ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI NGUYÊN BẰNG

KIÓM S¸T §IÒU TRA §èI VíI C¸C Vô ¸N H×NH Sù VÒ MA TóY

THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM

(Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI NGUYÊN BẰNG

KIÓM S¸T §IÒU TRA §èI VíI C¸C Vô ¸N H×NH Sù VÒ MA TóY THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ANH TUYÊN

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

BÙI NGUYÊN BẰNG

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA

ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ MA TÚY ........................................ 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm và những quy định của pháp luật hình

sự về các tội phạm ma túy ................................................................. 7

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về các tội phạm ma túy ...................................... 7

1.1.2. Quy định pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy ..................... 12

1.2. Một số vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra các vụ án hình sự

về ma túy ........................................................................................... 14

1.2.1. Khái niệm kiểm sát điều tra tội phạm về ma túy ............................... 14

1.2.2. Cơ sở hình thành quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra vụ

án ma túy ............................................................................................ 17

1.3. Mối quan hệ giữa kiểm sát điều tra và thực hành quyền công

tố các vụ án về ma túy ...................................................................... 21

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 25

CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU

TRA VỤ ÁN VỀ MA TÚY VÀ THỰC TIỄN CÔNG TÁC

KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH .......................................................... 26

2.1. Quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra vụ án về ma túy .... 26

2.2. Thực tiễn công tác kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên

địa bàn tỉnh Nam Định .................................................................... 48

2.2.1. Khái quát tình hình khởi tố, điều tra tội phạm về ma túy trên địa

bàn tỉnh Nam Định ............................................................................. 48

2.2.2. Kết quả công tác kiểm sát điều tra vụ án ma túy ............................... 51

2.2.3. Một số tồn tại, hạn chế trong công tác kiểm sát điều tra vụ án ma túy ... 65

2.2.4. Nguyên nhân....................................................................................... 72

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 76

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ

CÔNG TÁC KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ

MA TÚY ............................................................................................ 77

3.1. Dự báo những yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động kiểm sát điều

tra vụ án ma túy của VKSND tỉnh Nam Định ............................... 77

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lƣợng kiểm sát điều tra vụ án

hình sự các tội phạm về ma túy của VKSND tỉnh Nam Định ...... 78

3.2.1. Giải pháp về pháp luật (Bộ luật TTHS, BLHS, văn bản hướng

dẫn, quy định, quy chế, quy chế phối hợp) ........................................ 78

3.2.2. Giải pháp về tổ chức bộ máy cán bộ .................................................. 81

3.2.3. Giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng ........................................................ 83

3.2.4. Giải pháp về quản lý chỉ đạo điều hành và tăng cường trách

nhiệm của Kiểm sát viên .................................................................... 85

3.2.5. Giải pháp về quan hệ phối hợp ........................................................... 90

3.2.6. Giải pháp về điều kiện bảo đảm ......................................................... 92

Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................... 94

KẾT LUẬN .................................................................................................... 95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 97

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT: Cơ quan điều tra

ĐTV: Điều tra viên

HĐTP: Hoạt động tư pháp

KSV: Kiểm sát viên

KTV: Kiểm tra viên

THQCT: Thực hành quyền công tố

VKS: Viện kiểm sát

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang

Bảng 2.1

Số vụ, đối tượng liên quan đến tội phạm về ma túy bị phát hiện và bắt giữ trên toàn tỉnh Nam Định 49

Bảng 2.2 Các hình thức bắt 57

Bảng 2.3 Số vụ, số bị can khởi tố trên toàn tỉnh 58

Bảng 2.4 Số lượng án đình chỉ và tạm đình chỉ điều tra 63

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm luôn được Đảng và Nhà

nước xác định là nhiệm vụ cực kỳ quan trong trong sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ tổ quốc. Trong phạm vi chức năng của mình, các cơ quan tư pháp đã

thực hiện đầy đủ có chất lượng những mục tiêu mà Đảng đã chỉ rõ; Viện kiểm

sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xác hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm

pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần quan trọng

vào kết quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Theo quy định tại Điều

6, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện kiểm sát có chức

năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi,

quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực

hiện ngày từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nhiệm vụ,

quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra các vụ án hình sự được quy

định tại Điều 166 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, gồm 9 khoản; tăng 4

khoản so với Điều 113 BLTTHS năm 2003 mở rộng đối tượng, nhiệm vụ,

quyền hạn cho Viện kiểm sát. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc

điều tra vụ án hình sự của Cơ quan Điều tra và các cơ quan khác được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là chức năng hiến định của Viện

kiểm sát nhằm bảo đảm việc điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.

Nam Định là một tỉnh có vị trí thuộc đồng bằng sông Hồng, tiếp giáp

với tỉnh Thái Bình ở phía Đông Bắc, tỉnh Ninh Bình ở phía Nam, tỉnh Hà

1

Nam ở phía Tây Bắc, giáp biển (vịnh Bắc Bộ) ở phía Đông và cách thủ đô Hà

Nội 100 km về phía Bắc, có diện tích 1.652,29 km². Trong những năm qua,

Nam Định đã có những bước chuyển mình đáng khích lệ, tốc độ đô thị hóa

trên địa bàn tỉnh diễn ra nhanh trên phạm vi rộng, các khu công nghiệp được

hình thành đã thu hút nhiều lao động tạo điều kiện thuận lợi để tỉnh Nam Định

phát triển mọi mặt cả về kinh tế, văn hóa và xã hội. Trong những năm qua

dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền công tác phòng ngừa

tội phạm ở Nam Định đã đạt được kết quả đáng kể, an ninh chính trị được giữ

ổn định, trật tự an toàn xã hội có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên bên cạnh

những thành tựu đạt được, Nam Định cũng gặp phải những khó khăn nhất

định, như dân cư nhiều thành phần, trật tự xã hội diễn biến phức tạp, nhiều

loại tội phạm hoạt động với thủ đoạn ngày càng tinh vi, khó kiểm soát, đặc

biệt là tội phạm về tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy xảy ra rất nhiều.

Trong những năm qua, tội phạm về ma túy có sự thay đổi về lượng và chất

với xu hướng gia tăng số vụ, số đối tượng, số lượng ma túy. Trước tình hình

đó, các cơ quan chức năng tỉnh Nam Định đã tập trung lực lượng x l tội

phạm về ma túy và đã đạt nhiều kết quả tốt, số vụ án được phát hiện, khởi tố,

điều tra, truy tố, x t x tăng, nhiều đường dây buôn bán ma tu bị triệt phá.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác điều tra, truy tố, x t

x các vụ án về ma tu trên địa bàn tỉnh Nam Định c n có những hạn chế và

gặp nhiều khó khăn.

Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, Viện kiểm sát đã thực

hiện đúng các quy định của pháp luật về kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình

sự. Tuy nhiên, đối với những vụ án hình sự về ma túy công tác kiểm sát điều

vẫn còn những thiếu sót, hạn chế, chưa chặt chẽ. Để khắc phục trên, cần có

những nghiên cứu cụ thể về những vấn đề lý luận của hoạt động kiểm sát theo

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, thực tiễn áp dụng các quy định

2

của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về kiểm sát điều tra đối với những vụ án

về ma túy. Chính vì vậy, tôi xin chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra đối với các vụ

án hình sự về ma túy theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở thực

tiễn địa bàn tỉnh Nam Định” để làm luận văn cao học luật của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm qua, việc nghiên cứu về kiểm sát điều tra các vụ án hình

sự và vụ án ma túy của Viện kiểm sát thu hút được nhiều tác giả đã qua hoạt động

thực tiễn nghiên cứu. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu được công bố trên

các sách, báo, tạp chí chuyên ngành, trong các luận văn thạc sỹ, tiến sỹ và trong

các đề tài cấp bộ do Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện, cụ thể như:

“Sổ tay kiểm sát viên hình sự” của Viện kiểm sát nhân dân tối cao tập

1-2006; Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát tập 2,3 – 2018 của trường đại

học Kiểm sát Hà Nội; Giáo trình Luật tố tụng hình sự của các trường đại học,

học viện như: Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội; Đại học Luật Hà Nội;

Học viện cảnh sát nhân dân...; “Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt

động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của TS. Lê Hữu Thể chủ biên.

Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: “Các tội phạm về ma túy trên

địa bà tỉnh Điện Biên – Tình hình nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của

Tiến sĩ Đỗ Thành Trường năm 2017; “Kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra

các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” của Thạc sĩ Trần Thị

Ngọc Anh, năm 2017; “Kiểm sát điều tra vụ án hình sự các tội phạm về ma

túy từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” của thạc sĩ Trần Thị Thanh Bắc, năm 2017;

Kiểm sát điều tra vụ án ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn

Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh của thạc sĩ Nguyễn Hữu Duy, năm 2018.

Một số đề tài nghiên cứu cấp bộ: Đề tài khoa học cấp bộ “Nâng cao

chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về trật tự

xã hội theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” do tác giả TS.Vũ

3

Việt Hùng làm chủ nhiệm thực hiện năm 2012; “Thực trạng và giải pháp

nâng cao chất lượng công tác giải quyết án ma túy trên địa bàn thành phố Hà

Nội” do tác giả Th.S. Nguyễn Quang Thành làm chủ nhiệm đề tài; Báo cáo

tổng thuật Đề tài cấp bộ “Tình hình tội phạm về ma túy trên tuyến biên giới

Việt –Lào – Những giải pháp đấu tranh phòng, chống” do TS. Trần Công

Phàn làm chủ nhiệm.

Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm hoạt động điều tra

các vụ án ma túy, song chưa có công trình nghiên cứu, khảo sát về kiểm sát

hoạt động điều tra vụ án ma túy trên địa bà tỉnh Nam Định là địa phương có

tình hình tội phạm riêng biệt và thực tiễn công tác kiểm sát điều tra khác so

với những địa phương trong cả nước. Đề tài này là một công trình nghiên cứu

dựa trên cơ sở khoa học kiểm sát, quy định của pháp luật tố tụng hình sự, và

số liệu nghiên cứu từ điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội của tỉnh và là công trình

nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sỹ.

3. Mục tiêu nghiên cứu

3.1. Mục tiêu tổng quát

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận những nội dung cơ

bản và thực tiễn về công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát

nhân dân trong các vụ án về ma túy trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp.

3.2. Mục tiêu cụ thể

Về mặt lý luận

Làm rõ một số vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát

nhân dân đối với tội phạm về ma túy

Về mặt thực tiễn

- Nghiên cứu tình hình khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy trên địa

bàn tỉnh Nam Định.

- Khảo sát thực tiễn việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động điều

4

tra đối với tội phạm về ma túy. Từ đó, Tìm ra những hạn chế bất cấp và đề ra

những nhóm giải pháp nhằm thực hiện chức năng này

4. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Luận văn có đóng góp nhất định về mặt khoa học góp phần xây dựng

một cách nhìn toàn diện về hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự. Qua đó thấy được vai trò của Viện kiểm sát trong

công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm về ma túy.

Luận văn chỉ ra những điểm mới về công tác kiểm sát điều tra theo Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015 và những điểm mới của tội phạm về ma túy

theo Bộ luật hình sự năm 2015 (s a đổi, bổ sung năm 2017).

Kết quả của Luận văn có thể s dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ

nghiên cứu học tập cho các cán bộ kiểm sát trong hoạt động nhiệm vụ của mình.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát đối với

những vụ án hình sự về ma túy.

6. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu

6.1. Nội dung nghiên cứu

Hoàn thiện lý luận các vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra đối với

những vụ án hình sự về ma túy. Phân tích tình hình tội phạm và đặc điểm

phạm tội ma túy. Phân tích thực tiễn kiểm sát điều tra đối với những vụ án

hình sự về ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định. Từ đó, đề xuất các giải pháp

góp phần nâng cao công tác này.

6.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: Phân tích lý luận về

kiểm sát điều tra những vụ án hình sự, phân tích những nội dung cơ bản về

những tội phạm về ma túy theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, tổng

hợp những vấn đề cơ bản về kiểm sát điều tra những tội phạm về ma túy.

5

- Phương pháp phân tích, tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu các số liệu

trong công tác kiểm sát điều tra tội phạm về ma túy. Từ đó đưa ra những giải

pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.

7. Tổng quan tài liệu

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,

đề tài được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:

- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra đối với các vụ

án hình sự về ma túy

- Chương 2: Quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra vụ án về ma

túy và thực tiễn công tác kiểm sát điều tra đối với các vụ án hình sự về ma túy

trên địa bàn tỉnh Nam Định

- Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát

điều tra vụ án hình sự về ma túy

6

Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT

ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ MA TÚY

1.1. Khái niệm, đặc điểm và những quy định của pháp luật hình sự

về các tội phạm ma túy

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về các tội phạm ma túy

1.1.1.1. Khái niệm các tội phạm về ma tuý

Khác với các loại tội phạm khác, các tội phạm về ma túy có cơ sở pháp lý

chung là Công ước Quốc tế về kiểm soát ma túy. Công ước quốc tế quy định:

Các nước tham gia công ước quốc tế không coi tội phạm về ma túy là tội phạm

chính trị hoặc có động cơ chính trị. Đối với người nghiện ma túy, không coi là

tội phạm và không áp dụng hình phạt đối với họ. Trong trường hợp người nghiện

ma túy phạm các tội khác thì sau khi thi hành án phạt tù, cần áp dụng chế độ cai

nghiện bắt buộc đối với họ.

Khái niệm tội phạm về ma tu ở mỗi quốc gia cũng khác nhau: Trong

Luật về các biện pháp trấn áp người phạm tội liên quan đến ma tu ở Thái Lan

năm 1991 khái niệm tội phạm về ma tu tại Điều 3 được hiểu là: Phạm tội liên

quan đến ma tu có nghĩa là việc sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu, tiêu thụ hoặc

sở hữu đế tiêu thụ các chất ma tu và cũng bao gồm cả âm mưu, giúp đỡ, khuyến

khích, trợ giúp hoặc mưu hoạch thực hiện hành vi phạm tội đó. [30, tr. 327]

Trong Bộ luật Kiểm soát toàn diện các chất ma tu nguy hiểm, năm 2002 của

Philippines tội phạm ma tu được thể hiện bởi khái niệm: Buôn bán trái ph p –

Gieo trồng, chuyển giao, quản l phân phối, sản xuất, mua bán, vận chuyển,

phân bổ, nhập khẩu, xuất khẩu và sở hữu trái ph p bất kỳ loại chất ma tu nguy

hiểm hoặc tiền chất và hoá chất cần thiết bị kiểm soát. [30, tr. 158,159] Trong Bộ

luật Hình sự và Luật ph ng, chống ma tu của Việt Nam chưa có khái niệm tội

phạm về ma tu . Tác giả xin đưa ra khái niệm tội phạm về ma tu như sau:

7

Tội phạm về ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định

tại các Điều 247, 248, 249, 250, 251, 252, 253, 254, 255, 256, 257, 258, 259

thuộc Chương XX: Các tội phạm về ma túy trong Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi vi phạm đó thể hiện như: Không được ph p mà cố sản xuất, mua

bán, vận chuyển, tàng trữ, s dụng; hoặc được ph p mà sản xuất, mua bán,

tàng trữ, s dụng quá số lượng cho ph p, không đúng loại chất ma túy được

ph p, vận chuyển không đúng tuyến đường, không đúng c a khẩu và thời

gian được ph p; bán hoặc cấp phát cho những người không được ph p tàng

trữ, s dụng. Chỉ hành vi nào vi phạm các quy định về quản l , s dụng chất

ma túy, tiền chất được quy định trong BLHS mới coi là tội phạm về ma túy.

Người được coi là tội phạm về ma tu thực hiện các hành vi nêu trên phải là

người có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình

sự và thức được hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Tội phạm về

ma tu là yếu tố quan trọng cấu thành nên vụ án ma tu là đối tượng chính để

cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến hành điều tra hoặc thực hiện một số hoạt

động điều tra làm rõ hành vi phạm tội về ma tu để x l .

1.1.1.2. Đặc điểm tội phạm về ma túy

Với tính thu lợi các nhuận cao, tội phạm ma túy ngày càng phát triển

nhanh cả về số lượng và tính chất mức độ nguy hiểm cũng như thủ đoạn phạm

tội. Sự tinh vi trong phương pháp, sự táo bạo trong thủ đoạn, sự câu kết chặt

chẽ trong phân công tổ chức, sự liều lĩnh trong hành động… đã tạo cho loại

tội phạm này những đặc điểm khác biệt so với nhiều loại tội phạm khác. Có

thể khái quát một số đặc điểm chung của loại tội phạm về ma túy như sau:

Thứ nhất, tính liên kết, tổ chức hoạt động của tội phạm ma túy. Tổ chức

tội phạm ma túy thường thiết lập, tạo dựng thành các đường dây có nhiều mắt

xích, mỗi mắc xích là một hoặc một số đối tượng được tuyển chọn rất công phu

phù hợp với từng vị trí nhất định. Một tổ chức, đường dây ma túy bố trí có đủ

các công đoạn như: mua gom, cất giấu, vận chuyển và tiêu thụ, nhận tiền. Chỉ

8

có đối tượng cầm đầu mới biết đầy đủ các mắt xích để điều hành và kiểm tra.

Các đối tượng này thường là chuyên nghiệp và tìm cách móc nối với các đối

tượng đã có tiền án, tiền sự có trường hợp là người nước ngoài. [8, tr. 9]

Đối tượng phạm tội tổ chức, chứa chấp việc s dụng trái ph p chất ma

túy, cưỡng bức lôi k o người khác s dụng chất ma túy có thể trực tiếp hoặc

cho đồng bọn tiến hành các hoạt động phạm tội. Chúng thường lôi k o những

thanh niên con nhà có điều kiện kinh tế, gia đình có địa vị xã hội nhưng thiếu

sự quản l , giám sát của bố mẹ; những gia đình giàu lên nhanh chóng nhờ tốc

độ tăng trưởng của độ thị hóa; những thanh thiếu niên chơi bời, đua đ i…

Trong cùng một địa bàn, đối tượng bán trực tiếp luôn giữ bí mật về

nhân thân, phương thức giao nhận và liên lạc cũng thường xuyên thay đổi.

Ngược lại các đối tượng đã mua ma túy cũng không khai báo về đối tượng đã

bán ma túy cho mình, mà chỉ miêu tả chung. Điều này đảm bảo cho việc an

toàn về đối tượng bán và cũng gây rất nhiều khó khăn cho công tác điều tra ra

đối tượng đã bán ma túy trong các vụ án tàng trữ trái ph p ma túy.

Thứ hai, là tính bí mật, kh p kín và k o dài của hoạt động phạm tội ma

túy. Để tạo sự bí mật tuyết đối cho các hoạt động phạm tội, tội phạm về ma

túy thường hình thành các đường dây chìm, kh p kín từ người mua gom đến

đối tượng vận chuyển và đối tượng bán. Kh p kín được hiển là các đối tượng

đều có quan hệ gia đình, người thân như vợ, chống, con cái, anh chị em, làng

xã, nếu là người lạ thì đều phải qua giới thiệu, được sự đảm bảo và qua thời gian

th thách. Điều đặc biệt của tính bí mật này là sự cắt đoạn rất nghiêm ngặt, vị trí

nào được phân công chỉ biết việc của mình, không được biết đến người thứ ba.

Vì lợi ích siêu lợi nhuận từ các hoạt động phạm tội về ma túy đem lại, nên các

đối tượng phạm tội không dễ gì t bỏ, nếu tự động từ bỏ sẽ bị đồng bọn thủ tiêu

hoặc gây ảnh hưởng tới gia đình, người thân. Đó chính là nguyên nhân tại sao

các đường dây phạm tội về ma túy thường tồn tại lâu, k o dài.

9

Thứ ba, là tính khai thác người ma túy từ người ngoài. Do trong nước

chưa s dụng được ma túy trên thị trường chủ yếu từ các đối tượng phạm tội

trong nước móc nối với các đối tượng ở các nước Lào, Campuchia, Trung

Quốc, Australia... và hình thành đường dây mua bán ma túy xuyên quốc gia.

Chỉ một phần nhỏ ma túy được tổ chức thu gom ở một số đồng bào vùng cao

trông cây có chất ma túy (thuốc phiện, cần sa). [24, tr. 6]

Thứ tư, là thủ đoạn cất giấu, vận chuyển ma túy tinh vi và đa dạng. Các

đối tượng phạm tội có rất nhiều thủ đoạn để ngụy trang, cất giấu, vận chuyển

ma túy như: cất giấu chung cùng với các loại hàng hóa khác; cất giấu trong

các đồ vật, hàng hóa như mặt lót trong của valy, trong thùng loa… đặc biệt có

trường hợp cất giấu trong bộ phận kín của cơ thể người. Các đối tượng phạm

tội vận chuyển ma túy bằng đường bộ, đường biển, đường sống, đường hàng

không và qua bưu điện. Khi vận chuyển có thể trá hình là khách du lịch, sinh

viên để che giấu hành vi phạm tội và khó bị phát hiện. [15, tr.20]

Thứ năm, là thủ đoạn giao nhận ma túy và phương thức thanh toán hết

sức tinh vi, phức tạp, bí mật và không k m phần liều lĩnh. Trước khi giao

nhận ma túy, bọn chúng đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng, từ khâu kiểm tra hàng mẫu,

kiểm tra lượng tiền thanh toán có đủ hay không, tiếp đó mới thỏa thuận về giá

cả, thời gian, địa điểm, nhận tiền đặt trước và phương thức giao nhận ma túy.

Giá cả và số lượng ma túy giao nhận được bọn chúng mã hóa bằng các quy

ước và những từ “nóng” riêng. Hiện nay, phổ biến phương thức thanh toán

bằng một đối tượng khác, ở một địa điểm khác với đối tượng và địa điểm giao

nhận ma túy có trường hợp đối tượng giao nhận ma túy và đối tượng thanh

toán không xuất hiện, mà hướng dẫn đối tượng mua, thanh toán tiền nhận ma

túy ở nơi cất giấu hoặc đặc tiền thanh toán ở vị trí tại một địa điểm bất kỳ.

Trong quá trình diễn ra việc thanh toán và giao nhận ma túy, đối tượng bán

thường xuyên thay đổi địa điểm và phương thức giao nhận, thanh toán bất kỳ

10

lúc nào, không theo quy luật nào để tránh sự phát hiện của các cơ quan chức

năng. Trong trường hợp bị phát hiện, thì chỉ đối tượng mua bị bắt, c n đối

tượng bán trốn thoát [24, tr. 7].

Thứ sáu, là tính khái báo chống đối. Các đối tượng phạm tội tàng trữ

nhỏ lẻ để s dụng cho bản thân có thái độ khai báo thành khẩn, c n lại đa số

các đối tượng phạm tội về ma túy khi bị bắt đều có kinh nghiệm trong khai

báo do được truyền đạt lại từ các đối tượng đã bị bắt trước đó. Khi bị bắt quả

tăng, chúng chỉ khai một trong các hành vi bị bắt lần này và không khai ra

đồng phạm hoặc nhận tội thay cho các đồng phạm khác, cá biệt có trường hợp

bất hợp tác với Cơ quan chức năng không nhận số ma túy đã bị bắt quả tang

là của chúng [24, tr. 7]. Thực tế, các đối tượng phạm tội về ma túy thường lì

lợm, khai nhỏ giọt, vừa khai vừa thăm d xem đồng bọng và cơ quan chức

năng đã nắm được những chứng cứ, thông tin nào để có thể sẽ khai sai tên

đồng phạm, sai địa điểm và các tình tiết khác trong vụ án. Các đối tượng có

kinh nghiệm khai báo chú đến các tình tiết giảm nhẹ, gỡ tội, tránh các câu

hỏi liên quan đến hành vi phạm tội, khi cán bộ ghi biên bản các đối tường này

thường không cho ghi những câu trả lời đa nghĩa. Chống đối cơ quan chức

năng là một đặc trưng nổi bật của tội phạm về ma túy. Từ khi bị bắt giữ, nhận

lệnh tạm giam, cáo trạng đến khi x t x tại phiên t a, phần lớn các bị can, bị

cáo trong các vụ án về ma túy đều tỏ thái độ bất hợp tác với các cán bộ thực

thi nhiệm vụ. Nhiều đối tượng cầm đầu, nhất là đối với các đối tượng đang

trên đường vận chuyển số lượng ma túy lớn thường xuyên mang vũ khí nóng

trong người và có thái độ hết sức manh động sẵn sàng chống đối các cán bộ

thi hành nhiệm vụ đến cùng khi bị phát hiện. Cá biệt có trường hợp sau khi

chống đối, biết không thể chạy thoát được, các đối tượng này đã tự t để tránh

bị bắt giữ, x l trước pháp luật và cũng để tránh khai ra đồng phạm khác.

Việc nghiên cứu đặc điểm và thủ đoạn của tội phạm ma túy có nghĩa

11

quan trọng trong công tác đấu tranh ph ng chống tội phạm ma túy nói chung

và công tác giải quyết án ma túy nói riêng. Nắm được quy luật hoạt động và

nhận thức rõ về thủ đoạn của loại tội phạm này, chúng ta sẽ chủ động được

đối sách, chiến thuật điều tra, hỏi cung hiệu quả hơn, định hướng tốt cho hoạt

động điều tra, truy tố, x t x .

1.1.2. Quy định pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy

Chương XX – Các tội phạm về ma túy trong BLHS năm 2015 (s a đổi,

bổ sung năm 2017) gồm 13 Điều từ Điều 247 đến Điều 259. So với Chương

XVIII BLHS năm 1999, Chương XX tăng 04 điều (do tách Tội tàng trữ, mua

bán, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy để quy định 04 tội

danh và tách Tội cưỡng bức, lôi k o người khác s dụng trái phép chất ma

túy để quy định 02 tội danh). Tất cả các điều luật trong Chương XX đều

được s a đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu phòng, chống các tội phạm về ma

túy trong tình hình mới. Các tội phạm về ma túy trong Chương XX BLHS

năm 2015 (s a đổi, bổ sung năm 2017) được s a đổi theo hướng quy định cụ

thể hơn các dấu hiệu cấu thành tội phạm, mức định lượng để x lý hình sự,

hậu quả do tội phạm gây ra để tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật;

đồng thời phân hóa trách nhiệm hình sự bảo đảm tính công bằng trong việc

x lý tội phạm. [10, tr. 3] Cụ thể:

+ Quy định rõ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tại 05 điều luật (các

điều 249, 250, 252, 257 và 258); bổ sung và sắp xếp lại cho phù hợp với quy

trình quản lý, s dụng chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng

thần ở Điều 259.

+ Quy định rõ mức định lượng cụ thể để truy cứu trách nhiệm hình sự ở

khoản 1 của 06 điều luật (các điều 247, 249, 250, 252, 253, 254).

Thay đổi đơn vị đo “trọng lượng” thành “khối lượng” cho đúng với

đơn vị đo lường theo quy định của pháp luật quốc tế và các văn bản pháp luật

hiện hành có liên quan của Nhà nước ta (Luật đo lường năm 2011).

12

BLHS năm 2015 (s a đổi, bổ sung năm 2017) đã bỏ hình phạt t hình

đối với 02 tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội chiếm chất ma túy.

Hình phạt cao nhất đối với các tội phạm này theo quy định của Điều 249 và

Điều 252 BLHS năm 2015 là tù chung thân. Mức hình phạt tù được quy định

thấp hơn ở một số tội phạm thuộc các điều luật (Điều 249, 252, 258, 259). Có

02 điều quy định nâng mức khởi điểm hình phạt bổ sung từ 01 triệu đồng ở

Điều 192 BLHS năm 1999 lên 05 triệu đồng ở Điều 247 BLHS năm 2015

(s a đổi, bổ sung năm 2017); Từ 5 triệu đồng ở Điều 201 BLHS năm 1999

lên 10 triệu đồng ở Điều 259 BLHS năm 2015 (s a đổi, bổ sung năm 2017).

Bổ sung quy định việc miễn trách nhiệm hình sự vào khoản 4 Điều 247

về Tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có

chứa chất ma túy như sau: “Người nào phạm tội thuộc khoản 1 Điều này,

nhưng đã tự nguyện phá bỏ, giao nộp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền

trước khi thu hoạch, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.”

Bổ sung 04 chất ma túy ở thể rắn là “Methamphetamine, Amphetamine,

MDMA, XLR-11” vào các điểm, khoản của các điều: 248, 249, 250, 251, 252.

Bổ sung: “lá khát (lá cây Catha edulis); rễ, thân, cành của cây cần sa hoặc

bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định ” vào các

điểm, khoản của các điều: 249, 250, 251, 252.

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14

của Quốc hội thì tất cả các điều khoản của BLHS năm 2015 được áp dụng để

khởi tố, điều tra, truy tố, xét x và thi hành án đối với người bị buộc tội từ 0 giờ

00 phút ngày 01/01/2018. Vì vậy đối với hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất

ma tuý của bị can, bị cáo bị phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố xét x trước 0 giờ

00 phút ngày 01/01/2018 thì áp dụng quy định của BLHS năm 1999 để quyết

định tội danh; các trường hợp khác thì áp dụng BLHS năm 2015 và hướng dẫn

tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 để quyết định tội danh đối với bị can, bị cáo.

13

Hiện nay, Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-

BTP hướng dẫn một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của

Bộ luật hình sự năm 1999 và Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA -

VKSNDTC-TANDTC-BTP s a đổi một số điểm của Thông tư 17/2007 đã hết

hiệu lực từ 01/01/2018, chưa có văn bản thay thế nên khi nghiên cứu, vận dụng

chỉ áp dụng tinh thần của các văn bản không trái với quy định của BLHS năm

2015, không viện dẫn điều, khoản của văn bản. [6, Tr. 3]

Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 quy định về việc tính tổng

khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm

2015 đã quy định việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy phải

đảm bảo khách quan, khoa học và được thực hiện theo phương pháp, trình tự

quy định của Nghị định này. Khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy theo

quy định của Nghị định này là khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy thu

giữ hoặc chứng minh được trong quá trình điều tra, truy tố, x t x . Việc xác

định khối lượng thuốc phiện trong xái thuốc phiện, thuốc phiện pha loãng,

thuốc phiện pha trộn được tính theo thuốc phiện chứa 10% morphine làm căn

cứ quy đổi. Tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của từng chất ma túy

được tính theo quy định của Nghị định này nếu là số thập phân thì gồm một

chữ số sau dấu phẩy và không làm tr n.

1.2. Một số vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra các vụ án hình sự về

ma túy

1.2.1. Khái niệm kiểm sát điều tra tội phạm về ma túy

Kiểm sát điều tra là VKS thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp

luật toàn bộ các hoạt động xảy ra trong quá trình CQĐT và Cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành hoạt động điều tra nhằm đảm bảo cho việc điều tra

được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, chống bỏ lọt tội phạm và

làm oan người vô tội. [14, Tr.27]

14

Từ định nghĩa trên có thể rút ra một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là quyền năng hiến định

của VKSND được quy định và thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, Luật tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự, Thông tư liên tịch và các

văn bản pháp luật hình sự liên quan

Thứ hai, đối tượng của hoạt động kiểm sát điều tra của VKSND là các

hành vi, quyết định tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các chủ thể khác có liên quan

trong quá trình điều tra các vụ án hình sự.

Thứ ba, phạm vi của hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự

được xác định từ khi khởi tố vụ án và kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều

tra của cơ quan có thẩm quyền chuyển cho VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT

ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.

Thứ tư, nội dung của KSĐT các vụ án hình sự của Viện kiểm sát là

kiểm tra, giám sát trực tiếp các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác có liên quan trong quá trình điều

tra các vụ án hình sự. Nếu thấy có vi phạm, VKS sẽ ban hành kiến nghị yêu

cầu khắc phục đối với các chủ thể này

Thứ năm, KSĐT vụ án hình sự là nhằm mục đích bảo đảm cho pháp

luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.

Thuật ngữ kiểm sát điều tra có trong Luật tổ chức VKSND năm 1960,

Thông tư liên bộ số 427/TTLB ngày 28/6/1963 của Bộ Công an, VKSND tối

cao; Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, 1990 (s a đổi, bổ sung), 2003 và Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật tổ chức VKSND các năm 1981, 1988

(s a đổi, bổ sung), 2002, 2014; Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm

2015; các quy chế của Ngành Kiểm sát nhân dân như: Quy chế tạm thời

công tác THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

15

phạm, kiến nghị khởi tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 169/QĐ-

VKSNDTC ngày 02/5/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao); Quy chế tạm

thời công tác THQCT, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành

kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng

VKSND tối cao); Quy chế tạm thời công tác THQCT, kiểm sát việc khám

nghiệm hiện trường, khám nghiệm t thi, thực nghiệm Điều tra và giám định

(Ban hành kèm theo Quyết định số 170/QĐ-VKSNDTC ngày 02/5/2018 của

Viện trưởng VKSND tối cao);

Đối với kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy thì “Kiểm sát điều tra các

tội phạm về ma túy là Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân

theo pháp luật về hình sự, pháp luật phòng, chống ma túy đối các hoạt động

xảy ra trong quá trình cơ quan có thẩm quyền điều tra các tội phạm về ma túy

tiến hành các hoạt động điều tra đó được thực hiện đúng quy định của pháp

luật, chống bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội”.

Mục đích của kiểm sát điều tra tội phạm về ma túy là để kiểm sát tính

hợp pháp của các hành vi, quyết định của CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ quan tổ chức cá nhân trong giai

đoạn khởi tố, điều tra các vụ án ma túy nhằm bảo đảm cho người có thẩm

quyền điều tra thực hiện đúng các quy định của pháp luật, phát hiện kịp thời

những thiếu sót, vi phạm để kiến nghị yêu cầu khắc phục, s a chữa. Như vậy

sẽ chống được bỏ lọt tội phạm ma túy và làm oan người không có tội.

VKSND có chức năng kiểm sát các hoạt động điều tra của cơ quan có

thẩm quyền điều tra ở giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra. Hoạt động này

được thể hiện qua kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm;

kiểm sát việc khởi tố vụ án; kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn;

kiểm sát trực tiếp của KSV tại nơi Điều tra viên thực hiện các hoạt động điều

tra như: khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, hỏi cung bị can, đối

16

chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói... hoặc kiểm sát việc điều tra thông qua

kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, nội dung, hình thức tài liệu có trong hồ sơ

vụ án. VKSND còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham

gia tố tụng như: bị can, người làm chứng, Luật sư, người phiên dịch... để đảm

bảo các quyền của họ, đồng thời đảm bảo cho việc điều tra vụ án về ma túy

được khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật...

1.2.2. Cơ sở hình thành quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra

vụ án ma túy

1.2.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKS khi kiểm sát điều

tra vụ án ma túy

Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định:

“VKSND là cơ quan THQCT, kiểm sát HĐTP của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam” [19, Điều 2]. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và

pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ

nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá

nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống

nhất. [18, Điều 107]. Khi phát hiện có vi phạm, VKS thực hiện những biện

pháp đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và

thống nhất. Như vậy, VKSND có hai chức năng chính là: THQCT và kiểm sát

HĐTP. Trong đó, Kiểm sát HĐTP là chức năng Hiến định của VKSND, là

hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm giám sát các hoạt động của

các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan được giao một số hoạt động

trong quá trình tố tụng như: Kiểm lâm, Hải quan, Cảnh sát biển... và của

người tham gia tố tụng đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và

thống nhất trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét x và thi hành án.

Trong giai đoạn điều tra vụ án, Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm

17

mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật

đều phải được phát hiện và x lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra,

truy tố, xét x , thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt

tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.

Chức năng kiểm sát điều tra của VKS là một bộ phận của kiểm sát

HĐTP. KSĐT là một chức năng của VKS để kiểm tra những hoạt động tố tụng

(thu thập chứng cứ, lập biên bản, tài liệu tố tụng...) của CQĐT có căn cứ và

hợp pháp hay không trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm

việc khởi tố, điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội

phạm đồng thời cũng không làm oan người vô tội. Pháp luật tố tụng hình sự

quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của VKS để bảo đảm việc x lý hình sự

đối với cá nhân, pháp nhân thương mại có căn cứ và hợp pháp, tránh những sai

lầm, thiếu sót trong hoạt động điều tra tất yếu sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết

vụ án hình sự như truy tố, xét x oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm.

Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 khi kiểm sát điều tra vụ

án hình sự thì VKS có nhiệm vụ, quyền hạn sau:

1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và

lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ

tiến hành một số hoạt động điều tra.

2. Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng;

yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền x l

nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.

3. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra.

4. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết.

18

5. Khi phát hiện việc điều tra không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì

Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các hoạt động:

a) Tiến hành hoạt động điều tra đúng pháp luật;

b) Kiểm tra việc điều tra và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát;

c) Cung cấp tài liệu liên quan đến hành vi, quyết định tố tụng có vi

phạm pháp luật trong việc điều tra.

6. Kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm trong

việc khởi tố, điều tra.

7. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên, Cán

bộ điều tra, x l nghiêm minh Điều tra viên, Cán bộ điều tra vi

phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng.

8. Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp

ph ng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc kiểm sát điều tra

vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật này. [20, Điều 166]

Theo quy định thì phạm vi của kiểm sát điều tra vụ án hình sự theo

nghĩa rộng được xác định bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặc phát hiện

được dấu hiệu của tội phạm cho tới khi vụ án được kết thúc điều tra. Theo

nghĩa hẹp (được quy định trong BLTTHS năm 2015) thì phạm vi kiểm sát

điều tra bắt đầu từ khi CQĐT khởi tố vụ án đến khi kết thúc việc điều tra

(CQĐT chuyển hồ sơ đề nghị VKS truy tố hoặc khi CQĐT ra quyết định đình

chỉ điều tra vụ án). Việc xác định như vậy thể hiện đầy đủ bản chất pháp lý

của hoạt động của công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự của VKS, đó là

kiểm tra tính có căn cứ, tính hợp pháp trong hoạt động tố tụng của cơ quan

19

tiến hành tố tụng trong điều tra vụ án hình sự. C n đối tượng kiểm sát điều tra

là CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Thông qua hoạt động kiểm sát, VKS phát hiện vi phạm pháp luật trong

hoạt động điều tra, kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm tố tụng. Làm tốt công

tác kiểm sát điều tra nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho hoạt động thực hành quyền

công tố được tốt hơn vì mục đích cuối cùng của quá trình giải quyết vụ án hình

sự là bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ, đúng pháp luật.

1.2.2.2. Cơ sở thực tiễn

Trong những năm qua, CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra cũng như Viện kiểm sát đã thực hiện nghiêm

túc quy định của pháp luật về hình sự trong quá trình điều tra các tội phạm về

ma túy nhằm đảm bảo x l nghiêm minh, đúng người đúng tội. Tuy nhiên,

tội phạm về ma túy vẫn diễn ra hết sức phức tạp, số vụ án ma túy mới khởi tố

tăng vọt, nhiều cơ quan chức năng bắt giữ vài trăm ki lô gam, thậm chí hàng

tấn ma túy. Phần lớn các vụ án về ma túy bị phát hiện, bắt giữ liên quan đến

các tuyến địa bàn trọng điểm về ma túy thường gắn với các tuyến huyết mạch

về đường bộ, đường thủy, đường hàng không, các thành phố lớn và khu vụ

biên giới. Các đối tượng thường xuyên thay đổi phương thúc, địa bàn. Nguyên

nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về ma túy là sự tác động qua lại lẫn

nhau giữa các hiện tượng xã hội làm phát sinh các tội phạm về ma túy và sự tác

động qua lại lẫn nhau giữa các đặc điểm nhân thân người phạm tội về ma túy

với môi trường sống dẫn đến sự phát sinh tội phạm cụ thể trong nhóm tội phạm

về ma túy. [28, tr.68]

Hàng năm cơ quan chức năng đã phát hiện bắt giữ, x lý hàng chục

nghìn vụ vi phạm và tội phạm về ma túy, triệt phá nhiều đường dây ma túy

lớn hoạt động nhiều năm. Việc thụ l điều tra vụ án ma túy của Cơ quan điều

tra ngày một tăng.

20

Mặc dù, Cơ quan điều tra và cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều

tra đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản

pháp luật có liên quan nhưng do số lượng thụ điều tra vụ án ma túy quá nhiều

nên xảy ra nhiều vi phạm của cơ quan điều tra như bỏ lọt tội phạm, thu thập

chứng cứ không đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự...

Tội phạm về ma túy luôn luôn là vấn đề nóng bỏng, bức xúc trong xã

hội, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với nhiều quy định để tăng cường

trách nhiệm của KSV, mở rộng thẩm quyền cho KSV và tạo cơ sở hình thành

chức năng kiểm sát điều tra vụ án hình sự để bảo đảm x lý đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật, tránh trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc người

phạm tội, đảm bảo cho việc thực hiện các chỉ đạo của Ban Bí thư tại Kết luận

số 95-KL/TW ngày 02/4/2014 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW

ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo

công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới.

1.3. Mối quan hệ giữa kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố

các vụ án về ma túy

Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Bộ luật Tố tụng

hình sự năm 2015, trong tố tụng hình sự, VKS có hai chức năng là THQCT và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Đây là hai chức năng

hoàn toàn độc lập của VKSND được phân định một cách rõ ràng tại các Điều

12, Điều 13, Điều 14, Điều 15 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 20,

Điều 41, Điều 42, Điều 159, Điều 161... của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tại Điều 6 Luật Tổ chức VKSND quy định cụ thể các công tác mà

VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát.

Những hoạt động mà VKSND trực tiếp quyết định và chịu trách nhiệm thì

thuộc nội dung của thực hành quyền công tố còn với các hoạt động mà

VKSND không trực tiếp quyết định mà chỉ thực hiện việc kiến nghị, kháng

21

nghị và yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm trong hoạt động điều tra thì

được hiểu là nội dung của kiểm sát điều tra. [19, Điều 6]

Tuy ở từng giai đoạn tố tụng, các chức năng này thể hiện ở những mức

độ và phạm vi khác nhau với những nội dung khác nhau nhưng dù ở giai đoạn

nào, hoạt động THQCT và kiểm sát điều tra tuy hai nhưng là một, hai hoạt

động này phải được tiến hành song song và hỗ trợ lẫn nhau nhằm không để

bất kỳ người nào bị bắt giữ, khởi tố trái pháp luật, không để lọt tội và không

làm oan người vô tội, đảm bảo cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với

người phạm tội phải đúng pháp luật và có căn cứ, việc điều tra được tiến hành

một cách khách quan, toàn diện, chính xác và đúng pháp luật; những vi phạm

pháp luật trong quá trình điều tra được phát hiện và khắc phục kịp thời. Mối

quan hệ giữa chúng bắt đầu từ thời điểm vụ án hình sự được khởi tố và song

song tồn tại cho đến khi kết thúc việc điều tra. [25, tr.21]

Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, thực hành quyền công tố là

việc VKSND thực hiện các biện pháp pháp luật và trực tiếp quyết định các

vấn đề về tố tụng trong hoạt động điều tra nhằm mục đích chứng minh tội

phạm và người phạm tội cũng như hành vi phạm tội của họ, kết thúc giai đoạn

này hoặc là truy tố người phạm tội ra trước Toà án hoặc là đình chỉ vụ án theo

quy định của pháp luật. Các nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện chức năng thực

hành quyền công tố như khởi tố vụ án, khởi tố bị can; phê chuẩn, không phê

chuẩn hoặc huỷ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT;

quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn của

CQĐT; quyết định truy tố bị can hoặc đình chỉ vụ án, bị can. Còn Kiểm sát

điều tra là việc VKSND thực hiện các biện pháp giám sát, mục đích nhằm bảo

đảm các hoạt động điều tra được tiến hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách

quan theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung của pháp luật quy định, không trực

tiếp ra quyết định, chỉ ra kiến nghị khi có vi phạm pháp luật tố tụng xảy ra

22

hoặc kiến nghị yêu cầu khắc phục các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội

phạm. Hai lĩnh vực này song song tồn tại từ khi khởi tố cho đến khi kết thúc

việc điều tra và giữa chúng tuy độc lập về chức năng, nhưng có tác động qua

lại lẫn nhau. Nếu làm tốt nhiệm vụ THQCT sẽ hỗ trợ đắc lực cho kiểm sát

điều tra thực hiện vai trò của mình, như tạo điều kiện cho kiểm sát điều tra

tiếp cận các biện pháp điều tra nhằm duy trì pháp luật, phát hiện, khắc phục vi

phạm pháp luật về tố tụng; làm tốt nhiệm vụ kiểm sát điều tra sẽ giúp cho

công tác THQCT phát huy khả năng quyết định quá trình tố tụng, như bảo

đảm việc khởi tố, yêu cầu khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các

biện pháp ngăn chặn, huỷ các quyết định trái pháp luật của CQĐT một cách

có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Đây cũng

chính là đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố nói chung và thực

hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng. Khác với

thực hành quyền công tố, hoạt động kiểm sát kiểm sát điều tra các vụ án hình

sự hướng tới các chủ thể là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,

người tham gia tố tụng trong mối quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Đối

tượng của kiểm sát điều tra là sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể tiến hành

hoạt động điều tra (về thẩm quyền, thời hạn, thủ tục, việc tiến hành các hoạt

động điều tra cụ thể...) và các chủ thể khác tham gia quan hệ pháp luật tố tụng

hình sự phát sinh trong giai đoạn điều tra. [39, tr.17]

Mục đích của thực hành quyền công tố là nhằm chứng minh tội phạm

và xác định người phạm tội còn mục đích của công tác kiểm sát điều tra là

nhằm đảm bảo cho các hoạt động điều tra được đúng đắn, khách quan theo

quy định của pháp luật. Công tác điều tra có hiệu quả sẽ là điều kiện giúp cho

việc thực hành quyền công tố được đúng đắn; kết quả hoạt động kiểm sát điều

tra sẽ làm cơ sở cho việc thực hiện chức năng công tố và thực hành quyền

23

công tố trong giai đoạn điều tra một cách có hiệu quả và ngược lại công tác

thực hành quyền công tố có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho hoạt động kiểm sát

điều tra xác định kịp thời được các vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra.

Như vậy, chức năng kiểm sát điều tra và THQCT trong các vụ án hình sự

nói chung, các vụ án về ma túy nói riêng luôn có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó

hữu cơ và biện chứng với nhau, nhiệm vụ của hoạt động này làm tiền đề cho

nhiệm vụ của hoạt động kia và ngược lại, kết quả của hoạt động này là cơ sở

pháp lý vững chắc cho hoạt động kia và ngược lại. Mối quan hệ biện chứng giữa

hai hoạt động THQCT và kiểm sát điều tra chỉ song song tồn tại trong phạm vi

bắt đầu từ khi khởi tố VAHS cho đến khi có kết luận điều tra. [25, tr.21]

24

Tiểu kết chƣơng 1

Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc điểm,

của tội phạm về ma túy, khái niệm kiểm sát điều tra tội phạm về ma túy, cơ sở

hình thành quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra tội phạm về ma túy. Từ

đó phân tích mối quan hệ giữa kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố

các vụ án về ma túy. Làm rõ một số vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra các vụ

án hình sự về ma túy tạo cơ sở cho việc đưa pháp luật vào áp dụng trong thực

tiễn công tác, đồng thời nâng cao vai trò của VKS, năng lực của kiểm sát viên

trong kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy.

25

Chƣơng 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ

MA TÚY VÀ THỰC TIỄN CÔNG TÁC KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC

VỤ ÁN VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

2.1. Quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra vụ án về ma túy

Theo quy định tại Điều 166 BLTTHS năm 2015 thì trọng tâm của công

tác kiểm sát hoạt động điều tra của VKS kiểm sát bốn loại công việc: gồm

kiểm sát việc khởi tố vụ án, việc tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc

điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra các vụ án

hình sự được quy định tại Điều 166 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, gồm 9

khoản; tăng 4 khoản so với Điều 113 BLTTHS năm 2003. Một số nội dung đã

bổ sung nhiều quy định mới. Cụ thể là: Đối tượng của công tác KSĐT không

chỉ là CQĐT như BLTTHS năm 2003 mà cả cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra. Khi kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có quyền

yêu cầu CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

việc khởi tố, điều tra khi cần thiết (điểm mới). Khi phát hiện việc điều tra

không đầy đủ, vi phạm thì VKS có quyền yêu cầu CQĐT và các cơ quan

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện một số hoạt

động: Tiến hành điều tra đúng pháp luật; kiểm tra việc điều tra và thông báo

kết quả cho VKS; cung cấp tài liệu liên quan đến hành vi, quyết định tố tụng

có vi phạm pháp luật trong việc điều tra. Đây là các quy định hoàn toàn mới,

rõ và cụ thể hơn so với BLTTHS năm 2003. Tại khoản 1 Điều 167 BLTTHS

năm 2015 quy định về trách nhiệm của CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện yêu cầu, quyết định của

26

VKS trong giai đoạn điều tra (riêng khoản 4, 5 thì phải thực hiện nhưng có

quyền kiến nghị). Nếu như Điều 114 BLTTHS năm 2003 quy định trường

hợp này “có trách nhiệm thực hiện” thì BLTTHS năm 2015 quy định “phải

thực hiện”, nhằm nâng cao hiệu lực các quyết định của VKS. [38, tr. 16]

Về kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT,

nhiệm vụ cụ thể của VKS được thể hiện ở nhiều quy định khác nhau. Trong

quá trình kiểm sát hoạt động điều tra, việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT, cũng

như kiểm sát việc khởi tố, VKS có nhiệm vụ và quyền hạn: yêu cầu Cơ quan

điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Cơ

quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra

viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra x l nghiêm minh ĐTV đã vi

phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra. Cùng với việc tác động đến Cơ

quan điều tra và ĐTV thông qua việc kiểm sát điều tra, VKS c n có trách

nhiệm kiến nghị với các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp

ph ng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Để bảo đảm cho các kiến nghị

của Viện kiểm sát có hiệu lực và hiệu quả, Điều 168 của BLTTHS năm 2015

quy định: những quyết định, yêu cầu của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự phải được cơ quan, tổ chức và công dân nghiêm chỉnh chấp hành.

Trong quá trình kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy, cần tiến hành

thực hiện đồng bộ, toàn diện những nội dung sau:

- Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế

+ Kiểm sát việc đề nghị phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ đối với tội phạm ma túy. Tội phạm về ma túy

với đặc điểm là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm có mức độ ẩn cao; thủ đoạn

của nhóm tội phạm này cực kỳ tinh vi, xảo quyệt tài nhẫn. Những đối tượng

tội phạm ma túy luôn tìm mọi thủ đoạn, phương thức để che dấu hành vi

phạm tội, tạo dựng đường dây để tránh các thông tin ra ngoài; khi bị bắt giữ

27

thì che chắn cho nhau, không chịu khai ra đồng phạm. Bởi vậy, tội phạm về

ma túy khó phát hiện theo cách thông thường mà phải qua các chuyên án hoặc

hoạt động trinh sát của cơ quan chức năng. Vậy nên, hoạt động phê chuẩn

Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ đối với tội

phạm ma túy gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, trước hết, KSV tiếp nhận và kiểm

tra hồ sơ đề nghị phê chuẩn có đủ căn cứ không. Tại khoản 1 Điều 110

BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về giữ người trong trường hợp khẩn

cấp, căn cứ vào đó xác định trong từng trường hợp. Trong thời hạn 12 giờ kể

từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp thì CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người có thẩm quyền quy

định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 110 BLTTHS phải ra quyết định tạm

giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người

bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải g i ngay cho VKS cùng cấp hoặc VKS

có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để x t phê

chuẩn. Sau đó kiểm tra thẩm quyền của người ra Lệnh giữ người trong trường

hợp khẩn cấp, kiểm tra nội dung của Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn

cấp: Họ tên địa chỉ của người bị giữ, l do, căn cứ giữ người; ngày, tháng,

năm ra quyết định; họ tên, chức vụ của người ra lệnh.

+ Kiểm sát việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với tội

phạm ma túy

Kiểm sát về thẩm quyền: theo quy định của pháp luật, bất kỳ người bào

cũng có thể bắt người phạm tội quả tang, nhưng phải giải ngay người bị bắt

đến cơ quan Công an, VKS hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan

này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho

CQĐT có thẩm quyền giải quyết. Đồng thời kiểm sát người lập biên bản, theo

quy định thì người có thẩm quyền lập biên bản là ĐTV và Cán bộ điều tra.

28

Nếu không phải do ĐTV và Cán bộ điều tra thì báo cáo đơn vị ban hành văn

bản yêu cầu CQĐT có thẩm quyền khắc phụ vi phạm, nêu rõ lý do và biện

pháp khắc phục theo đúng thủ tục. Bên cạnh đó, phải kiểm sát về hình thức

biên bản, nội dung biên bản và các tài liệu khác có liên quan. Ngoài ra cần

kiểm sát về thủ tục, theo quy định tại Điều 115 BLTTHS năm 2015 quy định

về thủ tục tố tụng nói chung và biên bản bắt người phạm tội quả tang nói

riêng nhưng về nguyên tắc, biên bản bắt người phạm tội quả tang phải được

đọc cho người bắt, người làm chứng, người chứng kiến... nghe và ký tên.

Việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang là thủ tục tố tụng ban

đầu có nghĩa hết sức quan trọng, là căn cứ pháp l phục vụ cho quá trình

điều tra, giải quyết vụ án, đ i hỏi việc lập biên bản phải mô tả thật chi tiết, cụ

thể, khách quan, trung thực mọi diễn biến xảy ra khi bắt, giữ người phạm tội.

Vì vậy, biên bản phải được lập theo đúng mẫu quy định; nội dung biên bản

phải nêu chi tiết, cụ thể về thời gian, địa điểm nơi xảy ra tội phạm, mọi diễn

biến trong quá trình phát hiện, bắt giữ; Vật chứng thu giữ gồm những loại gì

cần phải được liệt kê đầy đủ, mô tả chi tiết từng loại, loại nào có biên bản

niêm phong riêng; cần phải ghi lời khai người chứng kiến để họ khẳng định

việc chứng kiến việc lập biên bản là đúng sự thật khách quan… Đặc biệt, khi

bắt giữ được đối tượng cần đấu tranh khai thác ngay nguồn gốc ma túy vì lời

khai ban đầu thường là khách quan, trung thực. Khi lập biên bản người có

hành vi phạm tội quả tang thì phải chú đến những mâu thuẫn giữa lời khai

của các đối tượng với nhau (nếu có) như lời khai người bị bắt quả tang với

nhân chứng… để củng cố đánh giá chứng cứ không để xảy ra thiếu sót dẫn

đến trả hồ sơ bổ sung hoặc vụ án phải đình chỉ. Khi kiểm sát khâu công tác

này phải chú việc thu giữ vật chứng là ma túy đều phải được mô tả đúng

thực trạng, đặc điểm về tên, mác, mã số, k hiệu, số lượng, trọng lượng, chất

lượng, màu sắc, hình dáng, … vào biên bản để có cơ sở giải quyết vụ án được

29

chính xác. Và đặc biệt chú đến lời khai ban đầu, bởi đây là tài liệu quan

trọng và nghĩa nhất trong quá trình chứng minh làm rõ vụ án và cũng là cơ

sở để x l đối với người bị bắt trong trường hợp không nhận tội, kêu oan và

cho rằng bị ĐTV p cung, mớm cung, nhục hình…

Ngoài ra, cần phải chú đến hiện trường bắt người phạm tội quả tang

về ma túy của Bộ đội biên ph ng chủ yếu xảy ra trên khu vực biên giới, có vụ

nằm ngay trên đường biên, có vụ xảy ra đan xen trên cả đất ta và đất bạn;

thông thường hầu hết tại thời điểm xảy ra các vụ bắt người phạm tội quả tang

về ma túy đều không thể có sự hiện diện của đại diện VKS, nói cách khác là

không có sự kiểm sát trực tiếp của VKS trong việc lập biên bản bắt người

phạm tội quả tang. Trong những trường hợp này đ i hỏi KSV bên cạnh việc

kiểm sát theo quy định của pháp luật, c n phải có sự nghiên cứu, phân tích,

tổng hợp toàn bộ kết quả hoạt động kiểm tra của VKS, từ đó đối chiếu lại với

nội dung được xác lập trong biên bản bắt người phạm tội quả tang để phát

hiện những sai sót, thiếu, không tuân thủ theo quy định để yêu cầu ngay các

cơ quan chức năng khắc phục, bổ sung.

+ Kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam.

VKS các cấp cần phải thực hiện nghiêm các quy định của BLTTHS năm

2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 để kiểm sát chặt chẽ các căn

cứ, điều kiện, thời hạn trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là bắt, tạm

giữ, tạm giam của CQĐT; khắc phục tình trạng lạm dụng việc bắt, tạm giữ.

Khi kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam, KSV phải nắm vững quy

định về căn cứ, thẩm quyền, quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn, các

trường hợp không được bắt, tạm giam quy định tại Mục I, Chương VII (từ

điều 109 đến Điều 125) BLTTHS năm 2015 khi giải quyết vụ án về ma túy ở

giai đoạn điều tra.

Đối với trường hợp bắt bị can phạm tội về ma túy để tạm giam thì được

30

thực hiện theo Điều 113 BLTTHS năm 2015. Sau khi phê chuẩn lệnh bắt bị

can để tạm giam, lệnh tạm giam bị can thì KSV phải kiểm sát chặt chẽ việc thi

hành lệnh bắt bị can và thời hạn tạm giam, thời hạn gia hạn tạm giam bị can

để xác định thẩm quyền, đối tượng, căn cứ, điều kiện tạm giam.

+ Kiểm sát việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế

Đối với kiểm sát việc áp giải, dẫn giải của ĐTV, Thủ trưởng cơ quan

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, KSV phải kiểm sát

chặt chẽ đối tượng bị áp giải, dẫn giải; điều kiện áp dụng, thẩm quyền; nội

dung quyết định, trình tự thi hành cơ quan có trách nhiệm thi hành quyết định

áp giải, quyết định dẫn giải.

Đối với việc kiểm sát việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, KSV

phải kiểm sát hình thức pháp l của lệnh kê biên tài sản, đối tượng bị áp dụng,

căn cứ, điều kiện, thẩm quyền áp dụng kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản;

nội dung biên bản kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản. Tài sản kê biên trong

các vụ án ma túy rất đa dạng bao gồm: các loại tiền, vàng, bất động sản,

phương tiện giao thông, các đồ vật dùng để ngụy trang, cất dấu chất ma túy.

Việc kê biên tài sản chỉ tính tương ứng với mức có thể tịch thu, phát tiền và

tài sản đó phải là tài sản của bị can là chủ sở hữu. Nếu bị can đang tạm giam

thì tài đó giao cho thân nhân của họ bảo quản, trường hợp thân nhân của họ

không đủ điều kiện bảo quản thì giao cho các tổ chức, cá nhân khác có điều

kiện bảo quản. Vì vậy, khi kiểm sát áp dụng việc kê biên tài sản, KSV cần

phải lưu kiểm sát chặt chẽ vấn đề này.

- Kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can của CQĐT.

Việc khởi tố vụ án hình sự, Điều 161 BLTTHS năm 2015 đã quy định

quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong khởi tố vụ án hình sự. Trước hết,

VKS có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố vụ án

31

hình sự, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều bị khởi tố, việc khởi tố vụ

án có căn cứ và hợp pháp. Để đảm bảo việc khởi tố vụ án hình sự kịp thời,

khách quan, chính xác và đúng pháp luật, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra

quyết định khởi tố vụ án hình sự, các cơ quan có quyền khởi tố (Cơ quan điều

tra, Bộ đội biên ph ng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Cơ

quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra và cả Hội đồng x t x ) phải g i quyết định

khởi tố tới VKS để kiểm sát việc khởi tố. Trường hợp quyết định khởi tố vụ

án hình sự của các cơ quan nói trên, trừ Hội đồng x t x , không có căn cứ thì

VKS có quyền ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố đó. Nếu quyết định

khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng x t x không có căn cứ thì VKS kháng

nghị lên T a án cấp trên. Bên cạnh hoạt động kiểm sát việc khởi tố, VKS c n

có trách nhiệm kiểm sát cả việc không khởi tố vụ án hình sự. Đây là hoạt

động kiểm sát có vai tr quan trọng trong việc chống bỏ lọt tội phạm. Các

Điều 157, 158 của BLTTHS năm 2015 quy định các căn cứ và thủ tục không

khởi tố vụ án hình sự và đ i hỏi việc không khởi tố cũng phải được thực hiện

bằng một quyết định tố tụng. Và quyết định không khởi tố vụ án hình sự

(cũng như quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu

liên quan) phải được g i cho VKS cùng cấp trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra

quyết định. Nếu quyết định không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan đó

không có căn cứ thì VKS hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án.

Khi nhận được Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, VKS nghiên

cứu hồ sơ, xem x t tài liệu chứng cứ để đề xuất người có thẩm quyền quyết

định phê chuẩn hay không phê chuẩn, hoặc cần phải yêu cầu CQĐT bổ sung

thêm tài liệu chứng cứ. KSV phải lưu thận trọng khi xem x t phê chuẩn Quyết

định khởi tố bị can trong các vụ án khám phá bằng biện pháp truy x t, không thu

32

giữ được vật chứng là ma túy, chỉ có lời khai nhận của các đối tượng trong vụ

án. Cần phải x l nghiêm tội phạm về ma túy, đối với các trường hợp mua bán,

s dụng các chất như chất ma túy nhưng khi giám định không phải chất nằm

trong danh mục các chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy thì

phải yêu cầu CQĐT củng cố chặt chẽ hồ sơ, làm rõ thức chủ quan của người

có hành vi vi phạm để x lý theo đúng quy định của pháp luật.

Qua kiểm sát khởi tố bị can, nếu thấy quyết định khởi tố bị can không

ghi đúng họ, tên, tuổi, nhân thân của bị can, hành vi phạm tội của bị can

không phạm vào tội đã bị khởi tố mà phạm vào tội khác hoặc c n có hành vi

phạm tội khác với tội danh đã khởi tố thì KSV thụ l giải quyết vụ án báo cáo đề

xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra

quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can; nếu Cơ quan có

thẩm quyền điều tra không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi

hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can và g i cho Cơ quan có thẩm quyền điều

tra trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết

định khởi tố bị can theo quy định tại khoản 3 Điều 180 BLTTHS năm 2015.

Bên cạnh đó, VKS phối hợp chặt chẽ với CQĐT cùng quyền điều tra,

nếu thấy vụ án đang điều tra không thuộc thẩm quyền x l theo quy định của

pháp luật, thì phải yêu cầu CQĐT cùng cấp làm các thủ tục chuyển vụ án đến

đúng CQĐT có thẩm quyền điều tra; nếu VKS đã yêu cầu mà CQĐT không

thực hiện thì VKS ra quyết định chuyển vụ án theo quy định tại điểm d khoản

1 Điều 169 BLTTHS năm 2015; không để VKS ra Quyết định chuyển vụ án

hình sự để truy tố theo thẩm quyền khi vụ án đã kết thúc điều tra.

- Kiểm sát việc hỏi cung của bị can

Đối với những vụ án ma túy lớn, có tính chất đặc biệt nghiêm trọng,

phức tạp, nhiều bị can, liên quan đến nhiều địa bàn khác nhau thì Lãnh đạo

đơn vị cần phải quan tâm chỉ đạo sát sao, định kỳ yêu cầu KSV, KTV thụ l

33

vụ án tổng hợp báo cáo kết quả kiểm sát điều tra để nắm chắc tiến độ giải

quyết, từ đó có định hướng, chỉ đạo giải quyết tiếp.

Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh ph ng, chống tội phạm về ma túy,

thông thường có nhiều đồng phạm thực hiện nhiều giai đoạn khác nhau và có

các hành vi khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau, do đó, phải tiến

hành hỏi cung nhiều bị can cùng một lúc và tiến hành trong một thời gian dài

mới làm rõ được tất cả các hành vi phạm tội. Thông qua hoạt động kiểm sát

trực tiếp, việc hỏi cung bị can, KSV phối hợp với ĐTV xây dựng kế hoạch

hỏi cung bị can, dự kiến trước các chiến thuật cần áp dụng, các tình huống bất

lợi có thể xảy ra trong các buổi hỏi cung bị can. Việc hỏi cung có KSV tham

gia không chỉ bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật mà nhiều tình tiết

của vụ án được làm sáng tỏ. Mặt khác, thông qua phối hợp trong hoạt động

kiểm sát trực tiếp việc hỏi cung bị can của ĐTV, KSV nắm được tâm l khai

báo, thái độ khai báo của từng bị can. Đây là những vấn đề có nghĩa quan trọng

trong giai đoạn truy tố, đặc biệt là quá trình x t x tại phiên t a khi bị can chối

tội hoặc viện dẫn l do là ĐTV mớm cung, dụ cung, dùng nhục hình để lấy cung.

KSV có cơ sở để phản bác lại lời khai báo gian dối của bị cáo tại phiên t a. Mặt

khác, thông qua kiểm sát trực tiếp việc hỏi cung bị can của ĐTV, KSV phát hiện

những vấn đề c n mâu thuẫn, những tình tiết cần làm sáng tỏ để đề ra yêu cầu

điều tra đối với ĐTV làm rõ những mâu thuẫn, tình tiết này. [03, Tr. 12]

Khi trực tiếp kiểm sát việc hỏi cung của ĐTV đối với bị can trong các

vụ án về ma túy, KSV phải xác định rõ vị trí, vai tr của mình tránh trường

hợp làm thay nhiệm vụ của ĐTV. KSV chỉ hỏi bị can về những nội dung của

vụ án cần làm sáng tỏ, những nội dung c n mâu thuẫn chưa phù hợp với những

tình tiết đã thu thập được; do đó, để kiểm sát chặt chẽ việc hỏi cung bị can trong

các vụ án về ma túy, KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, loại ma túy thu giữ

được, số lượng, trọng lượng và đặc điểm tang vật thu giữ cũng như phương thức,

34

thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội và che giấu tội phạm của bị can trong vụ án.

Những thông tin về lai lịch, mối quan hệ gia đình, xã hội của bị can với các đối

tượng khác trong đường dây tội phạm về ma túy và các thông tin khác có nghĩa

trong việc điều tra mở rộng vụ án phải được KSV nắm chắc.

Trước khi tiến hành kiểm sát việc hỏi cung, KSV chủ động trao đổi với

ĐTV về kế hoạch, nội dung, phương pháp tiến hành, nhất là trong những

trường hợp có bị can chối tội, kêu oan…; các tình huống khi có Luật sư tham

gia và đặt câu hỏi đối với bị can cũng như việc mời người phiên dịch, người

giám hộ tham gia hỏi cung trong những trường hợp pháp luật tố tụng bắt buộc

phải có sự tham gia của họ.

Trong khi tiến hành việc hỏi cung các bị can phạm tội về ma túy, KSV

phải chú quan sát ph ng hỏi cung, lựa chọn vị trí phù hợp để ngồi quan sát

toàn bộ quá trình hỏi cung của ĐTV. Kiểm sát việc ĐTV kiểm tra l lịch, giải

thích quyền và nghĩa vụ cho bị can theo quy định. Đồng thời KSV cũng phải chú

đến tình trạng sức khỏe của bị can trước khi hỏi cung và giải quyết các đề nghị

của bị can (nếu bị can có đặt ra). Bên cạnh đó, KSV cũng phải quan sát thái độ

của ĐTV, phương pháp hỏi cung, cách đặt câu hỏi nhằm tránh những trường hợp

mớm cung, p cung hoặc dụ cung đối với bị can; nội dung câu hỏi có tập trung

vào làm rõ những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án ma túy hay không?

- Kiểm sát việc đối chất

Đối chất trong các vụ án ma túy là hoạt động điều tra cần thiết do tính

chất của tội phạm rất phức tạp. Theo quy định tại Điều 189 BLTTHS năm

2015 thì ĐTV tiến hành đối chất khi đã tiến hành các biện pháp điều tra khác

nhưng không giải quyết được mâu thuẫn trong lời khai của hai hay nhiều đối

tượng đồng thời, ĐTV phải thông báo cho VKS cùng cấp để c KSV kiểm sát

việc đối chất. KSV phải có mặt để kiểm sát việc đối chất.

Ngoài ra, quá trình điều tra diễn ra trong một thời gian dài nên bị can

35

dễ quên các tình tiết phạm tội, các đối tượng lại muốn che giấu tội phạm, đổ

lỗi cho nhau... Do đó, có nhiều mâu thuẫn trong lời khai báo của các bị can,

mâu thuẫn giữa lời khai báo của bị can với người bị hại, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan cần phải đối chất làm rõ.

Đối chất là hoạt động điều tra do ĐTV tiến hành bằng hình thức lấy lời

khai hai người cùng một lúc, về một vấn đề, trong cùng một vụ án nhưng vẫn

còn mâu thuẫn với nhau. Do đó, đối chất trong các vụ án ma túy là hoạt động

điều tra hết sức khó khăn, phức tạp do các bị can phạm tội về ma túy thường

phải đối mặt với mức án cao nhất là t hình. Chính vì vậy, chỉ khi nào không thể

áp dụng các biện pháp điều tra khác để làm rõ mâu thuẫn, ĐTV mới tiến hành

đối chất. Trong các vụ án ma túy do có nhiều hành vi khách quan thuộc về

phương thức, thủ đoạn phạm tội, quá trình theo dõi, phát hiện, điều tra trong một

thời gian dài dễ quên, nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, các đối tượng lại

muốn che giấu tội phạm, đổ lỗi cho nhau… Do đó, có nhiều mâu thuẫn trong lời

khai báo của các bị can, mâu thuẫn giữa lời khai báo của bị can với người bị hại,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cần phải đối chất làm rõ. [03, Tr. 12]

KSV thông qua việc nghiên cứu hồ sơ tài liệu, chứng cứ, phát hiện mâu

thuẫn, xác định nội dung mâu thuẫn, nhận định nguyên nhân dẫn đến mâu

thuẫn để từ đó xác định hoạt động đối chất của ĐTV đó đạt yêu cầu hay chưa,

có cần tiến hành đối chất nữa hay không? Qua nghiên cứu các hồ sơ cho thấy

các vụ án ma túy có tiến hành đối chất, CQĐT đã tuân thủ các quy định của

phát luật do trong các vụ án ma túy các bị can cố tình chối tội, do đó, hồ sơ có

nhiều mâu thuẫn, KSV và ĐTV qua nhiều lần trao đổi thống nhất kế hoạch

đối chất đối với các đối tượng có lời khai khác nhau vì có mâu thuẫn với nhau

nên khi tiến hành đối chất, các mâu thuẫn đều được giải quyết, bảo đảm việc

truy tố, x t x đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, c n một số trường hợp do

quá trình điều tra, CQĐT không phát hiện được mâu thuẫn để tiến hành đối

36

chất hoặc đã phát hiện được mâu thuẫn và đã tiến hành đối chất nhưng các

bên vẫn giữ nguyên lời khai, do đó, mâu thuẫn không giải quyết được, đến

giai đoạn truy tố VKS cũng không tiếp tục tiến hành đối chất dẫn đến giai

đoạn x t x , qua x t hỏi, tranh luận tại phiên t a Hội đồng x t x phát hiện có

mâu thuẫn và tiến hành đối chất tại phiên t a nhưng cũng không làm rõ được

mâu thuẫn phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thậm chí có trường hợp các cơ

quan tiến hành tố tụng qua đối chất nhiều lần vẫn không thể làm rõ được mâu

thuẫn phải chấp nhận tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của

từng bị can đến đâu thì điều tra, truy tố và x t x đến đó, mặc dù có thể nhận

định vẫn c n hành vi phạm tội và người phạm tội hoặc số lượng ma túy mua

bán nhiều hơn nhưng không phát hiện, thu thập được tài liệu, chứng cứ để

chứng minh, do đó, không thể x l được

Khi tiến hành kiểm sát việc đối chất trong các vụ án ma túy, Kiểm sát

viên phải chú thực hiện các nội dung sau:

KSV kiểm sát chặt chẽ việc đối chất bảo đảm các hoạt động này được

thực hiện theo đúng quy định tại Điều 189 BLTTHS năm 2015. Kiểm sát viên

có thể trực tiếp hoặc phối hợp cùng ĐTV tiến hành việc đối chất. Khi trực tiếp

tiến hành đối chất, KSV thông báo trước cho ĐTV biết.

Sau khi kết thúc điều tra, hồ sơ vụ án chuyển sang VKS, nếu thấy có

mâu thuẫn trong lời khai của những người tham gia tố tụng thì KSV có thể

tiến hành đối chất để làm rõ mà không phải trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra

bổ sung. Việc đối chất và lập biên bản đối chất do KSV tiến hành phải được

thực hiện theo đúng quy định tại các Điều 189, 178 BLTTHS năm 2015. Biên

bản đối chất phải được chuyển ngay cho ĐTV để đưa vào hồ sơ vụ án.

Khi nghiên cứu biên bản đối chất do ĐTV tiến hành, KSV phải kiểm

tra cả về tính hợp pháp của việc đối chất và tính có căn cứ của biên bản đối

chất. Điều này được thể hiện ở các thao tác như:

KSV phải kiểm tra những người được đối chất đó là ai (bị can, người bị

37

hại, người làm chứng…); trước khi tiến hành đối chất, ĐTV đã giải thích cho

họ biết về trách nhiệm từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian

dối chưa? ĐTV có hỏi về mối quan hệ giữa những người tham gia đối chất

hay không? ĐTV đã đọc lại biên bản đối chất cho những người có mặt nghe

chưa? Những người tham gia đối chất có k tên đầy đủ vào biên bản hoặc

thêm bớt, s a chữa nội dung nào không?

KSV cần kiểm tra các câu hỏi và trả lời của biên bản đối chất xem nội

dung đã giải quyết các mâu thuẫn hay chưa? Những người tham gia đối chất trả

lời về những tình tiết cần làm sáng tỏ như thế nào, họ đã trình bày và giải thích

về những mâu thuẫn giữa lời khai của họ với lời khai của những người khác,

giữa lời khai hiện nay và trước đây ra sao? Những nội dung nào đã được giải

quyết hoặc chưa được giải quyết? Tất cả vấn đề này, KSV phải ghi ch p đầy đủ

để báo cáo, đề xuất với Lãnh đạo Viện phụ trách kiểm sát điều tra tiến hành các

hoạt động tố tụng tiếp theo nhằm giải quyết đúng đắn các vụ án ma túy.

- Kiểm sát việc nhận dạng, nhận biết giọng nói

Theo quy định tại Điều 190, Điều 191 BLTTHS năm 2015, trước khi

tiến hành nhận dạng, ĐTV phải thông báo cho VKS cùng cấp để c KSV

kiểm sát việc nhận dạng, nhận biết giọng nói. Nếu như KSV không tham gia

thì ĐTV ghi l do vào biên bản. Đây là biện pháp điều tra theo tố tụng hình sự

do ĐTV thực hiện dưới hình thức cho những người trước đây đã nhìn thấy

người hoặc vật có liên quan đến vụ án nhằm xác định lại có đúng hay không;

việc giao dịch liên quan đến ma túy qua điện thoại, giao dịch trực tiếp chỉ

nghe qua giọng nói, bị che mặt.

Khi nhận được thông báo ĐTV trong các vụ án ma túy, KSV phải có

mặt để trực tiếp kiểm sát việc nhận dạng, nhận biết giọng nói. KSV phải kiểm

sát chặt chẽ việc ĐTV giải thích về trách nhiệm của những người tham gia

nhận dạng, nhận biết giọng nói; cách hỏi của ĐTV, lời khai báo, trình bày của

38

người nhận dạng; những người tham gia việc nhận biết giọng nói: Giám định

viên về âm thanh, người được yêu cầu nhận biết giọng nói, người được đưa ra

để nhận biết giọng nói, người chứng kiến, kiểm sát tính hợp pháp (thành phần

tham dự, số lượng người, đồ vật được đưa ra nhận dạng, đặc điểm người đồ

vật có tương đồng nhau hay không...), kiểm sát tính hợp lý: nhận dạng nhận

biết giọng nói nhằm mục đích gì?...

Biên bảo nhận dạng, nhận biết giọng nói được lập theo quy định tại

Điều 178 BLTTHS năm 2015.

- Kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật đối với vụ án

về ma túy.

Theo quy định tại Điều 193 BLTTHS năm 2015 thì lệnh khám xét của

CQĐT phải được VKS phê chuẩn trước khi thi hành. Trường hợp không thể

trì hoãn thì vẫn có thể tiến hành khi chưa có sự phê chuẩn của VKS nhưng

trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám x t xong thì người ra lệnh khám xét phải

thông báo cho VKS cùng cấp. Do vậy, KSV phải kiểm sát chặt chẽ các căn cứ

của lệnh khám xét thu giữ vật chứng, kiểm sát về thẩm quyền của người ra

lệnh khám xét, nội dung khám xét.

Trong quá trình khám xét, KSV kiểm sát thành phần tham gia, trình tự,

thủ tục thực hiện; việc niêm phong, bảo quản phương tiện, tài liệu, đồ vật đã

tạm giữ (nếu có); Sau đó, kiểm sát trình tự, thủ tục, phương pháp khám x t,

kiểm sát biên bản khám xét, thu giữ vật chứng và kiểm sát việc tạm giữ tài

liệu đồ vật khi khám xét. Kết thúc việc khám xét, tạm giữ tài liệu đồ vật, KSV

chủ động phối hợp với ĐTV, cán bộ điều tra đánh giá, s dụng kết quả khám

xét, tạm giữ để phục vụ giải quyết vụ án. Trực tiếp kiểm sát việc khám xét là

yêu cầu bắt buộc đối với KSV. Trường hợp không trực tiếp kiểm sát việc

khám xét thì phải được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện, đồng

thời thông báo để ĐTV, cán bộ điều tra ghi rõ trong biên bản khám xét. Sau

39

đó, KSV phải yêu cầu ĐTV, cán bộ điều tra cung cấp biên bản khám xét, biên

bản tạm giữ và các tài liệu có liên quan để kiểm sát. Nếu phát hiện vi phạm,

thì tùy trường hợp, KSV báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra

văn bản yêu cầu khắc phục.

Trường hợp khám xét khẩn cấp theo quy định tại khoản 2 Điều 193

BLTTHS năm 2015 thì ngay sau khi nhận được văn bản thông báo của người

ra lệnh khám xét, KSV phải kiểm tra lệnh, các tài liệu có liên quan để kiểm

sát tính có căn cứ và hợp pháp của việc khám xét khẩn cấp; kiểm sát việc lập

biên bản thu giữ tài liệu, vật chứng, dữ liệu điện t có đúng pháp luật không,

tránh trường hợp tài liệu, vật chứng không được coi là chứng cứ vì không thu

giữ hợp pháp.

KSV phải kiểm sát chặt chẽ việc bảo quản, x l vật chứng theo quy

định tại các Điều 90, 106 và 199 BLTTHS năm 2015.

Ngoài ra, KSV phải kiểm tra chặt chẽ biên bản khám x t, thu giữ vật

chứng, biên bản niêm phong vật chứng, trưng cầu giám định, thu giữ thư tín,

điện tín để kịp thời phát hiện vi phạm, thiếu sót; có biện pháp phối hợp với

ĐTV khắc phục, làm cho tài liệu, vật chứng đảm bảo tính hợp pháp và có giá

trị chứng minh cao; đối với kiểm sát việc trưng cầu giám định phải đảm bảo

các vấn đề như: Nội dung giám định phải là chất nghi là ma túy hoặc những

công cụ, phương tiện có dấu vết nghi là chất ma túy; kết luận của Giám định

viên phải giải đáp được chất giám định có phải là chất ma túy không? Trọng

lượng, hàm lượng bao nhiêu? Tên, chủng loại?…

- Kiểm sát việc thu giữ thư tín, điện tín đối với tội phạm ma túy

Trước hết cần phải kiểm sát tính có căn cứ và sự cần thiết áp dụng biện

pháp thu giữ thư tín, điện tín để thực hiện việc phê chuẩn lệnh theo đề nghị

của CQĐT. Tinh có căn cứ và sự cần thiết thể hiện ở chỗ nghi vấn có liên

40

quan đến ma túy, phát hiện qua lời khai của bị can và người có liên quan trao

đổi qua tin nhắn, hộp thư điện t ... Sau đó cần kiểm sát hình thức, nội dung

Lệnh thu giữ thư tín có đúng pháp luật hay không. Lệnh thu giữ thư tín, điện

tín có được lập theo đúng biểu mẫu; thẩm quyền người ký lệnh; Nội dung của

lệnh có phù hợp với nội dung trong Công văn đề nghị VKS phê chuẩn, việc

yêu cầu cơ quan bưu chính, viễn thông cung cấp thông tin cần thiết phục vụ

cho quá trình điều tra vụ án. Cuối cùng cần kiểm sát kết quả thu giữ thư tín

điện tín và nghiên cứu đánh giá giá trị chứng minh tội phạm của nội dung thư

tín, điện tín đã thu giữ được để phục vụ việc giải quyết vụ án.

KSV kiểm sát việc mở, kiểm tra bưu kiện, bưu phẩm liên quan đến ma túy

của CQĐT thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLT-

BCA-BBCVT ngày 05/5/2006 hướng dẫn việc mở và kiểm tra thư, bưu phẩm,

bưu kiện, kiện, gói hàng hóa g i qua mạng bưu chính công cộng và mạng

chuyển phát nhằm phát hiện tội phạm về ma túy.

Các biện pháp thu giữ vật chứng, thu giữ thư tín, điện tín trong các vụ

án ma túy là những biện pháp điều tra rất quan trọng nhằm góp phần thu thập

chứng cứ chứng minh tội phạm. Thực tiễn hoạt động điều tra những vụ án này

cho thấy đối tượng của hoạt động khám x t rất đa dạng, bao gồm người, đồ

vật, chỗ ở và nơi làm việc của đối tượng… Vì vậy, trong quá trình khám x t,

KSV phải chú kiểm sát ĐTV đã phát hiện, thu giữ những tài liệu, đồ vật đủ

chưa như: Chất ma túy và vỏ bọc; những dụng cụ, phương tiện mà đối tượng

phạm tội s dụng trong quá trình gây án; những giấy tờ, tài liệu phản ánh các

hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán vận chuyển trái ph p chất ma túy, tổ

chức s dụng trái ph p chất ma túy; những giấy tờ, tài liệu phản ánh đặc điểm

nhân thân của người bị khám x t, các mối quan hệ của người bị khám x t như

thư, bút k , nhật k …

Trường hợp thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm theo quy định

41

tại khoản 2 Điều 197 BLTTHS năm 2015 mà sau đó VKS không phê chuẩn lệnh

thu giữ thì KSV phải kiểm sát việc hoàn trả thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm

cho cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông và việc thông báo cho người có thư

tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thư giữ. Nếu vi phạm thì kịp thời báo cáo, đề

xuất, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để yêu cầu khắc phục ngay.

- Kiểm sát các hoạt động khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra

Khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều tra được tiến hành tại hiện

trường nơi xảy ra tội phạm nhằm phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản,

nghiên cứu, đánh giá dấu vết, vật chứng của các vụ phạm tội hoặc vụ việc có

tính chất hình sự đã xảy ra. Trong quá trình kiểm sát các vụ án ma túy thì

Kiểm sát viên phải tham gia đầy đủ các hoạt động khám nghiệm hiện trường,

thực nghiệm điều tra, phải có mặt kịp thời để tiến hành kiểm sát. Việc khám

nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, KSV chú đến công tác bảo vệ

hiện trường, xem xét tình trạng của hiện trường, tìm kiếm dấu vết, xác định vị

trí vật chứng bị thu giữ để yêu cầu ĐTV thể hiện vào sơ đồ hiện trường.

- Kiểm sát việc trưng cầu giám định vật chứng thu giữ

Sau khi phát hiện vật chứng nghi là ma tu , CQĐT thực hiện ngay việc

trưng cầu giám định, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định trưng cầu

giám định, cơ quan trưng cầu giám định phải giao hoặc g i quyết định trưng

cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định cho tổ chức, cá nhân

thực hiện giám định; g i quyết định trưng cầu giám định cho VKS có thẩm

quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. KSV có thể tham dự

giám định nhưng phải báo trước cho người giám định biết, việc giám định do

cá nhân hoặc do tập thể thực hiện. Sau khi có kết luận giám định, trong thời

hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kết luận giám định, cơ quan đã trưng cầu,

người yêu cầu giám định phải g i kết luận giám định cho VKS tiến hành kiểm

sát điều tra.

42

Trưng cầu giám định và hoạt động giám định là những hoạt động tố

tụng quan trọng trong quá trình điều tra các tội phạm về ma túy. Nhóm tội

phạm về ma túy thuộc nhóm tội phải trưng cầu giám định cao nhất trong quá

trình truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối tượng của tội phạm ma túy là chất ma

túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần... Do vậy, theo quy định tại

điều 206 BLTTHS năm 2015 đối với ma túy thu giữ, CQĐT bắt buộc phải

trưng cầu giám định để xác định chất ma túy, định tính, định lượng làm cơ sở

truy cứu trách nhiệm hình sự theo từng khung, từng khoản, điều luật của

BLHS năm 2015 và là căn cứ để xác định thời hạn điều tra với vụ án, thời hạn

tạm giam đối với mỗi bị can.

- Kiểm sát việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt

Tội phạm về ma túy là một trong những loại tội phạm được áp dụng biện

pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Để làm tốt công việc này, KSV phải kiểm sát

chặt chẽ nguyên tắc, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thời hạn áp dụng

biện pháp điều tra tố tụng đặc biết, việc s dụng thông tin, tài liệu thu thập

được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định tại Chương XVI

BLTTHS năm 2015. Ghi âm, ghi hình (có âm thanh) bí mật trong quá đình

điều tra thường áp đụng đối với các vụ án ma túy có nguồn gốc từ hoạt động

trinh sát, qua tố giác, tin báo. Nghe điện thoại bí mật được áp dụng khi xác định

có mối liên quan giữa bị can đối với đối tượng bên ngoài liên quan đến vụ án,

xác định số lần phạm tội, số lượng ma túy… Thu thập bí mật dữ liệu điện t áp

dụng trong các vụ án ma túy đối tượng bán ma túy qua internet; tội phạm lưu

dữ thông tin về hoạt động phạm tội trên các thiết bị viễn thông.

- Kiểm sát việc thời hạn điều tra vụ án, gia hạn thời hạn tạm giam để

điều tra

Thời hạn điều tra vụ án được quy định tại Điều 172 BLTTHS năm

2015. KSV phải căn cứ mức hình phạt tại các điều luật thuộc Chương XX,

43

BLHS năm 2015 để tính thời hạn điều tra. Thời hạn tạm giam bị can phạm tội

về ma túy là khoảng thời gian tối đa do tố tụng hình sự quy định mà trong

quảng thời gian đó, Cơ quan có thẩm quyền điều tra được quyền tạm giam bị

can để phục vụ các hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm và người thực

hiện hành vi phạm tội về ma túy. BLTTHS năm 2015 quy định về thời hạn

tạm giam bị can để điều tra tại Điều 173.

Đối với vụ án ma túy cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp, nhiều

bị can, xảy ra ở nhiều địa bàn khác nhau thì có thể gia hạn điều tra. Thầm

quyền gia hạn điều tra, thẩm quyền gia hạn tạm giam được giao cho cơ quan

duy nhất là Viện kiểm sát. KSV phải kiểm sát chặt chẽ về điều kiện, thẩm

quyền và tuân thủ đúng trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS năm 2015.

- Kiểm sát đình chỉ và tạm đình chỉ điều tra

Đối với vụ án ma túy rất ít khi đình chỉ, vì vậy, KSV phải kiểm sát chặt

chẽ việc đình chỉ của cơ quan có thẩm quyền điều tra. Để kiểm sát việc đình

chỉ của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, trong thời hạn 15 ngày, kể từ khi

nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án, KSV phải kiểm

tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ

biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ

(nếu có), việc x l vật chứng và các vấn đề khác có liên quan theo quy định

tại Điều 230 và Điều 234 BLTTHS năm 2015, báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn

vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau: Nếu quyết định đình chỉ điều tra có căn

cứ thì ra văn bản trả lại hồ sơ cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để giải

quyết theo thẩm quyền. Nếu quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ và

trái pháp luật thì ra quyết định hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra của Cơ

quan có thẩm quyền điều tra và yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra phục

hồi điều tra theo quy định của BLTTHS năm 2015.

Tạm đình chỉ điều tra cũng là một hoạt động nếu không thực hiện đúng

44

quy định của Điều 229 BLTTHS năm 2015 dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm. KSV

kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tạm đình chỉ

điều tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, bảo đảm các trường hợp tạm

đình chỉ được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 299 BLTTHS năm 2015;

nếu thấy quyết định tạm đình chỉ điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì

báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết

định tạm đình chỉ điều tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra và yêu cầu cơ

quan có thẩm quyền điều tra phục hồi điều tra theo quy định tại Điều 235

BLTTHS năm 2015.

Các vụ án ma túy nhiều bị can mà l do tạm đình chi không liên quan đến

tất cả bị can thì quyết định tạm đình chỉ được thực hiện đối với từng bị can.

- Kiểm sát việc kết thúc điều tra của Cơ quan điều tra

Trong quá trình kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy, KSV cần phải tiến

hành kiểm sát chặt chẽ việc kết thúc điều tra vụ án, bảo đảm các vụ án đã khởi

tố, điều tra đều phải kết thúc bằng Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc

bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan có thẩm

quyền điều tra, đồng thời kiểm tra chặt chẽ các quyết định tố tụng của CQĐT

để kịp thời phát hiện những vi phạm (nếu có), để yêu cầu CQĐT, Cơ quan tiến

hành điều tra thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đối với trường hợp

đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc do thay đổi quy định của

pháp luật mà hành vi phạm tội không bị coi là tội phạm nữa, phải kịp thời yêu

cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cùng cấp ra quyết định đình chỉ

hoặc tự mình ra quyết định đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật;

Đồng thời KSV phải kiểm sát việc giao nhận các quyết định tố tụng cho

bị can, người đại diện của bị can, người bào chữa và thông báo cho bị hại,

đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định tại

khoản 4 Điều 232 BLTTHS năm 2015.

45

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng

Những người tham gia tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra các tội

phạm về ma túy theo quy định tại Điều 55 BLTTHS năm 2015. Khi tham gia

tố tụng, hoạt động của họ có thực hiện đúng luật thì vụ án mới đảm bảo khách

quan, điều này đ i hỏi vai tr chủ động kiểm sát của VKS.

Các vụ án ma túy có số lượng ma túy lớn, bị can có mức hình phạt cao

có nhiều người bào chữa tham gia tố tụng, có thể nhiều người bào chữa cho

một bị can hoặc một người bào chữa cho nhiều bị can trong cùng một vụ án.

Khi kiểm sát việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người buộc tội trong

vụ án ma túy, KSV phải kiểm sát chặt chẽ việc chuyển đơn yêu cầu người bào

chữa của cơ quan có thẩm quyền đang quản l người bị bắt, người bị tạm giữ;

việc thông báo và việc bảo đảm quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người

bào chữa theo quy định tại Điều 77 BLTTHS năm 2015.

- Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra

Kiểm sát viên kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án thông qua việc trực tiếp

kiểm sát các hoạt động điều tra của CQĐT như khám nghiệm hiện trường,

khám nghiệm t thi, khám xét... hoặc gián tiếp thông qua việc nghiên cứu các

biên bản hoạt động điều tra như: Biên bản hỏi cung bị can; biên bản ghi lời

khai nhân chứng, bị hại; biên bản thu giữ vật chứng; tài liệu liên quan hoặc

nghiên cứu các quyết định tố tụng của CQĐT. Theo quy định tại Điều 11

Thông tư 02/2017-TTLN-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 22/12/2017 của

Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ công an- Tòa án nhân dân tối cao hướng

dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ điều tra bổ

sung thì: Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra phải phối hợp chặt chẽ ngay từ

khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình điều tra

vụ án. ĐTV phải chủ động g i đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu đã thu thập

được cho KSV thụ l vụ án và thực hiện đầy đủ các yêu cầu điều tra của

46

VKS. KSV phải thường xuyên theo dõi, nắm chắc tiến độ điều tra vụ án,

nghiên cứu kỹ chứng cứ, tài liệu do ĐTV đã thu thập

KSV phải kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án hình sự của ĐTV, bảo

đảm từng trang tài liệu trong hồ sơ bắt khẩn cấp, hồ sơ khởi tố vụ án, hồ sơ khởi tố

bị can và các hồ sơ khác trong quá trình điều tra phải được đóng dấu bút lục của

CQĐT và kèm theo bảng kê đầy đủ tên tài liệu, số trang từng tài liệu và lưu trong

hồ sơ vụ án. Việc thống kê, đóng dấu và đánh số bút lục hồ sơ vụ án trong giai

đoạn điều tra được thực hiện theo Điều 35 Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-

VKDNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ

Quốc phòng quy định về phối hợp giữ Cơ quan điều tra và VKSND trong việc

thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Các hồ sơ g i VKS xét phê chuẩn, thì sau khi kết thúc việc phê chuẩn,

KSV thụ lý giải quyết vụ án phải đóng dấu bút lục của VKS vào các tài liệu đó

và chuyển cho CQĐT đưa vào hồ sơ vụ án. Trong quá trình khởi tố, điều tra, tài

liệu của CQĐT hoặc của VKS thu thập đều phải được đưa vào hồ sơ vụ án theo

đúng trình tự tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra vụ án. Sau khi kết thúc điều

tra, các tài liệu trong hồ sơ do CQĐT thống nhất đánh số thứ tự một lần và lập

bảng thống kê đầy đủ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án từ 01 cho đến hết.

- Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của VKS gắn với hoạt động

kiểm sát điều tra là giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra. Mặc dù

BLTTHS năm 2015, bằng các quy định cụ thể của mình, đã giải quyết khá

toàn diện và cụ thể những vấn đề liên quan đến việc phân định thẩm quyền

điều tra, song trong thực tế, những nhầm lẫn, tranh chấp về thẩm quyền điều

tra vẫn thường xảy ra. Bởi vậy, Viện kiểm sát với tư cách là Cơ quan kiểm sát

điều tra, đồng thời giữ vai tr quyết định về giải quyết các tranh chấp về thẩm

quyền điều tra. Trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền điều tra đối với vụ

án về ma túy thì giải quyết như sau:

47

+ Tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữ CQĐT cùng cấp do Viện

trưởng VKS cấp trên trực tiếp giải quyết. Tranh chấp thẩm quyền điều tra

của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số điều tra do VKS có thẩm

quyền giải quyết;

+ Tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữ các CQĐT cấp tỉnh, giữa các

CQĐT cấp quân khu do Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng VKS

quân sự trung ương giải quyết. Tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa

CQĐT cấp huyện thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau,

giữ các CQĐT quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Viện

trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng VKS quân sự cấp quân khu nơi đầu

tiên phát hiện tội phạm giải quyết.

+ Tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữ CQĐT của Công an nhân dân,

CQĐT trong Quân đội nhân dân và CQĐT của VKSND tối cao do Viện

trưởng VKSND tối cao giải quyết.

2.2. Thực tiễn công tác kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên

địa bàn tỉnh Nam Định

2.2.1. Khái quát tình hình khởi tố, điều tra tội phạm về ma túy trên

địa bàn tỉnh Nam Định

Trong các năm 2015 đến năm 2018, lực lượng Cảnh sát điều tra tội

phạm về ma túy trên toàn tỉnh Nam Định đã phát hiện bắt giữ 5330 vụ và

5602 đối tượng, thu giữ một số lượng lớn heroin, ma túy tổng hợp, vũ khí và

nhiều vật chứng khác có liên quan đến hoạt động phạm tội ma túy. Triệt phá

hàng chục đường dây ma túy vận chuyển trái pháp chất ma túy từ Lạng Sơn,

Cao Bằng, Sơn La, Nghệ An, Hòa Bình, Nghệ An, Quảng Ninh, Hải Phòng

đưa về Nam Định tiêu thụ. Tỉ lệ phát hiện bắt giữ qua các năm đều tăng cho

thấy Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy tỉnh Nam Định đã đấu tranh mạnh

với các loại tội phạm về ma túy và đạt nhiều kết quả, số vụ, đối tượng và vật

chứng bị bắt giữ năm sau cao hơn năm trước.

48

Bảng 2.1. Số vụ, đối tƣợng liên quan đến tội phạm về ma túy bị phát hiện

và bắt giữ trên toàn tỉnh Nam Định

Năm Số vụ Số đối tƣợng

1256 1395 2015

1255 1282 2016

1337 1352 2017

1482 1573 2018

Tổng 5330 5602

(Nguồn: Thống kê của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an

tỉnh Nam Định (từ năm 2015 đến năm 2018)).

Trước những diễn biến phức tạp của tội phạm ma tu , công tác khởi tố,

điều tra của các cơ quan có thẩm quyền của tỉnh Nam Định luôn được chú

trọng. Cụ thể qua các năm như sau:

Năm 2015, tình hình vi phạm và tội phạm liên quan đến ma tu tương

đối cao, số vụ khởi tố là 468 vụ/521 bị can. Tình hình tội phạm ma tuý diễn ra

phức tạp, tính chất và mức độ phạm tội xảy ra đặc biệt nghiêm trọng, nhiều vụ

ma tuý với số lượng lớn, ma tuý tổng hợp dạng đá, cần sa thu giữ tương đối

nhiều. Có những đường dây mua bá liên tỉnh. Đáng lưu là ma tu tổng hợp

dạng đá có xu hướng tăng nhanh và xuất hiện nhiều dạng mới. Trên toàn tỉnh

các cơ quan chức năng đã bắt thu giữ tổng trọng lượng 3.318,623 gam hêroin;

8.515.585 gam Methamphetamine; 7,875 gam cần sa; và nhiều vật chứng khác.

Năm 2016, số vụ tăng hơn so với cùng kỳ năm 2015(488 vụ/468 bị can

– tăng 20 vụ), tính chất và mức độ phạm tội xảy ra ngày càng phức tạp, số

lượng tàng trữ, mua bá, vận chuyển trái phép chất ma túy lớn, ma túy tổng

hợp dạng đá vẫn tăng nhanh và xuất hiện nhiều dạng thu giữ lượng tương tối

nhiều. Vẫn có nhiều đường dây mua bán liên tỉnh. Trên toàn tỉnh, các cơ quan

chức năng đã bắt giữ, thu giữ 12469,035 gam heroin (tăng 3 lần so với cùng

49

kỳ năm trước); 5983,61 gam Methamphetamine; 131,312 gam Ketamine; 6

khẩu súng, 50 viên đạn và nhiều vật chứng khác. [31]

Năm 2017, số vụ khởi tố giảm hơn so cùng kỳ năm 2016 (485 vụ/488

bị can – giảm 5 vụ), nhưng tính chất và mức độ phạm tội vẫn phức tạp, có

nhiều vụ tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép ma tuý với số lượng lớn.

Vẫn có nhiều đường dây mua bán liên tỉnh. Trên toàn tỉnh các cơ quan chức

năng đã bắt, thu giữ tổng trọng lượng 10943,937 gam, 39653,556 gam ma túy

tổng hợp, 402,610 gam thuốc phiện và nhiều vật chứng khác.

Đáng lưu ý là vụ: Khoảng 13h00’ ngày 23/01/2017, tổ công tác của

Ph ng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh phối hợp với Cục CSĐT tội

phạm về ma túy Bộ Công an, Phòng phòng chống tội phạm ma túy Cục

nghiệp vụ và pháp luật Cảnh sát biển và Đội kiểm soát Hải quan Cục hải quan

TP Hải ph ng đang làm nhiệm vụ tại khu vực bên đ Mười thuộc xã Nghĩa

Sơn, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thị

Quyên, SN 1971, HKTT: Phố Thống Nhất, Thị trấn Me, huyện Gia Viễn, tỉnh

Ninh Bình, có hành vi vận chuyển trái phép 9844,3 gam heroine, 35464,550

gam Methamphetamine. Quyên khai nhận toàn bộ số ma túy đó là của một

người tên là Tiến (Quyên không biết địa chỉ) thuê Quyên vận chuyển từ Kon

Tum về Nam Định với giá 50.000.000 đồng. Khám xét khẩn cấp nơi ở của

Quyên thu giữ 2 cân tiểu lý. Vụ án đã được truy tố, T a án đã tuyên phạt

Quyên mức án t hình. [31]

Năm 2018, tình hình vi phạm và tội phạm liên quan đến ma tuý vẫn

diễn ra phức tạp, số vụ khởi tố trong toàn tỉnh giảm hơn so cùng kỳ năm 2017

(437 vụ/485 bị can – giảm 48 vụ), nhưng tính chất và mức độ phạm tội ngày

càng phức tạp, có nhiều vụ tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép ma tuý

với số lượng lớn. Nắm bắt sự thay đổi các quy định của pháp luật về chương

“Tội phạm về ma túy”, các đối tượng vận chuyển, mua bán trái phép chất ma

50

túy ngày càng thủ đoạn hơn, quanh co chối tội, che giấu hành vi phạm tội, gây

khó khăn trong quá trình điều tra. Có nhiều vụ án đã khởi tố, trong giai đoạn

điều tra, bị can thay đổi lời khai dẫn đến phải thay đổi tội danh. Vẫn có nhiều

đường dây mua bán ma túy liên tỉnh, và xuất hiện nhiều phương thức buôn

bán ma túy mới (buôn bán qua mạng, qua bưu điện…), một số loại ma túy

chưa có trong danh mục pháp luật quy định, dẫn tới khó khăn trong đấu tranh,

phòng chống loại tội phạm nguy hiểm này. Trên toàn tỉnh các cơ quan chức

năng đã bắt, thu giữ tổng trọng lượng 2849,662 gam Heroine; 6659,343 gam

ma túy tổng hợp, 1006,43 gam thực vật chứa chất ma túy AMB-FUBINACA

(Cỏ Mỹ) và nhiều vật chứng khác.

Đáng lưu ý là các vụ: Khoảng 5h40’ ngày 12/6/2018, tại khu vực ngã

tư cầu Diêm, Thị trấn Ngô Đồng, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, Tổ công

tác Phòng Cảnh sát điều tra án ma túy (PC 47) Công an tỉnh Nam Định phát

hiện bắt quả tang Trần Thị Nhung (SN 1964, trú tại Thị trấn Ngô Đồng,

huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) đang cầm trên tay 1 thùng hàng bìa cattong

có biểu hiện nghi vấn. Tiến hành kiểm tra, Nhung tự giác giao nộp 2 bánh

Heroine (708,660 gam). Nhung khai lấy hộ cho con trai là Trần Văn Khoa

(SN 1982, trú tại xóm 8, xã Giao Lạc, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định). Cơ

quan CSĐT Công an tỉnh tiến hành thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn

cấp và khám x t nơi ở của Khoa, thu giữ được 106,550 gam Heroine, 3,351

gam Methamphetamine. Tại nhà ở của Khoa, Cơ quan CSĐT cũng tiến hành

giữ Doãn Văn Trung (SN 1978, trú tại Thị trấn Ngô Đồng, huyện Giao Thủy,

tỉnh Nam Định) đang tàng trữ 0,36 gam Methamphetamine để s dụng bản

thân. Qua bước đầu điều tra, Khoa khai số ma túy trên là mua của Hoàng Thị

Khương (Út Trang, SN 1972, trú tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La) về bán.[31]

2.2.2. Kết quả công tác kiểm sát điều tra vụ án ma túy

Trước tình hình tội phạm ma túy diễn biến phức tạp, hàng năm, Tỉnh ủy

Nam Định đều có Chỉ thị, Nghị quyết về công tác an ninh trật tự, trong đó

51

nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm là đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm,

phòng chống ma túy và tệ nạn xã hội. Trên cơ sở đó, VKSND tỉnh Nam Định

đã xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện cụ thể và triển khai các biện

pháp quyết liệt đấu tranh ngăn chặn và từng bước làm giảm hoạt động của các

loại tội phạm, chú trọng công tác phòng ngừa làm giảm nhân tố phát sinh tội

phạm từ địa bàn; vận động quần chúng nhân dân nói không với ma túy; triển

khai các đề án xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ đồng bào phát triển sản xuất, ổn

định cuộc sống, tạo việc làm cho người lao động và đặc biệt là tạo việc cho

những người mãn hạn tù và người sau cai nghiện.

VKSND tỉnh Nam Định luôn quán triệt việc thực hiện Chỉ thị 06/CT-

VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng VKSND tối cao về "Tăng cường

trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều

tra" nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội

phạm và Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-

VKSNDTC ngày 29/12/2017 về quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có

thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi

tố và Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày

19/10/2018 của VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc ph ng quy định về

phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số

quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên đã phối hợp chặt chẽ với các cơ

quan CSĐT để làm tốt từ giai đoạn tin báo, tố giác tội phạm để tạo tiền đề cho

công tác kiểm sát điều tra. Trong quá trình kiểm sát điều tra, những vụ án có

vướng mắc hoặc mâu thuẫn về chứng cứ đều được xem xét thận trọng, khách

quan, trong trường hợp cần thiết KSV đã trực tiếp tiến hành hỏi cung cùng

ĐTV hoặc tiến hành phúc cung để kiểm tra, đánh giá chứng cứ trước khi phê

chuẩn. Quan hệ phối hợp giữa đơn vị và các CQĐT ngày càng chặt chẽ theo

52

đúng quy định của BLTTHS và quy ước liên ngành về quan hệ phối hợp trong

giải quyết án hình sự. Ph ng THQCT và KSĐT, KSXX án an ninh – ma túy

(Ph ng 1) đã phối hợp với Ph ng CSĐT tội phạm về ma túy (PC04) Công an

tỉnh Nam Định tiến hành ký Quy chế phối hợp trong công tác giải quyết các

vụ án hình sự về ma túy. Lãnh đạo Viện KSND tỉnh Nam Định quán triệt chặt

chẽ đến KSV, KTV trong toàn tỉnh thực hiện đúng quy định tại Hướng dẫn số

02/HD-VKS ngày 04/01/2018 về hướng dẫn công tác thực hành quyền công

tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét x sơ thẩm án ma túy năm 2018 trong giai

đoạn đầu BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành.

Qua đó, chất lượng kiểm sát điều tra của các KSV được nâng cao.

Trong quá trình kiểm sát phát hiện một số vi phạm của cơ quan điều tra. Thực

hiện chức năng kiểm sát điều tra và chỉ tiêu thi đua năm của ngành Kiểm sát,

hằng năm, VKSND cấp huyện đều có kiến nghị vi phạm trong quá trình điều

tra vụ án ma túy đối với quyết định CQĐT cấp huyện, cụ thể các lỗi vi phạm

như: Không xem x t trách nhiệm của người có liên quan, vi phạm không lập

biên bản đúng luật, không tiến hành lập biên bản hỏi cung ngay, vi phạm về

việc x lý vật chứng, quyết định chuyển hồ sơ quyết định trễ hạn, hình thức

văn bản không đúng mẫu, ĐTV không tiến hành một số hoạt động điều tra

dẫn đến Tòa án, VKS trả hồ sơ điều tra bổ sung… Một số huyện như Giao

Thủy, Hải Hậu, thành phố Nam Định hàng năm đều ban hành kiến nghị chung

yêu cầu khắc phục vi phạm. Trong 4 năm, VKSND cấp tỉnh đã ban hành 01

kiến nghị riêng đối với CQĐT Công an tỉnh về việc yêu cầu xem xét trách

nhiệm, KSV đã kịp thời yêu cầu Điều tra viên khắc phục. Thông qua công tác

kiểm sát, VKSND tỉnh Nam Định đã tổng hợp những nguyên nhân, điều kiện

và sơ sở, thiếu sót trong công tác quản l nhà nước làm phát sinh tội phạm,

ban hành kiến nghị với các cơ quan nhà nước, yêu cầu khắc phục những sơ

hở, thiếu sót, từng bước hạn chế tội phạm về ma túy.

53

Trong những năm qua, Lãnh đạo VKSND cấp tỉnh luôn quan tâm sát

sao đến công tác kiểm sát điều tra đối với VKSND cấp huyện. Trong 4 năm,

VKSND tỉnh Nam Định đã ban hành 12 văn bản rút kinh nghiệm g i cấp

huyện và thành phố Nam Định về một số vấn đề cần lưu ý trong công tác

kiểm sát giải quyết án ma tuý. [31]

Trong công tác kiểm sát điều án ma túy, VKSND tỉnh Nam Định đã chỉ

đạo hai cấp kiểm sát chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với CQĐT từ giai

đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm, khởi tố đến giai đoạn điều tra các tội

phạm về ma túy. Trong đó, xác định được nhiều vụ án trọng điểm để truy tố,

xét x nhằm kiên quyết đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy. Kết quả

giải quyết án ma túy của Nam Định trong thời gian qua không để xảy ra việc

đình chỉ vì không phạm tội. Kết quả đó đã góp phần tích cực vào việc phục vụ

nhiệm vụ chính trị địa phương. Đối với những vụ án lớn, có tính chất đặc biệt

nghiêm trọng, phức tạp, nhiều bị can, liên quan đến nhiều địa bàn khác nhau

thì Lãnh đạo VKS hai cấp tỉnh Nam Định đã quan tâm chỉ đạo sát sao, định

kỳ yêu cầu KSV, Kiểm tra viên thụ lý vụ án tổng hợp báo cáo kết quả KSĐT

để nắm chắc tiến độ giải quyết, từ đó có định hướng, chỉ đạo giải quyết tiếp,

có vụ án Lãnh đạo Viện trực tiếp tham gia cùng ban chuyên án của CQĐT để

thống nhất chỉ đạo việc khởi tố, điều tra vụ án và áp dụng các biện pháp bắt

khẩn cấp, tạm giam những đối tượng cầm đầu; phân công KSV có kinh

nghiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án. Quá trình kiểm

sát điều tra vụ án, KSV đã thực hiện triệt để chủ trương của Lãnh đạo Viện về

“Tăng cường trách nhiệm công tố và kiểm sát trong hoạt động điều tra, gắn

công tố và kiểm sát với hoạt động điều tra”, lên kế hoạch cùng ĐTV lấy lời

khai các đối tượng đã bị bắt để làm rõ các đối tượng đồng phạm có liên quan;

cùng các ĐTV nghiên cứu hồ sơ, phân loại, đánh giá chứng cứ, sắp xếp theo

từng đối tượng trong các đường dây.

54

Đối với các đường dây mua bán ma túy lớn, việc đấu tranh, khai thác

mở rộng vụ án là việc làm hết sức quan trọng, đ i hỏi KSV phải phối hợp chặt

chẽ cới ĐTV, củng cố tài liệu, chứng cứ để có đủ căn cứ khởi tố bị can, yêu

cầu CQĐT truy bắt, tạm giam các đối tượng còn lại, như: Việc yêu cầu tra

cứu số điện thoại, tra cứu các cuộc gọi đi, gọi đến; tiến hành cho bị can nhận

dạng đối tượng qua ảnh, xác minh đối tượng, Lãnh đạo VKSND và Lãnh đạo

CQĐT thường xuyên nắm và chỉ đạo ĐTV và KSV tập trung vào việc đánh

giá và củng cố chứng cứ; chứng cứ thu thập phải luôn được giám sát thực

hiện bảo đảm đúng quy trình, thủ tục do BLTTHS năm 2015 quy định. Nhờ

đó, các vụ án điều tra đến đâu, chứng cứ chắc đến đó, không phải làm đi làm lại

nhiều lần. Do sự phối hợp chặt chẽ của KSV và Lãnh đạo VKS, nên CQĐT đã

sớm thống nhất được diện bị can cần khởi tố, bắt tạm giam, quy kết được số lần

vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy của tùng đối tượng, bắt kịp thời

không để đối tượng đủ chứng cứ bỏ trốn, gây khó khăn cho việc điều tra. Các

mâu thuẫn trong vụ án trong quá trình kiểm sát, đều được KSV yêu cầu ĐTV

làm rõ thông qua hoạt động đối chất để giải quyết triệt để mâu thuẫn. Khi thời

hạn điều tra còn khoảng một tháng, KSV và ĐTV đều rà soát lại toàn bộ chứng

cứ và thủ tục tố tụng của từng bị can để kịp thời bổ sung hoàn chỉnh.

Trong quá trình kiểm sát, KSV và ĐTV thường xuyên đối chiếu, đánh

giá chứng cứ theo từng hành vi phạm tội, từng giai đoạn. Trường hợp, KSV và

ĐTV không thống nhất về quan điểm đánh giá chứng cứ thì KSV đã báo cáo

Lãnh đạo liên ngành cho ý kiến chỉ đạo. Hoạt động kiểm sát điều tra được tiến

hành ngay từ khi vụ án mới khởi tố nên không có trường nào VKS phê chuẩn

không có căn cứ. Quá trình kiểm sát điều tra, KSV tích cực, chủ động phối hợp

cùng với ĐTV bám sát tiến độ điều tra, kịp thời đề ra các yêu cầu điều tra làm

rõ hành vi phạm tội, đảm bảo khi các vụ án kết thúc điều tra chuyển VKS đều

đủ cơ sở truy tố và chuyển hồ sơ sang Toà án xét x đúng thời hạn luật định;

100% bị can bảo đảm truy tố đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

55

Trong những năm qua, VKSND tỉnh Nam Định đã thực hiện kiểm sát

đồng bộ toàn diện việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế,

việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tất cả các hoạt động điều tra, kiểm sát việc

trung cầu giám định, kiểm sát thời hạn điều tra, gia hạn thời hạn tạm giam để

điều tra, kiểm sát việc kết thúc điều tra, đình chỉ và tạm đình chỉ điều tra, việc

lập hồ sơ vụ án của CQĐT đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động

điều tra. Cụ thể như sau:

a) Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế

Trong các năm, tỉ lệ số người bắt, tạm giữ, tạm giam giảm nhưng

không đáng kể, cho thấy công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn

chặn, biện pháp cưỡng chế được VKSND tỉnh Nam Định có nhiều tiến bộ,

khắc phục được tình trạng bắt, giữ, tạm giam thiếu căn cứ. Ví dụ: Trong năm

2018, có 01 trường hợp bắt, tạm giữ hình sự, sau đó trả tự do do chưa đủ căn

cứ để x lý hình sự (vụ Nguyễn Thị Thảo nghi vấn “tàng trữ trái phép chất

ma túy”, hết thời hạn tạm giữ, tài liệu chứng cứ CQĐT thu thập chưa đủ căn

cứ để khởi tố bị can). Tỷ lệ bắt giữ x lý hình sự qua các năm đều đạt trên

99%. Nhìn chung tất cả những trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam của cơ quan

điều tra đều đảm bảo đúng quy định pháp luật. Đối với các trường hợp đề

nghị phê chuẩn gia hạn tạm giữ, lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp

VKS đều nghiên cứu xem xét một cách chặt chẽ, việc phê chuẩn thực hiện

theo đúng quy định của pháp luật, kịp thời giải quyết những vướng mắc trong

quá trình phê giam. Vì vậy không có trường hợp nào bị giam, giữ trái pháp

luật. Đạt được kết quả như vậy, một phần cũng thể hiện KSV của VKSND

tỉnh Nam Định luôn nắm vững quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn, các

trường hợp không được bắt, tạm giam quy định tại Mục I, Chương VII của

BLTTHS năm 2015 để giải quyết vụ án ma túy ở giai đoạn khởi tố, điều tra.

Đối với vụ án lớn, đông bị can, để đảm bảo bí mật, việc bắt phải được tiến

hành đồng loạt với nhiều bị can cùng một nhằm trách việc các bị can, đối

56

tượng khác thấy động bỏ trốn, KSV đã phối hợp chặt chẽ với ĐTV năm chắc

hành vi phạm tội cũng như l lịch tư pháp của đối tượng, các quy định tố tụng

hình sự, văn bản liên quan, chủ động bàn với ĐTV phân loại những đối tượng

đủ chăn cứ để khẩn trương thực hiện việc bắt giữ, các đối tượng nào chứng cứ

còn yếu đã nhanh chóng kịp thời củng cố chứng cứ để ra lệnh bắt tránh trường

hợp người phạm tội bỏ trốn. Mặt khác việc kê biên, thu giữ tài sản do phạm

tội mà có cũng được chú để phục vụ công tác xét x sau này.

Đối với các vụ án truy x t, đông bị can, việc thực hiện hành vi phạm tội

thường diễn ra trong thời gian dài, VKSND hai cấp tỉnh Nam Định đã triển

khai nhiều biện pháp nhằm thực hiện tốt công tác kiểm sát áp dụng các biện

pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Phối hợp chặt chẽ với CQĐT, Bộ đội

biên phòng, Ủy ban nhân dân cấp phường, xã nhằm nắm thông tin không để

xảy ra oan sai, hay bỏ lọt tội phạm; không có trường hợp nào bị lạm dụng bắt

khẩn cấp, bị giam giữ quá hạn hoặc bắt, tạm giữ, tạm giam trái pháp luật.

Bảng 2.2: Các hình thức bắt

Các hình thức bắt Tổng số Năm Quả tang Khẩn cấp Đầu thú Truy nã Bắt Tạm giam

12 2 0 6 139 119 2015

13 2 0 04 149 130 2016

3 0 3 13 135 116 2017

8 1 0 16 141 116 2018

(Nguồn: Báo cáo kết quả tổng kết công tác kiểm sát của VKSND tỉnh Nam

Định (từ năm 2015 đến 2018))

b) Kiểm sát khởi tố vụ án, khởi tố bị can

Trong 4 năm 2015, 2016, 2017, 2018, Viện KSND hai cấp tỉnh Nam

Định đã xem x t kiểm sát hồ sơ tài liệu và chấp nhận khởi tố 1.925 vụ án ma

túy, xét phê chuẩn 2.195 quyết định khởi tố bị can. KSV hai cấp tỉnh Nam

57

Định luôn nghiên cứu kỹ Điều 179 BLTTHS năm 2015 để kiểm sát việc khởi

tố bị can, xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và quyết định thay đổi hoặc

bổ sung quyết định khởi tố bị can. Khi thấy quyết định khởi tố bị can có căn

cứ và hợp pháp, KSV đã báo cáo đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện

quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và g i ngay cho cơ quan ra

quyết định; trường hợp khi thấy chưa rõ căn cứ xác định bị can phạm tội,

KSV đã kịp thời yêu cầu cơ quan ra quyết định khởi tố bổ sung tài liệu chứng

cứ để làm rõ căn cứ khởi tố. Đối với các vụ án ma túy đông bị can, phức tạp,

KSV đã kịp thời phối hợp với ĐTV thụ lý vụ án để lấy lời khai người bị khởi

tố, người làm chứng, người bị hại để làm rõ căn cứ khởi tố bị can trước khi

báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê

chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Trong quá trình kiểm sát khởi tố

bị can, KSV luôn xem xét kiểm tra kỹ lưỡng quyết định khởi tố bị can, nếu

thấy quyết định khởi tố bị can ghi không đúng, tên tuổi, nhân thân bị can, và

hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố mà phạm vào

tội khác hoặc có hành vi phạm tội khác với tội danh đã bị khởi tố tránh trường

hợp bỏ lọt tội phạm và hành vi phạm tội. Trong những năm gần đây, đối với

vụ án về ma túy, do kiểm sát chặt chẽ từ giai đoạn khởi tố nên không có

trường nào đã khởi tố bị can phải đình chỉ vì không có tội.

Bảng 2.3: Số vụ, số bị can khởi tố trên toàn tỉnh

Năm Số vụ Số bị can

2015 468 531

2016 488 623

2017 508 545

2018 461 496

Tổng 1.925 2.195

(Nguồn: Báo cáo kết quả tổng kết công tác kiểm sát của VKSND tỉnh Nam

Định (từ năm 2015 đến 2018)).

58

c) Kiểm sát việc hỏi cung bị can

Lãnh đạo VKSND các cấp tỉnh Nam Định đã chỉ đạo VKS thụ lý vụ án

phải tham gia trực tiếp hỏi cung với ĐTV thông qua hoạt động kiểm sát việc

hỏi cung để nắm vững nội dung của vụ án ngay từ đầu, phục vụ cho hoạt động

truy tố và xét x sau này. Qua nghiên cứu một số vụ án về ma túy có tính chất

điển hình đã được khởi tố, điều tra cho thấy, có khoảng 95% vụ án KSV trực

tiếp kiểm sát việc hỏi cung bị can của ĐTV ít nhất là một lần. Đối với những

bị can có đơn khiếu nại, kêu oan hoặc tố cáo việc ĐTV thiếu khách quan

trong hoạt động điều tra thu thập chứng cứ hoặc bị can có lúc nhận tội, có lúc

không nhận tội thì ĐTV phải trực tiếp lấy lời khai bị can để làm rõ nội dung

và đề xuất biện pháp giải quyết kịp thời, tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc suy

đoán vô tội; đồng thời đã kiểm sát chặt chẽ việc thực hiện các quy định của

pháp luật về đảm bảo các quyền của bị can trong tố tụng hình sự như việc

được giải thích quyền và nghĩa vụ, quyền được thuê hoặc chỉ định luật sư bào

chữa, quyền im lặng,...

Đối với vụ án có bị can tham gia tất cả các lần, có những bị can chỉ

tham gia một số lần nên đ i hỏi việc đối chiếu lời khai của các bị can với

nhau để xem có những điểm mâu thuẫn thì tiếp tục yêu cầu ĐTV làm rõ. Đối

với các bị can khai nhận không ổn định, lúc nhận tội, lúc không, KSV đã tăng

cường tham gia hỏi cung. Trường hợp cần thiết phải yêu cầu cho các bị can

đối chất với sự có mặt của KSV. Quá trình hỏi cung bị can đối với các vụ án

có truy xét phải làm rõ được hình dáng, kích thước của bánh heroin mà các bị

can đã mua bán, trên cơ sở mô tả của các bị can làm căn cứ để trung cầu Viện

khoa học hình sự Bộ công an trả lời về trọng lượng, hàm lượng chất ma túy

của từng loại, từng năm cụ thể để có căn cứ kết luận trọng lượng chất ma túy

các bị can đã mua bán.

Những bị can thay đổi lời khai hoặc không nhận tội, KSV đã chủ động

59

phối hợp với ĐTV phúc cung tổng hợp, cho bị can viết tường trình và tiếp tục

mời người chứng kiến (có cả Luật sư tham gian nếu thuộc trường hợp có Luật

sư) để kiểm tra tính khách quan, toàn diện, chính xác lời khai của các bị can,

thống nhất với Điều tra viên số bị can truy tố, số đối tượng phải tách ra tiếp

tục điều tra làm rõ. Các biên bản hỏi cung bị can nếu nhận tội đều được hai cơ

quan thống nhất mời người làm chứng chứng kiến toàn bộ việc khai báo, một

mặt để đảm bảo tính khách quan cho việc thu thập chứng cứ, mặt khác để hạn

chế đến mức thấp nhất việc bị can sau đó có thể phản cung.

d) Kiểm sát khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra

Trong những năm qua, công tác quản lý, chỉ đạo điều hành việc khám

nghiệm hiện trường đối với những vụ án ma túy được lãnh đạo VKS hai cấp

quán triệt thực hiện đồng đều, thực hiện nghiêm chế độ trực nghiệm vụ 24/24

giờ và tham gia tất cả các vụ việc do CQĐT chủ trì, đồng thời cũng xây dựng

tốt công tác phối hợp với CQĐT, các cơ quan chuyên môn và chính quyền

trong công tác khám nghiệm hiện trường. Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ

kiểm sát khám nghiệm hiện trường thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy

định tại Điều 41, 42, 43, 201, 202 của BLTTHS năm 2015 và Quy chế 170 về

công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm t thi, thực nghiệm hiện

trường và giám định của Ngành KSND nhằm xác định rõ tính chất mức độ vụ

việc, làm cơ sở để đề ra các biện pháp điều tra mở rộng tiếp theo. KSV thu

thập dấu vết vật chứng kiểm tra, xem xét chặt chẽ biên bản hiện trường và sơ

đồ hiện trường đảm bảo phán ánh đúng thực tế khách quan. Tham gia đầy đủ

các vụ án cần phải thực nghiệm hiện trường như thực nghiệm hiện trường về

quy trình sản xuất hoặc cất giấu ma túy, việc mua bán trái phép chất ma túy,

diễn ra vào khoảng thời gian nào, địa điểm nào. Có những vụ án bị can khai

giấu heroin dưới sàn, trong cánh c a xe ô tô với số lượng lớn, VKSND các

cấp yêu cầu CQĐT cùng cấp tiến hành thực nghiệm điều tra, kết quả thực

60

nghiệm điều hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị can, chứng minh lời khai

của bị can là có căn cứ.

Từ việc thực hiện tốt công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường, thực

nghiệm hiện trường đã góp phần đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét

x các vụ án về ma túy nhanh chóng, kịp thời tránh bỏ lọt tội phạm, không có

vụ án để trả lại hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.

e) Kiểm sát các hoạt động điều tra khác

Công tác kiểm sát các hoạt động điều tra khác của Cơ quan có thẩm

quyền điều tra cùng cấp ở tỉnh Nam Định luôn được VKSND hai cấp tỉnh

Nam Định chú trọng.

Đối với công tác kiểm sát việc khám xét thu giữ, tạm giữ tài liệu đồ vật,

KSV hai cấp luôn kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục

khám xét thu giữ tạm giữ tài liệu, đồ vật theo quy định tại Chương XIII

BLTTHS năm 2015. Khi nhận được thông báo của Cơ quan có thẩm quyền

điều tra về thời gian, địa điểm tiến hành khám xét, KSV luôn chủ động phối

hợp với ĐTV thống nhất kế hoạch khám xét, bảo đảm việc khám x t được

thực hiện đúng theo quy định BLTTHS năm 2015.

Đối với công tác kiểm sát việc đối chất, trong các vụ án ma túy thường

có mẫu thuẫn trong các lời khai bởi lời khai trung thực, lời khai gian dối, chính

vì vậy, công tác kiểm sát việc đối chất luôn được chú trọng. Thông qua việc

nghiên cứu hồ sơ tài liệu, chứng cứ, phát hiện mâu thuẫn, xác định nội dung

mâu thuẫn, nhận định nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn để từ đó xác định hoạt

động đối chất của ĐTV đó đạt yêu cầu hay chưa, có cần tiến hành đối chất nữa

hay không? Qua nghiên cứu các hồ sơ cho thấy các vụ án ma túy có tiến hành

đối chất, CQĐT đã tuân thủ các quy định của phát luật do trong các vụ án ma

túy các bị can cố tình chối tội, do đó, hồ sơ có nhiều mâu thuẫn, KSV của

VKSND hai cấp tỉnh Nam Định luôn trao đổi với ĐTV thống nhất kế hoạch đối

61

chất đối với các đối tượng có lời khai khác nhau vì có mâu thuẫn với nhau nên

khi tiến hành đối chất, các mâu thuẫn đều được giải quyết, bảo đảm việc truy

tố, xét x đúng người, đúng tội. Tất cả các cuộc đối chất đều có KSV tham gia.

Ngoài ra, công tác kiểm sát việc nhận biết giọng nói, nhận dạng, luôn

được KSV của VKSND hai cấp tỉnh Nam Định thực hiện chặt chẽ, chính xác,

nhanh chóng bảo đảm không có oan sai, bỏ lọt tội phạm.

f) Kiểm sát việc trưng cầu giám định vật chứng thu giữ

Trưng cầu giám định vật chứng thu giữ là một trong hoạt động quan

trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma túy. Qua quá trình kiểm sát,

VKSND hai cấp tỉnh Nam Định đã kiểm sát chặt chẽ các quyết định trưng cầu,

kết luận giám định. Ngay sau khi, CQĐT hai cấp tỉnh Nam Định ra quyết định

trưng cầu giám định đều g i cho VKSND cùng cấp để tiến hành kiểm sát. 100%

vụ án ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định đều có giám định chất ma túy thu giữ,

việc kiểm sát chặt chẽ việc giám định tạo nên chứng cứ khoa học trong việc, xác

định chất ma túy, làm cơ sở vững chắc để buộc tội đối với bị can, bị cáo.

g) Kiểm sát thời hạn điều tra vụ án, gia hạn thời hạn tạm giam để điều tra

Thời gian qua, Lãnh đạo VKSND tỉnh Nam Định luôn chú trọng việc

kiểm sát thời hạn điều tra vụ án và việc gia hạn thời giam tạm giam. KSV

luôn căn cứ vào mức hình phạt tại các điều luật thuộc Chương XX, BLHS

năm 2015 để tính thời hạn điều tra. Đối với các vụ án ma túy cần gia hạn điều

tra do tính chất phức tạp, nhiều bị can, xảy ra ở nhiều địa bàn khác nhau thì

KSV đã có phương án lập sổ theo dõi để tính thời gian như ở VKSND huyện

Mỹ Lộc, VKSND huyện Giao Thủy… đồng thời căn cứ vào các quy định của

pháp luật, mức độ phức tạp để gia hạn điều tra. Việc xin gia hạn thời hạn điều

tra vụ án, gia hạn tạm giam của CQĐT luôn được KSV kiểm sát chặt chẽ về

điều kiện, thẩm quyền và tuân thủ đúng trình tự, thủ tục quy định của

BLTTHS. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, VKSND tối cao quyết

62

định gia hạn điều tra lần thứ ba và gia hạn tạm giam lần thứ ba; VKS có vụ

án, bị can xin gia hạn phải g i văn bản đề nghị và hồ sơ vụ án đến VKSND

tối cao. Đối với VKSND cấp huyện, khi đề nghị VKSND tỉnh gia hạn thời

hạn điều tra, thời hạn tạm giam. Lãnh đạo VKSND cấp huyện đã chủ động đề

nghị gia hạn bằng văn bản và kèm theo hồ sơ để g i lên VKSND tỉnh. Do đó,

trong những năm qua, không để tình trạng sai sót về cách tính cũng như căn

cứ tính thời hạn điều tra, căn cứ gia hạn thời hạn tạm giam để điều tra.

h) Kiểm sát án đình chỉ và tạm đình chỉ điều tra

Trong những năm qua, số lượng án ma túy đình chỉ điều tra và tạm

đình chỉ điều tra tại tỉnh Nam Định rất ít và không để xảy ra trường hợp đình

chỉ điều tra do bị can không phạm tội, đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự đối

với bị can không đúng quy định. (Bảng số 2.4).

Bảng 2.4: Số lƣợng án đình chỉ và tạm đình chỉ điều tra

Án tạm Năm Án đình chỉ Lý do đình chỉ

2015 0 vụ - 1 bị can Do bị can trốn

2016

2017 1 vụ - 1 bị can Do bị can mắc bệnh tâm thần

2018 1 vụ - 0 bị can

Do đã hết thời hạn không xác định được bị can

(Nguồn: Báo cáo kết quả tổng kết công tác kiểm sát của VKSND tỉnh Nam

Định (từ năm 2015 đến 2018))

Các vụ án, bị can do CQĐT đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra đều

đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp. Để đạt được những kết quả đó, Lãnh đạo

Viện KSND hai cấp tỉnh đã luôn quan tâm chỉ đạo chặt chẽ đối với công tác

giải quyết án hình sự tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra bảo đảm việc

điều tra đúng thời hạn, tránh trường hợp khi vừa hết thời hạn điều tra, chưa

63

gia hạn điều tra mà đã quyết định tạm đình chỉ. Đồng thời, KSV hai cấp đã

chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra thực hiện tốt công tác đình chỉ điều

tra và tạm đình điều tra quy định tại Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-

VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của VKSND tối cao, Bộ Công an,

Bộ Quốc ph ng quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát

trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS. Luôn nâng cao trách

nhiệm của KSV trong công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm t

thi, kịp thời phối hợp với Cơ quan điều tra thu thập, đánh giá chứng cứ đầy

đủ, khách quan, toàn diện ngay từ khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; các

chứng cứ buộc tội cũng như chứng cứ gỡ tội phải được cân nhắc, đánh giá

thận trọng trước khi đề xuất Lãnh đạo Viện phê chuẩn các quyết định của Cơ

quan điều tra. Ngoài ra, KSV luôn kiểm sát chặt chẽ việc ra Quyết định tạm

đình chỉ của Cơ quan điều tra, đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật, tránh việc

lạm dụng các l do không đúng để tạm đình chỉ. Giữa CQĐT và VKSND hai

cấp tỉnh Nam Định luôn có sự trao đổi thống nhất trước khi CQĐT ra quyết

định tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra.

i, Kiểm sát việc kết thúc điều tra của CQĐT

Trong những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng trong việc kết

thúc điều tra, KSV hai cấp của VKSND tỉnh Nam Định luôn chú trọng trong

việc nghiên cứu bản kết luận điều tra, bản kết luận điều tra kèm theo quyết

định đình chỉ đối với những vụ án đình chỉ, tiến hành kiểm sát chặt chẽ hình

thức, nội dung các quyết định tố tụng của CQĐT như: Bản kết luận điều tra,

Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can để bảo đảm các

quyết định tố tụng của CQĐT ban hành đúng căn cứ, đúng nội dung, đúng

người, kịp thời phát hiện những vi phạm (nếu có), để ban hành quyết định yêu

cầu CQĐT thay đổi hoặc hủy bỏ, không để xảy ra sai sót gì.

64

k) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng

Đối với tất cả những vụ án hình sự nói chung và các vụ án về ma túy

nói riêng, KSV hai cấp VKSND tỉnh Nam Định luôn chủ động yêu cầu ĐTV

giải thích quyền và nghĩa vụ và phải ghi vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án

và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, đồng

thời kiểm sát chặt chẽ việc thực hiện trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm

quyền điều tra trong việc giao g i, cấp, chuyển, niêm yết tài liệu, văn bản tố

tụng theo quy định của pháp luật. Đồng thời, cũng chú trọng kiểm sát việc

bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội.

l) Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án

Đối với các vụ án ma túy, VKSND hai cấp tỉnh Nam Định đã thực hiện

tốt công tác kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án bảo đảm việc khởi tố, bắt, giam giữ

người phạm tội có căn cứ đúng người đúng tội. VKSND hai cấp đã yêu cầu

CQĐT khắc phục nhiều vi phạm trong việc lập hồ sơ. Trong nhiều trường

hợp, VKSND kiên quyết trả hồ sơ để điều tra bổ sung, khắc phục những thiếu

sót, vi phạm trong quá trình điều tra, tạo điều kiện nâng cao chất lượng các

quyết định x lý các vụ án ma túy của VKSND trong giai đoạn truy tố.

Đồng thời, Lãnh đạo VKSND hai cấp tỉnh Nam Định đã chỉ đạo thực

hiện đóng dấu bút lục theo đúng quy định của BLTTHS năm 2015 và Thông

tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của

VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc ph ng quy định về phối hợp giữa Cơ

quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ

luật Tố tụng hình sự

2.2.3. Một số tồn tại, hạn chế trong công tác kiểm sát điều tra vụ án

ma túy

Thứ nhất, qua hoạt động kiểm sát án ma túy, VKS hai cấp tỉnh Nam

Định vẫn để xảy một số tồn tại, hạn chế trong công tác áp dụng biện pháp

ngăn chặn dẫn đến cơ quan có thẩm quyền điều tra vi phạm, cụ thể như sau:

65

+ Mặc dù, BLTTHS năm 2015 với tinh thần hạn chế áp dụng biện pháp

ngăn chặn tạm giam nhưng thực tế đấu tranh với tội phạm ma túy đ i hỏi cần

phải áp dụng các biện pháp cứng rắn hơn. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn

tạm giam đối với tội phạm ma túy cũng giúp giảm đi những khó khăn trong

quá trình điều tra, truy tố, xét x và thi hành án hình sự, giúp quá trình tố tụng

diễn ra thuận lợi và đảm bảo thời hạn tố tụng. Bên cạnh đó, việc sàn lọc đối

tượng để áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại một số nơi

trên địa bàn tỉnh Nam Định còn áp dụng một cách máy móc các quy định của

điều luật này dẫn đến việc cho tại ngoại một cách tràn lan, tùy tiện, chưa

khách quan, thấu đáo, đánh giá đầy đủ các điều kiện theo quy định của

BLTTHS năm 2015, KSV không phát hiện được để yêu cầu ĐTV khắc phục.

+ Bắt người phạm tội quả tang nhưng không có căn cứ cho rằng hành vi

phạm tội của họ là vi phạm pháp luật chỉ dựa vào duy nhất 01 tin báo của

quần chúng (mạng lưới cơ sở, đặc tình) không kiểm tra xác minh, nghe mô tả

nhận dạng đã chặn đường tiến hành bắt, yêu cầu người bị bắt tự giác lấy trong

người đối tượng tang vật phạm tội ra đưa cho cán bộ bắt, nếu không thực hiện

theo yêu cầu thì người bị bắt sẽ bị dẫn giải đến cơ quan Công an gần nhất

thực hiện việc khám xét, thu giữ vật chứng, lập biên bản phạm tội quả tang

đưa vào tạm giữ, tiếp tục điều tra, sau đó khởi tố vụ án, bị can và tạm giam

(Việc này xảy ra tại một số huyện giáp danh với thành phố Nam Định như

huyện Vụ Bản, Mỹ Lộc... với đặc điểm tội phạm ma túy là mua bán nhỏ, lẻ rất

ít trường hợp ma túy có số lượng lớn, nên dạng vi phạm pháp luật này xảy ra

nhiều, chiếm tỷ lệ cao khoảng 90%, đối với tội phạm liên quan đến ma túy,

nhưng chưa xảy ra trường hợp oan, sai).

+ Vi phạm trong việc ghi rõ lý do bắt khẩn cấp, thủ tục phê chuẩn lệnh

bắt khẩn cấp. Một số trường hợp bắt khẩn cấp nhưng lệnh bắt khẩn cấp và

công văn đề nghị phê chuẩn bắt khẩn cấp không ghi rõ bắt khẩn cấp trong

trường hợp nào

66

+ Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, CQĐT nhận người bị

bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận

người bị bắt. Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải

ra ngay quyết định đình nã, tuy nhiên vẫn còn tình trạng CQĐT ra quyết định

đình nã chậm.

+ Vi phạm lập biên bản về việc bắt người. Có những vụ việc do Đồn

Biên phòng thuộc Bộ đội biên phòng tỉnh Nam Định lập biên bản bắt người

phạm tội quả tang, thể hiện chưa đúng nội dung và diễn biến sự việc như

trong biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, dẫn đến trong quá trình điều

tra bị can khai không phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Đối với các vụ án về ma túy chủ yếu là bắt quả tang, một số trường hợp

biên bản bắt quả tang được lập chưa đúng quy định về hình thức, mô tả chưa

đúng diễn biến trong khi bắt đối tượng hoặc thu giữ vật chứng, biên bản

không có ý kiến của người làm chứng; biên bản không ghi địa điểm bắt quả

tang dẫn đến khi bị can chối tội, phản cung gây khó khăn cho việc x lý vụ án

hoặc không phải trường hợp bắt quả tang nhưng ĐTV lại lập biên bản bắt

người phạm tội quả tang

+ Vi phạm trong thông báo về việc bắt người. Ngay sau khi bắt giữ

người có hành vi phạm tội, khi không còn cản trở đối với việc điều tra. Cơ

quan nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính

quyền cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc. Tuy

nhiên, trong công tác thông báo về việc bắt người vẫn có một số vụ chậm trễ.

Thứ hai, việc tiếp cận hồ sơ, kiểm sát hồ sơ vụ án ma túy gặp nhiều khó

khăn dẫn đến công tác kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đôi lúc c n

chưa chặt chẽ không phát hiện những thiếu sót như: không ghi nhận toàn diện

dấu vết hiện trường, phương tiện để thực hiện tội phạm và các đối tượng liên

quan để đánh giá tính liên quan trong vụ án; việc thực hiện các biện pháp điều

67

tra như hỏi cung, đối chất,… chưa thực hiện đúng quy định của Luật, Nghị định,

Thông tư hướng dẫn; không phát hiện các hoạt động điều tra vi phạm nghiêm

trong các quy định tố tụng hình sự do đó không có giá trị chứng minh như: 07

hoạt động điều tra phải có mặt KSV; 10 hoạt động điều tra phải có người chứng

kiến; các hoạt động điều tra bắt buộc phải thực hiện trong vụ án hình sự..

Thứ ba, trong công tác kiểm sát việc khám xét, thu giữ, bảo quản tài

liệu, đồ vật, trưng cầu giám định đối với các vụ án về ma túy, KSV hai cấp

c n chưa phát hiện ra một số vi phạm như: Áp dụng biện pháp khám xét khẩn

cấp chưa đúng quy định pháp luật; việc thu giữ, bảo quản, x lý vật chứng khi

khám xét bảo đảm thu thập kịp thời, đầy đủ, được mô tả đúng thực trạng vào

biên bản cũng như đối chiếu, so sánh với các chứng cứ khác còn nhiều hạn

chế. Đối với các vụ án ma túy, việc khám xét nhằm phát hiện số lượng ma túy

cất giấu, các công cụ, phương tiện liên quan đến hoạt động phạm tội ma túy.

Trong quá trình khám xét, việc thu giữ, tạm giữ và kê biên tài sản, vật chứng

trong các vụ án ma túy rất đa dạng: các loại ma túy, các loại tiền, phương tiện

giao thông, dụng cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, vật chứng nghi là

chất ma túy và vật chứng khác có liên quan đến hành vi phạm tội. Tuy nhiên,

CQĐT và VKS ở một số huyện công tác phối hợp còn lỏng lẻo trong việc

khám xét, thu giữ, tạm giữ và kê biên tài sản, vật chứng ngay từ đầu dẫn đến

việc thu giữ các tang vật liên quan không đúng quy định của BLTTHS năm

2015, không bảo đảm việc đánh giá chứng cứ khách quan. Bên cạnh đó, vẫn

còn những vi phạm trong công tác thu thập, bảo quản vật chứng và thu giữ đồ

vật, tài liệu. Trong công tác giải quyết án ma túy có những đặc thù so với các

loại án hình sự khác. Tang vật thu giữ trong vụ án ma túy có liên quan đến

công tác giám định, đánh giá mức độ vi phạm của tội phạm. Tuy nhiên, do sơ

suất trong quá trong thu giữ đồ vật, tài liệu dẫn đến việc điều tra gặp nhiều

khó khăn, nhất là đối với các trường hợp bị can không nhận tội. Việc thu giữ

68

đồ vật, tài liệu không đầy đủ, không đúng tố tụng không những vi phạm tố

tụng hình sự mà còn gây ảnh hưởng lớn đến công tác đánh giá chứng cứ, đánh

giá hành vi phạm tội của các đối tượng phạm tội.

Bên cạnh đó, trong công tác giám định, thời gian qua CQĐT bắt được

một số vụ án mà đối tượng phạm tội mua bán, vận chuyển, tàng trữ ma túy đã

pha trộn với các tạp chất khác, hay trộn nhiều loại chất ma túy với nhau gây

khó khăn, làm kèo dài thời gian giám định, kéo dài thời gian tạm giữ các đối

tượng, thậm chí có trường hợp khi hết 9 ngày tạm giữ mà vẫn chưa có kết

luận giám định, gây khó khăn cho việc quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị

can. Một số vụ án còn chậm có kết luận giám định do chưa có mẫu chuẩn,

làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, phải gia hạn thời hạn tạm giữ đến khi

có kết quả giám định. Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đảm

nhiệm việc giám định các chất ma túy, nhưng chỉ giám định được một số chất

ma túy như thuốc phiện, heroin, methaphetamine. Còn việc giám định hàm

lượng các chất ma túy thuộc danh mục phải giám định hàm lượng và giám

định các loại ma túy khác thì không đủ điều kiện về phương tiện, mẫu vật so

sánh nên phải trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định đã ảnh

hưởng đến thời gian giải quyết vụ án.

Thứ tư, về việc định tội danh, thực tiễn giải quyết các vụ án ma túy trên

địa bàn tỉnh Nam Định đã những khó khăn vướng mắc trong việc định tội;

trong việc xác định khối tượng ma túy đối với trường hợp nhiều lần thực hiện

hành vi mua bán ma túy; trong việc áp dụng pháp luật trong trường hợp người

phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội. Hiện nay, việc áp dụng văn bản

hướng dẫn vẫn còn những ý kiến khác nhau giữ cơ quan tố tụng và người tiến

hành tố tụng hình sự hai cấp của tỉnh Nam Định gây ảnh hưởng đến quá trình

kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can của VKSND hai cấp tỉnh Nam

Định. Chẳng hạn một số trường hợp như sau:

69

Đối với những trường hợp, lực lượng chức năng kiểm tra phát hiện cất

giữ ma túy của đối tượng đang trong quá trình vận chuyển tuy nhiên đối

tượng khai đi mua về cất giấu để s dụng. Sau khi nghiên cứu hồ sơ, cùng

một hành vi tương tự như vậy, VKS và CQĐT ở một số huyện thì khởi tố,

điều tra về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy vì cho rằng đối tượng đi mua ma

túy về để s dụng thì đương nhiên phải mang về, việc cất giấu ma túy trong

người là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và đối tượng chỉ phạm Tội vận

chuyển trái phép chất ma túy khi nhận vận chuyển thuê, vận chuyển giúp cho

người khác… Tuy nhiên VKS và CQĐT ở một số huyện thì khởi tố, điều tra

về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy vì cho rằng hành vi chuyển dịch bất

hợp pháp chất ma túy từ nơi nay đến nơi khác là hành vi vận chuyển, đang ở

trạng thái “động”, c n hành vi bị coi là tàng trữ chỉ khi ở trạng thái “tĩnh”.

Đối với trường hợp, lực lượng chức năng phát hiện nơi ở của đối tượng

cất giấu ma túy nhưng đối tượng khai mua về cất giấu để vừa s dụng vừa bán

cho con nghiện nhưng chưa bán thì đã bị phát hiện. Cùng hành vi tương tự

vậy, có những huyện trên địa bàn tỉnh Nam Định thì VKSND thống nhất khởi

tố điều tra về tội tàng trữ trái phép chất ma túy vì cho rằng: Mục đích của đối

tượng đi mua ma túy về s dụng và bán cho con nghiện nhưng chưa bán cho

ai, CQĐT không chứng minh được ai là người đã mua ma túy từ đối tượng

này thì không thể cáo buộc đối tượng này về hành vi mua bán trái phép chất

ma túy được, không thể căn cứ lời khai nhận tội của bị can làm chứng cứ duy

nhất để buộc tội họ. Nhưng cũng có huyện thì khởi tố điều tra vì Tội mua bán

trái phép chất ma túy vì cho rằng Hành vi của đối tượng cất giấu bất hợp pháp

chất ma túy nhằm mục đích mua bán (bị can khai nhận cụ thể, rõ ràng, tự

nguyện), theo quy định của BLHS năm 2015 và áp dụng tinh thần của quy

định tại Mục 3.1 Thông tư liên tịch Số: 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-

TANDTC-BTP ngày 24/7/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại

Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 thì:

70

Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở

bất cứ nơi nào mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất

trái phép chất ma túy… trường hợp này, đối tượng đã khi nhận việc cất giấu

ma túy để s dụng nhằm mục đích bán cho các con nghiện nên hành vi này

phải x lý về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Trong một số vụ án về ma túy, bị can bị bắt quả tang đang bán trái ph p

chất ma túy, qua điều tra truy xét, bị can khai nhận đã nhiều lần bán ma túy

cho đối tượng nghiện nhưng chỉ nhớ sổ lần bán, số lượng (gói, tép) số tiền thu

được và loại ma túy đã bán, nhưng không xác định được trọng lượng ma túy.

Lời khai của các đối tượng mua ma túy và loại ma túy đã mua chứ không nhớ

trọng lượng ma túy đã mua, do đó, không xác định được tổng trọng lượng

hoặc thể tích chất ma túy đã mua bán để áp dụng khung hình phạt

Hoặc có vụ án bị can bị bắt quả tang, ban đầu bị can thừa nhận tàng trữ

số ma túy này để ai mua thì bán nên bị cơ quan chức năng khởi tố về tội mua

bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, tại phiên tòa, bị cáo thay đổi lời khai là

tàng trữ chất ma túy để s dụng nhưng lại không đủ định lượng để x lý về

Tội tàng trữ trái ph p ma túy. Cũng có trường hợp bắt quả tang đối tượng

bán tái phép chất ma túy, khi khám x t trong người đối tượng thu giữ thêm

một lượng ma túy đủ định lượng cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

và đối tượng khi số ma túy trong người là để s dụng chứ không bán cho

người khác. Nếu căn cứ quy định của BLHS năm 1999 thì sẽ khởi tố đối

tượng về tội gh p “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy nhưng căn cứ

vào Bộ luật hình sự năm 2015 thì phải x l đối tượng về 2 tội độc lập là tội

tàng trữ trái phép chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy để tổng

hợp hình phạt. Như vậy, nếu áp dụng quy định của BLHS năm 2015 để x lý

sẽ bất lợi cho người phạm tội.

Vậy nên, qua những trường hợp trên KSV rất khó khăn trong quá trình

71

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra của cơ quan điều

tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do chưa

có hướng dẫn cụ thể kịp thời nên hiện nay chưa có quan điểm thống nhất khi

giải quyết cụ thể dẫn đến công tác kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can

gặp nhiều khó khăn.

2.2.4. Nguyên nhân

2.2.4.1. Nguyên nhân chủ quan

Trong thời gian qua, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Nam Định có

những diễn biến phức tạp, có chiều hướng tăng, tuy nhiên số lượng cán bộ,

Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát điều tra rất ít đặc biệt là ở các đơn vị

VKS thành phố Nam Định, huyện Giao Thủy. Công tác bố trí, sắp xếp, s

dụng cán bộ của một số đơn vị c n chưa hợp l . Đội ngũ ĐTV, KSV tại một

số huyện trên địa bàn tỉnh Nam Định đôi khi chưa quan tâm đúng mức đến

những vụ án liên quan đến ma túy (án có đối tượng nghiện phạm tội trộm cắp,

cướp, cướp giật tài sản, cố gây thương tích vv…), trình độ nghiệp vụ,

chuyên môn một số cán bộ còn hạn chế trong công tác kiểm sát điều tra dẫn

đến công tác đấu tranh, phòng chống nhiều khi chưa đáp ứng kịp thời với tình

hình thực tế diễn ra. KSV có lúc, có nơi chưa thực hiện tốt vai trò, trách

nhiệm kiểm sát điều tra như: chưa chủ động nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng

cứ; chưa thường xuyên tham gia các hoạt động điều tra, khám nghiệm hiện

trường, lấy lời khai trong trường hợp cần thiết, tham gia đối chất để chủ động

làm rõ các vấn đề của vụ việc, vụ án. Bên cạnh đó, việc phối hợp giữa các cơ

quan tố tụng trong giải quyết vụ việc, vụ án còn chậm, có vụ việc kéo dài thời

gian điều tra x lý vụ án. Đôi lúc c n lúng túng trong việc áp dụng pháp luật

đối với những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn.

Lãnh đạo VKS một số địa phương chưa chủ động phối hợp tốt với Thủ

trưởng CQĐT, tạo ra sự phối hợp chặt chẽ trong quan hệ tố tụng, để Kiểm sát

72

viên tiếp cận hồ sơ một cách thuận lợi ngay từ khi vụ án mới khởi tố, từ đó

chủ động phát hiện những vi phạm trong quá trình kiểm sát và có những ý

kiến định hướng điều tra đúng trọng tâm, dẫn đến thiếu sót, vi phạm tố tụng

phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Bên cạnh đó, quan hệ phối hợp của các cơ

quan tiến hành tố tụng, giữa ĐTV, KSV nhiều huyện có vụ chưa chặt chẽ,

việc đánh giá chứng cứ, tội danh, nhất là đối với những vụ án phức tạp để bổ

sung, khắc phục trước khi kết thúc điều tra chưa kịp thời

2.2.4.2. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, các quy định pháp luật liên quan đến công tác quản lý nhà

nước về ma túy chưa phù hợp với tốc độ phát triển của xã hội nên việc đấu

tranh, phòng ngừa nhiều khi chưa đạt hiệu quả. Một số các Thông tư liên tịch,

Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán không còn phù hợp với các quy định

pháp luật hiện hành. Đặc biệt từ khi Bộ luật hình sự s a đổi, bổ sung năm

2009 đã bỏ tội “S dụng trái phép chất ma túy” thì những đối tượng nghiện

nhiều khi s dụng ma túy không c n e dè như trước mà có chiều hướng s

dụng công khai. Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-

TANDTC-BTP ngày 24/7/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại

Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 ngày

24/12/2007 và Nghị Quyết số 02/2002 của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn về

các tội phạm về ma tu chưa thống nhất trong thuật ngữ “Góp mua” và “Nhờ

mua hộ” ma tu để s dụng nên một số vụ việc khi xác định tội danh và đối

tượng phạm tội tại địa bàn còn gặp nhiều khó khăn.

Thứ hai, các vụ án ma túy chủ yếu được khởi tố trên cơ sở kết quả của

các chuyên án trinh sát hoặc hoạt động trinh sát, không phải kết quả trực tiếp

từ việc giải quyết tố giác tin báo về tội phạm. Trong khi đó hoạt động trinh sát

không phải hoạt động tư pháp nên không thuộc đối tượng kiểm sát của

VKSND, do vậy công tác kiểm sát điều tra án ma túy thường bắt đầu muộn

73

hơn so với các loại tội phạm khác, chủ yếu bắt đầu kể từ khi CQĐT kết thúc

hoạt động trinh sát quyết định phá án, tiến hành bắt giữ các đối tượng tội

phạm theo trình tự, thủ tục do BLTTHS năm 2015 quy định, lúc này mới

thông báo cho VKS biết để tiến hành các hoạt động kiểm sát tiến hành phê

chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ. Tội

phạm ma túy với đặc điểm là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm; có mức độ ẩn

cao; thủ đoạn của nhóm tội phạm ma túy này cực kỳ tinh vi, xảo quyệt, tàn

nhẫn, do thu được siêu lợi nhuận nên chúng thường đầu tư nhiều công cụ,

phương tiện hiện đại nhằm che dấu hành vi phạm tội hoặc sẵn sàng dùng tiền

bạc để mua chuộc thao túng cán bộ có nhiệm vụ đấu tranh phòng chống ma

túy. Thực tiễn đấu tranh với tội phạm ma túy thấy tội phạm ma túy luôn tìm

cách, tận dụng mọi khả năng và điều kiện có thể che dấu tội phạm đến cùng.

Trong trường hợp sự việc phạm tội bị phát hiện thì tội phạm ma túy tận dụng

mọi khả năng điều kiện có thể để hòng thoát việc bị bắt giữ như bỏ chạy, mua

chuộc cán bộ thực thi nhiệm vụ. Điều này lý giải tại sao đối với những tội

phạm ma túy rất ít người dám tố giác, báo tin hoặc đứng ra làm chứng. Bởi

vậy, tội phạm về ma túy khó phát hiện theo cách thông thường mà phải thông

qua các chuyên án, hoạt động trinh sát. Điều này cũng dẫn đến việc tiếp cận

hồ sơ vụ án của VKSND các cấp tỉnh Nam Định gặp nhiều khó khăn.

Thứ ba, với tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định rất

phức tạp, khi bắt quả tang, bắt khẩn cấp đối tượng có hành vi tàng trữ, vận

chuyển ma túy gặp nhiều khó khăn trong công tác kiểm sát để phục vụ cho

việc phê chuẩn các quyết định, lệnh của cơ quan điều tra vì không thể xác

định ngay được hàm lượng chất ma túy để x lý hình sự hay x lý hành chính

cũng như việc phê chuẩn áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam.

Trong khi chỉ tiêu của ngành về các trường hợp mà VKS phê chuẩn thì phải

khởi tố 100%, nếu không phê chuẩn, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với tội

74

phạm về ma túy thì rất khó khăn trong công tác điều tra giải quyết. Thời gian

vừa qua, ở Nam Định xuất hiện nhiều vụ án về ma túy trong đó đối tượng vận

chuyển ma túy từ Lào, Campuchia sang Việt nam qua địa bàn tỉnh Thanh

Hóa, Sơn La trên xe ô tô khách di chuyển đến tỉnh Nam Định và được cất

giấu trong ghế xe ô tô. Khi bị lực lượng chức năng kiểm tra, phát hiện ma túy

nhưng các đối tượng này không thừa nhận số ma túy là của mình, không khai

nhận về hành vi phạm tội, gây khó khăn trong công tác điều tra giải quyết vụ

án. Hoặc khi kiểm tra, phát hiện ma túy được cất giấu trong phòng khách sạn

mà các đối tượng vừa thuê nhưng không thể khởi tố điều tra được vì đối

tượng thì không thừa nhận, các chứng cứ vật chứng khác như giám định dấu

vân tay, hay ADN trên các vật chứng thu giữ không có của đối tượng. Phương

thức thực hiện tội phạm ma túy ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tìm mọi cách để

che đậy hành vi phạm tội hoặc lợi dụng vào kẻ hở để lách luật trong khi pháp

luật hình sự về ma túy không lường hết trước được các chất và tiền chất ma

túy nên rất khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét x . Nhiều trường

hợp đã thoát được việc truy cứu trách nhiệm hình sự của cơ quan pháp luật vì

chất mà các đối tượng mua bán, s dụng không nằm trong danh mục các chất

ma túy và tiền chất ma túy bị cấm.

Thứ tư, trang bị vật chất, chế độ đối với những người làm công tác liên

quan đến tội phạm chưa đảm bảo, chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cũng

ảnh hưởng rất lớn đến việc đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn ma túy.

Đặc biệt là những dạng ma túy mới được ngụy trang ở những hàng hóa hoặc

dược liệu, việc quản lý trang thiết bị y tế chưa được xiết chặt dẫn đến các đối

tượng nghiện dễ dàng mua để s dụng như: bơm kim tiêm, nước cất, và các

công cụ tự chế để s dụng ma túy đá. Chưa có biện pháp hữu hiệu đề phát

hiện, giám định kịp thời.

75

Tiểu kết chƣơng 2

Tại chương 2, tác giả đã làm rõ quy định của pháp luật về kiểm sát điều

tra vụ án về ma túy. Theo đó, nội dung các quy định về kiểm sát điều tra các

vụ án về ma túy gồm: Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp

cưỡng chế; Kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can của CQĐT; Kiểm sát

việc hỏi cung của bị can; Kiểm sát việc đối chất; Kiểm sát việc nhận dạng,

nhận biết giọng nói; Kiểm sát việc khám x t, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật

đối với vụ án về ma túy; Kiểm sát việc thu giữ thư tín, điện tín đối với tội

phạm ma túy; Kiểm sát các hoạt động khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm

điều tra; Kiểm sát việc trưng cầu giám định vật chứng thu giữ; Kiểm sát việc

áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; Kiểm sát việc thời hạn điều tra vụ

án, gia hạn thời hạn tạm giam để điều tra; Kiểm sát đình chỉ và tạm đình chỉ

điều tra; Kiểm sát việc kết thúc điều tra của Cơ quan điều tra; Kiểm sát việc

tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; Kiểm sát việc lập hồ sơ

vụ án của Cơ quan điều tra; Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra.

Trong chương này, tác giả phân tích thực trạng công tác kiểm sát điều tra các

vụ án về ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định, những kết quả đạt được, những

khó khăn, hạn chế, nguyên nhân; làm cơ sở để đưa ra những giải pháp cụ thể

nâng cao chất lượng công tác kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy ở Chương

3 của Luận văn.

76

Chƣơng 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC

KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ MA TÚY

3.1. Dự báo những yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động kiểm sát điều

tra vụ án ma túy của VKSND tỉnh Nam Định

Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã s a đổi toàn diện về tổ chức và

hoạt động của VKSND nhằm thể chế Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu cải

cách tư pháp. Cơ cấu tổ chức của VKSND đã có những thay đổi. Các chức

danh tư pháp trong VKSND được chuẩn hóa, chức năng kiểm sát điều tra

được quy định cụ thể trong Luật. Cùng với đó, Luật tổ chức Cơ quan điều tra

được ban hành đã thay đổi cơ cấu của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao

một số nhiệm vụ điều tra, các chức danh tư pháp trong Cơ quan điều tra, cơ

quan được giao một số hoạt động điều tra được xác định cụ thể, rõ ràng.

Nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Qua đó, tạo cơ

sở pháp lý vững chắc đồng thời cũng đặt ra những yêu mới cho hoạt động

kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nói chung và kiểm sát điều tra các vụ án

về ma túy nói riêng.

Theo yêu cầu của các luật mới, các chức danh tư pháp phải được chuẩn

hóa về phẩm chất chính trị, trình độ đào tạo, thâm niên, kinh nghiệm công tác.

Đáp ứng yêu cầu này sẽ góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng công

tác kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy.

Tội phạm ma túy tại tỉnh Nam Định đang diễn biến rất phức tạp, có

xu hướng gia tăng, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ

quan chức năng, các cán bộ cần phải nâng cao về chất lượng. Tuy nhiên,

trước sự tác động của nhiều yếu tố tiêu cực cũng không tránh tình trạng

77

một số bộ phận cán bộ của cơ quan chức năng thoái hóa, biến chất, bao che

cho tội phạm. Đây chính là rào cản lớn trong hoạt động kiểm sát điều tra

các vụ án về ma túy.

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lƣợng kiểm sát điều tra vụ án hình

sự các tội phạm về ma túy của VKSND tỉnh Nam Định

3.2.1. Giải pháp về pháp luật (Bộ luật TTHS, BLHS, văn bản hướng

dẫn, quy định, quy chế, quy chế phối hợp)

Bộ luật hình sự năm 2015 s a đổi bổ sung năm 2017 và BLTTHS năm

2015 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 theo Nghị quyết số 59

41/2017/QH14. Để hai bộ luật này đi vào hoạt động có hiệu quả, trước hết cần

trú trọng vào các hoạt động như: Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, công tác

kiểm sát điều tra các vụ án ma túy cho thấy các tình huống pháp luật trong

thực tế luôn đa dạng phong phú hơn các quy định của pháp luật. Trong khi đó

các quy định pháp luật hình sự, tố tụng hình sự thường được xây dựng mang

tính khái quát cao, nên thường thiếu cụ thể, khó nhận thức thống nhất khi áp

dụng trực tiếp vào thực tiễn. Do đó, công tác giải thích, hướng dẫn pháp luật

đóng một vai trò rất quan trọng, là một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo

chất lượng, hiệu quả thi hành pháp luật.

Đối với các cơ quan tư pháp Trung ương cần nghiên cứu tổng rà soát

lại các quy phạm pháp luật cần hướng dẫn nhưng chưa được hướng dẫn, các

quy phạm pháp luật đã được hướng dẫn nhưng chưa đầy đủ, có thiếu sót, chưa

phù hợp thực tiễn. Cụ thể là:

Thứ nhất, trong trường hợp CQĐT ra Quyết định tạm giữ, sau đó có

căn cứ thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giữ sang cấm đi khỏi nơi cư trú.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 117 và khoản 2 Điều 125 BLTTHS thì Quyết

định tạm giữ do CQĐT ban hành và nếu không có Quyết định hủy bỏ của

VKS thì đương nhiên có hiệu lực pháp luật (VKS không phê chuẩn Quyết

78

định tạm giữ) nên việc thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong trường hợp

này do CQĐT quyết định. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều

165 BLTTHS năm 2015, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều

tra, VKS có nhiệm vụ, quyền hạn: Hủy bỏ các quyết định tố tụng không có

căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra. Như vậy, BLTTHS năm 2015

và Thông tư liên tịch số 04/2018 cần quy định rõ cơ chế phối hợp giữa CQĐT

và VKS để VKS thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình khi kiểm sát

tính có căn cứ, tính hợp pháp của quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn

tạm giữ của CQĐT trong trường hợp này. Trên thực tế, qua việc thực hiện

chức năng kiểm sát tạm giữ, VKS có thể biết được CQĐT đã ra Quyết định

thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tuy nhiên, nếu không có sự phối hợp

tốt thì không kiểm sát ngay được các tài liệu, căn cứ để CQĐT ban hành

quyết định đó. Vì vậy, đề xuất cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành hướng dẫn

quy định rõ: CQĐT phải có văn bản thống nhất quan điểm thay thế biện pháp

ngăn chặn tạm giữ với VKS trước khi ban hành, quy định cụ thể thời hạn g i

Quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tài liệu s dụng làm căn cứ

thay thế biện pháp ngăn chặn đến VKS. Trường hợp phát hiện thấy việc thay

thế biện pháp ngăn chặn tạm giữ của Cơ quan điều tra không có căn cứ, trái

pháp luật, VKS có quyền hủy bỏ Quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn của

CQĐT và yêu cầu CQĐT tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ.

Thứ hai, Điều 197 BLTTHS năm 2015 quy định về trình tự, thủ tục thi

hành Lệnh thu giữ thư tín, điện tín tại các tổ chức viễn thông, đồng thời Nghị

định số 49/2017 ngày 24/4/2017 của Chính phủ đã quy định quản lý chặt chẽ

hơn thông tin cá nhân của các thuê bao điện thoại di động nên đã tạo cơ sở

pháp luật đồng bộ, hiệu quả để đấu tranh với các loại tội phạm s dụng điện

thoại di động vào mục đích thực hiện tội phạm, nhất là các tội phạm về ma

túy. Tuy nhiên, các quy định của BLTTHS c n chưa cụ thể, chưa quy định rõ

79

thời hạn trả lời, cung cấp thông tin, trách nhiệm của tổ chức viễn thông trong

việc trả lời, cung cấp thông tin, chế tài áp dụng đối với các tổ chức viễn thông

trong trường hợp chậm cung cấp hoặc không cung cấp thông tin khi nhận

được Lệnh thu giữ thư tín, điện tín của CQĐT và Quyết định phê chuẩn của

VKS. Từ đó dẫn đến khó khăn trong việc điều tra, mở rộng án, việc giải quyết

vụ án bị kéo dài và không triệt để. Thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng đã ban

hành các công văn yêu cầu đối với tổ chức viễn thông, tuy nhiên không phải

trường hợp nào cũng có kết quả. Vì vậy, khi hết thời hạn điều tra, CQĐT buộc

phải kết luận điều tra và tách nội dung này ra chờ kết quả để làm rõ, x lý sau,

mặc dù vậy, đây chỉ là biện pháp “tình thế”. Đề xuất thời gian tới cần có hướng

dẫn cụ thể về thời hạn trả lời, cung cấp thông tin, trách nhiệm trả lời, cung cấp

thông tin và chế tài x l đối với các tổ chức viễn thông có vi phạm nêu trên.

Thứ ba, đối với hành vi mua bán ma túy giả theo quy định tại Khoản 2

Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-

BTP thì “Trường hợp một người biết là chất ma túy giả nhưng làm cho người

khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi thì người đó không bị truy

cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm ma túy mà bị truy cứu trách nhiệm hình

sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 BLHS, nếu thỏa mãn các

dấu hiệu khác nữa trong cấu thành tội phạm này”. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch

nêu trên đã hết hiệu lực từ ngày 01/01/2018, chưa có văn bản khác thay thế. Vì

vậy đề xuất các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể vấn đề này. [06, tr.5]

Thứ tư, đối với hành vi tổ chức s dụng trái phép chất ma túy và chứa

chấp việc s dụng trái phép chất ma túy của người nghiện ma túy, Thông tư

liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP quy định liên

quan đến người nghiện ma túy hiện này không còn phù hợp với quy định tại

Điều 255 và Điều 256 BLHS năm 2015 vì chủ thể của tội tổ chức s dụng trái

phép chất ma túy và tội chứa chấp s dụng trái phép chất ma túy theo quy định

80

của BLHS năm 2015 là bất kỳ người nào, không loại trừ người nghiện ma túy;

mặt khác tội s dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 199 BLHS năm

1999 đã bị bãi bỏ theo quy định tại khoản 36 Điều 1 Luật s a đổi, bổ sung một

số điều BLHS năm 1999 ban hành năm 2009, BLHS năm 2015 cũng không quy

định tội danh này. Vì vậy, đề xuất cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đến này.

Thứ năm, Điều 34, Thông tư liên tịch số 04/2018 quy định ĐTV có thể

chuyển, giao nhận biên bản, tài liệu cho VKS (trong trường hợp theo quy định

tại khoản 5 Điều 88 BLTTHS năm 2015) bằng hình thức Fax, không thuộc

các trường hợp chuyển, giao, g i văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 137

BLTTHS năm 2015 vậy có sự mâu thuẫn không? VKS có thể căn cứ vào nội

dung các tài liệu (bản Fax) để đề ra các yêu cầu, quyết định tố tụng không? Vì

vậy, đề xuất cần quy định rõ việc chuyển giao bằng hình thức Fax chỉ để cung

cấp thông tin, đảm bảo tính kịp thời, còn việc chuyển giao tài liệu làm căn cứ

ban hành các Quyết định tố tụng phải trên cơ sở các tài liệu chính được

chuyển giao theo các hình thức Bộ luật tố tụng hình sự quy định.

Đối với cơ quan chức năng tại tỉnh Nam Định (Cơ quan điều tra, Bộ đội

biên ph ng, Viện kiểm sát…) cần ban hành các quy chế phối hợp trong công

tác khởi tố, điều tra. Việc ban hành Quy chế cũng sẽ là cơ sở để các ngành

khắc phục những hạn chế, vướng mắc, nâng cao hiệu quả, đảm bảo việc truy

tố, x t x đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời, không

bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tạo điều kiện để cùng hoàn

thành nhiệm vụ, đáp ứng được thực tiễn công tác, khó khăn vướng mắc trong

thực hiện BLHS, BLTTHS.

3.2.2. Giải pháp về tổ chức bộ máy cán bộ

Trong thời gian tới, khi triển khai thực hiện các quy định mới của BLHS

năm 2015 thì nhiệm vụ của VKSND tăng lên, khối lượng công việc ngày càng

nhiều. Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày

81

càng nghiêm trọng. Trong khi đó đ i hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ

quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp nhất là VKSND phải thật sự

là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời

phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu

tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối

với mỗi KSV hai cấp tỉnh Nam Định phải chủ động hơn, trách nhiệm hơn, bản

lĩnh hơn; công tác tổ chức cán bộ đ i hỏi phải đổi mới để bảo đảm hiệu quả

hơn, sáng tạo hơn, đáp ứng đầy đủ yêu cầu giải quyết các vụ án hình sự trong

tình hình mới. Đây chính là đ i hỏi tất yếu khách quan về tổ chức, bộ máy, về

con người phải thật sự tinh gọn, hiệu quả. Các đầu mối cấp phòng của VKSND

tỉnh và VKSND cấp huyện, các khâu công tác và đội ngũ cán bộ, công chức

trong VKSND tỉnh Nam Định phải được rà soát đầy đủ để bố trí, sắp xếp, s

dụng, điều động, chuyển đổi vị trí công tác phù hợp với năng lực, kinh nghiệm

công tác nhằm phát huy khả năng của từng công chức, viên chức; đồng thời tạo

sự chuyển biến rõ rệt, mạnh mẽ về hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ KSV,

KTV, công chức, viên chức trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

trong hình mới. Có như vậy mới tăng cường chất lượng, hiệu quả, đáp ứng

được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tổ chức bộ máy, cán bộ ở VKSND cấp huyện, thành phố tại tỉnh Nam

Định phải đổi mới theo hướng VKSND tỉnh Nam Định tập trung làm tốt công

tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổng kết, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, với nhiều

chuyên gia giỏi trong nhiều lĩnh vực; VKS cấp huyện, thành phố tổ chức thực

hiện có hiệu quả, tập trung đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng thực hành

quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra các vụ án về ma túy, đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Xác định lại cơ cấu biên chế, cơ cấu

KSV ở VKS các cấp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Công tác cán bộ phải

có chiến lược, kế hoạch đúng đắn, hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu công tác hiện

82

tại và lâu dài, phù hợp yêu cầu, mục tiêu về chiến lược cán bộ theo tinh thần

Nghị quyết của Đảng về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính

trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đưa ra các chính sách cán bộ phù

hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp; đồng thời bảo đảm thu hút những

người có tâm huyết, có tài, có đức vào ngành Kiểm sát nhân dân.

Do số lượng, khối lượng công việc trong thời gian tới tăng lên nhiều,

yêu cầu về chất lượng ngày càng cao. Điều này đ i hỏi Viện trưởng VKS hai

cấp phải tổ chức rà soát, đánh giá lại đội ngũ cán bộ, KSV để sắp xếp, điều

động, bố trí cán bộ, VKS theo hướng tập trung cho lĩnh vực công tác thực

hành quyền công tố, kiểm sát án hình sự, bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất

lượng chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, quyền hạn mới

theo quy định của luật. Ngoài ra, Viện trưởng VKS tỉnh Nam Định cũng cần

chủ động dựa trên yêu cầu công tác của đơn vị để tham mưu, đề xuất với cấp

trên trong việc điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ, KSV ở VKS cấp

huyện đến công tác tại các VKSND trong địa bàn tỉnh bảo đảm hợp l , đáp

ứng yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ.

3.2.3. Giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng

Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, ĐTV, KSV, KTV là rất cần

thiết. Trong những năm qua, Ban cán sự Đảng, lãnh đạo VKSND tỉnh Nam

Định luôn quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm xây dựng

đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên ngày càng “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp

vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.

Tuy nhiên công tác kiểm sát điều tra vụ án về ma túy vẫn chưa đạt được hiệu

quả nhất định. Do đó, hàng năm, VKSND tỉnh cần bám sát kế hoạch đào tạo,

bồi dưỡng của VKSND tối cao, Tỉnh ủy Nam Định để xây dựng kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị.

Xây dựng kế hoạch đào tạo, xây dựng đội ngũ các bộ kế cận, không để

83

xảy ra trường hợp thiếu cán bộ giỏi. Đảm bảo trong đơn vị luôn đan xen đội

ngũ cán bộ của ba thế hệ (mỗi thế hệ cách nhau 10 năm), để cán bộ lâu năm,

nhiều kinh nghiệm có thể dìu dắt và truyền đạt những kiến thức thực tiễn cho

lớp kế cận. Bởi các vụ án ma túy thường là những vụ án phức tạp, đông bị

can, bị can thường là những đối tượng lưu manh chuyên nghiệp, nhiều tiền án

tiền sự, lì lợm và xảo quyệt, nếu cán bộ không có kiến thức nghiệp vụ, không

có kinh nghiệm, bản lĩnh nghề nghiệp, phương pháp thì rất khó khăn trong

việc đấu tranh, giải quyết vụ án. [24, tr.77]

Việc đào tạo có thể bằng nhiều hình thức như: đào tạo tập trung các lớp

học, tổ chức tập huấn công tác nghiệp vụ, ra các văn bản rút kinh nghiệm,

thông qua các cuộc thi, đơn vị tự tổ chức học tập, nghiên cứu… Việc đào tạo

và bồi dưỡng nghiệp vụ ở CQĐT, VKS các cấp phải đổi mới cả về mặt nội

dung và phương pháp; phải đào tạo theo các chuyên đề mà nhu cầu thực tế đ i

hỏi đối với từng khâu công tác, tránh tình trạng đào tạo thiếu lựa chọn gây tốn

k m, mà người học thiếu tích cực tham gia. Trong giai đoạn hiện nay, triển

khai thực hiện các đạo luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự, đ i hỏi VKS các

cấp tỉnh Nam Định cần thường xuyên tổ chức quán triệt, tập huấn chuyên sâu

cho cán bộ, ĐTV, KSV, KTV về những nội dung mới của BLHS và các quy

định của pháp luật có liên quan. Mỗi cán bộ, ĐTV, KSV, KTV phải có sự

chuyển biến, đổi mới nhận thức, chủ động nghiên cứu, nắm vững các quy

định mới của pháp luật, nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, tích lũy

kinh nghiệm thực tiễn, nắm bắt các kiến thức chuyên ngành, kiến thức xã hội

để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và

yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật.

Ngoài ra, các cán bộ, KSV, KTV cần phải tự rèn luyện mình để nâng

cao nhận thức, bản lĩnh chính trị. Phải luôn nắm vững các chủ trương, Nghị

quyết của Đảng trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm, quán triệt

84

đầy đủ những chủ trương của cấp uỷ Đảng, của các đơn vị để hướng hoạt

động buộc tội vào phục vụ nhiệm vụ chính trị của các đơn vị, cũng như ở địa

phương. Rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị sẽ giúp cho cán bộ, KSV,

KTV thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ, trách nhiệm theo luật định, giải quyết

công việc có tình, có l được nhân dân đồng tình ủng hộ.

Trước khó khăn, gian khó, người cán bộ, KSV, KTV không dao động,

nao núng mà phải vững vàng vượt qua cám dỗ vật chất để hoàn thành nhiệm vụ;

kiên quyết đấu tranh bảo vệ lẽ phải. Để làm được việc đó, trước hết cán bộ,

KSV, KTV phải là người gương mẫu tuân thủ pháp luật, không tiêu cực, không

vi phạm pháp luật, kỷ luật nghiệp vụ của Ngành; phải nêu cao tinh thần trách

nhiệm, kiên trì thuyết phục bảo vệ những quan điểm có căn cứ của mình trước

những vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó,

mỗi VKS các cấp cần có biện pháp khuyến khích cán bộ, KSV, KTV trong cơ

quan mình tự giác học tập nghiên cứu, cần đưa việc tự giác học tập vào kế hoạch

công tác năm và coi đó là chỉ tiêu thi đua của cá nhân và của tập thể cơ quan.

Đồng thời, lãnh đạo Viện thường xuyên c cán bộ để đào tạo tại các

khóa học chuyên sâu về điều tra, các khóa học về kiểm sát điều tra tại các

trường đại học, học viện (trọng tâm là KSV, KTV mới được bổ nhiệm, cán bộ

trẻ mới được tuyển dụng) thực hiện việc tự xây dựng và báo cáo chuyên đề.

Qua đó, giúp cho mỗi cán bộ, KSV nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về những

quy định mới của Luật, nâng cao ý thức chủ động tự nghiên cứu, học tập, kỹ

năng trình bày, thuyết trình của đội ngũ cán bộ trẻ, góp phần đáp ứng yêu cầu

thực hiện nhiệm vụ trong tình hình mới

3.2.4. Giải pháp về quản lý chỉ đạo điều hành và tăng cường trách

nhiệm của Kiểm sát viên

Đối với lực lượng Công an tỉnh Nam Định, Lãnh đạo Công an tỉnh cần

chỉ đạo các đơn vị cấp dưới tập trung, bắt giữ các ổ nhóm hoặc đối tượng mua

bán ma túy, tránh việc bắt các đối tượng nghiện ma túy về s dụng để hoàn

85

thành chỉ tiêu. Khi có thông tin về tội phạm ma túy cần báo ngay cho Viện

kiểm sát cùng cấp để VKS tiến hành kiểm sát.

Đối với các đơn vị thuộc VKS tỉnh Nam Định, trên cơ sở năng lực,

trình độ và sở trường của từng cán bộ trong đơn vị, Lãnh đạo đơn vị lựa chọn

những Kiểm sát viên có năng lực, trình độ để phân công thụ lý những vụ án

phức tạp, những vụ án có phương thực, thủ đoạn phạm tội mới. Tránh trường

hợp phân công vụ án phức tạp cho các đồng chí cán bộ chưa có kinh nghiệm,

dẫn đến tình trạng vượt quá khả năng giải quyết của đồng chí cán bộ đó. Hậu

quả của việc phân công không đúng năng lực, sở trường sẽ là khả năng dẫn

đến việc oan sai; không định hướng được hướng điều tra; cách thức kiểm sát

hồ sơ vụ án; hồ sơ phải trả đi trả lại, gây mất nhiều thời gian công sức của cơ

quan nhà nước và thậm trí gây khó khăn, vất vả cho đồng chí cán bộ thụ lý vụ

án đó. Định kỳ 01 tháng/2 lần yêu cầu các bộ thụ lý báo cáo tiến độ điều tra, tiến

độ thu thập chứng cứ giải quyết vụ án để nắm bắt diễn biến vụ án và kịp thời

tháo dỡ những khó khăn, vướng mắc khi phát sinh. Qua công tác chỉ đạo, điều

hành, chú trọng việc lựa chọn những các bộ vừa có năng lực, trình độ, có tâm

huyết với nghề, với ngành và có đạo đức cao để đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây

dựng đội ngũ kế cận vừa có đạo đức vừa có chuyên môn nghiệp vụ. [24, tr.79]

Bên cạnh đó, VKS tỉnh tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng

dẫn nghiệp vụ đối với cấp huyện: Chỉ đạo KSV cấp huyện khi được phân

công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết án ma túy phải xây

dựng các báo cáo đề xuất từ khi phê chuẩn khởi tố bị can đến khi kết thúc

điều tra nên thông báo cho Phòng nghiệp vụ để nghiên cứu, hướng dẫn, qua

đó đã giúp cho VKS cấp huyện hạn chế được những thiếu sót, vi phạm. Các

Phòng thuộc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tăng cường trả lời thỉnh thị và án

trao đổi, ban hành các văn bản hướng dẫn, Thông báo rút kinh nghiệm về

nghiệp vụ đối với VKSND cấp huyện.

86

Trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát điều tra các vụ án ma túy

tại Nam Định, VKSND hai cấp xác định công tác kiểm sát không chỉ có mục

đích duy nhất là đấu tranh với tội phạm, mà c n có nhiệm vụ thông qua công

tác kiểm sát điều tra phát hiện các nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội

phạm ma túy và tệ nạn xã hội, vì vậy VKSND hai cấp cần đẩy mạnh việc

nghiên cứu để có những báo cáo chuyên đề, tham luận đưa ra những giải

pháp, kiến nghị về những nguyên nhân phát sinh tội phạm, tệ nạn về ma túy

và những biện pháp đấu tranh ph ng ngừa, đặc biệt là tình hình tệ nạn mua

bán và s dụng ma túy tổng hợp trong tầng lớp thanh thiếu niên hiện nay, qua

đó lãnh đạo Viện các cấp tham gia Ban chỉ đạo ph ng chống tệ nạn xã hội sẽ

tham mưu cho cấp ủy địa phương các biện pháp để hạn chế, từng bước đẩy lùi

tội phạm và tệ nạn này

Đối với KSV, để hình thành kỹ năng kiểm sát điều tra các vụ án hình

sự nói chung và những vụ án ma túy nói riêng, đ i hỏi KSV phải kiên trì rèn

luyện một cách khoa học, nghiêm túc. KSV hai cấp tỉnh Nam Định cần

không ngừng cập nhật, nâng cao các loại kiến thức để phục vụ cho việc thực

hiện chức năng kiểm sát điều tra, bao gồm kiến thức nghề, kiến thức ngoài

nghề. Kiến thức nghề là sự hiểu biết về pháp luật, làm cơ sở cho việc thực

hiện kiểm sát điều tra. Kiến thức ngoài nghề là sự hiểu biết về các khoa học

xã hội khác, như tội phạm học; khoa học về chứng cứ, về dấu vết; logic; tâm

l ; xã hội học... Thường xuyên tự đánh giá, rút kinh nghiệm công tác. Đây là

cách duy nhất hình thành kỹ năng, bởi vì kỹ năng chỉ có được thông qua lao

động trực tiếp. [22, Tr.9].

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đ i hỏi KSV phải thực sự chăm

chỉ, làm việc với tâm trong sáng, nhìn nhận, đánh giá sự việc một cách khách

quan, chính xác và công bằng. Trước một hành vi phạm tội, KSV cần phải

xem x t, đánh giá một cách tỉ mỉ, khách quan và toàn diện, không thiên vị;

87

luôn luôn bảo đảm nguyên tắc: mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật;

Quyết tâm bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công l . Khi xem x t một sự việc cần phải

xem x t một cách toàn diện, tôn trọng sự thật, không được vội vã kết luận và

suy đoán chủ quan. Tất cả phải được thể hiện qua chứng cứ cụ thể, rõ ràng,

tuyệt đối không thành kiến, áp đặt chí chủ quan. Thận trọng suy x t, cẩn

thận trong hành động để tránh sai sót, thể hiện thức trách nhiệm cao trong

công việc và dám chịu trách nhiệm trước pháp luật về công việc đảm nhiệm.

KSV phải luôn luôn thể hiện được hình ảnh là người đại diện cho sự

công bằng, đại diện cho chính nghĩa, lẽ phải, có phẩm chất đạo đức và đặc

biệt phải có đủ năng lực để hoàn thành công việc chuyên môn được giao, đáp

ứng được tiêu chí: vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp

luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm.

KSV tập trung phát hiện x lý nghiêm khắc đối với các hành vi mua,

bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Trong cơ cấu án ma túy trên địa bàn tỉnh

Nam Định, cụ thể:

Sau khi vụ án được khởi tố, VKS phải kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ

và hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án đó. Khi kiểm sát và giải quyết các

tranh chấp về thẩm quyền điều tra thì thực tế cho thấy vẫn c n tình trạng

nhiều vụ án CQĐT cấp quận, huyện phát hiện, ngay từ đầu đã xác định vụ án

thuộc thẩm quyền điều tra x l của CQĐT cấp trên hoặc CQĐT quân đội

nhưng sau khi tiến hành các bước điều tra ban đầu CQĐT không đề nghị VKS

cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án ngay (VKS cũng không quan tâm đôn

đốc) dẫn đến việc tranh chấp thẩm quyền hoặc khi hồ sơ chuyển đến CQĐT

có thẩm quyền thì thời hạn không c n nhiều, các dấu vết nóng của tội phạm

không được tập trung khai thác để củng cố chứng cứ mở rộng án…Vì vậy đây

là nội dung cần quan tâm ngay từ khi kiểm sát khởi tố vụ án, nếu xác định vụ

án không thuộc thẩm quyền của cấp mình thì kịp thời yêu cầu CQĐT tiến

88

hành các thủ tục để chuyển vụ án hoặc những vụ án có tranh chấp về thẩm

quyền điều tra thì báo cáo kịp thời lên VKS cấp trên để giải quyết, đặc biệt

chú những vụ ma túy mà đơn vị Hải quan, Đồn biên ph ng phát hiện ban

đầu thì phải tăng cường bám sát, yêu cầu cho cán bộ điều tra làm thủ tục theo

tố tụng để chuyển vụ án vì các đơn vị này ít khi phát hiện và chưa biết nhiều

về thủ tục tố tụng.

Quá trình kiểm sát hoạt động điều tra cụ thể vụ án ma túy, KSV cần

khắc phục ngay tình trạng thụ động ngồi chờ hồ sơ vụ án, chỉ KSĐT trên hồ

sơ vụ án khi CQĐT kết thúc hồ sơ chuyển sang mà không bám sát vào quá

trình điều tra, n tránh việc tác động tích cực vào hoạt động điều tra; Cần kịp

thời nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án để tác động với

CQĐT định hướng điều tra và giải quyết các tình huống xảy ra theo quy định

của pháp luật, hạn chế được tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung; phương

pháp KSĐT có hai cách thường xuyên phải đi liền với nhau, một là nghiên

cứu tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do CQĐT thu thập để phát hiện đánh

giá các hành vi phạm tội của người phạm tội và phát hiện đúng, sai của

CQĐT; hai là trực tiếp tham gia một số hoạt động tố tụng điều tra chủ yếu của

CQĐT như hỏi cung bị can và trực tiếp tiến hành một số hoạt động nghiệp vụ

để thu nhập tài liệu chứng cứ, để kiểm tra độ tin cậy của các tài liệu, chứng cứ

do CQĐT đã thu thập và phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật trong

quá trình điều tra.

Một thực tế hiện nay có những vụ án ma túy không phải trường hợp bắt

quả tang hay khẩn cấp, CQĐT thường hay câu lưu đối tượng tại trụ sở mà

không có lệnh tạm giữ để thu thập chứng cứ khởi tố, bắt tạm giam, nếu đối

tượng bị nguy hiểm đến tính mạng sẽ gây hậu quả rất lớn…Vì vậy trong quá

trình KSĐT, nếu phát hiện các thiếu sót vi phạm của việc áp dụng các biện

pháp điều tra, các biện pháp ngăn chặn thì VKSND các cấp phải kiến nghị

89

CQĐT để khắc phục, s a chữa vi phạm chẳng hạn như những trường hợp để

quá hạn tạm giữ, tạm giam hoặc giam, giữ người trái pháp luật của CQĐT

như nêu trên. VKS cần tăng cường kiểm sát để nắm được tình hình diễn biến

ở nơi giam, giữ không có lệnh hoặc vi phạm trong việc giam giữ dẫn đến tình

trạng các bị can thông cung để yêu cầu x l , khắc phục.

Một vấn đề cần phải chú trọng để nâng cao chất lượng KSĐT đó là việc

đánh giá chứng cứ. Hiện nay chủ yếu những vụ án mua bán trái ph p chất ma

túy bị phát hiện do bắt quả tang, có vật chứng rõ ràng nên việc đánh giá

chứng cứ, tội danh có phần dễ dàng hơn, điều này cho thấy công tác điều tra

khám phá các đường dây ma túy hoặc mở rộng vụ án gặp nhiều khó khăn mà

một phần nguyên nhân là do không thể có đầy đủ chứng cứ buộc tội. Việc thu

thập, đánh giá chứng cứ bao giờ cũng khó khăn phức tạp trong các loại án

truy x t ma túy, chứng cứ chủ yếu là lời khai, không thu được vật chứng, hoạt

động của bọn tội phạm rất bí mật, tinh vi, xảo quyệt và ngoan cố. Vì vậy khi

có các lời khai cụ thể và khách quan của các bị can khác, cùng các chứng cứ

gián tiếp khác như mối quan hệ qua list điện thoại, thời gian các cuộc gọi, sơ

đồ nơi cất giấu, các tờ giấy k hiệu việc thanh toán, nhận dạng qua ảnh… thì

KSV phải bằng kinh nghiệm của mình phối hợp với ĐTV s dụng làm căn cứ

đấu tranh với đối tượng hoặc trực tiếp thực hiện các biện pháp điều tra, tìm ra

những mâu thuẫn, bất hợp l để phủ định lời khai nại của đối tượng, sau đó

đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện để có đủ căn cứ buộc tội.

3.2.5. Giải pháp về quan hệ phối hợp

Để tiếp tục phối hợp tốt với các cơ quan bảo vệ pháp luật và các ngành

chức năng khác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong thời gian tới,

VKS các cấp tỉnh Nam Định cần tiếp tục nâng cao nhận thức, thường xuyên

quán triệt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về

đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như các văn bản chỉ đạo, hướng đẫn

90

của VKSNDTC để tổ chức triển khai thực hiện tại địa phương mình, cần nắm

vững chức năng, nhiệm vụ của ngành theo quy định của Hiến pháp và pháp

luật, thực hiện nghiêm chỉnh các quy chế của ngành; cần đề ra các giải pháp,

phương hướng nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thực hành quyền

công tố, kiểm sát điều tra như: Chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng

trong công tác điều tra loại tội phạm về ma túy nhằm đấy nhanh tiến độ giải

quyết án, bảo đảm chất lượng điều tra, truy tố, xét x . Lựa chọn, bố trí, phân

công KSV có kinh nghiệm, trình độ để thực hành quyền công tố, kiểm sát

điều tra các vụ án; tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm sát việc khởi tố vụ án,

khởi tố bị can, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, kiểm sát việc lấy lời

khai, hỏi cung bị can và các hoạt động tố tụng khác... nhằm bảo đảm việc x

l đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; thông qua các vụ án đã được giải

quyết cần nghiên cứu, làm rõ những sơ hở, thiếu sót đã và đang là những

nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm để tổng hợp, kiến nghị s a chữa,

khắc phục và x l người có vi phạm. [15, tr.78]

Bên cạnh đó, KSV phải thường xuyên theo dõi, nắm chắc tiến độ điều

tra, nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ do ĐTV thu thập, kịp thời đề ra yêu

cầu điều tra, chủ động phối hợp với ĐTV để điều tra làm rõ những vấn đề cần

chứng minh trong vụ án, kịp thời bàn bạc tháo gỡ những khó khăn, vướng

mắc nảy sinh. Định kì 01 tháng, VKS cần chủ trì, tổ chức họp liên ngành với

các cơ quan này để thống nhất, đánh giá kết quả giải quyết, qua đó thống nhất,

tìm ra các giải pháp giải quyết các vướng mắc, vi phạm trong quá trình giải

quyết vụ án về ma túy.

Nói đến cơ chế phối hợp, trước hết phải nói đến việc xây dựng Quy chế

phối hợp giữa các cơ quan tố tụng, bởi đây sẽ là văn bản có tính chất ràng

buộc các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ trong quá

trình giải quyết các vụ án hình sự, từ đó loại trừ dần quan niệm “quyền anh,

91

quyền tôi” trong công việc nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án

hình sự nói chung và vụ án ma túy nói riêng. Hiện nay, liên ngành tư pháp

trung ương đã có nhiều văn bản pháp l hướng dẫn việc áp dụng quy định tố

tụng hình sự, trong đó có quy định thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan

tố tụng hình sự khi hoạt động các hoạt động cụ thể như Thông tư 01/2017 quy

định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một

số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố...Xác định tính chất quan trọng của việc xây

dựng quy chế phối hợp giữa các ngành tư pháp trong việc giải quyết các vụ án

về tội phạm ma túy, VKSND tỉnh Nam Định cần phối hợp với các cơ quan

chức năng thực hiện đúng quy chế phối hợp.

3.2.6. Giải pháp về điều kiện bảo đảm

BLHS năm 2015 có nhiều điểm s a đổi, bổ sung nhất là các tội phạm

về ma túy. Do đó, để ngành Kiểm sát nói chung và VKSND tỉnh Nam Định

đấu tranh có hiệu quả đối với loại tội phạm này trong tình hình mới, thì cùng

với việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, cần phải bảo đảm cho VKS đủ cơ

sở vật chất và các trang thiết bị, kỹ thuật cần thiết phục vụ hoạt động tố tụng,

nhất là trong tình hình hiện nay với điều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa

học kỹ thuật và công nghệ, theo đó bảo đảm cho VKS đủ phòng làm việc,

phòng hỏi cung, nhà tạm giữ, tạm giam và các trang bị kỹ thuật (phương tiện

giao thông, liên lạc, máy vi tính, các thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác điều

tra, x lý tội phạm...), trang bị đủ các văn bản pháp luật hình sự, pháp luật dân

sự và các văn bản pháp luật có liên quan cho VKS các cấp. Tập trung kinh phí

và xác định trọng điểm đầu tư xây dựng mới hoặc s a chữa, cải tạo, mở rộng

trụ sở làm việc cho các VKS cấp huyện, bảo đảm đáp ứng yêu cầu hoạt động

trong tình hình mới.

Bên cạnh đó, VKS phải có khoản kinh phí độc lập với tổng mức kinh phí

khoán chi hằng năm, có mức đáng kể, đủ để trả chi phí cho các hoạt động tố tụng

92

như kinh phí tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm t thi, trả cho

người bào chữa trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa, kinh phí

phục vụ hoạt động giám định tư pháp… Đây là điều kiện bảo đảm thực hiện tốt

hoạt động tố tụng, tránh những hiện tượng "đùn đẩy" trách nhiệm giữa VKS với

với CQĐT, trả hồ sơ cho CQĐT để thực hiện các hoạt động tố tụng phải chi trả

kinh phí như việc trưng cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung.

Tiếp tục đổi mới, cải cách chính sách tiền lương và các chế độ đãi ngộ

khác thoả đáng, phù hợp với đặc thù nghề nghiệp của VKS là một yêu cầu cấp

thiết và cũng một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả thực

hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự. Kịp thời khen thưởng

đối với các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác và tuyên

dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước.

93

Tiểu kết chƣơng 3

Từ kết quả phân tích thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra tội phạm về

ma túy gắn với thực trạng hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

VKSND tỉnh Nam Định, tác giả luận văn đã đưa ra các giải pháp cụ thể để

nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy. Các nhóm giải

pháp trên được quan tâm chỉ đạo thực hiện sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy, đặc biệt là những vụ án ma túy

lớn, phức tạp.

94

KẾT LUẬN

Hiến pháp 2013 đã quy định VKSND thực hiện hai chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Vì vậy, cùng với việc thực

hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố, VKS còn phải thực hiện tốt chức

năng kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm cho hoạt động tư pháp

được tiến hành đúng các quy định của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp

của Nhà nước, của công dân được bảo đảm một cách tốt nhất, không bị vi

phạm. VKS làm tốt công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp cũng nhằm bảo

đảm cho việc điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ trong các vụ án hình sự

được đúng pháp luật, khách quan và toàn diện.

Nhằm góp phần đấu tranh có hiệu quả với tội phạm ma túy đang có

những diễn biến phức tạp nêu trên, đồng thời, tiếp tục quán triệt và thực hiện

nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về cải cách tư

pháp, trong đó chú trọng việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động

điều tra, gắn công tố với điều tra cho đội ngũ cán bộ, KSV hai cấp tỉnh Nam

Định làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án ma túy cần

thực hiện tốt công tác kiểm sát điều tra, trong đó cần thực hiện đồng bộ các

giải pháp như:

Thứ nhất, phải nâng cao trách nhiệm của KSV trong việc kiểm sát điều

tra thu thập chứng cứ, tài liệu; nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án; không ngừng nâng

cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra

của Kiểm sát viên các cấp. Kiểm sát viên làm nhiệm vụ thực hành quyền công

tố, kiểm sát điều tra phải thường xuyên nghiên cứu, học tập để nắm vững các

quy định của pháp luật, nhất là pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, luật có

liên quan, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật về ma túy; nắm vững các

quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội

95

phạm ma túy. Vì đó chính là những cơ sở quan trọng đầu tiên để có thể thực

hiện công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra có chất lượng tốt.

Đảm bảo mỗi KSV có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông về nghiệp vụ

và có phẩm chất, đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh.

Thứ hai, cần hoàn thiện hơn nữa các chương trình đào tạo bồi dưỡng

nghiệp vụ kiểm sát đối với các KSV làm công tác thực hành quyền công tố và

kiểm sát điều tra các vụ án hình sự về ma túy. Hàng năm mở các khóa đào tạo

ngắn hạn trọng tâm vào nội dung kiểm sát điều tra các vụ án hình sự về ma túy.

Vì vậy, để đấu tranh có hiệu quả đối với các hành vi phạm tội nói

chung và tội phạm ma túy nói riêng ngành Kiểm sát cần nâng cao vai trò,

trách nhiệm của mình để đáp ứng yêu cầu trên, mỗi khâu công tác đều phải cố

gắng nâng cao chất lượng, đảm bảo việc giải quyết các vụ án đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, góp phần ổn định tình hình chính trị, an ninh trật tự

tại địa phương và trên cả nước.

Trên đây chỉ là một số ý kiến của chúng tôi trong số rất nhiều quan điểm

về kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự về ma túy. Mục đích đề tài trong

quá trình nghiên cứu là nghiên cứu những điểm mới về công tác kiểm sát điều

tra theo BLTTHS năm 2015 và những điểm mới của tội phạm về ma túy theo

BLHS năm 2015 (s a đổi, bổ sung năm 2017), thực tiễn công tác kiểm sát điều

tra về vụ án hình sự về ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định và đưa ra những giải

pháp nhằm thực hiện tốt công tác này và góp phần nâng cao nhận thức và thực

hiện đúng đắn, đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp,

nhằm nâng cao trách nhiệm của ngành Kiểm sát trong thời gian tới.

96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị Thanh Bắc (2017), Kiểm sát điều tra vụ án hình sự các tội

phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ, Học viện

khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Huỳnh Đông Bắc (2018), “Kỹ năng kiểm sát đối chất và hỏi cung bị can

trong các vụ án ma túy”, Tạp chí kiểm sát, (02), tr.12, Hà Nội.

3. Nguyễn H a Bình, (2018), “Tổng quan những nội dung s a đổi, bổ sung

lớn trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân,

(03), tr.1, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết 08 – NQ/TW ngày 02/6/2002 về một số

nhiệm vụ trong tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

6. Hoàng Thị Quỳnh Chi, Trần Thị Quỳnh Hoa (2018), “Khó khăn, vướng

mắc và đề xuất kiến nghị hoàn thiện quy định của Luật ph ng, chống ma

túy”, Công tác đấu tranh phòng, chống ma túy theo yêu cầu của các đạo

luật mới về tư pháp, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

7. Nguyễn Ngọc Chí, Lê Lan Chi (2019), Giáo trình luật tố tụng hình sự

Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

8. Nguyễn Hữu Duy (2018), “Kiểm sát điều tra vụ án ma túy theo pháp luật

tố tụng hình sự từ thực tiễn Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn

thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

9. Nguyễn Văn Hải (2018), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng công

tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các tội

phạm về ma túy”, Công tác đấu tranh phòng, chống ma túy theo yêu cầu

của các đạo luật mới về tư pháp, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

97

10. Trần Đình Hải (2018), “Những điểm mới của nhóm tội phạm về ma túy

trong Bộ luật hình sự năm 2015 (s a đổi, bổ sung năm 2017) và việc tổ chức

thực hiện”, Báo cáo những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi

năm 2017) và việc tốt chức thực hiện, Viện nghiên cứu lập pháp, Hà Nội.

11. Nguyễn Đức Hạnh (2018), “Kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát

điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy”, Công tác đấu tranh

phòng, chống ma túy theo yêu cầu của các đạo luật mới về tư pháp, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

12. Vũ Việt Hùng (2012), “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và

kiểm sát điều tra các vụ án về trật tự xã hội theo yêu cầu cải cách tư pháp ở

Việt Nam hiện nay”, Đề tài khoa học cấp bộ, Vụ thực hành quyền công tố

và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội, VKSND tối cao, Hà Nội.

13. Hồ Sỹ Long (2014), Quan hệ phối hợp giữa CQĐT trong Công an nhân

dân với VKSND trong điều tra vụ án hình sự, Luận án tiến sĩ, Học viện

Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

14. Nguyễn Thị Mai Nga (2012), Cơ sở lý luận, thực trạng của điều tra và

truy tố các tội phạm về ma túy, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

15. Trần Công Phàn (2015,2016), Báo cáo tổng thuật Đề tài cấp bộ “Tình

hình tội phạm về ma túy trên tuyến biên giới Việt –Lào – Những giải

pháp đấu tranh ph ng, chống”, Đề tài khoa học cấp bộ, Vụ thực hành

quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy, VKSND tối cao, Hà Nội.

16. Nguyễn Hải Phong (2014), Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm

công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo

yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Lại Viết Quang (2018), Áp dụng biện pháp cưỡng chế trong điều tra tội

phạm về ma túy, Công tác đấu tranh phòng, chống ma túy theo yêu cầu

của các đạo luật mới về tư pháp, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

98

18. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Hà Nội.

19. Quốc hội (2014), Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

20. Quốc hội (2016), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội..

21. Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),

Hà Nội.

22. Trần Văn Qu (2017), “Nâng cao năng lực đội ngũ kiểm sát viên đáp

ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (9),

Hà Nội.

23. Nguyễn Tiến Sơn (2012), Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện

kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

24. Nguyễn Quang Thành (2015), “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất

lượng công tác giải quyết án ma túy trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Đề

tài khoa học cấp bộ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Hà Nội.

25. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong

hoạt động tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

26. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2018), Giáo trình đào tạo nghiệp vụ

kiểm sát tập 2,3, Hà Nội.

27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

28. Đỗ Thành Trường (2017), Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện

Biên – Tình hình nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án tiến sĩ,

Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Nguyễn Anh Tuấn (2018), Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra

tội phạm về ma túy, Công tác đấu tranh phòng, chống ma túy theo yêu

cầu của các đạo luật mới về tư pháp, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

99

30. Văn ph ng thường trực ph ng, chống ma túy (2008), Một số văn bản

pháp luật quốc tế và của các nước về công tác phòng, chống ma túy, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

31. VKSND tỉnh Nam Định, Báo cáo tổng kết kết quả công tác THQCT -

KSĐT - KSXXST án an ninh và án ma tuý năm 2015, 2016, 2017, 2018.

32. VKSND tỉnh Nam Định, Thống kê kết quả điều tra, truy tố, xét xử sơ

thẩm các vụ án hình sự năm 2015, 2016, 2017, 2018.

33. VKSND tối cao (2006), Sổ tay kiểm sát viên hình sự, tập 1, Hà Nội.

34. VKSND tối cao (2017), Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ban hành quy chế

tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều

tra và truy tố, Hà Nội.

35. VKSND tối cao (2017), Quyết định số 15/QĐ-VKSTC về việc ban hành

biểu mẫu văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ trong thực hành quyền

công tố, kiểm sát điều tra và truy tố, Hà Nội.

36. VKSND tối cao (2018), Công tác đấu tranh phòng, chống ma túy theo

yêu cầu của các đạo luật mới về tư pháp, Nxb Công an nhân dân.

37. Lương Hải Yến (2015), “Bàn về hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ

của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra, truy tố các vụ án

hình sự theo quy định của Bộ luận tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí

Khoa học kiểm sát, (03), tr.23, Hà Nội.

38. Trần Thanh Thủy (2016), Kiểm sát điều tra vụ án hình sự theo Bộ luật

Tố tụng hình sự năm 2015, (16), Hà Nội.

39. Nguyễn Diệp Liên (2018), Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hành quyền

công tố và kiểm sát điều tra các vụ án ma túy của Viện kiểm sát nhân

dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện khoa

học xã hội, Hà Nội.

100