L
L
Ê
Ê
Q
Q
U
U
A
A
N
N
G
G
T
T
H
H
I
I
Ệ
Ệ
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LỜI CAM ĐOAN
L Ê Q U A N G T H I Ệ N
N
N
L Ê Q U A N G T H I Ệ N
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ trích dẫn đáng tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ một luận văn nào.
LÊ QUANG THIỆN
L
L
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
U
U
Ậ
Ậ
T
T
H
H
Ì
Ì
Ì
Ì
N
N
H
H
S
S
Lê Quang Thiện
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ự
Ự
V
V
À
À
T
T
Ố
Ố
T
T
Ụ
Ụ
N
N
G
G
H
H
Ì
Ì
Ì
Ì
N
N
H
H
S
S
Ự
Ự
L U Ậ T H N H S Ự V À T Ố T Ụ N G H N H S Ự
L U Ậ T H N H S Ự V À T Ố T Ụ N G H N H S Ự
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
K
K
H
H
Ó
Ó
A
A
9
9
K H Ó A 9
K H Ó A 9
Hà Nội, năm 2020 1
HÀ NỘI - năm
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ QUANG THIỆN
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC
Hà Nội, năm 2020
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và qua công tác thực tiễn,
được sự hướng dẫn, giảng dạy của các thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của cơ quan
cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sỹ
Luật học. Qua đây tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến:
Ban giám hiệu cùng thầy cô Trường học viện Khoa học xã hội, các giảng
viên đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những tri thức kinh nghiệm quý báu trong
suốt thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn Lãnh đạo đơn vị công tác đã tạo điều kiện để tôi được học tập, nâng
cao trình độ.
Cảm ơn Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai thành phố Hà Nội đã giúp
đỡ tôi rất nhiều để tôi có được tư liệu thực tiễn hoàn thành luận văn này.
Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
Mở đầu ....................................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .......................................................... 6 1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự tội cướp giật tài sản ...................... 6
1.2 Khái niệm kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản ............................................ 17
1.3 Nội dung, phạm vi và hình thức kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra tội
cướp giật tài sản .................................................................................................... 19
1.4 Vị trí, vai trò và ý nghĩa của kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản ............... 33
Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI ..................................................... 38 2.1 Thực trạng quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra ................................. 38
2.2 Thực tiễn hoạt động kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản tại thực tiễn quận
Hoàng Mai ............................................................................................................. 40
2.3 Nhận xét hoạt động kiểm sát điều tra đối với tội cướp giật tài sản tại thực tiễn
quận Hoàng Mai .................................................................................................... 50
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN QUẬN HOÀNG MAI ........................................................... 58 3.1 Một số phương hướng góp phần nâng cao kiểm sát hoạt động điều tra đối với
tội cướp giật tài sản tại địa bàn quận Hoàng Mai ................................................. 58
3.2 Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hoạt động kiểm sát điều tra tội
cướp giật tài sản tại địa bàn quận Hoàng Mai ....................................................... 61
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 75
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật Hình sự
CGTS : Cướp giật tài sản
ĐTV : Điều tra viên
KSĐT : Kiểm sát điều tra
KSV : Kiểm sát viên
TTHS : Tố tụng hình sự
TNHS : Trách nhiệm hình sự
VAHS : Vụ án hình sự
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
STT TÊN BẢNG SỐ TRANG
01 42
02 45 Số lượng án xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Hoàng Mai Số liệu giải quyết án Cướp giật tài sản trên địa bàn quận Hoàng Mai.
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cuộc sống xã hội không ngừng phát triển đặc biệt là cuộc cách mạng
công nghiệp không ngừng tăng lên ngày càng rộng lớn góp phần sản xuất ra ngày
càng nhiều của cải vật chất. Chất lượng của máy móc, dây chuyền sản xuất ngày
càng được nâng cao bởi ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật. Trước
một thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ đặc biệt là nền kinh tế đang ngày một phát
triển thì nước ta cũng chủ trương xây dựng một đất nước có nền kinh tế thị trường.
Ngoài điểm mới quy định quyền con người ngay tại Chương 2 của Hiến pháp thể
hiện rõ quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước ta là một nhà nước của dân, do
dân và vì dân thì bên cạnh đó quyền sở hữu được quy định với tư cách là một quyền
cơ bản của công dân nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Trong Hiến
pháp 2013 của nước ta cũng quy định rất rõ quyền này theo quy định tại Điều 32:
“1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư
liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ
chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia,
tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng
có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.” [14, tr. 21]
Không những được quy định ngay trong Hiến pháp mà quyền này còn được
thể hiện và Nhà nước bảo vệ rất rõ theo các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) tại Chương XVI: Các tội xâm phạm sở hữu.
Chủ thể xâm hại tới quyền sở hữu hợp pháp của công dân sẽ phải chịu những chế tài
hình phạt nặng nhất là tù chung thân được đảm bảo thi hành bởi hệ thống các cơ
quan Nhà nước. Để đảm bảo cho pháp luật Nhà nước ban hành được thực thi cũng
như thi hành một cách nghiêm minh và thống nhất thì việc yêu cần cấp thiết cần
pahir có một tổ chức có chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động áp dụng pháp luật
của các cơ quan Nhà nước và công dân là một đòi hỏi tất yếu. Vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta đã quyết định thành lập một cơ quan Nhà nước có chức năng như vậy là
1
Viện kiểm sát. Đây là sự vận dụng rất đúng đắn tư tưởng của chủ nghĩa Mác –
Lênin vào thực tiễn xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đã được thể
chế háo trong Hiến pháp của nước ta nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội, và phải
chịu trách nhiệm chính trong việc việc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy
tố; phải bảo đảm việc truy tố có căn cứ, đúng pháp luật, cùng với cơ quan điều tra
khắc phục những vi phạm, tồn tại trong quá trình điều tra, bảo đảm không để lọt tội
phạm, người phạm tội, không làm oan người vô tội. Viện kiểm sát các cấp cần phải
nghiêm túc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp
luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi tiếp
nhận nguồn tin tố giác về tội phạmn kiến nghị khởi tố của các cơ quan Nhà nước
hoặc khởi tố vụ án và kéo dài liên tục trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, đảm bảo xử lý
kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành
nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong thực tế đến nay vẫn tồn tại nhiều vướng mắc do chưa đạt
được sự thống nhất cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Công tác kiểm sát
hoạt động tư pháp đặc biệt là kiểm sát điều tra vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế mà
nguyên nhân của các hạn chế đó không phải chỉ xuất phát từ chủ quan mà còn cả
khách quan vì thế cần được nghiên cứu làm rõ và có hướng khắc phục để quá trình
cải cách tư pháp dần được nâng cao, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn đổi
mới. Do đó, làm sáng tỏ những vấn đề trên ngoài giá trị về mặt lý luận mà còn rất
có ý nghĩa trong việc thống nhất góp phần nâng cao hiệu quả của công tác kiểm sát,
đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp trong thời điểm hiện nay đặc biệt là hoàn
thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã tin tưởng giao cho Viện kiểm sát nhân
dân.
Quận Hoàng Mai chính thức được thành lập từ theo nghị định số
132/2003/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2003 của thủ tướng chính phủ Việt Nam
trên cơ sở tách 9 xã của huyện Thanh Trì và 05 phường của quận Hai Bà Trưng
cùng 55 ha diện tích đất tự nhiên của xã Tứ Hiệp thuộc quận Thanh Trì cho đến nay
đã có hơn 15 năm phát triển với đặc điểm đông dân cư, tình hình kinh tế xã hội phát
triển nhanh tổng thu ngân sách năm 2004 khi mới thành lập quận chỉ đạt 90 tỷ đồng
2
thì đến năm 2017 con số này đã tăng gấp 80 lần cụ thể: tổng thu ngân sách đã đạt
4,576 tỷ đồng. Với những con số trên cho thấy quận Hoàng Mai có tốc độ tăng
trưởng rất nhanh bên cạnh đó là mật độ dân cư ngày càng đông đúc khiến những tội
phạm về xâm phạm kinh tế đặc biệt là tội phạm xâm phạm tới quyền sở hữu của
công dân tại quận Hoàng Mai ngày càng có nhiều diễn biễn phức tạp.
Với mong muốn làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn
thông qua hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đối với quyền
sở hữu tài sản đối với một tội phạm cụ thể đồng thời qua đó phân tích những khó khăn,
vướng mắc nhằm đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này
trong quá trình cải cách tư pháp tịa nước ta hiện nay nên tôi chọn đề tài: “Kiểm sát
điều tra tội cướp giật tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tế quận Hoàng
Mai, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến hoạt động kiểm sát điều tra, tôi cũng đã tiếp cận, tham khảo
được một số công trình nghiên cứu, giáo trình của các cơ sở giáo dục trong nước ta
hiện nay như:
- "Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra" của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, 2005.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân" của Trịnh Duy Tám, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II),
NXB: Công an nhân dân, Hà Nội, 2014
- Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (phần các tội
phạm), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2007
- Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2012, Nxb. Tư pháp,; chủ biên: Võ
Khánh Vinh
- Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi Bổ sung 2017) -
Phần tội phạm, nxb. Công an nhân dân, 2017.
3
Bên cạnh đó, còn các các bài viết được đăng trên các tạp chí như: Tạp chí
Luật học, Tạp chí Kiểm sát của các tác giả khác với nhiều ý kiến và quan điểm khác
nhau. Tuy nhiên, trong luận văn này, tác giả sẽ cố gắng luận giải nhiều nhất những
vấn đề liên quan đến đề tài.
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện kiểm sát
điều tra ở giai đoạn điều tra các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn quận Hoàng
Mai như khái niệm, đặc điểm, nội dung thực hiện và các yếu tố ảnh hưởng và các
điều kiện đảm bảo trong hoạt động đó.
- Đánh giá thực trạng kiểm sát điều tra các vụ cướp giật tài sản của Viện
kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Nêu lên những thành quả đã
đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Trình bày các quan điểm, giải pháp nhằm bảm bảo kiểm sát điều tra các vụ
cướp giật tài sản của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: làm rõ việc tiến hành chức năng kiểm sát điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân: khái niệm, cơ sở lý luận chung. Thực trạng việc thực
hiện chức năng trên trong giai đoạn điều tra các vụ án về tội cướp giật tài sản.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc kiểm sát điều tội phạm của
các vụ án về tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Hoàng Mai.
- Phạm vi nghiên cứu: những lý luận chung về tội cướp giật tài sản như: cấu
thành tội phạm, hình phạt, chủ thể của tội này; tập trung nghiên cứu, khảo sát trong
phạm vi kiểm sát điều tra các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn quận Hoàng Mai
giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019. Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn việc trong quá trình thực thi công vụ, áp dụng pháp luật, trực tiếp bắt
đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi Viện kiểm sát nhân dân quyết định truy tố
bị can ra trước toà án để xét xử, không nghiên cứu những vấn đề ở giai đoạn tiếp
nhận nguồn tin báo, tố giác tội phạm và giai đoạn xét xử.
4
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, pháp luật của nước ta về
kiểm sát điều tra các vụ án cướp giật tài sản.
Quá trình nghiên, cứu tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự và các nghiên cứu cụ thể: Thống kê,
phân tích, so sánh và tổng hợp số liệu, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn…
6. Ý nghĩa khoa học với thực tiễn của luận văn
Lần đầu tiên hoạt động thực hiện kiểm sát điều tra các vụ án cướp giật tài sản
trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội được nghiên cứu một cách có hệ
thống, toàn diện. Trên cơ sở đó, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt
động kiểm sát điều tra ở giai đoạn điều tra các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn
quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; xác định những tồn tại, thiếu sót và bất cập
giữa lý luận và thực tiễn trong thực hiện kiểm sát điều tra các vụ án cướp giật tài
sản trên địa bàn quận Hoàng Mai. Luận văn góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý và
thực tiễn cũng như tổ chức thực hiện và nâng cao hiệu quả, quan điểm chỉ đạo của
Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Đề xuất
các giải pháp, nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát điều tra các vụ án cướp giật tài sản
của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội trong
thời gian tới.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn được
cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản theo pháp luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản tại thực tiễn
quận Hoàng Mai.
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao
kiểm sát hoạt động điều tra đối với tội cướp giật tài sản tại địa bàn quận Hoàng Mai.
5
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự tội cướp giật tài sản 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm tội cướp giật tài sản
Tại Điều 171 BLHS năm 2015 các nhà lập pháp chỉ quy định tội cướp giật
tài sản như sau: “Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01
năm đến 05 năm.” [5, tr.126] Trong điều luật không mô tả cụ thể những dấu hiệu
đặc trưng hay nêu ra một khái niệm nào của tội cướp giật tài sản (CGTS) mà chỉ
nêu tội danh. Xoay quanh vấn đề khái niệm tội CGTS, có nhiều tác giả đưa ra nhiều
quan điểm khác nhau như: “cướp giật tài sản là nhanh chóng giật lấy tài sản của
người khác một cách công khai rồi tìm cách tẩu thoát”, hoặc “tội cướp giật giật tài
sản là hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách công khai”, hoặc “tội cướp
giật tài sản là hành vi nhanh chóng, công khai chiếm đoạt tài sản”.
Tội CGTS là một trong những tội xâm phạm sở hữu của người phạm tội đối
với của chủ thể khác một cách cố ý. Đối tượng thực hiện hành vi CGTS có mục
đích chiếm đoạt từ trước và lợi dụng sơ hở của chủ thể sở hữu hoặc người đang
quản lý tài sản rồi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bằng cách nhanh chóng
giật, giằng lấy tài sản; hành vi được thực hiện một cách công khai, nhanh chóng
giằng, giật lấy tài sản trong tay người khác hoặc đang trong sự quản lý của người có
trách nhiệm về tài sản rồi tẩu thoát mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực
hay bất kỳ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Đối
tượng có thể phải sử dụng một lực nhất định tác động khi thực hiện hành vi phạm
tội tác động lên người bị hại hoặc người đang trực tiếp quản lý tài sản nhằm chiếm
đoạt tài sản nhanh chóng mà không để cho chủ sở hữu kịp phản ứng.
Qua quá trình nghiên cứu các tài liệu, quan điểm của tác giả đối với khái
niệm tội CGTS có thể được hiểu như sau: Tội cướp giật tài sản là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện với lỗi cố ý bằng cách công khai bất ngờ giật lấy tài sản của người
khác rồi nhanh chóng tẩu thoát.
6
Kế thừa quy định tại Điều 136 BLHS năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015
quy định tội cướp giật tài sản tại Điều 171, điều luật cũng không nêu ra một khái
niệm cụ thể nào của tội CGTS mà chỉ nêu tội danh. Tuy nhiên, có thể xác định một
số đặc điểm nổi bật của tội cướp giật tài sản như: Người phạm tội lợi dụng sơ hở
của người quản lý tài sản để nhanh chóng giật lấy tài sản mà người quản lý khó có
thể giữ được hoặc giằng lại được. Cũng chính vì vậy, tài sản mà người phạm tội
cướp giật chủ yếu hướng tới là loại tài sản gọn nhẹ như: Đồng hồ, dây chuyền vàng,
điện thoại, túi xách, trang sức,..... Tuy nhiên cũng có một số trường hợp người phạm
tội cướp giật cả những tài sản có kích thước lớn như xe đạp, xe máy, vì sau khi
người phạm tội chiếm đoạt được tài sản thì họ sẽ sử dụng chúng làm phương tiện
tẩu thoát. Ngoài ra, yếu tố bất ngờ trong tội CGTS cũng là một dấu hiệu đặc trưng
của tội phạm, có thể nói, đây là dấu hiệu quyết định tới việc người phạm tội có thực
hiện thành công hành vi phạm tội hay không. Ngoài ra, tội CGTS còn mang tính
chất công khai, trắng trợn, thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi
phạm tội của mình từ trước đến toàn bộ quá trình thực hiện hành vi nên ngay khi bị
mất tài sản người bị hại có thể biết ngay người giật tài sản của mình là ai.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản và phân biệt tội
cướp giật tài sản với một số tội phạm khác
1.1.2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
1.1.2.1.1 Khách thể của tội cướp giật tài sản
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại được
BLHS bảo vệ. Theo LHS Việt Nam, những khách thể được bảo vệ bởi luật hình sự
là những quan hệ xã hội đã được xác định trong Khoản 1, Điều 8 của BLHS năm
2015. Cũng như các tội phạm có tính chất chiếm đoạt trong chương các tội xâm
phạm sở hữu được quy định tại XVI BLHS năm 2015, khách thể của tội CGTS là
quan hệ sở hữu tuy nhiên, trong một vài trường hợp người phạm tội CGTS còn xâm
phạm đến một vài khách thể khác như quan hệ nhân thân của bị hại. Điểm giống
nhau của các tội cùng Chương tội phạm xâm phạm sở hữu là có cùng khách thể vậy
nên đó không phải là một tiêu chí để phân biệt tội CGTS với các tội khác cùng
chương.
7
Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài
sản là đối tượng tác động của tội cướp giật tài sản thường là những tài sản dưới
dạng vật chất, gọn nhẹ, dễ dịch chuyển vì khi đó kẻ phạm tội mới có thể nhanh
chóng chiếm đoạt, tẩu thoát khỏi sự quản lý của người đang quản lý tài sản.
Tài sản là đối tượng của tội CGTS phải thỏa mãn cả hai yếu tố là còn đang
nằm trong sự chiếm hữu và phạm vi quản lý của chủ tài sản bởi chỉ khi đó, hành vi
người phạm tội CGTS mới cấu thành tội này bởi khi tài sản đã thoát ly khỏi sự quản
lý của chủ tài sản hoặc tài sản không có ai quản lý ... thì không thể là đối tượng của
tội CGTS. Một điểm quan trọng nữa có ý nghĩa quan trọng để đánh giá tài sản có
phải là đối tượng của tội CGTS hay không là tài sản đó phải là những tài sản được
giao dịch hoặc mua bán một cách hợp pháp, là tài sản hữu hình, có thực, có thể sờ
thấy, nhìn thấy. Ngoài ra, có những tài sản bị nhà nước cấm lưu hành như vũ khí,
chất phóng xạ, pháo nổ, ma túy ... thì không phải là đối tượng của tội cướp giật tài
sản.
1.1.2.1.2 Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản
Mặt khách quan là tổng hợp tất cả các mặt phản ánh hành vi tác động đến thế
giới khách quan bên ngoài của sự xâm hại đến khách thể được bảo vệ của chủ thể
thực hiện hành vi một cách nguy hiểm đáng kể cho xã hội bao gồm rất nhiều yếu tố
như: thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện, ...
Mặt khách quan của tội phạm CGTS được thể hiện rõ tại chính là hành vi
chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi chiếm đoạt được hiểu là là việc một
người nào đó dịch chuyển tài sản đang do người khác quản lý thành tài sản của
mình một cách trái PLHS. Pháp luật không nêu rõ hay và mô tả hành vi cụ thể nào
là khách thể của tội CGTS tuy nhiên, căn cứ vào khái niệm tội CGTS thì người
phạm tội cướp giật tài sản có những hành vi sau:
Giật tài sản
Đặc trưng đầu tiên và cũng là tiên quyết của tội CGTS là hành vi giật, tức là
sử dụng lực giằng mạnh lấy tài sản về mình một cách nhanh chóng. Cũng giống như
các tội giết người, tội trộm cắp tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản... các nhà
làm lập pháp không mô tả chi tiết hành vi khách quan của tội phạm tuy nhiên ngay
8
trong hành vi giật tài sản đã bao gồm bản chất của tội CGTS vậy nên các nhà làm
luật không mô tả hành vi khách quan của tội CGTS cũng là điều dễ hiểu.
Trong quá trình áp dụng pháp luật, để đánh giá hành vi cho là phạm tội
CGTS, người tiến hành tố tụng cần đánh giá các thủ đoạn, hình thức phạm tội của
các đối tượng một cách chính xác để không nhầm lẫn với cầu thành các tội xâm
phạm quyền sở hữu khác gần kề như: Công nhiên chiếm đoạt tài sản; Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản; Cướp tài sản ... Các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng dễ
nhầm với hành vi phạm tội khác thường là:
- Dùng thủ đoạn chen lấn, xô đẩy người giữ tài sản để người này không chú ý
đến tài sản nên người phạm tội có cơ hội tiếp cận, giật tài sản rồi tẩu thoát, nếu chỉ
căn cứ vào một vài hành vi tác động đến thân thể sở hữu chủ thì có thể nhầm với
hành vi phạm tội cướp tài sản, thực chất trờng hợp này người phạm tội chỉ dùng thủ
đoạn để đánh lạc hướng rồi thực hiện hành vi CGTS mà không có ý định đương đầu
với sở hữu chủ;
- Lợi dụng chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vướng mắc, không có khả
năng đuổi bắt hoặc giằng giật lại tài sản để chiếm đoạt tài sản như: Lợi dụng người
bán hàng xén đang bán hàng cho khách, người phạm tội đã lấy một thứ hàng trong
rạp hàng rồi bỏ chạy, trường hợp phạm tội này dễ nhầm với hành vi công nhiên
chiếm đoạt tài sản;
- Người phạm tội có thể dùng thủ đoạn có vẻ như đe doạ chủ sở hữu hoặc
người quản lý tài sản như: Giả làm cán bộ quản lý thị trường đến kiểm tra hàng rồi
bất thần giật tài sản hoặc tạo điều kiện cho đồng phạm khác giật tài sản rồi tẩu thoát,
trường hợp phạm tội này dễ nhầm với hành vi cưỡng đoạt tài sản;
- Người phạm tội cũng có thể dùng thủ đoạn lén lút để tiếp cập chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản rồi bất ngờ giật tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản
lý tài sản như: Bí mật đột nhập từ phía sau chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản
đang ngồi nghỉ trên một chiếc ghế trong Công viên, rồi bất thần giật chiếc túi xách
của người này rồi bỏ chạy, trường hợp này dễ nhầm với hành vi trộm cắp tài sản.
Mặt khác, ngoài hành vi giật tài sản thì 02 dấu hiệu đặc trưng không thể thiếu
của tội CGTS là dấu hiệu công khai và dấu hiệu nhanh chóng.
9
Dấu hiệu công khai: Là một trong những đặc trưng của tội CGTS và là một
trong cách tiêu chí nhằm so sánh, phân biệt tội CGTS với các tội khác của chương
xâm phạm sở hữu. Dấu hiệu này thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội là
không hề giấu giếm, che đậy hành vi của mình đối với thế giới khách quan. Nó là
dấu hiệu cơ bản giúp phân biệt với dấu hiệu lén lút trong cấu thành tội phạm tội
trộm cắp tài sản hay dấu hiệu gian dối trong hành vi khách quan của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
Dấu hiệu công khai của tội cướp giật tài sản được thể hiện bởi việc người
phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội thì hành vi đó phải được thực hiện công
khai đối với mọi người xung quanh và đặc biệt là đối với người bị hại. Dấu hiệu
công khai này cho phép những người xung quanh và chủ sở hữu tài sản biết ngay
hành vi CGTS. Tuy nhiên, thời gian thực hiện hành vi này diễn ra rất nhanh và bất
ngờ nên mọi người và đặc biệt là chủ sở hữu thường không có cách nào can thiệp
ngay tức khắc nhằm chống trả lại hành vi CGTS. Khả năng nhận biết của chủ sở
hữu có ý nghĩa then chốt để phân biệt tội CGTS với tội trộm cắp tài sản trong quá
trình định tội. Hành vi công khai này phải đáp ứng đủ cả 2 yếu tố là công khai với
mọi người xung quanh và cả chủ sở hữu bởi nếu chủ sở hữu không biết hành vi
chiếm đoạt của người phạm tội tức là người phạm tội đang lén lút đối với chủ sở
hữu thì trường hợp này người phạm tội thỏa mãn cấu thành của tội trộm cắp tài sản
chứ không phải tội CGTS.
Có những trường hợp trong thực tiễn người phạm tội có sử dụng thủ đoạn lén
lút nhưng khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản lại thực hiện một cách công khai.
Ví dụ: Khoảng 10 giờ ngày 20/12/2019 tại bến xe nước ngầm, Hà Văn Tuấn theo
dõi thấy chị Hà Diệu Thúy đang xếp hàng mua vé xe khách đã có đeo túi xách tại
vai bên trái, Tuấn đã lặng lẽ tiến tới áp sát tay chị Thúy và nhân lúc chị Thúy lơ là
đã dùng tay giật mạnh túi xách trên tay chị Thúy và bỏ chạy. Việc theo dõi chị Thúy
xếp hàng mua vé xe khách của Tuấn là lén lút, bí mật chờ khi chị Thúy mất cảnh
giác tuy nhiên khi chiếm đoạt tiền của chị Thúy, Tuấn lại thực hiện một cách công
khai đối với chính bị hại và với mọi người xung quanh cũng vậy. Đó là dấu hiệu để
xác định tội danh và hành vi này của Tuấn đã cấu thành tội CGTS.
10
Dấu hiệu công khai của tội CGTS thể hiện rõ nét trong suy nghĩ của người
phạm tội và được bộc lộ ra bên ngoài bởi hành vi khách quan bởi khi thực hiện hành
vi, người phạm tội ý thức được hành vi của mình có thể bị phát hiện nhưng hoàn
toàn không có ý định che giấu thậm chí là không quan tâm việc những ai thấy được
việc chiếm đoạt của mình từ người bị hại đến những người xung quanh. Trường hợp
này, người phạm tội nhận thức rõ được hành vi phạm tội của mình nhưng với suy
nghĩ sẽ chạy thoát được nên vẫn thực hiện hành vi tới cùng.
Dấu hiệu nhanh chóng: Đây là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mặt khách
quan của tội CGTS và được phản ánh qua phương thức thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản của chủ tài sản một cách khẩn trương, vội vã. Quá trình thực hiện hành
vi phạm tội, tội phạm lợi dụng sơ hở của bị hại, người quản lý tài sản. Khi phát hiện
thấy sơ hở (có thể có sẵn hoặc do người phạm tội chủ động gây nên) người phạm tội
sẽ nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản rồi nhanh chóng tẩu
thoát... Dấu hiệu này diễn ra liên tục và kéo dài toàn bộ quá trình người phạm tội
thực hiện hành vi từ khi bắt đầu (nhanh chóng tiếp cận tài sản) đến khi kết thúc
(nhanh chóng tẩu thoát, tẩu tán tài sản). Để đánh giá thế nào là nhanh chóng, chúng
ta cần căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau như cách thức chiếm giữ, quản lý tài sản
của chủ sở hữu tài sản: cầm tay, đeo trên người, … ngoài ra còn căn cứ vào đặc
điểm của tài sản: gọn nhẹ, dễ lấy, dễ dịch chuyển hay không … cũng như những
ngoại cảnh bên ngoài môi trường như mật độ người qua lại, thời gian, địa điểm, ….
Dấu hiệu nhanh chóng tiếp cận và tẩu thoát không phải là dấu hiệu bắt buộc mà chỉ
là thủ đoạn nhanh chóng trốn thoát của tội phạm. Có quan điểm cho rằng yếu tế tẩu
thoát là một trong những yếu tố bắt buộc của tội CGTS tuy nhiên theo tác giả thì đó
không phải là yếu tố bắt buộc bởi nhiều trường hợp trên thực tiễn cho thấy người
phạm tội muốn tẩu thoát tuy nhiên vì lý do khách quan mà không thực hiện được.
Khi đó tuy không có dấu hiệu tẩu thoát nhưng hành vi CGTS đã đủ cấu thành vẫn
phải truy cứu TNHS.
Bên cạnh đó, dấu hiệu sử dụng vũ lực cũng là một trong các yếu tố có thể
thấy trong một vụ án CGTS. Yếu tố này không phải là bắt buộc bởi người phạm tội
sử dụng yếu tố này không nhằm mục đích khống chế ý chí của chủ sở hữu mà chỉ sử
11
dụng với mục đích để tẩu thoát. Hành vi dùng vũ lực trong quá trình CGTS rất dễ
nhầm lẫn với các tội cướp tài sản hay cưỡng đoạt tài sản. Trong thực tiễn quá trình
đánh giá chứng cứ dấu hiệu này rất dễ dẫn tới việc định tội danh sai.
Mục đích cuối cùng của tội phạm CGTS là chiếm hữu tài sản rồi mau chóng
tẩu thoát nên khi có hành vi giật tài sản từ sự quản lý của chủ sở hữu việc tác động
một lực nhẹ lên chủ sở hữu gần như là điều tất yếu nhưng mục đích của việc tác
dụng lực không phải là làm tê liệt ý chí hay loại bỏ khả năng chống cự nhằm chiếm
đoạt tài sản. Người phạm tội chỉ mong muốn chủ tài sản không kịp phản ứng và
không còn khả năng bảo vệ tài sản và người phạm tội cũng không có bất cứ thủ
đoạn nào để đối phó bằng vũ lực với chủ tài sản nhằm để tài sản rời khỏi sự quản lý
của người chiếm hữu, quản lý tài sản. Hành vi dùng vũ lực ở tội CGTS chỉ là biện
pháp hỗ trợ, nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm được nhanh chóng bởi
nếu đó là hành vi đầu tiên với mục đích loại bỏ khả năng chống cự của chủ tài sản
thì đó không còn là tội CGTS nữa mà sẽ chuyển hóa sang tội khác như cướp tài sản,
cưỡng đoạt tài sản ... Không phải tất cả mọi trường hợp có dấu hiệu dùng vũ lực
trong quá trình chiếm đoạt tài sản đều chuyển hóa tội CGTS thành tội cướp tài sản
bởi lẻ nếu đánh giá như vậy thì chúng ta đã có cái nhìn sai về tội CGTS. Dấu hiệu
sử dụng vũ lực cần đánh giá chính xác vào thời điểm người phạm tội thực hiện hành
vi dùng vũ lực. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, việc chứng minh
ý thức chủ quan bên trong của tội phạm là cực kỳ khó khăn cũng như độ chính xác
không cao vì thế khi đánh giá chứng cứ cần xem xét đến những vấn đề liên quan
khác như thời gian, phương thức ... Bởi nếu hành vi dùng vũ lực xảy ra sau khi
chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi đó để chống trả lại quá trình vây bắt của chủ tài sản
cùng quần chúng nhân dân thì đó chỉ là một dấu hiệu nhằm tẩu thoát của người
phạm tội. Trường hợp này không thể chuyển hóa tội CGTS sang tội cướp tài sản.
Việc dùng vũ lực trong trường hợp này được đánh giá là một tình tiết tăng nặng
định khung của tội CGTS. Ngoài ra, tùy thuộc vào tính chức mức độ của hành vi sử
dụng vũ lực mà người tiến hành tố tụng phải xem xét về việc phải chịu TNHS của
người phạm tội với tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 BLHS năm 2015. Bởi tội
12
CGTS có cấu thành hình thức, tội phạm hoàn thành ngay sau khi thực hiện hành vi
giật tài sản mà không cần đến đến các dấu hiệu hậu quả để định tội.
1.1.2.1.3 Chủ thể của tội cướp giật tài sản
Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành: Chủ thể của tội phạm có thể là con
người cụ thể hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách
cố ý hoặc vô ý được luật hình sự quy định là tội phạm, thực hiện hành vi trong tình
trạng có năng lực TNHS và đạt độ tuổi nhất định dp PLHS quy định tuy nhiên chủ
thể của tội CGTS chỉ có thể là con người chứ không thể là pháp nhân. Đối với chủ
thể của tội CGTS phải là người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi nghuy hiểm
cho xã hội và đạt độ tuổi chịu TNHS bên cạnh đó còn phải có năng lực TNHS và đã
thực hiện hành vi CGTS. Căn cứ để xác định chủ thể của tội cướp giật tài sản là
Điều 12 và Điều 171 BLHS năm 2015. Điều 12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi
chịu TNHS như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các
điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249,
250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.” [5,
tr.14]
Một vấn đề đặt ra với chủ thể của tội CGTS riêng và tội phạm nói chung
chúng ta cần lưu ý là vấn đề TNHS. Vấn đề này được quy định tại Điều 21 BLHS
năm 2015, tác giả hiểu rằng người có năng lực TNHS là những người không mắc
bệnh tâm thần hay một bệnh lý nào khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của bản thân. Chủ thể của tội CGTS phải đáp ứng đủ 02
yếu tố đó là nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự
của hành vi do mình thực hiện hoặc điều khiển được hành vi của mình.
Điều 171 BLHS năm 2015 quy định bốn khung hình phạt. Căn cứ vào quy
định tại Điều 9 BLHS năm 2015 về phân loại tội phạm, tội cướp giật tài sản bao
gồm các loại tội nghiêm trọng (Khung 1), rất nghiêm trọng (Khung 2 và 3) và đặc
13
biệt nghiêm trọng (Khung 4). Căn cứ vào Điều 12 BLHS 2015 cùng với sự phân
loại tội phạm ở các khung thì chủ thể của tội CGTS còn phải là người đủ 16 tuổi
(đối với khoản 1 điều 171 hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (đối với khoản 2, 3 và 4 Điều
171).
1.1.2.1.4 Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là đặc điểm tâm lý bên trong, thể hiện bởi thái độ
và tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Mục đích chiếm đoạt tài sản được manh nha và hình thành trước khi người
phạm tội thực hiện hành động. Họ mong muốn hậu quả xảy ra là chiếm đoạt được
tài sản của người khác và hành động nhằm thực hiện mong muốn của mình. Vì thế
nếu chủ thể thực hiện ra bên ngoài cùng một hành vi nhưng mục đích không phải để
chiếm đoạt tài sản mà chỉ là đùa vui hay trêu đùa thì người này không phải chủ thể
của tội CGTS. Do đó, người phạm tội CGTS nhận thức được hành vi và mối quan
hệ nhân quả từ hành vi của mình tuy nhiên lại thực hiện hành vi của mình một cách
công khai và hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi đó như phân tích ở trên.
Hành vi của người phạm tội với mong muốn không cho chủ sở hữu cơ hội phản
kháng ngăn cản việc chiếm đoạt tài sản nên sẽ không dùng bất kỳ một thủ đoạn nào
khác để đối phó trực tiếp với chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản của chủ tài sản.
Người phạm tội biết rõ tài sản là của người khác tuy nhiên vẫn muốn chiếm đoạt
bằng được. Vậy nên, người phạm tội cố ý, mong muốn hậu quả thực tế xảy ra để đạt
được mục đích của mình. Trước khi thực hiện hành vi, người phạm tội có đầy đủ
thời gian để lựa chọn hành động hoặc không hành động. Bởi những lẽ đó, người
thực hiện tội phạm đã có sự cố ý đối với hành động bất hợp pháp của mình và yếu
tố lỗi trong cấu thành của tội CGTS phải là lỗi cố ý.
Điều 10 BLHS năm 2015 quy định về lỗi cố ý:
“1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng có ý
thức để mặc cho hậu quả xảy ra.” [5, tr.13]
14
Hành vi CGTS được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp vì người phạm tội nhận
thức được tài sản thuộc sở hữu của người khác và đang trong sự quản lý của họ,
nhưng vẫn thực hiện hành vi chiếm đoạt và mong muốn biến tài sản đó thành tài sản
của mình một cách bất hợp pháp. Hành vi chiếm đoạt là cố ý chuyển quyền chiếm
hữu, sử dụng đối với tài sản một cách trái pháp luật. Thực tế, nếu không nhằm mục
đích đó thì hành vi đã thực hiện không phải là hành vi tội CGTS. Trên thực tế, xuất
hiện một số trường hợp ý thức chủ quan của người phạm tội và thực tế khách quan
về đối tượng bị xâm hại không đồng nhất. Trường hợp này trên thực tế sẽ được giải
quyết trên cơ sở ý thức chủ quan của người phạm tội. Nếu người phạm tội nhận
thức rõ và biết rõ tài sản mình mong muốn chiếm đoạt là gì trước khi hành động thì
định tội theo ý thức chủ quan còn nếu người phạm tội không quan tâm đến việc
mình chiếm đoạt tài sản gì trong toàn bộ quá trình thực hiện hành vi thì việc định tội
cần căn cứ theo hành vi khách quan.
1.1.2.2 Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số tội phạm khác
1.1.2.2.1 Phân biệt tội cướp giật tài sản và tội cướp tài sản
Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS năm 2015) và tội cướp giật tài sản (Điều
171 BLHS năm 2015) đều là tội xâm phạm quyền sở hữu, có tính chiếm đoạt tài
sản. Nếu dấu hiệu đặc trưng của tội cướp tài sản là hành vi sử dụng vũ lực ngay tức
khắc nhằm làm tê liệt sự chống cự của nạn nhân, buộc nạn nhân không còn sự lựa
chọn nào khác thì ở tội CGTS có dấu hiệu đó mà chỉ chờ đợi nạn nhân sơ hở nhanh
chóng chiếm đoạt tài sản rồi tẩu thoát chứ không có ý định đương đầu với nạn nhân.
Chính sự sẵn sàng đương đầu với nạn nhân thì người phạm tội cướp tài sản thường
chuẩn bị sẵn các công cụ, phương tiện cũng như lựa chọn thời điểm, địa điểm phạm
tội. Theo tác giả đây là điểm cơ bản nhất phân biệt tội cướp giật tài sản sản và tội
cướp tài sản. Thực tế, có những trường hợp người phạm tội CGTS xâm hại đến thân
thể nạn nhân nhưng mục đích nhằm dễ dàng chiếm đoạt tài sản như đẩy người, đánh
vào chân, tay để chiếm đoạt tài sản và tẩu thoát. Hành vi xâm phạm đến sức khỏe,
thân thể của nạn nhân trong các trường hợp này chỉ có ý nghĩa cho người phạm tội
dễ dàng chiếm đoạt tài sản chứ không phải nhằm làm tê liệt sự ý chí của nạn nhân.
15
Theo tác giả, trong trường hợp này định tội danh CGTS cho người phạm tội là
đúng.
Bên cạnh đó, người phạm tội CGTS có thể chuyển hóa sang tội Cướp tài sản
nếu người phạm tội có dấu hiệu sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực ngay tức
khắc khi người phạm tội CGTS bị nạn nhân chống cự. Đối với trường hợp này, ý
thức chủ quan của người phạm tội CGTS ban đầu là nhanh chóng chiếm đoạt rồi tẩu
thoát nhưng khi nạn nhân giữ, giằng, bảo vệ tài sản người phạm tội sẵn sàng sử
dụng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt bằng được tài sản. Đây là trường hợp
cần định tội danh cướp tài sản đối với hành vi của người phạm tội.
1.1.2.2.2 Phân biệt tội cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản (Điều 172 BLHS năm 2015)
Cả hai tội đều có dấu hiệu giống nhau là có hành vi chiếm đoạt tài sản một
cách công khai và mặt chủ quan là lỗi cố ý trực tiếp và khách thể là quyền sở hữu
tài sản được nhà nước bảo vệ. Nhưng đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là
hành vi ngang nhiên chiếm đoạt tài sản bất chấp việc có mặt của chủ tài sản. Người
phạm tội không nhất thiết phải có dấu hiệu nhanh chóng như cấu thành tội CGTS
bởi mặc dù chủ tài sản biết được hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng lại không có khả
năng, điều kiện chống trả. Người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không cần
thiết phải nhanh chóng tẩu thoát, lẩn trốn bởi khả năng ngăn cản đối với hành vi
phạm tội của chủ tài sản hay người quản lý tài sản đã bị loại bỏ do chủ quan hoặc
khách quan như: thiên tai, hỏa hoạn, ... khiến chủ sở hữu thấy được người phạm tội
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của mình nhưng không làm gì được.
Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì khách thể mà tội phạm xâm
phạm chỉ là quan hệ sở hữu chứ không có quan hệ nhân thân như tội CGTS. Hành
vi công nhiên chiếm đoạt tài sản người phạm tội không cần tác động nào đến chủ tài
sản bởi khi đó chủ sở hữu đã không còn khả năng phản kháng với người phạm tội.
Việc phân biệt tội CGTS và một số tội phạm khác có ý nghĩa cốt lõi trong
việc xác định tội danh một cách chính xác, đảm bảo hành vi vi phạm phải được xử
lý đúng tội, đúng pháp luật. Đó cũng là tiền đề trong quá trình quyết định hình phạt
một cách chính xác, tránh trường hợp nhầm lẫn tội này với tội khác.
16
1.2 Khái niệm kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản Trước khi chưa ban hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì
thuật ngữ kiểm sát các hoạt động tư pháp không có trong bất kỳ từ điển nào và các
nhà lập pháp cũng chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý nào chung nhất về khái niệm
này. Đối với khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp có nhiều quan điểm, nhận
thức khác nhau như: kiểm sát tư pháp được hiểu là giám sát tư pháp, là một bộ
phận, một lĩnh vực của hoạt động giám sát Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp hay
quan điểm cho rằng giới hạn kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi tố tụng hình
sự hoặc cũng có quan điểm cho rằng kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm việc
kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (tất cả các vụ án hình sự, dân sự,
hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần tư pháp trong thi hành
án. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau nhưng tất cả đều không phủ nhận kiểm sát
hoạt động tư pháp luôn bao gồm kiểm sát các hoạt động tố tụng hình sự trong đó có
hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên cần phải khẳng định kiểm sát hoạt động tư pháp là
chức năng hiến định của Viện kiểm sát trong lĩnh vực tư pháp. Kiểm sát các hoạt
động tư pháp là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước và là một dạng giám sát
Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp ở nước ta. Quan điểm này đã được thể chế hóa
trong các bản Hiến pháp từ năm 1959 đến năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp.” [14, tr.55] gần đây nhất là
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 tại Khoản 1 Điều 4 quy định: “Kiểm
sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện KSND để kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp,
được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; Trong việc giải quyết
vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động; Việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp; Các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.” [20, tr.10].
Khái niệm này bao quát tổng thể gồm phạm vi, bản chất của chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp của VKS nhân dân. Kiểm sát điều tra là nội hàm của chức
17
năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong thời gian điều tra VAHS, chức năng kiểm
sát của VKS được thể hiện là sự giám sát trực tiếp với chủ thể thi hành trực tiếp là
các kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
VAHS. Trong toàn bộ quá trình điều tra của cơ quan điều tra hoặc của cơ quan tiến
hành một số hoạt động điều tra đều phải chịu sự giám sát trực tiếp của KSV với
mục đích là đảm bảo tính khách quan, vô tư, đảm bảo quyền con người, quyền công
dân được thực thi trong quá trình điều tra. Bản chất của quá trình kiểm sát điều tra
trong giai đoạn điều tra vụ án của KSV là kiểm tra tính hợp pháp cũng như tính có
căn cứ theo quy định của Bộ luật TTHS của các chủ thể tiến hành hoạt động điều tra
và các chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng như: điều tra viên, cán bộ điều tra,
giám định viên, người liên quan, người phiên dịch.....
Về giai đoạn điều tra thì hiện nay có 02 quan điểm về thời hạn bắt đầu quá
trình điều tra. Quan điểm thứ nhất: Căn cứ theo Điều 2 quy chế công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các VAHS
ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện
trưởng VKSND Tối cao quy định: “Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự bắt đầu từ khi phát
hiện dấu hiệu tội phạm xảy ra cho đến khi kết thúc việc điều tra.” [36, tr.2] Đây là
cách hiểu giai đoạn điều tra theo nghĩa rộng tức là giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi
có dấu hiệu phạm tội nói một cách khác là ngay từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng
tiếp nhận được nguồn tin tố giác tội phạm hay kiến nghị khởi tố và kết thúc khi các
cơ quan tiến hành tố tụng ban hành một trong các quyết định như: Quyết định
không khởi tố vụ án, Quyết định đình chỉ điều tra vụ án; Bản kết luận điều tra và đề
nghị truy tố của CQĐT.
Quan điểm thứ hai cho rằng quy trình tố tụng hình sự được phân chia thành
04 giai đoạn: giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét
xử và tác giả đồng tình với quan điểm này. Trong đó, giai đoạn khởi tố bắt đầu từ
khi cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện dấu hiệu tội phạm cho đến khi có quyết định
khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án. Giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi có quyết
định khởi tố vụ án đến khi có bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định
18
đình chỉ điều tra vụ án của cơ quan có thẩm quyền theo luật định. Giai đoạn truy tố
bắt đầu từ khi CQĐT có bản kết luận điều tra vụ án đề nghị VKS truy tố đến khi
VKS ban hành cáo trạng. Giai đoạn xét xử bắt đầu từ khi VKS ban hành cáo trạng,
chuyển hồ sơ VAHS sang tòa án thụ lý và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, theo tác giả khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự là:"Giai đoạn điều
tra là một giai đoạn của tố tụng hình sự, kế tiếp của giai đoạn khởi tố vụ án và là
giai đoạn thứ hai của tố tụng hình sự, bắt đầu từ khi đã có quyết định khởi tố vụ án
hình sự của Cơ quan có thẩm quyền điều tra và kết thúc khi Cơ quan có thẩm quyền
điều tra kết thúc điều tra chuyển hồ sơ đến VKS để đề nghị truy tố và được VKS thụ
lý hoặc kết thúc khi có quyết định đình chỉ vụ án của cơ quan có thẩm quyền".
Từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra khái niệm kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự nói chung và khái niệm kiểm sát điều tra vụ án hình sự đối với tội
cướp giật tài sản như sau: Kiểm sát điều tra vụ án hình sự đối với tội cướp giật tài
sản là một trong các chức năng tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân được quy định
cụ thể tại Hiến pháp để kiểm tra, giám sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết
định tố tụng hình sự của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền điều tra, của những
người tham gia tố tụng hình sự kể từ khi khởi tố vụ án hình sự nhằm bảo đảm các
hành vi, quyết định đó được chấp hành đúng pháp luật và giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự, loại trừ oan sai, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong
hoạt động điều tra.
1.3 Nội dung, phạm vi và hình thức kiểm sát điều tra tội cướp giật tài
sản
Từ phân tích trên về cấu thành tội phạm tội CGTS, từ đối tượng chứng minh
VA CGTS kiểm sát viên cần kiểm tra tổng thể quá trình điều tra của ĐTV đảm bảo
quá trình điều tra đúng trình tự, thủ tục từ các hoạt động như: Khởi tố vụ án, khởi tố
bị can tội CGTS cần kiểm tra quá trình điều tra CQĐT có đảm bảo thủ tục thu thập
chứng cứ cho việc chứng minh những vấn đề của đối tượng chứng minh vụ án
CGTS.
Hoạt động khởi tố vụ án, khởi tố bị can tội CGTS đã có số lượng chứng cứ
cần và đủ để chứng minh một cách chắc chắn rằng việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can
19
là chính xác. Nghĩa là đã đủ chứng cứ khẳng định được giả thuyết đúng. Đồng thời,
phủ định được giả thuyết sai về khởi tố VAHS và khởi tố bị can. Có đủ số lượng
chứng cứ để chứng minh được bốn yếu tố cấu thành tội phạm tội CGTS hay chưa.
Kiểm tra giám sát toàn bộ số lượng chứng cứ liên quan đến vấn đề TNHS và
hình phạt đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Những tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với bị can; những tình tiết dẫn đến việc miễn TNHS
….. Đã đủ số lượng chứng cứ hay chưa trong vấn đề chứng minh việc vô tư, khách
quan trong quá trình giải quyết, thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của
các cơ quan tiến hành tố tụng.
Nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án cướp giật tài sản một cách đúng pháp
luật từ nội dung tới trình tự thủ tục thì ngay từ giai đoạn tiếp nhận nguồn tin tố giác
tội phạm của cơ quan tổ chức hay của cá nhân thì KSV thụ lý cần phải có những cái
nhìn khách quan đối với vụ án và cần xoay quanh những nội dung trọng tâm cần
làm rõ đối với các VAHS nói chung và các vụ án CGTS nói riêng là những vấn đề
cần chứng minh trong vụ án hình sự quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
“Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết
khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý;
có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và
đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt.” [7, tr.80] Cụ thể, trong từng giai đoạn, công việc,
nhiệm vụ của KSV có những đặc điểm chung nhưng cũng có những đặc thù cho
từng giai đoạn riêng. Mỗi giai đoạn, KSV cần nắm rõ những quy định cũng như
20
những công việc cần làm để có thể đảm bảo pháp luật được thi hành một cách
nghiêm minh, công bằng.
1.3.1 Phạm vi và hình thức kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản
Theo quy định tại Điều 1 quy chế 111 ngày 17/4/2020 về công tác THQCT
và kiểm sát việc điều tra, truy tố và xét xử quy định phạm vi công tác THQCT và
KSĐT việc tuân theo pháp luật của các cá nhân, chủ thể tham gia tố tụng được bắt
đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu sự kiện phạm tội CGTS và kết thúc khi kết thúc
điều tra, VKS ra quyết định truy tố hoặc có quyết định đình chỉ của cơ quan có thẩm
quyền. Theo các quy định tại Thông tư liên tịch 01 ngày 29/12/2017 về việc tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố quy định rõ kể từ khi
tiếp nhận được nguồn tin tố giác hành vi phạm tội CGTS trong thời hạn 03 ngày,
CQĐT phải tiến hành xác minh, rà soát ban đầu và ra quyết định phân công người
có thẩm quyền thụ lý giải quyết tin báo nếu xét thấy có dấu hiệu tội phạm và cần
điều tra, làm rõ và gửi ngay có VKS để kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm nói trên. Sau khi nhận được quyết định phân công trên, trong thời hạn 03
ngày làm việc Viện trưởng VKS cùng cấp phải ra quyết định phân công Phó thủ
trưởng, KSV hoặc trường hợp Viện trưởng trực tiếp kiểm sát quá trình giải quyết thì
phải có văn bản thông báo. Sau khi ban hành quyết định phân công hoặc văn bản
thông báo, VKS cần gửi ngay cho CQĐT để biết và phối hợp giải quyết cùng VKS.
Quá trình KSĐT nói chung và KSĐT tội CGTS nói riêng của VKS sẽ kết
thúc khi quá trình điều tra chấm dứt khi CQĐT ban hành bản kết luận điều tra, đề
nghị truy tố hoặc VKS ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của
pháp luật của cơ quan hữu quan có thẩm quyền. Như vậy, việc kết thúc quá trình
KSĐT của VKS không có một thời điểm cụ thể mà sẽ chấm dứt khi có một trong
các quyết định trên.
Trong toàn bộ quá trình KSĐT tội CGTS, tất cả các nội dung của quá trình
giải quyết án, KSV phải sát sao, theo sát nhằm nắm bắt được chi tiết quá trình giải
quyết của CQĐT, từ đó đề ra định hướng và những yêu cầu điều tra chính xác
những vấn đề cần xác minh, làm rõ. Quá trình đó KSV có thể lựa chọn một trong
hai hình thức KSĐT như trực tiếp kiểm sát hoặc gián tiếp kiểm sát để đảm bảo sự
21
thật khách quan của vụ án được làm rõ, những vấn đề liên quan đến vụ án phải được
chứng minh, những quan điểm, suy đoán là có căn cứ.
Hình thức gián tiếp điều tra của KSV là cách thức kiểm sát những tài liệu,
chứng cứ CQĐT tiến hành thu thập rồi được thể hiện bằng các tài liệu, biên bản,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. KSV thụ lý vụ án sẽ nghiên cứu các tài liệu trên từ
đó có những đánh giá và nhận định về mối liên hệ, mối quan hệ nhân quả giữa các
tài liệu nhằm tìm ra sự thật khách quan. Hình thức này trên thực tế được các KSV
áp dụng nhiều hơn hình thức kiểm sát trực tiếp bởi nhiều lý do từ chủ quan đến
khách quan. Tuy nhiên, theo tôi thì nguyên nhân chủ yếu đến từ lý do khách quan
bởi thực tế giai đoạn điều tra vụ án thường kéo dài từ hai đến bốn tháng hoặc hơn
nếu vụ án đó gia hạn thời hạn điều tra và trong cùng một thời điểm một KSV sẽ thụ
lý không chỉ một hồ sơ nên khó mà đi cùng ĐTV thực hiện tất cả các thao tác
nghiệp vụ trong quá trình điều tra. Tuy nhiên trong một vài trường hợp Bộ luật
TTHS quy định bắt buộc có sự tham gia của KSV hoặc trường hợp KSV xét thấy
việc tham gia của mình cùng ĐTV nhằm đảm bảo tính khách quan, có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình giải quyết vụ án thì KSV sẽ trực tiếp tham gia quá trình thu
thập lời khai hoặc làm việc cùng người bị hại ... cùng ĐTV là hình thức kiểm sát
trực tiếp hoạt động điều tra.
1.3.2 Hoạt động kiểm sát trong việc khởi tố
Trong giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự, KSV được phân công phải
có trách nhiệm đánh giá chứng cứ, kiểm tra chặt chẽ quá trình CQĐT tiến hành xử
lý nguồn tin tố giác hoặc kiến nghị khởi tố từ giai đoạn tiếp nhận nguồn tin về tội
phạm đến tính hợp pháp đối với quyết định khởi tố, hoạt động khởi tố của CQĐT.
Trường hợp VKS nhận được nguồn tin tố giác về tội phạm, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố thì VKS phải chuyển cho CQĐT tiến hành xác minh, làm
rõ dấu hiệu phạm tội, trong giai đoạn này điều tiên quyết cần làm là xác minh có hau
không hành vi phạm tội là căn cứ để có thể ra quyết định khưởi tố vụ án và khởi tố bị
can. Tiền đề cho việc giải quyết hành vi nguy hiểm cho xã hội đúng pháp luật. Đồng
thời, khi chuyển cho CQĐT xác minh, làm rõ thì VKS cần phải theo dõi sát sao cả về
22
số lượng lẫn chất lượng điều tra nhằm không bỏ lọt cũng như làm oan sai trong quá
trình giải quyết.
Quá trình điều tra xác minh tin báo tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ
quan Nhà nước, CQĐT cần phải tuân thủ thời hạn xác minh quy định tại Điều 147
Bộ Luật TTHS năm 2015. Nếu xét thấy có dấu hiệu phạm tội xảy ra là khác quan
đảm bảo đủ căn cứ khởi tố vụ án thì ra quyết định khởi tố vụ án; nếu không thấy có
một trong các căn cứ quy định tại Bộ luật TTHS năm 2015 được quy định cụ thể tại
Điều 157 như không có sự việc phạm tội hay hành vi không cấu thành tội phạm .....
thì ra quyết định không khởi tố vụ án hình sư. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra
một trong hai quyết định thì CQĐT phải gửi quyết định kèm theo công văn, tài liệu
liên quan đến VKS cùng cấp.
Kể từ khi nhận được quyết định khởi tố hay không khởi tố của CQĐT hoặc
cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra đối với VAHS, Kiểm sát
viên thụ lý phải đánh giá, kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các tài liệu cũng
như quyết định của CQĐT nếu xét thấy chưa đủ chứng cứ thì VKS yêu cầu CQĐT
bổ sung tài liệu. Nếu trong quá trình đánh giá chứng cứ, tài liệu liên quan xét thấy
quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự là không có căn cứ
theo luật định thì VKS có văn bản yêu cầu CQĐT ra quyết định hủy bỏ, nếu CQĐT
không nhất trí thì VKS căn cứ Điều 161 Bộ luật TTHS ra quyết định hủy bỏ.
Ngoài ra, quá trình KSV thụ lý nghiên cứu hồ sơ nhận thấy còn có người khác
đã có hành vi phạm tội trong cụ án nhưng chưa bị khởi tố thì trước tiên cần trao đổi với
ĐTV thụ lý vụ án nếu trái quan điểm thì KSV cần báo cáo lãnh đạo viện đề xuất lãnh
đạo viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can đối
với người đó.
Quá trình thực hiện chức năng của mình, KSV cần lưu ý các trường hợp thay đổi
quyết định khởi tố bị can, không thay đổi quyết định khởi tố bị can, quyết định bổ sung
quyết định khởi tố bị can trong vụ án đã được khởi tố. KSV cần yêu cầu Cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định bổ
sung quyết định khởi tố bị can nếu xét thấy bị can thực hiện hành vi phạm tội này là để
thực hiện hành vi phạm tội khác đảm bảo quá trình điều tra không bỏ lọt tội phạm.
23
Nếu một người có nhiều hành vi phạm tội, nhưng phạm cùng một tội danh thì chỉ
ra một quyết định khởi tố vụ án hình sự, một quyết định khởi tố bị can người thực hiện
nhiều hành vi phạm tội khác nhau thì chỉ ra một quyết định khởi tố vụ án hình sự, một
quyết định khởi tố bị can chung, trong đó ghi rõ từng tội danh và điều khoản của BLHS.
Nếu một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau nhưng được phát hiện ở
những thời điểm khác nhau thì phải ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can riêng đối
với từng hành vi phạm tội đó và tùy từng trường hợp mà xem xét để quyết định nhập vụ
án, khởi tố riêng đối với từng hành vi phạm tội và tùy từng trường hợp xem xét quyết
định nhập vụ án.
1.3.3 Hoạt động kiểm sát trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp
ngăn chặn
Viện kiểm sát giám sát việc thực hiện, thay đổi các biện pháp ngăn chặn của
CQĐT. Khi kiểm sát áp dụng biện pháp ngăn chặn, KSV phải kiểm tra kĩ lý lịch tư
pháp, các quy định bắt, giữ, tạm giam.
Đối với giữ người trong trường hợp khẩn cấp, ngay sau khi nhận được hồ sơ
đề nghị xét phê chuẩn lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, KSV thụ lí vụ án
phải kiểm tra các tài liệu, chứng cứ chứng minh tính có căn cứ của việc bắt khẩn
cấp đối với từng trường hợp quy định tại Điều 110 Bộ luật TTHS năm 2015. Nếu
CQĐT trả tự do ngay cho người bị bắt trong vòng 12 giờ kể từ khi đã dẫn giải người
bị bắt về trụ sở thì CQĐT phải thông báo ngay cho VKSND cùng cấp biết.
Nếu phát hiện có dấu hiệu lạm dụng việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp
hoặc chứng cứ trong hồ sơ thể hiện không rõ căn cứ hoặc có mâu thuẫn thì KSV phải
trực tiếp hỏi người bị bắt trước khi xét quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn.
Khi hỏi người bị bắt khẩn cấp, VKS phải thông báo cho CQĐT để tạo điều kiện thực
hiện nhiệm vụ hoặc phối hợp hỏi người bị giữ. Sau khi bắt phải lấy lời khai ngay, nếu
CQĐT đã ra quyết định tạm giữ nhưng không có căn cứ để phê chuẩn bắt khẩn cấp thì
VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và trả tự do ngay cho
người bị tạm giữ nếu CQĐT không ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ thì VKS
phải ra Quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ kiến nghị đến thưủ trưởng CQĐT hoặc
VKS, CQĐT cấp trên để có biện pháp xử lý kịp thời.
24
Kiểm sát việc bắt người có chức sắc trong tôn giáo, người có uy tín trong
đồng bào dân tộc ít người phải hết sức thận trọng. KSV được phân công cần trực
tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc
KSV được Viện trưởng ủy quyền xem xét quyết định việc phê chuẩn hay không phê
chuẩn. Để việc gặp, hỏi người bị bắt thuận lợi, KSV thông báo trước với CQĐT yêu
cầu phối hợp gặp hỏi người bị giữ và ghi lời khai của người bị bắt theo quy định tại
Điều 178 Bộ luật TTHS năm 2015, lưu hồ sơ vụ án và hồ sơ kiểm sát.
Đối với bắt quả tang, KSV cần nghiên cứu kĩ biên bản bắt giữ người có hành
vi phạm tội quả tang (những người bị bắt quả tang, người tham gia bắt quả tang,
người chứng kiến việc bắt quả tang đều phải được ghi đầy đủ vào biên bản và có
chữ kĩ xác nhận của họ).
Bất kỳ ai cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang
bị truy nã. Nếu VKS tiếp nhận người bị bắt tại trụ sở cơ quan thì KSV tiếp nhận
người bị bắt phải lập biên bản rồi tiến hành dẫn giải người đó đến CQĐT ngay
lập tức.
Kiểm sát viên phải kiểm tra chặt chẽ việc lấy lời khai, lập danh chỉ bản của
CQĐT đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.
* Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ.
Khi kiểm sát việc tạm giữ, KSV phải căn cứ vào quy định tại Điều 117 Bộ
luật TTHS năm 2015. Nếu người bị tạm giữ không thuộc một trong các quy định đó
thì KSV báo cáo đề xuất với lãnh đạo ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và có
kiến nghị kịp thời với cơ quan, người có thẩm quyền tạm giữ để đảm bảo các quyền
và lợi ích hợp pháp của người đang bị tạm giữ. KSV phải kiểm tra tính hợp pháp, có
căn cứ của quyết định tạm giữ.
Trường quyết định tạm giữ là có căn cứ và cần thiết, nhưng việc tạm giữ có
vi phạm (người kí không đúng thẩm quyền, vi phạm về thời hạn) thì yêu cầu người
đã ra lệnh tạm giữ hoặc cơ quan của người ra lệnh khắc phục vi phạm, rút kinh
nghiệm còn nếu quyết định tạm giữ không có căn cứ thì phải yêu cầu hủy bỏ ngay
lập tức.
25
* Kiểm sát việc bắt bị can để tạm giam.
Biện pháp tạm giam bị can, bị cáo là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất
và chỉ được áp dụng khi bị can, bị cáo thuộc một trong các trường hợp quy định tại
Điều 119 Bộ luật TTHS
Khi kiểm sát việc bắt, tạm giam, KSV phải kiểm tra tài liệu, chứng cứ của vụ
án, bị can phạm tội ở khoản, điều nào, có cần thiết bắt tạm giam không? Căn cứ
pháp luật gồm những tài liệu gì? Tại thời điểm này phải xác định được mức hình
phạt của bị can theo BLHS quy định mức hình phạt phải từ hai năm tù trở lên mới
tạm giam.
Đối với các bị can: là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người
già yếu, người bị bệnh nặng có nơi cư trú rõ ràng (trừ trường hợp quy định tại
khoản 4, Điều 119 Bộ luật TTHS); người chưa thành niên phạm tội về CGTS không
thuộc các trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì không áp
dụng biện pháp này.
Sau khi phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam bị can, KSV
thụ lí vụ án phải kiểm tra, giám sát chặt chẽ, cẩn thận việc thi hành lệnh bắt bị can
và thời hạn tạm giam, thời hạn gia hạn tạm giam bị can của nhà tạm giữ và trại tạm
giam.
Cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị VKS thay đổi hoặc hủy biện pháp
ngăn chặn, không có quyền quyết định việc thay đổi, hủy bỏ. Khi Cơ quan điều tra
đề nghị VKS thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn thì phải có công văn đề nghị gửi
kèm theo tài liệu liên quan.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, Viện trưởng, Phó Viện trưởng cần thường xuyên
phối hợp với Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT, phân công một kiểm sát viên có kinh
nhiệm theo dõi để nắm bắt số người bị bắt; bị tạm giữ; gia hạn tạm giữ; số người
chuyển sang tạm giam; số người được trả tự do hoặc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
khác; số người VKS không phê chuẩn việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, số
người VKS không phê chuẩn gia hạn tạm giữ; số người bị bắt không xử lý được bằng
biện pháp hình sự nếu phát hiện cần tổng hợp vi phạm của CQĐT và báo cáo bằng văn
bản lên Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp.
26
Khi xét thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam, cơ quan có
thẩm quyền được áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác thay thế cho biện pháp tạm
giam bao gồm: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền, tạm hoãn xuất cảnh hoặc
tài sản có giá trị để đảm bảo phải thực hiện quy định tại các Điều 121,122,123 và
124 BLTTHS năm 2015.
* Kiểm sát áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
Kiểm sát viên phải căn cứ vào Điều 123 Bộ luật TTHS để kiểm tra thẩm
quyền gia lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, thủ tục cấm đi khỏi nơi cư trú cũng như kết
hợp với những tài liệu liên quan để quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn này.
* Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bảo lãnh
Kiểm sát viên phải căn cứ vào khoản 1 Điều 121 Bộ luật TTHS để áp dụng
biện pháp bảo lãnh. Các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn có
quyền hủy bỏ khi không thấy cần thiết hoặc có thể thay thế bằng một biện pháp
ngăn chặn khác.
* Kiểm sát việc áp dụng các biện pháp khám xét, thu giữ, tạm giữ và kê
biên tài sản
Ngay từ khi vụ án mới thụ lí, kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ việc thu giữ,
tạm giữ tiền và tài sản trong vụ án. Đối với tiền và tài sản liên quan đến hành vi
phạm tội của bị can thì phải thu giữ, bảo quản, xử lý theo quy định bảo quản xử lý
vật chứng của vụ án
Khi khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, vật chứng phải thật tỉ mỉ,
thận trọng, không được phép bỏ qua bất cứ một chi tiết, vật thể nào ở tại địa điểm
khám xét dù là rất nhỏ như sổ, giấy hoặc các vật có ghi số điện thoại, mảnh lưỡi dao
cạo râu, mảnh giấy bạc… vì những thứ đó có thể chứng minh hành vi phạm tội của
bị can. Quá trình kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản vật
chứng, KSV yêu cầu CQĐT phải thực hiện đúng quy định tại các Chương XIII quy
định từ Điều 192 đến 200 của Bộ luật TTHS năm 2015.
Đối với các khoản tiền, tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội của bị can
như tiền, tài sản của người nhà bị can vay mượn cá nhân không liên quan đến hành vi
27
phạm tội của bị can mà bị can hoặc người nhà có đơn xin nhận tiền, tài sản đó thì KSV
đề nghị lãnh đạo đơn vị giải quyết trao trả lại cho họ.
Vấn đề giải quyết bồi thường, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh, xét
thấy không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án ma túy thì KSV đề xuất tách ra để giải
quyết theo tố tụng dân sự.
* Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với bị can
Kiểm sát viên phải căn cứ vào khoản 1 Điều 124 Bộ luật TTHS 2015 để áp
dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh. Căn cứ vào các tài liệu, diễn biến trong quá
trình điều tra vụ án mà các cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ nếu xét thấy không cần
thiết hoặc thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác phù hợp hơn với các tài liệu,
chứng cứ trong hồ sơ vụ án.
1.3.4 Hoạt động kiểm sát trong quá trình Cơ quan điều tra thực hiện các
hoạt động điều tra
* Kiểm sát quá trình lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra
Ngoài việc xây dựng hồ sơ kiểm sát, KSV phải kiểm sát quá trình lập hồ sơ
của CQĐT để đảm bảo hồ sơ có đầy đủ các tài liệu, được sắp xếp, đánh bút lục theo
trình tự, phục vụ cho việc nghiện cứu, truy tố, xét xử, KSV phải yêu cầu ĐTV cung
cấp tài liệu đầy đủ, kịp thời.
* Kiểm sát các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra
- Kiểm sát khám nghiệm hiện trường và thực nghiệm điều tra: Khi kiểm sát
việc khám nghiệm hiện trường và thực nghiệm điều tra, KSV chú ý kiểm sát việc bảo vệ
hiện trường, xem xét tình trạng của hiện trường, tìm dấu vết, thu giữ được vật chứng gì
(đặc biệt là tài sản bị chiếm đoạt), việc lập biên bản và lấy lời khai của người làm chứng.
Đặc biệt, KSV cần chú ý tới công tác bảo vệ hiện trường nhằm đảm bảo tính khách quan
cho suốt quá trình điều tra sau này.
Kết thúc khám nghiệm hiện trường, KSV phải đánh giá đúng kết quả khám
nghiệm, thống nhất với ĐTV có khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại không.
Những vụ án gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hoặc phức tạp thì Viện trưởng, Phó
viện trưởng cấp huyện, Phó phòng KSĐT cấp tỉnh trở lên tham gia khám nghiệm.
28
Phát hiện có dấu hiệu phạm tội mà CQĐT không khởi tố thì KSV phải báo cáo lãnh
đạo quyết định.
Kiểm sát viên phối hợp với ĐTV để xác định rõ những dấu vết, vật chứng
nào cần được trưng cầu giám định, nội dung cần trưng cầu giám định, kiểm sát chặt
chẽ việc bàn giao các đồ vật, tài sản trên hiện trường, yêu cầu ĐTV và những người
tham gia khám nghiệm giữ bí mật về kết quả khám nghiệm, làm báo cáo kết quả
khám nghiệm chuyển VKS
- Kiểm sát việc hỏi cung, lấy lời khai của CQĐT: Khi tiến hành lấy lời khai
người làm chứng, KSV phải đối chứng với các tài liệu, chứng cứ khác, tìm hiểu mối
quan hệ của người làm chứng với bị can. Nghiên cứu các biên bản lấy lời khai nhân
chứng, KSV phải vạch ra được những chứng cứ buộc tội, gỡ tội bị can, tìm ra mối quan
hệ giữa nguồn cung cấp ma túy, địa điểm giao nhận, số lượng ma túy, đối tượng tàng
trữ, mua bán…
Quá trình kiểm sát việc hỏi cung, KSV có thế đánh giá được mức độ khai báo
thành khẩn hay không thành khẩn, mức độ, tính chất hành vi phạm tội của từng bị
can, đồng thời phải xem có làm rõ: hành vi phạm tôi gắn liền với vật chứng thu được,
mặt khách quan của hành vi phạm tội về CGTS và từng hành vi cụ thể; vị trí, vai trò
bị can, mối liên quan giữa các bị can với đối tượng trong vụ án, cách thức liên lạc,
phương thức, thủ đoạn hoạt động phạm tội.
Đối với những vụ án cần thực nghiệm điều tra để kiểm tra và xác minh
những tài liệu, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án thì KSV yêu cầu thực
nghiệm điều tra. KSV kiểm sát việc thực nghiệm điều tra, bảo đảm việc thực
nghiệm điều tra và lập biên bản thực nghiệm điều tra tuân thủ đúng các quy định tại
Điều 201 và Điều 204 Bộ luật TTHS năm 2015 đưa vào hồ sơ vụ án.
Đối với trường hợp KSV xét thấy cần phải thực nghiệm điều tra để có cơ sở
căn cứ vững chắc trong việc đánh giá chứng cứ sự thật khách quan của vụ án thì
KSV cần báo cáo Viện Trưởng, Phó viện trưởng để trả hồ sơ cho CQĐT tiến hành
thực nghiệm điều tra lại hoặc nếu xét thấy có đủ điều kiện để thực hiện thì KSV chủ
trì việc thực nghiệm điều tra mà không cần trả hồ sơ cho CQĐT.
- Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai kiểm sát việc giám định:
29
Đối với các vụ án có thu giữ vật chứng thì kết luận giám định đóng vai trò
quyết định khung hình phạt đối tượng có phạm tội CGTS. Khi kiểm sát mở niên
phong giám định, KSV phải xem kỹ dấu niêm phong, chữ ký niêm phong xem có
còn nguyên vẹn không; quyết định trưng cầu và kết luận giám định có đảm bảo về
mặt nội dung không; những vấn đề cần kết luận đã thỏa mãn chưa bên cạnh đó cần
đánh giá tổng quát xem có cần thiết phải tiến hành trưng cầu giám định bổ sung
không.
Đối với vụ án CGTS có giám định, KSV phải kiểm sát những vấn đề sau: nội
dung giám định phải tài sản bị chiếm đoạt, kết luận của Giám định viên phải giải
đáp được tài sản đưa ra giám định có giá trị là bao nhiêu.
- Kiểm sát việc đối chất, nhận dạng: Nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai bị
can, người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan hoặc khi cần thiết
nhận dạng người hay đồ vật, địa điểm, KSV yêu cầu ĐTV tiến hành đối chấp hoặc
nhận dạng căn cứ tại Điều 189 và Điều 190 Bộ luật TTHS năm 2015.
Đối với người bị giam giữ, bị can là người nước ngoài và những người tham
gia tố tụng khác không sử dụng được tiếng Việt hoặc bị câm, điếc thì KSV chủ
động yêu cầu ĐTV đảm bảo cho họ có quyền thông qua người phiên dịch hoặc
người biết dấu hiệu của người câm, điếc để thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ và
được thể hiện tại biên bản theo quy định tại Điều 133 Bộ luật TTHS năm 2015 và
đưa vào hồ sơ vụ án.
- Giải quyết việc tranh chấp về thầm quyền điều tra: Trường hợp vụ án không
thuộc thầm quyền của mình, Cơ quan điều tra phải đề nghị VKS ra quyết định chuyển
vụ án cho Cơ quan điều tra có thầm quyền để tiếp tục điều tra.
Trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của CQĐT cùng
cấp VKS cần trao đổi với CQĐT, yêu cầu CQĐT phối hợp đề nghị VKS ra quyết
định chuyển vụ án đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết; trường hợp đặc biệt nơi
chuyển vụ án nằm ngoài tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, VKS cần có công văn
yêu cầu VKS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành quyết định chuyển
vụ án đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
30
Trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa CQĐT và các cơ
quan có nhiệm vụ thực hiện một số HĐĐT thì Viện trưởng VKS có thẩm quyền tại
địa điểm xảy ra hành vi phạm tội quyết định cơ quan nào sẽ thụ lý và giải quyết.
- Yêu cầu CQĐT khắc phục vi phạm pháp luật: Trong quá trình KSĐT, VKS
phát hiện có vi phạm thì có văn bản yêu cầu CQĐT khắc phục như: việc xác minh
chưa đúng thủ tục, bắt khẩn cấp không có phê chuẩn của VKS… Nếu VKS phát
hiện ĐTV vi phạm trong khi tiến hành điều tra thì phải yêu cầu Thủ trưởng CQĐT
xử lý nghiêm minh.
- Kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra, truy nã bị can: KSV kiểm sát việc tạm
đình chỉ điều tra của CQĐT căn cứ quy định tại Điều 229 Bộ luật TTHS năm 2015;
nếu thấy quyết định tạm đình chỉ điều tra không có căn cứ thì báo cáo Viện trưởng,
Phó Viện trưởng hoặc KSV được Viện trưởng ủy quyền quyết định tạm đình chỉ
điều tra của CQĐT phục hồi điều tra.
Trường hợp bị can trốn hoặc không phát hiện được bị can ở đâu thì KSV
được phân công thụ lí giải quyết vụ án phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng
yêu cầu CQĐT ra quyết định truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ điều tra theo quy
định tại Điều 229 Bộ luật TTHS năm 2015.
Khi thấy lí do tạm đình chỉ không còn thì KSV báo cáo Viện trưởng, Phó
Viện trưởng ra văn bản yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra vụ án để tiến hành điều tra.
- Kiểm sát việc đình chỉ điều tra: khi nhận được hồ sơ vụ án đình chỉ điều tra,
KSV phải kiểm tra tính có căn cứ, hợp pháp của quyết định đình chỉ điều tra theo quy
định tại Điều 230 Bộ luật TTHS năm 2015 và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng
hoặc KSV được Viện trưởng ủy quyền xem xét, xử lý như sau: nếu quyết định đình chỉ
điều tra không có căn cứ thì ra quyết định hủy bỏ quyết định đình chỉ điểu tra của
CQĐT và yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra, nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì quyết
định hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố bị can còn nếu quyết
định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc KSV được
Viện trưởng ủy quyền phải yêu cầu CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra hủy bỏ
ngay biện pháp ngăn chặn, trả lại các đồ vật, tài liệu đã tạm giữ hoặc tịch thu cho bị
can hoặc người có liên quan.
31
- Kiểm sát việc kết thúc điều tra và sau khi kết thúc điều tra: KSV kiểm sát
chặt chẽ việc kết thúc điều tra vụ án, bảo đảm các vụ án CGTS đã bị khởi tố, điều tra
phải được kết thúc bằng bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều
tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT phải thể hiện đầy đủ các nội
dung được quy định tại Điều 233,234 Bộ luật TTHS năm 2015 và phải gửi cho bị
can, người bào chữa (nếu có).
Nếu cơ quan điều tra đã làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố nhưng hồ sơ
chưa chuyền sang VKS mà xét thấy có đầy đủ căn cứ đình chỉ điểu tra thì KSV báo
cáo Viện trưởng, Phó viện trưởng hoặc KSV được Viện trưởng ủy quyền có ý kiến để
CQĐT làm lại bản kết luận điều tra và ra quyết định đình chỉ điều tra.
Khi VKS nhận được hồ sơ cùng kết luận điều tra đề nghị truy tố của CQĐT,
cán bộ thụ lý cần kiểm tra kỹ những nội dung sau trong hồ sơ: quy trình tố tụng, quá
trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong toàn bộ quá trình điều tra, những tài liệu,
chứng cứ luật định kèm biên bản bàn giao theo quy định tại Khoản 5 Điều 88
BLTTHS năm 2015, đầy đủ bút lục phù hợp với thống kê trong hồ sơ, biên bản thống
nhất với KSV thụ lý.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng:
Người tham gia tố tụng trong vụ án CGTS bao gồm nhiều chủ thể khác nhau như: bị
can, người bị bắt, tạm giữ, người bào chữa, người giám định, người phiên dịch,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan … cần tham gia quá trình tố tụng và hoạt
động đúng theo quy định tại bộ luật TTHS thì mới đảm bảo tính khách quan cho
quá trình giải quyết vụ án.
Các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại Điều 76 Bộ
luật TTHS năm 2015 mà bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời
người bào chữa, thì KSV yêu cầu ĐTV báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT
yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị can nếu
ĐTV không thực hiện, KSV phải báo cáo với Phó Viện trưởng hoặc Viện trưởng ra
công văn yêu cầu nếu cần thiết. Nếu các tổ chức trên đã cử người bào chữa, nhưng bị
can hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa thì KSV căn cứ
32
khoản 2 Điều 77 Bộ luật TTHS năm 2015 yêu cầu ĐTV báo cáo Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng CQĐT xem xét, giải quyết.
Kiểm sát viên căn cứ Điều 68, 70 Bộ luật TTHS năm 2015 để kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của người phiên dịch, người giám định và phải cấp chứng nhận
người bào chữa cho Luật sư bào chữa, ra Quyết định thu hồi người bào chữa nếu họ
có vi phạm
- Kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm: Thông qua KSV
điều tra các vụ án CGTS, phát hiện những sơ hở, thiếu sót của Cơ quan, tổ chức và
đơn vị hữu quan, VKS có văn bản kiến nghị với các cơ quan có liên quan trong các
vụ án CGTS về các biện pháp phòng ngừa cũng như công tác quản lí cán bộ, quản lí
vũ khí…. Để hạn chế vi phạm, phát hiện tội phạm CGTS.
1.4 Vị trí, vai trò và ý nghĩa của kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản
1.4.1 Vị trí, vai trò của kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản
Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong hệ thống cơ quan Nhà nước được quy
định tại Điều 107 Hiến pháp 2013 và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tự pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”[14, tr.55]
VKSND gồm VKSND Tối cao, VKSND cấp cao, VKSND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; các VKSND cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc
tương đương và VKS quân sự các cấp.
Kiểm sát hoạt động điều tra tội CGTS là một nội hàm trong chức năng,
nhiệm vụ hiến định của VKSND, vừa có đặc điểm chung như các hình thức giám
sát khác của Nhà nước, vừa có những đặc thù riêng. Trong tổ chúc bộ máy nhà nước
ta, quyền lực Nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
lẫn nhau, trong hoạt động TTHS VKS vừa là cơ quan trực tiếp kiểm sát vừa là cơ
quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự nên có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng bên cạnh các hình thức kiểm soát
quyền lực khác.
33
Năm 2014 là năm đầu tiên thi hành Hiến pháp 2013 đã được Quốc hội thông
qua và có hiệu lực. Hiến pháp 2013 cũng quy định phải kiểm sát chặt chẽ hơn
những biện pháp cưỡng chế tố tụng liên quan đến việc hạn chế quyền con người
theo tinh thần đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân đối
với tội phạm CGTS hay tội phạm hình sự nào cũng vậy. VKS cần luôn đề cao tinh
thần thượng tôn pháp luật, không để chủ thể nào lạm dụng quyền lực Nhà nước giao
cho để sử dụng với mục đích cá nhân mình.
Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự tội CGTS góp phần bảo vệ pháp chế, chế
độ xã hội chủ nghĩa chế độ kinh tế, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, tính mạng sức
khỏe, danh dự nhân phẩm, tự do, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
công dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đảm bảo mọi hành vi
phạm tội đều được phát hiện, xử lý nhanh chóng nghiêm minh kịp thời; không bỏ
lọt tội phạm, tránh làm oan người vô tội. Chức năng kiểm sát điều tra của VKS là
đặc trưng nổi bật trong hoạt động của VKS. Trong quá trình thực thi chức năng
KSĐT tội phạm CGTS sau khi CQĐT kết thúc hoạt động điều tra, hồ sơ chuyển
sang VKS để truy tố thì theo chức năng của mình, VKS có quyền kết tội bị can
trong bản Cáo trạng và quyết định truy tố thông qua quá trình đánh giá toàn bộ hành
vi, hệ thống chứng cứ của cả vụ án nếu xét thấy bị can có tội hoặc đình chỉ bị can
nếu xét thấy bị can không có tội hoặc có một vài trường hợp Viện kiểm sát cũng có
thể tạm đình chỉ bị can.
Trong suốt quá trình thực hiện hoạt động kiểm sát điều tra tội CGTS, VKS
cần tập trung chứng minh, đánh giá, làm rõ những chứng cứ, tình tiết liên quan đến
vụ án xác định chính xác việc có hay không hành vi phạm tội, chủ thể thực hiện
hành vi phạm tội là ai, tính chất, mức độ cụ thể của hành vi phạm tội và những tình
tiết có liên quan tới VAHS từ nhân thân đến động cơ, mục đích phạm tội để làm căn
cứ xử lý đúng pháp luật. Tuy nhiên, không thể không nhắc tới là kiểm sát việc tuân
theo pháp luật đối với các hành vi, xử sự đặc biệt là các quyết định của các cơ quan
tiến hành tố tụng cũng như hành vi, xử sự của những người tham gia tố tụng trong
quá trình điều tra vụ án hình sự.
34
VKS cần kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT trong tất cả các hoạt
động thu thập chứng cứ, tài liệu chứng minh hành vi phạm tội từ hoạt động khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khởi tố vụ án, khởi tố bị can; việc áp dụng
các pháp ngăn chặn, ….. cho đến tác phong, hành vi xử sự của người tham gia tố
tụng với mục đích đảm bảo pháp luật được thi hành đúng với tinh thần của quy
định. Đối với VKS quận Hoàng Mai thì đa số việc KSĐT tội CGTS là hoạt động,
hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai.
1.4.2 Ý nghĩa của KSĐT tội CGTS
Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự góp phần bảo vệ pháp chế, chế độ xã hội
chủ nghĩa chế độ kinh tế, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, tính mạng sức khỏe, danh
dự nhân phẩm, tự do, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều
được phát hiện, xử lý nhanh chóng nghiêm minh kịp thời; không bỏ lọt tội phạm,
tránh làm oan người vô tội.
- Trong TTHS, CQĐT được giao trách nhiệm điều tra tội phạm, không chủ
thể nào có thể thay thế, CQĐT có quyền áp dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế,
ngăn chặn nhằm làm rõ hành vi phạm tội cũng như những vấn đề liên quan đến
VAHS. Nhưng việc đưa một con người vào vòng tố tụng và xử lý họ theo PLHS là
vấn đề không hề đơn giản, động chạm đến rất nhiều quyền cơ bản của công dân
được pháp luật bảo hộ, cần phải đảm bảo tính thận trọng và chính xác. Vì lẽ đó, việc
VKS ra đời như một tất yếu khách quan nhằm giám sát hoạt động này nhằm đảm
bảo tất cả mọi hành vi phạm tội đã phát hiện phải được khởi tố, xử lý kịp thời và
nghiêm minh nhưng cũng cần phải có căn cứ và đúng pháp luật. Vì vậy, pháp luật
quy định VKS có trách nhiệm kiểm tra, giám sát, đảm bảo cho các tài liệu, chứng cứ
liên quan đến việc chứng minh hành vi phạm tội và nhân thân của người phạm tội
phải được thu thập đầy đủ, toàn diện, khách quan và hợp pháp. VKS có nhiệm vụ
quyền hạn kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của các chủ thể tiến hành tố
tụng nên CQĐT không thể tùy tiện bắt ai, khởi tố ai, bỏ qua trường hợp nào cũng
được. VKS là cơ quan duy nhất có thẩm quyền trực tiếp tham gia quá trình điều tra
và đề ra những yêu cầu điều tra để CQĐT mà cụ thể là các Điều tra viên có trách
35
nhiệm phải thực hiện tất cả các yêu cầu điều tra của VKS. Trường hợp không nhất
trí, CQĐT có quyền được kiến nghị đến VKS cấp trên của VKS ra yêu cầu nhưng
trong thời gian chưa có kết quả thì vẫn phải thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu đó.
VKS có thể can thiệp bằng các quyền năng tố tụng ngay lập tức nếu cơ quan điều
tra ban hành các văn bản áp dụng pháp luật hoặc các biện pháp điều tra không có
căn cứ, không hợp pháp. Bằng các quyền năng tố tụng của mình, nếu xét thấy quá
trình điều tra không đảm bảo việc khách quan, VKS có thể kiến nghị yêu cầu CQĐT
khắc phục vi phạm ngay trong quá trình điều tra, có quyền yêu cầu Thủ trưởng
CQĐT thay đổi ĐTV theo quy định của Bộ luật TTHS. Quyền năng này được Bộ
luật TTHS giao cho VKS không chỉ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động điều tra
vụ án hình sự, hạn chế những trường hợp đình chỉ điều tra vụ án hình sự do bị can
không phạm tội, hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung mà còn nhằm ngăn chặp kịp
thời những vi phạm quyền con người, quyền công dân. Điều đó cho thấy VKS có vị
trí, vai trò rất quan trọng đối với việc bảo vệ công lý trong hoạt động điều tra.
- Thông qua công tác kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động
điều tra nói riêng, KSV là những người trực tiếp đánh giá tính phù hợp hay không
phù hợp, có căn cứ hay không có căn cứ của các văn bản quy phạm pháp luật, nhất
là BLHS và Bộ luật TTHS. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi cơ chế quản lý
kinh tế của chúng ta chưa hoàn thiện còn nhiều vấn đề bất cập, một số quan hệ
thuộc lĩnh vực mới nhưng BLHS chưa được pháp điển hóa để bảo vệ, nhiều quy
phạm đã lạc hậu, chồng chéo nên một số đối tượng thường lợi dụng kỹ hở của pháp
luật để thực hiện hành vi phạm tội, nhất là nhóm tội tham ô, cố ý làm trái các quy
định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, nhận hối lộ .....
Qua công tác kiểm sát hoạt động điều tra, VKSND Tối cao sẽ tổng hợp những vấn
đề bất cập nêu trên đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp. Như
vậy, công tác kiểm sát hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật.
- Kiểm sát hoạt động điều tra các VAHS hướng tới các chủ thể là các chủ thể
trực tiếp tiến hành tố tụng, ngăn chặn việc chủ quan, lạm quyền của những chủ thể
trên, đảm bảo tất cả những người tham gia tố tụng đều phải tôn trọng pháp luật, đảm
36
bảo thực hiện một cách đầy đủ nhất quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật. Qua đó, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố
tụng với vị thế yếu hơn như người bị tạm giữ, tạm giam, người bị hại.
- Cùng với công tác kiểm sát hoạt động điều tra đã góp phần giáo giục riêng
đối với người phạm tội răn đe phòng ngừa chung đối với người đã và đang có ý
định phạm tội, góp phần phổ biến tuyên truyền pháp luật; kiến nghị các cơ quan hữu
quan, tổ chức có biện pháp phòng ngừa vi phạm và tội phạm.
Kết luận chương 1
Tóm lại, trong giải đoạn điều tra các VAHS nói chung và điều tra các vụ án
hình sự về tội cướp giật tài sản nói riêng, Kiểm sát điều tra là những biện pháp Viện
kiểm sát không trực tiếp ra quyết định, mà thông qua công tác kiểm sát, nếu phát
hiện vi phạm pháp luật của CQĐT thì Viện kiểm sát tiến hành kháng nghị, kiến nghị
hoặc yêu cầu CQĐT khắc phục. Cùng với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra cuối cùng cũng chỉ có một mục đích, nhiệm vụ đó là điều tra hành vi
phạm tội và tội phạm một cách đúng đắn khách quan, nhằm thực hiện nhiệm vụ,
mục đích chung của Tố tụng hình sự. Kiểm sát điều tra vụ án hình sự nói chung và
kiểm sát điều tra vụ án về tội cướp giật tài sản nói riêng, là cơ sở, tiền đề để thực
hành quyền công tố có hiệu quả, và thực hành quyền công tố là kết quả phản ánh
chất lượng của quá trình kiểm sát điều tra.
37
Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI
2.1 Thực trạng quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra
Từ các Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, số 51/SL ngày 17/4/1946, 131/SL
ngày 20/7/1946 vào thời kỳ trước khi Hiến pháp 1946 được thông qua và tại bản Hiến
pháp 1946 thể hiện rõ cơ quan tư pháp ở nước ta khi đó là cơ quan làm công tác xét xử
là Tòa án trong đó có cơ quan công tố là một bộ phận của tòa án thực hiện chức năng
buộc tội phục vụ cho công tác xét xử của Tòa án.
- Năm 1958, cùng với việc thành lập hệ thống Tòa án nhân dân các cấp, ngày
29/01/1958, Quốc hội đã có Nghị quyết thành lập Viện công tố và cơ quan thực
hiện chức năng công tố đã tách hẳn khỏi hệ thống Tòa án nhân dân, tuy vẫn trực
thuộc Hội đồng chính phủ.
- Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số
20 ngày 15/7/1960 công bố sự ra đời của VKSND với tư cách là một hệ thống cơ
quan độc lập. Theo Hiến pháp năm 1959, quyền tư pháp thuộc về Tòa án nhân dân
và VKSND, trong đó Tòa án nhân dân chỉ thực hiện chức năng xét xử còn VKSND
có chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Đến Hiến
pháp năm 1980; Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 tuy có những sự bổ
sung, thay đổi về tổ chức, hoạt động nhưng chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
vẫn được giao cho Viện kiểm sát.
Từ trước đến nay, trong từ điển tiếng việt chưa có khái niệm về KSĐT nhưng
thuật ngữ KSĐT lần đầu tiên thuật ngữ này xuất hiện tại Chương II, Luật Tổ chức
VKSND năm 2002 nhưng cũng chưa có một khái niệm nào chi tiết thể hiện rõ đặc
điểm, tính chất của hoạt động KSĐT. Khái niệm KSĐT ngày càng được làm sáng tỏ
bởi sự phát triển của khoa học pháp lý thể hiện trong các quy định của tại các Bộ
luật mới nhất được Quốc hội thông qua như Luật tổ chức VKSND năm 2014.
Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới quy định của Bộ luật TTHS năm
2015 tại Điều 166 quy định cụ thể chi tiết về Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự nhằm đảm bảo tính nghiêm minh, tuân thủ
38
tuyệt đối các quy định pháp luật của những người tham gia tố tụng trong giai đoạn
điều tra.
Một là, KSV kiểm sát việc khởi tố, việc lập hồ sơ cùng các hoạt động điều
tra của CQĐT. Kiểm sát việc khởi tố là kiểm sát tính có căn cứ theo quy định của
pháp luật, tính hợp pháp của các quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố bị can;
quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án; khởi tố bị can; quyết định thay đổi
quyết định khởi tố vụ án; khởi tố bị can ... Mục đích của hoạt động này là đảm bảo
các quyết định trên của CQĐT có căn cứ và đảm bảo tính hợp pháp.
Đối với các hoạt động điều tra của CQĐT tiến hành, KSV phải tiến hành
kiểm sát để đảm bảo tất cả quá trình đó, CQĐT thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục
quy định của pháp luật, nếu có bất kỳ vi phạm nào đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người tham gia tố tụng đặc biệt là người ở bị thế yếu hơn là bị can trong vụ án thì
càn phải được phát hiện và xử lý ngay lập tức. Các hoạt động điều tra của CQĐT
thực hiện trong quá trình điều tra như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi, lấy lời khai nhân chứng, bị hại, hỏi cung bị can, tiến hành đối chất, nhận dạng ...
KSV cần kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT nhằm đảm bảo tính khách
quan, đúng thủ tục, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục cả về hình thức lẫn nội dung
các tài liệu phải được thể hiện đầy đủ và đúng theo pháp luật TTHS cùng với đó là
phải được đóng dấu bút lục, thống kê tài liệu có trong hồ sơ.
Hai là, kiểm sát việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người
tham gia tố tụng như: bị can, bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người chứng
kiến, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bào chữa, người phiên dịch,
người giám định, người định giá tài sản ..... Bộ luật TTHS quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền của người tham gia tố tụng vì vậy, KSV cần đảm bảo quyền, lợi ích của họ không bị xâm phạm nếu có bất kỳ vi phạm nào liên quan đến việc đảm bảo quyền hay nghĩa vụ của người tham gia tố tụng đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời.
Ba là, VKS có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra khi phát sinh tranh chấp về vấn đề thẩm quyền điều tra theo lãnh thổ hoặc theo vụ
việc thì VKS cần đánh giá, xem xét trên cơ sở quy định tại Điều 163; 169 Bộ luật
39
TTHS năm 2015 để phối hợp cùng CQĐT để ra quyết định chuyển vụ án đến cơ
quan có thẩm quyền. Trường hợp đặc biệt, nếu cần chuyển vụ án đến phạm vi ngoài
tỉnh, thành phố hoặc ngoài phạm vi quân khu thì CQĐT cấp huyện hoặc quân khu cần phối hợp với VKS để VKS có văn bản đề nghị VKS cấp tỉnh, thành phồ hoặc
quân khu ra quyết định chuyển vụ án.
Bốn là, qui định về trách nhiệm cỉa CQĐT trong việc thực hiện yêu cầu và
quyết định của VKS trong giai đoạn ĐTVA. Trong quá trình làm rõ hành vi phạm tội ở giai đoạn nào như khởi tố, điều tra nếu xét thấy cần thiết, KSV có thể yêu cầu
cơ quan điều tra chuyển tài liệu cùng hồ sơ sang VKS để xem xét nếu phát hiện vi
phạm pháp luật trong hoạt động điều tra nếu thấy cần thiết cần yêu cầu Thủ trưởng
CQĐT kỷ luật đối với ĐTV vi phạm. Qua đó, VKS cần tập hợp, tích lũy và kiến nghị với CQĐT nói riêng và các cơ quan hữu quan nói chung để nâng cao chất
lượng điều tra VAHS góp phần đảm bảo an ninh chính trị trên địa bàn.
Thực trạng pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS như vậy vừa
đảm bảo về mặt lý luận và cả thực tiễn giúp VKS hoàn thành tốt nhiệm vụ được
Đảng và Nhà nước giao phó bên cạnh đó còn giúp KSV có những quyền năng pháp
lý nhất định trong quá trình thực thi công vụ, làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
2.2 Thực tiễn hoạt động kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản tại thực tiễn quận Hoàng Mai
2.2.1 Khái quát về Quận Hoàng Mai
- Về điều kiện tự nhiên: Quận Hoàng Mai có diện tích: 4.104,1ha, dân số từ
19 vạn đến nay là 365,509 người (tính đến năm 2013). Quận hiện có 58 tổ chức cơ
sở Đảng với hơn 12.000 đảng viên. Quận Hoàng Mai giáp với quận Thanh Xuân,
Hai Bà Trưng về phía Bắc, giáp với sông Hồng – quận Long Biên ở phía Đông và
giáp với huyện Thanh Trì ở phía Nam. Trải rộng từ Đông sang Tây, được chia làm
3 phần tương đối đều nhau bởi đường Giải Phóng, Tam Trinh (theo trục Bắc-Nam).
Quận Hoàng Mai bao gồm 14 phường trên cơ sở hợp nhất 9 xã thuộc huyện Thanh
Trì và 5 phường của quận Hai Bà Trưng: Hoàng Liệt, Yên Sở, Vĩnh Hưng, Định
Công, Đại Kim, Thịnh Liệt, Thanh Trì, Lĩnh Nam, Trần Phú, Mai Động, Tương
Mai, Tân Mai, Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ.
- Về phát triển kinh tế - xã hội: Nhìn chung, trong những năm qua kinh tế -
xã hội ở quận Hoàng Mai có bước phát triển khá. Năm 2019, quận Hoàng đạt tổng 40
giá trị trên 2.645 tỉ đồng, tăng 15,1% so năm 2018, cấp mới 1.200 giấy đăng ký
kinh doanh, đổi 15 giấy và cấp mới cho 3 Hợp tác xã. Trong nông nghiệp, quận
Hoàng Mai chuyển 2 ha trồng rau an toàn, 15,2 ha trồng lúa kém hiệu quả sang
trồng cây ăn quả, đem hiệu quả cao... Thu ngân sách đạt trên 752,5 tỉ đồng, đạt
108,2% kế hoạch, giải quyết 5285 lao động việc làm, giảm 175 hộ nghèo
2.2.2 Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng
Mai
Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai trực thuộc và chịu sự chỉ đạo thống
nhất của VKSND thành phố Hà Nội; cơ cấu tổ chức gồm có 36 biên chế, trong đó
cán bộ nữ là 20 đồng chí (chiếm 56%), cán bộ nam là 16 đồng chí (chiếm 44%).
KSV cấp tỉnh là 04 đồng chí, KSV cấp huyện là 12; chuyên viên là 20 đồng chí;
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Đơn vị hiện có 10 đ/c thạc sỹ luật cử nhân Luật 26
đồng chí. Ở đơn vị cơ cấu tổ chức có 06 bộ phận nghiệp vụ, đó là: Bộ phận
THQCT, KSĐT, xét xử án hình sự; bộ phận bắt giữ và kiểm sát thi hành án hình sự;
bộ phận kiểm sát thi hành án dân sự; bộ phận văn phòng và giải quyết đơn; bộ phận
thụ lý hình sự; bộ phận kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự - Hành chính - Lao
động và các việc khác theo quy định của pháp luật; bên cạnh đó còn có 01 đồng chí
kế toán trưởng cùng 03 đồng chí hợp đồng làm công tác bảo vệ và lái xe cho cơ
quan. Trong đó bộ phận thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự có 15 đồng chí đảm nhiệm giải quyết đối với tất cả các loại án hình sự thụ lý của
cơ quan trong đó có tội CGTS.
2.2.3 Kết quả hoạt động kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản tại thực
tiễn quận Hoàng Mai
Trong những năm qua VKSND quận Hoàng Mai phải xử lý số lượng án về
các tội phạm xâm phạm sở hữu tương đối lớn, nhiều vụ án phức tạp liên quan đến
các đối ở các tỉnh, VKSND quận Hoàng Mai đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
của ngành, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng trong tỉnh giải quyết
các tội phạm xâm phạm sở hữu kịp thời, đúng pháp luật, góp phần vào cuộc đấu
tranh, phòng chống tội phạm trên địa bàn có hiệu quả. Việc tiến hành KSĐT ở giai
đoạn điều tra các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và đặc biệt là tội cướp giật
41
tài sản nói riêng của VKSND quận Hoàng Mai trong 5 năm qua (từ 2015 đến 2019)
đạt được những kết quả rất khả quan.
Công tác KSĐT việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT
khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với tội
phạm CGTS trên địa bàn quận Hoàng Mai đều được tập thể cán bộ VKS thực hiện
nghiêm túc, chưa có trường hợp nào VKS thành phố yêu cầu thay đổi, rút kinh
nhiệm với các quyết định cho VKS Hoàng Mai ban hành. Trong giai đoạn 2015 đến
2019, VKS quận Hoàng Mai không có bị can nào VKS phê chuẩn mà trong quá
trình điều tra hải ra quyết định đình chỉ vụ án cho bị can không phạm tội trừ trường
hợp các tội danh khởi tố theo yêu cầu của bị hại mà bị hại rút đơn; không có vụ án
nào VKS đề nghị truy tố nhưng Tòa án tuyên vô tội hay ra quyết định đình chỉ vụ án
do bị can không có tội, không có VAHS nào bị Tòa án cấp trên hủy án. Trong 02
năm công tác 2018 và 2019 liên tiếp đều nhận được cờ thi đau dẫn đầu khối do
VKSNDTC khen thưởng. Quá trình KSĐT các VAHS nói chung và KSĐT tội cướp
giật tài sản nói riêng luôn được lãnh đạo VKS quận Hoàng Mai quan tâm đúng mức
và đảm bảo việc KSĐT luôn có chất lượng, không bỏ lọt tội phạm cũng như không
làm oan người vô tội.
Để giải quyết tốt các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội phạm
CGTS riêng được kịp thời nhằm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội, VKSND quận Hoàng Mai đặt công tác kiểm sát bắt giữ cũng
như việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm ở vị trí quan trọng, luôn phân công 01
KSV ở mỗi bộ phận có kinh nghiệm theo dõi, tổng hợp các nguồn tin để chủ động
có các biện pháp tác động với CQĐT. Do vậy, phần lớn khi nhận được quyết định
khởi tố vụ án hình sự từ CQĐT thì VKS đã nắm được nội dung vụ việc. Kết hợp với
việc nghiên cứu tài liệu xác minh của CQĐT để từ đó xác định sự việc có dấu hiệu
tội phạm CGTS hay không? Về việc khởi tố và yêu cầu khởi tố, VKSND quận
Hoàng Mai trong những năm qua đã kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố vụ án, khởi tố bị
can của CQĐT. Cụ thể theo số liệu của VKSND quận Hoàng Mai trong 05 năm (từ
năm 2015 đến năm 2019) VKSND đã tiến hành kiếm sát điều tra cụ thể:
42
Tội danh 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng số
Vụ/BC Vụ/BC Vụ/BC Vụ/BC Vụ/BC
Tội cướp tài 22/31 20/25 16/18 13/15 05/08 76/97
sản
Tội cưỡng 01/02 01/01 01/01 04/12 04/06 11/22
đoạt tài sản
Tội cướp giật 14/08 19/13 26/21 08/06 10/11 77/59
tài sản
Tội trộm cắp 87/111 84/77 120/98 100/75 107/96 498/457
tài sản
Tội lừa đảo 05/04 10/08 24/24 27/21 23/19 89/76
chiếm đoạt tài
sản
Tội lạm dụng 03/03 04/04 04/03 06/06 08/06 25/22
tín nhiệm
chiếm đoạt tài
sản
Tội hủy hoại 02/02 06/06 09/11 03/01 04/02 24/22
tài sản
Tất cả các tội 376/552 421/580 538/611 451/560 460/581 2246/2884
Bảng 2.1: Số lượng án xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Hoàng Mai. Nguồn:
Báo cáo tổng kết các năm VKSND quận Hoàng Mai.
Theo số liệu của VKSND quận Hoàng Mai trong 05 năm (từ năm 2015 đến
năm 2019) VKSND Hoàn Mai thụ lý KSĐT là: 2.246 vụ/ 2.884 bị can. Trong đó
các tội phạm xâm phạm sở hữu là: 800 vụ/2.246 vụ chiếm 35,6% và 755 bị can/
2.884 bị can chiếm 26,2 % bị can.
Theo số liệu trên cho thấy, với số lượng các tội phạm xâm phạm sở hữu
VKSND quận Hoàng Mai hàng năm phải xử lý tương đối nhiều, là một trong những
quận có lượng án về các tội phạm xâm phạm sở hữu lớn nhất thành phố Hà Nội,
nhưng VKSND quận Hoàng Mai đã cố gắng và nổ lực phấn đấu giải quyết tương 43
đối tốt, các vụ án giải quyết đều trong hạn luật định, hạn chế đến mức thấp nhất
những sai sót trong tố tụng, từ đó tránh oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội về các tội phạm xâm phạm sở hữu.
Theo số liệu thống kê được, trong 05 năm qua, CQĐT Công an quận Hoàng
Mai đã phát hiện, điều tra hơn 800 vụ án xâm phạm sở hữu bắt giữ gần 780 đối
tượng. So với thời điểm cùng kỳ trước đó số lượng vụ được phát hiện nhiều hơn
180 vụ và trên 80 đối tượng. Đó là bởi tình hình tội phạm trên địa bàn quận Hoàng
Mai ngày càng trở nên phức tạp bởi những yếu tố kinh tế đặc thù tại địa phương
mang lại. Với đặc thù là cửa ngõ thủ đô với 02 bến xe liên tỉnh với quy mô lớn là
bến xe nước ngầm và bến xe Giáp Bát thì lưu lượng hàng hóa trung chuyển, vận tải
qua địa bàn quận Hoàng Mai là rất lớn. Hầu hết các vụ án CGTS chủ yếu hoạt động
theo từng nhóm nhỏ với số lượng khoảng 03-04 đối tượng, hoạt động cơ hội,
phương thức hoạt động đa số là các đối tượng sử dụng xe máy (chủ yếu là xe
Dream; Wave không lắp biển kiểm soát hoặc lắp biển kiểm soát giả) đi ở các tuyến
phố nhỏ, vắng người qua lại quan sát những người tham gia giao thông hoặc đi
đường có tài sản mà sơ hở để cướp giật. Bên cạnh có trên địa bàn quận Hoàng Mai,
cũng có những nhóm tội phạm thực hiện hành vi CGTS bằng hình thức dàn cảnh,
đánh lạc hướng làm chủ sở hữu mất cảnh giác qua đó lợi dụng cơ hội để chiếm đoạt
tài sản. Tuy nhiên, trên địa bàn quận còn có những tổ chức ổ, nhóm tội phạm CGTS
hoạt động liên tục quanh khu vực hai bến xe. Một số ổ nhóm từ các tỉnh ngoài như
Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định sáng di chuyển bằng xe khách lên Hà
Nội thực hiện hành vi cướp giật rồi tối về các tỉnh sinh hoạt và tiêu thụ tang vật.
Mặc dù chính quyền địa phương cùng các cơ quan hữu quan trong đó có VKSND
quận Hoàng Mai tích cực tuyên truyền, phối hợp chặt chẽ nhằm quản lý, điều tiết
nhưng với mật độ tăng lên nhanh chóng trong một thời gian dài dẫn đến tình hình
tội phạm ngày một tăng cao. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa cũng tác động không
nhỏ đến tính hình tội phạm trên địa bàn quận trong thời gian này. Với tốc độ hoàn
thành các dự án căn hộ chung cư như HH Linh Đàm, Times City, Gamuda ... đã
khiến mật độ dân cư tại địa bàn quận tăng lên nhanh chóng dễ gây nên mất trật tự
công cộng cụ thể trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2017 tỷ lệ tội CGTS đã gần
44
gấp đôi:186%, số vụ CGTS đã tăng từ 14 vụ/08 bị can đến 19 vụ/13 bị can vào năm
2016 và đỉnh điểm là năm 2017 với 26 vụ/21 bị can. Đánh giá được diễn biến khách
quan của tình hình tội phạm, khối các cơ quan nội chính quận Hoàng Mai đã cùng
phối hợp, đề ra các biện pháp như thành lập đội trực luân phiên 24/24 tại các bến xe
nhằm làm giảm sự trắng trợn của các băng nhóm tội phạm; cắt cử những cán bộ có
kinh nhiệm tham gia khám nhiệm hiện trường nếu có đảm bảo tính nhanh chóng khi
có sự việc xảy ra... Những biện pháp trên đã có những chuyển biến tích cực cụ thể
vào năm 2018, số vụ CGTS đã giảm xuống còn 31% (08 vụ so với 26 vụ) so với
cùng kỳ năm 2017.
Số lượng tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Hoàng Mai luôn là
một trong những loại tội phạm chiếm số lượng lớn nhất trong tổng số vụ án xảy ra
trên địa bàn. Tội phạm xâm phạm sở hữu về số lượng chỉ kém các loại tội phạm về
ma túy chiếm khoảng 52% tổng số vụ án trên địa bàn mỗi năm. Tuy nhiên, nếu xét
về mức độ, hành vi nguy hiểm cho xã hội thì tội phạm xâm phạm sở hữu lại có mức
độ nguy hiểm cao. Bởi trong các loại tội phạm ma túy trên địa bàn thì hầu hết là các
vụ tàng trữ trái phép chất ma túy với số lượng nhỏ lẻ, không ảnh hưởng nhiều đến
cộng đồng, trật tự an toàn xã hội còn với các tội phậm phạm sở hữu đặc biệt với tội
cướp giật tài sản và cướp tài sản còn gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của
chủ sở hữu. Mặc dù trong những năm qua chưa có vụ án nào dẫn tới chết người
nhưng càng ngày, mức độ trắng trợn cũng như hung hãn của các băng nhóm phạm
tội ngày một gia tăng và độ tuổi phạm tội của các đối tượng ngày một trẻ hơn cụ thể
như trong giai đoạn 2015 đến năm 2019, số bị can chưa đủ 18 tuổi phạm tội cướp
tài sản và CGTS là: 15 đối tượng thì riêng trong năm 2019 là: 06 đối tượng chiếm
40% tổng số đối tượng.
Nếu chúng ta so sánh tội CGTS với các tội phạm khác trong chương các tội
xâm phạm sở hữu thì tỷ lệ tội CGTS chiếm tỷ lệ khá cao chỉ kém tội trộm cắp tài
sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ thể, số liệu kiểm sát điều tra tội CGTS trên địa
bàn quận Hoàng Mai như sau:
45
Khởi tố Truy tố Tạm đình chỉ Đình chỉ Năm Vụ án Bị can Vụ án Bị can Vụ án Bị can Vụ án Bị can
2015 14 08 06 08 0 0 0 0
2016 19 13 11 13 08 02 0 0
2017 26 21 17 18 15 01 0 0
2018 08 06 06 11 04 0 0 0
2019 10 11 08 11 04 01 0 0
Tổng 77 59 48 61 31 04 0 0
2.2 Số liệu giải quyết án Cướp giật tài sản trên địa bàn quận Hoàng Mai. Nguồn:
Báo cáo tổng kết các năm VKSND quận Hoàng Mai.
Theo số liệu trên, có thể thấy số vụ án CGTS mỗi năm trên địa bàn quận
Hoàng Mai có số lượng không lớn so với tổng số vụ án thụ lý mỗi năm của cả cơ
quan. Trong giai đoạn 2015 đến 2019, tỷ lệ các vụ án CGTS chỉ chiếm 3,4% tổng số
thụ lý của VKSND quận Hoàng Mai. Tuy nhiên, quá trình đấu tranh với tội phạm
CGTS luôn là cuộc chiến cam go ngay cả với chính các cơ quan tiến hành tố tụng
trên địa bàn quận Hoàng Mai. Với quyết tâm từ Viện trưởng tới các KSV và các cán
bộ luôn nỗ lực, cố gắng đảm bảo việc phân hóa TNHS một cách chính xác.
Công tác KSĐT trong việc quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, trước khi
tiếp nhận hồ sơ vụ án và quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của CQĐT thì đa
số nội dung vụ việc đã được KSV phụ trách kiểm sát việc tạm giữ hoặc KSV phụ
trách tin báo nắm bắt từ trước. Khi KSV thụ lý trực tiếp KSĐT tiếp nhận, KSV phải
nghiên cứu kỹ toàn bộ nội dung, chứng cứ, hành vi CQĐT đã tiến hành thu thập,
xác minh, kết hợp với trao đổi với bộ phận kiểm sát bắt giữ hay kiểm sát tin báo để
đánh giá tổng quan về căn cứ khởi tố vụ án. Trước khi ra quyết định phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can, KSV phải tiến hành phúc cung bị can làm cơ sở, căn cứ
cho quyết định. Bộ luật TTHS năm 2003 lần đầu tiên bổ sung một điều mới quy định
cụ thể trách nhiệm của VKS và được tiếp tục kế thừa và phát huy cụ thể hóa tại Điều
46
179 trong Bộ luật TTHS năm 2015. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc
khởi tố vụ án, khởi tố bị can, nếu xét thấy các các quyết định khởi tố vụ án, bị can
không có căn cứ, trái pháp luật, VKSND quận Hoàng Mai luôn kiên quyết, bảo vệ
quan điểm với việc ra quyết định huỷ bỏ các quyết định khởi tố vụ án, bị can trên.
Theo báo cáo thống kê của VKSND quận Hoàng Mai, trong giai đoạn từ năm
2015 đến năm 2019, VKSND quận Hoàng Mai đã tiến hành áp dụng pháp luật và ra
quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can phạm tội CGTS đối với 59 trường
hợp. Tuy hành vi phạm tội của các đối tượng phức tạp nhưng với sợ nỗ lực của KSV
nói riêng và của toàn bộ cơ quan nói chung đã đảm bảo 100% số các quyết định của
VKS là có căn cứ, không làm oan sai người vô tội, đảm bảo pháp luật được thi hành
nghiêm minh.
Công tác KSĐT trong việc Quyết định truy tố bị can ra TA để xét xử; quyết
định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can phạm tội CGTS.
- Quyết định truy tố bị can ra TA để xét xử. Sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ án và
kết luận điều tra đề nghị truy tố các bị can phạm các tội ma túy của CQĐT ra TA để
xét xử, KSV phải nghiên cứu kỹ toàn bộ hồ sơ vụ án, hệ thống lại các chứng cứ.
Đặc biệt hiện tại vụ án trọng điểm, phức tạp bị can là người chưa thành niên, các bị
can phản cung không nhận tội, bị can đề nghị tội đặc biệt nghiêm trọng, KSV
thường trực tiếp hỏi cung lại bị can để kiểm tra căn cứ kết luận hành vi phạm tội của
bị can, đồng thời nắm bắt thêm được tình hình sức khoẻ, tư tưởng cũng như thái độ
tâm lý của bị can từ đó giúp cho KSV chuẩn bị tốt giải quyết vụ án.
Theo báo cáo thống kê của VKSND quận Hoàng Mai từ năm 2015 đến năm
2019, VKSND quận Hoàng Mai đã ADPL ra quyết định truy tố 48 vụ, 61 bị can
phạm tội CGTS ra TA để xét xử (năm 2015 truy tố 06 vụ, 08 bị can; năm 2016 truy tố
11 vụ, 13 bị can; năm 2017 truy tố 17 vụ, 18 bị can; năm 2018 truy tố 06 vụ, 11 bị
can và năm 2019 truy tố 08 vụ, 11 bị can). Với số liệu thống kê ở trên cho thấy số vụ
án, bị can phạm tội CGTS mà VKS quận Hoàng Mai hàng năm truy tố ra TA để xét
xử có chiều hướng tăng dần, năm sau thường tăng hơn năm trước đặc biệt năm 2017
với số lượng tăng đột biến. Với số lượng vụ án, bị can tương đối lớn, tập thể Lãnh
đạo viện và toàn thể công chức VKSND quận Hoàng Mai luôn cố gắng, nỗ lực đảm
47
bảo hàng năm truy tố 100% các vụ án, bị can phạm tội CGTS xảy ra trên địa bàn,
luôn đảm bảo các quyết định truy tố chính xác, có căn cứ vững chắc, đúng pháp luạt
không để xảy ra oan sai. Thực tế chứng minh trong những năm qua, các vụ án mà
VKSND quận Hoàng Mai đề nghị truy tố, không có vụ án nào TA tuyên không phạm
tội, không có bản án nào bị TA cấp trên hủy án để điều tra lại.
- Đối với công tác kiểm sát việc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can phạm tội
CGTS của CQĐT Công an quận Hoàng Mai. Khởi tố vụ án hình sự đối với các bị
can phạm tội CGTS là sự kiện pháp lý mở ra toàn bộ quá trình hoạt động điều tra vụ
án tuy nhiên, trong quá trình điều tra, nếu thấy có một trong các trường hợp được
quy định tại Điều 248 Bộ luật TTHS năm 2015 thì vụ án phải bị đình chỉ, khép lại
toàn bộ hoạt động điều tra vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án nếu thấy có mootjt rong
các trường hợp quy định tại Điều 247 Bộ luật TTHS năm 2015 thì vụ án phải bị tạm
đình chỉ để bổ sung chứng cứ đối với từng bị can hoặc toàn bộ vụ án.
Theo số liệu thống kê của VKSND quận Hoàng Mai, số vụ án, bị can phạm
tội CGTS mà CQĐT đình chỉ là: 00 vụ, 00 bị can; Số vụ án, bị can phạm các tội về
CGTS mà CQĐT tạm đình chỉ điều tra là: 31 vụ, 04 bị can (năm 2015: 00 vụ, 00 bị
can; năm 2016: 08 vụ, 02 bị can; năm 2017: 15 vụ, 01 bị can; năm 2018: 04 vụ, 00 bị
can và năm 2019 truy tố 04 vụ, 01 bị can).
Số liệu trên co thấy, số lượng vụ án hình sự, bị can CQĐT đã khởi tố là
tương đối lớn tuy nhiên số lượng vụ án, bị can phải tạm đình chỉ hay đình chỉ không
nhiều và tất cả các quyết định tạm đình chỉ hay đình chỉ đối với vụ án nói chung và
bị can nói riêng đều được VKSND quận Hoàng Mai kiểm sát một cách chặt chẽ,
đúng pháp luật từ thủ tục. Trong đó, các bị can bị tạm đình chỉ, đình chỉ do mắc
bệnh hiểm nghèo hoặc tâm thần đều đã có quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt
buộc ngay sau đó. Đối với trường hợp phải tạm đình chỉ vì lý do bị can trốn thì dưới
sự giám sát của VKS, CQĐT đều ban hành quyết định truy nã và có thông báo kịp
thời đến chính quyền địa phương theo đúng quy định của pháp luật. Thực tế thì hầu
hết tất cả các vụ án bị can phạm tội CGTS trên địa bàn quận Hoàng Mai đều vì lý
do chưa rà soát được đối tượng. Kết quả đạt được nêu trên là do những nguyên nhân
chủ quan và khách quan tuy nhiên theo tác giả thì nguyên nhân chính là việc phối
48
hợp giữa các cơ quan tư pháp trong quận với sự quan tâm sát sao của VKSND Tối
cao bởi Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chủ động phối hợp với các cơ quan tư
pháp Trung ương ban hành các Thông tư liên ngành hướng dẫn thi hành BLHS và
Bộ luật TTHS. Quan hệ phối hợp giữa VKS với CQĐT ở giai đoạn này mang tính
chất bắt buộc, được thực hiện trên cơ sở quy định của Bộ luật TTHS và các văn bản
pháp luật quy định về quan hệ phối hợp giữa VKS với CQĐT trong giải quyết các
vụ án hình sự cũng như các văn bản hướng dẫn xử lý vi phạm, tội phạm CGTS.
Những ưu điểm nổi bật của quan hệ phối hợp giữa VKS với CQĐT trong
giai đoạn điều tra vụ án trên địa bàn quận Hoàng Mai trong những năm qua là:
CQĐT tội phạm CGTS với VKS đã chủ động phối hợp ngay từ khi có dấu hiệu
phạm tội CGTS cho nên ngày càng phát hiện, khám phá được nhiều vụ án ma túy,
tỏng đó có số vụ đông bị can, hành vi phạm tội trên địa bàn khác nhau, hậu quả của
hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
+ Phối hợp trong quá trình giải quyết án sau kết thúc vụ án. Quan hệ phối
hợp của VKS và CQĐT trong giai đoạn này những năm qua có nhiều biến chuyển
tích cực. VKS đã chủ động hơn trong việc trao đổi và thông báo kết quả giải quyết
án với CQĐT.
Cơ chế phối hợp giữa VKS và CQĐT được thực hiện trên cơ sở quy định
trong Bộ luật TTHS và văn bản hướng dẫn. Ở giai đoạn này chủ yếu VKS thông báo
kết quả xử lý (đình chỉ, điều tra, tạm đình chỉ hoặc truy tố) cho CQĐT biết. Thời gian
qua, Viện kiểm sát đã chú trọng hơn đến phố hợp sau kết thúc điều tra, chất lượng
giải quyết án ở giai đoạn điều tra được nâng cao.
Ưu điểm: Trong giai đoạn này hồ sơ ở VKS, trách nhiệm chính thuộc về
KSV, thực tế cho thấy mặc dù số án CGTS không nhiều nhưng thời hạn hồ sơ ở
VKS rất hạn chế, KSV đã thể hiện tính chủ động trong xử lý công việc, nghiên cứu
kỹ hồ sơ kết thúc, thận trọng đánh giá chứng cứ (cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ
gỡ tội) nên đã có đề xuất xử lý đúng. Sau khi nhận hồ sơ kết thúc điều tra, KSV đã
quan tâm đến việc xây dựng cáo trạng, đảm bảo truy tố đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Trong quá trình KSĐT, KSV đặc biệt chú trọng đến án đình chỉ điều tra
49
và tạm đình chỉ điều tra, các trường hợp phải đình chỉ điều tra thường trao đổi với
ĐTV để nắm chắc các căn cứ đình chỉ và qửi quyết định đình chỉ cho CQĐT.
2.3 Nhận xét hoạt động kiểm sát điều tra đối với tội cướp giật tài sản tại thực tiễn quận Hoàng Mai
2.3.1 Những yếu tố tác động đến kết quả đạt được
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với ngành tư pháp, thời gian qua,
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động tố
tụng hình sự và công tác của VKS ngoài những Bộ luật, còn có những Nghị quyết,
hướng dẫn và giải thích của các cơ quan chức năng. Đó là kim chỉ nang dẫn đường
cho cán bộ ngành Kiểm sát nói chung để thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn được
giao phó.
Bên cạnh Đảng và Nhà nước, VKSND tối cao cũng phối hợp cùng các cơ
quan tư pháp Trung ương ban hành nhiều Thông tư liên tịch hướng dẫn việc ADPL
cũng như ban hành nhiều quyết định, chỉ thị và các thông báo rút kinh nhiệm với
mục đích nâng cao năng lực cho từng cán bộ Kiểm sát. Trong đó, đã hoàn chỉnh và
ban hành các Quy chế về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các
vụ án hình sự...Đặc biệt các cơ quan Trung ương gần đây đã ban hành Thông tư liên
tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19 tháng 10 năm 2018 quy định
về phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS trong việc thực hiện một số quy định của
Bộ luật TTHS và quy chế số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 hướng dẫn công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố là cơ sở quan
trọng cho toàn bộ đơn vị trong ngành nói chung và VKSND quận Hoàng Mai nói
riêng có được cơ sở vững chắc khi thực thi công vụ cũng như phối hợp với các cơ
quan hữu quan trong quá trình giải quyết vụ án.
Qua sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra, đơn vị họp định kỳ rà soát án
hoặc họp đột xuất với Cơ quan điều tra để kịp thời chỉ đạo, giải quyết các vụ án lớn,
phức tạp, đông bị can, án truy xét nhằm nắm chắc nội dung từng vụ án, đảm bảo
thời hạn tố tụng. Trong các đợt cao điểm phòng, chống tội phạm về ma túy, đơn vị
đã chủ động bố trí cán bộ, kiểm sát viên tham gia giải quyết các vụ án về CGTS,
nhằm tăng cường lực lượng, sẵn sàng phối hợp với cơ quan điều tra trong việc phê
50
chuẩn bắt, giữ để phục vụ công tác đấu tranh tội phạm ma túy trong những đợt cao
điểm này. Đặc biệt quan tâm, chú trọng trong việc xử lý tội phạm có tổ chức, đường
dây tội phạm; từ người thực hiện đến người tiêu thụ tài sản nếu chiếm đoạt được
của chủ sở hữu. Những cơ sở kinh doanh tài sản do người khác phạm tội mà có
cũng phải bị xử lý đúng theo quy định của pháp luật. Quyết tâm xử lý băng, ổ,
nhóm tội phạm CGTS tận gốc, không để tái lập các tụ điểm phức tạp.
Với việc chủ động nắm bắt tình hình địa bàn và phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan trong lĩnh vực tư pháp trong nhiều hoạt động nên tiến độ giải quyết án
CGTS trên địa bàn quận Hoàng Mai luôn được đảm bảo về mặt thủ tục và thời hạn
do luật định, đảm bảo chất lượng ngày càng được nâng cao, khắc phục dần sai sót
và hạn chế vi phạm hoạt động tố tụng.
Những ưu điểm nổi bật của quan hệ phối hợp giữa VKS với CQĐT trong
giai đoạn điều tra vụ án là: CQĐT với VKS đã chủ động phối hợp ngay từ khi có
dấu hiệu tội phạm CGTS cho nên ngày càng phát hiện, khám phá mở rộng được
nhiều vụ án CGTS, trong đó có số vụ đông bị can, hành vi phạm tội trên địa bàn
khác nhau, hậu quả của hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Cơ chế phối hợp giữa VKS và CQĐT được thực hiện trên cơ sở quy định
trong Bộ luật TTHS và văn bản hướng dẫn. Ở giai đoạn này chủ yếu VKS thông
báo kết quả xử lý (đình chỉ, điều tra, tạm đình chỉ hoặc truy tố) cho CQĐT biết.
Thời gian qua, VKS đã chú trọng hơn đến phối hợp sau kết thúc điều tra, chất lượng
giải quyết án ở giai đoạn điều tra được nâng cao.
VKSND quận Hoàng Mai chủ động phối hợp đặc biệt với CQĐT nhưng
cũng không bao che, dung túng cho những vi phạm của các cơ quan tư pháp đặc
biệt là CQĐT Công an quận Hoàng Mai. Mỗi cán bộ VKS đều mở sổ tích lũy vi
phạm và sẽ tổng hợp làm kiến nghị đến thủ trưởng CQĐT Công an quận CQĐT
Công an thành phố nếu thấy cần thiết với mục đích nâng cao chất lượng điều tra,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo đúng quy định của pháp luật.
Trong những năm qua, VKSND quận Hoàng Mai đã có nhận thức đúng về
chức năng, nhiệm vụ của mình, cũng như ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác
KSĐT trong giai đoạn điều tra tội phạm CGTS. Do đó, quá trình KSĐT ở giai đoạn
51
điều tra các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội phạm CGTS nói riêng đã
được đặc biệt quan tâm, được tiến hành theo kế hoạch, có sự tập trung chỉ đạo
thường xuyên, liên tục. VKSND quận Hoàng Mai đã quán triệt đến từng cán bộ,
Kiểm sát viên trong đơn vị nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày
27/11/2019 về công tác phòng, chống tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật, công
tác của VKSND; TAND và công tác thi hành án; Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày
6/12/2013 về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm; Quy chế
số 07 ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện KSND Tối cao về công tác THQCT
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự; Quy chế
số 115 ngày 16/8/2012 của Viện trưởng Viện KSND thành phố Hà Nội về tổ chức
và hoạt động của Viện KSND thành phố Hà Nội.
2.3.2 Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được đã nêu trên, hoạt động KSĐT ở giai đoạn
điều tra đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội phạm CGTS nói
riêng của VKSND quận Hoàng Mai thời gian qua còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế,
đó là: Một số vụ việc tin báo tội phạm việc giải quyết bị kéo dài, quá trình giải
quyết Cơ quan Cảnh sát điều tra không thông báo cho VKS để biết phối hợp. Có
những vụ nhận được tin báo không xác minh kịp thời để đối tượng tẩu thoát, xóa
dấu vết dẫn đến không xử lý được. Có một số vụ việc CQĐT có xác minh, nhưng
không ra quyết định giải quyết dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Bản chất của tội phạm
CGTS rất kiều lĩnh, táo tợn nên quần chúng nhân dân biết hành vi phạm tội của
chúng nhưng bởi nhiều lý do như chúng đã kịp tẩu thoát, quần chúng nhân dân
không kịp nhận dạng đối tượng dẫn tới nhiều tình huống đáng buồn như quần chúng
nhân dân không khai báo, coi như của đi thay người dẫn tới việc tội phạm không
được xử lý kịp thời. Có trường hợp trên địa bàn quận Hoàng Mai, quần chúng nhân
dân sống gần những tụ điểm tội phạm, ổ nhóm cướp giật biết được nơi ở của ổ
nhóm nhưng vì tâm lý lo sợ, tránh va chạm cũng như sợ bị trả thì nên nhiều khi có
phẫn nộ, tức giận nhưng cũng không dám tố cáo.
52
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật TTHS năm 2015, VKS là
cơ quan duy nhất được pháp luật quy định thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp; có quyền quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, bị can một
cách độc lập, không phải chịu sự ràng buộc bởi bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào tuy
nhiên thực tế, số vụ án, bị can do VKS trực tiếp khởi tố, yêu cầu khởi tố đối với tội
phạm CGTS không nhiều.
Trong quá trình KSĐT vụ án trong một số vụ án phức tạp quá trình điều tra
CQĐT không cung cấp tài liệu để KSV nghiên cứu trước mà đến khi kết thúc điều
tra mới đưa sang VKS, với thời hạn KSĐT khắt khe như hiện nay nếu KSV không
xử lý kịp thì buộc phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Điều này có nhiều nguyên
nhân chủ quan và khách quan như một số vụ án đông bị can nhưng thời hạn để VKS
tiến hành thủ tục truy tố lại không nhiều dẫn đến việc trả điều tra bổ sung để có
thêm thời hạn giải quyết. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả thì phần lớn việc
dẫn đến phải trả điều tra bổ sung là do trong quá trình điều tra, KSV không sát sao
đến dẫn đến không đưa ra được những yêu cầu điều tra chính xác đến khi hồ sơ kết
thúc không thể đảm bảo về mặt thời hạn cũng như nội dung vụ án.
Như chúng ta đều biết Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn quan tâm đối với
hoạt động của các Cơ quan tư pháp nói chung, đối với ngành Kiểm sát nhân dân nói
riêng; đó cũng là yêu cầu, đòi hỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với ngành
Kiểm sát và các cơ quan tư pháp khác phải không ngừng nỗ lực phấn đấu để nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của mình, hạn chế, tiến tới khắc phục tình trạng bắt
giữ, giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử oan, sai, trái pháp luật. Do vậy, một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay là
phải tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong hoạt động tố tụng giải quyết
án hình sự của các cơ quan tư pháp nói chung và hạn chế trong KSĐT ở giai đoạn
điều tra đối với các tội phạm CGTS của VKSND quận Hoàng Mai nói riêng để đưa ra
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong hoạt động này.
2.3.3 Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
* Nguyên nhân khách quan:
53
- Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp còn chưa đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Trong thời gian qua, tuy đã nhận được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước, của Lãnh đạo quận Hoàng Mai nhưng cơ sở vật chất, điều kiện,
trang thiết bị làm việc tại trụ sở của cán bộ ngành Kiểm sát ở địa phương còn chưa
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, chưa có đơn vị nào xây dựng được phòng ghi âm,
ghi hình,... để phù hợp với quy định pháp luật tố tụng và yêu cầu cải cách tư pháp
hiện nay. Chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp, trợ cấp chức danh, chức vụ hiện
nay tuy đã được quan tâm những vẫn chưa đáp ứng được biến động giá cả thị
trường cũng như đến việc yên tâm công tác, thực hiện nhiệm vụ của KSV.
- Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, tình hình tội phạm diễn ra trên
địa bàn quận Hoàng Mai cũng ngày càng phức tạp, tuy lượng án hình sự mới khởi
tố có xu hướng giảm nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng nghiêm trọng,
thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi. Nhiều vụ án có nhiều đối tượng tham gia cấu
kết với nhau theo tính chất băng, ổ, nhóm trên nhiều lĩnh vực, địa bàn hoạt động
ngày càng mở rộng. Xuất hiện nhiều loại tội phạm mới, nhiều vụ án liên quan đến
hoạt động kinh tế, chuyên ngành rất phức tạp, gây thiệt hại cho nhiều người. Tội
phạm có xu hướng ngày càng trẻ hóa, số vụ thanh, thiếu niên phạm tội tăng xảy ra
trên nhiều địa điểm. Ngoài ra, với đặc thù là một quận có lượng người nước ngoài
đến sinh sống và làm việc tại quận Hoàng Mai khá đông, công tác thực hành quyền
công tố với các vụ án có yếu tố nước ngoài cũng là một khó khăn không nhỏ.
- Vẫn còn tình trạng KSV chưa làm hết trách nhiệm trong việc thực hiện các
quyền năng của VKS nên đã ảnh hưởng trực tiếp không nhỏ đến chất lượng của
công tác KSĐT chẳng hạn như trong công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường,
tử thi, nhiều khi sự tham gia của KSV nhưng mới chỉ dừng lại ở vai trò chứng kiến
nên có những trường hợp có chứng cứ phục vụ cho việc buộc tội bị can không được
thu thập ngay từ khi khám nghiệm mà VKS không phát hiện được để yêu cầu thu
thập nên có một số vụ án sau khi khởi tố bị thiếu các chứng cứ quan trọng nhưng
không còn có điều kiện khắc phục được dẫn đến khó khăn cho việc xử lý, thậm chí
có vụ án phải đình chỉ. Nguyên nhân một phần do KSV trực tiếp khám nghiệm hiện
trường không thường xuyên làm KSĐT vụ án hình sự mà làm ở một bộ phận khác
54
như dân sự, hành chính, thương mại ... dẫn đến việc khám nghiệm sơ sài, thiếu chặt
chẽ.
- Mặc dù những năm gần đây, được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà
nước, công tác xây dựng pháp luật ở nước ta đã có nhiều tiến bộ nhưng do nhiều lý do
khác nhau nên quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự qua thực tiễn còn
bộc lộ nhiều sơ hở, bất cập,thiếu thống nhất, quá trình thực hiện gặp nhiều vướng
mắc; chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Sự hướng dẫn của
liên ngành Trung ương cũng như của Viện KSND tối cao trong thực hiện các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự; Bộ luật hình sự và các văn bản pháp luật có liên
quan khác có lúc chưa kịp thời, còn nhiều vướng mắc khó khăn trong áp dụng.
Ngoài ra, công tác điều hành, chỉ đạo từ Viện KSND tối cao, Viện KSND cấp cao
đối với các Phòng nghiệp vụ Viện KSND thành phố; từ Phòng nghiệp vụ Viện
KSND thành phố đối với các Viện KSND quận, huyện đôi lúc còn chưa kịp thời,
sâu sát, cụ thể; ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác thực hành quyền công
tố.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Trình độ, năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ, KSV còn những
hạn chế, yếu kém nhất định. Vẫn còn có những KSV chưa nắm vững những quy
định của pháp luật hình sự, TTHS và những văn bản liên quan; còn lúng túng trong
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Khả năng nghiên cứu hồ sơ vụ án,
kỹ năng phát hiện vấn đề còn chưa tốt; tính chủ động chưa cao, chưa thực sự bám
sát quá trình điều tra, còn phụ thuộc vào kết quả điều tra.
- Ý thức trách nhiệm của một bộ phận KSV chưa được phát huy đúng mức
với công việc được giao, chưa thực hiện đầy đủ các quy trình nghiệp vụ cũng như
quy định của BLTTHS. Yêu cầu điều tra có lúc còn sơ sài, chung chung, không đầy
đủ, rõ ràng dẫn đến kết quả điều tra chưa đáp ứng được yêu cầu để truy tố, xét xử.
Dẫn đến việc không nắm được đầy đủ, tỉ mỉ các tình tiết buộc tội và gỡ tội của bị
can, không phát hiện những chứng cứ còn thiếu, những chứng cứ còn mâu thuẫn để
kịp thời.
55
- Lãnh đạo một số đơn vị đôi khi còn thiếu sự kiểm tra, đôn đốc, sát sao hoạt
động của Kiểm sát viên trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, dẫn đến việc chưa chỉ
đạo kịp thời, những thiếu sót của Kiểm sát viên trong quá trình thực hành quyền
công tố không được phát hiện kịp thời để chấn chỉnh, khắc phục ngay, nhất là đối
với những vụ án cần phát huy trí tuệ tập thể, những vụ án vướng mắc trong việc
đánh giá chứng cứ, xác định giữa có tội và không có tội.
- Công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ của Viện KSND tỉnh đối với các
Viện KSND cấp huyện còn nặng về tính hình thức, mang tính đối phó để hoàn
thành chỉ tiêu công tác hoặc còn hiện tượng nể nang, “anh em trong ngành”. Còn
một số trường hợp Viện KSND tỉnh trả lời thỉnh thị hay hướng dẫn nghiệp vụ còn
chung chung, chưa sát, chưa kịp thời.
- Quan hệ phối hợp giữa VKS và CQĐT, giữa Điều tra viên và Kiểm sát viên
có vụ chưa chặt chẽ, việc đánh giá chứng cứ, tội danh, nhất là đối với những vụ án
phức tạp để bổ sung, khắc phục trước khi kết thúc điều tra chưa kịp thời.
- Công tác bố trí, sắp xếp và sử dụng cán bộ của một số đơn vị còn chưa hợp
lý, thiếu tính khoa học nên chưa phát huy được năng lực, sở trưởng công tác của
từng cán bộ, KSV.
- Hoạt động tổng kết rút kinh nghiệm, xây dựng chuyên đề, tổ chức các buổi
tập huấn của VKS hai cấp trong việc nâng cao chất lượng hoạt động thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự được chú trọng thực hiện
nhưng hiệu quả không cao, còn nặng về báo cáo số liệu hoặc lý thuyết chung chung
mà chưa rút ra được những bài học kinh nghiệm thực tiễn cho KSV học hỏi, vận
dụng vào công tác.
56
Kết luận chương 2
Về tổng quan, Công tác KSĐT ở giai đoạn điều tra đối với các tội phạm
CGTS của VKSND quận Hoàng Mai với sự nổ lực của tập thể đơn vị đã có nhiều
chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả tốt trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm, góp phần quan trọng bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo
vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của cải cách tư pháp, Công tác KSĐT ở giai đoạn
điều tra của của VKSND quận Hoàng Mai những năm qua còn không ít những hạn
chế, tồn tại, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực trình độ của một bộ phận cán bộ,
KSV còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác. Vì vậy, yêu cầu phải nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động ADPL trong Kiểm sát điều tra ở giai đoạn điều
tra của VKSND Hoàng Mai là một yêu cầu cấp thiết. Do đó, đề ra các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay cũng như hiệu
quả, trong công tác KSĐT ở giai đoạn điều tra đối với các vụ tội phạm CGTS của
VKSND quận Hoàng Mai.
57
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN QUẬN HOÀNG MAI
3.1 Một số phương hướng góp phần nâng cao kiểm sát hoạt động điều tra đối với tội cướp giật tài sản tại địa bàn quận Hoàng Mai
Trong những năm qua tình hình hoạt động của tội phạm CGTS trên địa bàn
quận Hoàng Mai diễn biến hết sức phức tạp. Các tổ chức, ổ nhóm tội phạm thường
móc nối với nhiều cửa hàng tại nhiều tỉnh thành trên cả nước nhằm tiêu thụ tài sản
do phạm tội mà có. Hoạt động KSĐT các vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và tội
phạm CGTS nói riêng của VKS đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh đó. Để
thực hiện trách nhiệm của mình và đạt tới mục tiêu, chủ thể của hoạt động trên là
KSV cần quán triệt các quan điểm cơ bản về KSĐT đối với tội phạm CGTS, đó là
phải quán triệt quan điểm của Đảng, chính sách Hình sự của Nhà nước trong xử lý tội
phạm về CGTS.
Căn cứ vào các văn bản pháp luật cũng như thực tiễn tổ chức bộ máy nhà
nước ta từ trước đến nay có thể thấy rõ rằng Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đánh
giá đúng mức vai trò của các cơ quan tư pháp nói chung, của VKS nói riêng. Trong
mọi giai đoạn cách mạng, cùng với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, Đảng ta luôn chú trọng đến việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp trong đó có VKS. Thời gian qua, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi
xướng đã mang đến cho đất nước ta những cơ hội và điều kiện thuận lợi mới… Tuy
nhiên, nền kinh tế thị trường với xu thế hội nhập cũng bộc lộ những mặt trái của nó
với những ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ, là mảnh đất tốt cho rất nhiều loại tội
phạm phát triển với quy mô ngày càng lớn và tính chất ngày càng nguy hiểm, trong
khi đó công tác quản lý nhà nước của ta còn nhiều yếu kém, trình độ dân trí còn
thấp, ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn chưa cao nên nhiệm vụ đặt ra
cho các cơ quan tư pháp rất nặng nề. Trong bối cảnh đó, với nhận thức về vai trò
quan trọng của các cơ quan tư pháp, Đảng ta đã chủ trương cải cách tư pháp nhằm
củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động của nền tư pháp nước nhà. Chủ trương
đúng đắn đó thể hiện tại các chỉ thị và nghị quyết khác nhau của Bộ Chính trị liên
58
tục được ban hành: Chỉ thị 53-CT /TW ngày 21/3/2000 Về một số công việc cấp
bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Nghị quyết 08-NQ/
TW ngày 02/102002 Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời
gian tới, Nghị quyết số 48-NQ-TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Các chỉ thị, nghị quyết này - nhất là Nghị quyết 08 - nghị quyết đầu tiên của Bộ
Chính trị về cải cách tư pháp đã đánh giá một cách khách quan tình hình an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đổi mới của đất nước, xác định rõ
vị trí và tầm quan trọng của công tác tư pháp trong giai đoạn cách mạng mới, đánh
giá đúng mức các kết quả và những đóng góp của công tác tư pháp trong thời gian
vừa qua và cũng nhìn nhận một cách khách quan những vấn đề yếu kém tồn tại
trong công tác tư pháp, xác định rõ nguyên nhân của các yếu kém tồn tại đó và nêu
rõ các quan điểm chỉ đạo nhằm khắc phục để tạo ra những bước chuyển biến mạnh
mẽ trong công tác tư pháp với mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân
dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm
là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Thể hiện sự quyết
tâm của toàn Đảng ta với công cuộc đấu tranh với tội phạm.
Thông qua hoạt động KSĐT đối các tội phạm CGTS, VKS phải tìm ra nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, có hay không sự xúi giục, tính chất, mức độ tội phạm thực
tế đã gây ra mà quyết định TNHS cụ thể đối với người phạm tội. Có như vậy hoạt động
KSĐT của VKS mới phát huy hết tác dụng giáo dục đồng thời đấu tranh phòng, chống
loại tội phạm CGTS gây ra.
- Việc KSĐT đối các tội phạm CGTS của VKSND quận Hoàng Mai phải căn
cứ vào diễn biến tình hình tội phạm và những yêu cầu của công tác đấu tranh tội
phạm trên địa bàn tỉnh trong điều kiện về kinh tế và văn hoá có bước phát triển mới.
Để thực hiện quan điểm trên, cần chú ý những nội dung cơ bản sau:
+ Diễn biến tình hình tội phạm CGTS trên địa bàn thành phố Hà Nội nói
chung và quận Hoàng Mai nói riêng ngày càng phức tạp. Việc KSĐT của VKS đối
59
với loại tội phạm này phải dựa trên cơ sở đánh giá đúng diễn biến tình hình, xác
định chính xác các nguyên nhân, điều kiện phạm tội để quyết định việc xử lý, đảm
bảo hiệu quả. Phải xử lý nghiêm khắc với người cầm đầu, chỉ huy. Đảm bảo pháp
luật phải được thực thi một cách nghiêm minh, công bằng, bình đẳng.
Thông qua hoạt động KSĐT tội phạm CGTS, VKS kiến nghị các ngành hữu
quan có những biện pháp quản lý, giáo dục và ngăn ngừa tội phạm tội có hiệu quả.
Cụ thể: Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa và phát hiện các vụ CGTS được
thực hiện bởi các ổ, nhóm có tổ chức, các cơ quan chức năng cần đánh giá, dự báo
tình hình và làm tốt một số nội dung sau:
+ Phát hiện và kịp thời khắc phục các sơ hở thiếu sót của các bến xe, hoạt
động của các nhà xe trong việc kiểm tra, giám sát đồng thời hoàn thiện các quy định
pháp luật có liên quan đến nguyên tắc, quy trình bán vé, soát vé cũng như nâng cao
tinh thần cảnh giác đối với người dân tham gia di chuyển liên tỉnh qua các bến xe
nơi tập trung nhiều băng nhóm tội phạm CGTS. Tăng cường kiểm soát đối với
những người thường xuyên di chuyển trên một tuyến xe cố định bởi có những ổ
nhóm CGTS, cư trú tại một địa phương nhưng hàng ngày sử dụng xe khách liên tỉnh
tập trung tại địa bàn quận Hoàng Mai nhằm thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản rồi
tối lại trở về địa phương mình cư trú để tiêu thụ tài sản. Mặt khác, trong thời gian
tới chúng ta cũng phải có quy chế quản lý chặt chẽ hơn các đơn vị, công ty được
nhà nước cho phép làm công tác vận tải.
+ Qua công tác nắm tình hình cũng như thực tế các vụ phát hiện, bắt giữ tội
phạm CGTS hoạt động tại các bến xe, các cơ quan chức năng cần tiến hành nghiên
cứu và tổng kết để đưa ra các nhận định, dự báo về các tuyến, địa bàn trong phạm vi
khu vực và trong toàn thành phố có nguy cơ cao dễ bị các đối tượng phạm tội lợi
dụng để tổ chức phạm tội CGTS, phương thức thủ đoạn phạm tội của chúng, đặc
điểm về đối tượng phạm tội từ đó đề ra các kế hoạch cụ thể và hợp lý trong phòng
ngừa và đấu tranh với loại tội phạm này.
+ Các cơ quan hữu quan cần thường xuyên tuyên truyền, phố biển tới toàn
thể nhân dân về phương thức, thủ đoạn của bọn tội phạm CGTS hoạt động dựa trên
những sơ hở của chủ tài sản bên cạnh đó cần bồi dưỡng, nâng cao trình độ đối với
60
cán bộ, công nhân viên trong toàn thể các ban ngành nhằm phát hiện, kiểm tra đối
với các đối tượng tình nghi tránh để hậu quả đáng tiếc xảy ra.
3.2 Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hoạt động kiểm sát điều
tra tội cướp giật tài sản tại địa bàn quận Hoàng Mai 3.2.1. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí minh đã từng dạy “Cán bộ là cái gốc của mọi
việc”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Thực hiện lời
dạy của Người, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng tới công
tác tổ chức cán bộ, trong đó có công tác tổ chức cán bộ trong các cơ quan tư pháp.
Các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã
nêu rõ việc đổi mới công tác cán bộ là một trong những biện pháp đặc biệt quan
trọng để VKS làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nước, sự chỉ đạo của cấp ủy và Viện KSND tối cao, trong nhiều năm qua Viện
KSND thành phố Hà Nội luôn xác định công tác tổ chức cán bộ là nhiệm vụ trọng
tâm đột phá của đơn vị. Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý và công tác
kiện toàn tổ chức bộ máy ở VKS hai cấp luôn được Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo
Viện KSND thành phố Hà Nội thường xuyên quan tâm, chỉ đạo sát sao. Các cán bộ
được quy hoạch và bổ nhiệm trong những năm qua đều là những đồng chí thực sự
nổi trội về năng lực, đạo đức, lối sống; có triển vọng phát triển. Việc thực hiện điều
động, luân chuyển, biệt phái cán bộ được thực hiện thường xuyên, dân chủ, công
khai theo đúng quy trình đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng đơn vị, trong đó quan
tâm bổ sung lực lượng cho các đơn vị cấp huyện được tăng thẩm quyền. Công tác
đào tạo, bồi dưỡng luôn được tập trung đẩy mạnh, chỉ đạo sát sao, từng bước nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của KSV hai cấp. Nhờ những nỗ lực này, đến
nay cơ cấu tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, KSV Viện KSND hai cấp thành phố Hà
Nội đã có những chuyển biến tích cực, cơ bản đáp ứng được yêu cầu công tác, đặc
biệt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, so
với yêu cầu nhiệm vụ ngày càng vất vả của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và
61
cải cách tư pháp thì công tác tổ chức cán bộ VKS quận Hoàng Mai còn bộc lộ một
số hạn chế: Việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ còn chậm; cơ chế, phương pháp,
quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ vẫn là khâu yếu,
chưa được thực sự quan tâm. Số lượng cán bộ lãnh đạo quản lý và dự nguồn quy
hoạch được luân chuyển còn ít; một số ít cán bộ giữ chức vụ ở một đơn vị đã gần 2
nhiệm kỳ và không có chiều hướng phát triển, song chậm được điều động bố trí ở vị
trí công tác khác phù hợp hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm,
đầu tư thực hiện nhưng chưa thực sự hiệu quả, thiếu chiều sâu. Công tác kiện toàn
bộ máy tổ chức Viện KSND hai cấp đôi lúc còn chưa hợp lý, chưa phát huy được
hết năng lực, sở trường của từng cán bộ, KSV. Để khắc phục những hạn chế trên,
công tác tổ chức cán bộ cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, chỉ có đánh giá đúng, thực chất cán bộ
mới bố trí, sử dụng cán bộ một cách hợp lý nhằm phát huy năng lực của cán bộ.
Đánh giá cán bộ là yếu tố thường xuyên trong quá trình quy hoạch, luân chuyển,
đào tạo và bố trí sử dụng cán bộ. Phải lấy hiệu quả hoạt động thực tiễn của mỗi cán
bộ, làm thước đo chủ yếu đánh giá cán bộ. Thực hiện mở rộng dân chủ, công khai,
minh bạch trong đánh giá. Đối với lãnh đạo quản lý phải xem xét kết quả chỉ tiêu
công tác của đơn vị, lĩnh vực được phân công phụ trách để đánh giá, nhất là vai trò
trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị. Việc đánh giá phải sát thực, tránh hoặc dĩ
hòa vi quý nên qua loa đại khái hoặc thiên vị, hoặc bình quân cào bằng bởi đó đều
sẽ là các nguyên nhân triệt tiêu mọi động lực phấn đấu. Không đánh giá theo cảm
tính hoặc vì nể nang, né tránh, cục bộ... mà đánh giá sai sự thật đối với cán bộ, nhất
là lực lượng cán bộ dự nguồn, cán bộ quy hoạch, luân chuyển hoặc dự kiến bổ
nhiệm. Thực hiện việc đánh giá đúng năng lực, sở trường của từng cán bộ một cách
công tâm, công bằng giúp cho việc bố trí, sắp xếp cán bộ phát huy được sở trường
của mình từ đó hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Gắn với công tác đánh giá cán
bộ là công tác thi đua – khen thưởng. Công tác thi đua – khen thưởng cần thực chất,
công bằng, dựa trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ của mỗi cá nhân, tập thể.
- Chú trọng thực hiện tốt công tác luân chuyển, điều động, biệt phái cán bộ,
KSV giữa hai cấp VKS thành phố hà nội và VKS quận Hoàng Mai, đặc biệt theo
62
hướng tăng cường cho VKS cấp cơ sở. Việc luân chuyển, điều động, biệt phái cán
bộ, KSV phải được tiến hành một cách dân chủ, công khai, hiệu quả; cán bộ được
luân chuyển, điều động, biệt phái cần được bố trí công việc phù hợp để phát huy tốt
nhất năng lực, kinh nghiệm công tác của mình. Đây là khâu công tác quan trọng;
bảo đảm thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng toàn diện và sử dụng có hiệu quả đội ngũ
cán bộ; tạo điều kiện cho cán bộ trẻ, có triển vọng được rèn luyện trong thực tiễn;
tăng cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc phục tình trạng cục
bộ trong công tác cán bộ, khép kín trong từng địa phương cũng như phòng ngừa tiêu
cực trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của KSV
tại các đơn vị cấp quận, huyện.
- Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:
+ Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ. Lãnh đạo các đơn vị cấp
quận, huyện và cấp Phòng phân công KSV có trình độ, năng lực, kinh nghiệm trực
tiếp kèm cặp, hướng dẫn nghiệp vụ cho các KSV, Kiểm tra viên mới được bổ
nhiệm, chuyên viên mới được tuyển dụng theo hình thức cầm tay chỉ việc để nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và rèn luyện kỹ năng nghề cho đội ngũ cán bộ
trẻ. Tích cực phối hợp với Tòa án tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm (đặc biệt là
các phiên tòa rút kinh nghiệm trực tuyến) để cán bộ, KSV hai cấp tham dự, học hỏi,
nâng cao chất lượng, kỹ năng xét hỏi, tranh tụng của KSV tại phiên tòa. Tổ chức
các buổi sinh hoạt chuyên đề, trọng tâm là KSV, Kiểm tra viên mới được bổ nhiệm,
chuyên viên mới được tuyển dụng nhằm nâng cao ý thức chủ động tự nghiên cứu,
học tập, kỹ năng trình bày, thuyết trình của đội ngũ cán bộ trẻ. Bản thân mỗi KSV
phải tự mình thường xuyên cập nhật, tích lũy kinh nghiệm, trau dồi kiến thức pháp
lý và về các lĩnh vực khác để phục vụ cho việc thực hiện công tác chuyên môn;
thường xuyên trao đổi, học hỏi các KSV có kinh nghiệm để nâng cao kỹ năng nghề
nghiệp, kinh nghiệm của người đi trước được thế hệ sau tiếp cận và phát huy.
+ Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cụ thể, hiệu quả, lâu dài và
có chiều sâu, chú trọng chất lượng, không nóng vội, không chỉ chạy theo hình thức
và số lượng. Kiểm sát viên phải là người nắm vững pháp luật, có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ tốt, có các kỹ năng nghiệp vụ phục vụ tốt cho việc thực hiện các
63
nhiệm vụ được giao. Để đáp ứng được yêu cầu trên, cần phải chú trọng phối hợp
hoặc mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng các kỹ năng nghiệp vụ hoặc quán triệt, phổ
biến các bộ luật tư pháp, các văn bản pháp luật mới cho cán bộ, KSV hai cấp trong
toàn thành phố; định kỳ cử cán bộ, KSV tham gia các lớp đào tạo chuyên sâu theo
các chuyên đề trực tiếp phục vụ cho nhu cầu công việc hoặc theo các chuyên đề
thực tế đòi hỏi kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra tất cả các loại
tội phạm nói chung và tội phạm CGTS nói riêng; khuyến khích, tạo điều kiện cho
đội ngũ cán bộ trẻ đã có bằng cử nhân luật tham gia lớp đào tạo nghiệp vụ kiểm sát;
đi học nâng cao trình độ nghiệp vụ và có chế độ ưu đãi phù hợp với họ; có kế hoạch
định kỳ đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ lâu năm.
Ngoài ra, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới cũng như yêu
cầu hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ; cần chú trọng mở các
lớp bồi dưỡng Ngoại ngữ, Tin học văn phòng, công nghệ thông tin,...đặc biệt với
đặc thù có nhiều người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại quận Hoàng Mai
như hiện nay. Tích cực cử các cán bộ, KSV đủ năng lực chuyên môn, trình độ ngoại
ngữ tham gia cùng lực lượng KSV của thành phố Hà Nội các đề án trao đổi, đào tạo
cán bộ, KSV các nước có nền tư pháp tiên tiến, có nền công tố mạnh để đào tạo về
kiến thức pháp luật quốc tế, kỹ năng chuyên ngành và ngoại ngữ.
+ Tổ chức các cuộc thi nâng cao kỹ năng của KSV, đặc biệt là về công tác
thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp như Cuộc thi viết Cáo
trạng, luận tội tại phiên tòa hình sự; bài phát biểu của KSV tại phiên tòa dân sự,
hành chính; qua đó đánh giá được chất lượng, kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ cán
bộ, KSV Viện kiểm sát hai cấp và năng lực sở trường của từng đồng chí để có kế
hoạch phân công, bố trí cán bộ cho phù hợp.
- Một trong những khó khăn, vưỡng mắc làm hạn chế hiệu quả công tác thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của ngành Kiểm sát Hà Nội hiện nay là
do tình trạng thiếu biên chế. Số lượng án hình sự có xu hướng tăng mỗi năm, tính
chất, mức độ nguy hiểm ngày càng phức tạp. Trong khi đó so với nhu cầu nhân lực
để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp theo Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nhất là việc bổ sung
64
các nhiệm vụ theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì nhân lực ngành Kiểm sát
nhân dân còn thiếu rất nhiều. Nhiều cán bộ, KSV ở một số phòng, một số đơn vị
VKS cấp huyện phải thụ lý kiểm sát số lượng án hình sự khá lớn, đồng thời phải
thực hiện rất nhiều khâu công tác khác như: số hóa hồ sơ, dữ liệu, làm báo cáo
thống kê theo theo kỳ hoặc đột xuất phục vụ chỉ đạo, điều hành của VKSND Tối
cao hoặc Quốc Hội. Số lượng công việc nhiều dẫn đến hiệu quả công việc không
cao. Do đó, việc bổ sung biên chế, chỉ tiêu KSV (sơ cấp, trung cấp) cho ngành
Kiểm sát thành phố Hà Nội là điều cần thiết để nâng cao hiệu quả KSĐT trong giai
đoạn điều tra. Tuy nhiên, việc phân bổ biên chế cần được tính toán hợp lý, khách
quan trên cơ sở số lượng vụ, việc tăng thực tế của mỗi đơn vị. Tránh tình trạng đơn
vị ít việc được phân bổ nhiều biên chế định biên trong khi đơn vị nhiều việc lại
được phân bổ ít biên chế.
Song song với việc bổ sung biên chế, công tác cán bộ vẫn phải đáp ứng tinh
thần của Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản
biên chế và cơ cấu lại đội ngũ của cán bộ, công chức, viên chức, thực hiện chủ
trương “ít mà tinh”. Để làm được điều trên thì cần phải thực sự minh bạch, khách
quan trong công tác tuyển dụng công chức, bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Công
tác tuyển dụng công chức hàng năm cần được thực hiện một cách mở rộng, công
khai, minh bạch, tạo điều kiện cho những cán bộ thật sự tốt cho ngành; ưu tiên các
cán bộ đã tốt nghiệp đã tốt nghiệp chính quy các cơ sở đào tạo Luật và Đại học
Kiểm sát, đã được tuyển chọn chặt chẽ đầu vào và được hưởng chất lượng đào tạo
hàng đầu về các công tác tư pháp. Tất nhiên khi đánh giá năng lực không tuyệt đối
hóa tiêu chuẩn bằng cấp song không thể phủ nhận rằng bằng cấp chính là những cơ
sở của nền móng tri thức mà tri thức pháp luật lại là nguồn tạo ra năng lực thực thi
nhiệm vụ của các KSV. Việc bổ nhiệm các chức danh tư pháp cũng cần tuân thủ
một quy trình chặt chẽ và chất lượng hơn, đảm bảo những cán bộ thực sự có trình
độ, năng lực, phẩm chất đạo đức mới được đảm nhiệm các chức danh tư pháp, thực
hành quyền công tố xuyên suốt các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự.
3.2.2. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; nâng cao trách nhiệm
người đứng đầu; phân định trách nhiệm trong công tác kiểm sát điều tra
65
Với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, công tác điều hành và quản lý, chỉ đạo đều
đóng vai trò rất quan trọng. Đối với VKS - Cơ quan mà một trong các nguyên tắc
hoạt động cơ bản của nó là tập trung thống nhất thì vai trò của người lãnh đạo lại
càng có ý nghĩa quan trọng. Điều 7 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định
“VKSND do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo
của Viện trưởng VKSND cấp trên. Viện trưởng các VKS cấp dưới chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.” [20, tr.15] Điều 41 BLTTHS năm
2015 quy định “Viện trưởng VKS có nhiệm vụ, quyền hạn: a) Trực tiếp tổ chức và
chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự. Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS
không được ủy quyền cho Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.”
[7, tr.32] Như vậy, có thể thấy rõ trong hoạt động của VKS, công tác quản lý, chỉ
đạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định chất lượng và hiệu quả của công tác
kiểm sát. Vì vậy, để nâng cao chất lượng KSĐT yêu cầu về việc nâng cao năng lực
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của đội ngũ lãnh đạo VKS hai cấp trong toàn thành phố
là yêu cầu tất yếu, trong đó bao gồm cả sự hướng dẫn, chỉ đạo của Lãnh đạo, các
Phòng nghiệp vụ VKS thành phố và sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Lãnh đạo các
VKS quận Hoàng Mai sẽ tác động trực tiếp tới tác phong làm việc, thi hành công vụ
của toàn thể cán bộ công chức, người lao động đang làm việc tại VKS.
Viện trưởng VKS các cấp là người chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và
chịu trách nhiệm chung về toàn bộ công tác của đơn vị. Trên cơ sở quản lý chung,
Viện trưởng sẽ nắm bắt được toàn bộ các đầu việc và các vấn đề trong đơn vị để chỉ
đạo và điều hành. Ngoài ra, Viện trưởng cũng là người thường xuyên trực tiếp các
thao tác nghiệp vụ như nghe báo cáo và cho ý kiến chỉ đạo đối với các đề xuất giải
quyết án của KSV, sát sao nhất là các vụ án phức tạp để kịp thời chỉ đạo, tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc của KSV; trực tiếp thực hành quyền công tố và kiểm sát các
vụ án phức tạp, được dư luận quan tâm; chủ trì và cho ý kiến quyết định tại các
cuộc họp liên ngành thống nhất quan điểm giải quyết án, xác định vụ án trọng
điểm;... Thực tiễn cho thấy trong quan hệ phối hợp với các cơ quan tư pháp trong
66
công tác KSĐT tiếng nói của người lãnh đạo là vô cùng quan trọng; kiến thức
nghiệp vụ vững vàng, phẩm chất trong sáng, lập trường kiên định của người lãnh
đạo cùng phương pháp làm việc vừa linh hoạt, mềm mỏng vừa kiên quyết, dám chịu
trách nhiệm của VKS là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho các KSV khi thực hiện
công vụ; thể hiện vị thế của VKS. Do vậy, có thể thấy trách nhiệm của đội ngũ lãnh
đạo VKS hai cấp là vô cùng nặng nề. Để làm tốt nhiệm vụ của mình, Viện trưởng
VKS hai cấp phải là người những người hơn ai hết nhận thức thấu đáo về chức năng
nhiệm vụ của ngành, các tư tưởng chỉ đạo, các yêu cầu của Đảng và Nhà nước đối
với công tác kiểm sát; có phẩm chất đạo đức, có vốn sống, biết nhìn xa trông rộng,
gần gũi và nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của từng cán bộ, KSV, sâu sát với
công việc, biết nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan và công minh để phân loại
và bồi dưỡng hoặc chọn ra được các cán bộ, KSV tốt; biết bố trí sắp xếp nhân lực
một cách khoa học, như vậy mới tận dụng được nguồn lực một cách tối đa. Ngoài ra
còn phải là KSV tốt, có kiến thức pháp lý, có tay nghề vững vàng, không chỉ biết
quản lý và trực tiếp điều hành tốt các công việc trong phạm vi trách nhiệm của mình
mà còn phải có năng lực chỉ đạo kịp thời và chính xác công tác giải quyết án của
KSV.
Ngoài sự lãnh đạo trực tiếp của Viện trưởng thì một yếu tố ảnh hưởng không
nhỏ ảnh hưởng đến chất lượng kiểm sát điều tra của VKS cấp dưới là sự hướng dẫn,
chỉ đạo của VKS cấp trên, cụ thể ở đây là của các phòng nghiệp vụ VKS thành phố,
của Viện Hình sự VKS cấp cao và các Vụ nghiệp vụ của VKS tối cao. Tuy nhiên,
trên thực tế công tác này vẫn còn mang tính hình thức và chưa thật sự hiệu quả.
Công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ của Viện KSND cấp trên với Viện KSND
cấp dưới cần phải làm thường xuyên, cả định kỳ và bất thường, tránh hình thức,
thông qua công tác kiểm tra kịp thời phát hiện những thiếu sót, tồn tại; để từ đó sẽ
phát hiện được các vấn đề thiếu sót thậm chí sai phạm để chỉ đạo, hướng dẫn, chấn
chỉnh kịp thời, rút kinh nghiệm chung; khắc phục tình trạng chạy theo thành tích
không báo cáo đầy đủ kết quả công tác. Những vấn đề nội dung thỉnh thị của Viện
KSND cấp dưới về những khó khăn vướng mắc như định tội danh, quan điểm xử lý
vụ án, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS, tái phạm, tái phạm nguy hiểm,
67
Viện KSND cấp trên cần chú ý trả lời chính xác, đúng thời hạn. Viện KSND cấp
trên dám chịu về nội dung trả lời của mình, tránh trả lời chung chung, không cụ thể
để trốn tránh trách nhiệm. Không để xảy ra trường hợp trả lời thỉnh thị bị kéo dài,
không kịp thời, không đáp ứng được yêu cầu, gây khó khăn trong quá trình giải
quyết án. Làm tốt công tác tập huấn nghiệp vụ cho các VKS cấp dưới về các văn bản
hướng dẫn nghiệp vụ; thực hiện tốt các chế độ thông tin báo cáo nghiệp vụ theo quy
chế, tăng cường công tác nắm tình hình thông qua các kênh thông tin đại chúng, nâng
cao chất lượng báo cáo tuần, tháng, quý, 6 tháng, một năm, báo cáo chuyên đề, báo cáo
tại các kỳ họp Quốc hội và HĐND các cấp. Đồng thời, tăng cường sơ kết và tổng kết
công tác chuyên môn và cần nghiên cứu đê có các đề tài khoa học sát thực, huy động
sự tham gia đóng góp ý kiến của các VKS cấp cơ sở để tổng kết thực tiễn, tìm ra các
vấn đề vướng mắc, trên cơ sở đó hướng dẫn hoặc kiến nghị với liên ngành Trung ương
có hướng dẫn cụ thể.
Ngược lại, chất lượng và hiệu quả của công tác chỉ đạo và điều hành của lãnh
đạo VKS còn phụ thuộc nhiều vào chất lượng công tác tham mưu của các KSV -
những chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án. Vì vậy, cần
đồng thời vừa đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất lại vừa đảm bảo phát huy
được tính chủ động và sáng tạo của các Kiểm sát viên. Muốn vậy, trong quy chế
nghiệp vụ của mỗi đơn vị cần phải có sự phân định cụ thể quyền và trách nhiệm cho
các cán bộ, KSV để nhằm vừa tạo điều kiện cho họ phát huy năng lực, sở trường và
sự độc lập, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trong công việc, vừa tránh tư tưởng né
tránh, đùn đẩy trách nhiệm, ỷ lại vào cấp trên vì viện lý do thực hiện nguyên tắc tập
trung thống nhất một cách máy móc, vừa đảm bảo được tối đa nguyên tắc tập trung
thống nhất. Đó cũng chính là quan điểm chỉ đạo và là những yêu cầu, nhiệm vụ mà
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Đảng về cải cách tư pháp đặt ra: “Phân định rõ thẩm
quyền quản lý hành chính với trách nhiệm quyền hạn tư pháp trong hoạt động tư
pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và
thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nghiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.” [3,
tr.4]
68
3.2.3. Tăng cường trách nhiệm kiểm sát điều tra trong hoạt động điều tra,
nâng cao mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới,
thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp (Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005); Thông
tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 quy định về:
“Phối hợp giữ cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy
định của Bộ luật TTHS”. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm; bảo đảm việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế thấp
nhất việc bỏ lọt tội phạm, kiên quyết không để xảy ra án oan, sai.
Ngay sau khi ban hành, Viện KSND thành phố Hà Nội đã tổ chức họp trực
tuyến quán triệt, triển khai đến toàn thể cán bộ, công chức, KSV trong đơn vị hai
cấp thành phố để thống nhất nhận thức về sự cần thiết và ý nghĩa của việc tăng
cường trách nhiệm của KSV trong hoạt động điều tra. VKS quận Hoàng Mai đã tiến
hành cuộc họp cơ quan; hai ngành cùng với CQĐT với sự chủ trì của đồng chí Viện
trưởng nhằm tiếp thu và triển khai tinh thần của thông tư liên tịch. Trong nhiều
năm, Viện KSND quận Hoàng Mai luôn xác định nội dung KSĐT trong giai đoạn
điều tra là nhiệm vụ trọng tâm. Trong suốt những năm qua Viện KSND quận Hoàng
Mai đều chủ động báo cáo, tranh thủ sự chỉ đạo của cấp ủy địa phương tạo cơ sở
cho hoạt động phối hợp giữa CQĐT và VKS cùng cấp bảo đảm thực chất, hiệu quả.
VKS cũng đã tăng cường phối hợp giữa Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các
quy định của BLTTHS năm 2015, đặc biệt đối với các quy định mới liên quan đến
thẩm quyền tăng thêm; tăng cường công tác đào tạo, tập huấn chuyên sâu về
phương pháp, kỹ năng kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra; phối hợp với các
cơ quan hữu quan tổng kết thực tiễn, rút kinh nhiệm từ quá trình thực hiện các quy
chế phối hợp về tăng cường trách nhiệm của KSV trong hoạt động điều tra. Kết quả
bước đầu đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức, góp phần nâng cao chất
lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự; không để xảy ra án oan,
sai, bỏ lọt tội phạm; hạn chế thấp nhất án trả hồ sơ điều tra bổ sung; kịp thời phát
69
hiện và xử lý những vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, được dư
luận xã hội quan tâm,... Tuy nhiên, việc tăng cường trách nhiệm của KSV trong
hoạt động điều tra và công tác phối hợp với CQĐT của VKS quận Hoàng Mai vẫn
còn những tồn tại, hạn chế như: KSV còn thụ động, trong một số vụ án còn chưa kịp
thời đề ra yêu cầu điều tra để hỗ trợ Điều tra viên, định hướng cho hoạt động điều
tra; hoặc đã ban hành nhưng chất lượng không đảm bảo, không kịp thời đôn đốc
CQĐT thực hiện; việc xét, phê chuẩn và ban hành các quyết định tố tụng còn để kéo
dài, chưa bảo đảm chất lượng; số vụ án VKS trả CQĐT do thiếu chứng cứ vẫn đáng
kể, kéo dài thời gian giải quyết án;...
Nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm của KSV trong hoạt động điều tra;
bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật; không làm
oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm,… Viện KSND quận Hoàng Mai cần phải
làm tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, tranh thủ triệt để sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện KSND tối cao,
từng bước tranh thủ và nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, Đảng trong công
tác KSĐT, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Thứ hai, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ hơn, gắn chặt hơn với CQĐT, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong các giai đoạn như: kiểm sát việc tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố; trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố các vụ án hình sự. Quá trình giải quyết nếu có khó khăn, vướng
mắc thì kịp thời phối hợp thống nhất giải quyết đảm bảo đúng pháp luật, không để
xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Thứ ba, VKS quận Hoàng Mai cần nâng cao trách nhiệm người đứng dầu,
thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo, điều hành, thực hiện
nghiêm chế độ, quy trình duyệt bán, báo cáo án bảo đảm cơ chế giám sát chặt chẽ.
Phải thận trọng hơn, kiên quyết hơn trong việc xét phê chuẩn, ban hành các quyết
định tố tụng; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức,
bản lĩnh và lương tâm nghề nghiệp cho đội ngũ KSV trong ngành; quan tâm đúng
70
mức và thực hiện có hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, bảo đảm liêm chính,
công khai, minh bạch, phòng ngừa cho hiệu quả tham nhũng, tiêu cực trong quá
trình giải quyết tin báo, tố giác, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.
Thứ tư, KSV phải thường xuyên linh động trong việc áp dụng các phương
pháp KSĐT các vụ án hình sự, đảm bảo thực hành chức năng, nhiệm vụ sớm hơn,
chặt chẽ hơn; có sự phối hợp chặt chẽ hơn, gắn chặt hơn với ĐTV trong quá trình
điều tra, thu thập chứng cứ. Chủ động, kịp thời đề ra các yêu cầu điều tra chất
lượng, hỗ trợ, định hướng cho hoạt động điều tra; tăng cường hoạt động trực tiếp
kiểm sát việc thu thập chứng cứ của KSV và thực hiện tốt thẩm quyền tiến hành
một số hoạt động điều tra (hỏi cung, lấy lời khai,...) để đánh giá tính khách quan của
các chứng cứ do CQĐT thu thập. Không để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Thứ năm, tăng cường phối hợp với các cơ quan tư pháp, đặc biệt là CQĐT rà
soát, kiến nghị để VKS thành phố Hà Nội sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng các Quy
chế phối hợp liên ngành cho phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương và quy
định mới của pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho KSV, ĐTV trong quá trình
giải quyết vụ án; duy trì việc tổ chức các cuộc họp liên ngành nhằm bàn bạc, trao
đổi, thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, tìm ra giải pháp khắc phục các
vướng mắc, thống nhất quan điểm về nhận thức và áp dụng pháp luật trong giải
quyết các vụ án, đồng thời kiểm điểm chỉ rõ trách nhiệm để xảy ra thiếu sót của
ĐTV, KSV và Thẩm phán để rút kinh nghiệm. Định kỳ tổ chức các hội nghị sơ kết,
tổng kết thực hiện các quy chế phối hợp liên ngành, rút ra những bài học kinh
nghiệm cần thiết.
3.2.4. Tăng cường về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Viện kiểm
sát và hoàn thiện chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ ngành Kiểm sát.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng công tác kiểm
sát nói chung và công tác KSĐT nói riêng là cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và
chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ ngành Kiểm sát. Đảng ta đã chỉ đạo tạo
điều kiện rất nhiều cho các hoạt động của các cơ quan tư pháp “Tăng cường đầu tư
cơ sở vật chất đảm bảo cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm
vụ, có chế độ chính sách hợp lý với cán bộ tư pháp..". Với tinh thần trên, trong
71
những năm qua, Viện KSND quận Hoàng Mai đã nhận được nhiều sự quan tâm, hỗ
trợ, đầu tư về cơ sở vật chất của địa phương và Viện KSND thành phố, cơ sở vật
chất và trang thiết bị làm việc của Viện KSND quận Hoàng Mai đã có sự cải thiện
rõ rệt. Trụ sở làm việc của Viện KSND được sửa chữa, cải tạo hoặc xây mới; mua
sắm các trang thiết bị làm việc đủ để phục vụ các công tác chuyên môn. Chính sách
đãi ngộ đối với cán bộ ngành Kiểm sát được quan tâm tạo điều kiện, các khoản tiền
trực, tiền bồi dưỡng phiên tòa, công tác phí,... được tăng lên theo thời giá.
Tuy nhiên cơ sở vật chất, điều kiện, trang thiết bị làm việc tại trụ sở làm việc
của Viện KSND quận Hoàng Mai nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
quy định trong các đạo luật tư pháp mới. Hiện chưa xây dựng được phòng ghi âm,
ghi hình, các trang thiết bị ghi âm, ghi hình phục vụ cho công tác điều tra, kiểm sát,
xét xử cũng chưa được trang bị đầy đủ, đồng bộ; chưa thực hiện được việc số hóa
được hồ sơ,... Một số cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện phục vụ công tác còn
thiếu như: nhà công vụ, công cụ hỗ trợ. So với yêu cầu nhiệm vụ thì chế độ trách
nhiệm của các Kiểm sát viên VKS rất nặng nề trong khi đó đồng lương lại thấp,
chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng cho nên đời sống của cán bộ, KSV còn nhiều
khó khăn, nhiều cán bộ, KSV phải chật vật toan lo cho cuộc sống hàng ngày nên
không yên tâm và không nhiệt tình dồn tâm sức cho công tác chuyên môn nên ảnh
hưởng một phần đáng kể đến chất lượng công tác.
Do vậy, cần phải có hướng đầu tư và hỗ trợ hơn nữa để đảm bảo cơ sở vật
chất và các phương tiện làm việc cho VKS như xây dựng, nâng cấp các trụ sở làm;
tăng cường đầu tư và trang bị cơ sở vật chất và các phương tiện để phục vụ công
việc, tăng nguồn kinh phí cấp để hoạt động, chi phí cho việc mua sắm các sách báo
tài liệu để nghiên cứu phục vụ công tác nghiệp vụ. Cần có chính sách tháo gỡ ở tầm
vĩ mô nhằm cải thiện chế độ phụ cấp, đãi ngộ thỏa đáng tương xứng với khối lượng
và tính chất công việc đối với cán bộ kiểm sát.
72
Kết luận chương 3
Để nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra ở giai đoạn điều tra, tác giả đã đưa
ra một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự, trong đó nhấn mạnh việc hướng dẫn các quy định được quy định
hoàn toàn mới để việc áp dụng các quy định này được hiệu quả, thống nhất. Đồng
thời, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp khác như: đổi mới công tác tổ chức cán
bộ, công tác đánh giá cán bộ; đổi mới phương thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ; chú
trọng công tác đào tạo tại chỗ nhằm nâng cao năng lực của cán bộ, KSV làm công
tác kiểm sát điều tra trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Đổi mới công tác quản
lý, chỉ đạo, điều hành; nâng cao trách nhiệm người đứng đầu; phân định trách nhiệm
trong công tác kiểm sát điều tra; tăng cường trách nhiệm kiểm sát điều tra trong
hoạt động điều tra, gắn kiểm sát điều tra với hoạt động điều tra và nâng cao mối
quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS. Mặt khác, các giải pháp liên quan đến vấn
đề cơ sở vật chất như tiền lương, chế độ, điều kiện cơ sở vật chất cũng là một vấn
đề quan trọng. Các giải pháp này góp phần tạo tâm lý ổn định, khích lệ tinh thần
cho các cán bộ Kiểm sát và hạn chế được tham nhũng.
73
KẾT LUẬN
Trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, các Nghị quyết của
Đảng cũng như các văn bản pháp luật của Nhà nước đều nhấn mạnh VKS tập trung
làm tốt chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong đó có KSĐT ở giai đoạn
điều tra các các vụ án CGTS. Bằng việc nghiên cứu và tiếp thu những kiến thức
thực tế cũng như là kiến thực lý luận về KSĐT trong bài viết này cũng đã thể hiện
được một số nội dung như: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về KSĐT ở giai đoạn
điều tra các các vụ án CGTS trên địa bàn quận Hoàng Mai cũng như những vấn đề
lý luận cơ bản nhất về tội CGTS. Những nhận thức chung về KSĐT ở giai đoạn
điều tra là cơ sở để tác giả phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm và các giai đoạn
của quá trình thực hiện chức năng KSĐT của VKSND đối với tội phạm CGTS; khái
niệm, đặc điểm, nội dung của KSĐT ở giai đoạn điều tra các các vụ án CGTS. Phân
tích đánh giá thực trạng KSĐT ở giai đoạn điều tra các vụ án CGTS của VKSND
quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội những năm gần đây. Qua đó rút ra những mặt
tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong công tác này. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng KSĐT ở giai đoạn điều tra các các vụ
án CGTS những năm gần đây, luận văn nêu ra các phương hướng, giải pháp nhằm
bảm bảo KSĐT ở giai đoạn điều tra các vụ án CGTS của VKSND quận Hoàng Mai,
thành phố Hà Nội.
Mặc dù luận văn chưa thực sự đầy đủ và sâu sắc về lý luận, tuy nhiên bằng
kinh nghiệm của người đang trực tiếp công tác và Kiểm sát các hoạt động tư pháp tôi
cũng mạnh dạn đưa ra những giải pháp mang tính áp dụng để cũng tháo gỡ những
khó khăn trong quá trình giải quyết án nhằm đảm bảo việc KSĐT ở VKSND thực sự
phát huy hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và trong tiến
trình cải cách tư pháp của đất nước.
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm
vụ trọng tâm trong công tác tư pháp.
2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 về tinh giản biên
chế và cơ cấu lại đội ngũ của cán bộ, công chức, viên chức.
3. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
4. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.
5. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
6. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003.
7. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015.
8. Đào Thị Điệp (2008), Phê chuẩn của VKSND với các quyết định của CQĐT
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Luật văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
9. Đặng Thanh Bình (2018), Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quân
khu 5, Luận văn thạc sĩ, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
10. Đặng Văn Sỹ (2016), Kiểm sát điều tra các tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người khác, từ thực tiễn quận Đống Đa, Hà Nội.
Luận văn thạc sĩ, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
11. Đoàn Tạ Cửu Long (2015), Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ
án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, Luận văn tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
12. Giáp Thị Nhung (2015), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội.
13. Hiến pháp năm 1959.
14. Hiến pháp năm 2013.
15. Hoàng Phê (2008), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
75
16. Lê Hữu Thể (2005), Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, Tạp chí Luật học 2005,
Hà Nội.
17. Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
18. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
19. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
20. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
21. Nguyễn Công Cường (2016), Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
22. Nguyễn Mạnh Tùng (2016), Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án về ma túy ở thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Mai Nga (2016), Những dấu mốc quan trọng hình thành, phát
triển chế định thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự,
Tạp chí Kiểm sát số 6/2016, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Khánh (2017), Kiểm sát điều tra các tội ma túy theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ luật học,
Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
25. Phan Dương Điệp (2017), Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Hàn
Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
26. Quy chế tạm thời Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố,
điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày
29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
27. Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày
19/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng
quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực
hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015.
76
28. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017), Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm
sát (tập 1).
29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
30. Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Báo cáo 15 năm thực hiện Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
31. VKSND quận Hoàng Mai (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm 2012,
quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
32. VKSND thành quận Hoàng Mai (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm
2013, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
33. VKSND quận Hoàng Mai (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2014,
quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
34. VKSND quận Hoàng Mai (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015,
quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
35. VKSND quận Hoàng Mai (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016,
quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
36. VKSNDTC, Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (Ban hành kèm theo
Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/1/2008 của Viện trưởng Viện
KSND tối cao).
37. Võ Khánh Vinh chủ biên (2012), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình
sự, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
38. Võ Khánh Vinh chủ biên (2014), Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội
phạm, Nxb. khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Võ Khánh Vinh chủ biên (2014), Luật hình sự Việt Nam- Phần chung, Nxb.
khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Võ Thọ (1985), Một số vấn đề về Luật tố tụng hình sự, Nhà xuất bản Pháp
lý, Hà Nội.
77