VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HỒ THỊ NON
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TRÀ BỒNG,
TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN NGỌC HÀ
HÀ NỘI, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của tôi.
Các tài liệu, tư liệu được sử dụng xây dựng luận văn có nguồn rõ ràng, các kết quả
nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi và có độ tin cậy, chính xác cao
nhất đối với phạm vi hiểu biết của tôi.
Quảng Ngãi, ngày tháng năm 2021
Tác giả luận văn
Hồ Thị Non
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ............................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa , vị trí vai trò, chức năng của kiểm sát điều tra vụ
án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác .......................... 7
1.2. Quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát điều
tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ....... 11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TRÀ BỒNG, TỈNH QUẢNG NGÃI .......... 31
2.1. Một số nội dung liên quan hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Trà Bồng ................................................................................................. 31
2.2. Thực tiễn kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác tại huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi .................................... 34
CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VIỆC KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN TRÀ BỒNG, TỈNH QUẢNG NGÃI TRONG THỜI GIAN TỚI
.................................................................................................................................. 66
3.1. Đáp ứng yêu cầu của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động tố tụng hình sự ... 66
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án Cố ý
gây thương tích hoặc gay tổn hại cho sức khỏe của người khác tại huyện Trà Bồng,
tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới ......................................................................... 69
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
2 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
3 VKSNDCC Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
4 CQĐT Cơ quan điều tra
5 TAND Tòa án nhân dân
8 TANDCC Tòa án nhân dân cấp cao
9 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
11 BLHS Bộ luật hình sự
16 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
20 LTCTAND Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
22 LTCVKSND Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
23 ĐTV Điều tra viên
24 KSV Kiểm sát viên
28 NTHTT Người tiến hành tố tụng
29 CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng
30 NTGTT Người tham gia tố tụng
31 NCQL&NVLQ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
32 TACPT Tòa án cấp phúc thẩm
33 HĐXX Hội đồng xét xử
34 HĐXXPT Hội đồng xét xử phúc thẩm
35 Tội CYGTT Tội cố ý gây thương tích
36 Vụ án CYGTT Vụ án cố ý gây thương tích
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệu quả đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm nói chung, đối với
loại tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
nói riêng luôn là vấn đề thời sự trong xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa học và
thi hành pháp luật; điều đó đặt ra trách nhiệm nặng nề đối với hoạt động kiểm sát
điều tra của VKS, nhất là đối với các VKS cấp huyện, trong đó có Viện kiểm sát
nhân dân huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.
Qua nghiên cứu có hệ thống về thực tiễn hoạt động kiểm sát điều tra các vụ
án cố ý gây thương tích của Viện KSND huyện Trà Bồng trong nhiều năm qua cho
thấy, ngoài những ưu điểm nổi bật thì cũng còn không ít những tồn tại, hạn chế
trong quá trình tố tụng kể từ khi tiếp nhận, giải quyết và kiểm sát giải quyết tin báo,
tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, khởi tố điều tra; có trường hợp sau khi kết thúc
điều tra và đề nghị truy tố hoặc sau khi truy tố hoặc tại phiên tòa sơ thẩm VKS
hoặc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm rõ cơ chế hành vi, công cụ phạm tội
để định tội, định khung đúng; Làm rõ, khởi tố bổ sung đồng phạm hoặc chuyển
khung tăng nặng; Giám định bổ sung tỷ lệ thương tật; Xác định hành vi phạm tội có
xuất phát từ quyền phòng vệ chính đáng hay bị hại cũng có lỗi; Làm rõ hậu quả về
dân sự vụ án… mà được chấp nhận. Bên cạnh đó, không ít bản án sơ thẩm và hồ sơ
vụ án thể hiện đề nghị truy tố, cáo trạng và ý kiến đề nghị của KSV tại phiên tòa cơ
bản thống nhất về áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự và được HĐXX chấp
nhận, nhưng Tòa án phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm để
điều tra lại do kháng cáo hoặc VKS cấp trên trực tiếp kháng nghị; khi điều tra lại
dẫn đến thay đổi tội danh hoặc khởi tố bổ sung tội danh, khởi tố thêm người phạm
tội hoặc truy tố khung tăng nặng, bổ sung các chứng cứ quan trọng của vụ án, mà
mỗi hạn chế, sai lầm trên đều có nguyên nhân từ hiệu quả kiểm sát điều tra.
Công cuộc và lộ trình Cải cách tư pháp kể từ khi có Nghị quyết 08 của Bộ
Chính trị đến nay luôn đặt ra những yêu cầu đòi hỏi và thách thức to lớn đối với hệ
1
thống VKSND. Vì thế, để góp phần vào yêu cầu trong phòng, chống tội phạm xâm
hại sức khỏe của công dân nói riêng, tôi chọn đề tài “Kiểm sát điều tra vụ án cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn
huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi” làm Luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tìm hiểu chúng tôi chưa được biết có tác giả nào nghiên cứu đề tài mà
chúng tôi đã chọn ở tầm luận án hoặc luận văn. Chúng tôi chỉ nhận diện được một
số đề tài liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động kiểm sát điều tra, đó là Tiểu
luận tốt nghiệp Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh “Thực tiễn kiểm sát hoạt
động điều tra trong tố tụng hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi”
(2005) Luận văn Thạc sỹ Luật học“Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn xét xử tỉnh Quảng Ngãi” (2015) của Ths. Dương Ngọc An. Xét về các
chức năng của tố tụng hình sự Việt Nam và nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng tôi cho rằng một số đề tài sau đây có liên
quan đến hiệu quả hoạt động kiểm sát điều tra, như Luận văn Thạc sỹ Luật học
“Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ngãi” (2017) của Ths. Trần Minh Tú; Luận văn Thạc sỹ Luật học “Kháng
nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”
(2018) của Ths. Ngô Quang Vũ (2018); Luận án Tiến sĩ luật học “Xét xử sơ thẩm
trong Tố tụng Hình sự Việt Nam” của Võ Thị Kim Oanh; Luận án tiến sĩ luật học
“Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự ở nước ta” của tác giả Nguyễn Văn Du
(Hà Nội, năm 2006)…và nhiều bài viết trên các Báo, Tạp chí khoa học về hoạt
động kiểm sát điều tra.
Các vấn đề nêu trên đều có nội dung cơ bản là phản ảnh hiệu quả hoạt động
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự để thực hiện chức năng của Viện kiểm sát với
những ưu điểm, hạn chế, tồn tại, nguyên nhân và đề ra giải pháp, nhưng chưa đi sâu
ngiên cứu các quy định pháp luật cùng với hoạt động thực tiễn về kiểm sát điều tra
các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn cấp huyện cụ thể với khoảng thời gian 5 năm để chỉ ra những ưu điểm,
2
đồng thời nhận diện những hạn chế và nguyên nhân để từ đó kiến nghị các giải
pháp thiết thực, khả thi có thể ứng dụng trong thi hành pháp luật, nghiên cứu khoa
học, giảng dạy, xây dựng pháp luật và phòng chống tội phạm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát điều
tra vụ án và thực trạng kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi
theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Kiểm sát điều tra vụ án
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn
huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn phải thực hiện
các nhiệm vụ sau:
Làm rõ khái niệm, đặc điểm, phạm vi, ý nghĩa của hoạt động kiểm sát điều
tra vụ án hình sự theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam cũng như vị trí, vai
trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong kiểm sát việc điều tra;
Phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
kiểm sát điều tra vụ án hình sự;
Làm rõ tình hình, đặc điểm có liên quan đến kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trà
Bồng, tỉnh Quảng Ngãi;
Phân tích, đánh giá thực trạng kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trà Bồng, tỉnh
Quảng Ngãi;
Đưa ra được những nhận xét về những ưu điểm và tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân để làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp có tính khả thi;
3
Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả Kiểm sát điều tra vụ án
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn
huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về hoạt động Kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trà Bồng,
tỉnh Quảng Ngãi cả ở phương diện lý luận và thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Tập trung nghiên cứu sâu về Kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trà
Bồng, tỉnh Quảng Ngãi theo quy định của pháp luật TTHS (từ khởi giải quyết tin
báo tố giác về tội phạm, khởi tố vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác, cho đến khi kết thúc điều tra vụ án). Về thời
gian: từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2020. Về địa bàn: huyện Trà Bồng, tỉnh
Quảng Ngãi. Về Chủ thể: VKSND huyện Trà Bồng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác–Lê Nin. Chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật Nhà nước về phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân. Các luận điểm chung của khoa học pháp lý tố
tụng hình sự và khoa học pháp lý khác có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể sau đây:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu thu thập được liên quan đến công tác kiểm
sát nói chung, kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người
khác, từ đó bổ sung luận cứ để hoàn thiện cơ sở lý luận của luận văn.
4
Phương pháp tổng hợp, phân tích các văn bản quy phạm pháp luật, tài liệu lý
luận về công tác kiểm sát điều tra. Từ đó tổng hợp, sắp xếp khoa học để tạo nên các
vấn đề lý luận và quy định pháp luật về công tác kiểm sát điều tra.
Phương pháp thống kê, so sánh để thống kê số liệu thực tiễn về công tác
kiểm sát điều tra các vụ án cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi và tiến hành so sánh, đối chiếu để đánh
giá kết quả đạt được và hạn chế, bất cập trong công tác kiểm sát.
Phương pháp khảo sát thực tiễn: sử dụng lý luận và kết quả các hoạt động tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án để đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp
luật khi kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác,
từ đó đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này.
Phương pháp chuyên gia: trực tiếp xin ý kiến chuyên môn của các Kiểm sát
viên trong đơn vị tiến hành kiểm sát điều tra và đánh giá, nhận xét của họ về những
thuận lợi, khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện.
Phương pháp nghiên cứu điển hình: nghiên cứu các vụ án do VKSND huyện
Trà Bồng kiểm sát điều tra từ năm 2016 đến hết năm 2020, từ đó đưa ra một số vụ
để minh chứng cho những nội dung trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu và các nhu cầu, giải pháp trong Luận văn không những
góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả hoạt động kiểm sát điều
tra các vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
mà còn góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động tố tụng hình sự tại huyện Trà
Bồng, tỉnh Quảng Ngãi để bảo đảm điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật; không bỏ lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội, không
làm sai, góp phần bảo đảm pháp chế thống nhất.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn còn có thể cung cấp thông tin cho người quan tâm để ứng dụng
trong thực tiễn quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
5
trong điều tra, thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
hình sự theo các thủ tục và hoạt động kháng nghị theo tố tụng hình sự, góp phần
nâng cao hiệu quả trong đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn huyện Trà
Bồng nói riêng, trên phạm vi toàn quốc nói chung.
Luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong xây dựng
pháp luật hình sự liên quan đến trách nhiệm chứng minh của các cơ quan và người
tiến hành tố tụng, góp phần tích lũy tri thức, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng,
phục vụ hoạt động quản lý hành chính – tư pháp, ngăn chặn vi phạm trong hoạt
động tư pháp và phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở Đầu, Kết Luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về Kiểm sát điều tra vụ án cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực trạng Kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng
Ngãi.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả Kiểm sát điều
tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa , vị trí vai trò, chức năng của kiểm sát
điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại sức khỏe của người khác.
- Kiểm sát: Theo Từ điển Luật học (tr.259) thì kiểm sát là kiểm tra xem xét
có đúng hay không. Chúng tôi cho rằng: Điều tra vụ án hình sự là hoạt động được
pháp luật tố tụng hình sự quy định. Theo đó, CQĐT và VKS phải thực hiện đầy đủ,
kịp thời, đúng đắn nhiệm vụ, quyền năng và các biện pháp pháp lý để thu thập,
kiểm tra, đánh giá các chứng cứ để giải quyết vụ án khách quan, toàn điện, đầy đủ
và kịp thời, đảm bảo xử lý vụ án đúng người, đúng pháp nhân, đúng tội, đúng pháp
luật; đảm bảo áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội theo quy định của BLTTHS.
Kiểm sát điều tra vụ án hình sự: là hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật của các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh trong giai đoạn điều
tra, nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật, bảo đảm việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác;
những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc phục
kịp thời và xử lý nghiêm minh. Kiểm sát điều tra vụ án tội Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác, là hoạt động của VKSND có thẩm
quyền tiến hành theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của CQĐT, Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các chủ thể liên quan tham gia
trong quá trình điều tra vụ án. VKS phải chủ động áp dụng các biện pháp pháp lý
để can thiệp vào các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng khi yêu cầu điều
tra đặt ra; kịp thời phát hiện và xử lý đúng pháp luật những vi phạm nảy sinh trong
quá trình điều tra để đảm bảo quá trình điều tra phải được tuân thủ, thực hiện theo
7
đúng các quy định của pháp luật để kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, của người bị hại và các chủ thể tham gia tố tụng trong vụ án.
1.1.2. Đặc điểm
Kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của
người khác thể hiện mối quan hệ phối hợp – chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng với nhau trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Kiểm sát điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác
là hoạt động do luật định, trong đó các chủ thể tham gia có quyền và nghĩa vụ pháp
lý được pháp luật quy định và đảm bảo thực hiện để mọi hành vi phạm tội đều phải
được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội.
Kiểm sát điều tra thực chất là phương thức, cách thức, biện pháp thực hiện
quyền lực Nhà nước trong tố tụng hình sự được BLTTHS quy định để góp phần
đảm bảo cơ chế và đạt hiệu quả của quyền công tố và quyền tư pháp của Nhà nước
trong giai đoạn điều tra; bởi vì các hoạt động này đều tập trung vào yêu cầu xác
định có hay không có hành vi phạm tội, ai là người/pháp nhân thực hiện hành vi
phạm tội, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, hệ thống chứng cứ để chứng
minh tội phạm, những tình tiết có liên quan đến vụ án hình sự cần phải chứng minh
theo quy định của pháp luật để xử lý theo pháp luật. Cụ thể là phải làm rõ để kết
luận về những vấn đề phải chứng minh về vụ việc có dấu hiệu tội phạm, vụ án hình
sự theo yêu cầu tại Điều 85 BLTTHS.
Bản chất là kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các
CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra (gọi tắt là CQĐT), những NTHTT và NTGTT trong quá trình điều tra thông tin
về tội phạm, điều tra vụ án hình sự tội CYGTT và việc đưa ra các quyết định, yêu
cầu của VKS để xử lý thông tin về tội phạm, tội phạm và người phạm tội, kể cả
minh oan cho người vô tội.
1.1.3. Ý nghĩa
8
Kiểm sát điều tra nói chung, kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng đảm bảo mọi hoạt động
điều tra diễn ra trên toàn quốc được thống nhất và đồng bộ, đảm bảo nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ở đâu có hoạt động điều tra thì ở đó có hoạt động kiểm
sát điều tra nhằm đảm bảo tính khách quan, toàn diện, hợp pháp, đảm bảo tính pháp
chế trong hoạt động điều tra Việc xác định phạm vi như vậy thể hiện tính đầy đủ,
toàn diện việc kiểm sát điều tra đối với quá trình điều tra và các biện pháp điều tra
cụ thể cũng như các quyết định xử lý của CQĐT. Mặt khác, nó thể hiện đầy đủ bản
chất hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra cũng như việc
nghiên cứu các quyết định cụ thể của CQĐT sau khi kết thúc giải quyết thông tin
về tội phạm, kết thúc điều tra vụ án; từ đó VKS đưa ra các quyết định theo quy định
của pháp luật trong giai đoạn điều tra hoặc sau khi kết thúc điều tra được đúng đắn.
Kiểm sát điều tra loại tội phạm này góp phần bảo đảm quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hoạt động tố tụng hình sự theo Hiến
pháp và pháp luật. Hoạt động này để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong các hoạt
động điều tra của CQĐT; hạn chế thấp nhất sai lầm hoặc sơ suất. Quá trình kiểm
sát điều tra khi phát hiện có vi phạm thì VKS phải sử dụng những quyền năng pháp
lý để tác động tới các chủ thể yêu cầu khắc phục hoặc trực tiếp xử lý vi phạm đó
theo quy định pháp luật. Kiểm sát điều tra để bảo đảm mọi quyết định và hành vi tố
tụng của cơ quan và người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự khi ban
hành đều có căn cứ và hợp pháp theo quy định của pháp luật; góp phần hạn chế
oan, sai; nâng cao tinh thần, trách nhiệm của các cơ quan và người có thẩm quyền
trước hành vi, quyết định tố tụng của mình.
Kiểm sát điều tra loại tội phạm này từng bước góp phần nâng cao uy tín và
vị thế của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hoạt động kiểm sát điều tra nhằm đảm bảo thẩm
quyền điều tra của các CQĐT được thực hiện đúng quy định pháp luật. Hoạt động
kiểm sát điều tra còn đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của những NTGTT trong quá
trình điều tra như: người bị tạm giữ, bị can, bị hại, nhân chứng, ngưởi có quyền lợi
9
và nghĩa vụ liên quan, giám định viên, phiên dịch viên, người bào chữa… nhằm
đảm bảo cho họ có điều kiện, khả năng thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
mình theo quy định pháp luật.
1.1.4. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.4.1. Vị trí, vai trò.
Chính thể nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo nguyên tắc Tập
quyền dân chủ Xã hội chủ nghĩa. Do Quốc Hội làm việc theo chế độ hội nghị và chỉ
trực tiếp thực hiện một số quyền quan trọng, chủ yếu nhất nên Quốc hội thành lập
ra hệ thống cơ quan Chính Phủ, TAND và VKSND thay mặt mình thực hiện chức
năng quản lý hành chính, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp,
xét xử và quyền tư pháp. Xét trong quan hệ với hệ thống cơ quan hành pháp và
Tòa án thì VKS độc lập về tổ chức bộ máy, chức năng nhưng có quan hệ phối hợp
trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, phòng ngừa tội phạm và quá trình
thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhằm góp phần bảo đảm các hoạt động này đúng
pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Hoạt động của VKSND là hình thức hoạt động
của hệ thống cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương chỉ trực thuộc vào
Quốc Hội và chịu sự giám sát của Quốc Hội, của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
1.1.4.2. Chức năng.
Chức năng là một vấn đề căn bản xuyên suốt toàn bộ hoạt động của hệ thống
và quyết định sự tồn tại của VKS, nó thể hiện bản chất hoạt động của VKS; đồng
thời còn là cơ sở để phân biệt hình thức hoạt động của VKSND với hoạt động của
các cơ quan Nhà nước khác. Điều 107 Hiến pháp 2013 và Điều 2 LTCVKSND
năm 2014 quy định chức năng, nhiệm vụ của VKSND.
Về chức năng thực hành quyền công tố: Điều 3 LTCVKSND quy định thực
hành quyền công tố là hoạt động của VKS trong tố tụng hình sự để thực hiện quyền
buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội. Chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp. Theo Điều 4 LTCVKSND, là kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết
định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp để đảm bảo các hoạt
10
động tư pháp được thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật; mọi vi phạm
pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm
minh. Đối tượng khi thực hiện chức năng. Chính là hoạt động tuân thủ pháp luật
của chủ thể trong quá trình tố tụng tư pháp và thi hành án khi các chủ thể này thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền và nghĩa vụ pháp lý trong các quan hệ tố tụng tư
pháp và thi hành án. Tính chất chức năng. Là kiểm sát tối cao; đây là vấn đề có ý
nghĩa bao trùm từ công tác chỉ đạo điều hành đến hoạt động nghiệp vụ cũng như tổ
chức xây dựng hệ thống VKS với mục tiêu duy nhất đảm bảo pháp chế thống nhất..
Căn cứ pháp luật để tiến hành thực hiện chức năng, đó là pháp luật và các văn bản
hướng dẫn, quy định có liên quan, kể cả các quy định pháp luật về hợp tác quốc tế
mà Nhà nước ta ban hành hoặc tham gia ký kết, và các công ước quốc tế mà Nhà
nước ta phê chuẩn với những nội dung bắt buộc các quốc gia thành viên thực hiện
(trừ trường hợp Nhà nước ta đã ra tuyên bố bảo lưu không công nhận, yêu cầu sửa
chữa hoặc hủy bỏ chế định hoặc quy phạm của Điều ước quốc tế đó) để làm căn cứ
nhằm xác định, kết luận hành vi, quyết định của cơ quan tư pháp hữu quan, ban
hành các kết luận, quyết định về tư pháp thuộc thẩm quyền và kịp thời phát hiện,
xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp. Quá trình thực hiện chức năng
cần phải luôn nắm vững chỉ thị, nghị quyết của các cấp Ủy đảng để định hướng cho
hoạt động kiểm sát.
1.1.4.3. Nhiệm vụ.
Là những hoạt động thường xuyên, trước mắt và lâu dài để hướng tới quá
trình thực hiện chức năng được hiến pháp và pháp luật quy định. Khi thực hiện
chức năng, VKS có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định cụ thể của hệ thống pháp
luật. Mục đích, yêu cầu của thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS là góp phần
nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về
kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
11
1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
được quy định tại Điều 134 thuộc Chương XIV về các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của BLHS hiện hành. Cụ thể là:
Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác: 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí
nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; b) Dùng a-xít
nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết
là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; d) Đối
với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh
cho mình; đ) Có tổ chức; e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; g) Trong thời gian đang
bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp
tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi
phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng
hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do được thuê; i) Có tính chất côn đồ; k) Đối với người đang thi
hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm
đến 06 năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11%
đến 30%; c) Phạm tội 02 lần trở lên; d) Tái phạm nguy hiểm; đ) Gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11%
đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a
đến điểm k khoản 1 Điều này.
12
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 10 năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm
b khoản 4 Điều này; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02
người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; c) Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ
thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm
từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này; d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11%
đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a
đến điểm k khoản 1 Điều này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm
đến 14 năm: a) Làm chết người; b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; c) Gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người
61% trở lên; d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy
định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này; đ) Gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi
người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các
điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Làm chết 02 người trở lên; b) Gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của
mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các
điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy
hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo
13
không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Điểm mới quy định về tội phạm này trong Luật 12/2017/QH14 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13: Cấu trúc lại điều
luật, sửa từ 7 khoản thành 6 khoản. Sửa khoản 1: bỏ 3 tình tiết định khung là gây cố
tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội 02 lần trở lên; tái phạm nguy hiểm. Điểm a bổ sung
cụm từ “Dùng vũ khí, vật liệu nổ”; điểm 2 thay cụm từ “Sunfuric (H2SO4) bằng
cụm từ “nguy hiểm” bỏ cụm từ “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác”. Điểm k bổ sung cụm từ: “bị giữ”. Khoản 2 sửa hình phạt tù tối đa từ
05 năm lên 06 năm. Khoản 3 tăng hình phạt tù cả mức tối thiểu và tối đa (04 năm
đến 07 năm thành 05 năm đến 10 năm) và quy định các trường hợp phạm tội cụ thể
định khung. Khoản 4 tăng mức phạt tối đa từ 12 năm lên 14 năm, quy định các
trường hợp phạm tội cụ thể tăng nặng định khung. Khoản 5 và khoản 6 gộp lại
thành khoản 5, tăng mức hình phạt tối thiểu từ 10 năm lên 12 năm tù; quy định các
trường hợp phạm tội cụ thể tăng nặng định khung. Khoản 6 quy định những trường
hợp cụ thể chuẩn bị phạm tội.
* Dấu hiệu pháp lý của tội phạm: Khách thể của tội phạm: là hành vi cố ý
làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe. Tội phạm xâm phạm
quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người. Mặt khách quan của tội phạm:
Người phạm tội thực hiện các hành vi tác động vào cơ thể của người khác làm cho
người đó bị thương, bị tổn hại sức khỏe. Các hành vi như: đâm, chém, bắn, đấm đá,
đốt cháy, đầu độc, cho chó cắn, bị tra tấn... Có trường hợp người phạm tội cưỡng
bức người bị hại tự làm tổn hại cho sức khỏe của mình như tự chọc vào mắt mình,
uống thuốc phá thai, chặt ngón tay... Hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên bị coi là tội phạm. Nếu
hậu quả tổn thương cơ thể dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau
đây thì cũng coi là phạm tội:
- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy
hại cho nhiều người. Vũ khí, vật liệu nổ theo quy định tại Pháp lệnh quản lý, sử
dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2011. Hung khí nguy hiểm được
14
hiểu là vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm khác. Theo Nghị quyết số 02/2003/NQ-
HĐTP ngày 17/4/2003 thì “phương tiện nguy hiểm” là công cụ, dụng cụ được chế
tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt)
hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm
hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ,
dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc
sức khỏe của người bị tấn công. Ví dụ, dùng dao sắc nhọn, dao phay, búa đinh, côn
gỗ, thanh sắt mài nhọn, gạch, đá... gây thương tích cho người khác.
- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác. Các a-xít, hóa chất nguy hiểm là những chất
có thể phá hủy tế bào cơ thể. Để xác định có phải là a-xít hoặc hóa chất gì thì phải
trưng cầu giám định.
- Phụ nữ đang có thai: Phụ nữ đang có thai có thể do người phạm tội nhận biết
được hoặc nghe người khác nói. Việc xác định có thai hay không phải căn cứ và kết
luận của bác sĩ.
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình:
ông, bà gồm ông bà nội (người sinh ra người bố), ông bà ngoại (người sinh ra
người mẹ); cha, mẹ là người đã sinh ra người phạm tội. Cha mẹ nuôi là người nhận
người phạm tội làm con nuôi được pháp luật thừa nhận. Người nuôi dưỡng là người
chăm sóc, quản lý, giáo dục như vai trò của bố mẹ mình. Thầy giáo, cô giáo của
mình là người trực tiếp giảng dạy mình về văn hoá, chuyên môn, nghề nghiệp,
v.v... Về tình tiết “phạm tội đối với thầy giáo, cô giáo của mình” được hướng dẫn
tại mục 3.3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006.
- Có tổ chức, là phạm tội có từ hai người trở lên khi thực hiện tội phạm giữa
họ có sự phân công trách nhiệm và câu kết chặt chẽ với nhau.
- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù
hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường
giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc: để xác định thời gian này cần căn cứ vào
quyết định bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền.
15
- Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe do được thuê.
- Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm: phạm tội có tính chất côn đồ
là trường hợp thực hiện tội phạm có tính hung hãn cao độ, coi thường tính mạng,
sức khỏe của người khác; gây thương tích không có nguyên cớ hoặc phạm tội vì lý
do nhỏ nhặt; đâm, đánh người dã man,...
- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Về chủ thể của tội phạm: quy định cụ thể tại Điều 12 BLHS hiện hành. Mặt
chủ quan của tội phạm: Tội phạm thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Đây là loại tội
phạm có cấu thành vật chất nên phải xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả xảy ra. Lưu ý:
- Căn cứ đánh giá tỷ lệ thương tích là kết quả giám định pháp y theo văn bản
đang có hiệu lực thi hành của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể
sử dụng trong giám định pháp y, pháp y tâm thần.
- Phạm tội dẫn đến chết người là trường hợp ý thức chủ quan của người phạm
tội chỉ muốn gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của nạn nhân, nhưng
chẳng may nạn nhân chết, việc nạn nhân chết là ngoài ý muốn của người phạm tội.
Phải xác định vì bị thương nặng nên nạn nhân chết chứ không phải nguyên nhân
nào khác, ở đây cần phải làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả chết người với
những thương tích của nạn nhân do người phạm tội gây ra.
- Để phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết
người, cần căn cứ vào hành vi phạm tội và công cụ thực hiện tội phạm cũng như ý
thức chủ quan của người phạm tội. Phải xem xét tính nguy hiểm của công cụ,
phương tiện được sử dụng; vị trí tấn công trên cơ thể nạn nhân; cường độ tấn công;
thời gian, không gian thực hiện tội phạm. Đặc biệt là phải xem xét nhận thức chủ
quan của người phạm tội đối với những yếu tố tạo nên khả năng gây ra hậu quả
chết người và thái độ của họ đối với hậu quả đó.
- Nếu người nào tự gây thiệt hại cho sức khoẻ của chính mình thì cần làm rõ
động cơ của hành vi đó, tuỳ từng trường hợp có thể xem xét trách nhiệm hình sự
16
theo tội khác như tội trốn tránh nhiệm vụ (Điều 403).
1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát điều tra vụ án
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Trên cơ sở áp dụng các quy định của BLTTHS, khi kiểm sát điều tra vụ án
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng, VKS
có thẩm quyền phải tập trung các hoạt động sau đây:
1.2.2.1. Kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can
- Tiếp nhận, xử lý và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố. Đối với tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức
cung cấp và kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức chuyển đến hoặc do VKS tiếp
nhận thì phải vào sổ thụ lý và chuyển ngay cho CQĐT có thẩm quyền giải quyết và
kiểm sát việc giải quyết hoặc VKS trực tiếp giải quyết trong các trường hợp do
BLTTHS quy định (Điều 159 BLTTHS và Thông tư liên tịch số 01/2017 ngày
29/12/2017 quy định việc phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền trong việc thực
hiện quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố do Bộ trưởng BCA- BQP- BTC-Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn - Viện trưởng VKSNDTC ban hành).
Đối với kiến nghị khởi tố, VKS phải phân công KSV kiểm tra, nghiên cứu
tài liệu chứng cứ do cơ quan, tổ chức ban hành kiến nghị gởi đến để yêu cầu CQĐT
khởi tố hoặc yêu cầu xác minh thêm và trong thời hạn theo quy định tại Điều 147
BLTTHS và Thông tư liên tịch số 01/2017, CQĐT phải ra quyết định khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án hình sự hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết khi có căn cứ theo
quy định tại Điều 148 BLTTHS. VKS phải kiểm sát việc CQĐT phục hồi giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo quy định tại Điều 149
BLTTHS.
Khi có tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố thì VKS có thẩm quyền sẽ giải quyết, theo Điều 150 BLTTHS.
- Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, việc thay đổi, bổ sung quyết định khởi
tố vụ án hình sự; quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Khi nhận được quyết định
17
khởi tố vụ án hình sự, VKS phải kiểm tra ngay tính căn cứ và hợp pháp của Quyết
định này để ra một trong các quyết định sau đây: Quyết định phân công Kiểm sát
viên thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật đối với vụ án hình sự;
Yêu cầu CQĐT bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ tính căn cứ của Quyết định
khởi tố vụ án hình sự; Quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự khi
không có căn cứ khởi tố; Yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự nếu quyết định khởi tố không đúng với hành vi phạm tội
hoặc còn có tội phạm khác, trường hợp CQĐT không thực hiện thì Viện trưởng
hoặc Phó Viện trưởng được Viện trưởng phân công trực tiếp ra các quyết định này
và chuyển cho CQĐT thực hiện. Trong quá trình điều tra, nếu có căn cứ xác định
tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm
khác thì VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi
tố vụ án hình sự, trường hợp CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết
định, theo yêu cầu tại Điều 161 BLTTHS. Đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự
do HĐXX ban hành thì VKS kiểm tra tính căn cứ và ra một trong các quyết định
sau đây: Nếu quyết định có căn cứ thì chuyển quyết định này kèm theo các tài liệu
chứng cứ có liên quan đến CQĐT để điều tra và phân công KSV thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra hoặc khoáng nghị theo thủ tục phúc thẩm khi cho rằng
quyết định khởi tố không có căn cứ, để cấp phúc thẩm xét kháng nghị (điểm c
khoản 1 Điều 161 BLTTHS). Khi nhận được quyết định không khởi tố vụ án hình
sự, VKS nghiên cứu kiểm tra tài liệu chứng cứ làm căn cứ ra quyết định này; qua
kiểm sát, trường hợp thấy quyết định này không có căn cứ pháp luật thì VKS ra
quyết định hủy bỏ, đồng thời yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc VKS ra quyết định khởi
tố vụ án và chuyển CQĐT có thẩm quyền cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo để
tiến hành điều tra.
- Kiểm sát khởi tố bị can; thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; VKS
ra quyết định khởi tố bị can, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can
Khi nhận được quyết định khởi tố bị can và văn bản đề nghị phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo do CQĐT chuyển
18
đến, VKS phải kịp thời kiểm tra, kiểm sát tính căn cứ và tính hợp pháp của các tài
liệu, chứng cứ này để ra một trong các quyết định sau đây: Qyết định phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can; Yêu cầu CQĐT bổ sung tài liệu, chứng cứ của căn cứ
khởi tố bị can; Quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can khi có đủ căn cứ; Yêu
cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can nếu quyết
định đó chưa đúng với hành vi phạm tội hoặc còn hành vi phạm tội khác, trường
hợp CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định.
Trong quá trình điều tra nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can
không phạm vào tội đã bị khởi tố mà là tội phạm khác hoặc còn có hành vi phạm
tội khác, thì VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố vụ án, khởi tố bị can và phải gửi ngay quyết định này kèm theo các tài liệu,
chứng cứ liên quan đến VKS để xem xét phê chuẩn. Sau khi nhận được quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can do CQĐT ban hành, VKS phải
kiểm tra, kiểm sát để ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định
này. Trong quá trình điều tra khi có căn cứ xác định còn có người khác thực hiện
hành vi phạm tội trong vụ án nhưng CQĐT không khởi tố hoặc hành vi phạm tội
của bị can không phạm vào tội đã khởi tố thì VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định
khởi tố bị can hoặc thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, trường hợp đã
yêu cầu mà CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định và gửi đến
CQĐT để tiến hành điều tra (theo quy định tại các Điều 41, 179 và 180 BLTTHS).
1.2.2.2. Kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
- Kiểm sát việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã và việc tạm giữ. Khi nhận được văn bản cùng các tài liệu
chứng cứ của CQĐT đề nghị phê chuẩn bắt khẩn cấp, VKS phải kiểm tra, kiểm sát
tính căn cứ bắt khẩn cấp, trường hợp xét thấy cần thiết thì VKS phải trực tiếp gặp
và lấy lời khai người bị bắt để xem xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn bắt khẩn
cấp, theo quy định tại Điều 110 BLTTHS. Khi nhận được quyết định tạm giữ người
trong trường hợp phạm tội quả tang, quyết định tạm giữ người bị bắt truy nã, quyết
định tạm giữ người tự thú hoặc đầu thú và các tài liệu chứng cứ có liên quan, VKS
19
phải kiểm sát từng trường hợp. Đối với những trường hợp tạm giữ theo thủ tục tố
tụng hình sự mà không hoặc chưa có đủ căn cứ hoặc không cần thiết thì VKS ra
quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và yêu cầu người đã ra quyết định tạm giữ trả
tự do ngay cho người bị tạm giữ theo quy định tại Điều 41 BLTTHS.
VKS phải kiểm sát chặt chẽ thời hạn tạm giữ, nắm vững các căn cứ pháp
luật quy định về gia hạn tạm giữ để quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
gia hạn tạm giữ, theo quy định tại các Điều 41, 117 và 118 BLTTHS.
- Phê chuẩn lệnh tạm giam, lệnh bắt tạm giam, quyết định áp dụng, thay đổi
hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam. Trong thời hạn 3 ngày kể từ khi nhận được văn
bản và tài liệu chứng cứ kèm theo của CQĐT đề nghị phê chuẩn lệnh bắt bị can để
tạm giam hoặc lệnh tạm giam, VKS phải kiểm sát chặt chẽ để đối chiếu với quy
định cụ thể của BLHS và các Điều 113, 119 BLTTHS để ra quyết định phê chuẩn
hoặc không phê chuẩn. Sau khi đã phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam hoặc lệnh
tạm giam bị can, VKS phải kiểm sát chặt chẽ việc thi hành lệnh và thời hạn tạm
giam kể kịp thời gia hạn tạm giam hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam.VKS phải kiểm
sát lý do, căn cứ để áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn do CQĐT
ban hành để đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật. Trường hợp biện pháp
ngăn chặn do VKS phê chuẩn thì việc thay đổi hoặc hủy bỏ do VKS quyết định.
VKS phải hết sức chú trọng hoạt động này vì lệnh bắt tạm giam, lệnh tam
giam liên quan uy tín Nhà nước trong hoạt động tư pháp Nhà nước, quyền con
người, yêu cầu tính đúng đắn, kịp thời, nhân đạo trong hoạt động tố tụng. Việc áp
dụng chế tài tạm giam là nghiêm khắc nhất, bới vậy, nếu lạm dụng thì khi Tòa án
xét xử dù áp dụng hình phạt không phải hình phạt tù thì người bị kết án cũng bị
thiệt thòi; hoặc Tòa án áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì cũng ảnh hưởng đến
chính sách nhân đạo của Nhà nước như đặc xá, tha tù trước thời hạn có điều kiện,
giảm mức án tù, miễn chấp hành hình phạt tù. Ngược lại, nếu không áp dụng kịp
thời biện pháp tạm giam thì người phạm tội có thể bỏ trốn, có các biện pháp đối
phó gây khó khăn cho hoạt động tố tụng hoặc phạm tội mới ảnh hưởng đến hiệu
quả phòng ngừa vi phạm, tội phạm và xử lý.
20
1.2.2.3. Kiểm sát hoạt động điều tra và ban hành văn bản yêu cầu điều tra
- Ban hành văn bản yêu cầu điều tra. Kiểm sát viên được phân công tiến
hành tố tụng ngay sau khi nhận được quyết định thụ lý giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm, kiến nghị khởi tố hoặc quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ban hành văn
bản yêu cầu điều tra với từng nội dung yêu cầu rõ ràng, cụ thể, khoa học, cần thiết
và khả thi rồi kịp thời chuyển CQĐT để thực hiện. Trong quá trình kiểm sát, Kiểm
sát viên phải kịp thời bổ sung, thay đổi các nội dung của văn bản yêu cầu điều tra
khi diễn biến, kết quả hoạt động điều tra đặt ra đòi hỏi.
- Kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, thu giữ,
tạm giữ vật chứng, kê biên tài sản; lấy lời khai của những người tham gia tố tụng,
hỏi cung bị can; đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định và
giám định, việc dùng tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự. Một vụ việc có
dấu hiệu hình sự, cụ thể là một vụ án hình sự có thể có nhiều hiện trường (hiện
trường nơi chuẩn bị thực hiện tội phạm, nơi xảy ra tội phạm, nơi che dấu tội phạm,
nơi cất dấu công cụ, phương tiện phạm tội…), VKS phải phân công Kiểm sát viên
kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường đối với tất cả các vụ việc, vụ án mà
CQĐT tiến hành khám nghiệm. Trước khi tiến hành khám nghiệm và kiểm sát
khám nghiệm, Kiểm sát viên phải chủ động nằm tình hình và yêu cầu CQĐT thông
báo thông tin về sự việc xảy ra để tham gia ý kiến vào các hoạt động chuẩn bị khám
nghiệm. Quá trình khám nghiệm, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ và chủ động
yêu cầu Điều tra viên tiến hành khám nghiệm theo đúng thủ tục và trong từng vụ
việc cụ thể phải làm đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 201 BLTTHS và
Quy chế của Ngành Kiểm sát. Khi kiểm sát khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát
viên có thể chụp ảnh, vẽ sơ đồ, xem xét dấu vết tại chỗ, đồ vật, tài liệu liên quan,
lấy lời khai và ghi âm lời khai người bị hại, nhân chứng,…và có ý kiến nhận định
ban đầu của mình với CQĐT và đề nghị các bước tiếp theo để giải quyết vụ việc.
Các tài liệu do Kiểm sát viên thu thập khi kiểm sát khám nghiệm được đưa vào hồ
sơ kiểm sát điều tra vụ án. Sau khi kiểm sát khám nghiệm, Kiểm sát viên phải làm
văn bản báo cáo và đề xuất lên lãnh đạo cơ quan về kết quả khám nghiệm, kiểm sát
21
khám nghiệm, nhận xét ban đầu của mình về vụ việc và đề xuất hướng giải quyết
tiếp theo.
Trong quá trình kiểm sát CQĐT tiến hành khám nghiệm tử thi, Kiểm sát
viên phải bám sát tiến trình khám nghiệm và kịp thời yêu cầu những người tham
gia khám nghiệm và Điều tra viên chủ trì khám nghiệm thu thập các tài liệu, chứng
cứ và tiến hành các trình tự, thủ tục để làm rõ nguyên nhân chết, thời điểm chết,
tung tích người chết. Quá trình kiểm sát khám nghiệm kiểm sát viên phải yêu cầu
CQĐT thực hiện đúng quy định tại Điều 202 BLTTHS. Trường hợp CQĐT khai
quật tử thi, Kiểm sát viên phải xem xét kiểm tra về sự cần thiết và nội dung quyết
định khia quật do CQĐT ban hành trước khi khai quật để đảm bảo đúng quy định
pháp luật.
Khi kiểm sát hoạt động khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng, kê biên tài
sản, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra…v..v… Kiểm sát viên phải
yêu cầu CQĐT chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của BLTTHS và các văn bản
thực định hướng dẫn về bảo quản, giao nhận, xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ.
Đối với những trường hợp CQĐT đề nghị phê chuẩn lệnh khám người, chỗ ở, nơi
làm việc, địa điểm, thư tín, bưu kiện, bưu phẩm, Kiểm sát viên phải kiểm sát tính
có căn cứ và hợp pháp của các lệnh khám xét để báo cáo và đề xuất lãnh đạo Viện
ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn.
Đối với những trường hợp không thể trì hoãn, những người được quy định
tại khoản 2 Điều 193 BLTTHS có quyền ra lệnh khám xét. Sau khi khám xét phải
thông báo bằng văn bản cho VKS; KSV phải kiểm sát các lệnh, các biên bản khám
xét của CQĐT để phát hiện kịp thời vi phạm và yêu cầu sửa chữa, khắc phục, theo
dõi và kiểm sát việc bảo quản tài sản, xử lý vật chứng, giải quyết kịp thời những
vấn đề liên quan đến vật chứng, tài sản theo đúng quy định của BLTTHS.
KSV phải chủ động yêu cầu ĐTV kịp thời lấy lời khai của những người
tham gia tố tụng như nhân chứng, người bị tình nghi, bị hại, người biết việc, người
liên quan…đồng thời đảm bảo để cho họ thực hiện quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật
và những yêu cầu của mình để làm rõ vụ án; nếu có điều kiện thì đồng thời với việc
22
ghi lời khai có thể tiến hành ghi âm, chụp ảnh, ghi hình và phải lập biên bản theo
quy định tại Điều 133 BLTTHS. Khi kiểm sát việc lấy lời khai những người này,
KSV yêu cầu ĐTV thực hiện nghiêm chỉnh các quy định tại các Điều 186.187 và
Điều 188 BLTTHS. KSV có thể trực tiếp lấy lời khai của những người này để kiểm
tra chứng cứ trong các trường hợp xét thấy lời khai của họ mâu thuẫn với nhau
hoặc với chứng cứ, tài liệu thu thập được hoặc có nghi ngờ băn khoăn khác.
KSV phải bàn với ĐTV kế hoạch và đề ra yêu cầu hỏi cung, đồng thời kiểm
sát quá trình hỏi cung; khi thấy chưa đạt yêu cầu thì tiếp tục yêu cầu ĐTV hỏi cung
để thu thập chứng cứ. Khi cần thiết hoặc đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng
hoặc phức tạp về thu thập, đánh giá chứng cứ thì KSV phải cùng tham gia hỏi cung
với ĐTV. Khi kiểm sát hoạt động hỏi cung, KSV phải chủ động yêu cầu ĐTV phải
làm sáng tỏ những yếu tố cấu thành tội danh, khung hình phạt đã khởi tố gắn với
giải quyết mâu thuẫn trong lời khai của bị can cùng những nguồn chứng cứ khác
như về tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân
người phạm tội hoặc pháp nhân phạm tội, hậu quả thiệt hại về dân sự… và phải
đảm bảo việc hỏi cung được thực hiện đúng quy định tại các Điều 183, 184
BLTTHS.
Quá trình điều tra hoặc khi kết thúc điều tra mà bị can kêu oan hoặc lúc
nhận tội lúc chối tội hoặc có dấu hiệu dụ cung, bức cung, nhục hình và trong
trường hợp bị can bị khởi tố về tội và về khung hình phạt có mức hình phạt cao
nhất là tử hình thì KSV phải trực tiếp hỏi cung làm rõ; khi hỏi cung KSV phải lập
biên bản và sau khi hỏi cung phải phát lại băng ghi âm, ghi hình để bị can và những
người tham dự hỏi cùng nghe để cùng ký xác nhận vào biên bản. Sau khi kết thúc
điều tra, KSV phải hỏi cung bị can khi thấy cần thiết để kiểm tra đánh giá chứng cứ
vụ án.
Khi phát hiện có mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều NTGTT hoặc
khi cần thiết phải nhận dạng người hay đồ vật thì Kiểm sát viên chủ động yêu cầu
Điều tra viên tiến hành việc đối chất hoặc nhận dạng và kiểm sát chặt chẽ hoạt
động này để đảm bảo được thực hiện theo đúng quy định tại các Điều 189, 190
23
BLTTHS và phải lập biên bản. Khi cần thiết Kiểm sát viên đề ra nội dung cần đối
chất hoặc nhận dạng để giải quyết mâu thuẫn và làm sáng tỏ vụ án . Kiểm sát viên
có thể trực tiếp hoặc cùng Điều tra viên tiến hành hoạt động đối chất, nhận dạng.
Sau khi kết thúc điều tra, qua nghiên cứu hồ sơ vụ án mà phát hiện có mâu
thuẫn trong lời khai hai hay nhiều người thì KSV tiến hành đối chất. Khi thấy cần
phải nhận dạng thì KSV báo cáo lãnh đạo để yêu cầu CQĐT tiến hành.
Những vụ án cần phải tiến hành thực nghiệm để đánh giá chứng cứ hoặc
giải quyết mâu thuẫn giữa thực tế khách quan đã xảy ra với các chứng cứ trong hồ
sơ vụ án thì trước khi thực nghiệm điều tra, Kiểm sát viên phải nghiên cứu kế
hoạch, nội dung của hoạt động thực nghiệm để chủ động kiểm sát. Sau khi kết thúc
điều tra, qua nghiên cứu hồ sơ nếu thấy chưa đủ cơ sở để kiểm tra, kết luận những
tài liệu, những tình tiết quan trọng và xét thấy cần phải thực nghiệm điều tra hoặc
thực nghiệm điều tra lại thì VKS yêu cầu CQĐT tiến hành.
VKS phải chủ động phát hiện các vấn đề cần phải giám định hoặc định giá
để yêu cầu CQĐT tiến hành trưng cầu giám định hoặc yêu cầu định giá tài sản.
KSV phải kiểm sát các hoạt động này để đảm bảo được thực hiện đúng từng quy
định cụ thể tại Chương XV BLTTHS. Đối với quyết định trưng cầu giám định và
kết luận giám định, KSV phải kiểm sát những vấn đề sau: nội dung yêu cầu giám
định phải cụ thể, sát sự việc và những vấn đề cần kết luận, đối tượng so sánh, đối
tượng giám định; kết luận giám định có đảm bảo đúng quy định của Luật giám định
tư pháp và phải giải đáp các nội dung của quyết định trưng cầu giám định; đồng
thời Kiểm sát viên phải đánh giá tính căn cứ khoa học, tính khách quan của kết luận
giám định để báo cáo đề xuất lãnh đạo VKS yêu cầu CQĐT định bổ sung hoặc
giám định lại hoặc trưng cầu cơ quan giám định khác tiến hành giám định để đảm
bảo độ tin cậy của quyết định trưng cầu giám định và kết luận giám định có được
sử dụng là nguồn chứng cứ hay bị bác bỏ.
Quá trình kiểm sát điều tra, KSV phải yêu cầu CQĐT đảm bảo cho NTGTT
dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình và mọi hoạt động tố tụng hình sự được
phản ảnh bằng ngôn ngữ tiếng Việt theo quy định tại Điều 29 BLTTHS. Đối với
24
người tham gia tố tụng không biết tiếng Việt thì VKS phải yêu cầu CQĐT đảm bảo
cho họ có quyền thông qua người phiên dịch (ngôn ngữ hoặc cử chỉ, quy ước phản
ảnh ngôn ngữ đối với những người khuyết tật bị câm, điếc ) tìm hiểu hồ sơ, tham
gia những hoạt động tố tụng. Trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ
Việt thì khi tiến hành tố tụng phải có người phiên dịch và cùng ký vào biên bản.
- Kiểm sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố
tụng; Thay đổi người tiến hành tố tụng. Bảo đảm quyền và nghĩa vụ của những
NTGTT là một nội dung lớn của công cuộc Cải cách tư pháp được hiện thực hóa
trong các luật tố tụng, mà mô hình tố tụng hình sự của Nhà nước ta hiện nay là sự
đan xen giữa thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh tụng; do vậy, phải chú trọng kiểm sát
CQĐT và ĐTV để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của những NTGTT trong đó có
quyền bào chữa của bị can theo đúng các quy định của BLTTHS. Đối với những
trường hợp cần giữ bí mật trong quá trình điều tra hành vi xâm phạm an ninh quốc
gia thì Viện trưởng VKS quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết
thúc điều tra theo quy định tại Điều 74 BLTTHS.
VKS yêu cầu CQĐT thay đổi Điều tra viên, cán bộ điều tra nếu thuộc một
trong các trường hợp quy định tại Điều 51 BLTTHS.
- Kiểm sát việc nhập hoặc tách vụ án hình sự, việc lập hồ sơ vụ án và giữ bí
mật điều tra; việc chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền; chấp hành thời hạn
điều tra, phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại; giải quyết tranh chấp về
thẩm quyền điều tra; phát hiện và xử lý vi phạm. Khi nhận được quyết định nhập
hoặc tách vụ án hình sự của CQĐT, KSV phải nghiên cứu, đề xuất lãnh đạo Viện
để đảm bảo việc nhập hoặc tách vụ án đúng quy định tại Điều 170 BLTTHS. Khi
kiểm sát tuân theo pháp luật đối với vụ án hình sự, KSV phải kiểm sát chặt chẽ việc
ĐTV lập hồ sơ để đảm bảo các thủ tục tố tụng và các tài liệu chứng cứ thu thập
được trong hồ sơ vụ án đúng quy định và phải được sắp xếp, đánh số bút lục theo
trình tự; nếu phát hiện tài liệu bị mất mát, hư hỏng hoặc bị sửa chữa thì phải kịp
thời yêu cầu Điều tra viên khắc phục và làm rõ nguyên nhân để xử lý vi phạm.
25
Trong trường hợp cần thiết KSV yêu cầu ĐTV giữ bí mật điều tra và thông báo cho
NTGTT, người chứng kiến không được tiết lộ bí mật điều tra; nếu phát hiện để lộ
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của họ mà kiến nghị xử lý kỷ luật, xử lý
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 177
BLTTHS.
Trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra của cấp mình, theo đề
nghị của CQĐT, VKS ra quyết định chuyển vụ án cho CQĐT có thẩm quyền tiến
hành điều tra và quyết định chuyển vụ án cũng phải được gửi cho VKS có thẩm
quyền để kiểm sát điều tra. Việc chuyển vụ án cho CQĐT hoặc VKS ngoài phạm vi
cấp tỉnh do Viện trưởng VKS cấp tỉnh quyết định. Những vụ án do VKS cấp trên
chuyển xuống, do VKS cấp dưới chuyển lên hoặc chuyển cho cơ quan ngang cấp
để điều tra, truy tố theo thẩm quyền thì Viện trưởng quyết định.
Những vụ án có nhiều tội danh khác nhau thì trách nhiệm tiếp nhận để thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra là đơn vị kiểm sát điều tra được phân công
phụ trách tội danh chính của vụ án đó (tội có khung hình phạt truy cứu cao nhất
trong các tội danh đã khởi tố). Khi chuyển hồ sơ vụ án phải chuyển theo hồ sơ kiểm
sát điều tra vụ án cho VKS có thẩm quyền giải quyết.
KSV phải kiểm sát chặt chẽ việc chấp hành thời hạn điều tra, thời hạn phục
hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại theo đúng các quy định cụ thể của
BLTTHS. Trường hợp cần gia hạn điều tra theo đề nghị của CQĐT thì Viện trưởng
hoặc Phó Viện trưởng xem xét quyết định. Đối với trường hợp thuộc thẩm quyền
gia hạn thời hạn điều tra thuộc VKS cấp trên thì VKS cấp dưới phải có văn bản báo
cáo nội dung vụ án, lý do đề nghị gia hạn và gửi hồ sơ vụ án lên VKS cấp trên;
VKS cấp trên xem xét và quyết định có gia hạn hay không.
Đối với vụ án phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại KSV phải kiểm
sát chặt chẽ để đảm bảo về thời hạn và kết quả điều tra.
Khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra thì VKS có trách nhiệm giải quyết
theo thẩm quyền căn cứ vào quy định cụ thể của BLTTHS.
26
Qúa trình kiểm sát điều tra phải kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong
điều tra để yêu cầu thủ trưởng CQĐT khắc phục xử lý nghiêm ĐTV, cán bộ điều
tra vi phạm; nếu có dấu hiệu tội phạm thì báo cáo CQĐT có thẩm quyền khởi tố vụ
án hình sự, trường hợp phát hiện hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp thì báo cáo
Cục điều tra VKSND TC giải quyết theo thẩm quyền. Đối với các quyết định
không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT thì VKS phải kịp thời ra quyết định
hủy bỏ.
1.2.2.4. Kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra, kết thúc điều tra, đình chỉ điều
tra, phục hồi điều tra
Kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra và truy nã bị can. Kiểm sát viên phải
kiểm sát căn cứ ra quyết định tạm đình chỉ điều tra của CQĐT; nếu thấy không có
căn cứ thì VKS phải ra quyết định hủy bỏ và yêu cầu CQĐT ra quyết định phục hồi
điều tra. Khi phát hiện bị can trốn hoặc không xác định được ở đâu thì VKS yêu
cầu CQĐT ra quyết định truy nã. Sau khi CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ điều tra
vụ án thì KSV được phân công kiểm sát điều tra phải theo dõi, quản lý, khi thấy lý
do tạm đình chỉ không còn nữa thì phải yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra. Kiểm sát
việc kết thúc điều tra. KSV kiểm sát kết thúc điều tra vụ án để bảo đảm các vụ án
đã được khởi tố điều tra phải được kết thúc bằng bản kết luận điều tra và đề nghị
truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra. Các văn
bản này của CQĐT phải đầy đủ các căn cứ và nội dung theo quy định cụ thể tại
Điều 232; 233; 234 BLTTHS. Kiểm sát việc đình chỉ điều tra. KSV phải nghiên
cứu kỹ hồ sơ vụ án để kiểm sát tính căn cứ của quyết định đình chỉ điều tra theo
Điều 230 BLTTHS. Sau khi nhận được quyết định đình chỉ điều tra và hồ sơ vụ án,
qua nghiên cứu thấy quyết định đình chỉ có căn cứ đúng pháp luật thì KSV báo cáo
lãnh đạo Viện và trả lại hồ sơ vụ án cho CQĐT; nếu thấy lý do của việc đình chỉ
không có căn cứ pháp luật thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định đình chỉ điều
tra và yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra hoặc ra quyết định phục hồi điều tra. Kiểm
sát việc phục hồi điều tra. Khi nhận được quyết định phục hồi điều tra vụ án, KSV
kiểm sát tính căn cứ và báo cáo lãnh đạo ra một trong các quyết định sau đây: Phân
27
công KSV tiến hành tố tụng đối với vụ án nếu quyết định phục hồi điều tra có căn
cứ và đúng quy định tại Điều 235 BLTTHS hoặc ra quyết định hủy bỏ quyết định
phục hồi điều tra nếu quyết định đó không có căn cứ pháp luật.
Quyết định truy tố, trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung, đình
chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án: Khi nhận bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố cùng
hồ sơ vụ án, KSV phải kiểm tra ngay các văn bản về thủ tục tố tụng, các biện pháp
ngăn chặn đã áp dụng để báo cáo lãnh đạo áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn. KSV phải nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án để nắm vững nội dung vụ án
và diễn biến quá trình điều tra, khi cần thiết hoặc phải tiến hành một số hoạt động
theo yêu cầu của BLTTHS thì phải hỏi cung bị can, lấy lời khai nhân chứng, đối
chất…để thu thập chứng cứ nhằm đánh giá khách quan, toàn diện vụ án theo quan
điểm tố tụng hình sự. Trong thời hạn truy tố theo pháp luật quy định thì lãnh đạo
VKS phải ra một trong các quyết định sau đây: Nếu đủ căn cứ truy tố thì lập bản
Cáo trạng ký rồi giao Cáo trạng cho bị can và gửi Cáo trạng cùng hồ sơ vụ án cho
Tòa án có thẩm quyền để thụ lý giải quyết; nếu vụ án không thuộc thẩm quyền của
cấp mình thì Viện trưởng ra quyết định chuyển vụ án đó cho VKS có thẩm quyền.
VKS ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu thiếu những chứng cứ quan
trọng mà VKS không thể tự bổ sung được hoặc có một trong các căn cứ quy định
tại khoản 1 Điều 245 BLTTHS; Ra quyết định tạm đình chỉ vụ án nếu có một trong
những căn cứ quy định tại Điều 247 BLTTHS; Quyết định đình chỉ vụ án khi có
căn cứ quy định tại Điều 248 BLTTHS.
Bên cạnh đó, theo quy định của BLTTHS thì VKS kiểm sát áp dụng thủ tục
tố tụng đối với người chưa thành niên, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và
thủ tục rút gọn, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự….v…Kiểm sát viên cần chú trọng để đảm bảo quá trình điều tra và kiểm sát
điều tra được thực hiện đúng quy định của pháp luật hình sự.
1.2.2.5. Công tác kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
28
Thông qua hoạt động kiểm sát điều tra KSV kiểm tra và nắm chắc được các
tài liệu chứng cứ do ĐTV thu thập trong giai đoạn điều tra từ đó đề ra yêu cầu điều
tra, định hướng điều tra, nhằm kịp thời bổ sung chứng cứ và hoàn thiện các thủ tục
tố tụng của vụ án; phát hiện những vi phạm của ĐTV khi tiến hành tố tụng để kiến
nghị khắc phục. Việc lấy lời khai và các hoạt động thu thập chứng cứ, thiết lập hồ
sơ sau khi khởi tố vụ án bắt buộc phải do Điều tra viên được phân công điều tra vụ
án thực hiện, nếu do cán bộ điều tra tiến hành thì cũng chỉ được thể hiện là người
giúp việc, còn chủ trì các hoạt động đó phải là Điều tra viên. Các tài liệu trước khi
khởi tố vụ án và không phải do Điều tra viên tiến hành thì cần yêu cầu ĐTV thẩm
định sau khi khởi tố, có như vậy các tài liệu thu thập được mới có giá trị về mặt
pháp lý. Để đảm bảo cho hoạt động kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT được
khách quan và đúng quy định của pháp luật. Kiểm sát viên được tiến hành một số
hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như: Hỏi cung bị can, ghi
lời khai người làm chứng, đối chất, thực nghiệm điều tra… những hoạt động này
không chỉ có ý nghĩa cũng cố các tài liệu, chứng cứ khi xem xét phê chuẩn các
quyết định của CQĐT, mà còn là một biện pháp nhàm kiểm sát qúa trình lập hồ sơ
vụ án của Điều tra viên, thẩm định lại các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ
án. các biện pháp cũng cố chứng cứ như: khẩn trương thu thập số lần, thời gian, địa
điểm các cuộc điện thoại của các đối tượng; vẽ sơ đồ nơi ở, thực nghiệm điều tra,
dựng lại hiện trường, nhận dạng, tiến hành đối chất khi có mâu thuẫn giữa các lời
khai là hết sức quan trọng trong việc xác định bản chất của vụ án về CYGTT.
29
Tiểu kết chương 1
Qua nghiên cứu hệ thống pháp luật, các văn bản hướng dẫn thi hành cùng
những nguồn thông tin, tài liệu liên quan kết hợp với nhận thức và hoạt động thực
tiễn, chúng tôi xin trình bày Chương 1 với các nội dung đã thể hiện, trong đó đã
làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND và khái niệm, đặc điểm,
phạm vi, ý nghĩa của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật TTHS Việt Nam và phân tích làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự hiện hành về kiểm sát điều tra vụ án hình sự, phân tích các quy định
của các BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác để làm cơ sở giải quyết các yêu cầu đề ra của Chương 2.
30
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TRÀ BỒNG, TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Một số nội dung liên quan hoạt động kiểm sát điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Trà Bồng
- Huyện Trà Bồng thuộc tỉnh Quảng Ngãi kể từ tháng 5 năm 1989 từ khi
tách tỉnh Nghĩa Bình thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Năm 2019, Chính
Phủ sáp nhập huyện Tây Trà và huyện Trà Bồng thành huyện Trà Bồng. Theo bản
đồ địa lý hiện nay và thống kê đến 28/02/2021 thì Trà Bồng là huyện nằm ở phía
Tây Bắc tỉnh Quảng Ngãi – phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía Tây giáp tỉnh Kon
Tum, phía Nam giáp huyện Sơn Hà, phía Đông giáp huyện Bình Sơn; với diện tích
tự nhiên 827 km2, gồm 15 xã và 01 thị trấn, dân số trên 47 ngàn người với khoảng
61% là người dân tộc thiểu số HRe, Ê Đê và Kor. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là làm
ruộng lúa nước và ruộng bậc thang, chăn nuôi, trồng rừng loại cây keo lấy gỗ xuất
khẩu và trồng lâm sản là quế, dầu tràm; trồng cây cau.
- Bộ máy làm việc của VKSND huyện Trà Bồng được sáp nhập từ một số
cán bộ lãnh đạo và kiểm sát viên của VKSND huyện Tây Trà và VKSND huyện
Trà Bồng. Đơn vị hiện có 1 Viện trưởng, 1 Phó Viện trưởng, 3 Kiểm sát viên, 1
Kiểm tra viên và 1 Chuyên viên. Trong số các Kiểm sát viên có 1 Kiểm sát viên
trung cấp là Viện trưởng và 4 Kiểm sát viên sơ cấp kể cả Phó Viện trưởng. Về trình
độ: 1 Thạc sỹ Luật, 6 Cử nhân Luật. Viện trưởng phụ trách chung đồng thời trực
tiếp chỉ đạo và thực hiện công tác kiểm sát điều tra. 02 đồng chí Kiểm sát viên
chuyên trách làm công tác kiểm sát điều tra. Nhìn chung trong những năm qua
VKS luôn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực tố tụng hình
sự vì luôn coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của đơn vị bởi xác định kết quả, hiệu quả
hoạt động này thể hiện quyền và trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội, Nhân
dân và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân.
31
- Hoạt động tiếp nhận, phân lọai, điều tra xác minh thông tin về tội phạm và
điều tra loại tội phạm Cố ý gây thương tích nói riêng, được tiến hành thông qua chủ
thể là Cơ quan Cảnh sát điều tra, các Điều tra viên trong các Đội chuyên trách và
các cán bộ điều tra được Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trà
Bồng phân công.
Lãnh đạo, kiểm sát viên VKSND huyện Trà Bồng là chủ thể kiểm sát hoạt
động điều tra của Cơ quan điều tra và được quyền trực tiếp tiến hành các hoạt động
điều tra theo quy định của pháp luật. Quá trình kiểm sát điều tra chịu sự chỉ đạo
điều hành trực tiếp của Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng khi được Viện trưởng ủy
quyền và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND tỉnh Quảng Ngãi theo nguyên
tắc tập trung thống nhất của hệ thống VKSND.
Có thể nói thời gian qua CQĐT và VKSND huyện Trà Bồng đã luôn có
nhiều cố gắng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, từng
bước khắc phục các mặt hạn chế trong công tác và luôn phối hợp chặc chẽ với nhau
trong quá trình điều tra và kiểm sát điều tra. Nhờ vậy 5 năm qua hoạt động của hai
cơ quan trong giai đoạn điều tra các vụ án về cơ bản đã bảo đảo đúng theo quy định
pháp luật, đem lại hiệu quả thiết thực trong xử lý và phòng ngừa tội phạm nói
chung, tội CYGTT nói riêng.
Từ kết quả tác giả nghiên cứu, phân tích hồ sơ tài liệu có tại VKSND huyện
Trà Bồng khi xây dựng Luận văn, thấy đáng chú ý:
- Những năm gần đây nhờ sự tuyên truyền giáo dục thuyết phục của Nhà
nước nên nạn nghi kỵ cầm đồ thuốc độc và tuyên truyền đạo trái phép không xảy
ra; tuy nhiên tình hình tội phạm CYGTT luôn diễn biến tương đối phức tạp. Trong
tổng số vụ án loại tội phạm này trong 5 năm qua, tỷ lệ phạm tội có đồng phạm có
sự bàn bạc, có sử dụng hung khí nguy hiểm như mã tấu, kiếm, dao dài, dao nhọn,
cây sắt, mảnh kính dày; phạm tội có đồng phạm với cùng vai trò là người thực
hành, trong đó người tổ chức, rủ, lôi kéo người khác phạm tội cũng là người thực
hành đang có diễn biến xấu cả về tỷ lệ, biên độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi phạm tội phát sinh chủ yếu do nguyên nhân mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn
32
cá nhân trong sinh hoạt, lao động, hậu quả tệ nạn xã hội, do thiếu hiểu biết hoặc coi
thường pháp luật ở một bộ phận thanh thiếu niên. Bên cạnh đó cũng cần phải xét
đến yếu tố điều kiện kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện còn nhiều khó khăn, tỷ lệ
người trong độ tuổi lao động nhưng không có việc làm do không có tư liệu sản
xuất, không có vốn, do thiên tai gây ra rất cao. Công tác quản lý nhà nước, quản lý
xã hội của các cấp chính quyền, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể mặc dù luôn
được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều sơ hở, nhất là việc kịp thời phát hiện và hóa
giải mâu thuẫn cá nhân. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho
cán bộ, nhân dân chưa thường xuyên, sâu rộng. Vai trò của các cơ quan bảo vệ
pháp luật trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm còn có những
hạn chế nhất định, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ cũng như cơ sở vật chất kỹ
thuật chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đang đặt ra đối với địa bàn huyện.
Theo số liệu thống kê của VKSND huyện Trà Bồng thì, từ năm 2016 đến
năm 2020, tổng số vụ phạm pháp hình sự đã khởi tố điều tra là 102 vụ 151 bị can,
trong đó số vụ án tội CYGTT cho sức khỏe của người khác là 32 vụ 54 bị can.
Không có vụ án nào tội “Cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”.
Năm 2016 khởi tố 3 vụ 4 bị can; năm 2017: 6 vụ 9 bị can; năm 2018: 5 vụ 8
bị can; năm 2019: 8 vụ 15 bị can; năm 2020: 10 vụ 18 bị can.
Tổng số án CYGTT chiếm tỷ lệ 32,3% về vụ và 37,5% về số bị can trong
tổng số khởi tố trong kỳ. Phân tích một số vấn đề trong các vụ án khởi tố:
Có 17 vụ 17 bị can phạm tội đơn lẻ, trong số này:
5 vụ phạm tội theo khoản 3 Điều 104 BLHS 1999 và 2 vụ phạm tội khoản 3
Điều 134 BLHS 2015 ( trong số này có 5 vụ phạm tội có sự dự mưu và chuẩn bị
hung khí nguy hiểm từ trước, có 2 vụ phạm tội đột xuất và có sử dụng hung khí
nguy hiểm).
4 vụ phạm tội theo khoản 2 Điều 104 BLHS và 3 vụ phạm tội khoản 2 Điều
134 BLHS (có 5 vụ phạm tội có sự dự mưu và chuẩn bị hung khí từ trước, có 2 vụ
đột xuất có sử dụng hung khí).
33
2 vụ phạm tội theo khoản 1 Điều 104 BLHS và 1 vụ khoản 1 Điều 134
BLHS (đều do đột xuất và không sử dụng hung khí).
- Có 16 vụ 39 bị can phạm tội đồng phạm giản đơn, trong đó:
6 vụ 15 bị can phạm tội theo khoản 3 Điều 104 BLHS 1999 và 3 vụ 6 bị can
phạm tội khoản 3 Điều 134 BLHS 2015 (có 5 vụ phạm tội có sự dự mưu và chuẩn
bị hung khí từ trước, có 4 vụ do đột xuất và có sử dụng hung khí).
3 vụ 10 bị can phạm tội theo khoản 2 Điều 104 BLHS và 2 vụ 4 bị can phạm
tội khoản 2 Điều 134 BLHS (có 4 vụ phạm tội có sự dự mưu và chuẩn bị hung khí
từ trước, có 1 vụ do đột xuất có sử dụng hung khí).
1 vụ 2 bị can phạm tội theo khoản 1 Điều 104 BLHS và 1 vụ 2 bị can phạm
tội khoản 1 Điều 134 BLHS (1 vụ có sự dự mưu và chuẩn bị hung khí).
Có thể nói tình hình tội phạm nói chung, tội CYGTT nói riêng nhiều năm
qua đặt ra trách nhiệm hết sức nặng nề đối với cơ quan bảo vệ pháp luật để nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững trật tự an toàn
xã hội, tạo điều kiện cho địa phương thực hiện tốt các mục tiêu phát triển theo yêu
cầu của cấp ủy Đảng và của Hội đồng nhân dân huyện.
2.2. Thực tiễn kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác tại huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi
2.2.1. Tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố và kiểm
sát hoạt động này
- VKS đã tiếp nhận 6 tin và 1 kiến nghị khởi tố. Qua nghiên cứu và phân
loại, đã chuyển CQĐT 4 tin có dấu hiệu tội phạm và chuyển cơ quan khác có thẩm
quyền giải quyết 1 tin vì không có dấu hiệu tội phạm.
- CQĐT tiếp nhận qua các nguồn là 47 tin báo, tố giác và 2 kiến nghị khởi tố
về hành vi cố ý gây thương tích. Qua điều tra xác minh CQĐT đã ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự 30 tin và 2 kiến nghị khởi tố; xử lý hành chính 5 tin; chuyển
nơi khác xử lý theo thẩm quyền 2 tin; không khởi tố 3 tin vì không có sự việc phạm
tội và cũng không có hành vi vi phạm pháp luật khác; đang làm rõ 7 tin.
2.2.2. Kiểm sát hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam
34
- Kiểm sát việc bắt, tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự để phục vụ điều tra
hành vi cố ý gây thương tích là 52 người (khẩn cấp 24, quả tang 18, truy nã 3, đầu
thú 7). Đã giải quyết 52 người, trong đó: chuyển nơi khác xử lý 3 người, khởi tố 47
người ( tạm giam 37, không tạm giam 10). Không ra lệnh tạm giữ mà xử lý hành
chính 2 người.
- Kiểm sát bắt tạm giam, kiểm sát ra lệnh tạm giam giai đoạn điều tra là 42
người về tội CYGTT, trong đó: Từ tạm giữ chuyển tạm giam là 29 người, bắt tạm
giam và ra lệnh tạm giam theo Điều 113 và Điều 119 BLTTHS là 13 người.
2.2.3. Kiểm sát việc Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố hoặc không
khởi tố vụ án hình sự; kết thúc điều tra; tạm đình chỉ điều tra, phục hồi điều
tra; việc lập hồ sơ vụ án hình sự tội Cố ý gây thương tích cho sức khỏe của
người khác
- Kiểm sát việc khởi tố và kiểm sát điều tra: Trong kỳ, thụ lý kiểm sát điều
tra 34 vụ 54 bị can tội Cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác.
Qua kiểm sát việc khởi tố VKS đã đề nghị rút 2 quyết định khởi tố vụ án tội
CYGTT (chưa khởi tố bị can), được chấp thuận.
CQĐT tiến hành điều tra 32 vụ 54 bị can tội CYGTT; đã kết thúc điều tra
và đề nghị truy tố 31 vụ 52 bị can; đang điều tra 2 vụ 2 bị can.
Trong số 31 vụ 52 bị can CQĐT kết thúc điều tra đề nghị truy tố thì VKS đã
truy tố 30 vụ 51 bị can, còn 1 vụ 1 bị can đang giải quyết.
- Kiểm sát án tạm đình chỉ điều tra và xử lý khi lý do tạm đình chỉ không
còn: Thụ lý kiểm sát 5 vụ 3 bị can (có 2 vụ chưa khởi tố bị can) tội CYGTT đều do
CQĐT tạm đình chỉ điều tra (do bị can bỏ trốn ngay sau khi gây án, bỏ trốn từ
trước năm 2010, đã hết thời hạn điều tra mà chưa bắt được nên ra quyết định truy
nã và tạm đình chỉ điều tra vụ án).
Trong số 5 vụ án tạm đình chỉ: VKS luôn chú trọng theo dõi, quản lý án tạm
đình chỉ. Riêng đối với 2 vụ án chưa khởi tố bị can, khi những người phạm tội ra tự
thú thì VKS đã bàn với CQĐT không tạm giữ những người này mà ra quyết định
đình chỉ vụ án vì đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
35
- Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án: Qua hoạt động kiểm sát điều tra, VKS đã
ban hành 3 văn bản yêu cầu CQĐT và ĐTV sớm hoàn thiện để kịp thời đưa vào hồ
sơ bản ảnh hiện trường 3 vụ án; 1 văn bản về hoàn thiện biên bản khám nghiệm
hiện trường để đưa vào hồ sơ; 2 văn bản yêu cầu từng trang biên bản lấy lời khai,
bản tự khai, biên bản hỏi cung phải có chữ ký của những người tham gia tố tụng; 1
văn bản yêu cầu về việc người bị hại khi ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng
phải có giấy ủy quyền trong hồ sơ vụ án; 1 văn bản yêu cầu những vụ việc khởi tố
vụ án tội Cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác quy định tại khoản 1
Điều 134 BLHS thì trước khi khởi tố phải có đơn hoặc lời trình bày của người bị
hại hoặc đại diện hợp pháp của họ được cơ quan có thẩm quyền lập thành văn bản
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự; 1 văn bản về việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can phải
ghi đầy đủ các điểm, khoản của Bộ luật hình sự vì vấn đề này liên quan đến thời
hạn điều tra, thời hạn tạm giam, gia hạn thời hạn điều tra, gia hạn thời hạn tạm
giam, điều tra thu thập chứng cứ, đề ra văn bản yêu cầu điều tra, định hướng điều
tra, kết luận điều tra; 01 văn bản yêu cầu gửi đúng thời hạn các văn bản, quyết định
tố tụng cho VKS theo quy định của BLTTHS.
2.2.4 . Nhận xét, đánh giá thực tiễn hoạt động kiểm sát điều tra
2.2.4.1. Ưu điểm
- Hoạt động kiểm sát giải quyết tin báo về tội phạm. Tất cả các tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố đều có văn bản của KSV đề ra các yêu cầu điều tra xác
minh đối với CQĐT và ĐTV để giải quyết thông tin về tội phạm. Nhiều văn bản có
chất lượng khi thể hiện rõ ràng và cụ thể các yêu cầu cơ bản cần phải làm rõ những
vấn đề phải chứng minh đặt ra trong từng vụ việc, vụ án.
Qua giải quyết kiến nghị khởi tố, VKS đã ra quyết định khởi tố 1 vụ án tội
“Cố ý gây thương tích cho sức khỏe người khác” theo khoản 2 Điều 104 BLHS .
Cụ thể: Nguyễn Văn Hoanh (19 tuổi) do mâu thuẫn cá nhân đã dùng hung khí nguy
hiểm gây thương tích cho chị Phạm Thị Hảo (22 tuổi) làm chị gãy tay. Giám định
tỷ lệ tổn thương cơ thể chị Hảo tổn hại 12%. Không đồng tình với kết luận giám
định nên Nguyễn Văn Hoanh yêu cầu giám định lại. Kết luận giám định lại xác
36
định tại thời điểm giám định thì chị Hảo tổn thương cơ thể tỷ lệ 9%. Chị Hảo chưa
làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. VKS cho rằng hành vi Hoanh gây thương
tích cho chị Hảo tỷ lệ tổn thương 12% là tại thời điểm bị xâm hại, còn kết luận
giám định lại thể hiện 9% là do chị Hảo còn trẻ và vết thương đang phục hồi, cho
nên VKS không chấp nhận kết luận giám định lại mà khởi tố vụ án theo khoản 2
Điều 104 BLHS (vì hành vi phạm tội không thuộc trường hợp khởi tố vụ án theo
yêu cầu của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003. Vụ án
này đã xét xử kết án bị cáo bằng bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật).
- Hoạt động kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. VKS và CQĐT
thường xuyên chú trọng phối hợp với nhau sử dụng các biện pháp nâng cao chất
lượng tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự nên tỷ lệ khởi tố và kết thúc điều tra,
truy tố đều đảm bảo cũng như hạn chế phải truy nã bị can hoặc tạm đình chỉ vụ án,
tạm đình chỉ điều tra và truy nã bị can.
Đối với 2 trường hợp không tạm giữ mà xử lý hành chính: các trường hợp
này do cấp cơ sở bắt quả tang chuyển lên. CQĐT và VKS qua xem xét đánh giá
tính pháp lý hình sự của hành vi gây thương tích, nhận thấy không có tội phạm xảy
ra nên không thể áp dụng biện pháp tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự mà xử lý
hành chính và hướng dẫn người bị hại cùng với người thực hiện hành vi cố ý gây
thương tích có quyền tự thỏa thuận về bồi thường dân sự, nếu thỏa thuận không
thành thì người bị hại có quyền khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Điều đặc biệt là Viện kiểm sát và CQĐT trao đổi cùng thống nhất không áp
dụng biện pháp tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự đối với 2 người tự thú trong 2
vụ án Cố ý gây thương tích để tra cứu hồ sơ làm rõ, xử lý. Cụ thể:
Trường hợp thứ nhất: Ngày 25 tháng 1 năm 2017 Phạm Đò (sinh năm 1993),
trú xã Trà Lãnh ra tự thú khai rằng tháng 6 năm 2011(không nhớ ngày) dùng khúc
củi gỗ, ban đêm lén lút đến nhà và đánh anh Phạm Hến cùng thôn gây thương tích
ở tay anh, rồi bỏ trốn vào Lâm Đồng làm nương rẫy thuê, nay về khai báo với cơ
quan bảo vệ pháp luật vì hối hận và mong xử lý để sớm được hoàn lương và lấy vợ.
37
Trường hợp thứ hai: Ngày 7 tháng 5 năm 2019 Đinh Văn Kép (sinh năm
1992) ra tự thú khai năm 2010 (không nhớ ngày, tháng cụ thể) lợi dụng ban đêm
dùng tay, chân đánh anh Phạm Hót vì nghi anh Hót bắt trộm gà của mình làm thức
nhắm uống rượu, rồi bỏ trốn làm lao động bốc vác ở tình Bình Dương. Thời gian
qua do dằn vặt lương tâm và nghe tin cha, mẹ qua đời nhưng không về chôn cất và
cúng giỗ được, nay ra trình diện cơ quan bảo vệ pháp luật hành vi phạm tội để làm
người lương thiện.
CQĐT và VKS qua trao đổi và nghiên cứu hồ sơ các vụ án tạm đình chỉ thấy
rằng, 2 vụ án trên đây đều khởi tố theo khoản 1 Điều 104 BLHS 1999, đang tạm
đình chỉ điều tra vì hết thời hạn điều tra chưa chứng minh được người đã thực hiện
tội phạm, nên chưa khởi tố bị can, từ đó thống nhất CQĐT ra các quyết định đình
chỉ điều tra vụ án vì đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, theo quy định tại
khoản 1 Điều 104, khoản 3 Điều 8 (phân loại tội phạm) và điểm a ( thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự là năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng) khoản 2
Điều 23 BLHS 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Một ưu điểm nữa đối với 2 trường hợp này là do CQĐT và VKS quản lý án
tạm đình chỉ nên đã đình chỉ điều tra vụ án theo quy định pháp luật.
Căn cứ để bắt tạm giam và tạm giam bị can nhìn chung được CQĐT và VKS
thực hiện đúng quy định của BLHS và BLTTHS nhằm đảm bảo yêu cầu xử lý vụ
án, người phạm tội, giáo dục phòng ngừa và thể hiện tính nghiêm khắc của chế tài
hình sự. Những trường hợp CQĐT đề nghị hủy bỏ biện pháp tạm giam hoặc VKS
hủy bỏ tạm giam để áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhìn chung được tốt, thể
hiện tính nhân đạo của pháp luật khi lựa chọn chế tài hình sự đối với người phạm
tội. Qua hoạt động kiểm sát, VKS không phê chuẩn bắt tạm giam 2 bị can; không
phê chuẩn lệnh tạm giam 1 bị can; không phê chuẩn gia hạn tạm giam 1 bị can vì
không cần thiết hoặc không đủ căn cứ, mà không có trường hợp nào bị can bỏ trốn
hoặc phạm tội mới.
- Hoạt động kiểm sát việc khởi tố hoặc không khởi tố. Qua hoạt động kiểm
sát đã ban hành văn bản yêu cầu rút 2 quyết định khởi tố vụ án; vì:
38
Vụ thứ nhất: Phạm Văn Lài bị Phạm Văn Công, Phạm Văn Én dùng tay,
chân đánh tổn thương cơ thể tỷ lệ 12% mà hành vi phạm tội không có yếu tố định
khung tăng nặng nên thuộc quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS 1999, nhưng bị
hại (22 tuổi) chưa làm đơn, cũng chưa có ý kiến được ghi lại bằng văn bản về việc
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, mà bị hại trình bày do những người đánh mình đều
là người trong xóm, lại có họ hàng với nhau nên chỉ yêu cầu cơ quan bảo vệ pháp
luật buộc người phạm tội phải bồi thường các khoản thiệt hại về dân sự mà thôi.
Vụ thứ hai: Phạm Văn Dăm bị 2 người có mâu thuẫn từ trước với mình là
Nguyễn Văn Phi, Đoàn Ngọc Hào đánh gây tổn thương cơ thể tổng tỷ lệ 32%,
trong đó: Nguyễn Văn Phi gây thương tích tổn thương cơ thể đối với anh Dăm là
17%, còn Đoàn Ngọc Hào gây tổn thương cơ thể cho anh Dăm là 15%. Nhưng giữa
2 người này không có yếu tố đồng phạm thuộc dạng rủ nhau từ trước, cũng không
có yếu tố đồng phạm khi hành vi phạm tội gây thương tích của Nguyễn Văn Phi
đang diễn ra thì Đoàn Ngọc Hào thấy được và cùng tham gia để thỏa mãn yếu tố về
lý trí và ý chí trong đồng phạm. Mà hành vi phạm tội do Phi thực hiện đã kết thúc
rồi, Phi đã bỏ đi, khoảng 6 giờ sau đó Hào đi ngang qua nhà anh Dăm gặp anh Dăm
nên nhớ lại mâu thuẫn giũa hai người rồi đánh anh Dăm. Còn anh Dăm thì không
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự mà chỉ yêu cầu cơ quan pháp luật buộc những người
gây thương tích phải bồi thường các khoản thiệt hại về dân sự cho anh.
2 trường hợp trên, căn cứ khoản 1 Điều 104 BLHS 1999 (tội phạm ít nghiêm
trọng); khoản 1 Điều 105 (khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại)
BLTTHS 2003,VKS đã có ý kiến rút quyết định khởi tố, được chấp nhận thực hiện.
- Ban hành văn bản yêu cầu khởi tố bổ sung 1 bị can theo khoản 2 Điều 104
BLHS: Phạm Văn Cói rủ Phạm Văn Dền, Hồ Văn Sự và cả 3 người cùng nhất trí
sử dụng hung khí đi tìm đánh anh Phạm Khỏe. Do Phạm Văn Cói có lý do đột xuất
không trực tiếp thực hiện tội phạm được nên cử em trai là Phạm Văn Th (chưa đủ
15 tuổi) đi cùng Dền và Sự. Cả 3 người dùng hung khí nguy hiểm đánh anh Khỏe
gây tổn thương cơ thể 14%. Khởi tố vụ án và khởi tố các bị can Dền và Sự theo
khoản 2 Điều 134 BLHS 2015 và xử lý hành chính đối với cháu Phạm Văn Th.
39
VKS cho rằng Phạm Văn Cói là ngưởi chủ mưu, nhưng vì lý do khách quan
mà không thực hiện tội phạm cả với vai trò là người thực hành nữa được, mà lại cử
em trai mình (là người không phải là chủ thể tội phạm vì chưa đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự) tiến hành thực hành “thay” mình, nên VKS yêu cầu khởi tố bị can
đối với Cói. Yêu cầu này đúng pháp luật và đã được thực hiện vì thực tiễn thừa
nhận người thực hành có nhiều dạng. Cói sau đó đã bị kết án khoản 2 Điều 134
BLHS bằng bản án có hiệu lực pháp luật (chúng tôi có phân tích sâu về các dạng
người thực hành trong đồng phạm trong luận văn).
- Hoạt động kiểm sát quá trình điều tra vụ án: VKS luôn chú trọng đề ra và
thực hiện những biện pháp, giải pháp không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội, tiết kiệm các chi phí trong hoạt động tố tụng thông qua phải thực
hiện nghiêm túc các quy định của BLHS, BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp
luật cùng văn bản hướng dẫn thi hành, nhất là luôn chú trọng bố trí những KSV có
đủ năng lực, phẩm chất đạo đức tốt đảm trách lĩnh vực công tác thực hành quyền
công tố - kiểm sát điều tra – kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
Nhờ chú trọng phối hợp tốt với CQĐT trên quan điểm bảo đảm pháp chế và
kịp thời giải quyết những yêu cầu đặt ra trong giai đoạn điều tra, cho nên thời gian
qua không xảy ra trường hợp án quá thời hạn luật định, hạn chế thấp nhất phải gia
hạn thời hạn điều tra và án tạm đình chỉ do bị can bỏ trốn chưa bắt theo lệnh truy nã
hoặc tạm đình chỉ vụ án vì đã hết thời hạn điều tra nhưng chưa phát hiện được
người thực hiện tội phạm, cho nên tỷ lệ án CQĐT kết thúc điều tra đề nghị truy tố
đạt bình quân 95% tổng lượng án thụ lý/năm. Tỷ lệ án VKS trả hồ sơ cho CQĐT để
điều tra bổ sung có xu hướng giảm mạnh, nhất là những năm gần đây dù lượng án
khởi tố thường tăng nhưng không xảy ra trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung
những chứng cứ quan trọng, yêu cầu khởi tố bổ sung tội danh, yêu cầu thay đổi tội
danh, yêu cầu xác định có đồng phạm khác hay không, yêu cầu khởi tố đồng phạm
khác hoặc do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng sau khi đã kết thúc điều tra.
Ưu điểm nổi bật của việc kiểm sát điều tra qua những vụ án cụ thể.
40
Chúng tôi phân tích một số vụ án sau đây với những hoạt động cụ thể của
Viện kiểm sát, của KSV thể hiện hiệu quả rất cao việc kiểm sát điều tra kể từ giai
đoạn xử lý tin báo, tố giác về tội phạm và quá trình điều tra vụ án.
- Vụ án mang tính chất “Đáo tụng đình”. Tài liệu giải quyết tin báo tội
phạm thu thập ban đầu thể hiện: Sau khi chết, ông Hồ Cảnh (cha ông Hồ Chừng,
Hồ Tấn và là ông nội Hồ Thanh Toại) có để lại 1 căn nhà và một số tài sản cho Hồ
Tấn ở và quản lý. Tối ngày 12/4/2017 ông Chừng đến nhà Tấn thấy Tấn đang ngồi
chơi với bạn mà không thắp đèn trên bàn thờ, ông Chừng la lối, tát Tấn rồi đi về.
Tấn có những lời nói thách đố. Ông Chừng chạy sang thì bị Tấn dùng cây tre đánh
vào người; bà Anh (vợ ông Chừng) chạy đến nắm giữ bộ phận sinh dục của Tấn;
Chừng giật được khúc cây tre trên tay Tấn và dùng cây tre đánh Tấn nhưng ở tư thế
đang khom người nên trúng vợ là bà Anh. Tấn bỏ chạy vào nhà thì bị ông Chừng
và bà Anh đuổi theo. Lúc này chị Tranh (vợ Tấn) cầm đoạn dây định trói ông
Chừng, bà Anh; nghe tin con ông Chừng là Toại đến nên vợ chồng Tấn chạy trốn.
Toại vào nhà Tấn đập phá một số tài sản. Thương tích của ông Chừng là 5%, bà
Anh 22%. Ông Chừng yêu c ầu khởi tố vụ án và cho rằng vết thương má bà Anh là
do bị Hồ Tân đánh chứ không phải ông.
Với nội dung đó đã nhận định Hồ Tấn phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo
khoản 1 Điều 104 BLHS 1999 do dùng hung khí nguy hiểm đánh ông Chừng và
cho rằng vết thương bà Oanh do chồng Bà là ông Chừng gây ra.
Kiểm sát viên nghiên cứu các tài liệu về thông tin tội phạm đã rút ra những
vấn đề sau đây cần phải chứng minh:
- Vụ án xảy ra ban đêm, vào thời điểm trời có trăng sáng đã lên cao, vậy
hiện trường xung quanh có vật cản che lấp anh trăng không và quá trình diễn biến
vụ án thì ông Chừng, bà Oanh và Hồ Tân có thể nhận diện được nhau không, mà bà
Oanh và ông Chừng khẳng định bà Oanh bị Hồ Tân đánh?
- Các vết thương trên cơ thể ông Chừng do Tấn dùng cây tre gây ra có đặc
điểm để lại trên cơ thể Ông cũng như được mô tả trong bệnh án, rút ra nhận định là
41
cây tre chưa được róc mắt tre (các bên mô tả vật chứng dài khoảng 1,4 mét, định
dùng làm cán cuốc, nhưng không thu giữ được).
- Cho rằng vết thương của bà Anh là do ông Chừng đánh Tấn nhưng trúng
vợ mình khi ông Chừng đang ở tư thế hơi khom người, còn bà Anh lúc này đang
nắm giữ bộ phận sinh dục của Tấn nên bị ông Chừng đánh nhầm trúng.
Lời khai bà Anh rằng việc điều tra bỏ lọt tội Hồ Tân, không xác định bà là
người bị hại do Hồ Tân đánh gây thương tích 22% mà lại xác định tư cách tham gia
tố tụng của bà là nguyên đơn dân sự là không đúng pháp luật. Vậy tại sao chưa hỏi
bà Anh sâu về lời khai của Bà rằng Bà bị Hồ Tấn đánh và cụ thể diễn biến ra sao?
Khi xem xét bệnh án vết thương của bà Anh thấy rằng, nếu do vật tròn, dài
và có nốt sần là mắt tre gây ra, sẽ thiếu tính thuyết phục, không phù hợp với cơ chế
gây thương tích và đặc điểm hung khí sử dụng. Mặt khác, trong điều kiện ba người
đang áp sát gần nhau thì ông Chừng không thể dùng cây tre đó đánh Tấn nhưng
trúng vợ mình làm vỡ xương gò má được. Từ đó đưa ra nhận định vết thương của
bà Anh khả năng do vật tù tác động mới có độ tin cậy.
- Cần phải làm rõ khi bà Anh chạy ra nắm giữ và bóp bộ phận sinh dục của
Tấn để không cho đánh ông Chừng, thì bà có bóp được hay không (do có thể phụ
thuộc vào quần Tấn mặc), trường hợp bóp được thì theo bản năng Tấn sẽ phản ứng
thế nào, và thái độ của Tấn đối với hành động của bà Anh ra sao?
- Nếu xác định thương tích của bà Anh 22% do ông Hồ Chừng gây ra, lại
cho rằng ông Chừng gây thương tích đối với vợ mình trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh do Hồ Chừng bị Hồ Tấn thách đố, dùng cây tre đánh nhiều nhát là
không đúng pháp luật vì đây thuộc trường hợp cố ý gây thương tích do sai lầm về
quan hệ nhân quả.
- Tại sao ông Chừng nói chỉ cần em trai (tấn) nói một lời xin lỗi. Bà Anh nói
chỉ mong làm sáng tỏ chính Tấn đánh vỡ xương gò má phải của bà chứ đừng xác
định oan cho chồng bà. Còn Hồ Tấn luôn khẳng định không gây thương tích cho bà
Anh vì bị bà nắm giữ bộ phận sinh dục nên Tấn la làng vì đau, hai tay đẩy gỡ tay
của bà Anh ra nhưng không được, bị cáo không thể gây thương tích đối với bà, mà
42
vết thương đó do ông Chừng dùng khúc tre đánh bị cáo mà gây ra, là thiếu tính
thuyết phục.
Trên cơ sở xác định những vấn đề cần phải chứng minh nên Kiểm sát viên
đã đề ra yêu cầu điều tra. Sau khi KSV phối với cùng CQĐT và ĐTV thực hiện các
nội dung của yêu cầu điều tra thông tin về tội phạm trên đây, đã góp phần quan
trọng làm sáng tỏ vụ án, đó là:
- Lời khai những người tham gia tố tụng và thực tế hiện trường đã xác định
nơi xảy ra vụ án có ánh sáng trăng và không bị vật cản che khuất nên họ nhìn và
nhận diện được nhau; đây được xem là điều kiện để những người này thực hiện
hành động của mình trong quá trình diễn biến vụ án và có khả năng xác định được
hành động của những người khác.
- Lời khai của Hồ Tấn và bà Anh về quần mà Tấn mặc khi gây án là quần
cụt (quần đùi) bằng vải mỏng, bên trong không mặc quần nhỏ.
- Khi bị bà Anh bóp bộ phận sinh dục để không cho đánh ông Chừng thì do
bị đau và theo bản năng Tấn thả cây tre đang cầm trên tay ra, miệng la to và dùng 2
tay gỡ tay bà Anh ra nhưng không được, nên Tấn ngồi xuống đất và kẹp 2 chân lại;
bởi vậy bà Anh không thể tiếp tục hành động đó được nữa. Khi tay bà Anh đã bị
tuột ra thì Tấn đứng dậy dùng 2 tay bóp cổ bà Anh rồi dùng tay trái nắm tóc bà, còn
tay kia đấm thẳng vào má phải của bà làm vỡ xương gò má thiệt hại tỷ lệ 22% sức
khỏe. Khi làm rõ những nội dung trên, diễn biến và tâm lý Tấn thay đổi hẳn vì đã
tâm phục khẩu phục và niềm hân hoan từ vợ chồng ông Chừng và bà Anh. Vụ án
này quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm quần chúng rất khâm phục về tính
khách quan và lôgic của vấn đề đã làm được sáng tỏ. Vì vụ án mang tính chất “đáo
tụng đình” nên cơ quan pháp luật giải quyết có lý có tình vừa đáp ứng yêu cầu
phòng, chống tội phạm và tạo điều kiện cho gia đình họ hoá giải mâu thuẫn nội bộ;
được những người tham dự phiên toà rất đồng tình.
Vụ án xảy ra tại đám cưới. Thông tin điều tra xác minh ban đầu nhận định:
Tối ngày 04/8/2016, Ao Công Chín, Ao Công Kỳ và Trần Tin đến dự tiệc cưới của
anh Nguyễn Văn Công ở thôn 2 xã Trà Phú. Tại đây, khi anh Nguyễn Kỷ lên hát thì
43
bị Kỳ, Tin không cho và đòi đánh nhưng được mọi người can ngăn, trong đó có anh
Phạm Văn Hùng. Khoảng 21h cùng ngày Chín, Kỳ, Tin cùng đi ra trước ngõ sân
nhà chị Nguyễn Thị Nghi rồi Kỳ vào lại đám cưới gọi anh Hùng ra. Khi anh Hùng
theo Kỳ ra ngoài thì liền bị Chín,Tin gây sự và đánh. Anh Hùng bỏ chạy vào nhà
chị Nghi thì 3 người đuổi theo. Anh Hùng tông cửa sau chạy đến nhà ông Kiệm và
lấy hai con dao chạy ra đứng trước nhà bà Nghi nói “Ai vào đây đánh tôi, tôi sẽ
chém” liền bị Kỳ cầm 01 khúc cây đánh vào 2 tay anh làm 2 con dao rơi xuống đất.
Anh Hùng bỏ chạy thì bị 3 người đuổi theo. Anh Hùng bị vấp ngã nằm xuống
đường đất trước ngõ nhà anh Nhi thì bị Kỳ, Tin dùng cây đánh vào người, Chín
dùng dao chém vào tay. Người dân thấy vậy la lên, ba đối tượng bỏ chạy. Anh
Hùng thiệt hại 16% sức khoẻ. CQĐT thu giữ con dao có lưỡi dài 24cm, cán bằng
gỗ dài 18 cm do Chín lấy của ông Kiệm. Tin bỏ trốn.
Lời khai các đối tượng Chín, Kỳ đều kêu oan. Cụ thể: Chín khai không cầm
dao không dùng dao chém anh Hùng, không gây thương tích 16% đối với anh
Hùng, bị hại và nhân chứng khai mâu thuẫn, không khách quan. Lời khai của Kỳ
rằng tại sân nhà bà Nghi, Kỳ cầm cây tre đánh vào tay anh Hùng làm văng 2 con
dao xuống đất, anh Hùng bỏ chạy, khi thấy anh Hùng đè lên người Chín thì Kỳ
dùng cây đánh vào lưng anh Hùng, còn Chín không gây thương tích cho Hùng
(Chín và Kỳ là anh em chú bác ruột). Nghiên cứu tài liệu ban đầu, VKS thấy rằng
nhiều vấn đề cần phải chứng minh để làm căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can cần
phải được điều tra làm sáng tỏ, đó là: Tại đám cưới khi Chín, Kỳ, Tin cùng nhau đi
ra đứng trước ngõ sân nhà chị Nghi thì ai khởi xướng và 3 người này cùng nhau
bàn bạc gì, mà khi Kỳ vào lại đám cưới gọi anh Hùng ra ngoài liền bị Chín, Tin
đánh anh dẫn đến xảy ra vụ án? Tại sao chưa lập sơ đồ các hiện trường, khám
nghiệm hiện trường vụ án mà chỉ được mô phỏng vài nét sơ sài trên 01 tờ giấy khổ
A4 nên không thể xác định được đặc điểm đoạn đường mà anh Hùng bị ba đối
tượng đuổi đánh và cụ thể nơi mà anh Hùng bị các đối tượng dùng dao, cây gây
thương tích có vị trí, đặc điểm,...như thế nào? Thông tin về quá trình anh Hùng bị
ba đối tượng cầm hung khí đuổi theo và đánh nhưng chưa được xác định cụ thể thứ
44
tự của ba đối tượng này từ khi đuổi anh Hùng, trong quá trình đuổi đến vị trí anh
Hùng bị gây thương tích cụ thể như thế nào? trong khi Chín một mực khai khi Kỳ
cầm cây chạy đến đánh vào tay anh Hùng làm rớt hai con dao xuống đất, anh Hùng
bỏ chạy thì bị đồng bọn chạy trước đuổi theo anh Hùng, còn Chín chạy đuổi theo
sau thì bị anh Hùng quay lại đánh làm cho Chín ngã xuống đất, Chín và anh Hùng
ôm vật nhau, Hùng đè lên người Chín, Chín la lên thì Kỳ chạy tới cầm cây đánh
vào lưng Hùng. Chín khẳng định không gây thương tích anh Hùng. Tại sao các đối
tượng lại khai giống nhau rằng anh Hùng chạy trước vì bị 3 đối tượng cầm hung
khí đuổi theo, còn Chín chạy sau? Tại sao Chín khai quá trình bị đuổi đánh thì anh
Hùng quay lại vượt qua Kỳ và Tin rồi tấn công Chín? Vấn đề đặt ra là lý do gì mà
anh Hùng lại quay lại, do phía trước có vật cản hay sao, và nếu có quay lại thì làm
sao anh Hùng có thể thoát khỏi sự tấn công của Kỳ và Tin mà chạy đến tấn công
Chín được? Anh Hùng thì khai bị Chín dùng dao chém vào đầu và khi Chín chém
anh thì Chín đứng trong tư thế hơi khom người. Thế nhưng tại sao vết chém lại ở
bàn tay, cánh tay anh Hùng mà chưa được lý giải? Hung khí xác định Chín đã sử
dụng để gây thương tích đối với anh Hùng là con dao lưỡi dài 24cm bị khuyết lõm
phần lưỡi, cán dao bằng gỗ dài 18 cm: vậy nếu Chín cầm dao chém anh Hùng với
tư thế hơi khom người, còn anh Hùng nếu nằm ngửa trên một mặt phẳng trước nhà
bà Nghi như các đối tượng khai, khi trừ phần cán dao bị cáo Chín cầm thì chiều dài
còn lại của con dao thì sẽ khó có thể gây ra vết thương có đặc điểm 1 vết dài 9cm
ngang lòng bàn tay phải, 1 vết dọc cẳng trong tay trái dài 16 cm thể hiện trong bệnh
án cũng như dấu vết trên tay của anh Hùng?. Vậy vấn đề đặt ra là hiện trường nơi
anh Hùng bị đánh, bị chém bằng tay, chân, cây gậy và dao thật sự cụ thể ở đâu?
Vấn đề đặt ra phải làm sáng tỏ các hiện trường, trong đó có vị trí, đặc điểm
hiện trường nơi anh Hùng bỏ chạy do các đối tượng cầm hung khí đuổi theo, thứ tự
các đối tượng cầm hung khí đuổi theo anh Hùng, tư thế của anh Hùng bị ngã nằm
và bị đánh, chém và đặc điểm địa lý nơi anh Hùng nằm khi bị đánh, bị chém, vị trí
đứng của từng đối tượng khi anh Hùng đang nằm và hung khí sử dụng, ai là người
chém và cơ chế hình thành vết thương, vì sao anh Hùng khai Ao Công Chín chém
45
vào đầu anh nhưng vết thương lại trúng tay. Từ đó, Kiểm sát viên đã báo cáo lên
lãnh đạo xin ý kiến chỉ đạo làm rõ các nội dung nêu trên trong văn bản yêu cầu điều
tra xác minh tin báo về tội phạm bổ sung, được chấp thuận và KSV chú trọng kiểm
sát cũng như phối hợp với CQĐT lập các tài liệu tố tụng như lấy lời khai người
tham gia tố tụng, lập sơ đồ hiện trường, chụp ảnh hiện trường…. Khi điều tra xác
minh tin báo tội phạm dù Kỳ, Chín, Tin vẫn không thay đổi lời khai và kêu oan,
nhưng kết quả đã chứng minh được chân lý khách quan vụ án qua các nguồn chứng
cứ, cụ thể như sau: Sau khi anh Hùng can ngăn không cho Kỳ và Tin đánh anh Kỷ
thì Kỳ rủ Chín và Tin đi ra ngõ nhà chị Nghi bàn cùng nhau đánh anh Hùng và cả 3
người thống nhất dùng thủ đoạn bảo Kỳ vào đám cưới gọi anh Hùng ra ngõ để hành
động. Khi lấy lời khai thì các đối tượng không trả lời nhưng trên cơ sở thực tế hiện
trường và sơ đồ hiện trường cùng lời khai của những người tham gia tố tụng, xác
định: Đoạn đường mà anh Hùng bị ba đối tượng đuổi đánh là đoạn đường rất nhỏ
hẹp, hai bên đường có bờ rào là hàng tre rất cao và ken dày che chắn, phía trước
không phải là đường cụt hay có vật cản mà là cánh đồng đã gặt lúa nên khô nước.
Xác định khi anh Hùng bị ba đối tượng cầm hung khí đuổi đánh thì thứ tự là Tin rồi
tới Kỳ, Chín đuổi sau cùng.
Với kết quả đó đã xác định trong điều kiện và hoàn cảnh đó, anh Hùng
không có lý do gì và cũng không thể nào chạy ngược trở lại được để tấn công Chín.
Giả sử anh Hùng có chạy ngược trở lại thì không thể nào thoát khỏi sự khống chế
và tấn công của Kỳ và Tin đang cầm hung khí, trong khi anh Hùng chỉ có tay
không. Do đó, lời khai của Chín là không có cơ sở chấp nhận. Kết quả này là bước
ngoặt để làm sáng tỏ vụ án về vai trò và hành vi của Chín và diễn biến chứng minh
về vụ án.
Kết hợp hiện trường và hỏi anh Hùng khi anh nằm thì đầu, chân quay hướng
nào? vị trí anh nằm bị ba đối tượng gây thương tích có đặc điểm là mặt bằng hay độ
nghiêng? và khi bị Chín dùng dao chém vào đầu thì anh có phản xạ gì, vị trí Chín
khi chém đứng bên trái hay bên phải khi anh nằm mà gây ra những vết thương ở
46
bàn tay, khuỷu tay...để xác định những điều kiện và cơ chế hình thành vết thương ở
tay anh Hùng và hung khí sử dụng.
Kết quả điều tra đã xác định: khi bị ngã và bị ba đối tượng gây thương tích
thì anh Hùng nằm đầu quay hướng Nam, chân quay hướng Bắc. Chín đứng hơi
khom người bên phải anh Hùng, 2 tay Chín cầm dao chém vào vùng đầu anh Hùng
thì anh Hùng đưa 2 tay lên đỡ bảo vệ vùng đầu nên bị thương tích ở tay với những
đặc điểm, vị trí cụ thể (nêu trên). Và nơi anh Hùng nằm khi bị Chín chém là dưới
lòng mương nước thuỷ lợi nhưng không có nước, mương có độ dốc khoảng 300
(đầu anh Hùng nằm thuộc tà dương). Còn Kỳ và Tin đứng ở giữa người và chân
anh Hùng dùng cây đánh vào mình, chân anh Hùng.
Với những nội dung chủ yếu khi điều tra xác minh theo văn bản yêu cầu
điều tra, hoạt động kiểm sát và kết quả nêu trên có kết hợp sử dụng phương pháp
tâm lý tư pháp, nguyên lý quá trình nhận thức và tư duy trừu tượng hoá khoa học,
CQĐT, VKS và Kiểm sát viên, Điều tra viên đã làm sáng tỏ vụ án nói chung, vai
trò và hành vi của từng đối tượng nói riêng, từ đó có đủ cơ sở vững chắc xác định 3
đối tượng phạm tội. Vụ án này quá trình khởi tố điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm,
xét xử phúc thẩm (không chấp nhận các kháng cáo kêu oan của bị cáo Ao Công
Chính) được quần chúng tham dự nhiệt liệt hoan hô, bị hại rất hân hoan, còn thái
độ các bị cáo dù đối phó nhưng hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Bản thân tôi rất suy
nghĩ về vụ án này vì mang đậm dấu ấn hoạt động kiểm sát điều tra và đem lại nghĩ
suy, kinh nghiệm quý báu.
- Căn cứ không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xúi
giục người dưới 18 tuổi phạm tội” đối với bị can trong Cáo trạng. Kết luận điều
tra đề nghị truy tố Trần Thiện tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134
BLHS và đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xúi giục người
dưới 18 tuổi phạm tội” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 BLHS 2015. Tóm tắt
vụ án: Do mâu thuẫn giữa hai người, sáng ngày 10/7/2019 Trần Thiện rủ cháu Tr
Th T (chưa đủ 16 tuổi, là cháu Thiện) cùng đi đánh ông Nguyễn A. Cả hai người
đem hung khí đến gặp ông A đánh làm ông A bị tổn thương cơ thể tỷ lệ 17%. Trần
47
Thiện bị truy tố tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 134
BLHS. Cáo trạng và Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đều không áp dụng điểm
o khoản 1 Điều 52 BLHS đối với bị cáo.Chúng tôi cho rằng Cáo trạng truy tố
không áp dụng điểm o khoản 1 Điều 52 BLHS đối với bị can Trần Thiện là hoàn
toàn đúng pháp luật, bời trong thực tiễn, người phạm tội (kể cả phạm tội đơn lẻ hay
có đồng phạm với cùng vai trò hoặc nhiều vai trò) rơi vào một trong các trường hợp
sau đây:
Họ trực tiếp hoặc không trực tiếp thực hiện tội phạm mà sử dụng người khác
(sử dụng người không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc không có năng lực
trách nhiệm hình sự - gọi chung là người không có năng lực trách nhiệm hình sự);
Họ không trực tiếp thực hiện tội phạm mà sử dụng người khác thực hiện
nhưng người này không thể biết hành vi mình thực hiện là hành vi thực hiện tội
phạm “thay” người phạm tội (do đó không phát sinh quan hệ đồng phạm); Quá
trình họ trực tiếp thực hiện tội phạm họ còn sử dụng người không có năng lực trách
nhiệm hình sự (các dạng) để hành vi phạm tội của họ thực hiện được thuận lợi hay
vì mục đích khác của họ. Cho nên các trường hợp trên chỉ có họ là chủ thể tội phạm
nên phải gánh chịu tất cả các hậu quả pháp lý do hành vi phạm tội gây ra. Từ các
vấn đề trên, trong vụ án này chúng tôi cho rằng Trần Thiện đã sử dụng cháu Tr Th
T vào việc phạm tội vì cháu chưa đủ 16 tuổi nên không phải là chủ thể tội phạm
trong vụ án. Vì thế mọi hậu quả của tội phạm chỉ một mình Trần Thiện phải gánh
chịu nên không thể áp dụng điểm o khoản 1 Điều 52 BLHS.
Nguyên nhân ưu điểm: Với phạm vi đánh giá thực tiễn kiểm sát điều tra các
vụ án cố ý gây thương tích của VKS huyện trong 5 năm qua thông qua nhận diện từ
những ưu điểm (kể cả hạn chế, tồn tại), chúng tôi xin chỉ ra một số yếu tố cơ bản
dẫn đến ưu điểm sau đây:
- Theo tinh thần các Nghị quyết 48, 49 của Bộ chính trị, Hiến pháp 2013 và
các Luật tổ chức, Luật tố tụng thì hoạt động xét xử là nội dung trọng tâm của công
cuộc cải cách tư pháp. Một trong những yếu tố cơ bản của việc nâng cao chất lượng
điều tra, kiểm sát điều tra, xét xử và kiểm sát xét xử là chất lượng tranh tụng giữa
48
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố với phía bị cáo nhằm làm sáng tỏ bản chất
pháp lý của vụ án để giúp cho Tòa án ra bản án, quyết định giải quyết vụ án có đủ
căn cứ và đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời. Từ yêu cầu đòi hỏi đó, lãnh
đạo CQĐT và VKS đã có sự chú trọng bố trí những ĐTV, KSV có chuyên môn
vững, có năng lực thực tiễn và kinh nghiệm, có nhiều kiến thức làm công tác điều
tra, kiểm sát điều tra các vụ án phức tạp nói chung, các vụ án CYGTT nói riêng.
- Thực hiện chủ trưởng Cải cách tư pháp, hệ thống VKS rất quan tâm đến
công tác chỉ đạo điều hành các lĩnh vực công tác kiểm sát thực hiện chức năng, đặc
biệt là công tác thực hành quyền công tố - kiểm sát điều tra – kiểm sát xét xử các
vụ án hình sự vì xác đây là nhiệm vụ trọng tâm của mình. Từ đó toàn hệ thống đã
xác định những yêu cầu, giải pháp và đề ra, sử dụng nhiều phương thức, biện pháp
trong chỉ đạo và quản lý để nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát trong lĩnh vực hình
sự.
- Chế độ thông khâu được thể hiện trong Quy chế thực hành quyền công tố-
kiểm sát điều tra–kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong nhiều năm qua
thì, một trong những ưu điểm là KSV kiểm sát điều tra từng vụ án cụ thể có điều
kiện tiếp cận, nghiên cứu, xử lý hồ sơ tài liệu từ giai đoạn giải quyết tin báo về tội
phạm, giai đoạn điều tra, truy tố và trực tiếp tham gia phiên tòa, nên họ sẽ tích lũy
được tri thức và kinh nghiệm để phục vụ việc kiểm sát điều tra các vụ án hình sự.
- Viện trưởng VKSND tỉnh Quảng Ngãi rất quan tâm các yếu tố liên quan
mật thiết đến hiệu quả công tác kiểm sát trong các lĩnh vực, nhất là yếu tố về công
tác chính trị tư tưởng, công tác đào tạo, sử dung, bố trí, quy hoạch cán bộ, công tác
thi đua khen thưởng, xử lý kỷ luật.
- CQĐT và VKS, các ĐTV và các KSV đã chú trọng mối quan hệ phố hợp
trên quan điểm bảo đảm chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành, chức trách nhiệm vụ
của từng NTHTT trên cơ sở quy định của pháp luật quy định cũng như nguyên tắc
phối hợp – chế ước theo quy định của BLTTHS.
- Quá trình điều tra và kiểm sát điều tra đã chú trọng tuân thủ các quy định
của pháp luật hình sự, dân sự và các văn bản hướng dân thi hành, từ đó làm cơ sở
49
xác định và làm rõ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án phạm tội đơn lẻ, vụ
án có đồng phạm của loại tội phạm này, từ đó làm căn cứ ra các yêu cầu và quyết
định đúng đắn và kịp thời trong giai đoạn xử lý tin báo và quá trình điều tra vụ án.
- Đối với những vụ án mà có khó khăn vướng mắc về thu thập, đánh giá, sử
dụng chứng cứ thì lãnh đạo CQĐT, VKS cùng với ĐTV, KSV kịp thời họp bàn sử
dụng các biện pháp điều tra để đem lại hiệu quả.
- Những vụ án mà sau khi kết thúc điều tra và đề nghị truy tố mà KSV hoặc
lãnh đạo VKS thấy cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì đều cân nhắc kỹ lưỡng
tính căn cứ, tính cần thiết và khả năng chứng minh về mặt tố tụng trước khi ra
quyết định trả hồ sơ, đồng thời xác định do khách quan hay trách nhiệm cá nhân
trong kiểm sát điều tra.
- Những vụ án mà VKS hoặc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thiếu
những chứng cứ quan trọng để định tội, định khung, làm rõ hậu quả phần dân sự,
khởi tố bổ sung tội danh, khởi tố thêm đồng phạm mà được CQĐT hoặc VKS chấp
nhận; kết quả điều tra bổ sung mà dẫn đến thay đổi kết luận điều tra và đề nghị truy
tố, thay đổi cáo trạng mà do một trong các yêu cầu điều tra bổ sung nêu trên chi
phối, hoặc trong quá trình điều tra bổ sung mà thu thập được những chứng cứ
những tình tiết mới liên quan mật thiết đến vụ án thì CQĐT, VKS và các ĐTV, các
KSV tiến hành tố tụng vụ án đều kịp thời họp để chỉ ra những nguyên nhân, điều
kiện xảy ra hạn chế, thiếu sót, vi phạm để rút kinh nghiệm trong điều tra và kiểm
sát điều tra loại tội phạm này.
- Những vụ án mà quan điểm của 3 cơ quan THTT cấp huyện áp dụng pháp
luật hình sự tương đồng như nhau về tội danh, khung hình phạt, tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ, nhưng bản án sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy toàn
bộ hoặc hủy phần áp dụng pháp luật hình sự để điều tra lại mà do kháng cáo hoặc
do VKSND tỉnh kháng nghị phúc thẩm, thì khi nhận lại hồ sơ vụ án VKS và CQĐT
cùng những NTHTT vụ án đó kịp thời họp để xác định nguyên nhân và hướng giải
quyết theo đúng quy định pháp luật. Tiếp đó, lãnh đạo VKS huyện cùng KSV làm
công tác kiểm sát điều tra vụ án đó trình bày nguyên nhân, điều kiện và biện pháp
50
khắc phục; đồng thời đơn vị coi đây là một chế tài nghiêm khắc khi bình chọn thi
đua khen thưởng.
2.2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế:
- Đối với hoạt động giải quyết tin báo về tội phạm. Trong 5 năm qua VKS
chỉ kiểm sát trực tiếp 1 lần vào năm 2018 đối với hoạt động tiếp nhận, giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố và qua kiểm sát không phát hiện vi
phạm đáng kể nên không kiến nghị; trong khi trong tổng số 44 tin và 2 kiến nghị
CQĐT đã giải quyết thì có 8 tin chậm ra quyết định phân công người tiến hành tố
tụng, trong đó có 3 tin phải tạm đình chỉ sau đó phục hồi giải quyết; có 11 tin phải
gia hạn thời hạn giải quyết. Qua nghiên cứu các văn bản của KSV đề ra yêu cầu và
yêu cầu bổ sung đối với CQĐT và ĐTV để giải quyết tin báo tội phạm thấy rằng: 4
tin có dấu hiệu tội phạm thuộc tội ít nghiêm trọng, nhưng KSV không đề ra yêu cầu
phải làm rõ ý chí của bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ về yêu cầu khởi tố vụ án
hình sự hay không. Có 3 tin vụ án có đồng phạm thông mưu với nhau từ trước, vụ
án xảy ra ban đêm không có người làm chứng, bị hại bị đánh bất ngờ, người phạm
tội có sử dụng hung khí và sau khi gây án có người bỏ trốn,… nhưng không có nội
dung yêu cầu làm rõ vai trò của từng người, hung khí từng người sử dụng, tư thế
người đánh, tư thế bị hại khi bị đánh và dấu vết thương tích gây ra…. Có 6 tin yêu
cầu điều tra không đề cập rõ ràng và cụ thể về chứng minh hậu quả về dân sự và
yêu cầu của bị hại về bồi thường dân sự. Trong số các tin phải gia hạn thời hạn giải
quyết thì có 4 tin văn bản yêu cầu điều tra quá sơ sài.
- Đối với khởi tố hoặc không khởi tố. Có 8 trường hợp chậm ra quyết định
phân công KSV kiểm sát điều tra vụ án hình sự, có trường hợp chậm 6 ngày so với
quy định của BLTTHS – điều này liên quan đến tính kịp thời của kiểm sát khởi tố,
tính hợp pháp của chứng cứ thu thập trong giai đoạn điều tra gắn với kiểm sát điều
tra và yêu cầu về tiến độ điều tra, kiểm sát điều tra. Có 4 trường hợp KSV chậm
ban hành văn bản yêu cầu điều tra (chậm từ 5 đến 9 ngày). Có 5 vụ án KSV không
đề ra yêu cầu điều tra bổ sung trong khi các vụ án này xuất hiện một trong các tình
51
tiết như: phát sinh đồng phạm; mâu thuẫn trong lời khai, bản cung của bị can với bị
hại và với các chứng cứ vật chất như hung khí, dấu vết thương tích trên cơ thể bị
hại; mâu thuẫn về cơ chế gây thương tích khi nhận định tư thế, vị trí bị hại đứng,
nằm với tư thế, vị trí, khoảng cách bị can khi gây án; cách thức sử dụng hung khí,
loại hung khí khi gây án; vị trí, đặc điểm, chiều hướng dấu vết thương tích trên cơ
thể nạn nhân và hồ sơ bệnh án phản ảnh mâu thuẫn với lời khai của các bị can về
hung khí sử dụng, cách thức sử dụng, ý thức của bị can khi sử dụng,…
- Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn.VKS chưa chú trọng kiểm sát thường
kỳ việc tuân thủ pháp luật đối với công tác bắt, tạm giữ, tạm giam 1 tuần/lần theo
kế hoạch công tác hằng năm đối với hoạt động bắt, tạm giữ và chưa tiến hành sử
dụng phương thức kiểm sát đột xuất và toàn diện lần nào. Có 3 trường hợp VKS
phê chuẩn gia hạn tạm giữ lần 1 và có 5 trường hợp phê chuẩn gia hạn tạm giữ lần
2 (trong 8 trường hợp này có 3 trường hợp người thực hiện tội phạm khi chưa đủ 18
tuổi và phạm tội ít nghiêm trọng) mà hình phạt Tòa án sơ thẩm áp dụng có hiệu lực
pháp luật đối với bị cáo là cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù cho hưởng án treo.
Có 5 bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng bị tạm giam giai đoạn điều tra và truy tố,
được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng án treo; có 3 bị cáo bị tạm giam giai đoạn điều
tra, truy tố và xét xử, được Tòa án áp dụng hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam mà
không có kháng cáo, kháng nghị về hình phạt theo hướng làm xấu đi tình trạng của
bị cáo; có 3 trong số 5 bị cáo nêu trên trong giai đoạn điều tra có gia hạn tạm giam
lần thứ nhất - vấn đề này có liên quan đến suy luận rằng, việc áp dụng chế tài tạm
giam trong giai đoạn điều tra và truy tố chưa xác đáng, không cần thiết cũng như có
phần ảnh hưởng đến quyền của bị cáo khi kháng cáo xin giảm án hoặc cải sửa từ
hình phạt tù có thời hạn sang án treo hoặc cải tạo không giam giữ hay ảnh hưởng
đến việc họ được giảm án, tha tù trước thời hạn có điều kiện, đặc xá hoặc miễn
chấp hành một phần hay toàn bộ hình phạt (nếu giai đoạn điều tra, truy tố được tại
ngoại hoặc được thay đổi biện pháp ngăn chặn kịp thời, sau đó xét xử bị tuyên phạt
án tù giam). Có thể nói có phần nguyên nhân là do đánh giá về tính chất pháp lý
của vụ án và người phạm tội đôi khi chưa sâu sát, do tâm lý mau chóng xử lý vụ án,
52
phòng ngừa bị can bỏ trốn hoặc có biện pháp đối phó gây khó khăn cho hoạt động
tố tụng nên quá trình điều tra, truy tố VKS không áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác hoặc thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn khác. Mặt khác,
cũng có 3 trường hợp không bị tạm giam và 5 trường hợp VKS hủy bỏ biện pháp
tạm giam, nhưng sau khi truy tố thì Tòa án ra lệnh bắt tạm giam bị can/bị cáo để
xét xử và áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Qua nghiên cứu 4 vụ án VKS
trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung (có 1 vụ Tòa án trả hồ sơ trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử) và kết quả thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung thể hiện, cho dù
không có trường hợp nào dẫn tới CQĐT hoặc VKS ra quyết định đình chỉ vụ án đối
với bị can theo quy định tại một trong các căn cứ quy định tại Phần chung BLHS
hoặc một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 BLTTHS về đình chỉ do oan, sai,
nhưng một số tồn tại sau đây phản ảnh phần nào về tính kịp thời và tồn tại, hạn chế
của hoạt động kiểm sát điều tra:
- Có 2 vụ 3 bị can VKS yêu cầu CQĐT thực nghiệm điều tra dựng lại hiện
trường vụ án: qua đó đã xác định rõ được diễn biến, tình huống và cơ chế gây
thương tích giữa bị hại với bị cáo với nhau và các bị hại cũng có lỗi trong vụ án, từ
đó không có cơ sở áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “Phạm tội có tính chất
côn đồ” thuộc điểm i khoản 1 Điều 134 BLHS (Viện dẫn để áp dụng khoản 3 Điều
134 BLHS), nên các bị can bị truy tố theo khoản 2 Điều 134 BLHS. Các vụ án này
cấp sơ thẩm đã xét xử ra bản án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, nguyên nhân hạn
chế trong 2 vụ án này là do giai đoạn giải quyết tin báo và điều tra vụ án, VKS làm
chưa tốt trong hoạt động phối hợp với CQĐT và ĐTV thể hiện trong đề ra yêu cầu
điều tra chưa kịp thời và đầy đủ, cũng không bổ sung yêu cầu điều tra thu thập
chứng cứ để làm rõ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án.
- Có 1 vụ 3 bị cáo đề nghị truy tố khoản 3 Điều 104 BLHS 1999 và VKS
truy tố như đề nghị. Tóm tắt vụ án: chiều ngày 12/4/2016 sau khi đi bán gỗ cây
xoan về, ba đối tượng Đinh Kren, Đinh Lã, Đinh Krõ uống rượu. Do mâu thuẫn với
ông Đinh Để, Kren rủ hai người còn lại cùng đi đánh Ông thì được nhất trí. Kren
53
đem theo một cành cây gỗ keo đường kính 3,2 cm dài 81 cm, đã khô. Đến nhà ông
Để thấy Ông đang nằm trên gường thì 3 người thay nhau dùng cây đánh vào chân,
tay Ông làm khúc cây gãy nhiều đoạn. Ông khóc van xin thì cả 3 dừng lại và bỏ đi.
Khoảng 3 giờ sau vợ ông Để về. Nghe vợ chồng ông Để la chửi mình, Kren cầm
cây bạch đàn đường kính 4cm dài 72 cm còn tươi chạy đến đánh một nhát vào lưng
khi ông Để đang ngồi, gây vỡ phổi phải, 2 tiếng sau Ông chết.Tài liệu pháp y thể
hiện ông Để bị gãy 2 xương cổ tay phải, gãy xương cổ chân trái, 2 tay và chân có
nhiều vết bầm tụ máu (tổng tỷ lệ thiệt hại sức khỏe 32%).Vỡ phổi phải. Kết luận
nguyên nhân chết: Vỡ phổi phải, đa thương tích. Cáo trạng truy tố 3 bị can khoản 3
Điều 104 BLHS vì cho rằng tỷ lệ 32% kết hợp với 2 tình tiết định khung tăng nặng
thuộc các điểm a,i khoản 1 Điều 104 BLHS và thu hút hành vi và hậu quả Kren gây
ra cho ông Để vì hành vi này cũng thuộc khoản 3 Điều 104 BLHS. Sau khi nghiên
cứu Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung yêu cầu xác định hành
vi và hậu quả của 3 đồng phạm và làm rõ hành vi Kren đánh vào lưng làm nạn nhân
vỡ phổi chết cần xử lý tội giết người. Quá trình điều tra bổ sung VKS huyện đã
chuyển vụ án lên VKS tỉnh giải quyết theo thẩm quyền. Vụ án này CQĐT và VKS
đã khởi tố điều tra, truy tố Đinh Kren tội Giết người theo điểm n “Có tính chất côn
đồ” quy định tại khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 (Bản án sơ thẩm kết án bị cáo điểm n
khoản 1 Điều 93 BLHS, tuyên phạt 17 năm tù) và truy tố 3 bị can về tội “Cố ý gây
thương tích” theo khoản 3 Điều 104 BLHS.
- Có 1 vụ 1 bị can đề nghị truy tố tội CYGTT theo khoản 3 Điều 134 BLHS;
qua thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung của VKS đã khởi tố thêm 1 bị can về hành
vi phạm tội theo khoản 2 Điều 134 BLHS và thay đổi quyết định khởi tố 1 bị can từ
khoản 3 Điều 134 BLHS sang khoản 2 Điều 134 BLHS. Tóm tắt vụ án: Kết quả
điều tra thể hiện sáng ngày 12/5/2019 Đinh Bẻo và Đinh Lút uống rượu thì 2 bên
cãi nhau, Đinh Bẻo đạp vào người anh Lút làm anh ngã xuống đất có đá gây chấn
thương sọ não và gẫy 2 xương sườn và gãy xương cẳng chân trái, bên ngoài cẳng
chân có dấu vết bầm tụ máu và vùng bị tổn thương sưng nề. Tổng tỷ lệ tổn thương
cơ thể là 65%. Sau khi phạm tội Đinh Bẻo xóa một số dấu vết tại hiện trường rồi bỏ
54
mặc anh Lút nằm tại chòi rẫy ngoài rừng. Qua điều tra bổ sung xác định: Đinh Bẻo
đạp anh Lút làm anh bị chấn thương sọ não và gãy 2 xương sườn, tổng tỷ lệ tổn
thương cơ thể 38%. Đối với vết thương ở cẳng chân anh Lút, xác định: Khoảng 19
giờ cùng ngày Đinh Phèng đi săn đi ngang qua chòi rẫy thấy anh Lút nằm bất động
có máu chảy ở miệng và tai đã khô, thấy xung quanh có một số công cụ làm rẫy và
đồ uống rượu, tưởng anh Lút đã chết do uống nhiều rượu, do có mâu thuẫn tranh
chấp đất đai với anh Lút, Phèng dùng báng khẩu súng săn tự chế đánh vào ngang
cẳng chân anh làm gãy chân anh. Giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể anh Lút do vết
thương này gây ra là 17%. Vụ án này quá trình xác minh tin báo, khởi tố điều tra
trong các văn bản yêu cầu điều tra chưa chú trọng đến vị trí và đặc điểm vết thương
ở cẳng chân anh Lút do nguyên nhân nào gây ra, cơ chế gây ra mà cho rằng do
Đinh Bẻo gây ra cả 3 vết thương đối với anh Lút. Sau khi kết thúc điều tra thì KSV
mới phát hiện điều bất thường vết thương ở chân anh Lút nên đã trả hồ sơ để điều
tra bổ sung nguyên nhân, thời điểm hình thành vết thương và người gây ra. Trong
vụ án này hành vi phạm tội của Đinh Bẻo đã hoàn thành và đã kết thúc, đó là chưa
nói đến việc Đinh Phèng không hề biết Đinh Bẻo phạm tội, cho nên hành vi phạm
tội của Đinh Phèng là độc lập nên 2 bị can này không thể có sự thống nhất về lý trí
và ý chí nên không xuất hiện quan hệ đồng phạm.
- Ngoài ra, còn có 3 trường hợp VKS trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung
chứng cứ về phần bồi thường dân sự: qua điều tra bổ sung dẫn đến CQĐT có thay
đổi kết luận điều tra về hậu quả tội phạm phần bồi thường dân sự. Qua nghiên cứu
thấy rằng các vụ án này KSV đề ra yêu cầu điều tra nhưng còn nhiều thiếu sót về
yêu cầu thu thập các nguồn chứng cứ vật chất chứng minh hậu quả về bồi thường
dân sự và ý kiến người bị hại, nguyên đơn dân sự về bồi thường phần dân sự.
- Trong số 30 vụ 51 bị can đã truy tố thì Tòa án đều đã xét xử. Đa số quan
điểm truy tố và bảo vệ quan điểm truy tố của KSV được HĐXX chấp nhận. Tuy
nhiên đáng chú ý các trường hợp sau đây phản ảnh tồn tại của hoạt động kiểm sát
điều tra - vì kết quả kiểm sát điều tra và truy tố thể hiện quan điểm của VKS như
55
kết luận điều tra đề nghị truy tố của CQĐT, nhưng VKS không bảo vệ được Cáo
trạng. Cụ thể:
Rút Cáo trạng truy tố và đề nghị HĐXX đình chỉ vụ án. Vụ án Phạm Duy và
Võ Khả. Quá trình kiểm sát điều tra VKS xác định các bị cáo phạm tội theo điểm c
“Phạm tội 2 lần trở lên” quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS. Kết luận điều tra và
Cáo trạng cũng xác định các bị cáo phạm tội như nêu trên. Tóm tắt vụ án: chiều
ngày 07/4/2019 các bị cáo sử dụng hung khí nguy hiểm đánh 2 người mỗi người 2
lần, mỗi lần đánh các bị hại cách nhau khoảng 30 phút, gây tổng tỷ lệ tổn thương
cơ thể 2 người là 5%. Các bị hại yêu cầu khởi tố vụ án. Ngày 18/11/2019; ngày
28/11/2019 các bị hại làm đơn rút yêu cầu khởi tố vụ án gửi đến Tòa án. Ngày
31/12/2019 Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử có nội dung ngày 14/01/2020
xét xử; ngày xét xử hoãn phiên tòa. Ngày 7/2/2020 mở phiên tòa và Hội đồng xét
xử ra Quyết định đình chỉ vụ án số 01/2020/HSST- QĐ áp dụng các Điều 282, 299
và 326 BLTTHS. Theo biên bản phiên tòa thì phần “Thủ tục bắt đầu phiên tòa” có
ghi: Tại phiên tòa KSV công bố cáo trạng truy tố các bị cáo điểm c khoản 2 Điều
134 BLHS và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 134 BLHS để xét xử bị cáo
nhưng do các bị hại rút yêu cầu khởi tố nên KSV đề nghị HĐXX đình chỉ vụ án.
Lẽ ra, trong giai đoạn khởi tố, điều tra VKS cần xác định các bị can phạm
tội thuộc điểm a (dùng hung khí nguy hiểm) và điểm i (phạm tội có tính chất côn
đồ) thuộc khoản 1 Điều 134 BLHS, hoặc thậm chí sau khi nhận hồ sơ và kết luận
điều tra đề nghị truy tố thì cần trả hồ sơ để điều tra bổ sung xác định các bị cáo
phạm tội theo các điểm a, i khoản 1 Điều 134 BLHS để thay đổi Kết luận điều tra
và Cáo trạng truy tố hoặc thay đổi Cáo trạng từ khoản 2 Điều 134 BLHS sang
khoản 1 Điều 134 BLHS.
Bện cạnh đó tại phiên tòa, do VKS không có văn bản thay đổi Cáo trạng, thì
sau khi công bố Cáo trạng truy tố theo điểm c khoản 2 Điều 134 BLHS, nếu không
tiến hành tiếp tục các thủ tục trong phần “Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” trở đi do
KSV nhận thấy truy tố sai khung hình phạt, thì KSV phải trình bày với HĐXXvề
quan điểm của VKS rằng các bị cáo phạm tội nhẹ hơn cáo trạng truy tố nên thay
56
đổi cáo trạng truy tố từ điểm c khoản 2 Điều 134 BLHS sang khoản 1 Điều 134
BLHS đối với cả hai bị cáo (căn cứ khoản 1 Điều 325 BLTTHS), rồi mới đề nghị
HĐXX đình chỉ vụ án do các bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án đối với hành vi phạm
tội của các bị cáo. Việc sau khi KSV công bố Cáo trạng rồi tiếp đến đề nghị HĐXX
đình chỉ vụ án vì các bị cáo phạm tội khoản 1 Điều 134 BLHS mà không thay đổi
Cáo trạng là vi phạm trong quyết định truy tố và rút quyết định truy tố.
Vụ án này phản ảnh hạn chế, thiếu sót của hoạt động kiểm sát về áp dụng
luật nội dung và luật tố tụng không chỉ trong khâu kiểm sát điều tra.
Kiểm sát viên thay đổi Cáo trạng theo hướng truy tố khung nhẹ hơn. Có 1
vụ án 4 bị cáo truy tố khoản 3 Điều 104 BLHS 1999 (bị hại bị tổn thương cơ thể
42%). Tóm tắt vụ án: Do mâu thuẫn từ trước với anh Đoàn Đầm, tối ngày
7/12/2016, Nguyễn Sẳng rủ Trịnh Đức, Lê Văn Sáng và Tô Tèo cùng đi đánh anh
Đầm để bõ tức thì được mọi người nhất trí. Sẳng phân công từng người chuẩn bị
phương tiện là 2 xe máy có gắn biển số kiểm soát giả và hẹn thời gian, địa điểm tập
trung để gây án. Đến nhà anh Đầm, Sẳng phân công Tô Tèo vào nhà anh Đầm gọi
anh Đầm ra và khi anh Đầm ra thì Tèo phải ôm giữ khống chế anh Đầm, còn mình
và Đức cùng Sáng đứng ở ngoài sân chờ anh Đầm ra để đánh, đánh xong phải tháo
bỏ vứt hết 2 biển số giả. Khi anh Đầm vừa ra thì Tèo ôm giữ anh, 3 người còn lại
đánh vào 2 chân và đấm đá anh. Giai đoạn xử lý tin báo và quá trình điều tra thì các
văn bản yêu cầu điều tra có nội dung cần phải làm rõ hành vi phạm tội có tổ chức.
Kết luận điều tra đã làm sảng tỏ, khách quan các tình tiết của vụ án và không có nội
dung đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng định khung “Phạm tội có tổ chức”. Cáo
trạng áp dụng tình tiết tăng nặng định khung ‘Có tổ chức” quy định tại điểm e
khoản 1 Điều 104 BLHS viện dẫn lên khoản 3 Điều 104 BLHS. Vụ án này dù tính
chất là đồng phạm phức tạp và người tổ chức cũng là người thực hành, nhưng các
bị cáo không có sự cấu kết chặt chẽ như quy định tại khoản 3 Điều 20 BLHS 1999.
Do vậy, sau phần tranh luận, KSV thay đổi Cáo trạng đề nghị Tòa án áp dụng
khoản 2 Điều 104 BLHS để xét xử đối với các bị cáo; được HĐXX chấp nhận.
Bản án xử khác khung hình phạt truy tố đã có hiệu lực pháp luật:
57
- Vụ thứ nhất. Chiều 24/11/2019, anh Trần Tín đi xe máy qua vũng nước, do
chạy nhanh nên nước văng vào người Nguyễn Rỡ đang đi bộ làm bẩn quần áo. Anh
Tín dừng lại xin lỗi, Rỡ không chấp nhận mà la lối xúc phạm rồi đấm vào má phải
làm anh Tín vỡ quai hàm gây tổn thương cơ thể tỷ lệ 26%. Các yêu cầu điều tra và
sau khi kết thúc điều tra cũng như Cáo trạng không đề cập đến tình tiết tăng nặng
định khung “phạm tội có tính chất côn đồ”. Tại phiên tòa, KSV bảo vệ quan điểm
truy tố và kết luận bị cáo phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS. Bản
án sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 298 BLTTHS 2015 (Giới hạn của việc xét xử)
kết án bị cáo theo điểm i “Phạm tội có tính chất côn đồ” thuộc khoản 2 Điều 134
BLHS xử phạt bị cáo 3 năm 6 tháng tù. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
- Vụ thứ hai. Tóm tắt vụ án: Chiều ngày 5/6/2019, Phạm Hoàng đi tháo nước
để chảy vào ruộng lúa, rồi đi uống rượu. Khi quay lại ruộng thì Hoàng thấy anh
Trịnh Để chặn dòng nước lại để tháo nước vào ruộng mình, thì Hoàng la lối xúc
phạm anh Để. Hai bên lời qua tiếng lại, xô đẩy nhau và Hoàng đấm anh Để 1 cái
làm gãy 2 cái răng cửa (tổn thương cơ thể 12%). Anh Để bỏ chạy lên đường và đạp
ngã xe máy của Hoàng (thiệt hại 725.000đ) rồi đi về nhà. Khi Hoàng đi về thì thấy
xe máy của mình bị ngã và vỡ một số bộ phận bằng nhựa, Hoàng điều khiển xe
máy đến nhà anh Để rồi xông vào nhà đấm anh 1 cái làm rạn nứt xương gò má phải
(tổn thương cơ thể tỷ lệ 13%). Tại phiên tòa KSV bảo vệ quan điểm truy tố đề nghị
HĐXX áp dụng điểm c “Phạm tội 2 lần trở lên” khoản 2 Điều 134 BLHS đối với bị
cáo. HĐXX nhận định bị hại cũng có lỗi và hành vi phạm tội của bị cáo không có
khoảng cách đáng kể về mặt thời gian, trong khi tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là
25% nên áp dụng khoản 1 Điều 134 BLHS xét xử và kết án bị cáo. Bản án sơ thẩm
có hiệu lực pháp luật.
Bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm tuyên hủy để điều tra lại. Kết luận điều
tra, Cáo trạng và Bản án sơ thẩm thể hiện: Do mâu thuẫn về tranh chấp di sản thừa
kế, chiều ngày 3 Tết âm lịch năm 2016, Phan Hưng Dõng và Phan Thắng về nhà
cha mẹ đẻ (đã qua đời) với lý do để cúng cơm, nhưng không có xoong nồi nên
nghi ngờ vợ chồng anh Phan Hữu giấu vào tủ và khóa lại. Khi anh Phan Hữu về
58
nhà thì Phan Hưng Dõng dùng cây gỗ đánh anh 2 cái vào chân phải (gây thương
tích tỷ lệ 8%) rồi bỏ đi. Lúc Dõng đánh anh Hữu thì Phan Thắng ở trên gác, nghe
anh Hữu la do bị Dõng đánh thì Thắng mặc quần áo, mang giày và đi xuống tầng
trệt chỉ thấy anh Hữu nằm trên nền nhà chứ không thấy ai khác. Thấy vậy, Thắng
dùng chân mang giày đá 1 cái vào mà trái làm anh Hữu gãy xương quai hàm trái
(tổn thương 21%) rồi dùng cuộn băng keo và dây nilon trói anh lại đem để anh nằm
trước của nhà.
Các yêu cầu điều tra, kết luận điều tra và cáo trạng xác định Phan Hưng
Dõng và Phan Thắng phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104
BLHS (bị hại Phan Hữu tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể 30% và bị áp dụng tình tiết
định khung ‘Phạm tội có tính chất côn đồ” thuộc điểm i khoản 1 Điều 104 BLHS),
và truy tố Phan Thắng tội “ Bắt người trái pháp luật” theo khoản 1 Điều 123 BLHS
1999. Tại phiên tòa KSV bảo vệ quan điểm truy tố và bản án sơ thẩm xét xử kết án
các bị cáo như Cáo trạng. Bị hại Phan Hữu kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt và bồi
thường; các bị cáo kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng hủy án sơ thẩm
để điều tra lại.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án thấy, tề các vết thương trên cơ thể anh Hữu: yêu cầu
điều tra, kết luận điều tra, cáo trạng, án sơ thẩm xác định vết thương ở chân phải do
Phan Hưng Dõng gây ra; còn vết thương gãy quai hàm (T) do Phan Thắng gây ra
và 2 bị cáo là đồng phạm nên phải chịu hậu quả chung. Trong khi anh Hữu khai bị
một người khống chế ôm giữ và 1 người dùng vật cứng đánh vào vùng quai hàm
trái; Phan Hưng Dõng khai không đánh vào vùng đầu anh Hữu; Phan Thắng thì
khai chỉ ôm vật anh Hữu làm anh ngã xuống nền nhà chứ không trực tiếp gây
thương tích cho anh Hữu.Trong khi vết thương gãy quai hàm (T) thì anh Hữu đã
điều trị tại bệnh viện được 16 ngày mới nêu ra thông tin về vết thương này và điều
trị.
Và nữa, các CQTHTT cấp sơ thẩm xác định sau khi Phan Hưng Dõng dùng
cây đánh anh Hữu rồi bỏ đi, thì Phan Thắng mới từ trên lầu đi xuống, thấy anh
Hữu nằm nên đá anh một cái: về vấn đề này, trường hợp các bị cáo không bàn bạc
59
với nhau từ trước cùng đánh anh Hữu, thì không thể xác định 2 người là đồng phạm
với hậu quả chung - vì hành vi Phan Hưng Dõng thực hiện đã kết thúc và đã bỏ đi,
thì Phan Thắng mới thực hiện hành vi phạm tội của mình, nên cả hai người không
thỏa mãn về lý trí và ý chí trong đồng phạm.
Căn cứ yêu cầu của BLTTHS về những vấn đề phải chứng minh và về thu
thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ thì vụ án này quá trình đề ra yêu cầu điều tra và
kiểm sát điều tra có nhiều hạn chế, thiếu sót, vi phạm nên vụ án kéo dài nhiều năm.
Vì thế bản án phúc thẩm xét các kháng cáo đã tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để
điều tra lại. Việc huỷ bản án có nhiều lý do, trong đó có lý do là thời điểm hình
thành vết thương ở quai hàm anh Hữu và do ai gây ra, cơ chế, cách thức…gây ra.
Theo chúng tôi, một vấn đề rất quan trọng là cần phải làm rõ để kết luận các đối
tượng Dõng và Thắng có đồng phạm về hành vi cố ý gây thương tích hay không vì
vấn đề này liên quan đến khung hình phạt và các hậu quả pháp lý.
Về nguyên nhân khách quan
- Nhiều vướng mắc về nhận thức đúng một số quy định tại “Phần chung”
của các Bộ luật hình sự như: lý luận về các giai đoạn thực hiện tội phạm; vấn đề
các dạng người thực hành trong đồng phạm; về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội và các điều kiện của nó; về chế định “phòng vệ chính đáng” và các
điều kiện xuất phát quyền phòng vệ; về quy định “phạm tội có tổ chức”… nhưng
đến nay BLHS hiện hành chưa giải quyết được, cũng chưa được giải thích chính
thức hoặc giải thích từ liên ngành tư pháp trung ương.
- Rất nhiều quy định của BLTTHS trước đây bất cập vì không quy định
trách nhiệm đi đối với quyền hạn của CQTHTT và NTHTT trong giải quyết vụ án
hình sự, nhưng đến nay BLTTHS mới vẫn không quan tâm khắc phục nên tất yếu
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tố tụng nói chung, hoạt động kiểm sát điều tra
vụ án cố ý gây thương tích nói riêng.
- Pháp luật chưa quy định cụ thể trách nhiệm của VKSND khi bác đơn khiếu
nại quyết định đình chỉ vụ án với căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo quy định
của BLHS không đúng pháp luật.
60
- Tình hình tội phạm CYGTT nói riêng có xu hướng gia tăng và tính chất
phức tạp trong khi nhiều yếu tố khách quan tác động hoạt động tố tụng. Nhiều vụ
án có đồng phạm, xảy ra ban đêm việc khám nghiệm gặp nhiều khó khăn nhưng
người bị hại, nhân chứng vì lý do gì đó mà không hợp tác, trong khi tâm lý người
tiến hành tố tụng sợ làm oan, sai. Khó khăn về nhân lực, điều kiện vật chất, kỹ
thuật.
- Hoạt động giải quyết tin báo về tội phạm và hoạt động điều tra chủ yếu do
CQĐT và ĐTV tiến hành nên có nhiều khó khăn khi KSV ban hành văn bản đề ra
các yêu cầu điều tra và bổ sung, điều chỉnh yêu cầu điều tra trong quá trình này,
cũng như ảnh hưởng đến các hoạt động của KSV trong hoạt động chứng minh khi
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố và thực hành quyền công tố vả
kiểm sát xét xử tại phiên tòa sơ thẩm. Định hướng điều tra, yêu cầu điều tra của
KSV, kỹ năng xét hỏi của Thẩm phán, Hội thẩm. Sử dụng biện pháp nhận dạng
trực tiếp làm cho người tham gia nhận dạng sợ trả thù, sợ phải tham gia tố tụng;
chất lượng biện pháp đối chất.
- Về nguyên tắc đánh giá chứng cứ, có ý kiến cho rằng đánh giá chứng cứ
chỉ phải dựa vào các quy định pháp luật (hình sự, tố tụng hình sự, các văn bản pháp
luật khác liên quan). Có nhiều ý kiến cho rằng, ngoài yếu tố trên, thì phải căn cứ
vào ý thức pháp luật mà cụ thể là hiểu pháp luật, dùng kiến thức pháp luật để giải
quyết yêu cầu đặt ra và kết hợp với niềm tin nội tâm; tuy nhiên, hai yếu tố này
thuộc nhân tố chủ quan nhưng lại phụ thuộc vào các yếu tố khách quan trong mối
quan hệ tố tụng và các khó khăn trong thực tiễn tác động.
- Việc sử dụng kết luận giám định do cùng một cơ quan giám định hoặc do
nhiều cơ quan giám định cũng có sự bất cập. Chẳng hạn, cùng một cơ quan giám
định hoặc nhiều cơ quan giám định đối với cùng một đối tượng giám định nhưng
các kết luận giám định có sự khác nhau mà không được giải thích rõ nguyên nhân
(do hao phí, hư hỏng qua các lần giám định, do sự vận động của vật chất hay vì lý
do gì,…) để xem xét đánh giá chứng cứ. Đây là một lý do mà khi giải quyết án hình
sự có nhiều quan điểm cho rằng áp dụng theo hướng có lợi cho người phạm tội,
61
nghi can hoặc nhiều quan điểm cho rằng giám định lại sẽ chính xác hơn; trong khi
vấn đề sử dụng kết luận giám định liên quan đến rất nhiều vấn đề về pháp luật như
ý chí Nhà nước, bảo vệ người bị hại, có tội hay không có tội, tội danh, khung hình
phạt, cấp tiến hành tố tụng, thời hạn tố tụng, thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam,
tình tiết tăng nặng…
- Giới hạn thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra
rộng hơn giai đoạn truy tố, xét xử. Giới hạn chứng minh khi xét xử hẹp hơn giai
đoạn điều tra. Trong giai đoạn điều tra thì chứng minh chủ yếu thuộc trách nhiệm
của ĐTV. Giai đoạn thực hành quyền công tố, truy tố thì nhiều chủ thể. Khi xét xử
thì tập thể chứng minh và tiến hành công khai. Quá trình tranh tụng thể hiện sự đấu
tranh của bên buộc tội và bên gỡ tội. Nguyên tắc xét xử tập thể lấy kết quả biểu
quyết theo đa số. Giới hạn của việc xét xử dẫn đến chi phối Cáo trạng chứ không
phụ thuộc.
- Hoạt động thông khâu có liên quan mật thiết đến quyền và trách nhiệm
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm của VKS cùng
cấp và VKS cấp trên trực tiếp. Có thể nói điểm hạn chế đáng kể của hoạt động
thông khâu là: do hoạt động nhận thức, đánh giá về tính pháp lý hình sự và vấn đề
dân sự của từng vụ án hình sự cụ thể để áp dụng pháp luật luôn mang tính linh hoạt,
sáng tạo trên nguyên lý của quá trình nhận thức gắn với áp dụng vào thực tiễn và
tuân theo những nguyên tắc cơ bản, những đặc điểm của hoạt động áp dụng, thực
hiện, tuân thủ và sử dụng pháp luật của chủ thể…nên đôi khi không tránh khỏi các
yếu tố về phương diện chủ quan, duy ý chí. Thời gian qua không chỉ đối với VKS
huyện Trà Bồng mà nhiều trường hợp gởi bản sao bản án sơ thẩm chậm hoặc gửi
không đầy đủ cho VKS tỉnh để thực hiện kiểm sát bản án, làm ảnh hưởng đến hoạt
động kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của VKS tỉnh khi có đủ căn cứ và cần
thiết; bởi vì hoạt động xét xử phúc thẩm mà chấp nhận kháng nghị về tội danh, về
khung hình phạt, về áp dụng hay không áp dụng tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ,
về khắc phục bỏ lọt đồng phạm, về bồi thường dân sự… mà do cũng có lỗi của
62
VKS cấp sơ thẩm trong giai đoạn kiểm sát điều tra, thì kết quả xét xử phúc thẩm
xét kháng nghị tác động rất hiệu quả đến hoạt động kiểm sát điều tra.
- Hoạt động áp dụng pháp luật mang tính chủ thể tiến hành tố tụng trong
quan hệ phối hợp. Do vậy, sự nhận thức và đánh giá từng vụ án đôi khi có sự tương
đồng, đôi khi khác nhau đáng kể. Từ đó, vấn đề đặt ra là cần có được sự đánh giá
tương đối chuẩn mực mà liên quan đến chủ quan của mỗi con người, đến môi
trường đào tạo, hệ đào tạo, đến các phương thức kiểm soát.
- Tiêu chí đánh giá chất lượng kháng nghị phúc thẩm của VKS cùng cấp là
căn cứ vào kết quả xét xử phúc thẩm, đó là Tòa án chấp nhận một phần hay toàn bộ
kháng nghị hoặc bác kháng nghị - có thể nói là chưa chính xác, nhất là đối với các
trường hợp mà VKS kháng nghị bản án sơ thẩm để bảo vệ Cáo trạng truy tố và
quan điểm của KSV tại phiên tòa (thông qua đó bảo vệ các hoạt động tố tụng, kết
luận điều tra, các hoạt động kiểm sát điều tra và cáo trạng khi chấp nhận kết luận
điều tra và đề nghị truy tố). Bởi vì VKS và Tòa án đều là các chủ thể tiến hành tố
tụng, nhưng một bên là công tố và kiểm sát xét xử, một bên nhân danh quyền tài
phán quốc gia, trong khi đó BLTTHS quy định chế độ 2 cấp xét xử, mà tính chất
của xét xử phúc thẩm là xét kháng cáo, kháng nghị là chủ yếu và Tòa án xét xử tập
thể, quyết định theo đa số và bản án phúc thẩm có hiệu lực ngay, cho nên trong
thực tiễn có một số trường hợp Tòa án bác kháng nghị không thuyết phục; trường
hợp VKS có kiến nghị xét lại bản án sơ thẩm và phúc thẩm theo thủ tục giám đốc
thẩm thì cũng phải căn cứ các quy định của pháp luật và dự lường trước nhiều vấn
đề khó khăn nhất định. Như vậy có thể nói, kết quả xét xử phúc thẩm xét kháng
nghị tùy từng trường hợp cụ thể mà có thể được ứng dụng hoặc không thể ứng
dụng trong hoạt động điều tra, kiểm sát điều tra và xét xử, kiểm sát xét xử vì phục
thuộc vào nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề về chứng cứ pháp lý và các cấp độ của
chân lý trong tố tụng hình sự.
- VKS còn gặp khó khăn về biên chế, kinh phí trong khi cán bộ lại thường
xuyên đi học, đi đào tạo nhưng lại chưa được đào tạo chuyên sâu về điều tra tố tụng
nên ảnh hưởng đến hình thành và phát triển kỹ năng kiểm sát điều tra.
63
Nguyên nhân chủ quan
- Không ít trường hợp lại xem nhẹ yêu cầu đòi hỏi về nhận thức và áp dụng
đúng các quy định tại “Phần chung” của Bộ luật hình sự, trong khi đây là những
quy định mang tính nguyên tắc, quan trọng, khái quát và trừu tượng hóa khoa học
nên tất yếu sẽ gặp phải nhiều khó khăn khi áp dụng pháp luật hình sự khi đề ra yêu
cầu điều tra, kiểm sát điều tra các hoạt động điều tra cụ thể cũng như quá trình điều
tra vụ án hình sự nói riêng. Nhiều trường hợp một số cơ quan, người tiến hành tố
tụng nặng về chứng cứ buộc tội, chưa chú trọng chứng cứ gỡ tội hay chứng cứ loại
trừ cấu thành tội phạm nên ảnh hưởng đến thuộc tính của chứng cứ. Hiệu quả thu
thập chứng cứ để xác định mức độ tin cậy của dấu hiệu tội phạm khi khởi tố vụ án
hình sự. Khi đánh giá tính lịch sử - cụ thể của chứng cứ trong vụ án đôi khi cũng
còn bị xem nhẹ dẫn đến khó khăn khi giải quyết qua từng giai đoạn tố tụng.
- Nhiều vụ án văn bản yêu cầu điều tra xác minh tin báo và văn bản yêu cầu
điều tra cùng văn bản yêu cầu điều tra bổ sung của KSV chưa chú trọng làm rõ
chứng cứ vụ án về phần dân sự; trong khi các nguồn chứng cứ về dân sự có giá trị
chứng minh toàn bộ vụ án khi thu thập và đánh giá tổng thể chứng cứ.
- BLTTHS quy định khi đánh giá, sử dụng chứng cứ phải tuân thủ nguyên
tắc suy đoán vô tội và chân lý khách quan. Chế độ 2 cấp xét xử và xét xử theo các
thủ tục đặc biệt trong BLTTHS thể hiện xác định chân lý khách quan. Nhưng có ý
kiến cho rằng phải xác định chân lý tuyệt đối khi đánh giá, sử dụng chứng cứ.
- Cơ chế bổ nhiệm, bố trí lãnh đạo VKS, KSV làm công tác kiểm sát giải
quyết án hình sự sơ thẩm chưa thật sự đảm bảo tuyển chọn người có đức, có tài mà
đôi khi còn nặng về cơ cấu, biên chế và sự phân công phân nhiệm. Công tác thi đua
khen thưởng, kỷ luật cũng chưa được thật sự gắn với các tiêu chí, các chế tài cụ thể
trong khâu công tác trọng tâm là kiểm sát điều tra vụ án hình sự. Lãnh đạo VKS,
Kiểm sát viên đôi khi sợ trách nhiệm làm oan, sai trong khi pháp luật không quy
định chế độ “bảo hiểm rủi ro” trong tố tụng hình sự.
- Không ít yêu cầu điều tra chưa đáp ứng đòi hỏi đối với từng vụ án cụ thể
mà nặng về tính hình thức, thủ tục nên khó có thể khắc phục nếu bổ sung, điều
64
chỉnh do khả năng hoặc trách nhiệm của KSV. Có trường hợp KSV chưa phối hợp
tốt với ĐTV, chưa dự lường trước những vấn đề có thể nảy sinh trong quá trình giải
quyết tin báo và việc điều tra vụ án, chỉ đến khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra mới
nghiên cứu vụ án.
- Việc tập huấn chuyên sâu về các hoạt động kiểm sát điều tra cho lãnh đạo,
KSV chưa được quan tâm.
Tiểu kết chương 2
Kết quả nghiên cứu hoạt động kiểm sát điều tra từ khi giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn, khởi tố và điều tra
đối với tội “Cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác” xảy ra trên địa bàn
huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi trong 5 năm qua với các số liệu và các hoạt động
cụ thể của Viện kiểm sát, từ đó chúng tôi rút ra một số ưu điểm nổi bật, những hạn
chế, tồn tại và nguyên nhân. Từ các nội dung đó làm cơ sở để xác định các yêu cầu
và đề ra các giải pháp nhằm đem lại hiệu quả khả thi trong hoạt động kiểm sát điều
tra các vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
đối với VKS huyện Trà Bồng trong thời gian tới.
65
CHƯƠNG 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY
TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN TRÀ BỒNG, TỈNH QUẢNG NGÃI TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Đáp ứng yêu cầu của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động tố tụng
hình sự
3.1.1. Yêu cầu tuân thủ Hiến pháp bảo đảm quyền con người, quyền công
dân, nâng cao vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm sát nói chung;
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nói riêng.
Hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI trong đó có
công cuộc cải cách tư pháp và nội luật hóa các Công ước quốc tế về Quyền con
người; về các quyền về dân sự, chính trị của công dân được nước ta gia nhập, Hiến
pháp năm 2013 tại Chương II – Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, Điều 20 quy định “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. …; Điều 31 quy định “1. Người bị buộc
tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và
có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. 2. Người bị buộc tội phải
được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai….4.
Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào
chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. 5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi
thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp
luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt
hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”. Từ yêu cầu trên đây đòi hỏi toàn
hệ thống VKSND cũng như Viện trưởng VKSND huyện Trà Bồng nói riêng cần
phải kết hợp đồng thời và chặt chẽ với các yêu cấp thiết liên quan để xác định
66
đúng tầm quan trọng của công tác kiểm sát nói chung, công tác kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự nói riêng, từ đó có kế hoạch đề ra các biện pháp, giải pháp, lãnh
đạo chỉ đạo thực hiện thì mới có thể được coi đây là một trong những yếu tố cơ bản
để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
3.1.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp không ngừng nâng cao hiệu quả
trong quá trình tố tụng, chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm
Nghị quyết 49 của Bộ chính trị đề ra mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, với
phương hướng xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm,
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ
quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa án
nhân dân. Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của NTHTT và NTGTT theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử là khâu đột
phá của cải cách tư pháp. Nghị quyết 49 đòi hỏi toàn hệ thống VKSND phải luôn
chú trọng đề ra và sử dụng các biện pháp, giải pháp để tăng cường hiệu quả thực
hiện chức năng, trong đó có hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự.
3.1.3. Yêu cầu nâng cao vị trí, vai trò, tầm quan trọng công tác xét xử, Tòa
án là trung tâm Cải cách tư pháp
Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Điều
103 Hiến pháp 2013 quy định: “…2.. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật;…5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. 6. Chế
độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo,
quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”. LTCTAND năm 2014
tại Điều 2 “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân” quy định: “1.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
67
thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của
mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu
tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. 2. Tòa án nhân danh
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án…3. Khi thực hiện
nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền: a) Xem xét, kết luận về tính hợp
pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của ĐTV, KSV, Luật sư trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ BPNC; đình
chỉ, tạm đình chỉ vụ án; b) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài
liệu do CQĐT, ĐTV, VKS, KSV thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và những
NTGTT khác cung cấp; c) Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu VKS điều tra bổ
sung; yêu cầu VKS bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu
thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của BLTTHS; d) Yêu cầu ĐTV, KSV và
những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi
tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm; e) Ra quyết định để thực
hiện các quyền hạn khác theo quy định của BLTTHS….8. Bảo đảm áp dụng thống
nhất pháp luật trong xét xử…”. Quy định trên có chứa đựng nội dung kết quả hoạt
động xét xử và thực hiện quyền tư pháp của Tòa án đánh giá, xác định hiệu quả
hoạt động tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra và kiểm sát điều tra vụ án hình
sự và quyết định truy tố; đồng thời đây cũng là quy định về nghĩa vụ đặt ra đối với
VKS trong kiểm sát điều tra.
3.1.4. Yêu cầu phòng, chống tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong thời gian tới
Trong 5 năm qua tình hình tội phạm nói chung, tội Cố ý gây thương tích cho
sức khỏe của người khác nói riêng xảy ra tại huyện Tây Trà và Trà Bồng, cũng như
từ khi sáp nhập 2 huyện đến nay luôn có xu hướng dễn biến xấu về số lượng và tính
68
chất. Từ thực trạng đó chúng tôi dự báo trong thời gian tới loại tội phạm này vẫn
tiếp tục diễn biến phức tạp bởi các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Việc sáp nhập 2 huyện thành huyện Trà Bồng dẫn đến diện tích tự nhiên của
huyện Trà Bồng tăng gấp 3,2 lần và dân số tăng 76% so với trước đây; trong khi trụ
sở các cơ quan trong hệ thống chính trị đều được bố trí tại thị trần Trà Xuân (thuộc
trung tâm hành chính huyện Trà Bồng cũ), mà từ trung tâm huyện đến các xã giáp
với các tỉnh như Kon Tum, Quảng Nam nhiều nơi xa gần 85 km đường đèo dốc,
nên việc quản lý địa bàn, nắm bắt để hòa giải các mâu thuẫn xã hội trong một bộ
phận Nhân dân gặp nhiều khó khăn; ảnh hưởng đến tính kịp thời trong việc nắm
thông tin về tội phạm và quá trình điều tra xử lý vụ án.
Huyện Trà Bồng hiện nay đa số Nhân dân làm nương rẫy như: cây cau, cây
keo lấy gỗ nguyên liệu, khoai mì, ruộng lúa bậc thang, cây quế, chăn nuôi trâu bò,
lợn; trong khi cuối năm 2020 nhiều cơn bão lớn đổ bộ vào huyện đã tàn phá khủng
khiếp nhà cửa và các nguồn sống nêu trên của Nhân dân nên rất nhiều hộ không có
điều kiện đầu tư tái sản xuất. Mặt khác, rừng tự nhiên tại huyện hầu hết chỉ là rừng
chồi, rừng khoanh nuôi nên không giữ được nguồn nước để cung cấp cho sông,
suối để lấy nước sản xuất và nhu cầu sinh hoạt của Nhân dân. Trong khi dân số của
huyện đa số là đồng bào dân tộc thiểu số và người kinh lên sinh sống mà nguồn
sống chính của họ chỉ từ nương rẫy và chăn nuôi gia súc. Tệ nạn rượu chè trong
sinh hoạt, trong các nghi lễ tôn giáo, phong tục tập quán dẫn đến mâu thuẫn cá
nhân hoặc khơi lại mâu thuẫn cũng là nguyên nhân dẫn đến nảy sinh tội phạm.
Nhiều vụ án xét xử có hiệu lực pháp luật nhưng quyền lợi của bị hại về bồi thường
dân sự không thi hành được vì người phạm tội không có tài sản. Các yếu tố trên
chứa đựng mầm mống nảy sinh mâu thuẫn xã hội; là điều kiện tác động xảy ra tội
phạm.Từ dự báo trên đặt ra yêu cầu và đòi hỏi cao hơn đối với hệ thống chính trị
trong huyện, không chỉ đối với CQĐT và VKSND.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát điều tra các vụ
án Cố ý gây thương tích hoặc gay tổn hại cho sức khỏe của người khác tại
huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới
69
3.2.1 .Giải pháp về pháp luật
Đối với BLHS hiện hành
- Nghiên cứu lý luận cùng các quy định cụ thể của BLHS về các giai đoạn
thực hiện tội phạm và Điều 134 BLHS thấy rằng, từ khoản 1 đến khoản 5 Điều này
đều quy định hậu quả gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác hoặc gây chết người là dấu hiệu bắt buộc. Khoản 6 không quy định hậu quả
(đối với hành vi bị tội phạm hóa thuộc giai đoạn chuẩn bị phạm tội). Chúng tôi cho
rằng đây là một thiếu sót rất đáng lưu ý của BLHS. Vì theo quy định tại khoản 6
Điều 134 BLHS thì “6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy
hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội
phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì
phải chịu trách nhiệm hình sự. Vậy trường hợp một người dùng một trong các thứ
nêu trên và họ đã sử dụng để gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác nhưng vì lý do khách quan mà hậu quả chưa xảy ra (do nạn nhân chậm
tiếp cận với các thứ trên mà các thứ này bị phân hủy do vận động tự nhiên, môi
trường, thời tiết; do nạn nhân tránh được, bỏ chạy kịp thời; do nạn nhân hoặc người
khác có biện pháp can thiệp làm mất hoặc giảm công năng của một trong các thứ
nêu trên… hoặc do sai lầm về công cụ, phương tiện phạm tội) thì người thực hiện
hành vi đó lại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong khi xét về các giai
đoạn thực hiện tội phạm thì phạm tội chưa đạt nguy hiểm hơn so với chuẩn bị phạm
tội.
Từ đó, chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 134 khoản 6 thành: ...6.
Người nào chuẩn bị hoặc đã sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít
nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm mà không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1
đến khoản 5 Điều này, hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
70
- Từ thực tiễn kiểm sát điều tra, chúng tôi đề nghị sửa đổi bổ sung Điều 16
và Điều 17 BLHS như sau (phần chữ in đậm, nghiêng và gạch chân là phần đề nghị
bổ sung; phần in thường và gạch chân là đề nghị bỏ):
Điều 16. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội: Tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội là trường hợp tự mình (bỏ cụm từ không thực hiện tội phạm) hoặc
ngăn chặn người mình sử dụng vào việc phạm tội không thực hiện tội phạm đến
cùng, tuy không có gì ngăn cản. Trường hợp phạm tội có đồng phạm, tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành, người tổ chức, người xúi giục,
người giúp sức phụ thuộc vào hành vi của từng người đối với vai trò của họ trong
đồng phạm và với những người đồng phạm khác trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội
hoặc phạm tội chưa đạt về hậu quả và chưa hoàn thành về hành vi để tội phạm không
hoàn thành. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm
hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của
một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Điều 17.Đồng phạm: 1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý
cùng thực hiện một tội phạm. 2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự
câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. 3. Người đồng phạm
bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Người thực
hành là người thực hiện tội phạm (bỏ từ trực tiếp).
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội
phạm.Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc
thực hiện tội phạm.Người đồng phạm là người trực tiếp hoặc sử dụng người khác
thực hiện tội phạm. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành
vi vượt quá của người đồng phạm khác (bỏ từ thực hành)”.
- Qua nghiên cứu các Giáo trình các BLHS thấy rằng đều có nội dung về các
giai đoạn thực hiện tội phạm. Theo đó, phân chia ra thành 4 giai đoạn sau: Chuẩn bị
phạm tội; Phạm tội chưa đạt (gồm 2 dạng: phạm tội chưa đạt về hậu quả và chưa
71
hoàn thành về hành vi; phạm tội chưa đạt về hậu quả nhưng đã hoàn thành về hành
vi); tội phạm hoàn thành (hoàn thành nhưng chưa kết thúc/chưa dừng lại; hoàn thành
và đã kết thúc). Các giáo trình về nội dung này cũng chỉ ra rằng việc phân chia ra
thành 2 dạng của giai đoạn phạm tội chưa đạt có ý nghĩa về lượng hình và ý nghĩa về
xác định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; và việc phân chia tội phạm hoàn
thành nhưng chưa kết thúc (chưa dừng lại) có ý nghĩa xác định đồng phạm khi xuất
hiện người tham gia trong giai đoạn này mà những người phạm tội không có sự
thông mưu với nhau từ trước. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với các nội dung trên.
Nhưng tôi cho rằng để những NTHTT nhận thức và áp dụng đúng các quy định của
BLHS hiện hành, thì ngoài quy định về tội phạm đối với các hành vi chuẩn bị phạm
tội và hành vi phạm tội chưa đạt, thì BLHS cần luật hóa các dạng của giai đoạn phạm
tội chưa đạt và các dạng của giai đoạn tội phạm hoàn thành.
Lý do ở đây là: Các giai đoạn thực hiện tội phạm có liên quan đến chế định
đồng phạm, liên quan đến TYNCCDVPT hoặc chuyển hóa tội phạm. vậy cần luật
hóa để xác định hành vi TYNCCDVPT hoặc chuyển hóa tội phạm hoặc xuất hiện
đồng phạm đối với dạng phạm tội chưa đạt về hậu quả và chưa hoàn thành về hành
vi; Để xác định đồng phạm xuất hiện ở dạng phạm tội chưa đạt về hậu quả nhưng đã
hoàn thành về hành vi. Để xác định người đồng phạm xuất hiện trong giai đoạn tội
phạm hoàn thành nhưng thuộc dạng hoàn thành nhưng chưa kết thúc/chưa dừng
lại.Ngoài ra, còn để phục vụ xác định rằng, một người tham gia thực hiện tội phạm
khi tội phạm do người khác thực hiện đang diễn ra mà giữa 2 người không có sự
thông đồng với nhau từ trước, thì hậu quả tội phạm là hậu quả chung vì thỏa mãn về
mặt lý trí và ý chí trong đồng phạm; Mặt khác, để xác định hành vi độc lập của từng
người phạm tội khi xâm hại khách thể được BLHS bảo vệ nhưng giữa họ không có
đồng phạm.
Đối với BLTTHS: Cần sửa đổi theo hướng quy định mô hình hệ thống Tòa
án, VKS theo 3 cấp và giao cho Viện trưởng VKS cấp tỉnh và Chánh án TAND cấp
tỉnh có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm các bản án,
quyết định giải quyết vụ việc có hiệu lực pháp luật của các TAND cấp huyện, và giao
72
cho Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm. BLTTHS cần
quy định trách nhiệm của người có thẩm quyền tham mưu kháng nghị, người có thẩm
quyền kháng nghị kể cả kháng nghị phúc thẩm mà không tham mưu, không kháng
nghị đối với những trường hợp đủ căn cứ kháng nghị để bảo vệ lợi ích hợp pháp của
các chủ thể, nhất là những trường hợp sai tội danh, sai khung hình phạt, kháng nghị
để minh oan. Cần bổ sung vào khoản 2 Điều 336 một trong những nội dung chính
của kháng nghị của VKS phải có nội dung vụ án (theo quan điểm VKS).
3.2.2. Tăng cường cơ chế phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ
quan tư pháp gắn với bảo đảm pháp chế và quyền tư pháp của Tòa án
Xuất phát từ chủ trương Cải cách tư pháp của Đảng, các quy định của hệ
thống pháp luật và từ yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, phục vụ các mục
tiêu phát triển của xã hội đối với các địa phương nói chung, đối với huyện Trà
Bồng, tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, đòi hỏi các cơ quan tư pháp các cấp phải tăng
cường cơ chế phối hợp và kiểm soát lẫn nhau vì đây là một trong các yếu tố nền
tảng để có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ.
3.2.3. Giải pháp khác
Đối với Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Chủ động tiến hành các bước phục
vụ yêu cầu triển khai thực hiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp
giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XIII đề ra. Cần tiến hành tổng kết hàng năm về thực hiện Quy chế của
VKSNDTC về thực hành quyền công tố - kiểm sát điều tra – kiểm sát xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự và công tác kháng nghị theo các thủ tục tố tụng hình sự gắn
với các nhiệm vụ trọng tâm về cải cách tư pháp trong Ngành theo Nghị quyết 49-
NQ/TW và Kết luận 79- KL/TW của Bộ Chính trị, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu
quả các lĩnh vực công tác kiểm sát. Chú trọng thường xuyên tổ chức các lớp đào
tạo chuyên sâu về BLHS và BLTTHS cùng kỹ năng về thực hành quyền công tố -
kiểm sát điều tra – kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự cho lãnh đạo và KSV các
VKS tỉnh và VKS huyện.Ban hành quy chế về xử lý vi phạm của lãnh đạo VKS,
KSV trong công tác kiểm sát giải quyết án hình sự. Cần phối hợp với các cấp ủy
73
địa phương tổ chức thi tuyển chọn Viện trưởng, Phó Viện trưởng các VKSCC,
VKS tỉnh, VKS huyện và không nên bố trí người địa phương làm Viện trưởng VKS
tỉnh và VKS huyện. Cần phải có kế hoạch định kỳ đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng
cho KSV, khắc phục tình trạng có KSV sau khi kết thúc đào tạo trình độ Cử nhân
mà nhiều năm sau không được đào tạo lại hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ. Các tiêu
chuẩn về đào tạo, bồi dưỡng phải trở thành tiêu chuẩn không những của việc bổ
nhiệm KSV mà còn là tiêu chuẩn của việc bổ nhiệm lại hoặc bổ nhiệm chức vụ
quản lý. Các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ của Ngành cần phải đổi mới
nội dung, chương trình theo hướng tập trung đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Các KSV cần được đào tạo
chuyên sâu theo các chuyên đề trực tiếp phục vụ cho nhu cầu công việc của họ
hoặc theo các chuyên đề mà nhu cầu thực tế đòi hỏi.
Đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Là đơn vị trực tiếp
quản lý 9 tỉnh miền Trung với hơn 100 đơn vị của 2 cấp trực thuộc, cho nên hàng
năm nếu đi kiểm tra tất cả các đơn vị này là điều không thể, thậm chí mỗi tỉnh kiểm
tra một số đơn vị cũng đã khó, nhất là do biên chế và kinh phí. Từ điều kiện trên,
để đáp ứng yêu cầu chuyên môn, VKSNDCC cần phải cử cán bộ của mình là
những người không phải người địa phương biệt phái thường xuyên về từng tỉnh để
tiến hành kiểm tra kiểm sát các kết luận điều tra và đề nghị truy tố, cáo trạng, bản
án sơ thẩm, phúc thẩm và kiểm tra hồ sơ kiểm sát, cần thiết thì tiến hành nghiên
cứu hồ sơ vụ án nhất là những trường hợp có đơn hoặc có thông tin yêu cầu kháng
nghị. Khi kiểm tra, kiểm sát các văn bản, quyết định tố tụng, bản án cần phải lập
phiếu trong đó ghi rõ ý kiến của mình về tài liệu, hồ sơ được kiểm tra, kiểm sát và
ý kiến chỉ đạo của người có trách nhiệm, để kịp thời phát hiện sai lầm, vi phạm để
có biện pháp pháp lý khắc phục và xử lý trách nhiệm.
Cần tổ chức cuộc thi về kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử và kỹ năng phát hiện sai lầm, vi phạm của kết luận điều tra và đề
nghị truy tố, cáo trạng truy tố, bản án, quyết định sơ thẩm. Chú trọng tổ chức hội
nghị rút kinh nghiệm những vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe của công dân mà
74
kết luận điều tra đề nghị truy tố, cáo trạng và bản án sơ thẩm hoặc cả bản án phúc
thẩm đều đồng nhất về quan điểm áp dụng các quy định của BLHS về tội danh, về
khung hình phạt nhưng bị kháng nghị phúc thẩm hoặc kháng nghị giám đốc thẩm
và HĐXX phúc thẩm hoặc HĐXX giám đốc thẩm xét xử tuyên hủy bản án sơ thẩm
hoặc cả bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm để điều tra lại do áp dụng sai tội danh
hoặc sai khung hình phạt mà do nguyên nhân chủ quan của CQTHTT, NTHTT.
Đối với Viện trưởng KSND tỉnh Quảng Ngãi: Tổ chức tập huấn các quy định
mới của BLHS và BLTTHS liên quan đến hoạt động kiểm sát điều tra. Tổ chức các
cuộc KSV giỏi đúng nghĩa để phục vụ công tác bố trí sử dụng, quy hoạch, đề bạt,
bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ. Cần tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn ưu, khuyết
điểm tồn tại và nguyên nhân để thường xuyên tổ chức cuộc thi kỹ năng thực hành
quyền công tố, kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố và kỹ
năng kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khẻ của công dân, chú
trọng những tình huống đặt ra đối với lãnh đạo VKS và KSV làm công tác kiểm sát
điều tra liên quan đến nhận thức và áp dụng đúng các quy định cụ thể của BLHS và
BLTTHS, để làm tiêu chí lựa chọn, bố trí cán bộ. Ra văn bản chỉ đạo Viện trưởng
VKS cấp huyện chủ động và tích cực thực hiện các hoạt động điều tra trong giai
đoạn CQĐT giải quyết thông tin về tội phạm và quá trình điều tra vụ án, theo các
quy định của BLTTHS.
Qua giải quyết 2 trường hợp tự thú nhưng tạm giữ sau đó đình chỉ vụ án vì
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chúng tôi đề nghị VKS tỉnh cần phối
hợp với CQĐT và Tòa án tỉnh chỉ đạo cấp mình và các đơn vị trực thuộc tiến hành
rà soát và cần thường xuyên soát xét các trường hợp tạm đình chỉ điều tra vụ án (kể
cả các trường hợp chưa khởi tố bị can hoặc đã khởi tố bị can nhưng bị can bỏ trốn
và đang bị truy nã) để đình chỉ vụ án và đình chỉ vụ án đối với bị can khi có đủ điều
kiện (như: đình chỉ điều tra vụ án khi đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
mà chưa khởi tố bị can, kể cả người phạm tội có tự thú hay không; đình chỉ điều tra
vụ án đối với bị can nếu xảy ra trường hợp bị can, bị cáo bỏ trốn mà sơ xuất chưa
ra lệnh truy nã nên được hưởng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự khi hết thời
75
hiệu; đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can, bị cáo khi áp dụng hiệu lực hồi tố của
(các) BLHS theo hướng có lợi cho người phạm tội hay do BLHS hiện hành đã phi
tội phạm hóa hoặc đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và đình nã khi bị can, bị cáo
bỏ trốn nhưng đã chết).
Tiếp tục thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Bộ Chính trị trong toàn
ngành; triển khai thực hiện cuộc vận động xây dưng đội ngũ cán bộ, KSV “Vững
về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh; kỷ
cương và trách nhiệm”; đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”, tổ chức tuyển chọn, thi KSV giỏi. Bên cạnh đó gắn với việc giáo
dục về lối sống, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, KSV để xây dựng ngành
kiểm sát có đội ngũ cán bộ vừa giỏi về chuyên môn nghiệp vụ vừa có phẩm chất
đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, khắc phục tình trạng suy thoái, xuống cấp
về đạo đức của một bộ phận cán bộ, KSV và xử lý kỉ luật nghiêm minh đối với cán
bộ có vi phạm pháp luật, nghiệp vụ, đạo đức.
Cần quy định về xử lý cán bộ ở 2 cấp kiểm sát khi án bị Tòa trả hồ sơ mà
qua điều tra bổ sung dẫn đến thay đổi Cáo trạng truy tố như thay đổi tội danh, thay
đổi khung truy tố hay khởi tố thêm tội danh, khởi tố thêm người phạm tội; án bị
Tòa tuyên không phạm tội có hiệu lực pháp luật; án bị TACPT tuyên hủy để điều
tra lại hoặc xét xử lại; án bị cấp giám đốc thẩm, tái thẩm kháng nghị được chấp
nhận vì nguyên nhân chủ quan. Cần xây dựng các tiêu chí đối với tập thể, cá nhân
để làm cơ sở cho công tác đánh giá cán bộ, công tác thi đua khen thưởng, xử lý vi
phạm.
Đối với Viện trưởng VKSND huyện Trà Bồng: Thường xuyên quán triệt mỗi
cán bộ, KSV phải không ngừng phát huy vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của ngành KSND nói chung, nhận thức được nhiệm vụ, quyền hạn của đơn
vị trong kiểm sát điều tra; Phải luôn phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao tinh
thần trách nhiệm với công việc được giao, tích cực, theo sát định hướng và phối
hợp với CQĐT, tuyệt đối không được ỷ lại, thụ động. Cần chú trọng hơn nữa về kỹ
năng và nghệ thuật phân công Kiểm sát viên kiểm sát điều tra qua xem xét nguyên
76
nhân những trường hợp mà VKS hoặc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung dẫn đến
thay đổi kết luận điều tra và đề nghị truy tố và/hoặc thay đổi Cáo trạng như về
khung hình phạt nặng hơn hoặc nhẹ hơn, hoặc khởi tố, truy tố người đồng phạm
nhưng trước đó chưa phát hiện… ; Tăng cường các hình thức, biện pháp kiểm tra
nội bộ như kiểm tra toàn diện, kiểm tra đột xuất, kiểm tra theo chuyên đề. Chú
trọng định kỳ luân chuyển vị trí công tác đối với các KSV làm các lĩnh vực công
tác kiểm sát, để họ có điều kiện trau dồi kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn đa dạng
phong phú nhằm phục vụ yêu cầu công tác cán bộ trước mắt và lâu dài.
Từ những ưu điểm và hạn chế, tồn tại của hoạt động kiểm sát điều tra cần
tiến hành bàn trong tập thể lãnh đạo và các KSV trong đơn vị về những vấn đề có ý
kiến khác nhau để nhận thức và áp dụng đúng các quy định tại “Phần chung” và
Điều 134 BLHS để áp dụng trong thực tiễn kiểm sát điều tra và truy tố. Tăng cường
quan hệ phối hợp với CQĐT trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm nói chung và công tác kiểm sát việc điều tra các vụ án cố ý gây thương tích
nói riêng là một yêu cầu hết sức bức thiết và tất yếu hiện nay. Bộ luật TTHS quy
định mỗi CQTHTT có một chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng liên hệ mật thiết, ràng
buộc lẫn nhau. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình thì các CQTHTT
phải giải quyết tốt mối quan hệ với các cơ quan khác. Sự phối hợp chặt chẽ giữa
VKSND với CQĐT thì việc tham gia hoạt động kiểm sát ngay từ khi mới khởi tố
vụ án sẽ đem lại hiệu quả cao trong điều tra và kiểm sát điều tra.
Trong quan hệ phối hợp, VKS vừa là cơ quan phê chuẩn các quyết định tố
tụng vừa kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, mọi quyết định
của VKS có tác động rất lớn đến hoạt động điều tra và tâm lý của ĐTV, đòi hỏi khi
quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của CQĐT,
VKS nhân dân phải cân nhắc thận trọng trên tinh thần khách quan, cầu thị. Hết sức
tránh việc phê phán, đổ lỗi cho CQĐT, ĐTV trong các vụ án có thiếu sót về chứng
cứ, thủ tục tố tụng phải trả hồ sơ trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Để thực hiện tốt
chức năng nhiệm vụ của mình VKS cần chủ động thực hiện đầy đủ các thẩm quyền
do luật định, coi trọng việc phối hợp chặt chẽ với CQĐT ngay từ đầu và trong suốt
77
quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Trong quan hệ phối hợp cần xác định rõ nhiệm vụ
nào cần phối hợp theo chức năng, tránh khuynh hướng phối hợp một chiều, khắc
phục tư tưởng hữu khuynh né tránh, không xử lý triệt để vụ án hoặc xử lý quá nhẹ,
bỏ qua vi phạm dẫn đến xử lý vụ án oan, sai. Nếu có vướng mắc hoặc phát sinh
những vấn đề mới thì KSV phải kịp thời phối hợp với ĐTV để xử lý, đồng thời báo
cáo lãnh đạo VKSND và lãnh đạo Công an huyện Trà Bồng cho ý kiến giải quyết.
Tiểu kết chương 3
Từ kết quả nghiên cứu trong Chương 1 và Chương 2 trong đó có nội dung
về những ưu điểm, hạn chế tồn tại, nguyên nhân cùng những khó khăn vướng mắc
từ thực tiễn đối với hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án “Cố ý gây thương tích
cho sức khỏe của người khác”; để góp phần thiết thực trong thực hiện chiến lược
Cải cách tư pháp của Đảng được hiện thực hóa trong Hiến pháp và pháp luật, chúng
tôi đã xác định các yêu cầu của Đảng, Nhà nước, xã hội và từ dự báo tình hình tội
phạm trong thời gian tới nên đã cân nhắc lựa chọn khi đưa ra các giải pháp nhằm
góp phần thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án thuộc
loại tội phạm này đối với VKSND huyện Trà Bồng trong thời gian tới.
78
KẾT LUẬN
Hiệu quả chứng minh trong tố tụng hình sự luôn được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm bởi đó là nội dung quan trọng, trung tâm, cốt lõi nhất trong tố tụng hình
sự. BLTTHS quy định về kiểm sát điều tra - chính là biện pháp phối hợp và chế
ước giữa VKS với CQĐT để bảo đảm và tăng cường hiệu quả chứng minh trong
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự, trong đó có loại tội phạm cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Chương 1 của luận văn đã làm rõ lý luận và pháp luật về hoạt động kiểm sát
điều tra. Chương 2 đã phản ảnh thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án cố
ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác với những ưu điểm, hạn chế tồn tại,
nguyên nhân. Để từ lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự,
dân sự,... trong hoạt động kiểm sát điều tra, Chương 3 đã xác định được các yêu
cầu của hoạt động kiểm sát điều tra và trên quan điểm sự tác động biện chứng giữa
lý luận với thực tiễn, chúng tôi đã đề xuất một số giải pháp về pháp luật và giải
pháp đối với VKSNDTC, VKSNDCC tại Đà Nẵng, VKSND tỉnh Quảng Ngãi và
VKSND huyện Trà Bồng nhằm góp phần thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động
kiểm sát điều tra của đơn vị mình công tác đối với các vụ án cố ý gây thương tích
cho sức khỏe của người khác trong thời gian tới.
Dù còn nhiều hạn chế, song hy vọng Luận văn có thể được người quan tâm
đến ứng dụng trong giảng dạy, học tập, xây dựng và áp dụng pháp luật, góp phần
nâng cao tri thức khoa học pháp lý và tạo môi trường TTHS ngày càng hoàn thiện
hơn./.
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 về “Một số
nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49 -NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
3. Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb. chính trị quốc gia
4. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Nxb Chính trị quốc gia.
5. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia
6. Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia.
7. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Bộ NN&PTNT và VKSNDTC
Thông tư liên tịch số 01/2017 ngày 29/12/2017 quy định việc phối hợp giữa
cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015
về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
8. Báo cáo tổng kết công tác các năm: Từ năm 2016 đến năm 2020, VKSND
huyện Trà Bồng tỉnh Quảng Ngãi.
9. Nguyễn Hòa Bình (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật TTHS năm
2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Các chuyên đề, tài liệu rút kinh nghiệm trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự: từ năm 2016 đến năm 2020, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
11. Nguyễn Đăng Dung (2001) Định tội danh theo Bộ luật hình sự Nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ NghĩaViệt Nam, Nxb. Pháp lý.
12. Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Học viện An ninh nhân dân, Hà Nội (2018),
PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà .
13. Giáo trình Luật Hiến pháp của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhiều tác giả.
Nxb pháp lý, năm 2014.
14. Hội đồng quốc gia từ điển (2002), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội, Nxb
Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
15. Kết luận kiểm tra thường kỳ toàn diện các lĩnh vực công tác nghiệp vụ đối với
các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trực thuộc: Từ năm 2016 đến năm
2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
16. Kết luận kiểm tra thường kỳ toàn diện các lĩnh vực công tác nghiệp vụ đối với
các Tòa án nhân dân cấp huyện trực thuộc: từ năm 2016 đến năm 2020, Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
17. Luật tổ chức các Cơ quan điều tra năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia.
18. Luật tổ chức Tòa án nhân dân, các năm: 1960; 1981; 1992; 2002; 2014. Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, các năm: 1960; 1981; 1992; 2002; 2014,
Nxb. chính trị quốc gia.
19. Luật Luật sư, các năm: 2008; 2012, Nxb Chính trị quốc gia.
20. Luận văn thạc sĩ Luật học Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn xét xử tỉnh Quảng Ngãi, Dương Ngọc An (2015).
21. Luận văn Thạc sỹ Luật học “Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” (2017), Ths. Trần Minh Tú.
22. Luận văn Thạc sỹ Luật học “Kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” (2018), Ths. Ngô Quang Vũ (2018).
23. Luận văn thạc sĩ: “Vai trò của Viện kiểm sát trong áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố: thực tiễn trên địa bàn thành phố
Hà Nội”(2014), Nguyễn Thị Kiều Diễm, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” (2005), Tác
giả Nguyễn Văn Điệp.
25. Luận án tiến sĩ luật học “Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự ở nước
ta” (Hà Nội, năm 2006), Tác giả Nguyễn Văn Du.
26. Phùng Thanh Liễu (2017) Luận văn thạc sĩ “Kiểm sát điều tra các vụ án cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật
tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”.
27. Nxb. Chính trị quốc gia Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam, năm 2013.
28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật tố tụng
hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Sổ tay Kiểm sát viên hình sự - Tập 1 do Ban quản lý dự án JICA xuất bản
(năm 2011), Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc.
31. TAND huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi Hồ sơ các vụ án tội Cố ý gây
thương tích cho sức khỏe của người khác đã được xét xử sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật (từ 01/01/2016 đến 31/12/2020),
32. TAND tỉnh Quảng Ngãi Hồ sơ các vụ án tội Cố ý gây thương tích cho sức
khỏe của người khác đã được xét xử phúc thẩm (từ 01/01/2016 đến
31/12/2020).
33. Tạp chi kiểm sát số 14/2012 “Một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất
lượng công tác kiểm sát bắt, tạm giữ, tạm giam”.
34. Tiểu luận tốt nghiệp Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2005) “Thực tiễn
kiểm sát hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi”.
35. Tiểu luận tốt nghiệp Đại học học Luật thành phố Hồ Chí Minh “Thực tiễn
kiểm sát hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân
huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi” (2007), Kiểm sát viên Bùi Thị Tuyết Mai.
36. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2013), Từ điển Tiếng việt, Nxb Từ
điển Bách Khoa, Hà Nội.
37. Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nnx. Tư pháp.
38. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Tổng kết một số lý luận và thực tiễn về
công tác của VKS nhân dân qua 55 năm tổ chức và hoạt động, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Sự thật, Hà Nội.
39. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng (2018), Thông
tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định về phối hợp
giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự.
40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày
10/4/2020 về việc ban hành Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc khởi tố, điều tra và truy tố.
41. VKSND huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi Hồ sơ kiểm sát các vụ án tội Cố ý
gây thương tích cho sức khỏe của người khác (từ 01/01/2016 đến
31/12/2020).