BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Chuyên ngành: Tài Chính Ngân Hàng

Mã ngành: 60.34.02.01

Đề tài:

KIỂM CHỨNG LÝ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ TRONG ĐIỀU KIỆN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

HVTH

: Đặng Trịnh Bạch Huy

MSHV

: 020115130040

GVHD

: TS. Nguyễn Trần Phúc

TP. Hồ Chí Minh, tháng 10/2016

TÓM TẮT

Luận văn được thực hiện với mục tiêu nghiên cứu thị trường chứng khoán

Việt Nam hiện nay đã thực sự hiệu quả như lý thuyết thị trường hiệu quả đề cập hay

không và hiệu quả ở mức độ nào, yếu hay trung bình? Bằng cách áp dụng một số

phương pháp kiểm định đã được các nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây sử

dụng, nghiên cứu kết luận thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa thật sự thể

hiện tính hiệu quả ở cả mức độ yếu và trung bình. Ngoài ra, luận văn cũng tiến hành

nghiên cứu thực nghiệm để kiểm tra hiệu ứng ngày trong tuần còn tồn tại trên thị

trường chứng khoán Việt Nam hay không? Kết quả nghiên cứu chỉ ra chỉ có đủ cơ

sở để bác bỏ tỷ suất sinh lợi ngày thứ Sáu là không khác tỷ suất sinh lợi ngày thứ

Hai đối với chỉ số VN-Index, và bác bỏ tỷ suất sinh lợi ngày thứ Tư, thứ Sáu là

không khác tỷ suất sinh lợi ngày thứ Hai đối với chỉ số HNX-Index, còn các trường

hợp còn lại không đủ cơ sở để bác bỏ tỷ suất sinh lợi của các ngày đó không khác tỷ

i

suất sinh lợi của ngày thứ Hai.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Đặng Trịnh Bạch Huy, học viên lớp cao học CH15A, trường đại học

Ngân Hàng TP. Hồ Chí Minh, niên khóa 2013 – 2015.

Luận văn tốt nghiệp này chưa từng được trình nộp để lấy học vị thạc sĩ tại

bất kỳ một trường đại học nào. Luận văn này là công trình nghiên cứu riêng của tôi

bằng việc vận dụng những kiến thức đã tích lũy được trong suốt quá trình học tập,

nghiên cứu của mình, kết quả nghiên cứu là trung thực, trong đó không có các nội

dung đã được công bố trước đây hoặc các nội dung do người khác thực hiện ngoại

trừ các trích dẫn đã được dẫn nguồn đầy đủ trong luận văn và trong danh mục tài

liệu tham khảo.

Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan của tôi.

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2016

Người thực hiện

ii

Đặng Trịnh Bạch Huy

LỜI CÁM ƠN

Lời cám ơn đầu tiên và trân trọng nhất tôi muốn gởi đến Thầy hướng dẫn TS.

Nguyễn Trần Phúc: “Em xin cám ơn Thầy!” Từ những ngày đầu tôi rất bỡ ngỡ với

việc nghiên cứu, Thầy đã rất tận tình hướng dẫn tôi lựa chọn hướng nghiên cứu, chỉ

dẫn tôi tìm tài liệu nghiên cứu để hiểu rõ hơn về vấn đề mình nghiên cứu. Cảm ơn

Thầy vì sự nhẫn nại và lòng nhiệt huyết truyền đạt kinh nghiệm và kiến thức cho

tôi. Cám ơn Thầy vì luôn gợi mở và chỉ dẫn tôi đâu là đích đến. Cám ơn Thầy đã

luôn theo sát từng bước tiến độ của luận văn cũng như sự tỉ mỉ sửa từng lời văn câu

chữ cho hoàn thiện, trau chuốt hơn. Luận văn này chắc chắn không thể hoàn thành

nếu không có sự hướng dẫn tận tâm của Thầy.

Tôi cũng cảm ơn cha mẹ, chị em trong gia đình và đồng nghiệp của tôi đã

luôn động viên, chia sẽ những khó khăn của tôi trong quá trình nghiên cứu và cả

trong cuộc sống.

Cuối cùng, tôi cảm ơn tất cả thầy cô, bạn bè đã hỗ trợ, góp ý giúp tôi hoàn

thiện những thiếu sót của luận văn này, do thời gian và kiến thức còn hạn chế mà

iii

còn nhiều khuyết điểm không thể tránh khỏi.

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU .......................................... 1

1.1 Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1

1.2 Mục đích nghiên cứu của luận văn ............................................................... 2

1.3 Câu hỏi nghiên cứu ...................................................................................... 2

1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3

1.5 Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 3

1.6 Ý nghĩa nghiên cứu ...................................................................................... 4

1.7 Kết cấu của đề tài nghiên cứu ....................................................................... 5

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ........... 6

2.1 Lý thuyết thị trường hiệu quả ....................................................................... 6

2.1.1 Khái niệm thị trường hiệu quả ................................................................... 6

2.1.2 Sự hình thành và phát triển của lý thuyết thị trường hiệu quả .................... 7

2.1.3 Các dạng hiệu quả của thị trường ............................................................ 10

2.1.3.1 Thị trường hiệu quả dạng yếu ............................................................... 10

2.1.3.2 Thị trường hiệu quả dạng trung bình ..................................................... 11

2.1.3.3 Thị trường hiệu quả dạng mạnh ............................................................ 11

2.1.4 Yếu tố ảnh hưởng đến tính hiệu quả của thị trường chứng khoán............. 13

2.1.5 Hàm ý của thị trường hiệu quả ................................................................. 14

2.2 Mô hình toán dùng để kiểm chứng lý thuyết thị trường hiệu quả ................ 16

2.2.1 Mô hình Lợi suất kỳ vọng hay Trò chơi công bằng (The Expected Return

or The Fair Game Model) ................................................................................. 17

2.2.2 Mô hình Trò chơi công bằng có điều chỉnh (The Submartingale Model) . 18

2.2.3 Mô hình Bước đi ngẫu nhiên (The Random Walk Model) ....................... 19

2.3 Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước .......................................... 20

2.3.1 Các nghiên cứu nước ngoài ..................................................................... 24

iv

2.3.2 Thị trường chứng khoán Việt Nam và các nghiên cứu trong nước ........... 27

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................ 33

3.1 Kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu ..................................................... 33

3.1.1 Kiểm định chuỗi (Run test) ...................................................................... 34

3.1.2 Kiểm định tự tương quan (Autocorrelation test) ...................................... 36

3.2 Kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung bình .......................................... 39

3.3 Kiểm định hiệu ứng ngày trong tuần........................................................... 46

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................ 51

4.1 Kết quả kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu ........................................ 51

4.1.1 Kết quả kiểm định chuỗi (Run test) ......................................................... 51

4.1.2 Kết quả kiểm định tự tương quan (Autocorrelation test) .......................... 52

4.2 Kết quả kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung bình .............................. 55

4.3 Kết quả kiểm định hiệu ứng ngày trong tuần .............................................. 61

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ................................................................................... 68

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 70

PHỤ LỤC 1 .......................................................................................................... 75

v

PHỤ LỤC 2 .......................................................................................................... 82

DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH:

Bảng 3.1: Lợi nhuận theo ngày của chỉ số HNX-Index từ 15/09/2014 - 30/09/2014

trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội

Bảng 4.1: Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu

Bảng 4.2: Kết quả kiểm định chuỗi về lợi nhuận theo ngày của chỉ số VN-Index và

HNX-Index

Bảng 4.3: Kết quả kiểm định tự tương quan về lợi nhuận theo ngày của chỉ số VN-

Index và HNX-Index

Bảng 4.4: Kết quả hồi quy lợi nhuận từng cổ phiếu theo lợi nhuận trung bình của thị

trường.

Bảng 4.5: Lợi nhuận bất thường và lợi nhuận bất thường tích lũy cho nhóm cổ

phiếu các ngân hàng

Bảng 4.6: Lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình và các giá trị kiểm định

Bảng 4.7: Mô tả dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu

Bảng 4.8: Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu

Bảng 4.9: Ma trận tương quan giữa các biến

Bảng 4.10: Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến bằng chỉ số VIF

Bảng 4.11: Kiểm định White cho mô hình hồi quy

Bảng 4.12: Kiểm định hiện tượng tự tương quan cho mô hình hồi quy

Bảng 4.13: Kết quả mô hình hồi quy kiểm định hiệu ứng ngày thứ Hai

Hình 3.1: Quan sát phản ứng của thị trường với mốc công bố thông tin

vi

Hình 4.1: Lợi nhuận bất thường tích lũy theo sự kiện ngày 21/02/2013

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT:

Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu ACB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam CTG

Ngân hàng Thương mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam EIB

Phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát GLS

HNX-Index Chỉ số thể hiện xu hướng biến động giá của tất cả cổ phiếu niêm

(trước đây là yết và giao dịch tại Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội

HASTC Index)

HNX Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội

HOSE Sở giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh

Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội MBB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc Dân NVB

Phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS

Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội SHB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín STB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam VCB

VN-Index Chỉ số thể hiện xu hướng biến động giá của tất cả cổ phiếu niêm

vii

yết và giao dịch tại Sở giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Lý do chọn đề tài

Giá của một cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố từ vĩ mô đến vi mô:

tình hình kinh tế, chính trị, chính sách của nhà nước, hoạt động kinh doanh, chính

sách chia cổ tức của chính doanh nghiệp… Thông tin liên quan đến những vấn đề

này ảnh hưởng gần như trực tiếp lên giá của mỗi cổ phiếu, đó là lý do tại sao thông

tin được xem là có vai trò rất quan trọng trên thị trường chứng khoán. Thông tin

trên thị trường nếu được phản ánh đầy đủ, trung thực, nhanh chóng vào giá cổ phiếu

thì thị trường đó được xem là thị trường hiệu quả về mặt thông tin. Bất cứ thông tin

nào có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu chỉ xuất hiện ngẫu nhiên trong tương lai. Vì

vậy nhà đầu tư không thể kiếm được lợi nhuận bất thường từ việc nắm giữ thông tin

cũng như không thể đánh bại thị trường do hầu hết mọi thông tin có sẵn đã phản ánh

đầy đủ trong giá chứng khoán. Đó cũng chính là điều mà lý thuyết thị trường hiệu

quả đề cập đến.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy thị trường không phải lúc nào cũng hiệu quả như

lý thuyết đề cập. Bằng chứng thực nghiệm trên thế giới đưa ra kết luận trong môi

trường đầu tư tồn tại những bất thường được chứng minh qua các nghiên cứu thực

nghiệm như: tác động của khối lượng giao dịch lên giá chứng khoán – size effects

(Epps 1975; Comiskey 1987; Bajo 2010…), tác động của phân tích lên giá chứng

khoán – stock split effects (Grinblatt, Masulis và Titman 1984…), hiệu ứng mùa vụ

- season effects (Keim và Ziemba 1984…), hiệu ứng ngày trong tuần – day effects

(Cross 1973; Gibbons và Hess 1981; Chang và ctg 1993…) và nhiều hiệu ứng khác.

Ngược lại với nghiên cứu của Dickinson và Muragu (1994) đã chứng minh thị

trường chứng khoán Nairobi hiệu quả dạng yếu, nghiên cứu của Kima và

Shamsuddinb (2008) cho thấy thị trường Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng thể

hiện mức độ yếu hay nghiên cứu của Maria (2010) cũng cho kết luận tương tự đối

Trang 1

với thị trường chứng khoán Đức và Tây Ban Nha.

Vậy đối với thị trường Việt Nam liệu có thật sự hiệu quả như lý thuyết đưa ra

không? Và nhà đầu tư có thể tìm kiếm được lợi nhuận bất thường hay không? Tại

Việt Nam, các nghiên cứu trước đây của các tác giả như Hồ Viết Tiến (2006),

Trương Đông Lộc (2006) hay Lê Đạt Chí (2007) đã đưa ra kết luận thị trường

chứng khoán Việt Nam chưa thể hiện mức độ hiệu quả dạng yếu. Nghiên cứu của

Trầm Thị Xuân Hương và ctg (2015) kết luận thị trường chứng khoán Việt Nam

giai đoạn trước khủng hoảng (2000-2007) có tồn tại hiệu ứng ngày thứ hai, tuy

nhiên trong và sau giai đoạn khủng hoảng (2008-2012) hiệu ứng này đã không còn

tồn tại. Câu hỏi đặt ra là trong giai đoạn hiện tại, thị trường chứng khoán Việt Nam

đã trải qua trên mười lăm năm hình thành và phát triển, trải qua biết bao thăng trầm

thì liệu kết quả có thay đổi so với các nghiên cứu trước đây hay không? Đó là lý do

tác giả chọn đề tài “Kiểm chứng lý thuyết thị trường hiệu quả trong điều kiện thị

trường chứng khoán Việt Nam” với mục đích tìm kiếm bằng chứng về tính hiệu quả

của thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện tại từ năm 2007 đến năm

2015, từ đó hình thành các gợi ý giúp cho các nhà đầu tư đưa ra các chiến lược đầu

tư sinh lợi phù hợp với thực tiễn hơn. Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài

liệu tham khảo giúp các nhà làm chính sách hiểu rõ hơn về thực tiễn, từ đó đưa ra

các điều chỉnh chính sách phù hợp.

1.2. Mục đích nghiên cứu của luận văn

Mục đích chung của đề tài là kiểm chứng lý thuyết thị trường hiệu quả trong

điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam.

Từ mục đích chung tác giả cụ thể hóa thành một số mục đích cụ thể sau: Thứ

nhất là xác định mức độ hiệu quả hay dạng hiệu quả của thị trường chứng khoán

Việt Nam; Thứ hai là kiểm chứng hiệu ứng ngày trong tuần trên thị trường chứng

khoán Việt Nam.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, câu hỏi nghiên cứu được đặt ra như

Trang 2

sau:

- Thị trường chứng khoán Việt Nam hiệu quả dạng yếu hay dạng vừa?

- Có tồn tại sự khác biệt về tỷ suất lợi nhuận giữa các ngày trong tuần?

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu tính hiệu

quả về mặt thông tin của thị trường chứng khoán Việt Nam, mà không xét đến tính

hiệu quả của thị trường ở các khía cạnh khác.

Trên thị trường chứng khoán có nhiều loại hàng hóa, chủ yếu là cổ phiếu và

trái phiếu, tuy nhiên cổ phiếu có tính thanh khoản tốt hơn và được giao dịch nhiều

hơn, nên được lựa chọn để nghiên cứu. Luận văn chọn thị trường chính thức để

nghiên cứu, với số liệu lấy từ Sở giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh và Hà Nội

mà không nghiên cứu các thị trường khác như thị trường không chính thức – OTC,

thị trường tự do (theo cách phân chia thị trường dẫn theo bài viết của Bùi Thị Hằng,

2007).

Phạm vi nghiên cứu: Trong kiểm định tính hiệu quả của thị trường chứng

khoán Việt Nam, tác giả tập trung kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu và dạng

trung bình. Trong kiểm định những bất thường trên thị trường chứng khoán Việt

Nam, tác giả tập trung kiểm định bất thường về lịch thể hiện qua hiệu ứng ngày

trong tuần.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Trong nghiên cứu kiểm định tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt

Nam, trường hợp hiệu quả dạng yếu, tác giả sử dụng kiểm định tự tương quan để

xác định xem khuynh hướng tỷ suất sinh lời của ngày hôm nay có liên quan đến tỷ

suất sinh lời của ngày hôm qua. Và áp dụng kiểm định chuỗi để xác định chuỗi quan

sát trong nghiên cứu có phải là chuỗi ngẫu nhiên hay nói cách khác xác định sự thay

đổi giá theo thời gian của chuỗi quan sát có phải là hoàn toàn ngẫu nhiên hay

không.

Trong nghiên cứu kiểm định tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt

Trang 3

Nam, trường hợp hiệu quả dạng trung bình, tác giả sử dụng phương pháp nghiên

cứu sự kiện bằng cách xác định sự kiện cần nghiên cứu, dự báo lợi nhuận kỳ vọng,

và tính toán lợi nhuận bất thường, lợi nhuận bất thường tích lũy và lợi nhuận bất

thường tích lũy trung bình. Sau đó, tác giả sử dụng cả hai phương pháp kiểm định

tham số và phi tham số để so sánh kết quả và đưa ra kết luận.

Trong nghiên cứu kiểm định hiệu ứng ngày trong tuần, tác giả sử dụng mô

hình hồi quy với biến giả là các ngày trong tuần để kiểm định và phân tích, áp dụng

kiểm định này cho chỉ số VN-Index và HNX-Index. Tuỳ vào kết quả có thể chia

giai đoạn để phân tích và kiểm chứng được chính xác hơn. Ví dụ như hiệu ứng ngày

trong tuần có thể chỉ tồn tại trong giai đoạn đầu, hiện tại hiệu ứng đã giảm hoặc

không còn tồn tại…

1.6. Ý nghĩa nghiên cứu

Với nội dung nghiên cứu này, đề tài cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm

về tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam, cho thấy sự vận động của

thị trường cũng như sự phản ánh vào giá chứng khoán trước những thông tin quá

khứ hay thông tin vừa được công bố. Từ đó giúp nhà đầu tư có cái nhìn toàn diện

hơn qua việc lý thuyết được kiểm chứng bằng số liệu thực tế có cập nhật để xây

dựng cho mình các chiến lược đầu tư sinh lợi phù hợp hơn tuỳ thuộc vào khẩu vị rủi

ro của mỗi nhà đầu tư.

Ngoài ra nghiên cứu cung cấp nguồn thông tin hữu ích giúp các nhà hoạch

định chính sách hiểu rõ hơn về thị trường tài chính cụ thể là thị trường chứng khoán

Việt Nam. Giúp họ biết được mức độ hiệu quả cũng như những bất thường còn tồn

tại để hoàn thiện hệ thống luật pháp, xây dựng ban hành các chính sách, quy định

quản lý thị trường phù hợp với thực tiễn thị trường Việt Nam hơn. Điều này cũng

góp phần nâng cao tính minh bạch trong việc công bố thông tin để tạo điều kiện

phát triển thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính Việt Nam nói

chung ổn định và bền vững.

Nghiên cứu có xem xét đến sự tồn tại của lợi nhuận bất thường trên thị

Trang 4

trường chứng khoán Việt Nam thông qua việc kiểm định hiệu ứng ngày trong tuần.

Điều này giúp nhà đầu tư trong việc điều chỉnh và lựa chọn thời điểm đầu tư, chiến

lược đầu tư một cách hợp lý theo các thông tin công bố nhằm tìm kiếm lợi nhuận

vượt trội kết hợp với việc phân tích cổ phiếu cả về kỹ thuật lẫn cơ bản để tìm ra xu

hướng giá hoặc giá trị nội tại để đạt được tỷ suất sinh lợi mong muốn.

1.7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu

Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu. Chương này chủ yếu khái quát

những nét chính về đề tài nghiên cứu như lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu,

câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, ý

nghĩa nghiên cứu…

Chương 2: Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước. Chương này gồm 2 nội

dung chính: (i) Lý thuyết tổng quát về thị trường hiệu quả; (ii) Tổng quan các

nghiên cứu thực nghiệm trước đây trên thế giới và tại Việt Nam về lĩnh vực đang

nghiên cứu, cũng như đưa ra nhận xét chung về các nghiên cứu trước đây.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Chương này trình bày phương pháp,

nguồn dữ liệu và mô hình được sử dụng để đo lường, kiểm định và phân tích tính

hiệu quả dạng yếu, dạng trung bình và hiệu ứng ngày trong tuần của thị trường

chứng khoán Việt Nam.

Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận. Trình bày kết quả kiểm định thị

trường mức độ hiệu quả dạng yếu, dạng trung bình và hiệu ứng ngày trong tuần của

thị trường chứng khoán Việt Nam dựa vào dữ liệu, mô hình và phương pháp nghiên

cứu được giới thiệu ở Chương 3. Sau đó phân tích và thảo luận các kết quả nhận

được.

Chương 5: Kết luận. Ở chương này tác giả tổng kết lại vấn đề nghiên cứu,

những đóng góp của nghiên cứu này và hướng phát triển của nghiên cứu trong

Trang 5

tương lai.

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

Phần đầu của chương 2 trình bày về lý thuyết thị trường hiệu quả là một

trong những lý thuyết quan trọng và ảnh hưởng lớn đến nền lý thuyết tài chính. Nội

dung bao gồm định nghĩa thế nào là thị trường hiệu quả; lịch sử hình thành và phát

triển của lý thuyết thị trường hiệu quả; thị trường hiệu quả có mấy hình thức; các

yếu tố ảnh hưởng và hàm ý của một thị trường được xem là hiệu quả. Phần tiếp

theo của chương giới thiệu các mô hình toán được sử dụng để mô tả tính hiệu quả

của thị trường. Và nội dung cuối cùng của chương sẽ giới thiệu một số nghiên cứu

trên thế giới cũng như tại Việt Nam liên quan đến lĩnh vực đang nghiên cứu. Những

nội dung được trình bày trong chương này nhằm giới thiệu cơ sở lý thuyết nào làm

nền tảng để nghiên cứu các vấn đề đặt ra trong chương 1. Ngoài ra, việc giới thiệu

các nghiên cứu trong và ngoài nước đã thực hiện như thế nào trước đây sẽ giúp ta

có cái nhìn tổng quan về những kết quả nghiên cứu đạt được để đưa ra hướng

nghiên cứu mà luận văn sẽ thực hiện.

2.1. Lý thuyết thị trường hiệu quả

2.1.1 Khái niệm thị trường hiệu quả

Trong nghiên cứu kinh tế nói chung và trong phân tích tài chính nói riêng,

một thị trường được xem là hiệu quả khi nó đồng thời hiệu quả trên cả ba mặt cơ

bản: phân phối, hoạt động và thông tin (Vũ Thị Minh Luận, 2010).

Hiệu quả về mặt phân phối: là khả năng đưa các nguồn lực khan hiếm trong

nền kinh tế đến người sử dụng sao cho trên cơ sở nguồn lực có được người ta sẽ tạo

ra kết quả đầu ra lớn nhất, tức là họ sử dụng được một cách tốt nhất và hiệu quả

nhất. Người sử dụng tốt nhất cho nguồn lực huy động được chính là người có khả

năng trả giá cao nhất cho quyền được sử dụng nguồn lực đó (Hiệu quả Parreto trong

kinh tế học).

Hiệu quả về mặt hoạt động của thị trường: thể hiện bởi khả năng làm cực đại

hóa quy mô giao dịch trên một thị trường tài chính cụ thể và dựa trên các nguyên

Trang 6

tắc căn bản như ở các thị trường khác là mở rộng khả năng lựa chọn hàng hóa và

dịch vụ cho khách hàng, đảm bảo tính chính xác, kịp thời và trung thực trong việc

cung cấp thông tin; tạo thuận lợi cho khách hàng trong việc tham gia thị trường với

chi phí giao dịch thấp, từ đó tăng tính thanh khoản cho thị trường; có các biện pháp

hữu hiệu chống lại các hoạt động đầu cơ gây tổn hại đến đa số khách hàng…

Hiệu quả về mặt thông tin: là khi giá cả của hàng hóa giao dịch trên thị

trường được phản ánh đầy đủ và tức thời bởi các thông tin sẵn có trên thị trường

như thông tin về môi trường kinh tế vĩ mô, thông tin về kết quả kinh doanh của

doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh… và khi đó tất cả những người tham gia thị

trường đều có những phản ứng hợp lý và ngay lập tức đối với các thông tin tiếp

nhận với giả định rằng không có chi phí mua bán thông tin nên không phát sinh chi

phí giao dịch cũng như không có những hạn chế về mặt pháp lý.

Các nghiên cứu về lý thuyết thị trường hiệu quả thường xem xét đánh giá

mức độ hiệu quả của thị trường về mặt thông tin mà ít đi sâu vào góc độ tìm hiểu

mức độ hiệu quả của thị trường về mặt phân phối hoặc hoạt động, bởi vì trong thị

trường chứng khoán, tính hiệu quả về mặt thông tin có ý nghĩa quyết định đối với sự

thành công của toàn thị trường (khangvi 2010).

2.1.2 Sự hình thành và phát triển của lý thuyết thị trường hiệu quả

Lý thuyết thị trường hiệu quả là một trong những lý thuyết chính thống, nền

tảng của ngành tài chính. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, lý

thuyết này lại càng có ý nghĩa quan trọng, trở thành kim chỉ nam cho nhiều học giả

phân tích chứng khoán. Nhà kinh tế học Samuelson (1965) đã từng nhận xét rằng:

“Kinh tế học tài chính được coi là các món phục sức của nhà vua trong các dịp lễ

tộc thì Lý thuyết thị trường hiệu quả sẽ chiếm một nửa các đồ trang sức đó” (Trích

dẫn lại theo Vũ Thị Minh Luận, 2010).

Nhà thống kê học người Pháp Louis Bachelier là người đầu tiên đặt nền tảng

cho lý thuyết bước ngẫu nhiên vào những năm đầu 1900. Sau đó vào năm 1959,

Osborne cũng đã góp phần làm rõ hơn lý thuyết này. Mô hình bước ngẫu nhiên do

Trang 7

Bachelier và Osborne xây dựng dựa trên hai giả định cơ bản:

- Thông tin mà các nhà phân tích sử dụng để dự đoán giá trị thực của

chứng khoán là độc lập và không có hệ thống theo thời gian.

- Việc đánh giá thông tin của các nhà phân tích là độc lập với nhau, hay nói

cách khác việc đánh giá thông tin của nhà phân tích này không ảnh hưởng đến việc

đánh giá thông tin của các nhà phân tích khác.

Dựa trên những giả định này, hai nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận giá trên

thị trường thay đổi liên tục và không theo hệ thống.

Những nghiên cứu thống kê đầu tiên của các nhà kinh tế học như Cowles và

Jones (1937), Kendall (1953), Granger và Morgenstern (1963), Cootner (1964),

Fama (1965)… đã kiểm định lý thuyết bước ngẫu nhiên và đưa ra nhiều dẫn chứng

cho thấy sự thay đổi giá chứng khoán là hoàn toàn độc lập. Phương pháp được sử

dụng để kiểm định mô hình bước ngẫu nhiên là kiểm định tương quan chuỗi hay

còn gọi là tự tương quan, kiểm định đoạn mạch hay còn gọi là kiểm định chuỗi (run

test) và mô hình mô phỏng (kiểm định sự độc lập trong thay đổi giá liên tục của

chứng khoán). Những nghiên cứu thực nghiệm này cùng với lý thuyết của

Samuelson đã hình thành nên lý thuyết thị trường hiệu quả (Phan Thụy Bích Huyền,

2012).

Trong các nghiên cứu sau đó vào năm 1965 và 1970, giáo sư Eugene F.Fama

(Đại học Chicago, Illioi) đã đưa ra định nghĩa thị trường hiệu quả là thị trường mà

giá cả của mọi hàng hóa giao dịch trên thị trường đều được phản ánh trong nó đầy

đủ và tức thời tất cả các thông tin liên quan đến hàng hóa đó. Vì vậy, tại bất kỳ thời

điểm nào giá của chứng khoán luôn được định giá tốt nhất so với giá trị thực của nó.

Thị trường hiệu quả sẽ không thiên vị ai, nhà đầu tư sẽ không kiếm được lợi nhuận

bất thường nhờ thông tin riêng trừ phi là do may mắn, và cho dù là nhà đầu tư

chuyên nghiệp cũng khó có cơ hội vượt trội hơn những người khác. Nhà đầu tư

không thể dự đoán được sự thay đổi giá chứng khoán vì thông tin được công bố một

cách ngẫu nhiên nên giá chứng khoán cũng biến động ngẫu nhiên. Nói cách khác,

Trang 8

bất kỳ thông tin nào dùng để dự đoán giá chứng khoán trong tương lai đều đã được

phản ánh hoàn toàn trong giá chứng khoán đó, giá chứng khoán được xác định tại

mức cân bằng, việc giá chứng khoán tăng hay giảm là do chứng khoán phản ứng với

các thông tin mới mà thông tin mới là thông tin không thể dự đoán được.

Trong một nghiên cứu khác của Fama năm 1970 đã tổng kết lý thuyết thị

trường hiệu quả khá đầy đủ và chi tiết như sau một thị trường được coi là hiệu quả

khi giá cả luôn được phản ánh đầy đủ bởi các thông tin có sẵn, và đưa ra những điều

kiện để tồn tại thị trường hiệu quả:

- Thị trường chứng khoán phải có quy mô tương đối lớn nghĩa là phải có

lượng lớn nhà đầu tư cùng tham gia trên thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư

cạnh tranh nhau nhằm mục tiêu tối ưu hóa lợi nhuận và rủi ro, họ tiến hành phân

tích đánh giá chứng khoán độc lập và hành động của các nhà đầu tư là ngẫu nhiên

theo kết quả phân tích của chính mình.

- Không có chi phí thông tin nghĩa là thông tin liên quan đến chứng khoán

được công bố rộng rãi trên thị trường, được lưu thông một cách hoàn hảo, chi phí

nhà đầu tư bỏ ra để có được thông tin đó là như nhau, không ai có thể thu được lợi

nhuận bất thường từ việc mua bán các thông tin đó.

- Không có chi phí giao dịch nghĩa là chi phí mà các bên phải bỏ ra để đi đến

thỏa thuận là thấp nhất, gần như có thể bỏ qua. Chi phí giao dịch bao gồm thời gian,

chi phí đàm phán, soạn thảo và thực thi các giao dịch hay hợp đồng.

- Thu nhập kỳ vọng ẩn trong mức giá hiện tại của mọi chứng khoán phải

phản ánh rủi ro của chứng khoán đó hay rủi ro và lợi nhuận tương xứng nhau.

Các điều kiện này khó xảy ra trong thực tế, vì vậy khái niệm về thị trường

hiệu quả không làm hài lòng tất cả giới nghiên cứu. Sau đó, Michael C. Jensen

(1978) định nghĩa thị trường hiệu quả một cách gần thực tế hơn như sau: “Một thị

trường hiệu quả là thị trường mà trong đó thông tin được phản ánh trong mức giá

cho tới khi lợi ích biên của giao dịch khi có được thông tin đó (lợi suất kỳ vọng)

không thể vượt quá chi phí biên của việc khai thác thông tin” (Trích dẫn lại theo Vũ

Trang 9

Thị Minh Luận, 2010).

Khái niệm thị trường hiệu quả tiếp tục được mở rộng với quan niệm của

Black (1986) và được ông phát biểu trước Hiệp hội Tài Chính Mỹ. Định nghĩa này

tập trung vào quy mô độ chênh lệch giữa giá trị tài sản với giá trị thực. Thông tin

của nhà đầu tư có thể bị nhiễu và giá có thể chệch khỏi giá trị thực. Tuy nhiên trong

điều kiện thị trường hiệu quả thì độ chênh lệch kéo dài không quá lâu hoặc quá lớn

trước khi chúng được điều chỉnh lại cho đúng.

Đến năm 1991, trong một nghiên cứu của Fama, ông cho rằng chi phí giao

dịch của thị trường (bao gồm cả chi phí thông tin) càng thấp thì thị trường càng hiệu

quả.

Hiện nay lý thuyết thị trường hiệu quả được các tác giả phát triển không chỉ

bằng việc đưa ra các khái niệm, lý thuyết mà nó được áp dụng trong thực tế để kiểm

định tính hiệu quả của thị trường. Từ đó có rất nhiều kết luận thiết thực được rút ra

trong hoạt động của Thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói

chung.

2.1.3 Các dạng hiệu quả của thị trường

Roberts (1967) là người đầu tiên phân chia các dạng hiệu quả của thị trường

(trong tác phẩm không được xuất bản), sau đó Fama (1970) là người đã tổng hợp và

phổ biến các dạng hiệu quả của thị trường thành ba cấp độ hay ba dạng hiệu quả

được xem xét đó là thị trường hiệu quả dạng yếu (weak form), thị trường hiệu quả

dạng trung bình hay còn gọi là thị trường hiệu quả dạng vừa (semi - strong form) và

thị trường hiệu quả dạng mạnh (strong form).

2.1.3.1 Thị trường hiệu quả dạng yếu

Lý thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu cho rằng giá chứng khoán hiện tại là

sự phản ánh đầy đủ mọi thông tin của thị trường, bao gồm các mức giá trong quá

khứ, tỷ suất lợi nhuận, sự thay đổi của giá… Mức giá thị trường hiện tại này đã

phản ánh tất cả thu nhập trong quá khứ và mọi thông tin trên thị trường nên giả

thuyết này có nghĩa là suất sinh lợi của chứng khoán trong quá khứ cũng như các

Trang 10

thông tin khác không có mối liên hệ với tương lai (các lợi suất độc lập với nhau).

Hay nói cách khác, không thể dự đoán được giá chứng khoán trong tương lai cũng

như không thể kiếm được lợi nhuận vượt trội từ những thông tin về giá của chứng

khoán trong quá khứ. Giá chứng khoán tại các thời điểm khác nhau là hoàn toàn độc

lập, thay đổi ngẫu nhiên theo thông tin ngẫu nhiên nhận được. Theo Malkiel. B

(1996, trang 197) cho rằng: “Lý thuyết thị trường dạng yếu cho rằng các phân tích

kỹ thuật về giá chứng khoán trong quá khứ để dự đoán giá chứng khoán ở tương lai

là hoàn toàn vô ích vì tất cả thông tin của những phân tích này đã được thể hiện

trong giá chứng khoán hiện tại”. Như vậy, theo lý thuyết thị trường hiệu quả dạng

yếu sẽ không có phân tích kỹ thuật nào chỉ dựa trên giá chứng khoán quá khứ có thể

giúp nhà đầu tư đạt được lợi nhuận bất thường hay dự đoán được giá trong tương

lai.

2.1.3.2 Thị trường hiệu quả dạng trung bình

Lý thuyết thị trường hiệu quả dạng trung bình cho rằng giá chứng khoán sẽ

điều chỉnh nhanh chóng trước bất kỳ thông tin công khai nào, tức là mức giá hiện

tại phản ánh đầy đủ mọi thông tin công bố chính thức trong hiện tại cũng như trong

quá khứ. Thông tin công khai bao gồm: các báo cáo tài chính công khai của doanh

nghiệp, các thông báo về thu nhập và cổ tức, chia cổ phần, chia tách cổ phiếu, phát

hành thêm cổ phiếu, thưởng cổ phiếu, và các thông tin về kinh tế cũng như chính

trị... Đối với nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, nếu thị trường hiệu quả dạng

trung bình có ý nghĩa là các nhà đầu tư khi ra quyết định dựa trên các thông tin sau

khi nó được công bố sẽ không thu được lợi nhuận cao hơn mức trung bình bởi mức

giá chứng khoán đã phản ánh đầy đủ và ngay lập tức mọi thông tin công khai đó.

2.1.3.3 Thị trường hiệu quả dạng mạnh

Lý thuyết thị trường hiệu quả dạng mạnh cho rằng giá chứng khoán phản ánh

tất cả các thông tin từ công khai đến nội bộ, từ quá khứ đến hiện tại. Như vậy, trong

một thị trường hiệu quả dạng mạnh, khi nhà đầu tư sử dụng tất cả các thông tin có

thể có, cho dù các thông tin đó có được phổ biến ra công chúng hay không cũng

Trang 11

không có nhà đầu tư nào có thể thu được lợi nhuận vượt trội hơn so với những nhà

đầu tư khác. Nhà đầu tư không còn độc quyền nắm giữ thông tin để tìm kiếm siêu

lợi nhuận bất thường vì thị trường đã phản ánh quá nhanh gần như ngay lập tức với

thông tin dù đó là thông tin nào. Tuy nhiên, lý thuyết thị trường hiệu quả dạng mạnh

rất khó xảy ra trên thị trường chứng khoán các nước, vì đòi hỏi thị trường hấp thụ

thông tin tốt đến mức thông tin đang ở trong tay cá nhân cũng phải được phản ánh

đầy đủ và ngay lập tức trong giá chứng khoán. Để kiểm chứng thị trường hiệu quả

dạng mạnh, các nhà nghiên cứu đã phân tích các hành động của người trong công

ty, chuyên gia chứng khoán, nhà phân tích chứng khoán và nhà quản lý quỹ chuyên

nghiệp… Nghiên cứu kiểm định cho nhiều kết quả khác nhau: Chowdhury và ctg

(1993), Pettit và Venkatesh (1995) đã có nghiên cứu cho thấy người trong công ty

thu được lợi nhuận cao hơn. Womack (1996) cho rằng các nhà phân tích dường như

vừa chọn đúng thời điểm của thị trường vừa có khả năng lựa chọn chứng khoán để

đưa ra các đề nghị bán hiếm có. Kowalczuk (2011) kiểm chứng giao dịch nội bộ

trên thị trường chứng khoán Warsaw và kết luận người có thông tin nội bộ có thể

đạt được kết quả tốt hơn mức trung bình của thị trường, có thể “đánh bại thị

trường”. Trong khi đó, nghiên cứu của Gupta, Anand và Singh (2008), nghiên cứu

của Sheefeni (2015) trên thị trường chứng khoán Namibian lại ủng hộ lý thuyết thị

trường hiệu quả dạng mạnh.

Với ba dạng hiệu quả của thị trường là dạng yếu, dạng trung bình và dạng

mạnh thì đến năm 1991, trong một nghiên cứu của mình Fama điều chỉnh kiểm định

những dạng này theo hướng tổng quát hơn. Cụ thể là kiểm định thị trường hiệu quả

dạng yếu nhằm tìm hiểu khả năng sử dụng dữ liệu biến động giá trong quá khứ để

dự đoán giá tương lai được tổng quát thành những kiểm định cho tính có thể dự báo

được biến động (hay lợi nhuận) cổ phiếu. Kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung

bình liên quan đến mức độ nhanh chóng giá đã phản ánh những thông tin được công

bố được tổng quát thành nghiên cứu sự kiện (Event studies). Kiểm định thị trường

hiệu quả dạng mạnh nghiên cứu về vấn đề có hay không có lợi nhuận vượt trội đối

với những nhà đầu tư giao dịch dựa trên thông tin nội gián được tổng quát thành

Trang 12

kiểm định thông tin nội bộ (Nguyễn Thanh Nhã, 2010).

2.1.4 Yếu tố ảnh hưởng đến tính hiệu quả của thị trường chứng khoán

Nếu thị trường hiệu quả về mặt thông tin thì giá phản ứng một cách nhanh

chóng và tức thời với thông tin. Trong thực tế để làm cho thị trường hiệu quả và thu

hút được nhiều nguồn tiền đầu tư hơn, cần phải có những điều kiện nhất định chính

là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tính hiệu quả của thị trường. Theo Vũ Thị

Minh Luận (2010) một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến tính hiệu quả của thị

trường chứng khoán như:

Thứ nhất là trình độ phát triển của thị trường. Đây là yếu tố nền tảng thuộc

về kiến trúc thượng tầng cũng như cơ sở hạ tầng của thị trường tài chính nói chung

và thị trường chứng khoán nói riêng chi phối đến sự phát triển của thị trường một

cách tổng thể, từ đó ảnh hưởng đáng kể đến tính hiệu quả của thị trường trên

phương diện thông tin. Trình độ phát triển của thị trường thể hiện qua các mặt như:

Trình độ quản lý, cơ sở pháp lý; Ý thức tuân thủ luật pháp của đối tượng tham gia;

Mức độ can thiệp của bàn tay hữu hình...

Thứ hai là hành vi của nhà đầu tư. Đây là nhân tố không nhỏ tác động đến

tính hiệu quả của thị trường chứng khoán trên phương diện thông tin. Để thị trường

hiệu quả nhà đầu tư phải luôn có những hành vi hợp lý, ngược lại thị trường sẽ ít

nhiều cho thấy tính phi hiệu quả của nó. Các nhà đầu tư sẽ có hành vi hợp lý khi họ

phân tích và xử lý “đúng” những thông tin mà họ có và được thị trường cung cấp, từ

đó dẫn đến những kỳ vọng đúng về tương lai của cổ phiếu mà họ đầu tư vào. Hành

vi hợp lý còn thể hiện ở chỗ khi tiến hành mua bán, nhà đầu tư phải luôn xác định

tối đa hóa lợi nhuận của mình và chú ý đến mức rủi ro nhất định hoặc tối thiểu hóa

rủi ro đối với một mức lợi nhuận nhất định.

Thứ ba là khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính. Nếu

thị trường có dấu hiệu cho thấy khả năng kinh doanh chênh lệch giá bị giới hạn thì

đó cũng chính là biểu hiện sự không hiệu quả của thị trường. Lý thuyết thị trường

hiệu quả cho rằng nếu tồn tại định giá sai thì sẽ tồn tại cơ hội kinh doanh chênh lệch

Trang 13

giá thu lợi nhuận, và chính hành vi kinh doanh chênh lệch giá sẽ ngay lập tức điều

chỉnh giá trên thị trường về lại mức cân bằng, với điều kiện chi phí để thực hiện

giao dịch kinh doanh chênh lệch giá phải ở mức thấp gần như bằng không.

Thứ tư là tính minh bạch của thông tin, tức là việc công khai hóa các thông

tin. Thông tin minh bạch sẽ tạo dựng lòng tin và bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư.

Các chủ thể trên thị trường phải chấp hành việc cung cấp thông tin theo quy định,

tránh tình trạng thông tin không rõ ràng, không trung thực hoặc thông tin được công

bố quá chậm...

Trên đây là một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến tính hiệu quả của thị

trường chứng khoán. Nhìn chung, để tồn tại một thị trường hiệu quả đòi hỏi thị

trường chứng khoán phải trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu dài, để hệ thống

thông tin trên thị trường có điều kiện hoàn thiện, phát triển, trình độ nhà đầu tư

cũng tiến bộ hơn. Vì vậy, có thể nói thị trường chứng khoán ở mỗi nước sẽ có hình

thức thị trường hiệu quả khác nhau tùy thuộc vào sự ra đời, phát triển, cơ sở hạ tầng

kỹ thuật… của mỗi nước.

2.1.5 Hàm ý của thị trường hiệu quả

Nếu thị trường hiệu quả thì hàm ý mà thị trường muốn nhắc nhở các nhà đầu

tư khi tham gia vào thị trường là gì? Theo Brealey và ctg (2007) cho rằng sáu hàm ý

của một thị trường hiệu quả mà nhà đầu tư nên ghi nhớ là:

Thứ nhất là theo hình thức yếu của giả thuyết thị trường hiệu quả, chuỗi các

thay đổi giá trong quá khứ không chứa đựng thông tin thay đổi giá trong tương lai

hay nói cách khác là thị trường không có bộ nhớ. Chứng khoán sẽ có lúc tăng, lúc

giảm không biết trước, vì vậy nhà đầu tư đừng chờ đợi cho giá cả trong thời gian

vừa qua sẽ đảo chiều theo chu kỳ, điều này có thể không xảy ra. Cũng như nhà đầu

tư thường cho rằng giá sẽ giảm khi công ty bán cổ phiếu quỹ và tăng khi công ty

mua vào cổ phiếu quỹ đang lưu thông vì cho rằng động thái bán cổ phiếu quỹ của

doanh nghiệp cho thấy cổ phiếu của doanh nghiệp đang được định giá thấp hơn giá

Trang 14

thị trường và ngược lại khi giá có xu hướng giảm thấp hơn so với giá trị định giá,

doanh nghiệp thường mua vào cổ phiếu quỹ, thay vì phát hành thêm cổ phiếu ra

ngoài thị trường.

Thứ hai là trong một thị trường hiệu quả, giá cả đã chứa đựng tất cả thông tin

có sẵn về giá trị của mỗi chứng khoán. Nghĩa là trong một thị trường hiệu quả

không có cách nào để hầu hết các nhà đầu tư đạt được một tỷ suất sinh lợi cao liên

tục so với mức sinh lợi trung bình của thị trường. Vì vậy các nhà đầu tư hãy tin vào

giá thị trường thay vì tin vào trực giác của riêng mình.

Thứ ba là nếu thị trường hiệu quả và giá cả đã chứa đựng tất cả thông tin có

sẵn, thì nhà đầu tư chỉ cần tìm hiểu, phân tích giá thị trường một cách kỹ lưỡng thì

có thể dự đoán nhiều điều trong tương lai như cấu trúc kỳ hạn, hay những đánh giá

của thị trường về chứng khoán của công ty cũng có thể cung cấp những thông tin

quan trọng về triển vọng của công ty…

Thứ tư là nhà đầu tư không nên ảo tưởng đối với việc sử dụng phương pháp

tính toán tài chính kế toán khác nhau sẽ tạo ra sự khác biệt trong tỷ suất lợi nhuận

hay dòng thu nhập có được. Vì vậy trong một thị trường hiệu quả, nhà đầu tư chỉ

nên quan tâm một cách thực tế đến các dòng tiền của doanh nghiệp và phần của các

dòng tiền này mà họ có quyền hưởng. Và giá trị hiện tại của một chứng khoán là

hiện giá tất cả các khoản thu nhập mà nhà đầu tư nhận được từ chứng khoán đó

trong tương lai. Đây cũng là bài học dành cho các doanh nghiệp muốn tạo ra sự thay

đổi trong giá trị cổ phiếu chỉ bằng cách thực hiện chia tách cổ phiếu hay trả cổ tức

bằng cổ phiếu, điều chỉnh con số thu nhập trên một cổ phiếu để công bố với cổ

đông…

Thứ năm là trong một thị trường hiệu quả, các nhà đầu tư sẽ không trả tiền

cho người khác để làm việc mà họ cũng làm được tốt như vậy và có khi chi phí giao

dịch họ phải bỏ ra lại nhỏ hơn. Xét ví dụ câu hỏi mà các doanh nghiệp thường phải

lựa chọn là liệu phát hành nợ tốt hơn hay phát hành cổ phần thường tốt hơn với chi

phí bỏ ra của phương án nào thấp hơn. Nếu phát hành nợ, doanh nghiệp sẽ tạo ra

Trang 15

đòn bẩy tài chính, kết quả là cổ phần sẽ rủi ro hơn và sẽ phải cung ứng một tỷ suất

sinh lợi mong đợi cao hơn tương ứng để bù đắp cho phần rủi ro tăng lên. Có thể

thấy cổ đông cũng có thể tự mình sử dụng đòn bẩy tài chính mà không cần doanh

nghiệp phát hành nợ đó là họ có thể tự mình vay nợ.

Thứ sáu là trong thị trường hiệu quả các nhà đầu tư nên đánh giá cao nhu cầu

về cổ phiếu cũng như nhớ rằng độ co giãn của cầu đối với cổ phiếu cao. Hệ số co

giãn của cầu theo giá là phần trăm thay đổi của lượng cầu hàng hóa khi giá cả hàng

hóa đó thay đổi 1%. Như vậy, nếu các hàng hóa có thể thay thế cho nhau thì hệ số

co giãn của nó sẽ có giá trị âm với phần trị tuyệt đối khá lớn. Ngược lại nếu không

thể thay thế cho nhau thì hệ số co giãn gần như là bằng không. Nhà đầu tư quyết

định mua một cổ phiếu vì họ tin rằng sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận hợp lý so với rủi

ro nhận được. Nếu dự đoán về phần thu nhập để bù đắp rủi ro thấp hơn cổ phiếu

khác cùng độ rủi ro thì không một ai muốn nắm giữ cổ phiếu đó và ngược lại. Trong

một thị trường hiệu quả, thông tin phản ánh đầy đủ trong giá hay nhà đầu tư bỏ chi

phí để có được thông tin là như nhau thì tính thanh khoản của chứng khoán là rất tốt

vì vậy hệ số co giãn của cầu theo giá là rất lớn, nó thể hiện được mối tương quan về

giá của các chứng khoán trên thị trường: Nếu biết được giá của một chứng khoán sẽ

biết được giá của các chứng khoán khác, nhà đầu tư cần bán lượng lớn chứng khoán

thì chỉ cần bán với giá thấp hơn một chút so với giá thị trường. Tuy nhiên, trong

một thị trường không hiệu quả, hệ số co giãn của cầu theo giá là rất thấp vì nhà đầu

tư không xác định được thông tin trên thị trường đúng hay sai, hoặc phải tốn nhiều

chi phí để kiểm chứng hay để có được thông tin hữu ích, chi phí đó làm tăng giá

mua hay giảm tỷ suất sinh lời, dẫn đến thanh khoản của chứng khoán kém đi, như

trường hợp trên người mua sẽ nghi ngại người bán có được thông tin nội bộ nên

muốn bán tống bán tháo chứng khoán vì vậy người cần bán lượng lớn chứng khoán

sẽ bị lỗ khi phải chấp nhận bán với giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường.

2.2 Mô hình toán dùng để kiểm chứng lý thuyết thị trường hiệu quả

Fama (1970) định nghĩa thị trường được xem là hiệu quả nếu giá phản ánh

Trang 16

đầy đủ tất cả các thông tin có sẵn, đồng thời giới thiệu ba mô hình toán để kiểm

chứng tính hiệu quả của thị trường là Mô hình Lợi suất kỳ vọng hay Trò chơi công

bằng, Mô hình Trò chơi công bằng có điều chỉnh và Mô hình Bước đi ngẫu nhiên

(Gimba 2010).

2.2.1 Mô hình Lợi suất kỳ vọng hay Trò chơi công bằng (The Expected Return

or The Fair Game Model)

Việc tung đồng xu có thể được xem là ví dụ đơn giản nhất của lý thuyết này

vì xác suất để cho ra mặt sấp và mặt ngửa của đồng tiền là như nhau. Trò chơi công

bằng là một trò chơi trong đó không có sự khác nhau một cách hệ thống giữa kết

quả thực tế và kết quả được mong đợi trước khi trò chơi diễn ra. Tương tự, thị

trường chứng khoán sẽ là một trò chơi công bằng nếu không có sự chênh lệch một

cách hệ thống giữa thu nhập thực tế và thu nhập được mong đợi của chứng khoán

(Vũ Thị Minh Luận, 2010). Về mặt toán học, nó được viết dưới dạng phương trình

sau:

(2.1)

Pi,t+1 = E (Pi,t+1|It) + Xi,t+1 => Xi,t+1 = Pi,t+1 – E (Pi,t+1|It)

Trong đó: Pi,t+1: Quan sát giá thực tế của cổ phiếu i tại thời điểm t+1

E(Pi,t+1|It): Giá được mong đợi của cổ phiếu i tại thời điểm t+1, trong điều

kiện tập hợp thông tin thị trường là It (là những thông tin thích hợp liên

quan về giá cổ phiếu i trong thời điểm t)

Xi,t+1: Phần dôi ra hay chênh lệch giữa giá thực tế và giá được mong đợi

của cổ phiếu i.

Nếu thị trường hiệu quả theo đúng lý thuyết trò chơi công bằng thì giá chứng

khoán trong thực tế và giá chứng khoán được mong đợi sẽ không có sự chênh lệch,

nghĩa là:

(2.2)

E (Xi,t+1|It) = E [Pi,t+1 – E (Pi,t+1|It)] = 0

Tương tự, nếu thị trường là hiệu quả thì thu nhập của chứng khoán cũng sẽ

Trang 17

diễn ra tương tự như giá chứng khoán theo phương trình sau:

(2.3)

Zi,t+1 = Ri,t+1 – E (Ri,t+1|It)

(2.4)

E (Zi,t+1|It) = E [Ri,t+1 – E (Ri,t+1|It)] = 0

Trong đó: Ri,t+1: Quan sát thu nhập thực tế của cổ phiếu i tại thời điểm t+1

E(Ri,t+1|It): Thu nhập kỳ vọng của cổ phiếu i tại thời điểm t+1, trong điều

kiện tập hợp thông tin thị trường là It (là những thông tin thích hợp liên

quan về giá cổ phiếu i trong thời điểm t)

Zi,t+1: Phần dôi ra hay chênh lệch giữa thu nhập thực tế và thu nhập được

mong đợi của cổ phiếu i.

2.2.2 Mô hình Trò chơi công bằng có điều chỉnh (The Submartingale Model)

Thực chất mô hình này được phát triển từ mô hình “Trò chơi công bằng” và

có sự điều chỉnh nhỏ đối với thu nhập cổ phiếu. Trong đó, thu nhập của các nhà đầu

tư theo mô hình này có xu hướng tăng lên thay vì là bằng không như mô hình “Trò

chơi công bằng”. Việc điều chỉnh hàm ý rằng giá chứng khoán hay thu nhập trên

khoản đầu tư được dự kiến sẽ tăng theo thời gian (Vũ Thị Minh Luận, 2010). Mô

hình Trò chơi công bằng có điều chỉnh được trình bày dưới dạng phương trình sau:

(2.5)

E (Pi,t+1|It) - Pi,t ≥ 0

(2.6)

≥ 0

E (Ri,t+1|It) =

, | , ,

Trong đó: E(Pi,t+1|It): Giá được mong đợi của cổ phiếu i tại thời điểm t+1, trong điều

kiện tập hợp thông tin thị trường là It (là những thông tin thích hợp liên

quan về giá cổ phiếu i trong thời điểm t)

Pi,t: Quan sát giá thực tế của cổ phiếu i tại thời điểm t

E(Ri,t+1|It): Thu nhập kỳ vọng của cổ phiếu i tại thời điểm t+1, trong điều

kiện tập hợp thông tin thị trường là It (là những thông tin thích hợp liên

Trang 18

quan về giá cổ phiếu i trong thời điểm t)

Dù có sự điều chỉnh về thu nhập cổ phiếu trong tương lai, nhưng mô hình

vẫn thể hiện tính ngẫu nhiên trong thu nhập của chứng khoán. Vì dù thu nhập của

chứng khoán có khuynh hướng tăng lên theo thời gian nhưng tăng bao nhiêu thì

không ai có thể đoán trước được. Tăng giá là kết quả điều chỉnh của thị trường khi

có thông tin mới xuất hiện trên thị trường. Trong thị trường hiệu quả, mọi thông tin

được công bố ngẫu nhiên, vì vậy mọi phương pháp dự báo về giá của cổ phiếu trong

tương lai đều hoàn toàn không có ý nghĩa, ngoại trừ một điều là giá cổ phiếu sẽ tăng

trong tương lai theo chuỗi thời gian.

2.2.3 Mô hình Bước đi ngẫu nhiên (The Random Walk Model)

Theo Fama (1970) một thị trường hiệu quả là một thị trường trong đó giá cả

phản ánh tất cả thông tin có sẵn. Trong thị trường chứng khoán, giá trị nội tại của cổ

phiếu được tính bằng giá trị chiết khấu của dòng tiền đó trong tương lai sẽ tích lũy

cho các nhà đầu tư. Nếu thị trường chứng khoán là hiệu quả, giá cổ phiếu phải phản

ánh tất cả thông tin có sẵn liên quan đến việc đánh giá hiệu quả hoạt động trong

tương lai của công ty, vì vậy giá thị trường của cổ phiếu phải bằng giá trị nội tại của

nó. Khi có bất kỳ thông tin mới có thể thay đổi lợi nhuận tương lai của công ty phải

được phản ánh ngay lập tức vào giá cổ phiếu, bởi vì bất kỳ sự chậm trễ nào trong

việc truyền thông tin đến giá có thể được khai thác để dự đoán giá trong tương lai.

Vì vậy, trong thị trường hiệu quả, giá chỉ được thay đổi khi phản ứng lại với thông

tin mới. Vì thông tin xuất hiện ngẫu nhiên nên giá cổ phiếu cũng phải biến động

không thể lường trước được (Gimba, 2010). Mô hình bước đi ngẫu nhiên được thể

hiện dưới dạng phương trình sau:

(2.7)

Pt+1 = E (Pt+1|Ωt) + et+1

Trong đó: Pt+1: Giá cổ phiếu tại thời điểm t+1

E(Pt+1|Ωt): Kỳ vọng của giá tại thời điểm t+1 với thông tin đã biết tại thời

điểm t.

Trang 19

et+1: Sai số ngẫu nhiên tại thời điểm t+1

Mô hình (2.7) cho thấy giá cổ phiếu bằng tổng giá trung bình và sai số dự

báo. Sai số dự báo được giải thích như một tác động của thông tin hoặc cú sốc ngẫu

nhiên. Vì thông tin là không đoán trước được nên việc đưa sai số ngẫu nhiên vào

mô hình là hợp lý (Vũ Thị Minh Luận, 2010). Ngoài ra, thông tin chỉ gây ra sự thay

đổi giá cổ phiếu trong thời kỳ từ t đến t+1 nên có thể viết lại mô hình (2.7) dưới

dạng sau:

(2.8)

Pt+1 = Pt + et+1

Trong đó: Pt: Giá cổ phiếu tại thời điểm t

Vì thông tin là không đoán trước được nên mô hình này chỉ ra giá cổ phiếu

ngày mai được ước lượng giống ngày hôm nay cộng thêm vào một lượng mà lượng

này phụ thuộc vào thông tin mới được sinh ra trong khoảng thời gian từ “hôm nay”

đến “ngày mai”, chính là phần sai số ngẫu nhiên, và sai số này được kỳ vọng bằng 0

nên về mặt trung bình thì giá cổ phiếu ngày mai sẽ không khác ngày hôm nay. Cũng

theo Fama (1970), nếu mô hình trò chơi công bằng nhằm nhấn mạnh sự cân bằng

của thị trường trong thu nhập của mỗi cổ phiếu thì đối với mô hình bước đi ngẫu

nhiên lại giúp ta hiểu rõ hơn về sự hình thành và chiều hướng chuyển biến của các

khoản thu nhập đó (Vũ Thị Minh Luận, 2010).

2.3 Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước

Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về lý thuyết thị trường hiệu quả đều gắn

với việc kiểm định liệu giá có phản ánh đầy đủ thông tin hiện có hay không. Các

thực nghiệm kiểm định tính hiệu quả tại các thị trường chứng khoán là cơ sở cho sự

phát triển lý thuyết thị trường hiệu quả. Việc nghiên cứu, kiểm định lý thuyết thị

trường hiệu quả được áp dụng nhiều trong khoảng hơn 40 năm trở lại đây. Trong

thời gian đầu chủ yếu tập trung kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu tại các nước

phát triển. Sau này, cùng với sự phát triển và hội nhập kinh tế lý thuyết thị trường

hiệu quả cũng được nghiên cứu, kiểm định tại thị trường chứng khoán của các nước

mới nổi và đang phát triển cũng như có nhiều nghiên cứu hơn về kiểm định thị

Trang 20

trường hiệu quả dạng trung bình và dạng mạnh (Vũ Thị Minh Luận, 2010).

Các nghiên cứu về thị trường hiệu quả dạng trung bình có thể được nghiên

cứu với giả định chi phí giao dịch bằng không và một số giả định khác hoặc được

nghiên cứu kiểm định với các giả thuyết được nới lỏng hơn như giả thuyết cho rằng

giá chứng khoán trong một thị trường hiệu quả dạng vừa không phải phản ánh hoàn

toán chính xác giá trị thực của cổ phiếu mà có thêm phần sai số. Các nghiên cứu

này chủ yếu xem xét mối quan hệ giữa thông tin trong báo cáo tài chính được công

bố và giá cổ phiếu của các công ty, mối liên hệ giữa chúng càng chặt thì mức độ

hiệu quả của thị trường càng cao (Vũ Thị Minh Luận, 2010).

Ngoài ra trong khi quan sát và thực hành trên thị trường chứng khoán, không

phải lúc nào lý thuyết thị trường hiệu quả hay các mô hình định giá tài sản truyền

thống cũng giải thích được thị trường khi xét đến một vài trường hợp sau:

- Đầu tiên là hiệu ứng P/E và hiệu ứng quy mô. P/E (Price to Earning

Ratio) là tỷ số tài chính thể hiện mối liên hệ giữa thị giá hiện tại và thu

nhập của một cổ phiếu, là chỉ số quan trọng trong việc đánh giá các cổ

phiếu. Các nghiên cứu cho thấy chứng khoán có P/E cao thì có thu nhập

bất thường nhỏ hơn chứng khoán có P/E thấp và hiệu ứng P/E thực chất

chỉ là bề ngoài của hiệu ứng quy mô (Size effect). Vì vậy việc đánh giá

hiệu ứng P/E hầu như được thay thế bởi việc đánh giá hiệu ứng quy mô

nhưng không có chiều ngược lại. Các kiểm định hiệu ứng quy mô cho

thấy cổ phiếu của các doanh nghiệp có quy mô nhỏ (đánh giá theo mức

độ vốn hóa) đạt được thu nhập bất thường cao hơn so với các doanh

nghiệp có quy mô lớn cả trường hợp đối với P/E khá cao. Tuy nhiên ứng

với mức thu nhập bất thường cao hơn, rủi ro đối với các doanh nghiệp

nhỏ cũng lớn hơn. Một số nghiên cứu thực nghiệm về hiệu ứng quy mô

như: Ibbotson (1984) lập danh mục đầu tư gồm 50 cổ phiếu của các

doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhất với tỷ lệ bỏ vốn tương ứng với tỷ lệ

vốn hóa của các doanh nghiệp trong thị trường và duy trì danh mục trong

5 năm. Kết quả được đối chứng với danh mục các chứng khoán S&P500

Trang 21

trong cùng giai đoạn. Keim (1983) còn phát hiện hiệu ứng quy mô mạnh

nhất vào tháng 1 hằng năm thể hiện bởi sự chênh lệch tỷ suất sinh lợi

chứng khoán giữa hai nhóm doanh nghiệp lớn và nhỏ là cao nhất vào

tháng này. Chi tiết hơn, Roll (1983) chỉ ra hiệu ứng quy mô là mạnh nhất

vào những ngày cuối tháng 12 năm trước và kéo dài sang bốn ngày đầu

tháng 1 của năm tiếp theo. Hiện tượng này được giải thích là do kỹ thuật

điều chỉnh mức thuế phải nộp của các trung gian tài chính khi bán ra vào

cuối tháng 12 và mua lại vào đầu tháng 1, bằng cách này các trung gian

tài chính tạo ra khoản lỗ trên vốn nhất định vào cuối năm để điều chỉnh

mức thuế phải nộp (Vũ Thị Minh Luận, 2010).

- Tiếp theo là Hiệu ứng niên lịch (Calendar effect). Hiệu ứng này cho rằng

vào các ngày khác nhau trong tuần, tuần trong tháng hoặc thời gian nào

đó trong năm dường như có sự thay đổi trong tâm lý nhà đầu tư trước,

trong và sau những khoản thời gian này. Điều này làm ảnh hưởng đến

khối lượng chứng khoán được giao dịch trên thị trường cũng như sẽ có sự

biến động giá cao hơn mức bình quân tác động đến các chỉ số thị trường,

tạo suất sinh lời bất thường cao hơn mức bình quân và từ đó cho thấy thời

gian nào là tốt hay không tốt để đầu tư. Hiệu ứng niên lịch được hiểu là

sự bất thường trong giá cổ phiếu được lập lại theo chu kỳ thời gian. Hiện

tượng này được giải thích là do nhiều xu hướng kinh tế và kinh doanh

diễn ra theo niên lịch như các công ty báo cáo kết quả kinh doanh theo

quý và chốt sổ sách cho các mục đích thuế vào thời điểm cuối năm,

doanh số bán lẻ hay nhu cầu hàng hóa thay đổi theo mùa, nhu cầu về

nhiên liệu thay đổi theo thời tiết... Hiệu ứng niên lịch nổi bật thường được

nghiên cứu như: hiệu ứng ngày trong tuần, hiệu ứng ngày Lễ, hiệu ứng

tháng Giêng, hiệu ứng Halloween… Trong hiệu ứng niên lịch, luận văn

sẽ giới thiệu thêm về Hiệu ứng ngày trong tuần và hiệu ứng ngày lễ.

(i) Hiệu ứng ngày trong tuần chính là sự bất thường trong tỷ suất sinh lợi

trung bình giữa các ngày trong tuần của các cổ phiếu trên thị trường.

Trang 22

Dạng phổ biến của hiệu ứng ngày trong tuần đó là tỷ suất sinh lợi

trung bình vào ngày thứ hai thấp hơn đáng kể so với tỷ suất sinh lợi

trung bình của những ngày khác trong tuần, ngược lại với ngày thứ

sáu có tỷ suất sinh lợi cao nhất trong tuần. Tuy nhiên, các thị trường

khác nhau, hiệu ứng này khác nhau như hiệu ứng ngày thứ ba tồn tại

thay vì hiệu ứng ngày thứ hai... Nghiên cứu của Gibbons và Hess

(1981) sử dụng dữ liệu trên thị trường chứng khoán Mỹ từ năm 1962

đến năm 1978, đưa ra kết quả tỷ suất sinh lợi ngày thứ hai thấp hơn

nhiều so với các ngày khác và ngược lại cho ngày thứ sáu có tỷ suất

sinh lời cao hơn các ngày khác trong tuần. Keim và Stambaugh (1984)

sử dụng dữ liệu trên thị trường chứng khoán Mỹ từ năm 1928 đến

năm 1982 cũng đưa ra kết luận tương tự (Nhóm tài chính 07, 2012).

(ii) Liên quan đến hiệu ứng ngày lễ, các nghiên cứu cho thấy giá chứng

khoán tăng mạnh khi thị trường hoạt động trở lại so với thời gian

trước kỳ nghỉ. Ariel (1985) thống kê lãi suất của danh mục đầu tư

gồm các chứng khoán DJIA (Dow Jones Industrial Average – Chỉ số

Dow Jones thuộc ngành công nghiệp) giai đoạn 1963-1982 cho thấy

mức tăng trung bình sau kỳ nghỉ lễ là gấp chín lần trước kỳ nghỉ. Nếu

danh mục đầu tư được cấu trúc theo tỷ lệ mức vốn hóa thì mức tăng

trung bình lên đến 14 lần. Lakonishok và Smidt (1978) thống kê trong

giai đoạn 90 năm với các chứng khoán DJIA thì mức tăng trung bình

lên đến 21 lần và 51% khoản lãi trên vốn đạt được khi đầu tư vào

chứng khoán DJIA trong giai đoạn mười ngày trước kỳ nghỉ lễ (Vũ

Thị Minh Luận, 2010).

Việc giải thích một cách chi tiết các hiện tượng tạo ra thu nhập bất thường

nêu trên là rất khó khăn. Về cơ bản, có thể giải thích các hiện tượng trên phụ thuộc

vào đặc trưng vận động của dòng vốn ở từng thị trường, hành vi của các trung gian

tài chính, việc công bố thông tin hay tâm lý của nhà đầu tư trên thị trường… (Vũ

Trang 23

Thị Minh Luận, 2010).

2.3.1 Các nghiên cứu nước ngoài

Tại các nước phát triển, việc kiểm định thị trường hiệu quả được thực hiện ở

cả ba dạng mạnh, trung bình và yếu. Còn đối với các nước đang phát triển hoặc mới

nổi, việc kiểm định thị trường hiệu quả chủ yếu thực hiện ở dạng yếu, còn thị

trường hiệu quả dạng trung bình và đặc biệt là dạng mạnh thì vẫn còn rất ít nghiên

cứu được thực hiện (Vũ Thị Minh Luận, 2010). Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên

cứu của bài luận văn này, tác giả chỉ giới thiệu và tìm hiểu những nghiên cứu trước

đây trên thế giới liên quan đến nội dung nghiên cứu đó là kiểm định thị trường hiệu

quả dạng yếu, trung bình và hiệu ứng ngày thứ hai.

Đối với kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu, các tác giả thường sử dụng

phương pháp kiểm định chuỗi, kiểm định tự tương quan, kiểm định tỷ lệ phương

sai… Như Dickinson và Muragu (1994) đã sử dụng dữ liệu nghiên cứu là chuỗi giá

cổ phiếu hằng tuần và hằng tháng của 30 loại cổ phiếu được chọn trên thị trường

chứng khoán Nairobi (Kenya) từ năm 1979 đến năm 1985. Kết quả kiểm định tự

tương quan có khá nhiều chuỗi giá cổ phiếu có hệ số tương quan khác 0 với mức ý

nghĩa 5%. Tuy nhiên, một số chuỗi khác lại phù hợp với giả thuyết H0. Kết quả

kiểm định thống kê Q-stat chỉ ra đa số cổ phiếu không có hiện tượng tự tương quan.

Trong kiểm định chuỗi cho thấy đa số cổ phiếu của các công ty là những chuỗi quan

sát ngẫu nhiên. Kết quả kết luận thị trường chứng khoán Nairobi là thị trường hiệu

quả dạng yếu. Abeysekera (2001) sử dụng dữ liệu thu nhập theo tần suất ngày, tuần

và tháng của hai chỉ số giá thị trường (SSI và FSI) trên thị trường chứng khoán

Colombo (Srilanka) từ tháng 1/1991 đến tháng 12/1996. Với kiểm định chuỗi, kết

quả cho thấy chuỗi quan sát có những thay đổi không theo đúng bước đi ngẫu nhiên

với mức ý nghĩa 5% dù là theo ngày, tuần hay tháng. Tương tự, kiểm định tự tương

quan cho kết quả tương tự, bác bỏ giả thuyết thị trường hiệu quả ở mức độ yếu. Kết

luận của nghiên cứu là thị trường chứng khoán Colombo không hiệu quả ở mức độ

yếu (Vũ Thị Minh Luận, 2010). Kima và Shamsuddinb (2008) kiểm định tính hiệu

quả trên một nhóm thị trường châu Á dựa trên dữ liệu hàng tuần và hằng ngày từ

Trang 24

năm 1990 đến 2007 bằng kiểm định tỷ lệ phương sai. Nghiên cứu cho thấy thị

trường Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan hiệu quả mức độ yếu; thị

trường Indonesia, Malaysia và Philippines không thể hiện tính hiệu quả mức độ

yếu; thị trường Singapore và Thái Lan chỉ đạt hiệu quả mức độ yếu sau khủng

hoảng Châu Á. Maria (2010) kiểm định hiệu quả mức độ yếu trên tỷ suất sinh lợi

theo ngày, tuần của chỉ số thị trường chứng khoán ở Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha,

Hy Lạp và Bồ Đào Nha từ năm 1993 đến năm 2007 bằng kiểm định chuỗi và kiểm

định tỷ lệ phương sai. Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ thị trường Đức và Tây Ban

Nha đạt hiệu quả mức độ yếu trong khi các thị trường còn lại chưa hiệu quả mức độ

yếu (Đỗ Thành Nhân, 2014).

Về nghiên cứu thị trường hiệu quả dạng trung bình, Fama (1991) cho rằng

nghiên cứu sự kiện là bằng chứng rõ ràng nhất mà chúng ta có để kết luận tính hiệu

quả mức độ trung bình trên thị trường. Vì vậy trong nghiên cứu thị trường hiệu quả

dạng trung bình, hầu như các nghiên cứu đều sử dụng phương pháp nghiên cứu sự

kiện để tiến hành kiểm định, phân tích. Như nghiên cứu của Fama, Fisher, Jensen và

Roll (1969) tập trung vào các sự kiện mang tính công khai và có thể ảnh hưởng đến

giá cổ phiếu để phân tích vì họ cho rằng nhà đầu tư sẽ phản ứng với các thông tin

mới được công bố. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi có chia tách cổ phiếu, sự gia

tăng cổ tức là rất rõ ràng, khi thị trường nhận thấy điều này, mỗi lần công bố thông

tin chia tách cổ phiếu được đưa ra, thị trường sử dụng thông tin công bố này để

đánh giá lại dòng thu nhập dự kiến từ cổ phiếu (Vũ Thị Minh Luận, 2010). Những

thay đổi trong luật và quy định cũng có thể ảnh hưởng đến cách thức điều hành

doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận, kể cả lợi nhuận bất thường của công

ty. Đó chính là lý do mà Dann và James (1982) đã tiến hành nghiên cứu tác động

của quy định bỏ lãi suất tiền gửi trần đối với giá cổ phiếu của công ty S&Ls. Nghiên

cứu chỉ ra có một dòng lợi nhuận bất thường lũy kế âm khoảng 8% sau 15 ngày từ

khi lãi suất tiền gửi trần bị thay đổi. Ngược lại với nghiên cứu của Dann và James

(1982), Smirlock (1984) xem xét sự loại bỏ lãi suất tiền gửi trần trong giai đoạn

1970-1978 với dữ liệu thu thập từ 17 ngân hàng lớn có lượng giao dịch chứng

Trang 25

khoán lớn, nghiên cứu chỉ ra lợi nhuận từ cổ phiếu của ngân hàng không bị ảnh

hưởng bởi lãi suất tiền gửi trần. Tuy nhiên, kết quả khác biệt giữa hai nghiên cứu có

thể do Smirlock tập trung vào các ngân hàng có quy mô khá lớn, vốn là những ngân

hàng ít phụ thuộc vào lãi suất tiền gửi trần trong việc bảo đảm việc thu hút lượng

tiền gửi. Jensen và Ruback (1983) thực hiện nghiên cứu với đối tượng là các nhà

đầu tư của các công ty trong các thương vụ mua bán sáp nhập. Kết quả cho thấy các

nhà đầu tư của công ty sáp nhập đã thu được lợi nhuận bất thường dương đáng kể,

khoảng 20%-30% khi có các sự kiện sáp nhập xảy ra thành công, trong khi đó lợi

nhận của các nhà đầu tư của công ty bị bán đấu giá lại bằng không. Trong một số

trường hợp, các nhà đầu tư nhận được một ít lợi nhuận khi việc sáp nhập được công

bố chính thức nhưng lại mất đi lợi nhuận khi cuộc sáp nhập sau đó không thành

công. Đối với các trường hợp khác, nghiên cứu không chỉ ra được bằng chứng cho

thấy sáp nhập làm tăng lợi nhuận. Trong nghiên cứu của Foster, Olsen và Shevlin

(1984) đã kết luận chứng khoán có thể thu được lợi nhuận bất thường từ 60 ngày

trước và cho tới 60 ngày sau thông báo, sự kiện xảy ra. Hay nghiên cứu của Lamy

và Thompson (1986) về sự ảnh hưởng của thông tin xấu từ sự phá sản của ngân

hàng Penn Square bang Oklahoma xảy ra vào năm 1982. Nghiên cứu cho thấy có

dòng lợi nhuận âm bất thường khoảng 1% vào ngày Ngân hàng Penn Square bị

đóng cửa với mẫu dữ liệu gồm 54 ngân hàng lớn có giao dịch ở thị trường chứng

khoán New York. Kết luận này có liên quan đến nhận thức của thị trường rằng vào

thời điểm phá sản Penn Square có quan hệ giao dịch phức tạp với nhiều ngân hàng

lớn khác. Do đó dù Penn Qquare chỉ là ngân hàng nhỏ nhưng sự phá sản lại có tác

động xấu đáng kể (Trần Thị Tuấn Anh và ctg, 2013).

Về hiệu ứng ngày thứ hai đã được nghiên cứu rất nhiều trong thập niên 1980

và thể hiện rõ trên thị trường chứng khoán Mỹ trong các nghiên cứu của French

(1980), Gibbons (1981), Keim và Stambaugh (1984)... Nghiên cứu đầu tiên của

Cross (1973) phát hiện tỷ suất sinh lợi của chứng khoán vào ngày thứ hai tính trung

bình là âm. Tiếp theo nghiên cứu của Keim và Stambaugh (1984) phát hiện ra rằng

hiệu ứng ngày thứ hai ngày càng mạnh theo thời gian và có sự thay đổi khác nhau

Trang 26

giữa các thị trường cho đến năm 1980. Và nghiên cứu của Medhian và Perry (2001)

đã kết luận giá chứng khoán giai đoạn 1987-1998 không thể hiện hiệu ứng ngày thứ

hai rõ ràng cho hầu hết các chỉ số S&P500, NYSE… Nghiên cứu của Dubois và

Louvet (1996), Hansen và ctg (2005) cho kết luận tương tự rằng hiệu ứng ngày thứ

Hai vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến các thị trường lớn cho đến những năm 1990 (Trần

Thị Xuân Hương và ctg, 2014). Như vậy hiệu ứng ngày thứ Hai trên thị trường Mỹ

gần như xuất hiện rõ rệt trong suốt thập niên 1980 và giảm dần không còn có tác

động rõ rệt trong thập niên 1990.

Tóm lại đối với các nghiên cứu ở một số nước trên thế giới, đa số các kết

luận nhận được là thị trường đều đạt hiệu quả dạng yếu. Còn đối với các nước đang

phát triển hoặc mới nổi, các kết luận về kiểm định thị trường hiệu quả còn nhiều

tranh cãi, các nghiên cứu khác nhau với phương pháp kiểm định khác nhau cho kết

luận khác nhau, và thị trường hiệu quả dạng yếu không phải đúng cho tất cả các thị

trường. Về nghiên cứu thị trường hiệu quả dạng trung bình thông qua việc nghiên

cứu các sự kiện, đa số cho kết luận sự kiện ảnh hưởng đến giá chứng khoán, trừ một

vài nghiên cứu cho thấy sự kiện không thể hiện rõ tác động.

2.3.2 Thị trường chứng khoán Việt Nam và các nghiên cứu trong nước

Thị trường chứng khoán Việt Nam được thành lập theo Quyết định số

127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 của Thủ tướng Chính phủ với hai Trung tâm

Giao dịch Chứng khoán tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh. Trung tâm

Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là sàn giao dịch chính thức lớn

nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam, chính thức đi vào hoạt động với phiên

giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000, sau đó được đổi tên thành Sở Giao dịch

Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) theo quyết định số 599/QĐ-TTg

ngày 11/05/2007. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội là sàn giao dịch chính

thức thứ hai của thị trường chứng khoán Việt Nam, bắt đầu phiên giao dịch đầu tiên

vào ngày 08/03/2005, sau đó được đổi tên thành Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội

(HNX) theo quyết định số 01/2009/QĐ-TTg ngày 02/01/2009 (Ủy ban chứng khoán

Trang 27

nhà nước). Lúc mới mở cửa thị trường ngày 28/07/2000 chỉ có hai cổ phiếu được

giao dịch chính thức là cổ phiếu của Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) và Công

ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Sacom (SAM). Lúc này mới chỉ có hai công ty chứng

khoán hoạt động. Sau hơn 15 năm hình thành và phát triển, số lượng cổ phiếu niêm

yết tính riêng trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt con

số trên 300 mã cổ phiếu với tổng vốn hóa thị trường lên đến trên 1.1 triệu tỷ đồng,

chiếm 90% giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu niêm yết cả nước

(www.fpts.com.vn). Cũng như hiện tại số lượng công ty được cấp giấy phép hoạt

động đã tăng lên đáng kể (105 công ty), và hiện có 83 công ty đang hoạt động bình

thường với tổng vốn điều lệ lên tới 38.859.070.040.000 đồng (Tổng hợp từ

ssc.gov.vn). Bên cạnh đó nếu như trong năm đầu tiên thị trường mở cửa, vốn hóa thị

trường cổ phiếu chỉ bằng 1% GDP, thì tính đến tháng 8/2016 con số này là 38%

tương đương 1.590 nghìn tỷ đồng đạt mức cao nhất trong sáu năm trở lại đây

(www.thesaigontimes.vn). Thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là thị

trường chứng khoán mới nổi đáng chú ý, có sự phát triển và tăng trưởng tốt, đặc

biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007 (Nguyen Thi Kim Yen, 2011).

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã tạo ra được một nơi cung ứng vốn có tính

thanh khoản ngày càng cao, điều này thể hiện qua giá trị giao dịch hằng ngày ở hai

sàn Hà Nội và Hồ Chí Minh, giao dịch bình quân một phiên có thể đạt gần 6.200 tỷ

đồng (www.thesaigontimes.vn).

Không chỉ nhà đầu tư tham gia thị trường mà cả nhà làm chính sách hay nhà

quản lý thị trường đều luôn quan tâm đến vấn đề về tính hiệu quả của thị trường

chứng khoán. Bởi nếu thị trường không hiệu quả, thông tin trên thị trường không

phản ánh hết vào giá thì khả năng kiếm được lợi nhuận bất thường là hoàn toàn có

thể xảy ra. Nhiều nghiên cứu ở Việt Nam từ công trình đăng trên các tạp chí hay các

khóa luận, luận văn tốt nghiệp đã được thực hiện để xác định câu trả lời cho vấn đề

trên. Tuy nhiên, như các thị trường mới nổi và đang phát triển khác, hầu hết các

nghiên cứu đều tập trung vào phân tích thị trường hiệu quả dạng yếu mà ít nghiên

Trang 28

cứu mức độ hiệu quả dạng trung bình của thị trường chứng khoán Việt Nam.

Trước tiên là một số nghiên cứu về thị trường hiệu quả dạng yếu như nghiên

cứu của Hồ Viết Tiến (2006) trên thị trường cổ phiếu theo phương pháp kiểm định

hệ số tương quan và cho kết luận thị trường cổ phiếu Việt Nam chưa hiệu quả về

mặt thông tin ở mức độ yếu. Nghiên cứu của Trương Đông Lộc (2006) sử dụng dữ

liệu thu nhập theo ngày của chỉ số thị trường HASTC-Index và hai loại cổ phiếu

niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (GHA – Công ty cổ phần

Giấy Hải Âu, VNR – Tổng công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam). Kiểm định tự

tương quan cho kết quả các hệ số tương quan khác 0 có ý nghĩa thống kê với mức ý

nghĩa từ 1% đến 5%. Kiểm định chuỗi cũng bác bỏ giả thuyết H0 với mức ý nghĩa

từ 1% đến 5% vì tổng số quan sát thực tế của chuỗi nhỏ hơn một cách có ý nghĩa so

với số chuỗi mong đợi. Kết luận cuối cùng thị trường chứng khoán Việt Nam cụ thể

là Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chưa hiệu quả ở mức độ yếu. Nghiên

cứu của Lê Đạt Chí (2007) về việc tiến hành kiểm định theo phương pháp hồi quy

hai biến đối với một số cổ phiếu chủ chốt tại Trung tâm giao dịch chứng khoán

thành phố Hồ Chí Minh và cũng cho kết luận về sự không hiệu quả dạng yếu của thị

trường chứng khoán Việt Nam.

Các nghiên cứu của Việt Nam về kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung

bình chủ yếu cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện tương tự như các

nghiên cứu trên thế giới. Như nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng (2008) đã tìm hiểu

về mối quan hệ giữa thông tin báo cáo tài chính với giá cổ phiếu. Tác giả sử dụng

mô hình của Ohlson (1995) để xây dựng cho trường hợp Việt Nam để xem xét phản

ứng của thị trường khi thông tin được công bố, kết quả cho thấy có hiện tượng phản

ứng quá mức của thị trường khi thông tin tốt và phản ứng dưới mức khi thông tin

xấu. Nghiên cứu của Nguyen Thi Kim Yen (2011) tiến hành nghiên cứu xem xét tác

động của sự kiện khi các công ty thông báo chia cổ tức ảnh hưởng như thế nào đến

giá cổ phiếu. Dữ liệu nghiên cứu phân tích dựa trên 71 thông báo chia cổ tức bằng

tiền mặt của 16 công ty niêm yết trong tổng số 350 công ty niêm yết trong khoảng

thời gian 2006-2009. Nghiên cứu tập trung quan sát giá cổ phiếu xung quanh ngày

Trang 29

sự kiện. Kết quả có sự tồn tại lợi nhuận bất thường cho SCD (Công ty cổ phần

Nước giải khát Chương Dương) và VFC (Công ty cổ phần Vinafco). Tuy nhiên kết

quả kiểm định t cho mô hình sự kiện nghiên cứu thấp và trong 16 công ty chỉ có 2

công ty có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó kiểm định Z cho kết quả lợi nhuận bất

thường trung bình tích cực lớn hơn 0.5 và có ý nghĩa thống kê cao. Kết luận của

nghiên cứu là sự kiện công bố chia cổ tức trong giai đoạn 2006-2009 có tác động

đến giá cổ phiếu tạo lợi nhuận bất thường. Hạn chế của nghiên cứu là kích thước

mẫu nhỏ, dữ liệu được lấy trong giai đoạn khủng hoảng tài chính 2007-2008, hai

khía cạnh này ít nhiều có thể đã ảnh hưởng đến kết quả thử nghiệm. Nghiên cứu của

Trần Thị Tuấn Anh và ctg (2013) đã phân tích tác động của sự kiện ngày

21/08/2012 khi ông Nguyễn Đức Kiên – Phó chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Ngân

hàng TMCP Á Châu (ACB) cũng là người nắm giữ một lượng lớn cổ phiếu tại các

ngân hàng lớn của Việt Nam bị bắt đến nhóm chứng khoán ngành ngân hàng thông

qua chứng khoán của ACB. Kết quả nghiên cứu chứng tỏ sự kiện ngày 21/08/2012

liên quan đến ACB ảnh hưởng âm rõ ràng đến cổ phiếu nhóm ngành ngân hàng

niêm yết tại các sàn chứng khoán Việt Nam. Thị trường bắt đầu sụt giảm một cách

rõ nét trong khoảng 20 ngày từ trước khi sự kiện xảy ra cho thấy thị trường đã dự

đoán được sự xảy ra của sự kiện. Sự kiện có tác động âm lớn và kéo dài, lợi nhuận

bất thường tích lũy giảm xuống hơn 15% và không có xu hướng quay về mức cân

bằng 0% sau hơn 20 ngày xảy ra sự kiện.

Không chỉ trên thế giới, mà ở Việt Nam các nhà nghiên cứu cũng quan tâm

đến các bất thường tồn tại trên thị trường chứng khoán. Như Nguyễn Văn Điệp và

Nguyễn Ngọc Tân (2014) đã dựa vào thảo luận của Kolb và Rodriguez (1987),

Peltomaki và Peni (2010) để nghiên cứu hiệu ứng thứ sáu ngày 13. Kết luận từ

nghiên cứu của tác giả khẳng định hiệu ứng thứ sáu ngày 13 chưa có đủ bằng chứng

cho thấy sự tồn tại trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhưng kết quả nghiên

cứu lại kiểm chứng được hiệu ứng cuối tuần có tác động mạnh mẽ đến thị trường

chứng khoán Việt Nam. Hạn chế của nghiên cứu là chưa tính đến tác động của rủi

ro hệ thống đến tỷ suất lợi nhuận chứng khoán được đề cập trong mô hình định giá

Trang 30

tài sản vốn. Nghiên cứu của Trần Thị Xuân Hương và ctg (2014) đã nghiên cứu

hiệu ứng các ngày trong tuần trên thị trường chứng khoán Việt Nam dựa trên hai chỉ

số chính là VN-Index và HNX-Index với chuỗi dữ liệu giao dịch trong giai đoạn

2000-2013, đây là hai chỉ số cho thấy xu hướng chung của thị trường. Kết quả

nghiên cứu đã kiểm chứng và xác định được có hiệu ứng ngày thứ hai và cho rằng

nhà đầu tư có thể kiếm được lợi nhuận bất thường từ các hiện tượng bất thường này.

Tuy nhiên sự biến động của hai chỉ số này có thể tương quan ngược chiều hoặc

cùng chiều tuỳ vào sự tương quan của từng cổ phiếu. Vì vậy nghiên cứu chỉ ra nếu

có thể đầu tư vào hai chỉ số này, nhà đầu tư có thể kiếm được lợi nhuận bất thường,

nhưng ngược lại khi đầu tư riêng rẻ từng nhóm cổ phiếu thì chưa xác định được.

Thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường còn non trẻ, được thành

lập và hoạt động chưa đến hai thập kỷ, và đang trong quá trình hoàn thiện về cơ chế,

luật pháp, cơ sở hạ tầng công nghệ… Việc nghiên cứu về thị trường hiệu quả trước

đây chủ yếu là các nghiên cứu định tính, chỉ một số nghiên cứu định lượng được

thực hiện và chủ yếu tập trung vào kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu (Vũ Thị

Minh Luận, 2010). Về sau nhiều nghiên cứu định lượng được thực hiện hơn cả về

kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu và dạng trung bình. Tuy nhiên theo các

nghiên cứu định lượng trước đây đa số đều kết luận thị trường chứng khoán Việt

Nam chưa thực sự hiệu quả ở mức độ yếu, các sự kiện xảy ra thường có tác động trễ

hoặc tác động quá mức đối với giá cổ phiếu và có bằng chứng cho thấy sự tồn tại

của hiện tượng bất thường trên thị trường chứng khoán Việt Nam như hiệu ứng

ngày trong tuần.

Như vậy, tại thời điểm hiện tại sau hơn 15 năm phát triển, thị trường chứng

khoán Việt Nam như thế nào có sự thay đổi so với kết quả nghiên cứu trước kia hay

không? Thị trường đã thực sự hiệu quả chưa và hiệu quả ở mức độ nào yếu hay

trung bình? Bất thường trên thị trường như hiệu ứng ngày trong tuần còn tồn tại trên

thị trường hay không? Đó chính là lý do nghiên cứu của luận văn được thực hiện.

Nghiên cứu sử dụng số liệu cập nhật để phân tích tính hiệu quả dạng yếu và xác

định bất thường còn tồn tại trên thị trường không, cũng như áp dụng phương pháp

Trang 31

nghiên cứu sự kiện để phân tích sự kiện khác với các nghiên cứu trước đây để làm

giàu thêm nghiên cứu định lượng về tác động của những sự kiện khác nhau đối với

giá chứng khoán.

Tóm lại, trong chương 2, luận văn đã giới thiệu nền tảng cơ sở lý thuyết thị

trường hiệu quả, cũng như hệ thống lại một số nghiên cứu trong và ngoài nước để

có cái nhìn tổng quan về nội dung đang nghiên cứu. Đối với thị trường Việt Nam,

các nghiên cứu trước đây cho thấy thị trường không thể hiện tính hiệu quả mức độ

yếu, có xuất hiện hiệu ứng bất thường như hiệu ứng ngày trong tuần, và thị trường

phản ứng quá mức khi có thông tin tốt hay phản ứng dưới mức khi có thông tin xấu.

Như vậy, hiện tại thị trường chứng khoán Việt Nam như thế nào, có hiệu quả ở mức

độ yếu hay trung bình không và hiệu ứng bất thường còn xuất hiện không? Trong

chương tiếp theo, luận văn sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu, cơ sở dữ liệu và

Trang 32

mô hình sẽ sử dụng để tiến hành kiểm định và trả lời cho các câu hỏi trên.

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Dựa trên cơ sở lý thuyết được trình bày trong chương 2, chương 3 của luận

văn sẽ trình bày cụ thể hơn về phương pháp nghiên cứu, cơ sở dữ liệu cũng như mô

hình được sử dụng để kiểm định và đưa ra kết luận cho các vấn đề nghiên cứu đặt

ra trong chương 1. Nội dung của chương chia thành 3 phần tương ứng với 3 nội

dung cần nghiên cứu gồm kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu, kiểm định thị

trường hiệu quả dạng trung bình và kiểm định hiệu ứng ngày trong tuần.

3.1 Kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu

Kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu là việc kiểm định liệu có thể sử

dụng chuỗi thông tin quá khứ như giá cổ phiếu hoặc lợi suất để dự đoán thành công

giá cổ phiếu hoặc lợi suất trong tương lai hay không. Thị trường chỉ được xem là

hiệu quả nếu giá cổ phiếu biến đổi ngẫu nhiên, không theo xu hướng nào và không

thể dự đoán được. Nghĩa là nó không có sự phụ thuộc về giá của cổ phiếu giữa quá

khứ và tương lai, giữa các ngày trong tuần hay giữa các tuần với nhau. Vì vậy, kiểm

định được tiến hành thực nghiệm bằng cách đo sự phụ thuộc thống kê giữa những

sự thay đổi giá. Nếu không có sự phụ thuộc hay sự thay đổi giá là ngẫu nhiên thì thị

trường hiệu quả dạng yếu và ngược lại.

Nguồn dữ liệu được sử dụng để phân tích gồm hai chỉ số thị trường VN-

Index và HNX-index (lấy chỉ số đóng cửa cuối ngày của các ngày có giao dịch)

trong thời gian từ 01/01/2007 đến 31/12/2015. Số liệu sau khi thu thập sẽ được tổng

hợp, sử dụng các phương pháp kiểm định trong thống kê để kiểm tra kết quả, xử lý

thành các bảng biểu và phân tích. Cụ thể, từ chỉ số thị trường được chọn sẽ dùng để

tính lợi nhuận của chỉ số thị trường theo ngày, là các quan sát cần thiết cho bài

nghiên cứu để thực hiện các phương pháp kiểm định thống kê và được xác định

theo công thức:

(3.1)

R = (Pt+1 - Pt) / Pt

Trang 33

Trong đó: R: Lợi nhuận của chỉ số thị trường theo ngày

Pt+1: Chỉ số VN-index/HNX-index thời điểm t+1

Pt : Chỉ số VN-index/HNX-index thời điểm t

Như đã giới thiệu ở chương 1 và chương 2, để kiểm định tính hiệu quả dạng

yếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, bài nghiên cứu sử dụng hai phương

pháp kiểm định là kiểm định chuỗi và kiểm định tự tương quan.

3.1.1 Kiểm định chuỗi (Run test)

Kiểm định chuỗi là phương pháp kiểm định tính ngẫu nhiên của dãy số theo

thời gian, ở đây chính là chuỗi lợi nhuận của chỉ số thị trường. Kiểm định chuỗi

(kiểm định phi tham số) được cho là phù hợp hơn so với kiểm định tham số (chẳng

hạn kiểm định tự tương quan) bởi vì dữ liệu theo thời gian của chỉ số thị trường

thường không theo phân phối chuẩn (Trương Đông Lộc, 2006). Kiểm định chuỗi là

một trong hai phương pháp thường được sử dụng trong nghiên cứu kiểm định thị

trường hiệu quả mức độ yếu cả trong và ngoài nước như nghiên cứu của Dickinson

và Muragu (1994), Abeysekera (2001), Maria (2010), Trương Đông Lộc (2006),

Thiều Bích Ngọc (2007)…

Chuỗi là sự xuất hiện của các quan sát giống nhau xảy ra liên tiếp. Trong

chuỗi quan sát kế tiếp nhau lợi nhuận của chỉ số thị trường có ba khả năng xảy ra:

tăng, giảm hoặc không đổi. Nếu các quan sát tăng liên tục thì được xem là một

chuỗi tăng; nếu các quan sát giảm liên tục thì được xem là một chuỗi giảm; nếu các

quan sát không đổi liền kề thì được xem là một chuỗi không đổi. Ta có ví dụ dãy

quan sát sau:

Bảng 3.1: Lợi nhuận theo ngày của chỉ số HNX-Index từ 15/09/2014 -

30/09/2014 trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội

Ngày HNX-Index Lợi nhuận Chuỗi

15/09/2014 89.41 -0.0894 Giảm

16/09/2014 90.15 0.8276 Tăng

Trang 34

17/09/2014 90.15 0 Không đổi

-2.3073 88.07 Giảm 18/09/2014

0.9197 88.88 Tăng 19/09/2014

-0.7426 88.22 Giảm 22/09/2014

-0.5441 87.74 23/09/2014

-0.0456 87.70 24/09/2014

1.0718 88.64 Tăng 25/09/2014

-0.1015 88.55 Giảm 26/09/2014

0.0113 88.56 Tăng 29/09/2014

0.0678 88.62 30/09/2014

(Nguồn: tính toán của tác giả tổng hợp từ dữ liệu trang www.vndirect.com.vn)

Với số chuỗi có được từ quan sát mẫu, ta tiến hành kiểm định chuỗi để xác

định chuỗi dữ liệu có ngẫu nhiên không. Các nhà thống kê đã chứng minh một dãy

các quan sát liền kề nhau với sự xuất hiện các chuỗi khác nhau được xem là ngẫu

nhiên khi số chuỗi của dãy số rơi vào phạm vi mà bạn có thể kỳ vọng. Hiển nhiên

nếu quá ít chuỗi sẽ thể hiện sự thiên lệch hay phi ngẫu nhiên. Nhưng nếu quá nhiều

chuỗi, người ta cũng đã chứng minh được đó là tín hiệu của sự phi ngẫu nhiên. Về

( )∑

mặt thống kê, số chuỗi kỳ vọng được xác định theo công thức:

(3.2)

m =

Trong đó: m: Số chuỗi được kỳ vọng theo ngẫu nhiên

N: Tổng số quan sát của mẫu

ni: Tổng số chuỗi của từng loại chuỗi (n1: chuỗi tăng; n2: chuỗi giảm; n3:

chuỗi không đổi)

Với số quan sát trong mẫu khá lớn N>30, phân phối của giá trị kỳ vọng m

được xem gần với phân phối chuẩn. Độ lệch chuẩn phân phối của m () được xác

Trang 35

định bởi công thức:

(3.3)

=

( ) ()

Để kiểm định chuỗi các quan sát là lợi nhuận theo ngày của chỉ số thị trường

là ngẫu nhiên, ta tiến hành kiểm định hai phía với sai số chuẩn của nó phải là 0. Giá

trị thống kê cần kiểm định trong trường hợp này là kiểm định Z. Đây là hệ số được

nghiên cứu và đưa ra năm 1956 bởi hai nhà khoa học Wallis và Robert. Trường hợp

nếu số chuỗi đếm được từ thực tế nhỏ hơn số chuỗi kỳ vọng thì sử dụng hệ số điều

chỉnh liên tục tăng (+0.5) và ngược lại, sẽ dùng hệ số điều chỉnh liên tục giảm (-0.5)

khi số chuỗi đếm được trong thực tế lớn hơn số chuỗi kỳ vọng. Giá trị thống kê Z sẽ

được so sánh với giá trị tra bảng nhằm làm cơ sở để chấp nhận hay bác bỏ giả

thuyết H0. Z được xác định theo công thức:

(3.4)

Z =

.

Trong đó: R: số chuỗi đếm được của dãy quan sát trong thực tế → R = ∑

0.5: hệ số điều chỉnh cho tính liên tục

m: số chuỗi được kỳ vọng theo ngẫu nhiên

Khi số chuỗi R quá lớn hay quá nhỏ đều sẽ không rơi vào phạm vi số chuỗi

được kỳ vọng, khi đó giá trị |Z| ≥ 1.96 hoặc |Z| ≥ 2.576 thì giả thuyết H0 về chuỗi dữ

liệu chỉ số thị trường lúc này bị bác bỏ nghĩa là bác bỏ giả thuyết chuỗi dữ liệu ngẫu

nhiên và chấp nhận giả thuyết H1 nghĩa là chuỗi biến động không có tính ngẫu nhiên

mà có sự phụ thuộc giữa các quan sát với nhau, tương ứng với mức ý nghĩa là 5%

và 1%. Hay nói cách khác giả thuyết về thị trường hiệu quả mức độ yếu cũng bị bác

bỏ trên thị trường chứng khoán Việt Nam và ngược lại.

3.1.2 Kiểm định tự tương quan (Autocorrelation test)

Tự tương quan có thể hiểu là quan hệ tương quan giữa các thành phần của

chuỗi quan sát được sắp xếp theo thứ tự thời gian (như trong dữ liệu chuỗi thời

Trang 36

gian) hoặc không gian (như trong dữ liệu chéo). Kiểm định tự tương quan là

phương pháp kiểm định nhằm kiểm tra mối quan hệ tuyến tính giữa các quan sát

(trong luận văn này là lợi nhuận của chỉ số thị trường theo ngày). Mục đích của việc

phân tích tự tương quan là để xác định thử xem khả năng sự biến động của chuỗi

quan sát có tuân theo chu kỳ mà chúng ta có thể dự đoán được quy luật của nó

không hay nói cách khác là để xác định chuỗi quan sát có tính ngẫu nhiên hay

không? Kiểm định tương quan là phương pháp thứ hai thường được sử dụng trong

nghiên cứu kiểm định thị trường hiệu quả mức độ yếu cả trong và ngoài nước như

nghiên cứu của Dickinson và Muragu (1994), Abeysekera (2001), Trương Đông

Lộc (2006), Thiều Bích Ngọc (2007)…

Đối với nghiên cứu này, hệ số tự tương quan thể hiện mối quan hệ tuyến tính

giữa các quan sát. Nếu hệ số tự tương quan khác không, điều đó có ý nghĩa chuỗi

quan sát không có tính ngẫu nhiên, hay giữa các quan sát trong chuỗi có mối quan

hệ phụ thuộc nhau, có sự tương quan nhau và ngược lại. Nếu hệ số tương quan

dương, quan sát sau sẽ biến đổi cùng chiều so với quan sát trước trong chuỗi và

ngược lại. Nếu kết quả là có sự tương quan nhau giữa các quan sát, chúng ta cần xác

định chu kỳ của nó là như thế nào, sau bao lâu sẽ tăng hoặc sau bao lâu sẽ giảm, đó

chính là độ trễ. Giả sử các quan sát trong chuỗi số liệu có hệ số tương quan dương

và độ trễ là 1, nghĩa là quan sát sau tại thời điểm t+1 sẽ biến đổi cùng chiều với

quan sát tại thời điểm t. Nếu hệ số tương quan âm với độ trễ là 2, nghĩa là cứ cách

một quan sát, quan sát sau tại thời điểm t+2 sẽ biến đổi ngược chiều với quan sát tại

thời điểm t. Hệ số tương quan được xác định bởi công thức:

(3.5)

=

)( ̅) )

(̅ ∑

Trong đó: k: độ trễ

: hệ số tương quan về lợi nhuận của chỉ số thị trường theo ngày với độ

trễ k

N: tổng số quan sát

Trang 37

rt: lợi nhuận của chỉ số thị trường theo ngày tại thời điểm t

rt+k: lợi nhuận của chỉ số VN-index/HNX-index tại thời điểm t+k

̅: lợi nhuận trung bình của chỉ số VN-index/HNX-index

Hệ số kiểm tra về hiện tượng tự tương quan đối với lợi nhuận của chỉ số thị

trường với độ trễ được xác định là k. Để lợi nhuận của chỉ số thị trường tại các thời

điểm không có sự tự tương quan và dãy số được xem là ngẫu nhiên thì hệ số này

phải là 0. Giả thiết kiểm định trong trường hợp này:

H: = 0 H: ≠ 0

Nhưng đây chỉ là hệ số tương quan trong chuỗi lợi nhuận chỉ số thị trường ở

từng độ trễ xác định. Cần xác định lợi nhuận chỉ số thị trường ở nhiều độ trễ khác

nhau có mối tương quan gì không? Nếu chúng có mối tương quan nhau thì chắc

chắn tính ngẫu nhiên của các quan sát trong chuỗi thời gian cũng bị phá vỡ mặc dù

với từng độ trễ xác định, đa số chúng lại không có sự tương quan. Vì vậy, cần kiểm

định tự tương quan của chuỗi giữa nhiều độ trễ khác nhau. Giả thuyết đặt ra:

H: = = = ⋯ = = 0 H: ≠ 0

Để kiểm định giả thuyết trên, chúng ta có thể kiểm định từng , tuy nhiên

người ta thường hay dùng kiểm định hai phía với giá trị kiểm định Q được định

nghĩa bởi Ljung-Box như sau:

(3.6)

QLB = N (N + 2) ∑

Trong đó: QLB: Giá trị kiểm định Q

: hệ số tương quan về lợi nhuận của cổ phiếu ở độ trễ j

N: tổng quan sát

Trang 38

k: độ trễ

.

Với giả thuyết H0 là tất cả hệ số tự tương quan bằng 0 và H1 là khi có giá trị khác không, giá trị kiểm định Q sẽ tuân theo phân phối có bậc tự do k (độ trễ

: bác bỏ giả thuyết H0 và chấp nhận giả thuyết H1: chuỗi

của quan sát). Với mức ý nghĩa và bậc tự do k, tra bảng ta có được giá trị

- Nếu >

: chấp nhận giả thuyết H0 và bác bỏ giả thuyết H1: chuỗi

quan sát có xảy ra hiện tượng tự tương quan.

- Nếu <

quan sát không xảy ra hiện tượng tự tương quan hay chuỗi quan sát là

ngẫu nhiên.

Chuỗi số liệu được xem là có tính ngẫu nhiên khi mỗi hệ số tương quan ()

đều phải bằng 0, như vậy chỉ cần một hệ số tương quan khác 0 thì chuỗi số liệu

được xem như có mối tương quan lẫn nhau giữa các quan sát của chuỗi.

Tóm lại, cả hai phương pháp kiểm định chuỗi và kiểm định tự tương quan

đều nhằm kiểm tra tính ngẫu nhiên trong chuỗi lợi nhuận của chỉ số thị trường, từ

đó có cơ sở để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết thị trường hiệu quả mức độ yếu trên

thị trường chứng khoán Việt Nam. Vì thị trường chứng khoán chỉ hiệu quả khi lợi

nhuận của chỉ số thị trường phải là một dãy số ngẫu nhiên, không phụ thuộc vào lợi

nhuận của chỉ số thị trường trong quá khứ hay tương lai hay giữa các ngày khác

nhau trong tuần.

3.2 Kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung bình

Kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung bình tức là kiểm tra xem giá cổ

phiếu đã chứa đựng các thông tin được công bố tính tới thời điểm hiện tại hay chưa,

hoặc kiểm tra xem phản ứng của thị trường (mức độ điều chỉnh giá cả chứng khoán)

trước thông tin công khai ở hiện tại và lân cận hiện tại để xem sau thời điểm công

khai thông tin thì người sử dụng chúng có kiếm được lợi nhuận vượt trội hay không.

Nếu thị trường hiệu quả dạng trung bình, nhà đầu tư sẽ phản ứng với các

luồng thông tin ngay khi thông tin được công bố và sự thay đổi giá là đáng kể, và sẽ

Trang 39

di chuyển đến một mức cân bằng mới, sau đó chứng khoán hầu như không đổi nếu

giả định chưa có thông tin bổ trợ nào khác. Nếu thị trường không hiệu quả dạng

trung bình thì có thể có xu hướng phản ứng thái quá của thị trường theo hướng hoặc

tích cực hoặc tiêu cực do thông tin đến quá chậm hoặc do thông tin không chuẩn

(được mô tả như đường (1) và (2) trong hình 3.1).

Hình 3.1: Quan sát phản ứng của thị trường với mốc công bố thông tin

(Vũ Thị Minh Luận, 2010)

Các nhà nghiên cứu sử dụng một số mô hình được xây dựng trên phương

pháp luận là tìm xem có thu nhập bất thường quanh thời điểm công bố thông tin hay

không. Giả thuyết đặt ra là nếu thị trường hiệu quả trung bình thì trung bình tổng

thu nhập bất thường của cổ phiếu phải bằng 0 và ngược lại. Các mô hình cụ thể

được xây dựng sẽ dựa trên việc xác định các biến đưa vào mô hình và thường liên

quan đến những công bố chính thức từ phía các tổ chức niêm yết như phát hành cổ

phiếu, chia tách cổ phiếu, chia cổ tức, công bố báo cáo tài chính, thông báo mua bán

sáp nhập… hay các sự kiện vĩ mô từ cơ quan nhà nước, giới truyền thông như tăng

giảm lãi suất, tỷ lệ lạm phát, tăng giá điện xăng dầu, thay đổi trong chính sách tiền

Trang 40

tệ, tài khóa…

Phương pháp kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung bình được một số nhà

nghiên cứu sử dụng là phương pháp đồng liên kết và quan hệ nhân quả Granger, còn

lại đa số các nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích sự kiện (Vũ Thị Minh

Luận, 2010) cũng là phương pháp được bài nghiên cứu áp dụng để kiểm chứng thị

trường chứng khoán Việt Nam có hiệu quả mức độ trung bình hay không. Theo

Bodie (2009) nghiên cứu sự kiện (Event Study) là phương pháp được dùng để đánh

giá tác động của một sự kiện đến giá chứng khoán bằng cách kiểm định sự thay đổi

của giá chứng khoán xung quanh ngày xảy ra sự kiện. Đây là phương pháp nghiên

cứu định lượng được dùng để phân tích mức độ và chiều hướng tác động của sự

kiện đến thị trường. Nếu thị trường hiệu quả dạng trung bình và giá cổ phiếu đã

phản ánh đầy đủ các thông tin hiện có, thì khi có thông tin mới tác động, giá cổ

phiếu phải có sự thay đổi.

Fama (1991) cũng cho rằng nghiên cứu sự kiện là bằng chứng rõ ràng nhất

mà chúng ta có để kết luận mức độ hiệu quả dạng trung bình trên thị trường chứng

khoán. Ông giải thích phương pháp nghiên cứu sự kiện hiệu quả hơn vì chúng ta chỉ

cần tìm hiểu các sự kiện xảy ra và theo dõi tốc độ điều chỉnh giá chứng khoán. Nếu

giá chứng khoán phản ứng và thay đổi ngay lập tức sau khi sự kiện xảy ra có nghĩa

là giá đã bao hàm cả thông tin mới và thị trường đó là hiệu quả và ngược lại. Các sự

kiện này có thể là quyết định đầu tư của công ty, thay đổi chính sách cổ tức hay thay

đổi cấu trúc vốn...

Theo nghiên cứu của MacKinlay (1997), phân tích sự kiện được đề cập lần

đầu trong nghiên cứu của Dolley (1933) khi xem xét phản ứng của giá chứng khoán

với thông tin chia tách cổ phiếu với mẫu nghiên cứu là 95 trường hợp chia tách cổ

phiếu trong giai đoạn 1921-1931, kết quả có 57 trường hợp giá cổ phiếu có sự tăng

lên và 26 trường hợp khác có sự giảm giá. Sau đó là một số các nghiên cứu được

đăng trên tạp chí kinh tế như nghiên cứu của Myers và Bakay (1948), Barker

(1956), Ashley (1962)… Tuy nhiên phải đến nghiên cứu của Ball và Brown (1968)

với Fama (1969), phương pháp phân tích sự kiện mới được biết đến nhiều. Hai

Trang 41

nghiên cứu này sử dụng mô hình thị trường là mô hình định giá tài sản vốn (CAPM)

của Sharpe (1964) và sử dụng bộ dữ liệu từ trung tâm nghiên cứu về chứng khoán

(Center for Research in Security Price – CRSP). Sau đó, trong nghiên cứu của

Binder (1998) đã cung cấp các đánh giá toàn diện hơn về phương pháp nghiên cứu

sự kiện và thảo luận năm phương pháp ước lượng lợi nhuận bình thường: (i)

phương pháp ước lượng lợi nhuận bình thường dựa trên lợi nhuận trung bình

(mean-adjusted); (ii) phương pháp ước lượng lợi nhuận bình thường dựa trên điều

chỉnh của thị trường (market-adjusted); (iii) phương pháp ước lượng lợi nhuận bình

thường dựa trên điều chỉnh của thị trường và rủi ro (market and risk adjusted); (iv)

phương pháp ước lượng lợi nhuận bình thường dựa trên mô hình CAPM và (v)

phương pháp ước lượng lợi nhuận bình thường dựa trên mô hình kinh doanh chênh

lệch giá APT. Trong đó mô hình (ii) và (iii) được sử dụng nhiều nhất trong các

nghiên cứu. Mặc dù phương pháp nghiên cứu sự kiện xuất hiện khá lâu trên thế giới

nhưng phương pháp này chưa phổ biến ở Việt Nam và rất ít nghiên cứu được công

bố trên các tạp chí uy tín có sử dụng đến phương pháp này (Đặng Bửu Kiếm, 2014).

Theo MacKinlay (1997) nghiên cứu, phân tích sự kiện được chia thành 5 bước:

- Bước 1 là xác định sự kiện nghiên cứu. Sự kiện (Event) được định nghĩa

là một sự việc hoặc một hành động của một tổ chức được công bố công

khai, ví dụ sáp nhập, một thông báo đầu tư mới, chia tách cổ phiếu…

Bước đầu tiên của việc phân tích tác động sự kiện là phải nhận dạng được

sự kiện cũng như xác định ngày xảy ra sự kiện. Có hai loại sự kiện có thể

được xét đến: sự kiện ngẫu nhiên (sáp nhập, thiên tai…) và sự kiện

thường xuyên (công bố báo cáo tài chính, công bố tỷ lệ lạm phát…).

Ngày xảy ra sự kiện được ký hiệu là ngày 0, những ngày trước khi xảy ra

sự kiện ký hiệu dấu trừ (-) và những ngày xảy ra sau sự kiện ký hiệu dấu

cộng (+). Trong bài nghiên cứu này, sự kiện được chọn để phân tích

nghiên cứu là thông tin Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP

Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) - Ông Trần Bắc Hà bị bắt được

tung ra trong ngày 21/02/2013. Bài nghiên cứu sẽ phân tích tác động của

Trang 42

sự kiện này đến nhóm chứng khoán ngành ngân hàng có liên quan gồm

tám mã chứng khoán của tám ngân hàng được niêm yết chính thức: ACB,

NVB, SHB, CTG, EIB, MBB, STB, VCB.

- Bước 2 là xác định độ dài thời gian cho các khung nghiên cứu sự kiện.

Cho mỗi sự kiện có ba khung thời gian xem xét: (i) Thứ nhất: khung sự

kiện (event window) là khung thời gian xung quanh ngày sự kiện, trong

đó ngày 0 được gọi là ngày sự kiện. Độ dài thời gian cho khung sự kiện

trong nghiên cứu này được xem xét trong 31 ngày giao dịch [-15,+15] vì

nghiên cứu sử dụng lợi nhuận theo ngày và sự kiện xem xét có tính chất

ảnh hưởng trong ngắn hạn; (ii) Thứ hai: khung dự báo (estimation

window) là khung thời gian được xem xét trước khung sự kiện, dùng làm

cơ sở để tính toán lợi nhuận kỳ vọng và lợi nhuận bất thường của chứng

khoán. Độ dài thời gian của khung dự báo trong nghiên cứu này sử dụng

là 100 ngày giao dịch trước ngày sự kiện. (iii) Thứ ba: khung sau sự kiện

(post-event window) là khung thời gian được xác định sau khung sự kiện,

trong nghiên cứu này không xét đến.

- Bước 3 là dự báo lợi nhuận kỳ vọng (Expected return). Theo MacKinlay

(1997), lợi nhuận thông thường hay lợi nhuận kỳ vọng E(Ri,t) được tính

theo công thức sau:

(3.7)

E(Ri,t) = αi,t + βi,tRM,t

(3.8)

RM,t = (Pt - Pt-1) / Pt-1

Đây chính là công thức áp dụng theo phương pháp ước lượng lợi nhuận

bình thường dựa trên điều chỉnh của thị trường và rủi ro cũng chính là

phương pháp thứ (iii) của Binder (1998).

Trong đó: αi,t và βi,t là các hệ số được ước lượng bằng phương pháp hồi quy OLS

RM,t là lợi nhuận của chỉ số thị trường vào ngày t

Pt-1: Chỉ số thị trường (VN-index) thời điểm t-1

Trang 43

Pt : Chỉ số thị trường (VN-index) thời điểm t

- Bước 4 là tính lợi nhuận bất thường (AR), lợi nhuận bất thường tích lũy

(CAR) và lợi nhuận bất thường tích luỹ trung bình (CAAR).

(i) AR (Abnormal Return) là lợi nhuận bất thường, được đo bằng sự

khác biệt giữa lợi nhuận thực tế và lợi nhuận kỳ vọng. Lợi nhuận

bất thường cho chứng khoán i vào ngày t được tính như sau:

(3.9)

ARi,t = Ri,t - E(Ri,t)

(3.10)

Ri,t = (Pt - Pt-1) / Pt-1

Trong đó: ARi,t: lợi nhuận bất thường của chứng khoán i vào ngày t

Ri,t: lợi nhuận thực tế của chứng khoán i vào ngày t

E(Ri,t): lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán i vào ngày t

Pt-1: Giá chứng khoán i vào thời điểm t-1

Pt : Giá chứng khoán i vào thời điểm t

(ii) CAR (Cumulative Abnormal Return) là lợi nhuận bất thường tích

lũy, dùng để đo lường tác động chung của một sự kiện theo thời

gian trên các đối tượng trong một khoảng thời gian cụ thể bằng

cách cộng dồn các lợi nhuận bất thường riêng rẻ, được mô tả theo

công thức sau:

(3.11)

CAR(t1,t2) = ∑

,

Nếu thị trường chứng khoán không thể dự đoán được sự kiện, lợi

nhuận bất thường tích lũy tính cho đến ngày sự kiện xảy ra sẽ xấp

xỉ bằng 0, trường hợp nếu lợi nhuận này có xu hướng tăng dần

(hoặc giảm dần) từ những ngày trước khi sự kiện xảy ra và tác

động dương (hoặc âm) vẫn tiếp diễn cho đến những ngày sau khi

sự kiện xảy ra thì hàm ý rằng thị trường đã dự đoán trước được sự

kiện này (Trần Thị Tuấn Anh và ctg, 2013).

(iii) CAAR (Cumulative Average Abnormal Return): là lợi nhuận bất

Trang 44

thường tích lũy trung bình. Giá trị CAAR có ý nghĩa là giá trị

trung bình đại diện cho một loại sự kiện (hoặc một sự kiện tương

tự). Theo Schimmer (2012) giá trị CAAR cho thấy phản hồi trung

bình của chứng khoán đối với các loại sự kiện và được tính theo

công thức sau:

(3.12)

(,)

CAAR =

- Bước 5 là kiểm định bằng tham số hoặc phi tham số. Để kiểm định chắc

chắn tác động của sự kiện đến cổ phiếu đang được xem xét (trong bài

nghiên cứu này là các cổ phiếu thuộc nhóm ngành ngân hàng được niêm

yết chính thức trên hai sàn giao dịch) phương pháp kiểm định tham số

của Binder (1998) và kiểm định phi tham số theo nghiên cứu của

Campbell và Wasley (1993) được lựa chọn áp dụng đồng thời và so sánh

kết quả với nhau.

(i) Bằng phương pháp kiểm định tham số chuỗi AR yêu cầu phải có

phân phối chuẩn, đạt yêu cầu kiểm định. Trong kiểm định tham số,

CAAR của các chứng khoán được tính toán phương sai theo công

thức sau:

(3.13)

var (CAAR(t1,t2)) =

(,)

()

(,): phương sai lợi nhuận bất thường tại từng thời điểm i trong

Trong đó: CAAR(t1,t2): Lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình

khung thời gian (t1,t2)

: số các quan sát

Ta kiểm định với giả thuyết H0: Sự kiện không tác động đến lợi

nhuận bất thường tích lũy trung bình và H1: Sự kiện tác động đến

lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình bằng cách tính chỉ số

thống kê 1 theo Binder (1998) và tra bảng nhằm làm cơ sở để

( ,)

chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết H0:

(3.14)

1=

(( ,))

Trang 45

Nếu giá trị |1| ≥ 1.96 thì giả thuyết H0 bị bác bỏ, chấp nhận giả

thuyết H1 nghĩa là tác động của sự kiện có ảnh hưởng đến lợi

nhuận bất thường tích lũy trung bình với mức ý nghĩa 5% và

ngược lại.

(ii) Để củng cố thêm bằng chứng thống kê về tác động của sự kiện, bài

nghiên cứu sẽ tiếp tục kiểm định bằng phương pháp phi tham số

của Campbell và Wasley (1993). Giá trị thống kê 2 của kiểm định

phi tham số được tính toán như sau:

(3.15)

2 =

− 0.5 √ .

Trong đó: N+: số trường hợp thu nhập dương

N: tổng số các trường hợp

Giá trị thống kê 2 sẽ được so sánh với giá trị tra bảng để có cơ sở

chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết H0. Nếu giá trị |2| ≥ 1.96 thì giả

thuyết H0 bị bác bỏ, chấp nhận giả thuyết H1 nghĩa là tác động của

sự kiện có ảnh hưởng đến lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình

với mức ý nghĩa 5% và ngược lại.

3.3 Kiểm định hiệu ứng ngày trong tuần

Hiệu ứng ngày trong tuần chính là sự bất thường trong tỷ suất sinh lợi trung

bình giữa các ngày trong tuần của các cổ phiếu trên thị trường. Dạng phổ biến của

hiệu ứng ngày trong tuần đó là tỷ suất sinh lợi trung bình vào ngày thứ hai thấp hơn

đáng kể so với tỷ suất sinh lợi trung bình của những ngày khác trong tuần, ngược lại

với ngày thứ sáu có tỷ suất sinh lợi trung bình cao nhất trong tuần. Trong luận văn

này, tác giả chọn tỷ suất sinh lợi trung bình của ngày thứ hai làm gốc để so sánh với

tỷ suất sinh lợi trung bình của các ngày khác trong tuần.

Theo Trầm Thị Xuân Hương và ctg (2014), các nhà nghiên cứu trên thế giới

chủ yếu sử dụng mô hình hồi quy với biến giả là các ngày trong tuần để kiểm định

Trang 46

hiệu ứng ngày thứ hai như Opeyemi và Kahan (2009), Alt và ctg (2011), Elango và

Macki (2012). Trong bài luận văn này, tác giả cũng vận dụng mô hình hồi quy với

biến giả là các ngày trong tuần để kiểm chứng hiệu ứng ngày trong tuần trên thị

trường chứng khoán Việt Nam. Nguồn dữ liệu được sử dụng để áp dụng kiểm định

và phân tích là hai chỉ số thị trường VN-Index và HNX-index (lấy chỉ số đóng cửa

cuối ngày của các ngày có giao dịch) trong thời gian từ 01/01/2007 đến 31/12/2015.

Số liệu sau khi thu thập sẽ được tổng hợp, thực hiện hồi quy và sử dụng các phương

pháp kiểm định trong thống kê để kiểm tra kết quả, xử lý thành các bảng biểu và

phân tích. Tỷ suất sinh lợi của các ngày trong tuần được ký hiệu là Ris, được tính

theo công thức:

(3.15)

Ris = E(Ris) + εis

Trong đó: E(Ris): giá trị kỳ vọng của Ris

εis: sai số tương ứng

Thông thường, tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của ngày thứ i sẽ cố định theo thời

gian. Khi đó:

(3.16)

Ris = βi + εis

Trong đó, βi = E(Ris) cho tất cả các ngày thứ i trong tuần. Phương trình (3.16)

có thể triển khai ra thành:

(3.17)

Rt = β + ∑

dit + εt β

Trong đó Rt là tỷ suất sinh lợi của ngày bất kỳ trong tuần, biến giả dit đại

diện cho các ngày trong tuần, i thay đổi từ 3 đến 6 (thể hiện từ thứ Ba đến thứ Sáu).

Nếu d3t= 1 thì các dit còn lại sẽ bằng 0, tương tự cho giá trị các dit khác. Tỷ suất sinh

lợi mong đợi của ngày thứ Hai được đo bằng β2 và khi đó các dit đều bằng 0, trong

khi β3 đến β6 đại diện cho sự khác biệt tỷ suất sinh lợi mong đợi của ngày thứ Hai

với tỷ suất sinh lợi mong đợi của các ngày khác trong tuần.

Để mô hình kiểm định là đáng tin cậy, ta tiến hành kiểm tra xem mô hình có

Trang 47

hiện tượng đa cộng tuyến, tự tương quan, phương sai phần dư thay đổi hay không?

Nếu không có các hiện tượng trên thì các kiểm định của mô hình là đáng tin cậy.

Ngoài ra, để đảm bảo dữ liệu sử dụng chuỗi thời gian cho mô hình hồi quy luận văn

cũng áp dụng kiểm định tính dừng để kiểm tra.

Chuỗi thời gian dừng hay chuỗi dừng (stationary) là chuỗi thời gian không

bao hàm các yếu tố xu thế. Trong phân tích hồi quy liên quan đến dữ liệu chuỗi thời

gian nếu dữ liệu của biến không đạt trạng thái dừng thì các kiểm định thống kê có

thể trở nên không đáng tin cậy. Để xác định chuỗi dữ liệu có tính dừng hay không,

luận văn sử dụng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị Dickey-Fuller (VietLOD,

2014). Ta kiểm định giả thuyết:

H: = 1 (Chuỗi không dừng) H: ≠ 1 Chuỗi dừng

Nếu p-value < α bác bỏ giả thuyết H0 với mức ý nghĩa α, chuỗi dữ liệu dừng

ở bậc 0 và ngược lại.

Tiếp theo, để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến là hiện tượng các biến độc

lập trong mô hình tương quan tuyến tính với nhau, ta sử dụng chỉ tiêu VIF (nhân tử

phóng đại phương sai) hay có thể tính hệ số tương quan giữa các biến độc lập để

xác định. Theo Farrar and Glauber (1967) hệ số tương quan có giá trị cao (> 0.8),

mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng và ngược lại. Tương tự cho chỉ

tiêu VIF > 10, mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng và ngược lại

(Gujrati, 2003). VIF của biến độc lập di được tính theo công thức sau:

(3.18)

VIF (di) =

Trong đó: R2 là hệ số xác định của mô hình hồi quy

Phương sai của sai số thay đổi sẽ làm cho các ước lượng thu được bằng

phương pháp OLS vững nhưng không hiệu quả, các kiểm định hệ số hồi quy không

còn đáng tin cậy, dẫn đến hiện tượng ngộ nhận các biến độc lập trong mô hình

nghiên cứu có ý nghĩa. Vì vậy cần tiến hành kiểm định giả thuyết phương sai của

Trang 48

sai số thay đổi bằng kiểm định White, với giả thuyết:

: Không có hiện tượng phương sai thay đổi : Có hiện tượng phương sai thay đổi

Nếu kiểm định White cho kết quả Prob < α, bác bỏ giả thuyết H0 với mức ý

nghĩa α hay kết luận mô hình có hiện tượng phương sai thay đổi và ngược lại.

Giữa các sai số có mối quan hệ tương quan với nhau cũng làm cho các ước

lượng thu được bằng phương pháp OLS vững nhưng không hiệu quả, các kiểm định

hệ số hồi qui không còn đáng tin cậy. Vì vậy, cần tiến hành kiểm định Durbin-

Waston với giả thuyết:

: Không có sự tự tương quan : Có sự tự tương quan

Nếu kiểm định Durbin-Waston cho kết quả Prob < α, bác bỏ giả thuyết H0

với mức ý nghĩa α hay kết luận mô hình có sự tự tương quan và ngược lại.

Nếu mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến, phương sai thay đổi và sự tự

tương quan thì ta không sử dụng phương pháp OLS để ước lượng mà sử dụng

phương pháp bình phương bé nhất tổng quát (GLS – General Least Square) để phân

tích nhằm đảm bảo ước lượng thu được vững và hiệu quả.

Nếu tỷ suất sinh lợi mong đợi của các ngày khác nhau trong tuần là như

nhau, giá trị ước lượng β3 đến β6 sẽ gần bằng 0 (French 1980, trang 60-61). Để kiểm

định hiệu ứng ngày trong tuần, giả thuyết kiểm định thường được sử dụng:

H0: β2 = β3 = β4 = β5 = β6

Nếu giá trị kiểm định P > 0.05, giả thuyết H0 không bị bác bỏ với mức ý

nghĩa α nghĩa là không có đủ chứng cứ để bác bỏ giả thuyết rằng các tỷ suất sinh lợi

mong đợi của các ngày trong tuần so với ngày thứ Hai tương tự nhau, do đó không

có hiệu ứng ngày trong tuần. Ngược lại nếu giá trị kiểm định P < 0.05, giả thuyết H0

bị bác bỏ với mức ý nghĩa α nghĩa là tỷ suất sinh lợi mong đợi giữa các ngày trong

tuần có khác biệt so với ngày thứ Hai. Khi đó, tác giả tiếp tục kiểm định sâu hơn

cho từng hệ số để xem rằng tỷ suất sinh lợi mong đợi của ngày nào trong tuần khác

Trang 49

với ngày thứ Hai. Giả thuyết đặt ra:

H0i: βi = 0 (3 ≤ ≤ 6)

Nếu giá trị kiểm định Pi nào > 0.05, chấp nhận giả thuyết H0i đó có nghĩa là

không có đủ cơ sở để bác bỏ tỷ suất sinh lợi mong đợi của ngày i đó không khác so

với tỷ suất sinh lợi mong đợi của ngày thứ Hai. Ngược lại nếu giá trị kiểm định Pi

nào < 0.05, giả thuyết H0i đó bị bác bỏ với mức ý nghĩa α có nghĩa là tỷ suất sinh lợi

mong đợi của ngày i đó có khác biệt so với tỷ suất sinh lợi mong đợi của ngày thứ

Hai.

Tóm lại, để trả lời các câu hỏi đặt ra trong chương 1, tác giả đã chọn một số

phương pháp kiểm định tương ứng với từng câu hỏi được các nhà nghiên cứu trong

và ngoài nước sử dụng trước đây để áp dụng cho thị trường chứng khoán Việt Nam.

Nội dung chi tiết được tác giả trình bày trong chương này như phương pháp nào

được sử dụng để kiểm định, nguồn dữ liệu là gì và áp dụng mô hình nào để phân

tích, từng bước cụ thể thực hiện như thế nào. Dựa vào nội dung trên, luận văn sẽ

Trang 50

tiến hành kiểm định và phân tích kết quả nhận được trong chương tiếp theo.

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Dựa vào nội dung chi tiết phương pháp nghiên cứu đã trình bày trong

chương 3, chương 4 của luận văn sẽ tiến hành thực nghiệm việc kiểm định đối với

thị trường chứng khoán Việt Nam, trình bày các kết quả nhận được, từ đó phân tích

để đưa ra kết luận cho các câu hỏi đang chờ giải đáp ở chương 1 và thảo luận về

thị trường chứng khoán Việt Nam dựa trên kết quả nhận được. Nội dung của

chương 4 cũng chia thành 3 phần gồm kết quả kiểm định thị trường hiệu quả dạng

yếu, kết quả kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung bình và kết quả kiểm định

hiệu ứng ngày trong tuần.

4.1 Kết quả kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu

Như đã trình bày trong chương 3, để kiểm định giả thuyết thị trường hiệu quả

dạng yếu cho thị trường chứng khoán Việt Nam, bài nghiên cứu sử dụng hai

phương pháp kiểm định là kiểm định tự tương quan và kiểm định chuỗi. Dữ liệu

nghiên cứu là lợi nhuận tính theo ngày của hai chỉ số thị trường VN-Index và HNX-

Index được tính ra từ chỉ số đóng cửa cuối ngày của các ngày có giao dịch với thời

gian được chọn từ 01/01/2007 đến 31/12/2015.

Bảng 4.1: Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu

HNX-Index

Số quan sát Trung bình Trung vị Giá trị lớn nhất Giá trị bé nhất Độ lệch chuẩn VN-Index 2240 0.0006 0.0209 8.0489 -5.8717 1.5665 2240 -0.0292 -0.0753 10.0740 -12.0692 2.0182

(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả chạy thống kê mô tả bằng phần mềm Eview)

4.1.1 Kết quả kiểm định chuỗi (Run test)

Kết quả của kiểm định này cho hai chỉ số thị trường VN-Index và HNX-

Trang 51

Index được trình bày ở bảng 4.2:

Bảng 4.2: Kết quả kiểm định chuỗi về lợi nhuận theo ngày của chỉ số VN-Index

và HNX-Index

Tổng số quan sát Số chuỗi mong đợi Số chuỗi thực tế quan sát Độ lệch chuẩn phân phối của giá trị mong đợi Giá trị kiểm định Z P-value VN-Index 2240 1120.7107 975 23.6529 -6.1604 0.0000 HNX-Index 2240 1120.6429 1032 23.6515 -3.7479 0.0002

(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả chạy bằng phần mềm Eview)

Đối với chỉ số VN-Index, số chuỗi thực tế quan sát là 975 < số chuỗi kỳ vọng

là 1120. Chỉ số Z-score là -6.160 (|Z| ≥ 2.576) và giá trị p-value nhỏ hơn 0.01 cho

thấy chuỗi tỷ suất lợi nhuận theo ngày của VN-index là không ngẫu nhiên và có ý

nghĩa thống kê ở mức 1%.

Đối với chỉ số HNX-index, số chuỗi thực tế quan sát là 1032 < số chuỗi kỳ

vọng là 1120. Chỉ số Z-score là -3.748 (|Z| ≥ 2.576) và giá trị p-value nhỏ hơn 0.01

cho thấy chuỗi tỷ suất lợi nhuận theo ngày của HNX-index là không ngẫu nhiên và

có ý nghĩa thống kê ở mức 1%.

Kết quả kiểm định chuỗi ở cả hai chỉ số thị trường đều cho thấy rằng sự thay

đổi về tỷ suất sinh lời của cổ phiếu là không ngẫu nhiên. Cả hai trường hợp đều có

bằng chứng để bác bỏ H0 vì tổng số quan sát thực tế của chuỗi nhỏ hơn so với số

chuỗi mong đợi và có ý nghĩa thống kê. Từ kết quả kiểm định này có thể kết luận

thị trường chứng khoán Việt Nam không hiệu quả ở mức độ yếu.

4.1.2 Kết quả kiểm định tự tương quan (Autocorrelation test)

Kết quả của kiểm định tự tương quan cho hai chỉ số thị trường VN-Index và

HNX-Index được trình bày ở Bảng 4.3. Kết quả kiểm định với độ trễ (lag) chạy từ 1

Trang 52

đến 20.

Bảng 4.3: Kết quả kiểm định tự tương quan về lợi nhuận theo ngày của chỉ số

VN-Index và HNX-Index

HNX-Index

Prob

Prob

Độ trễ

Hệ số tự tương quan 0.249 0.025 0.031 0.076 0.057 0.014 0.021 0.025 -0.016 -0.005 -0.006 0.033 0.066 0.029 -0.019 -0.034 0.002 0.013 0.012 0.025

Hệ số tự tương quan 0.160 0.010 0.033 0.077 0.077 -0.019 -0.012 0.021 0.036 -0.011 -0.024 0.003 0.053 0.063 -0.002 -0.013 0.015 0.028 0.010 0.011

Giá trị thống kê Q 57.56 57.77 60.24 73.60 86.78 87.56 87.87 88.87 91.87 92.13 93.48 93.49 99.76 108.70 108.71 109.07 109.55 111.36 111.60 111.85

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 VN-Index Giá trị thống kê Q 139.01 140.42 142.51 155.61 162.97 163.42 164.41 165.77 166.33 166.39 166.48 168.87 178.60 180.50 181.33 183.98 183.98 184.35 184.70 186.08 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000

(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả chạy bằng phần mềm Eview)

Qua bảng tổng hợp kết quả có thể thấy nhìn chung tất cả các hệ số tương

quan đều khác 0 và có ý nghĩa thống kê, nghĩa là tỷ suất sinh lợi theo ngày của hai

chỉ số thị trường đều có xảy ra hiện tượng tự tương quan. Trong đó hệ số tương

quan dương chiếm nhiều hơn so với hệ số tương quan âm. Đối với chỉ số VN-Index,

tương quan âm xuất hiện ở độ trễ thứ 9, 10, 11, 15, 16 và tương quan dương xuất

hiện ở mười lăm độ trễ còn lại. Đối với chỉ số HNX-Index, tương quan âm xuất hiện

ở độ trễ thứ 6, 7, 10, 11, 15, 16 và tương quan dương xuất hiện ở mười bốn độ trễ

Trang 53

còn lại. Điều này chỉ ra tỷ suất sinh lời theo ngày của hai chỉ số thị trường có xu

hướng tăng theo thời gian nhiều hơn xu hướng giảm và việc tăng này kéo dài trong

một khoảng thời gian, sau đó sẽ bắt đầu giảm xuống và lại tiếp tục tăng, giảm như

vậy. Tỷ suất sinh lời theo ngày của hai chỉ số thị trường thay đổi giống một chu kỳ

hình sin chứ không ngẫu nhiên.

Kết quả kiểm định tự tương quan chứng tỏ có mối quan hệ phụ thuộc lẫn

nhau giữa các quan sát là tỷ suất sinh lời theo ngày của hai chỉ số thị trường. Nghĩa

là chuỗi quan sát trong dãy số liệu theo thời gian biến đổi không theo ngẫu nhiên, vì

vậy giả thuyết H0 bị bác bỏ, thị trường chứng khoán Việt Nam không hiệu quả ở

mức độ yếu.

Kết hợp kiểm định tham số (trong bài nghiên cứu sử dụng là kiểm định tự

tương quan) và kiểm định phi tham số (trong bài nghiên cứu sử dụng là kiểm định

chuỗi), kết quả đều bác bỏ giả thuyết H0 cho thấy rằng thị trường chứng khoán Việt

Nam hiện tại vẫn không hiệu quả dạng yếu. Kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù

hợp với các kết quả nghiên cứu trước đó cho thị trường chứng khoán ở các nước

mới nổi hay đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng (Mobarek and Keasey,

2003). Như nghiên cứu của Trương Đông Lộc (2006), Hồ Viết Tiến (2006)… cũng

áp dụng phương pháp kiểm định hệ số tương quan và kiểm định chuỗi cho kết quả

thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thể hiện tính hiệu quả dạng yếu. Những

nghiên cứu này được thực hiện đã lâu trước đây, nhưng qua thời gian thêm gần

mười năm hoạt động, kết luận của nghiên cứu về thị trường chứng khoán Việt Nam

vẫn chưa có sự thay đổi. Thị trường vẫn chưa thật sự minh bạch, thông tin chưa

phản ánh đầy đủ vào trong giá chứng khoán, sự tăng giảm giá dường như vẫn theo

chu kỳ mà khi áp dụng các phương pháp phân tích kỹ thuật, nhà đầu tư phần nào có

thể dự đoán được diễn biến giá trong tương lai. Hay dựa vào các thông tin đã công

bố của doanh nghiệp, nhà đầu tư áp dụng các phương pháp phân tích cơ bản để kỳ

Trang 54

vọng giá trị của doanh nghiệp trong tương lai.

4.2 Kết quả kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung bình

Trong bài nghiên cứu này, sự kiện được chọn để phân tích nghiên cứu là

thông tin Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và

Phát triển Việt Nam (BIDV) - Ông Trần Bắc Hà bị bắt được tung ra trong ngày

21/02/2013. Bài nghiên cứu sẽ phân tích tác động của sự kiện này đến nhóm chứng

khoán ngành ngân hàng có liên quan gồm tám mã chứng khoán của tám ngân hàng

được niêm yết chính thức gồm: ACB, NVB, SHB, CTG, EIB, MBB, STB, VCB.

Dữ liệu đưa vào phân tích trong luận văn này là giá đóng cửa cuối ngày của tám mã

cổ phiếu trên trong thời gian từ ngày 25/09/2012 đến ngày 14/03/2013. Chỉ số đại

diện thị trường được chọn là chỉ số VN-Index, dữ liệu để phân tích cũng là chỉ số

đóng cửa cuối ngày trong cùng thời gian trên.

Luận văn phân tích sự kiện khi tin đồn về một vị lãnh đạo cấp cao của ngân

hàng, là một trong những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn đến thị trường bị bắt xảy

ra vào ngày thứ năm 21/02/2013 sẽ tác động đến giá cổ phiếu ngành ngân hàng như

thế nào? Sau khi thông tin được tung ra, thị trường chứng khoán lập tức sụt giảm

mạnh, các sàn giao dịch một màu đỏ rực, các chỉ số lao dốc nhanh chóng, hoạt động

“bán tháo” chứng khoán diễn ra trên diện rộng, chỉ số VN-Index chốt cuối phiên

mất 3.66% xuống còn 476.73 điểm, chỉ số HNX chốt cuối phiên mất 5.3% xuống

còn 63.45 điểm, kết quả gần 430 mã chứng khoán giảm điểm, trong đó 148 mã giảm

sàn, vốn hóa của thị trường chứng khoán mất gần 29.000 tỷ đồng chỉ trong 1 phiên

giao dịch (tinnhanhchungkhoan.vn). Ngày 21/02/2013 là ngày xảy ra sự kiện cần

nghiên cứu, được quy ước là ngày 0. Kết quả hồi quy theo công thức (3.7) làm cơ

Trang 55

sở tính toán phần lợi nhuận bất thường được trình bày ở Bảng 4.4.

Bảng 4.4: Kết quả hồi quy lợi nhuận từng cổ phiếu theo lợi nhuận

trung bình của thị trường

0.00710 0.00913 0.00688 0.00628 -0.00105 0.01736 0.00645 0.01212

-0.00172 -0.00084 -0.00097 -0.00073 -0.00083 -0.00303 -0.00079 -0.00016

0.28612 0.21031 0.28300 0.31819 0.00076 0.37991 0.19369 0.53103

ACB CTG EIB MBB NVB SHB STB VCB

Hệ số góc Hệ số chặn Hệ số xác định

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ kết quả hồi quy)

Dựa vào Bảng 4.4 lợi nhuận bất thường và lợi nhuận bất thường tích lũy

được tính toán cho các cổ phiếu trong khung sự kiện từ 15 ngày trước cho đến 15

ngày sau khi sự kiện xảy ra được tổng hợp trong Bảng 4.5.

Bảng 4.5: Lợi nhuận bất thường và lợi nhuận bất thường tích lũy cho nhóm cổ

phiếu các ngân hàng

AR CAR CAR

Ngày … -15 -14 -13 -12 -11 -10 -9 -8 -7 -6 -5 -4 -3 -2 -1 … -0.0234 -0.1455 -0.0615 0.1805 -0.0356 0.0113 -0.0148 0.0041 0.0881 -0.0701 -0.0151 0.0696 -0.0212 -0.0330 -0.0143 … -0.0234 -0.1689 -0.2304 -0.0500 -0.0856 -0.0743 -0.0891 -0.0849 0.0032 -0.0669 -0.0819 -0.0123 -0.0336 -0.0666 -0.0809 Ngày 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 AR -0.0675 0.0182 -0.0544 -0.0102 0.0353 -0.0656 0.0153 -0.1502 -0.0667 0.0859 -0.0101 0.0434 0.0507 -0.0013 -0.0426 -0.1277 -0.1485 -0.1303 -0.1847 -0.1949 -0.1596 -0.2252 -0.2099 -0.3601 -0.4268 -0.3409 -0.3510 -0.3076 -0.2569 -0.2582 -0.3008 -0.4285

Trang 56

(Nguồn: tác giả tính toán theo số liệu thu thập được)

y ũ

l

R A C

h c í t g n ờ ư h t t ấ b n ậ u h n

i ợ L

0.05 0 -0.05 -0.1 -0.15 -0.2 -0.25 -0.3 -0.35 -0.4 -0.45 -0.5

-15 -13 -11

-9

-7

-5

-3

-1

1

3

5

7

9

11

13

15

Ngày xảy ra sự kiện

Hình 4.1:Lợi nhuận bất thường tích lũy theo sự kiện ngày 21/02/2013

(Nguồn: tác giả vẽ theo số liệu thu thập được)

Dưới tác động của sự kiện ngày 21/02/2013 hình 4.1 cho thấy lợi nhuận bất

thường tích lũy của nhóm cổ phiếu ngân hàng niêm yết có xu hướng giảm, và lợi

nhuận bất thường tích lũy này đã âm gần 45% chỉ trong 7 ngày sau sự kiện. Xu

hướng thay đổi của lợi nhuận bất thường tích lũy có dấu hiệu biến động giảm từ

khoảng 7 ngày trước khi xảy ra sự kiện và tiếp tục giảm sau thời điểm sự kiện xảy

ra và không có dấu hiệu hồi phục về mức ban đầu. Sự giảm xuống của lợi nhuận bất

thường tích lũy xảy ra trước 7 ngày – một thời gian khá lâu tính đến ngày xảy ra sự

kiện, điều này cung cấp bằng chứng thống kê cho thấy sự kiện này có thể đã được

thị trường dự đoán từ trước. Tác động âm của sự kiện đến giá cổ phiếu ngành ngân

hàng vẫn còn kéo dài thể hiện qua đường lợi nhuận bất thường tích lũy không trở về

0 sau hơn 15 ngày xảy ra sự kiện.

Bảng 4.6: Lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình và các giá trị kiểm định

CAAR -0.0764 -0.1739 -0.2483 -0.2677 -0.1751 1 -2.5067* -0.0024 -0.0096 -0.0090 -7.7979* 2 -1.8074** -0.0165 -0.9045 -1 -1.9579* Khung [-15,-1] [0,5] [0,10] [0,15] [-15,15]

Trang 57

(Nguồn: Tính toán của tác giả với *, ** tương ứng mức ý nghĩa 5%, 10%)

Áp dụng phương pháp kiểm định tham số và phi tham số, từ dữ liệu Bảng 4.5

ta tính được Bảng 4.6. Với mức ý nghĩa 5%, chấp nhận giả thuyết H0 cho khung

thời gian [0,5], [0,10], [0,15] với cả 2 phương pháp kiểm định tham số và phi tham

số (|| < 1.96), sự kiện không có tác động đến lợi nhuận bất thường tích lũy trung

bình trong các khung thời gian này. Với mức ý nghĩa 5%, bác bỏ giả thuyết H0 với

phương pháp kiểm định tham số (|| > 1.96), và với mức ý nghĩa 10% bác bỏ giả

thuyết H0 với phương pháp kiểm định phi tham số (|| > 1.65) cho khung thời gian

[-15,-1], sự kiện có ảnh hưởng âm đến lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình của

các chứng khoán ngành ngân hàng trong khung thời gian này. Và cho toàn bộ khung

thời gian [-15,15], ta cũng bác bỏ giả thuyết H0 với mức ý nghĩa 5% cho cả 2

phương pháp kiểm định tham số và phi tham số (|| > 1.96), sự kiện có ảnh hưởng

âm đến diễn biến lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình của các chứng khoán

ngành ngân hàng trong các khung thời gian này.

Kết hợp cả hai phương pháp kiểm định tham số và kiểm định phi tham số

đều cho kết quả như nhau, có thể kết luận sự kiện ngày 21/02/2013 thực sự tác động

đến các cổ phiếu ngành ngân hàng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị

trường bắt đầu có dấu hiệu sụt giảm trong khoảng 7 ngày trước khi sự kiện xảy ra

cho thấy thị trường dường như đã dự đoán được sự xảy ra của sự kiện, và tiếp tục

xu hướng giảm mà không có dấu hiệu trở về 0 sau hơn 15 ngày kể từ thời điểm sự

kiện xảy ra cho thấy tác động của sự kiện vẫn còn kéo dài và thị trường đã phản ứng

quá mức đối với thông tin được tung ra. Diễn biến của sự kiện không theo đúng lý

thuyết thị trường hiệu quả dạng trung bình là khi thông tin có liên quan được công

bố ngay lập tức phản ánh đầy đủ vào giá chứng khoán làm giá thay đổi một mức

đáng kể và sau đó giá chứng khoán sẽ không thay đổi nếu không có bất kỳ thông tin

mới nào được công bố. Vì vậy, từ việc kiểm định phân tích sự kiện ngày 21/02/2013

đến giá cổ phiếu ngành ngân hàng có thể nhận xét thị trường chứng khoán Việt

Nam chưa thể hiện mức độ hiệu quả dạng trung bình, giá giảm trước khi sự kiện xảy

Trang 58

ra và tiếp tục giảm những ngày sau đó.

Thảo luận thêm về sự kiện mà luận văn chọn để nghiên cứu thì sự kiện ngày

21/02/2013 với thông tin ông Trần Bắc Hà bị bắt thật chất không phải thông tin

chính thức mà chỉ là tin đồn của một nhóm người muốn trục lợi trên thị trường

chứng khoán bằng cách chọn những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn để dễ kích động

đám đông hành động. Dù đây là tin đồn không chính thức tuy nhiên qua phân tích

kiểm định cho thấy sự kiện này vẫn có tác động không nhỏ và kéo dài đến lợi nhuận

bất thường tích lũy của nhóm cổ phiếu ngành ngân hàng. Điều này có thể giải thích

là do thị trường tài chính Việt Nam còn non trẻ, mong manh, sức đề kháng yếu,

thiếu minh bạch và dễ tổn thương nên các hành vi thao túng và trục lợi như vậy rất

dễ thực hiện. Đây là những nguyên nhân khiến thị trường tài chính Việt Nam nói

chung và thị trường chứng khoán nói riêng dễ dàng chao đảo mỗi khi có thông tin

xấu, dù chỉ là tin đồn nhảm. Theo ông Phan Dũng Khánh - Trưởng phòng phân tích

Công ty chứng khoán Kim Eng: “Bản chất của thị trường chứng khoán là luôn có

những thông tin đồn thổi nhưng điểm khác biệt là với một thị trường minh bạch hơn

thì hậu quả sẽ đỡ hơn" (Vnexpres 2013). Vì vậy có thể kết luận nếu đúng thị trường

Việt Nam hiệu quả dạng trung bình thì kỳ vọng của nghiên cứu đối với những thông

tin như vậy khi được tung ra sẽ không tác động hoặc tác động không đáng kể đến

lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình nhưng kết quả ngược lại sự kiện trên thực

sự có ảnh hưởng đến lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình của nhóm cổ phiếu

ngành ngân hàng nên có thể kết luận thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thể

hiện tính hiệu quả dạng trung bình.

Phân tích thêm về diễn biến lợi nhuận bất thường tích lũy của nhóm cổ phiếu

ngành ngân hàng theo sự kiện ngày 21/02/2013, nếu theo đúng lý thuyết thị trường

hiệu quả dạng trung bình thì tại thời điểm công bố thông tin (ngày sự kiện) giá lập

tức thay đổi một mức đáng kể phản ứng lại với thông tin và sau đó giá chứng khoán

sẽ không thay đổi nếu không có bất kỳ thông tin mới nào có liên quan được công

bố. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chỉ ra giá đã có xu hướng giảm trước một thời

gian khá lâu (7 ngày) trước khi sự kiện xảy ra. Điều này có phải phản ánh sự rò rỉ

Trang 59

thông tin hay nói cách khác đó là bằng chứng của thông tin nội gián? Hạn chế của

luận văn là không có dữ liệu chính xác để nghiên cứu phân tích đó có đúng là do

ảnh hưởng của thông tin nội gián hay không? Tuy nhiên dựa trên thực tế, thông tin

này do một nhóm người muốn trục lợi đã tung tin đồn về việc ông Trần Bắc Hà bị

bắt nhằm làm thị trường nhiễu loạn, nhà đầu tư hoang mang và thi nhau bán cổ

phiếu tháo chạy để nhóm người này mua được cổ phiếu với giá thấp (Vnexpress

2013). Ngoài ra dựa vào kiểm định tham số và phi tham số cho từng khung thời

gian được trình bày ở bảng 4.6, ta cũng thấy được rằng sự kiện không ảnh hưởng

đến lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình cho các khung thời gian sau ngày sự

kiện ([0,5], [0,10], [0,15]) với mức ý nghĩa 5%, mà sự kiện tác động âm đến lợi

nhuận bất thường tích lũy trung bình cho khung thời gian trước ngày sự kiện ([-15,-

1]) và cho toàn bộ khung sự kiện [-15,15]. Vậy có thể giải thích như sau nhóm

người này đã bán cổ phiếu dần trong những ngày trước ngày tung tin đồn

(21/02/2013) để gom tiền mua lại khi thị trường giảm sâu do ảnh hưởng của tin đồn

ngày 21/02/2013.

Vậy tại sao sau khi biết đó là tin đồn nhưng thị trường không thực sự hồi

phục hoàn toàn và lợi nhuận bất thường tích lũy không quay về 0 mà vẫn tiếp tục

với xu hướng giảm? Điều này có thể giải thích là do từ tác động của tin đồn, phản

ứng thường thấy là một bộ phận dòng vốn sẽ tạm rời khỏi thị trường chứng khoán,

tìm đến các kênh trú ẩn an toàn hơn như vàng và ngoại tệ. Sự ổn định của thị trường

cuối năm 2012 đầu năm 2013 lại mong manh, nên khi những tin đồn xuất hiện đã

gây xáo trộn và càng tạo tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư. Nguyên nhân sự ổn

định của thị trường mong manh xuất phát từ việc thời điểm trước sự kiện ngày

21/02/2013, thị trường đã tiếp nhận thông tin đề xuất phá giá Đô La Mỹ từ một số

chuyên gia với lý do đồng Việt Nam đang được định giá cao và một phần cũng là để

hỗ trợ xuất khẩu… mà kết quả sau những lần phá giá trước đây cho thấy đều gây

ảnh hưởng lớn tới giá trị các khoản đầu tư. Dù Nhà nước đang cân nhắc khi có

nhiều quan điểm trái chiều nhưng trong điều kiện thị trường bất đối xứng thông tin,

không phải tất cả người dân, nhà đầu tư đều có đầy đủ thông tin cũng như năng lực

Trang 60

để thẩm định hoặc phản biện thì khi nhiều thông tin xuất hiện dồn dập có thể tạo

nên tâm lý kỳ vọng chưa đầy đủ, dẫn đến những tác động sai lệch đối với cung - cầu

và trước các tin đồn xấu, thị trường lại càng thêm rối (Việt Báo 2013).

So sánh với một số nghiên cứu trước đây như nghiên cứu của Nguyễn Việt

Dũng (2008) cho thấy thị trường phản ứng quá mức trước thông tin tốt và phản ứng

dưới mức khi có thông tin xấu hay nghiên cứu của Trần Thị Tuấn Anh và ctg (2013)

cho thấy sự kiện khi thông tin chính thức về ông Nguyễn Đức Kiên bị bắt có ảnh

hưởng âm rõ ràng đến cổ phiếu nhóm ngành ngân hàng niêm yết tại các sàn chứng

khoán Việt Nam. Sự kiện nghiên cứu của luận văn là tin đồn ông Trần Bắc Hà bị

bắt cũng cho kết luận tương tự sự kiện có ảnh hưởng đến cổ phiếu nhóm ngành

ngân hàng dù đây chỉ là thông tin không chính thức. Khác với nghiên cứu của Trần

Thị Tuấn Anh và ctg (2013), luận văn kiểm định lợi nhuận bất thường tích lũy trung

bình cho từng khung thời gian và phát hiện sự kiện không ảnh hưởng đến cổ phiếu

nhóm ngành ngân hàng từ sau ngày sự kiện mà ảnh hưởng âm với khung thời gian

từ trước ngày xảy ra sự kiện và với toàn bộ khung sự kiện. Đây cũng là bằng chứng

cho thấy sự ổn định mong manh, sức đề kháng yếu, thiếu minh bạch của thị trường

chứng khoán Việt Nam sẽ dễ dàng bị phá vỡ khi có thông tin bất lợi xảy ra cho dù

đây chỉ là tin đồn.

4.3 Kết quả kiểm định hiệu ứng ngày trong tuần

Như đã trình bày trong chương 3, để kiểm định và phân tích hiệu ứng ngày

trong tuần có còn xuất hiện trên thị trường chứng khoán Việt Nam luận văn sử dụng

mô hình hồi quy với biến giả là các ngày trong tuần và chọn tỷ suất sinh lợi ngày

thứ hai làm gốc để so sánh với tỷ suất sinh lợi của các ngày khác trong tuần. Dữ liệu

sử dụng để nghiên cứu là lợi nhuận tính theo ngày của hai chỉ số thị trường VN-

Index và HNX-Index được tính ra từ chỉ số đóng cửa cuối ngày của các ngày có

giao dịch trong khoảng thời gian từ 31/12/2006 đến 31/12/2015. Chuỗi dữ liệu trên

có tổng số 2240 ngày giao dịch, trong đó có 443 ngày thứ Hai, 449 ngày thứ Ba,

Trang 61

453 ngày thứ Tư, 452 ngày thứ Năm, 443 ngày thứ Sáu.

Bảng 4.7: Mô tả dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu

Trung bình Trung vị Giá trị lớn nhất Giá trị nhỏ nhất Độ lệch chuẩn Giá trị Skewness Giá trị Kurtosis Giá trị kiểm định Jarque-Bera Giá trị P-value Số quan sát VN-Index 0.0006 0.0209 8.0489 -5.8717 1.5665 -0.0435 4.1376 121.4966 0.0000 2240 HNX-Index -0.0292 -0.0753 10.0740 -12.0692 2.0182 0.0067 6.1344 916.9715 0.0000 2240

(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

Theo kết quả mô tả dữ liệu thống kê Bảng 4.7 cho thấy tỷ suất sinh lời trung

bình theo ngày của chỉ số VN-Index mang dấu dương, còn chỉ số HNX-Index lại

mang dấu âm cho cả giai đoạn nghiên cứu. Giá trị kiểm định Jarge – Bera của cả hai

chuỗi dữ liệu đều lớn và có ý nghĩa thống kê chứng tỏ phân phối tỷ suất sinh lời

theo ngày của chỉ số VN-Index và HNX-Index đều là phân phối chuẩn.

Bảng 4.8: Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu

Kiểm định nghiệm đơn vị Dickey-Fuller (Số quan sát: 2239)

VN-Index HNX-Index

T-test α=1% α=5% α=10% T-test α=1% α=5% α=10%

Z(t) -36.684 -3.430 -2.860 -2.570 Z(t) -40.236 -3.430 -2.860 -2.570

p-value = 0.000 p-value = 0.000

(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

Áp dụng kiểm định nghiệm đơn vị Dickey-Fuller để kiểm định tính dừng của

chuỗi dữ liệu. Kết quả đối với chuỗi VN-Index: Với mức ý nghĩa 1%, kết quả p-

Trang 62

value = 0.000 < 0.01 nên bác bỏ giả thuyết H0 hay chuỗi dữ liệu VN-Index dừng ở

bậc 0. Kết quả đối với chuỗi HNX-Index: Với mức ý nghĩa 1%, kết quả p-value =

0.000 < 0.01 nên bác bỏ giả thuyết H0 hay chuỗi dữ liệu HNX-Index dừng ở bậc 0.

VN-Index

HNX-Index

Biến

d3

d4

d5

d6

d3

d4

d5

d6

1.0000

1.0000

d3

-0.2521

1.0000

-0.2521

1.0000

d4

-0.2517

-0.2531

1.0000

-0.2517

-0.2531

1.0000

d5

-0.2486

-0.2500

-0.2496

1.0000

-0.2486

-0.2500

-0.2496

1.0000

d6

Bảng 4.9: Ma trận tương quan giữa các biến

(Nguồn: Từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

Dựa vào Bảng 4.10, ta thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng

do các hệ số tương quan có giá trị khá thấp (< 0.8).

VN-Index

HNX-Index

Bảng 4.10: Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến bằng chỉ số VIF

d3

VIF 1/VIF VIF 1/VIF Biến

d4

1.61 0.6211 1.61 0.6211

d5

1.61 0.6198 1.61 0.6198

d6

1.61 0.6201 1.61 0.6201

1.60 0.6233 1.60 0.6233

1.61 1.61 Mean VIF

(Nguồn: Từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

Kiểm định với chỉ số VIF cũng cho kết quả tương tự, mô hình được đánh giá

là không có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng vì tất cả các biến độc lập đều có

Trang 63

VIF < 10.

Bảng 4.11: Kiểm định White cho mô hình hồi quy

VN-Index HNX-Index

Chi – Square 17.19 23.16

Prob > Chi – Square 0.0018 0.0001

(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

Áp dụng kiểm định White để kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi của

chuỗi dữ liệu. Kết quả đối với chuỗi VN-Index: Với mức ý nghĩa 1% cho kết quả

Prob = 0.0018 < 0.01 nên bác bỏ giả thuyết H0 hay mô hình hồi quy với chuỗi VN-

Index có hiện tượng phương sai thay đổi. Kết quả đối với chuỗi HNX-Index: Với

mức ý nghĩa 1%, cho kết quả Prob = 0.0001 < 0.01 nên bác bỏ giả thuyết H0 hay mô

hình hồi quy chuỗi HNX-Index có hiện tượng phương sai thay đổi.

Bảng 4.12: Kiểm định hiện tượng tự tương quan cho mô hình hồi quy

Kiểm định Durbin Watson (độ trễ - lags (p)=1)

VN-Index HNX-Index

Chi – Square 150.022 61.815

Prob > Chi – Square 0.000 0.000

(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

Áp dụng kiểm định Durbin Watson để kiểm định hiện tượng tự tương quan

cho mô hình hồi quy. Kết quả đối với chuỗi VN-Index: Với mức ý nghĩa 1% cho kết

quả Prob = 0.000 < 0.01 nên bác bỏ giả thuyết H0 hay mô hình hồi quy với chuỗi

VN-Index có sự tự tương quan. Kết quả đối với chuỗi HNX-Index: Với mức ý nghĩa

1%, cho kết quả Prob = 0.000 < 0.01 nên bác bỏ giả thuyết H0 hay mô hình hồi quy

chuỗi HNX-Index có sự tự tương quan.

Qua kết quả kiểm định từng phần ở trên, ta thấy mô hình hồi quy của cả hai

Trang 64

chuỗi chỉ số thị trường có hiện tượng đa cộng tuyến được đánh giá là không nghiêm

trọng. Tuy vậy, cả hai mô hình hồi quy đều có hiện tượng phương sai thay đổi và có

sự tự tương quan. Do đó, tác giả sử dụng phương pháp GLS cho cả 2 chỉ số VN-

Index và HNX-Index để kiểm định hiệu ứng ngày thứ hai trên thị trường chứng

khoán Việt Nam để phân tích nhằm khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi và sự

tự tương quan nhằm đảm bảo ước lượng thu được vững và hiệu quả (Wooldridge,

2002) và được kết quả hồi quy Bảng 4.16.

Giá trị kiểm định P

Giá trị kiểm định P

0.638 0.011 0.270 0.005 0.079

Hệ số hồi quy -0.1087 0.0797 0.0343 0.2124 -0.0428 0.0054

VN-Index Độ lệch chuẩn 0.0946 0.1032 0.1032 0.0948 0.0808

Hệ số hồi quy -0.0615 0.3669 0.1537 0.3604 -0.1933 0.0089

0.251 0.440 0.739 0.025 0.596

HNX-Index Độ lệch chuẩn 0.1307 0.1442 0.1392 0.1294 0.1100

trị kiểm

2.4600

3.9900

trị kiểm

0.0312

0.0013

d3 d4 d5 d6 β2 R2 Giá định F Giá định P

Bảng 4.16: Kết quả mô hình hồi quy kiểm định hiệu ứng ngày thứ Hai

(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

Đối với chỉ số VN-Index: mô hình hồi quy cho kết quả giá trị kiểm định P

(F-Statistic) = 0.0312 < 0.05. Như vậy với mức ý nghĩa 5% có thể bác bỏ giả thuyết

H0 hay có thể kết luận tỷ suất sinh lợi của các ngày trong tuần của chỉ số VN-Index

là khác nhau trong giai đoạn nghiên cứu. Kiểm định thêm giả thuyết phụ:

βi = 0 (3 ≤ i ≤ 6)

Khi kiểm định giả thuyết phụ thì chỉ có chỉ số của biến d6 bị bác bỏ với mức

ý nghĩa 5% (P-value = 0.025 < 0.05) còn các chỉ số β3, β4, β5 không có đủ cơ sở để

bác bỏ. Như vậy tỷ suất sinh lợi của ngày thứ Sáu có khác biệt so với ngày thứ Hai,

cụ thể β6 = 0.2124 có nghĩa là tỷ suất sinh lợi của ngày thứ Sáu trung bình cao hơn

Trang 65

tỷ suất sinh lợi của ngày thứ Hai 21.24%.

Tương tự đối với chỉ số HNX-Index: mô hình hồi quy cho kết quả giá trị

kiểm định P (F-Statistic) = 0.0013 < 0.05 Như vậy với mức ý nghĩa 5% có thể bác

bỏ giả thuyết H0. Do đó có thể kết luận là tỷ suất sinh lợi của các ngày trong tuần

của chỉ số HNX-Index là khác nhau trong giai đoạn nghiên cứu. Kiểm định thêm

giả thuyết phụ:

βi = 0 (3 ≤ i ≤ 6)

Khi kiểm định giả thuyết phụ thì chỉ có chỉ số của biến d4, d6 bị bác bỏ với

mức ý nghĩa 5% (P-value của d4 = 0.011 < 0.05, P-value của d6 = 0.005 < 0.05) còn

các chỉ số β3, β5 không có đủ cơ sở để bác bỏ. Như vậy tỷ suất sinh lợi của ngày thứ

Sáu có khác biệt so với ngày thứ Hai, cụ thể β6 = 0.3604 có nghĩa là tỷ suất sinh lợi

của ngày thứ Sáu trung bình cao hơn tỷ suất sinh lợi của ngày thứ Hai 36.04% và tỷ

nghĩa là tỷ suất sinh lợi của ngày thứ Tư trung bình cao hơn tỷ suất sinh lợi của ngày

suất sinh lợi của ngày thứ Tư có khác biệt so với ngày thứ Hai, cụ thể β4 = 0.3669 có

thứ Hai 36.69%.

Từ kết quả nghiên cứu so sánh với một số nghiên cứu trước đây như nghiên

cứu của Trầm Thị Xuân Hương và ctg (2014) cũng kiểm định về hiệu ứng ngày thứ

hai trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu chia làm hai giai đoạn để

phân tích và kết luận giai đoạn 2000-2007 có hiệu ứng ngày thứ Hai, còn giai đoạn

2008-2012 thì không có cơ sở để kết luận hiệu ứng ngày thứ Hai tồn tại. Tuy nhiên

nghiên cứu không kiểm định xem mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến, phương sai

sai số thay đổi hoặc hiện tượng tự tương quan hay không. Vì vậy, kiểm định của mô

hình có thể không chính xác và không có ý nghĩa nếu mô hình có một trong các

hiện tượng trên. Nghiên cứu của luận văn cũng lấy dữ liệu trong và sau thời kỳ

khủng hoảng (2007-2015) và kiểm định cho cả hai chỉ số thị trường VN-Index và

HNX-Index. Kết luận của nghiên cứu là vẫn có hiệu ứng ngày trong tuần với tỷ suất

sinh lợi ngày thứ Sáu là khác ngày thứ Hai đối với chỉ số VN-Index và tỷ suất sinh

lợi ngày thứ Tư, thứ Sáu là khác ngày thứ Hai đối với chỉ số HNX-Index. Luận văn

Trang 66

có thực hiện kiểm định xem mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến, phương sai sai số

thay đổi hoặc hiện tượng tự tương quan hay không và sử dụng phương pháp GLS để

khắc phục hiện tượng phương sai sai số thay đổi và hiện tượng tự tương quan (mô

hình không có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng), vì vậy kết luận của nghiên

cứu là vững và đáng tin cậy.

Như vậy, khi sử dụng các phương pháp kiểm định chuỗi và kiểm định tự

tương quan, kết quả cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn không thể hiện

tính hiệu quả dạng yếu. Đối với kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung bình

thông qua phân tích nghiên cứu sự kiện kết hợp kiểm định tham số và phi tham số,

có thể kết luận được sự kiện thực sự tác động đến các chứng khoán ngành ngân

hàng trên thị trường chứng khoán Việt Nam hay thị trường chứng khoán Việt Nam

chưa thể hiện mức độ hiệu quả dạng trung bình. Ngoài ra, khi tiến hành kiểm định

tiếp hiệu ứng ngày trong tuần, thì nhận thấy hiệu ứng này vẫn còn xuất hiện trên cả

Trang 67

Sở giao dịch Chứng khoán của Hà Nội và Hồ Chí Minh.

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN

Không chỉ nhà đầu tư khi tham gia thị trường mà cả nhà làm chính sách và

nhà quản lý thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính Việt Nam nói

chung đều quan tâm đến tính hiệu quả của thị trường. Một thị trường minh bạch

thông tin, thông tin truyền tải nhanh chóng kịp thời và phản ánh đầy đủ vào giá

chứng khoán sẽ giúp cho thị trường phát triển, nhà đầu tư an tâm khi đầu tư vào thị

trường, tránh tâm lý đám đông khi không nắm rõ thông tin và bị dẫn dắt bởi những

thông tin sai lệch, không chính xác. Vì vậy không chỉ trên thế giới mà cả ở Việt

Nam, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích, đánh giá xem thị trường

đang hiệu quả ở dạng nào, bất thường trên thị trường có tồn tại để các nhà đầu tư có

thể thu được lợi nhuận vượt trội không? Tại Việt Nam, đa số các nghiên cứu định

lượng trước đây đều kết luận thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thể hiện tính

hiệu quả dạng yếu, thông tin khi được công bố thường có ảnh hưởng quá mức đến

giá chứng khoán và nhà đầu tư có thể thu được lợi nhuận bất thường nếu biết vận

dụng hiệu ứng ngày trong tuần. Câu hỏi đặt ra là hiện tại thị trường chứng khoán

Việt Nam có thay đổi so với thời gian trước hay không? Thị trường hiện tại đã hiệu

quả chưa và hiệu quả ở dạng nào yếu hay trung bình? Và hiệu ứng ngày trong tuần

có còn tồn tại trên thị trường chứng khoán Việt Nam không? Đó chính là mục tiêu

mà luận văn muốn hướng đến và đã được giải quyết trong các chương trước để tìm

ra câu trả lời cho các câu hỏi trên.

Kế thừa phương pháp nghiên cứu đã được các nhà nghiên cứu trước đây thực

hiện, đối với kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu, luận văn áp dụng phương

pháp kiểm định chuỗi và kiểm định tự tương quan để xác định và kết luận thị trường

Việt Nam vẫn chưa thể hiện mức độ hiệu quả dạng yếu cho đến thời điểm hiện tại.

Đối với kiểm định thị trường hiệu quả dạng trung bình, luận văn áp dụng phương

pháp nghiên cứu sự kiện cũng là phương pháp được rất nhiều tác giả trước đây thực

hiện để kiểm định tác động của sự kiện khi thông tin ông Trần Bắc Hà – Chủ tịch

Hội đồng quản trị Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Trang 68

bị bắt được công bố trong ngày 21/02/2013. Tuy đây chỉ là thông tin không chính

thức nhưng qua nghiên cứu kiểm định kết quả cho thấy thị trường chứng khoán Việt

Nam, đặc biệt là cổ phiếu ngành ngân hàng bị tác động đáng kể trước sự kiện này.

Lợi nhuận bất thường tích lũy của nhóm cổ phiếu ngành ngân hàng có dấu hiệu âm

từ 7 ngày trước sự kiện xảy ra và vẫn tiếp tục có xu hướng giảm mà không có dấu

hiệu phục hồi ngay cả sau thời gian 15 ngày xảy ra sự kiện. Cả hai kiểm định tham

số và phi tham số mà luận văn sử dụng đều cho kết luận về việc sự kiện có tác động

âm đến lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình đối với nhóm cổ phiếu ngành ngân

hàng. Đối với kiểm định hiệu ứng ngày thứ Hai, luận văn áp dụng mô hình hồi quy

với biến giả là các ngày trong tuần để thực hiện kiểm định. Kết quả kiểm định cho

thấy đối với chỉ số VN-Index chỉ có đủ cơ sở để bác bỏ tỷ suất sinh lợi ngày thứ Sáu

là không khác ngày thứ Hai, với β6 = 0.2124 nghĩa là tỷ suất sinh lợi ngày Thứ Sáu

trung bình cao hơn tỷ suất sinh lợi ngày thứ Hai 21.24%. Và đối với chỉ số HNX-

Index có cơ sở để bác bỏ tỷ suất sinh lợi ngày thứ Tư và thứ Sáu là không khác

ngày thứ Hai, với β4 = 0.3669 nghĩa là tỷ suất sinh lợi ngày Thứ Tư trung bình cao

hơn tỷ suất sinh lợi ngày thứ Hai 36.69% và β6 = 0.3604 nghĩa là tỷ suất sinh lợi

ngày Thứ Sáu trung bình cao hơn tỷ suất sinh lợi ngày thứ Hai 36.04%.

Hạn chế của nghiên cứu là với thời gian và nguồn lực có hạn luận văn chỉ xét

tính hiệu quả dạng yếu của thị trường chứng khoán Việt Nam dựa trên dữ liệu từ hai

chỉ số thị trường VN-Index và HNX-Index mà chưa có điều kiện để xét dữ liệu giá

của tất cả các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như là

các cổ phiếu niêm yết trên thị trường phi chính thức, thị trường tự do. Đối với kiểm

định thị trường hiệu quả dạng trung bình, luận văn chưa kiểm định sự kiện có tác

động như thế nào đến các cổ phiếu khác trên thị trường chứng khoán cũng như tác

động riêng của sự kiện đến chính giá cổ phiếu của BIDV, vì lúc này cổ phiếu của

BIDV chưa được niêm yết chính thức trên sàn giao dịch vì vậy tác giả không có

nguồn dữ liệu chính thống để nghiên cứu phân tích. Những hạn chế của luận văn

cũng chính là hướng nghiên cứu tiếp theo mà nếu được tiếp tục luận văn sẽ đi sâu

nghiên cứu phân tích để có cái nhìn cụ thể chính xác hơn về thị trường chứng khoán

Trang 69

nói riêng và thị trường tài chính Việt Nam nói chung.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Danh mục tài liệu tham khảo tiếng Anh

Binder, J. J. 1998, ‘The event study methodology since 1969’, Review of

quantitative Finance and Accounting, Vol. 11, page 111-137.

Brealey, R. A., Myers, S. C., Allen, F. and Mohanty, P. (Ed.) 2016, Principles of

corporate finance, McGraw-Hill Global Education Holdings, LLC.

Burton, M. G. 1996, A Random Walk Down Wall Street, 6th edn, W. W. Norton and

Company Inc.

Campbell, C. J. and Wesley, C. E. 1993, ‘Measuring security price performance

using daily NASDAQ returns’, Journal of Financial Economics, Vol 33, page 73-

92.

Farrar, D. E. and Glauber, R. R. 1967, ‘Multicollinearity in Regression Analysis:

The Problem Revisited’, Review of Economics and Statistics, Vol. 49, page 92-107.

French, K. R. 1980, ‘Stock Returns and the Weekend Effect’, Journal of Financial

Economics, Vol. 8, page 55-69.

Gimba, V. K. 2010, ‘Testing the Weak-form Efficiency Market Hypothesis:

Evidence from Nigerian Stock Market’, CBN Journal of Applied Statistics, Vol. 3,

No. 1, page 117-136.

Gujarati, D. N. 2003, Basic Econometrics, 4th edn, McGraw-Hill, New York.

Gupta, D., Anand, A. and Singh, R. 2008, Empirical testing of strong form of

market efficiency,

-Review/198667809.html>, [29/01/2016].

MacKinlay, A. C. 1997, ‘Event studies in economics and finance’, Journal of

economic literature, page 13-39.

Malkiel, B. G. 2003, ‘The Efficient Market Hypothesis and Its Critics’, CEPS

Trang 70

Working Paper, No. 91, Princeton University.

Mobarek, A. and Keasey, K. 2003, Weak-form market efficiency of an emerging

Market: Evidence from Dhaka Stock Market of Bangladesh, < http://e-m-h.org/

MoKe00.pdf>, [08 May 2016].

Nguyen Thi Kim Yen 2011, Efficient Market and Signaling Hypothesis on Vietnam

Stock Exchange 2006-2009, MSc thesis, The Department of Finance and

Accounting, The College of Buskerud-Norway.

Samuelson, P. A. 1965, Proof that properly anticipated prices fluctuate randomly,

Reprinted in Efficient Market Hypothesis, edited by Lo (1995).

Sheefeni, J. P. S. 2015, Testing the Strong-Form Efficiency of the Namibian Stock

Market,

sheefeni-163526.pdf>, [08/04/2016].

Wooldridge, J. M. 2002, Introductory Econometrics: A Mordern Approach, 2nd edn,

South-Western College.

Danh mục tài liệu tham khảo tiếng Việt

Bùi Thị Hằng 2007, Pháp luật về quản lý giao dịch chứng khoán chưa niêm yết ở

Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

Công ty cổ phần chứng khoán FPT, 10 cổ phiếu niêm yết đầu tiên trên thị trường

chứng khoán Việt Nam giờ ra sao, truy cập tại

tuc/Trong-nuoc/Thi-truong/2015/07/3BA1BC27_10-co-phieu-niem-yet-dau-tien-

tren-thi-truong-chung-khoang-viet-nam-gio-ra-sao/>, [19/01/2016].

Đặng Bửu Kiếm 2014, Nghiên cứu lợi nhuận bất thường khi xuất hiện khối lượng

giao dịch bất thường trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Tài

Trang 71

Chính – Ngân Hàng, Trường Đại học Mở Thành Phố Hồ Chí Minh.

Đầu tư chứng khoán 2013, Bắt người tung tin đồn "Chủ tịch BIDV bị bắt", truy cập

tại < http://tinnhanhchungkhoan.vn/phap-luat/bat-nguoi-tung-tin-don-chu-tich-bidv-

bi-bat-14140.html >, [17/09/2016].

Đỗ Thành Nhân 2014, Kiểm định mức độ hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt

Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.

Gujarati, D. N. (3rd Ed.), Kinh tế lượng cơ sở, Chương trình Giảng dạy Kinh tế

Fulbright, chương 12.

Khangvi 2010, ‘Tìm hiểu về lý thuyết thị trường hiệu quả’, 17/08/2010,

Information’s Blog, truy cập tại ,

[15/08/2016].

Kendall, M. G. và Buckland, W. R. 1971, Từ điển thuật ngữ thống kê, Hafner

Publishing Company, NewYork, trang 8.

Kowalczuk, P. 2011, Giao dịch nội gián trên thị trường chứng khoán Warsaw và

hiệu quả thị trường, truy cập tại

_ekonomiczne/Studia%202011%202%2003-kowalczuk.pdf>, [15/08/2016].

Nhóm tài chính 07 2012, ‘Tiểu luận phương pháp nghiên cứu khoa học kiểm định

hiệu ứng thời gian đối với thị trường chứng khoán TPHCM’, truy cập tại

hoc-kiem-dinh-hieu-ung-thoi-gian-doi-voi-thi-truong-chung-khoan-tp-hcm.htm?

page=7>, [05/08/2016].

Nguyễn Thanh Nhã 2010, Kiểm định giả thuyết thị trường hiệu quả đối với thị

trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế

TP.HCM.

Nguyễn Văn Điệp và Nguyễn Ngọc Tân 2014, ‘Thứ sáu ngày 13 và Thị trường

chứng khoán Việt Nam’, Công nghệ ngân hàng, số 104 (tháng 11/2014), trang 36-

Trang 72

44.

Phan Thụy Bích Huyền 2012, Kiểm định lý thuyết thị trường hiệu quả dạng trung

bình trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh năm 2008, Luận văn Thạc sĩ

Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.

Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, Lịch sử phát triển, truy cập tại

, [15/09/2016].

Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử hình thành và phát

triển của Sở GDCK TP.HCM, truy cập tại

Web/ViewArticle?id=46a6dd59-2cd5-4ef7-b12a4c30778140c4&fid=c5b6b7cf3a9b

4307ab689bcf2e8b8990>, [15/09/2016].

Trầm Thị Xuân Hương, Trần Thị Mộng Tuyết và Nguyễn Phúc Cảnh 2014, ‘Nghiên

cứu hiệu ứng các ngày trong tuần trên thị trường chứng khoán Việt Nam’, Công

nghệ ngân hàng, số 96 (tháng 3/2014), trang 35-42.

Trần Thị Tuấn Anh, Trần Công Phú Khánh, Nguyễn Minh Luân, Đinh Văn Trọng

và Trần Ngọc Minh Quân 2013, ‘Phân tích tác động của sự kiện ngày 21/08/2012

đến các chứng khoán ngân hàng ở Việt Nam’, Công nghệ ngân hàng, số 93 (tháng

12/2013), trang 8-15.

Thiều Bích Ngọc 2007, Kiểm định giả thuyết “Thị trường hiệu quả” ở mức độ yếu

(Weak-form efficiency) cho TTCK Việt Nam trong trường hợp Trung tâm giao dịch

chứng khoán TPHCM, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Cần Thơ.

Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, Mức vốn hóa của thị trường CK tương đương

38% GDP,

CK-tuong-duong-38-GDP.html>, [19/09/2016].

Trương Đông Lộc 2006, ‘Kiểm định giả thuyết thị trường hiệu quả ở mức độ yếu

cho TTCK Việt Nam: Trường hợp TTCD CK Hà Nội’, Tạp chí Phát triển kinh tế,

Trang 73

số 201.

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Lịch sử phát triển, truy cập tại < http://ssc.gov.vn/

ubck/faces/vi/vimenu/vipages_vigioithieu?_adf.ctrl-state=1aadfnd381_4&_afrLoop

=24309060919643812>, [15/09/2016].

Vnexpress 2013, ‘Thị trường tài chính mong manh trước tin đồn’, truy cập tại

truoc-tin-don-2726471.html>, [17/09/2016].

Việt báo 2013, ‘Tin đồn bắt Chủ tịch BIDV làm chao đảo thị trường’, truy cập tại

55523894/90/>, [17/09/2016].

VietLOD 2014, ‘Thế nào là một chuỗi thời gian dừng?’, truy cập tại

, [03/02/2016].

www.vndirect.com.vn

Vũ Thị Minh Luận 2010, Ứng dụng lý thuyết thị trường hiệu quả trong phân tích thị

trường chứng khoán Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế

Trang 74

Quốc Dân.

Phụ lục 1: Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam

A. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà

nước được thành lập theo Quyết định số 207/QĐ-TCCB ngày 6/11/1993 của Thống

đốc Ngân hàng nhà nước với nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các

điều kiện để thành lập thị trường chứng khoán theo bước đi thích hợp.

Đến tháng 9/1994, Chính phủ quyết định thành lập Ban soạn thảo Pháp lệnh

về chứng khoán và thị trường chứng khoán do Thứ trưởng Bộ Tài chính làm

Trưởng Ban.

Ngày 29/6/1995, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 361/QĐ-TTg

thành lập Ban Chuẩn bị tổ chức thị trường chứng khoán giúp Thủ tướng Chính phủ

chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng thị trường chứng khoán

ở Việt Nam. Đây là bước đi có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình hình

thành thị trường chứng khoán, làm tiền đề cho sự ra đời cơ quan quản lý nhà nước

với chức năng hoàn chỉnh và đầy đủ hơn.

Ngày 28/11/1996, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được thành lập theo Nghị

định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ

chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc thành

lập cơ quan quản lý thị trường chứng khoán trước khi thị trường ra đời là bước đi

phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam,

có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của thị trường chứng khoán sau đó hơn 3 năm.

Sự kiện quan trọng đánh dấu sự hình thành của thị trường chứng khoán Việt

Nam là Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 của Thủ tướng Chính

phủ về việc thành lập hai Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tại hai miền Nam và

Trang 75

Bắc với trụ sở được đặt tại hai thành phố lớn là Hồ Chí Minh và Hà Nội.

- Thứ nhất là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là

sàn giao dịch chính thức và lớn nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam, được

chính thức đi vào hoạt động với phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000.

- Thứ hai là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội là sàn giao dịch

chính thức và bắt đầu phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 08/03/2005.

Uỷ ban Chứng khoán Nhà nướccó vai trò tạo môi trường thuận lợi cho việc

huy động vốn cho đầu tư phát triển, đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động

có tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và lợi ích

hợp pháp của các nhà đầu tư.

Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước Việt Nam gồm

- Lãnh đạo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch

và các ủy viên kiêm nhiệm.

- Các tổ chức tham mưu giúp Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước thực

hiện quản lý các lĩnh vực về chứng khoán và thị trường chứng khoán gồm Vụ Phát

triển thị trường chứng khoán, Vụ quản lý phát hành chứng khoán, Vụ Quản lý kinh

doanh chứng khoán, Vụ Pháp chế, Thanh tra, Vụ Kế hoạch – Tài chính, Vụ Hợp tác

quốc tế, Vụ tổ chức cán bộ, Văn phòng…

- Các tổ chức sự nghiệp gồm Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố

Hồ Chí Minh và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, Trung tâm tin học,

Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào tạo chứng khoán, Tạp chí Chứng khoán…

Để triển khai có hiệu quả hơn nhiệm vụ điều phối hoạt động của các Bộ

ngành chức năng trong việc thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, ngày

19/02/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2004/NĐ-CP chuyển Ủy ban

Chứng khoán Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính. Đây là bước đi hợp lý trong quá

trình phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Vì với vai trò là cơ quan điều

Trang 76

hành chính sách tài chính vĩ mô, cơ quan quản lý và phát triển thị trường tài chính,

việc hoạch định và ban hành các chính sách quản lý Nhà nước về thị trường chứng

khoán của Bộ Tài chính sẽ nhanh nhạy và hiệu quả hơn.

B. Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoánViệt Nam bao gồm: Ủy ban

Chứng khoán Nhà nước; Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh; Sở

giao dịch chứng khoán Hà Nội; Công ty chứng khoán; Ngân hàng thương mại; Các

công ty niêm yết; Nhà đầu tư.

a. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được thành lập theo Nghị định số 75/CP

ngày 28/11/1996 của Chính phủ. Khi mới thành lập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước

là cơ quan thuộc Chính phủ, là cơ quan cao nhất thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà

nước về thị trường chứng khoán. Sau đó theo Nghị định số 66/2004/NĐ-CP ngày

19/02/2004, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được chuyển sang trực thuộc Bộ Tài

chính, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng

khoán, trực tiếp quản lý, tổ chức, giám sát hoạt động chứng khoán và thị trường

chứng khoán.

Để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước

đã phối hợp và chỉ đạo các đơn vị trực thuộc trong toàn ủy ban. Về quản lý hành

chính, ra văn bản thì có các ban: Phát triển thị trường chứng khoán, Quản lý phát

hành chứng khoán, Quản lý kinh doanh chứng khoán… Về đào tạo, phổ biến kiến

thức cho công chúng đầu tư thì có Trung tâm nghiên cứu khoa học và Đào tạo

chứng khoán. Về quản lý giao dịch và tổ chức thực hiện giao dịch cho toàn thị

trường thì có Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh; Sở giao dịch

chứng khoán Hà Nội.

b. Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh (HOSE)

Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh được thành lập theo

Trang 77

Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 và chính thức đi vào hoạt động

thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 đã đánh dấu một sự kiện

quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nhằm đáp ứng sự phát triển

nhanh chóng của thị trường, đáp ứng quá trình đổi mới nền kinh tế, tái cơ cấu các

doanh nghiệp, ngày 11/05/2007 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 599/QĐ-

TTg chuyển Trung Tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh thành Sở

Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE), hoạt động theo mô hình

Công ty TNHH Một Thành viên (100% vốn chủ sở hữu thuộc Bộ Tài chính) không

còn là đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và được tự chủ

hơn trong các quyết định của mình.

Đối với hoạt động giao dịch, Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí

Minh đã thực hiện giao dịch khớp lệnh liên tục từ ngày 30/07/2007 và từng bước

triển khai giao dịch nhập lệnh từ xa để đáp ứng với tình hình thị trường đang phát

triển.

c. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

Ngày 08/03/2005, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội chính thức

khai trương hoạt động, đánh dấu bước phát triển mới của thị trường chứng khoán

Việt Nam với nhiệm vụ đăng ký niêm yết dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ,

tuân theo một số tiêu chí nhất định. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển chung của thị

trường chứng khoán Việt Nam, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội cũng đã

có bước phát triển rất nhanh, và đã có rất nhiều công ty lớn tham gia niêm yết và

giao dịch.

Ngày 02/01/2009, Chính phủ ban hành Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg về

việc thành lập Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm

Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, từ đơn vị sự nghiệp có thu sang hoạt động theo mô

hình Công ty TNHH Một Thành viên (100% vốn chủ sở hữu thuộc Bộ Tài chính).

d. Công ty chứng khoán

Lúc mới mở cửa thị trường chỉ có hai công ty chứng khoán hoạt động, sau

Trang 78

hơn mười lăm năm trên thị trường chứng khoán Việt Nam số lượng công ty được

cấp giấy phép hoạt động đã tăng lên đáng kể (105 công ty), và hiện có 83 công ty

đang hoạt động bình thường với tổng vốn điều lệ lên tới 38.859.070.040.000 đồng

(ssc.gov.vn).

Chính các công ty chứng khoán đã góp phần làm cho thị trường phát triển

qua việc nâng cấp, đầu tư công nghệ để đáp ứng việc đặt lệnh và nhận thông tin của

nhà đầu tư.

e. Ngân hàng thương mại

Tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có để đa

dạng hóa lợi nhuận thông qua việc đầu tư vào chứng khoán (mô hình ngân hàng

thương mại đa năng). Đối với Việt Nam, các ngân hàng thương mại chủ yếu hoạt

động trên thị trường tiền tệ, một số ngân hàng thành lập các công ty con độc lập để

kinh doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành.

f. Các công ty niêm yết

Các công ty niêm yết tham gia trên thị trường chứng khoán với vai trò là bên

cung ứng chứng khoán. Trên thị trường chính thức, các công ty niêm yết của Việt

Nam đều là các công ty có tiềm lực, làm ăn có lãi. Lúc mới mở cửa thị trường chỉ

có hai cổ phiếu được giao dịch chính thức là cổ phiếu của Công ty Cổ phần Cơ điện

lạnh (REE) và Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Sacom (SAM). Sau hơn 15 năm

hình thành và phát triển, số lượng cổ phiếu niêm yết tính riêng trên Sở Giao dịch

Chứng khoán TPHCM đã đạt con số trên 300 với tổng vốn hóa thị trường trên 1.1

triệu tỷ đồng, chiếm 90% giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu niêm yết cả nước

(www.fpts.com.vn).

Theo đánh giá chung của các chuyên gia nghiên cứu trên thị trường chứng

khoán Việt Nam, thì hầu hết các doanh nghiệp đều đạt được các chỉ tiêu tài chính

tốt. Tuy nhiên, điều đáng lưu tâm về các công ty này là hoạt động phát hành thêm

cổ phần và vấn đề công bố thông tin trên thị trường, mà điều này lại ảnh hưởng rất

lớn đến tính hiệu quả của thị trường trên phương diện thông tin (Vũ Thị Minh Luận,

Trang 79

2010).

g. Nhà đầu tư

Nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán được xem là thành tố quan trọng

nhất. Sự gia tăng nhanh chóng lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường cùng với sự

ra đời của hàng loạt các công ty chứng khoán mang đến những dịch vụ tiện ích đã

thu hút được lượng lớn nhà đầu tư cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Nếu như

khi thị trường mới mở cửa, hầu như nhà đầu tư cá nhân tham gia đầu tư chỉ vì tính

hiếu kỳ và chưa kỳ vọng nhiều vào việc hưởng lợi từ chứng khoán thì nay càng

nhiều người đầu tư chuyên nghiệp hơn, biết cách tiếp cận nhiều luồng thông tin

khác nhau, chọn lọc, biết phân tích cơ bản, biết cách sử dụng phần mềm phân tích

kỹ thuật…

C. Một số kết quả đạt được của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời

gian qua

Thứ nhất, thị trường chứng khoán đã thực hiện tốt vai trò của mình với chức

năng huy động vốn, thu hút được lượng lớn tiền từ các bộ phận dân cư. Tỷ trọng

vốn hóa thị trường so với GDP cao dần. Nếu như trong năm đầu tiên thị trường mở

cửa, vốn hóa thị trường cổ phiếu chỉ bằng 1% GDP, thì tính đến tháng 8/2016 con

số này là 38% tương đương 1.590 nghìn tỷ đồng đạt mức cao nhất trong sáu năm trở

lại đây (www.thesaigontimes.vn). Kết quả trên có được đã cho thấy sức mạnh huy

động vốn hiệu quả của thị trường chứng khoán, mọi doanh nghiệp có thể có được

nguồn vốn chủ sở hữu với nguồn cung ổn định và dài hạn để phục vụ hoạt động sản

xuất kinh doanh thay vì trước đây nguồn cung vốn chủ yếu đến từ thị trường tiền tệ,

thông qua quan hệ vay mượn với các kỳ hạn ngắn hơn.

Thứ hai, thị trường chứng khoán đã tạo ra được một nơi cung ứng vốn có

tính thanh khoản ngày càng cao. Điều này có thể thấy qua giá trị giao dịch hằng

ngày ở hai sàn Hà Nội và TPHCM, giao dịch bình quân một phiên có thể đạt gần

6.200 tỷ đồng (www.thesaigontimes.vn). Đây chính là điều tạo cơ sở để thị trường

Trang 80

sơ cấp phát triển.

Thứ ba, khi chưa có thị trường chứng khoán thì hầu hết các doanh nghiệp có

hạn chế lớn là không công khai minh bạch hoạt động kinh doanh, tình hình tài

chính… của doanh nghiệp mình. Nhưng khi có thị trường chứng khoán, doanh

nghiệp muốn tham gia thị trường và được niêm yết trên hai sàn giao dịch chính thức

đòi hỏi phải công khai, minh bạch hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính, có

kiểm toán độc lập hằng năm, công bố thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời…

Thứ tư, thị trường chứng khoán đã tạo một kênh hiệu quả trong việc thu hút

nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài vào. Điều này hỗ trợ rất lớn trong việc

cung ứng vốn trong nước, tạo điều kiện tài trợ cho các mục tiêu phát triển của doanh

nghiệp.

Thứ năm, thông qua thị trường chứng khoán, các công ty chứng khoán, tổ

chức tư vấn cổ phần hóa đã tác động tích cực tới quá trình cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp đã được cổ phần hóa và bán cổ phiếu ra công

chúng, niêm yết chính thức trên sàn. Điều này đã góp phần thúc đẩy mục tiêu đến

năm 2020 cơ bản hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.

Thứ sáu, sự phát triển của thị trường chứng khoán đã góp phần thúc đẩy các

doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung hội nhập nhanh hơn với

thế giới, không chỉ là sự hội nhập về nguồn vốn mà còn là kinh nghiệm quản lý, khả

Trang 81

năng phát triển công nghệ, con người…

Phụ lục 2: Kết quả mô hình trích xuất từ phần mần Stata

1. Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu VN-Index

(Nguồn: Từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

2. Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu HNX-Index

(Nguồn: Từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

3. Kiểm định White cho mô hình hồi quy với chuỗi VN-Index

Trang 82

(Nguồn: Từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

4. Kiểm định White cho mô hình hồi quy với chuỗi HNX-Index

(Nguồn: Từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

5. Kiểm định hiện tượng tự tương quan cho mô hình hồi quy với

chuỗi VN-Index

(Nguồn: Từ kết quả chạy mô hình hồi quy)

6. Kiểm định hiện tượng tự tương quan cho mô hình hồi quy với

chuỗi HNX-Index

Trang 83

(Nguồn: Từ kết quả chạy mô hình hồi quy)