BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

--------------------

NGUYỄN VĂN CÔNG

KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 05 NĂM 2013

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BỘ GIÁO DỤC VÀO ĐÀO TẠO

--------------------

NGUYỄN VĂN CÔNG

KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013

LỜI CẢM ƠN

Trước hết tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến người hướng dẫn

khoa học, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, về những ý kiến đóng góp, những

chỉ dẫn có giá trị giúp tác giả hoàn thành luận văn.

Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã hết lòng

ủng hộ động viên tác giả trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2013

Học viên: Nguyễn Văn Công

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả với sự

giúp đỡ của người hướng dẫn khoa học. Số liệu thống kê được lấy từ nguồn đáng

tin cậy, nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn này chưa từng được công

bố trong bất cứ công trình nào cho tới thời điểm hiện nay.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày … tháng … năm 2013

Tác giả

Nguyễn Văn Công

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HOSE: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh

HNX: Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

TTCK: Thị trường chứng khoán

CTCK: Công ty chứng khoán

UBCK: Ủy ban chứng khoán

EMH: Efficient Market Hypothesis – Giả thuyết thị trường hiệu quả

IID:

Independent and Identically Distributed – Phân phối xác suất độc lập và đồng nhất

RW: Random Walk – Bước ngẫu nhiên

RW1: Random Walk 1 – Giả thuyết 1 của lý thuyết bước đi ngẫu nhiên

RW2: Random Walk 2 – Giả thuyết 2 của lý thuyết bước đi ngẫu nhiên

RW3: Random Walk 3 – Giả thuyết 3 của lý thuyết bước đi ngẫu nhiên

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 4.1: Kết quả kiểm định Unit Root ................................................................ 25

Bảng 4.2: Kết quả kiểm định Ljung-Box .............................................................. 26

Bảng 4.3: Kết quả kiểm định LOMAC ................................................................. 27

DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 1.1: Biểu đồ về giá và khối lượng giao dịch của chỉ số VN-Index giai đoạn

2000 – 2012 [18]. .......................................................................................................3

Hình 1.2: Quy mô công ty niêm yết trên sàn HOSE giai đoạn 2000-2012 [19] ...4

Hình 3.1: Thống kê mô tả dữ liệu chứng khoán theo tuần .................................. 24

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1 - GIỚI THIỆU ..................................................................................... 1

1.1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................. 5

1.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 6

1.4. Nội dung nghiên cứu ................................................................................. 6

CHƯƠNG 2 - CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC

NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÓ .......................................................... 8

2.1. Lý thuyết bước đi ngẫu nhiên (Random Walk Theory) .......................... 8

2.2. Giả thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market

Hypothesis) ................................................................................................ 9

2.3. Tổng quan các nghiên cứu trước đó ....................................................... 11

CHƯƠNG 3 - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................ 14

3.1. Giới thiệu các kiểm định ......................................................................... 14

3.2. Lựa chọn kiểm định ................................................................................ 15

3.2.1. Bước ngẫu nhiên ........................................................................... 17

3.2.2. Kiểm định nghiệm đơn vị ............................................................ 17

3.2.3. Kiểm định Ljung – Box ............................................................... 19

3.2.4. Kiểm định LOMAC ..................................................................... 20

3.3. Nguồn dữ liệu và thống kê mô tả ........................................................... 22

3.3.1. Nguồn dữ liệu ............................................................................... 22

3.3.2. Thống kê mô tả nguồn dữ liệu ..................................................... 23

CHƯƠNG 4 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................ 25

4.1. Kết quả kiểm định Unit Root ................................................................. 25

4.2. Kết quả kiểm định Ljung-Box ................................................................ 26

4.3. Kết quả kiểm định LOMAC ................................................................... 27

4.4. Kết luận .................................................................................................... 28

CHƯƠNG 5 - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................... 29

5.1. Kết luận .................................................................................................... 29

5.2. Kiến nghị chính sách ............................................................................... 32

5.3. Những hạn chế và đề xuất nghiên cứu tiếp theo ................................... 33

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 34

PHỤ LỤC BẢNG ....................................................................................................... 36

1

CHƯƠNG 1 - GIỚI THIỆU

1.1. Lý do chọn đề tài

Thị trường chứng khoán đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế,

đó là kênh huy động vốn dài hạn hết sức hiệu quả bên cạnh các kênh huy động

trung và ngắn khác từ ngân hàng. Chính vì lí do đó bất cứ một thay đổi nào của

nền kinh tế đều được phản ánh một cách rõ nét lên giá chứng khoán và các chỉ số

thị trường. Sự phản ánh đó nhanh hay chậm, mức độ chính xác cao của các biến

động giá được quyết định bởi nhân tố thông tin trên thị trường, cụ thể, khi nhận

được những thông tin tích cực từ nền kinh tế, giá cổ phiếu có thể ngay lập tức

biến động theo chiều hướng tăng và ngược lại giá sẽ điều chỉnh giảm khi thông

tin nhận được có dấu hiệu tiêu cực. Khả năng phản ánh tốt thông tin của thị

trường chứng khoán vì vậy được rất nhiều nhà kinh tế học nghiên cứu xem xét

như một tiêu chí đánh giá mức độ hiệu quả của thị trường. Một trong những lý

thuyết được nghiên cứu nhiều nhất cũng như được công nhận một cách rộng rãi

trên thế giới là Lý thuyết thị trường hiệu quả.

Giả thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis) do Fama nêu

ra lần đầu năm 1965, được xem là nền tảng của lý thuyết tài chính hiện đại, theo

đó thì thị trường hiệu quả được chia thành ba dạng là dạng yếu, dạng trung bình

và dạng mạnh. Có nhiều nghiên cứu kiểm định đối với các thị trường phát triển

như ở Mỹ, Nhật và Châu Âu chứng minh rằng thị trường chứng khoán ở những

nước này phần lớn tuân theo hiệu quả ít nhất là dạng yếu. Tuy nhiên, có một sự

đồng thuận rộng rãi cũng như nhiều bằng chứng chứng tỏ thị trường chứng

khoán ở các nước đang phát triển không tuân theo hiệu quả dạng mạnh cũng như

dạng trung bình mà trong rất nhiều trường hợp thậm chí không tuân theo hiệu

quả dạng yếu (Phần 2.3 Tổng quan các nghiên cứu trước đó của luận văn).

2

Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển và có hệ thống tài

chính mới hội nhập vào tài chính toàn cầu do đó thị trường chứng khoán được dự

đoán cũng sẽ mang nhiều tính chất tương tự với hầu hết các thị trường chứng

khoán mới nổi khác trên thế giới. So với các thị trường chứng khoán ở các nước

đang phát triển thì thị trường chứng khoán Việt Nam cũng còn khá non trẻ với

hơn 12 năm phát triển bắt đầu từ ngày 28/07/2000. Mặc dù đã đạt được nhiều kết

quả khả quan từng bước trở thành kênh truyền dẫn vốn trung và dài hạn của nền

kinh tế, hỗ trợ tiến trình cổ phần hóa và cơ cấu lại nền kinh tế cũng như sắp xếp

lại doanh nghiệp nhà nước đồng thời góp phần huy động vốn cho ngân sách nhà

nước và cho đầu tư phát triển góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước song có nhiều vấn đề còn tồn tại liên quan đến sự quá mới mẻ và kém

phát triển của thị trường bao gồm thông tin bất cân xứng, hệ thống pháp lý chưa

hoàn chỉnh cũng như các tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp chưa đầy đủ, việc

giao dịch nội gián, làm giá chứng khoán hoặc đầu tư quá dựa vào tin đồn, chất

lượng hàng hóa còn thấp, chưa đa dạng. Đặc biệt, với sự tham gia đông đảo của

các công ty chứng khoán thành lập theo phong trào và các nhà đầu tư cá nhân

thiếu kiến thức chuyên môn về đầu tư, tài chính và những thông tin mang tính cơ

bản về nền kinh tế cũng như của các công ty niêm yết, thay vì xem việc đầu tư

chứng khoán là một nghề do đó dễ dẫn đến những hành động và quyết định đầu

tư cảm tính, phi lý trí, bầy đàn. Dẫn đến thị trường rất dễ bị tổn thương, tác động

nghiêm trọng sau những biến động về kinh tế và xã hội điển hình như vụ “Bầu

Kiên” (Nguyễn Đức Kiên - Phó Chủ tịch Hội đồng sáng lập Ngân hàng ACB),

ông Lý Xuân Hải (Tổng giám đốc Ngân hàng ACB) bị bắt (tháng 08/2012) đã

làm thị trường chứng khoán giảm điểm mạnh trong một thời gian dài. Tuy nhiên,

với nhiều sự thay đổi về mặt chính sách nhà nước tạo ra sức hấp dẫn của một thị

3

trường mới nhiều tiềm năng đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đã thúc

đẩy sự phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính Việt Nam nói chung và thị

trường chứng khoán nói riêng. Xuất phát từ lý do này rất nhiều các nghiên cứu

khoa học kinh tế liên quan đến thị trường chứng khoán Việt Nam trên nhiều

phương diện được đưa ra, như các nghiên cứu về chính sách, hệ thống pháp luật,

tính chất kinh tế, quy tắc hoạt động của thị trường, cơ cấu của thị trường và tác

động qua lại của thị trường đến nền kinh tế cũng như các tác động khác đến đời

sống xã hội. Các nghiên cứu ngày càng được đầu tư và xem xét một cách chuyên

sâu và dành được nhiều sự quan tâm của các tổ chức cá nhân nhà đầu tư, nhà

phân tích và những cơ quan xây dựng chính sách coi trọng.

Hình 1.1: Biểu đồ về giá và khối lượng giao dịch của chỉ số VN-Index giai đoạn 2000 – 2012 [18].

Trong quá trình phát triển hơn 12 năm vừa qua thị trường chứng khoán

Việt Nam đã có sự phát triển nhất định về số lượng công ty niêm yết bắt đầu với

2 doanh nghiệp (Công ty Cổ phần cơ điện lạnh – REE và Công ty Cổ phần Cáp

4

và Vật liệu viễn thông – SAM) cộng với một số trái phiếu với mức vốn hóa thị

trường chỉ đạt 459 tỷ đồng trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/07/2000, đến

nay thị trường đã có 315 công ty niêm yết tính đến ngày 31/12/2012 với mức

vốn hóa 602.904 tỷ đồng [19].

Hình 1.2: Quy mô công ty niêm yết trên sàn HOSE giai đoạn 2000-2012 [19]

Thêm vào đó số lượng các nhà đầu tư với sự tham gia không chỉ các tổ

chức cá nhân trong nước mà còn có các tổ chức cá nhân nước ngoài tăng lên

chóng mặt đạt mức 1,26 triệu tài khoản (trong đó các tài khoản của nhà đầu tư

nước ngoài có 16.001 tài khoản) tính đến hết tháng 12/2012. Riêng trong tháng

12/2012, số tài khoản giao dịch của các nhà đầu tư được cấp mới là 7.869 tài

khoản (trong đó: tổ chức trong nước 111; cá nhân trong nước 7.701; tổ chức

nước ngoài 14; cá nhân nước ngoài 35) [20]. Cùng với sự đóng góp về trình độ

đầu tư, kiến thức và kinh nghiệm đầu tư của các tổ chức cá nhân nước ngoài

5

trong việc nắm bắt thị trường, kiến thức, kinh nghiệm của nhà đầu tư Việt Nam

cũng đã tương đối được nâng cao. Về mặt chính sách, Quốc hội Nhà nước Việt

Nam cũng như Bộ Tài chính và trực tiếp là Ủy ban Chứng khoán nhà nước đã

ban hành rất nhiều các văn bản pháp quy hoàn thiện hành lang pháp lý đảm bảo

một môi trường hoạt động lành mạnh cho toàn bộ thị trường điều chỉnh mọi mặt

các mối quan hệ hoạt động trên TTCK như Luật đầu tư, các quy định về phát

hành thông tin, các Nghị định, Thông tư lên quan đến quy chế hoạt động của thị

trường chứng khoán, các công ty chứng khoán, các công ty niêm yết…Ngoài

hoàn thiện khung pháp lý, Nhà nước ta cũng tạo điều kiện cho sự phát triển của

thị trường bằng việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, khuyến khích các nhà đầu

tư trong và ngoài nước, cũng như thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam tham gia

vào thị trường tài chính thế giới.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Với vai trò quan trọng của TTCK là kênh huy động vốn đầu tư dài hạn

hiệu quả, nhanh chóng nhất cho doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, đồng thời

cũng nhận ra như xu hướng phát triển mạnh mẽ và nhiều tiềm năng của TTCK

Việt Nam, các nhà nghiên cứu ngày càng dành nhiều sự quan tâm hơn đến hoạt

động của thị trường. Đã có rất nhiều đề tài khoa học và các tài liệu nghiên cứu đã

được công bố đưa ra rất nhiều các kết luận và khuyến nghị nhằm nâng cao hơn

nữa sự phát triển của thị trường.

Mục tiêu của luận văn này nhằm kiểm định giả thuyết hiệu quả dạng yếu

đối với thị trường chứng khoán của Việt Nam cho giai đoạn 2000 – 2012 để tìm

ra câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu là thị trường chứng khoán Việt Nam có

tuân theo giả thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu hay không? Luận văn cố gắng

tìm hiểu mức độ hiệu quả của thị trường trong bối cảnh mới, từ đó đưa ra những

6

đề xuất chính sách có ý nghĩa đối với phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung

và thị trường chứng khoán nói riêng. Luận văn sử dụng dữ liệu chỉ số VN-Index

của Sở giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh – HOSE giai đoạn

2000-2012.

1.3. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sẽ thực hiện kiểm định tính hiệu quả dạng yếu của thị trường

chứng khoán Việt Nam, sử dụng phương pháp định lượng thông qua các kiểm

định tính ngẫu nhiên của chuỗi dữ liệu giá sử dụng dữ liệu là chỉ số VN-Index

bao gồm kiểm định nghiệm đơn vị, kiểm định tự tương quan và kiểm định sai

biệt phương sai. Nếu chuỗi dữ liệu giá ủng hộ giả thuyết, có thể đi đến kết luận

rằng thị trường chứng khoán Việt Nam có hiệu quả ít nhất là dạng yếu. Ngược

lại, có thể kết luận thị trường chứng khoán Việt Nam không hiệu quả.

1.4. Nội dung nghiên cứu

Luận văn có 5 chương bao gồm:

Chương 1: Luận văn sẽ giới thiệu chung về lý do chọn đề tài, mục tiêu

nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu.

Chương 2: Chương này trình bày cơ sở lý thuyết bao gồm các Giả thuyết

thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis), Lý thuyết bước đi ngẫu nhiên

(Random Walk Theory) và đưa ra cái nhìn tổng quan các nghiên cứu trước đó.

Chương 3: Chương này trình bày phương pháp nghiên cứu định lượng bao

gồm các phương pháp kiểm định như kiểm định nghiệm đơn vị - Unit Root,

kiểm định Tự tương quan - Ljung Box, kiểm định Sai biệt phương sai – Lomac

đồng thời mô tả các nguồn dữ liệu phục vụ nghiên cứu.

Chương 4: Trình bày kết quả nghiên cứu sau khi tiến hành kiểm định đối

với thị trường chứng khoán Việt Nam.

7

Chương 5: Rút ra kết luận cho luận văn, đề xuất những kiến nghị chính

sách và nêu ra các hạn chế của luận văn.

8

CHƯƠNG 2 - CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN

CỨU TRƯỚC ĐÓ

Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã sử dụng nhiều phương pháp định

lượng để kiểm định tính hiệu quả dạng yếu của thị trường. Đối với luận văn này

tác giả dựa trên nền tảng cơ sở của hai lý thuyết quan trọng trong tài chính là Lý

thuyết bước đi ngẫu nhiên và Giả thuyết thị trường hiệu quả để lựa chọn ra

những kiểm định thích hợp.

2.1. Lý thuyết bước đi ngẫu nhiên (Random Walk Theory)

Lý thuyết bước đi ngẫu nhiên nói rằng các biến động giá cổ phiếu không

tuân theo bất kỳ hình mẫu hoặc xu hướng nào và lịch sử giá quá khứ của cổ

phiếu không có trí nhớ, do vậy không thể sử dụng để dự báo giá cổ phiếu trong

tương lai.

Fama (1965) cho rằng lý thuyết bước đi ngẫu nhiên thực tế bao gồm hai

giả thuyết riêng biệt: (1) những biến động giá kế tiếp là độc lập, và (2) những

biến động giá tuân theo một phân phối xác suất. Chi tiết hơn, Campbell và các

tác giả khác (1997) chỉ ra ba loại giả thuyết bước đi ngẫu nhiên. Giả thuyết 1

(RW1) với giả định những biến động là phân phối xác suất độc lập và đồng nhất

(IID). Tuy nhiên giả thuyết này thiếu sự linh hoạt cần thiết để thích ứng với

những sự đổi thay của kinh tế, xã hội bởi vì tính đồng nhất. Giả thuyết 2 (RW2)

đã nới lỏng giả định IID thành phân phối xác suất độc lập mà không cần đồng

nhất, và như vậy RW1 là một trường hợp đặc biệt của RW2. Giả định về tính độc

lập trong RW2 cũng có thể được nới lỏng tiếp để có được RW3, là giả thuyết

9

tổng quát nhất trong cả ba. RW3 giả định rằng những biến động giá là không

tương quan và bao gồm cả RW1 và RW2 như là những trường hợp đặc biệt.

Để chấp nhận hay bác bỏ lý thuyết bước đi ngẫu nhiên, chúng ta phải có

chứng cứ thống kê để tìm hiểu có thật sự giá cả trong tương lai của cổ phiếu là

độc lập với những biến động giá trong lịch sử. Trong những phần sau thì chúng

ta cũng thấy rõ sự liên quan giữa lý thuyết bước đi ngẫu nhiên và giả thuyết thị

trường hiệu quả. Thật ra thì hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm kiểm định giả

thuyết thị trường hiệu quả (đặc biệt là đối với dạng yếu) đều dựa trên RW3.

2.2. Giả thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis)

Giả thuyết thị trường hiệu quả (EMH) là một trong những hòn đá tảng của

tài chính hiện đại. Nó cũng là nguyên nhân tranh luận của các nhà kinh tế cũng

như các chuyên gia tài chính. EMH nói rằng tại bất kỳ thời điểm nào, giá cổ

phiếu đã phản ánh hết tất cả thông tin sẵn có.

Đối với thị trường hiệu quả, có định nghĩa chính thức và không chính

thức: Định nghĩa chính thức: Một thị trường hiệu quả tạo ra mức giá phản ánh

đầy đủ tất cả các thông tin có sẵn tại bất kỳ thời điểm nào (Fama, 1970). Đây là

định nghĩa được chấp nhận nổi tiếng nhất và công khai cho thị trường hiệu quả.

Định nghĩa không chính thức: Lợi nhuận là hoàn toàn không dự đoán được và

không có nhà đầu tư nào có thể kiếm được siêu lợi nhuận bất thường bằng cách

khai thác thông tin có sẵn trong quá khứ: Một thị trường hiệu quả được định

nghĩa là một thị trường trong đó có một số lượng lớn người tối đa hóa lợi nhuận

hợp lý, cố gắng để dự đoán giá trị thị trường trong tương lai của những chứng

khoán riêng lẻ để có được lợi nhuận và quan trọng là thông tin hiện tại hầu như

có sẵn cho tất cả mọi người tham dự. Trong một thị trường hiệu quả, cạnh tranh

giữa các thành viên thông minh dẫn đến một tình huống mà ở bất kỳ điểm nào

10

trong thời gian, giá thực tế của chứng khoán đã phản ánh những tác động của

thông tin dựa trên cả những sự kiện đã xảy ra, trên các sự kiện hiện tại và sự kiện

dự kiến sẽ diễn ra trong tương lai. Vì vậy trong một thị trường hiệu quả tại bất kỳ

thời điểm nào giá thực tế của một chứng khoán sẽ là một ước lượng tốt về giá trị

chính xác của nó.

Fama (1965, 1970) đưa ra cách phân loại mức độ hiệu quả theo các dạng

yếu, trung bình, mạnh căn cứ vào mức độ tương đối của các nguồn thông tin sẵn

có. Có ba dạng EMH như sau:

Dạng yếu: Giả thuyết dạng yếu nói rằng giá cổ phiếu đã phản ánh tất cả

những thông tin có được từ dữ liệu giao dịch thị trường như giá lịch sử, khối

lượng giao dịch. Nếu thị trường tuân theo hiệu quả dạng yếu, thì việc sử dụng

phân tích kỹ thuật để xác định xu hướng, các ngưỡng kháng cự, hỗ trợ … nhằm

dự báo biến động giá cổ phiếu trong tương lai dựa vào dữ liệu giá trong quá khứ

là không thể. Giá cả sẽ chỉ tuân theo những bước đi ngẫu nhiên mà thôi.

Dạng trung bình: Giả thuyết dạng trung bình nói rằng tất cả những thông

tin được công bố rộng rãi liên quan đến các công ty và triển vọng của công ty đã

được phản ánh đầy đủ vào giá. Bao gồm những dữ liệu giao dịch thị trường và

những thông tin cơ bản về kết quả kinh doanh, tình hình sản xuất kinh doanh,

bảng cân đối kế toán, các chỉ số tài chính, kế hoạch lợi nhuận, chia cổ tức … của

công ty. Nếu thị trường tuân theo hiệu quả dạng trung bình, thì việc sử dụng

phân tích cơ bản để tìm kiếm lợi nhuận thông qua các dữ kiện cơ bản để mua

những cổ phiếu được định giá thấp, bán những cổ phiếu được định giá cao, cũng

không thể thực hiện.

Dạng mạnh: Giả thuyết dạng mạnh nói rằng giá cổ phiếu đã phán ánh tất

cả thông tin liên quan đến công ty bao gồm cả thông tin công bố rộng rãi lẫn

11

thông tin nội bộ. Hiệu quả dạng mạnh hàm ý rằng ngay cả những nhà đầu tư giao

dịch dựa trên thông tin nội gián cũng không thể nào tìm kiếm được lợi nhuận

vượt trội. Nếu thị trường tuân theo hiệu quả dạng mạnh, thì thông tin nội bộ cũng

không có tác dụng gì.

Luận văn này sẽ dựa vào những nền tảng của hai lý thuyết bao gồm Lý

thuyết bước đi ngẫu nhiên và Giả thuyết thị trường hiệu quả để thực hiện các

kiểm định thống kê để kiểm định tính hiệu quả dạng yếu của thị trường chứng

khoán Việt Nam. Luận văn sử dụng ba kiểm định bao gồm kiểm định nghiệm

đơn vị, kiểm định tự tương quan và kiểm định sai biệt phương sai.

2.3. Tổng quan các nghiên cứu trước đó

Do những tác động to lớn của việc xác định tính chất hoạt động của thị

trường chứng khoán đối với nhà đầu tư trong việc xây dựng chiến lược đầu tư và

các nhà kinh tế học trong việc tìm ra quy luật kinh tế của thị trường, đã có nhiều

nghiên cứu về giả thuyết thị trường hiệu quả đối thị trường chứng khoán cho

nhiều nước trên thế giới tại nhiều thời điểm khác nhau không chỉ ở những thị

trường tại các nền kinh tế phát triển mà còn ở những nền kinh tế đang phát triển.

Năm 2004, Worthington và Higgs công bố nghiên cứu “Bước ngẫu nhiên và thị

trường hiệu quả đối với thị trường chứng khoán các nước Châu Âu - Random

walks and market efficiency in European equity markets)”. Nghiên cứu của họ

sử dụng dữ liệu ngày để kiểm định tính ngẫu nhiên và thị trường hiệu quả dạng

yếu đối với TTCK đối với các nước phương Tây bao gồm 16 thị trường phát

triển (Úc, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ireland, Ý, Hà Lan, Na

Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Anh) và 4 thị trường

mới nổi (Cộng Hòa Séc, Hungari, Ba Lan và Nga), thông qua việc sử dụng kiểm

định Nghiệm đơn vị - Unit Root Test và Sai biệt phương sai - Variance Ratio

12

Test. Kết quả chỉ ra rằng trong các thị trường mới nổi chỉ có Hungary là có tính

ngẫu nhiên vì vậy có tính hiệu quả dạng yếu, tất cả các thông tin thị trường được

chuyển hết vào giá chứng khoán. Bên cạnh đó, tại các thị trường phát triển chỉ có

Đức, Ireland, Bồ Đào Nha, Thụy Điển và Anh được xác định là có tính ngẫu

nhiên.

Trước đó vào năm 2003 Worthington và Higgs, cũng thực hiện tương tự

nghiên cứu trên “Kiểm định bước ngẫu nhiên và thị trường hiệu quả đối với thị

trường chứng khoán các nước Mỹ La tinh – Tests of random walks and market

efficiency in Latin American stock markets: An empirical note”. Nghiên cứu sử

dụng dữ liệu ngày từ 31/12/1987 – 28/05/2003 để kiểm định giả thuyết thị

trường hiệu quả dạng yếu và lý thuyết Bước đi ngẫu nhiên đối với các nước

Argentina, Brazil, Chile, Colombia, Mexico, Peru và Venezuela. Cũng như các

nghiên cứu của các nhà phân tích khác, Worthington và Higgs đã đi đến kết luận

đó là không có thị trường nào tuân theo bước đi ngẫu nhiên cũng như thị trường

hiệu quả dạng yếu.

Vào năm 2008, Xiaofeng Li công bố nghiên cứu “Kiểm định thị trường

hiệu quả đối với thị trường chứng khoán các nước Trung Quốc và Nhật - Tests of

Stock Market Efficiency in China and Japan ”. Xiaofeng Li sử dụng các kiểm

định Runs Test, Unit Root Test và Variance Ratio Test với dữ liệu lấy từ chỉ số

chứng khoán của các thị trường chứng khoán Thượng Hải và Thẩm Quyến của

Trung Quốc và TTCK thành phố Tokyo của Nhật Bản trong vòng 7 năm giai

đoạn 2000 đến 2007. Kết quả của nghiên cứu cho thấy thị trường chứng khoán

tại Thượng Hải và Thẩm Quyến chưa tuân theo thị trường hiệu quả, ngược lại thị

trường chứng khoán tại Tokyo có tính ngẫu nhiên và do đó có tính hiệu quả.

13

Năm 2012, Mirah Putu Nikita, Subiakto Soekarno công bố nghiên cứu “

Kiểm định giả thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu đối với thị trường chứng

khoán Indonesia giai đoạn từ 2008-2011 - Testing on Weak Form Market

Efficiency: The Evidence from Indonesia Stock Market Year 2008-2011 ”.

Nghiên cứu đã sử dụng các kiểm định tự tương quan, Runs Test và dùng phân

tích hồi quy để đưa ra mô hình tiên đoán. Kết quả thể hiện thị trường chứng

khoán Indonesia giai đoạn 2008-2011 không tuân theo hiệu quả dạng yếu.

Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam, Bùi Mỹ Châu (2006) với

nghiên cứu “Kiểm định giả thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu đối với thị

trường chứng khoán Việt Nam”, lấy mẫu là chỉ số VNI-Index từ năm 2000-2006,

sử dụng dữ liệu tuần cho các kiểm định tính ngẫu nhiên như Ljung-Box Test,

Unit Root Tests, Variance Ratio Test (Lomac) và sử dụng dữ liệu ngày với 2

phương pháp VMA (Variable Length Moving Average) và FMA (The Fixed

Length Moving Average) để kiểm định tính có khả năng dự báo. Kết quả, thị

trường chứng khoán Việt Nam không tuân theo giả thuyết dạng yếu của thị

trường hiệu quả.

Để kiểm định hiệu quả dạng yếu cho thị trường chứng khoán Việt Nam,

luận văn này sẽ kiểm định tính ngẫu nhiên của giá chứng khoán. Nếu thị trường

chứng khoán Việt Nam tuân theo giả thuyết bước đi ngẫu nhiên thì có thể kết

luận được là thị trường cũng tuân theo hiệu quả dạng yếu.

14

CHƯƠNG 3 - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong chương này sẽ giới thiệu các kiểm định sử dụng để kiểm định tính

ngẫu nhiên hay mức độ hiệu quả của thị trường và nguồn dữ liệu sử dụng để

kiểm định.

3.1. Giới thiệu các kiểm định

Một trong những kiểm định được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu về

giả thuyết bước đi ngẫu nhiên là kiểm định về tính dừng hay tính ổn định

(stationarity) cụ thể là kiểm định nghiệm đơn vị (Unit Root Test). Kiểm định

nghiệm đơn vị được nêu ra lần đầu tiên bởi Dickey và Fuller (1979).

Tiếp theo một trong những cách trực tiếp nhất để kiếm định giả thuyết

bước đi ngẫu nhiên là kiểm tra tương quan chuỗi trong các biến động giá cổ

phiếu. Đối với thị trường chứng khoán, tương quan chuỗi thể hiện xu hướng biến

động giá trong tương lai tương quan với biến động giá trong quá khứ. Nếu tương

quan chuỗi là dương hay đồng biến thì những biến động tăng (hoặc giảm) sẽ có

xu hướng tiếp tục là những biến động tăng (hoặc giảm). Ngược lại, nếu tương

quan chuỗi là âm hay nghịch biến thì những biến động tăng (hoặc giảm) sẽ có xu

hướng tiếp tục là những biến động giảm (hoặc tăng). Box và Pierce (1970) đề

xuất sử dụng thống kê Portmanteau, hay còn được gọi là thống kê Q trong kiểm

định Q để tìm hiểu mức độ tương quan chuỗi đối với biến động giá cổ phiếu.

Ljung và Box (1978) thay đổi một chút đối với thống kê Q để tăng tính hiệu lực

của kiểm định trong các mẫu hữu hạn, kiểm định này được biết đến với tên gọi là

kiểm định Ljung Box. Đối với một chuỗi thời gian có những tính chất phụ thuộc

15

dạng phi tuyến thì theo Brock, Dechert và Sheinkman (1987) đề xuất sử dụng

kiểm định BDS.

Kết quả của những kiểm định này có thể làm sáng tỏ tính chất chuỗi thời

gian của biến động giá cổ phiếu với một mức ý nghĩa của các kiểm định thống

kê. Nếu tự tương quan gần bằng không, các biến động giá được xem như là độc

lập lẫn nhau, hay tuân theo bước đi ngẫu nhiên. Ngược lại, sự tồn tại của tự

tương quan sẽ bác bỏ giả thuyết bước đi ngẫu nhiên của biến động giá chứng

khoán.

Kiểm định sai biệt phương sai (Variance ratio test) do Lo và MacKinlay

(1988) đề xuất, còn được gọi là kiểm định LOMAC sau này được sử dụng rất

nhiều trong các nghiên cứu định lượng về hiệu quả thị trường và lý thuyết bước

đi ngẫu nhiên của biến động giá cổ phiếu. Ý tưởng đằng sau kiểm định LOMAC

là nếu một chuỗi tuân theo quy tắc bước đi ngẫu nhiên, phương sai của sai biệt

bậc q sẽ bằng q lần phương sai của sai biệt bậc nhất.

3.2. Lựa chọn kiểm định

Đầu tiên kiểm định nghiệm đơn vị (Unit Root Test) được sử dụng để kiểm

định một chuỗi dữ liệu có dừng hay không cụ thể là kiểm định Augmented

Dickey – Fuller (ADF) và kiểm định Phillips-Person. Một chuỗi dừng có nghĩa

là chuỗi đó không ngẫu nhiên.

Tiếp theo, kiểm định tự tương quan sẽ được thực hiện. Theo Campbell, Lo

và MacKinlay (1997), một trong những cách kiểm định trực quan nhất của giả

thuyết thị trường hiệu quả là kiểm tra tương quan chuỗi hay chính là sự tương

quan giữa hai quan sát trong chuỗi biến động chứng khoán ở các thời điểm khác

nhau. Tự tương quan là một trong những tính chất hay được quan tâm khi nghiên

cứu về chuỗi thời gian. Một chuỗi thời gian được xem như là tuân theo bước đi

16

ngẫu nhiên khi tất cả những chỉ số tự tương quan đều bằng không. Để kiểm định

sự tương quan của các quan sát trong chuỗi thời gian, chúng ta sẽ sử dụng một

thống kê được đưa ra lần đầu tiên bởi Ljung và Box (1978). Tuy nhiên, kiểm

định Ljung Box chỉ thực sự hiệu quả khi dùng để phát hiện những phụ thuộc

tuyến tính, đối với những phụ thuộc phi tuyến thì thống kê Ljung Box không đưa

ra được chứng cứ. Như vậy, với một chuỗi thời gian có những tính chất phụ

thuộc dạng phi tuyến thì việc sử dụng những kiểm định BDS của Brock, Dechert

và Sheinkman (1987). Nói cách khác, nếu kiểm định Ljung-Box bác bỏ giả

thuyết rằng không có tự tương quan trong chuỗi dữ liệu, hay đồng ý sự tồn tại

của phụ thuộc tuyến tính, thì kiểm định BDS không cần phải được thực hiện

thêm nữa. Trong trường hợp kiểm định Ljung-Box không bác bỏ được giả thuyết

không, lúc này chúng ta phải tiếp tục làm kiểm định BDS để kiểm tra cho phụ

thuộc phi tuyến.

Cuối cùng, kiểm định sai biệt phương sai được giới thiệu lần đầu bởi Lo

và MacKinlay (1988) với tính hiệu lực và đáng tin cậy đã được chứng minh và

sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu thực nghiệm đối với các chuỗi biến động

giá cổ phiếu không tuân theo phân phối chuẩn sẽ được thực hiện. Hầu hết các

chuỗi dữ liệu thời gian về chỉ số chứng khoán đều có phương sai biến thiên

(heteroskedasticity) mà kiểm định LOMAC lại có độ tin cậy cao hơn các kiểm

định khác như Ljung-Box hay kiểm định Unit Root đối với cả những chuỗi

phương sai không đổi và phương sai biến thiên. Bên cạnh đó, như đề cập ở phần

mô tả dữ liệu, chuỗi biến động theo tuần không tuân theo phân phối chuẩn và do

đó việc lựa chọn kiểm định LOMAC là phù hợp nhất.

17

3.2.1. Bước ngẫu nhiên

Nhiễu trắng (White Noise)

Xét mô hình sau: Yt = Ut, trong đó Ut là sai số ngẫu nhiên thỏa mãn E(Ut) = 0, Var(Ut) = σ2,

Cov(Ui,Uj) = 0 với i khác j thì Ut được gọi là nhiễu trắng.

Bước ngẫu nhiên (Random Walk)

Xét mô hình sau: Yt = Yt-1 + Ut

Với Ut là nhiễu trắng khi đó Yt được gọi là bước ngẫu nhiên.

Đặt: rt = Yt - Yt-1

Khi đó rt chính là lợi nhuận (hay biến động) tại ngày t.

Các kiểm định mà tác giả sử dụng trong luận văn này sẽ kiểm tra mức độ

tương quan giữa các biến động về giá trong chuỗi dữ liệu để đưa ra kết luận

chuỗi biến động giá có tuân theo bước đi ngẫu nhiên hay không.

3.2.2. Kiểm định nghiệm đơn vị

Trước khi đi sâu vào kiểm định nghiệm đơn vị, ta cần biết một số tính chất

của chuỗi dừng và chuỗi không dừng. Một chuỗi dừng nếu có các đặc điểm giá

trị kỳ vọng, phương sai không đổi theo thời gian và Cov(Pt, Pt-k) = a(k) (nghĩa là

hiệp phương sai giữa hai giá trị P cách nhau k giai đoạn). Một chuỗi không dừng

là chuỗi có giá trị kỳ vọng hay phương sai thay đổi theo thời gian hoặc cả hai.

Xét Yt = Ut, trong đó Ut là nhiễu trắng, thì Yt là chuỗi dừng.

Xét Yt = Yt-1 + Ut với Ut là nhiễu trắng

Y1 = Y0 + U1; Y2 = Y1 + U2 = Y0+ U1 + U2 với Y0 là hằng số

Yt = Yt-1 + Ut = Y0 + U1 +….+ Ut có E(Yt) = E(Yt-1) và Var(Yt) = t*Var(U).

Như vậy, Yt không phải là chuỗi dừng vì có phương sai thay đổi theo thời

gian, t càng lớn, phương sai cũng lớn theo hay Yt là bước ngẫu nhiên.

18

Kiểm định liệu chuỗi Yt có phải là chuỗi dừng (không ngẫu nhiên) hay

không bằng phương pháp nghiệm đơn vị. Phương pháp này xét phương trình:

Yt = p*Yt-1 + Ut với Ut là nhiễu trắng.

Nếu p =1, khi đó Yt là một bước ngẫu nhiên và Yt là một chuỗi không dừng. Do

đó khi kiểm định tính dừng ta kiểm định các giả thiết như sau:

H0: p =1(chuỗi không dừng hay có tính ngẫu nhiên)

H1: p ≠ 1(chuỗi dừng hay không có tính ngẫu nhiên).

Đặt τ = (Giá trị p ước lượng/sai số của p), phân phối theo quy luật Dickey Fuller.

Nếu │τ│> │τα │ thì bác bỏ giả thuyết H0 hay kết luận là chuỗi dừng.

Phương trình trên tương đương với Yt - Yt-1 = (p-1)*Yt-1 + Ut = a*Yt-1 + Ut

Tiêu chuẩn DF được áp dụng cho ba mô hình sau:

ΔYt = a*Yt-1 + Ut

ΔYt = α + a*Yt-1 + Ut

ΔYt = α + b*T + a*Yt-1 + Ut = a*Yt-1 + c*Xt + Ut (1) với T là biến xu thế và Xt là

biến ngoại sinh bao gồm α hay α và biến xu thế.

Đối với các mô hình trên, các giả thiết

H0: a=0 (Chuỗi không dừng hay có tính ngẫu nhiên)

H1: a ≠ 0 (Chuỗi dừng hay không có tính ngẫu nhiên)

Tuy nhiên, có thể có sự xuất hiện hiện tượng tương quan chuỗi giữa các Ut

do thiếu biến nên kiểm định DF mở rộng được sử dụng bằng cách đưa thêm vào

phương trình các biến trễ của biến phụ thuộc ΔYt:

ΔYt = α + b*T + a*Yt-1 + Ut + ΣΔYt-k với k=1,…, n

Tiêu chuẩn DF áp dụng ở trên được gọi là tiêu chuẩn ADF (Augumented

Dickey – Fuller). Bên cạnh đó, đối với trường hợp nghi ngờ có hiện tượng tương

quan chuỗi giữa Ut, Philips Perron (1988) đề xuất kiểm định ước lượng phương

19

trình (1) và cải biến giá trị τ sao cho hiện tượng tương quan giữa Ut không ảnh

hưởng đến phân phối τ.

3.2.3. Kiểm định Ljung – Box

Chúng ta có thể kiểm định giả thuyết thị trường hiệu quả bằng cách kiểm

định đồng thời tất cả các sự tự tương quan của một chuỗi biến động giá cổ phiếu

đều bằng không, lúc đó chuỗi dữ liệu sẽ tuân theo bước đi ngẫu nhiên. Một chỉ

báo đo lường mức độ tương quan hay phụ thuộc lẫn nhau giữa các quan sát của

chuỗi số liệu được tính bởi công thức dưới đây:

Với là hệ số tương quan bậc k, là biến động giá tại thời điểm t, k

là khoảng cách thời gian giữa hai quan sát. là chênh lệch giữa logarithm tự

nhiên của chỉ số chứng khoán theo tuần.

Để kiểm định giả thuyết tất cả hệ số tương quan đều đồng thời bằng 0,

thống kê Ljung Box Q được sử dụng. Dựa vào thống kê Portmanteau trong kiểm

định của Box và Pierce (1970) thì Ljung và Box đã điều chỉnh để có thống kê Q

được tính như sau:

Với m là khoảng cách độ trễ được lựa chọn để kiểm định và T là cỡ mẫu.

Chúng ta có giả thuyết không và giả thuyết một:

20

Nguyên tắc quyết định là bác bỏ nếu với của phân phối

chi bình phương với m bậc tự do. Trong thực tế thì việc lựa chọn một m cụ thể

nào đó có thể ảnh hưởng đến tính hiệu lực của thống kê . Nếu m quá nhỏ

thì có thể kiểm định bỏ sót những sự tương quan với độ trễ dài hơn. Nếu m quá

lớn thì kiểm định sẽ giảm đi tính hiệu lực đáng kể như Campbel và các tác giả

khác (1997). Để giải quyết vấn đề này, chúng ta sẽ sử dụng như gợi

ý bởi Tsay (2005) để gia tăng độ tin cậy của kiểm định.

3.2.4. Kiểm định LOMAC

Kiểm định sai biệt phương sai hay kiểm định LOMAC được đưa ra lần

đầu tiên bởi Lo và MacKinlay (1988) dựa trên lập luận là với giả thuyết thị

trường hiệu quả, những biến động giá cổ phiếu không có tương quan chuỗi với

nhau và phương sai của những biến động ngẫu nhiên này là tuyến tính. Nói cách

khác, nếu logarithm tự nhiên của một chuỗi thời gian là ngẫu nhiên, phương sai

của sai biệt bậc q sẽ bằng q lần phương sai của sai biệt bậc nhất. Như vậy, nếu

chúng ta có một chuỗi (nq+1) quan sát bao gồm những giá trị X0, X1, …, Xnq tại

những thời điểm đều nhau, thì phương sai của (Xt-Xt-q) sẽ bằng q lần phương sai

của (Xt-Xt-1) nếu giả thuyết thị trường hiệu quả được tuân thủ. Kiểm định

LOMAC sử dụng tỷ số phương sai được tính như công thức dưới đây:

Với là phương sai của sai biệt bậc q và là phương sai của sai

biệt bậc nhất. Kiểm định LOMAC với giả thuyết không là VR(q) bằng 1. Nếu

VR(q) lớn hơn 1 thì tồn tại tương quan chuỗi đồng biến còn nếu VR(q) nhỏ hơn

1 thì có tương quan chuỗi nghịch biến trong chuỗi dữ liệu.

21

Lo và MacKinlay tính toán giá trị của và như sau:

Với

Với giả định phương sai không đổi (homoskedasticity), thống kê được

chuẩn hóa Z(q) được tính như sau:

Với

Lo và MacKinlay (1988) cũng đưa ra một thống kê Z* phù hợp và có hiệu

lực với các giả định phương sai thay đổi (heteroskedasticity):

Với

22

Trong một nghiên cứu khác bằng cách sử dụng mô phỏng Monte-Carlo,

Lo và MacKinlay (1989) đã chứng minh rằng việc sử dụng Z* cho kết quả tốt

hơn đối với những mẫu giới hạn.

3.3. Nguồn dữ liệu và thống kê mô tả

3.3.1. Nguồn dữ liệu

Nguồn dữ liệu sử dụng trong luận văn này là giá đóng cửa (End of Day)

của chỉ số VN-Index tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh

được lấy từ trang Web chứng khoán: www.cophieu68.com [18]. Từ dữ liệu thô

này, sự biến động (hay lợi nhuận) theo tuần sẽ được tính toán và sử dụng trong

các kiểm định. Lợi nhuận hay biến động theo tuần được tính như là lợi nhuận

ghép lãi liên tục theo công thức sau:

Lý do của việc chọn dữ liệu lợi nhuận theo tuần cho kiểm định tính ngẫu

nhiên mà không phải theo ngày hoặc theo tháng là mặc dù mở cửa từ ngày

28/07/2000 nhưng sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chỉ giao

dịch hằng ngày từ 01/03/2002, do vậy dữ liệu lợi nhuận theo ngày không có cho

giai đoạn trước 01/03/2002. Thêm nữa, việc sử dụng lợi nhuận theo tuần thay

cho theo ngày sẽ làm giảm thiểu những thiên lệch tồn tại ở dữ liệu theo ngày (Lo

và MacKinlay, 1998). Bên cạnh đó, dữ liệu lợi nhuận theo tháng cũng không

23

được sử dụng bởi vì cỡ mẫu khi đó không đủ lớn, mà một dữ liệu dài sẽ cải thiện

phương sai của phần dư và gia tăng hiệu lực của kiểm định tính ngẫu nhiên

(Taylor, 2000).

Thời hạn được lựa chọn trong nghiên cứu từ ngày khởi đầu thị trường

28/07/2000 đến ngày 31/12/2012 bao gồm 636 tuần và do đó tạo ra 635 quan sát

lợi nhuận theo tuần.

Theo Campbell, Lo và MacKinlay (1997), mục đích biểu diễn giá (hay chỉ

số giá) cổ phiếu theo logarithm tự nhiên nhằm cho phương sai của chuỗi thời

gian ổn định hơn qua thời gian. Theo Lo và MacKinlay (1988), dữ liệu chuỗi

theo tuần được dựa vào giá trị đóng cửa của ngày thứ tư hằng tuần. Nếu không

có dữ liệu của ngày thứ tư, dữ liệu ngày thứ ba sẽ được chọn, hoặc là của ngày

thứ năm, nếu thiếu cả dữ liệu cho ba ngày này thì xem như thiếu dữ liệu của tuần

đó. Việc lựa chọn giá trị đóng cửa vào ngày thứ tư theo như Huber (1997) là để

tránh hiệu ứng phụ tạo ra bởi hai ngày quan trọng trong tuần là bắt đầu vào thứ

hai và kết thúc vào thứ sáu vì đã có nhiều nghiên cứu và quan sát về hiệu ứng tại

hai ngày này trong tuần.

3.3.2. Thống kê mô tả nguồn dữ liệu

Dưới đây là dữ liệu tuần và một vài chỉ số thống kê mô tả được tạo bởi

phần mềm Eviews:

24

Hình 3.1: Thống kê mô tả dữ liệu chứng khoán theo tuần

Một số thống kê cơ bản như hình 3.2 đã thể hiện một số tính chất của thị

trường chứng khoán Việt Nam, theo đó giá trị trung bình (mean: 0,002155) và

trung vị (median: 0,00123) đều dương cho thấy thị trường đang trong giai đoạn

tăng trưởng, điều này cũng phù hợp với tính chất tăng trong dài hạn của thị

trường chứng khoán. Ngoài ra, độ lệch chuẩn tương đối lớn (Std.Dev: 0,046056)

phản ánh sự biến động mạnh của chỉ số VN-Index. Chỉ số skewness âm

(Skewness: -0,300577) cho biết hàm phân phối xác suất bị nghiêng về bên trái.

Chỉ số kurtosis (kurtosis: 5,323995) lớn hơn 3 đáng kể thể hiện độ phân tán của

lợi nhuận lớn cùng với chỉ số p_value của thống kê Jarque-Bera rất nhỏ gần bằng

0, có thể kết luận rằng lợi nhuận không tuân theo phân phối chuẩn. Kết quả này

phù hợp với các thị trường cổ phiếu các nước đang phát triển khác đã được

nghiên cứu trước đó.

25

CHƯƠNG 4 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Như đề cập ở phần trước, chúng ta sẽ sử dụng ba loại kiểm định khác nhau

cho giả thuyết bước đi ngẫu nhiên đối với dữ kiện biến động giá theo tuần của thị

trường chứng khoán Việt Nam bao gồm kiểm định Unit Root, kiểm định Ljung-

Box và kiểm định LOMAC.

4.1. Kết quả kiểm định Unit Root

Kiểm định Unit Root là kiểm định được thực hiện trước tiên với các giả

thuyết không và giả thuyết một như sau:

chuỗi dữ liệu là chuỗi không dừng (có tính ngẫu nhiên) H0:

chuỗi dữ liệu là chuỗi dừng (không có tính ngẫu nhiên) H1:

Bảng 4.1: Kết quả kiểm định Unit Root

Không có xu hướng Có xu hướng

A. Kiểm định ADF

Giá trị thống kê ADF -20.10446 -20.14552

1% level -3.440435 -2.972595

5% level -2.865881 -2.416922

10% level -2.569140 -2.130823

B. Kiểm định Phillips-Person

Giá trị thống kê PP -21.36342 -21.35814

1% level -3.440435 -2.972595

5% level -2.865881 -2.416922

10% level -2.569140 -2.130823

26

Nhìn vào bảng trên cho thấy cả hai kiểm định ADF và Phillips-Person có

xu hướng và không có xu hướng đều có giá trị tuyệt đối của giá trị kiểm định lớn

hơn giá trị tuyệt đối ở cả ba mức ý nghĩa (1%, 5%, 10%) nghĩa là ta có bằng

chứng mạnh để bác bỏ giả thuyết không. Điều đó có nghĩa chuỗi biến động giá

cổ phiếu theo tuần là chuỗi dừng hay nói cách khác chuỗi biến động giá cổ phiếu

theo tuần không phải là ngẫu nhiên. Để khẳng định thêm ta tiếp tục với kiểm

định Ljung - Box.

4.2. Kết quả kiểm định Ljung-Box

Kiểm định Ljung-Box là kiểm định được thực hiện trước tiên với các giả

thuyết không và giả thuyết một như sau:

không tồn tại tự tương quan trong chuỗi dữ liệu H0:

có tồn tại tự tương quan trong chuỗi dữ liệu H1:

Theo Tsay (2005), thống kê kiểm định Ljung-Box Q(5) và Q(6) được áp

dụng đối với phân phối dữ liệu theo tuần. Những kết quả thống kê được tóm tắt

như ở bảng dưới đây:

Bảng 4.2: Kết quả kiểm định Ljung-Box

Dữ liệu biến động theo tuần VN-Index Q(5) Q(6)

66.516* 68.405* Giá trị kiểm định thống kê

0.000 0.000 Xác xuất p-value

*: có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%

Với những kết quả ở trên, có thể thấy cả 2 thống kê Ljung-Box đều có ý

nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. Như vậy, chúng ta có thể bác bỏ giả thuyết

không về sự không tồn tại tự tương quan trong chuỗi và kết luận rằng chuỗi biến

động giá cổ phiếu theo tuần có tự tương quan. Như đã đề cập ở phần trước, kiểm

định Ljung-Box rất có hiệu lực trong việc phát hiện ra phụ thuộc tuyến tính của

27

dữ liệu chuỗi thời gian, vì vậy có thể thấy từ kết quả ở trên là chuỗi dữ liệu của

thị trường chứng khoán Việt Nam có tính chất phụ thuộc tuyến tính. Như thế,

việc tiếp tục thực hiện các kiểm định BDS về phụ thuộc phi tuyến là không còn

cần thiết.

4.3. Kết quả kiểm định LOMAC

Tiếp tục sử dụng dữ liệu biến động giá theo tuần, chúng ta sẽ thực hiện

kiểm định sai biệt phương sai theo Lo và MacKinlay (1988) với độ trễ từ 2 tuần

đến 4 tháng (16 tuần). Kiểm định LOMAC có giả thuyết không và giả thuyết một

như sau:

chuỗi dữ liệu tuân theo bước đi ngẫu nhiên H0: VR(q)=1

chuỗi dữ liệu không tuân theo bước đi ngẫu nhiên H1: VR(q)≠1

Tỷ số phương sai VR(q) và các kết quả kiểm định z(q) cho phương sai

không đổi và z*(q) cho phương sai biến thiên như ở bảng dưới đây:

Bảng 4.3: Kết quả kiểm định LOMAC

Giá trị của độ trễ q Giá trị

nq 2 4 8 16

1.219610 1.502998 1.950276 2.308290 02/08/2000- 635 (5.534005)* (6.775157)* (8.095293)* (7.489795)* 26/12/2012 [3.775382]* [4.825686]* [5.832203]* [5.579371]*

*: có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%

Hàng thứ nhất là giá trị của tỷ số phương sai VR(q), hàng thứ hai với giá

trị số trong ngoặc tròn là giá trị của kiểm định z(q), hàng thứ ba với giá trị số

trong ngoặc vuông là giá trị của kiểm định z*(q).

28

Từ kết quả trên, chúng ta bác bỏ giả thuyết không về bước đi ngẫu nhiên

với mức ý nghĩa 5% cho chuỗi dữ liệu theo tuần của thị trường chứng khoán Việt

Nam. Bên cạnh đó thì giá trị của tỷ số phương sai đều lớn hơn 1 trong cả bốn

trường hợp, thể hiệu mối tương quan đồng biến giữa các biến động giá cổ phiếu.

4.4. Kết luận

Với kết quả của ba kiểm định Unit Root, Ljung-Box và Lomac thực hiện ở

trên, có thể thấy rằng đối với dữ liệu của thị trường chứng khoán Việt Nam giai

đoạn 2000 - 2012 thì giả thuyết bước đi ngẫu nhiên bị bác bỏ. Điều này có nghĩa

là thị trường chứng khoán Việt Nam không tuân theo hiệu quả dạng yếu.

29

CHƯƠNG 5 - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Mục đích của luận văn này là kiểm định tính hiệu quả dạng yếu của thị

trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2000 - 2012 để làm rõ hơn tính chất của

thị trường chứng khoán Việt Nam liệu có phải là thị trường hiệu quả hay tương

tự như TTCK ở các nước có nền kinh tế đang phát triển hay không. Từ đó cũng

có thể trả lời cho câu hỏi liệu các nhà đầu tư có thể kiếm lợi nhuận dựa vào

thông tin trong quá khứ hay không. Từ các kết luận này và xuất phát từ thực tế

TTCK Việt Nam luận văn đồng thời đưa ra một số khuyến nghị chính sách có

tính chất tham khảo để phát triển thị trường bền vững và hiệu quả hơn.

5.1. Kết luận

Từ kết quả đánh giá ở chương 4 của các kiểm định Unit Root, kiểm định

Ljung-Box và kiểm định LOMAC, giả thuyết bước đi ngẫu nhiên được bác bỏ

đối với chuỗi biến động giá cổ phiếu của thị trường chứng khoán Việt Nam giai

đoạn 2000-2012 và là bằng chứng về tính không hiệu quả dạng yếu của thị

trường chứng khoán mới nổi Việt Nam. Một thị trường còn nhiều vấn đề tồn tại

bao gồm thông tin bất cân xứng, hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh cũng như các

tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp chưa đầy đủ, việc giao dịch nội gián, làm giá

chứng khoán hoặc đầu tư quá dựa vào tin đồn, hàng hóa chưa đa dạng phong

phú, chất lượng còn thấp. Các công ty chứng khoán thành lập theo phong trào và

các nhà đầu tư cá nhân thiếu kiến thức chuyên môn về đầu tư, tài chính và những

thông tin mang tính cơ bản về nền kinh tế cũng như của các công ty niêm yết do

đó dễ dẫn đến những hành động và quyết định đầu tư cảm tính, phi lý trí, bầy

30

đàn. Kết luận này cũng phù hợp với các nghiên cứu ở các thị trường chứng

khoán các nước đang phát triển trên thế giới như đã nêu ở Mục 2.3 của luận văn.

Sự không hiệu quả dạng yếu của TTCK Việt Nam được giải thích như sau:

Đầu tiên, như nhấn mạnh bởi Fama (1965), mức độ hiệu quả của thị trường

còn phụ thuộc rất nhiều vào những người tham gia, tại Việt Nam có quá nhiều

đầu tư nhỏ thiếu chuyên nghiệp với kiến thức đầu thức đầu tư còn hạn chế

thường bị chi phối bởi tâm lý đám đông. Lý do là việc không xử lý được lượng

thông tin quá lớn hoặc không có thông tin đầy đủ khiến nhà đầu tư thường đưa ra

các quyết định theo đám đông mặc dù các quyết định đó đôi khi không hợp lý.

Họ có xu hướng thực hiện các giao dịch mua bán khi nhận thấy thị trường biến

động trong khối lượng và giá trị giao dịch do một số lượng lớn nhà đầu tư tạo ra

mà không dựa trên giá trị thực của cổ phiếu. Ngoài ra các hiện tượng lạc quan

thái quá hoặc phản ứng dưới mức cũng thường xuyên xẩy ra trên TTCK Việt

Nam đặc biệt là các giai đoạn nền kinh tế phát triển nóng (giai đoạn 2006-2007)

và lâm vào khủng hoảng (giai đoạn 2008 – nay). Điều này giải thích cho việc tồn

tại tương quan chuỗi đồng biến trong biến động giá của chứng khoán.

Lý do thứ hai giải thích cho mối tương quan đồng biến là do tác động của

nền kinh tế vĩ mô Việt Nam. Trong 12 năm hoạt động, 5 năm đầu thị trường tăng

trưởng trung bình do mới được thành lập, các công ty niêm yết cũng như các

công ty chứng khoán còn ít và thiếu đa dạng, thiếu sự quan tâm của các nhà đầu

tư trong và ngoài nước, thêm vào đó Chính phủ Việt Nam vẫn chưa có sự đầu tư

đúng mức trong việc tạo dựng môi trường cho sự hoạt động thị trường. Tuy

nhiên cuối năm 2005 Luật đầu tư được Quốc hội thông qua, trong giai đoạn

2006-2007 Việt Nam lần lượt gia nhập khu vực thương mại tự do ASEAN –

AFTA và Tổ chức Thương mại thế giới WTO, thu hút đầu tư mạnh mẽ và được

31

đánh giá giai đoạn tăng trưởng nóng của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung

và thị trường tài chính nói riêng, trong giai đoạn từ ngày 05/01/2006 chỉ số

VNIndex tăng từ 305 điểm đến mức cao nhất 1170 vào ngày 13/02/2007, kết

thúc năm 2007, chỉ số VNIndex dừng lại ở mức 927 điểm. Kể từ năm 2008, do

ảnh hưởng nghiêm trọng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mà khởi đầu là sự

sụp đổ thị trường tài chính thế giới thì thị trường tài chính trong nước cũng bị

ảnh hưởng bởi việc các nhà đầu tư nước ngoài thoái vốn hoặc đầu tư một cách

thận trong, lòng tin của thị trường cũng bị ảnh hưởng nhất định bắt đầu cho quá

trình giảm của VNIndex trong những năm tiếp theo.

Lý do thứ ba là việc áp dụng biên độ giao dịch đối với thị trường chứng

khoán Việt Nam. Biên độ giao dịch trần và sàn sẽ tạo ra tương quan đồng biến

bởi vì để thông tin phản ánh được hoàn toàn vào giá, nhiều khi cần giá cả điều

chỉnh tăng hoặc giảm nhiều hơn mức mà biên độ cho phép, do đó đối với những

tin tức quá tốt, giá có thể phải tăng nhiều phiên giao dịch mới đạt được mức giá

cân bằng và ngược lại đối với tin xấu thì cũng phải mất một số phiên giao dịch

mới giảm về mức hợp lý mà thị trường kỳ vọng. Trong lịch sử giao dịch trên

HOSE, đã có nhiều ghi nhận cho thấy giao dịch của các chứng khoán, cũng như

VN-Index tăng liên lục trong nhiều tháng (giai đoạn các tháng cuối năm 2007).

Lý do cuối cùng dẫn đến cho tính không hiệu quả của thị trường chứng

khoán Việt Nam là sự thiếu minh bạch khi công bố thông tin của các doanh

nghiệp niêm yết. Việc làm đẹp các báo cáo tài chính nhằm mục đích chuyển đổi

lợi nhuận, che dấu lỗ diễn ra phổ biến, các thông tin liên quan tới tình hình kinh

doanh, cơ cấu sở hữu, lợi ích của cấp quản lý thường không rõ ràng nên xẩy ra

các hiện tượng giao dịch nội gián, làm giá cổ phiếu đặc biệt đối với những cổ

phiếu thị giá vừa và nhỏ.

32

5.2. Kiến nghị chính sách

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự tăng trưởng về quy mô niêm

yết, vốn hóa thị trường, số lượng nhà đầu tư mà kể cả tính thanh khoản của thị

trường. Tuy nhiên đi cùng với sự tăng trưởng thì cũng bộc lộ nhiều vấn đề thiếu

sót mà như đã phân tích ở phần trên, ảnh hưởng đến mức độ hiệu quả của thị

trường, làm giảm lòng tin của nhà đầu tư lên TTCK. Vì vậy làm hạn chế chức

năng chính của TTCK trong việc làm cầu nối cung cầu vốn giữa các hoạt động

trong nền kinh tế cũng như tăng cường tính minh bạch giữa các bên tham gia thị

trường. Tác giả xin nêu một số kiến nghị giải pháp để phát triển thị trường chứng

khoán như sau:

Một là, minh bạch về thông tin:

Theo giả thuyết về thị trường hiệu quả thì thông tin sẽ được phản ánh hết

vào giá nên sự minh bạch thông tin hay thông tin được công bố kịp thời và đáng

tin cậy là một yếu tố cực kỳ quan trọng mang lại tính hiệu quả cho thị trường. Để

đạt được tính minh bạch cao về thông tin cần đưa ra những quy chuẩn thống nhất

trong việc công bố thông tin từng bước chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế.

Hai là, nâng cao kiến thức của các nhà đầu tư, chuyên nghiệp hóa công ty

chứng khoán, cải tiến chất lượng hàng hóa:

Một giả thuyết tiếp theo của thị trường hiệu quả là nhà đầu tư tham gia thị

trường là duy lý. Vì vậy kiến thức của nhà đầu tư là một yếu rất quan trọng. Ít

nhất khi tham gia thị trường nhà đầu tư phải được trang bị các kiến thức cơ bản

về luật đầu tư chứng khoán, thị trường chứng khoán, phân tích cơ bản và phân

tích kỹ thuật. Để nhà đầu tư nhận thức được đầu tư chứng khoán là một nghề chứ

không phải để “chơi chứng khoán”. Cần quy trách nhiệm cho các cá nhân, tổ

chức doanh nghiệp đưa ra các báo cáo, đánh giá gây ra hậu quả xấu cho thị

33

trường làm ảnh hưởng tâm lý các nhà đầu tư. Ngoài ra đưa ra các tiêu chuẩn cao

hơn đối với các công ty chứng khoán, nhân sự làm việc trong ngành chứng

khoán và công ty niêm yết đảm bảo hạn chế rủi ro thấp nhất cho thị trường.

Ba là, cải thiện tính thanh khoản cho thị trường.

Thị trường chỉ thực sự hiệu quả khi có tính thanh khoản cao để làm được

điều đó cần rút ngắn thời hạn thanh toán T+3, tăng biên độ giao dịch trong phiên,

cải thiện chính sách để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vì khi có dòng vốn đầu

tư ngoại vào thì thanh khoản của thị trường sẽ mạnh mẽ hơn.

5.3. Những hạn chế và đề xuất nghiên cứu tiếp theo

Mặc dù kết quả của ba kiểm định đã khẳng định tính không hiệu quả dạng

yếu của TTCK Việt Nam giai đoạn 2000-2012 với mức ý nghĩa 5% nên có độ tin

cậy cao nhưng luận văn vẫn tồn tại những hạn chế nhất định như sau:

Thứ nhất, các kiểm định về tính ngẫu nhiên đòi hỏi cỡ mẫu phải đủ lớn để

kết quả của kiểm định thống kê không bị thiên lệch mà nguồn dữ liệu của thị

trường chứng khoán Việt Nam mới có được khoảng thời gian 12 năm vẫn là một

con số hạn chế so với những nghiên cứu khác về tính hiệu quả của thị trường

chứng khoán đã tồn tại lâu đời. Vì vậy trong tương lai, khi có nhiều hơn cơ sở dữ

liệu về thị trường chứng khoán Việt Nam, các nghiên cứu tiếp theo có thể được

thực hiện với độ tin cậy cao hơn với nguồn dữ liệu chuỗi thời gian có độ dài

nhiều hơn.

Thứ hai, chỉ mới sử dụng các kiểm định về thống kê để đưa ra các kết luận

có thể sử dụng thêm các phương pháp khác như kết hợp giữa kiểm định thống kê

và kiểm định tính có thể phán đoán của chuỗi dữ liệu giá thông qua các kiểm

định về quy tắc giao dịch theo phân tích kỹ thuật khi thị trường đáp ứng được

các điều kiện của nó để gia tăng độ tin cậy cho kiểm định.

34

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Box, G.E, and Pierce, D.A (1970), Distribution of Residual Autocorrelations in

Autoregressive-Integrated Moving Average Time Series Models, Journal of the

American Statistical Association 65, pp. 1509-1526.

2. Brock, W. A, Dechert W.D, and Scheinkman J.A (1987), A Test of

Independence Based on the Correlation Dimension, SSRI Working Paper No.

8702, Department of Economics, University of Wisconsin-Madison.

3. Bui My Chau (2006),Testing the weak-form market efficiency of the Vietnamese

stock market, A Dissertation presented in part consideration for the degree of

the MA. Finance and Investment, Nottingham University.

4. Campbell, J.Y, Lo, A.W, and MacKinlay, A.C (1997), The Econometrics of

Financial Markets, Princeton University Press, New York.

5. Dickey, D.A, and Fuller W.A (1979), Distribution of the Estimators for

Autoregressive Time Series With a Unit Root, Journal of the American

Statistical Association 74, pp. 427-431.

6. Fama, E.F (1965), The Behaviour of Stock Market Prices, Journal of Business

38, p34-105.

7. Fama, E.F (1970), Efficient Capital Markets: A Review of Theory and Empirical

Works, Journal of Finance 25 No. 2, pp. 383-417.

8. Gujarati D.N (2003), Basic Econometrics 4/e, McGraw-Hill, New York.

9. Huber, P. (1997), Stock Market Returns in Thin Markets: Evidence from the

Vienna Stock Exchange, Applied Financial Economics 7, pp. 493-498.

10. Ljung, G.M, and Box., G.E (1978), On a Measure of Lack on Fit in Time Series

Models, Biometrika 65, pp. 297-303.

35

11. Lo, A.W, and MacKinlay, A.C (1988). Stock Market Prices Do Not Follow

Random Walks: Evidence from a Simple Specification Test, Review of Finance

Studies 1, pp. 41-66.

12. Mirah Putu Nikita, Subiakto Soekarno (2012), Testing on weak form market

efficiency: The evidence from Indonesia stock market year 2008-2011, 2nd

International Conference on Business, Economics, Management and Behavioral

Sciences (BEMBS'2012) Oct. 13-14, 2012 Bali (Indonesia).

13. Taylor, S., (2000). Stock Index and Price Dynamics in the UK and the US: New

Evidence from a Trading Rule and Statistical Analysis, The European Journal of

Finance 6, pp. 39-69.

14. Tsay R.S (2005), Analysis of Financial Time Series 2/e, Wiley, New York.

15. Worthington, Andrew and Higgs, Helen (2003) Test of random walks and

market efficiency in Latin American stock markets: An empirical note. School of

Economics and Finance, Queensland University of Technology, Brisbane,

Australia.

16. Worthington, Andrew and Higgs, Helen (2004) Random walks and market

efficiency in European equity markets, Global Journal of Finance and

Economics 1(1):pp. 59-78.

17. Xiaofeng Li (2008), Test of stock market efficiency of China and Japan,

Master’s Thesis in Economics of Innovation and Growth in KTH Stockholm,

April 2008.

http://www.cophieu68.vn/export.php

18.

http://www.cophieu68.vn/stats_market_size.php

19.

http://www.vinaf24h.com/index.php/chitiettin/index/38975

20.

36

PHỤ LỤC BẢNG

1. Kiểm định Unit Root

37

2. Kiểm định Ljung – Box

3. Kiểm định Lomac

3.1. Kiểm định Lomac với phương sai không đổi

Null Hypothesis: Log WEEKLY is a random walk Date: 03/04/13 Time: 10:21 Sample: 8/02/2000 12/26/2012 Included observations: 635 (after adjustments) Standard error estimates assume no heteroskedasticity Use biased variance estimates User-specified lags: 2 4 8 16

Joint Tests Max |z| (at period 8)* Wald (Chi-Square) Value 8.095293 68.84117 df 635 4 Probability 0.0000 0.0000

Individual Tests

Period Var. Ratio Std. Error z-Statistic Probability

38

2 4 8 16 1.219610 1.502998 1.950276 2.308290 0.039684 0.074242 0.117386 0.174676 5.534005 6.775157 8.095293 7.489795 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000

*Probability approximation using studentized maximum modulus with parameter value 4 and infinite degrees of freedom Test Details (Mean = 0.00215462670318)

Period 1 2 4 8 16 Variance Var. Ratio 0.00212 0.00258 0.00318 0.00413 0.00489 -- 1.21961 1.50300 1.95028 2.30829 Obs. 635 634 632 628 620

3.2. Kiểm định Lomac với phương sai thay đổi

Null Hypothesis: Log WEEKLY is a martingale Date: 03/04/13 Time: 10:23 Sample: 8/02/2000 12/26/2012 Included observations: 635 (after adjustments) Heteroskedasticity robust standard error estimates Compute variances assuming zero mean Use biased variance estimates User-specified lags: 2 4 8 16

Joint Tests Max |z| (at period 8)* Value 5.832203 df 635 Probability 0.0000

Individual Tests

Period 2 4 8 16 Var. Ratio Std. Error 0.058565 1.221106 0.105113 1.507242 0.164640 1.960216 0.237970 2.327725 z-Statistic 3.775382 4.825686 5.832203 5.579371 Probability 0.0002 0.0000 0.0000 0.0000

*Probability approximation using studentized maximum modulus with parameter value 4 and infinite degrees of freedom Test Details (Mean = 0)

Period 1 Variance Var. Ratio 0.00212 -- Obs. 635

39

2 4 8 16 0.00259 0.00320 0.00416 0.00494 1.22111 1.50724 1.96022 2.32772 634 632 628 620