BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Võ Hương Giang

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2008

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

VÕ HƯƠNG GIANG

Chuyên ngành Mã số

: Văn học nước ngoài : 60 22 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2008

LỜI CẢM ƠN

Nhờ sự giúp đõ của thầy cô, gia đình và bạn bè, luận văn của tôi đã

được hoàn thành.

Để tỏ lòng tri ân tôi xin gởi những lời cảm ơn chân thành đến tất cả

mọi người.

Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS. TRẦN XUÂN

ĐỀ, nguời đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực

hiện luận văn.

Xin gửi lời cảm ơn đến các giáo sư đã giảng dạy tôi trong thời gian

học tập tại trường Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh.

Xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, Phòng Khoa học công nghệ

Sau đại học đã tạo điều kiện để tôi được hoàn thành luận văn.

Xin cảm ơn quý thầy cô của tổ bộ môn Văn học nước ngoài, khoa

Ngữ văn trường Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh đã động viên

cũng như tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu

và hoàn thành luận văn.

Xin cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến ba mẹ và những

người thân trong gia đình đã giúp đỡ và động viên trong suốt thời gian

tôi học tập và nghiên cứu.

Cuối cùng là lời cảm ơn đến bạn bè đã chia sẻ, động viên giúp tôi

hoàn thành luận văn này.

Võ Hương Giang

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nếu như ở Phương Tây - Hi Lạp cổ đại là đỉnh cao của văn minh nhân

loại, thì ở Phương Đông - Trung Quốc cổ đại cũng được đánh giá như vậy.

Một trong những đỉnh cao của văn minh Trung Hoa chính là văn học nghệ

thuật, đặc biệt là thơ ca. Khái niệm thi (thơ ca) ra đời từ rất sớm ở Trung

Quốc, ít ra là đã ba nghìn năm [33, tr. 212]. Có thể hiểu thơ dưới nhiều cách

khác nhau, nhưng “thời này phổ biến công nhận lối cắt nghĩa thơ (thi) xuyên

qua chí, nhìn thấy trong thơ một rung động tinh thần nảy sinh trong tim nhà

thơ và sau đó thể hiện ra lời” [33, tr. 213]. Đã nghìn năm trôi qua, khái niệm

thơ có nhiều thay đổi nhưng nó vẫn là tiếng lòng, tiếng nói của tình cảm, tiếng

nói tri âm. Thi (thơ ca) dù được hiểu như thế nào đi chăng nữa thì “nó vẫn là

một trong những khái niệm quan trọng nhất của tư tưởng văn học truyền

thống của Trung Hoa”. [33, tr. 211]

Từ khi ra đời cho đến nay, không biết bao nhiêu lời nhận xét được các

nhà nghiên cứu gán cho thơ Trung Hoa đó là “Trung Quốc là đỉnh cao của

thơ ca nhân loại” hay “Thơ quả là tôn giáo của người Trung Hoa” [18, tr.

94]. Theo Lâm Ngữ Đường, ở Trung Quốc thơ có nhiệm vụ thay thế tôn giáo,

nghĩa là có nhiệm vụ làm cho tâm hồn thanh khiết, cảm được cái bí mật cùng

cái đẹp của vũ trụ, gây cho con người tấm lòng thương đồng loại và mọi sinh

vật [18, tr. 92]. Quả nhiên, đối với người Trung Quốc, thơ ca có một sức

mạnh vô biên, nó dạy cho con người biết bao điều trong cuộc sống: biết yêu

con người, yêu thiên nhiên, biết tận hưởng cuộc đời bình dị, biết giữ được một

lý tưởng hiền lương, thanh khiết, biết vượt lên mọi kiếp trần lao khổ… Những

điều mà thơ ca dạy cho người Trung Hoa thật vô cùng quý báu cho mỗi người

chúng ta. Cái muốn biết thật vô cùng, vô tận trong kho tàng kiến thức của

nhân loại nhưng những cái cần biết kia mới là nền tảng để con người tiếp tục

một cuộc hành trình dài trong cuộc đời của mỗi con người.

Có lẽ trong thời buổi hiện đại này không còn mấy ai mặn mà với thơ ca

để rồi còn được học những bài học quý báu ấy. Nhưng giữa bộn bề của sự

mưu sinh, giữa lo toan nhọc nhằn của cuộc sống đôi lúc con người cũng cần

lắng lại lòng mình, nhìn lại mình, trở về với chính mình, và chính lúc này đây

thơ ca như dòng suối ngọt ngào thấm vào mảnh đất khô cằn của tâm hồn con

người khiến họ biết mở rộng lòng mình để đón nhận vạn vật, biết lắng nghe,

chia sẻ và đồng cảm với mọi người xung quanh. Cuộc đời này cần lắm những

con người như vậy.

Có hiểu được tầm quan trọng của thơ ca trong thế giới tinh thần của

người Trung Quốc chúng ta mới hiểu được vì sao người Trung Quốc lại biết

làm thơ sớm như vậy? Kinh thi là một bộ tổng tập thơ ca sớm nhất của người

Trung Quốc xuất hiện ở Phương Bắc. Ở Phương Nam lại hưng khởi một thể

thơ mới - Sở từ - mang âm hưởng dân ca Sở, đậm đà màu sắc địa phương Sở

và nhà thơ vĩ đại Khuất Nguyên là người đại diện bất hủ. Nghiên cứu con

người và thơ ca của Khuất Nguyên trong thời điểm hiện nay là một vấn đề

nan giải, bởi lẽ tài liệu về cuộc đời ông không nhiều, thơ ca của ông để lại cho

người đời sau cũng ít (khoảng 25 bài) “nhưng qua những bài thơ còn lại của

ông, chúng ta có thể biết tường tận về cuộc đời chìm nổi của một con người

từng ôm ấp những hoài bão lớn lao và đã đấu tranh đến cùng để bảo vệ nó”.

[15, tr. 34]

Là một nhà chính trị trẻ đầy triển vọng, là một người có nhân cách cao

quý, luôn hết lòng vì nước, vì dân, hơn lúc nào hết Khuất Nguyên muốn đem

tài đức của mình ra phục vụ cho nước, cho dân nhưng không được vua tin

dùng, còn bị ghen ghét gièm pha. Hụt hẫng, thất vọng, đau buồn, chán nản

không khiến ông lùi bước dù phía trước còn lắm chông gai. Có nhà nghiên

cứu đã nhận xét: “Phẩm chất trong sáng được rèn luyện, ý chí kiên cường đến

chết cũng không thay đổi, đã giúp ông trong nghịch cảnh viết được những bài

thơ rạng rỡ như thời trăng” [49, tr. 43]. Do đó nghiên cứu con người và thơ

ca của Khuất Nguyên càng giúp chúng ta có điều kiện hiểu rõ hơn nhân cách

của ông và những vần thơ bay bổng diệu kì của con người hết mực tài hoa

này.

Việt Nam trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, chịu sự đô hộ của

phong kiến phương Bắc nên những phong tục, tập quán dường như đã thấm

sâu trong tâm trí của mỗi người. Không chỉ có phong tục, tập quán mà văn

chương cũng có những ảnh hưởng khá sâu đậm đối với chúng ta, đặc biệt là

các nhà tư tưởng lớn, nhà thơ và thơ ca của họ đã trở thành nguồn đề tài để

các nhà thơ Việt Nam khai thác và khám phá. Do vậy, tìm hiểu con người và

thơ ca Khuất Nguyên trong sự so sánh đối chiếu với các nhà thơ Việt Nam

cũng giúp cho ta có dịp hiểu rõ hơn, sâu hơn tấm lòng của các nhà thơ Việt

Nam dành cho bậc vĩ nhân.

Theo sự quan sát của chúng tôi, hiện nay ở Việt Nam, việc nghiên cứu

thơ ca Khuất Nguyên nói riêng, cũng như việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của

Khuất Nguyên đối với các nhà thơ Việt Nam nói chung cũng còn hạn chế.

Với tấm lòng kính trọng và yêu mến một người có nhân cách lớn và với

những lý do đã nêu ở trên, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Khuất

Nguyên - con người và thơ ca trong văn học Trung Đại Việt Nam” một

phần để bài tỏ tình cảm và quan trọng hơn là góp một phần công sức nhỏ bé

của mình vào việc bổ sung cho nền nghiên cứu văn học nước nhà thêm những

công trình mới.

2. Lịch sử vấn đề

Thơ Khuất Nguyên ra đời cách chúng ta hơn hai nghìn năm, đó là một

quãng thời gian khá dài để có thể thay đổi mọi thứ trong cuộc đời. Thế nhưng,

những gì còn đọng lại cho thế hệ hôm nay từ thơ ca cũng như nhân cách của

Khuất Nguyên thì vẫn còn nguyên vẹn.

Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử thơ ca nói riêng cũng như lịch

sử văn học Trung Quốc nói chung không thể không nhắc đến “hai đỉnh cao

xuất hiện sớm nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc” là Kinh thi và Sở từ.

Và ngôi sao sáng của thời đại này không ai xa lạ chính là Khuất Nguyên. Sau

này khi thơ ca của Trung Quốc thực sự phát triển lên đến đỉnh cao của nhân

loại thì trên thi đàn văn học của xứ sở thơ ca này không chỉ có một hay vài

ngôi sao sáng nữa mà xuất hiện rất nhiều ngôi sao sáng khác. Tài năng và tên

tuổi của họ mãi được lưu danh hậu thế. Mặc dù Khuất Nguyên không được

chúng ta nhắc nhiều như Đào Tiềm, Đỗ Phủ, Lý Bạch…có thể do thời đại của

ông đã cách quá xa chúng ta, hoặc tư tưỏng thời ấy còn quá sơ khai, thế

nhưng những gì chúng ta biết được về con người tài giỏi cả về chính trị lẫn

thơ ca vẫn đáng để chúng ta khám phá và học hỏi. Có thể nói, nghiên cứu thơ

ca cũng như những nét cao đẹp về phẩm chất và nhân cách của Khuất Nguyên

được khá nhiều nhà nghiên cứu bàn đến, tuy chưa đầy đủ và hệ thống nhưng

dù sao cũng giúp người đọc hình dung được về con người tài giỏi này. Dù

chưa có nhiều bài viết theo dạng khảo luận, chuyên đề…nhưng cuộc đời và

thơ ca của Khuất Nguyên cũng được đề cập ở các bài viết dưói dạng tìm hiểu

hoặc điểm qua một vài nhận xét chung về địa vị và ảnh hưởng trên văn đàn

văn học sử của Trung Quốc nói chung và nền văn học cổ điển của Việt Nam

nói riêng. Qua đó, người viết có những cơ sở ban đầu trong việc đánh giá,

nhận xét về vị trí của Khuất Nguyên trong lòng độc giả Việt Nam.

Ở Trung Quốc, Khuất Nguyên được các nhà nghiên cứu viết khá kỹ về

những ảnh hưởng của ông trên thi đàn văn học. Trong cuốn “Lịch sử văn học

Trung Quốc”, Dư Quan Anh, Tiềm Chung Thư, Phạm Ninh dành hơn hai

trang giấy để nói về địa vị và ảnh hưởng của ông trong lịch sử văn học.

Những tác giả này đánh giá rất cao Khuất Nguyên, họ cho rằng: “tư tưởng yêu

nước của Khuất Nguyên, lòng kiên trì lý tưởng trong sự nghiệp đấu tranh

chính trị và tinh thần hi sinh thà chết chứ không chịu khuất phục của ông đã

gây được một ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với các nhà văn đời sau” [55; tr.

119]. Bởi lẽ, họ tìm thấy ở Khuất Nguyên tư tưởng lớn, nhân cách lớn và xem

Khuất Nguyên như người bạn tri kỷ với những mối đồng cảm sâu xa. Đó là

Giả Nghị, là Tư Mã Thiên. Dường như tinh thần vĩ đại của Khuất Nguyên đã

truyền cho họ một sức mạnh lớn lao dám đứng lên đấu tranh chính trị, vạch

trần và phê phán nền chính trị đen tối hoặc có khi quên thân mình hi sinh vì lý

tưởng tốt đẹp. Không chỉ ảnh hưởng về nội dung mà phương pháp biểu hiện

nghệ thuật của ông cũng có ảnh hưởng rất lớn. Để chứng minh cho ý kiến trên

các tác giả đã dẫn một đoạn trích ở thiên Biện tao trong “Văn tâm điêu long”

của Lưu Hiệp.

“Khi ông diễn tả nỗi oan ức của mình thì làm cho độc giả vô cùng xúc

động, khi ông phô bày nỗi đau khổ biệt li thì làm cho người đọc cùng xót

thưong sâu sắc, khi nói đến núi sông thì chỉ nghe âm thanh mà tưởng tượng

thấy cảnh núi cao, sông sâu, khi nói đến bốn mùa thì xem văn như thấy thời

tiết đổi thay. Về sau, Mai Thặng, Giả Nghị (những nhà từ phú có tiếng đời

Hán) phỏng theo phong cách đó, cho nên tác phẩm mới hay. Tư Mã Tương

Như, Dương Hùng (cũng là những nhà từ phú nổi tiếng đời Hán) theo cái tinh

thần của ông nên văn chương mới kì diệu. Chiếc áo lông của ông bao trùm

lên các nhà làm từ không phải chỉ có một thời đại. Những nhà văn hậu thế có

tài đều hấp thu tư tưởng trong tác phẩm của ông, còn những nhà văn tầm

thường cũng nhặt nhạnh được lời văn đẹp đẽ.” [55, tr. 120]

Tương tự, trong cuốn “Văn học sử Trung Quốc”, một nhóm tác giả khác

như Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh cũng đưa những ý kiến của mình khi

xét về địa vị ảnh hưỏng của Khuất Nguyên. Qua đó, các tác giả cũng đã khái

quát được phần nào tầm quan trọng của Khuất Nguyên trên thi đàn văn học.

Nói như các nhà nghiên cứu : nếu xét về địa vị của Khuất Nguyên trong xã

hội thời bấy giờ ông là một nhà chính trị chứ không phải là một “thi nhân”

theo ý nghĩa thông thường. Nhưng những tác phẩm ông để lại cho đời đã

được mọi người đánh giá rất cao và ông thực sự là “một thi nhân vĩ đại trong

lịch sử văn học Trung Quốc”. Khuất Nguyên là một người có nhân cách cao

thượng, luôn hết lòng vì nước, vì dân. Với tư tưởng ấy mà mãi cho đến ngày

nay ông vẫn được đánh giá rất cao với tư cách là một người yêu nước kiên

định, trung thành với lý tưởng nhân sinh. Vì theo đuổi lý tưởng mà ông sẵn

sàng đối kháng với tập đoàn thống trị cho nên ông thà chết chứ không chịu

khuất phục. “Ông là một người tuẫn nạn cho lý tưởng, cho nên người hậu thế

nhận được từ ông một sự xúc động và kêu gọi cực kỳ to lớn. Phương thức lập

thân xử thế của ông cũng được những văn nhân đời sau xem là một tấm

gương để bắt chước” [24; tr. 223]

Ở đây, các tác giả cũng xét về sự ảnh hưởng ở mặt nghệ thuật. Với lời

văn phóng túng, tác phẩm của Khuất Nguyên đã phơi bày được một tình cảm

mạnh mẽ, mở ra một phong cách thi ca giàu sinh khí, có tính truyền cảm lớn.

Cũng bởi thế mà “những thi nhân đời sau có cá tính và xúc cảm mạnh mẽ như

Lý Bạch, Lý Hạ v.v…đều nhận được sự gợi mở ở Khuất Nguyên” [24; tr. 224].

Để đúc kết cho điều này, các tác giả cũng viết “đại để có thể, những hệ phái

chú trọng sự hoa mỹ và văn vẻ trong văn học cổ của nước Trung Quốc, truy

cho cùng đều bắt nguồn từ Khuất Nguyên” [24; tr224]

Còn ở Việt Nam, giới nghiên cứu cũng dành cho ông những tình cảm

chân thành, sâu sắc. Dù chưa nhiều nhưng chúng ta có thể tìm hiểu qua những

bài viết ấy để thấy rõ hơn sự ảnh hưởng của Khuất Nguyên đối với nền văn

học cổ Việt Nam. Nhưng trước khi tìm hiểu những bài viết của các tác giả

Việt Nam, chúng ta có thể khảo sát qua một bài viết “Văn học Việt Nam từ

thời trung cổ đến hiện đại, thế kỉ X->XIX” của nhà Việt Nam học người Nga

N.I Niculin, do nhà xuất bản khoa học ban biên tập văn học Phương Đông

xuất bản năm 1977 của nhóm tác giả trường ĐHSP-TPHCM, phòng khoa học

công nghệ và sau đại học biên soạn, dịch. Ở đây, Niculin có nhắc đến khía

cạnh của việc “làm sáng tỏ ít nhiều sự phức tạp của quá trình cảm thụ nền

văn hoá Trung Quốc ở Việt Nam thời đó” [74; tr. 28]. Trong bài viết này, tác

giả có đề cập đến di cảo văn học Việt Nam sớm nhất mà khoa học biết được,

có thể xem đó là một bài thơ do Ngô Chân Lưu viết cách đây gần một ngàn

năm, vào thời của vua Lê Hoàn (Lê Đại Hành). Trong tình thế nước nhà bị

bọn xâm lăng ở phương Bắc uy hiếp, theo lệnh của Lê Hoàn, Ngô Chân Lưu

đã viết một bài thơ để trình sứ thần nhà Tống. Và hình thức thơ được nhà thơ

chọn là “từ khúc” ra đời ở nước Sở phía Nam của Trung Quốc để viết lên

những vần thơ khảng khái mà dường như “có một cái gì đó thân thuộc với

những hình ảnh to lớn, bao la của Khuất Nguyên văng vẳng trong những

dòng thơ của Ngô Chân Lưu”. [74, tr. 28]

Tuy không trực tiếp nói đến sự ảnh hưởng và ảnh hưởng như thế nào

nhưng thấp thoáng đâu đó trong từng lời văn là sự tiếp thu và sự tác động của

những tinh hoa văn hoá Trung Quốc đến chúng ta từ thời xa xưa.

Có lẽ, Dương Quảng Hàm - tác giả cuốn “Văn học Việt Nam sử yếu”

[23] đã dành trọn thiên thứ nhất để viết về “ảnh hưởng của văn chương Tàu”

từ “tính cách phổ thông của văn chương Tàu và văn chương Việt Nam” đến

“các văn sĩ và thi sĩ Tàu có ảnh hưởng lớn nhất đến văn chương Việt Nam”.

Một số văn sĩ, thi sĩ được Dương Quảng Hàm nhắc đến trong đó có Khuất

Nguyên. Bởi lẽ, những gì mà Khuất Nguyên để lại thật đáng để chúng ta phải

suy ngẫm. Từ cuộc đời đến tư tưởng, tính tình được tác giả viết rất ngắn

nhưng nổi bật lên trên hết là một số phận chìm nổi, có tài nhưng không được

trọng, có đức mà không được dùng; phẫn uất, bất đắc chí, chán chường khi

nhìn Tổ Quốc bị xâm chiếm, cuối cùng ông đành chọn cái chết để giữ tròn khí

tiết. Chính vì “ông là người tư tưởng cao thượng, tính tình thanh khiết, trí

tưởng tượng phong phú, yêu cảnh vật đẹp đẽ của tạo hoá, nhưng cũng thiết

tha đến nỗi đau khổ của người đời” [23; tr. 199] mà ông luôn được các thi

nhân, không chỉ của Trung Quốc mà cả Việt Nam, xem là người bạn tri âm,

tri kỷ của mình.

Sau này, một số bài viết cũng tiếp tục đề cập đến những ảnh hưởng to

lớn của Khuất Nguyên đến các thi nhân Việt Nam. Thực sự, những bài viết

này cũng chỉ là những nét chấm phá chứ chưa đầy đủ, chi tiết. Một số bài

cũng chỉ điểm qua chẳng hạn trong “Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen

mà lạ” [51], Nguyễn Khắc Phi đã kết lại phần Khuất Nguyên - Li tao bằng

một đoạn văn ngắn, trong đó ông có nói “ảnh hưởng của Khuất Nguyên đối

với đời sau không phải chỉ bằng thơ, mà còn bằng cả nhân cách đạo lý làm

người” [51; tr. 64]. Và điều này được tác giả nói rõ hơn trong cuốn “Văn học

Trung Quốc, tập 1” [50], được viết chung với Trương Chính. Ở đây, người

viết đã kể tên những thi nhân Việt Nam ảnh hưởng từ thơ ca và con người

Khuất Nguyên đó là “Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá

Quát, mỗi người một hoàn cảnh nhưng người nào cũng có nỗi oan ức cần

phải bộc bạch đều có thơ vịnh Khuất Nguyên. Nhiều nhất là Nguyễn Du. Khi

đi sứ Trung Quốc, qua vùng Giang Nam, ông đã làm cả thảy bảy bài thơ về

Khuất Nguyên. Cảm hứng dồi dào như thế là vì ông cũng gặp cảnh ngộ tương

tự như Khuất Nguyên, bị bọn nịnh thần chèn ép” [50; tr. 65]

Trong cuốn “Đại cương văn hoá Phương Đông” [63], GS Lương Duy

Thứ cùng một số nhà nghiên cứu khác cũng dành những tình cảm ưu ái của

mình khi viết về nhân cách lỗi lạc của văn hoá Trung Hoa, trong đó có nhà

thơ Khuất Nguyên. Ở đây, các tác giả có nhắc đến Nguyễn Trãi - nhà thơ, nhà

chính trị lỗi lạc của Việt Nam, với cách nhìn nhận có sự giống nhau “Cửu

chương gồm chín bài trữ tình nội tâm, trong đó đáng chú ý hơn cả là bài

“Quất tụng” (ca ngợi cây quýt Phương Nam). Nhà thơ đã ngợi ca phẩm chất

ngay thẳng kiên trinh bốn mùa tươi tốt của cây quýt. Ông nói đến chùm rễ

cắm sâu vào đất Phương Nam khiến ta nghĩ đến cây tùng lá xanh suốt mùa

đông giá rét vì “cội rễ bền, dời chẳng động” trong thơ Nguyễn Trãi” [63; tr.

97,98]

Bên cạnh những nhà nghiên cứu tìm hiểu về Khuất Nguyên như chúng

tôi đã nêu ở trên thì GS Trần Xuân Đề là người đã đặt vấn đề nghiên cứu

Khuất Nguyên trong mối tương quan so sánh với các nhà thơ Việt Nam dưới

góc độ ảnh hưởng về mặt nhân cách cao đẹp, đó là: tư tưởng yêu nước, lòng

kiên trì lý tưởng trong đấu tranh chính trị, tinh thần hi sinh thà chết chứ không

chịu khuất phục của Khuất Nguyên cũng như việc sử dụng hình thức nghệ

thuật dân ca, sáng tạo một thể tài mới - thể tao - cũng gây được tiếng vang lớn

và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sau.

“Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước” [14] được GS Trần Xuân Đề viết

cách đây 35 năm nhưng cũng gợi cho chúng tôi những suy nghĩ và những

định hướng để tiếp tục những gì mà người viết gợi ra. Nhắc đến Khuất

Nguyên hay làm thơ vịnh Khuất Nguyên, thực ra các nhà thơ Việt Nam muốn

bày tỏ “…tấm lòng của mình về cuộc đời đầy bất hạnh của Khuất Nguyên, hết

lời ca ngợi tiết tháo và tài năng văn chương lỗi lạc của ông, và cũng là những

lời “lòng tự bảo lòng” gửi gắm bao niềm tâm sự riêng tây như Nguyễn Du,

Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu,…” [14; tr. 165], bởi lẽ họ tìm thấy ở

Khuất Nguyên mối đồng cảm sâu xa. Tiết tháo, tài năng của Khuất Nguyên

mãi toả những ánh hào quang, soi sáng mọi nẻo đường để chúng ta tiếp bước.

3. Phạm vi nghiên cứu

Văn học Trung Đại Việt Nam được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX.

Đây là giai đoạn văn học kéo dài nhất trong nền văn học nước nhà. Cho nên

để nghiên cứu đề tài “Khuất Nguyên - con người và thơ ca trong văn học

Trung Đại Việt Nam” người viết cũng chỉ chọn lọc trong giai đoạn này những

tác giả có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến Khuất Nguyên, có thể là bi

kịch số phận, nội dung sáng tác hay phương thức nghệ thuật. Tài liệu được

người viết tham khảo là toàn bộ phần văn học Trung Đại Việt Nam

Có thể nói đây là một đề tài tương đối rộng, không thể bao quát hết cả

giai đoạn văn học thời kì Trung đại với một khối lượng tác giả, tác phẩm đồ

sộ như vậy. Cho nên, người viết chỉ khảo sát khoảng mười lăm tác giả có

nhắc đến nhà thơ yêu nước vĩ đại - Khuất Nguyên. Đó là những tác giả: Mạc

Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Ức, Trần Nguyên Đán, Vũ Thế

Trung, Phạm Nhữ Dực, Nguyễn Phi Khanh, Lê Thánh Tông, Phạm Quý

Thích, Ngô Nhân Tĩnh, Phan Huy Chú, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,

Miên Thẩm…Tuy nhiên, theo chiều dài lịch sử văn học chắc chắn không thể

bỏ qua những nhà thơ lớn của Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc và bày tỏ

tình cảm tri âm của mình. Để bài viết có hướng nghiên cứu sâu hơn người viết

tiếp tục chia nhỏ và chọn hai tác gia tiêu biểu là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du để

tìm hiểu thái độ ứng xử hay quan điểm chính trị, phần nào hiểu sâu hơn về

tấm lòng và nhân cách của họ dành cho bậc vĩ nhân này. Với đề tài này,

chúng tôi muốn tìm cho mình một con đường mới để đi dù chưa thực bằng

phẳng và còn nhiều chông gai, hi vọng bên trong con đường ấy sẽ có nhiều

điều mới lạ.

4. Phương pháp nghiên cứu

Mỗi nhà nghiên cứu khi muốn nghiên cứu một vấn đề gì không thể bỏ

qua phương pháp. Nó dẫn đường chỉ lối để chúng ta đi đúng hướng và khai

thác mọi vấn đề mà đề tài muốn nói đến. Do đó, trong quá trình thực hiện đề

tài người viết đã lựa chọn và sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp phân loại, thống kê: Chọn phương pháp này là cách để

chúng tôi dễ dàng phân loại, chọn ra những nhà thơ chịu ảnh hưởng trực tiếp

hay gián tiếp đến Khuất Nguyên.

Phương pháp lịch sử, xã hội: Đây cũng là một phương pháp rất cần thiết.

Bởi lẽ, mỗi thời đại đi qua đều để lại những dấu ấn khó phai, mà mỗi tác giả,

tác phẩm đều có mối quan hệ gắn bó với hoàn cảnh xã hội thời đó. Hơn nữa

việc tiếp nhận của người đọc ở mỗi thời đại cũng không hoàn toàn giống

nhau. Do đó, hiểu rõ từng thời kì lịch sử sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn

diện, hệ thống về con người và thời đại của tác giả được nghiên cứu từ đó đưa

ra những nhận xét đánh giá công bằng.

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Để các luận điểm được triển khai đầy

đủ và giúp người đọc hiểu rõ hơn, kĩ hơn thì phương pháp này sẽ hổ trợ đắc

lực cho người viết.

Phương pháp so sánh văn học: Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Thế

nhưng đây là phương pháp chính được người viết sử dụng trong quá trình

thực hiện luận văn. Bởi nó giúp người viết đặt các vấn đề hay các mối quan

hệ trong sự tương quan lẫn nhau.

5. Đóng góp của luận văn

Mở một con đường mới để đi và tìm xem trên con đường ấy có gì mới

mẻ quả là gian nan. Có đi chúng ta mới thấy và thấu hiểu nỗi nhọc nhằn, vất

vả của những người mở đường. Dù vậy, chúng tôi muốn làm một người mở

đường để được khám phá những cái hay cái đẹp trong mỗi tác phẩm và học

hỏi thêm nhiều điều bổ ích. Cho nên trong quá trình thực hiện luận văn con

đường đi ấy dù đầy chông gai nhưng không kém phần thú vị. Nhưng dù sao

người viết cũng học hỏi được nhiều điều và mong muốn chia sẻ những điều

mình biết đến mọi người.

Nghiên cứu một nhà thơ xuất hiện đầu tiên trong nền văn học Trung

Quốc cổ đại - Khuất Nguyên, người viết cũng thật lo lắng vì tài liệu ít. Không

những thế đề tài nghiên cứu lại quá rộng, đem nhà thơ của một nước rút ra

những ảnh hưởng và tác động của nhà thơ đó đến các nhà thơ Việt Nam giai

đoạn Trung Đại. Thế nhưng, qua đề tài này phần nào cũng giúp cho bạn đọc

có cái nhìn đầy đủ con người và thơ ca của Khuất Nguyên cũng như những

ảnh hưởng của Khuất Nguyên đối với các nhà thơ Việt Nam.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài hai phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được sắp xếp

thành ba chương:

Chương 1. Tấn bi kịch của một đời người

1.1 Từ hưng thịnh đến suy vong - bước ngoặc của nước Sở thời

Khuất Nguyên.

1.2 Thời đại “Trăm nhà đua tiếng”

1.3 Khuất Nguyên - nhà thơ đầu tiên của nền văn học Trung Quốc.

1.3.1. Con người

1.3.2. Sở từ và các tác phẩm của Khuất Nguyên.

Chương 2. Hình ảnh và thơ ca của Khuất Nguyên trong văn học Trung

đại Việt Nam

2.1 Khuất Nguyên trong cái nhìn của các nhà thơ Trung đại Việt

Nam.

2.1.1 Lòng yêu nước sâu sắc.

2.1.2 Đấu tranh cho lý tưởng tốt đẹp.

2.1.3 Ý thức giữ gìn phẩm chất đạo đức.

2.2 Thơ ca của Khuất Nguyên trong văn học Trung Đại Việt Nam.

2.1.1 Hình ảnh.

2.2.2 Điển cố.

2.2.3 Ý thơ.

Chương 3. Khuất Nguyên trong thơ ca của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.

3.1 Hình ảnh và thơ ca của Khuất Nguyên trong thơ Nguyễn Trãi.

3.1.1 Bước thăng trầm của cuộc đời Nguyễn Trãi.

3.1.2 Quan điểm xử thế của Khuất Nguyên và Nguyễn Trãi.

3.2 Hình ảnh và thơ ca của Khuất Nguyên trong thơ ca Nguyễn Du.

3.2.1 Cuộc đời của con người “tài hoa bạc mệnh”.

3.2.2 Thái độ ứng xử của Khuất Nguyên và Nguyễn Du.

Chương 1: TẤN BI KỊCH CỦA MỘT ĐỜI NGƯỜI

1.1. Từ hưng thịnh đến suy vong - bước ngoặc của nước Sở thời

Khuất Nguyên

Trước khi Tần thống nhất Trung Quốc, Sở cũng là nước hùng mạnh trong thất hùng thời Chiến Quốc. Vốn là một bộ tộc lâu đời ở vùng Đan

Dương (nay là miền Tây tỉnh Hồ Bắc) khi Chu Thành Vương phong cho

Hùng Dịch ở đất Sở thì vương triều nhà Chu phần nào thừa nhận trên thực tế

người Sở đã khống chế cả vùng Trường Giang và Hán Thuỷ. Nói như vậy,

nhưng không phải tự nhiên Sở lại được nhà Chu nể trọng một cách vô cớ,

chúng ta có thể lật lại những trang sử hào hùng của Sở.

Vào thế kỷ XIV trước công nguyên, đời Ân, Sở đã giữ vai trò quan trọng

trên vũ đài lịch sử. Nhà Ân đã bao lần phái binh chinh phục Sở nhưng đều

thất bại trước tinh thần quật cường của Sở. Từ đó, lưu vực Trường Giang và

Hán Thuỷ là nơi định cư của Sở.

Đến thế kỷ XI trước công nguyên, Sở liên minh với các bộ tộc ở lưu vực

Hoàng Hà chống lại thiên triều nhà Chu hòng chiếm địa vị độc tôn. Có lẽ,

chính thái độ đó mà sau này Sở Trang Vương từng có ý “dòm ngó chín cái

đỉnh của nhà Chu”. Nhà Chu bao lần đem quân chống trả, nhưng đều bị Sở

nổi lên đánh bại, chỉ đến khi Chu Công đông chinh mới dẹp yên.

Từ đó, nước Sở dần mở rộng, vua nước Sở là Hùng Cừ chia đất đai cho

con cháu trước sau vẫn giữ thái độ xem thường nhà Chu.Vào khoảng giữa thế

kỉ VIII trước công nguyên, Hùng Thông dựa vào thế lực ngày càng lớn mạnh

của mình yêu cầu nhà Chu phong vương nhưng không được chấp nhận. Hùng

Thông tự xưng Sở Vũ Vương, con trai là Văn Vương dời đô đến Sính (thuộc

huyện Giang Lăng tỉnh Hồ Bắc ngày nay) xây dựng nước. Những nước nhỏ ở

lưu vực sông Hoài dần dần bị Sở thôn tính. Từ đó, Sở trở thành một nước lớn

ở phía Nam với đất đai rộng nhất, nhân khẩu đông nhất.

Thế nhưng, bờ cõi nước Sở đâu chỉ dừng lại ở đó, cuối thế kỷ thứ VII

đến đầu thế kỷ VI trước công nguyên, Sở Trang Vương tiếp tục thôn tính

thêm nhiều nước nữa, mở rộng lãnh thổ trên ba ngàn dặm. Có thể nói, lúc này

ở phương Nam ngôi bá chủ của vùng Trung Nguyên thực sự thuộc về Sở.

Không những dân số phát triển, bờ cõi mở rộng, Sở còn có một nền kinh

tế hết sức phồn vinh. Sở dĩ, có được như vậy là do điều kiện kinh tế ở phía

Nam có nhiều tính ưu việt hơn phía Bắc. Bên cạnh nguồn thực phẩm dồi dào

thì ngành công nghiệp của Sở cũng đặc biệt được chú trọng. Theo sử sách ghi

lại thì Sở là một trong những nước sử dụng đồ sắt sớm nhất. Không chỉ có sắt

mà cuối thời Xuân Thu, Sở còn mở mang công nghiệp luyện thép với quy mô

lớn. Có thể nói, nguyên liệu công nghiệp, nông nghiệp của Sở khá dồi dào.

Nước Sở nằm ở phương Nam, do có sự cách biệt về địa lý nên nền văn

hoá Sở cũng có những nét khá riêng. Trong quá trình phát triển, văn hoá Sở

không ngừng có sự giao lưu và tiếp thu những tinh hoa của nền văn hoá Trung

Nguyên. Nét nổi bật nhất của nền văn hoá Sở là tục lên đồng (vu thuật).

Người lên đồng hay còn gọi là vu nhân có nhiệm vụ nối kết giữa người và

thần hay giữa thần và người. Khi tế lễ những vu nhân này thường đứng trên

đài cao ca hát, nhảy múa để tiếp đón, tiễn đưa thần, cầu thần phù hộ, trừ họa

giáng phúc cho con người. Những bài ca tế lễ này chính là những bài “cửu

ca” đầu tiên của nước Sở để rồi sau này được Khuất Nguyên dựa vào đấy mà

chỉnh lý, tu sửa thành những bài thơ ưu tú chiếm địa vị quan trọng trong Sở

từ. Dân ca Sở phát triển trên cơ sở đó.

Nơi đây còn được thiên nhiên ban tặng cho nhiều phong cảnh đẹp như

núi Côn Lôn, hồ Động Đình, đầm Vân Mộng. Một nhà thơ Trung Quốc đã

từng nhận xét về miền đất này như sau: “khí hậu ấm áp, cây cỏ xanh tươi,

phong cảnh tốt đẹp, sản vật phong phú. Núi lởm chởm, hết ngọn này đến ngọn

khác, mây trắng phủ quanh năm, sông rạch quanh năm uốn khúc, như luyến

tiếc cành xanh hoa thắm mà không nỡ rời” [30; tr. 23,24]. Lịch sử cũng để lại

nơi đây nhiều di tích thần kỳ. Đó chính là nguồn đề tài vô tận của bao nhà thơ,

nhà văn mỗi khi đi ngang qua vùng đất này.

Nước Sở dù đất rộng, người đông, được thiên nhiên ưu đãi nhưng nếu

không có những cải cách chính trị , không tiến cử người tài thì có lẽ cũng bị

tiêu diệt từ lâu. Chính vì vậy, khi Sở Điếu Vương lên ngôi đã dùng Ngô Khởi

- học trò của Tăng Tử, một nhà quân sự có tài, theo học phái nho gia. Nhờ

thực hiện những cải cách của Ngô Khởi mà Sở ngày càng hùng mạnh.

Có thể nói, mục tiêu đấu tranh cuối cùng của các nước thời bấy giờ là

thống nhất Trung Quốc. Tần, Tề, Sở là những nước có khả năng đảm nhận

nhiệm vụ đó vì họ khá mạnh, đất đai rộng mà tài nguyên lại nhiều.

Diện tích của Sở gần bằng lãnh thổ của sáu nước Tần, Hàn, Triệu, Nguỵ,

Yên, Tề cộng lại. Sở lại có đội kị binh hùng mạnh không nước nào sánh kịp.

lại nhờ biết thực hiện những cải cách chính trị đúng đắn của Ngô Khởi nên Sở

có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ thống nhất Trung Quốc. Nhưng đáng

tiếc thay, Sở đã để cơ hội hiếm có vuột khỏi tay mình. Đáng lẽ, Sở phải liên

Tề chống Tần, ủng hộ chính sách hợp tung phản đối chính sách liên hoành,

nhưng vua Sở lại cả tin vào những lời dụ dỗ của bọn thuyết khách (Trương

Nghi), phá vỡ kế hợp tung. Bao lần Sở phải lao đao chống cự với các nước

Tần, Hàn, Ngụy….

Khuất nguyên - một vị quan thanh liêm hết lòng vì nước vì dân cũng bao

phen lận đận. Mọi chủ trương của ông đều bị bọn quan lại ghen ghét, gièm

pha. Đứng trước tình hình Sở ngày một yếu, Tần ngày một mạnh, mấy lần bị

Tần lừa, Sở bị hại người, mất của nhưng vua Sở vẫn không tỉnh ngộ để rồi Sở

Hoài Vương phải ném thây bên xứ người. Sở Tương Vương lên ngôi nhưng

tình hình đất nước vẫn không biến chuyển, trước sau vẫn giữ thái độ khuất

thân hàng Tần, nghe lời súc xiểm của kẻ xấu mà hại các trọng thần. Nền chính

trị ngày một rối ren. Cảnh đất nước bị diệt vong hiện ra trước mắt. Và điều

không ai mong muốn ấy đã đến, mùa xuân năm 278 trước công nguyên tướng

Tần là Bạch Khởi đem quân đánh chiếm Sính đô, đốt phá lăng tẩm của Sở.

Năm mươi lăm năm sau (223 tr..CN), nước Sở bị Tần tiêu diệt, kết thúc

thời kì xưng hùng xưng bá ở phương Nam.

1.2. Thời đại “Trăm nhà đua tiếng”

Cuộc đời hoạt động của Khuất Nguyên nằm trọn trong thời Chiến Quốc

( 403 - 221 trước CN). Có thể nói, thời kì này Trung Quốc như ánh hào quang

với biết bao ngôi sao lạ chiếu sáng cả bầu trời. Theo GS Trần Xuân Đề thì đó

là “thời kì của những biến động lớn của xã hội Trung Hoa, của phong trào

“trăm nhà đua tiếng”, thời kì nở rộ những bông hoa đẹp của nền văn học cổ

điển Trung Quốc ” [14; tr. 12]. Nguyễn Hiến Lê thì cho rằng “thời Chiến

Quốc là hoàng kim thời đại của triết học, ngôn luận được hoàn toàn tự do, tất

cả các thời sau, cho tới thời nay không thời nào bằng, và được gọi là thời

“bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng) [30; tr. 104]. Còn Hà Thúc Minh

thì bảo thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc là “bình minh của xã hội Trung Quốc”

[40; tr. 9]. Quả vậy, lịch sử văn minh của thời kì vàng son ấy mãi lưu danh

hậu thế và sự ảnh hưởng của nó đối với chúng ta đến ngày hôm nay vẫn còn

sâu đậm.

Hãy trở lại những ngày đầu trước khi xuất hiện “những bông hoa đẹp

của nền văn học cổ điển Trung Quốc” để chúng ta có thể cảm nhận đầy đủ

hơn những bước thăng trầm của thời đại. Trước khi nhà Chu hình thành, lịch

sử Trung Quốc đã trải qua các đời vua gần nhất là Hạ, Thương (Ân). Hình

như thời nào cũng vậy, những năm đầu dựng nước thì vua sáng tôi hiền luôn

chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng một đất nước giàu mạnh, nhưng càng về

sau vua quan ăn chơi sa đoạ, chỉ biết hưởng lạc chứ ít ngó ngàn đến nhân dân,

đất nước. Chính vì thế mà triều đại của họ chỉ tồn tại đến mấy trăm năm rồi

suy tàn, đổ nát. Vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Ân Thương là những ông vua

như vậy. Khi nhà Chu lên nắm chính quyền tình hình cũng chẳng mấy sáng

sủa, trong những năm đầu giai cấp thống trị hô hào tiết kiệm, cấm chỉ giới quí

tộc ăn chơi xa xỉ. Thời gian này các sử gia gọi là thời hưng thịnh của Thành

Vương và Khang Vương. Nhưng vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc tình hình

xã hội khác trước rất nhiều. Chế độ chiếm hữu ruộng đất đã thay đổi. Ruộng

đất được phép tự do mua bán đưa đến sự thay đổi về quyền sở hữu ruộng đất

và quan hệ sản xuất. Giai cấp địa chủ xuất hiện và chi phối các mặt chính trị,

kinh tế văn hoá của mỗi nước. Những người nông nô từng bị ràng buộc trên

mảnh đất quê hương, bây giờ trở thành nông dân hoặc dân thành thị tự do. Sự

phản kháng của nô lệ và bình dân chống bọn quí tộc chủ nô lan rộng và gay

gắt. Quyền thống trị thiêng liêng bất khả xâm phạm của thiên triều nhà Chu bị

lung lay, không đủ sức khống chế chư hầu. [14;tr. 15]

Khi nhà Chu còn thịnh thì trật tự được phân minh nhưng khi nhà Chu đã

suy phải dời đô về phía Đông thì mệnh lệnh của thiên tử không ai nghe. Một

khi vai trò của nhà Chu không còn tác dụng thì sự tranh giành quyền bính thế

lực của các chư hầu vì thế mà cũng tăng theo. Nước mạnh thôn tính nước yếu,

nước lớn chiếm nước nhỏ. Cuộc binh đao vì thế mà chẳng lúc nào dứt được.

Tình trạng chia cắt vụn vặt bớt đi. Thời Tây Chu có tám trăm đến một ngàn

chư hầu nhưng bây giờ rút xuống còn một trăm nước. Thời đại này sử Trung

Quốc gọi là thời Xuân Thu.

Trước sự loạn lạc rối ren, đạo đế vương mờ tối, người đời đắm say vào

con đường danh lợi chẳng mấy ai thiết nghĩ đến nhân nghĩa. Nhưng cũng vì

thế cục biến loạn, dân tình khổ sở, người trong nước mới lo tìm cách sửa đổi

để cứu vớt thiên hạ, vậy nên các học thuyết mới ra đời và hưng thịnh. Hai nhà

tư tưởng lớn của thời Xuân Thu là Khổng Tử và Mặc Tử.

Khổng Tử ra đời và lúc chế độ nô lệ tan rã. Nội dung học thuyết chính trị

của Khổng Tử là “Nhân” và “Lễ”. Học thuyết “Nhân”, cốt lõi của tư tưởng

Khổng Tử, chủ yếu đề cập đến quan hệ giữa người và người. Khổng Tử quan

niệm mối quan hệ đó phải dựa trên cở sở của tình thương. Vậy “Nhân” có

nghĩa là thương người, yêu người. Nhân là “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”,

hay “phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân”.

Thực chất quan điểm chính trị này của Khổng Tử là muốn cải thiện và

duy trì mối quan hệ “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” (vua phải giữ đạo

vua, tôi phải giữ đạo tôi, cha phải giữ đạo cha, con phải giữ đạo con). Có như

vậy mới đáp ứng được yêu cầu của xã hội.

Cuộc đời của Khổng Tử cũng lắm gian nan, bôn ba nay đây mai đó gần

mười bốn năm. Lúc ngài trở về quê thì đã 68 tuổi. Thời gian ở quê Ngài dạy

học, san định lại sách vở đời trước, làm sách Xuân Thu để bày tỏ cái đạo của

mình về đường chính trị. Sau khi Khổng Tử mất những người học trò tiếp tục

sự nghiệp của ông. Họ chia thành nhiều phái đi chu du khắp thiên hạ, truyền

bá học thuyết của ông.

Nho, Mặc hai học phái được sản sinh vào cuối thời Xuân Thu, nhưng vì

lập trường giai cấp khác nhau nên quan điểm chính trị cũng khác nhau. Khổng

Tử đại biểu cho lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn lên thì Mặc

Tử đại biểu cho lợi ích của dân tự do, lên tiếng bênh vực cho những người sản

xuất nhỏ, thợ thủ công, phản đối sự chuyên chính của giai cấp quí tộc. Ông

quan tâm nhiều đến hạnh phúc của con người nhất là những con người ở dưới

đáy xã hội. Theo ông điều dẫn đến những cảnh áp bức, lừa đảo, cướp bóc

chẳng qua do con người không biết yêu thương nhau mà ra. Do đó mà học

thuyết “Kiêm ái” (mọi người thương yêu nhau, yêu mình như yêu người) của

ông ra đời.

Mặc Tử đề cao tính chủ động trong tình thương. Theo ông tình thương ở

đây phải là thứ tình thương không phân biệt thứ bậc, thân sơ khác với tình

thương mà Khổng Tử chủ trương đề xướng có phân biệt của chế độ đẳng cấp.

Luôn chú ý đến lợi ích cụ thể nên Mặc Tử kêu gọi tiết kiệm, bài xích sự

lãng phí phô trương lòe loẹt về Lễ nhạc, phê phán thuyết thiên mệnh của đạo

Nho. Theo ông mỗi người phải tự mình nổ lực lao động chứ không khoanh

tay ngồi chờ, “người nào dựa vào sức mình thì sống, người nào không dựa

vào sức mình thì không sống – Phi nhạc” [40; tr. 33 ].

Xuất phát từ Kiêm ái nên Mặc Tử kịch liệt phản đối chiến tranh (phi

công ) nhưng ông không phản đối các cuộc chiến tranh chính nghĩa để bảo vệ

nền độc lập của nước nhà.

Mặc Tử cũng còn có một học thuyết nữa cũng đáng quan tâm mà chúng

ta ngày nay cần học hỏi. Đó là thuyết “thượng hiền” có nghĩa là cử người tài

giỏi ra giúp nước. Ông phê phán chế độ cha truyền con nối vì theo ông làm gì

trong xã hội có loại người suốt đời làm quan, còn lại là loại người suốt đời chỉ

biết cúi đầu làm dân đen. Quả vậy, những người thực sự tài giỏi hãy để họ

đứng ra giúp nước, giúp đời, đừng gièm pha vùi dập họ và chỉ có lao động

chân chính mới con người đứng vững trong cuộc đời.

Hai học thuyết Khổng Mặc dù có phần trái ngược nhau nhưng nó đã trở

thành Hiển học của thời Chiến Quốc, người ta quen gọi là Hiển học Khổng

Mặc hay như Hàn Phi Tử cũng đã nói: “ Hiển học đời này là Nho và Mặc”

Thời Xuân Thu xã hội có nhiều thay đổi nhưng những biến đổi lớn lao và

gay gắt thực sự lại bùng phát vào thời Chiến Quốc. Nếu như thời Xuân Thu

những vị bá vẫn còn mượn danh thiên tử nhà Chu để tập hợp chư hầu hoặc sai

khiến các nước khác thì đến thời Chiến Quốc các ông vua đều xưng vương,

nhất là ở những nước mạnh. Họ chẳng thèm mượn danh nghĩa nhà Chu mà

hình như họ cũng quên hẳn nhà Chu. Chiến tranh trong thời ấy càng kịch liệt

hơn trước và sự loạn ly cũng đã lên đến đỉnh điểm.

Thời thế mỗi lúc một cấp bách, các vua chư hầu muốn tồn tại thì phải

dùng người tài giỏi về chính trị, ngoại giao, kinh tế…. Vì vậy họ ra sức chiêu

hiền đãi sĩ, như nhận xét của một nhà nghiên cứu “tiếng kêu bất tuyệt trong

thời Chiến Quốc là phải biết dùng nguời” [5; tr. 33]. Không phải ngẫu nhiên

mà trong thời này kẻ sĩ xuất hiện khá nhiều. Họ xuất thân trong nhiều hoàn

cảnh khác nhau có thể trong gia đình đại quý tộc sa sút, có thể là tầng lớp bình

dân nhưng nhìn chung họ là những người thông minh, có tri thức văn hoá, có

kinh nghiệm đấu tranh chính trị và đặc biệt là có tài thuyết khách. Họ đi du

thuyết hết nước này đến nước khác. Để được vua trọng dụng họ phải xoay

quanh những vấn đề thiết thực trước mắt như phát biểu những kiến giải chính

trị của mình, làm thế nào để xây dựng chế độ chính trị và luật pháp phù hợp

với yêu mới của xã hội, tìm cách thống nhất Trung Quốc, chấm dứt tình trạng

cát cứ, tổng kết kinh nghiệm sản xuất. Họ còn hăng hái viết sách, phát biểu

chính kiến, tuyên truyền quan điểm và chủ trương những đường lối chính trị

của mình. Chiến Quốc là thời chia năm xẻ bảy, nhà văn ít bị ràng buộc bởi

những tư tưởng và hình thức nghệ thuật truyền thống, nên họ mạnh dạn biện

bác, bài xích, công kích lẫn nhau. Họ tiếp thu những giá trị tinh tuý của dân

ca, truyền thuyết, thần thoại, ngụ ngôn…, khéo vận dụng những điều hay, mới

lạ nên tác phẩm của họ thật muôn màu muôn vẻ, lời văn trau chuốt, lý lẽ sắc

bén. Thật không hổ thẹn là những bậc sĩ nổi tiếng thời bấy giờ.

Chính vì được nói lên suy nghĩ của mình mà các tác phẩm chứa đựng

nhiều mặt tích cực, tiến bộ, có mặt lạc hậu tiêu cực; có mặt duy tâm, có mặt

bao hàm nhân tố duy vật. Về triết học có phái Nho gia với thuyết “nhân

chính”, Mặc gia với thuyết “kiêm ái”, Đạo gia với thuyết “vô vi”, Pháp gia

với thuyết “pháp trị”. Về quân sự có binh pháp của Tôn Tử, Hàn Phi

Tử…Người ta gọi chung các trứ tác của họ là tản văn triết học. Những bộ tản

văn triết học nổi tiếng là Mạnh Tử, Tuân Tử, Lảo Tử, Trang Tử, Hàn Phi

Tử…

Mạnh Tử là người học trò gần gũi nhất của Khổng Tử. Ông kế thừa và

tiếp tục phát huy học thuyết “nhân nghĩa” của Khổng Tử. Cho nên tên tuổi

của ông thường đứng chung với thầy, gọi là học thuyết Khổng Mạnh. Ông

chủ trương thi hành nhân chính để bảo vệ quyền lợi của người dân. Mọi chính

sách sưu cao thuế nặng, hà khắc tàn bạo với dân đều bị ông kịch liệt phản đối.

Theo Mạnh Tử, nhà cầm quyền phải là người biết chăm lo đến đời sống nhân

dân, không được đẩy người dân rơi vào cảnh đói khổ cùng cực. Chính vì thế

mà ông cho rằng “ai thực hiện nhân chính thì người đó sẽ được dân, ai được

dân thì người đó được thiên hạ” [40; tr. 40]. Mạnh Tử cũng đã từng tuyên bố

một câu mà nghìn đời sau chúng ta vẫn còn ghi nhớ “Dân vi quí, Xã tắc thứ

chi, Quân vi kinh”. Dĩ nhiên, khái niệm “dân” của Mạnh Tử không hẳn hoàn

toàn là dân đen, con đỏ như ngày nay chúng ta nghĩ mà “thực chất là những

người tri thức, địa chủ và thương nhân” [14; tr. 21]. Xét về mặt nào đó thì

quan niệm về “dân” của ông cũng bao hàm những nhân tố tích cực của tư

tưởng dân chủ. Thế nhưng, chính Mạnh Tử lại tuyệt đối hoá ranh giới giữa

người lao tâm (lao động trí óc) và người lao lực (lao động chân tay). Ông nói:

“người lao tâm cai trị người khác, còn người lao lực thì bị người khác cai trị.

Người bị trị phải cung phụng cho người khác còn người cai trị thì được người

khác cung phụng. Đó là đạo lý thông thường trong thiên hạ. Đằng Văn Công

Thượng” [40; tr. 44]. Mạnh Tử chỉ ra tính chất của lao động chính là để minh

chứng cho tính hợp lý của chế độ phong kiến.

Cùng xuất hiện với Nho gia và có ảnh hưởng lớn đến tâm thức của mỗi

người dân Trung Quốc đó chính là Đạo gia. Người sáng lập ra Đạo gia là Lão

Tử với hạt nhân tư tưởng là phạm trù “đạo”, với tác phẩm nổi tiếng là Đạo

đức kinh. Ông xem “đạo” là nguồn gốc của giới tự nhiên. Đạo là cái gì đó

“hình thành trong tình trạng hỗn tạp của sự vật” (Đạo đức kinh, chương 25)

[40; tr. 50]. Nhưng chính nó là cơ sở vật chất đầu tiên của thế giới. Đạo luôn

vận hành theo qui luật. Qui luật đó không phải cái gì khác mà chính là lẽ tự

nhiên. Bản thân lẽ tự nhiên là chuẩn mực rồi, con người chỉ cần noi theo lẽ tự

nhiên (Đạo) là đủ, không cần phải làm cái gì khác ngoài tự nhiên nữa [40; tr.

52]. Như vậy, vô hình chung ông dẫn chúng ta đến chỗ không cần đấu tranh

với tự nhiên.

Về mặt chính trị ông đề ra thuyết “vô vi trị” (cai trị bằng thuyết vô vi,

không can thiệp). Có lẽ, vì lý do đó mà ông chủ trương mọi người hãy trở về

với xã hội nguyên thuỷ, sống một đời sống chất phác, không bon chen, không

chiến tranh, thuận theo tự nhiên. Thực ra, tư tưởng đó của Lão Tử cũng có

nhiều hạn chế bởi nó đưa ta trở về với thế giới mông muội mà chối bỏ thế giới

hiện đại.

Người chịu nhiều ảnh hưởng của phái Lão Tử là Trang Tử. Tiếp tục phát

huy tư tưởng của thầy, đi cùng hướng với thầy nhưng xem ra Trang Tử còn đi

về những nẻo đường xa xôi hơn thầy. Có lẽ chính vì thế mà cuộc đời được

ông nhìn qua lăng kính mờ ảo hơn Lão Tử. Trang Tử cho rằng cuộc đời như

bóng câu qua cửa sổ, nhân sinh như giấc mộng mà thôi. Cũng như Lão Tử,

Trang Tử không thừa nhận có đấng thượng đế chi phối tự nhiên, không tin có

thế giới quỷ thần, không cần dùng sức người thay đổi tự nhiên hãy thuận theo

tự nhiên và ông cũng có mong muốn như Lão Tử là con người hãy trở về với

cuộc sống thanh bình, tĩnh tại như thời viễn cổ xa xăm. Ông còn đưa ra học

thuyết bất khả thi cho rằng trên đời này mọi thứ chỉ là tương đối, không có gì

là tiêu chuẩn cả.

Xã hội Trung Quốc vào cuối thời Chiến Quốc đã thực sự biến chuyển,

biết bao học phái ra đời với mong muốn học thuyết của mình được sử dụng.

Thế nhưng, lịch sử đã trao trọng trách ấy cho Tuân Tử - người có nhiệm vụ

tổng kết quá khứ và xây dựng tư tưởng chính trị để khôi phục lại chế độ

phong kiến đương thời. Tuân Tử kì vọng rằng mình sẽ đem lại tài năng để

phục vụ ở Tần vì đó là nước hùng mạnh nhất thời bấy giờ. Vậy mà bao ước

vọng lớn lao ấy ông không thể thực hiện được đành phải ký thác lại cho người

học trò gần gũi nhất của ông là Hàn Phi Tử.

Tuân Tử thấy rằng trị nước mà chỉ dùng đức trị và lễ nghĩa thôi thì chưa

đủ mà phải kết hợp lễ giáo và hình phạt. Ngoài chủ trương kết hợp lễ trị với

pháp trị thì Tuân Tử cũng không khác Khổng Mạnh bao nhiêu khi lấy dân làm

gốc. Trái ngược với Mạnh tử, Tuân tử đưa ra học thuyết “Tính ác”. Ông cho

rằng bản chất của con người là xấu, là ác. Do vậy, ông chủ trương dùng lễ

nghĩa và hình phạt để răn dạy con người. Thế nhưng, điều này chỉ có thể áp

dụng cho bọn vương công quý tộc, vì bọn này được học lễ nên xấu có thể biến

thành tốt. Còn thứ dân thì không thể dùng lễ trị mà dùng pháp trị tức hình

phạt, bởi họ không được học lễ, tính của họ là ác.

Thực ra, những điều Tuân Tử nêu ra cũng chính là để chứng minh cho sự

vĩnh hằng bất biến của chế độ đẳng cấp. Nó chính nền tảng cơ bản để duy trì

trật tự xã hội.

Hàn phi - người học trò xuất sắc nhất của Tuân Tử, tiếp tục phát triển lý

luận mà Tuân Tử từng vạch ra. Cũng như thầy, ông cho rằng bản tính của con

người là ác nên ông chủ trương không dùng lễ nghĩa, đạo đức để cải hóa con

người mà dùng hình phạt để trị nước, an dân. Mặc dù vậy, tư tưởng của Hàn

Phi có phần khác với thầy của mình. Hàn Phi đã tổng hợp tư tưởng của Thân

Bất Hại, Thương Ưởng... phát triển hoàn chỉnh thành một lý luận chính trị của

chủ nghĩa chuyên chế cựa đoan để khống chế con người. Theo ông “Pháp luật

của nhà nước phải trở thành công cụ quan trọng của sự phát triển đời sống

xã hội và cũng cố chủ nghĩa chuyên chế, bất cứ người nào dù là quí tộc cũng

phải tuân theo pháp luật” [14; tr. 23]. Rõ ràng, cách cai trị dân của Hàn Phi

có phần cứng rắn và triệt để hơn thầy. Ông không phân biệt đẳng cấp, ai cũng

phải tuân theo luật pháp và chiếu theo luật pháp mà trị. Chính nhờ thực thi

pháp trị mà vua Tần tôn sùng ông, nhà Tần trở thàmh một nước hùng mạnh,

giang sơn thu về một mối.

Có thể nói, chưa bao giờ như bây giờ, Trung Quốc xuất hiện nhiều nhà

tư tưởng với các trường phái triết học, đại diện cho các tầng lớp, giai cấp xã

hội khác nhau, đấu tranh với nhau không kém phần sôi động và quyết liệt.

Sự phong phú đa dạng của trường phái triết học, các nhà tư tưởng thời

Xuân Thu - Chiến Quốc đã được người ta gọi là “bách gia chư tử” và phong

trào đấu tranh của họ gọi là “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng). “Nó

thực sự trở thành đỉnh điểm toàn bộ của cuộc sống văn hóa tinh thần của xã

hội Trung Quốc cổ đại, như một cái mốc son chói lọi trong lịch sử văn hóa

phương đông”.[7; tr. 145,146]. Khuất Nguyên sinh ra và lớn lên trong thời kỳ

vàng son đó, nên mọi tư tưởng và những học thuyết của "Bách gia chủ tử"

không thể không ảnh hưởng đến ông.

1.3. Khuất Nguyên - nhà thơ đầu tiên của nền văn học Trung Quốc

1.3.1. Con người

Trước khi trở thành nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc,

Khuất Nguyên là nhà chính trị lỗi lạc, tài ba. Cuộc đời hoạt động chính trị của

ông không thật suôn sẻ, luôn gặp trở ngại, khó khăn. Dù gian khổ nhưng ông

vẫn luôn đấu tranh đến cùng để bảo vệ quan điểm chính trị tiến bộ và quyết

giữ vững phẩm chất đạo đức tốt đẹp.

Tư liệu về cuộc đời của Khuất Nguyên để lại cho đời sau không nhiều.

Để hiểu được rõ hơn cuộc đời của con người hết lòng vì nước vì dân, chúng ta

hãy vẽ lên bức tranh phác thảo về đời sống của Khuất Nguyên dựa vào lời tự

thuật của ông, phần “Khuất Nguyên liệt truyện” trong sách Sử ký, cũng như

một số lời nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu.

Khuất Nguyên sinh và mất năm nào vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống

nhất. Theo Quách Mạt Nhược thì Khuất Nguyên sinh năm 340 và mất năm

278 trước công nguyên. Ông tên Bình, tự Nguyên, người tỉnh Hồ Bắc ngày

nay. Ông xuất thân trong một gia đình quí tộc cùng họ với vua Sở, tổ tiên

được phong ở đất Khuất, nên lấy Khuất làm họ. Thuở thiếu thời, cuộc đời của

ông cũng hào hoa phong nhã như bao chàng trai quí tộc khác. Ngay từ nhỏ,

Khuất Nguyên là một người thông minh, uyên bác, ham học hỏi và luôn chú

trọng việc bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho mình. Tư Mã Thiên cũng đã

từng nói đến tài năng của ông như sau: “Ông học rộng, nhớ lâu, thấu rõ lẽ trị

loạn, thạo việc giấy tờ” [60; tr. 542]. Vì là người có học vấn cao, lại am hiểu

tình hình chính trị, có tài ngoại giao nên Khuất Nguyên được Sở Hoài Vương

hết sức tín nhiệm, tin dùng và đưa lên làm đến chức “Tả đồ”. Đây là một chức

quan rất quan trọng trong triều đình chỉ sau “Lệnh doãn” (tức sau tể tướng

một bậc), “vào cung thì cùng vua bàn tính việc nước, ban bố các mệnh lệnh,

ra thì tiếp đãi khách khứa, ứng đối với các chư hầu” [60; tr. 542]. Trong thời

gian giữ chức Tả đồ, Khuất Nguyên đã có những đóng góp rất lớn cho đất

nước. Trước hết, về đối nội, ông thi hành biến pháp, với mong muốn xây

dựng một đất nước giàu mạnh. Về mặt đối ngoại, ông thực hiện chính sách

liên minh với nước Tề để chống Tần. Có thể nói, đây là chính sách sáng suốt

mà nước Sở cần phải thực hiện để hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước.

Khuất Nguyên được Sở Hoài Vương cử đi sứ nước Tề, liên minh Tề Sở được

ký kết từ đó. Có thể nói “Khuất Nguyên là nhân vật chủ chốt trong việc hội

chính và ngoại giao của nước Sở” [24; tr. 201]. Cũng chính vì tài năng ấy mà

ông bị bọn gian thần ghen ghét, hãm hại, vua Sở ruồng bỏ.

Không còn được trọng dụng nên mọi biến pháp mà Khuất Nguyên thực

hiện đều bị thất bại. Nền chính trị nằm trong tay bọn quí tộc. Lúc này, Tần

càng lúc càng lớn mạnh còn Sở thì càng ngày càng suy yếu. Tần muốn nhân

cơ hội này tiêu diệt các nước để thống nhất Trung Quốc nhưng vấp phải trở

ngại lớn là liên minh Tề Sở. Và đây là cơ hội lớn để Tần hoạt động li gián Tề

Sở. Vua Sở vì tham đất lại quá tin vào những lời nói ngon ngọt của kẻ địch

mà chịu thất bại nặng nề.

Về sau, chư hầu cùng nhau đánh Sở, phá tan quân Sở, giết tướng Sở là

Đường Muội. Bấy giờ Tần Chiêu Vương kết thông gia với Sở. Mọi oán thù

trước đây tạm thời hòa hoãn. Vua Tần muốn họp mặt với Hoài Vương, Hoài

Vương toan đi, Khuất Nguyên can:

Tần là nước hùm sói, không thể tin ! Đừng đi là hơn.

Lời can gián của Khuất Nguyên không giữ nổi chân vua Sở. Cuối cùng,

Vua Sở bị bắt trở lại và chết trên đất Tần.

Khoảnh Tương Vương, con cả của Hoài Vương lên ngôi. Em là Tử Lan

làm “Lệnh Doãn”, trước sau vẫn áp dụng chính sách thân Tần. Tử Lan vốn đã

không ưa Khuất Nguyên, bây giờ lên nắm chính quyền lại càng bỏ rơi ông,

tìm mọi cách bức hại ông. Giờ đây, nỗi cô đơn buồn tủi của Khuất Nguyên

chỉ biết gửi gắm vào những vần thơ mà thôi. Vậy mà cũng không yên, Tử Lan

đọc những bài thơ ấy thấy có nhiều chỗ chỉ trích mình và triều đình nên y rất

ghét, bèn bảo Thượng Quan đại phu gièm pha Khuất Nguyên với Sở Tương

Vương. Tương Vương giận đày ông đi Giang Nam, đến bên bờ sông Mịch La.

Lúc này là năm 286 trước công nguyên, Khuất Nguyên ở đó được 9 năm, vì

buồn rầu, thân người sa sút, khí sắc tiều tụy, thường xoã tóc đi nghêu ngao

trên bờ sông. Bài ca "Thương Lang" sao cứ văng vẳng đâu đây:

“Thương Lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh.

Thương Lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc”.

(Nước sông Thương Lang mà trong thì ta có thể giặt dải mũ của ta

Nước sông Thương Lang mà đục thì ta có thể rửa chân ta)

Tâm sự không biết giãi bày cùng ai, nỗi buồn chẳng biết nói cùng ai,

cũng không thể hùa theo thế tục, ông đành chọn cho mình một lối đi riêng “ta

thà gieo mình xuống sông Tương, chôn mình trong bụng cá, lẽ nào để cái bản

chất trắng ngần của ta chịu bụi bặm của đời” [60; tr. 547]. Chính thái độ đó

mà sau này khi nghe tin nước Sở bị Tướng Tần là Bạch Khởi đem quân sang

đánh, chiếm cả phía tây nước Sở, huỷ hoại tôn miếu, Khuất Nguyên đau khổ

vô hạn, nhìn tiền đồ của Tổ Quốc mà tuyệt vọng. Không thể nén được nỗi đau

quá lớn này, ngày 5/5 ông ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La để giữ tròn

khí tiết.

1.3.2. Sở từ và các tác phẩm của Khuất Nguyên

Mỗi khi nói đến tác phẩm của Khuất Nguyên người ta thường gọi chung

là Sở từ. Vậy Sở từ là gì? Thực ra tên gọi này khoảng vào thời Tây Hán mới

xuất hiện nhưng nó mang một ý nghĩa rất đơn giản. Đó là loại thơ ca ra đời

vào thời Chiến Quốc ở nước Sở, một nước ở phía nam Trung Quốc, mang

đậm màu sắc của địa phương Sở, có người vẫn từng nói: “Thư Sở ngữ, tác Sở

thanh, kí Sở địa, danh Sở vật” (viết bằng tiếng nước Sở, làm bằng thanh âm

nước Sở, ghi tên đất Sở, dùng tên vật nước Sở) [15; tr. 68]. Do vậy mà

“những tác phẩm của Khuất Nguyên khi mới ra đời chưa có tên gọi cố định

mà chỉ gọi là “từ”, “phú”, “li tao”, cho mãi đến cuối đời Tây Hán, Lưu

Hướng biên tập một bộ sách lấy tên là Sở từ”. [16; tr. 45]. Theo tư liệu thì bộ

sách này gồm các tác phẩm của Khuất Nguyên như Li tao, Cửu chương,

Thiên vấn, Chiêu hồn, Cửu ca; của Tống Ngọc như Cửu biện và một số tác

phẩm mà người đời sau cho là của Khuất Nguyên như Viễn du, Bốc cư, Đại

chiêu, Ngư phủ và tác phẩm của người đời Hán như Tích thệ của Giả Nghị,

Chiêu ẩn sĩ của Hoài Nam Tiểu Sơn, Thất gián của Đông Phương Sóc, Ai thời

mệnh của Trương Kị, Cửu hoài của Vương Bao, Cửu thán của Lưu Hướng,

Cửu tự của Vương Dật v..v..

Nhìn chung, trong tập sách này về số lượng cũng như về chất lượng thơ

của Khuất Nguyên chiếm địa vị chủ yếu. Cho nên, nói Sở từ cũng là nói tác

phẩm của Khuất Nguyên và ngược lại.

Tuy có nhiều ý kiến khác nhau về tác phẩm của Khuất Nguyên nhưng

vẫn có chỗ thống nhất và có thể khẳng định tác phẩm của Khuất Nguyên bao

gồm: Li tao, Cửu chương, Cửu ca, Thiên vấn.

 Ly Tao

Ly tao là tác phẩm tiêu biểu quan trọng nhất của Khuất Nguyên, và cũng

là tác phẩm trữ tình trường thiên đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc thời cổ

đại. Tác phẩm gồm 373 câu thơ, 2490 chữ nhưng đã làm rung động tâm hồn

của biết bao thế hệ thi nhân. Đối với thiên trường thi Li tao này, có người vẫn

gọi đó là một bài thơ “Tiền thế vị văn, hậu thế mặc kế” (Đời trước chưa nghe

nói đến, đời sau không ai bì kịp). [15; tr. 74]

Về nghĩa của hai chữ Li tao, từ trước đến nay, có nhiều ý kiến không

thống nhất. Trong Sử ký, phần Khuất Nguyên liệt truyện, Tư Mã Thiên viết:

Ly tao giả do li ưu dã, ở đây “tao” nghĩa là “ưu” (lo), lo buồn trong chia ly.

Ban cố đời Đông Hán viết: “ly, do tao dã; tao ưu dã. Minh kỷ tao ưu tác từ

dã” (“ly” có nghĩa là gặp phải, “tao” là ưu buồn, gặp phải điều đau buồn nên

làm ra bài thơ này). Vương Dật nói: “Ly, biệt dã; tao, trừu dã” có nghĩa là ly

biệt và ưu buồn… Những học giả đời nay, có người cho là “tao ưu nhi tác”

(sáng tác khi gặp đau buồn); hoặc “ly biệt chi ưu” (nỗi buồn khi ly biệt)… Dù

mang ý nghĩa nào đi chăng nữa, ta vẫn cảm nhận được một điều: Ly tao ra đời

khi nước Sở rơi vào tình trạng bế tắc, hỗn loạn, Khuất Nguyên mang nặng nỗi

đau buồn khi phải bị đày đi Giang Nam, không thể cùng vua luận bàn việc

nước.

Chính vì vậy mà thiên Li tao của Khuất Nguyên đã diễn đạt được một

cách trọn vẹn nỗi buồn sâu sắc của mình khi đứng trước vận nước lâm nguy

và thổ lộ được tâm sự sâu kín tự đáy lòng mình với biết bao ước mơ, hoài bão

tốt đẹp. Nhưng ông bị kẻ gian ghen ghét, hãm hại nên đành bỏ dở. Đáng buồn

hơn nữa ông còn bị bài xích, đả kích, bị đọa đày với bao nỗi uất ức sâu xa. Để

rồi bản trường thi Li tao ra đời như một bản nhạc bất hủ, nó được ngân lên và

vang mãi đến ngàn đời sau. Có người đã từng nói: “Đó là tiếng hát đứt ruột,

đứt gan, tiếng nói của một con người nói lên để mà chết” [14; tr. 66]

Li tao là tác phẩm trữ tình lãng mạn nhưng vẫn giàu chất hiện thực, bởi

có rất nhiều đoạn tự sự được lồng vào trong bài thơ phản ánh một cách rõ

ràng, rành mạch tư tưởng và hành động trong hơn nữa đời người của nhà thơ.

Một trong những nội dung cơ bản của bản trường thiên Li Tao chính là

yêu nước, thương dân. Đây vốn là những đức tính tốt đẹp đã hun đúc trong

tâm hồn Khuất Nguyên từ nhở. Nó như mạch nước ngầm cứ len lỏi chảy mãi

trong lòng thi nhân, thấm cả vào từng trang thơ. Do đó, mỗi vần thơ ẩn chứa

trong đó cả nỗi niềm của con người hết lòng vì nước, vì dân.

Chính vì tình yêu nước sâu sắc ấy đã khiến ông phải hành động. Ông

muốn đem hết tài năng của mình để phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân, chứ

không thể ngoảnh mặt quay lưng để đất nước rơi vào cảnh suy vong.

Không chỉ dừng lại ở chỗ muốn đưa đất nước ra khỏi họa suy vong mà

còn muốn biến nước Sở thành một quốc gia hùng mạnh, thống nhất Trung

Quốc. Có như vậy mới thỏa được ước nguyện của Khuất Nguyên và cũng là

nguyện vọng của nhân dân Trung Quốc thời bấy giờ. Thế nhưng, bao ước

vọng được ông ấp ủ cho lí tưởng tốt đẹp của mình lại bị trở ngại bởi tập đoàn

thống trị hủ bại của nước Sở, khiến ông không thể thực hiện được. Thật căm

phẫn biết bao! Không thể buông xuôi để bọn chúng hủy hoại. Ông vẫn lặng lẽ

đấu tranh đến cùng để bảo vệ lí tưởng tốt đẹp ấy. Tinh thần bất khuất, lòng

cương trực, quyết không thỏa hiệp, đầu hàng luôn được ông đề cao.

Để thực hiện lí tưởng tốt đẹp, ông luôn ra sức trau dồi nhân cách, tu

dưỡng rèn luyện đạo đức. Ngoài ra, ông còn ra công đào tạo nhân tài cho đất

nước, mong sao những con người tài đức ấy sẽ tiếp bước con đường mà ông

đã chọn.

Thiên trường thi Li tao của Khuất Nguyên là tổng hợp sáng tác của ông.

Mỗi câu, mỗi chữ trong Li tao là cả nỗi lòng của con người suốt đời bôn ba,

lận đận trên con đường chính trị và ông luôn phấn đấu đến cùng để thực hiện

lí tưởng lớn lao ấy.

Khuất Nguyên viết Li tao bằng cả trái tim đang thổn thức với trăm mối

tơ vò. Ấy thế mà lời thơ không bi lụy, nó như bay bổng diệu kì với biết bao

hình ảnh tráng lệ, huyền ảo. Ý thơ vì thế cũng hết sức bao la, bát ngát. Biết

bao cảnh đẹp của thiên nhiên cứ thế mà lướt qua trang thơ của tác giả nào là:

núi Côn Lôn, hồ Động Đình, sông Tương... Không chỉ có vẻ đẹp dưới trần

gian mà còn cả vẻ đẹp trên thượng giới cũng được thi nhân phóng bút nào là

Phù Tang, Huyền Phố, Vĩ Bàn... càng làm cho hình ảnh thơ thêm phần thơ

mộng, huyền ảo. Quả thực, như nhận xét của các nhà nghiên cứu thì tác phẩm

này nồng đượm màu sắc lãng mạn. Không những thế yếu tố hiện thực cũng

được kết hợp khá nhuần nhuyễn. Chính vì vậy mà Lưu Hiệp, tác giả của Văn

tâm điêu long, trong thiên Biện tao đã không tiếc lời ca ngợi.

“Khuất Nguyên bộc lộ tình cảm và niềm oán thán thì đều dồi dào, lưu

loát mà dễ làm người xúc cảm; Khi nói điều li biệt thì đau xót khôn cầm; Khi

tả núi, sông thì nghe theo thanh âm có thể hình dung được điều miêu tả; Khi

nói đến mùa màng, thời tiết thì xem văn có thể có thể thấy thời tiết biến đổi”

[2; tr. 147]

Có lẽ, những lời nhận xét ấy như nói hộ ta bao điều về con người hết

mực tài hoa này. Chắc chắn chỉ có những người thực sự đau nỗi đau đời, phải

có tình yêu tha thiết đối với quê hương đất nước, phải có tấm lòng cương trực

quyết giữ vững tâm hồn trong sạch, đi theo lí tưởng tốt đẹp mới có thể viết lên

những dòng thơ chân thành sâu lắng đến như vậy.

 Cửu chương

Cửu chương gồm chín bài: Tích tụng (Tiếc làm thơ ca), Thiệp giang

(Qua sông), Ai sính (Thương sinh đô), Trừu tư (Rút bày tâm tư), Hoài sa

(Nhớ trường sa), Tư mỹ nhân (Nhớ người đẹp), Tích vãng nhật (Nhớ ngày

trước), Quất tụng (Ca ngợi cây Quất), Bi hồi phong (Buồn cơn gió lốc). Đây

là những bài thơ trữ tình ngắn và rất hay của nhà thơ. Theo các nhà nghiên

cứu Sở từ, thì tên gọi Cửu Chương do người đời sau biên soạn, tập hợp lại mà

thành.

Để khẳng định thời điểm sáng tác của các bài thơ trên quả không dễ chút

nào. Theo Quách Mạt Nhược: “Quất tụng ra đời sớm nhất, tám bài thơ còn

lại đều làm sau khi Khuất Nguyên bị thất ý trên con đường chính trị, trước hết

là Tích tụng, sau đến Trừu tư, Tư mỹ nhân, Bi hồi phong, Thiệp giang; Khuất

Nguyên sáng tác Ai sính vào thời Sở Tương Vương, khi tướng Tần là Bạch

Khởi đánh phá sính đô, Hoài sa, Tích vãng nhật là những bài thơ cuối cùng

của đời ông” [14; tr. 95]

Mặc dù đây là những bài thơ ngắn nhưng đó là những mảnh ghép về

cuộc đời, tư tưởng, tình cảm của Khuất Nguyên. Và đó chính là những tài liệu

quan trọng để chúng ta có thể nghiên cứu kĩ hơn về hoạt động của ông trong

những ngày “bị thất ý trên con đường chính trị”

Về mặt nội dung tư tưởng, cũng như Li tao, những bài thơ này đều thể

hiện tình yêu nước tha thiết, đồng thời cũng bộc lộ tinh thần đấu tranh kiên

cường và lòng quyết tâm bảo vệ đường lối chính trị tiến bộ của nhà thơ. Bên

cạnh đó, ông còn kịch liệt phê phán nền chính trị đen tối của nước Sở.

Yêu nước, trung với vua và thương dân luôn là những đều quan tâm

hàng đầu của Khuất Nguyên. Thế nhưng, trong tình hình nước Sở lâm nguy,

vua Sở ngày càng hủ bại thì ba điều trên vốn đã khó thống nhất nay lại khó

thể thống nhất được. Tấm lòng trung quân của Khuất Nguyên vì thế cũng dần

dần thay đổi theo thời gian.

Buổi ban đầu ông còn tỏ ra tin tưởng vua Sở. Tin vua nên bao lời tâm sự

ông đều bộc bạch ra hết. Và cũng bởi trung với vua nên ông bị kết thù gây

oán. Ấy vậy mà ông:

Mặc cho bọn chúng thù hằn!

Thờ vua một dạ chuyên cần dám sai!

(Tích tụng)

Ông mong càng nhiều thì thất vọng càng lớn. Nếu như trong một số bài

thơ như Tích tụng, Trừu tư, Tư mỹ nhân, Khuất Nguyên đã đặt niềm tin

của mình vào vua Sở thì giờ đây niềm tin ấy đã hoàn bị đổ vỡ mà chỉ còn lại

sự khiển trách nặng nề. Nhất là trong bài Ai Sính, Khuất Nguyên đã nhận ra

rằng vua Sở chẳng qua là kẻ ngu muội không biết phân biệt phải hay trái,

trắng hay đen, trung thần hay gian thần. Thật là, lời nói ngon ngọt dễ nghe

nhưng vua Sở đâu biết trong lòng họ lại thâm độc, nham hiểm, còn lời nói

chân thật thì vua bỏ ngoài tai thậm chí còn căm ghét những người chân chính

có lẽ vì vậy mà:

Lũ gian ngày một tiến đông,

Người hiền đành lẽ ngoài vòng lánh xa

(Ai Sính)

Thật đau lòng khi phải chứng kiến cảnh trớ trêu ấy. Nhưng biết làm gì

đây một khi:

Người trung đã chắc gì được dùng hề,

Người hiền đã chắc gì ai cầu

Người xưa mà còn như thế hề,

Ta còn oán gì người sau.

(Thiệp giang)

Từ thời xưa, người trung, người hiền đã như vậy thì thời sau cũng thế mà

thôi. “Ta còn oán gì người sau” lời thơ thật nhẹ nhàng, sự trách móc, oán giận

tưởng chừng như được nhà thơ rộng lòng bỏ qua thế nhưng không phải như

vậy. Bao nhiêu uất ức, nghẹn ngào khó nói nên lời mà nếu có nói thì ai là

người nghe đây. Vậy thì, oán làm gì, trách làm gì nữa cho thêm đau lòng.

Không oán giận nhưng sự bất bình phẫn nộ của Khuất Nguyên đối với vua Sở

đã lên đến đỉnh điểm. Ông đã không ngần ngại đặt vua Sở ngang hàng với

những tên hôn quân bạo chúa thời xưa như vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Ân,

Phù Sai nhà Ngô. Với một ông vua không biết phân biệt phải trái, ngay gian

thì làm sao thống trị được thiên hạ? Nhìn tiền đồ của nước nhà mà Khuất

Nguyên không khỏi đau lòng và hình ảnh Bành Hàm, một hiền sĩ ngày xưa đã

nhảy xuống sông tự tử khi lời can gián không được vua chấp nhận, luôn xuất

hiện như một lời dự báo một kết cục bi đát tất yếu sẽ xảy đến. Quả thật, ông

đã chọn cho mình một hướng đi khác, không hùa theo thế tục để làm nhơ bẩn

cuộc đời. Chính thái độ đó đã biểu hiện một niềm tin sắt đá, quyết giữ lý

tưởng cao đẹp của ông. Thật là một bài học quí cho những người biết lẽ phải,

biết yêu cái tốt cái đẹp, biết ghết cái xấu cái ác để từ đó họ càng có ý thức bồi

dưỡng phẩm chất đạo đức cho riêng mình ngày một hoàn thiện hơn.

Không chỉ có Li tao mới được Khuất Nguyên nhắc nhiều đến việc tu

dưỡng đạo đức, bồi dưỡng tài năng mà qua hàng loạt những bài thơ ngắn

trong Cửu Chương cũng được ông bàn đến. Đặc biệt trong bài “Quất tụng”

(Ca ngợi cây quất), tác giả mượn hình ảnh cây quất, một loại cây đặc trưng

cho miền nam nước Sở, để biểu dương phẩm chất cao thượng, hoài bão lớn

lao. Nó có những đặc điểm đáng quí cũng giống như con người: bất khuất,

hiên ngang, sừng sững đứng giữa trời cho dù bất kì hoàn cảnh nào cũng

không lay chuyển, nghiêng ngã. Chính vì vậy mà ông khuyên mọi người nên

có những phẩm chất cao đẹp đáng quý ấy.

Vững vàng khôn lay chừ chẳng phiền lụy ai!

Ung dung riêng biệt chừ chẳng theo thói đời!

Cầm lòng kín đáo chừ không nhầm nhật...

Giữ đức vô tư chừ sánh trời đất!

(Quất tụng)

Không chỉ khuyên mọi người mà ngay bản thân nhà thơ cũng luôn có ý

thức trao dồi phẩm chất đạo đức. Qua bài Quất tụng, chúng ta càng thấy rõ

được thời niên thiếu, ông đã chú ý dến việc “tu thân, tích đức”

Tuổi tuy còn ít chứ chí khí khác thường!

Tự bồi dưỡng đạo đức để trở thành con người có ích cho xã hội, Khuất

Nguyên quả là tấm gương sáng cho thế hệ mai sau noi theo.

So với Li tao thì lời lẽ trong Cửu Chương có phần giản dị nhưng tình

cảm cũng không kém phần mãnh liệt, tinh thần phê phán hiện thực không

kém phần mạnh mẽ, sâu sắc [14; tr. 96]. Bởi lẽ, mỗi câu, mỗi chữ được ông

viết ra bằng máu và nước mắt của mình nên thấm đẫm tình người, hồn người.

Hầu hết những bài thơ trong Cửu Chương đã tái hiện được phần nào đời

sống của Khuất Nguyên trong những tháng ngày lưu đày. Ngôn ngữ thơ tuy

không cầu kì, bóng bẩy nhưng giàu tính thể hiện đã miêu tả một tâm trạng

phức tạp, đầy mâu thuẫn xung đột của Khuất Nguyên.

 Cửu Ca

Cửu ca vốn là tên bản nhạc rất xưa của Trung Quốc, theo lịch sử ghi lại

thì tên loại ca vũ này có từ thời nhà Hạ. Trong Sơn Hải Kinh có ghi: “vua

Khải nhà Hạ lên trời mang Cửu biện và Cửu ca về”. Trong Ly tao và Thiên

vấn, Khuất Nguyên cũng có nói đến Cửu biện và Cửu ca:

Buông thần hồn lên cõi cao xa

Múa Thiều hát khúc Cửu ca

(Ly tao)

Khải mộng lên chầu trời

Được nhạc “Cửu biện” “Cửu ca”

(Thiên vấn)

Có nhiều ý kiến về tập thơ Cửu ca của Khuất Nguyên. Chẳng hạn như

Vương Dật, người đời Hậu Hán trong cuốn Sở từ chương cú đã viết rằng, khi

bị đày xuống Giang Nam, Khuất Nguyên thấy nhân dân ở đó nhảy múa ca hát

để tế thần, nhân đó mà ông viết Cửu ca. Còn trong cuốn Sở từ tập chú, Chu

Hy đời Tống cho rằng Cửu ca là dân ca đã được Khuất Nguyên chỉnh lý. Có

lẽ, ý kiến trên tương đối hợp lý, vì hầu hết những bài thơ trong "Cửu ca" đều

liên quan đến chuyện tế thần. Trong số 11 bài thì 10 bài đầu mỗi bài dùng để

tế một vị thần riêng biệt còn bài cuối cùng dùng để “Lễ hồn” tức dùng làm

khúc hát đưa thần cho mười bài trước. Những vị thần được nhà thơ cúng tế có

thể chia làm ba loại:

Loại thứ nhất: Cúng thần trời

Gồm các bài thơ: Đông hoàng thái thất, Vân trung quân, Đại tư mệnh,

Thiếu tư mệnh, Đông quân.

Loại thứ hai: Cúng thần đất

Bao gồm một số bài thơ: Tương quân, Hà bá, Sơn quỷ

Loại thứ ba: Cúng người quỷ

Chỉ có một bài là Quốc thương.

Bài “Lễ hồn” là bài cuối cùng trong phần Cửu ca, nó có tính chất như

một bài “lễ tất” (tức là bài kết thúc cho mỗi bài ca).

Có thể nói, phần lớn những bài trong Cửu ca là những bài thơ trữ tình,

ca ngợi những tình cảm thiêng liêng cao quí của con người đặc biệt là tình

yêu quê hương, đất nước, tình yêu đôi lứa. Cũng như hầu hết các tác phẩm

khác của Khuất Nguyên, tình yêu đất nước vẫn in sâu trong tâm trí ông nên

trong mỗi bài thơ lời thơ luôn chan chứa tình cảm thiêng liêng ấy. Thế nhưng,

ở đây tình yêu ấy được ông gợi lên ở một khía cạnh khác, nó gắn liền với

những giá trị văn hoá dân gian. Mọi phong tục tập quán của nhân dân Sở đều

được ông nâng niu, trân trọng, giữ gìn. Để rồi mỗi khi đọc lại những vần thơ

của ông, nét đẹp của văn hoá Sở như đang hiện ra trước mắt chúng ta. Có thể

nói, dân Sở rất xem trọng việc tế lễ, bởi họ mê tín quỷ thần nên việc tế lễ cũng

chính là việc để họ thể hiện tấm lòng của mình đến thần linh. Do đó mà nét

đặc trưng của văn hoá Sở là tục vu thuật (lên đồng) và họ thường dùng vu

nhân (đồng cốt) để đại diện cho người hay thần và nối liền mối quan hệ giữa

thần và người. Trong Cửu ca những vị thần được ông nhắc đến thật gần gũi

với mỗi chúng ta như thần mặt trời, thần mây, thần sông, thần núi v.v….Đó

cũng là những vị thần mà người dân đương thời thường cúng tế với ước

nguyện cầu cho mưa thuận gió hòa, mong mùa màng tươi tốt, cuộc sống được

êm ấm, hạnh phúc, bình an.

Ngay từ thời xa xưa mà nhận thức của người dân đối với thiên nhiên như

vậy quả là đáng quí. Nó không còn là hình thức lễ nghi của sự mê tín mà đó

còn là lời cảnh tỉnh đối với nhân loại ngày nay.

Tình yêu nước còn thể hiện ở tinh thần dân tộc với bao truyền thống tốt

đẹp. Nhân dân Sở yêu đất nước quê hương bằng hành động cụ thể, họ đứng

lên với một quyết tâm sắt đá là đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi, giữ vững nền

độc lập nước nhà cho dù thân xác này gửi lại nơi chiến trường. Hình ảnh cao

đẹp này được Khuất Nguyên khắc họa trong bài Quốc thương. Tuy miêu tả

cái chết của các chiến sĩ, song lời thơ không bi ai mà lại hào hùng. Đoạn đầu

tả cảnh chiến trường diễn ra thật ác liệt nào là “xe tung hoành”, “ngựa hai

bên”, “cờ rợp bóng”, “giặc hai bên”, còn các chiến sĩ thì dũng cảm xông lên

không hề nao núng, sợ hãi. Khí thế thật hào hùng, quyết liệt.

Thật cao đẹp biết bao với những tấm lòng hết mình vì quê hương, đất

nước. Các chiến sĩ đã ra đi mãi mãi nhưng họ vẫn luôn được mọi người dân

tôn thờ và kính trọng. Khuất Nguyên viết bài thơ này với ước nguyện góp

thêm một nốt nhạc trong bản hoà tấu Cửu ca để khúc ca ấy mãi ngân lên

trong lòng người đọc. Đúng như lời nhận xét của các nhà nghiên cứu : “Bài

thơ tuy không dài, nhưng nó lại là kiệt tác xuất hiện sớm nhất trong văn học

Trung Quốc, thể hiện phần mỹ cảm mang tính bi tráng” [24; tr. 219]

Ca ngợi tình yêu thuỷ chung, son sắt, ca ngợi tinh thần lạc quan của nhân

dân Sở cũng là nét chủ đạo của Cửu ca. Tuy là những bài ca tế lễ các vị thần

linh nhưng nhiều bài trong Cửu ca nói về những cuộc tình duyên trắc trở với

bao nỗi đau khổ biệt li. Bởi lẽ, họ tưởng tượng thần cũng như con người, cũng

biết yêu thương, ghen tuông, căm hờn, giận dỗi. Chính vì vậy mà khi ca hát

để tế lễ thần, người ta càng thấu hiểu hơn về đời sống nội tâm của con người

thông qua các vị thần linh. Có thể nói : “giữ lại quan niệm thuần phác về thần

của người lao động cổ đại, Khuất Nguyên gửi gắm vào đó cả cuộc đời bất

hạnh lẫn tâm tình đau xót của mình”. [51; tr. 62]

Cửu ca là những tác phẩm chủ yếu miêu tả sự cúng tế của con người đối

với các vị thần linh. Thế nhưng những vị thần này cũng mang những đặc

điểm, tính cách như con người, cũng biết yêu thương, giận hờn, buồn vui và

cũng mang những phong tục tập quán như con người nhưng không hẳn hoàn

toàn là con người bởi lẽ họ có thể bay lượn ngang dọc trên bầu trời “liệng như

trả chừ, bay như chim” (Đông quân), có khi bơi lội dưới dòng nước chảy siết

“Cưỡi giải trắng chừ, theo cá vàng. Cùng mình chơi chừ, bến nước trong…”

(Hà bá). Áo quần của họ cũng tuyệt đẹp và rực rỡ, không phải bằng lụa là,

gấm vóc mà “Áo xiêm mây chừ xanh, trắng tươi” (Đông quân), “Áo thạch

lam chừ, đai đỗ hành!” (Sơn quỷ), còn uống rượu bằng sao Bắc đẩu “Với Bắc

đẩu chừ rót rượu mời” (Đông quân). Những cử chỉ hành động ấy con người

khó làm được và đồ trang sức, dụng cụ của họ thì không hề có trên thực tế

loài người. Bằng trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ đã vẽ lên bức chân dung

tuyệt đẹp và không kém phần sinh động. Chất lãng mạn thi vị trong Cửu ca

cũng rất đậm đà, tuy không dạt dào, mãnh liệt như Li tao. Không những thế

chất dân ca cũng được ông vận dụng thật khéo léo trong các tác phẩm của

mình khiến Cửu ca thực sự trở thành những tác phẩm nghệ thuật có giá trị.

 Thiên vấn:

Ngoài Li tao thì Thiên vấn cũng là một bài thơ dài. Thiên vấn có nghĩa

là hỏi trời. Với trên một 170 câu hỏi, nhà thơ đã đề cập đến những vấn đề

thiên văn, địa lý, lịch sử, tín ngưỡng, đạo đức, con người v.v….Thiên vấn ra

đời trong hoàn cảnh nào? Hiện nay các nhà nghiên cứu cũng đang tìm hiểu,

nhưng có rất nhiều giả thuyết. Theo lời tựa Vương Dật: “Khuất Nguyên khi bị

đi đày, thơ thẩn nơi núi chầm, thấy trong miếu thờ tiên vương và từ đường

công khanh nước Sở, có vẽ hình tượng trời đất, sông núi, thần linh, thánh

hiền, quái vật, cùng các sự việc thời xưa, nhân viết vào vách tường, hà hơi

miệng mà cất lời chất vấn, để tiết bớt nỗi phẫn uất” [44; tr. 337], có người

truyền rằng: “Khi Khuất Nguyên đi qua một ngôi thành cổ, thấy trên tường

thành có khảm khắc rất nhiều hình kì dị, nhân đó mà ông cảm hứng làm ra

bài này. Có người nói Khuất Nguyên sáng tác Thiên vấn khi ông bị đày đi

Giang Nam, cũng có người nói Khuất Nguyên sáng tác vào thời Sở Hoài

Vương” [14;tr. 156]

Trong muôn ngàn câu hỏi được Khuất Nguyên đặt ra thật khó mà giải

thích hết được. Thế nhưng thông qua một số thắc mắc đó chúng ta càng có

điều kiện để hiểu hơn về nhà thơ tài ba này.

Khuất Nguyên sống trong thời đại (cổ đại) nền văn hoá đã phát triển rực

rỡ nhất. Bản thân nhà thơ lại là người học rộng biết nhiều, kiến thức uyên bác

vì thế mà một số quan niệm truyền thống về các hiện tượng tự nhiên, thần

thoại cổ đại, lịch sử cổ đại hay các nhân vật trong lịch sử không làm cho thi

nhân thoả mãn hết được. Thậm chí, cuộc đời ông trải qua những cuộc đấu

tranh chính trị, về mặt tư tưởng với biết bao trào lưu, trường phái cho nên sự

ảnh hưởng về mặt nhận thức là điều không thể tránh khỏi. Do vậy mà ông

nhìn một số sự vật bằng con mắt hoài nghi. Nói như Lỗ Tấn - nhà văn hiện đại

của Trung Quốc: “Hoài nghi từ thượng cổ cho đến những vấn đề của những

nhân vật sau này. Lời nói không kiêng dè, tiền nhân không ai dám nói” [24; tr.

221]

Một số thắc mắc đó phần nào tỏ rõ thái độ phê phán của nhà thơ đối với

tư tưởng truyền thống và các nhân vật lịch sử. Chẳng hạn những nhân vật như

Cổn, Tỷ Can, Nghiêu, Thuấn, Trụ, Kiệt, Thang, Vương, Vũ được nhà thơ đặt

ra bao điều nghi vấn. Những câu hỏi được ông đặt ra không hẳn là để tìm ra

ngay câu trả lời mà có như những mũi tên xoáy sâu vào lòng ta bao nỗi đau

buồn khôn tả. Ví dụ, nhân vật Cổn ngày xưa bị người ta đánh giá thấp nhưng

công lao của Cổn thì sao?

Không tài trị thuỷ

Sao chúng cử Cổn đi?

Chúng rằng: “Chẳng ngại”

Sao không khảo sát một khi?

Để dân trồng lúa

Cổn ngăn đắp bãi lầy

Cũng đầy cõi thẳm

Sao tội Cổn nặng thay?

(Thiên v ấn)

Không chỉ có Cổn bị tội mà những nguời tốt, người hiền khác cũng bị

trừng phạt như Tỷ Can, Mai Bá chỉ vì tội can gián vua, còn những người xấu

xa, độc ác luôn tìm lời ngon ngọt ton hót, nịnh bợ thì được khen thưởng, ban

tặng. Khuất Nguyên đã đặt câu hỏi:

Tỷ Can trái ý gì

Vua lại giết càn?

Lôi khai chiều ý gì

Vua lại phong quan?

(Thiên vấn)

Thế nhưng cái tốt, cái đẹp của con người dù có bị vùi dập, đọa đày, vẫn

mãi toả sáng, sử sách mãi lưu danh; còn cái xấu, cái ác thì bị xa lánh, chê bai

suốt ngàn năm sau.

Quả thực, Thiên vấn là một bài thơ khá đặc biệt trong lịch sử văn học

Trung Quốc. Tuy không nhẹ nhàng bay bổng, không hào hùng bi ai, không

thiết tha da diết như những tác phẩm khác của Khuất Nguyên thế nhưng

Thiên vấn vẫn làm người đọc phải ngậm ngùi xót xa, phải trăn trở nghĩ suy.

Chương 2: HÌNH ẢNH VÀ THƠ CA CỦA KHUẤT NGUYÊN

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

2.1. Khuất Nguyên trong cái nhìn của các nhà thơ Trung đại Việt Nam

Hơn một ngàn năm chịu sự đô hộ của bọn phong kiến Phương Bắc,

chúng ta cũng tiếp nhận và tiếp thu những giá trị tinh hoa văn hoá của Trung

Quốc, đặc biệt là văn học nghệ thuật. Nhìn chung, văn học Việt Nam chịu ảnh

hưởng văn học Trung Quốc trên nhiều phương diện từ nội dung tư tưởng,

quan niệm thẩm mỹ, tư duy nghệ thuật, ngôn từ, thể loại v.v…Một trong

những nội dung tư tưởng cơ bản là viết văn, làm thơ là để “tải đạo”, để “nói

chí” (văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí), với mong muốn con người ngày một tốt

hơn. Dường như ẩn trong từng bài thơ, bài văn là những ý nghĩa luân lý,

những bài học sâu sắc nhằm giúp ích cho người, cho đời. Nguồn cảm hứng và

chất liệu để các nhà thơ thời này khai thác không phải là hiện thực cuộc sống

của hiện tại mà họ hướng về quá khứ, về những cái đã qua, về những người

thiên cổ. Phải chăng, thời đó cái tôi cá nhân chưa thể và chưa dám bộc lộ nên

những tâm sự riêng tư chỉ biết gửi vào cái đã qua để giãi bày. Vì vậy “mượn

xưa để nói nay” được các nhà thơ, nhà văn sử dụng khá nhiều trong các tác

phẩm của mình. Thông qua những việc cũ, tích xưa, các nhà thơ, nhà văn

muốn bộc lộ ước mơ về một triều đại huy hoàng, ở nơi đó có vua sáng tôi

hiền, nhân dân được sống trong cảnh ấm no, hạnh phúc. Đấy cũng là ước mơ

chung của thế giới loài người. Thông qua những người xưa họ tìm thấy cho

mình người bạn tri âm, tri kỷ có thể bộc bạch tâm sự. Rất nhiều tác giả của

Trung Quốc có ảnh hưởng đến các nhà thơ Việt Nam như: Khuất Nguyên,

Đào Tiềm, Lý Bạch, Đỗ Phủ…So với các tác giả khác, Khuất Nguyên tuy

không được nhắc nhiều nhưng trong con mắt của các nhà thơ trung đại Việt

Nam thì nhân cách, phảm chất, lý tưởng của ông vẫn là nét đẹp cho họ học tập

và tiếp bước. Đó là một người giàu lòng yêu nước thiết tha, dám đấu tranh

đến cùng để bảo vệ lý tưởng tốt đẹp và quyết tâm giữ gìn phẩm chất đạo đức

trong sạch đến trọn đời. Có lẽ trong suốt chiều dài lịch sử văn học Trung

Quốc không ai được nhân dân ưu ái dành nhiều tình cảm sâu sắc đến như vậy,

chỉ có ông (Khuất Nguyên) “nhà thơ duy nhất trong các nhà làm văn học của

Trung Quốc được nhân dân dành cho một ngày lễ bơi thuyền rồng đầy màu

sắc được tiến hành hàng năm trong hai nghìn năm nay” (chuyển dẫn 35; tr.

228)

2.1.1. Lòng yêu nước sâu sắc

Yêu nước vốn là đặc tính chung của mỗi dân tộc. Dân tộc nào cũng có

lòng yêu nước. Nếu có khác thì chỉ khác cách biểu hiện lòng yêu nước của

mỗi dân tộc mà thôi. Rõ ràng dân tộc ta cũng có cách biểu hiện lòng yêu nước

của riêng mình, đó là đấu tranh chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập nước

nhà. Từ khi mở cõi ông cha ta đã không ngừng đấu tranh chống lại mưu đồ

xâm lược, thôn tính của các thế lực phong kiến phương Bắc. Gần một ngàn

năm Bắc thuộc quả là một bi kịch cho dân tộc ta, nhưng là một bi hùng kịch -

một nhà nghiên cứu đã nói. Trải qua bao gian lao, vất vả và nhiều đau thương

trong cuộc giữ gìn và bảo vệ đất nước, chúng ta càng khâm phục ý chí, nghị

lực, lòng dũng cảm của cha ông. Một dân tộc nhỏ bé nhưng sức mạnh thật lớn

lao, đã bao phen khiến kẻ thù khiếp vía, run sợ. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà

Trưng, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Phùng Hưng…mãi vang lên trong lòng

mọi người dân và sừng sững như bức tượng đài lịch sử của dân tộc. Thật tự

hào biết bao!

Do hoàn cảnh lịch sử nước nhà luôn phải đối mặt với kẻ thù nên văn

chương cũng phản ánh hiện thực xã hội thời bấy giờ. Tư tưởng yêu nước vì

thế cũng là một trong những tư tưởng chủ đạo của văn học Việt Nam. Nó như

sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền văn học nước nhà. Mỗi tầng lớp nhân dân đều thể

hiện lòng yêu nước của riêng mình: người nông dân gửi gắm lòng yêu nước

của mình vào ca dao, tục ngữ; các nhà nho thì bộc lộ tình cảm trong thơ cảm

hoài, vịnh cảnh, tức sự, vịnh vật; các triều thần có cương vị, có trách nhiệm

thì lòng yêu nước được thể hiện qua những bản tụng ca; còn các thủ lĩnh của

dân tộc thì lòng yêu nước toát ra từ những lời tuyên cáo…Dù biểu hiện bằng

cách nào nhưng tình cảm họ dành cho quê hương, đất nước thì như nhau. Cho

nên khi bắt gặp những vần thơ tha thiết với đất nước của Khuất Nguyên thì

các nhà thơ của chúng ta có mối đồng cảm sâu xa. Không chỉ qua thơ văn mà

qua lý tưởng, nhân cách của Khuất Nguyên họ dường như thấy hình bóng của

mình trong đó nên dễ bộc bạch tâm sự.

Đánh giá lòng yêu nước của Khuất Nguyên cũng như của những người

sinh cùng thời với ông, không thể nói ai yêu nước nhiều hay ít, hay không yêu

nước mà phải hiểu vì sao họ lại cư xử như vậy. Khuất Nguyên ra đời vào thời

Xuân Thu - Chiến Quốc, là “thời kì mà các nước ở Trung Nguyên đều tự xưng

là Hoa Hạ và Trung Quốc để đối lập với Đông di, Nam man, Tây nhung, Bắc

địch. Bởi vậy, bảy nước Tần - Nguỵ - Hàn - Triệu - Sở - Yên - Tề cùng xưng

hùng, xưng bá nhưng đều là các chư hầu tranh ngôi thiên tử để làm bá chủ

toàn Trung Hoa” [59; tr. 81]. Cho nên, nếu ở nước này họ không được xem

trọng và tin dùng thì có thể sang nước khác với hi vọng tài năng sẽ được trọng

dụng. Dù ở nước này hay nước khác thì đều nằm trên lục địa Trung Hoa cổ.

Như vậy không thể nói họ không yêu nước mà do quan niệm về nước thời ấy

chưa cụ thể, còn mơ hồ. Vì thế mà thời ấy một số nhà du thuyết, nhà quân sự

tài ba hay những nhà tư tưởng vĩ đại đều có thể đi tìm cho mình một nước để

phát huy tài năng. Điển hình như Ngũ Tử Tư - nhà quân sự đại tài - sinh ra ở

nước Sở nhưng lại qua nước Ngô cống hiến tài năng rồi ông lại rước quân

Ngô về đánh nước Sở, đến như Khổng Tử cũng muốn bỏ nước Lỗ để chu du

mong tìm được vị minh quân tin dùng tư tưởng của mình. Thế nhưng, nổi bật

lên trên những người có quan niệm về nước như vậy thì Khuất Nguyên - vị

quan thanh liêm của nước Sở - lại một lòng một dạ gắn bó với quê hương đất

nước thật là điều hiếm thấy và đáng khâm phục biết bao. Hình ảnh của vị

quan Tam Lư đại phu luôn soi sáng cho mọi thế hệ nhà nho Việt Nam. Nó

như một lời động viên, khích lệ dù bất cứ hoàn cảnh nào thì tấm lòng yêu

nước, yêu dân luôn khắc sâu trong tâm trí họ.

Khuất Nguyên yêu nước Sở tha thiết nên ông không đành lòng nhìn đất

nước lâm nguy. Để đất nước khỏi bị diệt vong ông ra sức cứu nước bằng hành

động cụ thể: Giúp vua luận bàn việc nước, đưa ra những kế sách đúng đắn,

liên minh Tề - Sở thành công chính là nhờ vào tài ngoại giao của ông. Làm

nhiều việc như vậy cũng chỉ nhằm mục đích xây dựng một nước Sở giàu

mạnh, yên bình, không có chiến tranh, nhân dân được hạnh phúc, ấm no. Ước

mơ chính đáng ấy của Khuất Nguyên cũng chính là ước mơ chung của các

nhà nho Việt Nam.

Cũng như Khuất Nguyên các nhà nho của ta không bó gối ngồi chờ

quân giặc rút lui, hưởng cảnh thái bình mà họ cũng ra công góp sức để xây

dựng nước nhà giàu đẹp ấm no. Thời xưa, nước ta còn lệ thuộc vào phương

Bắc (Trung Quốc) cho nên việc các triều đại vẫn có lệ cử sứ đoàn sang Trung

Quốc để ứng thù hoặc triều cống. Việc đi sứ do đó mà vô cùng khó khăn và

nguy hiểm, bởi lẽ nó quyết định đến vận mệnh quốc gia. Theo Lê Quý Đôn

“nếu sứ thần ta là người tầm thường thì bị họ khinh là “mọi rợ”, nếu là người

có tài thì họ tìm cách hãm hại” [76; tr. 67]. Những thói đời đen bạc ấy thời

nào cũng vậy. Cũng chính vì thế mà những sứ thần của ta là những người tài

năng xuất chúng, tài đức vẹn toàn. Thơ đi sứ, giao bang thời này vì vậy mà

nhiều vô kể. Nguyễn Trung Ngạn là một sứ thần tài giỏi của nước ta thời bấy

giờ. Quả thực, ông không chỉ là nhà ngoại giao có tài ứng đối mà còn là nhà

thơ xuất sắc. Thơ của ông còn lại khoảng 125 bài hầu hết là thơ vịnh cảnh,

đặc biệt là vịnh cảnh trên đường đi sứ. Những vần thơ của ông thật hào sảng.

Dù công việc nguy hiểm ông vẫn dấn thân với mong ước “đền nợ nước”, báo

đáp ơn vua.

Định lập công danh đền nợ nước,

Đâu vì nguy hiểm phụ lòng ta.

(Nghĩ tương huân nghiệp thường tiền trái,

Khẳng vị ưa nguy phụ thốn tâm)

(Họa vần thơ Lê Nhân Kiệt)

Ông cũng từng biết đường đời nhiều hiểm nguy nhưng vẫn không nản

lòng, bởi nước nhà chưa yên bóng giặc.

Việc nước lo toan dám quản công,

Ban mai gió thấm hạt sương nồng.

(Vương sự đa mang cảm đạn lao,

Hiểu phong suy lộ bát chinh bào)

(Ra đi ở trại Vĩnh Bình)

Sự khắc nghiệt của thời tiết không đánh ngã được ý chí kiên cường của

người đi sứ. Vượt lên trên sự khắc nghiệt ấy để hoàn thành sứ mệnh của nước

nhà là niềm vui lớn của thi nhân.

Cũng như Khuất Nguyên, tinh thần hăng hái vì xã tắc của Nguyễn Trung

Ngạn xuất phát từ tấm lòng “trung quân”. Điều này được thể hiện rõ trong

những vần thơ sau:

Thuý hoa luôn ngoảnh lại nhìn,

Tấm lòng khuyển mã ruổi bên bệ rồng.

(Thuý hoa tại vọng tần hồi thủ,

Khuyển mã không trì luyến khuyết tâm).

Và:

Phương Nam nóng nực đành nên sợ,

Ơn chúa nên chi phải viễn hành.

(Lĩnh Nam viêm thử chân kham uý,

Tranh nại quân ân trọng thử hành).

(Cuối xuân ở biên thành)

Yêu nước, yêu dân nên hết lòng vì nước vì dân; yêu vua, hết lòng với

vua nhưng có mấy ai trung thành với vua mà được vua tin yêu. Điều này cũng

được Khuất Nguyên nhắc đến trong bài "Tích tụng". Đời thật trớ trêu và oái

oăm thay! Càng buồn hơn khi người trung trực, ngay thẳng không được tin

dùng, kính trọng mà lại bị gây thù, kết oán. Lời người xưa nói quả không sai

chút nào. Khuất Nguyên cũng như bao vị quan thanh liêm khác dù biết đời là

vậy nhưng họ vẫn dấn thấn vào chốn hiểm nguy, bởi tấm lòng yêu nước, yêu

dân sâu nặng mà họ không thể quay lưng để nhân dân phải sống trong cảnh

lầm than đau khổ. Cho nên từ bao đời nay yêu nước, yêu dân, yêu vua khó

hòa hợp vậy mà Nguyễn Trung Ngạn đã khéo léo kết hợp tinh thần yêu nước,

yêu dân, yêu vua làm một. Với mong ước đất nước giàu mạnh, nhân dân ấm

no, vua quan trên dưới một lòng thì chẳng có việc gì gian nguy mà ông từ

chối. Lời thơ của Nguyễn Trung Ngạn vì thế mà chân thành tha thiết biết bao.

Tấm lòng “trung quân” ấy ta còn bắt gặp rất nhiều ở những nhà thơ khác,

chẳng hạn Phạm Nhữ Dực khi ông nói:

Hằng mong theo gấp bánh xe rồng

Sớm chiều những muốn vua vời đến.

(Y thừa tại niệm thiết tùng long

Nhật biên tảo vãn hành tuyên triệu)

(Ngước trông năm mây)

Và đạo vua tôi cũng được các nhà thơ biểu hiện bằng tất cả tình cảm tha

thiết của mình. Lương Như Hộc - một vị quan Ngự sử đài dưới triều Lê Thái

Tông - đã bộc lộ tâm tình của mình về mối quan hệ vua tôi khắng khít không

thể nào quên:

Đệm hoa đầm ấm khi nằm thức

Khăn khắn nào quên đạo chúa tôi.

(Chim nhạn đáp xuống bãi cát phẳng)

Thật không thẹn với nước, với dân! Làm sao nói hết được những tình

cảm chân thành, những hoài bão cao đẹp. Lòng mong mỏi được báo đáp ơn

vua, thấy cảnh nước nhà thịnh trị, dân tình ấm no thì dù gian nan mấy cũng

chẳng từ. Lời thơ trong những vần thơ “Đường khách” của Nguyễn Phi

Khanh càng khiến ta cảm động trước suy nghĩ của ông:

Mảy may mong báo đời minh thánh,

Muôn dặm gian lao bước dám chồn.

(Minh thời thảng hiệu hào phân bổ,

Vạn lý ninh từ ngã bộc phu.)

(Đào Phương Bình dịch)

Quên bản thân mình vì nước là nét đẹp của dân tộc ta. Không những thế

lòng yêu nước còn biểu hiện ở niềm tự hào dân tộc. Là một nước nhỏ nằm về

phương Nam so với phương Bắc rộng lớn, luôn bị bọn chúng dòm ngó, xem

thường. Thế nhưng, chúng ta có thể ngẩn cao đầu và tự hào về một đất nước

giàu đẹp. Vì thế mà đi sứ là dịp để các sứ thần nước ta có thể biểu dương

những vẻ đẹp của non nước, biểu dương văn hoá, và hơn hết là nói cho người

phương Bắc biết ta không phải là Man di, mà là một dân tộc có nền văn hiến

riêng, ngang tầm với phương Bắc. Có một lần, một viên quan nhà Thanh hỏi

sứ thần của ta về phong cảnh nước Nam, sứ thần Đoàn Nguyễn Tuấn đã làm

một bài thơ để trả lời, gọi là Đáp vấn:

Cảnh vật nước Nam, khách hỏi a?

Nước Nam cảnh vật khác Trung Hoa

Không tia bụi vẩn, quang sông núi,

Suốt bốn mùa xuân rạng cỏ hoa.

Ít bữa ngô khoai, nhiều thóc gạo.

Khinh hàng lông dạ, chuộng thơ ca.

Tuy nhiên có chỗ đồng nhau lớn.

Lễ nghĩa văn chương tựa một nhà.

(Khương Hữu Dụng dịch)

Lời thơ thốt ra rất tự tin không e dè, sợ hãi, từng câu, từng chữ đều thấm

đẫm tinh thần dân tộc. Còn gì sung sướng hơn khi được nói ra tình cảm của

mình đối với quê hương đất nước. Xưa kia, Khuất Nguyên viết về cảnh đẹp

nước Sở với tất cả tình cảm tha thiết chân thành. Lời thơ bay bổng diệu kì,

giọng thơ trìu mến thiết tha. Cảnh núi non, sông nước cứ thế mà đi vào thơ

ông thật hùng vĩ và xinh đẹp, nào là đầm Vân Mộng, hồ Động Đình, núi Côn

Lôn và nhiều địa danh khác nữa.... Thì giờ đây cảnh đẹp của núi non nước

Nam cũng được các nhà thơ ta khắc họa với tấm lòng đầy tự hào. Thơ văn yêu

nước giai đoạn văn học Trung Đại chiếm một khối lượng lớn. Chỉ một vài chi

tiết dường như không thể truyền đạt hết nội dung vấn đề. Nhưng phần nào

cũng biểu hiện được tình cảm vô hạn mà các tác giả dành cho quê hương đất

nước. Chỉ có lòng yêu nước thiết tha, lòng tự hào dân tộc mới giúp nhà thơ

viết được những vần thơ cháy bỏng như vậy.

Yêu nước dám xả thân vì quê hương đất nước là điều đáng trân trọng

nhưng có thể nói cái cao quý của người quân tử là biết đấu tranh cho lý tưởng

tốt đẹp, phải phấn đấu vì mục tiêu cao cả, nguyện hết lòng vì nước, vì dân.

2.1.2. Đấu tranh cho lý tưởng tốt đẹp

Một đời người không dài, sống làm sao cho xứng đáng với đời, với

người để không hổ thẹn với lương tâm và lưu danh hậu thế. Đó là mục đích

cuối cùng mà mỗi người muốn hướng tới. Khuất Nguyên xưa cũng vì theo

đuổi lý tưởng mà chọn cho mình một lối đi riêng để rồi dẫn đến kết cục thật bi

thảm. Thế nhưng, con đường mà ông lựa chọn để đi ấy mãi cho đến ngày hôm

nay vẫn có nhiều người tiếp bước và đó là con đường đi đẹp nhất, soi sáng

mọi nẻo đường trong hành trình của mỗi đời người chúng ta. Thời đại nào

cũng cần lắm những con người sống có lý tưởng tốt đẹp, có hoài bão lớn lao,

luôn phấn đấu hết mình vì mục đích cao cả. Nếu xã hội có nhiều con ngưòi

như vậy thì đất nước càng to lớn, giàu mạnh biết bao và đâu còn cảnh “nồi da

nấu thịt”, “cá lớn nuốt cá bé”, “kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu”. Cảnh thái bình, ấm

no, hạnh phúc của con người sẽ mãi là hiện thực chứ không còn là niềm khao

khát nữa. Nhưng thật khó thay! Khát vọng mãi là khát vọng, ước mơ vẫn hoài

mơ ước. Những người luôn sống cho lý tưởng, hoài bão tốt đẹp, sống không

chỉ cho riêng mình mà vì mọi người thế nhưng chẳng bao giờ nhận được kết

quả tốt đẹp vì đâu đó còn lắm kẻ xấu xa, độc ác luôn tìm cách hãm hại người

hiền, người tài. Điều này cũng được Khuất Nguyên rút ra nhiều nhận xét.

Quên mình dám nghĩ nông sâu,

Nghèo hèn chẳng quản, sang giàu chẳng ham !

Ai ngờ thế mà làm nên tội:

Trung ngay mà có lỗi, lạ chưa !

(Tích tụng)

Những người tài giỏi, trung ngay thường bị nghi ngờ, ghen ghét. Cái thói

đời ấy xưa nay lạ gì! Cho nên, Khuất Nguyên cũng từng tự nhủ với lòng mình

“thương vua nhưng chớ cậy vua thương !”, thật xót xa thay khi phải thốt lên

những lời lẽ như vậy. Một lòng một dạ trung với vua thì bị xa lánh còn bọn bợ

đỡ, xu nịnh thì được vua tin tưởng trọng dụng. Không chỉ có Khuất Nguyên

mới ôm lấy nỗi buồn đau trong lòng mà những nhà nho xưa của ta cũng chịu

cảnh đau lòng ấy. Thế nhưng, những con người nguyện gắn bó đời mình cho

nước, cho dân vẫn âm thầm đấu tranh cho mục đích cao cả, dám hi sinh thân

mình để bảo vệ lý tưởng tốt đẹp. Khuất Nguyên - nhà thơ đầu của nền văn học

Trung Quốc cũng là nhà thơ đầu tiên dám đấu tranh đến trọn đời để bảo vệ lý

tưởng tốt đẹp. Vì thế mà lý tưởng sống của Khuất Nguyên và hành động của

ông đã có những tác động tích cực đến các nhà nho Việt Nam thời Trung Đại.

Có thể nói quan niệm nho giáo là một trong những quan niệm có tác

động rất lớn đến văn hoá Việt Nam. Nho giáo xuất hiện đầu tiên ở Trung

Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc, với người sáng lập đầu tiên là Khổng Tử.

Bên cạnh Nho giáo thì Đạo giáo, Phật giáo cũng được chúng ta tiếp thu có

chọn lọc và sáng tạo. Đây là thời kỳ được xem là “tam giáo đồng nguyên”.

Nho, Phật, Đạo cùng song hành với nhau trong suốt một chặng đường dài dù

có lúc Nho nổi trội hơn Phật, Đạo hay Phật chiếm ưu thế hơn Nho, Đạo. Dù

sao tư tưởng đạo đức học Nho gia cũng thấm nhuần trong tầm hồn của mỗi

người dân Việt. Nhất là những vị quan thanh liêm luôn trung thành với lý

tưởng mà họ được giáo dục ở nơi “Cửa Khổng sân Trình”. Học để làm quan

là con đường tiến thân duy nhất mà các nho xưa đã chọn. Chỉ có như vậy, họ

mới mong đem tài năng của mình ra phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.

Một trong những tư tưởng chủ đạo trong quan niệm của Nho gia là tư

tưởng “trung quân, ái quốc, ái dân”. Khuất Nguyên cũng là một nhà nho nên

ông không thể không bị ảnh hưởng những tư tưởng nho gia. Nhưng có thể nói

tư tưởng nho gia thời ấy có phần khác với tư tưởng nho gia sau này. Làm

quan là cứu nước, giúp dân, mong muốn đất nước thanh bình, nhân dân ấm

no, nước mạnh, dân giàu là ước nguyện to lớn nhất mà các vị quan thanh

liêm, chính trực từng theo đuổi. Nhưng đấy là thời loạn còn thời bình thì

những vị quan thanh liêm, chân chính thật khó lòng mà ở yên chốn quan

trường vì xung quanh họ có biết bao nguy hiểm đang rình rập chờ đón. Cũng

vì thời thế như vậy nên xưa kia sau khi giúp Câu Tiễn lập nên đế nghiệp,

Phạm Lãi rũ áo từ quan để tìm cho mình một chân trời bình yên. Không chỉ

có Phạm Lãi mà nhiều người khác sau khi hoàn thành sự nghiệp cứu nước, an

dân đều xa lánh chốn quan trường, rời xa nơi hiểm ác, lui về làm bạn với hoa

lá, cỏ cây, muông thú, sống một cuộc đời trong sạch, thanh cao. Noi theo các

bậc tiền bối xưa, các nhà nho của ta, khi nước nhà còn bóng giặc thì họ một

lòng theo vua, giúp vua để cứu nước, cứu dân. Thế nhưng, khi nước nhà bình

yên thì họ lại tìm cho mình một lối sống giản dị, đạm bạc, không bon chen

danh lợi, không ham thế lực, quyền uy, công danh mà họ theo đuổi giờ đây đã

“rơi vào giấc mộng hoang đường” (Nguyễn Ức). Chọn cho mình một lối sống

như vậy bởi họ ý thức được “Tình hình chốn quan trường dễ làm khiếp sợ

như con chim đã bị thương vì cung bắn” (Nguyễn Trãi). Hay như Phạm Quý

Thích - bạn thân của đại thi hào Nguyễn Du - là một người đỗ đạt rất sớm và

từng được giao những chức vụ quan trọng dưới thời Lê - Trịnh, thế nhưng

Phạm Quý Thích không phải là người ham công danh hay thiết tha gì với con

đường hoạn lộ. Ngay từ khi bước chân vào chốn quan trường, ông đã thấy ở

đó đầy rẫy những điều bất công phi lý. Một lần tiễn bạn là Đức Ninh về chốn

đồng ruộng, ông đã làm bài thơ, trong đó có hai câu ngầm phê phán chính sự

đương thời

Thuỳ tri quốc hữu đạo,

Nhi vị quân tử tu

(Ai hay nước có đạo

Mà phải hổ thẹn thay cho người quân tử)

(Tống Đức Ninh phủ quy điền lý)

Dù chọn cho mình một lối nào đi chăng nữa thì các nhà nho xưa vẫn

hoàn thành sứ mệnh, luôn theo đuổi lý tưởng mà mình đã nguyện phấn đấu

đến trọn đời. Nguyễn Trung Ngạn một lòng một dạ trung thành với chế độ

phong kiến, lấy việc kiến thiết quốc gia và xây dựng đời sống hạnh phúc cho

nhân dân làm mục đích tối cao. Theo ông, đã là người yêu nước, thương dân

thì không nề nguy hiểm khó khăn. Thậm chí, ông không nghĩ đến cảnh rút lui

khỏi cửa quan trở về vui với ruộng đồng như một số nhà nho khác. Ông cũng

từng không tán đồng chuyện chàng Phạm Lãi “rong chơi ngũ hồ” sau khi giúp

Việt Vương Câu Tiễn trả được món nợ của nước nhà.

Khách còn quyến luyến núi sông,

Lòng nào chàng Phạm vội rong ngũ hồ.

(Khách lai do vị sơn hà luyến,

Át Phạm hà tâm cự ngũ hồ).

(Cổ thành hoài cảnh)

Lời phê phán ấy càng giúp ta hiểu hơn tấm lòng của ông đối với nước,

với dân và càng chứng tỏ một quan điểm mới, một cái nhìn mới, một thái độ

nhân sinh tích cực của Nguyễn Trung Ngạn. Nhưng có lẽ thời đại mà ông

đang sống cũng không quá sóng gió như các thời đại mà các tác giả khác sinh

sống nên thơ ông vì thế cũng không sôi nổi, hùng tráng hay nhiều nỗi niềm về

nhân tình thế thái.

Trung thành với chế độ phong kiến nhưng đấy là chế độ tốt đẹp, cũng

như trung thành với vua vì đấy là một vị vua tốt biết lo cho nước cho dân.

Còn khi chế độ phong kiến suy đồi, mục ruỗng, vua quan ăn chơi sa đọa thì

liệu những nhà nho chân chính có còn tận lực, sát cách cùng vua để cứu nước,

giúp dân nữa hay không? Hay là, họ đành chọn cho mình một hướng khác là

lui khỏi chốn quan trường đầy thị phi kia. Vẫn có những người làm như vậy

khi vua quá mê muội chỉ lo ăn chơi, còn triều thần phần lớn chỉ là những kẻ

chạy theo dục vọng, xu phụ quyền thế…Họ lui về không hẳn là muốn trốn

trách nhiệm của mình bởi họ vẫn còn nặng nợ với nước với dân, rút lui chính

là để tìm cho mình một hướng khác. Khi có cơ hội thì họ lại dốc sức giúp đời.

Chính vì điều này mà quan Tư đồ đã cáo quan về sống ở Côn Sơn, mặc dù

ông vẫn là trụ cột của nước nhà thời bấy giờ, vẫn có thể giúp nước nhà, nhưng

một mình ông không thể cứu lấy ngai vàng của triều đại nhà Trần đang lung

lay, có nhà nghiên cứu đã nhận xét về triều đại này như sau: “đó một triều đại

cực kỳ thối nát và đang xuống dốc”. Dù đã rũ áo từ quan nhưng ngày đêm

canh cánh bên lòng vận nước lâm nguy. Đấy cũng là mối lo chung của chàng

rể quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh. Trước kia Khuất

Nguyên cũng từng bộc lộ nỗi buồn bã, lo âu khi Tổ quốc lâm nguy, nỗi âu sầu

ấy hiện lên trong thơ ông thật tha thiết, xúc động biết bao. Nỗi buồn khó gọi

thành tên ấy lại là nỗi buồn chung của các bậc sĩ phu yêu nước của ta thời

xưa. Đáng tiết thay cho những người có tài năng, có chí khí nhưng lại sinh lỗi

thời. Khuất Nguyên cũng là người như vậy “có chí, thế nhưng lỗi thời”, có tài

nhưng không được trọng dụng thì cũng bất tài mà thôi. Phi Khanh cũng là một

trong những người sinh không cùng thời, biết bao trằn trọc suy tư lúc thì “ôm

gối nằm nghiêng”, “khi đốt hương ngồi nghiêm một mình”, khi “xem lá rụng

đang quét sầu ở ngoài sân”, hay khi “nhỏ lệ đếm chim hồng đang bay ở trên

trời” nhà thơ đều băn khoăn suy nghĩ về cuộc đời trước mắt. (chuyển dẫn 76;

tr49) Nhưng biết làm sao đây khi nước nhà mục nát, suy đồi, đời sống nhân

dân rơi vào cảnh:

Ruộng nương nghìn dặm đỏ như cháy

Đồng quê than van, không biết trông cậy vào đâu?

Non sông của Hậu thổ đang nứt nẻ,

Mưa móc của Hoàng thiên hãy còn xa vời !

Lưới tham quan lại vơ vét hết kiệt,

Mỡ màng của dân đã cạn mất nửa.

(Đạo hề thiên lý xích như thiêu,

Điền dã hưu ta ý bất tiêu !

Hậu thổ sơn hà phương địch địch,

Hoàng thiên vũ lộ chính thiều thiều !

Lại tư võng cổ hồn đa kiệt,

Dân mạnh cao chi bán dĩ tiêu!...)

Những hình ảnh chân thực về cuộc sống tiêu điều, kiệt quệ của người

nông dân được nhà thơ ghi lại trong bài “Ở quê xúc động trước sự việc xảy ra,

gửi trình tướng công Băng Hồ”. Nó là bản cáo trạng cực kỳ đanh thép. Phi

Khanh thật dũng cảm khi dám lên án bọn thống trị nhà Trần lúc bấy giờ,

mang tiếng là những kẻ “thay trời trị dân” nhưng không cứu được dân thoát

khỏi cảnh lầm than, khốn khổ. Quan lại ngày xưa được xem là “phụ mẫu chi

dân” (cha mẹ của dân), là cha mẹ mà không cưu mang được con cái, không là

chỗ dựa của con cái thì những người cha người mẹ ấy có xứng đáng không?

Vậy trông chờ vào “cơn mưa móc của hoàng thiên” thì biết bao giờ đây? Có

được thái độ dũng cảm ấy là nhờ tác giả biết đứng vững trên lập trường của

người trí thức xuất thân từ quần chúng lao động và được võ trang bằng những

nhân tố tích cực trong tư tưởng đạo Nho (chuyển dẫn 76; tr. 51).

Yêu nước thì cũng yêu dân, và dân được hiểu ở đây là “dân đen con đỏ”

chứ không phải không phải là dân kiểu như Mạnh Tử quan niệm là những

người tri thức, địa chủ hay thương nhân…Những người dân là những người

chịu nhiều cơ cực lầm than, chịu nhiều đau thương thiệt thòi nhất. Mỗi một

lần chiến tranh là mỗi lần chịu cảnh mất mác thương đau. Mỗi khi mất mùa

thất bát thì cảnh đói khổ không thể tránh khỏi. Biết bao cảnh tượng đau lòng

đang diễn ra hàng ngày trước mắt chúng ta. Hình ảnh “Một mẹ cùng ba con.

Lê la bên đường nọ. Đứa bé ôm trong lòng. Đứa lớn tay mang giỏ. Mớ rau

lẫn tấm cám…”, không chỉ xuất hiện trong thơ Nguyễn Du xưa mà ngày này

cảnh tượng ấy vẫn còn đâu đó quanh ta. Bởi thấu hiểu được nỗi khổ của người

dân nên tình thương mà các nhà thơ dành cho họ càng sâu sắc biết bao. Tình

cảm của Nguyễn Du dành cho những con ngươi khốn khổ thật chân thành.

Phạm Quý Thích, sinh cùng thời với Nguyễn Du, là người hết lòng tận tụy với

dân với nước, luôn “lo trước nỗi lo thiên hạ” nên nhìn thấy cảnh khốn khổ

của nhân dân trong cơn loạn ly khiến ông thêm đau lòng. Hình ảnh của cụ già

vừa đi nộp quân lương về khi “Nhà hoang bán làm củi, Tấm cám mà thấy

ngọt như đường” được Phạm Quý Thích khắc họa trong thơ nghe sao não

ruột! Còn có biết bao nỗi đau khác nữa mà nhân dân phải gánh chịu. Nhưng

có ai thấu hiểu cho nỗi khốn khổ ấy chăng? Kẻ làm quan như ông thật đáng

hổ thẹn, khi không giúp được những người dân thoát khỏi cảnh tượng đau

lòng ấy. Giờ chỉ biết “cúi đầu, rồi lại ngửng đầu, lòng trĩu nặng sầu bi”. Cho

nên, họ là những người luôn đứng về phía nhân dân, cảm thông chia sẻ với

nhân dân bao nỗi vui mừng hay khổ đau. Họ cũng sẵn sàng lên tiếng bênh vực

để bảo vệ những con người nhỏ bé ấy. Tuy “nhỏ bé” nhưng sức mạnh tiềm ẩn

trong họ thì vô cùng lớn lao. Nếu xưa kia, Khuất Nguyên yêu dân nhưng

không thấy sức mạnh của dân nên một mình ông đơn độc trong cuộc chiến

không cân sức khiến ông thất bại thì giờ đây các nhà nho của chúng ta đã

nhận thức rõ được điều ấy. Cũng chính hiểu được sức mạnh của dân mà bao

phen kẻ thù phải rút chạy, đất nước mới giành quyền tự chủ.

Yêu nước, thương dân là mục đích cao cả được các nhà nho xưa đặt lên

hàng đầu. Vì vậy, họ dám đương đầu với bao hiểm nguy, để bảo vệ nhân dân,

bảo vệ đất nước. Thế nhưng điều làm nên nhân cách cao đẹp, tiếng thơm lưu

danh muôn thuở là bởi họ biết trau dồi phẩm chất đạo đức, giữ mình không

lấm bùn đen.

2.1.3. Ý thức giữ gìn phẩm chất đạo đức

Nếu trong sử thi nổi bật lên hình ảnh của con người anh hùng thì trong

văn học Trung Đại ta bắt gặp hình ảnh của con người có khí tiết, thanh cao.

Bởi thấm nhuần tư tưởng Nho gia nên con người thời này là con người phải

biết giữ mình theo những gì mà nho giáo đề ra, với các giềng mối nào là “vua

tôi, vợ chồng, cha con”, với các chuẩn mực của xã hội phong kiến như “tam

cương, ngũ thường”…Thế nhưng, thời cuộc đảo điên, đâu đâu cũng đầy rẫy

những kẻ xấu xa, bất tài vô dụng chỉ có tài dối vua, lừa dân; còn những người

có phẩm chất, có cốt cách trong sạch nếu không khôn khéo thì khó mà tồn tại.

Có thể nói, xưa kia Khuất Nguyên vì quyết giữ tấm lòng trung trinh không

hùa theo thế tục mà phải chịu nhiều oan thiên. Bao tủi hổ, buồn đau vì không

được vua tin dùng chỉ nghe lời siểm nịnh, gièm pha mà ông bị đọa đày. Nỗi

đau về thân xác không thể so sánh với nỗi đau về tinh thần. Trong xã hội lừa

lọc đầy hiểm ác thế mà Khuất Nguyên vẫn giữ được cho mình một tâm hồn

trong sạch, vẫn luôn tự bồi dưỡng phẩm chất đạo đức thì thật là hiếm có.

Cũng chính bởi ý thức việc đó mà Khuất Nguyên hay tự ví mình với những

loài hoa nào là hoa lan, hoa nhài, hoa huệ, hoa quỳnh...tượng trưng cho tấm

lòng trong sạch thanh khiết. Để theo chí ông biết bao nhà thơ xưa của ta cũng

chọn cho mình một cách sống trong sạch để tiếng thơm mãi lưu truyền cho

hậu thế. Trong số các nhà thơ trong Thi xã Bích Động của Trần Quang Triều

có Nguyễn Sưởng, Nguyễn Ức,…họ theo tôn chỉ mà thi xã đề ra là ca ngợi

thiên nhiên, ca ngợi thú nhàn hạ, công kích thói bon chen, cầu cạnh ở đời. Bởi

vậy mà trong những vần thơ của Nguyễn Ức, chúng ta thấy ông luôn đề cao

chí khí của kẻ sĩ là phải biết giữ mình, không để tấm thân trong sạch lấm bụi

ở đời. Trong bài thơ được ông viết trong dịp trước ngày trùng dương đến

viếng nhà cũ của Cúc đường chủ nhân (tên hiệu của Trần Quang Triều) cũng

nhắc đến “Lòng trong trắng chỉ yêu hoa cúc ở giậu phía đông, Há chịu đem

hương thanh mơn trớn kẻ khác” (67; tr. 84). Hoa cúc thường gắn với Đào

Tiềm, người đời Tấn, làm quan ở Bành Trạch chưa được bao lâu bèn cáo quan

về quê. Nhắc đến hoa cúc là nhắc đến chuyện người lui về ở ẩn vui thú điền

viên, không hám danh lợi. Giàu sang, phú quý rồi cũng sẽ mất chỉ còn lại là

tiếng thơm để đời. Do đó mà ông bà xưa cũng từng khuyên nhủ, nhắc nhở

chúng ta “Cáo chết để da, người ta chết để tiếng”. Thật sâu sắc và chí lý biết

bao! Trong thế giới loài hoa, không chỉ có hoa cúc mà hoa lan cũng tượng

trưng cho khí tiết trong sạch, bởi lẽ hoa lan lại gắn với hình ảnh của vị quan

Tam lư đại phu - Khuất Nguyên - một người từng đấu tranh cho lý tưởng cao

đẹp, luôn giữ phẩm chất đạo đức trong sạch. Quả thực, đọc lại những vần thơ

mà Khuất Nguyên tự ví mình với các loài hoa nghe sao cay đắng xót xa. Giữa

cỏ và hoa mà họ chẳng phân biệt được thì làm sao phân biệt được người tốt,

người xấu

Cỏ hôi đeo giắt đầy người!

Hoa lan thơm ngát chê bai chẳng dùng

Loài cây cỏ còn không phân biệt,

Giống ngọc lành xét biết đâu mà!

(Li tao)

Dẫu cho bọn chúng không biết phân biệt vẻ đẹp của cỏ và hoa, không

phân biệt được mùi thơm của hoa và cỏ. Thế nhưng vẻ đẹp những loài hoa ấy

mãi nguyên vẹn, hương thơm vẫn còn thoang thoảng xa đưa. Cho nên, khi

nhìn thấy “Chậu hoa lan trước nhà” thì Nguyễn Ức như cảm được cái điều

mình muốn nói mà trước “từng biết được nêu cao trong Sở từ”. Cảnh vắng vẻ

của tiết trời không làm nhà thơ buồn bã mà còn thầm cảm ơn vì “đã để lại mùi

hương trong sạch làm bạn với nhà thơ”.

Bài ca Thương Lương từng được Khuất Nguyên nhắc đến trong tác

phẩm của mình thì giờ đây đã trở thành hình ảnh quen thuộc của các thi nhân

mỗi khi muốn nói đến chuyện trong đục ở đời và tùy thời mà ứng xử.

Khi nước nhà lâm nguy những bậc chí sĩ hăm hở ra giúp đời, cứu nước

thế nhưng khi đất nước không còn bóng giặc thì họ lại lui về quy ẩn, không

tham quyền cố vị. Họ quả là những người “biết thời thế, biết ưu hoạn, có khí

tiết, một kiểu con người mới trong thơ, một tầng lớp trí thức theo quan niệm

Nho giáo.” [57; tr. 181]

Cũng là những người luôn đề cao sự trong sạch của nhân cách, của tâm

hồn và quyết giữ gìn nó đến trọn đời. Thế nhưng so với Khuất Nguyên thì

Đào Tiềm được các nhà nho xưa nhắc đến nhiều hơn cả. Bởi lẽ Khuất Nguyên

mới chỉ đề cao phẩm chất đạo đức, “chí sạch, nết thẳng” là cốt cách của ông

và quyết gìn giữ “dù chết cũng không chịu tự buông thả”, thế nhưng ông vẫn

chưa có thái độ tích cực như Đào Tiềm. Đào Tiềm từng bực mình mà nói

rằng “Ta không vì năm đấu gạo mà chịu khom lưng”, lời lẽ thì thẳng thắn,

hành động thì cương quyết, cuối cùng ông đã chọn việc “treo ấn từ quan” về

quê vui thú điền viên. Thế nhưng, mãi nghìn năm sau, thanh danh còn làm

nhiều người khâm phục. Hình bóng của một người sẵn sàng rời khỏi chốn

phồn hoa đô hội, rời bỏ vinh hoa phú quý để về làm bạn với thiên nhiên đã trở

thành mẫu người lý tưởng được nhiều người ưu chuộng. Vì chỉ có con đường

đó họ mới giữ sạch được lòng mình. Thực ra hành động giũ áo từ quan mà các

nhà nho xưa đã làm không hẳn là họ thờ ơ với trách nhiệm của mình với dân,

với nước mà việc nước nhà vẫn là nỗi lo canh cánh bên lòng. Phải chăng họ

muốn xác lập một mẫu người mới. Đó là mẫu người không màng công danh,

nhưng không nguôi việc nước. Ví như Chu An tuy đã gọi là Tiều Ẩn nhưng

“Tấc son nào đã như tro nguội, Nghe nói Tiên hoàng giọt lệ sa.” [67; tr. 130].

Còn Trần Nguyên Đán cũng quy ẩn giữ mình nhưng suy nghĩ có phần khác

với Khuất Nguyên : “Mọi người say riêng ta tỉnh đều do nơi mình cả, tự sát

để mua tiếng khen như Khuất Nguyên là sai” (Trong núi ngẫu nhiên làm

thành thơ) [67; tr. 154]. Đục - trong, tỉnh - say không do người khác tạo nên

mà do chúng ta tự cảm nhận. Biết tuỳ thời mà ứng xử thì đó mới là người

khôn ngoan khéo léo. Ông cũng chủ trương vứt bỏ mọi vương vấn về công

danh “Mịch la, Xích Bích đều đã vùi trong gió bụi, Sớm muộn sẽ quay thuyền

về hỏi thăm non xưa” (Mùa thu thả thuyền ra chơi ở Đông Triều) [67; tr. 168].

Có lẽ, Băng Hồ đã thấu rõ công danh chỉ như là “bóng câu” xuất hiện đó

nhưng mau chóng mất đi. Lê Tư Thành tức vua Lê Thánh Tông cũng cảm

được cái mộng công danh : “Lâu nay, giấc mộng công danh là như vậy. Khá

giống với đám phù vân thấp thoáng bên trời”. (Qua sông Bạch Đằng) [68; tr.

465). Cái công danh tựa như phù vân kia không thể tồn tại mãi cùng với thời

gian và năm tháng cái để lại cho đời là phẩm chất cao quý, cốt cách thanh tao.

Quả vậy, khí tiết trong sạch, thanh cao của con người được lưu truyền qua

ngàn đời sau nếu biết trau dồi và phát huy, biết ẩn mình chờ đợi, không bon

chen tranh giành, thì tiếng thơm mãi còn đó chứ không phai nhạt. Cũng giống

như loài “thông với cúc đến giữa mùa thu khí tiết muộn mằn vẫn còn trọn vẹn,

còn đào và lê khi hết mùa xuân thì lòng thơm cũng hết” (ý thơ của Trần

Nguyên Đán). Nói thì nói vậy nhưng quan Tư đồ Trần Nguyên Đán vẫn

khuyên những con người thật sự có tài hãy góp sức cho đời, giúp đời vì nghĩa

lớn chứ không phải vì danh vọng địa vị. Chính vì lẽ đó mà ông khuyên Chu

An hãy ra làm quan khi còn có khả năng cống hiến, chứ một khi tuổi già sức

yếu như ông đây có muốn xả thân vì đất nước, nhân dân cũng không thể

được.

Bánh xe cỏ bồ hãy vì dân mà quay trở lại.

Xã tắc đương hồi thịnh, trời cũng giúp vì,

Đâu chịu để tiên sinh già đi ở chốn non xanh !

(Tặng Chu Tiều Ẩn)

Và cũng từng khuyên Nguyễn Phi Khanh - con rể của mình - hãy đem tài

năng của mình mà giúp nước, giúp dân, không nên tính đến chuyện rút lui về

sống an nhàn khi tuổi còn trẻ. Như vậy mới xứng đáng là đấng trượng phu :

Câu trăng cày mây sao sớm thế?

Nghìn hộc lúa, muôn ngôi nhà là của Tử vi lang.

(Gửi tặng Kiểm chính Nguyễn Ứng Long ở Nhị Khê)

Tấm lòng của Băng Hồ tướng công thật chân thành, tha thiết biết bao.

Dường như cái cốt cách trong sạch như băng tuyết ấy đã truyền cho người anh

hùng dân tộc, nhà quân sự đại tài, nhà thơ xuất chúng - Nguyễn Trãi và cũng

là người cháu ngoại yêu quý của ông.

Điều mong ước nhất mà các bậc sĩ phu xưa dày công tạo dựng, vun đắp

là bồi dưỡng nhân cách trong sạch, tâm hồn thanh cao, tự trau dồi phẩm chất

đạo đức. Còn gì vui bằng khi “Tục lụy xa rồi thanh hứng đủ, Xem non, xem

nước, lại xem mây.” (Trong thuyền ngẫu nhiên làm thơ). Những vần thơ lạc

quan, hứng khởi của Phi Khanh dường như đã lan sang tâm hồn của chúng ta.

Nó khiến lòng ta cũng bay bổng theo mây, trời, non, nước. Bởi cảnh đẹp của

non xanh, nước biếc có thể giúp lòng ta thanh thản, quên đi mọi sự phiền hà

của thế thái nhân tình.

Đã có phẩm chất tốt đẹp thì phải biết giữ gìn chớ để người khác làm tổn

thương. Khuất Nguyên cũng vì giữ trọn lòng thanh cao, giữ vững tấm lòng

trung trinh nên ông quyết không hùa theo bọn hám danh, không vì mục đích

riêng tư mà quên đi lẽ sống tốt đẹp bấy lâu ông theo đuổi. Dù bị đẩy vào vũng

bùn lầy, bị bọn gian thần hãm hại ruồng bỏ, ghét ghen, nhưng ông vẫn không

để cho đời dây bẩn. Đúng là “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nhắc đến

ý này, Nguyễn Bảo cũng đã cao giọng mà hát lại bài Thương Lang năm xưa

mà Khuất Nguyên đã hát “Cao giọng họa bài Thương Lang, tự mang lấy áo

đẹp” (Tiễn quan Tế Tửu Quốc Tử Giám, kiêm Quốc sử viện tiên sinh họ Ngô,

quê ở Chúc Lý về hưu). Qua bài ca ấy, Nguyễn Bảo cũng muốn nhắc nhở với

thế hệ mai sau rằng đã có áo đẹp (tức phẩm chất đạo đức tốt đẹp) thì phải giữ

lấy đừng để người khác dây bẩn. Lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thật sâu sắc.

Không chỉ lo cho bản thân trong việc tu dưỡng đạo đức mà Khuất

Nguyên còn rất nhiệt tình trong việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài cho

đất nước.

Chín vườn lan lại nghìn sào huệ,

Một mình ta chăm chỉ hôm mai,

Tử tiêu bạch chỉ xen vai,

Kẹ trong đỗ nhược bao ngoài tân di,

Mong cành lá có khi đua nẩy

Chờ đến mùa hái lấy hoa tươi

(Ly tao)

Ông hi vọng những nhân tài mà ông đào tạo sẽ gánh vác lấy trọng trách

nước nhà, biết giúp vua trị nước, biết thực hiện những đường lối chính trị tiến

bộ để đưa đất nước ngày một vững mạnh, giàu đẹp. Đó là điều ông hằng mơ

ước. Có thể nói ước mơ của Khuất Nguyên xưa kia cũng là ước mơ chung của

bao nhà nho Việt Nam thời Trung đại. Chiêu hiền đãi sĩ không chỉ có thời xưa

mới làm mà thời nào cũng vậy, người tài giỏi luôn là nhân tố tích cực của một

quốc gia. Một đất nước giàu mạnh không chỉ có nhiều tài nguyên, khoáng sản

mà còn phải có nhiều con người tài giỏi. Như vậy để có người tài không chỉ

ngồi chờ tự dưng có được mà phải bồi dưỡng đào tạo ngay từ lúc đầu. Và lệ

đặt ra khoa thi tiến cử người tài giỏi đã có từ lâu ở bên Trung Quốc từ Hán,

Đường, Tống, Nguyên, Minh. Các thánh triều của ta cũng mở khoa thi để kén

chọn nhân tài. Khi chọn được người hiền, người tài, Trần Nguyên Đán không

giấu được niềm vui sướng. Trong một bài thơ “Ban tặng cho các vị tiến sĩ”,

ông viết:

Khoa thi vua mở kén hiền lương,

Bay chín tầng mây cánh phượng hoàng.

Bảng vàng đề tên, treo trước cửa khuyết,

Đường hoa ngựa ruổi, áo gấm phất phơ…

(Ban tặng cho các vị tiến sĩ)

Có thể nói ngay từ nhỏ mà được giáo dục, bồi dưỡng tài năng thì sau

này lớn lên sẽ là những người có ích cho xã hội. Việc dạy dỗ bảo ban đám trẻ

nhỏ bởi những người thầy mẫu mực từ một “nhà giảng thoáng mát choáng cả

gió trưa”, Phạm Nhữ Dực đã làm một bài thơ “Đề nhà học mới” với niềm lạc

quan, tin tưởng vào một thế hệ nhân tài giúp ích cho đời.

Những anh tài một ngày kia sẽ làm rường cột cho nước nhà,

Ta biết rằng cũng là do được bồi dưỡng ở nơi này.

Để không làm phụ lòng các bậc tiền bối xưa từng ra sức dạy bảo, thì họ

luôn tự nhắc mình phải ra công cho đạo học. Trong một bài thơ “Gửi bạn

đồng niên là thái học sinh họ Trương ở Chương Giang” Nguyễn Phi Khanh đã

nhắc lại chuyện xưa khi hai người gặp nhau, nhưng trước lúc chia tay vẫn

không quên lời nhắn nhủ:

Từ biệt ân cần khuyên hãy gắng,

Thánh hoàng đang gấp chọn tài danh.

Lời nhắn nhủ của Phi Khanh năm nào đến ngày nay vẫn còn giá trị. Đất

nước mình rất cần những người có tài, có đức. Hãy đem tài đức ấy ra xây

dựng nước nhà ngày càng to đẹp hơn, hạnh phúc, ấm no hơn.

2.2. Thơ ca của Khuất Nguyên trong văn học Trung Đại Việt Nam

Gia tài văn học của Khuất Nguyên để lại cho đời tuy không đồ sộ như

những thi nhân khác thế nhưng những ảnh hưởng của thơ ông cho muôn đời

sau quả không nhỏ chút nào. Từ những thi nhân ở Trung Quốc đến thi nhân

Việt Nam, từ những nhà thơ lớn đến những người bắt đầu làm văn chương

cũng học hỏi ông nhiều điều bổ ích. Quả vậy, bóng dáng của Khuất Nguyên

trong văn học Việt Nam, nhất là giai đoạn Trung Đại đã để lại nhiều dấu ấn

khó phai. Do đó, mỗi khi nhắc đến Khuất Nguyên, các nhà thơ của ta thường

chọn những hình ảnh tượng trưng cho cốt cách, tâm hồn, con người của ông,

một vài điển tích xưa cũng có thể gợi lên trong lòng các thi nhân nỗi cảm

thương sâu sắc về nhà thơ giàu lòng yêu nước, thương dân hay những ý thơ

của Khuất Nguyên luôn là lời thủ thỉ bên tai, là lời chia sẻ biết bao tâm sự, nỗi

niềm của một người dành trọn đời mình cho sự nghiệp cứu nước nhưng kết

thúc cuộc đời thật bi thảm. Tất cả được lưu lại qua biết bao thế hệ thi nhân

trong suốt giai đoạn văn học Trung đại Việt Nam.

2.2.1. Hình ảnh

Hình ảnh thơ bao giờ cũng được các tác giả nhìn qua lăng kính tâm hồn

nhạy cảm của mình. Thế nhưng hình ảnh trong thơ ca của Khuất Nguyên

được các nhà thơ của chúng ta chọn lọc để nó mãi là hình ảnh đẹp không bao

giờ phai nhạt trong lòng chúng ta. Có không ít những hình ảnh đẹp về thiên

nhiên nơi Khuất Nguyên từng sinh ra, lớn lên và ông nguyện hi sinh cuộc đời

mình để bảo vệ nó. Đó là cảnh đẹp của quê hương nước Sở như núi Côn Lôn,

đầm Vân Mộng, hồ Động Đình. Mà mỗi khi gợi lên những cảnh đẹp ấy là

lòng thi nhân như tìm thấy bóng người xưa còn ở đâu đây.

Mỗi người đều có sở thích riêng, qua sở thích của họ chúng ta có điều

kiện hiểu rõ hơn tâm hồn của những bậc vĩ nhân. Xưa Khuất Nguyên yêu hoa

lan, Đào Tiềm yêu hoa cúc, có người yêu mai, tùng, trúc hay những loài hoa

bình thường nhất như loài hoa dại mọc ven đường, có lẽ mỗi loài hoa ấy mang

một ý nghĩa riêng mà mỗi người tự cảm nhận rồi vận tâm sự của mình, mang

lấy nỗi niềm riêng. Cho nên mượn những cốt cách của hoa để nói đến cốt

cách của mình cũng là điều dễ hiểu. Khuất Nguyên yêu hoa lan và những loài

hoa thơm cỏ lạ khác như huệ, sói, nhài, tử tiêu, đỗ nhược, bạch chỉ, tân di…

bởi ông thường ví nó với chí khí và hành vi trong trắng của mình. Chính vì

vậy mà mỗi khi bước vào thế giới thơ ca Khuất Nguyên có lúc chúng ta tưởng

chừng như đang lạc vào rừng hoa với muôn ngàn sắc hoa và hương hoa. Thế

nhưng, điều đặc biệt của khu vườn này chính là bởi sự lôi cuốn những loài

hoa ấy không phải là hương hoa và sắc màu của cỏ hoa mà bởi nhũng ý nghĩa

thầm kín sâu xa của nó.

Trong ta đã mười phần lộng lẫy,

Chải chuốt càng thêm nảy sinh tươi:

Sói ngàn, nhài bãi, khoác ngoài…

Tết lan thu lại làm đai đeo thường…

Sợ chẳng kịp ta càng mê mải,

Tuổi xanh nào có đợi gì ai!

Mộc lan sớm cắt trên đồi…

Đông thanh chiều hái bên ngoài bến sông…

(Ly tao)

So sánh phẩm chất trong sạch của mình với các loài thơm, do đó mà sự

“lộng lẫy” của bản thân nhà thơ càng tăng gấp bội. Không chỉ mượn các loài

hoa để ví với phẩm chất đạo đức mà còn ngầm so sánh những loài hoa ấy như

những nhân tài của đất nước. Đó là thế hệ tương lai sẽ tiếp nối ông gánh vác

giang sơn nên ông ra sức đào tạo:

Chín vườn lan, lại nghìn sào huệ,

Một mình ta chăm chỉ hôm mai

Tử tiêu, bạch chỉ chen vai,

Kẹ trong đỗ nhược, bao ngoài tân di…

Mong cành lá có khi đua nảy,

Chờ đến mùa hái lấy hoa tươi…

(Ly tao)

Quả vậy, hình ảnh của hoa lan như là một biểu tượng đẹp, luôn nhắc nhở

mỗi người phải nối chí người xưa, phải giữ lòng mình trong sạch, phải sống

cho lý tưởng tốt đẹp. Do đó, mỗi khi nhìn lan thì hình ảnh của Khuất Nguyên

- một người từng ôm ấp hoãi bão lớn lao về công cuộc bảo vệ đất nước lại

hiện ra. Nhìn “Chậu hoa lan trước nhà”, Nguyễn Ức càng thấm thía nhân cách

của người xưa. “Từng biết được nêu cao trong Sở từ”, câu thơ gợi cho ta một

sự suy ngẫm về tấm lòng trong trắng của Linh Quân. Nó mãi mãi được người

đời sau nêu cao và học hỏi. Nhớ Khuất Nguyên, Vũ Thế Trung cũng đành kí

thác nỗi niềm của mình qua những vần thơ. Bài thơ “Lan cốc” được ông viết

bằng tất cả niềm thương yêu của mình dành cho vị quan Tam Lư đại phu.

Nghìn thưở oan hồn sông Tương, gọi chẳng được,

Gượng ngâm bài Sở tá để an ủi hương hồn.

Không biết đến bao giờ mới gọi được oan hồn của Khuất Nguyên, nhưng

từ khi Khuất Nguyên ra đi "oan hồn sông Tương" chẳng ai gọi được. Cảnh

đời vẫn còn nhiều bất công ngang trái nếu oan hồn có về chắc cũng không vui

vậy thì thà chẳng về còn hơn. Nhớ đến Khuất Nguyên, Vũ Thế Trung đành

"gượng ngâm bài Sở tá để an ủi hương hồn", để tỏ chút lòng thành kính của

mình đến người "cô trung" cách đây hai ngàn năm.

Một lần nữa “khách bội lan” lại được Nguyễn Du nhắc đến với bao nỗi

nhớ khôn nguôi.

Nhớ khách bội lan, nhà văn nước Sở

Nghìn năm gọi hồn, hồn vẫn không về.

(Tháng năm xem đua thuyền)

Suốt hai nghìn năm qua người ta vẫn gọi hồn ông về, cảnh thuyền đua

đầy sông, chiêng trống vang dội, nhưng phỏng có ích gì. Thói đời đen bạc,

khắp chốn nhân gian đâu đâu cũng đầy những kẻ mưu mô xảo quyệt, những

người có tấm lòng trong sạch như Khuất Nguyên thật khó mà sống được. Nên

giờ đây hồn có trở về cũng không biết nương tựa vào đâu. Nỗi lòng của Khuất

Nguyên xưa đã được Nguyễn Du thấu rõ. Thật là, tìm bạn thì dễ nhưng tri âm

khó tìm.

Hai mươi thế kỉ đã qua đi, nhưng “đất này còn thơm mùi hoa lan, hoa

chỉ”, mùi thơm ấy không phải là mùi hương của hoa mà đấy là sức lan toả của

một tâm hồn thanh tao, một nhân cách cao đẹp.

Bên cạch các loài hoa thì hình ảnh của các dòng sông cũng là một hình

ảnh mang nhiều dấu ấn của Khuất Nguyên. Những dòng sông ông từng đi qua

như sông Nguyên, sông Tương, đặc biệt là dòng sông Mịch La, vì đây chính

là nơi Khuất Nguyên đã tự trầm, có khi các nhà thơ nhắc đến sông Tương, bởi

lẽ dòng Mịch La cũng chảy vào sông Tương. Do đó, mà con sông ấy được

khá nhiều nhà thơ nhớ đến như nhớ đến cái chết bi thảm của ông. Ngàn đời

sau dòng sông Tương vẫn mang mối hận của Khuất Bình (ý thơ của Ngô

Nhân Tĩnh), hay “Bến sông Tương ngàn năm còn treo vừng trăng sáng như

phiếm ngọc đeo” (Miếu thờ Tam Lư đại phu). Nỗi lòng của Khuất Nguyên

chẳng biết giãi bày với ai nên ông thất thiểu đi trên bờ sông với hình dáng tiều

tuỵ, khô héo, khi gặp ông chài và được bày tỏ lòng mình. Và câu chuyện của

ông với người đánh cá trên sông năm nào nay vẫn được nhắc đến, Khuất

Nguyên cũng phần nào trút được niềm tâm sự của mình. Phan Huy Chú

dường như cũng cảm được tấm lòng của Khuất Nguyên một “Tấm lòng đau

đớn u hoài theo bến nước” (Miếu thờ Tam Lư đại phu). Nhìn thấy tiền đồ của

nước nhà có nguy cơ sụp đổ, Khuất Nguyên không khỏi xót xa, đau khổ. Cho

nên, theo chí người xưa mà quyết giữ vững lòng mình. Hình ảnh của Bành

Hàm, hiền thần đời Ân, can gián vua, vua không nghe, bèn nhảy xuống sông

tự tử, luôn xuất hiện trong tâm trí ông. Trong số những bài thơ Khuất Nguyên

để lại thì đã năm lần Khuất Nguyên nhắc đến Bành Hàm, phải chăng đây là

con đường lựa chọn cuối cùng của Khuất Nguyên để bảo tròn khí tiết. Hình

ảnh của Bành Hàm xuất hiện hai lần trong tác phẩm “Ly tao”, lần đầu là:

Dẫu rằng đời có chẳng ưa,

Thì xin theo lối cũng như Bành Hàm.

Chính lành làm sức với ai

Bành Hàm đâu đó, ta thời đi theo.

Lần thứ ba ông nhắc đến trong bài “Trừu tư”; (Trong Tam Ngũ coi làm

mẫu mực; Theo Bành Hàm chớ lạc lối đi), lần thứ tư trong bài “Tư mỹ nhân”;

(Mình một mình ta sang Nam. Thui thủi đi đâu chừ? Ta nhớ Bành Hàm!) và

cuối cùng trong bài “Bi hồi phong”; (Đè sóng cả theo ngay gió cuốn. Nhà

Bành Hàm tìm chốn tạm yên…). Quả nhiên, lời tiên đoán năm nào giờ đã

thành hiện thực, Khuất Nguyên đã theo chân Bành Hàm xưa và đã kết thúc

cuộc đời mình ở trên dòng sông Mịch La. Một lần nữa dòng sông Mịch La

được Nguyễn Công Trứ nhắc đến như muốn gợi nhớ tấm lòng trung quân, ái

quốc của Khuất Nguyên.

Dòng Mịch La dù đục đục trong trong,

Đèn bất dạ hãy soi người thiên cổ

Ngọn đèn tâm hồn của Linh Quân sẽ không bao giờ tắt, mãi soi sáng cho

chúng ta tiếp bước đi về phía trước. Do đó, mỗi khi nhắc đến Mịch La cũng là

nhắc đến Khuất Nguyên - vị trung thần của nước Sở.

2.2.2. Điển cố

Theo từ điển thuật ngữ thì “điển cố là sự việc hay câu chữ trong sách đời

trước được dẫn trong thơ văn”. Đây là hình thức khá phổ biến trong văn học

trung đại bởi nó xuất phát từ quan điểm thẩm mỹ cổ phương Đông. Một trong

những quan điểm đó là tinh thần sùng cổ, nói sùng cổ bởi lẽ họ cho rằng “thời

đại quá khứ, nhân vật lịch sử là những tấm gương, những bài học có giá trị

cho đời sau. Từ điều xảy ra trước có thể đoán biết được việc sau. Những câu

nói của người xưa có thể làm bài học về tư tưởng, đạo đức cho người đời

sau” [36; tr. 70]. Bên cạnh đó thì “quan niệm về tính quy phạm cũng chi phối

không ít đến điển cố” [36; tr. 71]. Mỗi một câu chuyện lịch sử, một hình ảnh,

một từ ngữ hay một ý thơ vay mượn của người xưa nhằm mục đích giáo hoá

hoặc muốn thể hiện sự suy nghĩ, ý tưởng hay quan điểm giống như nội dung

của điển cố được vay mượn. Dĩ nhiên, những suy nghĩ, ý tưởng hay quan

điểm đó đã trở thành mẫu mực, đúng đắn mang giá trị thẩm mỹ cao. Do đó,

việc sử dụng điển cố đã trở thành một phương thức sáng tác phổ biến trong

văn học trung đại. Nhất là những lúc tình cảm dạt dào chan chứa không biết

diễn tả như thế nào cho hết lời, hết ý hay không tiện nói ra, đặc biệt là những

tình huống có ý nghĩa đạo đức, luân lý hoặc những tình huống éo le…không

thể nói thẳng vì không tiện. Vì thế, việc sử dụng điển cố “giúp nói điều khó

nói nhất, nó đóng vai trò lời thay thế trường hợp cụ thể, tình cảnh cụ thể một

cách ý nhị, hàm xúc” [56; tr. 22]

Nói về thời cuộc, bàn về lẽ đục - trong ở đời, để từ đó bày tỏ thái độ ứng

xử của mình, điều này được các nhà thơ mượn điển cố “Thương Lang”. Trong

bài “Ngư phủ” Khuất Nguyên đã miêu tả lại cuộc trò chuyện giữa mình với

ông lão đánh cá. Lúc này Khuất Nguyên đã bị đày. Khi thấy Khuất Nguyên

lang thang trên bờ đầm, vừa đi vừa ngâm nga,sắc mặt thì tiều tuỵ, hình dung

khô héo. Ông lão đánh cá hỏi: Đấy có phải là Tam Lư đại phu không? Cớ sao

lại đến đây. Khuất Nguyên nói: “ Người đời đục cả, mình tôi trong. Người đời

say cả, mình tôi tỉnh. Cho nên bị đày”. Lão đánh cá nói:

- Bậc thánh nhân không bận lòng vì vật ngoài,

Nhưng biết xê dịch theo đời!

Người đời đục cả,

Sao không khuấy bùn lên mà khua sóng chơi?

Người đời say cả,

Sao không ăn bã thừa mà uống nước hai?

Cớ chi lại lo sầu, bay cao,

Để tấm thân đày đoạ lạc loài?

Khuất Nguyên trả lời lại với ông lão đánh cá rằng: thà gieo mình xuống

sông Tương, chôn mình trong bụng cá chứ không không để lấm thân lấm bụi

ở đời. Lão đánh cá đập mái chèo quay đi, rồi hát rằng:

Thương Lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh

Thương Lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc.

(Nước sông Thương Lang mà trong thì ta có thể giặt giãi mũ của ta

Nước sông Thương Lang mà đục thì ta có thể rửa chân ta).

Mượn điển xưa để nói lên tâm trạng của mình trong thời buổi đầy biến

động đã được các nhà thơ của chúng ta dùng khá nhiều. Không chỉ gửi gắm

tâm sự của riêng mình mà đó còn bộc lộ thái độ ứng xử để từ có có cách cư

xử đúng. Những người từng dành trọn đời mình cho nước, cho dân, sống một

cuộc đời trong sạch, không thể chịu cảnh luồn cúi ở chốn quan trường nên

đành giũ áo từ quan về với ruộng vườn. Dù sống trong cảnh nghèo nhưng họ

vẫn thấy vui. Đấy cũng là cuộc sống của Trần Quang Triều và nhiều nhà nho

khác đã chọn. Nguyễn Ức đã ghi lại nỗi lòng của Cúc Đường chủ nhân (biệt

hiệu của Trần Quang Triều) trong bài thơ cùng tên có nói đến việc “Đem dải

mũ đầy bụi ra giặt ở Thương Lương”, đã nói lên được phần nào quan niệm

“tuỳ thời mà ứng xử” của các nhà nho xưa. Bài ca Thương Lang vì thế mà

được nhiều người ca, ngâm mỗi khi nhắc đến chuyện trong đục ở đời. Trong

bài thơ “Đi thuyền trên sông” Nguyễn Trãi cũng nhắc đến dòng sông Thương

Lang

Thương Lang sông nào đó?

Kết bạn với ông chài.

Đông Hoa nhìn ngoảnh lại,

Thấy mình sạch trần ai.

Nhắc đến con sông ấy Nguyễn Trãi như muốn xóa đi, giũ sạch mọi bụi

bẩn của trần ai. Giờ đây, ông đang thả lòng mình dạo với thiên nhiên mây,

trời, sông nước, muốn kết bạn với ông chài trên dòng sông xưa để cùng ngâm

nga bài ca “Thương Lang chi thuỷ trọc hề…Thương Lang chi thuỷ trong

hề…”. Giữa lúc thế sự đảo điên, lòng người khó đoán thì “Ca khúc Thương

Lang biết trọc thanh” (Thơ chữ nôm của Nguyễn Trãi) cũng là cách để bộc lộ

lòng mình về nhân tình thế thái. Trong tập thơ “Cổ tâm bách vịnh”, tức vịnh

cảnh vật theo sử sách Trung Quốc, Lê Thánh Tông cũng dành một bài viết về

ông chài trên bến sông Thương Lang

Người bề tôi (chỉ Khuất Nguyên) bị đuổi vẫn lo cho hoạn nạn

của đất nước,

Nỗi sống, lúc biệt ly, rất sầu thảm.

Sau khi nghe hết bài ca dân gian ông chài hát,

Thì xăm xăm gieo mình xuống sông Mịch La.

(Đình ông chài)

Câu chuyện về một bề tôi trung thành, nguyện một lòng một dạ vì đất

nước nhưng không được tin dùng còn bị hất hủi, đày đọa. Thất thểu trên bờ

sông, nói với ông chài về sự tỉnh - say, về lẽ đục - trong ở đời. Sau khi nghe

xong bài dân gian ông chài hát thì Khuất Nguyên dường như không còn gì để

luyến tiếc trên cõi đời này nữa. Ông chọn cái chết cũng thật trong sạch, theo

như lời ông nói “Thà gieo mình xuống sông Tương. Gửi xác vào trong dạ cá

sông! Còn hơn để lớp bụi thế tục, Vùi lấp vẻ tinh bạch của cõi lòng” khiến ta

chạnh lòng xót thương cho một cuộc đời đầy đau thương nhưng cũng đầy

nghĩa khí.

Tiếng hát của ông chài mãi vang lên trong lòng chúng ta mỗi khi nhắc

đến chuyện đục trong ở đời, qua đó cũng tỏ rõ được thái độ ứng xử của những

bậc nho sĩ ngày xưa. Hình ảnh của Khuất Nguyên mãi toả sáng trong lòng

mỗi thi nhân. Để theo chí người xưa, họ nguyện tận trung với nước nhưng

quyết giữ tấm lòng trong sạch không lấm bùn nhơ, không hùa theo thế tục. Và

những tấm gương ấy luôn được nhiều thế hệ tiếp bước, noi theo.

Mượn xưa để nói nay thông qua những điển cố bởi tính hàm súc, cô

đọng của nó. Các thi nhân, văn nhân càng dễ bộc lộ được tâm sự của mình,

nói ra được những điều khó nói. Và đâu đó họ cũng tìm được người đồng

cảnh nên dễ cảm thông chia sẻ nỗi niềm. Không chỉ dùng điển cố mà mỗi vần

thơ, ý thơ của Khuất Nguyên cũng khơi dậy bao tâm sự cho các nhà thơ.

2.2.3. Ý thơ

Lấy một vài ý trong thơ, văn của các bậc tiền bối để gửi gắm tâm sự hay

nói điều mình muốn nói cũng là cách mà các nhà thơ vẫn thường làm. Thơ ca

Khuất Nguyên để lại dù không nhiều nhưng từng câu, từng chữ là tâm huyết

của con người đã dành trọn đời mình cho nước, cho dân. Do đó, những vần

thơ ấy luôn đồng hành với các nhà nho xưa. Niềm vui hay nỗi buồn được

Khuất Nguyên giãi bày trong thơ nay trở thành tâm sự chung của những

người cùng chí hướng. Không chỉ là tâm sự chung của những người đồng

cảnh mà đấy còn là tình cảm mà các nhà thơ của chúng ta dành cho ông.

Để nhớ đến người có tâm hồn trong sạch, nết cao, ở bùn mà lòng trong

trắng chẳng lây đen, có thể thi sáng với mặt trời, mặt trăng (Tư Mã Thiên),

các nhà thơ của chúng ta vẫn thường nhắc đến ông bằng tấm lòng thương yêu

vô hạn. Phan Huy Chú khi viết bài “Miếu thờ Tam Lư đại phu” hầu như đã

lấy lại những từ mà trước đây Khuất Nguyên hay sử dụng như “mày ngài”

(chỉ người hiền tài), “vườn lan” (ý muốn nói đến đức độ tài năng của người

hiền), “mỹ nhân” (ý muốn nói đến bậc vua chúa anh minh), “cỏ thơm” (Khuất

Nguyên thường lấy các loài hoa cỏ thơm tho để tự ví với tâm hồn cao khiết, lý

tưởng cao đẹp vì nước, vì dân của mình). Nhắc lại những từ trong thơ Khuất

Nguyên, Phan Huy Chú cũng muốn bày tỏ tình cảm của mình về một người

đức độ, tài năng. Thơ Khuất Nguyên thường nói đến chuyện tu dưỡng đạo

đức. Và hình ảnh “mặc đồ lạ”, “đeo gươm dài” được Khuất Nguyên dùng

trong thơ của mình chính là để nói đến việc tự bồi dưỡng đạo đức, nên bản

thân ông luôn mang sẵn những đức tính như ngay thẳng, trung trực khác

người. Ngay từ lúc tuổi còn trẻ, Khuất Nguyên luôn nhắc nhở mình việc ấy

“Ta thưở nhỏ ưa mặc đồ lạ hề”. Cả khi tuổi đã cao mà ý chí bồi dưỡng phẩm

chất đạo đức vẫn không sờn “Tuổi đã già mà chưa thôi”. Mượn lại ý thơ đó,

nhưng Nguyễn Du lại ngầm so sánh việc ưa “mặc đồ lạ” của Khuất Nguyên

xưa với những người ngày nay “Gần đây người ta thường thích ăn mặc lạ,

Nhưng hoa tiêu, hoa lan họ đeo khác với ông lắm?” (Qua Tương Đàm viếng

Tam Lư đại phu). Rõ ràng, qua lời lẽ trên, chúng ta cũng phần nào cảm nhận

được suy nghĩ của Nguyễn Du. Thông qua chuyện xưa mà nói đến chuyện

nay. Trước kia, Khuất Nguyên chăm chút cho bản thân mình không chỉ là

hình thức bên ngoài mà cả tâm hồn, nhân cách bên trong. Còn giờ đây chuyện

ấy lại hoàn toàn ngược lại, họ chỉ lo trau chuốt vẻ ngoài sao cho “uy nghi,

lộng lẫy”, còn tâm hồn thì ngày một khô héo. Và hình như không chỉ có

Nguyễn Du mới đề cập đến chuyện Khuất Nguyên ưa mặc đồ lạ, thích khoác

áo đẹp mà Phạm Quý Thích cũng từng nhắc đến. Từ một ý trong bài “Ly tao”,

“Chế kỵ hà dĩ vi y hề, tập phù dung dĩ vi thường” (lấy lá sen súng làm áo, kết

phù dung làm xiêm). Thực ra mượn sen, súng, phù dung làm vật trang sức bên

ngoài nhưng cái chính là Khuất Nguyên muốn nói đến việc cố gắng giữ gìn và

hoàn thiện phẩm chất đạo đức của bản thân. Từ ý nghĩa này nên khi nhìn thấy

cảnh, lũ trẻ lấy lá sen chơi đùa làm áo che thân, Phạm Quý Thích đã liên

tưởng đến những vần thơ của Khuất Nguyên mà suy ngẫm bao điều từ hình

ảnh đó.

Nước chiều thu đón ánh chiều tà,

Khách vẫn sang sảng ngâm thơ chưa ra về.

Lại cười lũ trẻ rỗi việc,

Tranh nhau tấm lá sen làm áo.

(Đi chơi thăm chùa Trấn Quốc bên hồ Tây)

Bọn trẻ ngây thơ tranh nhau tấm lá sen làm áo, đối với chúng đó chỉ là

trò chơi; còn đối với bậc thức giả thì cảnh này lại có ý nghĩa tượng trưng rất

sâu xa.

Nói về lẽ đục trong ở đời, người đời sau vẫn nhắc mãi câu thơ mà Khuất

Nguyên đã nói cách đây hơn hai nghìn năm: “Cử thế giai trọc, ngã độc thanh;

chúng nhân giai tuý, ngã độc tỉnh” (Cả đời này ai nấy đều ô trọc, riêng ta

thanh cao; tất cả đều say, riêng mình ta tỉnh táo). Vì thế, mà Khuất Nguyên

còn được gọi là người “độc tỉnh”. Phạm Nhữ Dực cho rằng hành động “tỉnh

một mình” của Khuất Nguyên là sai “Đáng chê ông bên đầm riêng tỉnh một

mình” (Tết Đoan Ngọ). Quả vậy, trong thời đại đầy rẫy bất công, phi lý như

thời đại của Khuất Nguyên thì riêng mình ta “tỉnh” không thể tồn tại, bởi

người “say” quá nhiều chúng thao túng mọi quyền bính trong tay, nên chúng

tìm mọi cách gièm pha, nói xấu để người “tỉnh” bị tiêu diệt. Dường như,

Nguyễn Du đã đồng cảm với tâm trạng của người “riêng một mình tỉnh” và

ông cũng hiểu rằng:

Nghìn xưa, ai là người thương kẻ “độc tỉnh”

Bốn phương, nơi nào ký thác tấm lòng cô trung?

(Qua Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu)

Thời nào cũng vậy chứ không riêng gì thời của Khuất Nguyên, người

ngay thẳng, thật thà, trung thành, tài giỏi thật khó có thể đi chung trên con

đường với bọn nịnh bợ, gian ác.

Chính tấm lòng của người “độc tỉnh”, một người lúc nào cũng ôm mối lo

cho nước cho dân sẽ mãi được người sau nhớ đến và tình cảm yêu thương của

mọi người dành cho ông không bao giờ phai nhạt. Cho nên, khi nói đến những

điều ưa thích, Ngô Nhân Tĩnh không ngần ngại nói:

Thích đọc Ly tao, mọi người say, riêng mình tỉnh,

Suốt đời lo cho dân cho nước.

Sông Tương ngày nay vẫn còn lưu hận,

Trời đất chẳng phụ lòng Khuất Bình.

(Nói về những điều ưa thích)

Khuất Nguyên gặp cảnh ngộ đau buồn nên lòng ông sầu não héo hon,

đến nỗi thân xác tiều tuỵ, hình dung khô héo. Thế nhưng, Nguyễn Phi Khanh

không cần rơi vào tình cảnh đau lòng như Khuất Nguyên mới oán sầu, than

trách mà chỉ nhìn thấy

Năm tàn trời rét, lòng khách dễ sinh sầu thương,

Nhà thơ hà tất phải oán trách cỏ giang li.

(Cuối mùa thu)

“Giang li” là một loại cỏ thơm. Khuất Nguyên vẫn thường mượn những

loại cỏ thơm để tự ví mình. Trong Ly tao có câu:

Hỗ Giang li dữ tịch hề,

………………………

Tích tam hậu chỉ thuần tuý hề,

Cố chúng phương chi sở tại.

(Ta choàng cỏ giang li và cỏ tịch chỉ

………………………

Xưa ba vua (Vũ, Thang, Văn) sáng suốt,

Cho nên các loài hoa thơm mọc đúng chỗ).

Cỏ giang li và cỏ tịch chỉ, những loài hoa thơm đã mọc đúng chỗ, bởi nó

đã tìm được nơi chốn tin cậy để gửi thân mình. Ở đây Khuất Nguyên muốn

nói ý nói những người tài giỏi, trung thành được các vị vua anh minh, sáng

suốt, lựa chọn tin dùng. Còn những người tài giỏi, trung thành như Khuất

Nguyên thì không biết nương tựa vào đâu, vì vua Sở mê muội chỉ tin bọn

chuyên ton hót, nịnh bợ, khéo nói những lời ngon ngọt, còn xa lánh người

hiền luôn tận trung với vua, với nước. Nhìn cảnh ngộ của mình bây giờ mà

không khỏi xót xa, đau khổ. Thế nhưng đâu cần gặp cảnh ngộ như Khuất

Nguyên mà Phi Khanh cũng âu sầu. Bởi lẽ, thiên nhiên buồn bã, ảm đạm nên

lòng người cũng âu sầu, thê lương. Và tâm trạng u buồn của con người hình

như cũng lây sang cả cảnh vật, Nguyễn Du cũng từng nói “Cảnh nào cảnh

chẳng đeo sầu, Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh vật và lòng người

dường như có mối đồng cảm lớn lao. Cho nên, Phi Khanh chỉ nhìn cảnh năm

tàn, trời đông giá rét mà lòng đã sinh sầu thương. Thật là một tâm hồn đa sầu,

đa cảm!

Con người và thơ ca của Khuất Nguyên mãi đọng lại trong tâm trí các thi

nhân Việt Nam. Họ nói đến ông và viết về ông bằng trái tim nhạy cảm, và

tình yêu thương tha thiết. Đặc biệt là những nhà thơ, nhà văn giàu tâm huyết

nguyện gắn bó đời mình với nước với dân, luôn lấy tấm gương ấy để soi mình

và tự sửa mình. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du là những nhà thơ lớn của dân tộc,

họ viết về Khuất Nguyên như muốn gửi gắm bao tâm sự riêng tây. Dường

như, họ đã tìm thấy được người bạn tri kỷ của chính mình. Do đó, tìm hiểu

thơ ca của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du trong mối tương quan với thơ ca Khuất

Nguyên là để hiểu thêm tình cảm của những bậc vĩ nhân này dành cho nhau.

Chương 3: TÁC PHẨM CỦA KHUẤT NGUYÊN TRONG

THƠ CA CỦA NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU

3.1. Hình ảnh và thơ ca của Khuất Nguyên trong thơ Nguyễn Trãi

3.1.1. Bước thăng trầm của cuộc đời Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi sinh năm Canh Thân (1380), hiệu là Ức Trai, quê gốc ở

làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh,

tỉnh Hải Dương), sau dời đến làng Ngọc Ổi, xã Sơn Nam Thượng, huyện

Thượng Phúc (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây).

Nguyễn Trãi sống vào giai đoạn lịch sử đầy biến động, từ cuối đời Trần, trải

qua đời Hồ, thời đấu tranh xâm lược cho tới đầu đời Lê. Chính thời cuộc ấy

đã hun đúc trong tâm hồn ông một ý chí kiên cường, đấu tranh đến trọn đời để

giữ vẹn lòng trung hiếu. Tấm lòng vì nước, vì dân của ông mãi được sử sách

ghi danh. Thơ văn của ông mãi được người đời ca ngợi. Thế nhưng kết thúc

cuộc đời của Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc, nhà văn hoá lớn - là nỗi

đau buồn lớn nhất trong lịch sử văn học nước nhà.

Nguyễn Trãi may mắn ra đời trong một gia đình có nhiều người tài giỏi

và cũng là con cháu thuộc dòng dõi tôn thất nhà Trần. Cha là Nguyễn Ứng

Long (tức Nguyễn Phi Khanh), nổi tiếng hay chữ, dạy học giỏi được nhiều

người kính mến, mẹ là Trần Thị Thái, con gái thứ tư của quan Tư đồ Trần

Nguyên Đán. Những tưởng số phận sẽ mỉm cười với ông vậy mà từ nhỏ

Nguyễn Trãi sớm chịu cảnh mồ côi. Thân mẫu qua đời khi ông tròn năm tuổi

(1385). Sau đó Nguyễn Trãi theo ở với ông ngoại nhưng thời gian ở với ông

không bao lâu thì ông cũng qua đời, lúc đó Nguyễn Trãi tròn mười tuổi. Từ

năm 1390, Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha và nhận được sự giáo dưỡng rất

chu đáo. Mặc dù trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn thiếu thốn, chiến tranh

liên miên, xã hội loạn li, kinh tế trì trệ vậy mà Nguyễn Trãi vẫn quyết chí học

hành mong có ngày sẽ đem tài năng của mình ra cứu đời, giúp nước. Ước

nguyện của Nguyễn Trãi cũng thành hiện thực. Năm 1400 sau khi Hồ Quý Ly

cướp ngôi nhà Trần, lập nên triều đại nhà Hồ đổi tên nước Đại Việt thành Đại

Ngu thì nhà Hồ mở khoa thi đầu tiên lựa chọn anh tài để sửa sang việc nước.

Nguyễn Trãi đi thi và đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) năm ông hai mươi tuổi. Năm

1401, Nguyễn Trãi được nhà Hồ cử giữ chức Ngự sử đài Chánh chưởng, một

cơ quan có nhiệm vụ can gián nhà vua và thanh tra quan lại. Cũng trong năm

này, thân phụ Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long đổi tên thành Nguyễn Phi

Khanh được nhà Hồ vời ra làm quan nhận chức Hàn Lâm học sĩ, kiêm Quốc

tử giám Tư nghiệp, chuyên giúp nhà vua coi việc văn từ và giáo dục. Như

vậy, hai cha con Nguyễn Trãi thuộc số những người ra làm quan với nhà Hồ

ngay từ đầu, chắc hẳn họ phải có con mắt tin đời và nhận thấy được tài kinh

bang tế thế của Hồ Quý Ly. Nên họ hy vọng sẽ giúp nhà Hồ gây dựng nghiệp

lớn và mong muốn dốc hết tâm sức của mình lo cho nước, cho dân.

Thế nhưng, triều đại nhà Hồ tồn tại không bao lâu, hai cha con Hồ Quý

Ly, Hồ Hán Thương không phải là những nhân vật của thời cuộc. Bọn quan

lại nịnh thần vì chút quyền lợi riêng tư mà bán nước cầu vinh. Nước nhà đành

phải rơi vào tay giặc sau bảy năm trị vì của nhà Hồ. Cũng vì thời thế nên hai

cha con Nguyễn Trãi không thể thỏa được ước nguyện là phò vua, giúp nước,

an dân. Năm 1407 cũng là năm đầy sóng gió của nhà Hồ, vua tôi đều bị giặc

bắt giam đem về Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi

muốn giữ trọn đạo hiếu bèn đi theo cha, nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên

con nên “tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù nhà cho cha thì mới là đại

hiếu”. Lời khuyên ấy có tác dụng vô cùng to lớn giúp Nguyễn Trãi nhận ra

được sứ mệnh của mình là muốn cứu cha, cứu nước phải tìm con đường khác

để giữ vẹn lòng trung hiếu. Cũng chính vì lẽ đó mà người đời sau tôn vinh

ông không chỉ lòng hiếu thảo của ông đối với cha mà công lao của Nguyễn

Trãi đối với dân tộc ta vô cùng to lớn đó là “người có công Bình Ngô khai

quốc, giành lại giang sơn, mở nền thịnh trị, chấn hưng văn hoá dân tộc” [47;

tr. 7].

Lời cha dặn vẫn còn vang vọng, Nguyễn Trãi đành trở về quê tìm cách

cứu cha, cứu nước. Trên đường trở về thì ông bị giặc Minh bắt đem giam lỏng

ở thành Đông Quan (Hà Nội). Biết ông là người tài cao, học rộng, chúng bèn

tìm cách mua chuộc, dụ dỗ ông ra làm quan cho nhà Minh, thậm chí chúng

còn đe dọa nhưng ông dứt khoát không chịu làm tay sai cho giặc. Được sự

giúp đỡ của một số người, Nguyễn Trãi trốn khỏi thành. Thời gian bị bắt giam

ở thành là khoảng thời gian thật sự có ý nghĩa đối với ông bởi nó giúp ông

chiêm nghiệm được cuộc đời, hiểu rõ nỗi thống khổ của nhân dân trong cảnh

nước mất nhà tan, dân tình li tán và phần nào cũng giúp ông cân nhắc được

chữ “thời” trong việc lựa chọn cho mình một con đường đi tìm chân lý và

mong sớm tìm được vị minh quân để phò tá.

Vị minh quân ấy là ai? Câu hỏi vẫn luôn hiện hữu trong tâm trí ông bởi

lẽ khi đất nước lâm nguy rất cần một người đủ đức, đủ tài gánh vác giang sơn

cứu lấy thiên hạ. Nguyễn Trãi cũng đã nghe nói đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

do Lê Lợi lãnh đạo. Phải chăng đây là vị chân chúa của thời đại? Thật không

thể nói hết được bao nỗi băn khoăn, dằn vặt trong lòng Nguyễn Trãi. Đã một

lần tin vào nhà Hồ, nhưng nhà Hồ thất bại. Nguyễn Trãi như con chim bị bắn

hụt, sợ cành cây cong không dám thổ lộ lòng mình, phơi bày tâm tình của

mình. Sự thất bại mà một lần ông nếm trải qua cũng đủ đau suốt cả một đời

nhưng biết vực dậy, vươn lên mới thể hiện được chí làm trai của một người

luôn nặng gánh thù nhà nợ nước.

Khoảng từ năm 1416 - 1418 Nguyễn Trãi đã đến với Lê Lợi, với cuộc

khởi nghĩa Lam Sơn. Dường như Nguyễn Trãi đã thực sự tìm được cho mình

vị chân chúa đúng với những gì ông ao ước. Cũng trong thời gian này Nguyễn

Trãi dâng Bình Ngô sách cho Lê Lợi. Theo Ngô Thế Vinh thì phương châm

cơ bản nêu trong đó là “không nói đánh thành mà giỏi bàn về cách đánh

lòng” (tựa sách Ức Trai thi văn tập) [29; tr. 216]. Trong suốt thời gian kháng

chiến, Nguyễn Trãi đã trở thành vị quân sư xuất sắc giúp Lê Lợi chiến lược,

chiến thuật và chuyên việc soạn thảo công văn, thư từ địch vận. Cuộc kháng

chiến chống quân Minh kéo dài suốt mười năm ròng rã, nhân dân ta đã phải

đổ bao xương máu để bảo vệ nền độc lập của nước nhà. Chiến tranh kết thúc

với bao nỗi đau thương bởi quân giặc tàn bạo, chúng không những muốn xâm

chiếm nước ta mà còn muốn đồng hoá dân ta. Năm 1428, vâng lệnh vua,

Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo, áng “thiên cổ hùng văn”, như bản tuyên

ngôn độc lập của nước nhà, mở ra một trang sử mới cho dân tộc.

Bóng giặc không còn trên đất nước, vua tôi cùng chung tay góp sức xây

dựng nước nhà giàu mạnh. Lê Lợi lên ngôi hoàng đế và ban thưởng cho các

công thần. Nguyễn Trãi cũng được xếp vào hàng khai quốc công thần và

phong ông làm Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư,

kiêm Hành khu mật viện sử. Trong công cuộc xây dựng đất nước vừa được

giải phóng, Nguyễn Trãi đã có nhiều đóng góp to lớn, giúp vua rất nhiều việc.

Ông còn thay vua viết nhiều chiếu chỉ để dạy bảo thái tử, khuyên răn các

quan, cầu hiền tài…và thư từ ngoại giao với phương Bắc, góp phần đắc lực

trong việc xây dựng nhà nước phong kiến.

Sau năm 1428, triều đình phong kiến nhà Lê vừa thiết lập rơi vào khủng

hoảng. Vua tôi không đồng lòng, nhiều mâu thuẫn trong nội bộ diễn ra.

Những người ngay thẳng thật khó mà trụ nổi trong sự đảo điên của thời cuộc.

Thật đau lòng thay! Có ai thấu hiểu cho sự đời đầy ngang trái, bài viết “Bình

Ngô đại cáo mới ngày nào còn chưa ráo mực mà Tả tướng quốc Trần Nguyên

Hãn trầm mình, Thái uý Phạm Văn Xảo chết chém, Quan phục hầu Nguyễn

Trãi vào tù. Có phải đấy là cái giá mà những người hết lòng vì dân, vì nước

phải trả chăng? Những người một lòng một dạ phò vua, giúp nước, an dân

phải gánh chịu chăng? Đã bao đời nay, biết bao tấm gương sáng của các vị tôi

trung, sau khi giành lại giang san, khôi phục đất nước đều chịu cảnh máu

chảy, đầu rơi hoặc lìa xa xứ sở quê hương.Chính bởi vậy mà Khuất Nguyên

xưa cũng từng nói:

Người trung đã chắc gì được dùng hề,

Người hiền đã chắc gì ai cầu.

Người xưa mà còn như thế ,

Ta còn oán gì người sau.

(Thiệp giang)

Lẽ đời là vậy, biết oán trách ai đây! Sách lược “tâm công” trước kia

Nguyễn Trãi áp dụng đối với quân thù có tác dụng to lớn khiến chúng phải rút

lui nhưng giờ đây hai chữ “tâm công” sao khó thực hiện quá chừng! Mâu

thuẫn trong nội bộ càng lúc càng gay gắt, sự tranh chấp càng lúc càng quyết

liệt khiến cho lý tưởng nhân nghĩa mà ông ấp ủ bấy lâu có nguy cơ bị vùi dập

và hơn thế nữa chính ông còn là nạn nhân của sự tranh chấp ấy. Và trong tình

hình lòng người tráo trở, đổi trắng thay đen thì khát vọng về một đất nước vua

sáng, tôi hiền, nhất là “trong thôn cùng xóm vắng không có tiếng hờn giận

oán sầu” của Ức Trai tiên sinh luôn canh cánh bên lòng. Có thể bài thơ Quốc

âm số 9 trong mục Bảo kính cảnh giới đã phần nào khái quát được sự đảo

điên của lòng người trong thời đại Nguyễn Trãi

Trần trần mựa cậy những ta lành,

Hoạ phúc tình cờ xảy chửa đành.

Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,

Lòng người quanh nữa nước non quanh.

(Bảo kính cảnh giới)

Giờ đây chốn quan trường không còn là nơi để ông bộc lộ hết tài năng

“kinh bang tế thế” của mình và ông cũng không có cơ hội để thực hiện ước

mơ hoài bão của mình. Tấm lòng “ưu quốc, ái dân” của tiên sinh chỉ còn biết

giấu kín tận đáy lòng. Dù trở về Côn Sơn sống cuộc đời thanh bạch giữa chốn

núi non , làm bạn với cỏ cây hoa lá nhưng ông vẫn nặng lòng với nước, với

dân.

Đến khi Lê Thái Tông đã trưởng thành, thấu rõ mọi lẽ đời, nhà vua đã

kiên quyết phế trừ bọn quyền thần Lê Sát, Lê Ngân và cho vời Nguyễn Trãi

về triều, phục hồi các chức tước, giao thêm nhiệm vụ mới. Nguyễn Trãi hăm

hở trở lại triều gánh vác việc đời ở cái tuổi sáu mươi nhưng bầu nhiệt huyết

vẫn như thời niên thiếu. Trong bài biểu tạ ơn dâng lên vua Lê Thái Tông, với

lời lẽ vô cùng xúc động càng khiến ta thêm ngẹn ngào bởi tấm lòng của Ức

Trai tiên sinh dẫu “tóc đã bạc” mà “lòng vẫn son”

“Thương thần như ngựa đến tuổi già, còn kham rong ruổi; nghĩ

thần như thông qua năm rét, càng dạn tuyết sương”

(Biểu tạ của Gián nghị Đại phu kiêm Tri tam quán sự)

Thời gian làm quan dưới triều Lê của Nguyễn Trãi không nhiều, nhưng

đây là khoảng thời gian mà ông tâm đắc nhất vì những sở chí của ông phần

nào được thi thố.

Khốn nỗi thay sự đời ngang trái, éo le. Sau bao nhiêu năm tận lực vì dân,

vì nước, như chúng ta đã biết một kết quả thảm khốc đã đến với nhà thơ,

Nguyễn Trãi bị ghép vào tội “tru di tam tộc” với oan án Lệ Chi Viên. Tâm

huyết xây dựng nước nhà vững bền, giàu đẹp, dân chúng ấm no hạnh phúc lại

một lần nữa đành dang dở. Ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất, tức ngày 19

tháng 9 năm 1442 vị quan thanh liêm đã từ giã cõi đời. Cái chết của ông được

lịch sử phong kiến giải thích bằng một tiếng “oan” đã để lại ngàn nỗi tiếc

thương cho hậu thế và cho chính triều đại nhà Lê. Nguyễn Trãi ra đi cùng một

phong cách như Khuất Nguyên xưa:

Thánh hiền xưa cũng như ta,

Thẳng ngay mà chết ấy là chết trong.

(Ly tao)

3.1.2. Quan điểm xử thế của Khuất Nguyên và Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi ra đời cách Khuất Nguyên hơn mười lăm thế kỉ, nhưng giữa

họ có mối đồng cảm sâu xa. Tấm lòng trung trinh đối với nước, với vua

không được đáp đền mà còn bị ghen ghét, hãm hại. Họ sống không chỉ cho

riêng mình mà cho tất cả mọi người. Suốt cuộc đời chỉ có một ước nguyện là

dân giàu đủ, nước bình yên. Thế nhưng, bao lý tưởng tốt đẹp đều không được

toại nguyện. Và càng đau lòng biết bao khi họ phải tận mắt chứng kiến cảnh

nước nhà dần rơi vào bế tắt. Muốn cứu vớt, níu kéo lại thì một mình không

thể gánh vác nổi và cũng không thể làm cho nước nhà phồn vinh nếu còn đó

lắm kẻ nịnh hót, bợ đỡ, chỉ biết xúi giục, gièm pha. Thật là “lực bất tòng

tâm”, họ chỉ còn biết ôm sầu nuốt tủi mà thôi.

Không những là nhà chính trị lỗi lạc, nhà quân sự tài ba, Nguyễn Trãi và

Khuất Nguyên đều là những nhà thơ vĩ đại. Qua những vần thơ chan chứa

tình cảm chúng ta càng thấu hiểu cho những nhân cách lớn suốt một đời

nguyện gắn bó với nước, với dân.

Cũng như Khuất Nguyên xưa, Nguyễn Trãi luôn tâm nguyện một điều là

cống hiến hết mình vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Dường như, mọi tâm

sự ông đều gởi gắm qua thơ. Thơ Nguyễn Trãi luôn chất chứa một nỗi niềm

suy tư dằn vặt, một sự lo âu đến khó tả, một nỗi thao thức khôn cùng…Có lẽ,

vì tấm lòng yêu nước thương dân của ông mà lúc nào cũng ôm “tấm lòng tiên

ưu” (lo trước cái lo thiên hạ). Không chỉ có vậy, Nguyễn Trãi mang trong

mình nhiều tâm trạng, lúc muốn dấn thân cống hiến hết mình nhưng cũng có

lúc ta lại bắt gặp ở ông một sự thở dài ngao ngán khi thấy mình bất lực trước

những thế lực tối tăm đang ngự trị trong xã hội. Sự ngao ngán ấy không chỉ có

ở Nguyễn Trãi mà dường như đó là nỗi ngao ngán chung của những vị quan

thanh liêm, trung thành, cúc cung tận tụy phục vụ cho vua, cho nước, cho dân

nhưng kết quả nhận được chỉ là nỗi xót xa đến nao lòng. Có lẽ, sự gặp gỡ lớn

nhất giữa Khuất Nguyên và Nguyễn Trãi chính là sự dấn thân vì nước, vì dân

đến quên bản thân mình.

Xưa kia, Khuất Nguyên vì trung thành mà nguyện gắn bó đời mình với

nước Sở thân yêu, dẫu có chết cũng không xa lìa quê hương xứ sở. Cho dù

không được vua Sở tin yêu, ông cũng không nản chí vẫn trông chờ sẽ có ngày

vua hiểu lòng mình mà trọng dụng tài năng. Thế đấy, tấm lòng của Linh Quân

mãi ngàn đời sau vẫn được các thế hệ nhà nho tiếp bước. Do đó, cách cư xử

với đời của Khuất Nguyên đã ảnh hưởng sâu đậm đến bao thế hệ nhà nho Việt

Nam. Một lòng vì giang sơn xã tắc, không vì lợi ích của bản thân mà quên đi

nghĩa lớn. Khuất Nguyên luôn đấu tranh đến cùng để bảo vệ lý tưởng tốt đẹp.

Bao lời súc siểm, gièm pha ông đều bỏ qua chỉ mong sao vua đừng nghe lời lẽ

ton hót, nịnh bợ ấy. Thế nhưng, sự đời không như ông mong muốn. Do đó,

đọc thơ Khuất Nguyên ta có cảm giác lời thơ sao nghẹn ngào, nức nở, nỗi

buồn như trải ra trên trang giấy

Nức nở khóc lo buồn đầy dạ

Tủi cho thân sinh đã lỗi thời !

Gạt sầu bức cánh huệ tươi…

Áo khăn lã chã lệ rơi ước đầm !

(Ly Tao)

Khuất Nguyên không thể kìm nén được nỗi buồn, nỗi sầu, càng không

thể giấu được tiếng khóc "nức nở" để "lệ rơi ướt đầm". Giọt nước mắt của ông

thấm mãi đến muôn đời sau. Tấm lòng trung quân của Tam lư vẫn còn vằng

vặc: “Trước thiết vua sau mới đến thân”, hay “Thờ vua một dạ chuyên cần

dám sai”, hay “Ngoài vua không biết có ai” (Tích tụng). Ấy thế mà làm nên

tội, ông thản thốt kêu lên “Trung ngay mà có lỗi, lạ chưa !” (Tích tụng). Để

rồi từ đó ông rút ra kết luận thật phũ phàng “Thương vua, nhưng chớ cậy vua

thương !”(Tích tụng). Chính vì vậy mà hoài bão lớn lao của Khuất Nguyên đã

tan biến, khát vọng xây dựng nước nhà phồn vinh giờ đành phải kí thác lại

cho thế hệ sau chứ một mình ông thể thực hiện.

Cũng là người chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng nho giáo, Nguyễn Trãi

cũng chọn cho mình một hướng đi riêng và đấu tranh không ngừng nghỉ dù

trong bất cứ hoàn cảnh nào. Thuộc dòng dõi tôn thất nhà Trần nhưng lớn lên

cũng là lúc triều đại nhà Trần rơi vào cảnh suy vong. Nguyễn Trãi ra làm

quan cho nhà Hồ khi tuổi đời tròn hai mươi. Lúc nhà Hồ rơi vào tay giặc,

quan quân bị bắt hoặc chết Nguyễn Trãi không chọn con đường “tuẫn tiết” để

trọn lẽ bề tôi mà ông tìm cách cứu nước, đồng thời cứu cha để giữ vẹn lòng

trung hiếu. Nhà Hồ mất, Nguyễn Trãi âm thầm tìm vị chân chúa để phò tá.

Dưới mắt nhà tư tưởng vĩ đại thì không có ngọn cờ nào thay thế ngọn cờ của

nghĩa quân Lam Sơn. Và đây chính là nơi ông gửi thân mình, nguyện đem tài

sức của mình mà cứu đời giúp nước. Hơn bao giờ hết, ông đã tìm được cho

mình một đấng minh quân để phò tá giúp sức và cũng chính là để thỏa được

ước nguyện bấy lâu. Nỗi niềm “ưu quốc ái dân” luôn hiện hữu trong tâm hồn

thi nhân, chẳng lúc nào nguôi ngoai, cứ thao thức mãi chẳng thể nào chợp mắt

được, hình như cái “thao thức” ấy là nét chủ đạo quán xuyến hầu hết trong thơ

ông:

Bình sinh độc bão tiên ưu niệm,

Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên.

(Bình sinh riêng ôm tấm lòng tiên ưu,

Ngồi quàng một mảnh chăn lạnh thâu đêm không chợp mắt)

(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm, 2)

Hay

Còn có một lòng âu việc nước,

Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung.

(Thuật hứng, 23)

Chính nỗi đau buồn, lo lắng vì con người và cuộc sống khiến mọi ưu tư

cứ mãi cuồn cuộn trong lòng Ức trai:

Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

(Thuật hứng, 5)

Con người của Nguyễn Trãi là như vậy đấy! Ông làm quan cũng chỉ vì

nhân dân vì đất nước chứ đâu vì quyền lực hay vì danh lợi cá nhân. Trong bài

thơ Trần tình số 5, Nguyễn Trãi đã phân định rạch ròi giữa “giang sơn” và

“danh lợi”, qua đó ta càng hiểu hơn phẩm chất của Ức trai, trái tim ông như

đang thổn thức cùng với xã tắc non sông còn danh lợi thì ông nào có “ước”,

có “cầu”:

Giang sơn mặt thấy nên quen thuộc,

Danh lợi lòng nào ước chác cầu.

(Trần tình, 5)

Noi gương các bậc tiền bối xưa, tấm lòng dành cho nước cho dân của

Nguyễn Trãi mãi trung trinh, son sắt.

Thế nhưng, thói đời đen bạc xưa nay vẫn vậy Khuất Nguyên xưa từng

thốt lên rằng:

Người trung đã chắc gì được dùng hề,

Người hiền đã chắc gì ai cầu...

(Thiệp giang)

Điều bất di bất dịch này có tự ngàn đời xưa, không thể oán trách. Dù có

oán than cũng không thể xoay chuyển tình thế. Dường như có một điều ai

cũng thấu rõ lúc đất nước lâm nguy thì vua sáng tôi hiền gặp nhau như cá gặp

nước, chim gặp trời vậy. Còn khi nước nhà thanh bình thì xung đột mâu thuẫn

lại nảy sinh giữa nhà nho liêm khiết chân chính với chế độ quân chủ chuyên

chế. Giờ đây vua sáng tôi hiền gặp nhau sao khó biết bao!. Sử gia Ngô Sĩ Liên

đã rút ra kết luận cho cuộc xung đột này như sau: “Người hiền được dùng ở

đời, thường lo người làm vua không thi hành những điều sở học của mình.

Người làm vua sử dụng người hiền thường lo người hiền không theo ý muốn

của mình…cho nên vua sáng tôi hiền gặp nhau từ xưa vẫn là rất khó” [chuyển

dẫn 61; tr. 54]. Nguyễn Trãi chắc cũng không nằm ngoài quy luật đó. Khi tìm

được cho mình một vị minh chúa để theo phò giúp trong lúc đất nước lâm

nguy Nguyễn Trãi đã vui mừng xiết bao. Ông hồ hởi dốc hết sức lực và tài

năng của mình mà phụng sự. Những tưởng với vị vua mới này ông sẽ thỏa

được ước nguyện “ song, như mọi người đã rõ, những quy luật muôn đời của

chế độ quân chủ chuyên chế đã không để cho Lê Lợi đứng ngoài quỹ đạo của

chúng. Nhà nhân đạo cao cả, vị tướng lĩnh tài ba của thời chiến tranh cũng bị

cuốn vào vòng xoáy của quyền lực, địa vị, hưởng thụ, do đó phải gạt bỏ tất cả

các trở lực hữu hình ngăn cản cho bước tiến tới các mục tiêu này” [61; tr.

51]. Biết bao câu chuyện về những ông vua “được chim bẻ ná, được cá quăng

nơm” còn sờ sờ ra đấy, thế nên làm xong nhiệm vụ họ muốn noi gương các

bậc công thần xưa có thể như Phạm Lãi rong chơi ngũ hồ hay như Trương

Lương không thèm nhận chức quan, đi tu tiên. Và trong lịch sử, chúng ta còn

chứng kiến nhiều thế hệ nhà nho để bảo vệ phẩm chất, khí tiết của mình họ

chấp nhận cái chết để kết thúc tấn bi kịch. Đó là những Bá Di, Thúc Tề, là

Khuất Nguyên. Nguyễn Trãi không thể tìm lối thoát cho riêng mình như các

nhà nho xưa, ông không thể lánh đời vì lòng ông còn nặng với nước, với dân.

Dẫu có lúc ông cũng cảm thấy ghê sợ “thế tục”, “Cõi tục ghê lòng như trâu

suyễn khi thấy trăng lên” (Mạn hứng). Cho nên ông muốn quay tìm về với

thiên nhiên cao khiết để bảo vệ phẩm chất trong sạch. Trước đây, Khuất

Nguyên từng đương đầu với biết bao thế lực đen tối để giữ gìn phẩm chất đạo

đức của mình. Thì nay, Nguyễn Trãi sống giữa bọn quyền thần gian ác, tấm

lòng son sắt của ông càng rực đỏ như ngọn lửa thuỷ ngân trong lò:

Nhất phiến đan tâm chân hống hoả,

Thập niên thanh chức ngọc hồ băng.

(Một tấm lòng son nung nấu ngọn lửa luyện đơn bằng thuỷ ngân,

Mười năm chức quan thanh đạm như băng giá đựng trong bình ngọc)

(Mạn hứng, 2)

Có thể nói, Nguyễn Trãi giữ vững lòng son cũng bởi vì đạo nghĩa mà

ông hằng theo đuổi. Đạo nghĩa ấy chính là lòng “trung hiếu”:

Trung hiếu cương thường lòng đỏ

(Bảo kính cảnh giới, 60)

Bui có một lòng trung mấy hiếu,

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.

(Thuật hứng, 24)

Và lòng trung hiếu ấy không gì khác ngoài tấm lòng nhớ nước, thương

dân của nhà thơ.

Lời thơ thật tha thiết, chân thành. Những vần thơ ấy được Nguyễn Trãi

viết ra bằng cả nỗi lòng của mình và càng chứng minh cho tấm lòng thanh

cao, trong sạch của nhà thơ. Kháng chiến thành công, những tưởng con người

giàu lòng nhiệt huyết với nước với dân sẽ được trổ hết tài năng để xây dựng

nước nhà ngày một ấm no giàu mạnh. Thế nhưng, con người một lòng một dạ

vì nước vì dân, dành tâm huyết cả đời để tạo dựng cơ nghiệp giờ đây đành

phải ngậm ngùi mà rút lui khỏi chốn quan trường trở về tìm cái thú sống cô

độc, ngắm bóng mình và hoài niệm với chính mình. Việc rút lui của Nguyễn

Trãi không hẳn là những va chạm ngấm ngầm giữa ông với một số người

trong tầng lớp thống trị mà bởi nơi ấy không có chỗ dung thân cho một người

như Nguyễn Trãi. Do vậy mà mỗi lần đọc thơ Nguyễn Trãi làm ta lại liên

tưởng đến Khuất Nguyên. Cũng bởi tấm lòng lúc nào cũng hướng về quê

hương đất nước nên nhà ái quốc vĩ đại này không đành bỏ xứ sở ra đi dù bọn

gian thần ghen ghét, Sở Hoài Vương đuổi đi. Giờ chỉ còn biết mượn rồng

gióng phượng đi ngao du cùng trời cuối đất. Thế nhưng, ông biết đi đâu bây

giờ khi nỗi buồn đang vây kín trong lòng. Quay trở về chốn cũ thì không thể

bởi nơi đó không có chỗ cho người trung, người hiền. Cả hai đều là những

bậc công thần, từng có những cống hiến to lớn cho công cuộc xây dựng đất

nước vậy mà giờ đây lại không còn chỗ để dung thân. Thật quá phũ phàng!

Khuất Nguyên chỉ còn biết ôm hận mà trầm mình trên sông Mịch La vào giữa

tiết Đoan ngọ. Nguyễn Trãi không đi theo con đường của Khuất Nguyên xưa

mà ông đã tìm một lối thoát khác, một cách ứng xử khác là trở về với thiên

nhiên. Đó cũng chính là phương thức ứng xử mà xưa kia Đào Tiềm đã chọn.

Khuất Nguyên và Nguyễn Trãi là những con người nặng lòng với nước

với dân. Họ cố gắng đem hết tài năng của mình để phục vụ đất nước, nhân

dân và kiên trì theo đuổi lý tưởng mà mình đặt ra. Nhưng cái lý tưởng mà

Khuất Nguyên theo đuổi chỉ bó hẹp trong tư tưởng trung quân, tận tâm với

vua Sở mà lại bị vua Sở bỏ rơi, xua đuổi. Vì thế mà trên con đường đấu tranh

của ông hết sức đơn độc, ông chiến đấu có một mình mà không tìm thấy sức

mạnh của nhân dân. Giải thích cho điều này GS Trần Xuân Đề đã viết “là nhà

thơ của những hơn hai nghìn năm về trước, lại xuất thân trong một gia đình

quí tộc cùng dòng họ với vua Sở, Khuất Nguyên không thể không mang theo

những hạn chế của thời đại và của giai cấp mình” [14; tr. 58]. Quả thực,

Khuất Nguyên đặt quá nhiều hi vọng vào vua Sở nên khi không đạt được kết

quả như mong đợi thì sự hụt hẫng càng tăng thêm gấp bội và chọn cho mình

một lối thoát không gì khác là theo Bành Hàm để bảo tròn khí tiết là điều tất

yếu. Nguyễn Trãi ra đời sau Khuất Nguyên hàng mấy thế kỷ nên quan niệm

về lòng trung quân cũng có phần thay đổi. Trước đây, Khuất Nguyên không

thấy được sức mạnh của quần chúng nhân dân thì giờ đây Nguyễn Trãi hiểu

rằng “dân như nước, dân có thể đẩy thuyền mà cũng có thể lật thuyền”, sức

mạnh ấy ẩn sâu bên trong chứ không bộc lộ ra bên ngoài. Do đó mà lý tưởng

Nguyễn Trãi luôn theo đuổi là lý tưởng thân dân. Chính vì thế mà trong cuộc

đấu tranh chống quân Minh xâm lược Nguyễn Trãi từng nhắc đến những con

người làm nên việc lớn, nhân dân đồng lòng dựng cờ khởi nghĩa “Nhân dân

bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới” (Bình Ngô đại cáo), tướng

sĩ một lòng cùng chiến đấu để đưa đất nước bước sang trang sử mới “Tướng sĩ

một lòng phụ tử, hòa nước sông uống chén rượu ngọt ngào” (Bình Ngô đại

cáo). Không chỉ thấy vai trò quan trọng của nhân dân mà Nguyễn Trãi còn

băn khoăn, thao thức vì dân. Nặng lòng với dân, thương yêu dân cũng là tư

tưởng chủ đạo trong thơ Nguyễn Trãi. Niềm mơ ước của Ức Trai tiên sinh

thưở nào “sao cho trong thôn cùng cùng xóm vắng không có tiếng hờn giận

oán sầu” thật khó thực hiện biết bao! Theo đuổi lý tưởng nhưng khi lý tưởng

ấy không thể thực hiện và cái chết thảm khốc của Nguyễn Trãi thường được

quan niệm như một bi kịch, thực chất là cái chết của của một người anh hùng

đấu tranh và xả thân vì lý tưởng của mình [chuyển dẫn 32; tr. 84]. Quả thực,

cái lý tưởng cao đẹp mà Khuất Nguyên cố theo đuổi giờ đành dang dở, ông đã

chọn một lối đi riêng để tấm lòng kia không vướng bụi trần, có thể sánh với

mặt trời, mặt trăng vậy!. Cũng như Khuất Nguyên, Nguyễn Trãi chỉ có thể ra

đi, cùng trời cuối đất, còn nếu muốn quay trở lại chốn quan trường đầy hiểm

ác thì tính mạng thật khó bảo toàn. Và điều đau lòng nhất cũng đã xảy ra, đấy

cũng chính là bi kịch lớn nhất trong lịch sử nước nhà, Nguyễn Trãi bị kết án

“tru di tam tộc”. Dẫu không tìm cách tuẫn tiết như Khuất Nguyên để giữ tấm

thân trong sạch nhưng “cái chết oan khốc của nhà thơ vẫn không làm sút giảm

tấm lòng son sắt trước sau như một của Ức Trai. Thơ văn ông, sau bao nhiêu

sóng gió của bao nhiêu thời đại, vẫn ngời chói lên tấm lòng cao cả ấy. Nghĩa

lớn mà nhà thơ ôm ấp suốt đời đối với dân với nước, cho đến nay vẫn “bền

như đá vàng”, sâu nặng và dai dẳng như lòng người nhớ thơ Nguyễn Trãi”.

3.2. Hình ảnh và thơ ca của Khuất Nguyên trong thơ Nguyễn Du

3.2.1. Cuộc đời của con người “tài hoa bạc mệnh”

Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu,

niên hiệu Cảnh Hưng, theo tính toán thì ông sinh năm 1765. Quê ở làng Tiên

Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du ra đời trong một gia đình

đại quý tộc, “là dòng dõi một nhà thế phiệt trâm anh đệ nhất trong nước lúc

bấy giờ” [22; tr. 21]. Dân gian vùng Tiên Điền, Nghi Xuân có câu hát:

“Bao giờ ngàn Hống hết cây,

Sông Rum hết nước, họ này hết quan”

là ý chỉ vào họ Nguyễn Du. Bởi lẽ, dòng họ này có nhiều người đỗ đại khoa

và làm quan to. Trước tiên phải kể đến thân phụ ông - Nguyễn Nghiễm- làm

đến chức Thượng thư bộ Lại, phong tước Quận công đời Lê - Trịnh, sau lại

được giữ chức Nhập thị tham tụng. Nguyễn Khản, anh của Nguyễn Du được

bổ chức Thập nhị bồi tụng, rồi từng giữ chức Tả thị lang bộ Hình kiêm Hiệp

trấn xứ Sơn Tây…, gia đình này không chỉ có truyền thống làm quan mà còn

có nhiều người viết sách, làm văn, nghĩa là một gia đình có truyền thống về

văn học. Nguyễn Quỳnh, ông nội Nguyễn Du là một nhà triết học chuyên

nghiên cứu Kinh Dịch. Nguyễn Nghiễm, một sử gia, đồng thời là một nhà thơ.

Nguyễn Khản giỏi thơ Nôm, hay làm thơ đối đáp với Trịnh Sâm. Rồi Nguyễn

Đề, anh cùng mẹ với Nguyễn Du, Nguyễn Thiện, cháu gọi Nguyễn Du bằng

chú ruột, Nguyễn Hành, em ruột Nguyễn Thiện đều là nhà thơ, nhà văn nổi

tiếng cả…( 37; tr. 299).

Mẹ Nguyễn Du là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, tên là Trần Thị Tần,

con gái của một người thuộc hạ làm chức câu kê, người xã Hoa Thiều, huyện

Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Bà sinh năm

1740, trẻ hơn chồng ba mươi hai tuổi. Vốn xuất thân trong một gia đình bình

thường nhưng lại làm lẽ một ông quan to trong triều chắc hẳn bà phải có chút

nhan sắc và giỏi nghề ca xướng. Không có tài liệu nào ghi chép, nhưng chắc

chắn trong những năm ấu thơ Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng nhiều từ mẹ.

Những năm tháng tuổi thơ, Nguyễn Du được sống trong cảnh nhung lụa,

giàu sang, xa hoa phú quý. Nguyễn Hành, cháu Nguyễn Du trong bài “Đồng

Xuân ngụ kí” có ghi lại cảnh sống của gia đình Nguyễn Du lúc bấy giờ: “Nhớ

lại cảnh phú quý khi trước, nhà tôi một ông hai chú dự vào trong chính phủ,

ơn nước dồi dào, các nơi trong thành Bích Câu lâu đài san sát, những người

xe ngựa võng lọng hàng ngày chầu chực ở trước cửa. Trong nhà, hạng người

nô bộc cũng được ăn thịt, mặc áo gấm. Tôi sinh sau đẻ muộn vẫn còn kịp

trông thấy cảnh tượng ấy”( chuyển dẫn 37; tr. 299). Cuộc đời Nguyễn Du

tưởng chừng như suôn sẻ, nhưng biến cố của gia đình lại xảy ra khi Nguyễn

Du còn thơ dại. Mười tuổi mất cha, mười ba tuổi mất mẹ. Bóng tối của cuộc

đời đã bao trùm lên đầu nhà thơ khi tuổi đời còn non trẻ. Vậy là, nhà thơ của

chúng ta sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ. Không biết nương tựa vào đâu trong khi

các anh em cùng mẹ với Nguyễn Du còn quá nhỏ, do đó ông đành phải ở với

người anh khác mẹ là Nguyễn Khản, Nguyễn Khản hơn ông 31 tuổi. Và

những năm tháng sống chung với người anh sớm đỗ đạt, làm quan to trong

triều, lại là một con người tài hoa “phong lưu” rất mực, đã có những ảnh

hưởng rất lớn đến Nguyễn Du sau này. Cách sống hào hoa của Nguyễn Khản

đã được Phạm Đình Hổ, tác giả cuốn Vũ trung tuỳ bút, chép rất kĩ trong bài

Họ Nguyễn Tiên Điền.

“Ông Nguyễn Khản ham thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở, cũng

cứ cho nó tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ tiếng trúc. Khi ông có tang

quan Tư đồ (tức Nguyễn Nghiễm), ngày rỗi cũng vẫn cứ sai con hát đồ khúc

gọi là “ngâm thơ Nôm”. Bọn con em họ quý thích đều bắt chước chơi bời,

hầu như thành thói quen”(chuyển dẫn 17; tr. 98).

Sống trong hoàn cảnh như vậy nên cũng giải thích được phần nào nỗi

lòng trắc ẩn của nhà thơ đối với phụ nữ nói chung, và đối với ca kĩ nói riêng.

Số phận của người đàn bà trong xã hội cũ sao mà xót xa, phũ phàng đến như

vậy. Vì có chút nhan sắc hay có giọng hát hay mà họ phải đem nhan sắc tài

hoa của mình để mua vui làm trò chơi cho thiên hạ. Cái cảnh ấy đập vào trong

tâm trí nhà thơ cũng như sau này có dịp chứng kiến thêm nhiều cảnh tượng

bất công ngang trái cho những kiếp người “tài hoa” nhưng “bạc mệnh”.Cho

nên, ta không lấy làm lạ trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du viết về những

người phụ nữ với biết bao mối đồng cảm sâu xa. Cũng chính vì vậy mà câu

“Đau đớn thay phận đàn bà” cứ trở đi trở lại như một điệp khúc trong thơ ông.

Cuộc sống của Nguyễn Du khi ở với anh cũng chẳng được yên ổn bao lâu vì

trong thời gian này gia đình của người anh cũng bắt xuống dốc. Nhiều biến cố

xảy ra, một trong những sự kiện diễn ra trong thời điểm ấy là vụ án Canh Tí,

Trịnh Sâm lập Cán thay Tông làm thế tử, Khản định giúp Tông, việc bị bại lộ,

Khản bị bắt giam. Đến khi Tông lên ngôi Khản được phục chức nhưng cũng

không thể cầm cự được, bọn kiêu binh không phục chúng kéo đến đập phá

nhà cửa, Khản đành phải bỏ trốn lên Sơn Tây rồi sau đó về quê vợ ở Hà Tĩnh.

Đó cũng là năm Nguyễn Du 19 tuổi, vừa thi Hương đậu Tam trường (tú tài) ở

trường Sơn Nam. Thế là gia đình của Nguyễn Du từ đây mỗi người một ngả.

Học hành để đỗ đạt làm quan vốn là con đường mà các nhà nho xưa đã

chọn. Nguyễn Du cũng không nằm ngoài quy luật đó, thế nhưng thời cuộc đã

đổi thay, chức quan mà Nguyễn Du nắm giữ không phải do ông học hành đỗ

đạt hay được cất nhắc mà là do người cha nuôi họ Hà để lại. Theo tài liệu thì

trước kia, một ông quan họ Hà, làm việc dưới quyền Nguyễn Nghiễm, giữ

chức Chánh thủ hiệu đội quân hùng hậu hiệu ở Thái Nguyên, do không có con

trai nên nhận Nguyễn Du làm con nuôi. Sau khi người họ Hà mất, Nguyễn Du

được giữ chức quan ấy. Những năm tháng sau đó cũng là những năm tháng

đầy sóng gió trong cuộc đời của Nguyễn Du.

Năm 1789 Tây Sơn kéo quân ra Bắc phá tan hai mươi vạn quân Thanh,

Lê Chiêu Thống bỏ nước chạy theo đám tàn quân của giặc. Lúc này ba anh

em cùng mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Đề, Nguyễn Du, Nguyễn Ức chạy

theo Lê Chiêu Thống nhưng không kịp. Nguyễn Du đành từ giã Nguyễn Đề,

Nguyễn Ức trở về quê vợ là xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Sơn Nam

(Thái Bình), sống nhờ nhà người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn, nhưng cũng

chỉ được một thời gian rồi trở về Hà Tĩnh. Tiếp theo đó là những năm tháng

Nguyễn Du sống trong cảnh ăn nhờ ở đậu, nay đầu sông, mai cuối bể, trong

túi thì rỗng không. Mười năm phiêu bạt cũng đủ cho nhà thơ chiêm nghiệm

được nhiều điều. Nhìn cảnh vợ con nheo nhóc, bản thân mình thì tiều tuỵ, ốm

đau không tiền thuốc men. Tình cảnh gia đình lúc này khiến ông buồn chán

vô cùng. Vì cuộc sống mưu sinh, vì gia đình nhỏ bé của mình nên ông đành

phải gát lại bao nỗi ưu tư. Dấn thân vào chốn quan trường đầy cạm bẫy, xung

quanh là những kẻ xu danh trục lợi làm sao không sợ hãi âu lo. Nhưng khi

làm quan cho triều Nguyễn, "dẫu làm đến chức á khanh mà ông vẫn giữ vẻ

thanh nhã đơn giản như một người học trò nghèo" (theo Gia phả). Nguyễn Du

làm quan nhưng không nghĩ đến danh lợi, lúc nào cũng chăm lo đến đời sống

nhân dân. Gia phả chép: "Khi làm chức cai bạ dinh Quảng Bình, phàm những

việc công trong hạt như lính tráng, dân sự kiện thưa, tiền nong, lương thực và

các hạng thuế, ông đều bàn bạc thương lượng với các quan Lưu thủ, Ký lục

để thi hành. Ông giữu chức cai bạ bốn năm, chính sự giản dị, không cầu tiếng

tăm, nên được sĩ phu và nhân dân yêu mến" (chuyến dẫn 17; tr. 105). Tất cả

những suy nghĩ và hành động của Nguyễn Du giúp chúng ta hiểu được vì sao

ông thuộc giai cấp thống trị mà trong thơ ca lại có mối đồng cảm sâu xa với

những mảnh đời khốn khó, bất hạnh.

Là một vị quan thanh liêm với khát vọng cao đẹp là mong sao đất nước

ấm êm, nhân dân hạnh phúc, chắc chắn ông phải cống hiến hết sức mình. Thế

nhưng ra làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du rất ít nói năng chỉ làm hết

bổn phận và trách nhiệm của mình. Đến nỗi có lần ông còn bị vua quở rằng:

"Nhà nước dùng người tài giỏi thì cất lên, không hề phân biệt người Bắc,

người Nam. Khanh (Nguyễn Du) với Ngô Vị đã được trẫm biết tài mà bổ

dụng, làm quan đến chức Tham tri, biết điều gì cứ nói, để làm hết chức trách

của mình, sao lại cứ rụt rè, sợ sệt, chỉ dạ dạ vâng vâng thế thôi?" [17; tr.

111]. Hình như ông luôn mang trong mình nỗi buồn không thể nói cùng ai.

Nỗi buồn ấy ông đành chôn chặt tận đáy lòng và đã mang theo ngay cả khi

xuống dưới tuyền đài. Cảnh ông mất được sử sách ghi lại như sau: "Đến khi

ốm nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân, ông nói

"được" rồi mất, không trối lại một lời".

Nguyễn Du ra đi nhưng ưu tư vẫn còn đó, nỗi buồn chẳng thể nào nguôi.

Cũng như Khuất Nguyên xưa từ giã cõi trần mà lòng vẫn nặng trĩu nỗi sầu lo.

Số phận dường như không mỉm cười với người đức độ, tài năng. Họ luôn

gặp những bất trắc trong cuộc sống. Nhưng chính trong tận cùng của nỗi đau

lời thơ của họ bỗng rực sáng, ánh sáng ấy sẽ soi suốt mọi nẻo đường, giúp con

người tìm chút niềm tin vào cuộc sống và sống sao cho xứng đáng với người,

với đời.

3.2.2. Thái độ ứng xử của Khuất Nguyên và Nguyễn Du

Sinh ra trong thời buổi nước nhà gặp nhiều biến cố, những vần thơ của

Nguyễn Du vì thế cũng chứa đầy tâm sự. Thơ ông viết ra không chỉ viết để

mà chơi, có cũng được mà không cũng được, nói như một nhà nghiên cứu

“Nguyễn Du đã viết dưới sự thôi thúc của những nỗi niềm không nói ra không

được”(chuyển dẫn 17; tr. 37). Không thể nói ra bằng lời nên ông đành gửi bao

nỗi niềm trong thơ. Chính những vần thơ ấy giúp chúng ta hiểu hơn tâm sự

của một người luôn nặng lòng với nước, với dân. Cũng giống như Khuất

Nguyên và Nguyễn Trãi, Nguyễn Du vì sinh lỗi thời mà không thể đem tài trí

của mình ra giúp đời, giúp nước nên đành bất lực trước thời cuộc, trước nhân

tình thế thái, trước cảnh đất nước lâm nguy. Họ là những con người muốn dấn

thân mình trong cơn nguy biến của đất nước, mong được góp sức mình để cứu

nước, an dân. Họ cống hiến sức mình chẳng qua vì tình cảm chân thành, tha

thiết với đất nước với nhân dân chứ đâu vì công danh, lợi lộc bởi "công danh

ở đời khác nào cánh chim bay vút" (Cảm hứng cuối xuân- Nguyễn Du). Ấy

thế mà họ không thể nào thực hiện được.

Là bề tôi của nhà Lê và đã từng vì nhà Lê chống lại Tây Sơn, cuối cùng

lại ra làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du cảm thấy buồn vô cùng. Cho đến

bây giờ, khi tìm hiểu thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại lần lượt

thay thế nhau từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, chúng ta cũng khó mà

phân định cho thật rõ ràng. Thế nhưng có một điều chúng ta có thể cảm nhận

được là “Nguyễn Du không bằng lòng với toàn bộ cuộc đời lúc bấy giờ” [17;

tr39].

Khuất Nguyên và Nguyễn Du dẫu không sinh cùng thời nhưng chính

thời đại ấy đã tạo cho họ có thái độ và cách ứng xử riêng của mình trước vận

nước.

Có thể nói Khuất Nguyên là nhà thơ yêu nước đầu tiên trong nền văn học

Trung Quốc. Quan niệm về đất nước thời Khuất Nguyên khác chúng ta bây

giờ nhưng tình yêu mà Khuất Nguyên dành cho đất nước, quê hương thì cũng

giống với chúng ta ngày nay. Vì yêu nước nên ông nguyện gắn bó đời mình

và đem hết tài năng, sức lực cống hiến cho đất nước. Cũng vì yêu nước mà

ông đứng lên đấu tranh để bảo vệ, quyết không thỏa hiệp đầu hàng để đất

nước rơi vào tay kẻ khác. Dẫu không được trọng dụng bị bọn tiểu nhân gièm

pha, nói xấu nhưng không vì thế mà ông lại rời bỏ nước Sở. Do vậy, khi nước

nhà bị tàn phá ông đau buồn vô hạn chỉ còn cách "chôn mình trong bụng cá"

để giữ trọn khí tiết. Quả thực tình cảm mà ông dành cho nước Sở thật sâu

nặng biết bao. Nguyễn Du cảm kích con người cả một đời lo cho nước cho

dân, xót thương cho số phận tài đức mà phải chịu bao cảnh éo le. Nhân cách

của Khuất Nguyên mãi được các nhà nho ca ngợi và học hỏi.

Cũng như bao nhà nho khác trong xã hội thời bấy giờ, Nguyễn Du cũng

yêu nước thiết tha, yêu dân sâu sắc. Thế nhưng thời buổi đảo điên, nước nhà

nguy biến tâm trạng ông cũng rối bời chẳng biết theo ai, trong khi mình là con

cháu nhà Lê nhưng không thể đem tài năng của mình ra giúp nhà Lê mà lại

giúp nhà Nguyễn. Có thể nói, lúc này thái độ của Nguyễn Du đối với các triều

đại vẫn còn là vấn đề tranh luận của các nhà nghiên cứu. Trước khi triều

Nguyễn lên nắm chính quyền thì triều Tây Sơn do vua Quang Trung lãnh đạo,

trị vì đất nước gần mười bốn năm thì sụp đổ. Đối với nhà Tây Sơn, Nguyễn

Du không mấy mặn mà thậm chí còn có tư tưởng chống đối. Thế nhưng khi

triều Nguyễn lên thay ông ra làm quan với nhà Nguyễn đúng mười chín năm.

Bước đường hoạn lộ của ông không gì trở ngại, thăng quan tiến chức có khi

cũng rất nhanh. Nói như Hoài Thanh: "Nguyễn Du thật thà đi theo nhà

Nguyễn. Ông làm quan đến chức Tham tri và hai lần được làm chánh sứ.

Không phải vô cớ mà nhà Nguyễn tin dùng ông đến thế"(chuyển dẫn 17;

tr109)

So với thời Tây Sơn thái độ, hành động của Nguyễn Du có phần thay

đổi, khác trước. Thứ nhất, đối với nhà Tây Sơn, có lẽ người dân Bắc Hà chưa

kịp làm quen với sự có mặt của những con người "áo vải cờ đào" trong cương

vị chủ nhân của xã hội, thậm chí họ còn cho rằng Tây Sơn là kẻ thù của nhà

Lê nên nhiều vị quan đã rút lui khỏi chốn quan trường, không ra giúp vua xây

dựng lại đất nước. Có khi còn mang tư tưởng chống đối, trong đó có Nguyễn

Du. Thứ hai, từ khi Lê vong cho đến nay cũng đã mười mấy năm rồi có níu

kéo cũng không thể được, nói như Nguyễn Du trong bài "Ngộ gia đệ cựu ca

cơ "(bài 4, Bắc hành tạp lục):

Phúc bồn dĩ hỹ nan thu thuỷ.

(Chậu nước đã đổ khó vét lại được nữa)

và trong bài Vị Hoàng doanh (bài 5, Thanh Hiên thi tập) ông cũng từng than

thở rằng:

Cổ kim vị kiến thiên niên quốc.

(Xưa nay chưa từng thấy triều đại nào đứng vững nghìn năm)

Đúng vậy, đã bao đời nay chẳng có triều đại nào tồn tại mấy ngàn năm

chỉ vài trăm năm rồi suy tàn. Hết triều đại này đến triều đại khác. Nếu triều

đại nào biết chăm lo đến đời sống nhân dân, thương yêu nhân dân thì trị vì

được lâu còn không thì mau chóng sụp đổ. Nguyễn Du tham gia triều chính

cũng với mong ước cao đẹp là dân giàu đủ, nước bình yên. Nhưng ước mơ

của Nguyễn Du không thể trở thành hiện thực, trước mắt ông vẫn còn đó bao

cảnh đời khốn khó, khổ đau.

Có thể nói, tập Thơ chữ Hán chứa đầy cái uất ức, nghẹn ngào của Tố

Như. Ẩn sau từng câu chữ là "những suy nghĩ nung đúc của nhà thơ về con

người, về xã hội, là cái nhìn phanh phui những nhân cách lịch sử, cũng là sự

chiêm nghiệm sâu kín và đầy trắc ẩn về những ba động thời cuộc diễn ra

trước mắt ông." [17; tr. 62]. Chính vì vậy mà những vần thơ trong này nghe

sao buồn thương, ảm đạm, như một "buổi chiều thu tê tái". Buổi chiều đó là

của xã hội phong kiến ở Việt Nam, ở Trung Quốc phản ánh trong tâm hồn

Nguyễn Du. Trong tập thơ này, đặc biệt những bài thơ được viết khi đi sứ,

Nguyễn Du có cơ hội bộc bạch tâm sự của mình, nói hết nỗi lòng của mình

mà không sợ những kẻ xấu làm hại.

Một trong những bài thơ được nhiều người nhắc đến chính là bài "Thái

Bình mại giả ca" và bài “Sở kiến hành”. Đọc lại những vần thơ trong bài "Sở

kiến hành" của thời đại cách đây hơn hai trăm năm mà nghe sao như của hôm

nay. Bài thơ vẽ lên bức tranh của xã hội thời bấy giờ, chân thực sinh động đến

đau lòng. Hình ảnh của mấy mẹ con bên đường tiều tụy, xơ xác bởi cái đói,

cái rét hành hạ không chỉ ám ảnh nhà thơ mà làm cho ta cảm thấy nhói đau.

Bằng trái tim nhạy cảm, tinh tế, ông đã nhìn thấu được nỗi khốn cùng của

người dân. Câu chuyện được ông phản ánh không còn là mấy mẹ con của một

người dân ở tận bên Trung Quốc nữa mà là những hình ảnh gần gũi của hàng

vạn người dân Việt Nam nghèo đói dưới thời trung đại. Càng thương những

người nghèo khổ, bất hạnh bao nhiêu ông càng căm ghét cái xã hội bất công

thối nát, khinh bỉ bọn gian ác, ti tiện kia bấy nhiêu. Nói như Nguyễn Đình

Chiểu lẽ ghét thương ở đời chẳng qua xuất phát từ tấm lòng yêu nước, thương

dân, "bởi chưng hay ghét cũng là hay thương" (Lục Vân Tiên). Ông uất ức

đến nghẹn lòng, căm tức cái xã hội bạc bẽo bất công nhưng không làm gì

được. Nguyễn Du bất lực trước thời cuộc cũng như Khuất Nguyên xưa bất lực

trước thế lực đen tối.

Tấm lòng của Nguyễn Du đối với những người lao khổ sao mà tha thiết.

Ông không chỉ dành tình cảm của mình cho những người nghèo khổ mà còn

cho cả những bậc anh hùng tài trí bị gièm pha, những người phụ nữ "tài hoa

bạc mệnh". Làm sao nói hết được nỗi lòng trắc ẩn của Nguyễn Du. Đằng sau

mỗi hình bóng ấy là nỗi niềm của chính nhà thơ. Ông thương Đỗ Phủ ở lòng

nhân ái; thương Hàn Tín, Nhạc Phi, Khuất Nguyên ở cốt cách, tài đức vẹn

toàn nhưng không được trọng dụng...Có lẽ, Khuất Nguyên là người Nguyễn

Du tưởng nhớ nhiều nhất. Riêng trong tập thơ này ông dành riêng cho Khuất

Nguyên năm bài thơ, chưa kể những bài được nhắc qua, mà bài nào lời thơ

cũng thấm thía. Dường như qua những bài thơ sâu lắng ấy người đọc có cảm

giác như Nguyễn Du đã tìm thấy ở Khuất Nguyên một con người đồng điệu.

Tấm lòng thanh cao của Khuất Nguyên, tình cảm tha thiết với nước, với

dân của Khuất Nguyên, cả cái tình cảnh éo le của Khuất Nguyên, Nguyễn Du

cảm thấy như có cái gì đó sao mà giống mình đến vậy.

Thiên cổ tùy nhân liên độc tỉnh,

Tứ phương hà xứ thác cô trung?

(Nghìn thuở ai thương người độc tỉnh

Bốn phương đâu gửi dạ cô trung?)

(Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu)

Đã bao đời nay, người ngay thẳng thường nhận một kết cục chẳng mấy

tốt đẹp, "người độc tỉnh" chẳng mấy ai thương. Nguyễn Du ái ngại cho Khuất

Nguyên nhưng có lẽ đó còn là lời ái ngại cho chính mình. Thời của Nguyễn

Du lúc bấy giờ không thấy hơn gì thời Khuất Nguyên còn sống. Xưa kia, vì

không muốn tấm thân lấm bụi trần Khuất Nguyên đã chọn cho mình một lối

đi riêng. Dòng sông Mịch La- nơi Khuất Nguyên tự vẫn - đã dang rộng vòng

tay ôm lấy "người độc tỉnh". Cứ vào ngày mồng năm tháng năm hằng năm,

nhân dân Trung Quốc tổ chức lễ đua thuyền rồng tượng trưng cho việc tìm

thi thể nhà thơ. Xem đua thuyền Nguyễn Du lại nhớ đến Khuất Nguyên, nhớ

đến “khách bội lan nhà văn nước Sở” (Ngũ nguyệt quan cạnh độ). Nhớ đấy

nhưng nhà thơ chẳng hề xúc động:

Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan

(Thuyền đua đầy sông, thật chẳng có ý nghĩa gì)

(Ngũ nguyệt quan cạnh độ)

Tất cả những việc làm đó, Nguyễn Du cảm thấy vô nghĩa. Đã nghìn năm

trôi qua mọi người vẫn gọi hồn Khuất Nguyên, nhưng hồn vẫn không về bởi

lẽ:

“Hồn nhược quy lai dã vô thác,

Long xà quỷ vực biến nhân gian”

(Nếu hồn trở về cũng không biết nương tựa vào đâu

Khắp cõi người đầy những rắn rồng quỷ quái).

(Tháng năm xem đua thuyền)

Trong bài “Phản chiêu hồn”, Nguyễn Du nói rõ hơn cái lý do vì sao hồn

không thể quay về và cũng khuyên hồn Khuất Nguyên không nên trở về làm

gì. Cái xã hội này không thể sống được đâu, nơi ấy toàn những kẻ:

Xuất giả khu xa, nhập cử tọa,

Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quỳ.

Bất lộ trảo nha dữ giác độc,

Giảo tước nhân nhục cam như di.

(Đi ra xe ngựa về vênh váo,

Đứng ngồi ăn nói như Cao, Quỳ.

Không lộ nanh vuốt cùng nọc độc,

Nhưng chén thịt người cứ tì tì)

(Phản chiêu hồn)

Nguyễn Du nhìn thấy được bản chất của kẻ thống trị thời bấy giờ. Đấy

không còn là thời của Khuất Nguyên nữa mà là thời của nhà Thanh (Trung

Quốc) hay nhà Nguyễn (Việt Nam). Bọn chúng khi ra ngoài thì ngựa xe, ngồi

ở nhà thì vênh váo, ăn nói khoát lát tỏ vẻ hiểu biết... Tất cả chỉ là giả tạo! Ẩn

bên trong vẻ ngoài đạo mạo là bộ mặt của những kẻ "ăn thịt người ngọt xớt

như ăn đường mật". Chỉ bằng vài nét phát thảo mà Nguyễn Du đã phủ định

cái xã hội phong kiến Trung Hoa mấy nghìn năm sau đời Tam Hoàng

Hồn ơi! Theo đường đó mà về

Thì sau đời Tam Hoàng, chẳng còn hợp thời nữa đâu

Sau đời Tam Hoàng là thời của "bọn ăn thịt người". Chẳng phải nhà văn

Lỗ Tấn đã từng khái quát xã hội phong kiến Trung Hoa là một xã hội "ăn thịt

người" đó sao?

Thay cho lời kết thúc Nguyễn Du không ngần ngại khi khẳng định rằng:

Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan,

Đại địa xứ xứ giai Mịch La.

(Đời này hết thảy là Thượng Quan,

Nơi nơi đâu đâu cũng là Mịch La)

(Phản chiêu hồn)

Thượng quan Ngân Thượng là kẻ đã gièm pha với Hoài Vương nước Sở

làm hại Khuất Nguyên. Sông Mịch La là nơi Khuất Nguyên trẫm mình.

Không phải vô cớ mà Nguyễn Du từ chuyện Khuất Nguyên nói đến chuyện

của thời nay, cũng không còn là chuyện nước Sở thời Chiến Quốc nữa, mà là

chuyện của khắp nơi, chuyện thời đại này. Lời dặn dò mà Nguyễn Du muốn

nhắn gửi đến Khuất Nguyên cũng chính là lòng tự nhủ lòng.

Cuộc đời của Nguyễn Du cũng lắm gian nan. Sau bao nhiêu năm sống

trong cảnh ăn nhờ ở đậu, ý định "phục quốc" lại không thành, nhà thơ lắm lúc

cũng thẹn thùng, bi quan chán nản, đâm ra mỏi mệt, muốn nghỉ ngơi, muốn

sống an nhàn, muốn hưởng cảnh trăng thanh gió mát, tìm thú vui trong cỏ

cây, hoa lá, chim muông. Cũng như bao nhà nho thưở trước khi rơi vào tình

cảnh thất chí đều muốn lui về ở ẩn để giữ khí tiết trong sạch. Trong bài Sơn

thôn (bài 43, Thanh Hiên thi tập), Nguyễn Du đã vẽ ra bức tranh tuyệt đẹp của

cuộc sống bình yên. Ông tưởng tượng nơi đấy là một cảnh Đào nguyên cách

xa trần thế, và ông mong ước thoát được trần tục, nhởn nhơ dưới gốc cây

tùng.

Tuyệt không gió bụi chốn rừng sâu,

Rải rác mây chiều khép cửa lau.

Áo mũ người sang còn Hán nhỉ,

Tháng năm trong núi phải Tần đâu?

Đồng hoang chú mục sừng khua mõ,

Giếng ngọc cô em múc nước gàu.

Sao được thoát ra ngoài cõi tục,

Dưới tùng hóng mát thú dường bao

Nói thì nói vậy, nhưng ông không thể rời bỏ chốn nhân gian đầy thị phi

kia để tìm cho mình một cuộc sống hạnh phúc, ấm êm. Ông không đành lòng.

Bước chân của ông đi vào nơi xa lánh "cõi trần" kia sao mà vướng víu, có cái

gì đó không thoải mái. Lui về ở ẩn ông cảm thấy buồn, vì đối với đời ông vẫn

còn nặng lòng, vấn vương. Đây cũng chính là sự gặp gỡ giữa Khuất Nguyên

và Nguyễn Du, của hai tâm hồn đồng điệu với những khát vọng lớn lao. Vẻ

đẹp của họ càng toả sáng khi sống giữa chốn bùn đen mà không lấm bụi trần.

Họ vẫn giữ được cho mình cốt cách thanh cao, giữ được lòng mình trong

sạch.

Làm sao diễn tả hết được tình cảm mà Nguyễn Du dành cho Tam Lư đại

phu! Đi qua vùng đất nơi Khuất Nguyên ở, Nguyễn Du cũng chạnh lòng nhớ

đến "người hiếu tu"- người thích sửa sang đức tốt- sống cách đây hai ngàn

năm mà nhân cách mãi tỏa sáng như mùi thơm của loài hoa lan, hoa chỉ cứ

mãi ngát hương.

Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải,

Thử địa do văn lan chỉ hương

(Người hiếu tu hai ngàn năm trước,

Còn hương lan phản phất đâu đây)

(Qua Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu)

Không thể nói hết được tấm lòng và nhân cách của Khuất Nguyên, nó

vằng vặc như ánh trăng rằm, trong suốt như nước dòng nước mát mãi ngàn

năm sau vẫn soi thấu tận đáy.

Nguyễn Du là người, như Khuất Nguyên, mang những vấn đề của ngàn

năm, của triệu người, nên nỗi đau khổ của ông là nỗi đau khổ lớn bao trùm cả

nhân loại. Trong bài Mạn hứng II, Nguyễn Du cho chúng ta thấy được

"chuyện xưa nay biết bao là nỗi đau lòng", và có lần ông cũng nói "Tấm thân

không thể thoát khỏi vòng hữu hình, Trước khi chết, cứ lo mãi chuyện nghìn

năm". Chỉ có những người thật sự đau nỗi đau đời, lo cho thiên hạ trước rồi

mới đến bản thân mình mới thốt ra những lời lẽ thống thiết và chân thành đến

như vậy.

Khuất Nguyên, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... giờ đã thành người thiên cổ

nhưng tấm lòng trong sạch, nhân cách cao đẹp mãi là nguồn sáng soi cho thế

hệ mai sau tiếp bước.

KẾT LUẬN

Khuất Nguyên không chỉ là nhà quân sự tài ba mà ông còn là nhà thơ lỗi

lạc đầu tiên trong nền văn học của Trung Quốc. Đã hai nghìn năm trôi qua

nhưng dấu ấn về con người có nhân cách cao đẹp, hoài bão lớn lao vẫn mãi là

tấm gương để mọi người noi theo, đặc biệt là các nhà nho Việt Nam thời

trung đại.

Các nhà thơ của chúng ta học hỏi được nhiều điều quý báu từ con người

này. Trước hết là tinh thần yêu nước thiết tha. Có thể nói thời đại của Khuất

Nguyên là thời đại có nhiều biến động lớn, đây là thời "bách gia tranh minh"

có nhiều tư tưởng xuất hiện. Quan niệm về nước cũng còn mơ hồ chưa thật rõ

ràng. Ai cũng lo tìm cho mình một vị vua anh minh mong sao vị vua ấy tin

dùng mình và sử dụng học thuyết của mình vào việc trị nước an dân. Trong

lúc ai cũng đổ xô đi tìm một nơi lý tưởng để thi thố tài năng thì Khuất Nguyên

lại gắn bó đời mình với nước Sở thân thương. Ông không muốn rời xa nơi

chôn nhau cắt rốn, không thể lìa xa xứ sở đầy thơ mộng. Vì yêu nước nên ông

nguyện cống hiến tài năng và sức lực của mình cho đất nước, mong sao nước

giàu mạnh, dân ấm no. Ước mơ ấy của Khuất Nguyên cũng là ước mơ của

biết bao nhà nho yêu nước Việt Nam.

Yêu nước dám xả thân vì nước là điều đáng trân trọng nhưng cái cao quý

của người quân tử vẫn là ý thức đấu tranh cho lý tưởng tốt đẹp, phấn đấu vì

mục đích cao cả, nguyện hết lòng vì nước vì dân. Xưa kia Khuất Nguyên vì

theo đuổi đấu tranh cho lý tưởng mà ông phải chọn con đường tuẫn tiết để bảo

vệ khí phách, giữ cho tâm hồn trong sạch. Nhân cách cao đẹp của Khuất

Nguyên vì thế mãi tỏa sáng cho bao thế hệ nhà nho không chỉ của Trung

Quốc mà còn cả Việt Nam.

Làm quan để giúp vua định nước, an dân vốn chẳng dễ chút nào, nhưng

làm quan mà biết giữ "thiên lương" trong sạch ở chốn quan trường nơi có

nhiều cạm bẫy thật khó biết bao. Trong thời cuộc đảo điên, đâu đâu cũng thấy

bọn bất tài vô dụng chỉ biết dùng lời nói ngon ngọt để lừa vua, dối dân vậy mà

được vua tin, còn những người ngay thẳng, tấm lòng lúc nào cũng nghĩ đến

vua đến dân thì bị hất hủi, gièm pha, nói xấu. Thật bất công biết bao! Dù thế

nào đi chăng nữa thì Khuất Nguyên vẫn giữ cho mình một tâm hồn trong

sạch, ý thức bảo vệ nhân cách, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho mình luôn là

điều vị quan thanh liêm tâm niệm. Có thể nói Khuất Nguyên vì quyết giữ tấm

lòng trung trinh không hùa theo thế tục nên phải chịu bao nỗi oan thiên. Để

theo chí ông biết bao nhà thơ xưa của ta cũng chọn cho mình một cách sống

trong sạch, lý tưởng cao đẹp để tiếng thơm mãi lưu truyền hậu thế, nhưng

không phải là con đường tuẫn tiết như Khuất Nguyên.

Bên cạch việc học hỏi được nhiều điều bổ ích từ nhân cách, đạo đức của

Khuất Nguyên các nhà thơ Việt Nam thời trung đại cũng khám phá nhiều điều

thú vị từ thơ ca của ông. Có lẽ, mỗi hình ảnh trong thơ Khuất Nguyên cũng

gợi cho các nhà thơ nhiều suy ngẫm. Hình ảnh của hoa lan như là một biểu

tượng đẹp trong thơ Khuất Nguyên vì loài hoa ấy được ông ví với chí khí và

hành vi trong trắng của mình. Nó luôn nhắc nhở mỗi người phải nối chí người

xưa, phải giữ lòng mình trong sạch, phải sống cho lý tưởng tốt đẹp. Bên cạnh

hình ảnh của các loài hoa thì dòng sông cũng là một trong những hình ảnh

mang nhiều dấu ấn của Khuất Nguyên, nhất là dòng sông Mịch La - nơi

Khuất Nguyên đã tự trầm. Dòng sông ấy ngàn đời sau mãi soi sáng tấm lòng

của quan Tam Lư.

Không chỉ có hình ảnh mà điển tích, điển cố cũng là điều thú vị để các

nhà thơ tìm hiểu, khám phá. Mượn xưa để nói nay, nói hộ lòng mình những

điều khó nói nhất thì cách này thường được các nhà nho xưa hay dùng. Nói về

thời cuộc, bàn về lẽ đục - trong ở đời, để bày tỏ thái độ ứng xử của mình, các

nhà thơ mượn điển cố "Thương Lang". Bài ca "Thương Lang" năm nào cứ

vang vọng đâu đây: "Thương Lang chi thủy thanh hề...Thương Lang chi thủy

trọc hề...". Để theo chí những bậc hiền nhân thời xưa, các nhà nho của Việt

Nam cũng nguyện tận trung với nước nhưng quyết giữ tấm lòng trong sạch

không lấm bùn nhơ.

Ngoài điển cố thì mỗi vần thơ, ý thơ của Khuất Nguyên cũng khơi dậy

bao tâm sự cho các nhà thơ Việt Nam. Không thể thổ lộ với ai nên Khuất

Nguyên đành kí thác nỗi lòng của mình trong thơ ca. Lời thơ của ông vì thế

mà chứa đầy cảm xúc, tình cảm dâng trào. Từng câu, từng chữ là tâm huyết

của con người đã dành trọn đời mình cho nước, cho dân. Do đó, những vần

thơ ấy luôn đồng hành với các nhà nho xưa.

Có thể nói, con người và thơ ca của Khuất Nguyên mãi đọng lại trong

tâm trí các thi nhân Việt Nam. Họ nói đến ông và viết về ông bằng trái tim

nhạy cảm và tình thương yêu tha thiết. Đặc biệt là những nhà thơ có khí tiết,

giàu tâm huyết, nguyện gắn bó đời mình cho nước, cho dân. Họ luôn lấy tấm

gương ấy để tự soi mình, sửa mình. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du là những nhà

thơ lớn của dân tộc, viết về Khuất Nguyên với tất cả tình yêu mến chân thành

dành cho một "nhân cách lỗi lạc" (ý của GS Lương Duy Thứ) với mong muốn

gửi gắm tâm sự riêng tây. Dường như họ đã tìm được cho mình người bạn tri

âm, tri kỉ.

Thời đại của Khuất Nguyên cách Nguyễn Trãi, Nguyễn Du cũng mấy

nghìn năm nhưng dù sao Khuất Nguyên cũng may mắn vì có người hiểu

mình, chia sẻ nỗi lòng của mình. Tính đến ngày hôm nay nữa là đã hơn hai

nghìn năm, nhưng nhân cách ấy, tài năng ấy vẫn sáng vằng vặc sánh với mặt

trời, mặt trăng, vẫn soi sáng và dẫn đường chỉ lối cho chúng ta tiếp bước, noi

theo.

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

Chương 1: TẤN BI KỊCH CỦA MỘT ĐỜI NGƯỜI

1.1. Từ hưng thịnh đến suy vong - bước ngoặc của nước Sở thời Khuất

Nguyên ...............................................................................................................14

1.2. Thời đại “Trăm nhà đua tiếng” ..........................................................................17

1.3. Khuất Nguyên - nhà thơ đầu tiên của nền văn học Trung Quốc........................25

1.3.1. Con người .................................................................................................25

1.3.2. Sở từ và các tác phẩm của Khuất Nguyên ...............................................28

Chương 2: HÌNH ẢNH VÀ THƠ CA TRONG VĂN HỌC TRUNG

ĐẠI VIỆT NAM

2.1. Khuất Nguyên trong cái nhìn của các nhà thơ Trung đại Việt Nam..................42

2.1.1. Lòng yêu nước sâu sắc ...........................................................................43

2.1.2. Đấu tranh cho lý tưởng tốt đẹp...............................................................49

2.1.3. Ý thức giữ gìn phẩm chất đạo đức .........................................................56

2.2. Thơ ca Khuất Nguyên trong văn học Trung đại Việt Nam................................63

2.2.1. Hình ảnh .................................................................................................64

2.2.2. Điển cố....................................................................................................68

2.2.1. Ý thơ .......................................................................................................72

Chương 3: KHUẤT NGUYÊN TRONG THƠ CA CỦA

NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU

3.1. Hình ảnh và thơ ca của Khuất Nguyên trong thơ Nguyễn Trãi .........................77

3.1.1. Bước thăng trầm của cuộc đời Nguyễn Trãi ..........................................77

3.1.2. Quan điểm xử thế của Khuất Nguyên và Nguyễn Trãi ..........................83

3.2. Hình ảnh và thơ ca của Khuất Nguyên trong thơ Nguyễn Du ...........................91

3.2.1. Cuộc đời của con người “tài hoa bạc mệnh”..........................................91

3.2.2. Thái độ ứng xử của Khuất Nguyên và Nguyễn Du................................95

KẾT LUẬN ............................................................................................................105

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................108

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC NHỮNG NHÀ THƠ VIỆT NAM VIẾT VỀ KHUẤT NGUYÊN

NGUYỄN TRUNG NGẠN (1289 - 1370)

Bài: Đàm Châu Hùng Tương Dịch(1)

Loạn sơn Bắc khứ thuỷ đông lưu,

Cảnh vật thôi nhân bất tự do. Nha Khẩu(2) thu thanh lai bán chẩm, Hành Dương(3) nguyệt sắc thướng cô châu. Mãn giang yên lãng Tương Phi(4) hận, Lưỡng mấn phong sương Tống Ngọc(5) sầu. Thí trích hoàng hoa ngâm Sở tá(6),

Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 2, Trung tâm KHXH & NV Quốc gia, 2000.

Nhất bôi tiêu vị tuý Nam lâu.

1) Đàm Châu là tên xưa của thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam. Hùng, Tương nguyên là tên núi Hùng, núi Tương (còn có tên là Quân Sơn); thuộc Trường Sa. Sau Hùng Tương trở thành tên một vùng.

2) Nha Khẩu : tên núi ở Hồ Nam. 3) Hành Dương : tên cửa sông ở Hồ Nam 4) Tương Phi : Thần Tương thuỷ; Khuất Nguyên đã lấy đặt làm một tên bài thơ trong Cửu

ca, Sở từ.

5) Tống Ngọc : Người nước Sở thời Chiến Quốc. 6) Sở tá : Chỉ bài Chiêu hồn trong Sở từ. Về sau, phàm văn chiêu hồn, người ta cũng quen

gọi là Sở tá. Dịch nghĩa : Trạm Hùng Tương ở Đàm Châu

Chú thích :

Núi chen chúc chạy về phía Bắc, sông chảy về phía Đông,

Phong cảnh thôi thúc người không thể rảnh rang.

Tiếng thu ở Nha Khẩu đến bên nửa gối,

Ánh trăng Hành Dương chiếu chiếc thuyền cô quạnh. Khói sóng đầy sông, nhớ nỗi hận của Tương Phi

Gió sương cả hai phía tóc thái dương, nghĩ đến nỗi buồn của

Tống Ngọc.

Thử ngắt bông hoa cúc, ngâm bài Sở tá,

Một chén tiêu sầu say trên lầu Nam.

Dịch thơ :

Núi Bắc, sông Đông hướng mỗi miền,

Dục người phong cảnh những triền miên.

Tiếng thu Nha Khẩu gieo lưng gối,

Sắc nguyệt Hành Dương trải khắp thuyền.

Sông rợn sóng, Tương Phi oán hận,

Tóc pha sương, Tống Ngọc ưu phiền.

Hoàng hoa, Sở tá ngâm cùng chuốc,

Một chén lầu Nam cứ bốc men.

(Đào Phương Bình dịch)

NGUYỄN ỨC (? - ?)

Bài: Trai tiền bồn tử lan hoa

Cao tiêu tằng thức Sở từ(1) trung, Nhất chủng phong quang cửu uyển(2) đồng.

Thiên tự hữu tình liên tịch mịch,

Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 3, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, 2000.

Vị lưu thanh phức bạn ngâm ông.

1) Sở từ : Ở đây chỉ thơ của Khuất Nguyên nói chung 2) Cửu uyển (chín khoảnh đất) : Trong tác phẩm Ly tao của Khuất Nguyên có câu : Dư ký tư lan chi cửu uyển hề; Hựu thụ huệ chi bách mẫu. Trong bài thơ này tác giả dùng lại ý đó. Dịch nghĩa :

Chú thích :

Chậu hoa lan trước nhà

Từng biết được nêu cao trong Sở từ

Một vẻ phong quang chín khoảnh đất đều giống nhau.

Trời hình như có ý thương cảnh vắng vẻ,

Để lại mùi thơm trong sạch làm bạn với nhà thơ.

Bài:

 Nguyên nhật yến Diên Quang(1) tự Nguyệt Đàm Thượng nhân(2)

Đông phong trước ý đáo Kỳ Lâm(3), Lộ nhật Tào Khê(4) bất viễn tầm.

Kỷ xứ vũ hoa bình giảng tịch,

Nhất đàm hàn nguyệt ấn thiền tâm.

Đạo vô Nam Bắc nhân do cổ, Thi thiệp Phong, Tao(5) thú cánh thâm. Chủ vĩ(6) thập niên lao mộng tưởng,

Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 3, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, 2000.

Biện hương hà hạnh đắc như câm.

1) Thượng nhân : tiếng nhà Phật, chỉ người đức cao 2) Chùa Diên Quang : chưa rõ ở đâu 3) Kỳ Lâm : tên một khu rừng trên đường tới Tào Khê. 4) Tào Khê : tên một cái khe ở huyện Khúc Giang tỉnh Quảng Đông. Tổ thứ sáu của

Thiền tông là Tuệ Năng đã tu ở đó.

5) Phong, Tao : Phong vốn là phần Quốc Phong trong Kinh Thi cũng Tao vốn là khúc Ly Tao của Khuất Nguyên. Người ta dùng hai chữ Phong, Tao tượng trưng cho hai dòng thơ ca xuất hiện sớm nhất của Trung Quốc. Ở trong bài thơ này với nghĩa là “đỉnh cao của thơ ca”. 6) Chủ vĩ nguyên nghĩa là một thứ phất trần mà thời cổ các nhà đàm luận hay cầm nơi tay khi bàn về những chuyện triết lý. Chữ ấy cũng được dùng để chỉ sự giảng giải về đạo lý cho người khác nghe. Ở đây người dịch đã dịch thoát là “giảng đạo”. Dịch nghĩa: Mồng một tết yết kiến Thượng Nhân Nguyệt Đàm ở chùa

Chú thích :

Diên Quang

Gió xuân hữu ý tới Kỳ Lâm,

Lối vào Tào Khê không phải tìm xa nữa.

Mấy chỗ mưa hoa rơi đều trên chiếu giảng,

Một đầm trăng lạnh in tấm lòng thiền.

Đạo không chia Nam Bắc, người vẫn như thời cổ,

Thơ đạt tới mức Phong, Tao càng lắm thú vị.

Giảng đạo mười năm ước mộng nhọc nhằn,

May sao được dâng một nén hương như hôm nay.

Dịch thơ :

Gió xuân đưa tới Kỳ Lâm,

Tào Khê đây lối, phải tìm chi xa.

Mấy nơi chiếu giảng mơ hoa,

Một đầm trăng lạnh in qua lòng thiền.

Đạo chung Nam Bắc rọi truyền,

Phong, Tao chuẩn mực, khơi niềm thú sâu.

Mười năm mộng tưởng lẽ mầu,

May sao được dịp, nay hầu dâng hương.

(Hoàng Lê dịch)

TRẦN NGUYÊN ĐÁN (1325 - 1390)

Bài: Sơn trung ngẫu hành

Trường An(1) tử mạch yếm khinh phì(2),

Hảo hướng ngâm sơn bế ẩn phi.

Can diệp nhĩ huyên phong Bắc khởi,

Hư đình mục tống nhật tây quy. Thuỳ tương lục mấn phùng thanh nhãn(3). Tiếu bả hoàng hoa đãi bạch y(4).

Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 3, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, 2000.

Chúng tuý ngã tinh giai tự khả, Sát nhân cô dự Khuất Nguyên(5) phi.

Chú thích :

1) Trường An : nguyên là một thành phố ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Ngày xưa các triều đại nhà Tần, Hán, Đường đều lấy Trường An làm thủ đô. Những con đường ở Trường An được gọi là “đường tía” (từ mạch), tượng trưng cho cảnh phồn hoa, phú quý.

2) Kinh phì : Sách Luận ngữ có câu: Xích chi thích Tề đã, thừa phì mã, ý khinh cầu : Khi mà người Xích đến nước Tề thì cưỡi ngựa béo, mặc áo lông nhẹ. Về sau, chữ “khinh phì” trở thành danh từ chung chỉ cảnh sang trọng

3) Lục mấn (mái tóc xanh) chỉ những người trẻ tuổi. Thanh nhãn (mắt xanh) Tương truyền ở đời nhà Tấn (Trung Quốc) Nguyễn Tịch mỗi khi gặp bạn tri kỷ thì mắt xanh lên, gặp kẻ không ưa thì mắt trắng.

4) Bạch y (người áo trắng) chỉ Đào Tiềm, người nước Tấn, tính thích uống rượu và chơi

hoa cúc.

5) Khuất Nguyên : là bầy tôi nước Sở thời Chiến Quốc. Khuất Nguyên cương trực, hết lòng trung quân ái quốc, bị bọn gian thần gièm pha, ông phải đi đày. Một lần Khuất Nguyên gặp người đánh cá, người ấy khuyên ông nên theo thời thế, không nên cương trực mà hại đến thân. Khuất Nguyên bảo : mọi người say cả chỉ một mình ta tỉnh. Về sau, ông nhảy xuống sông Mịch La tự tử. Dịch nghĩa :

Trong núi ngẫu nhiên làm thơ.

Trên đường tía Trường An, chán mặc áo lông nhẹ, cưỡi ngựa béo

Thích đến nơi núi cao, khép cánh cửa ở ẩn.

Gió từ phương Bắc thổi tới, la khô xào xạc bên tai,

Trong sân vắng vẻ, đưa mắt tiễn mặt trời lặn về phía tây.

Ai đem mái tóc xanh gặp khách mắt xanh,

Cười kẻ cầm bông hoa vàng đợi khách áo trắng.

Mọi người say riêng ta tỉnh đều do nơi mình cả,

Tự sát để mua tiếng khen như Khuất Nguyên là sai.

Dịch thơ :

Kinh kỳ rày đã ngán quan sang,

Về ẩn non cao khép thảo đường.

Tai rộn heo may ngoài lá nỏ,

Người đưa chiều xế giữa sân quang.

Mắt xanh tóc biếc ai vồn vã,

Áo trắng hoa vàng dạ vấn vương.

Ta tỉnh người say ừ cũng được,

Mua danh, tự sát, Khuất Nguyên xoàng.

(Đào Phương Bình dịch)

Bài Đông triều(1) thu phiếm

Nhi lão tiêu tiêu lưỡng mấn ban,

Đồng chu đối tửu sấn long nhan.

Hải môn đông hạ thiên lưu cấp,

Thiên vũ thu cao nhất điểu hoàn.

Xúc cảnh mạc sầu kim cổ biến,

Phù gia tự thán hiểm di gian. Mịch La(2), Xích Bích(3) giai trần thổ,

Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 3, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, 2000.

Tảo vãn quy phàm phỏng cổ san.

1) Đông Triều : cửa biển ở huyện Đông Triều, Quảng Ninh. 2) Mịch La: một con sông ở tỉnh Hồ Nam, nơi Khuất Nguyên tự trầm 3) Xích Bích : tức đoạn sông Trường Giang chảy qua huyện Hoằng Cương, tỉnh Hồ Bắc.

Nơi đây, trận đánh giữa Tào Tháo và Chu Du đã diễn ra ác liệt, Tào Tháo thua trận Dịch nghĩa : Mùa thu thả thuyền ra chơi ở Đông Triều.

Chú thích :

Hai ông già hom hem, mái tóc hoa râm,

Cùng ngồi thuyền uống rượu, kíp vào chầu vua.

Nước triều cửa biển rút về phía Đông, như ngăn dòng nuớc

chảy xiết,

Trời thu lồng lộng, một con chim bay về.

Xúc cảnh nhưng đừng buồn vì sự biến đổi xưa nay,

Trên chiếc thuyền lênh đênh, than mình lúc bằng phẳng khi

hiểm nghèo.

Mịch La, Xích Bích đều đã vùi trong gió bụi,

Sớm muộn sẽ quay về hỏi thăm non xưa.

VŨ THẾ TRUNG ( ? - ? )

Bài: Lan cốc

Kỳ nhất

Khởi luân bất lý dữ đông viên,

Trĩ huỷ phong cai cạnh lục phồn. Thiên cổ Tương luy(1) hồ bất khởi, Cưỡng canh Sở tá(2) hương hồn.

Kỳ tứ

Phong truyền hoa khí nhiễu phù khê,

Oải oải già hương dã lão ly.

Bài này gồm có 4 bài, nhưng đây người viết chỉ trích 2 bài.

Xuân mãn sơn vân sơ quá vũ, Nhất lô bách tử độc Tao tỳ(3)(từ).

1) Tương luy (oan hồn sông Tương): chỉ Khuất Nguyên. Khuất Nguyên là nhà thơ yêu nước thời Chiến Quốc, bị Sở Hoài Vương kết tội oan nên tự trầm ở sông Mịch La, thuộc huyện Tương Âm tỉnh Hồ Nam. Khuất Nguyên thích hoa lan, vì vậy tác giả làm bài thơ này ngụ ý nhớ đến Khuất Nguyên. 2) Sở tá : bài Chiêu hồn trong Sở từ cứ cuối mỗi câu lại đệm chữ “tá”, vì vậy bài này cũng được gọi là “Sở tá”. Về sau hai chữ “sở tá” chỉ việc chiêu hồn người đã mất. 3) Tao từ (Ly tao) : tên một tác phẩm nổi tiếng của Khuất Nguyên.

Chú thích :

Dịch nghĩa : Lan trong túi

Bài thứ nhất.

Chẳng cứ là ở xóm bắc hay vườn đông,

Cỏ non cây mát đua nhau xanh tốt.

Nghìn thuở oan hồn sông Tương, gọi chẳng được,

Gượng ngâm bài Sở tá để an ủi hương hồn.

Bài thứ hai.

Gió đưa mùi hoa phảng phất quanh khe cạn,

Hương thơm bay là là phủ lên bờ dậu của ông già đồng quê.

Xuân đầy mây núi, mưa vừa tạnh,

Đốt một lò quả thông, đọc khúc Ly tao.

PHẠM NHỮ DỰC ( ? - ? )

Bài: Đoan ngọ(1)

Trùng ngọ(2) thông thông hựu thử thần,

Nhân gia tiết vật cạnh phương trân.

Đôi bàn giác thử hương văn viễn, Hệ tí linh phù sắc đấu tân(3).

Tiếu ngã nang không vô tửu khách, Phi tra trạch bạn độc tỉnh thần(4).

Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 3, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, 2000.

Khủng tương tuế tự hồn nhàn quá, Hý thiết bồ căn kết ngải nhân(5).

1) Tết Đoan ngọ: Tết mồng 5 tháng 5. Xưa Khuất Nguyên là một nhà thơ yêu nước lớn ở nước Sở thời Chiến Quốc. Vì không được vua tin dùng, còn bị bọn gian thần hãm hại. Cuối cùng ông gửi gắm tâm sự yêu nước của mình trong thiên Ly tao bất hủ rồi trầm mình ở sông Mịch La. Người nước Sở vô cùng thương tiếc, nên hằng năm, cứ đến ngày mồng 5 tháng 5 là ngày mất của ông người ta tổ chức lễ đua thuyền với ngụ ý vớt thây Khuất Nguyên. 2) Theo cách tính của người xưa, tháng 5 âm lịch còn gọi là tháng ngọ. Âm Trung Quốc đọc ngọ và ngũ như nhau, vì thế ngày 5 tháng 5 còn gọi là ngày trùng ngũ hay trùng ngọ. 3) Tục xưa, đến tết Đoan ngọ, người ta mặc áo mới để mừng tết và buộc bùa ở cánh tay để trừ tà. 4) Khuất Nguyên vì thẳng thắn can ngăn vua Sở mà bị đày tới Giang Nam. Ông vô cùng buồn bực, hàng ngày đi lang thang trên đầm. Có người thấy làm lạ hỏi, ông trả lời: Người đời đều say, chỉ riêng ta tỉnh cho nên bị đày. 5) Tục xưa đến tết Đoan ngọ, người ta cắt rễ cây xương bồ làm gươm và bện cây ngải cứu làm hình nhân treo trước cửa để trừ tà

Chú thích :

Dịch nghĩa: Tết Đoan ngọ

Tết trùng ngọ nhanh chóng đã lại đến rồi,

Người ta đua nhau dùng phẩm vật quý của địa phương để làm đồ tết.

Mâm bánh chất đầy mùi thơm bay xa,

Tay buộc bùa thiêng, màu sắc đua nở.

Tự cười mình là khách túi rỗng nên không có rượu,

Đáng chê ông bên đầm riêng tỉnh một mình.

Sợ bỏ qua ngày tết một cách vô tình,

Đùa cắt rễ cây xương bồ và bện hình người bằng cây ngải cứu.

Dịch thơ :

Vùn vụt mồng năm lại tới rồi,

Của ngon vật quý khéo đua đòi.

Mâm đầy bánh gói, hương thơm ngát,

Tay vấn bùa thiêng sắc mới tươi.

Rỗng túi thiếu say cười có tớ,

Bến bờ riêng tỉnh đáng chê ai.

Những e ngày tết qua xoàng quá,

Cắt rễ xương bồ, vấn ngải chơi.

Nguyễn Đức Vân, Nam Trân dịch

NGUYỄN PHI KHANH (1355 - 1428)

Bài: Mộ thu

Tuế vãn thiên hàn khách dị bi, Tao nhân hà tất oán Giang li(1).

Tây phong li lạc cúc tàn hậu,

Dạ vũ hồ sơn nhạn đoạn thì.

Lão cảnh bức nhân xâm vỉ vỉ,

Thu quang luyến ngã khứ trì trì. Vi viên(2) thanh mộng đầu tương bạch, Chính khủng thuần lô(3) mỗi phụ kì.

Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 3, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, 2000.

1) Giang li : một loại cỏ thơm. Tác phẩm Ly tao của Khuất Nguyên có câu

Hỗ giang li dữ tịch chỉ hề, … Tích tam hậu chỉ thuần tuý hề, Cố chúng phương chi sở tại. Ta choàng cỏ Giang li và cỏ Tịch chỉ … Xưa ba vua (Vũ, Thang, Văn) sáng suốt, Cho nên các loài cỏ thơm mọc đúng chỗ.

dịch “Giang li” là Khuất Nguyên tự chỉ mình. “Các loài cỏ thơm mọc đúng chỗ” là chỉ những người tài giỏi, trung thành được sử dụng xứng đáng. Ý hai câu 1 và 2 trong bài thơ của Nguyễn Phi Khanh là: với cảnh năm tàn và trời đông giá rét thì con người đã dễ sinh sầu cảm lắm rồi, cho nên hà tất gặp cảnh ngộ như Khuất Nguyên mới oán sầu. 2) Vi viên : tức Tử Vi Viên, còn gọi là Tử Vi Sảnh, cũng gọi tắc là Vi Viên hoặc Vi Sảnh. Đó là tên gọi toà Trung thư, một cơ quan trọng yếu của triều đình. 3) Thuần lô (rau thuần cá vược)Trương Hàn truyện, Tấn thư chép rằng, Trương Hàn, người quận Ngô nước Tấn, trong khi làm quan ở xa nhân gặp gió thu nổi lên lại nhớ tới thức ăn quê hương là canh rau Thuần và gỏi cá Vược, và than rằng, người ta sinh ra cốt là được thoả cái ý thích của mình, vậy cớ sao mình lại cứ chịu ràng buộc với quan chức ở ngoài ngàn dặm để cầu danh tước. Rồi Trương Hàn thôi quan trở về quê hương.

Chú thích :

Dịch nghĩa : Cuối mùa thu

Năm tàn trời rét, lòng khách dễ sinh sầu thương,

Nhà thơ hà tất phải oán trách cỏ Giang li.

Sau khi hoa cúc tàn bên bờ giậu trước làn gió Tây,

Là lúc bóng nhạn mất hút nơi khoảng núi hồ trong cảnh mưa đêm.

Cảnh già bức cảnh người, cứ lần tới xồng xộc,

Ánh thu luyến tiếc ta, trôi đi chầm chậm.

Xong giấc mộng ở chốn Vi viên thì đầu sắp bạc,

Chính là lúc do lỡ hẹn “rau thuần cá vược”

Dịch thơ :

Cuối năm rét dễ gợi sầu lên,

Thơ với Giang li, lọ oán phiền.

Phên giậu, cúc tàn sau gió lạnh,

Núi hồ, nhạn vắng khoảng mưa đêm.

Lấn người, cảnh lão đi nhanh quá,

Yêu tớ, làn thu thổi chậm thêm.

Giấc mộng công danh đầu sắp bạc,

Thuần, Lô đang sợ hẹn thành quên.

Đào Phương Bình dịch

NGUYỄN TRÃI (1380 - 1442)

Bài: Giang hành

Tây tân sơ nghĩ trạo,

Phong cảnh tiện giang hồ.

Vũ quá sơn dung sấu,

Thiên trường nhạn ảnh cô. Thương Lang(1) hà xứ thị, Ngư điếu(2) hảo vi đồ. Hồi thủ đông hoa(3) địa,

Trích: Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Văn học - Trung tâm nghiên cứu quốc học, 2001.

Trần ai giác dĩ vô.

1) Thương Lang : một chi nhánh của sông Hán Thuỷ (Trung Quốc) câu này tứ ở bài Ngư phủ của Khuất Nguyên “Thương Lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh; Thương Lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc” (Nước sông Thương Lang mà trong thì ta có thể giặt dải mũ của ta; nước sông Thương Lang mà đục thì ta có thể rửa chân ta. Nguyễn Trãi nhắc đến sông Thương Lang là có ý nói đến chuyện “đục trong” ở đời mà bày tỏ thái độ của mình. 2) Ngư điếu: ông chài. Bài Ngư phủ kể rằng Khuất Nguyên khi bị đày, có lần đi thơ thẩn ở bờ sông, gặp một ông chài và hai người đã đối đáp về lẽ trong đục, tỉnh say ở đời. 3) Đông Hoa: đời Thanh (Trung Quốc), nội cát đặt trong cửa Đông Hoa. Đây chỉ miếu đường, nơi Nguyễn Trãi làm việc.

Chú thích :

Dịch nghĩa : Đi thuyền trên sông

Bến tây thuyền mới ghé mái chèo,

Phong cảnh đã có vẻ giang hồ rồi.

Mưa tạnh dáng núi như gầy đi,

Trời rộng, bóng nhạn thêm lẻ loi.

Biết sông Thương Lang ở nơi nào đây,

Mà tìm đến đánh bạn với ông chài cũng hay.

Ngoảnh đầu nhìn lại cửa Đông Hoa,

Thấy mình đã sạch hẳn bụi trần.

Dịch thơ :

Thuyền mới ghé bờ tây,

Cảnh sông hồ sẵn bày.

Trời xa, bóng nhạn lẻ;

Mưa tạnh, dáng non gầy.

Ngư phủ tìm làm bạn,

Thương Lang có phải đây?

Cửa Đông Hoa ngoảnh lại,

Thấy giũ sạch trần ai.

Nguyễn Khuê dịch

Bài:  Đoan ngọ nhật(1)

Thiên trung cộng hỉ trị giai thần, Tửu phiếm xương bồ tiết vật tân(2). Tiến thiếp đương niên tư Vĩnh Thúc(3), Trầm Tương để sự thán Linh Quân(4). Tịch hà bất dụng ty triền tý(5), Tuỳ tục liêu vi ngải kết nhân(6). Nguyện bả lan thang phân tứ hải(7),

Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.

Tùng kim táo tuyết cựu ô dân.

Chú thích :

1) Đoan ngọ : Tết mồng 5 tháng 5 Âm lịch, ngày mất của Khuất Nguyên. 2) Xương bồ : một thứ cây nhỏ, ở Trung Quốc có tục ngày tết Đoan ngọ thì lấy cây xương bồ tán nhỏ ra mà rắc vào rượu để uống. 3) Vĩnh Thúc : tên tự của Âu Dương Tu, đỗ tiến sĩ, là một đại văn hào và cũng là một trung thần đời Tống. 4) Linh quân : tức Khuất Nguyên 5) Tết Đoan ngọ có tục đeo bùa ngũ sắc. 6) Tết Đoan ngọ có tục lấy ngải cứu bện hình người treo trước cửa để trừ tà ma. 7) Thang lan : nước nấu bằng hoa lan hoặc lá lan để tắm rửa cho thơm.

Dịch nghĩa : Ngày tết Đoan ngọ

Tiết thiên trung ai cũng vui mừng được buổi đẹp trời,

Rượu ngâm cỏ xương bồ là thức mới ngày tết.

Nhớ Vĩnh Thúc năm xưa dâng tờ thiếp lên vua,

Than tiếc Linh Quân tự trầm mình ở sông Tương.

Trừ tà không cần tơ buộc quanh cánh tay,

Theo tục lệ hãy lấy lá ngải bện làm hình người.

Muốn đem nước cỏ lan chia khắp bốn biển,

Để từ nay rửa sạch cái nhơ nhớp cũ cho dân.

Dịch thơ :

Đoan dương tiết, đẹp người vui họp,

Quà tết tinh khôi món rượu bồ.

Thiếp gửi bệ rồng, khen Vĩnh Thúc;

Thân vùi đáy nước, xót Tam Lư!

Bện người kết ngải làm theo tục,

Đeo chỉ trừ ma, chẳng thiết bùa.

Nguyện tưới thang lan cùng bốn biển,

Vì dân rửa sạch nhớp nhơ xưa.

Ngô Linh Ngọc dịch

NGUYỄN MỘNG TUÂN (? - ?)

Bài: Hạ thừa chỉ Ức Trai tân cư

Thiện trị ưng tri kế tử kinh,

Hà tu lâu ốc hộ tân minh?.

Nhất điều thuỷ lãnh tri Tam quán,

Tứ bích giai bần phú lục kinh.

Mai ảnh nguyệt miêu lai giáng trướng,

Hà hoa phong đệ tống sơ linh.

Huề hồ nghĩ dục đồng thanh thưởng.

Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 4, Trung tâm KHXH & NV Quốc gia, 2000.

Giai tuý nhân vật độc tinh.

1) Tử kinh : câu này rút từ câu trong sách Luận ngữ: “Tử kinh thiện cư thất” (Công tử kinh người Vệ khéo làm nhà ở) 2) Tân minh : bài văn theo thể minh mới làm (thể minh có nghĩa giáo huấn thường khắc ở chuông chùa, hay treo nơi nhà nho sĩ thời xưa). 3) Tam quán : tức Chiêu văn quán, Tập hiền viện, Sử quán. 4) Giáng trướng : màn đỏ, theo điển Mã Dung đời Hán có treo màn đỏ nơi dạy học. Nguyễn Trãi phụ trách cả ba quán, trong đó có giáo dục nên dũng điển đó cũng hợp. 5) Câu này rút ý của Khuất Nguyên trong bài Ngư phủ “Nhân giai tuý, duy ngã độc tỉnh hề” (Mọi người say, riêng ta vẫn tỉnh). Chữ tỉnh ở đây đọc là “tinh” cho hợp vần bằng.

Chú thích :

Dịch nghĩa : Mừng nhà mới của Thừa chỉ Ức Trai

Khéo chọn nơi để nối chí Tử Kinh,

Cần gì có bài minh mới để dán ở cái nhà xuềnh xoàng?

Làm việc ở Tam quán mà nhà lạnh lẽo như một dòng nước,

Sách vở thì giàu nhưng của thì nghèo xơ cả bốn vách.

Ánh trăng tạc cây mai vào tấm màn đỏ nơi dạy học,

Gió đưa mùi hoa sen lọt qua hàng cây cối thưa thớt.

Muốn mang bầu rượu đến cùng ông thưởng thức thú thanh cao,

Khuyên ông nên cùng say với mọi người chứ không nên tỉnh một

mình!

Dịch thơ :

Tử Kinh nối chí khéo làm nhà,

Lậu ốc cần chi có bản ca?

Lạnh lẽo một dòng quan cực phẩm,

Xác xơ bốn vách sách nghìn pho.

Dáng mai trăng tạc nơi màn đỏ,

Sen ngát hương qua cây cối thưa.

Mang rượu đế ông cùng thưởng thức,

Say theo người ! Chớ tỉnh mà ta !

Trần Thanh Mại dịch

LÊ THÁNH TÔNG (LÊ TƯ THÀNH 1442 - 1497)

Bài: Đan Nhai(1) hải môn

Thanh long triều trướng thuỷ liên thiên, Bổng hịch nam lai tạm nghỉ thuyền(2).

Tường hải yên thì yêu lẫn tức,

Tâm cơ vong xử chữ âu miên. Hy kỳ Tam toạ (toà) thanh u cảnh(3), Đoan tục Song Ngư tử thuý điên(4). Sở phách hoài sa chung cổ hận(5),

Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 4, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, 2000.

Bằng thuỳ tác phú điếu Tương xuyên?

1) Đan Nhai: còn có tên là cửa Hội Thống, giữa hai huyện Nghi Lộc và Nghi Xuân. 2) Theo câu thơ này, thì bài này làm lúc chiến thắng trở về. 3) Tam toà: là miếu thờ con thứ tám vua Lý Thái Tông, là Lý Hoằng cai trị Nghệ An được nhân dân tin cậy, ở gần cửa hội. 4) Song Ngư: phía ngoài cửa Lò (Nghệ An) hình hai con cá sóng nhau. 5) Hoài sa: là tập thơ mà Khuất Nguyên để lại trước khi chết ở sông Mịch La, vùng Tương Giang (Hồ Nam)

Chú thích :

Dịch nghĩa : Cửa biển Đan Nhai

Thuỷ triều lên mạnh như rồng cuốn, mặt biển tiếp với chân trời,

Cầm hịch chiến đấu ở Nam ra, tạm nghỉ thuyền nơi đây.

Bể lặng cuộc sống vui thì “thẫn khí” biến mất,

Lòng sáng, không còn mưu ác thì chim hải âu được ngủ yên.

Trang nghiêm miếu Tam Toà, cảnh trí hiện,

Thấp thoáng hòn Song Ngư, hoa lá xanh đỏ chen nhau.

Nhớ đến chuyện Khuất Nguyên nước Sở “ôm cát” mang mối hận

nghìn thu,

Biết nhờ ai làm cho bài phú khóc bên sông Tương?

Dịch thơ :

Biển trời tiếp dính lúc triều lên,

Nam tiến đi về, tạm nghỉ thuyền.

Mặt nước lặng im thẫn khí biến,

Tấm lòng không ác hải âu yên.

Trang nghiêm Toà miếu dáng hình ẩn,

Thấp thoáng Hòn Ngư hoa lá chen.

“Ôm cát” Khuất Nguyên muôn thuở hận,

Nhờ ai làm phú khóc Tương xuyên?

Hùng Nam Yến dịch

Bài:

Ngư phủ đình Trục thần tư hoạn thiết,(1)

Tâm thượng biệt sầu đa. Ngư phủ trường ca bãi,(2)

Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 4, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, 2000.

Quy quy phó Mịch La.

1) Chỉ Khuất Nguyên, bề tôi trung thành của nước Sở 2) Ở câu thơ này, tác giả có nhắc đến bài hát ông chài, vì thật ra, khi ông chài gõ chèo bỏ đi, thì vừa chèo vừa ca hát bài dân ca như sau: “Thương Lang chi thuỷ thanh hề. Khả dĩ trạc ngã anh! Thương Lang chi thuỷ trọc hề. Khả dĩ trạc ngã túc” (Nước sông Thương Lang trong thì ta giặt cái giải mũ, nước Thương Lang đục thì ta rửa chân). Bài hát này sách Mạnh Tử cũng có trích.

Chú thích:

Dịch nghĩa : Đình ông chài

Người bề tôi (chỉ Khuất Nguyên) bị đuổi vẫn lo cho

hoạn nạn của đất nước,

Nỗi sống, lúc ly biệt, rất sầu thảm.

Sau khi nghe hết bài ca dân gian ông chài hát,

Thì xăm xăm gieo mình xuống sông Mịch La.

Dịch thơ :

Thân này tuy bị bỏ rơi,

Lòng này vẫn cứ lo đời thiết tha!

Gặp chài, nghe dứt lời ca,

Bóng chài vừa khuất Mịch La gieo mình.

Hồ Ngọc Băng Tâm dịch.

NGUYỄN DU (1766 - 1820)

Bài:

Ngũ nguyệt quan cạnh độ Hoài vương quy táng(1), Trương Nghi tử(2), Sở quốc từ nhân ký bội lan(3). Thiên cổ chiêu hô chung bất phản(4), Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan(5).

Yên ba diểu diểu không bi oán,

La cổ niên niên tự tiếu hoan.

Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.

Hồn nhược quy lai dã vô thác, Long xà quỷ vực biến nhân gian(6).

1) Sở Hoài Vương không nghe lời Khuất Nguyên can, sang hội nước Tần, bị giữ lại rồi chết ở đấy, sau đưa hài cốt về an táng ở nước Sở. 2) Trương Nghi: mưu sĩ nước Tần, đi thuyết sáu nước nhằm thực hiện kế liên hoành, chống lại kế hợp tung.

Chú thích :

3) Ly Tao có câu: “Xâu chùm hoa thiên lý xinh xinh”. Đây chỉ Khuất Nguyên làm bài Ly Tao. 4) Chỉ bài Chiêu hồn 5) Khuất Nguyên mất ngày mồng 5 tháng 5. Hằng năm, cứ ngày này, người Trung Quốc tổ chức kỉ niệm nhà thơ, thường đua thuyền tượng trưng cho việc đi tìm thi thể nhà thơ. 6) Hai câu cuối kí thác tâm sự nhà thơ .

Dịch nghĩa : Tháng năm xem đua thuyền

Hài cốt Hoài vương đưa về an táng, Trương Nghi cũng đã chết rồi.

Nhớ khách bội lan, nhà văn nước Sở

Nghìn năm gọi hồn, hồn vẫn không về.

Thuyền đua đầy sông, thật chẳng có ý nghĩa gì,

Khói sóng mờ mịt luống đau thương oán giận

Hàng năm chiêng trống vẫn tự bày trò vui.

Nếu hồn trở về cũng không biết nương tựa vào đâu,

Khắp cõi người đầy những rắn rồng quỷ quái.

Dịch thơ :

Hoài vương qui táng, Trương Nghi chết,

Nước Sở còn ghi khách bội lan.

Nghìn thưở gọi hồn nào có thấy,

Đầy sông đua trải thật thêm nhàm.

Nước mây nhiều lúc sầu thêm hão,

Chiêng trống năm năm hát múa tràn.

Nếu thật hồn về không chỗ ở,

Rắn rồng quỷ quái khắp nhân gian.

(Theo bản dịch cũ)

Bài:  Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu(1)

Nhị thủ

I

Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải(2), Thử địa do văn lan chỉ hương(3).

Tông quốc tam niên bi phóng trục,

Sở từ vạn cổ thiện văn chương.

Ngư long giang thượng vô tàn cốt, Đỗ nhược châu biên hữu chúng phương(4).

Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.

Cực mục thương tâm hà xứ thị?) Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương(5).

1) Tương Đàm: tên một huyện tỉnh Hồ Nam. Tam Lư đại phu: là chức của Khuất Nguyên dưới lệnh doãn (tương đương với Tể tướng) 2) Hiếu tu nhân: người thích sửa sang đức tốt. Chữ lấy trong Sở từ. 3) Lan, chỉ: hoa lan, hoa chỉ. Ý muốn nói phẩm chất tốt đẹp. 4) Đỗ nhược là một loại giống cây sen, hoa màu trắng có sáu cánh. 5) Nguyên, Tương: là hai con sông thuộc tỉnh Hồ Nam. Nhà thơ từ phía Nam đi lên Bắc Kinh theo dòng sông Tương. Sông Nguyên cũng chảy vào hồ Động Đình, nhưng ở xa hơn. Sở dĩ, Nguyễn nhắc đến là vì Khuất Nguyên có đi qua sông này. Nguyễn Du đến Trường Sa ngày 18 tháng 7 năm Quý Dậu (1813).

Chú thích :

Dịch nghĩa: Qua Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu

Hai bài

I

Người hiếu tu sống cách đây hai nghìn năm,

Mà nay đất này còn thơm mùi hoa lan, hoa chỉ.

Buồn rầu suốt ba năm vì bị đày xa tổ quốc,

Nghìn đời sau Sở từ vẫn là án văn chương hay nhất.

Dòng sông đầy rồng cá, không tìm thấy nắm xương tàn,

Nhưng bên bãi đỗ nhược, có nhiều giống cỏ thơm.

Nhìn hết tầm mắt, đau lòng, không biết là đâu?

Đi qua vùng Nguyên, Tương giữa lúc gió thu thổi lá cây rụng.

Dịch thơ: I

Người hiếu tu hai nghìn năm trước,

Còn hương lan phản phất đâu đây.

Ba năm cố quốc đoạ đày,

Sở từ muôn thuở bậc thầy văn chương.

Dòng rồng cá nắm xương đâu tá?

Cỏ hoa thơm đầy cá bãi sông.

Xa xa trông những đau lòng,

Giữa mùa lá rụng qua vùng Nguyên, Tương.

(Theo bản dịch cũ)

II

Sở quốc oan hồn táng thử trung(1),

Yên ba nhất vọng diểu hà cùng. Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ(2), Hà hữu Ly tao kế Quốc phong?(3) Thiên cổ tuỳ nhân liên độc tỉnh,(4)

Tứ phương hà xứ thác cô trung? Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục,(5) Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.(6)

1) Sở quốc oan hồn: oan hồn người nước Sở, chỉ Khuất Nguyên. 2) Hiến lệnh: tức pháp lệnh. Khuất Nguyên làm hiến lệnh giúp Sở Hoài Vương. 3) Quốc phong: đây chỉ Kinh Thi 4) Bài Ngư phủ của Khuất Nguyên có câu: “Mọi người đều say chỉ một mình ta tỉnh. 5) Khuất Nguyên có nói: “Lúc trẻ ta ham đồ phục sức lạ, gươm dài mũ cao, ý nói mình trung trực khác người. 6) Tiêu lan: các thứ hoa Khuất Nguyên thường đeo để tỏ lòng cao khiết của mình. Hai câu sau cũng có ám chỉ thời sự, tức chuyện quan trường nhà Nguyễn.

Chú thích :

Dịch nghĩa : II

Hồn oan người nước Sở chôn ở đây,

Khói sóng mênh mông nhìn không sao cùng.

Nếu hiến lệnh của ông mà được ban hành khắp thiên hạ,

Thì làm gì có Ly tao nối Quốc phong?

Nghìn thuở, ai thương người tỉnh một mình,

Bốn phương biết gửi tấm lòng cô trung vào đâu?

Gần đây người ta thường thích ăn mặc lạ,

Nhưng hoa tiêu hoa lan họ đeo khác với ông lắm!

(Theo bản dịch cũ)

Dịch thơ : II

Nghe nói hồn oan táng dưới sông,

Một vùng mây nước mịt mù trông.

Ví bằng hiến lệnh ban thiên hạ

Sao có Ly tao nối Quốc phong?

Nghìn thưở ai thương người độc tỉnh?

Bốn phương đâu gửi dạ cô trung?

Gần đây ăn mặc thường ham lạ,

So với người xưa có giống không?

(Theo bản dịch cũ)

Bài:  Biện giả(1)

Bất thiệp Hồ nam đạo,

An tri trương thuỷ thâm? Bất độc hoài sa phú,(2)

An thức Khuất Nguyên tâm?

Khuất Nguyên tâm, Tương giang thuỷ,

Thiên thu vạn thu thanh kiến để.

Cổ kim an đắc đồng tâm nhân?

Giả sinh nhất phú đồ vi nhĩ.

Liệt nữ tòng lai bất nhị phu, Hà đắc thê thê “tướng cửu châu”?(3)

Vị tất cố nhân trì hữu ngã,

Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.

Nhãn trung Tương thuỷ không du du!

1) Giả Nghị (201- 169 trước công nguyên) người đời Hán. Giả Nghị làm bác sĩ lúc hơn hai mươi tuổi, bị các quan đại thần bài xích, phải trích đi làm thái phó ở Trường Sa. Khi đi qua bến sông Tương, làm bài phú viếng Khuất Nguyên, ngụ ý than thở cảnh ngộ mình. 2) Hoài sa phú, tác phẩm của Khuất Nguyên một trong chín bài của Cửu chương. 3) Trong bài phú viếng Khuất Nguyên của Giả Nghị có câu: Đi khắp chín châu mà tìm vua khác, hà tất cứ ôm lấy cố đô làm gì?” Ý chê bai Khuất Nguyên, vì thế mà Nguyễn Du bác đi.

Chú thích :

Dịch nghĩa : Bác Giả Nghị

Không đi qua Hồ Nam

Biết sao được sông Tương sâu?

Không đọc bài Hoài Sa

Sao biết được nỗi lòng Khuất Nguyên?

Nỗi lòng Khuất Nguyên và nước sông Tương

Nghìn năm vạn năm vẫn trong suốt thấy đáy,

Cổ kim mấy ai được bạn đồng tâm,

Bài phú của Giả Nghị chẳng có nghĩa lý gì,

Liệt nữ xưa nay không thờ hai chồng.

Lẽ nào lại tất tả đi khắp “chín châu tìm vua khác?”

Vị tất người xưa đã biết có ta,

Trước mắt thấy dòng sông Tương lặng lờ trôi đi.

Dịch thơ :

Không qua Hồ Nam,

Không biết nước sông Tương.

Không đọc bài Hoài Sa,

Không biết lòng Khuất Nguyên đáng thương.

Nước ấy lòng này,

Trong suốt từ ngàn xưa đến nay.

Xưa nay đồng tâm được mấy ngưòi,

Phú Giả sinh không đáng cho là hay.

Thờ một chồng là lòng liệt nữ,

Sao lại phải chín cõi đi tìm hoài?

Người xưa biết sau này có ta chăng?

Nước sông Tương chảy mãi bao giờ thôi!

(Theo bản dịch cũ)

Bài:  Phản Chiêu hồn(1)

Hồn hề? Hồn hề? hồ bất qui?

Đông tây nam bắc vô sở y.

Thướng thiên há địa giai bất khả, Yên Dĩnh thành trung lai hà vi?(2)

Thành quách do thị, nhân dân phi,

Trần ai cổn cổn ô nhân y.

Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa, Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quỳ.(3)

Bất lộ trảo nha dữ giác độc,

Giảo tước nhân nhục cam như di.

Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu,

Chỉ hữu sấu tích vô sung phì.

Hồn hề! Hồn hề! suất thử đạo, Tam hoàng chi hậu phi kỳ thì(4). Tảo liễm tinh thần phản thái cực,(5)

Thận vật tái phản linh nhân xi. Hậu thế nhân dân giai Thượng Quan,(6) Đại địa xứ xứ giai Mịch La,(7)

Ngư long bất thực, sài hổ thực,

Trích Nguyễn Du - tác phẩm và lịch sử văn bản, Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (Biên khảo và chú giải), Nxb TPHCM, 2000.

Hồn hề! Hồn hề! nại hồn hà?

1) Chiêu hồn : một bài từ của Tống Ngọc, người cùng thời với Khuất Nguyên. Trong bài tựa có câu: “Tống Ngọc thương Khuất Nguyên hồn phách sắp tiêu tan, làm bài từ gọi hồn ông về”. Nguyễn Du phản lại ý ấy, làm bài Phản chiêu hồn khuyên hồn nhà thơ đừng trở lại cõi đời này đầy rẫy những bọn gian ác. 2) Yên : đất nước Sở nay thuộc Nghi Thành, tỉnh Hồ Bắc, Dĩnh cũng đọc là Sính, kinh đô nước Sở cũng thuộc tỉnh Hồ Bắc nay gần Giang Lăng. 3) Cao, Quỳ : Cao Dao và Quỳ là hai vị quan giỏi đời Ngu Thuấn. 4) Tam Hoàng : có nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết nói Tam Hoàng là Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế, ba ông vua cổ nhất của Trung Quốc 5) Thái cực : cõi hư vô 6) Thượng Quan : tức Thượng Quan Ngân Thượng là kẻ gièm pha làm cho vua nước Sở ruồng bỏ Khuất Nguyên. 7) Mịch La : con sông thuộc huyện Tương Âm (tỉnh Hồ Nam).

Chú thích :

Dịch nghĩa : Chống chiêu hồn

Hồn ơi! Hồn ơi! Sao hồn chẳng về?

Đông tây nam bắc không có nơi nương tựa.

Lên trời hay xuống đất đều không được,

Về đất Yên, đất Dĩnh mà làm gì?

Thành quách vẫn như cũ, nhưng người thì khác lắm rồi.

Bụi bay mù mịt, bẩn cả quần áo.

Họ đi ra thì ngựa ngựa xe xe, ngồi ở nhà thì vênh vênh váo váo

Đứng hay ngồi, họ cao đàm khoát luận như thể ông Cao, Ông Quỳ.

Họ không thể lộ nanh vuốt, nọc độc,

Nhưng ăn thịt người ngọt xớt như ăn đường mật.

Hồn không thấy mấy mấy trăm châu ở Hồ Nam đó sao?

Toàn những người gầy ốm, chẳng một ai béo tốt.

Hồn ơi! Theo đường đó mà về

Thì sao đời Tam Hoàng, chẳng còn hợp thời nữa đâu!

Hãy sớm thu tinh thần về cõi thái hư,

Đừng trở lại đây làm chi cho người ta mai mỉa!

Đời sau này, ai ai cũng gian nịnh như Thượng Quan,

Trên mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La!

Thân thể không bị cá rồng nuốt thì hùm sói cũng ăn.

Hồn ơi! Hồn ơi! Biết làm thế nào?

Dịch thơ :

Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn đừng về!

Khắp nơi chẳng có gì chở che.

Lên trời xuống đất đều không được,

Vào thành Yên, Dĩnh mà làm chi?

Thành quách như cũ, người khác xưa,

Bụi bay mù mịt khắp tư bề,

Đi ra xe ngựa về vênh váo,

Đứng ngồi ăn nói như Cao, Quỳ.

Không lộ nanh vuốt cùng nọc độc,

Nhưng chén thịt người cứ tì tì.

Há chẳng thấy mấy trăm châu ở Hồ Nam?

Người người đói rách, gầy như que.

Hồn ơi! Hồn ơi đường hồn đi,

Sau đời Tam Hoàng không phải thì.

Sớm thu tinh thần về Thái cực,

Đừng về đây nữa mà người chê.

Đời này hết thảy là Thượng Quan,

Nơi nơi đâu cũng là Mịch La!

Ca rồng không nuốt hùm sói tha.

Hồn ơi! Hồn ơi! Biết làm sao?

PHAN HUY CHÚ (1782 - 1840)

Bài: Tam Lư đại phu miếu(1)

Vu chẩn thương hoài thệ thuỷ tần, Cửu ca(2) tiều tuỵ kỷ lân quân.

Nga mi dung dị chiêu sàm nữ, Lan uyển thê lương vọng mỹ nhân.(3)

Tương phố thiên thu di bội nguyệt, Sính môn(4) hà xứ bạch y vân.

Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.

Tao từ trùng cảm Nam Lai khách, Thiều đệ giang cao lãm cự tần.(5)

1) Tam Lư đại phu: chức quan to ở triều đình nước Sở, ở đây muốn nói tới Khuất Nguyên. 2) Cửu ca: tác phẩm của Khuất Nguyên 3) Những từ trong hai câu thơ số 3 và số 4, cũng như trong toàn bài phần lớn đều lấy từ các tác phẩm của Khuất Nguyên, chủ yếu là trong Li tao. “Mày ngài”: Vẻ đẹp của phụ nữ, ở đây muốn nói đến người hiền tài; “vườn lan”: ý muốn nói đến đức độ tài năng của những người hiền tài như Khuất Nguyên; “mỹ nhân”: ý muốn nói đến bậc vua chúa anh minh. 4) Sính đô: đô thành nước Sở 5) Trong các tác phẩm của mình, Khuất Nguyên thường lấy các loài hoa cỏ thơm để tự ví với tâm hồn cao khiết, lý tưởng cao đẹp vì nước, vì dân của mình.

Chú thích :

Dịch nghĩa : Miếu thờ Tam Lư đại phu

Tấm lòng đau đớn u hoài theo bến nước,

Thơ “Cửu ca” chứa chất nỗi khổ đã mấy người thương ông.

Mày ngài xinh đẹp dễ chọc tức bọn đàn bà thích gièm pha chê bai,

Vườn lan lạnh lẽo trông chờ mỹ nhân, mong chờ mãi.

Bến sông Tương ngàn năm còn treo vừng trăng sáng như phiếm

ngọc đeo,

Cổng thành Sính đô biết từ đâu gạt làn mây phủ.

Lời thơ Ly tao làm cho người khách phương Nam xiết bao thương

cảm,

Từ nơi xa muốn ôm lấy đám cỏ thơm bên sông.

NGUYỄN CÔNG TRỨ (1778 - 1859)

Bài: Vịnh Khuất Nguyên

Thế nhân giai tuý nhi giai trọc, Duy ngã độc tỉnh nhi độc thanh.(1) Thuở hôn hôn(2) ai tỏ dạ trung thành,

Còn nấn na chi nữa cho bận!

Cô phẫn khai thành thiên khả vấn, Độc tinh nhân khứ quốc cơ không.(3)

Dòng Mịch La dù đục đục trong trong, Đèn bất dạ(4) hãy soi người thiên cổ. Bát ngát buổi giang thiên dục mộ,(5)

Tiếng ngư ca còn đồng vọng đâu đây?

Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.

Nghĩ tình ai cũng xót vay!

1) Người đời đều say và đục, chỉ có mình ta là tỉnh và trong sạch. Đây lấy ý hai câu trong bài Ngư phủ của Khuất Nguyên: “Cử thế giai trọc ngã độc thanh, chúng nhân giai tuý ngã độc tỉnh” (cũng đọc là tinh) nghĩa là đời đều đục cả mà một mình ta trong, mọi người đều say mà một mình ta tỉnh. 2) Hôn hôn : mờ mờ, mù tối 3) Cái phẫn uất kết thành khí có thể xông lên mà hỏi đời, người “một mình tỉnh” đã đi thì cả nước hầu như không còn có ai nữa. Hai câu này lấy trong bài thơ của nữ sĩ Phạm Lan Anh vịnh Khuất Nguyên. Khuất Nguyên có làm bài Thiên vấn hỏi trời. 4) Đèn bất dạ: Đèn không bao giờ tối, tức tấm lòng của Khuất Nguyên . 5) Giang thiên dục mộ: cảnh sắp tối trên sông.

Chú thích :

CAO BÁ QUÁT (1808 - 1854)

Bài: Thù hữu nhân uý vấn

Lâu thượng Nguyên Long khả nại hào!

Đa tinh đa bệnh bất tri lao.

Ngẫu nhiên phủ kỷ tâm thiên toái,

Hốt nhĩ hoài nhân nhật bách tao.

Sác cử tửu bôi liên Tĩnh Tiết,

Lũ niêm thi cú nghĩ Ly tao.

Bằng quân ký ngữ cựu tương thức:

Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.

Thử thách sầu trung chỉ tự trào!

1) Nguyên Long: tên tự của Trần Đăng đời Tam Quốc, một người trầm nghị có chí lớn, khinh những kẻ tầm thường. Một hôm, trong khi bình phẩm các nhân vật đương thời, Hứa Dĩ có phàn nàn với Lưu Bị rằng: “Nguyên Long là người ngang dọc bể hồ, song tính ngông vẫn không chịu bỏ” và nói có lần gặp Long, Long lên nằm trên giường cao để Dĩ nằm cái giường thấp. Lưu Bị nói: “Nay ở trong nước loạn lạc, ông cũng là một đấng nam nhi, đáng lẽ phải vì nước quên nhà, thế mà ông toàn nói chuyện làm nhà, tậu ruộng…chẳng câu nào đáng để vào tai cả. Nếu tôi là Nguyên Long thì tôi sẽ nằm trên lầu cao trăm thước mà để ông nằm dưới đất mới phải. 2) Tĩnh Tiết: biệt hiệu của Đào Tiềm, người đời Tấn. Trước làm chức lệnh ở Bành Trạch, sau bỏ quan về quê, chỉ thích uống rượu, thưởng cúc. Khi nhà Tấn bị nhà Tống cướp mất ngôi vua, thì ông tỏ thái độ không thần phục nhà Tống. 3) Ly tao: tên một tác phẩm của Khuất Nguyên.

Chú thích :

Dịch nghĩa : Trả lời người bạn hỏi thăm

Nguyên Long ở trên lầu, hào khí vẫn còn giữ mãi,

Tình nhiều bệnh nhiều mà vẫn không nhụt chí.

Bất chợt nghĩ đến mình, nát tường khúc ruột.

Có khi nhớ tới bạn mỗi ngày hàng trăm lần.

Năng cất chén rượu tỏ lòng mến Tĩnh Tiết.

Lại hay làm thơ để sánh với Ly tao.

Xin gửi lời nói với những người quen cũ rằng:

“Cái lão ấy, hễ buồn là chỉ tự nhạo mình mà thôi”!

Dịch thơ :

Trên gác Nguyên Long vẫn tính ngông,

Tình nhiều bệnh lắm chẳng ngồi không.

Xót thân, lòng mấy hồi tan nát,

Vắng bạn ngày trăm lượt nhớ mong.

Bầu dốc những ưu làm Tĩnh Tiết

Vần gieo toan đọ với Tao ông:

Nhờ anh nhắn giúp ai quen biết,

Rằng tớ khi buồn độc nói bông.

Xuân Trang dịch

MIÊN THẨM (1819 - 1870)

Bài: Độc Nguyễn Đình Chiểu điếu nghĩa dân

tử trận quốc ngữ văn

Chiến trường hựu bả điếu văn khai,

Lạp lạp biên thành nhất nhất lai. Quốc ngữ danh tề Manh Tả(1) sử, Quỉ hùng ca đáo Khuất Bình(2) ai! Yết cam trảm mộc(3) kham thiên cổ, Oán hạc đề viên(4)tính kỷ hồi.

Chí cánh thư sinh không bút trận,

Báo quân chỉ thử diệc bí tai!

1) Manh Tả: Tả Khưu Minh đời Xuân Thu là sử gia thời bấy giờ. Vì mắt mù nên gọi là Manh Tả; ví với Nguyễn Đình Chiểu cũng bị mù mà làm văn tế. 2) Khuất Bình: chính tên là Khuất Nguyên, người đời Chiến Quốc, làm vong điếu trận vong tướng sĩ, có câu “Hồn phách nghị hề vi quỷ hùng”, nghĩa là: các chiến sĩ hồn phách cương nghị, tuy chết nhưng cũng làm con ma anh hùng 3) Yết can trảm mộc: cầm sào, chặt gỗ. Trần Thắng và Hạng Vũ khởi binh đánh Tần, quân lính đều dựng tre làm cờ, chặt gỗ làm giáo. Ý nói vũ khí thô sơ (Hán thư)

Chú thích :

4) Oán hạc đề viên: hạc oán, vượn kêu. Mục vương nhà Chu đem quân đi đánh giặc, quân và tướng đều biến hình; tướng tá hoá làm vượn và hạc, binh lính hoá làm cát và sâu (Thái bình ngự lãm). Đây ý nói: nghĩa dân cũng chết theo quan dân của triều đình.

Dịch nghĩa: Đọc bài văn ông Nguyễn Đình Chiểu

nghĩa dân chết vì nước

Lại mở đọc bài văn điếu về chiến trường,

Tựa hồ như tin ở biên giới dồn dập đưa về.

Quốc ngữ ông cũng hay như ông Tả Khưu Minh mắt mù làm sử,

Lời văn của ông cũng giống bài ca “quỷ hùng” của ông

Khuất Nguyên điếu các người tử trận.

Nhân dân cầm sáo làm cờ, chặt gỗ làm gươm, ngàn xưa vẫn anh

dũng,

Mà đã thành con vượn kêu, con hạc oán mấy lâu nay!

Một người thư sinh mà đến đỗi dùng bút đánh giặc.

Báo ơn vua chỉ ngần ấy cũng khá thương lắm thay!

PHẠM QUÝ THÍCH (1760 - 1825)

Bài: Thu hoài

Cố quốc sơn hà dĩ đại thù,

Cố viên tùng cúc bán hoang vu.

Mang mang thiên địa hoàn bộ khách,

Nhiễu nhiễu phong trần tự hủ nho.

Bệnh cốt bình phân thu lĩnh sấu,

Thần tâm những bạn nguyệt luân cô.

Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.

Hữu nhân khuyến ngã bôi tung thú, Vị vấn Tam Lư(1) chẳng tuý vô?

1) Tam Lư đại phu: chức quan của Khuất Nguyên. Ở đây tác giả tự ví mình như ông Khuất Nguyên, lo phiền vì vận nước sắp nguy, không nỡ uống rượu làm ngơ.

Chú thích :

Dịch nghĩa : Tả nỗi lòng

Non sông nước cũ nay đã khác xa,

Cây tùng cây cúc ở vườn cũ phần nửa đã hoang vu.

Trời đất mịt mù, mình vẫn là một người trốn tránh,

Gió bụi tơi bời mình vẫn là một anh đồ hủ.

Đau ốm gầy còm như núi mùa thu,

Tấm lòng tôi con bạn cùng vừng nguyệt.

Có người khuyên ta mượn thú uống rượu làm vui,

Nhưng thử hỏi ông Tam Lư có chịu say không?

Dịch thơ :

Đổi thay nước cũ, khác non sông,

Hoang vắng rừng xưa, ít cúc tùng.

Trốn tránh trời đất, thân lạc lõng,

Hủ nho gió bụi kiếp long đong.

Tấm thân gầy ốm, non thu lạnh,

Tấc dạ tôi con bóng nguyệt trong.

Có kẻ khuyên ta vui với rượu,

Khuất Nguyên xưa hỏi có say không?

CHU VĂN AN

KHUẤT NGUYÊN (340?-278? tr.CN)

Khuất Nguyên trên dòng sông Mịch La

Cố hương Khuất Nguyên

NGUYỄN TRÃI (1380-1442)

NGUYỄN DU (1765-1820)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dư Quan Anh chủ biên (1997), Lịch sử văn học Trung Quốc , tập 1, Nxb

Văn học Hà Nội.

2. Arixtốt, Nghệ thuật thơ ca, Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long (1999), Nxb

Văn học Hà Nội.

3. Trịnh Ân Ba, Trịnh Thu Lôi (2002), Văn học Trung Quốc (Lê Hải Yến

dịch), Nxb Thế giới Hà Nội.

4. Lương Minh Cừ, Nguyễn Thị Hương (2007), “Tư tưởng thời thế của

Nguyễn Trãi qua tác phẩm Quân Trung Từ Mệnh Tập”, Tạp chí

Khoa học xã hội, số 3.

5. Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (1989), Chiến quốc sách, Nxb Trẻ Hà Nội.

6. Nhật Chiêu (1997), Câu chuyện văn chương Phương Đông, Nxb Giáo

dục.

7. Doãn Chính chủ biên (1993), Đại cương lịch sử triết học Phương Đông

cổ đại, Nxb Giáo dục.

8. Ngô Vĩnh Chính chủ biên (1994), Đại cương lịch sử văn hoá Trung

Quốc, (nhiều người dịch), Nxb Văn hoá Thông tin Hà Nội.

9. Xuân Diệu (1987), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học Hà Nội.

10. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nxb

Văn học Hà Nội.

11. Lê Chí Dũng, Phạm Quang Trung chủ biên (1999), Một số vấn đề văn

học Việt Nam, Nxb Văn học Hà Nội.

12. Dương Ngọc Dũng (1999), Dẫn nhập tư tưởng lý luận văn học Trung

Quốc, Nxb Văn học.

13. Will Durant (1972), Lịch sử văn minh Trung Quốc (Nguyễn Hiến Lê

dịch), ĐHSP.TPHCM.

14. Trần Xuân Đề (1972), Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Nxb Giáo dục

Hà Nội.

15. Trần Xuân Đề (2000), Tác giả, tác phẩm văn học Phương Đông (Trung

Quốc), Nxb Giáo dục Hà Nội.

16. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nxb Giáo dục.

17. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu

(2007), Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục

18. Hà Minh Đức chủ biên (1998), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

19. Lâm Ngữ Đường (1994), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (Nguyễn

Hiến Lê dịch), Nxb Văn hoá.

20. Lâm Ngữ Đường (2001), Trung Hoa, đất nước con người (Trần Văn Từ

dịch), Nxb Văn hoá Thông Tin Hà Nội.

21. Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (Biên khảo và chú giải) (2000),

Nguyễn Du - Tác phẩm và lịch sử văn bản, Nxb TP.HCM.

22. Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (2001), Nguyễn Du, cuộc đời và tác

phẩm, Nxb Văn hoá Thông tin Hà Nội.

23. Dương Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội nhà văn.

24. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh chủ biên (2000), Văn học sử Trung

Quốc ,Tập 1, Nxb Phụ nữ.

25. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn

tham chiếu (Nguyễn Huệ Chi, soạn, chú, giới thiệu), Nxb Văn học.

26. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,

Nxb Giáo dục.

27. Lê Đình Kỵ (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục.

28. Trần Trọng Kim (1971), Nho giáo (quyển thượng), Bộ giáo dục trung tâm

học liệu xuất bản.

29. Đinh Gia Khánh chủ biên (2000), Văn học Việt Nam (Thế kỉ X - nửa đầu

thế kỉ XVIII), Nxb Giáo dục.

30. Nguyễn Hiến Lê (1997), Sử Trung Quốc, Tập 1, Nxb Văn hoá.

31. Mai Quốc Liên chủ biên, (1996), Nguyễn Du toàn tập, Nxb văn học,

Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.

32. Mai Quốc Liên (1998), Phê bình và tranh luận văn học, Nxb Văn học Hà

Nội.

33. Mai Quốc Liên chủ biên (2001), Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Trung

tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn học.

34. Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội.

35. I.S.Lisevich (1993), Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, Trường

ĐHSP.TPHCM.

36. Đoàn Ánh Loan (2000) “Ảnh hưởng của quan niệm thẩm mỹ cổ phương

Đông trong việc sử dụng điển cố”, Tạp chí văn học, số 3.

37. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ

XIX), Nxb Giáo dục.

38. Phương Lựu (1985), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc , Nxb

Giáo dục Hà Nội.

39. Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học

Trung Đại Việt Nam, Nxb Giáo dục.

40. Hà Thúc Minh (1997), Lịch sử triết học Trung Quốc, tập 1, Nxb TP.

HCM.

41. N.I. Niculin (2000), Văn học Việt Nam và giao lưu quốc tế, (Nguyễn Hữu

Sơn tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo dục.

42. Nguyễn Thị Nương (2007), “Tìm hiểu sự vận động trong tư tưởng nghệ

thuật của Nguyễn Du qua những bài thơ Tự thuật”, Tạp chí Hán

Nôm, số 4.

43. Nguyễn Viết Ngoạn (nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn) (2002), Nguyễn

Công Trứ: Tác giả - Tác phẩm - giai thoại, Nxb Đại học quốc gia

TPHCM.

44. Khuất Nguyên (1974), Sở từ (Đào Duy Anh, Nguyễn Sĩ Lâm dịch và chú

thích), Nxb Văn học Hà Nội.

45. Bùi Văn Nguyên (1984), Văn chương Nguyễn Trãi (chuyên luận), Nxb

Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

46. Bùi Văn Nguyên (1992), Nguyễn Du người tình và Nguyễn Du tình

người, Nxb Khoa học xã hội - Nxb Mũi Cà Mau.

47. Bùi Văn Nguyên (2003), Thơ quốc âm Nguyễn Trãi, Nxb Giáo dục.

48. Nguyễn Tôn Nhan (2003), 100 nhân vật nổi tiếng nhất văn hoá Trung

Quốc, Nxb Văn học.

49. Nhà xuất bản đại học bách khoa toàn thư Trung Quốc (2000), Khái yếu

lịch sử văn học Trung Quốc , Tập 1, Nxb Thế giới.

50. Nguyễn Khắc Phi, Trương Chính (1987), Văn học Trung Quốc, tập 1,

Nxb Giáo dục Hà Nội.

51. Nguyễn Khắc Phi (1998), Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lạ.

Nxb Giáo dục Hà Nội.

52. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa Văn học Việt Nam và Văn

học Trung Quốc , Nxb Giáo dục.

53. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần

Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong

văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục Hà Nội.

54. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học Trung Đại Việt Nam - Quan niệm về

con người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội.

55. Sở nghiên cứu văn học thuộc viện khoa học xã hội Trung Quốc (1998),

Lịch sử văn học Trung Quốc (Lê Huy Tiêu, Lương Duy Thứ,

Nguyễn Trung Hiền, Lê Đức Niệm, Trần Thanh Liêm dịch), Nxb

Giáo dục Hà Nội.

56. Trần Đình Sử (2001), “Điển cố trong Truyện Kiều”, Tạp chí văn học,

số 5.

57. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học Trung Đại Việt Nam, Nxb Đại

học quốc gia Hà Nội.

58. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học Trung Đại Việt Nam,

Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

59. Nguyễn Bá Thành (2006), Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội.

60. Tư Mã Thiên (1988), Sử ký (Nhữ Thành dịch), Nxb Văn học Hà Nội.

61. Trần Nho Thìn (2001), Bi kịch tinh thần của nhà nho Việt Nam với tính

cách là một nhân vật văn hóa (khảo sát qua trường hợp Nguyễn

Trãi), Tạp chí văn học, số 7.

62. Trần Nho Thìn (2003), Văn học Trung Đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hoá, Nxb Giáo dục Hà Nội.

63. Lương Duy Thứ chủ biên (1997), Đại cương văn hoá Phương Đông, Nxb

Giáo dục Hà Nội.

64. Lương Duy Thứ, Nguyễn Lộc biên soạn (1997), Thơ ca cổ điển Trung

Quốc, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM, Nxb Trẻ.

65. Sài Phi Thư Trang (2007), “Môi trường văn hoá Nguyễn Du”, Tạp chí

Hán Nôm, số 4.

66. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn

học Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

67. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn

học Việt Nam, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

68. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn

học Việt Nam, tập 4, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

69. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn

học Việt Nam, tập 6, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

70. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn

học Việt Nam, tập 7, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

71. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn

học Việt Nam, tập14, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

72. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn

học Việt Nam, tập15, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

73. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn

học Việt Nam, tập 16, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

74. Trường ĐHSP TPHCM, Phòng KHCN và Sau đại học (1977), Văn học

Việt Nam từ thời Trung cổ đến hiện đại, thế kỷ X - XIX, tác giả

N.I.Niculin, Nxb Khoa học Ban biên tập văn học Phương Đông.

75. Lê Trí Viễn (1985), Lịch sử văn học Việt Nam, Trường ĐHSP- TPHCM,

Lưu hành nội bộ.

76. Viện văn học - Tuyển tập 40 năm Tạp chí văn học (1960 - 1999), tập 2,

Văn học cổ cận đại Việt Nam, Nxb TPHCM.

77. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb

Thanh Niên.

78. Lê Thu Yến chủ biên (2000), Văn học Việt Nam: Văn học Trung Đại -

Những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục.

79. Lê Thu Yến (2001), Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ

người đời sau, Nxb Giáo dục.

80. Lê Thu Yến (2002), Nhà văn trong nhà trường - Nguyễn Du, Nxb Giáo

dục.