưng trong nội dung chứa đựng yêu cầu xử lý người phạm tội.
Có địa phương lại xác định đơn tố cáo, tố giác tội phạm là cơ sở ban
đầu để cơ quan có thẩm quyền xác minh, sau khi tiến hành xác minh nếu có
dấu hiệu tội phạm thì người bị hại phải làm tiếp đơn yêu cầu khởi tố vụ án.
Chính sự chưa thống nhất về hình thức yêu cầu của Cơ quan tố tụng các
nơi trong địa bàn tỉnh sẽ gây khó khăn cho công dân, cũng như làm cho việc
giải quyết vụ án gặp khó khăn, phức tạp, vì sẽ dẫn đến tình trạng trả hồ sơ
điều tra bổ sung hoặc hủy án.
- Nhiều trường hợp, CQĐT không thể ra quyết định khởi tố vụ án vì
chưa có yêu cầu khởi tố của bị hại, cũng không thể ra quyết định không khởi
tố vụ án vì không có căn cứ, và CQĐT buộc phải chấp nhận vi phạm thời hạn
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm vì liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố
vụ án của bị hại.
Điều 155 BLTTHS không quy định thời hạn bị hại được quyền yêu cầu
khởi tố, nghĩa là về nguyên tắc họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án bất cứ lúc
nào, hoàn toàn không bị giới hạn về mặt thời gian. Trong khi đó theo quy
định của BLTTHS thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là 20
ngày, trường hợp phức tạp có thể tới hai tháng. Thực tế có nhiều trường hợp
quá 02 tháng nhưng người bị hại vẫn chưa yêu cầu không tố, cũng không thể
hiện ý chí là không yêu cầu khởi tố vụ án, dấn đến hệ quả là vụ án chưa thể
giải quyết được, CQĐT không thể ra quyết định khởi tố vụ án vì chưa có yêu
cầu khởi tố của bị hại, cũng không thể ra quyết định không khởi tố vụ án vì
không có căn cứ, và CQĐT buộc phải chấp nhận vi phạm thời hạn giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm vì liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố vụ án của
bị hại.
53
* Về chủ thể yêu cầu khởi tố là người đại diện hợp pháp của bị hại.
Theo quy định tại Điều 155 BLTTHS bị hại là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện của họ thực
hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Vậy trong trường hợp không xác
định được người đại diện của người chưa thành niên, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất, thì ai sẽ đại diện cho những người này thực hiện
quyền yêu cầu?
- Chưa có hướng dẫn đối với trường hợp có nhiều người là đại diện cho bị
hại (cha mẹ đối với con chưa thành niên....) trong vụ án đã khởi tố theo yêu cầu
của bị hại, sau khi khởi tố họ có yêu cầu khác nhau đối lập nhau (người yêu cầu
rút, người vẫn giữ ý kiến đề nghị khởi tố) hiện chưa có căn cứ pháp luật để
CQTHTT giải quyết theo yêu cầu của ai trong vụ án. PLTTHS hiện hành cũng
chưa có hướng dẫn đối với trường hợp bị hại là người chưa thành niên đại diện
của họ đã có yêu cầu khởi tố vụ án, trong quá trình tố tụng với vụ án người bị hại
đã thành niên. Quy định pháp luật hiện hành chưa quy định rõ về trường hợp này.
Hình thức rút yêu cầu cũng chưa được quy định rõ ràng trong luật?
- Việc xác định tư cách bị hại vẫn còn gặp nhiều khó khăn, chưa có sự
thống nhất về lý luận và thực tiễn, thẩm quyền để công nhận người bị hại là
rất đa dạng và không có tính ràng buộc cao, nên cơ sở để xác định chính xác
ai là người bị hại trong vụ án chính là việc đánh giá chứng cứ toàn bộ vụ án
để xác định chính thức. Vậy, phải coi văn bản pháp lý nào ghi nhận quyền yêu
cầu của người bị hại (như biên bản tiếp nhận tin báo, đơn trình báo, biên bản
ghi lời khai...) các giấy triệu tập, giấy gọi, giấy báo... là cơ sở để xác định họ
là người bị hại hoặc đại diện của người bị hại trong vụ án
Trong khi nếu dựa vào tư cách mà họ được người tiến hành tố tụng ghi
trong các biên bản hoạt động tố tụng nhiều khi không chính xác và tùy tiện vì
thành phần hồ sơ được lập ở nhiều giai đoạn và chủ thể khác nhau như biên
bản phạm pháp quả tang, biên bản hiện trường... Do vậy để xác định người bị
54
hại có tư cách trong vụ án chính thức từ khi nào là khó khăn. Hay nói cách
khác, BLTTHS hiện nay cần khắc phục bằng việc thể chế hóa một quyết định
tố tụng công nhận bị hại trong vụ án.
- Về nội dung rút yêu cầu khởi tố của bị hại: Khi bị hại rút yêu cầu khởi
tố với một số bị can, bị cáo (thực chất là rút yêu cầu khởi tố bị can, yêu cầu
truy cứu TNHS bị cáo) thì CQTHTT giải quyết khác nhau: Có CQĐT đã ra
quyết định đình chỉ cả vụ án, có nơi CQĐT chỉ ra quyết định đình chỉ điều tra
hoặc đình chỉ vụ án với các bị can, bị cáo được người bị hại rút yêu cầu, vẫn
truy cứu trách nhiệm pháp lý với các bị can, bị cáo khác trong vụ án. Lý do
dẫn đến cách hiểu này là:
Một là, đối với trường hợp CQTHTT đình chỉ cả vụ án, họ cho rằng
người bị hại chỉ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án, không có quyền yêu cầu khởi
tố bị can, nên bị hại rút yêu cầu thì phải đình chỉ cả vụ án. Hai là, trường hợp
CQTHTT chỉ ra quyết định đình chỉ đối với bị can, bị cáo được bị hại rút yêu
cầu, vì cho rằng bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án và yêu cầu khởi tố đối
với bị can, nên họ rút yêu cầu khởi tố bị can, bị cáo nào thì chỉ người đó được
hưởng. Nhận thức thiếu thống nhất trên dẫn đến việc phát sinh khiếu nại, tố
cáo trong vụ án làm mất đi tính nghiêm minh của pháp luật. [8, tr. 122,123]
- Bất cập vướng mắc từ chính quy định của BLTTHS
Thứ nhất: Về vấn đề án phí
Tại khoản 3 Điều 136 BLTTHS quy định: “Trường hợp vụ án khởi tố
theo yêu cầu của bị hại. Nếu Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội hoặc vụ án
bị đình chỉ khi có căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật này thì bị
hại phải trả án phí”
Tuy nhiên, thực tiễn không phải vụ án nào cũng do bị hại yêu cầu khởi tố
mà là người đại diện hợp pháp của bị hai yêu cầu khởi tố sau đó lại rút yêu cầu
khởi tố và vụ án được đình chỉ. Trong trường hợp này ai là người phải chịu án phí
thì Luật lại không quy định, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất.
55
Thứ hai: Về việc bị hại rút yêu cầu khởi tố tại cấp phúc thẩm.
Tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS có quy định “Trường hợp người đã yêu
cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ…”. Quy định tại khoản 2
Điều 155 đã mở rộng hơn so với quy định tại khoản 2 Điều 105 BLTTHS
2003. Theo quy định tại khoản 2 Điều 155 thì trong bất cứ giai đoạn nào của
hoạt động tố tụng nếu người yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được
đình chỉ. Chính vì vậy, tại Công văn số 254/TANDTC ngày 26/11/2018 có
hướng dẫn “Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: Trường hợp có kháng cáo, kháng
nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình
sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử
theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của Bộ luật Tố
tụng hình sự hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Trong bản án phúc thẩm,
Tòa án phải nhận định rõ lý do hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là do
người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu, không phải do lỗi của Tòa
án cấp sơ thẩm”. Chúng tôi cũng hoàn toàn đồng tình với hướng dẫn trên. Tuy
nhiên đối chiếu theo quy định của pháp luật tại Điều 359 BLTTHS về căn cứ
để hủy bản án sơ thẩm thì lại không có quy định nào! Đây cũng là vướng mắc
cần phải bổ sung trong BLTTHS.
- Ngoài ra, còn một số tồn tại hạn chế khác như vẫn còn thiếu sót trong
quá trình thu thập chứng cứ, đặc biệt là tội danh như hiếp dâm, cưỡng dâm,
việc đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và quyết định hình phạt
một số vụ án chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại.
2.4. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải quyết
vụ án hình sự khởi tố theo yêu cầu bị hại
* Nguyên nhân khách quan:
- Một số quy định của pháp luật liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của
bị hại vẫn còn hạn chế, bất cập, nhiều quy định chưa có hướng dẫn cụ thể để
56
áp dụng trong thực tiễn như: Trường hợp không xác định được người đại diện
hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất, thì ai sẽ đại diện cho những người này thực hiện quyền yêu cầu?
Thời hạn người bị hại được quyền yêu cầu khởi tố có bị giới hạn về mặt thời
gian hay không? Hình thức yêu cầu khởi tố được thể hiện như thế nào? Khi
người bị hại là người chưa thành niên đại diện của họ đã có yêu cầu khởi tố
vụ án, trong quá trình tố tụng với vụ án người bị hại đã thành niên. Vậy, họ
rút yêu cầu thì vụ án có bị đình chỉ hay không? v.v...
- Do sự bất hợp tác của bị hại trong quá trình giải quyết vụ án có liên
quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại. Trong số 10 tội danh khởi tố theo yêu
cầu của bị hại thì có tới 07 tội danh bắt buộc phải tiến hành giám định pháp y
tình dục hoặc tình trạng sức khỏe của bị hại mới có căn cứ xác định tội danh
đó là (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác (Khoản 1 Điều 134); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Khoản
1 Điều 135); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức
cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản 1 Điều 136); Tội vô ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 Điều 138); Tội
vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Khoản 1 Điều 139); Tội
hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141); Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143)). Tuy
nhiên rất nhiều vụ án, do các nguyên nhân khác nhau mà bị hại không hợp
tác, không đi giám định, hoặc khi có kết quả giám định thuộc trường hợp khởi
tố theo yêu cầu bị hại nhưng bị hại cố tình chưa yêu cầu...gây khó khăn cho
công tác điều tra. Quy định của BLTTHS năm 2015 về dẫn giải bị hại trong
trường hợp này chưa cụ thể, khó áp dụng trên thực tế.
57
* Nguyên nhân chủ quan
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng còn hạn chế, chưa cao. Chế độ, chính sách đối với người tiến
hành tố tụng, đặc biệt là Kiểm sát viên, Thẩm phán còn thấp.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh về những nội dung liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại chưa được
sâu rộng mạnh mẽ, còn có một số hạn chế, thiếu sót như phổ biến, giáo dục
pháp luật còn sơ sài, chung chung, chưa bám sát chương trình xây dựng
luật…
Tiểu kết Chương 2
Thông qua Chương 2 của Luận văn tác giả đã phân tích những quy
định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại. Cũng như
thực tiễn giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại, trên
cơ sở đó tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế
liên quan đến hoạt động này. Trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra những nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế, làm tiền đề để tác giả đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án liên quan
đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại tại Chương 3 của Luận văn.
58
Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ KHỞI TỐ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI
3.1. Một số yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự
khởi tố theo yêu cầu của bị hại
- Thứ nhất, yêu cầu của việc bảo vệ trật tự pháp luật, nguyên tắc pháp
chế, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và của công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Do vậy, quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại phải có sự
kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung của toàn xã hội và lợi ích của bị hại, khi lợi
ích của bị hại không mâu thuẫn với lợi ích chung. Quy định khởi tố vụ án theo
yêu cầu của bị hại nhằm đáp ứng lợi ích của bị hại nhưng không đặt lợi ích bị
hại cao hơn lợi ích chung toàn xã hội và chỉ được áp dụng đối với hành vi
phạm tội có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp, thuộc nhóm tội xâm phạm
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và một số quyền nhân thân của con người.
- Thứ hai, yêu cầu của hoạt động bảo vệ quyền con người, quyền của bị
hại trong tố tụng hình sự.
Việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại
phải góp phần bảo vệ quyền con người, cụ thể là quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu
bị hại cũng chính là nhằm bảo vệ quyền của bị hại. Cho nên, việc quy định hoàn
thiện pháp luật cần phải có sự kết hợp giữa lợi ích chung của toàn xã hội và
quyền lợi của bị hại, đạt mục tiêu ổn định xã hội, vừa bảo vệ và thỏa mãn lợi ích
của bị hại.
- Thứ ba, yêu cầu của hội nhập quốc tế
Trong xây dựng chính sách pháp luật, cơ chế và biện pháp đối ngoại,
trong giai đoạn hội nhập sâu rộng chúng ta cần thấy rõ tính gắn kết, tác động
qua lại giữa nhân tố, lợi ích kinh tế và nhân tố, lợi ích chính trị để từ đó tạo
59
cho hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của chúng ta sự uyển chuyển,
linh hoạt và hiệu quả cao hơn. Nói cách khác, trong thời đại quốc tế hóa,
không một nền tư pháp, hệ thống pháp luật nào có thể phát triển trong sự khép
kín biệt lập. Vì vậy, việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại phải đặt trong sự
giao thoa, tiếp thu và học hỏi các quốc gia trên thế giới.
Cho đến nay, ở một số quốc gia trên thế giới, “khởi tố theo yêu cầu bị
hại” vẫn tồn tại song song với khởi tố vụ án theo thủ tục chung, nhưng vai trò và
phạm vi áp dụng tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia mà “khởi tố theo yêu
cầu bị hại” được ghi nhận ở những mức độ khác nhau. Do vậy, cần vận dụng để
áp dụng phù hợp với thực tiễn và truyền thống pháp lý của dân tộc và cần tuân
thủ nguyên tắc bị hại tuy vẫn giữ vai trò quan trọng, có tính chất quyết định
trong việc xử lý người phạm tội bằng biện pháp hình sự nhưng chỉ được đưa ra
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh Việt Nam.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự
khởi tố theo yêu cầu của bị hại
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về khởi tố vụ án theo
yêu cầu bị hại
BLHS năm 2015 đã pháp điển hóa nhiều quy định của các nghị
quyết, thông tư liên tịch hướng dẫn các quy định của BLHS năm 1999. Tuy
nhiên, vẫn còn một số nghị quyết, thông tư liên tịch chưa được pháp điển hóa
mà đến nay chưa có văn bản khác thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung. Theo quy
định tại Điều 21 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì
Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành nghị quyết để hướng dẫn việc
áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử thông qua tổng kết việc áp dụng
pháp luật, giám đốc việc xét xử. Điều 25 Luật này cũng nêu rõ thông tư liên
tịch giữa Chánh án TAND tối cao với Viện trưởng VKSND tối cao; thông tư
liên tích giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với Chánh án TAND
60
tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao để quy định về việc phối hợp giữa các
cơ quan này trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tố tụng, không phải để
hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp luật. Do vậy, cần đề nghị TAND
tối cao tiến hành rà soát các văn bản nêu trên để ban hành Nghị quyết của Hội
đồng Thẩm phán TAND tối cao cho phù hợp.
* Về phạm vi các tội danh khởi tố theo yêu cầu của bị hại
Theo quy định hiện hành, có 10 tội khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại, tập trung vào nhóm tội xâm phạm sức khoẻ, danh dự nhân phẩm
con người và quyền sở hữu công nghiệp, thuộc loại tội ít nghiêm trọng, chỉ có
2 trường hợp thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Ngược lại, theo tác giả có
một số hành vi thuộc loại tội ít nghiêm trọng, tính chất nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể, xâm phạm quyền sở hữu, khi chủ sở hữu tài sản được bồi
thường thiệt hại thì cũng không cần thiết phải xử lý người phạm tội bằng biện
pháp hình sự, những tội này tuy gây thiệt hại về tài sản nhưng không có tính
chất chiếm đoạt hoặc vụ lợi. Ví dụ: Tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử
dụng trái phép tài sản, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, tội vô ý
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.
Đối với những tội này, tác giả kiến nghị nhà làm luật cần nghiên cứu
toàn diện các tội danh theo quy định của BLHS để bổ sung vào trường hợp
khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại, để có thể chấm dứt việc truy cứu TNHS
khi bị hại rút yêu cầu khởi tố.
* Bổ sung quy định nhằm giải quyết trường hợp có sự thay đổi quyết
định khởi tố vụ án về tội danh, điều khoản BLHS cần áp dụng liên quan đến
quyền yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại.
- Về xử lý trong trường hợp quá trình điều tra tội phạm và điều khoản
BLHS có sự thay đổi liên quan đến trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của
bị hại: [16, tr. 137-140]
+ Đối với trường hợp khi quyết định khởi tố, cơ quan có thẩm quyền
61
xác định loại tội phạm khởi tố là tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng nhưng qua điều tra, nhận thấy loại tội phạm chính
xác chỉ là tội phạm ít nghiêm trọng và thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu
của bị hại theo quy định của BLTTHS: Trường hợp này cần xuất phát từ bản
chất quy định về khởi tố theo yêu cầu của bị hại và mục tiêu của quy định
này. Bản chất quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là quyền yêu cầu xử lý đối
với sự việc phạm tội. Với các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại, Nhà
nước "ưu tiên" cho quyền của bị hại để bị hại lựa chọn phương thức giải quyết
phù hợp nhất cho mình. Vì vậy, nếu qua điều tra cho thấy hành vi phạm tội
thuộc các loại tội mà BLTTHS quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị
hại nên được hỏi ý kiến về việc có đề nghị tiếp tục giải quyết vụ án hay
không, trường hợp bị hại đề nghị không tiếp tục giải quyết vụ án (đình chỉ
điều tra, đình chỉ vụ án) thì cơ quan có thẩm quyền sẽ đình chỉ vụ án để bảo
vệ quyền và lợi ích của bị hại theo yêu cầu của họ.
+ Đối với trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại nhưng
trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng tội danh, điều khoản BLHS cần áp
dụng không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại cần
được thông báo về điều này và vụ án được tiếp tục giải quyết theo thủ tục
chung, việc bị hại "rút yêu cầu" trong trường hợp này không phải là căn cứ để
đình chỉ vụ án.
Như vậy, cần bổ sung vào Điều 155 BLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu
cầu của bị hại nội dung như sau: [16, tr. 137-140]
"Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại.
3. Trong quá trình điều tra, truy tố vụ án theo thủ tục tố tụng chung, xét
thấy có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, CQĐT, VKS ra quyết định thay
đổi quyết định khởi tố vụ án và thông báo cho người bị hại biết quyền yêu cầu
tiếp tục xử lý vụ án hoặc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Trong thời hạn 03
ngày kể từ khi nhận được thông báo, bị hại phải gửi đơn yêu cầu tiếp tục xử lý
62
vụ án hoặc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án tới CQĐT hoặc VKS.
4. Trong trường hợp vụ án đã được khởi tố theo yêu cầu của bị hại
nhưng qua quá trình điều tra, truy tố, xét thấy không còn căn cứ khởi tố vụ án
theo yêu cầu của bị hại, CQĐT, VKS phải ra quyết định thay đổi quyết định
khởi tố vụ án và thông báo cho người bị buộc tội, bị hại biết về việc vụ án sẽ
được giải quyết theo thủ tục chung.".
Đồng thời, bổ sung vào khoản 1 Điều 230, khoản 1 Điều 240 căn cứ
đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án khi "bị hại thuộc trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều 155 BLTTHS yêu cầu đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án." [16, tr.
137-140]
* Bổ sung quy định về quyền của bị hại đối với những vụ án khởi tố
theo yêu cầu bị hại.
BLTTHS năm 2015 quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại như
trường hợp bị hại trong vụ án thông thường là chưa hợp lý, thiếu những quy
định bảo đảm cho bị hại tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để thực hiện
và bảo vệ yêu cầu khởi tố của họ, đặc biệt những quyền hạn gắn với yêu cầu
khởi tố của họ như: Thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ
án; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám
định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; Đọc, ghi chép và sao chụp
những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến luận tội tại phiên tòa từ khi kết
thúc điều tra. Quy định này nhằm bảo đảm cho bị hại đảm bảo được quyền lợi
đối với vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại.
- Cần có hướng dẫn về nghĩa vụ phải chịu án phí trong trường hợp
người yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là người đại diện hợp pháp của bị hại,
yêu cầu khởi tố sau đó lại rút yêu cầu khởi tố thì vụ án được đình chỉ và người
đại diện hợp pháp phải chịu án phí.
63
Cần bổ sung thêm căn cứ để hủy bản án vào quy đinh tại Điều 359 là
“Khi người yêu cầu khởi tố tự nguyện rút lại yêu cầu khởi tố”, để việc áp
dụng pháp luật có căn cứ và thống nhất trong toàn quốc.
3.2.2. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ
Yêu cầu đặt ra đối với mỗi công chức Cơ quan tư pháp phải chủ động
hơn, trách nhiệm và bản lĩnh hơn; công tác tổ chức cán bộ của Cơ quan tư
pháp đòi hỏi phải đổi mới để đảm bảo hiệu quả hơn, sáng tạo hơn, đáp ứng
đầy đủ yêu cầu giải quyết các vụ án hình sự nói chung và khởi tố vụ án theo
yêu cầu bị hại nói riêng trong tình hình mới. Đây chính là đòi hỏi tất yếu
khách quan về tổ chức, bộ máy, về con người phải thật sự tinh gọn, hiệu quả.
Các đơn vị và đội ngũ cán bộ, công chức phải được rà soát đầy đủ để bố trị,
sắp xếp, sử dụng, điều động, chuyển đổi vị trí công tác phù hợp với năng lực,
sở trường, kinh nghiệm công tác nhằm phát huy khả năng của từng công
chức; đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt về hiệu quả công tác xây
dựng đội ngũ Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán trong sạch, vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tinh hình mới. Có như vậy mới tăng
cường, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới.
- Tổ chức bộ máy, cán bộ ở VKSND các cấp phải đổi mới theo hướng
VKSND tối cao tập trung làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổng kết, hướng
dẫn, đôn đốc, kiểm tra, với nhiều chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực; VKS cấp
dưới tổ chức thực hiện có hiệu quả, tập trung đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ
năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
các vụ án hình sự trong đó có những vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Ngành Kiểm sát cần đề nghị
TA ban hành văn bản hướng dẫn các quy định của BLHS năm 2015 để tháo
gỡ những vướng mắc, khó khăn cho các CQTHTT, người tiến hành tố tụng
trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự.
64
- Hoàn thiện quy định về CQĐT cần trên cơ sở khẳng định chức năng,
nhiệm vụ và vai trò quan trọng của CQĐT trong mô hình tố tụng hình sự Việt
Nam, xác định rõ CQĐT có trách nhiệm cùng với VKS phát hiện tội phạm,
đưa kẻ phạm tội ra trước TA để xét xử. Hoạt động điều tra phải chịu sự chỉ
đạo của công tố như là một nguyên tắc bắt buộc song CQĐT vẫn cần có vai
trò chủ động, Kiểm sát viên không làm thay công việc của Điều tra viên mà
đóng vai trò dẫn đường trong việc thu thập chứng cứ, chứng minh sự thật vụ
án trong giai đoạn điều tra. Về lâu dài, cần "xây dựng hệ thống CQĐT độc
lập, thống nhất từ trung ương đến địa phương, đặt dưới sự chỉ đạo của Chính
phủ hoặc Quốc hội" [39, tr.135] nhằm khắc phục sự phân tán, chồng chéo
trong hoạt động của hệ thống CQĐT đồng thời tăng cường tính độc lập của
CQĐT và các chủ thể tố tụng thuộc CQĐT khi giải quyết vụ án hình sự.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử, không để xảy ra việc xét xử oan,
sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, hạn chế thấp nhất các bản án bị hủy, bị
sửa do lỗi chủ quan. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII, các TA
phải sắp xếp lại tổ chức tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với yêu cầu
của thực tiễn. Trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng, TA phải
mở rộng và nâng cao chất lượng hợp tác với các thiết chế xét xử và trọng tài
quốc tế để đủ năng lực giải quyết các vụ án, vụ việc xuyên quốc gia; qua đó
nâng cao vị thế của TA Việt Nam trên trường quốc tế. Ngành TA cần tiến
hành rà soát các nghị quyết, thông tư hướng dẫn các quy định của BLHS năm
2015 để ban hành Nghị quyết của Hội đồng Thẩm Phán TAND tối cao cho
phù hợp, khắc phục thực tiễn, vướng mắc hiện nay. Tiến hành rà soát các quy
định có tính định tính trong BLHS năm 2015. Ban hành văn bản hướng dẫn
các quy định còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng trong toàn bộ BLHS.
- Các Đảng bộ của Cơ quan tư pháp các cấp phải nghiêm túc thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII,
về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
65
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hoá" trong nội bộ. Cần đổi mới mạnh mẽ phương thức tổ chức chỉ
đạo, điều hành và thủ tục hành chính - tư pháp trong các CQTHTT theo
hướng nhanh, gọn, hiệu quả và thuận lợi cho công dân; cải tiến phương pháp
và lề lối làm việc, đề cao chế độ trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nội bộ, hoàn thiện cơ chế
kiểm soát lẫn nhau giữa các cán bộ điều tra, kiểm sát, xét xử, thi hành án, luật
sư… trong hoạt động tư pháp. Người đứng đầu CQTHTT cần xem xét đến
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực thực tế của người tiến hành tố tụng
để có thể phân công cho phù hợp, vừa phát huy được khả năng chuyên môn
nghiệp vụ, sở trường của mỗi người, đồng thời đáp ứng được yêu cầu, nhiệm
vụ của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nâng cao hiệu quả công tác
chỉ đạo của lãnh đạo cơ quan tư pháp các cấp. Làm tốt công tác quản lý, chỉ
đạo, điều hành việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của cấp dưới với
tác phong sâu sát, cụ thể, kịp thời và điều hành quyết liệt. Phải luôn xác định
bản thân phải chịu trách nhiệm trước hết về mọi khuyết điểm, vi phạm xảy ra
đối với công tác mà mình phụ trách. Bản thân người quản lý, lãnh đạo cần
phải nhìn nhận, lựa chọn, phân công cán bộ, công chức phù hợp để giải quyết
công việc này.
3.2.3. Tăng cường phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ của đội ngũcán bộ, công chức cơ quan tố tụng
- Tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức cho đội ngũ công chức thuộc CQĐT, VKS, Cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đặc biệt là Điều tra viên, Kiểm
sát viên, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ thuộc CQĐT, VKS, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
66
+ Về phía các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ của ngành cần
phải đổi mới nội dung, chương trình theo hướng tập trung đào tạo bồi dưỡng
kỹ năng điều tra, kỹ năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong đó có kỹ năng
giải quyết các công việc thực tế trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; tránh
tình trạng các Điều tra viên, Kiểm sát viên chỉ nắm lý thuyết mà không có
được các kỹ năng thực hiện công việc trên thực tế.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát
viên đi học để nâng cao trình độ, có chế độ ưu đãi phù hợp đối với họ nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên giỏi, có khả năng và tâm huyết với
công việc. Bên cạnh đó, vấn đề xây dựng, rèn luyện phẩm chất đạo đức là đòi
hỏi có tính thường xuyên, liên tục đối với cán bộ tư pháp nói chung và đội
ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên nói riêng.
- Chú trọng xây dựng đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
thanh liêm, chính trực, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về nghiệp vụ, tinh
thông về pháp luật, có tấm lòng nhân ái, làm cho họ phải thấy rõ hơn trách
nhiệm chính trị của mình trước Đảng, trước nhân dân. Đẩy mạnh công tác đào
tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ công chức cơ
quan tư pháp. Tăng cường công tác quản lý, giáo dục và rèn luyện cán bộ,
công chức. Làm tốt công tác thi tuyển, nâng ngạch, bổ nhiệm công chức cơ
quan tư pháp. Chú trọng kiện toàn đội ngũ lãnh đạo Cơ quan tư pháp các cấp
có đủ năng lực, phẩm chất, uy tín, kinh nghiệm quản lý, lãnh đạo. Làm tốt
việc luân chuyển cán bộ, thử thách trong môi trường thực tế khác nhau đối
với những cán bộ thuộc diện quy hoạch chức vụ lãnh đạo ở các cấp của cơ
quan tư pháp. Tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện những yếu
kém trong công tác nghiệp vụ để khắc phục; kiên quyết xử lý những cán bộ vi
phạm phẩm chất, đạo đức, lối sống để xây dựng Cơ quan tư pháp trong sạch,
vững mạnh.
- Cần có chế độ lương và phụ cấp mang tính ưu đãi hơn, thỏa đáng hơn
67
dành cho những người tiến hành tố tụng, nhất là đối với đội ngũ Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán. Cùng với đó là việc xử lí nghiêm minh các trường
hợp sai phạm, cụ thể hóa trách nhiệm cá nhân đối với người thực hiện hành vi tố
tụng sai, ra quyết định tố tụng sai trong hoạt động khởi tố vụ án hình sự.
3.2.4. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, hướng dẫn, giải đáp
vướng mắc, thông báo rút kinh nghiệm
Để áp dụng đúng, chính xác các quy định của BLHS năm 2015 trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải
tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, hướng dẫn, giải đáp những khó khăn,
vướng mắc của địa phương trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ nói
chung và trong những vụ án liên quan đến khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại.
Về việc xác đinh chủ thể yêu cầu khởi tố là người đại diện hợp pháp
Tác giả kiến nghị cần ban hành văn bản hướng dẫn đối với trường hợp
này theo hướng: Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định về việc khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của bị hại, khoản 2 Điều 155 quy định về việc rút yêu
cầu thì cần phải hiểu đây là rút yêu cầu khởi tố vụ án. Theo quy định tại các
Điều 230, 248 và 282 BLTTHS năm 2015, một trong những căn cứ để quyết
định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án là bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án.
Trong trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại, vụ án lại có nhiều bị
can, bị cáo mà bị hại chỉ có đơn rút yêu cầu khởi tố đối với một hoặc một số
bị can, bị cáo, không rút yêu cầu khởi tố vụ án, thì việc ra quyết định đình chỉ
điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo đó là không có căn cứ. Do vậy,
nếu bị hại có đơn rút yêu cầu khởi tố đối với bị can, bị cáo thì CQTHTT giải
thích cho bị hại biết bị hại chỉ có quyền rút yêu cầu khởi tố đối với vụ án. Nếu
bị hại và bị can, bị cáo tự nguyện hòa giải; bị hại có đơn đề nghị miễn TNHS;
bị can, bị cáo đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu
quả (trong trường hợp bị can, bị cáo thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng) thì
68
CQTHTT căn cứ khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 có thể miễn TNHS, đình
chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo đó.
- Hằng năm cần tổ chức sở kết, tổng kết, tổ chức kiểm tra và tập huấn
về công tác thỉnh thị, trả lời thỉnh thị trong toàn ngành, thông báo rút kinh
nghiệm đối với những địa phương, đơn vị thực hiện không tốt vấn đề thỉnh
thị, trả lời thỉnh thị dẫn đến vi phạm thời hạn tố tụng, vụ án, vụ việc tồn đọng,
không giải quyết được theo đúng quy định của pháp luật để có biện pháp chấn
chỉnh kịp thời.
3.2.5. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các đơn vị, bộ, ngành có
liên quan trong triển khai thi hành BLHS
Thứ nhất, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS, nâng
cao vai trò của VKS trong chỉ đạo, giám sát hoạt động kiểm tra, xác minh
nguồn tin tội phạm và khởi tố vụ án liên quan đến yêu cầu của bị hại. Công
tác kiểm sát khởi tố vụ án hình sự đạt kết quả cao nhất khi VKS luôn đảm bảo
bám sát quá trình giải quyết của CQĐT, và để làm tốt điều này đòi hỏi giữa
CQĐT và VKS phải có sự phối hợp thường xuyên. Giữa CQĐT và VKS luôn
phải đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả từ việc giải quyết vụ việc đơn lẻ, đến
việc họp liên ngành, tổng kết rút kinh nghiệm, cùng nhau tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi nhiệm vụ, từ đó đưa ra giải pháp
giải quyết phù hợp.
- Phải thường xuyên sàng lọc, xử lí nghiêm minh những trường hợp can
thiệp bằng công văn của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, ngành có cán bộ vi
phạm để “xử lý nội bộ”, “rút kinh nghiệm sâu sắc” nhằm bao che, bênh vực
cho nhau nhân danh “uy tín, danh dự của ngành” sẽ dẫn tới sự dung túng và
lệch lạc về nhận thức, ý thức trách nhiệm cũng như gây mất niềm tin vào sự
nghiêm minh của pháp luật từ người dân. Phải xử lý hình sự đối với những cá
nhân có hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp như không truy cứu TNHS
người có tội, ra quyết định trái pháp luật, ép buộc nhân viên tư pháp làm trái
69
pháp luật, làm sai lệch hồ sơ vụ án… để răn đe mạnh mẽ trong toàn bộ hệ
thống tư pháp.
Bên cạnh đó, phải tăng cường các cơ chế thanh tra, kiểm tra nội bộ,
đặc biệt là hoạt động thanh tra các hành vi, quyết định tố tụng trong giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự. Những hành vi, quyết định tố tụng không có căn cứ hoặc trái
pháp luật của CQĐT trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự như: Quyết định khởi
tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự… có thể bị phát hiện
song hành cùng với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS.
- CQĐT, VKS các cấp cần tiến hành các buổi họp giao ban kết hợp với
việc phổ biến tới các Điều tra viên, Kiểm sát viên những văn bản pháp luật
mới liên quan đến công tác của ngành, các hướng dẫn, thông báo rút kinh
nghiệm. Qua đó để các Điều tra viên, Kiểm sát viên có điều kiện trao đổi, rút
kinh nghiệm và học tập lẫn nhau góp phần nâng cao năng lực, chuyên môn
nghiệp vụ trong công tác khởi tố vụ án hình sự;
3.2.6. Một số giải pháp khác
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, góp phần nâng cao năng
lực trong các hoạt động của ngành trong cả nước. Nghị quyết số 08 -NQ/TW
ngày ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất
bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có
cơ chế chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp. Tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin,
từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư pháp...”. Trong giai đoạn sắp tới,
CQĐT và VKS cần phải được trang bị các phương tiện đảm bảo hoạt động
kiểm tra, xác minh và điều tra vụ án hình sự liên quan đến yêu cầu bị hại đặc
biệt là vụ án liên quan đến giám định, khám nghiệm hiện trường...đảm bảo
việc xác định có dấu hiệu của tội phạm trong giai đoạn đặc biệt này. Thực
hiện cam kết trong Cộng đồng ASEAN, chúng ta phải hoàn thành việc xây
70
dựng TA điện tử trước năm 2025. Nghiên cứu để đề xuất xây dựng chủ
trương, hành lang pháp lý hướng tới xây dựng TA điện tử, phù hợp với xu thế
chung của các quốc gia có nền tư pháp phát triển trên thế giới và thực tiễn
Việt Nam.
- Thống nhất về hệ thống biểu mẫu, sổ sách ghi chép việc tiếp nhận, xử
lý thông tin về tội phạm để bảo đảm tính thống nhất, gọn nhẹ của các loại sổ
sách, tạo điều kiện cho công tác kiểm sát, giám sát việc tuân theo pháp luật
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.
- Các CQTHTT cần áp dụng mô hình tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm qua mạng Internet với hình thức hòm thư điện tử tiếp nhận tin báo, tố
giác. Hình thức cung cấp thông tin về tội phạm này tương đối phổ biến ở một
số nước có trình độ phát triển cao về công nghệ thông tin.
Tiểu kết Chương 3
Tại Chương 3 của Luận văn tác giả đã phân tích làm rõ những yêu
cầu và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án
khởi tố theo yêu cầu của bị hại như: Hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn tổng kết
thực tiễn xét xử, giải pháp về nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ.... góp
phần đảm bảo việc định tội danh và quyết định hình phạt đúng người, đúng
tội, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm của cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trong đó có tỉnh Bắc Ninh đối với các vụ án hình sự
nói chung và khởi tố theo yêu cầu bị hại nói riêng.
71
KẾT LUẬN
Thông qua 03 chương của Luận văn, tác giả đã phân tích làm rõ mục
đích và giải quyết được những nhiệm vụ đã đặt ra. Tại Chương 1 của Luận
văn, tác giả đã lần lượt phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của
khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, cũng
như phân tích cơ sở của việc quy định chế định này trong PLTTHS. Đồng
thời, tác giả cũng phân tích làm rõ lịch sử quá trình lập pháp quy định chế
định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong PLTTHS Việt Nam từ năm
1945 đến BLTTHS năm 2015. Tại Chương 2 của Luận văn tác giả đã phân
tích những quy định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị
hại. Cũng như thực tiễn giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu
của bị hại, trên cơ sở đó tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt được và những tồn
tại, hạn chế liên quan đến hoạt động này. Trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra
những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, làm tiền đề để tác giả đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết
vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Tại Chương 3 của Luận
văn tác giả đã phân tích làm rõ những yêu cầu và đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại
như: Hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn tổng kết thực tiễn xét xử, giải pháp về
nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ....nhằm góp phần đảm bảo việc định
tội danh và quyết định hình phạt đúng người, đúng tội, không làm oan người
vô tội, không bỏ lọt tội phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong đó có tỉnh Bắc Ninh đối với các vụ án hình sự nói chung và khởi tố theo
yêu cầu bị hại nói riêng.
Tác giả hy vọng, các kiến nghị của Luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn
thiện pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án
liên quan đến khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại. Tuy nhiên, Luận văn được
nghiên cứu trong bối cảnh BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật từ ngày
72
01/01/2018 với nhiều quy định mới về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại,
nhiều văn bản hướng dẫn chưa được sửa đổi, bổ sung theo quy định của văn
bản pháp luật mới. Trong khi đó, kiến thức tác giả còn hạn chế, do vậy Luận
văn khó tránh khỏi khiếm khuyết, thiếu sót. Tác giả Luận văn mong nhận
được đóng góp, chỉ dẫn cụ thể của các Thầy giáo, Cô giáo, các nhà khoa học,
đồng nghiệp và những ai quan tâm đến Đề tài để giúp Luận văn được hoàn
chỉnh hơn. /.
73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
(2002), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, về chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật.
2. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
(2002), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
3. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), “Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ
đổi mới và hội nhập”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. TS. Trần Văn Biên, TS. Đinh Thế Hưng (2017), “ Bình luận khoa
học Bộ luật tố tụng hình sự”, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
5. Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1950), Sắc lệnh số
85/SL ngày 22/5/1950, về cải cách bộ máy Tư pháp và Luật Tố tụng, Hà Nội.
6. Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Sắc lệnh số 47
ngày 10/10/1945, Hà Nội.
7. Lê Cảm (2004), “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố
tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát (02), Hà Nội.
8. Lưu Bình Dương (2017), “Pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của người bị hại trong Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay”, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam, Hà Nội.
9. Phạm Văn Huân (2013), “Những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình
sự trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật - ĐHQGHN, Hà Nội;
10. Ths. Phạm Mạnh Hùng (2003), “Những bất cập và việc hoàn thiện
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại”, Tạp chí Kiểm sát số 01/2003, tr.32, Hà Nội.
74
11. TS. Phan Trung Hoài (2016), “Những điểm mới về chế định bào
chữa trong BLTTHS năm 2015”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Bùi Thị Hạnh (2019), “Về việc rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa
trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại”, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2019,
Hà Nội
13. Mai Văn Minh (2005), “Bàn về việc khởi tố và không khởi tố vụ án
hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số
09/2005, Hà Nội; Hoàng Thị Liên (2006).
14. Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong tố tụng hình
sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
15. TS. Nguyễn Đức Mai (chủ biên, 2018), “Bình luận khoa học Bộ
luật tố tụng hình sự (hiện hành)”, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
16. Lê Thị Thúy Nga (2019), “Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự
Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học,Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
17. Nguyễn Thái Phúc (2007),“Mô hình tố tụng Việt Nam - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (số 05), Hà Nội.
18. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
19. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
20. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
21. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nôi.
22. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội .
23. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội .
24. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công
an, Bộ Tư pháp (2008), Thông tư Liên tịch số 01/2008/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BTP ngày 29/02/2008, Hà Nội.
75
25. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Công văn số 16/1999/KHXX ngày
01/02/1999 giải đáp một số vấn đề hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành
chính và tố tụng, Hà Nội.
26. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng
hình sự, Hà Nội.
27. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Công văn số 254/TANDTC-PC
ngày 26/11/2018, hướng dẫn về việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
rút yêu cầu theo quy định tại phiên tòa.
28. Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (2019), Bản án
số 32/2019/HSST ngày 23/01/2019, Bắc Ninh.
29. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2016), Bản án số 44/2016/HSST
ngày 26 - 30/8/2016, Bắc Ninh.
30. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2018), Bản án số 271/2018/HS-
ST ngày 14/9/2018, Bắc Ninh.
31. Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (2018), Bản án
số 150/2017/HSST ngày 28/9/2017, Bắc Ninh.
32. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (2018), Bản án số
99/2017/HSST ngày 18/12/2017, Bắc Ninh.
33. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2018), Bản án số
32/2018/HSST ngày 25/9/2018, Bắc Ninh.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình
Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
36. TS. Đinh Quang Tiệp (2010), “Một số vấn đề về người bị hại,
nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Kiểm
sát, số 9/2010, Hà Nội.
76
37. Ma Thị Thắm (2015), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại trong luật tố tụng hình sự”.
38. Nguyễn Đức Thái (2009), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
người bị hại, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
39. Bùi Thế Tỉnh (2018), “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra và Điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật
học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng (2018),
Thông tư Liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2018 về
quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định
của BLTTHS năm 2015, Hà Nội.
41. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng (2005),
Thông tư Liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005,
về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong thực hiện
một số quy định của BLTTHS năm 2003, Hà Nội.
42. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển
Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.429).
43. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2012), “Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự”, NXB Tư pháp, Hà Nội.
44. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Công văn số 5024/VKSTC-
V14 ngày 19/11/2018, về giải đáp vướng mắc liên quan đến quy định của
BLTTHS và nghiệp vụ thi hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án
hình sự trong ngành KSND, Hà Nội.
77
PHỤ LỤC
Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị
hại với tình hình tội phạm hình sự nói chung trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019
Tội phạm hình sự
Nhóm tội khởi tố
Tỷ lệ
theo yêu cầu bị hại
(%)
Năm
Số vụ án
Số bị cáo Số vụ án
Số bị cáo Số vụ án
Số bị cáo
2015
976
181
242
18,5
11,4
2.114
2016
872
177
234
20,2
10,8
2.158
2017
846
197
238
23,2
14,1
1.681
2018
866
183
234
21,1
14,0
1.668
2019
1.385
177
216
12,7
9,5
2.258
Tổng số
4.945
915
1164
18,5
11,7
9.879
Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh
78
Bảng 2.2: Bảng so sánh số lượng vụ án và bị cáo theo các tội danh bị khởi
tố theo yêu cầu bị hại giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019
Tội (Điều luật)
Số vụ/Số bị
Năm
cáo
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
49/93.
người khác (Khoản 1 Điều 134)
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
13/13
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
(Khoản 1 Điều 135).
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
10/10
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc
do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản
1 Điều 136).
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
36/36
2015
người khác (Khoản 1 Điều 138).
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
11/11
người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính (Khoản 1 Điều 139).
Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).
36/45
Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).
13/15
Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).
8/14
Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)
5/5
0/0
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều
226).
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
47/84
người khác (Khoản 1 Điều 134)
2016
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
15/15
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
79
(Khoản 1 Điều 135).
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
8/8
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc
do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản
1 Điều 136).
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
33/33
người khác (Khoản 1 Điều 138).
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
8/8
người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính (Khoản 1 Điều 139).
Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).
37/48
Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).
15/18
Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).
11/16
Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)
3/4
0/0
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều
226).
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
42/61
người khác (Khoản 1 Điều 134)
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
17/17
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
(Khoản 1 Điều 135).
2017
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
9/9
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc
do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản
1 Điều 136).
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
42/49
người khác (Khoản 1 Điều 138).
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
11/11
người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
80
hành chính (Khoản 1 Điều 139).
Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).
42/51
Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).
12/14
Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).
13/15
Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)
9/11
0/0
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều
226).
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
45/80
người khác (Khoản 1 Điều 134)
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
19/19
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
(Khoản 1 Điều 135).
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
6/6
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc
2018
do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản
1 Điều 136).
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
38/38
người khác (Khoản 1 Điều 138).
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
5/5
người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính (Khoản 1 Điều 139).
42/47
Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).
13/17
Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).
9/13
Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).
5/8
Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)
1/1
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều
226).
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
43/61
người khác (Khoản 1 Điều 134)
81
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
13/13
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
(Khoản 1 Điều 135).
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
5/5
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc
do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản
1 Điều 136).
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
40/46
2019
người khác (Khoản 1 Điều 138).
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
8/8
người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính (Khoản 1 Điều 139).
Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).
39/44
Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).
14/17
Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).
9/14
Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)
6/8
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều
0/0
226).
Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh
82
Bảng 2.3: Bảng so sánh số vụ án bị đình chỉ do bị hại rút đơn với số vụ án
khởi tố theo yêu cầu bị hại đưa ra xét xử giai đoạn từ năm 2015 đến năm
2019
Năm
Số vụ án bị đình chỉ do bị hại rút đơn
Số vụ án khởi tố theo yêu
cầu bị hại đưa ra xét xử
45
181
2015
40
177
2016
55
197
2017
49
183
2018
43
177
2019
Nguồn: TAND tỉnh Bắc Ninh
83